Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 204 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Phương pháp rèn luyện tâm Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
saohom
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 10 February 2006
Nơi cư ngụ: China
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 32
Msg 1 of 2: Đă gửi: 21 March 2006 lúc 5:13am | Đă lưu IP Trích dẫn saohom

Phương pháp rèn luyện tâm


Khi bạn nghe một điều ǵ về Phật giáo trong tin tức hàng ngày, bạn thường nghĩ đến một tôn giáo thờ nhiều h́nh tượng to lớn, có các thầy tu áo vàng, với không khí dầy đặc mùi khói nhang. Bạn có cảm giác tôn giáo nầy không phải dành cho bạn, ngoại trừ có thể đấy chỉ là một buổi tŕnh diễn ly kỳ, hấp dẫn.

Tuy nhiên, chẳng lẽ Phật giáo chỉ có thế thôi ? Các nhiếp ảnh gia mới không chụp được các ảnh thật sự Phật giáo hay sao ? Các báo chí hào nhoáng tŕnh bày cho bạn thấy cái nền tảng của tôn giáo đó, hay chỉ là những vẻ bên ngoài ?

Chúng ta hăy nh́n rơ xem Phật giáo thật sự là ǵ, Phật giáo được tŕnh bày rành rẽ tận gốc rễ, v́ Phật giáo vẫn hiện hữu ngay cả dưới những trang sức bề ngoài . Mặc dù Phật giáo thông thường được xem là một tôn giáo, căn bản của Phật giáo là trau dồi, rèn luyện tâm. Thật sự th́ với truyền thống của tu viện và những yếu tố về mặc đạo đức, Phật giáo sỡ hữu nhiều đặc điểm với ngoại h́nh mà các người Âu Mỹ thường cho là thuộc về tôn giáo. Tuy vậy, Phật giáo không tin vào một đấng thượng đế, v́ Phật giáo cho rằng vũ trụ được h́nh thành và chuyển vận bằng những định luật không có chủ thể, vũ trụ không phải là sáng tạo của một đấng trời nào; phật giáo không chủ trương cầu xin, v́ đức Phật là một v́ thầy, không phải là thượng đế, và phật giáo xem việc thờ cúng không phải là một điều luật bắt buộc, nhưng đó là cách để bày tỏ sự biết ơn đối với đức Phật và là phương thức để trau dồi, phát triển thân tâm. V́ thế, với những nhận xét như nói ở đây, phật giáo không phải là một tôn giáo.

Lại nữa, Phật giáo hiểu rằng niềm tin không thể chỉ nằm trong sự tin tưởng vào lời chỉ dạy của đức Phật. Một người Phật tử không được tin vào bất cứ điều ǵ chỉ v́ điều ấy được đức Phật nói ra, hoặc v́ đó là điều được ghi trong sách cổ, hoặc v́ điều ấy được truyền xuống từ những bậc ông cha, hoặc v́ có nhiều người tin vào điều ấy. Phật tử có thể xem lời dạy của đức Phật như một giả thuyết, và truy cứu về điều ấy, nếu đúng th́ Phật tử hăy tin tưởng ; người Phật tử không nên chấp nhận bất cứ điều ǵ nếu như thấy không đúng lư lẽ. Điều nầy không có nghĩa là mọi thứ đều phải được tŕnh bày một cách hợp lư, v́ có những nhận thức nằm xa khung kính tri thức và chỉ có thể nhận biết bởi sự phát triển về mặt tâm linh. Nhưng yếu tố chánh vẫn là không nên mù quáng tin về mọi điều trong lời dạy của đức Phật.

Phật giáo là cách sống dựa trên việc rèn luyện tâm. Mục đích cao nhất là để đi trên con đường giải thoát khỏi đau khổ, và đạt đến Niết Bàn, một trạng thái xa hẳn cấp bậc của một tâm trí thông thường, chưa được rèn luyện. Mục tiêu tức thời là đánh ngay vào những gốc rễ của đau khổ trong cuộc sống hàng ngày.

Mọi hoạt động của con người được chỉ dẫn, ngay đó hay xa hơn, để tiến đến hạnh phúc bằng cách nầy hay cách khác; hoặc giả để bày tỏ một việc bằng những chữ tiêu cực, tất cả hoạt động của con người được chỉ dẫn để đạt giải thoát, vượt qua những việc bất như ư, không hài ḷng. Bất như ư, có thể được xem như khởi điểm của hoạt động con người, và hạnh phúc là mục đích cao cả nhất .

Bất măn hay bất như ư, khởi điểm hoạt động con người, là điểm xuất phát trong Phật giáo; và điểm nầy được bày tỏ bằng công thức của Bốn Câu Căn Bản, yếu tố của sự bất măn được chỉ rơ, nguyên nhân, cách chữa , và phương cách để chữa .

Câu Căn Bản Thứ Nhất như sau :

Trong Đời Sống con người không thể tránh được sự bất măn

Nguồn gốc ư nghĩa của câu nầy, chữ “bất măn” thường được dịch là “đau khổ”, bao gồm ư nghĩa không chỉ là nỗi đau, buồn phiền, và bất măn, nhưng mọi thứ đều là không như ư, từ nỗi đau đớn thể xác và sự khổ năo về tâm bệnh , cho đến mệt mỏi chút ít, chán nản hay chỉ một chút thất vọng .

Đôi khi lại chỉ cho sự “bất măn” hoặc “bất như ư”; trong vài bài pháp có thể những từ nầy được dùng chính xác, trong khi lúc khác từ “đau khổ” lại được sử dụng. V́ lẽ nầy, chúng tôi sẽ dùng cả hai từ “đau khổ” và “bất măn” hay “bất như ư” tuỳ vào nội dung của bài pháp thoại.

Trong vài bài dịch từ bản gốc, th́ sanh là khổ, bệnh là khổ, già là khổ, và sung sướng là khổ. Trong bản tiếng Anh, câu cuối cùng không có nghĩa ǵ; nhưng nếu chúng ta sửa lại là “sự thoả măn không được như ư” th́ có lẽ dễ hiểu hơn, v́ mọi thoả măn đều vô thường, và mặt trái của sự sung sướng, thoả măn thường là đau khổ, và từ nhận thức nầy, chữ không được như ư có lẽ đúng hơn.

Bây giờ đức Phật dạy rằng sự bất măn hoặc đau khổ là không thể tránh khỏi trong đời sống của con người có cái “ngă”; và “đời sống có cái ngă” cần được giải thích. Tóm lại, kinh điển dạy rằng cái ngă được xem là một linh hồn cố định, bất biến lại là một điều không thực.

Trung tâm cốt lơi của mỗi sinh vật không phải là một linh hồn bất biến, mà là ḍng sông cuộc sống, một nguồn năng lượng luôn thay đổi, và phút giây kế tiếp không bao giờ giống như phút giây vừa trôi qua. Cái ngă, được xem như một linh hồn bất diệt, và đây là ảo tưởng của cái ngă, nỗi đau khổ nhất từ nơi đây mà có. Cuối cùng khi cái ảo tưởng về Tôi được chuyển hoá th́ đấy là sự giác ngộ , trạng thái nầy cao nhất, và nằm xa hơn cái vũ trụ tương đối mà chúng ta biết . Nơi trạng thái cao nhất nầy, đau khổ bị dập tắt; khi bất cứ một cái ǵ về “ngă” c̣n tồn tại, cho dù chỉ là một ảo tưởng nhỏ, đau khổ vẫn c̣n hiện diện.

V́ vậy, chúng ta phải hiểu rằng Câu Căn Bản Thứ Nhất không có nghĩa là đau khổ không thể tránh được; nó chỉ có nghĩa là trong cuộc sống nơi cái ngă ngự trị, đau khổ không thể tránh khỏi, và nếu như ảo tưởng cái ngă c̣n, th́ đau khổ vẫn c̣n .

Bây giờ chúng ta nói đến Câu Căn Bản Thứ hai , như sau :

Nguyên nhân của đau khổ (bất như ư) là ham muốn

Nếu bạn trợt té trên sàn nhà trơn ướt và bị bầm ḿnh, bạn nói nguyên nhân cái đau mà bạn đang phải chịu đựng là sàn nhà trơn trợt. Điều nầy đúng, và nếu nói vết bầm của bạn là do ham muốn mà ra th́ chắc là không đúng rồi.

Nhưng Câu Hai không nói đến trường hợp cá nhân, hoặc nguyên nhân tức thời. Câu Hai muốn nói đến sức mạnh hợp nhất để giữ nguồn sống là sự ham muốn cho chính bản thân; v́ nguồn sống nầy – ảo tưởng về cái ngă – chứa đựng những điều kiện cho đau khổ, trong khi sàn nhà trơn trợt chỉ là một cơ hội cho đau khổ xuất hiện .

V́ bản chất của thế giới mà chúng ta đang sống, nên thật là điều không tưởng khi muốn chữa đau khổ bằng cách loại bỏ hết những cơ hội có thể mang lại đau khổ; cũng như thật là không thể đánh vào nguyên nhân hay cơ sở chánh của cái khổ. V́ thế Câu Ba căn bản là :

Giải thoát sẽ đạt được bằng cách tiêu diệt ham muốn

Sự ham muốn của cái ngă là giữ chặt lấy đời sống; ḍng sông ư thức hiện hữu mà chúng ta gọi là ngă; và chỉ v́ cái si mê của ngă mà sự bất như ư và đau khổ xuất hiện. Khi diệt trừ được sự nắm giữ si mê về ngă, gốc rễ của đau khổ cũng bị tiêu diệt.

Mục đích cao nhất của thực tập trong Phật giáo là để tiêu diệt cái ngă. Chính ngay nơi nầy sự hiểu lầm xuất hiện, và đó là điều tự nhiên; nhưng một khi nhận thấy rằng tiêu diệt cái ngă là huỷ diệt si mê th́ sự hiểu lầm nầy sẽ biến mất. Khi si mê được tẩy trừ, thực tại xuất hiện; như vậy tiêu diệt si mê là để thực tại hiển hiện. Khi si mê về cái ngă vẫn tiếp tục che tối thực tại th́ ta không tài nào t́m thấy nó.

Giờ đây khi si mê bị tiêu diệt th́ thực tại nầy là ǵ. Thực tại cao tột là Không Duyên Khởi, cũng được gọi là Không Sanh, Không Cội Nguồn, Không Pha Lẫn. Với cách thức không đầy đủ, không chính xác, chúng ta có thể diễn tả nó như một trạng thái khả quan tích cực. Đó là nơi có hạnh phúc và tự do, hoàn toàn thoát khỏi đau khổ và nó rất khác biệt với trạng thái hiện hữu tầm thường và không thể nào diễn tả bằng lời được. Trạng thái Không Duyên Khởi có thể được chỉ dẫn – đến điểm – chỉ bằng cách nói về những điều mà trạng thái đó không có.

Trong các bài pháp Phật giáo, Không Duyên Khởi thường được giải thích là tâm không c̣n tham, sân, si. Đây cũng nói đến sự hoàn hảo của các cá tánh đối nghịch, vị tha, từ bi, và trí tuệ.

Đạt đến trạng thái Không Duyên Khởi là mục đích cao tột của tất cả thực tập Phật giáo, và cũng tương đương như sự giải thoát rốt ráo khỏi đau khổ và sự bất như ư. Sự việc nầy đưa chúng ta đến với câu cuối cùng của 4 Câu Nói Căn Bản.

Con đường giải thoát là Bát Chánh Đạo

Con đường có tám yếu tố sau đây :

1. Hiểu biết đúng, sự hiểu biết về bản chất chân thật của hiện hữu

2. Suy nghĩ đúng, ư nghĩ không c̣n vướng vào nhục dục, xấu xa, và độc ác.

3. Nói lời chân thật, không bịa đặt, nói xấu, nói lời cộc cằn thô lỗ, và không nói nhảm.

4. Hành động chân chính, tránh việc sát hại, trộm cắp, và tà dâm.

5. Cuộc sống chân chính, nghề nghiệp không làm hại đến các chúng sinh .

6. Cố gắng chân chính, hoặc cố gắng tiêu diệt kiết sử của tâm thức và nuôi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp.

7. Tâm thức chân chính, sự hoàn hảo của chánh niệm.

8. Tư duy chân chánh, nuôi dưỡng tâm thức qua việc thiền định.

Bây giờ bạn thấy trong Con đường Bát Chánh Đạo, quan trọng là nó không có tính chất tôn giáo; nó giống như môn học tâm lư đạo đức.

Nhưng con người ở phương Đông cũng như ở phương Tây, nói chung, giống như sự đ̣i hỏi phiến diện bằng cách nầy hay cách khác – ít nhất ở mặt bên ngoài – những cái không quan trọng lại được xem là cần thiết.

Trong khi những đặc điểm phiến diện trong thực tập Phật giáo cần được thay đổi tuỳ vào hoàn cảnh xung quanh, những đặc tính quan trọng, không thay đổi của thực tập được tóm tắt trong bảng chỉ dẫn của Bát Chánh Đạo, đức Phật đă dạy về Trung Đạo, con đường trung dung giữa những trạng thái cực đoan.

Mặc dù thật là bất tiện khi nói về những khía cạnh khác của Bát Chánh Đạo như là tám bậc, không nên xem chúng là những bậc riêng biệt, phải làm từng chặng. Ngược lại, mỗi bậc phải được thực tập cùng lúc với những bậc khác, và có lẽ tốt hơn nếu nh́n chúng như tám lằn ranh của một con đường hơn là tám bậc nối tiếp nhau.

Bước thứ nhất của con đường, hiểu biết đúng, quan trọng nhất là thấy mọi việc như chúng là – hoặc ít nhất, thử làm mọi việc với tính cách không trốn tránh, hoặc tự lừa dối. Nghĩa là, hiểu biết đúng bắt đầu bằng sự yêu thích trí tuệ, yêu bản chất tự nhiên của sự hiện hữu, và như thế đấy được coi như là bước đầu của con đường thực tập; nhưng khi đă đến cuối con đường, sẽ đạt được t́nh thương và trí tuệ.

Trong khi Chánh Kiến có thể được xem như sự thấu hiểu hoàn hảo của phật pháp, nó dựa vào sự hiểu biết ba đặc điểm chánh yếu trong thế giới tương đối, của vũ trụ, thời gian, h́nh thể và vật chất. Ba đặc điểm nầy có thể tóm tắt như sau :

1. Vô thường : Tất cả mọi thứ trong thế giới tương đối nầy luôn thay đổi liên tục.

2. Bất như ư : Trong một mức độ nào đó của đau khổ và bất như ư dính liền với cuộc sống « có bản ngă », hoặc liên hệ tới những giới hạn kinh nghiệm cá nhân trong thế giới tương đối.

3. Vô ngă : Không có thực thể -- không là con người hay bất cứ chúng sanh nào – sở hữu một linh hồn hay bản ngă thường hằng, không thay đổi. Mỗi một chúng sanh có một ḍng sinh lực luôn thay đổi, sự thay đổi tuỳ thuộc vào hiện tượng tinh thần và vật chất, giống như một ḍng sông luôn trôi chảy và không bao giờ đứng yên một chỗ dù chỉ trong tích tắc.

Như vậy, bản ngă, không phải là một thực thể tĩnh lặng mà là một ḍng thay đổi liên tục. Khái niệm năng động về sự hiện hữu là một ư nghĩ sâu xa tiêu biểu trong phật giáo ; trong cuộc sống không có bất cứ vật ǵ là tĩnh lặng, cuộc sống là một ḍng trôi chảy liên tục mà ta cần phải học để biết cách bơi theo nó.

Một khái niệm khác của Chánh Kiến, là nhận thức rằng vũ trụ có tiến tŕnh của nó với nền tảng nhân và quả, với hành động và phản kháng, sự liên tục không cố định và chúng đều giống nhau trong thế giới đạo đức, tinh thần và vật chất. Tuỳ vào hành động tốt mà người tạo tác có lúc hưởng được sự sung sướng, và có lúc v́ hành động xấu ác mà kẻ tạo tác phải chịu đau khổ.

Các ảnh hưởng tốt hay xấu – nghĩa là, hạnh phúc và đau khổ là kết quả của những hành động đă tạo tác – thông thường kết quả không theo liền sau nhân tạo tác ; thường có sự chậm trễ trong vấn đề thời gian, kết quả của hạnh phúc và đau khổ chỉ xuất hiện khi nhân duyên đầy đủ. Kết quả có thể không xuất hiện trong hiện tại. Và như vậy, cái chết thông thường là một sự thăng bằng về mặt « hưởng phước », nếu như quả tốt chưa xuất hiện kịp thời ; và đồng thời cũng là một sự thăng bằng về mặt « chịu khổ », nếu như đau khổ là kết quả không thể tránh khỏi.

Sau khi chết, thân thể tan hoại, dĩ nhiên, ḍng sinh lực vẫn c̣n tiếp tục, không phải trong dạng của một linh hồn bất biến, mà là trong dạng của ḍng năng lực luôn thay đổi. Tức thời sau khi chết, một chúng sinh mới bắt đầu cuộc sống trong ḍng đời ; nhưng chúng sinh nầy không nhất thiết phải là một người, và trong tích tắc sự đầu thai có thể xảy ra ở một tầng hiện hữu khác. Tuy vậy, chúng sinh mới đó vẫn chịu một ảnh hưởng trực tiếp của chúng sinh kia vừa qua đời.

Như vậy, chúng sinh mới nầy là sự tiếp tục không ngừng nghỉ của chúng sinh kia, mà ḍng đời vừa đứt đoạn. Chúng sinh mới thừa hưởng phần phước đức c̣n lại của chúng sinh đă chết, và như vậy, phần phước đó sẽ mang lại cho chúng sinh mới nầy sự sung sướng trong tương lai. Đồng thời, chúng sinh nầy cũng phải chịu luôn phần ác báo c̣n lại của kẻ kia, và như vậy, sẽ phải chịu đựng sự đau khổ nào đó trong tương lai.

Tóm lại, trong ư nghĩa của sự liên tục, chúng sinh mới giống như chúng sinh đă chết. Cũng như vậy – chỉ trong ư nghĩa của sự liên tục – một ông già không khác với cậu thanh niên lúc trẻ, cậu thanh niên không khác với đứa bé con lúc trước, và đứa bé con không khác với đứa bé mới sanh khi xưa đó. Cá tính của ông già với cậu thanh nhiên, và với đứa bé con, và đứa trẻ sơ sanh, chỉ là một sự liên tục ; không có cá tính nào khác.

Tất cả mọi vật trong vũ trụ thay đổi ngày nầy sang ngày khác, từ phút nầy tới phút khác, như vậy một chúng sinh lúc nầy chỉ khác với chúng sinh lúc sau chút xíu thôi ; Cá tính duy nhất là sự liên tục. Cũng như vậy, một chúng sinh được tái sinh th́ khác với chúng sinh vừa chết kia ; nhưng do sự liên tục mà cá tính hôm nay vẫn không khác cá tính lúc trước.

Những lời giảng dạy nầy là căn bản của phật pháp – bản chất thật về bản ngă là một ảo giác, quy luật nhân quả trong phạm vị đạo đức, và sự tái sinh của những năng lượng đời sống – nhưng không cần mọi người phải chấp nhận bất cứ điều ǵ nếu cảm thấy không đúng lư với bản thân. Chấp nhận bất cứ lời giảng dạy nào cũng không quan trọng ; quan trọng là sự cố gắng không ngừng để nhận thấy mọi vật như chúng là, không trốn tránh không tự lừa dối.

Dàn bài ngắn gọn của bài pháp coi như khá đầy đủ với Chánh Kiến dẫn đầu. Bước kế tiếp, suy nghĩ hoặc mục đích chân chính, giải thoát các khả năng tri thức khỏi những yếu tố xúc cảm có hại, như tham dục, ác ư, và hành động bạo tàn, làm bất lợi cho những quyết định sáng suốt, không thiên vị.

Chính ngữ, Chính mạng, và Chính nghiệp tạo nên một phần của con đường đạo đức, chúng giúp cho những nhiễm ô của tâm thức nằm dưới sự điều khiển và không cho chúng trồi lên để tạo thành những hành động có hại. Tuy vậy, những nhiễm ô nầy không thể bị tiêu diệt hoàn toàn chỉ nhờ vào sự đạo đức, và những bước khác của con đường cần được áp dụng để chùi rửa những nhiễm ô của tâm thức một cách sạch sẽ hoàn toàn.

Bây giờ bước kế đến – Chính tinh tiến – chúng ta bước vào phạm vi của tâm lư thực tiễn, Chính tinh tiến trong bài nầy nghĩa là sự cố gắng của ư chí. Cũng có nghĩa là, bước thứ sáu trên con đường là sự trau dồi bản thân, luyện tập ư chí để pḥng ngừa và khắc phục những trạng thái tâm thức có thể làm cản trở sự phát triển tâm linh, và bồi dưỡng cũng như khuyến khích những trạng thái tâm thức có thể mang lại sự phát triển tinh thần.

Bước thứ bảy trên đường cũng là môn tâm lư thực tiễn ; bước nầy gọi là Chính niệm, và nó bao gồm sự phát triển tối đa của khả năng tầm thường của sự chú tâm. Sự phát triển về mặt chú tâm – sự hiểu biết lan rộng và mạnh mẽ -- tâm thức dần dà có thể phân biệt mọi vật và thấy rơ mọi vật như chúng là.

Hoạt động cơ bản của bước thứ bảy, Chính niệm, là phát triển sự chú tâm về cái bản chất không thực của cái ngă. Tuy vậy, cần phải liên tục cải thiện khả năng chú tâm b́nh thường, và như vậy, tâm thức được trang bị tốt hơn để đối diện với những vấn đề căng thẳng của sinh hoạt hàng ngày trong thế gian.

Phương cách của đức Phật, sự chú tâm bao gồm sự phát triển về khả năng tập trung, để tạo nên chánh niệm liên tục trong tất cả những ư nghĩ chợt xuất hiện, tất cả những chữ đă được nói, tất cả những hành động đă làm, với cái nh́n buông xả, không tham đắm, không thiên vị, và không mê lầm.

Chính niệm có nhiều cách áp dụng trong sinh hoạt hàng ngày. Thí dụ, chính niệm có thể được sử dụng để có một cái nh́n thấu đáo, sự hiểu biết rơ ràng, của những động lực nằm sau các hoạt động, và sự hiểu biết rơ ràng về động lực nầy là một điều thật quan trọng.

Chính định, bước cuối cùng trong tám bậc, trau dồi tâm thức ở những trạng thái cao hơn – đến lúc hấp thụ mọi thứ trong chính niệm – những trạng thái tâm thức cao tột nầy được sử dụng để thống nhất, thanh tịnh hoá, và làm mạnh mẽ tâm thức để đạt đến sự giải thoát, sáng suốt.



Khi đạt được giải thoát th́ ảo giác về bản ngă, với những tham đắm, đau khổ cũng được chuyển hoá và bị dập tắt hoàn toàn.

Sự hiểu biết xuyên suốt là mục đích tối hậu của tất cả các thực tập phật giáo, và với sự sáng suốt đó, sự hiểu biết về bản chất thực của đời sống cũng sẽ hiện diện, tột bậc của sự hiểu biết về Không Duyên Khởi. Không Duyên Khởi là sự dập tắt bản ngă, không hẳn là không hiện hữu hoặc huỷ diệt, bởi v́ sự tiêu diệt bản ngă chỉ là sự tiêu diệt si mê. Mỗi sự miêu tả về Không Duyên Khởi đều thất bại, bởi v́ nó nằm xa hẳn thế giới chữ nghĩa, và ư nghĩ ; và cách duy nhất để biết về Không Duyên Khởi là thực hành Bát Chính Đạo từ đầu đến cuối.

Như vậy, đây là nguyên gốc của phật giáo ; đây là phật giáo của Bát Chính Đạo, của con đường đưa đến giải thoát khỏi bản ngă và đạt đến sự hiểu biết thấu đáo về thực tại.






__________________
Người ngộ rồi cũng niệm Phật.
Người chưa ngộ cũng niệm Phật.
Quay trở về đầu Xem saohom's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi saohom
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 2 of 2: Đă gửi: 21 March 2006 lúc 9:35pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Những Bài Học về Diệu Tâm
(hay Phật tánh)
Tâm Minh

‘Tâm’ là chữ thường xuyên xuất hiện với người Phật tử mỗi khi nói đến tu tập . Thật vậy, nào là ‘Tu tâm’ , ‘một niệm ở tâm ta’ , nào là   ‘giữ tâm ư trong sạch ’ , ‘chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài’ (Nguyễn Du) v..v... Nhưng ‘tâm’ là cái ǵ , ở đâu v..v..th́ không ai chỉ được ; thậm chí ngài A Nan , một trong 10 vị đệ tử lớn của Phật, được tiếng là học rộng biết nhiều (đa văn đệ nhất) cũng bối rối khi bị Phật truy hỏi cho tới cùng về cái ‘chơn tâm’, ngài A Nan trả lời bảy lần trật hết cả bảy và bị Phật quở luôn ! (sau đó th́ ngài đă ngộ được và ứng khẩu đọc bài kệ đắc pháp của ngài

‘Diệu trạm tổng tŕ bất động tôn
Thủ Lăng Nghiêm Vương thế hy hữu ..’   

v..v..).   Như vậy việc chúng ta ‘chịu thua’ không biết Tâm là ǵ và tâm ở đâu th́ cũng là chuyện b́nh thường.   Người viết bài này không có tham vọng viết về cái ‘chơn tâm’ của kinh Lăng Nghiêm nhưng muốn chia xẻ đến các bạn những ‘mô tả’, những tên gọi về Tâm mà những bậc minh triết trong những thời đại khác nhau, ở những đất nước khác nhau đă nêu lên , để từ đó chúng ta rút ra được những bài học về sự tu tập chân chính , làm hiển lộ cái tâm vi diệu, kỳ diệu đó, (tạm gọi một cách ngắn gọn là cái ‘diệu tâm’) đem lại an lạc cho chính ḿnh và mọi người chung quanh ḿnh .

Trước hết , Tổ Bồ Đề Đạt Ma (528) , vị tổ thứ 28 của Ấn Độ tính từ đức Thế Tôn hay là vị tổ đầu tiên của Trung Hoa (Sơ Tổ) đă dạy môn đệ của ngài (được ghi lại trong ‘huyết mach luận’- một trong 6 bộ luận của bộ sách ‘Thiếu Thất Lục Môn’ ở Nhật ) (1) :

Tánh tức là Tâm,
Tâm tức là Phật ,
Phật tức là Đạo
Đạo tức là Thiền

Nói ngược trở lại th́ tâm tức là tánh và thấy tánh là thành Phật , và con đường (đạo) đi đến thấy tánh là Thiền (‘tánh’, nói cho đầy đủ là ‘tánh giác’) .

Thiền Phật giáo, như chúng ta thường được nghe nói đến , là chủ trương ‘bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật’ (đại ư là không cần chữ nghĩa, giáo lư, mà chỉ thẳng vào chơn tâm, thấy tánh là thành Phật ). Thật vậy, ai mà không thích thú khi được nghe câu chuyện trên núi Linh Thứu (Linh Sơn) khi đức Thế Tôn đưa cành hoa lên th́ ngài Ca Diếp mĩm cười (‘niêm hoa vi tiếu’), trong khi hội chúng chưa ai có phản ứng ǵ, và đức Thế Tôn đă truyền y bát cho ngài Ca Diếp làm vị tổ thứ hai từ đó .

Trong thời đại của chúng ta, Sogyal Rinpoche ,một vị thầy Tây Tang, người đă được thụ huấn với nhiều vị lạt ma tên tuổi nhất của Tây Tạng, đồng thời cũng được hấp thụ nền giáo dục tân tiến của tây phương , người đă thành công khi đem Phật giáo Tây Tạng giảng dạy ở phương tây với lề lối tư duy của họ mà ngài đă quen thuộc . Ngài nêu ra ‘4 lỗi’ làm cho ta không thể thấy được chơn tâm (cái mà ngài gọi là ‘tự tính tâm’ và Bồ Đề Đạt Ma gọi là ‘tánh’ hay đức Phật gọi là ‘chơn tâm’ đó) : (2)

Tự tính tâm quá gần gũi đến nỗi ta khó nhận ra
Nó quá sâu xa nên ta khó ḍ cho thấu
Nó luôn luôn có mạt hiện tiền , nó quá dễ ta không tin nổi
Nó quá bao la ta không dung chứa nỗi.

Những phân tích này của Sogyal Rinpoche có phải nhắc ta nhớ đến Lục Tổ Huệ Năng (638-713) - vị tổ ‘tướng mạo quê muà nhưng trí tuệ phi thuờng’ - khi đựơc ngũ tổ khai thị rồi, cũng hân hoan thốt lên những lời nói về ‘tự tánh’ tức là ‘chơn tâm’ trong kinh Lăng nghiêm,   và cũng là ‘tự tánh tâm ‘ của Sogyal vậy : (3)   

đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh
đâu ngờ tự tánh vốn không sinh diệt
đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ
đâu ngờ tự tánh vốn không dao động
đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp

Lời phát biểu của Lục Tổ giúp chúng ta liên hệ đến lời dạy của đức Phật về ‘Thường, Lạc, Ngă, Tịnh’ trong Diệt Đế : đó là tự tánh thanh tịnh hay là cái ‘chân ngă’ - tâm như một tấm gương trong sáng ( vốn tự thanh tịnh) có khả năng chiếu sáng kỳ diệu bất cứ vật ǵ đi ngang qua nó ( vốn tự đầy đủ , hay sanh muôn pháp) một cách b́nh đẳng và trung thực ,không phân biệt, không phản ứng (vốn không dao động)

Những tiếng reo vui của Lục tổ nhắc nhở ta nhiều trong việc tu tập . Thật vậy, chúng ta cố gắng trong đời sống hằng ngày , trong ăn ,uống, ngủ ,nghỉ , đi đứng, nằm ngồi v..v.. an trú trong ‘tự tánh tâm’ càng nhiều càng tốt . Cụ thể, khi nghe ai phê b́nh hay trách móc mà ta nổi ‘tam bành lục tặc’ lên chẳng hạn, ấy là ta đă biến tâm thanh tịnh thành tâm của loài tu la (quỷ chiến đău) rồi ! Nếu chúng ta cố gắng sống trong chánh niệm ,tỉnh thức, theo dơi tâm và giữ ǵn cho tâm bớt dao động th́ một ngày kia ta cũng có thể làm hiển lộ bản tâm thanh tịnh , nói cách khác, có thể an trú thuờng trực trong đó như chư Phật vậy .

Sau Lục Tổ Huệ Năng 10 thế kỷ, thiền sư Nhật Bankei ( 1622-1693) cũng nói : ‘Tâm là một cơ cấu năng động , nghề của nó là phản chiếu , ghi lại và hồi tưởng những ấn tượng về thế giới bên ngoài ; nó như một loại gương soi sống động ,luôn luôn vận hành , không bao giờ ở yên từ giây phút này sang giây phút kế tiếp . Trong cái tâm như gương sáng này những ư tưởng đến rồi đi , sinh ,diệt rồi tái sinh tùy hoàn cảnh, tự bản chất chúng không tốt cũng không xấu’ hay : ‘ v́ tâm Phật đang chiếu sáng kỳ diệu trong tất cả mọi người nên bạn có thể học hỏi đủ thứ , ngay cả những hành vi lầm lạc . . . ‘ (4). Ở đây , Bankei gọi ‘tâm’ là ‘Tâm Phật bất sinh’ Thật là thú vị khi đuọc nghe lời dạy của các bậc Thầy nói ‘mỗi người một kiểu’ nhưng cốt lơi thật là giống nhau về bản chất của TÂM - tức là ‘tự tánh tâm’ , ‘chơn tâm’ , ‘tâm Phật bất sinh’ hay ‘tự tánh’ v..v.. cũng chỉ là Một mà thôi.

Đọc Bankei, ta thấy vị thiền sư Nhật này ‘gặp gỡ’ Lục Tổ Huệ Năng ở rất nhiều điểm . Ví dụ như ‘nhất hạnh tam muội’ của Lục Tổ th́ Bankei gọi là ‘thực chứng tâm Phật sống động’ , ông nói : ‘với một người thực chứng tâm Phật một cách rốt ráo th́ khi vị ấy đi ngủ cũng đi ngủ với tâm Phật, khi dậy là dậy với tâm Phật , khi đi là đi với tâm Phật, khi đứng là đứng với tâm Phật , khi nằm là nằm với tâm Phật , khi ngồi là ngồi với tâm Phật, khi nói là nói với tâm Phật , khi im lặng là im lặng với tâm Phật , khi ăn cơm là ăn cơm với tâm Phật, khi uống trà là uống trà với tâm Phật , khi mặc aó là mặc áo với tâm Phật v..v.. Vào mọi lúc, vị ấy an trú liên tục trong tâm Phật , vị ấy hành xử ung dung tùy theo hoàn cảnh , cứ để mọi sự theo cách tự nhiên của chúng; chỉ cốt là không làm những việc ác, làm những việc lành . . . . nhưng không tự hào về những việc lành của ḿnh ,không bám víu vào đó và ghét cái xấu , v́ như vậy là đi nguợc tâm Phật .   Tâm Phật không thiện cũng không ác, mà vận hành vượt ngoài cả thiện ác . . . (5)

Tương tự, Lục Tổ Huệ năng và thiền sư Bankei c̣n gặp nhau ở ‘tự tánh bất động’ Lục Tổ dạy : Này thiện tri thức, người mê tuy thân bất động nhưng mở miệng liền nói việc phải quấy, hay dở, tốt xấu của người (tức là) cùng đạo đă trái nhau , chấp tâm, chấp tịnh tức là chướng   đạo . Này thiện tri thức, sao gọi là toạ thiền ?   Trong pháp môn này không chuớng không ngại; ngoài đối với tất cả cảnh giới thiện ác tâm niệm chẳng khởi gọi là TỌA, trong thấy tự tánh chẳng động gọi là THIỀN. Ngài nhấn mạnh : tọa thiền không phải là ngồi một chỗ nhắm mắt lại chỉ cần ‘thân yên’ là được đâu :

Khi sống, ngồi chẳng nằm,
Chết rồi nằm chẳng ngồi
Một bộ xương mục thúi
Có ǵ gọi công phu ?       (6)

Bankei cũng căn dặn đệ tử : rán sức tu hành, cố toạ thiền . . . để được giác ngộ đều sai . Không có ǵ khác nhau giữa tâm của chư Phật với cái phật tâm nơi mỗi chúng sanh . Mong cầu đạt giác ngộ là tạo ra một sự phân hai thành ra có người đựơc giác ngô và chân lư được giác ngộ.   Khi c̣n đeo đẳng một chút nào cái ước muốn đạt giác ngộ ,th́ lập tức đă giả từ cái bất sinh , đi nguợc lại tâm Phật . . . . Cái ǵ không vướng vào thế giới bên ngoài chính là tâm Phật ’ . (7)

Rơ ràng Lục Tổ và Bankei, hai nguời đă nói theo ngôn ngữ của thời đại ḿnh nhưng nội dung chuyên chở Đạo th́ y hệt nhau ; và tư tưởng của hai ngài cũng không khác câu chuyện ‘mài ngói làm gương soi’ giũa Mă Tổ và Nam Nhạc là bao nhiêu :

Mă Tổ đạo Nhất ( 709-788) là một thiền sư rất nổi tiếng , (môn đệ của ngài đông hơn của ngài Huệ Năng nữa) đang ngồi thiền trong am th́ sư Nam Nhạc đi đến và hỏi :

- Đại đức ngồi thiền để làm ǵ ?
- Để làm Phật

Sư bèn cầm một miếng ngói đến trước am ngồi mài trên phiến đá, Mă Tổ hỏi :

- Sư mài ngói để làm ǵ ?
- Để làm gương
- Mài ngói sao thành gương được ?
Sư đáp: c̣n ngồi thiền há thành Phật được sao ?   
v..v.. ( 8)

Tất nhiên câu chuyện c̣n dài , chỉ xin trích ra một đọan để thấy cái ư giống nhau giữa những bậc minh triết khi chỉ điểm về Tâm, về Đạo v..v..

Thực tập bài học này ,ta không chỉ ngồi thiền mà thôi, v́ đó chỉ mới là ‘thân yên’ chưa đủ, c̣n phải ‘tâm yên’ nữa, nghĩa là theo Lục Tổ th́ ‘ đừng thấy lỗi nguời, chỉ nên thấy lỗi ḿnh th́ mọi việc trong ngoài mới gọi là ‘ḱa tướng’ và ‘bất động’ được ; và theo Bankei th́ đừng khởi mong cầu , dù là mong cầu được giác ngộ ,đừng bị vướng mắc ,dao động bởi bất cứ ǵ khi tiếp xúc với thế giới bên ngoài , hăy để cho những ham muốn, , giận hờn, phiền năo v..v.. đến rồi đi tự nhiên như những đám mây đến ,đi trong bầu trời - h́nh ảnh rất quen thuộc với tất cả chúng ta .   Những đám mây không phải là bầu trời, và không ‘thuộc về’ bầu trời, chúng chỉ lơ lửng giữa không gian và không lệ thuộc vào đâu ,nhưng chúng không bao giờ có thể   để lại dấu vết làm lấm lem bầu trời trong sáng .

Vị thầy Tây Tạng Sogyal Rinpoche c̣n phân tích rơ ràng hơn khi phân biệt ‘Tâm và tự tánh của Tâm’ : có nhiều phương diện của Tâm , nhưng hai phương diện nổi bật nhất   đó là ‘cái Tâm thông thuờng’ (Sem) và ‘Tâm bản nhiên’ (Rigpa) ‘Tâm thông thường’ là cái tâm có khả năng phân biệt, có ư thức về nhị nguyên ( tốt-xấu ,yêu -ghét, lấy -bỏ v..v..) .Đó là cái tâm suy nghĩ, đạt kế hoạch ,ham muốn, cái tâm bừng lên trong cơn giận dữ, cái tâm tạo ra những đợt sóng say mê hay tư duy và cảm xúc tiêu cực , cái tâm cứ luôn luôn quyết định, đánh giá, và xác định sự hiện hữu cuả nó bằng cách cắt xén, đặt tên củng cố kinh nghiệm v..v.. C̣n cái ‘tâm bản nhiên’ là cái tuyệt đối không dính dáng tới đổi thay và chết chóc ( thường c̣n và không sinh diệt) ; đó là sự tỉnh giác trong sáng uyên nguyên của trí tuệ giải thoát ,có tính sáng chói và luôn luôn tỉnh thức . Đừng tưởng rằng ‘tâm bản nhiên’ chỉ có trong tâm ta mà thôi; kỳ thực nó là bản chất của mọi sự vật , v́ vậy, trực nhận bản tính tự nhiên của Tâm cũng chính là trực nhận bản tính tự nhiên của mọi sự vật, hiện tượng . Sogyal c̣n bảo rằng ‘tâm   bản nhiên ‘ này là ‘Thượng Đế’ đối với người Ky Tô và Do Thái giáo, là ‘đại ngă’ hay ‘Shiva’ hay ‘Brahman’ hay ‘Vishnu’ của Ấn Độ giáo, là ‘Tinh chất ẩn nấp’ đối với những nhà thần bí học ‘Sufi’ -c̣n Phật tử th́ gọi là ‘Phật tính’ ((9)

Bài học ở đây là chúng ta thực tập sống tỉnh thức để không bị tâm b́nh thường lôi kéo theo thất t́nh lục dục, cân đo đong đếm, tính toán thiệt hơn v..v.. mà sống gần với bản tâm thanh tịnh ,nh́n mọi sự vật, hiện tượng trong cuộc đời   như một tấm gương trong sáng , phản ánh trung thực ‘như-nó-là’ ( as-it-is) không thêm bớt, vẽ vời, suy diễn v..v.. v́ theo Sogyal Tâm Phật (hay Phật tính, hay Tâm Bất Sinh v..v..) luôn luôn hoàn hảo; ‘ngay cả chư Phật với trí tuệ vô biên cũng không thể làm cho nó tốt hơn được và chúng sanh với tất cả vô minh có vẻ bất tận ,cũng không thể làm cho nó lấm lem’   

Để kết luận , xin mượn lời của Thầy Sogyal   xác định ‘chỗ ở’ của tâm : (10)

‘Vậy th́ Tâm- Phật tính- đích thực nằm ở đâu ? - nó nằm ngay nơi tự tính của tâm , cái tự tính được ví như bầu trời ấy . Hoàn toàn cởi mở ,tự do, vô biên .   Phật tính ấy thật đơn giản, tự nhiên như nhiên tới nỗi không bao giờ có thể trở thành phức tạp, ,hư hỏng hay bị nhiễm ô , nó thuần tịnh tới nỗi vượt ra ngoài cả ư niệm dơ sạch . . .    nhưng nói về tự tánh tâm ví như bầu trờI chỉ là một ẩn dụ để giúp ta tưởng tượng được tính chất bao la vô biên bao trùm tất cả của nó nhưng Phật tính c̣n có một tính chất mà bầu trời không có được, đó là tính sáng chói của tỉnh thức , biết nhận thức mà vẫn trống rỗng, giản đơn mà sáng suốt :

. . . .
Sinh tử không làm nó xấu hơn
Niết bàn không làm nó tốt hơn
Nó chưa từng sinh
Nó chưa từng diệt
Chưa từng giải thoát
Chưa từng mê lầm
Chưa từng có, cũng chưa từng không
Nó không có một giới hạn nào
Không thể xếp nó vào một phạm trù nào cả
. . .   

Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 2.9697 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO