Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 193 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: CHẤN QUANG PHÁP VỊ Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
amduong05
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 10 December 2004
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 52
Msg 1 of 7: Đă gửi: 21 March 2006 lúc 5:37am | Đă lưu IP Trích dẫn amduong05

CHẤN QUANG PHÁP VỊ


1.     Cảm niệm ân Phật, ân của hộ pháp

Nếu chúng ta muốn cải thiện đời sống, công phu tu học được đắc lực, biện pháp duy nhất là phải nghe [giảng] kinh cho nhiều thiệt nhiều. Lúc c̣n tại thế đức Phật Thích Ca giảng kinh trên 300 hội, thuyết pháp ṛng ră 49 năm, đức Phật Thích Ca chưa từng hướng dẫn đại chúng niệm Phật lần nào, hoặc tham thiền một lần nào cả. Phải nên biết đức Phật không hướng dẫn chúng ta tu hành là tại v́ tu hành dễ dàng, giác ngộ khó khăn. Cũng v́ giác ngộ quá khó cho nên đức Phật khổ tâm mỏi miệng phải thuyết pháp mỗi ngày, khuyến đạo mỗi ngày. Chúng sanh ngu si, tuy mỗi ngày nghe Phật thuyết pháp nhưng vẫn mê mờ như cũ.

Tuy vậy đức Phật đại từ đại bi vẫn giảng kinh mỗi ngày; chúng sanh đọa lạc trong lục đạo th́ Phật thị hiện trong lục đạo, vẫn đi theo không nỡ bỏ rơi, đây gọi là ‘trong nhà Phật không xả bỏ bất cứ người nào’. Chúng sanh tạo tội nghiệp, phỉ báng và sỉ nhục Phật, Bồ Tát, thậm chí hăm hại các ngài, nhưng các ngài không màng đến, vẫn thương xót chúng sanh, giảng kinh thuyết pháp v́ chúng sanh, đây là ḷng đại từ đại bi của chư Phật, Bồ Tát. Đời đời kiếp kiếp trong vô lượng kiếp qua vẫn không bỏ rơi chúng sanh, đây là việc không phải một số người thường có thể làm được, từ điểm này chúng ta có thể hiểu được ân đức của Phật là bao lớn.

Hàn Quán Trưởng hộ tŕ chúng ta trong suốt 30 năm, xây dựng nền móng vững chắc cho chánh pháp. Có người nói Hàn Quán trưởng có công và cũng có lỗi lầm, nhưng theo tôi nghĩ th́ bà chỉ có công chứ không có lỗi lầm chi hết. Nếu quư vị b́nh tĩnh quan sát kỹ càng th́ sẽ biết công đức của bà vô lượng vô biên. Đây là một vị Bồ Tát tái lai, thị hiện cho chúng ta xem, người trong thế gian làm sao biết được?

Trong kinh nói người ở Tây Phương Cực Lạc thế giới cho dù hạ hạ phẩm văng sanh đều có ‘thiên nhăn đổng thị, thiên nhĩ triệt thính, tha tâm biến tri’ (thiên nhăn nh́n suốt, thiên nhĩ nghe thấu, tha tâm đều biết), năng lực của sáu căn hầu như bằng với đức Phật A Di Đà, cho nên chúng ta khởi tâm động niệm, ngôn ngữ hành động, chư Phật, Bồ Tát nh́n thấy rơ rơ ràng ràng. Chúng ta mong cầu văng sanh th́ khi khởi tâm động niệm, ngôn ngữ hành động nhất định phải tương ứng, phù hợp với lư luận và phương pháp của sự văng sanh, điểm này vô cùng quan trọng. Tây phương Cực Lạc thế giới là ‘Chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ’ (nơi tụ tập của các người thiện nhất), cho nên chúng ta niệm Phật th́ cũng phải tu ‘thượng thiện’. Nếu tâm không thiện, ngôn ngữ không thiện, cho dù một ngày niệm 10 vạn câu Phật hiệu th́ cũng không văng sanh được. Giống như lời của hai vị tôn giả Hàn Sơn và Thập Đắc đă nói: ‘Hét bể cổ họng cũng luống công’ (hai vị này là hoá thân của Văn Thù và Phổ Hiền Bồ Tát).



2.     Nội dung và phương pháp tu hành trong Phật điển

Chúng ta đă phát tâm cứu ḿnh th́ cũng phải [phát tâm] cứu người xung quanh; sự sanh hoạt và tu học nhất định phải đúng như lư, như pháp, v́ vậy phải hiểu rơ nội dung của kinh Phật. Nội dung này có bốn điểm: ‘Giáo, Lư, Hành, Quả’.

Lời dạy của đức Phật được người đời sau ghi chép lại thành kinh điển, những ngôn ngữ, văn tự, lời chép trong kinh này gọi là ‘Giáo’.

Hàm ư chứa đựng trong ‘Giáo’ gọi là ‘Lư’, ‘Lư’ này là lư luận giải thích rơ chân tướng sự thật của vũ trụ, nhân sinh. Chỉ có đức Phật mới có thể nói rơ những chân tướng sự thật này v́ đây là cảnh giới mà đức Phật [đích] thân chứng [được], là cảnh giới hiện lượng (đích thật từng trải qua) chứ không phải do suy đoán, vọng tưởng.

Không những đức Phật nói rơ ràng đạo lư và sự thật này, Ngài c̣n dạy chúng ta phương pháp để khế nhập vào cảnh giới của chư Phật Như Lai, đây tức là ‘Hành’ (phương pháp thực hành).

Noi theo lư luận phương pháp trong kinh điển mà làm, đạt được sự lợi ích thù thắng, việc này tức là ‘Quả’.

Chúng ta hiểu rơ tính chất của kinh điển th́ mới khâm phục Phật pháp, bái phục đến năm vóc sát đất.

Đức Phật dạy chúng ta khi tu học phải kiến lập một khái niệm căn bản, đó là ‘Tín, Giải, Hành, Chứng’.

‘Tín’ là tin sâu, không nghi ngờ những lời giáo huấn của đức Phật.

‘Giải’ là hiểu rơ, thấu triệt lư luận trong kinh điển.

‘Hành’ tức là làm theo lư luận phương pháp này.

‘Chứng’ tức là đích thân chứng được cảnh giới giống y như chư Phật Như Lai.

Ngày nay chúng ta c̣n tạo nghiệp, c̣n vọng tưởng, c̣n nói vọng ngôn tức là không hiểu thấu lư luận, không biết được sự lợi hại nên mới tạo ra những nghiệp tội nặng nề thậm chí hủy diệt Phật pháp, chướng ngại Phật pháp, làm cho người ta thoái tâm (sụt lùi).

Phải biết khi gặp nghịch cảnh Thanh Văn, Duyên Giác, Quyền Giáo Bồ Tát c̣n có thể thoái tâm; chỉ có Pháp Thân Đại Sĩ mới không thoái tâm. Chướng nạn của chúng ta rất nhiều, bao gồm cả trong lẫn ngoài. Những việc làm của Hàn Quán Trưởng và cư sĩ Lư Mộc Nguyên ở Tân Gia Ba đều là hành vi của đại Bồ Tát, Pháp Thân Đại Sĩ. Hàn Quán Trưởng hộ tŕ chánh pháp suốt 30 năm vẫn không sụt lùi; luôn luôn không bị ảnh hưởng bởi những lời phỉ báng, tin đồn, kiếm chuyện phá rối, đều như như bất động và xem như không có việc ǵ xảy ra, điều này vô cùng hiếm có, quư báu! Khi Lư cư sĩ gặp phải bất cứ chướng nạn ǵ, bất cứ lời hủy báng ǵ đều không thoái tâm, xây dựng đạo tràng ở Tân Gia Ba thành một đạo tràng điển h́nh, gương mẫu. Nếu không phải là hoá thân của chư Phật, Bồ Tát, Pháp Thân Đại Sĩ ứng hiện th́ không thể làm được. Chúng ta có được nhân duyên thù thắng này tức là gặp được hộ pháp chân chánh. Cho nên mặc cho người ta hủy báng, phá hoại, làm ǵ th́ làm, chúng ta đều được sự hộ tŕ của chư Phật, Bồ Tát.

Ngày nay Tịnh Tông có thể hoằng truyền khắp thế giới, những người niệm kinh Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà và tu học theo lư luận của kinh này theo thống kê một cách bảo thủ th́ ít lắm cũng được hơn 20 triệu người. Tịnh Tông có thể đạt được thành tích như vậy là công đức của Hàn Quán Trưởng, chúng ta uống nước th́ phải nhớ nguồn, tri ân báo ân (biết ơn đền ơn). Nếu thiệt thấy rơ, hiểu thấu th́ mới biết đây là Bồ Tát thị hiện, cảnh thuận hay nghịch đều là tăng thượng duyên (trợ duyên), đều để thành tựu Phật pháp, thành tựu cho chúng sanh.

Lúc trước thầy Lư nói với tôi muốn thực sự thành tựu trong việc hoằng pháp lợi sanh, nhất định phải [cư] trú lâu dài tại một nơi nhất định. Hiện nay chúng ta an tâm lưu tại Tân Gia Ba, toàn bộ nhân lực, tài lực, vật lực đều tập trung tại đây mới có thể thành lập được một đạo tràng gương mẫu, tuyệt đối không thể phân tán lực lượng, tinh thần. Cho nên chúng ta gặp được rất nhiều Bồ Tát ở nơi đó, thiệt đúng là ‘chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ’ (những người thiện nhất tụ hợp ở một chỗ). V́ mục đích khuyếch trương nền giáo dục của Phật Đà, chúng ta dùng thân phận của người quét dọn, người làm công để làm việc cho đức Phật A Di Đà, chư Phật Như Lai. Đừng tưởng là ḿnh đă làm được việc ǵ cả, tất cả những thứ này đều là Phật, Bồ Tát an bài, là do chư Phật, Bồ Tát làm nên đấy, chúng ta chỉ bất quá chấp hành theo mà thôi. Cho nên thầy Lư dạy tôi phải ‘tin Phật’, tin Phật thiệt quá khó. Nhưng phải tin thiệt nghe!

Trong thời đại nhiều tai nạn này, con đường duy nhất của chúng ta là niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ; dự Phật thất cũng lấy việc này làm mục tiêu. Chúc quư vị Phật thất lần này được thành tựu viên măn.



b. Lăo thật tu hành, tự tại văng sanh

Buổi sáng 22-12-98.

     Quư vị ở đây kết thất niệm Phật nhất định phải hiểu rơ ư nghĩa của Phật thất. Trong 7 ngày này chúng ta hy vọng đạt đến kết quả ǵ, được như vậy th́ 7 ngày này mới không luống qua.

     Chúng ta sinh sống trong thời đại hiện nay, nếu có trí huệ th́ nhất định sẽ có cảnh giác cao độ. Con người sống trong thế gian bất quá chỉ được mấy chục năm ngắn ngủi, búng ngón tay th́ đă trôi qua mất rồi, b́nh tĩnh quan sát mới biết đó chỉ là một con số không [to tướng], đây là sự thật. Sự hạnh phúc quư báu nhất của người ta trong đời là không tạo ác nghiệp. Nếu có thể không tạo ác nghiệp, tương lai nhất định sẽ sanh vào cơi lành, cơi tốt đẹp.

     Người xưa nhắc nhở người tu hành như chúng ta cần phải có ‘tiền hậu nhăn’ (mắt phía trước và sau). Tiền hậu nhăn nghĩa là biết quá khứ, nh́n thấy tương lai, không chỉ tập trung ở hiện tại. Điểm này vô cùng quan trọng.

     Lúc Hàn Quán trưởng văng sanh đă cho chúng ta rất nhiều bài học, nhắc nhở chúng ta ‘tử sanh sự đại’ (việc sanh tử vô cùng quan trọng). Chúng ta cần phải có cảnh giác cao độ, đến lúc lâm chung tự ḿnh phải làm chủ được ḿnh, được như vậy th́ tiền đồ mới xáng lạn. Nếu lúc lâm chung tự ḿnh không làm chủ được, phải chịu sự sắp xếp của người khác, cho dù có rất nhiều người lo lắng chăm sóc, nhưng những ǵ ḿnh cảm xúc chưa chắc sẽ được toại ư. Đời sau đi về đâu đều quyết định ở một niệm cuối cùng. Một niệm cuối cùng là tham, sân, si th́ sẽ đi vào ác đạo. Chuyện này dễ sợ vô cùng!

     Hàn Quán trưởng có phước báo, từ lúc sanh bịnh đến lúc văng sanh được ba mươi mấy vị xuất gia có tâm địa thanh tịnh, suốt ngày đêm ở bên giường bịnh niệm Phật và chăm sóc; sau khi văng sanh [họ trợ] niệm suốt 49 ngày đêm không ngừng, ngay cả những vị xuất gia, đại pháp sư cũng không làm được việc này. Ngay cả lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam ở Đài Trung cũng sánh không bằng, lúc cụ Lư sanh bịnh chỉ là do vài người học tṛ chăm sóc, không có nhiều người xuất gia đắp y đầy đủ oai nghi giúp đỡ. Phước báo này là một nhân duyên hiếm hoi! Đây là quả báo của bà đă hộ tŕ chánh pháp suốt 30 năm, cho nên bà có thể văng sanh Tịnh Độ một cách vô cùng thuận lợi -- trợ duyên quá thù thắng, tốt đẹp!

     Suy nghĩ trở lại, tương lai lúc chúng ta văng sanh có được duyên phận thù thắng như vậy hay không? Điều này chúng ta cần phải cảnh giác đến, đây thiệt là một việc lớn lao nhất trong đời này. Trong trường hợp và hoàn cảnh hiện tại, phương pháp [an toàn nhất] là tự ḿnh phải nhất quyết tu học cho được thành tựu, không cần nhờ người khác, lúc văng sanh không bị bịnh khổ, dự biết trước thời giờ [ra đi], đứng văng sanh, ngồi văng sanh, nằm văng sanh, tuỳ ư muốn của ḿnh, đây là sanh tử tự tại, được vậy chúng ta mới không bỏ uổng đời này. Mọi người tham dự Phật thất niệm Phật phải hiểu rơ, nắm chắc tông chỉ này, chúng ta đến đây là để huấn luyện thêm, học tập để tương lai tự tại văng sanh.



1.     Những chuyện văng sanh gần đây

Trong quyển Tịnh Độ Thánh Hiền Lục và Văng Sanh Truyện có ghi rất nhiều người tự tại văng sanh, số người không được ghi chép lại c̣n nhiều hơn. Gần đây trong quyển Niệm Phật Luận của lăo pháp sư Đàm Hư, Ngài nói đă chứng kiến tận mắt hơn hai mươi mấy người văng sanh, [số người văng sanh] nghe nói đến c̣n nhiều hơn. Trong quyển Niệm Phật Luận, Ngài thuật lại bốn chuyện văng sanh, trong đó người xuất gia có pháp sư Tu Vô ở chùa Cực Lạc, Harbin (miền Đông Bắc Trung Quốc), người tại gia có cư sĩ Trịnh Thiết Tân và người em của ông, người thứ tư là Trương cư sĩ ở chùa Trạm Sơn.

Pháp sư Tu Vô là một người cực khổ cả đời, không biết chữ, trong pháp hội truyền giới ở chùa Cực Lạc, phát tâm giúp đỡ săn sóc cho người bịnh. Pháp hội truyền giới c̣n chưa kết thúc, thầy Tu Vô dự biết trước thời giờ đă đến, niệm Phật văng sanh. Trước lúc văng sanh ngài nhắc nhở đại chúng ‘có thể nói mà không thể làm th́ chẳng phải trí huệ chơn thật’.

Cư sĩ Trịnh Thiết Tân là một người làm ăn buôn bán, được dịp nghe lăo pháp sư Đàm Hư thuyết pháp nên rất vui vẻ, tán thán. Sau này nghỉ buôn bán, học giảng kinh A Di Đà, ông đi đến nhiều nơi giảng kinh và khuyên người niệm Phật. Ông không sanh bịnh, ngồi mà văng sanh. Một hôm sau khi giảng kinh xong ông nói với đại chúng: ‘Tôi phải đi đây’, thật là siêu thoát! Thật là tự tại! Người em của ông lúc trước cứ cho rằng ông học Phật quá mê lầm, sau khi nh́n thấy ông tự tại văng sanh nên tỉnh ngộ và cũng siêng năng, thật thà niệm Phật. Ba năm sau người em của ông cũng văng sanh, lúc văng sanh mang bịnh nhẹ.

Gia đ́nh cư sĩ Trương ở chùa Trạm sơn vô cùng nghèo túng, chồng bà làm nghề kéo xe chở khách. Bà làm công quả trong những pháp hội niệm Phật ở chùa Trạm Sơn, cả ngày từ sáng đến tối Phật hiệu không gián đoạn. Bà dự biết trước ngày giờ văng sanh, hôm đó bà nhắn nhủ chồng phải chăm sóc cho con xong rồi an nhiên ngồi trên giường mà văng sanh. Đây là tấm gương tốt cho những người học Phật chúng ta, không cần phải nhờ cậy người khác giúp đỡ, tự ḿnh thiệt nắm chắc [có thể tự tại văng sanh].

Ngoài ra cụ Đàm [Hư] c̣n kể chuyện một học tṛ của lăo pháp sư Đế Nhàn, ông này là thợ đóng đai thùng và không biết chữ. [Người này là bạn chơi thân với lăo pháp sư lúc nhỏ, đến xin xuất gia v́ đời sống quá cực khổ, muốn t́m lối thoát. Sau khi cho ông xuất gia], cụ Đế [Nhàn] dạy ông đến một ngôi miếu đổ nát ở miền quê gần Ôn Châu, t́m vài người hộ pháp săn sóc [việc ăn uống] cho ông. Cụ Đế chỉ dạy cho ông niệm một câu ‘A Di Đà Phật’, dạy ông thật thà niệm câu Phật hiệu này, niệm đến mệt th́ nghỉ, nghỉ ngơi xong th́ niệm tiếp tục. Ông niệm trong ṿng 3 đến 4 năm th́ thành công; ông đứng mà văng sanh, c̣n đứng 3 ngày sau khi văng sanh [để đợi lăo pháp sư Đế Nhàn đến lo hậu sự]. Thật là vô cùng tự tại! Cụ Đế khen ông: ‘So với những đại pháp sư giảng kinh thuyết pháp, những vị phương trượng trụ tŕ, [sự thành tựu của] ông c̣n vượt hơn họ quá nhiều, quá nhiều!’



2.     Dứt ác tu thiện, chuyên cần giữ ǵn ba nghiệp

Phẩm vị văng sanh của những người này không phải ở Trung phẩm, Hạ phẩm mà là ‘Thượng phẩm văng sanh’ nói trong kinh Vô Lượng Thọ. Họ có thể làm được là v́ họ đă buông xả danh văn (tiếng tăm), lợi dưỡng, ngũ dục lục trần. Ngày nay chúng ta làm không nổi là v́ buông xả không nổi những sự quyến rũ, khó là ở chỗ này. Phải nên biết danh tiếng lợi dưỡng, ngũ dục lục trần đều là giả hết, đă hại chúng ta đời đời kiếp kiếp kẹt măi trong lục đạo luân hồi, đọa lạc trong ác đạo chịu hết bao nhiêu khổ nạn.

Cho nên mới nói người đời nay ‘ngu si’, không những không hiểu rơ chân tướng của vũ trụ nhân sinh, mà c̣n không có khả năng phân biệt những thứ tà chánh, thiện ác, lợi hại. Không biết tự tư tự lợi, danh tiếng lợi dưỡng, ngũ dục lục trần tai hại vô cùng; chỉ có buông xuống vạn duyên, nhất tâm niệm Phật là việc thiện lớn nhất. Đây là lời kinh dạy: ‘Đoạn dứt tất cả điều ác, tu tất cả đều thiện’, chúng ta phải hiểu rơ ư nghĩa chân chánh của nó.

Trong đời này mỗi vị đồng tu có thể đạt được sự thành tựu thù thắng nhất hay không? Có thể. Thiện Đạo đại sư nói: ‘Chín phẩm văng sanh đều là do gặp duyên khác nhau’. Chúng ta đă gặp được nhân duyên thù thắng, gặp được Phật pháp Đại thừa, gặp được Tịnh Tông, gặp được bản hội tập của kinh Vô Lượng Thọ, gặp được đồng tham đạo hữu tốt, nếu trong đời này không thể thành tựu th́ đó là v́ tập khí phiền năo của ḿnh quá nặng, cứ mỗi ngày tạo nghiệp như cũ.

Khi khởi tâm động niệm đều v́ ḿnh là tạo nghiệp. Ngôn ngữ gây tổn hại cho người khác, thị phi nhân ngă đều là khẩu nghiệp. Trong kinh Vô Lượng Thọ nói đến tam nghiệp, đặt khẩu nghiệp ở hàng đầu: ‘thiện hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha quá’ (khéo giữ ǵn khẩu nghiệp, đừng chê bai lỗi của người khác) tức là cảnh giác chúng ta khẩu nghiệp quan trọng nhất, dễ phạm nhất. Nh́n thấy chúng sanh có lỗi lầm đều không thể nói đến; nếu [người ta] không có lỗi mà ḿnh đặt chuyện, và c̣n hoài nghi người ta có lỗi th́ tội nghiệp này c̣n nặng hơn.

Người tu học c̣n chịu ảnh hưởng của phiền năo tập khí [tích lũy] từ vô lượng kiếp đến nay nên thoái chuyển rất dễ dàng, tinh tấn rất khó khăn. Thế nên những vị đại đức, tổ sư ngày xưa đề xướng tu tập chung, kết Phật thất để cùng nhau niệm Phật, nương vào đại chúng để tu tập, đó là đạo lư của việc tu tập chung.

           Niệm Phật đường ở Tân Gia Ba càng ngày càng thù thắng, từ mồng một tháng Giêng đến 30 tháng Chạp (tháng 12), mỗi ngày niệm Phật 24 giờ đồng hồ không gián đoạn, đây là Phật thất [kéo dài] quanh năm. Giảng đường mỗi ngày giảng kinh 2 giờ, 365 ngày trong năm không gián đoạn, thiệt đúng là giải và hành đều quan trọng như nhau, đều cùng nhau tu tập định và huệ. Lăo ḥa thượng Tịch Độ ở Ngũ Đài Sơn, lăo ḥa thượng Nhân Đức ở Cửu Hoa Sơn, lăo ḥa thượng Mính Sơn ở chùa Định Huệ, Tiêu Sơn, Trung Quốc, đều tán thán đạo tràng này là ‘đạo tràng đệ nhất trên thế giới’.

Mọi người ở Cư Sĩ Lâm từ trên xuống dưới đều ḥa thuận, ai cũng thường nở nụ cười tươi, chúng ta ở đây có thể nh́n thấy việc ‘thường sanh tâm hoan hỷ’ nói trong kinh. Hy vọng mọi người có cơ hội đến Tân Gia Ba tham học, đem phương pháp tu học ở đây phổ biến đến khắp nơi trên thế giới, để mọi nơi đều có thể xây dựng đạo tràng như vậy. Chúng ta nỗ lực hết ḷng tu học, không những tự ḿnh trong đời này nhất quyết văng sanh, chúng ta c̣n có thể đem lại sự an định cho xă hội, ḥa b́nh cho thế giới, đây là công đức chân thật, tự hành hóa tha nói trong nhà Phật. Hy vọng mọi người siêng năng tinh tấn niệm Phật.






__________________
Trên đời này tất cả đều trở về cội nguồn của nó
Quay trở về đầu Xem amduong05's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi amduong05
 
amduong05
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 10 December 2004
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 52
Msg 2 of 7: Đă gửi: 21 March 2006 lúc 5:45am | Đă lưu IP Trích dẫn amduong05

1. Vũ trụ là không gian đa nguyên

Thật ra y báo, chánh báo trang nghiêm trong thập pháp giới cũng không có, Phật pháp nói: ‘Tam tâm bất khả đắc’, ‘Chư pháp vô sở hữu’; nói có th́ chỉ là tạm có, huyễn có, giả có, trong kinh dùng chữ ‘diệu hữu’. Thế nên thiên đường, địa ngục cũng là diệu hữu; cơi này, cơi nọ cũng là diệu hữu, Cực Lạc thế giới cũng không ngoại lệ. Nếu dùng ngôn ngữ hiện nay của khoa học gia th́ đây chỉ là không gian duy thứ (duy có nghĩa là chiều, là phương vị) khác nhau mà thôi, thí dụ như không gian ba chiều [của loài người chúng ta], không gian bốn chiều, năm chiều. Khoa học gia đă chứng minh có 11 chiều không gian tồn tại, nhưng trên lư luận th́ không gian có vô số chiều.

Những người vừa mới hiểu Phật pháp đều khẳng định có không gian vô số chiều tồn tại. Nếu bạn không thể đột phá những thời gian, không gian này th́ không thể hiểu rơ sự thật. Vô số không gian có duy thứ không giống nhau tức là vô lượng vô biên thế giới, đức Phật nói [những thế giới này] đều từ tâm tưởng sanh. Kinh Hoa Nghiêm nói: ‘Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến’ tức là từ tâm tưởng sanh. Vô lượng vô biên chúng sanh có vô lượng vô biên vọng tưởng, phân biệt, chấp trước nên biến đổi ‘Nhất Chân pháp giới’ trở thành vô lượng vô biên không gian khác nhau, vô lượng vô biên cảnh giới, đạo lư là như vậy.

Đức Phật dạy chúng ta có thể đột phá những không gian này bằng cách ĺa bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Lục đạo [luân hồi] là do vọng tưởng, phân biệt, chấp trước biến hiện ra; nếu xả bỏ chấp trước, chỉ c̣n vọng tưởng và phân biệt th́ lục đạo luân hồi sẽ không c̣n nữa, tức là Tứ Thánh pháp giới. Nếu cả phân biệt cũng xả bỏ th́ Tứ Thánh pháp giới (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật) cũng không c̣n, tức là không c̣n thập pháp giới nữa. Không c̣n thập pháp giới tức là Nhất Chân pháp giới. Do đây có thể biết thập pháp giới là từ phân biệt, chấp trước biến hiện ra. Xa ĺa phân biệt chấp trước th́ thập pháp giới sẽ không c̣n tồn tại. Việc này cũng giống như nằm mộng, khi tỉnh dậy những cảnh giới trong mộng đều không c̣n. Người ta thường nói đến danh từ ‘tu hành chứng quả’, chứng quả nghĩa là chứng được Nhất Chân pháp giới, khế nhập vào Nhất Chân pháp giới. Tây phương Cực Lạc thế giới thuộc về Nhất Chân pháp giới. Do đó có thể biết nếu chúng ta c̣n phân biệt, chấp trước th́ nhất định sẽ không nh́n thấy Nhất Chân pháp giới.

Trong kinh Hoa Nghiêm chúng ta thấy Nhất Chân pháp giới vẫn có 41 cấp bực, đó là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, đến Đẳng Giác Bồ Tát hết thảy đều là Pháp Thân Đại Sĩ. Những cấp bực này c̣n tồn tại là v́ vọng tưởng chưa dứt trừ. Vọng tưởng tức là vô minh vi tế (vi tế nghĩa là nhỏ bé). Có câu nói: ‘phá một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân’, 41 phẩm vô minh tức là 41 phẩm vọng tưởng. Khi đoạn dứt hết 41 phẩm vô minh này, không c̣n vọng tưởng nữa th́ chứng được rốt ráo, đây là Phật quả Viên Giáo, đây mới là quả vị cứu cánh.

Người Thiên Chúa Giáo chưa từng nghe những đạo lư này, thật đáng tiếc. Phật pháp trong thế gian và xuất thế gian đều vô cùng thù thắng, đáng tiếc là người truyền bá quá ít. Hoằng dương Phật pháp không dễ tại v́ tự người đó phải khế nhập trước, nếu ḿnh chưa khế nhập th́ làm sao có thể nói được [một cách hoàn hảo và đúng đắn]? Làm sao có thể hiểu được? Nếu muốn lư giải, hiểu rơ th́ phải tu học, có tu học th́ mới khế nhập, sau đó mới có thể giải thích [tường tận], mới có thể giúp đỡ người khác.



2. Không tri ân nghĩa chiêu cảm tai kiếp

Chúa Jesu nói: ‘Ngày nay người trong thế gian quên ân, phụ nghĩa không biết ân đức’. Chúa Jesu, Thánh Mẫu Maria thiệt thương yêu người đời, người đời không những phản bội mà c̣n sỉ nhục, huỷ báng các Ngài và tạo ra vô lượng vô biên tội nghiệp. Trong thế giới hiện nay những chuyện này rất phổ biến. Con cái chịu ân đức dưỡng dục của cha mẹ, không biết báo ân mà c̣n bỏ rơi cha mẹ. Chúng tôi đi thăm viện dưỡng lăo của những người đạo Hồi giáo (Islam), những người già ở đó đều bị con cái bỏ rơi, không nhà không cửa. Ngày nay con cái bỏ rơi cha mẹ, học sinh phản bội thầy giáo, không biết ân nghĩa, tạo ra vô lượng vô biên nghiệp tội, v́ vậy nên chiêu cảm quả báo thế giới hủy diệt.

Cho nên lời tiên tri nói tai họa này là do chúng ta tự chiêu cảm lấy, không phải Thượng Đế nổi giận trừng phạt chúng ta, Thượng Đế rất không muốn nh́n thấy sự việc này xảy ra, nhưng không thể tránh khỏi, tạo ra nghiệp tội nhất định phải nhận lấy tai họa. Cách nói như vậy mới hợp t́nh hợp lư.

Những năm gần đây tôi khổ tâm mỏi miệng khuyên răn mọi người, nếu ba ngày không khuyên th́ mọi người quên ráo trọi. Đây đúng như kinh Địa Tạng nói: ‘Chúng sanh ở Diêm Phù Đề cang cường khó giáo hóa’, chúng ta thể hội câu này một cách sâu sắc. Nhưng chư Phật, Bồ Tát làm gương, làm mô phạm cho chúng ta noi theo, cho dù chúng sanh có cang cường khó giáo hóa đến đâu th́ cũng không thể bỏ rơi. Đây đúng như câu nói: ‘Trong nhà Phật không xả bỏ một ai cả’, đây mới là đại từ đại bi chân thật.

Kinh Hoa Nghiêm nói với chúng ta tự ḿnh chân tu th́ có thể ảnh hưởng đến người khác, làm cho người khác cảm động khi nh́n thấy tấm gương tu hành của chúng ta, sanh tâm xấu hổ, tự nhiên sẽ học theo, được như vậy th́ có thể đem lại sự an định cho xă hội, ḥa b́nh cho thế giới. Đức Phật nói ‘tự hành hóa tha’ nghĩa là nhờ vào sự tu hành chân thật của ḿnh [mới có thể cảm hóa người khác], tự ḿnh không tu hành chân thật th́ không có ích lợi ǵ cả. Cho dù biết nói, nói được tốt đến đâu, khi tai họa xảy ra th́ cũng không tránh khỏi, vốn phải sanh tử như thế nào th́ vẫn phải sanh tử như thế ấy, vẫn không ra khỏi luân hồi như cũ, và cũng không thể văng sanh.

Chúng ta nhất định phải dùng tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm giác ngộ, tâm từ bi, chắc thật niệm câu Phật hiệu này. Câu Phật hiệu này nhất định phải tương ứng với ‘Thanh Tịnh, B́nh Đẳng, Giác’, và cũng là ‘một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật’; nếu không tương ứng, không phù hợp, câu Phật hiệu sẽ chẳng có công đức. Làm thế nào mới được tương ứng? Trong đời sống hằng ngày nhất định phải làm được ‘nh́n thấu, buông xả, tự tại, tùy duyên’. Nh́n thấu nghĩa là hiểu rơ chân tướng sự thật của vũ trụ nhân sanh; buông xả tức là buông xuống tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.



3.     Niệm Phật có thể giúp cho thế giới ḥa b́nh

Thiền Tông Lục Tổ Huệ Năng dạy: ‘Nếu là người tu đạo chân chánh, không nh́n thấy lỗi lầm của thế gian’, chỉ biết tu [sửa bản thân] ḿnh, tự ḿnh nỗ lực đoạn ác tu thiện. Kinh Vô Lượng Thọ dạy ba nguyên tắc của sự tu thiện:

‘Thiện hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha quá’ (Khéo giữ ǵn khẩu nghiệp, đừng chê bai lỗi của người khác)

Thiện hộ thân nghiệp, bất thất luật nghi (Khéo giữ ǵn thân nghiệp, chẳng hành động trái ngược với giới luật)

Thiện hộ ư nghiệp, thanh tịnh vô nhiễm (Khéo giữ ǵn ư nghiệp, phải luôn thanh tịnh không nhiễm ô)

Chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ từng giờ từng phút, phải làm cho bằng được. Cả bộ Đại tạng kinh trong nhà Phật và những ǵ đức Phật đă nói trong 49 năm [tóm lại] tức là ba câu này. Chúng ta nhất định phải thực sự làm được th́ mới có thể cứu ḿnh và cứu chúng sanh.

Khi chúng ta tu [hành chân] thật th́ tâm sẽ b́nh (phẳng lặng, yên ổn). Ngày nay khoa học gia nói về những làn sóng tư tưởng, tư tưởng của người thế gian rất phức tạp, đặc biệt những tư tưởng tà ác đều là những làn sóng lớn, [cường độ rung động] lên xuống rất lớn. Những người niệm Phật chúng ta tu ‘thanh tịnh, b́nh đẳng, giác’ nên làn sóng tư tưởng này đều b́nh phẳng, yên ổn. Niệm Phật Đường ở Cư Sĩ Lâm Tân Gia Ba được chư Phật Như Lai gia tŕ, có Phật, Bồ Tát cùng chúng ta niệm Phật cho nên từ trường (hoàn cảnh, môi trường tu học) ở Niệm Phật Đường vô cùng thù thắng. Từ trường của Niệm Phật Đường tốt vô cùng, từ trường này an định, b́nh tịnh; những làn sóng tư tưởng phát ra từ nơi đây có thể điều ḥa tư tưởng tà ác trong thế gian. Dùng làn sóng tư tưởng b́nh yên phẳng lặng của chúng ta để hóa giải những làn sóng tư tưởng tà ác to lớn của thế gian th́ những làn sóng này có thể giảm bớt, yếu đi; đây là nguyên lư hóa giải tà ác, hóa giải tai họa.

Chúng ta ở nhà niệm Phật th́ cũng có cống hiến cho xă hội, thế giới. V́ chúng ta niệm Phật th́ phát ra những làn sóng tư tưởng thanh tịnh, b́nh đẳng, giác nên có thể điều ḥa những làn sóng tư tưởng tà ác trong thế gian. Nếu hiểu rơ đạo lư này th́ sẽ tin tưởng khi chúng ta tâm b́nh, khí ḥa niệm Phật cũng có thể giúp đỡ cho thế giới ḥa b́nh, xă hội an định.

Chân chánh phát tâm niệm Phật tức là tự độ, độ tha (độ ḿnh, độ người); chân chánh phát tâm niệm Phật tức là cứu văn kiếp nạn của thế gian, đừng tưởng là chúng ta không có năng lực này. Nếu chư vị đồng tu có thể chân chánh giác ngộ, chân chánh buông xuống hết thảy những điều thị phi, nhân ngă, tham, sân, si, mạn, làm theo lời dạy trong Tam Phước, Lục Ḥa, Tam Học, Lục Độ của đức Thế Tôn th́ có năng lực an định xă hội, duy tŕ ḥa b́nh thế giới.

Chỉ cần chúng ta tâm ư chân thành, chư Phật, Bồ Tát ứng hiện khắp nơi, sẽ cảm ứng đạo giao. Đặc biệt là trong lúc thế gian có tai nạn to lớn, chúng ta phải giúp đỡ tất cả chúng sanh khổ nạn. Niệm Phật không chỉ là v́ chính ḿnh, càng phải v́ tất cả chúng sanh. Chúng ta nhất định phải làm, không làm th́ không có tâm từ bi. Hy vọng chúng ta cùng nhau nỗ lực, tự độ và độ tha.



d. Lư của chuyện ‘Niệm Phật thành Phật’



1. Hư không pháp giới và ḿnh cùng một thể

Từ kinh Hoa Nghiêm chúng ta nhận được rất nhiều khải thị (gợi ư) cho sự tu học Phật pháp. Hội kinh Hoa Nghiêm là do đức Thế Tôn thuyết giảng trong [khi nhập] định ở Bồ Đề Đạo Tràng [sau khi thị hiện thành Phật], đại chúng tham dự hội kinh này đều là Pháp Thân Đại Sĩ. Họ thuộc rất nhiều chủng tộc, rất nhiều đoàn thể khác nhau trong khắp hư không pháp giới, số nhiều vô lượng vô biên. Do đó có thể biết pháp hội Hoa Nghiêm trên thực tế là một hội bao gồm tận hư không trọn khắp pháp giới. Hội Hoa Nghiêm là như vậy, những hội giảng kinh khác không phải như vậy sao? Từ đây suy nghĩ kỹ càng, việc này ám chỉ cho chúng ta biết tận hư không khắp pháp giới đều là một thể. Đến lúc thành Phật th́ mới ư thức đến ‘tất cả chúng sanh vốn đă thành Phật’, hiểu rơ triệt để ‘t́nh dữ vô t́nh đồng viên chủng trí’ (hữu t́nh và vô t́nh đều viên măn chủng trí). Nói tóm lại hư không pháp giới và ḿnh đều là một thể, do đó mới thực sự sanh tâm từ bi.

Nhà Phật thường nói: ‘Vô duyên đại từ, đồng thể đại bi’. Chư Phật Như Lai đă giác ngộ rồi, các Ngài đă ngộ việc này; phàm phu vẫn c̣n mê, mê cũng là mê việc này. Nhưng trong chân tướng sự thật không có mê và ngộ, mê và ngộ là ở tại người. Người giác ngộ th́ gọi là Phật, Bồ Tát, người mê hoặc th́ gọi là phàm phu. Nhưng sự thọ dụng của mê và ngộ khác nhau, người mê không biết hư không pháp giới đều là ḿnh, không biết hết thảy chúng sanh đều là ḿnh cả, cho nên trong đó [trong mê] sanh khởi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, tạo nên vô lượng vô biên nghiệp tội.



2. Hết thảy các pháp từ tâm tưởng sanh ra

Nghiệp tội tức là những hành vi, việc làm trái ngược với chân tướng sự thật. Những nghiệp đă tạo sẽ hiện ra tướng. Tướng làm sao hiện ra? Đức Phật nói: ‘Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh’, muôn vàn xin mọi người đừng coi thường câu này. Sự việc trong vũ trụ thiên biến vạn hóa, thập pháp giới y báo, chánh báo trang nghiêm, đây là đức Phật quy nạp xong nói cho chúng ta biết, trên thực tế th́ pháp giới vô lượng vô biên. Vô lượng vô biên pháp giới đều từ tâm tưởng sanh – trong tâm nghĩ tưởng ǵ th́ sẽ hiện ra cái đó. V́ vậy cho nên tưởng Phật th́ sẽ hiện ra Phật; Đại Thế Chí Bồ Tát dạy chúng ta: ‘Ức Phật niệm Phật, hiện tiền đương lai, tất định kiến Phật’ (Nhớ Phật niệm Phật, hiện giờ tương lai, nhất định thấy Phật), đây nghĩa là tưởng Phật thành Phật.

Tưởng Phật th́ Phật hiện, tưởng Bồ Tát th́ Bồ Tát hiện, tưởng ǵ th́ hiện cái đó, việc này là sự thật. Thí dụ chúng ta nghĩ tưởng đến một việc xứng tâm vừa ư th́ sẽ sanh tâm hoan hỷ, niềm vui này liền hiện lên gương mặt ḿnh; nghĩ tưởng đến một việc không vừa ư th́ sẽ nhăn nhó mặt mày, nét âu sầu sẽ hiện rơ trên gương mặt, lập tức liền thay đổi. Quan sát việc nhỏ này th́ mới biết lời dạy của đức Phật vô cùng chính xác.

Thế nên chư Phật Như Lai khuyên chúng ta tưởng Phật, nhớ Phật, niệm Phật, buông xuống hết tất cả những tư tưởng khác. [Pháp môn] niệm Phật văng sanh bất thoái thành Phật trong Tịnh Tông được xây dựng trên cơ sở và lư luận này. Từ xưa đến nay những người noi theo phương pháp này tu hành chứng quả rất nhiều, những người này đều làm gương tốt cho chúng ta noi theo. Nếu dùng cách nói thông thường của các tôn giáo, những người này là những chứng cớ rơ rệt và những tấm gương cụ thể cho chúng ta. Trong ba thứ chuyển pháp luân của Phật pháp đây gọi là ‘tác chứng chuyển’ (chuyển pháp luân bằng cách làm chứng), họ hiện thân thuyết pháp làm chứng minh cho chúng ta, nói rơ đây là sự thật.



3.     Tự tại văng sanh độ gia quyến.

Mấy năm trước chuyện mẹ của ông Tước Sĩ (Huân tước) Hà Đông văng sanh ở Hương Cảng đă làm nhiều người cảm động, và đă củng cố cơ sở cho hội Phật giáo Hương Cảng. Cả nhà của cụ đều là tín đồ Thiên Chúa Giáo thuần thành, chỉ có bà cụ là người tin Phật, niệm Phật. Tuy vậy nhưng nhà này vô cùng phóng khoáng (không câu nệ), đích thật là tự do tín ngưỡng, đối xử ḥa thuận với nhau, tôn trọng lẫn nhau, đây là một việc rất đáng quư. Cho nên không gây trở ngại cho tự do của người khác mới là tự do thật sự. Gây trở ngại cho người khác, xâm phạm người khác là không hiểu được [như thế nào mới là] tự do; đây là cảm t́nh, là trí huệ.

Cùng một lư lẽ, ngày nay chúng ta sinh sống trên quả địa cầu này, có rất nhiều dân tộc khác nhau, văn hóa khác nhau, tư tưởng khác nhau, tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, mọi người đều không thể ḥa thuận, công kích hủy báng lẫn nhau, thậm chí dẫn đến chiến tranh tôn giáo, đây cũng là v́ không hiểu rơ ư nghĩa chân chánh của tự do. Nguyên nhân họ không hiểu rốt cuộc cũng là vấn đề của giáo dục, đặc biệt là giáo dục luân lư đạo đức.

Gia đ́nh ông tước sĩ Hà Đông là tấm gương tốt cho chúng ta, triển rộng ra th́ cũng là tấm gương cho cả thế giới. Bất luận chúng ta tín ngưỡng tôn giáo nào th́ nhất định phải tôn trọng những tôn giáo khác. Trong nhà Phật bất luận tu học theo môn phái nào, nhất định cũng phải tôn trọng môn phái khác; như vậy mới hiểu tự do một cách đúng đắn, mới thiệt có trí huệ.

Lúc văng sanh cụ bà Hà Đông nói với con trai và dâu: ‘Cả đời má không đ̣i hỏi các con việc ǵ hết, bây giờ trước lúc văng sanh, má yêu cầu các con niệm vài câu Phật hiệu tiễn đưa má văng sanh’. Lúc văng sanh, cụ thật sự mở một buổi họp văng sanh, mời tất cả thân bằng quyến thuộc đến dự, sau khi cụ dặn ḍ xong xuôi, cụ văng sanh một cách êm đềm, an lành giữa tiếng niệm Phật của mọi người. Cả nhà chứng kiến tận mắt bà cụ niệm Phật văng sanh nên sau này cả nhà đều niệm Phật hết. Cách bà cụ này độ chúng sanh rất đặc biệt, vô cùng cao minh, dùng lời nói th́ không ai nghe nên cụ biểu diễn cho họ coi, cuối cùng có thể độ hết cả nhà.

Việc cụ văng sanh là một sự biểu diễn vô cùng ngoạn mục, phải có trí huệ sâu rộng mới làm được. Trên thế gian này chuyện ǵ cũng có thể gạt, giả mạo, chỉ có chuyện này không thể nào giả mạo được. Lúc tôi c̣n học ở Đài Trung, lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam thường dùng chuyện này khích lệ chúng tôi, dạy chúng tôi, Tây phương Cực Lạc thế giới có thật, người niệm Phật đích thật là có thể văng sanh.



4. Y giáo phụng hành có thể tự tại văng sanh

Nửa thế kỷ trở lại đây tuy chúng ta không thể đích thân nh́n thấy người ta văng sanh nhưng những chuyện nghe đến thật không ít. Tại sao người ta có thể tự tại văng sanh? Đây là việc mọi người đều muốn biết. Đặc biệt là những người đang sinh sống trong thời đại nhiều tai nhiều họa, tự tại văng sanh đối với chúng ta vô cùng quan trọng, thiệt là một việc quan trọng nhất trong đời người. Thiệt ra chỉ cần noi theo kinh luận, tu học đúng như lư như pháp, th́ có thể làm được. Đặc biệt là kinh Vô Lượng Thọ, cổ đức nói kinh Vô Lượng Thọ là kinh số một của Tịnh Tông, v́ kinh Vô Lượng Thọ giới thiệu hoàn cảnh ở Tây phương Cực Lạc thế giới đầy đủ nhất, giải thích phương pháp tu học tường tận nhất, nói quả báo sau khi văng sanh viên măn nhất. Nếu chúng ta chân chánh muốn tự tại văng sanh, tu học từ ba tháng đến sáu tháng th́ có thể thành công. Cho nên pháp môn này rất thù thắng, được hết thảy chư Phật tán thán, tuyên dương.

Thiện Đạo đại sư nói những ǵ đức Phật dạy th́ chúng ta phải làm được hoàn toàn, những ǵ đức Phật dạy chúng ta không được làm th́ tuyệt đối đừng làm. Nếu thiệt có thể hết ḷng làm theo những lời dạy trong kinh Vô Lượng Thọ, làm hằng ngày, một ngày cũng không vi phạm, những công đức này tích lũy trong ba tháng th́ bạn sẽ là thượng thiện nhân, sẽ nắm chắc sự văng sanh tự tại. Nếu có thể làm hết sáu tháng th́ càng chắc chắn hơn. Cứ tiếp tục làm như vậy, bạn muốn chừng nào văng sanh th́ lúc đó văng sanh, đứng văng sanh, ngồi văng sanh, tự tại tùy theo ư muốn. Đây là một việc [quan trọng] hạng nhất trong đời người!

Có một số người văng sanh không được tự tại, lúc lâm chung c̣n bị bịnh khổ, nguyên nhân là v́ những ǵ đức Phật dạy họ làm đều không thể làm hết hoàn toàn; những ǵ đức Phật dạy họ không được làm th́ vi phạm không ít, đây là nghiệp chướng. Nhưng nhờ đời trước hay đời này cũng c̣n chút thiện căn, lúc lâm chung gặp được bạn tốt nhắc nhở, trợ niệm, th́ cũng có thể văng sanh.

Người ta sống trên đời này mấy chục năm ngắn ngủi, lúc đến mang hai bàn tay không th́ ra đi cũng mang theo hai bàn tay trắng. Cổ đức nói: ‘Vạn ban tương bất khứ, duy hữu nghiệp tuỳ thân’ (Muôn thứ không đem được, chỉ mỗi nghiệp theo thân). Tất cả mọi vật trên thế gian này không có một vật ǵ có thể đem theo, những ǵ có thể đem theo được chỉ là những nghiệp mà ḿnh đă tạo ra, việc này rất đáng sợ! Tôi đọc đến việc này rởn da gà, có nhiều người đọc đến nhưng không hề ǵ, như vậy đúng là nội tâm đă chai đá hết trơn rồi. Nếu thiệt có tri giác, đọc đến thiệt rất sợ th́ làm sao dám tạo nghiệp?

Chư Phật, Bồ Tát từ bi, có ḷng thương yêu chân thành, chúng ta không biết thân cận [học hỏi] mà c̣n xa ĺa họ, đi kết bạn với những bạn xấu trong thế gian, đó là sai lầm quá đỗi! Bạn xấu tức là những người tạo ngũ nghịch thập ác, không chịu nghe lời dạy của thánh hiền, không y giáo phụng hành. Đây là một sự mất mát to lớn đối với đời sống tu học của chúng ta, chúng ta phải nhận thức rơ ràng.

Nhất định phải hết ḷng nỗ lực tu học, nắm chắc sanh mạng ngắn ngủi nhưng quư báu trong đời này, hoàn thành nhân duyên hiếm hoi từ vô lượng kiếp đến nay. Niệm Phật thành Phật, đây là một chuyện lớn, người như vậy mới đáng gọi là người có chí khí, nếu nói theo nhà Phật th́ thiệt đúng là đại anh hùng, đại trượng phu. Hy vọng chúng ta cùng nhau gắng sức, khuyến khích lẫn nhau, ngay trong đời này làm cho xong công việc to lớn này, không uổng phí cuộc đời.



Giác ngộ -- Nh́n thấu -- Buông xả

(Giác ngộ -- Nh́n thấy rỗng toang -- buông xuống hết)



1. Nh́n thấu mới buông xả được.

Thông thường hai ngày đầu của Phật thất, tâm [của người tham dự] c̣n chưa an định, công phu không thể nào đắc lực. Đến ngày thứ bảy v́ Phật thất gần kết thúc, trong tâm lại phóng dật, buông lung trở lại nên cũng không thể đắc lực. Do đó niệm Phật trong 7 ngày, thiệt có thể đắc lực là trong ngày thứ năm và thứ sáu, đây là một hiện tượng rất b́nh thường.

Nguyên nhân người đời nay niệm Phật không bằng người đời xưa cũng là v́ không thể ‘nh́n thấu, buông xả’. Chữ nh́n thấu là tŕnh độ hiểu rơ đối với trạng thái sanh hoạt hiện thực; nếu chúng ta không hiểu rơ, ham mê luyến tiếc thế gian th́ đương nhiên sẽ không buông xuống nổi. Cho nên hơn phân nửa những người niệm Phật văng sanh là người già bảy tám chục tuổi, v́ họ nh́n thấy nhiều, từng trải nhiều, biết hết thảy những việc trong thế gian đều là hư ảo không thật, bất luận sinh sống trong cảnh thuận hoặc nghịch, trải qua một thời gian dài th́ sẽ chán chường, sinh sống cảm thấy chán ghét, không muốn ở lại thêm nữa, đến lúc này th́ buông xuống hết, đây là một yếu tố rất quan trọng. Nếu cảm thấy thế gian này c̣n rất đẹp đẽ, vẫn c̣n muốn sống thêm vài năm nữa, thậm chí muốn sống thêm vài chục năm, vài trăm năm nữa, họ buông xả, buông xuống hết không nổi th́ công phu làm sao có thể đắc lực cho được! Phật pháp nói đến chuyện giác ngộ tức là giác ngộ việc này.

Chú thích: Buông xả và nh́n thấu là hai việc bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau, nếu bạn có thể buông xả một phần th́ bạn sẽ nh́n rơ, nh́n thấu thêm một phần; nếu có thể nh́n thấu một phần th́ bạn có thể buông xả thêm một phần. Nói cách khác, Bồ Tát từ lúc sơ phát tâm đến lúc thành Phật đạo đều tức là công phu nh́n thấu, buông xả bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau.

Trong sáu Ba La Mật, Bát nhă Ba La Mật là nh́n thấu, năm thứ c̣n lại đều là buông xả:

Bố thí là buông xả tâm tham.

Tŕ giới là buông xả ác niệm.

Nhẫn nhục là buông xả tâm sân nhuế, đố kỵ

Tinh tấn là buông xả giải đăi, làm biếng.

Thiền định là buông xả tán loạn.

Năm thứ này đều là buông xả, Bát nhă tức là minh bạch, rơ ràng. Cho nên sáu Ba La Mật quy nạp lại tức là 4 chữ: ‘nh́n thấu, buông xả’.



Trích từ “Thái thượng Cảm ứng thiên’, tập 21, 8/6/1999 Trai đường Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba)

Trong kinh đức Phật dạy chúng ta buông xả là buông xả phiền năo, buông xả dục vọng, chứ không phải buông xả công việc làm. Ngược lại c̣n phải nỗ lực hết ḷng làm việc. Nếu cả công việc làm cũng buông xuống th́ đức Phật không cần phải giảng kinh thuyết pháp nữa.



2. Hiểu rơ nhân quả không oán hận và hối hận.

Mọi người đều biết chuyện đời vô thường, biết chuyện trong đời không có ǵ chẳng là nhân duyên quả báo cả, nhưng hiểu không được chắc thật, không cụ thể. Lúc trước lăo cư sĩ Ô Dư Khánh đă kể lại một câu chuyện thật. Vào thời kháng chiến [chống Nhật] bắt đầu, cụ ở Thượng Hải quen một thương gia, ông này làm ăn buôn bán rất thuận lợi, có một người con trai duy nhất, người con này rất nghịch ngợm.   Một hôm người con đi học mang theo 10 đồng trong túi, làm rớt tờ giấy 10 đồng này trên đường lộ, lúc đó có một người quen đi ngang nh́n thấy nên lượm lên rồi nói chơi với đứa bé: ‘Em kêu tôi bằng Bác th́ tôi trả tiền này cho em’. Đứa bé này trả lời: ‘Nếu ông kêu tôi bằng Bác th́ tôi cho ông thêm 10 đồng nữa’. Nghịch ngợm đến như vậy!

Một hôm ông thương gia này ăn mừng sinh nhật và mời rất nhiều bạn bè đến nhà dự tiệc. Hôm ấy ông đột nhiên nh́n thấy gương mặt của đứa bé này và vô cùng kinh ngạc, ngay lúc ấy liền tuyên bố với mọi người hiện diện ông sẽ giao toàn bộ tài sản cho đứa bé. Sau này ông giải thích với bạn bè rằng toàn bộ tài sản của ông vốn là của một người Đức; lúc trước chiến tranh ông làm việc cho người Đức này, khi ông chủ trở về Đức nhờ ông quản lư dùm công ty. Một thời gian sau ông chủ này mất ở bên Đức và không quay trở lại [Thượng Hải] nữa. Hôm ăn sinh nhật ông đột nhiên nh́n thấy gương mặt của đứa bé hiện ra giống hệt như gương mặt của ông chủ người Đức, từ đó ông mới biết đứa bé này chính là ông chủ lúc trước (người Đức) trở lại đầu thai nên ông lập tức trả lại toàn bộ tài sản. Nhờ vậy mà quan hệ cha con mới có thể duy tŕ.

Đức Phật nói những người trong nhà như cha con, chồng vợ, anh em đều có quan hệ báo ân, báo oán, đ̣i nợ, hoặc trả nợ nên mới ở chung một nhà. Đứa bé này đến là để đ̣i nợ, nhân duyên quả báo tơ hào chẳng sai. Chúng ta hiểu rơ đạo lư này th́ thử nghĩ nếu chúng ta có lỗi đối với người, hiếp đáp người, hăm hại người, nếu người này đầu thai đến nhà chúng ta th́ trong tương lai nhất định sẽ làm cho nhà tan cửa nát. Thế nên bất cứ ai trong thế gian đều nhất định không có việc bị thiệt tḥi, và cũng không có việc chiếm tiện nghi, lợi dụng người khác được.

Thi ân cho người, giúp đỡ người sẽ nhận được báo đền; hiếp đáp người, dày xéo người, sĩ nhục người, hăm hại người cũng sẽ có báo đền. Nếu sự báo đền này chỉ vừa đúng [không hơn, không kém] th́ cũng c̣n được; nhưng sự báo đền luôn luôn quá đáng, biến thành hận thù oan oan tương báo, đời đời kiếp kiếp không nhường nhịn lẫn nhau, oán hận không bao giờ chấm dứt. Chiến tranh giữa quốc gia này với quốc gia khác cũng như vậy. Tuy dân chúng của hai nước không có oán thù ǵ với nhau, những người có oán thù chỉ là thiểu số, nhưng nếu họ có quyền lực th́ sẽ liên lụy đến rất nhiều người chịu tai họa, tổn hại đến tài sản và sanh mạng của nhiều người, tai hại vô cùng, làm sao có đạo lư không đọa địa ngục cho được? Chúng ta hiểu được đạo lư, hiểu rơ chân tướng sự thật, th́ mới biết không nên làm việc này.

Thế nên lục đạo luân hồi chỉ là ân ân oán oán báo đền lẫn nhau mà thôi, chúng ta hiểu được th́ sẽ buông xả, biết được thế gian này không vui chút nào. Chư Phật, Bồ Tát nh́n thấy được rơ ràng, chỉ cho chúng ta một con đường quang minh, rộng lớn, đây tức là Đại thừa Phật pháp, cơi nước chư Phật ở thập phương. Trong pháp Đại thừa, [các Ngài] lại nói cho chúng ta biết một pháp môn đặc biệt, trong số các cơi nước chư Phật th́ cơi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà là cơi nước thù thắng tốt đẹp nhất. Không những đức Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu cho chúng ta, trong bản dịch kinh A Di Đà của đại sư Cưu Ma La Thập nói đến sáu phương Phật tán thán; bản dịch kinh A Di Đà của Huyền Trang đại sư nói đến mười phương Phật tán thán. Kinh Vô Lượng Thọ cũng nói đến mười phương Phật tán thán. Hết thảy chư Phật Như Lai đều khuyên chúng ta cầu sanh Tịnh Độ Di Đà. Chư Phật, Bồ Tát không gạt người, chúng ta đừng nên hoài nghi lời nói của chư Phật, Bồ Tát. Từ xưa đến nay kinh điển được trao truyền từ đời này sang đời khác, đích thực là được phiên dịch từ tiếng Phạn ở Ấn Độ, có người phiên dịch, có nơi chốn phiên dịch, chứng thật những kinh điển này có thể tin được.

Cả đời xưa và đời nay những người chiếu theo phương pháp này tu hành được văng sanh rất nhiều. Chúng ta quan sát kỹ càng điều kiện của họ, nói chung so với chúng ta th́ không khác ǵ mấy, không tốt hơn chúng ta nhiều lắm. Nhưng quan trọng nhất là họ có ḷng tin vững chắc, nguyện vọng khẩn thiết, buông xả hết thảy, chắc thật niệm Phật. Họ đă làm được điểm này, trên phương diện này chúng ta c̣n rất kém, chúng ta phải nỗ lực học tập theo họ.



3. Dứt ác tu thiện làm lợi ích cho chúng sanh

Đặc biệt là ở thời đại ngày nay, Thiên Chúa Giáo có lời dự đoán, năm 1999 là năm thế giới tận thế, những lời này làm cho người ta rất lo lắng, kinh sợ. Lời dự đoán nói nếu người ta tiếp tục tạo ác không ngừng, tai nạn này có thể trở thành sự thật; nếu có thể đoạn ác tu thiện, hồi tâm chuyển ư, tai nạn này có thể hóa giải. Câu nói này vô cùng linh động, chẳng cứng rắn (chẳng phải thay đổi không được), và nói rơ quan hệ vẫn nằm trong tay của con người. T́nh h́nh có thể hóa giải nghĩa là tai nạn có thể giảm bớt, tŕ hoăn đến sau này. Cách nói này hợp t́nh, hợp lư, hợp pháp, có thể biết họ cũng có trí huệ rất cao. Đoạn ác tu thiện là việc rất nên làm, [chúng ta] làm không phải là v́ muốn tránh tai nạn; không có tai nạn th́ cũng phải đoạn ác tu thiện.

Đoạn ác tu thiện phải bắt đầu từ trong tâm. Tâm của chư Phật, Bồ Tát là tâm thuần thiện, tâm làm lợi ích cho tất cả chúng sanh mà không v́ lợi ích cho cá nhân ḿnh. Theo sự quan sát của tôi, Tân Gia Ba ít nhất có mười vị Bồ Tát, thiệt đúng với câu: ‘chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ’. Họ có tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm từ bi, niệm niệm v́ chánh pháp tồn tại lâu dài, v́ lợi ích cho tất cả chúng sanh, làm nên sự cống hiến to tát. Đời sống của họ tương ứng với Lục Độ Ba La Mật, đây là Bồ Tát trụ thế, hóa thân của Bồ Tát. Tuy vai tṛ của họ không giống nhau, đúng như kinh điển nói ‘cần dùng vai tṛ ǵ để độ th́ hiện thân đó, cần dùng phương pháp ǵ để làm lợi ích cho chúng sanh th́ họ dùng phương pháp đó’. Tất cả hành động của họ đều giữ tâm của Bồ Tát, hành theo Bồ Tát Đạo.

Hy vọng [đồng tu ở] Dallas cũng tổ chức phái đoàn đến đó tham học, học hỏi tinh thần và phương pháp của họ, và cũng hy vọng đạo tràng Dallas này có thể biến thành trung tâm Tịnh Tông ở Mỹ. Chúng ta truyền bá Tịnh Tông đến tất cả địa phương có duyên trên thế giới, đây là lời nói trong nhà Phật: ‘Trong nhà Phật không xả bỏ một người nào cả’. Chúng ta cũng phải có hoằng nguyện to lớn của chư Phật, Bồ Tát, toàn tâm toàn lực giúp đỡ các vị đồng tu ở mọi nơi. Xin chúc phúc cho chư vị trong Phật thất được đạo nghiệp tăng trưởng, tín nguyện thành tựu, Phật thất kỳ này sẽ thâu thập được hiệu quả tốt đẹp.



f. Giữ ǵn công phu



1.      Khắc phục dục vọng giữ ǵn công phu

Trong quá tŕnh tu học đa số người học Phật đều gặp phải một vấn đề, đó là trong tâm có thể giữ được thanh tịnh lúc niệm Phật trong Niệm Phật Đường, nhưng vừa trở về nhà, về chỗ làm việc th́ không thể nào giữ ǵn công phu được. Nếu chúng ta hy vọng trong đời này có thể tu học thành tựu th́ đây cũng là một vấn đề to lớn, cấp bách, cần phải giải quyết nhanh chóng. Không thể giữ ǵn công phu có hai yếu tố: thứ nhất, phiền năo tập khí từ vô lượng kiếp đến nay quá nặng, không có năng lực khắc phục; thứ nh́, tâm sanh tử không thiết tha. Tại sao tâm sanh tử không thiết tha? Đối với thế gian này nhận thức chưa rơ ràng, không biết thế gian này là hư ảo. Kinh Kim Cang dạy ‘Hễ những ǵ có tướng đều là hư vọng’ ‘Tất cả các pháp hữu vi như mộng huyễn, bọt, ảnh’. Trong kinh nói chân tướng sự thật, chúng ta gặp mặt trên mạng lưới internet càng dễ thể hội điều này. Chúng ta nói chuyện với nhau mặt đối mặt trên màn ảnh [máy vi tính], chuyện này cũng là mộng huyễn bọt ảnh, và cũng là một thứ hư vọng, nếu có thể từ phương diện này mà thể hội th́ đă giác ngộ rồi, sau đó mới biết cho dù chúng ta đối diện với nhau th́ cũng hư vọng, không chắc thật.

             Những ǵ chắc thật có hay không? Có, nhưng chúng ta không nh́n thấy. Lúc nào mới nh́n thấy? Buông xuống tất cả những vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, xả bỏ hết đến mức ‘nhất tâm bất loạn’ th́ có thể nh́n thấy sự thật. Chỉ cần chúng ta đạt được nhất tâm bất loạn, cảnh giới chân thật tự nhiên sẽ hiện ra, đây gọi là ‘Nhất Chân pháp giới’ trong Phật pháp.

           Nhưng cho dù công phu tu học của ḿnh có tốt hơn nữa, định công sâu hơn, chỉ cần trong tâm c̣n giữ một cái ‘Nhất Chân pháp giới’ th́ sẽ không thấy Nhất Chân pháp giới. Công phu đến mức Tứ Thiền Bát Định vẫn chưa thấy được Nhất Chân pháp giới v́ tuy đè phục được phiền năo, nhưng vọng tưởng phân biệt chưa đè phục. Đến mức Định Thứ Chín, ra khỏi lục đạo luân hồi, ra khỏi tam giới, sanh đến Tứ Thánh pháp giới: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật (Phật trong thập pháp giới là Tạng Giáo Phật, Thông Giáo Phật trong Tông Thiên Thai) th́ cũng chưa thấy được tướng chân thật, nguyên nhân là v́ chưa đoạn dứt vọng tưởng, chấp trước. Cần phải nỗ lực thêm nữa, dùng định huệ đoạn dứt phân biệt (Trần Sa phiền năo), phá thêm một phần vô minh (tức là vọng tưởng) đến mức này mới ra khỏi thập pháp giới, thấy được tướng chân thật, mới thực sự tương ứng với cảnh giới của quả địa chư Phật Như Lai. Phải mất bao nhiêu công phu mới đến mức này? Ngày nay một chút định lực chúng ta cũng không có!

           Thí dụ [hằng ngày] pḥng ăn ở Cư Sĩ Lâm có gần 20 món ăn, quá nhiều món ăn để trước mặt như vậy là một sự cám dỗ, chỉ thử mỗi món một chút thôi th́ cũng no quá chừng. Người niệm Phật càng ngày ăn càng mập thêm th́ không phải là một chuyện tốt, chúng ta phải tự khắc phục ḿnh, trong nhiều món đồ ăn này chỉ gắp ba bốn món th́ thôi. Trong việc ăn uống phải biết chế ngự, ăn cho điều độ th́ mới có thể giữ thân tâm khỏe mạnh; không chế ngự nổi th́ thân tâm sẽ không khỏe mạnh. Nếu ăn đến mập béo ra th́ thân thể sẽ không khỏe mạnh; nh́n thấy những món ăn này rất dễ tăng trưởng tâm tham, lại tạo nên tâm lư không khang kiện. Tu hành là phải tu trong những sự việc này.

           Cho nên trong tất cả hoàn cảnh phải biết khắc phục được vọng tưởng của ḿnh, chế ngự phân biệt, chấp trước của ḿnh, hết thảy [những việc này] đều là Phật pháp. Nếu có thể khắc phục, chế ngự được ḿnh th́ mới có thể bảo tŕ [giữ ǵn] được công phu; nếu không thể khắc phục được ḿnh, th́ không thể bảo tŕ công phu. Những đại đức thời xưa biết được tập tánh của phàm phu rất nặng, khắc phục ḿnh rất khó, nên mới chủ trương, đề xướng ‘Y chúng kháo chúng’ (Nương dựa vào, noi theo đám đông), mới tụ hợp lại tu tập chung với nhau, đốc thúc, cảnh tỉnh, khích lệ lẫn nhau, dụng ư là ở chỗ này.



2.     Nương nhờ vào chúng (đoàn thể) xả thế duyên

Đạo tràng tu tập chung với nhau cần phải có đầy đủ nhân duyên, trong đó quan trọng nhất là duyên phận, là phải nhờ vào người xuất gia dẫn đầu; người xuất gia càng nhiều, ḷng tin của những người đồng tu sẽ càng tăng trưởng. V́ vậy nên người xuất gia phải phát ḷng từ bi, không nệ khó nhọc, lănh chúng trong Niệm Phật Đường. Đạo tràng có càng nhiều người xuất gia càng tốt, đây là sự thù thắng trang nghiêm chân chánh của đạo tràng.

Cho nên huân tập ở Niệm Phật Đường trong một thời gian dài, hy vọng là có thể bảo tŕ được công phu, bất kỳ ở nơi chốn nào, trong gia đ́nh, sở làm đều có thể giữ ǵn tâm thanh tịnh, niệm Phật như thế mới gọi là đạt được mục đích.

Ngày nay số người ở Niệm Phật Đường tại Cư Sĩ Lâm càng ngày càng nhiều, xây dựng và đẩy mạnh phong trào niệm Phật. Những người đến đó niệm Phật rất đông, đến măi không ngớt, càng ngày càng nhiều. Chúng tôi hy vọng xây dựng một đạo tràng ‘giải hành tương ứng’, mỗi ngày giảng kinh không gián đoạn, niệm Phật không gián đoạn, làm gương cho đạo tràng ở những nơi khác. Thích hợp nhất cho những vị đồng tu đă về hưu, họ buông xuống công việc làm ăn, ở đó trường kỳ tham gia niệm Phật. Những người trong gia đ́nh vẫn c̣n đang đi làm th́ lợi dụng thời gian rảnh rỗi đến Niệm Phật Đường để niệm Phật. Thế nên hiện nay khí phần (không khí hoàn cảnh tu học) ở Niệm Phật Đường vô cùng tốt đẹp, vô cùng thù thắng. Và cũng v́ khí phần tốt đẹp như vậy nên rất nhiều vị đồng tu vui vẻ đi đến, đến rồi đều không muốn đi về. Nếu có thể trụ ở đạo tràng như thế này trong ṿng nửa năm, một năm, ba năm th́ không thể nào không thành tựu được.

Trong ‘Tịnh Độ Thánh Hiền Lục’, ‘Văng Sanh Truyện’ chúng ta thấy rất nhiều Bồ Tát văng sanh bất thoái, thời gian niệm Phật phần nhiều là ba năm. Do đó có thể biết trong ṿng 3 năm th́ có thể thành tựu. Nhưng không thể nói họ niệm Phật hết ba năm th́ thọ mạng đều hết, mà v́ công phu thành thục nên mới tự tại văng sanh. Hễ những người có công phu thành thục nếu không văng sanh mà c̣n lưu lại trên thế gian này chỉ có một nguyên nhân duy nhất là để độ chúng sanh. Vẫn c̣n một số chúng sanh có duyên với họ, họ có thể giúp đỡ cho nên lưu lại thêm một thời gian nữa. Nếu không có duyên phần đối với những người ở đó th́ tại sao không đi sớm hơn? Mỗi ngày chúng ta đều mong mỏi, trông về Tây phương Cực Lạc thế giới, mỗi ngày tưởng niệm đức Phật A Di Đà, có thể gặp Ngài sớm hơn th́ tốt biết mấy, tại sao cơ duyên đến lại phải kéo thêm vài ngày? Chúng ta muốn đi nhưng đi không được, nếu có năng lực th́ đă đi sớm mất rồi.

Chúng ta b́nh tĩnh suy nghĩ, quan sát người trên thế gian này ai cũng khổ. Chúng ta cảm thấy sanh hoạt, việc làm của ḿnh quá khổ, thật ra những người làm sự nghiệp to lớn c̣n khổ hơn chúng ta. Gần đây tôi xem cuồn phim ‘Chiến tranh lạnh bắt đầu và chấm dứt’, nói về những người lănh đạo quốc gia trong nửa thế kỷ vừa qua, mỗi ngày đều phải đề pḥng không cho tai họa bộc phát, đặc biệt là những tai nạn do con người gây ra, làm thế nào t́m mọi cách để tiêu trừ [tai nạn]. Họ bận tâm, lo lắng quá nhiều, cuộc sống khổ quá đi thôi. Sau khi tôi coi xong mới biết muốn làm một người lănh đạo quốc gia, đoàn thể thiệt là không đơn giản chút nào.

Thiệt ra đời sống của những người lănh đạo có địa vị cao, những người làm ăn buôn bán giàu có không sung sướng chi cả. Nếu bạn đă nh́n thấy rơ ràng, minh bạch th́ mới biết đời sống của họ c̣n sánh không bằng đời sống của một người ăn xin. Người đi xin ăn khi nào bụng đói th́ đi xin ăn, ăn no rồi th́ hết chuyện, tùy tiện t́m một chỗ để ngủ, không có bồn chồn lo lắng, [họ] thảnh thơi tự tại biết bao! Chuyện đau khổ nhất của con người là chuyện bận tâm quá nhiều, lo lắng quá nhiều, vướng bận quá nhiều, ngày tháng đích thật không thoải mái tí nào. Nếu họ có thể học Phật th́ thiệt là phước báo to lớn!

Lúc trước tôi có khuyên đại chúng, gắng sức làm việc kiếm tiền trong một năm để có đủ tiền chi tiêu cho đời sống th́ nghỉ không làm việc hai năm, chuyên tâm hết ḷng niệm Phật; đây là người có trí huệ, có đại phước báo. Sau hai năm tiền xài hết th́ đi kiếm công việc trở lại. Nếu bạn hỏi t́m công việc làm không dễ, đến lúc đó có thể t́m được hay không? Nhất định sẽ t́m được. Tại sao vậy? Chư Phật, Bồ Tát gia tŕ cho bạn, bạn nên tin tưởng chư Phật, Bồ Tát. Ở thế gian này nhờ vả người ta không được, nhờ vả Phật, Bồ Tát nhất định có thể được. Nhưng bạn phải có ḷng tin tuyệt đối với chư Phật, Bồ Tát, tu học đúng như lư và làm đúng như lời dạy, làm sao không thành tựu được cơ chứ! Đây cũng là một phương pháp bảo tŕ tâm thanh tịnh.

Nói tóm lại nguyên tắc quan trọng nhất để giữ tâm thanh tịnh là:

Thứ nhất phải có ḷng tin vững chắc muốn rời khỏi Sa Bà, cầu sanh Tịnh Độ, đây là chân tâm.

Thứ nh́ tuyệt đối đừng bị thế gian cám dỗ, có thể buông xuống, buông xả hết thảy pháp thế gian và xuất thế gian. Trong tất cả pháp thế gian và xuất thế gian chỉ lựa chọn một pháp mà ḿnh cần, tuyệt đối không chọn quá nhiều, có câu rằng ‘biết đủ th́ thường vui’. Tâm của bạn sẽ định, sẽ thanh tịnh; mới có thể bảo tŕ tâm thanh tịnh trong thời gian dài mà không mất. Điểm này vô cùng quan trọng. Những người tu hành thời xưa có thành tựu đều là nhờ yếu tố này. Có thể khắc phục dục vọng của ḿnh, khắc phục vọng tưởng của ḿnh, thiệt có thể làm đến mức nói trong kinh Kim Cang: ‘Bất thủ ư tướng, như như bất động’ (Không chấp vào tướng, như như chẳng động). Trong đời sống chỉ lấy những ǵ ḿnh cần dùng là đủ, như vậy mới không bị cám dỗ, mới giữ được tâm thanh tịnh.





__________________
Trên đời này tất cả đều trở về cội nguồn của nó
Quay trở về đầu Xem amduong05's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi amduong05
 
amduong05
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 10 December 2004
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 52
Msg 3 of 7: Đă gửi: 21 March 2006 lúc 5:48am | Đă lưu IP Trích dẫn amduong05

g. Buông xả tâm muốn khống chế và tâm muốn chiếm lấy



1. Dưỡng tâm c̣n quan trọng hơn dưỡng thân

Người xưa dạy chúng ta: ‘Buổi sáng phải ăn cho tốt, buổi trưa phải ăn cho no, buổi tối phải ăn ít’. Đây là đạo dưỡng sinh và cũng là một nguyên tắc của sự hấp thụ dinh dưỡng. Chân chánh biết đạo dưỡng sinh nói theo nhà Phật th́ phải biết ‘dưỡng tâm’, v́ tâm có thể sanh ra rất nhiều pháp, tâm là pháp năng sanh, thân là pháp sở sanh, cho nên tâm thanh tịnh th́ thân sẽ thanh tịnh; thân tâm thanh tịnh th́ hoàn cảnh bên ngoài sẽ thanh tịnh, đây là một đạo lư nhất định. Nhưng rất ít người trong thế gian hiểu được đạo lư này, vẫn ráng sức t́m cầu để bù đắp dinh dưỡng từ bên ngoài.

Người tu hành chân chánh đối với dinh dưỡng cho thân thể không t́m cầu ở bên ngoài mà hoàn toàn hướng về bên trong. Trong kinh nói người trên cơi Sắc giới trở lên dùng ‘thiền duyệt’ làm thức ăn, thiền duyệt là từ tự tánh lưu xuất, không phải cầu được từ bên ngoài. Cho nên đức Phật nói năm thứ ‘tiền tài, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống, ngủ nghỉ’ đều có thể bỏ được. Năm thứ này được gọi là ‘ngũ cái’ (năm thứ che đậy), nó che phủ tâm tánh, trí huệ, đức năng của chúng ta, làm cho trí huệ, đức năng của chúng ta không thể hiện tiền. Năm thứ này là dục vọng, nếu sanh tâm tham đắm năm thứ này th́ phiền năo chỉ gia tăng mà không giảm bớt, làm sao đoạn dứt phiền năo được?

Đức Phật dạy đệ tử nhất định đừng phân biệt, chấp trước đối với thức ăn. Ngày xưa lúc đức Phật c̣n tại thế đi khất thực, người ta cho ǵ ăn nấy, vả lại chỉ cho phép đi khất thực bảy nhà, nếu 7 nhà này cho không đủ hay không cho th́ phải đi về tu thiền định. Cách làm này là để giúp chúng ta khắc phục dục vọng, tâm tham, và phiền năo; chúng ta phải hiểu đạo lư này.

V́ chúng ta có thân thể cho nên phải [ăn uống để] hấp thụ dinh dưỡng, không thể không duy tŕ sự khoẻ mạnh của thân thể. Nếu thân thể không khoẻ mạnh, phải nhờ người khác săn sóc, cư ngụ trong đạo tràng cũng phải làm nhọc thường trú, như vậy không tốt. Nhưng phải hiểu đạo lư khoẻ mạnh nằm trong tâm thanh tịnh. Đối với ḿnh tuyệt đối phải giữ tâm cho được thanh tịnh, thanh tịnh vô vi; đối với người, với sự, với vật cần phải có tâm đại từ đại bi, vô sở bất vi (không từ khước làm bất cứ thứ ǵ), được vậy chúng ta mới có thể dùng hành động để phục vụ đại chúng, giúp đỡ đại chúng. Đây đều là lời thánh nhân thế gian và xuất thế gian chỉ dạy cho chúng ta.



2. Năng và Sở đều là không, bất khả đắc (đều không thể được)

Nhưng ái tâm (tâm thương mến) là nghĩa vụ, nhất định không được chiếm lấy. Cho dù rất thương mến con cái và người thân của ḿnh, tâm này của phàm phu cũng không thể gọi là từ bi, v́ nó có chứa đựng tâm niệm khống chế, chiếm lấy ở trong. Mỗi [khi khởi lên một] tâm niệm [ǵ] đều muốn điều khiển, khống chế, chiếm lấy tất cả người, sự, và vật, như vậy là sai lầm. Sai ở chỗ nào? Đức Phật dạy chúng ta: ‘năng sở giai không, liễu bất khả đắc’ (năng và sở đều là không, trọn chẳng thể lấy được, có được). Trong 600 quyển kinh Bát Nhă, ba chữ ‘bất khả đắc’ (không thể lấy được, có được) đă lập đi lập lại trên ngàn lần, đó là muốn cho chúng ta ghi nhớ kỹ càng ‘bất khả đắc’ là chân tướng sự thật, nếu cứ tưởng tất cả có năng đắc, có sở đắc (có cái năng được, có cái để ḿnh lấy được), đó đều là ngu si, vô minh.

Nếu hiểu thấu tất cả pháp đều không thể có được, năng và sở đều không thể đạt được th́ bạn sẽ giải thoát. Dùng danh từ hiện nay để nói th́ ‘giải thoát’ tức là tâm lư không có ràng buộc, lo lắng, bận bịu, tâm của bạn được tự tại, buông xuống hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Lư do mọi việc ǵ chúng ta cũng buông xuống không được chính là v́ ngu si chưa bị phá trừ, vẫn c̣n cho là ‘có năng đắc, có sở đắc’, trong tâm c̣n bị ràng buộc, c̣n lo âu cho nên sinh sống rất khổ sở, công phu tu học cũng không đắc lực.

Chư Phật Như lai ứng hoá trong thế gian, tất cả những việc làm, hành động đều là ‘Phật sự trong mộng, đạo tràng như bóng trăng dưới nước’. Đạo tràng được xây dựng càng lớn, càng huy hoàng, người giác ngộ đều xem là hoa trong gương, ánh trăng dưới nước, không có chút ǵ chấp trước, keo tham, như vậy mới được đại tự tại, đó mới là sự hưởng thọ cao độ. Trong sanh hoạt đối với tất cả người và vật nếu có những sự thọ dụng, tuyệt đối không được khống chế, đừng có tâm niệm chiếm lấy, như vậy mới sống một đời sống của Phật, Bồ Tát; sự khác biệt của phàm phu và Phật, Bồ Tát là ở chỗ này. Phàm phu th́ mỗi tâm niệm đều muốn khống chế, điều khiển người khác, mỗi tâm niệm đều muốn chiếm lấy tất cả, cho nên trong tâm cứ lo được, lo mất, âu lo phiền năo vĩnh viễn không dứt, sống trong những ngày tháng như vậy rất khổ sở.

C̣n chư Phật, Bồ Tát đại từ đại bi nhất định viên măn hàm nhiếp ‘chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác’. Bất cứ một điều trong 5 chữ này đều chứa đựng 4 điều kia, như vậy mới là ‘một là tất cả, tất cả là một’. Nếu tâm từ bi không thanh tịnh, không b́nh đẳng th́ là một trong bốn loại ‘ái duyên từ bi’ nói trong Phật pháp. Đây là từ bi của phàm phu, vẫn c̣n khống chế, chiếm lấy, không có bỏ hết tất cả yêu cầu, đ̣i hỏi, đây không phải là đại từ đại bi. ‘Ái duyên từ bi’ hướng lên trên là ‘chúng sanh duyên từ bi’, ‘pháp duyên từ bi’, lên nữa là ‘vô duyên từ bi’, đại từ đại bi tức là ‘vô duyên từ bi’. Vô duyên tức là không điều kiện, không yêu cầu đ̣i hỏi, không có chiếm lấy, không có khống chế, đó là đại từ đại bi của chư Phật và Pháp Thân Đại Sĩ. ‘Vô duyên từ bi’ có đầy đủ chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác. Nếu chúng ta dùng tâm này để xử sự, đối đăi với người, tiếp xúc với sự vật, thế th́ trong lúc xử sự, đối người, tiếp vật đă chứng quả rồi. Giống như ‘nhập đại giải thoát môn’ (vào cửa giải thoát to lớn) nói trong kinh Hoa Nghiêm, thế th́ thành Phật rồi. Chữ đại ở đây cũng có nghĩa là Đại thừa, cửa giải thoát nhỏ là A La Hán, bậc thánh của Tiểu Thừa.



Đọc kinh nghe pháp

Chúng ta là phàm phu, nghiệp chướng, tập khí, phiền năo vô cùng sâu nặng, rất khó đoạn dứt, chỉ có dùng phương pháp giác ngộ mới có thể đoạn dứt. V́ vậy cho nên đọc kinh, nghe pháp vô cùng quan trọng, một ngày cũng không thể gián đoạn. Chúng ta không phải là người có thượng căn, lợi trí (trí óc lanh lợi bén nhạy), không thể chỉ lắng nghe, học tập trong một thời gian ngắn mà có thể khai ngộ. Người trung và hạ căn muốn đạt được ích lợi ngay trong một đời, chỉ có phương pháp duy nhất là đọc kinh, nghe pháp, huân tu trong thời gian dài mới có thể khế nhập vào cảnh giới ‘nhập Phật pháp’ nói trong kinh Hoa Nghiêm. Nhập Phật pháp tức là giác ngộ, đây là đạt được lợi ích chân thật.



4.     Quản [lư] sự [việc] phải giữ giới luật thanh tịnh

Tôi là một người phàm, là người căn tánh trung hạ, hôm nay có được chút đỉnh thành tựu này, có được chút đỉnh trí huệ này đều là do đọc kinh, giảng kinh hằng ngày trong suốt bốn mươi mấy năm qua. Có một số đại đức cũng giảng kinh nhưng ngoài việc giảng kinh ra họ c̣n phải quản sự (quản lư sự việc); quản sự phải lo lắng, bận tâm, ít nhiều cũng gây ra chướng ngại cho ḿnh. Duyên phần của tôi trong đời này rất thù thắng, cả đời ‘không quản lư người, không quản lư sự việc, không quản lư tiền bạc’, cho nên sự việc trong thế tục đối với tôi không gây chướng ngại, mới có được chút đỉnh thành tựu này, đây cũng là việc tôi hiện thân thuyết pháp làm gương cho mọi người.

Người như thế nào có thể quản lư sự việc? Phải có tâm thanh tịnh. Cho nên ngày xưa những vị quản sự trong chùa chiền, ṭng lâm đều là chư Phật, Bồ Tát ứng hóa tái lai. Chúng ta không phải thánh nhân ứng hóa, chúng ta đích thực là phàm phu [chánh cống]. Nếu phàm phu chánh cống đi làm việc tức là xả kỷ vị nhân (hy sinh ḿnh để phục vụ cho người khác) thế th́ cũng đáng được ngưỡng mộ, kính phục. Tuy hy sinh định huệ của ḿnh để phục vụ đại chúng, nhưng nhất định phải giữ giới cho được thanh tịnh, đây mới là tu phước báo chân chánh. [Giữ] giới thanh tịnh tức là chăm sóc phục vụ cho đại chúng đúng như lư, như pháp, không có tâm riêng tư, dùng tâm chân thành, lo lắng, chăm sóc, giúp đỡ hết thảy đại chúng tu học đàng hoàng.

Hàn Quán Trưởng là hạng người này, bà không phải là Phật, Bồ Tát hóa thân đến, bà sáng lập xây dựng đạo tràng, thành tựu cho đại chúng, có ân đức rất lớn đối với chúng ta. Chúng ta báo đáp cho bà được thể hiện [một cách trọn vẹn] lúc bà lâm chung, chúng ta tiễn đưa bà văng sanh, đây là báo ân một cách trọn vẹn, lớn lao. Nhưng duyên như vầy rất khó được, không phải người nào cũng có duyên phần tốt như vậy, cơ hội tốt như vậy. Nếu bà không văng sanh được th́ đời sau sẽ hưởng phước báo to lớn, làm quốc vương đại thần, trưởng giả cự phú. Nhưng phước báo ở thế gian cho dù làm đến Đại Phạm Thiên Vương, Ma Hê Thủ La Thiên Vương th́ vẫn c̣n ở trong ṿng lục đạo luân hồi, thoát không khỏi tam giới, cho nên phước báo như vậy chẳng rốt ráo viên măn. Ngày nay chúng ta hiểu rơ ràng minh bạch th́ chỉ có văng sanh bất thoái thành Phật mới là chân thực [rốt ráo, viên măn].





__________________
Trên đời này tất cả đều trở về cội nguồn của nó
Quay trở về đầu Xem amduong05's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi amduong05
 
amduong05
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 10 December 2004
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 52
Msg 4 of 7: Đă gửi: 21 March 2006 lúc 5:49am | Đă lưu IP Trích dẫn amduong05

5.     Buông xả khống chế, chiếm lấy, yêu cầu (đ̣i hỏi)

Tu học tức là học làm thế nào sống qua ngày, biết làm thế nào đối với ḿnh, đối với người. Đối với ḿnh tuyệt đối phải thanh tịnh, từ bi, chuyên tu chuyên hoằng; đối với người nhất định phải chân thành, thanh tịnh, từ bi, phải làm được vô duyên [từ bi], không có điều kiện. Nhất định đừng có tâm niệm khống chế [bắt buộc người ta luôn luôn phải làm theo ư của ḿnh], đừng giữ tâm niệm chiếm lấy đối với tất cả mọi người, mọi sự, mọi vật, phải buông bỏ hết tất cả yêu cầu, đ̣i hỏi, đây là trí huệ, đây là công đức, sánh với phước đức c̣n thù thắng hơn nhiều. Hy vọng mọi người đều khích lệ khuyến tấn lẫn nhau, y giáo phụng hành.



Chú thích:

1.     Phật ở đây phải hiểu là Phần Chứng Phật, hoặc danh văn Phật, chưa phải là cứu cánh Phật, tức là hiểu theo phương diện đă giác ngộ, nhưng mới chỉ là phần giác th́ gọi là Phật.

2.     Lam ở đây là một chất màu chiết ra từ thực vật, ta gọi là Chàm (indigo). Lọc màu xanh từ chất Chàm ra sẽ xanh đậm hơn, dùng để nhuộm áo, nhất là những sắc dân sơn cước hay dùng loại màu nhuộm này.



Truyền Tâm Pháp Yếu

           Những lời dạy khẩn thiết của lăo ḥa thượng Tịnh Không

           Cư Sĩ Nhận Chân chỉnh lư
Mục Lục

A.   Chân tướng của Đạo. Thập đức:

Chân thành, Thanh tịnh, B́nh đẳng, Chánh giác, Từ bi
Nh́n thấu, Buông xả, Tự Tại, Tùy duyên, Niệm Phật

B.   Lựa chọn pháp phải: Tinh Đáng, Khế cơ, Khế lư

C.   Tâm Môn
1. Chân thành

2. Có thể xả, chịu buông xuống th́ sẽ thoát ra khỏi luân hồi

3. Căn bản của thành đạo – chân thành, không dối ḿnh, không có chuyện ǵ sợ cho người biết

4. Cực Lạc, Hoa Tạng, vô lượng trang nghiêm, người người đều có đầy đủ

5.     Tâm thanh tịnh là chân thành

6.     Tâm b́nh đẳng là chân thành

7.     Thanh tịnh, B́nh đẳng, Giác là Tam Bảo, là mục tiêu của tam tự quy y.

8.     Trong Thanh tịnh, B́nh đẳng, Chánh giác tự khởi tâm đại từ bi

D.   Hành Môn
1. Nh́n thấu, Buông xả là then chốt của sự thành đạo

2.     Buông xuống vô lượng pháp, đi sâu vào một môn

3.     Nh́n thấu, Buông xả được đại tự tại

4.     Tùy duyên mà không phan duyên

Phong phạm của Liên Tŕ đại sư

5.     Niệm Phật phải tương ứng với thập đức

6.     Hết thảy phải làm từ tâm chân thật.

Phụ lục 1:

Cứu văn kiếp nạn, hóa giải tai nạn phải đẩy mạnh bốn thứ giáo dục

Phụ lục 2:

Khai thị tâm yếu của Ấn Quang đại sư

Truyền tâm pháp yếu

Buổi nói chuyện với lớp đào tạo nhân tài hoằng pháp kỳ 2,

tháng 11, 1996 tại Cư Sĩ Lâm Tân Gia Ba



A. Chân tướng của Đạo. Thập đức:

Chân thành, Thanh tịnh, B́nh đẳng, Chánh giác, Từ bi
Nh́n thấu, Buông xả, Tự Tại, Tùy duyên, Niệm Phật



Pháp thế gian và xuất thế gian đều coi trọng ‘đạo’; ‘đạo’ rốt cuộc là ǵ? Truyền đạo, hoằng đạo, bạn hoằng đạo ǵ, nhất định phải có khái niệm rơ ràng. Chúng ta quy nạp (tổng hợp) lời giáo huấn của đức Phật, giáo học của Phật pháp thành hai chục chữ: Chân thành, Thanh tịnh, B́nh Đẳng, Chánh giác, Từ bi; Nh́n thấu, Buông xả, Tự tại, Tuỳ duyên, Niệm Phật. Đương nhiên mỗi người quy nạp sẽ không hoàn toàn giống nhau, tuy vậy cũng như người xưa có nói: ‘Người mù sờ voi’, ai cũng đều sờ được. Bất kể sờ đến bộ phận nào đều không sai, tuy chỉ là một bộ phận của toàn thể nhưng đều có thể tiếp xúc, đạt đến mục đích. [Ai cũng] có thể chứng đến viên măn Vô Thượng Bồ Đề, tại v́ phương hướng và mục tiêu không sai, đều thuần chánh hết. V́ vậy có rất nhiều cách nói giống những bộ phái của Ấn độ thời xưa, các tông phái của Phật giáo ở Trung quốc, hết thảy đều là Phật pháp thuần chánh. Phật pháp thuần chánh nhất định có thể giúp người ta minh tâm kiến tánh, giúp đỡ người thành tựu Vô Thượng Bồ Đề nên đều gọi là chánh pháp. Như trong kinh Kim Cang đức Phật dạy: ‘Pháp môn b́nh đẳng, không có cao thấp’. Đây là điều mà chúng ta phải khẳng định trước hết để sau này không đến nỗi hoài nghi.



B.   Lựa chọn pháp phải: Tinh đáng, Khế cơ, Khế lư


           Chúng ta tu học Tịnh Tông, đặc biệt là người hiện nay, những kinh luận của đức Thế Tôn nhiều như biển cả, chúng ta làm sao lựa chọn? Lựa chọn phải tinh đáng: tinh là tinh hoa, tinh yếu, đáng là thích hợp, vừa đúng. Hai chữ ‘tinh đáng’ này không có tiêu chuẩn [nhất định], thế th́ nguyên lư, nguyên tắc ở chỗ nào? Phải ‘khế cơ’, khế cơ tức là ‘tinh đáng’. Căn cơ của người xưa khác người thời nay, căn cơ của người Trung Quốc không giống căn cơ của người ngoại quốc. Nếu căn cơ giống nhau th́ sự lựa chọn của mọi người phải giống nhau. Như vậy tại sao ở Ấn độ th́ gọi là bộ phái, nhưng ở Trung quốc th́ gọi là tông phái? Từ điểm này th́ có thể biết mỗi người lựa chọn khác nhau, chỉ cần thích hợp với người đó là được.

           Trong kinh đức Thế Tôn thường thí dụ đức Phật là vị đại y vương, tất cả các pháp mà đức Phật đă nói ví như thuốc men, chúng sanh trong chín pháp giới đều là bịnh nhân, làm thế nào để lấy, bỏ th́ mới tinh đáng? Lựa thuốc nào mà chữa đúng căn bịnh th́ gọi là ‘tinh đáng’. [Lựa thuốc] đúng căn bịnh, uống thuốc vào th́ hết bịnh; nếu thuốc không đúng căn bịnh th́ thuốc này không ‘tinh’, không thích hợp, c̣n có thể làm cho bịnh trở nặng thêm, hoặc người bịnh uống thuốc này bị phản ứng, chết luôn, như vậy th́ thuốc này không ‘đáng’ ǵ cả. Bởi vậy nên quư vị phải hiểu được hai chữ ‘tinh đáng’, phải hội đủ ba điều kiện: tùy thời, tùy người, tùy chỗ, và ‘khế cơ, khế lư’ th́ mới ‘tinh đáng’.


C.   Tâm Môn


           1. Chân thành

           Sinh sống trong thời đại ngày nay, chúng ta phải hiểu thật rơ căn cơ của chúng ta như thế nào, trong Phật pháp sâu rộng như biển cả làm thế nào lựa chọn đúng thuốc để đối trị với căn bịnh, đối trị tập khí của chúng ta, đây là nguyên tắc chính để lựa chọn; mười điều này là thuốc hay để chữa trị tất cả bịnh tật, tập khí của người thời nay.

           Điều thứ nhất là chân thành. Người thời nay thường thường giả dối, hư ngụy. Hai chữ chân thành chính là thuốc hay cho căn bịnh này! Chúng ta là người thời nay, tâm chúng ta có chân hay không, có thành hay không? Không chân, không thành! Chúng ta cũng hư ngụy, cũng giả dối, cho nên phải lấy thuốc này chữa trị cho chúng ta trước; chữa cho chúng ta xong hết rồi th́ chúng ta mới có đủ ḷng tin để nói thuốc này hay lắm -- Bịnh của bạn giống y như bịnh của tôi, đại khái th́ bạn cũng có thể uống thuốc này thử xem sao. Đây là nền tảng thấp nhất. Mục đích chúng ta học Phật là muốn làm Phật; làm Phật th́ đâu có lư nào làm Phật giả? Phật làm sao giả mạo được? Cũng giống như lời dạy của Thiện Đạo đại sư: ‘Hết thảy đều phải bắt đầu từ tâm chân thật!’, trong ‘Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ’ bạn hăy coi Ngài lập đi lập lại câu này bao nhiêu lần, những ǵ mà cứ lập đi lập lại nhiều lần không có dụng ư ǵ khác ngoài [ư muốn nhấn mạnh] hy vọng khi bạn xem quyển chú giải này [nếu] không nhớ ǵ hết nhưng chỉ nhớ câu này thôi cũng được, đây là câu nói quan trọng nhất.

Cho dù người khác giả dối với ta, cho dù tất cả người trên thế giới này giả dối với ḿnh, chúng ta vẫn phải chân thành đối với tất cả mọi người. Tại sao vậy? Tại v́ chúng ta muốn làm Phật. Tại sao họ giả dối? Tại v́ họ muốn ở trong lục đạo luân hồi. Hiện nay tôi học Phật, tôi giác ngộ rồi! Giác ngộ là từ đây trở về sau tôi không c̣n muốn kẹt ở trong lục đạo luân hồi nữa, tôi nhất định phải vượt thoát ra khỏi lục đạo luân hồi. Lấy cái ǵ để vượt thoát? Lấy chân thành. Nếu bạn không ra sức từ chân thành, th́ bất kể bạn tu hành ra sao, tu giỏi đến đâu, ngồi xếp bằng nhập định suốt cả năm th́ cũng không hay ho chi cả, vẫn kẹt trong lục đạo luân hồi như cũ; cho dù bạn giảng kinh lưu loát tài giỏi đến mấy th́ vẫn ở trong lục đạo luân hồi, điểm này rất quan trọng! Chúng ta dùng tâm chân thành đối xử với người, đừng sợ thiệt tḥi, đừng sợ bị gạt. Nếu bạn sống đến một trăm tuổi, chịu thiệt tḥi hay bị gạt th́ nhiều lắm cũng chỉ thiệt tḥi, bị gạt một trăm năm mà thôi. Thời gian một trăm năm trôi qua rất nhanh! Chỉ cần thoát ra khỏi lục đạo luân hồi th́ phước báo này quá lớn, một trăm năm chịu thiệt tḥi hay bị gạt này rất đáng giá, xứng đáng vô cùng!

Sau khi hiểu rơ th́ tại sao bạn c̣n không chịu bị thiệt tḥi? Tại sao không chịu bị gạt? Huống hồ bạn đều biết ‘sanh không mang đến, chết không mang đi’. Rốt cuộc th́ bạn đă chịu thiệt tḥi những ǵ? Bị gạt những ǵ? Người ta gạt bạn để lấy danh tiếng, lợi dưỡng của bạn, bạn chẳng đem đến những thứ danh tiếng lợi dưỡng này lúc bạn sanh ra, đến lúc bạn chết th́ cũng đem theo không được. V́ vậy nếu nh́n thấy rơ ràng th́ đâu có ǵ gọi là chịu thiệt tḥi hay bị gạt nữa! Chịu thiệt tḥi hay bị gạt đều là quan niệm sai lầm, đều không phải là sự thật. Thực sự th́ ai chịu thiệt tḥi và ai bị gạt? Những người hư dối thực sự là đă chịu thiệt tḥi và bị gạt đó. Không những họ phải đi vào lục đạo luân hồi mà c̣n phải đọa tam ác đạo nữa. Giả sử toàn bộ tài sản trên thế giới đều là của tôi và đều bị bạn gạt hết trơn th́ cũng không sao hết. Cho dù bạn lấy được hết trọi th́ bạn vẫn phải đi vào sáu nẻo [luân hồi] và ba đường ác.



2.     Có thể xả, chịu buông xuống th́ sẽ thoát ra khỏi luân hồi

Nếu bạn có thể xả, chịu buông xuống th́ bạn sẽ thoát ra khỏi luân hồi: một khi thoát ra khỏi lục đạo luân hồi th́ phạm vi hoạt động của bạn [sẽ vô cùng to lớn] sẽ là tận hư không, khắp pháp giới. Bạn muốn thoát khỏi hay không? Tại sao c̣n chịu kẹt măi trong ṿng luân hồi? Luân hồi chỉ có khổ, không có vui sướng ǵ đâu! Cơi Dục giới có đầy đủ ba thứ khổ, không cần nói rơ quư vị cũng đă biết rồi; cơi Sắc giới tuy không có Khổ khổ, nhưng c̣n Hành khổ và Hoại khổ (1). Lên đến cơi Vô Sắc giới không c̣n thân thể nữa (một số người gọi là ‘Linh Giới’), không có thân thể th́ đương nhiên không có Hoại khổ, nhưng họ c̣n Hành khổ. Cho nên đức Phật nói tam giới đều khổ cả! Trong lục đạo đâu có vui sướng ǵ đâu? Sự vui bất quá chỉ là lúc bạn tạm ngưng chịu khổ trong chốc lát, làm cho bạn có cảm giác là có vui. Sự thật để trước mắt, mỗi ngày người ta ăn ba bữa, nếu không ăn một bữa th́ sẽ đói và khổ liền. Từ đó có thể biết ăn một bữa cũng giống như bịnh nhân uống thuốc vậy, nếu bạn không uống thuốc th́ ‘bịnh đói’ sẽ hoành hành. Trong một ngày ngắn ngủi th́ đă phải ‘chữa trị’ hết mấy lần, thế th́ có ǵ là vui đâu? Bạn vui ở chỗ nào? Người ta ngu mê như vậy, chân tướng sự thật để trước mắt mà không biết, vẫn c̣n mê luyến trong biển khổ!



3. Căn bản của thành đạo – chân thành, không dối ḿnh, không có chuyện ǵ sợ cho người biết.

Chúng ta học Phật phải bắt đầu học từ đâu? Từ chân thành!

Ấn Quang đại sư dạy: ‘Có một phần thành kính th́ được một phần lợi ích’. Không hẳn chỉ là Phật pháp, thế pháp cũng vậy, nhất định phải dùng thành kính để đối đăi với người.

Tu ‘chân thành’ bắt đầu từ đâu?

Bắt đầu từ không tự gạt, không nói dối.

Ngày nay trên toàn thế giới cho đến pháp luật cũng đ̣i phải có quyền ẩn tư (riêng tư), thế mới biết người trên thế gian không có ư niệm muốn thoát ly luân hồi; không những không muốn thoát ly lục đạo, ngay cả ư muốn thoát ly Dục giới cũng không có. Tại sao vậy? Họ có tâm riêng tư! Tâm riêng tư nặng th́ chấp trước ngũ dục lục trần rất mạnh mẽ, không có năng lực sanh lên cơi Sắc giới. Tâm của người trên cơi Sắc giới thanh tịnh hơn chúng ta rất nhiều, không có dục vọng nhiều như chúng ta. Tại sao bạn tham thiền không đắc được định? V́ dục vọng quá sâu đậm, v́ chấp trước quá nặng nề cho nên họ tu định cũng không thể sanh đến cơi trời Sơ Thiền. Thế nên bạn mới biết sự nguy hại của quyền riêng tư là bao lớn! Đă biết rằng sanh không mang đến, chết cũng không mang theo th́ có ǵ đâu mà không thể công khai? C̣n bí mật ǵ muốn dấu người ta? Những chuyện không thể nói cho người biết đều không phải là chuyện tốt. Chuyện tốt th́ sao không thể nói cho người ta biết? Cho nên bạn phải hỏi học Phật bắt đầu từ đâu? Tu hành bắt đầu tu từ đâu? Đều bắt đầu từ đây! Nếu bạn c̣n chuyện ǵ không thể nói cho người khác biết th́ bạn có thể thành tựu trong Phật pháp hay không? Niệm Phật một ngày niệm mười vạn tiếng Phật hiệu, th́ hét bể cuống họng cũng uổng công mà thôi. Bạn niệm Phật không thể văng sanh, tham Thiền cũng không đắc được định, càng không thể nói đến khai ngộ, nghiên [cứu] Giáo [môn] th́ cũng không thể khai giải, [trên con đường] tu ‘đạo’ này bạn không có phần! Bạn chỉ kết thiện duyên với Phật pháp, trồng một chút thiện căn mà thôi, phải đợi đến đời kiếp nào mới có thể thành tựu? Xa lơ xa lắc hà! Đời này không c̣n trông mong ǵ nữa!

Nếu chúng ta muốn thành tựu ngay trong đời này th́ phải nhổ tận gốc những căn bịnh thói quen hư ngụy, giả dối; khi xử thế, đối người, tiếp vật phải dùng chân thành, chúng ta phải bắt đầu từ đây. Trước hết phải nhớ: đừng sợ chịu thiệt tḥi, đừng sợ bị gạt. Trên thực tế th́ bạn nhất định không có chịu thiệt tḥi, không bị gạt ǵ cả. Nếu trong tâm không có âu sầu, không có lo lắng, nhớ nhung, th́ bạn sẽ rất khoái lạc, vui vẻ! Thực sự đạt được đại tự tại (thong dong, thảnh thơi)! Bạn không có phiền năo th́ sau đó bạn mới có thể làm được một người ‘chân chánh, chân thường’; người ta trong thế gian không chân thường là v́ không chân thật, không chân thành tức là không chánh thường.



4. Cực Lạc, Hoa Tạng, vô lượng trang nghiêm, người người đều có đầy đủ

Năm chữ Chân thành, Thanh tịnh, B́nh đẳng, Chánh giác, Từ bi đều thuộc về tâm, tức là Bồ Đề tâm trong Phật pháp. ‘Chân thành’ là thể của Bồ Đề Tâm, bốn thứ sau là khởi dụng của Bồ Đề tâm. Từ thể khởi dụng, dụng có nghĩa là hưởng thọ, tác dụng. Ba chữ ‘Thanh tịnh, B́nh đẳng, Giác’ là đề kinh của kinh Vô Lượng Thọ. Trong kinh Vô Lượng Thọ đức Phật dạy chúng ta tổng cương lĩnh (nguyên tắc chính) của sự tu hành, đó tức là Thanh tịnh, B́nh đẳng, và Giác. Nửa phần đầu của đề kinh này ‘Vô Lượng Thọ, Trang Nghiêm’ là quả báo. Thế nên đề kinh này có đầy đủ nhân và quả. [Hết thảy] vô lượng chỉ dùng một chữ ‘thọ’ để tượng trưng, nghĩa là không phải chỉ có vô lượng thọ mạng mà thôi, c̣n vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tài nghệ, …, hết thảy đều vô lượng, có người nào trong thế gian và xuất thế gian sánh bằng? Trang nghiêm nghĩa là hoàn hảo, tốt đẹp đến cùng cực.

Nếu nói như vậy th́ quả báo này là thật hay giả? Là lư tưởng hay là phóng đại (khoa trương)? Nói cho chư vị biết hết thảy đều không phải, tánh đức vốn đă như vậy. Đây là đức năng trong tự tánh vốn sẵn có, vốn là như vậy! Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng không phải dùng công sức của con người tạo thành, quư vị xem kinh Hoa Nghiêm nên biết Hoa Tạng thế giới của đức Phật Tỳ Lô Giá Na cũng không phải là nhân tạo, là do tánh đức tự nhiên biến hiện ra. Quư vị cũng đă xem kinh Vô Lượng Thọ rồi, ư nghĩa của tám thứ ‘tự nhiên’ nói trong kinh cũng vô cùng vô tận! Người xưa có câu: ‘Của báu vốn sẵn có trong nhà’, đó là vốn có sẵn, không phải đến từ bên ngoài. Người người đều có đầy đủ vô lượng trang nghiêm của Hoa Tạng thế giới, của Cực Lạc thế giới; chúng ta không thể nói người người đều có phần, mà phải nói người người đều đầy đủ! Nói ‘có phần’ th́ cũng không ổn, không đúng lắm, vốn là đă có đầy đủ, vốn là như vậy. Hôm nay chúng ta biến thành nghèo mạt, nghèo khổ đến mức này là tại sao vậy? Là v́ chúng ta không có tâm chân thành! Tất cả đều do tâm tạo, tâm của chúng ta không c̣n b́nh thường nữa, đă mê rồi, cho nên đức năng sẵn có đă biến đổi, thiệt đúng là y báo biến chuyển theo chánh báo.

Đức Phật dạy chúng ta tu Thanh tịnh, B́nh đẳng, Giác th́ sẽ khôi phục lại Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm. Phần lớn người trên thế gian không có phước báo này, không có cơ hội may mắn này. Phật pháp nói đến ‘duyên’, [họ] không có duyên! Hiện nay người ta dùng chữ ‘không có cơ hội’, không gặp được Phật pháp; gặp được Phật pháp là có thiện căn to lớn, có đại nhân duyên! Không gặp được Phật pháp, không thể hiểu được chân tướng sự thật; chân tướng sự thật là vô lượng trang nghiêm, là Hoa Tạng thế giới, là Cực Lạc thế giới! Nhiều người không biết dùng phương pháp ǵ để khôi phục lại tự tánh, đây đúng là những người đáng thương!





__________________
Trên đời này tất cả đều trở về cội nguồn của nó
Quay trở về đầu Xem amduong05's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi amduong05
 
amduong05
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 10 December 2004
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 52
Msg 5 of 7: Đă gửi: 21 March 2006 lúc 5:50am | Đă lưu IP Trích dẫn amduong05

5.     Tâm thanh tịnh là chân thành

Biểu hiện của tâm chân thành tức là thanh tịnh, tâm thanh tịnh là chân tâm, là thành tâm. Trong bút kư của ông Tăng Quốc Phiên có ghi định nghĩa của chữ ‘thành’ là: ‘Một niệm không sanh gọi là thành’. Cách nói này rất hay! Nếu bạn có một tâm niệm [ǵ đó] th́ đă không ‘thành’ rồi. Có ‘niệm’ đều là vọng niệm! Phật pháp chú trọng đến việc tu định, định tức là tâm thanh tịnh, trong tâm thanh tịnh không có một tạp niệm nào cả. Nhà Nho thời xưa ở Trung Quốc rất coi trọng công phu tu thân, họ cũng nói về ‘định’; nhà Phật nói ‘định’ rơ ràng hơn, cụ thể và minh bạch hơn. Định tức là tâm thanh tịnh, [chúng ta] phải biết cách tu tâm thanh tịnh. Từ tâm thanh tịnh mà nói nhất quyết không bị ô nhiễm bởi hết thảy cảnh duyên; ‘cảnh’ là chỉ hoàn cảnh vật chất, ‘duyên’ là chỉ hoàn cảnh nhân sự. Cái ǵ gọi là ‘ô nhiễm’? Trong hoàn cảnh này bạn động tâm, khởi niệm, lúc sáu căn tiếp xúc với cảnh giới [bên ngoài] trong tâm khởi lên tâm niệm tham, sân, si, mạn, như vậy th́ tâm của bạn bị ô nhiễm, không thanh tịnh nữa. Một khi bị ô nhiễm, tâm của bạn sẽ không thành, không chân nữa; chân tâm, thành tâm vốn là thanh tịnh. Chúng ta thường nói đến chân thành, có nhiều người nói: ‘Tôi thiệt có chân tâm, thiệt là có thành tâm, tôi muốn mắng chửi th́ mắng chửi, muốn đánh [ai] th́ đánh liền.’ Họ tưởng như vậy tức là trực tâm, là chân tâm, thiệt ra th́ đều hiểu sai ư nghĩa hết. Như thế nào gọi là chân thành? Thanh tịnh là chân thành. Bạn nghĩ coi: tâm bạn có thanh tịnh hay không? C̣n bị cảnh giới bên ngoài làm ô nhiễm không? Cũng là nói khi sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài, bạn c̣n khởi lên tâm niệm ǵ không? Nếu c̣n động tâm th́ c̣n là phàm phu, chưa phải là thánh nhân, công phu c̣n thua xa lắm, phải gắng sức nỗ lực thêm nữa!



6.     Tâm b́nh đẳng là chân thành

Tâm b́nh đẳng tức là tâm chân thành. B́nh đẳng nghĩa là không có phân biệt, có phân biệt tức là không b́nh đẳng. Có phân biệt tức là có cao thấp, thế th́ đâu có b́nh đẳng. Nh́n từ h́nh tướng bên ngoài th́ Phật pháp nói có thập pháp giới: Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, và lục đạo chúng sanh, chuyện này không b́nh đẳng. Nhưng đức Phật dạy chúng ta ‘[Chúng] Sanh, Phật b́nh đẳng’, ư nghĩa này rất thâm sâu. Từ trên lư mà nói th́ đương nhiên là b́nh đẳng, thập pháp giới đều từ tự tánh biến hiện ra, tánh tướng nhất như, tánh tướng không hai. Từ trên sự mà nói th́ có b́nh đẳng hay không? Trên sự vẫn là b́nh đẳng. Cái b́nh đẳng trên sự chỉ có Phật, Bồ Tát nh́n thấy, phàm phu chúng ta không nh́n thấy. Tại sao phàm phu không nh́n thấy? Phàm phu chấp tướng, một khi chấp tướng th́ bạn nh́n không thấy, phàm phu trên tướng phân biệt, hư vọng phân biệt! Tại sao chư Phật, Bồ Tát nh́n thấy? V́ chư Phật, Bồ Tát không chấp tướng.

Thí dụ người thế gian chúng ta quư trọng nhất là kim cương, hột xoàn, chỉ một viên nhỏ xíu đă rất đắt; thí dụ lấy một viên thủy tinh và một viên kim cương để chung một chỗ, có ai nh́n thấy hai viên này b́nh đẳng không? Chỉ có đôi mắt của những đứa bé sơ sinh là b́nh đẳng. Tại sao chúng nó b́nh đẳng? Chúng nó không có tâm phân biệt, nó nh́n thấy hai viên đều giống nhau, đều đẹp hết! Đều là đồ chơi hết. Tâm của người lớn th́ có phân biệt: ‘Ôi chao đây là viên hột xoàn, kia là viên thủy tinh’. Giá trị của nó sẽ không b́nh đẳng. Từ đó có thể biết, không b́nh đẳng là do vọng tâm sanh ra. Bạn quan sát kỹ càng những đứa trẻ sơ sinh, bạn cho chúng viên kẹo, chúng nó ăn liền. Những ‘viên đại tiện’ của chúng nó, nó cũng ăn, mà c̣n ăn một cách ngon lành. Tại sao chúng nó đều ăn hết vậy? Chúng nó không có phân biệt. [Thế mới biết] không có phân biệt, không có chấp trước là b́nh đẳng.

Trong nhà Phật, trong các hạnh Bồ Tát có một phương pháp gọi là Anh Nhi Hạnh (hạnh trẻ con [sơ sinh]), hạnh này dạy bạn học theo những đứa trẻ con! Trẻ con không có phân biệt, không có chấp trước, ngây thơ hồn nhiên, bạn hăy quan sát từ những việc nhỏ nhặt này. Chư Phật, Bồ Tát không có tâm phân biệt, tuy hiện tượng thập pháp giới có tồn tại nhưng đối với các ngài, thập pháp giới đều b́nh đẳng cả. Đây là như kinh Hoa Nghiêm nói: ‘trong sự sai biệt có b́nh đẳng quán, trong b́nh đẳng có sai biệt quán’; sai biệt và b́nh đẳng là một, không phải là hai, đây là nhập vào pháp môn bất nhị (không hai). Khi bạn có thể nhập vào pháp môn không hai th́ bạn là Pháp Thân Đại Sĩ, là Bồ Tát trong Nhất Chân pháp giới. Tuy bạn hiểu được đạo lư này, nhưng bạn không vào cảnh giới này th́ bạn vẫn là Bồ Tát trong thập pháp giới, bạn vẫn chưa vượt thoát khỏi thập pháp giới. Nhập vào Nhất Chân pháp giới th́ vượt khỏi thập pháp giới, công phu chân chánh là ở chỗ này, đây là công phu chân thật, tu hành chân thật!

Khi quư bạn đọc kinh Hoa Nghiêm đến đoạn năm mươi ba tham [vấn], bạn xem 53 vị thiện hữu này, từ hành tích của họ th́ không nh́n ra, h́nh như không khác ǵ người trong thế gian, công phu [của họ hoàn] toàn dùng trong tâm, giống như trong kinh có nói: ‘Từ bên ngoài mà nh́n th́ h́nh như không có ǵ, nhưng [họ] đều đang dụng công trong tâm!’ Trong tâm dụng công ǵ vậy? Dụng công phu [tập luyện] thanh tịnh, công phu b́nh đẳng, đây mới gọi là thiệt tinh tấn! Từ biểu hiện bên ngoài bạn nh́n không ra. Người không có công phu th́ đương nhiên nh́n không ra, nhưng người có công phu th́ sẽ nh́n ra. Người có công phu cao hơn họ nh́n thấy rất rơ ràng; người có công phu bằng họ cũng có thể thấy rơ ràng; những người không bằng họ th́ nh́n không ra. Trên tầng cao có thể nh́n thấy phía dưới, [ngược lại] phía dưới nh́n không thấy trên cao.

Phải biết tâm b́nh đẳng vô cùng quan trọng, nếu tâm bạn không thanh tịnh, bị ô nhiễm, th́ nói một cách khác ba ác đạo nhất định [bạn] sẽ có phần; nếu tâm không b́nh đẳng th́ rất khó thoát ly lục đạo luân hồi. Trong đề kinh, tại sao đặt thanh tịnh ở hàng thứ nhất, b́nh đẳng thứ nh́, chánh giác thứ ba? V́ ô nhiễm [không thanh tịnh] là nghiệp nhân của tam ác đạo, không b́nh đẳng là nghiệp nhân của tam thiện đạo; không b́nh đẳng vẫn có thể ở trong tam thiện đạo, nghiệp chướng của nó không nặng lắm. Không giác th́ sao? Không thể ra khỏi thập pháp giới. Cho nên chánh giác được đặt ở sau chót. Chánh giác nói ở đây không phải chánh giác của A La Hán chứng đắc mà là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, là cảnh giới của Phật, trong kinh điển nói đến cảnh giới này rất nhiều, bạn phải xem kỹ ư nghĩa của nó.



7.     Thanh tịnh, B́nh đẳng, Giác là Tam Bảo, là mục tiêu của tam tự quy y.

Thanh tịnh, B́nh đẳng, Giác tức là Tam Bảo; Tam Bảo là mục tiêu phương hướng của Tam quy y: Tự quy y Phật, Tự quy y Pháp, Tự quy y Tăng. Thanh tịnh là Tăng Bảo, B́nh đẳng là Pháp Bảo, Chánh giác là Phật Bảo. Lúc vừa vào cửa Phật, bắt đầu học Phật th́ [quư thầy] truyền Tam quy, đem phương hướng và mục tiêu này truyền trao cho chúng ta, chỉ rơ cho chúng ta biết. Bất luận tu học pháp môn nào, pháp môn nhiều vô lượng vô biên, quư vị đừng nh́n trong khuôn khổ hạn hẹp: Tham Thiền là một pháp môn, Tŕ Chú là pháp môn, Nghiên [cứu] Giáo [môn] là pháp môn, Niệm Phật là pháp môn, như vậy rất hạn hẹp. Thế th́ vô lượng vô biên pháp môn rốt ráo là như thế nào? Mặc áo là pháp môn, ăn cơm là pháp môn, vừa dơ tay, vừa ngước đầu lên đều là pháp môn: hết thảy những ǵ trong đời sống từ sáng đến chiều, từng ly từng tí, mỗi lúc khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác hết thảy đều là vô lượng pháp môn đó! Vô lượng pháp môn đều phải tương ứng với Giác, Chánh, Tịnh; nói một cách khác vô lượng pháp môn đều phải tương ứng với Thanh Tịnh, B́nh Đẳng, Giác. Nếu chúng ta học Phật, dạy cho người khác, chỉ dạy về ư nghĩa hạn hẹp này th́ khó nói tại sao chúng ta đều không thành tựu!

Chuyện này nói ra cũng không thể trách chúng ta, tự ḿnh không biết, những vị thầy đời trước cũng không nói rơ ràng cho chúng ta biết! ‘Người trước không thiện, không thể trách được!’ Nếu từ từ thể hội ư nghĩa trong kinh một cách sâu sắc, vô lượng pháp môn đều bày ra trước mặt chúng ta, vô lượng pháp môn đang bao quanh chúng ta, từng ly từng tí lúc khởi tâm động niệm đều là nó, đây mới đúng là vô lượng pháp môn, đây gọi là tu học Đại Thừa, đây mới là người tu hành!



8.     Trong Thanh tịnh, B́nh đẳng, Chánh giác tự khởi tâm đại từ bi

Thanh tịnh, B́nh đẳng, Giác tức là sự chân thành trong tâm; nói một cách khác tâm chân thành nhất định phải thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác. Từ trong thanh tịnh, b́nh đẳng, giác nhất định sanh khởi tâm đại từ bi; tâm đại từ bi này sanh khởi lên một cách tự nhiên, ‘pháp nhĩ như thị’, tự nhiên như vậy! Đối người, đối sự, đối vật hết thảy đều như vậy. Nh́n thấy đồ vật không ngay thẳng, bạn sửa cho ngay lại, đây là từ bi, không cần phải có người dạy, không cần người nhắc nhở. Nh́n thấy cái ghế không ngay ngắn, tự nhiên sẽ sửa cho ngay lại, đây là từ bi đối với vật; từ bi đối với sự tức là làm hết ḷng, làm một cách có trách nhiệm; từ bi đối với người là chân thành chăm sóc và lo lắng, hết thảy những thứ này đều phát ra từ tự tánh, đều là tự nhiên không có chút ǵ miễn cưỡng.



D.   Hành Môn


1. Nh́n thấu, Buông xả là then chốt của sự thành đạo

Chúng ta đă nói về năm điều đầu tiên, phía sau c̣n năm điều nữa; ở đây nên chú ư, năm điều sau này phải được thực hiện trong đời sống, nghĩa là sự chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, từ bi của bạn bắt đầu từ đâu? Từ trong đời sống hằng ngày. Sự biểu hiện trong đời sống nhất định phải nh́n thấu; nh́n thấu nghĩa là hiểu rơ ràng minh bạch chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Trong kinh nói giác ngộ triệt để, thấu triệt rồi, đó gọi là ‘hành’. Chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi [được thể hiện] trên sự nh́n thấu; sau khi nh́n thấu th́ không thể nào không buông xả được. Tại sao vậy? Điều kế sau đây là tự tại, được đại tự tại (thong dong, thảnh thơi, thoải mái)! Bạn xem câu đầu trong Tâm Kinh: ‘Quán Tự Tại Bồ Tát’, chữ ‘quán’ ở đây là ‘nh́n thấu’, quán là trí huệ, trí huệ chân thật. Nh́n thấy chân tướng sự thật của vũ trụ rơ ràng minh bạch. Buông xả nghĩa là không nhiễm trước một tí ǵ hết, không nhiễm trước chẳng có nghĩa là không có sự thọ dụng. Tất cả đều có thể thọ dụng, v́ tất cả đều không nhiễm trước, cho nên sự thọ dụng này được gọi là ‘chánh thọ’, trong kinh nói đến ‘tam muội’, ‘tam muội’ là tiếng Phạn có nghĩa là ‘hưởng thọ chánh thường’. Hưởng thọ chánh thường khác với sự hưởng thọ của chúng ta hiện nay ở chỗ nào? Trên ‘sự’ th́ hoàn toàn giống nhau. Chúng ta mặc áo, Phật, Bồ Tát cũng mặc áo; chúng ta ăn cơm, quư Ngài [khi thị hiện] cũng ăn cơm, có ǵ khác nhau? Nhưng bên trong đích thật có chỗ khác biệt, chúng ta mặc áo, ăn cơm có chấp trước, các Ngài mặc áo, ăn cơm không có chấp trước; cho nên các Ngài mặc áo ăn cơm vui vẻ tự tại, chúng ta mặc áo, ăn cơm rất khổ, không được xứng tâm vừa ư, có [thêm] một thứ, thiếu một thứ đều không được. Đây là do nguyên nhân ǵ vậy? V́ buông xả, buông xuống không nổi! Tại sao buông xả không nổi? V́ không nh́n thấu! Cho nên khi áp dụng trên sanh hoạt thường ngày nhất định phải nh́n thấu sự thật, đây không phải là một chuyện dễ. Nếu bạn muốn có công phu th́ trong mười điều này nhất định phải nhận thức rơ ràng then chốt ở ‘nh́n thấu, buông xả’. V́ nếu bạn nh́n không thấu, buông xả không nổi, bạn sẽ không đạt được tâm chân thành; nếu không đạt được tâm chân thành th́ cũng không đạt được ‘chánh thọ’. Cho nên nh́n thấu có thể giúp cho buông xả, buông xả cũng giúp cho nh́n thấu, hai pháp này bổ sung, hỗ trợ, củng cố lẫn nhau.

Nh́n thấu giúp cho buông xả thêm, buông xả giúp cho nh́n thấu thêm, một mực cho đến quả địa Như Lai, đến cứu cánh viên măn. Cho nên bạn sẽ hỏi: Bồ Tát dùng công phu ǵ? ‘Nh́n thấu buông xả’ đều bao gồm hết. Chúng ta dùng cách phân đoạn lớn để nói, nh́n thấu căn bịnh của Kiến Tư phiền năo xong bạn buông xả nó th́ bạn được nâng lên một cấp và thành A La Hán. A La Hán lại phát hiện căn bịnh của Trần Sa phiền năo, buông xả Trần Sa phiền năo được th́ nâng lên một cấp thành Bồ Tát. Bồ Tát lại nh́n thấy căn bịnh của Vô Minh phiền năo, buông xả được một phẩm Vô Minh th́ được nâng lên một cấp thành Pháp Thân Đại Sĩ. Thế nên nếu bạn nh́n thấu một phẩm, buông xả một phẩm th́ bạn sẽ không ngừng đi lên. Thiệt ra những cấp bực này có hay không có? Không có! Tại sao đức Phật lại nói đến những cấp bực này? Là dựa trên mức độ phiền năo của bạn mà phân ra.

Công phu của người tu hành càng thấp th́ phiền năo càng nặng, [công phu] càng cao th́ phiền năo càng nhẹ. Tại sao phiền năo nhẹ? Đều là do buông xả đấy! Bồ Tát tu hành có lợi căn (căn tánh lanh lợi), có độn căn. Độn căn là ǵ? Hôm nay buông xả một ít, ngày mai buông xả thêm một ít, đây là tiệm tu – tu từ từ. Người có lợi căn th́ hoàn toàn buông xả, lập tức sanh lên trời, đốn siêu đương nhiên rất nhanh, là sự việc như thế đó. Nếu bạn muốn hỏi người nào đốn căn, người nào lợi căn? Lợi căn và đốn căn không phải sanh ra vốn sẵn có, đó là do bạn có triệt để giác ngộ hay không, triệt để giác ngộ th́ một thoáng qua đă buông xả hoàn toàn, đó là lợi căn, thượng căn lợi trí! Do đó phải dám ‘xả’, xả tức là buông xuống.



2.     Buông xuống vô lượng pháp, đi sâu vào một môn

Tôi dạy các bạn đồng tu nguyên tắc giảng kinh, cung cấp tài liệu tham khảo cho các bạn, các bạn chỉ cần lấy một phần mười th́ đủ rồi, chín phần c̣n lại phải chịu buông bỏ, nếu bạn xem câu nào cũng hay, câu nào cũng không chịu bỏ bớt, như vậy th́ chuyện phiền phức của bạn rất lớn! Cho nên phải mạnh dạn buông xuống. Ngay cả Phật pháp cũng phải buông xuống, huống hồ là phi pháp? Phải nên hiểu nguyên lư này! Trong biển cả Phật pháp, chúng ta không có biện pháp ǵ nuốt hết trong một ngụm, nếu muốn thành tựu trong Phật pháp chỉ có cách múc một giọt nước trong biển cả mà thôi, [nghĩa là] vô lượng pháp môn chỉ chọn lấy một pháp môn, vô lượng kinh luận chỉ chọn lấy một bộ kinh luận mà thôi; thông [hiểu] một kinh rồi th́ hết thảy kinh luận đều thông suốt, pháp thế gian và xuất thế gian cũng thông suốt, nếu bạn hỏi tại sao đều thông suốt? Đó là v́ Thanh tịnh, B́nh đẳng, Giác.

Nếu trên một bộ kinh này bạn không đạt được Chân thành, Thanh tịnh, B́nh đẳng, Chánh giác, th́ bạn chẳng thông [suốt], tiêu chuẩn của sự ‘thông’ là ở đây. V́ vậy mới biết nếu bạn hiểu sơ sơ rất nhiều pháp môn mà muốn đạt được Thanh tịnh, B́nh đẳng th́ rất khó. Khó vô cùng! Vả lại những ǵ bạn học được đều biến thành thế trí biện thông (tri thức thế gian). Tại sao vậy? Tại v́ bạn có phân biệt, có vọng tưởng, có chấp trước; mục đích của Phật pháp là không ngoài việc đoạn diệt vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Nếu bạn hiểu được đạo lư này rồi th́ bạn mới hiểu được ḷng từ bi của giáo giới của lăo sư (thầy), họ thiệt là muốn cho chúng ta thành tựu, mà không phải là dạy sai chúng ta. Nếu thầy dạy bạn cái ǵ cũng học, cái này cũng tốt, cái kia cũng tốt, muốn bạn học rộng nghe nhiều, thế th́ vị thầy này có hai trường hợp: một là ma, sợ bạn thành tựu, cố ư hại bạn, làm vậy để bạn không thể thành tựu trong một đời này; c̣n trường hợp thứ nh́ là vô tri, bản thân của họ cũng không biết, cho nên dạy sai cho bạn. Nếu đích thật là thiện tri thức th́ họ sẽ không dạy bạn như vậy, nếu bạn chịu tiếp nhận, họ nhất định sẽ dạy dỗ bạn, sẽ không dạy sai, đó mới thực sự là thiện tri thức.

Cho nên đặt ra câu hỏi: Phật pháp truy cầu những ǵ? Truy cầu Thanh tịnh, B́nh đẳng, Giác. Bạn suy nghĩ xem tu học một pháp môn, một bộ kinh th́ dễ đạt được Thanh tịnh, B́nh đẳng, Giác hoặc là tu rất nhiều pháp môn, rất nhiều kinh luận dễ đạt được? Chúng ta đều có những kinh nghiệm này, các bạn trong ba tháng ngắn ngủi ở đây, những thể nghiệm trong ba tháng vừa qua đều nói lên [và chứng minh] điều này. Trước kia các bạn học bốn năm trong Phật Học Viện, môn ǵ trong chương tŕnh học cũng có, ngũ hoa bát môn, hồi tưởng lại kinh nghiệm học trong bốn năm so sánh với đi sâu vào một môn trong ba tháng tại đây th́ sẽ biết ngay. Trong ba tháng học một môn có được một chút thành tựu, một chút tâm đắc hay là trong bốn năm trước học nhiều môn có tâm đắc, có thọ dụng? So sánh hai thứ th́ liền rơ ràng minh bạch. Tâm thanh tịnh sẽ sanh trí huệ đấy! Kinh Kim Cang nói: ‘Ḷng tin thanh tịnh, ắt sanh Thật Tướng’. Thật Tướng tức là Chánh Giác. Tâm thanh tịnh th́ Thật Tướng Bát Nhă sẽ hiện tiền!

Do đó có thể biết buông xuống (buông xả) là một phương pháp vô cùng quan trọng. Chư Phật, Bồ Tát không có bản lănh ǵ khác ngoài buông xuống; người thế gian buông xuống không nổi, quư Ngài đều có thể buông xuống hết, bản lănh của quư Ngài là ở chỗ này. Buông xuống Kiến Tư phiền năo tức là buông xuống lục đạo luân hồi; buông xuống tham, sân, si, mạn tức là buông xuống tam ác đạo. [Nếu tôi] nói ‘Buông xuống tam ác đạo’, [th́ bạn nói] ‘Được, tôi sẽ buông xuống’. C̣n nói: ‘Buông xuống tham, sân, si’ th́ bạn nhăn nhó mặt mày, cảm thấy rất khó. Bạn không biết tam ác đạo từ đâu đến sao? Nghiệp nhân của tam ác đạo tức là tham, sân, si đấy! Trên ‘quả’ chúng ta không có biện pháp buông xả được, th́ phải buông xả từ ‘nhân’, ‘nhân’ buông xuống được rồi th́ ‘quả’ sẽ không c̣n nữa. Thế nên buông xuống Kiến Tư phiền năo th́ buông xả được lục đạo, lục đạo sẽ không c̣n nữa; buông xuống Trần Sa, Vô Minh th́ thập pháp giới sẽ không c̣n nữa. Chư Phật, Bồ Tát tu những ǵ? Quư Ngài tu ‘Nh́n thấu, Buông xả’ đấy!



3.     Nh́n thấu, Buông xả được đại tự tại

Nh́n thấu là học vấn, buông xả đ̣i hỏi phải có công phu, công phu này không phải là vơ công ở chùa Thiếu Lâm, đây là công phu chân thật. Nếu có thể nh́n thấu, buông xuống th́ đời sống sanh hoạt của bạn sẽ được đại tự tại (thong dong, thảnh thơi). ‘Quán Tự Tại’ – Quán Thế Âm Bồ Tát được đại tự tại. Đời sống được tự tại mới là đời sống hạnh phúc thật sự, hạnh phúc mà người thế gian thường nói đến là hữu danh vô thực, không phải thật. Người thế gian nói đến viên măn cũng là có tên, chẳng thật, duy chỉ khế nhập vào cảnh giới này th́ mới thật, mới có thể đạt được hạnh phúc chân chánh mỹ măn, đạt được đại tự tại.

Quư vị phải biết cảnh giới ‘tự tại’ nói trong ‘Tâm Kinh’ sâu rộng vô bờ bến, không thể nghĩ bàn! Những thí dụ trong kinh như 32 sự ứng hiện của Quán Thế Âm Bồ Tát, cần ứng thân ǵ có thể độ thoát th́ Ngài sẽ hiện thân ấy; cần nói pháp ǵ th́ Ngài thị hiện và nói pháp đó, đây là chỉ nêu ra vài thí dụ đơn giản để nói rơ sự tự tại của Ngài. Nói thực ra Ngài không có một thứ ǵ mà chằng tự tại! Trong đời sống bất luận ăn cơm, mặc áo, từng ly từng tí mọi sự đều tự tại, những ǵ nói trong kinh chỉ là đại khái mà thôi, không thể nói kỹ, nói kỹ th́ nói không hết. Đừng nói một vị Phật nói không hết, mười phương Như Lai dùng vô lượng kiếp cũng nói không hết. Đây là sự thật chứ không phải phóng đại.



4.     Tùy duyên mà không phan duyên (2)

Sự lợi ích của Phật pháp ở chỗ nào? Không ai biết, v́ không có người nói rơ ra. Làm một đệ tử Phật chúng ta có trách nhiệm, có nghĩa vụ nói rơ chân tướng của Phật pháp cho đại chúng. Chúng ta có được sự lợi ích này th́ phải nên chia xẻ cùng đại chúng, hy vọng người nào cũng đạt được sự lợi ích giống vậy, đây là bồn nguyện của hết thảy chư Phật, Bồ Tát.

Tại sao có bồn nguyện này? Là tự nhiên mà có, là tánh đức lưu xuất! Trong đó không có người đốc thúc và cũng không có người khuyến khích, tự tự nhiên nhiên sẽ làm như vậy, cũng như lời nói trong kinh ‘đại từ bi hiển lộ’, bất đắc dĩ chỉ có thể nói như vầy: ‘hoàn toàn thuộc tự nhiên’. Khi xử sự, đối người, tiếp vật trong đời sống của ḿnh phải tùy duyên mà không phan duyên, [nhờ vậy] nên họ luôn luôn được đại tự tại. Trong tùy duyên, hết thảy sự việc tùy theo tâm niệm mà thành tựu, giống như trong kinh nói: ‘Bồ Tát ở Cực Lạc thế giới, Bồ Tát ở tha phương thế giới hoặc cúng dường A Di Đà Phật, hoặc cúng dường mười phương chư Phật, những vật cúng dường tuỳ [theo ư muốn] liền hiện trên tay, tuỳ niệm liền sanh’. Thiệt ra chỉ cần khế nhập vào cảnh giới này, trong tất cả sanh hoạt trên thế gian, mọi việc làm đều là tùy niệm mà sanh, không cần phải tạo tác một tí ǵ hết, như vậy th́ làm sao họ không tự tại được chứ?

Đến khi nào mới đạt được đại tự tại? Khi nào bạn nh́n thấu và buông xuống hết thảy th́ sẽ đạt được. Nếu bạn có thể nh́n thấu một phần, buông xả một phần th́ bạn sẽ đạt được tự tại một phần. Nếu bạn có thể nh́n thấu hai phần, buông xả hai phần th́ bạn sẽ đạt được hai phần; đây là thật không phải giả. Cho nên những người tham lam sẽ vĩnh viễn không đạt được, sẽ vĩnh viễn vọng tưởng. Hễ những người gây tổn hại cho người khác và lợi cho ḿnh đều là những người tham lam; nếu họ không có tâm tham th́ làm sao có thể làm việc lợi ḿnh hại người cho được! Người có trí huệ chân thật nhất định sẽ nh́n thấu, buông xuống, xả thân ḿnh phục vụ cho người. Phục vụ cho người tức là làm lợi ích cho chúng sanh, lợi ích cho chúng sanh là chân chánh làm lợi ích cho ḿnh, tự ḿnh sẽ được đại tự tại! Cho nên phải tùy duyên mà đừng phan duyên. Tại sao vậy? Vĩnh viễn giữ ǵn tâm chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác của ḿnh. Nếu bạn phan duyên th́ tâm thanh tịnh của bạn hoàn toàn mất hết. Trong lúc phan duyên bạn có phiền năo, sanh ra tri kiến, tâm chân thành của bạn bị che lấp hoàn toàn, không thể hiển lộ ra ngoài; thế nên tùy duyên mới tốt!



Phong phạm (khuôn khổ, mẫu mực) của Liên Tŕ đại sư
           Những đại đức ngày xưa bất kể là tại gia hay xuất gia đều làm gương mẫu tốt nhất cho chúng ta. Đại đức đầu tiên của Tịnh Tông là Liên Tŕ đại sư, Ngài là người cuối triều Minh, Sớ Sao của Ngài hay vô cùng; Ngẫu Ích đại sư tán thán: ‘bác đại tinh thâm’ (rộng lớn, tinh sâu). Lúc c̣n ở Triết Giang, đại khái là ở gần chùa Vân Thê, Hàng Châu, thời bấy giờ c̣n chưa xây dựng chùa, Liên Tŕ đại sư đi đến một địa phương và rất thích, phong cảnh trên núi rất đẹp, nên Ngài dựng một túp lều tại đó, ở đó tu tập một ḿnh. Ngài tu hành rất đúng như pháp, --như pháp tức là y giáo phụng hành-- Những ǵ trong kinh đức Phật dạy chúng ta làm, th́ chúng ta làm, những ǵ không cho chúng ta làm th́ chúng ta không làm. Liên Tŕ đại sư tu hành rất như pháp, rất nhiều người tán thán là đức hạnh cao. Cao ở đâu? Như pháp tức là cao, không như pháp th́ không cao. Cho nên người ở vùng phụ cận rất kính trọng Ngài, nhiều học nhân ở phương xa cũng tôn kính, ngưỡng mộ nên rất muốn kề cận Ngài. Từ từ có vài người tụ đến, họ không có chỗ ở nên phải dựng thêm vài túp lều tranh nữa. Sau này càng ngày càng nhiều người đến nên mới làm một số thí chủ cảm động, nh́n thấy nhiều người xuất gia như vậy, tu hành tốt như vậy, nên họ [ra công sức] xây dựng đạo tràng. Việc xây chùa là để an trú tăng, người xuất gia không cần phải nhọc công, bận tâm! Đại khái th́ Liên Tŕ đại sư chỉ điểm một chút mà thôi: ‘Nếu quư vị muốn xây th́ xây ở đây được rồi’. Hết thảy những ngôi nhà pḥng ốc đều do mọi người phát tâm xây dựng, cho nên đại điện được gọi là ‘Thần Vận Điện’, không cầu tự nhiên có.

           Cứ như vậy trong ṿng mấy chục năm đến một trăm năm, từ từ một ngôi tùng lâm được h́nh thành, không phải do quy hoạch trước, quy hoạch trước là phan duyên chứ không phải tùy duyên! Trong tâm bạn mỗi ngày đều phải suy nghĩ, bận tâm, t́m mọi cách để hóa duyên, t́m cách để kiếm tiền, bạn xem tâm như vậy mệt quá phải không? C̣n tự tại ǵ được nữa! Có an lạc ǵ đâu! Sự khổ này từ đâu đến? Tự ḿnh t́m đến! Không có người đem khổ đến cho bạn, đều là do bạn tự tạo, phải hiểu rơ đạo lư này. Cho nên khi nào cần thiết th́ khi đó Phật, Bồ Tát sẽ đem đến, tại sao hiện nay không cho bạn một ngôi chùa lớn vậy? Ngày nay Phật, Bồ Tát tặng cho bạn một ngôi chùa lớn tức là hại bạn đấy, tại sao vậy? Làm tăng trưởng ḷng tham, sân, si, mạn, tăng trưởng phân biệt, chấp trước của bạn. Phật, Bồ Tát tuyệt đối không làm những chuyện này, tuyệt đối không hại chúng sanh, chỉ có ma mới hại chúng sanh.

           Cho nên chư vị đồng tu tu hành đến một mức nào đó, có một chút thành tựu th́ ma sẽ đến khuấy nhiễu. Ma không phải mặt xanh, nanh nhọn, không có khủng khiếp như vậy, nếu h́nh dáng dễ sợ th́ bạn đă xa ĺa nó từ lâu rồi. Lúc Ma xuất hiện trước mặt bạn, bạn sẽ rất hoan hỷ! V́ h́nh dáng của Ma xinh đẹp, lại có tiền tài, có thế lực, nó sẽ làm cho tâm bạn không an, làm cho bạn mất hết tâm thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, tăng trưởng ḷng tham, sân, si, mạn của bạn. Nếu không thể tự giác, lúc Ma hiện ra th́ bạn sẽ lọt vào tay Ma đến nỗi ngay cả bạn cũng không biết, c̣n nói Ma đối với bạn rất tốt, rất lo lắng, chăm sóc cho bạn, đều là Ma đấy!

           Kinh Lăng Nghiêm nói về cách phân biệt giữa Phật và Ma rất rơ ràng, cho nên kinh Lăng Nghiêm thực sự là ‘tấm kiếng chiếu yêu’, nếu bạn có thể hiểu rơ th́ hết thảy nhân vật mà bạn tiếp xúc, rốt cuộc họ là Ma hay là Phật, bạn vừa nh́n liền thấy rơ ràng. Phật nhất định giúp bạn tăng trưởng thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, đây là Phật, Bồ Tát đến để hộ tŕ. Nếu che phủ hết thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, tăng trưởng tham, sân, si, mạn th́ bạn phải cảnh giác đi, bạn đă lọt vào tay Ma rồi. Đặc biệt là trong thời đại này, trong hội giảng kinh Lăng Nghiêm đức Phật nói: ‘Tà sư thuyết pháp [nhiều] như cát sông Hằng’. Tà sư là ǵ? Yêu ma quỷ quái rất nhiều, nhiều vô cùng, không thể nào pḥng ngừa được hết! Huống chi bạn không có trí huệ, không có định lực, không có phước báo, th́ bạn làm sao pḥng ngừa cho được? Bạn không có cách chi có thể pḥng ngừa được hết!

           Ngày nay muốn tu phước, nói thực ra nếu đă không tích lũy thiện căn phước đức từ nhiều đời trước th́ bạn đi đâu để tu phước! Người có tiền, có thế lực rất nhiều, họ đều muốn tu phước, kết quả là tiền tài của họ đều bị chôn vùi dưới đất, bị trôi ra biển cả, ch́m xuống đáy biển, không khởi tác dụng chi hết! Làm sao có thể gọi là tu phước được? V́ vậy nếu muốn trong một đời này thiệt có thể văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới th́ mười điều này vô cùng quan trọng, nếu bạn khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác trái ngược với mười điều này, bất luận bạn niệm Phật niệm giỏi cách mấy th́ cũng không thể văng sanh, chỉ kết một chút duyên với Phật mà thôi. Nếu bạn niệm Phật có thể tương ứng với mười điều này, vậy th́ xin chúc mừng cho bạn, đời này bạn nhất định có thể văng sanh, bạn xứng đáng là đệ tử Di Đà, không là phàm phu, trong kinh nói: ‘Đệ tử số một của Như Lai’ là chỉ bạn đấy, bạn có thể nhận lấy danh xưng này.



5.     Niệm Phật phải tương ứng với thập đức

Điều sau cùng là ‘Niệm Phật’; Phật ở đâu? Chín điều nói ở phía trước đều là Phật. Chân thành là Phật, Thanh tịnh là Phật, B́nh đẳng là Phật, Chánh giác là Phật, Từ bi là Phật, Nh́n thấu, Buông xả, Tự tại, Tùy duyên đều là Phật, sau đó bạn mới biết mười câu này tức là một câu. Đúng như kinh Hoa Nghiêm nói: ‘Một tức là nhiều, nhiều tức là một’. Sai biệt và b́nh đẳng không hai, tách ĺa ra nói về [từng điều trong] mười điều là sai biệt, hợp lại để nói là b́nh đẳng một thứ, đây gọi là Niệm Phật. Mọi người đều biết lời cổ đức: ‘Một niệm tương ứng một niệm Phật, Niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật’. Tương ứng với cái ǵ? Tức là tương ứng với Chân thành, Thanh tịnh, B́nh đẳng, Chánh giác, Từ bi, Nh́n thấu, Buông xả, Tự tại, Tùy duyên. Trong từng tiếng Phật hiệu đều đầy đủ cương lĩnh này, như vậy mới gọi là Niệm Phật. Nếu miệng niệm A Di Đà Phật, nhưng trong tâm toàn là tham, sân, si, mạn th́ không phải là người niệm Phật, có câu nói: ‘hét bể cuống họng cũng uổng công’, từng tiếng Phật hiệu đều phải tương ứng mới được!

Mười [tánh] đức trên đều viên dung, hàm nhiếp trong một câu Phật hiệu, như vậy mới gọi là người niệm Phật, đây mới gọi là tu Tịnh Độ. Các bạn đồng học hỏi tôi phải tu như thế nào? Không có ǵ khác, cả đời này những ǵ tôi tu phải là mười điều này, tôi phải tương ứng với mười điều này. Hôm nay có duyên với mọi người tôi truyền thọ mười điều này cho quư vị, trong Tông Môn có ‘Truyền tâm pháp yếu’, th́ đây không có ǵ khác với truyền tâm pháp yếu. Hy vọng mọi người đều phát tâm Bồ Đề chân chánh, nối tiếp Huệ mạng của Phật, hoằng pháp lợi sanh, đây là đại nguyện. Nếu muốn đại nguyện trở thành sự thật, muốn thực hiện đại nguyện, mà không có tâm hạnh này, th́ tâm nguyện đều là giả, không phải thật. Có tâm chân thành, từ bi, có nh́n thấu, buông xả, niệm Phật mới được, nguyện của bạn mới là chân thực, bạn nhất định có thể làm được.

Sau cùng, quan trọng nhất là ‘Một là mười, mười là một’, bất cứ một điều nào cũng hàm nhiếp (bao gồm) chín điều kia, tuyệt đối không thể tách rời. Do đó điều nào cũng viên dung, hàm nhiếp [lẫn nhau], sau khi khế nhập vào th́ thật tự tại! Thật hoan hỷ! Bạn đích thân cảm giác được, cảm giác được một cách rất rơ ràng, chư Phật gia tŕ, chư Phật hộ niệm, Long thiên lo lắng, giúp đỡ; bạn sẽ cảm thấy rất minh hiển [rơ ràng], thật là tâm tưởng sự thành. Ngày nay trong tâm chúng ta nghĩ ǵ cũng đều là vọng tưởng, không thể thành công; tại sao không thể thành công? V́ không tương ứng. Nếu bạn có thể tương ứng th́ tức là ‘trong nhà Phật có cầu ắt ứng’. Lúc cầu mà không thể ứng (cầu không toại nguyện) th́ có hai nguyên nhân, một là chúng sanh không có phước, hoặc là hiện nay c̣n chưa cần tới. Lúc thực sự cần th́ vừa động niệm liền hiện ra ngay.



6.     Hết thảy phải làm từ tâm chân thật

Cho nên hết thảy đều phải bắt đầu từ tâm chân thật, đây lời giáo huấn của Thiện Đạo đại sư. Thiện Đạo đại sư là đức Phật A Di Đà hóa sanh. Trên lịch sử ghi chép A Di Đà Phật hoá thân tái lai có: Thiện Đạo đại sư, Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư, Phong Can Ḥa Thượng, đây là việc mọi người đều biết. Di Đà hóa thân đến, những lời Ngài nói tức là A Di Đà Phật đích thân nói vậy. Chúng ta muốn trong một đời này thực sự đạt được hạnh phúc, thực sự đạt được gia đ́nh mỹ măn, sự nghiệp thành công thuận lợi, học mười điều này mới thực sự đạt được, tách rời khỏi mười điều này th́ đều là có danh không thật, đều không chân thật.

Ở Mỹ chúng tôi đặc biệt lấy mười điều 20 chữ này ghi trên huy hiệu bằng đồng, cúng dường chư vị đồng tu, các bạn đều đă nhận được. Hy vọng các bạn thường thường nh́n thấy, thường thường suy nghĩ đến, hiểu rơ ư tứ trong đó thật là vô cùng sâu rộng, không những bất kỳ một điều nào cũng bao hàm hết chín điều kia, bất kỳ điều nào cũng hàm chứa hết thảy vô lượng diệu lư của chư Phật, hàm chứa hết thảy pháp thế gian và xuất thế gian, nếu bạn hướng về phía này mà nh́n th́ ư thú vô cùng sâu xa. Tương lai khi chúng ta giảng kinh thuyết pháp, khuyến đạo chúng sanh, mục đích của mỗi lần diễn giảng, bất luận thời gian nói chuyện dài hay ngắn, nội dung sâu cạn đều không kể, [bạn phải đặt câu hỏi] bạn dạy người ta những ǵ? [Nếu bạn] dạy một điều trong mười điều này th́ phương hướng, mục tiêu của bạn sẽ chính xác. Trong lời [giảng của bạn] có hàm chứa thực chất! Sẽ không [có trường hợp] người ta nghe hết nửa ngày rồi cũng chẳng biết bạn đang nói những ǵ, bạn thực sự có thể dẫn dắt hết thảy chúng sanh hướng về Phật đạo. Mỗi chữ mỗi câu trong mười điều này đều là Phật đạo, mọi người phải hết ḷng nỗ lực làm theo. Ở nước ngoài có rất nhiều địa phương muốn mời bạn đi giảng kinh, chờ đợi bạn đi hoằng pháp, nhân duyên vô cùng hy hữu, hy vọng mọi người đều trân trọng.



(1) Khổ khổ: do việc khổ xảy đến nên sanh phiền năo.

Hoại khổ: do pháp vui mất đi mà sanh khổ năo.

Hành khổ: hành nghĩa là dời chuyển. Do hết thảy đều dời chuyển, vô thường nên sanh khổ năo

(2) Phan duyên nghĩa là nương theo cảnh vật bên ngoài mà nghĩ tưởng, toan tính, và hành động bằng thân và miệng.



Phụ lục 1:

Cứu văn kiếp nạn, hóa giải tai nạn phải đẩy mạnh bốn thứ giáo dục

(Giáo dục gia đ́nh là căn bản của hết thảy giáo dục)

Chúng ta đă nói rất nhiều lần, xă hội an định, thế giới ḥa b́nh, nhân dân hạnh phúc được xây dựng trên cơ sở của bốn sự giáo dục, trong đó gốc rễ của giáo dục là giáo dục gia đ́nh, sau đó đến giáo dục trong trường học, giáo dục trong xă hội làm cho nó trưởng thành, cuối cùng tức là giáo dục tôn giáo.

Phải biết sự an nguy của xă hội quyết định ở tại gia đ́nh; sự an nguy của gia đ́nh quyết định ở trên vợ chồng. Sách ‘Trung Dung’ nói: ‘Quân tử chi đạo, tạo đoan hồ phu phụ’ (Đạo của người quân tử khởi đầu từ vợ chồng) cho nên vợ chồng có sự kết hợp hoàn hảo th́ sẽ có gia đ́nh hoàn hảo; có gia đ́nh hoàn hảo th́ sẽ có xă hội hoàn hảo; có xă hội hoàn hảo th́ sẽ có quốc gia hoàn hảo, thế giới hoàn hảo. Nếu như gia đ́nh không kiện toàn, thậm chí không may vợ chồng phải ly hôn, con cái của họ tương lai có thể sẽ biến thành những người có vấn đề trong xă hội, v́ chúng nó thiếu thốn sự thương yêu của cha hoặc mẹ, tâm lư dễ sanh ra bất b́nh thường, nếu không dụng tâm dạy dỗ, không có thầy giỏi bạn tốt vây quanh huấn dụ, sau khi trưởng thành rất dễ biến thành những kẻ gây rối xă hội!

Mục đích chính của giáo dục tôn giáo là: thăng hoa hoàn cảnh con người. Từ sự giúp đỡ từng người chuyển ác thành thiện, chuyển mê thành ngộ, cho đến chuyển phàm thành thánh, thoát ly sanh tử luân hồi, thoát ly lục đạo, thập pháp giới. Nhưng các bạn đồng tu phải biết, gốc rễ của nền giáo dục tôn giáo cũng vẫn là giáo dục gia đ́nh. Nếu chúng ta coi nhẹ điểm này th́ không những không độ nổi người khác, việc tự độ cũng sẽ không thực hiện được.

Chúng ta phải có trí huệ chân thật, phải nhận rơ cốt lơi của vấn đề, xă hội ngày nay động loạn, giữa người với người không có tâm thương yêu đùm bọc, không tin tưởng lẫn nhau, giữa các chủng tộc không tin tưởng nhau, giữa các tôn giáo cũng không tin tưởng nhau, giữa các quốc gia cũng không tin tưởng nhau đều là v́ giáo dục có vấn đề! Không tin tưởng sẽ nghi ngờ, dần dần đi đến hiểu lầm, đề pḥng lẫn nhau, từ từ dẫn đến thi đua pḥng bị quân sự, một khi hai bên chạy đua gia tăng thiết bị quân sự th́ càng tăng thêm nghi ngờ lẫn nhau, cuối cùng th́ chiến tranh bùng nổ một cách vô duyên cớ! Tương lai chiến tranh có xảy ra th́ quư vị đều biết cho dù vơ lực của nước Mỹ có vượt trội hơn bất kỳ nước nào khác, nhưng một khi chiến tranh xảy ra th́ không có kẻ thắng người bại, tất cả đều đi đến hủy diệt, đây đều là lời của các khoa học gia nói, chiến tranh hạch nhân là chiến tranh hủy diệt lẫn nhau, là chiến tranh không có ai thắng ai bại.

Nhận định: Gần đây sự xung đột giữa Ấn độ và Pakistan bộc phát từ tôn giáo tín ngưỡng khác nhau, kỳ thị, bài xích lẫn nhau, cuối cùng đi đến thù hận, v́ cả hai bên đều có vơ khí nguyên tử, một khi chiến tranh bộc phát, chỉ cần một bên [ngông cuồng, liều mạng] dồn hết sức lực vào ván bài cuối cùng, th́ chiến tranh nguyên tử rất có thể xảy ra, thế nên những nước lân cận vô cùng lo âu, sợ bị liên lụy. Từ đây có thể thấy sự quan trọng của việc đẩy mạnh bốn thứ giáo dục [kể trên] để có thể tăng thêm sự hiểu biết lẫn nhau, hóa giải hiểu lầm và thù hận.



Phụ lục 2:

Khai thị tâm yếu của Ấn Quang đại sư

‘Đôn Luân Tận Phận, Nhàn Tà Tồn Thành, Tín Nguyện Niệm Phật, Cầu sanh Tịnh độ’.

Đôn Luân Tận Phận. Đôn nghĩa là thành khẩn ḥa mục, Luân chỉ nhân luân. Đôn Luân nghĩa là người với người đối xử tương thân tương ái lẫn nhau. Đại sư nói với chúng ta: phải làm tṛn trách nhiệm và nghĩa vụ của con người. Trách nhiệm và nghĩa vụ này chính là bổn phận của mọi người nên làm. Những ǵ là bổn phận của mọi người phải nên làm? Tức là luân thường, và cũng là [quan hệ giữa] vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè. Nếu có thể hoàn thành trọn vẹn năm thứ quan hệ này gia đ́nh mới hạnh phúc, xă hội, quốc gia mới an định.

Quan hệ vua tôi [ngày nay] nghĩa là quan hệ giữa người cấp trên và người cấp dưới hoặc là giữa chủ và nhân công. Phải làm sao? Tức là ‘Vua dùng lễ đối đăi với bầy tôi, bầy tôi dùng ‘trung thành’ để đối xử với vua’; người chủ phải biết tôn trọng và lo lắng cho nhân công, đối với những việc mà cấp trên giao phó, nhân viên phải phụ trách trung thành, hết ḷng đi làm, đây là đạo lư quân thần (giữa người lănh đạo và người thuộc hạ). Đạo lư cha con là: người làm cha phải dùng bản thân của ḿnh để làm nguyên tắc, làm gương tốt cho con cái, nghiêm nghị dạy dỗ cho con cái thành người tốt, người thiện, đây mới là từ ái chân chánh. Làm con phải cảm được ân đức dạy dỗ, dưỡng dục của cha mẹ th́ tự nhiên phải hiếu kính cha mẹ. Đạo lư vợ chồng là then chốt của hạnh phúc gia đ́nh, ch́a khoá làm cho xă hội an định. Vợ chồng ḥa hợp th́ gia đ́nh mới có hạnh phúc, và mới có đời sau ưu tú, kiện toàn. Cho nên làm chồng phải có trách nhiệm với gia đ́nh, có t́nh nghĩa với vợ, có ân nghĩa đối với cha mẹ, con cái. Làm vợ nhất định phải ḥa thuận, uyển chuyển, cùng với chồng dạy con, diễn vai tṛ người vợ hiền, dâu thảo, mẹ hiền. Đạo lư anh em: t́nh anh chị em như chân tay, thương yêu lẫn nhau, lo lắng chăm sóc cho nhau, không làm cho cha mẹ bận tâm, đây cũng là làm tṛn đạo hiếu. Đạo lư bạn bè: giao thiệp với bạn bè phải kết rộng thiện duyên, t́m cầu tín nghĩa, dùng tâm thành giao thiệp, được vậy mới có thể duy tŕ t́nh bạn lâu dài.

Năm thứ quan hệ kể trên là gốc rễ của luân thường, năm thứ căn bản này là để xây dựng hạnh phúc gia đ́nh mỹ măn, là then chốt cho sự an định xă hội, quốc gia.

Nhàn Tà Tồn Thành: Nhàn nghĩa là ngăn ngừa, đ́nh chỉ. Tà nghĩa là tà ác. Nhàn Tà tức là ngăn ngừa tà ác xâm nhập. Trong đời sống sanh hoạt hằng ngày cần phải giữ tâm thanh tịnh, tĩnh tọa thường suy nghĩ coi ḿnh có lỗi lầm hay không để pḥng ngừa hết thảy tà nhiễm. Tồn Thành nghĩa là giữ ǵn tâm tánh trung thành, khi đối xử với người và xử lư công việc thường giữ tâm cung kính kiền thành, lâu dần tự nhiên có thể chân thành trong tâm và biểu hiện ra ngoài, nhân cách và việc làm của bạn nhất định sẽ được mọi người tôn sùng và kính yêu.

Tín Nguyện Niệm Phật Cầu Sanh Tịnh Độ: Thật sự thiết tha tin tưởng A Di Đà Phật th́ chỉ cần dùng tâm chân thành để niệm Phật một cách liên tục, nhất định có thể văng sanh Cực Lạc Thế giới, thân cận Di Đà, và chư thiện tri thức, cùng làm học tṛ của đức Phật A Di Đà, vĩnh viễn thoát ly sự khổ của sanh tử luân hồi.



Tồn hảo tâm, thuyết hảo thoại, hành hảo sự, tác hảo nhân.

Giữ tâm tốt, nói lời lành, làm việc tốt, làm người tốt.



Tu hành bắt đầu từ sửa đổi tâm niệm.

Lăo ḥa thượng Tịnh Không chỉ rơ: phương pháp sửa đổi vận mạng phải dựa vào sự chuyển biến -- chuyển ác thành thiện, chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm thành thánh.

Các vị đồng tu đều biết ‘trồng nhân thiện th́ được quả thiện’, nhưng nếu nghiệp báo chưa chuyển trở lại th́ rất dễ than trời trách người, trách Phật, Bồ Tát không linh, trách thần không phù hộ, ắt phải kiểm thảo nguyên nhân của nó. Chuyện Du Tịnh Ư gặp Táo Thần (Táo quân, Thần bếp) rất đáng để chúng ta nghiên cứu tham khảo. Làm việc thiện không phải chỉ làm trên công phu bề ngoài, ngoài ‘khẩu thiện, thân thiện’ càng quan trọng hơn phải là ‘tâm thiện, ư thiện’.

Những đại đức thời xưa dạy ‘Tu hành phải bắt đầu từ căn bản’, căn bản là tâm, là ư niệm, chỉ cần tâm bạn thiện, ư niệm thiện th́ không có nghiệp báo nào mà không thể chuyển đổi được, và cũng không có tai nạn ǵ không thể hóa giải được. Cũng giống như một cây cổ thụ, tâm là rễ, ư niệm là gốc, thân là cành, khẩu là lá, nếu bạn tu sửa trên cành lá mà gốc rễ đă mục nát th́ không thể nào cứu được! Phải sửa đổi gốc rễ, căn bản trước, cành lá sẽ rất dễ chuyển biến.

A Di Đà Phật

Trong quá tŕnh chuyển ngữ chắc không tránh khỏi thiếu sót, xin các bậc thức giả hoan hỷ phủ chính cho.

Xin thành thật cám ơn.



__________________
Trên đời này tất cả đều trở về cội nguồn của nó
Quay trở về đầu Xem amduong05's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi amduong05
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 6 of 7: Đă gửi: 21 March 2006 lúc 9:08pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Chân thành cảm ơn bạn amduong05 đă post bài này, làm cho người tu tịnh vững an cơi ḷng mà tiến tu.
Nam mô Công Đức Lâm Bồ Tát, Ma ha Tát
Kính chúc bạn thân tâm thường tinh tấn, hạnh nguyện sớm viên thành.
Phổ Quảng
thânchào
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
nhoccon1412
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 15 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 329
Msg 7 of 7: Đă gửi: 17 September 2006 lúc 10:11pm | Đă lưu IP Trích dẫn nhoccon1412

chân thành cảm ơn bạn amduong05 !

__________________
_/|\_ Nam Mô A Di Đà Phật _/|\_

http://phapam.good.to
Quay trở về đầu Xem nhoccon1412's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhoccon1412
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 3.2598 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO