Tác giả |
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 641 of 1146: Đă gửi: 10 August 2010 lúc 10:23pm | Đă lưu IP
|
|
|
THIÊN ĐƯỜNG DU KƯ
HỒI HAI MƯƠI BA
DẠO CUNG TRUNG HOA LẮNG NGHE
TRUNG HOA ĐẾ QUÂN THUYẾT PHÁP.
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 16 tháng 4 năm Canh Thân 1980
Thơ
Thần tiên tối ái độc thư gia
Phẩm đức thanh cao tuyệt điểm hà
Ngọc chú kim kinh ngưng đạo khí
Tiêu dao thế ngoại giá vân xa.
Dịch
Thần tiên rất thích đọc thư nhà
Phẩm đức thanh cao tuyệt biết bao
Chú ngọc kinh vàng ǵn khí đạo
Xe mây thoát tục sống tiêu dao.
Tế Phật: Phẩm đức thanh cao, tính linh nhẹ nhàng niệm ngọc kinh linh chú, kết thành ṿng linh khí, hóa thành những áng mây trắng, tiêu dao tại cơi trời xanh biếc, vô cùng tự tại.
Thể xác thế nhân hiện nặng mang bao nhiêu là tội ác, chân đạp lên mây trắng, khiến biến thành chướng khí, khói ô uế đọa lạc chốn địa ngục. Dương Sinh lên đài sen, chúng ta chuẩn bị cuộc hành tŕnh mới.
Dương Sinh: Thưa con đă sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường. Không rơ hôm nay thầy dẫn con dạo thăm chốn nao?
Tế Phật: Bữa nay chúng ta bái kiến đức thánh Hoàng Lăo cư ngụ tại cung Trung Hoa... Đă tới cung Trung Hoa, chúng ta chuẩn bị nhất tề bái hội đức Đế Quân.
Dương Sinh: Thưa hay lắm. Cảnh trí ở đây thật quá ưa thích, cây cỏ xanh tươi, ngàn chim bay lượn, đằng trước có một ṭa cung điện nguy nga màu sắc vàng chói, phía trên có đề ba chữ “Trung Hoa Cung”. Hai bên có vô số quư vị đạo sĩ xếp hàng nghinh đón chúng tôi, quả là xấu hổ, chúng tôi đâu dám làm phiền Thánh thượng.
Tế Phật: Trung Hoa Đế Quân cư ngụ tại chốn trung ương của trời Ngũ Lăo, được tôn làm Hoàng Lăo, đạo cao vô cực, chúng ta hăy tới trước cung kính yết kiến dung nhan Thánh thượng.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Trong điện thấy một vị thánh thân ḿnh to lớn, vẻ mặt trang nghiêm... Đệ tử Dương Sinh xin cúi đầu lạy chào ra mắt đức Đế Quân, bữa nay phụng chỉ theo ân sư Tế Phật dạo tam giới viết sách Thiên Đường Du Kư để khuyến hóa thế nhân, kính mong đức Đế Quân khai mở mối đạo siêu diệu cho đệ tử được tỏ tường.
Đế Quân: Lành thay, tất cả sự bí mật ảo diệu tại cơi trời đă được tiết lậu hết trong sách Thiên Đường Du Kư, không chỉ chúng sinh ở chốn Trung Thổ thụ hưởng lợi ích mà tất cả nhân loại trên khắp mặt địa cầu đều được thấm nhuần thanh quang điển lành.
Dương Thiện Sinh đạo căn thâm hậu nên trời mới trao cho trách nhiệm nặng nề, dưới th́ mở cửa địa ngục để độ hồn quỷ thoát khỏi cảnh khổ, giữa độ muôn ngàn chúng sinh giác ngộ đại đạo, thành tựu chân lư, trên mở cửa thiên đường cho những chúng sinh có duyên tiến vào, đạo quả lớn lao xin chúc mừng trước.
Tôi là một trong số Ngũ Lăo, vị ngụ tại trung ương Mậu Kỷ là chỗ tâm trời, chúa tể mười phương, người đời chẳng thể xa rời đất đai là chốn cư ngụ, cho nên tôi là Thổ Lăo đă biến hóa ra đất rộng ban phát cho loài người. Song ḷng người ngày nay thua xa thuở xưa lại thêm thế đạo suy đồi thế giới không một nơi nào được yên ổn khiến ḷng tôi buồn rười rượi.
Dương Sinh: Bước đi của nhân loại hiện thời đại loạn, do đó mà cát bụi bay mù trời khiến con người không mở nổi mắt, điên đảo thị phi, không c̣n t́m ra được phương hướng, kính xin Đế Quân từ bi khai mở đường sáng.
Đế Quân: Trung Thổ là chủ của ngũ hành, bốn hành kim mộc thủy hỏa, phải ở trên đất mới lập thành nổi, kim sinh từ thổ, mộc nhờ thổ mà lớn, thủy từ trong đất mà ra, hỏa dựa vào thổ mà sáng, thổ ở ngay chính giữa, vạn vật phải nhờ thổ nuôi dưỡng mới có thể sinh trưởng thành tựu.
Đất trồng các loại rau đậu, hoa cỏ, nhà cất trên đất, xe cộ chạy trên đất. Tàu bè tuy chạy trên sông, song dưới đáy là đất, phi cơ bay trên không trung nhưng khi ngừng bay cũng đậu trên đất, nhân loại sinh tồn trên mặt đất, ăn ngũ cốc để sống, sau khi chết cũng về nơi gốc đất, do đó mới nói: đất sinh đất nuôi.
Đủ biết đất với người quan hệ mật thiết biết chừng nào, nếu như người đời học nổi tính chịu đựng của đất, dầu bị con người dày đạp song vẫn kiên nhẫn tài bồi vạn vật, th́ sau một trăm năm thân chết về đất, ắt là linh khí về nơi đất tĩnh tại cơi trời.
Không bị nhận ch́m xuống đáy cặn bă nhơ bẩn địa ngục, đày đọa nơi tối tăm không có bóng mặt trời, vĩnh viễn chẳng thể siêu thăng. Mong thế nhân đang sống trên mặt đất hăy làm kẻ đội trời đạp đất, chớ đừng làm loại giấu đầu để lộ cái đuôi.
Dương Sinh: Đức của đất vĩ đại vô cùng, hiện thời thân thiết với vạn vật quá nhiều. Kính xin đức Đế Quân giải thích rơ về sự quan hệ mật thiết giữa Hoàng Lăo và chúng sinh để nhân loại được tỏ tường, giúp ích thêm cho việc tu dưỡng.
Đế Quân: Rất hay, giờ xin đem sự sinh hóa diệu dụng của Thổ Lăo phân tích rơ như sau: Trung ương Mậu Kỷ thuộc thổ, tại trời ngũ thường là càn, ngũ sắc thuộc hoàng, tại đất là bốn mùa, hóa sinh tại nhân gian là Hiên Viên, nhân luân ngũ thường là tín, thân thể con người chủ về tỳ nhục tức lá lách, ngũ giới chủ về vọng tức xằng bậy.
1. Thổ: Con người cư ngụ trên đất, kiến trúc nhà cửa, đường sá giao thông không thể không bám vào đất. Sĩ nông công thương th́ giờ gần gũi đất quá nhiều, đồ ăn được đất tài bồi. Cá tôm tuy sống trong nước song dưới đáy lại là đất, chim tuy lượn giữa không trung, chiều tối trở về tổ làm trên cây nhưng cây lại mọc trên đất.
Người ta lấy nước trong sạch từ đất, nước ô uế lại chảy về đất. Vật bài tiết sau khi ăn cũng trở về đất, đức đăi người của đất quả là quá sâu dày không tưởng tượng nổi. Rất nhiều người lại chẳng nhớ đến đức dày của đất dưới chân ḿnh lại có thể như vậy, hăy mau mau bồi dưỡng tâm địa của chính ḿnh.
Không lo báo đền ơn cha trời mẹ đất, đă sống trên đất lại c̣n làm điều phi nhân bất nghĩa, phá rối an ninh trật tự nơi địa phương ḿnh ở, tội ác này quá nặng linh khí của họ sẽ lần lần bị thổ thần thâu hồi.
Đường trốn lánh càng đi tới càng ngắn dần, cuối cùng bị giam giữ trong khoảnh đất nhỏ xíu nơi nhà ngục hàng ngày đi lại chẳng được, đó là ác nghiệp quả báo v́ đă phản bội lại đức lớn của đất gây nên.
2. Càn: Càn là trời là dương, cũng như khôn là đất là âm, người xưa nói: “trời sinh đất nuôi”, công tác chính yếu trong việc nuôi dưỡng loài người là do đất, đức của trời đất gọi là sinh. Ở dưới gầm trời mà không giữ đạo đức cùng nhân luân tức là tự chôn vùi tư cách trở về trời của ḿnh, do đó mà đất bao hàm vạn vật, trời tuy xa xôi không nh́n thấy, c̣n đất gần gang tấc nên có thể tu.
3. Bốn mùa (vàng): Bốn mùa là xuân hạ thu đông, Hoàng Lăo ở chính giữa, bao hàm sự tinh anh của bốn mùa, không có hoàng thổ tài bồi th́ xuân sinh, hạ trưởng, thu thâu, đông ẩn đều chẳng thể thành lập nổi. Hoàng Lăo nắm tất cả trước sau trái phải cùng bốn mùa trong tay, như một thân cây. Nếu không có xuân hạ thu đông, cành lá làm sao sinh hóa nổi, gốc đất vĩnh viễn cố định bất biến.
Lấy việc tu đạo làm thí dụ, triều đ́nh vàng ở giữa, trung ương Mậu Kỷ thuộc thổ gọi là “huyền quang” tức cửa huyền, cai quản mọi hoạt động thuộc về cơ thể con người, là căn nhà, là chủ nhân ông của nguyên thần, như bốn mùa trong năm, nếu nhận chân được thời tiết mà trồng trọt nhất định sẽ thu hoạch được nhiều.
Trời huyền đất hoàng, hoàng là màu vàng là sắc quư trọng trang nghiêm, đạo vàng là tốt, đạo đen là xấu, mong người đời phải ǵn giữ đạo đức trong bốn mùa, phát huy lớn rộng đạo vàng ắt thần thiêng liêng giáng lâm, hung khí, sát khí thoát lui, ánh vàng tốt lành soi chiếu cứu độ.
4. Tín, vọng (tin, xằng bậy) tỳ nhục (lá lách): Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín là năm mối dường của người, không kể nhân, nghĩa, lễ, trí, tín chỉ tạm kể tín ta cũng thấy là nếu như người không có chữ tín ắt chẳng thể đứng vững, cho nên phải biết tín là chủ của ngũ thường.
Trung ương Mậu Kỷ thổ, thổ thuộc tín cho nên có thể bàn về tín. Thổ giữ tín nhiều nhất, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, tơ tóc chẳng sai, gieo ǵ mọc nấy tuyệt đối không thất tín, dối trá. Người đời lại thường vứt bỏ chữ tín, bội ước, bội tín, kư chi phiếu không tiền bảo chứng, gian lận sổ sách, nạn lừa đảo gia tăng không ngừng.
Một kẻ chuyên bội tín lừa đảo, khổ chủ truy nă tới cùng chẳng tha, hắn phải trốn chui trốn nhủi, đất rộng mà không thể tự do đi lại, chỉ c̣n cách trốn tới một nơi hẻo lánh nhỏ hẹp không một ai biết về ḿnh để khỏi bị kẻ khác nhận diện, báo cáo với nhà chức trách bắt giam tại nhà ngục nhỏ hẹp.
Có khi bị dồn tới đường cùng tuyệt vọng phải t́m cái chết, thân xác bị vùi sâu ba thước đất. Trời đất mênh mông, tại sao người đời lại không lo chữ tín, hành chữ tín để được băng ḿnh trên đường vạn dặm mỏi cánh chim bằng, lại rẽ vào ngơ cụt một bước cũng khó đi hoặc lạc vào đường cùng không có đất dung thân há chẳng buồn sao.
Như thế đều là chôn vùi thổ khí Trung Hoa để đến nỗi tự làm tiêu tan kết quả. Lá lách và bao tử thuộc thổ, là khí quản tiêu hóa của cơ thể con người, ngày nay xuống giường chân chưa đụng đất đă vội mang giày, gấp tới công ty, hăng xưởng để lo làm việc.
Xă hội công nghiệp sinh hoạt cần mau lẹ, hai chân chẳng bao giờ chạm đất, thổ khí không đủ, lại thêm ăn uống thất thường, do đó bệnh đau bao tử và ruột mỗi ngày một nhiều. Muốn trị bệnh đau bao tử cần phải giữ tâm b́nh thản trong lúc xử sự, ăn uống phải có điều độ đúng giờ đúng khắc, như gieo trồng ngũ cốc phải đúng thời tiết th́ cây mọc mới tốt tươi.
Ngày nghỉ phải ra vùng ngoại ô thành phố cắm trại, dạo chơi phong cảnh quên chuyện đi đứng vội vàng, gần gũi cây cỏ đất đai, chậm chạp đi đất, một sớm thổ khí dư thừa, giống như thảo mộc bừng tươi tốt, bệnh bao tử không cần thuốc mà chữa khỏi.
Người đời nay ra khỏi cửa đều dùng các phương tiện giao thông để thay thế cho đi bộ, khiến đôi chân sau này đi đứng khó khăn. Thiếu vận động, bao tử đầy hơi, ợ chua, dinh dưỡng vệ sinh thất thường khiến thổ khí bại hoại, bao tử làm việc không điều ḥa muôn bệnh tự nhiên phát sinh.
Ở trên đất của Hoàng Lăo phải tu đạo, dầu khó khăn cũng phải gắng vượt qua, cho nên có câu nói: “Vùng Trung Thổ khó sống”, Trung Thổ tập trung tinh hoa ngũ phương, như thịt bao khắp thân thể, lục phủ ngũ tạng cũng là tinh hoa của thịt.
Do đó người sống trên vùng Trung Thổ linh khí tốt vượng, kẻ có tâm tu đạo như cởi bỏ được lớp thịt da giả tạo, mặc lại lớp khác thực sự là của ḿnh, đi trên đất chân thực, khôi phục lại được bản chất thuần phác, mới có thể đắc đạo.
Dương Sinh: Thưa như vậy là thế nào?
Đế Quân: Đạo giáng Trung Thổ là bởi v́ nhân dân ở Trung Thổ tính t́nh thuần hậu, có quan niệm về đạo đức nên có thể kham khổ nhẫn nại, cần mẫn tự cường, không ưa xa hoa rất hợp ḷng trời.
Do đó từ cổ tới nay, nhân sĩ dị kỳ đều sinh ra ở Trung Thổ, để người đời có thể giác ngộ được linh khí Hoàng Lăo, xin ban một bài linh chú để sớm hôm tụng niệm ắt sẽ thần thông:
Trung Hoàng Tung Sơn Trung Hoàng Tung Sơn
Nguyên khí bồi hồi Nguyên khí bồi hồi
Thượng hữu Nguyên Lăo Trên có Nguyên Lăo
Thống lănh tứ phương Thống lĩnh bốn phương
Tham giá hoàng long Cưỡi lưng rồng vàng
Ngũ sắc vũ y Áo lông năm màu
Vận đạo cửu thiên Dẫn đạo chín trời
Chuyển luân toàn kỳ Chuyển bánh xe pháp
Hoán minh thổ tinh Sao Thổ sáng ngời
Lưu quang tán huy Hào quang bay khắp
Ngọc anh phương chi Cỏ Chi thơm ngát
Sung ích tứ chi Ngào ngạt quanh ḿnh
Đào quán ngă thân Rót đẫm châu thân
Tỳ phủ tiên khai Tạng phủ tưới nhuần
Dưỡng nha xan tinh Nuôi dưỡng tinh khí
Vạn thần tổng quy Vạn Thần cùng về
Kiểm hồn chế phách Kiểm hồn chế phách
Tiên luyện bát uy Tiên luyện tán uy
Biểu lư đồng minh Trong ngoài sáng tỏ
Trường sinh bất suy Trường sinh chẳng suy
Thông chân đạt linh Thông chân đạt linh
Thăng nhập thái vi. Nhập vào Thái hư.
Tế Phật: Cảm tạ đức Đế Quân đă ban cho rất nhiều hồng ân, tới đây xin bái từ.
Dương Sinh: Cảm tạ đức Đế Quân đă khai mở lư đạo siêu diệu, v́ thời giờ có hạn, đệ tử xin cung kính bái từ đức Đế Quân để theo ân sư trở lại Thánh Hiền Đường.
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 642 of 1146: Đă gửi: 10 August 2010 lúc 10:48pm | Đă lưu IP
|
|
|
THIÊN ĐƯỜNG DU KƯ
HỒI HAI MƯƠI BỐN
LẠI DẠO CUNG TRUNG HOA LẮNG NGHE
TRUNG HOA ĐẾ QUÂN THUYẾT PHÁP.
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 9 tháng 5 năm Canh Thân 1980
Thơ
Hỏa tản cao trương hăn thấp y
Thanh phong phiến trúc ư lương vi
Thương trường nhiệt liệt thiên kim trọng
Bất nhược tăng gia hóa yến phi.
Dịch
Lửa cao manh áo đẫm mồ hôi
Quạt trúc gió trong mát mẻ đời
Buôn bán ganh đua tham lợi lộc
Học làm én lượn sống đi thôi.
Tế Phật: Ngày hè nóng nực không mưa móc, mọi người cảm thấy tim phồng khí khô, đất đai cũng quá khát nên mở lớn miệng chờ mưa đổ xuống. Con người sống trên đất phải lo tích trữ nước đạo đức, làm mưa móc ngọt ngào rửa sạch trần gian, sương trong mới khiến sự sống tưng bừng đua nở, sinh mệnh hết khô khan cằn cỗi.
Bữa nay thầy lại hướng dẫn tṛ ngoan Dương Sinh dạo thăm cung Trung Hoa, vào bái hội đức Hoàng Lăo để kính xin ngài khai mở lư đạo siêu diệu. Chuẩn bị lên đài sen.
Dương Sinh: Thưa con đă chuẩn bị xong, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đă tới nơi, chúng ta nên đến bái hội đức Hoàng Lăo để lắng nghe ngài ban lời chỉ giáo.
Dương Sinh: Nay được nghe đức cao minh thuyết pháp để mở trí quả là phúc đạo sâu dày. Cảm tạ ân sư đă có công hướng dẫn.
Tế Phật: Đó là mệnh trời run rủi, là công lao cùng nhiệt tâm của thầy trong việc phổ độ chúng sinh, là sự cứu độ được rất nhiều người của Dương Sinh. Thầy rất lấy làm vinh dự được có một môn đệ như con, bữa nay dạo thăm tam giới cũng là do trời xanh sắp đặt.
Phải hết sức nhẫn nhục gánh trách nhiệm, th́ công việc viết sách Thiên Đường Du Kư mới chóng hoàn thành, nhiệm vụ phổ độ chúng sinh mới mau hoàn tất, hăy gắng lên.
Dương Sinh: Cảm tạ ân sư đă rủ ḷng thương chỉ giáo cho con, con xin tuân lệnh. Các vị đắc đạo cao minh tại từng trời Ngũ Lăo vị nào vị nấy tướng mạo trang nghiêm, đạo khí phi phàm, tin rằng các vị đó đă mất rất nhiều công phu khổ luyện ngày nay mới thành tựu.
Trên trời, dưới trời đều giống nhau, phải chịu gian lao khổ cực mới có thể thâu hoạch được kết quả... Tới nơi thánh địa Hoàng Lăo cư ngụ, ḷng cảm thấy buồn rười rượi không hiểu tại sao?
Tế Phật: Đợi lát nữa thỉnh giáo đức Đế Quân sẽ rơ lư do.
Dương Sinh: Thưa phải. Đệ tử xin cúi đầu kính lạy đức Đế Quân. Bữa nay đệ tử theo ân sư tới thăm đất Thánh quư báu, kính xin đức Đế Quân khai mở trí huệ cùng chỉ rơ bến mê cho đệ tử được tỏ tường. Hiện giờ đệ tử cảm thấy ḷng buồn rầu bứt rứt không yên, không rơ nguyên do tại sao?
Đế Quân: Ruộng tâm của chúng sinh chứa đầy lửa tham dục, không có lấy một giọt nước pháp cam lộ tưới tắm, ngẫu nhiên một trận mưa đổ xuống họ bèn chiếm trọn làm của riêng, không chịu chia sớt cho kẻ khác lấy một giọt. Không ngạc nhiên, là bởi tâm chúng sinh bị bít kín, động loạn, đói khát nên thiết nghĩ dầu khí lạnh, nước băng cũng khó làm cho nó lắng tĩnh nổi.
Tâm con người vốn mơn mởn tươi tốt như cỏ xanh, lá thắm song chỉ v́ bị lửa dục thiêu đốt cháy rụi, cho nên đời sống tinh thần đang xanh tươi mới trở thành khô héo, đất báu đạo vàng biến thành than đen, đất vàng đă biến chất, lửa bạo tàn lan tràn khắp chốn, khắp nơi.
V́ sự biến hóa dưới đất mà trên trời cũng cảm ứng, đó là lư do tại sao Dương Sinh đă lên tới chốn này, mà ḷng c̣n cảm thấy âu sầu buồn bă.
Dương Sinh: Th́ ra nguyên nhân là như vậy.
Đế Quân: Bữa nay tôi hướng dẫn Dương Sinh đi tham quan phong cảnh kỳ diệu của cơi trời Hoàng Lăo.
Dương Sinh: Cảm tạ đức Đế Quân đă tận t́nh chỉ giáo... Ngài hướng dẫn chúng tôi dạo thăm khắp chốn, trong ḷng vô cùng cảm kích, tới nơi thấy một nông trường lớn rộng, hoa cỏ cây cối tốt tươi, kết trái nhiều vô số kể, có cả lúa và mía làm đường, giống hệt cơi trần thế, nơi đó có phải dương gian chăng?
Đế Quân: Đất đai dưới trần đều do linh khí của tôi biến hóa mà thành, trời cũng ở tại nhân gian, nhân gian cũng giống trên trời. Con người đội trời đạp đất, kẻ tuân theo chính đạo đất họ đứng là đất yên, đất lành. Nếu như đem khoảnh đất nhỏ yên lành vui tươi đó mà mở rộng ra ắt là sẽ trở thành thế giới thiên đường vĩ đại.
Tất cả những ǵ ở nơi đó có nhân gian đều có cả, những cái hiện ra trước mắt Dương Sinh đă giúp cho sự hiểu biết về thiên cơ rất nhiều, kẻ có duyên sẽ tự cảm ứng với cảnh mà giác ngộ.
1. Những ruộng lúa kia nước thừa thăi, phân không thiếu, cỏ dại trừ sạch do đó kết được nhiều hạt, những bông lúa kia lại c̣n cúi rạp đầu kính chào Dương Sinh nữa đấy. Con người nếu như học được tinh thần này, nhất định đạo quả sẽ gặt hái được nhiều.
2. Những vườn mía này v́ đất quá cứng, không có nước tưới, mía mọc lên vỏ cứng ruột mềm thân thẳng rẳng, nước nhạt nhẽo, ăn chẳng ngon lành, hẳn là không được người ta ưa thích. Chúng sinh cũng giống như cây trái, có loại cương cường bất khuất song lại vô t́nh vô vị, những loại người này chắc chắn kẻ khác sẽ nhận ra rằng mùi vị của nó không phải là mùi vị đạo.
Con người vốn là một hạt chủng tử từ cơi hỗn nguyên giáng thế gian rồi mới khôn lớn thành người, tiếp tục nở hoa kết trái sinh đẻ nuôi nấng để nối dơi đời sau. C̣n ngược lại chắc chắn sẽ không đứng nổi trên đất thực, không hết ḷng v́ thiên chức, đem nguyên khí vào đạo đức của trời phú cho đem vùi hết sạch.
Thậm chí c̣n sinh giặc trên mặt đất, dùng gươm giáo sát hại sinh linh, ngọn cỏ cũng chẳng chừa. Song sát hại đời sống đồng loại cùng muôn loài, chính là tự giết đời sống trí tuệ cùng đạo căn của chính ḿnh. Cuối cùng th́ những kẻ dùng vơ lực đều không được đạo siêu diệu của Hoàng Lăo chấp nhận, thực đáng tiếc thay.
Ba thước trên đầu chúng sinh có thần minh, ba thước dưới đất nơi chúng sinh đứng có đạo lớn, chớ quá coi thường. Chân không đi nẻo tà ắt sẽ đi trên đường đạo, tay không nhúng vào chuyện bất nghĩa, ắt tḥ tay là với ngay tới thiên đạo.
Tu đạo chẳng khó khăn, chỉ cần chân tay đi đứng hành động nhất nhất tuân theo quy củ là thành công ngay, thực quá đơn giản.
Dương Sinh: Lời dạy của đức Đế Quân quả là siêu diệu, thần minh ba bước trên trời tḥ tay có thể nắm, đại đạo dưới đất chỉ cần đi một bước đạt liền, quả là đại đạo chẳng xa, mà tại người xa đạo. Bởi vậy có câu nói: “Đầu đầu là đạo, bước bước là đạo”.
Băi cát ở phía trước kia lấp lánh rực rỡ vô cùng, mỗi một hạt cát đều sáng choang, quả là kỳ quan, chẳng rơ đó là loại cát ǵ?
Đế Quân: Đó là cát vàng cát bạc, trên thế giới người tăng nhiều, đất tăng ít, tấc đất tấc vàng, bởi vậy một chút đất cũng chẳng thể coi khinh, đất là chỗ đứng chân, không có đất vạn vật nghiêng đổ tán loạn, một hạt chủng tử vương văi xuống nơi đất hẹp, nó cũng có thể sinh sôi nảy nở ra hàng ngàn vạn trái, cho nên đất rất quư.
Trung ương nơi cơ thể con người, là Mậu Kỷ thuộc hành thổ được gọi là núi Linh Sơn, mong người đời chăm lo bồi dưỡng, một sớm thành công, cũng có thể đơm bông kết trái, luyện thành một đấng chân nhân.
Tế Phật: Dương Sinh hăy kể lại những điều vừa thể ngộ được xem sao?
Dương Sinh: “Hoa tâm đầu cành đóa đóa khai, Mặt tỏ mỉm cười hiện Như Lai, Đạo mầu chẳng xa ngay dưới gót, Lặng thinh trong mắt một tiểu hài”. Thưa đức Đế Quân những lời con vừa tŕnh tâu ngài thấy ra sao?
Đế Quân: “Hoa nở trên đầu cành, Hạt rơi dưới chân sinh, Sinh diệt cảnh thay đổi, Thoát xác hiện chân linh". Hay hay, để tôi hướng dẫn Dương Sinh tới phỏng vấn mấy vị cao minh đă đắc đạo.
Dương Sinh: Cảm tạ đức Đế Quân hết ḷng hướng dẫn. Tới nơi thấy rất nhiều vị tu sĩ, họ đi đi lại lại vẻ rất thảnh thơi, toàn thân ngời tỏa hào quang, ngoài ra c̣n có một số vị đang tọa thiền, điều ḥa hơi thở để dưỡng thần, tới thăm thế này liệu có làm phiền quư vị đó không?
Đế Quân: Đừng ngại, Dương Sinh phải lợi dụng cơ hội này phỏng vấn họ về kinh nghiệm tu hành đắc đạo trong thời gian qua để gây hứng khởi cho người đời.
Dương Sinh: Thưa đương nhiên là phải như vậy con cũng không ngại ngùng e lệ. Vị tu sĩ cao minh này đạo khí hơn người nhưng vóc dáng lại giống một bác nông phu... Thưa Thánh thượng cao minh, xin ngài cho đệ tử được rơ về những kinh nghiệm tu đạo mà ngài đă trải qua.
Hoài Đức Chân Nhân: Trong lúc thiền định và điều ḥa hơi thở, tôi đă thấy linh quang của Dương Sinh từ trần gian bay tới. Tôi chẳng hề tu đạo lớn, hôm nay có được địa vị này, là v́ suốt đời tôi tôn trọng giữ ǵn luân thường đạo lư.
Khi đi đứng không hề sai chệch một bước. Tôi trú ngụ ở cạnh một làng, cày ruộng để nuôi thân, nhân có một người cha thuộc nhà nghèo nhưng rất kính Thần trọng Phật,
thường giảng cho tôi nghe những truyện tích xưa nói về lẽ nhân quả báo ứng.
Từ bé đă được dạy dỗ hướng dẫn sống theo tinh thần đạo lư để bồi dưỡng tâm từ bi, nên những khi làm cỏ ngoài đồng, hễ gặp ếch nhái hoặc con cái nó, tôi đều hết sức bảo vệ, để nó được tiếp tục sống yên ổn trong khoảng tiểu thiên địa của nó.
Sau khi gặt hái kết quả, tôi thường mang rau trái biếu hàng xóm dùng, mọi người vô cùng sung sướng. Suốt đời không bao giờ tôi khạc nhổ, tiểu tiện bậy bạ, hoặc chửi trời trách đất. Tôi giáng sinh xuống trần, đối với đất muôn phần kính trọng, không hề phá hoại các long mạch, ra sức bồi dưỡng địa linh.
Trồng cấy hoa màu, giúp đất đai phát huy linh khí, nuôi nấng chúng sinh giúp đỡ chúng sinh. Không ngờ tôi làm như vậy lại đắc địa đạo tức đạo đất, giữ ǵn nhân luân lại đắc nhân đạo tức đạo người, người là hiện thân của đất, đất là hiện thân của trời, do đó mà chứng được thiên đạo tức đạo trời.
Sau khi ĺa đời, ṭa án âm phủ xét thấy tôi không có tội mà c̣n có công, nên được phép lên cơi trời Hoàng Lăo, luyện đạo tại cung Trung Hoa, cảm thấy được hưởng vinh quang tối thượng.
Đế Quân: Nhất cử nhất động đă tuân theo đúng lẽ đạo th́ chẳng cần phải vào núi sâu t́m đạo, mà các việc làm cốt sao tu được nhân tích được đức, bồi dưỡng được tính từ thiện, luôn luôn ôm ấp hoài băo cứu độ chúng sinh, vô h́nh trung linh khí nơi bản thân tăng gia, góp nhỏ thành lớn, cuối cùng linh khí đó sẽ ngưng kết thành vị chân nhân cao sáng.
Ngay Tiên Phật lúc c̣n sống cũng luôn luôn coi việc cứu độ chúng sinh là trách nhiệm của ḿnh, tùy theo hoàn cảnh mà tu luyện thân tâm. Nhà nông căn cứ vào thời tiết để gieo trồng hẳn là huê lợi sẽ thâu hoạch được thành quả lớn lao, do đó mà hiện nay các hăng các xưởng phải cần nhiều chuyên viên.
Chỉ gắng làm việc thật cẩn thận, không phản bội thiên lư, loại người có thiện tâm như vậy, chính trời cũng muốn thâu hồi về cơi đất yên lành để gieo trồng các chủng tử, người đời chớ khinh thường vậy.
Tế Phật: Tới đây đă dạo thăm xong được một phần của cơi trời Ngũ Lăo. Cảm ơn tất cả những ǵ đức Hoàng Lăo đă ân ban để giúp Dương Sinh đạt được lẽ đạo siêu diệu, chúng sinh rồi đây cũng nhờ đó mà khai mở trí tuệ. Tam Thanh Ngũ Lăo là tinh hoa của đạo lớn.
Ư nghĩa ảo diệu đă được tiết lậu hết ở đây, chúng sinh phúc đức sâu dày mới được may mắn coi sách quư này, mong những ai khi đọc xong Thiên Đường Du Kư hăy tĩnh tâm thể ngộ lư đạo cao siêu ở trong đó, cần nhất là đừng phóng ngựa xem hoa, lơ là sẽ gặp lỗi lầm, không làm đúng như lời dặn sẽ chẳng nh́n thấy trái quư ẩn sau đám lá hoa tươi tốt.
Đế Quân: Hai vị cực khổ nhưng công lao cao vời, v́ đă thân chinh lên hỏi thẳng tại cơi trời, về lư đạo để viết thành sách, hy vọng người đời sau khi đọc xong sách này đều được lên thiên đường. Hoàng Lăo tôi cũng mong được tiếp đón quư vị tại nơi đây.
Dương Sinh: Khấu đầu lạy tạ đức Đế Quân đă chỉ rơ bến mê, ơn ích biết là bao nhiêu... Theo thầy trở lại Thánh Hiền Đường.
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 643 of 1146: Đă gửi: 14 August 2010 lúc 10:08pm | Đă lưu IP
|
|
|
THIÊN ĐƯỜNG DU KƯ
HỒI HAI MƯƠI LĂM
DẠO ĐỘNG ĐÀO NGUYÊN VÙNG NÚI CỬU TIÊN
HỎI ĐẠO ĐẠI TIÊN QUẢNG THÀNH TỬ
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 23 tháng 5 năm Canh Thân 1980
Thơ
Nhân sinh như hư hảo đăng trường
Diễn kỹ siêu quần thủ túc mang
Quan chúng kháp kháp cổ chưởng tiếu
Kịch chung nhân tán lệ mang mang.
Dịch
Tuồng đời tuồng rạp hệt như nhau
Diễn khéo bao nhiêu cực bấy nhiêu
Khán giả vỗ tay cười hể hả
Măn tuồng giải tán lệ tuôn trào.
Tế Phật: Sân khấu nhân sinh, hỷ nộ ai lạc, bi hoan ly hợp, mỗi cá nhân đều là một diễn viên đảm trách vai tṛ vô cùng xuất sắc, kỹ thuật tŕnh diễn rất tài t́nh, khiến khán giả ngồi coi trố mắt hả họng vỗ tay cười hô hố.
Tới khi màn hạ khán giả giải tán ra về, cớ sao tại hậu trường máu lệ chua cay lại chảy dầm dề? Ai là người hiểu nổi việc sân khấu này tái diễn màn bi hài kịch thống khổ đó? Mọi cá nhân trong một gia đ́nh bất luận nam nữ trẻ già lớn bé, tất cả đều là diễn viên.
Hàng ngày họp nhau đóng vở tuồng đời bi hài cười ra nước mắt, để rồi tới ngày nào đó một trong hai cẳng bị bại xụi, thân lết không nổi tŕnh diễn chẳng được liền bị con cháu đẩy ra khỏi hư viện gia đ́nh, tới chốn núi hoang đồng vắng độc diễn vở hài kịch “chàng độc cước”.
Danh tiếng diễn viên một thời nổi như sóng cồn, tới khi chết liền bị ch́m ngay vào quên lăng. Con cháu đứa nào đứa nấy nghênh ngang tự đắc, h́nh ảnh cha ông in đậm trong đầu óc nó ngày nào giờ đây phai nhạt tiêu tan, nh́n rơ sâu khấu đó rồi mới thực quá đau ḷng.
Lăo tăng khuyên người đời chớ có bi thương, từ nay trở đi chẳng cần tái diễn vở bi hài kịch thất t́nh đó nữa, chúng ta hăy diễn vở Thần Tiên đại hội để cuối cùng mọi diễn viên đều thành Tiên thành Phật, há chẳng vô cùng sung sướng hay sao?
Dương Sinh chuẩn bị lên đài sen, hôm nay thầy tṛ ḿnh dạo chốn thiên đường, có nhiều cảnh giới đẹp mới mẻ, mau mau nắm lấy cơ hội thật tốt lành này, lập công lập đức để trước sau c̣n vui măi.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh, chỉ mong sao màn kịch này diễn xuất cho thật sống động tinh tế.
Tế Phật: Thần Tiên diễn xuất tuyệt diệu không thể tả được, trong kịch c̣n có thêm một lần kịch nữa. Giờ đây chúng ta hăy lên đài sen, thẳng tiến ngả thiên đường... Dương Sinh có cảm tưởng ra sao?
Dương Sinh: Ngồi trên đài sen ḷng thư thái vô cùng, đó là nhờ ơn ân sư dẫn dắt ngày nay con mới được hưởng ân huệ sâu dày tới mức này. Mong rằng chẳng chỉ một ḿnh con được ngồi đài sen, mà hy vọng tất cả chúng sinh có tâm đạo, mỗi người đều trồng được một đóa hoa sen trong trắng làm công cụ giao thông cho riêng ḿnh, cùng hưởng đặng sự thanh tĩnh sung sướng nơi thiên đường.
Bữa nay phải làm cách nào khai mở được giềng mối đạo cao siêu, hầu giới thiệu hết những cảnh kỳ quan trong sách Du Kư để chúng sinh có cảm tưởng như là đă đích thân tới thăm phong cảnh huyền diệu tươi sáng thiên đường.
Tế Phật: Dương Sinh nói rất phải, nếu như chỉ thầy tṛ ḿnh tới đây để thưởng lăm phong cảnh thiên đường không thôi th́ thực là quá đơn giản và không mấy hứng thú.
Dương Sinh: Chỉ trong chớp mắt đă tới nơi đây, phong cảnh kỳ diệu đẹp đẽ vô cùng, cây cỏ hoa lá xum xuê, đá lạ bày la liệt, linh khí tỏa ngợp giống như đang bềnh bồng bay bổng trong cảnh khói mây, đất Thánh quả là tuyệt vời. Tường đá phía trước có khắc ḍng chữ “Cửu Tiên Sơn, Đào Nguyên Động” không rơ chốn này là đâu, do vị tiên cao minh nào cai quản?
Tế Phật: Nơi đây là chốn cư ngụ của đức Quảng Thành Đại Tiên, chúng ta tới trước bái hội.
Dương Sinh: Hay lắm, theo đường đi tới, như lạc vào giữa cảnh núi non có suối tuôn róc rách, cây xanh mọc thành rừng thanh tĩnh mát mẻ, quả là vùng đất Thánh để nghỉ mát tuyệt đẹp.
Nh́n những thứ bày biện trong động đều là vật thiên nhiên, bàn đá ghế đá, có suối nước tuôn chảy, trên bàn đá c̣n bày đủ thứ trái cây mà chốn phàm chưa hề thấy, khiến thèm chảy cả nước miếng, trong điện có một vị đạo sĩ cao minh đang ngồi trầm ngâm. Thưa thầy có phải đức tiên ông Quảng Thành Tử kia không?
Tế Phật: Đúng đấy, mau tới trước vái chào ra mắt.
Dương Sinh: Đệ tử xin lạy chào đức Quảng Thành Đại Tiên. Bữa nay đệ tử theo ân sư Tế Phật tới Thánh địa Đào Nguyên, kính mong Đại Tiên hướng dẫn chỉ giáo cho.
Quảng Thành Đại Tiên: Dương Thiện Sinh bữa nay tới đây, ḷng tôi vô cùng sung sướng, trước nhất hăy nhận trái Đào Nguyên tuyệt diệu do tôi thân tặng đă, chớ e ngại, các Tiên Đồng hăy mau dâng đào để Dương Sinh cùng Tế Phật dùng.
Tiên Đồng: Xin tuân mệnh, kính mời Tế Phật và Dương Thiện Sinh dùng để giải khí nóng nực.
Dương Sinh: Cảm tạ Đại Tiên cùng Tiên Đồng, đệ tử không dám làm khách. A, vị ngọt ngào hơn cả thứ lê quư ở núi, người ta thường nói: “Ḿnh hay c̣n có kẻ khác hay hơn”, tôi nói: “Núi này cao c̣n có núi khác cao hơn”. Trái ngon của núi Tiên Sơn trần gian tuyệt nhiên không thể có nổi, ăn vào hương vị ngọt ngào thơm nức, không rơ nguyên nhân tại sao?
Đại Tiên: Trái tiên trồng nơi đây nước suối thanh tĩnh dư thừa, khí hậu trong lành, không có bụi bặm ô nhiễm cùng sâu bọ độc xâm phạm, sinh trưởng hoàn toàn tự nhiên không bị gió mưa làm hại hoặc ánh nắng mặt trời thiêu đốt, cảnh tiên lai tràn ngập linh khí, v́ cây tiên kết trái ở giữa hoàn cảnh tốt lành như thế này nên hương vị khác hẳn các loại trái trần gian.
Thế nhân không ưa thứ trái cây sinh ra giữa chốn chợ ồn ào, mà phải sinh ra trong chốn núi sâu thanh tĩnh. Nhân loại nếu như sống ở nơi thanh tĩnh vô dục, vô nhiễm ắt sẽ là trường sinh bất lăo thành kẻ siêu phàm.
Dương Sinh: Đại Tiên nói rất đúng, nếu được sống ở một nơi thanh bạch con người sẽ tránh được dục niệm phiền năo, thân tâm chúng sinh cũng giống hệt trái cây tiên ngọt ngào ngon miệng. Trên bàn có một con cóc đang tĩnh tọa, hai mắt chăm chú ngó đệ tử, không rơ nó có ư ǵ?
Đại Tiên: Cóc là do tinh hoa của ánh trăng hóa thành, là thần linh của thái âm nên cóc đó là thần vật, chỉ hít thở linh khí để sống, là đệ tử đắc ư của tôi, đạo hạnh cao thâm, cũng là nguyên linh của Hồng Sinh, mong Hồng Sinh nhận rơ chân lư thay trời tuyên hóa, v́ thiên chức phổ độ chúng sinh mà gắng gỏi, ngày sau thành đạo tên ghi bảng trời.
Tế Phật: Sự sinh hóa của nhân loại đều có nguyên do của nó, có rất nhiều chim quư thú lạ đều là thần vật, linh khí của nó vượt hẳn phàm nhân một bực, do đó mà cao minh hợp làm một với trời, sâu dày hợp làm một với đất.
Người đời phải quên cái ta, chớ có quá lo cho ḿnh mà không chịu làm lấy chút việc thiện, chôn vùi mất nhân cách, ngày sau sẽ đầu thai phương nao? Người ta ḅ lên cao, c̣n ḿnh lao xuống thấp hay sao? Nếu quả như vậy th́ là chối bỏ nguồn cội con người rồi đấy.
Mỗi cá nhân đều do linh khí của trời đất thai nghén sinh ra, phải biết quư báu điểm chơn linh này, đừng để linh khí tiêu tan, khiến h́nh hài biến đổi, làm mất đi cái vẻ quư báu của châu thân. Cuộc bái phỏng Đại Tiên tới đây xin tạm ngưng, cảm tạ Đại Tiên đă chỉ rơ bến mê, kính biệt.
Dương Sinh: Ân sư hối thúc trở lại Thánh Hiền Đường, do đó phải bái từ đức Đại Tiên, cảm tạ ngài đă ban trái tiên cùng khai thông lẽ đạo cho đệ tử.
Đại Tiên: Tôi chẳng dám giữ lâu, chúc hai vị thuận buồm xuôi gió.
Dương Sinh: Thưa con đă sửa soạn xong, kính mời ân sư khởi hành.
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 644 of 1146: Đă gửi: 14 August 2010 lúc 11:37pm | Đă lưu IP
|
|
|
THIÊN ĐƯỜNG DU KƯ
HỒI HAI MƯƠI SÁU
DẠO ĐIỆN ĐẠI THÀNH BÁI HỘI
CHÍ THÁNH TIÊN SƯ KHỔNG PHU TỬ.
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 13 tháng 6 năm Canh Thân 1980
Thơ
Phục hưng văn hóa lại hồng nho
Lậu hạng oa cư đức bất cô
Đoan chính tứ phi thành chí Thánh
Tội tiêu hà tất niệm nam mô.
Dịch
Phục hưng văn hóa nhớ nhà nho
Cuộc sống thanh bần dạ chẳng lo
Tứ đức giữ ǵn thành chí Thánh
Tội tiêu há phải niệm nam mô.
Tế Phật: Hiện thời ngành giáo dục phổ biến rất sâu rộng, trẻ thơ được sớm đưa tới các vườn trẻ để khai mở trí hiểu biết, rồi tiếp đến tiểu học, trung học, đại học và du học. Có thể nói hầu hết trẻ em hiện nay đều được cắp sách tới trường, tương lai đều là những bậc thức giả tài ba lỗi lạc.
Song chữ nghĩa trong sách vở miệng nói ra vanh vách, đặt bút là thành văn, hoàn toàn v́ công danh lợi lộc c̣n bàn tới chuyện giúp đời cứu người th́ lại sợ hăi lánh xa. Lời dạy trong sách của các thánh hiền đời xưa c̣n lưu lại, đều sử dụng thể tài hỏi và đáp là để tránh sự bắt chước hóa thành ra con vẹt đọc sách.
Lại c̣n lắm kẻ đọc sách càng nhiều, óc gian xảo càng tinh vi khéo léo, kẻ nắm giữ pháp luật kỹ thuật phạm pháp của họ càng tinh tế, đọc sách là cốt mong đạo đức tu tiến, nhưng lại để biến thành phương tiện cốt sao tiền bạc vô nhiều, khiến ḷng lăo tăng buồn vô hạn.
Mong người đời nên thay sách học bằng kinh đạo đức, chớ đừng học kiếm lợi đọc sách cầu học chỉ cốt mở mang kiến thức, nâng cao phẩm tính con người, c̣n nếu như trở thành công cụ mưu sinh, tức là đem sách làm thành tiền giấy, tiền đó thực là chẳng phải đồng tiền có giá trị.
C̣n nếu như sử dụng trí thức trong việc mưu đồ tội ác hẳn là trở thành thứ trí thức sa đọa cách tồi tệ. Bữa nay thầy hướng dẫn Dương Sinh dạo thăm thắng cảnh thiên đường. Chuẩn bị lên đài sen.
Dương Sinh: Thưa con đă sửa soạn xong. Kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Thầy tṛ ḿnh ngồi trên ṭa sen, cưỡi gió đè mây bay thẳng lên cơi trời thanh tịnh. Tục cảnh phàm trần dần dần khuất sau lưng rồi mất tiêu dấu tích... Đă tới nơi.
Dương Sinh: Bữa nay tới nơi này, cảnh trí khác hẳn kỳ trước, khắp nơi đều xuất hiện các bóng văn nhân, tư thế hoàn toàn siêu phàm thoát tục, có vị đang tản bộ ngâm thơ...
Tế Phật: Cảnh trí tới thăm bữa nay là cảnh trí làng nho, phía trước là điện Đại Thành, chúng ta hăy mau tới phía trước lạy chào ra mắt, đức Đại Thành Chí Thánh Khổng Phu Tử.
Dương Sinh: Hay lắm, hay lắm. Vinh hạnh biết bao bữa nay mới được tới thăm thánh cảnh cửa Khổng, mắt nh́n phong quang vườn Hạnh Đàn thấy thực chẳng hư truyền chút nào, phía trước đại điện trên đề ba chữ: “Đại Thành Điện” tứ bề thanh khiết không nhiễm một hạt bụi, hai bên các vị phục sức coi có vẻ nho sinh, học sĩ tỏ ư hoan nghinh chúng tôi.
Đi theo ân sư, vào trong điện thấy một vị cao niên ngồi giữa điện hai bên c̣n có các môn sinh ngồi hầu, trong điện trang trí coi có vẻ cổ kính, bút lông nghiên mực bày ngay ngắn, sách vở quư giá trong rương nhiều vô kể, vị cao niên ngồi giữa điện chính là đức Khổng Tử.
Tế Phật: Vị ngồi chính giữa là đức Chí Thánh của làng nho, danh ngài là đức Khổng Phu Tử, ngồi hầu hai bên là các vị thánh hiền đệ tử của ngài, Dương Sinh mau lạy chào ra mắt đức Phu Tử.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Đệ tử xin cúi đầu lạy chào đức Chí Thánh cùng chư vị thánh hiền, đệ tử ước mong được quư ngài phá ngu để mở trí.
Khổng Phu Tử: Làng Nho rất lấy làm hân hạnh, v́ Dương Sinh hâm mộ đạo nho nên đă đích thân mở đàn giáng cơ lấy tên là Hạnh Đàn, dùng bút Thánh trước tác kinh sách thánh hiền để thức tỉnh người đời, tôi ở tại cơi trời linh thiêng, ḷng cảm thấy được yên ủi.
Làng nho tuy không đề cập đến những chuyện hoang đường kỳ quái, song đức của quỷ thần tràn ngập vũ trụ muôn đời bất diệt bởi vậy tôi không hề phản đối, song tôi nghĩ người chưa biết sống làm sao biết chết nổi?
Tôi sợ họ bỏ gốc chạy theo ngọn, khinh rẻ cuộc sống hiện tại, coi trọng cuộc đời bên kia thế giới, cho nên tôi khuyên các đệ tử là những ǵ có quan hệ tới chuyện quỷ thần đều không được bàn căi tới.
Đạo “trung thứ” tức ḷng khoan ḥa rộng lượng là đức từ bi, khép ḿnh giữ lễ tuân theo đạo nhân từ, tính người hợp với tính trời, tuy không nói tới trời mà đắc được đạo trời, việc sống chết tự nhiên ta làm chủ, cho nên nói: “Sáng nghe đạo, chiều chết cũng cam”.
Con người nếu như sống vô tư, không phản bội nhân luân đạo đức, giữ vững tam cương ngũ thường là hợp đạo lớn, là lúc sống giữ trọn đạo, sau khi chết ắt là về được nơi đất lành, cho nên nói: “Sống ḥa thuận chết yên lành” về nơi mà tôn giáo thường nói là “thế giới cực lạc, c̣n tôi gọi là “thế giới đại đồng”.
Nh́n lại làng nho hôm nay, người dạy kẻ học đều chú trọng văn bằng để làm cần câu cơm, khiến phẩm tính đạo đức băng hoại, v́ coi rẻ cái học tu thân cho nên người đời nói: “Học lắm gian trá nhiều, kẻ ngu lại chính trực”.
Tôi mong người đời đọc sách ngoài việc trau dồi kiến thức ra c̣n phải lo vun bồi đạo lư, c̣n không càng học lắm càng gian trá nhiều, công danh sẽ hủy hoại ḿnh, xă hội phát sinh nhiều tệ đoan, để chứng minh kẻ dụng mưu xảo trá ở cơi đời, lúc về trời sẽ bị đối đăi xảo trá lại.
Dương Sinh: Đức Phu Tử quả xứng với danh đời tặng là “Vạn Thế Sư Biểu” tức vị thầy muôn thuở, nho sinh trên đời ôm ấp măi mối đạo “Đức cùng trời đất, đạo suốt cổ kim” một lời tán tụng làm sao cho đủ, lời Phu Tử dạy như ngọc vàng, đệ tử xin ghi nhớ măi.
Kính xin đức Phu Tử chỉ dạy cho môn đồ cửa Khổng được rơ về phép tu đạo phải như thế nào? Và rồi thành quả sẽ ra sao? để được giống như phu tử cùng chư tiên nho ngày nay đang được hưởng phúc lộc tại cơi trời, tiêu dao tự tại, đệ tử hết sức lấy làm kính mộ song không rơ cách nào để tu tập được đây?
Khổng Phu Tử: Nho sinh đời nay học hành chỉ cốt thi cử, nên sự miệt mài ngày đêm rất ư là vô bổ, chỉ cố nhồi nhét vô đầu cho thật nhiều chữ nghĩa, song ở tư cách tiến thoái lễ nghi đối xử với người với vật hàng ngày th́ lại thấy hiện rơ sự ngang ngược, cho nên thường bị người đời chê là “học mà chẳng hành”.
Nếu như trong giới trí thức ai có lâm vào t́nh trạng này hăy mau suy nghĩ lại, một sớm rời mái trường, ra nhập đời sống xă hội nên đem những lời chỉ dạy của thánh hiền trong kinh sách ứng dụng vào cuộc sống, để luôn luôn ḥa nhă, cung kính, khiêm nhường, cùng xa rời bốn cái "không" là:
không lễ chớ nh́n, không lễ chớ nghe, không lễ chớ nói, không lễ chớ làm. Một ngày ba lần tự nhắc nhở ḿnh, tu thân dưỡng tính, tuy không xuất gia cầu đạo, song thực sự đă hành đạo, làm việc ngoài xă hội thanh liêm chớ tham nhũng, đó chính là cách trí thức báo đền ơn nước.
Ngoài ra lại c̣n phải đối xử b́nh đẳng với mọi người để cảm hóa họ, thực hiện được như vậy cơi trời Đại Thành Chí Thánh sẽ sớm dành sẵn địa vị cho. Một sớm ĺa đời được tới miền đất lành này sống tiêu dao, chẳng c̣n bị luân hồi thống khổ.
Dương Sinh: Th́ ra nguyên lai là như vậy, làng nho tu đạo chỉ cần giữ bốn cái “không” để tránh phạm vào tội lỗi, quả là chẳng khác đạo Phật, vả lại tu đạo ngay giữa cuộc sống quả là thực tế.
Tế Phật: Mỗi cá nhân phải thức tỉnh bốn cái “không” để thành chính nhân quân tử, để giữ ǵn con người thanh cao ở bên trong con người phàm tục quen xưng tụng là thánh hiền, cũng như gọi khác đi th́ là Tiên Phật, lo giúp đời làm lợi cho người, tính linh ḿnh cùng trời hợp làm một.
Sở dĩ ngày nay được là Thánh Hiền Triết Nhân tại cơi trời này là nhờ trước đây tại cơi thế đă từng gây nổi sự nghiệp mưu đồ sự phúc lợi cho đời.
Dương Sinh: Kính hỏi đức Phu Tử, các môn đệ của ngài đứng hầu hai bên, ngài có thể cho biết đời sống của họ tại cơi trời không?
Phu Tử: Có thể, v́ các đệ tử của tôi dốc ḷng học đạo, tâm họ với tâm tôi là một, quyết chí thực hành đạo của tôi, do đó mà ngày nay có thể cùng nhau tụ hợp tại đây, đó chẳng phải là sự ngẫu nhiên.
Tôi có bốn đạo nhân, mười triết nhân, bảy mươi hai hiền nhân và ba ngàn đệ tử cùng với số người học đạo, mà tôi không rơ mặt rơ tên nhiều vô kể, những ai phụng hành những điều tôi chỉ dạy, họ đều được về cơi trời hội hợp chung một nhà.
Đạo Nho không g̣ bó nghi thức như tôn giáo khác, không tin thần bí, nếu như hiểu sâu về đạo tôi th́ phải chính tâm tu thân, khép ḿnh tuân theo lễ, có thể nói các anh tài, linh tính của họ tự nhiên có thể siêu thoát phàm giới đạt tới thánh giới.
Hăy lấy Nhan Hồi hiển thánh mà nói, ở nơi nghèo hèn ăn cơm rau uống nước lă, người chưa hết âu lo th́ ḿnh không vui sướng. Người đời hiện nay, ai có nổi đời sống thanh cao, bảo tŕ được bản sắc đạo nho để trở thành một nho gia quân tử như vậy?
Có ai coi sự giàu sang như mây nổi? Trong hàng đệ tử có nhiều người lúc c̣n tại thế đă từng có phong thái phú quư không dâm dật, nghèo nàn không khuất phục, không sử dụng giới luật như tôn giáo song vẫn giữ giới, coi sự tranh giành nhẹ như băng mỏng.
Lúc sống đă có phong thái như vậy, sau khi chết tự nhiên siêu thoát khỏi sự trói buộc của phàm trần, chứng đạo thành Thánh thành Tiên.
Dương Sinh: Thánh hiền đời xưa đă tu pháp như vậy, c̣n thánh hiền đời nay?
Phu Tử: Thánh hiền hiện đại, chứng được quả vị thánh nhân cũng nhiều, như một số nho sĩ bên ngoài điện, không những chỉ làm tṛn phận sự một nhà giáo dục hiện thời, mà lại c̣n thực hiện được thêm sứ mệnh một nhà đạo đức, v́ suốt đời đă dùng tâm khai mở đạo cho học tṛ, không tham lam thụ hưởng, thân tuy đói lạnh song tâm trong trắng, ngày đêm lo hoàn thành trách nhiệm.
Đạo lư tràn đầy thiên hạ, Hạnh Đàn thơm nức hương. Các vị đó sau khi qua đời đều được lên cơi trời sống tiêu dao tự tại. Do đó ước mong các nhà giáo dục trên thế giới hiện thời phải lo tu tâm dưỡng tính để giáo hóa người, trước khi dạy phải chuẩn bị tinh thần đạo đức cho thật dồi dào hầu truyền bá cho môn sinh, không được phạm các tội thiếu lương tâm có phương hại đến tương lai đám trẻ.
Chớ tham lam mở lớp riêng kiếm tiền, coi giờ dạy chính ở trường là phụ, v́ làm như vậy là không có tinh thần trách nhiệm, vô h́nh trung tán tận mất tính linh của ḿnh, ngày sau bị đày đọa cực kỳ thống khổ. Đất này trồng đầy đào lư, thành tích của mỗi vị giáo sư đều có thể theo đó mà biết được.
Người tận tâm với chức vụ, phẩm tính thanh cao, đào lư đầy vườn, hương vị ngạt ngào, ngược lại đào lư rụng hết lá, không kết nổi trái. Tiếc rằng theo quan niệm của người đời nay th́ vấn đề này chẳng cần đề cập tới, ai có lương tâm đạo đức th́ hăy giữ lấy làm của riêng, ngoài ra chỉ cốt lo tṛn trách nhiệm b́nh thường là cũng đủ rồi.
Tế Phật: Các vị giáo chức trên đời đều là các thánh hiền hóa thân để làm vị thầy muôn đời, gió xuân hóa thành mưa, các học sinh đều đội ơn măi măi. Chớ là vị thầy thiếu lương tâm làm hại tương lai của các học tṛ. V́ thời giờ đă trễ xin cáo từ đức Phu Tử.
Phu Tử: V́ không thể lưu lại lâu hơn, cầu chúc nho phong thánh đức măi thêm huy hoàng.
Dương Sinh: Cảm tạ đức Phu Tử đă ban lời dạy ngọc vàng... Con đă sửa soạn xong, kính mời ân sư trở lại Thánh Hiền Đường.
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 645 of 1146: Đă gửi: 15 August 2010 lúc 12:18am | Đă lưu IP
|
|
|
THIÊN ĐƯỜNG DU KƯ
HỒI HAI MƯƠI BẢY
DẠO BẢO ĐIỆN ĐẠI HÙNG TÂY THIÊN
BÁI HỘI THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 29 tháng 6 năm Canh Thân 1980
Thơ
Phật pháp tây lai nhất tự vô
Toàn bằng tâm ư dụng công phu
Nhăn tàng chính pháp niêm hoa tiếu
Khổ hải từ hàng hóa tục ngu.
Dịch
Phật pháp tới đây một chữ “vô”
Thảy nhờ quyết chí gắng công phu
Cầm hoa cười mỉm truyền chân pháp
Biển khổ thuyền từ độ kẻ ngu.
Tế Phật: Phật pháp từ phương tây tới hóa độ rất nhiều chúng sinh mê muội, nhờ đó mà tính t́nh người Trung Hoa trở nên thuần phát, ư nghĩa Phật pháp khuyên đời đối với văn hóa truyền thống Trung Hoa, không tính trước mà đạt thành, truyền thống này đă tiếp thu tôn giáo ngoại lai, rồi dung hợp phát huy rộng lớn.
Nhờ vậy vùng đất đó đă có lúc trở thành trung tâm tinh thần tín ngưỡng thế giới. Ngày nay người tu theo Phật giáo rất nhiều, phổ biến đạo từ bi thật là rộng răi để giúp đời làm lợi cho người, đối với thế đạo nhân tâm ơn ích quá nhiều.
Xuất thân từ trong hàng thánh tăng nơi cửa Phật, tôi cũng từng là tăng sĩ, La Hán hóa thân rồi bỏ nhà nhỏ của tôi đi tới từng nhà chúng sinh để thực hành duyên hóa độ, nên mới gọi là v́ chúng sinh mà xuất gia. Có một số người xuất gia song lại ẩn náu nơi chùa miếu, chẳng gặp chúng sinh, là từ nhà lớn tức xă hội trở về nhà nhỏ là chùa miếu.
Tự giam hăm ḿnh kể như là kẻ cô đơn, chẳng thể thành Phật muôn nhà, thực đáng tiếc thay. Lăo tăng bữa nay sẽ hướng dẫn Dương Sinh tới cơi trời tây phương, bái hội đức Thế Tôn cùng kính cẩn nghe ngài thuyết pháp.
Dương Sinh: Thưa con đă sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: ...Bảo điện Đại Hùng đă hiển hiện trước mắt, chúng ta mau tới trước lạy chào ra mắt đức Thế Tôn.
Dương Sinh: Điện Đại Hùng coi thật là hùng vĩ, giống như một ngôi chùa vĩ đại ở tại thế gian, có rất nhiều tăng ni mặc áo cà sa đi đi lại lại, trong đó c̣n có các sa di nhỏ, cảnh này quả là một bức tranh tuyệt vời, tất cả các vị đó đều hướng về chúng tôi hành lễ.
Tế Phật: Đây là nước Phật trời tây, hoàn toàn thanh tĩnh không vương một hạt bụi.
Dương Sinh: Đá quư, ngọc lưu ly đầy đất lung linh tỏa chiếu, khí hậu êm đềm, hương vị đạo mầu thơm ngát... Đức Thế Tôn ngồi chính giữa, tướng pháp trang nghiêm, toàn thân hào quang tỏa chiếu sáng ngời, hai bên c̣n có hai vị hộ pháp Vệ Đà khí thế phương phi, khiến người ta có cảm giác thần thánh đang hiện diện, không dám xâm phạm tới...
Đệ tử khấu đầu lạy mừng đức Thế Tôn, bữa nay đệ tử theo thầy tới thăm điện Tam Bảo, trong ḷng vô cùng sung sướng, kính xin đức Thế Tôn khai mở Phật pháp.
Thế Tôn: Dương Sinh hăy đứng dậy. Phật pháp truyền qua đông phương hóa độ rộng lớn, trải qua bao thời đại không suy đồi, mạng huệ tồn tại măi măi là nhờ công Phật giáo đồ xả thân bảo vệ chính pháp, tôi rất cảm động.
Nay gặp thời mạt pháp, các tôn giáo đều phát triển mạnh, riêng Phật giáo truyền bá khắp thế giới, các học giả quy y cửa Phật tu học ngày một đông, đủ biết Phật pháp giúp ích cho chúng sinh thật quả là nhiều. Phàm quy y cửa Phật, phải giữ ǵn giới luật, suốt đời không chán, tu tới minh tâm kiến tánh đều được chứng đắc quả vị.
Dương Sinh là sứ giả cửa thánh giáng cơ, đối với Phật pháp cũng chí thành tu học, quả là bậc trí thức có thiện tâm. Thánh Hiền Đường phổ truyền chân lư thánh hiền rất phù hợp với Phật giáo, bởi lẽ “chớ làm các việc ác, hăy làm các việc thiện”.
Có thể nói đó là chính pháp ở trong thời mạt pháp, Như Lai xuất hiện nơi cửa thánh để hóa độ chúng sinh, mở phương tiện pháp môn, tu công đức vô lượng, mọi người nên học lấy.
Dương Sinh: Đức Thế Tôn dạy rất đúng, cứ theo như đệ tử được biết, tín đồ cửa Phật dưới trần phỉ báng cửa thánh rất nhiều, coi việc giáng cơ bút là ngoại đạo là tà giáo, khiến nhiều người đau ḷng, không rơ đức Thế Tôn nghĩ thế nào?
Thế Tôn: Phật giáo nhân gặp kỳ mạt pháp, đệ tử rời Phật quá xa, chúng sinh thời nay tuy có thiện căn nhưng thiếu tuệ căn, học Phật tu đạo đă đọc ít kinh, lại không chịu tham khảo nghiên cứu rộng răi. Chỉ học có Phật, c̣n ngoài ra kinh điển của các tôn giáo khác chẳng hề ḍm ngó tới.
Hay giải thích theo lối chủ quan nên tạo thành thiên kiến, không coi các tôn giáo khác là “tôn giáo bạn”, rồi miệng chửi, bút chê đạo khác là ngoại đạo là tà thuyết, miệng Phật phun máu, dao đồ tể sát sinh, tôi thật đau ḷng.
Phật có bốn vạn tám ngàn pháp môn, Thánh Hiền Đường thờ phượng Tiên Phật, thánh hiền cổ đại rất ứng hợp với tâm Phật, thanh tâm thụ giới, tĩnh niệm kinh chú, thành tâm cầu khẩn thánh linh thượng giới giáng phàm, mây thơm liền tới, các Phật cùng bồ tát thanh tĩnh đều cảm ứng ḷng thành, giáng lâm thuyết pháp dạy đạo, có duyên khai mở hướng dẫn để quảng độ bến mê.
Nếu như các thiện nam tín nữ phụng hành ngũ giới, ra sức hành thiện, một ḷng niệm Phật, ắt Phật tới ứng, sức Phật hộ tŕ cơ bút viết nên, diệu bút sinh hoa thuyết pháp độ chúng thực là hợp lư dễ thực hành, mong Phật tử chớ coi khinh Phật khác mà tự hủy diệt tuệ căn.
Bởi v́ mắt tuệ của chúng sinh đă bị che mờ, họ chỉ đọc kinh giấy, tai chỉ nghe người nói mới thốt ra lời phỉ báng. Ánh đạo tỏa ngời, bút thiêng xúc động liền viết nên lời, nếu như tôi được thấy chắc hẳn là cũng sẽ “hữu cảm giai thông” tức là có cảm th́ đều thông, niệm Phật Phật tới, c̣n nếu như không tin Phật, mà lại sớm hôm tụng kinh niệm chú, th́ chẳng hóa ra là tà ma ngoại đạo ư?
Dương Sinh: Đức Thế Tôn quả xứng đáng là bậc được thế gian tôn thờ, pháp ngài thuyết khiến người đời quư trọng, thế gian sùng kính lẽ công bằng, các tôn giáo đều chỉ cần không phản bội phong tục ngay lành, có ích lợi cho thế đạo nhân tâm đều là chính giáo.
Phật được đời tôn sùng v́ đă đem từ bi b́nh đẳng ra dạy chúng sinh, coi tất cả chúng sinh như một, bốn loài chúng sinh, sáu ngả luân hồi đều là ba đời quyến thuộc, đều cùng tính Phật, cũng là thân Phật, nếu như khinh thị đồng bào nhân loại, tiếng gọi là học Phật song phản Phật, không rơ cao kiến của đức Thế Tôn ra sao?
Thế Tôn: Phật pháp bao dung tất cả, cho nên mới nói Phật pháp vô biên, ngoại giáo như áo cà sa bên ngoài, kẻ tu hành phải mặc để hộ Phật thân há lại vất nó, hủy nó. Chúng sinh trên đất rộng, mỗi cá nhân đều mang một thiên chức riêng, tôn kính Phật, sống đời sống Phật há lại c̣n nuôi tính chà đạp dày xéo hay sao?
Phàm những kẻ bài xích tôn giáo, đả phá người khác đều do tại tâm riêng rẽ, tâm ghen ghét, tâm sân si chưa diệt, miệng Phật phun thuốc lửa, giết hại biết bao người có khác chi đồ tể. Hoa tươi trái ngọt dâng cúng Phật, hẳn là cũng do chúng sinh ngoại đạo khổ cực trồng trọt, do bàn tay của chúng sinh ngoại đạo vun xới, Phật có chối bỏ không?
Hay là Phật cảm động phát khởi ḷng từ bi. Ăn mặc trú ngụ di chuyển các phương tiện đó của các tăng ni nơi cửa Phật ai người cung ứng? Ai người chế tạo? Mong tăng ni nơi cửa Phật mau vứt bỏ dao đồ tể chớ sát hại bạn lành ân đức, để khỏi bị đày đọa vô thời hạn, khổ báo vô cùng tận.
Dương Sinh: Công đức của đức Thế Tôn vô lượng, Như Lai đại công bằng, tâm hồn vô biên, độ được mọi chúng sinh, thuyết pháp không thiên lệch, chỉ nhằm giúp tâm chúng sinh khai mở, đệ tử xin đảnh lễ ngài.
Thế Tôn: Tôi có chính pháp nhăn tạng lưu truyền thiên hạ, măi măi như kim cương không thể hủy diệt, ai giác ngộ được th́ đều thành Phật.
Dương Sinh: Thưa, có phải đó là pháp “Niết bàn diệu tâm” chăng?
Thế Tôn: Phải. Thực tướng vô tướng, thấy liền ngay trước mắt.
Dương Sinh: Tức là nh́n thấy Phật ngay trước mặt, ngược nh́n phía sau chẳng thấy.
Thế Tôn: Sinh ở đất Phật này, khắp nơi đều là Phật, rời khỏi đất Phật này, thấy ḿnh là Phật, nếu như chẳng thấy, lấy gương mà soi hẳn là sẽ thấy, xác nhận chính ḿnh với Phật là một, “h́nh tâm tướng phản ảnh”, không ĺa xa tâm ắt tự nhiên thành Phật.
Dương Sinh: Phải phải. Đệ tử thấy trước trán đức Phật Đà có một hạt màu đỏ là tại sao?
Thế Tôn: Sinh ra là có, chết đi chẳng mất, một ḿnh tới lui, không mở không nhắm, đó là mắt Phật. Dùng mắt đó nh́n sự vật sẽ không thiên lệch nh́n ḿnh sẽ trung chính không nghiêng trái phải, chỉ một không hai, ngọn đèn sáng trên núi Linh Sơn, nhờ đó mà minh tâm kiến tánh, vào thẳng đất Như Lai cho nên nói chính pháp nhăn tạng, siêu diệu chẳng thể diễn tả bằng lời.
Tế Phật: Mắt đó có thể nh́n thấu suốt tam thiên đại thiên thế giới, lớn th́ như núi Tu Di, nhỏ th́ bằng hạt cát, cho nên nói: “tỏa th́ ngợp cả vũ trụ, thâu th́ lui vào ẩn nơi u mật”.
Dương Sinh: Thưa các tăng ni đại đức xuất gia trên đỉnh đầu có ghi dấu giới luật là nghĩa tại sao?
Thế Tôn: Vết sẹo đốt có mùi hương làm nổi bật tính Phật. Những tăng ni trên đầu có dấu nhang đốt, ư là trên đỉnh sọ đă nở hoa, đầu đó đúng là đầu Phật, điển phải tṛn đầy mới có thể kết thành trái Ba La Mật.
Kẻ thụ giới nếu như phản bội chính đạo ắt dấu ghi giới luật chẳng thể sinh thành mạ bồ đề, vô h́nh trung mọc thành rễ tội ác, đầu biến thành đầu quỷ, do đó Phật quốc tây phương khó có thể tới gần nổi.
Dương Sinh: Th́ ra nguyên lai là như vậy. Phật nháy mắt, nói một lời, làm một chữ đều là pháp Phật, chẳng thể nghĩ suy. Kính hỏi đức Thế Tôn như nay có người tu học đạo Phật th́ họ phải làm như thế nào mới có thể thành đạo?
Thế Tôn: Muốn làm một đệ tử chính đáng nơi cửa Phật, tất nhiên phương pháp tu tŕ phải tuân theo như dưới đây:
1. Tín: Tin Phật là thật, tin ḿnh không giả, tin người không khác lạ, ba điều tin hợp làm một lẽ tướng, kẻ tin được cứu, kẻ tin thành Phật.
2. Giải: Giải ngộ Phật pháp, chớ đui mù v́ chữ nghĩa, muốn giải kinh trước phải giải tâm, nếu như chỉ giải văn chương chữ nghĩa trong kinh, mà chẳng giải gốc tâm khác nào đem thân quư báu nhốt vào nhà ngục, đă là tù nhân làm sao giải thoát thành Phật? Có giải trừ được ba cái độc là tham, sân, si th́ thân tâm mới tĩnh và vào được đất Phật.
3. Hành: Hiểu rành được “tín, giải” nhưng nếu chẳng hành cũng kể như không, tu đạo quư ở sự thực hành cho nên mới nói “tu hành”. Hành giả cần phải có phong thái mô phạm thanh cao, v́ “hành giả mà đi một ḿnh, th́ đạo mà hành giả tu đó chỉ là đạo nhỏ, đạo có nhiều kẻ đồng hành cùng tu, mới là đạo lớn”.
Cho nên hành giả đi một ḿnh là để hóa độ chúng sinh đồng hành, có như vậy mới hợp tôn chỉ của đạo từ bi là: “không làm anh hùng hảo hán cá nhân”.
4. Chứng: Phật có tám vạn bốn ngàn pháp môn, phàm thành tâm kiên tŕ tu luyện đều có thể thành đạo, bất kỳ ai
có tu là có nghiệm, thiền tăng cư sĩ thực tu là thực chứng. Các tôn giáo, các pháp khác cũng vậy họ có tu họ đều có chứng, chớ có sinh tâm phân biệt, sân hận, phỉ báng để rồi tự thiêu hủy chôn vùi mất tự tính công đức, tiêu diệt mất tuệ căn, khác nào cây đập “người đi”, lá rơi quả rụng.
Chỉ v́ muốn hại người mà bị người hại, cho nên nói: “Lấy lửa đốt trời thành tự đốt ḿnh” phải nhớ kỹ điều đó. Bốn điều kể trên đă đủ là căn bản để bước vào con đường tu đạo, chỉ cần thanh tĩnh thêm ba nghiệp, là giác ngộ được ba kiếp nhân quả luân hồi:
1) Thân nghiệp: Không đi nẻo tà, không nhiễm thói ác, không nỡ hại sự sống tức là không giết chóc, không trộm cướp, không gian dâm ắt thân nghiệp thanh tĩnh.
2) Khẩu nghiệp: Không nói lời xằng bậy, gian dối điêu ngoa, vu oan giá họa ắt khẩu nghiệp thanh tĩnh.
3) Ư nghiệp: Không tham, sân, si ắt ư nghiệp thanh tĩnh. Thanh tĩnh được ba nghiệp rồi lại c̣n phải chăm chỉ hành pháp “lục độ”:
1. Bố thí: Thấy bất cứ chúng sinh nào đau khổ ḿnh đều phải có ḷng từ bi, tinh thần cứu giúp “người bị ch́m đắm coi như là ḿnh bị ch́m đắm, người bị đói khát coi như là ḿnh bị đói khát, phải bố thí để cho kẻ khổ bớt khổ, kẻ mê hết mê”. Bố thí chia làm ba loại như sau:
a. Bố thí tiền tài: Dùng tiền bạc, đồ vật giúp đỡ kẻ nghèo khổ để đời sống của họ khá hơn. Ấn tống kinh sách dạy điều thiện để khuyến hóa độ nhân, để cải thiện tâm tính chúng sinh.
b. Bố thí dũng: Đối với những kẻ thống khổ phải mềm mỏng thương yêu an ủi họ, thấy người nguy khốn ra tay cứu giúp để tâm nạn nhân được b́nh an, chớ khiến họ hoảng kinh thêm. C̣n đối với chùa chiền Phật đường ra sức quét dọn tu bổ, đối với những kẻ phỉ báng chính pháp, nên sử dụng dũng chí phát huy chân lư để cảm hóa họ.
c. Bố thí pháp: Dùng các điều ḿnh đă học, đă giác ngộ được về chân lư Phật pháp thuyết giảng cho mọi người cùng biết, để họ cũng được hưởng mưa pháp thấm nhuần, chuyển mê thành ngộ, học tu thành đạo.
2. Tŕ giới: Giữ ǵn giới luật nghiêm chỉnh mới có thể hiển lộ được pháp tướng đoan trang. Có tŕ giới th́ thân, khẩu, ư mới thanh tĩnh không phạm ác nghiệp. Phải giữ năm giới là: không sát sinh, không trộm đạo, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Ngoài ra xa hoa, ca múa, hút ma túy khiến thần mê, mắt loạn đều bị cấm chỉ để giữ thân tâm thanh tịnh.
3. Nhẫn nhục: Con đường tu đạo trở ngại ắt nhiều, gặp sự chửi bới gây gổ không oán không giận, dùng “nhẫn” hóa “nộ” ắt tâm tự an. Ngoài nhẫn đói lạnh, trong nhẫn thất t́nh lục dục, có như vậy đạo chí mới vững bền, chẳng sợ nguy khốn việc học đạo độ người mới có thể thành nổi.
4. Tinh tiến: Biển Phật vô biên, núi đạo cao vời học không ngừng nghỉ, nghiên cứu chân lư không một phút rời. Nếu như sai lầm được người chỉ dẫn phải sửa đổi ngay, gặp cơ hội giúp ích cho chúng sinh phải gắng sức làm ngay không được chối từ, chăm chỉ không được lười biếng ắt tới được bờ bên kia.
5. Thiền định: Muốn tu luyện thành Phật, cần phải tĩnh tâm để khỏi rối loạn. Phải phổ độ chúng sinh tinh thần cần phải được huấn luyện thật đặc biệt th́ khi thiền định tư tưởng đen tối mới có thể phát sinh trí huệ, gặp khi động loạn mới có định lực.
6. Trí tuệ: Tâm tính kẻ tu hành đều có trí huệ cao, thiên kinh vạn quyển kiến thức sâu rộng, từng trải việc đời có thể biện luận thông suốt. Biết hết mọi điều hóa độ chúng sinh không những tự nhiên dễ dàng, bản thân kẻ tu đạo lại có thể tránh khỏi đọa lạc vào ṿng ma chướng.
Dương Sinh: Những lời đức Thế Tôn chỉ dạy về Phật pháp quả là kim chỉ nam cho những kẻ tu hành, đệ tử được ban ân quá nhiều, cúi đầu lạy tạ đức Thế Tôn.
Thế Tôn: Người đời nếu như biết tôn trọng và thi hành các pháp tu tôi vừa tŕnh bày chắc hẳn sẽ thành đạo.
Tế Phật: V́ thời giờ đă trễ, bữa nay xin ngừng tại đây, bái từ đức Thế Tôn.
Thế Tôn: Lành thay, ước mong Phật pháp phổ truyền rộng răi khắp thế giới để chúng sinh cùng được hưởng mưa pháp, khỏi đau khổ, được yên vui.
Tế Phật: Dương Sinh lên đài sen... Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 646 of 1146: Đă gửi: 17 August 2010 lúc 1:05pm | Đă lưu IP
|
|
|
THIÊN ĐƯỜNG DU KƯ
HỒI HAI MƯƠI TÁM
DẠO NÚI PHỔ ĐÀ Ở NAM HẢI
LẮNG NGHE ĐỨC QUÁN THẾ ÂM THUYẾT PHÁP
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 9 tháng 7 năm Canh Thân 1980
Thơ
Tử trúc lâm trung quán tự tại
Bạch liên ṭa thượng tọa Quán Âm
Phổ Đà phi viễn tâm đầu thị
Bồ tát tâm trường thể nội tầm.
Dịch
Tự tại quán thông chốn trúc lâm
Trên ṭa sen trắng hiện Quán Âm
Phổ Đà ở đáy tim ḿnh đó
Bồ tát trong ta há phải tầm.
Tế Phật: Trên đời rất nhiều người sùng bái đức Quán Thế Âm Bồ Tát, bởi v́ pháp tướng ḥa ái của ngài giống như bà mẹ hiền trong gia đ́nh, nên được người ta yêu mến thích gần gũi, do đó ngài c̣n được tôn vinh là đấng nghe thấu tiếng kêu thương của mọi nhà, là Lăo Mẫu Quán Âm, lạy đức Quán Âm cũng như lạy mẹ già.
Đức Quán Thế Âm Bồ Tát là đức Phật xưa tái sinh, đă thành Phật từ muôn ngàn kiếp trước, hiệu là Như Lai Minh Chính Pháp. Cho nên c̣n gọi là “Quán Âm Cổ Phật” hoặc “Nam Hải Cổ Phật”. Ngài nghe tiếng kêu thương mà cứu khổ cứu nạn, hạnh nguyện to lớn của ngài hiện diện khắp mọi nơi mọi thời, đó là nguyên nhân chính khiến người ta tôn kính sùng bái ngài.
Thế nhân tại sao không tu thành Quán Âm để hành đạo bồ tát? Bữa nay ta hướng dẫn Dương Sinh dạo núi Phổ Đà ở Nam Hải bái yết Bồ Tát Quán Âm để cầu xin ngài khai mở Phật pháp. Bồ Tát Quán Thế Âm ngày xưa thành đạo tại rừng Trúc Tử thuộc miền núi Phổ Đà đất Nam Hải, ngày nay cũng dạo cảnh này nhưng đă biến hóa ở cơi trời tây phương.
Dương Sinh: Thưa con đă sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: ...Đă tới Nam Hải, Dương Sinh xuống đài sen.
Dương Sinh: Phía trước tại sao lại có biển lớn, thưa làm cách nào để vượt qua?
Tế Phật: Thầy cũng chẳng cách nào vượt qua cả, ṭa sen này lớn lên từ trong nước nóng, nếu như vượt qua biển lớn, nước mặn của biển khổ ngấm vào hoa sen, sợ rằng hoa sen sẽ khô héo, chẳng biết tính sao đây?
Dương Sinh: Thưa thầy thử đi trên mặt biển xem có bị ch́m hay không?
Tế Phật: Đúng đấy, để thầy thử xem, con hăy nán đợi một chút.
Dương Sinh: Ân sư đi trên mặt nước, quả thần thông quảng đại, giống hệt như đi thuyền, không hề bị ch́m.
Tế Phật: Con thấy thầy ra sao? Đôi chân của thầy quả là vạn năng nào như đi trên mặt đất, trên mặt biển, trên không trung thông dụng khắp ba cơi. Dương Sinh hăy cố học lấy.
Dương Sinh: Thưa đạo hạnh của con không đủ nên con chẳng dám thử, sợ rằng sẽ ch́m xuống đáy biển.
Tế Phật: Đừng lo, đă có thầy bên cạnh, lỡ có chuyện ǵ thầy sẽ cứu con ngay.
Dương Sinh: Như vậy để con thử coi... Ái cha, quả là bất hạnh! Con sắp chết ch́m, ân sư mau cứu con.
Tế Phật: Chớ có sợ, để thầy kéo con lên bờ.
Dương Sinh: Hay quá, được ân sư cứu cấp, không th́ con đă ch́m xuống đáy biển để đàn cá điểm tâm.
Tế Phật: Chớ có sợ hăi.
Dương Sinh: Xin hỏi ân sư, tại sao thầy đi trên mặt nước lại không ch́m c̣n con th́ ngược lại, xin thầy chỉ cho con bí quyết?
Tế Phật: Con muốn biết thầy cũng chẳng giấu giếm, thầy nói để con hay ngay, con hăy nhớ lại những người không biết bơi song ở trong hồ tắm họ cũng chẳng ch́m là bởi v́ họ có đeo phao, trong phao chứa đầy không khí, ḷng phao đương nhiên rỗng rang, do đó có thể nổi trên mặt nước.
Đă biết rơ được nguyên lư này th́ khi con ở trên mặt nước tự tâm niệm thân con là một trái khinh khí cầu trong ruột trống rỗng, th́ tự nhiên trôi nổi giữa không trung. Nếu như không tin, con hăy nh́n gióng trúc, trái khinh khí cầu, thùng sắt.. chỉ cần phía trong có đầy khí hay nói cách khác “giữ gốc nắm cái ruột, một niệm không hề dấy” ắt sẽ chẳng ch́m.
Dương Sinh: Thầy nói rất có lư, con đă hiểu một cách thấu đáo.
Tế Phật: Đây cũng là cách minh thị cho kẻ sống ở đời, không thể tham lam chấp mê h́nh danh sắc tướng thế tục, ngược lại sẽ dễ bị đọa đày trong sáu nẻo luân hồi. Nếu như vứt bỏ tất cả, chẳng để cho vật dục ái t́nh nơi cơi thế trói buộc th́ thân ḿnh ắt tràn đầy khí hạo nhiên chính trực thân sẽ như trái khí cầu, chẳng bị vật chất níu kéo dẫn tới đọa lạc, tự nhiên có thể bay thẳng lên thiên đường.
Như nay thầy thân tứ đại tức nước lửa gió đất đều thông, nên nước biển không bám nổi thầy, do đó mà thầy thoát khỏi sự nguy hiểm chết ch́m. Nếu như người ta một hạt bụi không nhiễm, coi vật chất như mây nổi th́ tự nhiên đi trên nước trên mây, siêu thoát khỏi bể khổ, không c̣n bị luân hồi.
Dương Sinh: Phía trước có một con thuyền nhỏ đang đi tới, giống loại thuyền buồm, chẳng rơ đó là ai?
Tế Phật: Ha ha, đức Quán Âm Đại Sĩ đang đáp thuyền từ, ngài đă biết thầy tṛ ḿnh đang thử đạo ở đây do đó ngài
đến nghênh tiếp chúng ta.
Dương Sinh: Chiếc thuyền nhỏ đă cặp bờ, trên thuyền quả nhiên thấy có một vị bận áo trắng, tà áo phấp phới bay. Đức Quán Thế Âm Bồ Tát tướng mạo trang nghiêm, dung nhan hiền từ dễ mến, so với h́nh ảnh ngài khi tôi nằm mơ giống y hệt, bữa nay quả là hạnh ngộ, đệ tử lạy chào ra mắt đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
Quán Thế Âm Bồ Tát: Dương Thiện Sinh hăy đứng lên, tôi ở tại rừng trúc tía ở trên núi Phổ Đà nghe hai vị nói là muốn dạo thăm chốn tôi cư ngụ, và mắt huệ nh́n thấy rơ hai vị thử đạo tại đây nên đặc biệt đem thuyền từ tới rước, mời hai vị lên thuyền.
Dương Sinh: Hay quá, kính thưa đức Quán Âm tại sao thuyền từ này lại nhỏ bé thế này?
Quán Âm: Chỉ độ nhị vị mà thôi, lớn quá sẽ cồng kềnh không tiện, nếu như có nhiều khách đi, thuyền này tự nhiên lớn rộng thêm. Phàm kẻ tu thân học đạo, nếu như tâm họ kiên tŕ không dời đổi hẳn là cả ức người tiêu dao nơi đất Phật, chỉ cần hô danh hiệu Quán Thế Âm, tôi liền hiện ngay ra bên cạnh họ, v́ thuyền từ rộng lớn vô chừng, có thể độ hết thảy chúng sinh trong thiên hạ.
Dương Sinh: Đại Sĩ từ bi, pháp môn vô biên, quả là phúc lớn cho chúng sinh.
Quán Âm: Tôi sắp khởi hành, Dương Sinh bám chặt lấy mạn thuyền, v́ tốc độ lẹ như bay, sẩy tay sẽ té xuống biển rất là nguy hiểm.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh, đệ tử đă chuẩn bị xong, kính mời Đại Sĩ từ ân khởi hành... Thuyền này không có máy, tại sao Đại Sĩ lại có thể phóng như bay, quả là thần kỳ?
Tế Phật: Thuyền này chẳng giống như thuyền thế gian, chẳng cần dùng máy, chỉ cần Đại Sĩ khai khẩu, tự nhiên thuyền lao đi. Bởi v́ máy đă trang bị sẵn trong tâm Đại Sĩ rồi, chỉ cần tâm niệm, máy liền quay tít không ngừng, do đó mới kêu là “thuyền pháp”.
Dương Sinh: Quả là kỳ diệu, tâm động ắt thuyền động, tâm ngưng ắt thuyền ngưng, Bồ Tát cưỡi thuyền từ chứ không phải thuyền từ cưỡi Bồ Tát. Ư nguyện của Đại Sĩ quảng đại vô biên, vô tận cho nên mới có thể hóa thân khắp nơi để thuyết pháp, cứu khổ cứu nạn.
Tế Phật: Đó là núi Phổ Đà thuộc cơi trời Tây Phương, bữa nay chúng ta tới đấy để lắng nghe đức Đại Sĩ thuyết pháp.
Quán Âm: Chúng sinh mê đắm thất t́nh lục dục, thân ch́m trong biển khổ nên thường gặp nghịch cảnh, lỗi lầm đó do chính ḿnh tự chuốc. Bữa nay cửa thiện rộng mở, Phật từ cơi Tây Thiên giáng hạ Bồng Lai để phổ độ. Tế Phật, Dương Sinh đă có công tới đây thăm xin mời đi theo tôi để cùng ngoạn cảnh.
Dương Sinh: Rừng trúc xanh ngập núi, không khí tươi mát, bên cạnh c̣n có nước chảy róc rách, quả là vùng đất thánh tuyệt diệu.
Quán Âm: Đó là sự quan hệ giữa rừng trúc tía và nước sương ngọt tức cam lộ, nước cam lộ chảy về biển khổ để làm giảm bớt vị đắng cay của người đời, nên đă trở thành nước pháp cứu độ chúng sinh.
Dương Sinh: Phía trước có một ao sen lớn, nở đầy hoa sen trắng khiến người ta say sưa ngắm, rừng trúc bên cạnh xanh tươi ngút trời, vây thành một cái động trời tự nhiên, ngoài ra trong đó c̣n có hai vị tiểu hài đồng, chẳng rơ họ là ai?
Quán Âm: Đó là Thiện Tài và Lương Nữ. Tôi ngự trên đài sen trắng trong rừng trúc tía này thanh tĩnh vô kể, song v́ nghĩ rằng chưa độ hết được chúng sinh, cho nên bất kể giờ phút nào tôi cũng đều hóa thân giáng phàm cứu độ chúng sinh.
Phàm những ai nhớ danh hiệu tôi, khi gặp khổ nạn tôi đều xuất hiện giúp đỡ, mong chúng sinh thông cảm tâm tôi làm nhiều điều nhân nghĩa, ắt thân họ là thân tôi hóa thành để có thể tùy thời mà giúp đỡ kẻ khác. Tâm đă hợp với tâm bồ đề của tôi th́ tâm linh của người chắc chắn sẽ
tương hội với tâm tôi.
Phàm những ai tu đạo bồ đề, suốt đời không thối chí, nhất định sẽ thành chính quả. Tôi đă ngồi trên ṭa sen.
Dương Sinh: Thân phiêu nhiên của Đại Sĩ thoáng cái đă bay lên đài sen, vóc dáng ngài thanh thoát y hệt như tiên nữ, phiêu diêu thoát tục...
Tế Phật: Dương Sinh có thể thuật lại thế ngồi của Đại Sĩ cùng cảnh trí tại đây lúc này không?
Dương Sinh: Thưa được.
Tử trúc lâm trung phủ bạch liên
Quán Âm tĩnh khán thủy trung thiên
Thiện Tài Lương Nữ song biên lập
Cam lộ liễu chi biến đại thiên.
Nơi rừng trúc tía trắng hoa sen
Trời nước Quán Âm lặng lẽ nh́n
Lương Nữ Thiện Tài hầu cạnh mẫu
Cành dương cam lộ ngập không gian.
Thưa có phù hợp không?
Tế Phật: Hay lắm, hôm nay Dương Sinh đă tới được nơi này, hăy xin Đại Sĩ khai thị Phật pháp nhiều cho.
Dương Sinh: Thưa vâng, cuộc kỳ ngộ bữa nay thực là khó gặp, kính xin đức đại từ đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát thuyết pháp để giải rơ bến mê cho.
Quán Âm: Lành thay, trần thế hiện giờ đời sống hưởng thụ vật chất đă tới mức cao độ, từ cơi Thánh quan sát cảnh này th́ thấy thế nhân quả là được hưởng phúc, chư Phật đều lấy làm mừng.
Nhưng phần lớn những kẻ được hưởng phúc lại đắm ḿnh trong cảnh “tửu sắc tiền tài” là bốn hố thẳm tội lỗi lớn, v́ hưởng thụ quá độ diễm phúc trời ban, không tiết chế nổi, càng đi vào nẻo tà càng bị đọa lạc cuối cùng tạo thành ác nghiệp quả báo.
Nh́n cảnh bất hạnh này của chúng sinh ḷng tôi cảm thương vô hạn. Nay nhờ có Thánh Hiền Đường mở đàn cơ bút để phát huy đạo giáo, duy tŕ đạo đức nhân tâm khỏi sa đọa, khuyên người hành tam cương ngũ thường, tu ngũ luân bát đức, cải thiện hoàn cảnh xă hội bất lương, khứ trược lưu thanh, thắp sáng đường tăm tối.
Tôi thường giáng lâm các Hiền Đường chấp bút thuyết pháp độ người, khuyên răn dẫn dụ chúng sinh tin tưởng Phật pháp, giữ ǵn ngũ giới, học đạo tu pháp để minh tâm kiến tánh, chứng đắc quả Phật.
Bữa nay Dương Thiện Sinh tới đây, tôi vô cùng sung sướng, giờ đây tôi hướng dẫn Dương Thiện Sinh đi hỏi đạo một số vị đạo sĩ đă tu thành quả vị Bồ Tát.
Dương Sinh: Cảm tạ sự hướng dẫn của Đại Sĩ.
Quán Âm: Hăy đi theo tôi.
Dương Sinh: Đại Sĩ nhẹ nhàng như mây, thoáng cái đă rời ṭa sen, dáng đi như mây bay nước chảy... A, ven đường núi xanh nước biếc quả không thẹn là cảnh tiên. Tới nơi, phía trước có rất nhiều tịnh xá, dưới gốc cây bồ đề có các tăng lữ ngồi, ngoài ra bên cạnh các gốc cây khác có một số vị tóc dài đang ngồi thiền định, tất cả đều có vẻ quên ḿnh.
Quán Âm: Các vị Bồ Tát đó lúc c̣n tại thế đều tu đạo Bồ Tát, sau khi thành đạo tới đây tĩnh tu, không kể xuất gia tại gia, chỉ cần học tinh thần tu tŕ độ chúng của tôi, nhất định sẽ thành tựu, Dương Sinh có thể hỏi đạo họ.
Dương Sinh: Thưa vâng, xin hỏi đức Bồ Tát (vị này là một tăng sĩ mặc áo cà sa, vẻ mặt từ bi, ṿng hào quang trên đầu tỏa chiếu sáng ngời, và v́ có thụ giới cho nên hào quang phát ra càng mạnh mẽ). Thưa ngài đă tu cách sao mà đạt được đạo quả như ngày nay?
Bồ Tát Trí Quang: Pháp danh của tôi là Trí Quang, lúc sống xuất gia quy y Tam Bảo, chăm lễ đức Thế Tôn, hành đạo Bồ Tát. Tôi thấy rằng tu Phật học đạo, cốt ở việc giúp đời cứu người, xuất gia chẳng phải là chỉ cố giữ Tam Bảo trong điện, quy y Phật, pháp, tăng là phải học tập tới chân tủy của ba bậc đó, tức là phải thực hành những gương tốt của các bậc đó để lại.
Bởi trong khi tu hành, ngoài những công tác từ thiện như giảng kinh khuyến hóa, phóng sinh, tế bần, cứu nạn... tôi c̣n tận lực tu dưỡng nội tâm, tham thiền nhập định, đối với Bồ Tát Quán Âm tôi lại càng kính cẩn lễ bái, các bạn đồng tu nếu như có ai bị đau ốm thống khổ tôi đều tận tâm giúp đỡ, giải nguy để họ thể hội được tinh thần từ bi của nhà Phật.
Khiến càng kiên định tin tưởng tu hành. Về quá tŕnh tu đạo của tôi cũng gặp nhiều ma nạn khảo đảo, gặp nghịch cảnh tinh thần hoảng hốt, song tự biết là nghiệp chướng chưa tiêu nên bị chà đạp, trong lúc thống khổ ḷng tôi không hề bấn loạn, gắng sức giữ vững lập trường, suốt đời hành thiện tu đức.
Quảng bá Phật pháp nên cảm hóa được rất nhiều chúng sinh, cuối cùng tu thành quả vị Bồ Tát. Tại đây tôi thường cung kính lắng nghe đức Thế Tôn cùng đức Quán Âm thuyết pháp, để tĩnh tu lại cho tới khi chứng đắc quả vị cao hơn.
Mong người đời tu đạo chớ có v́ tư lợi, hăy luôn luôn ôm ấp hoài băo tâm Bồ Tát, giúp đỡ thật nhiều cho chúng sinh, trong khi ban phát tâm từ bi thương xót, th́ tâm ḿnh cũng hóa thành tâm Bồ Tát, lâu ngày tâm thông suốt, dạ không c̣n trở ngại, tự nhiên thành tựu quả vị Bồ Tát.
Dương Sinh: Cảm tạ Bồ Tát Trí Quang đă phát tâm thuyết pháp, lấy tâm “đại bi” giúp người để rồi đạt được quả vị “đại hỷ” lẽ nhân quả mảy may không sai chệch.
Lại xin hỏi vị Bồ Tát (vị này để tóc nhưng hào quang trên đầu cũng tỏa khắp bốn phía, tướng mạo cao quư, khí chất phi phàm) thưa ngài đă tu cách nào mà đạt thành được chính quả.
Từ Ngộ Bồ Tát: Tôi là nữ cư sĩ tu đạo tại gia, nhân tiền sinh tôi làm công chức, sau khi các con của tôi trưởng thành, tôi được thanh nhàn, nhờ một người bạn giới thiệu, tôi tới chùa xin quy y tam bảo, trở thành cư sĩ tại gia.
Từ đó chăm chỉ nghiên cứu kinh Phật, ăn chay, giữ giới, niệm Phật, tĩnh tâm, trí tuệ mở lớn, liễu ngộ nhân sinh tứ đại giả hợp, duy có Phật tính là chân thực, do đó thường bố thí tiền bạc ấn tống kinh sách, gặp người nghèo khó ra sức giúp đỡ.
Nhân người em trai mở tiệm thuốc tôi cũng bỏ tiền ra mua thuốc phát không, suốt đời làm việc thiện, tích được nhiều công đức, chăm lo tu tâm sửa tánh, khí chất ổn định, không phạm tội ác, cuối cùng tu thành đạo quả Bồ Tát.
Dương Sinh: Làm Bồ Tát tại gia càng dễ gần gũi chúng sinh, tận tâm tận lực, phát huy tinh thần Bồ Tát cứu khổ cứu nạn cuối cùng thành đạo, thực quả đáng kính phục.
Xin hỏi đức Bồ Tát (vị này ăn bận xuề x̣a, hào quang trên đầu tṛn trịa, tướng coi rất phúc hậu) không rơ ngài tu cách sao mà lại đạt thành được chính quả?
Đức Nhân Bồ Tát: Tôi là cư sĩ tu đạo tại gia, tôi nhờ bạn bè giới thiệu thầy học đạo, sau khi thụ giáo minh sư, giác ngộ được chân lư nhân sinh nên độ được chúng sinh. Tôi cũng nghiên cứu và tu cả đạo Nho nên đă phát giác ra rằng lư đạo nhiệm mầu của hai đạo giống nhau, do đó mà lúc c̣n sinh tiền tôi không hề bài xích đạo Nho.
C̣n các kinh như: Đạo Đức Kinh, Thanh Tĩnh Kinh, Tứ Thư, Ngũ Kinh tôi đều nghiên cứu và thể nghiệm rất sâu xa, bởi vậy tôi thường đàm đạo cùng các đạo gia tu sĩ. Phàm những sách dạy về cách tu tâm dưỡng tính, nếu thấy được tôi đều ra sức nghiên cứu tu luyện.
Tôi c̣n tập cả nội ngoại công để trau dồi cơ thể, suốt đời vui đạo làm việc thiện, quảng độ chúng sinh hướng thiện, ra sức tế bần cứu thế do đó mà tu thành quả vị Bồ Tát.
Dương Sinh: Sau khi thỉnh giáo đức Bồ Tát, cảm thấy rằng thân này tu đạo chẳng dễ, bất luận quy y tông phái nào cũng đều phải lo công quả cứu người, giúp đời. Không có tinh thần giúp người hẳn là tâm từ bi không hiển lộ ra được, muốn đắc quả Bồ Tát lại càng không đủ tư cách.
Một kẻ không chịu giúp đỡ người khác hẳn là sẽ thành quỷ tham lam lợi lộc, tâm địa nhỏ nhen, chỉ lo sao cho đầy bao tử ḿnh, chẳng thể thông suốt được cảnh giới vô hạn, tất cả những ǵ thành đạt được đều chỉ là giới hạn.
Tế Phật: Dương Sinh nói rất đúng, mong thế nhân chăm lo vun bồi tâm đức mới tránh khỏi sinh bệnh ung thư, hủ bại ăn uống chẳng được. Bữa nay xin bái từ đức Đại Sĩ tại đây.
Quán Âm: Thời giờ đă trễ, tiễn hai vị trở lại Thánh Hiền Đường, tôi rất hoan nghênh nếu quư vị tới thăm chốn này thường xuyên.
Dương Sinh: Cảm tạ đức Quán Thế Âm từ bi hóa độ, đệ tử xin cáo từ. Thưa con đă sửa soạn xong, kính mời ân sư trở lại Thánh Hiền Đường.
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 647 of 1146: Đă gửi: 19 August 2010 lúc 11:45pm | Đă lưu IP
|
|
|
THIÊN ĐƯỜNG DU KƯ
HỒI HAI MƯƠI CHÍN
DẠO THẾ GIỚI CỰC LẠC TÂY PHƯƠNG
LẮNG NGHE ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ THUYẾT PHÁP
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 26 tháng 7 năm Canh Thân 1980
Thơ
Vô trần lạc đắc nhất thân khinh
Tĩnh thổ cần bồi phương thốn canh
Quả măn công viên quy cực lạc
Thiên biên hải giác nhậm du hành.
Dịch
Thoát tục vui thay xác nhẹ nhàng
Đất lành vun xới sống thênh thang
Tṛn đầy công quả về chầu Phật
Biển rộng trời cao thỏa vẫy vùng.
Tế Phật: Khắp nơi đều nghe thấy có người học Phật tu đạo, song cuối cùng muốn học Phật tu đạo phải làm sao đây? Theo như lăo tăng thấy th́ cũng chẳng có ǵ, chỉ cần hỏi lại ḷng ḿnh mà thôi, nếu như thấy tâm không thẹn, tôi cho là đă gần Phật rồi đấy.
Xa rời tâm tức chẳng có Phật để t́m, như trong một ngôi chùa không có một vật chi hết, hẳn chẳng thể gọi là chùa được, trong cơ thể con người nếu như không có tâm th́ làm sao thành người nổi. Do đó nguyện chúng sinh hăy gắng trở thành người có tâm.
Tâm có thể biến hóa vô cùng, giống như một chuyên viên vẽ kiểu y phục giỏi, có thể vẽ hàng trăm, hàng ngàn bộ đồ kỳ quái khác nhau. Tâm người có thể ví như chuyên viên vẽ mẫu y phục, có thể biến đổi diện mạo thân h́nh ḿnh thành nhiều vẻ khác nhau, muốn biến thành Phật thành ma đều tùy tâm ḿnh muốn.
Mỗi cá nhân là một vị thầy ma thuật, muốn bỡn bất cứ cách chi, đi bất cứ kiểu ǵ, chọc cười cách nào đều làm được cả. Lăo tăng chỉ hy vọng biến thành người tốt, biến thành Thần Thánh Tiên Phật, chứ đừng tự biến ḿnh thành ma thành quỷ để cho người đời sợ hăi chán ghét, th́ thực quả là quá u mê ngu tối.
Biến thành tốt biến thành hoại đều do một tay ḿnh tạo nên, đem ḿnh biến thành địa ngục quỷ quái hoặc trâu ḅ gà vịt, soi gương nh́n lại vóc dáng nhảy lên thất thanh kêu lớn... Khi đó mới vỡ lẽ ra là chẳng thể biến thành bức vẽ kiểu mẫu, thụ pháp chẳng cao minh cho nên đă biến hóa sai.
Nghe lời lăo tăng nói, bản lai diện mục tức bộ mặt chân thực, nếu như mất đi th́ dẫu kêu cầu liệu có thể trở lại được không? Chắc chắn là không, một sớm biến chất sau này có hối cũng chẳng kịp nào. Bữa nay thầy hướng dẫn tṛ ngoan Dương Sinh dạo thế giới cực lạc tây phương bái hội đức Phật A Di Đà.
Dương Sinh: Thưa con đă lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành...
Tế Phật: Đă tới nơi, Dương Sinh xuống đài sen mau.
Dương Sinh: A, tới chốn này vàng bạc, ngọc lưu ly phô bày ngập đất, lan can, rừng cây, lưới vơng đều là những vật phi phàm, thứ nào thứ nấy chói ngời hào quang, quả là cảnh tuyệt vời chưa từng thấy ở thế gian.
Tế Phật: Thế giới tây phương cực lạc, là nơi đức Phật A Di Đà ngự, nơi đó cũng c̣n gọi là đất nước cực sung sướng, bảy lần rào, bảy lần lưới, bảy hàng cây vây quanh kín bốn phía. Chúng ta mau tới trước bái hội đức Phật tôn kính cùng lắng nghe người thuyết pháp.
Dương Sinh: Phía trước có một ngôi điện lớn, có phải đó là nơi đức Phật tôn kính cư ngụ không?
Tế Phật: Đúng đấy, phía trước là điện Di Đà, chúng ta mau tới trước đảnh lễ.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Trong điện có rất nhiều cao tăng cư sĩ tu thành chính quả, vị nào vị nấy vẻ mặt từ bi miệng đang niệm Phật, thanh âm du dương tịch mịch người nghe trong ḷng thư thái.
Tế Phật: Lúc c̣n tại thế họ đều là những người tu học Phật đạo, nhờ công đức viên măn cho nên được tới thế giới cực lạc... Đă tới Thánh điện, chúng ta mau vào đảnh lễ đức Di Đà.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Vào trong thấy ngồi ngay chính giữa điện một vị Phật pháp tướng trang nghiêm, toàn thân ngời sáng hào quang, khiến người ta nh́n thấy phải kính nể. Đệ tử là Dương Sinh xin đảnh lễ đức Phật kính tôn, bữa nay có duyên theo ân sư tới thánh cảnh cực lạc đảnh lễ đức Phật A Di Đà. Xin đức Phật kính tôn truyền dạy Phật pháp cho đệ tử.
Phật A Di Đà: Lành thay, người ta niệm “A Di Đà Phật” c̣n tôi lại niệm “Chúng sinh là Phật”, chúng sinh bị luân hồi sáu ngả, thân bị thống khổ, cho nên tôi phát bốn mươi tám đại nguyện tạo được cực lạc thế giới, nơi này hóa thành vùng đất yên lành, dạy người quyết chí niệm Phật tu đạo, mỗi niệm không quên Phật trong ta, tôi đương dẫn dắt tới đây.
Nếu như nghiệp phàm chưa tĩnh, niệm Phật tâm chẳng chuyển, h́nh Phật tự tán, thiếu bàn tay từ bi, sức yếu vô phương cứu độ. Cho nên hy vọng chúng sinh học Phật tu pháp, bộ đầu ắt phải tĩnh nghiệp trần, tự tạo đất tĩnh, c̣n không khó mà thành đạt. Bữa nay vui mừng được thấy Dương Sinh là người phàm vào cửa pháp Di Đà đất tĩnh, đặc biệt ban ít lời để giác ngộ, nếu như có ǵ thắc mắc cứ đặt câu hỏi tôi sẽ trả lời.
Dương Sinh: Cảm tạ đức Phật kính tôn đă ban cơ hội tốt cho đệ tử, kính hỏi đức Phật tôn kính vừa rồi ngài dạy: “Thế nhân đều niệm A Di Đà Phật” c̣n ngài là một ḷng niệm “Chúng sinh là Phật” đệ tử cảm thấy có bao hàm ư nghĩa, kính mong ngài giải rơ ư đó là như thế nào?
Phật Tôn Kính: Lành thay, Dương Sinh quả là có trí huệ, chúng sinh ngày đêm niệm “A Di Đà Phật” là mong tôi độ họ lên thế giới cực lạc. C̣n tôi ngày đêm niệm “chúng sinh là Phật” tức hy vọng rằng chúng sinh và tôi là một, nếu như thể ngộ được ư của tôi th́ trần thế sẽ hóa thành đất tĩnh, thế giới ta bà biến thành nước cực lạc, v́ tôi cũng mong xuống đất tĩnh trần gian sống tiêu dao tự tại một phen.
Dương Sinh: Lời nói của đức Phật tôn kính hàm ngụ ư nghĩa siêu diệu, nếu như nhân gian biến thành cực lạc, ngài sẽ đầu thai giáng phàm chăng?
Phật Tôn Kính: Chỉ mong là trần gian với đất này tương đồng, tôi ước ao xuống phàm.
Dương Sinh: Thưa chúng sinh đều mong siêu thăng thế giới cực lạc, ư nghĩa đó có điên khùng không?
Phật Tôn Kính: Người đời nghiệp chướng quá nặng, thống khổ phiền năo bất tuyệt nên khổ nghiệp buộc chặt, rất muốn thoát khổ đặng hưởng lạc, kỳ vọng nơi Phật tôi gia hộ để giải thoát khỏi khổ, như thế gọi là giác ngộ, quay đầu. C̣n nếu như nhận khổ làm vui, chấp ảo làm chân mới là đảo điên.
Dương Sinh: Thưa đă như vậy, th́ làm cách nào để nhờ Phật dẫn độ hầu thoát khổ?
Tế Phật: Duy chỉ có một đường “niệm Phật, học Phật”.
Dương Sinh: Thưa chỉ đơn giản có vậy thôi sao?
Phật Tôn Kính: Một tiếng A Di Đà liền tới nước cực lạc. Học Phật dù chỉ thấy h́nh tượng, song với Phật chân thật
cũng chỉ là một.
Dương Sinh: Lời đức Phật tôn kính dạy thực là quá siêu diệu, xin ngài giảng giải rơ hơn để cho đệ tử thấu tỏ.
Phật Tôn Kính: Niệm Phật ban đầu mỗi niệm chẳng quên, cuối cùng niệm quá ắt quên. C̣n niệm A Di Đà Phật, niệm tới tự tính chân Phật, niệm lâu thành Phật, trước tự niệm làm Phật, niệm lâu thành chân, ngày sau người đời tự nhiên niệm ḿnh làm Phật.
Một ḷng không loạn, một lời không sai, với Phật A Di Đà tâm tâm tương ứng, cho nên nói: “Một tiếng A Di Đà liền tới nước cực lạc”. Đă nhận tự ḿnh là Phật, giác ngộ tâm tính, niệm Phật một lần ắt Phật hiện ra trước mắt, nhích chân một cái tới liền đất tĩnh.
Chúng sinh nghiệp nặng, phiền năo đa đoan, cất tiếng niệm Phật, khí đau khổ tuôn ra, khổ nghiệp giảm bớt đó là chỗ siêu diệu của sự niệm Phật. Phật có giới luật, quy củ, nghi thức, nếu như nhất nhất học được, đều chỉ là một, tự chứng niết bàn, thành đạt chính đẳng chính giác.
Dương Sinh: Niệm Phật khí đau khổ tuôn ra, nhờ đó nhẹ bớt khổ nghiệp th́ quả là một phương thuốc tuyệt diệu trị bệnh tâm linh. Thưa đệ tử chưa được rơ khi chúng sinh niệm Phật, cảm giác của ngài ra sao?
Phật Tôn Kính: Chúng sinh bái thọ quy y niệm Phật để giải thoát nỗi ưu phiền trần tục, để khỏi vọng niệm, để hiện tâm Phật, lúc này tâm tôi cùng với kẻ niệm tôi cùng tương ứng, ba kiếp nghiệp trói nghe danh hiệu Phật cung kính lễ bái ắt Phật cứu độ.
Cho nên thành tâm niệm Phật có thể tiêu tai giải nghiệp trấn tĩnh được tâm tính. Khi chúng sinh niệm Phật, hang trống truyền thanh âm tai tôi nghe thấy, tâm Phật cảm động, sẽ tới cứu ngay.
Dương Sinh: Thưa đệ tử từng nghe nói niệm Phật th́ có thể đeo theo nghiệp lên sống ở thế giới cực lạc, có đúng vậy không?
Phật Tôn Kính: Văng sinh đeo theo nghiệp cũng không miễn được hết nghiệp chướng, phải một ḷng niệm Phật, gặp hoàn cảnh nào tâm đạo vẫn vững bền ắt là vào được thế giới cực lạc, rồi c̣n phải tu luyện thêm ở đó tới khi nghiệp lắng trong mới hóa sinh nơi đất tĩnh.
Nghiệp chướng nếu không hết như màn che lấp cửa, chẳng thể thấy sự sáng nổi, tôi dùng ánh sáng Phật phổ chiếu, khiến thân họ trong sạch, tâm họ sáng sủa, tất cả ác nghiệp tan, liền vào ngay đất Phật. Nơi đây c̣n có rất nhiều viện tu đạo, sở tiêu nghiệp chuyên để cho những người c̣n đeo nghiệp dùng mà tu luyện.
Kẻ văng sinh đeo theo nghiệp là tại lư do trước khi tạo nghiệp và sau khi quy y, họ đều không niệm Phật một ḷng niệm Phật sám hối tiền nghiệp, tôi sẽ cảm ứng sự tâm thành của họ mà cứu độ. Nếu như chỉ có niệm Phật, nhưng lại tái tạo các ác nghiệp, không biết sám hối, th́ sự niệm danh hiệu Phật sẽ như mây che núi, chôn vùi mất sự chân thực của nó, v́ vậy không thể đeo theo nghiệp văng sinh nơi đất tĩnh.
Do đó kẻ tu pháp môn tĩnh thổ điểm quan trọng số một là tĩnh khẩu, tĩnh tâm, tĩnh thân ắt gần được đất tĩnh. Lại c̣n phải tích thiện tu đức chẳng thể khẩu Phật mà tâm không Phật, phải cả tâm lẫn khẩu đều phục Phật, chớ có giảng giải nói miệng suông.
Tôi thấy chúng sinh đời mạt pháp mê đắm ngũ uẫn, luân hồi sáu nẻo, rồi vận trời đổi thay, thời đại ngày một mới, vật chất hưng thịnh, xa hoa bừa băi, bốn mươi tám đại nguyện không thực hiện nổi. V́ phổ độ chúng sinh đặc biệt khai mở pháp môn, khuyên người một ḷng niệm Phật, Phật pháp giản dị tu hành mau chóng.
Chúng sinh nếu như không biết tu tŕ, sợ rằng khi không c̣n thân muôn kiếp chẳng khôi phục nổi. Phật vốn chí công, mặc dù đă vào cửa Phật, miệng tụng Di Đà nhưng tâm rắn rết th́ Phật cũng chẳng dám tới gần dẫn độ, Phật rất từ tâm, chỉ tại ḿnh tự xa lánh Phật. Bởi vậy mong rằng chúng sinh từ nay nếu đi trên đất tĩnh ắt có ngày nghiệp trần dứt sạch, vạn vật vứt bỏ, hủy diệt linh căn.
Dương Sinh: Nhờ ơn đức Phật kính tôn đă từ bi khai mở phương tiện pháp môn, nên có rất nhiều chúng sinh không kể nam phụ lăo ấu tay lần tràng hạt, miệng vang vang niệm Phật thật chí t́nh, khiến mọi người kính nể.
Cứ theo như đệ tử nhận xét th́ niệm Phật có thể văng sinh thế giới cực lạc, ư nghĩa quả là vi diệu. Kính xin đức tôn kính khai mở trí huệ thêm cho đệ tử.
Phật Tôn Kính: Phật không nói sằng, niệm Phật có thể siêu thăng. C̣n có thể siêu thăng cực lạc không, th́ xin trả lời là niệm Phật để đánh đuổi tạp niệm giúp tâm linh an tịnh, do đó không phản bội đạo quy, con người khi tạo ác nghiệp là lúc miệng quên mất Phật A Di Đà.
Bởi vậy nếu ngày đêm tụng “A Di Đà Phật”, miệng tụng tâm tưởng, lâu dần tâm với khẩu là một, Phật tính hiển lộ trừ được ác căn mầm đạo ló, đất tĩnh cây bồ đề mọc lớn. Niệm Phật khiến tâm thần quên nỗi thống khổ phiền năo, có tác dụng sản sinh thiền định, cho nên tĩnh tức là định, định có thể sinh tuệ và thấy Phật, tinh thần an vui, tâm linh có chỗ gởi gấm.
Lúc niệm Phật tâm sinh khí an ḥa thanh tịnh, điều hợp được hành vi bất chính tàn bạo, đánh tan trược khí tụ ở bộ đầu cứu rỗi âm linh. Niệm Phật cũng như thế gian ḥa tấu âm nhạc, người nghe cảm thấy thanh thoát nhẹ nhàng quên tất cả những nỗi phiền năo rối ren, thống khổ bất an.
Bởi vậy khuyên kẻ tu đạo, kẻ bệnh hoạn, kẻ tâm thần bất ổn hăy chăm niệm Phật chắc chắn sẽ hiệu nghiệm, xa rời khổ đau đạt được yên vui.
Dương Sinh: Đức kính tôn dạy quá đúng, niệm Phật, tưởng Phật, biết Phật, thấy Phật, tức là Phật, niệm hoài niệm măi, không quên lời Phật dạy, nhất định sẽ thành Phật. Thưa đức kính tôn cảnh thế giới cực lạc tây phương đẹp đẽ quá mức, thưa đệ tử muốn giới thiệu với chúng sinh có được không?
Phật Tôn Kính: Đất này phàm trần không có nổi, thanh tĩnh trang nghiêm vô cùng vi diệu, lầu gác nguy nga hàng hàng lớp lớp, tất cả đều tuyệt diệu, quư báu, thanh nhă, tinh khiết, thơm tho lạ thường. Nước đức trong ao quư tẩy rửa tâm trần đầy bụi bặm, nhạc trời không cần tấu vẫn thường trổi vang.
Khí hậu không nóng không lạnh hoàn toàn thích nghi, quần áo ăn uống chỉ mới nghĩ trong đầu là có ngay trước mặt, chim quư hót véo von. Thuyết pháp về không khổ, vô thường, vô ngă, gió thổi vi vu trong rừng cây kẽ lá, tất cả âm thanh đều hết sức vi diệu v́ tiếng đó là tiếng pháp vang dội.
Lục căn thanh tĩnh dứt sạch phiền năo, bụi bặm, bao nỗi khổ nhọc trần gian không nổi dậy, trí tuệ thăng tiến thâm đạt thực tướng, thần thông tự tại sống thọ vô cùng, hết mọi khổ đau được mọi sung sướng. Giờ tôi xin hướng dẫn Dương Thiện Sinh dạo thăm các thắng cảnh.
Dương Sinh: Cảm tạ sự hướng dẫn của đức tôn kính, đệ tử thường ước mong được lên thế giới cực lạc, bữa nay có kỳ duyên lên được đây phải xem cho thỏa để cuộc hành tŕnh khỏi uổng phí.
Phật Tôn Kính: Thế giới tây phương cực lạc nơi người phàm sau khi qua đời được về an nghỉ, cảnh sắc tuyệt diệu khác hẳn trần gian. Dương Sinh đi theo tôi.
Dương Sinh: Thưa vâng, xin đi theo đức tôn kính... Phía trước có một cái ao rộng lớn, trong ao nở đầy các loại hoa đủ màu sắc coi đẹp mê hồn, bên ao cắm một cái bảng đề ba chữ “Thất Bảo Tŕ” tức là ao có bảy cái quư, vàng ngọc huy hoàng.
Tế Phật: Đây là ao Thất Bảo, nước trong đó là nước tám công đức, dưới đáy ao là cát vàng phủ ngập, nước này là nước “sống” diệu dụng vô cùng.
Dương Sinh: Thưa tại sao lại gọi nước trong ao là nước tám công đức rất diệu dụng?
Phật Tôn Kính: Nước “sống” là nước Phật, là nước tám công đức, tính nước biến hóa vô cùng. Người muốn văng sinh đất yên ắt phải tắm và uống nước tám công đức này mới có thể thanh tĩnh. Người đời nếu như học tám công đức này nhất định sẽ được văng sinh nơi đất tĩnh, chẳng cần phải trải qua sự tu luyện nước tám công đức ở đây.
Nước tám công đức gồm có:
1. Lắng trong: Tâm cảnh của người lắng trong tinh khiết, không ngầu đục sự ô uế.
2. Trong mát: Tâm người cần sự thanh tĩnh mát mẻ, không có khí tối tăm nặng trược phiền năo.
3. Ngọt ngào đẹp đẽ: Tâm người phải ngọt ngào đẹp đẽ, như nước ngọt ngào uống ngon lành, kết được nhiều thiện duyên.
4. Nhẹ nhàng mềm mại: Tâm người phải thanh nhẹ uyển chuyển, không thể cứng cỏi. Nước này phải nhẹ và chảy lên không thể như nước thế gian nặng và chảy xuống.
5. Nhuần thấm: Tâm người không thể khô cứng, nóng nảy, phải ban nhiều ân huệ cho người, như nước tưới mát vạn vật.
6. An vui ḥa hài: Tâm người phải an vui ḥa hài, như nước không dậy sóng, êm đềm ở trong, không ch́m đắm và trôi chảy mất.
7. Dẹp bỏ lo lắng: Tâm người phải trừ bỏ nỗi lo được lo mất, nước này ngoài việc giải khát c̣n có thể giải đói diệu dụng vô cùng.
8. Tăng thêm lợi ích: Tâm người phải hướng thượng học nhiều để mở mang kiến thức, bồi bổ trí tuệ, có ích cho sự giác ngộ đạo lư. Dùng nước này giải khát tắm rửa thân tâm thanh tĩnh, trí tuệ vô thượng, ơn ích vô cùng tận.
Nước tám công đức ở thế giới cực lạc diệu dụng vô cùng, người đời nếu như mỗi ngày học tám công đức này cùng niệm danh hiệu tôi, tự nhiên có phần dành sẵn trên đất tĩnh, chẳng cần phải tắm gội nước tám đức để tẩy rửa đào luyện thân tâm.
Kẻ đeo theo nghiệp tới đất tĩnh ắt sẽ phải trải qua sự rèn luyện của nước pháp này mới có thể qua cửa. Dương Thiện Sinh có muốn xuống ao tắm rửa ḿnh mẩy không?
Dương Sinh: Hiện tại trong ao có rất nhiều người đang tắm rửa, không quen biết đệ tử chẳng dám xuống.
Phật Tôn Kính: Chớ e ngại, nước tám công đức là nước pháp tẩy rửa sạch tội lỗi ác nghiệp thật là cơ hội tốt lành chớ để mất uổng.
Dương Sinh: Thưa đă như vậy, đệ tử xin xuống... A, nước mát quá, ngâm ḿnh xuống thân nặng trở thành nhẹ liền, giống như chim bay trên trời tắm gió xuân, toàn thân mát mẻ khoan khoái nhẹ nhàng phơi phới, cảm thấy như là thân không nợ nần thanh thoát, loại nước thật kỳ diệu.
Phật Tôn Kính: Dương Sinh thử uống vài hớp coi, chắc chắn sẽ có cảm giác lạ lùng.
Dương Sinh: Tuy nước đă tắm song vẫn cực kỳ trong, thử uống vài hớp nước pháp xem sao? A, uống vào bụng như băng giá, khí từ trong cơ thể phóng ra giống như bay lên nhẹ nhàng phơi phới.
Phật Tôn Kính: Siêu thăng thực là mau, như phi cơ phun khí lúc cất cánh trên phi đạo. Người đời b́nh thường nếu như tu tám công đức này, chắc chắn sẽ có cảm giác như bữa nay, văng sinh đất tĩnh chẳng khó.
Kẻ một ḷng niệm Phật, nếu như có nghiệp chướng, ắt phải trải qua sự tắm rửa nước này để tu luyện, kẻ nghiệp nặng mới gặp nước này có cảm giác như bị lóc da, ban đầu đau đớn dần dần trở thành dễ chịu cho tới khi thoát thai hoán cốt mới thực sự được tiêu dao nơi miền đất tĩnh cực lạc.
Dương Sinh: Trong ao hoa sen năm màu nở đầy vô cùng đẹp đẽ, tại sao những kẻ ngâm ḿnh tu luyện trong nước, số lượng hoa sen bao quanh lại kẻ nhiều người ít?
Phật Tôn Kính: Mỗi tiếng niệm Phật là một đóa sen, khi chúng sinh niệm Phật, khí lực và nước miếng tức linh khí cùng nước pháp ứa ra hóa thành bông sen, do đó nước tám công đức vốn là nước từ trong miệng kẻ niệm Phật tức nước pháp tích tụ, hoa sen tượng trưng cho danh hiệu Phật, nên niệm càng nhiều hoa sen nở càng lắm.
Kẻ niệm Phật thành tựu sẽ cưỡi hoa sen phóng khí bay thẳng lên cơi cực lạc. Những người đó tu luyện tại đây, thời gian không giống nhau, có người nửa năm có người một năm phải căn cứ đúng theo nghiệp chướng nặng nhẹ mà phân định.
Nếu như y phục ô uế dùng nước tám công đức giặt giũ ô uế càng nhiễm nặng, càng tốn nhiều th́ giờ c̣n ngược lại ắt rất dễ dàng. Trong ao này đầu tiên lo giải thoát khổ đau chuyển thành hoan lạc, một sớm tội lỗi ác nghiệp tẩy rửa sạch trong, tâm thân nhẹ nhàng ngồi trên hoa sen do công phu niệm Phật trở thành tiêu dao đất tĩnh, đó gọi là cửa pháp nơi đất tĩnh.
Bữa nay Dương Thiện Sinh phụng mệnh viết sách phổ độ chúng sinh tôi mới đặc biệt tiết lộ dấu tích chân thực này. Mong chư đệ tử Phật tu học Phật kinh hăy giải thích đất yên theo nghĩa chân thực này.
Tế Phật: Tâm tĩnh ắt đất cực lạc yên, mong thế nhân hăy ra sức công phu nơi mảnh đất tâm, quét dọn cho thật sạch sẽ chớ để bụi bám, ắt nhà ḿnh là đất tĩnh há c̣n cầu tây phương cực lạc nữa ư? Niệm Phật học Phật tự nhiên thành Phật, đệ tử Phật hăy mau giác ngộ.
Bữa nay được nghe đức kính tôn chỉ giáo nhiều điều hữu ích, giờ xin cáo từ. Dương Sinh hăy chuẩn bị.
Dương Sinh: Cảm tạ đức tôn kính đă ban cho đệ tử nước tám công đức, thân tâm được thanh tĩnh, ơn ích quá nhiều, kính lạy giă từ.
Phật Tôn Kính: Đất yên ở trước mắt, mong người đời chớ lạc hướng.
Dương Sinh: Thưa con đă lên đài sen, kính mời ân sư trở lại Thánh Hiền Đường.
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 648 of 1146: Đă gửi: 23 August 2010 lúc 2:34am | Đă lưu IP
|
|
|
THIÊN ĐƯỜNG DU KƯ
HỒI BA MƯƠI
DẠO ĐIỆN TAM QUAN BÁI HỘI
ĐỨC THIÊN QUAN ĐẠI ĐẾ
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 13 tháng 8 năm Canh Thân 1980
Thơ
Thân vô quái ngại bạch vân du
Viêm viêm khinh phong tọa vong ưu
Lưu tục truy tùy chung hạ đọa
Hồi quang vạn đạo chiếu cao lâu.
Dịch
Thân không trói buộc hết ưu phiền
Cưỡi gió đè mây nhẹ bước tiên
Cơi tục tham chi thêm đọa lạc
Hồi tâm lầu đạo sáng triền miên.
Tế Phật: Mỗi khi thấy người đời tâm t́nh rối ren, ch́m đắm, phiền muộn, khí tắt th́ quạt Bồ của lăo tăng quạt cũng không có gió. Dẫu có lấy khoan khoan tâm của chúng sinh cũng chẳng khai thông phiền năo, hàng ngày tiêu phí hết tâm thần để mong kiếm được nhiều tiền, gặp khi thua lỗ lại mang về sự thống khổ.
Kẻ có tiền chẳng bao giờ thấy tâm ḿnh được thư thái, bao nhiêu phiền năo dần dần từ trong đống tiền ḅ ra, cho nên thấy rằng người đời đều quá sai lầm. Đă như vậy th́ tại sao chúng sinh lại cứ c̣n chấp mê chưa tỉnh ngộ để rồi phiền năo cứ mỗi ngày một chồng chất thêm lên?
Nh́n lại trẻ thơ ngốc nghếch, lượm đá bỏ đầy túi để làm tiền, lại c̣n đếm một, hai... quả là tính trời hồn nhiên thật quá dễ thương. Bữa nay ta sẽ hướng dẫn tṛ ngoan họ Dương dạo thăm cơi trời viết sách, Dương Sinh chuẩn bị xong chưa?
Dương Sinh: Thưa con đă lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.
Tế Phật: Viết sách hao tổn quá nhiều tâm thần, Dương Sinh cảm thấy thế nào?
Dương Sinh: Thưa thầy tuy lao thần tổn khí song được dạo thăm thế giới khác th́ sự khổ nhọc đó con cũng cảm thấy được bù đắp lại. Hơn nữa con c̣n được ngắm nh́n thế giới linh thiêng ỳ́ diệu đẹp đẽ để mở rộng tầm mắt, phát hiện được nhiều ấn tích kỳ lạ cùng giác ngộ đại đạo, t́m thấy bản ngă chân thực.
Chúng sinh dưới gầm trời nếu như mượn được những điều ghi chép trong sách Du Kư này để phát hiện được bản ngă chân thực của ḿnh, truy tầm lư tưởng đất yên mới không phụ ḷng trời xanh mong đợi, gánh nặng trao phó đó mới có thể thực hiện được dễ dàng. Song tất cả đều là nhờ công ân sư dẫn dắt, mới có được duyên may như thể ngày nay.
Tế Phật: Thân con mang đại mệnh phổ độ chúng sinh, ngày nay mới có vinh hạnh nhận lănh thánh chức, phụng chỉ dạo ba cơi trước tác sách quư, có thể nói là kim cổ kỳ tài, đảm trách việc độ pháp giống đức Như Lai, v́ vậy thầy cùng gánh sứ mệnh này, cho nên thầy tṛ mới đồng thuyền chung vượt khó khăn.
Chỉ mong chúng sinh dưới gầm trời đọc thiên Du Kư này chớ có như kẻ phóng ngựa xem hoa mà phải nhớ kỹ sơ đồ chỉ dẫn để chuẩn bị cho việc lên thăm Thánh cảnh tương lai. Bởi vậy trăm nghe không bằng một thấy, phải đích thân thấy cảnh mới có giá trị, c̣n không chỉ là xem cảnh qua bản đồ, há chẳng cách biệt nhau quá xa ư? Bữa nay thầy tṛ ḿnh lên đường đi thăm cảnh giới khác... Đă tới nơi.
Dương Sinh: Phía trước kiến trúc nhiều cung điện trang nghiêm, hùng vĩ vẻ cổ xưa, vàng phủ đầy đất, mây lành trùng trùng, bậc thang lớp lang, kỳ hoa dị thảo mọc đầy bốn phía ngắm nh́n ḷng thư thái lâng lâng.
Tế Phật: Đây là điện phủ Tam Quan, bữa nay phải bái hội đức Thiên Quan Nghiêu Đế trước.
Dương Sinh: Thưa vâng, theo thầy đi lên bậc thang, thân nhẹ như lông không giống như lên thang lầu ở thế gian bước đi cảm thấy nặng nề, không hiểu tại sao?
Tế Phật: Đây là cảnh địa chân không, kẻ không có nghiệp chướng mới lên tới nổi, sở dĩ khi lên tới đây con cảm thấy thân thể nhẹ nhàng là v́ giới tiên phong đạo cốt có thể đi lại dễ dàng, thân tâm quả là thanh tịnh, chỉ nhún ḿnh một cái liền băng xa cả ngàn dặm, có thể cưỡi gió đè mây, cất bước nhẹ bay.
Thế nhân b́nh thời cũng phải luyện thứ công phu này, c̣n không sẽ chẳng nhúc nhích nổi, sẽ bị vô thường bắt buộc đi đường bộ.
Dương Sinh: Lời dạy của ân sư rất cao siêu. Phía trước có một ngôi điện lớn, trên có đề ba chữ “Tử Vi Cung” tức cung Tử Vi, có lẽ là nơi đức Thiên Quan Đại Đế ngự?
Tế Phật: Đó chính là nơi đức Thượng Nguyên Nhất Phẩm Tích Phúc Thiên Quan Đại Đế ngự, chúng ta mau tới trước làm lễ ra mắt ngài.
Dương Sinh: Một vị mặc áo rồng vàng ngồi trong điện, đầu đội mũ kim long, tay cầm thẻ thánh chầu trời, dung mạo uy nghi, hai bên c̣n có rất nhiều các tiên quan y phục chỉnh tề tỏ ư đang chờ nghinh tiếp... Đệ tử Dương Thiện Sinh lạy mừng ra mắt đức Thiên Quan Đại Đế, bữa nay đệ tử theo gót thầy tới đây, kính xin đại đế ban ân phước chỉ dạy cho.
Tiên Quan Đại Đế: Lành thay, từ chốn phàm trần mà Dương Thiện Sinh có thể lên được tới điện Thiên Quan đă là đại phước rồi, há c̣n cần ban ơn phước nữa sao? Dương Sinh phụng chỉ theo thầy là Tế Phật dạo thăm cơi trời hỏi
đạo viết sách, phổ độ chúng sinh, ḷng tôi vô cùng hoan hỷ.
Tam Tào mở Thánh hội, chư vị Thánh Tiên Phật cùng nghị bàn, đức Dao Tŕ ban ư chỉ, đức Ngọc Đế ban ngọc chỉ, tam quan chấp thuận bữa nay mới có thể đi suốt ba cơi biên soạn sách trời.
Phàm chúng sinh dưới gầm trời sau khi đọc sách Du Kư có thể cải ác theo thiện, tu đạo lập đức, ắt tam quan có thể ban ân phước giải nguy khốn, trừ oan khiên, cho nên trọng trách mà Dương Sinh đang đảm nhận mới quá lớn lao, bữa nay tới đây quả là cuộc kỳ ngộ, xin mời ngồi. Tiên Quan, hăy mau dâng trà.
Dương Sinh: Đại Đế quá thương t́nh, đệ tử vô cùng cảm kích.
Đại Đế: Chớ ngại, ba cơi trong ngoài chỉ có đạo là độc tôn, chỉ cần tu đạo lớn, ra sức thực hành thánh đức, ắt trời người hợp nhất, thánh phàm tương đồng, chớ có e ngại.
Tế Phật: Xin mạn phép ngồi, Đại Đế đă ra lệnh, lễ phép không bằng tuân theo lệnh của Đại Đế.
Dương Sinh: Cảm tạ Đại Đế đă ban ân, đệ tử tuân lệnh xin phép được ngồi. Ngồi xuống ghế cảm giác ban đầu lạnh băng, song lần lần tinh thần thư thái nhẹ nhàng, chẳng rơ v́ nguyên nhân ǵ?
Đại Đế: Đất này là khí của cơi trời chín khí (cửu khí), tất cả đều là bảo vật, Dương Sinh là người phàm, ngồi trên ghế quư, chín khí lưu hành cho nên có cảm giác như vậy.
Dương Sinh: Th́ ra nguyên nhân là như vậy, đă ngồi xuống rồi là không muốn đứng lên, tuy không phải là ghế nệm song vẫn thấy êm ái lạ kỳ.
Đại Đế: Ghế này làm bằng đá quư rất cứng, song khi ngồi lại có cảm giác êm ái là v́ nhờ có chân khí vận hành. Đá cứng có đời sống nên c̣n gọi là đá sống, từ cứng hóa mềm, từ chết sống lại, như kẻ tâm dạ sắt đá cảm hóa được th́ lại trở nên hiền lành nhu nhuyễn, sức sống tự nhiên hoạt bát sinh động. Dương Sinh hiện thời ngồi trên đá song người với đá đă hợp làm một, do đó mới có cảm giác
như vậy.
Dương Sinh: Thưa tại sao người và đá lại có thể hợp nhất?
Đại Đế: Xương người khi hóa cứng so với đá chẳng khác chi, nên gọi là “hóa đá”. Người chết đất vùi thành đống, cho nên người với đá vốn vẫn như nhau. Giờ Dương Sinh ngồi trên đá, phía trên có “nhân đầu” phía dưới có “thạch đầu” cả hai cùng hấp khí cho nên gọi là “hợp nhất”.
Phàm những người ngồi yên lặng, dưới hấp khí đất (do đầu đá hút khí lên), trên hấp khí trời (do đầu người hút khí xuống), lâu sau khí dày kết thành đan, sinh ra “thạch tử” tức đá con. Hiện thời lại không giống vậy, v́ Dương Sinh ngồi trên trời, dưới hấp thiên khí, trên hấp địa khí đảo điên quay tṛn, lẽ siêu diệu chỉ có một ḿnh ḿnh chứng ngộ.
Dương Sinh: Ngồi trên trời ngó xuống đất, thân tuy đảo ngược song tâm lại tự tại, cho nên chân đạp trời đầu đội đất, một điểm hư linh treo ở giữa không trung, muôn trượng biển khổ gội tóc ô uế, thưa có đúng như vậy chăng?
Đại Đế: Đúng như vậy, người phàm chân đạp đất, người tiên chân đạp trời, thánh phàm công phu không giống nhau, kẻ đi trên không (hành vân) chân chẳng chạm đất mới là Tiên Phật, thế nhân có thể như vậy được không? Nếu như có kẻ siêu nhân có được năng lực ấy đă đắc đạo quả, có thể quan sát trái cây chẳng treo lơ lửng giữa không trung sao?
Người đời tu luyện công phu, trước tiên coi nhẹ t́nh dục, c̣n nếu như không chịu buông bỏ cứ khư khư nắm lấy để trở thành quá trọng t́nh đa dục, lúc lên đường khí kiệt thở dốc, tới cảnh địa hư không sợ rằng tinh cùng lực kiệt, mê man muốn tắt thở. Buông bỏ tất cả, hai tay áo lộng gió trong, hai bàn tay trống rỗng, tung cánh có thể bay mau, mong chúng sinh hăy lên một tầng lầu, nh́n rơ trời đất, cảm ngộ huyền diệu.
Tâm sáng như gương, tính định như thủy, ắt thiên nhăn mở, tâm có thể nh́n thấy tính trời tức là rơ thiên đạo, cưỡi gió đè mây, tự t́m được đường. Mời Dương Thiện Sinh dùng trà.
Dương Sinh: Đại Đế chỉ dạy ít lời song đă giúp đệ tử c̣n hơn mười năm đọc sách ở thế gian, đệ tử đă nghe thấu lẽ đạo, cảm tạ đức lớn của Đại Đế. Tách trà đặc biệt nơi thượng giới trong suốt tới đáy, cúi nh́n thấy rơ mặt mũi ḿnh nổi trên mặt nước, giống hệt bức h́nh chụp... Uống xong tuy vô vị nhưng lại cảm thấy sự mát mẻ thấm vào tận
tâm can.
Đại Đế: Đó là bản lai diện mục chân chính của Dương Sinh, là tự tính chân nhân (Phật), vào lửa không cháy, xuống nước không ch́m, nay có thể nổi trên mặt nước, đủ chứng tỏ là cao minh chân chính, đi trên mây trên nước tiêu dao tự tại. Trong nước nh́n thấy chân diện mục, miệng uống nước bản tính có thể tẩy trừ được uế khí, khai thông trí tuệ, thông thần nhập chân.
Dương Sinh: Cảm tạ Đại Đế đă khai thị, Đại Đế giữ địa vị đứng đầu tam quan, kính xin Đại Đế cho biết lai lịch uyên nguyên cùng t́nh h́nh thánh chức ở cơi trời?
Đại Đế: Lành thay, xin lược thuật về lai lịch đạo, để thế nhân được tỏ tường. Thuở ban đầu hỗn độn, huyền hoàng cắt chia rồi sau bắt đầu định trời đất. Lúc đó Ngũ Lăo hóa làm tam đế là thiên quan, địa quan, thủy quan để cai quản lo liệu ba cơi trời, đất và nước, tra hỏi công với tội của người hầu định họa phước của chúng sinh.
Tôi là Thượng Nguyên Thiên Quan, Nhất Phẩm Nguyên Dương Huyền Đô, ngự ở giữa cung Tử Vi, trông coi về hành động thiện ác của chúng sinh, cùng nắm quyền thăng giáng chư Tiên, có biệt hiệu là Thượng Nguyên Cửu Khí Tứ Phúc Thiên Quan, Diệu Linh Nguyên Dương Đại Đế, Tử Vi Đế Quân, từng hóa sinh làm Nghiêu Đế.
Phàm các tinh tú cùng các bậc cao chân, đạo quả của họ nếu như tiến bộ hoặc thần thánh thuộc cơi trời đất phổ hóa chúng sinh, có công cứu thế pḥ nguy sau khi được tôi coi xét chuyển tŕnh lên Ngọc Đế để ngài căn cứ vào công đức ấy mà thăng cấp cho.
Như các chư tiên thuộc cơi trời, chư thánh thuộc cơi đất không làm tṛn bổn phận, hoặc phạm lỗi, sai lầm, sau khi tôi tra xét tỏ tường, liền chuyển báo lên đức Ngọc Đế để giáng chức ngay. Trên đây là nói về thần thánh thuộc cơi trung hạ giới, c̣n như các vị đắc đạo cao minh, quả vị được vào cơi vô cực, không c̣n chịu luân hồi th́ các vị đó không thuộc sự cai quản ở đây.
C̣n những nguyên linh thành đạo ở cơi thế gian cũng phải trải qua sự khảo hạch của tam quan mới được căn cứ vào công để chứng quả. Phàm nhân thiện ác đều có ghi đầy đủ trong sổ, người đời phải cầu phước tránh xa họa quyết định một trong hai đường thiện ác.
Chúng sinh nếu như vận mệnh muôn việc phần lớn không thuận, kiếp trước lại tạo nghiệp đa đoan, đời này nếu như sám hối trước thần thánh, phát nguyện hành thiện, thiên quan có thể ban phước cho họ. Nếu như có con hiếu thảo phát nguyện cầu phước thọ cho cha mẹ, ḷng hiếu cảm thấu tới trời, thiên quan ắt cũng giáng phước cho người.
Tam quan vốn cùng chung một thể chỉ dốc ḷng thương người cứu đời, cho nên chuyên ban phước, xá tội, giải nguy, tế độ kẻ hoạn nạn khổ đau, nếu như người đời trên ứng lẽ trời, dưới thuận nhân luân ắt hễ cầu là ứng.
Dương Sinh: Lắng nghe Thiên Quan nói xong mới hay rằng phước họa do người tự chuốc, c̣n Thiên Quan th́ ḷng Tiên dạ Phật, dốc ḷng ban bố ân phước cho người đời, quả là tâm trời cảm hóa người.
Đại Đế: Trời với người vốn hợp nhất, mong chúng sinh tuân theo lẽ trời, giữ đúng đạo người ắt trời và người hợp nhất, có thể tu tới quả vị cảnh giới vô cực. Bữa nay Dương Sinh tới đây tôi xin hướng dẫn đi thăm để rơ sự t́nh.
Dương Sinh: Xin vâng, đức Đại Đế tàng trữ quá nhiều án lệnh, việc xét xử chắc là cũng bề bộn lắm!
Đại Đế: Nhân hiện nay người đời thiện ác gần bằng nhau, may mắn là kẻ hồi tâm hướng thiện cũng nhiều, do đó việc xét xử công quả là nhiệm vụ của Thánh trao cho cũng có nhiều kết quả.
Song sánh với các miền do các tào khác quản trị th́ cơ quan của tôi lănh nhiệm vụ xét xử tối hậu, cho nên thần lực lớn rộng, không hoảng hốt hoang mang. Dương Thiện Sinh đạo căn thâm hậu, bữa nay tới đây tôi mới tiết lậu một số điểm về thiên cơ, xin mở sổ để Dương Sinh xem.
Dương Sinh: Cảm tạ Đại Đế.
Đại Đế: Đây là cuốn sổ vàng ghi công quả, lật coi cẩn thận... không được đọc thành tiếng.
Dương Sinh: A, đây là bảng ghi chép công quả của môn
sinh tu đạo tại bản đường:
1. Ngày... tháng... năm... Dự lễ giáng cơ bút lần thứ nhất - 5 công.
2. Ngày... tháng... năm... Từ xa về dự lễ giáng cơ bút - 10 công.
3. Ngày... tháng... năm... Khuyên người hướng thiện - 50 công.
4. Ngày... tháng... năm... Phát tâm ấn tống kinh sách - 100 công.
5. Ngày... tháng... năm... Nhẫn nhục không oán than - 100 công.
6. Ngày... tháng... năm... Thấy sắc đẹp không nổi dâm dục - 300 công.
Lại thấy trong một cuốn sách có đăng:
Ngày... tháng... năm... Phát thiện nguyện để cầu cho thân phụ... hưởng phúc trường thọ, chuẩn cho tăng tuổi thọ bán kỷ (sáu năm)... phát nguyện cầu vận mệnh được may mắn chuẩn cho được hưởng phước cùng ánh sáng.
Đại Đế: Đại khái xem như vậy cũng tạm đủ, chúng sinh thấy rơ là nhân quả có bằng cớ, thiện ác chứng minh rơ ràng. Ra sức hành tŕ đạo đức, chăm lo tu Thánh đạo, một sớm công quả tṛn đầy có thể siêu thăng thiên đường, tiêu dao cực lạc.
Chúng sinh nếu như xem xong bản Du Kư này, hồi tâm hướng thiện, tu chân ngộ đạo, trăm năm sau về cơi trời tới điện phủ Tam Quan, tôi sẽ ban ghế mời ngồi, mong chúng sinh chớ để mất cơ hội tốt lành.
Tế Phật: Cuộc bái hội thỉnh ư đức Thiên Quan Đại Đế tới đây đă hoàn tất được một phần, cảm tạ Đại Đế từ bi ân đức đă ban cho Dương Sinh nhiều linh quang. Xin cáo từ Đại Đế.
Dương Sinh: V́ ân sư thúc giục đệ tử cũng xin cáo từ đức Đại Đế, cảm tạ ngài đă khai mở huệ cho đệ tử. Thưa ân sư con đă lên đài sen, kính mời thầy trở lại Thánh Hiền Đường.
Đại Đế: Chúc thuận buồm xuôi gió.
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Tâm Trông Hội Viên


Đă tham gia: 24 August 2010 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2
|
Msg 649 of 1146: Đă gửi: 24 August 2010 lúc 7:36am | Đă lưu IP
|
|
|
Tôi nghĩ: Đấy chỉ là nhưng câu truyên, liệu thực tế đă ai gặp hoặc đă ai làm đươc như vậy chưa.
C̣n thực tế làm được như vậy th́ quá tuyệt vời.
Tối chỉ ngỏ ư như vậy, Ai có thể giải quyết được vấn đề này cho tôi, khiến tôi tin phục th́ có lẽ tôi sẽ là người chung thành của Phật học.
Sửa lại bởi Huethien : 24 August 2010 lúc 8:29am
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 650 of 1146: Đă gửi: 27 August 2010 lúc 9:54pm | Đă lưu IP
|
|
|
THIÊN ĐƯỜNG DU KƯ
HỒI BA MƯƠI MỐT
DẠO ĐIỆN TAM QUAN BÁI YẾT ĐỊA QUAN ĐẠI ĐẾ
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 29 tháng 8 năm Canh Thân 1980
Thơ
Sám hối tiền phi chủng thiện nhân
Tham sân si ái tối thương thần
Tu pḥng thất túc khuynh linh mệnh
Luyện tựu kim cương bất hoại thân.
Dịch
Hối hận xưa không rắc đức nhân
Tham sân si ái hại tinh thần
Coi chừng trượt cẳng toi linh mệnh
Luyện đặng kim cang chẳng nát thân.
Tế Phật: Có kẻ bảo: “Các người đều là tội nhân”. Tôi nói: “Người đời vô tội”, có người không phục tức khí bảo: “Tôi đă làm hỏng biết bao việc mà nói là vô tội được sao?”. Tôi bảo: “Nhà ngươi đă nhận tội, ta c̣n ǵ để nói”.
Thực sự người đời vốn vô tội, chỉ biến thành tội nhân khi nào phạm vào bốn “không”: Không lễ chớ nh́n, không lễ chớ nghe, không lễ chớ nói, không lễ chớ làm. Người đời phải ra sức thực hành để tránh trở thành kẻ phạm tội bốn không.
Con người lúc chào đời vốn là đứa con đỏ trần trụi rồi được mặc áo phàm tục, nhiễm màu sắc, tham bốn không, ái mười đức, đem tội lỗi của ḿnh bôi lem trang giấy trắng sáng ngời. Nghĩ tới người đời nếu không vui được th́ cũng chớ quá buồn.
Bữa nay thầy hướng dẫn Dương Thiện Sinh tới bái yết đức Địa Quan Đại Đế, Xá Tội Nhị Phẩm Trung Nguyên để xin ngài tha tội cho người đời, mong người đời cố gắng tự làm việc này cho bản thân ḿnh để tránh khỏi tái phạm tội lỗi.
Dương Sinh: Thưa con đă lên đài sen, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Bữa nay chúng ta sẽ tới thăm điện Tam Quan bái yết đức Địa Quan Đại Đế, lên đường... Đă tới điện phủ Tam Quan, Dương Sinh xuống đài sen.
Dương Sinh: Thưa thầy bữa nọ đă đi qua nơi này, phía trước có nhiều đường, riêng một đại lộ phủ đầy vàng, đi thẳng tới trước mặt đại điện phủ Tam Quan. Tại đây có nhiều bậc đạo sĩ cao minh đi đi lại lại, các vị này tới đây để khảo sát kinh tu đạo quá đông đúc rộn rịp.
Tế Phật: Tam Quan Đại Đế đời gọi là Tam Giới Công, vị thế đứng sau Ngọc Hoàng, các dự án của Tam Tào đều phải qua sự phê chuẩn của Tam Quan, sau đó mới chuyển tŕnh Ngọc Đế. Kẻ tu đạo chứng đắc công quả ở trên trần phải trải qua sự sát hạch của tam quan sau đó mới được phân phối đi các tầng trời tu luyện chứng quả.
Dương Sinh: A th́ ra nguyên lai là như vậy, phía trước đại điện có đề ba chữ “Thanh Hư Cung” hào quang lóa cả mắt. Thưa có phải đức Địa Quan Đại Đế cư ngụ tại đây không?
Tế Phật: Đúng đấy, chúng ta mau vào trong làm lễ ra mắt.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh... Vào tới bên trong thấy một vị ngồi giữa điện, ḿnh mặc áo lông bào (áo vua ban), tay cầm ngọc hốt (thẻ vua ban) dung mạo thật uy nghiêm. Đệ tử Dương Thiện Sinh lạy chào ra mắt đức Địa Quan Đại Đế, kính xin ngài chỉ rơ bến mê.
Địa Quan Đại Đế: Miễn lễ, bữa nay Dương Thiện Sinh theo thầy là Tế Phật tới điện Tam Quan tôi mừng lắm, mời hai vị ngồi. Tiên Quan, mau dâng trà.
Dương Sinh: Cảm tạ Đại Đế đă ân ban, bữa nay đệ tử có được hồng ân yết kiến Đại Đế, kính xin Đại Đế thuật lại lai lịch cùng chức vụ của Đại Đế để chúng sinh dưới gầm trời được tỏ tường.
Đại Đế: Lành thay, để phổ độ chúng sinh, chân tướng thiên đường địa ngục phải sáng tỏ, Địa Quan gánh trách nhiệm phổ độ hết thảy chúng sinh trên trái đất, lẽ nào lại giữ bí mật không tuyên bố được hay sao.
Tôi là Thanh Linh Động Dương Nhị Phẩm, vốn do chân khí tiên thiên hóa thành, mang các tên hiệu là: “Trung Nguyên Thất Khí Xá Tội Địa Quan, Động Linh Thanh Hư Đại Đế, Thanh Linh Đế Quân”.
Bởi v́ chúng sinh trên trái đất đều phạm tội, ḷng trời vốn từ bi, không nỡ nh́n chúng sinh đọa lạc, cho nên lấy tư cách quyền xá tội của ty Địa Quan chỉ muốn người đời thực tâm sửa đổi sai lầm, c̣n ư của tôi chỉ muốn xá tội.
Dương Sinh: Đại Đế hiện thời từ bi song đệ tử không được rơ cách xá tội như thế nào?
Đại Đế:
1. Người đời phạm tội nếu như biết sám hối sửa đổi, tôi sẽ tha cho ba phần tội, từ đó về sau biết lo làm điều thiện, không tái phạm tội lỗi, tôi sẽ lượng t́nh tha thứ nốt bảy phần c̣n lại.
2. Ngày nay vào cửa thiện tu đạo, dốc tâm tu đạo không nản ḷng thối chí, tuy nhiều kiếp tội lỗi chưa tiêu, tôi cũng tha cho ba phần. Nếu như giữ giới luật tinh tấn nghiêm ngặt tới chết không thay đổi, chí tu đạo không lùi, tôi có thể tha hết cho bảy phần c̣n lại.
3. Trăm đức thiện đức hiếu đứng hàng đầu, nếu như vô t́nh phạm lỗi, song đối với cha mẹ lại là con hiếu thảo, tôi cũng xá giảm cho.
4. Người đời có tâm tu đạo, song ma nạn trùng trùng nên sau khi chết, tội trần gian đều chưa tiêu, nếu như kiên nhẫn chịu đựng khổ cực, tâm chí không thay đổi, tôi cũng tha tội cùng giảm bớt khổ đau.
5. Phàm thế nhân tội nghiệp kiếp trước chưa tiêu c̣n bị đày đọa tại địa ngục, con cháu đời sau có thể phát thiện nguyện hành thiện bố thí tôi cũng có thể tha tội, để tội hồn được giảm khinh khổ h́nh.
Tế Phật: Đức Địa Quan từng phân linh hóa làm Vũ Đế, cho nên đối với đạo tận hiếu ngài đặc biệt tôn trọng. Trung Nguyên Nhị Phẩm Xá Tội Địa Quan Đại Đế có hoài vọng phổ độ được hết người cũng như quỷ tại trần gian và địa ngục, v́ vậy đời mới tôn vinh ngài là đức “Trung Nguyên Phổ Độ Công”.
Mong thế nhân chăm lo tu thân hành thiện, ḷng trời từ ái, tuyệt không có ư bắt người đời chịu tội, vả lại v́ lo cho chúng sinh khắp mọi nơi nên mới định ra điều luật xá tội. Người đời nếu như không hồi tâm hướng thiện th́ dù trời có muốn xá tội cũng chẳng được nào, tới mức đó quả là hết thuốc chữa, tội quá nặng rồi!
Đại Đế: Tôi có ư muốn xá tội cho chúng sinh, ước mong chúng sinh chớ tự bỏ lỡ cơ hội. Hy vọng chúng sinh dưới gầm trời vô tội, người người đều là thiện nhân ắt là Địa Quan cũng như Thiên Quan đều chỉ là để ban ân phước mà thôi.
Dương Sinh: Đức Địa Quan nhân từ đáng kính, nhưng chúng sinh lại đều ngày ngày lo tạo tội ác, ngài tính sao đây?
Đại Đế: “Họa phước không có cửa, chỉ do người tự chuốc” nhân đời nay chúng sinh phước dày, do đó mà người người được hưởng ân huệ. Song chẳng qua phước phận như đèn dầu, cuối cùng sẽ có lúc hết, nếu như không châm thêm dầu tạo thêm phước, dầu hết đèn tắt.
Tai họa giáng xuống, khi đó nguyên linh của con người do Thiên Quan trao xuống cho Địa Quan, sẽ rớt vào tay tôi, nhưng tôi từ bi để cho họ có cơ hội sửa đổi, chuẩn bị làm kẻ được tha tội. Suốt đời nếu như chỉ ngang tàng không biết hồi tâm cúi đầu vái lạy đức Địa Quan, để nhận lệnh tha tội th́ chắc chắn sau khi chết sẽ bị đày xuống địa ngục, chẳng c̣n dịp may xá tội nữa.
Diêm Vương không được quyền tha tội, mà chỉ có quyền trị tội. Tôi với Địa Tạng Vương Bồ Tát cùng Mục Liên Tôn Giả, vốn do một khí hóa thành để phổ độ chúng sinh, nên đều có đại nguyện xá tội, cứu khổ, cứu nạn, bởi vậy Địa Quan và Địa Tạng chỉ là một thể.
Mục Liên Tôn Giả v́ ḷng hiếu thảo mà độ được mẹ mất, lễ Vu Lan tức mùa báo hiếu hàng năm vào ngày rằm tháng bảy nhắc nhở đạo hiếu mười phương, để cầu cho cha mẹ bị đày đọa khổ cực được siêu thoát.
Bồ Tát Địa Tạng Vương có đại nguyện là nếu như không cứu hết được các tội hồn tại địa ngục, thề không thành Phật. Khi tôi hóa thân làm vua Vũ, đạo hiếu cảm động ḷng trời nên có thần tích là voi cày ruộng thay thế, chim giúp bừa cỏ, vua Nghiêu v́ vậy mà nhường ngôi cho khiến lưu tiếng thơm muôn thuở.
Đạo giáo phổ độ của Trung Nguyên với Phật giáo Vu Lan Bồn tổ chức lễ cùng một ngày là lư do như vậy mong người đời giác ngộ điều đó. Người đời phải lấy trung hiếu làm gốc, gắng tu Thánh đạo, sau khi chết chắc chắn hồn được siêu thăng cơi trời, sống tiêu dao tự tại.
Tế Phật: Đức Đại Đế quá từ bi, tiết lậu một đoạn nhân duyên để cho người đời biết rằng tạo hóa vô cùng huyền diệu, thực tại ân phước sâu dày.
Dương Sinh: Bữa nay nghe những lời dạy của đức Đại Đế, đệ tử được mở mang trí năo, vô cùng cảm kích. Đối với việc ngài xá tội, đệ tử chưa thông suốt hết, xin ngài giảng rơ thêm cho, thưa có được không?
Đại Đế: Nếu như chưa rơ, tôi xin nói thêm:
1. Có một người nọ đă vào cửa Thánh thành tâm tŕ chí tu đạo, song thân thể c̣n lắm bệnh tật, tinh thần khốn đốn, thường buông lời oán trời, v́ đă tự giác hành thiện ít năm mà trời vẫn chưa giúp đỡ giải trừ bệnh hoạn khổ đau.
Tam Quan tra sổ thấy kiếp trước người đó là một tên đồ tể, giết hại sinh linh quá nhiều, cuối đời tuy cải nghiệp, kính Thần lễ Phật song công đức chưa đủ. Kiếp này được sinh vào gia đ́nh tu hành để kết thiện duyên tu đạo, song v́ kiếp trước làm đồ tể giết hại sinh linh quá nhiều nên kiếp này thịt xương đau đớn, bệnh hoạn chẳng dứt.
Trời cao từ bi, chính v́ giúp cho kẻ đó tiêu nghiệp nên toàn thân mới bị đau nhức, có đau khổ mới rơ được khổ đau, thống khổ chính là để tượng trưng cho sự tiêu tan ác nghiệp. Nếu như nhẫn nại chịu đựng và đạo tâm không lùi bước, tôi thấy được ḷng thành của họ, chắc chắn sẽ xá giảm tội nghiệp để họ được hạnh phúc yên ổn.
C̣n nếu như bị khổ mà không chịu đựng th́ dù tôi có muốn xá tội cũng chẳng được nào. Hy vọng chúng sinh có được nghị lực kiên cường, gặp trở ngại đều tự tĩnh tâm sám hối, chớ oán trời trách người, c̣n không tội nghiệp khó tiêu.
2. Nếu như nhớ tới những tội hồn thân giam nơi địa ngục thống khổ không chịu đựng nổi, b́nh thường ngoài việc thuyết pháp độ khổ ra, mỗi năm vào tháng bảy cửa quỷ đặc biệt mở để tạm tha các tội hồn một lần, cho ra ngoài đi dạo, phàm nhân đời sau thiết yến tế bái để tội hồn khỏi đói khát.
Đạo gọi là “Trung Nguyên Phổ Độ”, hiến dâng hoa quả, của ngon vật lạ, cờ quạt linh đ́nh cỗ bàn cúng dâng chư thánh, các quỷ đều rất vui mừng. Nhà Phật gọi là lễ Vu Lan Bồn, bày bách vị ngũ quả vào trong chậu dâng hiến thập phương đại đức, nhờ chư tăng đại đức cầu siêu cứu độ cho cha mẹ đă qua đời.
Dương Sinh: Đức Đại Đế từ bi, phổ độ khắp ngả âm dương, thánh đức quả là vô lượng. Đệ tử thuở nhỏ sống ở quê, cứ vào tiết tháng bảy, về ban đêm thân phụ lại bày thân vị của Đại Đế trong nhà, ngoài ngơ đốt đèn.
Cứ theo lời của thân phụ nói th́ là để soi sáng cho các u hồn thấy rơ đường đi, thưa có đúng vậy không? Ngày nay công thương phát đạt, đô thị lại ít thấy cảnh đó, như thế có ảnh hưởng ǵ tới việc đi lại của các u hồn?
Đại Đế: Chốn âm phủ như đêm đen chỉ có sao, tội hồn bị giam cầm ở đấy tối tăm thống khổ, chúng sinh ở dương gian mở ḷng từ bi, thắp đèn hai bên đường vào đêm tháng bảy, để giúp tội hồn đi lại dễ dàng, công đức vô lượng.
Ngày nay phàm trần khoa học kỹ thuật tiến bộ có đèn điện, nên cả hương thôn lẫn đô thị đường ban đêm đèn sáng choang, u hồn đă thấy được rơ đường, không bị trở ngại, bởi vậy người ta không đốt đèn cũng không bị ảnh hưởng, do đó nói: “Thời thay đổi th́ pháp cũng thay đổi” là như vậy.
Dương Sinh: Thưa đức Đại Đế giải thích rất đúng.
Tế Phật: Buổi bái yết đức Đại Đế bữa nay kết thúc tại đây, chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường.
Đại Đế: Kính tiễn nhị vị. Ước mong chúng sinh phần lớn hướng thiện tu thân, chớ có lao ḿnh xuống hố sâu tội ác ô uế, để tránh cho tôi khỏi bị nhọc mệt về việc xá tội cho chúng sinh. Người chẳng phải thánh hiền, biết lầm lỗi có thể sửa chữa, đức thiện chẳng phải nhỏ.
Nếu như sám hối tội lỗi ngày trước, tôi nguyện trả lại sự thanh bạch hôm nay, tha thứ hết lỗi lầm, mong chúng sinh nắm lấy cơ hội tốt, chớ để một lần mất thân, muôn kiếp khó t́m lại được.
Dương Sinh: Cảm tạ lời dạy ngọc vàng của đức Đại Đế, xin bái từ.
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 651 of 1146: Đă gửi: 27 August 2010 lúc 9:55pm | Đă lưu IP
|
|
|
THIÊN ĐƯỜNG DU KƯ
HỒI BA MƯƠI HAI
DẠO ĐIỆN TAM QUAN BÁI HỘI THỦY QUAN ĐẠI ĐẾ
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 23 tháng 9 năm Canh Thân 1980
Thơ
Nhất phái thanh sơn cảnh sắc ưu
Khinh khinh cổn thủy tính ôn nhu
Thiêu ly thế đạo kham ta thán
Mạc phụ quang âm nan đảo lưu.
Dịch
Non xanh một dải đẹp vô vàn
Nước biếc êm đềm măi chứa chan
Thế đạo tan tành khôn kể xiết
Quang âm chớ phụ kiếm gian nan.
Tế Phật: Người đời mỗi ngày trước khi đi ngủ nếu không tắm rửa th́ mồ hôi chẳng toát ra, cơ thể chẳng mát mẻ, mộng mị trong giấc ngủ chẳng êm đềm. Những tà niệm trong tâm chúng sinh ngày đêm không ngớt dày ṿ, đầy ắp tư dục, t́nh ái và uất hận, vị chủ nhân của tâm chúng sinh phải chịu măi cảnh khổ sở đó, tới nỗi tưởng chừng hết c̣n kham nổi.
Vậy liệu chúng sinh có tẩy rửa cho sạch sẽ mỗi ngày để vị chủ nhân đó được mát mẻ khoan khoái không? Nếu như không, mồ hôi nhơ bẩn của vị chủ nhân thân xác đó sẽ bốc mùi xú uế, chẳng ai dám gần đến cả Tiên Phật cũng tránh xa ngàn dặm, và cứ cái đà xuống dốc như thế măi, cuối cùng sẽ thành quỷ rác rến biết không?
Bữa nay ta hướng dẫn thánh bút Dương Thiện Sinh dạo thăm điện Tam Quan, bái hội đức Thủy Quan Đại Đế, để kính xin ngài sử dụng nước pháp, giải nguy trừ họa cho thế nhân, cùng giúp đỡ thân tâm những kẻ phàm phu tục tử trở nên thanh tĩnh, hẳn là người đời sẽ được hưởng phúc không nhỏ.
Dương Sinh: Thưa con đă lên đài sen, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đă tới nơi, Dương Sinh xuống đài sen.
Dương Sinh: Nơi đây có một con sông chảy, nước trong suốt có thể nh́n thấy đáy là tại sao?
Tế Phật: Đây là linh khí của đức Thủy Quan Đại Đế hóa thành. Chúng ta hăy đi theo con đường lớn bên bờ sông, tới bái yết đức Thủy Quan Đại Đế.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Khí tượng nơi điện phủ Tam Quan muôn màu muôn vẻ, thiên địa tạo hóa sao lại có thể ảo diệu tới mức này?
Tế Phật: Hỗn mang vừa chia, vạn vật tạo dựng đều có định luật, thân người cũng có Tam Quan, con người phải tự giác ngộ để có thể sáng tỏ tất cả.
Dương Sinh: Bên bờ sông liễu xanh rủ bóng, cảnh sắc khiến ḷng người vô cùng ưa thích.
Tế Phật: Cảnh đó tuy trang nghiêm song vẻ thiên nhiên rất phong phú, thực là cảnh tiên hoang dă. Cung Thanh Hoa ở phía trước, chúng ta hăy vào trong bái yết đức Thủy Quan Đại Đế.
Dương Sinh: Thưa tuân lệnh... Đệ tử Dương Sinh xin bái yết đức Thủy Quan Đại Đế, kính mong ngài ban ân chỉ giáo dùm cho.
Thủy Quan Đại Đế: Miễn lễ, Dương Thiện Sinh, Tế Phật cùng đảm trách sứ mệnh trước tác sách Thiên Đường Du Kư để khuyến hóa bến mê, ḷng tôi rất vui mừng cảm kích. Sách Du Kư tả lại phong cảnh thiên đường, một nhánh cỏ một cọng cây, một ngọn núi một ḍng nước, một lời nói một nụ cười đều ẩn chứa muôn vàn diệu lư huyền cơ.
Phàm là độc giả có duyên đương nhiên thần đi th́ ư gặp, không thể phóng ngựa xem hoa, để tránh khỏi mất đi cơ hội tốt gặp đạo. Sách này thực là phi phàm, nhân v́ Dương Sinh sớm có đầy đủ đạo căn, có trí tuệ lớn lao cho nên thấu triệt được diệu cảnh thiên đường, mà viết nên một thiên Du Kư, trở thành một đại kỳ thư của kim cổ, bữa nay tới đây ḷng tôi vô cùng hân hoan sung sướng. Tiên Quan, mau dâng trà.
Dương Sinh: Đức Đại Đế quá khen ngợi song đệ tử không dám nhận, v́ nhờ được may mắn theo gót ân sư dạo thăm cơi trời trước tác sách Thánh, chỉ xin cảm tạ ân huệ lớn lao của đức Đại Đế.
Đại Đế: Cớ sao tự nhiên Dương Thiện Sinh lại nhỏ lệ?
Dương Sinh: Thưa, đệ tử thân vào cửa Thánh một ḷng thay trời giáo hóa, được rơ đạo cao ít người tỏ nên tự than tâm có dư mà sức chẳng đủ.
Đại Đế: Dương Sinh chớ buồn phiền, đă hết sức lo việc người, dốc ḷng nghe lệnh trời, tâm của Dương Sinh trời đă tỏ, bút của Dương Sinh người đă động ḷng, ra sức giúp thế đạo cùng kéo vận trời, trách nhiệm nặng nề mà đường th́ xa, hy vọng giữ bền chí lớn, trời cao sẽ cảm ứng hóa độ chẳng phụ kẻ có ḷng.
Dương Sinh: Cảm tạ Đại Đế đă yên ủi.
Tế Phật: Tṛ ngoan chớ ưu sầu, đă có lăo tăng đây chẳng lẽ c̣n sợ không có duyên có chốn hóa độ sao? Y bát chân truyền trong tay, khắp chốn là đạo tràng, lo thực hiện trách nhiệm chung sao cho được tốt đẹp, đi một bước tính một bước. Bữa nay bái yết đức Đại Đế, con nên nhân cơ hội này hỏi đạo cho thật nhiều.
Dương Sinh: Thưa vâng. Kính hỏi đức Đại Đế, ư nghĩa của Thủy Quan là như thế nào?
Đại Đế: Tôi là Đại Đế Thủy Quan, Giải Nguy Tam Phẩm Hạ Nguyên, chuyên giúp người đời giải trừ tai ương nguy khốn, nhưng tại sao tôi lại làm chức vụ giải nguy?
Bởi v́ người đời đều bị bụi bặm ô nhiễm, tội ác đầy ḿnh cho nên biến thành tội nhân. Các tội phạm ở trần gian đều bị chế tài bởi h́nh phạt do luật trời sắp đặt, những luật vô h́nh của trời con người được thấy rơ nhất là khi mưu sự mà chẳng thành.
Bệnh ma quỷ buộc thân cầu chẳng dứt, kiếp sống nguy nan không hết, cảnh t́nh thống khổ tả không thấu, nên hiện thời tôi được quyền lo việc giải nguy. Tất cả bệnh tật hoạn nạn... đều gọi là “tai ương nguy biến”, chữ “tai” thuộc bộ hỏa, ư là tai nạn do lửa sinh ra cho nên phải lấy nước chế ngự nó.
Thuỷ Quan như nước sông biển có thể trừ hết mọi ô uế, tẩy sạch mọi thống khổ, hóa giải hết ân oán, tất cả các nỗi nguy khốn của kiếp sống tiêu tan, tâm thân được trong lắng mát mẻ tươi vui tiếp tục sống c̣n lớn mạnh, cho nên đời có nói: “Có rớt xuống sông biển tất cả mới được đổi mới”.
Do đó hy vọng dẹp sạch mọi nỗi bất b́nh oán hận, cùng các dấu vết tội ác ô uế ở cơi thế gian, và có như vậy th́ tai ương nguy khốn ở trần thế mới tiêu trừ nổi.
Dương Sinh: Đức Đại Đế dùng nước tẩy trừ những tai nạn thống khổ ở trần gian, tưới đất khô cằn, công đức vô lượng, đệ tử xin cung kính dâng lễ. Tuy nhiên c̣n nhiều chỗ chưa được thật tỏ tường, mong Đại Đế ban lời chỉ giáo để giúp người đời phương pháp giải nguy.
Đại Đế: Đă sinh làm kiếp người chẳng khác ǵ thuyền trôi trên biển, sóng dập gió vùi nổi ch́m bất định, nhớ thuở ấu thơ chập chững mới biết đi, té lên té xuống chân xướt máu chảy. Khi lớn lên vật lộn với cuộc sống, mồ hôi đổ ra như tắm, vận dụng hết tâm trí, thân tâm lao lực không chịu thấu, tôi lấy nước nóng giải trừ sự mỏi mệt, dùng nước lạnh lay tỉnh sự hôn mê, thường thường thêm dầu thêm khí cho thân được khỏe khoắn.
Gặp lúc quá căng thẳng tôi đẩy bớt sức nóng ra ngoài cơ thể, để duy tŕ nhiệt lượng được quân b́nh tránh bị thiêu hủy. Người ta cũng như máy xe hơi, chạy trên đường đời có kính chiếu tiền, chiếu hậu, sự nguy hiểm lúc nào cũng nh́n thấy.
Sự sinh tồn của nhân loại là kế tục đời sống của vũ trụ, v́ trời đất quyết tâm phát huy chính khí đại đạo, cho nên với tam tài, tài nhân tức loài người quư hơn cả, tam quan là thiên, địa, thủy.
Thủy quan tức là nhân quan, người là thể, là chất của máu thịt rất dễ bị thương tổn thiệt hại. Bởi vậy Thủy Quan phải tùy thời giải nguy, hy vọng chúng sinh gặp lúc số kiếp nguy nan, hăy niệm tên thánh của tôi tức th́ được hóa giải liền.
Dương Sinh: Tâm Đại Sư quá từ bi, khiến mọi người cảm động, thế nhân nghĩ là không gặp nguy khốn tai ương như vậy là không biết đạo, thưa đức Đại Đế có thể ban lời chỉ dạy được không?
Đại Đế: Trời không giáng tai họa, sợ nhất là tại người tự tạo tai ương, đạo giải nguy tai họa không có cách nào khác hơn là: “Giữ ḿnh cho thanh bạch ắt thân sẽ tránh được nguy khốn”. Nếu như gặp tai ương phải thực tâm sám hối, thi hành đạo thiện chớ tái phạm điều ác th́ Thủy Quan sẽ giải nguy cho.
Dương Sinh: Người đời gặp nguy khốn khổ sở, đức Đại Đế làm cách nào hóa giải?
Đại Đế: Con sông ngoài kia nước của nó có công giải độc trừ họa, có thể nói là thần thủy, Dương Sinh hăy định thần nh́n coi sẽ thấy ngay sự ảo diệu bên trong của nó.
Dương Sinh: Định thần nh́n, trong sông thấy có nhiều nhân vật nhỏ bơi lội, thưa họ là ai?
Đại Đế: Người đời gặp hạn sao cô thân, quả tú, chết không có con cháu nối dơi, quá thống khổ, v́ kiếp trước họ không tu cho nên kiếp này mới gặp nạn đó.
Nếu các thiện nam tín nữ chịu sớm tối tắm rửa, tĩnh tâm kiên nhẫn đốt nhang đọc kinh sám hối, giải trừ tội lỗi th́ nguyên thần của các tội hồn đó, có thể tắm gội tại sông này, để nhẹ bớt đau khổ, dần dần thoát khỏi khổ đau.
Tế Phật: Đức Thủy Quan Đại Đế từ tâm đă ân ban nhiều lời chỉ giáo vàng ngọc, đức Tam Quan Đại Đế chủ tể ba ty thiên, địa, thủy (nhân), trách nhiệm nặng nề, ban phước giải trừ tai ương nguy khốn, tất cả đều hết ḷng nghĩ tới sự lợi ích của chúng sinh.
Có thể nói là ḷng dạ Tiên Phật, công đức lớn lao, do đó phút này chúng tôi tới điện Tam Quan diện kiến đức Tam Quan Đại Đế để kính cẩn lắng nghe lời Thánh dạy bảo.
Đại Đế: Trong điện Tam Quan, Thiên Quan, Địa Quan đang chờ chúng ta, chúng ta hăy cùng vào.
Dương Sinh: Thưa hay quá. Tam Quan như người trong một nhà, bữa nay nhờ vận may tới được nơi đây đồng thời được cung kính lắng nghe Tam Quan Đại Đế chỉ dạy, thực cảm thấy quá vinh hạnh... Đă tới điện Tam Quan.
Tế Phật: Tam Quan tuy chia làm ba cung, gian giữa là Đại Điện tức là nơi hội họp để lo việc công. Hiện thời đă vào trong điện, hai vị đại đế Thiên Quan, Địa Quan đang đợi.
Dương Sinh: Xin lạy chào ra mắt nhị vị Đại Đế Thiên Quan, Địa Quan. Phía trong bày đầy trái cây tiên ngon ngọt khiến thèm chảy nước miếng.
Thiên Quan Đại Đế: Miễn lễ, Dương Thiện Sinh bữa nay tới viếng thăm điện phủ Tam Quan, đặc biệt bày tiệc khoản đăi để tưởng thưởng công lao viết sách khổ cực.
Địa Quan Đại Đế: Sách Thiên Đường Du Kư đến đây đă gần xong phần chót, công đức của Tế Phật và Dương Sinh lớn lao, tên tuổi vĩnh viễn được ghi vào bảng trời, làm thiên sứ nhà trời có Tam Tào phổ độ, quảng bá phúc âm trên thế giới để cho chúng sinh hồi tâm hướng thiện, văn hồi được khí số trời đất, xúc tiến thế giới đại đồng, đức lớn chẳng kể xiết.
Thủy Quan Đại Đế: Tế Phật dẫn đường, Dương Thiện Sinh chủ biên, dạo khắp cơi trời hỏi đạo chân truyền, giữa thời đại khoa học kỹ thuật chế tạo món ăn tinh thần, duy chỉ có tu dưỡng tinh thần mới có thể đem lại hạnh phúc cho con người, an tâm hưởng thụ các phương tiện của văn minh khoa học kỹ thuật.
C̣n nếu không sự thông minh của đầu óc con người sẽ là thứ khí giới tự hủy diệt chính con người, sự bất hạnh đó xảy đến với nhân loại ắt chẳng do Tiên Phật nhẫn tâm làm như vậy, cho nên các ngài mới thường ban huấn thị để khuyên răn. Nhân loại nếu như đều chăm lo tu thân dưỡng tính, đem đời ô trược biến thành đất thanh tịnh ắt là trời và người đều được may mắn hạnh phước.
Thiên Quan Đại Đế: Mời Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh dùng chén rượu Quỳnh Tương cùng trái tiên tuyệt phẩm mà thế gian không có nổi, lộc của trời cao ban phát hăy tận hưởng.
Dương Sinh: Cảm tạ Tam Quan Đại Đế đă quá yêu mà ban cho lễ phẩm nhiều tới mức này, nhân đây con cũng xin cảm tạ sự hướng dẫn của ân sư Tế Phật.
Tế Phật: T́nh thầy tṛ như nghĩa cha con, hà tất phải thắc mắc. V́ trước kia khi ra đi có lời nguyền sẽ trở lại, nên hiện thời có được mối thiện duyên dạo khắp ba cơi, để viết sách khuyên đời đă khiến tôi tạm gác chuyện: “Thích thói quen tiêu dao, coi pháp môn chỉ là phương tiện” để làm thiên chức bà mẹ hiền nuôi nấng giúp đỡ mọi người thành Phật thành Tiên.
Trách nhiệm của Dương Sinh quá nặng nề mà đường lại xa, gắng đem tâm pháp truyền bá rộng răi, ḷng từ ban trải nơi nơi để chúng sinh được hưởng ơn mưa pháp thấm nhuần, chứng ngộ được đạo quả bồ đề.
Dương Sinh: Con xin ghi nhớ măi lời thầy dạy ước mong ân sư chỉ giáo thêm cho.
Tam Quan Đại Đế: “Tuy ba Thánh nhân song là một Thái cực, mang sứ mệnh phổ độ muôn nhà, tấm áo bao trùm hết thảy vô cùng trọng đại, là động thanh hư Tử Vi, cai quản tất cả công và tội, ban phước xá tội giải nguy, giúp đỡ sự mất c̣n, đạo tỏa chư thiên, ân ngợp tam giới.
Đại bi đại nguyện, đại thánh đại từ, tam nguyên tam phẩm, tam quan đại đế, tam cung cửu phủ, ba trăm sáu mươi nỗi cảm ứng Thiên Tôn”. Trên đây là những lời Tam Quan báo cáo cực quư trọng, người đời nếu như chăm chỉ tụng niệm, tự nhiên cảm ứng.
Giờ đây có bữa tiệc nhỏ này để bày tỏ tấc ḷng, đợi tới khi sách viết xong sẽ tổ chức một bữa tiệc lớn khác tại cung Dao Tŕ, mong hăy chờ đợi ngày đó.
Tế Phật: Buổi bái hội đức Tam Quan Đại Đế bữa nay kết thúc tại đây, Dương Sinh hăy lạy tạ đức Đại Đế, chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường.
Dương Sinh: Bữa nay được thưởng thức rượu ngon trái ngọt nơi đây, ḷng vô cùng hân hoan sung sướng, cảm tạ đức Đại Đế đă ân ban.
Tam Quan Đại Đế: Chớ có e ngại, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, đạo quả tự tu tự đắc chỉ mong tiếp tục gắng công.
Dương Sinh: Bái từ đức Đại Đế, thưa ân sư con đă lên đài sen, mời ân sư trở lại Thánh Hiền Đường.
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 652 of 1146: Đă gửi: 27 August 2010 lúc 10:20pm | Đă lưu IP
|
|
|
THIÊN ĐƯỜNG DU KƯ
HỒI BA MƯƠI BA
DẠO ĐIỆN TRUNG NGHĨA VÀ ĐIỆN HIẾU THẢO
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 6 tháng 10 năm Canh Thân 1980
Thơ
Tâm huyết ngưng thành nhất bảo thiên
Công thùy vạn cổ thuyết chân thuyên
Sinh tri phô thiết thiên đường lộ
Tử giá tường vân tố Thánh Tiên.
Sa bàn ma phá liễu đào chi
Thụ chấp ngưng thành ngũ sắc chi
Phúc địa thiên di quy Thánh đức
Liên hoa xuất tự ngọc Dao Tŕ.
Dịch
Tâm huyết đọng thành cuốn sách tiên
Công ghi muôn thuở đạo chân truyền
Thiên đường sống rơ đường qua lại
Chết cưỡi mây thiêng hóa thánh hiền.
Cành liễu đàn cơ vung múa mau
Nước cây đọng hóa cỏ năm màu
Về trời đất phước lo trồng đức
Sen trắng Dao Tŕ nở ngợp ao.
Tế Phật: Dao Tŕ ư chỉ và Kim Khuyết ngọc chỉ đă ban, sách Thiên Đường Du Kư sắp viết xong, ngả thiên đường gặp nhiều người thản nhiên cày bừa nơi mảnh đất yên, họ đă t́m về được nơi trú ngụ thiện lành sau chót.
Con đường tương lai mà người đời muốn đi tới là con đường nào? Thiện ác hai ngả xin lựa chọn cho thật kỹ lưỡng, cuối con đường thiện là ngả lên thiên đường, cuối con đường ác là ngả xuống địa ngục, người đời hiện đang đi trên đường nào?
Xem xong hai cuốn Thiên Đường, Địa Ngục Du Kư chúng sinh đều trở thành những phê b́nh gia, tương lai lên thiên đường hay xuống địa ngục trong ḷng đă thấy rơ. C̣n Tiên Phật, Diêm Vương chẳng qua chỉ chiếu theo ư muốn của chúng sinh mà thâu nhận thôi, cũng chớ nghĩ lầm là Diêm Vương lănh đạm vô t́nh.
Đối với một kẻ vô đạo, ḷng dạ hiện ra nét mặt, rồi người đời lại đem bộ mặt giả đó gắn cho Diêm Vương. C̣n Tiên Phật lộ vẻ hiền lành tươi vui giống như đưa tay vẫy gọi chúng sinh, dung nhan từ thiện phúc hậu của các ngài cũng là do người phàm gắn cho chư vị, do đó mà chẳng cần cảm tạ tấm t́nh chan chứa đó của các ngài.
Hai bộ mặt khác biệt nhau đó cũng đều do chúng sinh tả chân ra, chúng sinh đă vẽ chân dung chính họ, nhưng chẳng ai dám làm chủ, chỉ thấy chúng sinh hứng thú với nét bút vẽ vời của chính ḿnh.
Lăo tăng nói tới đây mong rằng chúng sinh lắng nghe kỹ lưỡng, để tránh việc mời lăo tăng thuyết pháp thêm lần nữa, bởi lẽ khi đó lăo tăng đă nhập niết bàn rồi. Bữa nay thầy lại hướng dẫn tṛ ngoan Dương Sinh dạo thiên
đường, hăy chuẩn bị.
Dương Sinh: Thưa con đă lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.
Tế Phật: Thầy tṛ cưỡi ṭa sen bay, dạo thăm ba cơi khiến hoa trời rơi rụng tơi bời, chúng sinh nh́n thấy hoa ḷng cũng tưng bừng đua nở, song c̣n bao kẻ không biết hân hoan thưởng thức, thật đáng tiếc v́ họ chẳng có duyên. Dương Sinh, c̣n tâm con cảm thấy thế nào?
Dương Sinh: Thưa ân sư, sự theo hầu bên cạnh thầy trong những năm qua đă giúp ích con rất nhiều, được theo thầy dạo thăm ba cơi phải nói là ba kiếp mới có nổi may mắn. Ngồi trên đài sen nhẹ nhàng bay, tuy không phí sức song tự cảm thấy trách nhiệm nặng nề mà đường th́ xa, không dám lơ là coi nhẹ.
Tế Phật: Phải, nếu bừa băi tất nhiên sẽ bị hy sinh, bởi lẽ gai góc mọc đầy, đạp phải gây thành thương tích máu chảy, khi đó nh́n lại đường đời có biết bao kẻ đang đi, họ sẽ nh́n ngó và mỉm cười chua xót để an ủi.
Dương Sinh: Thưa ân sư dạy rất đúng, để ḿnh được an tâm, để chúng sinh có đạo, đường đời mới có giá trị.
Tế Phật: Đă tới nơi, mau xuống đài sen.
Dương Sinh: Bữa nay đă tới chốn nào đây, cớ sao phía trước lại có một số người dáng vẻ uy dũng, xem ra chẳng giống người thường.
Tế Phật: Đây là điện Trung Nghĩa trực thuộc điện Tam Quan, c̣n những vị vừa thấy đều là các đấng tận trung hy sinh v́ tổ quốc, sau khi chết đều lên trời làm thần, chúng ta mau tới trước bái yết...
Dương Sinh: Vào trong điện thấy có nhiều vị mặc chiến bào hoặc quan phục ngồi ở giữa điện, không rơ quư vị đó là ai?
Tế Phật: Từ xưa tới giờ những ai trung hiếu tiết nghĩa đều được lên trời làm thánh, vị ngồi giữa điện là Nhạc Vơ Mục Vương tức Nhạc Phi, thứ đến một số vị khác là trung thần liệt sĩ cổ kim v́ nước hy sinh tính mệnh, sau khi chết linh thăng cơi trời, được dân chúng hàng năm dâng lễ vật cúng vái, vạn cổ lưu lại tiếng thơm.
C̣n các vị khác lúc tại thế đều làm quan thanh liêm, chẳng hề tham nhũng hối lộ, chỉ dốc ḷng lo cho dân, sau khi chết cũng được thăng cơi trời làm thần sống tiêu dao tự tại trong các sảnh đường thuộc điện Trung Nghĩa, hoặc tới các tầng trời khác đảm nhiệm chức thánh.
Ngạn ngữ có nói: “Chính trực vô tư gọi là thần”. Quư vị đó đều ngay thẳng quên ḿnh lo tu tập đạo công chính, tới ngày thành đạo cơi trời cũng rất cần những nhân tài đó. Bởi vậy chốn phàm trần khi bái lạy các vị thần thánh, chớ có đ̣i hỏi điều kiện này nọ.
Ví dụ như: “nếu ngài giúp đỡ con được thành công trong công việc con sẽ dâng lễ vật cúng ngài”. Nếu cầu như vậy thần thánh chân chính sẽ không chấp nhận, bởi lẽ các vị đó luôn luôn căn cứ theo lẽ công làm việc, bởi vậy chúng sinh phải tâm thành mới linh ứng. Dương Sinh có thể kính xin đức Nhạc Vơ Mục ân ban lời chỉ giáo.
Dương Sinh: Hướng về phía Vơ Mục Vương cùng chư vị thánh hiền nghĩa sĩ kính lạy. Thưa, đệ tử không được rơ sự sinh hoạt tại cơi trời ra sao, kính xin chư liệt vị chỉ giáo cho.
Nhạc Vơ Vương: Tôi vốn nhậm chức tại điện Linh Tiêu Ngọc Đế, bữa nay đặc biệt tới điện Trung Nghĩa này hội hợp. Thiên đường vốn ngập tràn chính khí song v́ ngày nay thượng tôn văn minh khoa học, đạo đức người đời trụy lạc, gian ác thịnh hành khiến cho nguyên khí của trời đất ngày một mất đi. Cho nên gặp nhiều tai họa.
Tôi ước mong người đời hăy ghi nhớ lời dạy của đức Khổng Phu Tử: “Chính tâm, tu thân” để làm khuôn mẫu sống ở đời. Phàm làm việc công không được tham nhũng lăng phí của công; ngoài ra những người làm nghề khác cũng đều phải giữ đúng cương vị của ḿnh, mọi người phải tận trung ái quốc, bảo vệ cương thổ, hy sinh tính mệnh tức là “vị đạo vong thân”.
Anh linh ắt được thăng cơi trời như đức Quan Thánh: “Ḷng son ngời nhật nguyệt, nghĩa khí ngợp đất trời” tới nay mọi nhà đều có lập bàn thờ, luôn luôn cúng lễ cho nên mong ước chúng sinh: “Yêu nhà, yêu quê càng yêu nước”.
C̣n như Tần Cối gian nịnh hăm hại trung thần, phải chịu mười kiếp luân hồi làm heo, đến nay c̣n bị nhốt tại ngục a tỳ chẳng được siêu thăng. Cơi trời yêu “trung nghĩa”, địa ngục nhốt “bất nhân”, bởi vậy người đời chớ có gian manh hại nước, c̣n không lúc sống bị mọi người nguyền rủa, khi chết vĩnh viễn đọa địa ngục.
Dương Sinh: Trung hiếu tiết nghĩa là đức tốt của truyền thống nước ta, cũng là tôn chỉ của Thánh Hiền Đường đề xướng, tu đạo cũng chính là tu đạo đức lớn “Trung hiếu tiết nghĩa”, nếu như bỏ bốn đức đó th́ kể như không có đạo để tu.
A, mặt tường phía trước c̣n treo đầy thẻ, ghi tên các vị trung thần liệt sĩ của các triều đại, hào quang lấp lánh tỏa ngời.
Nhạc Vơ Vương: Đó là những thân vị của các bậc trung thần nghĩa sĩ, khi lên trời đều được ghi tên vào bảng anh hùng, và được hưởng đời sống cực lạc.
Tế Phật: V́ thời giờ có hạn, c̣n phải phỏng vấn nơi khác, bởi vậy xin cáo từ tại đây.
Dương Sinh: Hướng Nhạc Vơ Vương bái từ.
Tế Phật: Dương Sinh hăy đi theo thầy, chúng ta tới thăm điện Hiếu Tử phía trước, để bái phỏng đức tiên thánh cao minh đă đạt đạo quả hiếu thảo.
Dương Sinh: Thưa vâng. Theo thầy rời khỏi điện, đi ra ngoài được một quăng đă nh́n thấy một ṭa nhà nguy nga, trên khắc ba chữ “Hiếu Tử Điện” tức là điện những người con hiếu thảo, nh́n rất là uy nghi.
Tế Phật: Trung hiếu là đầu của nhân luân, người đời tất nhiên phải tôn trọng, nếu không sẽ là đứa con phạm tội ngược ngạo. Phía trước điện Hiếu Tử thấy có những vị vợ hiền con thảo, chúng ta hăy tiến tới chào ra mắt.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Vào trong điện thấy có rất nhiều vị nam nữ dung nhan hiền từ, ăn mặc theo lối xưa cũng như theo lối ngày nay, đang ngồi đánh cờ, uống trà hoặc gảy đàn coi vẻ rất tiêu dao, chẳng rơ họ là ai?
Tế Phật: Đó là những bậc con hiếu xưa nay, già trẻ lớn bé đều có cả, truyện Nhị Thập Tứ Hiếu c̣n tới bây giờ là do dân gian truyền khẩu. Phàm những người con hiếu thảo trên đời, sau khi chết trải qua sự tra xét của Tam Quan xong, th́ được siêu thăng lên điện Hiếu Tử sống tiêu dao tự tại.
C̣n các vị có những công đức đặc biệt, th́ được hưởng đạo quả riêng tại các tầng trời khác. Dương Sinh thấy trên tường có treo đầy bảng tên những vị hiếu tử, hào quang sáng lấp lánh.
Hy vọng những kẻ có bổn phận làm con trên đời, phải hiếu thảo với cha mẹ. Khi cha mẹ qua đời phải làm lễ mai táng cho thật uy nghi, cùng tỏ t́nh nhớ thương thật thắm thiết, ghi nhớ ngày tháng để cúng giỗ, hàng năm phải đi tảo mộ để đền ơn tổ tiên, cha mẹ sinh thành dưỡng dục. Dương Sinh hăy thỉnh vấn quư vị đó về gương hiếu thảo thuở c̣n tại thế.
Dương Sinh: Thưa vâng. Xin hỏi vị hiếu tử, vị có thể thuật cho người đời được rơ về gương hiếu thảo của vị không?
Hiếu Tử: Tự khoe về ḿnh, tôi cảm thấy ngượng ngùng lắm. Tôi chỉ là kẻ dốc tâm làm tṛn bổn phận của một người con đối với cha mẹ mà thôi. Nhớ lại lúc c̣n tại thế, gia đ́nh tôi quá nghèo, mẹ tôi mất sớm, cha tôi lại nghiện ngập rượu chè, bên trên lại c̣n bà nội, cha tôi mỗi lần
uống rượu vào là buông lời chửi bới xấu xa ác độc.
Đôi khi c̣n mắng nhiếc cả bà nội tôi. Khi tôi can ngăn, cha tôi đă không bỏ tật ngược lại c̣n đánh đập tôi, song tôi vẫn cắn răng chịu đựng sự đau đớn, không hề oán trách cha tôi. Bà nội tôi tuổi già sức yếu, thức ăn trong nhà chẳng có, tôi phải đi làm mướn kiếm tiền, lén mua đồ ăn mang về dâng bà nội.
Cha tôi v́ uống quá nhiều rượu, tới năm mươi tuổi th́ mắc chứng đau gan và qua đời, để lại bà nội tôi và tôi sống nương tựa nhau lây lất. Hàng ngày tôi phải đi làm thuê làm mướn kiếm tiền phụng dưỡng bà nội. Mỗi lần có người mai mối tôi đều cự tuyệt, v́ sợ rằng bà nội tôi sẽ không có ai phụng dưỡng.
Cho tới khi bà nội tôi qua đời, ma chay mai táng xong xuôi th́ tôi đă ba mươi tám tuổi, mà vẫn c̣n sống độc thân, làm công để tự nuôi thân, sống hết sức cần kiệm. V́ đời đă từng trải cảnh nghèo, nên tôi thâm hiểu được cái khổ của những kẻ khốn cùng.
Do đó mà tôi hết sức dành dụm tiền bạc để bố thí cho những kẻ nghèo khổ hơn tôi, tôi không hề cất giữ một đồng một cắc. Tới năm sáu mươi tuổi th́ tôi qua đời, nguyên linh của tôi được đức Quán Âm Đại Sĩ dẫn độ tới Trúc Lâm tu luyện, đến nay chứng đắc quả vị.
Tôi nhờ tu hành chứng quả “hiếu đạo” bởi vậy thường tới điện Hiếu Tử tiếp nhận những nguyên linh có duyên tu đạo. Bữa nay nhân có Dương Thiện Sinh tới đây, tôi cũng xin tŕnh bày vài điểm về đức hiếu nhỏ nhoi của tôi để người đời được rơ.
Mong rằng người đời nương theo cách thức của tôi mà thực hành đạo hiếu với cha mẹ ḿnh. Cổ nhân có nói: “Nhà nghèo sinh con hiếu thảo”. Sự chịu đựng khắc khổ hy sinh ở thế gian chỉ là giai đoạn ngắn, sự hưởng thụ ở tại cơi trời mới là vô cùng, tháng năm không kể hết.
Dương Sinh: Đức hiếu của vị quả là cảm động ḷng người, tôi xin lạy vị một lạy.
Hiếu Tử: Chớ quá lễ độ, ṿng linh quang trên đầu Dương Sinh đă tỏa chiếu sáng ngời, quả là một vị thành tâm tu đạo, mong Dương Sinh gắng sức phát huy đạo hiếu để quảng độ chúng sinh.
Dương Sinh: Cảm tạ vị đă ban lời khuyên chấn hưng đạo hiếu cùng đề xướng đức tốt của truyền thống văn hóa nước
nhà.
Tế Phật: Thời giờ đă muộn, chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường.
Dương Sinh: Thưa, con đă lên đài sen, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 653 of 1146: Đă gửi: 27 August 2010 lúc 10:48pm | Đă lưu IP
|
|
|
THIÊN ĐƯỜNG DU KƯ
HỒI BA MƯƠI BỐN
DẠO CƠI BIÊN GIỚI ÂM DƯƠNG
XEM CẢNH NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC TRỞ VỀ TRỜI
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 16 tháng 10 năm Canh Thân 1980
Thơ
Tẩu biến thiên đường hội chúng tiên
Ân ân thuyết pháp chỉ tâm điền
Nhân gian ái dục mê hồn trận
Khiêu xuất vơng la thiên ngoại thiên.
Du kư khả tu vạn pháp kinh
Cần tu bản tính xuất u minh
Dương Sinh Tế Phật đồng huy bút
Nhất bộ kỳ trân vạn cổ hinh.
Dịch
Dạo khắp thiên đường hỏi đạo Tiên
Ruộng tâm cày cấy pháp chân truyền
Trần gian dục lạc mê hồn trận
Trời thẳm trời cao lưới chẳng c̣n.
Du Kư là kinh vạn pháp tu
Giúp cho bản tính khỏi âm u
Dương Sinh Tế Phật cùng vung bút
Hương sách ngàn năm tỏa mịt mù.
Tế Phật: Thiên Đường Du Kư là kho tàng tu đạo quư báu, phàm kẻ có chí với đạo cần giác ngộ lư đạo siêu diệu ở trong sách, mới có thể khám phá ra được Tiên Phật hiển hiện ngay trước mắt.
Sự đời vốn hư ảo, kẻ tu đạo cần phải lên tới cảnh trời ở bên ngoài trời để trở thành một vị thượng nhân, trí tuệ siêu nhiên, c̣n không sẽ bị vướng mắc trong cảnh mê hồn trận, sớm c̣n sống tối đă chết, không t́m được lối thoát, tới lúc tinh khí lực suy kém, chỉ muốn nằm xuống nghỉ ngơi.
Bởi vậy trong thời gian tu đạo, thầy giỏi và bạn tốt rất cần thiết; phàm tà thuyết dị đoan, hoang đường láo khoét không được tin theo để tránh khỏi bị sa đọa vào đường ma quỷ. Quá khứ tu đạo của Lăo Tăng, chúng sinh đă tưởng lầm là toan tính nhiều.
Song kỳ thực ta chỉ có một trái tim Phật thương đời tức “Phật tâm”, một khối tinh thần giúp đời tức “Tế Công”, vốn b́nh dị đạm bạc chẳng có chi là kỳ quái, chúng sinh có thói quen thường nghĩ tới cái lợi riêng tư nên có cảm nghĩ trái ngược hẳn lại mà cho ta là kẻ có những hành động quái gở.
Nếu như người đời không có nổi năng lực của ta th́ chớ có bắt chước ta du hư nhân gian kẻo một trong muôn ngàn cách diễn xuất lỡ vụng về hẳn là thảm lắm. Tóm lại, bởi v́ tṛ “Tế Công” tức giúp chung th́ có thể diễn được nhưng c̣n tṛ “Tế Tư” tức giúp riêng th́ ngàn vạn chẳng thể thưởng thức nổi.
Từ nửa năm nay, phụng mệnh hướng dẫn Dương Sinh dạo thiên đường, ḷng ta vô cùng hân hoan, v́ nhiệm vụ trọng đại này đ̣i hỏi ta phải dằn ḷng bớt nóng nảy để hoàn thành sứ mệnh, nên chẳng c̣n dám giễu cợt châm biếm.
Dương Sinh nhẫn nhục chịu đựng, có trước có sau, gặp các vị cao minh hỏi đạo cầu t́m chân lư, gặp Thánh Phật nghe pháp mở huệ, lời lời nghe dạy sâu xa siêu diệu, thực chẳng thẹn là đệ tử của thiền sư. Tới mấy trạm chót
ḷng Lăo Tăng vốn nhẹ nhàng thơ thới, lại chuyển thành
nặng nề v́ kẻ mê vẫn mê, kẻ ngộ vẫn ngộ.
Những kẻ rong ruổi xe trên ngả đường dẫn tới thiên đường có cá nhân đă rẽ nẻo trái, có cá nhân đang ngủ gật, có cá nhân ḷng khỉ ư ngựa chẳng c̣n nghĩ tới chuyện dốc ḷng ruổi xe. Ta từ trên đỉnh mây nh́n xuống thấy nhiều kẻ đă gặp tai nạn xe cộ.
V́ vậy ta có lời nhắn nhủ như sau: “Ai ở trong cửa Thánh phải luôn luôn ôm ấp trái tim thánh, th́ thánh linh mới mong bất diệt”. Lăo Tăng đă phải trải qua biết bao thống khổ để thực hành, nên một lần nữa ước mong chúng sinh cũng phải hành đạo giống y như vậy. Dương Sinh chuẩn bị lên đài sen.
Dương Sinh: Thưa, tại sao ân sư cứ luôn luôn than thở?
Tế Phật: V́ chẳng c̣n lời nào để nói với chúng sinh.
Dương Sinh: Nỗi cảm xúc của ân sư quá sâu xa, tâm sự của con cũng gần giống vậy, xin ân sư cứ thổ lộ để cho con được chia sớt một đôi phần.
Tế Phật: Có rượu chẳng biết say, vô tâm có thể thấy Phật, chúng sinh đi trên đường trần, Phật trên trời ngó xuống, phải quư trọng duyên may tốt đẹp để tránh thành kẻ cô đơn. Chúng ta hăy lên thiên đường... Đă tới, chúng ta hăy xuống đài sen.
Dương Sinh: Thưa thầy, tại sao bữa nay con thấy nơi này giống hệt nơi khác? Con đường phía bên trái h́nh như đă đi qua.
Tế Phật: Đây là Âm Dương Giới tức biên giới của hai cơi âm dương hay địa ngục với thiên đường, chỗ ngă ba đường của ba cơi trời đất và người. Lúc trước viết Địa Ngục Du Kư, con đă từng đi qua con đường này, bữa nay đưa con tới đây để con thấy cảnh người ta sau khi chết phải xuống địa ngục, hay được lên thiên đường như thế nào.
Dương Sinh: A, th́ ra nguyên nhân là như vậy, ngả đường phía bên trái là lối xuống địa ngục, thấy có tướng quân Ngưu Mă áp giải thật nhiều tội phạm đang bị chửi mắng lùa đi, nh́n cảnh họ hiện tại thật quá đáng thương.
Tế Phật: Đó là kết cuộc của những kẻ làm ác, nhưng họ c̣n mơ tưởng để cầu được may mắn. Lúc sống v́ quá thâm hiểm ác độc, làm thương tổn cả lẽ trời, coi như không có phép trời, chuyên lén lút làm những chuyện tồi bại trong bóng tối, bởi vậy họ mới bị đày xuống địa ngục, thế mới biết luật trời đă an bài một cách hữu hiệu. Con có thể quan sát ngả đường của những người được lên thiên đường.
Dương Sinh: Ngả đường lớn trải vàng phía bên phải có nhiều người đi, thấy họ rất tiêu dao, c̣n có cả bồ tát cùng kim đồng ngọc nữ ra nghênh đón. Công đức của các vị đó ở thế gian quả lớn lao, thưa đă được lên thiên đường mà c̣n phân chia đẳng cấp nữa sao?
Tế Phật: Đương nhiên, như ở trần gian xe pháo bảng tên chẳng giống nhau, giá trị không đồng đều, có phẩm tước cao, phẩm tước trung cùng mới cũ phân chia. Người đời tu đạo, từng li từng tí không được gian trá, có một chút chân tâm th́ trên ḿnh được nạm một chút vàng, nếu như
những chút vàng này cứ nạm nhiều thêm măi, ắt được tôn làm thân Kim Phật, Kim Tiên.
Ngoài ra c̣n phân chia quả vị thành nhiều loại khác nhau, có đại kim thân, trung kim thân. C̣n nếu như phải đày xuống địa ngục th́ hẳn là thân trở thành thân gỗ mục, chẳng thể khắc chạm được ǵ. Chúng ta hăy tới trước thỉnh vấn quư vị thành đạo cao minh thiện đức.
Dương Sinh: Thưa vâng. Vị lăo thánh này tuổi đă khá cao, dung nhan ngợp ánh vàng, vẻ vô cùng hiền lành, nh́n qua biết ngay là bậc có công phu tu dưỡng, xin hỏi lăo tiền bối, vị đi đâu đây?
Lăo Ông: Tôi lên cơi trời.
Dương Sinh: Thưa vị có thể thuật lại thành tích quá khứ của vị không?
Lăo Ông: Tôi không có công đức ǵ cả, nên chẳng dám.
Tế Phật: Vị chớ có quá khiêm nhường, chúng tôi phụng mệnh viết sách, cứ việc nói cái hay ra để khuyên răn người đời, công đức sẽ vô lượng.
Lăo Ông: Để có thể khuyên răn người đời th́ tôi xin tŕnh bày như sau: Tôi là dân nam bộ, sau khi con cái trưởng thành liền tới làm công quả ở một ngôi đền, chuyên giải nghĩa thơ dùm những người xin xâm, sớm hôm lo thắp nhang dâng trà, một ḷng v́ thần thánh, v́ các tín đồ lo công quả.
Về sau thiện nam tín nữ mỗi ngày tới đền lễ bái một đông, tiền dâng cúng rất nhiều khiến tôi lại càng hết sức thanh liêm, một đồng một cắc cũng không dám lấy lén tiêu riêng, hoàn toàn dùng để mua nhang đèn hoặc chi tiêu cho những việc trong đền.
V́ nhờ đức thanh liêm công chính mà phút lâm chung tôi được thần chủ của đền đặc biệt thượng tâu lên Ngọc Đế xin cho tôi được miễn xuống địa ngục, lên thẳng thiên đường tiếp nhận chức thần, tôi chỉ có giữ trọn đạo công như vậy mà thôi.
Tế Phật: Đại công, đại công, vị không được tự xem khinh ḿnh, phàm trần có biết bao kẻ không được vậy. Ngọc Đế đă ban chức thần cho vị, c̣n tôi tặng thêm vị một trăm công, để giúp thăng đạo quả vị.
Lăo Ông: Xin lạy tạ đức Phật Sống đă tận t́nh giúp đỡ.
Tế Phật: Chớ ngại ngùng, khó được lắm đấy. Dương Sinh có thể thỉnh vấn thêm những vị được lên thiên đường khác.
Dương Sinh: Thưa vâng. Xin hỏi cô nương, tôi thấy tuổi cô c̣n nhỏ, cớ sao lại được may mắn lên thiên đường.
Cô Nương: Xin bái kiến đức ân sư Tế Phật, bữa nay sư sinh được dịp may mắn hạnh ngộ tại nơi này, trong ḷng đệ tử vô cùng cảm động, xin thỉnh vấn tại sao ân sư không ban nhiều công đức tại thế độ chúng sinh tu đạo, để có thể giúp họ mau được gọi về trời giống như đệ tử?
Tế Phật: Tại thời, tại mệnh, chớ có tiếc thương. Đệ tử rất kính trọng lăo tăng, được lăo tăng hóa độ nay đă thành chính quả. Chỉ v́ kiếp trước và kiếp này đệ tử c̣n mắc chút nghiệp duyên với song thân.
Nhưng hôm nay duyên nghiệp đă dứt sạch, nhục thể bị tổn thương, nhưng nguyên linh được thoát xác về trời. Đệ tử hăy nh́n ḱa, đức bồ tát Văn Thù đă tới độ đệ tử về tây phương, mau mau lạy chào.
Bồ Tát Văn Thù: Miễn lễ, hăy đứng lên, chúng ta có duyên thầy tṛ, chỉ v́ đệ tử c̣n mắc chút duyên phàm thế, cho nên phải chịu luân hồi một lần, tới nay trả xong món nợ nghiệp duyên, nguyên linh đệ tử được phép trở về tây phương.
Xin cảm tạ Tế Phật đă hóa độ, khai mở trí huệ cho đệ tử của tôi trong thời gian tu luyện, nên bữa nay mới có thể dứt nghiệp thoát trần.
Tế Phật: Văn Thù chớ khách sáo, đó chẳng phải là hoàn toàn nhờ ở sự hóa độ của tôi, mà chính là nhờ ở thiện căn cùng tài năng tu hành đạo đức của đệ tử đó thôi. Dương Sinh có thể tiếp tục phỏng vấn thêm những vị được lên thiên đường cao minh chân chính khác.
Dương Sinh: Thưa tuân lệnh. Những người đi trên đường lớn về trời, người nào người nấy vẻ mặt đều lộ vẻ vui tươi, tôi nh́n các vị đó mà tự thấy rằng tương lai của ḿnh cũng có được nhiều hy vọng. Xin hỏi vị, vị đi đâu đây?
Tôn Giả: Tôi tới tây phương yết kiến đức Thế Tôn.
Dương Sinh: Tuệ căn của vị sâu dày, công đức lớn lao, hào quang trên đầu sáng chói, vị có thể cho biết về phương pháp tu tŕ ở thế gian của vị không?
Tôn Giả: Năm hai mươi tuổi tôi xuất gia được độ làm tăng, vào cửa “không” tôi thực hành bốn tướng là: “không tranh với người, không oán than Phật, không khinh ngoại giáo, không tham dục như chúng sinh”. Chỉ tu có bốn hạnh đó thôi, c̣n hoàn toàn chẳng có công đức ǵ cả.
Tế Phật: V́ khác hẳn đám tục tăng, không tham gia vào các công việc của chúng sinh phàm tục rất là siêu việt, do đó mà ngày nay có thể đi thẳng tới tây phương, xin chia vui cùng vị.
Dương Sinh: Kính hỏi ân sư, thưa có phải những người từ phàm trần lên thiên đường đều đi qua ngả đường này cả phải không?
Tế Phật: Ḷng ngay dạ thẳng là “thiên đường lộ” tức nẻo đi lên thiên đường, c̣n cong cong quẹo quẹo là “địa ngục đạo” tức ngả đi xuống địa ngục, con đường đi lên thiên đường này cũng vốn do ḷng dạ của người biến hóa thành.
Người ta nếu như ḷng dạ không ác độc, sau khi chết lại thêm ba kiếp nhân quả đă trả hết, tiền án ở địa phủ được xóa sạch th́ đều có thể đi theo con đường này mà lên thiên đường.
Dương Sinh: Thưa ngả đường này dẫn tới đâu?
Tế Phật: Đường này dẫn thẳng tới cửa Nam Thiên rồi sau đó mới đi tới các từng trời khác.
Dương Sinh: Thưa tại sao con không thấy quư vị đó cưỡi gió đè mây?
Tế Phật: Chốn này c̣n gần gũi phàm trần và là đoạn đường đầu tiên tiếp giáp với thiên đường nên phải đi bộ. Khi tới đoạn giữa có tên riêng là “tâm quan” tức cửa ḷng, th́ tốc độ đi bắt đầu lẹ hơn, rồi cứ gia tăng măi cho tới khi có cảm tưởng như bay bổng.
“Tâm quan” đă qua “tâm nhăn” liền mở núi Linh Sơn hiện ngay trước mắt. Lên thêm nữa là đỉnh núi Tu Di ở trên đầu người, tới đây c̣n muốn lên nữa mà không cưỡi gió đè mây th́ không lên nổi.
Dương Sinh: Thưa ân sư, lư đạo đó là như thế nào?
Tế Phật: Đó là bí quyết của thiền, lăo tăng xin tŕnh bày rơ để cho những ai có duyên th́ thể ngộ nó. Là người sống ở cơi trần phải tu thân luyện đạo, chân phải đứng vững th́ mới có khả năng đi trên đường lớn dẫn đến thiên đường.
Lên thêm tầng nữa, lục căn linh căn phải thanh tịnh c̣n không phân và nước tiểu chảy ra, khắp ḿnh ô uế người không dám gặp th́ làm sao dám gặp trời? Lại lên thêm tầng nữa, bao tử ruột già ruột non phải thanh tịnh c̣n không sẽ như đường hẻm có nhiều ngơ ngách lầy lội bùn nhơ đi lại khó khăn tựa như đi đường âm phủ.
Lại phải lên thêm một tầng nữa, tâm giữ chính niệm nên dù có bị dao động tới mức nào đi nữa vẫn không kinh hoàng sợ hăi,với đôi mắt trong sạch, nếu như thiên đường có lối ắt có thể đi lên.
Lên thêm tầng nữa liền tới đỉnh tháp Linh Sơn, nơi đó là chóp núi cao tuyệt trần ăn thông với thiên đài, chỉ cần bước một bước là nhập vào hư không, tấm thân nhẹ nhơm, chẳng c̣n vướng víu nợ trần hoàn nghiệp chướng, dưới chân khói trắng tỏa, khói đó là do nguyên khí biến thành chớ không phải khói đen ô nhiễm nơi nhà máy kỹ nghệ.
Thân không c̣n trở ngại, bỏ được bước đi nặng nề nơi cơi thế gian, chân đạp trên xe mây ngao du khắp chốn thiên đường hạ giới, đó cũng là nguyên lư cưỡi gió đè mây của chư vị Thánh Tiên Phật.
Dương Sinh: Thưa ân sư vừa tŕnh bày đầy đủ về phương pháp tu đạo kèm thêm lư đạo nhiệm mầu siêu diệu.
Tế Phật: Xem xong cảnh biên giới âm dương mới hay rằng thiên đường, địa ngục vốn do tâm con người tạo, ư nghĩ chọn lựa con đường nào th́ phải đi con đường đó. Chúng ta trở lại Thánh Hiền Đường.
Dương Sinh: Con đă lên đài sen, kính mời ân sư trở lại Thánh Hiền Đường...
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 654 of 1146: Đă gửi: 30 August 2010 lúc 12:24am | Đă lưu IP
|
|
|
THIÊN ĐƯỜNG DU KƯ
HỒI BA MƯƠI LĂM
DẠO TAM GIỚI GẶP BÁT TIÊN QUÁN DIỆU PHÁP
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 19 tháng 10 năm Canh Thân 1980
Thơ
Thiên cổ nhân duyên bộ thánh đàn
Tuệ căn thâm chủng văn cuồng lan
Thiên thư bễ mỹ kim cương luận
Du Kư kham xưng cứu thế đơn.
Vân xa tĩnh tọa thượng liên đài
Tam giới ngao du giác lộ khai
Tương bạn Tiên chân cần vấn đạo
Đề huề cửu phẩm kiến Như Lai.
Dịch
Thiên cổ Thánh đàn tới được nơi
Trồng sâu gốc huệ sóng xa rời
Sách Tiên sánh tựa Kim Cương pháp
Du Kư coi như thuốc cứu đời.
Mây Tiên sen Phật cưỡi về trời
Bến giác ba miền măi dạo chơi
Cùng bạn chân tu bàn lẽ đạo
Vui vầy phẩm tước gặp Như Lai.
Tế Phật: Thầy tṛ ngồi trên đài sen, giống như cưỡi một chiếc xe mây bay giữa hư vô, ngày nay được như thế này là nhờ nhân duyên một đời tạo dựng. Các bạn đạo vào cửa Thánh đều c̣n đi xe hơi các bạn khác nhân duyên cũng không hơn ǵ, bởi vậy đạt được tới mức này thật là quư báu.
Trên một xe chở đầy hành khách, chúng sinh biết rơ tên nhau, nghe rơ tiếng đạo ḷng của nhau, thành ra rất thú vị. Chiếc xe đó chở đầy hành khách tu đạo, song trách nhiệm th́ nặng nề mà đường th́ xa, nếu sở học như một tài xế kém cỏi, khi tới trạm chót, lữ khách xuống xe, không dám lên lại để đi tiếp.
Lăo Tăng coi khắp nơi là nhà, đương nhiên sẽ không lấy đó làm phiền, chỉ sợ rằng kẻ khác nếu không tích tụ nhân duyên, khách bỏ đi, xe trống, không chở được một ai, khi đó mới hối hận cũng chẳng kịp nào.
Sách Thiên Đường Du Kư tới bữa nay đă viết đến hồi ba mươi lăm, chỉ c̣n một hồi nữa là kết thúc, nhưng sau đó xe đi hướng nào, thời hạn đă hết, chờ các môn sinh thực hiện xem sao. Dương Sinh chuẩn bị lên đài sen.
Dương Sinh: Thưa con đă lên đài sen, bữa nay con cảm thấy tinh thần đặc biệt nhẹ nhàng thơ thới.
Tế Phật: Hoàn thành được sứ mệnh của trời trao cho đương nhiên ḷng cảm thấy khoan khoái.
Dương Sinh: Cảm tạ ân sư đă hướng dẫn con trong suốt thời gian qua, và nhờ vậy mà con đă tinh tiến rất nhiều.
Tế Phật: Chỉ mong thầy giỏi đào tạo nổi đệ tử tài cao mới khỏi bị người ta chê cười.
Dương Sinh: Thưa rất đúng.
Tế Phật: Chúng ta hăy lên đường, bữa nay con có thể mở mắt quan sát phong cảnh.
Dương Sinh: Thực quá hay, khi cưỡi đài sen tốc độ bay quá mau, v́ vậy thường phải nhắm mắt dưỡng thần, c̣n bữa nay mở mắt không rơ có bị kích thích không?
Tế Phật: Công đức tu đạo của con đă sâu dày, nên mở mắt là có thể tiếp thâu được điển quang chiếu tỏa cùng sức gió lùa thổi của cơi Thánh. Phàm kẻ tu đạo trước tiên phải tích lũy công đức mới có thể tu luyện pháp nhăn thần thông, c̣n không ma chướng sẽ xâm nhập, dần dần tinh thần trở thành mất quân b́nh hoặc tâm trí bấn loạn.
Kẻ tu đạo trước tiên phải lo vun bồi công đức giống như sự phối hợp của ngành truyền h́nh, công đức có tṛn đầy như máy truyền h́nh sau đó mới có thể phát ra h́nh ảnh sáng sủa rơ ràng, thần thông quảng đại vô biên.
Kẻ có chí với đạo trước tiên phải lo tu luyện tâm thân cho thiện lành siêu diệu, chớ có vội luyện pháp thần thông c̣n không tinh thần hoặc nhăn thần sẽ bị tổn thương thiệt hại. Chúng ta hăy lên cơi trời.
Dương Sinh: Đài sen bay thật lẹ, tiếng gió bên tai thổi vù vù, cúi đầu nh́n xuống trần gian thấy ánh đèn sáng lấp lánh, khoa học phát triển, đèn điện sáng ḷa, giống như không c̣n có ban đêm.
Tế Phật: Cho nên không lấy làm lạ là thế nhân không c̣n phân biệt âm dương, luân thường điên đảo.
Dương Sinh: Mây lành phủ ngợp không trung, hào quang tứ phía ḷa sáng, Tiên Phật cưỡi mây bay đến, quả là đi trên mây mà không biết đang ở tại chốn nào, không có một chút khí trần ai, tâm quên mọi thứ t́nh. Phía trước thấy có một số vị Tiên cao minh đi tới, trông giống như là Bát Tiên?
Tế Phật: Chính là Bát Tiên, các vị ấy biết trước bữa nay thầy tṛ ḿnh qua đây, do đó mà t́m tới để chuyện tṛ một phen.
Dương Sinh: Thưa hiện thời ḷng con cảm thấy hân hoan, bởi v́ mắt con nh́n rơ chân dung Bát Tiên. Xin cúi đầu kính chào chư vị Bát Tiên.
Quả Lăo Tiên Ông: Miễn lễ, bữa nay bấm đốt ngón tay biết được là hai vị sẽ đi qua vùng núi Tiên Sơn, cho nên chúng tôi tới đây hội hợp.
Dương Sinh: Bữa nay may mắn được gặp chư vị Bát Tiên, kính xin Bát Tiên chỉ dạy đạo pháp cho để đệ tử được mở rộng tầm mắt, thưa có được không?
Quả Lăo: Có thể, sau khi Dương Sinh viết xong sách Địa Ngục Du Kư lại phải dạo thăm khắp chốn thiên đường, hiện thời quá khổ cực gian lao, bởi vậy chúng tôi muốn tŕnh bày một số phép Tiên để ủy lạo Dương Sinh. Trước khi tôi hóa phép, Dương Sinh hăy thử đoán coi sẽ được ăn thức ǵ?
Dương Sinh: Thưa nghĩ là được ăn loại trái Tiên mà dưới trần gian không có.
Quả Lăo: Quá đơn giản, Dương Sinh hăy nh́n hai tay trống không, chẳng có một vật ǵ mà tự nhiên lại có một hạt giống, đem vùi xuống đất khói mây, hóa gió hóa mưa, một ngày, hai ngày, ba ngày, Dương Sinh thấy ra sao?
Dương Sinh: Quả là thần diệu, hạt đă mọc mầm.
Quả Lăo: Một tháng, hai tháng, ba tháng, Dương Sinh thấy thế nào?
Dương Sinh: Cây đă cao được hai thước.
Quả Lăo: Một năm, hai năm, ba năm, Dương Sinh thấy thế nào?
Dương Sinh: Đă như cây lớn, cành lá xanh tươi.
Quả Lăo: Hoa nở ra sao?
Dương Sinh: Chỉ trong nháy mắt, cây Tiên đă nở đầy hoa, đẹp mê hồn.
Quả Lăo: Kết trái ra sao?
Dương Sinh: Đột nhiên cánh hoa rụng, đài hoa kết trái, song quả hăy c̣n xanh chưa chín.
Quả Lăo: Chớ vội, đợi tôi làm phép... quả già đă chín vàng, Dương Sinh thấy sao?
Dương Sinh: Chớp mắt trái cây chín vàng, hương thơm tỏa ngào ngạt, ngửi thấy thèm chảy nước miếng, thưa có thể hái ăn được không?
Quả Lăo: Chớ có ngại, Dương Sinh cứ hái ăn đi.
Dương Sinh: Tiên ông đă cho phép, nhân cơ hội này hái ăn một bữa thật no... Ăn một hơi được ba trái, bụng no kềnh no càng, không thể ăn thêm được nữa.
Quả Lăo: Bao tử quá nhỏ, để tôi giúp Dương Sinh ăn thêm mấy trái nữa.
Dương Sinh: Thưa không được, không được, miễn cưỡng ăn vào sợ bụng chứa không nổi.
Quả Lăo: Đúng là như vậy, tôi cũng chẳng bắt ép đâu, nhưng những trái cây này chỉ dùng để tặng những người có duyên mà thôi, tôi biếu một túi để Dương Sinh mang về tặng bạn bè thân thưởng thức.
Dương Sinh: Xin cảm tạ Tiên ông.
Quả Lăo: Tôi đă biểu diễn phép Tiên xong, Dương Sinh thử đánh giá coi được bao nhiêu phần trăm.
Dương Sinh: Một trăm phần trăm.
Quả Lăo: Hay lắm, Dương Sinh hăy b́nh giảng về ư nghĩa hàm ngụ trong pháp thuật mà tôi mới biểu diễn vừa rồi xem sao?
Dương Sinh: Thưa không dám.
Quả Lăo: Chớ có ngại ngùng nên nhân cơ hội này hăy thử xem sao?
Dương Sinh: Tiên ông đă ra lệnh, không dám chối từ. Màn kịch biểu diễn tṛ vui về đạo của Tiên ông vừa rồi rất có ư nghĩa và ngầm nói cho kẻ tu đạo biết rằng: Điều cần nhất là phải có gốc huệ rễ đạo bám vào đất thực. Nếu như chân người đi trên đất thực, trải qua sự chăm tưới nước công đức cho thật nhuần thấm.
Chịu khổ cực chà cọ, mài dũa mới có thể thoát xác giả cùng mở bộ đầu thông với cơi trời (hạt giống đạo nẩy mầm), trải qua một ngày, một tháng, một năm tưới nước, bón phân, chăm sóc, phải đổ nhiều mồ hôi và tâm huyết ra coi sóc, cây đạo mới có thể cao lớn và đơm hoa kết trái.
Nhưng tới khi kết thành đạo quả chớ hưởng một ḿnh mà phải đem phân phát cho thân hữu chúng sinh cùng hưởng, như người ta vào Thánh đường thay trời phổ hóa có thể giúp thân hữu hưởng đặng bóng râm của sự đắc đạo, và mới có thể siêu huyền bạt tổ, giúp ích cho các bạn cùng tu. Những lời vừa tŕnh bày là điều tôi đă cảm nhận được xin Tiên ông phê phán dùm.
Quả Lăo: Quả đă thấu đạt, tôi xin tặng lại Dương Sinh lời khen đúng “một trăm phần trăm”.
Dương Sinh: Thưa không dám, xin đa tạ Tiên ông đă chỉ giáo cho.
Quả Lăo: Xin Lă Tổ Sư tŕnh bày pháp thuật.
Lă Tổ: Thưa tôi không phải là thuật sĩ giang hồ nên không có phép thần thông nào đặc biệt để biểu diễn hết, chỉ xin giúp vui một chút mà thôi. Dương Sinh hăy bỏ trái bầu khô mà tôi đang đeo ở bên vai xuống và thử quan sát ở trong đó xem sao.
Dương Sinh: Thưa vâng, nh́n vào trong ruột trái bầu chỉ thấy tối thui, c̣n ngoài ra chẳng có ǵ cả.
Lă Tổ: Được, hăy xem tôi đọc chú và hóa phép: “Trái bầu trống không, trời đất bao la, chứa cả càn khôn, diễn màn hư kịch nhân sinh”. Ha ha, Dương Sinh hăy nh́n vào trong trái bầu xem đó là loại cao để dán nào?
Dương Sinh: A, nh́n xong mới rơ được là trong trái bầu cũng có cảnh trời đất, như được nh́n qua viễn vọng kính nên thấy rơ núi sông, nhà cửa và người, tất cả hiện ra giống hệt như trên màn bạc, thấy rơ cảnh sinh ra đời, đi học, kết hôn, thăng quan, dạo chơi, vào quán ăn, coi các tiệm bán đồ, náo nhiệt lạ thường.
A, giờ lại nh́n thấy một ṭa y viện, những bệnh nhân nằm la liệt trên giường bệnh kêu gào trong các pḥng giải phẫu dao cắt thịt, máu me lênh láng, đau đớn rên siết, tiếng khóc thảm kinh hoàng sợ hăi.
Thấy cảnh xe cộ đụng nhau gây tai nạn, chỉ trong nháy mắt đă bày ra cảnh hăi hùng khiến kinh hồn táng đởm. Thấy cả cảnh người chết, tang gia khóc lóc, nơi nhà xác nhà quàn tử thi và áo quan xếp hàng nằm lớp lớp... Đột nhiên thấy xuất hiện hai chữ “chấm dứt”, kèm theo một hồi chuông reo khiến tôi bừng tỉnh, Tiên ông ơi! cảnh tôi nh́n thấy kinh hăi quá.
Lă Tổ: Chớ có sợ, vừa rồi diễn vở tuồng với tựa đề là:“Cuộc hành tŕnh của kiếp người”. Cuốn phim vừa rồi do tôi đảm trách, tuồng tích đều căn cứ trên sự thật, tả chân một trăm phần trăm, các động tác hoàn toàn tự nhiên, t́nh tiết của kịch bản phản ảnh đúng sự thật, công tŕnh này đều được các nước nhiệt thành tán thưởng, tạo sự thành công một cách oanh liệt chưa từng có.
Tiếc rằng người ta chỉ thích đóng tṛ, không chịu xem tṛ nên chẳng thưởng lăm cuốn phim, đó là nguyên nhân mắt của các diễn viên bị thuốc cao của tôi ở trong trái bầu dán dính chặt lại, nên họ mới không nh́n thấy là ḿnh đang đóng tṛ. Đó là những h́nh ảnh vô cùng quư giá, lưu lại cho con cháu coi hay biết chừng nào.
Dương Sinh: Diệu pháp của Lă Tổ Sư thực quả là vô biên. Sau khi tỉnh giấc mộng hoàn lương liền trở thành nhà sản xuất phim ảnh.
Lă Tổ: Để hóa độ chúng sinh phải tạo nhiều tuồng kịch, phim ảnh để kích động ḷng người, mỗi lần đem tuồng đời lên sân khấu hoặc màn bạc đều khuyên hóa được người đời, bữa nay đem tuồng cũ diễn lại, trong bộ phim dài Thiên Đường Du Kư, tôi xin nói thêm khúc phim ngắn này, mong người đời chấp nhận đừng bỏ uổng.
Tế Phật: Chư vị Bát Tiên đạo pháp cao sâu, nếu như Bát Tiên biểu diễn hết các phép, sợ rằng chúng sinh xem xong sẽ mắt hoa, tinh thần bấn loạn hôn mê thiếp ngủ, bởi vậy chúng ta phải cáo từ Bát Tiên để đi thăm chốn khác.
Dương Sinh: Thưa vâng. Cảm tạ chư vị Bát Tiên đă chịu khổ cực diễn xuất vở tuồng vô cùng tuyệt diệu, giờ đây đệ tử phải theo ân sư dạo thăm chốn khác.
Bát Tiên: Mong c̣n có dịp gặp lại, chúc cuộc hành tŕnh thuận buồm xuôi gió.
Tế Phật: Lên đài sen bay tới cửa Nam Thiên. Vừa rồi gặp chư vị Bát Tiên ở trong mây để xem chư vị ấy biểu diễn ít chiêu, t́nh tiết trong kịch quả là trung thực và phong phú cũng gây được nhiều ảnh hưởng... Đă tới cửa Nam Thiên, chúng ta xuống đài sen tới vấn an Đại Thánh.
Dương Sinh: Đại Thánh ở đằng kia đang cười hể hả có vẻ rất vui mừng.
Tế Phật: Đúng vậy, chỉ chớp mắt chúng ta đă tới cửa Nam Thiên, lần trước Đại Thánh không có dịp đàm đạo với chúng ta, bữa nay trùng phùng, hẳn là vui sướng.
Dương Sinh: Đệ tử xin kính chào đức Đại Thánh.
Đại Thánh: Miễn lễ. Bữa nay quư vị lại trở lại cửa Nam Thiên, tôi vui mừng khôn xiết, quư vị dạo thiên đường viết sách, nhiệm vụ sắp hoàn thành, ḷng tôi rất khâm phục. Bảng thông cáo ở cửa Nam Thiên sắp hạ xuống, Dương Sinh hăy coi bảng đó đi, v́ lần trước quá vội vàng nên chưa có dịp đọc kỹ càng, lần này nên xem kỹ hơn.
Dương Sinh: Cảm tạ đức Đại Thánh. Bảng thông cáo bên cửa Nam Thiên quả nhiên có đính hai bản Dao Tŕ Ư Chỉ cùng Kim Khuyết Ngọc Chỉ so với bản giáng xuống Thánh Hiền Đường giống nhau, ư nói là phụng chỉ viết sách Thiên Đường Du Kư, các cơi trời đều hiệp lực trợ giúp nên không thể trái lệnh.
Khi đọc xong bản thông cáo trong ḷng tràn ngập sự ấm áp cùng cảm kích. Cảm tạ ḷng thương mến của đức Lăo Mẫu cùng Ngọc Đế. Từ một hai năm nay đă dạo khắp các từng trời để học đạo với chư Tiên Phật, ơn Trời quả là vô biên khó mà đền đáp. Đệ tử xin quỳ lạy tạ ơn chư Thiên...
Đại Thánh: Quả là người có ḷng, hăy đứng lên, trách nhiệm lớn lao đă hoàn thành, công đức nhiều như cát sông Hằng, vui lắm thay, mừng lắm thay.
Tế Phật: Cảm tạ Đại Thánh đă giúp đỡ thầy tṛ chúng tôi hoàn thành sứ mệnh, xin cáo từ, Dương Sinh lên đài sen.
Dương Sinh: Đa tạ đức Đại Thánh đă mở cửa phương tiện, xin bái từ. Thưa, con đă lên đài sen, kính mời ân sư trở lại Thánh Hiền Đường.
Tế Phật: Giờ đây thầy đă hướng dẫn con dạo thăm ba cơi xong, thực là quá mau lẹ, chỉ một sát na ánh sáng, phút giây nhục thể của con cảm thấy dao động thật nhanh, các bạn đạo tại Thánh Hiền Đường có thể yên tĩnh nh́n thấy, mau lên đường.
(Lúc này Dương Sinh đứng trước sa bàn, quả nhiên đôi chân như cưỡi gió đè mây, mau lẹ tựa bay, quay tít không ngừng, các bạn đạo tại đàn cầu cơ trợn mắt há miệng kêu quả là thần kỳ)...
Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen. Thiên Đường Du Kư tới đây chấm dứt, chỉ trong sát na ta đă hướng dẫn Dương Sinh dạo thăm ba cơi, và chỉ một cái cựa ḿnh đă về tới Thánh Hiền Đường.
Cảnh các bạn đạo thấy vừa mới rồi là do thần linh hóa hiện chẳng thể nghĩ bàn nổi. Bạn đạo nào có may mắn tiếp tay giúp sức trong việc viết sách trời, ơn ích bằng ba kiếp tu, nếu bỏ lỡ cơ hội này, không biết kiếp nào mới gặp lại được.
Trong cung Dao Tŕ đức Lăo Mẫu đang chuẩn bị tiệc mừng thành công, kỳ tới chư Tiên Phật tại các cơi trời sẽ tới Dao Tŕ dự tiệc, ta sẽ hướng dẫn Dương Sinh tới tham gia, ngày ấy Dương Sinh cần phải thanh tịnh thân tâm, không được thất lễ. Dương Sinh hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 655 of 1146: Đă gửi: 30 August 2010 lúc 12:54am | Đă lưu IP
|
|
|
THIÊN ĐƯỜNG DU KƯ
HỒI BA MƯƠI SÁU
CUNG DAO TR̀ MỞ TIỆC LỚN TẠ ƠN CHƯ TIÊN PHẬT
ĐỨC LĂO MẪU KHEN THƯỞNG DƯƠNG SINH
CÙNG CHÚC MỪNG SỰ THÀNH CÔNG
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 23 tháng 10 năm Canh Thân 1980
Thơ
Lịch tận ma nạn chí bất di
Thiên đường lộ thượng thụ minh bi
Mang mang khổ hải minh đăng tháp
Thánh đức hoằng dương vạn Phật tùy.
Pháp cổ kinh sao tam lục hồi
Mê nhân tỉnh giác hướng thiên thôi
Dương Sinh đại mệnh kim giao chỉ
Ngọc dịch quỳnh tương kính thập bôi.
Dịch
Trải nhiều ma nạn chí thêm bền
Đường tới thiên đường đă khắc tên
Biển khổ mênh mang đèn thắp sáng
Hoằng dương đạo đức Phật cùng Tiên.
Băm sáu hồi kinh đă chép biên
Đạo trời phàm thế thức tâm liền
Dương Sinh đại mệnh nay hoàn tất
Phần thưởng tặng mười chén rượu Tiên.
Tế Phật: Thiên đường đă dạo xong một ṿng, trách nhiệm nặng nề được giao phó nay đă hoàn tất xong xuôi. Sách Thiên Đường Du Kư xuất hiện trước công chúng hẳn là sẽ gây sự chú ư đặc biệt, bởi lẽ nó là một tấn tuồng mô tả lại đời sống phong phú vui tươi và kỳ thú của chư Tiên Phật, cùng phong cảnh tươi sáng tại thiên đường do Lăo Tăng cùng Dương Sinh hợp diễn.
Vở tuồng này giờ đây kể như đă diễn xong, khắp nơi hân hoan đón mừng thưởng thức, mong chúng sinh chớ coi qua rồi bỏ, mà phải nghiền ngẫm t́m hiểu ư nghĩa đạo đức do Tế Phật cùng Dương Sinh diễn tả qua những màn hài hước, v́ vở kịch diễn nghĩa từ bi, lương thiện, trang nghiêm của chư Tiên Thánh Phật.
Khi vở tuồng chấm dứt ta c̣n muốn ngồi lại để quan sát cảnh chúng sinh lên sân khấu diễn xuất, và muốn nhất nhất đều vỗ tay hoan nghênh không muốn khán giả ngủ gật hoặc không muốn coi tiếp. Bữa nay là ngày vui mừng, Dương Sinh hăy y phục chỉnh tề, thanh tĩnh thân tâm chuẩn bị tới cung Dao Tŕ dự đại tiệc.
Dương Sinh: Thưa ân sư con đă sửa soạn xong. Gần hai năm nay theo thầy dạo cơi trời muôn phần sung sướng, ḷng con vô cùng cảm kích.
Tế Phật: Tâm thầy cũng cảm thấy như vậy, mong rằng hai thầy tṛ tâm tâm tương ứng, cùng lên đài sen tế độ chúng sinh.
Dương Sinh: Thưa rất phải, ṭa sen này bữa nay lớn hơn gấp bội, hào quang tỏa ngời bốn phía trông thật đáng yêu.
Tế Phật: Cày bừa một phân gặt hái một phân, đài sen có thể giúp chúng ta ngồi măi chẳng đắm ch́m, có thể thấy sức nhẫn nại phi thường, v́ nước pháp nhuần thấm bụi trần tan biến, do đó hoa sen nở rộ khiến càng tăng thêm ánh sáng lớn lao, đó chính là quả vị của con.
Dương Sinh: Thưa ân sư con cảm thấy thẹn thùng không dám nhận.
Tế Phật: Chớ e ngại, chúng ta hăy tới cung Dao Tŕ...
Dương Sinh: Thưa tại sao cơi trời lại nhiệt náo một cách lạ lùng? Giống như có chuyện ǵ vui mừng lắm.
Tế Phật: Có quan hệ tới việc Tam Tào phổ độ, chúng ta phụng chỉ viết sách trời tới bữa nay hoàn tất, Tam Tào đă rơ, người và trời đều mến, chư Thánh Thần Tiên Phật rất vui mừng, v́ lại có một cuốn sách trời lưu truyền thiên hạ, thay thế chư Thánh Tiên Phật khuyến hóa người đời.
Dương Sinh: Th́ ra nguyên lai là như vậy, tự thấy thân này chẳng quá tầm thường nên mới có vinh dự phụ trách chức vụ Thánh Tiên thay trời hóa độ... Muôn nẻo hào quang cơi trời sáng suốt chiếu khắp đại thiên thế giới, h́nh ảnh thật là kỳ diệu.
Tế Phật: Đó là ánh sáng cơi trời, mong người đời noi theo con đường sáng sủa đó mà leo thang trời đại đạo, nơi đó không c̣n đen tối thống khổ, chỉ có sự quang minh vô lượng cùng đạo pháp hoan hỷ... Đă tới cung Dao Tŕ, chúng ta xuống đài sen.
Dương Sinh: A, phía trước chư vị Tiên Thánh cao minh đông đúc, hào quang chiếu tỏa bốn phía, tiệc lớn đă bày sẵn, có tiên nữ tŕnh tấu nhạc Tiên, thanh âm du dương khiến tâm hồn thoải mái thanh nhẹ.
Tế Phật: Đức Quán Âm Đại Sĩ đă tới.
Đại Sĩ: Bữa nay Phật tôi vô cùng hoan hỷ, đặc biệt tới đây cùng tham dự hội lớn, Tế Phật dẫn Dương Sinh lên ngồi trước quư tân khách.
Tế Phật: Dương Sinh hăy theo thầy, chúng ta tới ngồi phía trước quư tân khách.
Dương Sinh: Thưa con không dám, v́ quư tân khách quá đông, thầy và con ngồi phía cuối cũng tốt lắm rồi.
Tế Phật: Bữa nay không được ngại ngùng, không nghe Đại Sĩ vừa nói hay sao.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Thấy các quư Tiên Thánh cao minh quá đông, trong ḷng cảm thấy kinh hoàng sợ hăi không yên, quư vị đó cứ chăm chú ngó con, nét mặt lộ vẻ
vui mừng.
Tế Phật: Chúng ta hăy ngồi xuống đây.
Dương Sinh: Hay quá, trên bàn tiệc bày đầy trái ngon vật lạ, có cả rượu quỳnh tương hương thơm bay ngào ngạt, trong ḷng cảm thấy yêu thích vui mừng.
Đại Sĩ: Bữa tiệc lớn hôm nay là do Lăo Mẫu Dao Tŕ khoản đăi, chư Tiên Phật cao minh ba cơi vâng lệnh mời đến đông đủ, quư giáo chủ của mọi tôn giáo đă tới, tổ sư Lă Thuần Dương cũng vừa đến, Bát Tiên phơi phới bay lại.
Thuần Dương Đại Đế: Bữa nay tôi vâng lệnh đức Vô Cực Dao Tŕ Lăo Mẫu đảm nhiệm chức vụ trưởng ban nghi lễ đại hội Dao Tŕ. Tế Phật cùng Dương Sinh bữa nay được lời mời tới cung Dao Tŕ này nhận lănh sự ban khen, quả là việc trời vui mừng quá đỗi lớn lao. Hiện thời chư Thánh Tiên Phật cao minh đă tới đông đủ, giờ khai mạc buổi tiệc gồm cả thảy một trăm lẻ tám bàn tiệc.
Dương Sinh: Quư ngài quá đông, đă ngồi kín cả các bàn tṛn, có đầy đủ nhân sĩ các tôn giáo, lễ phục của quư vị đó mỗi người một vẻ rất là đặc biệt.
Tế Phật: Các tôn giáo tuy khác nhau về mặt h́nh thức, song nội dung tôn chỉ lại giống nhau, v́ cùng chung một mục đích nâng cao tính linh của nhân loại, hầu đạt tới cứu cánh chí công vô tư cùng cứu người giúp đời, bởi vậy họ đều có thiện tâm và Phật tính, ngày nay mới có thể chứng quả thành đạo, hết c̣n bị luân hồi. Phút này các vị Bồ Tát Địa Tạng Vương cao minh lục tục giá lâm.
Thuần Dương Đại Đế: Tôi ngụ tại Kim Khuyết cai quản việc hành chánh cho đức Ngọc Đế, gặp kỳ phổ độ, chốn “Thiên Đ́nh” tức nhà trời rất là bận rộn. Bữa nay sách Thiên Đường Du Kư đă viết xong, giúp ích rất nhiều cho kẻ có chí v́ đạo dưới gầm trời.
Đối với phương pháp tu đạo cùng trạng huống sinh hoạt ở cơi trời đều chỉ dẫn rơ ràng rành mạch rất dễ t́m hiểu, tự hậu không c̣n cảnh tu luyện một cách đui mù, quả là trời đă ban ân phước sâu dày cho toàn thể chúng sinh.
Hiện thời đức Ngọc Hoàng chí tôn đă tới, tiếp theo là đức Dao Tŕ Lăo Mẫu, toàn thể chư Thần Thánh Tiên Phật đều đứng lên rồi phủ phục lạy mừng.
Lăo Mẫu: Miễn lễ, mời quư vị đứng lên.
Đại Đế: Kính mời chư liệt vị an tọa.
Lăo Mẫu: Bữa nay là ngày lễ mừng sách Thiên Đường Du Kư viết xong, tôi vô cùng phấn khởi, bởi vậy cung Dao Tŕ đặc biệt mở đại tiệc để chúc mừng chư vị cao minh đại biểu của khắp ba cơi đều tới tham dự đông đủ.
Ngọc Đế: Vô Cực ân ban ư chỉ truyền thuật lại phong cảnh thiên đường tươi sáng để người đời thấu tỏ, bữa nay việc viết sách trời đă hoàn thành một cách tốt đẹp, ḷng trẫm hết sức vui mừng, Lăo Mẫu lại mở đại tiệc này để khoản đăi.
Chính là nhờ ơn trời mở lượng từ bi nhân ái rộng lớn đối với chúng sinh, mong rằng toàn thể nhân loại sẽ thể nghiệm cùng giác ngộ được ḷng trời. Giờ đại tiệc bắt đầu, Tế Phật cùng Dương Sinh hăy hân hoan hưởng bữa tiệc này.
Tế Phật: Dương Sinh chớ e lệ, đó là phần thưởng của đức Lăo Mẫu và Ngọc Đế ân ban, thầy tṛ ḿnh cùng hân hoan đón nhận.
Dương Sinh: Hay quá, nhạc Tiên réo rắt bên tai, các tiên
nữ vũ khúc Nghê Thường phất phới lượn bay dáng vẻ vô cùng thanh nhẹ, không rơ tu luyện cách nào để có thể đạt được như vậy?
Tế Phật: Vận động nhiều, tâm luôn luôn mở rộng, không ham ăn, thường luyện tính, không sợ hăi, không phiền năo, bộ y phục trời ban suốt đời không thay đổi, càng mặc càng đẹp đẽ thêm, nhờ thân thể khỏe khoắn lành mạnh do đó mà dung nhan không thoa phấn vẫn rực hồng, hoàn toàn thuần khiết chân chất, thật đáng yêu.
Dương Sinh: Thưa những lời ân sư vừa dạy rất hợp lẽ đạo.
Lăo Mẫu: Tế Phật và Dương Sinh chớ măi chuyện tṛ mà quên thưởng thức hương vị tiệc pháp diệu kỳ của cơi trời.
Dương Sinh: Xin đa tạ đức Từ Mẫu đă để tâm lo lắng.
Tế Phật: Thầy tṛ ḿnh ăn nhiều đi, trái tiên no mấy cũng không thấy ngán, lúc này cần phải mở bao tử ra cho thật lớn để chứa được nhiều thực phẩm kỳ diệu, bởi loại thực phẩm này do ḷng tốt của đất trời ngưng kết mới thành được.
Dương Sinh: Thưa vâng, hương vị tươi mát ngọt ngào này khiến người ta khó mà quên được, rượu quỳnh tương vừa nhấp đă cảm thấy mùi vị của vô cùng, con xin mời ân sư một ly.
Tế Phật: Thầy đă cữ rượu, dùng sữa thay cho rượu quỳnh tương, tuổi thọ sẽ tăng cao, độ được thêm chúng sinh.
Dương Sinh: Ân sư thực khéo khôi hài. Bàn bên cạnh có đức Ngọc Hoàng, Lăo Mẫu, Tam Thanh, Tam Quan, cùng chư vị giáo chủ, dung nhan đều lộ vẻ tươi vui, ḥa hài chứng tỏ chư vị rất hứng khởi trong lúc ngồi dự bữa đại tiệc này.
Đạo Tổ: Đạo vốn không lời, song sách Thiên Đường Du Kư lại nói quá nhiều, chúng sinh nếu như không học, tôi cũng chẳng nói làm chi, chỉ cần thể nghiệm ư nghĩa chân thực của Vô Cực cũng đủ thành tựu đạo Thái Thượng.
Thế Tôn: Phật pháp vốn chẳng thể nói, nay lại tŕnh bày bằng lời trong sách Thiên Đường Du Kư chúng sinh phải giác ngộ nhiều, người nếu như không nói về Phật, Phật tôi cũng không nói, ắt tây phương không có Phật, cho nên pháp Phật truyền bá ở thế gian để giúp người đời thành Phật, thấy Phật.
Thánh Khổng: Nho không nói về cơi linh thiêng, song sớm nghe đạo tối chết cũng cam, tính noi theo thiên mệnh gọi là đạo, nghe đạo, hiểu đạo ắt có thể phối hợp làm một với trời vượt khỏi ṿng sống chết, kẻ tu đạo Nho tới mức chí thiện có thể đạt Thánh.
Lăo Mẫu: Tiệc lớn đă mở, đào tiên cũng chín, mong chúng sinh chăm lo tu đạo, tôn trọng lẽ trời, giữ ǵn đạo người ắt tiệc Dao Tŕ trong tương lai sẽ chuẩn bị dành sẵn chỗ, chờ đợi lên ngồi.
Ngọc Đế: Mong con đỏ hồi tâm, chớ tạo gió suy đồi, chạy theo tà đạo để tránh lănh nghiệp quả ác báo.
Đại Sĩ: Sách Thiên Đường Du Kư đă viết xong, chính pháp soi tỏ, Thánh giáo phổ truyền, nước cam lộ cành dương đă vẩy ướt đẫm trần gian, phàm kẻ có duyên đọc kỹ sẽ giác ngộ, chăm lo tu hành sẽ thành chính quả. C̣n như miệng lưỡi ác độc phỉ báng, măi măi ch́m đắm trong ṿng ác đạo.
Lăo Mẫu: Dương Sinh tán trợ đạo Nho, phụng chỉ theo Tế Phật dạo thăm ba cơi để viết thành sách Thiên Đường Du Kư phổ biến dưới gầm trời, sửa đổi ḷng người cho ngay thẳng văn hồi sự sa đọa, tẩy sạch trần ai làm gương sáng cho ngàn đời.
Để đóng cửa địa ngục, mở lối thiên đường nên Mẫu ban ư chỉ viết sách Thiên Đường Du Kư tiết lộ sự ảo diệu của tạo hóa, buông thang trời để làm lối lên thiên đường. Ngày nay ba mươi sáu hồi trong sách Thiên Đường Du Kư đă viết xong, ḷng Mẫu vô cùng sung sướng.
Dương Sinh đă không phụ ḷng Mẫu, có thể so với công tŕnh của Đường Tăng Tam Tạng tây du thỉnh kinh, chịu khổ nhục, phỉ báng trải qua biết bao cửa quỷ chân linh vẫn vững bền, đặc biệt ban ân cho cửu huyền thất tổ của Dương Sinh được siêu thăng cơi trời, căn cứ vào công lao chứng quả hết c̣n bị luân hồi.
Chư đệ tử thuộc Thánh Hiền Đường chịu cực nhọc để giúp đỡ việc hoàn thành sách trời những ai một dạ thủy chung đặc biệt ban cho mười công đạo, tên ghi bảng vàng, mong c̣n có dịp tưởng thưởng thêm cho những ai chịu gắng sức.
Dương Sinh công thành hoàn trả ngọc chỉ, ra sức tu luyện thêm tới kỳ hạn sẽ linh thông không c̣n gặp trở ngại, mệnh mới đạt đạo Vô Cực thượng thừa phổ độ được nhiều chúng sinh hơn nữa.
Dương Sinh: Lạy tạ đức Lăo Mẫu từ bi đă ban lời chỉ giáo, đệ tử cảm thấy thân tâm kém cỏi, năng lực yếu đuối, kính xin Lăo Mẫu ban thêm tuệ quang để giác ngộ tâm nguyện cứu đời, độ người.
Lăo Mẫu: Dương Sinh chớ quá lo sợ, đạo trời tốt lành thường giúp kẻ nhân đức, Dương Sinh đă dốc lực thay trời truyền đạo, trời sẽ trợ giúp tâm nguyện đó của Dương Sinh. C̣n vô số chúng sinh đang chờ được cứu độ, chớ có nản ḷng thối chí, tương lai sẽ c̣n phải phát huy Thánh đức, sửa sang thế đạo, trách nhiệm nặng nề mà đường th́ xa.
Hai thiên Du kư đất trời tuy đă viết thành, song c̣n phải nhờ Dương Sinh ra công truyền bá lời dạy của trời để tạo phước đức cho nhân quần, cứu độ bến mê, hy vọng sẽ không gặp nhiều khổ cực.
Dương Sinh: Lạy tạ đức Mẫu nhân từ, xin kính cẩn vâng lời.
Tế Phật: Phúc huệ của Dương Sinh quả là sâu dày nên bữa nay mới có vinh hạnh được Lăo Mẫu ban lệnh tới đây tham dự thánh hội, hăy có thái độ lạc quan mà hành đạo, chớ có quá e ngại, thầy tặng con chiếc quạt Bồ và hai ống tay áo Thanh Phong để con có thể vân du thiên hạ, tiêu dao tự tại, đi t́m kẻ có duyên.
Dương Sinh: Theo bước chân ân sư, đệ tử ngu hèn là con chỉ mong được ân sư giúp sức.
Tế Phật: Ha ha, mấy năm t́nh nghĩa làm sao Thầy quên được, con hăy yên ḷng.
Dương Sinh: Làm cách nào để tṛ ngu của ân sư có thể yên tâm?
Lăo Mẫu: Lành thay, Tế Phật hướng dẫn Dương Sinh dạo thăm khắp ba cơi để hỏi đạo viết sách, phổ độ được vô lượng chúng sinh, đă chứng đắc quả vị Phật tối thượng phẩm, hào quang đại phóng, trăm ngàn ức hóa thân, vô biên vô lượng Phật từ bi.
Tế Phật: Lạy tạ Lăo Mẫu đă ân ban, v́ thích phóng khoáng không chịu buộc ràng, nên những công đức Phật tâm vừa rồi xin tặng lại những chúng sinh có duyên.
Thuần Dương: Hội lớn kết thúc, Dương Sinh chuẩn bị tạ ân.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Mạng kiến nhỏ nhoi nhờ ơn trời che đất chở, nhờ đức sinh thành dưỡng dục của quốc gia, phụ mẫu, ân sư; thân hiến cửa Thánh được trời ban ân phụng chỉ theo ân sư Tế Phật dạo thăm ba cơi viết sách.
Bữa nay sách trời hoàn tất được ban ân dự tiệc cùng đức Lăo Mẫu, Ngọc Đế và chư Thần Thánh Tiên Phật trong ḷng vô cùng cảm động, xin quỳ lạy tạ ơn, nguyện tuân theo Thánh ư tiếp tục thực hành Thánh Đạo.
Lăo Mẫu: Dương Sinh hăy đứng lên, v́ đă khổ cực quá nhiều, Mẫu rất vui mừng sách Du Kư được truyền bá, những kẻ mê lầm đọc kỹ sẽ hồi tâm hướng thiện nhiều vô kể. Tuy nhọc nhằn song gặt hái được nhiều thành quả, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, trồng đạo được đạo, bữa nay đài sen mở rộng, Dương Sinh đă đắc quả vị, tâm được an ủi.
Để ban thưởng cho các đệ tử của Thánh Hiền Đường, Mẫu gởi một hũ rượu quỳnh tương nhờ Tế Phật mang về phân phát, uống để trợ giúp linh quang tuệ mệnh.
Dương Sinh: Cảm tạ đức Mẫu đă ân ban.
Tế Phật: Hũ rượu quỳnh tương này được ban thưởng thật là khó khăn, v́ là do mồ hôi và máu mủ đọng thành, do tinh hoa trời đất và mặt trời mặt trăng hóa thành, đă trừ khử độc chất, quư tựa nước cam lộ, chính là diệu phẩm của cơi trời, đào tiên c̣n lại một trái, Dương Sinh hăy ăn nốt đi.
Dương Sinh: Thưa con ăn nhiều quá rồi.
Tế Phật: Thôi để thầy vắt lấy nước bỏ vào rượu quỳnh tương đem về cho các đệ tử của Thánh Hiền Đường cùng thưởng thức.
Dương Sinh: Thực quá hay, các bạn đạo đều vô cùng khó nhọc, con chẳng muốn hưởng một ḿnh, các bạn đạo phải được ban thưởng thật nhiều mới đúng.
Tế Phật: Phải lắm.
Thuần Dương Đại Đế: Thánh hội tới đây chấm dứt, xin mời chư liệt vị đứng dậy tiễn Tế Phật cùng Dương Sinh trở lại Thánh Hiền Đường.
Chư Tiên Bồ Tát (đồng thanh xưng tụng): Lành thay, công đức vô lượng.
Dương Sinh: Xin bái tạ đức Lăo Mẫu, Ngọc Đế cùng chư vị Thánh Tiên Phật, ước mong thần quang phổ chiếu.
Tế Phật: Cảm tạ Lăo Mẫu, Ngọc Đế cùng chư Thánh Tiên Phật, xin cáo từ. Dương Sinh lên đài sen.
Dương Sinh: Thưa con đă sửa soạn xong, xin ân sư giữ kỹ hũ rượu quỳnh tương.
Tế Phật: Cứ yên tâm, chúng ta trở lại Thánh Hiền Đường.
Dương Sinh: Phút giă từ, tiên nhạc tŕnh tấu khúc Biệt Ly, t́nh chia ĺa c̣n măi, chợt cảm thấy ḷng đau.
Tế Phật: Đây là nhiệm vụ cuối cùng của thầy hướng dẫn con, Dương Sinh hăy lên tinh thần, sau khi rời khỏi ṭa sen, phải nghỉ ngơi một thời gian để tĩnh dưỡng thần khí. Ngày sau, khi lên đài sen trở lại có thể tự đi lấy một ḿnh, thầy mong trở thành người bạn bên cạnh con, giúp con vân du cứu độ chúng sinh.
Dương Sinh: Con cũng ước mong được như vậy. Cảm tạ ân sư đă ban cho con trí tuệ linh thông, để huyền tổ tṛ ngu của thầy cùng nhuần thấm ánh quang huy.
Tế Phật: Thế gian đương nhiên phải chịu khổ cực mới gặt hái được thành quả, hoàn cảnh được hưởng phúc của con người cũng giống hệt vậy... Đi được một quăng xa, tiếng nhạc dần dần nghe nhỏ lại, chỉ c̣n tiếng gió vi vu.
Chuyên chở bộ sách Thiên Đường Du Kư, từ một chữ tới một câu, một ngày lại một ngày, một tháng lại một tháng, một năm lại một năm. Như nay gặt hái được mớ tài liệu quư báu này để đóng thành một bộ sách trời, hẳn là Lăo Tăng đă đưa nó tới được mục đích, cả cái xe dùng để chuyên chở sách cũng phải bỏ vào xưởng sửa chữa tu bổ lại thêm điện thêm dầu.
Sau một cuộc hành tŕnh dài đăng đẳng, cả tài xế lẫn hành khách đều mỏi mệt, phải nghỉ ngơi để chuẩn bị cuộc hành tŕnh mới, hẹn gặp lại... Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 656 of 1146: Đă gửi: 30 August 2010 lúc 1:08am | Đă lưu IP
|
|
|
THIÊN ĐƯỜNG DU KƯ
NGỌC CHỈ
Kim Khuyết Nội Tướng họ Từ
Giáng
Thơ
Thánh chỉ tần ban trực hạt đường
Trước thành Du Kư bảo thư hương
Thương sinh phổ độ thôi thời cấp
Minh tuế viên công tứ hải dương.
Dịch
Thánh chỉ ân ban thẳng bản đường
Viết xong Du Kư sách thơm hương
Hăy lo cứu độ muôn người gấp
Năm tới thành công bốn biển mừng.
Thánh chỉ
Đêm nay ta phụng mệnh mang Thánh chỉ tới tuyên đọc, thần nhân phủ phục. Khâm phụng chiếu chỉ của đức Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn Huyền Linh Cao Thượng Đế như sau:
“Trẫm ngụ tại điện Linh Tiêu, ḷng hằng lo lắng thế đạo, buồn thay! Khoa học kỹ thuật phát triển, đạo đức suy đồi cho nên chư Tiên Phật cơi Trời giáng linh pḥ trợ đàn cơ phát huy đạo giáo, để khỏi bị sóng lớn dập vùi.
Nhờ có Thánh Hiền Đường ở Đài Trung lănh chỉ phát huy cơ bút, công đứng hàng đầu. Trước phụng mệnh viết Địa Ngục Du Kư sau in tặng khắp nơi, khuyên răn ḷng người, đă thâu lượm được kết quả thay đổi phong tục.
Nay lại phụng chỉ trước tác Thiên Đường Du Kư, buông thang trời hướng dẫn kẻ có duyên thực hiện việc phổ độ chúng sinh. Dao Tŕ Ư Chỉ luôn luôn thúc giục sao cho sách báu sớm hoàn thành in tặng thiên hạ, cứu giúp dân đen, cho nên nay Trẫm ban một sắc chỉ về sách Thiên Đường Du Kư như sau:
Ra lệnh vào ngày mồng hai, tháng hai năm tới, tức năm Tân Dậu 1981, là ngày sinh nhật của Phật Sống Tế Công, sẽ cử hành lễ giao nạp sắc để biểu thị ư đẹp vẹn toàn.
Sách gồm có ba mươi sáu hồi, phù hợp với ba mươi sáu sao Thiên Cương, hai số vừa tṛn trịa vừa ứng hợp với nhau. Tế Phật và Dương Sinh trút được gánh nặng trách nhiệm, mong hết sức tiết kiệm th́ giờ để hoàn thành viên măn sách Du Kư.
Sách lưu truyền thiên cổ, lưu tiếng thơm muôn đời. Các bạn đạo thuộc Thánh Hiền Đường chăm chỉ gia công gia sức giúp đỡ việc hoàn thành sách trời, mọi người đă lập được đại công, mong giữ bền được tinh thần này, chí cả không sờn để tạo công lập đức, siêu huyền bạt tổ, vào Hội Long Hoa mai hậu.
Kính vâng không xao nhăng, cúi đầu tạ ơn.
Vận trời ngày 6 tháng 10 năm Canh Thân 1980.
Dịch Giả: Đào Mộng Nam
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 657 of 1146: Đă gửi: 01 September 2010 lúc 10:32pm | Đă lưu IP
|
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 658 of 1146: Đă gửi: 10 September 2010 lúc 3:45pm | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM
Lời Nói Đầu
Viết tự truyện có lẽ không phải là chuyện một vị tỳ kheo, một nhà sư Phật giáo nên làm, v́ các tỳ kheo chúng tôi phải luôn phấn đấu để diệt ngă, không phải để tôn vinh nó. Qua thiền quán và chánh niệm chúng tôi muốn tu tập buông bỏ ái luyến, thực hành vô ngă. Vậy th́ tại sao tôi lại viết cả một quyển sách về ḿnh?
Cũng khá lạ lùng là ư tưởng ấy lại đến trong những khoá thiền của tôi.
Bất cứ khi nào hướng dẫn một khoá thiền, tôi thường yêu cầu các thiền sinh viết các câu hỏi ra giấy, rồi bỏ vào trong một cái hộp. Mỗi tối, sau buổi thuyết pháp chính thức của tôi, giảng về những điều dạy căn bản của Đức Phật, tôi bốc một vài tờ giấy đó ra khỏi hộp, từng cái từng cái, và trả lời bất cứ câu hỏi ǵ ở đó.
Thường các thiền sinh muốn biết về việc hành thiền: làm thế nào để duy tŕ được mức độ mà họ đă thực hành được ở các khoá tu; họ phải làm ǵ khi quá phẫn nộ đến nỗi không thể ngồi yên; làm thế nào để thực hành nếu họ không có một vị thầy tốt ở cạnh bên.
Tuy nhiên, đôi khi cũng có người hỏi về cuộc đời tôi:
- Thưa, Sư đă tu được bao lâu rồi?
- Thưa, là người sinh ra và trưởng thành ở Tích Lan, Sư có cảm giác thế nào?
- Thưa, làm sao Sư có thể giữ được các giới luật của người tu trong cái thế giới đầy những cám dỗ nầy?
Khi trả lời những loại câu hỏi này tôi thường lan man, dông dài. Tôi kể những câu chuyện về đời tôi và các thiền sinh có vẻ rất thích thú. Thiền đường, thường là nơi yên tĩnh, lại đầy vang tiếng cười. Các thiền sinh thường nó:
- Bhante, Sư nên viết quyển tự truyện của ḿnh.
Tôi đă đọc một vài câu chuyện đời của các vị thầy tâm linh nam cũng như nữ, và trong đó, lúc nào h́nh như cũng có những việc mầu nhiệm, lạ thường xảy đến cho nhân vật chính. Đôi khi, nhân vật chính có thể là người đă tạo ra những phép mầu đó.
Đọc những câu chuyện đầy ấn tượng này, người ta có thể kết luận rằng những người sống về tâm linh dầu ǵ cũng rất khác với người b́nh thường. Nhưng đối với tôi, tôi không thể kể về một sự mầu nhiệm nào.
Suốt cuộc đời, tôi chỉ là một người b́nh thường. Ngay từ thời trẻ, tôi đă được dạy rằng, nếu siêng năng làm việc th́ tôi sẽ được những kết quả tốt, không có ǵ là thần kỳ về điều đó. Có thể dưới nhiều cách nh́n, cuộc đời của tôi cũng rất giống cuộc đời của bạn.
V́ thế tôi rất do dự khi viết quyển sách mà các đệ tử của tôi đă đề nghị. Tôi lo âu rằng nó sẽ là một biểu hiện của ngă mạn, lo sợ rằng người ta có thể nghĩ ở tuổi già, tôi đă trở nên rồ dại và quá chấp ngă.
- Không nhất thiết là vậy.
Một người bạn đă bảo tôi.
- Có thể qua câu chuyện đời ḿnh, Sư sẽ để lại một bài học ǵ đó.
Tôi đă suy nghĩ về điều nầy. Tôi đă quán sát về cuộc đời ḿnh và nhận ra rằng, vâng, đây thật sự có thể là một cơ hội để mọi người thấy rằng, giáo lư của Đức Phật là những lời hướng dẫn tuyệt diệu, khiến cho một người tầm thường như bản thân tôi, có được một cuộc đời tràn đầy hạnh phúc, tràn đầy tự tại.
Là một tu sĩ, tôi đă hiến dâng cuộc đời ḿnh để bảo vệ và duy tŕ giáo lư của Đức Phật. Ngược lại, Phật Pháp cũng đă bảo vệ và duy tŕ tôi. Đó là những ǵ tôi đă học được trong suốt 75 năm của cuộc đời. Căn bản đó là những ǵ tôi muốn chia sẻ với bạn, trong những câu chuyện dông dài về cuộc đời tôi.
Thí dụ, tôi có thể nói một cách thành thật rằng, bất cứ khi nào tôi cảm thấy tự cao, tự đại trong cuộc đời ḿnh, th́ tôi phải lănh chịu nhiều đau khổ. Khi c̣n là một tu sĩ trẻ trong các Phật học viện, tôi thường ḍ xét các huynh đệ khác, tôi nói lén, tôi luôn t́m lỗi của người. Và v́ thế, tôi luôn đau khổ.
Đúng ra, tôi phải nói rằng, đó luôn là yếu điểm lớn nhất của tôi: xét lỗi của người. Thoát khỏi được tính xấu đó dầu chỉ chút ít, tôi cũng phải mất rất nhiều năm, qua rất nhiều cố gắng và lầm lỗi. Ngay chính bây giờ đôi khi tôi vẫn c̣n phải tranh đấu với nó.
Nhưng dầu ít hay nhiều, tôi cũng rất hạnh phúc để nói rằng, bây giờ tôi có thể chấp nhận người khác như họ là. Và cuộc đời tôi (không, kể cả của họ!) đă trở nên thanh thản hơn cũng nhờ đó.
Nương tựa vào những điều dạy của Đức Phật, tôi đă tu tập để dần dần tránh xa những xung đột hơn là tạo ra chúng, hay tệ hơn nữa, đi t́m chúng. Điều đó đă khiến cho cuộc đời của tôi được yên ổn không thể kể xiết.
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đă làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người, bất kể là họ đă làm ǵ, và hăy tin tôi, thiện tánh nầy thật không phải dễ mà có được! Tôi đă phải thực hành rất lâu, rất tinh tấn mới được.
Nhưng sân hận, tự măn và tánh hay phán đoán của tôi, là những mảnh đất màu mỡ để tôi thực hành. Chỉ v́ một người đă trở thành tu sĩ, không có nghĩa là người ấy lập tức thoát khỏi những tính cách uế nhiễm, hay không quan tâm đến chuyện thế gian.
Như bạn sẽ thấy trong suốt quyển sách, ngay chính trong thế giới được coi là cao thượng của tâm linh, tôi đă từng cảm nhận, nơi chính bản thân hay nơi người khác, những sự ganh tỵ nhỏ nhen, hại người, sự thờ ơ và ḷng độc ác.
Giờ khi nghĩ lại, tôi thấy rằng tất cả những việc dường như rất tồi tệ lúc đó, cuối cùng cũng dẫn tới những kết quả tích cực. Tất cả những người hay những hoàn cảnh mà tôi đă nghĩ là chướng nghịch, thật ra cũng đă là những vị thầy thúc đẩy tôi đi con đường đă chọn, chỉ cho tôi những ǵ tôi cần tu tập để đạt được hạnh phúc.
Nh́n ngẫm lại, tôi rất mang ơn những chuỗi nhân quả kỳ diệu đă xảy ra trong cuộc đời tôi, mặc dầu, lúc đó, nhiều điều đă khiến tôi cảm thấy vô cùng đau đớn, bất hạnh. Nếu cha tôi không phải là một người quá khắc nghiệt, có thể tôi đă không bỏ nhà đi tu.
Nếu các vị thầy của tôi đă không phạt tôi quá nặng, tôi đă không t́m đến các trường truyền giáo. Nếu tôi đă không bị mất trí nhớ và cần "thuốc chữa", có thể tôi chẳng bao giờ quan tâm đến thiền.
Nếu tôi không cảm thấy chán làm việc với những người hạ tiện ở Ấn Độ, tôi đă không bỏ Ấn Độ sang Malaysia. Nếu visa của tôi được gia hạn ở Malaysia, có thể tôi sẽ chẳng bao giờ phiêu lưu đến nước Mỹ.
Và nếu mọi sự đă không tan vỡ một cách đớn đau ở chùa Phật giáo Washington (Washington Buddhist Vihara), có thể tôi đă không thiết lập hội Bhavana. Nhưng đó là cuộc đời tôi và tôi biết ơn tất cả.
Dầu vậy, tôi vẫn thấy đau đớn khi viết về một số điều nầy, đào xới lại kỷ niệm của những nỗi đau, ưu phiền cũ. Nhiều lần tôi gần như không c̣n ư chí và đă muốn bỏ ư định hoàn thành sách. Trong những khoảng thời gian khi hoài nghi dằn vặt, tôi luôn nhớ đến câu nói của Mark Twain:
- Chỉ có người chết mới nói sự thật.
Tôi đă nghĩ về những sự thật đôi khi rất xấu xa trong đời tôi, và tôi cảm thấy lo lắng. Nếu tôi viết về chúng một cách thành thật, tôi sẽ phơi bày những yếu kém, những thiếu sót của ḿnh. Nhưng che giấu sự thật, điều đó cũng không đúng.
Ngược lại, tính cách của một tu sĩ không phải là để viết về những lời nói, hay hoàn cảnh không được tốt đẹp đă xảy ra hàng thế kỷ trước, để tiết lộ về những người không tốt với tôi, nhất là khi nhiều người trong số họ không c̣n sống để tự bào chữa.
Bên cạnh những nỗi lo đó nền văn hoá và phong tục nơi tôi sinh ra, không ủng hộ việc công khai các cuộc tranh chấp, xung đột. Khi các cháu người Sinhala của tôi đọc bản thảo đầu tiên của quyển sách này, họ rất kinh hoàng.
- Sư không thể nói về người ta như vậy.
Họ phê b́nh.
- Tại sao Sư muốn bới lại những vấn đề cũ? Chúng chỉ đem lại phiền năo cho Sư.
Người cư sĩ Tích Lan không muốn nghe về những lầm lỗi hay thiếu sót của người tu. Họ thích nghĩ về người tu như là một người thánh thiện, cao thượng mà họ có thể bái lạy với ḷng cung kính.
Trong mối liên hệ tâm linh giữa người tu và hàng cư sĩ Phật giáo Á châu, việc bày tỏ ḷng kính trọng một vị tỳ kheo bằng cách cúng dường hay giúp đỡ vị ấy, đem lại những phần thưởng tâm linh. V́ thế nếu họ khám phá ra một vị tỳ kheo có những điều không xứng đáng, sẽ làm đảo lộn cảm giác về tôn ti trật tự của người cư sĩ.
Nhưng trong nền văn hoá Tây phương, sự thật rất được đề cao. V́ thế tôi không thể kể câu chuyện của đời ḿnh, mà bỏ qua những điều không tốt đẹp; đó sẽ là một bản thảo được "lược bớt" và có thể sẽ bị coi là gian dối.
Và nếu tôi tự họa ḿnh như một người chưa bao giờ phải đương đầu với những khó khăn, yếu kém, th́ câu chuyện của tôi chắc chắn không thể giúp ai nh́n thấy được giá trị của Phật pháp, trong việc giúp tôi đương đầu với những làn tên, mũi đạn của cuộc đời.
Chân lư đầu tiên trong Tứ diệu đế của Đức Phật là cuộc đời chứa đầy đau khổ. Chúng ta không thể thoát khỏi khổ đau. Sự chọn lựa duy nhất của chúng ta là phải cố gắng chế ngự các uế nhiễm: tham, sân và si, nơi bản thân là nguyên nhân gây ra mọi đau khổ.
Chế ngự được các uế nhiễm này là công phu tu tập của cả một đời, mà tôi hy vọng là câu chuyện đời tầm thường của tôi, cuộc hành tŕnh đi đến chánh niệm của bản thân tôi, sẽ chứng tỏ điều đó. Và tôi cũng mong, câu chuyện của tôi sẽ minh chứng rằng, dầu những khổ đau của bạn có mănh liệt tới đâu, bạn cũng sẽ chế ngự được chúng.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 659 of 1146: Đă gửi: 10 September 2010 lúc 3:52pm | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM
Lời Người Dịch
Tôi có thú đi nhà sách. Trước đây th́ là những góc sách văn học. Giờ mỗi lần được vào nhà sách Barnes & Nobles, tôi lại thường t́m đến góc sách Phật học.
Lần đó, tôi bị thu hút bởi quyển sách có màu b́a tối, chữ trắng đen. Thật không có ǵ hấp dẫn ngoài gương mặt của một nhà sư. Gương mặt hiền từ, với đôi mắt sáng, và nụ cười mỉm đầy "chất thiền" đó đă khiến tôi phải mang quyển sách về nhà.
Về nhà, lật đôi ba trang, mới hay đó là tác giả của một quyển sách thiền, mà tôi rất thích khi đọc bản Việt ngữ của dịch giả Nguyễn Duy Nhiên: Chánh Niệm - Thực Tập Thiền Quán. Thế là ṭ ṃ đọc hết quyển sách, thế là bỗng muốn dịch quyển sách ấy.
Vài ba tháng sau, một người bạn đạo, chị Tâm Hạnh bỗng gọi điện. Đôi ba chuyện, rồi chị bảo sẽ đi dự khóa thiền của Sư Gunaratana. À, nhớ ra quyển sách. Nhớ đến ư định sẽ dịch sách. Chị Tâm Hạnh bảo sẽ hỏi Sư cho ḿnh được dịch. Chỉ vậy. Mà rồi sau đó nhận được thư của Sư hoan hỷ cho phép ḿnh được dịch. Thật đúng là duyên lành!
Quyển Tự Truyện của Sư Gunaratana, dĩ nhiên không phải là một tác phẩm văn chương. Nhưng đó là một câu chuyện đời rất thật của một người rất b́nh thường như chúng ta. Có những lúc tôi phải gập sách lại cười khan một ḿnh. Mà cũng lắm khi lại thấy nghẹn ngào, tức tưởi.
Không phải là cách kể chuyện, mà là những câu chuyện khiến người đọc thêm vững ḷng tin vào Phật Pháp.
Quyển sách dịch này c̣n để lại trong riêng tôi những kỷ niệm không thể bao giờ quên. Đó là khi tôi dịch chương 22 của quyển sách, khi tác giả kể về lần thăm viếng mẹ lần cuối, cũng là lúc tôi nhận được tin mẹ tôi bịnh nặng. Rồi Sư lại kể về tâm trạng của người con, không được ở bên mẹ vào giây phút cuối. Ôi, trang sách là của Sư, mà nỗi ḷng là của người dịch, nên nước mắt tôi cũng ướt dầm.
Xin chân thành cảm ơn Sư Gunaratana đă bỏ qua những áy náy ban đầu để hoàn thành quyển tự truyện này. Gấp sách lại, người đọc không hề thấy niềm tin của ḿnh bị lay động bởi những điều không hay được kể trong sách, mà đọng lại là một tấm gương sáng quyết tâm tu hành của một bậc chân tu. Và càng thấy gần gủi, thông cảm, yêu kính hơn những vị tu sĩ ḿnh vẫn gặp hàng ngày.
Mong là bạn cũng được nhiều niềm vui khi đọc quyển Tự truyện này. Xin hồi hướng công đức dịch thuật đến tất cả mọi chúng sanh, đến cha mẹ đă quá cố của tôi. Đặc biệt xin cảm ơn chị tôi, Chơn Đăng Lư Thu Lan, v́ đă gánh vác hết mọi việc thời gian mẹ tôi nằm bịnh, để tôi có thể hoàn tất việc dịch quyển sách này.
Chắc chắn là bản dịch vẫn c̣n nhiều thiếu sót. Mong nhận được những sự chỉ giáo của các bậc tôn sư, quư đạo hữu và độc giả, để những lần tái bản sau được hoàn chỉnh hơn.
Diệu Liên Lư Thu Linh
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 660 of 1146: Đă gửi: 10 September 2010 lúc 4:57pm | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM
Chương Một
Kho Báu Nhỏ
Tôi sinh ngày bảy tháng mười hai, 1927, ở Henepola, thuộc Ceylon. Ceylon, giờ được gọi là Tích Lan (Sri Lanka), là một ḥn đảo có h́nh dạng giống như một giọt nước ở bờ biển phía Đông Nam của Ấn Độ. Đó là một nơi rất đẹp với những ngọn núi phủ đầy cây xanh mượt, những đồng lúa và những đồn điền cao su cũng như trà.
Vào thời kỳ cuối của những năm 1920, ngôi làng bé nhỏ Henepola là chốn định cư của khoảng bốn mươi gia đ́nh. Không có đường vào làng, không trường học, đồn cảnh sát, bưu điện, tiệm ăn hay quán xá. Tất cả chỉ có những mái nhà tranh xúm xít bên nhau, và cạnh đó là một ngôi chùa Phật giáo, nơi công cộng duy nhất mà dân làng tôi có thể tụ họp lại.
Không có ai ở Henepola có điện hay nước máy, nhưng có một ḍng sông nhỏ chảy qua làng. Đến thành phố gần nhất cũng phải đi bộ khoảng ba dặm (ND: một dặm = Mile = 1,4 kilomét), trên một con đường đất hẹp uốn quanh những rặng cây dừa, những đồn điền trà, và đến một ngôi làng gần nhất cũng phải đi gần một cây số.
Người dân xứ tôi chỉ cần nghe pháp danh của tôi, Henepola Gunaratana, th́ họ cũng biết nơi tôi được sinh ra. Theo phong tục của người Sinhala th́ lúc xuất gia vị tu sĩ sẽ nhận một tên mới: tên họ th́ có ư nghĩa về tâm linh, và tên gọi là nơi sinh của người ấy.
Khi tôi c̣n là một đứa trẻ, Ceylon là một thuộc địa của Anh, nổi tiếng về trà, cao su, gia vị, đá quí, cũng như về vị trí chiến lược của nó trên con đường tơ lụa giữa Âu châu và Trung Quốc. Phần lớn một triệu rưởi dân số là nông dân, và gia đ́nh tôi cũng không ngoại lệ.
Chúng tôi trồng lúa, dừa, cà phê, và những loại cây trồng khác trên những mảnh đất nhỏ, đôi khi là của chúng tôi, đôi khi là mướn từ nhà nước Anh. Gần như tất cả mọi người trong làng của tôi đều nghèo, nghèo quá sức. Nhưng niềm tin vào nền Phật giáo Nguyên thuỷ đă tạo cho chúng tôi sự tự tin vào cuộc sống, mà không ǵ có thể lay chuyển được.
Theo nghiệp, định luật của nhân quả, những hoàn cảnh hiện tại là kết quả của những hành động trong quá khứ. Quan trọng hơn, những hoàn cảnh trong tương lai sẽ là kết quả của những hành động của chúng ta trong hiện tại. Do đó, chúng tôi đă tin rằng tốt hơn hết là cố gắng hết sức và tiếp tục sống, bất chấp những khó khăn trong cuộc sống.
Thực ra, trong những kư ức xa xưa nhất của tôi tràn đầy dấu ấn Phật giáo. Nơi nương tựa của cả làng là ngôi chùa. Người ta đến đó để viếng thăm các vị sư, thỉnh họ tụng kinh hay tham vấn về Phật Pháp, gần như cho tất cả mọi sự kiện: đám cưới, sinh nhật, đau bịnh, và tang chế.
Quư sư là người thầy, là giảng sư hay nhà tư vấn, và đôi khi c̣n là y sĩ nữa. Dân làng cũng rất thích trao đổi thân mật với các sư vào bất cứ giờ nào trong ngày hay đêm. Chùa luôn mở cửa.
Một tháng bốn lần, vào ngày mười bốn, ngày rằm, ngày ba mươi và ngày mùng một, dân làng thường lên chùa ở cả ngày. H́nh thức khá dễ dăi. Có người tọa thiền; người đi kinh hành hoặc đứng bên cây bồ đề linh thiêng đọc kinh.
Quư sư và các cư sĩ thay phiên nhau thuyết giảng trong giảng đường, nơi người ta có thể ngồi hay nằm trên nền nhà mát lạnh. Tôi c̣n nhớ lúc nhỏ, tôi thường thiếp ngủ trong ḷng mẹ trong những thời giảng này.
Mẹ tôi tên là Herat Mudiyanselage Lokumenike. Tên gọi và tên lót của bà có nghĩa là “người thuộc về giai cấp cao nhất (hay giai cấp vàng), và tên họ của bà có nghĩa là "viên ngọc lớn". Ở Ceylon vào thời đó, phụ nữ vẫn giữ tên thời con gái của ḿnh khi lập gia đ́nh.
Ba tôi tên là Ekanayaka Mudiyanselage Puncibanda. Tên gọi và tên lót của ông có thể dịch là "một người thuộc giai cấp thượng lưu" và tên họ của ông có nghĩa "kho báu". Chỉ là một sự trùng hợp khi tên lót của mẹ tôi lấy theo tên ông ngoại tôi, th́ cũng giống như tên lót của cha tôi.
Tôi là áp út trong bảy người con. Năm ba mươi bảy tuổi, mẹ sinh tôi. Tôi có hai người anh và ba người chị. Một chị lớn hơn tôi nhiều; chị đă lập gia đ́nh và ra riêng trước cả khi tôi được sinh ra. Hai em gái được sinh sau tôi, nhưng một đă chết lúc sơ sinh.
Có một bà mụ đỡ khi tôi được sinh ra, bà đă được thưởng một số gạo và dừa cho công sức của bà. Tôi đă đến với cuộc đời này trong một căn lều với ánh sáng lờ mờ và không có cửa sổ. Trong khi chuyển bụng, mẹ tôi lúc th́ ngồi chồm hổm, khi th́ nằm trên chiếc chiếu làm bằng lá cây dương xỉ được trải trên sàn nhà.
Theo tục lệ, bà mụ đă cột một sợi dây trên xà nhà, thả dài xuống đến chiếu của mẹ để bà có thể nắm lấy nó khi cơn đau trở nên không chịu đựng nổi. Bà đă sanh tất cả tám đứa con như thế đó. Sau hai tuần, khi tôi có vẻ đủ khỏe mạnh để sống sót, cha tôi đến viếng trưởng làng ở một làng bên cạnh.
Tất cả chuyện sinh nở hay tang ma đều phải tŕnh báo một cách chính thức với trưởng làng ở địa phương, nhưng v́ Henepola quá nhỏ nên không có trưởng làng riêng, v́ thế cha tôi phải đi bộ gần cây số để đến ngôi làng gần nhất, Dehideniya. Ở đó ông thông báo cho vị trưởng làng tên mà ông đă đặt cho người con trai thứ ba của ông: Ekanayaka Mudiyanselage Ukkubanda.
Ukku có nghĩa là nhỏ và banda có nghĩa là kho báu. Đó là một cái tên rất dễ thương, mà người lớn thường dùng để âu yếm gọi một đứa bé. Thường là cái tên, dầu nó được dùng cho một đứa bé, cũng sẽ theo nó cho đến lúc trưởng thành.
Tuy nhiên, khi tôi lớn hơn, cha mẹ tôi quyết định gọi tôi là Kudabanda, đại khái có nghĩa là "cậu bé tí". Tôi nghĩ cũng có lư, v́ tôi là con trai út trong gia đ́nh. Nhưng tôi cũng chẳng bao giờ hỏi tại sao họ lại gọi tôi như thế, thay v́ cái tên chính thức của tôi.
Căn nhà của chúng tôi là do chính ba tôi tự xây. Chiều ngang ba mươi, chiều dài bốn mươi phít (ND: một Foot Anh = 0,3048 mét). Mái làm bằng rơm, cọng lá dừa khô, và các mảnh thiếc. Tường bằng bùn được chắn thêm những cây tre cho chắc. Phía trước và sau nhà là một khoảng hiên trống, phân nửa dưới là vách bùn, nửa trên là rào gỗ.
So sánh với nhiều ngôi nhà tranh trong làng, th́ nhà tôi rất rộng. Có đến hai pḥng. Một là nhà bếp nhỏ, tối tăm; pḥng kia là nhà kho để chứa giấy tờ, sách báo và dụng cụ của cha tôi. Đồ đạc không có ǵ nhiều, và tất cả đều làm bằng tay, gồm có vài ghế đẩu nhỏ, đóng sơ sài, và một cái ghế được đan bằng những cọng lát.
Tôi nhớ cha tôi sau mỗi bữa ăn, ngồi đĩnh đạc trong chiếc ghế đó, hút thuốc hay nhai trầu cùng lúc kể chuyện, hay rầy dạy chúng tôi. Mẹ tôi ngồi trên một chiếc ghế đẩu, không bao giờ ngồi trên ghế của cha tôi. Lũ trẻ chúng tôi th́ ngồi trên sàn nhà.
Sàn nhà được làm bằng bùn, giống như tường, nhưng thỉnh thoảng mẹ và các chị em gái tôi lại trét phân ḅ tươi lên đó, bằng những đôi tay trần của họ. Phân ḅ được coi là có thể sát trùng, mùi của nó đem lại sự sảng khoái. Chúng tôi hàng ngày vẫn đi chân không trên sàn nhà đó.
Chỉ có hai cái giường, mỗi cái là một bục gỗ thô, trên phủ những bao vải nhồi vỏ dừa khô. Những "tấm nệm" này chỉ mềm hơn đá một chút. Người anh lớn nhất của tôi, Tikiribanda, ngủ trên giường, ở hiên trước.
Anh kế tôi và tôi ngủ gần bên, trên sàn nhà. Chiếc giường c̣n lại, ở hiên sau, là của cha tôi. Chẳng bao giờ dù chỉ một lần, tôi thấy mẹ tôi nằm trong giường đó với cha; bà ngủ trên sàn với các chị em gái của tôi. Tôi cũng chẳng bao giờ thấy cha mẹ tôi âu yếm hay hôn nhau, hay ngay cả có một cuộc chuyện tṛ riêng tư nào.
Dầu vậy, cha mẹ chúng tôi chia sẻ một ḷng tin sâu sắc vào Phật giáo. Mỗi sáng lũ trẻ chúng tôi đều thức dậy bởi tiếng tụng kinh Pali của họ. Những bài kinh tụng hàng ngày cũng là những bài hát ru của chúng tôi vào ban đêm. Ngay trước khi học đánh vần, chúng tôi đă có thể đọc thuộc ḷng các đoạn kinh cầu nguyện tiếng Pali, và chúng tôi đă hiểu những chữ như kamma (nghiệp) và rebirth (tái sinh) có nghĩa là ǵ.
Ngày này qua ngày khác cha mẹ chúng tôi làm các công việc độ nhật của họ không chút phàn nàn. Mỗi sáng cha tôi đều ra làm việc ngoài ruộng lúa hay ở khu vườn cao su nhỏ của chúng tôi. Mẹ tôi ở nhà, chăm lo nhà cửa và con cái. Khi cha tôi trở về, bà đă dọn sẵn cơm nước cho ông.
Cả cha lẫn mẹ tôi đều biết đọc và viết tiếng Sinhala, là điều hiếm có trong làng cũng như ở phần lớn những vùng quê của Ceylon. V́ cha tôi có học, và được biết đến như một người có phẩm cách, đạo đức nghiêm chỉnh, ông là người được kính trọng nhất ở Henepola.
Những người dân làng khác thường t́m đến ông để nhờ giải quyết những cuộc tranh căi của họ. Tuy nhiên, trong chính gia đ́nh của ḿnh, th́ cha tôi có thể là một hung thần. Đôi khi bỗng dưng ông kiếm chuyện căi cọ với mẹ tôi, mà tôi chẳng bao giờ hiểu tại sao.
Và ông thường biểu lộ tính khí của ḿnh một cách bạo động. H́nh phạt cho những đứa trẻ chúng tôi th́ rất đau đớn, quyết liệt, đôi khi ông c̣n đánh cả mẹ tôi. Khi điều đó xảy ra, tất cả chúng tôi đều lẩn trốn. Chúng tôi sợ rằng nếu hó hé, ông sẽ trút cơn giận lên chúng tôi.
Mẹ tôi chẳng được đi học chính thức, nhưng bà rất thông minh. Bà tự học đọc và viết, và bà biết rất nhiều về các cây thảo dược. Khả năng trực giác của bà rất nhạy bén.
Tôi rất thân với người chị lớn nhất của ḿnh, Dingiriamma. Khi tôi khoảng hai tuổi, th́ chị sanh đứa con thứ hai, một bé gái nhưng nó chết vài tuần sau đó. Dầu đă bắt đầu ăn được thức ăn b́nh thường, tôi vẫn c̣n rất thích uống sữa, nhưng gia đ́nh chúng tôi không có ḅ, và sữa của mẹ tôi th́ đă dứt lâu rồi.
V́ thế gần cả năm sau khi em bé của chị chết, Dingiriamma vẫn cho tôi bú sữa, giống như tôi là con của chị. Chị và chồng sống trong một làng gọi là Gunadaha, cách chúng tôi khoảng ba dặm, và mỗi tuần, đôi ba lần chị đi bộ đến nhà chúng tôi để cho tôi bú.
Cho đến ngày nay, tôi vẫn coi chị như người mẹ thứ hai của ḿnh. Có lẽ chúng tôi thân với nhau hơn là với tất cả năm người anh chị em c̣n lại. Mẹ và các chị em gái tôi có nhiệm vụ đi lượm củi để nấu ăn. Trong một nơi mà phần lớn chỉ có cây dừa và cây ca cao (cocoa), th́ củi rất hiếm. Thường họ phải bẻ những cành cây cao su khô.
V́ không có điện, chúng tôi phải dựa vào ánh sáng lù mù của mấy cây đèn dầu dừa. Đôi khi chúng tôi cũng không có đủ dầu đốt đèn, mẹ tôi phải đốt đuốc từ những hạt cây kekuna. Bà bóc lớp vỏ cứng của khoảng mười hay mười lăm hạt và rồi xâu chúng lên một que củi. Lớp dầu tự nhiên trong các hạt này sẽ cháy hàng giờ.
Dầu làng chúng tôi không có nước máy, nhưng gia đ́nh tôi khá may mắn có được một cái giếng riêng, cách nhà khoảng hai trăm thước. Nước từ một ḍng suối chảy vào giếng quanh năm. Dầu giếng chỉ sâu khoảng một thước rưỡi, nhưng có chiều dài khoảng hai thước, chiều ngang hơn một thước hai. Chúng tôi dùng nước này để ăn uống, tắm và giặt giũ quần áo.
Mẹ và các chị em gái tôi hứng nước suối đem về nhà trong những b́nh đất lớn, bụng b́nh tṛn to và miệng b́nh nhỏ. Tôi vẫn nhớ nước chứa trong những b́nh này mới mát lạnh làm sao!
Để tắm giặt, chúng tôi dùng những chiếc thùng thô sơ, làm bằng sợi của những tàu cây cau, đôi khi dài đến một thước rưỡi, ngang gần cả thước. Chúng tôi bện chúng thành h́nh dạng như cái thùng, có thể chứa mười hai, mười ba lít nước trong đó.
Dầu chúng tôi giữ ǵn thân thể, quần áo và chăn nệm sạch sẽ đến đâu, chúng tôi vẫn phải khổ sở với những con rận giường. Tôi vẫn c̣n nhớ rất rơ đă găi đến sưng tấy, đỏ mẩn những chỗ mà mấy con rận giường đă cắn trên người tôi. Dầu sự ngứa ngáy rất kinh khủng, tôi chẳng bao giờ mong muốn điều ǵ hơn; đó chỉ là một phần của cuộc sống.
Ruồi và muỗi cũng đầy, nhưng chúng tôi có thể trị chúng bằng cách đốt các vỏ dừa. Tuy nhiên với rận giường th́ khác, gần như không có cách chi để diệt được chúng. Chúng khó thấy, lại trốn trong những tấm nệm vỏ dừa. Dầu chúng tôi vẫn thường giặt mấy tấm nệm này, rồi phơi ngoài nắng, nhưng rận giường luôn có mặt.
Có người dời những tấm nệm của họ xa ra khỏi vách nhà, hay đặt những ống thiếc nhỏ chứa dầu dưới mỗi chân giường, nhưng rận giường vẫn không chịu thua. Nếu chúng không thể trèo lên từ chân giường, chúng sẽ ḅ lên vách, rồi từ trần nhà thả ḿnh xuống như những chàng phi công cảm tử tí hon.
Đỉa cũng là một vấn đề. Bất cứ khi nào anh tôi và tôi đi đâu đó, chúng tôi luôn trở về nhà với những con đỉa bám vào chân, hay các kẽ chân của chúng tôi. Chúng tôi rứt chúng ra, nhưng thường những chiếc răng nhỏ xíu của chúng đă dính cứng trong da thịt chúng tôi. Vài ngày sau đó những nơi đỉa cắn sẽ biến thành những vết thương lở lói.
Đôi khi mấy con ruồi xanh lại đẻ trứng vào đó. Trứng sẽ nở thành gịi, làm cho các vết thương thêm tồi tệ. Có thể v́ thiếu dinh dưỡng, cơ thể tôi không đủ sức để chống lại mấy con vi trùng trong các vết thương đó, nên chúng rất chậm lành và đau đớn. Tôi vẫn c̣n nhiều vết thẹo trên chân.
Cha tôi được thừa hưởng khoảng vài công đất: một công vườn cao su, nửa công vườn trà, và một công ruộng, c̣n một công đất trống th́ ông xây nhà trên đó. Ngoài việc làm ruộng, trồng trà và cao su, cha tôi c̣n thích chăm nom vườn tược.
Ở khoảng đất trống quanh nhà, ông trồng hoa giấy và bông bụt. Kế bên nhà, ông làm một hàng rào hoa lài và hoa hồng, mà ông khéo cắt tỉa với một con dao thật to. Ông cũng trồng một số hoa mầu đem huê lợi như: khoai lang tây, khoai ḿ, đậu, cà, đậu bắp, khổ qua, bắp cải và cà phê. Tuy nhiên, với bao nhiêu hoa mầu được trồng đó, dường như cũng chẳng bao giờ đủ cho tất cả chúng tôi.
Bên cạnh những tài sản trên, chúng tôi c̣n có hai con trâu nước, mà cha tôi dùng để kéo cày ngoài ruộng. Cũng may là chúng tôi không phải nuôi trâu bằng các hoa mầu trong vườn hay ngoài đồng; chúng ăn cỏ hay các vỏ mít đầy gai người ta vứt bỏ.
Cha tôi dùng hoa mầu để đổi lấy cá khô, gia vị, đường, muối, dầu đèn, và những thứ khác mà chúng tôi không thể trồng hay tự làm. Trong những cuộc trao đổi như vậy, ông phải đi bộ khoảng bốn cây số tới một thành phố gọi là Galagedara, nơi có nhiều tiệm buôn bán do người Hồi giáo và Tamil Ân Độ làm chủ. Thường ông cũng không t́m được đủ các thứ ông cần; tất cả dường như đều thiếu hàng hóa.
Để nuôi bảy đứa trẻ luôn đói khát, cha tôi c̣n làm thêm hàng mộc cho mấy người hàng xóm. Tiếc là, những người này cũng ít khi đủ sức để trả công ông. Có thể là những nỗi lo về tài chính luôn canh cánh trong ḷng đă khiến ông trở nên rất cục cằn.
Ông là người chấp hành nguyên tắc rất khắt khe. Ông giấu một cây roi trên trần nhà và thường dùng nó để trừng trị chúng tôi rất nặng trong chớp mắt, v́ bất cứ lỗi lầm nhỏ nhặt nào. Tiếng la mắng của ông làm chúng tôi sợ đến run bắn người lên mỗi khi nghe.
Anh tôi, Rambanda, và tôi rất quen thuộc với sự la rầy nầy cũng như là cây roi, v́ chúng tôi cũng khá quậy phá. Một trong những tṛ tinh nghịch tai hại nhất của chúng tôi là chọi đá chim và ḅ. Một ngày kia chúng tôi gặp một con chó mẹ với bầy chó con.
Anh tôi lượm một nắm tay đầy đá, rồi bảo tôi trèo lên một cây gần đó. Anh dự định là sẽ chọc phá con chó trong khi chúng tôi đă trèo lên cây an ổn. Tôi nói với Rambanda rằng cây cao quá, rằng tôi quá nhỏ không trèo lên được.
- Đừng, đừng làm vậy.
Tôi nài nỉ:
- Nó sẽ cắn em.
Nhưng anh rất bướng bỉnh. Anh phóng ḿnh lên cây rồi bắt đầu ném đá loạn xạ vào con chó. Tôi chạy thục mạng với tất cả sức lực của ḿnh, nhưng con chó c̣n nhanh hơn. Tôi té ngă và nó nhào tới cắn tôi. Khi anh và tôi về đến nhà, chúng tôi phải giải thích tại sao tôi bị thương. Cha đă đánh cả hai v́ tội ác độc với con chó.
Rambanda và tôi h́nh như lúc nào cũng đói khát. Các loại trái hay hạt ăn được, mà chúng tôi t́m thấy khi đi chơi là những niềm vui lớn. Nếu chúng được trồng trên đất của người khác, chúng tôi sẽ xin phép người chủ. Nếu họ không cho, chúng tôi vẫn hái.
Một ngày kia anh tôi và tôi trên đường đến vườn cao su của gia đ́nh. Giữa đường, chúng tôi đi qua một khu vườn nhỏ của một gia đ́nh nghèo hơn chúng tôi. Có khoảng năm mươi cây bắp trồng trên khu đất. Một cây gần đường có trái bắp chín treo lơ lửng. Anh tôi nh́n quanh không thấy ai, nên anh hái trái bắp, bẻ ra làm hai. Một phần cho anh, một cho tôi: Thiệt là ngon!
Trên đường về, chúng tôi lại đi ngang qua vườn bắp. Lần này, v́ một lư do nào đó, chúng tôi quyết định phải tỏ ra thật thà. Anh tôi vào nhà người chủ vườn và xin phép bà được hái một trái bắp. Bà chủ nói chúng tôi có thể hái trái bắp ngay cạnh bên đường.
Bà ra vườn để chỉ cho chúng tôi trái bắp ở đâu, nhưng khi ra đó, bà thấy rằng trái bắp bà định cho chúng tôi đă biến mất. Rồi bà để ư thấy những vết chân nhỏ trong bùn. Bà bảo anh tôi đặt chân vào đó. Anh tôi đặt vào, và đúng là dấu chân anh.
Rơ ràng là chúng tôi phạm lỗi nhưng người đàn bà không tỏ vẻ ǵ giận. Bà nói:
- Hai đứa về nhà đi. Tôi sẽ mang thêm bắp qua cho.
Chúng tôi vui vẻ ra về. Tuy nhiên khi chúng tôi về đến nhà, người đàn bà đă có mặt ở đó. Bà đă kể cho cha tôi nghe tất cả câu chuyện và ông đang đợi chúng tôi, với cây roi trong tay, giận dữ hơn lúc nào hết.
Đó là một hành động xấu, thật xấu. Không chỉ là chúng tôi đă phạm giới luật của Phật là không được ăn cắp, mà chúng tôi c̣n ăn cắp của một gia đ́nh thấp kém, không dư dả.
Cha tôi đánh cho đến khi lưng chúng tôi bắt đầu rướm máu. Mẹ tôi cố ngăn ông lại nhưng ông cứ tiếp tục đánh. Ngay chính người đàn bà, nạn nhân của tội lỗi của chúng tôi, cũng năn nỉ ông dừng lại. Mọi người đều khóc, nhưng cha tôi không muốn nghe ai. Ông đánh chúng tôi cho đến lúc ông kiệt sức, không thể đánh tiếp nữa.
Ngày nay, dĩ nhiên việc đó sẽ bị coi là hành hạ trẻ em. Nhưng bảy mươi năm về trước ở Ceylon, chỉ là một chuyện b́nh thường khi cha mẹ trừng phạt con cái bằng cách đánh chúng. Là một Phật tử tín tâm, cha tôi quyết dạy chúng tôi biết điều sai trái, và phương cách của ông chỉ là làm theo những ǵ thế hệ của ông, và phong tục thời đó cho phép. Thật sự, tôi không trách ông về điều đó.
Lúc nhỏ, tôi thường mặc áo chemise dài bằng vải cô tông (cotton) thô, có sọc xanh, sọc đỏ, và phủ đến gối. Đó là loại quần áo các em bé trai và gái thường mặc. Năm mười một tuổi, tôi bắt đầu mặc những bộ đồ có hai mảnh: một áo chemise thông thường và một cái xà rong giống như một cái váy.
Suốt thời thơ ấu, tôi chẳng bao giờ mang giày, ngay cả dép cũng không; v́ những thứ này rất đắt tiền. Mấy đứa trẻ chúng tôi phải rất cẩn thận với quần áo của ḿnh, v́ chúng tôi chỉ được một bộ đồ mới vào mỗi đầu năm, mà người Ceylon tổ chức vào giữa tháng tư.
Các anh em chúng tôi cũng không có đồ chơi ǵ. Chúng tôi chơi với mấy que củi, những bẹ dừa khô, vỏ dừa, và những sợi dây cọ xơ xác đă bị người ta vứt bỏ. Sân chơi của chúng tôi là băi đất cát trước nhà, ngoài ruộng lúa, hay sân đập lúa, nơi các nông dân suốt lúa khỏi nhánh. Tôi cũng thích trèo cây và đi dạo trong rừng.
Một lần khi tôi ra ngoài đi dạo và khám phá ra một lều gỗ cũ trong rừng. Tôi t́m vài sợi dây, quăng lên xà của căn lều, để làm cái đu. Tôi vui vẻ được khoảng ba mươi giây. Rồi ngay khi tôi bắt đầu đong đưa, cái xà nứt rạn, gẫy làm đôi, rớt xuống đầu tôi. Lúc đầu, tôi không có cảm giác ǵ, sau đó, một ḍng nước ấm bắt đầu chảy xuống trán và mặt tôi.
Tôi loạng choạng bước ra ngoài, t́m được một lá cây cau trên mặt đất. Tôi dán chặt nó lên đầu, nghĩ rằng bằng cách nào đó tôi phải chặn máu lại. Mẹ tôi, người dường như có giác quan thứ sáu luôn biết khi nào tôi gặp nạn, đă nhanh chóng t́m ra tôi. Bà đem tôi về nhà, cẩn thận rửa vết thương và dán lên đó một trong những loại thảo dược của bà.
Buổi chiều, các anh chị em tôi thường chơi trốn t́m cho đến giờ ăn, thường là khoảng chín giờ tối. Ngay sau bữa ăn, chúng tôi ngủ thiếp đi trên sàn nhà trống, không có gối hay mền. Không có những chuyện như là đánh răng hay tắm rửa trước khi đi ngủ. Để dỗ ngủ chúng tôi, mẹ thường kể những câu chuyện rất hay, đôi khi là chuyện cổ tích dân gian, đôi khi là chuyện tiền thân của Đức Phật trong nhiều kiếp.
Lúc c̣n nhỏ, một trong những câu chuyện tiền thân của Đức Phật mà tôi thích nhất là về Sasa, một con thỏ tốt bụng đă nhảy vào lửa hy sinh thân mạng để cứu một ông lăo đói nghèo, không có ǵ để ăn. Tôi nghĩ là tôi đă thích câu chuyện đó v́ tôi thường ngắm trăng tṛn, và thấy những h́nh ảnh trên đó giống như một con thỏ.
Tôi mơ mộng rằng ḿnh cũng có thể tốt bụng như thế, để được lên mặt trăng, nơi tôi có thể ngồi bên cạnh con thỏ đó và nh́n xuống mặt đất. Cha mẹ tôi luôn kể rằng Đức Phật rất hiền lành tử tế, giống như ánh sáng mặt trăng chiếu soi trên tất cả mọi người, không phân biệt.
V́ thế khi tôi nghĩ đến mặt trăng, tôi nghĩ đến con thỏ trên mặt trăng, đến Sasa, con thỏ độ lượng và đến Đức Phật, cả ba quyện lẫn vào nhau trong tâm trí tôi. Thật là oái ăm; trong khi tôi thích câu chuyện về con thỏ độ lượng, th́ bản thân tôi thật sự lại rất tham lam, nhất là tham ăn.
Tôi luôn giấu đồ ăn của ḿnh, sợ người khác giành ăn. Nếu có ai nh́n vào dĩa của tôi, tôi sẽ nổi giận và hất nó xuống đất. Một hành động rồ dại, dĩ nhiên rồi, v́ thức ăn quá quí hiếm để tôi hoang phí như thế. Nhưng tôi là người có tính khí nóng nảy, có lẽ giống như cha tôi, và tôi cũng không thể kiềm chế được nó giỏi ǵ hơn ông.
Đôi khi các anh chị tôi nh́n chăm bẩm vào dĩa đồ ăn của tôi chỉ để chọc giận tôi. Một lần, khi điều đó xảy ra, tôi giận đến nỗi tôi vứt dĩa đồ ăn ra cửa. Cha đánh cho tôi một trận rồi bắt tôi đi lượm dĩa lên, và dĩ nhiên là bữa đó tôi không được ăn thứ ǵ.
Một ngày, người chị thứ ba, lớn hơn tôi bốn tuổi, lấy một chiếc đũa, vẽ h́nh một trái bí lên đất. Tôi lấy chiếc đũa khác, xoá đi. Chị giận quá lấy chổi đánh tôi. Tôi chụp cái ghế đẩu, rượt chị chạy khắp nhà, rồi chọi cái ghế vào người chị. Cái ghế trúng ngón chân cái của chị, làm tét móng. Máu tuôn ra, và chị lập tức gào khóc.
Khi mẹ tôi nghe tiếng, bà lẹ làng chạy vào giúp chị, c̣n tôi chạy ra ngoài. Tôi nhớ đó là lần đầu tiên tôi đă làm một điều không phải, đối với một trong những anh chị em của ḿnh. Lúc đó tôi khoảng bảy, tám tuổi. Cũng may, lúc đó cha tôi không có mặt ở nhà, và cả mẹ và chị tôi đều không dám kể cho ông nghe điều ǵ đă thực sự xảy ra.
Tôi đoán là giống như tôi, họ cũng sợ cha nổi trận lôi đ́nh. Họ chỉ cho ông biết ngón chân băng bó của chị tôi là do tai nạn xảy ra. Khoảng thời thơ ấu của tôi, trong làng không có xe hơi, ngay cả xe đạp cũng không có; cuốc bộ là phương tiện di chuyển độc nhất.
Để ra được đường lộ, chúng tôi phải đi bộ khoảng ba cây số xuống một ngọn đồi dốc, hay khoảng năm cây số đường bằng theo một hướng khác. Khi có ai bệnh nặng, không thể đi bộ, họ được buộc vào một cái ghế hay một mảnh ván và được khiêng đi gần năm cây số, để đến bệnh viện gần nhất ở Galagedara.
Năm 1933, khi tôi được năm tuổi, một trận dịch tả đă tràn lan khắp Ceylon. Cả gia đ́nh tôi đều bị bệnh, lúc nhẹ lúc nặng, suốt ba năm trời. Chính phủ Anh đă phát thuốc kư ninh (quinine), cũng như phát chẩn gạo và các loại nhu yếu phẩm khác, v́ không ai đủ sức để làm việc.
Tuy nhiên, có điều khó là: mỗi tuần chúng tôi phải đi bộ khoảng năm cây số để lănh phần của ḿnh. Chúng tôi thay phiên nhau đi; người nào ít bệnh nhất sẽ đi. Tôi c̣n nhớ phải đi bộ năm cây số đó khi đang lên cơn sốt cao, chỉ để được có thức ăn và thuốc men.
Tôi nhớ lại hai trường hợp cấp cứu khác. Đó là khi tôi khoảng tám, chín tuổi, tự nhiên tôi bị mất thị lực vào ban đêm, có thể do thiếu dinh dưỡng. Khi trời tối, tôi giống như người mù. Tôi không thể thấy ǵ cả, dầu có ánh sáng từ ngọn đèn dầu.
Các anh chị trêu ghẹo tôi về điều đó, v́ họ cho rằng tôi giả bộ, nhưng mẹ tôi rất lo lắng. Bà hỏi thăm thầy lang trong làng; ông cho bà một loại thuốc đắng đem về cho tôi. Đó là một loại thảo dược, nhưng ông không cho bà biết tên loại cây. Nhiều người tin rằng các loại thảo dược có những sức mạnh huyền bí, và các thành phần của chúng thường được giữ bí mật.
Mẹ tôi phải xay thuốc nhuyễn ra, rồi cho tôi uống mỗi ngày, cho đến khi thị lực của tôi khá hơn. Thuốc đắng khủng khiếp, đau khổ hơn nữa là tôi c̣n phải uống vào sáng sớm, khi bụng đói.
Để tôi phải uống thuốc, mẹ tôi đă dùng đến sức mạnh của t́nh thương. Trước khi mọi người khác trong nhà thức dậy, bà sẽ bồng tôi đặt trên đùi. Bà ôm tôi, hôn tôi, thầm th́ kể chuyện cho tôi nghe. Sau vài phút tôi cảm thấy dễ chịu, hạnh phúc đến nỗi tôi sẽ làm bất cứ điều ǵ bà yêu cầu.
Đó là lúc bà sẽ bỏ thuốc vào miệng tôi và bảo tôi nuốt nhanh. Bà luôn trộn phần thuốc đắng đó với đường, vậy mà nó vẫn không bớt đắng. Nghi thức đó diễn ra mỗi ngày, sau vài tháng tôi hoàn toàn phục hồi thị lực.
Đến giờ, nhiều năm sau, tôi mới hiểu được sức mạnh của metta hay ḷng từ bi. Phần nào đó, nó giúp chúng ta chịu đựng được những cay đắng của cuộc đời. Nó xoa dịu những khó khăn, thất vọng, đau đớn.
Đức Phật cũng đă dùng sức mạnh của từ bi để "chiến thắng" bao kẻ thù. Ngài c̣n khuyên các vị sư sống trong rừng, phải sử dụng tâm từ bi khi đối mặt với những con rắn độc. Và kinh Từ Bi là một trong những bài kinh tuyệt vời nhất của Đức Phật.
Đó là một bài kinh rất ngắn, nhưng là một trong những bài kinh mà quư sư thường tụng đọc ở các buổi lễ. Kinh chỉ bày cho ta cách suy nghĩ và hành động, để có thể mang lại hạnh phúc cho chính bản thân người thực hành, và cho tất cả mọi người ở quanh họ.
Đức Phật đă dạy rằng thực hành từ bi là một hành động đáng tán thán. Do đó khi phát triển những tư tưởng về ḷng từ bi, chúng ta thật an lạc, cảm nhận được một niềm hạnh phúc sâu xa từ việc tạo được công đức. Đó là cảm giác của sự thanh tịnh.
Bất cứ khi nào tôi khuyên người ta thực hành tâm từ bi một cách nghiêm chỉnh, tôi đều dạy họ lặp lại những câu sau đây:
Nguyện cho bạn được khoẻ mạnh, hạnh phúc, và b́nh an.
Nguyện không có điều rủi ro nào xảy đến cho bạn.
Nguyện không có những khó khăn nào đến với bạn.
Nguyện cho bạn không bị năo phiền.
Nguyện cho bạn luôn được thành công.
Nguyện cho bạn có ḷng can đảm, kiên nhẫn, hiểu biết, và quyết tâm để đương đầu và chế ngự những khó khăn, những phiền năo, và thất bại không thể tránh khỏi trong cuộc sống.
Người đầu tiên mà chúng ta nên hướng tâm từ đến là bản thân chúng ta:
Nguyện cho tôi được khoẻ mạnh, hạnh phúc, và b́nh an.
Nguyện không có điều rủi ro nào xảy đến cho tôi.
Nguyện không có những khó khăn nào đến với tôi...
Tại sao lại bắt đầu với bản thân? Có người hỏi. Như thế không phải là ích kỷ lắm sao? Thương yêu bản thân trước tất cả mọi người sao? Không hẳn là vậy. Hướng tâm từ bi đến bản thân chúng ta là việc dễ làm nhất, v́ giữa muôn loại chúng sanh trên trái đất nầy, chúng ta yêu bản thân ḿnh nhất. (Th́ phần lớn chúng ta là thế!)
V́ thế chúng ta có thể dễ dàng phát khởi những t́nh cảm thương yêu ấm áp đến với bản thân. Chúng ta có thể tắm đẫm trong đó, chan hoà thân tâm trong đó. Rồi khi t́nh thương yêu đă tràn đầy trong ta, tự nhiên nó sẽ lan tỏa sang người khác. Chúng ta có dư thừa để chia sẻ.
Và chúng ta làm thế với nhóm người kế tiếp, thích hợp nhất là: những người ở gần và thân thiết với ta. Như vợ chồng, con cái, cha mẹ, anh chị em, bà con quyến thuộc, bạn bè thân thiết, hoặc có thể là người hướng dẫn tâm linh. Chúng ta tưởng nghĩ đến họ trong tâm ḿnh, và lặp lại những lời nguyện cầu, mà họ là đối tượng thọ hưởng tâm từ của chúng ta.
Nhóm kế tiếp th́ rộng lớn nhất. Bao gồm tất cả những người mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày, nhưng không thân thiết. Những người quen biết qua đường, đôi khi hoàn toàn xa lạ, những người đến và đi qua cuộc đời chúng ta.
Bạn học, đồng nghiệp, hàng xóm, người bán hàng, người ngồi trên xe đậu kế bên ta ở một ngă tư, một chú chó đáng yêu, người chạy lướt qua bạn trên đường. Chúng ta trải rộng t́nh thương yêu đến tất cả những chúng sanh nầy, người hay vật, và đều cầu nguyện cho họ được tốt đẹp.
Nhóm cuối cùng th́ có thể là một nhóm nhỏ, hy vọng thế. Bao gồm những kẻ thù của ta, những người xuất hiện để gây khó khăn cho cuộc đời ta, mà ta nói một cách lịch sự là "thử thách" chúng ta. Đó là những đối tượng mà sự thực hành tâm từ bi trở nên rất khó khăn đối với nhiều người.
Cầu nguyện điều tốt lành cho kẻ thù của ta được sao? Mong cho họ được thành công, khi họ cũng muốn chức vị mà bạn đang hướng tới? Dành cho họ những ư nghĩ thân thiện khi họ vừa hiếp đáp con bạn, hay vừa chạy xe lấn lướt bạn?
Đúng vậy, Đức Phật dạy. Và đây là lư do tại sao: Nếu chúng ta cầu mong cho người đó được tốt đẹp, hy vọng rằng anh ta được thành công, có thể là anh ta sẽ phát triển tâm linh. Đó là thứ thành công mà chúng ta mong cầu cho người đó, sự thành công về tâm linh.
Và nếu anh ta tiến bộ về mặt tâm linh, có thể anh ta sẽ không c̣n là kẻ thù của ta nữa. Không c̣n mưu cầu để làm như thế. Anh ta sẽ trở nên hiền lành hơn; những đức tính cao quư của anh ta sẽ hiển lộ. Tất cả chúng ta sẽ có thể sống chung hoà b́nh.
Nhưng sự thực hành tâm từ bi không chỉ bó hẹp trong sự lặp đi lặp lại những câu kinh đó. Đức Phật dạy chúng ta cần phải vun trồng tâm từ trong ư nghĩ, lời nói, và hành động. Mỗi bước đi, mỗi hành động, mỗi nghĩ suy phải phát xuất từ tâm từ bi.
Những ǵ mà ta huân tập nhiều lần sẽ trở thành trạng thái tâm của ta. Nếu bạn luôn thực hành tâm từ bi, th́ chính bản thân bạn sẽ đầy từ bi. Nó sẽ trở thành cá tính của bạn. Và bạn sẽ nhận ra rằng, người khác cũng có những cá tính dịu dàng, từ tốn ẩn chứa bên trong họ.
Mẹ tôi hiểu và sống theo những lời dạy của Đức Phật. Bà muốn chắc rằng, tất cả con cái của bà đều được nghe những câu chuyện về cuộc đời của Đức Phật, và được dạy về trí tuệ và ḷng từ bi của Ngài.
Chính bản thân bà là một tấm gương về ḷng từ bi, luôn đối xử với bất cứ ai bà gặp bằng sự dịu dàng và lời nói nhẹ nhàng. Xét dưới nhiều khía cạnh, tôi xem bà gần như là một vị thánh. Gần một năm sau căn bệnh không thấy đường vào ban đêm lạ kỳ của tôi, mẹ tôi bị một tai nạn đă làm thay đổi cuộc đời của bà.
Một ngày kia bà trèo lên cây ca cao để hái trái, là việc bà vẫn thường làm. (Rồi chặt trái ra, lấy thịt hột cỡ bằng một hột đậu hạnh nhân, phơi ngoài nắng). Cha tôi sẽ mang ra chợ bán, khoảng năm xu nửa kư. Hột ca cao khô rất ngon v́ người ta có thể giă ra thành bột ca cao.
Ngày hôm đó, công việc thường nhật của mẹ tôi đă biến thành thảm họa. Khi bà đă trèo cao lên cây, cành cây găy khiến bà rơi xuống. Tôi nghe tiếng kêu của bà, và khi chạy đến, tôi thấy bà nằm ngửa trên mặt đất, bất tỉnh. Hai người chị của tôi cũng chạy đến và khi nh́n thấy bà, họ bắt đầu gào khóc.
H́nh như là các nhà hàng xóm nghe tiếng các chị tôi khóc, họ chạy đến, cố gắng giúp đỡ chúng tôi. Khi mẹ tôi tỉnh lại, một người hàng xóm đưa cho bà một loại thuốc bổ dân gian: một loại nước uống pha rượu quậy với tṛng đỏ trứng trong đó.
Bà từ chối không uống. Cả đời, bà đă giữ giới luật Phật giáo, bao gồm giới không uống rượu. Bà không muốn phá giới, ngay nếu như rượu đó sẽ làm giảm cơn đau của bà. Có người đă chạy gọi cha tôi đang làm việc ngoài ruộng lúa. Cha tôi lại chạy đi t́m người thầy thuốc trong làng.
Một số người giúp khiêng mẹ tôi vào nhà; lưng bà bị chấn thương quá nặng đến nỗi bà không thể ngồi dậy. Vị thầy thuốc sai người túa ra nhiều hướng để hái các lá và rễ của một số cây thảo dược đặc biệt. Khi họ trở về, ông giă nhỏ các loại thảo dược để xoa lên lưng mẹ. Khi ra về ông để lại cho chúng tôi ít thuốc đó và bảo chúng tôi mỗi ngày xoa cho mẹ hai lần.
Mỗi ngôi làng ở Ceylon đều có nhà sư Phật giáo và một vị thầy thuốc, và cả hai đều hợp tác làm việc với nhau. Trước khi chuẩn bị bất cứ loại thuốc nào, vị thầy thuốc sẽ tụng kinh Phật trước bàn thờ nhà ông. Ông không tính tiền công với dân làng, nhưng thường người ta mang đến cho ông rau củ, dừa, trà, gia vị, hay trái cau.
Người ta tin rằng nếu vị thầy thuốc là một Phật tử tín tâm, th́ thuốc của ông sẽ hiệu nghiệm hơn. Do đó, khả năng chữa trị của người thầy thuốc tùy thuộc vào việc ông có là một người Phật tử gương mẫu hay không.
Ngay cả sau khi người Anh đă thiết lập một hệ thống chính quyền địa phương với người sếp (chief) cai quản mỗi làng, th́ thầy thuốc và vị sư vẫn có quyền lực cao nhất. Người sếp luôn tham khảo ư kiến với nhà sư và thầy thuốc, trước khi quyết định một h́nh phạt hay dàn xếp một tranh chấp nào.
Hai ba ngày sau tai nạn, mẹ tôi vẫn không khá hơn. Bà không thể cử động đôi chân hay đứng dậy; bà chỉ có thể nằm rên v́ đau. Bà không ăn uống được thứ ǵ, trừ một ít cháo và nước cam. Rơ ràng là bà cần được chữa trị tốt hơn, nhưng cha mẹ tôi không tin tưởng bệnh viện.
Mẹ tôi bảo muốn trở về nhà cha mẹ bà, cách làng tôi khoảng bốn mươi hai cây số. Đó là một cuộc hành tŕnh dài, nhưng người thầy thuốc ở làng ông bà ngoại tôi h́nh như giỏi hơn, và mẹ cũng nói bà sẽ cảm thấy dễ chịu hơn trong ngôi nhà thời thơ ấu của ḿnh.
V́ thế cha tôi và một vài người nữa khiêng bà đặt lên một tấm phản, rồi khiêng bà đến thành phố gần nhất. Ở đó, cha mướn xe để chở mẹ tôi về nhà ông bà ngoại. Khi họ đi xa, những đứa trẻ chúng tôi phải ở nhà một ḿnh. Người chị lớn thứ hai của tôi lúc đó đă mười tám tuổi, nên chị lo việc nấu nướng và chăm sóc chúng tôi, những đứa nhỏ hơn.
Vài ngày sau đó, cha trở về một ḿnh. Mẹ tôi đă ở lại nhà ông bà ngoại để dưỡng bệnh. Nhưng bà chẳng bao giờ hoàn toàn lành mạnh trở lại. Vài tháng sau đó khi bà trở về nhà, bà phải đi nạng, với cái lưng c̣ng. Chân trái của bà không co lại được, và bà không thể đi bộ đến cả ngôi chùa gần nhất.
Năm bảy tuổi tôi bắt đầu đi học. Ngôi trường gần nhất là ở Medagama, cách nhà chúng tôi khoảng hơn nửa cây số, được điều hành bởi các vị nữ tu truyền giáo Thiên Chúa. Tôi rất thích, chính là v́ mỗi ngày họ đều cho chúng tôi ăn những bữa ăn trưa rất ngon.
Trước khi ăn, chúng tôi phải đọc kinh Thiên Chúa, chúng tôi cúi đầu trước những chiếc mâm nhỏ đựng thức ăn đặt trên bàn. Tôi nhắm mắt, lầm thầm đọc, nhưng tâm của tôi th́ đang khốn khổ v́ mùi thơm đang xốc lên mũi tôi.
Tôi học trường Thiên Chúa giáo được khoảng một năm, trước khi ngôi chùa Phật giáo ở Dehideniya mở trường tiểu học. Tất cả trẻ em ở Henepola, khoảng ba mươi, bốn mươi đứa chúng tôi lại đổi trường. Năm đầu tiên học ở trường Phật giáo khá đông đúc. Giảng đường của chùa, ở ngoài trời, được sử dụng làm lớp học duy nhất, luôn ồn ào v́ có quá đông học sinh dồn vào một chỗ.
Một năm sau, chính phủ hỗ trợ một miếng đất nhỏ cạnh bên chùa để xây một ngôi trường tách biệt. Dân làng họp nhau lại xây ngôi nhà một pḥng, h́nh chữ nhật đơn giản khoảng ba mươi bốn mét dài, và mười mét ngang. Tường cao gần hai mét, cửa sổ, cửa chính để trống không, c̣n mái th́ làm bằng những cọng lá dừa.
Ngôi trường mới có những dăy bàn và ghế dài bằng gỗ cứng. Năm đầu tiên ở ngôi trường mới, chúng tôi dùng bảng đen và những viên đá nhọn để viết bài. Tuy nhiên qua năm thứ hai, chính phủ hỗ trợ viết ch́ và giấy làm bài tập, thật là sung sướng!
Mỗi buổi sáng khi thầy giáo vào lớp, chúng tôi đứng dậy khỏi ghế, cúi đầu, khoanh tay trước ngực.
- Chào thầy ạ.
Chúng tôi đồng thanh nói, và ông cũng đáp lại chúng tôi bằng cái chào tương tự. Sau đó là tới thời gian kiểm tra. Thầy giáo đi dọc theo các dăy bàn học sinh, xét xem răng và móng tay chúng tôi có được giữ ǵn sạch sẽ hay không? Tất cả mọi thứ đều phải gọn ghẽ, kể cả áo quần.
Nếu có ǵ không ổn, chúng tôi sẽ bị ăn gậy. Thực ra với bất cứ lầm lỗi ǵ, mông chúng tôi cũng đều hứng gậy. Đôi khi thầy giáo c̣n dùng tay để cốc đầu chúng tôi. Không ai nghĩ đó là ác hay có ǵ khác thường.
Trước khi bắt đầu học, tất cả chúng tôi đều đọc quy y tam bảo bằng tiếng Pali, quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng và năm giới cấm trong Phật giáo. Ngay cả các em nhỏ cũng thuộc ḷng những bài kinh này, v́ chúng đều đă được nghe cha mẹ đọc tụng ở nhà mỗi ngày.
Chương tŕnh học ở trường gồm văn phạm tiếng Sinhala, lịch sử, khoa học, toán và dĩ nhiên, Phật giáo. Mỗi ngày trên đường đến trường và về nhà, chúng tôi đi qua một con lạch nhỏ, nước chảy xiết. Cả tôi và anh tôi đều không biết bơi, v́ thế mẹ tôi thường sợ rằng một ngày nào đó chúng tôi sẽ bị chết đuối ở lạch nước đó.
Mỗi ngày bà sẽ đứng ở cửa, đợi chúng tôi đi học về. Bà biết rằng con lạch đó hấp dẫn những đứa trẻ nghịch ngợm biết bao, biết rằng anh tôi và tôi rất muốn vứt cặp sách xuống đất, cởi đồ ra để nhảy vào ḍng nước mát đó. Đôi khi, chúng tôi thực sự đă làm thế! Mẹ tôi, lúc nào cũng theo dơi từ xa, hét đến vỡ lồng ngực ngay khi chúng tôi vừa nhún chân xuống nước, c̣n chúng tôi th́ chẳng muốn bước ra khỏi đó.
Tuy nhiên, có lần chúng tôi qua mắt được mẹ. Chúng tôi nhảy vào nước mà mẹ không thấy. Gần như lập tức tôi bị kẹt vào trong một ṿng xoáy nơi ḍng nước chảy dưới một bụi tre. Tôi vùng vẫy hai tay, cố ngoi lên khỏi mặt nước, nhưng ḍng xoáy cứ kéo tôi xuống với một sức mạnh khủng khiếp. Không biết bằng cách nào mà anh tôi nắm được tôi kéo lên. Anh đă cứu sống tôi.
Nhưng đó không phải là kinh nghiệm sắp chết đuối cuối cùng của tôi. Cho tới ngày nay, dầu tôi đă chu du khắp thế giới, đă vượt bao đại dương không biết bao nhiêu lần, tôi vẫn c̣n sợ sông suối.
Một ngày, lúc tôi khoảng chín tuổi, trên đường đi học về với các bạn nhỏ trong lúc mưa băo lớn. Chúng tôi phải đi qua một ruộng lúa, có những dải phân cách hẹp giữa các luống lúa, với những ống dẫn nước chia đôi các dải phân cách.
Chúng tôi đến một rănh đă bị các trận mưa làm xói lở ra. Nó trở thành giống như một con sông nhỏ, với ḍng nước chảy siết. Tất cả mấy đứa bạn đă nhảy qua rănh, nhưng tôi c̣n do dự, ôm gh́ tập sách trước ngực.
Cuối cùng khi đă thu hết can đảm để nhảy qua, tôi lại trượt chân trên bờ rănh và té xuống nước. Sách vở, bảng đá lập tức bị nước cuốn trôi trong khi tôi cố gắng để ngoi đầu lên khỏi mặt nước. Tôi càng cố gắng bơi, th́ h́nh như tôi càng ch́m nhanh hơn.
Anh tôi, Rambanda, nhảy xuống nước và kéo tôi lên. Tôi bị một phen sợ hăi và ướt nhem, nhưng cũng an toàn. Chúng tôi chẳng bao giờ kể cho cha mẹ nghe chuyện đó. Chúng tôi biết điều ǵ sẽ xảy ra nếu chúng tôi kể.
Ngôi chùa Phật giáo cách nhà chúng tôi khoảng nửa cây số, là trung tâm làng. Chỉ có một vị sư và thị giả của ông, một cư sĩ, sống ở đó. Khuôn viên chùa bao gồm một giảng đường, một chánh điện, một căn cḥi nhỏ đắp bằng bùn, được sử dụng làm nhà bếp, và một nhà vệ sinh.
Ở một góc sân là cây bồ đề, gợi cho chúng tôi nhớ đến cây bồ đề mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đă ngồi dưới đó, khi Ngài đạt được giác ngộ. Một bức tường gạch được xây quanh cây, để ngăn không cho trẻ con trèo lên những cành cây thiêng liêng nầy.
Có một ban quản lư chùa và những người tự nguyện đóng góp công sức. Dân làng luôn vui vẻ góp tay vào việc xây dựng, dọn dẹp, nấu nướng và xếp đặt các buổi lễ. Các Phật tử tin rằng những việc làm tốt đẹp đó sẽ giúp họ được phước đức ở đời nầy và đời sau. Nhiều người đi chùa gần như mỗi ngày, dầu chỉ là một cuộc thăm viếng ngắn ngủi.
Thời khoá thường ngày của chùa cũng ảnh hưởng tới đời sống hằng ngày của chúng tôi. Mỗi ngày lúc sáu giờ sáng, vị sư hay là đệ tử của ông, sẽ đánh một cái chuông lớn giống như cái cồng trong sân chùa. Đó là dấu hiệu cho buổi đọc kinh sáng.
Có nghĩa là vị sư đă hoàn tất buổi tọa thiền một tiếng đồng hồ của ông, và giờ ông đi qua chánh điện để tụng kinh cầu nguyện. Tất cả mọi người trong làng đều có thể nghe được tiếng chuông. Khi nó vang lên, chúng tôi biết đó cũng là thời gian, dành cho những nghi thức của cá nhân chúng tôi nữa.
Chúng tôi sẽ bày hoa tươi trên bàn thờ trong nhà, đốt nhang và ngồi xuống để tụng kinh. Chuông chùa lại vang lên lần nữa lúc mười một giờ, khi vị sư bắt đầu dùng bữa chánh trong ngày. Tiếng chuông là cách duy nhất để chúng tôi biết giờ giấc, v́ không ai có đồng hồ treo tường hoặc đồng hồ đeo tay.
Mỗi chiều, Rambanda và tôi đều đến chùa. Chúng tôi rất thích ở đó. Vị sư cho phép chúng tôi chơi trong sân chùa, và thường cho chúng tôi kẹo hay đồ ăn c̣n thừa. Đúng ra, chúng tôi không được ăn đồ ăn của chùa, v́ đó là do dân làng cúng dường cho vị sư dùng.
Cha mẹ chúng tôi đă dạy rằng ăn đồ ăn của chùa sẽ tạo ra nghiệp xấu cho chúng tôi, khiến chúng tôi bị đọa địa ngục. Nhưng vị sư quá tử tế, và cái đói của chúng tôi cũng quá mạnh, đến nỗi chúng tôi quên cả địa ngục. Chúng tôi hăm hở ăn bất cứ thứ ǵ mà vị sư cho: cơm, cá, đậu nấu, bánh bột gạo, hay một trái xoài chín.
Cha tôi đă xây dựng giảng đường của chùa, một căn pḥng với chiều dài mười thước, chiều ngang mười thước, nền xi măng, tường gạch và mái ngói. Bên trong có một cái bục vuông, cao khoảng mười lăm centi mét, với bốn trụ cây cao ở bốn góc. Trên bục gỗ, chỉ có một cái ghế, bao quanh bởi những lưới gỗ, và được che bởi một tấm màn vải phủ căng trên mấy cây trụ.
Vào ngày rằm và mùng một, các cư sĩ sẽ ở cả ngày và đêm trên chùa. Các vị sư ở những làng gần bên cũng đến chùa chúng tôi, và thay phiên nhau an vị trên chiếc ghế đó để thuyết pháp. Việc đầu tiên mỗi buổi sáng, là vị sư sẽ tụng một trong những bài kinh của Đức Phật bằng tiếng Pali.
V́ tiếng Pali gần giống như tiếng Sinhala, nên phần đông các cư sĩ đều có thể hiểu. Thời kinh sáng thường ngắn chỉ khoảng một tiếng, v́ các sư c̣n phải thực hiện nghi lễ cúng ngọ trước khi thọ thực, khoảng mười giờ sáng.
Buổi chiều, một vị sư khác sẽ thuyết giảng về ư nghĩa của bài kinh Pali đă được tụng ban sáng. Sau đó khách viếng chùa được tự do vài tiếng đồng hồ để ngồi thiền, thưa hỏi đạo với quư sư, hay đọc các kinh sách.
Buổi tối sẽ có nghi lễ trọng thể hơn. Sau khi tất cả các cư sĩ đă tụ tập vào trong giảng đường, một vị sư cao đạo được kiệu vào, bởi hai người đàn ông trên cánh tay xếp bằng của họ. Các vị sư được cung kính đến mức đó không nhiều. Một số vị có thể tụng thuộc ḷng cả bộ tạng kinh tiếng Pali, cũng như thông hiểu tất cả những bài b́nh luận về kinh.
Họ rất khéo léo trong việc phân tích, giảng giải từng chi tiết trong một bài kinh, có những buổi giảng có thể kéo dài đến mười tiếng đồng hồ. Họ cũng thường nổi tiếng về khả năng kể chuyện và giọng tụng đọc êm đềm của họ.
Các nghi thức nầy thường được đi kèm theo bằng tiếng đánh trống, thổi cồng, chơi sáo và những tiếng đồng thanh hỗ trợ như là “Sadhu! Sadhu! Sadhu!”, có nghĩa là "Lành thay! Lành thay! Lành thay!"
Vị sư từ tốn ngồi vào chiếc ghế của ông ở trên bục gỗ, rồi phủ vải trắng lên người đến tận cổ. Một bức màn được kéo trước mặt ông, chỉ c̣n chừa lại khuôn mặt. Các cư sĩ mang trà dâng cho vị sư, hay là một mâm đầy kẹo mía đường, trầu cau, vôi và thuốc lá. Một ống nhổ được đặt trước mặt vị sư.
Trước hết vị sư sẽ đọc kinh quy y Phật, Pháp và Tăng (tam bảo trong Phật pháp). Giọng mũi của ông nghe rất hay, cách đọc tụng như hát, có sức thôi miên đến nỗi dường như nó từ phía sau bức màn bay bổng ra.
Namo tassa bhagavato Arahato Sammasambuddhasa.
Namo tassa bhagavato Arahato Sammasambuddhasa.
Namo tassa bhagavato Arahato Sammasambuddhasa.
(Cung Kính Đảnh Lễ Đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác)
Buddham saranam gacchami.
(Con nguyện quy y Phật)
Dhammam saranam gacchami.
(Con nguyện quy y Pháp)
Sangham saranam gacchami.
(Con nguyện quy y Tăng)
Dutiyam pi Buddham saranam gacchami.
(Lần thứ hai con nguyện quy y Phật)
Dutiyam pi Dhammam saranam gacchami.
(Lần thứ hai con nguyện quy y Pháp)
Dutiyam pi Sangham saranam gacchami.
(Lần thứ hai con nguyện quy y Tăng)
Tatiyam pi Buddham saranam gacchami.
(Lần thứ ba con nguyện quy y Phật.)
Tatiyam pi Dhammam saranam gacchami.
(Lần thứ ba con nguyện quy y Pháp)
Tatiyam pi Sangham saranam gacchami.
(Lần thứ ba con nguyện quy y Tăng)
Sau đó, vị sư sẽ truyền năm giới cho các dân làng, một nghi thức truyền thống ở bất cứ cuộc họp Phật giáo nào. Vị sư tụng các câu kinh bằng tiếng Pali, và các cư sĩ lặp lại theo sư.
Sau những nghi lễ khởi đầu này, bài thuyết pháp sẽ được bắt đầu vào khoảng tám giờ tối. Đôi khi kéo dài cả đêm. Trẻ em ngủ thiếp đi trên sàn nhà bên cạnh cha mẹ chúng. Tuy nhiên, người lớn th́ phải thức. Để hỗ trợ họ, một vị trưởng lăo với cḥm râu bạc trắng, ngồi phía trước bục gỗ.
Mỗi lần vị sư dừng lại để nghỉ, th́ vị trưởng lăo sẽ xướng to lên:
- Vâng, thưa Đại Đức.
Đôi khi tôi thức giấc lúc nửa đêm, th́ thấy cả pḥng đều ngủ, trừ vị sư và ông lăo. Tôi thật sự ngạc nhiên rằng ai c̣n có thể thức vào giờ đó. Vào khoảng năm giờ sáng, những người đánh trống sẽ bắt đầu nổi trống lên, và các Phật tử bắt đầu chuyển động.
Lúc đó nhà sư đă ở phần cuối của bài thuyết Pháp, giải thích tại sao Đức Phật Di Lạc, vị Phật tương lai, sẽ xuất hiện khi giáo Pháp của Gotama, vị Phật hiện tại, không c̣n được truyền hành.
Khoảng sáu giờ, vị sư sẽ mở cửa màn, duỗi đôi chân đă xếp bằng trong một tư thế suốt đêm. Vài vị đệ tử mang một thau dầu dừa ấm đến bên sư. Họ xoa bóp dầu đó lên chân ông trong khoảng mười lăm phút. Rồi vị sư bước xuống khỏi bục gỗ, lui về pḥng để chuẩn bị dùng bữa điểm tâm.
Quán sát tất cả những nghi thức nầy từ lúc c̣n trẻ, tôi thật sự ấn tượng. Thái độ quư mến và trân trọng của giới cư sĩ đối với quư sư thật đáng ngưỡng mộ. Tôi bảo với cha mẹ rằng tôi muốn trở thành một tu sĩ: tôi muốn thuyết pháp và được công kênh đến ghế ngồi bởi các đệ tử tín tâm.
Không chỉ có thế, mà tôi c̣n sẽ giảng Pháp bằng tiếng Anh, tôi ba hoa. Người anh cả đă dạy tôi vần tiếng Anh, cũng như một vài từ tiếng Anh. Không có ai trong làng của chúng tôi biết chút tiếng Anh nào, dầu đó được coi là ngôn ngữ chính thức của Ceylon dưới thời cai trị của người Anh.
Dân làng chúng tôi được quyền sử dụng tiếng Sinhala, nhưng tiếng Anh th́ đúng là ngôn ngữ của giới thượng lưu, những người làm việc với chính phủ, người ở tầng lớp xă hội cao, hay người khá giả có tiền đi du lịch.
V́ thế, tôi đă nghĩ là tôi có thể học tiếng Anh, và tôi sẽ là một tu sĩ thật sự thông thái. Cha mẹ tôi lắng nghe những giấc mơ trẻ con của tôi và họ chỉ mỉm cười.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|