Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 271 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Niềm Tin Tam Bảo Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
tranthanh03
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 84
Msg 1 of 9: Đă gửi: 17 March 2006 lúc 5:12am | Đă lưu IP Trích dẫn tranthanh03

" Hăy tự thắp đuốc mà đi.

Hăy tự làm hải đảo.

Hăy tự làm công việc của chính ḿnh.

Như Lai chỉ là bậc chỉ đường.’’

Như thế, một cách thức nào đó cho thấy, niềm tin ở đây (tôn giáo của đạo Phật) hoàn toàn là biểu hiệu của cái đặc tính người, ư thức sống với và vút ngàn lên trên là sự giải thoát giác ngộ, sự thể nhập pháp giới tính hay sự toàn đạt nièm tin vô ngă, bằng những bước đi trong tiến tŕnh tự lực, tự hành, tự tri. Và tự giác để giác tha giác hạnh viên măn.

Nếu hiểu Phật giáo đóng vai tṛ giới thiệu th́ sự giới thiệu ấy được biểu hiện cụ thể qua con số 84000 pháp môn tu (trong vô lượng pháp môn). Mỗi pháp môn là một con đường dẫn đến chân lư. Mỗi con đường th́ phù hợp cho một số hạng căn cơ khác nhau, và tu tập ’’TÍN’’ cũng là một trong những con đường, mà theo lời tuyên xác của Đức Thế Tôn được trong Tương Ưng Bộ Kinh V, th́:

" Cho đến khi nào, này các Tỳ kheo, Ta chưa có tri kiến như thật về sự tập khởi, sự chấm dứt vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của năm căn, cho đến khi ấy , này các Tỳ kheo Ta chưa tuyên bố ta đă chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác".

Ở đây, trên căn bản của nguyên lư Duyên khởi:

“Do cái này sinh nên cái kia sinh.

Do cái này diệt nên cái kia diệt.’’

Cho thấy: nếu tu tập thành tựu Tín căn, bốn căn kia cũng được tu tập thành tựu...Đó là điểm nhất quán trong giáo lư Đức Phật .

Thế nên, Tín trong Đạo Phật cần phải được khéo hiểu với tín trong tôn giáo của Đạo Phật . V́ rằng chữ Tín thường được đi ra từ tôn giáo, và khi nói đến tôn giáo, người ta thường cho đó là sự tín ngưỡng. Mà từ tín ngưỡng dẫn đến mê tín- cuồng tín- bạo tín- bạo động, th́ không xa như lịch sử nhân loại đă tŕnh diễn quá nhiều trên sân khấu trần gian này. Nhưng, nếu có ai gọi là tín ngưỡng Đạo Phật, điều này cần được xác minh kỹ: Tín là niềm tin hướng nội. Có nghĩa sự tự tín có mặt năng lực siêu việt đang trú ngụ nơi tấm thân nhỏ bé này (tất nhiên sự tự tín ấy đă được kinh qua và cảm nhận trong những sát na của chuỗi sống).



Từ đó, Quy là trở về với tự nội, Ngưỡng là hướng đến cái khả tính siêu việt trong mỗi con người; nổ lự , tinh cần bằng những phương pháp nào đó, bào sạch tất cả tập nhiẻm để khả tính siêu việt hoàn toàn được hỉển bày.

Với tinh thần đó để ta đi vào t́m hiểu Tín với ư nghĩa Đạo Lộ.



I- Vậy thế nào là Chánh tín ?

Hiểu b́nh dị là tin đúng, tin chân chánh. Khác với nó là tin sai. Nhưng diễn thích như vậy th́ chẳng giải thích được vấn đề, chỉ là sự định vị duy lư bị bỏ lửng. Ở đây có hai cách để hiểu:

Một , gọi là tin đúng tất hàm ẩn có khuôn giá trị để đong lường sự đúng-sai. Trên thực tế cho thấy làm sao có thể có một thứ khuôn mẫu nào được chấp nhận, bởi mọi hiện tượng tâm- vật đều thay đổi trong từng sát na của thời gian. Cho nên tin đúng ở đây là đúng với giá trị nhân bản trong tương giao, tương sanh, và phát huy những đức tính cao quư ấy.

Hai, gọi là tin đúng tất nó đă được đem thí nghiệm và ứng dụng qua bộ máy vô ngă, rồi đến sự cảm nghiệm, thực nghiệm tâm linh. Chỉ trong trực nghiệm mới thoát ly tương đăi thời không, sinh diệt...mới như như, mới chánh. Thế, với Đạo Phật , chánh tín không c̣n mang nghiă tin đúng, mà là tin vô ngă vậy.



II- Thế nào là Chánh Tín Tam Bảo ?

TIN PHẬT

Ḷng tin chân chánh đối với Tam Bảo gọi là Chánh Tín Tam Bảo. Đó là ǵ? Tin Phật , tin Pháp, tin Tăng.

Tin Phật có 3 :

1. Phật lịch sử: là lịch sử của Phật , là Phật kinh điển. Theo kinh điển (1), Phật vốn là Bồ Tát Hộ Minh ở cung trời Đâu Suất tự nguyện trở lại với loài người v́ một đại sự nhân duyên ‘’ Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật chi tri kiến‘’. V́ lẽ tự nguyện nên mọi chi tiết trong cuộc đời : ḍng dơi, thân thế, điạ vị...đều mang tư ư nhằm minh chứng hay thức tỉnh chúng sang thoát khỏi sự cám dỗ của dục vọng; ‘’tuồng ảo hoá đang bày ra đấy’’. Vậy tin Phật lịch sử là tin có khả năng ngộ nhập tri kiến Phật.



2. Phật triết lư : Là Phật nói về hay Phật của kinh điển.

Phật hoằng hóa suốt 49 năm, dùng vô số phương tiện, nói vô số lời, chung quy được kết tập thành 12 bộ, gọi là Thập nhị bộ Kinh.

Trước , Phật chuyển lời Phật , nói lời Phật .

Sau, kinh chép lời Phật , rồi diễn lời Phật .

Ư Phật của Phật nói ǵ ? Là " bản lai vô phước tướng Phật ‘’.

Lời Phật của Kinh nói ǵ ? Là ‘’Tri ngă truyền pháp như phiệt dụ dă’’.

Vậy tin Phật triết lư là thế nào ?

Là tin như con đường, như ngón tay chỉ mặt trăng.

Là tin: ‘’ Nhược nhân ngôn, Như Lai hữu sỡ thuyết pháp tức vi báng Phật ‘’.



3. Phật nguyên lư: Đó là ǵ ?

L à: ‘’ Ly nhất thiết tướng thị danh chư Phật ‘’,

hay,’’Bản lai vô phước tướng Phật ‘’.

Bổn lai vô phước tướng là "bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm...vô vô minh diệc vô vô minh tận...".

Ly nhất thiết tướng là thể nhập vô tướng nhất thiết tướng , là như như. ‘’Vô sở tùng lai diệc vô sở khứ‘’. Không đến từ đâu, không đi về đâu.

Không đến từ đâu là bất sinh.

Không đi về đâu là bất diệt.

Không đêïn không đi là đương xứ thị, là hiện tiền, là Trung đạo. Cho nên nói,’’đạo cốt truyền tâm" là vậy (Dĩ tâm truyền tâm ).

Đạo mà có thể nói được th́ không phải đạo (Đạo khả Đạo phi thường Đạo). Cũng vậy, nguyên lư mà ngôn ngữ có thể chuyên chở đâu c̣n là nguyên lư. Tin Phật nguyên lư đâu c̣n là Phật nguyên lư nữa, mà phải tin tức phi tin. Tin tức phi tin là thể nhập, là bắt kịp cái khoảnh khắc "đang là"́, dung thông cả thiên đàng lẫn địa ngục, tuyệt đối và tṛn đầy, hư mà linh , không mà diệu.



TIN PHÁP

1) Pháp nguyên lư

Là nguyên lư của vạn pháp, là thực tướng của vạn pháp. Nguyên lư hay thực tướng của vạn pháp , đó là ǵ ? Là Bát Bất Trung đạo.



" Bất sinh diệc bất diệt.

Bất thường diệc bất đoạn.

Bất khứ diệc bất lai.

Bất nhất diệc bất dị ’’.



Nếu có hỏi, sao gọi nguyên lư là "bất ...bất..", th́ chỉ có thể trả lời: V́ nó là " Duyên sinh - Vô ngă.

’’Do cái này có mặt, nên cái kia có mặt.

Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt.

Do cái này sinh nên cái kia sinh.

Do cái này diệt nên cái kia diệt ’’.

Nếu hỏi tiếp, sao gọi nguyên lư là Duyên sinh Vô ngă ? Đến đây duy chỉ c̣n im lặng.

Im lặng là cách trả lời hay nhất.

Đó là câu nói của một danh nhân nào không rơ.

Im lặng là sống với. Là thể nhập sơn hà đại địa, hóa hiện sum la vạn tượng mà hợp đạo. Trời Đất chẳng hề nói năng, bốn mùa vẫn vận hành; Thu qua , Đông lại, Xuân sang, Hè đến, mọi vật vẫn sinh sôi nẩy nở...

Nên, nguyên lư là cái không thể nói, nói là hữu ngă. Nếu có nói ṛng suốt 49 năm như Đức Thế Tôn cũng chỉ là phương tiện.

Để rồi, nói mà im lặng,’’ Vong thị vô, vô thị Phật ‘’, mất tất cả mà được tất cả. Đó là nguyên lư, là vô ngă.

Nguyên lư là duyên sinh. V́ duyên sinh nên vô tướng. Vô tướng mà hiện ra vô lượng tướng, ’’Một là tất cả’’. Vô lượng tướng rồi cũng trở về im lặng, trở về cái một, ’’ Tất cả là một’’.

Cho nên, tin Pháp nguyên lư là một cách nói cần được hiểu là ‘’Nhập pháp giới ‘’ chứ không phải ‘’ Ngộ pháp giới’’. Ngộ là c̣n vướng, là cái chỗ ‘’Bồ đề bổn vô thọ’’ hay "Ưng vô sở trụ’’. Ưng vô sở trụ là nhảy tỏm trong trùng khơi đại dương mà phiêu du hóa hiện, ’’Sanh kỳ tâm’’ vậy.

Ỏ đây, có một điều cần lưu ư. Theo cách hiểu thông thường, pháp hữu vi là pháp bị làm ra, bị tác thành... gọi là tục đế. Ngược lại, pháp vô vi được gọi là Chân đế, Niết bàn... v́ là pháp không bị tác thành... Và, nếu hiểu Pháp nguyên lư như là pháp vô vi e chắc không tránh khỏi sự hụt hẩn, khiến ta rơi vào cái nguyên lư khách quan để chiêm ngưỡng (Tịnh độ ở kia), thay v́ là nguyên lư đang là để sống trong (Tịnh độ ở đây).Vậy nên, Pháp nguyên lư phải là pháp dung thông cả hữu vi lẫn vô vi, là bàn tay với hai mặt trắng đen, v́ chân lư chỉ có một.



2) Pháp triết lư

Đó là ǵ ? Là 12 bộ Kinh chữ, ba tạng Kinh chữ. Là pháp phương pháp, pháp cách thức nói về sự thật hiện hữu của tất cả pháp qua trung gian ngôn ngữ. Nhưng đặc biệt là sự xuất hiện con đường dẫn đến chân lư, đời sống an lạc giải thoát sau ngững cố gắng mà ḍng chữ bất lực trong diễn đạt thực tại. Đó là điểm trân quư nhất của Pháp triết lư.

Triết lư ấy không phải là thuần triết lư suông v́ được Như Lai, bậc thông rơ tánh tướng của vạn pháp khéo giảng nói. Sự sao, lư vậy. Lư sao, sự vậy. Sự là giải thoát hoàn toàn. Lư là con đường dẫn đến giác ngộ toàn triệt thông qua sự. Như Thế Tôn đă tuyên bố:

"Cho đến khi nào, này các Tỳ kheo, Ta chưa có tri kiến như thật về khổ, nguyên nhân của khổ, khổ diệt và con đường đưa đến khổ diệt. Cho đến khi ấy, này các Tỳ kheo...Ta mới tuyên bố Ta đă chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Và này các Tỳ kheo, cho đến khi nào, Ta chưa có tri kiến như thật về khổ, nguyên nhân của khổ, khổ diệt và con đường đưa đến khổ diệt. Cho đến khi ấy, này các Tỳ kheo...Ta mới tuyên bố Ta đă chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ’’

Quay trở về đầu Xem tranthanh03's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tranthanh03
 
tranthanh03
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 84
Msg 2 of 9: Đă gửi: 17 March 2006 lúc 5:17am | Đă lưu IP Trích dẫn tranthanh03

Thời gian là khuôn định, không duy là vượt thời không, là hiện tại, khoảnh khắc huy hoàng của sự sáng tạo. Duy là chấp. Không duy là trực nhận: Sự kiến chiếu thông hạn, "Lư sự vô ngại pháp giới’’. Trạng thái Không Duy ấy được biểu hiện cụ thể qua lời dạy ở kinh Kim Cương (và Kinh Đại Bảo Tích):

”Tri ngă thuyền pháp như phiệt dụ giả, chánh pháp ưng xả hà huống phi pháp.’’

Thế nên, tin pháp Triết lư âu là quá tŕnh lần lối bằng tự đôi chân gầy guộc cất bước về chốn cố hương; nơi ta chưa hề sinh ra cũng chưa từng mất đi mà ta vẫn sống, ăn uống, tươi cười giọng non trẻ.

Nếu điểm lại những lời dạy của Đức Phật trong các Kinh e chắc sẽ làm bật diện được cách tin pháp triết lư như con đường, mà qua đó cuộc lang thang của chính Đức Thế Tôn đă nói lên; chưa bao giờ ló dạng một sự cứu độ theo nghĩa cứu vớt ngoài sự thật duyên khởi tính, con đường duyên khởi tính.

Như trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Tín giải, sự kiện Đức Phật thọ kư sẽ thành Phật cho Tôn giả Xá Lợi Phất đă làm dấy động tâm lư Thánh chúng đến kinh ngạc trong hoan hỷ và sung phấn’’. Chúng ta cũng có thể đạt được Phật trí như Tôn giả Xá Lợi Phất.

Chẳng khác lạ ǵ, mặc dù trước đây các vị đă từng dự kiến. Nhưng bởi như kẻ cùng tử, chấp nhận sống đời nhan nhản quanh gốc cây mà căn nguyên của nó là sự rơi vào các ngă tưởng tế nhị: xem Phật quả như là kết quả của một quá tŕnh nổ lực nào đó bị ràng buộc bởi thời không, tuổi tác. Lần này, trước con người già lụn cũng được thọ kư mang theo những nhân tố như là phản lực với tâm lư Thánh chúng.

Già lụn cũng thành Phật .

Sẽ thành Phật tại đây và bây giờ.

Và hậu quả đem lại từ phản lực ấy là sự rơi rụng tức khắc (tiệm ngộ) các lọn tơ nhân tố ngăn che Phật tính. Sự rụng đổ ấy bộc bạch quá tŕnh quy hồi phản tỉnh đă được hun đúc bấy lâu (đốn ngộ). Có nghĩa, rơi : từ từ, hay đổ : tức khắc đều là cách nói của thời gian nói lên sự chín mọng hay ươm vàng của con đường ”Quy hồi phản tỉnh’’, hay "Kiến tính thành Phật”.

Vậy là đến đây, từ trong sâu thẳm của con đường ‘’Quy hồi phản tỉnh’’ nói lên rằng: "Chư vị có thể đắc được Phật quả tại đây và bây giờ.’’ Ḷng xác tín chắc thật có mặt khi có vương chủ trí tuệ thông rơ Phật quả không ǵ khác chính là thể nhập pháp giơí tính - vô ngă tính. Thời gian cũng vô ngă, không gian cũng vô ngă. Một trí tuệ biết rơ như vậy, ḷng sinh hoan hỷ chưa từng có mà tín thọ.

Như thế rơ ràng ‘’TÍN" ở đây một mặt xuất hiện như là nguyên lực làm trung tâm chuyển tiếp giữa hai mặt từ Ngộ đến Nhập, từ Nhập trở lại Ngộ. Mặt khác nó biểu thị cho sự thể ngộ thực tính vạn hữu, là điểm mà trong ‘’Đại Thừa Khởi Tín Luận’’ của Mă Minh, gọi là Khởi Tín là sự thức tỉnh một ư thức mới- ư thức nhận ra bản giác, để từ dó trở về với chính ḿnh, bản thể của chính ḿnh, và điều này chẳng dính líu ǵ với điều mà ta gọi là sự hiện hữu khách quan của Chúa.

Cụ thể và minh xác hơn là lời dạy của Đức Phật trong kinh Kim Cương:

’’ Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng.’’

Hướng ngoại để tin, để t́m cầu chân lư là sỡ hữu tướng.Vô minh tương nghĩa với chấp ’’Tôi là, của Tôi, và tự ngă của Tôi’’. Bởi v́ cơ sở căn bản để hướng ngoại không ǵ khác hơn là cái ’’Bạn đang có và đang là’’, cái bị giới hạn trong thời không. Cho nên, tri giác và tri thức về thực tại luôn không phải là thực tại chính nó, mà chỉ là chủ nhân của mọi sự lừa bịp trong sự phát hiện Phật tính. Nên nói: ”Không nên thấy Như Lai qua 32 tướng quư’’, th́ càng không nên tin Như Lai qua 32 tướng quư ấy.

Từ lời dạy này dẫn khởi đường hướng tu tập hướng nội. Và duy chỉ trong nội soi ta mới có đủ cơ hội dọn dẹp mọi ô uế tập nhiễm (bát tưởng) của tâm thức.

Chủ trương thiết lập Nhân gian Tịnh độ cũng sản sinh từ đây. Có nghĩa tự trong tâm thức mỗi chúng sanh vốn đầy đủ tính chất của cơi Tịnh độ và vấn đề c̣n lại là thức tỉnh, trở về nhận lại cái khả năng thiêng liêng ấy.

Bước ngoặc thức tỉnh là dấu ấn của Ngộ, nhận lại là Thêí nhập và trở về chính là Tín - sự tương tác giữa hai mặt Ngộ Nhập. Tùy thuộc năng lực trung gian này mà vấn đề cơ cảm được biểu hiện khác nhau, toàn diện hay đơn điệu.

Thế nên, không ngộ mà tin là quáng. Ngộ mà tin là tín giải. Và tin để nhập rồi trở lại làm cho ngộ gọi là nan tín- điều mà chư Phật trong mười phương tán dương Đức Thích Tôn đă làm công việc hy hữu nhất trong đời ác ngũ trược này.

Nhưng dù nói thế nào, khác với chúng hội đó, nghe pháp mà đều sinh tâm hoan hỷ tín thọ. Sự lệch lối của chúng ta đến với Phật pháp qua cảm tính xuất phát từ sự rung động bởi con tim. Ái, (cảm thọ yêu thương đưa đến t́m cầu nắm bắt) hậu quả cho sự hiện hữu của chúng ta- mầm mống của mọi khổ năo. Có lẽ, v́ lẽ đó mà Kinh Di Đà trưng dẫn cụ thể và chi tiết cảnh trí của cơi Tịnh Độ thật hoa lệ và mỹ măn để từ đó vạch ra một thể cách tu tập giản dị nhưng sung tích, hợp với tâm lư của đại đồng.

Sơ khởi, b́nh giản chỉ là ‘’Chấp tŕ danh hiệu A Di Đà" (nghĩa của giữ Giới), từ “Nhược nhất nhật... nhược thất nhật ’’, mà ‘’Nhất tâm bất loạn" (Định), và điều kiện sau cùng ’’Thị nhơn chung thời tâm bất điên đảo’’ (là Tuệ), khi đó mới ’’Tức đắc văng sanh ..Cực lạc.’’



Ở đây tất thảy không có sự cứu rổi. Theo nghĩa biểu tượng, A Di Đà là: Vô Lượng Quang, biểu tượng cho trí tuệ giải thoát. Vô Lượng Thọ : đại định, và vô lượng công đức : biểu tượng cho Thánh Giới uẩn giải thoát. Với quan điểm đó, một khi phát khởi công phu ’’Chấp tŕ danh hiệu A Di Đà’’ là đánh dấu một sự thể ngộ “Ta là Phật sẽ thành’’ (Tín giải).

Nhờ sự tín giải vào khả năng thiêng liêng ấy, công phu thực hành được kiên cố, chuyên nhất, và từ công phu ấy nói lên rằng: Tịnh độ thế giới không ǵ khác hơn là vô lượng nghĩa, vô tướng và vô tác. Nói chung là thế giới của những tâm thức toàn nhập vô ngă, không kia, không đây nhưng hiển hiện ra vô lượng xứ và diệu dụng.

Quay sang Nikàya, cũng một thế, Đức Phật luôn luôn xác định trước chư Tỳ kheo cũng như tất cả mọi giới qúa tŕnh thăng bậc, sự toàn diệt khổ đau, phải là ngơ lộ thực hành của Giới, Định và Tuệ (Kinh Pháp môn Căn bản, TBI ). Đó là ba bước đi căn bản của Phật giáo, không đi ba bước đi này là ngoại đạo. Và người con Phật là người tin, hiểu con đường chánh đạo ấy, để từ đó thực hành sống đúng với chánh pháp.

Sự thực hành ấy nói lên lập trường kiên cố của hành giả v́ nó được kinh qua (tự tri) và cảm nghiệm (tự giác) trong cuộc giao thoa giữa hai mặt chân tục, lóe lên môt tia sáng (tự tín) chói lọi nhất bước hành giả băng qua những chông gai thử thách của đời thường. Bước đi như là những tiếng rống của sư tử dẹp tan muôn thú, âm hưởng măi vang vọng khắc sâu vào ḷng chiến sĩ:’’ Hăy tự thắp đuốc lên mà đi. Tự làm hải đảo... Ta là kẻ chiến thắng, chiến thắng trong tự nội, không ai khác là người có thể cho ta chiến thắng...’’.

Chỉ có những ǵ được kinh qua và cảm nghiệm, ấy là tiếng ḷng. Từ đó chúng ta mới đủ sức để đối diện với những dục vọng, sợ hăi...để đánh đổi một lần, một lần thôi cho dứt khoát. Và rơ ràng hơn, cuộc đánh đổi của Thái tử Sĩ-Đạt-Tha và chư vị đệ tử Ngài là một minh xác hùng hồn rằng:



’’ Không ai khác có thể là chổ nương tựa cho ta. Ngoài Ta, ngoài pháp chân chính mà ta đă chứng ngộ, ta hăy cung kính, đảnh lể và sống y chỉ pháp ấy"

(Tương Ưng Bộ Kinh III)

" Không ai khác có thể là chổ nương tựa cho ta’’, là tín tâm, tin ở khả năng giải thoát giác ngộ , có thể thành Phật . Và, đó là sự trở về sống với cung cách của bậc Thánh:

’’ Quá khứ không truy t́m,

Tương lai không ước vọng,

Quá khứ đă qua rồi,

Tương lai th́ chưa đến,

Chỉ có pháp hiện tại,

Tuệ quán chính ở đây,...’’

( Kinh Nhất dạ Hiền giả ).

”Không ai khác có thể là chỗ nượng tựa cho Ta, ngoài pháp mà Ta đă chứng ngộ...’’, là Tín giải- cấp bậc chuyển thái của sự thể nhập thực tại vô ngă.’’

“Ta hăy sống cung kính , đảnh lể và sống y chỉ pháp ấy,...’’ đó là tín nguyện và tín hạnh, như tinh thần Bồ Tát của Đại-thừa y cứ chân không mà hóa hiện ra muôn ngàn sai biệt vi diệu (Diệu hữu), làm lợi ích cho quần sinh:

”Nhược hữu chúng sanh, đa ư dâm dục, thường niệm cung kính, Quán Thế Âm Bồ Tát, tiện đắc ly dục..."

( Kinh Phổ Môn).

Cho nên nói: “Thâm tín chư Phật tất giai sung măn’’ là thế. Phật chính là thực tại vô ngă, là Như Lai Tạng.

" Thâm tín chư Phật" là tin ở thực tại vô ngă này, và đă là vô ngă th́ làm ǵ có kia- đây, ...mà là ‘’Nhất niệm thông tam giới’’, chỉ trong một niệm cũng dung thông cả tam giới. Hết thảy thời gian, không gian đều quy về một mối, nhập cuộc vào cái khoảnh khắc đang là uyên nguyên tṛn đầy mà tiết ra những tinh anh cho đời măi tươi sáng,

’’Nguyện vi nhất trích dương chi thủy, sái tác nhân gian tịnh đế liên’’

Nhất niệm tương nghĩa với ‘’Nhất tâm’’ trong Khởi Tín luận. Chúng sanh dữ Phật đồng. Sở dĩ có sự sai biệt đôi bên; giác- bất giác là do có sự phân biệt, vọng chấp pháp ngă. Tuy nhiên, tự tánh (bản lai diện mục) chẳng sinh ,chẳng diệt, chẳng phải khởi, chẳng phải không khởi. Và “Khởi tín” chính là khơi nguồn tuệ giác ở đích điểm thâm sâu cùng cốc “Nhất niệm tâm tánh đang là’’ này. Trong Tứ Niệm Xứ, nó được diễn đạt sang một ngôn ngữ khác là Vô ngă niệm.

Pháp hành truyền thống của Đức Phật rằng :’’Ngồi kiết già, lưng thẳng, để niệm trước mặt, chánh niệm tỉnh giác, theo dơi hơi thở...", pháp hành ấy nói lên đời sống có ư nghĩa thực thụ phải là con đường khai mở tự tâm (nhất tâm), v́ thế giới không ǵ khác hơn là biểu hiện của tâm (Kinh Lăng Già ). Và khởi tín hay chánh tín chính là chánh niệm tỉnh giác,

’’Tác hữu trần sa hữu.

Vi không nhất thiết không.

Hữu không như thủy nguyệt.

Vật trước hữu không không.”

Thế nên tin Pháp triết lư lại cũng là một cách nói gắng gượng và duy chỉ được đón nhận bởi những hạng mà căn tánh đang c̣n chậm lụn, v́ rằng, ngoài những biểu hiện của tướng, chiều hướng triết lư ra th́ hàng phu tử khó bề đón nhận được những ǵ mà thực tại vô ngôn thyết, trong khi thực tại sống động diệu hữu lại diễn thuyết một cách phi logic, để từ đó thầm nhủ cho những ai chuyên đường hư luận, hợp lẽ, đó là nạn, gọi là thế trí biện thông.



TIN TĂNG

Ấy là đời sống thực nghiệm tâm linh và sự thoát xác ra khỏi những triền phược. V́ đó là thể tính của Tăng.



Trong cái sai biệt muôn trùng giữa màn đời vớ vẫn âu cũng xuất từ cái không sai biệt, hệt như khí tiết của trời đất bốn mùa xoay chuyển mà bản chất của nó cũng không ra ngoài đặc tính âm dương. Con người ta cũng thế, hay nói rộng hơn, tất cả chúng sanh đều hiện hữu từ cái bất dị ấy. Nh́n trên biểu tướng nó luôn thiên chuyển và phủ nhận chính nó như sự phủ nhận cái ấu trĩ của tầng lớp già nua. Nhưng sự phủ nhận ấy không có nghĩa là khước từ thực tính mà là xác định lại tính chất đặc thù của tất cả hiện hữu trước cái thiên chuyển không đồng. Cái đặc tính ấy, Phật giáo gọi là Tăng, có nghĩa là ḥa hiệp.

Và thế, Tăng không c̣n là điểm nh́n quy ngưỡng nơi những cá thể, đoàn thể được gọi là Tăng già.

Vật ǵ làm căn bản để từ đó vô số bánh được tạo nên ? Bột.

Có vô lượng cách ăn, kiểu ăn, sở thích về món ăn, nhưng ta cũng cùng chung nhau một hành động, đó là hành động ăn.

Mỗi chúng ta đều khoác những chiếc áo khác lạ ra chào đời nhưng ta vẫn có thể hàn huyên ở chổ ngồi chật hẹp nhất trên trần thế, ấy là nhờ đặc tính của Tăng. Đặc tính ấy có thể gọi là Tăng tính, Ḥa hợp tính, Vô ngă tính hay Phật tính cũng được vậy. Chính nhờ đặc tính ấy mà ta có cơ may để nhận ra bộ mặt thật của ḿnh bấy lâu ham dong ruỗi, la cà khắp xó chợ. Nhờ đặc tính ấy mà ta có thể thoát khỏi những hệ lụy, đau khổ trần ai bằng cách sống chung thủy với nó bất luận ở đâu và lúc nào...

Đây là ư nghĩa của lời dạy ‘’Y pháp bất y nhơn’’.

Như vậy tin Tăng là tin ở khả năng của chính ḿnh có thể tự giải thoát bản thân ra khỏi những khổ năo, đồng thời cùng giúp cho tha nhân hướng về đời sống an lành, Thánh thiện...



QUY KẾT

Chúng ta mạn phép cắt xén thực tại ra từng mảnh nhỏ, phân tích và t́m hiểu. Bởi v́ thấu thị của chúng ta không đủ sức để nh́n thực tại như chính nó, nhưng qua phương cách độc nhất ấy cũng sơ phát được một cái nh́n tạm ổn.

Và thế là, ta có thể nói: Phật tính, Pháp tính, Tăng tính là Vô Ngă Tính cũng không sao vậy.

Đó là điểm xuyên suốt của giáo lư Phật Đà, đó là một ‘’Pháp nhĩ như thị’’.

Nhưng dù sao, với chúng ta, niềm tin vẫn là căn bản, là tiên quyết, đây cũng là một "Pháp nhĩ như thị" nữa.

Với những ai sống có ư nghĩa, hăy tạo cho ḿnh một niềm tin : Tin Tam Bảo, tin Ông Bà hay tin bất luận ở lănh vực nào, điều quan yếu là niềm tin không hại ḿnh, không hại người, không hại cả hai mà lợi ḿnh, lợi người, lợi cả hai. Ấy là một diễm phúc lớn vậy






Nguyện công đức đă làm
Kết duyên lành giải thoát
Đoạn nghiệp chướng năo phiền
Quả Niết Bàn chứng đạt



Nguyện Chánh Pháp lưu truyền
Phổ cập khắp thế gian
Chúng sanh thường tịnh lạc
Phật Đạo chóng viên thành




Nguyện đem miệng lưỡi này
Xưng Tụng Pháp Đại Thừa
Tự nh́n lại lỗi ḿnh
Để tiến tu Đạo Nghiệp



Nguyện đem thân mạng này

Cúng dường Ngôi Tam Bảo.

Nguyện biết trước ngày giờ chết

Trở về Cơi Cực Lạc

Quay trở về đầu Xem tranthanh03's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tranthanh03
 
thaicuc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 12 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 119
Msg 3 of 9: Đă gửi: 17 March 2006 lúc 8:19pm | Đă lưu IP Trích dẫn thaicuc

Giáo pháp vi diệu của đức Phật trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn c̣n là ngọn đuốc soi đường cho con người xây dựng nếp sống an b́nh, tịnh lạc. Mô h́nh kiểu mẫu của đức Phật đưa ra nhiều vô số, kinh gọi là 84.000 pháp tu. Tuy nhiên, tất cả pháp ấy đều chỉ rơ vấn đề đau khổ của kiếp sống con người và phương cách diệt khổ.

Thật vậy, sức sống Phật giáo trường tồn mănh liệt và hiện hữu sáng ngời theo ḍng thời gian biến chuyển, chính v́ đạo Phật đặt trọn mục tiêu vào việc thăng hoa trí tuệ và đạo đức cho con người. Từ đó, đức Phật hiện thân người, biết rơ thực tại khổ đau của con người và t́m được lối thoát cho con người. Nói khác, đức Phật thành đạo, t́m ra chân lư, thể hiện chân lư trong suốt 49 năm hoằng hoá độ sanh, nên được tôn xưng là bậc Đạo sư của trời người.

Sau khi đạt quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác dưới cội bồ đề, điều ǵ đă h́nh thành trong tâm trí đức Phật để Ngài trở thành đấng sáng suốt, trí đức vẹn toàn ? T́m hiểu diễn biến của quá tŕnh tư duy dẫn đến nguồn sống mới, siêu tuyệt trong cuộc đời đức Phật mà kinh điển gọi là Thành Đạo, chúng ta cần quan sát lại cuộc đời tu hành của Ngài.

Ngược ḍng thời gian, hơn 2500 trước, Thái tử xuất thân từ giai cấp vua chúa, nhưng hạnh phúc vật chất không lôi cuốn được tâm trí Ngài . Ngài thường suy tư về con người và thế giới của con người. Sinh hoạt nội tâm ấy mănh liệt đến độ thôi thúc Ngài từ bỏ cung vàng điện ngọc, dấn thân t́m Thầy học đạo.

Trải qua 5 năm chung sống, tu học với các đạo sĩ danh tiếng và 6 năm thực hành khổ hạnh, Ngài nhận ra các pháp tu ấy làm cùng mằn trí tuệ, luẩn quẩn trong ṿng vô minh, sanh tử, khổ đau.

Ngài từ bỏ con đường tư duy và cuộc sống bế tắc cuả ngoại đạo, đến cội bồ đề tham thiền nhập định. Trong 49 ngày, Ngài đạt đến sự toàn giác, thấy rơ và sử dụng được quy luật tạo nên con người và vũ trụ. Trạng thái giác ngộ ấy trải qua ba tầng : đầu đêm, Ngài chứng tuệ giác Túc Mạng Minh, giữa đêm chứng tuệ giác Thiên Nhăn Minh và cuối đêm chứng tuệ giác Lậu Tận Minh.

Tam Minh, tức quá tŕnh tư duy của đức Phật trong đêm Thành đạo đánh dấu sự chuyển đổi quan trọng, từ sa môn Cù Đàm dấn thân t́m chân lư trở thành bậc Như Lai, Ưng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn.

Khởi điểm từ tư cách của đấng toàn giác, Ngài hoằng hoá độ sanh, tác động cho người sáng suốt, an lạc, giải thoát. V́ vậy, bước theo dấu chân Phật, hiểu rơ những tư duy và việc làm soi sáng bởi Tam Minh của Ngài là điều cần thiết cho chúng ta.

Túc Mạng Minh mà đức Phật chứng đắc không phải là một thứ thần thông huyền bí. Đó là kiến thức thực tiễn kết tinh từ quá tŕnh tu học, suy tư, ứng nghiệm trong cuộc sống của Ngài. Thật vậy, với bản chất thông minh, hiếu học, từ 16 tuổi Ngài đă tinh thông 4 bộ kinh Vệ Đà. Lại thêm, trưởng thành trong bối cảnh xă hội Aán Độ phong phú các tư tưởng triết học, đạo học khác nhau, càng làm cho Ngài nỗ lực tham cứu. Ngoài ra, t́nh thương vô hạn với chúng sanh sẵn tràn đầy trong tâm, nên Ngài thường ưu tư về t́nh trạng bất công của xă hội đẳng cấp, về thân phận cực kỳ bi thảm của hạng người bị xếp vào loại hạ đẳng và nhất là nỗi khổ triền miên ngàn đời của con người trước cảnh sanh, già, bịnh, chết. Tất cả suy tư ấy đă nung nấu, thúc đẩy Ngài dấn thân t́m phương cách đưa người thoát khỏi khổ đau, trầm luân và an hưởng hạnh phúc chân thật, vĩnh hằng. Trên lộ tŕnh học hỏi, tư duy, thiết thân kiểm nghiệm trong 5 năm t́m đạo, 6 năm khổ hạnh và 49 ngày thiền định , Sa môn Cù Đàm đạt được hiểu biết xác thực đầu tiên : tuệ giác Túc Mạng Minh.

Dưới tuệ nhăn Túc Mạng Minh, Ngài thấy rơ con người và vạn vật đều vận động, biến chuyển không ngừng. Những sự biến đổi ấy không phải do bàn tay Thượng đế xếp đặt mà con người không thể nào biết được. Theo Ngài, con người và vũ trụ hiện hữu, biến đổi hay hoại diệt đều theo lư duyên sinh và định luật nhân quả. V́ vậy, đức Phật phủ nhận sự hiện diện của đấng Tạo hoá toàn năng siêu việt, bác bỏ lư luận siêu h́nh viễn vông.

Ngài khẳng định con người là chủ nhân của chính ḿnh, là tối thắng v́ khả năng tư duy, hiểu biết vô tận của con người có thể nắm bắt và sử dụng quy luật chi phối con người và vũ trụ. Chính đức Phật cũng đứng ở vị trí con người tu học, đắc đạo, giáo hoá độ sanh. Ngài đạt quả vị Vô thượng Đẳng giác do quá tŕnh học hỏi, tư duy, kế thừa chọn lọc, nói khác, do nỗ lực của trí tuệ t́m được phương cách điều chỉnh nội giới và ngoại giới. Nội giới th́ dẹp trừ được t́nh cảm thấp hèn, tham vọng, tri thức phiền năo của con người và phát huy đức tánh cao thượng, hiểu biết của Hiền Thánh. Ngoại giới th́ không bị lệ thuộc vật chất và hoàn cảnh sống. Nhờ quá tŕnh huân tu nhân lành như vậy, nên kết thành quả vị Phật là tất yếu; c̣n chúng sanh khổ đau, trôi lăn trong sanh tử v́ quá khứ đă gieo trồng toàn hạt nhân tội lỗi, mê muội, xấu ác.

Ngoài ra, dưới kiến giải của Túc Mạng Minh, đức Phật xác định mọi người đều là Phật sẽ thành, đều có khả năng chuyển mê muội thành hiểu biết sáng suốt. Đức Phật xuất hiện trên cuộc đời này chính là để hướng dẫn chúng ta phương cách sử dụng khả năng thành Phật của chính ḿnh vậy.

Với tuệ giác Túc Mạng Minh, đức Phật thấy biết chuỗi hạt nhân kết thành thân mạng của Ngài và mọi người từ quá khứ, Ngài tiếp tục suy tư, chứng được tuệ giác Thiên Nhăn Minh, tức hiểu biết hiện tại, thấy được xă hội thực của con người đang sống, nói rộng ra là vũ trụ.

Dưới ánh sáng của Thiên Nhăn Minh, đức Phật khẳng định tất cả pháp đều theo nhân duyên sanh, không có cái ǵ tồn tại độc lập riêng biệt. "Do cái này có, cái kia có, do cái này sanh, cái kia sanh", đó là quy tắc giải thích hiện hữu các pháp theo lư duyên khởi.

V́ các pháp hiện hữu do nhân duyên hoà hợp, mà nhân duyên th́ trùng trùng duyên khởi, nên thực tại khách quan cũng luôn luôn biến chuyển. V́ vậy, đức Phật dạy chúng ta không nên chấp chặt vào điều ǵ, coi là chân lư bất biến. Ngay như giáo lư của Ngài, đức Phật cũng thường nhắc nhở nên coi đó như chiếc bè để qua sông. Lời Phật dạy thể hiện tinh thần phóng khoáng cao tột, khuyến khích mọi người phát huy khả năng sáng tạo, nhạy bén của trí tuệ, kích thích cho nhận thức, tư duy phát triển. Đồng thời giúp mọi người thấy biết đúng đắn, khách quan, tức như thị tri kiến. Có đạt đến như thị tri kiến, tức thấy biết các pháp theo biến chuyển của sự vật khách quan, từ đó hành động phù hợp với thực tại khách quan, không bị phiền năo, vọng tưởng chi phối, mới có thể tạo thành an lạc, hài hoà với người, với thế giới chúng ta đang sống.

Do tuệ giác Túc Mạng Minh và Thiên Nhăn Minh hướng dẫn, tức hiểu biết quá khứ và nhận thức hiện tại đều chính xác, dẫn đến hướng đi trong tương lai tươi sáng, lợi lạc cho đời, gọi là Lậu Tận Minh.

Sau khi Thành đạo, trong suốt 49 năm hoằng hoá độ sánh, mọi việc làm của đức Phật đều bắt nguồn từ quá tŕnh tu chứng Tam Minh. Những ǵ Ngài chỉ dạy người đều là thành quả sống thực của Phật. Với như thị tri kiến, Ngài hiểu rơ khả năng, hành nghiệp của người, nên lần lượt giáo hoá được mọi tầng lớp xă hội từ bậc vua chúa, trưởng giả, trí thức đến người cực ác, người cùng tột nghèo khổ, thất học.

Bằng tuệ giác thực chứng Tam Minh, đức Phật không những dạy chúng ta thấy và hiểu các pháp đúng như thật, mà điều quan trọng nhằm đưa ra phương cách hiểu và sống đúng như thật để chúng ta được an lạc cho bản thân và tác động lợi ích cho đời.

Ngày nay, tuy đức Phật vắng bóng trên cuộc đời, nhưng tinh hoa của Ngài vẫn ngời sáng trong lời vàng thước ngọc c̣n lưu lại, tức Pháp thân. Tinh thần Chân, Thiện, Mỹ của đức Thế Tôn được lưu truyền, triển khai theo bước chân hoằng hoá của hàng hàng lớp lớp đệ tử qua từng thế hệ, ở khắp năm châu.

Riêng tại Việt Nam, ánh sáng tuệ giác Tam Minh của đức Từ Tôn đă được các Thiền sư, cư sĩ Phật tử tiếp tục thắp sáng, tạo thành những trang sử vàng son cho Phật giáo Việt Nam. Tiêu biểu như ở thời Lư Trần, vua quan và Thiền sư đă khéo vận dụng tuệ giác và sống đúng như thật, qua những đóng góp quan trọng vào việc giữ ǵn đất nước độc lập, xây dựng phát triển quốc gia. Những thành quả tốt đẹp, đáng kể, do Phật giáo tạo dựng, c̣n lưu lại dấu ấn ở nhiều lĩnh vực, vang danh trong lịch sử nước nhà.

Thiết nghĩ, trên lộ tŕnh sinh mệnh tương tục của Bồ Tát đạo, an trú trong tư duy và hành xử theo tuệ giác Tam Minh của đức Thế Tôn là lộ tŕnh tất yếu mà Tăng Ni Phật tử cần tinh tấn nỗ lực nương theo, phát huy để lợi lạc cho bản thân và chúng hữu t́nh, không cô phụ công ơn giáo dưỡng của đấng Từ phụ và các bậc Thầy Tổ.

Quay trở về đầu Xem thaicuc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thaicuc
 
anhkhoi09
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 October 2005
Nơi cư ngụ: Australia
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 63
Msg 4 of 9: Đă gửi: 18 March 2006 lúc 8:30pm | Đă lưu IP Trích dẫn anhkhoi09

Nhận thức thế nào là Tam Bảo

A . Khái niệm tổng quát.

Trong đời sống con người quan tâm nhất là ngọc ngà, châu báu, địa vị xă hội nhưng đối với Phật giáo th́ Tam bảo là ba ngôi quí báu, nhưng chúng ta không thể nào t́m thấy trong đời sống vật chất. Tam bảo mang những đức tính cao quí đem đến cho con người để con người nhận chân được giá trị của đời sống, mà chúng ta gọi là chân lư như ngọn đèn sáng soi đường đi trong đêm tối, như chiếc thuyền đưa mọi người vượt qua cơn sóng dữ.

Tam bảo được h́nh thành từ khi Đức Phật chuyển pháp luân lần đầu tiên ở vườn Lộc Uyển độ cho năm anh em Kiều Trần Như. Đức Phật Thích Ca là Phật bảo, Giáo lư tứ đế là Pháp bảo, năm anh em Kiều Trần Như là Tăng Bảo. Từ đây Tam bảo là công năng giúp con người thoát khỏi khổ đau trong đời sống hiện tại cho đến tương lai. Nhận thức được như vậy tức là chúng ta thấy được giá trị cao qúi của Tam bảọ

B . Nội Dung Tam Bảo

I - Phật Bảo

Tiếng Phạn gọi là Buddha, Trung hoa dịch âm là Phật Đà, dịch nghĩa là người Giác Ngộ, tỉnh thức, hay c̣n gọi là Bụt. Chử Phật là nhằm chỉ chung cho những bậc đă giác ngổ Một vị Phật có 10 hiệu (thập hiệu)Phật bảo có những ư nghĩa như :

1) Tự giác : Tự ḿnh nhận chân được chân lư sự vật hiện tượng.
2) Giác tha : Sau khi hiểu được chân lư đem sự hiểu đó truyền cho người khác hiểu như ḿnh.
3) Giác hạnh viên măn : Thực hiện được tự độ và độ tha là hoàn thành một cách tṛn đủ đức tính của Phật.

Phật có ba đức tính (tam đức)
* Đoạn đức (Pháp thân đức) : đoạn trừ tất cả phiền năo lậu hoặc.
* Trí đức (Bát Nhă đức) : sử dụng được trí tuệ, nhằm thực hiện các pháp lành thành tựu sự giải thoát.
* Ân đức (Giải thoát đức) : luôn luôn làm lợi ích cho chúng sanh giúp chúng sanh thoát khỏi được sự khổ đà

II - Pháp Bảo

Tiếng Phạn gọi là Dharma, Trung hoa dịch âm là Đạt ma, dịch nghĩa là Pháp, gồm có tam tạng thánh điển: kinh, luật, luận.

Trong kinh A Hàm có đề cập đến 5 công năng của Pháp :

1) Thiết thực ngay trong hiện tại.
2) Làm cho người thấy được tự tánh chính ḿnh.
3) Có khả năng giúp chúng sanh đạt đến Phật qủa : "Ta là Phật đă thành, các ngươi là Phật sẽ thành."
4) Vuợt ra ngoài thời gian và không gian.
5) Tu tập có kết qủa tức th́.

Giáo lư của Phật lưu truyền từ đời nầy sang đời khác giúp cho con người nương nơi đó mà tu tập đễ đạt được sự an lạc giải thoát chúng ta gọi đó là Pháp. Pháp được khế hợp 3 điều dưới đây mà thành:

-Văn nghĩa Pháp : Phật là người đầu tiên giác Ngộ Pháp mà thành Phật,Tăng già là đại chúng nương nơi Pháp tu tập. Đây là 2 ngôi báu chứng ngộ và thực nghiệm Pháp, nếu tách rời Pháp th́ không thể tồn tại được. Như vậy Pháp là trọng tâm của Phật. Đức Phật thuyết Pháp dùng lời nói, sau nầy được ghi chép bằng văn tự,tất cả đều là giải nghĩa của Pháp, nhằm truyền đạt tư tưởng t́nh cảm đến cho mọi loài, như ngón tay chỉ mặt trăng.Tuy không trực tiếp nhưng gián tiếp giúp cho mọi người hiểu được Pháp.

-Ư cảnh Pháp : Đây là Pháp bao gồm phạm vi nhận biết của tâm thức.Trong ư cảnh pháp có 2 loại:
a) Biệt pháp xứ : Đạo Phật cho rằng lục căn tiếp xúc với lục trần dẫn tới lục thức, nên tạo thành cảnh.Cảnh nhận biết: Nhản thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ư thức, trong đó 5 thức đầu nhận biết phân biệt là sắc,thinh,ương vị, xúc . Ở đây chỉ có ư thức là phân biệt rơ ràng chổ không giống nhau nên gọi là Biệt Pháp.
b) Nhất thiết Pháp : Ư thức không chỉ biết được Biệt pháp mà mọi thứ các giác quan mắt, tai,muĩ, lưỡi, thân và ư mà Ư thức có thể nhận biết được. Cho nên tất cả đều là Pháp, gọi chung là nhất thiết Pháp.

-Y quy Pháp : Pháp phương pháp giúp cho người học Phật nương nơi đó để tu tập, không câu nệ ở văn từ v́ đây chỉ là dấu vết cuả Phật Pháp, có thể chia làm 3 loại: Chân đế pháp, Trung đạo pháp và giải thoát pháp.

III - Tăng Bảo

Tiếng Phạn là Sangha,Trung hoa dịch âm là Tăng già, có nghĩa là một đoàn thể ḥa hợp, thanh tịnh, từ 4 vị Tỳ Kheo trở lên, cùng chung một lư tưởng hướng đến qủa vị giác ngộ, giải thoát.

1-Tăng phải thể hiện qua năm điều:
a-Tăng luân (Tăng đoàn) : Xác định lư tưởng của người xuất gia.
b-Tăng thể : Thể của Tăng là : Trí huệ, Giải thoát, Thanh tịnh và Hoà hợp.
c-Tăng hành : Là một vị Tăng phải thực hành Chánh pháp thể hiện qua thân hành (tứ oai nghi:Đi, đứng, nằm, ngồi) và tâm hành thực hành pháp có một đời sống tâm linh.
d-Tăng đức : nếp sống đạo hạnh của một người xuất gia có những đức tính cao thượng đầy Phật chất qua thân, khẩu, ỳ
g-Tăng qủa : là qủa vị của một vị tăng sau khi tu tập.

2-Tại sao chúng ta gọi là ba ngôi báu?

"Chân bảo thế hi hữu,
Minh tịnh cập thế lực,
Năng trang nghiêm thế gian,
Tối thắng bất biến đẳng".

Tạm dịch:
Cái qúi chơn thật trong thế gian hiếm có,
Sáng suốt không có ǵ làm hư hoại,
Làm chế trang nghiêm thế gian,
Đó là pháp tối thắng không thay đổi.

Chú thích:
-Thế hi hữu : trên đời này hiếm c̣
-Minh tịnh : là sáng suốt trong sạch.
-Thế lực : không ǵ có thể làm hư hoạ
-Trang nghiêm : làm cho ba cỏi được an vu
-Tối thắng : không có ǵ bằng.
-Bất biến : không ǵ làm mờ phai lưu chuyển.
C . Tinh thần trọng yếu của Tăng

Muốn xây dựng một đoàn thể gia đ́nh vững mạnh việc trước tiên phải thể hiện tinh thần đoàn kết và hoà hợp. Chính v́ thế mà từ lúc thành lập Giáo đoàn đức Phật đă chế ra phương cách để duy tŕ phát triển Tăng già làm cho Phật Pháp vững mạnh. Do đó nếu không có Tăng đoàn hoà họp thanh tịnh th́ khó có thể truyền bá Phật Pháp .Đức Phật đă đưa ra 6 phép hoà kính.

* Sáu phép ḥa kính:
Lục hoàc̣n gọi là sáu phép hoà kính, một phương thức xây dựng tổ chức đoàn thể làm hệ thống tổ chức được vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu của xă hộ Lục ḥa c̣n giúp cho đoàn thể Tăng già phát triển với những nhân tố tích cực,hoá giải những xung đột có thể xảy ra trong nội bộ đễ đi đến thống nhất, hoà hợp và thanh tịnh.

1/ Thân hoà đồng trú : Cùng sống chung với nhau phải biết hoà thuận tạo mối giây thân thiện.Tuân thủ những quy định mà tổ chức cộng đồng đưa ra đễ hướng đến mục đích chung,xoá bỏ những khác biệt không đáng có trong đời sống.

2/ Khẩu hoà vô tranh : Phải biết nhường nhịn nhau, nói với nhau bằng những lời dễ mến như cổ đức thường dạy: "Nói năng như Chánh Pháp,im lặng như Chánh pháp"

3/ Ư hoà đồng duyệt : C̣n gọi là ư từ hoà kính hay YÙ hoà đồng trao ,trong khi sống chung nhau mà không ai chấp nhận ư kiến của ai th́ đoàn thể phải tan ră,muốn thực hiện được tinh thần nầy chúng ta phải thực hiện tinh thần Tứ vô lượng tâm.

4/ Giới hoà đồng tu : Những quy định giới luật của Phật chế ra muốn cho mọi người phải chấp hành việc trước tiên là mọi người phải có một lư tưởng chung. Đây chính là nền tảng cơ bản cho việc sống chung trong một đoàn thể.

5/ Kiến hoà đồng giả i: ( Đồng Kiến hoà kính) Đây là phương cách mà chúng ta gọi là biết bày tỏ phân,v́ đạo Phật là đạo xây dựng con người trên tinh thần từ bi và trí tuể Người theo đạo Phật khi học được và tu có kết qủa phải đem tŕnh bày cho mọi người cùng tu theo ḿnh không ích kỷ che dấụ

6/ Lợi hoà đồn huân : Có phước cùng chia có khó khăn cùng nhận là tinh thần của người học Phật.Theo quan niện xưa nay của con người là hẹp ḥi vị kỷ th́ đối với người học Phật phải luôn luôn v́ tinh thần lợi tha hay mở rộng ḷng tưu

Qua 6 phép hoà kính cho chúng ta nhận thức không chỉ có đoàn thể Tăng già mà mọi gia đ́ng trong cộng đồng xă hội biết vận dụng một cách linh hoạt tinh thần nầy sẽ tạo được một gia đ́nh hạnh phúc. C̣n đối với Tăng Ni nó là kim chỉ nam giúp cho Giáo Hội được vũng mạnh, hệ thống tổ chức có hướng hoàn chỉnh. Nó cũng là gương tốt cho mọi người muốn quy hướng về Phật giáo.

D . Tam Bảo có ba bực

I - Đồng Thể Tam Bảo (Tự Tánh Tam Bảo) :
1) Đồng thể Phật Bảo: Chúng sanh đều có đủ đức tính như Chư Phật không khác "ơũ Thánh không tăng ở
phàm không giảm".
2) Đồng thể Pháp Bảo: Chúng sanh đều có đức tính từ bi, b́nh đẳng...
3) Đồng thể Tăng Bảo: Chúng sanh đều có đức tánh thanh tịnh, hoà hợp.

II - Xuất Thế Gian Tam Bảo:

1) Xuất thế gian Phật bảo : Chỉ cho đức Phật trong 10 phương 3 đời (qúa khứ, hiện tại và vi lai).
2) Xuất thế gian Pháp bảo : Chỉ cho giáo Pháp của Đức Phật có khả năng giúp cho chúng sanh thoát khỏi sự
trói buộc của thế gian.
3) Xuất thế gian Tăng bảo : Chỉ cho các vị thánh Tăng đă giải thoát hết khổ đau như: Ca Diếp, Xá Lợi Phất.

III - Thế Gian Trụ Tŕ Tam Bảo:.

1) Thế Gian Trụ Tŕ Phật Bảo : Chỉ cho những h́nh tượng Phật, Xá Lợi mà chúng ta tôn thơu
2) Thế Gian Trụ Tŕ Pháp Bảo : Chỉ cho tam Tạng thánh điển được ghi lại trên giấy, lá buôn...
3)Thế Gian Trụ Tŕ Tăng Bảo : Chỉ cho những vị xuất gia tu hành chân chính truyền thừa chánh pháp của Phật.

E - Nhận Thức của người Phật Tử đối với Tam Bảo

1)Xác lập về h́nh ảnh Phật Bảo (Đức Phật):

a/ Đức Phật là một vị dẫn đường (đạo sư) : Người Phật tử t́m đến với đạo Phật là muốn t́m đến chân lư, ngơ hầu nhận ra được lẽ thực của cuộc đời qua h́nh ảnh của Đức Phật cho chúng ta nhận thấy Ngài là một vị Đạo Sư như Ngài đă dạy; "Như Lai chỉ là người chỉ đường,mỗi người phải tự đi đến,không ai đi thế cho ai được".Ngài khuyên các đệ tử : "Người là nơi nương tựa của chính ḿnh,không ai khác có thể làm nơi nương tựa" và Đức Phật kết luận : "Các người nên làm công việc của ḿnh,v́ các đức Như Lai chỉ dạy con đường mà thôi".

b/ Đức Phật là một vị lương y (đại Y vương) : Đức Phật thường khẳn định Ngài là một vị lương y " Như Lai là một vị lương y biết bệnh mà cho thuốc,uống hay không tùy mỗi người"

c/ Đức Phật không phải là đấng siêu nhiên : Quan niệm của đạo Phật nh́n đức Phật chỉ là một người thầy dẫn đường, một lương y, đức Phật không bao giờ cho ḿnh có một quyền năng ban phúc giáng họa cho ai. Ngài sanh ra là một con người ,sống b́nh thường như một con người và từ giả cuộc đời như một con người. Có một vị Bà La môn hỏi Ngài là ai. Đức Phật nói: " Như Hoa sen đẹp đẻ và dễ thương,không ô nhiểm bùn nhơ nước đục, giữa đám bụi trần ta không vướng chút bợn nhơ,Như vậy ta là Phật"(Anguttara Nikaya).

2)Người Phật tử đối với Chánh Pháp:
Con người là chủ nhân ông có thể làm thay đổi đời sống của chính ḿnh chứ không ai có thể là ai khác. Cho nên người con Phật là người phải nhắm vào mục đích chính của Đạo Phật mà đức Phật thường dạy: " Nước của bốn biển chỉ có một vị duy nhất đó là vị củ muốn, cũng vậy giáo Pháp của Như La cũng chỉ có một vị đó là vị giải thoát". Đối với giáo lư của Phật dạy người Phật tử phải xem đó như là thuốc chửa lành bệnh của ḿnh.,như cổ đức thường dạy: "Chúng sanh đa bệnh Phật Pháp đa phương".

3)Người Phật Tử đối với Tăng già:
Trong Phật giáo thường đề cập : " tứ chúng đồng tu" (Tỳ kheo,Tỳ kheo Ni, cận sự nam và cận sự nữ) mà chúng ta gọi là tứ chúng.

Đối với chúng xuất gia th́ nghiên cứu, ứng dụng thực hành tu tập, truyền dạy giáo Pháp của Phật cho chúng tại gia, ngược lại chúng tại gia có trách nhiệm ngoại hộ đễ cùng tu cùng tiến bộ trên con đường giải thoát. Nhưng cả hai tại gia và xuấùt gia đều là đệ tử Phật, chính mối tương quan trong việc tu tập giúp cho cả hai có điều kiện đễ cùng tiến bộ về tâm linh.

H . Kết Luận

Bằng niềm tin chân chánh vào Tam Bảo với những đức tính Giác Ngộ, giải thoát, từ bi , b́nh đẳng, thanh tịnh và hoà hợp, Tam bảo là năng lực giúp cho mọi chúng sanh có một định hướng không bị những thiên kiến, cố chấp mê lầm đưa vào con đường khổ đàV́ thế cho nên là Phật tử chúng ta phải có một nhận thức đúng về Tam bảo mà chúng ta nương tựạ Có như vậy thực sự Phật, Pháp, Tăng mới có ích cho cuộc đời và niềm tin Chánh tín mới có dịp tỏa sáng .

Đến với Tam Bảo là để học và đễ ứng dụng tu tập nhằm tránh mọi sự sai lầm khi chúng tasống trong điều kiện cách Phật xa tổ . V́ chỉ có con đường nhận được lẽ thực mới là con đường tạo được niềm tin chân chánh "Đến đễ mà thấy không phải đến để mà tin".




__________________
Vật cùng tất biến,vật biến tất thông !
Quay trở về đầu Xem anhkhoi09's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi anhkhoi09
 
saodem
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 18 January 2006
Nơi cư ngụ: Germany
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 36
Msg 5 of 9: Đă gửi: 19 March 2006 lúc 4:09am | Đă lưu IP Trích dẫn saodem

THỜI GIAN VÀ BẢN CHẤT CỦA HIỆN HỮU



1. Thời gian và tâm lư cuộc sống

Thời gian được hiểu là một yếu tố hết sức trừu tượng nhưng lại hàm tàng một năng lực chi phối rất lớn đến đời sống con người, quy định sinh hoạt của con người vào một khung trật tự được mặc nhiên chấp nhận. Theo truyền thống tư duy của người Ấn Độ cổ đại, từ thời kỳ Rgvada (khoảng 1.500-1.000 năm trước Tây lịch) cho đến giai đoạn Upanishads (Áo Nghĩa Thư) (khoảng 1.000 - 500 năm trước Tây lịch), yếu tố thời gian chiếm vị trí quan trọng, đặc biệt là trong đời sống sinh hoạt tôn giáo và triết học. Chúng ta viện dẫn một vài nhận thức liên hệ đến thời gian để thấy được tầm quan trọng của nó như thế nào đối với cuộc sống con người. Rgveda khái quát hóa thời gian vận hành trong một năm thành 12 tháng và 3 mùa với số lượng 360 ngày(1). Thánh thư Vedàngajyautisam của Vệ Đà nói rằng "Thánh thư Vệ Đà được viết ra v́ lợi ích của việc tế lễ. Tế lễ được quy định phù hợp với chuỗi thời gian. V́ vậy, đây là khoa học chỉ dẫn việc sử dụng thời gian"(2). Thánh thư Maitri Upanishad của Áo Nghĩa Thư cho rằng "Thực phẩm là nguồn tồn tại của thế giới này, thời gian là nguồn của thực phẩm và mặt trời là nguồn của thời gian. Từ thời gian, tất cả vạn vật đi vào hiện hữu, từ thời gian vạn vật thăng hoa phát triển, trong thời gian vạn vật đi đến sự hoại diệt"(3). Một nhận thức khác được đưa ra trong Thánh điển Mahàbhàrata th́ thời gian được xem như là nguyên lư tối cao đồng nhất với năng lực siêu nhiên của các vị thần: "Phạm Thiên tạo nên sự sống, thần Visnu bảo vệ sự sống và thần Rudra, nghĩa là Thời gian th́ hủy diệt sự sống"(4). Như vậy, thời gian ở đây lại được xem như là vị thần phá hủy sự sống. Từ những nhận thức trên đây, chúng ta hiểu rằng quả thực yếu tố thời gian và sự sống không thể không phụ thuộc nhau và nó trở nên rất quan trọng.

Nói chung, khi thời gian được nh́n nhận như là đối tượng của cuộc sống, tức xem xét thời gian trên phương diện thực nghiệm. Thời gian được thể hiện qua nhịp sống sinh học của con người, qua sự vận hành của không gian vật lư (thái dương hệ) và biến đổi của mọi hiện hữu. Thời gian c̣n là phương tiện giúp con người ấn định nhịp sống sinh hoạt đa dạng của ḿnh một cách thích hợp với không gian và môi trường. Từ đó, thời gian được tâm lư chủ quan phạm vi hóa thành những khoảng phân lập được quy ước như là quá khứ, hiện tại và vị lai. V́ thời gian được đặt định trong khuôn khổ và ư niệm này, nên mọi sinh hoạt của con người nằm trong sự ràng buộc và bị chi phối bởi nếp tư duy và hành động thụ động. Trước lực bức ép tâm lư gây nên bởi thời gian, tâm thức chẳng có đủ "không gian" để tạo ra và duy tŕ sự an trú thảnh thơi, an tịnh, b́nh thản. Ta tư duy vội vă, hành động vội vàng và thường bị dao động (tâm trạng căng thẳng, lo âu và ngay cả đến ư niệm về sự giới hạn của cuộc đời)là v́ ta không ư thức được quy tŕnh vận hành rất tự nhiên của thế giới hiện tượng, nên đă biến tâm ta thành một thế giới hỗn độn mà ở đó con người dường như đang trở thành kẻ nô lệ của thời gian. Tâm thức, v́ vậy, cũng luôn biến động theo sự biến dị của hiện hữu. Thời gian bấy giờ trở thành một giá trị tâm lư của mọi hoạt động con người. Từ thực tế cuộc sống, Edward Hoagland có ư nghĩ hài hước rằng: Con người thị thành cố gắng mua thời gian như một giá trị bất cứ khi nào họ có thể mua được. Trong khi đó, con người thôn quê lại sẵn sàng giết chết thời gian, tuy rằng trong tâm thức cả hai đều nuôi dưỡng ư niệm về một đời sống tốt hơn ở ngày mai. Giá trị thời gian được đánh đồng như là giá trị vật chất mặc dù nó chỉ tồn tại trong cấu trúc tâm lư duy nhất.

Thời gian chính là ḍng vận hành liên tục của thực tại khách quan. Trên cơ sở đổi thay của thực tại khách quan ấy, tâm lư con người thiết định nên ư niệm về thời gian theo thời vị quá khứ, hiện tại và vị lai. Hay nói cách khác, trong quy tŕnh sinh diệt, diệt sinh của hiện hữu, trong điều kiện tương quan giữa cái có và cái không, giữa tính chất mới và cũ, giữa hành động đến và đi mà ư niệm thời gian đi vào tồn tại như một hệ quả. Năng lực của sự sống th́ tiềm tàng bất tận, cho nên hiện tướng của sinh diệt cũng khôn cùng, kéo theo ḍng tâm thức biến động bất tận. Hiện hữu thay đổi từ trạng thái này sang/đến trạng thái khác, từ dạng thức này qua dạng thức khác. Sự phân chia ranh giới thời gian ấy được xây dựng qua mối liên kết hỗ tương giữa kinh nghiệm lư tính và hiện tướng sinh diệt khách quan. Nói cách khác, khái niệm thời gian ba thời luôn phụ thuộc vào tính trạng cụ thể của hiện hữu mà ở đó tâm lư chủ quan hay tư duy của con người trực nghiệm trên hiện hữu ấy. Như vậy, thời gian phân lập mang ư nghĩa tâm lư, trong khi đó th́ sự biến dị hay sự vận hành của sự hữu lại có ư nghĩa khách quan. Ngài Long Thọ dạy rằng: "Nhân nơi vật thể nên có thời, ĺa vật thể th́ đâu có thời"(5). Nghĩa là, v́ ư thức đến sự đổi thay của hiện tượng giới, mà có ư thức liên hệ đến thời gian hiện hữu và hiện hữu phân lập. Thời gian được xác lập trên thực tại của hiện hữu có nghĩa là nó được thiết lập qua mối tương hệ nhân quả. Đồng thời, nó cũng gián tiếp đề cập đến bản chất vô thường v́ đă là hiện hữu theo nhân quả th́ không thể nằm ngoài vô thường. Trên cơ sở thời gian, ư niệm về sự bất tử và đoạn diệt cũng được h́nh thành trong tâm lư con người. Từ cái vô thường của cuộc đời và tư tưởng, thân và tâm, con người có tâm lư muốn thoát ly ra khỏi sự giới hạn ấy, t́m kiếm một sự bất tử, vĩnh hằng không bị giới hạn bởi thời gian. Đối tượng bất tử vĩnh hằng muốn vươn đến vừa có thể phát xuất từ một tâm lư nhận thức bi quan, vừa có thể là tích cực. Tâm lư bi quan là nhận thức về một ngă thể thường hằng - ư niệm Thượng đế. Tâm lư tích cực là nhận thức về sự giải thoát sinh tử - ư niệm Niết bàn. Cả hai ư niệm này đều có tính chất phi thời gian. Tuy nhiên, nội dung khác biệt ở chỗ là Niết bàn không phải là một ngă thể mà là trạng thái giải thoát. Ngă thể hay Thượng đế là nơi cho một tâm thức thụ động, yếu đuối bám víu, trong khi Niết bàn là trạng thái có thể đạt đến. Niết bàn là pháp vô vi, bản chất của pháp vô vi là không sinh không diệt v́ nó nằm ngoài tác động của nhân quả, nghĩa là không có thời gian tính trong nó. Ở trạng thái tâm chứng ngộ th́ vượt ra ngoài khái niệm thời gian. Con người giới hạn của một kiếp bây giờ là con người của giải thoát. Khi tâm thức trở về với thể tánh viên minh của nó th́ khoảnh khắc thời gian đầu tiên cũng là khoảnh khắc cuối cùng. Tại đây, không c̣n hiện hữu tâm lư vướng bận về một sự nỗ lực để vươn đến một kết quả qua tâm trạng chờ đợi thời gian nữa. Sự giới hạn của thời gian trong một sát na tại đó thực thể tồn tại được trực nhận cũng chính là độ dài của khái niệm vô số kiếp. Quan điểm ấy được các nhà tư tưởng của Kinh Lượng bộ (Sautràntikas) chủ trương: "Không có sự tách biệt giữa thực thể tồn tại, năng lực hoạt dụng và thời gian xuất hiện của thực thể... Chúng hiện hữu trong một khoảnh khắc và rồi đi vào hoại diệt để tiếp tục tồn tại. Sự hiện hữu và hoạt dụng của chúng chỉ là một... Quá khứ và tương lai chỉ là những danh xưng"(6). Như vậy, giữa cái giới hạn và cái vô hạn chính là điểm quy tụ ngay trong sát na hiện tại; cái lưu chuyển vô thường và cái bất tử, vĩnh hằng chỉ là những niệm khởi gắn kết với hiện tướng sinh diệt trong thời gian. Thời gian chỉ có mặt ngay khi nhận thức khởi sự hoạt động trên tính trạng hiện tại của thực thể. Thời gian không tồn tại trong quá khứ bởi v́ nhận thức chỉ nắm bắt được sự biến đổi của hiện hữu ngay sát na hiện tại. Thời lượng của một năm chính là ngày qua ngày, tháng tiếp tháng. V́ vậy, thời gian của năm cũng là thời gian của ngày mà không có ngắn có dài, có nhanh có chậm. Thời gian ước định theo tính trạng của hiện hữu là thời gian cảm tính giả lập, chỉ hiện hữu bằng khái niệm. Giống như danh xưng được gán cho những sự vật khách quan trong thế giới tương quan đối đăi, nhằm để định vị thể tính và hoạt dụng đặc thù của sự thể. Một thực thể tồn tại nhờ vào sự tương tác bởi các hạt nguyên tử của nó, nhưng thời gian th́ tồn tại bởi chính nó v́ sát na không được xem là những thành phần kết cấu của thời gian. Do vậy, khi nh́n sát na thời gian trong ư nghĩa toàn bộ, th́ nó không mang tính vô thường như hiện hữu, không bị giới hạn và biến dạng bởi những khái niệm giả lập quá khứ, hiện tại và vị lai. Thời gian của đêm qua, đêm nay hay đêm mai chỉ là một mà chẳng khác. Xuân - Hạ - Thu - Đông đến và đi theo chu kỳ rất tự nhiên của chúng trên một sát na thời gian biệt ly ư niệm và quy ước. Ư niệm về sự khởi đầu của hiện hữu thường được gắn liền với kinh nghiệm tri giác qua sự sinh tồn biến hoại của sự hữu ấy. Dưới cái nh́n của tri thức thường nghiệm th́ sự vật có thời gian khởi đầu và kết thúc. Những ư niệm này dần dần huân tập thành định kiến, tập quán mà phân định thời gian, nhằm để thích ứng với những biến đổi xung quanh cuộc sống. Cảm nhận có thời gian của hoa nở, hoa tàn theo Xuân đến Xuân đi v́ Xuân và hoa ấy được biểu thị hay bị quy định bởi thời gian khái niệm, khuôn khổ hóa, phạm vi hóa. V́ được quy định theo cảm tính nên tâm thức mới cảm nhận được mùa Xuân qua h́nh ảnh của hoa mai nở. Xuân là h́nh tượng hóa của thời gian, hoa nở là biểu hiện tính trạng biến đổi của sự vật. Cho nên thông qua h́nh ảnh hoa nở hoa tàn (hiện tượng) mà tâm lư con người tri nhận ngày Tết và mùa Xuân (thời gian) đến - đi. C̣n mùa Xuân vượt trên phạm vi thời gian khái niệm, tiết - thời th́ Xuân ấy là Xuân miên trường, thường tại giữa cái thường biến vô biên vô tận, vượt qua phạm vi thời vị ngày và đêm, thời lượng 365 ngày..., nằm ngoài cảm nhận tâm lư chủ quan quy kết vào sự vận hành của hiện tượng giới. Thời gian phi ư niệm, khuôn khổ, định kiếp tập quán chỉ có thể hiện hữu và tồn tại trong thế giới của thực nghiệm tâm linh, của "tuệ tri như thật" đối với hiện hữu.

2. Thời gian và hiện hữu

Thời gian không chỉ là đề tài bàn luận của nhà triết học, mà c̣n là đối tượng quan trọng của nhà khảo cổ học và vật lư học. Thời gian và thực tại hiện hữu là những đối tượng nghiên cứu trung tâm của triết học Đông - Tây nói chung. Hay nói cách khác, nghiên cứu về thời gian là vấn đề quan trọng của triết học bởi v́, ở một góc độ nào đó, trên căn bản yếu tố thời gian, con người có thể thấu triệt được bản chất của các pháp (hữu vi). Cả hai đều là những tiền đề của nhau và được khảo sát đồng thời mà không thể tách lập riêng biệt cái này ra khỏi cái kia. Khi hiểu được thực tính của thời gian th́ quán triệt được thực tính của hiện hữu. Tư duy con người đă gắn kết thời gian với sự sống: sự tồn tại của thời gian được nh́n nhận qua sự tồn tại và hoại diệt của hiện hữu. "Thời gian là sự hiện hữu từ đó tôi được tạo ra. Thời gian là ḍng sông cuốn trôi tôi đi, nhưng tôi là ḍng sông; thời gian là ngọn lửa thiêu đốt tôi, nhưng tôi là ngọn lửa ấy". (Jorge Luis Borges). Phạm vi t́m hiểu vấn đề ở đây là khái niệm triết học của thời gian liên hệ đến bản chất của tồn tại.

Triết học Phật giáo đưa ra khái niệm thời gian như là một thực tại khoảnh khắc được gọi là sát na thời gian (Ksana - Instant), và khái niệm về sự tồn tại/hiện hữu là tạm thời và ngắn ngủi (instantaneous). Braj M. Sinha đánh giá rằng "Khái niệm sát na liên hệ đến hai phương diện ư nghĩa: độ dài thời gian trong một khoảnh khắc và khoảnh khắc không có sự kéo dài (duration)"(7). Tất cả mọi thực tại đều nằm trong ḍng vận hành liên tục được thay thế bởi sát na thời gian và tính trạng của thực thể tồn tại. Vấn đề về sự tồn tại và thời gian luôn có sự liên hệ, ảnh hưởng trực tiếp lẫn nhau mà không phải tồn tại độc lập. Cái gọi là sự tồn tại có tính riêng biệt, độc lập chỉ có thể quy cho khía cạnh ngôn ngữ ước lệ thích ứng. Tất cả mọi quan điểm về thời gian được gắn liền với những giải thích triết học về tồn tại. Như vậy, phản ánh về thực thể đang thay đổi chưa bao giờ tách biệt với nhận thức về thời gian. Trên phương diện bản thể, một sự giải thích triết học rốt ráo về thời gian như là khoảnh khắc, và sự tồn tại có tính nhất thời (instantaneity) của hiện hữu chỉ ra được tính cách thể nhập hoàn toàn của thời gian vào trong tồn tại, đồng thời khẳng định lập trường phủ nhận quan điểm cho rằng thực thể duy tŕ được tính đồng nhất (tính năng và thể trạng) của nó trong quá tŕnh biến dịch và phủ nhận tư tưởng hữu ngă của sự vật. V́ vậy, hiện hữu không thể duy tŕ tính đồng nhất về tính năng của nó trong hai khoảnh khắc thời gian. Tính năng và hiện trạng của thực thể sau hoàn toàn khác với tính trạng của thực thể trong sát na trước.

Ư niệm về một trật tự thời gian chính là ư niệm về một trật tự tương quan nhân quả, biến dị vô thường của hiện tượng giới mà hiện tướng cụ thể của chúng là sinh - trụ - dị - diệt. Chúng ta có thể h́nh dung một thực thể đang vận hành theo thời gian đưa đến những thay đổi về phẩm chất của nó, nhưng thời gian không thể định h́nh cho những biến dị của thực thể trên nó, mà yếu tố định vị chính là nhân - duyên - quả trùng trùng. Nói cách khác, thời gian không phải là yếu tố xác lập sự vật như là quá khứ, hiện tại và vị lai. Chính năng lực hoạt động của các pháp hữu vi biểu hiện qua tướng trạng sinh, trụ, dị, diệt đă xác lập chúng thành những thời vị khác nhau. V́ vậy, trong sát na hiện tại đă bao gồm đủ cả quá khứ và vị lai. Không có sự vật nào sinh ra mà không có tính trạng đang chết đi trong nó, và không có sự thể nào lại có tính trạng tồn tại trong ngưng đọng. Nói khác, vô thường không ǵ khác hơn là sự thay thế hoàn toàn một thực thể này bởi một thực thể khác biến động liên tục; vô thường vi tế ngay trong sát na thời gian cho đến một biểu hiện cụ thể và toàn bộ. Triết gia Heracleitus nói: "Người ta không thể tắm hai lần trên cùng một ḍng sông" v́ ḍng nước luôn vận động. Plato cũng chỉ ra cùng một nhận thức tương tự: "Tất cả mọi sự thay đổi là một trạng thái đang chết đi". Từ luận thuyết vô thường và quan điểm nhân quả trùng trùng duyên khởi, tư tưởng triết học Phật giáo thường được nh́n nhận như là một hệ thống triết học của cái đang trở thành. Điều đó muốn nói rằng mọi hiện tượng (các pháp hữu vi) đang trong t́nh trạng vận động; biến hoại (không có nghĩa là mất hẳn) để trở thành và trở thành để rồi đi vào biến hoại. Nói rằng, thực tại khách quan được h́nh thành trong quá khứ, hiện hữu trong hiện tại và sẽ biến hoại trong tương lai chỉ là khái niệm có tính quy chiếu, đối đăi của tri thức thường nghiệm, giúp con người nhận diện quy tŕnh vận hành theo nguyên lư vô thường của muôn vàn sai biệt. Tiến tŕnh chuyển biến men thành rượu, hay vị chua chuyển thành vị ngọt của trái xoài... là một quá tŕnh hoại diệt và sinh thành không có thời gian gián đoạn hay ngưng tụ riêng cho mỗi tính trạng trong tiến tŕnh. Như vậy, tính trạng của thực thể ngay tại điểm sát na hiện hữu cũng mang tính tương đối về mặt tồn tại. Trong sự trôi chảy bất tận ấy, chúng ta không xác lập được ranh giới trung gian cho cái gọi là quá khứ, hiện tại và vị lai tại mỗi trạng thái biến thể của sự vật. V́ lẽ, thời gian không tồn tại độc lập với quy tŕnh vận hành của hiện hữu, mà là một sự gắn kết bất khả phân lập.

Khái niệm về thời gian toàn bộ đă phủ định ư niệm thời gian được h́nh thành từ một loạt các điểm thời gian hay sát na độc lập như là những điểm dừng cho một trạng thái tồn tại. Bởi v́ một sát na thời gian không có nghĩa là một thành phần cấu trúc của thời gian mà chính là toàn bộ thời gian của một tồn tại. Trong khuôn khổ có tính khái niệm, giáo thuyết vô thường chỉ ra rằng không có một thực thể nào có thể kéo dài sự tồn tại của chính nó hơn một sát na. Điều này ngụ ư rằng sự hoại diệt của một thực thể xảy ra ngay lập tức sau giây phút có mặt và ngay trong sự tồn tại của chính nó. Quan điểm ấy chính là lập trường khi Phật giáo chủ trương giáo lư vô thường. Tại mỗi khoảnh khắc, thực thể được thay thế bởi tính năng khác. Khoảnh khắc của thời gian và tính trạng của hiện hữu được kế thừa ngầm nói lên sự hoại diệt của khoảnh khắc và tính trạng trước nó.

Hiện hữu và vô thường là hai khái niệm thoạt nghe có vẻ mâu thuẫn nhau. Bởi v́ đă là hiện hữu th́ không thể vô thường và ngược lại. Nhưng sát na của vô thường không có nghĩa là đoạn diệt, trống rỗng, cái thực tại và sát na của hiện hữu không phải là trạng thái ngưng đọng hoàn toàn. Phật giáo thừa nhận sự tồn tại của hiện hữu, nhưng tồn tại trong sự trôi chảy và điều đó muốn nói lên bản chất tạm thời của hiện hữu. Thay đổi là đặc tính chung của mọi hiện tượng có tính tồn tại phụ thuộc mà biểu hiện của nó là sự có mặt và hoại diệt (trong ư nghĩa thay thế) của một thực thể. Nhưng, khái niệm thay đổi hay biến dịch không có nghĩa là sự đoạn diệt hoàn toàn mà ngụ ư một sự thay thế có tính nhân quả của thực thể này bởi thực thể khác, tính trạng này bởi tính trạng khác tại mỗi sát na thời gian không gián đoạn. Chẳng hạn sự biến đổi từ nước thành băng đá và ngược lại, dẫn theo tính trạng khác biệt hoàn toàn của chúng. Nhận xét theo tri thức thường nghiệm, ta nói rằng tiến tŕnh biến dịch của thực thể trải qua một khoảng thời gian rất dài, như thế là muốn thừa nhận rằng thực thể đó có thể kéo dài sự hiện hữu của nó trong một khoảng thời gian đứng yên và chờ một nguyên nhân cụ thể và trực tiếp tác động cho sự hoại diệt của nó. Một ư niệm như thế sẽ mâu thuẫn với tính chất vô thường của hiện hữu trong từng sát na thời gian. Mặc dù sự vật ta đang đối diện hay quan sát dường như là đang tồn tại trong trạng thái đứng yên, nhưng thực tế nó đă trải qua vô số khoảnh khắc biến dịch và vô số tính trạng khác nhau của nó cũng được thay thế. Ta có thể h́nh dung điều này qua sự phân tích h́nh ảnh ḍng thác đổ hay việc chiếu lại h́nh ảnh trong phim. Tuy là cảnh hiện hành dường như không đổi nhưng thực tế có vô số hạt nước nối kết nhau trong sự vận hành của ḍng thác và rất nhiều đoạn phim trôi qua trên h́nh ảnh có vẻ đứng yên đó. Quán sát bằng phân tích, ta nhận thấy rằng trái xoài đă biến dịch ngay trong từng sát na thời gian hay có vô số sát na đă thay thế nhau và đồng thời kéo theo một sự thay thế của nhiều tính trạng khác nhau trong nó. Sát na trước và tính trạng trước của một thực thể chỉ có giá trị về mặt tác dụng (nhân duyên) mà không có giá trị về mặt hiện hữu và bản chất trong sát na hiện tại, v́ Phật giáo thừa nhận hiện hữu chỉ có giá trị trong sát na hiện tại duy nhất.

Luận thuyết nhân quả ngầm chỉ cho giáo thuyết vô thường hay tồn tại có tính chất tạm thời của hiện hữu. Khi nhận thức về thời gian, Phật giáo tŕnh bày quan điểm của ḿnh thông qua giáo thuyết vô thường và tính chất vô thường của sự vật được xây dựng trên căn bản năng lực tác dụng của nhân duyên. V́ vậy, sự tương quan giữa yếu tố nhân quả, vô thường và thời gian luôn là cơ sở nghiên cứu triết học về bản chất của hiện tượng giới.




__________________
Đời Mất anh Rồi vui với Ai !
Quay trở về đầu Xem saodem's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi saodem
 
canlong
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 14
Msg 6 of 9: Đă gửi: 19 March 2006 lúc 4:14am | Đă lưu IP Trích dẫn canlong

LỢI ÍCH CỦA SỰ THỰC HÀNH CHÁNH NIỆM

Chánh niệm là sự an trú tâm ư vào các thiện pháp, là sự nhớ nghĩ chơn chánh, đúng đắn, không bị các bất thiện pháp chi phối. Các niệm tưởng có chánh kiến, chánh tư duy được xem là chánh niệm.

Thanh Tịnh Đạo luận nói: Khi hành giả xa ĺa bốn tà niệm th́ gọi là an trú chánh niệm. Bốn tà niệm đó là:

1. Cho rằng thân thể là thanh tịnh, tốt đẹp đáng yêu chuộng, ưa thích trong khi thân thể vốn bất tịnh do các duyên giả hợp mà thành.

2. Cho rằng các cảm thọ (lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ) là thật nên tham đắm, mến tríu, hoặc chán ghét v.v... Nhưng tất cả cảm giác, cảm nhận đều do duyên sinh không thực thể, không nhất định.

3. Cho rằng tâm thức là trường tồn, bất biến (chấp thường), trong khi tâm luôn thay đổi, vô thường.

4. Cho rằng vạn hữu là thật có, là hữu ngă, có thật tính trong khi thế giới sự vật hiện tượng là duyên sinh vô ngă, luôn chuyển biến, đổi thay.

Thường ngày chúng ta để cho tâm chúng ta rong chơi, chạy đuổi theo sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, chúng ta đánh mất chánh niệm. Bây giờ chúng ta ngồi lại tụng kinh, niệm Phật, tọa thiền v.v... là chúng ta quay về với chánh niệm. Chúng ta không để cho tâm rong ruổi theo trần cảnh, không để cho tâm bị lôi cuốn, ràng buộc bởi các duyên mà để cho tâm an trụ vào các thiện pháp, để cho tâm thanh tịnh, sáng suốt, đó chính là sống trong chánh niệm. Nếu tụng kinh, niệm Phật mà để cho tâm lăng xăng, thân một nơi mà tâm một ngả, phan duyên, khởi phiền năo th́ cũng không phải là sống trong chánh niệm.

Người có chánh niệm biết rơ ḿnh đang nghĩ ǵ, làm ǵ, đâu là việc làm đưa đến an lạc, hạnh phúc (hành động thiện), đâu là con đường đưa đến bất hạnh, khổ đau (hành động bất thiện). Người có chánh niệm ư thức rơ sự có mặt của ḿnh và những người xung quanh trong từng thời khắc hiện tại, những ǵ đang diễn ra, ư thức được sự sinh diệt, vận hành của các pháp.

Người không có chánh niệm thường sống trong ảo tưởng, mơ hồ, bị trần duyên lôi cuốn, chạy đuổi theo sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp dẫn đến tạo nghiệp và cuối cùng là nhận lănh khổ đau.

Khi tâm chúng ta không chạy đuổi theo trần cảnh, không bị ngoại duyên chi phối, bên trong không c̣n vọng động móng khởi theo pháp trần, không c̣n bám víu quá khứ, vọng tưởng tương lai th́ lúc đó thực tại sống động sẽ hiện lên trước mắt.

Khi không có chánh niệm hoặc năng lực chánh niệm quá yếu, con người dễ dàng bị lôi cuốn bởi các pháp ác, bất thiện. Trong cuộc sống đời thường, các pháp ấy là: trộm cướp, tà dâm, rượu chè, cờ bạc, nghiện ngập x́ ke ma túy, đố kỵ, ghen ghét, hơn thua tranh đấu, oán thù v.v... Lúc đó chúng ta hoàn toàn bị xâm chiếm về thể chất lẫn tinh thần. Chúng ta sẽ không c̣n t́m được niềm vui và hạnh phúc trên cuộc đời này, không c̣n thấy được ư nghĩa và giá trị của những ǵ trước mắt. Chánh niệm chính là nghệ thuật sống thiết thực.

Chánh niệm chẳng những là năng lực giúp chúng ta đạt được đời sống an lạc trong hiện tại mà c̣n dẫn đến thành tựu thiền định và trí tuệ giải thoát. Nhưng chúng ta thực hành chánh niệm như thế nào để đạt được điều đó?

Chúng ta thực hành chánh niệm về thân, về cảm thọ (vui, buồn, yêu thương, ghét muốn, hạnh phúc, khổ đau v.v...), về tâm ư (tham, sân, si, mạn v.v...), về đối tượng của tâm ư, tức các pháp (tất cả sự vật, hiện tượng tâm lư, sinh lư, vật lư).

1Trong kinh Niệm Xứ, số 10 thuộc Trung Bộ kinh, Đức Phật dạy các Tỳ kheo thực hành chánh niệm bằng pháp môn Tứ niệm xứ như sau:

1. Tỳ kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

2. Tỳ kheo sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

3. Tỳ kheo sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

4. Tỳ kheo sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

Cũng tương tự như ở kinh Tứ Niệm Xứ, trong kinh Thân Hành Niệm, Đức Phật dạy về pháp quán thân trên thân có: quán niệm hơi thở vô, hơi thở ra, quán niệm các oai nghi của thân (đi, đứng, ngồi, nằm), và quán niệm các hoạt động của thân (đi tới, đi lui, ngó tới, ngó lui, làm việc, ăn uống, ngủ nghỉ v.v... biết rơ việc ḿnh đang làm, nhất cử nhất động đều tỉnh giác ư thức rơ ràng).

Về pháp quán niệm cảm thọ trên các cảm thọ, Đức Phật dạy trong bài kinh Tứ Niệm Xứ như sau: Khi cảm giác lạc thọ, chúng ta tuệ tri lạc thọ, khi cảm giác khổ thọ, chúng ta tuệ tri khổ thọ và khi có cảm giác bất khổ bất lạc thọ (cảm giác trung tính, không khổ không vui) th́ tuệ tri bất khổ bất lạc thọ v.v... Ta sống an trú chánh niệm, không chấp trước và biết rơ sự sanh khởi, diệt tận của các thọ, biết rơ các thọ thuộc vật chất hay không thuộc vật chất v.v...

Về pháp quán tâm trên tâm, Đức Phật dạy: Khi tâm có tham, sân, si, chúng ta tuệ tri tâm có tham, sân, si; khi tâm không có tham, sân, si, chúng ta tuệ tri tâm không có tham, sân, si. Khi tâm định tĩnh ta tuệ tri tâm định tĩnh; khi tâm tán loạn ta tuệ tri tâm tán loạn. Chúng ta thường tỉnh giác, chánh niệm, biết rơ sự sanh diệt, hiện hành của tâm.

Về pháp "quán pháp trên các pháp", Đức Phật dạy:

- Đối với năm triền cái (dục tham, sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối, nghi), chúng ta tuệ tri rơ ràng trong nội tâm có mặt hay không có mặt năm triền cái, tuệ tri rơ ràng sự sinh khởi và đoạn diệt của năm triền cái.

- Đối với Ngũ uẩn, chánh niệm tỉnh giác trước sự tập khởi và đoạn diệt của sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Đối với sáu nội xứ, ngoại xứ, tuệ tri sự sanh khởi và đoạn diệt của các kiết sử khi sáu nội xứ (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư) và sáu ngoại xứ (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) tiếp xúc, duyên với nhau.

- Đối với Thất giác chi, tuệ tri rơ ràng nội tâm có hay không có niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả giác chi, Thất giác chi sanh khởi và được tu tập viên măn như thế nào.

Đối với Tứ Thánh đế, như thật tuệ tri đây là khổ, đây là khổ tập (nguyên nhân của khổ), đây là khổ diệt (sự chấm dứt khổ) và đây là khổ diệt đạo (con đường đưa đến khổ diệt).


__________________
Đừng bao giờ hỏi tại sao
Quay trở về đầu Xem canlong's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi canlong
 
ngocnguyet
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 December 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 32
Msg 7 of 9: Đă gửi: 19 March 2006 lúc 4:17am | Đă lưu IP Trích dẫn ngocnguyet

NGƯỜI TẠI GIA TU PHẬT


Tu có nghĩa là sửa. Tu rất khó, khó nhất là tu tại gia, cho nên có câu: Thứ nhất tu tại gia, thứ nh́ tu chợ, thứ ba tu chùa. ở chùa có nhiều thiện duyên nên tương đối dễ tu. ở chợ lại khó tu hơn một chút v́ phải giữ ḷng ngay thẳng, không gian manh lường cân tráo đấu; ở nhà lại khó hơn nữa v́ bạn ác rủ rê làm ta dễ bị sa đọa.



Quy Y Tam Bảo

Muốn tu tại gia trước tiên ta phải quy y Tam Bảo, và khi ta quy y Tam Bảo th́ vấn đề lễ bái đối với ta rất quan trọng. điều thứ nhất trong hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ tát là: Nhất giả lễ kính chư Phật      .

Có một lần ở thành Vương xá, đức Thế Tôn thấy con gia chủ là Thi-Ca- la-việt (Thiện Sanh) sáng nào cũng hướng 6 phương để đảnh lễ trong lúc đầu tóc áo quần đang c̣n ướt sũng. đức Thế Tôn hỏi Thi-Ca-la-việt lễ lạy như thế để làm ǵ? Th́ y thưa rằng lễ lạy như vậy là chỉ để làm theo lời cha dặn trước lúc lâm chung.

Chúng ta đôi khi cũng lễ lạy như vậy, lễ lạy theo thói quen khi bước chân vào chùa, lễ lạy khi nghe tiếng chuông, nhưng chúng ta cũng không ư thức lễ lạy để làm ǵ, và v́ sao phải phải lễ lạy? Hoặc giả chúng ta lễ lạy để cầu xin mua may bán đắt, cầu xin cho con cái thi đậu, cầu xin sức khỏe khi có người thân lâm bệnh. Chúng ta thường chỉ biết lễ lạy với tâm nguyện cầu như thế. Chúng ta đă quên mục đích cao cả khi chúng ta đă quy y Tam Bảo là chúng ta phải học đạo của đức Phật, hành đạo như đức Phật, mục đích là xoay đời sống hung ác của ta thành đời sống từ bi, xoay xấu xa trở thành tốt đẹp. Chúng ta thường hay bạ đâu tính đó, ham kinh doanh, ham làm tiền, ham danh vọng, nên đời sống của chúng ta do đó không an lạc, chúng ta không được giải thoát. Khi một đệ tử đến cầu xin đức Phật giải thoát cho y khỏi bao đau khổ, phiền năo, th́ đức Phật hỏi y: Ai ràng buộc ngươi? Ai không cho ngươi được giải thoát?

Quy y Tam Bảo là nương theo Tam Bảo để làm như đức Phật, để tu như đức Phật cho đến khi được chánh đẳng chánh giác. Cho nên, khi chúng ta đă quy y Tam Bảo th́ chúng ta không lạy gốc cây, không lạy bờ sông, không cúng ông Táo. Nếu chúng ta vẫn làm như vậy tức là chúng ta đă quên rằng chúng ta đă quy y Tam Bảo. Như vậy, chẳng khác nào anh làm ruộng gieo giống ngoài đồng rồi bỏ đó, không chăm sóc, không tưới bón, không vun quén, nếu chúng ta quy y Tam Bảo mà chúng ta không tu, không học đạo, không làm theo đạo Phật. Nếu chúng ta nhận định sai th́ một ngày kia chúng ta phải thối tâm và sa đọa.

Đức Phật dạy một bài học cho chúng ta là: của cải không đem lại chân hạnh phúc. đức Phật một hôm ngồi trên một đám cỏ ướt mà không lạnh, không thấy khổ, v́ nguyên nhân gây khổ đức Phật đă dứt từ lâu, nên đức Phật vẫn an nhiên tự tại, đức Phật bảo rằng: nằm trong nệm ấm chăn êm mà ḷng tham, sân, si không dứt, luôn luôn lo sợ mất của th́ vẫn đau khổ như thường.

Chúng ta đôi khi quên mục đích quy y và lễ bái Tam Bảo của chúng ta, và nếu chúng ta chỉ lễ bái với mục đích thỏa măn ḷng ham muốn tầm thường bất chính, th́ chúng ta không bao giờ đạt được mục đích cao cả kia. Ngày xưa có một anh thờ vị Thần Lă tổ và trú dạ lục thời anh ấy đều hương hoa lễ bái kính cẩn, chí thành. Ông Thần thấy anh kia tâm thành như vậy, rất cảm động, bèn hỏi anh ấy muốn cầu xin điều ǵ, th́ y đáp là muốn xin Thần cho một chén vàng v́ nhà y nghèo quá. ông Thần liền đưa ngón tay hóa phép và một chén vàng hiện ra cho y. Anh ta mừng quá! Vài hôm sau anh ta lại tiếp tục hương hoa lễ bái thành khẩn như trước. ông Thần lại hiện lên và lại hỏi anh ta muốn cầu điều ǵ? Anh ta liền thưa chén vàng nhỏ quá, không đủ để chi dùng, xin thần cho y một b́nh vàng. ông Thần lại đưa ngón tay ra chỉ và một b́nh vàng đầy ắp hiện ra. Anh ta mừng quưnh. Nhưng chẳng bao lâu anh ta nghĩ rằng ḿnh muốn nhiều thứ hơn nữa, mà mỗi lần cầu xin th́ chỉ được một thứ mất công lễ bái. Lần nầy anh ta sắm nhiều hương hoa, lễ bái nhiều hơn trước và thành khẩn hơn trước. ông Thần thắc mắc quá, chẳng biết anh ta c̣n muốn ǵ? ông hỏi, con c̣n muốn cầu xin điều ǵ nữa? Có phải con muốn đạo không? Hỏi năm ba lần anh ta mới thưa rằng ỏChỉ muốn xin ngón tay làm phép của Thần thôi , ông Thần nổi giận đưa ngón tay chỉ một cái, tức th́ nhà cửa, xe cộ, của cải ǵ của anh ta cũng sụp đổ tan tành. Thế mới hay nếu chúng ta lễ bái với mục đích cầu lợi lạc th́ không bao giờ được thỏa nguyện, bởi ḷng tham của chúng ta vô bờ.

Lễ bái đúng đắn

Nếu chúng ta không rơ ư nghĩa của lễ bái th́ việc lễ bái trở thành vô ích. V́ sợ sệt mà lễ, v́ lợi lộc mà lễ th́ lễ Phật cũng như lễ gốc cây, bụi bờ không khác. đằng này chúng ta lễ Phật v́ kính trọng đức hạnh cao cả, v́ phục sát đất tâm lượng đại từ đại bi của đức Phật, trí huệ rộng lớn bao la của đức Phật. Chúng ta đă quy y theo Phật th́ tâm lượng ta cũng phải rộng răi bao la, chúng ta cũng phải có trí tuệ sáng suốt, như đức Phật, chúng ta cố gắng bỏ tánh tham lam bỏn xẻn nhỏ mọn hẹp ḥi. Biết rằng đồng tiền không đem lại hạnh phúc tuyệt đối, nó là ỏmột đầy tớ trung thành và đồng thời cũng là một người chủ khắc nghiệt (ngạn ngữ Tây phương). Nếu chúng ta không để cho đồng tiền làm chủ th́ đồng tiền mới đem lại hạnh phúc cho ta. (Xem câu chuyện anh chàng nghèo khổ nhưng đă phát tâm cúng dường tấm áo choàng duy nhất, rồi vừa la vừa chạy ỏđược rồi, được rồi á; gặp lúc vua ngự ngang qua, cho đ̣i lại hỏi cớ sự. Sau khi biết chuyện, vua khen ngợi tấm ḷng quảng đại của anh ấy và thưởng cho nhiều của cải).

Chúng ta lễ Phật là để cảm ân đức Phật đă giáo hóa chúng ta, đă bày chế ra bao nhiêu pháp môn phương tiện hầu dẫn dắt chúng ta đến Niết bàn, đến giải thoát. Phá trừ ngă chấp là giáo lư cao quư nhất mà đức Phật dạy cho chúng ta. Có người tu lâu năm, đạt được thần thông, bèn lên Thiên đường gơ cửa Thượng đế. Thượng đế hỏi Ai đó? . Người kia đáp: ỏTôi đây . Thượng đế hỏi: Tôi là ai? Người kia đáp: Tôi là tôi. Thượng đế bảo: Nếu tôi là tôi và ông là ông th́ ở đây không có chỗ cho hai người cùng ở, hăy về đi. Người kia trở về tu nữa. Lần sau, khi gơ cửa Thiên đường và Thượng đế hỏi: Ai đó?- Tôi. Tôi là ai? th́ người kia đáp: Tôi là Ngài. Thượng đế mới bảo: ỏhăy vào . Cho nên khi chúng ta không phân biệt tôi, anh, khi chúng ta không chấp cái ỏta th́ bao nhiêu người cũng như một, đều sống chung với nhau, ḥa thuận vui vẻ.

Đứa bé mới ra đời chưa biết ǵ. đến một tuổi cha mẹ mới đặt cho một cái tên, có khi một cái tên rất xấu xa, và dần dần nó chấp chặc cái tên đó là ḿnh, một khi có ai gọi cái tên ấy mà tán thán, khen ngợi th́ nó lại thấy sung sướng, phấn khởi. Sau này khi lớn lên, khi nghe người khác xưng hô với ḿnh thiếu lịch sự th́ lại phiền muộn. V́ một cái tên bông lông, không đâu mà ḿnh cứ đau khổ, sống chết luân hồi triền miên với nó? Nếu tin hiểu được lời Phật dạy: ỏVạn pháp đều như hóa như huyễn th́ ta không bao giờ đau khổ nữa, không phiền muộn nữa. Cái danh xưng là giả tạm, cái thân là giả hợp, nếu chúng ta hiểu được như vậy, tất chúng ta an lạc, giải thoát (danh xưng như huyễn vô ngă).

Khi lễ Phật, chúng ta nguyện ǵ? Nguyện tiêu tam chướng, trừ phiền năo, nguyện trí huệ viên măn, nghiệp chướng tiêu trừ, nguyện thường hành Bồ tát đạo. đó là đem lại an lạc cho ḿnh, cho nhân loại, cho chúng sanh. Cái an lạc này là an lạc từ trong tâm mà ra, từ trong ḷng ḿnh phát ra. đức Phật dạy chỉ cái an lạc phát ra từ trong ḷng ḿnh mới là cái an lạc chân thật, c̣n cái an lạc từ ngoài mà có th́ cái an lạc ấy là giả tạo.

Ta lễ bái 10 phương để làm ǵ? và ta lễ ai? Tức là ta lễ tất cả biến pháp giới: Nhất nhất biến lễ sát trần Phật. Tức ta cầu tất cả các đức Phật hộ tŕ để ta: a) diệt trừ được bốn nghiệp phiền năo (sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối), b) diệt trừ bốn lư do làm ác (tham lam, sân hận, ngă mạn, ngu si), c) trừ bỏ sáu nguyên nhân phung phí tài sản (cờ bạc, rượu chè, giao du đường phố phi thời, la cà đ́nh đám hí viện, giao du ác hữu, quen thói lười biếng). Như vậy vấn đề lễ bái mới chính đáng.

Kinh đức Phật dạy cho người tại gia. Nếu ai học được đúng đắn sẽ trở thành người tốt nhất. Ngài dạy rằng người tu tại gia cần biết tích lũy tài sản như con ong, như đụn mối. Tiền của chia thành 4 phần: một để tiêu pha, hai phần làm vốn, một phần để dành khi gặp tai biến, khó khăn, làm việc từ thiện cúng dường. Chúng ta đă có nhiều công phu học Phật pháp nhưng ít khi nghe được một pháp vừa như ly sữa ngon ngọt cho trẻ thơ, như bữa ăn ngon cho người lớn, như bữa ăn bổ dưỡng cho người già cả. Ngài dạy dỗ chúng sinh không phân biệt, lời dạy chung, không bỏ ai, không chọn lựa ai; ai cố gắng nghe, th́ hành tŕ được giải thoát trọn vẹn. Mọi căn cơ đều có pháp môn thích hợp.



SÁU NGUYÊN NHÂN PHUNG PHÍ TÀI SẢN



Nhân một buổi sáng đức Phật đi khất thực, thấy chàng Thiện Sanh, con gia chủ, hướng sáu phương lễ bái, đức Phật liền dạy muốn cho việc lễ bái có ư nghĩa, trước tiên không làm 4 hạnh ác là tham, sân, si, mê; sau đó tránh xa 6 nguyên nhân phung phí tài sản mà ở đời ít ai tránh khỏi. đó là:



1.        Đam mê rượu: có sáu điều bất lợi là tài sản bị hao tổn, ưa đấu tranh, tật bệnh dễ xâm nhập, thương tổn danh dự, để lộ thân tàng, trí huệ thương tổn, tâm trí không b́nh tỉnh (Câu chuyện một vị ưu bà tắc vô t́nh uống lầm rượu mà phạm mọi giới: ăn cắp gà, sát sanh, tà dâm, nói dối);

2.        Du hành đường phố phi thời: không ai che chở cho ḿnh, không ai hộ tŕ gia đ́nh, tài sản không ai trông nom, bị t́nh nghi tác giả các ác sự, nạn nhân các tin đồn thất thiệt, tự rước vào thân nhiều khổ năo;

3.        La cà đ́nh đám hí viện: tâm mơ tưởng vui chơi, bỏ bê vợ con,xao lăng công ăn việc làm, hao tổn tiền bạc;

4.        Đam mê cờ bạc: nếu thắng th́ gây thù oán, nếu thua th́ tâm sanh phiền muộn, tài sản bị hao thất, gây ra tranh chấp đánh lộn, tại hội trường lời nói không ai tin, bạn hữu khinh khi, vấn đề cưới gả không được tín nhiệm;

5.        Thân cận ác hữu: đó là những bạn cờ bạc, bạn loạn hành, người nghiện rượu, kẻ bạo động, người lừa gạt;

6.        Quen thói lười biếng: luôn luôn kiếm cớ để từ chối làm việc (quá nóng, quá lạnh, quá trễ, quá đói, quá no).



CHỌN BẠN LÀNH MÀ CHƠI

Đức Phật dạy phải chọn bạn như thế nào? Chọn thiện hữu tri thức mà giao du, nghĩa là người bạn lành. Có nhiều loại bạn: bạn rượu, bạn cờ bạc, bạn cơ hội, bạn mồm. Bạn giúp ḿnh lúc hữu sự mới đúng là bạn tốt. Ác hữu là bạn cờ bạc đam mê héo ṃn như trăng khuyết, nợ nần như ch́m trong bồn nước. Làm bạn thế nào cho xứng đáng mới đúng là tự giác giác tha.

Có bốn hạng người không phải là bạn: đụng vật ǵ cũng lấy, chỉ biết nói giỏi, khéo nịnh hót, tiêu pha xa xỉ, sợ thế lực, cho ít xin nhiều. Bạn v́ mưu lợi, tỏ lộ thân t́nh trong việc đă qua, hoặc việc chưa đến, mua chuộc cảm t́nh bằng sáo ngữ; khi có công việc tự tỏ bất lực; đồng ư các việc ác, không đồng ư các việc thiện; trước mặt th́ tán thán, sau lưng lại chỉ trích. Tiêu pha xa xỉ, cờ bạc rượu chè, vui chơi bê tha, đ́nh đám, du hành đường phố phi thời: người trí sẽ tránh.

Bạn nên có: người bạn giúp đỡ ḿnh khi hữu sự, khuyên điều lợi ích, người bạn chung thủy, có ḷng thương tưởng tới ḿnh. Ḿnh muốn làm bạn với ai ḿnh cũng cần 4 điều tốt ấy: khuyên nhủ bạn khi bạn vô ư phóng dật, che chở cho bạn, làm chỗ nương tựa cho bạn khi bạn có điều sợ hăi, giúp thành hai lần khi bạn thiếu thốn (câu chuyện Lưu B́nh Dương Lễ). Người bạn trong nạn khổ cũng như lúc vui, thổ lộ tâm t́nh, giữ ǵn những điều bí mật của bạn hoặc tốt hoặc xấu, không bỏ ban khi bạn gặp khó khăn, dám hy sinh thân mạng v́ bạn. Có câuỏBần cư náo thị vô nhân vấn, Phú tại thâm sơn hữu viễn thân : có nghĩa là khi nghèo nếu ở ngoài chợ cũng không ai hỏi, lúc giàu nếu có ở núi sâu cũng lắm kẻ t́m đến. đó cũng không phải là bạn.

Đức Phật là người bạn không mời: Ngài không chấp chứa tiền của, Ngài đă diệt trừ ḷng kiêu mạn, đi làm bạn với tất cả mọi người. Trong sự không nói, Ngài nói rất nhiều. Ngài đă diệt trừ ḷng tham, chỉ ăn một bữa ngọ; khất thực buổi sáng (Ngài không khất thực buổi chiều), b́nh đẳng không lựa chọn. Có người chỉ trích Ngài chỉ đi khất thực, không làm lấy mà sống, Ngài đáp lại rằng Ngài cũng đang gieo trồng đây: Trong việc khất thực Ngài gieo hột giống từ bi; Ngài cũng cày bừa: cái cày là tinh tấn, cái bừa là nhẫn nhục, con trâu là thiền định; Ngài cho bạn nghe những điều chưa được nghe, chỉ cho bạn biết con đường lên cơi chư Thiên.

Bạn tốt là người không hoan hỉ khi bạn ḿnh gặp nạn, hoan hỉ khi bạn ḿnh gặp may mắn, cản ngăn khi nghe người khác nói xấu bạn ḿnh. Bạn như hoa, bạn như cân: không phải là bạn. Bạn như hoa là bạn v́ danh vọng, v́ giàu có, v́ lợi lộc. Bạn như cân là bạn luôn luôn đ̣i hỏi sự cân xứng cả hai bên, cân qua cân lại, giúp qua giúp lại, mới làm bạn. Bạn như đất, mới đúng là bạn tốt: tâm thành thiết tha, giúp cho bạn ḿnh được lợi ích, không ganh tị, mà hoan hỉ (như đám đất). Ngược lại, khi bạn sa cơ, nghèo khổ, ḿnh vẫn như như, không bỏ bạn, đó là bạn chắc thật. Không nên gần gũi những người mà ḿnh không coi như bạn thiết, để khỏi bị dẫn dắt vào đường hư hỏng, biếng nhác. Ḿnh làm bạn với ai cũng vậy, thiệt tâm giúp đỡ bạn. Khi bạn bị thất sủng, ḿnh không bỏ. đó là bắt đầu cơ bản để đi đến việc lễ bái sáu phương có ư nghĩa như sau đây.



SÁU PHƯƠNG LỄ BÁI

Đó là: Phương đông chỉ cha mẹ, phương nam chỉ sư trưởng, phương Tây chỉ vợ chồng, phương Trên chỉ tôn sư (Sa môn, Bà la môn), phương Bắc chỉ bạn bè và phương Dưới chỉ người giúp việc.

Chúng ta phải liên quan với sáu mặt mới sống được, sáu phương đó tương quan mật thiết với chúng ta. Nếu cắt đứt với sáu tương quan này th́ chúng ta không thể sống được. Ḿnh sống đây là sống tương quan với sáu hạng người, vậy ta cư xử thế nào cho đúng, theo lẽ phải, theo luật pháp?



1.        Phương Đông: Làm con phải phụng dưỡng cha mẹ, có bổn phận hầu hạ sớm tối, bảo vệ tài sản của cha mẹ, lo lễ tang khi cha mẹ qua đời. Cha mẹ nuôi con với t́nh thương, con cũng phải phụng dưỡng cha mẹ với t́nh thương, sớm tối viếng thăm, cung kính giữ ǵn truyền thống gia đ́nh. Ngược lại, cha mẹ cũng có 5 bổn phận đối với con cái: cưới vợ gả chồng, lo nghề nghiệp cho con, ngăn ngừa không cho con giao du với bạn xấu, con hư là cha mẹ có một phần trách nhiệm, trao của cải sự nghiệp cho con khi đúng thời. Ḷng thương không sáng suốt làm cho con hư hỏng. Chọn nơi xứng đáng làm vợ làm chồng cho con. Ngày xưa các bậc cha mẹ chọn nơi môn đăng hộ đối, để lại lời than trách của các con, xui con vào đường t́ thiếp. Không nên v́ tham lam mà đưa đẩy con vào đường xấu xa. Ân và oán là do trong gia đ́nh mà ra, khéo tu là hạnh phúc, không tu là dây oan. Như vậy là phương đông được che chở, không có chi sợ hăi.



2.        Phương Nam: Ta phải phụng sự Sư trưởng như phụng sự cha mẹ ỏTiên học lễ, hậu học văn , chào hỏi thăm viếng ân cần, hầu hạ Sư trưởng, hăng hái học tập. Ngược lại Sư trưởng có bổn phận huấn luyện đệ tử như ḿnh đă được huấn luyện, thương đệ tử, khen đệ tử khi đệ tử học giỏi, đảm bảo nghề nghiệp cho đệ tử. Như vậy, phương Nam được che chở, không có chi sợ hăi.



3.        Phương Tây: đối với vợ, người chồng phải kính trọng, không bất kính, thủy chung, giao quyền hành cho vợ, sắm đồ nữ trang cho vợ, khuyên răn giáo dục vợ khi vợ hổn hào, như chuyện sau đây: Có một chàng kia gặp chị vợ hỗn hào quá, luôn luôn chửi mắng chồng, nguyền rủa chồng khi có điều ǵ không vừa ư. Chàng ta mới đi mua về một cái ḥm để trong nhà. Chị vợ hỏi: Mua ḥm để làm ǵ? Chàng ta đáp là mua về để chôn anh khi anh chết, v́ có thể anh chết th́nh ĺnh chưa biết khi nào. Và mỗi lần chị vợ chửi rủa chồng th́ anh đánh th́nh thịch trên quan tài và khóc rống lên: Chàng ơi, sao chàng chết đi, chàng nỡ bỏ thiếp bơ vơ một ḿnh, không ai giúp đỡ, không ai trông nom, bảo vệ thiếp? Và chàng cứ khóc hoài thảm thiết cho đến khi chị vợ ngưng mắng mỏ, chàng mới thôi khóc. Và vài ba lần như vậy, chị vợ suy nghĩ lại, thấy ḿnh hỗn hào với chồng thật là không nên, và từ đó, không bao giờ chị ta mắng mỏ chồng nữa. đó là một cách giáo dục vợ, đem lại kết quả tốt đẹp. NgườI vợ đối với chồng cũng phải làm hết bổn phận: khéo đón tiếp bà con chồng, trung thành với chồng, giữ ǵn của cải, khéo léo làm mọi việc trong gia đ́nh. Như vậy, phương Tây được an ổn, che chở, không chi sợ hăi.



4.        Phương Bắc: Không lường gạt th́ được bạn bè thương tưởng; che chở bạn, bảo vệ tài sản cho bạn, trở thành chỗ nương tựa cho bạn; không tránh xa khi bạn gặp khó khăn; kính trọng gia đ́nh bạn. Như vậy, phương Bắc được che chở lẫn nhau, không ai sợ ai.



5.        Phương Dưới: đối với người giúp việc, lo lắng ăn uống và tiền lương đầy đủ. Bắt làm việc nhiều mà trả lương ít coi như mắc nợ người ta vậy; điều trị người giúp việc khi có bệnh hoạn, ốm đau; có miếng ăn ngon chia xẻ cho người giúp việc; thỉnh thoảng cho nghỉ phép. Như thế người giúp việc sẽ trờ thành bạn với ḿnh;nếu không đối xử đúng đắn, người giúp việc sẽ trở thành người thù đối với ḿnh. Ngược lại, đối với chủ, người giúp việc phải thức khuya dậy sớm, thức trước khi chủ thức dậy và đi ngủ sau chủ, tự bằng ḷng với các vật chủ cho, khéo đảm đang công việc, không phải làm cho lấy có; đem danh tiếng tốt về cho chủ. Như vậy, chủ xứng đáng mà tớ cũng xứng đáng, và phương Dưới được che chở, không có chi phải sợ hăi.



6.        Phương Trên: đối với Sa môn, Bà la môn, chúng ta phải có ḷng từ, hành động tốt về thân, khẩu và ư; mở rộng cửa để đón Sa môn và Bà la môn, cúng dường các vật dụng cần thiết. Sa môn và Bà la môn đối với chúng ta th́ có ḷng thương tưởng chúng ta, ngăn không cho làm điều ác, cảnh giác khuyên răn, khuyến khích làm điều thiện, làm cho thanh tịnh những điều đă nghe; thương xót chúng sanh với tâm từ bi; là thiện tri thức của chúng ta, dạy chúng ta những điều chưa nghe, chưa biết, làm cho rơ ràng để thực hiện cho được, đó là pháp thanh tịnh, làm cho chúng ta hoàn thành đạo Nhân thừa. Như vậy, phương Trên che chở, hai bên trở thành nơi nương tựa cho nhau, che chở cho nhau.

Trên đây là pháp Lễ bái đầy đủ sáu phương theo kinh Thiện Sanh và để kết luận, đức Phật nói bài kệ:



Cha mẹ là phương đông        &nb sp;    Sư trưởng là phương Nam

Vợ chồng là phương Tây         &nb sp; Bạn bè là phương Bắc

Nô bộc là phương Dưới       &nb sp;     Sa môn, Bà la môn

Có nghĩa là phương Trên         &n bsp;  Cư sĩ và gia đ́nh

đảnh lễ phương hướng ấy        &nbs p; Kẻ trí giữ giới luật

Từ tốn và biện tài         &nb sp;         &nb sp;  Khiêm nhường và nhu thuận

Nhờ vậy được danh xưng.        Dậy sớm không biếng nhác

Bất động giữa hiểm nguy         &n bsp; Người hiền không phạm giới

Nhờ vậy được danh xưng.        Nhiếp chúng tạo nên bạn

Từ ái tâm bao dung         &n bsp;         D& #7851;n đạo khuyến hóa đạo

Nhờ vậy được danh xưng.        Bố thí và ái ngữ

Lợi hành bất cứ ai         &nbs p;         &nbs p;đồng sự trong mọi việc

Theo trường hợp xử sự        &nbs p;    Chính những nhiếp sự này

Khiến thế gian xây quanh         & nbsp; Như bánh xe quay lăn

Ṿng theo trục xe chính         & nbsp;   Nhiếp sự này vắng mặt

Không có mẹ hưởng thọ        &nb sp;    Hay không cha hưởng thọ

Sự hiếu kính của con         &nb sp;       Do vậy bậc có trí

đối với nhiếp pháp này         &nb sp;     Như quan sát chấp tŕ

Nhờ vậy thành vĩ đại       &nbs p;         &nbs p; Được tán thán danh xưng.

Tṛn bổn phận đối với sáu phương hướng tức là lễ bái sáu phương, hợp với giáo lư đức Phật là từ tốn và biện tài.   đức tính từ tốn là không tranh thắng với ai, không vội vă. Biện tài là muốn lợi ích cho ḿnh và cho người khác th́ t́m lời nói năng khéo léo, dùng tài hùng biện để thuyết phục người, lời nói đủ ư nghĩa, trúng căn cơ để chuyển tâm người.

Căn bổn tâm chúng sanh là: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Mạn có bảy thứ: 1.Mạn: cứ đem tâm so sánh hơn thua trong ư nghĩ ḿnh hơn người; 2. Ngă mạn: v́ ỷ ḿnh mà lấn lướt người; 3. Quá mạn: ḿnh bằng người mà cho là hơn, người hơn ḿnh mà cho là bằng; 4. Mạn quá mạn: người hơn ḿnh nhiều, mà cho ḿnh là hơn người; 5. Tăng thượng mạn: chưa chứng Thánh quả mà cho ḿnh đă chứng; 6. Ty liệt mạn: ḿnh thua người nhiều mà nói rằng thua ít; 7. Tà mạn: người tu về tà đạo được chút ít thần thông, hoặc hiểu biết đôi chút việc quá khứ vị lai, rồi khinh lướt người.

Do đó, muốn chuyển tâm phàm của chúng sanh thành Tâm thánh th́ người ta phải tu học đức tính từ tốn và biện tài của đức Phật. Ta c̣n phải học tính ỏbất động trước hiểm nguy của đức Phật nữa. Nếu ta phá được ngă chấp và ngă sở th́ ta mới bất động trước hiểm nguy, và nếu c̣n chấp ngă và ngă sở th́ cái khổ càng dày v́ cứ sợ thiệt hại, mất mát. V́ sao nhà ta cháy ta đau đớn khổ sở, c̣n nhà người khác cháy ta vẫn an nhiên như không xăy ra việc ǵ?

Khi ta chấp một cái danh hư huyễn làm cái ta, th́ ta cứ đau khổ liên miên khi cái danh xưng ấy bị gièm xiểm. Xưa có một vị Thiền sư đang tụng kinh th́ có tên trộm lẻn vào gí dao vào lưng, hỏi: - Tiền để đâu? Thiền sư: đừng có lấy hết, hăy để lại một ít để đóng thuế. Tên trộm được tiền ra về. Thiền sư gọi giật lại, hỏi sao không cám ơn khi người ta cho ḿnh tiền của? Tên trộm liền cảm ơn...Vài hôm sau tên trộm bị bắt giải lên huyện; ông Huyện cho mời Thiền sư đến và hỏi Thiền sư bị mất trộm bao nhiêu? Thiền sư bảo không bị mất trộm. ông Huyện bảo Thiền sư: Sao đă tu hành mà c̣n nói dối, v́ tên trộm cung khai là đă lấy tiền của Thiền sư. Thiền sư đáp: Tên trộm đă được tôi cho tiền và y đă cảm ơn, chớ không lấy trộm... Do đó, tên trộm đă được tha về. Cho hay đối với của cải mà ḿnh đă xả rồi th́ ḿnh không c̣n sợ hiểm nguy. Ḿnh dùng cái ngă của ḿnh để tu hành, nên gặp nguy hiểm ḿnh không sợ; c̣n coi nặng cái ngă và ngă sở th́ c̣n mang nhiều đau khổ. Việc này rất cao siêu và khó học tập, nhưng nếu ta cố gắng tinh tấn học tập th́ thế nào cũng đạt được kết quả mong muốn.

Người giúp việc vấp té, lỡ tay làm bể bát cổ. Bà chủ hỏi: Con té có đau không? Như vậy là bà có đức độ bao dung, biết thương người mà không tiết của. Xưa có một vị Lang y giỏi nổi tiếng, có một người kia có mẹ già bệnh nặng, cứ chầu chực mấy ngày liền mà không rước được thầy lang. Y bèn quỳ giữa đường và đón xe thầy ngang qua. Thầy lang buộc ḷng phải đến chữa bệnh cho mẹ y. Thầy cho hai thang thuốc và bảo y ngày hôm sau cho thầy biết kết quả. Hôm sau y đến thưa rằng mẹ y đă bớt bệnh nhiều, nhưng chắc chết. Thầy ngạc nhiên hỏi: Sao bớt bệnh mà lại chắc chết, thuốc thầy chưa bao giờ làm cho ai chết cả. Y thưa: Mẹ y không phải chết v́ bệnh mà chết v́ mất của, tiếc của. Nguyên mẹ y đă để dưới gối một lượng vàng, mà nay không c̣n nữa. Nếu t́m lượng vàng không ra th́ mẹ y chắc chết. Thầy lang liền mở tủ, lấy một lượng vàng, bảo y cầm về đưa cho mẹ. Hôm sau mẹ y lành bệnh rũ chiếu giường, th́ t́m thấy lượng vàng, biết mẹ con y đă nghi oan cho thầy lang, liền đem vàng đến trả và lạy tạ, xin sám hối tội lỗi. Như thế, thầy lang đă có đức đại lượng bao dung, chịu mang danh ăn cắp, chịu mất một lượng vàng, chỉ muốn cứu sống một mạng người. Cho nên muốn dẫn đạo, để khuyến hóa đạo, ta phải có ḷng đại độ bao dung và muốn nhiếp phục chúng sanh quay về với Phật pháp, ta cần thực hành theo Tứ nhiếp pháp.



TỨ NHIẾP PHÁP

Tứ nhiếp pháp là: bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.

1.        Bố thí nhiếpù: Có ba cách bố thíù: tài thí, pháp thí, vô úy thí.

a.        Tài thí:có nội tài (bố thí chính ngay thân mạng ḿnh- cho máu để tiếp người bệnh nhân) và ngoại tài (cho tiền bạc của cải). Tài thí có nhiều cách: định kỳ thí, cấp thời bố thí (một miếng khi đói bằng một gói khi no), hợp lực bố thí (kêu gọi hợp lực cùng nhau làm, v́ một ḿnh không đủ phương tiện), kính cẩn bố thí (kính cẩn đối với người ḿnh bố thí).

Bố thí th́ cần xét đến: tâm bố thí, của đem bố thí và người ḿnh bố thí. Tâm phải là tâm thanh tịnh nghĩa là trong sạch, không phải cầu danh, hoan hỉ khi đang bố thí và mừng rỡ sau khi bố thí. Của bố thí phải là của thanh tịnh, nếu là của không trong sạch (ví dụ của ăn cướp) th́ không phước đức. Xứng cảnh trí tức là người ḿnh nên bố thí, cúng dường giống như ba thứ ruộng phước: kinh điền (người đáng tôn trọng), ân điền (người có ân với ḿnh như cha mẹ, sư trưởng) và bi điền (người đáng thương xót).



Khó có người giàu có như ông Cấp cô độc đem vàng trải ở Kỳ viên, nhưng người nghèo cũng có thể bố thí được. Như anh kia thấy người ta cúng dường trai tăng, anh chỉ kiếm ra được một ít đậu, bèn đứng vào một xó. Lúc người ta đang tác bạch, th́ thấy đậu trăi đầy bàn ăn, mọi người đang t́m hiểu, th́ đức Phật trông thấy y đang đứng trong góc pḥng, đức Phật gọi anh ta là đại thí chủ. Mọi người liền mời y ra cùng dự chung. Anh ta chỉ bố thí với tâm thành khẩn, không kể ḿnh thấp kém.



Có chị ở giúp việc cho người ta, rất muốn cúng dường đức Phật. Chị nghèo quá, chỉ kiếm được một miếng bột, bèn gói trong lá, đem nướng đi, và ước ao cúng dường đức Phật, chỉ sợ đức Phật không nhận. Không ngờ đức Phật nhận và bóc bánh ra, ăn liền trước mặt chị. Chị ta sung sướng hết sức.



b.        Pháp thíù: Trong khi tài thí giúp đỡ sắc thân th́ pháp   thí có công năng giúp đỡ cho pháp thân, huệ mạng. Nếu không có pháp nuôi dưỡng th́ pháp thân heo ṃn, trái lại th́ pháp thân tăng trưởng. Việc pháp thí rất khó v́ nếu ta không biết pháp, không học pháp th́ lấy đâu để pháp thí? Cho nên đức Phật thường bảo đệ tử đem giáo lư của đức Phật phổ biến cùng khắp.Đối với người đau khổ về tinh thần th́ cần pháp thí. Có một chị đi lấy chồng, lâu lắm mới có một đứa con. Khi con mới lên ba th́ chồng qua đời, và sau đó ít lâu, đứa con bỗng chốc bị trúng gió, chết mất. Chị ta đau đớn vô cùng và không tin là con ḿnh đă chết. Chị bồng con đi xin thuốc chữa. Với tâm sầu khổ, chị đến gặp đức Phật và xin đức Phật cứu sống con chị. đức Phật bảo chị đi xin hột cải tại nhà nào chưa có người thân chết đem về để đức Phật cứu cho. Chị đến từng nhà xin hột cải, nhưng khi chị hỏi trong nhà đă có ai chết chưa, th́ người nào cũng đáp là nhà đă có người chết. Và cuối cùng chị đến một nhà vừa có con nhỏ chết. Chị ta liền giác ngộ, bèn đem con về chôn cất. Hôm sau chị đến bạch Phật rằng việc Ngài dạy con đă làm xong, và xin đức Phật chứng minh cho.



Như vậy Ngài đă dạy pháp để chị ta tự tu, tự chứngá; nếu lúc bấy giờ giảng lư th́ không hợp, trong lúc chị ta đang đau khổ. Trong khi đi xin hột cải th́ chị ta đă trực tiếp chứng được lư vô thường của vạn vật. Chúng ta học đạo là để chất chứa Phật pháp ngơ hầu khi gặp lại tai biến mà tiêu dùng, như chất chứa tiền của vậy.

             

c.        Vô úy thí: Là đem cái không sợ ra thí cho chúng sanh.   Ta không giết hại vật th́ vật gần ḿnh không sợ hăi, ta không trộm cắp th́ người khác không sợ ḿnh lấy cắp của người. Vả lại c̣n biết hy sinh giúp người cứu vật trong lúc hoạn nạn tai biến.

2.        Ai Ngữ Nhiếp: Tùy theo căn tánh chúng sanh mà khôn khéo nói năng, an ủi khuyên lơn nhân thế khiến cho họ sanh ḷng thân mến, rồi từ đó họ mới theo ta mà học đạoá; lời nói khéo léo, ôn tồn, nhẹ nhàng đem lại an lạc cho tâm ta và mọi người.

Có anh kia đi cày, ngủ trưa, quên cột trâu. Một con hổ từ trên xuống núi đi xuống. Trâu đến đánh thức chủ dậy để báo động. Mất ngủ, anh kia bèn đánh đuổi trâu. Trâu kia sợ hổ ăn thịt chủ, bèn chồm lên ḿnh chủ để đỡ cho chủ. Anh đi cày giận quá, cho là trâu trở chứng, liền bỏ buổi cày, dẫn trâu về. Dọc đường gặp đức Phật, trâu khóc. đức Phật vỗ về trâu, lấy lời dịu ngọt dỗ dành khiến trâu hết đau khổ và làm cho anh cày giác ngộ. ái ngữ, trong ái ngữ nhiếp không phải là lấy lời dịu ngọt để nịnh hót cốt làm lợi cho ḿnh. ái ngữ ở đây cốt lợi cho người khác.



3.        Lợi hành nhiếp: Làm những việc có lợi cho người khác. Bất cứ việc nhỏ hay lớn, nếu biết làm th́ mới có giá trị lớn. Kinh Lăng nghiêm có đoạn kể Ngài Tŕ địa Bồ tát chuyên đi sửa đường, sửa cầu, gánh đồ giùm cho mọi người. Có một vị ḥa thượng kể câu chuyện đă có lần cùng với quư thầy đi ngang qua một cánh đồng. Nắng gắt và khác nước, mọi người dừng lại nghỉ chân ăn uống. Nhân ăn xoài, quư thầy ương những hột xoài tại chỗ. Mấy năm sau có việc, ḥa thượng cùng quư thầy lại đi qua chỗ cũ, thấy mấy cây xoài đă bắt đầu có quả ăn. đó cũng là một việc lợi hành mà ít ai để ư làm.



4.        Đồng Sự Nhiếp: Cùng làm một việc với người khác. Tùy theo mỗi người làm một việc nhưng cùng nhắm một mục đích (ví dụ: xây dựng gia đ́nh, cùng nhau đẩy một chiếc xe lên dốc, nếu không cùng đẩy là không cùng sự). Có đồng sự th́ nói ǵ người ta cũng nghe ḿnh.

Có bốn sự nhiếp này th́ thế giới ḥa b́nh, gia đ́nh an lạc. Bốn sự nhiếp này vắng mặt th́ con cái không hiếu kính cha mẹ, anh em không sống ḥa hiệp với nhau. Làm được bốn nhiếp sự này th́ được danh xưng, mọi người tán thán.
Quay trở về đầu Xem ngocnguyet's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ngocnguyet
 
bachngoc
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 04 December 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 46
Msg 8 of 9: Đă gửi: 19 March 2006 lúc 4:21am | Đă lưu IP Trích dẫn bachngoc

THỂ NGHIỆM PHÁP PHẬT




Tất cả kinh điển đều do Phật thuyết, đừng nghĩ ta tu pháp môn này đúng và chống lại người tu pháp môn khác. Đức Phật thường nhắc rằng 84.000 pháp môn của Ngài nhằm đối trị với 84.000 phiền năo trần lao của chúng sinh, v́ vậy pháp Phật được ví như thuốc chữa bệnh cho chúng ta. Mỗi người tùy bệnh mà sử dụng thuốc thích hợp, thậm chí có khi thuốc thích hợp lúc này mà không thích hợp lúc khác, v́ mỗi lúc chúng ta có bệnh khác nhau.

Cuộc đời tu hành của tôi theo kinh Pháp Hoa, lấy Bồ tát hạnh, sự dấn thân phục vụ cho đời và ḥa hợp Tăng đoàn là chính yếu. Ba điều này đă giúp tôi thành công. Theo tôi, việc quan trọng nhất đối với người tu là sự ḥa hợp với mọi người, với đại chúng. Tôi được thành công đến ngày nay chính là nhờ sống ḥa hợp với bạn đồng tu, với chư vị tôn túc trong Giáo hội, với Phật tử và với nhiều sinh hoạt của cộng đồng xă hội.

Muốn ḥa, đầu tiên phải bỏ quyền lợi. Người thật tu không có quyền lợi ǵ. Người khác ham thích quyền lợi, nhưng ta bỏ th́ sẽ không đụng chạm đến họ. Tổ dạy rằng người tu coi danh lợi như mạt vàng rớt vào mắt, không chữa được. Người tu kẹt lợi danh, bảo đảm bị đọa sâu. Tránh lợi danh ngoài đời, chúng ta mới xuất gia, đừng vô chùa tạo lợi danh mới.

Tôi thấy một số người lớn tuổi đi tu, được Phật tử gọi là Sư bà th́ mừng lắm. Hoặc những thầy cô thấy người sang trọng th́ tiếp đón, hay dành nhau đi hộ niệm gia đ́nh giàu có, thấy nhà nghèo th́ t́m cách từ chối. Có tâm niệm v́ lợi danh như vậy chẳng thể nào thăng tiến tâm linh.

Vượt ngoài danh lợi th́ những việc khó khổ mà người chê bỏ, ta làm, sẽ được chúng thương, hoặc người không thương cũng phải chấp nhận ta. Ai lập chí tu hành gánh vác việc khó khổ th́ đều coi đó là công đức và coi danh lợi là nguy hiểm.

Tấm gương điển h́nh như Ḥa thượng Thiện Ḥa suốt đời tu chỉ lo phục vụ đại chúng, gánh vác những việc khó khăn của Giáo hội chẳng nề hà. Ngài xuất thân từ gia đ́nh quyền thế, nhưng bỏ sự nghiệp thế gian để đi tu th́ danh lợi c̣n có nghĩa ǵ với ngài. V́ nghĩ rằng Ḥa thượng Thiện Ḥa là người đức hạnh, nên Ḥa thượng Trí Tịnh đă cho phép đóng dấu tṛn trên Tăng điệp của Ḥa thượng Thiện Ḥa, mặc dù Ḥa thượng là bán thế xuất gia, đáng lẽ phải đóng dấu vuông. Nhưng Ḥa thượng đă từ chối sự ưu ái này. Trong khi một thầy khác bán thế xuất gia th́ khiếu nại, đ̣i được đóng dấu tṛn giống như Ḥa thượng Thiện Ḥa. Rơ ràng là vị này kẹt danh lợi, nên đă lớn tuổi mà sau cùng phải hoàn tục.

Ḥa với đại chúng, không có ǵ khác hơn là gánh vác việc chung của chúng. Kinh nghiệm bản thân tôi từ khi phát tâm xuất gia cho đến ngày nay lúc nào cũng bằng mọi cách đem khả năng và tấm ḷng phục vụ đạo pháp. Nhờ vậy trên 40 năm được an lành trong nhà Phật, được bạn đồng tu học và Thầy Tổ hỗ trợ, nên làm được một số Phật sự.

Điều thứ hai quan trọng mà Ḥa thượng Thiện Ḥa đă rèn luyện chúng tôi là trong mùa cấm túc An cư không được ra khỏi chùa. Ḥa thượng cho cắm cột mốc, ai vượt qua cột mốc coi như mất tuổi hạ. Từ khi c̣n là học Tăng, nhờ tuân thủ luật này mà tôi tiến tu đến ngày nay. Huynh đệ khác không tuân thủ c̣n xúi người khác vi phạm, cho rằng Ḥa thượng ở trong pḥng không thấy đâu mà sợ. Và thực tế những người không tôn trọng quy củ thiền môn sau này đều hoàn tục. Các cô nên nhớ rằng chẳng có việc ǵ qua mắt được Phật, Bồ tát, Thánh hiền, Hộ pháp long thiên; người đời thường nói là lấy vải thưa che mắt Thánh. Ḥa thượng dạy tôi rằng dù tu hành ở một ḿnh, nhưng phải biết có Phật, Bồ tát, Thánh hiền, Thiên long bát bộ ngày đêm giám sát, thủ hộ chúng ta. Ư thức như vậy th́ tâm luôn trụ pháp và thân luôn giữ oai nghi tế hạnh, từng bước sẽ thâm nhập pháp giới, được thấy Phật, làm bạn với Bồ tát.

Trong kinh Pháp Hoa, phẩm Như Lai thọ lượng, Đức Phật nói rằng Ngài đă thành Phật từ vô lượng kiếp và nay hiện thân trên cuộc đời để cứu giúp mọi người ra khỏi sinh tử khổ đau. Cốt lơi của Phật Thích Ca là Phật đă thành, nên hiện thân trên thế gian, xuất gia tu hành, chỉ có 5 năm t́m đạo, 6 năm thể nghiệm pháp là Ngài thành Phật. C̣n chúng ta tu suốt đời cũng không thành Phật v́ cốt lơi đời trước của chúng ta chưa phải là Phật.

Phật dùng phương tiện để chỉ cho mọi người nhận được pháp chân thật. V́ nói thẳng pháp chân thật th́ mọi người không có khả năng tin hiểu, làm theo. Phương tiện của Phật nhiều vô số, thể hiện bằng 84.000 pháp môn tu để thích ứng cho mọi người, mọi lúc, mọi nơi. Ngày nay, chúng ta hành đạo cũng cần suy xét ba điều: nên áp dụng giáo pháp ở đâu, lúc nào và với ai.

Phương tiện một của Phật là bằng mọi cách đưa chúng ta thoát khỏi sinh tử. Thiết nghĩ dù có làm ǵ chúng ta cũng kẹt sinh tử, cũng bị ngũ ấm ngăn che và thập triền, thập sử trói buộc. Thật vậy, b́nh tâm quán sát thấy rơ thập triền, thập sử ràng buộc chúng ta không vượt qua sinh tử được. Chính v́ vậy mà Phật nói Tứ Thánh đế giúp chúng ta cắt bỏ thập triền, thập sử.

Chúng ta c̣n nhớ Phật vừa đến Lộc Uyển, liền nói pháp Tứ Thánh đế. V́ nhiều người tham dục, Phật dạy quán vô thường, khổ, không, vô ngă để phá bỏ thập triền, thập sử. Tâm người và hoàn cảnh luôn thay đổi, chúng ta coi sự thay đổi là b́nh thường, không cố chấp nên không khổ. Có người hứa cúng tiền để sửa chùa, nhưng sau lại không đưa tiền. Đối với người tu, hễ việc đủ duyên th́ làm, không nhất định phải theo kế hoạch vạch sẵn, không nổi giận khi việc muốn làm mà không thành. Chúng ta tu hành chẳng khởi ham muốn ǵ cả, chỉ hành đạo theo nhân duyên. Đủ duyên sửa chùa th́ có người hằng tâm hằng sản đóng góp, không th́ thôi.

Mọi việc đều theo nhân duyên sanh diệt, và người tu coi tất cả như gió thoảng mây bay. Coi sự vật là mây nổi trôi trên trời, không bận tâm, mới không bị tham, sân, si ràng buộc. Phật nói Khổ đế, Tập đế để dạy người nhận rơ bản chất thật của muôn sự muôn việc trên thế gian là vậy. Và Ngài dạy chúng ta sống theo Đạo đế để phát huy năng lực ra khỏi sinh tử. Phát huy bằng cách vận dụng ngũ căn, ngũ lực, tín, tấn, niệm, định, huệ. Phải thấy được ngũ căn, ngũ lực là năm sức mạnh và năm tiềm năng phi thường của con người giúp chúng ta thoát ra khỏi sinh tử. Đầu tiên Phật chỉ dạy như vậy, không dạy việc cứu nhân độ thế của Bồ tát.

Phật dạy rằng tất cả mọi người đều có khả năng đạt được sự toàn giác như Ngài, nhưng v́ không biết khai thác năng lực ấy mà đời đời làm chúng sinh đau khổ. Theo Phật, chúng ta phát triển sức mạnh và tiềm năng của chính ḿnh để vượt qua sinh tử. Và động cơ đưa chúng ta ra khỏi sinh tử là tín, tấn, niệm, định, huệ.

Tín hay niềm tin rất quan trọng đối với người tu. Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng niềm tin sinh ra tất cả công đức và phải xây dựng niềm tin chân chánh. Và phải có minh sư mới có chánh tín, thầy sáng suốt mới có khả năng chỉ đường cho ta đi đúng. Thầy tà th́ chỉ dẫn đến cuồng tín, tin nhảm, làm bậy.

Đức Phật là vị đại đạo sư mà chúng ta đặt trọn niềm tin, những ai sống đúng theo lời dạy của Ngài đều đạt từ quả Tu đà hoàn cho đến A la hán. Với người xuất gia, đạt được sơ quả Dự lưu, được vào cửa Phật là mục tiêu phấn đấu đầu tiên. Trên bước đường t́m minh sư, vị đạo sư nào làm tâm chúng ta an lành, không lo, buồn, giận, sợ, giống như ta bám được chiếc phao thoát chết trong biển khổ trần lao; th́ vị đó có thể giúp ta thăng tiến trên đường đạo và cũng giúp ngũ tạng chúng ta không bị bệnh. Tâm tánh ảnh hưởng mạnh đến sức khỏe của thân. Thuở nhỏ tôi đau tim nặng, nhưng trải qua quá tŕnh tu hành, tim và nhịp tim trở nên b́nh thường.

Trên bước đường tu, từ việc chuyển đổi được tâm, chúng ta mới bắt đầu thâm nhập đạo, siêng năng tu hành, gọi là tấn. Có người không siêng năng tụng kinh v́ không hiểu, ngán, sợ. Riêng tôi, tụng kinh Đại thừa quên cả th́ giờ, quên mệt, quên nghỉ, có lúc cả đêm đọc kinh không ngủ. Thật vậy, tôi dịch kinh Di Đaâ sau ngày làm lễ kiết hạ, một đêm không ngủ đă tạo cho tôi có độ cảm với Phật Di Đà th́ tự nhiên không thấy mệt và không buồn ngủ. Tin kinh, tin Phật và siêng năng làm theo, làm với tất cả tấm ḷng thích thú, không phải bị bắt buộc, từ đó công đức sinh ra.

Kế đến là niệm, tức tập trung. Tôi thường đọc kinh sách, đặt tất cả tâm tư, suy nghĩ vào đó. Chọn bộ kinh mà ḿnh thích và đọc với tất cả linh hồn, Phật sẽ chứng tri và gia bị là chánh niệm.

Nhờ tập trung nên tâm chúng ta định, không c̣n dao động. Ở giai đoạn niệm, tâm c̣n dao động, nhưng nhờ tập trung vào một điểm nào đó, tập trung vào Phật, vào kinh, th́ dao động tạm thời lắng yên. Được định th́ tâm tự nhiên phẳng lặng, ví như gương trong, hết bụi phiền năo th́ muôn sự muôn vật hiện lên đầy đủ trên gương. V́ vậy, thấy được thật tướng các pháp là huệ.

Có huệ, thấy rơ nguyên nhân tạo sinh tử khổ đau th́ không tạo thứ đó, chỉ tạo nhân giải thoát, khổ đau làm thế nào chen vào được và chắc chắn đắc đạo.

Như vậy, phương tiện ban đầu được Phật sử dụng cho hàng căn tánh thấp, v́ khả năng ít th́ phải làm ít. Giáo pháp Phật nhiều vô tận ví như nước đại dương, chúng ta học Phật cũng giống như con muỗi uống nước biển, chỉ tiếp thu được một ít. Tuy nhiên, giáo pháp Phật chỉ có một vị giải thoát, như nước biển chỉ có một vị mặn, nên Tỳ kheo lănh một phần nhỏ của pháp Phật cũng được giải thoát.

Điều quan trọng của đệ tử Phật là phải tiếp thu được tinh ba của Phật pháp để trang nghiêm thân tâm, đạt giải thoát. Từ thành quả này, tiến lên, nếu ta là Thanh văn tái sinh lại th́ sẽ nhận thấy pháp tương ưng thích hợp, theo đó mà ứng dụng. Việc lớn, khó làm đă có Bồ tát gánh vác, Thanh văn sức yếu th́ làm việc nhỏ. Nghĩ như vậy, chúng ta thấy pháp Phật nhiều vô cùng, tùy khả năng từng người mà tiếp thu các pháp khác nhau và pháp nào cũng hay cả. Cũng trên tinh thần tùy duyên của Phật dạy, tôi dịch kinh Di Đà để đáp ứng mong muốn của nhiều Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước cần hiểu kinh, theo đó tu hành. Có nhân duyên th́ việc phát khởi, như có người thỉnh Phật mới thuyết pháp. Việc ǵ người cần, yêu cầu, ta đáp ứng được th́ làm, đó là hạnh Bồ tát. Người không yêu cầu hay ta không có khả năng th́ không làm. Đơn giản như vậy thôi.

Trước khi tụng kinh, chúng ta thường tụng bài Tán dương chi dịch theo chữ Hán. Nay tôi dịch bài này để Phật tử hiểu được ư nghĩa.

Cành dương nước pháp rưới ba ngàn

Tánh không tám đức lợi trần gian

Trời người trong sạch vào pháp giới

Lửa đỏ làm nên đóa sen vàng

Bài này tán thán công đức của Đức Quan Âm. Tay cầm cành dương, tay cầm b́nh nước pháp cam lồ, Ngài rảy nước pháp ấy vào cả ba ngàn đại thiên thế giới để chỉ không gian bao la vô tận đều nhận được nước pháp vi diệu của Bồ tát.

Nước pháp cam lồ do tâm đại bi của Bồ tát nên có công năng kỳ diệu rải đến khắp chúng sanh. Người nào cầu cứu hay mong mỏi điều ǵ th́ Ngài đều đáp ứng đầy đủ, dù cho cả ngàn người ở ngàn nơi khác nhau kêu cầu một lượt, thường diễn tả là Thiên xứ hữu cầu thiên xứ ứng.

“Tánh không bát đức lợi trần gian”: Bồ tát Quan Âm đạt được quán tự tại chứng được tánh không. Và từ tánh không này, Ngài hiện ra nước tám công đức. Nói cách khác, do công đức tu hành của Bồ tát tích tụ lại được ví như nước để trong b́nh dùng cứu người. Nước này gọi là nước tám công đức. Đức Phật cho biết nước tám công đức chỉ có trong ḷng núi Tu Di, có ở Tây phương Cực lạc và Đức Quan Âm cũng có. Ngài dùng nước tám công đức ở bản thể thanh tịnh của Bồ tát mà làm lợi ích trần gian.

“Trời người trong sạch vào pháp giới”: Nhờ hưởng giọt nước thanh tịnh vô nhiễm này mà thân tâm chúng ta được trong sạch, ra khỏi sinh tử và thâm nhập thế giới Phật.

“Lửa đỏ làm nên đóa sen vàng”: Lửa ví cho lửa tam giới, lửa tham dục đốt cháy tất cả, nhưng không đốt được cánh sen vàng của Phật. Bước theo dấu chân Phật, chúng ta nỗ lực tinh luyện phước đức, trí tuệ đến mức độ ví như vàng thật không bị lửa đốt cháy. Người tu hành chân chính, dù đối diện trước cám dỗ hay đe dọa, tâm vẫn an nhiên tự tại.

Từ trước tôi tụng Pháp Hoa, nên soạn Bổn môn Pháp Hoa. Năm nay, như đă nói trên, v́ có đủ nhân duyên là đáp lại sự thỉnh cầu của nhiều người, nên tôi đă dịch kinh Di Đà. Trước đó, tôi được Hội đồng Nhà thờ Mỹ mời sang New York và Washington. Đến những nơi này có nhiều người chết oan ức, chưa nói được, nên linh hồn họ c̣n phiêu bạt, tôi liền nghĩ đến Phật Di Đà và niệm cho họ để họ cảm được Phật này mà văng sinh.

Ngoài ra, trên đường về lại gặp một sự cố thật nguy hiểm, máy bay bị hư mất một động cơ và phải đáp khẩn cấp xuống Alaska. Trong t́nh huống kề cận cái chết, tôi đă nhiếp tâm niệm Phật Di Đà, chờ văng sinh về Tịnh độ Ngài là an toàn nhất! Sau cùng mọi việc đều b́nh yên. Nhiều điều đặc biệt như vậy gợi tôi nghĩ rằng ḿnh có nhân duyên sâu sắc với Phật Di Đà. Lại thêm pháp y mà tôi thường đeo là của tông Tịnh Độ mà Ḥa thượng người Nhật tặng. Nhưng nay mới nhớ là pháp y Tịnh Độ vẫn luôn bên tôi. Tất cả những việc vừa nói đă lảng vảng trong đầu tôi, thôi thúc tôi dịch kinh Di Đà. Tôi xin gửi bản dịch kinh Di Đà đến chư vị tôn đức trong trường hạ để quư vị t́m hiểu và ứng dụng cho đạt kết quả mà người con Phật luôn mong ước là được sống kề cận bên Phật và Bồ tát, Thánh chúng.




__________________
không c̣n yêu ai nũa !
Quay trở về đầu Xem bachngoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi bachngoc
 
thaicuc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 12 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 119
Msg 9 of 9: Đă gửi: 19 March 2006 lúc 4:38am | Đă lưu IP Trích dẫn thaicuc

THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO TRONG ĐỜI SỐNG TẠI GIA.

I. KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT:    

Có một số người cho rằng đạo Phật quá cao sâu mầu nhiệm, người thường trong thế gian khó có thể thực hành được. Chỉ có những người thoát khỏi sự trói buộc của cuộc đời như vào chùa hay tu viện mới mong thực hiện được những ǵ mà Phật dạy. Nói cách khác có người cho rằng   giáo lư đạo Phật chỉ dành cho những tăng lữ. Đây là một quan niệm sai lầm của những người chưa hiểu được đạo Phật hoặc chỉ biết đạo Phật qua một vài quyển sách viết với tinh thần chủ quan lệch lạc.

Trái lại giáo lư đạo Phật không phải chỉ dành cho một số người mà của mọi người, giáo lư đó không có sự phân biệt miễn người đó biết áp dụng thực hiện những ǵ đức Phật dạy. Ngài Xá Lợi Phất (Sariputta) nói: “Một người có thể sống trong rừng miệt mài với sự tu tập khổ hạnh, nhưng cũng có thể đầy những tư tưởng xấu xa, bất tịnh, một người khác có thể sống trong làng mạc hay thị thành ,không thực hành kỷ luật ép xác nhưng tâm người đó có thể trong sạch không có cấu bẩn. Trong hai người ấy, Ngài Xá Lợi Phất bảo người sống trong sạch giữa làng mạc thị thành nhất định là cao cả hơn người sống trong rừng nhiều”.

Qua đó chúng ta thấy người Phật tử tại gia trong giáo lư đạo Phật không phải là không có phần mà Đức Phật đă xác định “ thừa tự pháp ” không phải chỉ dành cho Tăng sĩ (các vị xuất gia) mà là của mọi người. Có người hỏi, nếu một người theo Phật giáo ứng dụng tinh thần Phật dạy trong đời sống tại gia, tại sao đức Phật c̣n lập đoàn thể Tăng già?. Chúng ta biết rằng đời sống của một Phật tử tại gia có nhiều rằng buộc, khó có thể hy sinh trọn vẹn cho nhiều người, trong khi mộøt vị Tăng v́ không có nhiệm vụ gia đ́nh, không bị ràng buộc trong đời sống thế tục, chính v́ thế mà đức Phật mới h́nh thành giáo đoàn. V́ chính Tăng đoàn góp phần duy tŕ phát triển nền tảng giáo lư của Phật.

II. NGƯỜI PHẬT TỬ TẠI GIA GIÁC NGỘ PHÁP ĐỂ TU:

    1/ Niềm tin của Phật Tử trước khi đi đến giác ngộ:

Giác ngộ là một đặc tính của đạo Phật và chính v́ lẽ đó mà người Phật tử khi hiểu giáo lư đạo Phật một cách tường tận mới đem áp dụng thực hành ,nếu chưa tường tận mà tu tập là một việc làm nông nổi không đúng tinh thần Phật dạy.Trong lịch sử các tôn giáo trên thế giới không co một tôn giáo nào có tự do tư tưởng như Đức Phật, v́ theo Ngài con người có giải thoát được hay không, không phải ai khác mà chính sự trực nhận chân lư,chứ không phải huyền năng bên ngoài ban thưởng cho sự vâng lời đó. Đức Phật xác định: “ Các người nên làm công việc của ḿnh, v́ các đức Như Lai chỉ dạy con đường mà thôi ” Đức Phật là bậc đă giác ngộ, nghĩa là đă bừng tỉnh, ra khỏi cơn mê của tâm ư thức trong đời sống hiện tượng, tương đối. V́ đă giác ngộ, nên Ngài đă dùng gần năm chục năm của cuộc đời Ngài, tận tụy dạy dỗ chúng sinh, giơ cao ngọn đuốc soi đường, mong cứu chúng sinh ra khỏi vô minh, do lầm nhận đời sống tạm bợ, được xây dựng nên bởi tham, sân, si, rồi tạo nghiệp, trả quả báo, như những sợi dây xích nối lại thành ṿng tṛn xoay vần không có ngày ra.

Trong một bài kinh Kamala đức Phật dạy: “Nầy những người Kamala,không nên chấp nhận điều ǵ chỉ v́ nghe nói lại. Không nên chấp nhận điều ǵ chỉ v́ tập tục cổ truyền để lại như thế.Không nên chấp nhận điều ǵ bởi v́ lời đồn đăi. Không nên chấp nhận điều ǵ chỉ v́ được ghi chép trong kinh sách, do ức đoán như vậy, suy diễn như vậy, do nhận thấy bề ngoài. Không nên chấp nhận điều ǵ chỉ v́ điều ấy hợp với thành kiến của ḿnh, h́nh như có thể chấp nhận được. Không nên chấp nhận điều ǵ chỉ v́ nghĩ rằng vị tu sĩ thốt ra, điều ấy được kính trọng từ trước.

    Chỉ tin sau khi các người hiểu rơ ràng, những điều nầy phù hợp với luân lư; những điều nầy không bị khiển trách, những điều nầy được các bậc thiện trí thức tán dương, nếu thực hiện điều nầy sẽ được an vui hạnh phúc, th́ các người hăy hành động đúng như vậy ”.

2/ Giác ngộ pháp ǵ để tu?.

a/ Ngũ thưà Phật giáo:

Trong nền giáo lư đạo Phật các nhà phán giáo có chia ra nhiều thừa khác nhau nhưng phổ biến nhất là ngũ thừøa Phật giáo. Chử Thừa được hiểu là xe, giáo pháp của Đức Phật ví như cổ xe có thể chở người vượt qua phàm đến thánh, chính v́ thế các nhà Phật học dùng từ nầy để chỉ cho đại thừa(xe lớn) hoặc tiểu thừa(xe nhỏ). Tuy nhiên viêc phân chia nầy chỉ có tính cách ví dụ chỉ cho tâm của người tu chấp chặc hay buông xả mà thôi chứ thực ra thời Phật không bao giờ phân biệt đại, tiểu. Ngày nay Phật giáo trên thế giới cũng rất ít dùng từ “đại thừa” hoặc “tiểu thừa” v́ tránh đi sự phân hoá tinh thần “lục hoà cộng trụ” của Tăng già; thay vào đó dùng “Phật giáo phát triển” ( đại thừa) và “Phật giáo nguyên thủy” ( tiểu thừa). Vậy ngũ thừa là ǵ?.

L à năm con đường hay năm phương pháp đi đến giác ngộ, tùy theo căn cơ và tŕnh độ của từng cá nhân chọn phương pháp thích hợp để ứng dụng tu có kết qủa, Phật giáo gọi đây là “ khế cơ ” trong nền giáo lư đạo Phật . Con đường đến với đạo Phật trước tiên phải giác ngộ rồi sau mới ứng dụng tu,nếu không hiểu mà tu là một việc sai lầm dễ rơi vào tà kiến, cho nên người tu Phật và học Phật phải là người sáng suốt biết chọn lựa phương pháp ( trạch pháp), niềâm tin mà không hiểu là tin mù quáng.Đạo Phật đă từng dạy: “đến để mà thấy, chớ không phải đến để mà tin”.V́ lẽ đó sự chọn lựa là một nhu cầu cần thiết của người Phật tử và ngũ thừa Phật giáo là bản đồ chỉ cho người giác ngộ đến với đạo Phật.

b/ Ứng dụng ngũ thừa Phật giáo:

    [SC1] q Nhân thừa: Nếu muốn ứng dụng nhân thừa việc trước tiên phải phát tâm quy y Tam bảo, đây chính gieo duyên với Phật, Pháp, Tăng trong nhiều đời. Bước kế tiếp là thọ tŕ năm giới, đây chính là nền tảng của Phật giáo nhằm xây dựng cho con người có một nhân cách hoàn thiện của một con người thực sự là người như: Không giết hại chúng sanh (sát sanh) không tham lam trộâm cắp (trộm cắp), không lang chạ ngoại t́nh (tà dâm), không nói lời dối tra (vọng ngữ)ù, không say sưa rượu chè (uống rượu). Đây chính là nền tảng đạo đức Phật giáo xuyên suốt từ xuất gia lẫn tại gia đều dựa vào năm giới nầy làm căn bản. Nếu ứng dụng vào đời sống hiện tại là một con người có nhân cách đạo dức, một gia đ́nh có hạnh phúc,một làng xă hoà thuận và một xă hội thanh b́nh. Nếu một con người biết thực hành ngũ giới hiện tại có an lạc cho tự thân và gia đ́nh sẽ hạnh phúc và tương lai sẽ sanh trở lại làm người có nhân cách một con người.

    q Thiên thừa: Con đường sanh lên cỏi trời nếu người đó thực hiện mười pháp thiện (thập thiện)   gọi thông thường là Thập thiện nghiệp đạo được chia làm 2 phần:t iêu cực và tích cực.

uMười điều lành tiêu cực: Chúng ta chỉ dừng lại ở phần làm hay nói cách khác không tạo nghiệp ác, dựa trên tam nghiệp(ba nghiệp: Thân nghiệp có 3 ( sát, đạo, dâm), khẩu nghiệp có 4 ( không nói dối, không nói ly gián, không nói thêu dệt, không nói ác khẩu) và ư nghiệp có 3 (Không tham lam, không nóng giận và không tà kiến hay c̣n gọi là không si mê) .

     uMười diều lành tích cực: Chúng ta bước lên một bước tích cực hơn là đem thập thiệp đi vào đời sống, biến tinh thần thập thiện bằng hành động cụ thể:

§ Về thân: Không giết hại chúng sanh mà phải ḷng từ ra cứu vớt chúng sanh, không gian tham trộm cắp c̣n biết đem tài sản vật chất ra bố thí giúp đở mọi người, không tà dâm mà c̣n trinh bạch thủy chung. Chuyển hoá những hành động xấu phát xuất từ thân trở thành những hành động đẹp, có ích cho người cho ḿnh. Chính hành động chuyển hoá nầy tích cực góp phần làm cho Thân được thanh tịnh ngay trong đời sống hiện tại

   § Về miệng: Không nói dối mà phải biết nói lời chân thật, không nói ly gián(lưỡng thiệt) mà phải biết nói gây được hoà thuận với mọi người, không nói thêu dệt mà phải biết nói đúng lẽ thực và đúng lẽ phải, không nói ác mà phải biết nói nhă nhặn ôn ḥa.

    § Về Ư : Không tham lam mà phải biết khởi ḷng từ bi đối với mọi người; không sân hận mà c̣n phải biết nhẩn nhục, không tà kiến mà phải biết chánh kiến.

Kết qủa của pháp tu thập thiện là hành giả sau khi thân hoại mạng chung được sanh về cỏi trời.

q Thinh văn thừa: Đây Pháp nền tảng giáo lư đạo Phật nó đưa hành giả từ phàm đến thánh, cho nên khi không hiểu được chân lư tức là không hiểu tứ đế: “không thấy được tứ đế là vô minh” .Tứ đế c̣n gọi là Tứ Thánh Đế hay Tứ Diệu Đế, thường được hiểu là 4 chân lư cao cả chắc thật :

   - Khổ đế (Dukkha) : Về sự khổ, ngoài tinh thần là bao của khổ , nó c̣n chứa đựng một ư nghĩa sâu sắc hơn đó là : bất toàn, vô thường, trống rổng, giả tạm. Khổ đế được thể hiện nơi con người như: sanh, già bệnh, chết, thương yêu phải xa lià ( ái biệt ly), mong cầu không được toại nguyệïn (cầu bất đắc), oan gia ghét bỏ mà luôn gặp nhau(oán tắng hội) và năm ấm không được đều hoà ( ngũ ấm xí thạnh khổ)...

- Tập đế (Samudaya) : Nguồn gốc của khổ: Tất cả những khổ đau không phải ngẫu nhiên mà có,mà nó bắt nguồn từ những nguyên nhân: tham lam, sân hận , si mê, mạn, nghi, ác kiến, kiết thủ, giới cấm thủ,tà kiến .Tập hợp những nguyên nhân tạo thành ngă chấp mà sanh ra khổ đau.

- Diệt đế (Nirodha): Sự chấm dứt khổ: Muốn trừ dệt mọi khổ đau con người phải đoạn trừ tham ái v́ ái là gốc tạo ra khổ .Con đường chấm dứt và đoạn trừ ái đạt được Niết Bàn, đó chính là sự chấm dứt dục vọng mà kinh Pháp Hoa gọi :“ Như củi hết lữa tắt ” . Một khi hành giả đạt được con đường đi đến Niết Bàn sẽ thành tựu tứ thánh qủa ( Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm Và A La Hán) .

- Đạo đế ( Magga) : Con đường đưa đến sự chấm dứt khổ: Con đường nầy Phật gọi la con đường      tru ng đạo v́ nó tránh hai cực đoan đó là qúa chạy t́m h ạnh phúc thông qua con đường dục lạc. Con đừơng nầy gọi là 37 phẩm trợ đạo gồm có:

   t Bốn món niệm xứ ( Tứ Niệmxứ): Quán thân bất tịnh, quán tâm vô thường, quán Pháp vô   ngă và quán thọ thị khổ.

      t Bốn món chánh cần ( Tứ Chánh cần): Tinh tấn ngăn ngưà những điều ác chưa phát sanh đừng cho nó sanh; Tinh tấn dứt trừ những điều ác đă phát sanh đừng cho nó tăng trưởng ; Tinh tấn làm cho điều lành chưa phát sanh làm cho nó phát sanh; Tinh tấn phát triển làm những điều lành đă phát sanh làm cho nó tăng trưởng.

t Tứ như ư Túc ( Bốn phương pháp đi đến thiền định ): Dục như ư túc; Tinh tấn như ư túc;

Nhất tâm như ư túc; Quán như ư túc.

t Ngũ căn, ngũ lực:

     - Ngũ căn: tín căn , tấn căn, Niệm căn, định căn, huệ căn.

- Ngũ lực: tín lực , tấn lực,Niệm lực, định lực và huệ lực.

t Bảy phương pháp đi đến giác ngộ ( Thất Bồ Đề phần ): Trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, khinh an giác chi, Niệm giác chi, định giác chi và xă giác chi.

t Bát chánh đạo: Chánh kiến, chánh tư duy ,chánh ngữ, Chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, Chánh niệm,chánh định .

Người Phật tử chân chính là người thấy cuộc đời : “Như thật tri kiến ”, cho nên không khổ đau, sầu muộn, sợ hải, lo âu...Người Phật tử khi tu pháp Tứ đế làngười có hạnh phúc giửa nhân gian, luôn luôn b́nh an giải thoát không bị cuộc đời làm điêu dứng đảo điên v́ họ thấy được đúng như thật về cuộc đời.

q Duyên giác thừa: Đây là con đường của hành giả tu theo 12 nhân duyên( thập nhị nhân duyên) bao gồm: Vô minh, hành , thức, danh sắc, lục nhập, xúc,thọ, ái, thủ, hữu , sinh, lăo, tử. Do thấu rơ lư duyên sinh của mọi pháp nên hành giả đạt được qủa Duyên giác . Đây là con đường chấm dứt sự khổ đạt được qủa vị Niết Bàn.

q Bồ tát thừa: Đây là con đường thực hành Bồ tát hạnh cũng chính là con đường độ tha “ v́ lợi ích chúng sanh” trên bước đường đi đến Phật qủa, đó là pháp lục độ. C̣n gọi là 6 phương pháp đưa người qua bên kia bờ giải thoát: Bố thí Ba la mật, Tŕ giới ban la mật, Nhẩn nhục ba la mật, tinh tấân ba la mật, Thiền định ba la mật và trí huệ ba la mật.

c/   G iác ngộ lư nhân quả & luân hồi:

rGiác ngộ lư nhân quả: Mọi sự vật hiện tượng trên thế gian nầy nếu chúng ta đem ra khảo sát th́ không có sự vật hiện tượng nào không có nhân quả mà h́nh thành. Nó không phải do ai đặt ra mà là một quy luật chung của thiên nhiên, chi phối toàn bộ cuộc sống của con người cũng vạn vật. Đối với đạo Phật th́ nhân quả là yếu tố quan trọng, trong việc xây dựng niềm tin cho người học Phật: “ tin nhân quả là chánh tín, không tin nhân quả là mê tín”.

- Định nghĩa: Nhân là nguyên nhân, qủa là kết qủa của nguyên nhân đó tạo nên .Nhân là năng lực tác động ,quả là sự thành tựu của năng lực tác động đó

- Những quan niệm sai lầm về nhân quả: cho rằng, bất cứ một sự vật nào có mặt do bàn tay của đấng sáng tạo hoặc hoàn cảnh giàu nghèo, hạnh phúc hay khổ đau của con thường đổ thưà cho số mạng hay do Ông Trời, Thượng Đế như Nguyễn Du đă nói: “ Bắt phong trần phải phong trần, cho gian lao phải chịu phần gian lao”. Đối với Phât giáo tất cả đều có nhân của nó không phải do “đấng sáng tạo” nào sắp đặt hoặc do “ số mạng an bài ” hay do “ ngẫu nhiên” hên sui mai rũi mà có.

- Đặc tính của nhân quả: Chúng ta có thể tóm tắt nhân quả trong 4 câu.

Dục tri tiền thế nhân
Kim sanh thọ giả thị
Dục tri hậu thế qủa

Kim sanh tác giả thị

( Muốn biết nhân đời trước , hảy nh́n quả đời nay ḿnh hưởng.

Nếu muốn biết quả đời sau hảy nh́n nhân đời nay ḿnh tạo).

- Sự lợi ích khi hiểu nhân quả: Sau khi hiểu được lư nhân quả người Phật tử không c̣n bị quan niệm sai lầm làm mê mờ mất hết ư chí tự chủ chính ḿnh. Chính sự hiểu biết nhân quả giúp chúng ta lạc quan tin tưởng hơn vào chính ḿnh ở hiện tại cũng như tương lai.

Trong đời sống hằng ngày của người con Phật hiểu được nhân quả là một quy luật cho nên khi làm việc ǵ, nói lời nào đều phải nghĩ đến kết quả mà ḿnh tạo ra trong đời sống.

    r Lư luâ n hồi (Samsera):

Vấn đề có hay không có luân hồi trong đời sau, nó làm cho con người băng khăng, thắc mắc từ nhiều đời nay. Nh́n ở góc độ Phật giáo sự luân hồâi được hiểu như một qúa tŕnh chuyển hoá, biến đổi xê dịch của mọi sự vật hiện tượng trong thế gian.      

- Định nghĩa: Chử Samsera là bánh xe, người Trung Hoa dịch là Luân ,c̣n chử hồi là xoay tṛn. H́nh ảnh bánh xe quay là một h́nh ảnh nhằm để chỉ sự luân hồi của chúng sanh xuống lên trong lục đạo(trời, người,A Tu la, điạngục, ngạ quỹ và súc sanh ) .

- Nh́n vào mọi sự vật từ đất nước gió lửa cho đến con người đều biến đổi từ trạng thái nầy sang trạng thái khác, từ đời sống nầy sang đời sống khác mà chúng ta nếu pân tích có thể giải thích trên cơ sở khoa học.    

- Khi hiểu được sự luân hồi chúng ta không c̣n quan niệm sai lầm về thân phận ḿnh và luôn luôn cố gắng vươn lên v́ chết không phải là mất hẳn. Chính hiểu được như vậy cho nên chúng ta thực hiện những điều tốt đẹp và cố tránh những điều xấu xa trong hành động, tư tưởng ngơ hầu tránh rơi vào nơi khổ đau khi bước vào một đời sống khác.

III.XÁC ĐỊNH THIỆÏN ÁC THEO QUAN NIỆM PHẬT GIÁO:

Trong mọi xă hội thiện ác là những quy ước theo từng phong tục tập của mỗi quốc gia khác nhau, ở đây cho là tốt nơi khác cho điều đó là xấu. Quốc gia nầy cho điều nầy là phải nơi khác lại cho là sai. Sự đúng sai phải trái ở từng lúc từng nơi khó có ranh giới nhất định ,ơÛ đây Phật tử chúng ta tu theo Phật và học Phật căn cứ vào lời Phật dạy để xác định quan niệm sống đúng với Chánh pháp.
     1/ Thế nào là thiện ác?

a)Định nghĩa thiện ác: Những ǵ có lợi cho ḿnh, cho người trong hiện tại đến tương lai gọi là thiện. Ngược lại những ǵ có hại cho ḿnh và người hiện tại đến tương lai là ác.

Như được tŕnh bày ở trên, khi đánh giá thiện ác phải nh́n toàn diện không nên chỉ căn cứ ở một khía cạnh đạo đức đơn thuần của một quốc gia một dân tộc thông qua 3 nghiệp: thân, khẩu, ư

   b)Những quan niệm Thiện ác của thế gian: Có người cho tằng “ăn hiền ở lành” là thiện ? và chính từ câu nầy mà Nho giáo cố đưa quan niệm Thiện ác của ḿnh vào đời sống băng những câu: “ tâm hành từ thiện hà tu nổ lực khán kinh” (Ḷng hằng từ thiện ,cần chi gắng sức xem kinh) hoặc “ Vô cầu thắng bố thí, cẩn thủ thắng tŕ trai”( không tham cầu hơn là bố thí, khéo giử ǵn nề nếp hơn là tŕ trai).

       2/ Mười Nghiệp lành :

a) Định nghĩa : Tiếng Phạn là Karma có nghĩa là hành động tạo tác qua thân klhẩu ư và điều nầy trong Kinh Tăng Nhất A Hàm Đức Phật nói: “ Nầy các Tỳ kheo Như Lai nói tác ư tức là nghiệp v́ có ư muốn làm mới có hành động thân khẩu ư ”. Như vậy mười nghiệp lành là 10 điều giúp cho con người thực hiện trong sạch hoá thân khẩu và ư .

b) Các loại nghiệp:

uVề phương diện thời gian:

- Thuận sanh nghiệp: là nghiệp đem lại trong kiếp kế tiếp.

- Hiện báo nghiệp: Là nghiệp gây ra trong kiếp hiện tại và có kết quả tức th́.

- Hậu báo nghiệp: đời nầy tạo nghiệp đời sau mới có quả.

- Vô hiệu nghiệp:Nghiệp tạo ra theo lẽ phải bị quả báo nhưng không đủ yếu tố phát khởi nên trở thànhvô hiệu.

u Về phương năng lực( khả năng báo ứng )

- Cực trọng nghiệp : Đây là nghiệp tạo tội ngũ nghịch( Giết cha, giết Mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật bị thương chảy máu,Phá hoà hợp tăng).

- Cận tử nghiệp: Nghiệp nầy đến lúùc thân sắp mất mới phát khởi.

- Tập Quán nghiệp: Thói quen trong một đời hay nhiều đời do tập quán để lại.

- Tích lũy nghiệp: do nhiều đời nhiều kiếp tạo nên mỗi lần mỗi ích trở thành nghiệp.

IV .NỘI DUNG THẬP THIỆÏN NGHIỆP ĐẠO:    

     N hư đă tŕnh bày ở trên con người sở dĩ khổ đau trong hiện tại cũngnhư luân hồi sinh tử ,nguyên nhân chính là do chính tự thân tạo ra . Muốn chuyển đổi hoàn cảnh chính ḿnh việc trước tiên chúng ta phải biết chọn cho ḿnh một hướng đi hay nói cách khác chúng ta phải biết giao nhân để gặt quả. Đó mới chính là con người khôn ngoan. Con đường thiết thực góp phần xây dựng bản thân,chuyển hoá hoàn cảnh không thể không thực hành thập thiện. Thế giới ngày nay nhân loại tranh giành chém giết lẫn nhau, đạo đức của một số người cũng từ đây mà suy thoái, giửa người với người mất hết t́nh thương yêu qúi trọng chỉ c̣n là ḷng đố kỵ hơn thua.Đó chính là do con người tạo 10 ác nghiệp.cho nên Tổ Huệ Viễn nói: “ Mười nghiệp lành nầy ,nếu có thể từ một nhà,một làng (xă) đến một quốc gia mà thực hành th́ thuần phong mỹ tục,h́nh phạt của xă hội sẽ giảm bớt, cá nhân đó được an lạc,gia đ́nh được hạnh phúc, quốc gia sẽ thái b́nh. Thập thiện nghiệp đạo dựa trên 3 thành tố : Thân khẩu và ư nghiệp mà phát khởi.

    1/ Thân nghiệp chia làm 3 loại:

a) Không sát sanh: Các nhà nghiên cứu Phật phân tích cho rằng : “ Sát sanh là cắt đứt sự sống,tâm vật lư của một chúng sanh, ngăn chặn sức tiến của năng lực một đời sống”. Có 5 yếu tố tạo nên nghiệp sát : - Có một chúng sanh, biết rằng đó là một chúng sanh, ư muốn giết, cố gắng để giết và giết chết chúng sanh đó.

     b) Không trộm cướp: Không phải là tài sản vật sở hữu của ḿnh mà ḿnh chiếm đoạt bằng cách nầy hay cách khác đều là tội trộm cướp. Có 5 yếu tố cấu thành tội trộm cướp: Một vật sở hữu của người khác; Biết đó không phải là của ḿnh mà ḿnh t́m cách lấy; Cố ư muốn chiếm đoạt; Cố gắng thực hiện ư định chiếm đoạt đó và thành tựu ư trộm.

c) Không tà dâm: Không phải là vợ ø chồng ,không có hôn phối với nhau mà có mối quan hệ như vợ chồng đó là tà dâm. Tà dâm được chia làm 4 loại: Phi phận dâm ( k hông phải là hôn phối mà quan hệ với nhau); Phi thời dâm ( là vợ chồng nhưng quan hệ với nhau không phải lúc); Phi xứ dâm ( quan hệ không đúng nơi đúng chổ,trái với b́nh thường) và Phi nhân dâm (quan hệ với loài không phải người).

2/ Khẩu nghiệp chia làm 4:

   a) Không Vọng ngữ: “ Vọng ngữ được hiểu như lời nói không thật nhằm mục đích mưu cầu lơị ích riêng tư ”. Có ư giả dối,Ư muốn người khác hiểu sai sự thật; thốt ra lời nói làm cho người khác hiểu lệch đi .Vọng ngững được chia làm 3 loại: Đại vọng ngư ơ(Không chứng đạo mà cho ḿnh chứng để người khác tôn trọng ); Tiểu vọng ngữ ; Phương tiện vọng ngữ .

b) Không nói thêu dệt ( ỷ ngữ): Không trao chuốc thêu hoa dệt gấm, không ngon ngọt chết người nhằm mục đích dụ dỗ đưa ngươi vào nơi nguy hiểm.

   c) Không nói lưỡi hai chiều ( lưỡng thiệt): Không đến người nầy nói chuyện bên kia, đến bên kia không nói chuyện bên nầy.

d) Không nói lời hung ác ( ác khẩu):

    3/ Ư nghiệp chia làm 3:

a) Không tham lam: Tham được hiểu như là ḷng dục của chúng sanh bao gồm có ngũ dục: ( tài dục,sắc dục, danh dục , thực dục và thùy dục). Đây là năm loại dục làm cho con người tham đắm không thể thoát được sự trói buộc của nó.

b)Không sân hận: Ḷng giận được các vị tổ sư xem như cửa ngỏ của các tội ác “ Nhứt niệm tâm sân khởi,bá vạn chướng môn khai” ( một niệm sân nổi lên th́ các cửa khác đều mở) hay “ nhứt niệm tâm sân khởi năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn” (Một niệm sân nổi lên sẽ thiêu tất cả muôn ngàn công đức ).

c) Không si mê: đối với Phật giáo nguyên thuỷ loại thứ ba nầy được gọi là tà kiến. Đây là sự vô minh không nhận ra lẽ thực chỉ chấp chặc những hư dối không thật có,đưa đến chấn ngă,chấp nhân...

    V.ỨNG DỤNG THẬP THIỆN VÀO ĐỜI SỐNG TẠI GIA:

   Chúng ta biết rằng con đường đi đến Tam thưà đều lấy thập thiện nghiệp đạo làm nền tảng.v́ thập thiện có sức mạnh ngăn chặn những hành vi ác , nó cũng có công dụng đối trị với hành vi bất thiện. Đối với Phật tử tại gia thập thiện là con đường, phương pháp chuyển hoá hoàn cảnh bản thân và gia đ́nh xă hội, khi chúng ta áp dụng thập thiện hằng ngày.

1/ Cải tạo bản thân: Do nghiệp lực thúc đẩy, chi phối đưa con người đến khổ đau, nếu bản thân chúng ta biết áp dụng điều lành xa rời điều ác, do đó đời nầy an vui đời sau sanh vào cỏi lành.Nếu một người biết ứng dụng tu thập thiệp nghiệp đạo vào đời sống tức là người đó tự ḿnh làm cho nhân cách đạo đức của ḿnh được chuyển hoá.

2/ Cải tạo hoàn cảnh: Tất cả mọi sự việc trong cuộc đời nầy đều do ḿnh làm chủ chứ không phải ai khác. thế giới ngày nay thiên tai dịch bịnh làm điêu dứng con người ,sự thống khổ không biết đâu mà cùng Nếu chúng ta biết chuyển biến chính ḿnh xây dựng gia đ́nh th́ hoàn cảnh cũng từ đó phát sanh hoàn cảnh tốt.Khôngthể ngồi đó trách đất than trời.

3/ Chánh nhân thiên giới:   Tu tập thập thiện là nguyên nhân sanh về cỏi trời có phước báu hơn người, nó cũng là nhân lành thoát khỏi sanh tử khổ đau khi ba nghệp thanh tịnh.

    KẾT LUẬN:

    Đức Phật là đấng y vương biết bệnh mà cho thuốùc ,tuỳ theo tâm bệnh ấy Ngài dạy những phương pháp khế với hoàn cảnh và căn cơ của chúng sanh đễ giúp cho người đó đi đến con đường giải thoát.Nếu tu thập thiện thân tâm của chúng ta sẽ được cải thiện, hoàn cảnh sống cũng nhờ đó được thay đổi tránhxa những ác pháp do nhờ thực hành thiện pháp . Điều nầy Ngài Điều ngự Giác Hoàng thời Trần đă phát tâm thực hạnh đầu đà đi khắp hang cùng ngơ hẻm của những vùng nông thôn Việt Nam với mục đích duy nhất là truyền bá tinh thần thập thiệp nghiệp đạo, cũng v́ lợi ích cho mọi người.




Quay trở về đầu Xem thaicuc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thaicuc
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 4.2295 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO