Tác giả |
|
Vovitu Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 713
|
Msg 81 of 127: Đă gửi: 15 August 2010 lúc 8:08am | Đă lưu IP
|
|
|
THỨ CHÍN: XEM CẦU TÀI
(Cầu tài chiêm đệ cửu)
Chiêm cầu tài, dĩ thể vi chủ, dĩ dụng vi tài. Thể khắc dụng, hữu tài; dụng khắc thể, vô tài. Thể sinh dụng, tài hữu sinh hao chi ưu; dụng sinh thể, tài hữu tiến ích chi hỷ. Thể dụng tỷ ḥa, tài lợi khoái ư. Dục tri đắc tài chi nhật, sinh thể chi quái khí định chi. Dục tri phá tài chi nhật, khắc thể chi quái khí định chi.
Hựu nhược quái trung hữu khắc thể dụng chi quái, cập sinh thể chi quái, tắc hữu tài. Thử quái khí tức tiến tài chi nhật. Nhược quái trung hữ thể chi quái cập thể sinh dụng chi quái, tức phá tài. Thử quái khí tức pha tài chi nhật.
Dịch:
Khi chiêm đoán việc cầu tài, lấy quẻ thể làm chủ, quẻ dụng là số tiền tài muốn cầu được. Thể khắc dụng th́ có tài; dụng khắc thể th́ không có tài. Thể sinh dụng th́ có tài nhưng sẽ có hao tổn. Dụng sinh thể có điều mừng tài ngày càng phát đạt. Thể dụng tỷ ḥa, tài lợi khoái tâm.
Dự đoán nhật kỳ cầu được tiền tài th́ sử dụng quái khí của sinh thể để xác định. Dự đoán nhật kỳ mất tiền phá của th́ sử dụng quái khí khắc thể để xác định.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Vovitu Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 713
|
Msg 82 of 127: Đă gửi: 15 August 2010 lúc 8:38am | Đă lưu IP
|
|
|
THỨ MƯỜI: XEM VIỆC GIAO DỊCH
(Giao dịch chiêm đệ thập)
Chiêm giao dịch dĩ thể vi chủ, dụng vi giao dịch chi ứng. Thể khắc dụng, giao dịch thành tŕ; dụng khắc thể, bất thành; thể sinh dụng, nan thành hoặc nhân giao dịch hữu thất. Dụng sinh thể tức thành, thành tất hữu tài. Thể dụng tỷ ḥa, dị thành giao dịch.
Dịch:
Xem về giao dịch, lấy quẻ thể làm chủ, quẻ dụng làm ứng nghiệm của việc giao dịch. Nếu quẻ thể khắc chế quẻ dụng, giao dịch thành công nhưng chậm. Dụng khắc thể th́ việc giao dịch bất thành. Thể sinh dụng th́ việc giao dịch khó thành, hoặc nhân v́ giao dịch mà có tổn thất. Quẻ dụng sinh thể th́ việc giao dịch chẳng những thành công mà thành công c̣n kèm theo có tài lợi. Quẻ thể, quẻ dụng tỷ ḥa, việc giao dịch dễ dàng thành công.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Vovitu Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 713
|
Msg 83 of 127: Đă gửi: 15 August 2010 lúc 11:14am | Đă lưu IP
|
|
|
THỨ MƯỜI MỘT: XEM VIỆC XUẤT HÀNH
(Xuất hành chiêm đệ thập nhất)
Chiêm xuất hành, dĩ thể vi chủ, dụng vi sở hành chi ứng. Thể khắc dụng, khả hành, sở chí đa đắc ư. Dụng khắc thể, xuất tắc hữu họa. Thể sinh dụng, xuất hành hữu phá hao chi thất; dụng sinh thể, hữu ư ngoại chi tài. Thể dụng tỷ ḥa, xuất hành thuận khoái.
Hựu phàm xuất hành, thể nghi thừa, chủ quái nghi sinh thể. Thể quái Càn, Chấn đa chủ động; Khôn, Cấn đa chủ bất động; Tốn nghi phàm hành; Ly nghi lục hành; Khảm pḥng thất thoát; Đoài chủ phân tranh chi ứng dă.
Dịch:
Công việc chiêm đoán để xuất hành đi ra ngoài, th́ lấy quẻ thể làm chủ, quẻ dụng làm ứng của xuất hành. Quẻ thể khắc chế quẻ dụng, điềm báo có thể xuất hành, nơi đến đều rất đắc ư. Quẻ dụng khắc chế quẻ thể, đi ra ngoài tất sẽ có tai họa. Quẻ thể sinh quẻ dụng, đi ra ngoài tất sẽ có tổn thất hao tài tốn của. Quẻ dụng sinh quẻ thể, có cơ hội phát tài ngoài ư muốn. Quẻ thể với quẻ dụng tỷ ḥa, đi ra ngoài thuận lợi, sung sướng.
Lại c̣n cần chú ư, phàm việc bói để xuất hành, quẻ thể nên thừa vượng, các quẻ hỗ, biến nên sinh quẻ thể. Quẻ thể nếu là quẻ Càn, Chấn th́ dự báo động. Nếu là quẻ Khôn, Cấn th́ đa số dự báo bất động. Quẻ Tốn thích hợp với việc xuất ngoại bằng thuyền. Quẻ Ly thích hợp với việc đi bộ. Quẻ Khảm phải đề pḥng mất mát, thất thoát. Quẻ Đoài là điềm báo ứng nghiệm có mâu thuẫn, tranh chấp.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Vovitu Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 713
|
Msg 84 of 127: Đă gửi: 16 August 2010 lúc 1:24am | Đă lưu IP
|
|
|
THỨ MƯỜI HAI: XEM NGƯỜI ĐI ĐƯỜNG
(Hành nhân chiêm đệ thập nhị)
Chiêm hành nhân, dĩ thể vi chủ, dụng vi hành nhân. Thể khắc dụng, hành nhân quy tŕ, dụng khắc thể, hành nhân bất quy. Thể sinh dụng, hành nhân vị quy; dụng sinh thể, hành nhân tức quy. Thể dụng tỷ ḥa, quy kỳ bất nhật hỹ.
Hựu dĩ dụng quái vi hành nhân chi doanh vượng, phùng sinh tại ngoại nhuận khoái; phùng suy thụ khắc, tại ngoại tai ương. Chấn đa bất nghi, Cấn đa hữu trở; Khảm hữu hiểm nạn; Đoài chủ phân tranh chi ứng.
Dịch:
Xem về người đang đi xa, lấy quẻ thể làm chủ, quẻ dụng làm người đi đường. Nếu quẻ thể khắc chế quẻ dụng, th́ ngày trở về của người đi đường chậm trễ. Quẻ dụng mà khắc chế quẻ thể, tất là người đi đường không trở về. Nếu quẻ thể sinh quẻ dụng, th́ người đi đường chưa trở về. Quẻ dụng sinh quẻ thể, người đi đường sắp sửa trở về. Quẻ thể và quẻ dụng tỷ ḥa th́ kỳ trở về đă ở trước mắt.
Lại c̣n một phương pháp nữa, tức là đem quẻ dụng dùng làm chỗ dựa để phán đoán người trên đường đi được may mắn. Quẻ dụng gặp quẻ sinh sẽ dự báo người trên đường đi thuận lợi, sung sướng. Gặp suy nhược, hơn nữa lại chịu khắc chế, biểu thị người đi đường gặp tai ương. Nếu quẻ Chấn nhiều th́ không được yên ổn. Quẻ Cấn nhiều th́ có hiểm trở. Quẻ Khảm có nguy hiểm, tai nạn. Quẻ Đoài dự báo có sự tranh giành.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Vovitu Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 713
|
Msg 85 of 127: Đă gửi: 17 August 2010 lúc 8:24am | Đă lưu IP
|
|
|
XEM YẾT KIẾN
(Phần này sách của Ông Văn Tùng không có
nên lấy từ sách của Nguyễn Văn Thùy)
Phàm chiêm yết kiến lấy quẻ thể làm chủ chính ḿnh, quẻ dụng làm người ḿnh muốn gặp.
Quẻ thể khắc chế quẻ dụng th́ gặp. Quẻ dụng khắc quẻ thể th́ không gặp được.
Quẻ thể sinh quẻ dụng th́ rất khó gặp, mà nếu có gặp cũng chẳng có lợi ǵ. Quẻ dụng sinh thể th́ gặp được, hai bên chuyện tṛ tâm đắc.
Quẻ thể quẻ dụng tỷ ḥa th́ đương nhiên là gặp, gặp nhau rất vui vẻ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Vovitu Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 713
|
Msg 86 of 127: Đă gửi: 17 August 2010 lúc 8:24am | Đă lưu IP
|
|
|
THỨ MƯỜI BA: XEM MẤT CỦA
(Thất vật chiêm đệ thập tam)
Chiêm thất vật, dĩ thể vi chủ, dụng vi thất vật. Thể khắc dụng, khả tầm, tŕ đắc, dụng khắc thể, bất khả tầm. Thể sinh dụng, vật nan kiến; dụng sinh thể, vật dị tầm. Thể dụng tỷ ḥa, vật bất thất dĩ.
Hựu dĩ biến quái vi thất vật sở tại. Như biến thị Càn, tắc mịch ư tây bắc, hoặc công lâu các chi sở, hoặc kim thạch chi bàng, hoặc viên khí chi trung, hoặc cao cang chi địa. Biến quái đích Khôn, tắc mịch ư tây nam phương, hoặc điền dă chi sở, hoặc thương lẫm chi xứ, hoặc giá sắc chi xứ, hoặc thổ giáo huyệt tàng chi sở, hoặc ngơa khí, phương khí chi trung. Chấn tắc tầm ư đông phương, hoặc sơn lâm chi sở, hoặc tùng cứu chi nội, chung cổ chi bàng, hoặc náo thị chi địa, hoặc đại đồ chi sở. Tốn tắc tầm ư phương nam, hoặc sơn lâm chi sở, hoặc từ quan chi địa, hoặc thái sơ chi viên, hoặc châu cư chi viên, hoặc một khí chi nội. Khảm tức tầm vu bắc phương, đa tàng ư thủy biên, hoặc khê tĩnh câu cư chi xứ, hoặc thố chi biên, hoặc ngư diêm chi địa. Ly tắc tầm ư nam phương, hoặc bào trù chi gian, hoặc lô chi bàng, hoặc tại minh song, hoặc di hư thất, hoặc tại văn thư chi trắc, hoặc tại yên hỏa chi địa. Cấn tắc tầm ư đông bắc phương, hoặc sơn lâm chi nội, hoặc cận lộ biên, hoặc nham thạch bàng, hoặc tàng thổ huyệt. Đoài tắc tầm ư tây phương, hoặc cư trạnh bạn, hoặc bại viên phá bích chi nội, hoặc phế tĩnh khuyết chiển chi trung.
Dịch:
Bị mất vật xem, lấy quẻ thể làm chủ nhân, lấy quẻ dụng làm vật bị mất. Quẻ thể mà khắc chế quẻ dụng, th́ vật có thể t́m được nhưng chậm. Quẻ dụng mà khắc chế quẻ thể, th́ vật không thể t́m được. Nếu quẻ thể sinh quẻ dụng, th́ vật rất khó t́m. Quẻ dụng sinh quẻ thể, vật dễ t́m. Quẻ thể và quẻ dụng tỷ ḥa th́ vật không mất.
Lại dùng biến quái để xác định địa điểm của vật bị mất.
Nếu quẻ biến là quẻ Càn, th́ t́m vật ở hướng tây bắc, hoặc nơi lầu gác công cộng, hoặc giấu ở bên cạnh tảng đá, hoặc ở trong vật tṛn, hoặc ở chỗ cao ráo.
Quẻ biến mà là quẻ Khôn, th́ nên t́m ở hướng tây nam, hoặc ở chỗ đồng ruộng, hoặc ở chỗ kho tàng, hoặc ở chỗ trồng hoa màu, hoặc ở trong hang động, hoặc ở trong vật bằng gốm sành, hoặc vật h́nh vuông.
Nếu quẻ biến là quẻ Chấn, th́ nên t́m ở hướng đông, hoặc nơi núi rừng, hoặc trong bụi gai rậm rạp, hoặc bên cạnh chiêng trống, hoặc ở nơi đông đúc ồn ào, hoặc ở gần đường cái.
Quẻ biến nếu là quẻ Tốn, th́ nên t́m ở hướng đông nam, hoặc ở trong rừng núi, hoặc ở nơi chùa chiền, hoặc ở vườn rau, hoặc nơi thuyềm buồm neo đậu, hoặc ở trong đồ bằng gỗ.
Quẻ Khảm nếu là quẻ biến, th́ nên t́m ở hướng bắc, đa phần giấu ở ven nước, hoặc ḍng suối, giếng nước, kênh ng̣i, mương rănh, hoặc ở gần chỗ rượu, giấm, hoặc ở chỗ có cá muối.
Nếu quẻ biến là quẻ Ly, th́ nên t́m ở hướng nam, hoặc ở trong bếp, hoặc bên cạnh ḷ lửa, hoặc ở gần cửa sổ, hoặc giấu trong nhà bỏ không, hoặc ở bên cạnh đống sách, hoặc ở chổ có khói lửa.
Quẻ biến nếu là quẻ Cấn, th́ nên t́m ở hướng đông bắc, hoặc gần rừng núi, hoặc gần bên đường, hoặc ở bên nham thạch, hoặc giấu trong hang đất.
Nếu quẻ Đoài làm quẻ biến xuất hiện, th́ nên t́m ở hướng tây, có thể vứt ở bờ ao, hồ, đầm, trạch, hoặc vứt ở chỗ bức tường đổ nát, hay vứt ở chỗ giếng, ao bỏ hoang.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Vovitu Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 713
|
Msg 87 of 127: Đă gửi: 18 August 2010 lúc 8:09am | Đă lưu IP
|
|
|
THỨ MƯỜI BỐN: ĐOÁN VỀ BỆNH TẬT
(Bệnh tật chiêm đệ thập tứ)
Phàm chiêm bệnh tật, dĩ thể vi bệnh nhân, dụng vi bệnh chứng. Thể quái nghi vượng bất nghi suy, thể nghi phùng sinh bất nghi kiến khắc; dụng nghi sinh thể, bất nghi khắc thể. Thị cố thể khắc dụng, bệnh dị an; thể sinh dụng, bệnh nan dụ. Thể khắc dụng giả, vật dược hữu gỉ; dụng khắc thể giả, tuy dược vô công. Nhược thể phùng khắc nhi thừa vượng, do vi thứ nhi; thể ngộ khắc nhi cánh suy, đoản vô tồn nhật. Dục tri hung trung hữu số, sinh thể quái tồn yên. Thể sinh dụng giả, thiên diên nan hảo; dụng sinh thể giả, tức dụ. Thể dụng tỷ ḥa, tật bệnh dị an.
Nhược cứu ḥa b́nh chi nhật, chủ thể chi quái quyết chi. Nhược luận y dược nhi thuộc, đương sinh thể chi quái. Như Ly quái sinh thể, nghi phục nhiệt dược; Khảm quái sinh thể, nghi phục lănh dược; như Cấn ôn bổ, Càn, Đoài lương dược thị dĩ.
Hữu thị tín hữu thần chi thuyết, tuy phi Dịch đạo, nhiên bất khả vị Dịch đạo chi bất cái. Cô dĩ lư suy chi, như quái hữu khắc quái giả, tức khả trắc kỳ quỷ thần.
Càn quái khắc thể, chủ hữu tây bắc phương chi thần, hoặc binh đao chi quỷ, hoặc thiên hành thời khí, hoặc xưng chính tà thần.
Khôn tắc tây nam chi thần, hoặc phạm phương ngụ, hoặc vô chủ chi tông.
Chấn tắc đông phương chi thần, hoặc mộc hạ chi thần, hoặc yêu quái bách đoan, hoặc ảnh hưởng thời hiện.
Tốn tắc đông nam chi quỷ, hoặc tự uẩn sinh, hoặc giá tỏa chí mệnh.
Khảm tắc bắc phương chi quỷ, hoặc thủy bàng chi thần.
Ly tắc nam phương chi quỷ, hoặc mănh dũng chi thần, hoặc phạm táo ty, hoặc đắc khiển vu hương hỏa, hoặc phần thiêu chi quỷ, hoặc ngộ nhiệt bệnh nhi vong.
Cấn tắc đông bắc chi thần, hoặc thị sơn lâm chi sùng, hoặc sơn tiêu mộc khách, hoặc thổ quái thạch tinh.
Đoài tắc tây phương chi thần, hoặc trận vong chi quỷ, hoặc phế tật chi quỷ, hoặc vẫn cảnh tường sinh chi quỷ.
Quái trung vô khắc thể chi quái giả, bất tất luận chi.
Hựu vấn Càn thượng Khôn hạ, chiêm bệnh như hà đoán?
Nghiêu Phu viết: Càn thượng Khôn hạ, đệ nhất hào động, tiện thị sinh thể chi nghĩa, biến vi Chấn mộc, hỗ kiến Tốn, Cấn, câu thị sinh thành chi nghĩa, thị vi bất tai, phùng sinh chi nhật thiệu dụ.
Hựu viết: Đệ nhị hào động như hà?
Viết: Nhị hào động Khảm thủy, năi triệt thể bại kim chi, kim nhập thủy hương; hỗ kiến Tốn, Ly năi vi phong hỏa phiến lô, câu vi khắc thể chi nghĩa. Cánh khán chiêm thời ngoại ứng như hà, thiết thực vi phần thi chi tượng, đoán chi tử vô nghi hỹ. Dĩ xuân, hạ, thu, đông tứ quư suy chi, cánh kiến tường lư.
Hựu viết: Đệ tam hào động, Khôn biến Cấn thổ, câu tại sinh thổ chi nghĩa, bất vấn hỗ quái, diệc đoán thậm cát vô nghi.
Hựu viết: Đệ tứ hào động, Càn biến Tốn mộc, kim mộc câu hữu khắc thể chi nghĩa, hỗ cát diệc hung, mộc hữu cang thi chi nghĩa, kim vi bi chi suy, thị lư tất định chi suy, thị lư thi tất định chi lư.
Hựu viết: Đệ ngũ hào động, Càn biến Ly phản năng sinh thể, hỗ, biến câu sinh thể, thị kỳ cát vô nghi, cánh hữu cát triệu, tắc dụ cát; hung tắc tŕ nhi nhẫn tử, kỳ đoán minh hỹ.
Hựu viết: Đệ lục hào động, Càn biến Đoài tắc năng tiết thể, hỗ kiến Tốn, Cấn, nhất hung nhất cát, kỳ bệnh phi tử tất nguy, diệc nghi khán triệu cát hung, cát tắc ngôn cát, hung tắc ngôn hung. Thử đoán thậm minh, trừ quái giai phỏng, thử đoán, tắc tâm dịch vô bất nghiệm hĩ.
Dịch:
Phàm việc chiêm đoán về bệnh tật, dùng quẻ thể làm người bệnh, dùng quẻ dụng làm trạng chứng của bệnh. Quẻ thể nên vượng, không nên suy, nên được sinh, không nên bị khắc. Quẻ dụng nên sinh thể, không nên khắc thể. Cho nên quẻ thể khắc chế quẻ dụng th́ bệnh dễ dàng b́nh an. Quẻ thể sinh quẻ dụng th́ bệnh khó hồi phục. Quẻ thể khắc chế quẻ dụng, không uống thuốc cũng khỏi bệnh. Quẻ dụng khắc chế quẻ thể th́ dù có uống thuốc cũng không có kết quả. Nếu quẻ thể gặp khắc chế lại thừa vượng th́ c̣n hy vọng. Nếu thể gặp khắc chế mà lại suy th́ chắc không c̣n sống được bao lâu. Nếu muốn biết trong bệnh nguy hiểm có cứu được không th́ xét xem trong quẻ có quẻ nào sinh thể chăng. Quẻ thể sinh quẻ dụng th́ thời gian bệnh c̣n kéo dài, khó khôi phục sức khỏe. Nếu quẻ dụng sinh quẻ thể, bệnh t́nh dễ dàng khỏi. Quẻ thể và quẻ dụng tỷ ḥa, th́ bệnh tất dễ dàng khôi phục, khỏe mạnh.
Nếu muốn nghiên cứu thời gian cụ thể mà bệnh t́nh chuyển biến tốt, khôi phục lại sức khỏe, th́ phải căn cứ vào quẻ chủ thể để suy đoán. Nếu muốn nghiên cứu kỳ hạn bệnh tật nguy hiểm, th́ căn cứ vào quẻ khắc thể để quyết định. Nếu muốn thảo luận hiệu quả của việc phục thuốc trị bệnh, th́ phải căn cứ vào quẻ sinh thể để quyết định. Ví dụ: quẻ Ly làm quẻ sinh thể th́ dùng thuốc tính nhiệt; quẻ Khảm làm quẻ sinh thể, thích hợp việc uống thuốc mang tính lạnh; quẻ Cấn làm quẻ sinh thể, thích hợp việc uống thuốc bổ; quẻ Càn, Đoài làm quẻ sinh thể, thích hợp việc uống thuốc tính mát.
C̣n có cách bảo là tin tưởng quỷ thần, tuy cách nói năng không phải là đạo của Dịch thuần túy, nhưng không thể bảo rằng đạo Dịch không bao hàm cách nói đó. Cố nhiên, cũng cứ dựa theo cách nói tin tưởng quỷ thần mà suy diễn một phen. Nếu như trong quẻ có khắc thể, liền có thể dự đoán tới quỷ thần.
Quẻ Càn khắc thể chủ ở hướng tây bắc có thần, hoặc quỷ chết v́ binh đao, hoặc thiên hành thời khí, hoặc tà thần xung phạm chính thần.
Quẻ Khôn khắc thể, dự báo có thần ở tây nam, hoặc có quỷ ở đồng ruộng, hoặc quỷ ở cạnh nhà, hoặc phạm thổ thủy thần trong làng, hoặc phạm quỷ đạo lộ, hoặc phạm quỷ vô chủ.
Quẻ Chấn khắc thể, tức thần ở phương đông, hoặc mộc hạ chi thần, hoặc yêu quái bách đoan, hoặc bị ảnh hưởng chi thời.
Quẻ Tốn khắc thể, tức có quỷ ở hướng đông nam, hoặc quỷ thắt cổ, tự sát, hoặc các loại quỷ như bị xiềng xích mà chết, thắt cổ, treo cây…
Quẻ Khảm khắc thể là quỷ ở phương bắc, hoặc thủy thần, hoặc quỷ chết đuối, hay chết v́ các bệnh về huyết.
Quẻ Ly khắc thể là quỷ ở phương nam, hoặc thần dũng mănh, hoặc phạm thần bếp, hoặc đắc tội với tổ tiên, hoặc là phần thiêu chi quỷ, hoặc là quỷ bị bệnh nhiết mà chết.
Quẻ Cấn khắc thể tức là thần ở phương đông bắc, hoặc thần linh ở chốn rừng núi, hoặc là sơn tiêu (quỷ hiện h́nh người) mộc khách, hoặc thổ quái, thạch tinh.
Quẻ Đoài khắc thể tức là thần ở phương tây, hoặc quỷ chết trận, hoặc quỷ bị tật nguyền, hoặc vẫn cảnh tường sinh (tự sát, bị xiềng xích…mà chết) chi quỷ.
Trong quẻ không có quái khắc thể th́ chớ nên bàn đến.
Lại có người hỏi, chiêm bệnh mà gặp quẻ Càn thượng Khôn hạ (Thiên Địa Bỉ) th́ đoán thế nào.
Nghiêu Phu (Thiệu Khang Tiết) dạy rằng: Quẻ Càn thượng Khôn hạ mà sơ hào động, ấy có nghĩa là sinh thể, biến th́ Chấn thuộc mộc, hỗ th́ thấy Tốn Cấn đều có nghĩa là sinh thể, vậy chẳng nên lo ǵ, gặp ngày tương sinh th́ bệnh khỏi hẳn.
Lại hỏi: Hào thứ hai động th́ như thế nào?
Trả lời: Nhị hào động, quẻ Khôn biến thành Khảm thủy, đó có nghĩa là tiết thể bại kim, vàng ch́m trong nước; hỗ thấy Tốn, Ly nghĩa là gió quạt lửa ḷ khắc kim, tất cả đều có nghĩa là thể bị khắc. C̣n ứng bên ngoài như thế nào th́ đó là điềm thiêu cháy thi thể, đoán là chết chứ không nghi ngờ ǵ. Dùng bốn mùa xuân, hạ, thu, đông suy ra sẽ thấy rơ thêm lư lẽ.
Lại nói: Hào thứ ba động th́ Khôn biến Cấn thổ, điều là thổ sinh thể, không cần xem quẻ hỗ cũng đoán được là rất tốt, chứ không nghi ngờ ǵ.
Lại nói: Hào thứ tư động th́ Càn biến Tốn mộc, kim mộc đều có nghĩa khắc thể, quẻ hỗ dù tốt cũng hung, v́ mộc có nghĩa là “khiêng xác”, kim là bia mộ, từ đó mà suy ra cái lư để định.
Lại nói: Hào thứ năm động, Càn biến Ly lại trở thành sinh thể, hỗ, biến đều sinh thể, rơ ràng là tốt, như thêm điềm tốt, tức là nhất định tốt; nếu như có điềm hung th́ cũng lâu chết. Suy đoán như vậy rất rơ ràng.
Lại nói: Hào thứ sáu động, Càn biến Đoài tức là thể bị tiết khí, hỗ thấy Tốn, Cấn, một xấu một tốt, bệnh như thế tất không chết th́ cũng nguy nan, nên cũng xem điềm cát hung, nếu điềm cát th́ nói cát, hung th́ là hung.
Suy đoán như vậy rất rơ ràng, các quẻ khác cũng đều đoán như vậy th́ tâm dịch không có ǵ là không nghiệm.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Vovitu Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 713
|
Msg 88 of 127: Đă gửi: 19 August 2010 lúc 6:28am | Đă lưu IP
|
|
|
THỨ MƯỜI LĂM: ĐOÁN VỀ KIỆN TỤNG
(Quan tụng chiêm đệ thập ngũ)
Chiêm quan tụng, dĩ thể vi chủ, dụng vi đối từ chi nhân, dữ quan tụng chi ứng. Thể quái nghi vượng, dụng quái nghi suy. Thể nghi dụng sinh, bất nghi sinh dụng. Dụng nghi sinh thể, bất nghi khắc thể.
Thị cố thể khắc dụng giả, kỷ thắng nhân; dụng khắc thể giả, nhân thắng kỷ. Thể sinh dụng, phi vi thất lư, hoặc nhân quan hữu sở biểu; dụng sinh thể, bất chỉ đắc lư, hoặc nhân tụng hữu sở đắc. Thể dụng tỷ ḥa, quan tụng tối cát, phi đản phù tŕ chi lực, tất hữu chủ ḥa chi nghĩa.
Dịch:
Xem kiện tụng, dùng quẻ thể làm chủ, quẻ dụng làm đối phương và cũng là việc kiện tụng. Quẻ thể nên vượng, quẻ dụng nên suy. Thể nên được dụng sinh, không nên thể sinh dụng. Quẻ dụng nên sinh thể, không nên khắc thể.
Cho nên nếu quẻ thể khắc chế quẻ dụng th́ ta thắng đối phương; quẻ dụng khắc chế quẻ thể là đối phương thắng ta. Thể sinh dụng th́ không chỉ ta thất lư mà c̣n có thể v́ kiện tụng mà mất mát. Dụng sinh thể là ta được lư hoặc v́ kiện tụng mà thu được lợi. Thể dụng tỷ ḥa th́ việc kiện tụng rất tốt, chẳng những có người giúp đỡ mà c̣n có thể ḥa giải với nhau.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Vovitu Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 713
|
Msg 89 of 127: Đă gửi: 19 August 2010 lúc 6:31am | Đă lưu IP
|
|
|
THỨ MƯỜI SÁU: ĐOÁN VỀ MỒ MĂ
(Phần mộ chiêm đệ thập lục)
Chiêm phần mộ, dĩ thể vi chủ, dụng vi phần mộ. Thể khắc dụng táng chi cát; dụng khắc thể táng chi hung. Thể sinh dụng táng chi chủ lệnh thoái; dụng sinh thể táng chi chủ hưng long, hữu âm ích hậu tự. Thể dụng tỷ ḥa, năi vi cát địa, đại nghi mai táng, táng chi cát xương.
Dịch:
Xem phần mộ, dùng quẻ thể làm chủ, quẻ dụng làm phần mộ. Quẻ thể khắc chế quẻ dụng, sau khi chôn cất được tốt lành. Quẻ dụng khắc chế quẻ thể, sau khi chôn gia tộc sẽ bị suy thoái. Quẻ dụng sinh quẻ thể, chôn xong bốn họ của mộ chủ đều hưng vượng, có ơn phúc phù hộ cho cả đời sau được tốt đẹp. Quẻ thể và quẻ dụng tỷ ḥa, đó là đất tốt, rất nên chôn cất, chôn rồi rất tốt đẹp.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Vovitu Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 713
|
Msg 90 of 127: Đă gửi: 20 August 2010 lúc 10:56pm | Đă lưu IP
|
|
|
BA ĐIỀU LINH ỨNG QUAN TRỌNG
(Tam yếu linh ứng thiên)
Tam yếu giả, vận nhĩ, mục, tâm tam giả chi yếu dă. Linh ứng giả, linh diệu nhi ứng nghiệm dă. Phu nhĩ chi vu thính, mục chi vu thị, tâm chi vu tư, tam giả vi nhân nhất thân chi yếu, nhi vạn vật chi lư bất xuất vu thị thính chi ngoại. Chiêm quyết chi tế, tịch văn trừng lự, tĩnh quan vạn vật, nhi thính kỳ âm, tri cát hung, kiến kỳ h́nh chi thiện ác, sát kỳ lư chi họa phúc, giai khả vi chiêm bốc chi nghiệm. Như cốc chi ứng thanh, như ảnh chi tùy h́nh, chước nhiên khả kiến dă. Kỳ lư xuất vu “Chu dịch” “viễn thủ chư vật, cận thủ chư thân” chi pháp. Thị thiên tắc xuất vu tiên hiền tiên sư, thải thế tục chi ngữ vi lệ, dụng chi giả Quỷ Cốc Tử, Nghiêm Quân B́nh, Đông Phương Sóc, Gia Cát Khổng Minh, Quách Phác, Quản Lộ, Lư Thuần Phong, Viên Thiên Cương, Hoàng Phủ chân nhân, Ma Y tiên, Trần Hi Di, kế nhi đắc giả Thiệu Khang Tiết, Lưu Bá Ôn, Ngưu Tư Hối, Ngưu Tư Kế, Cao Xứ Sĩ, Lưu Thẩm Nhiên, Phú Thọ Tử, Thái Nhiên Tử, Chu Thanh Linh Tử. Kỳ niên đại tương truyền bất nhất, nhi bất cập tri kỳ tính danh giả bất dữ yên.
Nguyên phu thiên cao địa hậu, vạn vật tán thù, âm trọc dương thanh, ngũ khí thuận bố. Họa phúc mạc đào hồ sổ, cát hung giai hữu kỳ cơ. Nhân vi vạn vật chi linh, tâm năi nhất thân chi chủ, mục ngụ nhi vi h́nh vi sắc, nhĩ đắc nhi vi âm vu thanh, tam yếu tổng chi, vạn vật bị hĩ.
Hữu năi thiên địa vạn vật chi linh, nhi nhĩ mục tâm tam giả chi yếu, cố viết tam yếu dă.
Thị dĩ phùng cát triệu nhi thuận hữu cát, kiến hung triệu nhi bất miễn hồ hung. Vật chi viên giả sự thành, khuyết giả sự bại, thử lư đoán nhiên, phu phục hà nghi. Thử ngôn chiêm vật khắc ứng, kiến cát tắc cát, kiến hung kiến hung.
Thị dĩ vân khai kiến nhật, sự tất quang huy, yên vụ chướng không, vật đương thất sắc. Hốt điên phong nhi phiêu đăng, ngộ chấn lôi nhi hư kinh, nguyệt hốt đương diện, nghi cận thanh quang; vũ sạ triêm y, khả mông ân trạch.
Hữu năi ngưỡng quan thiên văn, dĩ nghiệm nhân sự.
Trùng sơn vi trở cách chi tế, trùng trạch vi tẩm nhuận chi thâm. Thủy lưu nhi sự thông, thổ tích nhi sự trệ. Thạch năi kiên tâm thủy đắc, sa năi phóng thủ tức khai, lăng kích chủ ba đào chi kinh, pha băng chủ điền thổ chi thất. Hạn chiểu chi bàng, tâm lực câu kiệt; khô lâm chi hạ, tướng mạo giai suy.
Hữu năi phủ sát địa lư, dĩ nghiệm nhân sự.
Quát phùng nhân khẩu chi lai, thật vi sự thể chi ứng. Cố vinh hoạn hiển quan, nghi kiến kỳ quư; phú thương đại cổ, khả vấn hồ tài, nhân đồng khốc khấp, ưu tử tôn; sử tốt khiếu hiêu, kị quan tụng. Nhị nam nhị nữ, trùng hôn chi nghĩa; nhất tăng nhất đạo, độc xứ chi đoan. Phụ nhân tiếu ngữ, tắc âm hỉ tương phùng; nữ tử khiên liên, tắc âm tư kiến luy. Tượng thị chủ môn đ́nh cải hoán, tể phu tắc cốt nhục phân ly. Phùng liệp giả, đắc dă ngoại chi tài; kiến ngư giả, hữu thủy biên chi lợi. Kiến nhâm phụ, tắc sự manh vu nội; ngộ cổ giả, tắc lự căn vu tâm. Hữu năi nhân phẩm chi ứng, dĩ nghiệm nhân sự.
Chí vu diêu thủ nhi mạc vi, hoặc điệu đầu nhi bất khẳng, thức mục nhi phún đế giả, phương khấp; tao thủ nhi đạn cấu giả, hữu ưu. Túc động giả hữu hành, giao tí giả hữu thất. Khuất chỉ giả đa trở tiết, hư khí giả chủ bi ưu. Thiệt xuất điệu giả hữu thị phi, bối tương hướng giả pḥng thiểm khiêm. Ngẫu nhưỡng tư giả, tranh đoạt năi đắc; ngẫu hạ tất giả, khuất ức nhi cầu.
Hữu năi cận thủ chư thân chi ứng.
Nhược phùng đồng tử thụ thư, hữu từ tụng chi đoan; chủ ông si phó, pḥng trách phạt chi sự. Giảng luận kinh sử, sự thể đồ gian vu hư thuyết; ngữ ca từ khúc, mưu vi chuyển kiến du dương. Kiến bác đổ, chủ tranh đấu chi tài; ngộ đề tả, chủ văn thư chi sự. Ngẫu huề vật giả, thụ nhân đề huề; quát văn thủ giả, ngộ sự khiên liên.
Thử năi nhân sự chi ứng.
Cập phu chu tiếp tại thủy, bằng kỳ tiếp dẫn nhi hành; xa mă đăng đồ, tạ chi phụ đái nhi văng. Trương cung hiệp thỉ giả, tất lĩnh tiến; hữu tiến vô cung giả, vị khả thí. Tŕ đao chấp nhận, tu cầu khoái lợi chi phương. Phi giáp thao qua, khả đoạn cương cường chi bính. Sào ti giả, sự vụ phồn nhũng. Vi kỳ giả, nhăn mục chúng đa. Trang hoa khắc quả, chung phi kết thật chi nhân. Thư ảnh miêu h́nh, giai vi trang điểm chi loại. Lạc dịch tương thành, khả dĩ vấn chức. Bút mặc câu tại, khả dĩ cầu văn. Ngẫu khuynh cái giả, chủ thối quyền. Hốt lâm kính giả, khả phó chiếu. Băo quư khí giả, hữu phi thường chi dụng. Phụ đại mộc giả, hữu bất tiểu chi tài. Thăng đẩu nghi lượng liêu nhi tiền, xích tiễn khả tài độ dĩ dụng. Kiến xúc cầu, hữu nhân phát dịch. Khai tỏa thược, ngộ sự sơ thông. Phùng bổ khí, chung cửu nan kiên. Trị ma kính, tái thành thủy đắc. Ngoan phủ ma cương giả, tŕ độn đắc lợi. Khoái đao khảm mộc giả, lợi sự thương tài. Tài y phục giả, phá hậu phương thành. Tạo ngơa khí giả, thành hậu năi phá. Dịch kỳ giả, thủ chi dĩ kế. trương cương giả, mạc chi dĩ không. Hoặc tŕ phủ cứ khủng hữu thương, hoặc địch hồ thương khủng hữu ẩm. Hoặc huy phiến giả, hữu tương chiêu chi nghĩa. Hoặc ô y giả, pḥng mưu hại chi xâm.
Thử năi khí vật chi ứng, tức “viễn thủ chư vật” chi ư.
Tuy vân thảo mộc chi vô t́nh, diệc dữ bặc thệ nhi hữu ứng. Cố chi lan vi vật chi thụy, tùng bách vi thọ chi kiên. Ngộ xuân cối, tắc tuế cửu niên thâm; ngộ miêu cô, tắc triêu sanh mộ tử. Chiêm sản chiêm bệnh, đắc chi tức tử chi triệu. Chi diệp phiêu linh đương nuy tạ, căn hạch lưu lạc chủ khiên liên. Kỳ ba đoan đích hư hoa, gia quả khả dĩ kết thật.
Thử năi thảo mộc chi ứng.
Chí vu phi tẩu, tối hữu trinh tường. Cố ô nha báo tai, hỉ trùng báo hỉ, hồng nhạn chủ bằng hữu chi tín, xà hủy pḥng độc hại chi mưu. Thử khẳng y, hữu tiểu khẩu chi tai; tước táo diêm, hữu viễn hành chi chí. Khuyển đẩu khủng chiêu đạo tặc, kê đấu chủ hữu huyên tranh. Khiên dương giả, hỉ khánh tương lâm, kị mă giả, xuất nhập giai lợi. Viên hầu phàn mộc, thân tâm bất định; lư ngư xuất thủy, biến hóa bất phàm. Thằng thuyên mă, tật bệnh nan an; giá hăm cầm, tù nhân mạt thoát.
Thử năi cầm thú chi ứng.
Tửu năi vong ưu chi vật, dược năi khiếp bệnh chi phương. Cố tửu tôn hốt phá, nhạc cực sanh bi; y sư đạo phùng, nan trung hữu cứu. Đằng la chi loại kham y ỷ, hổ báo chi tượng khả thi uy. Canh điền sừ địa giả, sự thế tất phiên. Phá trúc phẩu can giả, sự thế tất thuận. Xuân hoa thu nguyệt, tuy vô thật nhi quan cảnh, hạ miên đông cát, tuy hữu dụng nhi bối th́. Lương phiến, đa chủ khí quyên; t́nh tán, tiệm phùng nhàn phế. Bào ảnh điện quang, hư huyễn nan tín; chu ti tàm kiển, xảo kế phương thành. Thử năi tạp kiến quan vật chi ứng. Nhược kiến vật h́nh, khả tri tự thể. Cố thạch phùng b́ tắc phá; nhân bàng mộc vi hưu; lạp phiêu thủy bạn, khấp tự phân minh. Hỏa nhập sơn lâm, phần h́nh khả kiến. Tam nữ hữu gian tư chi nhiễu, tam ngưu hữu bôn tẩu chi ưu. Nhất mộc lưỡng hỏa, vinh diệu chi quang. Nhất thủy tứ ngư, quan quả chi tượng. Nhân kế ngưu đảo pḥng thất thoát, nhân ngôn khuyển trung ưu ngục tù. Nhất đấu nhập không môn giả, đấu tranh. Lưỡng ty quải bạch mộc giả, nhạc sự. Nhất nhân lập môn, chư sự hữu thiểm. Nhị nhân giáp mộc, sở vấn tất lai.
Thử vi sách tự chi ứng.
Phục chỉ vật danh, dĩ diệp âm nghĩa. Như kiến lộc khả dĩ vấn lộc, kiến phong khả dĩ ngôn phong. Lê chủ phân biệt, đào chủ đào tẩu. Kiến lư tắc vấn tụng đắc lư, phùng quan tắc vấn danh đắc quan. Hài vi bách sự ḥa hài, hạp tắc chư sự khả hợp. Nan dĩ tường bị, tại vu biến thông.
Thử tức vật diệp âm chi nghĩa.
Cập phu tại ngă chi thân, thật vi bỉ sự chi ứng. Cố ngă tâm ưu giả, bỉ sự diệc ưu; ngă tâm nhạc giả, bỉ sự diệc nhạc. Ngă quát nhàn, bỉ đương ṭng dung; ngă trị mang, bỉ đương quẫn bách. Thử tức tự kỉ chi ứng, “cận thủ chư thân” chi nghĩa. Dục cứu quan nhân chi đạo, tu tường hệ “Dịch” chi từ. Tương bạn giả, kỳ từ tàm; tương nghi giả, kỳ từ chi. Cát nhân chi từ quả, táo nhân chi từ đa. Vu thiện chi nhân, kỳ từ du; thất kỳ thủ giả, kỳ từ khuất. Thử nhất động nhất tĩnh chi ứng, “cận thủ chư thân” chi nghĩa. Hựu thôi ngũ hành, tu tường bát quái. Quái cát nhi ứng cát chung cát, quái hung nhi ứng hung chung hung. Quái ứng nhất cát nhất hung, sự thể bán cát bán hung. minh sanh khắc chi lư, sát động tĩnh chi cơ, sự sự tương quan, vật vật tương hợp, thử ngũ hành bát quái cập khắc ứng động tĩnh chi lư. Hoạt pháp canh tồn hồ phương thốn, huyền ky hựu tại vu sư truyện. Túng vạn tượng chi phân vân, duy nhất lư nhi dung quán. Vụ yếu tương ky nhi phát, tu yếu lâm sự nhi tường. Thử ngôn chiêm bặc chi lư tại vu biến thông chi diệu.
Ta phu, Phương Sóc phúc xạ, tri sự vật chi ẩn vi. chư cát mă tiền, định cát hung vu khoảnh khắc. Hoàng Phủ tọa đoan chi diệu, Thuần Phong điểu giác chi chiêm, tuy sở dụng chi hữu thù, thành thử lư chi vô dị. Thử ngôn tam yếu linh ứng diệu xử. Khả dĩ khế quỷ thần chi diệu, khả dĩ hội trứ quy chi linh. Nhiên nhân phi tam thế, mạc năng tạo kỳ huyền; tâm phi thất khiếu, mạc năng ngộ kỳ áo. Cố đắc kỳ thuyết giả, nghi bí; phi kỳ nhân giả, mạc truyện. Khinh tiết thiên cơ, trọng tao âm khiển. Tạo chi thâm, khả dĩ nhập đạo. Dụng chi cửu, khả dĩ thông thần. Thử ngôn linh ứng chi diệu, bất khả khinh truyện vọng thụ, nghi bí chi nhất nhân, chi dĩ trọng tư đạo dă.
Dịch:
Cái gọi là ba điều quan trọng, chính là điều then chốt vận dụng ba loại khí quan là: tai, mắt, tâm. Cái gọi là linh ứng, chính là ư nghĩa vừa linh diệu lại vừa có thể ứng nghiệm được. Tai có thể nghe, mắt có thể nh́n thấy, tâm linh có thể suy sét được. Đó là điều mấu chốt của thể chất con người. Những đạo lư của vạn vật đều không thể tách rời khỏi thị giác mà độc lập tồn tại ở ngoài cảm giác con người. Khi bói quẻ để quyết nghĩ những vấn đề quan trọng, phải tĩnh tâm lắng nghe thật kỹ hết những điều lo lắng của con tim, lặng yên quan sát vạn vật mà nghe mọi âm thanh của vạn vật, mới hiều hết lành hay dữ, nh́n h́nh trạng của vạn vật xem thiện hay ác, quan sát đạo lư của nó là họa hay phúc, đều mới có thể làm nên sự ứng nghiệm của chiêm bốc. Hiệu quả của nó cũng giống như tiếng vọng hồi âm của hang núi trống, cũng như cái ảnh bóng đi theo con người rất rơ ràng minh bạch, nh́n là thấy hết. Đạo lư của nó xuất phát từ phương pháp “xa lấy vật, gần lấy thân” của Chu Dịch. Thiên văn chương này là do các bậc tiên hiền, tiên sư căn cứ vào phong tục của dân gian mà soạn ra. Đă dùng có các vị Quỷ Cốc Tử, Nghiêm Quân B́nh, Đông Phương Sóc, Gia Cát Khổng Minh, Quách Phác, Quản Lộ, Lư Thuần Phong, Viên Thiên Cương, Hoàng Phủ chân nhân, Ma Y tiên, Trần Hi Di, kế nhi đắc giả Thiệu Khang Tiết, Lưu Bá Ôn, Ngưu Tư Hối, Ngưu Tư Kế, Cao Xứ Sĩ, Lưu Thẩm Nhiên, Phú Thọ Tử, Thái Nhiên Tử, Chu Thanh Linh Tử. Năm tháng cùng truyền lại khác nhau, c̣n những người không biết tên họ, chẳng biết mà kể hết vào đây.
Nguyên là trời th́ cao, đất th́ dày, vạn vật th́ phân tán mỗi thứ khác nhau, âm th́ đục, dương th́ trong, ngũ hành phân bố thuận, họa và phúc đều không thể chạy thoát khỏi tính tất yếu của nó, lành và dữ đều có triệu chứng vốn từ gốc của nó mà ra. Con người là thần linh của vạn vật, trái tim là chúa tể của thể xác con người. Mắt chủ quản việc quan sát h́nh trạng của vật thể. Tai tiếp thu những âm thanh phát xuất từ phía ngoài. Ba điều quan trọng đó gọi là “Tam yếu”. Tai, mắt, tim tổng quản cả vạn vật, vạn vật đều chứa đựng cả ở trong tim.
Trên đây là cái linh của trời đất vạn vật, mà ba thứ tai, mắt, tim là mấu chốt của trời đất vạn vật, v́ thế mới gọi là “Tam yếu”.
Do đó, gặp điềm lành hoặc thuận lợi th́ có điềm lành, nh́n thấy dấu hiệu của điều dữ th́ không tách khỏi sự dữ. Nh́n thấy sự vật tṛn, dương th́ thành công, nh́n thấy sự vật méo mó, khuyết tật sẽ bại hoại. Đạo lư đó rơ ràng, vô cùng đơn giản, c̣n có điều ǵ mà phải nghi ngờ.
Trên đây là nguyên tắc xem vật khắc ứng, tóm lại là nh́n thấy vật lành th́ lành, gặp phải vật dữ th́ dữ. Do đó, xuất hiện ra hiện tượng mây vén lên mặt trời mọc, sự việc tất nhiên sẽ tranh giành nhau thêm sự sáng láng. Khi xem quẻ mà xuất hiện sương mù che lấp bầu trời, vạn vật mất đi bản sắc; khi xem quẻ đột nhiên xuất hiện gió băo chuyển rung, tất nhiên sẽ gặp phải sự hoảng sợ kinh hoàng như sấm động; khi xem quẻ đột nhiên trăng sáng ngay trước mặt, tất sẽ tiếp cận ngay với nơi trong sáng. Khi xem quẻ, đột nhiên mưa rơi là tất nhiên ân trạch sẽ bị che lấp.
Trên đây gọi là phép ngẩn nh́n thiên văn để nghiệm việc nhân sự.
Núi tiếp núi, là tượng trưng của sự cách trở. Đầm liền đầm, là tượng trưng choi sự thấm ướt dần dần. Nước chảy, là tượng trưng cho sự t́nh thông thuận. Đất tích tụ lại, là tượng trưng cho việc đ́nh trệ. Đá là tượng trưng cho ư chí kiên cường. Cát là tượng trưng cho sự buông tay tản mạn. Sóng nổi là tượng trưng cho sự sợ hăi. Đất sụt lở là tượng trung mất ruộng đất. Ở bên cạnh hồ ao khô cạn là tượng trung tâm lực hao tổn cằn cỗi. Ở dưới rừng câu khô là tượng trưng cho tướng mạo già yếu.
Trên đây gọi là phép cuối xuống quan sát địa lư để đoán nhân sự.
Khi xem quẻ vừa hay gặp lúc có nhiều người khác giới, khác lứa tuổi kéo đến, thế là quẻ ứng nghiệm với nhiều sự thể. Cho nên, các quan vị vẻ vang, hiển đạt là có thể bái yết bậc tôn quư.
Nhà thương gia giàu có và người buôn bán lớn, có thể hỏi quẻ về sự sang giàu. Trẻ con khóc lóc, mặt đầy nước mắt, đó là tượng trưng điều buồn cho con cháu. Quan lại dẫn người tù kêu khóc, phải lo đến việc có kiện tụng. Hai người đàn ông, hai người đàn bà đến là tượng trưng sự trùng hôn. Một vị ḥa thượng và một đạo sĩ là tượng trưng một ḿnh ở chỗ tối tăm. Tiếng nói, cười của người đàn bà là điềm dự báo sự vui mừng và trong sáng gặp nhau. Người con gái gặp gỡ liên miên là triệu chứng làm việc tư thông, gian dối bị bộc lộ. Gặp người thổ mộc là báo hiệu trong nhà sắp có sự thay đổi. Gặp người đồ tể báo hiệu có chuyện cốt nhục phân ly. Gặp người đi săn cho biết là sắp thu được của cải ở trong rừng. Gặp người đánh cá, báo trước rằng sẽ có lợi ích thu hoạch được ở bến nước. Gặp người đàn bà chửa, nhắc cho biết sự việc ẩn dấu xảy ra từ trong nội bộ. Gặp người mù là tín hiệu về nguồn gốc sự buồn phiền ở trong ḷng.
Trên đây là căn cứ vào đặc điểm của con người để tiến hành phán đoán t́nh h́nh ứng nghiệm cho nhân sự. C̣n đối với những người xua tay mà không làm, cúi đầu mà không bằng ḷng, xoa mắt mà phun nước dăi, là biểu hiện vừa mới khóc. Tay ôm đầu hoặc nhăn nhó cáu bẩn là biểu hiện trong ḷng ưu sầu. Đầu làm chân, chân làm đầu, sóng soài rên la là biểu thị đi đường xa lặn lội mệt mỏi đến cực điểm. Hai cánh tay cọ sát nhau là tỏ ra rằng có sự mất mát. Ngón tay cong gập, biểu thị có nhiều cản trở. Thở dốc là biểu hiện đau buồn ưu tư. Thè lưỡi ra khỏi miệng là cho biết có điều thị phi. Đi thụt lùi mà đến, là biểu thị dự pḥng luôn chạy trốn. Tự nhiên múa tay, đó là triệu chứng có sự tranh giành lợi lộc. Bỗng dưng quỳ xuống vái, biểu thị có sự khuất phục cầu mong đối với người bề trên…
Trên đây là căn cứ vào các điệu bộ của con người và các loại tư thái để tiến hành dự đoán. Nếu gặp đứa trẻ đem cho sách là có điềm từ tụng. Chủ nhà cầm roi đánh người ở là có điềm trách tội. Giảng giải luận bàn kinh thư, lịch sử là cho biết trước rằng chỉ là cái chuyện vất vả vô ích. Nói lời hoan lạc, ca hát từ khúc, là biểu hiện muốn có xe gió mà cất tiếng du dương. Nh́n thấy người đánh bạc, báo hiệu rằng sẽ v́ tiền của mà đánh nhau. Nh́n thấy chữ đề trên biển treo đánh dấu để, sẽ có việc về văn thư. Tự nhiên gặp người vác đồ vật, báo cho biết rằng sẽ được người khác giúp đỡ. Vừa hay gặp người c̣ng tay, báo hiệu gặp việc liên lụy.
Trên đây là t́nh thế căn cứ vào việc của người để tiến hành dự đoán.
Lúc xem quẻ, nếu gặp thuyền buồm đang chạy trên biển nước, có dấu hiệu báo là sẽ mượn nhờ sự tiếp dẫn của thuyền buồm để đi xa. Gặp xe ngựa đi trên đường, chắc chắn là nhờ sự vận tải của xe ngựa mà đi lại. Gặp người giương cung bắn nỏ, báo hiệu tất sẽ được bảo lănh, tiến cử. Gặp người cầm đục, cầm kiếm, tất sắp phải cầu trợ ở nơi có lợi nhanh. Gặp người mặc áo giáp, múa giáo, báo rằng sẽ đánh găy những chiếc cán rắn chắc, có thể đánh bại được kẻ thù có nhiều sức mạnh. Gặp người kéo tơ cho biết sự việc phiền nhiễu quá nhiều. Gặp những người vây quanh buồm là có điềm báo có nhiều tai mắt. Gặp người trang hoàng hoa, khắc h́nh quả, báo rằng sẽ chẳng có kết quả ǵ. Gặp những người vẽ h́nh, tô bóng, tất những việc thuộc loại trang điểm liên tục sẽ thành, có thể được chức sắc. Bút mực đều sẵn, có thể cầu văn. Tự nhiên ngă ô báo hiệu cho hay là sắp thoái vị, mất quyền. Gặp người tự nhiên bước đến gần gương kính, là điềm có thể được vời gọi. Gặp người ôm gói đồ vật quư, báo hiệu là sắp sửa có việc làm đặc biệt. Gặp người khiêng cây gỗ to, báo trước cho biết sẽ có nhiều người dâng của cải cho. Gặp phải những dụng cụ đo lường như thùng, đấu nhắc nhở cho biết cần phải suy nghĩ kỹ rồi hăy làm. Gặp những dụng cụ như thước, kéo, dây là điềm báo trước có thể lấy độ lượng mà dùng. Gặp người đá cầu, báo trước co biết là sẽ có người tố cáo, vạch rơ điều ǵ đó. Gặp người mở khóa, ấy là báo sự việc thuận lợi. Gặp người vá nồi, chữa bếp, nhắc bảo rằng không thể dùng bền chắc. Gặp người mài kính là điềm có thể phấn đấu lại từ đầu. Gặp người mài búa báo hiệu sự đần độn có thể biến thành sắc sảo. Gặp người vung dao chặt gỗ, đó là điềm báo sự việc tiến triển thuận lợi nhưng phải tổn thương tiền của. Gặp người cắt quần áo, báo cho biết rằng sau khi giàu sang có thể trở thành vỡ nợ. Gặp người làm đồ gốm, báo hiệu sự việc thành công, cũng có thể bị phá hoại. Gặp người đánh cờ, báo rằng có được thắng lợi là hoàn toàn dựa vào mưu kế. Gặp người đun ḷ, nấu sành sứ, báo hiệu sẽ có điều trăn trở. Gặp người giăng lưới bắt cá, báo rằng chẳng được việc ǵ. Hoặc giả gặp người cầm búa, cầm cưa mong rằng có thể bị xâm hại. Hoặc giả gặp người sửa b́nh, sợ rằng sẽ có cuộc vui uống rượu. Hoặc giả gặp người phất quạt, cho biết cái ư là kêu gọi. Hoặc gặp người quần áo rách nát, bẩn thỉu, báo hiệu sẽ có người trước đây đến mưu hại.
Trên đây là căn cứ vào con người cầm khí vật để tiến hành chiêm đoán. Cũng gọi là cái lẽ “xa lấy vật” vậy.
Tuy nói rằng cỏ cây là vật vô t́nh nhưng cũng có thể giúp ta chiêm đoán có ứng nghiệm. Cho nên cỏ linh chi, hoa lan…là tượng trưng cho loại cây đoan chính trong giống thực vật; tùng, bách tượng trưng cho sự bền bỉ, cứng cỏi. Gặp loại cây bách, cây tùng, chỉ cho biết rằng là trường sinh bất lăo. Gặp phải loại cây thuộc loại ma cô, cho hay là sáng sinh chiều chết. V́ chuyện bệnh tât, chuyện sinh đẻ, khi bốc quẻ mà gặp phải loại cây như thế, tất chỉ rơ là có chuyện tử vong. Thấy loại cây lá cành tơi tả, báo cho rằng sẽ suy bại. Gặp phải loại gốc và hạt lưu lạc, mất mát, báo hiệu là có sự phiền toái rủi ro. Thấy cây tầm gửi, cho biết là loại hư hoa, không bao giờ kết quả. Trông thấy loại quả tṛn trịa, đẹp đẽ, biểu thị là điều hay của tạo hóa…
Trên đây là căn cứ vào cây cỏ để tiến hành dự đoán.
Cho đến loại chim bay, thú chạy cũng là những căn cứ cực hay cho việc xem quẻ. Cho nên thấy quạ kêu, báo hiệu tai họa sẽ giáng xuống đầu. Tiếng hót vui của chim khách, báo trước có chuyện vui sắp đến trước cửa nhà. Chim hồng, chim nhạn báo thư bạn gửi tới. Rắn tượng trưng cho kẻ mưu hại. Chuột cắn quần áo, là điềm báo có tai họa, chuyện tiểu khẩu. Chim sẻ ríu rít dưới mái hiên, dự báo có khách sắp đến. Chó cắn nhau, sợ rằng có đạo tặc xuất hiện. Gà mổ nhau, báo hiệu sẽ có chuyện tranh căi huyên thuyên. Có người dắt dê đi qua, biểu hiện việc vui mừng sắp tới cửa. Gặp người cưỡi ngựa, báo cho hay rằng ra vào thuận lợi. Xuất hiện bọn khỉ, vượn leo trèo, chỉ rằng tâm thần bất định. Nh́n thấy cá chép vượt ra khỏi nước, là điềm sắp có biến hóa lớn lao. Dùng dây buộc ngựa, báo trước bệnh tật rất nặng. Thấy chim bị mắc, không bay thoát được, là điềm báo con người c̣n bị trong ṿng túng quẫn.
Trên đây là những t́nh huống căn cứ vào các loại chim bay, thú chạy và các dạng t́nh thế để tiến hành dự đoán.
Rượu là thức uống để quên hết mọi ưu sầu. Thuốc là vật phẩm để trị khỏi bệnh triền miên. Do đó cốc rượu tự nhiên mà đổ vỡ là điềm báo vui quá hóa buồn. Trên đường đi gặp thầy thuốc hay là trong sự khó khăn sẽ được cứu giúp. Các loại động vật như hổ báo, cho hay rằng sẽ thi thố, phát huy được uy thế. Khi gặp người cày ruộng, cuốc đất, sẽ báo cho rằng là t́nh thế sẽ lật ngược. Gặp người chẻ tre cho biết mọi việc sẽ thông suốt, thế như tre vậy.
Hoa mùa xuân, trăng mùa thu, báo hiệu tuy không mua mà được nhiều thứ. Vải bông mùa hạ, dây sắn mùa đông, tất là có dùng nhưng cũng biểu thị sự dành dụm về sau. Trời mát mà phe phẩy quạt, phần nhiều báo sự mất mát hao tổn. Trời trong mà che ô, báo trước rằng rồi sẽ dần dần có khó khăn thiếu thốn. Bọt nước, chớp điện báo rằng việc chỉ hư ảo, khó thực hiện được. Tổ kén và mạng nhện bảo rằng kế hay vừa mới thành công.
Trên đây là những t́nh huống căn cứ vào các loại vật thể khác nhau để tiến hành chiêm đoán.
Nếu nh́n thấy h́nh dạng của vật thể và các vật thể khác nhau, th́ có thể suy từ chữ ǵ mà ra. Ví dụ đá (thạch) gặp da (b́) liền xác định ngay là chữ phá (tức gồm chữ thạch và chữ b́ hợp lại); người (nhân) đứng ở cạnh cây (mộc) th́ xác định ngay là chữ hưu (tức là chữ nhân đứng cạnh chữ mộc); lửa (hỏa) đưa vào trong rừng (lâm) tất là chữ phần (chữ hỏa ở dưới chữ lâm); ba người đàn bà (nữ) sẽ là chữ gian, báo sẽ có sự phiền phức, gian tà; Ba con trâu (ngưu) sẽ là chữ bôn (có nghĩa là chạy), báo có sự lo buồn về bôn tẩu; Một cây (mộc), hai lửa (hỏa) là chữ vinh, tượng trưng cho sự sáng láng; một nước (thủy) bốn (tứ) cá (ngư) là chữ quan, tượng trưng cho sự cô quả, côi cút; người (nhân) kế trâu (ngưu) lộn ngược, đó là chữ thất, tượng trưng cho sự mất mát; người nói ở trong con chó (tức là chữ ngôn giữa bộ chữ cẩu và chữ khuyển) xác định là chữ ngục, tượng trưng cho sự lo buồn có chuyện tù tội. T́nh huống một đấu vào cửa không, xác định đó là chữ đấu, tượng trưng cho sự tranh đấu. T́nh huống hai sợi tơ treo trên cây trắng, xác định đó là chữ lạc (tức hai chữ ti giữa chữ bạch), tượng trưng cho sự vui sướng, hạnh phúc. Một người đứng ở trong cửa, xác định đó là chữ thiểm, tượng trương cho các loại sự việc điều rất hiếm đạt. Hai người (nhân) ép vào hai bên cây (mộc), xác định là chữ lai, tượng trưng cho những người cần hỏi sẽ tới.
Trên đây là những t́nh huống căn cứ vào chiết tự để đoán t́nh huống.
Lại có thể căn cứ vào tên của cvật dùng phương pháp đồng âm, lấy ư nghĩa để tiến hành dự đoán. Ví dụ nh́n thấy con hươu, con hươu nguyên tự là “Lộc”, liền dự đoán là có thể hưởng lộc, chữ lộc (phúc lộc) cùng âm với chữ lộc (hươu). Nh́n thấy con ong, ong nguyên tự là “phong”, th́ liền dự báo được phong chức. Nh́n thấy con bê, con trâu đen là chữ Ly, th́ có biểu tượng phân ly. Cây đào tượng trưng cho sự chạy trốn (nguyên tự của chạy trốn là đào: đào tẩu). Nh́n thấy cây mận (nguyên tự là lư) biểu thị kiện tụng đắc lư. Nh́n thấy cái mũ (quan) tượng trưng được gọi tên làm quan. Nh́n thấy đôi giày (hài), tượng trưng trăm sự hài ḥa. Gật đầu tượng trưng các sự việc đều có thể hợp được. Khó có thể kể ra đây nhiều ví dụ tường tận cho sự biến thông của mỗi con người.
Trên đây là t́nh huống căn cứ vào những điều ḿnh nh́n thấy để tiến hành dự đoán. Đó là những việc gọi là “gần lấy thân” vậy.
Phương pháp cần để nghiên cứu, quan sát, phân tích người khác tất nhiên cần phải hiểu được đoạn văn trong Hệ từ truyện dưới đây:
“Người sắp sửa phản chủ trong lời nói bao giờ cũng có phần hổ thẹn. Người sắp sửa nghi ngờ người khác, lời nói của họ bao giờ cũng ấp a, ấp úng. Người lương thiện không nhiều lời, kẻ càn rỡ bao giờ cũng lắm điều. Người làm nhục, khinh rẻ người khác, lời nói của họ không có định chuẩn. Người táng tận lương tâm, lời nói lắc léo, quanh co.”
Trên đây là t́nh huống căn cứ vào trạng thái tĩnh hay động thái nói chuyện để tiến hành dự trắc. Đó là ư nghĩa của “gần lấy thân” vậy.
Những phương pháp dự đoán trên đây, c̣n cần phải kết hợp với ngũ hành, bát quái để tiến hành dự đoán tổng hợp. Quẻ bói được là quẻ lành, ứng nghiệm với điềm lành kể trên, rốt cuộc vẫn thuận về người thiện. Quẻ bói được là thuộc hạng nguy hiểm mà điều kể trên đây ứng nghiệm vật hung, cuối cùng tất là vẫn thuộc về kẻ ác. Quẻ và ứng mà lại có mâu thuẫn với nhau, quẻ hung ứng cát, quẻ cát ứng hung, kết cục của sự việc là nửa cát nửa hung. Hiểu rơ được được lư luận của ngũ hành và quẻ thể quẻ dụng sinh khắc, bát quái, quan sát được cái huyền cơ động tĩnh của sự vật, mọi sự đều tương quan mật thiết với nhau, mọi vật đều có quan hệ chặt chẽ với nhau. Đó chính là lư luận của ngũ hành, bát quái và khắc ứng động tĩnh. Nắm vững nó một cách linh hoạt càng cần phải dựa vào sự động năo nhiều. Điều huyền cơ ấy, c̣n do ở sự truyền thị của người thầy. Cả con vật phức tạp, hằng hà sa số sự việc, duy chỉ có một lư lẽ, có thể thông suốt tất cả, đó là cần phải chờ đợi thời cơ phát sinh ra, cần phải thẩm sát tường tận trong giờ phút sự việc phát sinh đó.
Trên đây là lư luận về chiêm đoán, điều mấu chốt là ở sự linh hoạt biến thông của con người.
Thần kỳ và huyền diệu biết bao, hỡi thuật chiêm bốc! Đông Phương Sóc hẳn lại có thể biết được những t́nh tiết nhỏ tiềm ẩn trong sự vật. Gia Cát Lượng ở trước ngựa có thể định cát hung trong một khoảnh khắc. Hoàng Phủ ngồi yên lặng vạch ra điều thần diệu. Lư Thuần Phong với cách bói chim. Tuy phương pháp dùng khác nhau nhưng lư lẽ chung quy vẫn chỉ là một.
Trên đây là nói tới sự ứng dụng huyền diệu, linh ứng của lỗ tai, con mắt và trái tim.
Những diệu pháp này có thể kết hợp với sự kỳ diệu của quỷ thần, có thể linh nghiệm cùng với mộ thảo linh quy. Nhưng con người sống không đến chín mươi tuổi, cho nên không thể đạt tới cảnh giới huyền diệu kể trên. Trái tim không có bảy cái lỗ (thất khiếu), cho nên không thể giác ngộ được kỳ bí huyền diệu ở bên trong. Vậy nên những người có được học thuyết này, nên bí mật cất giấu như của báu, không phải là những người như thế th́ chớ có truyền thụ. Chớ có tùy tiện tiết lộ thiên cơ. Nếu không, sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc. Những người vươn tới tŕnh độ thâm hậu, có thể đạt đến cảnh giới cao, sử dụng thời gian lâu dài, có thể thông hiểu được thần linh để nhập vào vực thánh.
Trên đây là giảng giải về đạo lư linh nghiệm diệu ứng, chớ có truyền thụ cho người khác một cách tùy tiện, nên bí mật cất giấu vật báu này để biểu thị ḷng kính trọng đối với bộ sách.
Sửa lại bởi Vovitu : 20 August 2010 lúc 11:08pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
Vovitu Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 713
|
Msg 91 of 127: Đă gửi: 20 August 2010 lúc 11:52pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÀN VỀ SỰ ẢO CỦA MƯỜI ĐIỀU ỨNG NGHIỆM
(Thập ứng ảo luận)
“Thập ứng” cố xuất vu “tam yếu”, nhi diệu hồ “tam yếu”. Đăn dĩ nhĩ mục sở đắc, như kiến cát triệu, nhi chung tu cát; nhược phùng hung sấm, bất miễn hồ hung, lư chi tự nhiên dă. Nhiên dĩ thử nhi ngộ cát hung, diệc hữu vị nhiên giả dă. Hoàng kim bạch ngân, vi thế chi bảo, “tam yếu” đắc chi, tất dĩ vi tường. “Thập ứng” chi quyết, ngộ kim hữu bất cát giả, lợi nhận duệ binh, thế vị hung khí, “tam yếu” đắc chi, diệc dĩ vi hung; “thập ứng” chi thuyết, ngộ binh nhận phản hữu cát giả. Hựu nhược chiêm sản kiến “thiểu nam”, “tam yếu” đắc chi, vi sanh tử chi hỉ; “thập ứng” kiến thiểu nam tắc hung. Chiêm bệnh ngộ quan “tam yếu” chiêm chi tất tử, “thập ứng” dĩ vi hữu sanh ư. Lệ đa nhược thử, thị chiêm bốc vật giả, bất khả vô thất ứng dă.
Dịch:
Cố nhiên Thập ứng sinh ra từ trong Tam yếu nhưng so với Tam yếu càng vận dụng kỳ diệu hơn. Chỉ dùng tai, mất mà thu hoạch được những tin tức đáng tin cậy. Ví như t́m thấy điềm lành, cuối cùng tất là lành. Nếu như gặp những điềm dự báo hung ác, th́ không sao tránh khỏi hiểm nguy. Đó là đạo lư tự nhiên. Thế nhưng, dùng phương pháp này để phán đoán lành dữ, không nhất định là sẽ được hoàn toàn chuẩn xác, đáng tin cậy. Vàng và bạc là thứ dân gian rất quư trọng, Tam yếu được nó, nhất định dự đoán là điềm lành. Phương pháp chiêm đoán của Thập ứng, ngược lại, có t́nh huống gặp vàng, là điều bất lợi xuất hiện. Lưỡi dao, kiếm sắc nhọn, vũ khí sắc bén, thói thường, đó là thứ khí cụ giết chóc, Tam yếu chiêm đoán đó là điềm hung. Căn cứ vào phương pháp chiêm đoán của Thập ứng, gặp phải binh khí sắc nhọn, ngược lại là có điềm lành. Lại ví như bói việc sinh đẻ, gặp thấy thiếu nam, Tam yếu đoán đó là điềm lành sinh con trai, Thập ứng gặp phải thiếu nam, tất nhiên lại đoán là điềm dữ. Bói bệnh tật, gặp quan tài, Tam yếu chiêm đoán tất nhiên là bệnh sẽ chết, không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, Thập ứng, ngược lại, dự đoán là có hy vọng c̣n sống được.
Có rất nhiều cái đều dự đoán như vậy, cho nên khi chiêm đoán vật thể, không có hiện tượng không ứng nghiệm xuất hiện (nghĩa là nhất định phải có hiện tượng ứng nghiệm xuất hiện).
|
Quay trở về đầu |
|
|
Vovitu Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 713
|
Msg 92 of 127: Đă gửi: 21 August 2010 lúc 12:32am | Đă lưu IP
|
|
|
BÀN VỀ MỤC MƯỜI ĐIỀU ỨNG NGHIỆM
(Thập ứng mục luận)
“Thập ứng” tịnh dĩ thể quái vi chủ, chư dụng quái vi dụng. Mỗi dĩ nội phân ngoại thể, dụng quái tham khán vi diệu. Nội quái bất cát nhi ngoại quái hựu cát, khả dĩ giải kỳ bất cát; nội quái cát nhi ngoại quái bất cát, phản phá kỳ cát. Nhược nội ngoại quái toàn cát, tắc đoán nhiên cát, toàn hung tắc đoán nhiên hung. Kỳ nội cát ngoại hung, nội hung ngoại cát, hựu tu tường lư dĩ đoán cát hung, thận bất khả giao trụ cổ sắt dă.
Ngoại quái “thập ứng” chi mục, tắc hữu “thiên thời”, “địa lư” cập “tả tự” đẳng, kỳ thập nhất loại chi ứng, tịnh dĩ thể quái vi chủ, nhi tùy kỳ sở ứng dĩ vi dụng dă.
Dịch:
Thập ứng đều lấy quẻ thể làm chủ, các loại quẻ dụng làm dụng. Mọi việc đều đem quẻ chủ chia thành quẻ nội và quẻ ngoại, rồi tham khảo quẻ dụng để tiến hành chiêm đoán tổng hợp. Quẻ nội không tốt mà quẻ ngoại lại tốt, th́ có thể giải được sự không tốt đó. Quẻ nội tốt mà ngược lại quẻ ngoại không tốt th́ cái tốt trở nên bị phá hỏng. Nếu quẻ nội và quẻ ngoại đều tốt, tất nhiên là đoán tốt. Quẻ nội và quẻ ngoại đều xấu, th́ tất nhiên là đoán xấu. Nếu ngoại tốt nội xấu, ngoại xấu nội tốt, phải suy rơ cái lư mới đoán cát hung, không nên câu nệ, không biết biến thông vậy.
Mục ngoại quái thập ứng gồm có cả thiên thời, địa lư và viết chữ. Mười loại, mỗi loại đều lấy quẻ thể làm chủ rồi căn cứ vào điều ứng nghiệm mà áp dụng.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Vovitu Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 713
|
Msg 93 of 127: Đă gửi: 21 August 2010 lúc 4:14am | Đă lưu IP
|
|
|
ỨNG VỀ THIÊN THỜI
(Phục minh thiên thời chi ứng )
Như thiên vô vân ế, minh lăng chi tế, vi Càn chi thời. Càn, Đoài vi thể, tắc tỷ ḥa nhi cát; Khảm vi thể, tắc phùng sanh nhi đại cát. Khôn, Cấn vi thể, tắc tiết khí. Chấn, Tốn vi thể, tắc kiến khắc nhi bất cát hỹ.
T́nh văn nhật trung, vi Ly chi thời, Khôn Cấn vi thể tắc cát.
Vũ tuyết vi Khảm chi thời, Chấn Tốn vi thể tắc cát, Ly vi thể tắc bất cát.
Lôi phong vi Chấn, Tốn chi thời, Ly vi thể tắc cát. Khôn, Cấn vi thể tắc bất cát.
Thử thiên thời chi ứng dă.
Dịch:
Như lúc xem quẻ, trời không có mây mù che, sáng lạn trong trẻo, ấy là thuộc Càn thời. Càn thời:
- Đoài là quẻ thể, tức tỷ ḥa là tốt.
- Khảm là quẻ thể, tức là gặp sinh, rất tốt.
- Khôn, Cấn là quẻ thể, tức bị tiết khí.
- Chấn, Tốn là quẻ thể, tức là bị khắc nên không tốt.
Lúc xem quẻ, trời tạnh ráo giữa ngày, ấy là Ly thời. Khi đó, Khôn, Cấn làm quẻ thể th́ tốt.
Lúc xem quẻ gặp mưa, tuyết, đó là Khảm thời, Chấn, Tốn là quẻ thể tức tốt, Ly là thể th́ không tốt.
Trời đương lúc có sấm, gió là Chấn, Tốn thời. Lúc đó, Ly là quẻ thể tất tốt; Khôn, Cấn là quẻ thể th́ không tốt.
Thiên thời ứng trong quẻ là như vậy.
Sửa lại bởi Vovitu : 21 August 2010 lúc 4:40am
|
Quay trở về đầu |
|
|
Vovitu Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 713
|
Msg 94 of 127: Đă gửi: 21 August 2010 lúc 4:41am | Đă lưu IP
|
|
|
ỨNG VỀ ĐỊA LƯ
(Phục minh địa lư chi ứng )
Mậu thụ tú trúc, vi Chấn chi địa, Ly dữ Chấn, Tốn vi thể tắc cát, Khôn, Cấn vi thể tắc hung. Giang hồ, hà địa, xuyên trạch, khê giản, vi Khảm chi địa, Chấn, Tốn dữ Khảm tắc cát, nhi Ly vi thể tắc bất cát. Diêu táo chi địa vi Ly, Khôn, Cấn tịnh Ly vi thể tắc cát, nhi Càn, Đoài vi thể tắc bất cát.
Nham huyệt chi địa vi Cấn, Càn, Đoài dữ Cấn vi thể tắc cát, Khảm vi thể tắc bất cát.
Thử địa lư chi ứng dă.
Dịch:
Chỗ đất mà loài cây, tre mọc tươi tốt, sum xuê gọi là Chấn địa. Ở nơi này:
- Nếu Ly cùng Chấn, Tốn làm quẻ thể th́ tốt.
- Nếu Khôn, Cấn làm quẻ thể th́ xấu.
Chỗ đất thuộc về sông ng̣i, ao hồ, đầm, khe, suối, mương rănh gọi là Khảm địa. Ở nơi này:
- Nếu Chấn, Tốn cùng Khảm là quẻ thể th́ tốt.
- Nếu Ly làm quẻ thể th́ xấu.
Chỗ đất là ḷ bếp gọi là Ly địa. Ở chỗ này:
- Nếu Khôn, Cấn cùng Ly làm quẻ thể th́ tốt.
- Nếu Càn, Đoài làm quẻ thể th́ xấu.
Chỗ đất thuộc về hang núi (đất đá), th́ gọi Cấn địa. Ở nơi này:
- Nếu Càn, Đoài cùng Cấn làm quẻ thể th́ tốt.
- Nếu Khảm làm quẻ thể th́ xấu.
Địa lư ứng trong quẻ là như vậy.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Vovitu Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 713
|
Msg 95 of 127: Đă gửi: 21 August 2010 lúc 5:00am | Đă lưu IP
|
|
|
ỨNG VỀ NHÂN SỰ
(Phục minh nhân sự chi ứng )
(Phần này sách của Ông Văn Tùng không có)
Nhân sự hữu luận quái tượng ngũ hành giả, hữu bất luận quái tượng ngũ hành giả. Luận quái tượng, tắc lăo nhân chúc Càn, lăo phụ chúc Khôn, Cấn vi thiếu nam, Đoài vi thiếu nữ chi loại.
Ngũ hành sanh khắc, tỷ ḥa chi lư, dữ tiền thiên thời, địa lư chi quái đồng đoán.
Kỳ bất phân quái tượng ngũ hành giả, tắc dĩ nhân sự chi phân, liễu kiến tạp xuất, hữu cát hữu hung, thử ứng tắc tùy kỳ cát hung nhi vi chi triệu dă. Hữu quan kỳ sự, tắc diệc vi kỳ nhân.
Thử nhân sự chi ứng dă.
Dịch:
Nhân sự th́ luận tượng quẻ theo ngũ hành, mà cũng có lúc th́ lại không luận theo ngũ hành.
Luận theo tượng quẻ như: lăo ông th́ thuộc Càn, lăo bà thuộc Khôn, thiếu nam là Cấn, thiếu nam là Đoài.
Lư của ngũ hành sinh khắc, tỷ ḥa th́ cứ đoán theo như Mục Thiên thời và Địa lư ở trên.
C̣n như không luận theo tượng quẻ và ngũ hành là v́ nhân sự tạp loạn, rối rắm, lộn xộn, thấy nhiều cách, tốt có, xấu có hiện ra th́ nó phải tùy theo cái triệu ứng vào sự việc, tốt hay xấu. Lại nữa, xét đoán việc của người cũng tùy theo cái sự ứng của người ấy nữa.
Đó là nhân sự ứng trong quẻ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Vovitu Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 713
|
Msg 96 of 127: Đă gửi: 21 August 2010 lúc 5:20am | Đă lưu IP
|
|
|
ỨNG VỀ THỜI LỆNH
(Phục minh thời lệnh chi ứng )
(Phần này sách của Ông Văn Tùng không có)
Thời lệnh bất tất luận quái tượng, đăn tường kỳ lệnh, nguyệt nhật trị chi ngũ hành suy vượng chi khí. Vượng giả, như dần măo chi nguyệt nhật tắc mộc vượng, tị ngọ chi nguyệt nhật hỏa vượng, thân dậu chi nguyệt nhật kim vượng, hợi tư chi nguyệt nhật thủy vượng, th́n tuất sửu mùi chi nguyệt nhật thổ vượng. Suy giả, như mộc nguyệt tắc thổ suy, thổ vượng tắc thủy suy, thủy vượng tắc hỏa suy, hỏa vượng tắc kim suy, kim vượng tắc mộc suy. Thị cố sanh thể chi quái khí, nghi trị thời chi vượng khí, bất nghi suy khí. Như khắc thể quái khí, tắc nghi thừa suy.
Thử thời lệnh chi ứng dă.
Dịch:
Thời lệnh th́ không cần luận tượng quẻ, chỉ cần rơ kỳ lệnh, tức ngày tháng đó khí của ngũ hành vượng hay suy. Vượng là như, ngày tháng là dần, măo th́ mộc vượng; ngày tháng là tỵ, ngọ th́ hỏa vượng; ngày tháng là thân dậu th́ kim vượng; ngày tháng là hợi, tư th́ thủy vượng; ngày tháng là th́n tuất sửu mùi th́ thổ vượng. Suy th́ như tháng mộc tức thổ suy; thổ vượng th́ thủy suy; thủy vượng th́ hỏa suy; hỏa vượng th́ kim suy; kim vượng th́ mộc suy. Cho nên quái khí sinh thể cần ở thời vượng khí, không nên ở thời suy nhược. Ngược lại quái khí của quẻ khắc thể cần thừa suy.
Đó là thời lệnh ứng.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Vovitu Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 713
|
Msg 97 of 127: Đă gửi: 23 August 2010 lúc 9:40am | Đă lưu IP
|
|
|
ỨNG PHƯƠNG QUÁI
(Phục minh phương quái chi ứng )
(Phần này sách của Ông Văn Tùng không có)
Kư phân phương chi quái, như Ly nam, Khảm bắc, Chấn đông, Đoài tây, Tốn đông nam, Càn tây bắc, Cấn đông bắc, Khôn tây nam loại dă. Luận cát hung giả, khán lai chiêm chi nhân tại hà phương vị, nhi dĩ dụng quái tham tường, như Khảm vi dụng quái, nghi tại Khảm dữ Chấn, Tốn chi vị, tại Ly tắc bất cát; Ly vi dụng quái, nghi tại Ly dữ Khôn, Cấn chi vị, tại Càn, Đoài nhị vị tắc bất cát hỹ. Cái nghi tại bổn quái chi phương, vi dụng quái sanh chi phương, bất nghi thụ dụng quái khắc dă. Nhược phu khí tại chi quái sở tại chi phương, hựu đương thẩm chi, như thủy ṭng Khảm phương lai, vi Khảm quái khí vượng; thủy ṭng Khôn, Cấn lai, tắc Khảm chi quái khí suy; hỏa ṭng nam lai, vi Ly quái khí vượng, như ṭng bắc phương lai, tắc Ly quái chi khí suy. Dư giai pḥng thử. Đại để bổn quái chi phương, sanh vi vượng, thụ khắc vi suy, nghi dĩ bổn quái tham chi. Sanh phù quái khí, nghi thụ vượng phương, khắc thể quái khí, nghi thụ khắc phương, thử phương quái chi ứng dă. Hựu Chấn, Tốn chi phương, bất luận Khôn, Cấn; Khôn, Cấn chi phương bất luận Khảm; Khảm phương bất bất luận Ly; Ly phương bất luận Càn; Càn, Đoài chi phương, bất luận Chấn, Tốn. Dĩ kỳ ngụ quái thụ phương quái chi khắc dă.
Dịch:
Ứng phương quái tức phân quẻ theo phương hướng, như Ly hướng nam, Khảm hướng bắc, Chấn hướng đông, Đoài hướng tây, Tốn hướng đông nam, Càn hướng tây bắc, Cấn hướng đông bắc, Khôn hướng tây nam. Luận cát hung, xem người đến hỏi bói ở hướng nào mà dùng quẻ để xem xét.
Như Khảm là quẻ dụng th́ người đến hỏi nên ở tại hướng Khảm hoặc Chấn, Tốn nếu ở hướng Ly th́ không tốt. Ly là quẻ dụng th́ người đó nên ở tại hướng Ly hoặc Khôn, Cấn, nếu ở hai hướng Càn, Đoài tức là không tốt vậy.
Tốt hơn là phương vị của bổn quái nên được quẻ dụng sinh, không nên bị quẻ dụng khắc.
Ví bằng xét khí ở quái, của phương vị sở tại th́ cần phải xét như:
- Nếu thủy từ Khảm tới th́ quái khí của Khảm vượng. Nếu thủy theo Khôn, Cấn đến th́ quái khi của Khảm suy.
- Nếu hỏa theo hướng nam đến là Ly quái khí vượng, như theo hướng bắc đến, th́ quái khí của Ly suy.
C̣n lại cứ phỏng theo đó. Đại để phương của bổn quái được sinh là vượng, bị khắc là suy. Nên lấy bổn quái mà tham cứu.
Quái khí của quái sinh thể nên ở phương vượng.
Quái khí của quái khắc thể nên bị phương khắc.
Lại nữa, phương Chấn, Tốn th́ khỏi bàn đến Khôn, Cấn; phương Khôn, Cấn th́ đừng luận Khảm; phương Khảm th́ chớ luận Ly; phương Ly th́ không luận Càn; phương Càn, Đoài th́ chẳng luận Chấn, Tốn.
Tất cả các quái trên đều chịu khắc của phương quái hết thảy.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Vovitu Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 713
|
Msg 98 of 127: Đă gửi: 23 August 2010 lúc 10:04am | Đă lưu IP
|
|
|
ỨNG ĐỘNG VẬT
(Phục minh động vật chi ứng )
(Phần này sách của Ông Văn Tùng không có)
Động vật hữu luận quái tượng giả, Càn vi mă, Khôn vi ngưu, Chấn vi long, Tốn vi kê, Khảm vi thỉ, Ly vi trĩ, Cấn vi cẩu, Đoài vi dương. Hựu loa bạng quy miết, vi Ly chi tượng, ngư loại vi Khảm chi chúc, thử động vật chi quái, dữ thể quái luận. Hựu bất luận quái tượng ngũ hành giả, như ô nha báo tai, linh thước báo hỉ, hồng nhạn chủ hữu thư tín, xà trùng pḥng hữu độc hại, kê xướng vi gia âm, mă tê vi động ư. Thử động vật chi ứng dă.
Dịch:
Động vật th́ luận theo quái tượng như: Càn tượng trưng cho ngựa; Khôn là trâu ḅ; Chấn là rồng; Tốn là gà; Khảm là lợn; Ly là trĩ; Cấn là chó; Đoài là dê. C̣n ngao, ṣ, trai, ốc, rùa, ba ba có tượng là Ly. Loài cá có tượng là Khảm. Quái của động vật ấy th́ dùng thể quái mà luận.
C̣n động vật không luận theo tượng quẻ, ngũ hành như: chim quạ đen báo hung tai; chim khách báo tin vui; chim hồng, chim nhạn báo thư tín; loài rắn, loài trùng pḥng có độc hại; gà gáy tất có tin nhà; ngựa hư tất có động ư.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Vovitu Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 713
|
Msg 99 of 127: Đă gửi: 23 August 2010 lúc 10:39am | Đă lưu IP
|
|
|
ỨNG TĨNH VẬT
(Phục minh tĩnh vật chi ứng )
(Phần này sách của Ông Văn Tùng không có)
Khí vật chi loại, hữu luận quái tượng giả. Như thủy chúc Khảm, hỏa chúc Ly, mộc chi khí chúc Chấn, Tốn, kim chi khí chúc Càn, Đoài, thổ chi khí chúc Khôn, Cấn, vi thể quái, yếu tham tường. Kỳ bất phân quái tượng giả, đăn quan kỳ khí vật chi triệu, như vật chi viên giả, sự thành; khí chi khuyết giả, sự bại. Hựu tường kỳ khí vật thị hà vật, như bút nghiễn chủ văn thư chi sự, bào hốt chủ quan chức chi sự; tôn trở chi cụ hữu yến tập, gia tỏa chi cụ pḥng quan tai. Bách đoan bất nhất, thẩm kỳ vật khí. Thử tĩnh vật chi ứng dă.
Dịch:
Các loại đồ vật phải luận theo tượng quẻ như:
- Thủy thuộc Khảm; hỏa thuộc Ly; các loại đồ mộc thuộc Chấn, Tốn; các loại đồ kim khí thuộc Càn, Đoài; các loại đồ bằng đất thuộc Khôn, Cấn; lấy thể quái mà xem xét kỹ càng.
C̣n các loại đồ vật không luận theo quái tượng, chỉ xem cái triệu của đồ vật đó, như: đồ vật h́nh tṛn biểu hiện cho sự thành. Đồ vật sứt mẻ, hao ṃn biểu hiện cho sự thất bại.
Lại nhận xét xem đồ vật vật đó thuộc loại nào, như: bút nghiên chủ về việc văn thư; bào hốt (áo bào và cái hốt) chủ việc quan chức; chén, mâm, khay, quả chủ về yến tiệc; ḱm kẹp, xích xiềng pḥng quan tai.
Trăm mối bất nhất, xét kỹ từng thứ vật.
Sửa lại bởi Vovitu : 23 August 2010 lúc 10:40am
|
Quay trở về đầu |
|
|
Vovitu Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 713
|
Msg 100 of 127: Đă gửi: 24 August 2010 lúc 7:02am | Đă lưu IP
|
|
|
ỨNG NGÔN NGỮ
(Phục minh ngôn ngữ chi ứng )
(Phần này sách của Ông Văn Tùng không có)
Văn nhân ngôn ngữ, bất luận quái tượng, đăn tường kỳ sở ngôn chi sự tự nhi chiêm bốc chi. Ứng văn cát ngữ tắc cát, văn hung ngữ tắc hung. Nhược văn nháo thị tùng ngôn ngữ huyên tập, nan dĩ quyết đoán. Nhược định nhân thiểu chi xử, hoặc ngôn ngữ khả biện kỳ sự tự, tắc thẩm kỳ sở ngôn hà sự, tâm lĩnh nhi ư hội chi. Như thuyết triêu đ́nh thiên tuyển, khả dĩ cầu danh; luận giang hồ châu quận, chủ xuất hành; ngôn tranh tụng chi sự, chủ quan ty; ngôn hỉ khánh chi sự, lợi hôn nhân. sự tự bất nhất, tùy sở vấn nhi y chi. Thử ngôn ngữ chi ứng dă.
Dịch:
Nghe người nói chuyện th́ không luận theo tượng quẻ, mà chỉ nghe lời người nói về việc ǵ để xem cách ứng như: nghe lời nói lành tốt th́ tốt; nghe lời nói dữ là xấu; nhược bằng nghe lời nói huyên náo, rôn ràng, ồn ào, th́ khó đoán. Nếu có thể nghe mà liệu được nói chuyện ǵ và hiểu rơ ư lời nói, tâm th́ nhận thức, để hội với cái ư cho hợp lư như: bàn về chuyện triều chính, là ứng vào việc cầu danh; nói về việc sông hồ, châu quận là chủ xuất hành; nói về việc tranh tụng là chủ quan ty; nói chuyện vui mừng, lợi về sự hôn nhân.
Mỗi câu chuyện chẳng giống nhau, nên tùy theo sự nghe mà đoán.
Đó là ứng về ngôn ngữ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|