Tác giả |
|
karmapa_cheno Hội viên
Đă tham gia: 10 February 2007 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 120
|
Msg 1 of 11: Đă gửi: 10 May 2009 lúc 12:16pm | Đă lưu IP
|
|
|
Ḿnh đang cần t́m bài kinh Trường Thọ Diệt Tội mà t́m trên mạng , không biết bài đó có phải là thần chú Đại Bi không vậy các bạn ? bạn nào biết th́ giúp ḿnh nhé , thank các bạn trước .
__________________ vượt lên chính ḿnh
|
Quay trở về đầu |
|
|
zer0 Hội viên
Đă tham gia: 28 September 2005
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2560
|
Msg 2 of 11: Đă gửi: 10 May 2009 lúc 12:57pm | Đă lưu IP
|
|
|
Bấm vào link dưới đây th́ sẽ t́m thấy.
Trường Thọ - Diệt Tội
|
Quay trở về đầu |
|
|
zer0 Hội viên
Đă tham gia: 28 September 2005
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2560
|
Msg 3 of 11: Đă gửi: 10 May 2009 lúc 1:30pm | Đă lưu IP
|
|
|
PHẬT THUYẾT KINH DIỆT TỘI TRƯỜNG THỌ
VÀ THẦN CHÚ BẢO HỘ HÀI NHI
Sa Môn Phật-Đà-Ba-Lợi, nước Kế Tân phụng chiếu dịch Phạn Hán
Tỳ kheo Không Trú dịch Hán Việt.
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ đức Phật ở núi Kỳ Xà Quật (1) trong thành Vương Xá với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo, mười hai ngàn vị đại Bồ Tát, và vô số Thiên Long Bát Bộ (2) quỷ thần, người, phi nhân (3) cùng đến để nghe Phật thuyết pháp.
Bấy giờ, từ nơi mặt Phật phóng ra vô số hào quang năm màu: xanh, vàng, đỏ, trắng và cam. Trong mỗi màu có vô số hóa Phật làm nhiều Phật sự không thể nghĩ bàn. mỗi mỗi hóa Phật có vô lượng hoá Bồ Tát ca tụng ân đức của Phật.
Hào quang vi diệu khó lường, trên chiếu đến cơi trời Phi Phi Tưởng (4), dưới chiếu đến địa ngục A Tỳ (5), sáng soi mọi nơi đến tám vạn ṿng. Chúng sanh trong đó khi tiếp xúc được hào quang của Phật, tự nhiên nhớ Phật, tất cả đều đắc Sơ Địa Phương Tiện Tam Muội.
Bấy giờ trong hội chúng có bốn mươi chín người mới phát tâm Bồ Tát, các vị này muốn thưa thỉnh đức Phật làm sao được sống lâu nhưng e dè không dám bạch Phật.
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (6) thấu hiểu chổ thắc mắc của họ, nên từ chỗ ngồi đứng dậy, trệch vai áo bên phải, chấp tay bạch Phật: Bạch Thế Tôn, con thấy trong hội chúng có điều thắc mắc, muốn hỏi, cúi xin Thế Tôn lắng nghe lời con hỏi sau đây?
Phật dạy: Tốt lắm! Tốt lắm! Nếu ông thấy trong hộI chúng có điều ǵ thắc mắc th́ cứ hỏi.
Ngài Văn Thù hỏi: Bạch Thế Tôn, chúng sanh trôi lăn trong sanh tử, đă làm các nghiệp ác trong nhiều đời nhiều kiếp, loanh quanh trong sáu đường (7), lúc được thân người lại bị chết trẻ. Vậy làm thế nào được sống lâu và diệt các tội ác? Cúi xin Thế Tôn dạy cho cách được sống lâu.
Phật dạy: này Văn Thù, ḷng từ bi của ông bao la, thương tưởng nổi khổ của chúng sanh nên hỏi ta việc này. Nhưng nếu ta giảng giải rộng e rằng chúng sanh khó tin và làm theo.
Ngài Văn Thù Sư Lợi lại bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, ngài thấu hiểu mọi việc, bậc thầy của trời người, che chở chúng sanh, là đấng cha lành có thể diễn thuyết cho mọi loài, bậc vua của vạn pháp, cúi xin Thế Tôn thương xót giảng dạy cho.
Đức Phật mỉm cười, dạy rằng: Các ông lắng nghe, ta sẽ v́ các ông giảng dạy.
Cách đây khá lâu, có thế giới tên Vô Cấu Thanh Tịnh. Thế giới ấy có Đức Phật ra đời tên là Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn (8) được vô số các vị Bồ Tát cung kính nhiểu quanh.
Lúc đức Phật ấy giảng dạy, có vị Ưu-bà-di (9) tên là Điên Đảo, nghe Phật ra đời, ước muốn xuất gia, khóc lóc thảm thiết, bạch Phật như vầy: Bạch Thế Tôn, con đă gây nghiệp ác, cầu mong sám hối, cúi xin Thế Tôn lắng nghe con tŕnh bày.
Trước đây, con đă mang thai tám tháng, v́ gia qui nghiêm ngặt, không muốn đứa bé ra đời, nên uống thuốc phá thai, thai nhi đă chết dù đă đầy đủ h́nh người.
Có vị hiểu đạo đă đến nói với con rằng: Nếu ai cố ư giết hại thai nhi, người ấy đời này mắc bệnh rất nặng, đời sống ngắn ngủi, sau khi chết đọa vào địa ngục A Tỳ, chịu biết bao thống khổ. Nay con rất hối tiếc lại thêm sợ hăi, cúi xin Thế Tôn, thương xót con, cho con được xuất gia, v́ con giảng dạy để giải trừ nổi khổ.
Lúc bấy giờ ngài Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai dạy Ưu-bà-di Điên-Đảo rằng: Ở đời có năm việc, khi đă làm xong, sám hối khó dứt tội.
Một là giết cha
Hai là giết mẹ
Ba là giết thai nhi
Bốn là làm thân Phật chảy máu
Năm là phá ḥa hiệp Tăng.
Các nghiệp xấu ác như vậy, dù có sám hối cũng khó hết sạch.
Bấy giờ bà Điên-Đảo, nước mắt đầm đ́a, kêu khóc thảm thiết, năm vóc sát đất, quỳ lạy trước Phật, bạch rằng: Bạch đức Thế Tôn, cúi xin Ngài thương xót và cứu vớt chúng sanh, giảng dạy cho chúng con.
Ngài Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai dạy: Này Ưu-bà-di Điên-Đảo, tội ác của ngươi tày trời, chắc chắn sau khi chết sẽ đọa vào địa ngục A Tỳ, không có ngày ra khỏi. Trong địa ngục nóng, bức bách khủng khiếp, tạm thời gặp được luồng gió lạnh, tội nhân tạm được mát. Trong địa ngục lạnh, lạnh thấu tim gan, tạm thời gặp được luồng gió ấm, tội nhân tạm được ấm. Nhưng trong địa ngục A Tỳ, chuyện đó không có. Ở trên lửa hực xuống dưới, ở dưới lửa bốc lên trên, bốn bề có tường sắt vây quanh, trên dưới đều có lưới sắt bao phủ. Bốn cửa Đông Tây, có lửa nghiệp cực mạnh. Mỗi mỗi người tội, thân h́nh biến tràn 8 vạn do tuần tràn khắp địa ngục.
Có rắn sắt to lớn, phun ra lửa độc thiêu đốt người tội đau nhức vô cùng. Hoặc từ miệng vào, hoặc từ mắt, tai thường phun lửa mạnh bao phủ người tội cả trăm ngàn kíếp.
Lại có chim ưng sắt phanh thây xẻ thịt, hoặc có chó sắt nhai ngấu người tội, ngục tốt đầu trâu mặt ngựa tay cầm binh khí la hét vang trời tợ như sấm sét. Ngươi đă giết thai nhi, phảI chịu tội khổ, Ta nói thật cho ngươi biết khổ báo như vậy.
Lúc bấy giờ Ưu-bà-di Điên Đảo nghe Phật dạy rồI, buồn khóc tạm ngưng mà bạch Phật rằng: Không riêng ǵ con, đa số chúng sanh chiụ khổ như vầy.
Đức Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai gọi Ưu-bà-di Điên Đảo, nói rằng: Con ngươi trong bào thai, các căn đầy đủ, gần đến ngày sanh.
Thai nhi ở trong bào thai, khác ǵ địa ngục, bị viên đá đè ép cả thân. Nếu mẹ ăn đồ nóng, thai nhi bị nóng khác nào trong địa ngục nóng. Khi mẹ ăn đồ lạnh; thai nhi bị lạnh, khác nào trong địa ngục lạnh, trọn ngày suốt đêm chịu nhiều đau khổ.
Nhà ngươi vô minh, cố giết thai nhi, bèn uống thuốc trục thai; v́ tội ác này, ngươi sẽ phảI bị đọa vào địa ngục A Tỳ ở chung với những người tội trong ấy.
Ưu-bà-di Điên Đảo khóc lóc bạch Phật, con nghe kẻ trí nói như vầy: Nếu đă làm đều ác, mà gặp được Phật hay thánh Tăng, nguyện xin sám hối, tội lỗi hết sạch.
Cho dù đă chết, đọa vào các ngục, làm vài việc tốt, cũng được sanh lên cơi trời, ư Ngài thế nào, xin Ngài chỉ dạy.
Ngài Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai gọi Ưu-bà-di Điên Đảo dạy rằng: “Nếu có chúng sanh đă làm các việc cực ác, nếu gặp được Phật và Thánh Tăng, hết ḷng chừa bỏ, không dám làm nữa. Các tội hết sạch. Giả sử đă chết, Diêm La xét hỏi, nặng nhẹ chưa rơ, nếu có bà con họ hàng quyến thuộc, thỉnh Phật rước Tăng chỉ trong bảy ngày, chuyên tụng kinh điển đại thừa phương đẳng, cúng dường hương hoa, có các sứ giả Diêm La xét lại việc tốt xấu, tay cầm phan trần năm màu đi đến Diêm Vương (10), trước sau phan thần, ca múa hát xướng, loa kèn trống phách, âm thanh vui vẻ, báo lại Diêm La, người đó tích đức; hoặc các vong hồn trong ṿng bảy ngày, trước đây theo tà bỏ chánh, tà kiến điên đảo, không tin Tam Bảo, ḷng dạ xấu ác, nào chút thương tâm, sứ giả Diêm La, tay cầm phan đen, trước sau phan đen có vô số ác quỷ cẩn báo Diêm La, người này quá ác.
Khi Diêm La thấy phan thần năm màu ḷng dạ vui vẽ, to tiếng nói rằng: Cầu mong tội lỗi của con biến đổi như những điều tốt đẹp của người làm việc tốt này. Liền ngay khi ấy lửa hực trong địa ngục biến thành suốI mát, núi đao rừng kiếm hoá thành hoa sen. Tất cả người tội đều được an vui.
Khi thấy phan đen, Diêm La bực tức, la hét vang rền, xua đuổi người tội vào trong mười tám ngục, bắt leo rừng kiếm hoặc lên núi dao, hoặc nằm giường sắt, hoặc ôm trụ đồng, kéo lưỡi trâu cày, hoặc ném vào cốI giả. Chỉ trong một ngày muôn lần sống chết, lẩn quẩn loanh quanh trong A Tỳ ngục chịu bao thống khổ, đời đời kiếp kiếp không mong ngày ra.
Đang lúc nghe giảng, có tiếng kêu lớn, rung động góc trời, gọi tên Ưu-bà-di Điên Đảo : Ngươi cố ư giết hại bào thai, ta là sứ giả Diêm La đến đoạt mạng sống của ngươi. Ưu-bà-di Điên Đảo, run sợ khóc lóc, bèn ôm chân Phật, van vái mong cầu Thế Tôn v́ con giảng dạy phương pháp diệt tội, phước lành tăng trưởng, trọn đời trọn kiếp con xin noi theo.
Bấy giờ ngài Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai, dung oai thần của Phật bảo sứ giả rằng: “Này vô thường sát quỷ, Ta đang v́ Ưu-bà-di Điên Đảo giảng kinh Diệt Tội Kéo Dài Mạng Sống, lắng ḷng mà nghe. Chư Phật đời trước, giảng dạy phương pháp tuyệt diệu để có được mạng sống dài lâu, khiến cho chúng sanh xa ĺa ác đạo.
Này Ưu-bà-di Điên Đảo nên biết, sát quỷ vô thường khó ḷng tránh khỏi. Cho dù có vô lượng vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, xích châu, mă năo mà đem chuộc mạng cũng không thể nào được, hay vua, quan, con vua, đại thần, trưởng giả v.v.
Ỷ vào thế lực của ḿnh xua đuổi sát quỷ vô thường để bảo vệ mạng sống cũng không thể được.
Này Điên Đảo nên biết! Chỉ cần một lời dạy của chư Phật, xoá sạch khổ này. Này Điên Đảo , ở trên đời này có hai hạng người khó t́m thấy như hoa ưu bát:
Một là không làm bất cứ việc ǵ xấu ác.
Hai là đă làm những việc sai trái mà biết ăn năn sám hối. Hạng người như vậy khó t́m thấy ở đời.
Hôm nay, ngươi hết ḷng ăn năn hối cải nơi ta. Ta sẽ v́ ngươi giảng dạy phương pháp sống lâu, khiến cho chúng sanh tránh khỏi sát quỷ vô thường.
Này Điên Đảo, ở đời vị lai, năm trược (11) lẩy lừng, nếu có kẻ nào làm những việc cực ác như: giết cha, hại mẹ, uống thuốc trục thai, phá tháp, đập chùa, chà đạp tượng Phật, phá ḥa hợp Tăng. Dẫu cho đă làm những tội nặng như vậy,nếu biết ăn năn hối cải, đọc tụng kinh này hay in ấn tống, hay nói người khác cùng nhau ấn tống, không những sạch tội mà c̣n sanh lên cơi Phạm thiên.
Huống chi hôm nay ngươi được gặp Ta, lành thay Điên Đảo, trong nhiều đời nhiều kiếp, ngươi gieo trồng căn lành, thành tâm ăn năn sám hối, lại thưa thỉnh Ta giảng dạy phương pháp sống lâu, đem nhiều lợi lạc quần sanh, đánh dẹp thiên ma Ba Tuần (12) giành về chiến thắng. Nay Ta y theo chư Phật đời trước giảng dạy mười hai nhân duyên, ngươi hăy lắng nghe cho kỹ.
Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên sống chết khổ đau sầu muộn.
Khi vô minh diệt th́ hành diệt, khi hành diệt th́ thức diệt, khi thức diệt th́ danh sắc diệt, khi danh sắc diệt th́ lục nhập diệt, khi lục nhập diệt th́ xúc diệt, khi xúc diệt th́ thọ diệt, khi thọ diệt th́ ái diệt, khi ái diệt th́ thủ diệt, khi thủ diệt th́ hữu diệt, khi hữu diệt th́ sanh diệt, khi sanh diệt th́ sống chết buồn rầu khổ năo diệt.
Này Ưu-bà-di Điên Đảo, tất cả chúng sanh loanh quanh qua lại sáu nẻo luân hồi chịu vô lượng khổ, v́ không thấu rơ mười hai nhân duyên, tức thấy được pháp, thấy pháp là thấy Phật, thấy Phật tức thấy Phật tánh. Tại sao vậy? Tất cả chư Phật đều lấy mười hai nhân duyên làm tánh.
Hôm nay, ngươi được nghe ta giảng dạy lư mười hai nhân duyên này, do vậy ngươi được Phật tánh thanh tịnh, xứng đáng làm Pháp Khí. Ta sẽ v́ ngươi giảng dạy lư Nhứt thừa, ngươi phải suy nghĩ, ǵn giữ nhứt niệm, nhứt niệm chính là tâm Bồ đề. Tâm Bồ đề là đại thừa.
Chư Phật và các vị Bồ Tát v́ chúng sanh phân biệt nói ba thừa. Ngươi phải luôn luôn một ḷng trân trọng ǵn giữ tâm Bồ đề, chớ có quên mất.
Cho dù có năm ấm (13), bốn rắn (14), ba độc (15), sáu giặc (16), tất cả ma quái đến xâm phạm hay quấy phá, ngươi cũng không nên thay đổi tâm Bồ đề này.
Do ǵn giữ tâm Bồ đề (17) như vậy nên thân như Kim Cang, tâm như hư không, khó có thể hư hoại. V́ không hư hoại nên được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (18). V́ được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề nên được đầy đủ Thường - Lạc – Ngă - Tịnh (19). Xa ĺa sát quỷ vô thường, không c̣n sống chết, hết hẳn các khổ ở địa ngục.
Trong lúc Đức Phật đang giảng dạy, trên hư không ác quỷ bạch rằng: con nghe Thế Tôn giảng dạy pháp mầu, địa ngục thanh tịnh, biến thành ao sen, bản thân con thoát khỏi cảnh giới ác quỷ. Ác quỷ thưa tiếp: Điên Đảo, bà đă đạt đạo, xin độ chúng sanh.
Bấy giờ ngài Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai lại gọi Điên Đảo, “Ta đă v́ ngươi giảng dạy mười hai nhân duyên xong rồI, nay giảng dạy thêm sáu Ba-la-mật (20), ngươi cố gắng làm theo.
Một là Bát-Nhă ba-la-mật.
Hai là Thiền Định ba-la-mật.
Ba là Tinh Tấn ba-la-mật.
Bốn là Nhẫn Nhục ba-la-mật.
Năm là Tŕ Giới ba-la-mật.
Sáu là Bố Thí ba-la-mật.
Sau đây là bài kệ, chư Phật đời trước nhờ đó mà thành đạo:
Các hành thay đổI
Là lư sống chết
Sống chết hết rồi
Vắng lặng an vui.
Bấy giờ Ưu-bà di Điên Đảo nghe được pháp ḷng rất vui mừng, tức thời tỏ rơ, thấu hiểu sâu xa, nương theo thần lực của Phật bay lên hư không, cao bằng bảy cây đa-la (21), ḷng yên thiền định.
Khi ấy có môt vị Bà La Môn (22) ǵàu có vô cùng, chẳng ai sánh kịp, bất chợt bệnh nặng, thầy thuốc xem xong, cần con ngươi của người, pha trộn với thuốc mới mong hết bệnh.
Bấy giờ ông Bà La Môn ra lệnh cho những người làm, đến ngă tư đường to tiếng nói rằng: “Có ai chịu đau đớn bán hai tṛng mắt, sẽ được trả giá hàng ngàn lượng vàng, trong kho châu báu, muốn ǵ cứ lấy, ḷng không hối tiếc.”
Ưu-bà-di Điên Đảo nghe được lời rao, ḷng rất thích thú, suy ngẫm như vầy: Ta được nghe Phật giảng dạy phương pháp sống lâu, dứt sạch nghiệp xấu, ḷng ta tỏ rơ, thấu hiểu Phật tánh, lại được xa ĺa sát quỷ vô thường, các khổ điạ ngục, ta nay dầu nghiền nát thân này cũng chưa đền đáp từ ân của Phật, nên lớn tiếng nói rằng: “ Ta đă bốn mươi chín tuổi, theo Phật nghe giảng dạy phương pháp sống lâu, không tham sống sợ chết, nghiền nát thân này để chép bốn mươi chín quyển kinh Phương Pháp Sống Lâu. Cầu mong tất cả chúng sanh đọc tụng thọ tŕ. Ta phải bán đôi mắt để chép kinh này, đôi mắt ta vô giá, tùy ư ông trả bao nhiêu cũng được.”
Bấy giờ trời Đế Thích (23), biến ra bốn mươi chín người đi đến chỗ của Ưu-bà-di Điên Đảo, nói rằng chúng tôi v́ bà chép kinh Phương Pháp Sống Lâu này. Bà thấy bốn mươi chín bản kinh rồi, sau đó bán mắt cũng không muộn.
Ưu-bà-di Điên Đảo, ḷng tràn cảm động, chẻ xương làm viết, lấy máu làm mực, trải da làm giấy để chép kinh này qua bảy ngày đêm; khi chép kinh xong, bốn mươi chín người chép kinh thưa với Ưu-bà-di Điên Đảo, chúng tôi đă chép kinh xong, như trước bà hứa cho đôi mắt, nay đưa chúng tôi để bán cho Bà La Môn.
Bấy giờ Ưu-bà-di Điên Đảo sai một gă Chiên Đà La (24) dùng dao khoét mắt bà, lấy hai con ngươi; giao cho bốn mươi chín người chép kinh, tiền bán được phân chia cho đều. Gă Chiên Đà La chuẩn bị ra tay, bốn mươi chín người chép kinh cùng nhau thưa rằng: Thật hiếm thấy, thật hiếm có, không thể nghĩ bàn, bà đă chẻ xương làm viết, lấy máu làm mực, trải da làm giấy biên chép kinh này, đau đớn vô cùng, mà bà chịu được, không tiếc thân mạng. Chúng tôi nở ḷng nào lấy đôi mắt của bà đem bán cho ông Bà La Môn kiếm chút vàng bạc châu báu.
Bấy ǵờ vua rồng Nan Đà (25) v.v…dùng oai lực lớn làm tṛ biến hoá lấy trộm các kinh của bà Điên Đảo, đem xuống cung rồng đọc tụng cúng dường chỉ trong nháy mắt bà Điên Đảo thấy kinh bị trộm, nước mắt đầm đ́a, nghẹn ngào bạch Phật, bạch đức Thế Tôn, con xả thân mạng biên chép kinh Phương Pháp Sống Lâu, phân phát cho mọI người, bỗng nhiên biến mất, ḷng con sầu khổ khó nỗi giải bày.
Ngài Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai bảo Ưu-bà-di Điên Đảo, những bộ kinh của ngươi được vua rồng Nan Đà thỉnh về cung rồng để đọc tụng cúng dường. Ngươi nên vui mừng, không nên sầu khổ. Lành thay Ưu-bà-di Điên Đảo, do công đức này, sau khi mạng chung, ngươi được sanh lên cơi trời Vô Sắc (26), hưởng thọ sung sướng, không c̣n trở lạivới thân người nữ.
Ưu-bà-di bạch Phật, bạch đức Thế Tôn, con không ao ước sanh lên cơi trời, con chỉ mong sao đời đời kiếp kiếp thường gặp Thế Tôn, Phật tâm không lay chuyển, nơi nơi chốn chốn v́ các chúng sanh giảng dạy kinh này khiến cho mọi loài thoát nỗi khổ triền miên.
Ngài Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai hỏi: “Điên Đảo, ngươi có thật ḷng như vậy chăng?” Bạch Ngài, nếu con nói dối th́ bị sát quỷ vô thường bức chết, nếu con thật ḷng, xin vừa nói xong, thân được lành lặn như cũ.
Ngài Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai nói: “Này Điên Đảo, ngươi một ḷng niệm Phật, nên từ cơi Phật nầy đến các cơi Phật khác, ngươi có thể thấy vô số Phật. Không có chữ nghĩa, lời nói nào mô tả sự kiện này được.”
Bấy giờ, Ưu-bà-di Điên Đảo, chỉ trong nháy mắt đă chứng được vô sanh pháp nhẫn, tam miệu tam bồ đề.
Này Văn Thù Sư Lợi! Phổ Quang Như Lai là tiền thân của Ta vậy. Điên Đảo Nữ Nhân chính là tiền thân của Ông. C̣n bốn mươi chín người chính là tiền thân của các vị Bồ Tát mới phát tâm. Ta đă từ vô lượng kiếp lại đây thường giữ ǵn thân, thường cùng các ông giảng dạy kinh này khiến tất cả ác nghiệp của chúng sanh đều dứt sạch sau khi được nghe chỉ nửa bài kệ của kinh Trường Thọ này.
Bấy giờ vua Ba Tư Nặc (27), đang ở trong cung, nửa đêm nghe tiếng đàn bà khóc lóc nỉ non, đau đớn, sầu thảm. Nhà vua tự nghĩ, ta ở cung vua chưa từng xảy ra việc này, tại sao có tiếng khóc lóc sầu năo thế này.
Sáng ra, khi quần thần nhóm họp, vua ra lệnh đi t́m người đàn bà này trong cung cũng như các đường phố. Bầy tôi t́m được, dẫn đến trước vua, bà này run sợ, tái mặt ngất xỉu. Nhà vua ra lệnh lấy nước lạnh rảy vào mặt bà, lần lần tỉnh lại.
Nhà vua bèn hỏi: “Có phải đêm qua nhà ngươi khóc kể phải không?” Người đàn bà ấy đáp: “Bẩm vua, đúng vậy.” “Ai bức ép ngươi mà đau khổ vậy?” “Bẩm vua, không có ai bức ép tiện dân, chỉ vi buồn phiền mà thôi.” “Thật không ai hiếp đáp ngươi?” “Bẩm vua, đúng vậy. Bẩm vua, xin nghe lời tiện dân tŕnh bày. Lúc tiện dân vừa tṛn mười bốn tuổi, gả sang nhà chồng, ăn ở với nhau hơn ba mươi năm, sanh được ba mươi đứa con. Đứa đầu ḷng mặt mũi sáng lạng, mắt thanh mày tú, môi đỏ như son, răng trắng như ngọc, thân h́nh phơi phơí, cuối hạ thu sang như hoa mùa xuân…chưa đầy một tuổi, bỏ tiện dân ra đi, tiện dân thương nhớ cả ngày suốt đêm, y như ruột gan cắt đứt từng đoạn, khác ǵ mạng sống của tiện dân.
Đứa bé sau cùng lại đang hấp hối khác ǵ mạng sống tiện dân, do vậy đêm hôm qua tiện dân sầu khổ khóc lóc.
Bấy giờ vua Ba Tư Nặc nghe xong, ḷng buồn rũ rượi, lê dân bá tánh nương nhờ nơi ta, nếu không ra tay giúp đỡ, thật không xứng đáng làm vua. Liền tập hợp quần thần cùng nhau bàn bạc. Nhà vua có sáu vị quan đại thần: Một là Kiến Sắc, hai là Văn Thinh, ba là Hương Túc, bốn là Biện Tài, năm là Tùy Duyên, sáu là Dị Nhiễm cùng nhau tâu vua rằng: Trẻ nít mới sanh, thường bị chết yểu, phải lập dàn tràng cúng tế bảy đại hùng tinh và hai mươi tám vị sao, hy vọng kéo dài mạng sống, cúi mong bệ hạ ra chiếu chỉ phổ biến thiên hạ. Bấy giờ có một vị quan sáng suốt, từng gieo trồng căn lành nơi vô số chư Phật tên là Định Tuệ, đến trước vua tâu rằng: Bệ hạ nên nghĩ lại, lời tâu của sáu vị thần kia không thể nào làm hết thống khổ. Nay có bậc thầy, họ Cù Đàm, hiệu là Tất Đạt, không thầy mà ngộ, nay đă thành Phật, hiện ở núi Kỳ Xà Quật, đang giảng phương pháp sống lâu. Mong bệ hạ đến đó nghe giảng. Bất cứ ai, nếu nghe được nửa bài kệ của kinh này, trăm kiếp ngàn đời có làm các việc cực ác cũng được tiêu sạch. C̣n các trẻ nít nếu được nghe, mặc dầu chưa hiểu cũng được sống lâu là nhờ công đức của kinh.
Vua Ba Tư Nặc nói: Ta đă từng nghe Lục Sư ngoại đạo (28) nói rằng: Sa Môn Cù Đàm sức học cạn cợt, tính t́nh con nít, tuổi c̣n thơ ngây, sách vở ngoại đạo đầy dẫy ảo thuật, biến hoá có có không không. C̣n Cù Đàm không có, e tôn sùng ông, mất chánh đạo chăng?
Bấy giờ Định Tuệ dùng kệ tâu vua:
Thích Ca Mâu Ni
Bậc thầy trời người
Trong bao nhiêu kiếp
Khó nhọc tu hành
Nay đă thành Phật
Ở Ba La Nại
Chuyển bánh xe pháp
Như Phật xưa kia
Không trái lời thề
Cứu giúp chúng sanh
Ḷng thương bao la
Quần mê lợi lạc
Gặp Phật rất khó
Khác nào rùa mù
Gặp cây biển cả
Cũng như hoa thơm
Tuyệt vời bát la
Cúi mong bệ hạ
Mau đến nghe pháp
Không nên tin lời
Lục Sư ngoại đạo.
Sau khi nói kệ xong, Định Tuệ dùng thần lực từ đất vọt lên hư không cao đến bảy cây đa-la, đến trước mặt vua, dùng thần thông đem núi tu di và nước biển cả chảy vào tâm ông chỉ trong nháy mắt, b́nh an không ngại.
Vua Ba Tư Nặc thấy những việc này, ḷng rất vui vẻ, thốt lời ca tụng: Đây thật bạn lành ít có trong đời. Nhà vua lễ lạy Định Tuệ và thưa lời rằng: Thầy ngài là ai? Định Tuệ bảo rằng: Thầy ta chính là đức Phật Thích Ca Mâu Ni hiện đang ở tại thành Vương Xá trên núi Kỳ Xà Quật, đang giảng phương pháp kéo dài mạng sống, dứt sạch tội lỗi. Nhà vua nghe rồi trong ḷng thoả thích, bèn giao chuyện nước cho Định Tuệ, cùng bà con họ hàng, quan lớn quan nhỏ, cung phi mỹ nữ, các con cháu nhỏ, và người đàn bà đă khóc trong đêm đi xe bốn ngựa, trang hoàng lộng lẫy, lại mang hoa hương, trăm món cúng dường đến thành Vương Xá, lên núi Kỳ Xà Quật, nhiễu quanh đức Phật bảy ṿng, chấp tay cúi đầu lễ lạy đức Phật, dâng hoa cúng dường. Sau đó bạch Phật mọi chuyện xảy ra.
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo vua Ba Tư Nặc, người đàn bà này ở thời xa xưa, làm bà vợ bé, ḷng hay ganh ghét, pha thuốc độc giết hại ba mươi đứa con của bà vợ lớn. Ba mươi đứa con thề độc như vầy: Đời đời kiếp kiếp thường làm con của bà, nhưng hợp rồi tan, khiến bà khổ sở, buồn thảm khủng khiếp.
Hôm nay ngườI đàn bà này đến đây nghe ta giảng dạy phương pháp sống lâu, chỉ cần một bài kệ cũng đủ giúp bà dứt hết sầu khổ!
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo đại chúng: Khi thân trung ấm vào bụng mẹ, thiên ma Ba Tuần liền cho bốn con rắn cực độc và sáu thằng giặc giết hại thai nhi, nếu ai không tự cảnh giác, mạng căn ĺa đời.
Nay ta có thần chú làm lợi ích cho các thai nhi, là kéo dài mạng sống, nếu bất cứ ai một lần thoáng nghe thần chú này, tai ách và cực khổ đều tiêu tan, xua đuổi ác quỉ tháo chạy khắp nơi. Thần chú như sau:
Ba đầu di ba
Đầu di đề tỳ
Hề ni hê ni
Hề di chư
Chư la chư lê
Hầu la hầu la
Do lệ do la
Do lệ ba la ba lệ văn
Chế san điệt
Tần điệt bát thệ mạt điệt tŕ na ca
Ta bà ha.
Đức Phật dạy: Nếu có thiện nam tín nữ nào, thường xuyên đọc tụng thần chú này, hay chỉ trong bảy ngày bảy đêm đốt hương dâng hoa cúng dường, hay in chép ấn tống, một ḷng nhớ nghĩ, th́ các bệnh nặng hoặc nghiệp chướng sâu dày đời trước đều được tiêu tan. Các bà mẹ đang mang thai hay sắp sanh nở th́ mẹ tṛn con vuông, mọi việc đều được an lành.
Bấy giờ Bồ Tát Y Vương tên là Kỳ Bà, đến trước đức Phật và bạch: Bạch đức Thế Tôn, con là thầy thuốc, chữa mọi thứ bệnh, từ đó có kinh nghiệm về các thai-nhi c̣n trong bụng mẹ, có chín thứ bệnh làm cho các thai nhi và hài nhi chết non như sau:
Một là cha mẹ ăn ở với nhau không phải lúc.
Ba là lúc sanh nở cắt rún không cẩn thận, băng bó có lệ, vi trùng dễ xâm nhập vào cơ thể em bé.
Bốn là lúc sanh nở không lau chùi máu huyết và tắm rữa em bé sạch sẽ.
Năm là lúc sanh nở giết hại sinh vật bày tiệc tùng ăn uống nhậu nhẹt say sưa.
Sáu là lúc sanh nở, bà mẹ ăn uống bừa băi, nhứt là các món đông lạnh khó tiêu.
Bảy là lúc sanh nở, em bé bị bệnh, móm cho em bé cá thịt tạp nhạp.
Tám là lúc sanh nở, thấy nhiều điều không tốt như mẹ chết con chết, hay thấy nhiều thây chết, nhiều chuyện quái dị xảy ra, viết thần chú này, cho em bé đeo, mọi thứ không hay, đều chấm dứt hết.
Chín là bồng bé đi đêm, bị ác quỷ ác ma đánh đập. Nếu các bà mẹ, tránh các điều trên, chắc chắn em bé không bị chết.
Bấy giờ thiên ma Ba Tuần có tha tâm thông, ở trong cung ma, biết Phật giảng dạy phương pháp sống lâu, diệt sạch tội lỗi và thần chú bảo vệ thai nhi, ḷng rất giận dữ, la hét om ṣm, bực tức không vui. Ông có ba người con gái, hay chuyện đến trước mặt ông thưa: Thưa cha, tại sao cha buồn rầu khổ năo như vậy? Ông nói: Gă Cù Đàm sa môn hiện ở thành Vương Xá, trên núi Kỳ Xà Quật v́ vô lượng vô biên chúng sanh giảng dạy phương pháp sống lâu, truyền bá mọi nơi nhờ vậy chúng sanh được sống lâu và an lạc, lấn chiếm loài ma quái của ḿnh, nên cha tức giận và khởi ác tâm hô hào ḍng họ, bạn bè, bà con và các binh ma kéo lên núi Kỳ Xà Quật, quyết đánh một trận sống chết với gă Cù Đàm. Giả sử thua trận, th́ cha dùng thần lực của cha, bịt các lỗ tai của chư thiên và đại chúng, khiến chúng không nghe được lời giảng dạy của Cù Đàm.
Bấy giờ ba ma nữ, con gái của ông nói kệ ngăn cản cha:
Chúng con ba đứa
Con gái của cha
Cúi đầu đảnh lễ
Thưa cha xét lại
Sa môn Cù Đàm
Bậc thầy trời người
Pháp thuật của cha
Không ngăn cản nổi
Trước đây Cù Đàm
Ngồi toà kim cang
Dưới cội Bồ Đề
Chiến thắng bọn ma
Tụi con bấy giờ
Gái trời sinh đẹp
Khêu gợi hết cỡ 12
Ḷng ngài không chút
Nhiễm ô bụi trần
Ngài xem tụi con
Như mấy cụ già
Nay ngài là bậc
Chánh đẳng Chánh giác.
Cung tên gươm giáo
Gậy gộc dao mác
Lẩn quẩn trên trời
Không gây thương tật
Ngài xem bọn ta
Như tṛ con nít
Ḷng không sợ sệt
Làm sao chiến thắng
Nay đă thành đạo
Vua pháp muôn loài
Xin cha nguôi giận
Từ bỏ ác tâm.
Bấy giờ ma vương Ba Tuần, sau khi nghe kệ can gián của các con, ḷng không thay đổi, ra lệnh chúng ma rủ rê quyến thuộc hăy đến chỗ Phật, dùng mọi mánh khóe giả tin theo Phật, nếu Phật tin dùng, dùng mọi gian xảo cản ngăn kinh này. Cả bọn đồng ḷng, đi đến chỗ Phật, nhiễu quanh bảy ṿng, quỳ lạy rồI bạch: Bạch Thế Tôn, ngài giảng dạy có mỏi mệt không? Hôm nay con và bà con họ hàng cùng chúng ma đến đây để nghe Phật giảng phương pháp sống lâu và xin làm đệ tử mong ngài hoan hỷ nhận lời.
Bấy giờ Thế Tôn, ôn tồn dạy bảo: Khi c̣n trong cung ma, nhà ngươi giận dữ, bày kế lại đây, lâu la ŕnh ṃ. Trong pháp của ta không chấp nhận những hạng người xảo trá như ngươi.
Thiên ma Ba Tuần và quyến thuôc mặt mày tái mét run sợ quỳ bạch Phật - Bạch đức Thế Tôn, bọn con ngu muội, bày kế dối ngài xin ngài hoan hỉ tha tội cho bọn con. Bọn con không dám làm nữa. Nay con được nghe phương pháp sống lâu, thần chú bảo hộ hài nhi, con xin phát nguyện, từ đây về sau, bất cứ chỗ nào đọc tụng biên chép kinh này, con xin ủng hộ, xua đuổi ma quái không được đến đó phá hoại. Giả sử người tội trong địa ngục, chỉ trong giây lát nhớ nghĩ kinh này, con dùng thần lực, lấy nước biển cả, tưới đổ người tội, khiến các địa ngục biến thành ao sen.
Lại có Phi Đằng La Sát cầm đầu chúng La Sát ăn các thai nhi từ trên hư không xuống đi nhiễu Phật ngàn ṿng, quỳ lạy bạch rằng: Bạch Thế Tôn, con từ vô lượng kiếp lại đây phải chịu làm thân la sát, nên bà con họ hàng nhiều như cát sông Hằng, ai ai cũng bị đói khát dày ṿ, món ăn duy nhất là, ở khắp mọi nơi, chỉ có thai nhi và máu mủ của các bà mẹ lúc sanh, hay chờ khi trai gái giao hợp th́ hút tinh uống máu, khiến không có thai. Hoặc trong tử cung, con ra vào tự tại, giết hại thai nhi, uống máu ăn thịt, hoặc hài nhi sanh được bảy ngày, bọn con theo dơi giết hại. Khi các trẻ thơ lớn lên mười tuổi, bà con họ hàng bọn con, tạo ra các côn trùng cực độc, chui vào bụng chúng, ăn tim đục phổi, phá thận khoét gan, hút tinh uống máu, gây đủ thứ bệnh tiêu chảy, ói mửa, da dẻ vàng khè, bụng to, tay chân phù thủng, dần dần phải chết. Hôm nay bọn con nghe Phật giảng dạy phương pháp sống lâu, diệt sạch tộI ác, bảo hộ hài nhi, mong đức Thế Tôn ra lệnh cho bà con họ hàng bọn con cho dù đói khát không được giết hại thai nhi để ăn thịt uống máu.
Đức Phật bảo, này các La sát, các ngươi thọ Tam quy ngũ giới, nhờ phước báu đó ĺa bỏ thân La sát, sanh lên trời hưởng sự vui sướng.
Phật dạy đại chúng, néu có em bé nào, ốm yếu bệnh hoạn, th́ cha mẹ lấy sữa của ḿnh vẩy vẩy lên trời thí cho bọn La sát và phải một ḷng tụng kinh này, biên chép ấn tống, tŕ chú giữ ǵn thai nhi, bệnh hoạn ốm đau, liền được dứt trừ.
Bấy giờ cả chúng La Sát ḷng rất vui mừng cùng nhau bạch Phật, bạch đức Thế Tôn, họ hàng chúng con được sanh lên trời, xin thề không dám làm hại thai nhi, cho dù bọn con ăn ḥn sắt nóng, trọn đời không ăn thịt uống máu thai nhi.
Sau khi Phật diệt độ, nếu có ai đọc tụng, biên chép, ấn tống, giảng dạy kinh này…nếu có kẻ xấu ác, hay ác ma quỉ dữ, nói lén dèm pha các vị đó, hay giết hạI thai nhi, bọn con cầm chày kim cang bảo vệ họ, khiến cho bọn ác ma quỉ dữ không có thể lộng hành.
Bấy giờ các vua của chư thiên, tất cả vua của loài rồng, tất cả vua của loài Dạ Xoa, vua A Tu La, vua Ca Lầu La, vua Khẩn Na La, vua Ma Hầu La Già, vua Bệ Lệ Đa, vua Tỳ Xá Già, vua Phú Đơn Na, cho đến Ca Tra Phú Đơn Na v.v…tất cả các vua và họ hàng bà con của họ chấp tay cung kính lạy dưới chân Phật và cùng bạch : Bạch đức Thế Tôn, từ đây về sau nơi nơi chốn chốn, bất cứ có vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, thiện nam, tín nữ nào đọc tụng kinh này, hoặc biên chép, ấn tống th́ chúng con thường theo bảo hộ, xua đuổi ác ma quỉ dữ.
Nếu có ác ma quỉ dữ gây phiền phức và làm khổ chúng sanh, nên tắm rửa sạch sẽ, một ḷng biên chép và đọc tụng kinh này, chúng con ngăn cấm, chận đứng, loài ác ma quỉ dữ này. Không cho chúng làm tổn hại và gây ra sự chết chóc th́nh ĺnh.
Bấy giờ trời Lao Cố Địa từ chỗ ngồi đứng lên cung kính bạch Phật, bạch đức Thế Tôn, nếu hàng đệ tử của ngài đọc tụng kinh Trường Thọ Diệt Tội và Thần Chú Bảo Hộ Hài Nhi này, th́ chúng con khiến đất nảy sanh các thứ thơm ngon cho người đó, khiến cho thân thể họ được nhiều lợi ích và được sống lâu.
Chúng con dùng đủ thứ vàng bạc, châu báu, tư trang, lúa gạo, hoa quả cung phụng cho người có tín tâm, không để cho họ thiếu thốn, thân được yên ổn, không lo không sầu, tâm thường an lạc, được ruộng phước tốt, và khiến ác ma quỉ dử, không cắt đứt mạng sống của người ấy.
Nếu hài nhi sanh ra bảy ngày chúng con khiến địa thần lui tới bảo hộ, không cho hài nhi bị chết.
Bấy giờ, vị thần Kim Cang Lực Sĩ, quỳ bạch Phật: bạch đức Thế Tôn, ngài giảng dạy kinh Diệt Tội Trường Thọ và Thần Chú Bảo Hộ Hài Nhi xong, các nhà thí chủ và các họ hàng bà con ai ai cũng phát tâm giữ ǵn, đọc tụng, biên chép ấn tống kinh này, cung cấp mọi thứ cần dùng, không để thiếu thốn.
Con nghe đại đức Bà Già Bà giảng dạy kiết tường chương cú Đại Thần Lực chú, nếu có chúng sanh nào chỉ một lần nghe được thần chú này th́ trăm kiếp ngàn đời, không bị chết yểu, không bệnh khổ, được sống lâu. Tuy có bốn ma (29) nhưng không gây phiền muộn, thêm phước thêm thọ, không già không chết, không lên không xuống. Bất cứ ai nếu bị khổ v́ bệnh tật lo lắng bồn chồn, chỉ một lần thoáng qua tai, th́ được an lạc, không bị ác ma quỉ dữ cắt đứt mạng sống. Thần chú có mười bảy câu sau đây:
Đa địa da tha
Chiên đạt lợi
Chiên đạt ra tỳ để
Chiên đạt ra ma hồng
Chiên đạt ra bạt đế
Chiên đạt ra bất lê
Chiên đạt ra xà di
Chiên đạt ra đế lệ
Chiên đạt phê duệ
Chiên đột lân
Chiên đạt ra bà ra xí
Chiên đạt ra vật đa lệ
Chiên đạt ra bà địa di
Chiên đạt ra bà duệ
Chiên đạt ra khư để
Chiên đạt ra lư kỷ
Tát bà ha.
Phật dạy tốt lắm! Tốt lắm! Hôm nay con nói thần chú: Kiết Tường Chương Cú Đại Thần Chú, bảo hộ trẻ thơ, con là người hướng dẫn cho tất cả chúng sanh.
Này Văn Thù Sư Lợi, con nên biết, thần chú này chư Phật quá khứ đă giảng dạy, nên ǵn giữ và truyền bá mọi nơi, đem lại nhiều lợi ích cho trời người như là: được sống lâu, trừ sạch được các kiến chấp sai lầm, những việc làm dơ bẩn, thường bảo vệ những ai đọc kinh này.
Bấy giờ Phật dạy: Này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết bàn, trong đời xấu xa độc ác này, có nhiều Tỳ kheo phá giới, gần gũi với Tỳ kheo ni, Sa di, gái góa, gái trinh…nấu rượu ăn thịt, ḷng dâm hừng hẩy …mua đi bán lại, không c̣n xấu hổ, làm những chuyện nhơ nhớp … bị các hàng cư sĩ chê bai, chê bai cả chánh pháp. Khác nào cây dừa cắt ngọn - những người như thế chẳng phải đệ tử Ta v́ đă phạm vào ngũ nghịch tội, là bà con họ hàng với bọn ma ác quỉ dữ.
Những hạng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni này, trong đời này bị quả báo chết non, nếu biết ăn năn sám hối, thề không dám làm nữa, đọc tụng kinh này, biên chép ấn tống, th́ được sống lâu.
Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết bàn, trong đời xấu xa độc ác, nếu có Bồ Tát, chê bai ngườI khác, không tin kinh điển Đại thừa phương đẳng, không chịu khó dạy dỗ chúng sanh, bo bo khen ḿnh, đây là loại giả danh Bồ Tát, chỉ làm bạn với bọn ma ác quỉ dữ.
Với một ḷng tha thiết đọc tụng kinh này, biên chép ấn tống, chắc chắn sẽ được thường trú pháp thân.
LạI nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết bàn, trong đời xấu xa độc ác, nếu có vị vua nào giết cha hại mẹ, chém giết bà con họ hàng, không theo phép tắc công minh, chiêu mộ binh lính, đánh phá nước khác, tôi trung thần hiền đều bị giết sạch, ham muốn xác thịt, lồng lộng t́m kiếm, đập tháp đốt chùa – xé kinh phá tượng … trái đạo lư vua dân.
V́ vua vô đạo nên nhân dân đói khát, mưa gió lụt lội liên tục, đủ thứ bệnh dịch xảy ra khắp nơi hao của tốn tiền, người chết đau khổ … nếu biết ăn năn sám hối đọc tụng kinh này, biên chép ấn tống, sửa đổi luật lệ cho thật công minh, hy vọng sống lâu, nếu không sau khi chết sẽ bị đọa vào địa ngục A Tỳ.
LạI nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết bàn, trong đời xấu xa độc ác, nếu có bộ trưởng, tỉnh trưởng, quận trưởng …được hưởng bổng lộc, nhưng ḷng không biết xấu hổ, nghe lời xiểm nịnh, giết hại những người thanh liêm, lừa trên gạt dưới, tịch thu tiền bạc nhân dân, bức hiếp lê dân bá tánh, mua quan bán chức, lương lẹo đủ tṛ, làm cho nước nghèo dân khổ, đập tháp đốt chùa, xé kinh phá tượng … trái đạo lư quan dân.
Vị quan xiểm nịnh, đời này chết non đọa vào địa ngục A Tỳ, nếu biết ăn năn sám hối, đọc tụng kinh này, biên chép ấn tống, giúp vua thương dân th́ được sống lâu, ngàn đời được bổng lộc.
Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết bàn, trong đời xấu xa độc ác, nếu có Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào tin theo tà ma ngoại đạo, khinh chê kinh điển Đại thừa, không tin chánh pháp, giả sử họ có trăm ngàn lượng vàng, nhưng ḷng keo kiết bủn xỉn, ham tiền ham bạc, không biết làm phước giúp người nghèo khổ, không ấn tống kinh điển, không đọc tụng lời Phật dạy, th́ làm sao thoát khỏi quỉ vô thường, khổ dưới sáu nẻo ba đường, nhà cửa lỡ sập, bếp hư chim dữ hiện, rắn dữ vào nhà, chó điên tru tréo, chuột bọ sâu rít, tranh nhau vào nhà, trăm điều ma quái, tà ma ác quỉ, v́ thấy càc điều không tốt, nên sanh buồn bả ưu sầu, do buồn bả ưu sầu nên không an lạc, do không an lạc nên mới chết sớm. Nếu như biết biên chép ấn tống, truyền bá cho mọi người cùng nhau đọc tụng, nhờ phước báu đó, trăm điều quái dị biến mất và được sống lâu.
Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết bàn, trong đời xấu xa độc ác, khi con cháu lớn lên, ông bà cha mẹ rất lo âu, lâu ngày thành tâm bệnh. Tại sao vậy? V́ con trai lớn lên phải đi lính đánh giặc, trăm đứa đi vài đứa c̣n sống, đây là luật pháp bắt buộc làm sao tránh được. C̣n con gái lớn lên dựng vợ gả chồng, lăn nhăn mèo chuột nên bị khinh chê. Ông bà cha mẹ càng khổ đau, do khổ đau nên sanh đủ bệnh, do bị bệnh nên phảI chết non. Nếu biết biên chép ấn tống, đọc tụng thọ tŕ kinh này, nhờ công đức này mà bà con họ hàng hoà thuận, tâm bệnh dứt trừ.
Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết bàn, trong đời xấu xa độc ác, tất cả mọi loài chẳng thương xót nhau, phân thây xẻ thịt, chém giết bừa băi, ăn tươi nuốt sống, nhân lúc chém giết tổn hại thai nhi, khác ǵ giết cha hại mẹ, dày xéo bà con. Do vậy, nên bị chết sớm. Nhơn lúc vợ chồng chung chăn chung gối, bị ác La Sát hút tinh uống máu, tổn hại thai nhi nên không con không cháu.
Nếu biên chép ấn tống, đọc tụng thọ tŕ kinh này, nhờ công đức này mà thoát mọi đau khổ.
Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết bàn, trong đời xấu xa độc ác, tất cả chúng sanh không biết đời trước của ḿnh, nay được thân người, lao đầu vào những cuộc ăn chơi - cậy quyền ỷ thế, chê bai ngườI khác, dùng mọi mánh khoé, bức ép dân lành, không tin Tam Bảo, khinh chê đại thừa, cống cao ngă mạn. Những người như vậy, đời này chết non. Nếu biết một ḷng ăn năn chừa bỏ, sửa đổi tâm tánh, biên chép ấn tống, đọc tụng thọ tŕ kinh này, nhờ việc làm tốt đẹp này mà các bệnh tật đều được lành mạnh, chết non chết oan đều được tiêu trừ, lại được sống lâu an lạc giàu có.
Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết Bàn, trong cuộc đời xấu xa độc ác, tất cả mọi người hoặc nghe theo lệnh vua, hoặc cha mẹ đi sinh sống xứ người buôn bán làm ăn, lấy lợi cầu lời, chứa chất vàng bạc, ỷ nhiều tiền bạc hống hách kiêu căng, giam cầm trái phép, la cà quán rượu làng chơi, bạn bè với kẻ ngu dốt, quên hẳn lệnh vua, bỏ lời cha mẹ dạy, chè chén say sưa làng chơi không thiếu, mất thân hại mạng. Cho dù vàng bạc đầy kho, cắm đầu rượu thịt, không theo đạo lư làm người. Sau khi bị giặc cướp trấn lột tài sản, trắng tay khổ sở.
Nếu biết biên chép ấn tống kinh này, phát sanh ḷng tốt, thương xót mọI loài, cứu giúp tất cả th́ chính ngay chỗ ở không c̣n tà ma yêu quái, ḷng sanh vui vẻ, cọp beo thú dữ t́m đường chạy trốn, thân tâm ung dung ngày đêm an ổn, lại thêm giàu có, sống lâu trăm tuổi là nhờ các việc tốt trên.
Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết Bàn, trong cuộc đời xấu xa độc ác, tất cả mọi loài ăn ở với nhau, cấu xé giành giựt, nên chết đọa vào địa ngục, măn kiếp địa ngục sanh vào loài ngạ quỷ (30) súc sanh, măn kiếp ngạ quỷ súc sanh được sanh làm người, lại đui què sứt mẻ, câm ngọng tai điếc, lưng gù, chân quẹo, nếu sanh thân gái, xấu xí dốt nát, không biết chánh pháp, nếu sanh thân trai, thô kệch cộc cằn, bụng trống ḷng không, làm sao biết được kinh này, u sầu khổ sở trở thành tâm bệnh, nên chết thương tâm. Nếu được bạn tốt khuyến khích biên chép ấn tống kinh này, một ḷng một dạ đọc tụng thọ tŕ, công đức vô lượng, nên ác quả xấu từ từ hết hẳn, do vậy nên được sống lâu.
Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết Bàn, trong cuộc đời xấu xa độc ác, nếu có chúng sanh sau khi qua đời từ bảy ngày đến bốn mươi chín ngày, con cháu họ hàng biết kính Phật trọng Tăng, cúng dường Tam Bảo, giúp đỡ kẻ nghèo khó, nếu được bảy phần công đức th́ hương linh chỉ hưởng được một phần. Thu xếp chuyện nhà, biên chép ấn tống kinh này, mỗi tuần thất cúng dường Tam Bảo, cứu giúp những kẻ thiếu ăn thiếu mặt, công đức như cát sông Hằng, người c̣n được sống lâu, xa ĺa ba đường sáu nẽo, kẻ mất cũng được sanh về cơi Phật, cuộc sống an nhàn.
Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết Bàn, trong cuộc đời xấu xa độc ác, chúng sanh phần nhiều làm năm tội lớn, thiếu hẳn t́nh thương, bỏ rơi cha mẹ lúc tuổi về già, bỏ vợ đánh con, bà con họ hàng chẳng thèm ghé mắt.
Bấy giờ vua trời cai trị, rảo quanh thiên hạ, bà con họ hàng, kèn trống cổ xí, rợp trời đưa đón, đến quả đất này, thấy các chúng sanh bịnh khổ hiểm nghèo, vua trờI cai trị ra tay cứu giúp, trừ ma diệt quỷ liền được an vui.
Nếu có hạng người ghét cha bỏ mẹ, ganh ghét tranh giành làm nhiều điều xấu, hoặc có kẻ bị ma dựa kiếm ăn, hôi thối xông đầy, hoặc có kẻ bịnh nặng, lúc nóng lúc lạnh, ngồi đi không nổI, hoặc có kẻ trên ói dưới chảy, nằm lả cả người, hoặc có kẻ bị tà ma quỷ độc lúc ra lúc vô, thân h́nh nóng rang, cười cười khóc khóc…
Nếu biết biên chép ấn tống kinh này, một ḷng kính Phật trọng Tăng, hương hoa cúng dường, nhờ phước báo này mà mọi bịnh tật ở trên đều được dứt trừ, lại thêm sống lâu.
Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết Bàn, trong cuộc đời xấu xa độc ác, chúng sanh phước mỏng tội dày, quả đất đến thời kỳ hủy hoại, mặt trời xuất hiện, nóng bức cháy sáng, kẻ cai trị mất hết t́nh người, môi trường sinh thái dơ dáy tột cùng, rừng khô sông cạn, lúa đậu khô héo, hoa quả mất mùa.
Nếu vua hiểu đạo, tất cả mọi người cùng nhau biên chép ấn tống đọc tụng kinh này, bấy giờ trời rồng Nan Đà trời rồng Bạt Nan Đà v.v…từ biển lớn làm cho mưa thuận gió hoà, rừng xanh sông nước, hoa quả sum xuê, lúa thóc tràn đầy, dân chúng giàu có…và được sống lâu.
Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết Bàn, trong cuộc đờI xấu xa độc ác, những người buôn bán đong thiếu cân non, đổi xấu làm tốt, gạt gẩm kiếm tiền, v́ những tội ấy, nên khi qua đời đoạ vào địa ngục sanh vào loài súc sanh như: ngựa lừa voi heo, chó mèo chim chuột, sâu ḍi trùng kiến … nếu được vị đại Bồ Tát đem ḷng thương tưởng, chuyên đọc kinh này, chỉ cần một lần thoáng qua lổ tai, xả bỏ loài súc sanh, được sanh lên trời, hưởng lạc an vui.
Đă là Phật tử mà không giảng giải đọc tụng kinh này, thật đáng buồn thay!
Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết Bàn, trong cuộc đời xấu xa độc ác, chúng sanh phần nhiều cống cao ngạo mạn, không tin kinh này, chê bai chánh pháp. Nếu ở đâu giảng giải kinh luật, không chịu khó đến nghe, không chịu tu học, do vậy sau khi chết liền đọa vào địa ngục chịu khổ lâu dài. Nếu có chỗ nào giảng giải kinh này mau mau đến nghe kêu gọi mọi người cùng nhau đến nghe, sau đó t́m nơi sạch sẽ, tổ chức đạo tràng lớn nhỏ tùy nghi, nhờ vậy thoát khỏi u đồ, xa ĺa ác đạo.
Lại nữa, này Văn Thù Sư Lợi, sau khi Ta vào Niết Bàn, trong cuộc đời xấu xa độc ác, nếu có người nào, khi đang mang thai, giết hại sinh vật, ăn hột vịt lộn, uống máu dê heo … không chút t́nh thương chắc chắn sanh đẻ đớn đau, mổ bụng lấy con, đời này chết non.
Nếu gặp bạn tốt khuyên biên chép kinh này, khuyên làm việc tốt, giúp người cứu vật, đến khi sanh đẻ, mẹ tṛn con vuông, con trai con gái tùy ư ḿnh muốn.
Bấy giờ, Phật bảo Văn Thù Sư Lợi, hôm nay Ta giảng giải phương pháp sống lâu, diệt sạch nghiệp chướng, mười hai duyên khí, tính giác chúng sanh, nhờ chư Phật đời trước giảng dạy.
Nếu ai một ḷng đọc tụng biên chép ấn tống kinh này, y theo lời Phật tu hành, gặt hái phước báo không lường, sống lâu trăm tuổi, khi xả báo thân này th́ nhẹ nhàng ra đi không bệnh không khổ.
Nhờ giác tính giác nên tâm kiên định ví như kim cang không hư, không hoại, y như pháp thân chư Phật trong sạch vắng lặng, niệm niệm bền chắt.
Có hai vị đại Bồ Tát: Quán Thế Âm và Đại Thế Chí nương mây năm màu, cỡi voi trắng sáu ngà, tay cầm hoa sen đón rước người niệm Phật, được sanh về cơi tịnh độ, an vui tự tại, dứt bặt tám nạn.
Này Văn Thù nên biết, chúng sanh phần nhiều ngu dốt tối tăm, không hiểu không biết, đời sống ngắn ngủi như tia lửa xẹt của đá chạm nhau, như bọt trôi sông, như tia chớp …
Trong sanh tử lo rầu sợ sệt
Trong sanh tử tham danh tham tiền
Trong sanh tử say sưa rượu thịt
Trong sanh tử ôm ḷng ganh ghét
Trong sanh tử khổ đau triền miên.
Trôi nổi trên biển ái sông mê, ác quỷ vô thường đến bất cứ lúc nào, cho dù tiền kho bạc đụn, châu báu đầy nhà, nhưng không thể nào mua được mạng sống.
Chỉ có chư Phật và các vị Bồ tát ra vào sanh tử một cách ung dung tự tại.
Mọi người nên suy ngẫm, thân này do bốn chất hợp lại, như bốn con rắn độc, trong thân đủ loại vi khuẩn vi trùng cấu xé giành ăn với nhau, ba mươi bảy chất dơ nhớp thường chảy ra chín chỗ, hôi hám tanh tưởi, như con chó chết có ǵ đáng yêu quư.
Thân này như thành La Sát không có lâu dài, thoạt có thoạt không. Khi hơi thở không c̣n, một ngày hai ngày bị śnh thối, năm ngày bầm tím phồng lên hôi thúi nồng nặc, cha mẹ vợ con không dám đến gần, một ḿnh cô đơn đồng không hiu quạnh, tay chân rả rời, thận gan tim phổi, ruột già ruột non … là thức ăn của loài côn trùng.
Phân tích như vậy cái Ta ở đâu? Khi sống tiền kho bạc đụn, lúc chết có mang theo được không? Khi sống sử dụng tay chân đầu óc … lúc chết mỗi mỗi ră rời. Yêu mến vợ con, luyến tiếc tiền bạc, không chịu tu học thật uổng một đời làm thân người.
Bởi vậy bây giờ nên cố gắng biên chép ấn tống kinh này, thường xuyên đọc tụng, y đó tu hành, hiểu sâu mười hai duyên khởi, truyền bá mọi nơi, cúng dường làm phước, niệm niệm rực sáng, chứng nhập Bồ đề tâm ngay đời hiện tại, ngại ǵ sanh tử, thật xứng đáng là Phật tử.
Phật giảng giải kinh này xong, tất cả đại chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, trời rồng dạ xoa, thiên long bát bộ, loài người và không phải loài người, vua Ba Tư Nặc, bà con họ hàng quan lớn quan nhỏ nhiều như cát sông Hằng, đều chứng nhập Bồ đề tâm, vô sanh pháp nhẫn, thật chưa từng thấy.
Tất cả một ḷng cúi đầu lạy Phật hoan hỷ lui về.
Phật Thuyết Kinh Diệt Tội Trường Thọ, Dứt Sạch Nghiệp Chướng, Thần Chú Bảo Vệ Hài Nhi.
Tỳ kheo Không Trú cẩn dịch.
LỜI BẠT
Đức Phật thuyết giảng kinh Diệt TộI Trường Thọ đă trên 25 thế kỷ. Nhưng nhân duyên khiến Ngài thuyết giảng kinh này, tức là hoàn cảnh nghiệt ngă của ngườI nữ Phật tử Điên Đảo trong kinh, lại đă xăy ra từ vô số kiếp về trước cũng như vẫn c̣n xăy ra trong xă hộI con người bây giờ và măi măi về sau. Từ đó thấy rằng không phải chỉ có một người nữ Phật tử Điên Đảo mà đă và sẽ c̣n có vô số người phụ nữ như vậy, dù là Phật tử hay không Phật tử. Phong tục khắc khe của xă hội cũng như hoản cảnh nghiệt ngă của cá nhân và gia đ́nh đă khiến những ngườI phụ nữ phải hủy bỏ cái bào thai hoặc thai nhi của ḿnh dù biết đó là hành vi tội lỗi về mặt đạo đức xă hội và là hành vi tạo ác nghiệp về mặt nghiệp báo. Nhưng trên hết, ngay trong cái tên Điên Đảo, Đức Phật đă hàm ư đó là những hành vi, xuất phát từ vô minh, từ tham ái của con người vốn đă sanh ra trong cơi Dục giớI này.
Chính từ sự quán chiếu đó, Đức Phật đă không dừng lại ở chỗ tội lỗi hay nghiệp báo và những sự trừng phạt tương ứng trong những cảnh giới địa ngục mà những người phụ nữ như Điên Đảo phải lănh thọ. Ngài chú trọng và nhấn mạnh ở chỗ phải biết thành tâm sám hốI để giải nghiệp và an lạc. Những sự trừng phạt trong cảnh giới địa ngục vô gián có thể được hiểu như những ẩn dụ cho những cực h́nh vô cùng vô tận mà ngườI phụ nữ lâm vào những hoàn cảnh này phải gánh chịu về mặt tthể chất cũng như tinh thần, từ luật pháp, tập tục của xă hội và gia đ́nh và ngay cả từ tâm trạng dày ṿ, đau khổ triền miên của chính ḿnh. Làm thế nào để giải nghiệp và an lạc là mục đích của Kinh Diệt Tội Trường Thọ.
Trong những năm hành đạo tại chùa Quang Minh ở Chicago, Đại Đức Thích Minh Chí, hiện nay là Giám viện Phật Học Viện Quốc Tế ở California, đă từng nghe biết nhiều hoàn cảnh thương tâm và đă từng làm lễ cầu siêu cho các thai nhi, tức là những hương linh chưa sanh, chưa có tên. Thầy rất xúc động trước những hoàn cảnh thương tâm và đau khổ như vậy nên muốn t́m một bản kinh nào thuyết giảng về những cảnh ngộ như thế này để giúp những ai muốn thành tâm sám hốI để giảI nghiệp và được giải thoát, an lạc. Đó là nguyên nhân khiến quyển kinh này được dịch ra tiếng Việt và phổ biến.
Cũng như nội dung của tất cả những kinh điển khác, chúng ta áp dụng lờI Phật dạy như dùng bè qua sông, đừng chấp bè lau, bè sậy, bè chuối … mà chỉ luôn luôn tâm niệm rằng: phảI qua mau, qua mau, qua đến bờ bên kia.
Chắc chắn không sao tránh khỏi lỗi lầm trong lúc dịch, kính mong các bậc cao minh chỉ giáo cho.
Trân trọng,
Tỳ kheo Không Trú.
Chú Thích
(1) Kỳ Xà Quật = Linh Thứu Sơn = núi Kên Kên
Từ Bồ Đề Đạo Tràng đến núi này 91 Km. Trên đỉnh núi, đá chồng lên nhau nh́n giống như đầu của chim Kên Kên, Nơi đây, đức Phật giảng nhiều kinh Đại Thừa.
(2) Thiên Long Bát Bộ
Tám bộ chúng ủng hộ và giữ ǵn Phật pháp gồm: Thiên, Long, Dạ Xoa, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Càn Thát Bà và Ma Hầu La Dà. Trong tám bộ chúng này Thiên –Long là thượng thủ, cho nên nêu hai chúng đại diện cho cả tám chúng. Cũng có khi gọi: Thiên Long Dạ Xoa.
(3) Phi Nhân
Không thuộc loài người. Theo kinh luật chỉ chung cho các loài như: Trời, Rồng, Dạ Xoa, Địa ngục, v.v….
(4) Cơi trời Phi Phi Tưởng
C̣n gọi là Hữu Đảnh Thiên, tầng trời cao nhất của cơi Vô Sắc. Tầng trời này chuyên thiền định “Phi tưởng phi phi tưởng”, tưởng thô đă chấm dứt nhưng c̣n tưởng vi tế.. Theo kinh A-Hàm, tuổi thọ của cơi trời này là 84,000 kiếp.
(5) Địạ ngục A Tỳ
C̣n gọi là địa ngục Vô Gián, tức là không bao giờ ngừng nghỉ, tội nhân vào trong địa ngục này bị hành hạ không phút nào ngừng măi cho đến khi được ra khỏi. Thêm nữa, thân h́nh của mỗi tội nhân biến đầy khắp cả ngục, vô số tội nhân cũng đều như vậy. Nếu khi c̣n sống, giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật chảy máu và phá hoà hợp Tăng, sau khi trút hơi thở th́ bị đoạ vào địa ngục này. (Xem thêm kinh Địa Tạng)
(6) Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
Trung Hoa dịch: Diệu Đức hay Diệu Cát Tường. Đây là vị Bồ Tát cỡi con sư tử màu xanh, hầu bên trái Phật Thích Ca Mâu Ni, bên phải là ngài Phổ Hiền Bồ Tát cỡi voi sáu ngà màu trắng. Ngài chỉ xuất hiện trong kinh điển Đại thừa, có trí tuệ siêu việt, thường thay mặt thính chúng, đặt những câu hỏi lên đức Phật khi nghe đức Phật thuyết pháp. Trong kinh Bảo Tích thứ 60 ghi, đương lai ngài sẽ thành Phật hiệu là Phổ Thiện Như Lai, thế giới tên Ly Trần Cấu Tâm.
23
(7) Sáu đường
Khi c̣n sống, chúng sanh đă nói, suy nghĩ, làm những thiện nghiệp hay ác nghiệp khác nhau. Sau khi chết tùy theo nghiệp lực mà đầu thai vào sáu cơi: 1- TrờI, 2- Người, 3- A Tu La, 4- Ngạ Quỷ, 5- Súc Sanh, 6- Địa Ngục. Đến sáu cơi này bằng bốn h́nh thái khác nhau: bằng thai, bằng trứng, bằng biến hoá, bằng phân hoá.
(8) Thập Hiệu
Đây chính là mười hiệu của Phật. Tất cả chư Phật đều có 10 hiệu giống nhau. Danh hiệu cuối là Phật Thế Tôn tức là bậc giác ngộ hoàn toàn, được người đời tôn trọng cung kính. Nên Phật Thế Tôn là một hiệu.
(9) Ưu Bà Di
Trung Hoa dịch là cận sự nữ, là những người nữ, gần gũi chư Tăng Ni để tu học theo hạnh xuất thế. Là một trong bảy chúng đệ tử của Phật, đă quy y Tam Bảo và giữ ǵn năm giới: 1-Không được sát sanh, 2- Không được trộm cắp, 3- Không được tà hạnh, 4- Không được nói dối, 5- Không được uống rượu và dùng những chất say sưa làm loạn tánh t́nh.
(10) Diêm Vương
C̣n gọi là Thập điện Diêm Vương hay Diêm La Thập điện, chịu ảnh hưởng tư tưởng Vệ Đà, Ấn độ giáo, về sau chuyển thành tín ngưỡng của dân gian b́nh dân Việt Nam, Trung Quốc. H́nh ảnh Thập điện Diêm vương hàm ư đạo lư Nhân quả. Nếu ai ăn ở hiền lành như thương mẹ, giúp cha, đốI xử tốt với bạn bè, biết kính trên nhường dưới v.v… sau khi chết được đầu thai về cơi lành, nơi đây được an vui hạnh phúc. C̣n ai bất hiếu cha mẹ, phản thầy gạt bạn, lăn nhăn t́nh ái, cờ bạc rượu chè v.v…sẽ bị đoạ vào địa ngục, tùy theo nặng nhẹ, bị Thập điện Diêm vương xét xử.
(11) Năm trược
Năm thứ khó chịu, hôi hám, nhận thức sai lầm, đau khổ về thân và tâm. 1- Kiếp trược, 2-Kiến trược, 3-Phiền năo trược, 4- Chúng sanh trược, 5- Mạng trược.
(12) Thiên Ma Ba Tuần
Tên của một loài ma cực ác, thường theo dơi Phật và đệ tử của Phật để t́m cơ hội nhiễu loạn thân tâm, chướng ngại pháp lành, ngăn cản ngườI tu tập. Đây là chúa tể từng trời thứ sáu ở cơi Dục.
(13) Năm ấm
Năm ấm gồm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc lại có bốn thứ: đất, nước, gió, lửa. Bốn yếu tố này có hai tính chất: thô và tế. Đấy là những yếu tố thuộc về vật chất. Thọ, tưởng, hành, thức là bốn yếu tố thuộc về tinh thần. Mỗi chúng sanh đều được năm ấm này tạo nên và theo nghiệp lực có những h́nh thái khác nhau và tâm tính khác nhau.
(14) Bốn rắn
Chỉ cho bốn đại: Đất, nước, gió, lửa. Theo kinh TốI Thắng Vương, thân thể chúng sanh do năm yếu tố hợp lại mà thành. Yếu tố đầu tiên là Sắc. Sắc gồm có bốn yếu tố là Đất, nước, gió. lửa. Khi đủ duyên th́ tồn tại, khi hết duyên sẽ tan ră. Trong khi tồn tại cũng “chống chọi” vớI nhau, tạo ra nhiều bệnh hoạn cho cơ thể. Chẳng khác nào bốn con rắn độc được nhốt chung trong một chuồn, tàn sát lẫn nhau.
(15) Ba độc
Chỉ cho tham sân và si. Đây là ba thứ phiền năo có mặt khắp ba cơi và là thứ độc hạI nhứt khó đoạn trừ, khiến chúng sanh đọa lạc tam đồ lục đạo.
(16) Lục tặc = sáu tên giặc
Chỉ cho sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu trần này là đối ttượng của sáu căn: Mắt, tai, mũi. lưỡi, thân và ư. Sáu trần và sáu căn không phảI là giặc, do ư thức tính toán, so đo, hơn thua, phảI trái, thiện ác, tốt xấu …làm trở ngại hay thuận tiện trên đường tu của ḿnh.
(17) Bồ Đề
Trung Hoa dịch: giác ngộ, trí tuệ. Do sự tu tập và đoạn trừ phiền năo nên có nhiều loại Bồ đề khác nhau. Theo Luận Đại Trí Độ 53, có năm loại Bồ Đề:
1-Phát tâm bồ đề, 2-Phục tâm bồ đề, 3- Minh tâm bồ đề, 4- Xuất đáo bồ đề, 5- Vô thượng bồ đề. Theo Đại thừa nghĩa chương 18, có hai loại: 1- Phương tiện bồ đề, 2- Thanh tịnh bồ đề. Theo Thiên Thai tông có ba loại: 1- Thật tướng bồ đề, 2- Thật trí bồ đề, 3- Phương tiện bồ đề.
(18) A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề
Trung Hoa dịch: Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trí tuệ của Phật b́nh đẳng đầy đủ và cao siêu nhất.
(19) Thường Lạc Ngă Tịnh
Đây là bốn đức của Niết Nàn. Khi c̣n phàm phu tu tập theo Tứ Niệm Xứ để đối trị điên đảo. 1-Quán thân bất tịnh, 2- Quán thọ thị khổ, 3- Quán tâm vô thường, 4- Quán pháp vô ngă. Khi chứng thánh quả A La Hán, bất tịnh trở thành tịnh, khổ thành lạc, vô thường thành thường, vô ngă thành ngă.
(20) Ba La Mật
Dịch nghĩa: Qua bờ bên kia, sự rốt ráo, sự giải thoát. Đây là Bồ Tát nguyện, Bồ Tát hạnh, Bồ Tát đạo, con đường quên ḿnh chỉ v́ người, mục đích cuối cùng đem lại sự an vui, hạnh phúc và giảI thoát cho tất cả chúng sanh. Thoạt đầu gồm mười Ba la mật, về sau c̣n sáu: 1- Bố thí, 2- Tŕ giới, 3- Nhẫn nhục, 4- Tinh tấn, 5- Thiền định, 6- Trí tuệ, 7- Phương tiện, 8- Nguyện, 9- Lực, 10- Trí.
(21) Cây Đa la
Là loạI cây chỉ có một thân, nếu bị chặt ngọn hay thân th́ không nảy cành. Có quả, khi chín màu nâu ăn được. Chiều cao chừng 15 đến 20 mét.
(22) Bà La Môn
Là giai cấp cao nhất trong bốn giai cấp cổ đại ở Ấn Độ, họ tự cho ḿnh là sanh ra từ miệng Phạm thiên, chuyên lo chuyện cúng tế, được quyền nhận lănh phẩm vật hiến tặng.
(23) TrờI Đế Thích
Do tu các hạnh bố thí, làm phước, giúp kẻ cùng khổ vớI ḷng từ bi, sau khi chết được sanh lên cơi trrờI Đao Lợi. Vua của cơi trờI Đao Lợi là trời Đế Thích hay c̣n gọi là Thích Đề Hoàn Nhơn. Trời Đế Thích là một trong mườI hai vị trời khác ở phương Đông ủng hộ Phật pháp và hộ tŕ những ai tu hành. Khi đức Phật lên trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẹ là bà Ma Gia th́ vua trời Đế Thích cầm lộng hầu Phật.
(24) Chiên Đà La
Cổ đạI Ấn Độ có bốn giai cấp từ cao tới thấp: 1- Bà la môn, 2- Sát đế lợi, 3- Phệ xá, 4- Thủ đà la. Chiên đà la không được xếp hạng, đứng ngoài bốn giai cấp. Mỗi khi đi đâu phảI tự gơ vào thanh gỗ để mọi ngườI nghe âm thanh để tránh xa. Nghề chính của họ là hốt phân, cắt cổ gà vịt, mổ heo, trâu, dê cung cấp thịt cho các giai cấp trên.
Nói chung là họ chỉ được làm và phải làm những nghề hạ tiện nhất trong xă hội. Đúc Phật phủ nhận giai cấp, Ngài nói: “không thể có giai cấp trong ḍng máu đều đỏ và giọt nước mắt đều mặn. Ai cũng có khả năng thành Phật”. Tư tưởng vĩ đại này làm nền tảng cho công cuộc cách mạng xă hội không tiền khoáng hậu.
(25) Nan đà long vương
Vị vua rồng tên là Nan đà. Vị này có bảy đầu, tính t́nh rất hung ác, về sau được Ngài Mục Kiền Liên hàng phục và hoá độ, là một trong tám đại long vương, anh em với Bạt Nan Đà long vương, nên hai vị này gọi chung vớI nhau là Nan đà, Bạt Nan đà long vương.
(26) Cơi trời Vô Sắc
Ở cơi trời này không có hành hài vật chất, chuyên tu Tứ vô sắc hay Vô sắc giới định. Do tu tập Tứ vô biên xứ, 2- Thức vô biên xứ, 3-Vô sở hựu xứ, 4- Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
(27) Vua Ba Tư Nặc
Quốc vương của nước Kiều Tát La ở Trung Ấn Độ thời bấy giờ. Thủ đô là Xá Vệ, là một trong hai cường quốc thời đức Phật tại thế. Ông sống cùng thời với đức Phật; sau khi được đức Phật hoá độ, ông trở thành đại thí chủ, đại hộ đạo cho đức Phật và Tăng đoàn.
(28) Lục Sư ngoại đạo
Sáu phái ngoại đạo cùng thời vớI đức Phật, họ có chủ trương khác nhau: 1-Hoài nghi ngoại đạo: chủ trương thánh quả không cần tu, trảI qua một thờI gian dài tự nhiên sẽ được. 2-Duy vật ngoại đạo: chủ trương không có nhân quả. 3-Tự nhiên ngoại đạo: chủ trương khổ vui giàu nghèo do tự nhiên sanh ra. 4-Không thiện ác ngoạI đạo: chủ trương không thiện không ác, không nhân quả. 5-Không nhân không duyên ngoại đạo: chủ trương: đất, nước, gió, lửa, khổ, vui linh hồn riêng biệt nhau. 6-Lơa thể ngoại đạo:chủ trương khổ vui giàu sang đều do đời trước tạo ra..
(29) Bốn ma
Bốn ma này chia ra làm hai loại: 1-Nội ma gồm có: ngũ ấm ma, 2-Ngoại ma là chỉ cho ma vương và bà con quyến thuộc của ma vương ở cơi trời thứ sáu thuộc Dục giới gọi là Tha Hóa Tự Tại thiên. Chúng hay phá phách cản trở việc thiện và việc tu tập của chúng sanh.
(30) Ngạ quỉ
Một đường trong sáu đường: trời, ngườI, A tu la, ngạ quỉ, súc sanh, địa ngục. Ngạ quỉ nghĩa là quỉ chịu đói khát, do đời trrước tạo nhiều nghiệp ác, thường là có liên quan đến tham lam keo kiệt. Theo kinh Chánh Pháp Niệm Xứ 16, có 36 loạI ngạ quỉ. Trong kinh Nghiệp Báo Sai Biệt, có 10 thứ nghiệp khiến chúng sanh bị đoạ loài ngạ quỉ: 1- Thân tạo nhiều nghiệp ác, 2- Miệng tạo nhiều nghiệp ác, 3- Ư tạo nhiều nghiệp ác, 4- Khởi ḷng tham lam, 5- Khởi ḷng ác tham, 6- Ghen tỵ, 7- Tà kiến, 8- Mến tiếc của cải lúc lâm chung, 9- Chết do đói, 10- Chết do khát.
|
Quay trở về đầu |
|
|
karmapa_cheno Hội viên
Đă tham gia: 10 February 2007 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 120
|
Msg 4 of 11: Đă gửi: 11 May 2009 lúc 9:34am | Đă lưu IP
|
|
|
Cám ơn bạn Zero đă nhiệt t́nh post bài vào đây , chúc bạn thâm tâm an lạc .
__________________ vượt lên chính ḿnh
|
Quay trở về đầu |
|
|
zer0 Hội viên
Đă tham gia: 28 September 2005
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2560
|
Msg 5 of 11: Đă gửi: 11 May 2009 lúc 12:36pm | Đă lưu IP
|
|
|
Bài trên có phải là bài kinh mà karmapa_cheno đang t́m kiếm không?
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
karmapa_cheno Hội viên
Đă tham gia: 10 February 2007 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 120
|
Msg 6 of 11: Đă gửi: 19 May 2009 lúc 7:33pm | Đă lưu IP
|
|
|
Đúng là bài mà cheno đang cần kiếm , nhưng mà có điều là cheno đọc hết rồi và coi hết phim , nhưng tóm lại cheno không biết là nên thực hiện phần tŕ tụng bắt đầu ở đâu và kết thúc ở đâu , không biết có phải là bài thần chú này không vậy Zero ? v́ trong phim khi coi luú Phật thuyết pháp , cheno có thấy những câu chú :
Ba đầu di ba
Đầu di đề tỳ
Hề ni hê ni
Hề di chư
Chư la chư lê
Hầu la hầu la
Do lệ do la
Do lệ ba la ba lệ văn
Chế san điệt
Tần điệt bát thệ mạt điệt tŕ na ca
Ta bà ha.
__________________ vượt lên chính ḿnh
|
Quay trở về đầu |
|
|
zer0 Hội viên
Đă tham gia: 28 September 2005
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2560
|
Msg 7 of 11: Đă gửi: 19 May 2009 lúc 8:18pm | Đă lưu IP
|
|
|
NGHI THỨC KHAI KINH
NIỆM HƯƠNG
(Đốt hương, cắm hương, quỳ thẳng niệm hương cúng dường Tam bảo)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nguyện mây hương mầu này,
Đến khắp mười phương cơi,
Cúng dường tất cả Phật,
Tôn Pháp, chư Bồ Tát,
Vô biên chúng Thanh văn,
Cùng tất cả Thánh hiền,
Duyên khởi đài sáng chói,
Trùm đến vô biên cơi,
Khắp xông các chúng sanh,
Đều phát tâm Bồ đề,
Xa ĺa các nghiệp vọng,
Trọn thành đạo Vô thượng.
Nam mô Hương Cúng Dường Bồ tát Ma ha tát (3 lần)
TÁN THÁN PHẬT
Đấng Pháp vương Vô thượng,
Ba cơi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp Trời người,
Cha lành chung bốn loại,
Quy y tṛn một niệm,
Hay dứt nghiệp ba kỳ,
Xưng dương và tán thán,
Ức kiếp không cùng tận.
QUÁN TƯỞNG
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông khó thể nghĩ bàn,
Lưới đế châu ví Đạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,
Trước Bảo tọa thân con ảnh hiện,
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
Án phạ nhật ra học. (3 lần)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai, thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta bà Giáo chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát. (1 lạy)
TÁN DƯƠNG CHI
Cành dương, nước tịnh,
Rưới khắp Tam thiên,
Tánh không, tám đức lợi nhân gian,
Pháp giới rộng thênh thang,
Diệt tội tiêu khiên,
Lửa rực hóa sen hồng.
Nam mô Thanh Lương Địa Bồ tát Ma ha tát (3 lần)
TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN
Tu rị tu rị, ma ha tu rị, tu tu rị, tát bà ha. (3 lần)
TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)
ÁN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN
Nam mô tam măn đa một đà nẫm, án, độ rô độ rô, địa vĩ Ta bà ha. (3 lần)
PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN
Án nga nga nẩng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần)
TỤNG CHÚ ĐẠI BI
Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ tát. (3 lần)
Thiên Thủ Thiên Nhăn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni.
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn tŕ. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt dạt đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha Bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá rị. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn tŕ. Địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Sa bà ha. Tất đà dạ. Sa bà ha. Ma ha tất đà dạ. Sa bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn tŕ. Sa bà ha. Ma ra na ra. Sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư da. Sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ. Sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ. Sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn tŕ bàn dà ra dạ. Sa bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ. Sa bà ha.
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.
Nam mô a rị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ. Sa bà ha.
Án tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt đà da. Sa bà ha.
Nam mô Thập phương thường trụ Tam bảo.
VĂN PHÁT NGUYỆN
Lạy Đấng Tam giới Tôn,
Quy mạng mười phương Phật,
Nay con phát nguyện rộng,
Trọ tŕ Kinh Trường Thọ
Trên đền bốn ơn nặng,
Dưới cứu khổ ba đường,
Nếu có kẻ thấy nghe,
Đều phát tâm Bồ đề,
Hết một báo tân này,
Sanh về nước An lạc.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
KỆ KHAI KINH
Phật pháp cao sâu rất tuyệt vời,
Trăm ngàn muôn kiếp khó t́m cầu,
Nay con nghe thấy chuyên tŕ tụng,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam mô Khai Bảo Tạng Bồ tát Ma ha tát (3 lần)
|
Quay trở về đầu |
|
|
karmapa_cheno Hội viên
Đă tham gia: 10 February 2007 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 120
|
Msg 8 of 11: Đă gửi: 20 May 2009 lúc 8:02am | Đă lưu IP
|
|
|
Th́ ra là kệ kinh này , cheno cũng hay tụng kinh này nhưng không biết đây là Kinh Diêt Thọ Trường Tội , cheno cứ nghĩ là bài kinh này là của Quán Thế Âm , cám ơn bạn nhiều lắm , chúc bạn được an lạc .
__________________ vượt lên chính ḿnh
|
Quay trở về đầu |
|
|
zer0 Hội viên
Đă tham gia: 28 September 2005
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2560
|
Msg 9 of 11: Đă gửi: 20 May 2009 lúc 9:20am | Đă lưu IP
|
|
|
Phần cuối là phần HỒI HƯỚNG, nếu cheno có thời gian th́ nên tụng luôn kinh BÁT NHĂ.
BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát nhă Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhứt thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị. Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng: bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư; vô sắc, thinh, hương, vị xúc, pháp; vô nhăn giới năi chí vô ư thức giới; vô vô minh, diệc vô vô minh tận; năi chí vô lăo tử, diệc vô lăo tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa y Bát nhă Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết bàn.
Tam thế chư Phật y Bát nhă Ba la mật đa cố, đắc a nậu Đa la tam miệu tam Bồ đề.
Cố tri Bát nhă Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị Vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát nhă Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:
“Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha.”
Bạt Nhứt Thiết Nghiệp Chướng Căn Bổn Đắc Sanh Tịnh Độ Đà La Ni
Nam mô A di đa bà dạ, đa tha già đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ. A di rị đa, tỳ ca lan đế. A di rị đa, tỳ ca lan đa, già di nị, già già na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lạy)
Phật A Di Đà thân kim sắc
Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm.
Năm Tu di uyển chuyển bạch hào
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc.
Trong hào quang hóa vô số Phật
Vô số Bồ tát hiện ở trong
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát.
Quy, mạng lễ A Di Đà Phật
Ở phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện văng sanh
Cúi xin đức Từ bi nhiếp thọ.
Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới, Đại từ, Đại bi A Di Đà Phật.
Nam mô A Di Đà Phật. (3 tràng hoặc 7 tràng)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát (3 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát (3 lần)
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát (3 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát (3 lần)
Sám Khể Thủ
Cúi lạy phương Tây cơi An lạc.
Tiếp dẫn chúng sanh Đại đạo sư,
Nay con phát nguyện, nguyện văng sanh,
Nhờ lượng Từ bi thương nhiếp thọ.
Nay con khắp v́ bốn ơn ba cơi, pháp giới chúng sanh, cầu đạo Bồ đề, Nhất thừa của Phật, chuyên tâm tŕ niệm, hồng danh muôn đức, Phật A Di Đà, nguyện sanh Tịnh độ.
Lại bởi chúng con, nghiệp nặng phước khinh, chướng sâu huệ cạn, nhiễm tâm dễ động, tịnh đức khó thành, nay đối Từ Tôn kính gieo năm vóc, tỏ bày một ḷng, chí thành sám hối. Con và chúng sanh, nhiều kiếp đến nay, mê bổn tịnh tâm, buông tham, sân, si, nhiễm dơ ba nghiệp, vô lượng vô biên, nghiệp oan đă kết, nguyện đều tiêu diệt.
Từ ngày hôm nay, lập thề nguyện sâu, xa ĺa pháp ác, thề không c̣n tạo, siêng tu thánh đạo, thệ không biếng lười, thệ thành chánh giác, thệ độ chúng sanh, xin đức Từ Tôn, dùng nguyện Từ bi, chứng biết ḷng con, thương xót đến con, gia bị cho con, nguyện khi thiền quán, hoặc lúc mộng mơ, được thấy thân vàng, A Di Đà Phật, được chơi cơi tịnh của đấng đạo sư, được nhờ Từ Tôn, cam lồ rưới đầu, quang minh chiếu thể, tay xoa đảnh con, áo đắp thân con, khiến cho chúng con, chướng cũ tiêu trừ, căn lành mau lớn, mau tiêu phiền năo, chóng phá vô minh, viên giác tâm mầu, sáng bừng mở rộng, tịch quang cảnh thật thường được hiện tiền, đến lúc lâm chung, biết ngày giờ trước, thân không tất cả, bệnh khổ ách nạn, tâm không tất cả, tham luyến mê hoặc, các căn vui đẹp, chánh niệm phân minh, xả bảo an lành, như vào thiền định. Phật A Di Đà, Quan Âm, Thế Chí, chư Thánh hiền chúng, phóng quang tiếp dẫn, tay báu dắt d́u, lầu gác, tràng phan, nhạc trời hương lạ, Tây phương cảnh Phật, bày hiện rơ ràng, khiến cho chúng sanh kẻ thấy người nghe, mừng vui khen cảm, phát Bồ đề tâm. Bấy giờ thân con, ngồi đài Kim cang, bay theo sau Phật, khoảng khảy móng tay, sanh vào sen báu, nơi ao thất bảo, ở cơi Tây phương, rồi khi hoa nở, thấy Phật bồ tát, nghe tiếng pháp mầu, chứng đạo vô nhẫn, giây phút lại đi, thừa sự chư Phật, nhờ ơn thọ kư. Được thọ kư rồi, ba thân bốn trí, năm nhăn, sáu thông, vô lượng trăm ngàn môn Đà la ni, tất cả công đức, thảy đều thành tựu.
Từ đó về sau, không rời an dưỡng về nơi Ta bà, phân thân vô số, khắp cả mười phương, dùng sức thần thông, tự tại khó nghĩ, và các phương tiện, độ thoát chúng sanh, đều khiến ĺa nhiễm, chứng được tịnh tâm, đồng sanh Tây phương, lên bậc bất thoái.
Nguyện lớn như vậy, thế giới không tận, chúng sanh không tận, nghiệp và phiền năo, thảy đều không tận, đại nguyện của con, cũng không cùng tận. Nay con lễ Phật, phát nguyện tu tŕ, xin đem công đức, hồi thí hữu t́nh, bốn ân báo đáp, ba cơi đều nhờ, pháp giới chúng sinh, đồng thành chủng trí.
Nguyện sanh Tịnh độ ở Tây phương
Chín phẩm hoa sen là cha mẹ
Hoa nở thấy Phật chứng vô sanh
Bồ tát bất thoái là bạn lữ.
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.
TAM QUY Y
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát ḷng vô thượng. (1 lạy)
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rơ kinh tạng, trí huệ như biển. (1 lạy)
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lư đại chúng, tất cả không ngại. (1 lạy)
|
Quay trở về đầu |
|
|
zer0 Hội viên
Đă tham gia: 28 September 2005
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2560
|
Msg 10 of 11: Đă gửi: 20 May 2009 lúc 9:23am | Đă lưu IP
|
|
|
Dưới đây là link nguồn.
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni
|
Quay trở về đầu |
|
|
huyền thi Hội viên
Đă tham gia: 28 March 2007 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 136
|
Msg 11 of 11: Đă gửi: 21 August 2009 lúc 11:46pm | Đă lưu IP
|
|
|
Cám ơn bác zer0 rất nhiều! Chúc bác và người thân an lạc!
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|