Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 243 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: CHẾT VÀ SỰ TÁI SINH Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
DaoTran
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 June 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 102
Msg 1 of 6: Đă gửi: 10 September 2004 lúc 1:20am | Đă lưu IP Trích dẫn DaoTran




CHẾT VÀ SỰ TÁI SANH của Thích Nguyên Tạng

Chương 1

Chết, Thân Trung Ấm Và Tái Sinh

1. CHẾT:






Qua sự huân tập và ảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đă h́nh thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu. Khi con người chết, nếu có những khuynh hướng như thế sẽ tiếp tục đầu thai trong ṿng sanh tử luân hồi với thân và tâm được thừa hưởng từ sự tích lũy nghiệp thiện và ác ở kiếp sống vừa qua.



Một số người chết v́ kiệt sức hoàn toàn, một số khác chết do hao ṃn phước đức, chết không đúng thời điểm hay c̣n gọi là bất đắc kỳ tử.



Một người chết thường ở một trong ba trạng thái tâm: Thiện, Bất thiện và Vô kư. Trong trường hợp thứ nhất, người hấp hối có thể quán tưởng về Tam Bảo hay một vị thầy đức hạnh của ḿnh, bằng cách đó tâm của vị ấy mới phát sinh tín tâm. Hoặc người hấp hối có thể nuôi dưỡng niềm hỷ lạc vô biên để thoát khỏi sự ràng buộc của những phiền năo tham dục, luyến ái, thay vào đó bằng cách quán niệm Tánh không và Tâm từ bị Điều này có thể tự người hấp hối làm hoặc qua sự trợ niệm của người khác. Nếu những yếu tố trên được nuôi dưỡng trong thời điểm hấp hối, một người chết với tâm thanh tịnh như thế th́ việc tái sinh của họ sẽ được cải thiện. Đây là cách tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết. Mặt khác, ta nên tránh đánh thức, quấy nhiễu người đang hấp hối, điều đó chỉ khiến cho họ nổi giận thôi. Đôi khi người thân và bạn bè tập trung quanh tử sàng bày tỏ niềm tiếc thương và khóc lóc bi thảm, sẽ làm cho người hấp hối khởi tâm tham ái và quyến luyến. Nếu người chết với tâm niệm bất thiện như thế, sẽ đẩy họ đầu thai vào cơi xấu, điều này rất nguy hiểm. Trong bất cứ trường hợp nào, trạng thái tâm của người hấp hối bao giờ cũng quan trọng trước khi chết. Bởi v́ ngay cả một người tu luyện tâm linh mà bị quấy rầy vào thời điểm ấy cũng làm cho phiền năo phát khởi, chính trạng thái tâm này sẽ tạo ra ác nghiệp và đó là động cơ chính dẫn dắt người ấy tái sinh vào một cơi bất lợi như bao đường ba ác: Đ?a ngục, Ngạ quỷ và Súc sanh. V́ thế, điều tối quan trọng cho cả người hấp hối lẫn người sống là tránh tạo ra những t́nh huống gây bất lợi cho tâm thức của người chết. Chúng ta cần biết điều này.



Những người chết trong trạng thái tâm thiện đều có cảm giác ḿnh từ trong bóng tối thoát ra ánh sáng, loại bỏ sự khổ đau và đạt được hạnh phúc. Có nhiều trường hợp người bệnh rất nặng, đến lúc gần chết đă nói ra những điều tốt đẹp thoải mái thay v́ nói đến căn bệnh của họ. C̣n đối với người bệnh tuy nhẹ nhưng nỗi sợ hăi quá lớn, giai đoạn cuối cùng này tâm họ luôn hoảng hốt, nên có cảm giác ḿnh từ nơi ánh sáng đi vào trong bóng tối và từ nơi hạnh phúc bị rơi vào cảnh khổ đau.



Một số người, thân thể ấm áp của họ đă bị suy yếu qua cơn bệnh nên họ trở nên khao khát muốn được hơi nóng, bằng cách này củng cố thêm cho khuynh hướng tái sinh của họ vào nơi như địa ngục nóng hoặc một nơi có khí hậu nóng. Những người khác thích cái mát lạnh, thích uống nước lạnh và khiến cho khuynh hướng tái sinh của họ hướng vào nơi như địa ngục hàn băng hay một nơi có khí hậu lạnh. V́ thế điều rất quan trọng là tránh khởi những ư niệm tham ái trong lúc chết và trực tiếp hướng tâm đến những điều thiện.



2. THÂN TRUNG ẤM :



Thân trung ấm (bardo/intermediate state) được hiểu nôm na là sự sống sau khi chết trước khi thần thức người ấy đi tái sinh vào một trong sáu cơi nào đó (Trời, Người, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỷ và Súc sinh). Thân trung ấm là thân không có xác thịt mà chỉ lấy tư tưởng làm thân. Sau khi người ấy chết, thần thức thoát ra khỏi xác th́ trụ lại ở thế giới trung gian này từ một đến bảy tuần lễ, rồi sau đó t́m kiếm một nơi thích hợp với nghiệp lực của ḿnh mà đi tái sinh. Nếu trong thời gian này, thân trung ấm chưa t́m thấy một nơi tương ứng với ḿnh để tái sinh th́ nó lại chết đi sau mỗi bảy ngày, sau đó thần thức lại chuyển qua một thân trung ấm khác, chu kỳ sinh diệt này cứ lập lại cho đến khi thần thức đi tái sinh.



Trong thời gian ở lại với cơi trung ấm này, vào những ngày đầu, vong linh không nhận ra ḿnh đă chết, họ quay lại gia đ́nh để gặp những người thân nhưng không ai hay biết, họ hỏi thăm từng người nhưng không ai trả lời, họ cố gắng sinh hoạt trở lại b́nh thường như lúc c̣n sống nhưng không thể được, cho đến khi họ tự phát hiện ra họ không có bóng h́nh trên đất, không có ảnh trên gương, họ mới biết là ḿnh đă chết. Giờ đây, họ lần lượt nhớ lại những thiện và ác nghiệp mà họ đă tạo ra trong đời sống vừa quạ Tất cả những cảnh tượng hạnh phúc hay khổ đau trong suốt đời họ hiện ra trước mắt như một cuộn phim. Nếu là vong linh của người vốn từng tạo phước, tu tập tâm linh, th́ luôn có những cảm giác yên b́nh, thanh thản và dễ dàng để t́m đường tái sinh vào cơi lành. C̣n nếu những người từng tạo ra ác nghiệp, sống cuộc đời tiêu cực th́ luôn đối mặt với những cảnh tượng khổ đau, kinh hoàng, sợ hăi, thất vọng và chán chường. Họ lang thang một cách tuyệt vọng trong cơi trung ấm và muốn t́m một thân xác để tái sinh tương xứng với nghiệp lực của họ. Nếu thân trung ấm có tu tập và làm chủ được thần thức của ḿnh, th́ người ấy chọn lựa cho ḿnh một cảnh giới tốt để tái sinh, ngơ hầu tiếp tục tu luyện hoặc v́ hạnh nguyện cứu độ chúng sinh. Bằng như trái lại, th́ không có sự lựa chọn nào, dù muốn hay không th́ thần thức của người ấy cũng buộc phải thọ sinh vào một cảnh giới nào đó khế hợp với nghiệp lực của ḿnh.



3. TÁI SINH:



Nếu được tái sinh trở lại cơi người, thần thức của người ấy thấy cha mẹ tương lai của ḿnh đang nằm với nhau. Nếu người ấy tái sinh thành người nam th́ phát khởi tâm muốn chiếm hữu người mẹ mà rất ghét người chạ Nếu tái sinh trở thành người nữ th́ ngược lại, thần thức người khởi tâm muốn giao hợp với người kia, nhưng lúc ấy họ chỉ thấy bộ phận sinh dục của người kia (nam hay nữ) mà không thể thực hiện được, do đó họ nổi giận, chính cơn giận này đă làm chấm dứt thân trung ấm của họ và thần thức của họ được chuyển qua đời sống kế tiếp, bằng cách nhập vào bào thai của người mẹ và bắt đầu với h́nh dáng của một con người. Khi ấy tinh cha và huyết mẹ được kết hợp với thần thức của người ấy, họ tự nhiên và dần dần phát triển thành một con người.



Như đă nói ở trên, khi gần đến ngày tái sinh, thần thức của người ấy bị lôi kéo về nơi tái sinh tương lai, thậm chí nơi ấy là địa ngục. Ví dụ, một đồ tể nh́n thấy một con cừu, anh ta muốn đuổi bắt và giết chết nó, nhưng lập tức anh ta thấy bóng mờ xuất hiện, nên anh ta giận dữ, cơn giận đă làm kết liễu thân trung ấm và thần thức của anh ta rơi vào Địa ngục hay Súc sinh.



Sự chuyển tiếp sự sống từ đời này sang đời khác là nghiệp lực. Nghiệp (karma) có một năng lực cá biệt và đóng một vai tṛ rất quan trọng trong việc cấu tạo tâm tánh của con người. Nghiệp được h́nh thành dưới sự tập hợp của tam độc tham, sân, si hay vô minh và ái dục. Chính vô minh (ignorance) và ái dục (desire) là cội rễ của mọi ác nghiệp. Do ác nghiệp này mà khiến cho con người trôi lăn trong ṿng sinh tử luân hồi. Để thoát khỏi ṿng tuần hoàn khổ đau này con người phải nỗ lực tu tập đoạn diệt cho bằng được cội rễ của vô minh. Khi vô minh bị tận diệt th́ ái dục cũng bị tận diệt, ái dục diệt th́ sinh, lăo, bệnh, tử, sầu bi khổ ưu năo cũng không c̣n, khi ấy con người mới thật sự thoát khỏi ṿng vây của sinh tử luân hồi.
Chương 2

Cuộc Hành Tŕnh Đi Đến Kiếp Sau

Thượng tọa Pende Hawter, sáng lập Viện Dưỡng Đường Tiếp Dẫn Karuna (Từ Bi) để chăm sóc người sắp lâm chung ở thành phố Brisbane, tiểu bang Queensland, Úc Đại Lợi, đă thực hiện cuộc phỏng vấn các bậc Đại sư Tây Tạng như Dalai Lama, Dilgo Khyentse Rinpoche, Kirti Tsen-shab Rinpoche, Garje Khamtul Rinpoche, và Geshe Lamrimpa, về tiến tŕnh hấp hối, chết và tái sinh của con người. Cuộc phỏng vấn được thực hiện vào tháng 5 năm 1995 tại tỉnh Dharamsala, miền Bắc nước Ấn Độ.






GIÚP ĐỠ CHO NGƯỜI HẤP HỐI



Hỏi: Xin cho biết cách nào tốt nhất để chúng ta có thể giúp đỡ cho người đang hấp hối và người vừa qua đời?



Đức Dalai Lama: Khi gặp người đang hấp hối tuyệt đối tránh quấy rầy họ. Đ?c biệt là không làm cho họ nổi giận hoặc khóc lóc để họ sanh tâm quyến luyến. Ngược lại, phải nhắc nhở để họ hành tŕ, tu tập vào giờ phút cuối, ví dụ như quán tưởng h́nh ảnh của chư Phật, các vị thầy đức hạnh, Chúa Jésus, hoặc một lời dạy nào đó tùy theo tín ngưỡng của họ. Nếu người ấy không theo một tôn giáo nào, nên giúp đỡ cho họ chết trong thanh thản và yên b́nh.



Khi người ấy trở nên hôn mê, nếu là hành giả, th́ nhắc nhở pháp môn mà họ công phu thường ngày, đặc biệt là lúc họ sắp ra đi. Kế đó tụng một số bài cầu nguyện. Nếu thân nhân muốn tốt cho người đang hấp hối th́ tự tụng niệm hoặc cung thỉnh chư tăng về nhà để cầu nguyện cho họ. Trường hợp không có chư Tăng tiếp dẫn, người thân trong gia đ́nh có thể tụng thần chú Om mani padme hum, hoặc những thần chú khác mà họ biết, để tiếp dẫn cho người chết. Sau tang lễ, gia đ́nh tiếp tục thọ tŕ, tụng niệm đến ngày thứ 49 cho hương linh dễ dàng t́m lối tái sinh vào cơi lành.



Công việc mai táng thi hài c̣n tùy nghi theo mỗi nền văn hóa hay tập tục của người chết, điều này không mấy quan trọng, bởi v́ một khi thần thức (consciousness) đă thoát thân th́ xác chết ấy cũng giống như một đống đất. Tại một làng không theo Phật giáo thuộc miền Nam Ấn Độ, tập quán của họ là chôn cất thi hài rồi trồng cây lên mộ. Đây là một cách để chấm dứt việc ô nhiễm không khí (air pollution) từ hỏa táng bằng củi đuốc, một tập tục thường thấy ở Ấn Độ, điều này c̣n tránh đi việc hủy diệt cây rừng, một tài nguyên quư giá của quốc gia. Đây là một phương pháp tốt mặc dù nó không bằng như ở phương Tây nơi dùng điện để hỏa táng.



Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Đối với người hấp hối và người vừa chết, cách tốt nhất mà bạn muốn giúp đỡ là phát khởi ḷng bi mẫn của chính bạn hướng đến với người sắp lâm chung. Ḷng thương yêu và bi mẫn của bạn rất có ích cho người hấp hối, v́ nó phát khởi từ ḷng bạn nên bạn dễ dàng tỏ bày cho người ấy ḷng bi mẫn vô điều kiện mà người sắp chết rất cần. Ḷng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên b́nh cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai. Một điều quan trọng khác là bạn đừng xa lánh và bỏ người đang hấp hối một ḿnh. Chết là sự thật và là một nỗi sợ hăi ghê gớm nhất đối với con người. Do đó, bạn nên ở bên cạnh họ, hoặc cầm tay họ nói lời an ủi, hoặc nh́n vào mắt họ với niềm cảm thông. Thân thể cũng có ngôn ngữ yêu thương của nó, hăy sử dụng nó đừng sợ hăi v́ e rằng họ hôi hám, dơ bẩn hoặc sợ họ bắt ḿnh theo, nếu bạn thể hiện được những cử chỉ tŕu mến như thế, th́ bạn sẽ đem lại cho người sắp lâm chung niềm an lạc lớn nhất ở cuối cuộc đời họ.



Khi bạn chắc chắn người ấy đă chết, bạn vẫn duy tŕ ḷng bi mẫn vô bờ của bạn và cùng với mọi người ở bên cạnh tử sàng mà tụng lớn danh hiệu chư Phật như Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà hoặc danh hiệu 35 vị Phật v.v... Nếu bạn niệm Phật với ḷng bi mẫn vô biên của bạn sẽ giúp cho người lâm chung một bước đường tái sinh.



Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Có hai hạng người cần xem xét ở đây. Thứ nhất là người có tín ngưỡng. Thứ hai là người không theo một tôn giáo đặc biệt nào. Nếu người hấp hối là một Phật tử th́ chúng ta tụng kinh và niệm Phật tiếp dẫn siêu độ cho họ. Nếu người ấy không theo tín ngưỡng nào th́ điều tốt nhất để giúp đỡ họ là khuyên họ nghĩ đến những người tốt và những điều tốt đẹp nhất trên đời. Khi một người đang hấp hối và trong giờ phút bối rối ấy, không ǵ tốt hơn là đem lại cho họ cái cảm giác b́nh an và ấm áp của ḷng người, cảm giác này rất có ích cho tâm thức của họ.



Tôi sẽ giải thích chi tiết về những ǵ để giúp đỡ hai hạng người này. Đối với người theo đạo Phật, chúng ta có thể gợi cho họ hồi hướng về những ǵ mà họ từng quy y và tu tập. Chúng ta có thể nhắc cho họ nhớ về Bồ đề tâm, tỉnh thức tâm, thanh tịnh tâm và sự tập trung thiền định... Điều này rất có lợi cho một Phật tử. Đối với người không có đạo, chúng ta có thể khuyên họ suy nghĩ rằng: 'Cầu mong cho mọi người được hạnh phúc, cầu mong cho mọi sinh linh được an vui, cầu nguyện cho mọi chúng sanh thoát khỏi những khổ sầu của họ'. Những ư tưởng muốn sự tốt đẹp đến với người khác, rất có ích cho người hấp hối.



Đối với Phật tử lúc sắp chết, nên nhắc cho họ nhớ về công hạnh của chư Phật, nhớ về h́nh ảnh của một vị Phật nào đó, có thể đặt một ảnh Phật trong pḥng của ho... Điều này rất có ích và là điều kiện giúp cho vong linh tái sinh vào đất tịnh.



Ngay sau khi người ấy chết, điều rất quan trọng cần lưu ư là không được đụng chạm đến thi hài của họ để cho tiến tŕnh chết không bị gián đoạn, tiến tŕnh này chỉ chấm dứt khi thân trung ấm (Bardo/Intermediate state) hoàn toàn thoát ra khỏi thân xác. Ở Tây Tạng, người thân phải đợi 48 tiếng đồng hồ sau mới tiến hành tang lễ.



Đại sư Geshe Lamrimpa: Nói chung, khi đă xác định người ấy sẽ chết, điều quan trọng là phải hoàn thành mọi ước nguyện của họ. Nếu họ tỏ ra luôn luôn giận dữ th́ chúng ta nên làm cách nào để ngăn chặn cơn giận của họ, giữ cho họ luôn ở trạng thái thanh thản và yên b́nh. Nên tránh gây ồn ào và di chuyển đi lại thường xuyên bên người ấy. Nếu người hấp hối quá quyến luyến người thân, vợ (hoặc chồng), cha mẹ con cái, th́ tốt nhất không cho những người thân này đến gần tử sàng. Hăy cố gắng làm điều này để chấm dứt ḷng luyến ái của người hấp hối. Nếu xác định chắc chắn rằng họ sẽ chết, th́ chúng ta nên cho họ những đồ ăn thức uống và các thứ mà họ đ̣i hỏi để họ vui ḷng và thỏa măn, ngay cả thức ăn kiêng cữ trong thời gian điều trị. Tuy nhiên, không được cung cấp độc dược và thức ăn có thể đe dọa đ?n mạng sống.



Nếu chúng ta cố gắng nói Pháp cho người hấp hối nhưng họ không thích nghe, th́ tốt nhất là đừng nói, v́ điều này tạo cho họ có ác cảm đối với Chánh pháp. Với ư nghĩ như vậy th́ đời sau họ sẽ không thích gần gũi với Phật pháp.



Tương tự, nếu họ thích ăn uống mà ḿnh không làm thỏa măn ước muốn của họ, sẽ làm họ giận dữ và là nguyên nhân khiến họ đọa vào loài ngạ quỷ (hungry ghost).



Nếu một người tin tưởng vào sự giúp đỡ của người khác và cũng là người từng giúp đỡ kẻ khác trong đời này, chúng ta nên nhắc cho họ nhớ về công hạnh tốt của họ và khen tụng về việc tốt mà họ đă làm. Việc này làm tâm họ vui và họ sẽ tái sinh ở một nơi đầy hạnh phúc. Nếu chúng ta giúp cho ước nguyện của người hấp hối hoàn thành, th́ họ sẽ rất măn nguyện. Điều này ngăn ngừa sự trỗi dậy ḷng tham ái, giận dữ, quyến luyến và những tâm tà kiến khác của người hấp hối, nhờ đó giúp họ tái sinh vào cơi lành mà không đọa vào cơi xấu.



Đối với Phật tử và người từng thọ tŕ một pháp môn nào đó th́ thật là thuận lợi nếu họ được chúng ta nhắc lại mười điều Phật dạy trước khi chết như sau:



1. Không nên khởi niệm tham đắm chấp thủ mọi dục vọng ở đời này. Nên cố gắng và tránh hướng tâm ái luyến đến người thân của ḿnh, v́ dẫu đời sau có gặp lại th́ cũng phải chia ĺa. Trong thời điểm hấp hối, ta phải bỏ tất cả mọi thứ lại phía sau. Ta cũng không nên chấp đắm tấm thân của ḿnh, v́ lúc chết ta phải rời bỏ nó. Ta không luyến tiếc các thứ như thức ăn, áo quần, nhà cửa, v́ những thứ ấy cuối cùng cũng từ bỏ ta.



2. Ta nên phát khởi ḷng bi mẫn và thương yêu đối với mọi chúng sanh.



3. Ta nên đoạn tận mọi phẫn uất và thù hằn, nếu không th́ nó sẽ làm hại ta trong kiếp sau.



4. Tất cả các giới pháp mà ḿnh thọ tŕ nếu đă vi phạm th́ phải cố gắng sám hối cho thanh tịnh trước khi chết.



5. Ta phải phát tâm dơng mănh trong đời vị lai sẽ thọ tŕ và giữ giới pháp thanh tịnh.



6. Ta phải cảm thấy đau xót về những ác nghiệp mà ḿnh đă gây tạo cho người khác trong đời này và phải sám hối để dễ dàng tái sanh.



7. Ta phải nhớ đến những công đức mà ḿnh đă làm trong đời này, những công đức của người khác đă làm và phát tâm sẽ tiếp tục làm trong vị lai.



8. Ta nên nghĩ đă đến lúc ḿnh phải ra đi để đến đời sau, không có ǵ sợ hăi cả, v́ đó là quy luật tự nhiên có sinh ắt có tử.



9. Phải quán thấy mọi sự vật hiện tượng đều do nhân duyên sinh và cũng do nhân duyên mà hoại diệt.



10. Ta phải quán thấy rằng mọi sự vật hiện tượng đều vô ngă để ta vượt thoát khỏi sầu và đạt được sự an lạc.



Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Cách tốt nhất để giúp cho người hấp hối là lời nói và hành động của ḿnh phải được thúc đẩy bởi ḷng từ bị Nếu có thể th́ cung thỉnh các bậc thầy đức hạnh đến để làm pháp chuyển di tâm thức (transference of consciousness) cho người hấp hối. Pháp này Tạng ngữ gọi là Powa, được xem là một pháp tu đặc biệt có giá trị và hiệu quả nhất để giúp cho người hấp hối. Bạn quán tưởng h́nh ảnh đức Phật ở trên đầu người hấp hối. Quán tưởng những tia sáng chiếu rọi vào người sắp lâm chung làm sạch bản thể của họ, và quán thấy họ tan thành ánh sáng, ḥa nhập vào ánh sáng của chư Phật. Việc chuyển di tâm thức có thành công hay không là c̣n tùy thuộc vào sức thiền định của người đang thực hiện pháp tu này. Pháp tu đặc biệt này không những dành cho người sắp chết mà c̣n có thể giúp tịnh hóa và chữa lành bệnh cho người c̣n sống. Các vị Lama vẫn thường dùng pháp này để cầu an thọ mạng cho người già yếu. Một số vị thầy cho rằng nên thực hiện pháp chuyển di tâm thức vào khoảng ngừng lại giữa hơi thở vào và hơi thở ra. Nhiều người khác th́ nói rằng nên thọ tŕ pháp này càng nhiều càng tốt sau khi người đó chết để hộ tŕ cho thân trung ấm của họ dễ dàng tái sinh.



Theo giáo nghĩa của Luật Tông th́ nên hỏa táng thi thể càng sớm càng tốt sau khi chết. Nhưng theo Mật Tông th́ tốt nhất là đừng di dời thân thể sau khi chết trong ṿng ba ngày.



Hỏi: Người sắp lâm chung rất đau đớn về thể xác và hăi hùng với nỗi sợ chết. Phương pháp nào tốt nhất để giúp họ vượt qua nỗi sợ hăi đó?



Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: ? phương Tây người ta thường dùng thuốc phiện hoặc thuốc an thần để giảm cơn đau thể xác của người hấp hối và giúp cho họ chết trong b́nh an. Tuy nhiên theo Phật giáo th́ con người cần phải chết một cách đầy đủ ư thức, có sự tự chủ và tỉnh táo càng nhiều càng tốt. V́ thế cần phải kiểm soát sự đau đớn để nó không thể che mờ ư thức của người sắp lâm chung, đó là điều kiện cốt yếu của việc làm giảm sự đau đớn về thể xác.



Thứ hai, làm ǵ để giúp người sắp chết vượt qua nỗi sợ chết? Trước hết, bạn phải thật b́nh tĩnh và chính bạn cũng phải vượt qua nỗi sợ hăi ấy. Khi giúp đỡ người hấp hối, bạn cần phải lưu ư từng phản ứng của chính bạn, v́ phản ứng của bạn sẽ phản chiếu trên phản ứng của người sắp chết và nó sẽ góp phần rất lớn vào sự an ủi của họ hay tàn phá họ. Khi niệm Phật tiếp dẫn, bạn cần chú ư trấn an người hấp hối rằng trong giờ phút cuối cùng này họ sẽ đối mặt với vô số những cảnh tượng hăi hùng khác nhau mà lâu nay họ chưa từng biết, và điều đó khiến cho họ vô cùng sợ hăi. Tuy nhiên, bạn phải trấn an họ rằng đó chỉ là ảo ảnh hoàn toàn không có thật mà chỉ là sản phẩm từ ảo giác của người hấp hối. Nếu có thể hăy trao cho họ chuỗi ngọc Mani, hoặc một xâu chuỗi hạt của các thầy đức hạnh sẽ giúp đỡ cho họ vượt qua nỗi sợ hăi. (Chuỗi hạt ở đây là biểu tượng năng lực của bậc đạo sư).



Hỏi: Đối với người không phải là Phật tử, họ không theo một tín ngưỡng nào, th́ làm ǵ để giúp họ?



Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Đối với một người không tin hoặc không biết ǵ về đạo Phật, chỉ cho họ viên ngọc Mani cũng như an ủi và giải thích cho họ biết những cảnh tượng rùng rợn mà họ sắp thấy trong chốc lát chỉ là những ảo ảnh trong giấc mộng chứ không có thật. Nhờ sự dặn ḍ trước này, họ sẽ vượt qua nỗi sợ hăi khi hấp hối.


Chương 3

Khi Nào Thần Thức Của Người Mới Ra Khỏi Thể Xác

Hỏi: Ở phương Tây, dấu hiệu thông thường của cái chết là chấm dứt hơi thở và tim ngừng đập. C̣n theo Phật giáo th́ phải mất bao lâu sau khi việc này xảy đến thần thức mới thoát ra khỏi thể xác?






Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Có lẽ có hai hạng người cần xem xét ở đây. Thứ nhất, những người trẻ tuổi hoặc những người đă nằm chờ chết trong một thời gian dài. Hạng người này tâm thức rất tinh tế và thần thức của họ sẽ không lưu lại trong thể xác lâu, có thể chỉ một ngày thôi. Thứ hai là những người mạnh khỏe và cái chết đến nhanh, thần thức của họ lưu lại trong thể xác đến ba ngày.



Những cái chết khác như bất đắc kỳ tử(chưa đến thời điểm chết mà phải chết), chết v́ tai nạn hay v́ bạo lực. Chẳng hạn hai người đánh chém nhau, một người trong số đó chết đột ngột, th́ thần thức của họ không lưu lại trong thể xác lâu. Nói chung, thời gian bao lâu tùy thuộc vào tâm thức nặng hay nhẹ của ḿnh mà thoát ra khỏi thân xác sau khi chết.



Đại sư Geshe Lamrimpa: Khi hơi thở dứt và tim ngừng đập, nó chỉ rơ rằng phần thô của thần thức đă tan mất. Tuy nhiên có nhiều trường hợp, phần tinh tế của tâm thức c̣n lưu lại trong xác thân người ấy hàng tuần lễ, thậm chí có lúc cả tháng. Nhưng hầu hết là phần tinh tế của tâm thức rời khỏi thể xác trong ba hoặc bốn ngày, trong thời gian này thi hài không bốc mùi hoặc thối rữa.



Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Chưa thể khẳng định rằng một người b́nh thường, sau khi chết thần thức của họ rời khỏi xác trong ba ngày sau đó. Nhiều người lưu lại lâu hơn, nhưng một số người khác th́ trụ lại thời gian ngắn hơn. Có nhiều ví dụ điển h́nh trong số các vị Lama Tây Tạng. Như đức Lama Ling Rinpoche, thầy dạy học của đức Dalai Lama, thần thức của ngài đă trụ lại trong xác thân cả tuần lễ sau khi viên tịch. Ở trong cộng đồng người Tây Tạng, những trường hợp tương tự vẫn thường xảy ra.



Tóm lại, việc hỏa táng hoặc tiến hành tang lễ hay di chuyển thể xác tốt nhất phải đợi ba ngày sau. Tuy nhiên, ngày nay điều này khó thực hiện v́ người ta sợ Ô nhiễm, do vậy, nên làm phép chuyển di tâm thức trước khi động đến thể xác của người quá cố.



Hỏi: Trường hợp của những người chết v́ bệnh quá nặng như ung thư và Aids (Sida) th́ thần thức của họ có thoát xác nhanh hơn không?



Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Điều này không chắc chắn lắm. Việc thoát xác sớm hay muộn không thực sự tùy thuộc vào người chết bị tai nạn hay bị bệnh nặng, mà tôi nghĩ rằng việc ấy có liên hệ mật thiết đến thiện và ác nghiệp của người mất. Ví dụ, đối với một người tu tập theo pháp Dzogchen hay một pháp nào khác th́ sau khi chết họ tiếp tục quán tưởng Tánh không và thần thức của họ duy tŕ lại trong thể xác rất lâu, cho dù họ không hề luyến ái tấm thân ngũ uẩn này.



Hỏi: Các ngài có thể cho biết khi nào th́ thần thức rời khỏi thể xác? Những dấu hiệu nào cho chúng ta biết rơ điều này?



Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Một lần nữa chúng ta lại thảo luận về hai hạng người thoát xác sau khi chết. Bây giờ tôi sẽ không đề cập đến hạng người có thần thức lập tức thoát xác sau khi chết mà chỉ nói đến hạng người có phần tinh tế thần thức lưu lại trong thi thể nhiều ngày. Người ta nói rằng trước khi thần thức người ấy thoát ra khỏi xác th́ trên thi thể họ sẽ có một điểm nóng được tụ lại duy nhất có màu đỏ hoặc màu trắng, điểm nóng tụ lại ở đâu th́ thần thức sẽ thoát ra ở chỗ đó. Ví dụ, nếu điểm nóng hội tụ Ở đỉnh đầu th́ chúng ta tin rằng người ấy sẽ tái sinh vào cơi lành, điểm nóng tụ lại ở bàn chân th́ chắc chắn người ấy sẽ đọa vào hạ giới. Dấu hiệu cho biết khi thần thức thoát xác sẽ có một ít máu chảy ra ở lỗ mũi hoặc tinh dịch thoát ra từ bộ phận sinh dục.



Tuy nhiên, có một số người không thấy dấu hiệu này, đó là những người chết đột ngột v́ tai nạn hay bị bệnh tim. Dấu hiệu này chỉ t́m thấy ở những người có tiến tŕnh chết chậm và lâu.



Đại sư Geshe Lamrimpa: Hầu hết người nào bị chết v́ bệnh nặng th́ khi thần thức rời khỏi thể xác đều có dấu hiệu máu hoặc chất nước vàng chảy ra từ lỗ mũi hoặc bộ phận sinh dục. Khi thần thức thoát ra th́ thể xác mới có mùi hôi. Đức Dalai Lama thứ 14 từng nói chuyện với các bác sĩ nổi tiếng ở phương Tây về vấn đề thần thức rời khỏi thể xác khi bệnh nhân tắt thở. Các bác sĩ đă trắc nghiệm và nói rằng họ đă thấy một làn khói trắng nhỏ thoát ra từ một điểm nào đó trên thân của người chết. Kết quả này được kiểm tra bằng máy móc và phân tích thể xác một cách cẩn thận.



Những dấu hiệu như giọt máu hoặc nước vàng đều xảy ra đối với những người chết v́ bệnh nặng. Tuy nhiên, thi thể người ấy thường được di chuyển quá nhiều trước khi thấy những dấu hiệu này, v́ vậy những trường hợp như thế tuyệt đối không bao giờ xảy ra. Ở Tây Tạng, theo tập quán truyền thống phải giữ thi thể trong ba, bốn hoặc bảy ngày ngơ hầu giúp cho thần thức có đủ thời gian để thoát xác. Trong thời gian chờ đợi này, các lễ kỵ siêu cho người quá cố được tiến hành một cách nghiêm mật.



Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Bạn có thể biết khi thần thức thoát xác dựa vào sự biến đổi của thi thể. Khi thần thức c̣n lưu lại trong thể xác th́ bạn cảm thấy người ấy chưa chết thật sự, nước da của họ c̣n tươi và sáng lạ thường, giống như họ đang nằm ngủ. Nhưng một khi thần thức đă thoát xác th́ lập tức ta thấy thi thể thay đổi khác liền, nước da khô, tái xanh đi và bắt đầu có mùi hôi. Lúc ấy, bạn mới có cảm giác đó là một xác chết chứ không phải là một người nữa.



Những kinh nghiệm về làn khói hoặc giọt máu xuất ra khi thần thức thoát xác không phải lúc nào cũng nh́n thấy được, chúng ta chỉ gặp ở một số ít người. Trong số những người này, khi thần thức thoát xác, chất nước vàng chảy ra từ lỗ mũi và ở hạ bộ. Có một vị cao tăng Tây Tạng viên tịch, khi thần thức thoát xác, lỗ mũi của ngài liền chảy ra hai ḍng chất dịch lỏng, một bên th́ màu đỏ c̣n bên kia màu trắng.



Hỏi: Có đúng là cho đến khi thần thức thoát xác, thi thể mới bắt đầu có mùi hôi và có dấu hiệu thối rữa?



Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Sự thật đúng như thế.



Hỏi: Khi một người chết nhưng thần thức vẫn c̣n lưu lại trong thể xác. Vậy người ấy có cảm giác ǵ không nếu bị người khác đụng chạm đến?



Đại sư Geshe Lamrimpa: Họ sẽ không có cảm giác ǵ cả. Khi phần khô của thần thức tan mất th́ người ấy không c̣n cảm giác nữa. Đối với các vị Tăng chứng đắc và người Phật tử có tu tập, khi chết, phần tinh tế của thần thức c̣n lưu lại trong thể xác, th́ họ có thể chết ở trong tư thế ngồi thiền, đến khi thần thức thoát xác, thi thể của vị ấy mới ngă xuống.



Mấy mươi năm trước, khi những người Tây Tạng đầu tiên đến tỵ nạn tại tỉnh Buxa của Ấn Độ, một Phật học viện của Phật giáo Tây Tạng nọ, có hai vị tăng đánh nhau và một người chết. Sau đó, v́ vụ này mà chính quyền Ấn và người dân địa phương chỉ trích rất gắt gao đối với người dân Tây Tạng, h? nói rằng các tu sĩ Tây Tạng chỉ biết chém giết nhau mà thôi. Về sau có một Lama đức hạnh tên là Gyari Rinpoche, đến từ tu viện Gender ở Tây Tạng, vị này đă viên tịch tại Ấn với tư thế ngồi kiết già trong bảy ngày; Người Ấn được mời đến chứng kiến cái chết lạ thường của vị Lama này và họ cố gắng giật mạnh khăn trải giường để làm cho thi thể của ngài ngă xuống, nhưng ngài vẫn ngồi thẳng như pho tượng, dù trải qua bảy ngày nhưng thể xác của ngài vẫn không có mùi hôi. Sau sự kiện này, quan điểm của họ về các Tăng sĩ Tây Tạng đă thay đổi hẳn, họ không c̣n phê b́nh, chê bai nữa.



Hỏi: Nếu đụng chạm và di chuyển thi thể trước khi thần thức thoát xác có ảnh hưởng ǵ đến tâm thức của người chết không? V́ ở trong bệnh viện, sau khi người hấp hối ngừng thở và tim hết đập, c̣n nhiều thủ tục khác chi phối đến tử thị Sự can thiệp này có hại cho thần thức người chết không?



Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Trước hết, nếu đó là một người tinh thông có năng lực thiền định, họ cố gắng luyện tập thiền định sau khi trút hơi thở, nếu ta lắc mạnh thi thể của họ vào lúc họ Ở trong trạng thái thiền định th́ sẽ khuấy rối tiến tŕnh tập trung thần thức của họ. Do đó, tốt nhất là không đụng chạm đến thể xác họ trong thời điểm ấy. Ngay cả một người thường (người không có tu tập) cũng không nên đụng đến thi thể của họ cho đến ba ngày sau. Nếu một người đang ngủ say, nhưng ta lay mạnh th́ họ sẽ thức giấc ngay, người chết ở đây cũng vậy, khi chạm đến họ, không có tác hại ǵ cho thể xác, nhưng có hại rất lớn đến thần thức của họ.



Thêm vào đó, nếu chúng ta buộc phải thay tấm khăn trải giường và nệm từ giường của người vừa chết cho sạch sẽ th́ cũng nên thao tác nhẹ nhàng. Tương tự, nếu người chết c̣n mở mắt và hả miệng, nên yêu cầu một người thân trong gia đ́nh đến trước tử thi bày tỏ ḷng kính trọng cuối cùng rồi giúp họ khép mắt và miệng lại để trông dễ nh́n hơn. Đối với những người bị dị tật, tay chân cong quẹo, lúc tẩm liệm phải kéo thẳng ra để dễ dàng đưa vào quan tài. Nhưng mỗi cử chỉ đối với người chết đều phải nhẹ nhàng và thực hiện ba ngày sau khi người ấy trút hơi thở cuối cùng.



Hỏi: Có lợi ích ǵ khi chúng ta chạm hoặc kích thích trên đỉnh đầu của người hấp hối và người chết, đặc biệt là người vừa chết?



Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Khi một người vừa chết, chúng ta có thể sờ chạm vào đỉnh đầu của họ, đó là vùng huyệt đạo tốt nhất để thần thức thoát ra mà ngài Lama Je Tsong Khapa gọi là 'chiếc cổng vàng'. Do đó, bạn nên kích thích vào vùng đỉnh đầu, nếu thần thức của người chết thoát ra ngoài bằng đường này th́ chắc chắn họ sẽ thác sinh vào cảnh giới an lành.



Nhưng nếu thần thức thoát ra bằng các đường ở hạ bộ, từ lỗ rốn trở xuống, người ấy sẽ thác sinh vào ác đạo, như cơi ngạ quỷ hay loài cầm thú. V́ thế, người Tây Tạng không bao giờ tiếp xúc phần hạ bộ của thi thể người chết, nếu ta chạm vào chỗ nào của họ th́ thần thức sẽ tụ lại chỗ ấy mà thoát ra ngoài



Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Tiếp xúc vào đỉnh đầu của người hấp hối được xem như là đang làm phép 'chuyển di tâm thức' cho họ. Thực hiện phép này không phải là một vấn đề đơn giản, phải làm cẩn thận để giúp cho thần thức của người hấp hối tập trung ở đỉnh đầu, chỗ mái tóc giáp nhau, gọi là cửa Brahmạ Nếu đầu của người ấy không bị sói th́ chúng ta phải nhổ năm ba sợi tóc bên trên cửa ấy và dùng ngón tay trỏ cạo nhiều lần vào chỗ ấy, việc làm này nhằm giúp cho thần thức của người chết biết chỗ mà thoát ra ngoài. Kỹ thuật này cũng thường giúp cho chất nước vàng chảy ra từ cửa ấy, dấu hiệu đó chứng minh cho phép chuyển di tâm thức đă thành công.






__________________
Đường Trần thong thả dạo mà chơi.
Học lấy đau thương để biết
đời!
Mỗi cuộc vô thư
Quay trở về đầu Xem DaoTran's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi DaoTran
 
DaoTran
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 June 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 102
Msg 2 of 6: Đă gửi: 10 September 2004 lúc 1:23am | Đă lưu IP Trích dẫn DaoTran

Chương 4

Thần Thức Phải Ở Trong Trạng Thái Trung Ấm Bao Lâu

Hỏi: Sau khi thần thức rời khỏi thể xác và bước vào giai đoạn thân trung ấm giữa đời này và cuộc sống kế tiếp, phải mất bao lâu trước khi thần thức này gá vào một bào thai mới?






Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Thời gian kéo dài trung b́nh để một người đi tái sinh vào một cơ thể mới là bảy tuần lễ. Cứ sau bảy ngày th́ thân trung ấm chết đi và rồi tái sinh lại trong một thân trung ấm khác cho đến khi nó bắt được liên lạc với cha mẹ tương lai mới đi tái sinh. Tuy nhiên có nhiều người sau khi chết chỉ mất hai giây họ đă đi tái sinh vào cảnh giới khác.



Lư do tại sao thần thức phải chịu đựng trong tiến tŕnh trung gian sinh và tử giống như ma quỷ này? V́ do nghiệp thiện và ác của người ấy gây tạo đời trước sẽ quyết định dẫn dắt họ đến nơi thích hợp, do đó phải cần có thời gian nhất định để t́m kiếm cho một đời sống tương lai.



Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Bốn mươi chín ngày là thời gian dành chung cho tất cả mọi người, nhưng có một số người khác cứ vất vưởng trong thế giới trung ấm này một thời gian rất lâu, có lúc đến bảy năm mới đi tái sinh. Nếu trường hợp họ bị kẹt lại trong thế giới trung gian này, họ sẽ trở thành ma quỷ. Thông thường khi một người đang hấp hối, chúng ta đọc kinh cầu nguyện hoặc nhắc nhở, họ đ?u nghe thấy, thậm chí người bất tỉnh cũng thế. Đối với vong linh trong cơi trung ấm cũng có khả năng nghe, cảm nhận và hiểu được khi chúng ta đọc sách 'Tử thư Tây Tạng' (Tibetan Book of the Death) để cảnh tỉnh họ. V́ thế, trong bảy tuần lễ đầu sau khi chết là thời gian rất quan trọng để cho người sống làm mọi việc có thể giúp sức tái sinh cho người chết.



C̣n thần thức của những bé chết trước khi sinh (bị sẩy thai), trong lúc sinh hoặc tuổi c̣n nhỏ, sẽ đi qua các trạng thái trung ấm một lần nữa và nhận thấy một hiện hữu khác. Cha mẹ của họ cũng có thể tạo phước (meri-forious acts) để hồi hướng công đức cho vong linh hoặc thực hiện các pháp dành cho người chết như thọ tŕ thần chú Kim cương Tát đỏa một trăm âm (Hundred - syllable mantra of Vajrasattva), đủ túc số 100 biến, cúng dường đèn, bố thí, phóng sinh các loài vật... để giúp cho thần thức của hài nhi đó được nhẹ nhàng và dễ dàng t́m lối tái sinh.



Đại sư Geshe Lamrimpa: Không thể xác định thời gian chính xác là bao lâu. Nếu một người không phải tái sinh vào cơi người th́ họ liền thác sinh đến cơi khác chứ không qua giai đoạn thân trung ấm. Nhưng nói chung một người có thể ở trong cơi trung ấm trung b́nh là 49 ngày, có người ở một ngày, bốn ngày và có khi bảy ngày... Trong thời gian trụ lại trong trung ấm thân, vong linh t́m kiếm một đời sống tương lai khế hợp với nghiệp của ḿnh để tái sinh.



Đại sư Gerje Khamtul Rinpoche: Đối với một số người thời gian dài nhất là bảy tuần lễ, nhưng có một số khác chỉ ở trong thân trung ấm ba ngày. Phần lớn mọi người đều phải đầu thai sau hai mươi mốt ngày.



Không phải ai chết cũng qua giai đoạn thân trung ấm. Có một số người tu tập chứng ngộ, có một đời sống phạm hạnh và lợi lạc, khi chết họ trực tiếp tái sinh vào cảnh giới tốt lành chứ không qua giai đoạn trung gian này. Một người phạm tội ngũ nghịch (giết cha mẹ, phá hoại chánh pháp... ), hoặc có một đời sống tiêu cực, ác độc... th́ sẽ đọa liền vào địa ngục, hoặc một cơi xấu nào đó chứ không qua giai đoạn thân trung ấm.

Chương 5

Quan Điểm Của Phật Giáo Về Việc Tự Sát

Hỏi: Xin cho biết quan điểm của Phật giáo như thế nào về vấn đề tự sát?






Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Đối với người Phật tử, tự giết ḿnh là một tội rất lớn. V́ sao? Bởi v́ có được thân người là một trong những điều khó và làm bị thương hoặc hủy diệt thân ấy là một điều sai lầm rất lớn. Tự tử thường bắt nguồn từ kết quả của những cơn nóng giận. Chỉ có giận dữ người khác mà không làm ǵ được nên trở lại giết chết ḿnh. Đối với một người không theo đạo Phật cũng thế, tự tử là một hành vi đáng trách và tội lỗi. Sau khi chết, thần thức của họ không có một nơi nào khác là phải lao theo nghiệp ác của ḿnh. V́ thế chúng ta phải nghĩ cách làm thế nào để giúp họ vượt qua những cơn khủng hoảng tinh thần và nỗi khổ đau của họ. Ở trong t́nh trạng rối loạn, bế tắc và tuyệt vọng, cơn khủng hoảng trầm trọng này có thể đẩy con người đến chỗ tự sát.



Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Nhà Phật cho rằng tự tử là một điều tồi tệ nhất mà con người có thể làm. Đây là một hành động tiêu cực khiến cho thần thức của kẻ ấy gặp khó khăn trong việc tái sinh. Theo truyền thống của Phật giáo Tây Tạng th́ có hàng trăm vị nam và nữ thần ở trong thân của chúng ta, nếu phạm vào tội tự sát, đồng thời ta cũng giết cả họ. C̣n theo Phật giáo Đại Thừa th́ dưới chân của mỗi sợi tóc th́ có hàng ngàn tế bào sống khác... , khi ta giết ta th́ đồng thời ta cũng hủy diệt chúng.



Đại sư Geshe Lamrimpa: Theo Phật giáo th́ tự tử là một hành vi tiêu cực và là nguyên nhân khiến cho thần thức của người ấy rơi rớt vào cơi xấu.



Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Khi một người tự tử, thần thức của họ thường phải đi theo nghiệp xấu của ḿnh, rất có thể họ sẽ bị một ác ma bắt lấy và chiếm đoạt sinh lực. Để giúp cho những người này, các vị thầy có năng lực phải làm nhiều lễ cầu siêu đặc biệt như năm cuộc lễ và những nghi thức khác để siêu độ thần thức cho người chết.



Hỏi: Trong thời gian chiến tranh tại Việt Nam, có nhiều Tăng sĩ đă tự thiêu, với động cơ là làm cho thế giới chú ư đến nỗi khổ đau chiến tranh ở VN. Việc tự thiêu của họ phải chăng là hành vi tiêu cực?



Đại sư Geshe Lamrimpa: Các vị Bồ Tát được phép thực thi một số hành vi mà người thường cho đó là tiêu cực. Tuy nhiên, Phật giáo Nguyên thủy phản đối hành động này, v́ thế tự tử luôn được xem là hành vi tiêu cực trong truyền thống này. Nếu bạn phân tích kỹ hơn, xem động cơ khiến các vị Tăng này tự thiêu là ǵ th́ chúng ta mới phán xét là tiêu cực hay tích cực. Trong một bộ kinh của Phật giáo có ghi lại câu chuyện về một vị Tỳ kheo trẻ bị một phụ nữ ép buộc phải lấy bà tạ Vị này biết rơ rằng nếu ḿnh chịu lấy th́ sẽ phá bỏ giới luật; mặt khác, nếu không chịu lấy, bà ta sẽ vu khống rằng ḿnh đă có những hành vi tồi bại. V́ thế, để giải quyết t́nh cảnh bế tắc này mà không phạm giới, vị ấy quyết định tự kết liễu đời ḿnh. Suy nghĩ như thế rồi, vị ấy giả vờ đồng ư và nói với bà ấy đợi một chút. Vị ấy vào pḥng trong, đóng cửa và tự đâm vào cổ họng mà chết. Trước khi tắt thở, vị ấy kính lễ mười phương Tam Bảo và nói rằng: 'V́ tôn kính Tam Bảo và ǵn giữ giới hạnh mà con quyết định từ bỏ thân nàư.



Trong Kinh nói đây là hành vi tích cực và có công đức. Nếu trường hợp các Tăng sĩ Việt Nam v́ động cơ muốn cứu văn Chánh pháp của đất nước họ không lún sâu vào chiến tranh, v́ một động cơ cao cả như thế th́ hành vi tự thiêu của họ không thể cho là tiêu cực mà phải được xem là hành vi của các vị Bồ Tát.



Hỏi: Quan điểm của Phật giáo như thế nào về việc chấm dứt mạng sống trước khi người ấy chết? Bệnh nhân yêu cầu để cho họ chết tự nhiên bằng cách không dùng thuốc hay những phương pháp y học nào đó v́ họ quá đau đớn về thể xác và tinh thần trong khi việc điều trị không mang lại kết quả.



Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Trong trường hợp này rơ ràng bạn muốn đem lại lợi ích cho người khác, chấm dứt sự đau đớn của họ. Tuy nhiên, cần phải xem xét cẩn thận chứ đừng nên hành động thiếu suy nghĩ, bởi v́ giết một mạng người là một tội ác, v́ vậy, dù đau đớn dữ dội, thay v́ để cho họ chết th́ cố gắng dùng hết khả năng để điều trị cho họ, có thể cho họ uống thuốc giảm đau hoặc thuốc an thần chẳng hạn. Mặt khác, nên nhớ rằng thân người rất khó khăn mới có được. Do vậy, các nhà điều trị phải suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết định việc này.



Đại sư Geshe Lamrimpa: Người ta nên tiếp tục chữa trị để giữ mạng sống cho họ. Nếu người ấy chết với trạng thái tâm giận dữ, bất an, tiêu cực hay hôn mê th́ sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc đầu thai và sẽ gặp bất lợi cho đời sống tương lai của họ. Tuy nhiên, nếu cho họ uống thuốc để rút ngắn mạng sống th́ cũng không thích hợp.



Hỏi: Đôi khi họ muốn được chết th́ sao?



Đại sư Geshe Lamrimpa: Họ muốn chết trước thời hạn, bởi v́ họ không chịu đựng nổi sự đau đớn ngay trong đời này. Nhưng họ đâu biết rằng nỗi khổ đau ấy họ vẫn phải đối mặt trong đời sau, v́ thế, tốt hơn hết nên giúp họ điều trị.



Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Sử dụng máy móc để kéo dài mạng sống của một người không c̣n cơ may lành bệnh là điều vô lư và hăi hùng. Tốt hơn cứ để cho họ chết một cách tự nhiên trong bầu không khí yên b́nh. Khi sử dụng máy móc mà không có hy vọng hồi phục cho người bệnh th́ việc chấm dứt điều trị bằng máy không phải là tội ác. Rơ ràng không cần thiết để kéo dài sự sống nhân tạo cho họ. Theo cách nh́n của nhà Phật, th́ chúng ta nên làm bất cứ điều ǵ có thể để trợ giúp cho người ấy đối phó với sự xuống tinh thần trong giờ phút đau đớn và sợ hăi, đem lại cho họ niềm b́nh an vào phút cuối của cuộc đời.


Chương 6

Hiến Tặng Thể Xác Có Tốt Không?

Hỏi: Ở phương Tây, hiến tặng những bộ phận trong cơ thể người vừa chết là việc b́nh thường, như hiến tặng cặp mắt, quả thận để cho người khác, việc làm này có ảnh hưởng hay làm trở ngại ǵ cho thần thức của người chết không?






Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Việc hiến tặng thi thể là một điều tốt, bởi v́ nó phát khởi từ động cơ làm lợi lạc cho người khác với ḷng bi mẫn chân thật. Và một khi nó là ước nguyện cuối cùng của người chết th́ tuyệt nhiên không có ảnh hưởng hoặc có hại ǵ cho thần thức của họ khi họ rời bỏ thể xác. Trái lại, việc làm tích cực này sẽ góp phần tạo thiện nghiệp cho người ấy trong đời sống vị lai.



Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Nếu một người muốn hiến tặng thi thể của họ th́ nên lấy những bộ phận cần thiết ấy sau khi người đó chết. Điều này không có ǵ ảnh hưởng đến tiến tŕnh thần thức thoát xác và tái sinh của họ.



Hỏi: Có nhiều trường hợp nếu các bộ phận của thi thể được lấy đi mà thần thức của họ chưa rời khỏi thể xác th́ sao?



Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Điều này tùy thuộc vào ḷng bi mẫn và ước nguyện của người chết. Nếu người ấy đă từng bày tỏ nguyện vọng bố thí lớn lao đó một cách chân thành, th́ có thể lấy đi những bộ phận cần thiết ngay cả trước khi tim ngừng đập, cũng không có hại ǵ cho thần thức.



Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Như tôi đă nói trên, thần thức sẽ rời khỏi thể xác khi ta đụng chạm đến thi hài của họ, chẳng hạn như ta kích thích vào vùng đỉnh đầu để chỉ dẫn cho thần thức thoát ra. Một khi thần thức đă ra rồi th́ bạn có thể lấy đi những thân phần cần thiết. Do đó, nên lưu ư giúp người chết làm phép chuyển di thần thức trước khi lấy những thân phần của họ.



Hỏi: C̣n phương pháp đông lạnh (Cryonics) thi hài sau khi chết th́ sao ?



Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Việc ấy hoàn toàn vô nghĩa, không đem lại một lợi ích nào. Thần thức người ấy không thể quay lại thi thể một khi người ấy đă chết thật sự.

Chương 7

Làm Ǵ Để Chuẩn Bị Cho Cái Chết?

Hỏi: Có phương pháp nào tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết của ḿnh không?






Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Phương pháp tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết của mỗi người là nên tu tập tâm linh trong suốt cuộc đời ḿnh.



Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Một lần nữa tôi phải đề cập đến hai hạng người, thứ nhất là tín đồ theo đạo Phật, thứ hai là những người không có đạo.



Đối với hạng người thứ nhất đă từng quy y và tu học theo Chánh pháp, khi họ biết rằng cái chết đang đến với họ th́ đó là thời gian giúp họ tinh tấn hơn trong việc tu tập của ḿnh.



Đối với hạng người thứ hai, chưa hề nghĩ ǵ về con đường đạo trong cuộc đời họ, nên khuyên họ cố gắng phát khởi tâm đạo, tâm đạo ở đây nghĩa là suy nghĩ về điều tốt, nghĩ và cầu mong điều tốt đến với người khác. Đây là cách tốt nhất dành cho những người không có đạo chuẩn bị cái chết.



Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Giống như ta đi đến một nha sĩ, đó là điều không ai tránh khỏi, việc cuối cùng cũng phải xảy ra, chết cũng thế, v́ vậy có ǵ tốt đẹp bằng nếu ta bắt đầu suy nghĩ về nó ngay bây giờ. Đ? biết rơ về cái chết ta nên hỏi các bậc thầy của ḿnh, những người có kiến thức về cái chết, các ngài sẽ cho chúng ta biết con người sẽ chết như thế nào. Nếu ta có những hiểu biết như thế, ta thật sự không sợ chết và nó sẽ giúp đỡ ta rất nhiều.



Đại sư Geshe Lamrimpa: Nếu một người đang chuẩn bị một nơi tái sinh hạnh phúc th́ sẽ loại bỏ tham sân si và tịnh hóa mười ác nghiệp nếu đă phạm phải trong quá khứ, bày tỏ sự hối tiếc và lập nguyện không vi phạm giới pháp trong tương lai. Đây là lời dạy chung cho tất cả mọi chúng sinh. Đối với một người đă thọ giới để tu hay một hành giả Mật giáo, họ phải sám hối và tịnh hóa tất cả giới luật và lời phát nguyện mà họ đă phá bỏ.



Mặt khác, nếu muốn đời sau giàu sang th́ phải thực hành pháp bố thí, muốn được hạnh phúc th́ phải giữ giới hạnh, muốn được trường thọ nên tránh sát sinh, muốn được ngưỡng mộ và tôn kính phải tu pháp nhẫn nhục. Muốn giải thoát th́ tu tập sáu hạnh của Bồ Tát, v.v... Nói chung, nếu chúng ta loại bỏ hết ác nghiệp, tịnh hóa hết tất cả nghiệp chướng và hướng đến hành vi công đức, tạo cho ta có một sức mạnh hỷ lạc về nội tâm. Khi cái chết đến với ta, chính năng lực công đức và giới hạnh ấy sẽ tiếp sức cho ta đi tới một đời sống khác an toàn và hạnh phúc. Đó là cách tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết của mọi người.



Hỏi: Ở trong Phật giáo có một vài phương pháp thiền quán niệm về cái chết và kể lại tiến tŕnh chết. Loại thiền này có lợi ích ǵ không ?



Theo triết học của Phật giáo, phương pháp thiền quán tưởng về cái chết là nhắm vào mục đích để ta ư thức được cuộc đời là vô thường và ta sẽ trở nên quen thuộc với những diễn biến khác nhau về cái chết mà con người sẽ phải đi quạ Điều đó rất có ích. Trong pháp tu này, hành giả biết rơ những dấu hiệu xảy ra trong tiến tŕnh đưa đến cái chết như sự suy yếu của sáu giác quan, và sự tan ră dần của thân tứ đại... Rồi tiếp đó, ta cũng nhận ra rằng khi ta tái sinh v́ sự hỗn hợp giữa tinh cha, huyết mẹ và thần thức của ta; một lần nữa, ta lại thấy cái chết đến với ba thứ này, tiến tŕnh sinh tử này không dứt cho đến khi ta giác ngộ. Theo triết học Phật giáo Tây Tạng th́ luyện tập quán tưởng về cái chết là một pháp tu rất quan trọng.



CHỦ NGHĨA VỊ THA LÀ TRÁI TIM CỦA PHẬT GIÁO



Hỏi: Ở phương Tây, nhờ Phật giáo mà trong những năm gần đây có sự phát triển rất nhanh về phong trào thiết lập những Tiếp Dẫn Đường để chăm sóc cho những người sắp lâm chung. Các ngài có nghĩ rằng chúng ta có thể đem lại lợi lạc cho người chết không?



Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Tôi cho rằng phong trào này rất tốt bởi v́ người phục vụ và người được chăm sóc đều biết rơ ḿnh cuối cùng cũng đi đến cái chết, do đó khi c̣n sống trên đời này họ cố gắng làm mọi điều tốt đẹp và nhất là giúp đỡ những người sắp lâm chung. Giống như khi bạn đi máy bay, biết rằng bạn đang ở trên không trung và có cảm giác sợ hăi. Nhưng khi bạn thấy xung quanh có đủ tất cả những tiện nghi để giúp đỡ bạn th́ bạn cảm thấy như ḿnh đang ở nhà, bạn cảm thấy hạnh phúc về điều đó. Tóm lại, tôi thấy rằng các Tiếp Dẫn Đường ở phương Tây rất tốt, v́ nó giúp cho người sắp lâm chung cảm thấy an toàn, tự tin và không sợ hăi nữa.



Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Ư tưởng thành lập các dưỡng Đường Tiếp Dẫn cho người sắp lâm chung là biểu trưng cho ḷng bi mẫn vô biên của chúng ta đối với người sắp chết. Đây là một phong trào rất tốt mà tôi cho rằng phát triển nhiều Trung tâm thêm chừng nào tốt chừng ấy. Ở phương Tây xưa nay không quan tâm đến vấn đề tu tập tâm linh, nên người sắp chết rất cần sự nâng đỡ về tinh thần ở cuối đời, điều này giúp cho họ có một sức mạnh nội tâm để vượt qua nỗi hăi hùng của cái chết.



Cuối cùng, trái tim của Phật giáo là ḷng vị tha, nghĩ đến người khác và giúp đỡ cho họ. Chúng ta phải nỗ lực nhiều hơn nữa để có thể đem lại sự an ủi, nâng đỡ tinh th?n cho họ mà xă hội đă một thời bỏ rơi và thiếu quan tâm.



Từ đáy ḷng ḿnh, tôi muốn nói lời cảm ơn Thầy (người thực hiện cuộc phỏng vấn này) rất nhiều và tôi phải nói rằng Thầy đừng nghĩ rằng ḿnh đang đơn độc với trong công việc này. V́ tất cả những ǵ mà Thầy đang làm hiện nay là đại diện cho một đường hướng hoạt động của Phật giáo trong thời hiện đại. Chư Phật, Bồ tát và các vị Thiên thần Hộ pháp luôn ủng hộ và luôn ở phía Thầy.

Chương 8

Dưới Ánh Sáng Của Cái Chết

Rich Fields, một nhà thơ, nhà văn, đệ tử của Ḥa thượng Chogyam Trungpa Rinpoche và nhiều bậc thầy nổi tiếng người Tây Tạng, ông được ghi nhận là mắc bệnh ung thư phổi từ năm 1995. Hiện nay ông đang giữ chức Tổng biên tập tạp chí Yoga và Phó tổng biên tập nguyệt san Phật giáo Tricyle (xuất bản tại Hoa Kỳ). Ông đang cư ngụ tại Fairfax, bang California với người điều dưỡng là bà Marcia Cohen. Ông là tác giả của nhiều quyển sách Phật giáo có giá trị như 'Làm sao những con thiên nga đến được bờ hồ, Lịch sử Phật giáo nước Mỹ... '. Cuộc phỏng vấn này do đạo hữu Helen Tworkov (Tổng biên tập tờ Tricyle) thực hiện vào tháng 5 năm 1997 để t́m hiểu quan điểm về cái chết của ông.






Tricycle: Lần đầu tiên khi biết ḿnh ung thư, ông đă làm ǵ ?



Fields: Vào tối hôm ấy, một vị Lama cho tôi một lời dạy của Đức Phật Dược Sư (Medicine Buđha) và tôi cảm thấy an ủi. Tôi xem căn bệnh nan y này là một cơ hội tốt để tôi trả nghiệp. Đó là một trong những Bồ tát hạnh mà bạn phải thực hành. Quan điểm này rất khác biệt so với quan điểm của phương Tây. Quan điểm của Bồ tát làm đảo lộn hết mọi thứ xung quanh nó. Đây là một pháp môn luyện tập của Kim Cương thừa, chấp nhận bất cứ mọi hoàn cảnh khó khăn nào và phải đưa nó vào con đường tu tập, không cứ là hoàn cảnh tốt mà bất cứ một t́nh huống nào cũng biến nó trở thành phương tiện để tu luyện. Bạn có thể mong rằng 'chứng bệnh này giúp tôi mang lấy hết bệnh của tất cả chúng sinh, nhận lấy hết đau đớn của chúng sinh, để cho họ hết bệnh và hết đau đớn'. Bằng cách này, bạn tấn công vào 'bản ngă tự thương xót lấy ḿnh' và nhiều vấn đề cơ bản khác phát sinh khi chúng ta mắc bệnh, chẳng hạn như chúng ta tự hỏi 'tại sao tôi... ?'.



Tricycle: Các bậc thầy của ông đă nói ǵ ?



Fields: Câu nói đầu tiên của họ luôn luôn là: 'Mọi người đều phải chết. Chết là một sự thật'. Hoặc 'Chúng ta có thể điều trị bệnh này và con sẽ khỏi thối. Hay 'Ồ, con chờ đợi cái ǵ nào? Có sanh ắt phải có tử'. Rồi một ư kiến khác 'Con may mắn v́ nó là một cơ hội tốt cho việc tu luyện của con'.



Tricycle: May mắn, bởi v́ ông là một hành giả tu luyện?



Fields: May mắn là v́ có thời gian để chuẩn bị mọi thứ, dù bạn là một hành giả hoặc không. Quan điểm thông thường ở phương Tây là 'Ồ, may mắn là v́ họ đă chết trong lúc ngủ hay chết v́ cơn đau tim hoặc chết đột ngột'. Tuy nhiên, bệnh ung thư là đặc biệt tốt cho bạn, bởi v́ bạn có đủ thời gian để tiên liệu mọi việc và giải quyết nó. Về việc tu tập th́ theo lời dạy của thầy Trungpa Rinpoche rằng: 'Chết là sự thật, nó đến mà không báo trước. Thân này sẽ trở thành một xác chết'. Chết chỉ là một phần trong đời sống của chúng tạ Nền văn hóa của phương Tây giúp đỡ chúng ta phớt lờ với cái chết, nhưng phương Đông th́ phải nh́n thẳng vào cái chết, từ một quan điểm ấy, một căn bệnh ở vào giai đoạn chót rất có thể hữu ích cho việc tu tập tâm linh.



Tricycle: Những ư kiến 'nó tốt cho việc tu tập của bạn' có quấy rầy ông không?



Fields: Ở những trung tâm tu học điều đó thường được xem là chuyện đùa. Đối với một người chưa có kinh nghiệm th́ điều đó thật phiền hà, họ lập tức phản kháng, đầu hàng hay chấp nhận. C̣n đối với tôi th́ không.



Tricycle: Ông quan tâm đến việc tiên đoán sự phát triển của căn bệnh không?



Fields: Không, quan điểm của tôi là 'Tôi sẽ sống cho đến lúc chết', một việc mà tất cả mọi người đều có thể làm. Tôi không hiểu hết giá trị của những câu nói mà mọi người thường nói rằng: 'Anh c̣n bốn tháng nữa để sống'. Và tôi không muốn tạo ra bất cứ một gánh nặng nào cho ai. Tôi không bao giờ quan tâm đến những lời nói may mắn.



Tricycle: Ông sẽ chọn giải pháp nào giữa việc chấp nhận cái chết và cố gắng điều trị căn bệnh ở đoạn cuối?



Fields: Chúng ta có quyền chọn lựa sao? Cuối cùng tất cả chúng ta đều phải chết. Chết là sự thật, nó đến mà không cần báo trước, và thân này sẽ trở thành cái xác. Phật giáo luôn luôn kiên định về vấn đề này. Những bác sĩ đầu tiên nói với tôi rằng số lượng thống kê bệnh ung thư phổi giống như tôi đều không có cơ may chữa khỏi. Tôi đă từng nói với các bác sĩ, tôi không quan tâm đến việc nghe họ. Tôi sẽ sống cho đến khi tôi chết dù bốn tháng hay năm năm. Các bác sĩ cũng như thế, họ cũng sống cho đến lúc chết. Ông ta biết khi nào tôi chết nhưng ông ta th́ không biết khi nào đến lượt ḿnh. Nếu tôi chống lại cái chết, có thể tôi sẽ chết sớm hơn.



Tricycle: Khi ông chống lại bệnh ung thư, nó có trở nên là một cái ǵ đó phân ly giữa nó và ông không?



Fields: Trước hết, tôi cảm thấy nó giống như một cái ǵ đó đă tấn công tôi. Dĩ nhiên, các tế bào tôi đă bảo vệ tôi. Những phản ứng đầu tiên của tôi là xác định ḿnh là một chiến binh đầy sức mạnh. Tôi phải chiến đấu. Sau đó, có một lần chữa bằng hóa trị, tôi dùng Mật Chú và quán niệm thần Phẫn nộ để tiêu diệt các tế bào ung thư trong thời gian hóa trị.



Tricycle: Việc công phu tu tập của ông có thay đổi khi ông được chẩn đoán không?



Fields: Công việc tu tập của tôi càng trở nên tích cực. Tôi thấy có kết quả rơ ràng hơn trong một thời gian ngắn so với những thành tựu thiền định mà tôi phải bỏ ra trong một thời gian dài như trước đây.



Tricycle: Ông có bắt đầu dành nhiều thời gian cho công phu buổi sáng không?



Fields: Có, tôi vẫn công phu như mỗi ngày. Tôi cảm thấy không có vấn đề là tôi ngồi bao lâu hoặc có liên hệ đến chỗ ngồi. Việc hành tŕ của tôi vẫn không thay đổi.



Tricycle: Nó có ảnh hưởng đến cách cư xử của ông không?



Fields: Có thể. Tuy nhiên tôi vẫn có những thói quen thông thường. Tôi vẫn làm việc như mọi ngày, vẫn giữ các mối quan hệ, vẫn viết bài và vẫn sống. Đôi khi tôi nghĩ ḿnh nên gia nhập vào một trại tu dưỡng và tôi nỗ lực tu tập để đắc đạo trước khi chết (cười lớn). Nhưng đồng thời tôi thích chờ đợi từng phút giây, b́nh an và chiến đấu để sống một cách trọn vẹn, và đó là những ǵ mà tôi chọn.



Tricycle: Ông có tự thương hại ḿnh không?



Fields: Tôi nghĩ tự thương hại ḿnh là đi cùng với bản ngă. Khi điều này xảy ra lần đầu tiên, nó mong muốn tất cả những nghiệp của tôi đến đậu đúng trên chóp mũi của tôi, nh́n thẳng vào mắt tôi, liếc nh́n tôi và tôi bắt đầu liếc nó trở lại. Đó là bộ mặt của một chiến binh. Sau đó, tôi được chẩn đoán. Allen Ginsberg gọi điện và nhắc cho tôi nhớ lời của thầy Trungpa Rinpoche đă nói với Billy Burroughs, một người sống nhờ ghép bộ phận gan mới. Rinpoche nói rằng: 'Con sẽ sống hoặc sẽ chết, cả hai cái đều tốt cả'. Tôi không muốn cái chết của tôi là một kẻ đối đầu. Chết không phải là một kẻ thù. Chết là một phần trong đời sống của chúng tạ Ung thư có thể xem như là kẻ thù. Nhưng chính cái chết tự nó đến và đến bất cứ lúc nào, nó không phải là một kẻ thù. Đó là cái đă được chấp nhận và đó là thế đứng của một chiến binh. Đối với một chiến binh, chết không phải là kẻ thù. Khi các sĩ quan đội quân cảm tử của Nhật Bản ra chiến trận, họ thường được lănh tiền thưởng cảm tử. Nếu bạn bước vào chiến trận với sự can đảm không sợ hăi và biết rằng cái chết có khả năng xảy ra, th́ bạn sẽ chiến đấu giỏi hơn và bạn sẽ chiến thắng! Nhiều pháp môn tu tập của Phật giáo nói chung là nhắm vào việc loại bỏ sự sợ hăi về cái chết, một loại sợ hăi về tái sinh hay sợ hăi về cuộc sống của chúng ta.



Tricycle: Ông đă chẩn đoán biết ḿnh đang bệnh ung thư c̣n tôi th́ không. Có sự khác biệt nào giữa chúng tả Có phải ông hấp hối trước tôi? Có phải t́nh cảnh của ông có thức tỉnh về cái chết trong khi tôi vẫn ở trong ṿng ảo tưởng là tôi sẽ sống măi?



Fields: Không phải là bạn sẽ sống măi măi. Nhưng sự tính toán thời gian có hơi khác biệt. Tôi được nói rằng tôi đang ở trong cơn nguy cấp. Sự lựa chọn thời gian chính xác là một vấn đề. Nhưng tôi nói với một bác sĩ ở Stanford về ư kiến thứ hai, tôi nói 'Mọi người đều nói đây là bệnh không thể cứu chữa được', và ông ta nói 'Có phải ai đó nói với anh là 'không thể chữa được' ở giai đoạn cuối phải không?'. Và tôi trả lời: 'Không có ai đề cập đến việc đó cả'. Có nhiều căn bệnh không thể chữa được hoặc măn tính, nhưng có thể xoay xở và cứu văn được ở giai đoạn chót. Tôi đang sống với thời kỳ thay đổi thửng xuyên. Hiện nay tôi đang ở trong t́nh trạng thuyên giảm. Bệnh ung thư giống như một con tê giác (Rhi-noceros) bề ngoài của nó trông rất xấu xí, đôi mắt nhỏ, làn da sần sùi, ruồi bu xung quanh, trông giống như một con kỳ lân hung dữ; và đó là con tê giác hiền lành, đang nhai cỏ trong đầm lầy, không chú ư đến bạn, bạn cảm thấy thuyên giảm và khỏe mạnh. Nhưng vào lúc nào đó, con tê giác nh́n quanh quẩn, chạy như điên đến chỗ bạn... Sự khác biệt ở đây là tôi luôn có một con tê giác ở xung quanh.



Tricycle: Ông tin điều ǵ sẽ xảy ra sau khi chết?



Fields: Tôi không biết. Tôi nghĩ tôi cảm thấy thoải mái với một người theo thuyết bất khả tri, có xảy ra hoặc không xảy ra cũng vậy thôi. Và tôi nghĩ là tôi đồng ư với những ǵ mà cư sĩ Stephen Batchelor nói với mọi người có lư khi tu tập để có một nơi tái sinh tốt, đó không phải là kinh nghiệm của tôi. Tôi tu luyện tâm linh để có đời sống hiện tại tốt hơn, an vui hơn... Và nếu kết quả tu tập giúp tôi trong đời sống này th́ tôi chắc rằng nó cũng giúp tôi lúc tôi chết, v́ chết là một phần của đời sống.



Tricycle: Ông muốn an táng thi thể của ḿnh như thế nào?



Fields: Tôi muốn nghe ư kiến của bạn trước.



Tricycle: Tôi muốn theo phương pháp 'không táng' (sky burial) ở Nova Scotia. Đặt thi hài trên vùng St. Lawrence để làm thức ăn cho chim đại bàng, quạ, chó sói và côn trùng. Dĩ nhiên điều này bất hợp pháp, nhưng đó là sở thích của tôi.



Fields: Tôi cũng thích kiểu 'không táng' này, tuy nhiên hỏa táng (cremation) th́ dường như là một sự lựa chọn tốt hơn. Nhưng phải là hỏa táng theo kiểu của người Ấn Độ, đặt thi thể lên đống củi để thiêu. Ư kiến của tôi bị ảnh hưởng bởi lời dạy của thầy Trungpa Rinpoche là không di chuyển thể xác chỗ khác trong 3 ngày đầu, bởi v́ cần có đủ thời gian để cho thần thức rời khỏi xác thân hoàn toàn. Lư tưởng nhất là đặt thể xác trong chánh điện rồi đắp chiếc mền lên, để cho mọi người nh́n thấy, chiêm nghiệm hoặc để quán tưởng tử thi, và rồi có một buổi lễ đặc biệt được thực hiện. Nếu có một người nào đó đến làm phép chuyển di tâm thức th́ thật là tuyệt vời. Tôi nghĩ thật là tốt biết bao cho mọi người có một buổi tiệc vào ngày ấy. Nói chung, một lần nữa, tôi thích hỏa táng ngoài trời theo kiểu của người Ấn.



Tricycle: Ông có thể khuyên điều ǵ cho những người có hoàn cảnh tương tự như ông?



Fields: Tôi là nhân vật trung tâm của cuộc nói chuyện này, mọi người có thể t́m thấy những điều hữu ích cho bản thân ḿnh về sự lựa chọn phương pháp điều trị theo y học truyền thống. Trong một số truyền thống tâm linh, có một quan điểm cho rằng mọi việc đều xuất phát từ tâm, cho nên mọi căn bệnh cũng phải được chữa trị từ tâm hay bằng cách luyện tập tâm linh, tư duy tích cực hoặc có niềm tin. Có người nói rằng cả thân và tâm đều có sự ảnh hưởng lẫn nhau. Nhưng một số người khác th́ cho rằng chỉ quan tâm đến việc điều trị bằng y khoa, kinh nghiệm của tôi là chữa trị bằng thuốc Tây, bằng phương pháp xạ và hóa trị, nếu điều trị đúng cách đúng lúc th́ sẽ có kết quả tốt, thậm chí có một số người chữa trị bằng độc dược nữa. Nói chung, theo tôi người bệnh phải theo dơi và kiểm tra thường xuyên căn bệnh của ḿnh rồi chọn lựa phương pháp điều trị. Tôi thấy một số người đă chết v́ bị hỗn loạn giữa các lối điều trị.



Tricycle: Vai tṛ của người chăm sóc bệnh như thế nào?



Fields: Tôi thấy người săn sóc gặp khó khăn nhiều hơn người bị ung thự Sức chịu đựng của họ c̣n nhiều hơn người bệnh. Tôi may mắn có được Marcia săn sóc. Cô ấy phát nguyện giúp đỡ tôi trong thời gian điều trị này. Cô ấy cùng tôi đi bác sĩ, ghi chép, hỏi han và chuẩn bị mọi thứ cho cuộc giải phẫu phức tạp. Giúp đỡ một người chống lại ung thư thật sự là một điều khó khăn thử thách.



Tricycle: Ông có quan tâm đến việc chẩn đoán bệnh không?



Fields: Lại đề cập đến vấn đề này một lần nữa. Thừa là không tốt. Một trăm phần trăm là tôi sẽ chết. Nhưng tôi sẽ sống cho đến khi tôi chết. Có một điều tôi muốn nói ở đây là giáo pháp của đạo Phật rất tuyệt vời ở phần đầu, phần giữa và phần cuối, mọi người nên cầu học và tu tập trước khi quá trễ.










__________________
Đường Trần thong thả dạo mà chơi.
Học lấy đau thương để biết
đời!
Mỗi cuộc vô thư
Quay trở về đầu Xem DaoTran's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi DaoTran
 
DaoTran
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 June 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 102
Msg 3 of 6: Đă gửi: 10 September 2004 lúc 1:34am | Đă lưu IP Trích dẫn DaoTran


Chương 9

Bạn muốn Ngày Ấy Như Thế Nào?

'Tôi muốn được chết như một người phụ nữ mà tôi đă từng săn sóc, đă qua đời hai tuần trước. Bà là một người b́nh thường. Nhưng bà có phước chết vào lúc tuổi già mà không bệnh hoạn, đầu óc hoàn toàn tỉnh táo, có đầy đủ thân quyến và Tăng Ni bên cạnh bà vào giờ phút cuối cùng. Vào ba tuần lễ cuối, bà tỏ ra sáng suốt lạ lùng giống như thể bà là một bậc thầy. Bà cung cấp các nhu cầu cần thiết cho mọi người, một việc mà bà vẫn luôn làm. Cuối cùng bà bày tỏ ḷng biết ơn mọi người và bà ra đi... '


Ni sư Ani Lodro (63 tuổi, Tu viện Samye Ling ở Scotland)

'Tôi muốn chết trong trạng thái yên b́nh, lúc nào th́ không thành vấn đề. Tôi không biết lúc đó như thế nào nhưng bây giờ đây tôi rất an lạc. Hy vọng rằng tôi sẽ an lạc khi cái chết đến với tối.

Thích Giác Hạnh (Làng Hồng, Pháp quốc)

'Cháu không muốn chết. Nhưng cháu đoán là ḿnh sẽ sống lâu như cháu mong muốn'.

Bé Nandita (10 tuổi, ở Santafe, New Mexico, Hoa Kỳ)

'Tôi muốn hoàn tất mọi việc trước khi ngày ấy đến... '.

Lee Moore (24 tuổi, ở Kent, bang Ohio, Hoa Kỳ)


'Tôi muốn chết tỉnh thức, v́ thế tôi sẽ biết rằng tôi đang chết. Tôi muốn chết trong chánh niệm và tỉnh giác. Tôi không sợ chết'.

Thượng tọa Bimal Tishya (Tu viện Bodhi Carya, bang Calcutta, Ấn Độ)

'Tôi muốn chết trong tỉnh thức'.

Chân Hội (Montreal, Canada)

'Tôi muốn chết một ḿnh. Một nơi nào đó cách biệt và giữa những hàng cây đẹp với những con chó yêu dấu của tối.

Gretel Ehrlich (Bang California, Hoa Kỳ)

'Tôi muốn chết trong hạnh phúc'.

Harrison Hoblitrelle (74 tuổi, Massachusetts, Hoa Kỳ)

'Tôi muốn chết một cách tự nhiên, ngay cả lúc tôi bị bệnh. Tôi muốn chết trong cách chết của con người: Máy móc của nền y học hiện đại ngày nay kéo dài mạng sống của con người làm cho họ không thể chết theo thời gian của họ, con người không thể chết với phẩm cách của họ'.

Thượng tọa Nakagana (Chùa Daihizan Fumon, Đức quốc)

Chết và Tái Sinh


Chương 10

Chết, Một Pháp Môn Tu

Nhiều người sẽ ngạc nhiên hỏi tại sao chết cũng là pháp tu. Theo giáo lư đạo Phật, đó là pháp tu rất quan trọng. Chết xuất phát từ tính vô thường, sự thay đổi và biến chuyển, vạn vật có sinh có tử, có hợp có tan, là trung tâm điểm của việc tu tập Tuệ giác.


Quán niệm về cái chết không phải là một bài luyện tập về sự bi ai, cũng không phải sự bất hạnh của cuộc sống. Thật ra khi quán niệm về cái chết được thực hành đúng, nó sẽ mang lại sự b́nh yên biết bao. Có lẽ không có ǵ phải ngạc nhiên v́ hầu hết mỗi chúng ta đều bối rối khi nói đến cái chết. Chúng ta đă không thỏa hiệp với bản chất của cơ thể và không thấy cái chết là quá tŕnh tự nhiên. V́ vậy chúng ta có những phản ứng buồn cười, đùa cợt quá mức, lẫn tránh hay bi lụy. Quán niệm về cái chết có thể mang lại cho chúng ta sự cân bằng.

Trong Kinh Sattipatana đức Phật có dạy nhiều phương pháp quán niệm, trong đó có pháp quán niệm về nghĩa địa (cemetery contemplation). Vào thời đức Phật c̣n tại thế, các hành giả đi đến các nghĩa địa và đôi khi họ sống ở đó trong một thời gian dài. Các tử thi không được chôn cất hay hỏa táng mà vứt bỏ tại nghĩa trang làm thức ăn cho những con kên kên và những con thú ăn thịt khác. V́ thế, các hành giả phải quan sát thi thể con người qua những giai đoạn hôi hám, śnh ươn, mục rữa... Vấn đề chính mà hành giả phải thấy là dù thân thể này của ai đi nữa th́ cũng phải chịu cùng một quy luật sinh diệt.

Hiện nay, pháp tu quán niệm về nghĩa trang này vẫn c̣n áp dụng ở các tự viện trong rừng sâu tại châu Á. Đạo Phật cho rằng, nay ta c̣n trẻ áp dụng pháp tu này sẽ giúp ta vượt qua nỗi sợ hăi về cái chết.

Quán niệm về cái chết là tu tập về Tuệ giác. Trí tuệ này có thể nh́n thấy rơ bản chất như thật của sự vật. Bạn có thể thấy rằng quán niệm về cái chết sẽ khiến cho bạn mạnh mẽ, giúp bạn vượt qua những khó khăn trong tu tập, chẳng hạn như cảm giác bồn chồn, buồn ngủ hay đau đớn. Như chính trường hợp của người viết, khi tôi thấy ḿnh buồn ngủ trong lúc tọa thiền th́ tôi nghĩ ngay đến cái chết của chính ḿnh, nó lập tức đánh thức tôi. Hay lúc tôi khó chịu, cau có hoặc thả hồn đâu đâu, th́ tôi cũng nghĩ về cái chết của chính tôi. Rất ít điều cản trở khi bạn chiếu ánh sáng của cái chết lên nó. Hăy xem cái chết như một người cố vấn của bạn.

Trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada), chứa đựng nhiều lời dạy độc đáo của Phật, rằng con người sẽ không đánh nhau hay tranh căi khi họ biết rơ rằng tất cả đều sẽ chết. Khi quán về cái chết chúng ta cũng đang bày tỏ ḷng từ bi với kẻ thù. Chúng ta thấy rằng chúng ta cùng là đồng sự với nhau. Tâm chúng ta sẽ mềm đi khi ta nhận ra tất cả mọi người đều có chung một số phận: chết.

Có nhiều lợi ích khác khi chúng ta thực hành pháp quán niệm về cái chết. Hiện tại bạn đang bận rộn làm mọi việc, dành nhiều thời giờ để ăn và ngủ. Chỉ một lời thỉnh cầu ở đây là bạn hăy suy gẫm về cái chết, điều đó có thể giúp bạn đánh giá năng lượng các bạn đă tiêu phí. Một khi bạn biết rằng không có sự vĩnh cửu (forever) th́ có lẽ bạn sẽ thay đổi tích cực và dành nhiều thời gian để tu tập.

Chương 11

Thực Hành Pháp Quán Về Cái Chết

I- Nội dung của pháp quán :






Cái chết không thể tránh khỏi.



1. Mọi người đều phải chết.

2. Tuổi thọ của ta đang giảm xuống theo thời gian.

3. Thời gian dùng để tu tập trong đời ta rất ngắn ngủi. Không thể biết khi nào ta chết.

4. Tuổi thọ con người không chắc chắn.

5. Có nhiều nguyên nhân đưa đến cái chết.

6. Cơ thể con người quá mong manh. Thực tế chỉ có tu tập mới có thể giúp chúng ta lúc chết.

7. Tài sản và thú vui không thể giúp ta.

8. Người thân của ta cũng không thể giúp ta.

9. Chính cơ thể của ta cũng không thể giúp ta.



II- Quán niệm như thế nào ?



Nhiều hành giả đang tu pháp thiền quán niệm (Vipassana) có thể chưa bao giờ niệm về cái chết, v́ pháp thiền này nhấn mạnh trực tiếp đến những ǵ đang xảy ra ở thời điểm hiện tại. Khi hành thiền quán niệm bạn không được khuyến khích tư duỵ Tuy nhiên trong thiền quán niệm về cái chết bạn phải sử dụng tiến tŕnh tư duy một cách sáng tạo để tạo ra một trợ thủ cho việc phát triển Tuệ giác.



Thật hữu ích khi bắt đầu pháp quán này bằng cách chú tâm vào hơi thở hay tận dụng những kỹ thuật khác để làm tâm bạn an tịnh. Mỗi ngày bạn có thể luyện tập 20 phút. Trước hết là t́m cách tĩnh tâm. Chọn một trong những đối tượng niệm để quán tưởng và đi sâu vào đó. Khi chấm dứt quán niệm ở phần này bạn lướt qua phần khác (xem lại trong bản nội dung ở trên).



Cụ thể bạn quán tưởng như sau: Bạn chọn ư tưởng và nói: 'Mọi người đều phải chết'. Rồi bạn đem ư tưởng đó vào trong suy tưởng và quán niệm nó. Đây là lúc việc thực hành trở nên rất sáng tạo. Mỗi người đều có thể thực tập theo cách riêng của ḿnh. Bạn có thể quán tưởng chính bản thân ḿnh hay một người bạn của ḿnh đang hấp hối, hay quán tưởng những nấm mồ của người thân trong nghĩa địa, hoặc bộ xương của chính bạn. Mức độ định tĩnh và tập trung mà bạn có được từ quán niệm có liên quan rất lớn đến chất lượng và kết quả tu tập của bạn. Nếu bạn đă có định lực rồi, bạn sẽ trở nên rất linh hoạt, bạn có thể chất vấn, suy niệm và ngay cả chơi đùa với nó: cái chết.

Chương 12

Hiến Xác Theo Quan Điểm Của Phật Giáo

Việc hiến tặng các cơ quan nội tạng đối với nhiều Phật tử là một vấn đề đầy mâu thuẫn. Một mặt, chúng ta luôn muốn thực hành Bồ tát hạnh ở mọi nơi có thể, v́ ở Hoa Kỳ hằng ngày có chín người hấp hối trong sự chờ đợi tuyệt vọng những người hiến tặng. Mặt khác, theo giáo lư đạo Phật, chỉ khi thần thức rời khỏi thể xác mới gọi là chết, chứ không phải sau khi trút hơi thở cuối cùng, và người ta thường tin rằng chính hoàn cảnh tử vong lâm sàng và thời gian sau đó, trước khi thần thức thoát đi, là thời điểm then chốt quyết định sự tái sinh hoặc đầu thai của người đó. Theo quan niệm này, tốt nhất là không được cắt xẻ thi hài trong ṿng ba ngày sau cái chết lâm sàng, nếu không nó sẽ gây ra sự rối loạn cho tiến tŕnh tái sinh.




Tuy nhiên, theo y học, để cấy ghép cơ thể có hiệu quả, những bộ phận đó trong cơ thể người chết phải được cắt càng nhanh càng tốt sau khi trút hơi thở sau cùng, như vậy nó có thể làm rối loạn nghiêm trọng đến quá tŕnh tự nhiên của ư thức quan về dạng vô h́nh. Nhiều Phật tử đă phát nguyện hiến xác theo yêu cầu không được cắt cơ thể họ sau ba ngày, nhưng làm như vậy không đảm bảo chất lượng cấy ghép các cơ quan nội tạng, các mô đă hiến tặng.



Thiền sư Sheng Yen và Tangen Harada cho rằng dù việc hiến tặng có thể làm rối loạn đến tiến tŕnh chuyển hóa ư thức của người hiến tặng, nhưng nếu người ấy có tu tập và có ước nguyện mạnh mẽ giúp đỡ người khác th́ sự chi phối đến thể xác của họ ít làm ảnh hưởng đến sự tán loạn ở giai đoạn chuyển di thần thức.



Quan điểm khác th́ cho rằng v́ ta không biết ḿnh sẽ phản ứng như thế nào đối với quá tŕnh hiến tặng trong giai đoạn trung chuyển này, v́ vậy tốt nhất là nên tránh. Những người theo quan niệm này thường nhấn mạnh đến khía cạnh thương mại phiền toái của việc hiến tặng, như chi phí cao và sự ưu tiên mang tính độc đoán trong việc phân phối. Họ cũng cho rằng sự hấp tấp quá mức có thể dẫn đến việc cắt đi các cơ quan trong khi bệnh nhân đó vẫn c̣n có khả năng hồi sinh.



Cái chết của năo (Brain death) cũng đưa ra nhiều vấn đề khác. Phần lớn các cơ quan hiến tặng là bệnh nhân bại năo, khi cơ thể vẫn được tiếp tục nuôi sống, gia đ́nh và người thân đă sắp xếp việc hiến tặng. Tuy nhiên, từ chết năo cũng không chính xác v́ năo cho thấy có một số c̣n hoạt động ngay cả sau nhiều giờ ngừng thở. Đến nay, chúng ta vẫn chưa hiểu hết về mối quan hệ giữa thần thức và chết năo. Tuy nhiên, ta dễ đoán ra rằng hoạt động của năo sau khi trút hơi thở cuối cùng có liên quan đến hoạt động của thần thức.



Đối với một số người, một phương pháp khác có thể tránh được sự rối loạn trong quá tŕnh chuyển tiếp của thần thức do việc hiến tặng các bộ phận cơ thể mà vẫn có ích cho người khác. Sau hăm bốn giờ khi tim ngừng đập, ngoại trừ việc cắt đi các cơ quan nội tạng người ta có thể hiến xương và các mô sống. Mặt khác, có ba cách nữa để trở thành người hiến tặng khi ta c̣n sống và khỏe mạnh là hiến tặng máu, tủy hay thận.

Chương 13

Cơ Thể Sau Khi Chết

Phương thức chăm sóc thi hài người chết tùy thuộc theo tập tục và truyền thống văn hóa khác nhau. Những đề nghị sau đây là xuất phát từ kinh nghiệm của chị Joan Hallifax, một Phật tử, chị săn sóc những người hấp hối tại một Tiếp Dẫn Đường ở Hoa Kỳ.






* Ngay sau khi chết:



Giữ cho bầu không khí đơn sơ và yên b́nh quanh người chết. Nếu có thể, tránh đụng chạm di dời cơ thể ngay sau khi chết. Nếu cần th́ phải thật nhẹ tay.



Khi người ấy đang hấp hối th́ cầu nguyện hoặc niệm Phật tiếp dẫn. Sau khi chết, nếu thích hợp th́ hăy tụng kinh siêu độ hay tiến hành các nghi lễ truyền thống.



* Trước khi xác bắt đầu lạnh cứng :



Khoảng hai giờ sau tử thi mới lạnh cứng, bạn có đủ thời gian để tắm và thay đồ cho người chết. Những thành viên trong gia đ́nh hay bạn bè có thể làm việc này như biểu lộ hành động thân yêu và kính trọng người chết lần sau cùng. Ta biết rằng trước khi mất, người hấp hối có thể ói mửa, đổ mồ hôi hay tiểu tiện. Bạn có thể tắm cơ thể bằng khăn thấm trà thơm và một ít rượu để bịt lỗ chân lông. Nhét bông g̣n vào hậu môn, âm vật hay bao cao su bịt dương vật để tránh các chất bài tiết thoát ra. Răng và miệng có thể lau sạch nhưng đừng lấy răng giả ra, v́ bạn sẽ gặp khó khăn khi lắp vào lại sau này. Những phản xạ co giật ở cơ mặt và tứ chi cũng thường xảy ra.



Nên chú ư đến việc ăn mặc và xếp tư thế của tử thi trước khi tử thi lạnh cứng. Hăy mặc đồ vải mỏng, tránh che phủ tử thi bằng khăn trải giường. Tử thi cần an trí ở một nơi càng thoáng mát càng tốt. Quạt máy, máy điều ḥa hay cửa sổ mở có thể giúp cho tử thi tươi tốt.



Một số người chết c̣n mở mắt, một người thân trong gia đ́nh đến nhẹ nhàng khép mí lại hoặc dùng băng keo dán lại. Miệng cũng có thể mở, bạn có thể dùng một khăn quàng cột quanh đầu để khép lại. Nơi cuối cùng c̣n ấm là vùng tim hoặc một chỗ nào khác. Theo truyền thống Phật giáo cho biết hơi ấm tụ Ở đầu hoặc ở ngực, là dấu hiệu cho biết người ấy sẽ tái sinh vào cơi lành.



* Làm ǵ với tử thỉ



Bạn thường lo lắng là giữ tử thi trong nhà không tốt, nhưng không có ǵ nguy hiểm cả. Chăm sóc tử thi giống như bạn săn sóc một người đang sống, bạn cũng chú ư về y tế, đặc biệt là những người chết v́ bệnh dễ lây nhiễm. Cần phải có bác sĩ kư tờ khai tử. Trước khi đến bác sĩ xin giấy khai tử, tốt nhất nên tiếp xúc với cơ quan mai táng, nếu bạn muốn tử thi không bị quấy rầy. Nhớ cởi đồ trang sức của người chết trước khi đưa tử thi đến nhà tang lễ, nếu muốn th́ thân nhân có thể mang lại cho người mất trước giờ phút tẩm liệm.



Một thi thể không ướp phải chôn cất hay hỏa táng trong vài ngày để tránh vi trùng lây lan từ người chết v́ bệnh. Cơ quan phục vụ mai táng chỉ đ̣i hỏi phải ướp xác khi phải đưa tử thi ra nước ngoài, hay đông lạnh trong ṿng hai mươi bốn đến bốn mươi tám tiếng sau khi chết. Chú ư việc ướp xác không phải khử trùng xác. Hóa chất dùng trong việc ướp xác là chất độc đối với người sống.



Điều quan trọng nhất là hăy làm theo ư nguyện của người chết.




__________________
Đường Trần thong thả dạo mà chơi.
Học lấy đau thương để biết
đời!
Mỗi cuộc vô thư
Quay trở về đầu Xem DaoTran's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi DaoTran
 
DaoTran
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 June 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 102
Msg 4 of 6: Đă gửi: 10 September 2004 lúc 1:39am | Đă lưu IP Trích dẫn DaoTran

Chương 14

Một Lạt Ma Tây Tạng Tái Sinh Ở Hoa Kỳ

Ngày 3/2/1993, đó là ngày đầu tiên tại thành phố Victorville, tiểu bang California, Hoa Kỳ, Hội Phật giáo Tây Tạng ở nước ngoài đă tổ chức lễ thụ phong (enthronement) Lama cho một cậu bé người Hoa, năm tuổi, tên là Simon Hen, được xem là hậu thân của Lama Lobsang Phakpa.






Simon Hen có thể là một cậu bé năm tuổi b́nh thường, nhưng các tu sĩ Phật giáo Tây Tạng tin rằng cậu chính là hậu thân của một Lama tiền bối người Tây Tạng. Vị Lama này viên tịch tại Tây Tạng đă hơn 50 năm quạ Hen mới được khám phá khi cậu bé gặp vị Thượng tọa Geshe Lobsang Tsepel, một tăng sĩ coi sóc Trung tâm PG của người Tây Tạng ở cách San Diego 140 km. Cậu bé được cha mẹ đưa đến tham quan phong cảnh tại tu viện này và lần đầu tiên cậu Simon nh́n thấy Thượng tọa Tsepel, cậu liền nói: 'Tôi biết ông, ông từng là bạn tối. Tuy nhiên, Thượng tọa Tsepel không để ư đến những lời 'đùa giỡn' này của cậu bé. Nhưng sau đó không lâu, vị tu sĩ này nằm mơ thấy Thầy bổn sư Lobsang Phakpa của ḿnh, người mất vào năm 1950. Thượng tọa Tsepel hoang mang và lo lắng, không biết cậu bé ấy có phải là hóa thân của thầy ḿnh hay không. Thượng tọa Tsepel quyết định viếng thăm, t́m hiểu về thân phận của cậu bé Simon Hen, và được biết rằng cha mẹ cùng gia đ́nh của Simon cũng có thắc mắc tương tự, v́ cậu bé đă tỏ ra là một đứa trẻ 'không b́nh thường'. Bà nội của Simon cho biết cậu bé đă có những lời tiên đoán chính xác trong ba tháng vừa qua, cậu cho biết những tai nạn sắp xảy ra, cho biết ai là người tốt, ai là người xấu, hoặc cậu muốn đi Ấn Độ để trở thành một Lama...



Để kiểm chứng lại các sự kiện này, Thượng tọa Tsepel đă viết thư thỉnh cầu ư kiến của đức Dalai Lama thứ 14 (lănh đạo tối cao của Phật giáo Tây Tạng) ở Ấn Độ. Đức Dalai Lama nói rằng nên theo dơi và kiểm tra lại cậu bé một thời gian rồi sẽ quyết định. Sau một thời gian trắc nghiệm về khả năng nhận thức của cậu bé theo một số phương pháp truyền thống của Phật giáo Tây Tạng, cậu Simon Hen đă được nh́n nhận đúng là người tái sinh của một Lama Tây Tạng từng mang pháp hiệu là Lobsang Phakpa.



Tất cả những tín đồ Phật giáo đều tin rằng có sự đầu thai hoặc tái sinh (rebirth) sau khi con người chết. Nhưng tín đồ Phật giáo Tây Tạng tin tưởng một cách mănh liệt rằng những vị lănh đạo tôn giáo cao cấp của họ sẽ quay trở lại với một dáng h́nh khác để tiếp tục công việc hoằng pháp lợi sanh.



Việc chọn lọc những người tái sinh và quyết định phong chức Lama ít khi được xảy ra ở nước ngoài, (trước năm 1959 tổ chức ở Tây Tạng, sau năm này các lễ nghi quan trọng như thế được tổ chức ở Ấn Độ). Nhưng đây là lần đầu tiên một cậu bé Lama được t́m thấy và chính thức được thụ phong trên nước Mỹ.

Chương 15

Một Thế Hệ Mới Của Lama Tây Tạng

Chết không phải là hết, mà chỉ là một sự thay đổi về h́nh hài, ḍng tâm thức vẫn lưu chuyển cho đến khi con người ấy đạt đạo. Đặc biệt theo truyền thống của Phật giáo Tây Tạng, các vị Cao tăng sau khi viên tịch thường chọn phương pháp tái sinh (Reincarnation) vào một cảnh giới khác để tiếp tục tu tập hoặc tái sinh trở lại kiếp người trong những điều kiện thuận lợi hơn để hoàn tất hạnh nguyện độ sinh mà họ c̣n dở dang ở kiếp trước.






Trong bài này chúng tôi sẽ giới thiệu bốn vị Lama tái sinh Tây Tạng nổi tiếng ở thế kỷ 20 đă viên tịch đầu thập niên 80 và tái sinh trở lại kiếp người. Hiện tại các 'hài đồng Lamá này đang tu học tại các Phật học viện Tây Tạng ở miền Nam nước Ấn Độ. Đại đức Roger Kunsang, phóng viên tạp chí Mandala, USA, đă viếng thăm các vị để thực hiện một cuốn băng video về sinh hoạt hằng ngày của các vị Lama tư hon này.



* Ling Rinpoche



Lama Ling Rinpoche năm nay 10 tuổi, hiện đang tu học tại Phật học viện Drelung, là hậu thân của cố Đại sư Kyabje Ling Rinpoche (1903-1993), từng là Viện trưởng Đại học Phật giáo Gander, thầy dạy học cao cấp của đức Dalai Lama thứ 14 và nhiều Lama nổi tiếng khác. Từ năm 1986 đến những năm cuối đời, ngài được cung thỉnh sang châu AÂu và châu Mỹ để truyền giới pháp cho người Tây phương tu học.



Roger:Kính chào, chú khỏe không?



Ling: Cảm ơn, tôi khỏe.



Roger: Xin hỏi, năm nay chú bao nhiêu tuổi?



Ling: Mười tuổi.



Roger: Uớc mơ lớn nhất của chú là ǵ?



Ling: Uớc mơ lớn nhất của tôi là mong ước một nền ḥa b́nh thực sự trên hành tinh này.



Roger: C̣n hạnh phúc dành cho riêng chú?



Ling: Dành cho mọi người.



Roger: Làm sao chú có thể đạt được ước mơ đó?



Ling: Cầu nguyện, thiền định và học hành. Không phải một người mà tất cả mọi người.



Roger: Chú sẽ hóa độ cho mọi người chứ?



Ling: Sẽ làm tất cả với khả năng của ḿnh.



Roger: Khi nào chú mới bắt đầu?



Ling: Khi việc học và tu của tôi hoàn tất.



Roger: Sẽ phải mất bao lâu?



Ling: Tôi không biết, nhưng tôi phải hoàn tất.



Roger: Theo chú, thiền định cần thực hành như thế nào?



Ling: Thiền à? Bạn nên quán tưởng đến đức Phật hoặc tập trung vào một đề mục nào đó để tâm bạn được yên tịnh. Làm sao cho tâm bạn không dao động là cốt lơi của thiền.



Roger: Chú có lời khuyên nào cho các đệ tử (của vị tiền thân) trên thế giới?



Ling: Hăy nỗ lực tu học, kiên nhẫn và không nên ích kỷ.



w Trijang Rinpoche



Năm nay ngài 14 tuổi, hiện đang tu học tại Phật học viện Gander (ở Nam Ấn Độ), được xem là hóa thân của cố Đại sư Kyabje Trijang Rinpoche (1904 - 1981), là thầy dạy học trung cấp của đức Dalai Lama thứ 14.



Roger: Kính chào chú, chú có khỏe không?



Trijang: Khỏe, cảm ơn.



Roger: Chú có nhớ ǵ về kiếp trước không?



Trijang: Không, hiện tại tôi đang ôn lại những ǵ mà tôi từng biết.



Roger: Chú học thuộc ḷng có dễ không?



Trijang: Dễ.



Roger: Thời khóa biểu sinh hoạt của chú một ngày như thế nào?



Trijang: Tôi thức dậy vào lúc 5 giờ 30, tôi đi đảnh lễ bảo tháp vị tiền nhiệm. Sau đó tôi có một thời kinh sáng, rồi dùng điểm tâm. Từ 7g30 đến 9g tôi đọc kinh. Sau đó tôi nghỉ và chơi khoảng nửa giờ. Từ 9g30 đến 10g30 tôi ôn lại các bộ kinh mà tôi từng thuộc trước đây. Từ 10g30 tôi học văn phạm Tạng ngữ; 11g tôi thọ trai, 11g30 tôi tập viết. Từ 1g đến 2g30 tôi nghỉ trưa. Thức dậy tôi uống trà rồi bắt đầu với lớp học tranh luận đến 5g. Sau đó là giờ tiểu thực; 6g tôi học giáo lư với thầy Khensur Lati Rinpoche; 8g tôi tranh luận với các bạn cùng lớp và 9g đến 11g tôi tiếp tục học thuộc ḷng kinh. Sau đó tôi đi ngủ.



w Zong Rinpoche



Mười tuổi, hiện đang tu học tại Phật học viện Gander, là hậu thân của cố Đại sư Kyabje Zong Rinpoche (1905-1983), ngài từng là Viện trưởng Đại học Gander nổi tiếng ở Tây Tạng (từ năm 1959, trường này được dời sang Ấn Độ), được xem là một người có nhiều pháp thuật trong giới Lama Tây Tạng. Từ năm 1978 đến 1980, ngài thường đến phương Tây để thuyết giảng, hàng ngàn tín đồ tại Ấn Độ và các nước ở phương Tây đă t́m thấy sự an lạc và hạnh phúc từ lời dạy của ngài.



Roger: Kính chào chú.



Zong: Xin chào!



Roger: Hôm nay là ngày nghỉ của chú?



Zong: Vâng.



Roger: Chú đang làm ǵ?



Zong: Tôi đang chơi.



Roger: C̣n ngày mai?



Zong: Ngày mai thứ hai, cũng là ngày nghỉ của tôi.



Roger: Buổi sáng, b́nh thường chú làm ǵ?



Zong: Tôi thức dậy vào lúc 6 giờ. Tôi tụng kinh đến 8g, rồi ăn sáng và nghỉ đến 9g. Sau đó tôi học giáo lư.



Roger: Hiện nay chú đang học giáo lư ǵ vậy?



Zong: Tôi đang học đến chương hai cuốn 'Con đường hướng đến Trung đạó.



Roger: Chương thứ nhất là ǵ?



Zong: Gander Lha Gyema.



Roger: Buổi sáng, học xong chú làm ǵ?



Zong: Tôi nghỉ trưa và chơi đến 15 giờ. Sau đó tôi học đến 17 giờ. Học xong tôi đi tắm, ăn tối và đi ngủ.



Roger: Chú có học tiếng Anh không?



Zong: Có chứ!



Roger: Chú có thích sang các nước phương Tây không?



Zong: Có.



Roger: Chú nghĩ là chú sẽ thuyết pháp cho Phật tử phương Tây chứ ?



Zong: Tất nhiên.



Roger: Khi nào chú mới bắt đầu?



Zong: Thầy Tenzin biết việc ấy.



Tenzin (vị thị giả của Zong Rinpoche): Chúng tôi có dự kiến viếng thăm phương Tây vào năm tới. Chú có thể nói một số thời pháp ngắn. Tuy nhiên, chú thực sự sẽ làm công tác truyền giáo sau khi tốt nghiệp Tiến sĩ.



Roger: Rinpoche, quốc gia nào chú sẽ đến trước?



Zong: Canada và Hoa Kỳ.



Roger: Chú sẽ ở đó bao lâu?



Zong: Khoảng ba tháng.



Roger: Chú có nhắn nhủ với Phật tử phương Tây điều ǵ không?



Zong: Xin đừng quên lời dạy của cố Đại sư Zong Rinpoche (tiền thân của chú).



Roger: Chú có thích thú vật không ?



Zong: Có.



Roger: Chú thích loài nào nhất ?



Zong: Rùa.



Roger: Tại sao chú lại thích rùa ?



Zong: V́ nó không bỏ chạy, nó sẽ ở lại với bạn. Tôi đang nuôi 5 con.



Roger: Chú có biết câu chuyện nào về thú vật không ?



Zong: Ồ rất nhiều, nhưng tôi thích nhất là câu chuyện về chú rùa con. Chuyện kể rằng, một hôm rùa con đến hỏi bố mẹ: 'Tại sao con cứ măi mang cái 'ṭa nhà' nặng nề này trên lưng hoài vậy?'. Bố mẹ rùa nói: 'Con may mắn lắm mới có được nó, nó rất có ích khi con đi ra ngoàí. Rùa con không đồng t́nh với giải đáp kia nhưng chú nghĩ ḿnh phải nghe và chấp nhận lời dạy của bố mẹ. Rồi một ngày nọ, rùa con gặp bạn của chú, bạn ếch cũng thắc mắc: 'Tại sao bạn phải mang cái nhà trên lưng vậy ?'. Rùa chưa kịp trả lời, vừa lúc ấy có một người cưỡi ngựa chạy đến, ếch cấp tốc nhảy xuống cái ao gần đó, c̣n rùa th́ chậm chạp nhưng chú nhanh chóng nhớ đến lời dạy của bố mẹ nên chú liền thụt đầu vào 'ngôi nhà' của ḿnh. Bạn ếch lo lắng 'chắc rùa đă chết rồí. Nhưng sau khi con ngựa chạy qua rồi, chú rùa từ từ di động và ḅ đi. Chú không làm sao cả. Chú nhớ lại lời của bố mẹ: 'Này con trai, con may mắn mới có được ngôi nhà ở trên lưng!'.



w Osel Rinpoche



Mười hai tuổi, hiện đang tu học tại Phật học viện Sera, là hậu thân của cố Đại sư Thubten Yeshe (1935-1984), một Pháp sư nổi tiếng Tây Tạng, người góp sức san bằng các chướng ngại địa dư và nối liền những phân cách văn hóa, chủng tộc để ḍng tuệ giác mặt trời đầu nguồn Tây Tạng có thể tuôn chảy xuống vùng đất lạ Tây phương, người đă giảng giải giáo lư tái sinh bằng chính sự thong dong đôi bờ sinh tử và chuẩn bị sắp xếp cho ḿnh để có thể tái sinh như ư và để người khác có thể nhận ra hóa thân của ḿnh. Bậc thầy vĩ đại ấy đă qua đời v́ bệnh tim tại bang California, Hoa Kỳ ở tuổi 49, để lại phía sau ḿnh một tổ chức khổng lồ. [Ông là người sáng lập Hội Hộ Tŕ Phật giáo Đại Thừa (FPMT) và cho xuất bản tạp chí Mandala tại Hoa Kỳ, hiện nay tổ chức này phát triển thêm hàng trăm chi nhánh trên khắp thế giới]. Hai năm sau (từ ngày mất) người ta phát hiện ra ngài trong một dáng h́nh khác, đó là Osel Rinpoche, sinh ngày 12/2/1985 tại Bubion, Tây Ban Nhạ Giới Phật giáo Tây Tạng đă đưa chú bé tái sinh này trở lại Ấn Độ để tiếp tục tu học.



Sau đây là thời khóa sinh hoạt hàng ngày của Osel Rinpoche:



6g thức dậy, 6g10-7g tụng kinh, 7g-8g điểm tâm, 8g-9g học kinh, 9g-9g30 chơi, 9g30-10g30 học tiếng Tây Ban Nha, 10g30-11g nghỉ giải lao, 11g-12g học tiếng Anh, 12g-14g thọ trai và nghỉ trưa, 14g-16g học tiếng Anh, 16g-17g chơi, 17g30-19g học tiếng Tây Tạng, 19g-20g tiểu thực, 20g-20g30 nghỉ, 20g30-21g học văn phạm, 21g tắm và đi ngủ .
Chương 16

Tái Sinh Ở Phương Tây

Cô Vicki Mackenzie, một kư giả người Anh, từng là tác giả quyển sách nổi tiếng 'The Boy Lamá, kể chuyện về cậu bé tái sinh người Tây Ban Nha Tenzin Osel Rinpoche, hậu thân của cố Đại sư Thubten Yeshe (1935 - 1984). Đó là một người truyền dạy minh triết, kẻ vượt qua mọi chướng ngại địa lư, phong tục tập quán định kiến tôn giáo, để đánh thức khơi dậy những điều tốt đẹp nhất đang bị chôn kín trong ḷng người. Một con người mà y học của thời đại 'chim sắt' phán quyết là phải chết nhưng vẫn sống và sống hùng tráng như một mặt trời... Quyển sách in lần đầu tiên vào năm 1989 bởi Nhà xuất bản Bloomsbury (Luân Đôn) và lập tức được dịch ra nhiều thứ tiếng trên khắp thế giới (đến nay đă chuyển ngữ ra mười thứ tiếng, bản dịch mới nhất là tiếng Nhật. Bản dịch Việt ngữ 'Hài đồng Lamá in năm 1994.)






Quyển sách thứ hai của Vicki là 'Tái sinh ở phương Tấy (Reborn in the West) cũng do Nhà xuất bản Bloomsbury ấn hành vào tháng 4 năm 1995. Quyển sách lần này viết về năm vị thầy tái sinh người Tây phương - bốn nam và một nữ - những người được thừa nhận là hậu thân của các Lama người Tây Tạng. Quyển sách đề cập đến một số người khác tái sinh ở phương Tây nhưng họ không phải là Phật tử.



Adèle Hulse, phóng viên tạp chí Mandala, nói chuyện với Vicki Mackenrie (đang cư ngụ tại Melbourne, Australia) để biết thêm về nội dung quyển sách này. Cô Vicki tâm sự:



'Điểm chính của tôi khi viết cuốn sách này là an ủi mọi người rằng họ không bao giờ bị lăng quên khi họ chết và sau khi chết họ c̣n có một cuộc sống mới khác. Các Nhà xuất bản yêu cầu tôi viết một cuốn sách về tái sinh, nhưng khi t́m hiểu th́ tôi thấy người ta chỉ thừa nhận việc tái sinh xảy ra trong cộng đồng người Tây Tạng, v́ thế tôi sử dụng 'tái sinh ở phương Tấy để làm chủ đề chính ngơ hầu đánh tan sự ngộ nhận vốn có bấy lâu nay của mọi người. Tôi cũng giới thiệu những sự kiện tái sinh của người phương Tây không theo Phật giáo. Tôi đă phỏng vấn tiến sĩ Roger Woolger, một tu sĩ đạo Do Thái, người nghiên cứu về tái sinh trong cộng đồng người Do Thái. Tôi đă thử so sánh những kết luận của người phương Tây về vấn đề này với những giáo lư về tái sinh của Phật giáo Tây Tạng.



Điều kích thích tôi hơn tất cả là sự nhận ra rằng hiện nay là thời điểm lịch sử của các bậc thầy phương Đông hiện thân ở phương Tây và sự trùng khớp đầy ư nghĩa này với cuộc tranh luận gắt gao trong giới khoa học về tâm thức và năo bộ có giống không. Dĩ nhiên các bậc thầy th́ nói rằng tâm thức là một phần độc lập đối với cơ thể.



Tôi cũng đề cập đến vấn đề 'vun trồng' Phật giáo Tây Tạng thông qua những bậc thầy trên mảnh đất phương Tây là một quá tŕnh đầy khó khăn v́ phải va chạm sự cách biệt giữa các nền văn hóa”.

Chương 17

Tin Phật Trước Khi Chết

'Là một người đồng tính luyến ái mắc bệnh Aids (Sida), con có nhiều thời gian để chấp nhận hoàn cảnh bi đát của ḿnh. Nhưng khi nói chuyện với Sư cô về vấn đề chết và hấp hối, con cảm thấy ḿnh có một nhận thức sâu sắc về cuộc sống và chấp nhận căn bệnh quái ác này. Qua phương pháp thiền chữa bệnh, kỹ thuật khống chế cơn đau và nhiều lần tranh luận với Sư cô... giờ đây con có cảm giác yên b́nh kỳ lạ, một cảm giác mà chưa từng bao giờ có trong cuộc đời của tôi. Theo cái nh́n của nhà Phật th́ mỗi chúng sinh đều bị sinh, lăo, bệnh, tử chi phối, nhưng ḍng tâm thức th́ vẫn lưu chuyển từ đời này sang đời khác. Quan niệm này rất chí lư và an ủi con... '






Trên đây là lá thư cuối cùng của Tim Sulliwan đề ngày 26/6/94 gửi cho tôi (Sư cô T. Wongmo) từ bang Chicagọ Tim đến trung tâm tu học Togmay Sangpo t́m kiếm sự b́nh ổn cho tâm hồn v́ tự biết ḿnh sẽ chết trong ṿng mấy tháng nữa v́ bệnh Aids.



Giống như một người bị ruồng bỏ, Tim dành hết thời giờ để học Phật. Đọc sách, bàn thảo về Phật tánh, sự tái sinh, nhân quả, nghiệp báo... tất cả đều làm cho anh say mê và nó đă tạo cho anh một cảm giác dễ chịu. Anh là một người có từ tâm, dù rơ ràng bị đau đớn và đối diện với cái chết, nhưng cái đau lớn nhất của Tim là vẫn lo lắng cho gia đ́nh và bạn bè, những người đang đau khổ v́ căn bệnh nan y của anh. Tim tổ chức một buổi họp mặt với số người thân này lại để tôi có dịp giải thích về cuộc hành tŕnh của tâm thức đi tới kiếp sau. Vai tṛ hộ niệm của người thân rất quan trọng đối với việc chuyển sanh của tâm thức. Người thân có thể cầu nguyện, phóng sanh, bố thí, cúng dường, hồi hướng công đức đó cho người mạng chung thọ sanh vào cảnh giới an lành. Bằng cách tập trung hộ niệm của quyến thuộc và bạn bè như thế sẽ giúp cho tâm thức của người đó tự động nâng lên. Tim và người thân của anh ta nhận thấy ư tưởng này mới lạ và tích cực so với những cảm giác b́nh thường của sự bơ vơ và chán nản đi kèm với cái chết.



Ngay cả lúc khó chịu với cơ thể bệnh hoạn của ḿnh, Tim vẫn cố gắng tập thiền và niệm danh hiệu Đức Phật Dược Sư mỗi ngày. Đặc biệt, vào những ngày cuối cùng anh quá đau đớn không làm được ǵ cả, tôi đến hướng dẫn cho anh phương pháp thư giăn khống chế cơn đau. Tim để cho trí năo của ḿnh đi theo sự dẫn dắt của thiền và cuối cùng dễ dàng đi vào giấc ngủ.



Tim thành thật nói với mọi người đừng lo buồn, rằng anh sẽ sẵn sàng đón nhận cái chết. Tim cho thấy sự từ bỏ đó của anh đối với tiền bạc bằng cách ban phát từ thiện. Khi Tim phàn nàn về việc tóc rụng do liệu pháp hóa học (chemotherapy), tôi đề nghị Tim nên cạo nó đi. Thoạt đầu anh ta cảm thấy bồn chồn v́ sợ dư luận, nhưng sau đó anh ta cũng cạo nó và bắt đầu mặc chiếc áo thun màu vàng cam. V́ thế chúng tôi thường chế nhạo anh ta trông giống như một 'tu sĩ' Chicago.



Rồi thời gian trôi qua, Tim tự theo dơi khi nỗi lo âu hiện lên trên diện mạo của ḿnh, anh ta cười khúc khích và nói: 'đừng quyến luyến nữa!'.



Khi người nhà biết rơ Tim đang hấp hối, tôi được mời đến nhà Tim. Tôi đến anh ta đang vật lộn với b́nh ôxy và gần như không thể nói chuyện được. Như đă hứa, tôi bắt đầu tŕ trú hộ niệm và nhắc nhở anh ta nên nhiếp niệm trong giờ phút căng thẳng đó. Tôi hỏi Tim có cần ǵ nữa không, anh ta tháo mặt nạ Ôxy ra và nói : 'Không cần ǵ cả, cảm ơn cô đă lo cho con'. Đó là những lời sau cùng của Tim.



Tôi nói với Tim: 'Mọi thứ đều ổn cả, con có thể ra đi được rồi, đừng quyến luyến và sợ hăi, thôi con có thể ra đí. Tim đáp lại những lời này bằng cách gật đầu và ngừng thở trong yên b́nh.



Đại đức Jangchup tiếp tục niệm Phật tiếp dẫn cho Tim. Bầu không khí trong pḥng yên lặng và nghiêm trang giữa tiếng cầu kinh như để đưa lối cho Tim ra đi.



Sau khi hỏa táng, với tro của Tim, Đại đức Jangchup đă tạo ra một pho tượng Chuẩn Đề. Tim đă có dịp tạo ra công đức của ḿnh.



(Theo MANDALA Journal, tháng 10/1994 )

Chương 18

Một Bằng Chứng Sống Về Thuyết Tái Sinh


Thượng tọa Thubten Zopa Rinpoche, là đồng sáng lập viên 'Hội bảo vệ truyền thống Phật giáo Đại thừá (năm 1975, văn pḥng trung ương đặt tại bang California, Hoa Kỳ). Hiện tổ chức này có gần một trăm chi nhánh trên khắp các châu lục. Vừa qua, một tu viện tại Nepal đă cử hành lễ 'thụ phong cho một chú bé bốn tuổi mà giới Phật giáo Tây Tạng xem đây là người tái sinh của cụ bà Amala (mẫu thân của Thượng tọa Zopa Rinpoche). Dưới đây là bài viết của Sư cô Robina Courtin, đúc kết lại những ǵ đă nghe thấy về cuộc 'hành tŕnh chuyển tiếp' khá lư thú này.



'Tôi đă t́m thấy được mẹ tối, Ngawang Samten, chị của Thượng tọa Zopa, reo lên một cách vui sướng khi vừa gặp lại cô Merry Colony vào tháng 8 năm 1993, sau hai năm vắng mặt từ ngôi làng bé nhỏ nằm trong vùng núi đá lởm chởm thuộc vùng Khumbu, nước Nepal.



Cụ bà Amala, bà thân sinh của Thượng tọa Zopa Rinpoche, được rất nhiều người biết đến, đă qua đời vào đầu năm 1991. Merry nghĩ rằng chắc Ngawang Samten muốn ám chỉ một điều ǵ đó có liên quan đến sự tái sinh của cụ Amala.



Merry rất thân với cụ Amala và Ngawang Samten trong dịp cô đến tu thiền trong một hang động gần đó và thường đến thăm họ Ở chùa Lawudọ Cả hai đều là nữ tu, công việc chính của họ là chăm sóc các hang động và ngôi chùa này. Họ đến đây từ Thami, Tây Tạng.



'Gia đ́nh tôi rất nghèó, Ngawang Samten nhớ lại, 'bố tôi qua đời lúc em trai tôi Sangye c̣n trong bụng mẹ. Mẹ tôi suốt ngày đi chặt củi đổi lấy gạo để nuôi cả gia đ́nh. Bà chỉ kiếm vừa đủ để nuôi anh em chúng tôi và bà thường lượm những mảnh vải người ta vứt trong thùng rác để may áo quần cho chúng tối.



'Và bà thường đến biên giới Tây Tạng (hai ngày đi bộ) mua muối đem về bán cho người trong làng - Merry nói - Bà cụ là một người nhỏ nhắn nhưng rất khỏe mạnh, bà làm mất đi nhiều ngón tay của ḿnh khi chặt củi. Giống như nhiều người ở miền núi, bà cụ không biết chữ, bà cũng không biết nhiều về giáo lư. Nhưng bà tin tưởng Đức Bồ tát Quán Thế AÂm và siêng năng thọ tŕ câu thần chú : 'OM MANI PADME HUM' trong mọi lúc, mọi thời. Bà cụ rất tận tụy với các tăng nị Mỗi ngày bà đều chăm sóc hang động, quét dọn, cúng dường hương đèn lên các bàn thờ'.



Gần đây, Thượng tọa Zopa Rinpoche cũng cho biết rằng: 'Sau khi làm xong mọi việc trong chùa mỗi ngày, bà cụ đều đến đảnh lễ Phật và cầu nguyện cho tôi. Bà cụ nói là bà cụ cầu nguyện cho tôi ba lần trong một ngày, sáng, trưa và buổi tốí.



'Mẹ cầu nguyện những ǵ ?', tôi hỏi bà cụ, 'Bà nói rằng bà chỉ cầu mong chư Phật gia hộ cho tôi vượt qua mọi chướng ngại trên con đường tu học của ḿnh'.



Vào tháng 12 năm 1990, cụ Amala muốn đi thăm Đ?c Dalai Lama (ở Ấn Độ) trước khi cụ qua đời. Già và yếu, nhưng bà vẫn cố gắng băng núi đèo để đến Kathmandu, và rồi đến tỉnh Sarnath (Bắc Ấn), đi cùng với bà có cậu út Sangye và Ngawang Samten.



'Đó là ngày trăng tṛn tháng giêng năm 1991', Sangye nhớ lại, 'cũng là ngày cuối cùng của khóa tu Mật tông Kalachakrạ Suốt ngày hôm đó cụ Amala, chị Ngawang và tôi đă dự lễ điểm đạo của Đức Dalai Lamạ Sau đó chúng tôi trở lại túp lều và cụ Amala bảo: 'Mẹ muốn nghỉ ngơi, đừng quấy rầy mẹ'. Chúng tôi linh cảm có một điều ǵ đó sắp xảy ra, chúng tôi ngồi quanh giường của cụ, khoảng mấy phút sau, cụ trở ḿnh nghiêng bên phải và rồi mất tại đó. Khuôn mặt bà như đang ngủ'.



'Bà cụ vẫn nằm trong tư thế 'kiết tường' như vậy trong ba ngày, nét mặt đẹp hơn, sáng hơn. Chúng tôi không chạm đến thi thể của cụ cho đến chiều ngày thứ ba, nét mặt vẫn không thay đổi. Chúng tôi tiến hành tang lễ và hỏa táng sau đó. Có hơn 200 Tăng Ni và Phật tử đến dự.



Rơ ràng vào ngày cụ Amala qua đời là ngày trăng tṛn, người dân trong vùng Lawudo (ở Nepal) nh́n thấy một con chim ưng lông trắng bay lượn ba ṿng ở trong vùng rồi sau đó bay về hướng đông Tây Tạng. Sau này họ nói cho tôi về điều đó, họ nói là họ rất ngạc nhiên'.



Trên đây là toàn bộ câu chuyện mà Ngawang đă kể cho cô Merry nghe, khi cô đến thăm Lawudo vào tháng 8 năm 1993.



Vào đầu tháng 7 năm đó (1993), Ngawang Samten hay tin một người bạn láng giềng của chị là Lhakpa bị tai nạn, v́ thế chị quyết định đi thăm cô tạ Ngawang không gặp cô ta từ khi cụ Amala qua đời. Gia đ́nh cô dời về ở một ngôi làng Genukpa cách chùa Lawudo khoảng mười lăm phút đi bộ.



Đó không phải là nơi gần với Lawudo, nên Ngawang Samten và Lhakpa ít khi gặp nhau. Lhakpa bị thương ở chân nhưng không nặng lắm, cô ta rất mừng khi gặp lại Ngawang Samten.



Lhakpa có bốn đứa con, đứa nhỏ nhất là một cậu bé được sanh sau khi cụ Amala mất vài tháng ở Ấn Độ. Lhakpa bắt đầu nói với Samten về đứa con trai út của ḿnh. Nó là một đứa trẻ thông minh lạ thường, cô ta nói, từ khi nó tập nói lúc 2 tuổi, chú bé thường nhắc đến chùa Lawudo, một ngôi chùa mà chú chưa từng biết đến bao giờ. V́ thế, điều này làm cho chị và cả gia đ́nh rất kinh ngạc.



Và khi Ngawang Samten gặp riêng chú bé, chú dường như nhận ra chị, và chú yêu cầu chị đưa chú đi thăm chùa Lawudọ Chú bé là một đứa trẻ đẹp và khỏe mạnh, chú bày tỏ sự quen thuộc đối với Lawudo - nhắc đến tên của ba con ḅ chẳng hạn. Và chú tiếp tục nói là chú muốn đi đến đó: 'Đó là nơi cháu đă từng sống', chú nói. Ngawang Samten rất ngạc nhiên, chị bắt đầu đến thăm chú bé thường xuyên hơn và luôn luôn t́m thấy những điều tương tự. Chú yêu cầu chị: 'Hăy đưa cháu về Lawudo đí.



Một điều đáng chú ư hơn, là chú thường nhắc đến Sangye, Thượng tọa Zopa Rinpoche và ngôi tu viện Kopan của ngài, trong khi tu viện đó ở dưới thung lũng Kathmandụ 'Cháu tự hỏi không biết khi nào Thượng tọa và Sangye sẽ đến thăm cháú, chú nói. Ngawang Samten đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác khi chú đưa ra những thông tin mới hơn: 'Con đường đi đến tu viện Kopan rất xấu, có lẽ họ đang bận rộn sửa sang lại nó'. Rơ ràng đó là sự thật. Chú bé cũng thường bày tỏ ư định muốn đến Kopan một ḿnh.



Một ư tưởng nảy sinh, phải chăng chú bé này là một bằng chứng tái sinh của mẹ chị? Ư tưởng đó đă ngự trị và trở nên rối bời trong đầu óc của Ngawang Samten. Chị nghĩ rằng ḿnh không thể ngạc nhiên và bỏ qua cơ hội này; chị quyết định trắc nghiệm chú bé.



Cuối cùng, chị đưa bé về thăm chùa Lawudọ 'Ngay khi bước vào pḥng ăn', chị nhớ lại, 'Chú bé bắt đầu mô tả nhà bếp, những băng ghế, ḷ sưởi; điều đáng chú ư là chú chạy lên chánh điện và đi kinh hành mấy ṿng - giống như cụ Amala đă từng làm. Dù ở đây chú hay bị vấp và té, bởi v́ chú nhỏ quá'.



Ngawang Samten cùng kiểm tra với Ḥa thượng Wangchuk, một người địa phương lừng danh trong việc quan sát các trường hợp như thế, và ngài đă xác nhận chú bé này đúng là người tái sinh của cụ Amala.



Ngawang Samten cũng viết thư cho Ḥa thượng Trulshig và Thượng tọa Nyingma thuộc tu viện Thubten Choeling ở Jumberị Hai ngài đă trả lời thư, chứng nhận rằng chú là một h́nh dạng khác của cụ Amala và khuyên chị phải làm lễ cầu an cho chú cũng như chăm sóc chú một cách cẩn thận. Ngài Trulshig đă đặt tên cho chú là Ngawang Jigme.



Ngawang Samten rất sung sướng. Chị quyết định tổ chức lễ cầu an cho Ngawang Jigme, mời tăng ni và bà con trong làng đến dự.



Trong buổi lễ ở chùa Lawudo, chú bé lại một lần nữa làm cho mọi người phải ngạc nhiên bởi việc đi kinh hành ba ṿng trong chánh điện và sau đó chú lễ Phật giống như cụ Amala đă làm trước đây.



Ngawang Samten may cho chú mấy bộ đồ và trong số đó có cả chiếc mũ len của cụ Amalạ Giật lấy chiếc mũ một cách vui mừng, chú reo lên 'đây là cái mũ của cháú, và lập tức chú nhận ra một số nút áo cũ mà cụ Amala đă để dành trước kia, nay được khâu vào chiếc áo ấm mới: 'Cái nút này của cháú, chú la lên một cách sung sướng.



Sangye đă nhớ lại trong buổi lễ hôm đó mọi người đều tặng khăn trắng Khatas cho chú, chú đều biếu lại họ theo truyền thống như một cử chỉ ban phước. Điều này không có ai dạy cho chú biết trước đó.



Kể từ hôm đó, chú thường xuyên đến chùa Lawudo, và chú tiếp tục làm cho mọi người phải chú ư về sự hiển lộ trí nhớ của ḿnh. Chú chỉ ra mọi việc trong chùa, trong nhà bếp, trong hang động. Chú biết rơ những thứ đó là ǵ và dùng để làm ǵ. Chú cũng hỏi thăm các đồ vật thuộc về cụ Amala mà chú không thấy ở chỗ cũ.



'Cây đèn của cháu ở đầu. Chú hỏi. Cụ Amala ǵn giữ các đồ dùng riêng trên một chiếc kệ trong pḥng ngủ của cụ: Một cái kính đeo mắt, một bánh xe pháp luân nhỏ (dùng để cầu nguyện), một xâu chuỗi, một cây đèn dầu...



Chú bé dường như quyết định t́m các đồ vật và chú tỏ ra bực ḿnh khi không t́m thấy chúng. Cầm tay Ngawang Samten, chú chỉ về phía chiếc kệ: 'Cháu muốn lấy cây đèn của cháu về nhà, cháu sẽ mang nó trở lại vào ngày mái.



'Chú bé rất kỳ lạ', Sangye cảm nhận, 'và mọi người gặp chú cũng đều cảm thấy như thế'. Cách cư xử của chú quá lạ lùng so với các đứa trẻ khác. Chú hành xử và nói năng như người lớn một cách tự nhiên. Về trí nhớ của chú cũng hoàn toàn chính xác.



Vào tháng 5 năm 1994, bố mẹ của Ngawang Jigme cảm thấy đă đến lúc đưa đứa con của họ đến tu viện Kopan. Buổi lễ thụ phong được tổ chức để chính thức xác nhận chú là tái sinh của cụ Amala, một nữ tu người Tây Tạng, bởi 250 Tăng ni và Phật tử.



Cuối cùng, chú cũng đă bước vào tu viện như là một tu sĩ thực thụ và chú sẽ được giáo dục theo một phương pháp dành riêng cho người được xem là tái sinh. Tu viện và các bậc cao đức sẽ tạo cho chú có cơ hội để tiếp tục công việc tu tập, hóa giải nghiệp lực, phát triển tâm linh và hoằng pháp lợi sinh sau này.



Khi Đức Dala Lama lần đầu tiên gặp chú bé tái sinh người Tây Ban Nha, Tenxil Osel Rinpoche (#1), và Ngài đă thừa nhận chú ấy là hóa thân của cố Lama Thubten Yeshẹ Ngài nói: 'Tất nhiên, khi chú lớn hơn một chút, tự chú sẽ để lộ ra những chứng cứ cho người ta biết chú thật sự là ái. Và trường hợp của Ngawang Jigme ở đây cũng tương tự như vậy.



Nhưng nếu bằng chứng đă có giá trị bề mặt th́ chú là một minh chứng hùng hồn nhất về công hiệu của luật nhân quả. Đó là suốt một quăng đời cống hiến và tận tụy mà cụ Amala đă đặt trọng niềm chánh tín của ḿnh cho Chánh pháp để cuối cùng đổi lấy một kết quả thấy rơ, đó chính là sự 'quay lạí của ḿnh trong một dáng h́nh nam tử mà trước đây cụ đă hằng mong ước.



Chú thích:

(1-) Tenzil Osel, sinh ngày 12/02/1985 tại Tây Ban Nha, được xem là hậu thân của cố Lama Thubten Yeshe (một pháp sư nổi tiếng của Phật giáo Tây Tạng ở phương Tây, là thầy của Thượng tọa Zopa Rinpoche). Hiện tại Lama Tenzil Osel 2 tuổi đang sống và tu học ở tu viện Sera, nước Ấn Độ.



Chết & Tái Sinh

( Death & Rebirth)

Thích Nguyên Tạng soạn dịch

Melbourne, Úc Châu 2002




Sửa lại bởi DaoTran : 10 September 2004 lúc 1:51am


__________________
Đường Trần thong thả dạo mà chơi.
Học lấy đau thương để biết
đời!
Mỗi cuộc vô thư
Quay trở về đầu Xem DaoTran's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi DaoTran
 
thai_tue
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 29 December 2003
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 177
Msg 5 of 6: Đă gửi: 10 September 2004 lúc 8:21am | Đă lưu IP Trích dẫn thai_tue

   Nếu có sự tái sinh thật th́ chỉ những ai đă sống trước đây mới đầu thai sống tiếp, th́ tại sao mà thế giới này dân số lại cứ ngày càng đông thế nh́, những ngưới mới này từ đâu ra thế?
Quay trở về đầu Xem thai_tue's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thai_tue
 
Mr J
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 September 2004
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 16
Msg 6 of 6: Đă gửi: 10 September 2004 lúc 8:59am | Đă lưu IP Trích dẫn Mr J

Good question. Th́ chẳng hạn súc sanh tu dược đầu thai làm người . Hoặc một cơi nào đó tu nhiều đầu thai làm người th́ người càng ngày càng đông. Không có biết đúng không đó là do sự đoán ṃ, chứ o phải do kinh ra đâu.
Thân,
Quay trở về đầu Xem Mr J's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Mr J
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.7656 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO