Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 197 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: AI CẬP HUYỀN BÍ Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
daoky
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 06 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 502
Msg 1 of 4: Đă gửi: 13 August 2004 lúc 2:13am | Đă lưu IP Trích dẫn daoky

          
             AI CẬP HUYỀN BÍ
      Nguyên tác: A Search in Secret Egypt
            Của Paul Brunton
       Bản dịch: Nguyễn Hữu Kiệt

CHƯƠNG 01: Một Đêm Với Thần Tượng Sphinx

Người du khách cuối cùng đă về; người hướng dẫn viên cuối cùng đă lập lại đến cả ngàn lần những điều hiểu biết của ḿnh để giới thiệu cho du khách ngoại quốc về xứ cổ Ai Cập. Một bầy lừa mệt mỏi và đàn lạc đà bất kham đă lần bước chậm chạp trên đường về với những du khách cuối cùng trong ngày.



Trong khung cảnh xứ Ai Cập, bĩng hồng hơn cĩ một vẻ đẹp siêu nhiên và khĩ quên. Mọi vật đều khoe màu đổi sắc, giữa khoảng trời đất bao la nổi bật lên những khoảng tương phản lạ lùng.



Tơi cịn ngồi lại một ḿnh trên băi cát vàng, đối diện với pho tượng Sphinx hùng vĩ oai nghiêm tuyệt trần. Tơi nh́n một cách say mê cái cảnh tượng những màu sắc mỏng manh như sương phai mờ dần một cách nhẹ nhàng, trong khi mặt trời lặng đă cất đi những ánh vàng lộng lẫy trên nền trời Ai Cập. Những ánh lửa diệu huyền, nét huy hồng tuyệt đối mà mặt trời lặn của Châu Phi cịn bỏ sĩt lại trong khơng gian, cĩ ai tiếp nhận bức thơng điệp thiêng liêng của trời mà khơng cảm giác được trong giây lát cái phút lạc lơng của cơi Thiên Đàng? Niềm phúc lạc đĩ sẽ cịn tồn tại khi con người chưa đến quá nỗi trụy lạc trong vịng trần gian ơ trược, trong sự sa đọa tâm linh, nĩ sẽ tồn tại khi con người cịn biết yêu vần Thái Dương này là nguồn gốc của sự sống và của bao nhiêu màu sắc huy hồng lộng lẫy xuất hiện trước mắt ta. Cổ nhân xứ Ai Cập thật ra đă khơng kém minh triết khi họ tơn thờ RÂ, biểu tượng ngơi mặt trời, mà trong thâm tâm họ coi như một vị Thần ...



Trong bối cảnh hồng hơn Ai Cập, dưới một nền trời xám ngắt đă tối mờ dần, tơi nh́n pho tượng đá Sphinx mỗi lúc càng sậm màu, cho đến khi những tia nắng vàng sậm cuối cùng đă tắt hẳn và khơng cịn chiếu vào gương mặt lạnh lùng bí hiểm của nĩ nữa. H́nh thần tượng Sphinx nhơ lên giữa băi sa mạc mênh mơng gương mặt khổng lồ, than h́nh nằm duỗi ra, trải qua nhiều thế hệ đă từng gây sự sợ hăi cho những người Ả Rập dị đoan, và làm ngạc nhiên những người du khách hồi nghi, mà bằng chứng là những câu hỏi từ người lữ khách, lần đầu tiên con quái vật khổng lồ xuất hiện trước đơi mắt kinh ngạc của họ. Pho tượng đá bí hiểm ḿnh sư tử đầu người này cĩ một sức hấp dẫn rất lạ lùng và phức tạp đối với bao nhiêu thế hệ du khách. Nĩ là một sự bí mật đối với người Ai cập, và một bài tốn bí hiểm cho tồn thế giới. Ai đă điêu khắc ra nĩ? Vào thời đại nào? Khơng ai biết được. Nhà Ai Cập học chuyên mơn nhất cũng chỉ đưa ra những giả thuyết vu vơ về ư nghĩa và lịch sử của h́nh thần tượng Sphinx.



Dưới ánh sáng le lĩi cuối cùng của một ngày đă tàn, đơi mắt tơi ngừng lại trên đơi mắt bằng đá của pho tượng thản nhiên bất động. Nĩ đă từng thấy hằng bao nhiêu là tỷ ức người lần lượt đến trước mặt nĩ, với những cái nh́n im lặng, đưa ra những câu hỏi khơng lời và khơng giải đáp, rồi bước chân ra về trong sự hoang mang! Nĩ đă từng thản nhiên lặng nh́n châu Atlantide bị tràn ngập dưới cơn đại hồng thủy và biến mất dưới lịng biển sâu. Cái nụ cười thoảng qua của nĩ đă từng chứng hiến cơng tŕnh vĩ đại của vua Mena, vị Quốc Vương Ai Cập đầu tiên đă đổi dịng sơng Nile yêu quư của người Ai Cập và bắt nĩ chảy qua một đường hướng khác. Cái nh́n im lặng đượm mùi mến tiếc của nĩ đă từng thấy nhà tiên tri Moise, nghiêm cẩn và ít nĩi, từ giả nĩ lần cuối cùng. Câm lặng và đau thương, nĩ đă nh́n thấy những nỗi đau khổ của xứ Ai Cập bị tàn phá, suy vong sau cuộc xâm lăng của vị bạo chúa Cambyse, hồng đế nước Ba Tư. Cĩ lẻ vừa thích thú vừa khinh bỉ, nĩ từng nh́n thấy nữ hồng Cléopâtre đẹp lộng lẫy và kiêu hănh trong chiếc thuyền rồng mũi trạm vàng, buồm may bằng nhung đỏ thắm và mái chèo đúc bằng bạc. Nĩ từng sung xướng nh́n thấy đức Jesu trên đường đi t́m đạo lư phương đơng để chuẩn bị chờ ngày thi hành sứ mạng, ngày mà đức Chúa Cha gửi Ngài đi truyền bá cho thế gian một thơng điệp thiêng liêng về đức nhân từ bác ái. Như một kẻ báo hiệu khơng lời, biểu tượng Sphinx chào mừng Bonaparte, khí cụ của định mệnh các nước Châu Âu, trước khi tên Mă Phá luân nổi bật làm lu mờ những tên khác, và ngay khi ơng ta hăy cịn là một nhân vật chưa tên tuổi, chưa đặt chân xuống chuyến thuyền Bellérophon để sang chinh phục xứ Ai Cập. Nĩ cũng nh́n thấy, với ít nhiều bi ai, tồn thể thế giới chú ư đến Ai Cập khi ngơi lăng tẩm của một vị Pharaon, vua Ai Cập thời cổ bị khai quật lên để cho người đời tọc mạch nh́n xem xác ướp của vua với những đồ ngọc ngà châu báu.



Thật vậy, đơi mắt bằng đá của pho tượng đă từng chứng kiến những điều đĩ và nhiều điều khác nữa. Nhưng bây giờ nĩ nh́n thấy ǵ? Khơng màng để ư kẻ thế nhân phàm tục đang bơn tẩu trên đường danh lợi, thản nhiên trước nỗi sung sướng, khổ đau của nhân loại, h́nh như biết rơ cái định mệnh đă ghi sẵn tất cả mọi biến cố lớn của trần gian, đơi mắt bằng đá kia nh́n thẳng vào cơi vơ cùng ...



H́nh thần tượng Sphinx đă chuyển màu xám sang màu đen, rồi một màu đen như mực, nền trời đă mất cái nét xám bạc của lúc ban chiều, tất cả điều đắm ch́m trong đêm tối, chúa tể của sa mạc. Nhưng pho tượng vẫn cịn hấp dẫn sự chú ư của tơi và làm cho tơi bị thu hút như do mănh lực của một luồn từ điện vơ h́nh. Đĩ là v́ tơi cảm thấy rằng màn đêm rủ xuống đă đem pho tượng trở về nguyên quán của nĩ. Cái bối cảnh đen âm u, đĩ mới đúng là cái bối cảnh thực sự của nĩ. Những ǵ là thần bí của một đêm Châu Phi tạo cho nĩ một bầu khơng khí thích nghi. Cũng trong những giờ ban đêm mà Râ và Horus, Isis và Osiris, những vị Thần Linh của xứ cổ Ai Cập, luơn luơn trở về với nhân gian. Tơi nhất định đợi lúc trăng lên và sao mọc để nh́n thấy một lần nữa cái chân tướng của h́nh thần tượng Sphinx. Tơi ngồi một ḿnh giữa đĩng cát bao la, nhưng tơi khơng cảm thấy cơ đơn, thật vậy, cảm giác cơ đơn hiu quạnh khơng thẻ nào cĩ được với tơi.



Ban đêm, tơi cĩ thể ngắm nh́n thần tượng Sphinx dưới cái khía cạnh mà ít người du khách được nh́n thấy. Tạc trong khối đá, in trên nền trời xanh như chàm, cao bằng một ngơi nhà lầu bốn tầng, con sư tử đầu người khổng lồ vươn ḿnh nằm dài trong thung lũng của đồng cát. Dưới ánh trăng sao vừa lĩ dạng, những nét hùng vĩ của nĩ hiện rơ lần lần. Đĩ là cái biểu tượng lạ lùng của một xứ Ai Cập mà nguồn gốc bí ẩn được truy nguyên đến những thời đại xa xăm vơ định. Giống như con vật nằm canh gát những bí mật của thời tiền sử, nghĩ đến những thế hệ của châu Atlantide mà kư ức mong manh của người đời khơng cịn nhớ đến nữa, pho tượng đá khổng lồ chắc cũng sẽ cịn tồn tại măi qua mọi thế hệ văn minh của lồi người hiện nay, và nĩ cũng sẽ giữ nguyên vẹn khơng hề tiết lộ sự bí mật nội tâm của nĩ. Gương mặt khắc khổ và uy nghiêm của nĩ khơng phản ánh một điều ǵ, đơi mơi khép chặt của nĩ vẫn giữ một sự im lặng muơn đời. Nếu pho tượng Sphinx cĩ giữ ǵn cho nhân loại một thơng điệp ẩn dấu nào mà nĩ đă chuyển đạt qua nhiều thế kỷ cho một số rất ít người hữu hạnh cĩ một năng khiếu linh cảm khác thường, th́ điều bí mật đĩ cĩ khi sẽ được nhắn nhủ thầm bên tai của người thí sinh tầm đạo.



Đêm tối dành cho h́nh thần tượng Sphinx một khung cảnh tuyệt hảo. Ở phía sau, bên mặt và bên trái pho tượng là "Thành phố của người chết," một khoảng đất rộng dẫy đầy những nấm mộ hoang cùng lăng tẩm.



Chung quanh vùng cao nguyên lởm chởm những núi đồi và đá tảng nhơ lên từ dưới đồng cát ở phía nam, phía tây và phía bắc pho tượng Sphinx, những lăng tẩm và mồ mả được xây cất chứa những cổ quan tài đựng hài cốt và những xác ướp của những vị vua chúa, các vị đại thần và chức sắc của triều đ́nh hay tơn giáo của xứ Ai Cập thời cổ.



Khơng cĩ một ngơi lăng tẩm nào mà khi bước vào mà người ta khơng thấy cỗ quan tài bật nắp ra và những đồ vàng ngọc châu báo tơ điểm xác ướp đă bị lấy đi mất. Sự cướp bĩc này đă xảy ra cùng lúc với sự khai quật những nấm mồ trong những cuộc đào xới để khảo cổ. Người ta chỉ lại tại chỗ những pho tượng nhỏ và những b́nh, vại chứa đựng ruột gan của những xác chết đă đem ướp bằng chất hương liệu. Ngay ở xứ Ai Cập thời cổ cũng đă cĩ những kẻ trộm đào mồ, khi dân chúng nổi loạn chống giai cấp thống trị càng ngày càng trở nên suy tàn, họ trả thù bằng cách khai quật mồ mả và cướp bĩc nơi nghĩa trang rộng lớn của nhà vua, tại đây những vị đại thần được cái vinh dự yên nghĩ giấc ngh́n thu bên cạnh xác ướp của các bậc vua chúa mà họ đă phụng sự từ thuở sinh tiền.



Một số ít những người chết mà xác ướp thốt khỏi bàn tay cướp bĩc của những kẻ trộm đầu tiên, đă nằm yên nghỉ trong một thời gian khá lâu cho đến khi người Hy Lạp, người La Mă và người Ả Rập lần lượt thay phiên nhau đến đánh thức họ. Những ngơi mộ, lăng tẩm nào thốt khỏi cướp bĩc và khai quật trong những cuộc biến cố sau này, được yên nghỉ thêm một thời gian khá lâu nữa cho đến đầu thế kỷ mười chín, khi các nhà khảo cổ hiện đại ra cơng thám hiểm dưới lịng đất của xứ Ai Cập để t́m kiếm những ǵ mà kẻ trộm thời xưa cịn sĩt lại chưa lấy đi. Như thế há phải chẳng tội nghiệp cho những bậc vua chúa, vương hầu bất hạnh của thời xưa, tuy xác ướp họ cịn nằm đĩ, mà bị người ta khai quật mồ mả và cướp bĩc kho tàng? Dầu cho những xác ướp của họ khơng bị dập tan ra từng mảnh do bàn tay bạo tàn của những kẻ trộm báu vật, th́ những xác ướp đĩ cũng đă bị giam cầm cho nằm yên nghỉ trong những cổ tàng viện để làm thỏa măn sự tị mị và làm mụch tiêu dị nghị b́nh phẩm của mọi người.



Đĩ là cái bối cảnh rùng rợn của thần tượng Sphinx khi nĩ vươn ḿnh và nhơ đầu dậy trong cơ đơn tịch mịch giữa đồng cát. Nĩ đă từng quan sát những hầm tối trong "Thành phố của xác chết," lần lượt bị sự cướp bĩc của người dân Ai Cập nổi loạn và quân xâm lăng Ả Rập. Vị quản thủ đồ cổ Ai Cập tại bảo tàng viện British Museum là ơng Wallis Budge khơng làm ai ngạc nhiên khi ơng đi đến kết luận rằng: "Thần tượng Sphinx là để đuổi tà ma ra khỏi những nghĩa địa và lăng tẩm ở vùng chung quanh." Cũng khơng ai ngạc nhiên mà thấy rằng ba ngàn bốn trăm năm trước, vua Thoutmès thứ tư của Ai Cập cĩ cho khắc vào một tảng đá lớn mà ơng đặt ngay trước ngực tượng Sphinx, hàng chữ: "Một sự bí mật linh thiêng đă từng bao phủ vùng này từ lúc sơ khởi, v́ gương mặt của pho tượng Sphinx là một biểu tượng của thần Khepera, vị thần của sự Bất Tử, chúa tể các vị thần linh và ngự trị vùng này. Dân chúng ở thành Memphis và ở khắp địa phương cùng đưa tay lên để cầu nguyện trước mặt Ngài".



Như vậy khơng ai cịn lạ ǵ mà thấy dân Ả Rập ở làng Gizeh gần bên cĩ nhiều truyền thống rất dồi dào về những chuyện vong linh và âm hồn thường lởn vởn ban đêm trong bầu khơng khí chung quanh h́nh thần tượng Sphinx, một nơi họ cho rằng cĩ nhiều ma nhất thế giới! Phải chăng bằng cách ướp xác những nhân vật quyền quư của thời xưa, người cổAi Cập đă kéo dài trong một thời gian vơ hạn định sự tiếp xúc giữa những vong linh thời cổ với nhân loại chúng ta ngày nay?



Quả thật ban đêm là lúc mà người ta cĩ thể ngắm nh́n thần tượng Sphinx một cách thú vị nhất. V́ dường như ban đêm là lúc mà cơi giới âm linh cĩ vẻ gần gủi với ta hơn, tâm hồn ta sẵn sàng mở rộng đối với những cảm giác bất ngờ, trong khi ở chung quanh ta, dưới màn đêm bao phủ, thậm chí những h́nh thể vật chất thơ kệch cũng thốt lấy một vẻ mờ ảo u huyền. Màn trời ban đêm đă trở thành màu chàm pha lẫn màu đỏ thắm, một thứ màu thần bí phù hạp với sự t́m tịi thám hiểm của tơi.



Đêm tối kéo dài một cách từ từ êm ả và câm lặng như một con heo, nếu người ta khơng để ư đến những tiếng rú rùn rợn giống như tiếng người của vài con beo đốm trong sa mạc, là những tiếng động duy nhất điểm giờ khắc trơi qua. Chúng tơi vẫn ngồi đĩ, thần tượng Sphinx và tơi, dưới ánh sao vằng vặc của nền trời Châu Phi, sự giao cảm giữa chúng tơi mỗi lúc càng thêm sâu đậm; từ sự quen biết nhau, chúng tơi tiến đến t́nh bạn, cĩ lẽ chúng tơi bắt đầu hiểu nhau ít nhiều.



Khi tơi đến với nĩ lần đầu cách đây vài năm, nĩ nh́n ra chỗ khác, yên lặng và khinh ngạo. Khi ấy tơi là ǵ đối với con vật khổng lồ này, nếu khơng phải là một kẻ phàm tục như bao nhiêu kẻ khác, là những sinh vật náo động đi bằng hai chân, làm bằng những chất liệu kiêu căng, tự măn, những dục vọng phù phiếm và những tư tưởng điên rồ? Về phần tơi, tơi đă tưởng nĩ là biễu tượng của một chân lư mà chưa ai t́m ra, một biểu tượng khổng lồ bí hiểm mà mọi lời cầu nguyện khơng được giải đáp và rốt cuộc chỉ rơi vào khoảng hư vơ. Tơi đă bước ra về, hồi nghi và thất vọnh hơn trước, chán nản cơi trần gian tục lụy và lịng tràn ngập những nỗi niềm cay đắng.



Nhưng đĩ khơng phải là vơ ích mà ngày tháng đă trơi qua. Cuộc đời: đĩ là sự giáo dục tâm linh và thầy học của chúng ta.



Vị thầy học vơ h́nh ấy đă dạy tơi một hai điều quan trọng. Tơi đă hiểu rằng bầu thế giới của chúng ta khơng phải xoay trong vịng khơng gian mà khơng cĩ mục đích.



Tơi đă trở lại với thần tượng Sphinx, với một tâm hồn già dặn và sáng suốt hơn. Ở lại ban đêm bên cạnh nĩ trên đồng cát xứ Ai Cập, tơi ngồi tịnh tọa, hai chân xếp bằng, và cố gắng thiền định để suy gẫm về ư nghĩa huyền bí của h́nh biểu tượng khổng lồ này.



Cả thế giới đều biết h́nh thần tượng Sphinx và nhận ra gương mặt hủy hoại và tàn phá của nĩ. Điều mà thế giới khơng hề biết, là bằng cách nào và tự bao giờ nĩ được tạc ra trong tản đá nhơ lên giữa đồng cát, và những bàn tay nào đă biến khối đá hùng vĩ ấy thành một pho tượng khổng lồ như thế.



Khoa khảo cổ vẫn im lặng, các nhà bác học nghiêng đầu suy nghĩ với một sự hoang mang thầm lặng, v́ họ phải gạt bỏ một loạt những giả thuyết mong manh mà từ trước đến nay họ đă từng nêu ra một cách quả quyết và tin tưởng. Họ khơng dám đưa ra một cái tên nhất định, cũng khơng dám mạo hiểm ra một ngày giờ chắc chắn. Họ khơng cịn nĩi rằng thần tượng Sphinx là cơng tŕnh của vua Khafra hay vua Khoufou, v́ họ nhận thấy các tài liệu cổ tạc trên đá đă chứng minh rằng pho tượng đă cĩ sẵn dưới triều đại của các vị vua này. Việc sưu tầm các di tích cổ do những cuộc đào xới phát hiện được, đă đưa ra ánh sáng một bản cổ tự đề cập đến h́nh thần tượng Sphinx như một cơng tŕnh điêu khắc mà nguồn gốc đă mất đi trong vực thẳm của thời gian, mà người ta đă t́nh cờ khám phá ra được sau khi nĩ đă bị chơn lấp dưới băi cát sa mạc và hồn tồn bị lăng quên, khơng cịn ai nhớ đến nữa. Bản cổ tự này xuất xứ từ triều đại thứ tư, gồm những v́ vua trị v́ xứ Ai Cập cách đây gần sáu ngh́n năm. Đối với những vị vua ở vào thời kỳ cổ xưa ấy, h́nh biểu tượng Sphinx đă là một điều bí hiểm rồi, mà khơng ai biết cĩ từ lúc nào!



Ban đêm đem lại giấc ngủ, nhưng từ giờ này qua giờ khác, tơi đă cố gắng đánh lui cơn buồn ngủ. Tuy nhiên, trong khi tơi vẫn tiếp tục cơn thiền định suy tư, đơi mí mắt của tơi đă nặng trĩu do sự phản ứng của cơ thể và tơi đă sắp thiếp đi. Bấy giờ th́ cĩ hai mănh lực tương phản đang ḱnh chống nhau để tranh thủ lấy tơi. Một là sự ước muốn mănh liệt thức luơn suốt đêm như để chia xẻ phiên gác của con sử tử đá Sphinx. Hai là khuynh hướng để cho tinh thần lẫn thể xác của tơi tự thả trơi theo cái thú vị triền miên giữa cảnh vật trầm lặng và huyền ảo của đêm trường tịch mịch. Sau cùng tơi đă hịa giải được cả hai khuynh hướng đĩ, theo sự thỏa hiệp này, tơi ngồi lim dim, đơi mắt hé mơ chỉ cịn là hai cái khe nhỏ xuyên qua đĩ tơi hầu như khơng cịn nh́n thấy ǵ nữa, và thần trí mơ màng nữa tỉnh nữa mê, tơi để cho giịng tư tưởng của tơi đắm ch́m trong một giấc mơ huyền diệu.



Tơi ngồi một lúc như thế, tự trả trơi theo một sự yên tĩnh triền miên nĩ xảy ra khi tư tưởng chấm dứt. Tơi mơ như thế được bao lâu, tơi cũng khơng hay biết nhưng sau một lúc tơi khơng cịn nh́n thấy màu sắc ǵ nữa, mà thay vào đĩ, một cảnh tượng sống động xảy ra trước mắt tơi như một cuốn phim. Trong cảnh tượng đĩ, ánh trăng khuya chiếu vào một tia sáng nhạt mờ huyền ảo ...



Chung quanh tơi muơn ngh́n gương mặt nắng rám, da sậm đang lăng xăng hoạt động, kẻ tới người lui, kẻ th́ đội trên đầu những rổ đá sạn, người th́ trèo lên hay bước xuống những giàn tre mỏng manh dựng lên sát cạnh một khối đá khổng lồ. Trong số đĩ cĩ những người cai truyền khẩu lệnh cho những thợ thuyền, hoặc kiểm sốt cơng việc của những người thợ đá đang sử dụng búa ŕu trên ngọn đồi mà họ tạc theo một kiểu mẫu đă vạch sẵn. Những tiếng búa đục của họ giáng xuống liên tiếp vang dội trong bầu khơng khí chung quanh. Tất cả những người lao cơng thợ thuyền này điều cĩ một gương mặt dày dạn phong trần, màu da mầu sậm đỏ, hoặc vàng mà hơi sám. Họ cĩ một cái mơi trên dày, và thân h́nh lực lưỡng.



Cơng việc của họ vừa xong, thay v́ một tảng đá dốc đứng kiên cố hùng vĩ trên mặt đất trước kia, nay đă nhơ lên một gương mặt người khổng lồ với thân h́nh một con sư tử đại quy mơ xem ra là một con quái vật dị kỳ đang vươn ḿnh trong một thung lũng lớn giữa đồng cát. Trên đỉnh đầu con quái vật, mà cái bờm vĩ đại dợn sĩng phủ phía sau hai mép tai, cĩ đặt một cái dĩa trịn bằng vàng khối.



Thần tượng Sphinx!



Những phu thợ đă biến mất. Cảnh vật trở lại lặng im như một nấm mồ vơ chủ. Khi đĩ ta nh́n thấy một biển lớn đang đập sĩng trong khoảng khơng gian bên trái tơi, mà bờ biển chỉ cách đĩ độ một cây số. Trong cái im lặng đĩ cĩ một cái ǵ rùng rợn, tơi cũng chưa kịp hiểu đĩ là ǵ cho đến khi từ trong lịng biển đại dương dậy lên mộ tiếng gầm kinh khủng và kéo dài, mặt đất chuyển động và rung rinh dưới chân tơi. Với một tiếng gầm long trời lở đất, nước biển trào lên, một ngọn sĩng lớn và cao như vách trường thành từ xa th́nh ĺnh phĩng tới chúng tơi, và nuốt chửng cả con quái vật Sphinx và tơi.



Cơn đại hồng thủy!



Lại một cơn im lặng, nĩ kéo dài được bao lâu, trong khoảng một phút hay là mười hai năm trường, điều đĩ tơi khơng định chắc ra được! Rồi bỗng nhiên tơi lại thấy tơi ngồi dưới chân pho tượng đá. Tơi nh́n chung quanh, khơng cịn thấy biển đâu nữa mà chỉ thấy một khoảng rộng lớn đầy những ao đầm đă gần cạn, và răi rác đĩ đây những băi muối rất lớn đang khơ dưới ánh mặt trời. Và ngơi mặt trời ngự trị khắp nơi một cách ngạo nghễ, những băi cát mỗi lúc càng rộng lớn và càng nhiều. Vầng thái dương vẫn thản nhiên phĩng những tia nắng đỏ hút cho đến khơ ráo những di tích ẩm ước cuối cùng, và biến khoảng khơng thành một xứ đầy cát mịn và khơ, phản chiếu một màu vàng nhạt.



Băi sa mạc!



Thần tượng Sphinx vẫn ngắm nh́n cảnh vật, đơi mơi dầy, rắn chắc và nguyên vẹn của nĩ h́nh như sắp nở một nụ cười, dường như nĩ cũng măn nguyện với sự cơ đơn độc chiếc. Thật là một sự hịa hợp tuyệt diệu giữa những con quái vật cơ đơn với cảnh vật đ́u hiu lặng lẽ của vùng chung quanh. Dường như cái tinh thần đơn độc đă t́m thấy sự thể hiện xứng đáng của nĩ nơi con quái vật khổng lồ và thản nhiên này.



Thần tượng Sphinx vẫn nằm giữa đồng cát như thế cho đến khi một đồn tàu từ xa tiến đến và ngừng lại trên bờ sơng, thả lên bờ một nhĩm người. Nhĩm người này từ từ tiến đến gần, cúi rạp xuống lạy h́nh thần tượng và thốt ra những lời cầu nguyện đầy vẻ vui tươi an lạc.



Kể từ ngày ấy, cái im lặng thần tiên đă gián đoạn. Người ta bắt đầu dựng lên những nhà cửa ở vùng thung lũng gần bên, các bậc vua chúa cùng với triều đ́nh và tăng lữ lục tục kéo đến để chầu thần tượng Sphinx, chúa tể của sa mạc và vua khơng cĩ triều đ́nh!



Tới đây, cái linh ảnh hiện ra trong trí tơi đă chấm dứt, nĩ vụt tắt như ngọn lửa rụi tàn của một cái đèn đă hết dầu.
2. Thần Canh Giữ Sa Mạc



Các bầu tinh tú vẫn đua nhau chớp trên nền trời xanh thẫm con trăng thượng tuần vẫn tiếp tục chĩi rạng trên đỉnh đầu chúng tơi, thần tượng Sphinx cĩ vẻ biến đổi màu sắc vẫn vươn ḿnh một cách hùng dũng dưới ánh trăng bạc. Khi tơi quay đầu qua bên trái là nơi mà trong linh ảnh vừa rồi hiện ra trong trí tơi, tơi đă nh́n thấy biển cả gầm thét như sấm động và nuốt trơi cả vùng đất liền.



Một con dơi, cĩ lẽ lầm tưởng tơi là phiến đá vơ tri bất động như cái bối cảnh chung quanh, vỗ đơi cánh đụng vào đầu tơi rồi bay mất, làm cho tơi cĩ cái cảm giác ghê tởm và rờn rợn người nơi sương xuống. Tơi nghĩ rằng cĩ lẽ nĩ vừa mới chui ra từ trong một cái nấm mồ chơn xác ướp mà người ta vừa khai quật ở vùng gần bên.



Tơi ngắm nh́n cái đồng cát mênh mơng chiếm trọn một diện tích ba triệu dặm vuơng của vùng sa mạc Sahara, diễn ra đến tận chân trời cho đến chỗ nĩ giáp ranh với một dăy núi đồi dài dựng đứng như thành quách, che chở xứ Ai Cập và vùng châu thổ sơng Nil. Thiên nhiên dường như cố ư dựng lên những dăy đồi của xứ Libye để bảo tồn cho xứ Ai Cập khỏi bị chơn vùi dưới đống cát của băi sa mạc này.



Mối nguy cơ đĩ là một sự thật hiển nhiên. Mỗi năm vào đầu mùa xuân, một trận cuồng phong với một sức mạnh và tốc độ kinh khủng, khai chiến với vùng bắc phi và thổi mạnh qua như vũ băo từ bờ biển Đại Tây Dương, xuyên qua trọn cả vùng lục địa Châu Phi. Chẳng khác nào một đạo binh xâm lượt khát máu và tàn bạo, trận giĩ lớn đi đến đâu, càng quất cát bụi đi đến đấy. Những cơn giĩ trốt cát bụi đi theo thành những cơn băo cát gieo sự tàn phá khắp nơi, chơn lắp nhà cửa, dinh thự, đền đài và thậm chí chơn luơn trọn cả những thành phố. Đĩ là cái mănh lực của những hột cát vàng, nĩ ngự trị vùng này như một lănh chúa quyền uy vơ địch. Sức mạnh của những cơn băo cát cĩ thể làm cho nền trời hồn tồn sẫm tối và che khuất cả mặt trời. Những cơn giĩ trốt cuốn cát dậy lên dày đặc như sa mù ở Luân Đơn, thổi hết tốc lực, rồi nế khơng cĩ ǵ ngăn chặn, nĩ sẽ quét sạch và chinh phục mọi chướng ngại gặp ở dọc đường. Tơi nh́n pho tượng đá Sphinx, những nét trên mặt của nĩ chỉ hiện ra một cách lu mờ dưới ánh sao khuya, nhưng cái miệng của nĩ, bề rộng cĩ đến hai thước, đượm một vẻ bi thư hầu như đến rùng rợn, khác hẳn với cái nụ cười hồn nhiên của nhân vật hiện ra trong linh ảnh của tơi khi năy, là h́nh biểu tượng Sphinx của thời buổi sơ khai, của thời đại Atlantide. Những cơn giĩ băo của ca mạc thổi với tốc độ cuồng loạn đă sát phạt gương mặt của nĩ, cùng với sự hủy hoại do bàn tay phủ phàng thơ bạo của những kẻ phàm phu khơng hề biết kính trọng quỷ thần!



Tự nhiên là những cơn bảo cát đă tấn cơng h́nh biểu tượng này, khi th́ âm thầm che lấp bao phủ, khi th́ ào ào sát phạt với cơn thịnh nộ của vũ bảo. Nĩ đă từng bị chơn lấp hay chăng: Đă hẳn rồi khơng cịn nghi ngờ ǵ nữa. Tơi nhớ đến giấc mộng huyền bí mà vua Thoutmès IV đă kể lại bằng chữ ám tự (hiéroglyphes) khắc trên phiến đá đỏ dựng lên giữa hai chân con sư tử đá. Tơi cũng nhớ lại lời than thở của nĩ trong giấc mộng vừa kể, khi nĩ bị cát chơn lấp đến cổ:



- Cát sa mạc đă lấp ta (vị thần che chở của nĩ nĩi), ta càng ngày càng bị chơn sâu hơn. Hăy mau ra tay dẹp cát đi, rồi ta sẽ coi ngươi như con ta và như ngươi trợ giúp ta.

Khi tỉnh giấc, vua Thoutmès nghĩ thầm rằng: "Dân chúng trong thành chỉ biết tơn sùng vị thần này, mà khơng cĩ một người nào từng nghĩ đến việc giải tỏa pho tượng của ngài khỏi bị cát lấp."

Những h́nh vẽ ở phía trên phiến đá vẽ nhà vua dâng hương cho thần tượng Sphinx, kế đĩ là bài tường thuật giấc mộng lạ lùng của nhà vua, khắc bằng chữ ám tự:

"Hồng thân Thoutmès cùng vài người bạn đi săn trong vùng Gizeh, ở ven sa mạc. Trên đường về hướng nam, hồng thân đă tập bắn cung vào những tấm bia bằng đồng, săn sư tử và các loại thú dữ của sa mạc, và tập dong xe với những con tuấn mă chạy nhanh hơn giĩ.

"Vào lúc giữa trưa, hồng thân dừng cuộc du hí v́ đă quá mỏi mệt. Sau khi dùng cơm trưa xong, người muốn nghỉ ngơi đơi chút, bèn cho kẻ tùy tùng lui bước. Trước khi nằm nghỉ, hồng thân đọc kinh cầu nguyện các thần linh.

"Trong giấc ngủ mê, thần Thái Dương Râ nĩi với hồng thân như một người cha nĩi với con:

- Ta nh́n thấy con đây, Thoutmès, con hỡi! Ta là Herou Khout, cha của con, ta muốn cho con giang sơn này. Con sẽ kế nghiệp trên ngai vàng, giang sơn bờ cơi này sẽ thuộc về con tất cả, con sẽ sở hữu những tài nguyên phong phú của xứ Ai Cập và những lân quốc sẽ đem đồ bảo vật đến cống hiến cho con!

"Giấc mộng kết thúc bằng lời kêu gọi khẩn thiết hăy giải tỏa thần tượng Sphinx ra khỏi đống cát phủ phàng nếu hồng thân muốn kế nghiệp giang sơn Ai Cập như đă hứa.

"Hồng thân Thoutmès bèn triệt để tuân theo những lời kêu gọi trong giấc mộng, và dùng một số nhân cơng rất lớn để giải tỏa những đống cát bao phủ thần tượng Sphinx ngập lên đến ngực."

Herou Khout, vị thần linh che chở h́nh biểu tượng Sphinx đă giữ đúng lời hứa. Hồng thân được truyền ngơi lên làm vua Ai Cập, qua mặt cả những người anh lớn trong hồng gia. Trở nên vua Thoutmès IV, người đem quân đi chinh phạt các lân quốc, luơn luơn thắng trận và mở rộng bờ cơi, đế quốc của người gồm thâu luơn cả xứ Mésopotamie ở phía đơng, xứ Nubie ở phía nam, xứ Lybie ở phía tây, trong khi những đồ bảo vật cống hiến đem đến từ xứ Ethiopie, đúng như giấc mộng đă tiên đốn. Dưới triều đại của nhà vua, tài nguyên sung túc, quốc gia phồn thịnh, nền văn minh Ai Cập đạt đến một tŕnh độ cao tột chưa bao giờ cĩ, thật đúng như lời báo trước trong giấc mộng. Những sự việc kể trên khơng phải là chuyện huyền thoại hoang đường, mà là những sự kiện cĩ thật trong lịch sử. V́ người cổ Ai Cập, hơn cả những dân tộc khác của thời đại cổ xưa, đă chép sử một cách chu đáo, xác thực và tinh vi đến nỗi những sự việc xảy ra trong lịch sử của họ được khắc sâu trên tảng đá, để cĩ thể tồn lâu bền hơn gấy mực và sách vở.

Những đốm sao đă lần lượt biến mất trên nền trời xanh đậm. Tơi hiểu rằng đêm thức sáng trắng của tơi đă gần chấm dứt. Tiết trời ban đêm khá lạnh, nhưng tơi cảm thấy cổ họng của tơi lại khơ và nĩng. Một lần nữa, tơi đưa mắt nh́n thần tượng bằng đá uy nghiêm, tượng trưng một cách thần diệu đấng thần minh câm lặng và tối cao cĩ phận sự chăm nom ǵn giữ bầu thế giới của chúng ta. Phải chăng tơi đă lật một trang bí sử của thời tiền sử Ai Cập? Cĩ ai dám thầm ước đốn tuổi của thần tượng Sphinx? Nếu người ta chấp nhận rằng nguồn gốc của nĩ truy nguyên ở châu Atlantide, làm sao cĩ thể định cho nĩ một năm tháng ngày nhất định?

Tuy vậy tơi khơng cĩ lư do để loại bỏ cái nguồn gốc đĩ, nĩ đă được phát họa một cách sơ lược trong linh ảnh của tơi dưới ánh sao khuya. Châu Atlantide khơng cịn là một chuyện hư ảo của những triết gia Hy Lạp, những tăng lữ Ai Cập và những bộ lạc thổ dân Châu Mỹ. Khơng thiếu ǵ những nhà bác học, mỗi người tiêu biểu cho ngành học thuật chuyên mơn của ḿnh, đă thâu lượm trên hàng trăm bằng chứng cụ thể để chứng minh rằng châu ấy cĩ thật. Tơi cũng hiểu rằng khi thần tượng Sphinx được tạc trong khối đá, th́ vùng châu thổ ở chung quanh khơng thể đă bị cát bao phủ, v́ với sự chướng ngại của đồng cát, một cơng tŕnh vĩ đại như thế khơng thể nào thực hiện được. Như vậy điều hợp lư nhất là người ta phải nh́n nhận rằng cơng tŕnh điêu khắc này đă cĩ trước khi đồng bằng châu thổ bị cát chơn lấp, trong khi vùng sa mạc Sahara đang cịn là một biển lớn, và ở phía ngồi biển Sahara là vùng lục địa đă cĩ một định mệnh bi thảm, tức châu Atlantide.

Dân Ai Cập thời tiền sử, những người đă tạc thần tượng Sphinx và thành lập ra nền văn minh cổ nhất thế giới, đă từ châu Atlantide đến lập quốc tại vùng châu thổ sơng Nil trong một cuộc di cư khổng lồ. Cuộc di cư đĩ được thực hiện trước khi châu Atlantide sụp đổ và ch́m xuống đáy biển Đại Tây Dương, một cơn tai biến mà hậu quả là làm cho biển Sahara khơ cạn và trở thành một vùng sa mạc mênh mơng. Những vỏ sị, vỏ hến rải rác ở nhiều nơi và những bộ xương cá khổng lồ mà người ta t́m thấy chơn dưới cát, chứng tỏ rằng đống cát này ngày xưa chính là ở dưới đáy biển trồi lên.

Thật là cảm động thay khi biết rằng thần tượng Sphinx là một sợi dây liên lạc bền vững, cụ thể, bất biến giữa những thế hệ của nhân loại chúng ta ngày nay với những thế hệ cổ xưa của một thế giới đă tàn, thế giới của người Atlante đă biệt tích! Đối với thế giới hiện đại, h́nh biểu tượng này đă mất đi cái ư nghĩa của nĩ, nĩ chỉ cịn là một kỳ quan của địa phương, thế thơi. Nhưng nĩ cĩ ư nghĩa ǵ đối với người Atlante?

Để cĩ một ư niệm đại cương, người ta phải sưu tầm những di tích văn minh mà những dân tộc thuộc nguồn gốc châu Atlantide đă bỏ sĩt lại. Người ta phải truy nguyên, qua những nghi lễ đă suy tàn của những thổ dân Incas hay Mayas, đến sự thờ phụng thuần khiết hơn thuộc về tổ tiên của các dân tộc này. Nhưng sự sưu tầm đĩ giúp ta khám phá ra cái mục tiêu tối thượng của sự thờ phượng của họ, đĩ tức là ánh sáng, biểu hiện bởi ngơi Mặt Trời. Bởi lẽ đĩ, họ dựng lên khắp nơi bên Mỹ Châu thời cổ những ngơi đền h́nh kim tự tháp để thờ Mặt Trời. Những ngơi đền đĩ đều là những kiến trúc đồng một kiểu, hoặc cĩ sửa đổi h́nh dáng chút ít, với những ngơi đền tương tự đă từng cĩ ở châu Atlantide.

Khi Platon đến Ai Cập để học đạo tại thành Heliopolis trong 13 năm, những vị tăng lữ Ai Cập, thường vẫn rất dè dặt đối với ngoại nhân, ban cho người thí sinh Hy Lạp trẻ tuổi và hăng say này cái hân hạnh là truyền thụ cho y những giáo điều rút trong kho tài liệu bí mật mà họ giữ ǵn rất kỹ lưỡng. Trong số những điều tiết lộ, họ nĩi cho y biết rằng một Kim Tự Tháp lớn, nĩc bằng, từ xưa đă được xây dựng tại trung tâm đảo Atlantide và trên nĩc bằng đĩ, người ta đă dựng lên ngơi đền chánh của vùng lục địa để thờ phượng thần Thái Dương.

Những người Atlande di cư sang Ai Cập đem theo nền tơn giáo của họ và xây dựng tại đây những ngơi đền cùng một kiểu như ở Atlantide. Cái di sản đĩ của người Atlante cĩ thể biểu lộ những đặc tính của nĩ ngày nay ở những cột trụ khổng lồ nơi các cổng đền của nĩ ngày nay ở những cột trụ khổng lồ nơi các cổng đền và những lăng tẩm h́nh dim tự tháp ở Ai Cập. Ngồi ra thần Mặt Trời luơn luơn chiếm một đẳng cấp vào hàng đầu trong các vị thần của Ai Cập.

Người Atlande cũng đem vào Ai Cập cái kỹ thuật điêu khắc đại quy mơ cùng cái thẩm mỹ tạc tượng khổng lồ bằng đá. Những đền cổ đă tiêu tàn ở Mễ Tây Cơ, Pérou và Yucatan, do giịng giống người Atlante dựng lên và xây bằng những khối đá to lớn với những chỗ ráp nối rất tinh vi khéo léo, cĩ một kiểu kiến trúc giống như của Ai Cập, cũng như những tượng thần khổng lồ bên trong các thánh điện ở các xứ ấy và ở Ai Cập đều cĩ những nét tương tự như nhau.

Như thế, một điểm ánh sáng nhỏ đă lĩe lên trong cuộc sưu tầm của chúng tơi về ư nghĩa của thần tượng Sphinx. Người Atlante ở xứ cổ Ai Cập cĩ lẽ muốn dựng nĩ lên như một pho tượng vĩ đại nhất, h́nh ảnh của một ư niệm thiêng liêng nhất ghi trong kư ức của họ, mà họ muốn hiến dâng cho vị thần của Ánh Sáng tức thần Mặt Trời. Cĩ lẽ họ cũng đă dựng lên ở một nơi nào đĩ ngơi đền của vị thần ấy, ngơi đền này đối với họ cũng phải là ngơi đền vĩ đại nhất và cao trọng hơn tất cả mọi ngơi đền khác.

Thần tượng Sphinx bằng đá là cái biểu tượng tơn quư của một giống người tơn thờ ánh sáng như một cái ǵ gần nhất với Thiêng Liêng. Ánh sáng là một vật tinh vi, tế nhị nhất trong những sự vật mà con người cĩ thể cảm xúc được bằng một trong năm giác quan. Đĩ là vật thanh nhẹ nhất mà khoa học cĩ thể thực nghiệm; những luồng quang tuyến khác nhau đều là những loại ánh sáng rung động với một tốc độ ngồi phạm vi tiếp nhận được bởi con người chúng ta. Trong quyển Tạo Thiên Lập Địa cũng nĩi ánh sáng là vật được sáng tạo trước tiên; khơng cĩ nĩ th́ khơng cĩ sinh vật nào sống được. "Tinh thần của Thượng Đế lướt trên mặt của vực thẳm", Moise đă viết trong quyển sách kể trên "Và Thượng Đế nĩi: Ánh sáng hăy hiện ra! Và ánh sáng mới cĩ". Phải chăng đĩ cũng là một biểu tượng hồn hảo của cái ánh sáng thiêng liêng nĩ xuất hiện ra từ chỗ thâm sâu nhất của linh hồn khi con người hiến dâng trọn vẹn cả tâm hồn lẫn trí ḿnh cho Thượng Đế? Từ ngơi mặt trời, mới phát sinh ra ánh sáng, rồi ánh sáng mới tỏa ra khắp thế gian. Khơng cĩ mặt trời, muơn lồi vạn vật sẽ bị vĩnh viễn đắm ch́m trong đêm tối rùng rợn, khơng cịn cây cối thảo mộc, khơng cịn gặt hái mùa màng, lồi người sẽ khơng cịn tồn tại và sẽ biến mất khỏi mặt đất.

Nếu sự tơn thờ ánh sáng và mặt trời là cái nguyên lư chính yếu của nền tơn giáo châu Atlantide, nĩ cũng chiếm một địa vị tương đương trong nền tơn giáo cổ Ai Cập. Râ thần Thái Dương, là vị chủ tể, là cha và đấng sáng tạo của tất cả các vị thần linh khác, là đấng Sáng Tạo ra tạo vật, vơ sinh bất diệt.

Nếu thần tượng Sphinx thuộc về tơn giáo của ánh sáng, th́ chắc là nĩ cũng cĩ liên hệ đến Mặt Trời.

V́ sau khi tơi dạy phía mặt trời mọc, tơi mới nhớ lại cái dĩa bằng vàng trong linh ảnh hiện ra trong trí tơi hồi đêm, và sự liên hệ đĩ xuất hiện ra với tơi mau như chớp nhống. Để thử lại cho chắc chắn. Tơi mới xem kỹ lại một vật mà tơi đeo ở cườm tay phải, cái địa bàn dạ quang, nĩ là một hướng dẫn viên chắc chắn và bạn tốt của tơi. Và tơi nhận thấy rằng thần tượng Sphinx day mặt về hướng mà vầng Thái Dương bắt đầu xuất hiện mỗi ngày trên chân trời! Việc định hướng đơng là để tượng trưng cho sự sống tái diễn khơng ngừng; cũng y như thế, những lăng tẩm của các nhà vua Ai Cập được xây cất trên bờ phía Tây sơng Nil để tượng trưng cho sự sống đă qua, giống như mặt trời lặn. Cũng như mặt trời lên cao tận giữa lừng trời, th́ con người, sau khi được phục sinh, thăng lên cơi tinh thần. Cũng như vầng Thái Dương đi xuyên qua vịm trời rồi tiếp tục lộ tŕnh, khuất mắt đối với chúng ta ở phía dưới chân trời, th́ con người cũng phải đi nhiều vịng luân chuyển từ thế giới này qua cơi giới khác.

Con quái vật khổng lồ nơi đĩ biểu hiện sức mạnh của con sư tử, trí thơng minh của con người và sự bằng an trầm lặng của đấng thần minh, muốn dạy ta một điều chân lư bất hủ về sự cần làm chủ lấy ḿnh, v́ con người cĩ mục đích chủ trị những thú tánh và thắng con vật nằm trong lịng y. Cĩ ai ngắm nh́n cái thân ḿnh to lớn bằng đá với những mĩng chân và mĩng vuốt sư tử, với cái đầu và gương mặt của một người cốt cách phong nhă như thần tượng Sphinx mà khơng thu thập lấy cái bài học sơ đẳng ấy? Ai cĩ thể khám phá cái ư nghĩa của biểu tượng con rắn cobra phùng mang, tượng trưng cái uy quyền của vua Ai Cập mà các vị vua chúa thường gắn trên măo, mà khơng hiểu rằng h́nh biểu tượng Sphinx khơng phải khuyến khích ta thống trị kẻ khác mà hăy chủ trị lấy ḿnh? Nĩ là nhà truyền giáo câm lặng, một nhà giáo sĩ bằng đá, thuyết pháp bằng sự im lặng cho những ai cĩ tai biết nghe.

Phải chăng thần tượng Sphinx tượng trưng cho một vật cĩ tính chất thiêng liêng? Đúng thế, nếu người ta tin theo những chữ ám tự khắc trên vách các ngơi đền ở miền thượng du Ai Cập, chẳng hạn như ở Edfou, nơi đĩ người ta thấy một vị thần biến h́nh thành một con sư tử đầu người để chiến thắng Set, quỷ Satan Ai Cập. Một sự kiện lạ lùng làm cho người ta nghĩ rằng thần tượng Sphinx cĩ chứa đựng một bí mật kiến trúc nào đĩ và che dấu vài điều bí mật khắc trong đá. Rải rác khắp nơi ở Ai Cập, những thần tượng Sphinx kiểu nhỏ được dựng lên trước những ngơi đền miếu như là những vị thần canh gác và bảo vệ ngồi cổng thánh đường; trong vài trường hợp, ngồi cổng đền cũng cĩ dựng lên những tượng sư tử bằng đá. Thậm chí những ch́a khĩa mở cửa đền cũng đúc giống h́nh sư tử. Thần tượng Sphinx ở Gizeh h́nh như là pho tượng duy nhất mà người ta khơng thấy đứng trước một ngơi đền nào.

Vậy ngơi đền thật sự của h́nh biểu tượng Sphinx là ở đâu? Tơi ngửng đầu lên và nh́n về phía sau pho tượng đá. Từ chỗ tơi ngồi, tơi nh́n thấy hăy cịn vương lên một cách lu mờ dưới ánh sáng đầu tiên của buổi rạng đơng, đưa thẳng lên trời cái mũi nhọn hơi tà đầu ngơi kiến trúc vĩ đại nhất của thế giới, cái kho tàng bí mật bằng đá chưa hề được giải đáp, cái phép lạ tuyệt vời của vũ trụ đối với cổ nhân và đối với cả chúng ta, cái bài tốn đố bí hiểm của tất cả mọi thời đại, người bạn xứng đáng của thần tượng Sphinx khổng lồ: Ngọn Kim Tự Tháp!

Cả hai kỳ quan, được dựng lên từ hồi thời đại Atlantide, đều vươn lên ḿnh như những bằng chứng của vùng lục địa đă sụp đổ, và như cái di sản câm lặng của một giống người đă biệt tích một cách cũng bí mật như vùng lục địa quê hương của họ.

Cả hai thứ kỳ quan đều nhắc nhở cho hậu thế, những kẻ kế nghiệp giống người Atlante, biết những thành tích huy hồng của nền văn minh đă mất.

3. Ngọn Kim Tự Tháp

Những vị vua Ai Cập Pharaon nay đă hĩa ra người thiên cổ, nhưng ngày nay họ cịn để lại cho chúng ta những Kim Tự Tháp kiến trúc hùng vĩ, kiên cố dựng trên một vùng cao nguyên nhơ giữa đồng cát. Nếu nước cổ Ai Cập vẫn cịn hấp dẫn sự chú ư và thích thú của thế giới hiện đại, th́ trước hết là nhờ bởi những ngọn tháp này làm bằng chứng của thời đại cổ xưa ấy. Khơng cĩ một đế quốc Đơng Phương nào đă biệt tích mà để lại cho hậu thế những kỳ quan vĩ đại và lạ lùng như thế.

Triết gia Pline khẳng định rằng uy danh của các Kim Tự Tháp Ai Cập sẽ vang dội đến chỗ tận cùng của thế giới. Kể từ ấy đă cĩ hai ngh́n năm qua, những thời gian khơng hề xĩa mờ cái uy tín đĩ. Gần đây tơi cĩ viết thư vài người bạn sống một cuộc đời rất ẩn dật tại một vùng hẻo lánh ở dưới tận cùng miền nam Ấn Độ. Những người này cĩ lẽ khơng bao giờ đi xa hơn dăy đồi ở vùng chung quanh làng họ ở, họ khơng hề chọc phá thế gian và thế gian cũng khơng hề làm phiền họ. Tơi cho họ biết về những cơng việc sưu tầm mà tơi đang theo đuổi ở ngọn Kim Tự Tháp lớn. Tơi khơng cần giải thích đĩ là cái ǵ và nĩ ở tại đâu, v́ tơi biết chắc họ cũng biết rơ. Bức thư trả lời của họ đă xác nhận sự tin tưởng của tơi. Thật vậy những người Ấn Độ chất phát này đă biết rơ đĩ là cái ǵ. Uy danh của những Kim Tự Tháp đă vang dội xa hơn là hồi thời đại của triết gia Pline.

Những ngơi kiến trúc cổ bất chấp sự tàn phá của thời gian này đă hấp dẫn sự chú ư của các nhà bác học cũng như sự tị mị của người đời. Tại sao? Bởi v́ chúng xuất hiện từ vực thẩm của một dĩ văng xa xăm, và cũng bởi v́ kích thước quy mơ của những ngọn tháp này đă làm ngạc nhiên cả một thế hệ lồi người đă từng quen thuộc với lối kiến trúc khổng lồ. Lần đầu tiên mà chúng ta nh́n Kim Tự Tháp, chúng ta cĩ cảm giác như trở về một thời đại cổ xưa lạ lùng, mà nét cổ kính thâm nghiêm biểu lộ rơ ràng ở lối kiến trúc dị kỳ ấy. Chúng ta lấy làm ngạc nhiên mà thấy bằng cách nào những dân tộc cổ xưa đă xây dựng trên một băi sa mạc khơ khan những ngọn núi nhân tạo như thế, khơng thua kém cả những cơng tŕnh tạo tác thiên nhiên. Khi những viên tướng sối Hy Lạp tiến vào Ai Cập và nh́n thấy những ngơi kiến trúc phi thường này chỉ mũi nhọn thẳng lên nền trời xanh của vùng sa mạc, họ nín thở v́ ngạc nhiên và đứng nh́n trân trối trong im lặng. Khi những nhà hiền triết của thời đại Alexandre soạn một quyển sách nĩi về những đại kỳ quan của thế giới, họ để Kim Tự Tháp đứng lên hàng đầu. Ngày nay, trong số bảy kỳ quan, chỉ cịn cái kỳ quan đầu tiên là cịn đứng vững.

Nhưng cái tính cách cổ xưa và kích thước vĩ đại đĩ dẫu rằng cĩ gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đời, cũng chưa phải lư do duy nhất đă làm cho ngọn Kim Tự Tháp cĩ cái uy danh lừng lẫy như vậy. Cĩ nhiều sự kiện được người đời biết rơ hoặc khơng hề biết về Kim Tự Tháp lớn, cĩ thể gây cho chúng ta một sự kinh ngạc lớn lao khơng kém sự kinh ngạc mà nĩ đă gây ra cho người cổ Hy Lạp.

Vậy cổ nhân xây Kim Tự Tháp với mụch đích ǵ? Thần tượng Sphinx tượng trưng cho cái ǵ? Đĩ là hai điều bí mật lạ lùng nhất, hào hứng sơi nổi nhất mà xứ Ai Cập dành cho du khách ngoại quốc cũng như cho dân tộc của họ. Đĩ cũng là những bí mật khĩ giải đáp nhất.

Phải chăng Kim Tự Tháp Ai Cập được dựng lên chỉ để làm ngơi mộ tàng trữ cái xác ướp của vua Pharaon? Ta cĩ nên dựa theo những quyển du lịcxh chỉ nam và nhe theo lời của những người chỉ dẫn viên Ả Rập mà tin như vậy chăng? Cĩ lẽ nào người ta lại dựng lên một ngơi kiến trúc vĩ đại với những khối đá tảng hằng mấy người ơm, cắt ra từ vùng núi đá vơi Tourah và cưa ra từ trong động đá đỏ Syène ở xa hơn nữa, chỉ để che lấp một cái thi hài bọc lụa trắng? Cĩ lẽ nào người ta đă phí mất biết bao nhiêu cơng lao khĩ nhọc, làm việc ráo riết dưới cái nĩng thiêu người của mặt trời Châu Phi, vận chuyển trên ba mươi triệu thước khối đá tảng, chỉ để phục vụ ư muốn sau cùng của một ơng vua? Cĩ lẽ nào người ta chịu khĩ cẩn thận ráp nối hai triệu ba trăm nghàn tảng đá khối, mỗi tảng nặng khoảng hai tấn rưỡi, để làm một cái mộ chỉ cần cĩ vài tảng đá cũng xong?

Những sử gia thận trọng cho biết rằng người ta khơng hề t́m thấy trong Kim Tự Tháp một quan tài, một xác chết, hay một cỗ xe tang nào, dẫu rằng cĩ vài truyền thống cho rằng một trong những v́ vua Ai Cập cĩ cho dựng trước cửa cung một cái hịm dựng xác ướp bằng gỗ trạm trổ rất khéo, mà người ta đă lấy từ Kim Tự Tháp đem về. Trên những vách tường Kim Tự Tháp khơng thấy cĩ khắc những chữ ám tự hay trạm h́nh nổi hoặc tranh vẽ những sự việc xảy ra trong thuở sanh tiền của các nhà vua đă băng, nĩi tĩm lại khơng hề cĩ những ǵ mà người ta thường thấy bên trong tất cả những ngơi mộ và lăng tẩm khác của Ai Cập. Các vách tường bên trong Kim Tự Tháp đều trống trơn, khơng tŕnh bày những mỹ phẩm như tranh vẽ, h́nh nổi, hay ám tự để trang hồng cho đẹp mắt các vị vua Pharaon tường hay bày biện trong các lăng tẩm của họ, cũng khơng cĩ dấu vết nào của sự trang trí mà người ta thường thấy ở những ngơi mộ quan trọng nhất ở xứ Ai Cập.

Điều mà cĩ lẽ người ta cho là bằng chứng hiển nhiên nhất của giả thuyết đĩ là lăng tẩm của một vị vua Ai Cập, là cái hịm trống trơn bằng đá đỏ, khơng đậy nắm, đặt dưới đất trong phịng lớn mà về sau người ta gọi là Vương Cung. Phải chăng cái hịm đá đă quá rơ rệt là cái quan tài của vua? Đối với nhà Ai Cập Học, điều đĩ đă hiển nhiên và vấn đề đă được giải quyết.

Nhưng tại sao hai bên chiếc hịm bằng đá này khơng cĩ khắc những chữ ám tự hoặc tranh vẽ theo thủ tục thơng thường của nền tơn giáo cổ Ai Cập? Tại sao khơng thấy cĩ một chữ nào hay một câu văn tự nào? Mọi cỗ quan tài khác đều luơn luơn cĩ khắc chữ hoặc h́nh ảnh để lưu lại những kỷ niệm, kư ức về những trường hợp xảy ra chung quanh cái chết của người quá văng. Tại sao cỗ quan tài này lại là một ngoại lệ, nếu nĩ là cái quan tài của một trong các vị minh vương nổi tiếng nhất của Ai Cập?

Tại sao ống thơng hơi dài trên bảy mươi thước được đặt từ trong phịng đựng cỗ quan tài bằng đá để thơng với khơng khí bên ngồi? Những xác ướp khơng cần thở khơng khí, cịn phu thợ họ cũng khơng cần trở lại phịng làm ǵ nữa một khi họ đă xây xong cái nĩc phịng. Khơng một nơi nào ở Ai Cập tơi thấy cĩ một ngơi mộ của các bậc vua chúa mà cĩ những ống thơng hơi với bên ngồi.

Tại sao người ta đặt cỗ quan tài trong một phịng năm mươi thước cao hơn mặt đất, trong khi ở những nơi khác người ta thường đào hầm đặt quan tài sâu dưới lịng đất? Đĩ là cái tập tục thơng dụng khắp xứ, người ta đặt thi hài người chết hoặc dưới lịng đất hoặc trên mặt đất. Há ta chẳng thường nghe nhắn nhủ rằng: "Ngươi là cát bụi, và ngươi sẽ trở về cát bụi."

Tại sao người ta đặt gian phịng thứ nh́, gọi là Hậu Cung ở gần bên gian phịng thứ nhất? Những vị vua Pharaon khơng hề được đem chơn ở gần bên các bà hậu phi, và một xác ướp khơng cần phải cĩ đến hai huyệt. Nếu hậu cung cĩ những h́nh ảnh hay những chữ ám tự khắc trên vách như phần nhiều những lăng tẩm mồ mả của Ai Cập, th́ ở đây người ta cĩ thể coi nĩ như một hành lang, nhưng đàng này nĩ cũng trống trơn và khơng cĩ một bày biện trang hồng nào như Vương Cung. Và tại sao Vương Cung lại cĩ những ống thơng hơi, mặc dù những lỗ thơng hơi đều bị bịt kín khi người ta khám phá ra chúng? Tại sao người ta lại thơng hơi vào những gian phịng kín mệnh danh là những ngơi mộ này? Và cũng tường nhắc lại, người chết khơng cần thở khí trời. Khơng, người ta càng t́m ra cái lư do thật sự của một cơng tŕnh địi hỏi bao nhiêu phí tổn về tiền của, thời giờ, nhân lực và nguyên liệu như thế, th́ lư trí con người bắt buộc phải loại bỏ cái giả thuyết cho rằng Kim Tự Tháp là những mồ chơn xác người, hay là những kho tài liệu tiên tri bằng đá. Người ta phải quay trở lại t́m sự giải đáp khác.

Cửa vào Kim Tự Tháp mà các du khách dùng hiện nay khơng phải là cánh cửa chính của người cổ Ai Cập. Cửa chính này từ nhiều thế kỷ vẫn là cái bí mật của Kim Tự Tháp, một bí mật được giữ ǵn rất chặt chẽ, cho đến khi một ơng vua Ả Rập cương quyết đă chi phí cả một gia tài khổng lồ và huy động cả một đạo binh phu thợ để chọc thủng tấm màng bí mật kia và đă phát hiện ra cái của Kim Tự Tháp đă khép chặt. Từ khi cánh cửa chính bị đĩng chặt, th́ nhiều thế kỷ đă lặng lờ trơi qua mà bên trong phía Kim Tự Tháp khơng hề cĩ chân người bước vào, cho đến khi cái giấc triền miên ấy bị khuấy phá bởi những người đi t́m kiếm kho tàng. Sau cùng người ta đă t́m ra cái cửa chính đĩ vào khoảng năm tám trăm hai mươi. Vua Ả Rập Al Mamoun quy tựu trên cao nguyên Gizeh những viên kỹ sư, kiến trúc sư, nhà xây cất và thợ giỏi nhất của ơng ta, rồi ra lệnh cho họ hăy t́m ra cái của vào Kim Tự Tháp. Viên kỹ sư chỉ huy chiến dịch khai phá này mới tâu rằng:

- Tâu bệ hạ, việc này khơng thể làm được.

- Quả nhân muốn việc này phải được thực hiện.

Cơng tŕnh khai phá này khơng theo một kế hoạch nào nhất định. Tục truyền rằng của chính nằm ở mặt phía bắc của Kim Tự Tháp. Tự nhiên là người ta chọn chỗ trung tâm điểm của mặt phía bắc để khởi cơng. Sự cĩ mặt của vua Ả Rập ở tại chỗ là một sự khích lệ tin thần cho đám phu thợ. Nhà vua muốn trắc nghiệm truyền thuyết cho rằng những vị vua Pharaon thời cổ đă từng chơn dấu Kim Tự Tháp những kho bảo vật khổng lồ. Tưởng cũng nĩi thêm rằng vua Al Mamoun chính là thái tử của vua Haroun Al Rachid, nhân vật nổi tiếng trong truyện Một ngh́n Lẻ Một Đêm.

Vua Al Mamoun khơng phải là một ơng vua tầm thường. Ơng ta đă ra lịnh cho những văn nhân trong xứ hăy dịch những tác phẩm của các bậc hiền triết Hy Lạp. Ơng luơn luơn nhắc nhở cho quốc dân Ả Rập đừng quên những lợi ích của sự học hành. Chính ơng ta đă từng tham dự những cuộc thảo luận giữa những bậc thức giả trong nước.

Những nhà xây cất Kim Tự Tháp thời xưa, tiên liệu rằng thế nhân lịng dạ tham lam sẽ cĩ ngày xúc phạm đến nơi cổ kính thâm nghiêm nầy, mới trổ cánh cửa kính một trỗ ở một khoảng độ vài thước cách điểm trung tâm mặt phía bắc, và cao hơn rất xa chỗ người ta định chắc là chỗ cửa ra vào. Kết quả là những phu thợ của vua Al Mamoun đă làm việc suốt nhiều tháng mà vẫn khơng t́m ra dấu vết ǵ của một cửa vào hay lối đi. Họ khơng t́m thấy ǵ khác hơn những vách tường kiên cố bằng đá khối dày đặc và cứng ngắc. Nếu họ chỉ dùng những dụng cụ thơ sơ như búa đục, th́ cơng tŕnh đục khoét đĩ cĩ lẽ kéo dài đến hết triều đại của nhà vua hay lâu hơn nữa. Nhưng họ t́m cách đốt những đám lửa nhỏ ở những chỗ ráp nối các tảng đá đến độ nung cháy đỏ, và tưới dấm thanh lên đĩ cho đến khi các tảng đá nứt nẻ ra. Ngày nay người ta cịn nh́n thấy các vết cháy đen xạm trên các tảng đá đă từng kháng cự lại sức búa ŕu cách đây trên một ngh́n năm. Thợ rèn khơng ngừng làm việc suốt ngày để mài dũa những búa đục bị sức mẻ v́ va chạm với những tảng đá khối, trong khi những loại tảng đá bằng gỗ tiếp sức với lao cơng để cống gắng chọc lủng một lỗ cửa vào Kim Tự Tháp! Mặc dầu bao nhiêu cố gắng, trải qua bao nhiêu tháng trường dưới sức nĩng thiêu đốt của mặt trời Ai Cập, cửa vào Kim Tự Tháp vẫn khép chặt, khơng ai t́m thấy, và họ bắt đầu chán nản tuyệt vọng. Phu thợ đă đào xới một khoảng trên ba mươi thước, họ đă sắp sửa buơng hết dụng cụ và cơng khai nổi loạn khơng chịu tiếp tục một cơng việc vơ ích như thế nữa, th́ th́nh ĺnh họ nghe thấy tiếng động của một tảng đá nặng vừa bị rơi xuống. Tiếng động ấy đến từ bên trong Kim Tự Tháp, chỉ cách họ đang làm việc một khoảng khơng xa.

Định mệnh đă can thiệp vào vụ này. Khi đĩ, sự hăng say và hứng khởi làm việc đă được hâm nĩng lại. Khơng bao lâu, người ta đă mở đường đưa đến lối vào Kim Tự Tháp lớn từ nay mở cửa lại.

Kể từ lúc đĩ, người ta cĩ thể đi lần theo con đường ấy để t́m thấy cái cửa bí mật. Cửa này được che dấu một cách khéo léo đến nỗi người ta khơng thể nào khám phá được từ bên ngồi. Sau bao nhiêu thế kỷ bị khĩa chặt, cái cửa bí mật ấy khơng cịn hoạt động được nữa mà dính luơn vào vách. Ngày nay nĩ đă biến mất, sau những vụ cướp phá để lấy đá về xây nhà sau vụ động đất tại thành phố Cairo. Cửa ấy giống như những cái cửa bằng đá mà người cổ Ai Cập đặt ở những lối vào những đền miếu bí mật của họ. Đĩ là một tảng đá xoay vịng chung quanh những bản lề và khi khép lại th́ nĩ ăn khớp với mặt tường bên ngồi đến nỗi khơng ai cĩ thể phân biệt được nĩ với những tảng đá khác ở chung quanh. Sự ngụy trang khéo léo đĩ cũng chưa đủ. Bên trong cánh cửa bí mật ấy, lối vào bị chăn lại một cánh cửa bằng gỗ rất nặng. Qua được cửa này, người ta cịn phải vượt qua mười cánh cửa khác nữa trước khi lọt vào Vương Cung. Phần nhiều trong số mười cửa này đều bằng gỗ, nhưng cĩ một cửa giống y như cánh cửa đá bên ngồi là một tảng đá khối xoay vịng trên bản lề và ăn khớp với vách tường đá như một cửa bí mật. Tất cả những cửa này về sau khơng cịn.



Sau khi những tốn kỹ sư và phu thợ của nhà vua Al Mamoun đă lọt vào bên trong Kim Tự Tháp, họ nhận thấy rằng cơng việc của họ chưa phải đă xong.



Họ cịn gặp phải bao nhiêu chướng ngại vật, những tảng đá khổng lồ chận ngang lối đi mà dụng cụ của họ đem theo khơng làm sao chọc thủng. Cĩ khi họ phải đục xuyên vách đá để mở một lối đi khác thơng qua những dăy hành lang dài đưa đến những gian phịng trống trơn, mà về sau người ta đặt tên là Vương Cung, và Hậu Cung để cho dễ kêu gọi. Thật ra người cổ Ai Cập khơng hề sử dụng những danh từ đĩ bao giờ.



Trải qua bao nhiêu gian nan, lao khổ và chướng ngại, khi họ lọt được vào gian phịng gọi là Vương Cung, th́ vua Al Mamoun và tốn kỹ sư, thợ thuyền đi theo điều lấy làm vơ cùng thất vọng. Đĩ chỉ là một gian phịng trống, với một cỗ quan tài bằng đá, khơng đậy nắp. Trong cỗ quan tài người ta chỉ thấy cĩ cát bụi, ngồi ra khơng cĩ ǵ cả! Họ nghĩ phải chăng đĩ là một điều phi lư khi người cổ Ai Cập xây cất một ngơi mộ hùng vĩ như thế mà khơng cĩ mụch đích hay dụng ư rơ rệt? Họ bèn ra cơng nậy bật lên những tảng đá lĩt dưới đất, đào xới một gĩc trong gian phịng, dùng búa đập mạnh vào vách để thăm dị xem chỗ nào cĩ thể là nơi chơn dấu kho tàng. Nhưng vơ ích, thâm ư của những nhà xây cất Kim Tự Tháp vẫn là một điều bí hiểm khơn dị và chơn chặt trong lịng đất lạnh. Đồn người thám hiểm bèn lui gĩt ra về trong cơn thối trí và tuyệt vọng.



Tốn phu thợ cịn thám hiểm nhiều đường hầm bí mật và một cái giếng sâu thẳm và đen tối như mật ăn sâu dưới lịng đất, nhưng khơng hề t́m thấy kho tàng của cải, cùng bảo vật mà ĩc tưởng tượng lồi người vẫn tin rằng cĩ thật và vẫn nằm im một gĩc bí mật nào đĩ trong Kim Tự Tháp! Đến đây kết thúc cuộc phiêu lưu đáng ghi nhớ của vua Al Mamoun sau khi ơng ta đă mở được cánh cửa bí mật của Kim Tự Tháp lớn, để mở màn cho những cuộc thám hiểm về sau này trong lịch sử t́m tịi khảo cổ về Kim Tự Tháp Ai Cập.



Sau khi vua Al Mamoun đă t́m ra cái cửa bí mật vào Kim Tự Tháp, nhiều thế kỷ đă trơi qua một cách lặng lẽ khơng ai dám bước vào bên trong ngọn tháp này. Sự truyền tụng trong dân gian khơng bao lâu đă bao trùm ngơi Kim Tự Tháp với một bầu khơng khí dị đoan mê tín và rùng rợn với nhiều truyện huyền thoại kinh dị đến rợn người! Bởi đĩ người dân Ả Rập tránh việc đi vào Kim Tự Tháp như người ta tránh ơn dịch. Chỉ cĩ những tay phiêu lưu mạo hiểm mới thỉnh thoảng đột nhập vào để thám hiểm bên trong Kim Tự Tháp. Phần lớn những hành lang đen tối và những gian phịng trống trơn trong Kim Tự Tháp vẫn tiếp tục yên nghỉ trong cái yên lặng thâm u ngh́n đời khơng người bước chân vào. Măi cho đến cuối thế kỷ mười tám mới cĩ những người Châu Âu là những người nặng mùi vật chất và khơng mê tín, đến xem xét những đồng cát chung quanh, và từ đĩ người ta mới bắt đầu nghe lại những tiếng búa đục vang dội bên trong ngọn tháp cổ này.



Một người Anh cĩ tinh thần phiêu lưu tên là Nathaniel Davison, lănh sự Anh tại Alger vào khoảng năm một ngàn bảy trăm sáu mươi, xin nghỉ phép dài hạn để sang Ai Cập. Ngọn Kim Tự Tháp làm cho ơng ta suy nghĩ rất nhiều. Ơng ta biết rằng người cổ Ai Cập thường chơn dấu trong ngơi lăng tẩm các vị vua chúa của họ một số vàng ngọc châu báu. Ơng ta cũng biết dư luận chung của người đời coi những Kim Tự Tháp như những ngơi mộ khổng lồ.



Khi ơng ta lọt được vào bên trong Vương Cung, ơng ta khám phá được một việc: Mỗi khi ơng ta hơ lên một tiếng lớn th́ cĩ một tiếng vang dội lại nhiều lần liên tiếp. Ơng ta mới nghĩ rằng chắc là cĩ một gian phịng trống gần đâu đây, ở phía sau những tảng đá đỏ bao bọc chung quanh gian phịng đầu tiên. Cĩ thể rằng trong cái khoảng trống ấy, nguyên nhân gây ra tiếng vang dội nĩi trên, cĩ nằm yên nghỉ một cái xác ướp quấn hàng lụa và cĩ mang theo những đồ châu ngọc và bảo vật quư giá.



Ơng Davison bèn chiêu mộ vài người phu thợ và bắt tay vào việc. Từ nhiều thế kỷ trước, vua Al Mamoun đă thăm dị cái nền đá trong Vương Cung, nhưng khơng t́m thấy ǵ. Những tiếng vang phản dội tiếng kêu của ơng Davison dường như vọng lại từ phía trên. Ơng ta mới chú ư đến cái nĩc Vương Cung. Khi xem xét kỹ lưỡng trần nhà và những hành lang chung quanh, ơng ta thấy rằng phương pháp tiện lợi nhất để trổ lên nĩc nhà là đào một lỗ trống ở phần trên tường của dăy hành lang lớn để xen xét cho chắc th́ lấy làm ngạc nhiên mà thấy rằng ngay tại chỗ ấy đă cĩ sẵn một cái lỗ trống. Ơng ta bèn chui vào và thấy một gian phịng chiều dài độ bảy thước, ở ngay trên trần của Vương Cung. Cái nĩc của gian phịng này rất thấp đến nỗi ơng Davison phải bị trên hai đầu gối để t́m cái kho tàng vơ giá nĩ đă hấp dẫn ơng đến đây. Nhưng gian phịng hồn tồn trống rỗng! Ơng ta bèn trở về Alger tay khơng. Ơng ta chỉ được cái vinh dự là những nhà khảo cổ đến sau ơng đă lấy tên ơng để đặt tên cho cái gian phịng nhỏ hẹp mà ơng đă khám phá trên nĩc Vương Cung!



Trong những năm đầu của thế kỷ mười chín, người kế nghiệp của ơng Davison trong cơng việc t́m tịi ở Kim Tự Tháp là một nhân vật lạ lùng, gồm những đặt tính của những triết gia mơ tưởng, một nhà thần bí và một nhà khảo cổ. Đĩ là đại úy Caviglia, một người Ư Đại Lợi. Ơng đă dành một thời gian khá lâu cho việc sưu tầm ở Kim Tự Tháp. Lord Lindsay, người đă gặp ơng ta trong một chuyến du hành sang Ai Cập, cĩ viết một bức thư gửi về Anh Quốc như sau:



"Caviglia cĩ nĩi với tơi rằng y đă dành cho việc học hỏi khoa Huyền Mơn một sự hăng say đến nỗi làm cho y suưt chết. Y tuyên bố đă đạt tới cái giới hạn tùng cột trên lănh vực Huyền Mơn bị ngăn cấm với tầm hiểu biết của con người. Chỉ cĩ sự trong sạch trong ư đồ của y đă cứu được y. Y cĩ những tư tưởng lạ lùng, nĩ khơng phải là của trần gian. Y cho rằng là rất nguy hiểm mà tiết lộ những tư tưởng đĩ ... "



Trong cơng cuộc sưu tầm khảo cổ của ơng, Caviglia tạm trú một thời gian trong gian phịng Davison, sau khi ơng đă dọn dẹp cái phịng thấp và tối tăm đĩ thành một gian phịng để ở ngay trong Kim Tự Tháp! Cơng tŕng khảo cổ của ơng khơng phải chỉ là giới hạn trong Kim Tự Tháp lớn mà thơi. Ơng cịn để lại cho đời những sưu tầm trong hai Kim Tự Tháp thứ nh́ và thứ ba, sự thám hiểm những hầm chơn xác ướp ở giữa các Kim Tự Tháp và thần Sphinx, việc khai quật vài cỗ quan tài quan trọng và những di tích lạ lùng khác của nền văn minh cổ Ai Cập.



Vào thời đại của nữ hồng Victoria, định mệnh đă đưa sang Ai Cập một viên sĩ quan ưu tú của quân đội Hồng Gia Anh Quốc, kiêm một nhà khảo cổ học uyên bác, đĩ là đại tá Howard Vyse. Ơng ta đă huy động hàng trăm phu thợ để thực hiện những cuộc đào xới chung quanh các Kim Tự Tháp trong một cơng tŕnh thám hiểm đại quy mơ chưa từng cĩ từ một ngh́n năm nay, kể từ thời đại của vua Al Mamoun. Ơng ta đă kêu gọi sự hợp tác của đại úy Caviglia trong một thời gian, nhưng hai người lại xung đột nhau v́ tính khí bất đồng; một người Anh kỹ lưỡng, cẩn thận, trọng nguyên tắc kỷ luật và một người Ư tay ngang, bất chấp những quy ước, cỗ lệ, đành phải sớm xa nhau.



Đại tá Vyse đă chi phí cho cơng tŕnh khảo cổ của ơng ở Ai Cập hết mười ngàn Anh kim tiền riêng của ơng và đă thu hoạch được những kết quả cụ thể. Nhiều thùng lớn chứa đầy những di tích cổ và bảo vật lư thú đă vượt biển để sung vào Bảo Tàng Viện Anh Quốc. Nhưng những cổ vật lư thú nhất vẫn cịn ở lại tại chỗ.



Ơng Vyse đă khám phá bốn gian phịng trong Kim Tự Tháp lớn chồng chất lên nhau ở ngay trên trần nhà của gian phịng Davison. Cơng việc khám hiểm này khơng phải là dễ dàng và khơng nguy hiểm. Trong khi họ đào một lối đi hẹp từ dưới lên trên xuyên qua những nĩc phịng đá dày đặc, những phu thợ của ơng ta luơn luơn suưt ngă xuống đất từ một bề cao mười thước! Những gian phịng này cũng thấp và hẹp như gian phịng Davison, và cũng hồn tồn trống trơn khơng cĩ ǵ cả.



Do sự khám phá kể trên và khi xem xét cái trần nhà bằng đá vơi của gian phịng ở trên chĩt đỉnh, người ta mới hiểu lư do của việc xây cất năm gian phịng thấp hẹp chồng chất lên nhau. Đĩ là để bảo vệ Vương Cung cho khỏi chịu cái áp lực nặng nề của tồn thể khối đá tảng khổng lồ ở phía trên, chẳng khác như một hệ thống trái độn bằng khơng khí tạo nên bởi những khoảng trống của gian phịng. Việc xây cất hệ thống trái độn này cũng che trở Vương Cung khỏi bị đè bẹp bởi khối đá tảng ở phần trên trong trường hợp cĩ thể xảy ra một cơn động đất làm sụp đổ Kim Tự Tháp. Bởi đĩ, Kim Tự Tháp đă chống đỡ một cách hữu hiệu sự tàn phá của thời gian trong bao nhiêu ngh́n năm và chứng tỏ sự chu tồn cùng cái kiến trúc vơ cùng thần diệu của người cổ Ai Cập.



Trong số những điều phát hiện của đại tá Vyse, cĩ một điều lạ lùng là một loạt những chữ ám tự này chưa hề thấy trong Kim Tự Tháp. Những chữ ám tự này do những người đá khắc trên mặt những phiến đá tảng dùng để xây cất năm gian phịng kể trên. Trong những ám tự ấy cĩ những tên của ba vị vua Ai Cập, là Khoufou, Khnem. Khoufou, và Khnem. Các nhà Ai Cập Học khơng thể đưa ra sự giải thích nào khác về cái tên khnem v́ họ khơng t́m thấy tài liệu lịch sử về một vị vua Ai Cập nào cĩ cái tên đĩ. Nhưng họ biết rơ tên vua Khoufou: Đĩ là vị vua Pharaon của triều đại thứ tư, mà người Hy Lạp gọi là vua Khéops. Sự khám phá của ơng Vyse đă đưa đến việc xác định vua Khoufou là người đă xây dựng nên Kim Tự Tháp, và xác định Kim Tự Tháp được dựng lên từ thời nào.



Tuy nhiên, cái xác ướp của vua Khoufou khơng hề được t́m thấy ở bất cứ nơi nào bên trong Kim Tự Tháp.
4. Một Đêm Trong Kim Tự Tháp



Tơi sắp sửa đuổi theo một hoạt động lạ lùng nhất của đời tơi, tuy lạ lùng nhưng vẫn trong sự thầm lặng. Tơi cĩ ư định ở lại một đêm trong Kim Tự Tháp và ngồi thức suốt đêm trong Vương cung trong khi đêm tối dày đặc bao phủ nền trời Châu Phi.



Tơi đă ở một đêm trong ngơi kiến trúc kỳ dị nhất mà con người đă từng dựng lên trên bầu hành tinh của chúng ta.



Thật khơng phải dễ ǵ mà lọt được vào lúc ban đêm trong Kim Tự Tháp. Tuy mọi người đều cĩ thể viếng ngọn tháp cổ này, nhưng nĩ khơng phải là tài sản của cơng chúng. Nĩ là tài sản của Chánh Phủ Ai Cập. Khơng phải ai cũng cĩ thể lọt được vào trong đĩ và chiếm được một gian phịng trống để ngủ một đêm, chẳng khác như xâm nhập gia cư của người khác và nằm trong phịng ngủ tốt nhất của họ.



Mỗi khi một du khách muốn vào trong Kim Tự Tháp, y phải mua một tấm thẻ của Sở Bảo Tŕ Cổ Tích với giá năm đồng. Tơi bèn đến đĩ và xin phép ở lại một đêm trong Kim Tự Tháp lớn.



Khi cơng chức sở ấy nghe lời thỉnh cầu của tơi, y tỏ vẻ vơ cùng ngạc nhiên chẳng khác nào như y nghe tơi xin giấy phép để du hành lên mặt trăng. Tơi nĩi vài lời vắn tắt để bày tỏ lư do sự yêu cầu của tơi. Từ sự ngạc nhiên, viên cơng chức bước qua sự thích thú, y mỉm cười. Tơi hiểu rằng cĩ lẽ y coi tơi như một nhân vật cĩ đủ điều kiện để lọt vào một nơi mà ít người muốn ở lại ban đêm trong đĩ. Sau cùng y nĩi với tơi:



- Tơi chưa hề nhận được một lời thỉnh cầu như thế bao giờ. Tơi khơng cĩ thẩm quyền chấp thuận hay từ chối.



Y bèn giao tơi lên cho thượng cấp của y quyết định. Cái cảnh tượng buồn cười ở văn phịng viên cơng chức lúc năy lại tái diễn. Tơi bắt đầu cảm thấy bớt lạc quan trong ư định của ḿnh.



- Khơng thể được! Viên chủ sự nĩi với một giọng cương quyết tuy rằng đầy hảo ư, chắc hẳn rằng y đang đứng trước một người bị loạn thần kinh. "Điều ấy thật vơ lư. Tơi rất tiếc." Y vừa nĩi vừa gằn từng tiếng vừa nhún vai, và đứng dậy để sửa soạn đưa tơi ra cửa.



Tơi về nhà ngồi suy nghĩ để t́m cách thực hiện mục đích. Quyết định này của tơi trở nên một sự ám ảnh. Hơm sau, tơi bèn xin vào yết kiến Thiếu tướng El Lewa Russell Pacha, chỉ huy trưởng cảnh sát thành phố Cairo. Tơi ra khỏi văn phịng ơng ta với một huấn lệnh viết tay, yêu cầu viên cảnh sát trưởng quận đơ thành gồm khu vực Kim Tự Tháp, hăy dành cho tơi mọi sự giúp đỡ cần thiết để thực hiện mục đích.



Chiều đến, tơi bèn đến văn phịng thiếu tá Mackersey, trưởng ty cảnh sát địa phương, bĩt cảnh sát Mena. Họ đưa cho tơi một quyển sổ để tơi kư tên vào đĩ, xong rồi bĩt cảnh sát cĩ phận sự giữ ǵn an ninh cho tơi cho đến sáng ngày mai. Một cảnh binh bĩt Mena được biệt phái để hộ tống tơi đến Kim Tự Tháp và ra chỉ thị cho viên cảnh sát cĩ vơ trang túc trực ở phía ngồi trong đêm đĩ.



Khi chúng tơi bắt tay từ giă, Thiếu tá Mackersey nĩi đùa:



- Chúng tơi chịu trách nhiệm lớn mà để ơng một ḿnh ở trong đĩ suốt đêm. Ơng khơng cĩ ư định đặt chất nổ để phá Kim Tự Tháp chứ?



- Tơi hứa với ơng khơng bấy nhiêu đĩ, mà cịn hứa sẽ khơng vác nĩ lên lưng mà chạy!



- Tơi e rằng chúng tơi phải tạm nhốt ơng trong đĩ một đêm. Cứ tối đến, chúng tơi phải khĩa trái cái cửa sắt ở chỗ cổng vào. Như vậy ơng bị cầm tù trong mười hai tiếng đồng hồ.



- Tốt lắm! Hơm nay, khơng cĩ cái dinh thự nào làm cho tơi thích hơn là cái nhà giam đĩ.



Tơi bước vào trong Kim Tự Tháp do cái khoảng trống mà ngày xưa vua Al Mamoun đă cho đào một gốc để t́m lối vào, và bắt đầu thám hiểm bên trong ngọn tháp khơng lồ. Thật ra trước kia tơi đă từng bước vào đĩ rồi, nhưng bây giờ là lần đầu tiên mà tơi đến đây để thực hiện một cơng tŕnh khảo sát cũng lạ lùng như cái cơng tŕnh nĩ thúc đẩy tơi trở lại xứ Ai Cập.



Sau khi đă đi qua những dăy hành lang và đường hầm đen tối quanh co như mê cung, tơi lọt vào gian phịng chính của Kim Tự Tháp, gọi là Vương Cung. Nhưng ống dẫn khí thơng hơi ra đến bên ngồi, là những bằng chứng đánh đổ giả thuyết cho rằng Kim Tự Tháp là một ngơi lăng tẩm. Tơi rọi đèn bấm lên các vách và trên trần, và lại một lần nữa lấy làm thán phục sự nối ráp một cách tồn hảo và tinh vi những khối đá rắn chắc và to lớn đă được mài dũa trơn bén. Dưới mặt đất cũng như trên các vách đá, cịn những vết tích để lại do những cuộc thám hiểm của những kẻ t́m kiếm kho tàng. Ở một gĩc về phía tây bắc, cĩ một lỗ vuơng dài và sâu, và ở kế bên là một tảng đá dài dựng bên vách, trước kia dùng để lĩt sàn bằng đá nhưng bị cậy bật lên bởi những kẻ t́m vàng và cịn để lại đĩ. Nằm song song với tảng đá này là một cái hịm bằng đá khơng cĩ nắp, mặt đá phẳng lỳ khơng cĩ trạm trổ hay khắc chữ chi cả giống như một cổ quan tài. Đĩ là vật duy nhất trong gian phịng trống trơn, đầu xoay về hướng Bắc chân xoay về hướng Nam.



Tảng đá cậy bật lên từ dưới đất cĩ thể dùng làm chỗ ngồi. Tơi bèn ngồi lên đĩ, hai chân xếp bằng và sửa soạn ở lại đĩ suốt đêm. Tơi đặt xuống bàn tay mặt tơi cái nĩn, áo ngồi và đơi giày, phía bên trái tơi để cái đèn bấm bật sáng, một b́nh thủy thermos đựng trà nĩng, một b́nh nước lạnh, quyển sổ tay và cây bút máy. Tơi đưa mắt nh́n một lần cuối cùng khắp chung quanh gian phịng, nh́n qua cái hịm đá ở bên cạnh tơi, rơi tắt luơn ngọn đèn bấm.



Khi tơi đột nhiên đắm ch́m trong đêm tối, tơi tự hỏi: Việc ǵ cĩ thể xảy đến cho tơi đêm nay? Trong hồn cảnh lạ lùng này, tơi chỉ cĩ một việc là đợi chờ ...



Giờ phúc trơi qua một cách chậm chạp, trong khi đĩ tơi cũng từ từ cảm thấy gian phịng Vương Cung này cĩ một bầu khơng khí rất lạ mà tơi chỉ cĩ thể gọi bằng tĩnh từ thiêng liêng. Tơi đă cố t́nh giữ một tinh thần thụ cảm, một cảm giác thụ động, một thái độ tiêu cực, để cĩ thể ghi nhận một cách rơ ràng và tồn vẹn mọi sự ǵ vượt khỏi lănh vực phàm gian thực tại. Tơi muốn rằng khơng cĩ một thành kiến riêng tư nào ngăn cản tơi tiếp nhận sự ǵ cĩ thể xảy đến từ lănh vực siêu linh. Lần lần tơi định tĩnh tinh thần cho đến khi tâm trí tơi hầu như vắng lặng, hư khơng.



Sự vắng lặng nĩ bao phủ tâm trí tơi lúc ấy đem đến cho tơi một sự hiểu biết rơ ràng về một cái vắng lặng khác, đĩ là cái vắng lặng tràn ngập cuộc đời tơi. Cơi thế gian, với sự náo động ồn ào của nĩ, đối với tơi trở nên xa lạ như nĩ khơng hề cĩ từ bao giờ. Khơng một tiếng động, khơng một hơi thở đến với tơi từ cảnh đêm tối chung quanh. Thật ra, thế giới của những Kim Tự Tháp do im lặng ngự trị một cách im lặng đă cĩ từ thời tiền sử xa xăm và khơng một người du khách nào cĩ thể làm gián đoạn, bởi v́ mỗi đêm lại đem lại sự im lặng trở về nguyên vẹn, hồn tồn, gây cho ta sự sợ hăi nghiêm trọng nhất.



Tơi bèn quan sát bầu khơng khí uy nghiêm trong gian phịng. Những người nhạy cảm thường nhận thức được cái kinh nghiệm thơng thường này trong những nơi đền miếu cổ kính thâm nghiêm. Kinh nghiệm của tơi cũng bắt đầu bằng cái cảm giác tương tự. Thời gian càng trơi qua, cái ư thức về sự cỗ lổ thậm thâm của ngọn Kim Tự Tháp này càng in dấu vết sâu đậm trong tâm hồn tơi, tơi càng cảm thấy rằng thế kỷ hai mươi đang lui dần và mất dạng. Tuân theo cái quyết định mà tơi đă lập sẵn cho ḿnh, tơi khơng đưa ra một sự phản ứng nào cả để chống lại cái cảm giác đĩ, trái lại, tơi để cho nĩ tăng cường thêm gấp đơi.



Tơi bắt đầu cĩ cái cảm giác lạ lùng về một sự hiện diện vơ h́nh đến gián đoạn sự cơ đơn của tơi. Dưới bức màn đen tối dầy đặc bao phủ chung quanh, tơi cảm thấy rằng cĩ một cái ǵ cựa quậy và sống động bắt đầu xuất hiện. Đĩ là một cảm giác mơ hồ nhưng cĩ thật. Phối hợp với ư niệm mỗi lúc càng tăng về sự trở về dĩ văng, nĩ làm cho tơi cĩ ư thức rơ rệt về một ảnh hưởng siêu linh, thần bí.



Tuy thế, khơng cĩ ǵ nhất định, rơ rệt trong cái ư niệm mơ hồ đĩ về một sự hiện diện lạ lùng và sống động trong bĩng tối. Giờ phút trơi qua lặng lẽ, đưa đến một luồng khí lạnh mỗi lúc càng tăng. Ảnh hưởng của ba ngày nhịn đĩi mà tơi đă áp dụng để tăng gia sự nhạy cảm của tơi, lúc ấy biểu lộ bằng những cơn run rẫy mỗi lúc càng nhiều. Do những ống thơng hơi, khơng khí lạnh từ bên ngồi lọt vào Vương Cung đă thấm vào ḿnh tơi xuyên qua lớp áo mỏng, làm cho tơi run lên cầm cập. Tơi bèn đứng dậy mặc thêm áo ngồi mà tơi đă bỏ trên tảng đá cách đĩ vài giờ v́ e sợ tiết trời nĩng nực. Nhưng đĩ là tiết trời ở một vài nơi tại vùng cận Đơng. Khí hậu nĩng bức lúc ban ngày, và lạnh lẻo lúc ban đêm.



Tơi ngồi lại trên tảng đá và đắm ḿnh trong cái im lặng chết người và trong đêm tối rùng rợn. Cái im lặng của nhà mồ, cái hịm bằng đá trống trơn ở bên cạnh tơi khơng làm cho thần kinh tơi lắng dịu, trong khi sự gián đoạn vừa rồi trong cơn thiền định của tơi dường như cũng làm gián đoạn cả một chuyện khác. Thật vậy, tơi nhận thấy rằng điều nghi ngại về một sự sống vơ h́nh lởn vởn ở chung quanh tơi đă trở thành một điều chắc chắn. Quả thật, bên cạnh tơi cĩ một cái ǵ sống động, thổn thức, nhịp nhàng, tuy rằng tơi vẫn chưa nh́n thấy đĩ là vật ǵ. Đột nhiên tơi cảm thấy lo sợ khi tơi nghĩ đến sự cơ quạnh của tơi và những nguy cơ cĩ thể xảy đến. Tơi vẫn ngồi yên như thế một ḿnh, trong gian phịng tối ở một chiều cao bảy chục thướt khỏi mặt đất, cao hơn nhiều đối với sự sinh hoạt của một triệu dân thành phố Cairo, ở giữa màn đêm đen tối như mực, bị giam lỏng trong ngọn tháp lạ lùng này mà cửa ngồi đă khĩa chặt, ở ven một băi sa mạc rộng đến hàng mấy trăm dặm, trong khi ở bên cạnh gian nhà ngục tạm thời của tơi trong một đêm, cĩ lẽ là ngơi kiến trúc cổ xưa nhất thế giới, đang chen chúc nhau một cách la liệt hỗn độn bao nhiêu những mồ mả âm u, trong cái nghĩa địa của một đế đơ cổ xưa ngh́n đời ngày nay đă biệt tích.



Dưới cặp mắt tơi, là cặp mắt đă từng quan sát tỉ mỉ cơi giới siêu linh, những điều huyền bí thuộc cơi siêu h́nh, và sưu tầm cặn kẽ khoa pháp mơn phù thủy của phương Đơng, th́ gian phịng rộng răi của Vương Cung lúc ấy cĩ sự hiện diện của những nhân vật vơ h́nh, và những vị Thần linh cĩ nhiệm vụ canh gác ngơi kiến trúc thâm nghiêm này. Dường như một giọng nĩi từ cơi u minh sắp sửa thốt lên bất cứ lúc nào để phá tan cái im lặng bao la này. Tơi đă từng quen thuộc với sự cơ đơn, và tơi rất thích sống trong cơ đơn, nhưng sự cơ quạnh của gian phịng này cĩ một cái ǵ nguy hiểm và rùng rợn đáng sợ.



Sự tối tăm nĩ làm đắm ch́m tất cả mọi sự vật, bắt đầu đè nặng lên đầu tơi như một khối sắt ngh́n cân. Trong người tơi phảng phất một sự sợ hăy vơ lư. Tơi bèn xua đuổi nĩ đi tức khắc. Người ta khơng cần cĩ một sự can đảm thể chất để lại bên trong Kim Tự Tháp hoang vắng, mà là cần cĩ ít nhiều can đảm tinh thần. Người ta chắc rằng khơng cĩ một con rắn nào chui ra từ một cái lỗ hay một khe đá, cũng khơng cĩ một kẻ sát nhân nào ẩn núp trong đĩ từ lúc tối trời. Thật ra những sinh vật duy nhất hiện ra trước mắt tơi từ chặp tối là một con chuột sợ hăy chạy loạn cả lên để t́m lối thốt khi nĩ gặp ánh đèn sáng rực của tơi ở ngồi hành lang, kế đĩ tơi khám phá ra hai con cắc kè bị ở trên trần của Hậu Cung, màu da vàng đục của chúng cho thấy chúng đă sống rất lâu đời, và sau cùng là những con dơi ở dưới hầm đá. Cần nĩi thêm là vài con dế đă thốt ra tiếng kêu rất lớn khi tơi bước vào hành lang chính, nhưng khi nghe tiếng động, chúng nĩ liền im bặt. Và bấy giờ, th́ cái im lặng bao trùm khắp Kim Tự Tháp. Khơng cĩ ǵ của thế giới vật chất làm tơi bất măn, nhưng dẫu sao, tơi lại cảm thấy một lần nữa một cảm giác khĩ chịu mơ hồ dường như cĩ những cặp mắt vơ h́nh đang ŕnh rập tơi ở đâu đây. Chốn này thật là phảng phất một bầu khơng khí yêu ma hư ảo.



Vài loại rung động của tinh lực, âm thanh và ánh sáng lọt ra ngồi phạm vi khả năng cảm xúc thơng thường của con người. Những chương tŕnh truyền thanh đi xuyên khắp khơng gian để đến tai những thính giả trên thế giới, nhưng họ sẽ khơng nghe thấy ǵ nếu họ khơng điều chỉnh cho máy thu thanh của họ bắt đúng luồng sĩng điện. Tơi đă xả thiền và thốt ra khỏi trạng thái hồn tồn thụ cảm, để dồn tất cả sức mạnh, tập chung ư chí vào sự cố gắng nhằm chọc thủng cái im lặng và bĩng tối dày đặt nĩ bao phủ chung quanh tơi. Nếu do hậu quả sự tập trung tinh thần mănh liệt vào nội tâm, khả năng quan sát của tơi được nới rộng đến một tầm mức phi thường, th́ chừng đĩ cĩ thể nào tơi khơng bắt chợt nh́n thấy sự hiện hiện của những sức mạnh vơ h́nh? Biết đâu?



Tơi chỉ biết rằng khi tơi tự điều chỉnh bằng phương pháp hồi quan phản chiếu mà tơi được truyền thụ từ lâu trước chuyến du hành lần hai sang Ai Cập, tơi nhận biết được rằng cĩ những mănh lực bất hảo đă xâm chiếm gian phịng, cĩ một cái ǵ tiến lại gần tơi mà tơi cảm thấy là nguy hiểm. Một sự sợ hăi làm rung chuyển tâm hồn tơi. Tơi cố xua đuổi đi th́ nĩ lại trở lại từng hồi. Tơi cố gắng áp dụng phương pháp hồi quan phảng chiếu một cách ráo riết hơn nữa sự nhạy cảm càng tăng theo cái đà thường lệ của nĩ và biến thành một linh ảnh. Những h́nh bĩng lởn vởn chập chờn vơ định trong gian phịng, lần lần chúng nĩ hiện ra với những h́nh thù rơ rệt hơn, đột nhiên cĩ những vong linh hung ác xuất hiện và xáp lại gần kề bên gương mặt tơi. Kế đĩ, một vật đen ngịm tiến lại gần tơi với một cái nh́n dữ tợn và đưa tay lên với một cử chỉ hăm dọa, như muốn gây cho tơi một sự kiêng nể pha lẫn với sự kinh hồng.



Những vong linh mà người ta khơng thể lường được tuổi từ bao nhiêu đời, dường như đă kéo nhau lại đĩ từ cái nghĩa địa gần bên, một cái nghĩa địa cổ xưa đến nỗi những xác ướp quật lên liền tan ra thành tro bụi trong những chiếc hịm bằng đá. Chính những vong hồn cịn bám víu xác ướp cổ lổ này, đă xuất hiện một cách hung dữ trong gian phịng của tơi. Tất cả những chuyện huyền thoại về những ma quái lởn vởn ở vịng chung quanh Kim Tự Tháp đă trở lại trong kư ức của tơi, với những chi tiết rùng rợn khi những chuyện ấy được kể lại cho những người Ả Rập ở làng gần bên. Khi tơi nĩi với một người bạn trẻ Ả Rập tơi cĩ ư định ở lại một đêm trong Kim Tự Tháp, y cố gắng khuyên can tơi:



- Mỗi tấc đất trong đĩ điều cĩ ma! Vùng này cĩ tất cả một đạo binh yêu ma và thần linh.



Sự cảnh cáo này khơng phải là vơ ích, v́ bây giờ tơi cĩ thể nhận thấy đúng như thế. Những hồn ma bĩng quế đă xâm nhập vào nơi tạm trú của tơi, và quay cuồng khắp chốn, cái cảm giác khĩ chịu và khĩ tả của tơi lúc đầu nay đă được hồn tồn giải đáp. Dưới một sự căng thẳng như thế, ở chính giữa cái thể xác bất động của tơi, tơi nhận thấy rằng quả tim của tơi đập mạnh như búa bổ. Sự sợ hăy điều quái dị, nĩ ŕnh rập chúng ta luơn luơn, lại xâm chiếm chiếm lấy tơi một lần nữa. Sự sợ sệt, kinh hăi, khủng khiếp lần lượt đến với tơi và lột trần bộ mặt dữ tợn của chúng. Hai bàn tay tơi tự nhiên nắm chặt lại như những gọng kềm. Nhưng tơi quyết vượt qua cơn thử thách, tuy rằng những h́nh thù ma quái lúc đầu đă gây cho tơi cảm giác sợ sệt, sau cùng chúng nĩ làm tơi phải huy động tất cả sự can đảm và tinh thần chiến đấu mà tơi cĩ thể.



Đơi mắt tơi vẫn nhắm, trong khi tất cả những vong hồn màu xám đục, và mờ sương, lướt nhẹ chung quanh và hiện rơ rệt trong linh cảm của tơi, luơn luơn với sự thù nghịch mănh liệt, sự nhất tâm ráo riết ngăn cản theo đuổi quyết định của tơi.



Cả một đồn ma quái thù nghịch vây phủ lấy tơi. Tơi cĩ thể giải vây được dễ dàng bằng cách bật đèn bấm hoặc đốt đuốc lên, hoặc đứng lên để thốt mau ra khỏi phịng và chạy một quảng độ vài ba trăm bộ đến cổng ngồi, tại đĩ người gác cổng cĩ vơ trang cĩ thể đem đến cho tơi một sự tăng viện đáng kể. Cơn thử thách bắt tơi phải chịu một h́nh thức tế nhị của sự cực h́nh, nĩ khuấy phá linh hồn tơi, trong khi thể xác tơi vẫn nguyên vẹn. Nhưng đồng thời trong tơi cũng cĩ một sự thúc đẩy mạnh mẽ buộc tơi phải vượt qua giai đoạn thử thách ấy cho đến cùng.



Sau cùng giai đoạn quyết liệt đă đến. Những lồi yêu quái h́nh thù ghê rợn, gớm ghiếc, khơng thể tả nỗi mà chỉ cĩ ở cơi Âm Ty, những lồi ma quỷ h́nh dung cổ quái, dị hợm, điên rồ, rùng rợn, quái đản, từ đâu kéo đến thật đơng chung quanh tơi, sự ghê tởm mà chúng nĩ gây cho tơi làm cho tơi trảy qua một cơn đau khổ khơng thể tưởng tượng! Trong vài phúc đồng hồ, tơi đă trải qua những cơn xúc động mà kể từ đĩ về sau tơi khơng thể nào quên được. Cái cảnh tượng độc đáo ấy đă được khắc trong kư ức của tơi bằng những nét sâu đậm khơng thể xĩa mờ. Kể từ nay, bất cứ giá nào ở cơi trần gian này tơi sẽ khơng bao giờ muốn tái diễn cái kinh nghiệm khủng khiếp như đêm nay; tơi sẽ khơng bao giờ ở lại một đêm nữa trong Kim Tự Tháp.



Cảnh tượng ấy chấm dứt đột ngột lạ thường. Những lồi yêu ma, quỷ quái biến mất dạng trong bĩng tối mà từ đĩ chúng đă xuất hiện ra; chúng trở về cơi U Minh của những người đă chết, đem theo luơn với chúng tất cả những sự gớm ghiếc, ghê tởm và rùng rợn. Thần kinh của tơi hầu như bị bẻ găy hết nữa phần, đă cảm giác được một sự thoải mái dễ chịu lớn lao chẳng khác nào như một lính chiến ngồi mặt trận khi cơn oanh tạc dữ dội đột nhiên chấm dứt.



Khơng biết bao nhiêu thời gian đă trơi qua cho đến khi tơi ư thức được một sự hiện diện mới trong gian phịng. Đĩ là một sự hiện diện tốt lành, một nhân vật cĩ thiện cảm, đứng ngay ở chỗ cửa vào và ban cho tơi những cái nh́n đầy hảo ư. Sự cĩ mặt của người này đem đến một sự thay đổi hồn tồn cho bầu khơng khí chung quanh, một sự thay đổi rất khả quan và lành mạnh. Một yếu tố mới bắt đầu ảnh hưởng đến con người nhạy cảm của tơi, vừa bị trải qua một cơn đe dọa khủng khiếp, bây giờ th́ tơi đă trấn tĩnh và trở về với sự b́nh yên. Nhân vật ấy bước đến gần tảng đá chỗ tơi đang ngồi, khi đĩ tơi thấy cĩ một nhân vật khác nữa cùng đi theo sau. Cả hai người cùng đứng gần bên tơi và nh́n tơi một cách nghiêm chỉnh; những cái nh́n của họ chứa đầy một ư nghĩa tiên tri. Tơi cảm thấy rằng một giờ phút quan trọng của đời tơi sắp đến gần.



Hai vị này hiện ra trong linh ảnh của tơi với một h́nh dáng khĩ quên. Những tà áo rộng trắng và giầy dép của họ, tất cả đều trở lại trí nhớ của tơi trong khoảnh khắc. Ngồi ra, họ cĩ mang những phù hiệu rơ ràng về chức sắc của họ, người ta nhận ra ngay họ là những vị Đạo Trưởng cao cấp của nền tơn giáo cổ Ai Cập. Một ánh hào quan bao phủ quanh ḿnh họ chiếu một ánh sáng lạ lùng khắp một phần của gian phịng. Thật ra, họ cĩ vẻ đặc biệt hơn những người thường; họ cĩ cái cốt cách huy hồng của những bậc siêu nhân, gương mặt họ tốt ra một sự bằng an lạ thường, cái bằng an của một đạo viện thâm nghiêm.



Hai vị vẫn đứng yên như hai pho tượng, họ chăm chú nh́n tơi với hai chắp ngang trên ngực, và giữ một sự im lặng hồn tồn.



Phải chăng tơi đang hoạt động trong một chiều đo thứ tư của khơng gian, và thức tỉnh để quan sát một cái dĩ văng ngh́n đời? Cái ư thức của tơi về thời gian phải chăng đă thụt lùi trở về thời cát bụi xa xăm của nước cổ Ai Cập? Khơng, khơng thể được, v́ tơi đang nhận thức rơ ràng hai nhân vật ấy cĩ thể nh́n thấy tơi, thậm chí họ cũng đang sắp sửa nĩi chuyện với tơi.



Hai vị khuất mặt nghiên ḿnh tới trước, một vị h́nh như đơi mơi mấp máy; gương mặt người kề sát bên gương mặt tơi, đơi mắt người chiếu diệu một tia sáng huyền ảo. Giọng nĩi của người vang dội bên tai tơi:



- Tại sao ngươi lại đến chốn này và định kêu gọi đến những năng lực huyền bí? Cuộc sống trần gian khơng đủ làm thỏa măn ngươi hay sao?



Những lời này đến với tơi khơng phải bằng sự xúc cảm vật chất của thích giác; v́ lẽ khơng cĩ một rung động âm thanh nào đă xé tan cái im lặng trong gian phịng. Nhưng dường như tơi nghe những lời ấy cũng như một người điếc nghe được ở bên trong lỗ tai của ḿnh. Tiếng nĩi mà tơi nghe được, người ta cĩ thể ngờ rằng đĩ là tiếng nĩi trong nội tâm, bởi v́ tuy rơ ràng là tơi nghe thấy bên trong lỗ tai tơi, nhưng nĩ cũng cĩ thể gây ra cái ấn tượng của một tư tưởng. Nhưng thật ra khơng phải như vậy. Đĩ là một tiếng nĩi thật sự.



Tơi đáp:



- Thưa khơng!



Vị đạo trưởng nĩi với tơi:



- Sự náo nhiệt phồn hoa của chốn thị thành đơng đúc sẽ chấn an tinh thần cho những kẻ lịng cịn run sợ. Đi, người hăy trở về với những thân nhân bạn bè, và ngươi sẽ chĩng quên cái điều vọng tưởng vu vơ nĩ đă đưa ngươi đến đây.



- Tơi khơng thể.



Người lại nĩi:



- Con đường ảo vọng sẽ làm cho ngươi mất cả lư trí. Nhiều người đă từng đi lạc vào đĩ, và trở về thành kẻ loạn ĩc, điên khùng. Người hăy trở về trong khi cịn kịp thời giờ, hăy trở về với con đường dành cho những bước đi của người trần gian.



Nhưng tơi lắc đầu và nĩi nhỏ như trong hơi thở:



- Tơi phải theo con đường này, đối với tơi khơng cịn con đuờng nào khác.



Vị đạo trưởng lại bước đến gần và lại nghiêng ḿnh về phía chỗ tơi ngồi. Tơi nh́n thấy đĩ là gương mặt một vị trưởng lăo hiện ra trong đêm tối. Trưởng lăo nĩi th́ thầm vào tai tơi:



- Kẻ nào tiếp xúc với chúng ta sẽ tuyệt giao với cuộc đời thế tục. Ngươi dám chắc rằng ngươi cĩ đủ sức đi vững bước một ḿnh chăng?



- Thật ra tơi cũng khơng biết.



Vị trưởng lăo lại nĩi th́ thầm:



- Hăy theo ta, rồi khi ngươi đă nh́n thấy, ngươi hăy trả lời cho ta biết.



Kế đĩ tơi nh́n thấy, như trong một linh ảnh xa xăm, những đường lộ ngoắt ngoéo như mê cung của một thành phố lớn. Cảnh tượng đĩ hiện ra rất mau chĩng, cho đến khi tơi nhận thấy ở phía trước cĩ một ngơi nhà cổ, gần một nơi cĩ rào sắt. Tơi thấy một cầu thang tối om đưa lên một phịng nhỏ hẹp ở phía dưới nĩc nhà. Vị đạo trưởng lại đột nhiên xuất hiện tại chỗ ấy, ngồi một bên giường nằm của một ơng già khác mà râu tĩc rối nùi, với những nét mặt gân guốc phong trần. Ơng già này hẳn là đă vượt quá từ lâu về cái độ về chiều của cuộc đời, căn cứ vào nước da màu xám tro và bọc lấy xương của ơng ta. Gương mặt hốc hác xương xẩu của ơng ta chứng tỏ một sức lực đă tàn, làm cho tơi động lịng trắc ẩn, nhưng khi nh́n kỹ ơng ta tơi cảm thấy rợn người v́ tơi thấy ơng ta đang vật lộn với tử thần, một cuộc vật lộn mà kết quả đă hiển nhiên khơng cịn nghi ngờ ǵ nữa. Vị đạo trưởng dẫn đường cho tơi nh́n người hấp hối với cái nh́n thương hại. Người dơ tay lên và nĩi:



- Đợi vài phút nữa thơi, ơng bạn hỡi, và ơng bạn sẽ được b́nh an. Đây tơi cĩ đem đến cho ơng bạn một người đi t́m những mănh lực nhiệm mầu. Ơng bạn hăy nĩi với y vài lời, để chia sẽ với y ích nhiều kinh nghiệm.



Đột nhiên tơi trở nên khơng phải chỉ là một người chứng kiến, mà lại là diễn viên trong cái màn bi kịch lạ lùng này. Với một tiếng thở rất nhọc mệt làm se thắt lịng, người hấp hối quay đầu lại và nh́n thẳng vào mặt tơi. Dẫu cho tơi cĩ đi tận chân trời gĩc bể tơi cũng khơng bao giờ quên cái nét kinh hồng hiện ra trong đơi mắt của y.



- Anh cịn trẻ hơn tơi, y nĩi th́ thầm, nhưng tơi đă đi khắp vũ trụ một lần, hai lần, ba lần. Tơi cũng vậy, tơi đi t́m cái mà anh đang t́m. Ồ! Tơi đă t́m kiếm xiết bao!



Y ngừng lại một lúc, đầu y lại rơi xuống gối, y cố gắng nhớ lại việc cũ. Kế đĩ y ngồi nhỏm dậy, chống đở trên hai khủy tay, rồi đưa ra một cánh tay dài và gầy ốm. Bàn tay y với những ngĩn tay xương xẩu, giống như tay của một bộ xương người. Y nắm lấy bàn tay tơi siết chặt như một cái kềm. Tơi cảm thấy rằng cái nh́n sâu sắc của y soi vào tận hai mắt tơi và định t́m hiểu linh hồn tơi.



- Đồ điên, y nĩi lớn, những mănh lực duy nhất mà tơi t́m thấy chỉ là những mănh lực của xác thịt và của ác quỷ! Khơng cĩ mănh lực nào khác. Anh nghe chưa, khơng cĩ mănh lực nào khác nữa!



Sự cố gắng ấy vượt quá sức của y. Y liền rơi xuống gối, và tắt thở. Vị hướng dẫn tơi khơng nĩi một lời. Người ngồi yên trong một phút suy tư bên cạnh giường. Khi đĩ, cái linh ảnh đă tan đi mất. Một lần nữa tơi lại thấy tơi ngồi trong Kim Tự Tháp. Vị đạo trưởng im lặng nh́n tơi, và tơi cũng đáp lại bằng cái nh́n câm lặng. Người đọc được tưởng tơi, nên từ trong bĩng tối, vọng đến tai tơi những lời này:



- Được, ngươi đă chọn con đường này. Quyết định của ngươi từ nay sẽ khơng thay đổi. Vĩnh biệt.



Người liền biến mất. Tơi cịn ngồi lại một ḿnh với vị đạo trưởng thứ nh́, vị này từ lúc đầu chỉ đĩng vai trị một nhân chứng im lặng. Người bèn bước đến trước chiếc hịm bằng đá. Người cĩ cái gương mặt của một ơng lăo rất già. Tơi khơng thể đốn tuổi tác của người đến bao nhiêu.



- Con hỡi, ơng lăo nĩi một cách b́nh tĩnh, những đấng cao cả ǵn giữ những quyền năng thần bí đă thu nhận con trong bàn tay của các ngài. Đêm nay con phải được đắt đến phịng thụ huấn. Con hăy nằm ngữa trên tảng đá này. Hồi thời cổ xưa, th́ phải nằm trong cái hịm đá kia, cĩ lĩt những cành và lá cây chỉ thảo.



Đoạn ơng lăo chỉ cỗ quan tài ở giữa phịng. Tơi khơng làm ǵ khác hơn là vâng lời vị đạo trưởng già bí mật. Tơi nằm đặt lưng trên tảng đá. Tơi vẫn chưa biết rơ chuyện ǵ xảy ra ngay sau khi đĩ. Tơi cảm thấy như ơng lăo đă cho tơi uống một liều thuốc mê đặc biệt, cĩ ảnh hưởng rất chậm v́ tất cả bắp thịt của tơi đều cứng đơ, kế đĩ th́ một sự tê liệt từ từ xâm chiếm lấy cả tứ chi. Tồn thân tơi trở nên nặng nề và cứng ngắc. Trước hết, hai bàn chân tơi tê lạnh, rồi lần lần đến hai chân và cảm giác tê lạnh cứ đi dần dần từ dưới lên trên. Bây giờ th́ cả hai chân tơi đều khơng cịn cảm giác ǵ nữa.



Dường như tơi sắp bước vào trạng thái nữa mê nửa tỉnh, một cái linh tính bí mật báo cho tơi biết rằng sự chết đă đến gần. Tuy thế, tơi vẫn khơng nao núng, v́ từ lâu tơi đă vượt khỏi sự chết cố hữu của người đời và tơi chấp nhận điều khơng thể tránh được với một tinh thần triết lư.



Cảm giác lạnh đă lên đến ngực, phần dưới thân h́nh tơi đă hồn tồn tê liệt. Khi đĩ, tơi cĩ một cái ǵ như là nhĩi vào quả tim, nhưng cái cảm giác đĩ qua mau và tơi hiểu rằng cơn khủng hoảng cuối cùng sẽ khơng cịn lâu nữa. Nếu tơi cĩ thể nới rộng hai quai hàm đă cứng th́ tơi đă bật cười về cái tư tưởng đầu tiên đến với tơi lúc ấy. Cái tư tưởng đĩ là: "Ngày mai, người ta sẽ t́m thấy xác chết của tơi trong Kim Tự Tháp, và thế là hết." Tơi biết chắc rằng tất cả những cảm giác của tơi đều do cái nguyên nhân là sự chuyển tiếp của linh hồn tơi giữa cuộc đời thế tục và cơi giới bên kia nấm mồ.



Tuy tơi biết rơ ràng tơi đang trải qua những cảm giác của một kẻ đang hấp hối, nhưng tơi khơng cĩ một sự phản ứng nào khơng thể chống cự lại. Sau cùng, tất cả ư thức của tơi đă tập trung lên đầu, một sự quay cuồng điên loạn cuối cùng diễn ra trong khốc ĩc của tơi. Tơi cảm thấy dường như tơi bị cuốn lơi theo một trận cuồng phong dữ dội và tơi chui qua một cái lỗ nhỏ hẹp. Rồi trong một lúc, tơi hoảng sợ như sắp bị ném vào khoảng khơng gian vơ tận, tơi lao ḿnh vào khoảng khơng ... , và tơi liền được giải thốt!



Khơng một ngơn ngữ nào cĩ thể diễn tả những nỗi sung sướng của sự giải thốt mà tơi vừa trải qua. Tơi đă biến thành một vật tâm linh, một vật cấu tạo bằng tư tưởng và t́nh cảm, khơng cịn bị trĩi buộc bởi những chướng ngại của cái ngục tù nĩ vẫn giam hăm tơi, tức là cái thể xác nặng nề bằng xương thịt này. Thốt ly ra khỏi cái gánh nặng của thể xác. Tơi đă trở nên giống như một vong linh, như một người chết vừa chui ra khỏi mồ, nhưng tuyệt nhiên khơng hề mất đi cái ư thức của ḿnh. Thật ra, ư thức về sự sống của tơi lại cịn đậm đà nồng nhiệt hơn trước. Trên hết mọi sự, việc thốt lên một cơi giới thanh cao hơn đem cho tơi cái cảm giác tự do, một sự tự do sung sướng, tốt lành của cơi giới thuộc về chiều đo thứ tư nĩ dung nạp lấy tơi.



Trước tiên, tơi thấy tơi cịn nằm ngửa trên lưng, giống như cái thể xác mà tơi vừa rời bỏ, và lơ lửng trên cái sàn gạch đá. Kế đĩ tơi cảm thấy như cĩ một bàn tay đẩy nhẹ tơi tới trước và đở tơi đứng dậy trên hai chân. Sau cùng, tơi cảm thấy như vừa đứng, lại vừa lơ lửng trên khơng.



Từ trên khơng gian, tơi ngắm nh́n cái thể xác bằng xương thịt mà tơi vừa rời bỏ, đang nằm yên, bất động trên tảng đá. Gương mặt khơng cảm xúc, lật ngửa lên trần nhà, đơi mắt hé mở, tuy nhiên hai con ngươi khơng cịn đủ sáng để chỉ rằng hai mí mắt khơng đĩng chặt. Hai tay chắp trước ngực, cử chỉ mà tơi khơng nhớ đă làm trước khi đĩ. Hai là ai đĩ đă chấp hai tay của tơi lại mà tơi khơng hay? Hai chân duỗi thẳng dọc theo nhau từ đầu đến cuối. Đĩ là cái thể xác nằm ngửa của tơi, dường như đă chết, mà tơi vừa thốt ra khỏi và bỏ lại đĩ.



Tơi nhận thấy rằng một tia ánh sáng yếu ớt và trắng như bạc từ ḿnh tơi, cái tơi mới, phĩng xuống cái thể xác đang nằm yên bất động trên tảng đá. Đĩ là một điều lạ, nhưng lạ hơn nữa là tơi thấy cái sợi nhau rún vơ h́nh bí mật đĩ chiếu sáng cả một gốc phịng Vương Cung mà tơi đang lơ lửng trên khơng, và soi lên những viên đá trên tường như một ánh trăng sáng diệu.



Tơi chỉ cịn là một bĩng ma, một vong linh khơng thể xác đang vẫn vơ trong khơng gian. Tơi đă hiểu tại sao các nhà hiền triết cổ Ai Cập dùng con chim làm biểu tượng của linh hồn trong những chữ ám tự cổ xưa. Với cảm giác bay lơ lửng trên khơng chẳng khác nào như tơi cĩ mọc hai cánh và bay lướt trên cái thể xác đă bỏ rơi, giống như con chim bay lượn trên một vật ǵ ở dưới đất, cái biểu tượng đĩ thật là khéo lựa chọn.



Vậy là tơi đang ở trong khơng gian, tơi đă tách rời linh hồn tơi ra khỏi cái xác phàm, tơi đă tự phân thân tơi ra làm thành hai phần khác nhau, tơi đă rời bỏ cơi thế gian mà tơi vẫn ở bấy lâu nay. Tơi cĩ cảm giác như trở nên một vật tinh anh như dĩ thái, thanh nhẹ vơ cùng, trong một cái thể mới, tức cái thể vía, mà tơi khốt lấy kể từ nay. Nh́n tảng đá lạnh trên đĩ cái thể xác tơi đang nằm, tơi cĩ một ư nghĩ giản dị nĩ biểu lộ ra một cách thầm lặng bằng những lời này:



- Đĩ là trạng thái của sự chết. Bây giờ tơi biết rằng tơi là một linh hồn, và tơi cĩ thể sống ngồi xác thân. Tơi sẽ tin như vậy luơn luơn, v́ tơi đă trải qua kinh nghiệm đĩ.



Cái tư tưởng đĩ bám chặt lấy tơi một cách ráo riết như một gong kềm, trong khi tơi vẫn lơ lửng phất phơ trên cái thể xác trống rỗng. Tơi đă kinh nghiệm sự tồn tại của linh hồn bằng phương pháp hiệu quả nhất: Bằng cách di chuyển thật sự ra khỏi thể xác, rồi thấy rằng ḿnh vẫn cịn sống! Tơi tiếp tục nh́n cái xác phàm cịn bỏ xĩt lại. Phải chăng là nĩ mà trong bao nhiêu năm tơi vẫn gọi là cái tơi? Một đống nhục thể, vơtri giác, cĩ thế thơi. Đĩ là điều mà bấy giờ tơi mới khán phá, với bằng chứng rơ ràng. Nh́n vào đơi mắt mù tịch khơng cịn thấy ǵ nữa, khơng cịn đáp ứng với ngoại cảnh, tơi mới nhận thấy rơ tất cả sự mỉa mai của vấn đề. Cái thể xác vật chất của tơi vẫn giam hăm lấy tơi, cái tơi thật, nhưng bây giờ tơi đă thật được tự do. Trước kia, tơi vẫn được trở đi lại đĩ đây trên hành tinh này, bằng một cái cơ thể mà từ lâu nay tơi vẫn lầm lẫn với cái tơi thật.



Dường như cái ư thức về luật hấp dẫn đă biến mất, tơi vẫn phất phơ trên khơng trung và cảm thấy vừa như treo lơ lửng lại vừa như đứng một cách lạ lùng. Bỗng nhiên xuất hiện bên cạnh tơi vị đạo trưởng già đạo mạo, cốt cách thanh kỳ. Đơi mắt nh́n lên, gương mặt trầm tĩnh, phong độ ung dung, người cầu nguyện:



- Ơ Amen, Ơ Amen ở trên trời, hăy nh́n về cái thể xác đứa con ngài và ban cho y ân huệ trong cơi giới tâm linh.



Kế đĩ người nĩi với tơi:



- Bây giờ con đă học xong bài học lớn. Con người, mà linh hồn sinh ra từ đấng bất diệt, khơng thể nào chết mất đi đâu. Con hăy ghi nhận cái chân lư đĩ bằng ngơn ngữ của trần gian.



Ngay lúc đĩ, trước mặt tơi lần lượt xuất hiện gương mặt khá quen thuộc của một thiếu phụ đă quá văng mà tơi đă đi đám tang trên hai mươi năm về trước, rồi đến những nét mặt quen thuộc của một người bạn chí thân mà tơi đă đưa đến chỗ yên nghĩ cuối cùng cách đây hai mươi năm, sau cùng là nụ cười hồn nhiên của một đứa trẻ mà tơi đă biết chết trong một tai nạn. Cả ba người điều nh́n tơi trong sự trầm lặng, giọng nĩi thân mật của họ đă thốt ra chung quanh tơi. Tơi nĩi ít lời vắn tắt với mỗi người ấy, rồi họ lui gĩt rồi biến mất. Vị đạo trường già nĩi:



- Họ cũng sống như con đây, như cái Kim Tự Tháp này đă từng chứng kiến cái chết của nữa phần nhân loại và nĩ vẫn cịn tồn tại. Con hỡi, con nên biết rằng trong ngọn tháp cổ này cịn ấn tàng cái di sản đă mất của những giống người đầu tiên và sự liên minh mà họ đă kư kết với đấng tạo hĩa, do sự trung gian của vị tiên tri đầu tiên. Nhưng người được chọn lựa ngày xưa đă được đưa đến đây để tŕnh bày cho thấy cái liên minh đĩ và để khi họ trở về nhà, họ cĩ thể duy tŕ sự bí mật đĩ măi măi trong dân gian. Con hăy ghi nhớ lời cảnh cáo này: "Khi nào con người từ bỏ đấng Hĩa Cơng và nuơi sự thù hằn với kẻ đồng loại, th́ họ phải chịu cái số phận của những vị quốc vương châu Atlantide ở vào thời đại xây cất cái Kim Tự Tháp này. Họ sẽ bị diệt vong bởi chính lịng tà ác của họ cũng như dân Atlantide ngày xưa vậy."



Khơng phải đấng tạo hĩa đă nhận ch́m châu Atlantide mà chính sự ích kỷ,



bạo tàn và mù quán tâm linh của những dân tộc sống trên vùng lục địa vơ phước ấy. Đấng tạo hĩa yêu thương tất cả nhân loại, nhưng sự sống cịn của con người bị cau quản bởi những định luật huyền bí mà Ngài đặt ra cho họ. Vậy con hăy ghi nhớ những lời cảnh cáo này.



Khi ấy, tơi bị xâm chiếm bởi một sự ước muốn mănh liệt là muốn biết thêm sự liên minh bí mật ấy. Chắc hẳn vị đạo trưởng đă đọc được tư tưởng của tơi, v́ người liền nĩi nhanh:



- Mọi sự phải đến vào đúng ngày giờ của nĩ. Chưa phải lúc, con ạ, chưa phải lúc.



Tơi cảm thấy một sự thất vọng chua cay. Người nh́n tơi trong vài giây đồng hồ rồi nĩi tiếp:



- Chưa cĩ một người nào thuộc chủng tộc của con được phép biết điều ấy. Nhưng v́ con đă giỏi về các khoa này, v́ con đă đến với chúng ta với cả tấm lịng thiện chí và hiểu biết, con cĩ thể được vài sự hài lịng. Bây giờ, con hăy theo ta.



Khi đĩ xảy ra một chuyện lạ kỳ. Dường như tơi đă lọt vào một cơn mê, trong một lúc tơi đă mất cả ư thức về ngoại cảnh và kế đĩ tơi đă được đưa đến một chỗ khác. Tơi thấy tơi đanng ở một dăy hành lang dài, cĩ chiếu một thứ ánh sáng êm dịu, tuy tơi khơng thấy cĩ cửa sổ hay đèn đuốc chi cả.



Tơi nghĩ rằng cái nguồn phát ra ánh sáng này khơng ǵ khác hơn là cái hào quang bao bọc chung quanh ḿnh vị đạo trưởng già đồng hành với tơi, pha lẫn với sự chiếu sáng với sợi dây từ điển rung động trong dĩ thái ở phía sau lưng tơi. Nhưng tơi phải nh́n nhận rằng sự giải thích nầy vẫn chưa đủ. Các vách tường điều bằng đá ửng màu đất nung, và các phiến đá được ráp nối một cách vơ cùng tinh vi. Đất nghiêng theo đường dọc lài lài xuống, theo một gốc tương đương với dốc lài từ cửa vào Kim Tự Tháp. Gian phịng vuơng vức và thấp, nhưng khơng gây trở ngại. Tơi khơng thể khám phá ra nguồn gốc của cái ánh sáng bí mật ấy, phía trong gian phịng cũng chiếu sáng khơng kém, dường như cĩ một ngọn đèn soi sáng khắp phịng. Vị đạo trưởng già mời tơi đi theo con đường dốc. Người căn dặn:



- Đừng quay đầu lại nh́n phía sau.



Chúng tơi vẫn đi như thế trên một quăng đường dốc, kế đĩ tơi thấy một gian phịng lớn, giống như một nơi thánh điện, ở tận chỗ cuối đường. Tơi đang biết rơ là tơi đang ở phía trong hay ở phía dưới hầm Kim Tự Tháp, nhưng trước đĩ tơi khơng hề thấy con đường dốc và gian phịng này. Lẽ tất nhiên con đường dốc và gian phịng này điều bí mật cho đến khi nĩ vẫn chưa hề bị khám phá. Tơi khơng khỏi cảm thấy kinh sợ, do sự phát hiện đột nhiên này, trong khi một sự tị mị mănh liệt cũng khơng kém khiến tơi tự hỏi đâu là chỗ cửa vào con đường hầm bí mật này và cửa đĩ ra sao. Sau cùng tơi day đầu lại và liếc nh́n ra phía sau để hy vọng t́m thấy cái cửa bí mật. Tơi lọt vào con đường dốc này mà khơng do một ngă nào, nhưng giờ phía cuối đường hầm tơi nhận thấy rằng hầu như chỗ cửa vào đă bị đĩng chặt bởi những tảng đá vuơng lớn và trét bằng một chất nhựa giống như xi măng. Tơi xem xét một vách tường đá trắng, kế đĩ tơi cảm thấy như bị xơ té bởi sức mạnh vơ h́nh khơng cưỡng lại được, cho đến khi tất cả cảnh tượng ấy biến mất dạng và tiếp tục bay lơ lửng trên khơng gian. Tơi cịn nghe cái âm hưởng vọng lại từ xa như một tiếng vang "Chưa phải lúc ... chưa phải lúc ... " và trong giây phúc tơi đă nh́n thấy cái thể xác vơ tri bất động của tơi nằm trên tảng đá. Vị đạo trưởng già nĩi nhỏ với tơi.



- Con hỡi! Con cĩ t́m thấy cái cửa bí mật hay khơng, điều ấy cũng khơng quan hệ ǵ. Con hăy t́m trong nội tâm con đường huyền bí nĩ đưa con đến nơi thánh điện ẩn dấu trong chỗ thầm kín của linh hồn, rồi con sẽ t́m thấy cái kho tàng bí mật. Sự bí mật của Kim Tự Tháp chính là sự bí ẩn trong người của con vậy. Những thánh điện thâm nghiêm, những di tích chứng minh của thời cổ, tất cả đều cĩ chứa bên trong linh hồn của con. Bài học của Kim Tự Tháp chính là đây: Con người phải quay về nội tâm, thám hiểm tận chỗ trung tâm huyền bí của bản chất ḿnh để t́m thấy chân ngă, cũng như người ta phải thám hiểm tận chỗ thâm sâu ẩn dấu của ngọn tháp này để khám phá ra điều bí mật tối trong của nĩ. Thơi, ta vĩnh biệt con từ đây!



Tâm hồn tơi quay cuồng trong một cơn giĩ lốc nĩ lơi cuốn tơi đi, tơi trượt xuống dưới thấp, xuống thấp măi, một sự mê man nặng nề xâm chiếm lấy tơi. Tơi thu thập tàn lực để cố gắng cử động những bắp thịt đă cứng đơ, nhưng vơ hiệu quả, sau cùng tơi ngắt liệm đi ...



Tơi giật ḿnh và mở mắt dậy trong bĩng tối dày đặc. Khi tồn thân tơi đă co giăn lại được, tơi dị dẫm trong đêm tối để t́m ngọn đèn bấm và bậc đèn lên. Tơi vẫn ở trong Vương Cung, tinh thần căng thẳng đến cực độ, làm cho tơi phải phĩng ḿnh nhảy dựng lên và kêu to, tiếng kêu của tơi vang dội lại rền rỉ trong đêm trường. Nhưng thay v́ chân tơi đạp lên mặt đất phía dưới, tơi cảm thấy dường như tơi bị rơi trong khoảng khơng. Tơi bèn đưa hai tay quơ và bám chặt lấy cạnh của tảng đá và treo ḿnh lủng lẳng trên vực thẳm, nhờ đĩ tơi mới khỏi té ngă. Khi đĩ tơi mới việc ǵ đă xảy ra. Khi tơi vừa nhảy dựng lên tơi đă đi đến đầu cuối của tảng đá mà tơi khơng hay và hai chân tơi đă ở phía trên một cái lỗ trống đào sẵn ở phía gĩc tây bắc của gian phịng.



Tơi bèn định tĩnh tinh thần và tự gỡ ḿnh thốt ra t́nh trạng đĩ một cách an tồn. Tơi lấy đèn bấm soi đồng hồ đeo tay th́ thấy kiếng đă bể ở hai nơi do hậu quả của bước nhảy, khi tơi quơ tay đụng vào tường. Nhưng đồng hồ vẫn cịn chạy, phát ra tiếng kêu "tích tắc" nhẹ nhàng và lanh lẹ. Khi tơi xem giờ, tơi muốn phát cười to lên, dẫu rằng giữa bầu khơng khí cỗ kính thâm nghiêm này.



Đồng hồ chỉ vừa đúng nửa đêm, cái giờ cổ điển của những biến cố ly kỳ. Hai cái kim giao nhau chỉ đúng ngay vào số mười hai, khơng suy chuyển một phút hơn hay kém!



Khi viên cảnh binh trực đêm mở cái cổng sắt vào lúc mặt trời mọc, một lăng tử ḿnh dính bụi bậm, dáng điệu mệt nhọc hai mắt thâm quầng, tập tễnh đi ra từ phía hành lang tối om bên trong Kim Tự Tháp. Y dụi hai mắt, và nh́n ra về phía đồng bằng với những cảnh vật quen thuộc. Trước hết y hít những hơi thở dài để thở bầu khơng khí tự do trong lành. Rồi do bản năng thúc đẩy, y quay mặt về phía RÂ, bầu tinh tú của lúc b́nh minh, và âm thầm thờ kính Thần Thái Dương đă ban cho lồi người cái ân huệ vơ giá: Ánh Sáng
5. Nhà Phù Thủy Thành Cairo



Tại Cairo, người ta sống trong hai thế giới khác nhau. Bạn lọt vào thế giới Ả Rập khi từ cơng trường trung ương Ataba el Khadra, bạn đi về phía đơng. Bạn lọt vào thế giới Âu Tây hiện đại nếu bạn đi ngược lại chiều hướng trên. Một sự sống lạ lùng hỗn hợp Đơng Phương với Tây Phương, thời trung cổ với thời kỳ hiện đại, màu mè sặc sỡ và sự sống cẩu thả, thiếu vệ sinh của phương Đơng, cùng với sự ngăn nắp sạch sẽ của Âu Tây chung lộn với nhau dưới cái nhịp độ sinh hoạt thực tế hằng ngày. Chính tại Cairo mà tơi khám phá hằng hà sa số những pháp sư, phù thủy và đồng tử, nhà tiên tri và chiêm tinh gia, thầy bĩi và tướng số, tu sĩ và thuật sĩ, gồm những thành phần rất đơng đảo và đủ mọi hạng. Chính phủ Ai Cập đă ra lịnh cấm phần nhiều những hoạt động của họ, và áp dụng những biện pháp hạn chế. Mặc dầu tơi vẫn cĩ thiện cảm với những người thuộc thành phần kể trên, tơi phải nh́n nhận rằng chánh phủ hồn tồn cĩ lư khi áp dụng biện pháp gắt gao đối với họ. Những tay bợm băi thường lừa bịp những người mê tín nhẹ dạ, những người buơn thần bán thánh dễ thuyết phục những người sẵn sàn nghe theo họ, những kẻ tiên tri giả mạo thường làm cho cơng chúng tin tưởng nơi những sự lầm lạc của ḿnh. Người ta khơng thể làm được đúng mức những sự tổn hại mà các ơng thầy bĩi và tướng số sẽ gây cho thân chủ quá thật thà, thường vịn theo những lời bĩi tốn, tiên tri làm cái kim chỉ nam cho cách sinh hoạt và sử thế của ḿnh. Tuy vậy, người ta cũng biết khá đủ về những tệ đoan gây nên, nĩ là cho chánh phục phải can thiệp.



Dầu sao, trong số những thành phần ấy đă cĩ một vài nhân vật làm cho tơi thích thú ngồi phạm vi hành nghề của họ. Đĩ là: Một nhà phù thủy đă làm chết một con gà mái dưới mắt tơi bằng những câu thần chú và bằng khoa pháp mơn: Một nữ phù thủy người Soudan, đă đốn trúng rằng xứ Ấn Độ là nơi mà tơi đă trải qua một thời gian rất may mắn tốt lành, và sau đĩ đă tiên đốn vài điều về tương lai; một người thanh niên Ai Cập đạo Gia Tơ và gốc xứ Syrie, tin tưởng chắc chắn rằng y là hậu nhân của thánh Elie và sống một cuộc đời ẩn dật lánh xa thế tục như đấng tiên tri nọ; một ơng lăo dị kỳ sống với gia nhân trong một tịa nhà lớn bên cạnh một ngồi đền hồi giáo, và sống tách rời thế gian đến nỗi ơng ta dùng hết thời giờ của ḿnh để nĩi chuyện với các vong linh bí mật; một bà nọ rất can đảm, bất chấp lịnh cấm của vua Ibn Séoud, đă lén quay phim tại thánh địa Mecca, nhưng bây giờ lại muốn học hỏi vấn đề đạo lư với những bậc danh sư thượng thặng; nhà thuật sĩ trứ danh Tahra Bey, khơng ngần ngại cắn một lưỡi dao găm vào cỗ họng ḿnh hoặc vào ngực trên cổ quả tim mà khơng sao cả, thậm chí cũng khơng chảy máu. Những nhân vật khác nữa cũng làm cho tơi phải chú ư, nhưng tơi khơng thể diễn tả hết mọi người với đầy đủ chi tiết, mà chỉ kể đại khái những chuyện về một vài người đáng lưu ư nhất.



Một khía cạnh khác đời sống ở Cairo cũng rất hấp dẫn đối với tơi, đĩ là khía cạnh tơn giáo, v́ thành phố này đă từng là trung tâm truyền bá nền văn minh Hồi giáo trong khoảng trên một ngh́n năm.



Tơi t́m thấy chỗ ở của nhà phù thủy vào một buổi trưa hè nĩng bức, sau khi đă đi t́m đường rất lâu và mất rất nhiều cơng phu dọ hỏi. Tơi đi theo một con đường lớn vẫn cịn lĩt bằng những tảng đá rất cũ đến một khu xĩm ồn ào, cũ kỹ, b́nh dân, mà những con đường hẹp quanh co chen chúc nhau giữa ngơi đền hồi giáo El Azhar và khu nghĩa địa âm u Bad el Wazir. Một đồn lạc đà nối đuơi nhau đi vào thành phố, mỗi con lạc đà đều cĩ đeo trên cổ một cái lục lạc đồng, khiến cho cuộc diễn hành của chúng phát ra những tiếng khua nghe rất vui tai. Để t́m địa chỉ của nhà phù thủy, tơi vạch một lối đi xuyên qua nhiều ngơ ngách tối tăm, quanh co lẩn khuất như chốn mê cung, nhiều lối đi chật hẹp đến nỗi nền trời chỉ xuất hiện qua những khe hở khơng đều giữa những nĩc nhà hai bên đường. Tuy nhiên, ánh nắng mặt trời rọi xuống lối đi chật hẹp đĩ tạo nên một khung cảnh chỗ sáng chỗ tối trơng rất ngoạn mục.



Sau cùng tơi đi vào một con đường khúc khuỷu đưa đến nhà một người mà tơi t́m kiếm, xuyên qua những lớp bụi trắng rất dầy và những ngọn giĩ đưa vào từ những ngọn đồi khơ khan nhơ lên ở vùng ngoại ơ thành phố. Ngơi nhà rộng lớn và cĩ vẻ cũ kỹ, mặt tiền xây bằng những tảng đá dài sơn màu mè sặc sỡ, và trên gác cĩ nhiều cửa sổ, tơi đợi một lát th́ một đứa trẻ độ mười bảy tuổi ra hỏi với một giọng do dự:



- Thưa ơng muốn hỏi ai?



Khi tơi nĩi đích danh nhà phù thủy, th́ người thiếu niên lùi bước với vẻ ngạc nhiên. Hẳn là trong số những thân chủ của nhà này, khơng cĩ nhiều người Âu.



Người thiếu niên nĩi:



- Ơng kiếm cha tơi! Về chuyện chi, xin ơng cho biết?



Tơi cho biết ư kiến của tơi và đưa ra một tờ giấy giới thiệu viết bằng viết ch́. Khi y thấy chữ kư tên, đơi mắt y sáng lên, y mời tơi vào nhà, mời tơi vào phịng khách, chỉ một cái divan cĩ lĩt vải trắng và mời tơi ngồi. Kế đĩ, y bước lên lầu và liền trở xuống. Tơi nghe tiếng chân người lê những bước đi chậm chạp, và những người thiếu niên bước vào phịng, theo sau cĩ một người thân h́nh vạm vỡ, trạc độ sáu mươi tuổi, người này vừa bước vào vừa đưa tay lên trán để chào tơi theo lối bản xứ.



Y chồng trên đầu một chiếc khăn trắng phủ xuống tận vai, để một mái tĩc đen như huyền. Nét mặc y già dặn và biểu lộ một tính t́nh cỡi mở, tốt bụng, râu mép khá rậm những bộ râu dưới cằm th́ thưa. Đơi mắt y lớn luơn luơn nh́n xuống đất và đơi mí nheo lại. Y mời tơi cứ an tọa rồi y ngồi trên một chiếc ghế lớn.



Với vài lời vắn tắt, nhà phù thủy bài tỏ sự hân hạnh được tơi đến viếng, và mời tơi dùng giải lao trước khi vào đề câu chuyện. Tơi cám ơn, nhưng v́ biết rơ tập quán bổn xứ, tơi yêu cầu y đừng cho tơi uống cà phê, v́ tơi khơng dùng thứ ấy. Y mời tơi dùng trà của xứ Ba Tư, một thứ trà rất ngon, tơi bèn vui lịng nhận. Trong khi chờ đợi, tơi định phỏng vấn nhà phù thủy về đời tư của y, nhưng vơ hiệu quả. Ngồi vài lời độc âm ngắn ngủi theo phép lịch sự bổn xứ, y khơng chịu nĩi ǵ về cuộc đời của ḿnh. Trái lại, y xoay chiều câu chuyện và đưa ra nhiều câu hỏi về mục đích của tơi. Tơi trả lời thành thật và khơng do dự. Trong khi đĩ, người gia bộc đă dọn ra những thức ăn đặc biệt Ai Cập, gồm cĩ những khoanh bánh ngọt làm bằng bột ḿ trộn với mật ong đă chiên vàng, chuối và những chén trà Ba Tư thơm phức. Khi chủ nhà hiểu rằng việc sưu tầm của tơi khơng cĩ mục đích chế nhạo hoặc ác ư ǵ khác, y trở nên rất cở mở. Nhưng, dưới cái lớp nhă nhặn lịch sự bên ngồi đĩ, tơi nhận thấy y luơn luơn giữ ḿnh, dường như khơng muốn tiết lộ cuộc đời ḿnh cho người khách lạ. Bỗng nhiên, y thay đổi thái độ, và đề nghị cho tơi xem một vài bí thuật phù thủy của y. Y nĩi:



- Ơng hăy đưa cho tơi cái khăn tay.



Tơi đưa khăn cho y, y cầm lấy rồi trả lại tơi rồi nĩi:



- Được rồi. Bây giờ ơng hăy xé nĩ ra làm hai mảnh.



Tơi làm y theo lời. Y cầm lấy mảnh khăn và viết trên đĩ một vài dấu hiệu nguệch ngoạc bằng một cây viết mực. Xong rồi, y xếp mảnh khăn lại đưa cho tơi, và yêu cầu tơi để trong một cái dĩa nhỏ bằng đồng ở cạnh tơi trên divan. Tơi theo dơi với ít nhiều thích thú. Nhà phù thủy bèn cầm một mảnh giấy và vẽ trên đĩ một h́nh tam giác lớn, trong đĩ y vẽ vài dấu hiệu bí mật và vài chữ Ả Rập. Y đưa cho tơi mảnh giấy và bảo tơi để lên cái khăn đă xếp làm tư. Xong, y mới nĩi lầm thầm trong vài phút một thứ ngơn ngữ dị kỳ khĩ hiểu, hai mắt y nhắm nghiền. Rồi th́nh ĺnh y mở mắt ra.



Ngay khi đĩ, cái khăn bị xé hai bốc cháy trên cái dĩa đồng bên cạnh tơi. Ngọn lửa bốc lên cao làm tơi ngạc nhiên, và trở thành một luồng khĩi dày đặc bay khắp phịng. Khĩi làm tơi ngộp thở và cay mắt. Tơi bèn vội vă đứng dậy đi ra cửa, th́ nhà phù thủy đă ra đến đĩ trước tơi, y gọi người gia bộc mở hết các cửa sổ cho bớt khĩi.



Phải chăng đĩ là khoa phù thủy chánh hiệu, hay đĩ chỉ là một trị ảo thuật dùng những hĩa chất bắt lửa? Tơi khơng băn khoăn cho lắm về việc ấy, v́ tơi khơng thấy cần một sự chứng minh để làm ǵ. Nhưng ơng lăo tỏ vẽ rất hănh diện về cái kỳ cơng của y. Tơi hỏi:



- Ơng đă đốt cái khăn bằng cách nào?



- Bằng cách sai khiến âm binh.



Đĩ là câu giải thích của y, nĩ chẳng giải thích ǵ cả, nhưng tơi khơng hỏi thêm ǵ nữa. Đĩ là v́ Ai Cập người ta thường dùng cách đĩ để giải thích những điều mầu nhiệm ngồi lănh vực thiên nhiên.



Nhà phù thủy bảo tơi:



- Ơng hăy trở lại trong ba ngày nhưng ơng đừng quên đem theo một con gà lơng trắng. Tơi nhận thấy nơi ơng cĩ một cái ǵ tơi thích, bởi đĩ tơi vui lịng giúp ơng một việc. Ơng hăy nhớ đem một con gà tơ, đừng già quá, mà lơng trắng mà thơi.



Tơi nghĩ đến những tay phù thủy Phi Châu thường cắt cổ gà trống trắng rồi phĩng tia huyết gà lên đầu những thân chủ của họ, nên tơi từ chối lời đề nghị của ơng này. Y khẩn khoản mời mọc tơi nhiều lần, và nĩi thêm rằng nghi thức phù thủy này cĩ bàn tay của một vị thần linh rất cao tay ấn sẵn sàng hành động để phị trợ cho tơi. Nhưng tơi vẫn một mực từ chối. Sau cùng tơi nĩi cho y biết rằng loại nghi thức này làm cho tơi ghê tởm, và tơi thà khơng cĩ những sự lợi ích mà y đă gán cho việc hành lễ ấy. Nhà phù thủy bảo đảm rằng sẽ khơng cĩ việc đổ máu trong nghi thức này. Nghe như thế tơi đồng ư.



Một lần nữa, tơi lại đi qua con đường nhỏ hẹp dưa đến chỗ ở của nhà phù thủy. Lần này, tơi đi qua chợ bán gà vịt ở phía sau cơng trường Ataba el Khadra, và mua một con gà mái tơ lơng trắng. Tơi ơm con gà trong tay và cảm thấy hơi thở ấm của nĩ dưới lịng bàn tay tơi. Tơi tự hỏi khơng biết lăo phù thủy sẽ dành cho nĩ một số phận ra sao.



Khi tơi đến nơi, lăo phù thủy khơng cịn dè dặt nghiêm nghị như mọi ngày, mà lại mỉm cười. Y yêu cầu tơi để con gà ở giữa tấm thảm trải trên nền gạch, rồi bước qua ba lần trên một b́nh lư hương đốt trầm nghi ngút ở một gĩc phịng. Khi tơi đă bước qua ba lần trên khĩi trầm thơm phức, tơi bèn ngồi trên divan và nh́n lăo chủ nhà. Nhà phù thủy lấy ra một tờ giấy, vẽ trên đĩ một h́nh vuơng chia làm chín ơ vuơng nhỏ, trong mỗi ơ vuơng đĩ y vẽ một dấu hiệu thần bí hoặc một chữ Ả Rập. Kế đĩ, y niệm lầm thầm, một câu thần chú và đơi mắt y nh́n chăm chú vào con gà. Thỉnh thoảng, y dậm thêm vào những câu thần chú bằng một cử chỉ ngắn như ra lệnh bằng ngĩn tay trỏ. Con vật bắt đầu sợ hăy và chạy chốn vào một gĩc phịng, núp dưới một cái ghế. Khi đĩ, nhà phù thủy bảo tơi bắt con gà lại và để nĩ ở giữa tấm thảm như cũ. Tơi nĩi cho y biết tơi khơng muốn sờ vào con gà một lần nữa. Người con trai ơng lăo khi đĩ bước vào phịng ngồi với chúng tơi, y mới bắt con gà và để lại chỗ cũ.



Con gà lại bắt đầu tỏ vẻ sợ sệt và lại muốn chạy vào gĩc phịng. Nhưng lăo phù thủy, bằng một giọng mạnh mẽ, ra lịnh cho nĩ hăy nằm yên. Con gà bèn nằm yên lập tức. Lúc ấy, tơi nhận thấy tồn thân nĩ run lên. Nhà phù thủy lại mời tơi bước qua ba lần trên lị trầm. Khi tơi trở lại ngồi trên divan, con gà khơng nh́n vào lăo phù thủy nữa, mà hai con mắt nĩ nh́n về phía tơi cho đến lúc cuối cùng.



Khi đĩ tơi nhận thấy một sự lạ lùng. Hơi thở của con gà trở nên nặng nề và khĩ khăn, mỗi hơi thở chỉ cịn là một hơi thở dài và hổn hển, mỏ nĩ há ra luơn dường như nĩ đang cố gắng để đem khơng khí vào phổi. Nhà phù thủy bèn đặt lá bùa dưới đất ở một bên nĩ. Y lui gĩt một cách nhẹ nhàng về phía cửa mở, y đứng nơi đĩ và lại vừa đọc thần chú vừa nh́n thẳng vào con gà. Những câu thần chú của y lên giọng ra lịnh, lần lần người ta thấy con gà đă uể oải và như sắp tắt thở. Nĩ cố gắng một lần chĩt để đứng dậy nhưng lại té ngă xuống v́ kiệt sức. Vài phút trơi qua, nĩ giật ḿnh vài cái, hai cánh vỗ một cách yếu ớt. Những cử động của nĩ càng bớt dần và dứt hẳn. Thân ḿnh nĩ cứng đơ, rồi đến cái đầu, rồi tơi nhận thấy rằng con gà nĩng hổi mà tơi vừa đem đến nửa giờ trước đây, khơng thốt ra được lời nào và cĩ một cảm giác như buồn mửa. Lăo già yêu cầu tơi để cái khăn tay trên xác con gà, và nĩi với một giọng lạ lùng:



- Khoa pháp mơn đă thành cơng hồn tồn. Kể từ nay, vị thần linh đă giết con gà này sẽ phù trợ cho ơng. Đơi khi, tơi cũng đă làm một nghi thức như thế mà con gà khơng chết, đĩ là bởi v́ thần linh từ chối khơng chịu phị trợ cho thân chủ của tơi.



Tơi quan sát nhà phù thủy này suốt buổi hành lễ và thấy y luơn luơn nh́n xuống đất. Y giải thích thái độ đĩ như sau:



- Khi tơi niệm chú hơ thần để kêu gọi một vị, và khi thần linh xuất hiện để chịu cho tơi sai khiến, th́ khơng bao giờ tơi nh́n thẳng vào y. Đĩ là một trong những quy luật phải noi theo. Nhưng cuộc lễ hy sinh này chưa phải là đă xong. Ơng cịn bổn phận gĩi xác con gà lại và đem về nhà cho đến ngày mai, đợi đến lúc nữa đêm, ơng sẽ đi đến cầu Kasr el Nil và liệng xác nĩ xuống sơng. Trong khi đĩ, ơng hăy đưa ra một lời ước nguyện, và cĩ ngày thần linh sẽ giúp được ư ơng muốn.



Cái khăn của tơi khơng đủ để gĩi xác con gà. Tơi thấy trong phịng cĩ một tờ báo, tơi bèn dùng nĩ để gĩi lại. Về đến nhà, tơi đưa cái gĩi cho tên gia bộc Ả Rập cịn trẻ tuổi của tơi, và dặn y khơng nên mở ra và sờ mĩ ǵ đến nĩ cho đến đêm sau. Nhưng lời dặn này là thừa. Tơi chỉ nĩi thống qua là con gà đă bị hy sinh do bàn tay của một nhà phù thủy, và khơng phải dùng để ăn. Tên gia nơ lùi lại trong sự sợ hăi, và kể từ lúc ấy, y tránh khơng đến gần con gà.



Chiều đến, tơi ra tiệm dùng cơm với hai người bạn, một người Mỹ và một người Ai Cập. Tơi thuật lại cho họ nghe chuyện con gà bị giết bằng khoa phù thủy. Họ quả quyết rằng con gà bị giết bằng những phương pháp khác hơn là khoa pháp mơn. Về phần tơi, tơi khơng bày tỏ ư kiến ǵ mà chỉ giữ kín quan niệm của tơi. Khi thuật lại tất cả các chi tiết, họ phá lên cười, và con gà là đầu đề chính của câu chuyện chúng tơi trong buổi tối hơm đĩ. Tơi cũng phải thú nhận rằng tơi cũng mỉm cười khi tơi nghe những câu nĩi đùa châm biếm của những ơng bạn tơi về nhà phù thủy vắng mặt, họ dùng y làm cái bia cho sự những sự chỉ trích và bỡn cợt rất ngộ nghĩnh. Th́nh ĺnh tất cả đèn đuốc đều tắt phụt trong tiệm ăn trong khi chúng tơi cịn đang ăn dở bữa chưa xong. Tất cả những cố gắng của người chủ tiệm vẫn khơng thể nào làm cho đèn cháy lại được, và bữa tối hơm ấy kết thúc dưới ánh đèn nửa mờ nửa tỏ. Người bạn Ai Cập của tơi, cựu sinh viên trường đại học Sorbonne và cĩ tiếng là một con người đa nghi, bèn mất đi trong một lúc sự hài hước đùa cợt của y.



-Chính nhà phù thủy của anh đă làm chuyện ấy!



Y nĩi với một giọng với vẻ giễu cợt bề ngồi, nhưng tơi thấy bên trong cĩ ẩn một điểm lo ngại. Cĩ thể rằng cái cầu ch́ t́nh cờ bị nổ làm tắt điện, điều ấy là hiển nhiên. Nhưng việc này xảy ra trong những hồn cảnh nĩ làm tơi nhớ lại hai việc khác đă xảy ra một cách lạ lùng trong những trường hợp tương tự. Việc thứ nhất là trường hợp cá nhân của tơi, cịn việc thứ hai được nhà văn hào trứ danh Robert Hichens thuật lại cho tơi, cĩ quen thân với nhân vật chính câu chuyện.



Câu chuyện thứ nhất xảy đến cho tơi từ nhiều năm qua khi tơi theo đuổi về cuộc sưu tầm về những giáo phái xuất hiện về những thời kỳ đĩ, ở khắp Châu Âu và Mỹ Châu. Một trong những chi phái đĩ là do sự điều khiển của một phần tử bất hảo, cụ linh mục bị trục xuất khỏi Giáo Đường, nhưng y là một nhân vật cĩ quyền năng và kiến thức rộng. Do sự điều tra, tơi được biết rằng y cĩ một thuật thơi miên rất mạnh và y lợi dụng thuật ấy để đạt những mục d8ích tà vạy, để khai thác và làm tiền những kẻ nhẹ dạ mê tín. Thay v́ cảnh cáo những người mà tơi quen biết trong số các nạn nhân của y, tơi giữ kín sự khám phá của tơi, v́ tơi tin rằng những kẻ bất lương sớm muộn ǵ cũng phải đền tội.Yếu tố quyết định đă xảy đến dường như do sự t́nh cờ khi tơi gặp lúc mười giờ đêm, một thiếu phụ, vợ của một người mà tơi rất quen biết. Cách đi đứng của bà ta cĩ vẻ lạ lùng làm cho tơi phải ngừng bước giữa đường để hỏi chuyện với bà ấy, và tơi vơ cùng ngạc nhiên mà nghe nĩi rằng bà ta đang đi đến nhà của thầy dịng tu xuất để ngủ đêm tại đĩ. Tơi đưa bà ấy đến cột trụ đèn gần nhất và dưới ánh đèn điện, tơi quan sát cặp trịng trắng và con ngươi trong mắt bà ta, th́ thấy rằng bà ta đă hồn tồn bị thơi miên. Tơi thấy cĩ bổn phận phải giải tỏa phép thơi miên cho bà ấy ngay lập tức và thuyết phục bà hăy trở về nhà.



Qua ngày hơm sau, tơi đến viếng một người bạn Ấn Độ để hỏi thăm ư kiến của y về vấn đề này. Tơi thuật lại cho y nghe rơ tất cả những điều tơi khám phá về hành động bất lương của tên lưu manh nọ, và nĩi rằng theo ư tơi một ngưới như thế thật là quá nguy hiểm mà để cho họ tự do để làm hại kẻ khác. Người Ấn Độ đồng ư với tơi, y cịn tỏ ra vơ cùng phẫn nộ và đề nghị trừng phạt tên lưu manh bằng một sự trù ẻo nặng nề. Tơi biết rơ người bạn tơi đă được thụ huấn về mơn Yoga của Ấn Độ và về những bí thuật khác của các nhà đạo sĩ Đơng Phương: Một sự trù ẻo xuất phát từ cửa miệng của y khơng phải là chuyện tầm thường. Xét thấy rằng sự trừng phạt đĩ hơi quá đáng đối với trường hợp này, tơi nĩi rằng y cĩ thể hành động theo như ư muốn nhưng theo tơi nghĩ rằng nên dùng phương pháp nhẹ hơn, để làm cho tên nọ phải bỏ xứ ra đi mà khơng trở về. Người Ấn Độ bằng lịng, nhưng về phần y th́ điều đĩ cũng khơng ngăn trở y thốt ra một sự trù ẻo, và y đă làm. Xong rồi, tơi mới đi t́m tay đạo đức giả nọ, và thấy y đang tụ hợp một số đệ tử đơng đảo trong một gian phịng hẹp, nơi đĩ đang diễn ra một sự hỗn loạn ồn ào, vang rền tiếng kêu thất thanh của tên giáo chủ bịp bợm, biểu lộ một sự vơ cùng sợ hăi và tuyệt vọng.



- Ác quỷ cĩ mặt ở đây! Đĩ là do bàn tay của ác quỷ!



Tơi bật vài cái diêm quẹt, th́ thấy y nằm dài trên cái bục gỗ, dường như đang bị chứng động kinh và mê man bất tĩnh. Người ta thấp đèn cầy lên. Những đệ tử của y chở y sang một khách sạn gần bên, và cố gắng làm cho y tỉnh dậy bằng thứ giải lao quen thuộc của y là rượu Whisky. Trong khi đĩ những người khác thuật lại cho tơi nghe những ǵ đă xảy ra. Tất cả mơn đồ đang ngồi trên ghế, lẳng lặng nghe vị giáo chủ của họ thuyết pháp, th́nh ĺnh tất cả những bĩng đèn điện đều nổ tung một lượt với một sức mănh liệt như bom nổ, những mănh chai của các bĩng đèn bị hất văng ra tứ phía. Gian phịng bị đắm ch́m trong đêm tối, và giữa những cơn hỗn loạn kinh khiếp, họ nghe tiếng thầy họ té ngă một cách nặng nề trên bục gỗ và thốt ra những tiếng kêu thất thanh v́ kinh hăi. Tơi bèn theo y qua bên khách sạn, tơi viết một bức thư ngắn rồi bỏ trong một bao thư cĩ niêm phong cẩn thận. Tơi đưa bức thư đĩ cho viên trưởng tràng của nhĩm đệ tử bị gạt, và yêu cầu y đưa cho thầy y khi nào anh ta tỉnh dậy và cĩ thể đọc được.



Đĩ là một bức tối hậu thư, bắt buộc y phải rời bỏ thành phố trong vịng hai mươi bốn giờ và khơng được trở lại nữa nếu khơng cảnh sát sẽ truy nă y. Y bèn ra đi, và độ một năm sau, tơi nghe tin y đă chết trong một làng hẻo lánh. Nhưng điều lạ lùng nhất trong câu chuyện này là gian phịng bị tắt điện tối om đúng vào lúc mà cuộc lễ trù ẻo của người Ấn Độ bạn tơi lên đến mức độ hữu hiệu tuyệt đối!



Câu chuyện thứ hai liên hệ đến Huân Tước Carnavon, nhà khảo cổ đă khai quật lăng tẩm của vua Toutankhamon. Cả thế giới đều biết câu chuyện hy hữu về sự khám phá dị kỳ này, khơng một ai khơng biết rằng người cổ Ai Cập đă trù ếm những kẻ nào xâm phạm đến ngơi lăng tẩm này. V́ chứng bịnh bạo phát, người ta phải chở Huân Tước Carnavon đến Cairo để được điều trị bằng những phương liệu y khoa tốt nhất mà thành phố ấy cĩ thể cung cấp. Người ta đưa ơng Carnavon vào khách sạn Continenal Savoy, một trong những khách sạn lớn nhất của Cairo. Một buổi tối, ít lâu sau khi ơng được đưa vào đây, tất cả các ngọn đèn điện bị tắt. Đêm tối kéo dài gần một giờ. Khi đường dây điện được thiết lập lại, người nữ y tá săn sĩc cho Huân Tước Carnavon thấy ơng ta đă chết trên giường bệnh.



Bây giờ, thơi hăy trở lại chuyện con gà.



Hơm sau vào lúc nửa đêm, người ta thấy một người tay ơm một cái gĩi nhỏ lững thững đi qua cầu Kasrel Nil, đến giữa cầu y cĩ vẻ ngập ngừng chờ đợi lúc thuận tiện để thi hành một cơng tác ǵ bí mật. Việc ấy khơng thể dễ làm như người ta cĩ thể tưởng, v́ chiếc cầu này ở ngay trung tâm khu vực người Âu. Một trại lính Anh nằm ở một phía bên cầu, ở phía bên kia, là tổng hành dinh của viên Cao Ủy Anh, cĩ cảnh sát canh gát nghiêm nhặt. Vào giờ này mà ném từ trên cầu một vật khả nghi bọc bằng giấy xuống dịng sơng đen ngịm, lỡ cĩ ai nh́n thấy, phải chăng người ta kết luận rằng ḿnh là một kẻ sát nhân, toan vất bỏ một mảnh thi hài của người chết để phi tan? Tuy nhiên, tơi cũng cĩ dịp quăng cái gĩi xuống sơng từ lan can cầu. Khi nĩ rơi xuống nước với một tiếng chơm, người dạ hành thở phào một cái nhẹ nhơm và rảo bước đi ngay một cách an tồn. Tên gia bộc Ả Rập của tơi cám ơn Allah (Thượng Đế) khi tơi trở về nhà b́nh yên. Y cĩ vẻ sung sướng như một con mèo bắt được con chuột đầu tiên.



Trong những thăm viếng kế tiếp, tơi cố gắng yêu cầu nhà phù thủy giải thích những phương pháp của y với những chi tiết hơn, để cĩ thể biết xem đĩ cĩ phải là những trị ảo thuật khơng? Nhưng ơng lăo khơng muốn đề cập tới vấn đề ấy, và đắm ch́m trong những cơn im lặng kéo dài dường như đă lọt vào một thế giới khác, cĩ lẽ là thế giới của quỷ thần. Tơi hiểu rằng thật rất khĩ mà muốn cho một người kín đáo trầm lặng mở miệng để nĩi chuyện tâm t́nh cởi mở với ḿnh. Người con trai của ơng lăo trả lời những câu hỏi của tơi biết rằng cha y khơng hề nĩi cho bất cứ một người nào biết những bí mật của ơng ta. Chính người con trai đă từng hỏi cha y về những điều bí mật đĩ từ lâu để cho y cĩ thể nối nghiệp cha ḿnh, nhưng y liền bị từ chối và ơng lăo cho y biết rằng nghề phù thủy vừa khĩ thực hành lại vừa nguy hiểm. Ơng lăo đă thuật cho y nghe câu chuyện của một nhà phù thủy nọ, sau khi đă kêu gọi một vị thần để sai khiến, chừng xong việc rồi th́ khơng thể nào làm cho vị thần kia biến mất! Kết quả th́ vị thần kia phản ngược lại y và gây cho y những sự đau khổ gớm giếc kinh khủng! Đĩ là một ví dụ của những sự khĩ khăn trong nghề vẫn thường xảy ra. Hiện nay những người con trai theo học luật khoa, một nghành hoạt động ít nguy hiểm hơn, so với khoa phù thủy.



Thế là tơi khơng thể hy vọng nhà phù thủy già tiết lộ những bí mật của y, dù là thật hay giả. V́ chính cái màn bí mật này nĩ bảo đảm cho cái quyền năng và tiếng tăm của y. Tơi đành thơi khơng hỏi thêm ǵ nữa. Đĩ cũng là một sự tự nhiên nếu nhà phù thủy khơng thấy cao hứng để tiết lộ những điều cĩ ảnh hưởng đến tiếng tăm và sự nghiệp của ḿnh.



Nhưng nếu tơi khơng thể làm cho y cởi mở tấm lịng, th́ tơi tưởng tơi cĩ thể thuyết phục y nĩi cho tơi nghe những lư thuyết đại cương, và do đĩ tơi cĩ thể học hỏi được những ǵ bí ẩn đằng sau những câu chuyện mà người Ai Cập thuật lại về các loại thần linh. Trong khi tơi nĩi chuyện với y, th́ tơi nghe xuyên qua cửa sổ, tiếng trống nhịp nhàng đều đặn vọng lại từ một nhà gần bên. Bên nhà láng giềng, một tay phù thủy Ả Rập hạng trung cấp đang cố gắng, bằng những câu thần chú và tiếng trống, đuổi tà ra khỏi xác thân một người bệnh mà người ta cho là quỷ phá. Nhà phù thủy thấy tơi đang ngẫm nghĩ, bèn nĩi:



- Những dân tộc các ơng bên Tây phương khơng tin khoa pháp mơn cổ truyền của chúng tơi, bởi v́ khoa này sử dụng những sức mạnh của thần linh.



Tơi im lặng. Tơi hiểu thái độ tư tưởng của một người Phương Đơng một cách dễ dàng, nếu khơng, tơi đă khơng bao giờ chú ư đến những xứ này. Ở đây, người ta cho rằng thần linh ở khắp mọi nơi. Nếu một người bị đau ốm, hay bị một điều tai họa, đau khổ, đĩ là họ bị hung thần nhập xác hay ám ảnh cuộc đời họ. Nếu họ được giàu sang hay quyền thế, đĩ là v́ họ được sự phị trợ, giúp đỡ của một thần phị mạng tốt lành. Sau cùng tơi hỏi nhà phù thủy:



- Những vị thần đĩ như thế nào?



Tơi đă hỏi đúng lúc, v́ y đang vui vẻ. Y đáp:



- Ơng nên biết rằng những vị thần linh đĩ cĩ thật, tuy rằng người thời nay đă mất cái nhăn quan để nh́n thấy họ. Cũng như trong cơi vật chất cĩ lồi động vật, th́ trong cơi vơ h́nh cũng cĩ những cơi tâm linh, khơng phải người chết, mà họ xuất xứ trong cơi giới tâm linh. Đĩ là những thần linh. Tuy thế, ta đừng lầm họ với những linh hồn thú vật, v́ họ cĩ một tính chất khác hẳn. Vài vị thần cĩ trí khơn như người, cĩ những vị tốt lành như những bậc thánh, cũng cĩ những hạn khác là hung thần, ác quỷ. Nĩi chung những nhân vật trong cơi tâm linh cĩ thể chia làm ba hạng chính: Thần linh, nhân loại và Thiên Thần. Các hàng Thiên Thần, thuộc về hạng tốt lành, khơng hề sống trên mặt đất. Những hạn thần linh gồm cả thiện lẫn ác, cũng khơng hề sống trên thế gian. Cịn hạng nhân loại th́ đĩ là những người, nam hay nữ, đă từng sống ở thế gian và rời bỏ sau khi chết. Cũng như lồi vật cĩ bổn phận phụng sự lồi người ở cơi thế gian, như lồi chĩ, ngựa, lạc đà được tập luyện để biết vâng lời sai khiến của con người, th́ một vài thần linh cĩ thển để con người sử dụng và sai khiến trong cơi giới vơ h́nh hoặc hữu h́nh. Khoa pháp mơn thời cổ, cũng như khoa pháp mơn của vài nhà phù thủy chân chính cịn sống vào thời đại này, phần chính yếu là biết làm thế nào để kêu gọi sự trợi giúp của những hạng thần linh ấy. Nĩi tĩm lại, đĩ cũng là một loại thần linh học.



- Người ta dùng phương pháp nào để cĩ được sự trợ giúp đĩ?



- Trước hết, cần phải biết tên mỗi vị thần linh để cĩ thể ra lệnh cho họ. Kế đĩ, phải viết trên một tờ giấy một lá bùa gồm cĩ tên của vị thần, một đoạn kinh Coran, một số hệ lồng trong khung của một sơ đồ, thường là một h́nh vuơng hay h́nh tam giác. Điều thứ ba là phải đốt các loại hương trầm, mà thành phần các chất hương liệu sẽ thay đổi tùy theo tính chất vị thần mà ḿnh muốn kêu gọi. Điều thứ tư là phải đọc những câu thần chú. Sau cùng, phải cĩ quyền năng mà nhà phù thủy tiếp nhận được trong khi làm lễ thụ huấn do thầy y ban cho.



Nhà phù thủy ngưng một chút rồi nĩi tiếp:



- Nhưng muốn cĩ được cái bản lĩnh đĩ, người học trị khoa pháp mơn phải trải qua một thời kỳ tập sự lâu dài và nguy hiểm. Bởi đĩ khoa pháp mơn bao giờ cũng vẫn là cái sở đắc của một thiểu số người. Tơi cĩ thể tŕnh bày cho ơng biết những sự tin tưởng của chúng tơi, như tơi đang nĩi trong lúc này, nhưng cịn tiết lộ những bí thuật cĩ một giá trị thật sự, th́ tơi đă cĩ lời thệ nguyện với thầy tơi là khơng bao giờ làm điều đĩ, trừ khi nào tơi được truyền pháp cho một đệ tử được thâu nhận sau nhiều năm học hỏi. Thật là một điều nguy hại cho nhân loại nếu những bí mật của chúng tơi bị tiết lộ cho mọi người bởi v́ chừng đĩ những kẻ hung dữ cĩ thể lợi dụng khoa này để làm hại kẻ khác v́ mục đích ích kỷ, cịn về phần chúng tơi th́ sẽ mất hết quyền năng, khơng cịn hiệu lực ǵ nữa. Từ trước đến nay tơi vẫn luơn luơn từ chối việc thâu nhận học trị. Thật ra, theo những luật lệ của mơn phái chúng tơi, th́ tơi cĩ bổn phận truyền pháp cho một đệ tử trước khi tơi qua đời, để cho khoa pháp mơn được tồn tại măi măi trong nhân loại. Nhưng v́ tơi đă biết trước được ngày giờ tơi chết, nên tơi sẽ thi hành bổn phận đĩ vào đúng lúc.



Nhà phù thủy lại ngừng một lúc. Tơi lấy làm hài lịng mà được y từ bỏ sự dè dặt để nĩi chuyện cởi mở với tơi. Tơi bèn hỏi thăm về sự nhập mơn của y. Y đáp:



- Tơi xin kể một phần tiểu sử của tơi.Tơi sinh ra đă sáu mươi năm nay tại thành Suag, thuộc tỉnh Girga. Cha tơi cũng là một nhà phù thủy và chiêm tinh gia chuyên nghiệp nổi tiếng. Tơi cịn nhớ rơ, khoa pháp mơn của cha tơi hấp dẫn tơi một cách mănh liệt và làm cho tơi rất say mê. Cha tơi nhận thấy tơi cĩ khuyng hướng đĩ, người mới tuyên bố là truyền pháp cho tơi, và huấn luyện để chuẩn bị cho tơi nối nghiệp người. Cha tơi cĩ rất nhiều sách cổ viết bằng bút tự Ả Rập và những loại sách quư rất hiếm cĩ về khoa pháp mơn, người mới đưa cho tơi học. Sau khi người đă truyền pháp cho rồi, tơi bèn rời khỏi nhà rồi đến Cairo để vào trường Đại Học El Azhar. Hồi đĩ tơi mới cĩ 18 tuổi. Tơi học về các khoa văn chương và tơn giáo nhưng tơi vẫn hồn tồn giữ kín bí mật của tơi. Tơi cĩ đem theo vài quyển bút tự của cha tơi, và tiếp tục học sách ấy ở nhà. Tơi học được một điều, là phân biệt được những tính chất khác nhau của con người, cho đến khi tơi trở nên thuần thục để cĩ thể biết được với cái nh́n thống qua, tánh t́nh và ư muốn của một người.



Tơi rời khỏi trường Đại Học lúc tơi 28 tuổi. Sau đĩ tơi sống biệt lập ở một nơi hẻo lánh, và tiếp tục thực hành khoa pháp mơn cho đến khi tơi cảm thấy cĩ đủ bản lănh để cĩ thể hồn tồn kiểm chế và làm chủ được những Thần linh. Khi đĩ tơi mới thực sự bước vào nghề và bắt đầu nhập thế. Trừ phi người ta cĩ thể đạt được tới bản lănh đĩ, th́ tốt hơn đừng nên theo đuổi khoa pháp mơn. Mấy đứa con tơi đă van xin tơi truyền pháp cho chúng, nhưng tơi đă hướng chúng đi theo con đường khác, v́ tơi thấy chúng nĩ thiếu sự can đảm cần thiết để trở nên một nhà phù thủy lành nghề và cĩ thể thành cơng.



Tơi cũng đă thực hành khoa chiêm tinh. Nhiều người Ai Cập cĩ địa vị cao đă đến viếng tơi, và tơi thường tiên đốn vận mạng của họ. Những vị hồng thân, bộ trưởng, quan chức, phú thương điều cĩ đến hỏi ư kiến tơi. Một vị quan to của triều đ́nh Abyssinie đă nhờ tơi đốn số; năm ngối, tơi tiếp đốn vị cơng chúa của hồng triều Abyssinie. Quốc Vương xứ Maroc đă gởi đến tơi một vị đặc sứ mang theo quốc thư để hỏi về vận mạng tương lai.



Một năm nọ bốn tên ăn trộm lẻn vào nhà tơi lúc ban đêm định giết tơi để cướp của, tơi đuổi chúng đi với chỉ cĩ một cây gậy. Qua ngày hơm sau, tơi dùng bí thuật để biết tên của chúng. Sau đĩ tơi cĩ đủ bằng chứng để đưa chúng ra trước pháp luật và cho chúng lănh án năm năm tù. Cách đây khơng lâu, tơi được gọi đến một nhà bị ma khuấy phá, làm lật đổ bàn ghế và vật dụng trong nhà lúc ban đêm. Tơi đốt một lị hương trầm và niệm chú; trong mười lăm phút, vài âm binh đă xuất hiện. Đĩ là những âm binh đă khuấy phá trong nhà nọ. Tơi ra lệnh cho chúng phải đi ngay và để cho nhà kia được b́nh yên. Chúng bèn đi mất và mọi sự đều trở lại b́nh thường.



Nhà phù thủy vỗ hai tay làm hiệu, tên gia bộc bèn bưng ra một mâm đựng mứt, bánh ngọt và trà thơm Ba Tư. Nhân lúc dùng trà bánh, tơi hỏi:



- Cĩ thể nào làm cho một người khác thấy được những vị thần linh đĩ khơng?



- Được chứ, sau những cuộc chuẩn bị lâu dài và nhiều cố gắng, điều đĩ cĩ thể thực hiện được. Cuộc chuẩn bị gồm cĩ việc đốt trầm hương và niệm thần chú. Khi đĩ một vị thần xuất hiện từ luồng khĩi trong gian phịng tối tăm và nĩi lớn tiếng. Tơi khơng thực hành khía cạnh đĩ của khoa pháp mơn v́ tơi đă già để làm những cố gắng dày cơng như thế.



Tơi lấy làm ngạc nhiên trước nhân vật lạ lùng này, nếu y cĩ thể tiếp xúc với quỷ thần một cách dễ dàng như thế th́ đĩ thật là một người nguy hiểm. Tuy nhiên, y cũng tỏ ra cĩ những t́nh cảm như mọi người, v́ khi ấy đứa cháu gái y mới lên sáu tuổi và mặc quần áo ngộ nghĩnh bất chợt chạy tung tăng vào phịng, y cuối xuống hơn nĩ một cách rất tŕu mến và chơi với nĩ rất lâu.



Tơi lại hỏi:



- Những điều ngu hiểm của khoa pháp mơn này như thế nào?



- Người nào kiểm sốt và sai khiến được thần linh phải chịu nhiều điều nguy hiểm. Thần linh khơng phải chỉ là những vật vơ tri trong bàn tay của y. Đĩ là những nhân vật cĩ trí khơn và ư chí riêng biệt. Họ luơn luơn cĩ thể nỗi loạn chống lại người đă khuất phục được họ. Tuy họ tuân lệnh nhà phù thủy đă làm chủ được họ và phụng sự người ấy hết lịng, nhưng nếu nhà phù thủy mất sự tự chủ và ư trí của y bị sút kém, hoặc y lạm dụng quyền năng v́ mục đích tà bậy, th́ khi đĩ vài loại thần linh cĩ thể phản cơng trở lại và tác hại, gây cho y những khĩ khăn bất ngờ, như tai nạn hoặc chết bất đắc kỳ tử. Với sự trợ giúp của những thần linh đĩ, người ta cĩ thể làm được những việc phi thường, nhưng khi nhà phù thủy khơng đủ sức kềm chế thần linh, họ cĩ thể phản động lại một cách trắng trợn và hại người đă khuất phục được họ.



- Phải chăng người cổ Ai Cập cũng đă từng biết rơ những hạng thần linh đĩ?



- Lẽ tất nhiên, sự hiểu biết đĩ là yếu tố căn bản về quyền năng của các vị tăng lữ trong các đền cổ Ai Cập. Họ sử dụng thần linh như những vị thần canh gác mồ mả hoặc giữ kho tàng của cải rất vĩ đại. Người ta kêu gọi đến thần linh trong những cuộc hành lễ ở các đền thờ. Tơi cần nĩi thêm rằng cĩ khi người ta cũng dùng các thần linh để thực hiện những mục đích tà bậy, bất chánh.



Tơi thuật lại cho ơng lăo nghe kinh nghiệm của tơi trong Kim Tự Tháp lớn, khi tơi thức suốt một đêm trong Vương Cung, và cái kinh ảnh khi tơi nh́n thấy cái vong hồn của hai vị đạo trưởng già và con đường hầm bí mật.



Nhà phù thủy cho biết:



- Bên trong Kim Tự Tháp và ở vùng chung quanh thần tượng Sphinx cĩ một hạng thần linh đặc biệt. Những thần linh này đă bị các vị pháp sư lăo thành của thời cổ Ai Cập bắt nhốt tại đĩ để ǵn giữ những nơi bí mật ... Những vị thần linh ấy phĩng ra những ảo ảnh để đánh lạc hướng những người nào muốn đột nhập vào những chốn thâm nghiêm bí ẩn trong các đền thờ, và nhờ đĩ họ giữ ǵn cho những nơi ấy trở nên bất khả xâm phạm. Tơi cũng tin rằng Kim Tự Tháp lớn cĩ những đường hầm bí mật, những gian phịng kín và những tài liệu ẩn dấu. Tơi cũng đă đến đĩ một lần với ư định t́m kiếm những thứ ấy, nhưng v́ những người canh gác khơng cho bất cứ một ai đi xuống con đường hầm, nên tơi đành thất vọng trở về. Lẽ dĩ nhiên, những vị thần ǵn giữ những nơi bí mật của Kim Tự Tháp và thần tượng Sphinx cĩ thể bị lơi cuốn và mua chuộc, nhưng muốn như vậy, người ta phải biết rơ h́ng dáng và tên của họ cùng những câu thần chú đặc biệt để kêu gọi các vị thần. Nhưng tiếc thay, những điều đĩ nay đă mất khơng cịn nữa, và đă bị chơn vùi theo các nhà đạo sĩ cổ Ai Cập.



Tơi bèn hỏi những quyền năng mà y đă đề cập đến, v́ tơi được bí nhưng quyền năng đĩ khơng phải là vơ giới hạn. Y đáp:



- Lẽ tất nhiên chúng tơi khơng dám tự hào làm được bất cứ việc ǵ. Chúng tơi cĩ thể làm một vài việc, chỉ cĩ thể làm được một vài việc, thế thơi. Chỉ cĩ đấng Allah mới biết hết tất cả và quyết định mọi sự. Chúng tơi chỉ cĩ thể cố gắng thi thố tài nghệ của ḿnh mà thơi, cịn thành hay bại là tùy nơi đấng Allah.



Tơi xin kiếu từ và lại trở ra con đường hẹp và đầy cát bụi, dưới ánh nắng trong sáng của mặt trời thành Cairo. Tơi cịn cất trong túi áo một viên ngọc lớn, chùi láng bĩng, màu nâu đỏ, h́nh bầu dục mà nhà phù thủy đă tặng cho tơi để làm vật kỷ niệm, và theo như lời y cho biết th́ viên ngọc này ngày xưa là vật sở hữu của một vị vua Pharaon. Tơi ngắm viên ngọc và nghĩ đến nhà phù thủy mà tơi vừa tiếp xúc, cùng những thần linh bí mật vơ h́nh mà y nĩi là lúc nào cũng sẵn sàng vâng lời sai khiến của y. Tơi thấy rằng, khi đạt đến đĩ, người ta đă bước vào một lănh vực nguy hiểm, gần kề với khoa pháp mơn huyền bí và tà mơn tả đạo.



Những thần linh ấy phải chăng là những sự bịa đặt cổ truyền và vơ căn cứ? Khơng, tơi phải nh́n nhận rằng trong những cơi giới bí ẩn của thiên nhiên, cĩ những sinh vật khơng phải là lồi người. Một lư luận giản dị bằng cách so sánh cĩ thể đưa đến kết luận đĩ. Cũng cĩ thể là trong hàng ngũ những sinh vật vơ h́nh đĩ, cĩ những loại hung ác, tà bậy, cũng như cĩ những loại hiền hịa và tốt lành. Một vấn đề nữa là xác định xem những thần linh đĩ cĩ thể làm những việc phi thường chăng như là phù thủy đă tuyên bố. Tơi khơng thể giải đáp vấn đề đĩ ngay tại chỗ.



Tơi cĩ ư định nghiên cứu những khía cạnh của khoa pháp mơn chính hiệu. Đĩ là kết quả đầu tiên và lạ lùng mà tơi đă gặt hái trong chuyến du hành sang Ai Cập.





__________________
Chốn hư không Trời vô ngôn quán đảnh, Pháp hiện tiền vi tiếu một cành hoa
Quay trở về đầu Xem daoky's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi daoky
 
binhbinh
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 November 2002
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 239
Msg 2 of 4: Đă gửi: 13 August 2004 lúc 12:13pm | Đă lưu IP Trích dẫn binhbinh

Kính chào anh Daoky,

Em biết truyện này hay và rất có giá trị đó anh Daoky. Cám ơn anh chịu khó đánh máy vào đây. Anh đánh máy hay quá, chỉ phần trên đây chắc mất của anh ít nhất 2 tiếng đồng hồ ?

Kính,

__________________
T́nh thương là vũ khí mạnh nhất để chiến thắng kẻ thù
Quay trở về đầu Xem binhbinh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi binhbinh
 
ThienSu
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 December 2002
Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3762
Msg 3 of 4: Đă gửi: 13 August 2004 lúc 1:18pm | Đă lưu IP Trích dẫn ThienSu

Huynh DaoKy thân mến!
Đệ chưa xem hết bài này. Nhưng chép lại vào máy thấy dài 47 trang! Chắc huynh phải đánh máy ít nhất hai ngày mới xong.
Đang nể thật.
Thiên Sứ
Quay trở về đầu Xem ThienSu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienSu
 
daoky
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 06 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 502
Msg 4 of 4: Đă gửi: 17 August 2004 lúc 12:41am | Đă lưu IP Trích dẫn daoky

6. Niềm An Tĩnh Của Thánh Địa Abydos


Trên bảy ngàn năm trước khi đức giáo chủ Mahomet đem cho những bộ lạc du mụch xứ Ả Rập cái đức tin nơi một đấng Thượng Đế hồn tồn siêu linh, th́ xứ ấy đă từng cĩ một nền tơn giáo cổ thờ những thần tượng khổng lồ bằng đá mà về sau đức Mahomet chủ trương phải dẹp bỏ. Tuy vậy những tín đồ ưu tú nhất của nền tơn giáo cổ xưa đĩ thật ra cũng chỉ tơn sùng một vị Thượng Đế như đức Mahomet đă khởi xướng. Sự tín ngưỡng của họ khơng phải chỉ là tơn thờ thần tượng mà thơi.



Những nhà Ai Cập học uyên bác ngày nay khơng thể biết nhiều hơn về một tơn giáo thuộc về tiền sử cĩ rất ít tài liệu đến nỗi khơng ai cĩ thể vén tấm màn bí mật của nĩ, và người ta chỉ cịn đưa ra những giả thuyết về những nhân vật và những sự việc xảy ra vào một thời kỳ quá khứ xa xăm như thế.



Tại một vài nơi ở Ai Cập, những đến thờ cổ xưa và những ngơi đền Hồi Giáo ở gần sát bên nhau, chẳng hạn như tại Louqsor. Về điểm này, xứ Ai Cập cho ta thấy một sự tương phản lạ lùng. Đă bao lần những đồn kỵ binh hùng dũng của đạo binh xâm lăng Ả Rập đă từng cắm ngọn cờ xanh màu lục của đấng tiên tri khắp xứ Ai Cập. Thời gian trơi qua, ngọn cờ màu lục đă cĩ lúc chuyển qua các ngọn cờ màu hồng, màu trắng, màu xanh dương, rồi lại tái xuất hiện. Nhưng trong cái bối cảnh ở tận đằng sau, vẫn cịn rên rỉ tiếng cịi yếu ớt trong những ngơi đền cổ.



Xứ Ai Cập khơng thể làm mất đi những dấu vết của nền tơn giáo cổ của họ. Dĩ văng, giống như con chim phụng hồng, luơn luơn xuất hiện th́nh ĺnh trước mắt ta do cơng tŕnh đào xới của các nhà khảo cổ. Những di tích thần tượng bằng đá nhắc lại những thời đại cổ xưa, mà người đời khơng cịn biết đến nữa.



Tuy nhiên, cái ranh giới giữa dĩ văng và hiện tại vẫn cịn mơ hồ. Những người nhạy cảm đều đồng nhận thấy rằng cái bầu khơng khí cổ thâm nghiêm cùng sự tín ngưỡng đáng quư của những dân tộc biệt tích đĩ vẫn cịn phản phất một cách sự thật và đè nặng lên xứ này. Nếu những ngơi đền cổ của họ ngày nay chỉ cịn là những di tích hoang tàn, sụp đỗ, làm nơi trú ngụ của những lồi dơi vỗ cánh bay luợn trong đêm tối, nếu ở đĩ nay chỉ cịn một vài xác chết đă bị moi ruột, được những nhà chuyên mơn thời cổ dùng chất hương liệu ướp xác và tẩm liệm để giữ ǵn nguyên vẹn cho đến bây giờ, th́ dù sao vong hồn của họ cũng cịn phản phất khơng xa những chốn đền đài cổ kín mà xưa kia họ đă từng quen thuộc. Cái mănh lực, quyền uy của người chết vẫn cịn tồn tại ở Ai Cập một cách bền bỉ hơn bất cứ ở xứ nào mà tơi được biết.



Cái dấu vết tinh anh tế nhị đĩ, tơi lại cĩ dịp nhận thấy khi tơi ngồi xếp bằng ở một chỗ kín đáo bên trong một dăy hành lang nhiều cột trong ngơi đền Seti ở Abydos. Những h́nh tượng lạ lùng nh́n tơi hoặc biểu dương các tư thế trên vách tường chung quanh. Cái ấn tượng mạnh mẽ của quá khứ xâm chiếm lấy tâm hồn tơi và đưa đến trước mắt tơi những linh ảnh của một thời đại đă bị xĩa mờ trong dĩ văng.



Tơi nh́n thấy một cách vơ ư thức những đám rước cổ xưa đi vào đền và tiến bước một cách nhịp nhàng vào những nơi thánh điện. Tơi cản thấy cái quyền uy của những vị tăng lữ kiêm pháp sư thời cổ đă từng làm cho Abydos trở thành một trung tâm tơn thờ thần Osiris, vị thần mà họ h́nh dung là đội một cái măo cĩ ba ngấn. Những lời cầu nguyện của họ đă phĩng ra những tiếng vang dội đến tận trời xanh và từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Sự hiển diện im lặng và huy hồng của một đấng thần linh cao cả bắt đầu bao trùm lấy tơi và làm cho tơi ngây ngất. Dưới đơi cánh che trở của người, tơi thấy rằng cuộc đời thế tục của tơi với những dục vong lăng xăng của nĩ, bắt đầu mở dần và biến mất như cát trơi qua kẽ ngĩn tay. Vào thời trước, Strabon đă viết:



- Tại Abydos, người ta thờ thần Osiris, nhưng trong ngơi đền này th́ khơng một nhạc cơng nào được phép dùng nhạc khí như ống sáo hay đàn dây để mở đầu những nghi lễ cúng tế thần theo nghi thức thơng thường trong những cuộc hành lễ tơn giáo.



Sự an tĩnh tốt ra từ những vách tường trắng của gian phịng này, một niềm an tĩnh thần tiên mà thế giới bên ngồi khơng biết được và khơng thể hiểu. Khơng phải trong sự náo động ồn ào mà người ta t́m thấy trong những giờ phút tốt đẹp của đời ḿnh, chỉ khi nào sự an tĩnh từ từ lướt nhẹ vào tâm hồn ta, ta mới cĩ được sự hợp nhất thâm thúy với hạnh phúc, minh triết và quyền lực thiêng liêng.



Tơi ngồi một cách thoải mái trong một gĩc tường, cĩ lẽ giống như một vị tăng lữ thời xưa, một trăm thế hệ trở về trước, và để cho cái ảnh hưởng êm đềm của bầu khơng khí chung quanh thấm nhuần vào người tơi như một giấc mơ. Thật là một điều kỳ diệu mà cảm thấy ḿnh cơ lập trong giây lát, quên đi tất những kết quả mà sự văn minh tiến bộ đem đến cho ta. Quên đi sự ích kỷ cố hữu của thế nhân, những sự hiểu lầm khơng tránh khỏi, những thù ghét vơ lư, những sự ganh tỵ đắng cay nĩ sẽ ngẩn đầu lên như con rắn để phun nọc và mổ vào ḿnh ta, khi ta trở về với cơi thế tục vơ minh hắc ám! Tơi tự hỏi: "Tại sao người ta phải trở về đấy nhỉ?"



Sự cơ đơn dường như là một điều bất hạnh đối với chúng ta, nhưng một sự minh triết thâm sâu dạy cho ta biết nh́n nĩ như một ân huệ. Chúng ta phải vượt lên đỉnh núi cao tột của những điều mơ ước và hăy tập quen sống trong sự cơ đơn. Bởi v́ chúng ta muốn t́m thấy sự sống tâm linh giữa đám đơng người, ta sẽ thấy ǵ? Linh hồn khơng cĩ ở đĩ. Nếu ta muốn t́m chân lư hay sự thật, ta chỉ thấy cĩ sự hư giả, dối trá.



Sự ấm áp vốn ngự trong tâm hồn. Người ta cĩ thể trăi qua một buổi dạ hội trong một phịng khách lớn, giữa một nhĩm độ ba bốn người, và vẫn thấy ḿnh cơ độc như ở trên băi sa mạc Sahara. Những thân h́nh cĩ thể ngồi lại gần nhau, những tâm trí họ vẫn cách biệt muơn trùng, và mỗi người vẫn thấy ḿnh cơ độc. Cĩ người mời ta đến nhà v́ phép xă giao bắt buộc, theo những lề lối thơng thường, chúng ta đến nơi nhưng chủ nhà khơng cĩ ở đĩ để tiếp ta. Y chỉ để lại đĩ cĩ cái xác khơng hồn, v́ biết rằng giữa tâm hồn ta với y cĩ một vực quá sâu thẳm để cĩ thể lấp bằng. Làm quen với một người như thế, thà rằng đừng làm quen nữa cịn hơn! Những ǵ Thượng Đế đă phân ly, ngăn cách, th́ con người chớ khéo kết hợp lại!





Tơi đă lên dường để t́m sự bằng an của cơi trời, một cơi giới bao la mà những tin tức thời sự của trần gian khơng hề lọt vào. Tại sao ta khơng chịu sống cơ đơn và nhận lấy những ân huệ tốt lành của một cuộc đời ẩn dật, thốt ly khỏi những điều phiền năo vơ ích, ở những nơi vắng vẻ tĩnh mịch như tại ngơi đền Abydos này?



Chúng ta thường khinh rẻ những người bỏ cuộc đời thế tục để đi t́m một đời sống cao thượng hơn, trong khi mà sự ẩn dật của họ chỉ cĩ mụch đích là sẽ trở lại để truyền cho người thế gian một vài điều tốt lành. Tơi nhớ lại lời cam kết long trọng của tơi với những bậc mà tơi kính trọng, tơi biết rằng sự trở về của tơi là khơng thể trq1nh khỏi. Tuy nhiên điều này khơng làm cho tơi lo buồn, v́ tơi cũng hiểu rằng bao giờ tơi chán nản cuộc đời trần gian, tơi lại cĩ thể trở về với cái nguồn gốc thâm trầm của bản chất tâm linh tơi và lại t́m thấy sự mát mẻ của tâm hồn, ung dung tự tại, bằng an và hạnh phúc.



Thật vậy, trong sự im lặng thiêng liêng đĩ từ trong nội tâm của tơi, tơi cĩ thể rơ ràng nghe tiếng nĩi của Thượng Đế, cũng như trong cái im lặng thâm trầm của ngơi đền Abydos tơi cĩ thể nghe những tiếng yếu ớt hơn của những đấng thần minh. Khi ta sống với ngoại cảnh, ta sống giữa những h́nh bĩng hư ảo và những sự băn khoăn, ưu phiền, nhưng khi ta hướng vào bên trong, ta sẽ thấy những chân lư siêu việt và những niềm phúc lạc trường cửu.



Chúng ta đă mất cái nghệ thuật ngồi một ḿnh, chúng ta khơng cịn biết phải làm ǵ trong những giờ phút cơ đơn. Chúng ta khơng biết t́m hạnh phúc trong cái kho tàng thầm kín của lịng ta, chúng ta phải bỏ tiền ra để mua lấy sự tiêu khiển từ bên ngồi, hoặc trả tiền thù lao cho những kẻ đem cho ta một thú vui giả tạm trong chốc lát. Khơng những chúng ta khơng biết ngồi một ḿnh, mà chúng ta cịn khơng biết giữ im lặng. Nhưng nếu chúng ta biết ngồi im một chỗ trong một thời gian ngắn và sử dụng tâm trí theo một phương pháp nhất định, chúng ta sẽ thu hoạch được một sự minh triết thâm sâu đáng kể, và đem cho tâm hồn ta một sự bằng an tuyệt vời.



Tơi ngồi suốt như thế trong suốt hai tiếng đồng hồ, thời gian trơi qua, tiếng kim đồng tay vẫn chạy đều vọng vào tay tơi, tơi lại mở mắt một lần nữa. Tơi nh́n quanh, những cột trụ lớn và chắc của gian phịng đỡ lấy cái trần nhà dầy đặc. Những tia nắng xuyên qua những lỗ hở trên nĩc chiếu vào phịng làm nổi bậc lên những h́nh tượng các vị thần chạm trổ trên vách. Người ta thấy một vị vua Pharaon đứng chiêm ngưỡng một vị thần được tơn sùng vào thời đĩ hoặc được dắt trước tượng thần Osiris. Ngồi ra, cịn cĩ những loạt hàng chữ ám tự khắc trên vách, ư nghĩa rất bí hiểm và khĩ hiểu đối với người thường.



Người ta thấy ở khắp nơi h́nh ảnh của vua Pharaon đang chiêm bái, dâng hương và nhận lănh ân huệ của các đấng thần minh. Trong một thánh điện đặc biệt, khơng dành riêng cho sự thời phượng một đấng thần linh nào nhất định, cĩ nhiều vị thần của Ai Cập được tơn sùng. Mỗi vị cĩ một bàn thời riêng, thời h́nh tượng hoặc vẽ hoặc tạc trên đá, nhưng tựu trung th́ thần Osiris giữ một ưu thế tuyệt đối và một cấp bậc cao hơn tất cả. Bảy nơi thánh điện xây bằng những tản đá lớn được dành cho các vị thần Horus và Isis, Ptah và Harakht cùng những đấng thần minh khác.



Nữ thần Isis mang tấm màn thưa che mặt, tức nữ thần Minh Triết, được h́nh dung tại đây với vẻ hiền từ của một đức hiền mẫu, đưa cánh tay mặt ra đặt trên vai của vua Pharaon sùng tín. Một bên ngài là chiếc thuyền bát nhă, giữa thuyền cĩ đặt một bàn thờ chạm h́nh hoa sen, giịng nước dợn sĩng sẵn sàng đưa nữ thần lên tận cảnh giới Thiên Đường cực lạc là nơi cư ngụ của các đấng thần minh, các vị nữ thần và những người trần gian được các ngài ban ân huệ. Trước cảnh tượng này, người du khách sẽ ngạc nhiên tự hỏi sao người cổ Ai Cập lại cĩ thể quá ngây ngơ để chấp nhận những sự tin tưởng đĩ, những vị thần nay đă hồn tồn biệt tích và những con thuyền bát nhă linh thiêng chở các đấng ấy lên Trời. Thật ra những chiếc thuyền ấy chỉ là những biểu tượng, yếu tố của một thứ ngơn ngữ huyền bí mà các đạo gia ưu của thời xưa hiểu được dễ dàng nhưng thế giới hiện đại khơng thể nào hiểu nổi. Cịn những đấng thần minh, đĩ khơng phải chỉ là những điều hư giả. Trong cái vũ trụ vơ biên vơ tận của Thượng Đế, cĩ những cảnh giới dành cho những nhân vật khác hẳn và tiến hĩa cao hơn lồi người. Nếu trải qua thời gian tên họ và h́nh dáng của những vị ấy tiến hĩa và thay đổi, th́ tính chất căn bản của họ vẫn giữ nguyên vẹn, bất biến.



Tơi đồng ư với Plutarque khi ơng ta nĩi rằng: "Chỉ cĩ bấy nhiêu vị thần chung cho tất cả mọi dân tộc khác nhau, dù là dân Hy Lạp hay dân tộc dă man cũng vậy. Cũng như mặt trời, mặt trăng, các bầu tinh tú, trời cao, đất rộng, biển cả là của chung của muơn lồi, th́ những đấng thần minhũng là sở hữu chung của tất cả mọi người, dẫu rằng mỗi quốc gia hay dân tộc đặt cho các đấng ấy những cái tên khác nhau."



Nếu những đấng ấy lọt ra ngồi tầm nhăn quang của chúng ta, cơng tŕnh của họ vẫn khơng phải là đă chấm dứt. Họ hoạt động trên những cơi vơ h́nh mà chúng ta khơng nh́n thấy, nhưng chúng ta vẫn ở trong vịng ảnh hưởng của họ. Họ luơn luơn dịm ngĩ đến bầu thế giới được giao phĩ cho họ săn sĩc chăm nom. Họ vẫn tiếp tục kiểm sốt, điều khiển sự tiến hĩa của nhân loại, dẫu rằng họ khơng cịn xuất hiện dưới thế gian. Tơi tin nơi các đấng thần minh, cũng như người cổ Ai Cập. Tơi cho các đấng ấy là một tập đồn gồm những bậc siêu nhân loại, cĩ sứ mạng trơng nom điều khiển vận mạng, và d́u dắt những hoạt động chính yếu của các dân tộc, và sau cùng, hướng dẫn từng cá nhân và từng sự việc thế gian đi đến cứu cánh hồn hảo và tồn diện.



Bảy thánh điện trong ngơi đền Abydos đă chứng minh người xưa đă từng dùng lửa và nước, dâng hương và cĩ những nghi thức lễ bái cầu nguyện. Những cuộc hành lễ này cĩ tính cách thời h́nh tượng hoặc cĩ tính cách tâm linh tùy theo quan niệm và ư đồ của những người hành lễ. Người nào cho rằng những nghi thức cúng tế bề ngồi là đủ thay thế cho đạo đức, rơi vào sự mê tín dị đoan. Người nào dùng nghi thức lễ bái như những biểu tượng để nhắc nhở, khiêu gợi lịng sùng tín và lịng hy sinh mà y muốn hiến dâng suốt đời cho đấng Tạo Hĩa, sẽ tăng tiến đạo hạnh trong nền tơn giáo chân chính. Cịn vị tăng lữ dùng những nghi lễ của khoa pháp mơn cổ truyền, th́ gánh lấy một trách nhiệm rất lớn, v́ y cĩ thể kêu gọi đến những mănh lực vơ song thuộc về quyền năng của ác quỷ hay của Thiên Thần. Kẻ phàm tục khơng hề được phép đột nhập vào nơi thánh điện tơn nghiêm này, mà những bàn thờ thếp vàng lĩng lánh hồi thời cổ xưa, nay đă biệt tích. Trong phần nhiều những đền cổ Ai Cập mà chỉ cĩ giai cấp tăng lữ là đĩng vai trị cốt yếu. Những vị tăng lữ này đă từng tranh thủ và chiếm giữ uy quyền trong lúc thhịnh thời, sau cùng đă mất hết cả ảnh hưởng đối với dân chúng khi nền tơn giáo cổ bắt đầu suy tàn.



Thời gian đem đến với nĩ những sự biến thiên lạ lùng, chiếc hịm đá của nhà vua Pharaon sáng lập ra ngơi đền này, cổ quan tài đựng xác ướp của vua Seti, ngày nay đang nằm ở cách Abydos trên ba ngh́n dậm đường, trong một cổ tàng viện ở giữa thành phố Luân Đơn náo nhiệt phồn hoa. Tơi nghĩ rằng nếu thi hài nhà vua này được chơn sâu hơn độ ba muơi thước nữa dưới lịng đất, th́ cĩ lẽ xác ướp của ơng ta đă tránh khỏi cái lộ tŕnh từ Ai Cập sang Anh Quốc.



Tơi đến ngồi dưới bĩng mát của gian phịng cĩ nhiều cột. Tục truyền rằng chính Abydos là nơi mà Osiris, bậc thánh nhân thời cổ Ai Cập, được tẩm liệm và chơn cất trong nghĩa địa của nhà vua Thinis, một thành phố ngày xưa được dựng lên ở tại đĩ nhưng nay đă biệt tích. Vua Neferhotep cho biết rằng ơng đă khám phá ra Abydos trong t́nh trạng điêu tàn khi lên ngơi vua Pharaon. Ơng cho biết rằng ơng đă sưu tầm trong thư viện thành Heliopolis để t́m ra những tài liệu nĩi về ngơi đền Osiris ngày xưa được dựng lên ở Abydos. Ơng nĩi thêm rằng sau khi nghiên cứu những tài liệu cổ xưa ấy, ơng đă cĩ thể phục hồi lại những nghi lễ đă mất. Những v́ vua kế nghiệp ơng sau đĩ đă dùng tài liệu này để sửa sang lại những chỗ hoang tàn, xây cất lại ngơi đền và cất thêm nhiều kiến trúc mới chung quanh. Như thế, những đền đài cổ đă được dựng lên trong thành Thinis, nhưng thời gian đă tàn phá tất cả.



Trong thời kỳ sơ khai của xứ cổ Ai Cập, những nghi lễ huyền bí của Orisis là một nghi thức chính đại của nền tơn giaĩ cổ, và người ta thực hành những nghi lễ này trước tiên tại Abydos. Bởi đĩ, nơi này, ngày xưa là một trong những thánh địa thiêng liêng nhất. Tơi hiểu rằng chính cái bầu khơng khí cổ xưa đĩ hăy cịn phảng phất đâu đây và gây cho tơi một ấn tượng sâu xa, trong khi tơi vẫn dửng dưng đối với những nghi thức trịnh trọng mà người ta vẫn thực hành hằng ngày trong những tịa thánh diện rất tráng lệ nhưng kém cổ xưa của vua Seti dựng lên. Lịch sử buổi sơ khai của thánh địa Abydos cĩ liên hệ mật thiết với tiểu sử của Osiris và thục lùi trong vực thẳm của thời gian về thời kỳ tiền sử của Ai Cập, một cái dĩ văng xa xăm khơng cịn dấu vết trước cả thời kỳ xuất hiện của các v́ vua Pharaon, nghĩa là từ thuở ban đầu. Đĩ là cái thời kỳ xa xưa mà các đấng thần minh vẫn cịn chưa biệt dạng khỏi tầm nhăn quang của con người, cái thời kỳ mà theo các sử gia Ai Cập, những bậc Thánh Vương hăy cịn cầm quyền cai trị dân gian.



Tơi nghĩ rằng: Thật là huyền diệu thay! Những luồng từ điển huyền bí vẫn tiếp tục rung động một cách thường xuyên ở tại đây, luơn luơn sống động và duy tŕ cái bầu khơng khí thần diệu của thánh địa Abydos từ thời tiền sử, mà những tâm hồn nhạy cảm mà cĩ thể cảm xúc được.



Chính tại đây, Abydos, là nơi được thành lập ngơi đền chính và đầu tiên để thời thần Osiris tại Ai cập. Nhưng Osiris là ai? Truyền thuyết và huyền thoại nĩi rằng đĩ là một nhân vật bị sát hại và phân thây, nhưng về sau những mảnh thi hài được chấp nối lại làm cho người sống lại.



Tơi đă thiền định rất lâu để t́m hiểu vấn đề này và đợi câu trả lời ... Lời giải đáp đă đến với tơi từ cái im lặng chơn sâu tự muơn đời trong dĩ văng:



Hồi thời kỳ Atlantide, một vị Thánh Vương đă tiên liệu cần phải xây dựng một nơi cư trú mới cho những người đạo đức tâm linh trong giới thế hệ trẻ, và đă di cư cho họ về hướng đơng, trên một vùng đất gọi là xứ Ai Cập ngày nay. Vị Thánh Vương ấy đă biến hĩa rất cao đến một tŕnh độ siêu nhân loại, tức tŕnh độ của các bậc thần tiên, bởi đĩ Ngài khơng những là một nhà lănh đạo cai trị dân gian như người ta hiểu theo lối thường t́nh của thế nhân, mà người ta cịn suy tơn Ngài như thần thánh. Ngài mới sắp đặt cuộc di cư cho những phần tử ưu tú đĩ ra khỏi lục địa, trong khi châu Alantide đang đạt tới mức văn minh tột đỉnh, v́ những đấng Thần Minh đă bắt đầu chuẩn bị những vùng đất mới từ lâu trước khi châu Atlantide bị thiên tai và biệt tích.



Như thế, khơng để cho châu Atlantie sụp đổ, nhiều đồn người trong số những phần tử u tú nhất bắt đầu tảng cư. Những người ở miền tây châu ấy di cư sang vùng Trung Mỹ và Nam Mỹ châu, cịn những người thuộc các đế quốc miền đơng châu Atlantide di cư sang Phi Châu, và đặt nền tảng cho văn minh Ai Cập.



Những người ấy sửa soạn tàu bè, trương buồm lướt sĩng trực chỉ hướng đơng. Vùng này đối với họ hăy cịn xa lạ, họ đến đĩ khai phá đất hoang và thiết lập nhiều vùng thuộc địa mới trên những điểm khác nhau dọc theo miền duyên hải Âu Phi. Đồn người do sự điều khiển trực tiếp của Osiris đặt chân lên vùng đất Ai Cập thời tiền sử, họ dừng chân trên các vùng bờ biển trước khi đi ngược dịng sơng Nil, vượt qua ba ngọn Kim Tự Tháp và thần tượng Sphinx, những ngơi kiến trúc và tượng đá này đă được xây cất và bỏ xĩt lại do đồn người Atlantide đầu tiên đổ bộ lên Ai Cập. Sau cùng Osiris mới dừng chân tại đĩ, ở một vùng cách khơng xa vị trí thành Abydos hiện tại. Đồn người di cư này thấy miền Bắc Ai Cập đă cĩ một giống thổ dân bản xứ cư ngụ, họ được một nhĩm dân này tiếp đĩn một cách hiền hịa, và v́ đồn người Atlante cĩ một nền văn minh cao hơn, nên được dân bản xứ chịu khuất phục và chịu điều khiển. Do đĩ mới phát sinh ra nền Ai Cập đầu tiên.



Trước khi từ giả dân chúng, Osiris đă đặt ra những nghi lễ tơn giáo thuộc về Huyền Mơn mà ngài để lại cho dân Ai Cập như một cái di sản dài hạn, để duy tŕ tên tuổi, cơng nghiệp và giáo lư của ngài. Như vậy dân Ai Cập thời tiền sử đă cĩ một nền văn minh và văn hĩa trước khi thành phố Luân Đơn mới ngoi lên giữa băi śnh lầy nước đọng. Nhiều thế kỷ trơi qua, đă đến lúc mà người ta phải phục sinh và chấn chỉnh lại nền tơn giáo cổ Osiris. Khi đĩ mới xuất hiện một bậc giáo chủ, một vị thánh nhân danh hiệu là Thoth, ngài lập ra thành Sais một trung tâm mới để dạy khoa Huyền Mơn của Osiris cho những tập đồn dân bổn xứ của Ai Cập thời tiền sử.



Nhưng cịn chuyện huyền thoại về việc Osiris bị sát hại do đâu mà ra? Tơi khơng thể t́m ra một câu trả lời trực tiếp. Bởi vậy tơi dành cho nĩ một cơn thiền định sau này.



Tơi đành đứng dậy sửa soạn ra về. Tơi bước qua những tản đá lớn nhỏ khơng đều mà mặt đá đă soi mịn từ lâu. Ngày xưa, những mặt đá này cĩ chạm trỗ bơng hoa rất đẹp, nhưng bây giờ thời gian đă xĩa mờ tất cả. Tơi cịn nh́n một lần cuối cùng những cột trụ to lớn hùng vĩ, đầu cột trụ nhơ lên cao, đă từng nâng đỡ suốt bao nhiêu thế kỷ những tản đá lớn chạm trỗ trên nĩc, và nay vẫn cịn vương ḿnh đỡ lấy nĩc đền một cách hùng dũng, oai nghi. Thế là cuộc thăm viếng của tơi ở ngơi đền cổ kết thúc.



Đĩ là thánh địa Abydos, được coi như là nơi an nghỉ cuối cùng của bậc Thánh Nhân Osiris, nhưng thật ra th́ đĩ là ngơi đền đầu tiên để làm lễ điểm đạo cho các vị mơn đồ của phái Huyền Mơn thời cổ Ai Cập.



Tơi đă t́m được một nơi thích thú, v́ tơi biết rằng cái niềm an tĩnh thiêng liêng bất diệt của nĩ đă xâm chiếm lấy hồn tơi như một bàn tay vơ h́nh.



Nếu trong những giờ phút qua mau của cuộc đời, tơi đă cĩ đơi khi sống được dài khoảnh khắc bất diệt mà tơi hằng nhớ đời đời khơng quên, th́ chỉ khi đĩ tơi ư thức rằng tơi đă khơng sống một cách vơ ích. Ấy là những giờ phút mà tơi đă trải qua tại Abydos.
7. Lễ Điểm Đạo Huyền Bí Trong Đền Cổ Ai Cập


Câu trả lời mà tơi t́m kiếm để giải đáp sự bí hiểm của câu chuyện huyền thoại về cái chết của Osiris, tơi đă thấy được sau khi đi ngược dịng sơng Nil để khảo cứu về ngơi đền nữ thần Hathor ở Denderad. Ngơi đền này rất lớn và được giữ ǵn nguyên vẹn, nhờ nĩ bị hồn tồn chơn vùi dưới lớp cát mịn và nĩng của sa mạc suốt hơn một ngh́n năm. Từ hướng Bắc, tơi trèo lên một cầu thang rất hẹp và đă mịn. Dọc đường thỉnh thoảng tơi ngừng lại để nh́n xem, dưới ánh đuốc cầm nơi tay, những cảnh tượng chạm trổ trên vách tường. Đĩ là một cảnh tượng một đám rước lễ quan trọng nhất của đền Denderad vào lúc đầu năm, chính vua Pharaon đích thân dẫn đầu cuộc diễn hành. Các vị tăng lữ, vị tăng lữ, tư tế của phái Huyền Mơn, những người cầm cờ nối tiếp nhau đi trên vách tường cũng như họ đă từng diễn hành như thế hồi thuở sanh tiền, và đi từ dưới lên trên chính cái cầu thang này. Lên khỏi cầu thang, tơi đă ra khỏi bĩng tối để ra chỗ đầy ánh nắng chĩi lịa và xuyên qua những tản đá khổng lồ của nĩc đền, tơi đến trước một thánh điện nhỏ đứng cơ lập một ḿnh trong một gĩc của nĩc bằng. Nĩc đền được nâng đỡ bằng những cột trụ lớn co chạm h́nh nữ thần Hathor.



Tơi bước vào và nhận ra đĩ là một thánh điện mà xưa kia người ta dùng để hành lễ điểm đạo theo khoa Huyền Mơn của Osiris cho đến thời đại các vị vua Ptolémée. Trên tường, những h́nh chạm nổi phơ diễn đức Osiris nằm trên giường, chung quanh là những người trợ tá để giúp đỡ những việc vặt và những lị hương trầm. Những hàng chữ ám tự và tranh ảnh thuật lại lịch sử sự chết và sự phục sinh của Osiris, và những chữ khắc trên tường ghi lại những lời cầu nguyện từng giờ suốt một đêm mười hai giờ.



Tơi ngồi xuống đất, tức là nĩc bằng của ngơi đền lớn, và bắt đầu thiền định về câu chuyện huyền thoại cổ xưa. Sau khi đă ngồi yên khá lâu trong cơn trầm tư mặc tưởng, tơi bắt đầu t́m ra manh mối sự thật mà trải qua nhiều thế kỷ, nĩ đă biến thành một câu chuyện huyền thoại ly kỳ: Osiris bị phân thây và sau đĩ được ráp lại từng mảnh.



Do đâu mà tơi cĩ cái ch́a khĩa của bài tốn đố bí hiểm này? Do một sự nhớ lại th́nh ĺnh. Tơi nhớ lại lúc tơi ngồi trong Vương Cung bên trong Kim Tử Tháp lớn, khi mà từ trong bĩng tối dầy đặc, hiện ra cái linh ảnh cho tơi thấy hai vị Đạo Trưởng Ai Cập đă cao niên, một trong hai vị này đă làm cho thể xác tơi mê thiếp đi và đưa linh hồn tơi vào một trạng thái ư thức rơ ràng. Trên thực tế, thể xác hơn mê của tơi lúc đĩ đă hồn tồn vơ tri giác, sự sống chỉ cịn tồn tại là do một sự hơ hấp vơ ư thức, cịn linh hồn th́ đă thốt ra ngồi. Tơi chỉ là một người chết, mà linh hồn đă từ bỏ thể xác. Nhưng, khi kinh nghiệm ấy chấm dứt, tơi đă hồi sinh trở lại và trạng thái chết giả cũng khơng cịn. Phải chăng đĩ quả là một sự phục sinh hẳn hịi, một sự tái sinh trở lại đời sống phàm trần sau khi đă nh́n xem cơi giới bên kia? Phải chăng đĩ là một sự sống trong cơi vơ h́nh?



Tơi đứng dậy nh́n xem một lần nữa những h́nh ảnh trên tường để xác định lại điều ấy. Osiris nằm duỗi thẳng thân ḿnh, dường như đă chết, xem giống như một xác ướp và liệm vào hịm. Tuy nhiên, tất cả những chi tiết cho thấy sự chuẩn bị một nghi lễ dành cho người sống chứ khơng phải cho người chết: Thể xác hơn mê, những vị tăng lữ hành lễ, những b́nh lư hương để làm cho mê thiếp đi.



Những cuộc lễ điểm đạo này luơn luơn được cử hành vào lúc ban đêm. Người thí sinh được đặt trong trạng thái xuất thần trong một thời gian dài ngắn khơng chừng, tŕnh độ điểm đạo càng cao th́ cơn xuất thần của y càng dài và càng sâu hơn. Những vụ tăng lữ canh chừng y suốt những giờ ban đêm dành cho cuộc hành lễ này.



Đĩ là cảnh tượng thường diễn ra trong những cuộc lễ điểm đạo Huyền Mơn từ những thời đại cổ xưa trong dĩ văng. Nĩ cĩ ư nghĩa ǵ? Sự Sát Hại Osiris tức là việc đặt người đạo đồ trong một trạng thái chết giả, nghĩa là trong sự kết hợp tâm linh với Osiris, người sáng lập ra tổ chức Huyền Mơn này.



Lối kiến trúc các ngơi đền cổ đều theo một kế hoạch song đơi, mỗi ngơi đền đều cĩ hai phần, một phần dành cho những hoạt động tơn giáo thơng thường, một phần dành cho những cuộc lễ điểm đạo Huyền Mơn. Phần sau này hồn tồn được ngăn ra thành một chỗ riêng biệt trong đền.



Bằng phương pháp thơi miên, gồm cĩ việc xử dụng những chất hương liệu rất mạnh, dùng hai bàn tay truyền nhân điện dọc theo thân ḿnh, cùng với việc xử dụng một chiếc đủa thần, người thí sinh được đưa vào một trạng thái đồng thiếp làm cho y mê man bất tỉnh như người chết. Xác thân y tê liệt, nhưng linh hồn y vẫn tỉnh táo và nối liền với thể xác bằng một sợi dây từ điển vơ h́nh mà chỉ vị chủ lễ điểm đạo cĩ thần nhăn mới nh́n thấy được. Như vậy mặc dù mọi hoạt động thể xác đă ngưng, nhưng nguồn sinh lực vẫn tồn tại. Tất cả ư nghĩa và mục đích của cuộc điểm đạo này là để dạy cho người thí sinh biết rằng vốn khơng cĩ sự chết. Người thí sinh được truyền thụ cái chân lư đĩ bằng một phương pháp rơ ràng và thật tế nhất, nghĩa là bằng cách làm cho y kinh nghiệm qua chính bản thân ḿnh mọi diễn biến khách quan của sự chết, bằng cách dùng một phương pháp huyền bí để đưa y lọt vào cơi giới bên kia. Cơn đồng thiếp của y thâm sâu đến nỗi người ta đặt y trong một cái hịm đựng xác uớp cĩ vẽ tranh ảnh và khắc chữ bên ngồi, nắp hịm được đĩng chặt và khĩa lại cẩn thận. Xét về bên ngồi, th́ y là người đă chết!



Nhưng khi cơn đồng thiếp của y hết kỳ hạn, người ta mở nắp hịm ra, và bằng những phương tiện thích nghi, y được làm cho tỉnh dậy. Đĩ là ư nghĩa của lời huyền thoại tượng trưng nĩi rằng những mảnh xác bị tách rời của Osiris được ráp nối và làm cho ngài được hồi sinh. Sự phục sinh bí hiểm và hoang đường của Osiris khơng khác ǵ hơn là sự tỉnh dậy của người đệ tử Huyền Mơn sau cuộc lễ Điểm Đạo.



Tịa thánh điện mà tơi đang quan sát, ngày xưa đă từng là nơi chứng kiến bao nhiêu những cuộc hạ sát và những cuộc phục sinh như đă diễn tả ở trên. Hồi thời đĩ, trong phịng cĩ một cái giường và những vật liệu cần thiết cho cuộc điểm đạo. Khi người thí sinh đă trải qua trạng thái đồng thiếp và sắp sửa được đánh thức dậy, người ta chở y đến một nơi thống khí để cho những tia nắng đầu tiên của mặt trời mọc lúc b́nh minh rọi thẳng vào gương mặt cịn mê man của y.



Trong những thời đại cổ xưa nhất, nhiều vị tăng lữ cao cấp nhất và tất cả những vị tư tế ở các đền thờ bên Ai Cập đều cĩ sự hiểu biết thâm sâu về những điều huyền bí của các khoa thơi miên và từ điển, và cĩ thể đặt những người thí sinh vào một cơn đồng thiếp thâm sâu đến nỗi dường như họ đă chết. Những vị tăng lữ thượng tọa cịn cĩ thể làm hơn thế nữa, hơn cả những nhà thơi miên hiện đại, v́ những vị ấy biết phương pháp làm cho linh hồn người thí sinh vẫn thức tỉnh trong khi thể xác của y nằm trong cơn đồng thiếp, làm cho y thực hiện được những kinh nghiệm siêu phàm, mà y sẽ nhớ lại được sau khi y tỉnh dậy và trở về trạng thái b́nh thường.



Bằng cách đĩ, họ cĩ thể đem người thí sinh sự hiểu biết về tính chất của linh hồn, và khi bắt buộc linh hồn y tạm thời rút lui ra khỏi thể xác, họ làm cho y nhận thức được sự hiện hữu củ cơi thế giới bên kia cửa Tử, mà những h́nh ảnh trên hịm được xác ướp cĩ vẽ những biểu tượng đầy ư nghĩa. Bởi đĩ, người cổ Ai Cập khắc trên nắp những cổ quan tài bằng đá, hoặc vẽ bằng màu trên những hịm đựng xác ướp, hoặc tơ điểm ngồi b́a những kinh sách tơn giáo của họ những h́nh chim dị kỳ, bay ra khỏi hoặc đứng trên cái xác ướp. Đĩ là một con chim cĩ đầu người và tay người, thường được h́nh dung một tay cầm một cánh buồm, tượng trưng cho hơi thở, và tay kia cầm một h́nh thập tự cuốn trịn, tượng trưng cho sự sống. Những biểu tượng này dù khắc trên đá hay vẽ trên giấy, đều ngụ ư tượng trưng dạy cho ta biết rằng ngồi cơi phàm trần vật chất này cịn cĩ một cơi giới tâm linh. Trong quyển sách Tử Thư (sách của người chết) cĩ chỗ đề cặp đến những người chết, nhưng thật ra đĩ là nĩi về những người chết giả, nằm mê trong cơn đồng thiếp, vơ tri bất động như ngươi chết thật, và linh hồn đă đi qua một kẻ khác. Đoạn sách ấy đề cập đến cuộc điểm đạo. Cơi giới bên kia đi xuyên qua cơi trần một cách huyền diệu, và những vong linh ở cơi ấy cĩ thể ở gần bên chúng ta. Một từ ngữ khoa học nĩi rằng trong thiên nhiên vốn khơng cĩ ǵ mất đi đâu. Khi một người từ bỏ cơi trần, bỏ lại cái thể xác vơ tri bất động, linh hồn y lại xuất hiện trên cơi vơ h́nh, vơ h́nh đối với mắt phàm chúng ta, nhưng hữu h́nh đối với những nhân vật tinh anh trên đĩ.



Tuy rằng phương pháp điểm đạo này cĩ những đặc tính bề ngồi giống như khoa thơi miên hiện đại, nhưng nĩ vượt rất xa những phương pháp thơi miên, v́ khoa này chỉ thức động đến chỗ tiềm thức, mà khơng thể làm cho đương sự cĩ ư thức được sự sinh hoạt trên các cơi giới thâm sâu huyền diệu hơn.



Theo sự tin tưởng của quần chúng, th́ Osiris là một nhân vật đă chịu pháp nạn và bị giết, rồi được phục sinh và chui lên khỏi mồ. Tên của ngài đă trở nên đồng nghĩa với sự hồi sinh, sự bất tử của ngài gây cho mọi người một niềm hy vọng trở nên bất tử y như người sau khi chết.



Hồi thời ấy, người ta đă tin tưởng ở sự bất diệt của linh hồn và ở đời sống bên kia nấm mồ. Người ta cũng tin rằng trong khi con người bước vào đời sống mới đĩ, những đấng thần minh xét đốn linh hồn và duyệt xét lại những hành động thiện ác của y trong quá khứ. Kẻ dữ sẽ bị trừng phạt thích dáng, người hiền sẽ được và cảnh thiên đàng hạnh phúc, và hợp nhứt với Osiris. Những điều đĩ khá thích hợp với quần chúng và đem đến cho những tâm hồn chất phác những viễn ảnh mà họ cĩ thể quan niệm được dễ dàng. Người ta khơng nhồi sọ dân chúng với những triết lư thâm sâu hoặc những giải thích tế nhị về tâm lư. Tất cả những huyền thoại hoang đường và chuyện ngụ ngơn b́nh dân phải được hiểu như là những biểu tượng cĩ hàm xúc một ư nghĩa hợp lư và chứa đựng một chân lư thâm sâu. Để duy tŕ cho giáo lư ấy luơn luơn tồn tại trong dân gian, giai cấp tăng lữ trong trong các đền thờ khơng những chỉ dùng nghi thức lễ bái thờ phượng, mà thỉnh thoảng cịn tổ chức những buổi tŕnh diễn kịch nghệ cơng cộng cĩ tính cách tượng trưng dể tŕnh bày cho dân chúng biết lịch sử của Osiris.



Những nghi thức lễ bái và tŕnh diễn cơng cộng là để dành cho quần chúng v́ nĩ thích hợp với phần đơng, nhưng cĩ cịn một phần giáo lư thâm sâu hơn và pháp mơn huyền bí th́ để truyền thụ cho những người trí thức. Những người Ai Cập cĩ học thức, cĩ văn hĩa và những người cĩ giai cấp quư tộc cũng biết rơ điều ấy, nếu họ cảm thấy cĩ khuynh hướng về con đường này th́ họ t́m cách để xin được nhập mơn.



Các ngơi đền gồm cĩ những gian phịng kiến trúc đặc biệt và cơ lập một nơi dành cho những cuộc lễ điểm đạo, mà chỉ cĩ những vị tăng lữ ưu tú và chọn lọc mới cĩ quyền hành lễ, những người này được gọi là Đạo Trưởng hay Thượng Tọa. Những cuộc lễ Điểm đạo này được cử hành trong vịng bí mật và ngồi phạm vi những nghi lễ hằng ngày để chiêm bái các vị thần. Người Ai Cập gọi những cuộc lễ đặc biệt này là những lễ Điểm Đạo Huyền Mơn.



Những vị đạo đồ (đệ tử Huyền Mơn đă được điểm đạo, Initié) đă từng nĩi đến tính cách khác thường của những cuộc điểm đạo, khơng giống như những nghi lễ thơng thường. Thí dụ, một vị đạo đồ đă tuyên bố rằng "nhờ những lễ điểm đạo mà người ta biết rằng sự chết khơng phải là một điều dở mà là một điều hay cho người thế gian". Chính v́ vị đạo đồ ấy đă trở nên một xác chết và đă thu hoạch được những điều lợi ích rất lớn sau cái kinh nghiệm đĩ. Những bài văn viết bằng chữ ám tự nĩi về người ấy như là" được hồi sinh", và y cĩ thể thêm vào tên họ của y dịng chữ này: "Người đă tái sinh hai lần". Trên vài ngơi mộ cổ, các nhà khảo cổ đă phát hiện ra câu này, nĩ diễn tả tŕnh độ tâm linh của người chết.



Những vị mơn đồ chọn lọc đă học được những điều bí mật ǵ trong những cuộc điểm đạo ấy? Điều nay tùy nơi tŕnh độ mà họ đă vượt qua, nhưng đại khái người ta cĩ thể đúc kết những kinh nghiệm của họ thành hai loại kết quả chính, tiêu biểu những ǵ họ đă được tiết lộ cho biết.



Ở những tŕnh độ sơ khai, các thí sinh được hiểu biết về Tiểu Ngă, tức linh hồn con người mà khoa ám tự h́nh dung bằng một "người chim" nhỏ, do đĩ họ đă giải đáp được điều bí mật về sự chết. Họ biết rằng người ta chỉ thốt ra một trạng thái sinh hoạt này để bước vào một trạng thái sinh hoạt khác, và sự chết chỉ là của thể xác h́nh hài chứ khơng tiêu diệt được linh hồn, tức Chân Ngă. Họ cũng biết rằng khơng những linh hồn cịn tồn tại sau khi cái thể xác đă mất cịn tiến hĩa lên những cơi giới thanh cao hơn.



Ở những tŕnh độ điểm đạo cao hơn, người thí sinh được biết về Đại Ngă,họ được giao cảm trực tiếp với đấng tạo hĩa, nà tiếp ngay với đấng thiêng liêng. Họ nhận được sự giải thích đúng đắn về sự đọa lạc của con người, ngày nay đă xuống quá thấp từ cái trạng thái tâm linh nguyên thủy. Ho đượcï cho biết về huyền sử của châu Atlantide, cĩ liên hệ chặt chẽ với sự suy vong của nĩ. Kế đĩ được đưa lần lần lên những cơi thanh cao huyền diệu hơn, cho đến khi họ đạt tới cái ư thức tâm linh cao cả mà con người đă từng cĩ từ thời kỳ nguyên thủy. Như thế trong khi họ tiếp tục con đường hành hương trong thời gian họ thu thập được những kho tàng tân linh quư báu của cơi vơ cùng.



Khi tơi thực lại những cảm tưởng du hành của tơi đến điểm này, cĩ lẽ tơi khơng ra ngồi đề nếu tơi ghi chép nơi đây vài lời diễn tả những sinh hoạt khác trong các đạo viện Huyền Mơn thời cổ, do lời tường thuật của một người đă từng sống vào một thời kỳ cổ điển và đă từng họ điểm đạo, ít nhất là ở vào những cấp bậc đầu tiên. V́ y cĩ lời thề nguyền là sẽ khơng tiết lộ từng chi tiết rơ ràng những ǵ y đă kinh nghiệm trong cuộc điểm đạo, y chỉ cĩ đưa ra những lời giải thích đại cương và những sự ngụ ư mơ hồ. Tuy thế, lời tường thuật này cũng là một văn kiện đầy đủ nhất mà chúng ta được biết của một vị đạo đồ để lại. Vị ấy là Apuleé, được điểm đạo ở cấp bậc đầu tiên của phái Huyền Mơn Isis. Tác giả một cuốn sách tự thuật nhan đề Lucius. Trong quyển sách này, tác giả tự thuật lại cuộc đời của ḿnh khi ơng ta gơ cửa đền với tấm lịng nhiệt thành cầu Đạo.



Từ lâu đời, khoa Huyền Mơn Ai Cập vẫn được giữ kín và được khép chặt đối với người ngoại quốc. Chỉ trong một thời kỳ về sau này mới cĩ một số ít những người đĩ được thu nhận và được điểm đạo. Họ luơn luơn tơn trọng lời cam kết giữ ǵn bí mật. Những luật lệ nhập mơn đều rất chặt chẽ và nghiêm khắc.



Trong danh sách ấy, Apulée viết:



"Với mỗi ngày trơi qua, sự ước muốn được điểm đạo của tơi càng gia tăng. Tơi t́m đến nhiều vị Đạo Trưởng và khẩn cầu người ít nhất hăy bằng lịng điểm đạo cho tơi. Nhưng vị Đạo Trưởng, cĩ tiếng là người rất cương nghị và áp dụng rất chặt chẽ những luật lệ nghiêm khắc của Đạo, bác bỏ lời thỉnh cầu của tơi với những lời lẽ êm ái dịu dàng, cũng như bậc cha mẹ gạt bỏ những ước vọng điên rồ của con cái hăy cịn quá non dại. Người trấn an tâm hồn tơi bằng cách đưa cho tơi bằng điều hy vọng là hăy sở cậy nơi một niềm hạnh phúc lớn lao hơn. Ngươi nĩi rằng ngày giờ điểm được chỉ định cho mỗi người do mật lệnh của vị Nữ Thần, và người Đạo Trưởng đứng ra làm chủ lễ trong dịp ấy cũng phải do Thiên Ư chọn lựa.



"Vị Đạo Trưởng bảo tơi hăy chờ mật lệnh ấy cũng như mọi người với một tấm lịng kiên nhẫn sùng kính, và khuyên tơi nên gạt bỏ lịng nhiệt thành quá đáng cùng mọi người băn khoăn bồn chồn. Trong khi tơi cố tránh hai điều ấy, tơi cũng phải luơn luơn túc trực sẵn sàng để đáp ứng kịp thời khi cĩ lệnh gọi, va đừng tỏ ra xơn xao nĩng nảy khi tơi khơng được lưu ư đến.



"Đĩ là bởi v́ cửa vào địa ngục và quyền ban sự sống đều ở trong tay Nữ Thần, và chính cuộc lễ điểm đạo được coi như sự chết t́nh nguyện của người thí sinh, cĩ khi nguy hiểm đến tính mạng của y. Bởi đĩ, Nữ Thần thích chọn những người mà cuộc đời đă sắp tàn, và sắp sửa bước vào cơi Tử, đối với những người ấy, những điều huyền bí nhiệm mầu của Nữ Thần cĩ thể được tiết lộ cho họ một cách an tồn. Do định mệnh thiêng liêng, Nữ Thần bảo đảm cho những người ấy một sự phục sinh mới mẻ, người đặt họ vào chỗ khởi điểm của một giai đoạn sinh hoạt mới. Bởi vậy, trường hợp của con cũng thế, con phải đợi đến khi cĩ lệnh gọi của Thiêng Liêng.



"Ân huệ tốt lành của vị Nữ Thần đă khơng bỏ rơi tơi sau khi ngài đă bắt tơi phải chịu sự dày vị đau nghiến của một sự chờ đợi lâu dài. Nhưng trong ban đêm tăm tối, những mật lệnh rơ ràng của Nữ Thần đă báo cho tơi biết rằng ngày mong ước của tơi đă đến, và ngài chấp nhận những lời khẩn cầu nồng nhiệt của tơi.



"Bằng những lời an ủi khả ái, Nữ Thần đem đến cho tâm hồn tơi một niềm phúc lạc rất lớn, đến nỗi tơi bỏ ngủ thức dậy trước lúc b́nh minh và hối hả đi đến tịnh thất của vị Đạo Trưởng. Tơi vừa đến nơi th́ vị Đạo Trưởng cũng đă vừa bước ra khỏi phịng, tơi bèn nghiêng ḿnh kính cẩn chào Người. Tơi nhất định yêu cầu Người làm lễ điểm đạo cho tơi với một giọng khẩn thiết hơn trước, như là một điều mà bây giờ tơi cĩ quyền địi hỏi. Nhưng khi vừa thấy tơi th́ người đă lên tiếng trước: "À, hữu phước thay cho con, Lucius, Nữ Thần cao cả đă chiếu cố đến con để ban cho con cái ân huệ thiêng liêng đĩ! Ngày mà con mong đợi từ lâu, nay đă đến, do lệnh dạy thiêng liêng của Nữ Thần đáng tơn kính, ta sẽ làm lễ điểm đạo cho con được bước vào cửa đạo diệu huyền."



"Khi đĩ, vị Đạo trưởng cao niên đạo mạo đặt bàn tay mặt của người trong lịng bàn tay tơi và dắt tơi đến trước cửa Thánh Điện. Sau khi đă long trọng làm lễ khai mơn và lễ dâng hương hoa buổi sáng, người mới lấy từ những chỗ bí mật của đền thờ vài quyển sách bút tự viết bằng một thứ chữ lạ kỳ.



"Kế đĩ, Người bước đến trước Thánh Điện và trong lúc mặt trời cịn chưa lĩ dạng, Người dắt tơi đến quỳ dưới chân Nữ Thần. Sau khi đă tiết lộ cho tơi vài đều bí mật, những điều này quá thiêng liêng để cĩ thể nĩi ra bằng lời, Người mới dặn tơi, trước mặt tất cả mọi người đến chứng kiến cuộc lễ hơm đĩ, hăy giữ ǵn trai giới trong suốt mười ngày liên tiếp, khơng ăn thịt lồi vật và khơng uống rượu.



"Tơi tuân theo những lời răn đĩ một cách chặt chẻ. Sau cùng, đă đến hành lễ điểm đạo, tức ngày tơi hiến dâng cuộc đời tơi cho Nữ Thần. Mặt trời đă ngả về tây, đêm tối đă sắp đến trong khi ấy từ bốn phương xuất hiện rất đơng đảo những vị đạo đồ thánh thiện của quá khứ đứng vây chung quanh tơi, mỗi vị đều ban cho tơi những quà tặng theo nghi lễ cổ truyền. Kế đĩ, sau khi những vị chưa được điểm đạo đă được mời đi ra ngồi, tơi được cho mặt áo mới và vị Đạo trưởng cầm tay tơi để dắt tơi đến giữa thánh điện.



"Quư vị độc giả hiếu kỳ cĩ lẽ nĩng lịng muốn biết những ǵ đă xảy ra vào lúc đĩ. Tơi chắc hẳn là muốn tường thuật lại cho quư vị nghe nếu tơi được phép nĩi, và nếu quư vị cũng được phép nghe. Nhưng lưỡi tơi sẽ tê cứng và tai quư vị cũng sẽ điếc như bị đầu độc nếu tơi vi phạm lời thề để làm thỏa mản sự tị mị của quư vị. Tuy nhiên chắc hẳn quư vị cũng bị thúc đẩy bởi một lịng mong ước thanh cao, nên tơi khơng để cho quư vị phải đợi chờ lâu hơn nữa. Vậy quư vị hăy nghe và tin tưởng, v́ điều tơi nĩi đây là sự thật. Tơi đă bước đến gần kề địa hạt của Tử Thần, tơi đă đặt chân lên ngưỡng cửa của Âm Ty, tơi đă vượt qua mọi cảnh giới, và rồi tơi đă trở lại cơi trần. Tơi đă nh́n thấy mặt trời chĩi rạng huy hồng, giữa lúc đêm tối. Tơi đă đến gần các đấng Thần Minh ở cơi trên cũng như hạ giới, và tơi đă đến chiêm bái các ngài tận mặt. Quư vị hăy coi chừng: Tơi đă nĩi ra những điều mà, mặc dầu đă được nghe, quư vị khơng bao giờ nên biết."



Một năm sau, Lucius đă được điểm đạo ở cấp bậc Huyền Mơn Osiris, cao hơn cấp bậc Isis. Trong số ít những người ngoại quốc khác đă được điểm đạo theo khoa Huyền Mơn Ai Cập, cĩ Platon, Pythagore, Thales, Lycurgue, Solon, Jamblique, Plutarque và Hérodote.



Trong những tác phẩm của Hérotote, ơng đă nhắc đến điều ấy với một sự dè dặt tối đa. Ơng đă diễn tả từng chi tiết những buổi tŕnh diễn văn nghệ tượng trưng và những cuộc lễ bái cơng cộng, nhưng ơng từ chối khơng chịu tiết lộ những điều bí mật bên trong. Ơng ấy nĩi như sau: "Đối với những điều huyền bí đĩ, mà tơi đă được biết đầy đủ, tơi cĩ lời cam kết phải giữ một sự im lặng hồn tồn."



Sử gia Plutarque đă viết rằng:



"Khi ta nghe nĩi đến huyền thoại của người Ai Cập về các đấng Thần Minh, những chuyến du hành, sự phân thây, và những chuyện huyền hoặc hoang đường khác nữa, ta chớ nên tưởng rằng tất cả những chuyện ấy đều cĩ thật. Mỗi dân tộc đều cĩ những biểu tượng, khi th́ mờ ám, khi th́ dễ hiểu, để tŕnh bày những điều chân lư bất hủ. Chính bằng cách đĩ mà ta nên đọc hoặc nghe những chuyện đĩ với lịng sùng kính và với một tinh thần triết lư."



Plutarque nĩi về mục đích điểm đạo ở cấp đẳng Huyền Mơn Isis như sau:



"Bằng phương tiện điểm đạo, người thí sinh cĩ thể được chuẩn bị đến mức tối đa để đạt tới sự thơng cảm với đấng Tối Cao. Bởi lẽ đĩ, đền thờ đấng Thiêng Liêng được gọi là Iseion, ám chỉ sự hiểu biết đấng Vơ Cùng, bất sinh bất diệt, sự hiểu biết đĩ cĩ thể đạt được bằng cách điểm đạo nếu người thí sinh đă được chuẩn bị sẵn sàng."



Đĩ là quan điểm của triết gia Hy lạp Plutarque. Ta hăy nghe nhà hiền triết xứ Syrie tên là Jamblique nĩi về khoa Huyền Mơn Ai Cập mà ơng là một vị đạo đồ, như sau:



"Cái tinh hoa và tồn vẹn của mọi đều thiện đều cĩ sẵn nơi các đấng Thần Minh, cái quyền lực đầu tiên và cổ xưa của các ngài cũng là đều sở hữu của các vị tăng lữ ở các đền thờ. Một sự hiểu biết các đấng Thần Minh sẽ phản ảnh lại nơi con người chúng ta, và giúp cho ta tự biết ḿnh. Cái phần Thiêng Liêng nhất của con người, trước tiên được hợp nhất với Thần Minh, về sau lại bị chướng ngại bởi một sự trĩi buộc của mọi điều dục vọng trần gian và sự kiềm tỏa của định mệnh. Bởi vậy, cần phải xét xem bằng cách nào con người cĩ thể được giải tỏa khỏi những trái buộc ấy. Chỉ cĩ sự hiểu biết về Thượng Đế mới phá tan những sợi dây kiềm tỏa đĩ. Đĩ là mục đích của Huyền Mơn Ai Cập, làm cho con người nâng cao linh hồn ḿnh để hịa hợp với Thượng Đế".



Một vị đạo đồ khác là Proclus nĩi rằng:



"Trong một cuộc điểm đạo ở mọi cấp đẳng Huyền Mơn, các dấng Thần Minh cho thấy nhiều khía cạnh của các ngài. Đơi khi người thí sinh thấy xuất hiện trước mặt y một vầng sáng khơng h́nh thể nhất định tốt ra từ các ngài, xem dường thể một vầng hào quang. Cĩ khi vầng hào quang đĩ khốc lấy h́nh người, cĩ khi khốc lấy một h́nh thể khác. Một vài h́nh thể đĩ khơng phải là Thần Minh, và làm cho ta sợ hăi."



Triết gia Platon cũng đả từng được điểm đạo, nĩi rằng:



"Do hậu quả của lễ điểm đạo thiêng liêng, chúng ta chiêm ngưỡng những linh ảnh giản dị xuất hiện trong một vầng sáng tinh anh, và nhờ được thanh lọc để trở nên tinh khiết, chúng ta được giải thốt được cái xác thân trọng trược, mà từ trước chúng ta vẫn bị dính liền với nĩ như con sị dính trong cái vỏ." Như vậy ơng muốn nĩi rằng mục đích tối hậu của sự điểm đạo Huyền Mơn là đưa con ngươi trở về với những nguyên tắc tâm linh mà nhân loại đă mất đi từ lúc nguyên thủy.



Một vị đạo đồ khác nữa là Moise, người Do Thái lai Ai Cập. Sách Tân Ước nĩi rằng "Moise đă từng giáo dục trong tất cả nền minh triết của Ai Cập." Ư nghĩa của câu này là nền minh triết thâm sâu nhất của xứ Ai Cập đă được tiết lộ cho Moise, điều đĩ khơng khác ǵ hơn là sự hiểu biết mà Moise được truyền dạy bởi giáo lư Huyền Mơn Ai Cập.



Sách Tân Ước cịn nĩi rằng: "Moise phủ kín mặt bằng một tấm màng che". Tính chất tấm màng che như thế nào, th́ đoạn sau này trong sách ấy đă cho ta thấy ư nghĩa của nĩ:



"Cho đến ngày nay, tấm màng che ấy vẫn phủ kín lên việc đọc sách Cựu Ước" (2è épitre aux Corinthiens). Như vậy, đĩ khơng phải là tấm che bằng vải, mà là một tấm màng che kín ư nghĩa của những chữ trong sách, che lấp sự hiểu biết. Bởi đĩ, tấm màng che mặt của Moise thật ra lời thệ nguyện giữ im lặng và giữ bí mật mà ngài đă cam kết trong cuộc lễ điểm đạo.



Moise đă thu thập được sự minh triết của ngài tại đạo viện thuộc ngơi đền tại thành phố On, mà người Hy Lạp gọi là Héliopolis khi họ chinh pphục xứ Ai Cập, một thành phố đă biệt tích ở cách vài dặm phía Bắc Cairo. Héliopolis và Memphis, một thành phố khác nữa cũng đă biệt tích ngày xưa người ta cĩ thể nh́n thấy từ trên đỉnh Kim Tử Tháp, đều coi Kim Tử Tháp lớn như một nơi thánh điện tối cao để hành lễ điểm đạo Huyền Mơn. Thành Héliopolis và ngơi đền lớn của nĩ ngày nay khơng cịn nữa, những bức tường gạch kiên cố bao bọc chung quanh thành phố và những cột trụ đền đến ngày nay đă bị chơn vùi dưới đống các sâu bốn thước. Chỉ cịn cây thạch tiễn (obélisque) bằng đá đỏ ở trước cổng thành là cịn đứng vững. Moise đă từng nh́n thấy cây thạch tiễn này v́ ơng đă đi ngang qua đĩ nhiều lần. Đĩ là cây thạch tiễn cổ xưa nhất cịn đứng vững ở Ai Cập. Trong số những vị học giả mộ đạo thời cổ đă từng bước chân đến cổng đền này để t́m ánh sánh minh triết, cĩ triết gia Platon và sử gia Herodote. Những vị này cũng đă thấy cây thạch tiễn đến ngày nay vẫn cịn trơ gan cùng tế nguyệt, đứng tro trọi một ḿnh giữa cảnh đồng ruộng bao la. Dưới chân cây thạch tiễn, những nơng phu đang cà sâu cuốc bẩm, và hàng ngày dắt trâu ra đồng. Cịn một cây thạch tiễn khác nữa mà vua Thoutmès III dựng lên trước đền thờ Thái Dương ở Héliopolis và ngày nay đang nhơ lên cao vút bên bờ sơng Tamise ở Luân Đơn. Được biết dưới cái tên là Mũi Kim của Cléopâtre, nĩ nhắc nhở cho dân chúng thủ đơ Anh quốc náo nhiệt phồn hoa ngày nay nhớ lại cả một thế giới đă biệt tích cùng với một nền văn minh lộng lẫy huy hồng của một thời đại cổ xưa nay khơng cịn nữa.



Cây thạch tiễn cĩ vẽ như một tên quân canh đứng gác cổng đền, cịn những hàng chữ ám tự khắc trên bốn mặt của nĩ thuật lại lịch sử của ngơi đền. Nhưng nĩ khơng phải chỉ là một mũi tên khổng lồ bằng đa được dựng lên để khắc chữ trên đĩ, nĩ cịn là một biểu tượng thiêng liêng, và mũi nhọn của mỗi cây thạch tiễn đều lấy h́nh dáng một Kim Tử Tháp nhỏ.



Heliopolis ngày xưa là một trung tâm rất lớn về các nghành học thuật cổ điển và đạo lư, nĩ gồm cĩ đến 13,000 học viên và cĩ một dân số rất đơng đảo. Nĩ cĩ một thư viện nổi tiếng, thư viện này về sau gĩp phần xây dựng thư viện Alexanrie, danh tiếng nhất của thời đại cổ.



Lúc thiếu thời, Moise đă tiến bộ rất mau chĩng, tỏ ra cĩ một học vấn uyên thâm và một đức hạnh gương mẫu đến nỗi ơng vượt qua một cách danh dự tất cả những cấp bậc điểm đạo, và đạt tới cấp đẳng cao tột ít người cĩ, là cấp đẳng chân sư. Từ đĩ, ơng đă cĩ thể trở nên một vị đâo trưởng. Chính tại đạo viện mà ơng được thụ huấn trước kia, dính liền với ngơi đền lớn tại Heliopolis, thành phố của mặt trời, mà ơng nhận lănh chức vị đĩ. Ơng đứng làm chủ lễ điểm đạo cho những thí sinh khác theo nghi lễ Huyền Mơn Osiris, là lễ nghi thuộc về cấp đẳng cao nhất.



Hồi thời đĩ, ơng cĩ tên là Osarsiph, một tên chữ Ai Cập, v́ ơng vốn la người Ai Cập lai Do Thái. Đến khúc quanh của đời ơng, khi ơng nhận sứ mạng mà định mệnh giao phĩ, ơng ghi dấu cơ hội này bằng cách đối lấy một tên người Do Thái. Những người Ai Cập trí thức đều tin rằng tên họ của mỗi người vốn cĩ năng lực thần bí. V́ đĩ, mà tên Osarsiph đă trở thành Moise.



Vị vua Pharaon trị v́ lúc đương thời, vốn là một hơn quân vơ đạo và hung ác, ngược đăi người Do Thái một cách bất nhân độc ác đến nỗi làm cho Moise phải động lịng v́ chính ơng cũng cĩ dịng máu Do Thái trong huyết quản. Sử chép rằng ơng đă giải phĩng những bộ lạc Do Thái ra khỏi t́nh trạng nơ lệ, giam cầm, ơng đă hướng dẫn họ rời khỏi vùng thung lũng Gochen và noi theo lịch sử ngày xưa vẫn nối liền Châu Phi và Châu Á, con đương mà chính hồng đế Nă Phá Luân đă cỡi ngựa đi qua và suưt chết ch́m khi ơng gần đến thành Suez.



Người ta cĩ thể t́m thấy vài mẫu chuyện về sau của Moise trong Kinh Thánh, nhưng những chuyện này lại bị pha lẫn một cách đáng tiếc với những truyền thuyết và huyền thoại mơ hồ.



Năm quyển đầu tiên của bộ sách Cựu Ước, được gĩp nhặt lại dưới nhan đề Pentateuque là do Moise soạn ra. Những quyển sách ấy chứa đựng một nền minh triết thâm sâu mà Moise muốn truyền lại cho dân tộc Do Thái, nhưng về sau lại cĩ lẫn lộn những yếu tố lịch sử liên quan đến sự sáng tạo thế giới và những chủng tộc đầu tiên của nhân loại.



Thật ra th́ Moise, với tư cách một chân sư, từng biết rơ và sử dụng lối văn tự huyền bí của các vị đạo đồ nghĩa là dùng chữ ám tự với một ư nghĩa tâm linh ẩn dấu. Ơng soạn bộ sách Pentatueque bằng chữ ám tự Ai Cập mà chỉ cĩ những bậc tăng lữ đă điểm đạo mới cĩ thể hiểu. Nhưng khi người Do Thái tới định cư tại Palestine, trải qua nhiều thế kỷ, sự hiểu biết về khoa ám tự càng ngày càng giảm sút. Lần lần, giới tăng lữ đă khơng cịn đọc được thứ chữ ấy nữa, và cĩ thể đốn mị một cách khĩ khăn. Điều này khơng co ǵ lạ, nếu người ta nhờ rằng chính ở tại Ai Cập, vào thế kỷ thứ tư sau Thiên Chúa giáng sinh, phép diễn đạt khoa khoa ám tư đă hồn tồn mất hẳn. Độ một ngh́n năm sau cuộc di cư của dân Do Thái, khi những bậc cao niên lăo thành củ dân tộc ấy gĩp nhặt một bộ sách mà ngày nay ta gọi là Cựu Ước, th́ họ gặp phải một khĩ khăn rất lớn khi đem dịch những quyển sách của Moise ra chữ Do Thái. Đĩ là v́ Moise đă viết sách ấy bằng thứ chữ riêng của các vị chân sư, cịn những bậc trưởng lăo Do Thái, dầu cĩ học thức uyên thâm, cũng chưa phải là những vị chân sư đĩ.



Bởi đĩ, thường cĩ những chỗ dịch sai nghĩa, những ư nghĩa tượng trưng th́ lại bị hiểu lầm như những sự việc cĩ thật, những sự mơ tả bằng ám tự được coi mơ tả những việc đă xảy ra, những câu ư nghĩa bĩng bẫy bị hiểu lệch lạc thành ra những chỗ dịch sai lầm. Một thí dụ là "Sáu ngày tạo thiên lập địa" đối với Moise cĩ nghĩa là sáu chu kỳ thời gian dài đăng đẳng, được gọi là một cách tượng trưng là sáu ngày v́ những lư do mà chỉ các vị đạo đồ biết được mà thơi. Nhưng câu ấy được dịch lại sát nghĩa từng chữ, v́ các nhà phiên dịch tưởng rằng đĩ là sáu ngày hai mươi bốn giờ!



Hậu quả là những quyển đầu tiên của bộ Kinh Thánh chứa đựng nhiều sự việc dị kỳ đối với thế hệ hiện tại v́ khoa học tiến bộ càng ngày càng kiểm thảo chặt chẽ những bản dịch cổ tự đĩ từng điểm một.



Nhưng bộ sách Kinh Thánh sẽ trở nên vơ cùng phong phú khi người ta đọc nĩ với sự hiểu biết những ch́a khĩa bí mật được truyền dạy cho những vị đạo đồ trong các đền cổ bên Ai Cập.



Như vậy, Moise phải được coi như một trong những nhân vật đáng kể nhất đă ngộ đạo trong cơn xuất thần huyền bí của những cuộc điểm đạo Huyền Mơn.
8. Khoa Huyền Mơn Thời Cổ


Những vị đạo đồ trong khoa Huyền Mơn thời cổ phải long trọng thề nguyền khơng bao giờ tiết lộ những ǵ xảy ra bên trong thánh điện thâm nghiêm huyền bí. Ta nên nhớ rằng dù sao lễ điểm đạo chỉ được cử hành mỗi năm cho một số ít mơn đồ. Sự hiểu biết giáo lư mật truyền khơng bao giờ được ban bố cho nhiều người cùng một lúc. Bởi lẽ đĩ khơng một nhà văn thời cổ nào đă đưa ra một tường tŕnh đầy đủ và mạch lạc về những ǵ được gọi là giáo lư Huyền Mơn, v́ các vị mơn đồ giữ đúng lời cam kết một cách chặt chẽ. Tuy thế, người ta đă khám phá ra vài lời ngụ ư ngắn ngủi, những lời b́nh luận của những tác giả cổ điển, những câu bĩng bẩy và những chữ khắc trên đá, cĩ thể hé mở cho ta thấy vài điều về những sinh hoạt huyền bí của thời cổ xưa. Khao Huyền Mơn thời cổ nêu ra một mục đích cao cả, hay nĩi đúng hơn là nêu ra một phối hợp các mục đích tơn giáo, luận lư và triết lư.



Mỗi người đều được phép gơ cửa các đền thờ làm lễ điểm đạo, nhưng y được nhận hay khơng lại là việc khác. Người ta vẫn nhớ đến những lời của Pythagore khi ơng từ chối khơng nhận những thí sinh khơng đủ tư cách xin nhập mơn vào đạo viện Krotona: "Mọi thứ gỗ khơng phải đều dùng được cho cơng tŕnh của thần Mercure."



Cấp bậc điểm đạo đầu tiên, với mục đích chứng minh sự tồn tại của linh hồn, đem cho người thí sinh một kinh nghiệm rùng rợn khủng khiếp trước khi y được thốt lên một cơi giới thanh cao huyền diệu hơn.



Trong vài cuộc điểm đạo sơ cấp, chứ khơng phải cho tất cả, cĩ khi người ta dùng những phương tiện máy mĩc để làm cho người thí sinh tưởng rằng y rơi xuống một vực thẳm nguy hiểm hoặc bị nhận ch́m giữa dịng nước xốy, hoặc bị thú dữ phân thây, để thử thách lịng can đảm của y. Nhưng cĩ điều đáng sợ hơn nữa là tyrong một cấp đẳng cao hơn, y thấy xuất hiện những vật h́nh thù ghê rợn khủng khiếp, những lồi yêu ma quỷ quái cơi âm ty, trong một lúc mà năng khiếu thần nhăn được tạm thời phục hồi cho y.



"Linh hồn bị dày vị, loạn động trong lúc chết, cũng như trong cuộc điểm đạo Huyền Mơn, giai đoạn đầu chỉ gồm cĩ mhững lầm lạc và bối rối, những cố gắn phất phơ vơ định và tối tăm u ám. Kế đĩ, đến ngưỡng cửa sự chết và lễ điểm đạo, tất cả đều là kinh sợ, khủng khiếp, rùng rợn. Nhưng, một khi giai đoạn đĩ đă vượt qua, th́ đây là tràn đầy một ánh sáng thiêng liêng, huyền diệu ... Người đạo đồ đă chịu phép mầu từ nay sẽ trở nên tồn thiện, giải thốt và đắc thắng, y đă bước và cơi giới thần tiên bất tử."



Đoạn trên đây do Stobée trích lục trong một áng văn cổ xưa, nĩ xác nhận kinh nghiệm của tất cả các vị đạo đồ khác. Những bản văn viết tay trên lá chỉ thảo (Papyrus) thời cổ mơ tả người thí sinh được đưa đến giai đoạn đĩ do sự hướng dẫn của thần Anubis đưa y, chuỉ tể khoa Huyền Mơn, chính Anubis đưa y vượt qua cơi vơ h́nh để cho y nh́n thấy những lồi yêu quái h́nh thù ghê rợn.



Những chân lư được truyền dạy trong các đạo viện Huyền Mơn là do sự tiết lộ thiên cơ mà các đấng Thánh Nhân dành cho nhân loại từ hồi phát sinh những nền văn minh cổ xưa nhất, và nay giáo lư Huyền Mơn cần được giữ ǵn nguyên vẹn để duy tri sự tinh khiết của nĩ. Như thế, người ta hiểu tại sao khoa Huyền Mơn được ẩn dấu cẩn mật và giữ ǵn chặt chẽ ngồi tầm tay của kẻ thế nhân phàm tục.



Ta khơng nên lầm lộn giấc ngủ thơng thường với trạng thái xuất thần của người thí sinh trong lễ điểm đạo. Đĩ là một cơn đồng thiếp, một trạng thái hơn mê, xuất hồn, trong khi đĩ y vẫn tỉnh táo ở một cơi giới khác.



Người ta lại càng lầm lạc hơn nữa nếu họ lẫn lộn một kinh nghiệm siêu linh như thế với giấc ngủ thơi miên. Trong trường hợp sau này, nhà thơi miên đặt người chủ thể của y vào trong một trạng thái lạ lùng mà y khơng biết được rơ ràng, cịn vị Đạo Trưởng Huyền Mơn cĩ một tầm hiểu biết truyền thống về các hiện tượng huyền bí, do đĩ người cĩ thể sử dụng quyền năng của ḿnh một cách hồn tồn ư thức và làm chủ được t́nh h́nh. Nhà thơi miên đưa tâm trí và ư thức của người chủ thể lên một mức độ nào đĩ mà chính y khơng tham dự vào sự thay đồi này, trái lại vị Đạo Trưởng Huyền Mơn trơng nom và kiểm sốt mọi sự thay đổi ư thức về loại đĩ, bởi v́ Người cĩ khả năng nh́n thấy sự biến đổi đĩ. Sau rốt, nhà thơi miên chỉ cĩ thể làm cho người chủ thể soi sáng một vài vấn đề liên hệ đến cơi giới phàm trần và sự sống vật chất phàm tục hoặc thực hiện những việc bất thương bằng các thể xác vật chất. Vị Đạo Trưởng cĩ khả năng hành động một cách thâm sâu hơn, người ta cĩ thể đưa tuần tự linh hồn người thí sinh trải qua một kinh nghiệm thuộc về cơi giới tâm linh. Điều này, khơng một nhà thơi miên nào cĩ thể là được.



Tơi đă quan sát tất cả mọi hiện tượng thơi miên được thực hiện ở các xứ Đơng Phương và Tây Phương. Tuy rằng vài loại hiện tượng đĩ hiển nhiên là rất lạ lùng, nhưng những hiện tượng siêu linh.Những hiện tượng đĩ cĩ một ư nghĩa về khoa học, nhưng khơng cĩ giá trị tâm linh sâu sắc hơn. Lẽ tất nhiên các hiện tượng đĩ kéo chúng ta thốt ra khỏi sự u ám nặng nề của duy vật chủ nghĩa, v́ nĩ chứng tỏ rằng trong con người cĩ những sức mạnh bí ẩn của tiềm thức, nhưng chúng khơng thể đưa chúng ta lên cao để khám phá một cách cĩ ư thức sự hiện hữu của linh hồn vốn là một thực thể sống động, bất tử và độc lập.



Nhờ kinh nghiệm của tơi trong Kim Tử Tháp và ư nghĩa rơ ràng của những h́nh chạm trổ trên vách các đền thờ, tơi cĩ thể h́nh dung được cuộc lễ điểm đạo Huyền Mơn Osiris, là nghi lễ thâm diệu và huyền bí nhất. Cuộc hành lễ này khơng ǵ khác hơn là một sự phối hợp giữa những mănh lực thơi miên, phù phép và tâm linh nhằm giải thốt tâm hồn người thí sinh khỏi sự trĩi buộc của cái thể xác nặng nề trong vài giờ, cĩ khi trong vài ngày, để cho y cĩ thể nhớ, trong suốt cuộc đời cịn lại của y, cái kỷ niệm của một kinh nghiệm độc đáo ghi dấu một ngày quyết định trong đời y, và để cho y xử thế một cách thích đáng. Sự tồn tại của linh hồn sau khi chết, mà phần đơng nh́n nhận như một tín ngưỡng tơn giào, người đạo đồ từ nay cĩ thể đem giảng dạy với một đức tin đă được tăng cường bởi bằng chứng cụ thể do kinh nghiệm bản thân.



Điều mà người đạo đồ kinh nghiệm được, chỉ cĩ những người nào bước vào con đường ấy mới cĩ thể nhận thức được tầm quan trọng của nĩ. Thậm chí ở thời kỳ hiện đại, cĩ vài người vơ t́nh đă trải qua một phần của kinh nghiệm đĩ một cách bất ngờ. Tơi biết một trường hợp của một viện sĩ quan khơng quân Anh, được chụp thuốc mê để chịu một cuộc giải phẫu trong thời chiến. Kết quả thật lạ lùng: Mọi cảm giác đau đớn của xác thân đă biến mất nhưng bệnh nhân khơng ngủ mê. Y cảm thấy nhẹ bổng như được nâng lên trên khơng ở phía bàn mổ và y nh́n xem cuộc giải phẩu thể xác y một cách điềm nhiên dường như nh́n cái xác của người khác. Kể từ khi đĩ, tâm tính y thay đổi một cách lạ thường. Trước đĩ y vẫn cĩ ĩc duy vật, nhưng nay y tuyên bố tin tưởng ở sự hiện hữu của linh hồn, cuộc đời y đă cĩ một niềm hy vọng và chuyển hướng về một con đường khác hẳn



Cịn những vị Đạo Trưởng Huyền Mơn đĩ là ai, mà cĩ quyền năng gây nơi con người một sự biến đổi huyền diệu như thế?



Những vị trưởng thượng đáng kính giữ ǵn kho tàng minh triết thâm sâu đĩ, lẽ tất nhiên là chỉ cĩ rất ít. Cĩ một thời gian, tất cả những vị tăng lữ và vài vị tư tế cao cấp ở các đền thờ cổ Ai Cập đều là những Sư Trưởng hay Đạo Trưởng. Sự hiểu biết của họ được giữ ǵn hồn tồn bí mật, do đĩ mà những thời kỳ cổ điển, chính cái tên Ai Cập cũng được hiểu đồng nghĩa với chữ huyền bí.



Trong những gian phịng Ai Cập của bảo tàng viện Louvre, ngơi mộ của Ptah Mer, đại tư tế thành Memphis, mang tấm bia đá cĩ khắc dịng chữ sau đây: "Ngài thấu triệt mọi điều huyền bí của mỗi đền thờ, khơng cĩ ǵ là ẩn dấu đối với Ngài. Ngài bao trùm tất cả những ǵ Ngài đă thấy bằng một tấm màn bí mật."



Tại sao những vị Đạo Trưởng lại cĩ một sự dè dặt vơ cùng chặt chẽ như thế? Đĩ là v́ những lư do mà chỉ cĩ các ngài mới cĩ thể biết được. Dù sao các ngài hẳn là thấy cần phải loại những kẻ hồi nghi và bỡn cợt ra ngồi những kinh nghiệm thần bí dẫy đầy nguy hiểm cho tính mạng của người thí sinh. Người ta khơng ném những viên ngọc cho lồi muơn lợn. Ngồi ra, rất cĩ thể là cĩ nhiều người, v́ khơng đủ chuẩn bị sẵn sàng cho một kinh nghiệm như thế, sẽ bị điên khùng hoặc bị thiệt mạng sau cuộc thử thách. Bởi đĩ, lễ điểm đạo luơn luơn chỉ là cái đặc ân dành cho một số ít người xứng đáng. Nhiều người đă gơ cửa các đền Huyền Mơn nhưng vơ ích. Những người khác, bị đặt dưới hàng loạt thử thách sơ đẳng mỗi lúc càng khĩ khăn hơn, khơng cĩ đủ sự can đảm cần thiết để tiến xa hơn nữa, hoặc cảm thấy lịng ước muốn điểm đạo nguội bớt dần. Như vậy bằng cách đưa ra những cuộc thử thách chọn lọc nghiêm khắc, người ta làm cho những đạo viện Huyền Mơn thời cổ trở thành những cơ quan độc đáo. Những điều bí ẩn dấu đằng sau những cánh cửa khĩa chặt của Thánh Điện thâm nghiêm, khơng bao giờ được truyền dạy cho những vị đạo đồ, trừ phi với sự long trọng thề nguyền rằng họ sẽ khơng bao giờ tiết lộ ra ngồi. Vị mơn đồ được điểm đạo bước ra khỏi đền kể như suốt đời y sẽ thuộc về một hội kín, trung thành với những mục đích cao cả và với một tầm kiến thức sâu xa thâm trầm, từ nay y sẽ lẫn lộn trong quần chúng để làm việc giúp đời. Diodore de Sicile, sau khi thăm viếng xứ Ai Cập trở về, cĩ viết rằng: "Người ta nĩi rằng những người tham dự những cuộc điểm đạo Huyền Mơn trở nên đạo đức hơn, và tốt lành hơn về tất cả mọi phương diện."



Thật ra những đạo viện Huyền Mơn khơng phải chỉ thịnh hành ở Ai Cập. Những nền văn minh cổ đều cĩ t́m thấy khoa Huyền Mơn trong cái di sản cho họ từ một thời quá khứ xa xăm, do sự tiết lộ của các đấng Thần Minh dành cho nhân loại từ thời buổi sơ khai. Hầu hết các dân tộc, trước Thiên Chúa kỷ nguyên, đều cĩ những truyền thống và tổ chức Huyền Mơn của họ, như dân tộc La Mă, Celtes, Hy Lạp, đảo Crète, Syrie, Ấn Độ, Ba Tư, Mayas, thổ dân da đỏ bên Mỹ Châu, và những dân tộc khác nữa cũng cĩ những đền thờ và nghi lễ dành cho những hoạt động tâm linh đưa đến tŕnh độ điểm đạo. Aristote khơng do dự mà tuyên bố rằng sự thịnh vượng của xứ Hy Lạp sở dĩ cĩ là nhờ đạo viện Huyền Mơn Eleusis. Socrete cũng nĩi rằng: "Những mơn đồ phái Huyền Mơn tự tạo cho ḿnh những triển vọng rất tốt đẹp vào giờ chết." Trong số người xưa đă nh́n nhận hoặc ngụ ư rằng họ đă từng được điểm đạo Huyền Mơn, cĩ nhà hùng biện Aristide, Ménippe de Babylone, kịch gia Sophocle, thi hào Eschyle, luật gia Solon, Cicéron, Héraclite d'Ephèse, Pindare và Pythagore.



Ngày nay tại Nhật Bổn, trong những cấp đẳng tối cao của kỷ luật Nhu đạo, mà chỉ cĩ một số rất ít mơn đệ được thu nhận bởi v́ những cấp đẳng ấy gồm cĩ một phần bí giáo khơng thích hợp với phần đơng, người thí sinh phải theo một khĩa huấn luyện tâm linh huyền bí. Y phải trải qua một cuộc lễ điểm đạo theo đĩ y phải bị thầy y siết cổ trong giây phút, sau đĩ y được đặt nằm bất tỉnh trên giường, và xét về bề ngồi th́ dường như y đă chết. Trong trạng thái đĩ, linh hồn y đă rời khỏi xác thân và học hỏi một vài kinh nghiệm trong cơi vơ h́nh. Đến khi dứt kỳ hạn, thần y mới phục sinh cho y bằng một phương pháp bí mật gọi là Kwappo, một danh từ Nhật bản khĩ dịch. Người mơn đệ đă trải qua giai đoạn huyền diệu đĩ mới trở nên một đạo đồ.



Khoa Tam Điểm (Franc-Maconnerie) ngày nay vẫn cịn giữ ǵn một dấu vết của khoa Huyền Mơn thời cổ, mà nguồn là ở Ai Cập. Người hội viên Tam Điểm nêu ra trường hợp của Pythagore như một thí dụ điểm đạo của thời xưa. Phải chăng ho nhớ rằng Pythagore đă từng được điểm đạo bên Ai Cập? Những người đặt ra các cấp bậc của khoa Tam Điểm đă áp dụng vài biểu tượng đầy ư nghĩa của khoa Huyền Mơn Ai Cập.



Về sau, sự sa đọa vật chất của con đă làm cho các vị Đạo Trưởng chân chính của thời xưa lần lần biệt tích hoặc rút ra ngồi vịng thế tục, thay chân các ngài là những kẻ phàm phu mê muội, làm hoen ố và hạ thấp khoa Huyền Mơn cao cả. Những kẻ bất chính, cĩ tham vọng đạt được những phép thần thơng của khoa bàng mơn tả đạo, sau cùng đă chiếm ưu thế để dành quyền kiểm sốt các đạo viện Huyền Mơn ở Ai Cập và những nơi khác. Những ǵ từ lúc nguyên thủy vốn là thiêng liêng, chỉ dành cho những người chọn lọc nhằm mục đích duy tŕ ngọn lửa thiêng tinh khiết của sự sống tâm linh cho được trường cửu trong nhân loại, đă lọt vào tay những kẻ tà tâm, buơn thần bán thánh. Đĩ là những sự kiện lịch sử, làm cho cái kho tàng tâm linh quư báu của nhân loại thời cổ xưa đă trở nên suy tàn.



Nhưng nếu khoa Huyền Mơn của những vị Đạo Trưởng thời xưa đă mất theo các ngài, th́ cái nền minh triết của các ngài đă từng ban cho những người thế gian từ thuở sinh tiền vẫn cịn được chứng minh bởi danh sách bất tử của những vị đạo đồ đă từng dấn thân trên đường tầm Đạo.



Những kinh sách bút tự viết trên lá chỉ thảo và những hàng chữ khắc trên vách đá của các đền thờ cổ đă chứng minh rằng người cổ Ai Cập tơn sùng lễ điểm đạo Huyền Mơn Osiris một cách nồng nhiệt như thế nào, và chứng tỏ cái uy tín đối với quần chúng của những người đă từng được phép bước vào cái thánh điện uy nghiêm hoặc các hang động ẩn dấu để được làm phép điểm đạo thiêng liêng. Cĩ một cấp bậc điểm đạo tối cao siêu đẳng mà linh hồn con người, khi đă đạt tới tŕnh độ đĩ, khơng những chỉ được tạm thời giải thốt khỏi cái thể xác vật chất để chứng minh sự tồn tại của linh hồn, mà cịn được đưa lên những cơi giới thanh cao nhất, đến tận cơi ngự tri của Thượng Đế. Kinh nghiệm huyền diệu đĩ giúp cho cái tinh thần hữu hạn của con người được tiếp xúc với tinh thần vơ biên của đấng Tạo Hĩa vơ cùng. Trong một thời gian ngắn, y được cảm thơng trong im lặng và một cách thần diệu với đấng Sáng Tạo ra muơn lồi; sự tiếp xúc ngắn ngủi, cái giây phúc cảm thơng huyền diệu đĩ cũng đủ làm cho y thay đổi thái độ đối với cuộc đời. Y đă chia sẽ một phần cái ân huệ thiêng liêng nhất mà; con người cĩ thể nhận được. Y đă khám phá cái ánh sáng huyền diệu thiêng liêng, nĩ là cái tinh hoa rốt ráo vi diệu của bản thể, mà cái thể vía tồn tại sau khi chết chỉ là cái kớp vỏ vơ h́nh vơ ảnh bên ngồi.Y đă thực sự hồi sinh trở lại, theo ư nghĩa cao cả nhất của danh từ này. Người nào được sự điểm đạo tối cao đĩ sẽ trở nên một vị đắc đạo hồn tồn. Những ám văn bằng chữ ám tự đề cập đến vị ấy như một người cĩ thể ân huệ của Thần Minh trong khi cịn sống, và sau khi chết sẽ vĩnh viễn nhập cơi Thiên Đàng.



Trạng thái xuất thần kèm theo với cuộc điểm đạo đĩ, tuy bề ngồi giống như những cơn đồng thiếp bằng phép thơi miên trong những cuộc điểm đạo sơ cấp, nhưng nếu xét về bề trong th́ hồn tồn khác hẳn. Khơng một quyền năng thơi miên nào cĩ thể gây nên trạng thái đĩ, khơng một phù phép nào cĩ thể gợi ra được nĩ. Chỉ cĩ những bậc Đạo Trưởng tối cao, đă hổn hợp ư chí tâm linh với các đấng Thần Minh, mới cĩ cái thần lực siêu đẳng phi phàm để làm cho người thí sinh ư thức được bản chất thiêng liêng của ḿnh. Đĩ là sự tiết lộ cao quư nhất và huyền diwệu nhất dành cho những vị đạo đồ của thời cổ Ai Cập. Đĩ cũng là sự tiết lộ bí mật mà người thời nay cĩ thể ước vọng cĩ được bằng những phương pháp khác.



Bài học kinh nghiệm của sự điểm đạo là một bài học thu ngắn của sự kinh nghiệm tâm linh được dành cho số phận của mỗi người trong sự tiến hĩa tuần tự của nhân loại. Chỉ cĩ một sự khác biệt là cuộc điểm đạo, ví như một sự vun trồng gượng ép, được thực hiện một caq1ch giă tạo bằng cách xuất thần, cịn kinh nghiệm kia sẽ đến một cách tự nhiên do sự phát triển tâm linh và khai mở những quyền năng quyền bí.



Như vậy, kinh nghiệm đĩ tái lập trong linh hồn người sự diễn biến tồn thể cuộc tiến hĩa của nhân loại, nĩ là cái số phận đương nhiên của tất cả mọi người.



Nĩ căn cứ trên nguyên tắc này: Cái thể chất phàm tục của con người cĩ thể tạm thời bị tê liệt trong một cơn đồng thiếp mê man, và cái thể chất tâm linh của y, thường vẫn tiềm tàng ẩn dấu, cĩ thể được đánh thức bằng những phương pháp huyền diệu mà chỉ cĩ thể những vị Đạo Trưởng đắc pháp thần thơng mới biết được mà thơi. Người thí sinh được đặt vào cơn đồng thiếp như thế bề ngồi xem dường như đă chết thật. Theo ngơn ngữ tượng trưng của Huyền Mơn, người ta nĩi y xuống mồ, hay được chơn dưới mồ. Sau khi nguồn sinh lực thể chất của y bị tạm thời gián đoạn, sức mạnh của dục t́nh và những dục vọng cá nhân của y tạm thời lắng dịu, người thí sinh đă thực sự chết hẳn đối với những sự vật trần gian, trong khi đĩ tâm thức y, linh hồn y tạm thời tách ra khỏi thể xác. Chỉ cĩ trạng thái đĩ mới giúp con người tiếp xúc được với cơi giới tâm linh ảnh của các đấng Thần Minh và thiên thần, say xưa niền phúc lạc trong khơng gian vơ tận, thực hiện được chân ngă thầm kín của ḿnh và sau cùng, cảm thơng với Thượng Đế.



Một người như thế mới cĩ thể nĩi một cách thật t́nh là y đă chết rồi sống lại, y đă được chơn dưới mồ một cách tượng trưng và phục sinh trở lại một cách nhiệm mầu, y đă khám phá ra một ư niệm mới về sự chết và tiếp nhận nơi ḿnh một sức sống thiêng liêng hơn. Y cịn mang trong ḿnh dấu vết của vị Đạo Trưởng đă ban phép mầu cho y, và từ đĩ về sau, một sợi dây vơ cùng bền chặt và thâm sâu đă nĩi liền với hai người. Từ đĩ, giáo lư về sự bất tử của linh hồn khơng phải chỉ là một sự tin tưởng suơng mà thơi,nĩ cịn là một việc đă được thử thách và hồn tồn chứng minh cho người đạo đồ. Khi y thức tỉnh trong ánh sáng b́nh minh, y cĩ thể thật sự nĩi rằng y đă trở lại thế gian, hồn tồn biến đổi và được hồi sinh về mặt tâm linh. Y đă vượt qua cơi âm ty và cơi Trời, và biết được những điều bí mật ấy khơng để lộ ra ngồi, từ nay y sẽ đặt nền tảng cho cuộc đời và phép xử thế của y trên căn bản sự hiện hữu thật sự của hai cơi ấy. Từ nay y sẽ sống giữa cả đồng loại của y với một niền tin chắc chắn tuyệy đối về sự bất tử của linh hồn.



Tuy y vẫn giữ cái bí mật của nguồn gốc của sự tin tưởng chắc chắn đĩ, y cũng khơng làm sao chuyển giao, dẫu rằng một cách vơ ư thức, cho người chung quanh ít nhiều đức tin của y. Y làm phấn khởi những niềm hy vọng và xác nhận sự tin tưởng của họ qua cái hiện tượng thần giao cách cảm bí mật nĩ luơn luơn tác động giữa mọi người. Y khơng cịn tin ở sự chết, mà chỉ tin ở sự sống, sự sống trường tồn và luơn luơn ư thức của chân ngă. Y tin tưởng những ǵ mà vị Đạo Trưởng đă tiết lộ cho y những điều huyền bí: Linh hồn cĩ thật, và đối với y, nĩ là một tia sáng thiêng liêng, một điểm linh quang của Thượng Đế. Câu chuyện Osiris cĩ ngụ một ư nghĩa cá nhân. Khi con người thấy ḿnh được phục sinh trở lại, y cũng thấy Osiris hiện diện như cái chân ngă bất diệt của ḿnh.



Đĩ là chân giáo lư của quyển thánh kinh cổ xưa nhất của Ai Cập, quyển Tử Thư(sách của người chết), tuy rằng dưới h́nh thức mà người ta chỉ biết được hiện nay, quyển sách bằng lá chỉ thảo đĩ đề cập đến người chết thật lẫn người chết giả, tức là người được điểm đạo, do đĩ mà người đọc thường hay bị lầm lộn ít nhiều. Từ lúc sơ khởi, trước khi bị sữa chữa, soạn đi soạn lại nhiều lần, quyển sách ấy chỉ nĩi về giáo lư Huyền Mơn; điều này được làm sáng tỏa một phần do đoạn trích lục sau đây: "Đây là quyển sách Huyền Mơn vơ cùng quư báu. Mắt kẻ phàm tục khơng được xem sách này; đĩ là một điều xúc phạm khơn lường. Sách này phăi được cất kỹ. Nĩ gọi là: Quyển kinh của vị Đạo Trưởng trong ngơi đền bí mật."



Bởi đĩ, trong quyển Tử Thư, người chết (đúng ra là người đạo đồ) nhiều lần để tên Osiris đứng trước tên của ḿnh. Trong những bản chính đầu tiên của quyển kinh ấy, người đạo đồ nĩi: "Tơi là Osiris, tơi đă xuất như Ngài, tơi sống như các đấng Thần Minh." Câu ấy nĩi lên một cách hùng hồn sự diễn đạt cái chết của Osiris như là sự chết giả của người đạo đồ trong cơn xuất thần.



Bây giờ chúng ta cĩ thể hiểu cái tầm quan trọng thật sự của những tơn giáo cổ, bằng cách nhận thức rằng những nhân vật chính của những tơn giáo ấy là biểu tượng linh hồn của con người và những cuộc phiêu lưu của những nhân vật ấy diễn tả những kinh nghiệm của linh hồn trên đường phản bổn hườn nguyên để trở về chốn cũ của nĩ là cơi Thiên Đường cực lạc.



Osiris trở nên h́nh ảnh của yếu tố thiêng liêng trong con người, câu chuyện Osiris là câu chuyện tượng trưng của yếu tố đĩ, sự giáng hạ của nĩ xuống những cơi vật chất và sự trở về của nĩ để thăng lên cơi ư thức tâm linh.



Huyền thoại của Osiris bi phân thây thành mười bốn hay bốn mươi hai mảnh là tượng trưng sự phân rẽ tâm linh của con người, làm cho sự điều hịa cổ xưa của y nay đă bị găy đổ. Lư trí của y đă bị tách rời khỏi t́nh cảm của y, cũng như sự tách rời giữa thể xác với tinh thần, sự lầm lẫn và những dục vọng trái ngược nhau tŕ kéo y về những đường hướng ngược chiều. Cũng y như thế, câu chuyện Isis thu nhặt, ráp những mảnh thi hài của Osiris và làm cho y sống dậy, tượng trưng cho sự phục hồi, sự tái lập trạng thái điều hịa trong con người đang cĩ sự xung đột bên trong nội tâm, bằng cuộc điểm đạo lúc đương thời và bằng sự tiến hĩa trong tương lai. Sự điều ghịa đĩ được tái lập bởi sự thỏa hiệp giữa tinh thần và thể xác cùng làm việc chung với nhau, và bởi chiều hướng song đơi của lư trí và t́nh cảm kể từ lúc ấy. Đĩ là sự phục hư6ng của trạng thái hợp nhất nguyên thủy.



Giáo điều cao siêu nhất của người cổ Ai Cập, căn bản lư thuyết của những cấp bậc điểm đạo tối cao, dạy rằng linh hồn con người phải trở về với đấng Thiêng Liêng là nguồn gốc sơ khởi của nĩ, sự trở về đĩ được gọi là: Trở thành Osiris. Con người dẫu khi cịn ở thế gian, được coi như cĩ cái tiềm năng để trở thành một Osiris. Trong quyển Tử Thư, quyển sách bí truyền về lễ điểm đạo, cĩ nĩi rằng linh hồn người thí sinh, một khi đă giải thốt, cĩ bổn phận che chở cho y trong những chuyến hành tŕnh lâu dài và nguy hiểm ở dưới cơi âm ty, khơng những bằng cách sử dụng bùa phép, mà cịn bằng cách mạnh dạng tuyên bố: "Ta là Osiris."



Quyển sách ấy cũng nĩi: "Hỡi linh hồn mù quáng! Hăy nắm lấy ngọn đuốc sáng của Huyền Mơn và trong đêm tối của thế gian, người sẽ khám phá ra cái chân ngă bất diệt. Hăy noi theo sự hướng dẫn Thiêng Liêng của nĩ, nĩ sẽ là vị Thần hộ mạng của ngươi, v́ nĩ nắm giữ cái ch́a khĩa sự sinh tồn trong dĩ văng và tương lai của ngươi."



Như thế, cuộc điểm đạo là sự đạt tới một viễn ảnh mới của cuộc đời, cái viễn ảnh tâm linh mà nhân loại đă đánh mất trong thời dĩ văng xa xăm, khi nĩ rơi từ "Thiên Đàng" xuống cơi vật chất. Khoa Huyền Mơn giúp ta thực hiện sự phản bổn hồn nguyên từ bên trong, và đưa ta đi tuần tự từ bước một đến sự giác ngộ hồn tồn. Khoa Huyền Mơn hé mở cho ta thấy trước hết những cơi giới huyền bí ngồi giới hạn cơi vật chất hồng trần, và sau đĩ, tiết lộ cho ta điều huyền diệu rốt ráo, và tính chất thiêng liêng của con người. Khoa ấy làm cho người thí sinh phải nh́n thấy những cảnh giới địa ngục âm ty để thử thách tâm trí và lịng kiên quyết của y cũng như y cĩ dịp học hỏi. Kế đĩ khoa Huyền Mơn cho y thấy những cảnh giới Thiên Đàng để khuyến khích và ban ân huệ cho y. Nếu khoa ấy phải dùng đến phương tiện đồng thiếp, điều đĩ khơng cĩ nghĩa là khơng cịn cĩ phương pháp nào khác. Đĩ chỉ là một đườnglối áp dụng, nhưng cơi tâm linh cĩ thể đạt tới bằng cách noi theo những đườnglối khác, và khơng cần phải áp dụng phương pháp xuất thần.



Một vị đạo đồ La Mă cĩ nĩi: "Nơi nào cĩ chúng ta, th́ sự chết khơng cĩ, chỗ nào cĩ sự chết th́ chúng ta khơng cĩ. Đĩ là cái ân huệ tối thượng, và quư báu nhất của thiên nhiên, v́ sự chết giải thốt con người khỏi mọi sự ưu phiền."



Như vậy, thái độ của chúng ta đối với sự chết hàm xúc một ư nghĩa về thái độ của ta đối với sự chết, và bởi đĩ cũng làm thay đổi quan niệm của ta đối với sự sống. Khoa chứng minh rằng vấn đề sinh tử chẳng qua chỉ là hai mặt phải và trái của một đồng tiền.




Những cuộc sưu tầm, khảo cứu khoa học, tâm lư và tâm linh đang làm thay đổi quan niệm của thế giới Tây Phương về các vấn đề mà từ trước người ta vẫn cho là điều hoang đường vơ lư. Những cuộc nghiên cứu này làm tiêu tan những thành kiến bất cơng của người thời nay đối với những lư thuyết của cổ nhân, và làm phát triển những quan niệm mới trong thời gian gần đây. Chúng ta bắt đầu biết phân biệt cái lư trí lành mạnh ẩn đằng sau cái h́nh thức vơ lư bên ngồi, và nhận thấy rằng sự hiểu biết của cổ nhân về những quyền năng và tính chất của linh hồn vượt khỏi sự hiểu biết của chúng ta rất xa. Sự xuất hiện của những sức mạnh vơ h́nh đă làm lung lay nền tảng của duy vật chủ nghĩa. Những nhà bác học và những triết gia ưu tú thời nay đă đứng về phía chủ nghĩa duy tâm, và nh́n nhận rằng sự sống của nhân loại cĩ một căn bản siêu linh, thần bí. Những ǵ mà họ cảm nghĩ ngày hơm nay, th́ ngày mai đa số quần chúng cũng nghĩ như vậy. Chúng ta từ lúc đầu vẫn là những kẻ hồi nghi hồn tồn, và cĩ lẽ chúng ta cĩ quyền hồi nghi như vậy, nhưng rốt cuộc, chúng ta sẽ trở nên những kẻ hồn tồn tin tưởng. Tơi quả uyết chắc chắn như vậy, và tơi tiên đốn điều đĩ một cách tích cực. Từ cái khơng khí hồi nghi lạnh lùng của thế giới hiện đại, chúng ta sẽ khốc lấy một đức tin linh hồn. Bức thơng điệp đầu tiên của khoa Huyền Mơn là "Khơng cĩ sự chết." Tuy thơng điệp ấy vẫn luơn luơn được nh́n nhận qua kinh nghiệm bản thân một số ít người mà thơi, nĩ nhằm mục đích lan tràn đến những nơi tận cùng của thế giới.



Ư niệm về sự phục sinh khơng nhất thiết nĩ nghĩa là chúng ta sẽ chui lên khỏi mồ vào một ngày giờ nào đĩ trong tương lai. Tự lầm lộn ḿnh với cái vỏ bằng xác thịt bên ngồi, khơng phải là một điều trí ĩc ta chấp nhận được. Danh từ phục sinh vẫn bị thường diễn đạt sai lầm theo ư nghĩa vật chất, ở Âu Châu thời Trung Cổ và cả trong giới những người Ai Cập chưa nhập mơn. Điều này làm cho ta phải cố gắng t́m lại những định luật cai quản sự cấu tạo phần thể chất và cơ năng huyền bí của con người. Những phần tử ưu tú của thời đại cổ xưa, những vị đạo đồ của phái Huyền Mơn, đă biết rơ những định luật này. Nhưng, tuy rằng miệng họ vẫn khĩa chặt và những chân lư ấy vẫn bị chơn vùi trong những hang động tối tăm của các đền thời cổ, ngày nay chúng ta khơng bị trĩi buộc bởi một cam kết long trọng nào để phải giữ ǵn bí mật.



Đĩ là tổ chức Huyền Mơn, một cơ quan huy hồng cao cả nhất trong tất cả những tổ chức tinh thần của thời đại cổ ngày xưa nay đă biệt tích. V́ đă cĩ những thời kỳ mà cũng như tất cả những xứ khác của thời xưa, xứ Ai Cập đă bị suy tàn, đúng như lời tiên tri của đấng Giáo chủ Hermes:



"Ơi Ai Cập! Hỡi Ai Cập! Xứ ngày xưa đă từng là nơi thánh địa thiêng liêng, sẽ cĩ lúc mà sự hiện diện của Thần Minh sẽ khơng cịn nữa. Nền tơn giáo cũ của ngươi chỉ cịn là những huyền thoại và những chữ khắc trên đá, nĩ nhắc nhở đến sự tơn sùng của ngươi ngày nay đă mất. Một ngày kia sẽ đến, than ơi! Khi mà những chữ ám tự thiêng liêng sẽ chỉ cịn là những thần tượng khơng hồn. Thế gian sẽ lầm tưởng những h́nh biểu tượng của minh triết là những vị thần, và sẽ lên án xứ Ai Cập đă thờ phượng những lồi ma quái ở cơi Âm Ty!"



Đă cĩ một thời kỳ, sự cai quản các đạo viện Huyền Mơn lọt vào tay của những kẻ lưu manh bất hảo, những kẻ ích kỷ hại nhân, đă từng lạm dụng ảnh hưởng của tổ chức Huyền mơn, một tổ chức cĩ uy thế đến nỗi các vị vua Pharaon hách dịch ngày xưa cũng phải kiêng nể, để mưu đồ lợi lộc riêng cho ḿnh. Cĩ nhiều người ttrong hàng tăng lữ đă lạm dụng và truyền bá những loại phù phép, châm ngơn kinh dị, những tà thuật hắc ám, những cuộc tế lễ tà thần, chính những vị đại tư tế các đền thờ, được coi như những sứ giả của Thần Minh giữa nhân loại, cũng chỉ cịn là những lồi quỷ sống mang lốt người, họ thường kêu gọi những lồi âm binh ác quỷ ghê gớm nhất dưới cơi âm ty để dùng vào những mục đích bất chính, tà đạo. Trong các đền thờ, khoa pháp mơn phù thủy đă thay thế sự sinh hoạt tâm linh. Giữa những cảnh hắc ám, suy vong, hỗn độn như thế, khoa Huyền Mơn đă bị mất tính cách chân thực và nguồn cảm ứng thiêng liêng. Những người mơn đệ xứng đáng đă trở nên rất khĩ t́m, với thời gian qua, họ lại càng trở nên hiếm cĩ. Đă cĩ một thời mà những vị Đạo Trưởng tơn nghiêm đă biến mất, khơng cịn để lại di tích, thậm chí cũng khơng cĩ chuẩn bị đủ một số người thừa kế cĩ uy tín để nối nghiệp các ngài. Thay v́ các Đạo Trưởng thần thơng quảng đại, đạo hạnh tinh thâm, người ta chỉ thấy cĩ những kẻ khơng xứng đáng. Một số ít những phần tử ưu tú cịn sĩt lai, khơng thể thực hiện được lư tưởng của ḿnh,giữa một t́nh trạng suy đồi như thế, đành phải chịu cái số phần đau thương. Biết rằng đă đến lúc suy tàn, họ âm thầm xếp lại những bộ kinh sách Huyền Mơn, rời bỏ những hang động thâm u và những ngơi thánh điện cổ kính, đưa mắt nh́n chốn đạo viện mến yêu một lần cuối cùng với tấm lịng luyến tiếc, và lặng lẽ cất bước ra đi.



Như thế, những cánh cửa nặng nề của các đạo viện Huyền Mơn Ai Cập đă khép lại một lần cuối cùng. Từ đĩ trở đi, những vị thí sinh lịng đầy hy vọng khơng bao giờ cịn bước lên chiếc cầu thang bí mật đưa đến thánh điện linh thiêng, khơng bao giờ họ cịn bước xuống hầm điểm đạo thâm u của các đền thờ cổ. Tuy nhiên, lịch sử của nhân loại luơn luơn theo định luật chu kỳ, những ǵ đă từng xảy ra, sẽ tái diễn trở lại. Một lần nữa, con người đă trải qua một thời kỳ hỗn loạn và hắc ám, trong khi đĩ y lại cảm thấy một sự boăn khoăn bất măn do nhu cầu tự nhiên của bản tính con người là muốn lập lại sự giao tiếp với các cơi giới tâm linh huyền diệu huy hồng. Bởi vậy, tơi hy vọng rằng những điều kiện sẽ cĩ thể được tạo nên, những hồn cảnh thuận tiện sẽ đến và những nhân vật đủ thẩm quyền và khả năng sẽ xuất hiện, để nhờ đĩ, một lần nữa trên địa cầu, sẽ được tái lập lại tổ chức Huyền Mơn, dưới những h́nh thức hồn tồn mới mẻ tân kỳ, để cho được phù hợp, thích ứng với thời đại tân tiến hồn tồn khác hẳn với thời đại cổ xưa.
9. Ngơi Đền Denderad



Trước khi rời khỏi thánh điện trên nĩc bằng của ngơi đền Denderad, tơi nh́n xem một vịng Hồng Đạo (Zodiaque) rất đẹp khắc trên trần. Tơi biết rằng đĩ chỉ là một phĩ bổn đă được sao lục lại, v́ bổn chánh đă bị tháo gỡ và đem về Ba Lê cách đây trên một thế kỷ. Nhưng phĩ bổn được sao lại một cách hồn tồn đúng đắn.



Cái vịng trịn đĩ chứa đầy những h́nh ảnh các lồi thú, h́nh người và các vị thần, được sắp chung trong một bầu trịn và ở chung quanh là mười hai cung Hồng Đạo. Tơ điểm thêm cho cái biểu tượng này, cĩ h́nh mười hai vị thần và nữ thần khác nhau, kẻ đứng, người quỳ, sắp chung quanh h́nh bầu trịn, hai tay đưa lên, lịng bàn tay duỗi thẳng nối tiếp nhau thành một vịng trịn.



Như thế, tồn thể vũ trụ luân chuyển khơng ngừng được h́nh dung nơi đây một cách chính xác, tuy rằng dưới h́nh thức tượng trưng. Đĩ chính là sự tŕnh bày những bầu thế giới luân chuyển theo một nhịp độ bất di dịch trên một nền trời. Những người biết suy nghĩ, dẫu rằng là người cĩ ĩc hồi nghi nhất, khơng khỏi cảm thấy thán phục cái trí ĩc thơng minh tuyệt vời đă làm kiểu mẫu cho cái vũ trụ đĩ.



Hiểu một cách đúng đắn, th́ vịng Hồng Đạo của đền Denderad h́nh như mơ tả h́nh trời ở vào một thời kỳ nhất định nào đĩ trong quá khứ. Vậy đĩ là thời kỳ nào? Đĩ là một vấn đề khác. Chúng tơi khơng thể nêu ra đây những sự giải thích thiên văn trừu tượng và phức tạp. Chỉ biết rằng vị trí các tinh tú ở vào thời đĩ khơng trùng hợp với thiên tượng mà người ta quan sát vào thời nay. Xuân Phân Điểm (équinoxe du printemps) khơng chiếm cùng một vị trí như hiện nay, theo đĩ mặt trời đang đi vào một chịm sao khác hẳn.



Sự biến chuyển lớn lao đĩ diễn ra bằng cách nào? Do bởi sự xoay vần của trái đất, mà cái trục liên tục nhắm vào những v́ sao Bắc Đẩu khác nhau. Điều đĩ cĩ nghĩa là Mặt Trời của chúng ta luân chuyển chung quanh một ngơi định tinh riêng của nĩ. Sự luân chuyển tế vi, khĩ nhận thấy, của Đường Phân Điểm (équinoxe) trải qua một thời gian dài và chậm chạp, cũng thay đổi những vị trí mọc và lặn của vài bầu tinh tú đối với chịm sao. Khi đă đo lường sự vận chuyển trung b́nh của những bầu tinh tú đĩ, người ta biết cĩ bao nhiêu ngàn năm đă trơi qua kể từ khi chúng nằm ở vị trí đầu tiên. Khoảng cách biệt đĩ gọi là Tuế Sai (précession des équinoxes). Đĩ là điểm giao tiếp của đường xích đạo và đường Hồng Đạo, là chỗ đánh dấu xuân phân điểm, di chuyển một cách chậm chạp trên bầu trời theo cái tuế sai đĩ.



Nĩi cách khác, đều đĩ cĩ nghĩa là những tinh tú di chuyển ngược chiều với mười hai cung Hồng Đạo, và mỗi năm chỉ vượt qua một phần tối thiểu của khơng gian. Sự luân chuyển vĩ đại đĩ của các tinh cầu trên nền trời, thứ vũ trụ kế mà nền trời là cái mặt đồng hồ, trên đĩ người ta cĩ thể đọc cả hai chiều và ghi nhận những cuộc vận hành của các tinh cầu trong nhiều ngàn năm.



Khi xem xét một bản đồ thiên văn cũ, một nhà thiên văn học cĩ thể xác định bản đồ đĩ được thiết lập vào thời kỳ nào. Việc nghiên cứu cái dĩ văng xa xăm đơi khi cĩ thể giúp cho ta t́m ra những sự kiện vơ cùng quan trọng. Khi các nhà tháp tùng theo Napoléon sang Ai Cập phát hiện ra vịng Hồng Đạo tai đền Denderad, họ lấy làm vơ cùng phấn khởi, và tưởng rằng họ đă t́m được cái ch́a khĩa để tri nguyên ra khoảng thời gian của nền văn minh cổ Ai Cập, v́ họ thấy trong vịng Hồng Đạo đĩ, xuân phân điểm cách xa vị trí của nĩ bây giờ. Nhưng măi về sau, khi người ta nhận thấy rằng ngơi đền này chỉ mới dựng lên vào thời kỳ đế quốc Hy Lạp La Mă và vịng Hồng Đạo Ai Cập này đă phối hợp một Hồng Đạo Hy Lạp, vấn đề này mới bị dẹp bỏ và từ đĩ người ta khơng theo vấn đề đĩ nữa.



Một ư kiến cho rằng vịng Hồng Đạo này chỉ là của Hy Lạp, nhưng đĩ là một ư kiến sai lầm. Phải chăng nĩi như thế là kết luận người Ai Cập khơng cĩ vịng Hồng Đạo của họ? Nếu vậy th́ giới tăng lữ Ai Cập đă từng khảo cứu khoa chiêm tinh và khoa thiên văn trong bao nhiêu ngàn năm, trước khi người Hy Lạp đặt chân lên xứ Ai Cập, mà lại khơng cĩ vịng Hồng Đạo chăng? Giới tăng lữ Ai Cập đă từng tơn trọng khoa chiêm tinh đến nỗi họ đă xáp nhập khoa này vào tơn giáo của họ, làm cho họ cĩ thể thực hành khoa chiêm tinh mà lại khơng cĩ một vịng Hồng Đạo? Ngồi ra những vị tăng lữ Ai Cập cũng rất tinh thơng về khoa thiên văn.



Thật vậy, người Ai Cập đă sao lục một phần vịng Hồng Đạo của họ theo bản chính đă cĩ từ trước tại đền Denderad, ngơi đền này đă được xây đi dựng lại nhiều lần. Một tài liệu thiên văn như thế hẳn là phải được sao lục làm nhiều phĩ bổn để bảo đảm cho nĩ được tồn tại muơn đời. Những tài liệu văn khố cổ xưa cũng được bảo tŕ bằng cách đĩ, nhưng lại bị rơi trong quên lăng và rốt cục đă biến mất theo những nhân viên bảo tŕ văn khố, tức là những vị tăng lữ thời cổ Ai Cập.



Những nhà khảo cổ đă phát hiện tại xứ Mésopotamie những viên gạch cổ xưa, trên đĩ các nhà thiên văn xứ ấy đă ghi nhận rằng mùa xuân bắt đầu khi mặt trời đi vào chịm sao Kim Ngưu. V́ lẽ rằng trong kỷ nguyên Thiên Chúa, ngày đĩ được ghi nhận là ngày Mặt Trời đi vào chịm sao Bạch Dương, tức là ngày 21 tháng 3 dương lịch, người ta nhận thấy tằng một sự thay đổi lớn lao như thế đưa nền văn minh xứ Chaldée thụt lùi về một thời kỳ dĩ văng xa xăm nhất, đúng như chính người Chaldée đă tuyên bố. Cũng như thế, cứ xét vị trí của đường điểm phân trong vịng Hồng Đạo của đền Denderad, th́ nĩ đánh dấu một thời kỳ thái cổ hàng bao nhiêu thế kỷ. Nhờ đĩ, người ta truy nguyên ra nền văn minh cổ nhất của Ai Cập ở vào thời kỳ nào. Cái vị trí đĩ chỉ rằng từ đĩ đến nay, cĩ trên ba "đại niên" rưỡi đă trơi qua trên vũ trụ kế, tức là mặt trời đă xoay vịng chung quanh ngơi định tinh của nĩ trên ba lần rưỡi.



Sự kiểm điểm chính xác những thống kê thiên văn xác định rằng sự xê dịch trung b́nh của tuế sai là 50.2 giây mỗi năm, do đĩ người ta cĩ thể tính trong dĩ văng để đi đến điểm quy định bở vị trí của Hồng Đạo đền Denderad. Ví vịng lớn của Hồng Đạo chia làm 360 độ, nên khoảng tuế sai 25,800 năm lập thành một chu kỳ "đại niên." Như thế, mỗi chu kỳ trọn vẹn của mặt trời trải qua khơng dưới 25, 800 năm, tính ra th́ ít nhất là 90,000 năm đă trơi qua kể từ cái ngày được ghi nhận trên Hồng Đạo đền Denderad.



Chín mươi ngàn năm! Phải chăng đĩ là một điều khĩ tin? Những vị tăng lữ thơng thiên văn Ai Cập khơng chấp nhận điều đĩ. Sử gia Hy Lạp Hérodote thuật lại lời các tăng lữ đă nĩi với ơng rằng dân tộc Ai Cập tự cho là dân tộc cổ xưa nhất thế giới, và họ cất giữ trong các đạo viện và các đền thờ cổ những văn khố tài liệu xưa đến 12,000 năm trước khi ơng đến viếng xứ này. Người ta biết Hérodote đă thu thập các tài liệu lịch sử một cách thận trọng tỉ mỉ là dường nào, và ơng thực sự xứng đáng gọi là "Người cha của lịch sử." Các vị tăng lữ đĩ cịn nĩi với ơng rằng "Mặt trời đă từng mọc lên hai lần ở tại chỗ mà ngày nay nĩ lặn, và trái ngược lại." Lời khẳng định lạ lùng này ngụ ư rằng hai miền cực địa của trái đất đă hồn tồn đảo lộn những vị trí đầu tiên của chúng, điều này ám chỉ rằng trên địa cầu đă từng cĩ những cuộc biến thiên vĩ đại đă làm thay đổi cục diện các vùng lục địa và đại dương. Những cuộc sưu tầm địa chất học đă xác nhận điều đĩ, nhưng cịn những thời kỳ xảy ra những cơn biến thiên đĩ th́ thụt lùi về một cái dĩ văng xa xăm tịt mù.



Một hậu quả khác là khí hậu ở các vùng địa cực ngày xưa khơng phải lạnh lẽo mà đĩ là khí hậu của miền nhiệt đới. Trạng thái đĩ của quả địa cầu chỉ cĩ thể gây ra bởi những sự biến chuyển vĩ đại trong khơng gian, và điều này đă chúng thực lời nĩi của các vị tăng lữ Ai Cập.



Những vị tăng lữ ấy khơng hề biết ǵ về khoa địa chất học hiện đại, họ chỉ cĩ những tài liệu cổ khắc trên mặt đá của những cây thực tiễn, trên những tấm bia đá, những mâm đồng, hoặc viết trên lá cây chỉ thảo. Ngồi ra cịn cĩ những giáo điều và lịch sử bí truyền chỉ được tiết lộ trong khoa Huyền Mơn, hoặc được truyền khẩu cho mơn đồ trong các đạo viện trải qua bằng bao nhiêu thế kỷ.



Bằng cách nào giới tăng lữ, tuy khơng biết ǵ về địa chất học, lại biết được những sự biến thiên và dời đổi cuộc diện trên địa cầu, nếu khơng phải là nhờ những tài liệu cổ của họ? Sự hiểu biết đĩ càng xác nhận sự kiện rằng họ đă nắm giữ được những tài liệu đĩ, và cũng giải thích sự hiện hữu của những vịng Hồng Đạo chính cống mà bổn Hồng Đạo của đền Denderad chỉ ghi chép lại một phần.



Do những sự việc kể trên, một khoảng thời gian 90,000 năm khơng cịn là chuyện mơ hồ khĩ tin. Điều đĩ khơng nhất thiết cĩ nghĩa là nền văn minh Ai Cập. Cĩ thể rằng dân tộc và nền văn minh Ai Cập đă từng cĩ trên một vùng lục địa khác và chỉ di cư sang Châu Phi trong một thời kỳ về sau này.



Lịch sử Ai Cập bắt đầu ở triều đại thứ nhất, nhưng ta phải nhớ rằng xứ ấy đă từng cĩ người ở từ lâu trước thời kỳ của tài liệu cổ xưa nhất cịn tồn tại đến bây giờ. Lịch sử của dân tộc Ai Cập cổ xưa và những tên tuổi của những vị vua chúa của họ là những điều mà các nhà Ai Cập học khơng hề biết. Lịch sử Ai Cập thời thái cổ dính liền với lịch sử (đă mất) của châu Atlantide. Các vị tăng lữ Ai Cập cũng là những nhà thiên văn, đă thừa hưởng vịng Hoảng Đạo của họ từ châu Atlantide. Đĩ là lư do v́ sao vịng Hồng Đạo của đền Denderad cĩ thể cho thấy dấu vết của những cuộc vận hành tinh tú khổng lồ trải qua những giịng thời gian dài vơ tận so với những vịng Hồng Đạo của kỷ nguyên lịch sử.



Sự khám phá mỗi di tích mới của nền văn minh cổ xưa đĩ làm cho chúng ta phải thốt ra những tiếng kêu ngạc nhiên. Trong khi mà, theo những quan niệm của chúng ta về sự "tiến bộ" chúng ta tưởng rằng càng đi thụt lùi về dĩ văng, th́ chỉ cĩ giống người càng thơ kệch và dă man hơn, nhưng trái lại cĩ khi ta lại thấy cĩ những dân tộc văn minh, tiến hĩa và rất tơn sùng tín ngưỡng tơn giáo. Dẫu cho ở vào một vài thời kỳ tiền sử xa xăm, cũng cĩ những dân tộc dă man và những dân tộc văn minh sống đồng thời với nhau trên địa cầu. Khoa học, tuy đă phát họa cho ta thấy một thời quá khứ của địa cầu nĩ thách thức tầm hiểu biết thiển cận của chúng ta, nhưng vẫn chưa cĩ đủ dữ kiện để tŕnh bày đầy đủ những chi tiết về những thời kỳ đĩ. Nhưng khoa học vẫn tiến bộ khơng ngừng, và sẽ cĩ thể làm được điều đĩ. Vậy chúng ta chớ nên phủ nhận một cách vội vàng những truyền thống cổ Ai Cập về con số 90,000 ngàn năm, và cũng đừng nên vội chấp nhận con số năm hay sáu ngàn năm lịch sử của nhân loại như người ta vẫn thường nh́n nhận. Tuổi của quả địa cầu luơn luơn đính chánh sự tin tưởng này của những người cĩ một quan niệm quá nghèo nàn về tổ tiên của chúng ta, sự hiểu biết về quá tŕnh của vũ trụ sẽ cĩ thể đem đến cho họ, tuy khơng phải là một cách dễ dàng, những tầm nhăn quang bao quát và rộng lớn hơn nữa. Trong những khoảng khơng gian bao la vơ tận, phải chăng cịn cĩ những nghĩa địa của càn khơn, ở nơi đĩ cĩ những tinh cầu chết và những bầu tinh tú tắt nguội, đă từng cĩ một thời phát triển trong những nền văn minh rực rỡ huy hồng ngày nay đă mất?



Tơi bước xuống cầu thang và trở ra cửa ngồi đă quan sát phía bên trong ngơi đền lớn mà lúc đầu tơi đă đi qua nhanh để t́m nơi thánh điện Huyền Mơn mà tơi muốn xem trước hết. Trong gian phịng rộng, hai mươi bốn cây cột lớn mang trên chớp vuơng gương mặt chạm trỗ nhưng đă bị sứt mẻ của nữ thần Hathor, những mặt cột đền cĩ khắc đầy những hàng chữ ám tự. Thật đáng buồn mà thấy rằng ngơi đền thờ nữ thần Hathor, vị nữ thần Ai Cập tượng trưng Sắc Đẹp và Ái T́nh, đă thốt khỏi sự tàn phá của thời gian để rồi lại bị tàn phá nhiều hơn do bàn tay phủ phàng của con người. Hầu hết pho tượng của nữ thần đều bị chặt, đẽo bằng búa rều, do sự phẫn nộ của những người cuồng tín, những gương mặt bị sứt mẻ chỉ cịn thấy những vành lỗ tai dài và những mái tĩc dầy cộm. Dền Denderad là một trong những ngơi đền đồ sộ to lớn nhất của Ai Cập, và trong số nhương đền mà người ta cịn tế lễ thờ phượng khi hồng đế La Mă Théodose, vào năm 379 sau Thiên Chúa kỷ nguyên, ban hành một chỉ dụ ngăn cấm nền tơn giáo cổ đă suy tàn và làm cho nĩ chết hẳn.



Viên sứ giả của hồng đế là Cynegius đă thi hành lệnh cấm ấy một cách vơ cùng gắt gao. Ơng tuyên bố đĩng cửa tất cả các đền thờ và các đạo viện, ngăn cấm mọi cuộc hành lễ điểm đạo và những nghi lễ cổ truyền. Lúc đĩ những đám dân cuồng tín đột nhập đền Denderad, đuổi các tăng lữ và xâm phạm vào những nơi thánh điện thiêng liêng. Họ phá hủy các pho tượng nữ thần Hathor, cướp bốc những đồ vàng ngọc, chặt đẽo gương mặt xinh đẹp và chạm trổ tinh vi của nữ thần, ở bất cứ nơi nào họ đi đến.



Ở những nơi khác, sự tàn phá cịn khốc liệt hơn nữa, v́ người ta phá hủy các tường rào, triệt hạ những cột đền và đập tan từng mảnh những pho tượng khổng lồ, người ta tiêu diệt cơng tŕnh của bao nhiêu ngàn năm. Đĩ là những biến thiên của nền tơn giáo mà những tín đồ lúc đầu đă chịu đựng những sự ngược đăi bắt bớ, chịu pháp nạn rồi tử v́ Đạo, và cuối cùng lại dành một sự ngược đăi tương tự cho kẻ khác. Họ cho rằng bổn phận họ phải phá hủy cơng tŕnh của tiền nhân, để tạo nên một cơng tŕnh khác thích hợp với họ.



Lúc bước vào đền, tơi nghĩ đến các v́ vua của triều đại Ptolémeé, những v́ vua kiêu hănh đă từng đến ngơi đền này trên những cổ xe thếp vàng ĩng ánh, trước một đám quần chúng im lặng và tơn kính. Thời đĩ, đă cĩ bao nhiêu là đám rước lễ long trọng, náo nhiệt tưng bừng, diễn ra trên sân đền rộng lớn, mà ngày nay sân đền lại vắng tanh khơng một bĩng người!



Nh́n di tích của chánh điện mà lịng tơi cịn thấy buồn man mác, huống chi là những hang động âm u ở dưới hầm mà tơi đang bước đến? Những gian phịng tối đen dưới hầm này được xây bên trongnhững bức tường nền dầy kinh khủng. Vách tường cũng được tơ điểm bằng những h́nh ảnh chạm trổ rất cơng phu, mơ tả những cuộc lễ điểm đạo thiêng liêng ngày xưa đă từng diễn ra ở dưới hầm này.



Rời những hầm tối đen giống như những nhà mồ, tơi trở lại chỗ cửa chính. Cổng đền ngày xưa được khép bằng những cánh cửa bằng đồng rất kiên cố thếp vàng sáng chĩi lộng lẫy. Tơi bước ra ngồi và đi quanh một vịng chung quanh đền.



Thật khĩ mà tin rằng khio vua Ả Rập Abbas Pacha phát hiện ra ngơi đền này giữa thế kỷ 19, phần lớn đă bị chơn vùi dưới một đồi cát và sỏi vụn. Nĩ được phơi bày ra ánh sáng trở lại nhờ bởi những nhát cuốc xẻng của những phụ thợ đến làm cơng việc đồi cát này. Cĩ bao nhiêu người đă đi qua vùng này ngày xưa, mà khơng hề biết đến cái kho tàng thiêng liêng của dĩ văng mà họ đang dày xéo dưới gĩt chân của họ.



Tơi ngừng lại một lúc để nh́n lên mặt ngồi tường cái h́nh nổi chạm trổ chân dung nữ hồng Cléopâtre. Vị nữ hồng Ai Cập này lúc đương thời đă ra lệnh tu bổ bức tường chung quanh đền, hồi đĩ đă bắt đầu sụp lở. Để ghi tạ cơng đức, người ta đă tạc tượng nữ hồng ở trên tường để làm kỷ niệm. Hồng tử Césarion cũng được khắc tượng ở một bên nữ hồng, giống người cha một cách lạ thường. Nữ hồng Cléopatre, con gái của vua Ptolémée, cũng là người cuối cùng trong tất cả các nữ hồng Ai Cập. Khi hồng đế Jules César cầm quân vượt biển Địa Trung Hải đi chinh phục xứ Ai Cập, th́ nữ hồng Cléôatre đă trở nên t́ng nhân của vua ngay từ khi César vừa đổ bộ lên đất liền. Chính do sự trung gian của Cesar mà nữ hồng đă hướng xứ Ai Cập đến việc liên kết với một hải đảo xa xơi, mà địng mệnh đă đặt để rằng sẽ đĩng một vai trị quan trọng trong lịch sử Ai Cập trên 18 thế kỷ về sau! Và những quân sĩ La Mă cũng đă đem vào Anh Quốc tơn giáo Sérapis, cùng với bao nhiêu di sản tinh thần khá cnguồn gốc Ai Cập. Một sự liên lạc, tuy gián tiếp, đă bắt đầu cĩ giữa hai nước kể từ khi đĩ.



Trên bức tường chạm trổ, nữ hồng Cléopatre đội cái thứ măo trịn như cái dĩa cĩ sừng, giống như măo của nữ thần Hathor, để bộ mái tĩc dài thắt bín. Gương mặt đầy đặn và xinh đẹp, tướng mạo uy nghi của một bậc vương giả quren truyền lịnh và sai phái kẻ dưới, cương quyết thực hiện mọi kế hoạch đến cùng, bằng mọi phương tiện. Chính do ảnh hưởng của nữ hồng mà Jules César đă nuơi cái mộng dùng thành Alexandrie làm kinh đơ của đế quốc La Mă và trung tâm của thế giới. Khi Cléopâtre qua đời, th́ nền độc lập của Ai Cập cũng khơng cịn nữa.



Tơi hồi tưởng lại rằng Cléopâtre cũng là một giai nhân tuyệt sắc củu thế giới cổ xưa, và là một trong những người đàn bà đă từng đĩng vai trị quyết định của lịch sử. Cĩ ai ngờ rằng vận mệnh của một bậc vĩ nhân, vận mệnh của cả một đế quốc rộng lớn, cĩ đơi khi lại treo lơ lửng dưới cái nụ cười quyến rũ hiện ra trên đơi mơi xinh đẹp của một giai nhân?



Phần trên những vách tường đá của ngơi đền đều cĩ khắc hàng chữ ám tự (hiéroglyphes). Truyền thuyết cho rằng loại chữ ám tự của thời cổ Ai Cập là do vị thánh sư Thoth tức Tehuti, phát minh ra. Điều này cũng cĩ một sự thật về lịch sử. V́ chính một vị siêu nhân, một đấng Chân Sư danh hiệu là Thoth, đă đem thứ chữ này, như một sự tiết lộ của thánh thần, cho những con cháu của dân Atlante di cư sang vùng đất mới trên bờ sơng Nil, trước khi những luồng sĩng cuối cùng đă nhận ch́m châu Atlantide xuống đáy biển. Vị chân sư Thoth cũng là tác giả của quyển Tử Thư (Sách của Người Chết).



Người Ai Cập mơ tả chữ ám tự của họ là thứ ngơn ngữ của Thần Minh. Đĩ là bởi v́ khơng những họ tin rằng loại chữ này được Thần Minh ban cho họ, mà cũng v́ nghĩa ẩn dấu của nĩ được giữ kín đối với quần chúng và chỉ tiết lộ cho những vị mơn đồ Huyền Mơn đă được điểm đạo. Những nhà Ai Cập hiện đại chỉ cĩ thể hiểu được ư nghĩa thơng thường của chữ ám tự theo sự hiểu biết của người b́nh dân, điều đĩ đă là một thành quả vẻ quang rồi. Cịn cái ư nghĩa ẩn dấu, bí truyền th́ họ tịt mù chẳng biết ǵ cả. Đĩ là bởi v́ muốn thấu triệt loại chữ ám tự, ngơn ngữ; của Thần Minh, người ta phải cần dùng đến một thứ đạo nhỡn, để hiểu biết nĩ trên khía cạnh tâm linh, chứ nếu khơng, th́ khơng thể nào hiểu tận cùng đến chỗ sâu xa huyền diệu của nĩ. Điều này cũng tương tự như trường hợp của người thí sinh muốn thấu hiểu những pháp mơn bí truyền được tiết lộ cho y trong các cuộc lễ điểm đạo của phái Huyền Mơn Ai Cập.



Nhờ cơng tŕnh của các nhà Ai Cập học, và nột phần cũng do bàn tay của định mệnh, những kho tàng tâm linh quư báu thể hiện nơi những hàng chữ ám tự khắc trên tường đá trong các đền thờ hoặc viết trong những pho sách cổ bằng lá cây chỉ thảo, mới được phiên dịch ra và lưu truyèn lại cho hậu thế.



Vai trị của định mệnh trong sự khám phá này thật là la lùng.Nếu Napoléon khơng đem binh viễn chinh sang Ai Cập, th́ loại ngơn ngữ huyền bí khắc trên tường và viết trên giấy chỉ thảo ngày nay cĩ lẽ vẫn cịn câm lặng khơng hề cĩ người đọc. Chính Napoléon vẫn từng là người của định mệnh đến một mức độ phi thường. Ơng ta khơng hề tiếp xúc với một quốc gia nào, một cá nhân nào, hay một nhân vật nào mà khơng ảnh hưởng sâu rộng đến vận mạng của họ. Ơng là khí cụ của định mệnh, hay là của thần Némésis.



Cuộc viễn chinh của Napoléon sang Ai Cập đă dọn đường cho sự t́m tịi khảo cứu về cách sinh hoạt và tư tưởng xứ Ai Cập thời cổ. Khi xứ Ai Cập bị đặt dưới quyền đơ hộ của Hy Lạp, loại ngơn ngữ cổ xưa này bị suy sụp. Lẽ tự nhiên là chính quyền toan tính phổ biến ngơn ngữ và nền giáo dục Hy Lạp trong những giai cấp cĩ học thức. Những quan chức quan trọng trong chính quyền đều dành cho những người Ai Cập giữ chức giỏi chữ Hy Lạp. Nhà cầm quyền Ai Cập đĩng cửa các đạo viện cổ ở Héliopolis, là nơi đào tạo rất đơng những tăng lữ thời xưa và nơi truyền bá sự học hỏi ngơn ngữ Ai Cập. Trừ ra một số ít tăng lữ vẫn duy tŕ việc dùng tiếng Ai Cập trong vịng bí mật, chữ Hy Lạp đă thật sự trở nên một thứ quốc ngữ Ai Cập.



Đến cuối thế kỷ thứ 3 của Thiên Chúa kỷ nguyên, trong xứ Ai Cập người ta khơng cịn t́m thấy một người nào cĩ thể giải thích ư nghĩa thơng thường b́nh dân của chữ ám tự cổ nữa, đừng nĩi chi đến việc sử dụng thứ chữ ấy. Mười lăm thế kỷ đă trơi qua. Việc dùng chữ ám tự dường như đă hồn tồn biến mất ở Ai Cập, th́ độtnhiên xuất hiện trước hải cảng Alexandrie, do một cơn bă tắp vào bến, và vượt qua sự canh tuần của hạm đội Anh dưới quyền chỉ huy của đơ đốc Nelson, chiếc thuyền chở Napoleon và định mệnh của người.



Khơng bao lâu, quân đội viễn chinh Pháp được chuyển đến sứ Ai Cập. Người ta đào đất ở nhiều nơi để xây mĩng đắp nền làm những cơng sự phịng thủ. Một trong những địa điển lần đầu tiên được lựa chọn do bởi tầm quan trọng chiến lược của nĩ là vùng châu thổ sơng Nil, kế cận hải cảng Rosette. Một viên sĩ quan trẻ tuổi, trung úy pháo binh Boussard, đă phát hiện một điều vơ cùng quan trọng như một sự t́nh cờ đưa đến cái ch́a khĩa để truy ra ư nghĩa của các ám tự Ai Cập. Trong khia đào đất đắp nền xây pháo đài St Juluen, những quân sĩ của ơng ta th́nh ĺnh đào được một khối đá đen đă bể. Trung úy Boussard liền hiểu ngay rằng tảng đá này cĩ một tầm quan trọng rất lớn v́ nĩ cĩ khắc chữ, đĩ là một sắc lệnh của giới tăng lữ thành Memphis ban bằng sắc danh dự cho vua Ptolémeé thứ 5. Bản chính bằng chữ Hy Lạp khắc trên 54 giịng, kèm theo hai bản dịch ra chữ ám tự và cổ tự.



Viên đá này được gởi về Châu Âu, tại đây các nhà bác học mới ra cơng nghiên cứu cho đến khi họ cĩ thể thiết lập tồn bộ chữ cái ám tự Ai Cập tương đương với những cái Hy Lạp. Cái ch́a khĩa này từ đĩ đă giúp cho các nhà khảo cổ và Ai Cập học đọc được những bản chữ ám tự khắc trên tường và trong các sách chỉ thảo đă từng là những điều bí hiểm trong bao nhiêu thế kỷ.


__________________
Chốn hư không Trời vô ngôn quán đảnh, Pháp hiện tiền vi tiếu một cành hoa
Quay trở về đầu Xem daoky's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi daoky
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.7969 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO