Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
  H́nh Ảnh Từ Thiện
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Thông Tin
  Thông Báo
  Báo Tin
  Liên Lạc Ban Điều Hành
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Nhờ Coi Quẻ
  Nhờ Coi Ngày
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Tử Vi
  Tử Bình
  Kinh Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Bói Bài
  Đoán Điềm Giải Mộng
  Khoa Học Huyền Bí
  Thái Ất - Độn Giáp
  Y Dược
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch và Phong Thủy 3
Kỹ Thuật
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
Thư Viện
  Tủ Sách
  Bài Viết Chọn Lọc
Linh Tinh
  Linh Tinh
  Giải Trí
  Vườn Thơ
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 186 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
chindonco (3250)
hiendde (2589)
HoaCai01 (2277)
vothienkhong (1807)
dinhvantan (934)
ryan88 (805)
Vovitu (713)
ruavang (691)
lancongtu (667)
TranNhatThanh (644)
Hội viên mới
redlee (0)
dautranhsinhton (0)
Chieu Tim1234 (1)
huyent.nguyen (0)
tamsuhocdao (0)
henytran2708 (0)
thuanhai_bgm (0)
Longthienson (0)
thuyenktc (0)
liemnhi (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Truyện tâm linh - hiendde Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 661 of 1146: Đă gửi: 11 September 2010 lúc 8:22pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM


Chương Hai


Cuộc Sống Không Nhà


Khi tôi lớn hơn, ư muốn được trở thành một người tu sĩ càng tăng lên. Trước khi xuất gia, tôi rất thích giả bộ tôi đă là một tu sĩ. Tôi sẽ quấn quanh ḿnh một miếng vải trắng, giống như các vị sư quấn y quanh ḿnh, rồi ngồi xuống một gốc cây trong rừng.

Tôi tưởng tượng rằng các cây chung quanh là người, rồi thuyết cho đám đông thính giả thầm lặng đó, hay đọc tụng lại một vài đoạn kinh bằng tiếng Pali mà tôi đă nghe ở chùa. Rồi tôi cũng ngồi xuống, giả vờ như ḿnh đang lắng sâu trong “thiền định”, dầu lúc đó tôi chẳng biết thiền là ǵ.
   
Từ thuở đó, tôi đă tin rằng nghiệp của tôi là phải trở thành người tu sĩ. Điều đó không có nghĩa là “số kiếp” của tôi phải là như thế, v́ trong Phật giáo không có những quan niệm như thế. Đúng hơn, đó là v́ tất cả các nhân đă tích lũy trong quá khứ, không biết là đă bao lâu rồi, khiến bây giờ tôi lại muốn trở thành một tu sĩ Phật giáo.

Có thể tôi đă là một tu sĩ trong một kiếp trước, không được thành công lắm, v́ rơ ràng tôi vẫn chưa đạt được giác ngộ trong kiếp này, nhưng cũng không hoàn toàn thất bại, v́ tôi đă có duyên lành được tái sinh làm người, được có thêm cơ hội để hoàn thiện công phu tu tập của ḿnh. Dầu không phải như thế, th́ sự thôi thúc được xuất gia, niềm khao khát sâu xa được mặc chiếc áo nhà tu cũng đă chớm nở trong tôi rất sớm.
   
Khoảng năm mười một tuổi, tôi đă không c̣n thích thú ǵ trong những tṛ quậy phá và đánh nhau của đám con trai, mà tôi và Rambanda thường ưa thích, và tôi cũng không c̣n hứng thú trong chuyện học. Tôi chỉ muốn được gia nhập vào tăng đoàn Phật giáo, theo truyền thống Á châu cổ xưa của hơn hai ngàn năm trăm năm trước.

Những câu chuyện của các thiếu niên vào thời Đức Phật c̣n tại thế, với những ước muốn trở thành người tu tương tự như tôi, làm tôi say mê. Một trong những câu chuyện như thế là về một cậu bé tên gọi là Culapanthaka.
   
Culapanthaka được sinh ra ở ven đường, khi mẹ cậu trên đường trở về quê ngoại. Ở Ấn Độ vào thời cổ xưa, người phụ nữ có thai, theo truyền thống, phải trở về nhà cha mẹ ruột để sinh con, và thường những nhọc nhằn trong cuộc hành tŕnh dẫn đến việc sinh con trên đường về.

Thái tử Siddhattha Gotama (gọi trong tiếng Phạn là Siddhartha Gautama), người mà sau này trở thành Đức Phật, được sanh trong một khu rừng nhỏ bên đường v́ mẹ của thái tử, hoàng hậu Mahamaya đang trên đường trở về nhà cha mẹ ruột.
   
Mẹ của Culapanthaka có hai người con trai, cả hai đều được sinh ra bằng cách đó, ở ven đường. Người đầu tiên bà đặt tên là Mahapanthaka “người lữ hành lớn”. Người thứ hai tên là Culapanthaka, có nghĩa là người “lữ hành tí hon.” V́ người mẹ rất nghèo, bà để hai con trai lại cho cha mẹ bà nuôi ở Rajagaha.

Mahapanthaka thường đi theo ông ngoại đến nghe Đức Phật thuyết pháp, và điều đó lôi cuốn ông dần dần trở thành một tăng sĩ. Vài năm sau, người em Culapanthaka cũng đi theo bước chân anh.
   
Mahapanthaka muốn dạy Pháp cho em ḿnh, nhưng thấy cậu bé là người quá kém thông minh. Culapantakha không thể nhớ đến một câu kinh đơn giản trong mấy tháng trời.

Mahapanthaka rất thất vọng và đă nghĩ rằng nếu em ḿnh không thể học Pháp, th́ không thể tiếp tục làm tăng sĩ.
   
- Em nên cởi bỏ y áo rồi về nhà đi. Ông bảo với em trai ḿnh.
   
Culapantakha rất buồn khổ. Ông rất thích cuộc sống tu hành và được làm đệ tử Đức Phật. Ông không biết phải làm ǵ, nhưng biết rằng ông không muốn phải hoàn tục.
   
Không lâu sau đó, Jivaka Komarabhacca, người thỉnh thoảng làm lương y cho Đức Phật, yêu cầu Mahapanthaka thỉnh Đức Phật và tăng đoàn ở tu viện đến dùng bữa trưa tại nhà ông. Mahapanthaka thay mặt tăng đoàn chấp nhận lời mời, rồi nói thêm:

- Đến ngày mai Culapanthaka sẽ không c̣n ở tu viện nữa. Tôi đă yêu cầu thầy ấy hoàn tục nhưng tôi sẽ đến cùng với Đức Phật và tăng đoàn.
   
Nghe giọng nói quyết liệt của anh ḿnh, Culapantakha đau buồn thảm thiết, với đôi mắt đẫm lệ, ông thu xếp vật dụng rồi rời tu viện. Nhưng khi ông vừa đi ra, Đức Phật thấy ông và hỏi tại sao ông buồn vậy, ông kể cho Phật nghe những ǵ đă xảy ra.

Đức Phật nói:

- Thầy không cần phải cởi bỏ y áo, từ bỏ đời sống tu sĩ chỉ v́ thầy không thể thuộc một câu kinh. Đây, tôi có thể chỉ cho thầy một việc mà thầy có thể hiểu một cách dễ dàng.

Đức Phật đưa cho ông một miếng vải trắng và nói:

- Hăy cầm mảnh vải này ra ngồi ngoài sân. Tay trái thầy cầm mảnh vải, lau lên bàn tay mặt, lặp đi lặp lại câu "Chùi sạch, chùi sạch, chùi sạch".

Culapantakha làm đúng như lời Phật dạy. Ông ngồi dưới nắng, cầm mảnh vải lau ṿng ṿng trên bàn tay mặt, lặp lại câu chú bất thường mà Đức Phật đă dạy cho ông, để thực hành chánh niệm.
   
Sau một lúc ông nh́n lại. Miếng vải trắng đă trở thành đen, lem luốc bởi mồ hôi trong tay ông. Mặc dầu đọc câu chú về làm sạch, nhưng ông đă làm dơ hết miếng vải!
   
Bỗng nhiên, Culapantakha chứng ngộ rằng tất cả đều vô thường. Tất cả những ǵ ông ưa thích, tất cả những ǵ ông đă nếm trải, đă chống đối, không có ǵ là ngoại lệ, tất cả đều vô thường như miếng vải trắng sạch đó.

Ngay lúc đó, Culapantakha đă trở nên giác ngộ, nhận thức rơ ràng được sự vô thường của vạn vật. Ông trở vào tu viện ngồi dưới một cội cây và dùng năng lực tâm linh huyền bí của một người đă hoàn toàn giác ngộ, tạo ra hàng trăm tăng sĩ giống hệt như ông.
   
Trong lúc đó, các vị tăng khác ở tu viện đă đi với Đức Phật đến nhà Jivaka. Đức Phật không thấy Culapantakha, do đó Ngài đă từ chối thọ thực.
   
- Bạch Đức Thế Tôn, có chuyện ǵ?

Jivaka lo lắng hỏi.

- C̣n thiếu ǵ nữa chăng?
   
Đức Phật hỏi:

- Ông có chắc rằng tất cả tăng đoàn đă đến chăng?
   
- Bạch Đức Thế Tôn, con chắc rằng tất cả đă đến.

Đại đức Mahapanthaka đă xác nhận điều đó.
   
- Dầu vậy.

Đức Phật từ tốn nói:

- Hăy cho người trở lại tu viện xem c̣n có tăng sĩ nào ở lại phía sau.
   
Jivaka sai người trở lại tu viện. Người đó nhanh chóng trở lại mặt xanh như người chết.
   
- Bạch Đức Thế Tôn cả tu viện đầy tăng sĩ!

Ông thưa:

- Người th́ đang hành thiền, người đang vá áo, người lau chùi, người gánh nước, người kinh hành, người đọc tụng kinh pháp.
   
Đức Phật bảo người kia trở lại tu viện t́m thầy Culapantakha. Ông ta làm theo. Và khi ông làm thế, th́ tất cả tu sĩ, hàng trăm người, trả lời, trong một giọng:

- Tôi là Culapantakha.

Người đàn ông kinh hoàng. Ông trở về nhà Jivaka, báo lại những ǵ ông đă chứng kiến. Sau đó Đức Phật dạy ông trở lại, nắm lấy áo một vị.

- Nếu ngươi làm thế.

Đức Phật nói:

- các tu sĩ khác sẽ biến mất.

Người đó đă y theo lời Phật dạy. Và ông đă đưa vị tên là Culapantakha về để thọ thực. Sau khi thọ thực, Đức Phật yêu cầu Culapantakha thuyết một bài Pháp. Người anh, Mahapanthaka và các vị tăng c̣n lại đều ngạc nhiên. Tại sao Đức Phật lại trân trọng một người yếu kém như thế, một vị tu sĩ tồi tệ đến nỗi không nhớ đến một câu kinh?
   
Nhưng Culapantakha đă thuyết một bài Pháp tuyệt diệu, dựa ngay trên sự chứng nghiệm của ḿnh về vô thường. Mọi người đều bàng hoàng trước sự hiểu biết sâu rộng của ông.
   
Theo câu chuyện nầy, trong tiền kiếp ông đă là một vị sư rất thông minh, nhưng đă chế ngạo một huynh đệ kém thông minh, đang cố gắng với nhiều khó khăn để học thuộc ḷng một đoạn kinh. Cho nên trong kiếp kế tiếp của Culapantakha, nghiệp của ông đă trổ quả:

Một mặt ông không thể học một câu kinh trong bốn tháng, mặt khác ông lại có thể đạt được giác ngộ và thần thông. Cả hai đều là kết quả của những nghiệp trước đó, tốt và xấu. Một câu chuyện với hai chủ đích: vừa sách tấn, vừa cảnh cáo!
   
Cũng giống như Culapantakha, tôi rất kiên quyết theo đuổi mục đích của ḿnh. Tôi van nài cha mẹ tôi để được đi tu măi, đến nỗi dần dần họ cũng coi điều yêu cầu của tôi là nghiêm chỉnh, chứ không phải là bốc đồng thoáng qua.

Tôi c̣n rất trẻ để có thể được xuất gia ngay, nhưng tôi có thể ở trong chùa và học tập làm chú tiểu. Nhiều cậu bé đă làm như thế, và nhiều người trong số họ đă trở thành tu sĩ khi họ lớn lên.
   
Gia đ́nh nào có một trong những người con trai của họ gia nhập tăng đoàn, th́ được coi là rất vinh dự. Khi một người xuất gia, tất cả họ hàng đều được công đức tâm linh. Ngay chính như người thanh niên đă lập gia đ́nh, khi anh ta quyết định xuất gia, bỏ vợ lại nhà cũng không bị khiển trách. Người vợ cũng được công đức bởi sự xuất gia của chồng.
    
V́ thế dầu ngần ngại, cuối cùng cha tôi cũng đồng ư để tôi thử sống ở chùa. Mẹ tôi khóc v́ bà không muốn tôi rời xa nhà, nhưng bà thấy không thể lay chuyển quyết định của tôi, ngay chính tử vi của tôi cũng đă tiên đoán như thế!

Và mẹ tôi chắc chắn không phải là người mẹ duy nhất ở Ceylon, phải đưa đứa con trai nhỏ nhất của ḿnh vào đời sống tôn giáo; v́ Phật giáo quá phổ biến trong nền văn hoá của chúng tôi, điều đó xảy ra luôn.
   
Cha tôi đi hỏi một vị chiêm tinh gia trong làng, để chọn một ngày may mắn cho tôi rời nhà. Thời đó, thuật chiêm tinh quyết định những biến cố quan trọng trong cuộc đời của chúng tôi.

Người ta xem sao để quyết định khi nào xuống giống, khi nào lập gia đ́nh, khi nào chôn người chết, khi nào cắt tóc cho đứa trẻ lần đầu tiên, khi nào bắt đầu một công việc quan trọng, kể cả khi đào móng xây nhà.
   
Mặc dầu sự tiên đoán của thuật chiêm tinh có vẻ trái nghịch với giáo lư Phật giáo, về nghiệp luật của nhân quả, niềm tin vào thuật chiêm tinh vẫn hiện hữu bên cạnh Phật giáo, và không ai nghĩ điều đó có vấn đề ǵ.
   
Vào ngày đă chọn, mẹ tôi nấu một ít cơm sữa cho tôi. Đó là một sự chiêu đăi đặc biệt. Khi đứa trẻ học đánh vần lần đầu tiên, bà mẹ nấu cơm sữa. Hay khi đứa trẻ lần đầu tiên đến trường, bà mẹ nấu cơm sữa. Để mừng sinh nhật hay năm mới, người ta cũng nấu cơm sữa. Hàng năm, vụ mùa đầu tiên thường được dùng để nấu cơm sữa dâng cúng cho các vị sư.
   
Và dĩ nhiên, đó chính là cơm sữa mà cô thôn nữ Sujata đă dâng cho thái tử Siddhattha Gotama gầy yếu, sau khi Ngài quyết định từ bỏ cách tu khổ hạnh. Ngài đă nhận sự cúng dường đó. Chén cơm sữa đă giúp Ngài hồi sức để có thể dũng mănh toạ thiền dưới gốc cây bồ đề và đạt được giác ngộ, rồi sau đó giảng dạy về con đường trung đạo.
   
Khi đang ăn chén cơm sữa mà mẹ đă nấu cho ngày rời xa nhà của tôi, tôi nh́n thấy những giọt nước mắt bắt đầu lăn trên mặt mẹ và các chị tôi. Rambanda cũng đang kiềm giữ những giọt nước mắt.
   
Khi thời điểm phải rời nhà đến gần, cha tôi xuất hiện, trong bộ xà rông và áo sơmi trắng tốt nhất của ông. Ông bảo tôi đă đến lúc phải đi. Tôi cũng mặc vào chiếc áo sơmi và cái xà rông trắng.
   
Lúc đó th́ anh tôi oà lên khóc, và bỗng nhiên tôi cảm thấy rất khó ra đi. Những t́nh cảm lẫn lộn làm tôi nghẹn ngào. Tôi rất hạnh phúc, v́ cuối cùng cũng được đến ở chùa, nhưng tôi cảm thấy rất buồn v́ phải xa gia đ́nh.

Với sự ra đi này, tôi coi như đă từ bỏ cuộc sống gia đ́nh, để theo một cuộc sống được gọi là "vô gia cư", cuộc sống của một vị tu sĩ Phật giáo. Cả gia đ́nh tụ ra trước nhà để tiễn tôi đi. Tôi quỳ gối trước mặt mẹ, và chạm trán xuống đất dưới chân bà. Bà vuốt đầu tôi bằng cả hai tay.
   
- Nguyện cầu Tam Bảo phù hộ cho con.

Bà thầm th́, giọng nói nghẹn ngào:

- Cầu chư thiên phù hộ con. Cầu cho con được sống lâu sức khoẻ. Cầu cho con khỏi mọi tai nàn.
   
Và rồi bà bắt đầu khóc. Tôi đứng dậy và mẹ tôi hôn lên trán tôi, ôm chặt lấy tôi. Cha tôi và tôi đi bộ hàng giờ trên con đường bụi bặm để đến ngôi chùa, nơi sẽ là mái nhà mới của tôi. Chúng tôi không có hẹn trước, cha tôi đă không báo với nhà chùa rằng tôi sẽ đến.

Các v́ sau đă báo rằng đó là một ngày tốt để tôi rời nhà, và đúng như thế. Gần cuối ngày, chúng tôi đến thành phố Kosinna, ở quận Rambukkana. Ngôi chùa nằm trong một đồn điền dừa ở cuối con đường đất. Khuôn viên chùa bao gồm một giảng đường, khu nội viện của các tăng và một chánh điện riêng biệt.

Ngoài sân có vài chiếc ghế và rất nhiều cây hoa, cũng như là các luống trầu cho ra những lá trầu mà các vị sư thường nhai v́ chất gây nghiện nhẹ của chúng.
   
Cha dẫn tôi đến trước vị sư trụ tŕ, là một người đàn ông nhỏ thó, khoảng sáu mươi tuổi. Sau này tôi được biết rằng ông đă lập gia đ́nh trước khi xuất gia, đă sống trong ngôi nhà ở cạnh vườn dừa, và có được một người con trai lớn.

Cha ở lại chùa với tôi khoảng hai tiếng đồng hồ; rồi ông về. Tôi rất mệt và chỉ muốn đi ngủ. Gia đ́nh và thời thơ ấu của tôi dường như đă xa thẳm.
   
Sáng hôm sau vị sư trưởng đưa cho tôi một quyển sách tiếng Pali căn bản, ngôn ngữ mà Đức Phật đă sử dụng và được dùng trong các kinh điển Phật giáo nguyên thủy. Sư bảo rằng tôi phải thuộc ḷng tất cả mọi thứ trong sách, để chuẩn bị cho sự xuất gia của tôi, và sư hoạch ra những bổn phận tôi phải làm.
   
Tôi và ba cậu bé khác ở chùa phải đi ṿng quanh đồn điền, để lượm những trái dừa rụng và đem chất chúng ở nhiều nơi. Chúng tôi cũng phải quét nhà, lượm củi để nấu ăn, kéo nước, rửa chén, và giặt đồ.

Căn bản chúng tôi là những người lao động không công, cũng một loại nô lệ. Những bổn phận thuộc về tôn giáo của chúng tôi bao gồm hái hoa để chưng trên bàn thờ trong chánh điện, và dự các buổi đọc kinh mỗi sáng chiều.
   
Các cậu bé khác th́ nấu ăn mỗi ngày. Công việc của tôi là đến nhà cũ của vị sư trưởng, để mang những thức ăn đặc biệt do người vợ trước của ông chuẩn bị. Chỉ có ông được quyền dùng các món nầy.
   
Ba cậu bé ở trong chùa tất cả đều lớn và to con hơn tôi. Những "cậu bé ở chùa" nầy không phải là các chú tiểu như tôi sẽ trở thành sau nầy, nhưng họ được có cơ hội lănh hội một nền giáo dục tôn giáo bằng cách sống ở chùa, và làm việc để bù cho tiền ăn ở của họ.

Một cậu phải coi sóc các luống trầu. Cậu nữa quản lư nhà bếp. Đứa thứ ba th́ trông chừng những con chó chạy rong trong khuôn viên chùa. Thường họ làm những việc mà một vị tu sĩ không được phép làm do giới luật, thí dụ như là nấu ăn hay đi chợ.
   
Đây sẽ là cuộc sống mới của tôi. Nhưng tôi chỉ sống ở chùa đó được khoảng ba tháng. Một ngày kia tôi đang ở trong nhà bếp rửa nồi. Hai đứa trẻ khác đứng gần đó căi nhau dữ dội. Một đứa chọi đứa kia cục đá nhưng lại trúng cườm tay tôi. Bàn tay tôi lập tức sưng lên và rất đau đớn.
   
Tôi viết cho cha một lá thư và kể cho ông nghe câu chuyện. Vài ngày sau đó, cha đến để dẫn tôi về. Ông nói:

- Tôi không muốn con trai tôi ở bất cứ chùa nào mà có những người bạo lực.

Ông cho rằng cha có thể đánh con, điều đó hợp lư, nhưng không nghĩ rằng những hành động như thế lại có chỗ ở trong chùa. Tôi trở về nhà với cha. Mẹ và các chị tôi rất vui mừng được gặp lại tôi, và thật tuyệt vời được trở về với Rambanda. Tất cả chúng tôi lại tiếp tục sống như trước kia.
   
Phần lớn thời gian của tôi là chạy qua chạy lại giữa nhà cha mẹ, và nhà nơi người chị cả của tôi sống với chồng chị và đứa con gái. Họ nói với tôi rằng họ rất thích có một đứa con trai trong nhà, thế th́ tại sao tôi không đến sống với họ?
   
Điều đó thật hấp dẫn. Tôi thương cả hai rất nhiều, và cháu gái tôi cũng giống như là em tôi. Hoàn cảnh của tôi, lúc đó có vẻ rất bấp bênh. Tôi đă gần mười hai tuổi và đă nghỉ học bốn tháng rồi. Nhưng ước muốn được trở thành một tu sĩ vẫn c̣n cháy bỏng trong tôi. Tôi rất nhớ những ngày được mặc áo tu. V́ thế tôi xin cha t́m một ngôi chùa nào khác chấp nhận tôi.

Vài tháng sau, vào tháng giêng năm 1939, anh rể tôi nói với cha rằng anh có nghe về một ngôi chùa khác, ở làng Malandeniya, đang t́m một cậu bé để cho xuất gia. Chùa đó được gọi là Sri Vijayarama, có nghĩa là "sung túc và thắng lợi". Cha và anh rể nghĩ rằng Malandeniya cách nhà tôi khoảng chín kilômét, nhưng họ cũng không chắc chắn v́ chưa có ai trong chúng tôi đă từng đến đó.

Lần thứ hai tôi rời nhà cũng giống như lần đầu tiên: cũng cơm sữa của mẹ; xà rông trắng tinh; nước mắt và cảm giác vừa phấn khởi vừa đau buồn của tôi. Tôi cảm thấy hạnh phúc khi nghĩ đến tương lai được làm một tu sĩ.

Đồng thời nhớ lại những kinh nghiệm của tôi ở ngôi chùa trước, ḷng tôi đầy âu lo khi phải đến sống ở một nơi xa lạ, với những người xa lạ. Lần nầy, cả cha và anh rể đều cùng đi với tôi trong chuyến đi nầy. Khi chúng tôi ra đi, mẹ bảo với anh rể tôi rằng:

- Hăy chăm sóc con trai mẹ. V́ con sống gần chùa đó, hăy báo cho mẹ biết tin tức của nó.

Rồi chúng tôi cất bước, khi mẹ đứng bên cửa nhà. Tôi cứ ngoái đầu lại để nh́n bà, và mỗi lần như thế, bà vẫn c̣n đứng đó, xa dần xa dần, cho đến khi tôi không c̣n nh́n thấy mẹ nữa, và c̣n lâu hơn nữa những giọt nước mắt trên má tôi mới khô đi.
   
Không có con đường nào từ làng tôi dẫn đến Malandeniya. Chúng tôi phải đi dọc theo những lối đi băng qua ruộng lúa, qua các ḍng suối nhỏ và các đồn điền cao su. Thỉnh thoảng, chúng tôi đi qua những ngôi làng nhỏ khác. Mỗi lần như thế, chúng tôi lại hỏi đường đến Malandeniya, người ta lại bảo chúng tôi đi xa thêm chút nữa.
   
Cuối cùng th́ chúng tôi cũng đến được một ngôi chùa có dây thép gai rào quanh. Sau này chúng tôi biết rằng người ta làm vậy để không cho trâu ḅ trong xóm vào chùa, ăn những cây dừa non trên mặt đất. Ở cổng, có một hàng rào tre, che dây thép gai để chúng không làm vướng xà rông khi người ta bước qua đó.
   
Khi chúng tôi bước vào, một đàn chó ùa ra sủa như để chào đón chúng tôi, sau đó là một vài cậu bé, và cuối cùng là vị trụ tŕ, một người có tầm cao trung b́nh, với đôi mắt sáng và một chiếc mũi dài. Ông cười, để lộ hàm răng bợn đen v́ trầu cau.
   
Cha, anh rể và tôi lập tức quỳ xuống dưới đất và lễ bái ba lần. Nhà sư ra dấu cho chúng tôi đi vào bên trong chùa và chỉ chiếc chiếu trên sàn nhà nơi chúng tôi có thể ngồi xuống.
   
Danh xưng của Sư là Kiribatkumbure Sonuttara Mahathera. Mahathera, "trưởng lăo", hàm ư rằng Sư đă là một vị tỳ kheo ít nhất ba mươi tám năm. Giờ Sư đă gần sáu mươi tuổi và có vẻ rất thân thiện; nụ cười thường ở trên môi.
   
Cha giới thiệu về tôi và thưa với Sư rằng tôi muốn đến sống ở chùa và xuất gia. Nhà sư nh́n tôi từ đầu đến chân, rồi gật đầu. Thật đơn giản. Tôi đă được chấp nhận.
   
Cha và anh rể tôi nán lại khoảng một tiếng đồng hồ tiếp chuyện với Sư rồi cáo từ. Ngay khi họ vừa đi khỏi, tôi cảm thấy một làn sóng cô đơn phủ trùm lấy tôi. Tôi muốn chạy theo họ và bảo rằng tôi đă thay đổi ư định, rằng tôi muốn về nhà.
   
Tôi bắt đầu khóc, và không thể dừng lại sau hàng giờ. Sư Sonuttara an ủi tôi, bảo rằng ở chùa, tôi sẽ có được một mái ấm, tôi sẽ được học Pháp từ các vị thầy uyên thâm. Rồi Sư đưa cho tôi một manh chiếu cũ và một cái gối dơ để trải trên nền nhà cứng làm giường.
   
Chánh điện gồm có một sàn gỗ dựng trên bốn cây cột cao khoảng hơn một thước. Giữa sàn là một tượng Phật bằng đất sét cũ kỹ và xấu xí. Tôi nhớ tượng Phật đó có đôi mắt nh́n dữ tợn, ghê khiếp, không giống chút nào với những tượng thanh thoát thường thấy ở hầu hết các chùa.

Rơ ràng là người nặn tượng chưa từng học qua về những phẩm chất của Đức Phật, mà họ phải biểu hiện trong các bức tượng của Ngài. Ở một bên tượng Phật dữ tợn đó là h́nh của vị thần da xanh Vishnu, một trong những vị thần lớn của Ấn Độ giáo.

Ở bên kia là h́nh của Humiyam Devata, một vị hung thần mà cho đến ngày nay vẫn c̣n một số người Sinhala tôn thờ. Người ta cầu nguyện vị thần này để nhờ uy lực của thần chống lại kẻ thù của họ. Vishnu và Huniyam có mặt trên bàn thờ của một ngôi chùa Phật giáo, là một sự chọn lựa lạ lùng, nh́n chung ba h́nh ảnh nầy thật đối chọi nhau.
   
Trong một gian nhà khác, cách chánh điện khoảng sáu thước, có ba pḥng, tất cả đều dơ bẩn, u ám: đó là chỗ ngủ của sư trưởng, một pḥng khách dành cho các sư văng lai, và một căn pḥng chứa đồ. Bên ngoài có một hành lang, nhỏ dẫn đến nhà bếp.

Có một khoảng diện tích hẹp là góc ăn uống, cũng rất dơ bẩn, và một bếp ḷ bằng gỗ với ba ḥn gạch để lên trên, nơi người ta có thể đặt những chiếc nồi lên đó nấu. Phía sau nhà bếp là căn nhà vệ sinh, chỉ dành riêng cho sư trưởng sử dụng.

Mấy đứa trẻ chúng tôi được bảo phải giải tỏa ngoài đồng trống, phía sau khuôn viên chùa. Và khi nào chúng tôi làm việc đó, là mấy con heo hàng xóm sẽ đến và ủi sạch cho chúng tôi. Cũng giống như ở ngôi chùa đầu tiên, tôi cũng có rất nhiều bổn phận phải làm.

Tôi phải bửa củi nấu ăn, gánh nước từ giếng lên, quét sân, hái hoa chưng bàn Phật, nấu ăn, rửa chén, và cho hơn cả chục chó mèo chạy rông trong chùa ăn. Bên cạnh những công việc nầy tôi c̣n phải học thuộc ḷng những bài kinh tiếng Phạn từ các sách gọi là Sataka, nghĩa đen là “một trăm” nhưng thường ám chỉ “một trăm câu thơ tán thán Đức Phật”.

Khi thuộc ḷng hết một quyển sách, chúng tôi sang qua quyển khác. Một trong những quyển sách Sataka giải thích về một trăm lẻ tám danh hiệu của Đức Phật, quyển khác lại giới thiệu về chín phẩm chất đáng ngưỡng mộ của Đức Phật...
   
Mục đích của việc bắt mấy đứa trẻ chúng tôi học thuộc những bài kinh nầy là v́ ba việc: để dạy chúng tôi phát âm tiếng Phạn đúng; để giới thiệu với chúng tôi về những phẩm chất của Đức Phật; và quan trọng hơn cả, theo tôi, là để phát khởi sự tín tâm, thành ư trong những đầu óc non trẻ của chúng tôi.
   
Mỗi chiều, khi chúng tôi phải trả bài học thuộc ḷng trong ngày, Sư Sonuttara sẽ vặn nhỏ ngọn đèn dầu xuống, để chúng tôi không thể ăn gian bằng cách đọc từ trong sách ra. Nếu tôi sai hay không thuộc đủ các bài kinh, Sư sẽ nổi giận và đánh tôi. Những cái đánh của Sư th́ giống như "dụng cụ hỗ trợ học tập" không hoàn toàn giống như sự bạo lực, đă khiến tôi phải rời ngôi chùa đầu tiên.
   
Tuy nhiên, thường th́ tôi học khá thuộc bài. Tôi có vẻ là người học mau hiểu biết và thầy tôi rất vừa ḷng. Trong ba tháng, Sư đă tuyên bố rằng tôi tiến bộ nhiều, và đă sẵn sàng để được làm lễ thọ giới Sadi.
   
Sư Sonuttara cũng xem lịch để chọn một ngày giờ tốt cho buổi lễ. Rồi ông gửi lời mời cha mẹ tôi và khoảng hai mươi tăng sĩ từ các chùa khác trong vùng. Vị sư trưởng lăo nhất trong vùng, Sư Alagoda Sumanatissa Nayaka Mahathera, sẽ đứng ra chủ lễ và truyền giới cho tôi.

Ngày hôm trước buổi lễ, cả chùa bận rộn với các sinh hoạt khi các vị khách lần lượt đến, và dân làng ở Malandeniya chuẩn bị thức ăn cho các khách tăng.
   
Rất nhiều bà con của tôi cũng đến trong ngày trọng đại đó, kể cả cha, anh rể, và Rambanda, người anh trai thân thiết của tôi. Mẹ tôi không thể đi xa như thế v́ đau lưng. Bà rất đau khổ v́ không thể có mặt ở đây, cha đă nói với tôi như thế và tôi cũng rất buồn.
   
Vào lúc mười giờ sáng, tất cả mọi người đều tụ lại trước hiên của khu nội viện tăng. Thông thường lễ xuất gia sẽ được tổ chức trong chánh điện, nhưng v́ có quá nhiều khách dự, thầy tôi quyết định làm lễ ở một nơi rộng răi hơn.
   
Tôi mặc áo chemise và xà rông trắng. Cha cùng với tôi tiến đến chỗ quư sư đang ngồi trên sàn nhà, cạnh bên một bàn thờ vừa được dựng lên, đối mặt với đám đông.
   
Tôi quỳ xuống trước vị lăo sư, Sumanatissa, và đảnh lễ Sư ba lần. Sư bảo tôi xin phép cha để được bước vào cuộc sống không nhà của người tu. V́ thế tôi quỳ xuống trước mặt cha và lập lại nghi lễ vái lạy ba lần, mỗi lần đều để trán chạm xuống nền nhà ngay chỗ chân cha, để bày tỏ ḷng kính trọng. Tôi vẫn c̣n nhớ gương mặt nghiêm trang của cha khi nh́n xuống tôi.
   
Khi tôi quay trở lại phía các sư, Sư Sumanatissa lấy kéo cắt một vài lọn tóc của tôi, và dạy tôi lặp lại theo Sư:

- Tóc trên đầu, lông trên thân, móng tay chân, răng, da. Các bộ phận thân thể là những đối tượng thiền quán đầu tiên của tôi.

Đây là lời chỉ giáo truyền thống dành cho tất cả những ai vừa xuất gia, phản ảnh lănh vực đầu tiên trong Tứ niệm xứ của Đức Phật, đó là thân vật chất. Trong kinh Mahasatipatthana, bài kinh về Tứ Niệm Xứ, một trong những bài kinh chánh yếu của Đức Phật, đă chỉ bày cho chúng ta bốn lănh vực mà ta cần chú tâm thẳng đến: thân, thọ, tâm và đối tượng của tâm.
   
Nếu thật sự quán sát bốn lănh vực nầy với sự chú tâm hoàn toàn, không xao lăng và rơ ràng, chúng ta bắt đầu thấy rằng chúng luôn biến đổi với thời gian. Chúng chuyển biến, thay đổi từ phút này qua phút khác, khiến ta không thể bám vào khoảnh khắc của chúng.

Quán tưởng về bốn đối tượng không ngừng chuyển đổi nầy, ta sẽ thấy sự vô thường của vạn vật, thể hiện trong chính sự hiện hữu của chúng ta. Hơn thế nữa, chúng ta sẽ thấy rằng, không có sự khác biệt giữa chúng ta và tha nhân.

Mỗi người và tất cả chúng ta, là một tổng thể của thân, thọ, tâm và pháp. Hiểu được như thế, chúng ta sẽ trở nên đồng cảm với người khác. Ḷng ganh tỵ và chia rẽ sẽ tan dần, và được thay thế bằng ḷng bi mẫn và tâm từ bi.
   
Nhưng đó không phải là điều dành cho một đứa trẻ mười hai tuổi, đang trong buổi lễ xuất gia của ḿnh, tất cả những điều đó, vẫn c̣n là một mục đích xa vời, trong ngày mà chú sadi nhận chủ đề thiền quán đầu tiên của ḿnh.

Các vị trưởng lăo cũng có thể hướng dẫn cho các chú sadi đến bất cứ lănh vực nào của tứ niệm xứ, nhưng họ luôn chọn thân, v́ lănh vực đó rất dễ, ngay chính người sơ cơ cũng có thể cảm nhận.

Thân th́, có thể nói là ở ngay đây, với tất cả những ham muốn, đau khổ, kiêu mạn phát khởi ngay nơi thân. Nhưng khi quỳ gối trước thầy tôi, tôi hoàn toàn mù mịt về những ǵ tôi sẽ tu tập sau nầy, về niệm xứ đầu tiên nầy.
   
Vị lăo sư bỏ mấy lọn tóc vào ḷng bàn tay tôi. Đó là dấu hiệu để một vị tăng trẻ bước đến, dẫn tôi ra ngoài để cạo hết phần tóc c̣n lại trên đầu tôi. Nghi lễ cạo tóc, biểu tượng của một người tu sĩ từ bỏ những bám víu vật chất thế gian, lúc nào cũng được diễn ra ở nơi kín đáo, tránh xa sự chứng kiến của các cư sĩ.

Khi đầu tôi đă được cạo sạch trơn, tôi đi tắm ở giếng chùa, sau nhà bếp. Sau đó tôi mặc lại bộ quần áo trắng. Khi quay lại pḥng họp, tôi đội trên đầu một bọc vải đă được xếp lại, đó là y của tôi.

Tôi quỳ trước thầy tôi. Tụng bằng tiếng Pali, tôi thỉnh cầu Sư chấp nhận bộ y mà tôi có, và truyền giới cho tôi làm sadi, để tôi có thể chấm dứt mọi khổ đau và đạt được Niết Bàn.
   
Tôi lạy ba lạy nữa. Rồi Sư Sumanatissa làm lễ quy y tam bảo và truyền mười giới là những đạo đức căn bản trong cuộc sống mới của tôi. Sư đọc tụng bằng tiếng Pali và tôi lập lại theo Sư:

Con nguyện quy y Phật.
   
Con nguyện quy y Pháp.
   
Con nguyện quy y Tăng.
   
(Được tụng ba lần)

Con xin giữ giới không sát hại.
   
Con xin giữ giới không trộm cắp.
   
Con xin giữ giới không tà dâm.
   
Con xin giữ giới không nói dối.
   
Con xin giữ giới không uống rượu và các chất gây nghiện.
   C
on xin giữ giới không ăn sái giờ.
   
Con xin giữ giới tránh xa sự múa hát, chơi các nhạc cụ, xem múa hát.
   
Con xin giữ giới không đeo tràng hoa, thoa nước thơm, trang điểm, làm đẹp thân thể.
   
Con xin giữ giới tránh xa chỗ nằm ngồi quá cao sang và đẹp đẽ.
   
Con xin giữ giới không nhận vàng bạc.
   
Sau khi đọc tụng những lời này, tôi thỉnh cầu thầy tôi hăy chia sẻ công đức mà tôi đă có được do xuất gia:

- Bạch Sư, xin hăy hoan hỷ chấp nhận mọi công đức mà con đă có được, và cho phép con được chia sẻ những công đức của Sư.
   
Rồi tôi đảnh lễ Sư ba lần, cũng như đảnh lễ tất cả các vị tăng sĩ khác. Cuối cùng, Sư Sumanatissa ban cho tôi danh hiệu mới: Gunaratana, “Báu vật của Giới hạnh.” Giờ th́ tôi đă là một Sadi.
   
Tôi được cho một cái gối nhỏ và được ngồi giữa các tăng sĩ khác, dầu không được quá gần! Tôi ngồi xuống và một nhóm nhỏ các cư sĩ bước đến, mỗi người vái chào và đặt một món quà nhỏ trước mặt tôi. Có khăn lông, xà pḥng, một cây dù, những đồ vật thật hữu dụng cho tôi trong cuộc đời mới, đơn giản này.
   
Ngày lễ được kết thúc với một bữa ăn thịnh soạn. Tôi cùng dùng bữa với các vị sư khác, ngồi trên sàn nhà. Thực phẩm do các cư sĩ cúng dường ở chùa chỉ dành cho các tu sĩ, v́ thế trước đó tôi chưa bao giờ được phép nếm qua. Thiệt là ngon.
   
Ngày hôm đó thực sự là một cao điểm trong cuộc đời tôi. Tất cả mọi thứ đều tuyệt vời, chỉ trừ một việc: người mẹ thương yêu của tôi vắng mặt. Tôi nhớ mẹ rất nhiều. Hai tuần sau đó tôi được về thăm mẹ. Bà quá đỗi vui mừng được gặp lại đứa con trai út của ḿnh, giờ với chiếc đầu cạo bóng, ḿnh mặc bộ y màu vàng của một vị tu sĩ xuất gia.
   
Bà trải một cái khăn sạch dưới chân tôi và đau đớn quỳ xuống để vái chào tôi. Cả ba lần, trán bà đều chạm xuống khăn. Ngược lại với ngày tôi rời nhà ra đi, khi ấy tôi đă lạy chào mẹ. Giờ mẹ lại bày tỏ ḷng kính trọng đối với tôi. Thật là một giây phút xúc động mănh liệt cho cả hai chúng tôi.
   
- Chú tiểu đáng yêu của mẹ.

Mẹ nói, mắt rướm lệ:

- Con không bao giờ được hoàn tục. Cuộc đời tu sĩ là tốt nhất cho con. Đó là một cuộc sống giải thoát. Đừng bao giờ nghĩ đến việc bỏ tu.
   
Kể từ ngày hôm đó, mỗi lần tôi về thăm nhà, mẹ tôi đều lặp lại nghi lễ và lời căn dặn đó, lúc nào cũng nói:

- Con trai, đừng bao giờ bỏ tu.

Sau lễ xuất gia, cuộc sống ở chùa lư ra phải thay đổi, vậy mà không phải thế. Vẫn c̣n những bài kinh phải học, các công việc phải làm, những h́nh phạt phải hứng chịu. Tuy nhiên các bữa ăn th́ khác. Giờ, theo giới luật, tôi không được ăn sau giờ ngọ.

Căn bản là chúng tôi có một bữa ăn chính trong ngày. Bữa ăn có được bằng việc đi khất thực quanh làng. Là người vừa mới xuất gia, đó là nhiệm vụ của tôi. Mỗi ngày, sau khi xong việc buổi sáng, tôi rời chùa khoảng chín giờ ba mươi sáng. Một b́nh bằng đồng to, khoảng cỡ một nồi xúp, được máng vào một miếng vải to bản, treo quanh cổ tôi, miệng b́nh được đậy lại bằng vải cotton.
   
Bổn phận của tôi là thọ nhận thức ăn cho cả hai, sư trưởng và tôi, từ mỗi nhà trong sáu mươi hay khoảng đó nhà trong làng. Dân làng đứng trước cửa nhà họ, với những tô cơm hay rau hay bánh ngọt trong tay. Khi tôi chậm răi bước qua, trong im lặng và tránh giao tiếp bằng mắt, họ sẽ đặt một muỗng đầy thực phẩm cúng dường của họ vào b́nh bát của tôi.
   
Ngày nay, việc khất thực vẫn c̣n được thực hành ở các làng khắp Á châu. Thật là một cảnh tượng đẹp đẽ, một hàng dài các tu sĩ đi trong im lặng, chân trần và dừng lại trước nhà của các cư sĩ. Dân làng thành kính chấp tay vái chào khi đặt thức ăn vào b́nh bát. Không một lời trao đổi.
   
Sự thực hành này là một truyền thống lâu đời được áp dụng, để tạo ra sự liên hệ tương quan giữa người tu và cư sĩ. Các tu sĩ, những người v́ giữ giới không nấu ăn, tiếp nhận sự nuôi dưỡng từ các cư sĩ. Người cư sĩ, bằng cách cúng dường thực phẩm cho người tu, được công đức tâm linh và hỗ trợ sự tiếp nối con đường của Đức Phật.
   
Nhưng đối với tôi, việc đi khất thực bao giờ cũng đầy căng thẳng. Tôi phải đến tất cả sáu mươi nhà và trở về chùa đúng mười một giờ sáng. Nếu tôi chỉ trễ năm phút, thầy tôi cũng nhất quyết không ăn. Giới luật đặt ra cho người tu là phải xong bữa trước ngọ, và thầy tôi không muốn phải ăn một cách hối hả.

V́ thế tôi phải nhanh chân đi qua làng, không dám thiếu sót nhà nào, v́ như thế sẽ khiến cho người ở nhà đó không được có công đức cúng dường thực phẩm, rồi họ sẽ than phiền với thầy tôi và tôi sẽ bị quở phạt.
   
Trong làng có rất nhiều chó, chúng cũng đói. Khi nh́n thấy một đứa trẻ mang b́nh bát đầy thức ăn nóng sốt, thơm lừng, chúng trở nên rất hung tợn. Tôi cố gắng xua đuổi chúng bằng cây dù tôi mang theo để bảo vệ tôi khỏi ánh nắng mặt trời thiêu đốt. Nhưng tôi khó mà thành công.
   
Đôi khi tôi cố gắng chạy trốn lũ chó, nhưng với chiếc b́nh bát nặng treo quanh cổ, điều đó không dễ dàng. Không thể tránh được tôi bị vấp ngă, đổ thức ăn ra đất. Lũ chó sẽ rượt theo tôi, gầm gừ cắn táp. Nhiều khi tôi trở về chùa với đôi chân chảy máu và một b́nh bát chỉ c̣n một nửa đồ ăn.
   
Vài người dân làng h́nh như cảm thấy tội nghiệp cho tôi. Bất cứ khi nào có một con chó nào đó cắn tôi, vài ngày sau họ sẽ đến chùa và tuyên bố rằng con chó đó đă chết. Kết cục như thế không phải là điều tôi muốn xảy ra chút nào, nhưng dù sao nó cũng đă xảy ra.
   
Mỗi ngày sau bữa ăn, tôi phụ hai cậu bé ở chùa dọn dẹp nhà bếp, rồi tôi phải đi bộ gần ba cây số để đến một ngôi chùa ở làng kế bên, nơi vị trụ tŕ ở đó sẽ dạy tiếng Pali cho tôi. Tôi có thể học thuộc kinh một cách dễ dàng, v́ thế vị thầy này rất thích tôi.

Rồi sau buổi học, tôi lại nhanh chóng trở về chùa của tôi, để làm các công việc trong chùa và công phu chiều, một nghi lễ tán tụng các phẩm chất của Phật, Pháp, và Tăng. Sau buổi lễ, chúng tôi dùng trà và tôi phải học tiếp nữa. Thường chúng tôi đi ngủ lúc chín giờ ba mươi tối. Chuông đánh thức sẽ nổi lên lúc bốn giờ sáng hôm sau.
   
Giống như cha tôi, Sư Sonuttara rất nóng tính. Sư dùng ngôn ngữ không tế nhị để chửi rủa tôi và mấy cậu bé trong chùa. Nếu chúng tôi phạm bất cứ điều luật ǵ, hay xao lăng công việc hàng ngày, dù chỉ chút ít, Sư cũng không ngần ngại ǵ để đánh chúng tôi với bất cứ thứ ǵ trong tầm tay: đá, roi, gạch, chổi, hay ngay cả dao.
   
V́ thế tôi hết sức cố gắng để tuân theo các luật lệ. Ngay khi vừa thức dậy lúc bốn giờ mỗi sáng, tôi bắt đầu chuẩn bị điểm tâm và đun nước. Đến năm giờ, thầy tôi cần nước để rửa mặt. Sau đó tôi phải đi hái hoa tươi và chưng trên bàn thờ, chuẩn bị cho công phu buổi sáng lúc năm giờ rưỡi.
   
Điểm tâm sẽ phải sẵn sàng đúng sáu giờ. Sư Sonuttara muốn mấy cái đĩa cho chó ăn phải để cạnh bên chỗ sư ngồi, để chính tay sư có thể cho chúng ăn. Chúng tôi không được ăn cho đến khi sư đă dùng xong, rồi chúng tôi phải ngốn vội thức ăn để có thể nhanh chóng bắt tay vào các nhiệm vụ khác.

Sau khi đă thọ giới làm sadi, tôi được phép ngồi cạnh sư để ăn, nhưng sư ngồi trên ghế với đĩa thức ăn trên bàn. Tôi ở gần bên, ngồi trên sàn nhà, với đĩa đồ ăn để trên một chiếc ghế đẩu thấp trước mặt tôi.
   
Khi tôi đi khất thực về lúc mười một giờ, chúng tôi lại trải qua một nghi lễ tương tự để phục vụ buổi trưa, rồi ngốn vội bữa ăn của chính ḿnh. Một giờ trưa là lúc thầy chúng tôi phải có trà trên một chiếc bàn đặc biệt. Sau đó tôi đi qua chùa kia để học tiếng Pali, và không được về trễ hơn ba giờ chiều.
   
Vườn cây và hoa phải được tưới xong lúc năm giờ rưỡi, sau đó tôi có th́ giờ để vội vă đi tắm, trước thời khóa tụng kinh buổi chiều lúc sáu giờ. Sáu giờ rưỡi, tôi châm trà cho Sư. Bảy giờ tôi trả bài thuộc ḷng cho sư. Sau đó, tôi chuẩn bị trầu cau cho sư ăn lúc bảy giờ rưỡi. Rồi là dọn dẹp lần cuối trước khi đi ngủ.
   
Vào ngày rằm và mùng một, chúng tôi rất thích được khỏi làm những công việc hàng ngày nầy. Thay v́ là các lao động chân tay, chúng tôi trở thành chủ đối với những người dân làng đến để ở lại chùa vào ngày đặc biệt đó. Phần đông họ là những người già cả, không biết đọc hay viết. Ở hầu hết các chùa, quư sư sẽ đọc các câu chuyện Jataka và giải thích về ư nghĩa quan trọng của chúng cho các cư sĩ nghe.
   
Jataka là những câu chuyện về tiền thân của Đức Phật. Cả bộ sách có khoảng 550 câu chuyện. Mỗi câu chuyện biểu hiện lại cho ta thấy Đức Phật trong những kiếp sống trước đă có các phẩm chất cao thượng như thế nào: rộng lượng, đạo đức, xả ly, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, kiên quyết, từ bi, và hỷ xả.

Đôi khi trong các câu chuyện nầy, Đức Phật có thể ở trong kiếp thú; nhưng Ngài luôn là một vị Bồ Tát, hay người ở trong giai đoạn chuẩn bị thành Phật.
   
V́ đă học đến lớp bốn, tôi trở thành như là một người hùng đối với những người dân làng thất học đến chùa. Họ thích lắng nghe tôi đọc các câu chuyện bằng cái giọng mới lớn, như con gái.
   
Một ngày kia, tôi nhớ đang kể một câu chuyện từ tiền thân của Đức Phật. Tôi nói rằng sau khi rời cung điện của vua cha và cắt tóc, hoàng tử Siddhattha trở thành một nhà tu khổ hạnh. Ngài quấn y vàng quanh người và khất thực trong b́nh bát.
   
Một trong những người dân làng đang lắng nghe, một ông lăo giống như ông nội tôi, nói:

- Nầy chú tiểu, tôi nghĩ chú sai rồi. Y vàng và b́nh bát chưa có mặt trên thế gian này cho đến khi thái tử Siddhattha trở thành Phật và bắt đầu thiết lập Tăng đoàn.
   
Tôi trả lời ông:

- Thưa ông, cái b́nh bát trong tiếng Phạn là patra, có nghĩa là bất cứ một đồ chứa ǵ có nắp ở trên. Chắc chắn rằng những vật dụng như thế, đă được sử dụng trước khi Đức Phật có mặt.

Những người ăn xin thường sử dụng chúng. Và tiếng Phạn cho y vàng là kashaya vastra, để chỉ bất cứ mảnh vải vàng nào. Vậy tại sao thái tử Sidhattha không thể quấn y áo màu vàng?
   
Theo tôi nhớ, câu trả lời của tôi đă làm ông lăo rất vừa ḷng. Nhưng không phải mọi thứ ở chùa đều trôi chảy như thế. Một ngày kia mấy cậu bé trong chùa, chúng đều lớn hơn tôi, mời tôi hút thuốc với chúng. Tôi hút, và thế là một thói quen nghiện hút đă thành h́nh.

Chúng tôi không có tiền để mua thuốc lá, v́ thế chúng tôi đă lấy cắp thuốc lá từ pḥng của sư trưởng, nơi sư cất để khi nhai trầu, sư trộn với trầu cau. Chúng tôi cuộn thuốc lá trong những mảnh giấy báo và bí mật hút.

Thỉnh thoảng sư bắt gặp chúng tôi hút thuốc và đánh chúng tôi v́ tội đó. Nhưng điều đó cũng không làm chúng tôi suy chuyển; chúng tôi chỉ trở nên cẩn thận hơn để không bị bắt gặp.
   
Một ngày kia sau khi khất thực trở về, tôi đốt một điếu thuốc ve tṛn nhỏ trong nhà bếp và bắt đầu hút. Thầy tôi xuất hiện, đang bưng một cái thau trên đường ra giếng tắm. Sư dừng lại, nh́n thẳng vào tôi, tôi đă bị bắt quả tang.

- Sư sẽ không đánh con lần này. Ông nói:

- Nhưng nếu Sư bắt gặp con hút lần nữa th́ sư sẽ phải làm ǵ với con? Con nói cho sư nghe đi.
   
Tôi nghẹn lời. Sự giận dữ của thầy tôi rất đáng sợ. Tôi biết là chỉ có một câu trả lời cho câu hỏi đó.
   
- Nếu Sư thấy con hút thuốc lần nữa, Sư đánh con bao nhiêu cũng được. Tôi trả lời.
   
Nhưng tôi không bỏ thuốc được; tôi đă bị ghiện mất rồi. Vài tuần sau tôi lại bị sư bắt gặp. Sư Sonuttara đánh tôi bằng tay không. Sau đó, sư khoá thuốc lại để chúng tôi không thể lấy cắp.

Lần nữa, chúng tôi cũng không nản ḷng mà chỉ trở nên mưu chước hơn: chúng tôi bán dừa, khăn lông, khăn tay, và gạo, bất cứ thứ ǵ đến tay chúng tôi, thường là vật thực của cư sĩ cúng dường, để mua thuốc lá.
   
Khi gần đến tuổi dậy th́, tôi cảm thấy rất muốn được độc lập. Tôi không c̣n quá sợ những cơn giận không đoán trước được của Sư Sonuttara. Những h́nh phạt quá khắt khe của Sư dường như bất công và tàn nhẫn quá nên tôi bắt đầu oán hận sư.
   
Tôi cũng bắt đầu cảm thấy tôi không được học hành đầy đủ. Tôi đă mười ba tuổi mà chỉ mới học xong lớp bốn, một thành đạt trong những ngày đó, nhưng đối với tôi vẫn chưa đủ. Cả thầy tôi lẫn vị sư ở chùa làng bên, người dạy tôi tiếng Pali, đều không được học hành đàng hoàng. Tôi muốn học thêm nữa, một ước muốn theo tôi suốt đời.

Tôi bắt đầu cảm thấy ở chùa giống như ở tù. Đây không phải là đời sống tôn giáo huy hoàng mà tôi đă mơ tưởng đến. Một ngày, sau khi thọ trai, Sư Sonuttara đi nghỉ trưa. Một trong mấy cậu bé kia muốn hái trái cam trên cây bên ngoài pḥng Sư. Nó bắt đầu chọi đá lên cây để trái cam rụng xuống.
   
Tiếng động đánh thức thầy chúng tôi. Sư bước ra khỏi pḥng, giận dữ muốn biết ai là người đă làm huyên náo. Cậu bé bảo đó là tôi, là tôi đă chọi đá. Và bỗng nhiên lúc đó tôi cũng nổi giận. Tôi hỏi cậu bé, bằng thứ ngôn ngữ rất khó nghe, tại sao nó nói dối Sư.

Sư Sonuttara quay qua tôi. Sư bảo tôi vô lễ. Sư bảo sư không cần biết ai đă chọi đá, nhưng v́ tôi vô lễ, tôi là người phải bị phạt. Sư với lấy cây chổi và đánh tôi tới tấp, cho tới lúc tôi ngă ra sàn nhà. Tôi không c̣n thở nổi. Đó là giọt nước tràn ly cho tôi.
   
Chiều hôm đó, tôi thu gom sách vở như thường lệ khi tôi phải đến chùa Kebilitigoda học tiếng Pali. Tôi bắt đầu ra cửa, đúng lúc thầy tôi và những đứa trẻ khác đi về hướng phía sau chùa, để đào một nhà vệ sinh mới. Tôi canh cho họ đi qua, rồi tôi lặng lẽ trở vào bên trong, vứt sách xuống.
   
Tôi vào pḥng nơi mấy cậu bé ở chùa để đồ, tóm lấy một cái áo chemise và xà rông trắng. Không một chút nuối tiếc, tôi cởi y ra rồi mặc áo chemise và xà rông vào.
   
Một niềm hưng phấn trỗi dậy trong ḷng, tôi lẻn ra cửa trước chùa, bước qua cổng hàng rào dây thép, đi trên con đường gồ ghề. Tôi không c̣n là một chú tiểu nữa. Tôi đă được tự do.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 662 of 1146: Đă gửi: 12 September 2010 lúc 8:58pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM


Chương Ba


Một Cuộc Chạy Trốn


Khi cởi bỏ y áo rời chùa, trong đầu tôi chỉ có một ư nghĩ: về nhà. Tuy nhiên, trước hết, tôi ghé qua nhà chị gái. Anh rể tôi h́nh như chỉ hơi ngạc nhiên khi thấy tôi. Anh đă nghe kể về những khó khăn của tôi, nên anh mỉm cười nói:

- Em rời chỗ đó là đúng rồi. Cứ ở đây một lúc, anh sẽ t́m cho em một ngôi chùa khác.

Nhưng tôi lo sợ rằng nếu tôi ở đó, đại đức Sonuttara sẽ đến t́m tôi. V́ thế tôi chạy về nhà cha mẹ tôi. Mẹ tôi bị sốc khi nh́n thấy tôi. Bà hỏi tại sao tôi bỏ chùa, v́ thế tôi kể cho mẹ nghe những ǵ đă xảy ra. Bà không nói ǵ nhiều, chỉ bắt đầu khóc.
   
Buổi tối cha tôi từ ngoài ruộng lúa trở về nhà. Tôi kể với ông về những sự ngược đăi mà tôi đă phải chịu đựng ở chùa. Nh́n nét mặt cha, tôi biết rằng ông không tin tôi, nhưng ông vẫn giữ b́nh tĩnh. Các anh chị em tôi, tất cả đều rất vui được gặp lại tôi, nhưng không ai nói ǵ nhiều. Họ chỉ chấp nhận sự có mặt của tôi ở đó.
   
Tuy nhiên, tất cả chúng tôi dường như đều biết rằng việc này không thể kéo dài lâu hơn. Việc nhà sư cởi bỏ y áo là điều cấm kỵ. Nó sẽ mang lại những điều bất hạnh, hay ngay cả sự tủi nhục, cho cả gia đ́nh.
   
Ngay chiều hôm sau, thầy tôi đă có mặt ở nhà tôi. Cha mẹ tôi, v́ ḷng kính trọng đối với tăng sĩ, đă không đ̣i ông giải thích tại sao tôi phải chạy trốn khỏi chùa. Họ giả vờ như không biết bất cứ điều ǵ đă xảy ra.
   
Sau vài phút chuyện tṛ xă giao, sư Sonuttara yêu cầu tôi trở về chùa với ông. Tôi nh́n cha mẹ, cầu khẩn trong im lặng sự giúp đỡ của họ, hy vọng rằng họ sẽ đứng lên để bảo vệ tôi, và nói rằng họ muốn tôi ở nhà với họ.
   
Nhưng không ai nói ǵ trong những giây phút đó. Hoàn toàn im lặng. Cha mẹ h́nh như không dám nh́n tôi. Sau đó thầy tôi lặp lại yêu cầu của ông. Cha tôi gật đầu, nói nhỏ:

- Con phải đi theo Thầy.

Tim tôi chùng xuống. Tôi biết rằng nếu tôi cố ở lại, th́ cha tôi cũng sẽ dùng sức mạnh để bắt tôi về chùa ngày hôm sau, hay ngày hôm sau nữa. Và tôi không muốn mang lại sự tủi nhục cho gia đ́nh. V́ thế tôi ra đi theo sư Sonuttara.

Ngay khi chúng tôi trở lại chùa, Sư lại làm lễ xuất gia cho tôi lần nữa, trong một buổi lễ kém quan trọng hơn lần đầu rất nhiều. Lần thứ hai trong cuộc đời, tôi lại mặc lên ḿnh bộ y vàng. Tôi chỉ có thể hy vọng rằng lần này nó sẽ tốt hơn.
   
Sư Sonuttara, thầy tôi, là một thành viên của hội đồng Tăng già, bộ phận quản lư tông phái của chúng tôi, phải trải qua một tháng giữa rằm tháng sáu và rằm tháng bảy ở Kandy. Trong tháng đó, hội đồng Tăng già tổ chức các buổi lễ thọ đại giới cho các sadi, đôi khi truyền giới tỳ kheo cho đến ba mươi vị trong một ngày.

Trong lúc thầy tôi vắng mặt, tôi đảm nhiệm việc quản lư chùa, dầu rằng tôi chỉ mới mười ba tuổi và hăy c̣n là một Sadi. Một ngày kia, khi thầy tôi vắng mặt, và tôi coi sóc chùa, có một người đàn ông đă đến chùa xin cam.

Chúng tôi có hai cây cam trong khuôn viên chùa, v́ thế khi nào dân làng cần cam, họ đến xin chúng tôi. Anh ta trả cho tôi khoảng gần một rupee, tương đương với khoảng hai mươi lăm xu tiền Mỹ. Một trong những đứa trẻ ở chùa đă đi Kandy với sư Sonuttara, v́ thế chỉ c̣n một đứa ở lại với tôi, tên là Hinnimahattaya.

Thường th́ chúng tôi chia sẻ với nhau mọi thứ, giống như cặp bài trùng. V́ thế ngay khi người đó đă ra đi với một bao cam, Hinnimahattaya đ̣i tôi phải chia phần cho hắn.
   
- Ông ta chỉ đưa cho tôi hai mươi lăm xu.

Tôi nói với Hinnimahattaya:

- Mà trong đó chúng ta phải mua đường, trà, và một ít dầu cho đèn tối nay.
   
Hinnimahattaya rất bực ḿnh. Hắn xổ ra một tràng chửi rủa tục tĩu, nên tôi đánh hắn một trận. Một lần khác, chúng tôi không c̣n diêm để đốt đèn dầu. Tôi bảo Hinnimahattaya chạy qua nhà hàng xóm mượn đốm lửa. Đó là việc rất thường vào thời ấy, đi mượn lửa từ nhà hàng xóm.
   
Nhưng Hinnimahattaya từ chối không đi. Nên tôi đe dọa hắn: nếu hắn không đi lấy lửa, tôi sẽ không chia cho hắn nửa điếu thuốc của tôi. (Thường th́ chúng tôi chia nhau thuốc hút; tôi sẽ hút một nửa rồi đưa cho hắn một nửa.) Nhưng Hinnimahattaya không nghe. Nó thà là không có nửa điếu thuốc hơn là phải chạy đi công việc.
   
V́ thế tôi phải tự đi, và khi tôi trở lại với cây lửa, tôi đốt một điếu thuốc. Hinnimahattaya nh́n tôi nôn nóng. Khi điếu thuốc vừa hết một nửa, nó đ̣i tôi chia phân nửa c̣n lại.
   
- Hăy quên đi.

Tôi nói:

- Luật là luật. Tao đă phải chạy đi lấy lửa, th́ mầy đừng ḥng được hút chút thuốc nào.
   
Hinnimahattaya bắt đầu chửi rủa tôi. Quá tức giận, tôi đẩy nó vào tường, rồi dí thuốc vào hai khóe miệng của nó. Cũng có chuyện xảy ra nữa là, trong lúc Thầy tôi đi Kandy, có vài thiếu niên trong làng lên chùa ở với chúng tôi. Chúng tôi bày ra nhiều tṛ chơi.

Dĩ nhiên là một sadi, đáng lư ra tôi không được tham dự những tṛ chơi này, nhưng ai mà biết được khi thầy không có ở nhà? Một trong những tṛ chơi mà chúng tôi rất thích, được gọi là panca ganahava, có nghĩa là "tṛ chơi năm số". Chúng tôi thẩy các vỏ ṣ trên sàn nhà và tính điểm tuỳ thuộc vào số vỏ ṣ lật úp hay ngửa.
   
Một ngày kia người hàng xóm kế bên đến, bảo rằng anh ta muốn dạy chúng tôi chơi đánh bài. Anh ta chỉ cách chơi, và tất cả chúng tôi đều thích. Anh ta cho chúng tôi thắng liên tiếp mấy ván, rồi nói:

- Nếu mấy em có tiền, th́ đặt cược trong ván bài này. Hôm nay là ngày may mắn của mấy em. Mấy em chắc sẽ thắng.
   
Tôi nói rằng tôi chỉ có một rupee. Anh ta nói:

- Tốt. Hăy chơi bằng tiền.
   
Tôi cá đồng rupee của ḿnh và lập tức ăn được thêm hai cái nữa! Tôi khoái quá. Anh ta khuyến khích tôi chơi nữa. Dĩ nhiên, sau đó tôi thua. Người hàng xóm bỏ túi ba đồng rupee rồi ra về, mỉm cười. Vậy là kết thúc sự nghiệp cờ bạc ngắn ngủi của tôi, và tôi đă được một bài học chỉ trong lần thử duy nhất đó.

Chiều hôm đó thầy tôi từ Kandy trở về, việc đầu tiên sư làm là xem xét cái tô, chúng tôi dùng đựng thức ăn cúng Phật trong chánh điện. Chúng tôi đă được dặn là phải rửa sạch nó mỗi ngày trước ngọ. Ngày hôm đó, sư Sonuttara thấy là nó vẫn c̣n đầy thức ăn lúc một giờ trưa.

Lúc đó tôi đang ở trong bếp, chuẩn bị trà cho sư. Sư gọi tôi và tôi bước ra khỏi nhà bếp, bắt đầu bước xuống những bậc thềm để vào gian nhà chính. Bỗng nhiên tôi thấy một vật đang bay về phía ḿnh, cái tô đựng thực phẩm trong chánh điện!

Thầy tôi quá giận đến nỗi ông đă liệng cái tô về phía tôi, ngay trước khi hỏi tại sao nó vẫn c̣n đầy. Cái tô trúng ngay trán tôi, rất mạnh, và tôi ngă xuống đất, chảy máu đầu. Cho đến ngày nay tôi vẫn c̣n vết thẹo trên trán. Thầy chúng tôi cũng thấy vết bỏng quanh miệng của Hinnimahattaya.
   
- Đă xảy ra chuyện ǵ?

Sư hỏi tôi. Tôi đă dặn Hinnimahattaya không được nói với thầy về vụ hút thuốc. Nếu nó nói, cả hai chúng tôi sẽ bị phạt v́ đă hút thuốc. May mắn thay, Hinnimahattaya đă không nói ǵ. Tôi thưa với sư Sonuttara rằng thằng bé đă chửi tôi, v́ thế tôi châm lửa vào miệng hắn để phạt.

Ngạc nhiên thay, h́nh như Sư đă tin như thế, nên không nói ǵ thêm nữa. Tuy nhiên, đó chỉ là một trong những trường hợp hiếm hoi mà tôi có thể trốn tránh tội ḿnh. Tánh thầy tôi nóng nảy, ít khi kiềm chế được, và việc đánh đập vẫn tiếp diễn, đôi khi chỉ v́ những sự vi phạm luật lệ nhỏ nhặt nhất.

Sư là một nhà độc tài, và chúng tôi phải thi hành tất cả mệnh lệnh của sư, mà không được thắc mắc hay bàn căi. Ngoài tính độc đoán và nóng nảy, sư Sonuttara thật sự cũng có những điều tử tế. Đặc biệt, sư rất thương thú vật; đó là lư do tại sao sư cho tất cả đám mèo chó hoang trong vùng được ăn.

Và nếu có những người bệnh t́m đến chùa để nhờ giúp đỡ, sư cũng cho họ thuốc, miễn phí. Thỉnh thoảng có những đứa trẻ trong chùa chạy trốn, đem theo một vật ǵ đó có giá trị, như là một cây đèn dầu bằng đồng hay ngay cả một trong những bức tượng Phật.
   
- Hăy tha cho nó.

Thầy tôi sẽ nói:

- Nó cũng nghèo. Nó có thể bán những thứ đó để kiếm chút tiền. Chúng ta có thể mua cái khác để thay cho cái đă bị lấy đi.

Giờ xét lại những hành động của sư Sonuttara, tôi nghĩ rằng sư thực sự chỉ muốn tôi trở thành một người tu sĩ tốt, không bị lôi cuốn theo các bản năng của tuổi trẻ, chỉ muốn được tự do, độc lập. Và sư khuyến khích thiện tánh bằng cách dùng những h́nh thức trừng phạt phổ biến thời đó: sự đánh đập.
   
Dĩ nhiên, tôi không thể hiểu được như thế cho đến măi sau này, khi tôi đă trưởng thành. C̣n lúc tôi là sadi, sống ở chùa của sư, th́ tôi rất khổ đau. Tôi luôn bị hành hạ dưới sự cai quản của sư.
   
Đến một lúc, tôi bắt đầu bàn với một trong những đứa trẻ ở chùa về việc bỏ trốn. Nó cũng rất bất măn. Cả hai chúng tôi đều để dành tiền, và tích trữ đèn cầy, chúng tôi dự định đêm nào đó sẽ bỏ trốn. Một ngày kia cả hai chúng tôi đồng ư sẽ trốn đi đêm đó.

Ngày hôm đó cả hai chúng tôi đều làm việc chăm chỉ hơn ngày thường, cố gắng làm vừa ḷng sư để ông không nghi ngờ ǵ. Đêm đó, sau khi mọi người trong chùa đă đi ngủ, tôi cởi y ra, mặc trở lại áo sơmi và xà rong. Tôi và người bạn đồng lơa lén lút ra đi bằng cửa sau.
   
Trước hết chúng tôi phải đi qua một nghĩa trang, là việc cả hai đều rất sợ. Rồi chúng tôi đi trên một chiếc cầu gỗ bắc qua một con suối nhỏ. Chúng tôi đă nghe nhiều câu chuyện từ dân địa phương, rằng đây là nơi mà những con quỷ dữ và chằn tinh thường ăn thịt người.

Truyền thuyết cũng nói rằng dấu hiệu đầu tiên về sự có mặt của chúng, sẽ là một con chó đen to lớn. Thông thường, nếu người ta phải đi qua chiếc cầu đó, họ sẽ đi thành từng nhóm, mọi người sẽ nói lớn tiếng, và cầm những bó đuốc cháy bùng để xua đuổi lũ quỷ.

Nhưng v́ đang chạy trốn, chúng tôi phải im lặng và không thể đốt đèn cầy mà chúng tôi đă mang theo ḿnh, v́ sợ rằng ai đó sẽ phát hiện ra chúng tôi. Chúng tôi đi qua cầu đúng lúc giữa đêm. Chúng tôi run rẩy, miệng khô đắng. Tóc dựng đứng. Chúng tôi không thể nói lời nào với nhau, chỉ chầm chậm bước đi trong bóng tối dày đặc.
   
Th́nh ĺnh, một con chó đen to lớn hiện trước mặt chúng tôi, và tim tôi bắt đầu đập mạnh hơn. Rồi cả hai chúng tôi đều bị tát vào mặt, mạnh đến nỗi suưt té khỏi cầu, và rơi xuống nước. Th́ ra con chó đen to lớn đó là con chó ở chùa và những cái tát tay là của thầy chúng tôi, người đă nghe được chúng tôi lén lút trốn đi ở cửa sau, nên đă đi theo chúng tôi đến tận cây cầu.

Theo lệnh của ông, chúng tôi đành theo ông trở lại chùa, nơi tôi lập tức được thọ giới lần thứ ba, giữa đêm khuya. Không có một đứa trẻ nào khác ở chùa biết về chuyện này, cả dân làng cũng thế. Ngày hôm sau, mặc trở lại chiếc áo người tu, tôi ôm b́nh bát vào làng để khất thực như lệ thường.
   
Khi tôi được mười lăm tuổi hay khoảng đó, tôi bắt đầu để ư đến một cô gái trong làng khoảng tuổi tôi. Mỗi ngày cô đứng trước cửa nhà khi tôi ôm b́nh bát đi ngang qua. Cô cao gần bằng tôi, với mái tóc đen dài. Cô cũng có khuôn mặt tṛn như tôi, với màu da trắng hơn da của người Sinhala b́nh thường, và một hàm răng hoàn hảo được phô bày mỗi khi cô cười.

Theo tôi cô rất đẹp. Một ngày kia, khi cô bỏ gạo vào b́nh bát của tôi, chúng tôi thầm th́ trao đổi vài lời ngắn ngủi, một điều rất trái với giới luật người tu. Tối hôm đó, khi ra giếng tắm, tôi cố ư va mạnh chiếc thùng vào thành giếng để gây tiếng động đủ lớn, cho cô có thể nghe thấy từ nhà. Đó là tín hiệu mà chúng tôi đă đồng ư với nhau.
   
Chỉ một lúc sau cô đă chạy ra giếng, mang theo một chiếc b́nh như thể cô cần lấy thêm nước. Tôi rất sung sương thấy cô đến. Chuyện như thế kéo dài khoảng mười ngày. Tôi sẽ va thùng vào giếng; cô ta sẽ chụp lấy bất cứ b́nh nước nào trong nhà, và nếu nó c̣n đầy nước th́ cô sẽ đổ nước đi để có lư do ra giếng.

Dầu c̣n e dè chưa dám bày tỏ t́nh cảm thân thiết dành cho nhau, nhưng chúng tôi cũng có những buổi chuyện tṛ rất lâu, rất dễ thương, và càng ngày chúng càng dài hơn. Tôi kể với cô rằng cuộc sống ở chùa giống như ở tù. Chúng tôi cũng nói chuyện người khác trong làng. Cô kể cho tôi nghe về cuộc sống ở nhà cô.
   
Dần dần thầy tôi cũng bắt đầu thắc mắc tại sao tôi tắm quá lâu, và một ngày ông ra đó xem, bắt gặp chúng tôi đang nói chuyện và cười đùa. Dĩ nhiên là ông rất giận. Tăng sĩ ở bất cứ độ tuổi nào cũng không được tiếp xúc thân mật với nữ giới. Ông cấm cô gái không được ra giếng khi tôi ở đó.

Trở về chùa, ông nặng lời rầy la tôi, và ra lệnh cho tôi phải đi tắm trễ hơn, vào lúc mà ông nghĩ rằng sẽ quá trễ cho cô gái ra giếng. Thực ra, điều đó c̣n tốt hơn v́ tôi biết rằng chúng tôi sẽ được tṛ chuyện kín đáo lúc đêm khuya, khi không ai có thể thấy chúng tôi bên nhau. V́ thế chúng tôi tiếp tục những cuộc gặp gỡ thầm lén này.
   
Dĩ nhiên, thầy tôi lại bắt gặp chúng tôi lần nữa, và lần này sự phản kháng của ông c̣n mạnh mẽ hơn. Ông cấm cô gái không bao giờ được ra giếng nữa. Ông dọa rằng ông sẽ báo cho cha mẹ cô biết về những hành động của cô. Cô gái khóc, van xin ông đừng nói cho cha mẹ cô biết. Cô hứa không ra giếng nữa và cô đă giữ lời. Tôi chẳng bao giờ gặp lại cô nữa.
   
Giờ khi nh́n lại sự việc đó, sau nhiều năm học và thực hành pháp, tôi thấy rơ ràng là người ta không nên xuất gia quá sớm, như thường xảy ra vào thời của tôi. Trước hết họ cần được học thế học, được phép chơi thể thao, tṛ chơi, bạn bè và hội hè, tất cả những thứ mà người trẻ thường ham thích.

Rồi khi đă trưởng thành, họ có thể chọn lựa một cách chín chắn về việc có nên xuất gia hay không. Gia nhập Tăng đoàn là một việc rất nghiêm trọng, và tôi không nghĩ rằng một người c̣n nhỏ tuổi có thể sẵn sàng chọn lựa một cách đúng đắn. Và cũng ít có đứa trẻ nào có thể chuẩn bị tinh thần, sẵn sàng chấp nhận những gian khổ và trói buộc của đời sống xuất gia.
   
Cách suy nghĩ cũ xưa ở xứ tôi là các chú bé, với tâm nhạy bén trẻ trung, có thể học thuộc các thánh điển dễ dàng hơn là người lớn. Cá tính của chúng cũng có thể được uốn nắn và rèn luyện để có được phong thái tự tại của một tăng sĩ thiền định.

Nhưng giờ tôi cũng không dám chắc rằng điều đó là đúng. Tôi cũng đă thấy rất nhiều người trưởng thành xuất gia ở tuổi trung niên hay lớn hơn thế nữa, sau khi đă lập gia đ́nh, có con cái, và họ cũng là những tỳ kheo xuất sắc. Ngược lại, tôi cũng đă thấy rất nhiều vị tu sĩ xuất gia trước tuổi trưởng thành, vẫn tiếp tục cư xử như trẻ con.
   
Sau khi sư Sonuttara cắt đứt sự lăng mạn thân thiết của tôi với cô gái bên giếng, th́ sự bất măn với đời sống ở chùa trong tôi càng sâu nặng hơn. Tôi là một thiếu niên, với tâm tính bướng bỉnh và ước muốn được giáo dục một cách chính thống, hơn là những ǵ mà thầy tôi có thể mang đến cho tôi.

Tôi vẫn muốn làm người tu sĩ nhưng không phải dưới sự cai quản của vị thầy này. Tôi không thể t́m ra giải pháp nào ngoại trừ lại chạy trốn lần nữa, nhưng đi đâu chứ? Tôi biết rằng tôi không c̣n thể nào trở lại nhà được nữa. Cha mẹ tôi sẽ rất đau ḷng nếu tôi lại hoàn tục. Tôi không thể mang lại sự tủi nhục cho họ nữa.
   
Vào khoảng thời gian đó, có hai cha con người kia đến sống ở chùa. Đứa con trai tên là Gunawardhena, và tôi với nó trở thành bạn tốt của nhau. Nó luôn nói với tôi rằng nó biết một nơi tốt hơn là chùa này, v́ thế chúng tôi lại rấp tâm chuẩn bị chạy trốn với nhau.

Lần này, tôi quyết định phải làm cho chắc ăn. Tôi phải chạy trốn làm sao mà không ai có thể t́m được tôi. Vào ngày đă định, tôi nhờ người thợ hớt tóc trong làng cạo tóc cho tôi như thường lệ. Cả ngày hôm đó tôi luôn ở trong t́nh trạng phấn chấn với những dự tính của ḿnh; và Gunawardhena cũng thế.

Mười một giờ đêm hôm đó, tôi đi nhà vệ sinh, và khi trở lại tôi để cửa trước hơi hé mở. Khoảng mười hai giờ rưỡi khuya, chúng tôi nghe tiếng sư phụ đă ngáy ngủ. Chúng tôi lấy một ít đèn cầy rồi xuống nhà bếp, nơi tôi lại cởi bỏ y áo và một lần nữa lại mặc vào chiếc áo sơmi và cái xà rong.
   
Rời khỏi khuôn viên chùa, chúng tôi đi về hướng ngược lại với hướng mà tôi đă đi trong lần chạy trốn trước. Với tất cả sức lực, chúng tôi chạy băng qua những ruộng lúa ra con đường chánh, cách đó khoảng ba cây số. Chung quanh chúng tôi chỉ có âm thanh của các con chim đi ăn đêm, cóc nhái, dế, và tiếng chó sủa ở đằng xa.
   
Khi ra đến đường lộ, chúng tôi bước chậm lại. Chẳng lâu sau chúng tôi thấy hai người cầm đèn tiến về phía chúng tôi. Đó là năm 1942, thời thế chiến thứ hai, và luật giới nghiêm đă được áp dụng ở khắp nơi trên Ceylon.
   
Gunawardhena run rẩy nói với tôi, không dùng pháp danh nhưng gọi tên thế tục của tôi.

- Ukkubanda, đó là cảnh sát. Họ sắp tra vấn chúng ta với đủ các câu hỏi đây. Chúng ta phải nói với họ làm sao?
   
Trong chớp mắt, tôi đă nghĩ ra một câu chuyện hoàn toàn tưởng tượng:

- Hăy nói rằng mẹ tôi chết hôm qua, và đă sai người đến chùa nhắn tin với chúng ta. Chúng ta trễ chuyến xe buưt đi dự đám tang của bà, nên giờ chúng ta phải đi dọc theo đường, hy vọng sáng nay sẽ có thể bắt được chuyến xe buưt khác.
   
Mấy người cảnh sát đến gần, nh́n tôi một cách nghi ngờ. Tôi đă dùng một khăn tay cột quanh cái đầu không tóc của ḿnh, và một cái nữa cột chung quanh cổ. V́ không có dây nịt, nên tôi lại dùng một cái khăn nữa cột ngang thắt lưng để giữ chiếc xà rong. Số đèn cầy trong tay tôi cũng được gói trong một chiếc khăn tay.
   
- Hăy nh́n thằng quỷ này.

Một người cảnh sát nói:

- Cả người nó đầy khăn mùi xoa.

Họ tách tôi ra khỏi Gunawardhena và dẫn chúng tôi ra xa nhau khoảng mười thước, rồi hỏi mỗi đứa chúng tôi cùng một câu hỏi: Chúng tôi đi đâu giữa đêm hôm khuya khoắt thế này? Cả hai chúng tôi đều nói giống nhau, nên hai người cảnh sát để chúng tôi đi, không đá động ǵ đến chuyện giới nghiêm. Họ chỉ nói là khi đi chúng tôi cần phải đốt đèn cầy lên.
   
Hai tiếng sau chúng tôi đến Kurunegala, cách chùa khoảng hơn mười lăm cây số. Giờ th́ chúng tôi cảm thấy an toàn hơn, v́ chắc chắn rằng sư Sonuttara không thể nào đi theo chúng tôi xa đến vậy.
   
Khi trời bắt đầu sáng, chúng tôi t́m được một nơi trú ẩn bên đường, một trong những h́nh thức thường được biết đến, như là những nhà nghỉ dành cho người hành hương. Căn lều có tường thấp, mái tranh, nền đất mà người ta trải chiếu nằm lên đó. Phần lớn, những căn lều thô sơ trống trải này, được người lữ hành sử dụng để tránh nắng mưa, và mấy gă ăn mày dùng làm nơi nấu nướng bất cứ thứ ǵ mà họ đă cuỗm được.
   
Gunawardhena và tôi thật may mắn. Buổi sáng đó không có ai ở trong căn lều nọ. Mừng rỡ, chúng tôi nhào xuống đất và đánh một giấc ngay tức th́. Vài giờ sau, chúng tôi thức dậy rửa mặt với nước giếng lạnh. Chúng tôi lại bắt đầu đi tiếp, không rơ ḿnh sẽ đi về đâu. Chúng tôi chỉ đi tới.
   
Cảnh vật chuyển đổi không ngừng. Chúng tôi đi qua những hàng dừa, những đồn điền cao su và trà, những thửa ruộng lúa, vườn chuối và các khu vườn trồng rau nhỏ bên ngoài những túp lều một gian. H́nh như ở đâu cũng có chó hoang, nhiều con đă hoàn toàn rụng hết lông, và cũng lắm con ḿnh đầy thương tích, v́ bị chó khác cắn hay bị người ta đánh.

Chúng tôi cũng thường thấy khỉ rừng đong đưa trên cây hay chạy rong dưới đất. Thỉnh thoảng chúng tôi nghe từ xa xa tiếng voi rống. Đôi khi cũng có xe hơi, xe hàng, xe buưt, xe máy và xe kéo, tất cả đều nhấn kèn để cảnh báo cho người đi bộ và người bên đường. Nhưng phần lớn lưu thông trên đường là người đi bộ.

Chúng tôi đă đi qua bao người đàn ông, phụ nữ, và trẻ em đi trên đường hay chăn ḅ, đuổi gà. Có người đánh những chiếc xe ḅ bằng gỗ thô sơ. Dọc theo đường có những căn nhà nhỏ làm bằng bùn là những tiệm buôn bán. Người ta ngồi trước các cửa tiệm này, nhai trầu, uống trà và tán gẫu.

Khách qua đường có thể dừng chân mua trà, bánh ḿ, cau ăn trầu, khô, dây thừng làm từ các sợi dây dừa và lương thực như đường, muối, gạo, đậu, và dầu lửa. Gunawardhena và tôi đă lấy cắp được ít tiền trong pḥng của sư Sonuttara trước khi rời chùa, nên chúng tôi có tiền mua ít ổ bánh ḿ.

Chúng tôi thấy một trong đống dừa trong vườn nhà ai đó cạnh bên đường. Chúng tôi ăn cắp một trái, đập xuống đất cho đến khi bể ra. Thịt dừa, cùng với bánh ḿ, là bữa ăn đầu tiên của chúng tôi trong cuộc hành tŕnh này. Ngày hôm đó chúng tôi đă đi ba mươi lăm cây số.

Chiều tối chúng tôi đến một thành phố gọi là Dambulla. Chúng tôi lại t́m được một nhà nghỉ cho người hành hương c̣n trống nữa. Chúng tôi trải vài tàu lá dừa trên sàn nhà và nằm xuống. Chúng tôi hoàn toàn kiệt sức.
   
Sáng hôm sau thức dậy chúng tôi thấy cả người đầy rận và ruồi đất. Chúng tôi ra một giếng gần bên, bẻ vài cọng cây trong bụi rậm và bắt đầu đánh răng bằng cọng cây đầy sơ. Một tăng sĩ tiến lại phía chúng tôi, nh́n tôi lom lom. Tôi cố gắng phớt lờ ông.
   
- Con là tu sĩ?

Ông hỏi, nh́n cái đầu không tóc của tôi.
    
- Không.

Tôi nói dối một cách dễ dàng.

- Tôi bị bệnh. Tôi vừa ra viện hôm qua.

- Con trông không giống người bệnh.

Vị tăng nói:

- Sư nghĩ con là tu sĩ. Hăy theo sư. Sư sẽ truyền giới lại cho con, ở chùa của sư.
   
Tôi suy nghĩ về điều đó. Tự đáy ḷng tôi vẫn c̣n muốn làm người tu. Tôi chỉ cởi bỏ y áo v́ thầy tôi quá ác độc. Vị sư này có vẻ tử tế hơn. Nhưng dĩ nhiên là tôi không thể đi mà không bàn với bạn tôi. Tôi quay qua Gunawardhena.
   
- Bạn nghĩ sao?

Tôi hỏi nó:

- Tôi thật sự không muốn hoàn tục. Đây là cơ hội để tôi được trở về làm người tu sĩ.
   
- Bạn điên à?

Gunawardhena nói:

- Bạn không nhớ thầy ḿnh đă làm ǵ chúng ta à? Tất cả các thầy đều giống nhau. Họ không có trái tim. Họ chỉ nghĩ về luật lệ và giới cấm. Đừng có điên, hăy đi thôi.

Vị tăng sĩ càng dỗ ngọt. Ông bảo rằng ông quen biết vài viên chức người Anh ở một phi trường quân sự cạnh bên. Ông hứa sẽ t́m cho Gunawardhena một việc làm ở đó. Cả hai chúng tôi đều có thể sống ở chùa, tôi có thể là tu sĩ trong khi Gunawardhena làm việc ở phi trường.
   
Gunawardhena không muốn nghe bất cứ điều ǵ, và tôi không muốn bỏ rơi bạn ḿnh. V́ thế chúng tôi từ giă vị sư và bắt đầu đi tiếp. Ngày hôm sau chúng tôi gặp một người đàn ông, làm việc cho một nhà thầu xây dựng nhân sự.

- Nếu muốn kiếm việc làm th́ hăy đi theo tôi.

Hắn nói với chúng tôi:

- Chúng tôi có rất nhiều việc cần người làm.
   
Chúng tôi đồng ư. Công việc của chúng tôi thật ra là công việc lao động tay chân nặng nề. Họ trao hai cái xẻng và hai cái cần xé cho chúng tôi, rồi bảo chúng tôi đi xúc cát dưới suối, đổ thành đống lớn.
   
Nhiều tháng qua, chúng tôi đă làm việc ở đó trong một nhóm khoảng hai mươi thanh niên, từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối. Lương là một chấm hai rubi một ngày, tương đương với khoảng năm mươi xu. Từ số lương đó, chủ c̣n trừ hai mươi lăm xu ăn uống.

Mặc dù, điểm tâm là một ly trà với đường, và buổi tối là cơm với súp. Chúng tôi ngủ trong những chiếc vơng, được làm bằng cách cột một bao tải giữa hai thân cây. Rừng đầy muỗi. Chúng tôi bị chúng cắn ngày đêm và không lâu sau đó th́ Gunawardhena bị sốt rét. Nó bị sốt cao và không thể làm việc.
   
Tôi xin ông chủ hai ngày phép, để tôi có thể chăm sóc bạn ḿnh. Ông ta từ chối.
   
- Tôi đă làm cho ông hàng tháng, bảy ngày một tuần, mười hai giờ một ngày.

Tôi nói:

- Mà tôi chỉ xin một vài ngày nghỉ.
   
Ông ta nhất định từ chối. Một là tôi phải tiếp tục làm việc, hai là cả tôi và Gunawardhena phải rời trại lao động.
   
- Được rồi.

Tôi nói:

- Hăy trả hết lương cho chúng tôi đi.

Ông chủ trả tiền và chúng tôi ra đi. Thế là chúng tôi bắt đầu cuộc đời của những kẻ ăn mày. Ban ngày chúng tôi lang thang dọc theo những con đường bụi bặm. Ban đêm chúng tôi chia phần thức ăn ít ỏi, của những người ăn xin khác trong các căn lều bên đường, rồi đùa giỡn, ca hát, nhảy múa và kể chuyện phiếm để giết th́ giờ.
   
Mấy tuần chúng tôi không tắm. Quần áo chúng tôi dơ bẩn và chúng tôi hôi thối. Mỗi sáng những người ăn xin khác sẽ rời nhà đi "làm việc" và hỏi chúng tôi định ngày đó xin ăn ở địa điểm nào.
   
- Không biết.

Luôn là câu trả lời của chúng tôi. Sự thật là, chúng tôi không đi xin chỗ nào hết. Chúng tôi chỉ ăn bất cứ thứ ǵ mà người khác muốn chia sẻ với chúng tôi. Chúng tôi là những người ăn xin lười biếng.
   
Dần dần Gunawardhena khỏi bệnh sốt rét và hồi phục sức khoẻ trở lại. Nhưng rồi một buổi sáng kia, khi thức dậy tôi cảm thấy đau buốt ở chân phải và gây gây sốt. Quan sát kỹ, tôi thấy một vết đỏ ở trên đùi cách đầu gối khoảng mười centimet. Một người ăn xin ở chung chỗ, săm soi vết thương và bảo rằng đó là vết rắn cắn.

Sự đau nhức tăng dần lên, và tôi gần như không thể nhấc nổi chân. Gunawardhena và tôi phải ở lại phía sau khi những người ăn xin khác ra đi. Khoảng hai giờ sau đó, tôi cố gắng đứng lên và đi cà nhắc ra khỏi lều.
   
Chúng tôi chỉ mới đi được khoảng mười thước th́ gặp một thanh niên khoảng hai mươi lăm tuổi. Chúng tôi chưa từng gặp anh ta trước đó. Nhưng v́ một lư do ǵ đó tôi không biết, anh ta và Gunawardhena trở nên thân thiết ngay. Họ bắt đầu cười đùa giống như những người bạn thân lâu ngày.

Có lẽ Gunawardhena cảm thấy tôi và cái chân cà nhắc của tôi là một trở ngại cho anh; anh ta như trút được gánh nặng khi gặp một người vui vẻ hơn. Ba người chúng tôi đi với nhau, nhưng tôi đi chậm ở đằng sau. Khoảng chừng năm phút sau Gunawardhena quay lại nói với tôi.
   
- Ukkubanda, v́ bạn không thể đi nhanh, tôi sẽ đi trước với anh bạn này? C̣n bạn, cứ thong thả, cần đi chậm cứ đi. Chúng tôi sẽ đợi bạn ở Lovamahapaya.
   
Ngay lập tức tôi cảm thấy vô cùng sợ hăi. Muốn đến Lovamahapaya phải đi bộ sáu đến bảy tiếng.
   
- Không, đừng bỏ tôi lại một ḿnh.

Tôi van nài:

- Tôi không thể đi một ḿnh. Tôi cần bạn giúp đỡ. Xin hăy ở lại với tôi.
   
Rồi th́ chuyện không thể hiểu được đă xảy ra: Gunawardhena phớt lờ tôi và bước thẳng tới với người bạn mới của ḿnh. Tôi ngồi xuống và bắt đầu khóc. Chân tôi buốt đau. Tôi không thể tin điều ǵ đă xảy ra. Gunawardhena thật là vô ơn. Chúng tôi đă sắp đặt cuộc hành tŕnh này với nhau, nhiều tuần trước đó, và tôi đă từ bỏ cuộc sống tu hành để chạy trốn theo nó.

Khi nó bị bệnh trong rừng, tôi đă bỏ luôn việc làm của ḿnh. Bao nhiêu ngày tháng, chúng tôi đă đi với nhau như bạn bè. Chúng tôi đă dựa vào nhau để sống. Vậy mà bây giờ, khi tôi cần nó, nó lại bỏ rơi tôi.
   
Tôi không có bạn bè, không nhà cửa, không tiền bạc, không lương thực. Tôi ở tận cùng vực thẳm và tôi hoàn toàn cô đơn. Bây giờ tôi phải làm sao đây?





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 663 of 1146: Đă gửi: 13 September 2010 lúc 9:42pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM


Chương Bốn


Xuất Gia Lần Nữa


Sau khi Gunawardhena bỏ đi đột ngột, tôi chỉ ngồi đó, cô đơn và bối rối. Những ǵ đă bắt đầu như một cuộc phiêu lưu kỳ thú, từ việc bỏ trốn khỏi chùa đă biến thành một thử thách đáng sợ. Chiếc chân bị rắn cắn đă sưng lên dữ dội, tôi lại đói khát và người bạn đồng hành đă mất hút.

Hoàn cảnh lúc đó của tôi là như thế! Chưa bao giờ trong cuộc đời, tôi cảm thấy chán nản như thế. Tuy nhiên, dần dần một điều ǵ đó bên trong thôi thúc khiến tôi đứng dậy: "Hăy đi tới" h́nh như đó là tiếng nói bên trong tôi.
   
V́ thế tôi đứng dậy và bắt đầu lết dọc theo con đường vắng vẻ. Tôi đi như thế hàng giờ, cho đến khi cuối cùng tôi gặp một cô gái ngồi dưới bóng cây. Cô đang bán trái cây, đậu, bánh ḿ, trà và rau quả. Tôi ngồi xuống trên một chiếc ghế đẩu.
   
- Tại sao anh lê lết như thế?

Cô hỏi tôi. Tôi giải thích rằng một con rắn đă cắn chân tôi đêm hôm trước đó. Cô gái lại hỏi tôi thêm nhiều điều nữa: tên tôi là ǵ, tôi từ đâu đến, và tại sao tôi đi chỉ một ḿnh. Tôi đă kể cho cô nghe tất cả câu chuyện.
   
Cô cho tôi một miếng bánh ḿ với cà ry rau cải, và một ly trà nóng hổi thật ngon. Tôi tiếp nhận bữa ăn với ḷng vô cùng biết ơn. Cô đi vào căn lều nhỏ bé của ḿnh và mang ra một miếng chanh. Cô chà chanh lên vết thương ở đùi tôi, rồi xát ít dầu lên đó.

Cô bảo tôi ở lại đó cho đến khi cha cô trở về nhà, nhưng tôi bảo rằng tôi phải đến Lovamahapaya để gặp bạn tôi. Tôi vẫn hy vọng Gunawardhena thật sự đang chờ đợi tôi ở đó. Tôi lại tiếp tục lên đường, với cái chân lết.

Chẳng bao lâu tôi đến một thành phố tên là Anuradhapura. Một trong những nơi đầu tiên tôi đến là một quán ăn gọi là khách sạn Siyasiri (thời đó người ta gọi quán ăn là khách sạn). Vị quản lư chào đón tôi, rồi hỏi tại sao tôi đi cà nhắc. Tôi kể với ông về chuyện rắn cắn. Ông hỏi tại sao tôi chỉ có một ḿnh.

Tôi bảo với ông là tôi không theo kịp người bạn đồng hành, v́ thế anh ta đă đi trước đến Lovamahapaya.
   
- Ai đi qua đây cũng ghé vào quán nầy.

Người chủ quán nói:

- Hăy ở lại đây. Nếu họ đi ngang qua thành phố này, em sẽ gặp họ.
   
Tôi đồng ư, và ngồi xuống đợi. Tới khoảng mười một giờ đêm, tôi bắt đầu ngủ gục. Người quản lư có thể thấy là tôi rất mệt mỏi. Ông nói:

- Em hăy ở lại đêm nay.

Rồi ông đưa cho tôi một chiếc chiếu để ngủ. Và đó là điều cuối cùng tôi nhớ cho đến tám giờ sáng hôm sau. Ngay khi vừa thức dậy, tôi đă hỏi người quản lư rằng Gunawardhena đă đến chưa?
   
- Không.

Ông lắc đầu nói:

- Không có ai đến t́m em cả. Nhưng thôi em hăy ở lại đây, tôi sẽ cho em một công việc làm.
   
Tôi không biết phải làm ǵ khác hay đi đâu nữa, nên tôi chấp nhận lời đề nghị của ông. Và thế là tôi trở thành một người bồi bàn ở khách sạn Siyasiri ở Anuradhapura. Công việc cũng khá nhàn hạ. Có một số thanh niên khác làm ở quán, và chúng tôi ḥa hợp vui vẻ với nhau. Tôi phục vụ khách hàng, lau dọn bàn ghế, và rửa chén.
   
Một ngày kia, khoảng vài tuần sau đó, tôi lại bị sốt rét và cảm thấy quá mệt mỏi không thể làm việc. Trong khi nghỉ ngơi, tôi viết cho mẹ một lá thư để báo cho bà biết tôi đang ở đâu. Tôi cảm thấy hối hận, biết rằng bà có lẽ đă nghe được tin tôi trốn khỏi chùa, và mẹ tôi chắc hẳn đang rất lo rầu về tôi.
   
Vài ngày sau đó, khi tôi trở lại làm việc, tôi ra giếng gần đó để lấy nước cho quán ăn. Có một cậu bé cũng đang ở đó. Tôi mượn cái gàu của nó để dùng kéo nước đổ vào thùng của tôi. Khi tôi đưa trở lại cho cậu bé cái thùng, nó làm rớt tất cả xuống giếng kể cả dây thừng. Nó bắt đầu khóc, v́ đă đánh mất cái thùng th́ nó sẽ gặp rắc rối.
   
Nhưng khách hàng ở quán ăn đang đợi nước nấu trà. Tôi phải trở về đó ngay. Tôi bảo với cậu bé rằng tôi xách nước về quán, rồi tôi sẽ trở lại ngay để giúp nó kéo chiếc thùng lên khỏi giếng.
   
Nhưng khi tôi bước vào quán với chiếc thùng đầy nước, th́ anh cả của tôi, Tikiribanda đang đứng ở cửa quán. Ngay khi vừa thấy tôi, anh bắt tôi phải về nhà với anh. Mẹ đă khóc suốt, anh nói, kể từ khi bà nghe tin tôi chạy trốn khỏi chùa.
   
Anh tôi cũng đáng sợ gần như cha tôi. Tôi không dám căi lệnh của anh. Tôi hoàn toàn quên mất cậu bé đáng thương đang chờ đợi tôi ngoài giếng, để giúp nó vớt cái thùng ra khỏi giếng. Tôi cũng quên người quản lư quán tử tế, đă giúp tôi có cơ hội bắt đầu một cuộc đời mới.
   
- Anh đă mở được một tiệm buôn nhỏ.

Anh tôi nói:

- Em có thể về giúp anh buôn bán.
   
Sau nầy tôi được biết rằng sau ngày Gunawardhena và tôi rời chùa, sư Sonuttara đă báo với cảnh sát về sự ra đi của chúng tôi. Cha tôi đă đến chùa và yêu cầu thầy tôi phải t́m tôi trở về nhà. Tới lúc đó, cha tôi mới nhận thức được rằng sư Sonuttara là người nóng tánh, tàn nhẫn, và những vấn đề ở chùa không phải chỉ là do tôi hành động sai trái.

Cha tôi biết những câu chuyện về việc đối xử thô bạo của thầy tôi là sự thật, nhưng dĩ nhiên, lúc đó đă quá trễ. Tôi đă bỏ trốn khỏi chùa, và lần đó, tôi đă không chạy về nhà. Trong lúc đó, các nhân viên cảnh sát lùng sục khắp nơi để t́m tôi. Rồi khi lá thư của tôi đến từ Anuradhapura, mẹ và cha tôi lập tức sai anh cả đi t́m tôi.

Cha mẹ tôi, nhất là mẹ tôi quá vui mừng thấy tôi c̣n sống và khoẻ mạnh, nhưng tôi thật không thoải mái khi trở về nhà. Tất cả mọi người láng giềng đều gọi tôi là "tu sĩ hoàn tục," là một sỉ nhục lớn. Cha tôi không muốn có đứa con bất hạnh này ở gần ông; ông bắt tôi phải xuất gia trở lại.
   
Để lảng tránh cha, để không phải nói chuyện nhiều với ông, tôi kiếm đủ chuyện lặt vặt để làm. Một trong những công việc đó là đào kênh chống lũ, trên đồn điền cao su gần nhà chúng tôi. Đồn điền này do một công ty lớn cai quản. Họ trả lương rất tệ mà công việc rất nặng nhọc.

Tôi phải xúc từng thúng đất đầy, rồi các chị phụ nữ khiêng chúng đến chỗ đổ đất. Một lần, một chị thấy các vết phồng dộp trên tay tôi v́ phải cầm xuổng xúc đất, nên chị đề nghị đổi công việc với tôi. V́ thế chị xúc cát, c̣n tôi th́ khiêng mấy thúng cát đầy.
   
Sau công việc đó, tôi quay qua hái trà. Đó cũng là một công việc cực nhọc, nhàm chán. Dĩ nhiên là tôi thích làm việc ở tiệm của anh tôi hơn, nhưng anh đă phải đóng cửa tiệm chỉ vài tháng sau khi mở. Người dân trong làng nghèo quá không thể mua ǵ ở tiệm của anh. Phần lớn không có khả năng mua ngay cả những thứ tầm thường nhất.
   
Thời gian rảnh rỗi tôi thường đến nhà chị gái của tôi, người đă chăm sóc tôi thuở nhỏ, người mà tôi coi như người mẹ thứ hai. Kể từ khi chồng chị mất, không có người đàn ông trong nhà, chỉ có chị tôi, đứa con trai nhỏ của chị và một đứa con gái, cháu tôi, chỉ lớn hơn tôi năm tháng.
   
Họ rất tử tế với tôi và tôi cảm thấy thoải mái ở bên họ hơn là ở nhà cha mẹ ruột của ḿnh. V́ thế một vài tuần sau khi trở về nhà, tôi dọn từ nhà cha mẹ đến nhà chị gái của tôi. Đó là một sự thay đổi dễ chịu hơn, nhưng tôi vẫn thực sự không cảm thấy thoải mái với đời sống tại gia.

Niềm ước muốn ban đầu của tôi là được trở thành một tăng sĩ vẫn c̣n nung nấu trong tôi, không kể bao nhiêu chuyện đă xảy ra. Tôi bắt đầu nghĩ nhiều hơn về thầy tôi và ngôi chùa tôi đă rời bỏ năm tháng trước đây. Tôi cảm thấy hối hận v́ đă bỏ trốn. Ḷng tôi dịu lại đối với sư Sonuttara, và tôi nhớ đến những tính tốt của ông.

Tôi đă nghĩ rằng ít nhất tôi cũng phải đến xin lỗi ông. Một ngày kia, khi chị tôi đă đi viếng bà con bên chồng, tôi quyết định bí mật đi gặp thầy tôi. Cuộc viếng thăm đó phải qua đêm v́ đường xá xa xôi, nhưng tôi dự tính là tôi có thể trở về nhà trước chị tôi. Tôi biết rằng chị sẽ không đồng ư cho sự thăm viếng này.

Chị muốn tôi sống ở nhà chị măi và từ bỏ giấc mơ trở thành tăng sĩ. Khi tôi chuẩn bị ra đi, cháu tôi khóc, van nài tôi đừng đi. Tôi khuyên cháu đừng lo lắng và rằng tôi sẽ trở về ngày hôm sau. Cháu tiếp tục khóc khi tôi rời khỏi nhà đi về hướng chùa.
   
Khi sư Sonuttara thấy tôi, ông như trút được gánh nặng. Mặc dầu không phải lúc nào ông cũng là người thầy tử tế nhất, nhưng ông không muốn tôi bỏ tu, mà tôi cũng không muốn thế. Tôi xin lỗi sư v́ đă chạy trốn, và ông hỏi tôi có sẵn sàng để xuất gia lần nữa không.
   
- Dạ có.

Tôi trả lời, rất chắc chắn về quyết định của ḿnh.

- Nhưng con không muốn chỉ làm chú tiểu sống ở chùa. Con muốn được đi học trường Phật học.
   
Thầy lập tức nhận lời. Hai ngày sau đó, sau một buổi lễ đơn giản, tôi lại mặc lên ḿnh chiếc y màu vàng lần nữa. Lần này, tôi sẽ không bao giờ cởi nó ra nữa.
   
Sư Sonuttara liên hệ với một vị sư khác, đại đức Siyambalangamuwe Dhammakkhandha, người quản lư một ngôi trường tiểu học nhỏ, dành cho tăng sĩ ở huyện Gampaha, cách chùa khoảng tám mươi bốn cây số. V́ đại đức Siyambalangamuwe và thầy tôi là bạn, nên ông sẵn sàng chấp nhận đơn xin nhập học của tôi.

Và vào tháng tư năm 1944, một tháng sau lần xuất gia gần đây nhất của tôi, tôi bắt đầu chương tŕnh tu học một cách chính thức. Tôi học ở trường Vidyasekhara Pirivena (vidyasekhara có nghĩa là vương miện của sự học, và pirivena có nghĩa trường dành cho tăng sĩ). Có khoảng hai mươi vị tỳ kheo trẻ và ba thầy giáo thọ sống ở đó.

Chúng tôi học lịch sử Ceylon và các kinh điển quan trọng như là Tương Ưng Bộ Kinh (Anguttara Nikaya) và Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya). Chúng tôi cũng được học nhiều sinh ngữ: Sinhale, Tamil, Ấn Độ, Anh, Pali và Sanskrit.
   
Tôi rất sung sướng ở ngôi trường mới này, sống giữa những vị tăng trẻ và suốt ngày được học hành. Nhưng tôi ở đó chưa được bao lâu th́ Đại Đức Siyambalangamuwe đă t́m gặp tôi với một yêu cầu. Ông bảo rằng có một ngôi chùa ở làng Napagoda, nơi vị sư trưởng đă hoàn tục, để lại ngôi chùa không ai trông coi.
   
Sư hỏi tôi có vui ḷng đến đó, quản lư ngôi chùa không. Tôi nghĩ rằng đó chỉ là một sự xếp đặt tạm thời, rằng tôi sẽ ở đó chỉ vài tuần rồi trở lại trường Phật học, nên tôi đă nhận lời.
   
Nhưng mà hoá ra tôi phải sống ở chùa đó đến tám tháng. Không có việc học Phật pháp hay tiếng Pali ở đó, chỉ là những công việc thường nhật ở chùa, những công việc nhàm chán không dừng dứt. Một ngày kia không c̣n ǵ để ăn. Tôi yêu cầu một cậu bé ở chùa, khoảng tuổi tôi, đi mua bánh ḿ ở một tiệm trong làng.

Nó từ chối. Tôi lại yêu cầu lần nữa. Lần nữa nó lại từ chối.

- Tôi sẽ nhờ người khác đi mua, nhưng sau đó tôi sẽ không chia cho bạn đâu.

Tôi bảo với nó. Nó phản ứng lại bằng cách chửi rủa tôi. Tôi đá cho nó mấy cái. Chiều hôm đó, một tăng sĩ khác, người đă sống với chúng tôi ở đó một thời gian trở về chùa. Ông lại là anh của cậu bé kia. Ông hỏi tôi chuyện ǵ đă xảy ra, tại sao cậu bé không c̣n ở chùa nữa. Sau khi nghe tôi kể chuyện, ông rất bực tức.
   
- V́ chú đă đuổi cậu bé duy nhất ở đây để giúp đỡ chúng ta, vậy th́ bây giờ công việc của chú là trèo lên cây hái mấy trái dừa xuống. Tôi từ chối.

- Người tu không trèo cây.

Tôi giải thích:

- Làm vậy là trái luật. Ngoài ra, thầy tôi không gửi tôi đến đây để trèo cây, hái trái.
   
Sau bảy tháng sống trong căng thẳng và những sự căi vả nhỏ mọn như thế, ḷng ham muốn được học hỏi khiến tôi không thể ngồi yên, đến nỗi tôi phải viết thư cho thầy tôi. “Xin thầy vui ḷng cho con trở lại trường học”, tôi van nài.

Không lâu sau đó, tôi mừng rỡ khi nhận được một bưu thiếp từ đại đức Siyambalangamuwe nói rằng, “Được, con có thể trở về trường”. Tôi lập tức mướn một chiếc xe ḅ chở tôi ra trạm xe lửa ở Veyangoda, cách đó hơn năm cây số. Tôi nôn nóng được trở lại Gampaha để ghi danh nhập học trở lại.
   
Khi đến nhà ga, được biết chuyến xe lửa đi Gampaha phải chờ đến năm tiếng nữa, v́ thế tôi đi viếng một ngôi chùa gần đó. Ở ngôi chùa đó có một chú điệu trẻ, khoảng tám hay chín tuổi, tỏ vẻ rất thích tôi. Chú rủ tôi đi tắm với chú ở một con sông, cạnh bên ga xe lửa và tôi miễn cưỡng nghe theo.
   
Dầu đă gần mười bảy tuổi, tôi chưa bao giờ học bơi, nhưng tôi quá tự ái để thú nhận với chú điệu trẻ như thế. Tôi không biết rằng hành động tự ái đó suưt nữa là hại đời tôi.

Kiêu mạn, theo Phật giáo, là một trong năm chướng ngại cuối cùng sẽ bị đoạn diệt, khi hành giả đạt được giác ngộ. Đó là một trong hai mươi bảy uế nhiễm của tâm, mà Đức Phật đă cảnh báo rằng chúng có thể trở ngại ta. Để chế ngự kiêu mạn nơi bản thân, Đức Phật chỉ bày một số quán tưởng mà ta cần thực hiện:
   
- Tôi phải bị hoại diệt; tôi không thể chế ngự hoại diệt.
   
- Tôi phải bệnh hoạn; tôi không thể chế ngự bệnh hoạn.
   
- Tôi phải chết; tôi không thể chế ngự cái chết.
   
- Tất cả những ǵ là của tôi, thân thiết và quư báu, sẽ biến đổi và hoại diệt.

- Tôi làm chủ nghiệp của tôi, thừa hưởng nghiệp của tôi, sinh ra từ nghiệp, liên hệ với nghiệp, tôi gánh chịu nghiệp của ḿnh.

- Bất cứ nghiệp ǵ tôi đă tạo ra, dầu tốt hay xấu, tôi cũng sẽ là người lănh hậu quả.
   
Ở bờ sông, chú điệu cởi áo ngoài ra và nhảy xuống nước. Chú lội như một con cá. Tôi đứng trên bờ, ngưỡng mộ những săi tay nhuần nhuyễn, điệu nghệ của chú. Coi th́ không thấy khó, nhưng thật sự tôi không muốn nhảy vào ḍng nước đục ngầu, đầy bùn đó.
   
Chú điệu thấy tôi đứng trên bờ sông ngại ngần, thúc giục tôi xuống nước với chú. Miễn cưỡng tôi phải cởi áo ngoài ra và cột thắt nút chiếc áo bên trong, để nó không tụt ra. Rồi tôi nín thở nhảy xuống.
   
Ngay lập tức tôi bị nguy khốn. Chân tôi chạm t́m đáy sông, nhưng chỉ cảm thấy bùn nhăo. Không có ǵ cứng rắn để đứng lên đó. Tôi cảm thấy ḿnh đang ch́m xuống, và tôi bắt đầu vùng vẫy. Sự hoảng hốt trào dâng trong tôi giống như một ḍng điện. Tay chân tôi chới với và khi há miệng thở, tôi uống vào ḍng nước sông dơ bẩn đó.
   
Chú điệu nhỏ biết chuyện ǵ đă xảy ra, cố gắng giúp tôi. Chú bơi lại bên tôi, nắm được lỗ tai tôi và kéo đầu tôi lên khỏi mặt nước.

– Ui da!

Nhưng chú yếu quá không đủ sức để kéo người tôi lên khỏi mặt nước. Tôi hoảng sợ túm lấy áo chú, khiến nó tuột ra. Ba lần tôi bị ch́m xuống, tay nắm chặt chiếc áo kia như thể nó sẽ cứu tôi. Ba lần tôi vùng trở lên, t́m kiếm sự giúp đỡ. Lần cuối cùng, tất cả chỉ là một màu đỏ phủ đầy trước mắt tôi. Tôi hoàn toàn bất tỉnh.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 664 of 1146: Đă gửi: 13 September 2010 lúc 10:12pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM


Chương Năm


Trường Phật Học


Khi tỉnh lại, tôi thấy ḿnh đang nằm trên mặt đất bên bờ sông, một người đàn ông đang quỳ cạnh tôi. Tôi bắt đầu ói nước sông ra khi đám đông bu quanh đứng nh́n. Sau đó tôi được kể rằng chú điệu nhỏ, người đă cùng lội với tôi không thể bước lên khỏi sông, v́ trong lúc hoảng loạn, tôi đă níu rách áo quần của chú.

Trần truồng, chú phải đứng nép ở bờ sông, giấu ḿnh dưới nước và la cầu cứu. May là có một người đàn ông vừa bước ra khỏi quán trà cạnh bên ga xe lửa, hỏi cớ sự. Chú điệu nhỏ đă chỉ nơi tôi bị ch́m xuống.
   
- Giờ nầy chắc anh ta đă chết rồi.

Chú la lên. Người đàn ông mặc nguyên cả đồ, nhảy xuống sông, ṃ mẫm dưới nước. Đến khi ông t́m được, tôi đă bất tỉnh ở dưới đáy sông. Ông kéo tôi lên bờ sông và bắt đầu cứu tôi bằng phương pháp hô hấp nhân tạo, trong khi đám đông tụ lại xem.
   
Dần dần tôi ngồi dậy ho và ói nước. Tôi hơi run sợ nhưng cảm thấy an toàn. Chú điệu nhỏ đi t́m sư phụ của ḿnh, và hai người đă đưa tôi trở lại chùa của họ, cách đó khoảng năm mươi thước. Họ cho tôi một tách cà phê nóng với rất nhiều đường và một bộ y khô. Không lâu sau đó th́ tôi trở lại b́nh thường.
   
Vị sư trưởng rất tử tế. Ông hỏi tên tôi và nơi tôi đi đến. Sau khi tôi trả lời, ông sai người ra ga xe lửa mua vé cho tôi đi Gampaha. Sau một vài giờ nghỉ ngơi, tôi lại lên đường. Trớ trêu thay, khi tôi đến trường Phật học ở Gampaha, người đầu tiên bắt chuyện với tôi, hỏi tại sao giọng tôi nói giống như người bị chết đuối.

- Tôi chỉ bị cảm.

Tôi trả lời. Tôi quá xấu hổ không thể nói sự thật. Nhưng ngày hôm sau, trên trang đầu của một tờ báo có tiếng ở Ceylon, đă có in h́nh của tôi với câu chuyện về một tăng sĩ trẻ, suưt chết đuối dưới sông ở ga xe lửa Veyangoda. Bạn bè ở trường Phật học, đă trêu ghẹo tôi về chuyện đó hàng năm trời.
   
Mặc dầu trường Phật học miễn học phí, nhưng tăng sinh nội trú phải trả khoảng năm rupee một tháng. Tiếc thay, tôi không có đồng nào để trả, v́ thế tôi được cho một căn lều bỏ hoang để ở. Căn lều chỉ có nền đất, tường lửng chỉ cao khoảng hơn một thước, không có cửa.

Tôi gom mấy bao tải gạo, vài cây tre và dây nhợ để làm một cánh cửa tạm bợ và che chắn cửa sổ. Để có ánh sáng, tôi dùng một cây đèn đất đốt bằng dầu dừa. Đó là cái kuti đầu tiên của tôi, loại thất một gian mà các tăng sĩ hay trú ngụ trong đó, và tôi cũng rất vui được ở đó.
   
Phần lớn tôi học hành ở trong thất. Chẳng lâu sau, tôi nổi tiếng là một tăng sinh thông minh nhất ở trường. Tôi khám phá ra rằng, tôi có một trí nhớ như in, rơ ràng là một quà tặng của thiện nghiệp.

Tôi có thể đọc một quyển sách dài trong mười phút, và nhớ tất cả mọi thứ trong đó. Tôi không biết bằng cách nào; chỉ biết rằng mỗi trang sách trụ lại trong tâm tôi như một bức ảnh. Tôi rất hănh diện về khả năng thiên phú này của ḿnh, và thường yêu cầu bạn bè thử thách tôi, bằng cách đặt những câu hỏi từ trong sách.

Tôi có thể trả lời câu họ hỏi ở trang số mấy, và ngay cả dấu chấm phẩy trong câu hỏi. Có lẽ v́ vậy, thầy hiệu trưởng của trường rất thích tôi, cho tôi làm phụ tá cho ông. Tôi cũng được bầu chọn làm thủ quỹ, có nghĩa là tôi quản lư, cất giữ tất cả tiền đóng góp được gửi tới trường.

Và cả các vật dụng khác như là y áo, thuốc men. Rồi sau đó tôi sẽ phân phát lại cho các tăng sinh nếu cần. V́ quyền hạn và bổn phận này của tôi, mà một số bạn học trở nên ganh tỵ với tôi, đă thế tôi lại c̣n sanh tánh hay thóc mách, khuyết điểm của các bạn khác với thầy hiệu trưởng.

Tóm lại, tôi là một kẻ tồi tệ. Tôi gửi báo cáo này đến báo cáo khác, kẻ vạch từng chi tiết những sai trái của bạn bè. Tôi biết rằng, lư ra tôi phải quan tâm về các hành động của ḿnh, hơn là t́m kiếm lỗi của người, nhưng v́ muốn duy tŕ ḷng tin yêu của thầy hiệu trưởng, nên tôi đă làm thế.
   
Tôi đă không thực hành lời dạy của Đức Phật trong kinh Pháp Cú: Thấy lỗi người th́ dễ, nhưng lỗi ḿnh khó thay. Ta sàng lọc lỗi người như rơm trấu, mà lại giấu lỗi ḿnh, hay như gă thợ săn giảo quyệt núp sau những cành cây ngụy tạo. Người luôn t́m lỗi người, luôn xét nét, (v́ thế) uế nhiễm của họ càng tăng. Họ rất khó đoạn trừ uế nhiễm.
   
Vào những ngày rằm, tôi được giảng pháp khoảng nửa giờ tại trường. Thường thường những bài Pháp này, dựa trên các sách tôi đă đọc. Nhưng một lần kia tôi nghĩ rằng làm thế, sẽ khiến cho thính giả của tôi nhàm chán, v́ thế tôi quyết định “sáng tạo”.

Tôi chỉ học thuộc một bài kinh dài ba trang, một trong những bài giảng của Đức Phật gọi là kinh Visakhuposatha. Rồi tôi lặp lại với thính giả của ḿnh. Bài thuyết pháp thể nghiệm thất bại. Tôi đọc xong bài kinh chỉ trong mười phút, sau đó tôi chỉ lảm nhảm thêm năm phút nữa về điều ǵ, tôi cũng không nhớ nữa.

Thật xấu hổ. Đó là một bài học quư giá cho tôi về giá trị của sự chuẩn bị chu đáo. Từ đó, tôi luôn chuẩn bị cẩn thận từng bài thuyết pháp của ḿnh. Tôi thường chọn một câu trong kinh Pháp Cú, rồi giảng rộng ra dùng những câu chuyện trong phần chú giải.

Kinh Pháp Cú bao gồm 423 câu, phần lớn dạy về giới luật và đạo đức. Ngoài ra cũng có hàng trăm câu chuyện rải rác khắp nơi trong tàng kinh Phật giáo, để minh họa cho các đề tài được nói đến trong kinh Pháp Cú. Tôi rất thích kể những câu chuyện này, để tạo cho người nghe một căn bản về đạo đức Phật giáo.
   
Măi lâu sau này, qua bao năm tu tập, tôi mới cảm thấy đủ tự tin để thuyết pháp mà không cần chuẩn bị trước. Ở trường Phật học, vào tuổi mười bảy, cuối cùng tôi cũng bỏ được tật hút thuốc lá. Đó là một thói quen tôi đă huân tập nhiều năm, nhưng tiếc thay tôi chỉ thay đổi cái ghiền này bằng cái ghiền khác.

Thói quen mới của tôi là ăn trầu, một hỗn hợp gồm lá trầu, cau, vôi và sợi thuốc lá. Chẳng bao lâu sau tôi trở thành cây hài của trường. Mỗi tối, tôi đều tụ tập bạn bè lại, kể chuyện tiếu lâm cho họ nghe hằng giờ đồng hồ. Tôi rất thích làm cho họ cười.
   
Một trong những câu chuyện tiếu của tôi là về một vị bảo trợ của chùa, người rất bực tức v́ quư tu sĩ ở đó, không bao giờ mang đồ cúng dường của ông, dâng trước tượng Phật. V́ thế ông cột một sợi dây quanh cổ tượng Phật, rồi treo tượng lên xà nhà. Khi các tăng sĩ khám phá ra điều đó, hỏi ông tại sao, ông bảo đó là một sự tự tử.

- Tượng Phật bảo rằng không thể sống ở một nơi như thế. Ông giải thích.
   
Cũng lạ là thầy hiệu trưởng không phản đối những câu chuyện tiếu lâm bất kính đó. Thường thường, sau màn tŕnh diễn của tôi, chúng tôi vào pḥng ông, cùng thưởng thức việc ăn trầu với ông. Ông là một người rất tinh tế trong việc đối xử với các tăng sinh trẻ.

Ông nghiêm khắc, nhưng cũng rất hoà nhă. Ông biết cách khuyến khích chúng tôi mà không ép buộc, nếu không, chúng tôi cũng chẳng màng đến chuyện học hành. Ông khuyến khích chúng tôi trở nên những tăng sĩ gương mẫu.

- Các cư sĩ luôn ngưỡng mộ quư thầy.

Ông nói:

- Họ biết rằng quư thầy đă hy sinh các dục lạc để dâng hiến cuộc đời cho việc hành pháp, v́ thế quư thầy phải xứng đáng với ḷng kính trọng đó.
   
Gần như không bao giờ tôi có đồng nào, nhưng không hề ǵ. Chỗ ở khiêm nhường của tôi được miễn phí, đồ ăn th́ do đi khất thực, và thay v́ phải mua sách giáo khoa, tôi mượn các bạn và chép lại bằng cách viết tay. Tôi chỉ nghĩ đơn giản là tôi đă có tất cả mọi thứ cấn thiết, để hoàn tất chương tŕnh học của ḿnh.

Tôi rất tự tin ở bản thân cũng như ở Tam Bảo, Phật, Pháp và Tăng. Tôi cảm thấy như là Đức Phật vẫn c̣n sống và đi bên tôi xuyên suốt cuộc đời, hỗ trợ tôi bất cứ những ǵ tôi cần.

Tôi tin chắc rằng Phật pháp sẽ bảo vệ tôi, v́ tôi đă phấn đấu không ngừng, để học hỏi những điều Phật dạy. Và tôi nghĩ rằng v́ tôi là thành viên của Tăng đoàn, tôi sẽ không gặp khó khăn, trở ngại để có những thứ tôi cần.

Ngay cả bây giờ, nhiều thế kỷ sau, tôi vẫn cảm thấy Tam Bảo luôn hộ tŕ cho tôi. Tất cả những nhu cầu vật chất của tôi dần dần đều được thoả măn, mà không cần vất vả kiếm t́m.
   
Một ngày kia, một sư huynh nhờ tôi cạo tóc giùm. Đó là việc thường xảy ra trong tu viện, nhưng tôi chưa bao giờ cạo tóc cho ai, ngay chính cho bản thân. Tôi bảo với ông điều đó, nhưng ông khư khư nói:

- Cũng đến lúc thầy phải học.

Việc cạo râu tóc là một phần quan trọng của giới luật trong các tu viện Phật giáo. Cả tăng và ni đều phải làm thế. Một chiếc đầu cạo nói lên sự sạch sẽ, khiêm cung và nó cũng giúp ta tránh được vấn đề phải giết chí trên đầu!

Đó cũng là biểu tượng của sự xả bỏ, nhằm giúp tăng ni bớt bám víu vào vẻ đẹp h́nh thức bên ngoài. Nếu quư tăng ni không phải mất nhiều th́ giờ gội, chải, sửa soạn tóc tai, th́ họ có nhiều thời gian hơn dành cho việc theo đuổi những vấn đề tâm linh.
   
Vinaya hay là giới luật ở tu viện, dạy rằng tăng ni có thể để tóc dài chừng năm centimét. Có người th́ cạo tóc mỗi tháng một lần, thường là ngay trước ngày rằm. Người khác th́ cạo mỗi tuần, hay có khi mỗi ngày.
   
Điều lệ này quan trọng đến nỗi một lưỡi dao cạo bén, là một trong tám thứ được kể trong nhóm sở hữu, thường được gọi là nhu yếu phẩm, mà người tu sĩ được tiếp nhận lúc thọ giới. Những vật dụng khác là nội y; áo để quấn quanh ḿnh; áo ngoài hai lớp như một tấm mền; một dây nịt vải; một đồ lược nước; một bộ kim chỉ; và một b́nh bát.
   
Khi vị sư huynh nhất định là tôi phải cạo tóc cho ông, tôi đảnh lễ và đồng ư làm theo truyền thống. Tôi thấm nước lên đầu ông, chà xà bông lên đó, và cầm lưỡi lam lên. Đứng phía sau ông, tôi kéo lưỡi dao trên da đầu và một miếng da khoảng hai centimét tụt khỏi đầu ông! Ngay lập tức máu tuôn ra. Tôi sợ quá đến nỗi tôi bắt đầu run lên.

- Thưa đại đức, xin hăy tha thứ cho con.

Tôi nói, rồi chạy đi t́m một tăng sinh khác. Thầy ấy mang vào một ít nước lạnh để rửa vết thương. Rồi trong khi tôi đứng nh́n trong sự xấu hổ và sợ hăi, thầy cạo nốt phần tóc c̣n lại của vị đại đức không may. Dĩ nhiên vào thời đó chúng tôi không có băng cá nhân, nên vị sư huynh kia phải đi khất thực với một cục thuốc dán trên đầu.
   
Nhờ vào trí nhớ như chụp ảnh, tôi học rất nhanh. Tiếng Sinhala, Pali và Santrit là những môn bắt buộc. Và tiếng Tamil, Ấn Độ và tiếng Anh là tuỳ chọn. Không cần nhiều cố gắng, tôi học được tất cả các môn. Như để thưởng tôi, cuối cùng tôi được phép vào sống trong kư túc xá với các tăng sinh khác, mặc dầu tôi tiếp tục không có khả năng để trả tiền trọ.

Tôi được phép đến ở chung pḥng với một sadi khác. Rủi thay, người bạn cùng pḥng ganh tỵ với tôi. Một ngày kia tôi kéo trong túi ra một quyển sách giáo khoa tiếng Anh mỏng, mà tôi đă mượn của người khác, tôi thấy nó đă bị xé hai.

Tôi lo lắng không biết làm sao để đền tiền quyển sách, và bắt đầu khóc. Một tăng sinh khác ở pḥng bên cạnh nghe tôi thút thít, đă hứa giúp đỡ bằng cách mua một quyển sách khác. Vài ngày sau đó, người bạn cùng pḥng đă thú nhận rằng, thầy đă xé sách của tôi v́ ganh tỵ với sự nổi tiếng và học giỏi của tôi ở trường.

Chiều hôm đó chúng tôi giải quyết mọi khúc mắc và dần trở thành bạn tốt của nhau. Dần dần, ngày thọ đại giới của tôi cũng đă được định. Đó là ngày 25 tháng 6, năm 1947. Tôi rất phấn khởi và hạnh phúc. Cuối cùng tôi cũng sẽ được làm một vị tỳ kheo với đầy đủ giới luật, ước mơ của tôi cũng đă thành hiện thực.

Trước một hội đồng tăng già trang nghiêm, tôi sẽ thọ các giới luật mới khắt khe hơn. Thay v́ là một sadi với mười giới luật, giờ tôi sẽ chấp nhận thọ 227 giới luật, những giới luật mà một tỳ kheo Phật giáo nguyên thủy phải tuân hành.
   
Tôi gần như không thể chờ đợi lâu hơn. Buồn thay, ngay từ ban đầu, đă có một bóng mây trong quá tŕnh đó. Vấn đề không phải là tôi có đủ tư cách, để trở thành một tỳ kheo không, mà là vấn đề chính trị trong hội đồng Tăng Già Phật giáo ở Ceylon. Những vấn đề chính trị nầy, đe dọa sẽ tŕ hoăn giấc mơ mà tôi đă ấp ủ cả đời.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 665 of 1146: Đă gửi: 13 September 2010 lúc 11:29pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM


Chương Sáu


Thọ Đại Giới


Ở Tích Lan, có ba tông phái chánh của Phật giáo nguyên thủy. Tông phái xưa nhất và lớn nhất, mà tôi là một thành viên, là Siyam Nikaya.

Tông phái này có nhiều tăng sĩ và chùa chiền hơn là các tông phái khác. Nó cũng có những ngôi chùa cổ xưa nhất ở đất nước này. Cái tên Siyam, có từ khi Tăng già hay là tăng đoàn, đă rơi xuống con số thấp nhất, dưới sự cai trị của người Anh ở Ceylon, và cũng do ảnh hưởng của các nhà truyền đạo người Ḥa Lan và Bồ Đào Nha.

Có rất nhiều Sadi, nhưng không c̣n lại một vị tỳ kheo đă thọ đại giới với 227 giới luật nào, do đó không thể truyền giới cho người khác. Một Sadi người Ceylon du hành qua Xiêm (Siam), là tên gọi của Thái Lan thời đó, để được thọ đại giới làm tỳ kheo. Rồi sau đó ông trở về Ceylon, thiết lập lại tăng đoàn vào năm 1753.
   
Chỉ có những người thuộc giai cấp cao quư nhất trong xă hội Ceylon, gọi là Goyigama, mới được phép thọ đại giới trong tông phái Siyam Nikaya. Gia đ́nh của tôi tuy nghèo lại thuộc vào giai cấp này. Ở Ceylon giai cấp không dựa vào sự giàu có, nhưng vào ḍng dơi gia đ́nh.

Nhiều năm sau đó, một nhóm Sadi không thuộc ḍng dơi Goyigama du hành đến Amarapura, ở Burma và được thọ đại giới ở đó. Nhóm người này trở lại Ceylon và thành lập tông phái Amarapura Nikaya vào năm 1800. Tông thứ ba, thành lập vào năm 1810 bởi các tăng sĩ đă đến khu vực Ramanna của Burma, trở thành tông phái Ramanna Nikaya.
   
Lúc đầu giữa các tông phái có rất nhiều tranh chấp. Mỗi tông phái đều nghĩ rằng, tông phái khác không ǵn giữ các giới luật tăng đoàn nghiêm chỉnh đủ. Các tăng sĩ thuộc ḍng Siyam Nikaya, thí dụ, cạo cả lông mày cũng như tóc. Tăng sĩ thuộc các tông phái khác th́ không.

Mặt khác, khi ra khỏi chùa tăng sĩ thuộc tông phái Siyam, được phép để một vai trần khi họ quấn y quanh ḿnh. Tăng sĩ thuộc các tông phái khác th́ phải che phủ cả hai vai.
   
Sư phụ của tôi, sư Sonuttara, thuộc về tông phái Siyam Nikaya. Thầy của ông là một thành viên của hội đồng chứng minh cao nhất của tông phái này, hoà thượng Pahamune Sumangala.
   
Năm 1911, lúc thầy tôi được hai mươi lăm tuổi, ông được gửi đến trông coi một ngôi chùa ở làng Malandeniya. Lập tức vị sư trưởng ở một chùa trong làng kế bên, Kebilitigoda, không bằng ḷng.

Ngôi chùa ở Kebilitigoda đă có mặt hơn mười năm trước khi thầy tôi đến Malandeniya. Dù thế, vị sư trưởng này cũng ganh tỵ với thầy tôi, v́ thế ông khiếu nại ra luật pháp rằng, ngôi chùa mới đó thuộc quyền sở hữu của ông.

Do đó, thầy tôi phải đến đảnh lễ và thăm viếng vị sư ở Kebilitigoda mỗi ngày để tỏ ḷng kính trọng. Th́ ra, vị sư ở Kebilitigoda là đại đức Sumanatissa, là người đă truyền giới sadi cho tôi năm tôi mười ba tuổi. Ông cũng có thể "khiếu nại" rằng tôi là đệ tử của ông, nhưng ông không làm thế.

Tôi đoán có lẽ lúc đó tôi không có dấu hiệu ǵ là một tăng sĩ có nhiều triển vọng. Qua thời gian, sự hiềm khích giữa hai chùa càng tăng lên. Và đến thời điểm tôi thọ đại giới năm 1947, tôi bị vướng vào cuộc tranh chấp này.
   
Theo truyền thống, khi một sadi sắp thọ đại giới, thông báo về buổi lễ được gửi đến cho bạn bè, người thân, các vị tăng sĩ ở chùa, và tất cả những chùa mà người sadi đó đă từng lưu trú. Tờ thông báo được in trên giấy rẻ tiền rồi được gửi hay đưa tận tay.
   
Thầy hiệu trưởng trường Phật học viết tờ thông báo cho tôi, và theo truyền thống, tôi phải mang về cho thầy tôi kư. Nhưng v́ lư do ǵ đó, sư Sonuttara ngại ngùng khi phải kư tên ông như là trụ tŕ chùa ở Malandeniya.
   
- Nhưng sư bắt đầu ở chùa này từ năm 1911.

Tôi nói:

- Sư đă gầy dựng nó và sư là vị tăng sĩ duy nhất sống ở đây. C̣n ai có thể là trụ tŕ của chùa?
   
Sư Sonuttara không nói ǵ, nhưng cuối cùng ông cũng kư tờ giấy. Tôi làm nhiều bản copy và tự tay mang tờ đầu tiên đến cho đại đức Sumanatissa, vị thầy đầu tiên của tôi, ở ngôi chùa trong làng kế bên.

Ngay khi vừa thấy chữ kư của sư phụ tôi, như là trụ tŕ của ngôi chùa kia, ông nổi giận.
   
- Đại đức Sonuttara không phải là trụ tŕ ở chùa đó.

Ông la to:

- Tôi mới là! Và tôi cũng không có tên trong danh sách các sư phụ của thầy.
   
Ông lập tức đi ra trụ sở của tông phái Siyam Nikaya ở Kandy, và yêu cầu hoăn buổi lễ thọ giới của tôi lại. Sư phụ và tôi cảm thấy bàng hoàng, nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục chuẩn bị cho buổi lễ, hy vọng rằng sự tranh chấp bằng cách nào đó sẽ được giải quyết.
   
Vào đêm trước lễ thọ đại giới của tôi, theo tục lệ, người dân làng Malandeniya đă sắp xếp một nghi thức trọng thể, và một buổi tiếp đón ở chùa dành cho tôi. Mặc dầu đại đức Sumanatissa đe doạ sẽ cản trở buổi lễ, nó vẫn được diễn ra mà không có vấn đề ǵ.
   
Ngày hôm sau, 25 tháng 6, chúng tôi đến Kandy. Nghi lễ thọ giới sẽ được tổ chức trong sima, một ṭa thánh trong khuôn viên của trụ sở tông phái Siyam Nikaya. Vào ngày đó, hai mươi sáu vị sadi, kể cả tôi, được chuẩn bị để thọ đại giới. Bạn bè, người thân và những người đến chúc phúc đă có mặt ở sima.
   
Như tôi đă lo ngại, đại đức Sumanatissa không để yên cho việc này. Ông đă đệ đơn chính thức khiếu nại, chống lại sự thọ giới của tôi, v́ ông, chứ không phải sư phụ tôi, là trụ tŕ của chùa ở Malandeniya.

V́ thế, sư phụ tôi không có quyền kư tên vào giấy chứng nhận thọ giới của tôi với tư cách là “sư trưởng.” Đại đức Sumanatissa nhất quyết rằng sư phụ tôi chỉ được kư tên với tư cách là vị "sư thường trú" tại chùa.
   
Sư phụ tôi, sư Sonuttara, là người ít học, không rành chữ nghĩa. Ông rất sợ phải chống đối với bất cứ vị sư nào trưởng thượng hơn. Nhưng trên tất cả, ông không muốn sự tranh chấp này sẽ phá hỏng cơ hôi được thọ giới của tôi.

Tôi rất giận đại đức Sumanatissa, một phần v́ ông quá khó khăn với sư phụ tôi, phần v́ ông đă muốn làm hỏng một ngày quan trọng nhất trong đời tôi. Tôi cảm thấy tính chính trị trong tất cả mọi thứ thật là kinh khủng, nhưng tôi không thể làm được ǵ hơn. Không một lời căi vả, sư phụ tôi kư vào giấy chứng nhận theo như đại đức Sumanatissa yêu cầu, với mấy chữ sư thường trú cạnh bên tên ông.
   
Vài giờ trước khi buổi lễ bắt đầu, hai vị sư huynh vận y cho tôi toàn trắng, với một cái mũ giống như vương miện trên đầu. Nếu người sắp thọ giới có bà con hay người bảo trợ giàu có, th́ có thể cưỡi voi, một biểu tượng của sự oai nghiêm và đẳng cấp. Vị đó cũng có thể có hàng trăm người đi theo, đánh trống, thổi kèn, sáo, và nhảy múa.

V́ gia đ́nh tôi không giàu có, nghi lễ dành cho tôi đơn giản hơn. Trong lúc tôi đang thay y áo, bà con họ hàng và các thầy của tôi, đă chuẩn bị sẵn những mâm quà cho các thành viên của hội đồng chứng minh. Mỗi mâm gồm có trầu cau để ăn, thuốc để hút, một cái khăn lông, một bánh xà bông, kem đánh răng, bàn chải đánh răng làm từ những cọng cỏ nhỏ và một hộp bánh.
   
Có khoảng hai mươi vị chức sắc đến dự: ḥa thượng trưởng môn của tông phái Siyam Nikaya; hai thị giả của ngài, cũng là những người cao hạ, uy nghi; một tăng sĩ thư kư, người quản lư mọi giấy tờ trong tông phái; và mười sáu người khác.

Theo một tôn ti trật tự rất khắt khe, tôi phải đến lễ mỗi vị sư ở thất của họ, theo thứ tự, và dâng cúng cho họ những mâm quà. Nghi lễ này kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ. Mặc dầu có vẻ rườm rà, nhưng mỗi vị sắp thọ giới trọng, phải thọ giới sadi trở lại và mặc chiếc y mới màu vàng chói, trong những giờ phút cuối cùng, trước khi người đó trở thành một vị tỳ kheo.

Điều đó nhắc nhở người sắp thọ giới, một lần nữa, về sự từ bỏ cuộc sống vương giả của thái tử Siddhattha, chỉ quấn quanh người Ngài một mảnh vải màu vàng, khi Ngài bắt đầu cuộc sống không nhà. Nó cũng được dùng để "lau sạch mọi tội lỗi" trong trường hợp người sắp thọ giới, đă phạm lỗi ǵ trong giai đoạn làm sadi, và đă không kịp sám hối với sư phụ của ḿnh.
   
Khoảng sáu giờ chiều, buổi lễ bắt đầu. Một sợi dây ngăn ṭa sima làm hai, một bên dành cho quư sư bên kia cho cư sĩ. Phía bên cư sĩ th́ đông nghẹt với hàng trăm khách khứa ồn ào. Trẻ con đùa giỡn, em bé khóc lóc, và người lớn tṛ chuyện cười đùa.
   
Ở cuối pḥng họp là một tượng Phật to lớn. Tượng Phật được đặt trên một bàn thờ gỗ đen đă tróc nước sơn, tràn đầy những đèn cầy dâng cúng và đèn đất nhỏ, các lư hương ngun ngút khói, các b́nh hoa, các ly nhỏ chứa đầy nước trái cây, nước trà hay nước lă.

Một mâm đựng những trầu cau theo truyền thống. Một đôi đèn dầu bằng đồng to được đặt hai bên hông bàn thờ, chiếu ánh sáng lung linh trên khuôn mặt trầm tĩnh của Đức Phật. Ngồi bên phải bức tượng là vị thượng tọa trưởng môn, hai bên là hai thị giả. Các vị tăng khác trong hội đồng chứng minh ngồi trên sàn gỗ, hai hàng đối mặt nhau.
   
Các sadi chúng tôi được dặn phải ngồi trên sàn nhà theo thứ tự tuổi tác. C̣n sáu tháng nữa mới được hai mươi tuổi, tôi là người trẻ nhất. Một sadi ít nhất phải hai mươi tuổi mới được thọ giới trọng, nhưng v́ tôi đă hoàn tất mọi điều kiện khác, tôi được thọ giới sáu tháng sớm hơn.
   
Đầu tiên là một cuộc sát hạch bằng miệng, qua đó một vị sư cao niên sẽ hỏi các sadi, từng người một, tụng lại các kinh và trả lời câu hỏi. Người giám khảo buổi chiều hôm đó là vị sư cao niên cấp bậc thứ hai, một người được biết là rất khắt khe.

Cách của ông là đọc một ḍng đầu tiên trong các kinh Phật, rồi yêu cầu người sắp thọ giới phải hoàn tất bài kinh. Phần đông các sadi khác chỉ thuộc các đoạn kinh bắt buộc. C̣n tôi, với trí nhớ như in và ḷng muốn chứng tỏ sự vượt trội, đă học thuộc ḷng nhiều hơn. Dầu thế trước đám đông tôi cũng rất run.

Cuối cùng, sau hai mươi lăm vị sadi khác, cũng đến phiên tôi. Vị giám khảo đă làm việc hơn một tiếng rưỡi rồi và ông có vẻ mệt nhoài. Ông yêu cầu tôi đọc một đoạn trong kinh Pháp Cú. Tôi hít một hơi thở sâu, nhắm mắt lại và đọc một mạch không ngừng tám đoạn kinh.
   
- Thôi đủ rồi.

Vị giám khảo nói:

- "Thầy rất thuộc bài.

Kế tiếp, mỗi sadi phải được chấp nhận một cách chính thức, là người sẽ được thọ giới. Giống như các sadi trước tôi, tôi đứng dậy và đến trước một trong các vị sư chứng minh. Ông hỏi tôi theo như thể thức bắt buộc: tên tôi; giới tính; tên cha mẹ; tên sư phụ; tôi có bệnh truyền nhiễm ǵ không; tôi có ở trong quân đội hay là một người thường dân; và cả câu hỏi về tôi là người hay ma quỷ.
   
Trong khi phần lớn chỉ là h́nh thức, những câu hỏi này nhằm xác nhận rằng, tôi không phải là một kẻ tội đồ, đang t́m cách trốn tránh pháp luật bằng màu áo người tu. Câu hỏi về bệnh truyền nhiễm để chắc chắn rằng tôi không có những chứng bệnh, có thể lây lan cho cộng đồng các tăng sĩ.

Những câu hỏi khác hơi kỳ hoặc, là những câu hỏi truyền thống đă có từ thời Đức Phật. Sau khi tôi đă trả lời tất cả các câu hỏi, vị sư tuyên bố với vị trưởng môn rằng tôi hội đủ điều kiện để được truyền giới. Tôi quỳ trước vị trưởng môn và đảnh lễ, chạm trán xuống sàn nhà trước mặt ông ba lần. Lần nữa, tôi lại trả lời một số câu hỏi, lần này cho vị trưởng môn nghe.

Sau đó tôi được dạy ngồi xuống với các sadi khác. Hai vị sư thuyết giảng cho chúng tôi nghe về sự quan trọng của 227 giới, mà chúng tôi phải tuân giữ sau khi thọ giới, nhấn mạnh đến bốn giới trọng: Không dâm dục; không lấy bất cứ ǵ không phải là cho ḿnh; không sát hại; và không khoe khoang về các khả năng siêu nhiên.

Ngoài ra, chúng tôi cũng được nhắc nhở về việc vun trồng tâm xả, đối với bốn vật dụng mà các cư sĩ cúng dường: y áo, thực phẩm, nơi ở và thuốc men. Tất cả những lời khuyên này, đều xuất phát từ những lời dạy ban đầu của Đức Phật, đối với đệ tử của Ngài.
   
Cuối cùng, với chiếc b́nh bát mới tinh đeo trên cổ, chúng tôi đảnh lễ từng vị sư trong hội đồng chứng minh, bắt đầu từ vị trưởng môn. Sau đó chúng tôi ngồi xuống thành hàng dài, và tất cả các cư sĩ xếp hàng đến cúng dường vật dụng cho chúng tôi.

Đây là phần vui nhất của buổi lễ. Nó nhấn mạnh đến sự tương quan tùy thuộc giữa tăng đoàn và cư sĩ. Nhiều cư sĩ khóc, khi họ vái chào và đặt đồ cúng dường của họ trước mặt chúng tôi. Nghi lễ cúng dường là một trong những nét văn hóa trong Phật giáo, nhưng đôi khi bị hiểu lầm bởi người ngoại đạo cho rằng, tăng sĩ là những hành khất lười biếng, được đám đông khờ dại hỗ trợ.

Thật ra, điều đó hoàn toàn ngược lại: người cho cũng nhận được nhiều như, nếu không nói là hơn, người nhận v́ họ đă thực hành hạnh bố thí, hay sự rộng lượng. Bất cứ ai cúng dường, cũng là đang thực hành tâm rộng lượng. Đức Phật dạy rằng, cách thực hành này là một phương tiện thiện xảo, để đoạn diệt ḷng tham chấp.

Trong rất nhiều bài kinh, Đức Phật đă khuyến khích các Phật tử thực hành hạnh bố thí, bất cứ khi nào và ở bất cứ nơi nào có thể:
   
NHƯ MỘT B̀NH CHỨA NƯỚC ĐẦY,
   
NẾU DỐC NGƯỢC B̀NH,
   
TẤT CẢ NƯỚC CHẢY RA
   
KHÔNG GIỮ G̀ LẠI CẢ.
   
HƠN THẾ NỮA, NẾU BẠN GẶP NGƯỜI CẦN GIÚP ĐỠ
   
DẦU Ở GIAI CẤP THẤP, TRUNG HAY SANG CẢ,
   
TH̀ HĂY BỐ THÍ NHƯ CHIẾC B̀NH DỐC NGƯỢC
   
KHÔNG GIỮ LẠI G̀ CẢ.
   
Trong một bài thuyết giảng khác, Đức Phật dạy rằng có ba cách để tạo công đức. Ba cách đó là giữ giới, thiền định và bố thí.
   
H́nh thức bố thí giữa người cư sĩ và tu sĩ, gần giống như một sự hỗ tương lẫn nhau. Người cư sĩ cúng dường các vật dụng cần thiết, để giúp vị tu sĩ có thể bước trên con đường đạo, mà không phải lo lắng về những vật dụng cần thiết. Đáp lại, người tu sĩ cầu an, cũng như thuyết pháp, là Pháp thí cho cư sĩ.
   
Trong buổi lễ thọ giới của tôi, khi các vật dụng cúng dường dần dần chất cao trên sàn nhà trước mặt tôi, tôi ngồi đó và tưởng nhớ đến mẹ. Tôi ước chi bà có thể chứng kiến buổi lễ này! Tôi biết nó có ư nghĩa xiết bao đối với bà, và nếu có bà ở đây th́ nó cũng có ư nghĩa với tôi xiết bao.

Nhưng v́ lưng mẹ tôi bị chấn thương, bà không thể đi bộ hơn mười mấy cây số từ làng đến đây, và bà cũng không có phương tiện ǵ khác để có thể đến đây. Nếu bà có mặt ở Kandy ngày hôm đó, chắc chắn rằng bà sẽ khóc những giọt nước mắt vui mừng, thấy rằng đứa con trai út của bà, cuối cùng cũng đă trở thành một vị tỳ kheo với đầy đủ giới luật.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 666 of 1146: Đă gửi: 14 September 2010 lúc 12:02am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM


Chương Bảy


Thuốc Chữa Cuối Cùng: Thiền Quán


Một vài ngày sau lễ thọ đại giới, tôi sốt sắng tham gia vào một trong những Phật sự, của một vị tỳ kheo với đầy đủ giới luật, là đả Phật thất.

Nghi lễ này, được gọi trong tiếng Pali là paritta, được thực hiện nhằm xua đuổi những vong linh xấu ác, một thí dụ khác nữa về việc niềm tin dân gian và Phật giáo, vẫn có mặt cạnh nhau.

Nếu có người bệnh, hay dân làng đang gánh chịu một trận đói hay hạn hán (những bất hạnh mà có thể là do những linh hồn xấu ác tạo ra), người ta thường yêu cầu quư sư thực hiện việc tụng niệm đặc biệt này. Suốt cả tuần, từng hai tu sĩ luôn phiên tụng niệm không dừng.

Mỗi lần, họ tụng khoảng một giờ, rồi hai người khác thay phiên tụng. Sự tụng niệm này rất nhiệt huyết, gần như là hét hơn là xướng tụng. Chỉ có các vị sư với giọng tụng mạnh mẽ mới được lựa chọn, và họ được coi trọng v́ sự nỗ lực này. Các tăng sĩ trẻ thường nôn nóng để được đến lượt ḿnh gia nhập nhóm tụng niệm này.
   
Một người bạn của tôi ở trường Phật học cũng nôn nóng được tham gia nghi lễ này như là tôi. Vị này thọ giới trước tôi một ngày, v́ thế cả hai chúng tôi cùng đủ điều kiện như nhau. Chẳng bao lâu sau đó, chúng tôi tranh nhau nhận lời mời tham dự một nghi lễ tụng niệm, ở một ngôi chùa gần bên, mà bạn chúng tôi là sư trưởng ở đó.
   
Cả hai chúng tôi đều trẻ, đầy nhiệt huyết và v́ đây là nghi lễ đả Phật thất đầu tiên của chúng tôi, nên chúng tôi muốn tụng nhiều hơn là chỉ một lần. V́ thế, chúng tôi khẩn cầu vài vị sư huynh nhường cho chúng tôi phần tụng niệm của họ.

Họ đă thực hiện rất nhiều paritta nên vui vẻ nhận lời, v́ thế cuối cùng là chúng tôi tụng phần lớn thời gian. Chúng tôi chỉ nghỉ để ăn hay làm công tác vệ sinh. Chúng tôi không ngủ chút nào! Mỗi ngày lúc sáu giờ sáng, mười một giờ sáng, và sáu giờ chiều, người ta gióng trống lên để báo hiệu buổi tụng niệm bắt đầu.

Họ phải đánh trống thật lớn để có thể át tiếng tụng niệm của chúng tôi. Ngược lại, để chứng tỏ sinh lực của ḿnh, bạn tôi và tôi tụng c̣n lớn hơn nữa. V́ cố gắng để át tiếng trống, chúng tôi gần như là hét khan cả phổi. Sau ba ngày bạn tôi xỉu luôn. Mấy vị cư sĩ ở chùa phải khiêng thầy vào pḥng và đặt thầy lên giường ngủ.

Tới chiều tỉnh lại, thầy lại cùng tôi tiếp tục tụng niệm. Đến cuối tuần th́ cả hai chúng tôi đều không c̣n sức lực. Dầu rất cần nghỉ ngơi, chúng tôi không thể ngủ. Chúng tôi cũng không thể nuốt trôi thứ ǵ, và cả hai đều bị nhức đầu khủng khiếp. Chúng tôi không thể chịu đựng ai ở quanh ḿnh.

Tôi nghĩ có lẽ chúng tôi bị khủng hoảng tinh thần. Tệ hơn cả là tôi mất trí nhớ, không chỉ trí nhớ như in mà tất cả mọi thứ! Tôi không thể nhận ra mẫu tự của bất cứ ngôn ngữ nào, Sinhala, Sanskrit, Tamil, hay tiếng Anh.

Khi mở một trang sách, tôi không hiểu trong đó nói ǵ. Nếu tôi gặp ai đó, rồi năm phút sau gặp lại, tôi cũng không thể nhớ tên người đó. Tôi cảm thấy rất đau khổ và buồn bực bởi những ǵ đă xảy đến cho tôi. Tất cả niềm hănh diện về những thành tựu trong việc học tập của tôi đều tan biến.
   
Trở lại trường, tôi không làm tốt các bài thi cuối khóa. Thầy hiệu trưởng hoang mang v́ người học tṛ siêu sao của ông đă làm bài quá tệ, ông cho gọi tôi vào văn pḥng. Tôi kể cho ông nghe về việc tôi tụng kinh suốt bảy ngày đêm và trí nhớ của tôi đă biến mất như thế nào. Ông bảo tôi hăy trở về chùa để nghỉ ngơi và trị bệnh.
   
Cả năm trời sau đó, tôi t́m đến đủ mọi phương cách chữa bệnh, một cuộc t́m kiếm vô vọng cho phương thuốc thần. Đầu tiên, sư phụ tôi chế ra một hỗn hợp thuốc từ các loại cây và đắp lên trán tôi mỗi sáng. Sau một tháng tôi cũng không khá hơn, dầu vậy, tôi vẫn muốn được trở lại trường học.

Những ngày huy hoàng của tôi đă qua đi. Giờ tôi phải vất vả học chính những điều đơn giản nhất. Không chỉ là trí nhớ như in của tôi đă biến mất, mà tôi c̣n phải vật lộn với từng câu từng chữ, hay đôi khi cả từng mẫu tự.

Có những đêm, trong lúc đọc sách, tôi cảm thấy như có bao sâu bọ cắn rứt óc năo tôi. Tôi thật hoảng loạn và bắt đầu nghĩ đến việc tự tử. Tôi không muốn sống trong hoàn cảnh như thế này chút nào. Tôi đă nghe người ta nói rằng những sợi tim đèn dầu rất độc, v́ thế tôi bắt đầu thu thập và giấu chúng trong một chiếc hộp.

May mà các bạn tôi biết được ư đồ đó và đă vứt cái hộp đi. Có người lại khuyên tôi nên t́m một thầy thuốc Ayurvedic (ND: giống như thuốc nam) quảng cáo trong báo. Tôi đến gặp ông, kể bệnh của ḿnh, và nói rằng tôi không có tiền. Là người tử tế; ông đă cho tôi một thứ thuốc rất quư mà không tính tiền.

Mỗi ngày, theo lời ông chỉ dẫn, tôi thoa một ít dầu đó lên đầu, lên mũi, và c̣n uống cả một vài giọt nữa. Nó cũng giúp thông bịnh xoang mũi của tôi, và trả lại cho tôi chút ít trí nhớ; c̣n để hoàn toàn b́nh phục th́ con đường c̣n dài.
   
Rồi sư phụ tôi kết luận rằng, những rủi ro của tôi là do các oan hồn ma quỷ gây ra.

- Quư sư sẽ tụng kinh suốt đêm cho con. Sư nói.

Lúc đó, tôi không nghĩ lời đề nghị này khá oái oăm. Trong lúc tôi nằm trên sàn, tám vị tăng tụng niệm bằng tiếng Pali suốt đêm dài. Sáng hôm sau tôi cũng không thấy có ǵ khác. Cha mẹ tôi cũng nghĩ rằng có thể một oan hồn nào đó đă nhập vào tôi, v́ thế họ gọi một pháp sư làm bùa chú.

Tôi đến gặp người này ở nhà cha mẹ tôi. Ông yêu cầu cha tôi lấy bảy trái chanh và bảo tôi ngồi lên ghế, trong khi ông cầm một trái chanh và một cái kéo để trên đầu tôi, rồi tụng những câu chú bằng một thứ ngôn ngữ, mà tôi nghĩ là ông ta đă tự chế ra ngay tại chỗ.

Vừa tụng chú, ông vừa dùng kéo cắt chanh, để nước chanh chảy xuống đầu tôi. Ông lập lại nghi thức đó với tất cả bảy trái chanh. Cuối cùng, ông cột một dây bùa bằng vải quanh cổ tôi. Cha mẹ tôi chắc chắn rằng làm vậy sẽ chữa được tôi khỏi bệnh. Nhưng tôi không khỏi, v́ thế họ lại mời một thầy phù thủy khác, có lẽ có nhiều oai lực hơn.
   
Thầy phù thủy và sáu người tùy tùng đến nhà tôi. Ông yêu cầu cha tôi mang đến bao nhiêu thứ: dừa, dầu dừa, cau trầu, hoa dâm bụt và ít vải quấn quanh các cành cây khô để làm đuốc. Trong lúc đó, thầy phù thủy tạc một h́nh tượng bằng đất sét giống như tôi. Tượng tṛn mập, giống như một người tuyết bằng đất nung.

Khi mọi thứ đă xong, thầy phù thủy và đoàn tùy tùng vận xà rong, vấn khăn trắng lên đầu. Họ dẫn tôi đến một căn lều nhỏ và để tôi ngồi trước tượng đất sét mà họ đă làm. Các thành viên khác trong gia đ́nh được phép ngồi gần bên, trên những chiếc chiếu trải trên mặt đất.

Sau khi nhai trầu, bọn họ bắt đầu tụng chú bằng một thứ ngôn ngữ lạ lùng. Không phải tiếng Sinhala, không phải Pali, cũng không phải Sanskrit. Tôi chưa bao giờ nghe qua ngôn ngữ này. Chỉ là một hỗn tạp của âm thanh. Trong khi tụng chú, họ cầm những cây đuốc lửa và văi bột nhang vào đó để làm cho ngọn lửa bùng sáng hơn.
   
Mỗi lần ngọn lửa bùng lên, hai người trong đoàn ngồi ở hai bên tôi sẽ la lên bằng tiếng Sinhala:

- Ayu bova! (Cầu cho ngươi sống lâu).
   
Nghi lễ kéo dài cả đêm, cho đến khi các cây đuốc tàn lụi. Rạng sáng, họ xiên mấy cây đinh vào đầu của h́nh nộm, rơ ràng là để giải thoát tôi khỏi bệnh hoạn. Rồi họ cột một sợi chỉ quanh cổ tôi, giống như là vị thầy chú trước đă làm. Lần này, cũng chẳng có kết quả ǵ.
   
Cha mẹ tôi th́ không c̣n biết phải làm ǵ nữa, nhưng sư phụ tôi lại nghĩ ra một cách khác nữa: Ông cho tôi một miếng bùa làm bằng thiếc, được cuộn lại thành một cái ống khoảng bốn centimet, cỡ như cây viết bi. Đó là một miếng bùa theo truyền thống ở Ceylon, được gọi là ratana yantra, hay là miếng bùa kim loại.

Một số đoạn trong kinh Ratana được chọn để khắc lên đó. Người Sinhala tin rằng nếu loại bùa này được đeo quanh cổ hay ngang thắt lưng, nó sẽ xua đuổi được ma quỷ. Sư phụ tôi đeo cái bùa lên cổ tôi.
   
Tôi rất mang ơn cha mẹ, sư phụ tôi và các lương y đă cố gắng chữa trị cho tôi. Nhưng tiếc thay, tất cả mọi cố gắng của họ đều vô ích. Không có kết quả ǵ. Trí nhớ siêu việt của tôi đă biến mất măi măi.
   
Ở thời điểm mà tôi hoàn toàn thất vọng, một ư nghĩ lạ lùng bỗng hiện lên trong đầu tôi. Có thể thiền tập sẽ giúp ḿnh. Khi các huynh đệ của tôi nghe về ư tưởng này, họ phá lên cười. Vào những ngày ấy, thiền tập không phải là công phu tu tập b́nh thường, ngay đối với một tỳ kheo.
   
- Huynh điên rồi sao?

Một người nói:

- Thiền chỉ dành cho những người già yếu không thể làm được việc ǵ nữa. Huynh vẫn c̣n trẻ, quá trẻ để hành thiền. Đừng có dại dột thế.
   
Dầu tôi rất thông suốt lư thuyết thiền, thuộc nằm ḷng tứ niệm xứ, tôi chưa bao giờ thực sự hành thiền, tin được hay không. Thời đó rất ít tu sĩ hành thiền. Họ quá bận rộn thuyết pháp, tụng kinh và thực hành các lễ cầu an.

Dĩ nhiên họ cũng nói nhiều về thiền, nhưng rất ít khi thực hành. Có người thực sự c̣n tin rằng nếu tọa thiền quá lâu, sẽ bị tán loạn tâm thần. Tôi th́ nghĩ rằng tôi đă bị tán loạn tâm thần rồi. Vậy th́ tôi c̣n sợ ǵ nữa?
   
Tôi bắt đầu hành thiền một cách bí mật, đôi khi giữa khuya, đôi khi sáng sớm. Bất cứ khi nào tôi có được vài giây phút yên tĩnh một ḿnh, tôi tọa thiền, ngồi trong một góc tối của chánh điện, nơi tôi hy vọng rằng không ai bắt gặp ḿnh.

Tôi biết rằng tôi đang cố gắng để huân tập một thói quen tâm linh, và để có được kết quả, tôi dành thời gian thực hành mỗi ngày. Đó cũng giống như tập thể dục cho tâm, cố gắng chuyển động những bắp thịt đă quá yếu đuối do thiếu tập luyện.
   
Lúc đầu, tôi chỉ cố gắng để an tịnh tâm bằng cách nhớ lại những chuyện thường t́nh, tên bạn bè, những ngôi chùa đă viếng thăm, tên các quyển sách đă đọc. Không phải là điều dễ dàng, có những khoảng trống lớn trong kư ức tôi. Nhưng tôi đă cố gắng không hoảng loạn.
   
Rồi dựa vào sự chỉ dẫn trong bốn căn bản chánh niệm (tứ niệm xứ), tôi bắt đầu theo dơi hơi thở, các cảm thọ nơi thân, các cảm giác và ư nghĩ đi qua đầu tôi.
   
Sự quán sát đó dần dần mang đến một cảm giác rất an tịnh bên trong tôi. Thỉnh thoảng tôi c̣n kinh nghiệm được những giây phút hỷ lạc thoáng qua. Dĩ nhiên, những giây phút ngắn ngủi này, khiến cho sự hành thiền thêm dễ chịu và khuyến khích tôi tiếp tục.
   
Dần dần những thứ tôi đă học trong quá khứ bắt đầu trở lại với tôi. Tôi bắt đầu nhận ra chữ cái và con số. Tính khí tôi cũng thay đổi một cách không ngờ. Sau vài tháng kiên tŕ thực tập, tôi đă có thể đọc và nhớ những ǵ đă đọc.

Tôi thật vui mừng và nhẹ nhơm v́ tôi đă t́m ra “thuốc chữa”. Thiền đă làm được tất cả những ǵ mà bùa phép và các thứ dầu thuốc không thể làm được. Nó đă mang lại sự thanh tịnh cho tâm tôi.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 667 of 1146: Đă gửi: 14 September 2010 lúc 12:25am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM


Chương Tám


Phấn Đấu Để Được Học


Nhờ hành thiền, hai năm sống trong ác mộng v́ mất trí nhớ của tôi cuối cùng cũng đă chấm dứt. Trí năo tôi dường như được chữa lành khỏi cơn kích động, gây ra bởi bảy ngày tụng niệm. Nhưng giờ th́, dầu tôi đă có thể nhớ mọi thứ gần như người b́nh thường, trí nhớ như in của tôi chẳng bao giờ trở lại nữa.
   
Hai năm sau, vào năm 1949, tôi đă có thể đi học trở lại. Điều đó làm tôi rất hạnh phúc. Cuối năm học đó, lần đầu tiên tôi tham dự cuộc thi chung cho tất cả các trường, được biết như là cuộc thi lấy bằng cao cấp, tương tự như những cuộc thi cuối năm ở trung học.

Chúng tôi phải thi tám môn, Sinhala, Tamil, Pali, văn chương Sinhala, lịch sử Ceylon, toán, khoa học sức khỏe, và Phật giáo và tôi đều đủ điểm đậu cả. Tôi rất hănh diện về thành tích này, v́ chỉ vài tháng trước đó tôi đă không thể đọc hay nhớ điều ǵ.
   
Tuy nhiên cũng năm đó, tôi gặp nhiều khó khăn do nhiệt t́nh muốn học tiếng Anh của ḿnh. Tôi tham dự một cuộc thi ở trường Phật học, nơi tôi đă là một tăng sinh vài năm nay, và điểm tiếng Anh của tôi cao hơn điểm tiếng Sanskrit nhiều.
   
Thầy hiệu trưởng trường cho gọi tôi đến văn pḥng. Gương mặt không vui, ông nói:

- Gunaratana, thầy nên nhớ rằng giáo lư của Đức Phật được lưu truyền trong ṿng hai ngàn năm trăm năm nay, không phải bằng tiếng Anh mà bằng tiếng Pali và Sanskrit. Tôi khuyên thầy nên để ư đến các ngôn ngữ này nhiều hơn.

Vào năm 1950 tôi được nhận vào Vidyalankara Pirivena, một đại học cộng đồng dành cho tăng sĩ gần thủ đô Colombo, và là một trong hai đại học có tiếng ở Ceylon. Ban giảng huấn gồm khoảng mười người, những vị thầy khiêm tốn, uyên thâm về tôn giáo, thông suốt Pháp, lịch sử Phật giáo, tiếng Pali, Sanskrit, Sinhala, Tamil và Ấn Độ.
   
Tôi rất hạnh phúc được theo học ở đây, nhưng tôi lại không có khả năng trả tiền trọ. Tôi không có nơi nào để tạm trú, v́ thế tôi dành vài tuần thăm viếng những chùa gần đó, mong t́m được nơi trọ học. Cuối cùng, tôi t́m được một ngôi chùa bên bờ sông Kelaniya, và vị trụ tŕ cho phép tôi được dọn vào.

Tôi trở lại với những bổn phận của một tu sĩ sống ở chùa. Khất thực ở ngôi làng gần nhất cũng không mấy kết quả. Thường tôi chỉ nhận được cơm trắng trong b́nh bát, không có rau hay bất cứ thứ ǵ. Tôi đành trở về chùa, rắc đầy muối vào cơm, rồi ăn.
   
Từ chùa đến trường cũng là một con đường dài và rất phức tạp. Trước hết, tôi phải sang sông trong một chiếc thuyền nhỏ do Jinadasa, một cư sĩ ở chùa làm chủ. Mỗi ngày sau bữa trưa, ông sẽ đợi ở dưới thuyền để đưa tôi sang sông.
   
Thường trên những chuyến đ̣ qua sông hằng ngày, tôi lại nghĩ về kinh Alagaddupama, kinh “Ẩn dụ về chiếc bè” v́, trong bài kinh đó, Đức Phật đă so sánh Pháp như là một chiếc bè: chúng ta có thể sử dụng Pháp để vượt qua con sông cuộc đời đầy sóng gió.

Đức Phật dạy, nhưng một khi đă đến bờ bên kia, chúng ta cần để chiếc bè lại đằng sau. Tham ái, bám víu vào bất cứ điều ǵ, kể cả những điều tốt, cũng có thể khiến chúng ta sanh phiền năo.
   
Mỗi ngày, sau khi qua sông, tôi phải đi bộ đến một trạm xe buưt, để lấy xe buưt đến trường trên đường Kandy Colombo. Dĩ nhiên, tôi cũng không có tiền mua vé xe buưt, nhưng ông chủ công ty xe buưt đă tử tế cho phép tôi được đi miễn phí.
   
Cuối tuần, tôi lại đi đến Yakkala, một làng gần bên, để giảng Pháp cho trường Sunday (ND: các lớp giáo lư cuối tuần). Vào những ngày rằm, tôi cũng thuyết pháp ở ngôi chùa tôi đang tạm trú. Mặc dầu tôi c̣n khá trẻ, người ta cũng tôn trọng tôi và muốn được nghe tôi giảng.
   
Đôi khi tôi giảng về những vấn đề quan trọng như là nghiệp, tái sinh, và lư duyên sanh, nhưng tôi không chắc rằng ḿnh thực sự hiểu những điều ḿnh giảng vào thời điểm đó. Thường tôi chỉ học thuộc ḷng các đoạn giảng giải trong sách, rồi lặp lại.
   
Tôi cũng kể những câu chuyện dân gian Phật giáo. Tôi rất thích những chuyện về Đức Phật và Đề Bà Đạt Đa, vị tỳ kheo luôn t́m cách ám hại Đức Phật. Họ đă là kẻ thù của nhau trong nhiều tiền kiếp. Có rất nhiều chuyện kể về những xung đột của họ.

Trong câu truyện mà tôi thích, Bồ Tát (Đức Phật) tái sinh làm một chú khỉ đầy ḷng nhân ái và Đề Bà Đạt Đa là một lữ hành lạc lối trong rừng. Khi ở trong rừng, người lữ hành bị rơi xuống một cái giếng bỏ hoang, và chú khỉ t́nh cờ đi ngang qua, đă cố gắng hàng giờ để kéo anh ta lên. Sau đó mệt nhoài, chú khỉ nằm xuống đất nghỉ.

Gă lữ hành cũng mệt và đói, đă lượm một cục đá to, đập lên đầu khỉ với hy vọng có thể giết nó lấy thịt ăn. V́ yếu đuối, gă ta không giết được chú khỉ. Ḿnh đầy máu, chú khỉ chạy lên cây, ngồi suy nghĩ:

“Mặc dầu anh ta vừa định giết ḿnh, nhưng nếu ḿnh chạy trốn và bỏ anh ta lại” chú khỉ nghĩ. “Th́ anh ta có thể chết đói. Anh ta sẽ không bao giờ có thể t́m đường ra trong khu rừng rậm này. Ta cần phải dẫn anh ta đến ngôi làng gần nhất.”
   
Thế là chú khỉ bắt đầu chuyền từ cây này đến cây khác, nhào lộn như thể nó đang bị đau. Gă lữ hành nghĩ rằng con khỉ có thể ngă chết bất cứ lúc nào, nên đi theo nó. Khi đến b́a làng, gă ta không để ư đến chú khỉ nữa mà vào làng để xin thức ăn và nước uống, c̣n chú khỉ quay trở vào rừng.
   
Câu chuyện này cho ta thấy những đặc tính đáng ngưỡng mộ của Đức Phật, ngay trước khi Ngài được có thân người hay được hoàn toàn giác ngộ, và câu chuyện đó lúc nào cũng khiến cho thính giả của tôi, ở trường Sunday lấy làm thích thú.
   
Một ngày kia, Jinadasa nói ông muốn cúng dường cho tôi trong lần thuyết pháp sau. Ông ta hỏi tôi cần ǵ, nhưng tôi không trả lời, v́ biết ông quá nghèo và thực sự không có khả năng mua quà. Dầu vậy, vào ngày rằm kế tiếp, ông cúng dường cho tôi một cây đèn pin. Cả hai chúng tôi đều không biết, món quà đó sẽ đem lại tai hại ǵ.
   
Một buổi chiều kia, tôi thuyết pháp trong một pḥng ăn mới ở trường đại học. Đó là một dịp quan trọng; tất cả các thầy, các bạn học của tôi và hàng trăm cư sĩ đă đến để nghe tôi nói chuyện. Bài thuyết pháp của tôi là về kinh Culamalunkyaputta trong Trung Bộ kinh (Majjhima Nikaya), khuyên chúng ta không nên bỏ phí thời gian vào những việc vô ích.

Đức Phật dạy rằng chúng ta cần phải cảm thấy nôn nóng muốn tu tập, để đạt được giải thoát khỏi khổ đau. Khi bài giảng của tôi chấm dứt và mọi người đă hỏi xong các câu hỏi, th́ đă gần nửa đêm. Tôi đă trễ chuyến xe buưt cuối cùng, nên tôi phải đi bộ gần mười cây số, đến bờ sông nơi tôi hy vọng Jinadasa sẽ đưa tôi sang bờ bên kia.
   
Con sông, tràn bờ bởi mưa, chảy xiết. Đă gần hai giờ sáng và tôi biết Jinadasa đang ngủ. Tôi bật cây đèn pin mà ông đă tặng tôi, quét ánh sáng qua bờ bên kia, và réo gọi tên ông thật lớn. Sau một lúc, ông xuất hiện ở bờ bên kia và xuống đ̣. Ông rất bực tức v́ bị đánh thức giữa đêm.
   
Khi ông chèo đ̣ qua, tôi nghe đủ lời sỉ vả. Ông nguyền rủa, nhục mạ tôi đủ điều. Rơ ràng là v́ ông nghĩ tôi đă ở lại dưới phố, hành xử không đúng với tư cách một vị tu sĩ, như tṛ chuyện, đùa giỡn với phụ nữ hay những việc đại loại như thế. Ông không biết rằng tôi vừa thuyết pháp xong.
   
Tôi bước xuống đ̣, xin lỗi v́ đă làm phiền ông giữa đêm. Tôi cố gắng giải thích tại sao tôi bị trễ như vậy, nhưng ông không muốn nghe. Ông tiếp tục tuôn ra những lời chửi bới thô tục, buộc tội tôi về đủ các thứ mà tôi chẳng bao giờ tưởng tượng ḿnh có thể làm. Rồi ông trao cho tôi cái dằm, bảo tôi phải tự chèo.
   
Trước đó, tôi chưa bao giờ chèo thuyền, và chắc chắn là không bao giờ trên một ḍng nước chảy xiết như thế này. Tôi bỏ dằm xuống nước và ngay khi tôi làm thế, chiếc thuyền bắt đầu nghiêng triền. Tôi thật sự sợ hăi. Tất cả những kinh nghiệm suưt chết v́ nước hiện ra trước mắt tôi.
   
Jinadasa giựt cây dằm từ tay tôi, lại tuôn ra thêm một tràng chửi rủa khác. Ông ta bắt đầu chèo chống ḍng nước ngược cuồng xiết chảy, cằn nhằn, chửi rủa suốt thời gian. Thường chuyến đ̣ chỉ mất mười phút, nhưng đêm đó mất gần hai tiếng. Đó là hai tiếng đồng hồ dài nhất trong cuộc đời tôi.
   
Sáng hôm sau, sau một đêm chợp mắt ngắn ngủi, tôi thức dậy và quyết định rời ngôi chùa tôi đang tạm trú, v́ không thể chịu đựng được nữa những chuyến đ̣ qua sông với Jinadasa.
   
Sau khi khất thực về, tôi sắp xếp vài quyển sách vào tay nải, rồi đi ra bờ sông. Jinadasa đang ở đó, vẻ mặt không vui.
   
- Tại sao tay nải của thầy hôm nay to thế? Ông hỏi tôi.
   
- V́ tôi không trở về chùa nữa. Tôi trả lời.
   
Ông hỏi tại sao? nên tôi cho ông biết những lời sỉ nhục, nguyền rủa của ông đêm hôm qua, đă tổn thương tôi như thế nào. Tôi bảo rằng tôi có lư do chính đáng về sự trễ muộn của ḿnh, nhưng ông đă không muốn nghe. Tôi kể rằng tôi đă suưt bị chết đuối vài lần, rằng tôi rất sợ nước và sự trách mắng của ông chỉ làm tôi thêm đau khổ.
   
Jinadasa chực trào nước mắt. Với đôi mắt sụp xuống, ông van nài tôi ở lại, nhưng tôi đă quyết định.
   
- Tôi muốn t́m một nơi mà tôi không phải qua sông mỗi ngày để đến trường. Tôi trả lời.
   
Và như thế, một lần nữa tôi lại phải đi t́m một nơi để tạm trú. Cuối cùng, tôi t́m ra được một ngôi chùa cách trường khoảng mười sáu cây số. Vị sư ở đó bảo rằng tôi có thể ở trong cái thất nhỏ trong khuôn viên chùa. Cái thất này đă không có ai ở nhiều năm nay, hoàn toàn trống rỗng, trừ khoảng năm mươi chú dơi! Đôi khi, mùi nước tiểu dơi quá hôi đến nỗi tôi không thể ngủ được.
   
Buổi trưa, sau khi khất thực xong, tôi đón xe buưt đến trường. Sau giờ học, khi tôi chuẩn bị về nhà, đó là giờ cao điểm, xe buưt luôn đầy, không có chỗ cho những người không thể trả tiền như tôi, tôi đành phải đi bộ mười mấy cây số từ trường về nhà mỗi ngày.
   
Khi tôi về đến thất th́ đă chín hay chín giờ rưỡi tối, nên phải đốt đèn dầu lên. Ở gần đó có một thương nhân tên là Albert. Ông là người Sinhala, nhưng giống như nhiều người ở xứ tôi, tên gọi của ông là tên tiếng Anh.

Một số người Sinhala đặt cho con cái họ những tên tiếng Anh hay Hà Lan hay Bồ Đào Nha, tuỳ thuộc vào việc quốc gia nào đang chiếm đóng Ceylon vào lúc đó, v́ họ hy vọng rằng điều đó sẽ giúp con cái họ được vào các trường Thiên Chúa giáo nổi tiếng, hay một công việc làm với chính phủ sau này khi chúng lớn lên.
   
Albert là một người rộng răi. Mỗi đêm, khi nh́n thấy đèn trong thất của tôi thắp sáng lên, ông sẽ sai người giúp việc mang qua cho tôi một tách trà nóng. Dầu đó chỉ là trà, nhưng sau một ngày dài, một tách trà nóng bao giờ cũng ngon tuyệt vời. Sau đó tôi sẽ học cho tới nửa đêm rồi đi ngủ.
   
Albert rất quan tâm đến tôi và đến ước muốn được học xong đại học của tôi. Ông đề nghị sẽ mang thức ăn cho tôi mỗi ngày, để tôi không phải đi khất thực. Và ông cũng đề nghị được trả tiền sách vở cho tôi.

Tôi không muốn phải dựa vào ông, nhưng là một tăng sĩ không có của cải vật chất ǵ, tôi đành phải nhận bất cứ sự giúp đỡ nào mà các cư sĩ có ḷng cúng dường. V́ thế tôi chấp nhận ḷng tử tế của ông.
   
Rủi thay, sự hỗ trợ của Albert dần dần đem đến rắc rối cho tôi. Khoảng một tháng sau khi tôi dọn vào thất, Albert bảo với vị trụ tŕ ở chùa rằng, ông nghĩ tôi là một tăng sĩ trẻ xuất sắc, có khả năng giảng Pháp tuyệt vời.
   
Vị trụ tŕ lập tức trở nên nghi ngờ, cho rằng tôi đang toan tính để chiếm đoạt ngôi chùa của ông, v́ thế ông sai một trong những đệ tử của ḿnh đến bảo tôi phải rời khỏi chùa. Ông buộc tôi phải đi ngay lập tức, đến nỗi tôi không có cơ hội đến chào từ giă Albert.

Tôi được gửi đến sống ở một thất trống trong ngôi chùa gần đó, nhưng rồi một tháng sau, tôi cũng bị đuổi ra khỏi đó nữa. Tôi đoán là vị sư đầy ḷng nghi hoặc muốn tôi hoàn toàn biến khỏi khu vực đó.
   
May mắn thay, tôi t́m được một nơi ở mới, một cái thất gần đường Kandy Colombo, chỉ cách trạm xe buưt một đoạn đường ngắn. Cái thất này đă được một phụ nữ giàu có tạo ra để cúng dường cho các tăng sinh ở trường. Thật là tuyệt vời. Tôi bắt đầu thuyết pháp trở lại, và người dân địa phương đă đến để nghe pháp. Họ có vẻ rất hoan hỷ v́ sự có mặt của tôi, họ c̣n tặng tôi một cái bếp gas để nấu nước.
   
Buồn thay, tôi cũng chưa được yên thân. Vị trụ tŕ, người đă coi tôi là một mối đe doạ, lại gửi đệ tử đến phá rối tôi nữa. Lần này, ông bảo là có hai tăng sinh khác cần đến ở trong thất đó, nên không đủ thực phẩm cho cả ba người. V́ thế, ông lệnh tôi phải ra đi.

Vị trụ tŕ của các chùa ở địa phương, rất có quyền hạn đối với những vấn đề như thế. Tôi khẩn thiết van xin.

- Gia đ́nh tôi rất nghèo.

Tôi nói:

- Tôi không có mười xu mỗi tháng để trả tiền trọ ở trường. Tôi chỉ c̣n sáu tháng nữa là ra trường, hăy để tôi ở đây cho đến lúc đó.
   
Dầu vậy, ông vẫn nhất quyết buộc tôi ra đi. Tôi mang sách vở trở về Yakkala, nơi tôi đă được tiếp đón nồng hậu một năm trước đó. Lần này, tôi được cho một căn pḥng trong chùa.
   
Buồn thay, ngay với sự tiếp đón nồng hậu đó, tất cả những vất vả trước đây để t́m một chỗ nương thân vẫn đè nặng tâm trí tôi. "Tại sao tôi phải cố gắng như thế để được đi học?" tôi tự hỏi. "Các môn học này không có ích lợi ǵ đối với một tu sĩ. Tại sao tôi phải quá vất vả để đạt được mục đích đó?"
   
Tôi cũng rất tủi nhục về việc phải luôn vay mượn tiền bạc. Không có khả năng mua sách, tôi phải năn nỉ các sinh viên khác để mượn sách của họ. Rồi tôi phải trả sách trước khi đọc xong. Khi cần một vài rupee để đóng tiền thi, tôi cũng phải về hỏi mẹ, bổn sư hay người bảo trợ, để xin vài đồng xu.

Thật là xấu hổ, tôi ghét phải xin những người mà chính họ cũng không dư giả. V́ thế vào năm 1952, tôi quyết định bỏ học, mặc dầu chỉ c̣n kỳ thi cuối khóa là tôi hoàn tất chương tŕnh. Lệ phí để thi là mười lăm rupee, khoảng bốn đô rưỡi, nhưng tôi không có tiền. Thế là tôi bỏ học.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 668 of 1146: Đă gửi: 14 September 2010 lúc 1:09am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM


Chương Chín


Thầy Truyền Giáo


Dầu tôi đă bỏ học trước kỳ thi cuối khoá, nhưng niềm hoài vọng tuổi trẻ là được giảng pháp bằng tiếng Anh, vẫn c̣n mănh liệt trong tôi. Tôi không biết chính xác niềm hoài vọng này bắt nguồn từ đâu. Có thể một phần v́ tiếng Anh được những người Sinhala thuộc giai cấp thượng lưu sử dụng, một nét văn hoá c̣n sót lại từ thời thuộc địa Anh.

Tôi đă từng mơ được đi đến Ấn Độ hay Malaysia, nơi tiếng Anh được sử dụng rộng răi hơn. Nếu may mắn hơn, tôi c̣n có thể thuyết pháp ở Anh quốc, nguồn gốc của di sản lệ thuộc Anh ở quê hương tôi.
   
Chẳng bao giờ trong những giấc mơ hăo huyền đó, tôi đă có thể tưởng tượng ra việc tôi sẽ giảng dạy tại Mỹ; đối với một thiếu niên ở Ceylon như tôi, đó là điểm tận cùng của trái đất.
   
Sau trường Phật học, tôi tiếp tục theo học các lớp tiếng Anh ở bất cứ nơi nào tôi biết, đôi khi phải đi hàng bao nhiêu cây số, chỉ để được ngồi trong một lớp học dạy tiếng Anh. Nhiều người chế nhạo sự ham muốn học thứ tiếng khó hiểu đó của tôi.
   
- Nầy ông thầy trẻ.

Họ sẽ nói:

- Tại sao thầy nhất quyết phải học tiếng Anh? Chỉ có cư sĩ mới sử dụng tiếng Anh, mà cũng rất ít. Thầy cần trụ ở một ngôi chùa, và làm tṛn bổn phận của ḿnh ở đó.
   
- Nhưng một ngày nào đó, tôi có thể đi ra nước ngoài.

Tôi chống chế:

- Tôi cần phải biết tiếng Anh.
   
Họ sẽ nh́n tôi giống như tôi điên. Tôi đă giảng Pháp cho các lớp cuối tuần ở một chùa ở Yakkala, trong khoảng thời gian ít nhất là sáu năm. Có hàng trăm các lớp cuối tuần (Sunday School) ở Ceylon và trường tôi dạy khá nhỏ.

Vào mỗi chủ nhật có khoảng hai trăm học sinh, phần đông chưa đến mười tám tuổi. Tôi giảng về những điều cơ bản: giới luật, bát chánh đạo, cuộc đời Đức Phật và lịch sử Phật giáo. Vào thời đó, các trường không hướng dẫn hành thiền, mà tôi cũng không khuyến khích họ học thiền vào thời điểm ấy.

Ngày nay th́ thiền là môn dạy chủ yếu của tôi. May mắn thay, vị trụ tŕ chùa ở Yakkala, đại đức Candajoti Thera, rất ủng hộ việc học tiếng Anh của tôi. Ông cũng nghĩ rằng đó là một ngôn ngữ quan trọng cần phải học, và tổ chức cuộc thi lấy bằng trung học cơ sở tiếng Anh.
   
Dần dần với sự giúp đỡ của đại đức Candajoti, anh tôi và tôi mở một trường dạy tiếng Anh nho nhỏ ở chùa tại Kebilitigoda. Anh tôi giỏi tiếng Anh, v́ đă sống và học hành ở Colombo mấy năm, nên anh làm giảng viên chính.

Chúng tôi mượn bàn ghế và bảng đen từ một chùa khác. Rồi chúng tôi căng bảng hiệu lên, và thật bất ngờ, hai mươi học sinh đă đến! Tuy nhiên, phần đông là con cái của những gia đ́nh nghèo, nên họ không có tiền đóng học phí. Đó là vấn đề, v́ anh tôi cần có lương để trả tiền ăn ở. C̣n tôi, dĩ nhiên được chùa hỗ trợ.
   
Đại đức Candajoti ra sức quyên góp cho chúng tôi được một ngàn rupee (khoảng ba trăm đô la), th́ cũng vừa đủ để trường được tiếp tục hoạt động trong ba tháng. Cuối thời gian đó, mặc dầu chúng tôi đă cố gắng hết sức, cũng không có ai giúp thêm kinh phí. V́ thế chúng tôi đành miễn cưỡng đóng cửa trường, trả lại bàn ghế mà chúng tôi đă mượn.
   
Và rồi tôi trở lại cuộc sống lang thang của ḿnh. Tôi tiếp tục sống ở chùa Yakkala thêm một thời gian nữa, nơi đại đức Candajoti đối với tôi như anh em. V́ ông ủng hộ việc học tiếng Anh của tôi, nên ông đă tử tế cung cấp thực phẩm cho tôi, khi tôi không có th́ giờ đi khất thực.

(Lúc đó, tôi đang học ở trường tiếng Anh Vidyasekhara, một trường học bắt nguồn từ trường Vidyasekhara Pirivena, nơi tôi đă học vào cuối những năm 1940, lúc c̣n là một sadi. V́ không có tuyến xe buưt giữa trường tiếng Anh và chùa Yakkala, tôi dọn vào một chùa ở làng Udugampola. Ở đó tôi vẫn phải đi bộ hơn hai cây số để đón xe buưt đến trường).
   
Năm 1953, vào một cuối tuần, tôi đến thăm các bạn học cũ ở Vidyasekhara Pirivena. Ở đó, một tối kia, khi tôi đang vá y của ḿnh trong kư túc xá của trường, tôi thoáng nghe hai vị tu sĩ nói chuyện ngoài hành lang. Họ đang bàn về một tin tức mà họ đă nhận được từ trường Truyền giáo Phật giáo (Buddhist Missionary School) ở Colombo.

Trường này đang t́m một sinh viên mới có nhiều triển vọng, để thay thế một tu sĩ đă bị đuổi v́ phạm giới luật. Trường Truyền giáo Phật giáo, đúng như tên gọi của nó, huấn luyện các tăng sĩ Phật giáo để họ đi ra nước ngoài thuyết Pháp. Tất cả được bắt đầu từ một tổ chức từ thiện Phật giáo gọi là hội Mahabodhi, được thành lập từ những năm cuối 1800.
   
Trường đó khá nhỏ và rất chọn lọc. Cũng có một số ít sinh viên từ các quốc gia khác, Việt Nam, Campuchia, Thái Lan và Trung Hoa, nhưng chỉ có mười tăng sĩ đến từ Ceylon. Vị hiệu trưởng của trường, đại đức Paravahera Vajiranana, hấp thụ một nền giáo dục Tây phương, nhưng rất giỏi về lư thuyết cũng như việc thực hành thiền Phật giáo. Ông là người mà tôi rất ngưỡng mộ.
   
Ư tưởng về một ngôi trường truyền giáo có thể đối với những người biết về Phật giáo, như là một tôn giáo tự giác th́ có vẻ lạ lùng. Tuy nhiên chính Đức Phật là một nhà truyền giáo. Trong ṿng ba tháng sau khi đạt được giác ngộ, Đức Phật đă có sáu mươi vị đệ tử quanh ngài.

Sau đó Ngài yêu cầu các vị đệ tử này đi về sáu mươi phương hướng khác nhau, để "truyền bá hạt giống Pháp". Đức Phật khuyên đệ tử của Ngài rất rơ ràng rằng, không nên cố gắng thay đổi tôn giáo của ai. Ngài dạy họ chỉ nên thuyết Pháp và rồi những ai chỉ có "chút ít bụi trong mắt", những người sẵn sàng muốn nghe, sẽ hiểu.

Lời dạy này làm nổi bật một khía cạnh quan trọng trong Phật giáo. Trong một bài giảng nổi tiếng, Đức Phật đă diễn tả Pháp như là những chứng cứ hiển nhiên. Ngài dạy rằng nếu ta "đến để thấy" th́ ta có thể tự phán đoán cho ḿnh. Nói như thế Ngài không có ư nói về một lời mời cụ thể, để đến một nơi nào đó để nghe thuyết pháp.

Ngài chỉ có ư rằng Pháp luôn có mặt cho bất cứ người trí nào muốn t́m đến để quán sát nó. Đức Phật muốn chúng ta áp dụng những lời dạy của Ngài, vào chính cuộc sống của bản thân, để xem chúng có hợp lư không. Bằng cách đó, chúng ta có thể chấp nhận giáo lư của Đức Phật, dựa trên kinh nghiệm bản thân hơn là một ḷng tin mù quáng.

Diễn tả Phật pháp như là một điều ǵ bạn có thể "đến để thấy" là dựa trên trí tuệ, rằng sự chuyển hoá chỉ có thể xảy ra bên trong ta, và không thể ép buộc một cá nhân nào từ bên ngoài.
   
Khi nghe hai vị sư bàn luận về chỗ trống ở trường truyền giáo, dầu tôi chưa bao giờ được nghe về một nơi như thế, nhưng tôi lập tức biết rằng đó là điều mà tôi muốn làm. Tôi bỏ chiếc y đang vá xuống và chạy nhanh ra hành lang.
   
- Thưa đại đức.

Tôi bắt chuyện với một trong hai vị tăng sĩ:

- Tôi muốn nộp đơn vào chỗ trống đó.
   
- Khi nào thầy có thể đi gặp giám hiệu trường? Ông hỏi.
   
- Ngày mai. Tôi trả lời.
   
Ngày hôm sau, tôi tŕnh với vị giám hiệu, đại đức Paravahera Vajiranana Nayaka Mahathera, tại sao trường truyền giáo là môi trường rất thích hợp cho tôi. Ấn tượng với sự quyết liệt của tôi, mà có thể cũng là sự liều lĩnh của tôi, ông chấp thuận cho tôi vào học.

Rủi thay, các sinh viên đă qua gần phân nửa chương tŕnh học ba năm của họ, v́ thế tôi phải vất vả đuổi theo cho kịp, nhất là giờ tôi không c̣n trí nhớ như in.

- Đây là một chương tŕnh học khó.

Đại đức Vajiranana cảnh báo tôi:

- Thầy lại vào học trễ. Thầy sẽ phải cố gắng rất nhiều mới mong theo kịp.
    
Ông nhắc nhở tôi về lời Phật dạy về tinh tấn:

- Pháp này chỉ dành cho những ai luôn tinh tấn, không phải cho người lười biếng.

Vị giám hiệu nói rằng nếu tôi muốn trở thành một thầy truyền giáo tốt, tôi cần phải tự nguyện thực hành tinh tấn ba la mật (parami perfection). Đó là cách mà Đức Phật đạt được giác ngộ, vị giám hiệu nhấn mạnh, bằng cách hoàn thiện tinh tấn đến mức độ cao nhất.
   
V́ thế tôi đắm ḿnh vào việc học và chẳng bao lâu đă có thể theo kịp các bạn đồng môn. Cũng may chương tŕnh học ở trường truyền giáo, tương tự với chương tŕnh ở trường Phật học mà tôi học trước đây. Chúng tôi học tiếng Pali và triết lư Phật giáo, cũng như là tiếng Ấn Độ, Anh và Tamil.

Sau khi ra trường, phần lớn sinh viên được gửi đến sống ở Ấn Độ, v́ thế cũng có những lớp học, nhằm dạy chúng tôi những điều cần biết khi đến sống ở đó. Chúng tôi học về lịch sử Ấn Độ, Ấn Độ giáo và Gia nai giáo.
   
V́ trường truyền giáo có nhiều tu sĩ đến từ các quốc gia Đông Nam Á khác, tôi đề nghị thành lập Hội Sinh Viên Phật Giáo Quốc Tế. Tất cả mọi hoạt động của Hội đều được đề ra bằng tiếng Anh, để chúng tôi có thể thực hành ngôn ngữ nầy.
   
Tôi có một kỷ niệm đáng nhớ trong thời gian ở trường truyền giáo. Ở Hunupitiya, ngoại ô Colombo cách trường tôi khoảng ba bốn cây số, có một ngôi nhà lễ dành cho các nghi lễ tôn giáo đặc biệt. Mỗi hai tuần, vào ngày trăng rằm và mùng một, chúng tôi đến ngôi nhà đó để đọc tụng giới luật, 227 giới của tăng sĩ.

Nghi lễ này có thể được thực hiện ở bất cứ thánh địa nào (nơi dành riêng cho mục đích đó) và chỉ các tăng sĩ mới được dự; không có cư sĩ nào được đến. Riêng ngôi nhà lễ này đă một trăm năm mươi tuổi, ở giữa một hồ nước, nằm trên những cây cột bằng gỗ. Tường bằng gạch chỉ xây đến phân nửa, với những cây xà chắc chắn để chống đỡ một mái ngói.

Để đến được nơi đó, các tăng sĩ chúng tôi phải đi qua một cái cầu nhỏ bằng gỗ. Sau khi vào đến ngôi nhà, chúng tôi tháo cây cầu ra, một hành động để biểu tượng cho việc tách biệt khỏi đời sống thế tục của chúng tôi.
   
Một lần khi chúng tôi đến gần ngôi nhà lễ đó, vài cậu bé đă cảnh báo với chúng tôi rằng, một số ván sàn nhà đă bị tháo cắp, có lẽ để dùng đốt lửa.

- Không an toàn đâu.

Chúng nói:

- Đừng đi lên đó.
   
- Đừng để ư đến chúng.

Một vị lăo tăng ra lệnh:

- Cứ tiếp bước.
   
Tất cả chúng tôi đều nghe theo lệnh của ông, và tiếp tục bước hàng một trong im lặng. Khi đă vào trong nhà lễ, chúng tôi biết lũ trẻ nói đúng: phân nửa gỗ trên sàn nhà đă bị tháo dỡ. Thường chúng tôi ngồi chia đều trên mặt sàn, để sức nặng của chúng tôi không làm ảnh hưởng đến mấy cây cột chống nhà đă yếu.

Giờ với phân nửa mặt sàn đă biến mất, tất cả mười bốn người chúng tôi đành phải ngồi về một phía. Chúng tôi bắt đầu đọc tụng và giữa buổi lễ, chúng tôi bỗng nghe một tiếng động lớn. Vài tăng sĩ nh́n quanh lo ngại, nhưng vị lăo tăng đọc càng lớn hơn nữa, bắt buộc chúng tôi phải theo gương ông.
   
Th́nh ĺnh tất cả mọi thứ phía dưới chúng tôi sụp xuống. Thật là hỗn loạn. Người nhảy xuống hồ. Người té nhào xuống nước v́ sàn nhà sụp. Tôi cố gắng bám vào phân nửa tường và cuối cùng th́ là phân nửa ở trong nhà và phân nửa ở ngoài trời, khi mái nhà đổ xuống người tôi.

Lập tức các vị cư sĩ xúm đến cứu chúng tôi. Một số nhảy xuống hồ, lội về phía chúng tôi để kéo chúng tôi vào bờ. Vài vị tăng bị găy xương; một mảnh xương sườn của tôi, nơi gần tim, bị toẹt ra khỏi lồng ngực. Lúc đầu không đau mấy, nhưng khi đă hoàn hồn, tôi bắt đầu cảm thấy đau buốt ở ngực.

Kỳ diệu thay, vị lăo tăng, người đă buộc chúng tôi phải bước tới, lại không bị một vết xước nào. Mái nhà đă rơi xuống ngay chỗ ông ngồi, và do đó bảo vệ ông an toàn. C̣n chúng tôi th́ được chở đến bệnh viện. Ngày hôm sau tôi được ra viện, ngực quấn đầy băng. Tôi vẫn c̣n đau hàng tuần sau đó.
   
Cuối năm 1954, là lúc phải thi ra trường. Dầu nhập học trễ, tôi đă học hành rất cố gắng để theo kịp chương tŕnh. Và sự nỗ lực đó đă được đền bù, các bài thi của tôi đều được điểm cao. Rồi th́ cũng đến lúc chúng tôi được nhận trách vụ ở nước ngoài.

Phật sự truyền giáo của chúng tôi sắp bắt đầu. Sư giám hiệu gọi tôi đến và bảo ông muốn gửi tôi đến Tanzania.

- Tanzania!

Tôi thảng thốt. Phi Châu! Cách đây nửa ṿng trái đất. Tôi không chắc rằng tôi đă sẵn sàng để đến đó. Tôi chỉ mới hai mươi bảy tuổi, và chưa bao giờ bước chân ra khỏi Ceylon.
   
- Tôi muốn được ở gần nhà.

Tôi thưa với ông:

- Ấn Độ có được không ạ?
   
Ông gật đầu. Tôi thực sự sẵn sàng để đi bất cứ nơi nào. Giờ tôi đă ra trường, tôi biết ḿnh không thể trở lại ngôi chùa nơi tôi đă được thọ giới. V́ sự tranh chấp giữa sư phụ tôi và đại đức Sumanatissa, tôi biết rằng khi sư phụ tôi mất đi, đại đức Sumanatissa sẽ chống đối việc tôi kế tục quản lư ngôi chùa đó.
   
Tôi không có chỗ nào để đi và trong tôi vẫn c̣n niềm ước muốn cháy bỏng, là một ngày nào đó được giảng Pháp bằng tiếng Anh, ở một nơi nào đó. Để thực hiện được điều đó, tôi phải rời bỏ quê hương xứ sở, nơi tôi đă sinh ra và lớn lên. Ấn Độ, là một khởi đầu tốt cũng như ở bất cứ nơi nào khác, và dĩ nhiên là hấp dẫn hơn Phi Châu!
   
Cuộc hành tŕnh từ Ceylon tới Ấn Độ, chỉ khoảng bốn mươi mấy cây số vượt qua biển Ấn Độ Dương, chỉ là một chuyến phà ngắn ngủi, nhưng đối với tôi đó là một cuộc hành tŕnh vĩ đại, và là một khởi đầu cho những cuộc hành tŕnh đi khắp thế giới của tôi.






Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 669 of 1146: Đă gửi: 14 September 2010 lúc 1:23am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM


Chương Mười


Vượt Đại Dương Đến Ấn Độ


Chuẩn bị để rời Ceylon lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi cần hai thứ: tiền và một hộ chiếu. Nhưng v́ tôi là một tu sĩ, không có chứng từ thu nhập, tôi không thể lấy được hộ chiếu.

Chỉ những người có đóng thuế thu nhập, mới có thể nộp đơn xin hộ chiếu cho bản thân họ, v́ thế vị giám hiệu trường truyền giáo, đă nhờ một ân nhân giàu có, một người đă đóng rất nhiều tiền thuế, làm người bảo trợ cho tôi.

Ông đă kư những giấy tờ cần thiết và tôi được người ta cấp cho một thứ gọi là công văn khẩn. Như thế là tôi được quyền đến và đi khỏi Ceylon trong thời hạn hai năm. Tôi biết rằng hội Mahabodhi sẽ trả tiền tàu cho tôi đến Ấn Độ. Dầu đó là điều tuyệt vời, nhưng tôi cảm thấy tôi cũng cần có một ít tiền dằn túi, khi đặt chân đến Ấn Độ, để có thể được tự lập chút đỉnh.

Nhưng một nhà sư mà đi xin tiền người khác th́ không tiện lắm, v́ thế tôi đến chùa Yakkala, nơi tôi đă sống một thời gian, để hỏi ư kiến Đại Đức Candajoti.
   
- Gune!

Ông nói, gọi tôi một cách thân mật:

- Đừng khờ vậy. Sư là tu sĩ. Mọi người đều biết sư không có tiền, và mọi người biết sư phải cần một ít tiền trong chuyến đi này.
   
Ông giúp tôi viết một lá thư nói về chuyến đi của tôi và những thứ tôi cần cho chuyến đi đó. Ông cho in ra bảy trăm tờ copy. Tôi phân phát một ít tận tay người nhận và gửi phần lớn qua đường bưu điện.
   
Khi tất cả mọi thứ đă kết thúc, tôi nhận được hai trăm rupee (khoảng sáu mươi đô la), là một khoảng tiền khấm khá vào thời điểm đó. Mẹ tôi cũng cho một rupee và cha tôi cho năm. Em gái tôi cho hai rupee, và sư phụ của tôi gửi năm rupee từ tiền cúng dường, mà ông nhận được của các cư sĩ ở chùa ông.
   
Cuộc hành tŕnh của tôi bắt đầu ở ga xe lửa Colombo vào ngày 15 tháng 1 năm 1955. Không có ai trong gia đ́nh tôi có thể đi hơn trăm cây số đến tiễn đưa tôi, nhưng sư phụ của tôi đă cùng đáp xe lửa đi với tôi tới Colombo.

Sau khi chúng tôi chia tay, tôi chỉ c̣n lại một ḿnh. Tuy nhiên tôi không sợ hăi; tôi rất phấn khích được bước vào một giai đoạn mới của cuộc đời ḿnh. Cuối cùng th́ chân trời cũng mở rộng trước mắt tôi. Dầu lúc ấy tôi khó có thể tưởng tượng ra trước, nhưng năm bảy mươi lăm tuổi tôi đă đi hoằng pháp trên sáu lục địa.
   
Ở Colombo tôi gặp được những người đồng hành, là một nhóm Phật tử hành hương trên đường đến các thánh địa Phật giáo ở Ấn Độ. Chúng tôi đáp xe lửa qua đêm đến một thành phố gọi là Talaimanner, ở tận phía bắc của Ceylon. Ở đó chúng tôi lên một chiếc phà để vượt qua hai mươi hai dặm đường biển.
   
Đó là lần đầu tiên tôi ở trên một chiếc tàu lớn như vậy, và không kể những kinh nghiệm suưt chết đuối của tôi, tôi không hề cảm thấy lo sợ chút nào. Chỉ một tiếng đồng hồ sau là chúng tôi đă đến Ấn Độ.
   
Tàu đỗ bến ở Mandapam, một thành phố ở bờ phía Nam của quần đảo Ấn Độ. Địa phận đó của Ấn Độ giống như một sa mạc; không cây cối, chỉ có đất khô cằn và ánh nắng mặt trời rực lửa. Chúng tôi lại lên một chuyến xe lửa khác.
   
Trên xe lửa, chúng tôi được ăn xôi gói bằng lá chuối. Khi chúng tôi vứt lá chuối ra ngoài của sổ, một số người ăn mày chạy đến nhặt lá chuối dưới đất lên và liếm láp đến những hột nếp cuối cùng. Dầu những ngôi làng nhỏ ở Ceylon chắc chắn là không được giàu có, nhưng ở đây rơ ràng là sự nghèo khổ, c̣n tồi tệ hơn tất cả những ǵ tôi đă chứng kiến.
   
Trưa hôm sau chúng tôi đến Madras, trên bờ biển phía đông của Ấn Độ. Chương tŕnh của tôi dự định là nghỉ ngơi một tuần và làm quen với Ấn Độ, trước khi đến ngôi chùa mà tôi được gửi đến.
   
Đại Đức Batuvangala Jinananda, hội trưởng của hội Mahabodhi ở Madras, đón tôi tại nhà ga xe lửa. Ông và các vị tăng đi theo đoàn nói tiếng Tamil, nên chúng tôi có thể trao đổi chuyện tṛ. Tôi trải qua một tuần lễ thư thả, viếng thăm các chùa và hội Thần Học, một trung tâm độc lập, chuyên nghiên cứu việc giảng dạy các tôn giáo khác nhau.
   
Chẳng bao lâu th́ đă đến lúc tôi phải đi Sanchi, là nhiệm sở đầu tiên của tôi. Sanchi thuộc bang Bhopal của Ấn Độ, ở giữa Delhi và Bombay. Bảy giờ tối hôm đó, tôi lên xe lửa ở Madras. Hơn hai mươi bốn giờ sau, sau khi xuyên qua gần nửa lănh địa Ấn Độ, tôi đến được Sanchi.

Tôi là người duy nhất xuống ga xe lửa ở một chấm li ti trên bản đồ. Nhà ga không có thềm để lên xuống; tôi bước xuống xe lửa và chân tôi chạm ngay xuống đất cạnh đường ray. Khi xe lửa chuyển bánh đi tiếp, một người đàn ông mặc đồng phục tiến đến bên tôi. Tôi đoán ông là trưởng trạm xe lửa.

Đă gần nửa đêm, trời lạnh và tối đen. Đây là lần đầu tiên kể từ khi rời Ceylon, tôi mới cảm thấy sợ chết được. Tôi không hiểu người trưởng trạm xe lửa nói ǵ. Mặc dầu đă học tiếng Ấn Độ ba năm ở Ceylon, nhưng đây là lần đầu tiên tôi được nghe một người bản xứ nói tiếng Ấn Độ.
   
Cuối cùng, bằng thứ tiếng Anh lơm bơm, mà tôi hy vọng là vị trưởng trạm xe lửa có thể hiểu, tôi nói với ông là tôi đến để sống ở ngôi chùa tại Sanchi. H́nh như điều đó khiến người kia hiểu tôi. Cũng bằng thứ tiếng Anh tồi tệ như tôi, ông nói là chùa ở cách đây khoảng hơn một cây số, trên đồi cao, và chỉ có điên mới đi đến đó đêm nay.

Ông khuyên tôi nên qua đêm ở nhà ga rồi ngày mai hăy đi. Đêm đó, lần đầu tiên trong cuộc đời tôi cảm thấy lạnh, một cảm giác hoàn toàn mới lạ đối với một thanh niên, đă sống gần trọn cuộc đời trong khí hậu nhiệt đới của Ceylon. Nhưng tháng giêng ở miền trung Ấn Độ, thật khó có thể coi là nhiệt đới.
   
Cũng may là các vị sư ở Madras đă tặng tôi một chiếc túi ngủ mỏng. Tôi trải nó ra trên sàn nhà ga xe lửa, rồi chui vào bên trong. Suốt đêm tôi không ngủ được chút nào, phần v́ lo sợ nhưng phần lớn là v́ cái lạnh thấu xương.
   
Sáng hôm sau, ông trưởng trạm sai người khiêng hành lư theo tôi lên chùa. Chúng tôi đi bộ khoảng một dặm rồi bắt đầu leo lên một ngọn đồi lớn. Cuộc leo đồi kéo dài khoảng ba mươi phút, men theo một lối ṃn quanh co. Tới đỉnh đồi, chúng tôi bước vào khuôn viên chùa, được bao bọc bởi những bức tường bằng đá cao.

Dọc theo tường, mỗi mười thước hay khoảng đó là những cây cột xi măng với những cái đĩa tṛn ở phía trên cột, trông giống như những cây dù, gợi nhớ đến những cây dù trang trí trên các chùa. Bên trong khuôn viên là một khoảng sân làm bằng đá mô sắc (mosaic) rất đẹp.

Một cầu thang ngắn dẫn lên chánh điện, nơi có hai pḥng đối mặt nhau. Chánh điện mát mẻ, không có cửa sổ, với một sàn nhà láng bóng. Cuối pḥng, tôi có thể thấy một bàn thờ với một tượng Phật uy nghiêm, trong tư thế tọa thiền. Tượng được làm bằng đá trắng và chỉ có một ngọn đèn cầy trắng được đốt dưới chân tượng.
   
Tôi tràn ngập hân hoan được có mặt ở đây; cuộc đời tôi với tư cách là một vị thầy truyền giáo Phật giáo, bắt đầu ở một nơi rất hẻo lánh này. Ngôi chùa ở Sanchi này được tạo dựng từ thế kỷ thứ ba trước công nguyên, khi vua Ashoka, một Phật tử Ấn Độ thuần thành, đă gửi con trai và con gái ông, Mahinda và Sanghamitta, làm những người truyền giáo mang Phật pháp đến Ceylon.

Trước khi họ rời Ấn Độ, Mahinda và Sanghamitta đă đến thăm viếng thân mẫu của họ, đang sống trong một ni viện Phật giáo trong khuôn viên chùa Sanchi.
   
Vào cuối thế kỷ thứ mười chín, những nhà khảo cổ học người Anh đă khai quật khu vực Sanchi, khám phá ra một số tháp trang hoàng đẹp đẽ, dùng chứa hài cốt người chết, phần nhiều là các mảnh xương t́m thấy được sau khi hỏa táng. Các câu ghi khắc trên tháp cho biết, đây là xá lợi của Phật và hai trong số những đệ tử lớn của Ngài, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên.

Đến năm 1941, những xá lợi này bị chính phủ Anh chiếm đoạt, đem trưng bày ở bảo tàng viện Victoria và Albert ở Luân Đôn. Khi người Anh quyết định trả lại các báu vật này, các xá lợi được chia ra làm ba phần. Một phần ba được gửi đến Burma, một phần ba đến Vidyalankara Pirivena, trường Phật học mà tôi từng theo học, và phần ba cuối cùng được gửi về Sanchi.

Ở đó hội Mahabodhi đă xây thêm một ngôi chùa để thờ những xá lợi linh thiêng này. Ngôi chùa sau được hoàn thành năm 1954, và Đại Đức Hedigalle Pannatissa được chọn làm trụ tŕ ở đó.
   
Một năm sau, năm 1955, tôi được gửi đến để phụ tá Đại Đức Pannatissa ở Sanchi. Tôi làm thư kư cho ông suốt năm năm, và không thể mong đợi một công việc nào tốt hơn thế.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 670 of 1146: Đă gửi: 14 September 2010 lúc 2:05am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM


Chương Mười Một


Xá Lợi Phật Và Đức Đạt Lai Lạt Ma


Ngay khi vừa đến chùa Sanchi, tôi sang đảnh lễ Đại Đức Pannatissa. Tôi có rất nhiều quà để trao lại cho Đại Đức, những thứ tôi đă mang giúp cho thân hữu của Đại Đức ở Ceylon và của Hội Mahabodhi.

Tôi cũng tŕnh cho Đại Đức xem một bàn máy đánh chữ do Phật tử cúng dường, để tôi có thể thực hiện bổn phận người thư kư, đánh máy những lá thư bằng tiếng Anh cho ông. Đại Đức Pannatissa rất vui ḷng, nhưng có điều ông không biết là tiếng Anh của tôi c̣n rất yếu và tôi chưa từng sử dụng bàn máy chữ bao giờ.
   
Cuộc sống ở Sanchi rất dễ chịu và b́nh lặng. Rất ít người có thể trèo lên đồi thăm chùa, v́ thế nơi đây yên tĩnh hơn nhiều so với những ngôi chùa ở làng mà tôi biết. V́ không có dân làng sống gần bên để cúng dường thực phẩm, hội Mahabodhi phải mướn người nấu ăn cho Đại Đức Pannatissa và tôi. C̣n có thêm một người đàn ông lo chuyện dọn dẹp và xách nước cho chúng tôi. Anh ta phải gánh từng thùng nước từ giếng dưới chân đồi.
   
V́ có các xá lợi thiêng liêng được thờ ở Sanchi, chính quyền Ấn Độ đă cử nhân viên cảnh sát phải túc trực ở đó suốt hai mươi bốn giờ một ngày. Những người bảo vệ này làm việc theo ca, tám tiếng một ngày. Họ thường ngồi đó tṛ chuyện với khách văng lai hay với chúng tôi, khi chúng tôi có thời gian.
   
Vào mùa hè, Sanchi rất nóng, nóng đến nỗi bạn gần như không thể thở được. Trong ngày nhiệt độ có thể lên đến 120 độ Fahrenheit (ND: Khoảng bằng 48 độ Celsius). Trong ngày, tôi thường tọa thiền trong nội điện, ngồi trên một chiếc khăn lông ướt trải trên nền xi măng.

Đến bảy giờ chiều, tôi mang giường ngủ ra ngoài trời. Đó là một khung giường bằng gỗ đơn sơ, gọi là carpai (nghĩa đen, là bốn chân) với những sợi dây đan trên mặt giường và một tấm chiếu mỏng trải lên trên.

Tôi ngồi hàng giờ trên giường, toạ thiền trong không khí buổi chiều mát mẻ, thực tập chánh niệm hơi thở, như tôi vẫn thường làm trước khi ngủ kể từ khi tôi bắt đầu tu thiền. Rồi tôi ngủ đi ở ngoài trời như thế.
   
Điện thờ các xá lợi ở phía dưới chánh điện. Một cánh cửa nhỏ về phía bên phải của bàn thờ, dẫn xuống những cầu thang hẹp, đến một căn pḥng tối, khoảng ba thước vuông. Một bên tường có một cửa dẫn đến một pḥng khác nhỏ hơn, giống như một ngôi mộ.

Một tủ lớn bằng thiếc để giữa pḥng. Tủ có ba ngăn, mỗi ngăn đựng một bộ xá lợi. Bên trong các ngăn tủ được lót vải trắng và có những nắp bằng kiếng. Bên trong, các xá lợi được đựng trong những chiếc tách tṛn nhỏ bằng bạc. Chiếc tách đựng xá lợi Phật, lớn hơn mấy chiếc tách đựng xá lợi của hai vị đệ tử của Ngài.
   
Các ngăn kéo này được khoá hai lớp, cũng như là mấy cánh cửa đi vào pḥng chứa xá lợi. Có ba người giữ ch́a khoá, vị tổng thư kư của hội Mahabodhi, thống đốc bang Bhopal, và vị sư trụ tŕ chùa. Nhưng không có ai trong ba người này có đủ bộ ch́a khoá cho tất cả các ổ khoá.

Do đó, để có thể mở tất cả các cửa dẫn đến nơi chứa xá lợi, cả ba người nầy đều phải có mặt. Hai viên cảnh sát cũng luôn luôn có mặt ở đó. Mỗi năm một lần, vào ngày Phật Đản rằm tháng năm, các ngăn tủ chứa xá lợi được mở ra và đưa lên chánh điện. Những đoàn người hành hương được phép sắp hàng đi ngang qua các ngăn tủ. Rất nhiều người đảnh lễ các xá lợi.
   
Mặc dầu là trụ tŕ của Sanchi, Đại Đức Pannatissa chỉ sống ở đó giữa các tháng mười một và tháng hai. Thời gian c̣n lại trong năm, ông sống ở Ceylon, và khi ông vắng mặt, tôi là người quản lư ở đó. Bổn phận của tôi bao gồm tiếp khách, hành các buổi lễ sáng chiều, trả tiền công thợ và đánh các báo cáo cho hội Mahabodhi ở Ceylon.
   
Tôi đă tự học đánh máy với một quyển sách dạy thực hành đánh máy viết tay mà ai đó đă cho mượn. Tôi nghĩ là tôi khá giỏi, cho đến một ngày Đại Đức Pannatissa yêu cầu tôi đánh một lá thư quan trọng gửi cho thư kư hội Mahabodhi. Ông đọc bằng tiếng Sinhala và tôi dịch sang thứ tiếng Anh yếu kém của ḿnh.
   
Với bài dịch đặt kế bên bàn máy, tôi đánh lá thư, không cần nh́n các mặt chữ. Tôi c̣n trẻ và quá tự tin. Tôi đánh xong lá thư, vẫn không coi lại và đưa nó cho Đại Đức Pannatissa kư. Ông nh́n qua những ḍng chữ lạ lẫm, tưởng rằng nó chứa đựng những điều ông vừa đọc, kư tên và lá thư được gửi đi.
   
Ba tuần sau chúng tôi nhận được một lá thư từ người thư kư ở Colombo. Ông kèm theo lá thư của tôi mà giờ khi nh́n kỹ lại, th́ nó giống như vẽ bùa cả đối với tôi.

- Tôi không hiểu một chữ trong lá thư này. Ông viết bằng tiếng Sinhala cho Đại Đức Pannatissa. Sư định nói ǵ đây?
   
Đại Đức Pannatissa khá giận. Tôi đỏ mặt v́ xấu hổ, rồi đánh máy lại lá thư, lần này cẩn thận đặt các ngón tay của tôi vào đúng các chữ và đọc lại lá thư lần cuối trước khi gửi. Sau đó tôi không c̣n tự măn về khả năng đánh máy của ḿnh nữa, dầu c̣n có một lần nữa, sự cao ngạo của tuổi trẻ lại làm khổ tôi.
   
Vị tổng thư kư của hội Mahabodhi đă đến viếng Sanchi. Hai ngày sau đó, tôi nhận được lời nhắn từ vị hiệu trưởng của một trường đại học gần đó. Rơ ràng là vị tổng thư kư đă viếng thăm trường đại học, sau khi rời Sanchi và để quên lại đó một gói đồ. Ông nhờ vị hiệu trưởng gọi tôi đến lấy gói đồ và gửi đi Calcutta.
   
Tôi cảm thấy rất bực. Tại sao tôi phải đi tận xuống đồi để mang gói đồ đi gửi cho người thư kư? Tại sao ông hiệu trưởng không tự ḿnh làm chuyện đó? Tôi giận dữ viết một lá thư gửi cho vị hiệu trưởng.

“V́ ông ta đă để lại gói đồ chỗ ông, sao ông không đi gửi?” tôi viết. “Có một bưu điện chỉ cách trường một con đường. Ông đến đó dễ hơn tôi nhiều!
   
Mười ngày sau vị hiệu trưởng lại gửi cho tôi một lời nhắn khác, lặp lại yêu cầu của ông. Tôi lờ đi, và mười ngày sau nữa, lời nhắn thứ ba lại đến. Cuối cùng tôi đi xuống đồi để nhận gói đồ, nhưng tôi cằn nhằn suốt dọc đường đi. Khi gửi đi, tôi để dành lại biên lai, mà vị thư kư sẽ cần để hoàn tiền trả lại tôi.
   
Khi gói đồ đă đến bưu điện ở Calcutta, người thư kư viết thư cho tôi, hỏi về biên lai gửi đồ. Tôi gửi biên lai cho ông cùng với những ḍng chữ giận dữ. Cuối cùng, khi người thư kư mở gói đồ ra, một tháng sau khi ông đă đóng gói nó, một mùi hôi thối khủng khiếp bay ra.

Gói đồ có chứa đồ ăn mà v́ những sự chậm trễ của tôi, đồ ăn đă mốc rữa. Giờ th́ tới phiên ông ta gửi cho tôi một lá thư giận dữ. “Sư nổi sân v́ một việc nhỏ mà tôi nhờ sư làm” ông viết. “Rồi sư c̣n gửi cho tôi một lá thư trách móc. Nếu sư muốn tiếp tục làm việc cho hội Mahabodhi, tôi khuyên sư nên kiềm chế tính khí của ḿnh”.
   
Sân nộ là một trong những uế nhiễm khó đối trị nhất; tôi biết điều đó từ chính kinh nghiệm bản thân. Khi tôi c̣n là một tu sĩ trẻ ở Ceylon, tôi đă giảng nhiều bài pháp về sân nộ và phương cách để chế ngự nó, dầu rằng sự sân hận của chính tôi, cũng khiến tôi nhiều lần mất tự chủ.

Tôi gọi đó là sự sân hận "của tôi” nhưng điều đó không hoàn toàn đúng, sân hận chế ngự, lấn áp tâm tôi và tôi để nó làm như thế, mặc dầu rơ ràng nó làm tôi cảm thấy rất khổ sở. Khi giận dữ, tôi cảm thấy đau trong ngực và nóng trong bao tử. Mắt tôi nhoè đi, sự suy nghĩ của tôi không rơ ràng và những lời cọc cằn thô lỗ được thốt ra từ miệng tôi.
   
Khi b́nh tĩnh lại, lúc nào tôi cũng có cảm giác xấu hổ, điên rồ. Lúc đó tôi quán chiếu những lời Đức Phật dạy về sân hận:

- Ta cần buông bỏ sân hận, kiêu mạn, và chế ngự mọi kiết sử. Người không bám víu vào tâm hay thân, biết buông xả th́ không thể khổ đau. Người biết kiềm chế sự phát sinh của sân hận giống như người đánh xe biết kiềm chế con ngựa của ḿnh, người đó ta gọi đúng là người biết cầm cương.
   
Có một câu chuyện rất nổi tiếng từ tạng kinh Phật giáo, minh chứng cho ta thấy sự khéo léo của Đức Phật khi đối phó với sân hận. Một ngày, một người Bà La Môn, thuộc ḍng quư tộc và thế lực, đến gặp Đức Phật.

Vị Bà La Môn này có một tánh khí nóng nảy và thường căi cọ với mọi người. Ngay chính như khi người khác bị hại mà không tỏ vẻ giận dữ, ông cũng không bằng ḷng. V́ thế, khi ông nghe rằng Đức Phật chẳng bao giờ nổi giận, ông quyết định đến thử Ngài.
   
Người Bà La Môn đi đến gặp Đức Phật và tuôn ra những tràng chửi rủa. Đức Phật lắng nghe một cách b́nh tĩnh trong im lặng. Khi người Bà La Môn cuối cùng ngưng chửi và chờ đợi phản ứng của Đức Phật. Lúc đó, Đức Phật b́nh tĩnh hỏi ông:

- Ông có gia đ́nh hay bạn bè không?
   
- Dĩ nhiên rồi.

vị Bà La Môn trả lời:

- Tại sao?
   
- Ông có thăm viếng họ thường xuyên không?

Đức Phật hỏi.
   
- Có, người Bà La Môn trả lời cọc cằn.
   
- Khi đi thăm họ ông có mang quà theo không?
   
- Dĩ nhiên là tôi có! vị Bà La Môn gầm lên.
   
- Nhưng nếu họ không nhận quà của ông th́ sao?

Đức Phật hỏ:

- Ông sẽ làm ǵ với món quà?
   
- Tôi sẽ mang nó về nhà và chia sẻ với gia đ́nh tôi.

Người Bà La Môn trả lời.
   
- Vậy th́.

Đức Phật nói:

- Nay ông đă mang cho tôi một món quà của những lời sỉ nhục giận dữ. Tôi không muốn nhận chúng, tôi xin trả lại cho ông. Hăy mang về nhà và chia sẻ với gia đ́nh.
   
Giá mà tôi đă có thể sống theo trí tuệ của những lời dạy này lúc tôi c̣n trẻ. Những người hành hương thường đến Sanchi để tỏ ḷng kính trọng các xá lợi và để được nh́n những chiếc cổng hoành tráng do vua Ashoka xây dựng.

Có bốn cái tất cả, xây dựng vào thế kỷ thứ ba trước công nguyên. Mỗi cổng gồm có hai trụ đá, cao hơn sáu mét, với những thanh gỗ bắt chéo qua chúng. Những cảnh từ các chuyện tiền kiếp của Đức Phật được khắc lên các trụ cột. Những chữ khắc cùng với các bức tranh được viết bằng một loại ngôn ngữ cổ xưa, tương tự như tiếng Sanskrit và Pali.
   
Nhiều lần các đoàn hành hương đến viếng thăm cùng với người hướng dẫn viên, để giải thích những lời khắc trên trụ cột cho họ. Khi không có người hướng dẫn, th́ các vị khách yêu cầu tôi giải thích. Lúc đầu tôi chỉ bảo với họ là tôi không biết, rồi bỏ đi.

Nhưng dần dần sự thiếu hiểu biết này làm tôi xấu hổ. Tôi nhận thấy rằng, dầu ǵ, khi Đại Đức Pannatissa vắng mặt, tôi là vị sư duy nhất ở đó; tôi thật sự phải có khả năng để trả lời các câu hỏi về nơi chốn này.
   
V́ thế tôi yêu cầu một trong những người hướng dẫn viên ở địa phương, dạy tôi về ư nghĩa của những cột trụ này. Anh ta vui vẻ nhận lời và sau đó, tôi có thể giải thích giúp các khách văng lai về những h́nh ảnh này. Dần dần, tôi viết một cuốn sổ tay, hướng dẫn khách đến Sanchi bao gồm cả việc giải thích các trụ cột và những h́nh ảnh trên đó.
   
Thí dụ, một cảnh diễn tả lại lúc Đức Phật đản sinh với hoàng hậu Mahamaya, mẹ của ngài, đang lâm bồn dưới một cây sala trong rừng, với những người hầu của bà vây quanh dùng màn che chắn cho bà, và chư thiên tưới nước để tắm cho đứa bé.

Một cảnh khác lại tả lúc Đức Phật giác ngộ, cũng xảy ra dưới một gốc cây. Khi thái tử Siddhattha Gotama ngồi tĩnh lặng dưới cây bồ đề, hàng chục ngạ quỷ, biểu tượng cho những uế nhiễm của tâm, đe doạ ngài bằng gươm, dao, cung và tên. Ở một cảnh khác, Đức Phật trở về từ cơi trời sau khi đă giảng pháp cho mẹ của ngài, đă tịch bảy ngày sau khi sanh ra ngài.
   
Lại một cảnh khác diễn tả một con khỉ và hai con voi làm lễ trước Đức Phật, khi người đang ở Parileyya vào mùa mưa. Đó là, sau khi Đức Phật không thể dàn xếp được một cuộc tranh căi giữa hai nhóm tăng sĩ, Đức Phật vào rừng ở Parileyya sống một ḿnh trong mùa mưa đó. Theo truyền thuyết, khỉ đă mang đến cho ngài mật ong để ăn mỗi ngày và các chú voi đun nóng nước trên lửa để ngài tắm.
   
Tất cả các cảnh khắc trên trụ cột, dĩ nhiên đă làm phát khởi ḷng tin rộng lớn, nơi những người hành hương đến đây để chiêm ngưỡng chúng. Vào tháng 4-1956, chúng tôi bắt đầu lên chương tŕnh cho lễ Phật đản ở Sanchi, sẽ cử hành trong tháng năm.

Chúng tôi quyết định mời thủ tướng Ấn Độ, Jawarharl Nehru. Đại Đức Pannatissa và tôi đi Delhi để tận tay trao giấy mời. Dầu đă có hẹn qua thư, khi chúng tôi đến văn pḥng của ngài Nehru, nơi này đầy các vị chức trách nước ngoài, kể cả các đại sứ từ những nước Á châu.
   
Là người lănh đạo chính trị, nhưng Nehru có vẻ mặt rất thanh tịnh và cử chỉ khoan thai. Ông cao trung b́nh, tóc bạc, và ăn vận theo truyền thống Ấn Độ: quần trắng, áo dài tay rộng răi, với đôi dép dây đơn giản.
   
Nehru chào đón chúng tôi bằng một giọng nói nhẹ nhàng và cử chỉ thân thiện. Dầu ông đang dở chừng trong một buổi họp dài với các vị khách chức phận, ông cũng đưa Đại Đức Pannatissa và tôi vào văn pḥng của ông. Cả ba chúng tôi trao đổi khoảng hai mươi phút.

Nehru nói rằng ông xin lỗi, nhưng ông không thể dự lễ v́ nó trùng với một hội nghị chính trị sắp diễn ra ở Indonesia. Vị thủ tướng nói tiếng Ấn Độ trôi chảy, nhuần nhuyễn. Tôi phải vất vả dịch những lời ông nói sang tiếng Sinhala cho Đại Đức Pannatissa.
   
Cuối cùng, ông Nehru chúc chúng tôi những điều tốt đẹp nhất và đứng dậy để báo hiệu chấm dứt cuộc gặp gỡ. Ông đứng chụp h́nh với chúng tôi, rồi cúi chào từ giă, hai tay chắp vào nhau. Bên cạnh lần gặp gỡ ngắn ngủi đó với thủ tướng Nehru, tôi c̣n may mắn được gặp những người nổi tiếng khác nữa.

Vào tháng 11-1956, vua xứ Nepal có chương tŕnh đến viếng Sanchi. Tôi muốn trang hoàng lại chùa để đón tiếp ông, nên tôi quyết định treo vài cây cờ Phật giáo với những đường sọc màu sắc, mà người ta cho rằng đó là để biểu hiện hào quang đă phát ra sau khi Đức Phật giác ngộ.

Một giải thích khác nữa là cây cờ biểu hiện cho thân của Đức Phật: màu trắng biểu tượng cho xương và răng của ngài, đỏ cho máu, vàng cho mật, xanh cho tóc, và vàng cam cho da của ngài.
   
Tôi trèo lên các vách đá dọc theo tường rào chùa để cột sợi dây treo cờ. Khi tôi kéo xiết sợi dây, nó bị đứt, khiến tôi mất thăng bằng té ngửa ra. Tôi té trên mặt đất đầy đá và bị găy cổ tay. Khi nhà vua xứ Nepal đến, tôi ở trong bệnh viện. Ông nghe kể về sự rủi ro của tôi, nên đă đến bệnh viện thăm tôi.

Không kể các vị vua và thủ tướng, cuối năm 1956, chúng tôi lại có một vị khách nổi tiếng cách khác: Đức Đạt Lai Lạt Ma. Điều trùng hợp là ông đến viếng thăm nhằm vào ngày sinh nhật của tôi. Và tôi lại là vị thầy duy nhất có mặt ở đó để đón tiếp ngài.

Lúc đó Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ mới mười chín tuổi, trẻ hơn tôi, nhưng đă là người cầm quyền của hoàng tộc ở Himalaya mà gần đây đă bị Trung Quốc chiếm. Tôi không ngờ ông là một nhân vật lỗi lạc đến thế. Ông đến Sanchi không báo trước, không có lính hay người theo bảo vệ quanh ông như bây giờ.

Tuy nhiên có vài vị sư đi theo trong đoàn. Họ rất cung kính đối với ông, coi sóc không để y áo của ông dính bụi và đưa ông đi đến nơi nào ông cần. Khi ông cởi giày để bước vào chùa, họ cũng giúp ông, rồi họ đặt các xâu chuỗi của ḿnh vào bên trong đôi giày trống của ông, như một hành động tỏ ḷng cung kính.
   
Đức Đạt Lai Lạt Ma có khuôn mặt trầm lặng nhưng thường nở những nụ cười rạng rỡ. Ông đeo kiếng có gọng bằng kẽm nhỏ và rất đẹp người. Da mặt mịn màng khiến ông nh́n c̣n trẻ hơn tuổi. Ông khẽ chào tôi, hai tay chắp lại và nói bằng tiếng Anh:

- Đây là một nơi rất yên tĩnh, đẹp đẽ. Khá mát mẻ. Sư ở đây có dễ chịu không?
   
- Dạ có.

Tôi trả lời ông, cũng vái chào đáp lại:

- Con rất dễ chịu và con vui mừng đón tiếp ngài ở nơi thiêng liêng này.
   
Ông tỏ ra là người rất khiêm cung. Chúng tôi cùng đi bên nhau đến chánh điện, khi bất ngờ chúng tôi được tin thống đốc của bang Bhopal và tổng thư kư của hội Mahabodhi cũng đến. Sau này tôi được biết, họ đă được báo trước về chuyến viếng thăm Sanchi của Đức Đạt Lai Lạt Ma và ư muốn được viếng thăm các xá lợi Phật của ông.

Họ biết rằng họ phải mang bộ ch́a khoá của họ đến, để chúng tôi có thể mở các ngăn tủ đựng xá lợi, trong căn pḥng tối ở phía dưới chánh điện. Sau khi người thị giả trải một miếng vải trắng sạch trên sàn nhà trước tượng Phật, Đức Đạt Lai Lạt Ma đảnh lễ ba lần, đầu chạm trên miếng vải.

Rồi ông đặt hoa lên bàn thờ, đốt ba cây nhang và ba cây đèn cầy. Sau đó tất cả chúng tôi đi xuống lầu đến pḥng đựng các xá lợi và mở các ngăn tủ. Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nh́n thấy các xá lợi thiêng liêng này, ông lại đảnh lễ ba lần. Rồi ông trao cho tôi một món quà tặng chùa: một cây đèn dầu bằng vàng, cao khoảng hai mươi lăm centimét. Chúng tôi đặt cây đèn vàng trong căn pḥng dưới hầm, cùng với các xá lợi.
   
Ba năm sau, Đức Đạt Lai Lạt Ma và một ít tùy tùng cưỡi ngựa băng qua núi, để chạy trốn sự chiếm đóng của người Trung Quốc ở Tibet. Ông sống lưu vong ở phía bắc Ấn Độ và câu chuyện buồn về Tibet bắt đầu được lan truyền khắp thế giới. Nhưng dĩ nhiên tôi chẳng bao giờ tưởng tượng ra được điều này, khi ông và tôi đứng cạnh bên nhau ở Sanchi.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 671 of 1146: Đă gửi: 15 September 2010 lúc 10:57pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM


Chương Mười Hai


Giữa Những Người Hạ Tiện



Mặc dầu tôi rất thích sống ở ngôi chùa trên đồi ở Sanchi, nhưng mà h́nh như lúc nào cũng có vấn đề, những vấn đề khá nghiêm trọng, khiến tôi dần dần bắt đầu nghĩ đến việc rời bỏ nơi này.
   
Một buổi tối, người đầu bếp của chúng tôi, Anuruddha, đến gặp tôi và nói:

- Đại đức Gunaratana, tôi đă hỏi mượn sư Pannatissa số tiền hai mươi lăm rupee. Sư bảo rằng không có tiền, v́ đại đức chưa trả tiền cơm tháng rồi.
   
Tôi kinh hoàng. Mỗi tháng khi nhận được bảy mươi lăm rupee tiền chi tiêu từ hội Mahabodhi, việc đầu tiên tôi làm là trả ngay cho đại đức Pannatissa bốn mươi rupee tiền ăn uống. Tiếc thay tôi chẳng bao giờ đ̣i hỏi biên lai. Đối với giới luật của người tu, đó là một sự sỉ nhục. Chúng tôi phải tin lời nói của nhau, vậy mà giờ đại đức Pannatissa đă không ngại ngùng nói dối với người đầu bếp.
   
Chiều hôm đó, vào giờ trà ẩm, đại đức Pannatissa và tôi gặp nhau ở nhà bếp, như lệ thường. Tôi ngồi kế bên ông trên một ghế đẩu thấp, và Anuruddha ngồi trên sàn nhà, cách chúng tôi không xa, đang chuẩn bị trà. Tôi quay qua đại đức Pannatissa.
   
- Thưa, có đúng là sư đă bảo với Anuruddha rằng con chưa trả tiền ăn tháng rồi không? Sư biết rằng con đă trả rồi mà. Tại sao sư lại làm cho anh ta nghĩ rằng con không chân thật? Ngay nếu như con chưa trả cho sư, sư cũng nên nói với con trước. Chúng ta là những tỳ kheo duy nhất ở nơi này. Chúng ta có thể trao đổi với nhau bất cứ chuyện ǵ, như là những người bạn.
   
Đại đức Pannatissa mặt đỏ như trái gấc. Ông đứng dậy, đá cái ghế tôi đang ngồi và vùng vằng đi ra khỏi pḥng.
   
Tôi cũng có vấn đề với một trong những người cảnh sát Ấn Độ làm bảo vệ ở chùa. Một lần nọ, tôi đang tiếp một vài vị khách trong chánh điện, th́ nhớ ra tôi cần phải lấy ít đồ nơi khu nội điện. Tôi bước vào pḥng ḿnh và thấy người cảnh sát đang lui cui nơi hộc tủ chúng tôi cất tiền bán sách, trong tiệm sách nhỏ của chúng tôi.
   
Ngay khi người cảnh sát vừa thấy tôi, ông vội rút tay ra khỏi tủ, trong tay c̣n nắm đầy tiền! Thật sự mà nói tôi cảm thấy xấu hổ cho ông hơn là giận dữ. Tôi không biết phải làm ǵ hay nói ǵ, v́ thế tôi vội vă quay ra khỏi pḥng.
   
Ngay khi các vị khách văng lai rời chùa, tôi gửi giấy nhắn cho viên thanh tra cảnh sát ở trong làng dưới đồi, mời ông đến gặp tôi. Chỉ một tiếng sau, ông ta đă có mặt. Tôi kể cho ông nghe chuyện ǵ đă xảy ra và yêu cầu ông thuyên chuyển viên cảnh sát đi nơi khác.
   
Sau khi vị thanh tra cảnh sát ra về, người cảnh sát tội lỗi vào, quỳ xuống chân tôi khóc, ông xin tôi tha thứ cho ông.
   
- Anh đến đây để bảo vệ chúng tôi. Tôi nói. Vậy mà tôi lại thấy anh ăn cắp tiền bán sách của chúng tôi. Tại sao anh lại làm một việc dại khờ như thế?
   
Ngày hôm sau, vị tổng thanh tra cảnh sát ở tận Bhopal cũng đến. Ông hỏi tôi chuyện ǵ đă xảy ra và tôi thưa chuyện lại với ông. Ông rất giận, nói rằng ông sẽ đuổi viên cảnh sát kia.
   
- Xin ông đừng làm như thế. Tôi nói. Anh ta là một người nghèo, có đông con cái phải chăm lo. Xin ông đừng đuổi anh ta; chỉ chuyển nhiệm sở đi chỗ nào khác. Tôi không muốn thấy anh ta ở đây nữa.
   
Đó là những vấn đề khiến tôi suy nghĩ đến việc rời bỏ Sanchi. Ngoài ra c̣n một yếu tố khiến tôi muốn ra đi, là việc tôi rất nôn nóng muốn đi học lại, nên khi một vị giáo sư ở Đại học Benares Hindi đến viếng thăm Sanchi, tôi cảm thấy cơ hội của ḿnh đă đến.

Đại đức tiến sĩ Hammalawa Saddhatissa dạy tiếng Pali ở trường đại học đó và đă viết nhiều cuốn sách về Phật pháp bằng tiếng Ấn Độ, Sinhala và tiếng Anh. Năm 1956, tôi được nghe một bài thuyết pháp rất đặc sắc của ông về ngày Phật đản sinh.

Cá tính ôn hoà và tŕnh độ hiểu biết Phật pháp sâu sắc của ông, đă gây ấn tượng sâu đậm đối với tôi. Tôi nh́n ông và thấy rằng, đó chính là h́nh ảnh tôi hy vọng sẽ trở thành trong vài năm tới.
   
Khi đại đức Saddhatissa đến viếng Sanchi, tôi đă nhờ ông giúp đỡ. Tôi thưa với ông rằng tôi đă học tiếng Anh một thời gian, nhưng rất khó t́m được những người thầy giỏi.
   
- Để tôi gửi cho sư một đơn nhập học ở trường đại học. Ông nói.
   
Tôi thật sung sướng. Trong khi chờ đợi, tôi nghĩ là ḿnh cần phải chuẩn bị, v́ tôi đă bỏ học một thời gian. Tôi quyết định viếng thăm một trường đại học cộng đồng nhỏ, cách Sanchi khoảng một phần tư dặm, để t́m một gia sư. Bằng cách ăn uống tiện tặn, tôi để dành được một phần tiền hàng tháng của tôi, do đó tôi có thể trả tiền thuê gia sư.
   
Vị hiệu trưởng của trường đại học cộng đồng đồng ư kèm tôi học. Nhưng sau một vài buổi ông bắt đầu chất vấn động lực khiến tôi muốn học tiếng Anh. Một ngày kia, ông vụt nói:

- Sư là người tu, tại sao sư muốn học tiếng Anh?
   
Giọng ông đầy vẻ mỉa mai, chê trách, như muốn nói rằng, “Sư nghĩ sư là ai, một Bà La Môn giai cấp thượng lưu muốn có bằng đại học? Tôi đoán biết ông nghĩ rằng tôi không có việc ǵ phải nghĩ đến chuyện học hành thành đạt.
   
- Tôi không phải là một trong những người ăn xin Ấn Độ lơa thể, đi lang thang cùng khắp với khuôn mặt trát đầy than tro, xướng tụng tên các vị thần thánh Ấn Độ! Tôi trả lời.

- Tôi là một tu sĩ Phật giáo, và tu sĩ Phật giáo có thể học bất cứ môn ǵ mà họ muốn. Tôi c̣n là thầy truyền giáo, v́ thế tôi cần phải học tiếng Anh để dạy Phật pháp ở những xứ sở khác. Dầu ông có muốn dạy cho tôi nữa hay không, tôi vẫn tiếp tục học.
   
Chiều hôm đó, vị hiệu trưởng và phó hiệu trưởng đến chùa ở Sanchi. Tôi pha trà cho họ, và chúng tôi ngồi xuống nói chuyện. Vị hiệu trưởng xin lỗi đă chỉ trích tôi sáng nay. Ông nói rằng từ nay tôi có thể được kèm học miễn phí. Cuộc thi tuyển sinh vào đại học bắt đầu vào tháng ba, 1956. Tôi rời bỏ nhiệm sở ở Sanchi vào tháng hai và đi đến Benares lần đầu tiên.
   
Benares đă là và vẫn là một trong những thành phố đông dân cư nhất của Ấn Độ. Nó cũng là một trong những nơi thiêng liêng nhất. Rất nhiều người Ấn Độ trong những năm cuối đời họ đă đến Benares, sống ven bờ tây của ḍng sông Gange huyền bí.

Họ tắm trong ḍng sông, rồi uống nước sông đó, dầu nó rất dơ bẩn. Họ tin rằng nếu họ chết ở đây, mặt hướng về phương đông, họ sẽ đi thẳng lên thiên đàng. Dọc theo bờ sông Gange, là những ḷ hoả táng ngoài trời gọi là ghat, nơi người ta thiêu người chết.

Đó là một quá tŕnh thô sơ, không giống chút nào với việc hoả táng tân tiến. Trước hết, người chết được đặt trên một vài thanh củi trên một ḷ bằng sắt. Những miếng phân ḅ khô, giống như những miếng bánh tráng nâu, được đặt thẳng ngay lên thân người chết.

Ghee (bơ tinh chất) được đổ lên người và củi, rồi đốt lửa, công việc này thường do người con trai trưởng của người chết thực hiện. Khi tử thi đă bị thiêu huỷ gần hết và lửa đă tắt, tro và những ǵ c̣n lại được thải xuống sông.
   
Phần c̣n lại của Benares th́ bụi bặm và ồn ào. Những con đường hẹp đầy ổ gà th́ đông nghẹt với những chiếc xe đạp, xe máy, xe buưt, xe tải, xe hai bánh và xe ba bánh không mui. Bên đường, thiên hạ ngồi ngoài trời để đi vệ sinh. Các vị thực hành tôn giáo kỳ bí, những người mà người Ấn cho là các vị thánh, lơa thể lăn lộn trong bụi cát, ca tụng tên của thượng đế.

Ăn xin, gồm người già và trẻ em, đi đầy đường với những bàn tay ch́a ra. Những con chó hoang, dơ dáy, rụi lông chạy rong ngoài đường, mấy con ḅ cũng thế. V́ người Ấn Độ coi ḅ là thánh, nó được tự do đi nghênh ngang khắp đường phố. Đôi khi các chú ḅ này đi thẳng đến các hàng bán rau quả để gặm rau cải và trái cây. Chó, ngược lại, không được để ư hoặc bị đá ra khỏi đường.
   
Ngay khi vừa đến Benares, tôi bắt đầu đi t́m chỗ trọ ở gần trường đại học. May mắn thay, khi đang đi trên campus (khuôn viên trường đại học), tôi gặp được một vị sư. Ông bảo tôi có thể đến ở chung dầu rằng chúng tôi vừa mới gặp nhau.

T́nh cờ ông cũng có cùng tên lót như tôi: Gunaratana. Ông cũng có một thứ mà tôi coi là rất quư giá: đó là một quyển sách giáo khoa tiếng Pali. Biết bao ngày chúng tôi đă cùng nghiền ngẫm quyển sách đó với nhau. Tôi không thể tin được sự may mắn của ḿnh.
   
Rồi chỉ hai ngày trước khi cuộc thi tuyển sinh bắt đầu, vị huynh đệ kia bỗng tuyên bố rằng ông sẽ dời đến ở chỗ khác. Duyên ở chung với nhau thật ngắn ngủi, tôi không c̣n chỗ nào để đi.

Quá tuyệt vọng tôi đến văn pḥng của hội Mahabodhi ở Benares cầu cứu. Vị sư ở đó ân cần t́m cho tôi pḥng, ở một chùa của người Burma gần trường. Từ chùa, chỉ đi bộ một đoạn ngắn là đến pḥng thi.
   
Tôi phải thi nhiều môn: tiếng Ấn Độ, Sanskrit, Pali, lịch sử Ấn Độ và Ấn Độ Giáo. May mắn thay tôi đă có học về Ấn Độ Giáo trong thời gian theo học ở trường Phật học Vidyalankara.
   
Mỗi môn thi vào một ngày khác nhau. Một ngày trước ngày thi, tôi t́m gặp người bạn Gunaratana để hỏi mượn quyển sách Pali của ông trong vài tiếng đồng hồ.
   
- Sư có biết về ngũ giới không? Ông hỏi. Bát giới? Thập giới? Sư cần biết có vậy, v́ họ cũng sẽ chỉ hỏi có vậy. Hơn nữa, tôi cũng đă mất quyển sách Pali đó rồi.
   
Chỉ c̣n vài giờ nữa là đến giờ thi, tôi rất cần quyển sách đó, nên tôi đến t́m Đại Đức Sadhatissa, nhờ ông giúp đỡ. Ông đưa cho tôi một quyển sách Pali và nói:

- Tuần rồi tôi cũng đưa copy của quyển sách này cho một vị cũng tên Gunaratana. Lư ra sư có thể hỏi mượn người đó trong vài giờ.
   
Suốt đêm tôi cắm cúi học quyển sách Pali đó. Sáng hôm sau, khi bước vào pḥng thi, vị giám khảo bảo chúng tôi phải để tất cả các xách tay trên bàn ngoài hành lang. Khi tôi sắp trở lui ra cửa, Gunaratana dúi túi xách của ông vào tay tôi, nhờ tôi đặt nó lên bàn với các túi xách khác.
   
Dĩ nhiên, ngay khi vừa ra đến hành lang, tôi lén nh́n vào túi xách của Gunaratana. Đúng như tôi đă nghi ngờ, trong đó có quyển sách Pali mà ông đă nói rằng ông không có. Đó không phải là lần đầu tiên hay là lần cuối cùng, mà tôi khám phá ra một huynh đệ đă phạm giới.

Nó khiến tôi rất buồn, v́ người tu sĩ lư ra phải làm gương cho hàng cư sĩ. Người cư sĩ đă hết ḷng tin tưởng chúng ta. Chúng ta đă truyền giới cho họ, nhưng nếu chính bản thân chúng ta không tuân theo các giới luật này, th́ chúng ta là những người đạo đức giả.
   
Dầu chỉ có một vị tu sĩ bị bắt gặp nói dối, điều đó cũng ảnh hưởng đến ḷng tin của họ đối với tăng đoàn. Người ta bắt đầu kết tội chung rằng, có thể tất cả các tu sĩ đều nói dối. V́ thế các vị tu sĩ chân chính phải cố gắng hơn nữa, để có được ḷng tin và sự tôn kính của người khác.
   
Tôi cảm thấy buồn bất cứ khi nào tôi thấy ai nói dối, v́ tôi biết rằng họ sẽ phải gánh chịu hậu quả xấu tới đâu. Tôi biết điều đó bằng kinh nghiệm bản thân của ḿnh. Hồi c̣n nhỏ khi tôi nói dối, tôi phải làm bất cứ điều ǵ để che đậy sự giả dối đó.

Tôi nói dối điều này để che giấu điều khác, rồi lại dối nữa để che đậy lời nói dối sau cùng. Dần dần, tôi ch́m đắm trong sự gian dối và cảm thấy tội lỗi vô cùng. Phải một thời gian dài, có lẽ cho đến sau khi tôi đă thọ đại giới, tôi mới nhận ra ḿnh đă sống giả dối như thế nào và đă phải đau khổ biết bao nhiêu, khi sống trong giả dối.

Cuối cùng tôi mới hiểu lời Phật dạy về sự giả dối, trong kinh Pháp Cú:

- Người nói dối đă phạm luật (của sự chân thật), người ấy từ đó phải chịu sự quở trách, và không có điều xấu ǵ mà họ không thể làm.
   
Cuối năm đó, lần đầu tiên tôi tiếp xúc với một nhóm người, mà sau này trở thành một phần quan trọng trong công việc truyền giáo của tôi: những người hạ tiện. Nhóm người này ở tận cùng của chế độ, phân chia giai cấp khắt khe trong xă hội Ấn Độ.
   
Chế độ phân chia giai cấp cũng lâu đời như là Ấn Độ giáo, đă hơn ba ngàn năm, và vẫn c̣n bền vững. Người theo Ấn Độ giáo tin rằng một người được sanh vào một giai cấp nào đó, dầu cao hay thấp, là tuỳ theo ư muốn của đấng tạo hoá.

Có bốn giai cấp chánh.

Bà La Môn, là giai cấp thượng đẳng, được tin là sanh ra từ miệng của đấng Brahma. Bổn phận của họ là phải học kinh Vệ đà (Kinh thánh Ấn Độ giáo), dạy cho các Bà la Môn khác, giảng đạo, hành các lễ nghi tôn giáo, phục vụ, cố vấn nhà vua cách trị v́ xứ sở.
   
Giai cấp thứ hai, gọi là Kshatriyas (nghĩa là những người cai trị), được cho là sanh ra từ nách của đấng Brahma. Những người Kshatriyas là các chiến sĩ và các vị vua, v́ thế họ được quyền sử dụng vũ khí, để củng cố luật lệ và bảo vệ xứ sở.

Giai cấp thứ ba là Vaisyas. Họ được coi là sanh ra từ bụng của đấng Brahma. Bổn phận của họ là nuôi dưỡng dân chúng. Do đó họ nắm giữ một số nghề nghiệp khác nhau như là: nông dân, nhà buôn, người trao đổi hàng hóa. Họ cũng tham gia vào các dịch vụ thương mại, như ngân hàng, chứng khoán, cho vay và kinh doanh.
   
Giai cấp thứ tư là Sudras, được tin là sanh ra từ chân của đấng Brahma. Họ làm những công việc thấp hèn như là giúp việc nhà cho các giai cấp cao hơn, hoặc lượm lặt đồng nát hay những thứ có thể tái chế.
   
Người Hạ tiện th́ c̣n dưới cả giai cấp Sudras rất nhiều, đến nỗi họ không được coi là có một giai cấp. Họ buộc phải làm những công việc tay chân rất gớm ghiếc như là: dọn dẹp ống cống, kéo rác, dọn dẹp xác súc vật chết ngoài đường và nhặt phân ḅ để làm nhiên liệu.

Khi tôi ở Ấn Độ, giai cấp hạ tiện không được quyền đi học, hay đi xem phim, hoặc đến tiệm ăn, vào công viên, v́ họ có thể làm lây nhiễm cho những người ở giai cấp cao hơn.

Khi đi ra đường, họ bị buộc phải mang một cái chuông quanh cổ, để cho người khác có thể nghe họ đến gần mà tránh xa đi. Những người hạ tiện này không được phép uống nước ở các giếng nước công cộng; nước uống của họ phải lấy từ các cống rănh ngoài trời.
   
Khi người Anh cai trị Ấn Độ, họ ra các luật chống lại sự phân biệt dựa trên giai cấp này. Năm 1947, hiến pháp mới ở Ấn Độ đă chính thức xoá bỏ chế độ phân chia giai cấp, dầu vậy nó vẫn c̣n tồn tại cho đến ngày nay.

Ư tưởng phân chia giai cấp đă quá ăn sâu trong tín ngưỡng của Ấn Độ giáo, lại được các giai cấp thượng lưu ủng hộ, nên gần như không thể nào xoá bỏ được. Hôn nhân giữa các giai cấp gần như không hiện hữu, và các nhà chính trị thường lợi dụng sự phân chia giai cấp để làm lợi cho ḿnh.

Điều đó rất giống như sự phân chia màu da mà tôi đă thấy ở Mỹ, dầu không được chấp nhận một cách chính thức, nhưng mà nó vẫn hiện hữu một cách vi tế và rất khó biết để xử phạt.
   
Đức Phật đă phản đối việc phân chia giai cấp một cách quyết liệt như ta đă thấy rơ trong kinh Pháp Cú:

Không phải v́ màu tóc, không phải v́ gia tộc, không phải v́ sinh ra ở đâu mà người ta trở thành người thánh thiện. Nhưng người có ḷng tin và chân thật, người ấy trong sạch, người ấy là người thánh thiện.

Màu tóc của ngươi th́ có nghĩa lư ǵ, hỡi những kẻ vô minh? Quần áo sang trọng của ngươi che giấu được điều ǵ? Trong tâm ngươi tán loạn; th́ ngươi chỉ làm sạch được ở phía bên ngoài.
   
Ta không gọi một người là thánh thiện bởi v́ ḍng tộc hay bởi v́ mẹ họ quyền quư. Nếu người ấy đầy các chướng ngại, bám víu, th́ người ấy chỉ là một người cao ngạo. Nhưng nếu người ấy được giải thoát khỏi chướng ngại, bám víu, th́ ta gọi đó là người thánh thiện.
   
Và trong kinh Vasala thuộc tạng kinh Khuddaka, Đức Phật giảng về một định nghĩa chính xác, của một người không được xă hội chấp nhận, hay người đă bị loại ra khỏi chế độ phân chia giai cấp:

"Không phải do sinh ra ở đâu mà người đó bị ruồng bỏ. Không phải do sinh ra ở đâu mà người đó là một Bà La Môn. Nhưng do hành động khiến họ bị ruồng bỏ. Do hành động khiến họ là một Bà La Môn.
   
Nói một cách khác, một Bà La Môn có thể trở thành một kẻ hạ tiện, và một người hạ tiện có thể trở thành một Bà La Môn, tuỳ thuộc vào hành động và sự bám víu của họ.

Không phải v́ do ai sanh ra, mà có thể quyết định được số phận của chúng ta, đó là do những ǵ chúng ta đă làm trong cuộc đời. Đây là một trong những quan điểm căn bản mà người Phật tử có cái nh́n khác với người Ấn Độ giáo.
   
Khi tôi ở Ấn Độ vào khoảng những năm 1950, có tám mươi triệu người thuộc giai cấp hạ tiện. Tháng 10 năm 1956, bác sĩ Bhimarao Ambedka, vị lănh đạo xuất sắc của phong trào đ̣i thay đổi cuộc sống của người hạ tiện, đă cải đạo thành Phật giáo, một tôn giáo mà ông đă khám phá.

Oái ăm thay, trong thời gian học tại Anh. Đối với Ambedkar, Phật giáo là con đường của ḷng bi mẫn, là lối thoát ra khỏi hệ thống phân chia giai cấp khắc nghiệt, mà Ấn Độ giáo ủng hộ.
   
Đối với những người hạ tiện, câu chuyện đời của bác sĩ Ambedkar, là một nguồn cảm hứng tuyệt vời. Khi c̣n là một cậu bé, ông lắng nghe các bài giảng bên ngoài các lớp học, mà ông bị cấm không được vào v́ giai cấp của ḿnh.

Một ngày kia, khi không có ai trong lớp có thể giải một bài toán, người thầy giáo đă gọi Ambedkar vào lớp để thử giải trên bảng. Ông đă giải được bài toán, nhưng những đứa trẻ khác sau đó, đều vứt túi đựng đồ ăn trưa của chúng vào sọt rác, v́ đă có bóng của ông in lên khi đi ngang qua chúng.
   
Được cha khuyến khích, Ambedkar tiếp tục học hành. Những năm học trung học, ông phải ngồi bên ngoài để dự các kỳ thi. Nhưng điểm thi của ông rất cao đến nỗi, vị thống đốc của bang cũng chú ư đến người thanh niên trẻ này, và giúp đỡ để ông được sang học tại New York, rồi sau này là London.

Ở đó, trong một thế giới không có sự phân chia giai cấp, tài năng của Ambedkar đă nở rộ. Ông có bằng về luật và hai bằng tiến sĩ về triết và kinh tế.

Tuy nhiên, lần đầu tiên khi ông bước vào ṭa án Ấn Độ với tư cách là một luật sư, th́ tất cả mọi người trong pḥng, thẩm phán, các vị luật sư khác, bồi thẩm đoàn, và những người dự thính, đều bỏ ra ngoài. Chế độ phân chia giai cấp vẫn c̣n rất mạnh mẽ.
   
V́ thế Ambedkar tham gia chính trị. Ông dễ dàng được một ghế trong quốc hội, v́ tất cả những người hạ tiện ở bang Maharashtra đều bầu cho ông. Khi Ấn Độ sẵn sàng để tuyên bố độc lập khỏi sự thống trị của Anh năm 1947, Ambedkar là chủ tịch của hội đồng, phác thảo bản hiến pháp mới của xứ sở này.

Trong đó có những đoạn nói đến sự thống khổ của những người hạ tiện và những người thuộc giai cấp thấp. Hiến pháp mới đề nghị cho họ học bổng ở các trường dạy nghề, được ở nhà dành cho người có thu nhập thấp, được giảm thuế và những sự giúp đỡ khác về kinh tế.
   
Ambedkar là một người anh hùng đối với những người hạ tiện. Ông là vị lănh đạo được họ kính trọng, yêu thương suốt mười năm, và khi ông cải đạo sang Phật giáo, nửa triệu người hạ tiện cũng làm theo gương ông. Đáng tiếc, hai tháng sau đó ông đă ra đi, vào tháng 12 năm 1956.
   
V́ tôi nói tiếng Ấn Độ giỏi, tôi thường được yêu cầu đi giao tiếp với những người hạ tiện, đă cải đạo sang Phật giáo, nhất là sau khi Ambedkar mất. Tháng 12 năm 1956, không lâu sau khi Ambedkar mất, một buổi sáng kia, đại đức Pannatissa đến gặp tôi lúc bốn giờ rưỡi.

Đi cùng với ông có hai người nghèo khổ, áo quần tả tơi.

- Đây là những người hạ tiện. Đại đức Pannatissa bảo với tôi. Hôm nay tro của Ambedkar sắp được mang đến Nagpur để thờ trong nhà tưởng niệm. Và hàng ngàn người hạ tiện đang chờ đợi ở đó để được quy y. Họ cần một vị tu sĩ để truyền năm giới và quy y tam bảo cho họ. Sư có thể đi không?
   
- Thưa vâng, dĩ nhiên là được rồi. tôi đáp, không một chút do dự.
   
Cuộc hành tŕnh bằng xe lửa mất gần một ngày. Chúng tôi đến Nagpur vào khoảng ba giờ chiều. Rồi chúng tôi lại lấy xe buưt đi khoảng sáu mươi dặm nữa đến Amarawati, mất thêm năm tiếng nữa.
   
Khi chúng tôi đến Amarawati, tôi thật kinh hoàng khi nh́n thấy hàng ngàn người tụ tập trên một cánh đồng trống, cạnh bên những ṭa chung cư cao ngất, mà chính phủ đă xây dựng cho người hạ tiện. Người ta ở khắp nơi, hoặc đứng hay ngồi trên mặt đất. Trẻ con, ḅ, chó, và gà tự do đi rong khắp nơi.
   
Ngay khi họ nh́n thấy tôi trong y áo người tu, một giọng tụng lớn bằng tiếng Marathi nổi lên từ đám đông:

- Bhagavan Buddhanca jayaho! ahaparinirvanprapta parama puyya baba saheb doctor. Ambedkar yanca jayaho! (Đảnh lễ Đức Thế Tôn! Đảnh lễ vị giáo sư tiến sĩ Ambedkar, người xứng đáng được kính trọng vô cùng và đă đạt được giải thoát cuối cùng!.

Âm thanh của một trăm ngàn giọng nói tán thán Đức Phật và tán thán vị lănh đạo vừa mất của họ là một âm thanh rung động tuyệt vời, và gần như làm điếc tai người nghe.
   
Tôi leo ba bậc thang lên một sàn gỗ nhỏ, và một người vẫy tay ra hiệu cho đám đông im lặng. Tôi cầm lấy micro, đọc lời quy y tam bảo và truyền ngũ giới cho họ bằng tiếng Pali. Đám đông nhiệt t́nh hưởng ứng, lặp lại những câu kinh truyền thống sau khi tôi đă xướng chúng.

Chưa từng có bao giờ và cũng chưa từng xảy ra sau này, việc tôi đă truyền giới cho một đám đông người như thế. Thật là phấn khởi. Những giọt nước mắt vui mừng làm cay mắt tôi.
   
Sau khi đă xong phần quy y và truyền giới, tôi được mời thuyết pháp. V́ chuyến đi này quá bất th́nh ĺnh, tôi đă không kịp chuẩn bị ǵ. Dù thế, tôi vẫn cố gắng để thuyết pháp trong ba mươi phút bằng tiếng Ấn Độ, về sự quan trọng của việc quy y và thọ giới.

Và về việc trở thành một người Phật tử, bằng chính sự tự do lựa chọn của ḿnh. Ngày hôm sau, bài nói chuyện ngay tại chỗ của tôi, được tóm tắt và đăng trong tờ báo hằng ngày.
   
Suốt bốn ngày sau đó, tôi luôn phải giao tiếp với những nhóm người hạ tiện, từ khắp nơi trong vùng đó của Ấn Độ. Người ta đưa tôi đi từ cuộc họp này sang cuộc họp khác, bắt đầu từ bảy giờ sáng và đôi khi tiếp tục cho đến thật khuya trong đêm. Những người hạ tiện này h́nh như rất đói khát các món ăn tinh thần.
   
Vào ngày 24 tháng mười hai, chúng tôi đến Wardha, một thành lũy của Ấn Độ giáo. Đây là lần đầu tiên một buổi họp ở nơi công cộng, dành cho Phật tử được tổ chức ở đây. Vào lúc mười giờ tối đó tôi đi ngủ, mệt nhoài v́ chương tŕnh liên tục của mấy ngày vừa qua.
   
Ngay sau khi tôi vừa vào giường, một người đàn ông chạy vào pḥng tôi, đưa cho tôi một lá thư, rồi chạy ra. Lá thư được viết bằng tiếng Anh. “Đừng dự buổi họp ngày mai”, lá thư cảnh báo, “nếu không người ta sẽ giết ông.”
   
Tôi gọi người chủ nhà, và đưa cho ông xem lá thư. Ông cau mày lo lắng.
   
- Ai đưa cho sư cái này? Ông hỏi.
   
Tôi tả lại người đàn ông đă chạy vào pḥng tôi. Người chủ nhà lắng nghe chăm chú, rồi đi kêu gọi thêm vài người đàn ông nữa, để canh gác pḥng tôi suốt đêm. Tôi cố gắng ngủ. Nhưng khoảng một tiếng sau, tôi nghe lào xào ở ngoài hành lang.
   
- Chúng tôi muốn thưa chuyện với Swamiji.

Tôi nghe một vài giọng nói cùng một lúc. Họ dùng cách gọi phổ biến của người Ấn Độ, để bày tỏ ḷng cung kính đối với người tu. Nó có nghĩa là “Sư kính mến”.
   
- Không được. Người chủ nhà trả lời. Đại đức đă mệt. Ông ấy đă thuyết pháp không ngừng nghỉ suốt mấy ngày nay, nên cần được nghỉ ngơi. Không ai được gặp ông tối nay.
   
Họ phản đối:

- Swamiji không phải chỉ của ông, mà của chúng tôi nữa. Hăy cho chúng tôi gặp đại đức.
   
- Không! Đại đức đang nghỉ. Hăy đi đi.
   
- Chúng tôi sẽ không đi đâu cho đến lúc được gặp Đại đức.
   
Cuộc giằng co kéo dài thêm một lúc nữa, rồi cuối cùng các vị khách cũng đồng ư ra về, khi người chủ nhà hứa sẽ cho họ được gặp tôi ngày hôm sau. Người chủ nhà xin lỗi tôi v́ sự náo động vừa xảy ra.
   
- Swamiji, đây là địa bàn của người Ấn Độ giáo. Ông nói. Có rất nhiều kẻ cuồng tín về tôn giáo và chủng tộc ở đây. Họ không thích việc Sư giảng giải Phật Pháp ở đây. Lại c̣n việc quá nhiều người Hạ tiện cải đạo sang Phật giáo là quá nguy hiểm. Nếu ai mời Sư đi dự hội họp ở đâu ngày mai, xin đứng đi. Không an toàn đâu.
   
Nhưng đă có một buổi hội họp dự định vào ngày hôm sau lúc bốn giờ chiều, ở một thành phố gọi là Goregaong, cạnh bên một dự án xây nhà cho người Hạ tiện. Tôi phải làm lễ quy y, truyền giới và thuyết pháp cho một đám đông khác.

Khi lái xe đến đó, chúng tôi đi qua những đoàn người đang hào hứng tiến về nơi tập họp. Ở cửa ra vào xảy ra việc lộn xộn, xô đẩy nhau, chửi bới nhau. Tôi được dặn cứ ở trong xe cho an toàn.
   
Cuối cùng khi mọi thứ đă trật tự trở lại, tôi được bảo vệ đưa đến một khán đài vừa dựng tạm lên. Người tổ chức báo rằng đă có vài kẻ côn đồ, muốn xông vào phá cuộc mít-ting. Chúng đ̣i tôi phải đi theo chúng mà không được thuyết pháp, rồi ấu đả với những người tổ chức chương tŕnh, khi những người này từ chối giao tôi cho họ.

Có một người bị găy chân trong cuộc hỗn chiến, c̣n đồng bọn th́ đă tháo chạy. Sau nầy tôi được biết, tôi đă thoát được một vụ mưu tính bắt cóc trong gang tấc.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 672 of 1146: Đă gửi: 15 September 2010 lúc 11:54pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM


Chương Mười Ba


Dưới Cây Đại Bồ Đề


Mùa hè năm 1956 tôi sốt sắng lên kế hoạch để rời khỏi Sanchi. Dầu rất yêu thích ngôi chùa này và công tác Phật sự của tôi ở đó, nhưng tôi đă chán ngán cách đối xử không tốt của đại đức Pannatissa. Tuy nhiên hợp đồng tôi kư ban đầu với hội Mahabodhi là năm năm, vậy là vẫn c̣n ba năm nữa.
   
Một ngày kia chùa đón tiếp một nhóm các vị khách rất đặc biệt, trong đó có đại sư Narada và đại đức K.Dhammananda. Vào lúc đó, đại sư Narada là một vị giảng sư nổi tiếng nhất ở Ceylon, v́ sư có thể giảng pháp bằng cả hai thứ tiếng Sinhala và tiếng Anh, và đại đức Dhammananda là chủ tịch của Tăng Đoàn Phật giáo ở Malaysia.
   
Tôi biết đại đức Dhammananda có một ngôi chùa rất lớn ở Kuala Lumpur. Tôi đánh bạo đến bên đại đức và hỏi nếu như người có cần một tu sĩ trẻ ở Malaysia.
   
- Có chứ. Sư trả lời. Nếu sư thích đến Malaysia, tôi sẽ giúp. Cho tôi biết khi sư đă sẵn sàng.
   
Vài phút sau đó, đại sư Narada bỗng nhiên nói với tôi:

- Gunaratana, kiến thức của sư về Sanchi và cách sư giải thích về các khắc chạm trên cổng rất tốt. Sư lại nói được tiếng Anh, tôi có thể dàn xếp cho sư đến Malaysia nếu muốn.
   
Hai lời mời đầy hứa hẹn trong năm phút, tôi thật là may mắn! Tôi thưa với cả hai vị sư rằng, tôi bị ràng buộc bởi một hợp đồng năm năm với hội Mahabodhi, nhưng tôi sẽ xem nếu tôi có thể dàn xếp như thế nào đó.
   
Điều mà tôi không thưa với họ, là tôi cũng đă nhận được một lời mời khác vài tháng trước đó, khi Devapriya, Tổng thư kư của hội Mahabodhi, đến thăm Sanchi. Sau khi tôi chất vấn đại đức Pannatissa, về việc không chân thật với người đầu bếp, đại đức đă than phiền với Devapriya rằng, ông không muốn có một tu sĩ như Gunaratana, ở trong chùa của ông nữa.

Devapriya không nói ǵ đáp lại, nhưng sáng hôm sau ông mời tôi cùng đi với ông đến Bhopal. Ông muốn nói chuyện riêng với tôi, và trên xe lửa, ông nói thẳng với tôi rằng ông biết đại đức Pannatissa là người không thành thật.
   
- Tôi muốn sư chuyển đến Calcutta hay Bodhgaya. Ông nói. Tôi sẽ gửi cho sư một lá thư bổ nhiệm mới.
   
Trong khi chờ đợi lá thư đó, tôi tự viết một lá thư gửi cho vị Cao ủy ở New Delhi. Hộ chiếu khẩn cấp của tôi, được xuất khi tôi rời Ceylon để đến Ấn Độ, sẽ hết hạn trong một vài tháng và cần phải được gia hạn.
   
Đến tháng 12-1956, tôi vẫn chưa nhận được hồi âm, và tôi bắt đầu lo lắng. Hộ chiếu của tôi sẽ hết hạn vào cuối tháng giêng, v́ thế tôi lại viết một lá thư khẩn thiết hơn.
   
Vào ngày 5 tháng 1, với không hơn ba tuần c̣n lại trên hộ chiếu của ḿnh, tôi nhận được thư trả lời. Vị Cao uỷ gửi cho tôi một lá đơn xin hộ chiếu khẩn cấp mới, và bảo nếu tôi nộp đơn trở lại, với sự bảo lănh của một bác sĩ hay luật sư uy tín ở Ceylon, th́ đơn của tôi sẽ được chấp thuận.

Một lần nữa, v́ tôi không có đồng nào, tôi lại cần một người đỡ đầu. May mắn thay một vị bác sĩ người Ceylon đă đến thăm viếng Sanchi vài ngày sau đó. Tuy nhiên khi tôi nhờ ông kư giùm giấy bảo lănh, ông từ chối v́ cảm thấy ông chưa biết tôi đủ.

Vài ngày sau đó, lại có một vị luật sư đến Sanchi. Ông mời tôi cùng đi với ông trong chuyến hành hương, để thăm viếng bốn thánh địa Phật giáo ở Ấn Độ. Tôi nghĩ rằng nếu tôi đi với người này, ông ta có thể giúp tôi, vả lại tôi vẫn luôn mong muốn được thăm viếng những nơi này.
   
Ngày hôm sau chúng tôi lên đường, hướng đến New Delhi. Buổi sáng kế tiếp, chúng tôi viếng đền thờ Taj Mahal lộng lẫy ở Agra. Rồi, sau khi chúng tôi đến New Delhi tôi nhờ vị luật sư kư giấy băo lănh, để tôi xin hộ chiếu khẩn cấp. Ông bảo rất vui ḷng.
   
Tôi đến văn pḥng của vị Cao ủy, và đối mặt với người đă phớt lờ lá thư mà tôi gửi bảy tháng trước đó.
   
- Thưa ông. Tôi nói, tôi đă gửi cho ông một lá đơn bảy tháng về trước. Ông có nhận được không?
   
- Đừng hỏi tôi bất cứ điều ǵ về việc đó. Vị cao ủy ngắt lời.
   
- Tại sao không? Tôi hỏi.
   
- Tôi cũng không thể trả lời câu hỏi đó.
   
Tôi giận sôi và sự ngông cuồng của tuổi trẻ nổi lên trong tôi. Tôi tức giận v́ nghĩ do tôi là một tu sĩ, nên bị coi thường. Tôi cũng giận v́ phải cần người làm chứng cho ḿnh.
   
- Thưa ông, tôi đă đi sáu trăm cây số, để gia hạn hộ chiếu với ông. Ông đại diện cho xứ sở của tôi ở Ấn Độ này. Tôi có quyền để hỏi ông những câu đơn giản này chứ.

Bỗng nhiên người luật sư lên tiếng:
   
- Tôi đến đây để giúp vị tu sĩ này, nhưng giờ tôi cảm thấy phải phản đối ông ấy. Ông ấy nghĩ ḿnh biết hết mọi việc.
   
- Tôi không nghĩ là tôi biết tất cả mọi việc.

Tôi chống chế:

- Nhưng tôi biết ḿnh có quyển để hỏi vị này một câu hợp lư.
   
Người luật sư chồm tới và nói nhỏ vào tai tôi:

- Đừng lo, tôi đồng ư với sư. Vị Cao ủy này là người cao ngạo, đáng ghét, nhưng ông ta có quyền từ chối không cho sư hộ chiếu, v́ thế tốt hơn hết là hăy kiên nhẫn với ông ta.
   
Dĩ nhiên, người luật sư nói đúng. Không bao giờ nên tranh căi với người có quyền hạn, mà người đó lại tự măn với quyền lực của ḿnh. Tôi không nói thêm một lời nào nữa và vị cao ủy, với một nụ cười gượng gạo, nói rằng ông sẽ gửi hộ chiếu mới, đến Sanchi cho tôi trong ba ngày tới. Chúng tôi rối rít cảm ơn ông, chào đi, chào lại, rồi đi ra.
   
Cuộc hành hương của chúng tôi bắt đầu ở Kushinagar, nơi Đức Phật nhập diệt ở miền Bắc Ấn Độ. Ở đó có một ngôi chùa bằng vàng nhỏ, với chỉ một vị sư già trông coi. Vị sư này rất thân thiện, dẫn chúng tôi đi cùng khắp quanh chùa. Tôi cảm thấy tràn đầy niềm vui được đến nơi mà Đức Phật đă từng có mặt.

Vị lăo sư và tôi đọc lại một số đoạn của Kinh Mahaparinibbana (Kinh Đại Niết Bàn), chứa đựng những lời dạy của Đức Phật ngay trườc khi Ngài nhập diệt:

- Hăy tinh tấn tu tập giải thoát. Đừng sao lăng việc tu tập.
   
Chỉ hai câu đơn giản đó, đă tóm tắt tất cả bốn mươi lăm năm thuyết pháp của Đức Phật. Điều Đức Phật muốn nhắn nhủ, là người tu hành không được lăng phí một giây phút nào. Chúng ta phải luôn cố gắng chánh niệm không ngừng, với mục đích là để hiểu được chân lư cuộc sống, để chúng ta có thể được giải thoát khỏi khổ đau.

Đây là những lời Đức Phật thuyết giảng cho các đệ tử của ngài, trong một bài kinh khác:
   
Đừng sống trong quá khứ
   
hay hy vọng ở tương lai
   
v́ quá khứ đă qua
   
và tương lai chưa tới.
   
Dùng trí tuệ để thấy
   
từng giây phút phát khởi
   
hăy biết và biết rơ điều đó
   
không suy chuyển, chẳng nghi ngờ.
   
Phải cố gắng hôm nay
   
ngày mai ai biết được, thần chết đến hay không
   
Không thể tŕ hoăn với tử thần
   
không thể xua đuổi hay tránh né
   
ai siêng năng quán tưởng (điều đó)
   
đêm ngày không ngừng nghỉ
   
bậc hiền triết sẽ nói người đó
   
được duyên lành theo sau.
   
Sau thời gian ở Kushinagar, chúng tôi đi taxi đến Lâm Tỳ Ni, nơi Đức Phật đản sinh, ở ngay biên giới với Nepal.
   
Lâm Tỳ Ni rất xuống cấp, cỏ mọc đầy, và ḅ tự do chạy rong. Chỉ có một đền thờ nhỏ đánh dấu nơi mẹ của thái tử Siddhattha, hoàng hậu Mahamaya đă lâm bồn trong rừng cây. Một trụ đá do vua Ashoka dựng lên, để báo rằng đây là nơi thái tử Siddhattha Gotama được sinh ra.

Gần đó trong một túp lều chỉ vừa đủ lớn để bước vào, có một bàn thờ bằng đá có khắc cảnh hoàng hậu Mahamaya níu vào một cành cây, trong khi các cung nữ giăng màn che quanh bà. Bàn thờ chất đầy hoa tươi, đèn nhang. Chúng tôi ngồi tọa thiền ở đó một lúc. Đó là một nơi đặc biệt nhưng tôi cảm thấy buồn, khi thấy một thánh địa không được ai chăm sóc.
   
Hiện tại, Lâm Tỳ Ni đă tốt hơn. Xứ Nepal, dầu quốc đạo là Ấn Độ giáo, vẫn cho phép các Phật tử trùng tu lại nơi Phật đản sinh. Một vài quốc gia, kể cả Tích Lan và Burma, cũng đă có chùa ở đó, và “ngôi chùa hoà b́nh” quốc tế vĩ đại đă được dựng lên.
   
Ngày hôm sau chúng tôi đến Sarnath, miền bắc Ấn Độ, nơi Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên trong Vườn Nai (Deer Park) nổi tiếng. Trong lúc đi quanh những vườn cây yên tĩnh đầy xoài, ổi và các loại cây nhiệt đới khác, tôi gặp Ponnamperuma, một người bạn làm việc ở văn pḥng hội Mahabodhi vùng Sarnath.
   
- Huynh nhận được thư chưa? Ông hỏi tôi ngay lập tức.

- Thưa chưa. Tôi trả lời.
   
- Có một lá thư bảo đảm của đại học Benares, gửi đến văn pḥng chúng tôi. Lá thư đề chỉ trao cho đại đức Gunaratana, v́ thế tôi mang lá thư đến cho một tu sĩ cùng tên ở Benares. Ông mở thư ra và nói rằng đó là thư của Sư, không phải của ông. Ông ấy bảo sẽ chuyển thư cho sư.
   
V́ chúng tôi đang ở gần Benares, nên tôi đến chùa, t́m đại đức Potuwila Gunaratana. Đó là vị tăng sĩ mà tôi đă sống chung một thời gian ngắn, ngay trước kỳ thi tuyển sinh đại học. Ông đă từ chối cho tôi mượn sách và đă nói dối với tôi. Tôi biết ông không phải là bạn ḿnh.
   
- Tôi đă chuyển thư cho Sư lâu rồi. Ông bảo tôi. Có thể bưu điện đă làm mất.
   
Tôi nghi là ông đă nói dối, nhưng điều tôi quan tâm nhất là nội dung lá thư.
   
- Sư đă mở thư. Tôi nói. Vậy thư nói ǵ?
   
- Tôi không biết, tôi không đọc kỹ. Ông trả lời. H́nh như về đơn xin nhập học của ông. H́nh như đă bị từ chối.
   
Ông mỉa mai. H́nh như ông rất thích thú về điều đó. Không thể hỏi thêm được điều ǵ, nên tôi đến gặp đại đức Hammalawa Saddhatissa, là vị giáo sư người Benares, người đă khuyên tôi nộp đơn vào đại học.

Ông bảo đúng là tôi đă bị từ chối, nhưng ông giúp tôi t́m ra lư do tại sao: tôi đă quên kư tên vào phía sau bức ảnh, mà tôi nộp với đơn xin nhập học, và thế là đơn nhập học của tôi không được xét đến!
   
C̣n năm ngày nữa mới hết thời hạn, và đại đức Saddhatissa khuyên tôi nên nộp một đơn nhập học mới. Tôi báo cho người bạn luật sư biết, tôi cần ở lại Benares một vài ngày, và khuyên ông nên tiếp tục cuộc hành tŕnh một ḿnh.

Rồi tôi bắt đầu bị cuốn vào việc, phải chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng để nộp đơn trở lại. Trước hết tôi phải chụp ảnh lại và tôi đă van nài người thợ ảnh nhanh chóng rửa ảnh. Nhưng tôi không t́m ra được tờ đơn xin nhập học nào, trường đại học cũng không c̣n.

Có người mách rằng Potuwila Gunaratana có thể c̣n vài tờ, nên tôi lại cùng với Ponnamperuma, người bạn ở hội Mahabodhi, đến pḥng vị này. Đứng ở cửa, Gunaratana nói ông không c̣n tờ đơn nào nữa, nên chúng tôi quay đi.
   
- Ponnamperuma, tại sao ông đến đây với con người khốn khổ đó?

Vị tu sĩ gọi với theo. Dĩ nhiên là ông ám chỉ tôi.

- Nếu ông đi một ḿnh, có thể tôi sẽ cho ông một tờ đơn. Nhưng ông đi với người đó...th́ hăy quên đi!
   
Lần nữa tôi lại quay qua đại đức Saddhatissa cầu xin giúp đở. Cả hai chúng tôi đi khắp trường, cho đến khi chúng tôi t́m được người có dư một tờ đơn. Lúc đó đă chín giờ rưỡi tối, đêm hôm trước ngày hết hạn nộp đơn.

Ngày đă qua đi nhanh chóng và không c̣n thời gian nữa. Tôi ngồi xuống để điền đơn. Ngay hàng đầu tiên người ta đă đ̣i biên lai chứng nhận rằng, tôi đă nộp mười lăm rupee trong lần nộp đơn trước. Họ đ̣i con số trên tờ ngân phiếu mà tôi đă gửi, và dĩ nhiên tôi không thể nào nhớ được chi tiết đó.
   
V́ thế sau tất cả những cố gắng điên cuồng đó, tôi cũng đành bó tay. Tôi không thể nộp đơn xin học. Lúc đó, trước khi máy vi tính trở thành thông dụng, một việc đơn giản như thế, cũng có thể khiến người ta không thể nộp đơn, và v́ thế tôi không thể vào đại học.
   
Để giảm bớt sự thất vọng của ḿnh, tôi quyết định tiếp tục cuộc hành hương. Tôi tụ họp một số bạn để cùng đi đến Bodhgaya. Đến được đó, ở tại nơi mà Đức Phật đă đạt được giác ngộ, khi ngồi dưới cội cây, tôi cảm thấy như được tái sinh. Khi được nh́n thấy cây bồ đề to lớn, xum xuê, trong tôi tràn đầy xúc động và hạnh phúc với tâm chí thành.
   
Tuy nhiên, đó không phải là cây Ficus religiosa đầu tiên, đă được trồng ở đó vào thời Đức Phật c̣n tại thế. Cây bồ đề nguyên thủy đă bị hủy diệt, đốt cháy và đầu độc, bởi vợ của vua Ashoka, vào thế kỷ thứ ba trước công nguyên,

V́ bà ghen tỵ với việc chồng ḿnh bỏ quá nhiều thế gian ở tu viện ở Bodhgaya. Sau này, vị vua thành tín đó đă trồng một cây bồ đề khác tại thánh địa này. Theo truyền thuyết, Đức Phật đă yêu cầu thị giả của Ngài, đại đức Ananda, chiết một nhánh từ cây bồ đề nguyên thủy, đem trồng ở Jetavana, nơi Đức Phật thường thuyết pháp.

V́ thế cây bồ đề mới ở Bodhgaya của vua Ashoka, được chiết nhánh từ cây bồ đề của đại đức Ananda, là có nguồn gốc từ cây nguyên thủy mà vợ vua đă hủy diệt.
   
Ngày nay, địa điểm này là nơi thu hút các đoàn hành hương Phật giáo. Người ta đi ṿng quanh cây cổ thụ nhiều lần, xướng tụng “Sadhu, Sadhu, Sadhu” (Lành thay, lành thay, lành thay).   

Không khí đầy khói bụi của nhang. Những cây đèn đất cháy sáng dưới gốc cây, bao bọc bởi hàng chồng hoa, trái cây và đèn cầy. Vải xà-rong quấn đầy quanh thân cây. Các vị tăng ni người Tây Tạng úp mặt lạy khi họ làm lễ.
   
Tôi cảm thấy là tôi có thể ngồi tọa thiền hằng giờ dưới gốc cây. Tôi cảm nhận sự hiện diện của Đức Phật khi ngài sắp hoàn thành bước nhảy cuối cùng, vĩ đại vào giải thoát. Tôi tưởng tượng ra quỷ dạ xoa, trong một cố gắng cuối cùng, đưa những người con gái của nó Tham, Sân và Si, đến để quyến rũ Đức Phật.
   
Đứng ở đó trong bóng cây bồ đề bao la, tôi dường như nghe được tiếng của Đức Phật, khi Ngài chạm mặt đất, với những đầu ngón tay của một bàn tay, gọi nó chứng kiến việc đạt được giác ngộ giải thoát của Ngài.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 673 of 1146: Đă gửi: 16 September 2010 lúc 12:22am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM


Chương Mười Bốn


Hành Tŕnh Trở Lại Nhà


Ngay khi vừa trở về sau cuộc hành hương, tôi đă gửi thư đến Devapriya, tổng thư kư của hội Mahabodhi, người đă hứa cho tôi chuyển nhiệm sở mới, để tôi có thể rời bỏ Sanchi.

Khi trao đổi với nhau trước đó, ông bảo rằng có thể sẽ gửi tôi đến Calcutta hay Bodhgaya, nhưng khi viết thư trả lời tôi, ông đă có một nhiệm sở mới trong đầu: New Delhi. H́nh như có đại đức Ariyawansa, người Bengal, có thể cần đến tôi.

Tôi vui mừng chấp nhận nhiệm vụ mới và sau đó t́m được một tu sĩ khác thay thế tôi ở Sanchi. Tôi báo cho đại đức Pannatissa việc tôi sắp ra đi. Phản ứng của ông đúng như tôi đă đoán trước: ông rất vui mừng được tống khứ tôi đi, v́ tôi không biết vâng lời.
   
Điều duy nhất mà đại đức Pannatissa cần, trước khi tôi ra đi, là bản thảo mà tôi đă viết giải thích về các h́nh ảnh được khắc trên các cột đá, ở cổng chùa Sanchi. Tôi đă cố gắng t́m người giúp, in quyển sách nhỏ bằng tiếng Anh đó, để chúng tôi có thể tặng cho khách đến viếng chùa.

Tôi do dự, v́ biết đại đức Pannatissa sẽ không in bản thảo, mà sẽ lờ nó đi hay ngay cả hủy bỏ nó, và thế là tất cả mọi công sức của tôi sẽ tiêu tan. Tôi chắc chắn rằng đó đúng là lư do tại sao ông cần nó.

Tuy nhiên, tôi biết rằng nếu từ chối, ông sẽ không bao giờ để tôi ra đi trong b́nh an. V́ thế tôi chỉ biết hít thở sâu vào, và trao bản thảo viết tay cho ông, rồi xách duy nhất một chiếc valise, đi xuống đồi lần cuối cùng. Tôi không một lần ngoái đầu nh́n lại.
   
Vào ngày 1 tháng 2 năm 1957, tôi đến New Delhi, sẵn sàng vào làm việc tại văn pḥng hội Mahabodhi trên đường Reading. Tôi sống trong ngôi chùa nhỏ với vị sư người Bengal, đă từng học ở Ceylon. Ông nói lưu loát tiếng Sinhala và tiếp nhận tôi rất nồng hậu.
   
Ngay sau đó tôi viết thư cho ông Moonasinghe, thư kư của hội Mahabodhi ở Ceylon. Tôi báo cho ông biết tôi đă chuyển về New Delhi và nhờ ông chuyển tiền chi tiêu hàng tháng của tôi đến đó. Chỉ trong vài ngày, ông đă trả lời:

- Ai cho phép sư chuyển đến New Delhi? Ông viết. Trụ sở đó là của hội Mahabodhi Ấn Độ! Chúng tôi không thể chu cấp tiền sinh hoạt hằng tháng cho sư, nếu như sư c̣n sống ở đó. Nếu c̣n muốn lănh bảy mươi lăm rupee của chúng tôi, sư phải trở về Sanchi. Ngôi chùa đó mới là sở hữu của chúng tôi.
   
Tôi rụng rời. Tôi không hề biết các hội Mahabodhi ở Ceylon và Ấn Độ là những đơn vị tách biệt. Tôi cầu cứu với Devapriya.

- Làm sao tôi có thể sống mà không có tiền sinh hoạt naày. Tôi hỏi ông. Phật tử quanh đây rất ít, tôi không thể đi khất thực quanh Delhi, v́ đường nào cũng đầy người ăn xin.
   
Devapriya viết một lá thư đến Moonasinghe, giải thích rằng ông là tổng thư kư của Hội Mahabodhi ở cả Ấn Độ và Ceylon. Với tư cách như thế, ông có quyền hạn để chỉ định, loại trừ hay chuyển đổi bất cứ tu sĩ nà, và chính ông muốn tôi đến New Delhi.
   
Sau đó Devapriya theo dơi để chắc rằng, người ta vẫn gửi tiền từ Calcutta cho tôi hàng tháng, mà không có vấn đề ǵ. Công việc của tôi ở New Delhi, là làm việc với những người thuộc giai cấp Hạ tiện, đă quy y theo Phật giáo. Mỗi chủ nhật tôi đều đến chỗ họp của họ để thuyết pháp.

Tôi cũng viếng thăm các cộng đồng của người Hạ tiện ở ngoại ô thành phố. Một lần đó tôi đến Beerat, là nơi người ta tin rằng, Đức Phật đă giảng bài kinh nổi tiếng Mahasatipatthana, bài kinh Tứ Niệm Xứ ở đó.
   
Tôi cũng t́m được một trường học gần đó, đại học cộng đồng Das Gupta, nơi tôi có thể ghi danh học tiếng Anh và những môn ngoại điển khác. Thầy hiệu trưởng, một người rất rộng răi và từ bi, đă miễn phí tiền học cho tôi.

Das Gupta không thể so sánh với đại học Benares về nhiều mặt, nhưng ít nhất tôi cũng được trau dồi thêm kiến thức và điều đó khiến tôi rất hạnh phúc. Vấn đề duy nhất là, từ ngày đầu tiên tôi đặt chân đến trường, các sinh viên khác đă dùng lời lẽ thóa mạ tôi. Tôi đoán là do họ nghĩ tôi là người thuộc giai cấp Hạ tiện, v́ tôi luôn có mặt ở các khu vực của người Hạ tiện.

Tất cả các tu sĩ phục vụ cho Hội Mahabodhi đều được nghỉ phép mỗi hai năm. Lúc đó tôi đă ở Ấn Độ hơn hai năm, v́ thế tôi đủ điều kiện, hay đúng ra là đă phải được nghỉ phép lâu rồi. Tôi nhận được thư gia đ́nh báo rằng, cha tôi bịnh nặng và họ yêu cầu tôi, về thực hiện nghi lễ tụng niệm cầu an cho ông.

Tôi đă trả lời rằng tôi sẽ về vào ngày 20 tháng 3. Đơn xin nghỉ phép của tôi nhanh chóng được chấp thuận, nhưng tôi không tin rằng mọi thứ sẽ hoàn toàn trôi chảy. Dầu tiền đi lại phải được tính trong kỳ nghỉ phép, nhưng văn pḥng Hội không gửi cho tôi vé tàu hỏa.

Khi gần đến ngày 20 tháng 3, tôi vẫn c̣n nôn nóng chờ đợi vé tàu. Rồi bỗng nhiên, tôi được gặp một vị sư cho biết ông có một vé tàu hạng nhất đến Bombay. Sư nói rằng ông không cần dùng vé, nên đă cho một tu sĩ khác, nhưng người này cũng không có nhu cầu sử dụng.

Vào ngày 20, khoảng mười giờ rưỡi sáng, cuối cùng tôi cũng t́m ra được vị sư thứ hai. Ông nói rằng ông cũng dự định đi chuyến tàu ngày đó, nhưng vừa hoăn lại, v́ thế ông trao tôi cái vé. Chuyến tàu dự định sẽ rời sân ga để đến Bombay lúc năm giờ rưỡi chiều.
   
Tôi vội vàng chuẩn bị hành lư và v́ tôi chỉ có ba rupee trên người, tôi mướn một chiếc taxi ba bánh, một loại xe đạp có ba bánh thật to, với người điều khiển đạp xe ở phía trước và hành khách ngồi ở phía sau, để đưa tôi đến trạm xe lửa.

Vé tàu hạng nhất đến Bombay, cho phép tôi được lên xuống ở nhiều trạm nếu tôi muốn, v́ thế tôi đă tham quan một số nơi. Trên đường đi, tôi dừng lại ở một số chùa, mỗi nơi ở lại một hay hai đêm. Và tôi cũng viếng được những hang Phật nổi tiếng ở Ajanta và Allora.

Lúc tôi đến Bombay th́ đă đầu tháng tư. Tôi bước ra khỏi tàu không biết chắc ḿnh phải làm ǵ. Tôi chỉ mới đi được nửa đường về nhà mà đă hết tiền. May mắn thay, tôi gặp một nhóm khoảng hai mươi người Sinhala. Họ đang đi hành hương ở Ấn Độ, và đang trên đường trở về nhà ở Ceylon.

Họ nói rằng họ đă giữ chỗ cả một buồng tàu hỏa, nên vẫn c̣n đủ chỗ cho tôi tháp tùng theo họ, và tôi đă làm thế. Đêm đó tôi để túi xách dưới gối nằm ngủ. Việc trộm cắp trên tàu hỏa rất thường xảy ra, v́ thế tôi phải cẩn thận. Trong túi xách đó có tất cả những giấy tờ tùy thân của tôi, kể cả công văn hộ chiếu khẩn cấp mà khó khăn lắm tôi mới xin được.

Sáng hôm sau, thức dậy th́ tôi thấy túi xách đă biến mất, ai đó đă rút nó ra khỏi gối nằm của tôi! Tôi lục tung mọi xó xỉnh, nhưng cũng không thể t́m được chiếc túi. Tôi biết rằng ḿnh không thể đi qua biên giới giữa Ấn Độ và Ceylon, nếu không có công văn chứng thực đó.

Tôi cần phải xin một công văn khác, mà nơi gần nhất là Madras. V́ thế tôi trao hành lư cho một trong những vị khách hành hương Sinhala mà tôi vừa quen. Tôi nhờ ông trao lại những vật này, cho bất cứ ai trong gia đ́nh đến đón tôi ở trạm cuối cùng.   

- Không. Người khách nói. Hăy đi với chúng tôi đến Mandapam, trạm kiểm soát hộ chiếu, để báo lại sự việc với hải quan. Hy vọng rằng họ có thể viết cho Sư một thông tư, giải thích mọi việc với chính quyền Ceylon. Nếu họ không tin, th́ Sư có thể trở về Madras để xin giấy tờ khác.
   
Tôi không tin tưởng lắm về lời đề nghị này. Nếu cuối cùng mà tôi phải trở lại Madras, khi tôi đă ở Mandapam, th́ chuyến đi của tôi sẽ c̣n bị tŕ hoăn thêm nữa. Nhưng họ cố thuyết phục tôi.
   
Đứng trong hàng chờ đợi kiểm soát giấy xuất nhập cảnh ở Mandapam, tôi rất lo lắng. “Lư ra ḿnh phải trở lại Madras sớm hơn” tôi suy nghĩ. Trong đầu tôi một h́nh ảnh khiến tôi cảm thấy thật bất an, nhưng không thể xua đuổi khỏi tâm trí: h́nh ảnh đám táng của cha tôi. Tôi nh́n thấy mẹ, các anh chị em tôi khóc khi họ đứng quanh quan tài của cha.
   
Tôi cũng suy nghĩ: “Không biết tôi có phải quay trở lại gặp vị Cao ủy ở New Delhi, người đă gây khó khăn cho tôi khi tôi xin hộ chiếu lúc trước?
   
Khi đến lượt ḿnh, tôi giải thích với người hải quan rằng túi xách đă bị mất cắp. May mắn thay, ông ta tin chuyện tôi kể, và lập tức trao cho tôi một lá thư để giao cho hải quan ở cửa khẩu Ceylon. Tôi thở phào nhẹ nhơm.
   
Trong lúc đó, những người hành khách đi cùng tàu, đă gom góp lại được một ít tiền cho tôi, v́ họ cảm thấy tội nghiệp việc tôi bị mất cắp túi xách. Họ lén bỏ tiền vào tay nải của tôi.
   
Năm giờ sáng hôm sau, ngày 6 tháng 4 năm 1957, tôi về đến Ceylon. Khi tàu vào ga ở Kurunegala, tôi nh́n quanh t́m những khuôn mặt thân thuộc nhưng không thấy ai. Tôi cảm giác giống như lần đầu tiên xa nhà, chỉ có một ḿnh.
   
Dùng tiền mà những người hành hương Sinhala đă gom góp cho, tôi mướn một chiếc taxi. Xe chạy qua những trang trại dừa gần Malandeniya, cho tới khi không c̣n đường đi nữa. Tôi phải đi bộ khoảng đường c̣n lại, qua những ruộng lúa mà nhiều năm trước, tôi và Gunawardhena đă lẻn băng qua, khi chúng tôi bỏ chùa chạy trốn.
   
Khi tôi về đến chùa, tất cả hoàn toàn yên ắng. Sư phụ tôi không có ở chùa, nên tôi hỏi một nhóm cư sĩ.

- Sư phụ ra ga đón thầy.

Một người bảo với tôi.

- Sư phụ đi rồi.

Một người khác nữa nói.

Tất cả th́ thầm một cách lo âu với nhau và liếc nh́n tôi. Chắc chắn có điều ǵ đó không b́nh thường. Cuối cùng lúc mười giờ, sư phụ tôi bước vào khuôn viên chùa. Tôi đảnh lễ xuống chân sư.
   
- Sư vừa đến thăm gia đ́nh con. Ông nói với tôi. Cha con vừa mất tối qua.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 674 of 1146: Đă gửi: 16 September 2010 lúc 12:53am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM


Chương Mười lăm


Đám Tang Cha


Tôi điếng người. Tôi đă trở về Ceylon chỉ trễ một vài giờ. Cha tôi mất ở tuổi bảy mươi chín. Tôi đă không về kịp để thực hiện nghi lễ tụng niệm cầu an cho cha như tôi đă hứa với gia đ́nh. Tôi biết mẹ chắc buồn lắm.
   
Tôi mướn một chiếc taxi khác, chạy về Henepola. Vừa nh́n thấy tôi xuất hiện trong sân ngôi nhà nhỏ, bà đă oà khóc.
   
- Đáng lư ra con về làm lễ cầu an cho cha. Bà sụt sùi. Nhưng bất ngờ chưa! Cha con đă ra đi.
   
Nước mắt tuôn tràn xuống mặt tôi. Trước hiên nhà, xác cha tôi mặc áo chemise và xà-rong trắng, được đặt nằm ngay trên chiếc giường nơi ông mất đă hai ngày. Để che lấp mùi hôi, chúng tôi đốt nhang và lá chanh. Mấy cây đèn dầu cháy nhấp nháy ở đầu và chân giường.

Công việc đầu tiên của chúng tôi là mời vị sư ở chùa trong làng đến để làm đám táng. Vị sư này lại có thể mời thêm nhiều vị khác, bằng cách đi từ chùa này đến chùa kia chuyển lời. Đám táng ở Ceylon không cử hành trong chùa, mà làm ngay tại nhà người chết, nếu nhà đó có sân rộng đủ cho mọi người đến viếng ở bên ngoài.

Nếu nhà không đủ rộng, các thầy sẽ đến nghĩa trang làm lễ, tụng kinh ở ngoài huyệt chôn người chết. Mặc dầu mọi người trong làng đều đă biết việc cha tôi mất, nhưng chúng tôi cũng phải đích thân đến từng nhà, mời mọi người đến dự đám táng.

Việc này do anh tôi, Rambanda, đảm nhiệm. Lư ra Tikiribanda, là con trai cả, phải làm chuyện này, nhưng anh đang đi xa và mẹ tôi không biết làm sao để nhắn t́m anh. Anh c̣n không biết rằng cha của chúng tôi đă mất.
   
Theo truyền thống Sinhala, lá trầu được dùng để mời cho tất cả mọi trường hợp. Ở mỗi nhà, bạn sẽ cầm ba lá trầu trong tay, và khi chủ nhà mở cửa, bạn sẽ trao các lá trầu cho người ấy. Chỉ bằng cách nh́n sự xếp đặt của các lá trầu, người đó sẽ biết là họ được mời cho dịp nào.
   
Đối với những chuyện vui, đám cưới, tân gia, đặt tên con, th́ các lá trầu sẽ được sắp xếp với cọng trầu hướng về khách. Khi là tang lễ, th́ đuôi lá trầu sẽ hướng về khách. Đây là một nghi lễ quan trọng và chúng tôi không thể bỏ qua nhà nào, nếu không họ sẽ cảm thấy rất buồn ḷng.

Ở Ceylon, tất cả mọi người trong làng đều đến thăm viếng đám tang, dù họ có quen với người chết hay không. Bạn sẽ bị coi là thất lễ khi không đến dự lễ tang, v́ bất cứ lư do ǵ. Trong hai ngày trước khi chôn, nhiều bạn bè và hàng xóm đến nhà chúng tôi để chia buồn. V́ một gia đ́nh đang có tang chế không nấu ăn, nên các vị khách mang đồ ăn đến cho chúng tôi. Tất cả mọi h́nh và kiếng trong nhà đều được xoay mặt trở vào tường. Mẹ và các chị em tôi khóc suốt.
   
Rambanda và tôi đi bộ gần năm cây số để đến tiệm mua một khúc vải trắng dùng trong đám tang. Thường, miếng vải đó phải dài khoảng hai mươi thước, nhưng chúng tôi chỉ đủ sức mua tám thước. Trong lúc đó, những người bạn của gia đ́nh đi thu gom gỗ để đóng cho cha tôi một cái ḥm. Nhóm khác th́ ra nghĩa trang đào mộ, một công việc phải mất cả ngày mới xong.

Ngày tẩn liệm, gia đ́nh và tôi chuyển xác cha vào ḥm, trong lúc những người hàng xóm đốt pháo ngoài sân theo đúng tục lệ. Nắp ḥm được hé mở để chúng tôi có thể nh́n mặt cha lần cuối. Dân làng cứ tiếp tục đến, cho đến khi có khoảng bốn trăm người rảo quanh trong vườn.
   
Chiều hôm đó, có mười vị tu sĩ đă đến nhà chúng tôi. Sau khi thăm viếng người chết, họ đến ngồi trên những chiếc ghế mà chúng tôi đă phủ vải lên. Vị sư trưởng truyền tam quy và ngũ giới cho mọi người. Rồi Rambanda mở xấp vải trắng mà chúng tôi đă mua ra, trao cho vị sư trưởng.

Vị này lại chuyền nó xuống cho các vị sư khác, để mỗi người có thể nắm một phần của miếng vải. Rồi tất cả đồng loạt tụng bài kinh truyền thống của Đức Phật về vô thường. Những lời kinh tụng dĩ nhiên là bằng tiếng Pali, nhưng trong tiếng Anh, chúng có nghĩa là:
     
Tất cả mọi hữu lậu đều vô thường, đều đến rồi đi. Đă có sinh tất phải có diệt. Biết được như thế, ta sẽ an lạc.

Các ư niệm về vô thường và sự chết, là một trong những phần khó nhất để thuyết pháp. Người ta bực tức khi phải nghe những điều như: Tất cả chúng ta đều đang chết, từng giây phút, hay Tất cả đều vô thường; chúng ta không thể bám víu vào điều ǵ.

Nhưng đó chỉ là v́ chúng ta bám víu vào những vật đang biến chuyển, những thứ mà chúng ta sẽ không thể tránh khỏi mất mát, v́ thế mà chúng ta đau khổ. Nhưng nếu chúng ta thực sự nh́n thẳng vào vô thường, ta sẽ bắt đầu thấy rằng nó cũng có mặt tốt.

Ta có thể đoan chắc rằng, bất cứ hoàn cảnh nào đang hiện hữu trong cuộc sống của ta, chúng cũng sẽ phải thay đổi. Chúng có thể trở nên tệ hơn, nhưng cũng có thể tốt hơn. Do v́ vô thường, chúng ta có cơ hội để học hỏi, phát triển, trưởng thành, dạy dỗ và thực hiện những sự thay đổi tích cực khác, kể cả việc tu tập theo con đường Phật pháp.

Nếu mọi thứ trên thế gian này đều cố định, th́ không có sự thay đổi nào có thể xảy ra. Người thất học sẽ luôn thất học; người nghèo đói sẽ luôn nghèo đói. Chúng ta sẽ không có cơ hội để chế ngự tham, sân, si, và những hậu quả tiêu cực của chúng.
   
Về việc không thể tránh được cái chết, chúng ta phải nhớ rằng, không chỉ là cơ thể ta trở nên già yếu, hư hoại và chết, mà các cảm giác và trạng thái tâm của ta cũng thế. Nếu bạn nhắm mắt lại chỉ trong một phút, bạn có thể cảm nhận được một cảm giác hay t́nh cảm đă phát sinh, trở nên già cỗi và qua đi.

Nó giống như một làn sóng, trồi cao lên và rồi đổ xuống. Tương tự, những suy nghĩ của ta cũng trở nên cũ kỹ và hư hoại. Tư tưởng của ta, thức của ta, cũng trở nên già cỗi và chết. Đó là bản chất của sự hiện hữu của chúng ta, và điều đó xảy ra từng giây phút.

Buổi lễ đơn giản đánh dấu sự ra đi của cha tôi kết thúc với sự hồi hướng. Mẹ, anh và các chị em tôi quỳ gối trên sàn nhà và chế nước trong b́nh ra các tách, trong khi đọc tụng những lời hồi hướng truyền thống.
   
Nguyện hướng công đức này đến các thân quyến của chúng tôi. Cầu cho thân quyến của chúng tôi được hạnh phúc.
   
Khi họ tiếp tục chế nước vào tách, các vị sư tụng kinh cầu nguyện cho cha tôi được tái sinh:
   
Như những con sông đầy nước chảy ra biển đầy nước, mong rằng những công đức nầy, sẽ đem lại lợi ích cho người ra đi. Như nước chảy từ trên cao nguyên xuống dưới đồng bằng, mong rằng những công đức nầy sẽ đem lại lợi ích cho người ra đi.

Với các công đức nầy, mong người sẽ được sống lâu, sức khỏe, tái sinh lên các cơi trời và đạt được niết bàn. Mong rằng tất cả những hy vọng và ước muốn của người đều được thành tựu, tất cả những mong cầu đều được thỏa măn, như là được ước từ những viên ngọc ước hay mặt trăng vào ngày trăng rằm.
   
Những lời tốt đẹp về sự tái sinh ở cơi trời, biểu hiện một phần giáo lư của Đức Phật, phải được người ta tin theo bằng tín tâm. Thiên văn Phật giáo tả có ba mươi mốt hành tinh hiện hữu. Có cơi của địa ngục, cơi của quỷ đói, cơi thú, cơi người và nhiều cơi trời.

Người ta được sinh vào các cơi nầy với những mức độ sung sướng khác nhau tùy theo nghiệp của họ. Đó là do luật nhân quả quyết định cả quá tŕnh. Niềm tin này có thể tạo nên vấn đề trong một giáo lư, nhấn mạnh vào sự cố gắng và trách nhiệm của mỗi cá nhân.

Nhưng sự thật là chúng ta không biết điều ǵ sẽ xảy ra sau khi ta chết, v́ thế chúng ta phải quyết định xem có muốn chấp nhận những lời dạy của Đức Phật, chỉ dựa trên ḷng tin. Đôi khi làm thế là khôn ngoan. Thí dụ như bác sĩ cho bạn một toa thuốc, và nói rằng nó sẽ chữa được bịnh của bạn.

Bạn không biết rằng nó sẽ chữa bạn hết bịnh hay không; nhưng bạn phải có ḷng tin vào sự hiểu biết và kinh nghiệm của người bác sĩ. Dầu vậy, người thiếu ḷng tin cũng có thể nghĩ “Tôi không quan tâm cho đời sống tương lai. Tôi chỉ muốn biết tôi sẽ được ǵ ngay trong cuộc sống này.”

Do vậy, Đức Phật khuyên chúng ta hăy nghĩ đến một khả năng khác. Ngài dạy, ngay nếu như không có một đời sống ở tương lai, th́ làm việc thiện cũng sẽ mang đến cho bạn hạnh phúc và tâm thanh tịnh trong kiếp này.

C̣n nếu thực sự có một đời sống ở tương lai sau khi chết, th́ người làm việc thiện sẽ được thưởng đến hai lần: bây giờ và trong kiếp sau.
   
Mặt khác, thí dụ như bạn chọn con đường bất thiện. Ngay nếu như không có đời sống trong tương lai, bạn vẫn cảm thấy tội lỗi và khổ đau trong kiếp sống này. C̣n nếu như thực sự có một đời sống tương lai sau khi chết, th́ bạn sẽ phải khổ lần nữa sau này.
   
V́ thế, dầu việc tái sinh có là một thực tại hay không, hăy buông bỏ điều ác và vun trồng điều thiện để đảm bảo cho hạnh phúc của chúng ta.
   
Ở đám tang của cha tôi, vị sư trưởng thuyết về những điều này. Sau đó một vài người bạn, và thân quyến đứng lên, từng người một, nói vài lời ngắn ngủi về cha tôi. Cuối cùng, đến lượt tôi cảm ơn mọi người đă đến.

Cho đến lúc đó, tôi đă có thể kiềm chế xúc động của ḿnh. Nhưng khi bắt đầu mở lời, tôi không kiềm giữ được và bật khóc. Đó là tất cả những ǵ tôi có thể làm thay lời cảm ơn. Sau đám tang của cha, tôi nán lại thêm vài ngày với mẹ; rồi sau đó tôi đi Colombo.

Tôi muốn viếng trường truyền giáo Phật giáo và đến đảnh lễ lăo sư Vajirananda Nayaka. Một sự thật phũ phàng đang chờ đợi tôi ở đó!

- Sư đang làm ǵ ở đây?

Là những lời chào đón không được nồng hậu của lăo sư Vajirananda đối với tôi.

- Chúng tôi huấn luyện cho sư, rồi sư bỏ rơi chúng tôi và gia nhập Hội Mahabodhi Ấn Độ! Giờ sư muốn trở lại ở đây, ăn cơm của chúng tôi? Sư không có quyền đến đây. Chúng tôi không muốn có mối liên hệ ǵ với sư nữa.
   
Đó là bài học thứ hai của tôi về sự chia rẽ sâu xa giữa các phân hội Sinhala và Ấn Độ của Hội Mahabodhi. Rơ ràng họ là những người chống đối nhau dữ dội và lăo sư Vajirananda nổi giận đối với tôi, v́ tôi đă cố gắng phục vụ cả hai.
   
Không chỉ là vị lăo sư đă quên lá thư tôi viết cho Sư, giải thích lư do tôi phải rời Sanchi, mà Sư cũng không muốn nghe tôi phân trần. Sư không hỏi tôi lấy một câu về t́nh h́nh ở Sanchi, mà cũng không cho tôi một cơ hội để giải bày.
   
Khi tôi đến viếng Moonasinghe, ông này cũng giận dữ. Ông vẫn ngồi trong ghế, mặc dầu người cư sĩ thường phải đứng lên chào hỏi người tu sĩ, rồi ngồi xuống sàn nhà để bày tỏ ḷng kính trọng. Ông không muốn tiếp chuyện với tôi hay cả đến nh́n tôi.
   
Đó là cung cách trong nền văn hoá Sinhala trải qua bao thế hệ. Người trẻ tuổi là không được quyền nói lên ư kiến của ḿnh. Ngày nay nhiều tăng sĩ trẻ hoàn tục, bỏ chùa ra đi, chỉ v́ quá bức xúc với những sự đối xử như thế.

Kết cục là chỉ c̣n lại các vị sư lớn tuổi phải xoay sở, cố gắng duy tŕ để cho chùa hoạt động. Tất cả chỉ v́ cách quản lư sai, không đối xử công bằng đối với cả thế hệ già và trẻ. Khi c̣n nhỏ, chúng tôi không bao giờ được trả lời lại với cha mẹ. Không bao giờ.

Chúng tôi phải im lặng để bày tỏ ḷng kính trọng đối với người lớn. Suốt thời thơ ấu, chưa bao giờ tôi dám không đồng ư với cha tôi, hay ngay cả nói to tiếng với ông. Ở trường cũng thế; các thầy biết tất cả mọi việc. Họ tuôn tràn tri thức, và chúng tôi không được quyền chất vấn hay bàn căi về bất cứ điều ǵ.
   
V́ thế suốt thời thơ ấu, tôi im lặng một cách cam phận. Khi có mặt người lớn, tôi hầu như không mở miệng. Và điều đó vẫn c̣n trường tồn một cách khó tin, cho đến ngày nay bảy mươi năm sau. Đôi khi tôi mơ thấy ḿnh ngồi bên cha hay quư sư, mà sợ hăi không dám nói. Nỗi sợ hăi đó đă bám sâu gốc rễ vào tâm thức tôi.

Vào ngày 6, tháng 5, 1957, một tháng sau đám tang của cha, tôi trở lại Ấn Độ. Tôi ở một tháng ở Madras, thăm viếng bạn bè, rồi trở về New Delhi. Ở đó tôi lại tiếp tục những bổn phận ở chùa và ở trường đại học Das Gupta.
   
Khi Devapriya, thư kư Hội Mahabodhi, nghe rằng tôi đang theo học các lớp ở trường đại học, ông ta rất giận. Ông cố gắng thuyết phục tôi đi Bodhgaya, để thay thế vị tu sĩ ở đó, người mà ông nói là đă bị “tiếng xấu”, một ám chỉ rằng vị tu sĩ đó có lẽ đă phạm một giới trọng.
   
Đó là vào đầu tháng bảy, bắt đầu mùa mưa khi các vị tu sĩ theo truyền thống phải ở trong tu viện ba tháng, để tuân theo thời gian khi Đức Phật và đệ tử của Ngài thực hành an cư mùa mưa. V́ thế tôi bảo với Devapriya tôi không thể đi đâu ngay lập tức.
   
Vào tháng mười, ngay khi mùa an cư vừa chấm dứt, Devapriya lại quấy nhiễu tôi. Ông gửi một lá thư khác, lần này ra lệnh cho tôi đi Bombay.
   
- Nếu Sư không đi, chúng ta có thể bị mất một trung tâm của Hội ở đó. Ông viết. Xin vui ḷng khởi hành ngay lập tức.
   
Tôi được biết, chùa đó không c̣n có vị sư nào trụ tŕ, và các vị lănh đạo trong Hội Mahabodhi sợ rằng, một số trong hàng triệu người vô gia cư ở Bombay, sẽ dọn vào toà nhà trống đó, rồi đ̣i quyền cư ngụ. Lúc đó, những việc như thế vẫn thường xảy ra.
   
V́ thế tôi đi Bombay. Trung tâm đó được gọi là Ananda Vihara; vihara là một thuật ngữ Pali thực sự có nghĩa là “chốn cư ngụ của Phật” ngày nay vihara được sử dụng rộng răi hơn, để chỉ cho nơi ở của bất kỳ tăng sĩ nào, cũng như là chánh điện, thiền đường và tất cả những nơi nào mà chỉ chung là chùa hay trung tâm thiền Phật giáo.
   
Trung tâm Ananda nằm trên đường Lamington, trong khung viên của một bệnh viện. Một bác sĩ trong bệnh viện đă bỏ kinh phí xây dựng lên. Tầng dưới có một thư viện. Tầng trên là chánh điện, pḥng tắm, pḥng ngủ và một nơi được coi là văn pḥng của tôi.
   
Đối diện với văn pḥng tôi là khu phụ sản của bệnh viện. Ngày hay đêm bất cứ khi nào ngồi vào bàn làm việc, tôi cũng có thể nghe những tiếng la hét, rên rỉ của các sản phụ. Tuy nhiên, phần lớn thời gian khi ở Bombay, tôi thường ra ngoài thăm viếng cộng đồng của những người thuộc giai cấp Hạ tiện ở quanh thành phố.

Ở chùa c̣n có một tu sĩ nữa, nhưng vị này không nói tiếng Ấn Độ hay tiếng Anh, v́ thế những người Hạ tiện thích chọn tôi. Tôi thường thực hiện các buổi lễ quy y, truyền giới, dạy tiếng Pali, tụng kinh cầu an cho người bệnh, tụng kinh cho đám tang và dạy các lớp giáo lư.

Tôi cũng đi thăm các bệnh nhân phải nằm viện. Mỗi chủ nhật có ít nhất năm trăm người đến chùa dự lễ. Đó là một tiến bộ lớn cho trung tâm so với thời gian qua, khi trung tâm chỉ có những sinh hoạt xă hội, nơi người ta tụ hội lại để hút thuốc, uống rượu.

Chúng tôi cũng thành lập một thư viện và tiệm sách nhỏ. Nhân dịp giỗ đầu năm của tiến sĩ Ambedkar, chúng tôi đă tổ chức một buổi lễ long trọng, với sự có mặt của thống đốc tiểu bang Bombay.
   
Đôi khi tôi phục vụ cho những người Hạ tiện liên tục, trong một hay hai tuần một lúc, cứ đi từ làng này sang làng khác chứ không trở về chùa. Những người này sống trong những ngôi nhà rất tồi tàn, phần lớn là những cái cḥi một gian với tường bằng bùn, mái tranh và sàn nhà làm bằng phân ḅ.

Khi tôi bước vào nhà ai, gia đ́nh sẽ trải chiếu trên sàn cho tôi ngồi lên. Rồi họ đăi tôi ăn, với chút ít ǵ mà họ có. Thường có một người nào đó ngồi gần tôi, phe phẩy miếng vải trong không khí để đuổi ruồi.
   
Bên ngoài, sân nhà đầy những vũng nước đọng, phân người và phân gà, những chiếc nồi vỡ và các thứ rác rưởi khác. Các loại côn trùng bay khắp nơi. Tôi biết rằng thọ thực ở những nơi điều kiện quá mất vệ sinh như thế này, sẽ khiến tôi bị bệnh, và điều đó xảy ra, lần này đến lần khác.

Nhưng tôi chẳng bao giờ từ chối lời mời của họ; tôi không thể từ chối ḷng mến khách chân thành của những người Hạ tiện. Khi sư phụ tôi đến thăm vào năm 1958, ông rất ngạc nhiên khi thấy tôi trở nên gầy yếu đến vậy.

Việc thường xuyên đến thăm viếng các ngôi làng của người Hạ tiện, đă làm ảnh hưởng đến hệ thống miễn nhiễm của tôi. Tôi nghĩ là sư phụ tôi đă báo cáo việc này lại với hội Mahabodhi. Vào tháng chín tôi nhận được một lá thư của đại đức Dhammananda, người mà tôi đă gặp ở Sanchi.

Ông gửi cho tôi một đơn xin visa, yêu cầu tôi điền vào và gửi trở lại cho ông. Ông muốn tôi đi Malaysia. V́ thế vào ngày 1 tháng 10, sau mười tám tháng ở Bombay, một lần nữa, tôi lại chuyển đến một ngôi chùa mới. Trước khi ra đi, tôi vội trở về thăm quê để chào từ giă mẹ và bà con.

Rồi tôi lên tàu ở Madras. Chuyến tàu hướng đến Nhật Bản, nhưng trên đường sẽ dừng lại ở Malaysia, là nơi tôi sẽ xuống, và bắt đầu một chương mới trong công tác truyền giáo của tôi.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 675 of 1146: Đă gửi: 19 September 2010 lúc 9:14pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM


Chương Mười Sáu


Malaysia



Vào ngày 5 tháng 11, 1958, tàu dừng ở Penang, thành phố lớn thứ hai ở Malaysia. Malaysia vừa giành được độc lập từ người Anh một năm trước đó, v́ thế nó vẫn c̣n những nét đặc biệt của một thuộc địa.

Nó sạch sẽ và tối tân hơn ở Ấn Độ nhiều. Đường xá được sửa sang tốt đẹp và sự nghèo đói dường như không có mặt. Không có người ăn xin, và người đi trên đường phố đều ăn mặc lịch sự. Có rất nhiều ngôi chùa Trung Hoa tráng lệ với các pho tượng Phật vĩ đại. Những ngôi chùa này luôn đầy các Phật tử đến dâng cúng hoa quả và đốt nhang.

Ở khu vực chợ, các bảng hiệu bằng chữ Trung Hoa được gắn trên hầu hết các tiệm. Đó là một xứ sở đẹp đẽ khiến tôi nhớ đến Ceylon, với những núi, những mùa mưa nhiệt đới, đồng lúa, đồn điền cao su và dừa, và ở đây cũng có hầu hết các loại rau cải của vùng nhiệt đới.

V́ đất đai mầu mỡ và khí hậu ấm áp, có thể trồng được nhiều loại hoa mầu. Ngoài gạo, c̣n có cao su và trà, người nông dân Malaysia cũng trồng đu đủ, xoài, chôm chôm, sắn, khoai tây, mít và chanh.
   
Tôi ở một tuần tại chùa Phật giáo Mahindaram, với tư cách là khách của lăo sư Kamburupitiye Gunaratana. (Ông cũng là một trong vài tu sĩ cùng tên Gunaratana mà tôi đă được gặp gỡ trong đời. Tất cả chúng tôi đều không có liên hệ ǵ với nhau.

Chỉ là v́ chúng tôi được đặt cùng một họ Pali lúc xuất gia. Chỉ có tên gọi của chúng tôi, thường là tên làng quê của mỗi người, là khác). Ông là một vị trưởng lăo tăng, là vị tỳ kheo Phật giáo trưởng thượng ở Malaysia.
   
Mỗi ngày vào giờ thọ trai, các tín đồ người Trung Hoa vây quanh ngài, để cúng dường cho ngài một dĩa đồ ăn đặc biệt. Khi vị lăo sư Kamburupitiye dùng xong, ông trộn tất cả những thứ c̣n lại với nhau, cơm, thịt, rau, trái cây và đồ ngọt. Rồi th́ các đệ tử sắp hàng để được nhận một phần nhỏ thực phẩm đó, mà theo họ chứa đựng sự chúc phúc của ngài.
   
Vài năm sau đó khi ông mất, có người nói ông là một vị A-la-hán đă hoàn toàn giác ngộ. Khi lăo sư Kamburupitiye gặp tôi lần đầu tiên, ông có vẻ rất thích thú.

- Tôi không nghĩ chú nên xuất gia. Ông nói. Chú chưa đầy mười tám tuổi. Chú c̣n quá trẻ để thọ giới tỳ kheo.
   
Tôi cười. Lúc đó tôi đă ba mươi tuổi, nhưng trông như là một sadi. Khi tôi đến Kuala Lumpur, tôi được đón tiếp bởi vị tu sĩ nổi tiếng, người đă mời tôi đến Malaysia: thượng tọa Dhammanda. Ngôi chùa nơi tôi đến cư trú gồm có hai pḥng ngủ, một pḥng ăn và một nhà bếp, hai pḥng tắm, một chánh điện và một giảng đường rộng lớn có thể chứa đến khoảng bốn mươi người.
   
Ngôi chùa nầy chánh yếu là để phục vụ cho khoảng năm mươi gia đ́nh người Sinhala sống ở Kuala Lumpur. Có vài Phật tử người Trung Hoa cũng đến. Chùa thường có những buổi tụng kinh, những lớp học giáo lư và những buổi thuyết pháp vào ngày chủ nhật.
   
Tôi nhanh chóng nhận ra rằng tôi cần phải trau dồi thêm tiếng Anh của ḿnh, nếu tôi muốn được trở thành một người giảng pháp hữu hiệu ở chùa. Các bậc phụ huynh người Sinhala yêu cầu chúng tôi giảng pháp cho con họ bằng tiếng Sinhala, nhưng lũ trẻ lớn lên ở Malaysia, phần lớn nói tiếng Mă Lai hay tiếng Anh.

Khi cha mẹ đem chúng đến chùa, chúng không cảm thấy tự nhiên khi ở quanh những vị sư chỉ nói với chúng bằng tiếng Sinhala. V́ thế tôi quyết định giảng trong phần lớn các lớp học pháp vào ngày chủ nhật bằng tiếng Anh, để làm cho các em nhỏ cảm thấy dễ chịu và muốn lắng nghe.

Tôi bắt đầu bằng cách kể các câu chuyện Phật pháp. Một vài người Sinhala chỉ trích tôi v́ đă giảng Pháp bằng tiếng Anh, nhưng những người trí thức ủng hộ tôi. Họ nhận thấy giá trị của việc cho con họ học Pháp bằng tiếng Anh.
   
Một ngày kia, một người Trung hoa đến chở chúng tôi đi làm đám táng cho một người quen. Trên đường đi ông hỏi chùa chúng tôi có cần giúp đỡ ǵ không. Chúng tôi bảo rằng lớp học giáo lư ngày chủ nhật, học sinh ghi danh ngày càng tăng, và chúng tôi cần một ngôi nhà rộng hơn để chứa tất cả học sinh.

Người đàn ông suy nghĩ một lúc, rồi anh ta cho chúng tôi biết một điều rất thú vị. Ông bảo rằng ông là thành viên của hội xổ số Malaysia, và đôi khi, v́ lư do ǵ đó, người trúng số không đến lănh thưởng. Khi điều đó xảy ra, tiền trúng số sẽ được tặng cho mục đích từ thiện.
   
- Lần sau, tôi sẽ đề nghị với hội đồng để cúng số tiền thưởng không người nhận đó cho chùa của quư sư. Người đàn ông nói.
   
Một vài tháng sau, ông ta bỗng nhiên xuất hiện với tấm ngân phiếu tương đương với bốn chục ngàn đô la Mỹ. Với số tiền đó, chúng tôi đă xây một ṭa nhà mới thật đẹp cho lớp học giáo lư ngày Chủ nhật.
   
Gần một năm sau ngày tôi đến Malaysia, vào khoảng cuối tháng 9, 1959, thủ tướng Ceylon bị bắn chết ở nhà riêng tại Colombo. Kẻ sát thủ mặc đồ nhà sư. Ngày hôm sau tôi tổ chức một buổi lễ cầu siêu cho ông ở chùa chúng tôi.
   
Buổi chiều hôm đó, khi mọi người bắt đầu đến chùa, chúng tôi ngồi ở ngoài hiên để bàn luận về tai họa đó. Bỗng nhiên tôi nghe ồn ào. Ông K.A.Albert, lănh tụ của cộng đồng người Sinhala ở Kuala Lumpur, xải bước vào hiên, trông rất giận dữ.

Ông la hét tôi vào mặt tôi bằng những ngôn ngữ hết sức thô tục. Ông tức giận v́ một nhà sư Phật giáo đă ám sát Thủ tướng và ông bắt đầu la hét nhục mạ tăng đoàn.
   
- Thưa ngài Albert. Tôi nói, thật không công bằng khi ông kết tội tất cả các tu sĩ, chỉ v́ một người mặc áo tu sĩ làm điều ǵ sai trái. Người đó cũng chưa chắc là tu sĩ. Có thể ông ta chỉ mặc áo nhà sư để trá h́nh, để ông ta có thể đến gần Thủ tướng.
   
Không hiểu v́ sao những lời tôi nói càng làm ngài Albert thêm tức giận. Ông nhào đến tôi, vung cú đấm. Vị Đại sứ người Sinhala đang ngồi với tôi ngoài hiên, nhảy vào giữa để ngăn cản ông. Ngài Albert dần dần b́nh tĩnh lại và ra về. Ông từ chối không ở lại dự buổi lễ cầu siêu.
   
Khuya đó, người nhà của ngài Albert gọi để báo cho tôi biết ông phát bịnh nặng, sốt cao, ói mửa và tiêu chảy. Họ yêu cầu tôi đến nhà để tụng kinh cầu an cho ông.
   
Tôi đă đến, nhưng thấy ông nằm quay mặt vào tường, xoay lưng ra phía tôi. Ông không nói ǵ cũng không nh́n đến tôi. Dầu vậy, tôi đă tụng kinh, rồi cột một sợi dây chúc phúc theo truyền thống, quanh cổ tay ông. Ông không chống đối nhưng cũng chẳng nói một lời nào.
   
Một vài ngày sau đó, t́nh trạng sức khoẻ và tâm lư của ngài Albert đă ổn định hơn. Cảm động v́ ḷng tử tế của tôi hay có lẽ v́ đă khỏi bị cơn sốt hành hạ, ông đă điện thoại mời tôi đến dùng bữa trưa tại nhà ông. Tôi nghĩ rằng đó là cách ông xin lỗi và cũng thử xem tôi có giận ông không.

Khi tôi nhận lời mời, ông biết rằng tôi không có ǵ chống đối ông. Ông tự chiêu đăi tôi bữa trưa rất thân t́nh. Những ngày tôi ở chùa Kuala Lumpur khá bận rộn. Tôi giảng pháp bằng cả hai thứ tiếng Anh và Sinhala vào mỗi ngày rằm và mỗi chủ nhật.

Tôi cũng dạy giáo lư vào ngày chủ nhật cho các em nhỏ và phụ trách lớp hàm thụ về Phật giáo, cho những ai thích học qua đường bưu điện. Khóa học có mười hai bài cho những người mới bắt đầu và mười hai bài tŕnh độ nâng cao, tất cả là về cuộc đời của Đức Phật và giáo lư của Ngài.

Tôi có người phụ tá giúp tôi gửi đi các thư từ tài liệu. Công việc in ấn, copy các bài giảng rất tỉ mẫn; tốn th́ giờ; chúng tôi tạo bản in trên một bàn máy chữ đánh tay bằng cách đánh vào một miếng phim mỏng, có sáp, xong rồi dùng phim đó để quay ra những bảng copy nḥe nhẹt trên một máy in quay bằng tay (in roneo).
   
Mỗi bài học kết thúc với một số câu hỏi để học viên làm bài trả lời. Khi bài làm được gửi trả lại qua đường bưu điện, tôi sẽ chấm bài, rồi gửi bài trả lại cho học viên. Nhiều năm sau, khi qua Mỹ, tôi đă gặp lại những người có duyên được biết đến Phật pháp lần đầu tiên, là qua những khóa học hàm thụ này.
   
Ước muốn được hoàn thiện tiếng Anh vẫn cháy bỏng trong tôi như một ngọn lửa không thể tắt. Đầu tiên, tôi dự các lớp học buổi chiều ở một trường của Ấn Độ giáo, rồi đến một trường trung học tư, nơi vị hiệu trưởng cho phép tôi được học miễn phí. Sau này, tôi đến một trường tư thục khác gần chùa hơn, và khi đến đó th́ các vị thí chủ ở chùa đă hỗ trợ tiền học cho tôi.
   
Năm 1960, tôi quyết định dự kỳ thi ngoại khóa của đại học Cambridge, do Bộ Giáo dục Malaysia tổ chức. Đó là một phần ảnh hưởng của người Anh c̣n sót lại ở nơi này. Có nhiều tŕnh độ, tất cả đều bằng tiếng Anh. Tŕnh độ thấp nhất gọi là kỳ thi trắc nghiệm, tương đương với tŕnh độ lớp chín, tŕnh độ kế tiếp, kỳ thi Senior Cambridge, th́ bằng tŕnh độ lớp mười.

Cuối cùng kỳ thi chứng chỉ Trung học Cambridge, th́ giống như kỳ thi tuyển sinh vào Đại học ngày nay, dành cho những học sinh tŕnh độ lớp mười hai. Ai qua được kỳ thi đó, sẽ được vào đại học Cambridge hay đại học Malaysia.
   
Tôi hy vọng được vào đại học Malaysia. Tôi nghĩ một bằng cấp đại học có thể là tấm bùa, giúp tôi được kính trọng giữa những người thuộc mọi tŕnh độ học vấn. Tôi nghĩ rằng ḿnh càng có nhiều tri thức, th́ càng có nhiều người lắng nghe các bài thuyết pháp của tôi.
   
Khi tôi ghi tên để tham dự kỳ thi trắc nghiệm, th́ chỉ cần thi tiếng Anh. Rồi trong lúc tôi đang chuẩn bị, th́ điều kiện thi lại thay đổi. Từ đó trở đi, phải thi luôn cả môn toán nữa.
   
Tôi chỉ có tám tháng để chuẩn bị, v́ thế tôi mượn một số sách giáo khoa về toán của thầy giáo, rồi bắt tay vào học. Tôi học với một thanh niên Trung Hoa đến viếng chùa và cũng sẽ dự thi. Tôi đă vượt qua được kỳ thi đó.
   
Năm sau, tôi dự kỳ thi cấp cao hơn và cũng thành công. Hai năm sau đó, tôi lại dự kỳ thi lấy bằng Trung học Cambridge, nhưng tôi làm bài không được tốt. Tôi phải thi lại hai lần nữa mới qua được. Đến năm 1964, tôi đă đậu với hai môn thi được điểm xuất sắc và hai môn điểm trung b́nh.

Tôi nghĩ vậy là đủ để tôi được tuyển vào đại học Malaysia. Nhưng khi nộp đơn xin học, tôi bị từ chối. Thật là một sự thất vọng năo nề cho tôi. Trong lúc đó, ngày càng có nhiều người Trung Hoa đến chùa chúng tôi.

Năm 1961, đại sư Dhammananda mời vài vị Phật tử Trung Hoa nổi tiếng, để tham gia với ông trong việc thiết lập một Hội Truyền Giáo Phật giáo. Đó là cách để tỏ ḷng trân trọng đối với nhiều sự đóng góp của họ ở chùa.
   
Ngay sau khi Hội vừa được thành lập, càng có nhiều người Trung Hoa đến chùa hơn, đem lại nhiều tiền cho chùa hơn. Đại sư Dhammananda bắt đầu ấn tống sách Phật giáo để phân phát khắp thế giới. Ông du hành xuyên suốt Mă Lai để thuyết pháp và thành lập nhiều đạo tràng Phật giáo hơn. Ông cũng xuất bản một tạp chí gọi là Tiếng Nói của Phật giáo.
   
Trong cùng năm đó, chúng tôi mở thêm một trường dạy ban ngày cho các em nữ ở chùa. Gần hai trăm học sinh ghi danh. Bên cạnh các hoạt động khác, tôi bắt đầu dạy ở đó nữa. Cuối năm 1961, tôi được mời tháp tùng một vị tu sĩ khác đi qua Thái Lan. Đây là lần đầu tiên tôi đến đó, và tôi đă mời một nhà bảo trợ, ngài R.A.Janis, đi cùng với tôi.

Trên đường đi, chúng tôi dừng lại một chùa ở Penang, và khi đang ở đó, tôi bắt đầu cảm thấy đau ở một bên thận. Suốt mấy ngày, tôi đi tiểu ra máu và cuối cùng tôi phải nhập viện. Bác sĩ khám phá tôi bị sỏi thận nên cho uống thuốc trụ sinh. Dầu hồi phục, nhưng tôi vẫn chưa bao giờ tống được viên sỏi đó ra khỏi người.
   
Sau hai năm ở chùa tại Kuala Lumpur, tôi được nghỉ phép. Hội bảo trợ chùa tặng tôi một vé tàu để về thăm nhà ở Ceylon. Vào tháng 12, năm 1962, chỉ một hay hai ngày trước sinh nhật thứ ba mươi lăm, tôi đi Singapore, nơi tôi dự định sẽ ở lại vài ngày, thăm viếng các chùa trước khi tàu nhổ neo về quê tôi.
   
Vào ngày 14 tháng 12, tôi gửi hành lư ra bến cảng trước để hai ngày sau khi chúng tôi xuống th́ đă có sẵn. Buổi chiều hôm đó, khi đang tiếp chuyện với một số người sau giờ thọ trai, bỗng dưng tôi cảm thấy rất đau ở ngực. Tôi xin lỗi và đi nằm. Mồ hôi vă ra như tắm. Dần dần sự đau đớn trở nên quá khủng khiếp đến nỗi tôi bất tỉnh.
   
Vị sư trưởng ở chùa tôi đang thăm viếng phải gọi xe cấp cứu. Trên đường tới bệnh viện, cơn đau dường như quá sức chịu đựng của tôi. Tôi cảm giác như có một bàn tay khổng lồ nào đang bóp mạnh trái tim tôi. Khó thở đến độ tôi nghĩ là ḿnh sẽ chết trước khi đến được bệnh viện.
   
Nhưng tôi đă đến được bệnh viện và không lâu sau đă nằm trong pḥng cách ly, với tấm biển treo trên cửa “Không được thăm viếng". Bác sĩ bảo rằng tôi đă bị một cơn nhồi máu cơ tim nhẹ, nhưng ông không cho tôi thuốc ǵ; chỉ bảo tôi hăy nằm nghỉ ngơi.
   
Hai ngày sau, tôi cảm thấy khỏe hơn nhiều. Buổi sáng khi tôi thức dậy, cơn đau đă qua và tôi cảm thấy b́nh thường trở lại. Tôi nhận ra đă là ngày 16 tháng 12 và tàu sẽ ra khơi với hành lư của tôi trên đó. Tôi gọi y tá, bảo rằng tôi cần phải rời bệnh viện ngay. Người y tá gọi bác sĩ.
   
- Sư điên chưa? Bác sĩ nói khi ông đến bên giường tôi. Mới hôm kia sư bị nhồi máu cơ tim mà giờ sư muốn ra viện?

- Tôi thấy khỏe rồi. Tôi chống chế. Tôi không c̣n thấy đau, hay mệt. Tôi phải đi.
   
Ông nói một cách nghiêm khắc:

- Tôi không thể cho Sư ra viện.
   
Chúng tôi đôi co qua lại vài phút. Tôi giải thích rằng hành lư của tôi ở trên chiếc tàu sắp ra khơi, rằng tôi đă viết thư báo tin với thân quyến ngày tôi đến Ceylon.
   
Cuối cùng vị bác sĩ nhượng bộ, nhưng ông bắt tôi kư giấy nói rằng tôi tự ư rời khỏi bệnh viện, không theo lời khuyên của ông. Tôi đi ngay ra bến tàu, lên tàu, và bảy ngày sau tôi đă đến Ceylon.
   
Và từ đó tôi không có vấn đề ǵ về tim nữa. Mỗi ngày sau giờ ăn tôi đi bộ vài cây số. Bác sĩ mà tôi đi khám bây giờ, đều nói rằng tôi có trái tim của một người thanh niên. Mặc dầu thế, có một việc tôi vẫn làm mỗi ngày, một sự thực hành tôi vẫn làm từ năm hai mươi tuổi: quán tưởng về cái chết của bản thân.

Mỗi đêm khi lên giường, ngay trước khi ngủ, tôi quán tưởng, “Tôi có thể chết tối nay. Tôi có thể chẳng bao giờ thấy ngày mai.” Khi tôi đi bộ hằng ngày, tôi quán: “Tôi có thể bị đụng xe.” Khi đi máy bay, tôi quán: “Máy bay có thể gặp nạn.” Khi tôi lái xe, tôi quán: “Tôi có thể bị tai nạn.”
   
Có thể v́ tôi đă có vài kinh nghiệm suưt chết đuối lúc c̣n trẻ, nên trong đầu tôi luôn nghĩ về cái chết. Nó đă có ở đó tự lúc nào tôi không biết, nhưng chắc chắn nó không phải là một ám ảnh đen tối. Nó có nhiều mặt tích cực, một cơ hội, một sự nhắc nhở để ta thực hành Pháp một cách tinh tấn.

Chúng ta chẳng bao giờ biết ḿnh c̣n lại bao nhiêu thời gian.   







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 676 of 1146: Đă gửi: 19 September 2010 lúc 9:33pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM


Chương Mười Bảy


Lời Mời Đến Phương Tây


Đại sư Dhammananda lúc đầu đă mời tôi đến Malaysia, tôi đoán v́ ông mến tôi. Tuy nhiên, dần dần t́nh bạn của chúng tôi trở nên lợt lạt. Tôi không biết chắc chắn tại v́ sao.
   
Có thể v́ tôi quá khăng khăng trong trong việc dạy tiếng Anh. Có thể do tuổi trẻ của tôi. Có thể do những lớp học ngoại khóa tôi tham dự, đă không cho phép tôi thường xuyên có mặt tại chùa, do đó thiếu sót các bổn phận ở chùa.

Tôi biết tôi cũng va chạm với một số thành viên của Hội Sasana Ahbiwurdhiwardhana, là Hội hỗ trợ và điều hành công việc chùa. Số người này khó chịu v́ tôi tiếp tục giảng pháp cho các em nhỏ bằng tiếng Anh. V́ giai cấp trung lưu, coi việc nói được tiếng Anh là thời thượng và tiến bộ, nên những đứa trẻ này đă được nghe tiếng Anh ở nhà.

Rồi ở trường học, trên radio, truyền h́nh, đâu cũng nói tiếng Anh. Nhưng phụ huynh học sinh muốn chúng tôi, các tăng sĩ ở chùa nói tiếng Sinhala với con cái họ. Tôi biết tốt nhất là nên sử dụng tiếng Anh, ngôn ngữ mà những đứa trẻ này cảm thấy dễ hiểu.

Các tư tưởng trong giáo lư đă đủ khó cho các em hiểu, cộng thêm, nếu tôi dạy bằng thứ ngôn ngữ mà chúng không hiễu rơ, chúng sẽ bức xúc và không muốn đến chùa chút nào. Tôi đă trao đổi nhiều với các bậc phụ huynh về các vấn đề nầy.
   
- Chúng tôi dựa vào Sư để giúp chúng tôi bảo tồn ngôn ngữ và văn hóa. Họ nói. Chúng tôi đă mời Sư đến đây để dạy con em chúng tôi tiếng Sinhala. Thay v́ làm thế, Sư luôn dạy chúng bằng tiếng Anh.
   
- Điều đó không đúng. Tôi đáp lại. Tôi thuyết pháp bằng cả hai thứ tiếng Sinhala và tiếng Anh. Tôi cũng đă t́m những người t́nh nguyện dạy tiếng Sinhala, trong các lớp giáo lư ngày chủ nhật. Nhưng tôi giảng Pháp bằng tiếng Anh. Đó là cách tốt nhất.
   
Tiếc thay, tôi không thuyết phục được các vị phụ huynh nầy. Trong lúc đó, cơ quan di trú của Malaysia đă báo cho tôi biết, họ không thể gia hạn visa của tôi nữa. Họ đă gia hạn cho tôi chín năm liên tiếp, mỗi lần tôi nộp đơn. Nhưng rơ ràng nó đă vượt giới hạn của họ.

Họ cảnh báo với tôi rằng họ không thể gia hạn lần thứ mười. Tôi sẽ phải rời xứ này vào cuối năm 1968. V́ thế tôi bắt đầu suy gẫm về những chọn lựa của ḿnh. Tôi đă gửi thư hỏi đến các chùa ở Hồng Kông, Đại Hàn, Indonesia, và Canada.

Phần đông đều sốt sắng, với những lời mời tôi đến trú ngụ và dạy ở đó. Vấn đề chỉ c̣n là sự chọn lựa của tôi về nơi tôi muốn đến kế tiếp. Năm 1967 tôi đă thực hiện một chuyến du hành thú vị, qua tất cả các xứ ở Á châu, nhờ sự giúp đỡ của Hội Sasana Abhiwurdhiwardhana.

Trong thời gian sáu tháng, tôi đă viếng Campuchia, Lào, Việt Nam, Đại Hàn, Nhật, Đài Loan, Phi Luật Tân, và Indonesia, cũng như là Hồng Kông. Thật là một chuyến viễn du đầy ấn tượng đối với một vị tu sĩ trẻ, và thật đúng là kỳ nghỉ phép đầu tiên mà tôi được hưởng.

Tôi không phải dạy lớp nào hay học hành ǵ. Tôi chỉ ở trong các chùa và viếng thăm những địa danh tôn giáo ở bất cứ nơi nào tôi đến. Đặc biệt là Việt Nam, rất thú vị. Mặc dầu là thời điểm chiến tranh đang bắt đầu sôi bỏng trong nước, người Việt Nam rất tử tế với tôi.

Họ dẫn tôi đi thăm viếng các đền chùa và tổ chức những buổi diễn thuyết cho tôi ở khắp mọi nơi mà tôi đến. Hằng trăm người đến lắng nghe, và luôn có người dịch các bài giảng của tôi từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Ở một thành phố của Việt Nam, là Đà Nẵng, cứ vài phút, bom B52 của Mỹ lại dội xuống vùng DMZ (vùng tự do oanh tạc). Cả ṭa nhà nơi tôi đang lưu trú rung chuyển với từng trái bom dội xuống.
   
Ở Lào, tôi thăm viếng các thành phố của Luong Prabang và Vientiane. V́ không có máy bay tư nhân nào, một vị đại sư Lào danh tiếng đă thu xếp để tôi có thể đi bằng máy bay quân sự. Tất cả những người đồng hành với tôi đều là lính.
   
Ở Campuchia, tôi đă leo lên những bậc thang dốc đứng bằng đá của Angkor Wat, một kiến trúc các dăy chùa nổi tiếng của thế kỷ thứ mười hai, kéo dài hằng cây số xuyên qua rừng.
   
Ở Nhật, tôi gặp một vị sư người Sinhala khác, đại đức Ratmalane Sivali, người cũng đang du hành qua Đông Nam Á. Tôi kể với Sư rằng visa của tôi ở Malaysia sắp hết hạn. Sư cho tôi biết có một ngôi chùa Sinhala đă được thành lập ở Washington D.C., một trong những ngôi chùa Sinhala đầu tiên ở Mỹ.

Chùa này đang t́m một vị tu sĩ có thể nói tiếng Anh, với kinh nghiệm truyền giáo để giúp đỡ sư trụ tŕ ở đó. Đại đức Ratmalane Sivali cho tôi địa chỉ của chùa và tên vị trụ tŕ. Sư khuyên tôi cũng nên viết thư đến cho Hội Sasanasevaka ở Ceylon, bày tỏ ư muốn đến Washington.
   
Cuối chuyến du hành sáu tháng ở châu Á, tôi trở về nhà ở Ceylon. Tôi ở đó khoảng một tháng, thăm viếng tất cả thân quyến của tôi. Tôi cũng đến viếng Thượng tọa Madihe Pannasiha Nayaka, người đỡ đầu của Hội Sasanasevaka, người đă trả lời thư của tôi về công việc ở Washington.

Sau một cuộc phỏng vấn ngắn, Sư nói rằng sẽ báo lại với các thành viên trong Hội về tôi, và họ sẽ cho tôi biết quyết định sau. Một ngày kia vào khoảng gần cuối thời gian tôi ở Ceylon, tôi đă thọ trai xong ở nhà anh tôi, Rambanda. Rồi tôi đến ở chùa Yakkala, cách làng Henepola của tôi khoảng bảy mươi dặm.

Ngày hôm sau, em gái tôi đă nhắn tin. Lời nhắn rằng, “Rambanda đă mất. Sư phải về ngay.” Cái ǵ? Không thể nào. Anh vẫn c̣n khỏe mạnh lúc dùng bữa trưa hôm qua với tôi. Rambanda c̣n trẻ, chỉ mới bốn mươi lăm và hoàn toàn khỏe mạnh.
   
Tôi đưa mảnh giấy báo tin cho đại đức Candajoti.

- Đây chắc là một sự nhầm lẫn. Tôi nói. Hay là một sự trêu đùa ác độc nào đó.
   
- Không. Sư trả lời. Tôi không nghĩ đó là tṛ đùa. Tử thần có thể đến viếng bất cứ ai vào bất cứ lúc nào. Tốt nhất sư nên về.
   
Tôi mướn một chiếc taxi chạy đến nhà anh tôi. Cả nhà đang ở đó, than khóc. Tôi được biết rằng đêm hôm trước, chỉ vài giờ sau khi tôi ra về, Rambanda đă dẫn con trai lớn nhất của ḿnh đi hái mít cho mấy con trâu nước ăn.

Anh đă dặn con trai ở dưới đất và rằng anh sẽ thẩy mấy trái mít to xuống cho nó. Rambanda trèo cao lên cây, có thể là mười lăm mét. Khi anh thẩy trái mít đầu tiên, nhánh cây mà anh đang đứng và đang tựa tay vào, cả hai đều găy. Anh té nhào xuống đất, găy cổ. Anh chết ngay lập tức.
   
Sáng hôm sau tôi đi đến Galagedara với vài người thân quyến để mua xấp vải trắng và những thứ khác mà chúng tôi cần dùng cho đám táng anh trai tôi. Tôi tê tái người. Những ngày sau đó chỉ là những kư ức nhạt nḥe.
   
Sau đám tang là lúc tôi phải trở lại Malaysia. Tôi lên máy bay ở Colombo. Khi ngồi xuống trong máy bay, tim tôi đau nhói, nhớ thương anh. Lúc c̣n nhỏ, chúng tôi rất thân nhau, luôn gây ra lắm chuyện và cũng có nhiều điều kỳ thú. Kỷ niệm tràn ngập đầu óc tôi.
   
Và rồi tôi nghĩ đến, lần nào khi tôi rời Ceylon, Rambanda cũng là người đưa tiễn tôi đến sân ga hay bến tàu. Lần nầy, anh không có ở đó. Tôi bắt đầu khóc.
   
Sau khi trở lại Malaysia không lâu, tôi nhận được lá thư quyết định một chương mới trong cuộc đời tôi. Đó là lá thư của Hội Sasanasevaka chính thức mời tôi đến Washington D.C, để trở thành vị giảng sư lưu trú ở chùa họ. Việc thuyên chuyển của tôi bắt đầu vào năm sau, 1968.
   
Tôi đă bốn mươi tuổi. Cuối cùng tôi sẽ được làm những ǵ mà tôi luôn mong muốn, được giảng pháp bằng tiếng Anh, trong thủ đô của xứ sở có nhiều người nói tiếng Anh nhất trên thế giới.

Tôi sắp sửa đi Mỹ.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 677 of 1146: Đă gửi: 19 September 2010 lúc 9:50pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM


Chương Mười Tám


Đến Mỹ


Năm 1968, tôi đi hành hương đến tất cả các thánh địa ở Ceylon. Tôi sắp bước chân đến một nơi xa xôi: Mỹ quốc, và không ai biết khi nào tôi có thể trở lại quê hương nữa. V́ thế điều quan trọng là tôi phải đến viếng thăm những nơi linh thiêng nhất ở Ceylon, trước khi rời xa quê hương.
   
Đó là một chuyến đi tuyệt vời. Hầu hết thân quyến của tôi và một vài người bạn thân cùng đi. Chúng tôi mướn một chiếc xe buưt. Tôi cũng mong là mẹ tôi có thể đi cùng, nhưng lúc đó bà bị tê liệt nặng đến nỗi, bà không thể chịu đựng được những chuyến đi đường dài.

Đi hành hương đến những thánh địa ở Ceylon th́ cũng giống như đi picnic ở các quốc gia khác. Người ta mướn xe buưt hay những chiếc xe nhỏ, trang hoàng xe với hoa dừa. Họ ca hát trên đường đi và thỉnh thoảng cho xe dừng lại ra ngoài, ngồi dưới bóng cây, dùng bữa với thức ăn mang theo. Thật là thư giăn và vui vẻ.
   
Nhóm của chúng tôi viếng thăm một vài tu viện cổ xưa và các di tích chùa. Chúng tôi đến viếng cây bồ đề cổ xưa và thăm cung điện ở trên núi, của vua Kassapa thứ năm, nơi có những bức họa các vị thần đồng, cầm hoa sen tô điểm trên tường thật đẹp đẽ.

Ở Kandy, chúng tôi viếng chùa Răng, nơi một xá lợi của Đức Phật được tôn thờ, được coi là một trong những nơi linh thiêng nhất ở quê hương tôi. Tích xưa kể rằng khi hoàng tử Danta Kumara và em gái của ngài, là Hemamala, mang xá lợi đển đảo.

Bà công chúa thắt tóc ḿnh lại thành bím và giấu răng xá lợi trong đó để không ai có thể đánh cắp. Một ngôi chùa lộng lẫy đă được xây lên để thờ phụng xá lợi này. Theo lịch sử Tích Lan, mỗi vị vua phải nguyện bảo vệ ngôi chùa Răng, nếu người đó muốn duy tŕ ngôi vị. Nếu nhà vua nào không tôn trọng xá lợi, ông sẽ bị lật đổ.

Nhờ thế ngôi chùa nầy luôn được bảo vệ. Ngay chính cả người Anh cũng tôn trọng ngôi chùa Răng này, khi họ chiếm đóng Tích Lan và biến nó thành một thuộc địa gọi là Ceylon. Ngày nay, các nhà chính trị cũng thường đến chùa Răng, để bày tỏ ḷng kính trọng sau khi đắc cử. Và hằng năm đều có một cuộc diễn hành lớn ở Kandy để tôn vinh xá lợi.

Tiếc thay, ngôi chùa đă bị hư hoại trong một cuộc bỏ bom khủng bố vào năm 1998, một trong những tổn thất lớn của cuộc nội chiến kéo dài của chúng tôi. Phần mặt tiền tuyệt đẹp của ngôi chùa đă bị tàn phá dữ dội trong vụ nổ đó.

Suốt nhiều năm, người ta kéo những cổng rào lớn bao quanh chùa để ngăn cấm bất cứ ai lái xe đến gần, nhưng vào năm 2002, chúng được tháo gỡ xuống như một biểu hiện của thiện chí, khi việc thương thuyết cho hoà b́nh giũa chính phủ và những kẻ chống đối, người Tamil đang diễn ra.
   
Trên đường trở về nhà, tôi cũng ghé đến ṭa đại sứ Mỹ ở Colombo để xin visa. Viên chức cư trú dành cho tôi hai cuộc phỏng vấn vào hai ngày khác nhau. Rồi sau đó tôi được yêu cầu đi khám sức khoẻ. Vị bác sĩ nhận ra tôi thường đến nhà cha mẹ ông để khất thực, khi tôi c̣n là một chú tiểu nhỏ ở chùa Vidyasekhara Pirivena ở Gampaha.

Ông rất ngạc nhiên khi gặp lại tôi lần này và chúc tôi may mắn trong cuộc hành tŕnh. Vào những ngày đó việc ghi vé máy bay dễ hơn là hiện nay. Không bị phạt khi hủy vé, không phải trả tiền thêm khi dừng lại ở bất cứ nơi nào.

Bạn có thể chọn bất cứ tuyến đường nào bạn thích, với nhiều nơi dừng chân theo ư muốn, miễn là cuối cùng bạn sẽ đến nơi đă định. V́ chuyến đi quá dài, tôi quyết định biến nó thành một cuộc phiêu lưu, dừng lại nhiều nơi trên đường, để viếng những nơi tôi chưa từng đặt chân tới.

Tôi liệt kê các quốc gia tôi muốn viếng thăm, rồi viết thư đến từng ṭa đại sứ, của các nước này ở Ceylon, nhờ họ t́m giùm chỗ cho tôi tá túc một đôi ngày. Đây là những nơi tôi dừng chân: Ấn Độ, Pakistan, Afghanistan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập, Hy Lạp, Ư, Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Bỉ, Ḥa Lan và Anh quốc.
   
Ở Rome, tôi được người đại diện của ṭa đại sứ Ceylon đón tại phi trường. Anh ta đưa tôi đến một khách sạn lộng lẫy, và ngay khi vừa đến khách sạn, tôi đă bảo với nhân viên tiếp tân ở khách sạn, tôi muốn tham gia tour đi Vatican.

Ngay lúc đó có một tour sắp bắt đầu, v́ thế tôi mang hành lư vào pḥng, rồi vội vă đi ngay lên xe buưt với một số du khách khác. Chúng tôi được chia thành nhóm tùy theo ngôn ngữ mà chúng tôi sử dụng. Tôi gia nhập nhóm du khách nói tiếng Anh. Khi người hướng dẫn viên đến thu vé, tôi không t́m ra vé của ḿnh, dầu tôi nhớ rằng nhân viên tiếp tân có đưa vé cho tôi.

Người hướng dẫn lại nói:

- Thưa ông, không sao, tôi biết ông đang ở khách sạn. Chỉ cần cho tôi tên khách sạn ông đang trú.
   
Tôi nghẹn lời. Tôi không kịp hỏi tên khách sạn nơi tôi đang trú. Tôi được người ta chở đến đó, nên không để ư đến tên. Tôi cũng không mang theo ḿnh biên lai hay giấy tờ ǵ. Dầu vậy, người hướng dẫn viên vẫn điềm tĩnh.
   
- Thưa ông, đừng lo ngại. Hăy đi thăm Vatican cho vui vẻ, xe buưt sẽ trở lại đón ông lúc năm giờ chiều. Hy vọng là tới lúc đó ông sẽ nhớ ra tên khách sạn của ḿnh.
   
Tour viếng Vatican thật kỳ thú, nhưng suốt cả thời gian, tôi bị lo ra, cố nhớ cho được tên khách sạn của ḿnh. Sự mất chánh niệm của tôi trong việc để ư đến một điều đơn giản như tên khách sạn, đă cướp đi của tôi cơ hội được sống trong giây phút hiện tại, thực sự chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Vatican.
   
Khi xe buưt trở lại lúc năm giờ chiều, tôi vẫn không thể biết ḿnh ở khách sạn nào. Tôi thật xấu hổ. Tôi bảo người hướng dẫn viên rằng có thể khách sạn của tôi gần ṭa đại sứ Ceylon.
   
- Ṭa đại sứ Ceylon. Nó ở đâu vậy? Anh ta hỏi.
   
Tôi hoàn toàn mù tịt. Giờ th́ người hướng dẫn viên không c̣n b́nh tĩnh nữa. Đă qua giờ ăn tối. Anh ta bảo rằng đă hết ngày làm việc của anh; anh phải về nhà. Anh ta rất tiếc nhưng phải để tôi xuống giữa đường, và tôi phải tự ḿnh t́m đường đến khách sạn hay ṭa đại sứ.
   
Hằng giờ, tôi đi lang thang khắp các nẻo đường của Rome. Đó là một tối trời mưa lạnh. Tôi hỏi tất cả mọi người mà tôi gặp ṭa đại sứ Ceylon ở đâu. Nhưng tôi chỉ được trả lời bằng những cái nh́n ngơ ngác. Tôi đi vào bất cứ cửa hàng, câu lạc bộ, quán bar nào có người.
   
Cuối cùng khoảng 10g30 tối, tôi đến một cây xăng, hỏi xem người bán xăng có biết ṭa đại sứ Ceylon không. Thật kỳ diệu, anh ta hiểu tôi ngay. Và c̣n diệu kỳ hơn nữa, khi anh ta vào văn pḥng, rồi trở ra ít phút sau với lá thư đề địa chỉ và số điện thoại của ṭa đại sứ Ceylon.

Cây xăng có lá thư đó, v́ chính phủ Ư miễn tiền thuế cho ṭa đại sứ khi họ mua xăng. Và điều kỳ diệu cuối cùng là có người trả lời điện thoại vào giờ đó ở ṭa đại sứ! Tôi thở phào khi được chở trở lại khách sạn một tiếng đồng hồ sau đó. Tôi vẫn không biết tên của khách sạn.
   
Ở Brussels, tôi không quen ai, và cũng không có ṭa đại sứ Ceylon ở đó. Ở phi trường, tôi trả mười đồng đô để lấy visa, rồi tôi đón taxi vào thành phố. Tôi xem trong quyển danh bạ điện thoại, t́m tên người Sinhala, rồi gọi số điện thoại. Gia đ́nh đó đă đến rước tôi.

Tôi ở với họ vài ngày, chúng tôi đi thăm viếng một số điểm du lịch ở địa phương, kể cả Waterloo, chiến trường nổi tiếng nơi Nă Phá Luân (Napoleon) phải thuận theo số phần. Ở Luân Đôn, tôi ở chùa Phật giáo Luân Đôn.

Một ngày kia tôi đến viếng Stratford-upon-Avon, quê hương của Shakespeare. Trong lúc tôi đang ở đó, một cặp vợ chồng người Mỹ bắt chuyện với tôi. Tôi bảo với họ tôi là một vị tu sĩ Phật giáo, đang trên đường đến sống ở Mỹ.
   
Người chồng nói:

- Khi đến Mỹ, ông phải thay đổi y phục đang mặc.
   
- Không, đâu cần phải vậy. Người vợ phản đối. Ông ấy là tu sĩ Phật giáo. Mặc áo của người tu sĩ Phật giáo. Tại sao lại phải bỏ chứ? Đó mới chính là vấn đề đối với các linh mục của chúng ta ngày nay.

Không có dấu hiệu ǵ ở bề ngoài cho biết họ là người tu. Ḿnh không thể nhận ra họ. Không thể t́m được ai để làm lễ sám hối. Chúng ta phải nể phục ḷng can đảm duy tŕ truyền thống của các vị tu sĩ Phật giáo.
   
Thật ra, mặc chiếc áo tu không phải chỉ là truyền thống, hay để người khác có thể nhận ra chúng tôi. Đúng hơn là để chúng tôi tự nhắc nhở ḿnh là ai, phải làm ǵ, và phải đối xử với người khác như thế nào. Nó giúp chúng tôi cẩn trọng trong lời nói, tránh quá độ, và nhớ giữ sự ḥa nhă với người xung quanh.
   
Mặc chiếc áo tu khi đi du lịch khiến chúng tôi tự ư thức về ḿnh một cách tích cực. Chúng tôi sẽ luôn tự vấn: “Ḿnh có làm ǵ xúc phạm đến người khác không?” “Ḿnh có làm gương tốt cho ai không? Ḿnh có tiêu biểu tốt cho tăng đoàn không?" Tất cả những sự tự quán sát nầy đều là nhờ nơi mảnh áo vàng đơn giản đó.
   
Từ Amsterdam, tôi bay qua thành phố Nữu Ước. Đó là chặng cuối cùng của một cuộc hành tŕnh dài, và là nét chấm phá cuối cùng trong bức tranh, tôi đă phác thảo trong đầu từ nhiều năm trước, khi tôi mở quyển sách Anh ngữ đầu tiên của ḿnh. Tôi rất phấn khởi.
   
Vào lúc hai giờ chiều ngày 18 tháng 9 năm 1968, tôi đặt chân xuống phi trường John F. Kennedy. Tôi không biết phải đi đâu, nên đi theo những người hành khách khác rời khỏi máy bay. Sau khi qua cửa hải quan và sở di trú, tôi mang hành lư của ḿnh vào sảnh đường to lớn. Không có ai chờ đón tôi ở đó.
   
Tôi phải tự lo liệu, trong một xứ sở sẽ trở thành quê hương mới của tôi.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 678 of 1146: Đă gửi: 19 September 2010 lúc 10:18pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM


Chương Mười Chín


Nghĩa Vụ Lao Khổ


Tôi đến New York với chỉ một hướng dẫn, địa chỉ và điện thoại của một ngôi chùa Trung Hoa ở Bronx, mà nhiều năm trước đó ở Malaysia, một vị sư đă cho tôi, và mời tôi đến thăm họ nếu có bao giờ tôi đến Mỹ.
   
Tôi lang thang quanh phi trường Kennedy cho đến khi tôi thấy một máy điện thoại công cộng. Tôi bước đến, cầm ống nghe lên và quay con số chùa trên tấm danh thiếp. Tôi thấy lỗ bỏ tiền xu trên điện thoại, nhưng lúc đó tôi không biết đó là ǵ. Mà nếu như có biết, tôi cũng chưa có đồng xu Mỹ nào, chỉ có tiền giấy.
   
Trong suốt ít nhất cũng là bốn mươi lăm phút, tôi quay đi, quay lại số điện thoại mà cũng chẳng được ǵ. Tôi không hiểu tại sao lại không có ǵ xảy ra. Và tôi cũng không thể hiểu lời hướng dẫn đă ghi âm sẵn trong máy bảo tôi phải bỏ mười xu vào.
   
Cuối cùng tôi bỏ cuộc. Tôi thấy một phụ nữ trẻ ngồi ở một nơi giống như bàn hướng dẫn. Tôi tiến đến và cố gắng phát âm tiếng Anh với hết khả năng của ḿnh, để hỏi cô cách sử dụng điện thoại.
   
Cô ta không trả lời. Cô chỉ trố mắt nh́n tôi. Tôi lặp lại câu hỏi của ḿnh. Cô ta nh́n tôi như thể bị hớp hồn. Tôi nghĩ có thể cô ta không hiểu tôi. Hay cách tôi phát âm tiếng Anh quá nặng.
   
Rồi tôi chợt hiểu ra: Cô gái trẻ này chưa bao giờ thấy ai giống như tôi.   Một người đàn ông nhỏ thó với cái đầu trọc, ḿnh lại quấn y vàng. Có thể cô ta đă nghĩ tôi là một loại hippy tâm thần, mặc y phục của người Ấn Độ, dầu ǵ đây cũng là thời kỳ của những năm sáu mươi.
   
Chán nản, tôi quay đi, kéo lê hai chiếc va-li nặng nề của ḿnh. Tôi cảm thấy mệt mỏi và buồn ngủ. Cho tới lúc này, tôi đă lang thang trong phi trường ít nhất là một giờ. Trong tuyệt vọng, tôi bắt đầu hỏi bất cứ ai đi ngang, thử xem họ có biết đường đến chùa Trung Hoa ở Bronx.

Tôi chặn bất cứ ai lại, tất cả mọi người. Dĩ nhiên, sau này tôi mới biết, đó là điều mà bạn không nên làm ở Queens. Người ta nh́n tôi như thể tôi điên. Hoặc họ chỉ phớt lờ tôi, lướt qua mà chẳng để ư đến câu hỏi của tôi. Cuối cùng, có người cảm thấy tội nghiệp cho tôi. Ông ta bảo tôi ra cửa phi trường, lấy taxi về Bronx.
   
Tôi làm theo lời ông, rồi chẳng bao lâu sau tôi đứng đợi trong một hàng dài với các hành khách khác, ở trạm taxi. Khi đến phiên tôi, v́ lư do ǵ đó, người tài xế taxi từ chối không chở tôi. Chiếc kế tiếp và kế tiếp nữa cũng vậy. Không ai muốn chở tôi.

Tôi hoàn toàn bối rối. Vẻ bề ngoài của tôi đáng sợ đến thế sao? Tôi có thể nói tiếng Anh, tôi cũng có tiền để trả họ mà. Nhưng không ai muốn chở tôi. Cuối cùng, một bác tài đồng ư cho tôi lên xe. Ông có vẻ chẳng thích thú ǵ khi ông vứt hành lư tôi vào thùng xe. Khi xe vừa tách khỏi lề đường, ông hỏi tôi muốn đi đâu.
   
- Chùa Phật giáo Trung Hoa ở Bronx. Tôi trả lời.
   
Bác tài lập tức tấp lại bên đường và thắng mạnh. Ông ta nhảy ra khỏi xe.
   
- Ra khỏi xe đi. Ông ra lệnh. Tôi không đi Bronx.

Chán nản và hoang mang, tôi kéo hành lư trở lại sắp hàng chờ taxi khác. Lần nữa, cũng cảnh chán nản đó tái diễn: Khi tôi cuối cùng đến được đầu hàng, th́ người tài xế này đến người tài xế khác đều từ chối chở tôi.
   
Lúc đó trời đă tối và đă khuya lắm rồi. Tôi bắt đầu hoảng sợ. Tôi sẽ làm sao qua đêm nếu không có bác tài nào chịu cho tôi lên xe? Tôi đă tưởng Mỹ là một nơi thân thiện, cởi mở, nhưng giờ ở đây tôi đă bị đối xử với sự nghi ngờ, thô lỗ.

(Dĩ nhiên, măi sau này, tôi mới hiểu rằng đi đến Bronx vào đêm khuya như thế không an ṭan. Cộng thêm với vẻ bề ngoài lạ lùng của tôi, có lẽ đă khiến cho các bác tài xế taxi phải lo sợ.)
   
Măi đến hơn 10 giờ 30 tối, khi hành khách đă thưa đi, các bác tài mới chịu đi xa một chút, cuối cùng một người bằng ḷng chở tôi đến Bronx. Tôi thật sự hoàn hồn. Khi đến nơi, chúng tôi thấy chùa tối đen nhưng khi tôi nhấn chuông, đèn ngoài hiên bật sáng.

Tôi tự giới thiệu ḿnh và sau đó cửa mở, để lộ ra gương mặt của một tu sĩ người Trung hoa. Ông không nói tiếng Anh, nhưng nhận thấy tôi mặc y áo, nên để tôi vào. Ông mang cho tôi một ly trà xanh ngút khói và đưa vào một căn pḥng ấm áp để ngủ. Cuối cùng thật là tuyệt vời để có một chỗ ngả lưng.
   
Sáng hôm sau, sau bữa điểm tâm, một phụ nữ Mỹ trẻ xuất hiện. Cô có mái tóc đen, cắt ngắn và mang kính gọng sừng. Cô tự giới thiệu là Martha Sentnor, một Phật Tử ở chùa này. Khi tôi nói rằng tôi đến Mỹ để sống ở chùa Phật Giáo Washington, cô nở rộng nụ cười.
   
- Tôi là một thành viên của chùa. Cô nói. Tôi đă đến đó nhiều lần rồi.
   
Tôi kể lại những phiền phức mà tôi gặp ở phi trường cho cô nghe.
    
- Ồ, Bhante.

Cô nói, dùng thuật ngữ để gọi một cách thân mật, có nghĩa là thưa đại đức,

- Đó là chuyện b́nh thường trong một thành phố lớn như New York. Người ta có thể rất bất lịch sự. Sư có thể coi như may mắn là đă không bị mugged (trấn lột).
   
Cô phải giải thích cho tôi nghe từ mugged nghĩa là ǵ. Những ngày sau đó, Martha tử tế chở tôi đi quanh thăm các điểm du lịch ở Manhattan: Tượng nữ thần tự do, ṭa Empire State, cảng Nữu Ước.

Không gian, sự hối hả và tiếng ồn của thành phố choáng ngợp tôi. Tôi chưa bao giờ kinh nghiệm thứ ǵ giống như vậy. Tưởng chừng như đây là một thế giới khác với thế giới của ngôi làng nhỏ bé của tôi ở Henepola.
   
Một tuần lễ sau, tôi bay từ Nữu Ước đến Washington, chặng cuối cùng của cuộc hành tŕnh của tôi. Tôi đặt chân đến phi trường National vào ngày 26 tháng 9. Có hai người chờ đón tôi ở đó: Đại đức Dickwela Piyananda và Michael Roehm, một thanh niên Mỹ, Phật tử chùa Phật giáo Washington.
   
Nơi trú ngụ mới của tôi là một ngôi nhà bằng gạch, ba tầng đă xuống cấp, nằm trên đường số 16 Tây Bắc. Một bên chùa là nhà thờ Cơ Đốc Hy Lạp, bên kia là một nhà tư nhân. Cuối đường là ṭa Đại sứ Nga và Canada.
   
Chùa Phật giáo Washington là chùa Phật Giáo Nguyên thủy đầu tiên ở Mỹ, do hội Sasanasevaka ở Ceylon thành lập. Năm 1965 một tu sĩ trẻ người Sinhala, tên là đại đức Bope Vinita sang Mỹ để học ở trường Harvard Divinity, nhờ vào học bổng của Quỹ Tài Trợ Á châu.

Trong khi sống và học ở Boston, đại đức Vinita thấy rằng người Mỹ rất thích nghiên cứu về các tôn giáo phương Đông. Đó là khoảng thời gian của Jack Kerouac, các nhà thơ trường phái Beat, Alan Watts và Thiền, và Richard Alpert tự là Ram Dass.
   
Khi đại đức Vinita trở về Ceylon, ông tŕnh lại điều này với đại sư Madihe Pannasiha Mahanayaka, hội trưởng Hội Sasanasevaka. Một năm sau đó, năm 1966, Đại sư Pannashiha tự thân hành đến Mỹ, và đă đi thăm viếng nhiều thành phố.

Ông cũng thấy có nhiều người rất thích t́m hiểu Phật Giáo. Khi trở lại Ceylon, đại sư thuyết phục Hội quyên tiền để xây chùa ở Mỹ. Với số tiền $16,500 đô trong tay, đại đức Vinita trở lại Mỹ vào đầu năm 1967, và tham khảo ư kiến của Oliver Weerasinghe, Đại sứ của Ceylon ở Mỹ lúc đó.
   
- Tại sao không xây dựng ngôi chùa mới đó ngay tại đây ở Washington?” Weerasinghe đề nghị.

Sau đó hai người t́m được một ṭa nhà thích hợp trước kia là ṭa đại sứ của Thái, đang cần bán. Trong lúc họ đang thương lượng với chính phủ Thái để mua ngôi nhà, th́ một tu sĩ người Sinhala khác cũng đến Mỹ, đại đức Dickwela Piyananda.

Ông và đại đức Vinita sống chung trong một căn pḥng nhỏ bé trên đường Harvard ở Washington. Cuộc thương lượng phải mất nhiều tháng. Cuối cùng khi việc ngă giá bán mua gần hoàn tất, chính phủ Thái cho phép Đại đức Piyananda dọn vào ṭa nhà, dầu giấy tờ mua bán chưa kư xong.

Đại đức Vinita ở lại căn pḥng thuê. Ngay khoảng thời gian đó, vào mùa thu năm 1968 tôi đến. Ngay buổi tối đầu tiên của tôi ở chùa, đại đức Piyananda bảo tôi:

- Tôi là một người già cả ở đây. Nhưng sư c̣n trẻ, đầy nhiệt huyết và có nhiều kinh nghiệm. Nơi này rất nhiều việc, và tôi muốn sư đảm trách công việc này. Tôi sẽ là người chủ tŕ ở đây, để cố vấn sư khi nào sư cần giúp đỡ. Nhưng tôi muốn sư đảm trách các công việc.
   
Đại đức Piyananda không già đến thế, c̣n chưa đến sáu mươi, nhưng tôi nghĩ ông không quen với công việc chân tay. Ư nghĩ phải tái tạo lại ṭa nhà đă xuống cấp này khiến ông ái ngại. V́ thế, ông rất mừng được có một tăng sĩ trẻ đến góp tay.
   
V́ thế tôi bắt đầu làm việc một ḿnh. (Đại đức Vinita đă trở lại Ceylon ngay khi tôi vừa đến Mỹ). Ṭa nhà rộng mênh mông: Tám pḥng ngủ, bốn nhà tắm, một tầng hầm và một căn gác.

Ṭa đại sứ Thái đă chứa các sinh viên đại học ở đó, mà những sinh viên này có thể đă không nương tay với ṭa nhà. Các cửa sổ, cửa ra vào đều hỏng. Nhiều pḥng, giấy dán tường loang lổ. Trần nhà của căn hầm vôi vữa ra. Nhiều cửa không có khóa. Mái nhà cũng xuống cấp. Vườn tuợc th́ giống như một khu rừng rậm.
   
Máy nước nóng bị nhiễu, toilet cũng vậy. Trong một pḥng tắm, ṿi sen tắm giống như chỉ được gắn đại vào. Khi vặn ṿi, nước sẽ chĩa lên trần nhà, v́ thế chúng tôi đă gắn một miếng kiếng trên đó để nước dội trở lại. Để tắm được bằng ṿi sen, nếu bạn có thể gọi như thế, tôi phải ngồi dưới ṿi nước chảy ngược lại đó.
   
Nói đến việc tu sửa, tôi cũng không biết tôi đang làm ǵ? Tôi không có kinh nghiệm xây dựng ǵ cả, v́ thế tôi đi đến một tiệm bán đồ gia dụng gần nhất, cách chùa khoảng một dặm và bắt đầu bằng nhiều câu hỏi.

Đối với những công tŕnh tu sửa lớn, tôi phải đợi đến khi có đủ tiền cúng dường, để trả cho vật liệu xây dựng. Sau đó, tôi phải khiêng vác bất cứ vật liệu nào tôi mua, kể cả gỗ.
   
Sau một thời gian tôi được một vài người Thái đến chùa giúp đỡ. Rồi dần dần, một số gia đ́nh người Burma, Việt Nam cũng đến góp tay. Chúng tôi đập tường ở tầng dưới ra, ghép mấy pḥng nhỏ thành một pḥng lớn, dùng làm chánh điện. Rồi chúng tôi bắt tay vào sửa sang pḥng ngủ để có thể ở được.
   
Tôi đóng đinh, mài dũa, dựng cột, thọc các ống thông hơi, làm tất cả mà không đeo mặt nạ. Tôi nghĩ tất cả những bụi bặm và mảnh vụn mà tôi hít thở trong những tháng ngày này, đă khiến tôi phát sinh bịnh dị ứng, mà vẫn c̣n cho đến ngày nay.
   
Tôi cũng phụ trách luôn các việc thường nhật ở chùa, đi chợ, dọn dẹp, cắt cỏ, công việc văn pḥng, thâu tiền cúng dường, và dạy các lớp giáo lư. Để kêu gọi thêm nhiều thành viên, tôi đă quyết định in một tờ tin hàng tháng.

Tôi làm báo trên một máy in quay bằng tay. Số đầu tiên rất đơn giản: tôi viết về hành tŕnh đến Washington của tôi và công việc trùng tu sửa Chùa. Tôi cũng kêu gọi sự hỗ trợ về tài chánh để trả nợ tiền mua lại ṭa nhà.
   
Phần lớn thời gian, tôi mệt nhoài. Ngày của tôi bắt đầu từ năm giờ sáng đến mười một giờ đêm, với những công việc không dừng dứt. Và nếu có khách đến thăm Chùa, tôi phải bỏ tất cả công việc đang làm để tiếp họ.
   
Dĩ nhiên v́ đang ở Mỹ, chúng tôi không thể đi khất thực. Khất thực ở cửa nhà người có thể khiến chúng tôi phải đi tù. Một vài gia đ́nh là đệ tử chùa mang đồ ăn đến như là một hành động của dana, hay cúng dường, nhưng việc đó chắc chắn không thể xảy ra mỗi ngày. V́ thế tôi phải tự học nấu ăn.
   
Là một tăng sĩ ở Á châu, tôi luôn được phục vụ. Chưa bao giờ tôi nghĩ là khi đến Mỹ tôi phải lao động chân tay, làm đầu bếp, thợ sửa nhà. Thú thật, tôi khá muộn phiền. Nhưng dĩ nhiên là tôi không thể quay về, trở lại Á châu. Không có nơi nào để trở về, và tôi đă dự định là ở lại Mỹ luôn.

May mắn thay, sự vận động tay chân và các nỗ lực trong việc sửa chữa chùa, đă giúp tôi thật sự “giải tỏa” sự sân hận của ḿnh. Dần dần, tôi bắt đầu yêu thích công việc ḿnh làm. Học được nhiều kỹ năng cũng thú. Và cuối cùng tôi nhận ra rằng, sân hận không có ǵ hơn là một sự lăng phí năng lượng, năng lượng mà tôi rất cần để dán giấy lên tường!
   
Tuần thứ ba của tháng mười, chưa đầy một tháng sau khi tôi đến, Sư Piyananda về Ceylon nghỉ phép hai tháng. Giờ th́ tôi thật sự quản lư, và tôi chỉ có một ḿnh. Vào một ngày cuối tháng mười khoảng giờ ăn tối, chuông cửa vang lên.
   
Tôi mở cửa trước ra và thấy một đám trẻ đứng ở đó, mang những mặt nạ dễ sợ. Những chú quỷ nhỏ, ma cà rồng và phù thủy đang trố mắt nh́n tôi. Đây có thể là một trong những “kẻ cướp” mà Martha Sentnor đă nói với tôi chăng?
   
- Các cháu là ai? Tôi hỏi một cách lo lắng.
   
- TRICK OR TREAT! Lũ trẻ la lên.
   
- Xin lỗi? Tôi hỏi. Tôi hoàn toàn không hiểu tại sao lũ trẻ la hét với tôi.

Một trong những đứa lớn, tṛn mắt lên giải thích là chúng muốn kẹo. Nếu tôi không cho chúng, chúng sẽ liệng trứng vào nhà chúng tôi. Tôi vẫn không hiểu, nhưng tôi nghĩ tốt hơn hết là làm vừa ḷng những đứa trẻ này.

Tôi vào nhà bếp và t́m thấy một vài hộp bánh do các đệ tử Chùa để lại. Tôi trở ra cửa trước, chia cho mỗi đứa trẻ một cái bánh. Tôi thở phào, khi đám trẻ nhận bánh rồi chạy đi. Vài phút sau đó, chuông cửa lại vang lên. Tôi không thể tin được: Lại thêm nhiều đứa trẻ nữa, lại đ̣i kẹo! Lần nữa tôi lại mang bánh ra cho chúng.
   
Cứ như thế suốt buổi tối. Ngày hôm sau tôi kể chuyện lại với một thành viên người Mỹ của Chùa. Tôi nghĩ ông sẽ không tin câu chuyện khó tưởng tượng của tôi. Nhưng ông ngồi xuống và giải thích với tôi về lễ Halloween. Chúng tôi được một bữa cười no bụng. (ND: Lễ Halloween của Mỹ rơi vào ngày cuối tháng mười, khi trẻ con hóa trang đi từ nhà để xin kẹo bánh).
   
Tháng mười hai, vào ngày sinh nhật thứ bốn mươi mốt của tôi, việc mua ṭa nhà cuối cùng đă kết thúc. Ngôi chùa Phật giáo Washington, với giá bán là $33,000, chính thức thuộc về chúng tôi.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 679 of 1146: Đă gửi: 19 September 2010 lúc 10:44pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM


Chương Hai Mươi


Bị Lầm Là Phụ Nữ


Trong những năm đầu ở chùa, chúng tôi lúc nào cũng chỉ có vừa đủ tiền để trả cho các thứ. Tiền nhà là một trăm bảy mươi hai đồng một tháng. Và các chi phí khác, điện thọai, điện, gas, tổng cộng chi phí đến $500 hay $600 đô một tháng. Dĩ nhiên, tất cả đều từ tiền cúng dường của Phật tử.
   
Mỗi lần đến viếng chùa, các Phật tử sẽ bỏ một hay hai đồng vào thùng phước sương. Khi chúng tôi đến nhà để tụng kinh, họ thường cúng dường một số tiền nhỏ, có thể là mười hay mười lăm đô. Mỗi tháng chúng tôi được khỏang $600 hay $700 đô.
   
Không biết sao, bao giờ chúng tôi cũng dư chút ít. Chỉ chút ít. Chúng tôi bắt đầu thu nhận những người muốn làm thành viên chính thức của chùa. Chúng tôi lập ra ba loại thành viên, suốt đời, hàng năm và sinh viên, rồi in ra các thẻ hội viên.

Tờ tin ngắn của tôi tiếp tục lôi cuốn thêm nhiều thành viên, nhờ thế chùa phát triển dần dần. Chúng tôi đă có thể hoàn thành những công việc trùng tu lớn cho chùa, chỉ trong một vài năm.
   
Mỗi tuần ba buổi tối, tôi hướng dẫn lớp tu thiền. Chiều chủ nhật dành cho các nghi lễ tụng kinh. Chúng tôi in một quyển sách nhỏ với các bài kinh tụng tiếng Pali, gọi là Vandana, để Phật tử có thể đọc theo trong các buổi lễ.
   
Vào những ngày lễ Phật giáo, chúng tôi sẽ có những nghi lễ long trọng, theo truyền thống Sinhala. Đến ngày lễ Vesak, chúng tôi tổ chức lễ Phật Đản, Phật thành đạo và Phật Nhập diệt. Mỗi sự kiện rơi vào ngày rằm trong tháng Ấn Độ của Visakh, khoảng tháng tư hay tháng năm.

Để chuẩn bị cho lễ Vesak, người ta dọn dẹp, và trang hoàng Chùa, làm lồng đèn bằng những cọng tre và giấy mỏng, và nấu rất nhiều thức ăn, thường là món chay. Đến ngày lễ, các Phật tử đều mặc màu trắng, đến chùa ở suốt ngày, gặp gỡ, chuyện tṛ, ăn uống và lắng nghe quư sư tụng kinh. Đó thật là một ngày lễ hội Phật giáo nhộn nhịp nhất trong năm.
   
Kathina, một nghi lễ quen thuộc khác, đánh dấu sự chấm dứt của mùa an cư truyền thống. Trong ba tháng (từ giữa tháng Bảy đến giữa tháng Mười), quư sư ở trong chùa, không đi ra ngoài. Truyền thống này được bắt đầu từ thời Phật c̣n tại thế, khi ngài và các đệ tử thực hành ba tháng an cư mùa mưa trong năm, suốt thời gian đó tăng đoàn không đi ra ngoài, mà ở một chỗ cho đến hết mùa mưa.
   
Hiện nay, lễ Kathina được tổ chức vào tháng mười. Trong thời gian đó cư sĩ thường dâng cúng y áo mới và các thứ vật dụng cần thiết cho tăng sĩ. Những chồng quà tặng trong chánh điện gồm có bàn chải đánh răng, thuốc súc miệng, thuốc cạo râu, xà bông và giấy vệ sinh.
   
Nhưng món quà quư nhất trong tất cả, là y Kathina. Một mảnh vải vàng may bằng tay được xếp rất khéo, bọc trong bao plastic, rồi được dâng cúng một cách tượng trưng cho cả tăng đoàn. Các sư sẽ quyết định ai là người đặc biệt được nhận món quà ấy.

Đôi khi đó là vị sư nhiều tuổi nhất, hay người y áo bị sờn rách nhiều nhất. Hay một vị sư đến từ một địa phương hẻo lánh, nơi có thể không có các cư sĩ cúng dường y áo. Suốt trong những năm đầu ở chùa Washington, tôi phải hội nhập vào đời sống ở Mỹ, và nước Mỹ cũng hội nhập theo tôi.
   
Tôi khá nhỏ người, chỉ cao khoảng một thước rưỡi, quấn y, đầu cạo nhẵn. Vào những năm sáu mươi, h́nh ảnh đó thật quá sức tưởng tượng đối với người dân Mỹ. Nhiều lần, khi tôi hỏi nhà vệ sinh công cộng, người ta chỉ vào pḥng dành cho phụ nữ.
   
Một ngày kia trên đường đi chợ về, tay tôi ôm đầy giỏ bị, và tôi đi ngang qua một người đàn ông đang rửa xe trong sân nhà. Con chó nhà ông chạy theo tôi sửa. Anh ta la chó:

- Đừng có làm phiền bà ấy!

Ngay cả người gặp tôi hàng ngày cũng lầm tưởng tôi là phụ nữ. Trong suốt hai mươi năm tôi sống ở Washington, mỗi ngày người phát thư vui tính bao giờ cũng chào tôi:

- Đây là thư của bà, thưa bà.
   
Vào một buổi chiều tháng hai, năm 1969, một người đàn ông nhấn chuông chùa và lễ phép xin được sử dụng thư viện của chúng tôi. Tôi rất vui v́ có người thích t́m hiểu về Phật giáo, v́ thế, dĩ nhiên là tôi đồng ư.
   
Sau đó, người nầy đến gần như mỗi ngày, bồng một em bé và mang theo một cái nôi nhỏ. Khi con ngủ, ông ngồi đọc sách về Phật giáo. Ông gần như không trao đổi ǵ với tôi, nên tôi cũng không phiền đến ông.
   
Vào tháng năm, khi chúng tôi tổ chức lễ Vesak, người đàn ông nhập vào với một nhóm nhỏ các cư sĩ áo trắng và ở lại chùa suốt ngày hôm đó tu bát quan trai và tọa thiền.
   
Michael Roehm, một trong những thành viên người Mỹ ở chùa, thấy ông.
   
- Tiến sĩ Rodier làm ǵ ở đây vậy? Anh ta hỏi tôi.
   
- Ai là tiến sĩ Rodier? Tôi hỏi.
   
Michael bảo với tôi là người đàn ông đó tên là David Rodier, và ông là giáo sư triết ở đại học American, chỉ cách chùa vài dặm. Ngày hôm sau tôi nôn nóng chờ tiến sĩ Rodier đến thư viện vào buổi chiều như thường lệ. Khi ông đến, tôi tiến lại gần ông.
   
- Thưa, ông có phải là giáo sư ở đại học American? Tôi hỏi.
   
Ông gật đầu, mỉm cười. Tôi thưa với ông rằng tôi rất muốn được tiếp tục việc học của ḿnh. Tôi kể với ông về những trường tôi đă học ở Ceylon và Ấn Độ, cố gắng chắp vá việc học của ḿnh. Tôi cũng kể với ông về việc tôi đă đậu kỳ thi ngọai khóa của Cambridge, nhưng không vào được đại học ở Malaysia.
   
Ông Rodier khuyên tôi bảo đại học Cambridge gửi điểm thi của tôi đến trường đại học American. Rodier cũng đề nghị tôi dự thính lớp của ông để có thể thực tập tiếng Anh. Hàng tháng trời, mỗi ngày tiến sĩ Rodier đều đến chùa chở tôi đến trường đại học, để tôi có thể dự thính lớp triết học của ông. Được đi học trở lại, thật là một cảm giác tuyệt vời!
   
Khoảng thời gian đó, tôi bắt đầu cảm thấy đau lại ở thận trái. Dần dần tôi phải đi bác sĩ, và được chuyển qua bác sĩ nội tiết. Vị này giống như vị bác sĩ ở Malaysia, cũng bảo tôi bị sỏi thận nhưng lần này phải giải phẫu.
   
May mắn thay, đại đức Piyananda và tôi đều được bảo hiểm qua chương tŕnh bảo hiểm tập thể ở ṭa đại sứ Ceylon. Tôi nằm trong bệnh viện mười ngày. Bảo hiểm trả tám mươi phần trăm viện phí, và Michael Roehm, với tâm rộng lượng, đă trả phần c̣n lại cho tôi.
   
Năm 1971, ở tuổi bốn mươi ba, tôi được nhận vào trường đại học American làm sinh viên năm thứ nhất. Michael Roehm trả học phí cho tôi, lại c̣n cúng dường tiền cho tôi mua sách vở. Bên cạnh đó, tôi cũng dành dụm được chút ít từ số tiền ăn một trăm đồng hàng tháng, mà chính phủ Ceylon cung cấp để trang trải cho chi phí học tập.
   
V́ các Phật sự ở chùa, mỗi khóa học, tôi chỉ có thời gian học hai lớp. Những năm sau đó, tôi vừa quản lư chùa, vừa là sinh viên đại học, và cũng đến các đại học khác để thuyết giảng về Phật giáo. Tôi đi khắp nơi, từ Miami đến Saint John, Newfoundland.

Một số nơi biết tôi qua trường đại học American; các nơi khác th́ qua mẫu quảng cáo nhỏ của chúng tôi đăng trên tờ Washington Post, về các hoạt động của chùa, cũng như các lớp giáo lư.
   
Năm 1972 tôi bắt đầu hướng dẫn một lớp thiền ở đại học American. Hơn hai mươi sinh viên ghi danh học. Vị tuyên úy ở trường đại học dành cho chúng tôi một pḥng rộng trong nhà nguyện. Chúng tôi trang bị pḥng với những chiếc tọa cụ êm ái.
   
Khoảng một tuần sau khi lớp học khai giảng, một ngày kia tôi đến lớp sớm hơn thường lệ, th́ thấy ai đó đă dùng dao rạch nát các tọa cụ. Bông gạo trắng trong tọa cụ vung vẩy khắp trên sàn nhà như là tuyết. Tôi thật thất vọng! Vị tuyên úy sắm lại cho chúng tôi những tọa cụ khác, nhưng chúng tôi đă nhận ra một thông điệp qua hành động trên: có ai đó muốn phản đối việc chúng tôi làm.
   
Cũng khoảng thời gian đó, chùa cần một số giấy văn pḥng có in tên chùa. Tôi đến một nhà in, đưa cho họ coi mẫu huy hiệu chùa của chúng tôi để đặt hàng. Tuần sau, khi tôi đến nhận hàng, một người khác đang làm việc trong pḥng in, là chủ tiệm in.
   
- Đi ngay!

Ông ta hét lên, ngay khi tôi vừa nói tên chùa.

- Tôi không nhận bất cứ đơn hàng nào có chữ Buddhist (Phật giáo) trong đó.
   
Đó là một số kinh nghiệm đầu tiên của tôi về vấn đề phân biệt tôn giáo, theo kiểu Mỹ. Trước đó, tôi đă có một cái nh́n rất sách vở về Hiệp chủng quốc như là một mảnh đất tự do, được thành lập nên bởi những người yêu nước can đảm, muốn đem lại tự do cho tất cả mọi người.

Tôi đă được đọc về George Washington và Abraham Lincoln. Tôi biết rằng lịch sử Mỹ là lịch sử của cuộc chiến đấu cho sự b́nh đẳng. Tôi đă nghĩ rằng là ở đây, bất cứ ai cũng được tự do để tin theo bất cứ tôn giáo nào mà họ chọn lựa.
   
Nhưng vấn đề không đơn giản như thế. Năm 1973 đại học American cử tôi làm vị tuyên úy Phật giáo tại trường, một chức vị mới được tạo ra v́ tôi. Trường đă có các vị tuyên úy thuộc các tôn giáo khác, nhưng chưa bao giờ có tuyên úy Phật giáo.

Đúng ra, tôi nghĩ đó là trường đại học đầu tiên ở Mỹ đă chỉ định một vị tuyên úy Phật giáo. Tin đó được đăng trên tờ báo trường. Lập tức có người viết thơ đến viện trưởng trường, đ̣i phải được giải thích tại sao ông lại chọn một kẻ ngoại đạo làm tuyên úy.
   
Có khoảng thời gian đôi ba năm, cứ mỗi tháng một lần tôi đều đến một nơi trong vùng ngoại ô của Nữu Ước, gọi là Trung tâm Hướng dẫn Truyền giáo. Họ mời tôi đến để thuyết giảng về Phật giáo. Tôi thường đi cùng với Richard Stoneham, một thành viên của chùa, sống ở Nữu Ước.
   
Mỗi khi thuyết giảng ở đó, tôi cẩn thận không so sánh Phật với bất cứ một vị lănh đạo tâm linh của tôn giáo nào. Tôi muốn tỏ sự tôn trọng đối với các tôn giáo khác. Tuy nhiên, một ngày kia sau buổi giảng của tôi, khi một phụ nữ trẻ phát biểu:

- Thật tuyệt vời! Trước đây tôi không biết tí ǵ về Đức Phật.
   
Một vị mục sư lớn tuổi trong hàng thính giả lên tiếng.

- Tuy nhiên, Chúa Jesus vẫn cao siêu hơn Đức Phật. Ông nói một cách chắc nịch.
   
- Trên phương diện nào? Richard hỏi.
   
Vị mục sư đứng lên:
   
- Tôi đă sống ở Thái Lan tám năm. Ông tuyên bố. Tôi đă nh́n thấy Đức Phật này chỉ ngồi xếp chân trong các căn pḥng được trang hoàng đẹp đẽ, không làm ǵ hết. Tôi đă thấy những người đàn ông mặc áo vàng đi xin ăn ngoài đường. Họ không làm ǵ cho thế giới cả. Chúa Jesus đă hy sinh cả đời cho nhân loại.
   
Richard và vị mục sư bị cuốn vào một cuộc tranh căi qua lại. Tôi chỉ im lặng. Cuối cùng, người phụ nữ trẻ bắt đầu khóc. Cô nói:

- Chúng ta mời vị tăng sĩ này đi từ Washington đến đây để giảng cho chúng ta biết về Phật giáo, về tôn giáo mà ông tin tưởng. Đây có phải là cách chúng ta tiếp khách không?
   
Khi bài giảng buổi chiều kết thúc, vị giám đốc trung tâm đến hỏi tôi có điều ǵ xảy ra chăng. Tôi bảo không có ǵ, mọi việc đều tốt đẹp. Rồi tôi hướng về phía vị mục sư lớn tuổi, nói thẳng với ông.
   
- Thưa ông, ông đă bảo rằng Đức Phật chỉ ngồi trong các pḥng trang hoàng đẹp đẽ mà không làm ǵ cả. Những ǵ ông được thấy là các h́nh tượng của Đức Phật, không phải là vị Phật bằng xương thịt. Đức Phật xưa kia rất năng động. Ngài đă hy sinh ngai vàng, vương quốc, tài sản, và cả gia đ́nh, chỉ để sống một cuộc đời đơn giản.

Ngay cả sau khi đă đạt được giác ngộ, ngài chỉ ngủ hai tiếng mỗi ngày. Ngài bận rộn thuyết pháp cứu độ chúng sinh. V́ chúng sinh Ngài đă làm việc hai mươi hai tiếng mỗi ngày, trong bốn mươi lăm năm, cho đến khi ngài tịch diệt.
   
C̣n những người mặc áo vàng đi khất thực mà ông thấy, là các tu sĩ đă nguyện sống đời đơn giản, theo như Đức Phật. Họ không phải là người xin ăn như ông nghĩ; họ được người khác kính trọng v́ cuộc sống tâm linh mà họ đă chọn lựa.

Các cư sĩ cúng dường họ thực phẩm, y áo, nơi ở và thuốc men. Đáp lại, các vị tu sĩ này ban cho họ những thức ăn tinh thần. Các vị tu sĩ này chỉ nhận một ít thực phẩm từ mỗi nhà. Như thế, họ không là gánh nặng cho ai.
   
Có lẽ tôi không thể thuyết phục được ông, nhưng có thể tôi đă giải được một số hiểu lầm của ông. Vào những năm đầu của thập niên bảy mươi, là thời kỳ của chiến tranh Việt Nam, thời của những đứa con của hoa (flower children), và những người phản chiến.
   
Nhiều lần khi tôi đến giảng tại các trường cộng đồng và trường đại học, sinh viên sẽ hỏi tôi, Phật giáo quan niệm về vấn đề tự tử như thế nào, v́ họ đă nghe tin tức về các nhà sư Việt Nam tự thiêu để chống chiến tranh.
   
Tôi luôn trả lời rằng tự tử không được chấp nhận trong giáo lư của Đức Phật. Đúng ra Đức Phật hoàn toàn chống việc này. Giới luật thứ ba của Patimokkha, các giới luật dành cho người tu, dạy rằng bất cứ vị tu sĩ nào phạm tội hay tham gia vào việc mưu sát, đều lập tức bị loại trừ ra khỏi tăng đoàn.

Tự tử cũng giống như giết hại bất cứ chúng sinh nào khác, cũng được coi là một trong những trọng tội. Nhưng khi người ta ở trong những hoàn cảnh bị đàn áp tôn giáo hay áp bức trong xă hội, họ phải bỏ qua những giới luật tôn giáo.
   
Những người đang cầm quyền Việt Nam lúc bấy giờ đă lạm dụng quyền hạn của họ một cách quá đáng. Phần lớn Phật tử bị chính quyền theo Thiên Chúa giáo của ông Ngô Đ́nh Diệm đối xử tàn tệ. Người Phật tử không được quyền tổ chức những buổi nói chuyện công cộng hay những nghi lễ tôn giáo, và bị gán là Cộng sản, để chính phủ Mỹ chống lại họ.

Căn bản là ông Diệm đă lợi dụng sự sốt sắng chống Cộng của chính quyền Mỹ để đàn áp Phật giáo ở Việt Nam. Đó là một chiến thuật tinh vi nhưng khá độc ác. V́ quá tuyệt vọng, các nhà sư Việt Nam đă phải tự thiêu để nói cho thế giới biết những ǵ đang xảy ra trên quê hương họ.

Hành động của họ không liên quan ǵ đến Phật giáo, mà chỉ là những hành động yêu nước. Để làm rơ, tôi cố gắng giúp các sinh viên hiểu ư nghĩa thục sự của Phật giáo. Phật giáo, tôi bảo với họ, là một tôn giáo ḥa b́nh.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 680 of 1146: Đă gửi: 19 September 2010 lúc 11:28pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM


Chương Hai Mươi Mốt


Viên Chức Bhante G.


Nhiều việc tôi làm ở Chùa, cắt cỏ, nấu ăn, sửa ống nước, đóng đinh, là những việc mà quư thầy theo truyền thống thường không làm. Cuộc sống của chúng tôi phải là một cuộc sống yên tĩnh, giản đơn. Nhưng Mỹ là một thế giới mới, và tôi bắt buộc phải đảm nhận một vai tṛ mới.
      
Dần dần, tôi c̣n phải học lái xe! Một ngày kia, một phụ nữ Mỹ trẻ và bạn trai của cô đến Chùa. Họ là những vị khách thường xuyên viếng Chùa. Tôi nhờ họ chở giùm đến một tiệm bán đồ gia dụng. Đây không phải là lần đầu tiên tôi nhờ họ như thế. Bất cứ khi nào có ai đến Chùa, tôi thường xin quá giang đến tiệm thực phẩm, tiệm điện, nơi giặt đồ, bất cứ nơi nào tôi cần đến.
     
Điều đó cũng làm tôi khó chịu, v́ các tu sĩ lư đáng ra không được v́ lợi ích riêng của ḿnh mà nhờ các cư sĩ làm bất cứ chuyện ǵ. Điều đó được xem như là quá tham, quá bám víu.

- Bhante. Người phụ nữ trẻ nói, vậy là không công bằng. Chúng tôi đến Chùa để thư giăn, đọc sách và hành thiền. Nhưng vừa bước chân vào, sư đă nhờ chúng tôi chở sư đi khắp nơi.
      
Tôi đỏ mặt v́ giận:

- À, vậy tôi phải làm việc như nô lệ để cô có thể đến đây thư giăn, tọa thiền thoải mái sao? Tôi chỉ nhờ cô giúp đỡ. Bằng không, tôi không thể làm những việc lặt vặt này.
   
Cô ta nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói:

- Nếu chúng tôi dạy sư lái xe th́ sao? Như thế th́ sư có thể đi bất cứ nơi nào mà sư cần đi, bất cứ lúc nào.
   
Tôi cảm thấy thật tuyệt vọng:

- Làm sao tôi làm được chuyện đó? Tôi không có xe. Và hơn thếnữa, là tu sĩ, tôi không thể nhờ người khác dạy lái xe.”

- Sư đâu có nhờ. Cô phân trần. Tôi tự nguyện mà.
   
Thế là ngày hôm sau đó, người bạn trai của cô lái một chiếc Dodge to vào chùa. Chiếc xe Dodge đó là của cô gái, nhưng cô đă nhờ bạn trai tập cho tôi lái. Tôi chưa bao giờ ngồi sau tay lái, nên rất phấn khởi nhập cuộc.
   
Sau vài hướng dẫn của anh, tôi bắt đầu lái xe ra đường, và tập cũng khá tốt. Rồi chúng tôi đi vào đường số mười sáu, một con đường khá nhộn nhịp. Người dạy lái xe định đưa tôi qua một con đường nhỏ hơn, dọc theo công viên Rod Creek, nơi tôi có thể thực tập mà không phải lo lưu lượng xe nhiều.

Chúng tôi đến ngă tư của đường số mười sáu và đại lộ Colorado, cắt chéo qua đường số mười sáu. Ông thầy bảo tôi rẽ trái, nhưng tôi đang quá chú tâm vào việc lái xe nên cứ lao tới.
   
- Chậm lại! Ông thầy la lên. Chậm lại!
   
Nhưng đă quá trễ. Tôi tông vào một chiếc Saab xanh đang dừng giữa ngă tư. Tôi nhảy ra khỏi xe và chạy lại bên chiếc Saab. Thật hú hồn, người lái xe, một phụ nữ trẻ, h́nh như không hề hấn ǵ. Tuy nhiên, xe của cô th́ bị hư hỏng nặng. Cú tông vào phía trước xe khiến đèn, bửng xe, mọi thứ đều hư hại. Và dưới cái mui xe nhăn nhúm, b́nh nước xe đang xịt nước ra.
   
Tôi rối rít xin lỗi cô gái, rằng tôi chỉ là người đang học lái xe. Cô ta mỉm cười.
   
- Xin ông đừng lo. Cô nói. Chuyện này có thể xảy ra cho bất cứ ai.
   
Tuy nhiên khi cảnh sát đến, tôi bị phạt hai mươi lăm đô. Tôi nghĩ là tôi đă thoát nạn một cách dễ dàng, v́ kể ra tôi không có đến một giấy phép học lái xe. Trở về chùa, tôi gọi người phụ nữ, chủ của chiếc Dodge. Tôi rất áy náy về chiếc xe của cô.
   
- Xin sư đừng lo lắng. Cô trấn an tôi. Tôi có bảo hiểm, và cha mẹ tôi sẽ lo chuyện đó. Không có ǵ quan trọng đâu.
   
May mắn thay, ông thầy dạy lái xe không nản chí v́ tôi. Những tuần lễ sau đó, anh ta đến chùa bất kỳ khi nào có thời gian, và tôi tập lái bằng xe của anh. Anh rất kiên nhẫn với tôi. Sau một buổi học thêm chính thức ở trường lái xe, tôi sẵn sàng để xin giấy phép lái xe.

Lần đầu tiên, tôi rớt bài thi lái xe. Tôi đă vượt qua một chiếc xe tải đang ngừng ở một ngọn đèn xanh. Người coi thi cho rằng đèn thực ra đă chuyển sang đỏ, nhưng tôi không thể thấy v́ tôi quá thấp và chiếc xe tải đă cản tầm nh́n của tôi. Lần thi thứ hai, tôi cẩn thận hơn, và đă vượt được kỳ thi. Tôi thật hănh diện được có bằng lái xe ở Mỹ!
   
Nhưng dĩ nhiên là chúng tôi không đủ tiền mua xe cho chùa, v́ thế tôi vẫn c̣n phải luôn nhờ vả người khác. Trong những trường hợp khẩn cấp, tôi mượn xe của ṭa đại sứ Ceylon. Cho đến ngày nay, tôi rất ít lái xe, mặc dầu tôi biết lái, ít nhất là tôi nghĩ tôi biết!
   
Một ngày vào tháng năm, năm 1975, vị trưởng ban truyền giáo ở đại học American báo rằng, có người của State Department (cơ quan hành chính tiểu bang) đă gọi t́m tôi. Khi tôi gọi đáp lại, người ở đó hỏi tôi có muốn giúp một số người Việt Nam di tản vừa đến Mỹ.

Cơ quan này cần một nhà truyền giáo Phật giáo, để trông coi một trong những trại tị nạn, đă được thiết lập tại tiểu bang Florida. Tôi hoàn toàn không có kinh nghiệm làm việc với người di tản, mà cũng không nói được tiếng Việt hay tiếng Pháp, nhưng tôi đă đồng ư.
   
Sau đó tôi gọi cho một người bạn của tôi, John Garges, một trong những thành viên người Mỹ của chùa. John đă có kinh nghiệm làm việc với người di tản và anh nói được một ít tiếng Pháp. V́ thế anh t́nh nguyện đi theo tôi làm thông dịch, khi cần.
   
Hôm sau chúng tôi đến căn cứ không quân Andrews theo lời dặn. Chúng tôi phải điền một số giấy tờ, rồi một số viên chức phỏng vấn chúng tôi. Sau đó họ bảo chúng tôi đi chích ngừa, rồi hôm sau quay trở lại.
   
Chúng tôi vẫn chưa biết là nhiệm vụ này sẽ kéo dài bao lâu, ở nơi chốn nào. Tôi không biết ǵ để hỏi những điều như thế. Hôm sau đó, một chiếc phản lực trong căn cứ chuyển chúng tôi đến căn cứ không quân Eglin gần Pensacola, Florida. Chúng tôi là hai hành khách duy nhất.
   
Người ta dành cho chúng tôi một căn pḥng tiện nghi để ở, rồi giải thích rơ nhiệm vụ của tôi ở đây. Căn bản, là tôi ở đó để an ủi mười ngàn người Việt Nam di tản vừa bắt đầu đến. Người ta bảo tôi phải thăm viếng họ mỗi ngày, thực hiện các nghi lễ tôn giáo, và hỗ trợ họ với bất cứ những sự an ủi tâm linh nào mà họ cần đến.

Cũng có các tu sĩ Ky-tô giáo và Tin lành ở trại để giúp những người tị nạn vừa chuyển theo các đạo này. Buổi trưa đầu tiên, khoảng hai giờ sau khi chúng tôi đến trại, một chiếc phi cơ chở đầy người tị nạn đă đến. John và tôi ra đón họ.

Già trẻ, nam nữ, đủ cả. Đa số bước ra khỏi máy bay trong những bộ quần áo cũ rách, mang theo ít hành lư hoặc là không có ǵ cả. Họ có vẻ bị sốc, nhiều người đă khóc, nhất là trẻ em. Một số rơ ràng là bị bệnh hay bị thương; số khác có vẻ bị khủng hoảng tinh thần. Nhiều người đă phải xa ĺa người thân, cha mẹ, anh em, vợ chồng. Có người bám chặt vào tay của những người hoàn toàn xa lạ.

Khi nh́n thấy tôi trong bộ y vàng, nhiều người mỉm cười. Có người bật khóc và vái chào tôi không nghỉ. Mỗi ngày chúng tôi đều thấy hàng đoàn máy bay chở đầy người tị nạn, và mỗi ngày những h́nh ảnh đó lại tái diễn. H́nh ảnh thân quen của một nhà sư Phật giáo, dường như là cái phao của sự sống đối với nhiều người tị nạn, đă quá đau thương v́ chiến tranh, giờ lại đặt chân đến một xứ sở hoàn toàn xa lạ.
   
Sau hai tuần, John phải trở về với công việc của anh ở Washington, và một lần nữa, tôi lại đơn độc và không có xe. V́ thế tôi hỏi người chịu trách nhiệm ở Văn pḥng Tiểu Bang, xem có ai có thể chở tôi mỗi ngày từ chỗ trú ngụ đến trại tị nạn.

Sáng hôm sau một chiếc taxi của không lực đến đậu trước cửa pḥng, và người lái xe bước ra, đầy vẻ bối rối.
   
- Tôi đến để rước viên chức Bhante G.. Anh ta nói, trố mắt nh́n chiếc y vàng của tôi.
   
- Chính tôi. Tôi trả lời.
   
- Như thế th́ tôi không thể đưa ông đi được. Anh ta nói. Dân sự không thể ngồi trong xe này. Nó chỉ dành cho các viên chức.

Sau đó, tôi được giao một chiếc xe của Văn pḥng Tiểu bang và tự lái. Tôi cũng gặp vấn đề tương tự, khi lần đầu tiên vào ăn trưa ở trong câu lạc bộ sĩ quan. Là nhân viên của trại, tôi được vào ăn ở đó, dầu tôi không ở trong quân đội.

Nhưng “đồng phục” của tôi khiến nhiều người ḍm ngó. Tuy nhiên, dần dần người trong trại cũng bắt đầu nhận ra tôi và chiếc y của tôi. Công việc giúp người tị nạn của tôi rầt có kết quả. Tôi cảm thấy ḿnh đă mang đến cho họ những sự an ủi, mà họ cần ở một thời điểm rất khó khăn trong cuộc đời họ. Đó là phần dễ dàng của công việc.
   
Phần khó khăn là ḥa hợp với một số các vị truyền giáo khác ở trại. Một số coi đây là một cơ hội lư tưởng để kêu gọi người khác vào đạo của ḿnh: Ở đây có hàng ngàn linh hồn cần được cứu rỗi.
   
Các buổi lễ theo nghi thức tôn giáo được diễn ra trong một căn lều rộng, và các tôn giáo thay phiên nhau hành lễ ở đó. Khi hành lễ, tôi đặt tượng Đức Phật trên bàn thờ. Khi người Ky-tô giáo hay Tin lành hành lễ, th́ họ sẽ đặt thánh giá trên bàn thờ.
   
Căn lều để hành lễ ở cạnh bên một căn lều nhỏ hơn, là văn pḥng làm việc của tôi. Một ngày kia, trong lúc đang làm việc, tôi thấy khoảng ba mươi trẻ em bị lùa vào trong cái lều rộng đó. Đa số các em dưới mười tuổi.

Một trong những vị mục sư Tin lành, một người rất ganh tị, đi với chúng. Tôi nghe ông bắt đầu lên giọng đọc kinh rửa tội. Tôi vội vă qua đó, ngăn cản buổi lễ.
   
- Joseph, ông làm vậy là không đúng. Tôi nói. Tôi đă thấy ông đi khắp cả trại, thuyết phục cha mẹ chúng cho chúng vào đạo.

Cả ông ấy và tôi đều biết rằng phần lớn các em này rồi cũng theo đạo Ky-tô giáo thôi. Tất cả mọi tổ chức tôn giáo bảo trợ người tỵ nạn đều là Ky-tô giáo. Cuối cùng khi chúng rời trại đi định cư, chúng bắt buộc phải đi nhà thờ Ky-tô giáo thôi.

Nhưng ít nhất, điều đó cũng xảy ra sau này. Tôi nghĩ rằng việc bắt họ vào đạo, ngay cả trước khi họ rời trại là không đúng.
   
- Những người tỵ nạn này giống như người đang chết đuối. Tôi bảo với ông ta. Họ sẽ chấp nhận bất cứ điều ǵ ông bảo họ, v́ họ chỉ muốn ra khỏi trại tỵ nạn thôi. Ông có thấy tôi cố gắng thuyết phục người tỵ nạn Ky-tô giáo nào, cải đạo sang Phật giáo không?

Tôi rất bực ḿnh. Tôi đi ngay đến văn pḥng của State Department ở trong trại, và báo cáo lại sự việc. Tôi bảo với vị sĩ quan rằng những việc dụ dỗ cải đạo như thế, chỉ làm mang tiếng cho tất cả mọi hoạt động giúp đỡ người tỵ nạn.

Ngày hôm sau, trong tờ tin của trại tỵ nạn, có một bài báo đưa ra những luật lệ nghiêm cấm, không ai được kêu gọi người tỵ nạn cải đạo của họ. Cũng may là phần lớn các nhà truyền đạo khác rất tôn trọng nhau.

Một ngày kia, tôi trao đổi với hai thầy tu Ky-tô giáo, một người Việt Nam và một là Mỹ. Thầy tu người Mỹ đeo hai xâu chuỗi trên cổ, một với thánh giá và một với tượng Phật nhỏ. Ông nói rằng sáng đó hai xâu chuỗi dính vào nhau, ông khó ḷng gỡ chúng ra.

- Như vậy là không nên để thánh giá và tượng Phật gần nhau. Thầy tu người Việt Nam nói.
   
- Không, không phải vậy. Tôi nói. Đó là chúa Jesus và Đức Phật rất thương yêu nhau, đến nỗi ta không thể tách biệt họ.
   
Khi mới đến trại, tôi dự định dùng những quyển kinh tụng bằng tiếng Pali trong các nghi lễ Phật giáo. Tôi nghĩ rằng phần đông Phật tử Việt Nam rất quen thuộc với tiếng Pali. Rất tiếc, không phải thế.
   
Một ngày kia khi tôi đi ṿng quanh trại, một cậu bé chào tôi bằng những lời:

- Namo ayidafat.(Nam Mô A Di Đà Phật)
   
- Con nói ǵ? Tôi hỏi cậu bé.
   
Cậu ta lập lại:

- Namo ayidafat.
   
Tôi hỏi cậu câu đó nghĩa là ǵ.
   
- Con không biết. Cậu bé trả lời. Chỉ biết là khi gặp quư thầy, chúng con đều chào thế.
   
Khi cậu bé cho biết cha mẹ cậu có quyển sách với những lời như thế viết trong đó, tôi yêu cầu cậu dẫn tôi đến gặp họ. Khi tôi đến lều của họ, họ mời tôi ngồi. Tôi hỏi nếu tôi có thể mượn quyển sách kinh bằng tiếng Việt của họ? Họ rất hoan hỷ cho tôi mượn.

Tôi mang quyển sách đến pḥng in trong trại và nhờ làm hai ngàn bản copy. Trong ṿng một đôi ngày, tôi đă có được những quyển sách nhỏ, và các nghi lễ của chúng tôi bắt đầu được thực hiện bằng tiếng Việt Nam, thay v́ tiếng Pali.

Tôi yêu cầu một cư sĩ Việt Nam cao tuổi, hướng dẫn xướng tụng và tôi lần theo với tất cả sự cố gắng của ḿnh, v́ tôi không hề biết ngôn ngữ đó. Rồi tôi giảng Pháp bằng tiếng Anh, và vị cư sĩ đó dịch sang tiếng Việt. Tôi có thể thấy trên gương mặt rạng rỡ của những người tỵ nạn, là họ rất cảm kích việc làm này của chúng tôi.
   
Tôi cũng dạy các lớp tiếng Anh và đều rất vui cả cho tôi cũng như cho các em học sinh. Lớp của tôi dường như lúc nào cũng đông đúc. Một phần khác trong công việc của tôi là giúp t́m những người bảo trợ, các gia đ́nh hay cá nhân, bằng ḷng nhận một vài người tỵ nạn đến cộng đồng của họ, và giúp người tỵ nạn t́m nhà ở và công việc làm.

Tôi được ban quản lư trại giao cho một điện thoại, mà tôi có thể gọi những người có khả năng bảo trợ, bất cứ ở nơi nào trên đất Mỹ. Chúng tôi phải xác minh lư lịch của những người bảo trợ, nhưng đôi khi cũng có người với ư đồ xấu lọt qua được.

Một ngày kia, có ba người đàn ông đến trại và chọn ba cô gái khoảng tuổi mười bốn đến mười tám. Những người này nói rằng họ muốn bảo trợ các cô gái. Họ đă kư những giấy tờ cần thiết và dợm bước ra khỏi trại cùng với các cô gái.
   
Ngay khi vừa thấy như thế, tôi liền chặn họ lại.

- Những cô gái này không thể rời trại mà không có cha mẹ họ đi cùng. Tôi nói. Nếu họ không có cha mẹ ở đây, th́ họ phải được bảo trợ cùng với những người Việt Nam lớn tuổi khác, để chịu trách nhiệm cho họ.
   
Dĩ nhiên là tôi không thể chắc chắn, nhưng tôi nghĩ là có thể tôi đă cứu những cô gái này, khỏi cuộc đời của những cô gái bán thân hay tệ hơn thế nữa.

Một lần khác, có một phụ nữ sống gần trại, đă đồng ư bảo trợ một thanh niên Việt Nam, nhưng bà đă đem anh ta trả lại trại, nói rằng bà không muốn giữ anh lại. Bà chỉ mới bảo trợ anh được một tháng.
   
- Tôi tưởng anh ta là một con chiên ngoan. Bà ta nói, miệng trề xuống.

- Anh ta không phải là một người Ky-tô giáo sao? Tôi hỏi.

- Không, không phải như thế tí nào. Bà ta trả lời. Rơ ràng là rất thất vọng.
   
- Vậy anh ta theo đạo ǵ?
   
- Anh ta theo đạo Phật. Bà sẵn giọng. Tôi mới vừa khám phá ra.
   
- À, vậy th́ điều ǵ đă làm cho bà nghĩ anh ta là một con chiên của Chúa? Tôi hỏi.
   
- V́ anh ta có vẻ tử tế và lễ phép. Anh ta rất kiên nhẫn và luôn đối xử với tôi một cách kính trọng.
   
Tôi cũng thường gặp những sự đối xử phân biệt như thế. Thí dụ, không lâu sau khi tôi đến trại, một bài biên tập với những lời lẽ thô bạo, xuất hiện trên một tờ báo địa phương. Sao chính phủ Mỹ có thể dùng tiền thuế của dân để đem một kẻ ngoại đạo đến đây, ḥng giúp đỡ người tỵ nạn Việt Nam ở trại?

Nếu những kẻ tỵ nạn khốn khổ đó không trở thành con chiên của Chúa, người viết tuyên bố, vậy th́ hăy để họ xuống địa ngục. Đừng dùng tiền đóng thuế của chúng tôi để dạy cho họ một tôn giáo của satan (ma quỷ).
   
Phản ứng của tôi đối với những sự phân biệt đối xử này thường rất đơn giản: đáp lại bằng tâm từ, hay metta. Đó là một trong bốn ba la mật hay những t́nh cảm tối thượng đă được Đức Phật mô tả. Đó là một ước muốn trong sạch, không vụ lợi, v́ lợi ích cho người, một t́nh thương không bám víu hay mong đợi đáp trả, được thực hành một cách vô điều kiện.

Đó là một nguyên tắc căn bản tuyệt đối hỗ trợ cho tất cả mọi ư nghĩ, lời nói và hành động thiện. Ḷng từ bi phá vỡ mọi ngăn cách về tôn giáo, văn hóa, địa lư, ngôn ngữ, và quốc tịch. Nó là một định luật vũ trụ, truyền thống, đă nối kết tất cả chúng ta lại với nhau.

Chúng ta cần có tâm từ để sống và làm việc với nhau một cách ḥa hợp. Nhất là v́ những sự khác biệt của chúng ta, chúng ta c̣n cần tâm từ nhiều hơn nữa. Và khi chúng ta trải rộng t́nh cảm này đến người khác, tự nhiên nó cũng khiến cho cuộc sống của chúng ta hạnh phúc và an tịnh hơn.

Trong trại tỵ nạn đó, mỗi ngày tôi đều sử dụng năng lực của tâm từ. Người tỵ nạn cần nó để hàn gắn vết thương tâm lư, t́nh cảm của họ. Tôi cũng cần đến nó, để có thể giữ vũng tinh thần làm việc với họ trong những hoàn cảnh khó khăn này. Và những người chống đối công việc tôi đang làm, đúng ra, họ cũng cần đến nó nữa.
   
Một ngày kia có một đám cưới theo đạo Ky-tô giáo ở trại tỵ nạn, do hai vị tu sĩ Ky-tô giáo Việt Nam cử hành. Chẳng lâu sau đó, một đôi bạn trẻ khác đă t́m đến tôi và yêu cầu tôi thực hiện đám cưới theo nghi lễ Phật giáo cho họ.

Tôi bảo với họ rằng người tu sĩ Phật giáo không được phép làm lễ cho đám cưới, nhưng nếu họ có thể t́m một vị cao niên để thực hiện các nghi thức, th́ tôi sẽ làm lễ chúc phúc, cầu an cho họ. Thực ra, chúc phúc, cầu an cho đám cưới th́ cũng giống như cho những dịp khác, cũng là những lời mà vị tu sĩ sẽ tụng ở lễ tân gia, lễ mừng có em bé, sinh nhật hay bất cứ trường hợp đáng nhớ nào.

Lễ cầu an bao gồm Kinh Hạnh Phúc (Mangala Sutta) (Kinh Phước Báu, Blessing Sutta, liệt kê ba mươi tám loại phước báu); Kinh Ratana (Kinh Tam Bảo, liệt kê những đặc tính đáng ngưỡng mộ của Tam Bảo); Kinh Karaniyametta (Kinh Từ Bi, đề cao những đức tính của tâm từ bi).

Và Jayamangala Atthagatha (Bát Đại Thi về sự Chiến thắng vinh quang, phác họa lại những giai đoạn trong cuộc đời Đức Phật khi Ngài chiến thắng kẻ thù bẳng những đức tính như độ lượng, trí tuệ, kiên nhẫn, chân thật...)
   
Sau khi đọc xong các kinh này ở lễ cưới, vị tu sĩ sẽ vẩy nước lên đôi vợ chồng, và cột một sợi dây vàng chúc phúc quanh cổ tay của họ. V́ thế, khi các đôi vợ chồng người tỵ nạn nhờ tôi thực hiện các nghi lễ đám cưới cho họ, tôi biết là tôi có thể đảm nhận phần chúc phúc.

Những thứ rắc rối khác, tôi để cho bà Longacre, một phụ nữ t́nh nguyện thường đến làm việc trong trại. Bà vui vẻ lo áo cưới cho cô dâu, bộ veston cho chú rể, nhẫn, bánh và nước ngọt cho một buỗi lễ nhỏ. Đôi vợ chồng tưởng chỉ được có một buỗi lễ theo kiểu Mỹ, đă rất vui mừng v́ việc này.
   
Sau đó, dường như có cơn sốt đám cưới tràn khắp trại, và tôi là vị tu sĩ Phật giáo duy nhất ở đó. Nên có ngày tôi phải làm lễ cho đến ba đám cưới!
   
Gần như mỗi ngày, tôi đều gọi điện cho Washington để chắc chắn rằng mọi việc đều suôn sẻ ở chùa. Đại đức Piyananda nói chuyện với tôi, nhưng một cách miễn cưỡng. Ông trả lời ngắn ngủi và cộc lốc. Tôi đoán là ông giận v́ tôi đă đi Florida và để ông ở lại lo tất cả công việc trong chùa.

Nhưng ông chẳng bao giờ nói thẳng điều đó ra, ông chỉ nung nấu sự phiền hà trong im lặng. Một lần khi tôi gọi, cháu của tôi, Upali, trả lời điện thoại.
   
- Sư Piyanada thế nào? Tôi hỏi cháu.
   
- Sư đang chuẩn bị trở về Ceylon. Cháu trả lời.

- Cái ǵ? Cho Sư nói chuyện với ông ấy.
   
Đại đức Piyananda bắt điện thoại.

- Thưa Sư, có đúng thế không? Sư sắp trở lại Ceylon?
   
- Đúng vậy. Ông trả lời.
   
- Khi nào Sư đi?
   
- Ngày mai.
   
Tôi không thể tin được.
   
- Sư là vị tu sĩ duy nhất ở chùa. Tôi nói. Sư không thể đi. Sư có thể đợi đến khi tôi trở về không?
   
- Không. Ông gằn giọng trả lời. Tôi phải đi ngay bây giờ.
   
- Sao sư làm vậy? Tôi van nài. Tại sao sư để chùa không có người tu nào?
   
Ông không nói ǵ. Tôi cầm điện thoại, chờ đợi, nhưng chỉ có sự im lặng. Cuối cùng tôi gác máy. Sau đó tôi được biết rằng, có một vị sư người Sinhala, Đại đức Piyadassi, đang viếng thăm chùa ở Washington.

Tôi gọi Michael Roehm và nhờ anh gia hạn lời mời, để vị sư đó có thể ở lại lâu hơn là dự định, cho đến khi tôi trở lại. Tôi cũng gọi đến các trại tỵ nạn khác, và hỏi xem nếu có vị tu sĩ Phật giáo nào, trong những người tỵ nạn.

Ở trại Chaffee, tiểu bang Arkansas, có một vị tu sĩ người Việt Nam, đă gia nhập tăng đoàn khi lớn tuổi, sau khi đă có gia đ́nh và con cái. Thật may, vị này nói tiếng Anh khá giỏi. V́ thế tôi hỏi nếu ông muốn đến Washington, sống ở chùa. Ông ta bằng ḷng.
   
Sự dàn xếp chắp vá đó cũng tạm ổn cho đến ngày tôi trở lại chùa. Vào tháng tám, Văn Pḥng Tiểu Bang yêu cầu chúng tôi khẩn trương t́m người bảo trợ cho những người tỵ nạn c̣n lại. Họ muốn giải thể trại ở Eglin trước khi mùa mưa băo bắt đầu.
   
V́ thế cuối tháng tám, phần lớn mười ngàn người tỵ nạn đă được chuyển đi, hoặc đến nhà người bảo trợ, hay đến các trại tỵ nạn khác không nằm trong tâm băo.
   
Tôi đă xa chùa hơn bốn tháng. Và khi trở lại, bao rắc rối đang chờ tôi ở đó.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 

<< Trước Trang of 58 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.3091 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO