Tác giả |
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 321 of 1146: Đă gửi: 21 June 2010 lúc 2:10am | Đă lưu IP
|
|
|
QUA CỬA CHUYỂN TIẾP
ÁNH SÁNG MÀU SẮC THẤY Ở GIAI ĐOẠN TRUNG ẤM
Kinh sách cổ Tây Tạng kể chi tiết về màu sắc thấy nơi cơi Trung ấm như sau: màu sắc cầu vồng, ánh vàng chói mọi rực rỡ khó chịu đựng nổi khi thấy chính là ánh sáng trí tuệ phát ra từ cơi tốt lành hay Cơi Phật.
Nếu người Chết đă được truyền dạy, căn dặn, học hỏi được khi đang c̣n sống th́ lúc này Thần thức sẽ an tâm nương vào ánh sáng ấy để tới mặc cho ánh sáng quá chói chang làm cho khiếp sợ. Ánh sáng màu xanh dịu chính là ánh sáng của cỏi người, nơi mà bất kỳ ai cũng đều phải trải qua sự khổ đau tàn hại của Sanh, Già, Bệnh, Chết..
Khi vào đó rồi th́ sự giải thoát rất khó khăn. Nhưng theo các vị Lạt Ma Tây tạng th́ nguyên nhân khiến Thần thức chuyển vào cơi màu xanh ấy là do khi sống, con người ta hay bị cái Tham, sân, Si làm mê mờ. Sống chỉ thích cho an nhàn, khoẻ khoắn, thích có nhiều của cải bạc tiền, thích vật chất, sắc đẹp, danh vọng, chức quyền, ăn ngon mặc đẹp... ghét giận những ai hơn ḿnh, căm thù những ai làm ḿnh đau khổ...
Lâu dần (trải qua một đời làm người) những xấu tánh ấy trở thành tập quán khó bỏ nên khi thấy ánh sáng êm dịu mát mẻ th́ vội t́m đến, thấy ánh sáng chói chang th́ khiếp sợ tránh xa chớ không biết đâu là tốt, đâu là xấu cũng giống như khi c̣n sống, thấy ai nịnh bợ, tâng bốc, ton hót, khen ngợi ḿnh th́ thích thú thấy ai nói thật, lờí thẳng, trung trực, công minh th́ ghét bỏ giận hờn tránh xa.
Cái thói quen ấy đă ăn sâu vào tâm trí lúc c̣n sống nên lúc lâm chung dù xác thân bất động, chết hẳn rồi nhưng Thần thức thoát ra vẫn c̣n mang nặng cái kư ức, bản tánh như lúc c̣n sống nên rất dễ lầm lạc khi ờ vào giai đoạn Trung ấm.
V́ thế các vị thầy thường khuyên đệ tử hăy tập ngay từ bây giờ, khi con đang c̣n sống hăy học xả bỏ dần cái tánh tham lam, sân hận, kiêu căng, si mê lầm lạc để lúc lâm chung không bị những cái xấu xa ấy dẫn ta vào những cơi xấu xa mê mờ nguy hiểm của lục đạo.
Tuy vậy, con người ta không ai giống ai, có người bản tánh rất xấu xa độc ác nhưng không bao giờ biết hối cải ân hận chớ đừng nói tới chuyện tu tập. Những người như thế khi phút lâm chung đến, họ thường bất loạn tâm thân v́ ác nghiệp tràn tới làm họ kinh hăi. Họ khó chấp nhận hay tin vào những ǵ mà người thân cầu nguyện hay giải thích cho họ bên giường.
Với bản chất mê mờ ấy họ sẽ vô cùng khiếp sợ khi thấy ánh sáng chói chang vàng rực toả ra nơi cơi Trung ấm. Khi thấy ánh sáng xanh xuất hiện, họ sẽ trốn ngay vào nơi có ánh sáng xanh dịu ấy để t́m chỗ nương thân ẩn náu, đó cũng chính là nơi mà họ sẽ trở thành người chịu trả quả, ác nghiệp mà họ đă gây ra.
Theo kinh điển Tây tạng th́ một vị Phật nguyện quyết tâm cứu vớt và dẫn dất các vong linh trót mang nghiệp chướng mà tâm thức u tối mê mờ. Vị Phật ấy là Phật A Di Đà.
Ngài sẽ xuất hiện tiếp nối để dẫn dắt cho kẻ lầm mê thêm một lần nữa bằng cách toả ánh sáng dẫn đường màu đỏ chói, hầu giúp Thần thức kẻ mới ĺa đời nương theo. Nhưng lúc ấy, từ cơi Ngạ quỷ súc sanh phát ra ánh sáng màu xám mờ đục. Nếu tâm thức sáng suốt an lạc th́ sẽ biết nương vào ánh sáng của Phật A Di Đà.
Nhưng kẽ mà lúc c̣n sống đă làm những việc ác, xấu xa đê tiện th́ bản tính luôn tối tăm, thấp hèn, gian xảo nên thường có thói quen t́m những nơi tối tăm, mờ mịt để ẩn thân, trốn tránh... V́ thế mà thay v́ khi thấy màu sáng đỏ ác chúng lại sợ hăi, nghi ngờ t́m tới nơi ánh sáng mờ đục tối tăm để nương thân mà không ngờ đó là coi địa ngục xấu xa ghê rợn.
Những bậc Đại sư những vị thầy thường khuyên những thân nhân có người sắp ĺa đời hăy nhớ hổ trợ thêm cho người ấy bằng cách:
- Ngồi bên họ nói cho họ nghe về vấn đề vừa tŕnh bày trên.
- Hăy cầu nguyện cho tâm thức họ được trong sáng để họ nhận thức đúng khi nh́n thấy ánh sáng, ở giai đoạn Trung ấm.
- Hăy nói với họ là nếu trông thấy ánh sáng màu vàng chói chang rực rỡ th́ đừng có sợ hăi, v́ đó là Phật quang là ánh sáng của Trí tuệ tốt lành, hăy tin tưởng mạnh mẽ vào ánh sáng đó, an tâm tiến vào đó để được văng sanh an lành vào nơi Tịnh độ...
C̣n khi thấy màu xanh êm dịu th́ không nên chạy vào nơi đó, v́ nơi đó là cơi người vào đó sẽ lại chịu những sinh tử triền miên, những thói hư tật xấu làm phát sinh vô số nghiệp, khó ḷng thoát khỏi..Tử thư Tây tạng ghi rằng: Một khi người thân làm được điều vừa nói trên bên cạnh người sắp mất th́ kết quả mang lại thường rất tốt lành.
Dù cho người sắp mất lúc c̣n sống họ tạo nhiều ác nghiệp, hành động xấu xa th́ lúc lâm chung nghe được lời nói và lời cầu nguyện giăi bày về ánh sáng nơi cơi Trung ấm sẽ có lợi nhiều cho họ v́ một khi họ đă ghi nhận những híểu biết ấy với niềm tin tưởng nhiệt t́nh th́ sẽ phần nào làm đổi thay nghiệp lực của họ dù cho đó là nghiệp xấu, ác.
Câu hỏi được đặt ra là tại sao sau khi chết lại có khi phải qua giai đoạn Trung ấm lâu ngày mà không đầu thai ngay? Câu trả lời là: do kiếp đời của một người tích chứa vô số nghiệp mà nghiệp đủ loại xấu tốt chồng chất nhau khi sống, không những ở kiếp hiện tại mà từ nhiều kiếp đời trước đó nữa?
Có khi được nhiều Thiện Nghiệp tốt lành nhưng rồi phát sinh các nghiệp xấu ác kế tiếp khiến nghiệp thiện bị giải trừ đi nhiều ít khiến sự mất cân bằng về thiện ác, sự tăng giảm thiện ác qua lại này sẽ hướng dẫn Thân Trung ấm tới cơi giới tương ứng với Nghiệp xấu hay tốt mà người chết ấy đă tạo nên để đầu thai. V́ phải hội đủ điều kiện thuận lợi và tương ứng với Nghiệp để đầu thai cho xứng hợp nên không phải tức th́ được mà có khi lâu.
V́ Nghiệp quan trọng khi đầu thai nên các Vị chân tu thường khuyên thân nhân nên hổ trợ thiện nghiệp cho người mới qua đời trong thời gian ít nhất là 49 ngày - kể từ khi người ấy mất (v́ trong khoảng thời gian đó vong linh người mới chết ở vào giai đoạn được quyết định đầu thai dưới h́nh thức nào tùy theo duyên nghiệp của họ tạo lúc c̣n sống).
Theo lời khuyên của các vị chân sư th́ thân nhân nên làm việc phước thiện, ăn chay, bố thí, đọc kinh, tụng kinh siêu độ, vừa trợ lực tạo phước thay người mới mất và giúp họ sáng suốt để khỏi lạc vào cơi giới u tối xấu xa.
Tuy những điều khuyên của các vị chân tu vừa mô tả trên thường ít được thực hiện do bởi nhiều lư do: như có người không tin, cho rằng chết là hết, hay v́ quá thương xót nên chỉ biết than khóc, chớ không biết làm ǵ hơn vào những lúc đau khổ đó.
Trái lại nhiều gia đ́nh vào lúc ấy lại lo tổ chức tang ma cho lớn, xe cộ ŕnh rang, trướng liểng giăng đầy, xe cộ dập d́u đồ ăn thức uống tràn ngập, người đưa đám càng đông càng nở mặt nở mày với thiên hạ bà con.
Nhưng họ không biết rằng chính lúc đó, vong linh người mới mất vô cùng đau đớn xót xa, hoang mang mờ tối, phân vân lo sợ trước sáu ngả luân hồi (lục đạo).
Những giờ quyết định sinh mệnh cuộc đời mới qua đầu thai chuyển kiếp hết sức gay go nghiệt ngả… họ bơ vơ, đơn độc mà nào ai có thể biết tới, hổ trợ hay giúp đỡ, mà giúp làm sao được khi cơi sống và cơi chết cách ly nhau? Chỉ có vấn đề trợ lực, mà các vị chân sư từng chỉ bày là cách nên làm nhất.
NHỮNG H̀NH ẢNH XUẤT HIỆN Ở GIAI ĐOẠN TRUNG ẤM
Khi cơ thể hoàn toàn bất động và ngưng thở th́ từ thân xác, phần vi diệu gọi là Thần thức thoát ra, giai đoạn nầy gọi là giai đoạn Trung ấm. Vào giai đoạn này, tâm thức người chết sẽ thấy vô số h́nh ảnh. Những h́nh ảnh ấy đều là ảo giác, không thật v́ đó chính từ tâm của người mới chết hiện ra.
Cần phải nhớ kỷ rằng: nếu có những h́nh ảnh ghê rợn, dữ dằn hiện ra th́ cũng đừng lo sợ v́ chỉ là do tâm tạo ra mà thôi chớ năng lực thật sự th́ không có. Nhưng v́ sao lúc ấy lại sợ hăi ? V́ lúc chết đi, cái thân vật lư của ta không c̣n nữa, đă bất động, đă chết, chỉ có Thần thức mà thôi th́ những h́nh ảnh ấy lại trông như thật.
Kơn nữa, đối với những ai lúc c̣n sống không tu tập vững vàng không được chỉ dạy về sự kiện này, không chuẩn bị những kiến thức cần thiết cho giai đoạn Trung ấm th́ những h́nh ảnh vừa nói sẽ là h́nh ảnh thật sự hiện ra ngay trước mắt chớ không thể bảo là ảo ảnh hay ảo giác không thật.
Do đó mà vào giai đoạn Trung ấm, phần lớn những h́nh ảnh do tâm tạo sẽ gây nên sự lo sợ hay thích thú. Cảm xúc mạnh nhất của nghiệp thức ta lúc ấy sẽ định đoạt đưa ta đi vào lối nào đó của lục đạo (c̣n gọi là 6 ngả luân hồi) khiến ta dễ sa vào những cơi xấu xa dẫn đưa ta vào một kiếp đời mới qua sự tái sanh mới.
Chính v́ sự quan trọng của nhận thức hiểu biết vào lúc đó nên Tử thư Tây Tạng đă thường nhắc nhở mọi người rằng: bất cứ ai rồi cũng phải trải qua giai đoạn Chuyển Tiếp ấy nên phải cẩn thận, muốn vậy phải chuẩn bị học hỏi từ khi ta đang c̣n sống chớ đừng đợi tới lúc lâm chung, tâm trí bất định hoảng hốt khiến mê mờ, nhận định sai lạc mang lại hậu quả xấu xa bất lợi cho kiếp lai sinh.
Các vị Đại sư Tây Tạng từ ngàn xưa đă thấy rơ là sự thần thức cuả người mới qua đời đối với màu sắc, ánh sáng, cảnh quang chung quanh ở giai đoạn Trung ấm là rất quan trọng. V́ thế nên đă chỉ bày rất chi li, cẩn thận cho các đệ tử, nhắc nhở họ phải biết rơ về giai đoạn này (giai đoạn Trung ấm) hầu cứu giúp mọi người lúc ĺa đời khỏí rơi vào lầm lạc…Theo sự giảng dạy ấy th́:
Sau khi chết được 3 ngày, Thần thức sẽ chứng kiến nhiều h́nh ảnh lạ lùng kỳ diệu, đôi khi rất khiếp sợ. Trước tiên là thấy ánh sáng màu sắc vàng tỏa ra như cầu vồng. Nguồn ánh sáng ấy rất chói chang khiến Thần thức không chịu nổi khi trông thấy ánh sáng ấy.
Nhưng cùng lúc ấy lại có một nguồn sáng dịu màu xanh chiếu tới khiến Thần thức cảm thấy an ổn, yên b́nh quá nên vội vă tránh ánh sáng vàng rực rỡ để tiến vào vùng ánh sáng màu xanh mát dịu vừa mới xuất hiện kia. Nơi có ánh sáng xanh mát ấy không phải thuộc cảnh giới tốt lành thanh thản mà là cơi của kiếp người.
Mà trở lại kiếp người th́ cũng lại phải đắm ḿnh trong kiếp trầm luân, chịu quả báo do nghiệp tạo ra...Ngoài cảnh giới màu xanh dịu kia ra c̣n có những cơi giới có mầu sắc khác nhau tương ứng với những cơi giới khác nhau.
V́ có nhiều cơi giới c̣n xấu hơn cơi người nhiều nữa nên cần biết rơ để khỏi lạc vào…Do đó mà lúc c̣n sống nên biết rơ về màu sắc, âm thanh từng cơi giới để khi ĺa đời nhận biết được cơi giới nào tốt, là xấu - Chuẩn bị được sự hiểu biết đó trước khi mất là điều rất quan trọng.
Trong phút lâm chung, thường th́ ai cũng hay thấy những nguồn ánh sáng, những h́nh ảnh quái dị, ghê sợ hay nghe những âm thanh lạ lùng sẽ làm cho ta lo lắng sợ hăi bàng hoàng, ngơ ngác Giây phút đầu tiên tiếp cận ranh giới của sống chết mà đă vậy th́ rất tai hại.
V́ thế khi c̣n sống nên tập cho quen hay chuẩn bị tinh thần để phút ra đi thấy những điều vừa nói sẽ không làm cho tâm thần chao đăo. Lúc ấy, cứ giữ tâm an nhiên tự tại, đừng khiếp sợ mà hăy đọc kinh hướng về Chúa hay tụng kinh hướng về Phật, nghĩa là tùy theo niềm tin tôn giáo của ḿnh mà liên tục tụng niệm để được nhất tâm bất loạn có thế th́ mọi h́nh ảnh xấu sẽ qua mau.
Ngoài ra phút cận kề cơi chết, phần lớn đều thấy người thân đă quá cố tới bên giường hay chào đón lôi kéo th́ phăi biết họ đă vào một trong 6 nẻo luân hồi không mấy tốt lành nên đừng theo họ v́ có thể bị lôi kéo vào cơi giới không an lành. Lúc ấy cần nhất tâm đọc kinh hoặc tụng kinh, giữ tâm an định, không lo lắng phân vân.
Những lời khuyên trên của các vị chân sư từng thấu rơ mọi sự việc bên kia cửa tử mách bảo cho chúng nhân để tránh rơi vào cơi xấu trong lục đạo rất khó tránh. Lư do là ở giờ phút hấp hối phần lớn con người ta ham sống sợ chết, thân nhân bên ḿnh th́ khóc lóc kêu than, níu kéo c̣n tâm thần th́ hoảng loạn, làm sao đủ b́nh tỉnh để làm y lời dặn hữu ích trên.
Do đó tốt nhất khi c̣n sống mỗi người nên tập trước về tâm thân, ư chí, tập để chuẩn bị cái chết trước sau rồi cũng phải đến.Theo Kinh Phật Giáo th́ người sắp ĺa đời hăy tŕ chí niệm câu “Nam Mô A Di Đà Phật” th́ sẽ được văng sanh cực lạc (Phật A Di Đà có đại nguyện là dẫn dắt bất kỳ ai lúc lâm chung muốn được ngài đến dẫn về cơi an lạc).
Phần lớn những người chết, khi bước vào cơi giới bên kia thường bị cái “Tâm trạng hốt hoảng, lo sợ, đau buồn, xót xa v́ cảm thấy xa ĺa người thân và bơ vơ lạc lơng ở nơi mà họ nghĩ là chưa bao giờ thấy hay biết.
Tâm xao xuyến của họ lúc ấy sẽ hiện ra mà phần lớn theo sự tưởng tượng của ḿnh qua những ǵ mà lúc sống họ đă từng nghe, từng đọc qua. Nếu họ là người Thiên Chúa giáo có thể họ lúc ấy sẽ thấy Địa ngục, nơi luận tội, hay thấy Chúa có thể họ sẽ thấy Thiên đàng...
Nếu là Phật giáo th́ họ thấy Phật, thấy nhà sư, thấy hào quang hay thấy ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục... Như vậy: Theo các vị Lạt Ma Tây Tạng th́ tùy vào Tâm thức mà người chết thấy những cảnh giới khác nhau.
Khi người sắp chết, những giây phút lúc lâm chung càng lo lắng, đau khổ, sợ hăi, hoảng hốt bao nhiêu th́ họ sẽ phải trăi qua một giai đoạn thời gian rất lâu với cảnh trí mà họ đă tưởng tới bấy nhiêu.
Tuy nhiên sự b́nh tỉnh, sáng suốt thường hiếm thấy nơi những người sắp ĺa đời nhất là khi quanh họ có các người thân vật vă khóc lóc, điều mà các vị sư, các Lạt Ma rất tối kỵ.
Lư do là càng làm cho người sắp chết dùng dằng không thể ĺa đời một cách thanh thản tự nhiên. Điều đó cũng thường khiến họ sa vào những ngỏ sai lạc ở các nẻo luân hồi khi chết.
Phần lớn những người chết vẫn c̣n mang nặng cái “Tôi” tức là cái bản ngă của họ mà ngay lúc sống họ luôn luôn bảo vệ lấy (cái này là của tôi, người này là của tôi, cái kia là của tôi, tôi thương, tôi ghét, tôi thích, tôi giận.. cái ǵ cũng tôi cả chính v́ cái tôi ấy mà khi sống đă tạo ra biết bao sự khổ..)
V́ cố bảo vệ lấy ngay cả sau khi ĺa đời, ĺa bỏ thân xác, cái tôi vẫn đeo đẳng nơi cái gọi là Hồn và v́ chỉ biết có ḿnh nên không lưu ư tới những ǵ xảy ra khi linh hồn thoát ra khỏi thân xác.
Các vị Lạt Ma Tây Tạng cho biết rằng: rất nhiều linh hồn mất dịp may v́ khi bắt đầu đi vào thế giới bên kia thường có một luồng ánh sáng rực rỡ phát ra. Nếu họ sáng suốt do không bị mê mờ cố bám lấy cái Tôi hay cái Ta của ḿnh.
Hoặc đă được các Lạt Ma hổ trợ, chỉ dạy lúc lâm chung th́ họ sẽ thấy và biết nguồn sáng đó là loại ánh sáng cao cấp chỉ đường cho họ tới cơi giới tốt lành yên ổn hơn. Tuy nhiên phần đông các linh hồn đều lầm lạc nên đă đi nhầm vào những nơi tai hại.
“V́ cái giận sẽ gây nên Phiền năo v́ thế không giận là hay hơn cả. V́ Từ bi bác ái tạo ra Hạnh phúc, v́ thế nên phát triển tâm thiện này th́ hơn.” (Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14).
“CÁI G̀ ĐI T̀M“ MỘT THÂN KIẾP MỚI ỨNG VỚI NGHIỆP ĐĂ TẠO RA KHI SỐNG.
Theo tŕnh bày trên th́ Thân Trung ấm là cái đi đầu thai, nhiệm vụ nó là mang theo Nghiệp lực để đi đầu thai.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 322 of 1146: Đă gửi: 21 June 2010 lúc 2:19am | Đă lưu IP
|
|
|
QUA CỬA CHUYỂN TIẾP
ĐẦU THAI KHÓ KHĂN HAY DỄ DÀNG? LÂU HAY MAU?
“Nhiệm Vụ của Thân Trung ấm là đi t́m một kiếp đời mới thích hợp, thích ứng với Nghiệp tạo ra. Sự t́m kiếm ấy mau hay chậm c̣n tùy thuộc vào người đă qua đời lúc sống bản thể việc làm thiện ác của họ tốt xấu như thế nào.
Ví dụ:
- Người có thiện tâm nhân đức thật sự như các bậc đại sư lừng danh th́ có khi chỉ trong chốc lát đă đi vào kiếp khác ngay sau khi qua đời.
- Người có ḷng nhân tốt lành tuy không từng tu tŕ công quả thượng thừa nhưng v́ ít phạm vào các giới có khi chỉ nửa tháng, hay một tháng là đă đầu thai.
- C̣n những kẻ b́nh thường th́ thường sau khi chết độ 49 ngày là bắt đầu chuyển đi đầu thai.
- Tuy nhiên cũng có những người khi chết v́ quá u mê mờ tối, luyến lưu kiếp sống cũ th́ họ sẽ tŕ chậm đầu thai, nhất là những người tự vẫn mà Chết (chưa tới kỳ chết) hay những người bị chết oan ức, tức tưởi..
Phần lớn những oan hồn này thường lang thang vô định, không có nơi nương tựa nên lâu ngày dễ tạo thành thể chất đặc biệt mà người cơi thế gọi là "Ma" cần phải cầu hồn cho hương linh được siêu độ mới mong thoát được kiếp oan hồn vất vưỡng.
KHI CHẾT, SINH MỆNH KIẾP ĐỜI TRƯỚC SẼ CHUYỂN QUA SINH MỆNH KIẾP ĐỜI KẾ TIẾP
Nói theo kinh điển Phật giáo th́ khi chết cái thân xác sẽ bất động, không c̣n biết ǵ nữa cả và cái xác thân ấy sẽ phải bị hủy hoại theo luật tự nhiên để chấm dứt một kiếp đời hiện tại..
Nhưng cái ḍng sinh mệnh th́ lại không mất mà tiếp tục chuyển đổi qua một kiếp đời mới khác qua một h́nh hài thân xác mới.
Khi đó A Lại Gia Thức sẽ mang những Nghiệp xẩu tốt, những tính chất, cá tánh hoài bảo của sinh mệnh kiếp đời trước (như những hạt mầm) chuyển qua cho sinh mệnh kiếp đời sau, để rồi những hạt mầm ấy sẽ mọc lên cây lành hay cây tốt, theo đúng luật Nhân Quả, khiến cuộc đời mới của sinh mệnh ấy khổ đau hay sung sướng là tùy vào những hạt mầm ấy.
Vậy, A Lại Gia Thức rất quan trọng, nó Duy Tŕ Nghiệp Nhân Quả Thiện Ác.
Quư vị độc giả đọc đến đây, nếu thấy có vài điểm chưa hiểu th́ xin quư vị đọc lại lần nữa thật chậm, vừa đọc vừa suy nghĩ, phân tích để hiểu cho rơ th́ những lư giải về sau mới được rơ hơn.
Đọc xong quư vị sẽ thấy là:
- Chết không phải là hết.
- Chết là chuyển đổi kiếp đời này qua một kiếp đời khác như bước qua một cánh cửa chuyển tiếp, Khi bước qua cửa là đă chết, khi đó thân xác cũ hủy hoại như ta thay bộ đồ cũ bỏ đi và mặc vào bộ đồ mới khác-Bộ đồ mới này là Thân xác khác
- Những Nghiệp tạo ra từ những kiếp đời vừa qua được giữ ǵn, mang theo bởi A Lại Gia Thức. Như vậy A Lại Gia Thức có nhiệm vụ thu nhặt ghi chép từng chi tiết hành vi cuộc đời tạo ra Nghiệp và cất giữ.
Sau khi biết rơ những điểm liên kết vừa tŕnh bày trên, chúng ta bắt đầu bước qua giai đoạn kế tiếp là:
1. Sau khi Chết, sự chuyển kiếp hay c̣n gọi là Đầu Thai sẽ như thế nào?
2. Cái ǵ đi đầu Thai?
3. Đầu thai có dễ đàng không?
4. Đầu thai lâu hay mau?
Ta lần lượt đọc qua tài liệu kinh sách ghi rơ các vấn đề nêu trên qua những phần thu gọn hết sức đơn giản để dễ hiểu như sau:
SAU KHI CHẾT, SỰ CHUYỂN KIẾP RA SAO?
Kiếp này muốn chuyển qua kiếp kia hay c̣n gọi là Đầu thai do nhiệm vụ của Thân Trung ấm. Theo tài liệu của Ḥa Thượng Thích Chánh Lạc. Tiến sĩ văn chương Trưng Hoa. trong cuốn Sống Chết. Phú Lâu Na xuất bản th́ dạng thể của thân Trung ấm cao chừng 90 cm, gần bằng một đứa bé 5, 6 tuổi nhưng rất sáng suốt, lanh lợi.
Món ăn của thân này là mùi hương. Về dạng thể thân này như cái bóng mờ. Khi chuyển đi sẽ ở tư thế khác biệt dễ nhận biết. Nếu Thân trung ấm của loài Trời th́ phần đầu sẽ ngửa lên phía trên.
Nếu của người, Quỷ là đầu đi ngang, nằm ngang. C̣n của Chúng sanh trong Cơi địa ngục th́ đầu chúc ngược xuống phía dưới (trong Luận Câu Xá cuốn thứ chín).
Ở đây tưởng nên nhắc lại về sự kiện Thân Trung Ấm có liên hệ ǵ với hiện tượng Sợi dây mờ đục liên kết thân xác người chết với phần mờ như sương khói, mà các Lạt Ma Tây Tạng thường nhắc tới ở phút giây sắp ĺa đời hay Sợi dây bạc Silver cord mà ngày nay các nhà khoa học cũng như một số bác sĩ đă nhắc tới?
SỰ LIÊN HỆ GIỮA LINH HỒN VÀ THỂ XÁC QUA SỢI DÂY LIÊN KẾT
Trong Tử thư Ai Cập và Tây Tạng đều có sự mô tả phần nối "linh hồn" người chết với Thân xác người chết. Đó là một giải mờ sáng giống sợi dây.
Dawasandup, nhà nghiên cứu về cơi chết nổi tiếng của Tây Tạng đă cho biết rằng: Khi chết, "linh hồn" người chết thoát ra từ một huyệt đạo, thường là ở đỉnh đầu. Tuy nhiên chưa đứt ĺa hẳn mà nối bằng một sợi dây lung linh mờ sáng rất khó thấy. Tuy nhiên các bậc chân tu th́ lại thấy rơ.
Các vị Chân sư thời cổ đại Ai Cập trong các buổi lễ Điểm Đạo, họ thường quan sát sợi dây liên kết nối lỉền thân xác và Linh hồn của người đệ tử đang trong t́nh trạng mê man của cơn đồng thiếp, điều chứng tỏ cuộc điểm đạo đang trong t́nh trạng b́nh thường.
Mục đích buổi lễ là giúp "linh hồn" người đệ tử học hỏi được những ǵ ở bên kia cửa Tử. Đó không phải là một sự chết hoàn toàn. Nhưng đối với người ĺa đời th́ sợi dây liên kết này sẽ đứt ĺa.
Một số nhà khoa học, y bác sĩ... trên thế giới cũng có lần mô tả về sợi dây lạ lùng kỳ bí nầy. Như bác sĩ R.J sTaver, Giáo sư R.Crookall, Reverend L.J. Bertrand, Oliver Fox, Bác sĩ Wiltse.
Tại Na Uy, cô Engeborg cho hay là cô có lần thấy ḿnh như lướt ra khỏi cơ thể một cách nhẹ nhàng và cô thấy có một sợi dây mờ sáng lung linh theo ḿnh.
Có một số nhân chứng khác c̣n cho rằng, từ sợi dây mô tả trên họ thấy có phần khói mờ đục thoát ra lơ lửng gần cơ thể người vừa mới qua đời. Bác sĩ Hout mô tả rằng khối hơi hay sợi dây liên kết ấy rung động và như có chớp sáng.
C̣n nhà khoa học J.C.Street thấy làn hơi từ từ giống dạng người. Trên đặc san Society for Psychical Research, ông K.G đă chứng kiến sợi dây nối linh hồn và thể xác của người vợ lúc bà qua đời.
Các h́nh ảnh tương tự cũng được các bác sĩ, y tá mô tả như bác sĩ R.B. Hout, bác sĩ E.W. Oaten, Bác sĩ A.j. Davis, Bác sĩ Raynor.C. Johnson.. những vị này c̣n cho biết là khối hơi có dạng h́nh người và có khi ở những vị trí ngang, thẳng đứng, nghiêng hay ngược.
Điều này trùng hợp với mô tả trong các cổ thư Tây Tạng, Ai Cập về h́nh ảnh lạ lùng này. Năm 1929, sinh viên khoa học Sylvan Muldoon là người có thể xem như là tiên phong trong vấn đề nghiên cứu t́m hiểu sự liên kết giữa cái gọi là "Hồn" và xác cũng như sợi dây mờ đục lung linh nối hai phần vừa kể.
Cuốn Projection of the Astral Body do sinh viên này biên khảo và xuất bản. Về sau, các nhà khoa học khác đă bắt đầu lưu tâm nghiên cứu.
Ngày nay, sự kiện sợi dây màu trắng bạc cũng như khối hơi vẫn đang là đề tài nghiên cứu của một số nhà khoa học. Họ tạm cho rằng phần kỳ lạ đó thuộc siêu vật thể có khả năng vận truyền sức sống cho cơ thể. Một khi siêu vật thể ấy đứt ĺa tức là sự sống của thân xác không c̣n.
NGƯỜI MỸ VÀ NIỀM TIN VÀO CƠI GIỚI MÀ LINH HỒN ĐẾN SAU KHI CHẾT NHƯ THẾ NÀO?
Ngày nay một số lớn người Mỹ có thái độ và niềm tin về những ǵ sẽ xảy đến với bản thân họ sau khi chết có rất nhiều thay đổi sâu xa.
Sau khi một số y bác sĩ tŕnh bày những bài thuyết giảng, những bài báo và cả luận án cũng như nghiên cứu về vấn đề kề cận với cái chết, các nhà báo bất đầu đổ xô đi săn lùng những đề tài vừa kể.
Năm 1982, viện Gallup đă mở một cuộc thăm ḍ rộng răi khắp nước Mỹ về những hiện tượng của vấn đề cận tử. Kết quả, viện này đă tham khảo được 8 triệu người Mỹ đă có lần Chết đi và Sống lại.
Những hồ sơ ghi chép về những ǵ mà những người này đă có lần đi vào cơi giới khác mô tả lại được đem phân tích so sánh, đối chiếu rất cẩn thận. Điều lạ lùng kỳ thú là mặc dù ở những tiểu bang khác nhau, không quen biết nhau, nhiều mô tả của những người Mỹ này lại khá tương tự hay trùng khớp nhau về những cảnh trí, sự kiện được xem là ở bên kia cửa Tử.
Dưới đây là một số sự kiện được các nhà nghiên cứu hiện tượng Cận Tử ghi lại như sau:
1. Ở phút hấp hối rồi xuôi tay, họ thường có những cảm giác lạ lùng như cảm thấy thanh thản, an vui, nhưng có người lại cảm thấy lo lắng sợ sệt, hoang mang hay ngơ ngác.. .
2. Các giác quan lúc đó (cận tử) tự nhiên như được phát huy nên nghe rơ, nhận thức rơ, cảm giác nóng lạnh hay đau đớn rơ hơn. Về âm thanh họ nghe như có tiếng gió mạnh và thân xác họ như nhẹ đi và tách rời khỏi thân xác.
Phần lớn họ đều thấy ḿnh nằm chết bất động, c̣n họ th́ ở trên cao họ thấy rơ thân xác họ và thấy biết những ǵ đang xảy ra chung quanh. Lúc đó họ lướt đi dễ dàng như lên cao xuống thấp và có thể xuyên qua tường hay vật rắn.
Vào giai đoạn đó họ không cảm thấy nặng nề, không c̣n dính dấp với xác thân, lúc đó họ chỉ c̣n liên kết với tâm họ thôi nên cảm thấy nhẹ nhàng một cách kỳ diệu.
3. Lúc này họ biết ḿnh đang ở vào t́nh huống nào, biết ḿnh đang ở vào hoàn cảnh khác với trước lúc c̣n sống. Họ cảm thấy ḿnh như bị cuốn hút vào trong một khoảng tối đen mông lung diệu vợi không biết đâu là chiều hướng. Họ thấy ḿnh lướt đi rất nhanh qua một đường hầm hun hút.
4. Kế đến, họ thấy từ xa một điểm sáng, rồi một vừng sáng rực rỡ tỏa ra đồng thời họ cảm thấy một t́nh thường bao la như hoa trong ánh sáng bao phủ lấy họ. Lúc bấy giờ những h́nh ảnh của cuộc đời họ bất đầu diễn ra như một cuốn phim của đời ḿnh được chiếu lại..
Về sự kiện ánh sáng th́ h́nh như mọi người đă được hỏi qua đều cảm thấy hân hoan kỳ lạ, họ mô tả đó là loại ánh sáng chưa từng thấy, một thứ ánh sáng toàn vẹn, rực rỡ nhưng lại không làm cho mắt bị ḷa, một thứ ánh sáng mà khi được bao phủ họ cảm nhận sự an lạc kỳ diệu vô bờ bến nên lúc ấy họ hoàn toàn ḥa vào với ánh sáng ấy..
5. Phần lớn mô tả thấy những cảnh trí đẹp đẽ lạ lùng diệu vợi với âm thanh thanh thoát phiêu bồng. Đôi khi h́nh ảnh có vẻ như xa vắng mông lung hay tối tăm u buồn dễ sợ. Có người thấy dinh thự lâu đài nhà cửa, có người thấy hang đá, hố sâu...
6. Phần lớn thấy là họ không thể vượt qua một lằn ranh giới nào đó, mà phần lớn như cánh cửa hay cái cổng lớn.
7. Vấn đề trông thấy người th́ ở đây có điểm rất tương đồng là trong số 8 triệu người Mỹ, đă từng chết đi sống lại, phần đông đều kể là họ đă gặp lại người thân thuộc, bạn bè nhưng là người thân, bè bạn đă qua đời rồi chớ không gặp người hiện đang c̣n sống.
8. Những người chết đi rồi tự nhiên sống lại đều kể giống nhau là có một động lực thúc đẩy, chỉ bảo họ nên quay về. Có người gặp lại người cha, mẹ, anh em... đă mất trước đó rất lâu, họ ra dấu bảo hăy mau mau quay về đừng tới đây làm ǵ và sau đó chính họ trở lại thân xác của họ.
Kết quả những khám phá và nghiên cứu trên c̣n mang lại một số điểm như sau:
Những người đă từng Chết đi Sống lại ấy hầu như tất cả đều thay đổi thái độ sống. Nghĩa là trước đó họ sống “rất là tính người, th́ nay không hoàn toàn như thế nữa.
Trước đó họ hay tham lam, giận dữ, tranh chấp, tự ái... th́ nay họ sống có khi như an bần lạc đạo, sống nhiều về nội tâm, hướng về đấng tối cao nhiều hơn. Có người tới nhà thờ làm việc thiện, có người t́m đọc sách Thiền, tập tu Thiền, t́m hiểu thêm về lư thuyết của Phật giáo.
Đặc biệt là những giáo lư của Phật giáo Tây Tạng có những lư giải phần lớn trùng khớp với những điều họ đă trải qua trong thời gian cận kề với cái chết.
Đối với những vị Đại sư Tây Tạng th́ những sự thấy biết của những người Chết đi sống lại, mô tả trên thật ra chỉ là những ǵ xảy ra ở ngưỡng cửa của Cơi Trung ấm mà thôi, chớ chưa thực sự vào sâu sau cơi Chết.
Lư do là họ mới tới đó rồi trở về nhập xác, chớ nếu vào sâu nữa th́ chắc chắn họ đă Chết hẳn, không thể trở về lại với thân xác nữa...
Một sự kiện làm các vị Lạt Ma lưu ư là qua lời mô lả, kể lại của những người cận kề cái Chết, và may mắn sống lại là họ đều trải qua giai đoạn thấy lại rơ ràng toàn cảnh cuộc đời của họ, vô cùng chi tiết từ những hành động tốt cũng như xấu.
Như vậy là rơ ràng vấn đề tạo Nghiệp rất quan trọng phát sinh từ những hành động việc làm của chính ḿnh trong đời. Những lời kể lại ấy nói lên rằng Những ǵ ta đă làm, đă gây nên và thấy rơ trong phút lâm chung không thể nào chối cải hay trốn chạy được Nghiệp báo.
Chính nhờ y khoa ngày càng tiến bộ có thể giúp hồi sinh một số người tưởng đă qua đời. Nhưng cũng chính nhờ vậy mà giới Y khoa ngày nay biết thêm một số sự kiện đặc biệt, những tiến tŕnh cùng với h́nh ảnh màu sắc diễn ra khi con người tiến dần vào cơi Chết qua những mô tả của những người có lần chết đi sống lại.
Đại sư Sogyal Rinpoche đă từng đối thoại với những y bác sĩ Tây phương về vần đề này rằng: "Làm sao mà bạn là vị Bác sĩ tài ba và giàu kinh nghiệm thực sự, nếu bạn không được hổ trợ thêm một số kiến thức về sự thật của cái chết như thế nào. Nếu không có được may mắn đó, th́ làm sao bạn có thể giúp đở người sắp chết về mặt tâm linh?
Ngày nay trên thế giới, nhiều y bác sĩ đă mạnh dạn đi sâu vào việc nghiên cứu t́m hiểu những ǵ liên quan tới sự Chết và có ǵ đằng sau cơi chết.
Trong hai bộ sách Tử Thư Ai Cập và Tử Thư Tây Tạng, th́ nội dung có nhiều điểm tương đồng, tuy nhiên về chi tiết vẫn có những điểm hơi khác biệt.
Đối với Tử Thư Tây Tạng th́ chi li và ứng hợp với nhiều điểm mà những người chết đi sống lại mô tả thường rất ăn khớp. Đối với nhà khoa học, các y bác sĩ hiện nay khi nghiên cứu t́m hiểu về Cận tử, họ tận dụng kinh sách Tây Tạng nhiều hơn, nhất là Bộ Tử Thư.
Ngày xưa, các vị Lại Ma Tây Tạng, nhất là các vị Đại sư hay Đạt Lai Lạt Ma, sống ẩn dặt tại quê hương họ nên thế giới ít biết về những vấn đề sâu xa thuộc lănh vực Tâm tinh.
Nhưng ngày nay, qua biến cố Trung quốc tự chiếm đóng Tây Tạng cả trăm ngh́n người Tây Tạng đă sống lưu vong, trong đó có cả vị Đạt Lai Lạt Ma và một số lớn các vị Đại đức, đạo sư...
Nhờ đó mà nhiều người, kể cả các học giả, các nhà khoa học Âu Mỹ có dịp tiếp cận và thu thập kiến thức về thế giới tâm linh, qua đó c̣n có cả Sự Chết. Một vấn nạn mà Con người thường phân vân trăn trở và lo sợ.
Nhiều vấn đề thắc mắc về sinh tử cũng nhờ đó mà được các Đại sư giải thích rơ ràng. Ví dụ như vấn đề sống chết, trong khi chết, sau khi chết.
Ngoài ra c̣n vô số các thắc mắc liên quan tới sự chết ví dụ như những thắc mắc về tự tử, về sự hư thai, về vấn đề hiến tặng xác thân, về bảo quản cơ thể .. đă được Đạo sư Dilgo Khyentse Rinpoche giải thích rất tường tận:
- Về người Tự vẫn th́ việc làm đó là một sai trái mà ngay cả Thiên Chúa giáo cũng tuyệt đối ngăn cấm. Khi một người tự tử th́ Thần thức của người đó cũng không có thời gian chuẩn bị, sự bất ngờ mà không thể cưỡng lại được nên Thần thức hay Thân Trung ấm khi đó vụt thoát ra khỏi thân xác.
Lúc chết v́ tự sát, tâm thức người ấy rối ren, vụt tốc do tự ái, nóng giận, không kiềm nổi lư trí v́ thế họ đi vào cơi chết trong u tối lầm lạc nên Thần thức buộc phải đi theo Nghiệp Xấu của ḿnh.
Đó là lúc rất nguy hiểm v́ không có thời gian suy nghĩ kiểm soát chuẩn bị đề pḥng.. nên dễ bị các vong linh xấu dẫn dắt vào cơi xấu xa của lục đạo. Hơn nữa, Tự vẫn là do ḿnh quyết định lấy thân phận chớ chưa hẳn là người ấy đă tới giai đoạn phải ĺa đời. Như vậy th́ vong linh họ chưa được sấp xếp quy định nên măi cứ lang thang vất vướng vô cùng tai hại.
Về vấn đề ngày nay khoa học tiến bộ, đă khiến các nhà khoa học nghĩ tới việc đông lạnh thân xác người mới chết, v́ bệnh để chờ đợi tương lai ngành y khoa tiến bộ hơn, có thể làm cho sống lại nhờ loại thuốc hay phương cách nào đó.
Theo Đạo sư Dilgo Khyentse Rinpoche th́ khi một người trút hơi thở cuối cùng, th́ Thần thức sẽ rời khỏi thân xác để thực hiện vai tṛ đầu thai chuyển kiếp. V́ thế không có vấn đề Thần thức chờ đợi thân xác được cứu chữa.
Điều tai hại lớn lao nguy hiểm hơn nữa là trước khi người ấy chết, mà được hứa hẹn là được bảo quản nhờ đông lạnh chờ đợi cứu chữa, th́ khi người ấy chết, tâm thức họ sẽ đầy hy vọng vào sự sống lại qua cái thân xác cũ ấy.
Do đó mà càng bám víu vào cái xác lạnh vô hồn làm cho sự tái sinh vào kiếp đời khác bị ngăn cản, chặn đứng quả không có ǵ tai hại cho bằng. Vong linh họ sẽ lang thang vật vờ, phiêu diêu vất vướng t́nh trạng họ sẽ vô cùng đau thương v́ họ đă rơi vào cơi giới giá băng ghê rợn mà họ không biết.
Về vấn đề hiến tặng thân xác. Ví dụ như có người hứa là sẽ hiến thân xác họ sau khi qua đời, hầu giúp các công tŕnh nghiên cứu y khoa, hay sau khi chết có thể dùng cơ phận của cơ thể họ, cứu giúp những người không may bị bệnh như gan, thận, mắt, phổi, tim...
Theo Đạo sư Dilgo Rinpoche th́ đây là một nghĩa cử vô cùng cao cả, một công đức không thể nghĩ bàn. Nếu người bệnh, người sắp chết có hy sinh ấy, ước nguyện cúng hiến ấy th́ khi người ấy mất, tâm thức họ đă biết rơ việc ấy rồi nên không tạo sự bất ngờ, hốt hoảng, lo lắng cho họ.
Dù bệnh viện có tận dụng phần thân xác họ bao nhiêu đi nữa, th́ Thần thức vẫn không bị ảnh hưởng mà c̣n mang thêm công đức, nghiệp tốt của người chết để hổ trợ vào tiến tŕnh tái sanh qua một kiếp đời mới khác an lành hơn.
Đối những người bị xử tội bằng bất cứ h́nh thức nào như xử chém, thắt cổ, xử bắn, ngồi ghế điện, tiêm thuốc độc vân vân th́ tâm trạng của họ trước giây phút ĺa đời vô cùng khủng khiếp, tâm thức họ kinh hăi, xót xa, đau khổ ngập tràn...
V́ thế trước và trong khi chết họ sẽ hoang mang ngơ ngác không biết vào đâu dễ bị các vong linh xấu xa lôi kéo vào Cơi tối tăm khốn khổ. Hơn nữa vào giây phút bị giết dù họ có linh mục hay nhà sư làm lễ đi nữa, họ cũng khó mà tiếp nhận được lời cầu nguyện lúc tinh thần đang bấn loạn ấy.
V́ thế thân nhân người chết ấy phải thiết lập bàn thờ cầu nguyện tiếp tại nhà hay tại chùa, nhà thờ để hổ trợ cho hương linh người chết.
Đối với những người bị chết bất ngờ như tai nạn, té ngả, bị xe, bị ám sát, bị đạn... th́ đó là điều mà họ không nghĩ tới, không ngờ tới.
V́ thế dù đă chết nhưng họ vẫn nghĩ là ḿnh chưa chết nên thường cứ về nhà như lúc c̣n sống. Tuy nhiên v́ chỉ là cái “vong linh” vô h́nh vô ảnh nên không ai thấy họ, nghe họ, biết họ c̣n sống cả.
T́nh trạng ấy khiến họ đau khổ vô cùng. Chỉ khi thấy bàn thờ có h́nh ảnh họ và gia đ́nh thờ cúng khóc lạy họ th́ họ mới cảm nhận ḿnh đă qua đời, nhưng vẫn hoang mang, mơ hồ chưa rơ.
Do đó thân nhân phải lo đọc kinh, tụng kinh hộ niệm, làm lễ cầu hồn cầu siêu giúp hồn người chết ấy mau siêu thoát. Việc làm này rất cần kíp.
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT SAU CƠI CHẾT
Về Tái sinh làm người cần lưu ư điều này: Thật ra th́; con người khi chết đi, nếu tái sinh trở lại làm người th́ đó là là một điều đáng mừng v́ khi chết đi tùy theo nghiệp mà tái sinh vào cơi giới nào đó. -
Theo Phật giáo th́ có những cơi giới đáng sợ như cơi Địa ngục, Cơi Ngạ Quỷ, Súc Sanh hay Cơi không mấy hoan nghênh là Cơi A Tu La. Có Cơi lại khó đến như Cơi Trời là Cơi sung sướng tốt lành.
Chỉ có cơi Người là trung b́nh, tuy cơi này kiếp đời cũng nghiệt ngả khổ đau với Sinh, Lăo, Bệnh, Tử... nhưng nếu xét tới cảnh làm thân thú vật hay quỷ dữ th́ làm người là may mắn hơn rất nhiều.
Các Kinh sách cũng thường nhắc tới vấn đề này như sau:
"nếu lỡ khi tái sanh không được làm kiếp người mà làm kiếp thú, th́ không ǵ khốn khổ cho bằng. Do đó, nếu khi sống không chịu tu tập để tới được cơi giới thanh cao th́ một khi đă mất làm thân người th́ khó mà trở lại kiếp ấy”
Chết không phải là mất hẳn. Chết chỉ là chuyển đổi cái kiếp thân này sang cái kiếp thân khác mà thôi.
Nguyên nhân là do Nghiệp mà khi sống ta tạo ra. Nghiệp ấy hoặc tốt hoặc xấu, hoặc Thiện hoặc ác. Tùy theo Nghiệp xấu tốt mà kiếp đời mới của ta theo luật Nhân quả sẽ sung sướng hay khổ đau, mạnh khỏe hay tật bệnh triền miên...
Như vậy Nghiệp là cầu nối làm cho Sinh Mệnh mỗi người tiếp tục từ đời này qua đời khác. Nghiệp phát sinh là chính ta cho không ai khác cả. làm ác tạo ra Nghiệp ác, làm Thiện tạo nên Nghiệp Thiện.
Những Nghiệp ấy được tích chứa, lưu giữ bởi A lại Da thức... Khi ta c̣n đang sống trên cơi đời th́ A lại Da Thức không ra khỏi thân xác của ta. v́ nó luôn luôn có nhiệm vụ ghi chép, giữ lại tất cả hành động của ta từng li từng tí một.
Nó giống như nhà quay phim về mọi hành động tốt xấu của đời ta. Tới khi ta nhắm mắt qua đời th́ nó mới thoát ra khỏi thân xác ta ,để làm sứ mệnh đầu thai cho ta.
Khi một người chết đi th́ Thần thức thoát ra khỏi thân xác của người ấy. Thần thức là cái mà dân gian thường gọi là Hồn hay Linh hồn. Câu hỏi xưa nay là Thần thức thoát ra như vậy là từ nơi đâu của thân xác?
Theo Tử Thư Tây Tạng th́ có 9 huyệt đạo trên cơ thể và Thần thức sẽ thoát ra từ một trong 9 huyệt ấy.
Theo các vị Lạt Ma Tây Tạng th́ tùy theo nơi phát xuất, mà các vị biết được cơi nào thần thức đi tái sanh.
- Nếu Thần thức thoát ra từ đỉnh đầu của người chết th́ họ sẽ tái sinh vào cơi thanh cao.
- Nếu Thần thức thoát ra từ vùng Tim th́ sự tái sinh sẽ là Người.
- Nếu Thần thức thoát ra từ phần bụng th́ sẽ tái sinh vào cơi xấu như cơi của ngạ quỷ.
- Nếu Thần thức thoát ra từ phần chân, đầu gối th́ sẽ tái sinh vào cơi Súc sánh thú vật.
- Nếu Thần thức thoát ra từ ḷng bàn chân th́ sẽ tái sinh vào cơi Địa ngục.
Nơi Thần thức thoát ra từ cơ thể là nơi thường c̣n chút nóng ấm. Khi chết cơ thể tái và lạnh dần. Nếu điểm nào trên cơ thể c̣n nóng th́ nơi đó Thần thức sẽ rời bỏ xác thân mà chuyển đi làm nhiệm vụ đầu thai.
Thật ra thân nhân không cần ṭ ṃ biết điều này v́ chẳng ích lợi ǵ. Hơn nữa nhiều người v́ muốn biết người chết sẽ tái sanh vào cơi nào nên đă mày ṃ t́m hơi ấm c̣n lại trên xác thân người chết để xác định.
Làm như thế rất tai hại v́ có thể làm cho Thần thức bất ngờ bị động nên thoát ra từ những vị trí bất lợi khiến cho sự tái sinh lệch lạc có khi tốt thành ra xấu.
Theo lời căn dặn của các bậc chân tu, th́ sau khi chết khoảng 10 tiếng đồng hồ, đừng ai đụng chạm vào thân xác của người chết cả giữ được như thế là giúp cho Thần thức từ thân xác người ấy thoát ra khỏi một cách tự nhiên.
Nếu muốn, ta chỉ cần biết qua những việc làm hành động của người lúc c̣n sống thế nào: ác đức hay hiền lương mà ta có thể biết là họ sẽ tái sánh vào cơi xấu hay tốt. Sách Kinh cổ xưa đă ghi rằng:
"Muốn biết quá khứ hành động ra sao th́ hăy nh́n cuộc đời hiện tại. C̣n muốn biết tương lai ta ra sao th́ cũng hăy nh́n những ǵ ta làm trong hiện tại."
“Ta có Bạn và Kẻ Thù. Những ai làm lợi cho ta th́ gọi là bạn. Những ai làm hại ta th́ gọi là Kẻ Thù. Gọi và đánh giá như vậy có cái hại là ta cứ bị vướng mắc vào người mà ta gọi là bạn. Họ thể nào ta vẫn cứ thương C̣n kẻ mà ta gọi là kẻ Thù th́ làm tốt mấy cũng bị ta ghét. Đó chính là do ta bị cái chấp ngả ở ngay trong tâm ta chi phối ta“.
LÀM SAO TRÁNH ĐƯỢC QUẢ BÁO XẤU XA VỀ SAU?
Nếu muốn tránh được Quả báo xấu xa, đau khổ th́ ngay trong cuộc đời hiện tại, ta hăy cố tập cho ḿnh có được mối Thiện tâm. Ḷng ta phải hướng thiện và tránh ác. Chỉ cần có ư nghĩ về những ǵ gọi là Thiện không thôi cũng tạm là đủ cho tâm thanh thản v́ tâm hướng về cái Thiện.
Dần dần ta hăy làm việc thiện, tức là thể hiện Thiện tâm qua hành động. Trước hết ta hăy thực hành việc Bố thí. Có một câu nói từ cổ xưa mới nghe qua thấy vô lư nhưng đầy sự thiện tâm nhân đức:
"Cho tức là Nhận" hay "Cho hết để lấy vô nhiều”. Ta không có khả năng và ư nghĩ đó th́ hăy làm việc Thiện, bố thí với khả năng ḿnh đừng khư khư ôm lấy những ǵ ḿnh có hăy chia sớt ít nhiều cho người túng thiếu.
Của cho tuy ít nhưng cứ làm măi th́ có ngày càng được nhiều lên, đời ta cũng sẽ tạo được phước đức lớn nếu không được ngay trong đời này th́ cũng sẽ ở đời sau như Chúa Kitô đă nhắc nhở các đệ tử:
"Hăy răn bảo họ làm điều lành, làm nhiều việc phước thiện. Kíp ban phát, phân chia của cải ḿnh có. Vậy là dồn chứa về ngày sau một cái nền tốt và bền vững cho ḿnh để được cầm lấy sự sống thật".
Tuy nhiên cần phải lưu ư: v́ có người làm được việc bố thí, th́ tự cho ḿnh là người được phước báu lớn lao. Có người v́ muốn có tài vật để bố thí cho kẻ khác đă làm điều không hay để có được tiền của.
Nếu làm như thế th́ việc bố thí cũng như không. Nếu bạn làm việc phước thiện để mong khoả lấp, tiêu trừ việc gian ác mà bạn đang làm, đang theo đuổi th́ quả báo xấu xa vẫn tới với bạn.
Quả báo tốt lành nhận được khi Phước và Đức được làm tṛn. Làm Phước phải kèm theo đức độ, mà cái đức độ luôn nằm sẵn trong Tâm ḿnh.
Nếu bố thí với mục đích mong cầu lợi lộc cho chính ḿnh, bố thí mà chỉ trông chờ người ḿnh bố thí trả ơn, bố thí mà tự cao tự đại, phách lối, trách mắng la rầy, khoe khoang... th́ đó không phải là bố thí, bố thí như thế th́ sự tốt sẽ mất đi rất nhiều.
Làm việc bố thí, giúp đỡ người sa cơ lỡ vận giúp người cô thế, là việc phải làm theo đúng với thiện tâm. Nhưng để cái Tâm Thiện được trong sáng th́ điều cần thiết là nên tập thương mọi vật.
Thương đồ vật tức là tiết kiệm chăm sóc, giữ ǵn cho chúng khỏi hư hao tốn kém, đó không phải là ích kỷ, keo kiệt bơn xẻn.
Thương chúng sanh là thương mọi loài, hăy tránh sát sanh, không giết loài vật. Được vậy th́ sẽ thành thói quen dù con kiến cũng không nỡ giết th́ làm sao ta có thể hại người, làm khổ người, đánh đập người? Giết người?
Mà đă không làm những điều vừa kể tức là không tạo nên nghiệp ác. Đă không tạo nên nghiệp ác th́ sẽ không bị quả báo trả vay. Tạo Nhân lành th́ gặp Quả Lành, tạo Nhân ác th́ nhận Quả ác.
Vậy muốn tránh được quả báo không hay đời này hay đời sau, th́ trước nhất ta nên tập làm việc Thiện. Việc Thiện nẩy sinh từ cách sống chân thật, trong sạch, ḥa nhă, nhẫn nại, sáng suốt, không hại người, không hại vật, không lấy của người, không ích kỷ, căm thù, xảo ngôn, ganh ty:
Luôn luôn nghĩ đến người khác với mối thiện lâm, tập đức tính hỉ xă khoan đung, độ lượng. Nhất là thực hành Bố thí giúp người.
NGƯỜI TRONG GIA Đ̀NH NÊN LÀM G̀ KHI NGƯỜI THÂN SẮP MẤT
Nhiều kinh sách tôn giáo xưa nay đă từng khuyên người thân trong gia đ́nh mỗi khi có người thân sắp qua đời th́ nên có thái độ, hành động và việc làm đúng hợp với hoàn cảnh lúc đó có vậy mới mong người sắp mất ra đi một cách thanh thản, không u buồn nuối tiếc, khổ đau.
Sau đây là một số điều cần làm:
1. Điều quan trọng nhất và cũng là khó nhất, đó là khi người thân sắp hay mới qua đời th́ thân nhân không nên khóc lóc, kêu gào, vật vă. V́ người sắp chết sẽ rất khổ đau ray rứt khó ra đi.
C̣n khi người mới xuôi tay nhắm mắt, bề ngoài thấy là họ đă mất, dù cho tim ngừng đập; Nhưng thật sự là họ vẫn c̣n nghe, biết những ǵ xảy ra chung quanh họ. Do đó thân nhân nên cố gắng tránh khóc lóc, kể lễ làm đau ḷng người sắp mất.
2. Không nên đụng chạm, tắm rửa, thay quần áo hay di chuyển thân xác người mới mất trong khoảng thời gian 12 tiếng đồng hồ kể từ khi người ấy mất.
3. Trong khoảng thời gian 12 tiếng kể từ khi mất, người thân nên đọc kinh cầu nguyện (nếu là Thiên Chúa giáo) hay tụng kinh siêu độ (nếu là Phật giáo) liên tục cho vong linh hay linh hồn người mất được ra đi một cách thanh thoát, an lạc, tự nhiên...
Dĩ nhiên là trong thời gian đó nên giữ yên lặng; chỉ có tiếng kinh thôi, cố tránh không có tiếng than khóc đau thương. Khi đọc kinh hay tụng kinh âm điệu cũng không nên ai oán bi thương.
4. Cần nhớ rằng: trong thời gian 49 ngày kể từ khi mất, vong linh hay linh hồn (theo Phật giáo th́ giai đoạn này là Thân Trung ấm) người mới mất ấy c̣n trong t́nh trạng hoang mang, mơ hồ, phân vân trước những cơi giới không biết vào đâu, thời gian này cần thân nhân hổ trợ bằng lời cầu nguvên cầu hồn, cầu siêu...
Nhất là bằng sự bố thí giúp người, ăn chay hay in ấn kinh sách phổ biến hoặc nhờ nhà thờ, chùa làm lễ cầu nguyện cho linh hồn người mới mất được siêu thoát. Những việc làm vừa kể rất quan trọng và rất có hiệu quả v́ giai đoạn 49 ngày là giai đoạn rất đáng quan tâm, rất đáng lo cho người mới qua đời, thân nhân cần phải nhớ điều đó để giúp người thân mới mất được ra đi trong an lạc tốt lành.
Hăy chú tâm vào những điều vừa kể hơn là chú tâm vào nghi lễ phiền toái linh đ́nh, đám cho to, giỗ cúng cho lớn mời cha, thầy tới cho đông, thết đăi, xe cộ xênh xang chỉ là bề mặt và cho người sống có hư danh, c̣n người chết th́ vong linh, dật dờ, lênh đênh, vô định... mà việc ta làm lúc này là để giúp người mất chớ đâu cho người đang sống?
5. Người sắp mất ra đi với tâm trạng lo buồn, đau khổ. V́ họ c̣n rất nhiều việc chưa hoàn tất, nhiều ước nguyện chưa thành, c̣n nhiều t́nh cảm quyến luyến. Do đó phút lâm chung, người thân phải hiểu rơ điều đó, cố động viên họ, làm cho họ an tâm tuyệt đối đừng khơi dậy những nổi đau mà họ đă hay đang trải qua lúc c̣n sống, tránh nhắc lại những thứ ấy.
Hăy bảo rằng:
"..cứ yên tâm, mọi việc đều ổn thỏa, gia đ́nh sẽ lo chu đáo, không có ǵ phải lo cả..".
Có người lúc lâm chung, họ luôn nhớ lại những ǵ xảy ra nhất là quá khứ, có người nhớ là họ c̣n nợ ai số tiền chưa trả chẳng hạn, họ muốn ra đi được thanh thản.. nếu thân nhân nghe họ phàn nàn lo âu điều đó th́ nếu có thể t́m cách nói làm sao để họ an vui.
Nếu có thể nên thanh toán nợ nếu đủ sức th́ đó quả là một việc phúc đức đáng làm. Nói tóm lại Ta hăy cố tạo sự thuận lợi an ổn cho người sắp ra đi, để họ khỏi bận tân, nuối tiếc, dùng dằng... nếu là người bệnh sắp mất, thân nhân hăy chờ lúc họ tỉnh táo hăy hỏi họ cặn kẻ những ǵ họ mong muốn, những ǵ họ căn dặn và hứa sẽ làm cho họ yên ḷng
Dĩ nhiên lời hứa phải thành thật không gian dối dù sau đó v́ quá sức ḿnh không chu toàn được... Làm được vậy là giúp người sắp mất thanh thản ra đi một cách nhẹ nhàng. Nhờ đó mà vong linh sẽ sáng suốt, không bận tâm, không u buồn nên khỏi phải đi vào đường lầm mê của Lục đạo.
6. Trước mặt người săp mất hăy làm những điều tốt lành như, những người trong gia đ́nh bấy lâu xung khắc gây gổ tránh mặt nhau, th́ khi đó hăy đứng bên nhau hoà đồng vui vẻ để người sắp mất vui ḷng. Tránh gây gỗ tranh cải nhau. Người sắp ĺa đời nằm đó nhưng tai nghe rơ hết, ngay cả khi họ nhắm mắt xuôi tay, thần trí họ vẫn c̣n hoạt động. Phải nhớ kỹ điều đó.
7. Tránh khuyên răn người sắp mất tin theo một tôn giáo nào đó khác với tôn giáo mà họ đă theo, làm như vậy tạo nên hoang mang tâm thức họ khi đang đứng ở ngưỡng cửa của sự chết khiến họ không biết bước vào cơi giới nào lúc đó.
Chỉ ngoại trừ người sắp mất tự nguyện hay đề nghị mà thôi. Việc rước lễ, đọc kinh hay tụng kinh cũng nên theo ư muốn của người sắp mất, đừng ép uổng họ. Có người tới lúc cận kề sự chết họ mới mở tâm khai ngộ, v́ thế lúc ấy họ tin điều ǵ, mong ước ǵ là nên để họ tự ư, không nên tự ḿnh đưa họ vào hoàn cảnh hay niềm tin mà họ không muốn.
8. Những bà con bè bạn tới thăm muốn gặp th́ nhớ nhắc nhở họ đừng tỏ vẻ lo sợ về cái chết sắp đến đừng nói lời tiếc thương u buồn mà tỏ ra tự nhiên xem cái chết là điều b́nh thường v́ ai cũng trải qua cả. Đừng làm cho họ sợ, chán nản, lo lắng...
9. Vấn đề dùng thuốc an thần: chỉ nên dùng khi bệnh nhân đang ở t́nh trạng đau bệnh nhưng chưa đi vào giai đoạn hấp hối. Dùng thuốc an thần để giúp giảm cơn đau đớn cho người bệnh những lúc đó mà thôi.
Tuy nhiên, khi họ đi vào giai đoạn sắp thở hơi cuối cùng th́ tốt nhất là không nên. Bác sĩ Paul Perry, bác sĩ Melvin Morse cho biết rằng, hiện nay tại các bệnh viện, nhất là ở các nước Âu Mỹ 90 phần trăm bệnh nhân quá đời đều đă dùng nhiều thuốc an thần.
Nhất là khi thấy người đang hấp hối tỏ vẻ lo sợ, kêu hay nói hoặc mô tả những h́nh ảnh mà họ đă thấy lúc đó th́ các y bác sĩ cho là họ đang bị mê sảng nên trấn an bằng cách cho họ uống thuốc an thần.
Họ không biết lúc ấy người sắp mất đang ở biên giới của tử sinh nơi giới hạn của cơi giới họ đang sống (thế gian) với cơi giới khác, mà cơi giới khác th́ có biết bao h́nh ảnh kỳ bí lạ lùng có khi đáng sợ mà người sắp ĺa đời thấy được, trong khi những người đang sống (y, bác sĩ, thân nhân người hấp hối không thể thấy...
Bác sĩ Melvin Morse cho hay là có lần một em bé tên John 11 tuổi đang kề cận với cái chết trong bệnh viện mà ông có nhiệm vụ theo dơi bệnh trạng. Em này bị bướu giác tính ở hạch Bạch huyết Lymphoma.
V́ trường hợp của bé John đặc biệt, không thể dùng thuốc an thần. Do đó theo bác sĩ Melvin Morse, em bé này đă ra đi thật an b́nh. Trước khi thở hơi cuối cùng, bé mở mắt nói với người thân đang vây quanh giường:
"Ba má và các anh chị hăy cầu nguyện cho con. Chúa đang ở trong pḥng, trước mặt con đó! "
Nói xong bé nhắm mắt và mất một các an b́nh tự tại. Theo bác sĩ Melvin, người chuyên nghiên cứu những ǵ bên kia cơi chết th́ trường hợp đặc biệt của bé John đă xảy ra trước mắt của nhiều y tá và bác sĩ trong bệnh viện.
Bé ra đi một cách thanh thản tự nhiên, điều mà tất cả mọi người có mặt hôm đó hiếm khi thấy. Thắc mắc nêu ra lúc bấy giờ đă được bác sĩ Melvin Morse trả lời dứt khoát rằng:
"Đó là do bé John lúc cận kề cái chết, may mắn đă không dùng thuốc an thần”.
Theo các Lạt Ma Tây Tạng th́ giờ phút hấp hối rất quan trọng, nếu trí óc thần trí u lối, mê mờ, hoang mang vô định th́ rất dễ lạc vào cơi giới tối tăm khốn khổ.
Dùng thuốc an thần lúc hấp hối chính là khiến thần trí người đó mê mờ như kẻ mộng du, say rượu. Giây phút ra đi, tâm trí cần phải an b́nh, sáng suốt mới nhận thức được đâu là nơi đáng tới, nơi không nên vào.
V́ theo Phật giáo, khi chết bất cứ ai cũng phải vào một trong 6 cơi giới gọi là Lục đạo, chỉ ngoại trừ những bậc tu hành đắc đạo, thanh cao là không bị đưa vào đó theo nghiệp báo của họ gây ra khi c̣n sống mà thôi.
10. Tại các bệnh viện thường có dụng cụ giật điện giúp hồi sinh cho người bị kích ngất. Cũng theo bác sĩ Melvin Morse th́ vấn đề sử dụng loại giật điện giúp hồi sinh này cần phải cẩn thận, nên dùng như trường hợp đứng tim chẳng hạn.
C̣n trường hợp chết v́ ung thư hay bệnh không thể chữa khỏi, th́ không dùng là hơn. Nếu v́ lư do thân nhân yêu cầu th́ cũng nên hạn chế. Có khi v́ muốn thấy mặt lần cuối hay nghe lời trăn trối sau cùng, mà phải dùng tới dụng cụ giật điện giúp người mới chết hồi sinh chốc lát th́ quả là sai lầm.
Sai lầm thứ nhất là làm người sắp qua đời phải chịu đau đớn khủng khiếp, nếu chỉ vài phút hồi sinh rồi mất th́ tâm trí người ấy đâu c̣n minh mẫn an b́nh nữa?
Sai lầm thứ hai: người ra đi phải đúng giờ giấc, không dùng dằng hay bị níu kẻo giờ phút quan trọng đă tới mà lại làm họ "trễ chuyến đi" cũng như gây hoang mang nghiệt ngả tâm hồn th́ quả thật là vô cùng tai hại...
Chết trong khi được cầu nguyện là điều vạn hạnh. Những bậc tu chứng thường cho rằng: một người đang chú tâm cầu nguyện, đọc kinh, tụng kinh mà tự nhiên bị chết, th́ tâm linh người ấy đă được trong sáng, đă đi vào trong lời cầu nguyện nên họ chết trong an lạc.
Các bậc thầy kinh nghiệm về tu tập cho biết rằng: lúc sắp qua đời nếu người săp mất ấy cầu nguyện được tái sinh làm người với mục đích giúp đỡ kẻ khác, họ chú tâm cầu nguyện măi như thế cho tới khi nhắm mắt xuôi tay th́ phần lớn người ấy sẽ tái sinh vào một kiếp người đầy hạnh phúc an vui.
Do đó khi c̣n sống, hằng ngày ta cũng nên tâm niệm như thế, ngay cả khi đang đi, nằm, ngồi hay làm việc. Tập quen như thế rồi th́ khi sắp lâm chung ta sẽ quen với tâm niệm tốt lành ấy.
Nhiều vị Lạt Ma Tây Tạng khuyên thân nhân người chết để ư điều này: Nếu người qua đời để lại một số của cải, hoặc người đó mất đi thân nhân sẽ hưởng một số tiền nào đó như đền bù v́ tai nạn, bảo hiểm, chết trận.... Thân nhân không nên tiêu dùng hết số tiền đó, mà nên trích ra một ích cho hội từ thiện hay đích thân đi làm việc thiện, cứu giúp người nghèo vừa giúp ḷng tâm ḿnh bớt áy náy vừa làm vui ḷng vong linh người đă khuất.
Người Việt Nam cũng vậy, lúc có người thân mất phần lớn họ không nhận tiền phúng điếu (chỉ ngoại trừ gia đ́nh người qua đời quá nghèo túng không mua nổi áo quan hay chi phí lễ tang ma... th́ nhận nhưng cũng giới hạn).
THÂN XÁC NGƯỜI MỚI MẤT NÊN GIỮ BAO LÂU
Kinh nghiệm cổ xưa của một số nước như Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam và nhất là Tây Tạng th́ thời gian 3 ngày là thời gian cần thiết không hơn không kém để giữ thân xác người mới qua đời cẩn thận trước khi chôn cất hay thiêu xác.
Trong 3 ngày ấy, không nên đụng tới thân xác nhất là không nên thoa xức, hay tiêm chích vào cơ thể người mới mất bất cứ thứ ǵ.
Theo các vị Lạt Ma Tây Tạng th́ khi chết, Thần thức rời khỏi Thân xác qua một huyệt đạo nào đó trên thân xác nhất là ở đỉnh đầu. Nhưng nếu ta đụng chạm hay tiêm, chích vào da thịt lúc ấy th́ Thần thức có thể bị động nên có thể thoát ra từ một nơi nào gần nhất chớ không từ đỉnh đầu.
Mà Thần thức một khi thoát ra bất ngờ và không đúng vị trí như vậy sẽ mang lại sự rủi ro, bất lợi cho lúc tái sanh. V́ thế, khi đă biết chắc rằng người bệnh không thể nào qua khỏi th́ nên yêu cầu bác sĩ gở bỏ những thứ y cụ trên người bệnh nhân nhất là các kim chích ra khỏi cơ thể.
Đại Đức Sogal Rinpoche đă từng thuyết giảng rằng:
"Muốn vơi đi thật nhiều nổi đau thương về người thân mất, th́ không ǵ hơn là hăy tiếp tục thực hiện những ǵ mà khi sống người ấy mong ước hay c̣n dang dở. chưa xong”
Ngay cả những lầm lỗi mà lúc sống họ đă gây ra ta cũng nên tha thứ... cũng như những ǵ ḿnh làm họ khổ đau thiệt thại th́ cũng phải ăn năn.
KHI MẤT, THÂN XÁC NÊN CHÔN HAY THIÊU?
Đối với người Tây Tạng, họ đă nghe các vị Lạt Ma giảng giải từ tấm bé rằng, thân xác của mỗi con người là vật tạm bợ như bộ áo quần để mặc mà thôi, khi chết giống như là cởi bỏ bộ áo quần cũ, đi đầu thai chuyển vào một sinh mệnh mới như mặc bộ đồ mới khác.
Chỉ cần quan sát xác thân một người chết bên bờ bụi không ai thừa nhận lâu ngày tan ră tỏa mùi hôi hám th́ sẽ thấy rơ cái xác thân chỉ là cái tạm thời. Do đó khi chết người Tây Tạng thường hỏa táng xác chết. Cái thây người chết được xem như biểu tượng của tất cả nghiệp ác. Nên khi thân xác bị lửa thiêu cháy th́ những nghiệp ác tiêu tan và đồng thời phát ra ánh sáng rực rỡ.
Câu Thần chú giúp xóa tan ác nghiệp của người qua đời đang rực cháy trong lửa là OM VAJRA SATTIVA HUM (ư nghĩa của câu chú là mong mỏi Thần Kim cương tát đơa chuyển hóa Ác Nghiệp.. Ngoài ra có một câu chú khác giúp người chết không bị mê mờ u tối lạc vào 6 nẻo luân hồi. Câu chú đó là A A HA SHA SA MA.
Theo niềm tin của phần lớn người Đông phương th́ khi chết phần lớn người chết vẫn c̣n mơ hồ chưa biết là ḿnh đă chết. V́ thế họ thường quay trở lại nhà và sống như lúc đang c̣n sống mặc dù người thân chẳng thấy chẳng biết có họ hiện diện.
Có khi họ mượn tạm xác thân đă chết để hiện ra trong chốc lát mà người sống khi thấy hoảng sợ và gọi là Ma. Kinh nghiệm dân gian cho thấy ở những nơi xảy ra tai nạn chết người "hồn" người chết thường hiện ra với bộ quần áo họ mặc lúc bị tai nạn.
V́ lư do đó mà khi chết nên thiêu xác, để người chết không thể mượn xác thân của ḿnh để hiện ra nữa, hoặc không c̣n quyến luyến cái thân xác cũ nữa...
Một số vị đại sư c̣n cho rằng: khi chết thân xác sẽ dần dần tan ră, dù đem chôn th́ lâu ngày xác thân cũng bị các loài vi sinh vật đục khoét biến dạng rất ghê rợn. Do đó chỉ có thiêu xác là tránh được nhiều điều không hay.
Người Âu Mỹ trước đây không nghĩ tới vấn đề thiêu xác khi chết, nhưng ngày nay nhiều người đă nhận thấy ít nhất là về mặt vệ sinh, thực tế th́ việc thiêu xác tốt lành thuận lợi hơn chôn cất xác chết rất nhiều việc duy tŕ bảo quản hoặc phải di chuyển cũng dễ dàng, ít tốn kém...
Mới đây, trong năm 1999 John F Kennedy Jr, vợ và chị vợ bị chết v́ tai nạn phi cơ đă hỏa thiêu theo truyền thống Phật giáo và công chúa Margaret cũng yêu cầu được thiêu xác ḿnh chớ không chôn khi bà mất vào năm 71 tuổi.
Dù người thân qua đời ta thương quư đến mấy cũng không thể chôn cất trong vườn nhà để được gần gũi. Nếu là tro cốt của họ, ta cũng không đặt thờ trong nhà. Tốt nhất là đem thờ ở Chùa hay nhà Thờ hoặc chôn cất làm mộ chí như b́nh thường. Khoảng 5 năm sau tro cất được thờ nên đem răi trên biển là tốt nhất.
KHI CHẾT KHÔNG MANG THEO ĐƯỢC G̀.
KHI CHẾT, TA RA ĐI VỚI 2 BÀN TAY TRẮNG.
Người giàu có, sống trên của cải nhưng khi họ chết đi, hai tay buông xuôi th́ họ trở thành tay trắng v́ không mang theo được dù một chút của cải vật chất nào.
Sự kiện thực tế ấy từ lúc con người xuất hiện trên quả đất cho đến nay đều thấy rơ, không ai chối cải, vậy mà từ xưa tới nay có biết bao người quyết chí làm giàu, lúc nào cũng mong tiền bạc đến với ḿnh không dứt.
Họ sống v́ tiền, vui thú v́ lo thu nhặt tiền bạc vào cho đầy túi nhưng không bao giờ chấm dứt được cái ham muốn ấy v́ ḷng tham quá mức. Đến khi xuôi tay th́ tất cả tiền bạc của cải ấy đều để lại thế gian c̣n họ th́ nằm dưới ḷng đất lạnh.
NGƯỜI GIÀU VÀ NGƯỜI NGHÈO KHI CHẾT GIỐNG NHAU
Người giàu Cũng như người nghèo, khi chết hai tay buông xuôi, không mang theo được ǵ. Cái mang theo thật sự là cái Nghiệp. V́ thế đôi khi sau khi chết người giàu có không chắc ǵ sung sướng hơn người nghèo hèn.
Lư do là có người lúc sống nghèo nàn v́ họ sống với thiện tâm không làm sai quấy, gây điều tội lỗi. Có người lúc sống rất giàu có nhưng gian ác bất lương th́ Nghiệp dữ đó sẽ làm họ khổ sở ở đời sau.
Có biết bao nhà triệu phú, tỷ phú sống trên của cải, có người hằng chục tỷ mỹ Kim, khi chết không mang theo được một câu nhỏ. Ngay khi đang làm giàu họ luôn luôn phải phấn đấu, tranh dành, mưu lược để chống chọi lại với những ǵ bất lợi đến với ḿnh.
Do đó lâm hồn những người giàu có thường bất an, hồi hộp, lo lắng, mệt trí v́ tính toán không những thế họ thường keo kiệt không dám giúp đỡ ai v́ sợ số tiền có được của ḿnh hao hụt đi. Có người, ngay chính bản thân họ cũng không dám ăn tiêu huống hồ là nói đến chuyện giúp đỡ kẻ khác.
Ngày nay càng có nhiều đại phú gia, nhiều người giàu có, tất cả đều bị như thế, nhưng không biết ḿnh như thế. Đôi khi họ c̣n chê cười phê b́nh chỉ trích người khác keo kiệt hà tiện. Cái mê mờ u tối ấy đă từng bao phủ biết bao người khiến họ không thoát ra được để thấy cái ánh sáng vi diệu của sự giúp đỡ bố thí kẻ khác.
Phần đông những người càng giàu có họ lại càng có cái Tâm Tiếc Rẽ. Lư do là v́ ḷng tham con người quá lớn, có rồi muốn có thêm nữa v́ thế nếu đem cho, giúp đỡ bố thí th́ tiền của sẽ hao hụt, làm sao lợi nhuận tăng thêm?
Nhiều người lại nghĩ sai khi cho rằng bố thí là việc làm của kẻ giàu có. Họ bảo:
"Tôi đâu phải là người giàu, tiền bạc ít ỏi, làm sao tôi có đủ để bố thí giúp đỡ ai".
Nghĩ như vậy là sai. Bố thí không phải bắt buộc phải nhiều. Của ít ḷng nhiều ... là câu nói của cổ nhân ta từ lâu nhắc nhở cho thấy của cho quan trọng ở tấm ḷng.
Những người hay gây hấn hay làm phiền kẻ khác luôn luôn bất an, không những lúc thức mà có khi ngũ và nằm mộng. Trái lại nếu bạn sống an ḥa vui vẻ với mọi người th́ bạn sẽ thảnh thơi hạnh phúc suốt đời.
Đoàn Văn Thông
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 323 of 1146: Đă gửi: 21 June 2010 lúc 2:27am | Đă lưu IP
|
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 324 of 1146: Đă gửi: 21 June 2010 lúc 2:38am | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN TÂM LINH
LỜI TỰA
Hiện nay, thế giới đang cần một số tác phẩm như quyển sách nầy. Thời kỳ duy vật bế tắc nay đă qua. Vào thời kỳ này, con người tuyên bố một cách đường đột và tự măn rằng quyền năng và minh triết thiêng liêng chẳng qua là một thứ tin tức sai lầm. Nhưng nay, nhân loại nh́n nhận sự thực tại của cơi giới siêu h́nh vượt tầm giác quan con người và muốn t́m hiểu về cơi nầy.
Để giúp sự t́m hiểu nầy, một số sách đă xuất bản gồm hai loại chánh: loại “tư tưởng mới” và loại “thần linh học”.
Loại thứ nhứt được viết theo kinh nghiệm cá nhân của những người đă ư thức được quyền năng tư tưởng và sự quan trọng các cơi vô h́nh. Loại thứ nh́ chứa đựng các kinh nghiệm cá nhân, nhưng các kinh nghiệm nầy xuất phát từ những vong linh thương đời, họ đă từ bỏ cơi trần, nhưng cố gắng chia sớt các kinh nghiệm của ḿnh cho các bạn đồng hành c̣n đang bị tù hăm trong xác thân.
Những loại sách nầy rất quí, chúng không lặp lại những thành kiến chính thống mà tŕnh bày những kinh nghiệm cá nhân; tuy nhiên, chúng cũng có thể nguy hại, v́ một cá nhân riêng rẽ có thể nhận xét sai lầm, nếu không quen quan sát một cách khoa học.
Hiện nay, có một phong trào nghiên cứu một cách khoa học các vấn đề trên và vài khía cạnh đặc biệt của môn nầy. Phong trào nầy được khởi xướng từ mấy năm nay do những người đă được huấn luyện rất công phu trọn cả cuộc đời.
Kết quả sự nghiên cứu nầy chứng minh thực tại một số định luật thiên nhiên hoàn toàn ḥa hợp với các phát minh khoa học mới nhứt, đồng thời cũng giải thích rành rẽ nhiều giáo lư được truyền lại từ ngh́n xưa, nhưng không được bao nhiêu người hiểu rơ.
Sau khi tận tâm nghiên cứu, tác giả quyển sách nầy cố gắng tŕnh bày một phần kết quả bằng những lời đơn giản thông thường, chỉ để giúp độc giả thu thập được trong vài giờ những điều mà thường phải để nhiều năm mới học được.
Với tư cách một người đă nghiên cứu lâu năm hơn, tôi xin giới thiệu một cách nồng nhiệt quyển sách nầy cho những ai được may mắn lưu tâm đến các vấn đề tâm linh và muốn khảo cứu với một nguồn tài liệu chắc chắn.
LỜI TỰA CỦA LẦN XUẤT BẢN THỨ NHỨT
Trong quyển sách nhỏ nầy, chúng tôi cố gắng tŕnh bày bằng những lời rơ ràng và giản dị, những định luật thực tế, các kết quả sự phát triển tâm linh. Tuy ư định của chúng tôi chỉ dành quyển sách nầy cho những người mới bước chân vào khoa huyền môn, nhưng người khảo cứu sâu rộng có thể dùng nó như một cái khung để sắp xếp kiến thức hầu hệ thống hóa sự hiểu biết của ḿnh.
Theo thiển ư, những điều tŕnh bày trong quyển sách nầy không phải là những lư thuyết, mà là những sự kiện, v́ chúng được căn cứ trên những sự khảo cứu của những vị có huệ nhăn sáng suốt nhứt ở thời đại chúng ta.
Chúng tôi thành thật ước mong quyển sách nầy sẽ tránh nguy hại cho một số người và dẫn dắt một vài người khác đến ánh sáng trường cửu sẵn có trong ḷng mọi người.
LỜI TỰA CỦA LẦN XUẤT BẢN BÊN MỸ
Sự duyệt khảo kỹ càng quyển sách nầy, không sửa đổi nội dung của nó với mục đích trau luyện lời lẽ để sự diễn tả được sáng sủa, gọn gàng hơn. Ở Mỹ, sau nầy người ta lưu ư rất nhiều về vấn đề tâm linh, nhưng một số bị dẫn dắt lầm đường do những tác phẩm viết sai và nguy hiểm.
Tác giả ước mong quyển sách nhỏ nầy sẽ giúp độc giả bỏ ư định tập luyện theo những tác phẩm nói trên nhằm kích động các quyền năng tâm linh. Độc giả nên nghiên cứu và áp dụng lối tu tâm, sửa tánh: đó là con đường duy nhứt dẫn dắt chúng ta đến sự đại giác.
LỜI TỰA CỦA DỊCH GIẢ
Mục đích của quyển sách nầy, như tác giả đă nói ở hai bài tựa, là đưa ra sự tai hại các phương pháp tu luyện nhằm kích động quyền năng tâm linh. Các tai hại nầy chẳng những xảy ra ở Âu Mỹ như tác giả đă nói mà cũng thường thấy ở xứ ta như trường hợp loạn trí hay không chủ trị được dục t́nh.
Mới bước chân vào đường đạo, v́ chưa hạn chế được bản ngă, nên ai ai cũng muốn có quyền nầy phép nọ. Có người nhận thức rằng phụng sự là một mục đích cao cả và nghĩ muốn phụng sự đắc lực th́ phải có phép thần thông.
Sự suy nghĩ nầy tuy đúng, nhưng cần ư thức rơ hơn, là kích thích quyền năng tâm linh thật là nguy hiểm, như ta đang chơi dao hay chế tạo chất nổ. Khi các quyền năng nầy được thức động, mà ta sử dụng trái đạo hay không chủ trị được, ta sẽ lâm nguy trọn đời.
Hơn nữa, những quyền năng sẵn có trong chúng ta như trí thông minh, chúng ta đă sử dụng hợp lẽ chưa? Ngoài ra, có những quyền năng khẩn thiết hơn mà ta cần tu luyện như: tính can đảm, sự bền chí, tính ôn ḥa, ḷng tha thứ, t́nh thương người v.v... v́ các đức tính nầy quả thật là những quyền năng thực tế.
Nói thế, không phải chúng ta không bao giờ có những quyền năng tâm linh. Chúng ta sẽ có các quyền năng nầy, chắc chắn như vậy, khi chúng ta trau giồi tâm trí theo phương pháp tham thiền đơn giản, được chỉ dạy trong quyển sách nầy. Phương pháp phát triển tâm linh nầy đ̣i hỏi nhiều th́ giờ, nhưng kết quả sẽ chắc chắn.
Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết, chúng ta sẽ được chỉ dạy bởi một Chơn Sư (theo ư nghĩa của Thông Thiên Học) hay một vị đệ tử của Ngài sẽ đến dạy bảo chúng ta đúng như lời Ngài dạy: “Khi chúng ta bước đến Ngài một bước, Ngài bước đến chúng ta hai bước.”
Việc sử dụng đồng cốt cũng rất nguy hiểm. Các đồng cốt thường bị loạn trí. Lư do là tấm màn bảo vệ của họ bị rách, nên các vong linh tự do xông vào thể xác họ như đến một nhà trống và hành hạ họ đủ thứ: họ có thể khùng và đau khổ suốt đời. Đó là một trở ngại rất lớn trên đường tu tập.
Trong việc cầu cơ, xây bàn, nếu sự tổ chức không được tinh khiết, màn bảo vệ của đồng tử cũng có thể bị rách như vậy. Ngoài ra, các vị nhập vào đồng tử có thể là những vong linh tầm thường, họ có ư giúp đời thật, nhưng v́ tiến hóa thấp, nên không dạy bảo được những điều hữu ích.
Cơ bút tự nó không phải là một điều tai hại. Tai hại thường là đồng tử không được siêu thoát, thanh cao, c̣n cử tọa th́ gồm những người tham lam, ô trược. Trong các điều kiện nầy, Tiên Thánh không thể giáng đàn.
Tóm lại, phương pháp phát triển tâm linh hữu hiệu nhứt là việc trau tâm luyện trí nhằm mục đích giúp đời. Việc cầu cơ xây bàn là những phương tiện hữu ích, nhưng cần được sử dụng hết sức cẩn thận, nếu không tai hại gây ra không nhỏ. C̣n việc kích động các quyền năng tâm linh như luyện luồng hỏa hầu chẳng hạn là một điều nhứt định phải tránh.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 325 of 1146: Đă gửi: 21 June 2010 lúc 2:40am | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN TÂM LINH
(CHƯƠNG I)
MỘT CƠI GIỚI TRONG MỘT CƠI GIỚI
TRỜI Ở ĐÂU?
Linh tính bất diệt báo cho ta biết thế giới nầy chẳng qua là một pḥng nhỏ của một ngôi nhà vĩ đại. Cho đến thuyết duy vật của thế kỷ vừa qua, và khoa thần học chính thống lâu đời cũng không sao hủy diệt được niềm tin đó, hay là làm cho con người lầm tưởng Trời chỉ là một chuyện thần thoại huyền hoặc hay xa vời.
V́ vậy, khi các thi sĩ ước mơ và ca tụng cơi thiên quốc đó, khi các triết gia và các nhà khoa học luận bàn hay phủ nhận nó th́ các nhà huyền môn đă t́m ra cơi đó, diễn tả và phân loại các sinh vật và hiện tượng của nó.
Trong lúc sự hiểu biết về cơi vô h́nh nầy và các thành phần của nó được càng ngày trở nên chính xác và sâu rộng, th́ đám mây vô minh, sai lầm c̣n bao phủ nhiều người, khiến họ măi đau khổ và không tin ở thiên cơ sáng suốt và nhân từ.
Nếu ta hỏi một người gặp ngoài đường: Trời ở đâu, họ sẽ ngạc nhiên và cười to lên. Nếu một người đă có đọc những sách thuộc loại “tư tưởng mới”, có lẽ họ sẽ trả lời: Trời ở tâm ta.
Câu trả lời nầy đúng, nhưng không chính xác cũng như không được hiểu rơ. Nếu người đối thoại với ta là một người mộ đạo, chỉ có đọc kinh Phúc Âm và nghe các bài giảng ngày chủ nhật, họ sẽ trả lời sau khi bớt ngạc nhiên và tổng hợp những giáo lư đă học được, rằng trời ở cao tận trên không, có lẽ ở chỗ mà hỏa tinh đang vận chuyển.
Nếu chúng ta được đưa lên một hành tinh xa xôi, câu hỏi trên được đặt lại, th́ ta cũng trả lời giống như vậy, và bây giờ th́ Trời cũng vẫn ở trên cao, nhưng không c̣n ở quỹ đạo của hỏa tinh nữa mà chỗ địa cầu đang quay trên ṿm trời đầy sao. Tại sao ta cứ măi nói Trời ở chỗ nầy chỗ nọ mà không phải ở tại đây?
CƠI VÔ H̀NH
Sinh viên huyền môn khi t́m hiểu các định luật ẩn tàng trong tạo vật, biết rằng có một cơi giới mênh mông tuy vô h́nh đang bao quanh quả địa cầu, và muốn t́m cơi ấy, ta khỏi phải sang các hành tinh khác hay du hành trên không trung. Chúng ta đang sống ở một hành tinh vật chất, giữa một cơi giới thanh nhẹ hơn, nó bao quanh chúng ta như một khí quyển rộng lớn.
Bất cứ chúng ta ở nơi nào, cơi ấy vẫn thâm nhập trí hóa ta, thân thể ta, cả quả đất chúng ta đang giẫm lên. Chúng ta không cần đi xa để t́m, v́ hiện nay chúng ta đă là dân cư của nó, tuy rằng chúng ta không ư thức được sự hiện diện và thực tại của vô số sinh linh và nhân vật đang sống trong đó.
Khi một linh hồn ở cơi đó, khoác một thể vật chất sang cơi trần để thu thập kinh nghiệm, đó là sự sanh. Đến lúc thể vật chất ấy trở nên già nua, tiều tụy sau khi làm xong chức vụ của nó, con người sẽ vứt bỏ nó: đó là sự chết.
Cơi vô h́nh đó thanh trong hơn cơi trần, là quê hương thật sự của chúng ta, c̣n cơi trần chẳng qua là một xứ xa lạ, thỉnh thoảng ta mới đến mà thôi. Chúng ta giống như một lữ khách đến một xứ xa t́m vật liệu dùng để dệt một bức lụa huy hoàng.
Chúng ta thường không ư thức được sự thực tại của cơi vô h́nh nầy, v́ một số giác quan của chúng ta chưa được khai mở. Khi một người bị cảm và nghẹt mũi vào một pḥng bát ngát mùi hương của hoa hồng, anh không biết có mùi hương nầy.
Khi một người mắc bịnh loạn sắc dạo chơi ở một khu rừng rậm rạp hay trên một băi cỏ xanh tươi, anh không thưởng thức được màu sắc phong phú, v́ tất cả chỉ là màu xám dưới đôi mắt bịnh hoạn của anh.
Chúng ta cũng giống vậy, đối với cơi vô h́nh vô cùng thanh trong và đẹp đẽ đang bao quanh chúng ta: chúng ta không ư thức được nó, không phải v́ nó không có, mà v́ ở giai đoạn tiến hóa hiện tại của chúng ta, những giác quan cần để cảm xúc nó chưa thức động. Nhưng ngày chúng nó được khai mở không c̣n xa.
NHỮNG BẰNG CHỨNG VỀ SỰ THỰC TẠI CỦA CƠI VÔ H̀NH
Nếu chúng ta có thể nhờ một cơ quan thông tấn, tập trung các kinh nghiệm cá nhân rải rác trên thế giới về cơi vô h́nh, chúng ta sẽ tin sự thực tại của cơi nầy ngay. Các kinh nghiệm riêng của mỗi chúng ta đều rất ít và cũng không vững chắc, nhưng khi được tập hợp lại, chúng là những bằng chứng hùng hồn.
Đôi khi chúng ta thấy một điều lạ hoặc có một giấc chiêm bao lư thú, chúng ta nhớ nó trong một thời gian, thuật cho bạn bè nghe hoặc thảo luận về ư nghĩa và tầm quan trọng của nó, nhưng không bao lâu, nó ch́m trong sự lảng quên.
Dĩ nhiên, thường nó không có giá trị bao nhiêu và cũng không dạy ta được nhiều. Nhưng khi chúng ta đọc qua các sự việc mà các hội thần linh đă thu góp được, chúng ta sẽ nhận định rơ ràng rằng toàn thể nhân loại đang tiếp xúc với một cơi tâm linh mênh mông và phức tạp.
Sự diễn tả các hiện tượng xa xôi nhờ huệ nhăn đột phát trong phút chốc; những lời tiên tri về các nguy tai sắp đến; việc các vong linh hiện ở những ngôi nhà xưa; những điềm chiêm bao sáng suốt báo đúng những việc xảy ra.
Những cảm hứng đến bất ngờ cho các bậc thiên tài hay chí sĩ, các việc ấy và nhiều việc khác nữa, chỉ rằng con người vĩ đại hơn chúng ta tưởng và thế giới chúng ta được lồng trong một cơi giới thanh cao. Chúng ta không cần có quyền nầy, phép nọ mới ư thức được thực tại của cơi vô h́nh.
NHỮNG ẢNH HƯỞNG TẾ NHỊ CỦA CƠI VÔ H̀NH
Từ giây, từ phút chúng ta chịu ảnh hưởng của cơi vô h́nh ấy. Bất cứ lúc nào, tư tưởng và t́nh cảm của kẻ khác tác động ở tâm ta khiến ta suy tư, cảm xúc và hành động trái với chân tánh của chúng ta. Thường, chúng ta không ư thức được căn nguyên của các tư tưởng đó và cho rằng chúng nó phát xuất từ ḷng ta.
Điều nầy được chứng minh do một việc xảy ra cách đây một vài năm. Một hôm, trên con tàu chạy ngang qua vịnh San Francisco, một người đàn ông đang b́nh tĩnh đọc sách. Bỗng nhiên, ông thấy tâm trí ông bị kích thích mănh liệt và sợ hăi.
Ông lấy làm lạ, v́ quyển sách của ông đang coi không có tính cách kích thích ấy. Ông ngước mắt lên và thấy một bà mẹ đang hoảng hốt chạy theo bao lơn và sắp té xuống biển. Như vậy, sự hoảng hốt đến cho ông không phát xuất từ tâm ông mà do tâm trí của người đàn bà nầy ảnh hưởng đến tâm trí ông.
Những người suy tư với tư tưởng riêng của ḿnh rất ít. Tư tưởng của đa số là tư tưởng rút trong bầu tư tưởng bao quanh chúng ta. Ngược lại các tư tưởng của chúng ta không phải chỉ liên hệ đến ta mà thôi, chúng nó gia nhập vào khối tư tưởng cộng đồng của nhân loại.
Người khôn ngoan điều ḥa tâm ḿnh với các ư tứ thanh cao, các t́nh cảm trong sạch, và chỉ thu nhận chúng nó mà thôi. Ta là cái máy lọc, phân tích sự thanh khiết của tư tưởng cao thượng ra khỏi sự ô trược của dục vọng thấp hèn.
SỰ HIỆN DIỆN CỦA CƠI VÔ H̀NH
Hiện nay chúng ta đang ch́m đắm trong đời sống vật chất, nên khó ư thức được sự hiện diện của cơi vô h́nh; chúng ta không nghe, không thấy, không nếm, không ngửi được với các giác quan phàm tục của chúng ta. Nhưng cơi ấy c̣n thật hơn cơi trần nhiều, mặc dầu các rung động tế nhị của nó không lưu một dấu vết chi trên vật chất thô kịch của các giác quan chúng ta.
Chúng ta biết rằng mỗi tháng trong một thời gian nào đó mặt trăng có thể thấy được vào lúc ban ngày. Chúng ta thấy trăng lưỡi liềm, không ngờ đến ánh sáng của nó đang bao trùm chúng ta.
Chúng ta chỉ thấy có ánh sáng mặt trời. Nhưng khi mặt trời lặn th́ cảnh vật hiện ra dưới ánh trăng êm ái, dịu dàng. Thật sự, trong suốt thời gian ấy, ánh trăng lúc nào cũng có, nhưng lúc ban ngày, chúng ta không thấy được.
Cơi vô h́nh cũng y như vậy. Lúc nào, nó cũng hiện diện, nhưng chúng ta không ư thức được, v́ chúng ta hoàn toàn ch́m đắm trong ngoại cảnh. Khi nào chúng ta trấn an được giác quan phàm tục và tâm trí hỗn loạn, chúng ta sẽ nhận được các rung động vi tế của cơi vô h́nh và ư thức được nó.
BẢN CHẤT CỦA GIẤC NGỦ VÀ GIẤC MỘNG
Rất may, chúng ta biết về cơi vô h́nh nhiều hơn là chúng ta tưởng, v́ mỗi đêm khi thể xác ta ngủ, chúng ta đều sang qua cơi đó và di chuyển giữa các quang cảnh của nó bằng một đối thể tế nhị của xác thân.
Đối thể ấy được gọi là thể t́nh cảm hay thể vía cấu tạo bằng chất thanh khí của cơi vô h́nh. Cũng như thể xác, thể vía là một dụng cụ của tâm thức và có thể dùng riêng biệt với thể xác.
Giấc ngủ đối với nhà huyền môn là một việc rất dễ nhận xét, nhưng nó là một sự kiện lạ lùng đối với những người đă đồng hóa ḿnh với thể xác và cho rằng trí tuệ là một thứ hóa phẩm của khối óc. Bản chất của giấc ngủ rất đơn giản.
Chúng ta rời xác thân, khối óc của ta trở nên vô thức, ngoại trừ một thứ ư thức mù mờ, máy móc c̣n lưu lại trong thần kinh hệ. Trong khi ta rời bỏ thể xác, chúng ta bay phất phơ trong cơi vô h́nh hay hướng theo một chiều nào đó với ít nhiều ư thức. Tâm thức của chúng ta vẫn như trước, nhưng cái thể ta dùng là thể vía, thay v́ thể xác.
Trong lúc ta ngủ, sự sống thiên nhiên vẫn tác động trong thể xác để bồi dưỡng các tế bào mệt nhọc, nuôi nấng các tế bào mới sanh, bài tiết các chất thừa trong cơ thể.
Như vậy, trong lúc vắng mặt chủ nhân, thể xác có dịp nghỉ ngơi và phục hồi sức lực, cho đến lúc chúng ta trở về th́ thể xác “thức tỉnh” và các tế bào phải hoạt động lại để đáp ứng với tư tưởng, cảm xúc và ư chí của ta.
V́ hoạt động như vậy, thể xác ta mới mệt và cần nghỉ ngơi trong lúc ngủ. Sở dĩ giấc ngủ khỏe là v́ chúng ta vắng mặt.
Đôi lúc, khi thức giấc, chúng ta có thể buộc trí óc nhớ lại một kinh nghiệm hay một sự việc xảy ra trong lúc ngủ. Khi ta nhớ được, đó là một giấc mộng hợp lư dù rằng chỉ là sự nhớ lại. Những điều hợp lư ta nhớ lại, khác hẳn các h́nh ảnh vô lư, chúng hiện liên tiếp trong trí óc ta lúc ngủ và tạo ra những giấc mơ thông thường, kỳ dị.
Nếu chúng ta liên kết được tâm thức lúc thức và tâm thức lúc ngủ, chúng ta trở thành con người năng linh; sự phát triển tâm linh là sự nới rộng giới hạn tâm thức lúc thức (mà chúng gọi là giác thức) bằng sự khai mở một vài quyền năng ẩn tàng trong con người.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 326 of 1146: Đă gửi: 21 June 2010 lúc 2:42am | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN TÂM LINH
(CHƯƠNG II)
TẠI SAO TA KHÔNG NĂNG LINH?
TẤM MÀN BƯNG BÍT
Khi ta nhận thức có một cơi vô h́nh bao quanh, tuy ban đêm chúng ta hành động trong cơi đó một cách ư thức khi thể xác ngủ, lư do duy nhứt khiến ta không nhớ các hành động nầy v́ thần kinh hệ của chúng ta không có cảm lực cần thiết, chừng đó ta cảm thấy có một bức màn bưng bít và chúng ta muốn vén nó, xé nó, vứt nó.
Nhưng ta hăy coi chừng đừng để sự thèm khát hiểu biết làm hại chúng ta. Nếu nhân loại chưa thể có năng linh, v́ có những lư do trọng đại, những qui luật sáng suốt do Ơn Trên sắp đặt.
Một người mang cho chủ một đóa hoa sen c̣n đọng sương đêm vừa hé nhụy. Anh ta được lệnh đem ngâm hoa trong nước, nhưng v́ muốn đẹp ḷng chủ, anh ta mở các cánh hoa mịn màng để lộ nụ gương tươi thắm. Sau đó vài giờ, cánh hoa trở nên úa và tím, mặc dầu hoa được đặt trong nước.
Nếu chúng ta khai mở quyền năng của chúng ta sớm quá, chúng ta sẽ trở nên suy kém, tàn úa như vậy. Chúng ta không nên làm hỏng bộ thần kinh tế nhị hay thí nghiệm phương pháp nầy nọ với khối óc chúng ta.
Một công phu sai lạc, một cố gắng quá nhiều có thể gây thương tích trong cơ cấu phức tạp của bộ thần kinh khiến cho ta bịnh hoạn suốt đời. Chúng ta cần hiểu rơ những điều ta phải làm trước khi đánh thức các quyền năng tiềm tàng của ta; chúng ta hiểu rơ phương pháp khai mở nầy và kết quả của nó ra sao, nếu không chúng ta sẽ lâm nguy.
CÁC LỜI KHUYÊN NGUY HIỂM
Chúng ta không nên nhắm mắt tin theo những lời chỉ bảo khác nhau trong hằng ngàn quyển sách xuất bản khắp nơi, v́ các lời chỉ bảo ấy thường sai lầm và nguy hại. Chúng ta nên biết khoa tâm linh hiện nay được rất đông người chú ư, nên sách vở của khoa nầy xuất hiện rất nhiều, nhưng giá trị chẳng được bao nhiêu.
Cả trăm quyển sách được viết ra không phải để d́u dắt độc giả một cách hữu ích, mà để thỏa măn tánh hiếu kỳ thôi. Tác giả những quyển sách đó không nghĩ đến tai hại của những điều chỉ dạy của họ: mục đích của họ là bán sách chạy và kiếm tiền.
Những sách họ sưu tầm là những sách Ấn Độ nói về bùa chú, phù phép không được các bực tu sĩ chân chính tín nhiệm. Họ hấp tấp đọc qua và rút các cách tập luyện thân thể nhằm mục đích đánh thức các quyền năng tâm linh thấp kém rồi tŕnh bày lại cho các độc giả dễ tin dưới những tựa huyền bí, hấp dẫn.
Đó là lời chỉ bảo của nhiều nhóm được gọi là “huyền môn”. Cả ngàn người theo những lời chỉ bảo ấy hay các giáo lư khác tương tự được tŕnh bày trong sách cho đến khi tai hại xảy ra.
Sự chế tạo chất nổ rất nguy hiểm, nên không ai bắt tay vào công việc nầy mà không t́m hiểu cặn kẽ, không tham khảo ư kiến của các nhà chuyên môn.
Về sự luyện tập tâm linh, tuy công việc không kém phần nguy hiểm, nhưng nhiều người v́ một lẽ bí mật nào đó, tưởng ḿnh hiểu biết tất cả và tin ở ḿnh hoàn toàn. Họ cho ḿnh xét đoán không sai lầm và không ngần ngại tập luyện. Có lẽ v́ đó mà biết bao người đă loạn trí ở tây phương.
PHẢI SÁNG SUỐT
Về các công việc nghiên cứu tâm linh, chúng ta phải xét đoán hợp lư, phải sáng suốt như chúng ta giải quyết các công ăn việc làm. Trước một vấn đề về tâm linh, ta phải phân tích, đắn đo như đối với một bức thư quan trọng. Ta không nhắm mắt tin tưởng với sự ngưỡng mộ, tôn sùng. Trái lại, ta phải sử dụng tất cả khả năng để xét đoán.
Nhiều người rất thông minh, nhưng khi vào lănh vực tâm linh h́nh dường như họ mất hết quan năng suy luận. V́ vậy họ tán dương những điềm chiêm bao của họ như là những cuộc tiếp xúc với các bậc siêu phàm.
Họ cho những phản ứng xấu xa của óc tưởng tượng hỗn loạn là những hoạt động quỉ quái của bọn phù thủy, và gán cho một Chơn Sư linh hiển, những lời mộc mạc, tầm thường nổi lên ở tâm họ. Phải đợi nhiều năm họ mới trở nên b́nh thường trở lại, v́ vậy thái độ hoài nghi chơn chánh c̣n hơn là sự tin nhảm của một số người.
HĂY TỰ BIẾT M̀NH
Trên phương diện huyền môn, có biết bao phương pháp luyện tập, đúng cũng có, sai cũng nhiều, người nào muốn thành công cần áp dụng lời khuyên của Socrate chạm ở ngưỡng cửa đền Delphes: “Hăy tự biết ḿnh.”
Sự tự biết ḿnh đ̣i hỏi nhiều năm nghiên cứu trong sự an tĩnh và thâm diệu, cả công việc giúp đời, v́ ban cho và phụng sự có đặc tính mở mang các quan năng tâm linh.
Trong tâm ta, có những quyền năng vi diệu mà chúng ta chưa ḍ, những năng lực mà chúng ta chưa biết, những nguồn năng lực mà chúng ta chưa ư thức được sự hùng hậu.
Có những cơi rất cao ở tâm ta, chúng ta không ngờ nhưng có thể đạt, v́ vậy, người chí nguyện không lùi chân trước một trở ngại nào. Đó là mục đích của các kiếp sống chúng ta ở cơi trần.
NĂNG LINH QUÁ SỚM
Có những lư do quan trọng, khiến các quan năng tâm linh của chúng ta không mở sớm. Cách hay nhứt để hại một người là giúp cho họ cảm xúc được ảnh hưởng và năng lực của cơi vô h́nh.
Tạo Hóa rất sáng suốt và nếu các định luật thiên nhiên được tôn trọng, th́ không bao giờ một quan năng tâm linh có thể mở, nếu chúng ta chưa sử dụng nó được. Chúng ta không nên ao ước sự phát triển tâm linh quá sớm, nó chỉ đem lại đau buồn.
Nếu chúng ta chưa thuộc các bài học ở cơi trần và rèn luyện tánh can đảm, sự bền chí, đức vị tha, ḷng thanh bạch, sự sáng suốt, t́nh thương th́ cần chi phải thám hiểm cơi bên kia?
Chúng ta sẽ có thái độ điên cuồng của một nhà thám hiểm quyết đi sâu vào rừng già Phi châu mà không mang theo khí giới. Chúng ta nên thành thật nh́n nhận chúng ta chưa được sẵn sàng, hơn là để thất bại, v́ chưa chuẩn bị.
CÁC LOẠI ẢNH HƯỞNG TÂM LINH
Một trong những ảnh hưởng khủng khiếp nhứt mà ta phải chịu và không sao thoát ra được, v́ đă mở quan năng tâm linh quá sớm là ảnh hưởng gây ra do vong linh hung dữ. Chúng ta cứ đinh ninh rằng khi hành quyết một kẻ sát nhân, chúng ta chấm dứt hành động tàn ác của y.
Nhưng sau khi chết, con người không phải bỗng nhiên trở nên thánh thiện và cũng không đi xa hơn. Những người đạo hạnh sau khi từ trần, sẽ lên các từng cao của cơi vô h́nh.
Trái lại, các từng thấp ở gần quả đất th́ đầy dẫy những nhân loại cặn bă đă từng gây án mạng hay đam mê dục lạc lúc sinh tiền. Với mục đích thỏa măn các dục vọng đê hèn đang giày ṿ, họ ám ảnh người sống nhứt là những người nghiện rượu và xúi giục họ làm những điều bẩn thỉu.
Những người có năng linh quá sớm sẽ chịu ảnh hưởng khốc hại nầy, mà không thể chống đỡ được, v́ c̣n non nớt và chưa có kinh nghiệm cần thiết.
Một lư do khác khiến Tạo Hóa từ chối quan năng tâm linh cho các người chưa được chuẩn bị, v́ sự hiện diện ở chung quanh chúng ta những sinh linh kém tiến hóa hơn nhân loại; các sinh linh nầy chống đối nhân loại, nhưng không thể làm hại nhân loại được, v́ chúng thuộc cơi vô h́nh, chỉ khi nào con người tự đặt ḿnh dưới ảnh hưởng của chúng bằng cách khai mở quan năng tâm linh quá sớm: đó là một bài học rất đau khổ.
Ngoài ra, chúng ta đừng quên khi quan năng tâm linh thức động, ta sẽ cảm xúc được những tư tưởng, t́nh cảm và dục vọng phóng ra trong cơi vô h́nh, dưới h́nh thức những rung động, do hằng triệu con người sống tụ tập ở các đô thị.
Quả thực, chúng ta sống trong một biển h́nh ảnh xuất phát liên tiếp từ trí óc linh động của loài người, và chúng sẽ xâm chiếm tâm trí ta để gây nhiều tai hại, nếu chúng ta không kiểm soát và chủ trị được quan năng trí thức của chúng ta.
Sự xâm chiếm nầy sẽ trở nên một ác mộng cho những ai tu tập sai đường, v́ tư tưởng, t́nh cảm quay cuồng trong một thành phố lớn thường ích kỷ, tham lam, duy vật, trụy lạc, gian xảo, thù hận, thỉnh thoảng mới có màu sắc tươi đẹp, sáng sủa của t́nh thương và của hoài vọng tinh thần.
MÀN BẢO VỆ
Đến đây, chúng ta đề cập đến một trong những phát minh quan trọng nhứt của huyền môn học: phương pháp giản dị và hữu hiệu nhờ đó tạo hóa ngăn cản sự khai mở quá sớm các quan năng tâm linh.
Ai đă học về điện đều biết, nếu ta bao hai đầu một sợi dây dẫn điện bằng sáp và ráp hai đầu dây lại th́ luồng điện không chạy qua được. Nếu ta bỏ sáp đó ra, dù chỉ chút ít thôi, th́ điện xẹt ra ngay.
Cơ cấu tâm linh của con người cũng giống vậy. Trong thể vía và thể phách của chúng ta, có những trung tâm được xếp đặt thế nào để chúng gần như đụng các trung tâm tương ứng của thể xác.
Nếu các sinh lực của cơi vô h́nh có thể đi xuyên qua các trung tâm của thể vía và thể phách để ảnh hưởng các trung tâm của thể xác th́ các cơ quan năng linh thức động.
Tạo Hóa sáng suốt tránh sự thức động bằng cách đặt một màn lưới mỏng phân cách các loại trung tâm để ngăn cản luồng sinh lực chạy xuyên qua các thể. Màn lưới ấy được tạo bằng một lớp nguyên tử hồng trần ép chặt. Nó để các sinh lực nuôi dưỡng các thể lưu thông dễ dàng qua nó và chận đứng các loại ảnh hưởng khác trừ khi nào nó bị rách.
Rất tai hại, một vài phương pháp gọi là tâm linh được dạy ở tây phương trong các trường huyền môn trục lợi làm hại cái màn lưới bảo vệ ấy. Do đó các trường hợp điên cuồng gia tăng.
SỰ NĂNG LINH: MỘT SỰ THẬT KHẮT KHE
Sự năng linh đă được nghiên cứu từ xưa ở Ấn Độ, cũng như ở các trường huyền môn chân chính và lần lần trở nên một khoa học chân xác.
Ai đă biết năng linh không phải là một tṛ tiêu khiển, mà là một sự thật khắt khe, th́ không bao giờ dám nghĩ đến sự luyện tập cầu may của một số người Âu Mỹ. Nếu họ biết khoa ấy giúp ích rất nhiều cho những người đă được chuẩn bị và hội đủ những đức tính cần thiết, th́ cũng gây rất nhiều tai hại cho những kẻ chưa sẵn sàng.
Một nhà huyền môn chân chính không bao giờ dạy cách phát triển năng linh cho những người ích kỷ, tục tằn, v́ dạy như thế chẳng khác nào đưa chất nổ cho trẻ con.
Một người như vậy chẳng những ngăn trở sự tiến hóa của họ trong nhiều kiếp, mà c̣n gây đau khổ cho kẻ khác với ư chí ích kỷ của ḿnh.
Cho đến khi nào chúng ta chưa sử dụng được các khả năng sẵn có của chúng ta vào những mục đích vị tha, th́ ta không nên đ̣i hỏi thêm điều chi nữa.
Sự năng linh chỉ có tính cách quí báu khi nào các bạn đứng đắn, tinh tấn, bền chí, nhứt là vị tha.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 327 of 1146: Đă gửi: 21 June 2010 lúc 2:44am | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN TÂM LINH
(CHƯƠNG III)
SỰ GIAO CẢM NĂNG LINH
SỰ TRUYỀN CẢM CỦA ĐỜI SỐNG
Các tư tưởng đến với chúng ta, dù từ trí năo của chính ta, hay từ trí năo của người khác, đều do cơi vô h́nh chuyển đến, v́ tư tưởng và t́nh cảm phát sinh tại cơi nầy. Những tư tưởng và t́nh cảm phát sinh trong tâm trí ta, đó chỉ là những phỏng tạo vụng về trong khối óc vật chất, những rung động trí thức và t́nh cảm tương tự các làn sóng phát thanh của trí tuệ vô cùng linh động.
Mỗi khối óc là một máy thu thanh. Chúng ta đều biết rơ tư tưởng và t́nh cảm có thể truyền từ trí óc người nầy đến trí óc người khác trong chớp nhoáng mà không cần lời nói, nhưng chúng ta chưa ư thức được các tư tưởng mà chúng ta cho là riêng của chúng ta, chỉ là những tư tưởng của kẻ khác được phỏng tạo lại trong tâm trí ta.
Các ấn tượng, cách cảm xúc ấy được truyền liên tiếp từ người nầy đến kẻ nọ, từ đám đông nầy đến người kia, tạo nên giữa dân cư một thành phố hay một quốc gia, một lối suy luận riêng, cách cảm xúc riêng, một thái độ riêng.
Thái độ nầy gây ra một áp lực rất mạnh, như áp lực của không khí. Thường chúng ta không thấy áp lực đó, nhưng không ai thoát khỏi ảnh hưởng của nó.
Sự vui vẻ quá độ ở hí viện; sự bồng bột khiến ta la lối trong một trận túc cầu; sự ham mê âm nhạc hay hội họa đột nhiên nổi lên ở ḷng ta, lúc ta tṛ chuyện với nghệ sĩ; sự thích thú một quyển sách được nhiều người khen ngợi.
Sự sầu năo trong đám tang; sự chán nản ở buổi tiệc khi có mặt một người khách buồn rầu; sự nóng tánh ở buổi họp khi có một người giận dỗi, các t́nh cảm nầy chẳng phải là của ta mà là của kẻ khác được chuyển sang tâm trí ta.
THÁI ĐỘ TÍCH CỰC
Thái độ của chúng ta phải như thế nào, nếu chúng ta biết sự buồn rầu hay phấn khởi đều tùy thuộc hoàn cảnh hoặc tùy những người ở gần hay ở xa chúng ta mà liên hệ mật thiết với ta? Chúng ta phải tích cực: v́ các tư tưởng và t́nh cảm xấu của kẻ khác lúc nào cũng chờ đợi để xâm chiếm tâm trí ta, ta phải chống cự lại.
Việc đó không khó. Bạn hăy nói: “Các tư tưởng ấy không phải của tôi. Tôi không có lư do ǵ để buồn rầu hay chán nản. Tôi không để các tư tưởng ấy xâm nhập trí tôi. Chúng phải đi nơi khác. Tôi muốn vui vẻ, an lạc và thương yêu. Tôi là ánh sáng hóa thân, tôi là một điểm linh quang của Thượng Đế.” Một thái độ như thế rất có kết quả trên đường tiến hóa.
SỰ TRUYỀN CẢM CỦA NGƯỜI CHẾT
Chẳng những người sống mà cả những người chúng ta gọi là chết cũng chuyển tư tưởng và t́nh cảm đến tâm trí chúng ta, v́ sự chết của xác thân không ảnh hưởng đến trí tuệ của con người.
Một trong những điều mà chúng ta phải ư thức, nếu chúng ta muốn hiểu cách thức truyền cảm, là người chết không cách biệt với các người thân mến một thời gian sau khi từ trần.
Tuy chúng ta không thấy người, v́ mắt chúng ta không nhận được các rung động của cơi vô h́nh, nhưng người thấy ta trong khung cảnh hằng ngày, trong thời gian vài ba năm khi chưa siêu thoát lên cơi trên, và người vẫn thiết tha với hạnh phúc của chúng ta như lúc trước.
Ban đêm, trong lúc thể xác ta nghỉ ngơi, vía chúng ta gặp các người thân mến đă quá văng ở cơi vô h́nh và chuyện tṛ như lúc sống. Ban ngày tuy người sống không thấy người chết, nhưng có thể chuyển cho họ những tư tưởng thương yêu như những sứ giả hạnh phúc, và một tư tưởng mạnh mẽ của một vong linh cũng có thể xâm nhập tâm trí ta như tư tưởng của một người lân cận.
Nhiều tư tưởng đến với chúng ta, dù ta không bao giờ biết có sự truyền cảm từ cơi giới bên kia như vậy.
CẢM HỨNG
Đôi khi, trước số thính giả đông đảo, diễn giả được một nhân vật đang hoạt động giúp đời ở cơi vô h́nh lưu ư, và chuyển đến ông những tư tưởng mạnh mẽ.
Trong trường hợp nầy, diễn giả đột nhiên được nhiều cảm hứng. Những tư tưởng rơ ràng, những ư niệm sáng sủa hiện đến dồn dập, lời nói của ông trở nên chọn lọc, thanh tao, êm ái, ông trở nên hùng biện, trang nghiêm và lôi cuốn cử tọa mê say. Đó là một cách chuyển di tư tưởng quí báu nhứt.
VIẾT VÀ VẼ TỰ ĐỘNG
Ảnh hưởng của các nhân vật ở cơi vô h́nh có thể biểu hiện một cách khác hơn là sự chuyển di tư tưởng. Trong nhiều trường hợp, nhân vật ấy có thể chiếm lấy cánh tay hay bàn tay người sống xuyên qua các trung tâm thần kinh của y để vẽ hay viết. Đó là hiện tượng viết hay vẽ tự động thường thấy ở những buổi họp thần linh.
Trong các trường hợp nầy, cánh tay không c̣n tùy thuộc người sống kiểm soát mà do nhân vật nói trên sử dụng.
LỜI NÓI TRONG TRẠNG THÁI XUẤT THẦN
Nhân vật ấy cũng có thể chiếm lấy bộ phận nói của người sống để nói chuyện với các người hiện diện. Nếu người “đồng” không xuất ra trọn vẹn, th́ y vẫn tỉnh và biết được mọi sự việc, nhưng không cưỡng lại được những lời nói bộc phát từ đôi môi ḿnh.
Trái lại, nếu đồng tử xuất ra hoàn toàn, để thể xác bị chiếm trọn vẹn th́ y ít khi ư thức những việc xảy ra. Sau buổi nhập đồng, y không nhớ điều ǵ cả, từ lời nói đến việc làm. Trong các trường hợp nầy, nét mặt y có thể thay đổi.
Chúng ta biết thân thể phản ứng nhanh chóng tùy t́nh cảm chúng ta. Nó thay đổi sắc diện mỗi lần chúng giận, buồn hay vui. V́ vậy khi một nhân vật đến nhập vào thể xác, lời nói, cách nói của người đồng tử thay đổi để được giống nhân vật nầy.
SỰ HIỆN H̀NH
Một người ở cơi vô h́nh có thể tiếp xúc với người trần bằng một cách khác hơn là qua sự trung gian của đồng cốt. Người có thể lấy chất dĩ thái trong các thể người sống để tạo ra một cánh tay dùng xê dịch đồ đạc hay để bao quanh thể vía của ḿnh và hiện ra. Người ta có thể nói năng với h́nh dạng mới tạo nầy. Các hiện tượng nầy được gọi là sự hiện h́nh.
V́ những đồ vật hữu h́nh chỉ có thể bị xê dịch bởi những động lực tác động xuyên qua cơ thể hữu h́nh, nên vong linh chỉ có thể tạo ra hiện tượng vật chất khi nào vị ấy nhập vào xác người sống hay tự ḿnh hiện ra bằng chất dĩ thái.
Không phải các sự hiện h́nh đều có thể thấy được. H́nh có thể tạo bằng chất đặc, nhưng không thể trông thấy, có cái thấy được giống như sương mù, có cái vừa đặc vừa thấy được. Muốn xê dịch đồ đạc, h́nh hiện ra phải bằng chất đặc.
Sau khi chết, h́nh dáng con người giống như lúc sống, khác chăng là cơ thể của người bây giờ, không phải làm bằng vật chất hồng trần, mà bằng một chất thanh hơn. V́ vậy, khi bao quanh h́nh thể bằng một lớp dĩ thái vừa đủ để phản chiếu ánh sáng, th́ y hiện ra giống hệt lúc c̣n sinh tiền.
Trong buổi nhập đồng, vong linh có thể lấy tên một vị không có mặt tại đó. Nếu y tưởng tượng giống vị ấy th́ thể vía của y cũng giống như vậy, theo h́nh tư tưởng của y. V́ vậy việc mạo danh thường xảy ra trong các buổi đồng cốt.
Đấng Ky Tô, Socrate, Platon, Shakespeare và các nhân vật cao cả khác – mà nhiều người tưởng có sự hiện diện các nhân vật trên trong các buổi nhập đồng có nhiều công việc quan trọng hơn là đến nói những lời vô vị vụng về, mà những người sáng suốt không lưu tâm.
VIẾT TRÊN BẢNG ĐÁ
Sự viết trên bảng đá cũng là một sự hiện h́nh. Sự kiện xảy ra như sau: Một cây viết được để giữa hai tấm bảng, tất cả được gói lại và niêm khằng cẩn thận. Khi vong linh về muốn viết th́ dùng chất dĩ thái của người đồng để có thể sử dụng cây viết và viết.
V́ chất dĩ thái có thể đi xuyên qua các chất đặc một cách dễ dàng, nên bàn tay bằng chất dĩ thái đưa vào gói, băng ngang qua bảng đá và viết cũng như ta đưa bàn tay ngang qua đám khói.
KHI NHÀ HUYỀN MÔN HIỆN H̀NH
Đôi khi, một nhà huyền môn hoạt động ở cơi vô h́nh cần hiện h́nh để giúp đỡ một người lâm nạn ở cơi trần. Khi hiện h́nh như vậy, người không lấy chất dĩ thái của đồng cốt mà dùng ư chí mạnh mẽ rút dĩ thái ở không trung bao thể vía để tạo ra một h́nh thể có thể nói năng và hành động.
Sau đó, khi ư chí của người không tập trung nữa th́ chất dĩ thái trở về trạng thái cũ và sự hiện h́nh chấm dứt.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 328 of 1146: Đă gửi: 21 June 2010 lúc 2:46am | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN TÂM LINH
(CHƯƠNG IV)
ĐỒNG CỐT VÀ SỰ TRUYỀN CẢM THỤ ĐỘNG
MỘT ĐẶC ĐIỂM VẬT CHẤT
Người nào muốn ngồi đồng phải có khả năng xuất ra khỏi xác; thể xác y c̣n phải có một đặc điểm khác là sự kết hợp lỏng lẻo giữa các phần tử dĩ thái và các phần khác của nó.
Đặc điểm nói trên thường có từ lúc mới sanh, nhưng nó cũng có thể được khai mở thêm ở những nơi được gọi là “Câu lạc bộ phát triển”.
Nó không chứng tỏ người có nó, tiến cao hơn mọi người khác. Thường th́ trường hợp trái lại xảy ra: khả năng lên đồng là dấu hiệu một linh hồn kém tiến hóa, mặc dù có vài ngoại lệ.
Lư do khả năng nầy không vượt qua phạm vi thể xác: khi thể xác có một vài đặc điểm cần thiết th́ người ta có thể ngồi đồng. Nó không đ̣i hỏi một tánh t́nh thanh cao hay một cố gắng nào về sự trau luyện tinh thần. Bản chất thanh cao của con người không được lưu ư.
Nhưng người ta nghĩ sai, khả năng ngồi đồng là một bằng chứng có sự phát triển tâm linh. Nhiều người c̣n hiểu rằng: tin ở các vong linh đời sống bên kia của tử, là dấu hiệu của sự phát triển cao quí, nếu chấp nhận những giáo lư vô vị ở các buổi nhập đồng, là chứng tỏ một sức mạnh tinh thần, c̣n say mê những hiện tượng này nọ là sự mộ đạo.
NHỮNG ĐIỆN TÍN PHI PHÀM
Xem sự lên đồng như là một tôn giáo, và kính trọng lời lẽ của các vong linh do đồng cốt chuyển lại như là những giáo lư cao siêu, th́ không khác nào qú ở một trung tâm vô tuyến Marconi để nghe những điện tín chuyển đến từ một cơi xa xăm và tôn kính các điện tín ấy như là thông điệp của Trời.
Thái độ như thế không hợp lư. Trong hai trường hợp, lời lẽ vẫn phát xuất từ một người thường, có khác chăng là một bên được chuyển đến do máy móc, c̣n bên kia do xác đồng.
Việc người chết dùng xác đồng giống như việc ta dùng điện thoại: sự kiện không có tánh cách ǵ gọi là tâm linh. Chúng ta có thói quen gọi người vừa bỏ xác thân là “vong linh”.
Thói quen nầy gây nhiều sự hiểu lầm, khiến ta tôn sùng và tin tưởng người chết quá mức. Ngay bây giờ, chúng ta cũng là những linh hồn, và sau khi từ trần, chúng ta chỉ mất thể xác thôi, chứ chúng ta vẫn y như trước.
Lúc sanh tiền, anh Ất ăn nói dài ḍng, khi chết anh cũng thế. Anh có muốn nhờ miệng đồng cốt để giảng đạo đi nữa th́ lời lẽ của anh cũng không có giá trị ǵ hơn lúc anh c̣n sống.
Chúng ta bao trùm cái chết và những điều ở bên kia cửa tử bằng một bức màn bí mật và tỏ một thái độ kính trọng. Việc ấy không có ích chi cả. Khi một người đồng nói ra điều ǵ, ta nên đón nhận như lời một bạn quen, có thế thôi.
TRINH NỮ DÂNG HƯƠNG
Đồng cốt là một phương tiện liên lạc xưa nhất và dễ nhất giữa cơi trần và cơi vô h́nh. Lịch sử và các sự nghiên cứu huyền môn xác nhận đồng cốt đă có trên hai ngàn năm nay.
Người có huệ nhăn khi quan sát ở quá khứ, trong những đền thờ vĩ đại của châu Atlantide của Ai Cập hay Hi Lạp ngày xưa th́ các trinh nữ dâng hương, vũ nữ và đồng nữ hiện ra trong những xác thân trinh khiết trước những bàn thờ tôn nghiêm và các tín đồ yên lặng và tin tưởng, để chuyển lại lời lẽ quí báu của các đấng Thánh linh.
Nhưng hoàn cảnh hiện tại khác hẳn hoàn cảnh ngày xưa. Trước kia, các trinh nữ đó thuộc những gia đ́nh quí phái, được nuôi dưỡng trong các đền thờ thanh khiết, linh thiêng. Họ ăn những thức ăn chọn lọc và được ngừa những ảnh hưởng và tư tưởng xấu. Được chăm nom cẩn thận, vậy họ tránh được mọi tai hại cho họ, đồng thời nói lên được những giáo lư cao siêu do các bậc Chưởng Giáo nhập vào truyền dạy.
Việc rời bỏ xác thân để một Vị cao cả sử dụng không phải là một điều nguy hại. Sự thực th́ có những nhà huyền môn và các bậc điểm đạo làm như vậy khi họ biết rơ vị nào sẽ sử dụng xác thân của họ. Trong lúc họ rời khỏi xác thân, họ ư thức được những điều xảy ra. Họ c̣n có dịp đứng bên vị Chưởng Giáo để nghe các lời chỉ dạy.
NGUY HẠI CỦA ĐỒNG CỐT HIỆN NAY
Việc sử dụng đồng cốt hiện nay gây nhiều tai hại khiến các nhà huyền môn khuyến cáo nên xa lánh. Nguyên nhân các tai hại đó là điều kiện sinh sống bẩn thỉu, nhớp nhúa của đồng cốt. Họ không được tiến hóa đến mức có thể chọn những vị cao cả cho nhập vào xác ḿnh.
Khi họ rời thể xác, họ mê và không c̣n hoạt động được. Tâm thức của họ v́ không được luyện tập nên phất phơ như trong giấc mộng với những tư tưởng quen thuộc hằng ngày.
Trong lúc đó, một vong linh nhập vào xác trống và giảng dạy trước cử tọa kính cẩn. Đôi khi những vong linh được gọi là "kẻ d́u dắt", có mặt và cố gắng che chở đồng cốt. Tuy nhiên, các vong linh ấy cũng tầm thường như chúng ta chứ không phải toàn năng hay toàn tri để có thể bảo vệ cho có kết quả.
Nếu chúng ta biết cơi vô h́nh (nhất là các tầng thấp các đồng cốt thường tiếp xúc), có một số vong linh đàn ông, đàn bà bất hảo, chúng ta đừng ngạc nhiên khi một vong linh du đảng, thô bỉ, trụy lạc toan chiếm thể xác người đồng, mặc dầu có sự ngăn trở của vong linh d́u dắt. Kết quả thể xác người đồng bị hành hạ và trở nên ô uế.
Dù vong linh có thanh cao hơn, sự xâm chiếm ấy cũng không tốt, v́ trong số đó có ai không c̣n ích kỷ và dục vọng.
NHỮNG NƠI Ô UẾ
Chúng ta hăy đến dự một buổi lên đồng phải trả tiền vào cửa và nh́n xem cảnh vật chung quanh. Trong các người hiện diện, ít người học rộng và có t́nh thương, họ đến v́ tính ṭ ṃ hay để thoả măn dục vọng cá nhân.
Họ thường ăn thịt, uống rượu, lắm khi không được sạch sẽ, nên phát ra hôi hám ô uế. Người đồng không cử rượu thịt, nên từ điện cũng rất dơ bẩn. Vậy, các bậc Tiên Thánh không thể sử dụng được thể xác của y? Thể xác của y như một bộ quần áo dơ, làm sao một người sạch sẽ có thể mặc vào?
Do đó, những giáo lư do đồng cốt thốt ra không có giá trị, v́ các nhân vật quan trọng không đến nhập, dầu nơi đó có mặt thân nhân của họ. Kết quả là những vong linh tầm thường đến và rất hănh diện xưng vị này, đấng nọ để truyền dạy những điều vô vị.
NHỮNG ĐIỀU KIỆN LƯ TƯỞNG
Nếu các điều kiện trên được thay đổi, các người đến dự đều trong sạch, vị tha và có khuynh hướng tâm linh, người đồng cốt không ham mê thú vui vật chất, tinh lọc tư tưởng và giữ ǵn thân thể sạch sẽ th́ kết quả sẽ tốt đẹp hơn nhiều. "Văn Pḥng Julia" do cố W.T. Stead thành lập đă cố gắng nhiều trên phương diện này.
Các điều kiện c̣n bê bối như hiện nay, th́ đồng cốt sẽ mất hết phẩm giá và trở thành nô lệ các tập quán đê tiện, bị loạn óc hoặc điên cuồng. Nếu khoa thần linh muốn có một địa vị quan trọng trong giới tôn giáo và khoa học.
Nó phải nhận định khuyết điểm đó và huấn luyện đồng tử từ lúc nhỏ đừng để chúng bị lợi dụng do những người dốt nát, ích kỷ, chỉ biết chạy theo những hiện tượng có vẻ lạ đối với phần đông, nhưng không có một giá trị tâm linh nào.
SỰ HIỆN H̀NH LÀM SUY YẾU THẦN KINH
Sự hiện h́nh không nên khuyến khích, với bất cứ lư do ǵ, v́ nó gây tai hại cho sức khoẻ và cả cho sinh mạng của đồng cốt. Lư do là khi chất dĩ thái được rút ra khỏi thể xác để hiện h́nh, th́ luồng sinh lực nuôi dưỡng thể xác bị giảm nhiều làm cho kiệt sức.
Các bộ phận trong cơ thể đều bị xáo trộn nhất là quả tim, bộ tiêu hóa và thần kinh hệ. Các bộ phận này bị căng thẳng và suy yếu đến đỗi đồng cốt phải dùng những chất kích thích. Do đó, một số người trở nên nghiện rượu.
SỰ Ô NHIỄM
Khi chất dĩ thái của thể xác được vong linh dùng để hiện h́nh, chất ấy sẽ thu hút một phần từ khí của vong linh đó và thu nhận ít nhiều các rung động của y. Nếu người ấy thuộc hạng hoang đàng xảo trá, chất dĩ thái bị ô nhiễm, và khi nó được hoàn lại cho đồng cốt, nó vẫn giữ ảnh hưởng nguy hại đó. V́ vậy, chúng ta cần tránh sự hiện h́nh dưới mọi h́nh thức.
Các người dự những buổi họp này cũng bị rút một ít chất dĩ thái của ḿnh để phụ với đồng cốt và v́ thế họ cũng bị ô nhiễm phần nào.
SỰ ÁM ẢNH
Nếu một buổi lên đồng được quan sát bằng thần nhăn, người ta sẽ thấy vong linh đến dự rất đông đảo. Một vài vong linh nhập vào đồng cốt, c̣n những vị khác th́ t́m cách ảnh hưởng cử tọa.
Lắm khi, một vong linh xé rách được màn lưới bảo vệ, đă nói ở chương trước, từ đó có thể lộng hành đối với nạn nhân bằng cách ám ảnh và gây ra đủ thứ đau buồn.
Khi màn bảo vệ đă bị rách, sự bảo vệ thiên nhiên không c̣n, th́ con người dễ bị ám ảnh bởi những vong linh xấu xa. Các vong linh này muốn trở lại cơi trần sống một đời sống vật chất để thoả măn những thèm khát của họ, nên đôi khi không c̣n chút lương tâm đối với nạn nhân.
V́ vậy, một người bị xé rách màn lưới là một người rất vô phước. Trong trường hợp màn lưới không rách, vong linh cũng có thể để ư đến một người nào và theo y về nhà để phá rầy đủ cách. Điều này sẽ nguy hại nhiều hơn, khi nhà có con nhỏ, v́ trẻ con dễ bị ám ảnh.
V́ thế, nhà huyền môn không phản đối việc sử dụng đồng cốt, nhưng cần nêu những tai hại của sự lên đồng trong những điều kiện thê thảm hiện nay. Các buổi họp riêng, ít nguy hiểm hơn, v́ cử tọa được chọn lọc, tuy nhiên, nguy tai vẫn c̣n. Lư tưởng là áp dụng các điều kiện của thời trinh nữ dâng hương.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 329 of 1146: Đă gửi: 21 June 2010 lúc 2:47am | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN TÂM LINH
(CHƯƠNG V)
TÂM THỨC SIÊU ĐẲNG
KHỐI ÓC BỊ GIỚI HẠN
Tính năng linh không phải siêu nhiên, nó chỉ đ̣i hỏi sự khai mở những đường liên lạc mới giữa khối óc và tâm thức siêu đẳng. Khối óc tự nó, nó không phát sinh tư tưởng, nó chỉ phỏng họa những làn rung động của trí tuệ.
V́ hoạt động trí tuệ phát xuất từ chơn ngă bên trong (chơn ngă này luôn luôn hiện hữu dù có khối óc hay không), chúng ta có thể quả quyết rằng mỗi tư tưởng, mỗi t́nh cảm của chúng ta (ngoại trừ khi chúng nó được tiếp nhận do sự truyền cảm) đều do tâm thức siêu đẳng của chúng ta chuyển đến.
Một việc đáng được lưu ư, mà chúng ta thường gọi là tâm thức, đó chỉ là một phần của tâm thức mà thôi. Khối óc của chúng ta là một cơ quan hoàn mỹ, nó đáp ứng khéo léo đối với hoạt động trí tuệ, nhưng nó bị hạn chế nên khả năng phỏng họa của nó kém hơn là chúng ta tưởng, nhất là đối với những rung động tế nhị của các tư tưởng và t́nh cảm cao siêu.
Khả năng đó thay đổi tùy người. Khối óc của kẻ quê mùa, có thể phát biểu tất cả tư tưởng của y, v́ các tư tưởng này đơn giản, chỉ liên hệ đến công ăn, việc làm, nhưng kiến thức phong phú của một người học rộng có thể phát biểu một ít xuyên qua loại óc hiện tại của con người.
SỰ ĐIỀU HÀNH CỦA TÂM THỨC
Về tâm thức phong phú của con người, nhà huyền môn có thần nhăn hiểu biết những ǵ? Ông biết tâm thức là một, nhưng khi nó biểu hiện xuyên qua một thể chất, cách biểu hiện của nó thay đổi tùy theo thể chất này.
Nếu chúng ta cho sợi dây điện chạy qua một ống thủy tinh đựng hơi thủy ngân, kế đó chạy qua robin Ruhmkorff và sau chót, chạy vào một xoắn ốc dây từ khí, sợi dây điện sẽ tạo ba hiện tượng khác nhau tùy thể chất nó xuyên qua. Hơi thủy ngân chiếu xanh, dây robin nóng, c̣n sợi dây xoắn phát ra từ khí.
Tâm thức con người cũng giống như thế. Khi nó tác động ở tầng cao của cơi vô h́nh, nó tạo ra tư tưởng; ở tầng thấp hơn, nó phát sinh t́nh cảm, dục vọng, c̣n ở vật chất, th́ nó tạo tâm thức tự động biểu hiện ở các thói quen.
Tâm thức tự động này khác hẳn tâm thức thông thường của ta trong lúc tỉnh thức (giác thức). Nó là tiềm thức và thỉnh thoảng mới hiện ra trong các tư tưởng hằng ngày. Bất th́nh ĺnh, chúng ta tránh cú đánh, đó là tác động của tiềm thức. Giác thức là phần của tâm thức phát biểu xuyên qua khối óc. C̣n phần tâm thức không phát biểu được, v́ quá cao là siêu thức.
Bởi thế, nhà huyền môn học phân tâm thức ra làm ba: tiềm thức (tâm thức tự động), giác thức (tâm thức thường trong lúc tỉnh thức) và siêu thức (tâm thức siêu đẳng).
TIỀM THỨC
(Tâm thức tự động)
Tâm thức tự động phát biểu xuyên qua bộ thần kinh giao cảm và các trung tâm phản ứng của hệ thống năo tủy. Chính nó kiểm soát các tế bào của xác thân, điều ḥa hoạt động của các bộ phận và lưu giữ trong trí ta những hành động mà chúng ta làm, nhưng không nghĩ đến. Đó là lănh vực của bản năng và của thói quen.
Hành động viết là một thí dụ. Khi chúng ta tập viết, chúng ta gặp nhiều khó khăn. Mỗi lúc, tâm thức ta phải tác động xuyên qua khối óc và ta phải suy nghĩ nhiều về mỗi chữ viết ra. Sau đó quen đi, ta không c̣n suy nghĩ hay cố gắng ǵ nữa, v́ công việc đă thuộc tâm thức tự động. Nhờ vậy, khối óc được rảnh rang để suy tư việc khác.
Khi chúng ta tập đi xe đạp, cũng thế. Lúc đầu tâm thức ta hoạt động nhiều để xe đừng chạy xuống hố hay đừng đâm vào cây. Nhưng khi chạy được rồi, chúng ta không c̣n suy nghĩ ǵ nữa: ta lên xe là tay lái, chân đạp và các động tác này không do trí óc kiểm soát mà thuộc về tiềm thức điều khiển.
Việc lái xe ba bánh cũng dạy ta nhiều việc. Cách lái xe này, khác cách đi xe đạp. Với xe này, ta không nghiêng ḿnh bên trái, bên phải mà chỉ có hướng tay cầm mà thôi. Cái khó lúc đầu là ở chỗ đó. Người quen đi xe đạp biết rơ là chỉ phải hướng tay cầm, nhưng khi muốn quẹo th́ tự nhiên y nghiêng ḿnh như lúc đi xe đạp, v́ vậy xe thường đâm vào hàng rào hay xuống hố.
Khi tâm thức tự động quen điều khiển một vài tự động nào, muốn sửa thói quen ấy ta phải mất một thời gian, mới có thể tạo một thói quen khác. Việc này không khó, chỉ ta chịu khó nhọc tập cho đến khi nào thói quen mới nhập vào lănh vực tiềm thức. Nhà huyền môn khai thác cách thức này để tạo cho ḿnh một tập quán tốt đẹp.
SIÊU THỨC
Siêu thức gồm những tư tưởng và t́nh cảm mà khối óc ta không phát biểu được, v́ bị hạn chế và không thanh bai. Tư tưởng và t́nh cảm đó rất nhiều. Nhờ chúng mà đời sống tinh thần của chúng ta được phong phú. Không có chúng, chúng ta chỉ là sự kết hợp các tế bào và khối óc ta không c̣n suy tư được nữa.
Thỉnh thoảng, một t́nh cảm, một tư tưởng từ cơi siêu thức ấy chuyển xuống khối óc. Đó là một âm điệu thiêng liêng, thoạt đến tai nhạc sĩ, một ư thơ tuyệt diệu cảm hứng thi nhân, sự hào hùng phấn khởi chí nam nhi, một ư niệm mới soi sáng thiên tài, một sức can đảm bồng bột lôi cuốn quân lính ra trận.
SỰ HỒI NHỚ CÁC KINH NGHIỆM SIÊU H̀NH
Trong một giấc ngủ êm ái, siêu thức có thể lưu lại khối óc một vài kiến thức, nhưng việc này rất ít xảy ra, v́ khối óc ta dẫy đầy h́nh ảnh lộn xộn những việc xảy ra trong ngày.
Khối óc tự nó không có một sự khôn ngoan nào, chỉ là một cơ quan thụ cảm, ghi nhận một cách máy móc những rung động đă quen. Khi thiếu sự điều khiển thông minh, nó chỉ lặp lại h́nh ảnh mù mờ, thiếu thốn, nối tiếp nhau một cách vụng dại, không ư nghĩa.
Tuy nhiên, nếu chúng ta cố gắng tinh luyện, chúng ta có thể giữ trong óc ấn tượng rơ ràng và chính xác những việc xảy ra trong cơi vô h́nh khi chúng ta sang qua đó. Những ấn tượng này tạo những giấc mộng hợp lư, được kết lại một cách mạch lạc.
TIÊN TRI
Do một phương pháp mà giác thức chúng ta chưa giải thích được, chúng ta có thể thấy được những việc xảy ra trong tương lai khi ngủ và chuyển các điều nghe thấy ấy sang qua giác thức.
Khi chúng ta đứng trên một ngọn đồi nh́n hai chiếc xe lửa chạy ngược chiều trên một con đường, chúng ta có thể biết được chúng sẽ đụng nhau vào giờ phút nào, tuy hành khách trên xe không biết chi về tai nạn sắp xảy ra.
Trong cơi vô h́nh, chúng ta có thể ở một vị trí tương tự để quan sát các sự việc và biết trước được sự diễn tiến của chúng.
SỰ LIÊN LẠC VỚI SIÊU THỨC
Khi chúng ta thanh lọc thân thể, khối óc và thần kinh hệ đến mức chúng thông cảm được với siêu thức, một năng khiếu sẽ phát sinh: đó là nhăn thông. Năng khiếu tâm linh này là kết quả của các khả năng cá nhân. Đ
ó là quyền năng của con người mà ta không thể lầm lẫn với đồng bóng được. Một người ngồi đồng, chỉ chuyển tư tưởng của kẻ khác, c̣n người nhăn thông vận dụng khả năng riêng của ḿnh.
Có hai phương thức để khai mở nhăn thông. Một phương thức ở Ấn Độ là Hatha Yoga hay "Hợp nhất bằng trí lực". Với phương thức này, nhờ những động tác thích hợp, xác thân trở nên an tĩnh cho đến đỗi các giác quan trở nên suy nhược và bất động.
Phương thức này chỉ chú lực vào xác thân mà không nghĩ đến sự trau luyện tánh t́nh, nên chỉ khai mở được nhăn thông cổ sơ mà thôi.
Phương thức thứ hai là Raja Yoga (Hợp nhất đế vương). Phương pháp này tinh luyện trí tuệ, t́nh cảm và bản chất tâm linh.
Khi sự tinh luyện đến một mức nào, th́ nhờ sự tập trung hùng dũng, người ta có thể rút tâm thức ra khỏi khối óc để đưa vào cơi vô h́nh. Phương thức này mở nhăn thông siêu đẳng.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 330 of 1146: Đă gửi: 21 June 2010 lúc 2:52am | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN TÂM LINH
(CHƯƠNG VI)
CƠ CẤU CỦA NHĂN THÔNG CỔ SƠ
NHĂN THÔNG Ở CHÂU ATLANTIDE
Theo niên giám huyền môn, trước đây nhiều ngàn năm, có một lục địa rất lớn tại Đại Tây Dương, ấy là châu Atlantide. Châu này rất phồn thịnh với các cánh đồng mênh mông, nhiều đô thị phát đạt và những đồng lúa, vườn nho phấp phới dưới ánh mặt trời.
Văn minh của châu này cao hơn nền văn minh của chúng ta ở một vài phương diện. Nhưng tất cả đều bị hủy diệt và chôn sâu dưới đáy biển, v́ sự bất công và tàn bạo của nhân dân lúc bấy giờ.
Theo sử liệu, nhân loại lúc ấy rất năng linh và liên lạc với cơi vô h́nh mật thiết cho đến đỗi đối với họ, cơi này như là một với cơi trần. Nhưng trí hóa họ kém cơi, khối óc họ không được phát triển như bây giờ. Họ buông trôi theo dục vọng, t́nh cảm ồ ạt, chứ không biết lư luận, suy tư.
Dân tộc Atlantide năng linh như thế nào, và hành động theo đường lối nào?
NHỮNG TRUNG TÂM NĂNG LINH Ở XÁC THÂN
Chúng ta biết thân thể con người có hai thần kinh hệ: hệ năo tủy gồm năo bộ, tủy sống, các dây thần kinh, và hệ giao cảm gồm nhiều sợi thần kinh và nhất là hai dây thần kinh có nhiều hạch nằm hai bên cột xương sống.
Hệ này gồm nhiều tùng do các dây thần kinh rất nhỏ tụ họp kết thành. Trong các tùng, tùng Thái dương được biết nhiều hơn cả.
Điều mà các nhà giải phẫu không biết các tùng này trước kia là điểm giao liên giữa thể xác và thể t́nh cảm (thể vía). Nơi người AtLantide, các tùng này và cả hệ giao cảm rất phát triển, v́ thế, họ nhận được các rung động của cơi vô h́nh và được năng linh.
Tâm thức của người AtLantide được tập trung vừa vào hệ giao cảm, vừa vào khối óc cục mịch, v́ thế chẳng những họ năng linh mà c̣n giác thức được những điều thuộc về tiềm thức của chúng ta bây giờ.
Tuy nhiên, những cảm giác của họ về cơi hữu h́nh hay vô h́nh mập mờ, tŕ độn không có những chi tiết mà một người nhăn thông ngày nay có thể thấy rơ ràng, nhờ sử dụng được nhiều trung tâm khác liên hệ đến nhăn thông và hệ năo tủy.
SỰ TĂNG TRƯỞNG CỦA TRÍ NĂNG
Từ thời Atlantide đến nay, nhiều thế kỷ đă trôi qua, khối óc lớn thêm và vi diệu hơn, đồng thời nhiều hoạt động của hệ giao cảm lần lần trở nên tự động và vào lănh vực tiềm thức.
Sự thay thế các cảm xúc năng linh mập mờ bằng trí lực, là một bước tiến hóa và diễn tiến trong một thời gian dài. Cho đến ngày nay, gần một triệu năm sau thời cực thịnh của văn minh AtLantide đă trôi qua, một số đông người chưa mở trí lực được bao nhiêu, nên những vết tích của năng linh xưa vẫn c̣n.
V́ vậy, hiện nay, một số người có nhăn thông, nhưng trí hóa họ kém hơn nhiều người khác. T́nh cảm của họ lấn áp trí năng. Họ chưa tiến hóa hơn dân tộc At Lantide, nhưng sau vài trăm kiếp luân hồi, trí tuệ của họ sẽ chiếm ưu thế và những cảm xúc năng linh tŕ độn cũng sẽ được thay thế bằng quan năng trí thức.
Ngoài số người này, đa số nhân loại tiến hóa đều đặn và không c̣n liên hệ với cơi vô h́nh nữa, nhờ trí tuệ được tăng trưởng từ kiếp này sang kiếp khác. Việc này giải thích v́ sao hiện nay số người năng linh rất ít, tuy thỉnh thoảng chúng ta c̣n nghe nói có người biết trước được những tai nạn hay việc đau buồn sắp xảy ra.
THỜI KỲ CHUYỂN TIẾP
Chúng ta đang ở vào thời kỳ chuyển tiếp. Thời kỳ này, sự khai mở trí thức chiếm ưu thế, chúng ta không chấp nhận nhăn thông cổ sơ nữa (ngoại trừ một vài trường hợp rất hiếm), nhưng chúng ta chưa mở được nhăn thông siêu đẳng.
Tuy nhiên, th́ giờ khai mở nhăn thông siêu đẳng sắp đến cho một số đông người, v́ khối óc và tủy sống đă phát triển đến một mức khá cao. Trí tuệ và sự tự chủ của họ cũng đủ sức vững vàng, để giúp họ giải quyết những vấn đề sẽ đặt ra ở giai đoạn tiến hóa mới.
Chúng ta có thể tiến, cũng có thể lùi. Chúng ta tiến khi chúng ta cố gắng khai mở các năng khiếu tâm linh siêu đẳng, trái lại chúng ta sẽ lùi, nếu chúng ta đánh thức nhăn thông cổ sơ.
Thường, người ta tự hỏi những người cố gắng vào các công phu luyện tập với một niềm tin vững chắc, họ có biết hầu hết các phương pháp thông dụng ở Âu Mỹ đều có tính cách lạc hậu, ngăn cản bước tiến của chúng ta?
Lẽ tất nhiên những công phu luyện tập xác thân có phần dễ dàng, kết quả có nhanh chóng hơn các phương pháp khai mở nhăn thông siêu đẳng. Nhưng đây không phải là vấn đề dễ dàng hay nhanh chóng mà là vấn đề tiến hóa thật sự.
CÁC TRUNG TÂM KHÁC
Ngoài những trung tâm của hệ giao cảm, c̣n có những trung tâm khác, đôi khi cũng được dùng để mở nhăn thông cổ sơ. Học khoa sinh lư, chúng ta biết mỗi giác quan như mắt, tai, v.v..được một hay nhiều dây thần kinh liên kết với một trung tâm tương ứng ở trong óc. Điều người ta ít biết hơn là các trung tâm ấy có một đối phần của thể vía.
Khi một tia sáng lọt vào vơng mạc của mắt, th́ những rung động phát sinh và được dây thần kinh thị giác chuyển mau như chớp vào óc, nơi đây chúng kích thích một số tế bào xám.
Sự diễn tiến không ngừng tại đây, v́ các rung động gây ở năo bộ sẽ tạo những rung động khác ở trung tâm tương ứng của thể vía, nhờ đó ta mới cảm xúc được ánh sáng và màu sắc.
Mọi cảm xúc đều nhận trước tiên ở thể vía, rồi mới chuyển sang thể xác, và ư thức các cảm xúc này trong năo bộ tùy khả năng đáp ứng của nó đối với các rung động của thể vía, sự truyền đạt này được xảy ra như chớp nhoáng.
Vậy mỗi giác quan có một trung tâm tiếp nhận ở khối óc và một trung tâm tương ứng ở thể vía, nhưng các trung tâm này không phải là giác quan của thể vía, mà chỉ là những trung tâm trung gian giữa năo bộ và tâm thức. T
uy nhiên, với công phu luyện tập (mà chúng ta sẽ đề cập ở chương sau) người ta có thể dùng chúng như những giác quan thô sơ trong thể vía để thu nhận một ít rung động của cơi vô h́nh. Nếu các rung động này được chuyển vào năo bộ với cách bất thường th́ một ít nhăn thông cổ sơ phát hiện.
NHĂN QUAN THỨ HAI
Điều này giải thích nhăn quan thứ hai của dân sơn cước miền Ecosse và một vài dân tộc Celtes khác. Ở thể vía những người này, các trung tâm cảm xúc tương ứng với miền thị giác của óc, phát triển đến đỗi chúng được dùng chẳng những làm cơ quan trung gian giữa năo bộ và thể vía mà c̣n để nhận ở thể này những rung động của cơi vô h́nh và chuyển sang năo bộ dưới h́nh thức h́nh ảnh.
V́ các biến cố sắp xảy ra có thể thấy ở cơi vô h́nh cả tuần hay cả tháng trước, người nhăn thông khi nhận được một h́nh ảnh liên hệ th́ giữ ấn tượng ở năo bộ và biết được việc tương lai.
NHỮNG GIÁO LƯ LỖI THỜI
Những cách thức kích thích các trung tâm giao cảm và giác quan để khai mở nhăn thông cổ sơ được nghiên cứu rất tỉ mỉ ở Ấn Độ, được gọi là Hatha Yoga. Có thể những cách thức này là di sản của châu Atlantide, v́ người Dravidiens ở Ấn Độ thuộc gốc At Lantide.
Dù giáo lư ấy bắt nguồn từ đâu cũngvậy, nó được truyền xuyên qua nhiều thế kỷ ở một nước mà phong tục không bao giờ thay đổi và không hợp với ḍng tiến hoá. Người nào theo cách thức ấy là quay nh́n dĩ văng lỗi thời, thay v́ hướng về tương lai huy hoàng đang chờ đợi mọi người.
SỰ CẨN THẬN THUỞ XƯA
Dù sao thuở xưa, cách thức này được dạy cho từng đệ tử và chính thầy phải theo dơi công phu luyện tập chặt chẽ để tránh điều sai lệch. Đệ tử luôn luôn ở cạnh bên thầy để được thầy d́u dắt từ bước một.
Ở tây phương không có sự cẩn thận ấy; thường người ta chỉ mua một quyển sách và tập theo đó, là đủ rồi. Do đó làm sao tránh được những tai hại bất ngờ?
Về công phu luyện tập, cách tập th́ nhiều và không phải ai muốn tập theo cách nào cũng được. Ngày xưa, thầy chọn những điều hạp với tánh t́nh và sức khỏe của đệ tử, để tránh sự hư hoại các cơ năng rất tế nhị của xác thân.
Hơn nữa, người Ấn Độ c̣n có một truyền thống và một thứ từ điện riêng về xác thân mà người Âu Mỹ không có. Trải qua nhiều thời đại và thế kỷ, hạng thượng lưu Ấn Độ không dùng thịt, không uống rượu.
V́ vậy có nhiều cách thức công phu hạp với họ, nhưng rất nguy hiểm đối với xác thân ô trược được nuôi dưỡng bằng rượu thịt. Điều này ở tây phương ít người biết, do đó có nhiều trường hợp suy nhược thần kinh, điên cuồng hay chết chóc.
VÀI TRƯỜNG HỢP NGUY HIỂM
Một nhà huyền môn giảng đạo ở Mỹ, cho biết trong thời gian chu du thuyết pháp của ông, ông ghi nhận hai mươi hai người trở nên đau ốm, bệnh tật, v́ luyện tập theo những cách thức tai hại mà tôi sẽ nói trong chương sau.
Một số người tập thở theo các sách rẻ tiền, nên bị đau phổi hay thổ huyết.
Nhiều người hủy hoại vĩnh viễn sức khỏe của ḿnh bằng cách quá căng thẳng hệ thần kinh.
Trong vài trường hợp, trí năo bị suy nhược, sớ thịt không c̣n sức dẻo dai, chịu đựng.
Trong vài trường hợp nữa, màn lưới bảo vệ bị rách, nên con người bị ám ảnh hay quấy nhiễu bởi các vong linh hung tợn.
Các tai hại đó khiến ai cũng đau ḷng. Nếu các người ấy đừng quá vội vàng, đừng muốn có năng linh quá sớm và chịu khó theo con đường dài hơn, nhưng chắc chắn hơn, nhằm đạt nhăn thông siêu đẳng, họ sẽ khoẻ mạnh, sung sướng, không bị đau ốm hay tật nguyền.
Hơn nữa, dù có nhiều quyền năng đi nữa, các quyền năng này cũng chỉ có được trong một đời người mà thôi, v́ cách luyện tập đó không vượt phạm vi thể xác.
Trái lại, nhăn thông siêu đẳng của con người bên trong không sao mất được. Câu ngụ ngôn sau đây rất đúng: "Sự minh triết xây dựng cho tương lai, c̣n sự vô minh th́ bằng ḷng với ṭa nhà bằng cát."
J.S.Cooper
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 331 of 1146: Đă gửi: 21 June 2010 lúc 2:59am | Đă lưu IP
|
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 332 of 1146: Đă gửi: 21 June 2010 lúc 11:21pm | Đă lưu IP
|
|
|
TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN
TENZIN PALMO VÀ CUỘC SUY T̀M CHÂN LƯ
Lời giới thiệu
Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin Palmo) là một vị ni cô người Anh đầu tiên, đă ẩn cư thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 12.300 bộ trên dăy Hy Mă Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm.
Tenzin Palmo đă sống một ḿnh và tu tập trong động tuyết này. Cô đă chạm trán với những thú rừng hoang dă, đă vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận băo tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng cỡ 3 bộ vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy).
Cô không bao giờ ngủ nằm. Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong h́nh tướng một người nữ.
Sanh vào năm 1943, Tenzin Palmo lớn lên ở trung tâm khu London's East End. Cô là con gái một người bán cá. Khi c̣n bé, Tenzin Palmo đă thích sống lặng lẽ một ḿnh. Cô đă t́m hiểu nghiên cứu các tôn giáo phương Đông và khát khao được giác ngộ chân lư.
Năm 20 tuổi, thể theo tiếng gọi tâm linh, Tenzin Palmo đă bỏ việc làm tại thư viện và đáp tàu đi Ấn Độ.
Năm 1964, sau ba tuần lễ diện kiến và học hỏi với một vị đạo sư, Tenzin Palmo đă trở thành vị ni cô Tây Phương đầu tiên xuất gia tại Ấn Độ. Cô sống trong một tu viện Phật Giáo Tây Tạng và cũng là người phụ nữ duy nhất trong số hàng trăm tăng sĩ. Do đó, cô đă kinh nghiệm sự đối xử cách biệt đối với hàng nữ tu. Cô đơn và đau khổ, cô đă thề nguyện sẽ chứng đạo trong h́nh tướng một người nữ, dù phải trải qua vô lượng số kiếp.
Với tư tưởng đó, năm 1970, cô bắt đầu cuộc sống độc cư tại một nơi tĩnh mịch vắng vẻ; và 3 năm sau, cô t́m đến một động tuyết cao chót vót trên dăy Hy Mă Lạp Sơn để ẩn cư thiền đĩnh.
Năm 1988, cô rời khỏi động Tuyết Sơn với ư định sẽ thành lập một nữ tu viện ở miền Bắc Ấn để giúp cho các phụ nữ khác đạt tới cảnh giới giác ngộ.
Từ lúc bắt đầu sống đời ẩn sĩ chỉ với 80 Anh kim một năm, Tenzin Palmo đă trở thành một người nổi tiếng với những cuộc du thuyết toàn cầu; và tổ chức quyên góp xây nữ tu viện của cô càng lúc càng hoạt động sôi nổi.
Tenzin Palmo đă đến với cuộc đời này, rời bỏ nó, và rồi lại trở về một lần nữa để giúp đỡ mọi người.
Tenzin Palmo đă kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie, với tất cả ḷng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đă vượt qua, những thôi thúc thử thách mănh liệt, và những xúc cảm tâm linh mà cô đă chứng nghiệm. Cô cũng có đủ can đảm để trung thực diễn tả những dằng co khắc khoải, mâu thuẫn giữa t́nh yêu trai gái và tiếng gọi nội tâm đầy ân sủng.
"Trong Động Tuyết Sơn" là một kiệt tác phẩm diễn tả sự can đảm, khí phách, và trí tuệ của một vị ni cô Tây Phương đầu tiên đă đối phó và vượt qua một cách dũng mănh những chướng ngại thiên nhiên; cũng như sinh lư và tâm lư để đạt tới cảnh giới giác ngộ giải thoát.
Qua những sự kiện và kinh nghiệm chứng đạt của cô, Tenzin Palmo đă chứng tỏ cho chúng ta thấy cô là một nữ anh hùng của thời đại chúng ta, một ngọn đuốc sáng đốt cháy hàng rào cản ngăn bước tiến của giới phụ nữ, và san bằng mọi ranh giới phân chia cách biệt giữa người và người, giữa nam và nữ từ ngàn xưa cho đến tận thế kỷ 20 này.
Vickie Mackenzie
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 333 of 1146: Đă gửi: 21 June 2010 lúc 11:23pm | Đă lưu IP
|
|
|
TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN
CUỘC GẶP GỠ
CHƯƠNG MỘT
Tôi nhớ lại lần hội ngộ đầu tiên với Tenzin Palmo tại Pomaia, một thành phố nhỏ của Ư nằm giữa những ngọn đồi hùng vĩ của Tuscany khoảng một giờ đường lái xe từ Pisa.
Đó là một buổi xế trưa mùa hè và không khí ngột ngạt hơi nóng và mùi nhựa thông, chúng ta thấy những ṭa lâu đài một thời nguy nga tráng lệ với những bức tường chạm trổ tinh xảo, những cửa cái có ṿm cao, mái nhà kiểu tháp nhọn lấp lánh phản chiếu ánh mặt trời tháng Tám, và chỉ có tiếng côn trùng rỉ rả phá tan bầu tĩnh lặng của buổi trưa hè. Nhưng chỉ độ vài giờ nữa thôi, cuộc sống dưới phố kia sẽ náo nhiệt ồn ào vào buổi tối.
Những cửa tiệm bán thực phẩm, giầy dép, bánh ngọt, và bia rượu sẽ mở cửa đón khách; và bọn đàn ông sẽ tụm năm tụm ba tán dóc đủ mọi chuyện từ chính trị, kinh tế, đến những hoạt động của các tổ chức phe nhóm địa phương. Tuy nhiên, lần đó, nét lộng lẫy gợi cảm nồng nàn của xứ Ư, nơi mà thiên hạ đua chen nhau hưởng thụ dục lạc, đă phải nhường bước cho ánh sáng thế giới nội tâm của Tenzin Palmo.
Lần đầu tiên, tôi gặp Tenzin Palmo khi cô đang đứng dưới bóng các cây cổ thụ trong một ṭa lâu đài. Đó là một phụ nữ mảnh khảnh vào độ tuổi trung niên, với làn da trắng và lưng hơi kḥm. Cô mặc áo nữ tu Tây Tạng mầu đỏ sậm và tóc cạo sát đầu. Đứng vây quanh cô là một đám đông phụ nữ.
Chúng ta có thể thấy đó là một buổi nói chuyện rất hào hứng, và bầu không khí rất thân mật, cởi mở. Đúng ra th́ họ không được phép nói chuyện như vậy; tuy nhiên, sau cả một tháng trời tu học giáo lư và thực tập thiền định, th́ buổi nói chuyện ngoại lệ đó cũng là điều tất yếu thôi.
Tôi và khoảng 50 người nữa cũng tham dự vào buổi nói chuyện đó. Những sinh hoạt hào hứng ngoại lệ như thế đă trở thành quen thuộc nhưng quan trọng đối với tôi, sau khi tôi gặp các vị Lạt Ma ở Nepal từ năm 1976 trở về trước và khám phá ra tính chất đặc biệt phong phú trong những thông điệp của các ngài.
V́ thế, những buổi nói chuyện sống động như tôi đang chứng kiến đây, là một phương pháp thư giăn xả hơi sau những giờ dài ngồi kiết già thiền định hay lắng nghe các vị tu sĩ trùng tuyên lại lời dạy của Đức Phật.
Tối hôm đó, mọi người quây quần ăn uống ngoài trời. Một người đàn ông ngồi bên cạnh, th́ thầm vào tai tôi, và chỉ vào Tenzin khiến tôi đặc biệt chú ư. Tenzin Palmo lúc đó đang ngồi ở bàn ăn bên kia và nói chuyện vui vẻ, hăng say với đám đông vây quanh cô.
- "Đó là Tenzin Palmo, một phụ nữ Anh Quốc đă sống 12 năm trong một hang động cao hơn 12.000 bộ trong dăy Hy Mă Lạp Sơn đó. Cô ta sống một ḿnh ở đó và vừa mới rời khỏi động tuyết."
Bây giờ, sự chú ư của tôi đối với Tenzin Palmo không c̣n là một sự ṭ ṃ nữa, mà là một sự chú tâm đặc biệt.
Nhiều năm qua, tôi đă đọc, đă nghe về những nhân vật kỳ đặc, những bậc đạo sư du già ở Tây Tạng, Ấn Độ hay Trung Hoa. Những bậc đại nhân này đă ĺa bỏ những tiện nghi sung măn vật chất của đời sống con người để ẩn cư thiền định tại những núi rừng hoang vu tĩnh mịch hết năm này qua năm khác.
Con đường của họ đi thật khó khăn và cô độc làm sao! Hoàn toàn cô đơn, trên người chỉ có một tấm vải thô hay một chiếc áo mỏng manh, họ dấn thân vào cuộc chiến đấu với bản thân và những cơn đói lạnh khủng khiếp ghê hồn. Thân họ chỉ c̣n da bọc xương, râu tóc họ mọc xồm xoàm rậm rạp đến tận lưng. Họ đối diện với thú rừng hung dữ và những tên cướp của giết người không gớm tay.
Những tên cướp này không có lương tâm, không có một chút t́nh nhân loại. Chúng không cần biết đó chỉ là những vị đạo sĩ vô sản; khi không t́m thấy được một vật ǵ, chúng đánh đập dă man các vị đạo sĩ này không chút nương tay, có khi gần chết.
Tuy nhiên, những khổ sở đau đớn của ngoại cảnh không làm cho các đạo sĩ này nao núng lùi bước; cũng không thể nào so sánh với những chướng ngại nội tâm mà các đạo sĩ cần phải vượt qua để đạt tới giác ngộ giải thoát.
Những lớp sóng ngầm độc hại của nội tâm như sân hận, chấp thủ, tham luyến.. sẵn sàng trổi dạy và trào dâng úp chụp lấy họ không biết lúc nào. Họ phải vượt qua tất cả và ngay cả khi chiến thắng chúng th́ các vị đạo sĩ này cũng phải dẹp tan sự phấn chấn hứng khởi đó th́ mới có thể gọi là Vô Ngă được.
Cảnh giới giải thoát đó rộng răi thênh thang, vượt qua biên giới nhị nguyên, không Ngă, không Nhân. Đó là cảnh giới thanh b́nh an lạc tối thượng, không có ǵ so sánh được. Đó là trạng thái tinh thần sung măn cao nhứt mà con người có thể chứng được nếu muốn.
Tôi đă đọc, đă nghe; nhưng hôm nay, tại Pomaia Ư đại Lợi, tôi đă gặp, đă chứng kiến một con người thực sự chứ không phải trong huyền thoại truyền thuyết; một con người bằng xương bằng thịt đang ngồi trước mặt tôi và hơn thế nữa, đó không phải là một đạo sĩ người Á Đông, mà là một phụ nữ Tây Phương tân tiến thời đại. Một phụ nữ Tây Phương thời đại !
Đầu óc tôi quay ṃng ṃng với hàng trăm câu hỏi. Cái ǵ đă xui khiến người phụ nữ Anh này rời bỏ được những tiện nghi văn minh vật chất để rút vào độc cư thiền định nơi núi thẳm rừng sâu như vậy?
Làm sao cô có thể sống sót qua những cơn gió lộng băo tuyết kinh hồn? Cô ăn ǵ, tắm làm sao, ngủ thế nào, và không có cả điện thoại nữa? (đời sống người Tây Phương gắn liền với máy điện thoại; không có nó, họ cảm thấy thiếu thốn, có thể chết đi được).
Làm sao cô có thể tồn tại khi không có một chút hơi ấm của t́nh người, của một người bạn đồng hành qua nhiều năm như vậy? Cô đă chứng đạt được ǵ? Và, ṭ ṃ hơn nữa, làm sao cô có thể chịu đựng nổi sự cô đơn và im lặng tuyệt đối giữa cảnh núi tuyết lạnh lùng hoang vắng, khi chính cô xuất thân từ một hoàn cảnh tương đối tốt đẹp?
Nhưng tất cả sự ṭ ṃ nóng nảy đó của tôi đă vội nhường bước cho ḷng kính trọng pha lẫn sự ngạc nhiên đối với một người phụ nữ đă can đảm kiên tŕ phiêu lưu đến một nơi chốn mà tôi chưa hề biết và cũng không thể tưởng tượng ra được.
Sự khao khát t́m cầu chân lư của cô, hoàn toàn khác tôi, đă đẩy cô vượt qua những khóa tu tập b́nh thường để dấn thân vào một cuộc chiến đầy cam go và thử thách, cốt làm sao vượt qua khỏi sanh tử luân hồi.
"Nhập Thất", theo kiến thức nông cạn của tôi, là một việc làm lâu dài đ̣i hỏi tánh bền bỉ chịu đựng ngày này qua ngày khác; những thời khóa tu tập, tụng kinh, ngồi thiền, niệm chú... cứ lập đi lập lại dài vô tận; hay đối phó với những khủng hoảng dao động tâm lư chợt đến, chợt đi, khuấy phá nội tâm hành giả và hành giả phải kiên tŕ, tin tưởng, can đảm đi đến cuối con đường ḿnh đă chọn.
Ngày hôm sau, tôi lại gặp cô ta ở ngoài vườn, và chỉ ngồi một ḿnh. Thấy có cơ hội, tôi tiến lại gần. Không biết cô có chịu tiếp chuyện với tôi không? Nhưng nụ cười rộng mở, nét mặt khả ái của cô, và đôi mắt xanh trong sáng đă thúc giục tôi tiến bước.
Từ người cô tỏa ra một sự b́nh an, hoan hỷ, tự tại, và thản nhiên; nhưng tính chất nổi bật nhất của cô là sự tinh khiết trong sáng hoàn toàn không chút vẩn đục của thân tâm.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 334 of 1146: Đă gửi: 21 June 2010 lúc 11:25pm | Đă lưu IP
|
|
|
TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN
NƠI KHÔNG THÍCH HỢP
CHƯƠNG HAI
Tenzin Palmo sinh ra tại căn nhà truyền thống lịch sử Woolmers Park ở Hertfordshire. Đúng ra đó là một thư viện nổi tiếng. Không phải v́ Tenzin thuộc ḍng dơi qúy tộc nên cô được sanh ra ở đó; mà bởi v́ đúng vào ngày sanh của cô 30 tháng 6 năm 1943, nhà độc tài Đức quốc xă Hitler Luftwaffe đă tấn công Luân Đôn trong trận Đệ Nhị Thế Chiến. Những bệnh viện đều trở thành hầm trú ẩn, cứu thương, và tạm cư.
Khi mới sanh ra, Tenzin trông rất xấu xí, không có tóc, không có lông mi, và cả móng tay nữa; nhưng người mẹ vẫn cưng yêu đứa bé gái và âu yếm đặt tên con là Diane.
Tenzin lớn lên trong cửa tiệm bán cá của gia đ́nh số 72 đường Old Bethnal Green Road, khu London East End. Ngày nay, khu phố này không c̣n nữa; nhưng vào thập niên 40, khu phố này rất đông đúc, chật hẹp, và ám khói.
Tenzin kể lại: "Từ bé, tôi đă có cảm giác rất mạnh mẽ là nơi này không thích hợp với tôi. Ngay bây giờ, tôi vẫn có các cảm giác là Anh Quốc không phải là đất sống của tôi."
Cha của Tenzin, ông George Perry, là chủ của cửa hàng bán cá. Ông là một người nhỏ con, và lớn hơn vợ ông đến 20 tuổi; v́ thế, ông rất cưng ch́u vợ con. Ông hay lui tới những trường đua ngựa, nuôi chó, và các nhà hát kịch.
Năm Đại Thế Chiến thứ I, ông gia nhập quân đội, và khi tàn chiến tranh, ông trở về với căn bịnh viêm phế quản nặng. Làm việc trong cửa hàng bán cá vừa ướt vừa lạnh, căn bệnh quái ác đó đă tàn phá cơ thể ông và ông đă chết lúc 57 tuổi khi Tenzin chỉ mới lên 2.
Tenzin kể lại rằng:
- "Thật đau buồn v́ tôi không biết ǵ về cha tôi; nhưng tôi nghe nói lại rằng ông là một người rất tử tế và dễ thương. Tôi nhớ là người ta nói rằng mẹ tôi trẻ hơn cha tôi đến 20 tuổi, và bà thường đi khiêu vũ với các bạn nhẩy của bà. Cha tôi luôn khuyến khích mẹ tôi vui hưởng tuổi xuân của bà.
Ông thường dọn đồ ăn sẵn để dành cho bà mỗi lần bà đi chơi khuya về. Tôi biết là cha tôi rất muốn có đứa con gái v́ ông đă có hai đứa con trai với người vợ trước. Nhưng đối với tôi, ông chỉ c̣n trong tấm ảnh mà thôi."
Khi cha của Tenzin mất, mẹ của Tenzin, bà Lee Perry, một người nội trợ, phải vất vả lắm mới nuôi nổi hai con, Tenzin và anh trai của cô, Mervyn lớn hơn cô 6 tuổi. Mẹ của Tenzin là một phụ nữ vui tánh, lạc quan, phóng khoáng, và giúp đỡ Tenzin trong mọi hoàn cảnh suốt cả cuộc đời bà. Họ rất thương yêu và gần gũi nhau.
- "Mẹ tôi thật đáng yêu. Tôi vô cùng tôn trọng bà."
Tenzin nói."Mẹ tôi đă làm việc rất vất vả và luôn luôn để ư đến ư kiến hay tư tưởng mới lạ. Bà là người có đầu óc tân tiến, cởi mở. Khi bà gặp cha tôi, ông đă sống ly thân nhưng chưa ly dị. Mẹ tôi không cho điều đó là quan trọng và đă sống với cha tôi và có 2 con với ông.
Thời bấy giờ, việc một ngườI phụ nữ lấy một người đàn ông chưa ly dị vợ là một sự kiện khó chấp nhận. Nhưng đến khi cha tôi ly dị người vợ trước rồi, mẹ tôi cũng không công khai kết hôn với ông; v́ bà thích tự do và độc lập của riêng ḿnh."
Gia đ́nh Tenzin không sung túc cho lắm; v́ sau khi cha cô qua đời, mẹ cô không biết quản lư cửa hàng cá nên bị người anh họ gạt sạch tiền. Nợ nần ngập lụt đầu, mẹ Tenzin phải làm việc cật lực ngày đêm mới xoay sở nổi qua ngày và trả nợ. Mặc dù mất cha và sống thiếu thốn như vậy, anh em Tenzin vẫn vui vẻ an ổn trong t́nh thương của mẹ và tuổi thơ anh em họ êm đềm trôi qua.
Cô học rất giỏi, nhất là về môn Anh văn, Lịch sử, và những môn trắc nghiệm tâm lư hay trí thông minh; nhưng cô kể lại rằng cô vẫn không thích thú các môn học này bởi v́ cô biết chúng không ích lợi ǵ cho mục đích cô đă chọn.
Mẹ của Tenzin, bà Lee Perry, là một người sùng đạo và rất tin về thuyết linh hồn có thực sau khi chết.
Hàng tuần vào tối thứ tư, lúc 8 giờ, những người hàng xóm thưỡng tụ tập tại nhà của Tenzin để cầu cơ gọi hồn.
Cô kể lại:
- "Chúng tôi thường ngồi quanh một cái bàn tṛn bằng gỗ rất nặng, và người ngồi ở giữa sẽ là người cầm cơ để chuyển đạt lại những ǵ người chết nói. Tôi nhớ có một đêm nọ, mẹ tôi đùa nói là những người chết không có sức mạnh đâu và họ đánh cá với nhau xem ai thắng.
Họ mời bà chủ tiệm tạp hóa rất nặng kư ngồi lên bàn và họ yêu cầu người chết nhấc bàn lên. Thật dễ sợ, cái bàn gỗ nặng nề và người phụ nữ mập mạp đó như được bàn tay vô h́nh nào đó nhấc bổng lên một cách nhẹ nhàng và từ từ di động xung quanh căn pḥng."
Từ những buổi cầu cơ đó, mẹ con chúng tôi thường nói chuyện với nhau về thế giới vô h́nh bên kia. Có nhiều người sợ không dám nói, thậm chí không dám nghĩ đến cái "Chết"; nhưng đối với chúng tôi, "Chết" là một cái ǵ tự nhiên và tất yếu sẽ xảy đến cho mọi người.
Dù lớn lên trong một môi trường ồn ào, náo nhiệt của dân cư vùng đông Luân Đôn với bản tánh dí dỏm, khôi hài của họ; và dù ngay cả khu East End là một thị trấn đáng yêu, dễ sống, Tenzin Palmo, ngay từ hồi c̣n bé, đă là một cô bé thích sống yên tĩnh và đầy nội tâm. Tenzin cũng có bạn nhưng không hề dẫn bạn về nhà chơi.
Cô nói: "Tôi không bao giờ quan tâm về chuyện bạn bè cả. Tôi biết có một cái ǵ khác mà tôi cần phải làm hơn. Tôi chỉ thích ngồi yên lặng và đọc sách. Tôi nhớ là các thầy giáo của tôi thường cho tôi mượn sách. Các bạn tôi th́ không bao giờ được như vậy."
Tenzin rất chú tâm đến những ǵ liên quan đến phương Đông, mặc dầu lúc bấy giờ, đối với người dân Anh và gia đ́nh Tenzin, Đông Phương là một cái ǵ hoàn toàn xa lạ.
- "Tôi đă bỏ nhiều th́ giờ một ḿnh ngồi vẽ các cô gái Nhật Bản duyên dáng xinh tươi trong tà áo kimono. Tôi c̣n nhớ từng chi tiết nhỏ nhặt tôi đă vẽ họ. Khi người Trung Hoa đầu tiên đến khu vực West End mở tiệm ăn, tôi đă năn nỉ mẹ tôi dẫn tôi đến đó để xem mặt mũi người phương Đông thế nào."
Và cô nói rằng: "Nhất là đối với giới nữ tu và tông phái Thiền, tôi cảm thấy có một cái ǵ hấp dẫn, lôi cuốn tôi không thể giải thích được.
"Tôi rất thích các ḍng tu kín. Nếp sống khổ hạnh, giản dị, những buổi cầu nguyện không dứt, và lời thề dâng trọn đời cho hạnh phúc mọi người, thực sự làm tôi rung động và ngưỡng mộ. Có lần một người bán hàng thực phẩm đă hỏi tôi sau cùng muốn làm ǵ, tôi trả lời không do dự "Làm nữ tu". Bà ta phá lên cười và nói rằng tôi sẽ đổi ư khi tôi lớn lên. Tôi nghĩ thầm "Bà lầm rồi"; nhưng lúc đó, tôi không hiểu là tôi muốn trở thành nữ tu tôn giáo nào."
C̣n vài sự kiện khác thường nữa như Tenzin Palmo luôn luôn nghĩ là ḿnh đă sanh lầm làm con gái. "Người lớn nói với tôi rằng thân thể con người sẽ thay đổi khi họ trưởng thành, và tôi rất thích thú khi suy tưởng tôi sẽ thành con trai khi tôi lớn lên."
Ngay từ tấm bé, Tenzin là một đứa trẻ yếu đuối, ốm đau luôn. Cô sanh ra đă bị dị dạng; xương sống bị vặn vẹo về phía trái và do đó, cả cơ thể lệch hẳn đi, không ngay thẳng. Năm cô độ vài tháng tuổi, cô bị viêm màng năo, nằm bịnh viện chữa khỏi độ ít lâu, sau lại bị đau lại. Cứ vài tháng, cô lại vào nhà thương chữa trị; một tuần độ 3, 4 lần đi điều trị dược liệu pháp.
Tenzin ốm yếu bịnh hoạn luôn đến nỗi nhà trường tài trợ cho cô bé được đi dưỡng bịnh ở một vùng ven biển để dưỡng sức.
- "Không một ai có thể t́m ra nguyên do xác đáng, nhưng cứ một năm độ 2, 3 lần, tôi lại bị những cơn sốt cao độ quật ngă và chứng bịnh đau đầu kinh khủng lại hành hạ tôi kịch liệt. Sau này, khi lớn lên, tôi tự biết đó là quả báo của những kiếp trước của tôi, bởi v́ những căn bịnh đó từ từ biến mất theo thời gian và nhất là tôi không hề bị bịnh nặng lúc tôi ở trong động tuyết."
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 335 of 1146: Đă gửi: 21 June 2010 lúc 11:26pm | Đă lưu IP
|
|
|
TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN
BUỔI B̀NH MINH
CHƯƠNG BA
Tenzin kể:
- "Khi tôi t́m hiểu về Ấn Độ giáo, tôi nhận thấy đạo giáo nầy chủ trương về "Thần Ngă" (Atman) nhiều quá. Phật giáo, trái lạí chủ trương "Vô Ngă". Đối với tôi, danh từ Vô Ngă đó hàm chứa một sự tự do tuyệt đối vô cùng. Cuối cùng, tôi đă t́m được cho tôi một tôn giáo, một con đường tâm linh tuyệt vời để đi theo."
Quyển sách "The Mind Unshaken" đă thay đổi đời tôi hoàn toàn. Tôi nhớ lại ba ngày sau khi đọc xong quyển sách; vừa đi đến sở làm, tôi vừa suy nghĩ "Tôi đă là Phật tử được bao lâu rồi. Ba ngày thôi sao? Không, tôi đă là Phật tử từ vô lượng kiếp rồi vậy.
"Một khi đă thấy con đường ḿnh phải đi, Tenzin Palmo không bỏ lỡ cơ hội để đi đến đích. Cô nói "Khi bạn muốn làm ǵ, bạn phải làm ngay, đừng phí phạm th́ giờ." Đó là tiêu chuẩn sống của Tenzin.
Nhưng đó không phải là chuyện dễ dàng thực hiện ở Anh quốc, nhất là vào thập niên 60. Ngày nay, Phật giáo đă lan rộng khắp năm châu; hàng trăm thiền viện mọc lên như nấm và tài liệu nhan nhăn khắp nơi; người ta t́m hiểu Phật giáo dễ dàng - nhưng vào những năm 60, th́ quả là một việc rất khó khăn.
- "Tôi luôn luôn nhớ trong ḷng là Đạo Phật dạy con người phải nên diệt dục nghĩa là diệt trừ bớt những ham muốn thô thiển, thấp hèn v́ thế, tôi đă dẹp bỏ hết quần áo và chỉ mặc một loại áo dài mầu vàng, một chiếc thắt lưng và mang vớ đen. Tôi không trang điểm, và không hẹn ḥ với đám thanh niên nữa. Tôi cố gắng hết sức để diệt trừ những ham muốn b́nh thường của một con người."
Ít lâu sau, Tenzin khám phá được một hiệp hội Phật giáo ở Eccleston Square, do ngài Chánh Án Christmas Humphreys sáng lập vào năm 1924.
Humphreys là người đầu tiên giới thiệu tư tưởng triết lư phương Đông đến người Tây Phương. Ông đă làm quen, và học hỏi với những triết gia nổi tiếng thời đại như Carl Jung, học giả thiền sư Suzuki và các hoàng thân Thái Lan; ông cũng là một trong những người ngoại quốc đầu tiên đến tham vấn Đức Đạt Lai Lạt Ma khi Ngài vừa lưu vong ra khỏi Tây Tạng. Nhưng, mặc dù Hiệp Hội Phật giáo này đă thành lập lâu năm, nó cũng vẫn chỉ là một căn nhà nhỏ với số thành viên rất hạn chế.
"Khi bước vào căn pḥng chính của Hiệp Hội này, tôi rất ngạc nhiên v́ không có ai mặc áo dài màu vàng cả. Có lẽ tôi đă sai lầm khi vứt bỏ hết quần áo của tôi."
"Tôi nói chuyện với mẹ tôi và bà lặng lẽ đưa ch́a khóa tủ quần áo cho tôi. Bà không vứt đi một cái nào hết. Bà cũng chẳng hỏi tại sao, bà chỉ thản nhiên chờ đợi. Mẹ tôi rất nhạy bén và hiểu tôi rất nhiều."
- Eccleston Square, Tenzin Palmo đắm ḿnh vào kho tàng giáo lư Nguyên Thủy Phật giáo. Tông phái nầy đang phát triển tại Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Việt Nam, và Cam Bốt. Cô học Tứ Diệu Đế và thấu suốt được nguyên nhân đau khổ của con người và phương pháp diệt trừ đau khổ.
Cô t́m hiểu Bát Chánh Đạo và Thiền học. Cô cũng tập tŕ niệm 6 chữ "Án Ma Ni Bát Di Hồng", mặc dù cô chẳng hiểu thần chú ấy có ư nghĩa ǵ, nhưng với ḷng nhiệt thành và niềm tin sắt đá, Tenzin nói là đă cảm thấy có hiệu lực kết quả khi cô luôn thầm niệm "Án Ma Ni Bát Di Hồng."
Tuy nhiên, giáo lư Nguyên Thủy Phật giáo vẫn chưa thỏa măn được Tenzin. Cô vẫn thấy có một cái ǵ thiêu thiếu như một lỗ hổng trong giáo lư Nguyên Thủy với sự tu chứng của các vị A La Hán.
"Tôi rất ngưỡng mộ sùng kính Đức Phật; những ǵ Ngài dạy đều hoàn toàn minh bạch và tùy duyên, căn cơ của chúng sanh. Đối với tôi, quả vị A La Hán không phải là con đường tôi muốn theo. Với tŕnh độ hiểu biết của tôi lúc đó, tôi chỉ nhận thấy giáo lư Nguyên Thủy không thích hợp với tôi."
Vài tháng sau, t́nh cờ cô đọc được một quyển sách của ngài Long Thọ, vị hiền thánh và triết nhân Phật giáo nổi tiếng ở thê kỷ thứ 2. Trong sách, Ngài Long Thọ luận giải về quả vị Bồ Tát. Lư tưởng hành "Bồ Tát Đạo" cứu giúp chúng sinh đă hấp dẫn Tenzin Palmo và cô nhận thức ngay rằng đây mới chính là con đường cô muốn đi.
Đại thừa Phật giáo và lư tưởng Bồ Tát do ngài Long Thọ khai phá và luận giải, đă phát triển nhanh chóng, thu hút nhiều tín đồ; nhất là ở Tây Tạng. Nhưng Phật giáo Tây Tạng vào những năm 60 th́ hầu như không có ai biết đến và cũng khác hẳn những ǵ người ta biết về Phật giáo.
Những huyền thoại hay chuyện hoang đường bao phủ xứ Tây Tạng và được thêu dệt thêm lên do những tay du hành t́m cách len lỏi vào vùng "Đất Cấm" này.
Những câu chuyện đầy thần bí đó càng lúc càng hấp dần người nghe hơn, "những vị Lạt Ma có thể bay trên hư không, tùy ư biến hóa đồ vật hay hóa thân ra đủ mọi loài, hoặc vượt qua những khoảng cách, chướng ngại một cách tự tại."
Họ kể lại rằng " Tây Tạng, người ta thờ rất nhiều vị thần; có những ngẫu tượng có nhiều tay nhiều chân, răng nanh và mắt lồi ra thật hung dữ." Tuy nhiên, theo đa số các học giả trong hội London Buddhist Society, th́ Phật giáo Tây Tạng là một cái ǵ huyền bí và không có sự truyền thừa; khác với truyền thống chính phái Thiền và Nguyên Thủy Phật giáo. Lúc đó, không một ai nghĩ rằng Phật giáo Tây Tạng có thể phát triển mạnh được.
Điểm này, Tenzin Palmo, một thành viên mới của hội, lại nghĩ khác và thiên về Phật giáo Tây Tạng nhiều hơn. Cô bắt đầu t́m hiểu kỹ thêm về Phật giáo Tây Tạng và một hôm, t́nh cờ cô đọc một quyển sách nói về 4 trường phái cổ của Phật giáo Tây Tạng :
1) phái Nyingmapa: thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên là trường phái cổ về Mật Tông bí thuật.
2) phái Sakya thế kỷ thứ 11 trước Công Nguyên là phái pha lẫn cả hai ḍng mới và cổ về Mật Tông
3) phái Geluppa vào thế kỷ thứ 14 trước Công Nguyên là trường phái triết học.
4) phái Kargyupa vào khoảng thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên là phái ẩn sĩ ở núi cao hang thẳm.
"Khi tôi đọc đến chữ "Kargyupa", h́nh như có một giọng nói vô h́nh nói với tôi rằng "Con là Kargyu". Tôi hỏi "Kargyu là ǵ?" "Điều đó không quan trọng" "Con chỉ biết đích thực con là Kargyupa." Tim tôi cơ hồ như ngưng đập trong giây lát. Trở thành một tín đồ Phật giáo Tây Tạng là ước muốn cuối cùng của tôi."
Theo sự chỉ dẫn của Tiếng Nói Nội Tâm vô h́nh, Tenzin Palmo t́m gặp một người duy nhất ở Luân Đôn mà cô biết là ông ta rất am tường về Phật giáo Tây Tạng. Ông ta đưa cho cô ta đọc một quyển sách viết về Milarepa, một vị cao tăng ẩn sĩ của Tây Tạng. Ngài là một bậc thi nhân hiền triết nổi tiếng đồng thời cũng là người sáng lập ra tông phái Kargyupa.
Milarepa là một hiện tượng phi phàm, là một biểu tượng về trí tuệ xuất chúng ở thế kỷ thứ 11.
Khi c̣n trẻ, Milarepa đă tu luyện tà thuật và đă giết một số người. Sau khi nhận rơ sự sai lầm của ḿnh, Milarepa đi t́m một vị đạo sư và tỏ ư cầu đạo.
Trải qua những cuộc thử thách kịch liệt, có lần suưt mất mạng, Milarepa được Thầy thâu nhận và truyền dạy bí mật chân truyền.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 336 of 1146: Đă gửi: 21 June 2010 lúc 11:29pm | Đă lưu IP
|
|
|
TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN
BƯỚC ĐẦU TIÊN
Chương Bốn
Tenzin không khóc khi chuyến xe lửa lăn bánh, bỏ lại sau lưng mẹ cô, quê hương cô, và cũng không biết bao giờ cô mới trở lại; c̣n hai người bạn gái của cô là Ruth Tarling và Christine Morris th́ lệ rơi đầm đ́a. Cả ba cô gái đều trực chỉ tới tu viện của bà Freda Bedi.
- "Tôi cũng không hiểu tại sao tôi không cảm thấy buồn ǵ khi xa gia đ́nh, xa đất nước tôi như vậy. Tôi chỉ cảm thấy vô cùng sung sướng. Đây là giây phút tôi đă mong đợi từ bao năm qua."
Con tàu "Le Vietnam" là con tàu cũ từ thời Pháp thuộc. Thủy thủ đoàn gồm có người xứ Ethiopie, Việt Nam, Sudan, và Algérie. V́ là tàu cũ nên giá vé đi Ấn Độ rất rẻ. Trên tàu chẳng có quầy rượu hay hồ bơi ǵ cả; chỉ có một dúm hành khách mà thôi.
Chuyến đi mất hai tuần, dừng lại Barcelona, Port Said Aden, và Bombay trước khi dong buồm thẳng về hướng đông. Trên tàu, Tenzin quen với một thanh niên người Nhật. Chàng thanh niên này vừa thấy Tenzin đă choáng váng và yêu ngay người thiếu nữ duyên dáng, xinh đẹp này; và Tenzin cũng có cảm t́nh với anh chàng Phật tử người Á Đông nầy.
Một đêm đẹp trời, Tenzin đang ngồi hóng mát trên boong th́ anh ta tiến đến gần và ngỏ lời cầu hôn cô.
Tenzin cười phá lên và cho anh ta đùa cợt. Nhưng không, anh ta có vẻ đứng đắn thật sự.
- "Tôi không hề nghĩ tới chuyện bất ngờ đó cả. Nhưng tôi cảm thấy hơi phân vân nghĩ ngợi. Thực ra anh ta rất đẹp trai và nồng hậu vô cùng. Các bạn tôi đều nói, nếu tôi không lấy anh ta th́ có lẽ không bao giờ tôi kiếm được một người chồng tử tế đáng yêu như vậy.
Tuy nhiên, tôi đă cân nhắc thật kỹ trước khi quyết định. Đức Phật đă dạy "Đời là bể khổ", một ngày nào đó, anh ta sẽ chán tôi, và cuộc sống gia đ́nh thực tế cũng chẳng có ǵ hay ho thơ mộng cả. Tôi sẽ là một ni cô. Cuộc đời xuất gia mới đúng là cuộc đời của tôi."
Tenzin ước hẹn với chàng thanh niên Nhật Bản là Tenzin sẽ ở lại Ấn Độ một năm thử thách, và nếu cô không tu được, cô sẽ đi Nhật để gặp anh ta. Tenzin và hai người bạn gái đến Dalhousie, Bắc Ấn vào tháng 3.
- "Khi tôi đến Dalhousie, tôi gặp cả ngàn vị tăng sĩ Tây Tạng đang ở đó; và tuyết , tuyết rơi trắng xóa phủ khắp nơi, nổi bật trong nền trời xanh lơ. Tuyệt vời quá ! Đẹp quá !
Cô kể tiếp tục :
- "Chúng tôi thấy bà Bedi đang nấu ăn trong bếp. Bedi là một phụ nữ to lớn, đẫy đà, với đôi mắt xanh to, mũi cao thẳng, và tóc đă hoa râm. Trông bà độ khỏang 50 tuổi. Trong chiếc áo cổ truyền Tây Tạng mầu đỏ xậm, bà Bedi trông c̣n to lớn kinh khủng hơn; nhưng bà ấy rất cởi mở và thân thiện."
Cuộc đời bà Bedi kể ra cũng rất lư thú. Bà thuộc ḍng dơi quư tộc Anh quốc; và cuộc t́nh giữa bà và người sinh viên gốc Ấn tại đại học Oxford (sau này là chồng bà) đă chấn động cả thành phố bà đang ở với gia đ́nh. Bà quyết định lấy người bà yêu và chống lại thành kiến phân biệt giai cấp và chủng tộc của chế độ phong kiến Anh quốc. Bà và người chồng rời khỏi xứ Anh, nơi đă đem lại cho bà nhiều đau khổ hơn là sung sướng.
Năm 1959, khi dân Tây Tạng lưu vong theo chân Đức Đạt Lai Lạt Ma chạy trốn qua Ấn, bà Bedi xin xuất gia và được Ngài cho pháp danh là Khechock Palmo. Bà đă giúp đỡ người Tây Tạng thật nhiều và ngay cả Trungpa cũng đă theo học Anh văn cơ bản tại học viện do bà sáng lập.
Tuy nhiên, bà Bedi không biết nắm lấy thời cơ; khi thị trường đất đai tại Ấn sụt giá, bà lại đi mua những thứ không cần thiết v́ thế, khi giá cả thay đổi, bà Bedi đă mất sạch tiền. Nhưng dù sao đi nữa, Bedi vẫn là người cống hiến rất nhiều cho Phật giáo Tây Tạng trong những năm đầu lưu vong tại Ấn.
Dalhousie là vùng đồi núi đẹp phủ đầy thông xanh. Hàng ngàn con khỉ đủ loại đang chen chúc nhau ở tại đó. Khi Tenzin đến Dalhousie, cô thấy vẫn c̣n những ngôi nhà thờ Chính Thống giáo Anh quốc, vài trụ sở, và những căn nhà cổ kiểu Anh với trần nhà cao, hành lang rộng và vườn hoa đầy hoa hồng, hoa thược dược.
Khi ta leo lên tới độ cao 7.000 bộ, Dalhousie không những cống hiến cho ta một cảm giác sảng khoái lâng lâng tuyệt đỉnh của tâm hồn, mà c̣n phơi bày trước mắt ta một phong cảnh thần tiên diễm lệ tuyệt vời của những cánh đồng xanh mướt chân trời xứ Ấn và dăy Hy Mă Lạp Sơn hoành tráng sừng sững như một vị thần linh đầy uy quyền đang dang tay che chở toàn dân Tây Tạng. Đứng trước quang cảnh hùng vĩ đó, Tenzin cảm thấy con người thật nhỏ bé, quá yếu đuối trước thiên nhiên.
Qua bà Bedi, Tenzin biết rằng Dalhousie là trạm dừng chân đầu tiên của 5.000 dân lưu vong Tây Tạng. Sau đó họ di chuyển xuống vùng Dharamsala, đi Nam Ấn và vài vùng định cư khác; nhưng năm 1963, khi dân số lưu vong Tây Tạng đă lớn rộng, các vị Lạt Ma cao cấp đă quyết định dựng tu viện như các tu viện lớn Sera và Drepung tại Tây Tạng, và họ cố gắng tái tạo và ǵn giữ những di tích cổ truyền hay phong tục Tây Tạng tại xứ người.
Tenzin nhớ lại :
- "Dalhousie là nơi tu học lư tưởng, tuyệt vời, không có xe hơi và bụi bặm dơ bẩn. Không khí trong lành, mát mẻ. Sáng và chiều, mọi người đều ra đồng làm việc, các vị Lạt Ma tụng đọc kinh điển. Ai nấy đều vui vẻ tự do, ca hát sảng khoái."
Là một phụ nữ Tây Phương đầu tiên trong số rất ít người ngoại quốc đến Dalhousie, Tenzin được sự lưu ư đặc biệt của dân Tây Tạng cũng như các vị Lạt Ma.
Lần đầu tiên được gọi đến chào hỏi ngài Karmapa, vị Lạt Ma cao cấp nhất của tông phái Kargyu, Tenzin thấy run sợ trước vẻ nghiêm khắc của Ngài. Ngài Karmapa được tôn sùng không kém Đức Đạt Lai lạt Ma
Ba tháng sau ngày Tenzin đến Dalhousie, cô được diện kiến Đức Đạt Lai Lạt Ma, "Phật Sống" của dân Tây Tạng. Tenzin mặc quốc phục của người nữ Tây Tạng để vào đảnh lễ Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Vừa thấy cô, Ngài nói :
- "Ồ, trông cô giống như người ở vùng Lhasa. Thế nào, ni cô, sự tu tập của cô có tiến bộ chút nào không?"
Câu hỏi của Đức Đạt Lai Lạt Ma làm Tenzin sửng sốt.
- "Tôi không hiểu sao Ngài lại gọi tôi là "Ani-la" (ni cô) giống như cách của hai vị tu sĩ gặp nhau và chào hỏi nhau. Không lẽ Đức Đạt Lai Lạt Ma thấy được quá khứ và tương lai của tôi?"
Tenzin nh́n Đức Đạt Lai Lạt Ma và tự nhiên cô buột miệng nói :"Không, tôi không phải đến từ Lhasa. Tôi là Khampa, người xứ Kham." (Khampa là một sắc dân thuộc miền Đông Tây Tạng)
- "Cô có những kế hoạch, phương án như thế nào?" Đức Đạt Lai Lạt Ma hỏi tiếp.
- "Những chương tŕnh dự án, dù vĩ đại đến đâu, cũng đều tan thành tro bụi. Ngài biết rơ như vậy."
Tenzin bướng bỉnh trả lời.
Cô biết là Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ hỏi đố vậy thôi.
Vạn vật đều vô thường. Cô không có một chương tŕnh dự án ǵ cả; ngoài sự nỗ lực đi t́m chân lư. Một tuần lễ sau, Tenzin gặp được người quan trọng nhất đời cô, người mà cô đă bỏ xứ sở để qua Ấn Độ t́m kiếm.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 337 of 1146: Đă gửi: 21 June 2010 lúc 11:31pm | Đă lưu IP
|
|
|
TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN
VỊ ĐẠO SƯ
Chương Năm
Khamtrul Rinpoche là một vị Lạt Ma hóa thân đời thứ 8.
Ngài đă đến Ấn Độ sau những ngày vượt biên giới đầy gian nan khổ sở.
Một đêm, Ngài đă rời bỏ tu viện của Ngài ở Kham, miền Đông Tây Tạng, cải trang thành một người lái buôn cùng một số ít đệ tử và tùy tùng, vượt biên giới Tây Tạng để trốn khỏi sự áp bức của Cộng Sản Trung Quốc.
Khampagar là một tu viện đồ sộ nguy nga như một ṭa lâu đài với những bức tường màu vàng và mái nhà dát vàng thật lấp lánh chiếu dưới ánh mặt trời xứ Tây Tạng.
Khampagar là thế giới của ngài Khamtrul Rinpoche gần suốt 30 năm. Nếu chúng ta đi ngược ḍng thời gian 450 năm trước, từ năm 1548, suốt 8 đời hóa thân trước của đức Khamtrul Rinpoche, th́ có thể nói, Khampagar là mái ấm, là hơi thở, là sự sống của Khamtrul Rinpoche.
Khi ngài Khamtrul Rinpoche ra đời khoảng vào năm 1930, tu viện Khampagar đă là một trung tâm Phật học sầm uất và ảnh hưởng rộng lớn trên 200 tu viện lớn nhỏ khác, đă đào tạo hàng trăm ngàn tăng sĩ, và cả một ḍng truyền thừa những vị đạo sư nổi tiếng khắp Tây Tạng. Ngoài ra Khampagar c̣n là trung tâm nghệ thuật nổi tiếng Tây Tạng và vũ thuật cổ truyền của các vị Lạt Ma. Khi Cộng Sản Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng, họ đă phá hủy biết bao chùa chiền, tu viện, và các di tích lịch sử của xứ này cùng giam cầm tra tấn hàng ngàn vị sư và dân chúng.
Ngài Khamtrul Rinpoche bắt buộc phải rời bỏ tu viện dấu yêu và gạt nước mắt ra đi lưu vong qua Ấn Độ. Chuyến vượt biên của Khamtrul Rinpoche và đoàn tùy tùng thật vô cùng gian nan và nguy hiểm. Họ phải vượt qua những ḍng sông đóng băng hay những con thác khổng lồ sẵn sàng cuốn phăng người ta trôi về biển cả.
Nghe nói lại là, Ngài Khamtrul Rinpoche phải chú nguyện thần linh cầu xin giúp đỡ và tung cát vào những ngọn sóng nước kinh khủng đó mới trấn áp nổi tốc độ của sóng. Và huyền diệu thay, không có một ai bị chết và chút đỉnh đồ đạc đem theo cũng không bị mất. Sau trận hăi hùng đó, đoàn người của Khamtrul Rinpoche c̣n kinh hồn bạt vía v́ chạm trán phải đoàn công-voa của lính Trung Quốc đang vận tải vũ khí trên đường.
Nhưng một lần nữa, như có chư thiên hộ vệ, lại không có một ai bị bắt gặp. Sau cùng và có lẽ cũng là chướng ngại gian nan nhất là vượt qua dăy Hy Mă Lạp Sơn, dăy núi cao nhất thế giới. Khamtrul Rinpoche, với niềm tin sắt đá và nghị lực kiên cường, cuối cùng đă hướng dẫn đoàn người đến được Ấn Độ an toàn. Trong vài năm đầu, Khamtrul Rinpoche đi đi về về Dalhousie, quy tụ lại những tăng sĩ từ từ trốn khỏi Tây Tạng và tái lập lại tu viện theo đường lối của tu viện Khampagar ở Tây Tạng.
Ngày 30 tháng 6 năm 1964, Khamtrul Rinpoche đến học viện "Young Lama" viếng thăm Freda Bedi. Trong thời gian ở Dalhousie, Tenzin Palmo tạm làm thư kư cho trường học và nhiệm vụ của cô là kiểm soát đơn từ, thư tín các nơi gửi đến.
Một lần, cô thấy có một bức thơ đề tên Khamtrul Rinpoche. Cô không biết Khamtrul Rinpoche là ai, nhưng khi cô đọc tên Khamtrul Rinpoche đến lần thứ hai, th́ cô cảm thấy có một cái ǵ đó như là niềm tin dâng lên trong ḷng cô. Cô hỏi bà Bedi, và sau khi nghe xong câu chuyện về ngài Khamtrul, cô mong mỏi được gặp ngài:
- "Càng nghe về Lạt Ma Khamtrul, tôi càng nao nức được gặp Ngài. Tôi cảm thấy đó là một vị đạo sư mà tôi sẽ quy y và tu học theo."
Khamtrul Rinpoche đến thăm học viện của bà Bedi đúng vào ngày Tenzin Palmo được 21 tuổi, ngày 30 tháng 6 năm 1964. Khi được bà Bedi báo cho biết, Tenzin quưnh quáng chạy vội vào pḥng thay áo Tây Tạng và quàng mảnh vải trắng để dâng cúng Ngài Khamtrul theo nghi thức của Tây Tạng. Khamtrul Rinpoche ngồi trên ghế bành cao, với hai vị Lạt Ma trẻ tuổi, người ta nói hai vị Lạt Ma này là hóa thân của hai vị Bồ Tát.
Tenzin kể lại :
- "Tôi sợ quá nên không dám ngẩng đầu lên xem Khamtrul Rinpoche mập ốm, cao lùn thế nào. Tôi chỉ nh́n gấu áo và đôi giầy nâu của Ngài."
Bà Bedi giới thiệu Tenzin lên ngài Khamtrul và kể sơ về mục đích cô đến đây cốt yếu chỉ t́m một vị đạo sư để dẫn dắt cô tu học. Tự nhiên Tenzin buột miệng nói lớn :"Thưa với Ngài rằng, tôi muốn xuất gia."
- "Ồ, lẽ dĩ nhiên là được." Khamtrul Rinpoche ôn tồn trả lời.
Ngay lúc ấy, Tenzin ngước mắt nh́n lên Khamtrul Rinpoche. Ngài là một người đàn ông cao lớn với khuôn mặt tṛn nhưng rắn rỏi và mái tóc búi cao trên đầu như Đức Phật. Ngài lớn hơn Tenzin độ hơn mươi tuổi. Khi nh́n thấy Khamtrul Rinpoche, Tenzin cảm thấy như gặp lại một h́nh bóng thân thiết đă xa cách bao nhiêu lâu nay.
Ba tuần lễ sau, Khamtrul Rinpoche chủ tŕ buổi lễ xuất gia của Tenzin vào ngày 24 tháng 7 năm 1964. Tenzin gửi tấm h́nh cô cạo đầu, mặc áo nữ tu Tây Tạng cho bà Lee Perry, mẹ cô, và viết :
"Mẹ xem con trông rất khoẻ mạnh và gọn ghẽ hay không? Con rất sung sướng được xuất gia."
- "Tôi biết mẹ tôi không muốn tôi đi tu và sống xa bà ấy; nhưng riêng tôi, tôi cảm thấy giải thoát nhẹ nhàng khi cạo sạch đầu, và mặc chiếc áo tu sĩ này."
Cô được thầy cô, Khamtrul Rinpoche, ban cho pháp danh Drubgyu Tenzin Palmo (có nghĩa là "vị nữ tu sẽ làm rạng danh giáo pháp truyền thừa"). Cô là người nữ Tây Phương thứ nh́ sau Freda Bedi xuất gia theo tông phái Phật giáo Tây Tạng.
Sau này, có rất nhiều phụ nữ từ các nước Âu Châu, Nam Mỹ, Úc đại Lợi, và Tân Tây Lan đă theo Tenzin Palmo xuất gia cầu đạo. T́nh thầy tṛ giữa Khamtrul Rinpoche và Tenzin Palmo thật sâu đậm. Cô luôn luôn được sư phụ tŕu mến gọi "Tenzin, đệ tử của ta !", và cô cảm thấy được che chở bao bọc trong t́nh thương của Sư Phụ.
Khamtrul Rinpoche là một vị đại sư không những nổi tiếng về thần lực mà c̣n về tác phong đạo hạnh. Ngài luôn luôn được mọi người sùng bái kính mến; cả những người theo đạo Hồi và Ấn Độ giáo cũng rất tôn trọng kính sợ Ngài.
Tenzin Palmo đă từ giă quê hương, rời xa gia đ́nh, và ngay cả những đam mê ước vọng của tuổi trẻ để xuất gia t́m đạo; nhưng c̣n một vấn đề uẩn khúc trong tâm mà cô chưa hoàn toàn dứt khoát được. Đó là vấn đề t́nh cảm giữa cô và người thanh niên Nhật Bản.
Không bao lâu sau ngày Tenzin xuất gia, cô nhận được thơ của John Blofeld, một văn sĩ người Anh nổi tiếng, mời cô viếng thăm gia đ́nh ông ta ở Thái Lan. Tenzin nghĩ đó là một đề nghị hấp dẫn. Thái Lan là một quốc gia Phật giáo; hơn nữa John Blofeld và vợ ông ta rất hiếu khách, và tiện nghi nhà ông ta ở Thái Lan th́ quả hết chê vào đâu được. Cô xin phép Khamtrul Rinpoche và được Ngài cho phép đi với lời nhắn nhủ "Con nhớ trở về sớm."
Khi Tenzin Palmo đến Thái Lan th́ một sự t́nh cờ xảy ra quá sự tưởng tượng của cô.Tenzin gặp lại anh chàng si t́nh người Nhật Bản mà cô đă gặp trên chuyến tàu qua Ấn. Cô đă viết thơ nói rơ với anh ta là cô đă xuất gia và lời ước hẹn giữa họ ngày nào coi như chấm dứt, nhưng anh ta nghe các bạn cô nói lại rằng Tenzin sẽ qua Thái Lan nên anh ta t́m cách qua Thái mong Tenzin sẽ hồi tâm chuyển ư nhận lời cầu hôn của anh ta.
Thực sự, Tenzin Palmo cũng do dự xiêu ḷng khi thấy sự thành khẩn của anh ta. Cô mới xuất gia và Khamtrul Rinpoche chỉ mới cho cô thọ có một giới là "Cấm Sát Sanh". Người thanh niên Nhật Bản này thật có sức hấp dẫn cuốn hút, Tenzin thấy bối rối pha lẫn thích thú mê đắm mỗi lần gặp anh ta.
- "Chúng tôi tṛ chuyện thật tâm đầu ư hợp. Anh ta đề nghị tôi đi Hồng Kông và ở đó vài tháng chờ cho tóc mọc ra trở lại; sau đó chúng tôi sẽ làm đám cưới ở Nhật. Bố mẹ anh ta rất giàu có và tân tiến. Nếu tôi bằng kết hôn với anh ta, họ sẽ xếp đặt mọi việc chu đáo và ổn thỏa.
"Tôi nhớ lại những ngày ở Dalhousie. Nếp sống ở đó thật cơ cực.
Ngày đó, những tu viện Tây Tạng chưa được xây dựng hay tái lập lại. Những tăng sĩ đều sống trong những túp lều ngoài đồng trống hay núi. Họ không có cả ṿi nước máy, và có chỗ th́ bùn śnh ngập đến đầu gối, c̣n nhà cửa của bố mẹ anh chàng Nhật Bản th́ thật tiện nghi và sang trọng, hết chỗ nói. Đờisống sẽ đáng yêu hạnh phúc biết chừng nào bên cạnh người yêu và vật chất sung măn !"
Tenzin bị dằng co mâu thuẫn giữa lư trí và con tim. Tiếng gọi tâm linh trong cô vẫn có một mănh lực khiến cô không thể nào quay lưng để chạy theo t́nh yêu được. Cô lo sợ, đau khổ, dằn vặt; và một đêm, trong nước mắt nghẹn ngào, cô chắp tay cầu cứu Sư Phụ hăy giúp cô sáng suốt chọn đúng cho ḿnh một hướng đi nhất định.
Kỳ diệu thay, ngài Khamtrul Rinpoche đă nghe được tiếng kêu cầu cứu của đệ tử ḿnh. Tenzin thấy như có một luồng ánh sáng mầu vàng soi sáng toàn thân và giọng nói của Khamtrul Rinpoche, Sư Phụ cô, rơ ràng bên tai :
- "Hăy trở về Ấn Độ lập tức !"
- "Tôi vô cùng sung sướng. Tôi đă được che chở, đă được cứu độ. Tôi chắc chắn sẽ dứt khoát được sự sa lầy vào ṿng luân hồi đau khổ."
Sáng mai, Tenzin mua vé về Ấn Độ lập tức, và từ đó cô không bao giờ gặp lại người thanh niên Nhật Bản đó nữa.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 338 of 1146: Đă gửi: 21 June 2010 lúc 11:34pm | Đă lưu IP
|
|
|
TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN
CÔ ĐƠN VÀ ĐAU KHỔ
CHƯƠNG SÁU
Sự can đảm và ḷng trung thực thiết tha cầu đạo của Tenzin đă giúp cô vượt qua biển t́nh để tiếp tục hoàn thành tâm nguyện của ḿnh.
Nhưng bây giờ mới chính là giai đoạn thử thách cay đắng nhất của Tenzin khi cô bắt đầu thực tập đời sống xuất gia tại các thiền viện Tây Tạng. Nên nhớ, Tenzin là người nữ duy nhất trong số hàng trăm tăng sĩ tại thiền viện của ngài Khamtrul Rinpoche.
Nếu người ta nói Kim Tự Tháp chỉ có ở Ai Cập, th́ sự khắc nghiệt phân biệt nam nữ phải nói là ở Tu viện Tây Tạng. Mặc dù Tenzin là đệ tử của Lạt Ma Khamtrul, nhưng Ngài không thể phá lệ để ưu đăi cô.
Trong mắt của các tăng sĩ ở tu viện, Tenzin là một phụ nữ, hơn nữa, lại là một phụ nữ Tây Phương với mắt xanh tóc nâu và ngôn ngữ khác biệt. Vai tṛ người phụ nữ Á Đông thật yếu kém và phụ thuộc trong tự viện, người nữ tu sĩ c̣n bị đối xử khác biệt hơn nữa.
Trong lúc các tăng sĩ được học giáo lư, thực tập thiền định hay học hỏi các môn pháp thuật, vũ thuật; th́ Tenzin chỉ loanh quanh lẩn quẩn bên ngoài nh́n vào.
Các tăng sĩ có vẻ tử tế, nhưng luôn luôn họ cách xa Tenzin, v́ họ đă được giáo huấn rằng người nữ là đầu mối của sa đọa và cạm bẫy. "Tôi thật cô đơn và lạc lơng ngay giữa chốn đông người. Cái cảm giác yêu thương mọi người nhưng không được phép tới gần là một cảm giác đau đớn trong ḷng nhất.
Bạn sống giữa loài người nhưng bạn không thuộc về một ai cả, không thuộc về một cái ǵ cả. Bạn cũng là con người như họ nhưng họ tạo cho bạn có cảm giác bạn là một loài chúng sinh nào khác họ hoàn toàn.
Cô đơn và cô đơn kinh khủng. Người duy nhất tới gần tôi là Sư Phụ tôi, Khamtrul Rinpoche. Nhưng Ngài rất bận việc, và thỉnh thoảng mới tới thăm hỏi tôi. Hằng đêm, tôi khóc thầm v́ cô đơn và lạc lơng.
Tenzin bị sống cách biệt với mọi người. Cô không thuộc về Tăng đoàn mà cũng chẳng phải là cư sĩ. Cô thuê một căn pḥng nhỏ xíu chỉ kê đủ một cái giường và một cái bàn. Cô tắm ở cái ṿi nước lạnh và đại tiểu tiện trong một cái thùng gỗ. Cô tự nấu ăn lấy và sắp xếp mọi thứ, không được ai chỉ bảo. Ban ngày, cô tới văn pḥng của Khamtrul Rinpoche phụ Ngài về giấy tờ sổ sách; ban đêm cô rúc về căn pḥng trống lạnh của cô.
-"Sau này, có người hỏi tôi là có cô đơn khi ở trong động tuyết không? Tôi trả lời là không bao giờ. Nhưng chính thời gian ở tu viện mới đúng là chuỗi ngày sầu khổ và cô đơn nhất của tôi."
Nhưng, khôi hài thay, chính sự cô đơn, đau khổ, lạc lơng trong tu viện đó của Tenzin Palmo lại giúp cho cô nh́n rơ được nội tâm ḿnh một cách sâu sắc hơn.
Cô giải thích :
- "Một ngày kia, tôi ngồi thiền quán chiếu tự tâm ḿnh và tư duy về những thao thức, khắc khoải, mâu thuẫn, cũng như những ham muốn của bản ngă con người tôi. Tôi đă nh́n rơ được sợi dây ràng buộc bấu víu của khát ái đang trói gh́ lại tôi. Tôi nh́n thật rơ, thật thẩm thấu; và từ giây phút đó, tôi đă khám phá được nguyên nhân của khát ái và đau khổ."
Tenzin Palmo đă học được bài học "Ly Dục" và "Xả Ngă" (rời bỏ sự bám víu dục lạc, danh lợi và xả được cái "Ta"). Đó là nền tảng của giáo lư Phật giáo; là thềm thang bước lên quả vị giải thoát hoàn toàn.
Làm sao con người có thể có ḷng từ bi đối với mọi loài chúng sanh khi chính tâm họ c̣n quan niệm, phân chia về "bạn hay thù, quen hay lạ. Xả bỏ được dục lạc hay bản ngă không phải là điều dễ làm; con người luôn khát khao, bám víu, đ̣i hỏi, và thỏa măn cho bằng được những dục vọng vật chất và họ không bao giờ bằng ḷng với hiện tại. Họ cảm thấy xa lạ với quan niệm b́nh đẳng giữa người và người, giữa người và vật, hay giữa nam và nữ.
Tenzin Palmo nhận xét khá khôi hài rằng người ta thường hỏi cô là làm sao dứt trừ được sân hận; nhưng không ai hỏi cô là làm sao dứt trừ được ham muốn?
Hoàn cảnh sống của Tenzin Palmo tại Dalhousie càng ngày càng tệ hơn. Trong tất cả sự bạc đăi phân biệt mà Tenzin phải chịu đựng th́ sự việc "không được phép học giáo lư và các nghi lễ" khiến Tenzin đau khổ nhứt. Lư do duy nhất chỉ v́ Tenzin là "phái nữ". Họ cho rằng "phụ nữ không đủ tŕnh độ và tiêu chuẩn để học Phật pháp và các nghi lễ trang trọng."
Khi chư tăng hành lễ trong chánh điện, Tenzin chỉ ngồi ở ngoài nh́n vào và không được phép tham dự. Khi cô tỏ ư muốn học kinh điển và các nghi thức, cô bị từ chối một cách phũ phàng và quyết liệt.
Cô chỉ được Choegyal Rinpoche, đệ tử thân tín nhất của Khamtrul Rinpoche, kể cho cô nghe những mẫu truyện Phật giáo đơn giản, không chứa đựng giáo lư cao siêu ǵ. Đó là đăc ân mà họ nghĩ một phụ nữ, nhất là phụ nữ Tây Phương, nên bắt đầu học hỏi.
Nỗi chán chường buồn tủi trong Tenzin càng ngày càng lớn dần ra. Cô nói :"Tôi cảm thấy ḿnh như là một kẻ thừa thăi trong hội chúng. Nếu tôi là đàn ông, th́ chắc chắn sự việc sẽ khác hẳn ngay. Tôi sẽ có thể học hỏi và gia nhập Tăng đoàn. Thực sự, đây là thế giới trị v́ của đàn ông.
Họ là những người có quyền hành nhất trong tay. Tôi như lọt vào một thế giới lạ lùng, không có chỗ đứng của ḿnh. Các vị tăng sĩ rất ḥa nhă tử tế với tôi, nhưng tôi biết trong tâm họ, người phụ nữ chỉ là một vật thừa, không giá trị; và họ cảm thấy sự có mặt của một phụ nữ trong Tăng đoàn như là một sự thách thức đố kỵ !"
Tenzin Palmo đă chạm phải bức tường ngăn cách rắn chắc nhất. Đă bao thế kỷ trôi qua, trong khi các tăng sĩ được học cao, hiểu rộng, và được sự ủng hộ tôn trọng của tín đồ; th́ người nữ tu Tây Tạng không được đọc hay viết, không được t́m hiểu học hỏi giáo lư.
Họ ở trong những tu viện nhỏ bé, nghèo nàn, đơn sơ, và tụng kinh làm lễ cho một số ít các cộng đồng địa phương hay tệ hơn nữa, là phục vụ hầu hạ cơm nước cho các Tăng sĩ.
Đó là lư do v́ sao không có những vị Lạt Ma nữ, không có những vị nữ đạo sư, giảng sư. Không có địa vị, cấp bực hay học thức, giới nữ tu Tây Tạng chẳng có một thế đứng hiện hữu trong xă hội, trong Tăng đoàn. Không riêng ǵ ở Tây Tạng mà giới nữ tu ở Thái Lan hay ở các nước Á Đông khác cũng không tốt đẹp ǵ hơn.
Ở Thái Lan, vị trí các nữ tu sĩ rất thấp kém thậm chí họ không được quyền chạm tay đến các chiếu trải tọa cụ của các vị Tăng. Căn nguyên của vấn đề "trọng Tăng khinh Ni" này bắt nguồn từ thời Đức Phật c̣n tại thế (hay c̣n trước đó nữa); khi người nữ không có được một quyền lợi hay vị thế nào trong gia đ́nh và ngoài xă hội.
Trong một môi trường xă hội quá phân biệt về giới tính và giai cấp như vậy, ngay chính Đức Phật cũng đă từ chối không muốn cho người nữ gia nhập vào Tăng đoàn, bởi v́, có thể Đức Phật nghĩ rằng "đời sống một du tăng rày đây, mai đó không thích hợp và nguy hiểm đối với phái nữ"; và c̣n nhiều chướng ngại nữa như : thân nữ có nhiều nghiệp chướng không thể đắc đạo được, hay thành Ma Vương cũng không xong.
Ngay như ngài Xá Lợi Phất, đại đệ tử của Phật, khi nghe Long Nữ 8 tuổi đắc quả vị giải thoát, đă thốt lên rằng :"Chuyện đó khó tin, quả thực khó tin, v́ thân nữ nhiều nghiệp chướng, không thể thành Phật được !" (Kinh Pháp Hoa, phẩm Đề Bà Đạt Đa thứ 12).
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 339 of 1146: Đă gửi: 21 June 2010 lúc 11:35pm | Đă lưu IP
|
|
|
TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN
LAHOUL
CHƯƠNG BẢY
Đường về Bảo Sở (Phật tánh, Chơn Như) thật khó khăn, nhiều thử thách. Nó đ̣i hỏi người hành giả phải có sự quyết tâm và can đảm để đương đầu với mọi gian nan nguy hiểm.
Con đường dẫn về Lahoul cũng vậy; thật cheo leo hiểm nghèo và gập ghềnh khó đi. Dăy Hy Mă Lạp Sơn hoang vu cách biệt hẳn thế giới loài người bởi hàng rào dầy đặc tuyết và đá.
Suốt cả 8 tháng trời trong năm, rặng Trường Sơn nầy luôn luôn bị tuyết đá bao phủ. Nh́n đâu đâu cũng thấy một mầu trắng xóa đến rợn người. Thời gian mùa hè ở Hy Mă Lạp Sơn rất ngắn. Hơn nữa, con đường dẫn tới vùng đất bí mật này lại c̣n được bảo vệ bởi đường đèo rùng rợn Rhotang Pass.
V́ thế, ở độ cao 3.978 mét, vùng đất này đă được mệnh danh là "Cánh Đồng Xác Chết". H́nh như đường lên Lahoul đă được các thần linh xếp đặt thật hiểm trở khó khăn để thử thách tâm người cầu đạo.
Ngày đó, người ta chưa khai quang con đường và rất ít, rất ít người biết đến Lahoul : không có xe và chẳng có một phương tiện ǵ để leo lên tới Lahoul ngoài đi bộ; chứ không phải như ngày nay, du khách đă biết nhiều đến Tây Tạng và Lahoul cũng đă trở thanh một địa điểm du lịch hấp dẫn. V́ vậy, Tenzin phải tính toán thật kỹ nếu cô muốn leo lên Lahoul.
Cô bắt đầu khởi hành trước b́nh minh. Cô phải làm sao vượt qua đèo Rhotang Pass trước buổi trưa, bởi v́ độ nửa ngày th́ những cơn cuồng phong sẽ bất thần bốc lên dữ dội thổi tung tuyết và đá khiến người ta mất phương hướng và bị lạc đường. Bị lạc đường ở đèo Rhotang Pass th́ chỉ có nước giáp mặt Tử Thần mà thôi !
Do đó, các cơ quan hữu trách bắt buộc Tenzin phải viết đơn cam kết chịu hoàn toàn trách nhiệm về an ninh bản thân trước khi cô khởi hành. Tenzin rất vui vẻ làm theo ư họ.
Tenzin cắm cúi leo, leo măi; bỏ lại sau lưng những cánh đồng xanh bát ngát, những vườn hoa hồng, hoa cúc tươi thắm, và khói bếp nồng ấm tỏa ra từ những căn nhà vang rộn tiếng cười trẻ thơ.
Cô trực chỉ đèo Rhotang Pass, leo vượt qua rặng cây dày đặc; đất dưới chân càng lúc càng gồ ghề, lồi lơm, khó đi; chung quanh vắng ngắt không có một bóng người qua lại. Thỉnh thoảng, đó đây, Tenzin chỉ thấy thấp thoáng một vài con trâu "yak", vài chú ngựa hoang, và một con kên kên khổng lồ đậu trên mỏm đá, độ cao này, những dốc núi phủ đầy tuyết trông thật hung hăn, gớm ghiếc như một tử thù sẵn sàng xô ngă bất cứ kẻ nào xâm phạm đến nó.
Gió hú lên từng cơn, đem theo cơn lạnh giết người; dù thời tiết đang ở vào đỉnh cao mùa hè, gió vẫn lồng lộng buốt giá. Đường đi trơn trợt v́ có chỗ tuyết tan chảy dọc theo sườn núi; có chỗ th́ đóng băng cứng ngắt. Tenzin vẫn cắm cúi leo từng bước một, từng bước một. Cuối cùng cô đă leo tới đỉnh núi; và như để trọng thưởng sự kiên nhẫn và can đảm của cô, một quang cảnh hùng vĩ tráng lệ trải dài ra trước mắt Tenzin.
- "Thật tuyệt vời. Trước mắt tôi là một vùng đất bằng phẳng rộng độ khoảng một dặm, bao bọc chung quanh là những ngọn núi tuyết trằng xóa nổi bật trên nền trời xanh thẳm. Thiên nhiên thật quá ưu đăi con người. Cảnh trời cao núi biếc làm tâm hồn người ta thanh tịnh, lâng lâng một niềm thoát tục.
Tôi gặp một vị Lạt Ma trên đỉnh núi. Vị ấy đeo một cái trống cơm nhỏ và một khúc xương người. Vị Lạt Ma cho tôi biết khúc xương ấy là biểu tượng để quán tưởng về cái chết của vị ấy. Chúng tôi trèo qua rặng đèo và để người trượt xuống theo sườn núi qua phía bên kia." Khi Tenzin chạm tới chân núi th́ cô lại như lọt vào một thế giới khác.
- " Ở đây giống như ở Shangri-la."
Từ văn hóa tập tục Ấn Độ, tôi bước vào thế giới văn hóa phong tục người Tây Tạng. Những mái nhà ở đây th́ bằng phẳng; rải rác dọc theo các sườn núi là những tu viện Phật giáo, những bánh xe cầu nguyện, và những bảo tháp.
Người Tây Tạng ở vùng Lahoul này sống lam lũ hơn, nhưng họ có vẻ rắn chắc và thoải mái hơn các cư dân vùng khác v́ họ sống gần với đất trời, rừng núi, cỏ cây. Người Tây Tạng hao hao giống như người Trung Hoa, nhưng đôi g̣ má họ cao hơn, và đôi mắt thuôn đẹp như trái hạnh đào."
Từ nhiều thế kỷ trước, khi đạo quân Hồi giáo tràn sang xâm chiếm Tây Tạng và Ấn, và tàn phá hủy diệt hàng ngàn ngôi chùa, tự viện, người dân Tây Tạng đă phải bồng bế nhau chạy đến vùng Lahoul này để lánh nạn; Phật giáo cũng đă theo gót chân người Tây Tạng đến mảnh đất hoang vu xa xôi hẻo lánh nầy, và bắt đầu nẩy mầm mọc rễ tại đây, do sự nỗ lực tinh cần của các vị đạo sư sau nầy, sống ẩn dật tại các hang động trong núi tuyết.
Năm tháng trôi qua, người ta thêu dệt nhiều huyền thoại về các vị Lạt Ma ẩn sĩ đó và quyền năng của họ; v́ thế, quang cảnh ở Lahoul cũng bao phủ một màu huyễn hoặc.
Năm 1970, khi Tenzin đến Lahoul, th́ dân chúng ở Lahoul vẫn c̣n kém, chưa hiểu biết ǵ nhiều về thế giới bên ngoài. Đời sống họ mộc mạc giản dị, ngày ngày ra đồng trồng khoai trồng lúa, hay chăn nuôi súc vật.
Nếp sống đơn thuần đó ảnh hưởng đến tính t́nh bản chất con người nên người dân Tây Tạng rất hiền ḥa chất phác và niềm tin Phật giáo của họ rất thuần khiết dung dị.
Những sáng kiến phát minh khoa học kỹ thuật của thế kỷ 20 này như điện lực, máy truyền h́nh, truyền thanh, xe hơi, v.v... chưa xâm nhập vào Lahoul, cũng như những bộ mặt da trắng của người Tây Phương vẫn c̣n xa lạ với dân Tây Tạng vùng đất Lahoul này.
Sự có mặt của Tenzin Palmo, với chiếc áo nữ tu Tây Tạng mầu đỏ sậm, đă làm cho dân Lahoul xôn xao và hiếu kỳ. Người đàn bà đó là ai vậy? Làm sao mà một phụ nữ Tây Phương lại dám bỏ hết vật chất để đi tu vậy?
Có phải cô ta tu thiệt không đó, hay là gián điệp ǵ đây? Cô ta muốn ǵ ở người Tây Tạng chúng ta? v.v.. và v.v... Nhưng Tenzin đă chinh phục được cảm t́nh của dân Lahoul, và đè bẹp được làn sóng dư luận xầm x́, nghi kỵ đó bằng chính sự nhiệt tâm, cởi mở, và chân thành của cô.
Cô được họ đặt cho tên gọi là "Saab Chomo" (Ni cô Tây Phương), và sau này khi Tenzin ẩn cư trong động tuyết, th́ họ đă kính trọng cô như một vị Thánh.
Lúc đó, Tenzin muốn tới Tayul Gompa, có nghĩa là "vùng đất chọn".
Đó là một toà nhà cổ nguy nga độ 300 năm, tọa lạc giữa rừng cây cách thủ đô Keylong độ vài dặm, nơi đó, có một thư viện lư tưởng, những bộ sưu tập tranh lụa tôn giáo và một bức tượng rất lớn của ngài Padmasambhava, vị Thánh Đạo Sư đầu tiên truyền bá đạo Phật từ Ấn vào Tây Tạng. Người dân Tây Tạng tôn sùng ngài như là một vị Phật.
Bây giờ Tenzin đă có thể sống yên ổn thoải mái ở Lahoul rồi. Mấy năm qua, cô trôi dạt từ pḥng thuê này đến nhà trọ khác; giờ đây cô đă có một căn nhà nhỏ xây bằng đá và bùn cho riêng cô đằng sau ngôi chùa, nơi mà các vị tăng sĩ hay các ni cô thường ở riêng biệt.
Tenzin sống vui vẻ, thân mật, ḥa đồng với tất cả mọi người. Ai ai cũng quí mến cô cả. Tenzin thân nhất với Tshering Dorje, người mà cô thường thân mật gọi là "Anh trai người Lahoul của tôi".
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 340 of 1146: Đă gửi: 21 June 2010 lúc 11:37pm | Đă lưu IP
|
|
|
TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN
ĐỘNG TUYẾT SƠN
CHƯƠNG TÁM
Tenzin Palmo và nhóm bạn đồng hành bắt đầu trèo lên ngọn núi sau tu viện Tayul Gompa, hướng tới hang động trong dăy Tuyết Sơn. Họ bám vào đá, rướn người leo lên từng bước, từng bước một; họ leo cao, cao măi, bỏ lại sau lưng thế giới loài người. Họ kiên tŕ cẩn thận leo lên cao, cao hơn nữa.
Hơi thở họ đă khó nhọc, nặng nề; buồng phổi họ như bị sức ép không khí trên độ cao hơn 1000 bộ này ở rặng núi tuyết nén chặt lại muốn vỡ tung. Cuộc leo núi này thực sự không phải tṛ đùa hay một tṛ chơi mạo hiểm. Những người bị yếu tim hay người có máu xây xẩm không thể lên tới độ cao này được.
Đường dốc núi thật cheo leo, nguy hiểm đến rợn người. Các tảng đá lớn nhỏ chất chồng lên nhau, có ḥn th́ sần sùi lởm chởm, có ḥn th́ sắc bén cứa đứt cả tay, có ḥn th́ chênh vênh nhô tận ra ngoài, chỉ cần sơ ư một chút hay sẩy nhẹ chân cũng đủ toi mạng.
Tuy nhiên, không dễ bị khuất phục, đoàn người Tenzin Palmo vẫn bám chặt leo lên từng bước. Sau hai giờ leo núi vất vả, họ bất thần nh́n thấy động núi. Hang động này nằm tọt trong hốc núi, và như là có bàn tay "ngụy trang" khéo đến nỗi họ súyt không nhận ra được. Động tuyết này không giống như các ṿm cửa hang động trong các cuốn phim tưởng tượng của Hollywood.
Nó cũng không có lỗ sâu đen ng̣m, bụi bặm, dơ dáy như các hang động của các người thời cổ đại. Động tuyết này chỉ là một vách đá nhô ra lơ lửng trên sườn núi, và 3 phía đều toang hoác. Trần động thấp chủm nên người ta không thể nào đứng thẳng người lên được nếu chui vào bên trong.
Mái động là một vách đá lởm chởm nhô ra ngoài, lưng động nghiêng nghiêng cheo leo theo sườn núi, và bên ngoài dưới g̣ vách đá là một dốc nhọn h́nh chữ V chạy dài xuống thung lũng Lahouli.
Suy cho cùng, đây là một nơi trú ẩn mong manh, không kiên cố và có thể dễ bị sụp bất ngờ. Nó chỉ là một lỗ hổng nhỏ tụt vào trong hốc núi, rộng độ 10 bộ bề ngang và 6 bộ chiều sâu; trông nó giống như một cái tủ áo vậy. Có thể nói, động tuyết này như một cái ḷ giam cô đơn.
Tenzin Palmo đứng sát mép vực và quan sát quang cảnh chung quanh. Cảnh trí thật thanh tịnh, hùng vĩ, và cô liêu. Trước mặt cô, theo h́nh ṿng cung 180 độ là dăy Hy Mă Lạp Sơn phủ tuyết trắng xóa, bao la đến nỗi Tenzin có cảm tưởng như mặt chạm mặt với núi vậy.
Nh́n đâu cũng thấy núi và núi, tuyết và tuyết. Bây giờ là mùa hè nên chỉ có đỉnh núi phủ tuyết; nhưng vào 8 tháng mùa đông th́ tuyết đổ xuống dầy đặc tạo thành một bức thành tŕ trắng toát khổng lồ, nổi bật trên nền trời xanh lơ, không gợn một chút mây.
Ánh sáng mặt trời chiếu xuống núi trong suốt như pha lê, chan ḥa trên mọi vật khiến cảnh sắc thêm lung linh tươi đẹp. Không khí th́ dễ chịu, trong lành.
Sự yên tĩnh ở đây thật sâu lắng. Người ta chỉ nghe tiếng róc rách nhè nhẹ của ḍng sông Bhaga ở dưới thung lũng, tiếng gió ŕ rào, và lâu lâu vài cánh chim vỗ bay phá tan bầu tĩnh mịch chốn núi đồi.
Bên tay phải của Tenzin là một cánh rừng nhỏ có thể cung cấp nhiên liệu. Bên trái của cô, độ một phần tư dặm là một con suối nhỏ chảy ngang qua các khe đá giúp cho cô có được nước uống thiên nhiên trong mát, sạch sẽ; và đằng sau cô là một ngọn núi cao nhọn như tháp canh bảo vệ cho cô.
Với tất cả cảnh trí thiên nhiên tuyệt vời chung quanh, và sự tuyệt đối yên tĩnh cô đơn, động tuyết sơn này sẽ tạo cho Tenzin một cảm giác thanh b́nh êm ả vô cùng lư tưởng, và những ngọn núi hùng vĩ hoành tráng của dăy Hy Mă Lạp Sơn, như một bà mẹ hiền, dang rộng đôi tay che chở bảo vệ Tenzin.
Cô đang đứng ở độ cao 13,000 bộ trên mực nước biển - một độ cao chóng mặt rợn người. Tung độ này thấp hơn đỉnh núi Mount Whiney và Mont Blanc không bao nhiêu. Nếu so sánh động tuyết này với ngọn núi cao nhất nước Anh Ben Nevis cao 4,402 bộ, th́ Ben Nevis thấp lè tè như chú bé con và anh chàng khổng lồ.
Nơi đây, cheo leo một ḿnh như cánh chim đại bàng cô đơn trên đầu vũ trụ, Tenzin sẽ nhập thất yên ổn không bị quấy rầy phiền nhiễu bởi tiếng động trần gian. Cô sẽ được tận hưởng sự yên tĩnh tuyệt đối mà cô cần có. Sự yên tĩnh của ngoại cảnh quan trọng và cũng rất cần thiết cho sự tu tập của vị hành giả trong công cuộc khám phá tâm linh.
Trong cảnh giới hoàn toàn yên lặng, tiếng nói Tuyệt Đối Vô Cùng sẽ được tiếp nhận một cách trọn vẹn.
Ngoài ra, c̣n có một vài sự trùng hợp ngẫu nhiên thật lư thú. Trên đỉnh núi đối diện hang động Tuyết Sơn là một phiến đá đen thật ngộ nghĩnh mà dân địa phương đặt tên là "Tượng Nữ Thần Keylong".
Dù ngay giữa mùa đông, phiến đá này cũng không bao giờ bị phủ tuyết cả. H́nh tượng nó đó đen ś nổi bật trên nền tuyết trắng của đỉnh núi. Càng nh́n gần, người ta càng thấy rơ h́nh thù đặc trưng của phiến đá đen đó. Rơ ràng đó là h́nh dáng của một phụ nữ bồng con sát vào ngực và tay kia của nàng đang cho chim ăn. Theo mắt người phương Tây, h́nh tượng đó rất giống tượng Mẹ Madonna đang bồng con, và người dân Lahoul th́ tin tưởng đó là Đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
Cách phiến đá đen đó xa xa, lại có một bức tượng đá màu vàng và xanh nhạt của một nữ thần khác. Vài thế kỷ trước, h́nh như người ta cũng đă thấy một bức tượng đá giống như vậy ở thung lũng bên kia đồi, nên dân Lahoul càng truyền miệng kháo nhau rằng "Tượng Nữ Thần" đă di chuyển từ bên này đồi lên đỉnh núi tuyết".
Và dọc xuống sườn núi, không cách xa động tuyết bao nhiêu là một lỗ hổng lớn tụt hẳn vào trong vách núi. Có người nói lại rằng "xưa kia, đó là nơi cư ngụ của nữ thần Phật giáo Tây Tạng Palden Lhamo. Vị Nữ Thần này bảo vệ toàn dân Tây Tạng. Ngài cỡi trên lưng một con la (loại thú giống như lừa).
Vài năm sau, khi Tenzin lên động tuyết cư trú, chính mắt cô nh́n thấy những dấu chân la ấn lơm trên tuyết chung quanh lỗ hổng này. Lạ lùng nhất là cô không tài nào t́m thấy một dấu chân nào khác dẫn lên lối này.
Tất cả những ǵ Tenzin đang nh́n trước mắt đây thật viên măn hoàn hảo. Cô nghĩ rằng: " động Tuyết Sơn, cô có thể dành hết th́ giờ và năng lực cho sự tham thiền nhập định thật miên mật; để từ đó, cô có thể vén bức màn bí mật của thế giới tâm linh.
Đó là một thế giới đầy kỳ hoa dị thảo; một thế giới bao la, vô cùng vô tận, mà mọi người tu đều muốn khám phá; một thế giới không có sự "bắt đầu" (vô thỉ) cũng không có sự "kết thúc" (vô chung). Thật đúng như câu:
"Càn khôn tận thị mao đầu thượng
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung."
tạm dịch:
"Vũ trụ nằm trên đầu lông xíu
Thế giới lọt trong hạt cải ṃng."
Tenzin quá hài ḷng và quyết định sẽ cư trú tại hang động này; nhưng các vị đồng tu phạm hạnh khác lại thấy bức rức, áy náy cho cô.
- "Cái động này cao quá ! Không ai có thể để một phụ nữ sống một ḿnh ở đây như vậy. Cô sẽ chết cóng ở độ cao này !"
- "Ồ, quí vị không biết chứ, hang động luôn luôn ấm áp hơn nhà. Các hang động như điều ḥa được thời tiết. Khi tôi ở Tayul, tôi đă rét cóng trong căn nhà vào mùa đông; nhưng ở động này th́ ấm áp vô cùng."
- "Nhưng mà vẫn c̣n nhiều thứ bất tiện và nguy hiểm. Cô ở đây th́ cứ như con vịt già bị trói chờ bọn cướp đến bẻ cổ và cướp sạch."
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|