Tác giả |
|
phoquang Hội viên
Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 1 of 2: Đă gửi: 16 March 2006 lúc 8:25pm | Đă lưu IP
|
|
|
LỬA TAM MUỘI
Nguyễn Mộng Khôi
--o0o--
Theo kinh sách truyền tụng trong Phật Giáo, thường nói nhiều về các loại Tam Muội. Một trong những loại Tam Muội đó có tên là Hỏa Diệm Tam Muội, hay c̣n gọi là Hỏa Sanh Tam Muội, cũng gọi là Hỏa Quang Tam Muội, tức là loại đại định tung ra lửa. Đức Phật cũng đă từng nhập pháp Tam Muội nầy, từ trong thân ngài xuất ra thứ lửa mạnh để hàng phục giống rồng độc.
Vậy lửa tam muội là ǵ? Huyền thoại hay thực chứng? Phái YoGa và các Minh Sư Tây Tạng đă chứng tỏ những ǵ về lửa Tam Muội?
Lửa Tam Muội tiếng Tây Tạng là Toumo, có nghĩa là nhiệt, song đây không phải là thứ nhiệt thông thường, mà là Tâm Nhiệt (psychicheat).
Trong phép tu tiên của các đạo gia Trung Hoa cũng nói đến lửa Tam Muội. Trong sách Chân Tiên Bí Truyền Hỏa Hậu Pháp có viết:
- Tâm là quân hỏa, nên gọi là thượng muội
- Thân là thần hỏa nên gọi là trung muội
- Bàng quang là dân hỏa nên gọi là hạ muội
- Tam khí tụ nên sinh ra lửa gọi là lửa Tam Muội.
Theo lời giáo huấn bí truyền của các minh sư Ấn Độ và Tây Tạng th́ lửa Tam Muội (Toumo) rút ra từ Prana, Prana là cái b́nh vô tận của thiên nhiên để nạp vào cơ thể, để từ đó biến thành một thứ năng lượng tinh tế, sản xuất ra một thứ tâm nhiệt thần diệu, chuyển vận để sưởi ấm toàn thân. Ở mức tu tập cao có thể phát ra ngọn lửa.
Năm 1996, Swani Dhiredra Brahmachari, thầy hướng dẫn luyện tập cho cố thủ tướng M. Nehru, được mời sang Liên Xô (cũ) tŕnh bầy về kỹ thuật YoGa cho các phi hành gia học hỏi. Ông đáp máy bay Air India xuống sân bay Moskva giữa mùa đông băng giá. Các viên chức Nga trong những bộ quần áo, mũ, găng tay bằng lông thú đứng đón ông tại sân bay. Khi mọi người chuẩn bị ra cầu thang máy bay đón tiếp vị khách quí th́ đă thấy ông hiện ra ở khung cửa phi cơ, nhưng kỳ lạ thay, chỉ với bộ quần áo choàng, bằngỢmousselineỢmỏng manh, nh́n rỏ cả màu da mà vị khách Ấn Độ vẫn cảm thấy thời tiết b́nh thường. Một người trong ban nghi lễ vội chạy lên đưa cho nhà Yoga Brahmachari một chiếc áo choàng lông. Ông mĩm cười đáp lễ: Xin cảm ơn! Tôi tự tạo được nhiệt bên trong (lửa tam muội) khi cần đến.
David Neel, nhà thám hiểm Pháp nổi tiếng, là người Âu Châu đầu tiên đă đột nhập được vào cấm thành Lhasa Tây Tạng. Neel thông thạo tiếng Pali, Sanskrit và tiếng Tây Tạng.... và được các Lạt Ma truyền dạy cho những nghi lễ bí truyền nhất của Tây Tạng. Trong tác phẩm Huyền Thuật Và Các Pháp Sư Tây Tạng có kể một chuyện lạ lùng như sau:
- Vào một đêm trăng sáng, gió thổi mạnh các Yogi (Yogi là người luyện tập Yoga) tự nhận là có thể chịu được những thử thách khắc nghiệt, đă cùng với minh sư của ḿnh lặng lẽ đi về phía bờ sông băng giá...các Yogi tham dự cuộc thi ḿnh trần, ngồi xếp bằng trên mặt nước đóng băng. Người ta khoét một lỗ băng rộng bằng cái mâm, nhúng những cái chăn xuống nước, đợi cho tới khi đông cứng mới kéo lên. Mỗi người dự thi nhận một chiếc chăn, cuốn vào ḿnh rồi làm cho nước đá tan ra và chiếc chăn dần dần trở nên khô kiệt. Lúc này người ta lại lấy chăn ra nhúng nước và người dự thi lại cuộn lên ḿnh. Cứ như thế cuộc thi kéo dài cho đến lúc mặt trời mọc. Ai là người làm khô được nhiều chăn nhất sẽ là người thắng cuộc và được vinh dự mang danh hiệu: KẺ NẮM VỮNG BÍ PHÁP LỮA TAM MUỘI.
Một thử thách nữa minh chứng rằng các Yogi đă nắm vững bí pháp Lữa Tam Muội. Họ để các Yogi ngồi vào tuyết. Khối lượng và diện tích tuyết tan ở xung quanh chỗ ngồi cho biết các Yogi đă nắm vững bí pháp này đến chỗ nào.
Nhiều nhà thám hiểm Âu Châu cũng được tận mặt nh́n thấy các pháp sư Tây Tạng ḿnh trần sống heo hút trên đỉnh Himalaya tuyết phủ. Các Yogi Ấn Độ cũng là những người nắm vững bí pháp Lữa Tam Muội. Tiến sĩ EVANS WENTZ người đă từng sống nhiều năm với các minh sư Tây Tạng và Ấn Độ cũng kể rằng:
- Vào mùa hè năm 1918, tôi có đi hành hương vài tuần với một nhóm tu sĩ khổ hạnh Ấn Độ. Chúng tôi gặp nhau ở Srinaga. Tại đây, ḥa vào đám hành hương đông đảo từ khắp nơi trên đất Ấn tu họp lại, đàn ông, đàn bà thuộc nhiều đẳng cấp, chúng tôi cũng lên đường nhắm hướng vùng băng tuyết trên dăy Himalaya thuộc xứ Cachemire. Chúng tôi tới nơi hành hương tôn nghiêm đă được sùng kính từ nhiều thế kỷ nay, đó là động Amar Nath trong đó thờ dương vật (Linga) của thần Siva, tạc bằng nước đá. Một tu sĩ khổ hạnh không mặc một thứ quần áo ǵ khác ngoài mảnh vải quấn ngang hông, ngay cả khi lên độ cao 300 mét, ban đêm gió lạnh thấu xương, giá lạnh từ những vùng tuyết phủ đổ xuống. Ngay cả lúc đi qua những vùng băng tuyết, một số tu sĩ khổ hạnh vẫn ḿnh trần và họ vẫn cứ giữ như thế cho tới khi kết thúc cuộc hành hương. Th́ ra, cũng giống như các pháp sư Tây Tạng, các Yogi Ấn Độ đă nắm vững bí pháp Lữa Tam Muội.
Mới nghe qua danh từ Hỏa Diệm Tam Muội, chúng ta không khỏi hoài nghi, nhưng với chứng nghiệm của Đạo Sư Brahmachari và của những nhà thám hiểm David Neel, Evans Wentz th́ Tam Muội Hỏa là có thật. Sau hết, đoạn văn sau đây được trích từ Theo gót chân Bụt trong tác phẫm Đường Xưa Mây Trắng của Thiền Sư Nhất Hạnh, khi Tôn Giả Ca Diếp dùng Lửa Tam Muội để châm lửa hỏa đàn trong lễ trà tỳ:
- Mặt trời vừa đứng bóng th́ Tôn Giả Ca Diếp (Mahakassapa) và đoàn khất sĩ tới được đền Makuta-Bandhara, nơi dựng hỏa đàn của lễ trà tỳ. Tới nơi, Tôn Giả Ca Diếp trật áo tăng già lê bên vai phải, chắp tay, cung kính và im lặng đi nhiễm quanh hỏa đàn ba lần. Rồi Tôn Giả Ca Diếp dừng lại, chắp tay hướng về nhục thân Bụt để lạy xuống. Năm trăm vị khất sĩ đi theo cũng đồng thời lạy xuống. Tôn Giả Ca Diếp vừa lạy xong ba lạy và đứng lên th́ hỏa đàn tự nhiên bốc lửa...
-- o0o --
|
Quay trở về đầu |
|
|
phoquang Hội viên
Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 2 of 2: Đă gửi: 30 March 2006 lúc 2:43am | Đă lưu IP
|
|
|
Trích từ cuốn YOGA TÂY TẠNG do Hải Ân biên soạn -Nhà xuất bản Thanh Niên.
LỬA TAM MUỘI (TÙMM̉)
Đây là một trong sáu pháp du già của Naropa. Hăy thử tưởng tượng giữa mùa đông giá rét, khoảng âm mười độ, ngồi trong một động đá cao vào ngàn thước so với mặt biển, chỉ mặc đơn sơ một cái áo mỏng, v́ họ biết phương pháp luyện lửa tam muội.
Lửa Tam muội nghĩa là một ngọn lửa huyền bí, hay một năng lực bên trong, có nhiều tŕnh độ khác nhau. Người Tây Tạng nghiên cứu phương pháp này rất thấu đáo, biết rơ tính chất, công dụng và hiệu quả của nó.
Đại khái, người ta dùng hô hấp kích động các bí huyệt trong cơ thể, để lúc nào cũng cảm thấy ấm áp như được khoác một bộ áo dày, mà người Tây Tạng gọi là “mặc áo tiên”. Ngoài ra, c̣n phải biết cách nhập định, để cảm thấy thân tâm thoải mái, an lạc, dễ chịu mà họ gọi là “sống trong tiên cảnh”. Cao hơn nữa, hành giả hướng dẫn lửa đó theo thần mạch lên đỉnh đầu, để phát huy các quyền năng đặc biệt, mà họ gọi là “Nhập Tam muội”.
Cũng như khinh công, luyện lửa tam muội là một phương pháp bí truyền, phải có thầy chỉ dẫn, chứ không thể học theo sách được. Vị thầy phải đă luyện thành công lửa Tam muội, để biết rơ các nguy hiểm trên đường tập luyện, v́ một sai lầm có thể đưa đến điên loạn hay tử vong. Hành giả phải có một thân thể cường tráng, mới có thể khắc phục được những khó khăn vật chất trong bước đầu.
Cũng như mọi phương pháp bí truyền, người ta thường thêu dệt nhiều điều huyền hoặc, khó kiểm chứng. Tuy nhiên, đằng sau những điều khó tin này, vẫn ẩn tàng một cái ǵ đó cần gạn lọc để t́m ra tinh hoa ở bên trong.
Nói đến lửa tam muội, người ta liên tưởng ngay đến môn phái Kargyutpa và Milarepa, một vị tổ đă luyện đến mức thành công tối thượng. Milarepa có rất nhiều đệ tử, trong đó có một người tên là Rechung. Rechung được thầy truyền dạy lửa tam muội ngay sau khi nhập môn. Tuy nhiên, vốn là một học giả, quen sống trong môi trường từ chương sách vở, nên ông vẫn c̣n chấp ngă, chấp pháp, chuộng h́nh tướng bên ngoài. Có lần ông hỏi Milarepa, đă nổi tiếng như thế sao không t́m một ngôi chùa thật to mà ở cho xứng đáng, sống chi trong hang động hẻo lánh. Milarepa trả lời đối với ông th́ một cung điện hay một hang đá như nhau, nhưng Rechung không đồng ư. Một lần khác, ông đề nghị thầy ra chốn thành thị thuyết pháp độ sinh, nhưng Milarepa trả lời đó là việc của người khác chứ không phải việc của ông. Rechung cảm thấy buồn, v́ vẫn nhớ tới thế giới bên ngoài với các buổi tranh luận về giáo lư, những buổi đăng đàn thuyết pháp, những tràng pháo tay tán thưởng, những y phục sang trọng của các Trưởng lăo, những yến tiệc linh đ́nh. Cuối cùng, Rechung rời bỏ núi rừng, bất chấp lời khuyên của Milarepa: “Chưa độ được ḿnh th́ không thể độ được người”.
Rechung đến Lhassa thuyết pháp và được nhiệt liệt tán thưởng. Ông có tài hùng biện, sức hấp dẫn quần chúng, nên chẳng bao lâu được coi là tháng tăng. Ông đi khắp Tây Tạng thuyết pháp, tranh luận và đánh bại các học giả uyên bác nhất. Danh tiếng của ông nổi như cồn, nhiều bậc quư tộc mời ông đến thuyết pháp.
Một tiểu vương đăi ông như thượng khách, xây cho ông một ngôi chùa lớn, và gả con gái duy nhất cho ông (Sự kiện này xảy ra trước sự chấn hưng Phật giáo của Tsong Khapa, bấy giờ các Lạt Ma được lập gia đ́nh). Bà vợ vừa hung dữ vừa thô tục, bà ỷ thế giàu sang mà đàn áp ông luôn, đốt sách vở của ông, đánh đuổi bạn bè của ông, cấm ông đi thuyết pháp, bắt ông mưu lợi vật chất. Tuy mặc y phục Trưởng Lăo lộng lẫy, sống trong chùa to lớn, được mọi người ca tụng, nhưng ông không hạnh phúc. Đến một ngày kia, bà vợ cầm gươm chém ông sau một cuộc căi vă. Rechung ôm vết thương bỏ chạy, nhưng thay v́ máu, ông lại thấy một ḍng nước trắng đục chảy ra ướt cả áo. Đó là nhờ ông luyện lửa Tam muội, máu trong người đă biến thành tinh chất. Ông lập tức từ bỏ tất cả, t́m về chốn cũ chăm chỉ tu hành, sau trở thành một đệ tử lớn của Milarepa.
Theo Kinh điển Tây Tạng, có nhiều cách luyện lửa tam muội. Mỗi phương pháp lại có nhiều tŕnh độ từ thấp đến cao, phần lớn bắt đầu từ luyện thở, rồi tới kiểm soát tư tưởng.
Thông thường, môn sinh ngồi cho thật vững vàng, thoải mái. Cách ngồi phổ biến là kiết già hoặc bán già. Tuy nhiên, các thầy nhận thấy cách ngồi bán già không được quân b́nh, hơi ấm dễ bị thoát ra ngoài, cho nên chỉ cho môn sinh ngồi kiết già, v́ nó duy tŕ được tư thế quân b́nh và ổn định nhất.
Sau khi tập ngồi thuần thục, chân tay hết nhức mỏi th́ bắt đầu tập thở cho thật đều, thật sâu trước khi hít thở theo nghi thức. Như vậy, môn sinh ngồi thế kiết già bắt chéo hai chân, bàn tay đặt lên đầu gối, ngón cái, ngón trỏ và ngón út thẳng ra, ngón giữa và ngón áp út thu vào ḷng bàn tay. Thoạt đầu, họ thở cho thông hai lỗ mũi, sau đó tập trung tư tưởng vào hơi thở.Khi thở ra, họ quán đang xả bỏ các tính xấu như tham lam, ích kỷ, ngạo mạn, sân hận và si mê. Khi hít vào, họ quán đang thu vào những tính tốt như từ, bi, hỷ, xả, thanh tịnh, vô ngă, lợi tha… Tiếp theo, họ hít vào, dồn khí xuống bụng, nín thở trong một thời gian ngắn, trước khi từ từ thở ra. Cứ tập như thế, đến khi cơ thể hoàn toàn buông lỏng, tâm trí dứt hết các nỗi lo lắng, ưu phiền, hoàn toàn thoải mái tự tại. Giai đoạn này rất quan trọng, các thầy dựa trên công phu hành tŕ mà quyết định thu nhận học tṛ hay không.
Sau đây là một trắc nghiệm. Lạt Ma Kyanga luyện thuần thục khí công. Ai cũng tin ông được điểm đạo truyền pháp, nhưng vị trưởng Lăo chuyên về lửa tam muội lại từ chối. Đa số các thầy không nói rơ lư do từ chối, khiến học tṛ phải hoang mang. Lạt Ma Kyanga nhập thất thêm một thời gian, đến khi để một tờ giấy trước lỗ mũi, mà tờ giấy không lay động. Bấy giờ, ông đến xin truyền pháp. Vị Trưởng Lăo cho ông ngồi thiền trọn ngày trong một căn pḥng. Trước khi bắt đầu, Lạt Ma Kyanga yêu cầu nhắc lại điều kiện thử thách, và vị Trưởng Lăo xác nhận chỉ cần ngồi trong pḥng đủ một ngày là được. Khi ông sắp bước vào pḥng, vị Trưởng Lăo quăng ba con rắn hổ mang vào đó. Lạt Ma Kyanga thản nhiên bước vào, không hề sợ hăi, và toạ thiền suốt ngày. Hôm sau, ông lại bị từ chối, vị Trưởng lăo giải thích: “Làm sao một người như ngươi có thể đi xa hơn nữa được! Có rắn độc trong pḥng mà không đuổi ra, cứ ngu si đâm đầu vào đó nhập định, th́ công phu dù có cao siêu đi nữa cũng không có lợi ích chi cả. Ngươi chỉ chú trọng điều khí chứ không để ư tới điều tâm, người luyện khí công giỏi, nhưng chẳng quan tâm tới việc trừ khử vọng niệm, dứt tuyệt tham sân si, tu hành như thế th́ được lợi ích ǵ? Cho nên ngươi không xứng đáng học giáo pháp thượng thừa lửa Tam muội”.
Lạt Ma Kyanga mới vỡ lẽ rằng ba con rắn đó là tượng trưng cho tham, sân, si. Cuộc thử thách chấm dứt, ông không vượt qua được.
Nếu vượt qua thử thách, được chấp nhận cho làm lễ điểm đạo truyền pháp, hành giả sẽ bỏ bộ áo dày, chỉ khoác một tấm vải mỏng (Repa). Từ đó, họ không ngồi gần lửa, t́m đến nơi hoang vu, thanh vắng, có độ cao trên bốn ngàn thước để hít thở không khí trong lành. Bí kíp ghi rơ “không được tập luyện trong nhà cửa, xóm làng, v́ không khí ở đó bị ô nhiễm củi lửa, có những rung động không tốt, ngoại cảnh làm xáo trộn tâm trí của hành giả”. Hành giả sẽ sống cô đơn ở nơi hoang vu, tập luyện theo phương pháp chỉ dạy.
Công phu tu luyện gồm có ba phần:
- Sơ khởi
- Cơ bản
- Ứng dụng
Phần sơ khởi có năm bài tập
- Quán thân trống không
- Quán hệ thần kinh trống không
- Quán ṿng bảo vệ
- Quán thần mạch
- Quán các luân xa
Phần cơ bản có ba bài tập:
- Sản sinh lửa Tam muội bằng Khí công và tham thiền
- Kinh nghiệm về lửa Tam muội
- Lửa Tam muội siêu việt
Phần ứng dụng có hai bài tập
- Hưởng lợi ích của lửa Tam muội bằng tư thế, hơi thở và quán tưởng
- Hưởng lợi ích của chân phúc
Thỉnh thoảng thầy ghé qua thăm, hướng dẫn thêm.
Việc luyện tập theo thời khoá nhất định. Hành giả khởi công vào lúc trời vừa sáng cho đến xế trưa. Khoác một áo vải mỏng, ngồi trên một tấm thảm hay ván gỗ, nhưng ít lâu sau, họ phải ngồi trên mặt đất hoặc trên băng giá.
Phương pháp tập luyện khác nhau tùy môn phái. Điểm giống nhau là quán tưởng các chủng tự. Phần lớn quán giữa rốn có bông sen bằng vàng, chính giữa có mặt trời chói lọi, toả ra các tia sáng h́nh chữ RAM ( ). Trên chữ RAM có chữ MA, tượng trưng cho Bồ Tát Dorje Naldjorma. Sau đó quán ḿnh hoà nhập vào các h́nh ảnh đó.
Chung tự không phải là chữ viết, mà là rung động của âm thanh huyền bí có năng lực đặc biệt. Thí dụ chữ Ram là lửa, nếu phát âm đúng th́ âm thanh này phát sinh ra lửa.
Sau khi hợp nhất với Bồ Tát Naldjorma, hành giả quán tưởng chữ A ở rốn và chữ Ha trên đỉnh đầu. Bây giờ, một quả cầu lửa to bằng nắm tay sẽ sáng rực ở rốn, mỗi hơi thở sẽ như ống bễ quạt cho ngọn lửa này cháy to hơn, mỗi lần dồn khí xuống ngọn rốn sẽ kích thích quả cầu này toả nhiệt mạnh mẽ.
Hít hơi vào, giữ hơi lại và thở hơi ra đều nương theo một câu chú để giữ ngọn lửa đó không tắt. Nhờ trước đây đă luyện thành thục cách quán tưởng xả bỏ tham sân si khi thở ra, và thu từ bi hỉ xả khi hít vào nên tâm được thanh tịnh. Nếu đốt cháy giai đoạn, cẩu thả luyện khí mà chưa điều ngự được tâm, th́ vọng niệm nảy sinh, luồng hơi nóng sẽ chạy loạn xạ vào các kinh mạch, là hành giả có thể điên loạn và tử vong.
Nếu tâm không c̣n vọng động, hành giả có thể dùng tư tưởng hướng dẫn luồng hơi nóng đi thẳng vào các thần mạch (uma). Người Tây Tạng có những đồ h́nh thần mạch, vận chuyển khí lực tâm linh, khác với các kinh mạch vận chuyển khí huyết thông thường. Hành giả quán tưởng như sau:
1 - Thần mạch Uma như sợi chỉ;
2 – Uma lớn dần bằng ngón tay;
3 – Uma to lên bằng cánh tay;
4 – Uma choán trọn thân ḿnh, toàn thân trở thành cái ống lửa;
5 – Thân của hành giả hoàn toàn biến mất, hoà tan vào biển lửa vĩ đại bao phủ cả thế giới;
6 - Biển lửa mênh mông đó nhỏ lại dần;
7 – Toàn thân bao bọc bằng các ống lửa;
8 - Ống lửa bằng cánh tay;
9 - Ống lửa bằng ngón tay;
10 – Hơi nóng tan dần, không c̣n lửa, tất cả là hư vô vắng lặng, tất cả chỉ là không (Sunyata)
Truyền thống môn phái của những người áo vải (Repa) có đặt ra một cuộc thi như sau: vào một đêm thật lạnh, các môn đồ tụ tập ở bờ sông. Họ ngồi xếp bằng, không mặc quần áo. Những người khác nhúng các tấm chắn nỉ xuống nước lạnh rồi đắp lên ḿnh họ. Gió lạnh khiến nước đóng băng ngay, tấm chăn trở thành lạnh cóng. Người luyện lửa Tam muội phải làm sao cho tấm chăn đó khô ráo, ấm áp. Rồi lại nhúng chăn xuống nước, đắp lên ḿnh, vận nhiệt cho khô đi, cho đến sáng. Người nào làm khô nhiều tấm chăn nhất được coi như thắng cuộc. Thực tế, có người làm khô trên 40 tấm chăn trong một đêm. Ít nhất phải làm khô 3 tấm mới được sử dụng từ “Repa” trong danh hiệu.
Đối với môn sinh mới, lúc mới tập th́ cơ thể ấm áp, sau đó lại lạnh. Khi đă thuần thục, nhiệt độ bên ngoài cơ thể càng lạnh th́ cơ thể tự động gia tăng sức nóng lên. Có người luyện lửa Tam muội thành công, th́ không mặc quần áo nữa, cứ để loă thể. Khi quân đội Anh xâm chiếm Tây Tạng, các tu sĩ loă thể đó bị đưa ra xét xử về tội công xúc tu sĩ và bị giam.
Người Âu Mỹ cũng công nhận việc hô hấp làm điều hoà máu, khiến cơ thể ấm lên, và tập trung tư tưởng tự kỷ ám thị tạo một cảm giác ấm áp cho cơ thể. Nhưng họ khó tin vào năng lực gia tŕ thần chú. Đây là một sự kiện huyền bí, không thể giải thích, chỉ có người trong cuộc mới hiểu.
Lửa Tam muội vốn xuất phát từ Hatha Yoga, nên người Ấn Độ cũng biết cách luyện. Cách đây không lâu, một nhà Yogi Ấn Độ đă đến phi trường Mạc Tư Khoa với chiếc áo mỏng vào một ngày mùa đông, làm những người tiếp đón hết sức ngạc nhiên.
Ngoài sức chịu lạnh, người Ấn c̣n có khả năng chịu nóng nữa. Họ có thể ngồi cạnh bốn đống lửa vào lúc giữa trưa hè, hoặc giẫm chân lên than cháy đỏ trong những lễ hội.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|