Uyên Hà Hội Viên
Đă tham gia: 17 May 2010 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 181
|
Msg 30 of 51: Đă gửi: 02 January 2011 lúc 10:51pm | Đă lưu IP
|
|
|
TRẠCH THỦY KHỐN
Khốn:
hanh ; trinh, đại nhân cát, vô cữu ; hữu ngôn bất tín.
Quẻ Khốn tượng
trưng cho sự khốn cùng: cố gắng vượt tất được hanh thông ; nên giữ vững chính bền,
bậc ‘đại nhân’ sẽ được tốt lành, không bị cữu hại ; lúc này có nói vị tất đă được
người tin.
Chú thích: khốn là tên quẻ, dưới quẻ Khảm dương trên quẻ Đoài âm, tượng trưng
cho sự khốn cùng. Thích văn nói: “Khốn là cùng, có nghĩa cùng khốn, tiều tụy, bị
che lấp, mỏi mệt, thiếu hụt”.
Tạ Điệp Sơn nói “Khốn với Tỉnh cũng như
trong với ngoài. Khốn th́ trong đầm không có nước, Tỉnh th́ trên cây có nước.
Khốn có nghĩa Vị tế bế tắc, Tỉnh có nghĩa Kư tế thông sáng.”
Khổng Dĩnh Đạt chú “Khốn thể hiện sự cùng
ách, uốn ḿnh, đường cùng sức kiệt, không thể tự vượt được, cho nên gọi là Khốn.”
Hanh
– câu này nói lên người quân tử ở cảnh ‘khốn’ th́ nên tự vượt, tất sẽ hanh
thông. Vương Bật chú “Khốn tất sẽ thông ; ở cảnh khốn mà không tự làm cho thông
là kẻ tiểu nhân”. Nỗ lực tự cứu, v́ nói ra th́ có ai tin.
Trinh,
đại nhân cát, vô cữu – câu này tiếp chữ ‘hanh’ nói lên ở vào thời ‘khốn’,
chỉ có bậc đại nhân giữ chính mới có thể được ‘cát’ khỏi ‘cữu hại’, hào Chín
Hai và Chín Năm dương cứng ở ngôi giữa, chính là tượng cụ thể về bậc ‘đại
nhân’. Khổng Dĩnh Đạt nói “Ở thời khốn mà có thể tự thông, tất là người ‘xéo’
chính, thể (chất) lớn ; vượt qua được thời khốn, sau đó mới được ‘cát’ mà ‘vô cữu”.
Chu Hy chú “Khốn cùng là tự ḿnh chẳng thể dấy lên được, như thể trong quẻ Khảm
hào Hai dương bị hai hào âm che lấp, c̣n thể ngoài quẻ Đoài hào Bốn dương và
Năm dương bị hào Trên âm che lấp. Trong th́ hiểm mà ngoài th́ duyệt ở chỗ hiểm,
th́ ḿnh dẫu bị khốn mà đạo lại hanh.”
Hữu
ngôn bất tín – câu này nói ở thời ‘cùng khốn’, có nói điều ǵ cũng khó được
người tin. Cho nên lúc này nên sửa đức ḿnh, ít nói là tốt. Vương Bật chú “Ở
vào thời khốn, không phải lúc nói mà được tin ; không phải là lúc làm theo lời
nói, mà nếu muốn dùng lời nói để qua khỏi (được thời này), th́ tất cùng khốn
thôi”. Dương cương ở chỗ tối tăm th́ nên yên lặng.
Trong Bạch Thư
Chu Dịch, thứ tự quẻ Khốn là 45, đối với bản Dịch thông lệ có thứ tự là
47. Trương Lập Văn dịch “Hưởng tế. Gieo quẻ hỏi đại nhân chắc có may mắn, không
có tai họa ǵ, người ta có nói ǵ cũng không nên tin” (Hưởng tế, chiêm vấn đại
nhân tắc cát tường, một hữu tai hoạn, tha nhân hữu ngôn, kỳ ngôn bất khả tín)
Đặng Cầu Bá giảng ‘hữu ngôn bất tín’ là
“có lời mà không thốt ra được”, ông giảng ‘tín’ là giả tá cho ‘thân’, tức là ‘bất
thuyết xuất khứ’ (không thể nói ra được), và ông dịch như sau “Thân bị lâm vào
cảnh tù tội, tế cúng gieo quẻ để hỏi, được quẻ đoán đại nhân rất tốt và không
có tai họa ǵ. Những điều này, tuyệt đối không thể nói ra được”. Khi ta chấp nhận
cách giải thích này, th́ có thể đây là quẻ nói về hoàn cảnh Chu Văn Vương khi bị
giam trong ngục Dữu Lư.
Wilhelm b́nh luận “Quẻ trên thuộc âm (bóng
tối), quẻ dưới thuộc dương (ánh sáng). Như vậy ở khắp nơi, người quân tử đều bị
tiểu nhân chèn ép và khống chế.”
Thoán
viết: Khốn, cương yểm dă. Hiểm dĩ duyệt, khốn nhi bất thất kỳ sở hanh, kỳ duy
quân tử hồ ! ‘Trinh, đại nhân cát’, dĩ cương trung dă ; ‘hữu ngôn bất tín’, thượng
khẩu năi cùng dă.
Thoán truyện
nói: Khốn cùng, biểu thị dương cứng bị che lấp, không thể phát triển. Gặp hiểm
nạn mà trong ḷng vui tươi, như vậy tuy ở cảnh khốn cùng cũng không mất một viễn
cảnh hanh thông, nói chung chỉ người quân tử mới được như vậy ! “Giữ vững chính
bền, bậc đại nhân sẽ được tốt lành”, nói lên sự vượt khốn, cầu hanh nên có đầy
đủ đức đẹp dương cứng, trung ḥa ; “lúc này có nói vị tất đă được người tin”,
nói lên chuộng miệng nói th́ không những vô ích mà ngược lại, lại càng cùng
ách.
Chú thích: Yểm là câu giải thích tên quẻ Khốn, nói lên ‘khốn cùng’ là do dương
cứng bị lấp mà không thể phát triển. Hăm ở dưới mà che ở trên đó là Khốn, có
nghĩa là quân tử bị tiểu nhân che lấp, là thời đạo quân tử khốn tắc vậy. Khảm
dưới là dương, Đoài trên là âm, dương ở dưới âm, chính là tượng “cứng bị yểm”.
Khổng Dĩnh Đạt chú “Câu này lấy hai thể để giải thích tên quẻ, quẻ âm Đoài là mềm,
quẻ dương Khảm là cứng ; Khảm dưới Đoài, là cứng bị che lấp bởi mềm vậy. Cứng lẽ
ra là tiến lên, nay bị mềm che lấp, ứng dụng vào người, cũng như bậc quân tử bị
kẻ tiểu nhân che lấp, thế là khốn cùng đó.”
Án, về nghĩa của ‘cương yểm’, các nhà giải
thích khác nhau, như ‘Tập giải’ dẫn lời Tuân Sảng nói “Nghĩa là hào Hai hào Năm
bị hào Âm che lấp ; hào Bốn hào Năm bị hào Trên che lấp” ; ‘Thượng Thị học’ viết:
“Khảm cứng bị che lấp, hào Ba hào Trên che lấp”. Những thuyết chú giải của các
nhà nên tham khảo.
Hiểm
là chỉ quẻ Khảm dưới, duyệt là chỉ
quẻ Đoài trên, câu này lấy tượng quẻ trên dưới để giải thích nghĩa của lời quẻ
“hanh”, có nghĩa là người quân tử ở thời ‘khốn’, tuy ở cảnh hiểm mà vẫn vui
tươi, là dấy hiệu cho sự lạc quan, cho nên có thể tự vượt qua cảnh hiểm mà
‘hanh’. Trương Trung Khê nói “Ở cảnh hiểm mà đẹp ḷng, như thầy Nhan Hồi ở
trong ngơ hẹp mà chẳng đổi được sự vui, ông Liễu Hạ Huệ bị khốn cùng mà chẳng
buồn, đức Phu Tử bị nguy ở nước Trần nước Khuông, thầy Mạnh Tử bị bỏ ở Tang
Thương, ḿnh càng khốn mà đạo càng hanh, chỉ có người quân tử mới có được như vậy.”
Vương Bật cũng nói “Ở cảnh hiểm mà không đổi (long) vui, ‘khốn’ mà không mất điều
hanh”.
Dĩ
cương trung dă – câu này lấy tượng hào Hai và hào Năm dương cứng ở ngôi giữa,
để giải thích lời quẻ “trinh, đại nhân cát, vô cữu”, nếu không cương trung mà gặp
phải cảnh ‘khốn’, th́ ắt sẽ mất chính. Tŕnh Di chú “Khốn mà vẫn chính bền, cho
nên bậc đại nhân được cát, đó là v́ họ có đạo ‘cương trung’. Đây là chỉ hào Hai
và Năm. Nếu không ‘cương trung’, th́ gặp cảnh khốn đă mất sự chính vậy.”
Hồ Vân Phong chú “Cương bị khốn ở nhu
cũng như người ta bị khốn ở tật bệnh, mà Dịch chỉ chuyên luận về cảnh khốn là
chẳng thông, cũng như biết là tật mà chẳng biết dùng thuốc, như vậy th́ sao mà
dùng được Dịch, cho nên Thánh nhân nói ‘khốn hanh’, Dịch truyện nói ‘khốn’ mà
chẳng mất hanh.”
Thượng
khẩu năi cùng dă – câu này giải thích lời quẻ “hữu ngôn bất tín”. Khổng
Dĩnh Đạt chú “Ở cảnh khốn, cầu điều thông, là ở chỗ phải đức, không thể dùng lời
nói để thoát khỏi cảnh khốn ; chỉ chuộng về miệng nói th́ lại càng khốn cùng,
cho nên nói ‘chuộng miệng nói th́ cùng’ là vậy”. Theo Chu Hy những câu này là lấy
quái đức và quái thể để giải thích quái từ.
Tượng
viết: Trạch vô thủy, khốn ; quân tử dĩ chí mệnh toại chí.
Tượng truyện
nói: Trên đầm không có nước, tượng trưng cho sự khốn cùng ; người quân tử nhân
vậy ở thời cùng khốn, thà mất đi mạng sống cũng phải thực hiện cho được chí hướng
cao cả.
Chú thích Vương Bật chú “Đầm không
nước, th́ nước ở dưới đầm ; nước ở dưới đầm, là tượng quẻ Khốn”, thời khốn cùng
đă hết đạo pḥng lo mà chẳng thoát được, ấy là mệnh. Chí mệnh theo Chu Hy “Như nói thụ mệnh (thụ là đưa, trao, khác với
nghĩa thụ là nhận), ư nói đưa nó cho người, coi như không có nó”, hàm nghĩa ‘bỏ
mất mạng sống’ ; toại là thành tựu,
như nói ‘thực hiện’. Người biết mệnh nên học cách biết chấp nhận, gặp cảnh cùng
tắc họa hoạn, chẳng lấy làm động ḷng, người không biết mệnh mới sinh ‘lo sợ’
Khổng Dĩnh Đạt chú “Người quân tử, giữ đạo
thà chết, tuy găp đời khốn ách, dù phải hy tính mạng táng thân cũng phải thực
hiện chí hướng cao cả cho bằng được, không phải do nao núng hay khuất phục mà
làm biến đổi được”, cho nên nói ‘chí mệnh toại chí’ vậy”, đi sâu phân tích về lẽ
‘khốn’ mà đến ‘hanh’.
Trí
mạnh có tượng là Khảm hiểm, toại chí có tượng là Đoài duyệt, Lai Tri Đức viện dẫn
sử chứng nói rằng “Hoạn nạn mà đến, chỉ cần bàn về đúng hay sai, chứ không cần
bàn về lợi hay hại ; chỉ cần bàn về sự coi nó là việc thường hay coi nó là việc
trọng, chứ không cần bàn về sự do nó mà sống hay chết. Sát thân thành nhân, bỏ
mạng sống giành điều nghĩa, may mà thân này c̣n th́ tiếng thơm c̣n măi, không
may thân này chết đi, th́ tiếng (thơm) cũng bất hủ ; Như vậy, há chẳng phải
thân tuy ‘khốn’ mà chí ‘hanh’ sao ? Các bậc đó mà thân c̣n, ấy là chùy sắt của
Trương Lương, khí tiết của Tô Thức, các bậc đó mà thân chết, ấy là Tỉ Can, Văn
Thiên Tường, Lục Tú Phu, Trương Thế Kiệt vậy.”
Không có nước trong hồ, h́nh tượng của sự
cạn kiệt. Vậy v́ sao phải hy sinh tính mạng để bảo toàn chí hướng (trí mệnh toại
chí) ? Mối liên hệ giữa h́nh tượng quẻ và lời từ là ǵ đây ?
Sơ
Lục, đồn khốn vu chu mộc, nhập vu u cốc, tam tuế bất dịch.
Hào Sáu Đầu,
mông bị khốn ở dưới gốc cây không thể ở yên, chỉ lui vào nơi sơn cốc u tối, ba
năm không thấy ló mặt.
Chú thích: chu là thân cây, theo Tŕnh Di “Chu mộc là gốc cây không có cành,
không có lá”, ví như cây khô không có bóng râm che cho vật. Câu này, ư nói hào
Sáu Đầu ở ngôi đầu quẻ Khốn, mềm yếu ở phía dưới, tuy chính ứng với hào Chín Bốn,
nhưng hào Bốn là dương ở ngôi âm, nên mất ngôi là bất chính mất cương, lại Sơ
đă ở vào cảnh dưới khảm hiểm, bị khốn ở âm, cho nên cùng ánh không thể tự giải
quyết, th́ làm sao cứu được sự khốn của người. Ví như mông bị khốn dưới ‘gốc
cây’, chỗ ở khó yên. Vương Bật chú “Ở nơi thấp nhất, ch́m hăm nơi khốn cùng
phía dưới, ở không yên ổn, cho nên nói ‘đồn khốn vu chây mộc’ vậy”.
Nhập
u vu cốc, tam tuế bất địch – tam tuế
như nói ‘nhiều năm’, địch nghĩa là ‘thấy’,
hai câu này tiếp nghĩa câu trước, rồi làm đảo lộn nghĩa cho nó, ư nói lên hào
âm Đầu đi lên trước th́ không có ứng viện, hào Chín Bốn có tượng như cây trơ trụi
không cành lá, bị hào Thượng âm che lấp, không thể che đỡ được. Mông bị khốn ở
gốc cây là tượng nói không được, khó nói, khó giải tŕnh tại sao lại như vậy
(?). Phải vào hang tối là chỉ người âm nhu chẳng được yên cảnh ngộ, đang bị mê
ám vọng động, dẫn tới xa lầy trong u mê không thể tự thoát ra được, vậy là đành
phải đợi cho t́nh h́nh khốn cùng qua đi. Vương Bật chú “Tiến th́ không được cứu
giúp, tất phải ẩn trốn vậy, cho nên nói ‘nhập u vu cốc’ ; Đạo khốn chẳng qua chỉ
một số năm thôi, v́ khốn mà ẩn, khốn hết th́ ra, cho nên nói ‘tam tuế bất địch’
vậy”.
Tượng
viết: “Nhập u vu cốc”, u bất minh dă.
Tượng truyện
nói: “Chỉ c̣n cách lui vào nơi sơn cốc u tối”, nói lên hào Sáu Đầu ẩn thân tạm
bợ ở nơi u ám, không sáng sủa.
Thuyết minh: hào Sáu Đầu âm mềm, nhu
nhược, ngôi thấp mà lại thiếu khí chất dương cứng, chính là tượng ngồi vào nơi khốn
cùng ách tắc, không thể tự đứng dậy được. Trương Thanh Tử nói “Khi người ta đi
th́ ngón chân ở dưới, khi ngồi th́ mông ở dưới, hào Sáu Đầu khốn mà không đi,
đây là tượng khốn mà phải ngồi”. Kinh Thi nói ‘Ra khỏi hang tối, chuyển lên nơi
cây cao lá cả’. Hào Đầu không thể tự chuyển dời lên trên cây cao, mà phải ngồi
chựu khốn dưới gốc cây, ví như gốc cây bị rỗng dưới ḷng đất sụp đổ như ở trong
hang tối, Âm mềm ở ngôi dưới cùng quẻ Khốn, nên có tượng như vậy. Ở người trong
t́nh trạng thấp kém tối tăm, cùng khốn mà không làm sao thoát khỏi được. Nói là
‘đồn’, huống chi là hào này ngồi, mà không dời đi nơi khác được”. Tối th́ chẳng
sáng, là nói càng vào chỗ tối tăm là tự hăm vào sâu trong cảnh khốn ; đă là
sáng th́ không đến nỗi là chỗ tự hăm vậy.
“Bạch Thư Chu Dịch”
ghi chép hào Đầu hơi khác: “Thần khốn vu
chu mộc, nhập vu yếu cốc, tam tuế bất dịch”, Trương Lập Văn dịch “Mông bị
thọ h́nh trượng, lại c̣n bị tống giam trong ngục, ba năm không thấy mặt, chắc
chắn là có tai họa”. Đặng Cầu Bá dịch “Sau khi mông bị một trận đ̣n nhừ tử c̣n
bị tống giam trong ngục, ba năm chưa được phóng thích, bói cỏ thi thấy rất xui
xẻo”.
Cửu
Nhị, khốn vu tửu thực, chu phất phương lai, lợi dụng hưởng tự ; chinh hung, vô
cữu.
Hào Chín Hai,
riệu thịt nghèo nàn cùng khốn, vinh lộc sẽ tới, lợi về sự chủ tŕ đại lễ tế tự
; lúc này tiến thủ tuy nhiều hung hiểm, nhưng không có ǵ cữu hại
Chú
thích:
phất là đai áo y phục khi tế thời
xưa, ‘chu phất’ dụ ư chỉ sự ‘vinh lộc’, Thượng Bỉnh Ḥa chú “Vật mà các bậc tôn
quư mặc khi tế tông miếu”. “Chu phất phương lai” ư nói sẽ được ban thưởng, hay
‘sẽ được trao lệnh’. Lư Kính Tŕ giảng ‘chu phất’ là “trang phục mầu hồng, nói
chung là chỉ các dân tộc mặc áo mầu đỏ, quần áo man di “. Câu này nói lên, hào
Chín Hai ở vào thời Khốn, tuy riệu thịt trong cảnh nghèo nàn gian nan không thuận
lợi, nhưng có thể cứng giữa tự giữ, yên cảnh nghèo vui v́ đạo ; cuối cùng thân
được vinh lộc cũng đến, được cử giữ phần việc trọng yếu khi đại lễ. Ăn uống là việc
mà người ta muốn để thi ân huệ, hào Hai chỉ khốn ở ḷng dục muốn làm ơn cho người,
cứu khốn cho người nhưng chưa thỏa ḷng mà khốn đến cả khi ăn uống, hào Hai có
đức chựu khốn ở trong, lợi dụng sự chí thành như cúng tế để thông và cảm với
người trên, mưu cầu đồng đạo hợp đức.
Ở mọi quẻ, lệ của Dịch lấy hào Hai và hào
Năm là âm dương tương ứng làm ‘cát’, duy có hai quẻ Tiểu súc và quẻ Khốn th́ bị
làm ‘ách’ ở âm, cho nên nói ‘đồng đạo tương cầu’. Quẻ Tiểu súc th́ dương bị âm
chứa, ở quẻ Khốn th́ dương bị âm che lấp.
Lai Tri Đức chú “Hào Chín Hai với đức
cương trung, ở vào thời khốn, cam ḷng chựu khốn để giữ đức trung nên được vua
tin dùng, cho nên có tượng ‘khốn vu tửu thực, chu phất phương lai”.
Chinh
hung, vô cữu - câu này có nghĩa hào Chín Hai yên cảnh nghèo, trong cảnh ‘khốn’
cầu tiến xuất binh chinh phạt có nhiều
hung hiểm, c̣n các chuyện khác không có tai họa ǵ lớn; nhưng lấy đức đẹp
‘cương trung’ để nỗ lực vượt cảnh khốn, mà không nề hà ǵ về yên hay nguy, xả thân
để ‘toại chí’, cho nên cuối cùng được ‘vô cữu’. Nếu không chí thành ở yên đợi mệnh,
nếu chẳng lựa thời mà đi th́ tự ḿnh rước lấy nạn hung, sẽ khốn v́ động làm mất
đức ‘cương trung’. Lai Tri Đức chú “Răn cho người xem bói nên có ḷng chí
thành, th́ tuy có ‘hung’ mà vẫn được ‘vô cữu’ vậy.”
Tượng
viết: “Khốn vu tửu thực”, trung hữu khánh dă.
Tượng truyện
nói: “Riệu th́ nghèo nàn mà khốn cùng”, nói lên Chín Hai chỉ cần giữ vững đạo
giữa th́ sẽ có phúc khánh.
Chú
thích: Ư lớn của hào này chủ về người (quân tử) thân tuy bị ‘khốn’ mà đạo
lại ‘hanh’. Tuy bị ‘khốn’ về ḷng muốn làm ơn cho người, dẫu ở thời chưa được
hanh thông, chỉ giữ được đức “ trung ” để mọi sự thông là đủ.
Lai Tri Đức dẫn sử chứng nói rằng “Đây tức
như việc của Khổng Minh, ‘khốn tửu thực’ là h́nh tượng nằm ở đất Nam Dương ;
‘chu tất phương lai’ là h́nh tượng Lưu Bị ba lần đến mời (ra giúp); ‘lợi dụng
hưởng tự’ là tiếp nhận sự thăm viếng; ‘chinh hung’ là đến chết mới thôi; ‘vô cữu’
nghĩa là vua tôi không lỗi “.
Lục
Tam, khốn vu thạch, cứ vu tật lê ; nhập vu kỳ cung, bất biến kỳ thê, hung.
Hào Sáu Ba,
khốn ở dưới đá lớn (đá rắn khó vào), dựa vào cây tật lê (nhiều gai khó dẫm) ;
dù có chạy về nhà cũng không thấy vợ, có hung hiểm. (Bị giam trong
ngục đá, nằm trên đám cỏ gai, khi được thả về nhà th́ chẳng thấy vợ đâu. Bói được
hào này là xui tận mạng)
Chú thích: thạch ví với hào Chín Bốn, tật
lê là loài thảo mộc một năm ra một lần, quả có gai, ví với hào Chín Hai ; cung là cư thất, tức là nhà ; kiến kỳ thê Vương Bật nói là “thấy được
người phối ngẫu”, ở đây nói người phối ngẫu như là vợ.
Hào Sáu Ba âm mềm, mất chính, lấy chất âm
ở ngôi dương, có chí ‘cương vũ’ (dùng kiểu cứng), do không có ứng, thân kề hào
Chín Bốn muốn cầu hào này làm phối ngẫu, nhưng Chín Bốn đă ứng với hào Đầu; ở
nơi cực hiểm mà dùng cương cứng là nơi chẳng làm chẳng tiến được, sức không thắng
được, bền chẳng phạm được với hai hào dương ở trên, sức chẳng phạm được mà cứ mạo
phạm là tự hăm vào khốn, tự rước lấy khốn theo nghĩa ‘khốn vu thạch’. Hào Ba lại
cưỡi lên trên hào Chín Hai mà lấy đức bất thiện, cũng lại muốn cầu phối ngẫu,
nhưng hào Hai cương cường không chựu. Tiến thoái đều bị khốn mà muốn yên cũng
chẳng được – nghĩa của hào này chủ về lâm vào chỗ khốn, mất chính đạo, tất có
hung hiểm.
Vương Bật chú “Đá là vật rắn mà không thể
vào được, là hào Bốn vậy; Hào Ba lấy chất âm ở ngôi dương, chí ở chỗ ‘cương
vũ’. Hào Bốn tự nạp hào Đầu không nhận hào Ba ; hào Hai không phải là nơi dựa
được, cứng không phải là hào cưỡi được. Trên thân kề với ‘đá khốn’, dưới dựa
vào cây ‘tật lê’, không ứng mà vào, làm sao mà phối ngẫu được ? Ở ngay cảnh khốn,
‘hung’ là đúng vậy”.
Trương Lập Văn theo Bạch Thư Chu Dịch dịch “Người có tội, bị trói trên đống
đá, sau đó bị tống giam vào ngục nằm trên cỏ gai. Khi được tha về nhà chẳng thấy
vợ đâu. Tất nguy hiểm”. Đặng Cầu Bá giảng “Đúng là cảnh nhà dột lại gặp thêm
mưa đêm rả rích, đă cùng cực lại gặp thêm khó khăn chồng chất, bói cỏ thi thấy
quá xui”.
Tượng
viết: “Cứ vu tật lê”, thặng cương dă ; “nhập vu kỳ cung, bất kiến kỳ thê”, bất
tường dă.
Tượng truyện
nói: “Dựa vào cây tật lê”, nói lên hào Sáu Ba lấy chất âm mềm cưỡi lên kẻ cương
cường ; “dù có chạy về nhà cũng không thấy vợ”, đây là hiện tượng chẳng lành.
Thuyết minh: Sự ‘hung’ của hào Sáu Ba,
một mặt do v́ mất ngôi, không ứng ; một mặt lại càng do v́ nơi không phải nơi
ḿnh khốn, chỗ đó không phải là chỗ ḿnh dựa. Bất tường là điềm chẳng lành tức
là mất nơi ở yên.
Hệ Từ Hạ Truyện dẫn lời Khổng Tử khi giải
thích nghĩa của hào này “Không phải chỗ đáng bị khốn mà ḿnh bị khốn, th́ danh ắt
bị nhục ; không phải chỗ đáng dựa mà ḿnh dựa vào, th́ thân tất nguy. Đă bị nhục
lại bị nguy th́ sắp chết tới nơi rồi, c̣n thấy sao được vợ nữa.”
Chu Hy chú “Đá chỉ hào Bốn, tật lê chỉ
hào Hai, Cung là chỉ hào Ba, vợ là hào Trên vậy.”
Vương Đông Khê nói “Hào Ba là âm ở ngôi
dương, tự cho ḿnh là dương cương, cho nên đi cầu sánh đôi với hào Trên, hào
Trên là ‘cung’ mà chẳng phải là vợ”. Cung là nơi ở yên, người vợ làm chủ, nay
âm nhu thể hiểm đường cùng, đi cầu âm nhu ở thể ‘vui’ tới cực thật là tối nghĩa
!
Cửu
Tứ, lai từ từ, khốn vu kim xa, lận, hữu chung.
Hào Chín Bốn,
do đến từ từ (chậm trễ), bị một cỗ xe sắt chặn lại, có điều hối tiếc ; nhưng cuối
cùng được phối ngẫu như nguyện.
Chú
thích: lai chỉ hào Bốn đến ứng với
hào Đầu. Thích Văn giảng “từ từ chỉ
trạng thái chậm có nghi sợ”; kim xa
chỉ hào Chín Hai.
Hào Chín Bốn lấy chất dương cứng ở ngôi đầu
thể trên là thể ‘duyệt’, muốn xuống dưới ứng với hào Sáu Đầu, nhưng bản thân mất
chính, đường trước mặt bị hào Hai chặn, có tượng ‘khốn vu kim xa’, do vậy mà
nghi sợ nên đi từ từ. Đặng Cầu Bá giảng “Nhân v́ đi trậm nên đến trễ, do đó bị
cấm không cho đi”. Nhưng v́ hào Đầu và hào Bốn là chính ứng, hào Bốn tuy chựu
khốn, có điều tiếc không thể đến nhanh, nhưng do đến một cách khiêm cẩn nên đă
gặp được nhau, v́ vậy tuy ‘thẹn tiếc’ mà ‘có sự gặp nhau tốt đẹp’.
V́ sức chẳng đủ nên chựu khốn, tài chẳng
đủ để cứu khốn cho người, mà đạo hanh khốn ắt do ở viện trợ, trong cảnh khốn
trên dưới cùng cầu là lẽ đương nhiên. Nhưng đă đi cầu ở với ứng, lại c̣n nghi
ngờ mà muốn đi theo người khác chăng, cánh ứng xử này để lại hệ lụy đáng lo ngại.
Hào Hai có tài cương trung đủ để cứu khốn, hào Đầu liền kề với hào Hai, làm cho
hào Đầu chí ở hào Hai vậy.
Vương Bật giảng “Kim xa là hào Hai, hào
Hai cứng để chuyên chở, cho nên gọi là kim xa, từ từ là lời nói lên sự nghi sợ,
chí ở nơi hào Đầu, mà bị ngăn cách bởi hào Hai, ‘xéo’ không đáng ngôi, uy lệnh
không thi hành được ; hào Bốn bỏ nó (hào Đầu) th́ không thể được, muốn tới lại
sợ hào Hai. Có ứng mà không thể vượt qua hào Hai, cho nên nói ‘lận’ vậy ; tuy
nhiên lấy chất dương ở ngôi âm, ‘xéo’ đạo Khiêm, lượng sức xử thế, không tranh
với hào Hai, tuy không đáng ngôi, những được các hào khác giúp đỡ nó, cho nên
nói ‘hữu chung’ vậy.”
Tượng
viết: “Lai từ từ”, chí tại hạ dă ; tuy bất dương vị, hữu dữ dă.
Tượng truyện
nói: “Đến một cách từ từ nghi ngại”, nói lên tâm chí hào Bốn ở nơi cầu hợp với
hào Đầu ; mặc dù ngôi vị không thỏa đáng, nhưng do đến một cách khiêm cẩn, nên
rất có thể đẹp ḷng như nguyện.
Chú thích: hữu dữ - là ư nói do được mọi người giúp đỡ, khiến nó đẹp ḷng như
nguyện. Ở chẳng đáng ngôi là chưa thể được thiện.
Ngô Lâm Xuyên giảng “Dưới là nói Sơ, chí ở
cứu Sơ. Chẳng đáng ngôi là nói về âm nhu, cho nên đi đến từ từ, dẫu có đến chậm
cũng cứu được khốn cho Sơ.” Khổng Dĩnh Đạt giảng “Tuy không đáng ngôi, nhưng do
giữ được đức khiêm, nên mọi người đều giúp đỡ.”
Hào Bốn sở dĩ mất ngôi, chựu khốn mà lại
‘hữu chung’, là do nguyên nhân quan trọng: âm dương tương ứng, cho nên cuối
cùng khó có sự ngăn trở. Du Viêm giảng “Trong sáu hào th́ hào Hai và hào Năm đều
cứng, hào Ba và hào Trên đều mềm, chỉ có hào Đầu và hào Bốn chính ứng âm dương
tương đắc với nhau, cho nên đặc biệt nói là ‘hữu dữ’ vậy.”
Cửu
Ngũ, tị ngoạt, khốn vu xích phất ; năi từ hữu thoát, lợi dụng tế tự.
Hào Chín Năm,
dùng h́nh phạt xẻo mũi, chặt chân để trị chúng dân, đến nỗi ở ngôi tôn quư mà bị
khốn cùng ; nhưng có thể dần dần thoát khỏi cảnh khốn, lợi về sự làm lễ tế.
Chú
thích:
tị là h́nh phạt cắt mũi, nghĩa giống
hào Ba quẻ Khuê ; ngoạt là h́nh phạt
chặt chân ; xích phất là vật để trang phục cho quư tộc thời xưa, khẳng
định đẳng cấp, dụ chỉ về hào Năm ở ngôi tôn quư. Trong bản Bạch Thư Chu Dịch không chép ‘tị ngoạt’, mà chép là
‘nhị chuyên’ (rui gác đôi trên xà nhà), ‘chuyên’ là rui gác trên đ̣n tay mái
nhà. Đặng Cầu Bá giảng “Đem rui nhà làm cho mới lại, nhưng bị phạm phép mà khốn
đốn v́ tế phục, là v́ việc tế tự phải rất thành kính mới thọ được phúc”. Xẻo
mũi là bị thương ở trên, chặt chân là bị thương ở dưới, tức là trên dưới đều bị
âm làm cho thương hại. Hào Năm bị khốn là do bởi cả trên lẫn dưới, cùng với áo
đỏ là tượng đồ mặc của hạ thần theo nghĩa ‘cận thần đi lại’. Hào Năm lấy chất
dương ở ngôi dương, việc làm cứng mạnh, do vậy đă dùng h́nh phạt quá mức để trị
kẻ dưới, đến nỗi chúng dân phản lại, người thân phân ly, ngôi tôn quư bị cùng
khốn.
Thôi Cảnh giảng “Xẻo mũi chặt chân, là loại
h́nh phạt nhẹ. Ở vào thời khốn không chuộng đức mềm, lấy cứng gặp cứng, tuy gia
h́nh loại phạt nhẹ, nhưng lại mất đi quyền lớn, cho nên nói ‘tị ngoạt’ vậy.
Xích phất là vật trang sức của thiên tử. Sở dĩ nói ‘khốn’ là v́ bị đoạt mất quyền
chính, Vua chỉ c̣n chức năng h́nh thức là tế tự mà thôi. Ví như Xuân Thu truyện
nói ‘Chính (quyền) do ở họ Ninh, (chỉ có) tế là ở quả nhân’, cho nên nói ‘khốn
là ở tại cái phất đỏ’ vậy.” Câu nói này đă trở thành điển cố “chính do Ninh thị,
tế tắc quả nhân”.
Hào Năm tuy ‘khốn vu xích phất’, nhưng v́
có đức cương trung, cho nên đă cải sửa việc làm quá mạnh, dần dần thoát khỏi cảnh
khốn ; lúc này nên thủ tín cho rộng với người với thần, mới có thể giữ được xă
tắc, cho nên nói ‘lợi dụng tế tự’. Vua nên nghĩ tới sự cùng khốn của thiên hạ,
cầu người hiền cũng phải hết ḷng, phải có giải pháp ví như việc tế tự mới có
được người hiền, đó là tượng hào Hai đồng đạo hợp đức. Hào Hai và hào Năm đều
là hào dương cương, không phải âm dương tương ứng, nhưng lại là định phận tự
nhiên, hào Hai nói “hưởng tự”, hào Năm nói “tế tự”, là đều đề cao lấy nghĩa
thành kính được phúc, để đạt chính ứng trong thời cảnh khốn cùng. Song “tế” với
“hưởng” cũng hàm nghĩa khác nhau, hào Năm ngôi vua nói “tế”, là tế trời đắc thần
kỳ ; hào Hai ngôi dưới nói “hưởng”, là nói thần địa quỷ, c̣n ‘hưởng’ là chỉ về
nhân thần. Phàm Dịch nói tế tự, th́ các hào phần nhiều là nghĩa “trung thực” hoặc
là “trung hư”. Trung thực là tượng thành tín, trung hư là lư thành tín. Đương
thời khốn mà lấy chất dương ở ngôi Năm th́ trăm việc chẳng lợi, duy chỉ có
trung thực th́ lợi về tế tự, để quy tụ được sức mạnh quyền lực. Nên nói ‘lợi tế
tự’, là theo cái lư hanh thông gia phả ḍng họ, những ḍng được coi là chính thống
đă khẳng định làm nên giá trị lịch sử.
Tượng
viết: “Tị ngoạt”, chí vị đắc dă ; “năi từ hữu thoát”, dĩ trung trực dă ; “lợi dụng
tế tự”, thụ phúc dă.
Tượng truyện
nói: “Dùng h́nh phạt xẻo mũi chặt chân”, nói lên tâm chí vượt khốn của hào Năm
chưa thể gọi là đạt ; “có thể dần thoát khỏi cảnh khốn”, đây là kết quả của sự
giữ vững đạo cương trung chính trực ; “lợi về sự làm tế tự”, như vậy th́ có thể
thừa hưởng được phúc trạch của thần linh ban giáng.
Chú
thích:
hào Hai nói ‘trung’ mà hào Năm nói ‘trung trực’, là để giải thích nghĩa chữ
‘trinh’ của Thoán từ ; hào Hai nói ‘hữu khánh’, hào Năm nói ‘thụ phúc’, là để
giải thích nghĩa chữ ‘cát’ của Thoán từ. Khi mới bị âm che lấp, th́ trên dưới
chưa đồng ḷng cùng chí hướng với nhau, cho nên từ từ mà có thể chuyển nguy
thành an, dần dần th́ có cơ hội thoát thân vậy.
Thượng
Lục, khốn vu cát lũy, vu niết ngột, viết động hối hữu hối, chính cát.
Hào Sáu Trên,
bị khốn trong đám dây leo chằng chịt trên cao (nghiêng ngả không biết rơi xuống
lúc nào), đang ở nơi chốn rất nguy hiểm bất an, ḷng hối hận chợt nghĩ lại; đă
hành động rồi sau mới hối, th́ nên tỉnh ngộ ngay, như vậy th́ đi lên tất được tốt
lành.
Chú thích: cát lũy Khổng Dĩnh Đạt giảng là cây họ dây leo, thuộc loại song
mây; niết ngột là h́nh dung trạng
thái nghiêng ngả không yên; động hối
là động rồi sinh hối như nói ‘sau đó th́ hối hận’, động càn bậy không chỗ nào
không khốn; viết là từ mở đầu hàm ư
suy sét, vạch kế sách. Câu này nói hào Sáu Trên lấy chất âm ở ngôi cuối cùng quẻ
Khốn, cưỡi hai hào cứng, dưới không ứng viện như khốn cùng do bị quấn bởi các sợi
dây chằng chịt có tượng trói buộc, lại như ở nơi sắp bị nghiêng đổ. Vật đến cực
th́ phản, việc đến cùng th́ biến.
Vương Bật giảng “Ở ngôi cuối quẻ Khốn mà
cưỡi hào cứng, dưới không có hào ứng, đi th́ càng bị quấn lại. Đi th́ bị dây quấn
chằng chịt, ở th́ không được yên, cho nên hào từ nói ‘khốn vu cát lũy, vu niết
ngột’ vậy”, lại nói “Phàm sự việc đến lúc cùng th́ phải nghĩ đến biến, khốn phải
tính đến thông. Ở vào nơi rất khốn, chính là lúc phải có mưu mô vậy. Viết là lời
nhắc ta phải nghĩ đến mưu mô kế sách. Thực hiện mưu của ta, có hối hận th́ sẽ
được việc. Nói rằng làm ǵ để thông được khi rất khốn? Nói: động đâu sẽ hối đấy,
như vậy sẽ sinh ra sự ‘hữu hối’, rồi ‘chinh’ th́ sẽ vượt qua cảnh khốn vậy. Cho
nên nói ‘động hữu hối, chinh cát’ vậy.”
Chỉ cần ‘động hối’ có thể ‘hữu hối’, tiếp
thu mọi lời giáo huấn, cẩn thận suy xét, tính toán trong mọi hành vi của ḿnh,
th́ ắt thoát được cảnh khốn, sẽ ‘chinh’ mà được ‘cát’. Hào Ba và hào Trên đều
âm nhu ở thế chính ứng, mà sao hào Ba hung mà hào Trên không hung ? V́ hào Ba
là nhu ở thể hiểm cực, ở ngôi cương, ở nơi hiểm nạn mà dùng cương hiểm th́ thường
rất hung; hào Trên là nhu ở thể ‘duyệt’, chỉ v́ khốn cùng mà có biến vậy. Hào Trên
ở quẻ Khốn và quẻ Truân đều không có ứng, quẻ Truân th́ nói ‘khấp huyết liên
như’, quẻ Khốn th́ nói ‘hữu hối chinh cát’, đó là v́ quẻ Truân ở thể ‘hiểm cực’,
c̣n quẻ Khốn ở thể ‘duyệt cực’, lấy đẹp thuận mà tiến là ĺa khỏi Khốn vậy.
Bạch thư Chu Dịch
chép có khác với bản truyền thống đến năm chữ: “Khốn tại hạt, luy vu nhị
chuyên, viết hối di hữu hối, chinh cát.” Đặng Cầu Bá chú giảng “Buộc phải mặc y
phục bằng vải thô, bị vướng nơi xà nhà; tự ḿnh lẩm bẩm: xúi quẩy thật xúi quẩy.
Người nhà v́ chuyện đó bói cỏ thi được quẻ bói tốt.” Từ Tử Hùng dịch “Bị dây
leo quấn chân chạt cứng, lại thêm cọc gỗ nhỏ đâm bị thương. Xử lư t́nh huống
này rất khó, không thể hành động ǵ, v́ đă hối càng thêm hối. Nhưng bói về chuyện
xuất chinh th́ có lợi.” Trương Lập Văn dịch “Người bị dây leo quấn chặt, tuy
trong tay đă nắm cây gậy nhỏ, nhưng trong ḷng hối hận tràn đầy, xuất binh
chinh phạt th́ có lợi.”
Tượng
viết: “Khốn vi lũy cát”, vị đáng dă ; “động hối hữu hối”, cát hành dă.
Tượng truyện
nói: “Khốn trong đám dây chằng chịt”, nói lên địa vị hào Sáu chưa từng ổn đáng
; “động rồi sau hối th́ sẽ biết hối ngay”, nói lên cứ làm ngay đi th́ có thể giải
trừ khốn mà được tốt lành.
Chú thích: cát hành như nói “làm th́ tốt”.
Trong quẻ chỉ có hào Sáu là nói ‘cát” thể
hiện lẽ “Khốn cực tất thông”. Chu Dịch Tổng nghĩa - Di Phất nói “Dương cứng cuối
cùng không thể khốn, mà hào Hai, hào Bốn, hào Năm đều không nói ‘cát’ ; Âm mềm
không tránh khỏi khốn, mà riêng hào Sáu lại nói ‘cát’ ; khốn cực th́ có thể biến,
như Bĩ qua th́ đến Thái, tuy ‘hiểm’ mà cuối cùng qua được.”
Khâu Kiến An nói “Khốn là v́ cương bị che
lấp vậy, quẻ Khốn th́ lấy ba nhu che lấp ba dương làm tượng. Cương bị che lấp
th́ cát, mà Nhu đi che lấp cương th́ hung. Thể ‘Khảm hiểm’ th́ hào Đầu và hào
Ba lấy nhu che lấp cương của hào Hai, lời từ nói hào Đầu ‘khốn ở cây khô’, hào
Ba nói ‘khốn ở đá’, hào Hai nói ‘khốn ở uống ăn’ mà tượng th́ lấy ‘trung’ làm
phúc. Đó là Sơ và Tam hung c̣n Nhị th́ cát. Thể ‘duyệt’ hào Trên lấy nhu mà che
lấp cái cương của hào Bốn và hào Năm, mà lời từ hào Bốn nói ‘từ hữu chung’, hào
Năm nói ‘từ hữu duyệt’, hào Trên nói ‘khốn ở dây chằng’ mà tượng th́ lấy về sự
làm chưa đáng. Đó là Tứ và Ngũ th́ cát c̣n Thượng th́ hung. Thoán nói ‘khốn mà
chẳng mất được hanh, duy có người quân tử mà thôi, đó là chỉ về ba hào dương
cương trong quẻ vậy.”
TỔNG
LUẬN
Văn
Thiên Tường trong “Chính khí ca” nhiệt t́nh tán tụng những người của thời xưa,
đă v́ chính nghĩa mà đấu tranh, lời tán đó thể hiện được tinh thần dân tộc cao
cả của thi nhân. Trong thơ có hai câu:
Thời cùng tiết
càng rơ,
Nhất nhất
sáng họa đồ.
Câu thơ miêu tả rơ khi khốn khổ cùng ách,
chính là khi kiểm nghiệm rơ nhất phẩm chất con người. Ư nghĩa chính của quẻ Khốn
cũng chính là thể hiện cái lẽ con người ở vào lúc “khốn cùng”.
Lời hào trong quẻ thể hiện ư chỉ có người
“quân tử” mới có thể “thân đương cảnh khốn cùng mà đạo vẫn hanh thông”; đề cao
sự bậc “đại nhân” giữ vững chính bền th́ được tốt lành, không gặp cữu hại; đồng
thời lại chỉ them rằng, lúc này mọi lời ta nói th́ khó được mọi người tin. V́ vậy
chỉ nên tự giữ ḿnh cho trong sạch, sửa đẹp đức ḿnh.
Thoán truyện lấy hai chữ “cương yểm”, để
nêu rơ nguyên nhân chính đưa đến sự “khốn cùng”, là dương cứng bị che lấp không
thể phát triển, cũng tức người quân tử bị kẻ tiểu nhân lấn áp và khống chế, lần
lượt được thể hiện các t́nh trạng khác nhau trong sáu hào.
Trong đó, ba hào âm nhu ám bạc nhược, mắc
khốn rất sâu ; hào Đầu ở cảnh khốn không làm sao thoát được; hào Ba th́ nơi đó
không phải nơi ḿnh khốn, chỗ đó không phải chỗ ḿnh dựa, cả hai hào này khó
thoát khỏi hung hiểm; duy có hào Trên ở vào thời khốn đă tới cùng cực th́ sẽ
thông nếu kịp thời sớm biết hối hận mà tỉnh ngộ, th́ có thể khỏi khốn được cát.
Ba hào dương cương tuy cũng trong cảnh khốn,
nhưng đều lấy khí chất dương cứng mà có thể giữ chính thoát khốn; hào Hai và
hào Năm bẩm sinh có đức đẹp cương trung, hào Hai th́ ở vào lúc nghèo khốn gian
nan, xả thân toại chí mà được không lỗi; hào Năm th́ lấy chí thành tín trung
chính, chuyển nguy thành yên, dần thoát cảnh khốn; hào Bốn đường phía trước bị
khốn ngăn trở, do v́ khiêm cẩn thận hành, mà có thể toại được chí nguyện của
ḿnh.
Có thể thấy, ở cảnh khốn là có sự âm
dương khác nhau, theo người mà dị biệt !
Ngô Viết Luật bàn rằng “Không phải khốn đến
với ta, là do thời thế gặp phải thôi, khi đó nên giữ đức cương trung, là nói
‘khốn nhi bất thất kỳ sở hanh’ vậy, đạo của nó chủ ở sự ‘trinh’ (chính); nếu khốn
do ở ḿnh nhu ám mà đến, th́ nên thay đổi cung cách làm việc của ta để tránh cảnh
khốn, đạo chủ ở nơi ‘hối’; Kẻ học giả xét sâu điều này, th́ trong đạo sử cảnh
khốn, nên tùy theo sự khác biệt mà mỗi người làm theo cách riêng.”
Để lĩnh hội được một cách tinh tế “ư
ngoài tượng” của quẻ này, ta c̣n có thể phát hiện ngụ ư sâu xa của người làm Dịch:
“Khốn cũng có khi khó tránh được, chính khí lại không thể một khắc tiêu tan ! Đại
tương truyện nói ‘người quân tử thà mất đi mạng sống cũng phải thực hiện cho được
chí hướng cao cả’, chính là thể hiện ư này.” Luận Ngữ - Khổng Tử nói “Một vị thống
soái lănh ba quân, đối phương có thể bắt được, nhưng chí khí của kẻ thất phu ai
mà đoạt được” , rất phù hợp với nghĩa này của quẻ Khốn vậy.
|