Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 263 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Chánh và Tà Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 1 of 23: Đă gửi: 19 March 2006 lúc 9:25pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Chánh và Tà

1. Vị Thầy lấy việc trao đổi chồng vợ, nam nữ hoang dâm, buông thả vô độ làm mồi nhử để thu hút đồ chúng, và xem như là phương tiện để cứu thế gian; đó là tà.

2. Vị Thầy khơi dậy ḷng tham của đồ chúng bằng cách nói rằng ḿnh có thể dùng bùa, chú, và thần tài để giúp họ trở nên giàu có; đó là tà.

3. Vị Thầy khuyến khích trực tiếp hay gián tiếp việc giết hại chúng sanh và ăn thịt chúng sanh. C̣n nói rằng ḿnh có thể dùng bùa chú để cứu độ vong linh của những chúng sanh đă bị ăn thịt; đó là tà.

4. Vị Thầy thực hành các loại khổ hạnh kỳ dị, tự làm thương tổn để tác động chúng sanh, và gọi đó là chịu khổ thay cho chúng sanh; đó là tà.

5. Vị Thầy dùng thần thông và các điều kỳ dị làm “công cụ” để thu hút những chúng sanh có ḷng hiếu kỳ; đó là tà.

6. Vị Thầy tự ư thêm bớt, sửa đổi các quả vị tu hành trong Phật Giáo và giải thích lệch lạc ư nghĩa của “tín, giải, tu, chứng,” c̣n tự cho ḿnh là giáo chủ; đó là tà.

7. Vị Thầy tự lập ra tông phái rồi tự xưng là giáo chủ (hay Vô Thượng Sư) mà chính ḿnh lại không có căn bản chân thật vể đạo lư Phật Giáo; đó là tà.

                        (Cố Ḥa Thượng Thích Tuyên Hóa)

Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 2 of 23: Đă gửi: 19 March 2006 lúc 10:19pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

ĐỨNG TRÊN TẤT CẢ
Vĩnh Hảo



Trong cuốn Tăng Già Việt Nam của Ḥa Thượng Thích Trí Quang, có một câu rất hay, rất cảm động mà mỗi khi lẩm nhẩm đọc đến th́ người đọc cảm thấy ḷng hưng phấn, chí nguyện được cất cao lên, không c̣n khiếp sợ hay nhàm chán phải đối diện với đời sống vô thường hệ lụy:

“Đứng trên tất cả để sống v́ tất cả.”


Câu ấy được viết ra để nhắc nhở, khích lệ những người xuất gia theo Phật—những người đă từ bỏ mọi thứ cặn bă vinh hoa, danh vọng, quyền lợi, sắc dục, tiền tài... nói chung là tất cả mọi thứ trói buộc tầm thường của cuộc đời.

Nhắc nhở ǵ? — Nhắc nhở rằng trách nhiệm cao cả và duy nhất của người xuất gia là tự giác ngộ lấy ḿnh để có thể đem lại trí tuệ giác ngộ cho kẻ khác, tự giải thoát lấy ḿnh để có thể cứu thoát kẻ khác.



Khích lệ ǵ? — Khích lệ rằng lư tưởng xuất trần là con đường cao đẹp và đúng đắn mà chỉ có những kẻ có t́nh thương yêu rộng lớn, tuệ căn sâu thẳm và ư chí quyết liệt dũng mănh mới chọn lựa và dấn ḿnh vào.

Nhưng khi người xuất gia chọn lựa “đứng trên tất cả,” điều đó chẳng có nghĩa là chọn một thứ vị trí không gian hay một thứ giai tầng xă hội nào ở chóp đỉnh của những nấc thang giá trị cuộc đời, mà chính là đứng ra ngoài, hay đúng hơn, vượt ra khỏi, vượt lên trên, tất cả những thế đứng, chỗ ngồi, quyền hạn, lợi dưỡng, sắc dục, danh vị, phẩm trật, chức tước, cấp bằng... nói chung là tất cả những ǵ mà người thế tục b́nh phàm cho là quí giá và lăng xăng chạy đuổi theo bằng cả cuộc đời của họ.



CON ĐƯỜNG NGƯỢC D̉NG



Đó là nh́n một cách lạc quan theo danh nghĩa lư tưởng. C̣n trên thực tế sinh hoạt, nhất là sinh hoạt của thời đại ngày nay—cái thời đại mà kinh Phật đă thấy trước và đă đặt tên trước là thời kỳ mạt pháp—th́ cả ḷng người lẫn hoàn cảnh xă hội hầu như đều toa rập, đồng lơa với nhau để đẩy xô những người xuất gia vào một nếp sống mới với những lề lối suy tư, quan niệm, lời nói và hành xử, đi ngược lại với chí nguyện xuất trần ban đầu, để rồi chúng ta đau ḷng mục kích bao nhiêu là điều “nghịch thường” trong chốn thiền môn, cả trong nước lẫn hải ngoại.



Cái lẽ nghịch thường ấy, nh́n theo con mắt thế tục, th́ chẳng có ǵ gọi là sai trái, lạ lùng cả và tất nhiên là người thế tục sẽ cho đó là điều b́nh thường; nhưng áp dụng nó vào nẻo đạo th́ cái nghịch thường này thực khó mà chấp nhận. Ḥn sỏi ném xuống nước th́ ch́m đến tận đáy, đó chuyện b́nh thường; nhưng bong bóng bay mà cũng lặn xuống đáy nước th́ không phải là b́nh thường nữa. Cả người bán lẫn người mua bong bóng bay đều mong đợi sự bay lên của những chiếc bong bóng. Giá trị của chiếc bong bóng bay là ở chỗ bay lên ấy. Khi bong bóng x́u không bay nổi, chúng mất giá trị, chúng không b́nh thường, không c̣n lư do nào để tồn tại.



Con đường xuất gia là con đường ngược ḍng. Giới nhà thiền gọi là nghịch lưu. Trong khi tất cả những người thế tục và cả những người cư sĩ tại gia có hiểu và tu tập theo giáo lư Phật, đều chạy xuôi theo ḍng tục lụy, th́ chỉ có họ, những người xuất gia, là bơi ngược ḍng để t́m về nguồn cội vô tận thênh thang.



Chọn lựa sự ngược ḍng là chọn lựa đứng trên tất cả, vượt lên tất cả những cặn bă phù phiếm của ḍng đời. Thế th́, tại sao một người xuất gia phải cúi đầu bằng ḷng, hănh diện, vui vẻ, ngưỡng mộ, khiếp phục, tận lực gia công, bỏ hết th́ giờ, cặm cụi cắm cúi, hăm hở chạy theo... những cái gọi là sự thành công của đời sống thế tục? Tại sao bong bóng càng lúc càng x́u đi một cách thảm hại để rồi cứ la đà trên mặt đất? Tại sao con thuyền ngược ḍng lại quay mũi mà xuôi theo sóng nước? hay là nó vẫn hướng mũi về phía đầu nguồn nhưng lại đi tới về phía cuối nguồn bằng cái đuôi thuyền?



Khi người xuất gia chằm hăm bỏ hết th́ giờ của ḿnh để được thành công với đời—bằng bất cứ phương cách nào—th́ người ấy đă thất bại thấy rơ trên đường đạo. Thất bại là v́ đă chọn đứng giữa và đứng trong tất cả, thay v́ đứng trên tất cả.



PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO



Người ta có nhiều lư do để biện minh cho thái độ chọn lựa này. Chẳng hạn, v́ hoàn cảnh xă hội, v́ thời cuộc, v́ nhân tâm thời nay đ̣i hỏi người xuất gia phải như vậy. Hoặc nói theo ngôn ngữ nhà thiền th́, “phải biết dùng phương tiện thiện xảo để độ sanh.” Vâng, phương tiện thiện xảo. Bốn chữ ấy đối với những bậc thực sự giải thoát giác ngộ (hoặc thực sự qui hướng bản tâm vào lư tưởng xuất trần độ sanh) th́ là cái ǵ linh diệu, đẹp đẽ, như những cánh tay đầy diệu dụng (mười tám tay của Bồ Tát Chuẩn Đề, ngàn tay của Bồ Tát Quán Thế Âm...) như những ch́a khóa vàng mở vào kho vô tận... nhưng đối với kẻ tuy mang h́nh thức xuất gia mà tâm hăy c̣n bươn chải lặn hụp theo ḍng thế tục th́ đó chỉ là thứ rào chắn bảo vệ và che đậy, biện minh và khỏa lấp tất cả sự hèn kém tầm thường của chiếc bong bóng x́ hơi mà thôi.



Chúng ta có nên đổ lỗi cho thời kỳ mạt pháp đă khiến một số người xuất gia không c̣n ôm giữ chí nguyện xuất trần? Chúng ta có nên biện minh rằng tất cả những ǵ người xuất gia làm hôm nay đều là mở rộng cánh cửa phương tiện thiện xảo?



Thực ra, khi một người phát khởi tâm bồ đề (giác ngộ), luôn hướng vọng đến đạo quả giải thoát và chí nguyện độ sanh, th́ không có vấn đề chánh pháp, tượng pháp hay mạt pháp nữa. Bỏ đi, hoặc lơ là với chí nguyện xuất trần, là tự ḿnh lăn vào thời kỳ mạt pháp; không những sống trong thời kỳ mạt pháp mà c̣n sống trong tất cả những hoàn cảnh mạt pháp.



C̣n nói rằng v́ phương tiện độ sanh mà làm các việc thế tục th́ điều này chẳng lạ ǵ với tư tưởng dấn thân hành đạo của truyền thống Đại thừa. Nhưng nếu tâm bồ đề không phát khởi, không giữ ǵn, không phát triển, không đẩy đến mức toàn vẹn, th́ tất cả những phương tiện dù có mang lại một kết quả tốt đẹp nào đó đối với đời th́ cũng đều là sự manh động của tự ngă, không dính nhập ǵ đến đạo quả giải thoát giác ngộ và hạnh nguyện lợi sanh cả. Và những thứ phương tiện được thực hiện theo cách đó không thể nào gọi là phương tiện thiện xảo. Chúng chỉ là phương tiện theo ư nghĩa thông tục nhất của thế gian mà thôi. Mà phương tiện theo cách ấy th́ ai lại chẳng làm được! Tất cả những con người gian ác, bạo tàn, quỉ quyệt, hám lợi hám danh, tham quyền cố vị, vị kỷ, hèn mọn, đê tiện, thấp kém, ngu dốt và cả những người trí thức... đều học tập, thực hành và phát triển phương tiện riêng của họ. Nhưng không có thứ phương tiện nào trong số đó được gọi là phương tiện thiện xảo, bởi v́ chúng được thiết lập không phải để nhắm vào mục đích giải thoát giác ngộ.



Tóm lại là không có lư do nào để có thể đổ lỗi cho thời kỳ mạt pháp hay biện bạch cho sự phóng tâm chạy xuôi theo ḍng đời. Hễ mục đích sai lầm th́ tất cả phương tiện đều sai lầm. Suy ra, khi người ta làm những phương tiện sai lầm th́ ắt phải biết là mục đích của họ đă sai lầm.



Nhưng phương tiện nào là phương tiện sai lầm? Nói vậy e có phải là vội vàng, bao đồng lắm không? Chứ không phải người ta thường nói rằng: Nghề nào cũng tốt! Miễn là “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” và miễn sao nghề xấu mà ḷng tốt th́ được rồi. Vâng, quan niệm ấy có thể áp dụng được ở thế tục hoặc một khía cạnh nào đó trong đạo. Nhưng cũng tương đối thôi. V́ nó chỉ có tính cách luân lư, an ủi những thành phần bất tài, thấp kém không t́m được những nghề nghiệp vững chắc và danh giá trong xă hội, cũng như để khích lệ những người lăng xăng dao động nên chú tâm vào một việc. C̣n trên thực tế xă hội th́ không ai khuyến khích nghề trộm cướp, nghề đồ tể, nghề ăn mày ăn xin... (bất kể ḷng dạ tốt hay xấu) mà chỉ khuyến khích các nghề bác sĩ, kỹ sư, thương gia... (cũng bất kể ḷng dạ tốt xấu). Chính v́ vậy, chắc chắn là có những phương tiện sai lầm trong xă hội đầy dẫy những con người với ḷng dạ bất thiện. Chính v́ bất thiện ở tự tâm, họ không bao giờ có một thứ mục đích nào gọi là cao đẹp hay có lợi ích cho kẻ khác. Nhưng họ lại là những người luôn lấy phương châm cứu cánh biện minh cho phương tiện để tô vẽ cho những hành động vị kỷ của ḿnh.



Xét về mặt nhân quả th́ phương tiện và cứu cánh phải tương ứng thích hợp với nhau. Phương tiện xấu th́ đưa đến cứu cánh xấu; ngược lại, cứu cánh xấu cũng mở đường cho những phương tiện xấu. Không có thứ phương tiện tồi tệ của một kẻ tồi tệ nào lại đưa đến một cứu cánh hoàn hảo. Nói như Krishnamurti—một vị đạo sư giác ngộ vĩ đại nhất của thế kỷ 20 mà chưa bao giờ tự nhận ḿnh là đạo sư—th́ “Tự do đầu tiên và cuối cùng.” Có thể tạm hiểu ư chính của tựa đề này (và cũng là nội dung của toàn bộ cuốn sách) rằng, cái nhân tự do giải thoát mới đưa đến cái quả tự do giải thoát. Đầu tiên là nhân, Cuối cùng là quả. Khi thiết lập một thứ phương tiện mà thiếu tính cách tự do, th́ sẽ chẳng bao giờ có được cái cứu cánh tự do cả. Cũng vậy, các phương tiện xuôi ḍng của thế tục không thể nào dẫn đến cứu cánh giải thoát giác ngộ.



BỒ TÁT HÓA THÂN



Đó là xét về mặt nhân quả thông thường của thế tục. C̣n xét về mặt đạo, có người sẽ nói rằng kẻ phàm tâm khó mà hiểu được hành động của bồ tát dấn thân độ đời, v́ những vị này đă hoàn toàn giác ngộ, nên hành vi, lời nói và ư nghĩ của họ không c̣n rơi vào ṿng ảnh hưởng của nhân quả. Lư này không sai, nhưng làm sao giải thích được với những người không tin nhân quả hoặc những người tin sâu vào nhân quả và không chấp nhận một sự ngoại lệ nào cho những tác nghiệp xảy ra trên cuộc đời? Chúng ta có thể bàn sâu hơn một chút về các vị bồ tát dấn thân độ đời nói trên.



Trong truyện sử Phật giáo, đôi khi có vài câu chuyện về những vị bồ tát hiện thân làm người phàm, thực hiện tất cả những công việc của người đời nhằm mục đích cứu nhân độ thế. Những vị bồ tát hóa thân này thường mang thân tướng tầm thường, làm những việc tầm thường, khiến người đời không biết, dùng lời lẽ nguyền rủa hoặc có tâm ư khinh chê, liền bị đọa địa ngục... Những câu chuyện loại ấy khiến cho những Phật tử sơ căn dè dặt ư nghĩ, lời nói và hành động của ḿnh hơn, không dám vội vàng đánh giá kẻ khác, vô t́nh thực hiện hạnh tốt là “Không nên nh́n ngó lỗi người, chỉ nên tự xét lỗi ḿnh” (Kinh Pháp Cú—Dhammapada); nhưng cũng là cái phao cho những kẻ phàm phu tục tử vin vào đó để làm việc xằng bậy rồi cứ khăng khăng ngụy biện rằng ḿnh làm việc này, việc kia, đều chỉ là phương tiện thiện xảo... hoặc đem địa ngục ra để hăm dọa kẻ khác, bịt miệng kẻ khác.



Thực ra, theo thiển ư riêng của tôi, một vị bồ tát hóa thân mà ưa làm những chuyện cho người đời chửi rủa để rồi người chửi rủa mắc tội đọa địa ngục, th́ vị bồ tát ấy sử dụng phương tiện độ sanh chưa được thiện xảo (khéo léo) ǵ lắm. Bồ tát hóa thân làm người phàm để gần gũi người đời mà cứu độ họ thoát khổ chứ đâu phải để “nhử” cho họ chửi ḿnh rồi bị đọa vào cảnh khổ!

Một điều đáng lưu ư nữa là cho dù hóa thân bằng cách nào, h́nh thức nào, vị bồ tát đó cũng không thể che giấu được sự “bất phàm” của ḿnh. Đă là bồ tát, đă là thánh nhân đắc đạo, th́ có hóa thân làm ǵ đi nữa, vẫn tỏa ra cái cốt cách phong độ và sở chứng của ḿnh. Đó là điểm mà một phàm nhân không thể nào bắt chước, và đó cũng là điểm mà người ta có thể dựa vào để nhận biết được một vị bồ tát hóa thân.



Đừng bao giờ khư khư khẳng định rằng không thể nào nhận biết được các vị bồ tát hóa thân. Bởi v́ sự khẳng định này sẽ khiến chúng ta có thói quen là không sử dụng trạch pháp (phân biệt và chọn lựa phương pháp chân chính, thích hợp) và v́ vậy sẽ không bao giờ phân định được đâu là bậc tu hành chân chánh để nương theo, đâu là kẻ thực hành tà đạo để xa lánh.



Thực ra, chánh nhân và tà nhân, chánh đạo và tà đạo, rất dễ nhận biết, và rất cần thiết phải nhận biết. Tại sao không?! Tại sao thời xưa bên Trung Hoa người ta nhận biết Bố Đại Ḥa Thượng và Phật sống chùa Kim Sơn? Không phải chỉ v́ họ có pháp thuật hoặc cứu độ được nhiều người, mà chính v́ cái vẻ tự tại vô ngại, không chấp trước nhân-ngă, bỉ-thử, không cầu danh hám lợi, không kể lể công đức, không ham thích tạo ra ḍng phái tông môn để làm tông chủ giáo chủ, không cố t́nh để lại vết tích hành trạng của tự ngă. Họ làm tất cả mọi việc đều v́ mục đích lợi sanh chứ không v́ sự vinh quang của gịng phái, tổ tông, hay v́ bất cứ thứ phần thưởng vật chất và tinh thần nào của cuộc đời... Họ đến rồi đi như bóng nhạn lướt trên mặt nước, như mây trắng trôi qua trời, nhưng lợi ích cho đời th́ không đếm kể được. Những người không biết, chửi rủa họ, họ hoan hỉ đùa cợt rồi t́m cách cứu độ hết, không để cho ai phải v́ khinh chê ḿnh mà đọa địa ngục. Không chấp có ngă có nhân nên không đem ḷng hận thù oán ghét ai. Chính cái tâm vô ngă và đại bi của họ khiến cho những lời nguyền rủa của phàm nhân tan ra mây khói, không kết thành ác nghiệp.



Cho nên, chúng ta có thể nhận biết được các vị bồ tát hóa thân và những vị tu hành chân chánh—những vị thực sự đứng trên tất cả để sống v́ tất cả.



KÍNH TÍN VÀ PHÂN BIỆT



Nhận biết được tức là thực hành trạch pháp và cũng hàm nghĩa rằng có một thứ ch́a khóa hay một mấu chốt nào đó để t́m ra, để nhận dạng những vị thánh tăng (và dĩ nhiên là đă vô t́nh so sánh với phàm tăng). Điểm này xem ra có vẻ là điều cấm kỵ trong giới tu tập Phật giáo. Nó cho người ta cái cảm giác như là ḿnh vô lễ vô phép, mất niềm tin đối với Tam Bảo.



Thực ra, t́m thầy học đạo không nhất thiết phải t́m cho ra một vị thánh tăng, mà chỉ cần t́m cho được một vị chân tăng. Vị chân tăng này có thể là thánh hay phàm, nhưng họ có một điểm chung là hướng vọng đến đạo quả bồ đề; mà hướng vọng đến đạo quả bồ đề th́ chắc chắn là phải thực hiện hạnh vô ngă trong từng ư nghĩ, lời nói, và hành động thường nhật của họ.



Thông thường, với ḷng kính tín sâu xa vào Tam Bảo qua h́nh ảnh sáng ngời của đức Phật, qua sự vi diệu của giáo Pháp, và qua những tấm gương cao đẹp của nhiều thế hệ chân Tăng, người ta có thói quen là không dám đánh giá, lượng định, so sánh... phẩm giá và hành trạng của những người xuất gia hiện tại, cứ một mực cho rằng, “vị nào cũng tốt,” hoặc “dù họ không được hoàn hảo lắm th́ cũng hơn ḿnh,” hoặc “biết đâu họ là bồ tát hóa thân...” Thái độ kính tín sâu xa ấy rất cần thiết cho người sơ cơ học đạo và cũng rất cần thiết cho những người đang thực hành bồ tát đạo, học theo hạnh của Bồ tát Thường Bất Khinh, luôn luôn quí trọng tôn sùng kẻ khác v́ tin tưởng Phật tính sẵn có nơi họ. Nhưng trong trường hợp một người tầm sư học đạo, tha thiết t́m cầu đạo lư giác ngộ để vĩnh viễn giải thoát, th́ vấn đề phân biệt chân sư - tà sư, tất phải đặt ra. Cố nhiên là phải như vậy. Bởi v́ không phân biệt được sự sai khác giữa chân và tà sư th́ có thể xảy ra trường hợp suốt đời tu hành lao nhọc mà chẳng có kết quả ǵ đáng kể, hoặc đi theo tà ma ngoại đạo từ lâu mà chẳng hay.

Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 3 of 23: Đă gửi: 19 March 2006 lúc 10:20pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Đứng Trên Tất Cả

Vĩnh Hảo

(tiếp theo)



CHÂN SƯ VÀ TÀ SƯ

Chân sư và tà sư khác nhau chỗ nào?




Đối với tu sĩ của một số tôn giáo tôn thờ thần quyền, sự đánh giá chân-ngụy, chánh-tà khá dễ dàng qua mặt đạo đức, tác phong của chính các vị tu sĩ ấy. Mà phẩm cách đạo đức, tác phong của tu sĩ các tôn giáo này thường khi chỉ đặt nền tảng trên sự cần mẫn tận tụy hiến dâng, phụng sự thần linh, thực hành các giáo điều, tín điều đă được thần linh ban hành hay trích dẫn từ kinh sách được tin là được viết ra do sự mặc khải của thần linh. Tu sĩ nào thực hành nghiêm chỉnh các tín-giáo điều th́ được coi là có đạo đức; và ngược lại th́ vô đạo đức; hoặc thiếu đạo đức mà làm bộ như ta đây đạo đức th́ bị gọi là đạo đức giả. Đối với tu sĩ các tôn giáo ấy, tu tập chỉ có nghĩa là như vậy: tuân thủ các giới điều và tín điều. Hoặc nói nôm na tóm gọn là chỉ cần giữ ḿnh làm người đạo đức, mô phạm.



Trong khi đó, thực hành giáo lư đạo Phật, tu sĩ Phật giáo không phải chỉ là những người trau luyện đạo đức hay một thứ tư cách cao quí đức hạnh làm người nào đó mà xă hội mong đợi. Con đường chính yếu của họ là thực hành các phương pháp tinh diệu nhằm phá vỡ biên giới của tự ngă để thể nhập vào bản thể vô tận sẵn có trong mỗi người, mỗi loài. Để thành tựu trọn vẹn mục tiêu này, hành giả phải trải qua một tiến tŕnh, hoặc nhanh hoặc chậm, gồm 53 giai đoạn từ sơ cơ đến thượng trí. Những giai đoạn tu chứng này vượt ra khỏi thứ đạo đức làm người của thế gian, bước vào thánh hạnh cao quư của hàng Bồ tát, Phật. Và chính v́ có khá nhiều giai đoạn và thứ bậc như thế, việc nhận dạng các vị chân tu đắc đạo đang ở giai đoạn nào không phải là đơn giản, trừ phi chúng ta đắc đạo như Phật.



Tuy nhiên, như đă nói ở trước, để tầm sư học đạo, chúng ta cần thiết phải biết nhận dạng một vị chân sư để theo học, như cách người xưa thường nói “chọn mặt gởi vàng.” Điều này nói ra có vẻ như một điều mai mỉa bất kính làm đụng chạm một số đạo sư nào đó. Nhưng nếu thực sự có một sự đụng chạm, hóa ra vị đạo sư ấy dễ bị dao động đến thế sao? hóa ra vị đạo sư ấy hăy c̣n một cái ngă to lớn cứng rắn nào đó để cho sự lượng giá của học tṛ đụng chạm đến sao? và nếu cứ tránh né đụng chạm những đạo sư, hóa ra lại đẩy những thiệt tḥi về phía những người học tṛ đang khao khát t́m cầu chân lư?



Người học tṛ thượng căn như Thái tử Tất Đạt Đa năm xưa có thể rời bỏ các sư phụ để tự ḿnh t́m kiếm chân lư, c̣n những học tṛ căn trí thô thiển cạn cợt như chúng ta ngày nay th́ sao? Nếu chọn lầm sư phụ th́ chẳng phải là cái tiền đồ tu tập của chúng ta sẽ mở vào một cơi u u minh minh hay sao?



Cho nên, rất cần thiết phải biết chọn thầy bằng cách nhận dạng dấu hiệu thực nghiệm toát ra từ nếp sinh hoạt của họ. Sự nhận dạng này không có nghĩa là phải nh́n thấu từng quả vị tu chứng của họ hoặc đ̣i hỏi họ phải chứng minh sở đắc. Chúng ta có một ch́a khóa nhỏ để mở ra cái kho vô tận xứng đáng cho ḿnh qui phục, nương tựa. Và ch́a khóa đó chính là điểm chung mà hầu như các vị chân tăng đều có: tính cách vô ngă thể hiện trong nếp sinh hoạt hàng ngày.



Chân sư và tà sư theo quan niệm Phật giáo khác nhau ở chỗ đó. Họ có thể sử dụng những phương tiện giống nhau: tụng kinh, tọa thiền, giảng dạy Phật Pháp, làm việc văn hóa, làm việc xă hội từ thiện... Nhưng mục đích hành đạo của họ th́ khác nhau: một bên th́ có khuynh hướng dẹp trừ bản ngă để thể nhập vào thể tánh vắng lặng vô biên; một bên th́ nuôi lớn bản ngă, đắp cao thành tŕ của ái dục và lợi danh tầm thường.



Cần nhấn mạnh một lần nữa nơi đây rằng, chúng ta chỉ chú trọng đến chân và tà. Mà trong chân có thể vừa có thánh vừa có phàm, trong khi trong tà—dù có là một đạo sư nổi tiếng cách mấy đi nữa—chỉ hoàn toàn là phàm. Như vậy, nếu chúng ta thực sự muốn t́m cầu một bậc thầy có khả năng hướng dẫn ta tiến đến giải thoát giác ngộ, nên lấy chân, bỏ tà.



(Cũng nên mở ngoặc thêm ở đây rằng: trong giới tu học Phật giáo, không phải ai cũng có khát vọng t́m cầu chân lư hoặc hoài băo giải thoát giác ngộ. Không những trong giới tại gia cư sĩ mà ngay cả một số tu sĩ Phật giáo thời nay cũng vậy: có khi chỉ thực hành giáo lư Phật như cách các tu sĩ tôn giáo khác trau luyện đạo đức làm người và giữ ǵn các tín điều. Điều này xét về mặt nhân sinh quan, cũng là điều hữu dụng, v́ có khả năng ổn định xă hội, lành mạnh hóa đời sống gia đ́nh, đem lại chút hạnh phúc nhẹ nhàng nào đó cho mỗi cá nhân. Nhưng, mục tiêu tối hậu của giáo lư Phật th́ không dừng đứng ở chỗ đó. Đức Phật đă từng nói: “Nếu nước đại dương chỉ có một vị mặn th́ đạo lư của ta chỉ có một vị duy nhất là giải thoát.” Hành giả tu tập có thể giữ ǵn giới luật để được giải thoát từng phần [biệt giải thoát] tùy theo giới cấm ḿnh tiếp thọ; nhưng mục tiêu tối hậu vẫn là giải thoát hoàn toàn tất cả mọi phiền năo trói buộc của tự tâm. Mà để có được điều này, phải dẹp trừ cả ngă chấp và pháp chấp. Tóm lại, tu tập theo chân tinh thần Phật giáo là nhảy vào ṿm trời tự tại vô ngại của tánh Không để được thành Phật như đức Phật, chứ không phải chỉ học làm người, học làm vua, làm tôi, làm chồng, làm vợ, làm cha, làm mẹ, làm con, làm thầy giáo, làm học tṛ, làm người truyền đạo, làm nhà trí thức, làm người có bằng cấp thế gian, làm người có tiếng tăm danh vọng, làm công dân đạo đức đàng hoàng trong xă hội... mà bất cứ tôn giáo nào cũng có thể hướng dẫn được. Nêu ra điều trên là để thưa trước rằng những ǵ sắp nói ở sau, chỉ dành cho những người muốn tu tập theo đạo lư giải thoát giác ngộ và thực sự muốn t́m một bậc chân sư có khả năng hướng dẫn ḿnh thực hiện chí nguyện đó.)



Chân sư Phật giáo tạm thời phân chia thành hai bậc: thánh tăng và phàm tăng.

Các chân thánh tăng th́ miễn bàn, v́ chắc chắn họ là những bậc chân sư đáng qui phục, ai có phước duyên th́ được tu tập dưới sự hướng dẫn của họ. Giả như không gặp thánh tăng, chúng ta hăy c̣n may mắn là có những chân phàm tăng để bái làm thầy. Những vị này tuy chưa chứng thánh nhưng luôn có khuynh hướng truy cầu giải thoát giác ngộ, biết được con đường chân chính để đi và hướng dẫn môn đệ cùng đi, nỗ lực tu tập những phương thức dẹp trừ bản ngă và khát dục. Cả hai bậc chân sư trên đều rất xứng đáng cho chúng ta đảnh lễ qui y.

Nhưng ở trên, vẫn chỉ là nói một cách khái quát. Chúng ta cần đi vào chi tiết: làm thế nào để nhận ra một vị chân sư? Câu hỏi này đưa chúng ta quay trở lại với tiền đề nêu ở trước: tính cách vô ngă thể hiện trong nếp sinh hoạt hàng ngày của các vị chân sư.



VÔ NGĂ TRONG NẾP SINH HOẠT



Theo quan niệm Phật giáo, sở dĩ chúng sinh trôi lăn trong biển khổ luân hồi là v́ đă tự cho rằng ḿnh thực sự có một thứ cá ngă độc lập. Một vài tôn giáo tôn thờ thần quyền cũng đă xác nhận có một thứ bản ngă qua sự tồn tại bất diệt của linh hồn; trong khi có tôn giáo chủ trương hy sinh bản ngă bằng cách dâng hiến trọn vẹn thể xác và linh hồn cho thần linh để được đền bù tưởng thưởng xứng đáng sau khi chết. Công nhận hay chối từ bản ngă theo các lối trên, đều chứng minh có một cái ngă có thực tướng hay có thực tánh, thực sự tách rời với vũ trụ và vạn hữu chung quanh. Và đây chính là cái mầm của phiền năo, trói buộc.



Tu tập theo Phật giáo là tiến tŕnh của sự lột bỏ (nhanh hay chậm, hoàn toàn hay từng phần) sự vận hành và tồn tục của cái ngă đó. Tất cả các pháp môn tu tập từ cao đến thấp của Phật giáo đều qui hướng về tự tánh Không, tức là phá bỏ mọi kiến chấp về ngă (cái ta), ngă sở (cái thuộc về ta), pháp (một cái ǵ ở ngoài ta mà ta đang hướng đến hay chối bỏ, nghĩ rằng ta đạt được nó hoặc ta đang vượt qua nó...). Trở về với tánh Không th́ xóa sạch vết tích của ngă và pháp—đó là con đường nhanh của bậc thượng căn thượng trí. Xóa sạch vết tích của ngă và pháp th́ trở về với tánh Không—đây là con đường chậm của hàng trung căn hạ căn. Nhưng dù là thượng căn hay hạ trí, dù phương pháp tu tập có khác nhau, họ vẫn có điểm chung là phá trừ kiến chấp về ngă.



Như vậy, chúng ta có thể chọn lựa bất cứ vị sư phụ tầm thường (không chân chính) nào trên cuộc đời để hướng dẫn chúng ta nếu chúng ta không cần giải thoát giác ngộ mà chỉ cần chạy rông để t́m danh lợi trong số đông hoặc một thứ giá trị đạo đức thông thường của thế gian; c̣n nếu thực sự muốn tu tập để thoát ly sinh tử, chúng ta phải sáng suốt t́m đến một vị chân tăng chứ không cần uổng phí th́ giờ và công phu tu tập của ḿnh theo chân những vị thầy mà nếp sinh hoạt hàng ngày của họ biểu lộ rơ ràng khuynh hướng bảo vệ và nuôi lớn tự ngă như các trường hợp điển h́nh sau:



— khi một vị thầy tự xưng ḿnh là bậc thầy vĩ đại hoặc là bậc thầy cao tột không ai bằng (đại sư, vô thượng sư), hoặc vui thích đắm ḿnh trong những danh xưng, tước hiệu, phẩm hàm tôn quí do kẻ khác ban tặng... vị thầy ấy đang ở trong cơn mê của ḷng vị ngă, ái ngă, và đang ôm theo ḿnh niềm tăng thượng mạn, tích cực nối đuôi ma vương để trèo lên đỉnh thang hào nhoáng không thực của danh vọng và quyền lợi thế gian.



— khi một vị thầy nói với bạn rằng chỉ có phương pháp của ông (hay bà) là cao tột, vượt hẳn các phương pháp của các bậc thầy khác, th́ vị thầy này đang sống trong niềm tự hănh của một bản ngă c̣n đầy căn khí kiêu kỳ, ngạo mạn;



— khi một vị thầy phê phán và chỉ trích cá nhân những bậc thầy khác, nêu những lỗi xấu của những bậc thầy khác để làm nổi bật phong cách của ḿnh, th́ vị thầy này đang biểu lộ phần nào tâm lượng tị hiềm nhỏ mọn của ḿnh.



— khi một vị thầy, dù không lên tiếng chỉ trích kẻ khác, cũng không tự mở lời khoa trương về phẩm cách của ḿnh, nhưng hài ḷng với sự tâng bốc ca tụng của môn đệ và trong ḷng tự nghĩ ḿnh cao quí, lẳng lặng cười mỉa mai kẻ khác, không chịu lắng nghe quan điểm của kẻ khác để tự sửa ḿnh mà một mực cho rằng kẻ khác chỉ trích hay phê phán ḿnh là v́ họ thua sút và ganh tị ḿnh, th́ vị thầy này cũng đang tự bồi đắp tường thành ngă chấp ngay ở nền tảng thâm sâu của nó.



— khi một vị thầy thường tỏ vẻ bất b́nh, bẳn gắt, cau có, lúc nào cũng muốn mọi người phải thuận theo ư ḿnh chứ không chấp nhận luận điểm trái ngược, chỉ đ̣i hỏi sự tuân phục tuyệt đối từ kẻ khác, th́ vị thầy ấy đang tiếp tục nuôi dưỡng mầm mống của tâm ái ngă.



— khi một vị thầy thường trau chuốt bề ngoài của ḿnh bằng hương hoa, bôi trát son phấn để tạo cái đẹp giả dối hoặc che giấu nhân dáng thực của ḿnh, hoặc dùng các thứ trang sức vàng bạc, y phục diêm dúa đắt tiền lộng lẫy để chứng tỏ sự hào phóng giàu sang... có nghĩa là vị thầy đó chưa bao giờ t́m thấy một thứ giá trị cao tột nào ở phần tâm linh và đang bị dẫn dắt bởi những tiểu yêu tầm thường nhất của con ma dục vọng.



— khi một vị thầy ưa thích xuất hiện giữa đám đông quần chúng để được ca tụng và đón nhận ḷng ngưỡng mộ từ kẻ khác, tung tiền bạc và ḷng thương giả tạo để mua chuộc niềm tin của những kẻ nghèo kém vật chất và tinh thần... vị thầy đó đă tự chứng tỏ có một sự rỗng tuếch bên trong của ḿnh và đang cố gắng khỏa lấp bằng ảo tưởng là có một thứ tự ngă cao quí được người khác nh́n nhận.



— khi một vị thầy lộ vẻ hănh diện khi được sự tưởng thưởng từ các giới quyền lực thế gian, khiếp sợ và tỏ ư tuân phục các thứ cơ cấu chính quyền để mưu cầu an nguy cho bản thân, hoặc cảm thấy ḿnh được tăng giá trị khi thân cận tiếp xúc với giới này, hoặc thâu góp tài sản dâng hiến của môn đệ để biếu tặng giới này mà mưu cầu danh vọng... vị thầy đó rơ ràng hăy c̣n cái tâm vị ngă, chưa thấy được giá trị cao tột của con đường xuất thế viễn ly, chưa t́m được nơi nương tựa chân chính cho tâm linh ḿnh và chưa tự làm ngọn đuốc soi sáng cho đời ḿnh.



— khi một vị thầy thường lấy bằng cấp, sách vở, kiến thức thế gian và sự qui tụ đông đảo của giới trí thức học đường thế tục để làm thứ bảo chứng giá trị cho việc tu tập tâm linh của ḿnh, có nghĩa rằng vị thầy ấy đang c̣n đứng ngoài ṿng rào của trí tuệ siêu việt, chưa bao giờ nếm được chất liệu giải thoát giác ngộ thực sự và có thể là chưa từng bao giờ có khuynh hướng muốn vươn tới sự viễn ly triệt để.



— khi một vị thầy làm được điều ǵ cũng hay có khuynh hướng tự kể lể, báo cáo, khoa trương, đưa h́nh ảnh và tên tuổi của ḿnh ra trước công chúng qua các phương tiện truyền thông hoặc khích lệ, vui vẻ, tán đồng sự tâng bốc, khoa trương kể lể của môn đệ đối với việc làm của ḿnh... vị thầy ấy hăy c̣n mê muội đắm ḿnh trong ảo giác của những vầng hào quang huyễn dối của dư luận và danh vọng thế gian.



— khi một vị thầy sợ hăi dư luận quần chúng, sợ hăi sự mang tiếng cho cá nhân ḿnh, sợ hăi sự phiền hà rắc rối cho đời tư của ḿnh mà ngoảnh mặt với điều thiện nên làm, làm ngơ trước điều ác đang làm khổ những đồng loại chung quanh ḿnh, th́ vị thầy ấy chưa có được tâm vô úy; chưa có được tâm vô úy có nghĩa là vị thầy ấy hăy c̣n nuôi giữ một thứ bản ngă to lớn, co rút trong cái vỏ của vị kỷ, cầu an; điều này cũng chứng tỏ vị ấy chưa có được sự mẫn tuệ của kẻ thực hành bồ tát hạnh và cũng chưa phát triển đúng mức ḷng từ bi của ḿnh đối với chúng sinh...



Vài nét đại cương ở trên dĩ nhiên không có giá trị tuyệt đối nhưng ít nhất chúng cũng cho chúng ta khái niệm về những biểu hiện của cái ngă—đối tượng để tu tập và chuyển hóa trong tất cả mọi pháp môn, mọi sinh hoạt của Phật giáo.

Tŕnh bày những biểu hiện của sự chấp ngă, người viết chỉ hy vọng một điều duy nhất là những người môn đệ t́m cầu giải thoát giác ngộ có thể chọn được một minh sư chân chính nào đó để hướng dẫn ḿnh đi đúng đường; c̣n những vị đang đóng vai tṛ hướng đạo th́ cũng tự nh́n lại ḿnh, lượng giá được chân tướng của ḿnh cũng như con đường mà ḿnh đang đi.



Trường hợp những người học tṛ chỉ t́m đến thầy để học đạo như cách học tṛ đến trường thu lượm kiến thức, hoặc chỉ như những học giả muốn t́m hiểu một thứ triết lư ǵ đó cho thỏa tính hiếu kỳ hay để soạn viết một tác phẩm biên khảo công phu mà giương danh với đời, hoặc như những người tín đồ đúng nghĩa (tức là chỉ đến với tôn giáo bằng niềm tin, không cần suy xét) t́m đến nơi thờ tự đấng thần linh để cầu sự che chở hoặc ban thưởng phước lành, hoặc những người t́m đến tôn giáo chỉ v́ muốn trả ân đă được tôn giáo đó giúp đỡ vật chất khi ngặt nghèo, hoặc những người t́m đến với tôn giáo chỉ v́ để được kết hôn với người thuộc tôn giáo ấy, hoặc những người t́m đến với tôn giáo chỉ để học một cách sống đạo đức hay chỉ để học một nếp sống ḥa b́nh, an lạc, nhàn nhă trong cuộc đời... th́ bài viết này không liên hệ ǵ đến họ cả. Bởi v́ những ǵ mà số người này t́m kiếm, họ có thể t́m được ở bất cứ nhà đạo đức nào, bất cứ vị học giả hay triết gia nào, bất cứ vị bác sĩ tâm thần nào, bất cứ nhà từ thiện xă hội nào, bất cứ vị thầy nào của tất cả các tôn giáo có mặt trên thế gian này.



Nhưng để vĩnh viễn thoát ly sinh tử hay ít nhất cũng chọn được chính đạo để xác định tiêu đích giải thoát của ḿnh, người học tṛ phải t́m cho kỳ được một vị chân sư (phàm hay thánh) đang ngày đêm nỗ lực hướng đến tiêu đích giải thoát đó và đang sống giữa cuộc đời ô trược này mà không đắm nhiễm cuộc đời. Tính cách bất nhiễm của vị chân sư đó được thể hiện trong tinh thần vô ngă. Sự tu tập của người theo Phật giáo khác với tín đồ của các tôn giáo khác ở chỗ đó.



Trong Phật giáo không có phương pháp cao thượng hay phương pháp thấp kém. Chỉ có phương tiện thiện xảo hay phương tiện không thiện xảo. Phương tiện có thiện xảo hay không là ở chỗ nó được thực hiện trong tinh thần vô ngă hay chấp ngă. Phương tiện thiện xảo là thứ phương tiện tối thắng, vừa cứu độ lợi ích cho chúng sanh vừa giúp hành giả dẹp trừ được sự chấp ngă và giải thoát sinh tử luân hồi. Phương tiện không thiện xảo th́ chỉ đưa chúng ta đến gần với thế giới của ma vương và nếu có giúp ǵ chăng th́ chỉ giúp chúng ta trở thành những con người đàng hoàng, đứng đắn, mô phạm, đạo đức, sống an ḥa trên cuộc đời.



Những nhà đạo đức được khuôn nắn từ các phương tiện không thiện xảo th́ có thể suốt đời tuân thủ các qui tắc, mô phạm của thế gian, không tổn hại ai và có thể đem lại lợi ích tạm thời nào đó về vật chất hay tinh thần cho kẻ khác, nhưng bản thân họ, cái ngă đang được nuôi lớn từng giây phút của họ, th́ tiếp tục lang thang trong cơi luân hồi. Trong khi đó, việc hành đạo của một bậc chân sư th́ vừa cứu độ chúng sinh, vừa cứu độ chính ḿnh, ra khỏi trùng vây của ngă chấp, thoát ly hoàn toàn cái ṿng lẩn quẩn của tử sinh.



Người xuất gia sở dĩ đứng trên tất cả là do đă sống v́ tất cả; sống v́ tất cả là do không c̣n bám chặt vào gốc rễ của tự ngă. Tu tập, hành đạo, làm việc thiện, mà cứ khư khư bám chặt lấy tự ngă th́ suốt đời suốt kiếp cũng chỉ là viên sỏi lặn xuống đáy nước. Trong khi đó, những ai đă phá trừ tất cả mọi thứ gốc rễ, mọi thứ đeo bám, mọi thứ rườm rà nặng nhọc của h́nh thức và tự tâm, th́ có thể như cánh nhạn, như làn mây, như sợi khói mỏng, hay như chiếc bong bóng, nhẹ nhàng bay lên bầu trời vô tận.



Thực ra, những vị chân tăng nói trên không phải là không có. Có khi họ ẩn thân ở một nơi đèo heo hút gió, mà cũng có khi họ sống rất gần gũi với chúng ta. Chỉ tại chúng ta thích chạy theo giá trị hời hợt của đám đông, cứ tưởng rằng hễ là chân sư th́ phải nổi tiếng hoặc kẻ nào nổi tiếng th́ phải là chân sư... nên không nh́n ra được những vị chân sư rất b́nh phàm, chơn chất, giản dị, có khi chẳng có một mảy may tài năng, phép lạ, tiếng tăm, bằng cấp, hay danh vọng ǵ cả... Không có thứ thước đo nào của thế gian này có thể lượng định được chân giá trị của một bậc chân sư. Chỉ có ch́a khóa duy nhất: tinh thần vô ngă—mà Phật dạy từ hơn hai ngàn năm trước—là có thể mở ra cho người môn đệ nguồn hứng cảm vô tận của giải thoát giác ngộ. Tinh thần ấy đă đào tạo nên nhiều thế hệ chân tăng cho nhiều quốc gia, nhiều thời đại; cống hiến cho cuộc đời những bậc thầy thong dong tự tại, đến và đi một cách lặng lẽ, không cột trói ḿnh vào bất cứ thứ h́nh thức rườm rà huyễn mộng nào của cuộc đời.



Riêng tôi, tôi luôn nh́n thấy họ quanh tôi, rất thân cận với tôi. Thân cận nhưng họ lại ở trên tôi rất xa, bởi v́ họ đứng trên tất cả mà không bao giờ thấy ḿnh đứng trên tất cả.

Dơng Mănh Như Sư Tử Hống




Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
vuithoi
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 April 2005
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 375
Msg 4 of 23: Đă gửi: 20 March 2006 lúc 3:08am | Đă lưu IP Trích dẫn vuithoi

Cám ơn Phổ Quang đă đăng bài này! Cám ơn Vĩnh Hảo !

vuithoi

__________________
vui thoi ma
Quay trở về đầu Xem vuithoi's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vuithoi
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 5 of 23: Đă gửi: 03 April 2006 lúc 11:26pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Đạo làm thầy
(Trích từ Truy Môn Cảnh Huấn)
Thích Lệ Trang dịch

------------------------------------------------------------ --------------------

* Pháp sư Phật Quang Chiếu hiệu Đông B́nh ở núi Thượng Trúc dạy học đồ :

- Làm người khó, mà làm Thầy người ta cũng chẳng dễ.

- Khó là sao ?

- Là v́ phải có thiên tư, có học vấn, có kiến thức, có khí tượng.(1) Nếu không có thiên tư, không có học vấn, không có kiến thức, không có khí tượng mà được nên người, th́ chưa bao giờ có trường hợp này.

- Có thiên tư rồi mới có học vấn, có học vấn rồi mới có kiến thức, có kiến thức rồi mới có khí tượng. Có đủ như thế mà chưa được nên người là sao vậy ?

- Là v́ thiên tư không cao, học vấn không rộng, kiến thức không minh, khí tượng không nhă, th́ cũng không thể nên người được.

Bởi không cao th́ hèn, không rộng th́ hẹp, không minh th́ thường, không nhă th́ tục. Nếu đă cao mà lại trí, đă rộng mà lại đạt, đă minh mà lại chánh, đă nhă mà lại văn. Có đủ bốn điều này th́ đủ tư cách làm người vậy.

Hơn nữa, muốn làm Thầy người ta mà chỉ có như thế th́ cũng chưa đủ. Như vậy há cũng chẳng dễ sao ? Nói đến việc muốn làm Thầy người ta, th́ phải có tông chỉ, có giáo nghĩa, có pháp tướng. Nếu tông chỉ không vững vàng, pháp tướng không thông suốt, giáo nghĩa không rơ ràng, th́ cũng chưa thể làm Thầy người ta được. Phải nắm chắc được tông chỉ, phân tích được giáo nghĩa, giải minh được pháp tướng. Nhưng, nếu chẳng có Thầy truyền, chẳng tỏ được cảnh quán, mà muốn làm Thầy người ta th́ cũng chưa bao giờ có trường hợp này.

Đă có Thầy truyền đúng đắn, có cảnh quán rơ ràng, mà không tỏ suốt ư Phật th́ cũng không thể được. Có người đă tỏ suốt ư Phật, mà không quên được cảnh quán, không bặt dứt được tri kiến, không lià bỏ được pháp chấp, mà làm bậc đạo sư người, th́ cũng chưa có lẽ đó bao giờ. Đă đủ ba điều này, mà không biết tiến thoái, không biết đắc thất th́ cũng không thể được.

Cho nên nói làm người khó, mà làm Thầy người ta cũng chẳng dễ vậy
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 6 of 23: Đă gửi: 03 April 2006 lúc 11:39pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Tôi xin được phép đăng bức thư phúc đáp này cho các bạn cùng tham khảo và học hỏi. Mong các bạn lưu tâm, đây là ân t́nh của vị thầy dành cho vị đệ tử của ḿnh: t́nh nghĩa thầy tṛ thật cao thượng. Nói đến đây tôi liên tưởng đến bộ Phong Thần Diễn Nghĩa của Hứa Trọng Lâm , miêu tả cảnh trận vạn tiên, Quy Linh Thánh Mẫu v́ Thầy ḿnh là Thông Thiên Giáo Chủ mà ra sức đánh để bảo vệ thầy ḿnh. T́nh cảnh này qua những ǵ mà pháp sư tieukhong ra sức bảo vệ bênh vực thầy kimcangtri dẫu chết cũng cam ḷng. Thật là t́nh nghĩa thầy tṛ sâu nặng thật cảm động vô cùng khiến ai đọc những ḍng này cũng thấy mũi ḷng làm sao.

Sư Viên Minh



Ngày … tháng …năm……

T. U con,

Nhận thư con trong thời gian thầy đang nhập thất để tĩnh dưỡng tối đa nhân đầu mùa an cư kiết hạ. Đáng lẽ ra thất thầy mới viết cho con, nhưng thầy không nỡ để con kéo dài t́nh trạng khủng hoảng có thể đưa đến thối giảm tín tâm trên con đường học đạo.

Tín tâm là đầu mối của tinh tấn, giác niệm, định tĩnh, trí tuệ, giác ngộ và giải thoát. Nếu tín tâm thối giảm th́ toàn bộ tiến tŕnh giác ngộ giải thoát sẽ bị lung lay. Đó là điều thầy không thể không quan tâm.

T. U, con hăy b́nh tĩnh, thầy sẽ giúp con hiểu tại sao con đang bị khủng hoảng và làm thế nào để con có thể ra khỏi t́nh trạng khủng hoảng này.

Trước hết con đừng sợ t́nh trạng khủng hoảng mà con đang trải qua, v́ đó là quá tŕnh tất yếu. Trên quá tŕnh tiến hóa, con người tất yếu phải đi qua các giai đoạn khủng hoảng để đi vào và thoát ra mỗi chặng đường cam go, khốc liệt, rồi cứ thế họ tiến đến cứu cánh cuối cùng.

Con đă bước qua được chặng đường vật chất thô thiển như nghèo khổ, bệnh tật, khó khăn... mà con đă từng đấu tranh và khắc phục được chúng, trong khi những người khác đang loay hoay trong cơn sốt thành bại, được mất, nghèo giàu, hơn thua, yếu mạnh... Như thế con đă ra khỏi chặng đường bùn lầy đó. Thầy mừng cho con.

Rồi bấy lâu nay con đă tiến vào một chặng đường mới, đó là chặng đường giá trị đạo đức. So với giai đoạn vật chất th́ nó cao thượng hơn, nhưng cũng chính ở đó con t́m thấy một t́nh trạng khủng hoảng mới khi con phải phấn đấu, lựa chọn giữa hai con đường thiện và ác, tốt và xấu, ngay thẳng và gian manh, chân thực và giả dối... Con đă thấy rằng một bên là đỉnh cao, một bên là vực sâu, và con cũng đă quyết định phải chọn đỉnh cao cho định hướng của đời con. Đó là quyết định đúng và cao quư. Nhưng oái ăm thay trước mắt con những giá trị đạo đức đó dường như đang lung lay và không thực! Rơ ràng là những kẻ đạo đức, thực thà, chất phác đang bị thiệt tḥi, đang bị chà đạp và biếm nhẽ! C̣n những kẻ bất lương, gian manh, dối trá lại nghiễm nhiên được ưu đăi, được tâng bốc và kính nể!

Như vậy đạo đức, nhân quả, nghiệp báo, luân hồi có thực hay không? Nghi ngờ này khởi lên nơi con như một thử thách khiến con phải lẩn quẩn trong ṿng thiện ác thị phi và bị bế tắc lâu dài trong đó. Khổ nỗi bây giờ làm thiện th́ khó tin và làm ác th́ cũng không sao làm được! Suy nghĩ, đắn đo, phân vân, phấn đấu, thất bại, chán nản, nghi ngờ, khủng hoảng, bế tắc!

Nhưng rồi con cứ yên tâm, "vật cùng tắc biến, biến tắc thông" mà. Một ngày nào đó khi đầy đủ nhân duyên con sẽ vượt ra khỏi thiện ác thị phi để thấy ra một chân trời mới, một chặng đường mới. Ở đây đạo đức sẽ không đ̣i hỏi điều kiện nào cả, nó chấp nhận thiệt tḥi, chà đạp và biếm nhẽ v́ nó đă thoát thai để trở thành trí tuệ với chân lư tuyệt đối và tối thượng, không phải nhân quả thiện ác tầm thường. Giống như con sâu biến thành con nhộng.

Và khi con bước vào chặng đường mới này của trí tuệ con lại phải đương đầu với một cuộc khủng hoảng mới, như nhộng phải biến thành bướm để bay vào khung trời cao rộng: đó là sự phân vân giữa chân và vọng, giữa khổ đế với diệt đế, giữa tập đế với đạo đế.

Nếu con vượt qua chặng đường này con sẽ "parasangate" như trong câu chú cuối Bát Nhă Tâm Kinh: "Gate, gate, paragate, parasangate, Bodhi svàhaø" (vượt qua, vượt qua, vượt qua bờ bên kia, hoàn toàn vượt qua bờ bên kia, ôi tuệ giác siêu việt!).

Đó, con thấy không, chặng đường nào cũng phải có hai bờ để khủng hoảng và để vượt qua. Con đang vượt qua, vượt qua... tất nhiên con phải kham nhẫn nhận chịu đớn đau vằ khủng hoảng, Vậy con hăy tinh tấn, sáng suốt, định tĩnh, đừng để tín tâm thối giảm, đừng để phóng dật trổ sinh.

Hăy tin ở con, không tin ở lư thuyết nhân quả tái sinh một cách máy móc và kinh điển, không tin ở giá trị đạo đức nào tiền định. Chân lư chỉ t́m thấy nơi con khi con sáng suốt, định tĩnh, trong lành, giác ngộ và giải thoát. Có một số vấn đề về nhân sinh, vũ trụ, đạo đức v.v... Đức Phật chỉ tạm dùng để giải thích cho người mới học đạo, rồi sau những sự thật này cần phải được hành giả tự thấy, tự chứng ở mức độ thâm sâu, vi tế và như thực chứ không nhắm mắt tin theo một số khía cạnh nhỏ mà Đức Phật v́ ḷng từ bi tạm tùy cơ ứng hóa để người tu học yên tâm tu niệm.

Thầy cũng có thể giải thích cho con một số khía cạnh về nhân quả nghiệp báo nhưng thật là dài ḍng vô ích. Riêng ở khía cạnh con thắc mắc thầy có ư kiến thế này:

1) Đối với người thiên nặng về vật chất th́ đạo đức bị xem thường, người này có thể làm điều ác để được mục đích lợi dưỡng. Và khi người này gặp thời, nghĩa là thời mà đa số con người thiên nặng vật chất th́ người ấy được tôn trọng, được địa vị, danh vọng, uy quyền. Nhưng con nghĩ thế nào khi họ không gặp thời nữa?

Giống như trên một đồng lúa, gặp thời con người lười biếng th́ cỏ được tốt tươi, lúa bị èo uột. C̣n gặp thời con người siêng năng th́ lúa được tốt tươi, cỏ bị nhổ bỏ. Thời của nhân quả cũng vậy.

2) Đối với người thiên nặng đạo đức th́ vật chất bị xem thường, người này có thể làm thiện để được phước báu tinh thần. Và khi người này gặp thời, nghĩa là thời mà đa số con người thiên nặng đạo đức th́ người ấy được tôn trọng, được địa vị, danh vọng và uy quyền. Trái lại th́ cũng bị chê bai, khinh bỉ, chà đạp. Đời là vậy có ǵ con phải ngạc nhiên!

Ngày xưa Khuất Nguyên thấy đời đục cả chỉ một ḿnh ông trong nên ông khổ sở lắm. Có lần ông ra bờ sông Thương Lương đứng than thở tṛ đời th́ nghe một ngư ông hát:

Thương Lương chi thủy thanh hề khả dĩ trăc ngă anh

Thương Lương chi thủy trược hề khả dĩ trạc ngă túc.

(Nước sông Thương Lương trong th́ ta giặt giải mũ, c̣n nước sông Thương Lương đục th́ ta dùng rửa chân).

Con cũng vậy, nếu con đặt trọng tâm của đời sống là giác ngộ th́ chính tṛ đời này đă phơi bày bản chất của nó cho con giác ngộ. Nếu cuộc đời không có những nguy hiểm mà chỉ có những vị ngọt th́ khó có người giải thoát, phải không con? C̣n nếu con đă là người chấp nhận con đường đạo đức mà không gặp thời th́ một là con phải thật khiêm tốn nhu ḥa, đừng để lộ đạo đức ra ngoài, "đức hậu tỷ như xích tử" (đức dày giống như trẻ sơ sinh), cứ ḥa với mọi người, thương yêu và hỷ xả cho họ, miễn đừng bị đồng hóa là được. Nếu không được như vậy th́ hai là con phải có khí phách cao ngạo một tí, phải xem thường b́nh phẩm khen chê ở đời, phải xem thường những thiệt tḥi mà con phải chịu đựng. Con không nhớ câu nói của Chúa: "Kẻ nào chịu thiệt tḥi trên thế gian này, kẻ ấy được ưu tiên trên nước Thiên Đàng". Thế gian là quyền lợi vật chất, c̣n thiên đàng là an lạc tinh thần. Nếu một người thực sự đạo đức họ sẽ an bần lạc đạo như lời Chúa và các bậc Thánh hiển dạy. V́ thật ra chưa nói đến tối thượng an ổn khỏi các ách phược của một bậc hoàn toàn giải thoát, chỉ những an lạc tinh thần cũng đủ đền bù biết bao thiệt tḥi ở giữa thế gian đầy tranh chấp nhiệt năo, phải không con?

Thật là hay nếu con lắng sâu hơn nữa để nghe từ bên trong những giá trị đạo đức đích thực, để bắt gặp một niềm an lạc tinh thần mà không một quyền lợi nào trên đời có thể so sánh được. Người nào đạt được thiền tịnh thâm sâu Đức Phật gọi là đă đạt được hiện tại lạc trú của các bậc Thánh. Lắng sâu cũng có nghĩa là vượt qua, vượt qua cái vỏ bề ngoài của những tư tưởng, ư niệm hay hành động đạo đức để hướng vào bên trong (Opanayiko), bên trong nữa... cho đến khi con bắt gặp sự thâm sâu của thiền tịnh: sáng suốt, định tĩnh, trong lành, giải thoát vằ biết ḿnh giải thoát.

Có sá ǵ những phần thưởng bên ngoài của đạo đức, có sá ǵ những thiệt tḥi mà cuộc đời bắt con gánh chịu, hăy lắng sâu vào bên trong bằng con đường Chánh Niệm Tỉnh Giác, hăy lắng sâu, lắng sâu đến chỗ uyên áo của đạo.

Thân ái chào con.

Thầy

    


Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
minhtam
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 16 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 132
Msg 7 of 23: Đă gửi: 04 April 2006 lúc 3:06am | Đă lưu IP Trích dẫn minhtam

Lá thư Thầy tṛ trên h́nh thức bề ngoài thể hiện văn phong nho nhă nhưng ẩn sâu nội dung bên trong ngă mạn c̣n đầy dẫy . Tác giả lá thư có lẽ là người rành rẽ sử dụng phù thuật trong giới Thuật Sĩ nên bất cần nhân quả là nền tảng của giáo lư Phật học .

Người này cũng chưa từng qua thực tiễn hành thiền nên không biết rằng Chánh Niệm Tỉnh Giác chỉ là khởi đầu của nhập Định , đường đi phía trước c̣n xa vời vợi .
Chánh Niệm Tỉnh Giác là một bài trong Tứ Diệu Đế - phẩm Chánh Định trong Tứ Thiền do chính Đức Phật Thế Tôn thuyết giảng khi Ngài mới thành Đạo .

Người này hiện đang tâm viên , ư mă nên nhập thất không yên ḷng , nên sám hối tam thế Chư Phật ba đời , dụng công cho thân tâm an lạc thường tịnh .

Namo Sakya Muni Buddha

TT Thích Minh Tâm


Quay trở về đầu Xem minhtam's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi minhtam
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 8 of 23: Đă gửi: 04 April 2006 lúc 10:18pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammasambuddhassa

Kính chào minhtam!

Bức thư trên là lời chỉ dạy chân thành của vị thầy dành cho người đệ tử. Mặc dù Ngài đang nhập thất nhưng vẫn không bỏ rơi vị đệ tử của ḿnh và luôn theo dơi từng bước chân của người đệ tử trên bước đường đạo khi không có Ngài bên cạnh. Có thể nói đây là t́nh cảm chân thành. Ngài mắc khuyết điểm là trong khi nhập thất mà vẫn không buông bỏ những việc thế sự, do đó việc dụng công chắc chắc không đạt kết quả toàn triệt bỡi tâm vẫn c̣n xao động và xáo trộn. Tôi hi vọng sau khi Ngài phúc đáp cơi ḷng được tịnh yên và tiến tu để đạt được kết quả tốt đẹp như mong muốn.

Xin minhtam hăy xem xét lại ḿnh đi nhe! đa phần cách nh́n nhận vấn đề của minhtam chỉ phiến diện một phía không dựa trên tổng thể thật nhỏ nhoi. Và đưa ra những kết luận không có cơ sở dựa trên sự phỏng đoán chủ quan của riêng cá nhân ḿnh. Đa phần minhtam từ trước đến giờ tu tập thiền tông nên coi các pháp môn khác không đáng kể. Chỉ biết có thiền tông thôi, nên minhtam coi Mật Tông, Phật Giáo Tây Tạng, hay bất cứ vị nào nói về phù-chú-ấn khuyết là thuật sĩ giang hồ mê hoặc chúng sanh v́ không đồng chí hướng và đường lối tu tập của ḿnh. Theo như tôi biết th́ minhtam chưa có đọc qua bộ kinh Đại Nhật là bộ kinh tối cần của mật giáo, đa phần cả nửa phần kinh đều đề cập đến thiền tông c̣n phần c̣n lại là phù-chú-ấn khuyết để hổ trợ cho hành giả tu tập. Mật Tông là con đường tối thượng là giai đoạn cuối cùng của việc trăi qua thiền quán để thành phật tác tổ.

Vài lời góp ư , mong minhtam hiểu để tránh những sai lầm và khuyết điểm, không nên mở lời như thế mà phải biết nh́n nhận vấn đề một cách cụ thể bao dung mặt dù không cùng đường lối tu tập. Chúng ta hăy tỏ ra bao dung độ lượng và khuyến khích tất cả những ai theo các tôn giáo khác hăy t́m cái hay cái tinh hoa trong tôn giáo trong pháp môn tu tập của họ để thực tu thực chứng. Đă bao lần tôi nói là chúng ta hăy học hạnh Thường Bất Khinh trong việc đối nhân xử thế hăy tỏ ra khiêm cung hạ ḿnh đảnh lễ phật tánh của tất cả chúng sanh. Và thực hành lời khai thị của Bồ Tát Quảng Đức : " Không có sự phân biệt trong máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn ". Đó mới là người chân chính học phật tu nhân.

Thành Tâm Kính Lễ sám hối: " Nam mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát ", xin chư phật chư đại bồ tát cho con được đê đầu thành tâm đảnh lễ sám hối với các Ngài, kính mong các Ngài từ bi gia hộ và hăy tha thứ cho con, nếu con có những lời mạo phạm hay chỉ trích quá đáng đối với minhtam nay con xin đối trước các Ngài và minhtam mà cầu xin sám hối tất cà. Ngưỡng mong các Ngài từ bi chập thuận cho sự sám hối của con trong ngày nay và măi măi về sau. Nguyện mong các vị gia hộ cho toàn thể chúng con trên bước đường tu c̣n bao trắc trở và bao thử thách cám dỗ gập gềnh phía trước. Ngưỡng nguyện Bồ Tát Thường Bất Kinh hăy gia hộ cho chúng con luôn khiêm cung tôn trọng phật tánh của mọi người mọi loài chúng sanh hữu t́nh lẫn vô t́nh trên thế gian này. Nguyện cho hạnh nguyện Thường Bất Khinh luôn trăi rộng khắp cơi tam thiên đại thiên thế giới không ngằn mé khắp thời gian vô tận và không gian bao la.

Nam mô Trung Thiên Giáo Chủ Ta Bà Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, tác đại chứng minh.
Phổ Quảng
kính bút
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
DaiBi
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 27 November 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 124
Msg 9 of 23: Đă gửi: 04 April 2006 lúc 11:39pm | Đă lưu IP Trích dẫn DaiBi

minhtam đă viết:
Lá thư Thầy tṛ trên h́nh thức bề ngoài thể hiện văn phong nho nhă nhưng ẩn sâu nội dung bên trong ngă mạn c̣n đầy dẫy . Tác giả lá thư có lẽ là người rành rẽ sử dụng phù thuật trong giới Thuật Sĩ nên bất cần nhân quả là nền tảng của giáo lư Phật học .


Nam mô Phật, Đại Bi xin khác miệng đồng lời đồng ư với ư kiến của TT Minh Tâm.

phoquang đă viết:
Kính chào minhtam! .....Tôi hi vọng sau khi Ngài phúc đáp cơi ḷng được tịnh yên và tiến tu để đạt được kết quả tốt đẹp như mong muốn.


Chào "phoquang", Đại Bi thấy bạn post rất nhiều bài đă lâu nhưng chưa từng có ư kiến v́ dầu sau cũng là chánh pháp Phật Gia. Dạo này h́nh như nguồn bài hiếm đi nên bạn bắt đầu post lung tung, không đúng với chánh pháp. TT Minh Tâm có ư chỉ cho bạn nhưng bạn lại không kính, thật là quá đáng.

Đừng tưởng là bạn pháp tâm bồ tát truyền bá Phật pháp cho mọi người th́ bạn đă là Bồ Tát đâu nha.

Sửa lại bởi DaiBi : 04 April 2006 lúc 11:47pm
Quay trở về đầu Xem DaiBi's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi DaiBi
 
DienHong
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 12 October 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 151
Msg 10 of 23: Đă gửi: 04 April 2006 lúc 11:50pm | Đă lưu IP Trích dẫn DienHong

Các thầy tu rồi mà c̣n hay tranh căi nhau thế


__________________
Khát khao sống ngàn thu thỏa chí
Cánh chim bằng trong gió tung bay
Quay trở về đầu Xem DienHong's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi DienHong
 
DaiBi
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 27 November 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 124
Msg 11 of 23: Đă gửi: 04 April 2006 lúc 11:57pm | Đă lưu IP Trích dẫn DaiBi

phoquang đă viết:
Trong truyện sử Phật giáo, đôi khi có vài câu chuyện về những vị bồ tát hiện thân làm người phàm, thực hiện tất cả những công việc của người đời nhằm mục đích cứu nhân độ thế. Những vị bồ tát hóa thân này thường mang thân tướng tầm thường, làm những việc tầm thường, khiến người đời không biết, dùng lời lẽ nguyền rủa hoặc có tâm ư khinh chê, liền bị đọa địa ngục...


trong forum có ai là Bồ Tát cho DaiBi biết với?
Quay trở về đầu Xem DaiBi's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi DaiBi
 
Learner
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 February 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 673
Msg 12 of 23: Đă gửi: 05 April 2006 lúc 12:08am | Đă lưu IP Trích dẫn Learner


Tranh luận mà thấy được Chân lư th́ đáng quá đi chứ. Tâm của các thầy không sân và chấp nhặt như phàm nhân đâu.


Thầy Phổ Quảng nói:
"Mật Tông là con đường tối thượng là giai đoạn cuối cùng của việc trăi qua thiền quán để thành phật tác tổ."

Vậy xin cho phép Learner được hỏi thầy...Đức Đạt lai lạt ma hiện nay có phải là 1 vị Phật sống hay không? Nấu quả Mật tông quá cao siêu, dân Tây Tạng có rất nhiều vị Phật đang ẩn tu tại các hang động tại núi Hy Mă Lạp Sơn?

Con xin cám ơn Thầy.

Quay trở về đầu Xem Learner's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Learner
 
saodem
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 18 January 2006
Nơi cư ngụ: Germany
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 36
Msg 13 of 23: Đă gửi: 05 April 2006 lúc 2:42am | Đă lưu IP Trích dẫn saodem

Có chứ Minhtam và daibi bồ tát đó   

__________________
Đời Mất anh Rồi vui với Ai !
Quay trở về đầu Xem saodem's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi saodem
 
tuyetson
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 January 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 45
Msg 14 of 23: Đă gửi: 05 April 2006 lúc 2:50am | Đă lưu IP Trích dẫn tuyetson

       Thiện tai , Bác phoquang cứ tiếp tục post bài viết đi nhé chánh và Tà đă biết là ai rồi .
Đă không đóng góp bài viết ǵ cả chỉ có mỗi việc đă kích người này chỉ trích người kia là hay
các cao nhân đă ra đi hết rồi

__________________
Ḥn ngọc Viễn Đông
Quay trở về đầu Xem tuyetson's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tuyetson
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 15 of 23: Đă gửi: 05 April 2006 lúc 5:14am | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính thưa toàn thể quư vị và các bậc thiện giả tri thức nơi đây!

Tôi xin thưa thực với quư vị là đề tài phật pháp không hề thiếu thật bao la vô tận, nói suốt cả đời này kiếp này cũng không thể nào hết được, chỉ trừ phi chứng qủa Phật lúc đó mới thấu đạt tất cả vạn pháp th́ mới gọi là hết ( nghĩa " hết" mang hàm ư, tuỳ nghi quư vị hiểu).Tôi chỉ mong sao những ǵ tôi biết th́ mọi người cùng biết không chút dấu giếm. Bằng tất cả những ǵ có thể, tôi xin được post lên hết trong sự cho phép không v́ vụ lợi tư thù hay cá nhân. Mục đích chính là học phật tu nhân, thực hành bồ tát hạnh và hành lục hoà. Đó là tất cả những ǵ mà tôi muốn làm và đóng góp cho diễn đàn và cho tất cả quư vị và các bạn tham cứu.

xin được nhắc lại, chúng ta không nên bàn luận chỉ trích lẫn nhau mà hăy thực hành hạnh nguyện Thường Bất Khinh trong việc xử thế trên thế gian này.

Con xin được đê đầu thành tâm đảnh lễ sám hối với minhtam và DaiBi, bỡi v́ quư vị sẽ thành Phật trong nay mai. Con xin không dám khinh dễ các Ngài v́ tương lai các Ngài sẽ làm phật v́ Phật tánh luôn ẩn hiện bên trong các Ngài. "Nam mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát", nguyện xin các Ngài hăy hoan hỷ tha thứ cho con nếu con có ǵ mạo phạm hay làm phật ư các Ngài mong các Ngài chỉ bảo cho kẻ mạt nhân này thấy được nẻo sáng mà biết quay đầu. Xin chân thành cảm tạ những ǵ mà các Ngài chỉ dạy cho con.

Con cứ tưởng Bồ Tát DaiBi nhân từ và dào ḷng bát ái vị tha như mẹ hiền Quán Thế Âm. Khi thấy được nick của Ngài, con cứ nghĩ Ngài sẽ bao dung và có những lời lẽ nhu hoà nhu nhuyến và cảnh tỉnh những người mê như con đây bằng những lời pháp nhũ chân thành và chỉ dạy tận t́nh. Thế mà Ngài lại dùng những ngôn ngữ trần tục để chỉ dạy mà khiến ai đọc những ḍng của Ngài viết cũng tức cười...C̣n Bồ Tát minhtam th́ dùng ngôn ngữ thiền theo lối biện chứng riêng của ḿnh không hề tu học các pháp khác. Cũng khá khen thay, khi đưa ra những nhận xét này, con cũng thấy được tâm hạnh của các Ngài là thế nào rồi. Tự các Ngài suy xét, phận con con biết chỉ có chư phật chư bồ tát biết ḷng con.

Dạ! thưa Bồ Tát DaiBi con chưa bao giờ tưởng ḿnh là một vị Bồ Tát đâu, con chỉ là đứa trẻ đang bước đi những bước chập chững trên con đường đạo bao la rộng lớn và đang noi theo Bồ Tát Quán ÂM. Tuỳ Ngài nghĩ suy, con không chấp nhất với các Ngài, dẫu cho các Ngài khen hay chê con cũng cam ḷng, khi nào việc con xong th́ con sẽ rời khỏi diễn đàn này trong một ngày gần đây như:Thầy Kimcangtri và pháp sư tieukhong. Lúc đó các Ngài muốn gặp con cũng không phải là chuyện dễ. Kính mong các Ngài hiểu con hơn.


Bồ Tát DaiBi đă trích ra đoạn con đă viết:
phoquang đă viết:
"Trong truyện sử Phật giáo, đôi khi có vài câu chuyện về những vị bồ tát hiện thân làm người phàm, thực hiện tất cả những công việc của người đời nhằm mục đích cứu nhân độ thế. Những vị bồ tát hóa thân này thường mang thân tướng tầm thường, làm những việc tầm thường, khiến người đời không biết, dùng lời lẽ nguyền rủa hoặc có tâm ư khinh chê, liền bị đọa địa ngục... ". xin lỗi Ngài, Ngài trích đoạn này từ chỗ nào hăy chỉ cho con để con có thể hiểu rơ hơn mà con biết để sửa sai, xin Ngài hăy post lại toàn bài chỗ con đă viết, chứ Ngài không nên dùng một đoạn ngắn mà lư luận không diễn hết ư của bài.

xin sám hối với các Ngài.
Cầu chúc toàn thể quư vị thân tâm thường tinh tấn.
Phổ Quảng
kínhchào



Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 16 of 23: Đă gửi: 05 April 2006 lúc 5:48am | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Kính chào bạn Learner!

Đức Đạt Lai Lạt Ma có phải là Phật sống hay không đó là điều chư phật chư bồ tát chư thiên long bát bộ hộ pháp chư tôn và chư vị thánh tăng cũng như chính bản thân của Ngài biết rơ ḿnh hơn hết mà thôi, chúng ta không nên bàn luận. Ngài là vị lănh tựu của xứ sở Tây Tạng, từng đạt giải nô-ben hoà b́nh, bản thân Ngài không hề ca tụng và tự xưng ḿnh là phật là bồ tát là hoá thân. Tất cả đều do tín đồ ca tụng mà luôn giữ lễ khiêm cung hoà đồng, giàu ḷng từ bi bát ái và thực hành bồ tát hạnh trong mọi hoàn cảnh đối với mọi tôn giáo không có sự phân biệt, mà Ngài khuyến khích mọi người tu học những cái hay cái quư báu của tôn giáo ḿnh đang theo. Sự hiện diện của Ngài là niềm vinh hạnh, bỡi Ngài có
tấm ḷng Đại Bi cao cả như mẹ hiền Quán Âm luôn bao bọc và che chở khi gần Ngài bạn cảm thấy sự an b́nh uyên nguyên tĩnh lặng...Bạn cũng cũng có thể làm một vị phật hay bồ tát nếu những nhất cử nhất động của bạn thực hành theo lời chư phật, lúc đó bạn và Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ không khác, tự bạn tức khắc sẽ biết, không cần người đời phong tặng hay dán mạt cho bạn là danh hiệu này hay nọ đâu.
Bạn ở Mỹ th́ dễ tiếp cận và học hỏi nhiều về mậttông thật nhân duyên. Bạn không cần lư luận mà hăy chuyên tâm thực hành và trăi nghiệm vấn đề, lúc đó bạn mới thấu đạt nhiều điều không nên để tâm vào những việc vụn vặt tầm thường của thế gian mà lư luận mất thời giờ.
Bên Tây Tạng có một vùng đất thánh, nơi sinh trưởng của các bậc thánh nhân mỗi khi thế giới lâm nguy th́ các vị này sẽ ra tay trợ giúp. Mà bất kỳ vị tôn sư nào trong cả cuộc đời tu hành của ḿnh cũng đều muốn đến vùng đất này trước khi viên tịch. Tại các hang động của Hy Mă Lạp Sơn nhiều vị cao tăng đại đức ẩn thân tu luyện không màn thế sự bên ngoài nhưng các Ngài đều biết cả,các Ngài là hoá thân Phật Bồ Tát nhưng không hề lộ chân tướng.
vài ḍng trao đổi
Kính chúc các bạn vạn sự kiết tường
Phổ Quảng
Thânchào



Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
Learner
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 February 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 673
Msg 17 of 23: Đă gửi: 05 April 2006 lúc 6:10am | Đă lưu IP Trích dẫn Learner


Learner hỏi : Đức Đạt lai lạt ma hiện nay có phải là 1 vị Phật sống hay không? Nấu quả Mật tông quá cao siêu, dân Tây Tạng có rất nhiều vị Phật đang ẩn tu tại các hang động tại núi Hy Mă Lạp Sơn ??

Learner tự trả lời vậy. Hiện nay trên thế giới th́ Đức Đạt Lai Lạt Ma là người có uy tín nhất trong Đạo cũng như ngoài đời. Ngài là lănh tụ tối cao của dân tộc Tây Tạng và Ngài cũng nắm được bí truyền của Mật Tông. Ngài đă từng được tiếp kiến bởi các lănh tụ trên thế giới và cả các giáo chủ của các tôn giáo lớn. Ngài viết rất nhiều sách và thuyết giảng khắp nơi trên thế giới nữa.

Tại sao chúng ta không tu tập theo cách tu tập của Ngài để đỡ bị cảnh người nói đông, kẻ nói tây, v́ chưa ai trong diễn đàn này thành Phật cả. Nếu có ai chứng quả vị Phật th́ xin can đảm tự nhận giống như Đức Phật Thích Ca của chúng ta để dậy dỗ chúng sanh trong thời mạt Pháp này.

Hay là Thiền Sư Nhất Hạnh được không? v́ ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn mà.

Ai có ư kiến ǵ khác th́ cứ mạnh dạn dậy bảo cho learner. Học th́ không sợ hỏi...sau đó mới thông chớ.

Quay trở về đầu Xem Learner's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Learner
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 18 of 23: Đă gửi: 05 April 2006 lúc 9:56pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

THÁI ĐỘ ĐÚNG ĐẮN
CỦA MỘT HÀNH GIẢ KIM CƯƠNG THỪA
H.H. Kunzig Sharmapa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch



Truyền thống Kim Cương thừa (Vajrayana) là một con đường nhanh chóng để đạt được giải thoát. Kim Cương (vajra) tượng trưng cho năng lực có nghĩa là Kim Cương thừa rất hữu hiệu. Nhiều người có nhận thức sai lầm về Kim Cương thừa, cho rằng nó không khác ǵ việc áp dụng lời nguyền thần bí hay năng lực tâm linh. Trong thực tế, “YANA” là một cuộc t́m kiếm sự giải thoát của tâm và sự thực hành huyền thuật và năng lực tâm linh sẽ không đưa ta tới sự giải thoát. Nếu chúng ta thực hành Kim Cương thừa với quan niệm sai lầm này th́ nhất định là ta tích tập nghiệp rất xấu. Quả thực trong Kim Cương thừa có rất nhiều tantra tŕ tụng thần chú, nhưng chắc chắn là những tantra này không có tính chất huyền bí hay tâm linh. Chúng ta phải hiểu rơ tính chất độc nhất vô nhị này của truyền thống Kim Cương thừa.

Tiêu chuẩn đầu tiên trong việc thực hành Kim Cương thừa là phải bắt đầu với Tiểu thừa (Hinayana). Tiểu thừa bao gồm những giáo lư căn bản của Đức Phật và những giáo lư này không được nhắc lại trong Đại thừa (Mahayana) hay Kim Cương thừa. Do đó, những hành giả Đại thừa và Kim Cương thừa phải bắt đầu từ những giáo lư căn bản của Tiểu thừa.

Những giáo lư căn bản của Đức Phật là ǵ?

Những giáo lư căn bản nhất là sự thiền định và vinaya hay giới luật và những hành giả của Đại thừa hay Kim Cương thừa phải học tập những giáo lư này qua Tiểu thừa.

Thực hành thiền định có hai cấp độ và cấp độ đầu tiên là thiền định “samatha.” Nhờ tu tập nó tâm ta được tĩnh lặng, an b́nh và kiên cố. Trong các giáo lư Tiểu thừa, Đức Phật chú trọng rất nhiều vào sự thực hành và những kỹ thuật của thiền định samatha. Những hành giả Đại thừa hay Kim Cương thừa nên đạt được nền tảng như thế.

Vinaya là giới luật bản thân. Tóm lại, cần tự chế không làm mười ác hạnh. Mười ác hạnh này bao gồm mọi ác nghiệp phát sinh từ việc chấp ngă. Đối nghịch với mười ác hạnh và mười thiện hạnh. Những thiện hạnh này là gốc rễ của những công đức của riêng ta. Tôi không thảo luận chi tiết về chúng ở đây và những ai không hiểu rơ về mười thiện hạnh có thể tham khảo Kinh điển.   

Đồng thời ta phải hiểu rằng thân người khó được và rất quư báu. Thân người quư báu này là một khí cụ để đạt được giải thoát nhưng nó rất dễ bị tổn thương và chỉ tồn tại một thời gian ngắn ngủi. Trong thế giới này có rất nhiều mối hiểm nguy có thể dễ dàng tiêu diệt những thân người như thế. Chúng ta không biết chút ǵ về nghiệp lực của ta và chúng ta c̣n sống bao lâu nữa.

Lư do của việc tái sinh trong luân hồi sinh tử là sự chấp ngă.

Mọi cảm xúc phát khởi từ sự chấp ngă sẽ không tốt lành và với sự chấp ngă như thế, không có cách nào để thực hành các thiện hạnh. Tất cả những hoạt động thuộc về nghiệp sẽ không đạo đức và mỗi một trong những nguyên nhân ác nghiệp này sẽ đưa tới sự tái sinh trong những cơi thấp trong mười ngàn đời. Nếu bạn có thể suy niệm về sự kiện này th́ bạn sẽ có thể nhận ra rằng thân người th́ quư báu biết bao. Trong vô số lần tái sinh, cơ may để được tái sinh trong cơi người là một phần mười triệu. V́ thế, giờ đây bạn đang sở hữu thân người quư báu, xin đừng phí phạm nó. Bạn phải sử dụng thân người quư báu này để thực hành. Trừ phi bạn đă giác ngộ nếu không th́ không có cách nào để hoàn toàn được giải thoát.   

Điều được nói ở trên là yêu cầu đầu tiên của thực hành căn bản. Kế tiếp, để là một hành giả Kim Cương thừa th́ yêu cầu thứ hai là phải được trang bị ḷng bi mẫn vĩ đại. Điều đó có nghĩa là để thực hành Kim Cương thừa, ta phải là một Bồ Tát. Bồ Tát có nghĩa là một người có Bồ Đề tâm và ḷng bi mẫn.

Bồ Đề tâm là hạt giống của Phật Quả và một Bồ Tát phải có Bồ Đề tâm và Ḷng Bi mẫn đối với tất cả chúng sinh mà không có chút vị kỷ nào.

Một khi bạn đă phát triển Bồ Đề tâm, bất kỳ công đức nào được thực hiện cũng sẽ được chuyển hóa thật vô hạn và có thể đưa tới sự giải thoát và Phật Quả. Trái lại, nếu bạn không phát triển Bồ Đề tâm, mọi công đức đă thực hiện sẽ bị giới hạn. Chỉ có những công đức được thực hiện với Bồ Đề tâm mới có thể bảo đảm sự Giác ngộ và Phật Quả.

Ngoài việc thực hành con đường Bồ Tát, những hành giả Kim cương thừa cũng sử dụng một vài phương tiện thiện xảo trong sự thực hành của họ, chẳng hạn như sự quán tưởng các Bổn Tôn, v.v..

Trong truyền thống Kim Cương thừa, Kalacakra được nói là thực hành Kim Cương thừa cao cấp nhất. Kalacakra có một ư nghĩa sâu xa và những tính chất của Bổn Tôn Kalacakra cũng rất đặc biệt. Ngài có nhiều mặt, nhiều tay chân và những đặc tính này tượng trưng cho nhiều ư nghĩa của thực hành. Một ví dụ khác là Đức Chenrezig (Quán Thế Âm) bốn tay có thân sắc trắng tượng trưng cho sự thuần tịnh và ḷng bi mẫn, hoa sen và chuỗi pha lê cầm trong tay tượng trưng cho ḷng bi mẫn và trí tuệ, và những vật trang sức được đeo trên thân tượng trưng cho những phẩm tính khác nhau của sự chứng ngộ.

Bổn Tôn hay yidam có thể hiển lộ trong Báo Thân hay Hóa Thân. Những sự hiển lộ này xuất phát từ giác tánh nguyên sơ, là Pháp Thân. Chẳng hạn như Đức Chenrezig được nhận thức là sự hiển lộ trong một Báo Thân hay Hóa Thân th́ tùy thuộc vào mức độ thực hành và năng lực của hành giả.

Khi bạn đang thực hành yidam, đừng nghĩ rằng bạn đang mời thỉnh Bổn Tôn tới với bạn. Ví dụ như trong thực hành Chenrezig, không phải là Đức Chenrezig sẽ thực sự xuất hiện trước mặt bạn. Một vài người cho rằng thực hành Bổn Tôn là để mời thỉnh Bổn Tôn đi tới hay đi vào thân thể của họ. Đây là những quan niệm sai lầm. Hơn nữa, để quét sạch sự chấp ngă, chúng ta phải chú tâm vào điều khác bên cạnh tam độc, đó là ta phải quán tưởng một chủng tự. Ví dụ như chủng tự “HRIH” chứa đựng sự ban phước của thiền định Chenrezig, nó có thể biến thành h́nh ảnh Đức Chenrezig. Giờ đây với thân thể b́nh thường của ta chúng ta quán tưởng chủng tự này và nhờ nó, chúng ta biến thành Đức Chenrezig. Thực hành này sẽ quét sạch những niệm tưởng và những khuynh hướng quen thuộc của ta. Từ điều này ta sẽ hiểu rằng thực hành Bổn Tôn mang lại rất nhiều lợi lạc.

- Trước tiên, nó bao gồm thiền định samatha (tĩnh lặng) bởi bạn phải thực hành rất nhiều sự quán tưởng.

- Thứ hai, thực hành yidam có thể quét sạch nghiệp xấu và những khuynh hướng quen thuộc.

- Thứ ba, ta có thể đạt được trạng thái Pháp Thân hay Báo Thân.

Tâm chú Om Mani Pad Me Hung của Đức Chenrezig

Thần chú này xuất hiện từ thiền định của Đức Chenrezig và việc tŕ tụng nó có thể giúp chúng ta tăng trưởng sự tập trung và giải trừ nghiệp xấu của ngữ. Cũng thế, sự quán tưởng Bổn Tôn th́ không ở trong một thân tướng thô nặng. Bản tánh của ngài là tánh Không, Pháp Thân và sự hiển lộ của ngài là Báo Thân.

Sự quán tưởng chủng tực “HRIH” là để quét sạch những khuynh hướng quen thuộc của ta.

Thông thường, khi chúng sinh được tái sinh trong cơi người, trước tiên tâm thức sẽ bám vào một thân thể và sau đó đi vào thai tạng. Dĩ nhiên là với kỹ thuật hiện tại người ta không thể khám phá ư niệm tâm thức đi vào thai tạng. Điều chúng ta có thể nhận ra chỉ là tiến tŕnh tiệm tiến của sự phát triển. Ư niệm tâm thức được tạo nên bởi sự tham luyến và dính mắc và những điều này rất khó quét sạch. Ta cần có sự chuyển hóa tự nhiên của tâm. V́ thế, ta quán tưởng tâm ta và tan biến thành “HRIH”, nó sẽ chuyển hóa các thân tướng chúng sinh thành những thân tướng của Đức Chenrezig.

Ư niệm yidam tan thành ánh sáng đi vào tánh Không có thể chuyển hóa khuynh hướng quen thuộc của sự chết. Thông thường khi chúng sinh chết, họ phải đi vào giai đoạn bardo. Nhờ sự thực hành và quán tưởng này ta có thể quét sạch khuynh hướng ấy và đi vào trạng thái Pháp Thân.

Đây là những thực hành của Kim Cương thừa nhưng điều tối quan trọng là chúng đ̣i hỏi sự thiền định như một căn bản. Những phương pháp thiền định hầu như được t́m thấy trong những Kinh điển bí truyền. Nếu bạn đang thực hành Kim Cương thừa và thiếu căn bản này th́ dù bạn thực hành Pháp môn nào nó cũng sẽ dẫn tới sai lầm. Bạn sẽ không thể quán tưởng trạng thái trống không của một yidam và bạn sẽ quán tưởng thân tướng yidam như một thân thô nặng. Khi bạn tụng thần chú, bạn sẽ phủ nhận cốt tủy của nó. V́ thế, không có căn bản của những giáo lư bí truyền th́ mọi thực hành làm việc không có mục đích.

Để là một hành giả Kim Cương thừa, chúng ta cần có một sự hiểu biết thấu đáo thực hành của nó và cũng hoàn thành những giới nguyện Bồ Tát. Kim Cương thừa không nên được giảng dạy công khai cho những người không thọ Bồ Tát giới bởi đó là những giáo lư của các Bồ Tát. Do đó chỉ có những Bồ Tát là phù hợp với việc thực hành. Tuy nhiên, thực hành của Đức Chenrezig bao gồm ḷng đại bi một cách phi thường và có thể được giảng dạy công khai./.

H.H. Kunzig Shamarpa Rinpoche


Nguyên tác: “The Correct Attitude of a Vajrayana Practionner”
By H.H. Kunzig Shamarpa Rinpoche
http://www.kagyu-asia.com/t_correct.html

Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên


Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 19 of 23: Đă gửi: 05 April 2006 lúc 10:00pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

MUỐN GIẢI THOÁT: HĂY TỰ CHỮA BỆNH TÂM
Nguyên tác Becoming your own therapist của Lama Yeshe
do Trung Tâm Lama Yeshe Wisdom Archive xuất bản
Vô Huệ Nguyên dịch


Giới Thiệu Của Nhà Xuất Bản

Những bài thuyết giảng của Lạt ma Yeshe rất độc đáo. Không có ai dạy như Ngài. Nó rất thực tế, ngay lập tức, tự khởi phát, từ sâu thẳm trái tim của Ngài. Anh ngữ Ngài dùng rất thống nhất, đơn giản. Không có ai nói như Ngài. Lối diễn tả của Ngài rất sáng tạo, không chỉ bằng lời nói mà nó được phối hợp với cả con người của Ngài. Làm thế nào chúng ta có thể chuyển đạt tất cả những yếu tố đó trên giấy trắng mực đen bây giờ? Như chúng tôi đă nói ở một nơi nào đó, chúng tôi chỉ biết cố gắng hết sức mà thôi.

Lạt ma thường tuyên bố, những lời giảng dạy của Ngài sẽ không khô cằn, không hoàn toàn giáo điều, không lư thuyết triết học nhưng nó rất thực tế, đi vào từng cuộc đời của chúng ta, dùng những phương pháp đơn giản của con người để nh́n vào bên trong và hiểu được tâm của chúng ta. Ngài luôn luôn khuyên chúng ta hăy tự t́m hiểu xem chúng ta là ai, chúng ta là cái ǵ. Trong những phong thái khôi hài riêng của Ngài, Ngài thách đố chúng ta có dám tự khám nghiệm, tự phê phán những dự tưởng, những ư định của chúng ta không, để từ đó chúng ta nh́n ra được thực chất của tâm chúng ta như thế nào, chúng ta đă tạo ra đau khổ và hạnh phúc như thế nào; và cũng từ đó chúng ta nhận lănh trách nhiệm như thế nào trên tất cả những hành động của chúng ta, tốt cũng như xấu.

Trong cuốn sách nhỏ này, chúng tôi đề cử ba bài thuyết pháp của Ngài về những vấn đề thông thường trong Phật giáo. Đây là những bài giảng dạy hướng về những người Tây phương cách nay đă trên 20 năm. Tuy nhiên, như Ngài vẫn thường nhấn mạnh, những lời dạy của Đức Phật th́ luôn luôn vượt thời gian và không gian, nó xẩy ra cách đây trên 2,500 năm nhưng nó vẫn có giá trị trong muôn đời và ngay trong ngày hôm nay. V́ thế, không có ǵ phải nghi ngờ về giá trị của những bài thuyết giảng này mặc dù nó đă được nói ra từ những năm 1970.

Theo sau mỗi bài giảng là có phần giải đáp những câu hỏi. Lạt ma và thính giả luôn luôn trao đổi với nhau một cách rất chân thành từ những kinh nghiệm thực trong cuộc sống đến những ư kiến cao siêu về đạo pháp. Hầu như tất cả thính giả đều là những người lần đầu tiên được tiếp xúc với Lạt ma Tây Tạng nên họ đă hỏi tất cả những ǵ họ thắc mắc từ lâu. Trong mỗi lần xuất hiện, Ngài đều trả lời những câu hỏi bằng tất cả tấm ḷng chân thành, vui vẻ và tâm từ bi của Ngài.

Mặc dầu đây là những bài thuyết pháp nhưng tôi nghĩ rằng Ngài luôn luôn khuyên chúng ta nên dùng nó như là những tấm gương để chiếu soi tâm của chúng ta, hăy hiểu thấu ư nghĩa sâu xa của từng lời dạy bảo để t́m cho ra chúng ta là ǵ và hăy trở nên một nhà tâm lư tự chữa bệnh tâm cho chính chúng ta.

Tôi xin cám ơn Chelyl Bentsen, Rand Engel và Wendy Cook về những lời khuyên tâm linh giá trị, cũng như Garett Brown và Jenifer Martin trong vấn đề trang trí để hoàn thành tạâp sách nhỏ này.

Dr. Nicholas Ribush




Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 20 of 23: Đă gửi: 05 April 2006 lúc 10:01pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang



T̀M HIỂU CHÍNH M̀NH
QUA PHẬT GIÁO
Khi chúng ta t́m hiểu Phật giáo là chúng ta t́m hiểu chính ḿnh, t́m hiểu tâm bản nhiên của chính chúng ta. Thay v́ để ư đến những vấn đề siêu việt, siêu nhân, Phật giáo thường chú trọng đến những vấn đề thực tế như làm thế nào để thăng tiến đời sống thường ngày, làm thế nào để tâm hồn thêm tốt đẹp và làm sao giữ cho đời sống của chúng ta luôn thanh thản, khỏe mạnh. Thực ra chúng tôi chẳng coi Phật giáo là một tôn giáo đúng nghĩa của một tôn giáo. Theo quan điểm của các Lạt ma th́ Phật giáo thiên về triết lư sống, khoa học và tâm lư học hơn.

Thông thường tâm của con người thích t́m kiếm hạnh phúc. Dù là người phương Đông hay người phương Tây, chúng ta đều có những ước muốn giống như nhau, chẳng có ǵ khác hơn điều đó. Nhưng nếu sự t́m kiếm hạnh phúc bắt nguồn từ một lư do tham lam, bám víu th́ thật là nguy hiểm. Chúng ta đă không có sự kiểm soát. Chúng ta không tỉnh thức.

Đừng nghĩ rằng sự kiểm soát đó chỉ dành cho người Đông Phương hay dành cho Phật tử. Tất cả chúng ta đều cần phải tự kiểm soát, đặc biệt những người đang chạy theo đời sống vật chất, những người đang mong t́m sự vừa ư và những người đi t́m cảm giác. Những người đó đă quá chú trọng đến đời sống bên ngoài và thích đi t́m những sự ràng buộc. Theo Phật giáo, đó là những người bị tâm bệnh, những người có bệnh tâm thần.

Thực tế cho biết, những người chạy theo đời sống bên ngoài, những người chỉ mong t́m sự thỏa măn ở những tiến bộ khoa học kỹ thuật đă chẳng bao giờ hài ḷng, chẳng bao giờ giải quyết được những đ̣i hỏi của dục vọng. Nhưng, những ǵ Đức Phật dạy lại chỉ cho chúng ta biết được những khả năng của tâm chúng ta, những tiềm năng tự nhiên của con người. Mỗi khi chúng ta nghiên cứu Phật giáo là chúng ta tự t́m hiểu chính chúng ta, chúng ta là ai và làm thế nào để tiến xa hơn, để phát triển hơn nữa. Thay v́ quan tâm đến những hệ thống tín ngưỡng, những phương pháp của Phật giáo dạy chúng ta phát triển sự hiểu biết sâu xa về chính con người chúng ta và những hiện tượng ở chung quanh chúng ta.

Tuy nhiên, dù chúng ta đang theo một tôn giáo hay đang chạy theo đời sống vật chất, dù có ḷng tin hay vô thần, điều quan trọng là chúng ta có hiểu tâm của chúng ta làm việc như thế nào không? Nếu không, chúng ta chỉ đi “lọng vọng” rồi chúng ta tưởng rằng chúng ta đang hạnh phúc, chúng ta đang khỏe mạnh, nhưng thực ra chúng ta đang đi sâu vào ảo tưởng, ảo giác, v́ thế những mầm mống của tâm bệnh lại đang từ từ lớn lên ở trong ta. Chính v́ thế khi đời sống thường ngày có một chút thay đổi, có một chút bất măn là chúng ta trở nên tức giận và cáu kỉnh ngay. Đối với tôi, đó là tâm bệnh. Tại sao? Bởi v́ chúng ta chạy theo đời sống vật chất, bị mù quáng v́ những ràng buộc và bị kiểm soát bởi những căn nguyên gây ra những rắc rối. Chúng ta đă không biết bản tính tự nhiên của tâm chúng ta !

Chẳng sao cả, nếu chúng ta cứ làm lơ những điều nói ở trên và vẫn cho rằng “tôi chẳng tin ǵ cả.” Đây chẳng phải là vấn đề để tin. Cũng không sao cả, không cần biết chúng ta tin đến mức độ nào, dù tin hay không tin tôi có một cái mũi th́ cái mũi vẫn ở đó, ở ngay giữa đôi mắt của tôi. Cái mũi của chúng ta vẫn ở đó dù chúng ta tin hay không tin!

Tôi đă gặp rất nhiều người, họ hănh diện tuyên bố: “ tôi chẳng phải người dễ tin!” Họ qúa tự kiêu về sự không tin tưởng của họ. Hăy thận trọng! Đây là một vấn đề quan trọng để biết: hiện nay có qúa nhiều điều mâu thuẫn trên thế giới này! Khoa học vật chất tuyên bố: “tôi không tin,” tôn giáo tuyên bố: “tôi tin.” Nhưng không sao cả, dù tin hay không tin, chúng ta vẫn cần t́m hiểu bản tính tự nhiên của tâm chúng ta. Nếu không th́ dù chúng ta có nói về những sự ràng buộc đang xẩy ra bao nhiêu đi nữa, chúng ta cũng chẳng có ư niệm ǵ rơ ràng về chúng và làm sao để kiểm soát chúng. Nói th́ rất dễ. Điều khó khăn là làm thế nào để hiểu được bản tính tự nhiên của sự ràng buộc.

Thí dụ, khi con người mới chế ra xe và máy bay, họ tin tưởng rằng họ có thể làm được mọi việc nhanh hơn để rồi có nhiều th́ giờ nghỉ ngơi. Nhưng rồi chuyện ǵ đă xẩy ra, họ lại vất vả hơn và chẳng có đủ thời giờ để nghỉ ngơi hơn trước kia. Hăy quan sát đời sống thường ngày của chúng ta, v́ bị ràng buộc nên chúng ta bị chôn vùi sâu xa vào đời sống vật chất do chính chúng ta tạo ra đến nỗi chúng ta đă bỏ quên chính ḿnh mà không c̣n một chút thời giờ để trực diện với tâm ta. Với tôi, đó là sự định nghĩa cho một đời sống khó khăn. Chúng ta không thể t́m đâu ra sự thỏa măn hay sự thụ hưởng đời sống. Sự thật là: hạnh phúc và an lạc chỉ có từ tâm ta, chẳng phải từ những vật ở bên ngoài !

Tuy nhiên, có những người thông minh, có những người không tin vào đời sống vật chất, họ hiểu cái ǵ cũng có gía trị của cái đó. Họ vẫn hưởng thụ đời sống nhưng họ cũng cố gắng t́m hiểu cái ǵ mới thực sự mang lại hạnh phúc cho cuộc đời.

Khi Đức Phật nói về khổ, Ngài đă không chỉ đơn giản đề cập đến những vấn đề bệnh tật ǵa nua nhưng Ngài đă nói thẳng đến các căn nguyên của đau khổ và bất măn, chúng đang nằm tại tâm của chúng ta. Chẳng cần biết chúng ta đă có được những ǵ trên đời này, chỉ biết rằng chúng ta chẳng bao giờ thỏa măn với chúng. Những ham muốn bất tận này chính là nguồn gốc của khổ đau, bản tính của chúng là mang lại đau khổ.     

Tâm lư học Phật giáo có đề cập đến 6 loại cảm xúc căn bản mà chúng chuyên phá hoại tâm thức con người, chúng luôn luôn quấy phá sự an lạc và chúng hiện hành không ngừng nghỉ, đó là: tham ái, giận dữ, vô minh, kiêu mạn, ngờ vực và những quan niệm sai lầm. Đấy là những thái độ bệnh hoạn, chúng không là những hiện tượng ở bên ngoài chúng ta, chúng ở ngay trong tâm ta. Giáo lư Phật giáo đặc biệt quan tâm đến chúng và t́m cách vượt thắng chúng. Chúng là căn nguyên mọi khổ đau. Sự tin tưởng và tín ngưỡng không giúp ǵ được bao nhiêu trong vấn đề này mà chúng ta cần phải hiểu sâu xa tận gốc rễ bản chất của chúng th́ mới mong giải thoát khỏi chúng.

Nếu chúng ta không nghiên cứu t́m hiểu tâm của chúng ta bằng trí tuệ th́ chúng ta sẽ không bao giờ biết được có ǵ ở trong đó. Không t́m hiểu, không kiểm soát th́ dù chúng ta có nói đến nó nhiều thế nào đi nữa, chúng ta cũng chẳng bao giờ thực sự hiểu được những cảm xúc căn bản này lại chính là ngă chấp. Chính nó là căn nguyên của mọi khổ đau và bất an trong cuộc đời.
   
Để kiểm soát “cái tôi”, chúng ta không cần phải vất đi những vật mà chúng ta đang sở hữu. Hăy giữ tất cả những vật ǵ mà chúng ta đang có v́ chúng không làm cho đời sống của chúng ta khó khăn. Chúng ta không được thanh thản bởi v́ chúng ta bám víu, bởi v́ chúng ta bị lệ thuộc vào những tài sản của chúng ta. Ngă chấp và những sự ràng buộc đă làm lu mờ tâm ta, chúng làm tâm ta không c̣n trong sáng; vô minh và những loạn động của đời sống đă ngăn cản sự phát triển của trí tuệ. Để giải quyết vấn đề này, chỉ có thiền định mới có thể giúp chúng ta được.

Thiền định không chỉ có nghĩa là ngồi ở một góc nào đó chăm chú tập trung vào một điểm và không làm ǵ cả. Thiền là đánh thức tâm, là khai mở trí tuệ, ngược hẳn lại với sự lười biếng. Chúng ta nên duy tŕ sự tỉnh thức trong từng giây phút trong đời sống hàng ngày, thực sự ư thức tất cả những ǵ chúng ta đang làm, tôi đang làm ǵ đây? tại sao tôi đang làm việc này? làm việc này như thế nào?

Hầu như chúng ta thường làm mọi việc một cách vô ư thức, làm mà không biết ḿnh đang làm ǵ. Chúng ta ăn mà không biết ḿnh đang ăn, uống mà chẳng biết ḿnh đang uống, nói chuyện mà chẳng biết ḿnh đang nói ǵ. Mặc dầu chúng ta bảo rằng chúng ta tỉnh thức nhưng thực ra chúng ta hoàn toàn không nhận ra được cơn nóng giận đang tràn qua tâm ta, chúng gây ảnh hưởng đến tất cả những ǵ chúng ta đang làm.

Chúng ta hăy tự khám nghiệm mà xem, chúng ta hăy tự kinh nghiệm lấy. Tôi không phán xét qúy vị, tôi cũng chẳng làm qúy vị mất tinh thần. Đây là cách làm việc của Phật giáo ! Nó cho chúng ta một ư tưởng để chúng ta có thể tự kinh nghiệm lấy những việc mà chúng ta đă làm xem chúng là thật hay giả, đúng hay sai. Đây là một điều rất thực tế! Tôi không nói tới những điều cao xa ở măi trên tận trời xanh kia. Đây hoàn toàn là những chuyện rất đơn giản, thực sự đơn giản!

Nếu chúng ta không hiểu được những đặc tính của sự ràng buộc và những đối tượng của chúng th́ làm sao chúng ta có thể phát triển tâm từ, ḷng yêu thương đến bạn bè, cha mẹ, những người thân và đến quê hương của chúng ta được. Theo quan điểm của Phật giáo th́ thật là khó có thể thực hiện được nếu chúng ta không có sự hiểu biết sâu xa. Mỗi khi chúng ta làm buồn ḷng cha mẹ chúng ta hay bạn bè của chúng ta là lúc đó tâm chúng ta không tỉnh thức. Trong lúc nóng giận, người nóng giận hoàn toàn hành động như những ǵ đang xẩy ra trong tâm của họ. Những hành động không tỉnh thức chỉ gây đau khổ cho chúng ta và làm phiền ḷng những người khác. Những cử chỉ không tỉnh thức, những thái độ không tỉnh thức làm chúng ta mất nhân tính. Tất cả vấn đề là như vậy đó, thật là đơn giản, phải không qúy vị ?

Thời đại này, con người được học hỏi và được dạy bảo để trở nên những nhà tâm lư học. Ư kiến của Đức Phật là tất cả mọi người nên trở thành một nhà tâm lư học cho chính ḿnh. Mỗi người chúng ta nên hiểu tâm của ḿnh, mỗi người chúng ta nên là một nhà tâm lư học cho chính ḿnh. Điều này chắc chắn có thể thực hiện được. Mỗi một người đều có khả năng hiểu được tâm của ḿnh. Một khi chúng ta hiểu được tâm của chúng ta là sự kiểm soát tự nhiên đến.

Đừng nghĩ rằng sự kiểm soát đó sẽ có khi chúng ta đi du lịch qua dăy Hy Mă Lạp Sơn hay sự kiểm soát đó sẽ dễ dàng xẩy ra cho những người có ít tài sản. Điều này hoàn toàn sai. Trong tương lai, nếu chúng ta nổi nóng, hăy chiêm nghiệm nó xem sao. Thay v́ làm một vài việc ǵ để quên cơn giận dữ, chúng ta hăy cố gắng b́nh tĩnh, nghỉ ngơi, thư dăn thoải mái và tự hỏi chúng ta đă làm ǵ? Hăy tự hỏi: “Tại sao tôi làm vậy? Tôi làm như thế nào? Nguyên nhân đến từ đâu? Nguyên nhân của cơn tức giận là ǵ?...” Chúng ta sẽ t́m ra được những kinh nghiệm qúi gía ở trong đó. Vấn đề của chúng ta là thiếu sự tỉnh thức của trí tuệ, v́ thế chúng ta sẽ khám phá ra được nguồn gốc của sự tức giận nếu chúng ta hiểu nó và như vậy chúng ta sẽ giải quyết được những rắc rối trong đời sống một cách dễ dàng.

Để cảm nhận được t́nh yêu thương từ người khác hay cho người khác, chúng ta cần hiểu họ. Nếu không, dù chúng ta có nói: “anh yêu em, em yêu anh” th́ cái tâm kiêu mạn, ta đây, lại dẫn chúng ta đến một cái “ngă chấp” khác mà thôi. Phải chắc chắn rằng chúng ta hiểu vấn đề tại sao? thế nào? Trở nên một nhà tâm lư học cho chính ḿnh là một điều vô cùng quan trọng! Rồi chúng ta sẽ được hướng dẫn qua một cái tâm trong sáng, lành mạnh, chúng ta sẽ dễ dàng thoải mái, an lạc, hưởng hạnh phúc cuộc đời hơn, vui vẻ với mọi người hơn, thay v́ bận rộn, bất an, lo lắng và hoang phí cuộc đời.

Để trở nên một nhà tâm lư học, chúng ta chẳng cần phải học những triết lư cao thâm khó hiểu. Chỉ cần theo dơi, giám sát chính cái tâm của chúng ta trong từng ngày. Chúng ta đă quen kiểm soát những vật dụng của chúng ta mỗi ngày - mỗi buổi sáng chúng ta coi lại thức ăn trong tủ lạnh - nhưng chúng ta đă không bao giờ coi lại tâm của chúng ta. Hăy kiểm soát lại tâm mỗi ngày là một việc làm quan trọng hơn.

Tuy nhiên, hầu như chúng ta có khuynh hướng làm ngược lại. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta có thể dễ dàng mua được một giải pháp để trị tất cả những rắc rối của chúng ta. Những người có khuynh hướng vật chất cho rằng có tiền mua tiên cũng được, họ có thể mua bất cứ ǵ để làm họ vui, họ có thể mua được sự an lạc. Sự thật không phải vậy, đó chỉ là những mơ tưởng, đó chỉ là những quan niệm sai lầm.

Có một số người lại cho rằng tôn giáo có bổn phận phải lo cho tâm của họ. Chỉ tin vào tôn giáo mà thôi th́ không bao giờ có thể chấm dứt được những rắc rối; nhưng sự hiểu biết bằng trí tuệ luôn luôn thay đổi được vấn đề. Chính Đức Phật cũng nói rằng tin vào Phật là một điều nguy hiểm; thay v́ tin vào một điều ǵ, con người nên dùng trí tuệ của họ để khám phá ra cái bản tính thực sự của tâm họ. Niềm tin đặt căn bản trên sự hiểu biết th́ tốt, một khi chúng ta đă ư thức rơ ràng hoặc đă sáng tỏ được vấn đề th́ sự tin tưởng tự nhiên đến. Tuy nhiên, niềm tin đặt trên căn bản sai lầm th́ rất dễ thay đổi khi bị người khác phê b́nh, chỉ trích.

Đáng tiếc thay, có một số người đi theo một tôn giáo nhưng đời sống tâm linh của họ lại qúa yếu kém. Tại sao? Tại v́ họ không hiểu được cái tâm chân thật của họ. Nếu chúng ta thực sự hiểu được tâm của chúng ta là ǵ, nó làm việc như thế nào th́ chúng ta sẽ dễ dàng biết được sức mạnh của tâm ta, từ đó chúng ta có thể ngăn ngừa được rất nhiều rắc rối trong cuộc đời. Một khi chúng ta hiểu được những quan điểm của chúng ta, những tri giác của chúng ta về thế giới chung quanh ta, chúng ta sẽ nhận ra được một sự thật là chúng ta thường xuyên chụp bắt những cảm giác trần gian, tất cả những cái đó hoàn toàn là tưởng tượng, hoàn toàn không xẩy ra trong tương lai, hoàn toàn vô ư thức ở hiện tại, chúng ta hoàn toàn sống bằng dự tính, vọng tưởng. Chúng ta có nh́n nhận một cái tâm vô ư thức ở hiện tại và chộp dật ở tương lai là một cái tâm bệnh hoạn không?

Điều quan trọng là sống tỉnh thức trong từng ngày. Đặc tính tự nhiên của trí tuệ và tỉnh thức là an lành và hạnh phúc. Chúng ta không cần phải chộp dật, tranh giành mới có hạnh phúc. Cho tới khi nào chúng ta c̣n đi trên con đường tỉnh thức, hiểu biết và hành động ngay thẳng với tất cả khả năng của chúng ta th́ chúng ta sẽ được kết qủa tốt đẹp ngay trong lúc đó. Chúng ta không cần phải hỏi: “ Nếu trong cả đời tôi, tôi làm mọi điều tốt lành th́ tôi có được hạnh phúc trong kiếp sau hay không?” Chúng ta không cần mang sang kiếp sau. Cho tới khi nào chúng ta c̣n làm mọi việc trong sự hiểu biết, trong sự tỉnh thức th́ lúc nào, kiếp nào chúng ta cũng an lạc, cũng an nhiên tự tại.

Tôi nói như thế là qúa đủ rồi. Tốt hơn, hăy dành th́ giờ cho những câu hỏi, thay v́ tôi nói hoài.

Hỏi: Khi ngài đề cập đến thiền định, ngài đă không nói đến quán tưởng. H́nh như có người quán tưởng dễ, có người quán tưởng rất khó. Làm thế nào để phát triển khả năng này?

Lạt ma: Những ǵ đă được diễn tả về quán tưởng th́ đơn giản nhưng rất khó cho nhiều người bởi v́ tâm của họ không được huấn luyện, sự tưởng tượng của họ qúa nghèo nàn, họ qúa vật chất. Có lẽ họ chỉ có thể nghĩ được rằng tất cả những ǵ chung quanh họ đều là vật chất như thân xác của họ, không có một cái tâm nào ngoài bộ óc của họ. Phật giáo có những phương pháp mà chúng ta có thể huấn luyện tâm và phát triển khả năng quán tưởng trong thiền định. Thực ra, chúng ta đă tưởng tượng trong từng ngày. Những ǵ chúng ta ăn bữa sáng, đó là những món chúng ta đă tưởng tượng tối hôm qua. Chúng ta đi chợ, chúng ta nghĩ: “ cái này đẹp” hay “tôi không thích cái này,” bất cứ cái ǵ chúng ta nh́n đều là những phóng tưởng của tâm chúng ta. Như vậy quán tưởng là một điều hoàn toàn dễ hiểu. Những chủ chợ và những nhà quảng cáo hiểu được tầm quan trọng của vấn đề này, nên họ tạo ra rất nhiều lối tŕnh bày hay rất nhiều mẫu quảng cáo để gây hấp dẫn người mua: “ hăy mua cái này đi!” Họ biết rằng những quảng cáo đó ảnh hưởng sâu xa đến tâm trí chúng ta, đến sự tưởng tượng của chúng ta. Quán tưởng không phải là cái ǵ siêu việt, nó hoàn toàn khoa học.

Hỏi: Theo như những điều ngài vừa tŕnh bày, tôi có cảm tưởng rằng ngài chỉ trích người Tây phương, ngài cười những ǵ chúng tôi đă làm và những phương pháp giáo hóa của chúng tôi không hữu hiệu. Thực ra tôi không có câu hỏi, nhưng ngài đă nh́n thấy tương lai của nhân loại ra sao với những tiến bộ mà người Tây phương đang phát triển, như chế những máy bay lớn hơn, xây nhà vĩ đại hơn, những hệ thống siêu thị tối tân hơn? Ngài đă nh́n thấy ǵ?

Lạt ma: Tôi chỉ nh́n thấy người Tây phương bận rộn hơn, vất vả hơn và ít th́ giờ nghỉ ngơi hơn. Tôi không chỉ trích đời sống vật chất hay những tiến bộ khoa học nhưng nó thiếu sự kiểm soát của tâm. Bởi v́ anh không biết anh là ai, anh tiêu phí cuộc đời một cách mù quáng cho những sự níu kéo, bám víu và tranh giành mà tôi gọi là những “siêu thị vật chất.” Anh đă khuấy động đời sống của anh, anh đă làm nó không c̣n an tịnh. Thay v́ giữ cho nó được toàn vẹn th́ anh đă bẻ gẫy nó ra từng mảnh. Hăy tự t́m hiểu xem sao. Tôi không đẩy anh xuống đáy vực. Phật giáo không cho phép chúng tôi kéo đời sống của bất cứ một người nào xuống một cách vơ đoán, một cách giáo điều. Tất cả những ǵ tôi tŕnh bày ở đây chỉ với một đề nghị là chúng ta nên thay đổi lối nh́n sự vật bằng một đường lối khác.

Hỏi: Thưa Lạt ma, như ngài, tôi thấy hầu như tất cả các vị thầy Tây Tạng đều là nam giới. Có những vị tái sinh, những vị đạo sư là nữ giới không?

Lạt ma: Dĩ nhiên là có. Đàn ông hay đàn bà đều b́nh đẳng trong vấn đề phát triển tâm linh. Tại Tây Tạng, có những vị đạo sư là đàn bà. Phật giáo dạy rằng chúng ta không có quyền phán đoán một người từ bên ngoài; chúng ta không được nói: “anh chẳng là cái ǵ cả, tôi mới là người đặc biệt.” Chúng ta thực sự không bao giờ được phê b́nh người này có tŕnh độ cao, người kia thấp.

Hỏi: Có luật lệ nào để phân biệt một vị sư nam và một vị sư nữ không?

Lạt ma: Không. Họ được dạy giống như nhau và họ huấn luyện học tṛ của họ cũng như vậy.

Hỏi: Thật là khó khăn để kiếm một vị thầy. Thật là nguy hiểm khi thực hành mật tông nếu không có thầy mà chỉ đọc qua sách vở, có phải vậy không? Thưa ngài.

Lạt ma: Đúng, rất nguy hiểm. Nếu không có sự chỉ dẫn đặc biệt. Anh không thể mua một vài cuốn sách về mật tông rồi nghĩ: “ ồ, tuyệt vời qúa, tôi phải thực hành ngay bây giờ!” Thái độ này không bao giờ mang lại sự thật, không bao giờ mang lại kết qủa. Anh cần sự hướng dẫn của một vị thầy có kinh nghiệm. Đúng vậy, những ǵ viết trong sách thật là tuyệt diệu, nhưng nếu anh không biết phương pháp th́ anh không thể biến chúng thành những kinh nghiệm của riêng anh. Anh cần một cái ch́a khóa. Đă có rất nhiều sách Phật giáo được chuyển dịch sang tiếng Anh. Họ bảo anh: “ bám víu là xấu, đừng nóng giận” nhưng làm sao để từ bỏ sự nóng giận, từ bỏ những bám víu? Ngay cả trong Kinh Thánh cũng khuyên chúng ta bác ái, thương người nhưng làm thế nào để sống yêu thương bằng tất cả kinh nghiệm của riêng chúng ta? Chúng ta cần có một cái ch́a khóa, chỉ có những vị thầy mới cho chúng ta được.

Hỏi: Những người Tây phương cần phải làm ǵ để kiếm được một vị thầy? Họ có cần phải sang Phương Đông để t́m không?

Lạt ma: Đừng lo. Khi thời điểm đến, anh sẽ gặp thầy của anh. Phật giáo không cho phép chúng ta thúc đẩy bất cứ một người nào: “tất cả mọi người phải học thiền, tất cả mọi người phải trở thành Phật.” Thật là điên! Thúc đẩy người khác là không khôn ngoan chút nào. Khi anh đă thực sự chân thành sẵn sàng tu tập th́ một thần lực sẽ liên kết anh và thầy anh lại. Về vấn đề đi qua Phương Đông, nó tùy thuộc vào t́nh trạng, hoàn cảnh của riêng anh. Hăy kiểm soát xem. Một điều rất quan trọng là hăy t́m kiếm bằng trí tuệ chứ đừng t́m bằng ḷng tin mù quáng. Đôi khi đi qua Phương Đông anh lại chẳng t́m thấy thầy, phải cần thời gian.

Hỏi: Phật giáo nghĩ sao về vấn đề tự tử ?

Lạt ma: Những người tự kết liễu đời ḿnh họ không bao giờ hiểu được ư nghĩa và giá trị khi được sinh làm người. Họ tự tử v́ vô minh. Họ không t́m kiếm được ở đâu sự thỏa măn, nên họ nói: “tôi hết hy vọng rồi !”

Hỏi: Nếu một người v́ vô minh không tin rằng họ có thể giác ngộ th́ họ tiếp tục sống để làm ǵ?

Lạt ma: Một người vô minh mà nghĩ rằng họ giác ngộ là một người hoàn toàn có tâm bệnh hoạn như vậy họ lại càng vô minh hơn. Tất cả những ǵ họ có thể làm là kiểm soát lại những hành động vô ư thức của họ th́ họ sẽ nhận ra họ chưa giác ngộ. Cũng vậy, anh không bao giờ hỏi người khác: “Tôi đă giác ngộ chưa?” Hăy tự kiểm điểm kinh nghiệm của riêng anh. Giác ngộ là một điều cao hơn sự việc cá nhân.

Hỏi: Tôi thích lối diễn tả của ngài về sự quan trọng của sự hiểu biết trong vấn đề tin tưởng, nhưng tôi nhận thấy khó làm cho người Tây phương hay khó giải thích theo khoa học về ư niệm tái sinh: đời sống trong qúa khứ, hiện tại và tương lai. Làm sao ngài có thể chứng minh được vấn đề này?

Lạt ma: Nếu anh có thể h́nh dung được sự liên tục của tâm anh từ lúc c̣n phôi thai trong bụng mẹ đến bây giờ th́ anh sẽ hiểu. Sự liên tục của tâm thức cũng gần giống như ḍng điện chạy từ máy phát điện qua giây điện đến lúc nó cháy sáng ở ngọn đèn. Từ giây phút thọ thai đến khi thân xác anh thành h́nh, thần thức liên tục chạy qua đó, chuyển hóa, chuyển hóa và chuyển hóa.... nếu anh h́nh dung được điều đó, anh sẽ dễ dàng hiểu được tâm thức của anh liên tục từ những kiếp trước. Như tôi vẫn thường nói, để tin được điều này không phải là dễ. Dĩ nhiên, lúc đầu rất khó chấp nhận quan niệm tái sinh, v́ ngày nay nó c̣n là một ư niệm qúa mới mẻ cho hầu hết mọi người, đặc biệt là những người Tây phương. Họ không dạy anh về sự liên tục của ḍng tư tưởng ở trường học; anh không được học về bản tính tự nhiên của tâm ở đại học, như anh là ai, anh là ǵ? V́ thế, nó hoàn toàn mới cho anh. Nhưng, nếu anh nghĩ rằng một điều vô cùng quan trọng cho anh là biết được anh là ai, anh là ǵ và nếu anh thường t́m hiểu tâm qua thiền định, anh sẽ dễ dàng biết được sự khác biệt giữa thân xác anh và tâm anh; anh sẽ nhận ra ḍng liên tục của tâm thức anh; từ đó anh sẽ biết được những kiếp trước của anh. Chúng ta không nên tin thuyết tái sinh một cách mù quáng.

Hỏi: Xin ngài giải thích rơ hơn về sự liên hệ giữa thiền định, sự giác ngộ và những siêu thần lực, như nh́n được tương lai, đọc được tâm người khác và nh́n được những ǵ xẩy ra ở rất xa...?

Lạt ma: Một điều chắc chắn là có thể thành công qua sự thực hành phương pháp tập trung vào một điểm, nhưng chúng ta cần một thời gian rất dài để tập. Từ từ, hăy từ từ để hiểu rơ tâm của chúng ta, rồi chúng ta sẽ phát triển được khả năng nh́n sự vật. Nhưng nó không dễ lắm đâu, hăy thiền định rồi chợt một lúc nào đó chúng ta sẽ nh́n được tương lai hay sẽ đạt giác ngộ. Chúng ta cần thời gian.

Hỏi: Nếu chúng ta thiền định, chuyên chú đạt giác ngộ th́ thần lực này sẽ đến do sự kiểm soát hay chợt đến mà không cần kiểm soát?

Lạt ma: Thần lực thật sẽ đến trong sự kiểm soát. Nó không xuất hiện một cách không kiểm soát, như sau khi dùng thuốc, dùng cần sa ma túy. Ngay trước khi đạt giác ngộ, chúng ta có thể phát triển khả năng nh́n được kiếp trước kiếp sau, đọc được tâm người khác, nhưng chúng đến trong sự tỉnh thức và được từ từ phát triển qua việc phát triển trí tuệ.

Hỏi: Riêng Ngài, Ngài có thể tách rời tâm khỏi thân xác như xuất vía đi làm một vài việc khác không?

Lạt ma: Không.

Hỏi: Đức Đạt Lai Lạt Ma có quyền năng đó không?

Lạt ma: Đại thừa Phật giáo Tây Tạng có một truyền thống liên tục không đứt quăng trong việc huấn luyện và phát triển quyền năng này, nó được truyền dạy trực tiếp từ thầy qua tṛ thẳng từ Đức Phật đến bây giờ, mặc dầu được dạy bảo nhưng không có nghĩa là tôi đă thành tựu được. Hơn nữa, Phật giáo Tây Tạng cấm bất cứ một Lạt ma nào có quyền năng đó được phép tiết lộ bí mật này. Ngay cả khi anh đă giác ngộ, anh cũng không có quyền đi khắp nơi tuyên bố anh là phật, trừ ra v́ một lư do nào đó. Hăy cẩn thận! Truyền thống của chúng tôi khác với truyền thống của các anh. Bên Tây phương, anh nghe nhiều người nói: “Thượng đế nói chuyện với tôi tối hôm qua.” Chúng tôi nghĩ rằng điều đó rất nguy hiểm nếu loan truyền chi tiết huyền bí đó cho mọi người, do đó chúng tôi không được phép làm như vậy.

Hỏi: Cách đây mấy năm, tôi có đọc một cuốn sách tên là “Con mắt thứ ba”, nói về một Lạt ma đạt được siêu quyền lực. Có nhiều người khai mở được con mắt này không?

Lạt ma: Tác giả cuốn sách đó là Lobsang Rampa phải không? Những ǵ nói trong đó có một chút hiểu lầm. Con mắt thứ ba không phải là con mắt vật chất, nhưng đó là con mắt trí tuệ. Con mắt thứ ba của anh không phải là con mắt b́nh thường, nó có khả năng nh́n thấu được tâm bản nhiên của anh.

Hỏi: Như vậy Phật giáo tin có sự tái sinh, ngài có thể cho biết từ kiếp này đến kiếp khác bao lâu không?

Lạt ma: Nó có thể là bất cứ ǵ, từ một thời điểm nào đó tới 7 tuần. Từ lúc tâm thức rời khỏi xác, thể vía của thân trung ấm (bardo) đă ở ngay đó, để chờ nó. V́ ḷng khao khát một thân xác khác thúc đẩy, thần thức bắt đầu t́m một thân thích hợp, khi nó kiếm được th́ sự tái sinh bắt đầu.   

Hỏi: Phật giáo giải thích thế nào về sự phát triển dân số? Nếu Ngài tin vào sự tái sinh th́ làm sao dân số cứ tăng hoài?

Lạt ma: Điều đó dễ hiểu thôi. Cũng như khoa học tân tiến, Phật giáo thường nói về sự hiện hữu của hàng tỉ tỉ ngân hà (tam thiên đại thiên thế giới). Tâm thức của một người sinh ra trên trái đất có thể đến từ một hành tinh xa xôi nào đó, xuống đây v́ duyên nghiệp, chính v́ sự liên hệ đó mà thần thức đi vào trái đất này. Ngược lại, thần thức của một người vừa chết ở qủa đất này nếu có duyên nghiệp tái sinh ở một hành tinh xa xôi nào đó th́ thần thức này sẽ đi về đó. Nếu nhiều thần thức đi vào trái đất này th́ dân số sẽ tăng lên, nếu ít th́ dân số sẽ giảm đi. Điều đó không có nghĩa là một thần thức mới sẽ nhập thai. Mỗi một thần thức tái sinh ở đây đều đến từ một kiếp trước, có thể từ một hành tinh khác, có thể từ ngay qủa đất này, nhưng không đến từ không-nơi-nào cả, tất cả đều tùy thuộc vào luật luân hồi của vạn hữu.

Hỏi: Có phải thiền định theo phương pháp của Phật giáo th́ tốt hơn các phương pháp khác không? hay mỗi phương pháp thích hợp cho mỗi người khác nhau?

Lạt ma: Tôi không thể nói phương pháp của Phật giáo hay hơn các phương pháp khác, nó thích hợp tùy theo từng cá nhân.

Hỏi: Nếu một người đă có tiến bộ khi thực tập thiền định theo một phương pháp nào đó, họ có thể thay đổi qua phương pháp của Phật giáo hay không?

Lạt ma: Không cần thiết. Nếu anh đă thực tập qua một phương pháp nào đó mà nó đem lại cho anh sự tỉnh thức của tâm hồn, mang lại niềm an lạc vô biên và anh bằng ḷng về thành qủa này th́ tại sao lại thử một phương pháp khác? Nhưng nếu, thực tập thiền mà tâm vẫn mù mờ, hành động vẫn không kiểm soát được, vẫn gây đau khổ khó khăn cho người khác, th́ tôi nghĩ rằng con đường anh đi c̣n dài lắm. Đó là một điều vô cùng quan trọng.

Hỏi: Có thể một bồ tát là một người cộng sản để tái tạo lại sự ḥa hợp của xă hội không? Tôi muốn nói, bồ tát có trong hàng ngũ cộng sản không? hay ngược lại, trong thế giới cộng sản có bồ tát không? Chủ nghĩa Mác có thể là một phương tiện để giải phóng sự đau khổ của chúng sinh không?

Lạt ma: Đó là điều rất khó cho một người như tôi đi phê phán một hành động của bồ tát, nhưng tôi nghi ngờ một vị bồ tát lại trở thành một người cộng sản để giải quyết những vấn đề xă hội. Mọi rắc rối đều phát xuất từ tâm thức của từng cá nhân. Anh phải giải quyết vấn đề của riêng anh, không cần biết anh đang sống trong xă hội nào, xă hội chủ nghĩa, cộng sản hay tư bản. Hăy kiểm soát trong tâm của anh. Rắc rối của anh không phải từ xă hội, không phải từ tôi. Anh có trách nhiệm về những vấn đề của riêng anh cũng như anh có trách nhiệm giải phóng anh, anh có trách nhiệm đạt giác ngộ cho chính anh. Có thể anh sẽ nói: “Siêu thị giúp con người v́ con người cần mua những thứ ở trong đó, nếu tôi làm việc trong đó là tôi phụng sự xă hội.” Rồi một thời gian sau, anh lại nói: “Có thể siêu thị không giúp ǵ được nhiều, tôi sẽ giúp người nhiều hơn nếu tôi làm việc ở một bưu điện.” Chẳng có cái ǵ trong vụ này giải quyết được những rắc rối của xă hội. Trước nhất, anh hăy kiểm soát xem tại sao anh lại có tư tưởng một vị bồ tát phải là một người cộng sản mới cứu vớt được chúng sinh.

Hỏi: Tôi nghĩ rằng ngày nay trên thế giới có qúa nhiều người đói, qúa nhiều người bị tước đoạt những sự cần thiết căn bản, họ qúa lo lắng về đói khổ, về sự an toàn và an ninh cho gia đ́nh họ, họ đă qúa cực nhọc trong việc đi t́m vật chất để sống th́ c̣n giờ đâu để nghĩ đến bản tính của tâm.

Lạt ma: Tôi hiểu những điều anh nói. Nhưng đừng quên rằng những người đói khát, những người bận tâm về đói và những người dư tiền bạc bận bịu đi mua sắm ở siêu thị họ đều có một căn bản như nhau. Đừng chỉ chú ư đến những người thiếu thốn về vật chất. Thực ra, người nghèo và người giầu đều bị hành như nhau, tự căn để họ đều không hạnh phúc, tự căn để họ đều thích chiếm hữu và bám víu như nhau.

Hỏi: Nhưng Chúa Krishna đă hợp nhất được xứ Aán độ bằng tinh thần chiến tranh, thánh chiến, kết qủa là tất cả người Aán độ đều gia nhập vào sự thực hành tâm linh. Tại sao chúng ta không bành trướng đạo pháp ra cho tất cả mọi người trên thế giới và thành lập một xă hội tốt hơn qua kiểu xă hội tâm linh?

Lạt ma: Trước nhất, tôi nghĩ rằng điều anh nói vô cùng nguy hiểm. Chỉ có một số người hiểu anh nói ǵ. Nói chung, anh không thể nói rằng bồ tát có trách nhiệm về tất cả những hành động gây ra đau khổ của chúng sinh. Phật giáo ngăn cấm chúng ta không được giết hại chúng sinh, ngay cả giết để phục vụ cho đạo pháp. Đối với Phật giáo không có ǵ được gọi là thánh chiến. Anh phải hiểu rơ điều này. Thứ đến, không thể bắt buộc mọi người trên qủa đất phải b́nh đẳng. Cho tới khi nào anh thấu hiểu được tâm của chúng sinh qua cái vũ trụ này và đă từ bỏ mọi ích kỷ và bám víu, th́ anh sẽ không bao giờ c̣n muốn tất cả chúng sinh phải như nhau. Điều đó không thể được.

Hỏi: Tôi không muốn nói tất cả mọi người giống như nhau, v́ họ có những căn bản tinh thần khác nhau, nhưng chúng ta có thể thành lập một vũ trụ con người đặt trên căn bản kinh tế xă hội đồng đều.

Lạt ma: Tôi nghĩ rằng anh không nên lo lắng về vấn đề đó. Anh nên lo lắng cho cái xă hội của tâm anh. Điều đó có gía trị hơn, thực tế hơn là làm một dự tính cho chuyện ǵ sẽ xẩy ra ở chung quanh anh.

Hỏi: Nhưng sự thực hành như vậy sẽ không cân bằng giữa hai sự việc tự giác ngộ và phục vụ con người.

Lạt ma: Đúng, anh có thể phục vụ xă hội, nhưng anh không thể bắt chúng sinh phải đồng hóa như nhau, làm giống như nhau. Đức Phật muốn tất cả chúng sinh cùng giác ngộ ngay lập tức, nhưng nghiệp của chúng ta qúa nặng nên chúng ta vẫn chưa giải thoát được. Anh không thể vung đũa thần: “ tôi muốn tất cả mọi người phải hạnh phúc như nhau,” rồi ngồi chờ nó xẩy ra như vậy. Hăy khôn ngoan! Chỉ có những tâm hồn khôn ngoan mới có thể phục vụ b́nh đẳng và an lành. Anh không thể thực hiện nó chỉ v́ t́nh cảm, và anh phải hiểu rằng tư tưởng của cộng sản về vấn đề b́nh đẳng rất khác với những ǵ Phật nói. Anh không thể lẫn lộn hai tư tưởng này. Đừng qúa lư tưởng, hăy thực tế.

Hỏi: Để kết luận, ngài cho rằng không thể thực hiện đươc một xă hội thuần túy tâm linh trên trái đất này?

Lạt ma: Mặc dù được, anh cũng không thể chấm dứt được những rắc rối của con người. Mặc dù anh có thể thành lập được một xă hội như vậy trên trái đất này nhưng những bám víu vẫn c̣n, những tư tưởng chiếm hữu vẫn c̣n, sự nóng giận vẫn c̣n th́ đau khổ vẫn c̣n. Những rắc rối nằm ở bên trong của mỗi cá nhân! Con người không giống nhau, mọi người đều khác nhau. Mỗi người trong chúng ta cần những phương pháp khác nhau v́ tâm tính cá nhân tạo ra những thái độ tinh thần và cá tính không giống nhau; nên mỗi người cần một phương tiện khác nhau để đạt giác ngộ. Đó là lư do tại sao Phật giáo chấp nhận sự có mặt của những tôn giáo khác, những triết học khác. Chúng tôi nh́n nhận rằng những phương tiện khác nhau này cần cho sự phát triển của con người. Anh không thể quyết đoán rằng ư kiến của anh phải đúng cho mọi người. Đó là độc tài !

Hỏi: Ngài nghĩ sao về vấn đề dùng ma túy để phát triển tâm thức? Một người có thể kinh nghiệm được cơi chết dưới ảnh hưởng của ma túy hay không?

Lạt ma: Có chứ, có thể xẩy ra khi dùng qúa lượng để đủ đi vào cơi chết mà kinh nghiệm! Tôi chỉ nói đùa vậy thôi, điều đó không thể có được. Không thể kinh nghiệm được cơi chết qua ma túy.

Hỏi: Ngài có thể nh́n được quang sắc (aura) của một người không?

Lạt ma: Không, nhưng tất cả mọi người đều có quang sắc. Quang sắc là những rung động. Mỗi người trong chúng ta đều có những rung động của tinh thần và của thể xác. Khi anh tức giận, anh sẽ thấy cơ thể anh thay đổi. Tất cả mọi người đều như vậy. Cả khoa học và Phật giáo đều nh́n nhận như vậy, tất cả vật chất và tinh thần đều có những tần số rung động riêng. Như vậy trạng thái tinh thần của một người ảnh hưởng trên thân xác của họ và những sự thay đổi này phản ảnh trong quang sắc của họ. Đó là sự giải thích đơn giản về quang sắc. Để hiểu sâu xa hơn, chúng ta phải hiểu được tâm của chúng ta. Trước nhất hăy học để đọc được tâm của riêng ḿnh, sau đó chúng ta mới có thể đọc được tâm của người khác.

Hỏi: Làm thế nào thiền để giải tỏa những vướng víu của cảm xúc?

Lạt ma: Có rất nhiều phương pháp. Một là qua sự hiểu biết về bản tính của những cảm xúc. Theo đó, cảm xúc sẽ bị tiêu hóa trong trí tuệ. Tiêu hóa những cảm xúc của chúng ta bằng trí tuệ là một gía trị tuyệt vời nhất.

Kính chào qúy vị.

Lama Yeshe thuyết pháp tại Auckland, New Zealand, ngày 7 tháng 6 năm 1975


Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 

Trang of 2 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 3.5586 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO