Tác giả |
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 681 of 1146: Đă gửi: 20 September 2010 lúc 12:30am | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM
Chương Hai Mươi Hai
Gặp Mẹ Lần Cuối
Một cuộc chiến tranh nhỏ đang âm ỉ ở chùa Phật giáo Washington. Ngay khi tôi vừa về đến nhà, một số thành viên trong ban chấp hành tấn công tôi:
- Sư đă bỏ rơi chùa. Họ nói. Chúng tôi mời Sư đến Mỹ để làm việc cho chúng tôi, nhưng giờ th́ Sư bỏ hết thời gian giúp mấy người Việt Nam đó. Chúng tôi không ưu tiên hơn họ sao?
- Tôi phụng sự Phật, Pháp và Tăng. Tôi trả lời. Là người tu sĩ, tôi phụng sự tất cả mọi chúng sanh, tôi không thể phân biệt người Sinhala hay người Việt Nam. Những người tỵ nạn đó đang đau khổ, nên tôi cần giúp đỡ họ.
Mặc dầu họ không than phiền nữa, tôi biết đó không phải là lần cuối cùng tôi phải nghe về những điều này. Tôi trở về chùa đầu tháng chín, vừa đúng lúc cho khóa mới tại đại học American. Tôi được một học bổng toàn phần để bắt đầu việc chuẩn bị cho bằng thạc sĩ, về lịch sử tôn giáo, thật là một món quà tuyệt vời!
Sau khi học được vài tháng, tôi nhận được thư em gái, báo tin mẹ của chúng tôi không được khỏe, bà không c̣n ăn được ǵ nữa. Kèm theo bên trong lá thư là một mảnh giấy do mẹ tôi viết. Chỉ một vài ḍng, nhưng ở cuối thư, bà bảo đă phải mất gần một tuần để viết. Bà đă quá yếu đến nỗi không thể viết một hay hai chữ cùng một lúc.
Cầm được viết cũng đă khó rồi. Nhưng bà quyết tự viết thư cho tôi. Có lẽ bà biết rằng đó là lá thư cuối cùng bà viết cho tôi. “Mẹ mong có thể được gặp con,” bà viết. “Anh nên trở về” em tôi viết trong thư. “Mẹ có thể không sống lâu hơn nữa”.
Đó là cuối mùa thu năm 1976. Tôi thông báo cho ban chấp hành của chùa rằng mẹ tôi có thể sẽ mất, và tôi cần về thăm gia đ́nh. Họ đồng ư mua vé cho tôi đi.
Vào tháng mười hai, tôi lên chiếc Pan Am 747 và hướng thẳng về nhà ở Tích Lan. (Năm 1972, chính phủ Ceylon chính thức đổi tên quốc gia này trở lại cái tên truyền thống hơn, Tích Lan, có nghĩa là phồn thịnh và đẹp đẽ trong tiếng Phạn). Tôi ngồi ở ghế cạnh cửa sổ, như tôi vẫn thường làm. Máy bay trước hết đến Honolulu, rồi Guam và Singapore.
Khoảng một tiếng đồng hồ sau khi chúng tôi rời Honolulu, tôi nh́n ra cửa sổ, thấy lửa bốc lên từ một trong những bộ máy. Tôi đă nghĩ đó có thể là do dầu cặn thải ra.
Nhưng không phải thế. Một vài giây sau, phi hành gia thông báo rằng chúng tôi phải trở lại Hawaii v́ một trong những bộ máy bị cháy. Rồi các tiếp viên hàng không hướng dẫn chúng tôi cách thoát ra khỏi máy bay sau khi đáp xuống.
Cầu thang thoát hiểm được bung ra, v́ thế chúng tôi có thể ra khỏi máy bay nhanh chóng. Rơ ràng là mọi người đều lo lắng rằng một vụ nổ có thể xảy ra. Họ cho những người có con nhỏ ra trước. Kế đến là phụ nữ có thai và người già, sau cùng là những hành khách c̣n lại. Họ bảo hăy để tất cả hành lư trên máy bay.
Tôi để ư thấy một vài hành khách làm dấu thánh giá trên ngực. Người khác th́ khóc lóc hay cắn móng tay, hay thầm th́ với người kế bên. Tôi nh́n thấy một vài cuốn kinh thánh được mở ra trên đùi.
“Ôi. Tôi nghĩ, tôi đă làm tất cả những ǵ có thể trong cuộc đời. Tôi đă giảng pháp cho nhiều người, và tôi đă được công đức. Tôi đang trên đường đi gặp mẹ tôi. Dầu có chết bây giờ, tôi cũng sẽ được một sự tái sinh tốt đẹp.”
Tôi thật sự không cảm thấy sợ hăi. Tôi nghĩ rằng nếu máy bay có rớt xuống, th́ dầu ǵ tất cả chúng tôi sẽ đều bất tỉnh trước khi chạm mặt đất. Chết như thế cũng chắng phải ghê gớm ǵ.
Rồi tự động tôi bắt đầu nghĩ về những lời Phật dạy về sợ hăi. Sợ hăi, ngài nói, phát sinh từ sự bám víu vào năm uẩn, thân, thọ, tưởng, hành và thức. Chúng ta bám víu vào những thứ này mà ta coi như là "cái tôi". Chúng ta không muốn đánh mất "cái ngă" này, v́ thế chúng ta trở nên sợ hăi khi nó bị đe dọa dưới bất cứ h́nh thức nào.
“Phiền năo phát sinh từ ái dục,” một đoạn trong kinh Pháp Cú đă nói thế. “Sợ hăi phát sinh từ ái dục. Sẽ không c̣n có phiền năo hay sợ hăi đối với người không c̣n ái dục”.
Khi máy bay chúi đầu xuống từ trên không, tôi biết nếu tôi có thể quán tưởng đến Tam Bảo, tôi sẽ được b́nh an. Tâm đầy uế nhiễm bị sợ hăi, lo âu, căng thẳng và bức xúc chế ngự. Nhưng tâm đầy những ư tưởng hướng về Phật, Pháp và Tăng th́ tràn đầy thanh tịnh.
Tới Honolulu, máy bay hạ xuống sốc giật mạnh. Đă có những chiếc xe cứu hỏa đậu sẵn trên đường băng và ngay khi chúng tôi vừa chạm mặt đất, những chiếc xe này bắt đầu thổi khói quanh máy bay. Mọi người nhảy lên, chạy đến cửa thoát hiểm. Chúng tôi không biết máy bay sẽ phát hỏa bất cứ phút giây nào.
Tôi nghĩ có lẽ tôi là người duy nhất trên cả chuyến bay này là chưa bao giờ trượt cầu tuột lúc c̣n bé. Ôi thật kỳ cục, dĩ nhiên, với chiếc y phùng lên quanh tôi, nhưng tôi phải nhận rằng nó cũng vui một chút! Khi xuống đến mặt đất, tôi nhảy ra và chạy thật nhanh. Đêm đó chúng tôi ở lại khách sạn Hawaii sang trọng, do Pan Am đài thọ.
Ngày hôm sau, tôi tiếp tục đến Singapore. Khi đáp xuống đó, tôi ngạc nhiên khi gặp một số người từ chùa Phật giáo Tích Lan, một chùa Sinhala. Họ mời tôi ở lại chùa họ một tháng. Tôi bảo với họ, tôi đang đi thăm mẹ bịnh, nhưng tôi có thể gửi điện báo cho em tôi để hỏi t́nh trạng mẹ tôi như thế nào, có thể tôi không cần phải về gấp rút như thế.
Ngày hôm sau, em tôi nhắn tin trở lại. Cô ấy cho biết mẹ chúng tôi cũng không yếu lắm ngay bây giờ, nên tôi ở lại Singapore một tuần. Rồi tôi đi Malaysia, ở đó một tuần nữa. Thời gian rộng răi đó thật tốt, v́ nó cho phép tôi sắp đặt, để mang lại một ngạc nhiên thú vị cho mẹ.
Một vài người bạn ở Malaysia đă cúng dường một máy chiếu phim slide, và tôi cũng kiếm được một radio FM với một microphone không dây. Tôi có khoảng năm trăm ảnh slide màu của những nơi tôi đă thăm viếng khắp trên thế giới. Có chùa chiền, nhà chọc trời, khung cảnh thiên nhiên, thú vật và các lễ hội. Tôi muốn cho mẹ thấy những nơi tôi đă từng có mặt suốt những năm qua, khi tôi không ở với gia đ́nh.
Khi đến Tích Lan, chúng tôi đă có buổi chiếu slide ở nhà chị tôi. V́ không có điện ở đó, chúng tôi phải mượn dây nối từ nhà hàng xóm. Mẹ tôi ngồi, hoàn toàn bị thu hút khi bà xem những tấm ảnh slide và lắng nghe những lời giới thiệu của tôi. Mắt bà sáng lên.
Chúng tôi bắt đầu buổi chiếu lúc mười giờ tối và kéo dài cho đến hai giờ sáng, nhưng mẹ tôi h́nh như không biết mệt. Khi buổi chiếu đă kết thúc, bà hỏi c̣n thêm slide nào nữa không. Đó là lần cuối chúng tôi vui vẻ bên nhau.
Ngày hôm sau tôi gọi bác sĩ của mẹ để hỏi về t́nh trạng sức khỏe của bà. Ông bảo rằng trái tim mẹ tôi đă yếu. Bà đă tám mươi sáu tuổi, bà có thể ra đi bất cứ lúc nào. Rằng tôi nên cho bà vào nhà dưỡng lăo, nơi bà có thể được chăm sóc một cách chu đáo.
V́ thế chị tôi, cháu tôi và tôi quyết định chuyển bà vào một nhà dưỡng lăo ở Kandy. Rồi tôi chào từ giă mẹ, đi Colombo. Khi tôi ra đi, họ cũng trên đường chuyển mẹ tôi đến nhà dưỡng lăo. Ngày hôm sau, tôi nhận được điện thoại của cháu tôi. Nó khóc.
Nhà dưỡng lăo quyết định trả mẹ tôi về, sau khi đă tiếp nhận bà vào được một đêm. Không nói lư do; có thể họ nghĩ rằng nếu bà mất ngay sau khi đến đó sẽ là điều không tốt cho việc kinh doanh của họ. Lúc đó, t́nh trạng sức khỏe của mẹ tôi đă tồi tệ hơn, có lẽ v́ phải di chuyển đường xa để đến được nhà dưỡng lăo.
Chị và cháu tôi biết rằng phải đưa mẹ đi bệnh viện, nên họ quay trở lại nhà dưỡng lăo đón bà, ở đó không có xe cứu thương. Bà nhất quyết muốn ngồi thay v́ nằm xuống ở băng sau. Họ kể rằng bà đă rên đau suốt chuyến đi. Khi đến được bệnh viện, bà đă im lặng. Bà đă ra đi trong dáng ngồi thẳng, ở băng ghế sau xe.
Tôi nhớ về những lần mẹ băng bó vết thương cho tôi ngày tôi c̣n bé, làm sao mà bà luôn biết chính xác phải làm ǵ để tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Tôi nhớ lại cảm giác được mẹ ôm vào ḷng như thế nào. Tôi nghĩ đến lá thư cuối cùng mẹ đă viết cho tôi, chỉ vài ḍng, một cách khó khăn. Tôi cảm thấy buồn v́ bà đă ra đi trong đau đớn và hối hận rằng tôi không có mặt ở đó bên bà.
Đức Phật đă nói:
- Phải xa cách người ḿnh yêu thương là đau khổ.
Mặc dầu tôi đă trải qua nhiều năm giảng Pháp về đau khổ và phiền năo, đă hành bao nghi lễ ở đám táng và an ủi người ta sau sự ra đi của người thân, tôi không nghĩ tôi hoàn toàn hiểu những lời dạy của Phật, cho đến khi tôi kinh nghiệm sự ra đi của mẹ tôi.
Khi mẹ mất, nỗi đau khổ của tôi quá sâu đậm, đến nỗi tôi cảm thấy trái tim tôi như đă bị châm chích, bởi những mũi thuốc đắng cay, nhức nhối.
Với công phu tu hành của tôi cho đến thời điểm đó, tôi luôn cố gắng để làm vừa ḷng mẹ. Tôi muốn cho bà, hơn tất cả bất cứ người nào trên thế giới, được sung sướng. Mẹ tôi đă rất hạnh phúc v́ tôi xuất gia và tôi đi hoằng pháp khắp cả thế giới.
V́ thế mỗi lần làm được điều ǵ mới, hay điều ǵ tốt, tôi đều viết cho mẹ biết. Không phải để khoe khoang, nhưng tôi biết rằng chúng sẽ mang lại cho mẹ tôi bao hạnh phúc. Giờ bà đă ra đi, tôi c̣n cố gắng làm vui cho ai?
Tôi cảm thấy rằng sự đau khổ đó thực sự làm bấn loạn tâm tôi. Sự bám víu của tôi đối với mẹ là một kết sử lớn nhất của tôi. Khi mất mẹ, trong chốc lát tôi đă quên hết những lời Phật dạy về cái chết và vô thường. Tôi chỉ hoàn toàn bị ch́m đắm trong khổ đau.
Cả hai người anh lớn của tôi đều đă ra đi, việc tang ma cho mẹ, tôi phải gánh vác v́ là người con trai duy nhất c̣n sống. Các chị em tôi quyết định hỏa táng mẹ. Buổi lễ đơn giản, với các vị sư tụng kinh bên cạnh giàn hỏa thiêu của mẹ ở nghĩa trang. Cũng giống như tôi đă làm ở đám tang cha, tôi cũng nói vài lời để cảm ơn tất cả mọi người đă đến.
Chỉ là lần này, điều đó khó làm hơn. Rất khó hơn. Cho đến ngày nay, tôi vẫn c̣n cảm thấy rất trân quư những kỷ niệm về mẹ. Vào năm 1979 hay 1980, tôi có buổi nói chuyện ở một hội nghị về các tôn giáo ở Dallas, Texas. V́ thời gian đó gần lễ Thanksgiving, người ta yêu cầu tôi nói về ḷng biết ơn. V́ thế, tôi quyết định nói về mẹ tôi.
Nhưng khi tôi đứng ở bục giảng, cố gắng để nói những lời đầu tiên của bài diễn văn, bỗng nhiên tôi bắt đầu khóc. Thật là xấu hổ. Tôi tức tưởi khóc đến nỗi không thể nói được điều ǵ. Thính giả chỉ ngồi đó nh́n tôi. Phải rất lâu sau, tôi mới lấy lại được b́nh tĩnh.
Tất cả những ǵ tôi muốn nói với họ là tôi sẽ không bao giờ quên mẹ tôi, và tôi rất mang ơn t́nh thương vô giới hạn của bà. Lạ lùng thay, khi đứng đó khóc trước một khán pḥng đầy người, tôi lại bắt đầu hiểu một trong những lời Phật dạy về cái chết và sự khổ đau.
Ngài đă nói rằng nước mắt mà chúng ta đă đổ xuống, v́ sự mất mát những bà mẹ trên thế gian, trong luân hồi, những nước mắt ấy c̣n nhiều hơn nước ở tất cả đại dương.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 682 of 1146: Đă gửi: 21 September 2010 lúc 2:17am | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM
Chương Hai Mươi Ba
Ông Có Phải Là Ngài Gunaratana?
Sau đám tang mẹ, tôi ở lại Tích Lan khoảng một tháng. Bảy ngày sau ngày Mẹ mất, theo truyền thống chúng tôi tổ chức một nghi lễ cầu siêu cho bà. Một số vị sư đến nhà chúng tôi để tụng niệm cho mẹ tôi, rồi thọ trai do chúng tôi cúng dường hồi hướng cho mẹ. Đêm trước đó, th́ có một vị sư đến nhà, thuyếp pháp chỉ riêng cho chúng tôi.
Sau đó tôi bỏ ra khoảng vài tuần thăm viếng bạn bè và các chùa nơi tôi đă từng sống trước đây. Trên đường trở lại Mỹ, tôi đă có thêm khá nhiều con dấu đóng trên hộ chiếu của ḿnh. Tôi dừng chân ở Ấn Độ, Nepal, Liên bang Xô Viết, Hy Lạp, Ư, Pháp, Đức, Bỉ, và Anh.
Trong tất cả các quốc gia này, Nga có lẽ là nơi thú vị nhất. Đó là chuyến viếng thăm Nga đầu tiên của tôi. Ở phi trường Moscow, Stanley Liyanapatirana, một người Sinhala làm việc ở ṭa đại sứ Tích Lan đón tôi. Ông là người đă giúp tôi lấy visa để vào Liên Bang Xô Viết.
Hôm sau tôi đến pḥng du lịch trong khách sạn, hỏi thăm cách lấy tour đến Leningrad. Người phụ nữ ngồi sau bàn giấy yêu cầu tôi để lại hộ chiếu và bảo tôi hôm sau trở lại. Hôm sau khi tôi trở lại như đă hẹn, cô trả hộ chiếu cho tôi, rồi bảo tôi đón taxi nào đó bên ngoài khách sạn. Cô đưa cho tôi một số xe taxi.
Tôi t́m được chiếc taxi, nhưng không có bác tài xế nào ở đó. V́ thế tôi leo lên ngồi vào băng sau, nghĩ rằng tôi sẽ đợi bác tài đến. Bỗng nhiên một người đàn ông to lớn, đến mở mạnh cửa xe. Trước khi tôi có thể nói ǵ, ông đă chồm vào băng sau, tóm lấy sợi dây đeo máy chụp h́nh của tôi. Không kịp suy nghĩ ǵ, chỉ phản ứng theo bản năng, tôi giựt cái dây lại và giữ chặt nó.
- Không! Không! Tôi la lên.
Anh ta không nói ǵ, chỉ tiếp tục dằn lấy túi xách của tôi. Anh ta to lớn hơn tôi nhiều và tôi biết trước sau ǵ anh ta cũng thắng, nếu tôi không làm một điều ǵ đó. Vẫn không thả chiếc túi đựng máy ảnh ra, tôi giơ cùi chỏ lên, dùng hết sức lực tống thẳng vào mũi anh ta. Tôi nghĩ là mục tiêu của tôi rất chính xác, anh ta la oái, buông tay, chạy đi.
Vâng, rơ ràng là tôi đă phạm một trong 227 giới luật của người tu sĩ ngày hôm đó. Một tu sĩ không bao giờ được dùng vũ lực trong bất cứ trường hợp nào, dầu là để tự vệ. Lư ra tôi phải buông tay để cho anh ta lấy chiếc máy ảnh, nhưng tôi quá bám víu vào nó, khiến tôi hành động không chánh niệm.
Có phim ở trong máy, những bức ảnh tôi đă chụp khắp châu Âu. Tôi chỉ muốn cho bạn bè xem chúng, và đó là tất cả những ǵ tôi nghĩ đến khi tôi phản ứng một cách bản năng. Và như tất cả chúng ta đều biết, khi bản năng làm chủ, chánh niệm bị đẩy lùi.
Khi tôi đang hoàn hồn từ việc vừa xảy ra, bác tài xế taxi xuất hiện.
- Ông là ngài Gunaratana? Anh ta hỏi.
- Vâng. Tôi trả lời.
Anh ta bước lên xe, không nói thêm một lời nào nữa, chở tôi ra ga. Ngay khi tôi vừa ra khỏi taxi ở ga xe lửa, một người đàn ông xuất hiện trên vỉa hè, đến cạnh tôi.
- Ông là ngài Gunaratana?. Ông ta hỏi.
- Vâng. Tôi trả lời.
- Xin vui ḷng đi theo tôi.
Ông ta đưa tôi đến cửa xe lửa, chào lễ phép rồi biến mất.
- Ông là ngài Gunaratana? Người soát vé tàu hỏi.
- Vâng.
- Xin vui ḷng theo tôi.
Anh ta dẫn tôi đến một toa xe có giường nằm. Dĩ nhiên, việc bị chuyền tay từ người này đến người khác, mà tất cả đều không mỉm cười, là điều khá buồn cười, nhưng tôi đủ biết trong chiến tranh lạnh, thời kỳ Liên Bang Xô Viết, tốt hơn là không nên khôi hài về chuyện đó.
Sáng hôm sau, chúng tôi đến Leningrad. Khi tôi vừa ra khỏi toa xe, một phụ nữ trẻ đang đợi.
- Ông là ngài Gunaratana?
- Vâng.
- Xin vui ḷng theo tôi.
Cô giúp tôi xuống tàu và đưa tôi đến một tiệm ăn gần đó. Cô đưa tôi đến một bàn ăn đặc biệt, kéo ghế mời tôi ngồi. Khi người bồi bàn đến, anh ta cũng hỏi:
- Ông là ngài Gunaratana?
- Vâng.
Anh ta mang đến cho tôi bữa điểm tâm gồm có hai cái trứng, bánh ḿ nướng, bơ, mứt và trà. Tôi ăn một ḿnh và khi tôi dùng xong bữa, lại một người đàn ông khác đến cạnh bàn tôi.
- Ông là ngài Gunaratana?
- Vâng.
- Xin đi theo tôi.
Người đàn ông đó dẫn tôi đến một chiếc xe buưt chở tour đang chờ bên ngoài tiệm ăn. Tôi lên xe và người lái xe buưt hỏi:
- Ông là ngài Gunaratana?
- Vâng.
Và thế là cuối cùng tôi được tham dự tour đi Leningrad. Sau khi trở về chùa ở Washington mùa xuân năm 1977, tôi lại theo học các lớp ở trường đại học American. Tôi đang học năm thứ hai chương tŕnh Thạc sĩ.
Tiến sĩ Rodier, cố vấn của tôi trong nhiều năm, đă nói rơ rằng ông muốn tôi tiếp tục học đến tiến sĩ về Triết học. Tôi cảm thấy rất phấn khởi và tự hào. V́ thế tôi nộp đơn xin một học bổng khác nữa và được chấp nhận ngay.
Con đường học hành vá víu của tôi, bắt đầu từ nhiều năm trước ở một làng vùng quê Henepola, đă mang tôi lên đến những tŕnh độ học vấn cao nhất, trong hệ thống giáo dục của Mỹ. Tôi thật khó ḷng tin điều đó.
Trong lúc đó, chùa chúng tôi cũng phát triển lên. Gần mười năm kể từ lúc tôi đến đó, con số hội viên đă nhân lên hàng trăm lần. Những buổi lễ cầu nguyện và những lớp học thiền rất nổi tiếng, đều có cả hai: người Mỹ và người Sinhala tham dự. Tôi được yêu cầu dạy một lớp thiền mỗi tuần hai lần, cho nhân viên Ngân hàng Thế giới (World Bank).
Tôi cũng bắt đầu nhận được ngày càng nhiều những lời mời đến dạy các khóa an cư tu thiền khắp nước Mỹ. Đó là vào cuối những năm 1970, khi các trung tâm dạy thiền bắt đầu mọc lên ở khắp nơi. Một nơi, ở New Mexico, đă mời tôi đến lần đầu tiên vào năm 1976. Tôi chưa bao giờ đến đó và cũng không biết những người tổ chức, nhưng tôi chấp nhận lời mời của họ.
Nơi đó thật tuyệt đẹp, cao trên núi. Người ta dành cho tôi một cabin nhỏ, riêng biệt để ở, mà phải leo dốc mới lên tới; và hơi xa những ṭa nhà khác. Dường như để tôi được tha hồ ngắm vẻ đẹp của một hồ nước cạnh bên, nhà vệ sinh của cabin tôi nằm ở phía ngoài, và không có ǵ ngăn che. Tôi hơi do dự trước sự sắp đặt này, nhưng v́ cabin của tôi khá tách biệt, tôi đă nghĩ chắc sẽ không có vấn đề ǵ.
Sáng hôm sau, trong lúc đang trả lời tiếng gọi của thiên nhiên, tôi bị sốc khi thấy ba phụ nữ trẻ bỗng nhiên xuất hiện để xuống hồ tắm. Họ ở cách tôi khoảng chừng mười lăm thước, ngay trong tầm nh́n của tôi. Tuy nhiên, h́nh như họ không thấy tôi.
Họ cởi bỏ y phục một cách tự nhiên, rồi đứng trên một ḥn đá để sưởi ấm trước khi nhảy vào hồ. Tôi thật xấu hổ, kinh hoàng. Tôi đă là một tu sĩ độc thân từ năm mười hai tuổi và chưa từng bao giờ thấy một phụ nữ khỏa thân trong đời! Ngay sau khi đi toilet xong, tôi vội vă t́m vị quản lư của trung tâm.
- Thật không thích hợp chút nào. Tôi nói. Tôi cần phải dời khỏi cabin đó ngay lập tức.
Ông ta xin lỗi rối rít. Tôi được dời đến một cabin khác, có nhà tắm riêng biệt. Năm sau, khi tôi lại về trung tâm đó để hướng dẫn một khóa tu thiền mười ngày khác. Cabin tôi ở có pḥng tắm ở bên ngoài. Trên mái có những ống dẫn màu đen cuộn tṛn, dùng ánh nắng mặt trời làm nhiệt và một tấm màn treo ở lối vào.
Ngượng ngùng v́ sự kiện nhà vệ sinh năm trước, người quản lư lần này đă biết cẩn thận để giữ cho tôi được kín đáo. Ông ta hỏi mỗi ngày tôi đi tắm lúc mấy giờ và ông treo một tấm giấy trên tường pḥng tắm, nói rằng:
- Bhante G. tắm vào buổi trưa. Xin vui ḷng không làm phiền.
Ngày hôm sau, tôi đang ở trong pḥng tắm lúc mười hai giờ, bỗng nhiên một phụ nữ trẻ bước vào, trên người không mảnh vải. Cô ta nói rằng cô muốn hỏi tôi một câu về Pháp. Tôi giận điên lên. Tôi la lên:
- Cô có thể hỏi lúc tôi giảng Pháp tối nay! Không phải ở đây!
Cô ta dội ngược ra, mặt đỏ bừng. Tôi hy vọng đó là lần cuối cùng tôi phải đối phó với các cô gái trẻ khỏa thân. Nhưng đó là thời kỳ của t́nh yêu cho không. Năm sau nữa, khi tôi trở lại trung tâm, viên quản lư tội nghiệp đă dành cho tôi một chiếc cabin riêng biệt nhất trong khuôn viên.
Từ khu trung tâm phải đi mất vài phút mới đến được. Sẽ không c̣n ai làm phiền sư ở đó, ông ta trấn an tôi. Mấy đêm sau đó, khi tôi trở về cabin lúc mười giờ đêm, sau thời khóa tu thiền cuối cùng của buổi tối. Trước mắt tôi trong khu rừng tối tăm, tôi có thể thấy ánh sáng chiếu rọi từ cửa sổ pḥng cabin của tôi.
- Thật tử tế. Tôi nghĩ. Chắc là nhân viên nào đó đă đốt đèn để tôi không phải về nhà trong bóng tối.
Khi bước vào bên trong cabin, tôi đă gặp người đốt đèn. Một phụ nữ đang nằm trong giường của tôi. Cô ta rất trẻ, rất đẹp và rất trần truồng.
- Ra ngay! Tôi lắp bắp.
Cô ta không nói một lời nào, chỉ nằm đó mỉm cười. Rơ ràng cô nghĩ rằng tôi đang đùa.
- Tôi không đùa. Tôi nói. Nếu cô không đi ra ngay lập tức, tôi sẽ đi gọi người quản lư.
Tôi quay lưng chuẩn bị bước đi. Tôi nghĩ lúc đó cô nhận ra rằng: Tôi không phải là một trong “những” loại guru (thầy) đó. Cô ta nhảy ra, khóc và túm lấy quần áo chạy ra khỏi cửa. Trong mỗi trường hợp trên, bạn có thể nghĩ rằng tôi hoàn toàn bị chế ngự bởi ḷng ham muốn, hay ít nhất cũng cảm thấy một chút t́nh dục bị khơi đọng.
Nhưng tôi có thể chân thành nói rằng, tôi rất ngượng ngùng và rất giận dữ; và hai cảm giác này hoàn toàn chế ngự tâm tôi. Đối với tôi, bất cứ người nào cố gắng quyến rũ tôi, là đă không tôn trọng tôi với tư cách là người tu và là người thầy.
Đó là cái tát vào truyền thống 2500 năm và một sự sỉ nhục lớn đối với những lời dạy của Đức Phật. Có thể nghe khó tin, nhưng tôi không cảm thấy lời nguyện sống độc thân của ḿnh là khó giữ. Là người tu sĩ, đó là sự lựa chọn của tôi để sống như thế. Đó là cách sống của tôi từ khi c̣n là một cậu bé trai. V́ thế tôi sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện sửa đổi nó.
Năm 1980, tôi đạt được học vị tiến sĩ về Triết học. Vào ngày ra trường, tôi rất ngạc nhiên thấy khoảng hai mươi người bạn Sinhala ở trong đám khán giả.
- Bhante. Một người trong họ nói. Làm sao sư t́m ra được thời gian để lấy bằng tiến sĩ?
Tôi cười v́ câu hỏi ấy của anh thật đúng. Khi người ta viếng chùa, họ thường thấy tôi cắt cỏ, thuyết pháp hay là sửa chữa nhà cửa. Tôi làm việc suốt ngày. Nhưng tôi c̣n một công việc khác nữa, và lúc nào cũng thế, là được làm người sinh viên.
Tôi không bao giờ nghĩ người ta có thể hoàn tất sự học của ḿnh, chỉ v́ họ đă được những học vị. Tôi nghĩ rằng sự học của chúng ta vẫn c̣n tiếp tục và tiếp tục măi, nếu chúng ta để ư đến điều đó. Tất cả chúng ta đều là những người tu học, cho đến khi ta đạt được giác ngộ.
Thật ra, khi so sánh với những cấp bậc cao siêu trong các chứng ngộ tâm linh, mà Đức Phật đă diễn tả th́ chúng ta, những học giả thế tục không xứng đáng để được gọi là học giả. Đúng ra, chúng ta c̣n đang ở tŕnh độ mẫu giáo.
Một học giả thực sự, theo Đức Phật, là người đă đạt được đến ngưỡng cửa quả Dự Lưu. Cái ǵ là ḍng chảy? Bất cứ ai đă t́m hiểu chút ít về Phật giáo, đều biết về Bát chánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mệnh, chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định.
Bát chánh đạo là nền tảng cho việc tu tập theo con đường tâm linh của Đức Phật, những điều mà mỗi chúng ta đều có thể thực hành mỗi ngày. Nhưng đó chỉ là sự bắt đầu, v́ không kể là chúng ta đă thực tập tinh tấn thế nào, để hoàn thiện các loại thiện xảo này, chúng ta vẫn c̣n tâm nghi ngờ.
Chúng ta có thể thực hành tâm rộng lượng, ḷng từ bi, và ḷng chân thật. Chúng ta có thể nói nhỏ nhẹ và dịu dàng. Chúng ta có thể chánh niệm và chánh định. Nhưng tất cả đều chịu ảnh hưởng của vô thường, tâm nghi hoặc có thể len lỏi vào khi chúng ta đang bị căng thẳng, hay vào bất cứ lúc nào khác.
Một cấp bậc cao hơn của việc thực tập được gọi là Bát chánh đạo siêu việt. Đây là ḍng chảy được nhắc đến trong câu nói về quả Dự lưu. Đó là cấp bậc nơi mọi nghi ngờ đều được rũ sạch, nơi hành giả biết chắc chắn về chân lư của Tam Bảo.
Ở thời điểm của quả Dự lưu, hành giả bắt đầu chuyển động dọc theo một con đường, đưa họ lên một cấp bậc chứng ngộ cao hơn, và cao hơn nữa. Khi hành giả cuối cùng buông bỏ được niềm tin vào một cái ngă thường hằng, là họ đạt được quả Dự lưu.
Bạn có thể nói rằng họ đă vượt qua được kỳ thi vào Bát chánh đạo siêu việt. Họ sẽ, hoặc là đạt được giác ngộ trong kiếp này, hay họ sẽ tái sinh không hơn bảy lần, trên thế giới này hoặc là ở cơi trời.
Sau khi tâm nghi ngờ đă được buông bỏ, các kiết sử khác cần được buông bỏ tiếp theo là ḷng sân hận và sự bám víu vào các dục lạc, nói một cách khác, là sân và tham. Sau khi hành giả đă chiến thắng được những uế nhiễm này, họ sẽ được gọi là Nhất lai, là người sẽ tái sinh chỉ một lần nữa.
Khi chướng ngại thứ hai đă được buông bỏ, người ấy sẽ trở thành một vị bất hoàn. Ngay như thế, ở giai đoạn chứng ngộ tột cùng này, vẫn c̣n năm kiết sử khác cần được chế ngự. Đó là ḷng ước muốn được hiện hữu trong sắc giới, ḷng ước muốn được hiện hữu trong cơi vô sắc giới, mạn, trạo cử và vô minh.
Vị Bất hoàn đă đạt đến một tầng cao trong Bát chánh đạo siêu việt, nhưng vẫn chưa hoàn toàn đạt được tiến sĩ tâm linh, sự thành tựu rốt ráo. Sự chứng ngộ xảy ra khi năm kiết sử cuối cùng bị tan ră.
Vào thời điểm đó, hành giả cuối cùng đạt được quả của con đường đạo: trở thành một vị A la hán, một chúng sinh hoàn toàn giác ngộ. Lúc đó và chỉ lúc đó th́ sự học hỏi mới được coi là viên măn.
Sau khi vừa đạt được bằng tiền sĩ thế tục, tôi càng được nhiều nơi yêu cầu đến giảng dạy. Một vài đại học mời tôi vào ban giảng huấn: như Georgetown, Maryland, American, và Bucknell. Tôi không nhận lời bất cứ nơi nào, v́ trách nhiệm đầu tiên của tôi là với chùa, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn dạy những lớp về Phật giáo, ở phần lớn các đại học này trong mười năm như thế.
Bắt đầu từ cuối những năm 1970, một số sư người Sinhala đến sống ở chùa Washington và ngôi nhà lớn trên đường số Mười Sáu trở thành một nơi rộn rịp, ồn ào. Lúc đó th́ chúng tôi đă có gần ba ngàn thành viên bao gồm những người Mỹ và Á châu như: Sinhala, Thái, Burma, Campuchia, Lào, và đôi khi người Đại Hàn nữa.
Những lớp học hàng tuần và các khóa lễ đều đầy, và Phật tử mỗi ngày ghé vào chùa bất cứ lúc nào để thiền hay viếng chùa. Chuông điện thoại luôn reo không ngừng.
Vào khoảng thời gian đó, có một thanh niên trẻ nhiệt t́nh tên Matthew Flickstein, bắt đầu đến chùa thường xuyên. Anh ta là một nhà tư vấn tâm lư ở Maryland, có một vợ và hai con. Anh cũng rất nghiêm chỉnh trong vấn đề học thiền. Anh thường hỏi tôi rất nhiều câu hỏi.
Nhưng v́ công việc ở chùa ngập đầu nên tôi khó dành được thời gian trọn vẹn, không bị quấy rầy để giúp Matt. V́ thế Matt bắt đầu chở tôi đến các nhà nghỉ, như một cách để chúng tôi có được những thời gian như thế. Anh thường mướn một pḥng để chúng tôi có thể ở đó vài giờ, tọa thiền và trao đổi về các kinh nghiệm hành thiền. Chúng tôi bắt đầu với phương pháp anapanasati, hay quán niệm hơi thở.
Mỗi lần chúng tôi thở vào hay thở ra, tôi bảo với Matt, chúng ta có thể kinh nghiệm được sự vô thường. Trước hết, chúng ta bắt đầu cảm nhận nhu cầu thở vào. Một sự căng thẳng nhẹ nhàng trong lồng ngực tăng lên dần khi lượng oxy được đẩy ra sâu hơn và sâu hơn nữa cho đến khi chúng ta bắt buộc phải thở vào.
Rồi giữ hơi thở lại. Nhưng không duy tŕ được lâu. V́ không lâu sau sự khó chịu gây ra do lồng ngực căng đầy sẽ khiến chúng ta phải thở ra. Ngay trong một chu kỳ của hơi thở vào ra, đă bao trùm cả khổ đau và hạnh phúc. Chúng ta hoàn toàn không thể làm chủ nó.
Nhận ra được sự chuyển đổi không ngừng này là tấm vé đưa ta đến giải thoát. Chúng ta sẵn sàng để chấp nhận hạnh phúc hay đau khổ, bất cứ điều ǵ phát sinh. Khi hạnh phúc thay đổi, không thể tránh khỏi, ta không bị sốc v́ ta biết rằng đó là vô thường.
Và khi đau khổ phát sinh, ta không nản ḷng v́ ta biết rằng điều đó cũng vô thường. Ta có thể chấp nhận cả hai, mà không để thứ nào làm chủ được ta. Tôi rất thích thời gian tu tập với Matt, một sự xả hơi khỏi chùa từ những buổi học không định trước này, và anh ta cũng rất thích được hướng dẫn riêng.
Một t́nh bạn đă nẩy nở giữa chúng tôi. Một ngày vào năm 1979, tôi nói với anh:
- Matt, sư muốn xây một trung tâm thiền. Ở một nơi nào đó tĩnh lặng, ở đồng quê. Một lâm tự viện.
Anh ta nh́n tôi mắt sáng lên.
- Thật chứ? Sư nói thật chứ?
- Thật. Sư không đùa. Vấn đề duy nhất là, sư không có đủ tiền hay đủ người, để hỗ trợ một nơi như thế.
- Con có thể giúp. Matt nói ngay.
Sau đó, chúng tôi không nói ǵ thêm về việc này. Tôi nghĩ cả hai đều biết rằng, đó là một giấc mộng lớn và cần phải có thời gian để đưa đến kết quả. Chúng tôi cần phải suy tư về nó nhiều hơn một chút. Nhưng Matt là một người rất năng động, người luôn muốn mọi việc xảy ra ngay bây giờ hơn là sau này. Anh ta không thể đợi lâu như thế.
Vài tháng sau, một buổi chiều kia, anh lái xe đưa tôi đi đâu đó và anh bỗng nói:
- Bhante, ngôi lâm tự viện đó thế nào rồi? Sư vẫn c̣n nghĩ đến nó chứ?
- Dĩ nhiên rồi. Tôi trả lời.
- Vậy th́ tại sao Sư không tiến hành đi?
- V́ trước mắt, chúng ta vẫn chưa có những điều kiện tối thiểu. Chúng ta không có đủ tiền hay nhân sự, mà chúng ta cũng chưa có chỗ nào cả.
- Bhante. Matt nói, giọng đầy nôn nóng. Giờ chính là thời điểm đó. Cuộc đời quá ngắn ngủi, chúng ta phải bắt tay vào việc ngay.
Một nụ cười ranh mănh ở khóe môi anh.
- Nếu sư không sẵn sàng để xây trung tâm đó, con phải đi t́m một vị thiền sư khác thôi. Anh nói.
Tôi mỉm cười:
- OK. Hăy bắt đầu.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 683 of 1146: Đă gửi: 24 September 2010 lúc 5:36am | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM
Chương Hai Mươi Bốn
Ra Riêng
Khi Matt và tôi bắt đầu t́m địa điểm, tôi có $50,000 trong ngân hàng. Tôi đă để dành ít nhất mười năm nay. Đó là số tiền mà Văn pḥng Tiểu bang (State Department) đă trả cho tôi khi làm việc ở trại tỵ nạn ở Florida, cộng với tiền thù lao của các bài diễn văn, các lớp tôi dạy ở các trường đại học, bất cứ ǵ tôi đă tự kiếm được, bên ngoài công việc của tôi ở chùa Phật giáo Washington.
Matt và tôi bắt đầu lái xe ṿng quanh Virginia, t́m những nơi bán đất. Một ngày kia vào năm 1983, chúng tôi t́m được một khoảng đất rất đẹp, với diện tích 189 mẫu Anh (hay 75 mẫu ta) và mười hai dăy nhà trên đó. Giá bán là một triệu rưỡi đô.
Cả hai chúng tôi đều đồng ư là miếng đất thật hoàn hảo. Matt, là một người nói chuyện khôn khéo, đă nói để người chủ bớt xuống c̣n $700,000. Chúng tôi đă đưa cho họ tấm ngân phiếu $2000 ngay tại chỗ, như tiền để “làm tin”, để họ không quảng cáo bán trên thị trường nữa. Trong ṿng ba tháng, chúng tôi phải có đủ $100,000 tiền đặt cọc.
Trở lại xe, tôi nói:
- Chúng ta thiệt là điên. Làm sao chúng ta có được số tiền lớn như vậy. Chúng ta cũng không có cách ǵ để quyên một số tiến như thế trong ba tháng.
Matt có vẻ không hề suy chuyển.
- Tôi biết một người gây quỹ. Anh nói, người ấy sẽ giúp chúng ta có $100,000 đó.
Vài ngày sau, chúng tôi nghiên cứu biểu đồ mà người gây quỹ đă phác họa cho chúng tôi. Đó là một dạng gây quỹ theo h́nh kim tự tháp. Những người dưới đáy tháp sẽ đóng mười đô. Con số người này rất nhiều. Khi lần lên mỗi bậc tháp sau đó, những người cúng dường sẽ ít hơn, nhưng tiền cúng sẽ nhiều hơn: hai mươi, năm mươi, một trăm đô.
Khi cộng tất cả lại, chúng tôi sẽ có được hơn 1 triệu.
- Biểu đồ này trông rất hấp dẫn. Tôi nói với Matt.
- Nhưng người này đâu có giúp chúng ta có được số tiền này miễn phí. Anh ta đ̣i $5000 đô mỗi tháng. Số tiền $5000 đầu tiên sẽ t́m đâu ra? Và nếu anh ta chỉ gây quỹ được có $5000 th́ sao? Chúng ta sẽ tiêu tiền ra nhanh hơn tiền anh ta gây quỹ được.
Matt có thể thấy tôi lo lắng thế nào. Anh biết tôi không thích việc mua trả góp hay vay mượn, v́ làm thế chúng tôi bắt buộc phải trả lăi. V́ thế anh đề nghị một chuyến đi gây quỹ.
- Hăy lên xe con. Anh nói, hăy đến viếng những người Sư biết và những người con biết. Hăy hỏi xem họ giúp đỡ được ǵ ḿnh không?
Tháng sau đó, chúng tôi đi ngang dọc miền đông bắc nước Mỹ trong chiếc Toyota Cressida của Matt. Chúng tôi đến Nữu Ước, New Jersey, Rhode Island, New Hampshire và Massachusetts. Chúng tôi băng qua biên giới Canada, đến thăm những người ở Montreal, Ottawa và Toronto. Chúng tôi c̣n lên đến cả Newfoundland và Nova Scotia.
Đôi khi chúng tôi lái mười bốn tiếng một ngày. Có khi chúng tôi đến nhà người quen lúc giữa khuya. Có người ủng hộ chúng tôi mười, mười lăm hay hai mươi đô, tôi nghĩ, đôi khi chỉ là để cho chúng tôi đi khuất mắt. Đôi khi họ cảm thấy tội nghiệp chúng tôi và mời chúng tôi ở lại qua đêm.
Nhiều người khá rộng răi. Có người viết cho chúng tôi ngân phiếu $500 đô. Người khác biếu $1000 đô canada. Phong cách đầy thuyết phục của Matt đă khiến cho nhiều người tin tưởng.
- Chúng tôi làm việc này là v́ lợi ích của nhiều người. Anh sẽ nói khi ngồi ở bàn ăn của ai đó. Hăy giúp chúng tôi nếu bạn có khả năng.
Cuối chuyến đi, xe của Matt đă ghi thêm hơn 5000 dặm (hơn bảy ngàn kilo mét) đường dài. Và chúng tôi cũng quyên góp được $5000 USD.
- Có vẻ khá đấy chứ. Tôi nói với anh.
Chúng tôi mở một tài khoản dưới tên công ty mới của chúng tôi: Hội Bhavana. (Từ Bhavana, vun trồng tâm linh, có vẻ tóm tắt được ư định của chúng tôi về ngôi lâm tự viện.)
Nhưng rơ ràng là chúng tôi không thể nào kiếm được $95,000 đô trong hai tháng nữa. Chúng tôi phải hủy bỏ hợp đồng mua đất ở Virginia và chịu mất $2000 tiền làm tin.
Trong lúc đó tôi đă báo với các vị tu sĩ ở chùa và ban chấp hành rằng, chúng tôi đang gây quỹ cho một trung tâm thiền ở một nơi nào đó xa Washington. Tôi chưa bao giờ nói trung tâm thiền đó sẽ thuộc quyền của chùa Phật giáo Washington, nhưng đó là điều họ nhầm tưởng.
Sau nầy, khi chúng tôi đă quyên góp được đủ tiền để mua một miếng đất, họ hỏi thẳng tôi rằng chỗ địa điểm mới này có trực thuộc chùa không.
- Không. Tôi trả lời.
- Tại sao không? Họ hỏi tiếp.
- V́ đó không phải là điều tôi muốn. Tôi nói.
Sự thật là, tôi đă quá chán những chuyện chính trị ở chùa. Vị tổ sáng lập ra chùa Phật giáo Washington, thuộc về phái Amarapura của Phật giáo Nguyên thủy. Tôi lại thuộc về một phái khác, phái Siyam. Buồn thay, điều đó đă gây ra nhiều xung đột suốt mấy năm qua.
Một vị sư, được chuyển đến chùa năm 1980, không thích tôi. Ông nói v́ tôi thuộc phái Siyam Nikaya, tôi không quan hệ ǵ với ngôi chùa do phái Amarapura dựng lên. Ông cố gắng tạo ra những xích mích, để các vị sư khác chống lại tôi.
Đến khoảng giữa năm 1980, tôi đă quá mệt mỏi bởi những sự chỉ trích nầy. Tôi cảm thấy rằng các vị tăng sĩ trẻ mới đến, không biết tất cả những việc tôi đă làm suốt bao năm để phát triển chùa. Năm 1985 tôi thỉnh vị hội trưởng của phái Amarapura Nikaya ở Tích Lan đến chùa, để giải quyết những xung đột này.
Ông đă đến, nhưng cũng không kết quả ǵ. Ông ta chỉ muốn thăm viếng bà con và có được một kỳ nghỉ phép ngắn. Tôi bắt đầu nghĩ đến việc đi khỏi chùa ngày càng nhiều hơn, đến việc sống ở một nơi yên tịnh, thanh b́nh mà tôi có thể chỉ nghĩ đến việc giảng Pháp, mà không lo lắng ǵ đến những chuyện chính trị, trong việc quản lư một ngôi chùa.
Đến tháng năm, năm 1984, chúng tôi có được khoảng $18,000 trong tài khoản của Hội Bhavana. Tôi đề nghị với Matt nên bắt đầu suy nghĩ về một dự án nhỏ hơn. Hăy t́m khoảng mười hay mười lăm mẫu Anh, tôi bàn với Matt. Hăy thử t́m ở miền Tây Virginia. Ở đó đất rẻ hơn.
Matt hẹn với một chuyên viên nhà đất, gặp nhau ở quán cà-phê trên Lộ số 50, trong vùng đồi núi ở phía đông của West Virginia. Khi chúng tôi có mặt vào ngày đă hẹn, nhà địa ốc không xuất hiện. Matt hỏi thăm những người có mặt trong quán cà phê, xem có ai gặp người đó không.
Một trong những vị khách ở đó hỏi chúng tôi đang cần bao nhiêu đất.
- Khoảng mười đến mười lăm mẫu Anh. Matt trả lời.
- Tôi có mười ba mẫu. người đàn ông nói. Giá tôi bán $18,000. Anh bạn có muốn coi không?
Matt và tôi lái xe ra đường Back Creek, một con đường nhựa nhỏ hẹp, để đi coi đất. Chúng tôi rất vừa ư, mà giá cả cũng vừa đúng với khả năng của chúng tôi. Chúng tôi trao cho người bán tấm ngân phiếu $8000 và kư hợp đồng ngay ngày hôm đó.
Tháng 7, chúng tôi tổ chức một nhóm người giống như đi hành hương đến thăm miếng đất mới. Tất cả những người đă đóng góp cho trung tâm thiền mới này, đều được mời tham dự. Chúng tôi rời Washington đi một đoàn 10 xe.
Có hai vị sư ở chùa cũng đi theo tôi. Có người mang theo một tấm bảng, để chúng tôi có thể cắm lên miếng đất. Tấm bảng đề "Ngôi làng Pháp" cái tên mà chúng tôi đă quyết định đặt cho chỗ mới này.
Giữa mùa hè, nơi này nh́n rất đẹp. Đầy bóng cây phủ và một ḍng suối nhỏ chảy qua đó. Chúng tôi ngồi xuống đất và mỗi người bày tỏ ḷng biết ơn đối với nơi này. Hai vị sư kia và tôi tụng kinh cầu nguyện.
Ngay khi có tin chúng tôi đă mua được miếng đất, một vài thành viên của chùa Washington lên tiếng phản đối. Số khác không cúng dường nữa; có người c̣n không chào hỏi đến tôi. Những buổi họp bí mật được tổ chức và tôi không được mời dự.
V́ tôi đă h́nh thành một số nhóm tu thiền ở Washington, và tôi cũng có một số trách nhiệm giảng dạy tại chùa, tôi định sẽ tiếp tục ở lại chùa, khi miếng đất ở West Virgnia đang được phát triển. V́ thế, một năm rưỡi trôi qua, mà ở Ngôi Làng Pháp cũng không có nhiều hoạt động. Có người bảo họ lo là tôi đă sai lầm.
- Bhante, tại sao Sư lại mua đất cách Washington cả trăm dặm? Họ hỏi. Ai sẽ đi xa đến tận nơi đó? Ai sẽ hỗ trợ Sư? Thiệt là phí tiền.
Nhiều đêm tôi không ngủ, tự hỏi không biết điều đó có đúng không? Thật là chán nản. Cuối năm 1984, tôi quyết định trở về thăm Tích Lan. Gần chín năm rồi tôi không trở lại đó, và gia đ́nh yêu cầu tôi về dự lễ cúng hồi hướng cho mẹ tôi. Cũng có một số nước mời tôi đến thuyết giảng, nên tôi định sẽ gom tất cả lại trong một chuyến đi.
Cũng có nhiều chuyện bất ngờ thú vị trong chuyến đi đó. Ở Thụy Điển, tôi khánh thành một chùa Phật giáo vừa xây dựng xong. Ở Pháp, tôi trú tại một chùa Sinhala, nơi mà, một đêm kia, khi cuộc nội chiến bắt đầu nóng bỏng ở Tích Lan, nó cũng đă tràn sang cả những con đường dễ thương của Paris.
Tất cả các xe đậu trước chùa Tích Lan đều bị đâm bể bánh, có lẽ phần lớn là do người Ấn Độ Tamil, biết có người Sinhala viếng chùa. Ở Malawi, tôi cũng giúp khánh thành một chùa Phật giáo mới, ngay cạnh bên một chùa của người Sikh.
Ở Nairobi, tôi đi thăm các loại thú ở khu bảo tồn động vật hoang dă Masai Mara. Và ở Úc, tôi được gặp một thần đồng về Phật giáo. Tôi đă nghe về đứa trẻ này nhiều năm trước đó, khi có ai đó bí mật để một băng cassette trên bàn làm việc của tôi, ở chùa Washington.
Qua cuộn băng, tôi nghe được một giọng thánh thót, rơ ràng của một đứa trẻ đọc tụng các kinh tiếng Pali, phát âm rất chuẩn. Tôi đă t́m hiểu thêm và đă biết đứa bé đó là ai. Vào thời điểm người ta thu băng, em chỉ mới bốn tuổi. Em sống ở Tích Lan. Người ta nói đứa bé này đă tụng các kinh một cách trôi chảy, không có sự dẫn dắt hay nhắc nhở từ một người lớn nào.
V́ thế khi tôi về nhà năm 1984, một vài năm sau khi tôi lần đầu được nghe cuộn băng tụng đọc rất ấn tượng, tôi quyết định t́m gặp đứa bé. Có người cho tôi địa chỉ em ở Kandy, nhưng tôi không t́m ra được ngôi nhà, dù tôi đă ba lần đi t́m.
Sau khi rời Tích Lan, tôi đi Malaysia, Singapore, Thailand, và Úc. Ở Úc, tôi giảng Pháp ở Canberra, Perth và Sidney. Ở ga xe lửa Sidney, một phụ nữ trẻ tên Elizabeth Gorski, đă đón để chở tôi đến một chùa Thái, nơi tôi sẽ tạm trú.
Trong xe của cô có một cậu bé tóc đen, độ tuổi mười mấy. Cô giới thiệu cậu bé là Ruwan. Ngày hôm sau cô đến chùa để chở tôi đi đâu đó. Cậu bé cũng ngồi ở băng ghế sau, giống như ngày hôm trước.
- Elizabeth. Tôi nói, cô có nghe về một cậu bé ở Tích Lan có thể tụng kinh bằng tiếng Pali?
- Bhante, nó đang ngồi ngay cạnh Sư đó. Cô ta trả lời.
Tôi sửng sốt. Tôi đă t́m được đứa bé Sinhala nổi tiếng ở tận Úc. Elizabeth giải thích rằng cô đă gặp cậu bé tên là Ruwan Seneviratne, ở Tích Lan và hoàn toàn bị chinh phục bởi giọng tụng đọc của em. V́ thế mỗi mùa hè khi cậu bé nghỉ học, cô cho cậu bé sang Úc chơi với cô, với sự cho phép của cha kế của em.
- Con đă học tụng kinh bằng cách nào? Tôi hỏi Ruwan. Có ai dạy cho con không?
- Thưa không, Bhante. Cậu bé trả lời. Khi c̣n rất nhỏ, mỗi sáng con thường ngồi trên ghế và đọc kinh. Giống như là con đang đọc ra từ trong trí nhớ.
Elizabeth yêu cầu tôi đừng có nói với ai là tôi đă gặp Ruwan. Nếu tin tức đồn ra là cậu bé đang ở đây, th́ mọi người sẽ đổ xô đến nhà cô để nghe cậu bé tụng kinh.
Dựa vào lời kể của chính cậu bé, nhiều người tin rằng trong một kiếp trước vào thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên, cậu bé là phụ tá cho một vị học giả nổi tiếng Buddhaghosa, và đó là lư do tại sao em có thể tụng tiếng Pali một cách rơ ràng, lưu loát như thế.
Ngày nay bất cứ khi nào đi Tích Lan, tôi đều thăm Ruwan. Cậu đă lập gia đ́nh, có hai con và là một Phật tử thuần thành. Thật ra, cậu cũng muốn thành lập một trung tâm thiền.
Khi tôi trở lại Washington vào tháng 5 năm 1985, không khí ở chùa lạnh lẽo. Trong khi tôi đi vắng, người ta đă bắt đầu nói này nọ về trung tâm thiền mới của chúng tôi ở West Virginia. Người ta đồn là Matt và tôi đang bắt tay kinh doanh một thứ ǵ đó.
Ban giám đốc yêu cầu tôi phải gặp họ ngay. Tôi c̣n chưa quen với giờ giấc thay đổi, nhưng tôi đồng ư ngồi lại với họ. Đúng ra đó là một cuộc thẩm vấn, hơn là một cuộc họp. Bao nhiêu câu hỏi chỉa vào tôi như những mũi tên.
Tại sao Sư thành lập hội Bhavana?
Ai tài trợ?
Ai sẽ là người điều khiến?
Tại sao sư phải đi xa như vậy để giảng Pháp?
Tôi đă trả lời từng câu hỏi của họ với hết khả năng của ḿnh.
- Này. Tôi nói, không phải là tôi đang xây một nhà thổ, một tiệm rượu hay một chỗ đánh bài. Đó sẽ là một trung tâm thiền. Tại sao quư vị cảm thấy căng thẳng như thế?
Sau đó, th́ họ nói lên nguyên nhân chính của vấn đề:
- Tại sao Sư không liên kết chỗ mới đó với chùa Phật giáo Washington.
- V́ tôi muốn nó là một trung tâm thiền thực sự. Tôi nói, không phải là một trung tâm văn hóa. Và tôi không muốn những chuyện chính trị ở Tích Lan chen vào. Tôi muốn nơi đó hoàn toàn độc lập.
Những khuôn mặt hằn học nh́n tôi. Sau đó, mọi thứ càng trở nên tồi tệ hơn. Một đêm người thủ quỹ trong ban chấp hành bảo tôi rằng, có một cuộc họp ở chùa và tôi phải đến dự.
Có khoảng hai mươi người đêm đó. Ngay khi chúng tôi vừa ngồi xuống, một người Sinhala đứng dậy và bắt đầu lăng nhục tôi.
- Sư chẳng bao giờ làm ǵ cho nơi nầy. Ông ta nói. Sư chỉ ngồi đó lo học hành. Con gián trong nhà bếp Sư cũng không quan tâm. Sư chỉ lo mang bà con thân quyến ở Tích Lan đến đây để t́m việc cho họ, nhưng không t́m cho ai khác nữa. Sư phải dạy cho con em chúng tôi tiếng Sinhala, nhưng sư dành hết thời gian đi đây đó, giảng pháp cho người Tây phương mà họ cũng không phải là Phật tử.
Tôi kinh hoàng. Vị nầy b́nh thường rất b́nh tĩnh, từ tốn và tôi đă coi ông là một người bạn. Tôi biết rằng ông đă bị những người muốn đuổi tôi ra khỏi chùa ảnh hưởng. Và tôi biết rằng mọi phản ứng của tôi trong lúc này sẽ bị xem xét đánh giá.
V́ thế tôi không trả lời những cáo buộc của ông. Thay vào đó, tôi chỉ bắt đầu truyền tam quy và ngũ giới cho cả nhóm, đọc tụng với tất cả sự b́nh tĩnh mà tôi có thể có được.
Ở một buổi họp sau đó của ban chấp hành, họ yêu cầu Matt Flickstein và một người bạn khác của tôi, Albert Cambarta, rút tên ra khỏi chùa. Khi điều đó xảy ra, tôi biết rằng đă đến hồi kết cuộc.
Nhưng chúng tôi chưa xây được dăy nhà nào trên miếng đất ở West Virginia. Nếu tôi đi ra khỏi chùa luôn, tôi sẽ không có nơi nào để tá túc. Tôi cần ở lại chùa Washington, ít nhất cho đến khi chúng tôi có được một chỗ tạm trú ở địa điểm mới.
Cuối cùng, tôi đă phải chịu đựng ở lại đó hơn ba năm nữa, nhưng không phải dễ dàng ǵ. Chúng tôi tiếp tục gây quỹ cho hội Bhavana, riêng biệt với chùa Washington. Điều đó thường tạo ra một không khí căng thẳng, đầy sân hận.
Cuối cùng ban giám đốc cho tôi ba lựa chọn. Tôi có thể rút khỏi chức chủ tịch của chùa Phật giáo Washington. Tôi có thể rút tên ra khỏi ban chấp hành của hội Bhavana, hay là tôi phải để cho hội Bhavana sát nhập với chùa.
Tôi cho họ câu trả lời ngay lập tức:
- Tôi sẽ rút lui khỏi chùa. Tôi nói. Tôi có thể thấy từ vẻ kinh hoàng trên gương mặt họ rằng, họ chẳng bao giờ nghĩ là tôi có thể ra đi. Tôi đă ở đó hai mươi năm, trong khi nhiệm vụ của tôi dự tính chỉ là năm năm.
Tôi là người đă chọn tất cả họ vào ban chấp hành. Có lẽ họ nghĩ rằng tôi quá bám víu vào địa vị của ḿnh, đến nỗi tôi không thể nào ra đi. Thật ra đó là một sự lựa chọn đơn giản. Nếu họ đă có can đảm yêu cầu tôi rút lui, th́ tại sao tôi phải ở lại đó?
Hơn nữa tôi rất phấn khởi nghĩ tới việc tôi có thể đến sống ở Làng Pháp (Dhamma Village), dầu chúng tôi chỉ mới làm được cái khung của dăy nhà đầu tiên. Ngay sau đó, tôi gửi thư từ chức đến vị hội trưởng của phái Amarapura Nikaya ở Tích Lan.
Tôi yêu cầu ông cho phép đại đức Maharagama Dhammasiri, một vị khách tăng ở chùa, thay thế tôi. Thư trả lời đồng ư. V́ thế tôi giúp đại đức Maharagama Dhammasiri xin visa thường trú. Vị sư này đă nhận được thẻ xanh ở Mỹ vào ngày 26 tháng 5, 1988.
Ngày hôm sau, tôi trao cho đại đức Dhammasiri xâu ch́a khóa của tôi, có tất cả các ch́a khóa trong chùa. Tôi báo với sư tài khoản chùa ở ngân hàng nào và c̣n có bao nhiêu tiền trong đó. Tôi cũng chỉ cho sư nơi cất giữ tất cả những giấy tờ quan trọng của chùa.
Rồi tôi lên xe, một ḿnh, và lái đi. Tôi không cảm thấy ǵ ngoài cảm giác được giải thoát, một sự giải thoát mạnh mẽ, tràn đầy.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 684 of 1146: Đă gửi: 24 September 2010 lúc 8:13am | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM
Chương Hai Mươi Lăm
Xây Tu Viện
Lúc tôi chuyển đến địa điểm mới, chúng tôi đă đào được giếng nước và đă có điện. Nhưng chỉ có khung sườn của một toà nhà dài, hẹp nổi lên giữa rừng.
Lúc đầu, mọi thứ đều ở trong một ṭa nhà: nhà bếp, ba pḥng ngủ và vài cái nhà tắm. Chúng tôi biến một trong những pḥng ngủ trở thành chánh điện, có thể chứa khoảng mười hay mười hai người. Pḥng ăn, một nơi rộng răi cạnh bên nhà bếp, đồng thời cũng là thiền đường.
Nhà bếp có một bếp gas với hai ḷ nấu. Nước dùng, chúng tôi kéo từ giếng hay từ đầu suối ở phía trên của vùng đất. Nhà vệ sinh chúng tôi mướn của Port-o-Let (ND: Nhà vệ sinh di chuyển được, chỉ sử dụng tạm thời). Không kể những tiện nghi hạn chế đó, tôi rất hạnh phúc.
Tôi cảm thấy như tôi có thể thật sự phụng sự Phật pháp ở nơi này, không bị những vấn đề hành chánh, chính trị ở chùa phiền hà và tất cả những điều khó chịu khác đă khiến tôi phải đi khỏi chùa Washington. Ở đây, trong thung lũng núi hoang vắng này, tôi có thể tạo ra một nơi, mà người ta có thể đến để trải nghiệm sự b́nh an.
Tôi không làm việc này để được nổi tiếng, để lôi kéo đệ tử hay thu gom tiền bạc. Những ǵ tôi muốn là để được thấy các tăng ni và thiền sinh cư sĩ, đi trên những con đường sâu lắng trong thiền định và quán tưởng về Phật pháp. Tôi hy vọng rằng dần dần sẽ có nhiều người như thế giống như cây trong rừng kia!
Người bạn duy nhất của tôi trong những ngày đầu này là đại đức Yogavacara Rahula, một vị tăng sĩ Mỹ trẻ, người đă lang thang khắp châu Á và đă xuất gia vào giữa những năm 1970 ở Tích Lan. Đại đức Rahula đă nghe về chương tŕnh xây dựng một tu viện trong rừng của chúng tôi và đă viết thư đến cho tôi ở chùa Washington, xin phép được gia nhập với chúng tôi.
Đại đức đă dọn đến nơi này vào tháng 4, 1987, khi tôi vẫn c̣n ở chùa Washington. Đại đức đă sống trong khu nhà c̣n xây dở dang. Bhante La Hầu La đă chứng tỏ qua bao năm tháng, là cánh tay mặt của tôi và là vị tu sĩ đầy năng lực, và đáng tin cậy nhất mà tôi đă được gặp.
Một trong những công tŕnh đầu tiên mà Bhante Rahula đă làm được, là dọn sạch một khoảng trống làm vườn rau. Để làm được điều đó, ông đă phải lượm không biết bao nhiêu đá ra khỏi đất núi nơi này. Một lần khi tôi đến thăm, ông chỉ mới bắt đầu.
Hai tuần sau, khi tôi trở lại, ông đă dùng những viên đá này để làm một bức tường chắn tuyệt đẹp. Tôi đă nghĩ: đây là loại lao động cần cù mà chúng tôi rất cần để biến nơi này thành hiện thực.
Matthew Flicksteinn cũng vẫn là người bạn trung thành của tôi. Cuối năm 1987, Matt đă mua mười mẫu Anh, cạnh đất chúng tôi, và cúng dường nó cho hội Bhavana. John Hitchings, một nhà bảo trợ khác, sau đó mua khoảng đất hai mẫu, nằm giữa hai phần đất kia và cúng dường nó cho hội. Như thế tổng cộng lại chúng tôi có khoảng hai mươi lăm mẫu.
Trước đó, ngay cả trước khi tôi dọn đến địa điểm mới, chúng tôi đă giao hẹn với một người xây dựng ở địa phương. Rằng mỗi lần chúng tôi có đủ tiền ủng hộ, chúng tôi sẽ trả cho ông, để ông xây thêm một ít trên khu nhà đầu tiên đó. May mắn thay, ông ta không có vẻ phiền hà ǵ về công việc lúc có, lúc không này.
Nền của ṭa nhà đầu tiên được đổ qua ba giai đoạn, tùy thuộc vào việc gây quỹ của chúng tôi. Khung nhà và tường cũng được xây dựng theo cách đó. Đến khi phải làm mái nhà, người xây dựng đề nghị chúng tôi tự làm giàn kèo để tiết kiệm tiền. Ông ta bảo chúng tôi sẽ cần bốn mươi kèo loại thường và bốn mươi loại h́nh cái kéo.
Chúng tôi có thể đóng những loại thường, c̣n loại h́nh cái kéo th́ phức tạp hơn, v́ thế ông sẽ đặt hàng. Rồi ông vẽ cho chúng tôi cách làm các loại kèo thường. Thế là chúng tôi bắt đầu kêu gọi t́nh nguyện viên, yêu cầu họ mướn các dụng cụ bằng điện và mua gỗ, đinh.
Chúng tôi hoàn thành bốn mươi cái kèo thường đó trong chỉ một cuối tuần. Tiếc thay, chúng không đều nhau. Người xây dựng phải sửa chữa lại nhiều cái. Khi mái nhà đă hoàn thành với những lớp ván ốp màu đỏ đậm, rất đẹp, viên giám sát nhà trong hạt đến đánh giá chất lượng. Ông ta nh́n rồi lắc đầu.
- Chỉ một mùa tuyết là cả cái mái nhà này sẽ đổ xuống. Ông ta nói.
- Vậy chúng tôi phải làm ǵ? Tôi hỏi.
- Ông phải dỡ xuống và làm lại. Ông ta nói.
Tôi chắc rằng ông nh́n thấy vẻ hốt hoảng trên gương mặt tôi.
- Chúng tôi là một hội nghèo. Tôi nói. Chúng tôi làm ǵ có tiền để làm trở lại.
- Thôi được. Viên giám sát nói. Tôi sẽ cho ông một chọn lựa khác. Ấy là làm một cái khung h́nh chữ A, kích cỡ khoảng 2x10x22, rồi đóng lên các kèo. Nhưng trước hết, ông phải bảo đảm là khung kèo bằng phẳng, phải kẹp chúng lại bằng loại gỗ dán.
Dĩ nhiên, chúng tôi phải đợi đến lúc quyên đủ tiền để mua gỗ sửa chữa. Rồi lại phải mất thêm vài tháng nữa chúng tôi mới t́m được người có kinh nghiệm, làm những khung h́nh chữ A.
Trong lúc đó, ở chùa Washington, tôi nhận được một lá thư của Russell LaFollette, một trong những người hàng xóm của chúng tôi ở West Virginia gửi. Ông nói rằng ông để ư thấy chúng tôi chứa nhiều gỗ, trong ṭa nhà chánh trên đất của chúng tôi, mà không có khóa hay người bảo vệ.
- Như vậy không an toàn. Ông viết. Nếu sư muốn, tôi sẽ trông chừng đồ đạc của Sư, giá ba đô một ngày.
Chúng tôi đồng ư. Những người hàng xóm khác không tử tế như vậy. Có người không giấu sự tức bực, cho rằng chúng tôi đă xâm lấn lănh địa của họ. Ngay sau khi vừa mua đất, chúng tôi đă tự giới thiệu ḿnh vời người hàng xóm gần nhất. Chúng tôi đứng bên phần đất của ḿnh. Anh ta đứng ở bên kia.
- Đây là Bhante Gunaratana. Matt giới thiệu. Chúng tôi vừa mua miếng đất này và chúng tôi sẽ xây một trung tâm thiền ở đây.
Người đàn ông không nói một lời. Anh ta chỉ đứng đó trố mắt nh́n chúng tôi, lạnh lùng và bực dọc.
- Thưa ông, khi nào ông có thời gian, chúng tôi xin mời ông đến tham dự tu thiền với chúng tôi. Tôi nói.
- Ông muốn làm chuyện khùng điên ǵ th́ làm. Người đàn ông ngắt lời. C̣n tôi, tôi là một tín đồ Thiên Chúa ngoan đạo.
Mỗi lần chúng tôi vừa dựng một thùng nhận thư trên lộ, th́ nó bị đập xuống. Thật ra, thùng thư vẫn tiếp tục là mục tiêu tấn công qua bao năm tháng. Nó đă bị bắn lủng đầy lỗ, bị dán băng keo kín lại, bị đổ đầy phân chó và bị đánh cắp. Lúc đó, chúng tôi đă phải thay đến năm hay sáu thùng thư rồi.
Chúng tôi cũng dựng lên một biển báo ở cuối đường, với một mũi tên và những chữ "Làng Phật Pháp (Dhamma Village)". Trong một hay hai ngày sau, nhiều chữ đă bị bôi đen để tấm bảng được đọc trở thành "Làng Quỷ (Dam Village)" (Sau này, chúng tôi quyết định không dùng tên đó nữa mà chỉ để đơn giản là Hội Bhavana.)
Ngay trước khi xây được các dăy nhà trên miếng đất, chúng tôi đă bắt đầu tổ chức những khóa tu thiền ở đó. Lúc đầu chỉ là những khóa tu một ngày. Chúng tôi sẽ ngồi ở ngoài trời dưới gốc cây. Sau này, chúng tôi yêu cầu người ta mang theo lều bạt để ở lại qua đêm.
Từ những ngày đầu tiên khi các thiền sinh bắt đầu đến hành thiền, chúng tôi đă bị những người hàng xóm cạnh nhà quấy nhiễu. Sống ở đó là người đàn ông đă đón chào chúng tôi bằng những lời không thân thiện, vợ ông ta và hai đứa con trai.
Họ thường bắn súng lên trời, chửi rủa tục tằn và để chó họ sủa không ngừng. Người vợ thường đứng trong sân, lớn giọng hát thánh ca. C̣n hai con trai của họ h́nh như lúc nào cũng tập đánh trống vào thời khóa tọa thiền buổi tối của chúng tôi.
Chúng tôi chẳng bao giờ than phiền v́ không muốn mối liên hệ với họ sẽ xấu hơn. Nhưng những người hàng xóm khác đôi khi gọi cảnh sát giùm chúng tôi. Khi cảnh sát đến, tiếng ồn ào sẽ ngưng lại được một lúc, nhưng chỉ một lúc.
Người nấu bếp cho chúng tôi một thời gian ở đó, là một người Mỹ gốc Phi châu. Mỗi lần anh bước ra ngoài, những người hàng xóm thấy anh, th́ họ sẽ la to:
- Cút đi, đồ mọi đen!
Chúng tôi cũng có một nữ tu người Đức sống ở tu viện một thời gian. Cô ở trong một thất khá gần đất của gia đ́nh kia. Một buổi chiều khi cô đang ngồi ngoài hiên, một viên đạn của loại súng BB bay vút qua đầu cô, xuyên qua cửa sổ và dính vào tường.
Sự quấy nhiễu tiếp tục suốt sáu hay bảy năm trời, cho đến khi đôi vợ chồng kia ly dị và người đàn ông dọn đi. Những đứa trẻ lúc đó đă trưởng thành. V́ thế chỉ c̣n người vợ ở lại đó. Cũng lạ, chỉ vài năm sau đó, một trong hai người con trai của gia đ́nh trở lại thăm nhà.
Anh đi qua khu đất của chúng tôi, chào hỏi Đại đức Rahula.
- Tôi xa nhà, theo hải quân. Anh ta nói, và tôi đă đến một số quốc gia theo Phật giáo. V́ thế giờ tôi hiểu tất cả những việc này. Tôi xin lỗi v́ đă làm khó dễ cho các ông. Chúng tôi chỉ làm theo lời của cha chúng tôi. Cha đă bảo các ông là những người xấu.
Người hàng xóm khác của chúng tôi là Bernard và Aveline Denise, lúc nào cũng thân thiện. Họ sống ở phía sau chúng tôi, rồi dần dần đến năm 1991, họ bán luôn cho chúng tôi bảy mẫu đất của họ. Ngôi nhà của họ trở thành khu nội điện cho các tăng.
Vào ngày 2 tháng 10 năm 1988, chúng tôi chính thức khánh thành ṭa nhà chánh. Ngoài ra cũng có ba thất bằng gỗ, làm theo khuôn mẫu của những thất một pḥng ở các tu viện bên châu Á. Tới lúc đó, chúng tôi đă có điện, hệ thống ống nước. Trung tâm đă hoàn tất, sẵn sàng mọi sinh hoạt.
Một tháng sau lễ khánh thành, Matt đến t́m tôi và bảo rằng anh muốn đến Thái Lan hay Tích Lan, để xuất gia làm tu sĩ.
- Đó là một ư nghĩ khá lạ lùng. Tôi nói.
- Tại sao? Anh ta hỏi.
- V́ sư có thể làm lễ xuất gia cho anh ngay tại đây.
- Nhưng con tưởng sư đă nói là sư sẽ không làm lễ xuất gia cho con. Anh ta nói.
- Đó là mười năm về trước. Tôi trả lời. Con của anh lúc đó c̣n nhỏ. Chúng cần anh hơn. Lúc đó điều quan trọng là anh phải ở nhà với chúng. Giờ chúng đă lớn rồi, và nếu anh được sự đồng ư của vợ, th́ sư sẽ rất sẵn sàng để làm lễ xuất gia cho anh tại đây. Anh có thể là tu sĩ trong một hay hai tháng.
Matt rất vui mừng. Ư nghĩ trở thành một tu sĩ tạm thời (ND: gieo duyên) không lạ lùng như ta thoạt nghe. Ở một số quốc gia theo Phật giáo, thanh niên phải trải qua một thời gian, đôi khi là một năm, sống trong tăng đoàn.
Sau đó, họ hoàn tục, trở lại đời sống cư sĩ. Đôi khi những người lớn tuổi đă lập gia đ́nh, sẽ xuất gia trong một hay hai tháng trong mùa mưa, hay có thể chỉ một vài tuần, để hồi hướng cho cha mẹ quá cố của ḿnh.
Nhưng trước khi có thể làm lễ xuất gia cho Matt hay bất cứ ai khác, chúng tôi phải thành lập một sima ở hội Bhavana. Sima là một khu thiêng liêng, dành cho các nghi lễ đặc biệt ở tu viện. Nó có thể là một ngôi nhà, một chiếc thuyền, một hang động hay chỉ là một khoảng không gian mở được đánh dấu bằng những lằn ranh.
Trong tiếng Pali, sima có nghĩa là ranh giới. Các tăng ni thường họp lại trong sima, hai lần mỗi tháng để sám hối và tŕ tụng các giới luật trong tu viện. Các cư sĩ không thể dự các buổi họp này. Vào những dịp khác, như là lễ xuất gia, cư sĩ được mời vào sima để chứng kiến những ǵ đang diễn ra.
Sima đôi khi c̣n thiêng liêng hơn cả điện thờ. Thiết lập một sima mới là một nghi lễ linh thiêng, đến nỗi bất cứ vị tăng nào được mời đến dự, cũng không thể từ chối. Nếu đến trễ, th́ vị ấy không được phép tham gia nghi lễ và phải đợi ở bên ngoài.
Một sima lúc nào cũng được bao bọc bởi tám ḥn đá. Có đầy đủ những lời hướng dẫn trong việc chọn kích cỡ đá, cũng như cách xếp đặt chúng. Matt đem tôi đến một mỏ đá, và tôi bảo người cắt đá chúng tôi cần những ǵ:
- Tám ḥn đá, mỗi ḥn kích thước ngang 12 inches, cao hai feet rưỡi và dày ba inches.
V́ chúng tôi không có khả năng để xây một ṭa nhà làm sima, chúng tôi quyết định thiết lập nó trong ngôi thất nhỏ của tôi, đă được xây đầu năm đó, do Matt cúng dường. Tôi định nếu chúng tôi thiết lập được sima và làm lễ xuất gia cho Matt trong cùng một ngày, th́ thật là duyên lành.
Chúng tôi định ngày đó là 22 tháng 7, năm 1989. Trong lúc đó, có hai người khác nữa cũng đến trung tâm chúng tôi xin xuất gia: Misha Cowen, một phụ nữ trẻ ở California, người đă mơ thấy được trở thành một nữ tu sĩ, và Tom West, ở Vancouver, Canada cũng muốn thề nguyện làm tỳ kheo.
Sau khi quán sát cả hai trong vài tháng, tôi thấy rằng họ đă sẵn sàng cho cuộc sống không nhà. Tôi sẽ xuất gia cho họ trong cùng buổi lễ với Matt.
Chúng tôi muốn có càng nhiều các tu sĩ tham dự buổi lễ quan trọng này càng tốt. V́ thế chúng tôi mời ba mươi lăm tăng sĩ phái Nguyên thủy, ở khắp nơi trên nước Mỹ gồm: người Sinhala, Thái, Lào, Campuchia, Việt Nam và Burma, cũng như một tu sĩ đại thừa Nhật Bản và hai vị ni theo Đại thừa.
Vào buổi sáng tiến hành buổi lễ, tất cả chúng tôi họp lại trên sàn gỗ dán, mà chúng tôi đă dựng lên ở chỗ sima. Một phóng viên ảnh của viện Smithsonian có mặt để ghi lại phóng sự cho cả ngày hôm đó. Tôi yêu cầu ba người, Matt, John Hitchins và Daniel Cory, chính thức tŕnh giấy tờ của ba miếng đất mà chúng tôi sở hữu.
Rồi sau đó là thời gian dành cho sima. Tám ḥn đá đă được đặt cẩn thận thành ṿng tṛn quanh sima. Mỗi ḥn đá có một vị tăng đứng cạnh. Với sự trịnh trọng, vị tăng cao niên nhất, ḥa thượng tiến sĩ Havenpola Ratanasara Mahathera, đi từ ḥn đá này đến ḥn đá khác, bắt đầu từ hướng đông.
Khi đối mặt với vị tăng đứng ở mỗi ḥn đá, vị tăng ấy sẽ nói:
- Đây là ḥn đá của phương đông, thưa Thượng tọa.
Hay:
- Đây là ḥn đá của đông nam, thưa Thượng tọa.
Sau khi đi hai ṿng qua các ḥn đá, vị sư trưởng sẽ dừng lại và xướng lên một cách trịnh trọng:
- Đây là giới hạn của sima này.
Sau đó tôi tuyên bố rằng nghi lễ xuất gia sẽ diễn ra sau giờ thọ trai, lúc 2 giờ chiều. Trong lúc thọ trai, vị tu sĩ người Nhật Bản tiến lại phía tôi và yêu cầu tôi xuất gia cho ông nữa. Ông muốn trở thành một tu sĩ theo phái Nguyên thủy và tôi nhận lời.
V́ thế ngày hôm đó, chúng tôi xuất gia cho ba người nam và một nữ. Tôi đặt danh hiệu cho Matt là Sumati, có nghĩa là Chánh Giác. Tom West trở thành Sona, hay Vàng là tên của một tu sĩ, được vua Ashoka xưa kia gửi đi làm nhà truyền giáo Phật giáo.
Và người phụ nữ trẻ ở California có tên là Sister Sama, nghĩa là An B́nh. Sumati và Sona, cả hai đều thọ giới sadi và giới trọng trong một ngày và vị tăng sĩ người Nhật, v́ ông đang là tu sĩ nên chỉ thọ giới trọng. Tuy nhiên Sister Suma xuất gia chỉ làm sadi ni.
Truyền thống Phật giáo đ̣i hỏi phải có ít nhất năm vị tu sĩ chứng kiến buổi lễ xuất gia. Khi ni chúng Nguyên thủy tan ră vào thế kỷ thứ 10 sau công nguyên, do thiếu sự ủng hộ, không c̣n có người nữ tu sĩ nào đă thọ đầy đủ giới để làm chứng cho lễ xuất gia của các nữ tu trẻ.
Đó là một bức xúc đối với phụ nữ ngày nay, nếu họ muốn xuất gia tu theo Nguyên thủy. Măi đến gần đây, họ vẫn phải bằng ḷng ở một vị trí lừng chừng, chỉ là thức xoa thọ mười giới. Đó đă là nguyên nhân gây bất ḥa trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy nhiều năm nay.
Tôi biết rằng vấn đề đó sẽ được đặt ra khi chúng tôi bắt đầu thọ giới cho nhiều người ở hội Bhavana. Người nữ sẽ muốn trở thành những nữ tu sĩ thọ đủ giới. Tôi phải quyết định ḿnh sẽ làm ǵ.
Đức Phật đă đề ra những hướng dẫn chi tiết về việc xuất gia cho người nữ, nhưng ngài chẳng bao giờ nói rằng, chỉ có nữ tu sĩ, mới có thể thực hiện lễ xuất gia cho nữ cư sĩ. Ngài cũng không bao giờ nói rằng, nếu các ni đoàn có bị tan ră, họ sẽ không được thiết lập lại ni đoàn khác.
Từ đó tôi kết luận rằng, không có lư do ǵ tăng sĩ không thể làm lễ thọ giới cho người nữ. Ngoài ra tôi được biết ḥa thượng Havenpola Ratanasara Mahathera, vị tỳ kheo người Sinhala rất được kính trọng, người đă khánh thành sima cho chúng tôi, đă truyền giới xuất gia cho một người phụ nữ Thái ở California.
V́ thế khi Misha Cowen đến hội Bhavana, để hỏi xem cô có thể trở thành một nữ tu sĩ không, tôi đă bằng ḷng. Tuy nhiên v́ cô mới biết Phật pháp, tôi bảo cô trước hết phải làm thức xoa. Tôi biết rằng ḿnh không thể làm lễ thọ đại giới cho cô, mà không có sự ủng hộ của tăng đoàn, nhưng tôi hy vọng rằng, tới lúc cô đă sẵn sàng thọ đầy đủ giới, th́ đă có các tỳ kheo ni với đầy đủ giới, lúc ấy tôi có thể gửi cô đến đó.
Một vài tăng sĩ biết chuyện tôi đang dự định làm, họ yêu cầu tôi đừng xuất gia cho cô. Tôi lễ phép trả lời rằng ư tôi đă quyết, v́ thế cô đă trở thành Sister Sama ở buổi lễ xuất gia đầu tiên tại Hội Bhavana.
Từ lúc đó đến nay, tôi đă làm lễ xuất gia cho năm phụ nữ khác nữa. Tất cả họ đều được nhận vào làm thức xoa. Một số người cũng chỉ muốn xuất gia gieo duyên trong thời gian ngắn, v́ thế sau đó họ rời khỏi Hội Bhavana.
Trong những người này, có một phụ nữ người Đức, đă trở thành Sister Sucinta, tiếp tục tu lên thọ đại giới vào năm 1997 ở Bodhgaya, Ấn Độ. Cô đă tham dự một buổi lễ thọ giới đông đảo, với hàng chục các vị thức xoa khác. Có các tăng sĩ phái Đại thừa và Nguyên thủy, đều tham dự buổi lễ truyền giới đó.
Trước lễ xuất gia đầu tiên của chúng tôi ở Bhavana vào tháng 7, năm 1989, tôi chỉ làm lễ xuất gia cho một người khác, một cậu bé mười lăm tuổi ở chùa Phật giáo Washington, người muốn được xuất gia trong một thời gian ngắn. Tôi chưa bao giờ thực hiện nghi lễ xuất gia khi tôi ở Á châu.
V́ thế đó là một ngày trọng đại cho tất cả chúng tôi. Hội Bhavana đă dựng được sima và cũng đă thâu nhận các vị tăng và ni đầu tiên của Hội.
Giấc mơ của tôi về một tu viện ở trong rừng đă thành h́nh. Tôi thật vui mừng không thể diễn tả nên lời.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 685 of 1146: Đă gửi: 24 September 2010 lúc 8:33am | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM
Chương Hai Mươi Sáu
Vô Giá
Vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, lịch đi hoằng pháp của tôi dày đặc. Tôi được mời đi thuyết giảng khắp nước Mỹ, Canada, Nam Mỹ, Scandinavia, Âu châu, Úc và Á châu. Tôi đồng ư với gần như tất cả các lời mời gửi đến tôi, càng đi xa càng tốt. Tôi rất thích du lịch.
Ở nhiều nơi, sẽ có người thông dịch các bài thuyếp pháp của tôi. Ở các quốc gia khác, th́ phần đông thính giả nói tiếng Anh, nên tôi có thể giảng Pháp bằng ngôn ngữ này.
Sau mỗi khóa tu hay một buổi thuyết pháp, người ta thường đến gặp tôi để cảm ơn. Đôi khi họ muốn bắt tay tôi, hay ôm tôi. Dĩ nhiên, phần đông họ là phụ nữ. Điều này, luôn tạo ra sự khó xử cho tôi. Các tăng sĩ Nguyên thủy không được đụng chạm đến phụ nữ.
Tôi thường chắp hai tay lại với nhau, mỉm cười, và nói:
- Xin lỗi. Không phải tôi vô lễ nhưng đây là cách chúng tôi, người tu sĩ Phật giáo chào nhau hoặc để tỏ ḷng biết ơn.
Điều này khiến có người bối rối, người th́ đỏ mặt. Số khác lại cảm thấy như bị xúc phạm, quay đi không nói một lời nào. Điều đó luôn khiến tôi cảm thấy buồn. Tôi biết nhiều người nghĩ rằng các vị tu sĩ Phật giáo không đụng chạm đến phụ nữ v́ họ không sạch. Tôi đă từng bị coi là một người kỳ thị giới tính, kiêu mạn, lạnh lùng, e thẹn. Không có điều ǵ đúng.
Tôi tránh đụng chạm phụ nữ không phải v́ tôi nghĩ họ là những sinh vật gớm ghê, xấu xa. Trái lại, phụ nữ là những sinh vật đẹp nhất trên thế giới. Và đó mới chính là vấn đề. Có một câu chuyện về Đức Phật đă giải thích điều đó rất rơ ràng. Có lần khi thị giả của Đức Phật là ngài Ananda hỏi Phật:
- Bạch Thế tôn, người tu sĩ chúng ta phải đối xử thế nào đối với phụ nữ?
- Đừng nh́n họ. Là câu Phật trả lời.
- Nhưng đôi khi chúng ta không thể tránh nh́n họ. Ananda nói. Rồi ta phải làm sao?
- Đừng nói chuyện với họ.
- Nếu hoàn cảnh bắt buộc ta phải tiếp chuyện với họ th́ làm sao, bạch Thế tôn? ngài Ananda tiếp tục hỏi.
- Chỉ nói vắn tắt, một cách đầy chánh niệm. Đức Phật trả lời.
Đức Phật là một người nam, một người đàn ông bằng xương thịt. Ngài hiểu rất rơ rằng không có h́nh ảnh nào, có thể chiếm ngự tâm người đàn ông, bằng h́nh ảnh của một người phụ nữ. Không có lời nói nào, không có hương nào, không có vị nào.
Không có sự tưởng tượng nào có thể chiếm ngự tâm của người đàn ông, giống như là ư nghĩ về một phụ nữ, họ không c̣n có thể nghĩ đến thứ ǵ khác. Khi người nữ nh́n một người nam họ thích cũng giống như thế. Đó là lư do tại sao Đức Phật đă đề ra những giới luật khắt khe, cho cả tăng và ni.
Một tăng sĩ không được đụng chạm đến phụ nữ và nữ tu sĩ cũng không được đụng chạm đến người nam. Khi họ xuất gia, giới luật của người tu sĩ Phật giáo Nguyên thủy là phải nguyện sống đời độc thân. Lời nguyện đó khá khó giữ, nhưng nếu bạn bắt đầu đụng chạm đến người khác giới, th́ gần như không thể nào giữ được.
Một cái ôm hay một nụ hôn nhẹ cũng có thể đánh thức ḷng ham muốn, sự quyến luyến. Mà đó chính là những điều mà chúng tôi cố gắng chế ngự khi chúng tôi đă chọn đi theo con đường của Phật.
Ở hội Bhavana, chúng tôi rất coi trọng các giới luật tu viện. Khách văng lai và các cư sĩ ở chùa được yêu cầu phải giữ tám giới luật, bao gồm ngũ giới cộng thêm một số giới ở chùa nữa là: không ăn sau giờ ngọ, không có những hoạt động t́nh dục, không có những giải trí như xem truyền h́nh hay nhảy múa.
Các giới luật này nhằm bảo vệ hơn là hạn chế chúng ta. Chúng bảo vệ chúng ta bằng cách loại bỏ nhiều hoạt động, khiến chúng ta xao lăng việc tu thiền một cách nghiêm chỉnh.
Tôi luôn cảm thấy rằn, chúng tôi không cần phải giảm bớt các giới luật, để thu hút thêm nhiều người đến trung tâm của ḿnh. Nếu họ cảm thấy giới luật ở Hội khá khắt khe, không muốn đến th́ họ sẽ không đến, như thế cũng không sao. Vẫn có người khác đến.
Người cư sĩ luôn có ḷng tôn kính các giới luật. Khi họ thấy chúng tôi sống ở đây như thế nào, họ rất cảm kích. Họ sẽ chấp nhận các giới luật một cách vui vẻ, dầu cho đó là một khóa tu cuối tuần hay dài lâu.
Họ cũng tán thán việc chúng tôi điều hành hội Bhavana, chỉ dựa vào dana (tiền cúng dường), thay v́ bắt họ phải đóng lệ phí. Không có lệ phí nào cho các hoạt động như thuyết pháp, các khóa tu hay các lễ lạc. Chỉ có một thùng phước sương ở trong pḥng ăn, và một hộp bao thư để cạnh bên. Các vị khách muốn cúng bao nhiêu, tùy hỉ.
Đây là một truyền thống lâu đời như giáo lư của Đức Phật. Dana dịch theo tiếng Pali có nghĩa rộng răi. Phật Pháp luôn được coi là vô giá, v́ thế không thể áp đặt cái giá nào lên đó; nó chỉ có thể được ban tặng, không tính toán.
Ở Mỹ, dĩ nhiên, cái ǵ cũng có giá. Suy cho cùng đây là một nền kinh tế tài chính. Người bán sẽ cho bạn biết sản phẩm của họ giá bao nhiêu, và bạn, là người tiêu dùng phải quyết định sẽ bỏ ra bao nhiêu tiền để mua sản phẩm đó.
Dana, trái lại, có nghĩa rằng bạn, người tiêu dùng, phải tự quyết định rằng một sản phẩm đáng giá bao nhiêu. Bạn tự xét ḿnh muốn trả bao nhiêu, chỉ hy vọng là bạn đă công bằng. Trong nền văn hóa Mỹ, dana là một thông điệp mạnh mẽ. Lần đầu nghe về nó, người ta thường phản ứng với sự lạ lẫm.
Họ khó thể tin rằng toàn thể tu viện và trung tâm thiền đă được xây dựng, dựa trên ḷng tin và sự rộng răi của con người. Sự phụ thuộc của chúng tôi vào dana, ḷng tin rằng chúng tôi sẽ được hỗ trợ khi cần đến, là điều hiếm thấy ở Mỹ, đến nỗi dường như nó đă mở được tâm và trí của mọi người.
Tôi nghĩ rằng họ tin tưởng chúng tôi hơn, v́ rơ ràng chúng tôi không có ư lấy ǵ của họ. Thay vào đó, chúng tôi ban tặng cho họ một điều ǵ đó. Từ lúc ban đầu, tôi cũng rất cương quyết không để Hội Bhavana mang dấu ấn của một nền văn hóa nào.
Tôi không muốn trung tâm này được coi là một chùa Sinhala, hay một trung tâm tu thiền Mỹ hay một thiền đường Nhật Bản. Tôi muốn nó là một nơi mà mọi người thuộc mọi truyền thống, và mọi chủng tộc, nguồn gốc quốc gia, đều cảm thấy thoải mái, tự tại.
Đôi khi điều đó đ̣i hỏi các vị khách của chúng tôi phải uyển chuyển. Phật tử Á châu theo truyền thống không gọi trước hay ghi danh cho các Phật sự ở chùa. Họ ghé đến bất cứ khi nào họ muốn cúng dường, cần tham vấn một tăng ni nào đó, hay cần làm lễ cầu an cho một em bé sơ sinh.
Họ luôn đến chùa vào những ngày rằm. Đối với họ, chùa là một nơi rất tuyệt vời để thư giăn với gia đ́nh và bè bạn. Người Mỹ, trái lại, đ̣i hỏi một không khí có quy củ hơn. Họ luôn hẹn trước khi đến trung tâm. Và vừa đến nơi là họ tham khảo xem thời khóa biểu ở chùa có ǵ, v́ thế họ biết rơ ràng họ phải làm ǵ từng giờ trong ngày.
Họ muốn t́m ở chùa một không khí tĩnh lặng và trầm ngâm. Thời gian mới đầu ở hội Bhavana, khi chỉ có một cánh cửa duy nhất ngăn chia thiền đường và nhà bếp, thường có những sự xung đột văn hóa xảy ra. Người Tây phương th́ im lặng, ngồi nhắm mắt trên chiếu thiền trong thiền đường.
Ở pḥng bên cạnh, một nhóm người Sinhala và Thái tṛ chuyện lớn tiếng trong lúc chuẩn bị bữa ăn thịnh soạn cho các vị tăng ni. Giờ th́ tất cả chúng tôi đều học sống ḥa hợp với những sự khác biệt của nhau một cách dễ dàng hơn, và tôi nghĩ đó là một điều tốt.
Người Á châu bắt đầu ngưỡng mộ sự tinh tấn thực tập thiền quán của người Tây phương, và người Tây phương cũng thán phục tâm chân thật, tốt đẹp, rộng răi của các vị khách người Á châu. Buồn thay, ḷng tôn trọng lẫn nhau quá hiếm hoi trên thế giới này.
Năm 1983, cuộc nội chiến đă bùng nỗ ở Tích Lan. Sự xung đột đă âm ỉ, từ khi đất nước giành được độc lập từ người Anh vào năm 1948. Hai nhóm thiểu số mạnh nhất, người Sinhala (mà đa số là Phật tử) và người Tamil (đa số theo Ấn Độ giáo) lập tức bắt đầu tấn công nhau.
Người Sinhala cho rằng, người Anh đă dành nhiều quyền lợi cho nhóm người Tamil bằng cách xây dựng cho họ trường tốt, cho họ những công việc lương cao. V́ thế, người Sinhala đ̣i được đền bù.
Vào năm 1956, một người Sinhala, tên là Bandaranaike, đă thắng cuộc tranh cữ quốc hội. Vừa vào được quốc hội, ông vận động tuyên truyền, sẽ biến tiếng Sinhala thành ngôn ngữ chính thức ở Tích Lan. Điều đó khiến cho người Tamil nổi giận và làm cho họ cảm thấy bị bỏ rơi.
Một phong trào chống chính phủ bí mật nổi lên trong nhóm người Tamil. Một thanh niên trẻ háo chiến tên là Prabhakaran, kêu gọi những người trẻ tuổi t́nh nguyện đánh bom tự sát. Anh ta tiêu diệt những người lănh đạo Tamil khác mà anh ta coi là kẻ thù của ḿnh.
Năm 1983, nhóm “Những Con Hổ” Tamil của Prabhakaran bắt đầu cuộc tấn công đầu tiên của họ, giết hại mười ba người lính. Để đáp trả, biểu t́nh nổi lên khắp nơi trong xứ. Kể từ đó đă có một cuộc chiến tranh đẫm máu giữa người Sinhala và người Tamil. Suốt gần hai mươi năm của cuộc nội chiến, 65.000 người đă chết.
Cuộc bạo động này đă làm tôi rất buồn, và tôi cố gắng không đứng ở phe nào. Nhưng năm 1983, tôi được biết về 500.000 người tỵ nạn, nhiều nhất là người Tamil, bị kẹt ở các trại tỵ nạn ở miền Bắc Tích Lan. Lúc đó tôi vẫn c̣n ở chùa Phật giáo Washington.
Tôi liền gửi một lá thư đến tất cả thành viên của chùa, kêu gọi họ đóng góp cho quỹ cứu trợ những người tỵ nạn. Rất nhiều người công kích tôi v́ đă ủng hộ người Tamil. Tôi trả lời rằng, tôi không cần biết họ là người Sinhala hay người Tamil, nhưng họ là những chúng sinh đang đau khổ. Chỉ v́ lư do đó, tôi muốn giúp đỡ họ.
Một lần khác, tôi đang giảng Pháp cho một nhóm người Sinhala ở Ottawa. Có người hỏi về ngũ giới. Về giới đầu tiên, cấm sát sinh, tôi nói đó là một giới luật vô điều kiện. Có nghĩa là không được giết hại trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Giới thứ ba (cấm tà dâm) và giới thứ năm (cấm rượu và những chất gây ghiện) là những giới luật có điều kiện, tôi nói. Những giới luật này có thể được uyển chuyển để phù hợp với một vài hoàn cảnh nào đó. Thí dụ, vợ hay chồng có thể hành dục với người hôn phối của ḿnh. Hoặc người ta có thể dùng các loại thuốc có chứa rượu hay uống chút ít rượu nếu điều đó không ảnh hưởng đến chánh niệm.
Nhưng đối với giới thứ nhất, cấm sát sinh, không có điều kiện. Ngay cả khi chúng ta giết hại để bảo vệ bản thân, gia đ́nh ḿnh hay quốc gia ḿnh cũng không đúng. Tôi có thể thấy một vài khuôn mặt cau mày, tỏ vẻ phản đối khi tôi nói như thế.
Sau đó, một người đến nói với tôi:
- Bhante, nếu Sư giảng như thế ở Tích Lan, sư sẽ không sống được đến ngày mai. Kêu gọi bất bạo động là việc không nên làm lúc này ở đó.
Tuy nhiên, ở Mỹ, không phải là quan điểm chính trị gây cho tôi những khó khăn, mà đôi khi chính là chiếc y tôi mặc. Một lần tôi đến viếng một vị bác sĩ người Sinhala giàu có, sống ở St. Louis. Ngoài tôi, vị bác sĩ c̣n mời bốn tăng sĩ khác nữa, để thực hiện một nghi lễ đặc biệt cho ông.
Trước khi buổi lễ bắt đầu, chúng tôi đi ṿng quanh công viên ở phía bên kia đường. Không lâu sau, một chiếc xe cảnh sát đậu tấp vào lề cạnh chúng tôi. Viên cảnh sát bước ra khỏi xe, hỏi chúng tôi đang làm ǵ.
- Chúng tôi đang đi bộ. Tôi nói. Chúng tôi đă làm ǵ sai à?
Vị cảnh sát nói rằng gần đây có một số vụ trộm cắp trong khu vực. Và một người dân cư ngụ trong vùng đă gọi cảnh sát báo rằng, có ba kẻ lạ mặt luẩn quẩn trong công viên. Sau đó viên cảnh sát bắt đầu thẩm vấn tôi một cách cặn kẽ, một cuộc thẩm vấn mà tôi chưa bao giờ phải trải qua như sau:
Tôi từ đâu đến? Tôi làm ǵ ở St. Louis? Tôi đang ở đâu? Đă từng phạm tội ǵ chưa? Tên cha? Tên mẹ? Cha mẹ tôi làm nghề ǵ? Tôi đă lập gia đ́nh chưa? Có con cái không? Ai đă mời tôi đến đây? Tại sao?
Rồi anh ta hỏi thêm tôi cao bao nhiêu, nặng bao nhiêu và có dấu vết ǵ đặc biệt trên người không. Sau đó anh ta c̣n hỏi số an sinh xă hội cũng như xét visa của tôi.
Tôi trả lời tất cả mọi câu hỏi của anh, nhưng thực sự điều tôi muốn làm là chỉ hỏi anh ta một câu đơn giản:
- Ông đă biết bao nhiêu kẻ trộm cướp, mà lại quấn ḿnh trong những chiếc áo vàng rực rỡ, rồi lại rảo bước trong công viên trong một buổi sáng như thế này?
Đôi khi tôi cũng thu hút sự chú ư của các nhân viên bảo vệ an ninh ở phi trường. Suy cho cùng, chắc hẳn là v́ màu da đen và y phục khác thường của tôi. Y của tôi có rất nhiều ngăn, trong đó tôi có thể giấu ma túy hay vũ khí.
Một lần ở Denver, tôi bị một nhân viên bảo vệ tŕ kéo, v́ cô ta không tin ống muối nhỏ tôi mang trong túi thực sự là muối.
- Tôi dùng để súc miệng. Cổ tôi bị viêm. Tôi giải thích.
Cô ta nhất quyết gọi cảnh sát phi trường và một chuyên viên về ma túy. Kết quả là tôi trễ chuyến bay đi Vancouver và phải đợi tám tiếng chờ chuyến bay kế tiếp.
Một lần khác nữa, trở về nhà đến phi trường Dulles sau chuyến đi hoằng pháp ở Âu châu, tôi gặp một người bạn Mỹ. Khi ông đi qua cửa hải quan cùng với tôi. Các nhân viên hải quan nhảy sổ vào chúng tôi.
Bạn tôi bảo với họ, tôi là một tu sĩ Phật giáo trên đường về nhà sau một khoá tu thiền, nhưng họ cứ đoan chắc là tôi tàng trữ cocaine. Chúng tôi phải giải thích rất lâu mới có thể đi qua được.
Trong những trường hợp như thế, trước đây tôi thường giữ im lặng, nhưng giờ th́ tôi cứng rắn hơn. Tôi nói với các nhân viên hải quan rằng, họ không có quyền làm khó dễ tôi, khi mà tôi rất sẵn sàng hợp tác và đồng ư mở tuí xách của ḿnh ra.
- Tôi không có ǵ để che giấu. Tôi luôn nói vậy. Rồi tôi tặng cho các viên chức kia một nụ cười thật tươi và trải ḷng từ bi đến họ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 686 of 1146: Đă gửi: 24 September 2010 lúc 8:49am | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM
Chương Hai Mươi Bảy
Trưởng Tăng Đoàn Nayaka
Khi tôi đến Tích Lan năm 1985, một hội đồng đề cử gồm một số tăng sĩ, đă đề nghị tôi nhận một chức vị danh dự nhất trong tông phái của tôi: danh hiệu của Thượng tọa Trưởng tăng đoàn Nayaka ở Bắc Mỹ.
Nói một cách đơn giản, danh hiệu đó có nghĩa như là trưởng của cộng đồng tăng và ni. Tương đương với chức vị tổng giám mục của bên Thiên chúa giáo. Nó có nghĩa bạn là vị tăng ở thứ vị cao nhất trong tông phái của bạn, ở một vùng nào đó (trong trường hợp của tôi là Mỹ và Canada). Và đó là một tước vị bạn giữ cho đến cuối đời.
Tôi cũng có suy nghĩ về việc đề cử này, nhưng cho rằng danh vị đó không thích hợp cho tôi. Tôi không nghĩ rằng ḿnh đă có đóng góp ǵ to lớn để xứng đáng được nhận danh dự đó. Vả lại, c̣n có một vị tăng trong tông phái của chúng tôi, thuộc hàng trưởng lăo hơn tôi, sống ở California, người mà tôi nghĩ xứng đáng với danh hiệu đó hơn là tôi. V́ thế tôi đă từ chối.
Tháng 3 năm 1996, lúc tôi đang dạy ở Norway, th́ người ta lại đề nghị lần nữa. Cũng nhóm tăng sĩ đó đă điện thoại để hỏi xem tôi có đổi ư, bằng ḷng chấp nhận lời họ đề nghị không. Tôi lại từ chối. Việc đó lại tái diễn, khi tôi đến trạm dừng kế tiếp trên chuyến đi của ḿnh:
khi tôi ở Thụy Điển, họ lại gọi, gia hạn lời đề nghị, và tôi lại từ chối. Khi tôi đến Pháp, lại có một điện báo chờ đợi tôi:
- Xin hăy suy nghĩ lại. Bức điện báo ghi. Tôi không trả lời bức điện báo.
Khi khóa tu kết thúc, tôi trở lại hội Bhavana. Có một vị khách tăng đến từ Tích Lan đang chờ ở đó. Ông đă được gửi đến để trao tận tay tôi lá thư của cái ủy ban quá cương quyết, muốn tôi trở thành trưởng tăng đoàn Nayaka.
Tôi nghĩ có thể đă đến thời điểm. Tôi biết thân quyến và bạn bè của tôi sẽ rất hạnh phúc. V́ thế tôi xuôi ḷng. Tôi đă dự định sẽ đi Úc hoằng pháp mùa hè năm đó. Tôi hứa sẽ dừng lại Tích Lan, trên đường đi, để nhận bằng danh dự đó. Tôi không nghĩ đó là một sự kiện lớn lao ǵ, nên dự tính sẽ chỉ ở đó một ngày.
Tôi đến Tích Lan lúc 1:30 sáng, ngày mùng 4 tháng 7, 1996. Nghỉ qua đêm ở pḥng chủ tịch ở Vidyalankara Pirivena, trường Phật học mà tôi đă ra trường năm 1952.
Sáng hôm sau tôi được đưa đến Kandy, văn pḥng đầu năo của tông phái Siyam Nikaya, của Phật giáo Nguyên thủy ở Tích Lan. Khi đến nơi, tôi kinh ngạc thấy một đám đông khoảng hai trăm người, chờ đợi để đón tiếp tôi, tất cả đều là họ hàng hay bạn bè cũ.
Tôi đă viết thư cho một vài thành viên trong gia đ́nh, để báo với họ rằng tôi sẽ ghé về, nhưng Thượng tọa tiến sĩ Vajira, người tổ chức chương tŕnh, đă viết thư báo cho nhiều người hơn nữa.
Tôi bước ra khỏi xe và nhận ra những khuôn mặt, tôi đă không được gặp bốn mươi năm nay. Nhiều người tôi c̣n không nhận ra được, cho đến khi họ xưng tên họ. Em gái tôi, Sita đă sắp đặt một bữa tiệc trưa thịnh soạn cho tôi và năm mươi tăng sĩ khác, đến từ khắp nơi ở Tích Lan để dự buổi lễ này.
Sau bữa thọ trai, lúc tôi đang cố gắng tiếp xúc với càng nhiều vị khách càng tốt, th́ một vị tu sĩ tiến gần đến để báo rằng người ta đang chờ đợi tôi ở chùa Pahamune, ngôi chùa của thầy của sư phụ tôi. Ở đó, tôi được mời một ly trà và được tặng một chiếc y vàng mới tinh để mặc trong dịp lễ này.
Không lâu sau đó một người đến để báo rằng đă sẵn sàng để tiến hành đám rước. "Đám rước ǵ?" tôi nghĩ. Tôi hoàn toàn không ngờ rằng, những nghi lễ trang trọng như thế đă được xếp đặt cho tôi; ṭ ṃ, tôi bước ra ngoài.
Có một hàng dài khoảng vài trăm người. Tôi hoàn toàn không biết họ là ai, từ đâu đến. Tôi được dặn phải đi ở hàng đầu đám rước, chỉ sau tấm băng rôn to lớn với hàng chữ: "Chào mừng vị trưởng tăng đoàn tông phái Nakya".
Sau lưng tôi là các nhạc công, kẻ đánh trống, người nhảy múa, người thổi cồng, và các đám trẻ ăn mặc đầy màu sắc. Mọi người đều ở trong trạng thái phấn khởi của một buổi lễ hội hoành tráng, tôi cũng nhận ra một vài vị viên chức chính quyền trong đoàn người, kể cả vị Bộ trưởng quốc pḥng.
Đám rước dài hơn nửa cây số, và họ đưa chúng tôi đến sima ở chùa Malwatta. Ở đó, tôi sẽ cúng dường những mâm quà, đến khoảng hơn hai mươi vị cao tăng thuộc tông phái Siyam Nikaya, gần giống như những ǵ tôi đă làm, vào ngày thọ đại giới của tôi bốn mươi chín năm về trước.
Giống như trước, căn pḥng cũng đầy kín người với một sợi dây tḥng xuống giữa pḥng, để ngăn chia giới cư sĩ và tu sĩ. Trời nóng đến nỗi mồ hôi tôi tuôn dầm dề. Tôi lại bị sái giờ giấc và đă ngủ rất ít đêm hôm trước đó.
Mùi hoa nồng nặc trên bàn thờ, cộng với khói nhang dày đặc khiến cho không khí thật ngột ngạt. Tôi hy vọng rằng ḿnh không ngất xỉu ngay lúc đó. Thượng tọa tiến sĩ Vajira trao cho tôi chiếc mâm đầu tiên, bảo tôi mang dâng cho vị Đại Lăo Sư của tông phái, người đang ngồi trên tọa cụ, phía bên phải tượng Phật.
Tôi cầm mâm tiến lại gần vị Đạo Lăo Sư và quỳ xuống trước mặt ông. Bằng giọng khàn đục, ông nói vài lời nhỏ nhẹ về ḷng biết ơn của ông, đối với những công tác Phật sự của tôi.
Sau đó, Thượng tọa Vajira đưa cho tôi từng chiếc mâm một, để tôi mang đến cho mười chín vị tăng c̣n lại, ngồi ở phía bên trái theo thứ tự tuổi tác. Các thầy của tôi đă mất, chỉ c̣n một vị, người đă có mặt ngày hôm đó. Thượng tọa Parawahera Pannananda Nayaka Mahathera. Ông đă tám mươi tám tuổi, đi từ Colombo đến đây để chứng kiến việc tôi được nhận danh dự này.
Khi cúi chào và dâng chiếc mâm lên cho ông, tôi thấy mắt ông ngấn lệ. Mắt tôi cũng mờ lệ. Sau khi tôi ngồi xuống, thầy thư kư mở một ống màu bạc và lấy ra văn bản chứng nhận với tên tôi là Trưởng Tăng Đoàn Nakya.
Ông đọc lớn bằng cả hai thứ tiếng Sinhala và tiếng Anh, rồi yêu cầu tôi bước ra phía trước để nhận lănh văn bản đó từ tay vị Đại Lăo Sư. Vài vị tăng đọc diễn văn bằng tiếng Sinhala. Vị bộ trưởng quốc pḥng cũng nói vài lời, trước khi được các vệ sĩ của ông hộ tống ra về. Và rồi buổi lễ kết thúc.
Đám đông bao quanh tôi để chúc tụng. Mười phút sau, tôi được đưa ra xe và chở về chùa Chiếc Răng, nơi chúng tôi sẽ cử hành một nghi lễ đặc biệt. Tôi được phép chiêm ngưỡng xá lợi Phật, trước khi dâng cúng lên Đức Phật một mâm bạc đầy hoa tươi.
Nhiệm vụ cuối cùng trong ngày đó của tôi, là đến đảnh lễ vị trưởng lăo của một tăng đoàn khác, thuộc tông phái chúng tôi. Ông cũng bày tỏ sự vui mừng v́ tôi được nhận danh dự này, và tôi cúng dường ông một chiếc y mới.
Rơ ràng là tôi phải ở lại Tích Lan hơn một ngày, v́ thế tôi ḥa ḿnh chung vui với bạn bè, gia quyến, và các huynh đệ đồng tu. Ngày hôm sau, những cuộc tiếp đón khác lại diễn ra, mỗi lần ở một nơi khác. Trong bốn ngày, có đến bảy buổi lễ tất cả, tôi cứ phải đi từ nơi này đến nơi khác, bất cứ đâu mà người ta đưa tôi đến.
Một trong những buổi lễ diễn ra ở Vidyalankara Pirivena, ngôi trường cũ của tôi, gần Colombo. Ở đó, chúng tôi được đón tiếp bằng một ban nhạc nổi tiếng, chỉ biễu diển ở các buổi lễ của tiểu bang. Thủ tướng, Bà Sirimavo Bandaranaike, trao cho tôi bằng khen.
Một buổi lễ khác diễn ra ở chùa nơi tôi lần đầu xuất gia. Ở đó cũng có một đám rước dành cho tôi. Vị thầy giáo thời xưa ở làng Malandeniya cũng có mặt, giờ ông đă rất lớn tuổi, ông biết tôi từ khi tôi c̣n là chú tiểu.
Ông đă đi bộ suốt khoảng đường diễn hành, cạnh bên chiếc xe tôi đi, vịn vào xe và nói chuyện với tôi qua cửa sổ mở. Tôi mời ông lên xe ngồi với tôi, nhưng ông từ chối. Sau đó tôi nói, tôi sẽ xuống đi bộ với ông, nhưng ông cũng không nghe.
Một đêm người ta tổ chức lễ tụng kinh suốt đêm cho tôi, ở một chùa ngoại ô Kandy. Tôi không tham dự; mà chỉ lắng nghe. Mười hai vị tăng tụng kinh cầu an cho tôi. Tôi đă tụng những bài kinh này quá nhiều lần trong đời, để cầu an cho người khác, giờ tôi là người được cầu nguyện cho, tôi không khỏi có cảm giác bỡ ngỡ.
Suốt năm ngày lễ hội, tôi rất cảm động khi có nhiều người tỏ ḷng trân trọng công việc tôi làm, dầu phần lớn các công việc đó không xảy ra ở Tích Lan. Suốt bốn mươi lăm năm, tôi đă dốc hết sức lực của ḿnh để hoằng pháp ở những xứ sở xa lạ, không phải quê hương của tôi.
Nhưng tôi đă nghe nhiều vị trưỏng lăo tăng, khuyến khích các đệ tử trẻ của họ noi theo gương tôi, học sinh ngữ để có thể đi hoằng pháp ở nước ngoài, đem lại danh dự cho Phật giáo và Tích Lan.
Tuy nhiên tự hào là một việc nguy hiểm. Đó là một sự bám víu mạnh mẽ và khó chế ngự. Để chiến thắng nó, tôi luôn nhắc nhở ḿnh rằng trong suốt những năm qua, tôi chỉ cố gắng sống theo Pháp và giảng Pháp cho người khác, càng nhiều càng tốt. V́ thế, thật ra không có ǵ để tôi phải tự măn.
Buổi tiếp đón cuối cùng là ở làng quê của tôi, Henepola. Được tổ chức trong giảng đường của chùa. Người vợ góa của anh Rambanda cũng có mặt, với bốn đứa con. Một trong những người cậu của tôi cũng đến, cùng với các cháu nội ngoại của ông.
Ba chị em gái của tôi, Bisomanike, Bandaramenike và Sita Ekanayaka, và con cái của họ cũng đă đến Kandy để chứng kiến buổi lễ hoành tráng, nơi tôi chấp nhận danh hiệu Trưởng Tăng Đoàn Nayaka. Nhưng tôi nghĩ buổi họp mặt đơn giản ở ngay tại làng quê của chúng tôi, mang nhiều ư nghĩa hơn đối với tất cả chúng tôi.
Một vị bô lăo ở Henepola đứng lên chào đón khách và tôi phải khó khăn lắm mới nhận ra ông. Ông tám mươi ba tuổi, tên là Puncibanda, trùng hợp một cách ngẫu nhiên với tên cha tôi.
- Tôi nhớ lại khi giảng đường này được xây lên. Ông nói, giọng đứt quăng v́ xúc động. Chính là cha của Bhante Gunaratana đă xây nó. Không ai có dụng cụ máy móc vào những ngày đó, mà cũng không có nơi nào để mua gỗ tốt. Chúng tôi chỉ có những viên gạch thô sơ, tự làm tại nhà.
Nước mắt lăn dài trên gương mặt vị bô lăo.
- Nhưng chùa cần một giảng đường. Chúng tôi không có nơi nào trong làng để mọi người có thể tụ họp, v́ thế ông Puncibanda đă xây dựng nơi này cho chúng tôi. Ông ấy đă xây khéo đến nỗi cho tới ngày nay, bảy mươi lăm năm sau, nó vẫn c̣n trụ vững.
Và hôm nay chúng ta danh dự được có mặt ở đây để đón tiếp con ông ấy, người đă xuất gia, đă đi thật xa để truyền bá Phật Pháp, và đă giành được danh dự lớn lao này.
Các chị em gái của tôi lúc đó đều khóc. Tôi cũng cảm thấy một nỗi nghẹn ngào trào dâng trong ḷng, nhưng tôi cố kiềm chế lại. Dĩ nhiên, người tu sĩ cũng có thể và cũng khóc. Đại đức Ananda, vị thị giả của Đức Phật, đă khóc khi sư phụ người tịch diệt.
Chính tôi cũng đă khóc mấy ngày trước đó, khi dâng chiếc mâm bạc lên vị thầy già yếu của ḿnh. Tôi cũng đă khóc ở đám tang của cha mẹ tôi, và ngay cả, như tôi đă kể, khi đọc bài diễn văn nói về mẹ tôi.
Tuy nhiên lần này, tôi là Trưởng Tăng Đoàn Nayaka. Chỉ cần nói lên danh hiệu đó, cũng gợi trong ḷng người ta niềm kính trọng, và đó là một danh hiệu tôi sẽ giữ cho đến cuối đời.
Tôi muốn sống cho xứng đáng với ngày trọng đại đó và cũng để trân trọng những người đă dành cho tôi vinh dự này. Tôi muốn nâng niu sức mạnh và sự hoàn mỹ của một truyền thống 2,500 năm tuổi. Dầu vậy, mắt tôi cũng mờ lệ. Tôi không thể kiềm chế ḿnh.
Suy cho cùng, tôi cũng chỉ là một đứa con. Một đứa con đă trở về quê hương ở Henepola.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 687 of 1146: Đă gửi: 24 September 2010 lúc 8:58am | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH ĐẾN CHÁNH NIỆM
Lời Cuối
Năm nay tôi đón sinh nhật thứ bảy mươi lăm của ḿnh. Khi nh́n lại quăng đời ḿnh đă trải qua, tôi bàng hoàng. Bảy mươi năm trước, tôi là một cậu bé đi chân không, sống trong một ngôi làng rậm rạp cây, trên một ḥn đảo ở Ấn Độ Dương.
Cậu bé đó thường ngồi vẽ tranh dưới cát bằng một que cây. Hôm nay tôi là một tu sĩ có tŕnh độ học vấn sau tiến sĩ, với hàng ngàn dặm đường bay đă được tích lũy và một chiếc máy vi tính xách tay G4 loại mạnh, xếp trong hành lư xách tay của ḿnh.
Tôi có bạn bè và đệ tử ở khắp nơi trên thế giới và lục địa duy nhất mà tôi chưa đến là vùng Nam Cực. Quyển sách đầu tiên của tôi, Chánh Niệm Cơ Bản (Mindfulness In Plain English), đă được dịch sang tiếng Trung Hoa, Đại Hàn, Tây Ban Nha, Ư, Đức và Pháp.
(ND: Sư Gunaratana chưa biết là quyển sách ấy đă được dịch sang cả tiếng Việt Nam, tựa là Chánh Niệm - Thực Tập Thiền Quán, dịch giả Nguyễn Duy Nhiên).
Tôi nói điều này không phải để khoe khoang, nhưng để chứng minh rằng, người ta có thể đạt đến những mục tiêu cao xa, khi họ được trang bị với ḷng quyết tâm và nghiệp lành. Và tôi thực sự tin rằng, rất nhiều cuộc hành tŕnh và nhiều sự thành tựu của tôi, có được là do nghiệp quả từ nhiều đời trước của tôi.
Nhưng tôi cũng luôn tự thôi thúc để hoàn thiện ḿnh hơn. Nh́n lại cuộc đời ḿnh, tôi cảm thấy giống như, lúc đầu tôi là một người đi đứng khó khăn. Rồi người này cố gắng một cách chậm răi, khốn khổ để bước vài bước tới.
Dần dần khi đă vững vàng hơn trên đôi chân, anh ngước nh́n lên và thấy một ngọn đồi cao ba, bốn chục mét trước mặt. V́ thế anh cố trèo lên. Rồi anh ta lại thấy một ngọn đồi khác cao hơn chút nữa, sáu chục mét. Anh cũng đă trèo lên ngọn đồi đó nữa.
C̣n nhiều ngọn đồi nữa tiếp theo sau. Mỗi ngọn lại cao hơn ngọn trước đó, và anh tiếp tục leo lên tất cả, từng cái một. Dần dần anh thấy ngọn núi cao nhất chưa từng thấy trước đó, vĩ đại, hùng vĩ. Anh hít thở thật sâu vào, đặt chân này trước chân kia, rồi lần bước tới.
Khi đến trên đỉnh núi, anh nh́n quanh và thấy những đỉnh núi khác nữa. Cuối cùng, anh nhận ra rằng, ḿnh đă không c̣n sức để tiếp tục trèo lên nữa. Giờ khi đă đạt đến thế kỷ thứ tám của ḿnh, tôi nghĩ rằng tôi sẽ nghỉ ngơi chút đỉnh. Tôi có thể đợi đến kiếp sau để trèo lên những ngọn núi c̣n lại.
Dĩ nhiên, tôi vẫn c̣n phải vượt qua ngọn núi cao nhất. Tất cả những ǵ tôi đă vượt qua đều không đáng kể, so với ngọn núi ở phía trước mặt, đỉnh núi vô cùng tận, sự giác ngộ viên măn, toàn diện, siêu việt.
C̣n trong lúc này đây, cuộc sống vẫn c̣n đầy thử thách. Một trong những bổn phận của tôi là phải giữ giới luật của một người tu, khi c̣n sống trong thế giới phàm tục. Khi tôi du hành, người ta dành cho tôi những tiện nghi vượt bực.
Tôi ở trong những khách sạn năm sao hay những biệt thự sang trọng, có hồ tắm được xây ngay trong đại sảnh. Những người giàu sang lái xe đưa tôi đi trong những chiếc Bentley hay Porsche của họ. Có lần tôi c̣n được đón trong một chiếc Rolls-Royce màu trắng, mui trần, và một lần khác, trong một chiếc trực thăng của tư nhân.
Dầu người ta cố gắng dành cho tôi nhiều vinh dự, nhưng tôi cảm thấy rất bức xúc khi thụ hưởng tất cả những sự sang cả này. Người tu sĩ phải sống đời đơn giản. Không rườm rà, không đ̣i hỏi ǵ hơn những nhu cầu tối thiểu.
Vậy mà đôi khi tôi phải nằm trên những chiếc giường quá ấm êm, đến nỗi tôi phải bí mật lấy mền, trải ra trên thảm ngủ, với hy vọng rằng các vị chủ nhà không bao giờ khám phá ra được điều ấy.
Nhiều bạn bè, thân quyến của tôi vẫn c̣n sống ở Tích Lan. Họ vẫn c̣n phải đi trên những sàn nhà làm bằng phân ḅ, giống như tôi đă từng trải qua trong thời thơ ấu. Tôi nghĩ về họ khi ngồi trên những chiếc ghế hạng nhất êm ái trên các chuyến bay, và tôi không cầm được nước mắt.
Mặc dầu tôi đă cố gắng giảm bớt các chuyến du hành những năm gần đây, nhưng những lời mời đến dạy và hướng dẫn các khóa tu thiền vẫn đến từ khắp các nước trên thế giới. Những nơi như, Canada, Brazil, Malaysia, Singapore, Úc, Scandinavia, Âu châu, tôi đi gần như hàng năm. Dấu thông hành đến các nước được đóng đầy trong hộ chiếu tôi từ rất lâu rồi.
Năm 1977, tôi trở thành công dân nước Mỹ, v́ thế Mỹ giờ đă trở thành quê hương. Tôi đă thơa mản ước nguyện được giảng Pháp bằng thứ ngôn ngữ được sử dụng nhiều nhất trên thế giới. (ND: tiếng Anh).
Hội Bhavana, cũng như các trung tâm thiền khác, cũng có những khó khăn riêng của nó: sự cúng dường không đều đặn, những xung đột nội bộ, những kẻ lang thang ghé qua, xin ở lại, rồi ra đi với sổ tiết kiệm của chùa hay chiếc xe của cộng đồng.
Nhưng những người trong ban điều hành của Hội vẫn rất hài ḷng với những thành tựu mà Hội đă đạt được. Năm 1997, chúng tôi đă xây được một thiền đường thật khang trang, nhờ vào sự cúng dường đóng góp gần $150.000 đô của các nhà bảo trợ người Thái ở Mỹ và ở Thái Lan.
Thiền đường là một công tŕnh kiến trúc thật đẹp mắt, gần giống các vương cung thánh đường với những cây xà bằng gỗ thông vàng trông như bộ sườn của một chú cá voi. Một tượng Phật đồ sộ, nặng hơn ba trăm kư, ngồi trên ṭa cao dưới một cửa sổ bằng kính khắc họa.
Các cửa sổ đều được khắc h́nh lá Bồ đề, gợi nhớ đến loại cây đă che chở cho Đức Phật khi Ngài ngồi thiền định trong đêm Ngài đạt được giác ngộ. Tôi hy vọng rằng điều này sẽ mang đến nhiều cảm hứng cho những ai đến đây tu hành.
Thiền đường cũng có những tiện nghi vật chất khác: Ngay cả trong những mùa đông khắc nghiệt của West Virginia, các thiền sinh cũng được sưởi ấm bằng những ống dẫn nước nóng dưới sàn nhà.
Tôi đă thực hiện nhiều lễ xuất gia ở hội Bhavana cho cả nam và nữ cư sĩ. Một số là Á châu; c̣n lại phần đông là người Tây phương. Một số vẫn sống đời tu sĩ; số khác đă hoàn tục.
Có khoảng hai mươi thất ở rải rác trong rừng trên đất của chúng tôi, và chúng tôi đă xây cũng như làm mới lại nội điện để các thiền sinh có thể ở lại, tổng cộng là chín ṭa nhà. Có thể chứa đến sáu mươi khách ở lại qua đêm.
Tôi cảm thấy cuối cùng tôi đă thực hiện được cách sống mà tôi đă phác họa ra cho những năm cuối đời ḿnh. Tôi không c̣n phải sửa chữa các ống nước bị nhiễu, làm đệm tường, hay cắt cỏ. Tôi không phải lái xe hay phải cân bằng sổ sách. Có người ở quanh tôi để làm các chuyện đó.
Tất cả tác quyền từ các sách của tôi, và tiền cúng dường của thiền sinh trong các khóa tu thiền, tôi đều bỏ cả vào tài khoản ngân hàng của hội Bhavana. Vào ngày sinh nhật tôi và các ngày lễ, tôi thường nhận được các ngân phiếu cúng dường từ bè bạn và thân quyến.
- Bhante, hăy dùng tiền này cho riêng sư. Họ nói. Đừng bỏ vào quỹ hội Bhavana.
Tôi chỉ mỉm cười, cảm ơn họ, rồi bỏ tất cả vào tài khoản của hội Bhavana. Đó là việc phải làm. Tôi là tu sĩ; tôi không có tài sản. Tôi sẽ ra đi như tôi đă đến trong thế giới này, không có sở hữu. Tài sản mà ta thực sự sở hữu chính là nghiệp của ḿnh.
Tôi không thể tưởng tượng ra một cuộc sống nào khác cho ḿnh hơn là cuộc sống như thế này của một tu sĩ, và được hoằng Pháp. Tôi được sinh ra để làm Phật sự đó, và tôi cảm thấy rất hàm ân v́ có duyên lành để làm thế.
Tôi đă được tiếp xúc với những người nghèo nhất trong các người nghèo, cũng như giàu nhất trong các người giàu, những người nổi tiếng, những kẻ hạ tiện, những người thánh thiện và những kẻ ác độc.
Qua tất cả, tôi đă nhận thức được rằng không có ǵ quan trọng bằng việc có thể nh́n thấy được Tứ thánh đế trong tất cả mọi thứ ở quanh ta. Tham, sân và si chế ngự cuộc sống của con người. Chúng ta phải cố gắng tu hành tinh tấn để chế ngự được những uế nhiễm này nếu chúng ta muốn chấm dứt khổ đau.
Pháp Phật luôn che chở cho tôi, là cánh dù trong những cơn băo tố. Đó là chỗ nương tựa mà chúng ta lúc nào cũng có thể quay về, nếu chúng ta nhớ được thế.
Tôi mong rằng bạn cũng sẽ t́m được chỗ nương che cho cuộc đời của ḿnh giống như thế.
Bhante Henepola Gunaratana
Dịch giả : Diệu Liên Lư Thu Linh
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 688 of 1146: Đă gửi: 12 October 2010 lúc 11:34am | Đă lưu IP
|
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 689 of 1146: Đă gửi: 13 October 2010 lúc 10:03am | Đă lưu IP
|
|
|
NHÂN GIAN DU KƯ
Ư CHỈ
Tiên Cô Nguyên Quân
Giáng
Thơ
Đại đạo uyên nguyên bố hảo âm
Thánh Hiền chư tử cứu thế cần
Tịch diệt tam độc siêu phàm giới
Tái ban thiên thư nhất phiên tân.
Dịch
Đạo lớn cội nguồn trải khắp nơi
Thánh Hiền đệ tử cứu muôn người
Tham sân trừ sạch hồn siêu thoát
Nay được ban thêm cuốn sách trời.
Đức Thánh dạy: Đêm nay ta phụng mệnh đức Lăo Mẫu Vô Cực mang Ư Chỉ xuống tuyên đọc, thần nhân phủ phục. Kính cẩn vâng lệnh chiếu chỉ của đức Lăo Mẫu khuyên răn :
“Mẫu ngụ tại cung Dao Tŕ, v́ tưởng nhớ tới con đỏ nên thấy cảnh đời điên đảo, đạo lư suy đồi ḷng Mẫu vô cùng đau đớn, cho nên vận trời vào ngày mồng một, tháng năm, năm Kỷ Mùi (1979) mới triệu tập mở thánh hội Tam Tào tại cung Vô Cực, và đă đồng quyết nghị ban bố ba bộ sách trời là :
1. Địa Ngục Du Kư: Tôn chỉ chuyên trừng phạt tội ác để khuyên răn làm điều thiện.
2. Thiên Đàng Du Kư: Nhằm khuyên người đời gắng công quả, lập đức cùng tu tâm sửa tính.
3. Nhân Gian Du Kư: Cốt khuyên thế nhân làm điều lành để hiểu rơ mệnh trời mà quy y.
Mệnh trời lớn rộng, do đó phải chịu sự khảo đảo để thử hỏa hầu, kẻ luyện chí không thối lui mới có thể lănh mệnh. Nay Thánh Hiền Đường đă trải qua nhiều năm tháng tẩy rửa đăi lọc, nửa năm nay lại bị nạn ma quỷ hoành hành mà vẫn không sờn ḷng nản chí, nên mới được lănh sứ mệnh lớn lao.
Ḷng Mẫu giờ đây vô cùng sung sướng, đặc biệt ban Ư Chỉ để Phật Sống Tế Công được phép hướng dẫn bút trời Thái Sinh, dạo cơi nhân gian viết thành cuốn sách với tựa đề là Nhân Gian Du Kư, vô cùng kỳ lạ chưa từng thấy, nó quả là cuốn sách trời thấu suốt, cùng hợp làm một được cả ba cơi Đất Trời Người, truyền thống đạo pháp từ đây hẳn là sẽ lưu truyền muôn thuở.
Hy vọng chư đệ tử của Thánh Hiền Đường giữ bền được tinh thần v́ đạo tốt đẹp này măi măi, mười năm như một ngày, từ trước tới sau gắng vượt mọi gian lao khổ cực, ngày viết xong sẽ xét công tưởng thưởng”.
Kính vâng không một phút giây sao lăng, cúi đầu tạ ơn.
Vận trời ngày 6 tháng 8 năm Tân Dậu (1981)
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 690 of 1146: Đă gửi: 13 October 2010 lúc 10:13am | Đă lưu IP
|
|
|
NHÂN GIAN DU KƯ
NGỌC CHỈ
Kim Khuyết Nội Tướng Họ Từ
Giáng
Thơ
Thiên thư nhất bộ giáng phàm gian
Du Kư chân quyển luyện thánh đan
Tam tào phổ độ kiến kỳ tích
Tái ban bảo thư đạo tử tham.
Dịch
Báu kinh một bộ giáng phàm gian
Du Kư bao thiên luyện thánh đan
Tam tào cứu khổ c̣n lưu dấu
Sách quư ban thêm đệ tử xem.
Đức Thánh dạy: Đêm nay ta phụng mệnh mang Ngọc Chỉ xuống tuyên đọc, thần nhân phủ phục :
“Trẫm ngự tại điện Linh Tiêu ḷng hằng lo lắng thế đạo, thấy chúng sinh khắp ba cơi chỉ biết coi trọng khoa học kỹ thuật mà sao lăng luân thường đạo đức tới nỗi nam thiếu trung hiếu, nữ thiếu tiết trinh, cho nên chư Tiên Thánh Phật không nỡ để đồng bào đọa lạc, nguyên linh đồ thán.
Cho nên nhân mệnh trời ngày mồng một, tháng năm, năm Kỷ Mùi (1979) mới triệu tập khai mở thánh hội và đă đồng thanh quyết nghị hoàn thành các sách Địa Ngục, Thiên Đàng và Nhân Gian Du Kư để ban bố khắp cơi nhân gian.
Hai trong ba bộ sách này là Địa Ngục, Thiên Đàng Du Kư đă sớm được truyền bá ở thế gian, nhưng những tác phẩm tương tự như thế không thiếu chi, duy sách Nhân Gian Du Kư là bộ sách lạ hiếm hoi, v́ phải là người có đại lực phát tâm nguyện mới đảm trách nổi.
Cho nên chư đệ tử Thánh Hiền Đường trải qua nửa năm chân thành chịu đựng sự trui rèn phi thường của đạo, giờ đây sự khảo đảo đă chấm dứt, đạo quả phi phàm, tinh thần giữ đạo đă đạt mức rễ sâu gốc vững.
Ḷng Trẫm vô cùng sung sướng, đặc biệt ban lệnh phát hành sách Nhân Gian Du Kư, để làm phương pháp tu tŕ hầu đạt sự quán thông ba cơi Đất Trời Người. Mệnh lớn đă ban như vậy, ngày Ngọc Chỉ tới, mỗi khi lập đàn cơ ra lệnh Phật Sống Tế Công hướng dẫn thiên bút Thái Sinh, dạo cơi nhân gian viết thành cuốn kinh báu thế gian chưa từng có, ban tặng cho đời để các hành giả làm phương châm tu tŕ.
Mong chư đệ tử Thánh Hiền Đường dốc chí, dốc lực, một dạ trung thành thực hiện, ngày sách hoàn thành sẽ xét công tưởng thưởng, chớ căi lệnh Trẫm”.
Kính vâng không sao lăng, cúi đầu tạ ơn.
Vận trời ngày mồng 6 tháng 8 năm Tân Dậu (1981)
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 691 of 1146: Đă gửi: 13 October 2010 lúc 10:16am | Đă lưu IP
|
|
|
NHÂN GIAN DU KƯ
Thái Thượng Vô Cực Hỗn Nguyên
Giáo Chủ Nguyên Thủy Thiên Tôn
Giáng
Tựa
Phàm chân lư được duy tŕ là nhờ hành giả kiên nhẫn giữ ǵn đạo đức. Người đời v́ mê hoặc nên phần đông bỏ thanh tịnh chạy theo động loạn, khiến bị sóng tửu sắc cuốn trôi vào biển khổ trầm luân, những kẻ sa cơ lỡ bước này kể sao cho xiết.
Nay đệ tử Thánh Hiền Đường chịu khổ cực phát tâm ấn hành tạp chí Thánh Hiền, là cốt mong cứu độ chúng sinh bị đọa đày sớm vượt thoát được biển khổ mà tới bờ giác ngộ, nhờ vậy nay mới được hưởng ơn trời sâu rộng, qua việc thiết lập đàn cơ phụ đồng trước tác ba bộ sách.
Thần và người đă tốn hao bao tâm huyết, sau khi Tế Phật hướng dẫn Thái Sinh dạo thăm, th́ những điều bí ẩn về thiện ác nhân quả nơi chốn trần ai, được thuật lại tỏ tường, để làm tấm gương sáng cho nhân loại soi chung mà thức tỉnh, hầu thấy rơ bản ngă chân thật của ḿnh, xa rời ngả tối tăm quay về nẻo sáng.
Trải hơn một năm sách viết mới xong, chân lư đạo người được bày tỏ không chút giấu giếm, ta mong người đời hăy chăm chỉ đọc sách này, để cho thân tâm chính định, đạo tâm phấn chấn, từ bỏ điều ác chuyên làm điều thiện. Đó là lời tựa.
Nguyên Thủy Thiên Tôn giáng cơ đề tựa.
Vận trời ngày 26 tháng 10 năm Nhâm Tuất (1982)
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 692 of 1146: Đă gửi: 13 October 2010 lúc 10:19am | Đă lưu IP
|
|
|
NHÂN GIAN DU KƯ
Chủ Tịch Bản Đường Văn Hành Thánh Đế Họ Từ Đăng Đài
Tựa
Kể từ khi tạp chí Thánh Hiền Đường bắt đầu phổ biến tới nay, thấm thoát đă gần bảy năm, sách hay kinh quư cũng phát hành nhiều vô kể, v́ thời kỳ mạt pháp, vật dục ngập tràn tinh thần sa đọa, đó là trách nhiệm cùng sứ mệnh trọng đại của bản đường.
Ba bộ sách trời này đă hoàn tất, song sách lạ Nhân Gian Du Kư từ trước tới giờ chưa từng có, Tế Phật cùng Thái Sinh đảm nhận trọng trách mới hoàn tất đúng kỳ hạn, mắt nh́n bạn đạo Thánh Hiền Đường ḷng vui chan chứa nỗi niềm, vô cùng cảm kích biết làm sao tỏ, bản thân lại được giữ chức chủ tịch bản đường biết bao vinh hạnh.
Để lưu lại hậu thế, bản đường ra sức khôi phục cùng hoằng dương tinh thần văn hóa cố hữu Á Đông, thần và người cùng coi sóc, ngăn cản gió tham dục xa xỉ không cho lan tràn, xóa sạch mọi tai họa lớn của nhân loại.
Mong chư đệ tử Thánh Hiền Đường tiếp tục giữ bền được tinh thần hy sinh lúc ban đầu, để phát được tâm nguyện “Lo trước cái lo của người đời, vui sau cái vui của người đời” (Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc).
Để rồi sau đó c̣n phải luôn luôn nỗ lực phổ biến giáo hóa đại đạo, hầu giúp chúng sinh dưới gầm trời cải tà quy chính, thức tâm tu đạo để rồi ra sức lập công lập đức, ngày sau công thành quả măn cùng lên cơi trời. Đó là lời tựa.
Chủ tịch bản đường Quan Hưng kính đề.
Vận trời ngày 26 tháng 10 năm Nhâm Tuất (1982)
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 693 of 1146: Đă gửi: 13 October 2010 lúc 10:22am | Đă lưu IP
|
|
|
NHÂN GIAN DU KƯ
Ngọc Hư Đồng Tử Đăng Đài
Tựa
Hoằng dương đạo đức đó là trách nhiệm của mỗi người, văn hóa Á Đông quyết chí phát huy. Sách Nhân Gian Du Kư là sách lạ hiếm có trong số những sách trời của ba cơi, lời lẽ sâu xa ngọt ngào, lư luận rành rẽ sáng sủa, tŕnh bày rộng răi các giáo pháp, văn tự đối đáp câu nào câu nấy rất là đẹp đẽ siêu diệu.
Khiến trở thành những châm ngôn tu đạo chân chính, quả xứng đáng là một pho sách thánh, người đời đọc xong ắt tin theo những điều chỉ dạy. Suốt một năm ṛng trải qua biết bao đắng cay gian khổ, cuối cùng nay sách đă xong, nhân ngày giao hoàn Ngọc Chỉ.
Tôi có đôi lời tỏ bày là trong suốt thời gian trước tác sách này, từ thần tới người đều đă phải hết sức phấn đấu, không dám một chút buông lơi, do đó hiện tại sách mới hoàn tất cùng phổ biến khắp cơi nhân gian.
Tôi hy vọng những ai xem sách này đều sẽ chăm lo tu tiến, và sẽ vượt được sông mê tới bờ bến giác. Đó là lời tựa.
Ngọc Hư Đồng Tử ngồi đàn cơ kính đề.
Vận trời ngày 26 tháng 10 năm Nhâm Tuất (1982)
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 694 of 1146: Đă gửi: 16 October 2010 lúc 2:03am | Đă lưu IP
|
|
|
NHÂN GIAN DU KƯ
HỒI MỘT
NGHĨA CHƯƠNG ĐẦU, TẾ PHẬT THUYẾT NHÂN DUYÊN
DẠO HỒI MỘT, THÁI SINH TÂM THANH TỊNH
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 13 tháng 8 năm Tân Dậu (1981)
Cơ giáng: Pḥ thiên bút
Thơ
Phổ độ nguyên linh phí khổ tâm
Thiên đàng địa ngục bất từ hành
Tân thư ban mệnh tốc khai trước
Nhân Gian Du Kư sướng thế t́nh.
Dịch
Cứu rỗi nguyên linh chịu khổ tâm
Thiên đàng địa ngục quyết đi tầm
Lệnh ban sách mới mau hoàn tất
Dạo cơi nhân gian tả nỗi niềm.
Tế Phật: Ẩn náu một thời gian, đêm nay Thánh Hiền Đường lại phụng chỉ viết sách mới quả là đại sự, tṛ ngoan ơi! Cảm tưởng của con thế nào?
Thái Sinh: Mệnh lớn tới, con bàng hoàng kinh hăi, thưa ân sư, không hiểu liệu có lo tṛn nổi phận sự chăng?
Tế Phật: Tṛ ngoan này, con chớ quá lo lắng, việc tới sẽ tự nhiên thành.
Thái Sinh: Trước đây ân Chủ Tịch đă từng bày tỏ là soạn sách Nhân Gian Du Kư phải hết sức tránh sự nghi hoặc của người đời, hiện tại không rơ việc đó sẽ ra sao, kính xin ân sư chỉ giáo cho?
Tế Phật: Việc này vốn là sự bí mật của Thiên Cơ, vả lại hiện giờ nó đă trở thành chuyện dĩ văng, thầy sẵn sàng miêu tả lại việc đó như sau để giúp con thấu tỏ :
“Ngày mồng một tháng giêng năm nay là ngày lành tháng tốt, v́ nhằm ngày thánh đản của đức Nguyên Thủy Thiên Tôn, tất cả Thánh Thần tại cơi trời sẽ tựu hợp tại cung Vô Cực, mở hội nghị lâm thời để thảo luận về ba bộ sách kỳ lạ của ba cơi Đất, Trời, Người là Địa Ngục, Thiên Đàng và Nhân Gian Du Kư.
Hai cuốn trên đă phổ biến khắp nhân gian, duy chỉ c̣n cuốn thứ ba là Nhân Gian Du Kư hiện chưa phát hành, có lẽ mà v́ thế hiện giờ đă tới lúc tuyển chọn xem đạo tràng nào có thành tích xứng đáng để giao phó việc trước tác, th́ đồng thời được biết đệ tử Thánh Hiền Đường đă từng phát đại nguyện cứu nhân độ thế.
Song sách quá phi thường thật là kỳ diệu hiếm có, nên cần phải tuyển cho kỳ được tu sĩ và đạo tràng có đại nguyện lực mới có thể trừ khử phần tạp nhạp, lưu giữ phần tinh túy để được ban chỉ trước tác, c̣n không sợ rằng khó đạt thành sứ mệnh và làm hỏng đại cuộc.
Ngay lúc đó chủ tịch họ Quan của Thánh Hiền Đường dâng đề nghị là “Nghiệp đạo của tệ đường đă thấy huy hoàng, thần và người đều rơ, nếu như lại ban trách nhiệm trước tác Nhân Gian Du Kư cho tệ đường, tệ đường nguyện chấp nhận mọi sự khảo đảo để rèn luyện ư chí”.
Đức Kim Mẫu lúc đó nét mặt và lời nói biểu lộ vẻ hiền từ, phán dạy: “Hay lắm, hay lắm, họ Quan con của Mẫu chỉ v́ đạo mà chẳng ngại khó khăn do đó đă phát tâm, nguyện v́ chúng sinh hiến dâng tất cả, lại c̣n thề một ḷng chịu đựng mọi thử thách để mong tôi rèn tâm trí.
Trải qua nửa năm khảo luyện đạo chí, Thánh Hiền Đường sẽ bị người phỉ báng, bị ma quỷ quấy phá quá nhiều, nào như mượn danh phá đạo, lộng giả thành chân, thấy lợi nảy ḷng tà, tham lam tiền bạc, tâm của các đạo hữu đều biến thành tâm ma quỷ.
Các đệ tử Thánh Hiền Đường bị khảo luyện đến như vậy, thử hỏi liệu họ Quan con của Mẫu có thể chịu đựng nổi không?”.
Chủ tịch họ Quan khẳng khái tâu lên: “Danh lợi vốn là nguyên nhân cản trở làm băng hoại đạo, song những đệ tử chân tu của bản đường chẳng thiếu, nên dù có bị khảo đảo thêm lần này đi nữa th́ lại có cơ hội luyện cát thành vàng, luyện đạo thành chân, càng phân biệt được thực và hư, cho nên nguyện dốc tâm chấp nhận mọi thử thách của đạo”.
Đức Kim Mẫu vẻ mặt hiền từ lại nói: “Hay lắm, họ Quan con của Mẫu đă phát đại nguyện cứu nhân độ thế như vậy, ḷng Mẫu được an ủi vô cùng, trong khoảng thời gian nửa năm nay, nếu như đệ tử nào của Thánh Hiền Đường không nản ḷng thối chí, cùng tuân hành nghiêm nhặt lệnh này, ắt việc trước tác bộ sách trời của ba cơi tất nhiên sẽ do Thánh Hiền Đường lănh Ngọc Chỉ trước tác”.
Ngày tháng thoi đưa, mau lẹ qua đi như nước tuôn vào biển đông, trong khoảng thời gian này, Thánh Hiền Đường luôn luôn bị những kẻ tiểu nhân đả kích và bắn lén. Bởi không pḥng bị kịp, một số độc giả cùng đệ tử của Thánh Hiền Đường đă gặp sự khảo đảo phi thường của đạo, kẻ tâm chí không kiên định nổi, tâm đạo phá tán, không kham nổi, bỏ tu chạy theo danh lợi.
Trái lại kẻ nhẫn nhục chịu đựng được, luôn luôn sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách, chẳng màng lợi lộc, khiến đức tin càng ngày càng mạnh mẽ, không chút mềm ḷng nản chí, nên có thể coi lệnh của trời là trách nhiệm của ḿnh.
Tới ngày 24 tháng 6 là ngày lành thánh đản của đức Quan Đế, sau khi các chư Tiên Thánh Thần của ba cơi chúc thọ xong, bèn được mời tham dự thánh hội và chư ngài đă đồng thanh tâu với đức Ngọc Hoàng như sau : “Trong thời gian Thánh Hiền Đường bị khảo đảo v́ đạo, thần nhân đă thấy rơ được niềm tin son sắt lớn lao, không chút sờn ḷng nản chí, kính xin Đức thiên Tôn soi xét cho”.
Đức Ngọc Đế gật đầu ban lời vàng ngọc : “May thay, may thay, đàn cơ trực thuộc hạt Nam Thiên quả là không thẹn, Trẫm đặc biệt ban Ngọc Chỉ ra lệnh cho Chủ Tịch Thánh Hiền Đường cùng Phật Sống Tế Công hăy sớm lo liệu việc trước tác sách Nhân Gian Du Kư, để tới ngày mồng 6 tháng 8 chính thức nhận lănh Ngọc Chỉ của Trẫm ban cho”.
Ngay lúc đó chủ Tịch họ Quan cùng ta liền cúi đầu tạ ơn và tâu rằng: “Kính vâng lời dạy”. Sau khi đức Kim Mẫu và đức Ngọc Đế cùng chư Thiên Thánh Thần ban khen xong, chủ tịch họ Quan vẻ vô cùng thanh nhẹ. Tinh thần đạo của Thánh Hiền Đường phấn phát mạnh mẽ, hoàn toàn tiếp nhận linh pháp từ cơi hư không hỗ trợ cho thiên bút Thái Sinh, nên tới kỳ ngồi đàn cơ từ cơi hữu h́nh sẽ xuất hồn lên được cảnh giới vô h́nh.
Mặc dù hiện thời thiên bút Thái Sinh giác linh chưa viên măn, nhưng vẫn không hề ảnh hưởng tới đại mệnh trước tác sách Nhân Gian Du Kư. Chư đệ tử của Thánh Hiền Đường quả là gặp nhiều khó khăn, thuyền pháp ra tới giữa biển khơi đột nhiên gặp sóng to gió lớn, nếu như tâm không bấn loạn, b́nh tĩnh lèo lái con thuyền mạnh dạn tiến tới quê trời nguyên linh.
V́ đă lấy đạo lớn làm trọng, khiến chư Thiên Thánh Thần khâm phục, cho nên sách trời ba cơi tất nhiên do Thánh Hiền Đường đảm nhiệm việc trước tác”. Nguyên nhân của đoạn văn mô tả trên đây cũng là lí do ban lệnh trước tác sách Nhân Gian Du Kư, nay nói rơ ra để phá tan sự mê hoặc của chúng sinh.
Thái Sinh: Quả đă khiến cho người ta phải kinh hăi trong suốt nửa năm nay, mong rằng sẽ đủ sức phấn đấu vươn lên đảm nhiệm sứ mệnh của thời đại trao phó, c̣n nếu như ngược lại sẽ tạo thêm tội lỗi mang nghiệp vào thân, hậu quả sẽ vô cùng tai hại, không thể tưởng tượng nổi.
Trong thời gian này lại càng cảm tạ ơn chư Thiên Thánh Thần đă ban t́nh thương yêu, chư đệ tử đồng tu của Thánh Hiền Đường trong những năm gần đây âm thầm phát triển đạo đức trung hiếu, dốc tâm phục vụ khiến nền đạo đức cố hữu Á Đông được bền vững, gió lay chẳng đổ, ơn ích thật quả lớn lao.
Tế Phật: Hay lắm, đêm nay bắt đầu dạo cơi nhân gian để con được mở rộng tầm mắt.
Thái Sinh: Được như vậy quả là rất khó, các bạn đồng tu từ nay về sau phải một mực chân thành tin theo ân chủ mới mong có nhiều hi vọng, tâm chí phải tuyệt đối không được hỗn loạn để khỏi phá hoại đại cuộc.
Tế Phật: Tṛ ngoan, mau lên đài sen.
Thái Sinh: Thưa con đă sửa soạn xong.
Tế Phật: Tṛ ngoan, cớ sao con lại phủ phục trên đài sen? Thái Sinh: Thưa, con chưa từng ngồi đài sen, nên sợ rằng đài sen bay quá nhanh, chẳng may bị rớt giữa không trung, hư mất đại mệnh, cho nên con phải phủ phục ôm chặt đài sen để mong bảo đảm được sự an toàn.
Tế Phật: Ha ha, tṛ ngoan quả là thận trọng, chớ ngại, chớ ngại, lần đầu cỡi đài sen khiến con hoang mang, để thầy ban cho con một viên thuốc “định thần” hầu giúp con tự trấn tĩnh.
Thái Sinh: Quả thật đúng, thuốc “định thần” quá thần diệu, tâm thần con lúc này đă hoàn toàn an định, song tṛ ngu v́ lần đầu ngồi ṭa sen, xin ân sư giảm tốc độ chầm chậm lại, để tâm thần con khỏi kinh hoàng dao động, tránh sẩy chân rớt té.
Tế Phật: Quả vi diệu thay, con thực có thiên chân, người ta chỉ đọa lạc v́ một niệm sai trái, chứ chưa từng thấy cỡi đài sen mà bị rớt, do đó con hăy yên tâm.
Thái Sinh: Thưa may phước, v́ tṛ ngu từng đi máy bay nên thấy mỗi hành khách đều có cột dây an toàn, do đó không c̣n lo sợ bị rớt té, song ngược lại đài sen lại không thấy trang bị dây an toàn như vậy hẳn là nguy hiểm lắm, do đó mà con sinh ḷng sợ hăi.
Tế Phật: Ha ha, tâm tṛ ngoan quả là tâm trẻ thơ, lời nói thật đáng buồn cười, lần tới thầy tṛ khỏi cần cưỡi ṭa sen, thầy sẽ đặc biệt hóa phép một chiếc máy bay cho con đi để con được an tâm, con nghĩ sao?
Thái Sinh: Thưa, ân sư quá khéo chọc cười, v́ con chưa nghe nói đạo sĩ vân du bằng phi cơ bao giờ, việc này nghe quả là ḱ lạ.
Tế Phật: Tại sao lại không được? Người ta vốn sống trong cơi thế gian, hồi này xuất hồn dạo cơi nhân gian mà lại cho là hạn hữu sao?
Thái Sinh: Thưa đúng, những lần pḥ đàn cơ trước đây là ngầm thực hiện việc viết sách Du Kư nên con đă được rơ việc này trọng đại, bởi vậy tṛ ngu đă từng mấy lần cầu xin chư Thiên Thánh Thần chuyển giao sứ mệnh lớn lao này cho người khác đảm trách để mong được sống yên ổn, tránh khỏi bị rớt vào ṿng phiền năo.
Song lệnh của trời khó mà căi nổi, nên Ngọc Chỉ ban mệnh soạn sách đă giáng ngay bản đường và chính tṛ ngu phải đảm nhiệm trọng trách, tṛ ngu tự xét ḿnh vô tài vô đức nên thấy khó mà thực hiện được sứ mệnh lớn lao.
Tế Phật: Ngu ngốc thay, trách nhiệm này biết bao kẻ khác cầu mà chẳng được, cớ sao con lại thoái từ, con chẳng rơ một sớm sách này soạn xong danh vang khắp cơi, khi đó há con chẳng lưu tiếng thơm ư ?
Thái Sinh: Thưa ân sư, hư danh tiền tài cuối cùng sẽ dẫn tới bất lợi, cho nên con không muốn bị ràng buộc.
Tế Phật: Quả đúng như vậy, thầy chỉ thử tâm trí huệ của con một chút đấy thôi, thấy tầm nh́n của tṛ ngoan quả nhiên lớn rộng, tâm hết c̣n bị trói buộc, thật không thẹn với sự quư trọng của chư Thiên Thánh Thần. Thôi hăy tạm ngưng cuộc nhàn đàm tại đây, mau lên đài sen để c̣n khởi hành.
Thái Sinh: Thưa con đă sửa soạn xong.
Tế Phật: Trước tiên hăy nhắm hai mắt lại, kẻo không chịu đựng nổi sức gió.
Thái Sinh: Thưa vâng... Con đă núp sau lưng ân sư mà vẫn c̣n cảm thấy sức gió thổi quá mạnh, nghe kêu vù vù măi bên tai, có cảm giác thần hồn bay vun vút.
Tế Phật: Đă tới nơi, có thể mở mắt được rồi.
Thái Sinh: Ôi! Cớ sao ân sư lại đưa con tới chốn này, thật khó mà thưởng thức nổi cảnh sắc tươi sáng của ao hồ núi non, và phía trước lại có một vị tướng quân vũ trang khí giới đang đi tới, chắc là sẽ đuổi thầy tṛ ḿnh ra khỏi nơi đây?
Tế Phật: Con hăy yên tâm, vị đó là Tướng Quân giữ ao, bữa nay tới đây là cốt để rửa mắt phàm, thân tục của con, hầu giúp con lưu thanh khử trược, hoàn toàn trong suốt.
Thái Sinh: Thưa, thế th́ đỡ quá, ngày đầu tới đây con chỉ muốn được uống nước.
Tế Phật: Thôi chớ nói dông dài, con hăy tự lội xuống đi, kẻo không thầy sẽ đẩy con đây này.
Thái Sinh: Xin thầy hăy để con tự lội xuống... Chu choa! Nước hồ cớ sao lại lạnh buốt tới cỡ này, nếu giờ đây lội xuống không rơ ngày nào mới gặp lại ân sư!
Tế Phật: Tṛ ngoan này, con chớ có lo lắng, v́ có thầy ở đây, nếu chẳng may có sự nguy hiểm xảy tới, thầy sẽ cứu con ngay.
Thái Sinh: May quá, con xin lội xuống ngay.
Tướng Quân Giữ Ao: Xin hỏi Tế Phật, kẻ phàm nhân này là ai vậy, tôi nghi kẻ phàm này không biết rơ về nước trong ao này nên đă bơi tới bơi lui mà lại c̣n ngụp lặn. Tế Phật, tôi thấy đă gần hết giờ rồi đấy.
Tế Phật: Được, để tôi kêu lên.
Thái Sinh: Thưa ân sư, ao này tuy nước rất lạnh, song bơi một hồi hết c̣n cảm giác giá buốt, hiện tại tinh thần con hoàn toàn thoải mái, nước thánh quả là tuyệt diệu, cảm tạ ân sư đă đưa con tới chốn này để con có dịp tắm rửa tại đây, kỳ tới xin ân sư lại hướng dẫn đến đây để con bơi lội.
Tế Phật: Con chớ coi thường, muốn bơi lội chơi th́ tới hồ tắm ở dương gian, c̣n hồ này là hồ “Tĩnh Tâm” nếu không phải là tiên thánh của ba cơi không được tới đây tắm rửa.
Bữa nay con nhờ phụng chỉ trước tác sách Nhân Gian Du Kư nên mới được tới đây tắm rửa, c̣n không thầy không được phép dẫn con tới đây bơi lội chơi, hăy mau cảm ơn Tướng Quân giữ ao, để chúng ta c̣n chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường.
Thái Sinh: Thưa, th́ ra nguyên nhân là như vậy. Xin đa tạ tướng quân.
Tướng Quân Giữ Ao: Chớ khách sáo, v́ quư vị đă quá khổ cực.
Tế Phật: Thời giờ eo hẹp, thầy tṛ chúng tôi đă tới quấy rầy, xin cáo biệt. Thái Sinh mau lên đài sen.
Thái Sinh: Thưa con đă sửa soạn xong, kính mời ân sư khởi hành.
Tế Phật: Đă về tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 695 of 1146: Đă gửi: 16 October 2010 lúc 2:12am | Đă lưu IP
|
|
|
NHÂN GIAN DU KƯ
HỒI HAI
DẠO LẦN HAI, LẬP NGUYỆN HÓA MÊ TRẦN
HỎI TÁC GIẢ, CHỌN BÀI ĐỘ CHÚNG SINH
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 23 tháng 8 năm Tân Dậu (1981)
Thơ
Nhất khí sở hóa tính bản đồng
Sư sinh chi biệt mê ngộ trung
Năng khử tư chấp giai thị Phật
Hà lai danh tướng loạn hống hống.
Dịch
Một khí sinh ra tính vốn chung
Thầy tṛ chia cách tỉnh mê ḷng
Diệt trừ tính chấp đều thành Phật
Sắc tướng há c̣n loạn hỗn mang.
Tế Phật: Tế Phật, Tế Công, Tế Sư, Đạo Tế. Đạo hiệu của ta quả là nhiều, cứ kêu lên thảy thảy đều là đạo, chúng sinh c̣n mê chấp, người đời từ muôn ngàn kiếp trước đến nay vốn từ một khí sinh ra, cớ sao lại c̣n phân biệt thầy tṛ, sự thật th́ cả hai vốn là một.
Song lại kêu là Phật, là sư, là sinh ấy v́ kẻ giác ngộ là Phật, kẻ sáng suốt là thầy, kẻ mê lầm là tṛ. Lúc này ta là thầy của chúng sinh, nhưng muôn ngàn kiếp trước chúng sinh há chẳng từng có kẻ là thầy ta sao?
Chỉ tại chúng sinh mê lầm, sống rồi lại chết, chết rồi lại sống, luân hồi quá lâu sớm đánh mất chân bản ngă của ḿnh, song nếu sớm diệt trừ được ngă chấp, ngă tướng, ngă tư mà ngộ đạo, tu đạo, hành đạo, tương lai ắt sẽ thành Phật thành sư vậy.
Thái Sinh: Lời dạy của ân sư quả là sáng suốt, nếu như chịu lắng nghe th́ đó là Phật lư, chân lư, đạo lư. C̣n riêng tṛ ngu của thầy th́ đă lănh hội được đầy đủ.
Tế Phật: Đêm nay trước tác hồi thứ hai của sách Nhân Gian Du Kư, cảm tưởng của con ra sao?
Thái Sinh: Trời cao rủ ḷng thương ban cho bản đường việc lo liệu cuốn chót trong ba cuốn sách thánh của ba cơi, nên ân sư và con đă có dịp cùng chung sức gánh vác, giờ đây tṛ ngu cảm thấy trách nhiệm ấy vô cùng lớn lao.
Tế Phật: Biên soạn bộ sách trời này, mệnh thánh quá phi thường nên công đức của con chẳng ít. (Lời nói của Tế Phật lúc này có ư muốn thử chí của thiên bút).
Thái Sinh: Tṛ ngu của ân sư chỉ xem đó là phương tiện mà thôi, hay đúng hơn nên coi là trách nhiệm, c̣n công đức hoàn toàn thuộc về đọc giả là những người đă hiến cả công lẫn của cùng đức tin vững mạnh vào đàn cơ của các đệ tử thuộc Thánh Hiền Đường.
Con chỉ mong các tín hữu dốc tâm phát huy đạo lớn thánh hiền, tiếp nối tinh thần truyền thống phổ biến chính pháp khắp nơi, c̣n tṛ ngu này không hề có công đức lớn lao nào đáng kể.
Tế Phật: “Không kể công mới thật sự tạo được công to, không kể đức mới chính thức tạo nên đức lớn” (Bất cư công tựu thị đại công, bất cư đức tựu thị đại đức).
Tṛ ngoan quả nhiên khác xa người đời, ít năm nay tham gia soạn nhiều bộ sách trời, luôn luôn gắng gỏi nên đă lập được công lớn, c̣n lần này thầy tin rằng con sẽ vững vàng mạnh mẽ hơn, có thể thực hiện nổi công việc thay xương đổi thịt khó khăn vô kể này. Ôi! quư hóa biết là bao nhiêu.
Thái Sinh: Ân sư quá khen, tṛ ngu đă thấu hiểu rơ rằng, làm mà nệ vào công đức th́ chỉ mới được coi là có ḷng hăng hái chứ chưa vĩnh viễn đạt giải thoát, do đó tâm đạo c̣n ch́m đắm lu mờ chẳng thể đem tinh thần “vô úy” lớn lao, tiếp tục đảm trách sứ mệnh trọng đại của đời này để phục vụ chúng sinh.
Tế Phật: Đêm nay tṛ ngoan giảng pháp, thật đă khiến thầy phải mở to mắt để nh́n, quả đúng như lời “Màu xanh vốn từ màu lam mà ra, nhưng lại thắng nổi màu lam” (Thanh suất ư lam, nhi thắng ư lam).
Nếu như chỉ cầu t́m công đức mà không tu tự tính, th́ chẳng khác nào người phàm ngồi trên cao chỉ nghĩ đến chức vị mà không biết tính toán, biết lo liệu mà không biết kinh doanh, có hư vị mà không có thực chức, cho nên thầy hi vọng con thi hành tinh thần đại đạo sao cho đạt mức thông suốt tṛn đầy.
Thái Sinh: Tṛ ngu chỉ hi vọng chúng sinh không khinh rẻ sự vô tài của những kẻ thấp hèn, hầu tiếp tục cùng nhau kiên tŕ, lo lắng phát huy đạo lư, xây dựng đức tin vững mạnh, nếu được như vậy kẻ hèn này cũng nguyện đem công đức riêng của ḿnh trở thành công đức chung của toàn thể chúng sinh, chỉ mong được cùng chúng sinh dưới gầm trời học hỏi dạy dỗ lẫn nhau, v́ “Ngày nào chúng sinh chưa thành đạo, kẻ hèn này nguyện không thành đạo”.
Tế Phật: Con đă phát tâm nguyện lớn lao, từ bi như vậy hẳn là đă chứng đắc “Bồ Đề giác lộ” xứng danh là đèn sáng tinh thần của chúng sinh, là rường cột của đạo lớn, Tam Tào sẽ cảm động cùng lo hộ tŕ.
Ước mong con noi theo tinh thần đại nguyện của các đấng Quán Thế Âm Bồ Tát, U Minh Giáo Chủ Địa Tạng Vương Bồ Tát, cùng Lă Tiên Tổ thực hành măi đại nguyện, lưu tiếng thơm muôn đời, thầy có được tṛ ngoan như vậy th́ dẫu khổ mấy cũng vinh.
Thái Sinh: Lời dạy của ân sư siêu diệu biết là bao, chỉ tiếc tṛ ngu này đạo thô học thiển mà lại dám lănh trách nhiệm trọng đại này, e khó thành tựu nổi.
Tế Phật: Tâm con đỏ của tṛ chính hợp tâm trời, thiên chân ngay thẳng chính hợp tâm Phật, chúng sinh lại khuyến khích con, trông chờ con, con chớ quá lo lắng.
Thái Sinh: Thưa đúng như vậy, con đă cởi bỏ nhiều rồi, song đầu óc vẫn c̣n u tối.
Tế Phật: Chẳng phải vậy đâu, khôn ngoan giống như ngu ngốc, khéo léo tựa như vụng về, đó là bản tính của kẻ học đạo, con có ḷng ngay thẳng thầy rất vui mừng, hi vọng con sẽ thực hiện nổi.
Thái Sinh: Được nghe lời dạy của ân sư, tinh thần con phấn chấn lắm. A! Thưa bữa nay đi dạo nơi đâu?
Tế Phật: Chớ hỏi trước, tới khi đó con sẽ rơ.
Thái Sinh: Thưa vâng, con chỉ biết nghe lời thầy dạy, đi theo đường thầy chỉ.
Tế Phật: Mau lên đài sen.
Thái Sinh: Thưa con đă chuẩn bị xong.
Tế Phật: Tại sao bữa nay con không nằm sát xuống đài sen?
Thái Sinh: Mới ngồi thử con đă vững chăi rồi, hơn nữa bữa nay con lại dám nắm chặt áo Phật của ân sư nên tin chắc rằng sẽ không nguy hiểm.
Tế Phật: Áo Phật của ta đă giúp con được an toàn, ha ha...
Thái Sinh: Tiếng cười của ân sư càng khiến con thêm tin tưởng, những ngày kế tiếp thiết nghĩ con sẽ tạm thông suốt được pháp đạo nhiệm mầu.
Tế Phật: Hay lắm, nhưng phải cẩn thận đừng có làm rách áo cà sa của thầy mới được, c̣n không con sẽ không bồi thường nổi.
Thái Sinh: Nếu không bồi thường nổi, con sẽ trả công cho thầy. Tế Phật: Ta không mở quán, không bán buôn, nếu phải đền công con sẽ làm công việc ǵ?
Thái Sinh: Làm công việc phổ hóa chúng sinh.
Tế Phật: Đó chẳng phải là công việc đời mà là công việc Thánh. (Cả thầy lẫn tṛ cùng cười ha hả...). Hay lắm, nói dông dài một chút thôi, chúng ta c̣n phải mau lên đường.
Thái Sinh: Được cùng ân sư đàm luận thông suốt vui vẻ nên giây phút này là giây phút tâm trong ư đẹp. Con đă sửa soạn xong, kính mời ân sư khởi hành.
Tế Phật: Đă tới nơi, tṛ ngoan hăy mở mắt ra.
Thái Sinh: Thưa ân sư đây là chốn nào mà giống như chốn sơ khai, hai ngôi lầu phía trước mỗi ngôi đều có một vị thiếu niên đang cặm cụi viết lách, thưa tới quấy rầy một chút được không?
Tế Phật: Con hăy đến phỏng vấn qua loa xem sao? Đêm nay thời giờ eo hẹp, chớ có hỏi han quá lâu, đợi thầy niệm Phật chú, chân ngôn.
Thái Sinh: Ân sư giống như đại sư thôi miên, đêm nay con mới thật sự mở lớn tầm mắt, ân sư niệm ít lời xong, một lát sau vị thanh niên đó đờ đẫn mơ màng, ngủ gục trên bàn, nguyên linh dần dần bay cao tít... Ha ha! Đă thành công.
Duyên Sinh: Ôi! tại sao tôi lại tới chốn này?
Thái Sinh: Yên tâm, yên tâm! Đó là Phật Sống Tế Công giúp nguyên linh của huynh siêu thăng... huynh chớ quá lo lắng, chắc chắn sẽ hoàn hồn.
Duyên Sinh: Á! Nguyên nhân th́ ra là tại ân sư giáng lâm, con xin lạy ân sư ba lạy... c̣n huynh chắc là thiên bút Thái Sinh?
Thái Sinh: Đúng vậy, tại sao huynh biết rơ?
Duyên Sinh: Tôi không nhận ra huynh, song v́ tôi là đọc giả dài hạn của tạp chí Thánh Hiền, nên đạo danh của huynh không những tôi đă rơ mà c̣n kính phục từ lâu.
Thái Sinh: Thưa, có phải vừa rồi huynh lo tuyển chọn bài vở cho tạp chí Thánh Hiền phải không?
Duyên Sinh: Đúng vậy, đă từ lâu bỏ viết văn, nên giờ đây bút mực không theo kịp óc nghĩ, đêm nay tâm huyết dâng trào cảm xúc chan ḥa, cầm bút viết văn chữ xấu như gà bới, nhưng lại gặp ḱ duyên, quả là ba đời may mắn.
Thái Sinh: Xin huynh chớ khách sáo, chữ viết của đệ c̣n nguệch ngoạc hơn nhiều, chúng ta cùng học hỏi lẫn nhau. A! Đúng lắm, tạp chí Thánh Hiền quả là mảnh đất tốt cho những ai có ḷng v́ đạo, mong huynh đóng góp nhiều bài vở nghiên cứu về đạo để hoằng dương đạo pháp, cứu độ chúng sinh.
Duyên Sinh: Thưa tôi đă hiểu trách nhiệm đó.
Tế Phật: Thời giờ đă trễ, tṛ ngoan ơi! Để thầy dẫn hồn con nhập xác.
Duyên Sinh: Thưa vâng, con xin lạy thầy ba lạy...
Thái Sinh: Rất mong được thết trà huynh tại Thánh Hiền Đường (Tế Phật lúc này miệng lẩm bẩm niệm chú, vị thanh niên dần dần tỉnh lại). Ha ha, thưa ân sư không những hết mê mà lại c̣n tỉnh táo một cách lạ thường.
Tế Phật: Lời Phật chú vừa rồi so với cháo lú tại quán Mạnh Bà ở âm phủ, tuy h́nh thức khác nhau nhưng nội dung công hiệu như nhau, lúc mê đi không biết th́ lúc tỉnh lại chẳng hay, trạng thái này giống hệt như chúng sinh hiện sống nơi trần thế, càng hoài nghi càng t́m hiểu, nhưng cuối cùng chẳng t́m ra sự giải đáp thỏa đáng về vấn đề nhân duyên của kiếp trước.
Thái Sinh: Ha ha, pháp Phật quả là vô biên, vô cùng thần diệu... (Lúc này Thái Sinh có chút hoài nghi). Nhưng thưa ân sư con vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng, v́ trạng thái mất kư ức đó, biết đâu chẳng có lúc dẫn đến t́nh trạng tinh thần lệch lạc, thiếu quân b́nh?
Tế Phật: Con đă từng thấy người say rượu chưa?
Thái Sinh: Thưa có.
Tế Phật: Kẻ uống rượu say nói năng lúc đúng lúc trật, bô lô ba la, mơ mơ hồ hồ tới khi tỉnh lại liệu có nhớ nổi rằng ḿnh phát biểu những ǵ không?
Thái Sinh: Thưa, nhưng tṛ ngu rất ít gần rượu nên không rơ sau khi say mèm, trạng thái ư thức lúc đó ra sao, điểm này hoàn toàn c̣n ở ngoài kinh nghiệm thực hành. A, thưa vừa rồi tại sao ân sư lại kêu vị thanh niên đó là tṛ ngoan?
Tế Phật: V́ thanh niên đó đă tôn thầy là sư, vả lại cũng thường xuyên đóng góp bài vở cho tạp chí Thánh Hiền, nên đương nhiên là một vị thần có công lớn của Thánh Hiền Đường.
C̣n nhận xét về người học tṛ hiền này, th́ thấy đạo căn phi phàm trí tuệ mới mẻ sáng suốt có thể viết những bài luận thuyết bàn về đạo để cứu nhân độ thế. Nếu như giữ bền được chí lớn, tương lai ắt sẽ trở về được cơi trời vô cực, vĩnh viễn là tṛ ngoan của ta. Do đó, bữa nay nhờ cơ hội này, con hăy thử thời vận coi.
Thái Sinh: Thưa hay lắm, phải đánh bạc một phen.
Tế Phật: Tṛ ngoan rành đánh bạc lắm sao mà nói nghe ngon quá vậy?
Thái Sinh: Thưa, con vừa nói quá lời, con chỉ biết chơi cờ và xổ số sơ sơ, c̣n bài bạc thú thiệt con chưa dám dính vô.
Tế Phật: Như vậy hay lắm, tính bài tính bạc chẳng bằng tính xâu chuỗi bồ đề, bởi chỉ có niệm A Di Đà Phật mới an dưỡng nổi tính t́nh mà thôi (Thái Sinh cúi đầu thọ giáo với vẻ mặt trầm lặng v́ sợ rằng nói lắm gặp nhiều thất thố). Hay quá, đêm nay lần đầu con được cùng bạn đạo bàn luận, cảm tưởng của con ra sao?
Thái Sinh: Con rất đỗi vui mừng, giây phút này thời gian đối với con quả là vàng ngọc.
Tế Phật: Bữa nay tạm ngưng tại đây, Thái Sinh chuẩn bị lên đài sen để thầy tṛ ḿnh trở lại Thánh Hiền Đường.
Thái Sinh: Thưa con đă sửa soạn xong, mời thầy lên đường.
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 696 of 1146: Đă gửi: 16 October 2010 lúc 2:20am | Đă lưu IP
|
|
|
NHÂN GIAN DU KƯ
HỒI BA
BÀN TRIẾT HỌC NHÂN SINH, LUẬN CÔNG NĂNG TẠP CHÍ
HỎI CƯ SĨ TẠI GIA, MỞ NGUỒN CỘI ĐẤT TRỜI
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 26 tháng 8 năm Tân Dậu (1981)
Thơ
Du Kư thiên thiên khải thế mê
Ư nghĩa siêu phàm vạn đạo cử
Tam Tào chấn động giai chú mục
Nhất bản khôi hoành sướng mạt kỳ.
Dịch
Đời mê Du Kư giải bao thiên
Muôn đạo thâm sâu thử luận bàn
Chấn động Tam Tào đều chú ư
Giữa thời mạt phát sách xây nền.
Tế Phật: Đêm nay trước tác hồi thứ ba của sách Nhân Gian Du Kư, ư nghĩa bộ sách trời cuối cùng này quả là lớn lao, mong chư đệ tử giữ vững tinh thần để sớm hoàn thành tác phẩm.
Thái Sinh: Thưa ân sư, việc trước tác sách Nhân Gian Du Kư này, ư nghĩa tuy thâm sâu, song liệu có tránh khỏi bị đời cho là đề cao sự mê tín không?
Tế Phật: Mê hay không mê do con, tin hay không tin do thầy; tu hay chẳng tu do con, ngộ hay chẳng ngộ do thầy. Chân lí đại đạo mở ra trùm hết bốn hướng đông tây nam bắc và hai phương trên dưới đất trời, thâu lại th́ ẩn tàng nơi sâu kín. (Phóng chi tắc di lục hợp, quyển chi tắc thối tàng ư mật).
Người đời hiện nay v́ quan điểm khác nhau nên lư đạo khó phổ cập, con cũng thấy chính phủ luôn luôn tôn trọng đạo lí, nên một mực muốn khai triển đại đạo, để mong tạo được môi trường sống thuận lợi cho đại chúng, vậy mà vẫn c̣n bị một số người không nhận thức được sự ơn ích đó, đă ngang nhiên đứng ra phản đối, không chịu tuân hành điều nhân nghĩa đến nỗi phải đọa địa ngục mà ta không có cách ǵ ngăn cản nổi.
Thế mới biết thiện và ác, thần và quỷ là hai điều thuận nghịch của xă hội măi măi c̣n chống đối nhau để cùng tồn tại. Ư nghĩa trọng đại của sách này là nằm ở chỗ chẳng kể kẻ tu đạo, kẻ trần tục đều có thể truy tầm phỏng vấn, từ “hạ thừa” qua “trung thừa” cho chí “thượng thừa” đều độ khắp cả.
Kẻ “hạ thừa” được cải tà quy chính “buông dao đồ tể lập tức thành Phật” giải nghiệp về sống nơi đất sạch. Kẻ “trung thừa” giữ giềng mối nhân luân đạo đức, chứng quả thành đạo.
Kẻ “đại thừa” tu Vô Vi Đại Pháp, học lẽ đạo siêu việt, đạt cảnh giới vô sinh vô diệt, tự tại tự như, do đó phổ biến tam thừa để mưu lợi ích cho chúng sinh, há lại bị lọt vào lồng giam mê tín hay sao?
Thái Sinh: Thưa soạn sách này có uổng phí văn chương chữ nghĩa không?
Tế Phật: Sách này lời lẽ phải thận trọng để cứu chữa xă hội đang lâm vào t́nh trạng bệnh hoạn và băng hoại, phải hoàn toàn dựa vào chân lư thực tiễn để hướng dẫn các căn cơ phát triển đại đạo vô h́nh.
Thái Sinh: Thưa, làm cách nào để có thể noi theo được ư kiến của ân sư mà hóa độ nhân tâm, phải có thái độ như thế nào để người đời dễ dàng chấp nhận?
Tế Phật: Tṛ ngoan hỏi rất đúng, muốn hóa độ nhân tâm th́ phải để nhân tâm tự hóa mới dễ nhất, phải áp dụng lí đạo một cách uyển chuyển mới dễ dàng khiến mọi người chấp nhận.
Ví dụ như vợ chồng không ḥa thuận, th́ một trong hai người hoặc chồng hoặc vợ phải dùng lới lẽ ôn tồn để khuyên nhủ, để đôi bên đều thỏa thuận tuân theo một số nguyên tắc chung nào đó, rồi dần dần hồi tâm chuyển ư, hai ḷng cùng ḥa thuận, sau cùng đi tới đời sống chung vui.
C̣n nếu như vợ chồng mà luôn luôn gây gổ cách nóng nảy làm thương tổn tới sự tự ái của nhau như nước với lửa, chẳng thể dung ḥa th́ vợ chồng dễ ĺa bỏ nhau. Do đó, việc hoằng dương đại đạo cũng giống hệt như vậy, phương thức áp dụng nếu như cứ chấp nê một cách cứng ngắc, th́ chắc chắn sẽ phản bội tôn chỉ của đạo lớn, khiến các hành giả truyền pháp truyền đạo càng thêm khốn quẩn mà thôi.
Thái Sinh: Theo như lời ân sư chỉ dạy nội dung sách này sẽ vô cùng phi thường, sự hy sinh gian khổ để thực hiện của toàn thể bạn đạo chắc chắn sẽ không uổng phí.
Tế Phật: Chư đệ tử của Thánh Hiền Đường ít năm gần đây dốc tâm v́ đạo, gian nan cùng nhau gánh vác, kiên tŕ dũng tiến do đó mà đại mệnh biên soạn và ấn hành sách Du Kí này quư Hiền Đường mới có hân hạnh được lănh trách nhiệm.
Thái Sinh: Việc phát huy đạo lư của các đệ tử Thánh Hiền Đường phải hành động cách sao mới tránh khỏi lạc vào đường tu mê muội?
Tế Phật: Phải ôm ấp đức từ bi, thương người như thương ḿnh mới tránh khỏi mê lầm, c̣n nếu như phạm vào tội tham danh, giành công đức, vọng động cầu nổi tiếng đều là si mê.
Thái Sinh: Hiện giờ kinh sách dạy điều thiện quá nhiều, chúng sinh phải lựa cuốn nào để làm kinh sách luyện đạo gối đầu giường.
Tế Phật: Kinh điển hiện thời đều phải dùng tâm chứng nghiệm, không thể dùng lư trí phân biệt nổi.
Thái Sinh: Thưa ân sư dùng h́nh thức giáng cơ bút và dùng tạp chí Thánh Hiền Đường để phổ biến phương cách trên có hợp lư không?
Tế Phật: Tạp chí Thánh Hiền Đường có sức mạnh vượt khỏi giới hạn của thời gian và không gian, quán thông bốn phương tám hướng đạo lớn, khiến những ai có căn duyên đều thấu hiểu được đạo mầu, khai mở trí tuệ mới mẻ.
Chỉ tiếc nhân loại khắp nơi trên thế giới hiện đang đắm ch́m, luôn luôn bị nhiễm duyên vật dục từ bên ngoài, bởi vậy Tiên Phật lần lượt giáng cơ bút thuyết pháp, dùng h́nh thức sắc tướng của văn tự tảo trừ bụi bặm phàm trần phủ che để khai sáng trí tuệ.
Chúng sinh hiện đang ngồi trên thuyền từ của thời pháp mạt, muốn vượt sông mê qua bờ giác về tới quê nhà tất phải tích trữ lương thực tâm linh để đạt tới cảnh giới đại trí tuệ.
Thái Sinh: Lời dạy của ân sư rất đúng với thời mạt pháp, rất hợp với thiền duyên, chắc chắn chúng sinh sẽ nghe pháp để trừ sạch tối tăm trở về thanh tịnh.
Tế Phật: Thầy tṛ ḿnh ngưng cuộc đàm đạo tại đây, v́ đêm nay thầy đă sắp xếp một vị cư sĩ dày công nghiên cứu về tôn giáo triết học cùng con luận bàn về triết lư của đạo lớn, hầu khai sáng cho chúng sinh mê lầm, để cho con có dịp phát biểu về tôn giáo lí luận.
Thái Sinh: Cao nhân trong thiên hạ rất đông, chỉ v́ hầu hết bí mật luyện tập, ẩn náo tu hành, không chịu lộ diện, đă có cơ hội này, bắt buộc đêm nay con phải chuẩn bị một số vấn đề để thảo luận.
Tế Phật: Hay lắm, chuẩn bị khởi hành, mau lên đài sen.
Thái Sinh: Thưa con đă sửa soạn xong, kính mời ân sư khởi hành...
Thái Sinh: Thưa ân sư đây là chốn nào mà cảnh trí lại thanh nhă u tịch thế này, sườn núi nước tuôn róc rách, hoa thơm cỏ lạ mọc tràn, nơi đây chẳng khác nào đào nguyên tiên cảnh.
Tế Phật: Phong cảnh con quan sát vừa rồi là hồ... Bữa nay muốn đàm luận cùng chư vị cư sĩ tại gia phải đến cư xá phía trước kia, chúng ta hăy mau đi tới.
Thái Sinh: Thưa con đă khám phá ra rồi, trên đầu vị cư sĩ ngồi trong căn nhà kia tỏa ngời hào quang, quả đúng là đă dày công tu tŕ.
Tế Phật: Tṛ ngoan hăy nán đợi, thầy tới trước điểm hóa vị hiền sinh này để con có dịp vấn đáp về lư đạo.
Thái Sinh: Thưa đúng lắm... quả nhiên sau khi ân sư điểm hóa, nguyên linh của vị cư sĩ này liền hiện ra, là là bay tới.
Cư Sĩ: Phía trước là thiền sư Tế Công cùng với vị thiện sĩ, xin được rơ quư danh?
Thái Sinh: Thưa kẻ hậu học này là thiên bút Thái Sinh thuộc Thánh Hiền Đường tại Đài Trung, đêm nay tới đây quấy rầy xin cảm phiền chỉ giáo cho.
Cư Sĩ: A, th́ ra là hiền sinh thuộc Thánh Hiền Đường. Chào thân ái.
Thái Sinh: Được ân sư cho biết là vị đă từng nghiên cứu sâu xa đặc biệt là triết lí tôn giáo, kẻ hậu học này đêm nay có chút nghi vấn, kính xin đại đức phân tích giải đáp để hỗ trợ cho việc trước tác sách Nhân Gian Du Kư.
Cư Sĩ: Chao ơi, chao ơi! Thật là quá sức của tôi.
Thái Sinh: Trong kho tàng ngôn ngữ tu đạo thường có các danh từ như “đại tuần thiên” với “tiểu tuần thiên” xin giảng giải nghĩa dùm cho.
Cư Sĩ: Sự vận chuyển của vũ trụ gọi là “đại tuần hoàn”, mỗi chu ḱ vận chuyển là một “nguyên” mỗi “nguyên” là mười hai “hội” mỗi “hội” là mười ngàn tám trăm năm. Một “nguyên” là một trăm hai mươi chín ngàn sáu trăm năm.
Hội “Tí” khai thiên, hội “Sửu” lập địa, hội “Dần” sinh nhân, luận về bốn mùa th́ mùa xuân là lúc cày bừa, mùa hạ là khi gieo giống. Hội “Thân” người mất, hội “Dậu” đất tận, hội “Tuất” trời cùng, mỗi “nguyên” gồm mười hai “hội”, lấy “Tí, Sửu, Dần, Măo, Th́n, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi” vận hành qua gọi là “đại chu thiên” của vũ trụ.
Người là “tiểu tuần thiên”, như thân người có mười hai đường kinh mạch, trời có mười hai “nguyên hội”, năm có mười hai tháng, ngày có mười hai giờ. Người có ba trăm sáu mươi lăm đốt xương, năm có ba trăm sáu mươi lăm ngày.
Người có tám vạn bốn ngàn lỗ chân lông, trời có tám vạn bốn ngàn tinh tú. Người có ngũ tạng, lục phủ; trời có ngũ đẩu, lục tinh. Người có hai mắt, trời có nhật nguyệt. Cho nên người với trời đất hợp làm tam tài cùng với vũ trụ nhật nguyệt vận hành qua lại phù hợp, người là một “tiểu chu thiên”, vũ trụ là một “đại chu thiên”.
Thái Sinh: Những điều Đại Đức vừa chỉ dạy quả phi phàm, đă khai sáng cho tôi rất nhiều, sự kỳ bí và ảo diệu của vũ trụ thật quả là mênh mông vô cùng tận, nếu không được nghe Đại Đức giải thích th́ hẳn là không thể hiểu rơ ngọn ngành, nên dẫu có tin th́ cũng sẽ bị chê là mê tín.
Cư Sĩ: Trong vũ trụ những điều đă khám phá ra thuộc về trí thức c̣n nếu chưa từng nghiên cứu th́ không thể hiểu nổi, cũng giống như Kha-Luân-Bố ở thế gian trước đây, khi chưa thực hiện cuộc du hành bằng đường biển ṿng quanh trái đất mà đă tuyên bố trái đất tṛn th́ sự tin tưởng đó chỉ là điều mê tín.
Nếu như không có các phi hành gia thật sự đặt chân lên cung trăng gần đây, mà nói con người có thể lên được cung trăng th́ điều nói đó cũng chỉ là điều mê tín. Do đó, việc t́m hiểu đạo lớn ngày nay cũng giống hệt như vậy mà thôi.
Việc đi trong không gian trước đây thế nhân đều nh́n mà không thấy, cảm mà chẳng thông, cho nên sự nḥm ngó đó cũng chỉ là mê tín mà thôi. Khác nào ếch ngồi đáy giếng, chẳng thể thấy được bề rộng mênh mông, mà chỉ thấy được chút chiều cao của đất, cho nên sự tiên tri tiên giác đó chỉ là sự tri giác của thiểu số ếch nhái, khi tin tưởng đă biết rơ về đất lớn th́ chẳng phải là điều mê tín hay sao?
Bởi vậy, nhân loại chúng ta chẳng khác nào lũ kiến hoạt động nhỏ bé trong kẽ hốc. Sự biến đổi nhỏ nhoi về thời tiết khí hậu trong vũ trụ thường gây ra thiên tai cho nhân loại trên mặt địa cầu. Giống như người ta xách thùng nước xối vào hốc kiến, hẳn cũng gây thành nạn thủy tai, thiệt hại trầm trọng.
Thái Sinh: C̣n một vấn đề nữa xin thỉnh ư Đại Đức, nhà Phật nói: “Chân hỏa tam muội thiêu thân” nghĩa là thế nào?
Cư Sĩ: Đem nguyên lí về “Lực học” của khoa học ngày nay ra giảng th́ sức ép của kim nhọn máy hát c̣n mạnh hơn sức ép của bánh xe lửa quy tụ vào một điểm nhỏ. C̣n nếu đem kính hội tụ để gom ánh sáng mặt trời vào một điểm nhỏ th́ nó sẽ phát hỏa đốt cháy mảnh giấy đặt phía dưới.
Cơ thể người ta cũng có nhiệt năng, nếu như biết vận dụng toàn khối năng lượng trong cơ thể tụ vào một điểm nhỏ th́ sức mạnh đó sẽ mạnh hơn cả sức ép của ba chục ngàn viên ngói đè.
Nhà Phật nói: “Chân hỏa tam muội thiêu thân” (Lửa tam muội đốt cháy thân) là sức mạnh vô cùng, chỉ v́ con người không chịu vận dụng cùng khai quật khả năng này mà thôi. “Tam muội” có nghĩa là “Chính định”, khi “Chính định” sẽ tôi luyện được thân sắc tướng giả hợp hậu thiên, thành chân hỏa của “Thân pháp kim cương”.
Thái Sinh: Xin cảm tạ Đại Đức đă chỉ giáo cho kẻ hậu học về triết lư tôn giáo rất bổ ích bữa nay. Tin tưởng rằng bài học này sẽ c̣n ảnh hưởng nhiều trong việc phổ biến đạo giáo.
Cư Sĩ: Không dám, không dám! Thái Sinh chớ quá khen ngợi.
Tế Phật: Hay lắm, bữa nay tạm ngưng cuộc đàm luận tại đây, Thái sinh hăy mau mau tạ lễ.
Thái Sinh: Đa tạ sự khai ngộ bữa nay của Đại Đức, xin bái biệt.
Cư Sĩ: Cảm tạ sự sắp xếp của Tế Phật đă giúp đệ tử có được cơ hội phục vụ chúng sinh, thật quả là vinh hạnh, xin lạy Tế Phật ba lạy...
Tế Phật: Hiền sinh chớ quá giữ lễ, hăy gắng tu tŕ đợi cơ duyên tốt gặp lại nhau. Trước hết tâm tính hăy tĩnh lặng để ta an hồn định phách cho.
Thái Sinh: Thấy ân sư miệng niệm chú, vị Đại Đức đang tĩnh tọa chợt sinh hoạt lại tự nhiên, pháp lực quả là mạnh mẽ vô cùng, kỳ diệu vô song. (Thái Sinh phóng tầm mắt nh́n phong cảnh tươi sáng bốn phía no nê).
Tế Phật: Bữa nay đă tạo được công lớn. Này tṛ ngoan, chớ lưu luyến phong cảnh đẹp nơi đây, phong cảnh cơi trời c̣n đẹp hơn nơi này nhiều lắm. Hăy chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường, mau lên đài sen.
Thái Sinh: Thưa con đă sửa soạn xong, mời ân sư khởi hành.
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Thái sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 697 of 1146: Đă gửi: 16 October 2010 lúc 2:31am | Đă lưu IP
|
|
|
NHÂN GIAN DU KƯ
HỒI BỐN
LUẬN VIẾT SÁCH LUẬN CÔNG ĐỨC
Ư TRỜI KHÉO BÀY CÙNG XÉT Kỹ
LUẬN TAM THỦY LUẬN BỒ ĐỀ,
DUYÊN THIỀN LỜI GIẢ VÀ NGHĨA THẬT
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 6 tháng 9 năm Tân Dậu (1981)
Thơ
Hồ diện thanh thanh nguyệt chiếu luân
Vi phong phất diện tâm thanh minh
Thánh Đường tu sĩ như tích nhật
Tốc hạ côn doanh Thánh Đường lâm.
Dịch
Hồ trong in bóng mảnh trăng đầy
Tâm sáng gió đùa mát mặt thay
Đệ tử Hiền Đường như bữa nọ
Mau rời chốn cũ tới nơi đây.
Tế Phật: Việc soạn sách vô cùng bận rộn, quay tới quay lui, hết nh́n qua đông lại ngó qua tây, gót giầy ta đă in khắp cơi thiên đàng, địa ngục, chẳng v́ ḿnh, chẳng v́ lợi, chỉ v́ chúng sinh c̣n quá si mê, ngang ngược, muốn bỏ mà không nỡ, nên tâm chẳng được nghỉ ngơi, v́ các đệ tử ư chí kiên tŕ nên ta lại phải dạo cơi nhân gian.
Thái Sinh: Thưa, lời dạy của ân sư nửa hư nửa thật, tưởng là bỡn cợt nên không hiểu, song ngẫm nghĩ kỹ sẽ thấy vô cùng chính xác.
Tế Phật: Vừa mới chớp mắt tại núi tiên được một chút liền bị tiếng chuông của Thánh Hiền Đường lay tỉnh, mấy năm gần đây chưa từng bị vậy lần nào, mặc sức đi về ba cơi, thênh thang dạo khắp thiên đàng, địa ngục, trần gian.
Giờ nghĩ tới việc thực hiện cuốn sách trời thấu suốt ba cơi, ta thấy trách nhiệm quá nặng nề, song với sự đảm đương của Thánh Hiền Đường, chắc chắn cuối cùng cũng sẽ thành công, bởi vậy riêng ta cho dù phải chịu gian lao khổ cực cách mấy đi nữa, th́ ta cũng rất hài ḷng.
Thái Sinh: Ân sư dạy chỉ có Thánh Hiền Đường mới đảm đương nổi việc thực hiện cuốn sách trời thấu suốt ba cơi đất trời người, như vậy th́ tại cơi trời cũng không có cách nào hơn nổi Thánh Hiền Đường sao?
Thầy và con có phải chỉ là tượng gỗ là công cụ để cho Tiên Phật lợi dụng không? Nếu như người dạo thiên đàng, địa ngục, trần gian mà không thông suốt lẽ đất trời, công đứng hàng đầu th́ làm cách nào biên soạn nổi sách. Theo lời dạy của thầy th́ tṛ ngu này há chẳng bị đàn cơ khắp nơi khinh thường, các tay cầm bút giáng cơ khác coi là giả dối sao?
Tế Phật: Tṛ ngoan, con quả chẳng rơ lẽ “Đạo trời không thân, chỉ có đức giúp. Họa phước không có cửa, do người tự chuốc” (Thiên đạo vô thân, duy nhân thị phủ. Họa phước vô môn, duy nhân tự chiêu).
Thánh Hiền Đường được thành lập cách đây hai mươi bốn năm và ngay từ ngày đó, đă lấy hai chữ Thánh Hiền làm động cơ lập chí, nên đă ngụ ư rất sâu xa, bao gồm tam giáo, ngũ giáo, thậm chí tới cả chân lư vạn giáo cũng nằm trong tôn chỉ giáo hóa của Thánh Hiền, nên cuối cùng sẽ thành được tư cách thượng phẩm quy y của Thánh Hiền.
Danh hiệu đă như vậy, thực tế lại c̣n nhất tâm phát nguyện thay trời giáo hóa, dù bị ma quỷ phá phách, bị người chê bai song vẫn không hề nản ḷng, v́ càng gặp khó khăn càng phấn khích để gắng vượt qua. C̣n việc thành lập ban quản trị tạp chí Thánh Hiền th́ từ khi Hồng Sinh đảm nhiệm chức giám đốc tới nay, tinh thần phục vụ gia tăng khá cao.
Hai vị lănh đạo là chủ tịch Thánh Hiền Đường và giám đốc tạp chí Thánh Hiền này đều giữ ǵn tiết tháo, vun bồi đức hạnh. Trưởng ban tài chính lại không hề nhũng lạm công quỹ một đồng, cả ba đều chí công vô tư, nhờ đó mới giúp nổi Thánh Hiền Đường phát huy đạo giáo cùng phổ biến tạp chí lớn rộng.
Thấy thành quả ấy Trời cùng chư Tiên Thánh Phật đều cảm động chân thành, đây là nhân duyên đạo nghiệp lớn nhất, nền móng của ngôi Thánh Hiền Đường đă được xây bằng đá tảng vững vàng.
Ấy là chưa kể tới ủy viên xă hội vụ chuyên lo việc kiện toàn cơ sở, là thành viên nhiệt t́nh phụng sự, nhờ vậy mà chư đệ tử vượt được mọi trở ngại gió dập mưa vùi, đưa đàn cơ tới thành công, được như thế là nhờ nơi nhân tố thứ hai tức xă hội vụ đă phát triển mạnh mẽ.
Song thực tế mà luận về công đức th́ quan trọng nhất là do sự hoan hỉ phát nguyện của chúng sinh, Thánh Hiền Đường cổ vũ cả tinh thần đức tin lẫn vật chất cúng dường. Sỡ dĩ gặt hái được kết quả, gánh nổi trách nhiệm soạn sách trời thấu suốt ba cơi Thiên Địa Nhân, ấy là nhờ toàn thể các tín hữu dưới gầm trời hoan hỷ phát tâm chia xẻ trách nhiệm.
Trời cao vô tư, đo lường cực kỳ công bằng nên sự thưởng phạt hết sức phân minh như con đă rơ. Sứ mệnh và sự thành tựu của người ngồi đàn cơ, nếu như thật ḷng v́ đạo, không mưu đồ tư lợi, việc thành không thay ḷng đổi dạ, không phụ ư trời cùng sự phù hộ của Tiên Phật công lao sẽ c̣n măi măi.
C̣n tṛ ngoan của thầy có hy sinh nổi một chút không? Đương nhiên không những nổi mà c̣n phát cả đại nguyện nữa là đàng khác mà vẫn không hề lấy đó làm vinh để rồi hănh diện kiêu căng.
Thiên hạ chắc chắn không thiếu ǵ kẻ chấp công chấp đức, há lại chẳng rơ “Kẻ đức cao tự coi như không có đức, kẻ đức hạ coi chút đức là to, kẻ đó chấp mê không sáng lẽ đạo” (Thượng đức bất đức, hạ đức chấp đức, chấp trước chi giả, bất minh đạo đức).
Kẻ chấp công chấp đức, ngược ngạo mạt sát công đức của người khác, tâm địa này quả là bất chính, chắc chắn cuối cùng sẽ tự nhiên gặp luật trời trừng trị. Đàn cơ có ứng hay không là hoàn toàn tùy thuộc vào sức dốc tâm của bản đường cùng trời cao lưu ư pḥ trợ. Khi được trao phó cho sứ mệnh phát huy đạo lớn, đương nhiên được quyền tùy nghi quảng bá đạo pháp.
Không chỉ một người nào đó cứ lên ngôi đàn cơ măi, mà được phép tùy tiện, nay lựa người này mai chọn người khác lên thay để tiếp linh điển thần thông của Tiên Phật Thánh Thần hầu dạo ba cơi viết sách. Tiên Phật rời bỏ thần thông ắt thành người phàm, nên kẻ ngồi đàn cơ chỉ có tác dụng siêu phàm trong giây phút, hoàn toàn nhờ đàn cơ mà linh ứng.
Đáng tiếc một số ít đệ tử nhờ tiếp điển viết được sách song lại tự kiêu tự măn, cho là hoàn toàn do tài năng công lao của ḿnh mà quên rằng nhờ Thần Thánh Tiên Phật độ tŕ. Sách hoàn thành nổi là do ư trời sắp đặt, cùng đức từ bi của Tiên Phật, do sự khổ cực của toàn thể bạn đạo, cùng sự phát tâm đóng góp của các tín hữu thập phương mới có thể in thành sách để lưu truyền và giáo hóa.
Thái Sinh: Thưa lời dạy của ân sư thật là cặn kẽ đúng đắn, tṛ ngu há lại không biết giữ ư tứ sao? Huống nữa thanh tự nhiên thanh, trược tự nhiên trược, lúc b́nh thường không làm điều quấy th́ nửa đêm có nghe tiếng gơ cửa cũng chẳng hề sợ hăi.
Tế Phật: Có được tṛ ngoan như vậy, ḷng ta an ủi lắm thay! Mong con trước sau bền chí, trời xanh sẽ chẳng phụ ḷng.
Thái Sinh: Cảm ơn thầy đă khuyến khích con. Thân thầy cực khổ muôn phần, đôi dép rơm của thầy rách nát tả tơi v́ phải lưu dấu khắp bốn phương trời.
Tế Phật: Dép rách có ǵ quan trọng, chỉ cần tâm không rách, chủ tể không tán, h́nh tượng há có thể đại biểu nổi Tiên Phật.
Thái Sinh: Lời dạy của ân sư quả đúng, dấu chân Phật Sống in khắp chốn, cứu đời, độ người, độ vật, h́nh bóng Phật hiện diện khắp nơi để mọi người thắp hương lễ lạy.
Tế Phật: Ha ha, không ngờ tṛ ngoan lại có thể nói ra những lời kỳ diệu. Hy vọng chúng sinh trên đời đều có thể trở thành Phật tự tại, chớ thành Phật tượng gỗ.
Thái Sinh: Thưa con đă học của ân sư pháp tu trực chỉ Phật tâm, không theo tôn giáo h́nh thức, đôi dép rách này cũng không quản lê gót khắp đông tây châm chọc pha tṛ thiên hạ để gieo rắc thiền duyên khắp chốn, chẳng phải là người thất trí khật khùng mà là vị Phật Sống đương thời tâm lành vô tư lự.
Tế Phật: Tṛ ngoan, lời nói của con quả dễ nghe, không ngờ con lại thích bộ áo đạo sĩ rách rưới này.
Thái Sinh: Trái lại tṛ ngu rất kính phục cái vẻ áo rách mà tâm Phật lành của ân sư.
Tế Phật: V́ con yêu bộ áo đạo rách rưới nên thầy cũng muốn tặng nó cho con.
Thái Sinh: Hay quá, tṛ ngu sẽ giữ nó để làm vật lưu niệm.
Tế Phật: Tại sao con không dám mặc?
Thái Sinh: A... (Rồi chỉ cười mà không đáp).
Tế Phật: Chắc tṛ ngoan sợ mặc nó không đẹp mắt chăng?
Thái Sinh: Thưa thầy, con sinh ra vốn đă xấu xí nếu như lại bận đồ rách rưới nữa th́ coi chẳng khác nào kẻ đầu đường xó chợ gian manh!
Tế Phật: Tại sao thầy ăn bận rách rưới mà không trông giống như kẻ con mô tả?
Thái Sinh: Thưa, không phải vậy, không phải vậy. Hào quang của thầy tỏa ngời, nên bộ áo cà sa rách rưới này không che nổi tâm Phật chân chính của thầy, do đó chúng sinh đương nhiên sùng kính vẻ tiên phong đạo cốt của ân sư.
Tế Phật: Con ca ngợi thầy như vậy, khiến thầy cũng cảm thấy hoang mang vọng động.
Thái Sinh: Thưa, hoang mang th́ hoang mang, song thử hỏi đă mấy ai kiên tâm tŕ chí được bằng ân sư? (Hai thầy tṛ cùng ha hả cười vang). Việc trước tác cuốn Nhân Gian Du Kư này là công tác trang nghiêm của thần thánh, đôi lúc lại buông lời bỡn cợt, liệu có bị người đời cho là cả hai thầy tṛ cùng thiếu tư cách không?
Tế Phật: Bỡn cợt mà không ngược ngạo, mỉa mai mà không quở trách, chính hợp với thiền duyên c̣n con bản tính hồn nhiên như trẻ thơ, tṛ chuyện rất hợp với tính thầy, chúng sinh yêu quư hẳn là yêu quư cái vẻ phóng túng an nhiên tự tại của thầy.
Nếu như trước tác Du Kư bằng cách quá trang nghiêm ắt hẳn sẽ cứng ngắc, văn chương trở thành khó đọc khiến dễ nản, nên cần phải phóng túng, linh hoạt và tự nhiên mới dễ dàng lôi cuốn đọc giả.
Thái Sinh: Tuy vậy, tự hậu con cũng phải bớt cùng thầy bỡn cợt để tránh cho người đời hiểu lầm là con thất lễ với thầy, bởi tội này quá nặng.
Tế Phật: Đó là tính quá thận trọng của con, thôi cũng được, thời giờ đă trễ, con hăy chuẩn bị lên đài sen gấp, để cuộc hành tŕnh bữa nay của con khỏi trễ.
Thái Sinh: Thưa, con đă sửa soạn xong, kính mời thầy lên đường.
Tế Phật: Đă tới nơi, con hăy mở mắt ra, căn nhà phía trước là của một gia đ́nh Tiên Thánh, bữa nay ḿnh cần phỏng vấn họ.
Thái Sinh: A! Vậy th́ chắc chắn con sẽ gặp bậc thầy hay.
Tế Phật: Đúng đấy, nhận điều hay của người để bù đắp chỗ dở của ḿmh (Thủ bỉ chi trường, bổ kỉ chi đoản). Đó là đạo vậy.
Thái Sinh: Gia đ́nh này khí lành chan chứa, đó là ḥa khí tốt đẹp. Trong nhà, bên trên thờ ba tượng Phật, bên dưới một vị trung niên đang ngồi đọc kinh đầu sáng chói hào quang (Lúc này v́ c̣n ở xa nên Tế Phật vội phóng đài sen bay tới gần). Ủa, cuốn kinh vị đó niệm có lẽ là cuốn “Ngọc Hoàng Phổ Độ Chúng Sinh” do bản đường trước tác, v́ vừa rồi tiếng tụng niệm quá nhỏ nên con không nghe rơ.
Tế Phật: V́ khu này là nhà ở chứ không phải chùa miếu, v́ vậy đọc lớn sẽ làm phiền hàng xóm trong lúc nghỉ ngơi.
Thái Sinh: Láng giềng cũng có thể nghe kinh, có ǵ mà không tốt đâu?
Tế Phật: Nếu như hàng xóm của con mà vặn nhạc lớn con nghĩ sao?
Thái Sinh: Thưa, ân sư nói rất có lí: “Đạo không cùng, chớ kết bạn; chí không chung, chớ cùng mưu” (Đạo bất đồng bất tương vi lũ; chí bất đồng bất tương vi mưu). Tụng niệm kinh, tâm và khẩu cùng tụng, tâm và Phật cùng niệm, tụng kinh tại gia không cần tụng lớn tiếng.
Thái Sinh: Thưa thầy, vị Đại Đức c̣n đang bận tụng kinh th́ con làm sao có thể cùng vị đó luận đạo bữa nay?
Tế Phật: Vẫn có thể, hăy đợi vị đó tụng kinh xong thầy sẽ sắp xếp.
Thái Sinh: Thưa vâng, song con hy vọng sẽ không phải đợi lâu, để khỏi phạm tới thời giờ soạn sách.
Tế Phật: Sẽ không phạm tới đâu, v́ vị đó tụng kinh không bị lệ thuộc vào tiếng chuông, tiếng mơ cùng vần điệu của kinh, mà chỉ trầm tư tâm niệm, do đó thời gian không c̣n thấy dài.
Thái Sinh: Trên đầu vị đó con thấy có một ṿng hào quang hẳn là tu không sai đường.
Tế Phật: Vị đó là đọc giả của Thánh Hiền Đường, thường âm thầm giúp đỡ in kinh sách cùng cứu tế xă hội, lại luôn luôn chăm lo công đức, không để cho tâm bị danh lợi buộc ràng, do đó đă hân hạnh thâu nhận được hào quang của Phật chiếu rọi, nếu như tiếp tục tu hành, tương lai có thể đạt tới quả vị vô cực.
Thái Sinh: Thưa ân sư, vị đó đă đứng dậy.
Tế Phật: Để thầy tới điểm hóa cho vị đó. (Sau khi Tế Phật điểm hóa xong, vị đó trở thành ngồi trên chiếc cầu nổi đặt ở góc nhà, giống như đang ngủ, v́ nguyên linh đă xuất ra ngoài bản thể, bay bổng nhẹ nhàng, Thái Sinh thấy vậy mắt trợn tṛn xoe, miệng há hốc ngạc nhiên, không ngớt ca ngợi Phật pháp).
Thái Sinh: Thưa Đại Đức mạnh giỏi.
Duyên Sinh: Dạ, cám ơn, vị tới đây có việc chi?
Thái Sinh: Tôi là đệ tử đàn cơ Thánh Hiền Đường, tới đây thụ giáo.
Duyên Sinh: A, th́ ra vị là hồn cơ bút của Thánh Hiền Đường... Ḱ lạ thay! Vừa rồi tôi c̣n đọc kinh, cớ sao đă tới đây gặp nhau?
Thái Sinh: V́ sau khi Đại Đức tụng xong, liền được ân sư Tế Phật điểm hóa tới đây.
Duyên Sinh: A, th́ ra là như vậy. (Đại Đức liền khoanh tay làm lễ ra mắt Tế Phật).
Thái Sinh: Đại Đức học đạo đúng đắn, trên kệ mới thấy chất đống kinh sách, đêm nay kẻ hậu học này có một vấn đề xin đại đức giảng giải cặn kẽ cho.
Duyên Sinh: Xin chớ khách sáo, ḿnh cùng nhau học hỏi, tận t́nh chỉ bảo lẫn nhau.
Thái Sinh: Ngày nay muôn giáo đều chấn hưng, ngàn cửa đều mở, các giáo lư hỗn hợp lẫn nhau, có giáo phái lại chủ trương tổng hợp các giáo lư, nhưng có khi gây ra sự mâu thuẫn nội tại bởi thế không thể ḥa hợp một cách cẩu thả được, theo ư Đại Đức th́ nên thi hành như thế nào để không gặp sự trở ngại, khó khăn?
Duyên Sinh: Thái Sinh đặt vấn đề rất hay, sắc vốn là không, sắc đến từ đâu, trước khi tâm cảnh trừ được sắc tướng, sắc lại hoàn sắc, không lại hoàn không, tỷ dụ như ba loại nước: một là “nước thánh tiên thiên”, hai là “nước trong tính trời”, ba là “nước đục hậu thiên”.
“Nước thánh tiên thiên” là gốc tâm Tiên Phật đă không bị ô nhiễm, lại c̣n có thể làm trong lành nước đục nước nhơ từ bên ngoài xâm nhập. “Nước trong tính trời” là gốc tâm tu đạo, do đó luôn luôn hấp thụ được hào quang của Phật chiếu rọi, cùng chân lư để tẩy rửa thân tâm, bản tính của nước vốn trong, xong v́ trôi chảy nên bị nhiễm đục.
“Nước đục hậu thiên” là tâm hậu thiên phàm tục, bản tính vốn thanh tịnh, song v́ bị nhiễm măi sự ô uế của cơi trần thành tâm tham dục, vọng niệm ngầu đục. Sự phổ hóa của Thánh Hiền Đường từ trước tới giờ chỉ đạt tới nước trong không nhiễm, chưa đạt tới nước thánh.
Do đó, trong số chư đệ tử cùng đọc giả chỉ mới tu tới giai đoạn nước trong, chưa thể xung phá lên cảnh giới thuộc tầng trên, v́ nước trong tuy sạch nhưng lại dễ bị nhiễm trược, phải trừ hết ô uế rồi chế luyện thành “nước Thánh”, giai đoạn này cực ḱ khó khăn, đôi khi có kẻ uống nước lại khác, khiến nước trong trở thành nước đục, nước đục này chính là tâm đục, niệm đục chẳng phải tâm niệm an tịnh nên mới khốn quẩn, tự đem tâm trói buộc, đó là tất cả nguyên nhân.
Thái Sinh: Nếu vậy th́ biết giảng sao đây?
Duyên Sinh: Bởi v́ lúc đó có một chén nước đục thứ hai đổ vào, và nước lại không có tác dụng làm cho trong, đó không phải là tự t́m sự khốn quẩn sao? Nguyên nhân là tại đó.
Thái Sinh: A, tôi đă lănh hội được ư nghĩa huyền cơ đạo lớn của Đại Đức vừa giảng giải, một số đệ tử của Thánh Hiền Đường chưa phá nổi chướng ngại được ví với chén nước trong thứ nhất, khi bị đem đổ chung với chén nước thứ hai khác th́ vô cùng khốn quẩn.
Duyên Sinh: Đúng vậy, đó là tâm cảnh của chính ḿnh, gốc tâm chưa đạt tới bản tính Phật, do đó phản tác dụng lẫn nhau rồi sinh ra phiền năo cùng vô minh. Bởi vậy mà nước Thánh giống tính Phật, tính Phật lớn, tâm Phật vô lượng giống tựa hư không vô cùng vô tận, không lớn không nhỏ, không oán không giận, không ác không thiện, không riêng không rẽ, xuyên phá hư không, bao dung tất cả.
Nay Thánh Hiền Đường gặp pháp nạn th́ chính là ấn chứng, trước đây tạp chí Thánh Hiền không ngừng gặp sóng gió, nguy như trứng xếp cao, đó là nước trong bị nhiễm đục, xảy ra đúng như lời tôi đă nói năm qua, đó cũng chính là lúc khảo nghiệm chân thể tính kim cang của đệ tử Thánh Hiền Đường.
Cho nên kẻ tâm ḿnh trong sáng như mặt trời giữa trưa th́ luôn luôn quang minh, c̣n nếu như tự làm đen tối tâm ḿnh giống như mây đen trùm phủ, không thể thanh tịnh. Nếu nh́n ngược vô trong, thấy toàn bóng tối mới hay là sự vô minh do ḿnh tạo ra.
C̣n tâm này mà tự biết trừ sạch bóng tối của mây đen th́ tôi cho là tạp chí Thánh Hiền Đường đă đi vào cảnh giới “nước Thánh”, đó là tất cả nguyên do, vậy hiểu rơ được lẽ này ắt là an nhiên bất động, chính là bản tính “vô thượng bồ đề”.
Kẻ không sáng được lẽ này, tâm đạo bàng hoàng, niềm tin dao động, tâm trở thành riêng tư, cố chấp uổng phí cả bao năm khổ cực tu dưỡng, giống như ngàn ngày lượm củi một ngày đốt sạch, lửa thiêu cháy rụi rừng công đức, muôn công ngàn đức chỉ một đêm cháy thành tro, đó là tất cả nguyên nhân.
Thái Sinh: Những điều Đại Đức vừa tŕnh bày là sự tiên tri thấu suốt tương lai, tâm pháp quả là cao minh, đă đạt mức Vô Thượng Bồ Đề, “không” là tâm Phật, tṛn vo chẳng c̣n góc cạnh, chẳng trước chẳng sau, không thiên vị không cố chấp, luôn luôn trong sáng, đó là người phát huy đạo lớn.
Nếu như tâm c̣n phân biệt, chưa diệt được tận gốc sự chấp trước cái riêng, cái ta liền bị rớt ngay xuống cơi “hữu” lăn lóc hoài trong ba nấc thang “tam thừa” là thượng thừa, trung thừa và hạ thừa, không thể chí công vô tư để thực hành nổi đạo chân thường, nguyên lí là ở đó.
Duyên Sinh: Những lời tôi vừa tŕnh bày chỉ là bàn dông tán dài mà thôi, chẳng hề cho ḿnh là đạo cao đức trọng, bởi tất cả đều tùy thuộc nơi sự vận hành tự nhiên của lẽ trời.
Thái Sinh: Lời dạy của Đại Đức giống như lời dạy của chính đức Phật đă khắc sâu tận đáy tim tôi, phá sạch mọi chấp mê, quả là bậc sĩ hoằng dương đạo pháp, nếu như tận dụng tâm này thật là ơn phước lớn lao cho cả đạo lẫn chúng sinh.
Duyên Sinh: Đúng vậy, hy vọng chư đệ tử Thánh Hiền Đường tiếp nối được tinh thần truyền thống, lên được thuyền từ, sợ ǵ gió dập sóng vùi, thân đứng ngay thẳng vững chắc, há c̣n e ngại kẻ xấu miệng chê bai chửi rủa... (Tế Phật chợt vội vàng đưa hồn phách vị Đại Đức nhập thể xác).
Thái Sinh: Thưa, tại sao ân sư lại hoảng hốt vội an thần định phách cho Đại Đức vậy?
Tế Phật: Con chẳng thấy người con trai lớn của Đại Đức đứng bên cạnh kêu: “Cha, cha ơi” sao?
Thái Sinh: A, th́ ra là như vậy, con không thể tưởng tượng có cảnh đó nổi, vả lại Đại Đức và con quá mải mê bàn luận về lẽ đạo một cách vô cùng hứng khởi.
Tế Phật: Vừa rồi nếu như không cấp tốc an thần định phách ắt là hồn đă thăng luôn.
Thái Sinh: Vừa quên nghĩ tới việc trước tác Nhân Gian Du Kí th́ tự nhiên lại được nhắc nhở ngay, ha ha, quả thật là thú vị.
Tế Phật: Đúng vậy, thôi chúng ta trở lại Thánh Hiền Đường, con hăy lên đài sen, chuẩn bị khởi hành.
Thái Sinh: Xin tuân lệnh, con đă sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 698 of 1146: Đă gửi: 16 October 2010 lúc 2:36am | Đă lưu IP
|
|
|
NHÂN GIAN DU KƯ
HỒI NĂM
CHÂN ĐẠO ĐỨC, TRỜI KHẢO NGƯỜI XÉT PHẨM ĐỨC
THỰC TU HÀNH, CHĂM LO GIỮ G̀N HẠNH KIỂM
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 3 tháng 10 năm Tân Dậu (1981)
Thơ
Nghịch cảnh điên phái khảo đảo tâm
Thuận lưu phiệt châu dịch trầm luân
Liên hoa xuất nê nhưng bất nhiễm
Kính tiết tôn quư vạn niên tồn.
Dịch
Nghịch cảnh gian nan xét đạo tâm
Thuận buồm thuyền giác vượt trầm luân
Bùn nhơ sen mọc không ô uế
Tiết hạnh tôn thờ cả vạn năm.
Tế Phật: Hoa sen mọc giữa chốn bùn nhơ mà không bị ô uế, do đó mới biểu lộ nổi sự tôn quư của nó. Chiến sĩ gặp lúc nước nhà nguy biến, giữ vẹn được tiết tháo mới biểu lộ nổi tấm ḷng son sắt. Đầy tớ trung thành, chủ gặp nguy khốn ḷng không đổi mới chứng tỏ nổi tấc dạ trung trinh.
Một thiếu nữ khuê các, lấy được người chồng thuộc gia đ́nh nề nếp, hạnh phúc ấm êm, anh em chị em ḥa thuận trên kính dưới nhường, con cháu hiếu thảo với ông bà cha mẹ. Với hoàn cảnh gia đạo tốt đẹp sẵn có như vậy, người con dâu này dễ dàng đạt được đạo hiếu.
Trái lại, một người con gái khác phải về làm dâu một gia đ́nh mà cha mẹ chồng khắc nghiệt, anh chị em bất ḥa, thù ghét lẫn nhau mà nàng vẫn một dạ thờ kính cha mẹ, kính nể anh chị, hy sinh cho các em th́ đức hiếu thảo của nàng tuy khó đạt song giá trị vẫn là cao hơn gấp bội.
Tiếc thay các kiểu làm vợ đời nay phần đông không chịu đựng nổi sự thiệt tḥi phiền toái, nên luôn luôn xúi giục chồng dọn nhà ra ở riêng, đó là cách hành động của loại phụ nữ không chịu thực hiện đức hiếu thảo.
Nay kẻ tu tŕ đạo đức lớn cũng vậy, nếu như ở vào hoàn cảnh thuận lợi, ở trong sự sinh hoạt dễ dàng, mọi chuyện b́nh thường giải quyết chẳng khó khăn th́ làm sao có thể gọi được là tu đạo nổi.
C̣n nếu như ở trong một môi trường cực kỳ khó khăn, đầy khốn quẩn, đầy dèm pha khinh thị mà vẫn giải quyết mọi chuyện êm thấm, cần nhẫn liền nhẫn, cần nhường liền nhường, không động loạn, không thất tiết, không mất chí, quyết tâm làm gương cho kẻ khác noi theo, đem thân làm bài học cho đời, bởi lẽ thân dạy bao giờ cũng ứng nghiệm hơn lời dạy (Dĩ thân tác tắc, thân giáo thắng ư ngôn giáo).
Loại người tu đạo này tuy chưa gọi là tu đạo, song theo ta họ đă thành đạo. Cho nên tu đạo với không tu, chân tu với giả tu có thể căn cứ vào đó mà phân biệt, thành đạo với chưa thành đạo có thể căn cứ vào đó mà xác định giá trị. Đạo vốn tùy lúc tùy thời ở cạnh ta, đạo không chỉ có ích cho người già, đạo không phải là tích cực hay tiêu cực, đạo không phải buông bỏ hay níu kéo, đạo không phải là tự trói hay tự buộc.
Cho nên kẻ nhiễm những ư niệm trên trong đầu đều bị rớt vào t́nh trạng thiên kiến, thế mới biết “Dưỡng binh ngàn ngày, dụng binh một lúc” (Dưỡng binh thiên nhật, dụng binh nhất thời). Lúc yên không luyện binh, nuôi binh, khi loạn làm sao có quân nổi?
Ngày nay tu đạo cũng vậy, b́nh thường là đạo, sinh hoạt hàng ngày là đạo, đạo chẳng giống như cây cỏ có sinh có tử, đạo sống động hoài hoài, vô cùng viên dung, mong sao đạt được đạo trung ḥa. Do đó, có kẻ nhờ đạo mà sống, có người v́ đạo mà mê, có câu: “Đạo chẳng xa người, chỉ có người xa đạo” (Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo nhi tự viễn). Đó là sự chứng minh rơ ràng rồi vậy.
Sở dĩ chê bai đạo là v́ c̣n đứng ở ngoài cửa đạo, chưa chính thức vào bên trong. Kẻ hành đạo mà c̣n cảm thấy khổ sở là c̣n ở bên ngoài cửa chưa vào trong, kẻ vào đạo mà c̣n cảm thấy hoang mang sợ hăi là hăy c̣n ở ngoài cửa chưa vào trong cửa.
Kẻ tu đạo mà c̣n cầu cảm ứng Tiên Phật là c̣n ở ngoài cửa chưa vào được bên trong, kẻ tu đạo mà nhích một tấc cũng không nhích nổi là c̣n ở ngoài cửa chưa vào bên trong, tu đạo mà c̣n thấy có cửa là c̣n ở ngoài cửa chưa vào bên trong.
Đạo vốn sống động tràn trề chứ không ù ĺ, không rời rạc, nếu như kẻ hành đạo mà cảm thấy ḿnh khổ sở như vừa nói ở trên hẳn là chưa đạt được cứu cánh của đạo, đó không phải là đạo giải thoát, nếu chưa ngộ được chân đạo th́ đạo đó c̣n là đạo dễ đổ, chứ chưa là đạo vững bền; là đạo cố chấp chứ chưa phải là đạo viên thông; là đạo ngoan cố chứ chưa là đạo viên măn.
Kẻ không ngộ nổi đạo này, hiểu rơ đạo này là tâm u mê vọng động, chẳng thể khen chê cùng bàn bạc điều hay lẽ dở với họ được, v́ bẩm sinh họ vốn vô minh, tự đem bản tính tách rời khỏi chân đạo, khỏi thiên đàng lao đầu xuống địa ngục một cách ngu xuẩn.
Loại người có tư tưởng trên đây chắc chắn phải t́m minh sư chỉ dẫn cho, không thể ch́m đắm măi được. Ngày nay sách Nhân Gian Du Kư đă khám phá ra được lẽ huyền vi của đạo lớn, thật quả ngàn năm may mắn mới có được kinh điển quư báu này, nếu như ngộ được lẽ đạo trong đó liền thành Tiên, thành Phật ngay, nếu như không ngộ được, muôn đời chẳng gặp được chân đạo.
Không được chê Phật, chê đạo, v́ hành động như vậy là tự trầm ḿnh nơi biển khổ, cho nên phải biết quư trọng đạo, c̣n không cứu cánh của đạo sẽ mất ngay. Từ ngàn xưa tới nay, kẻ ngộ được đạo này thật quả là ít ỏi, chẳng đáng kể là bao, bởi lẽ đạo này khó đắc, khó truyền, khó ngộ, khó chứng.
Trước đây tâm của Thánh Hiền Đường mỗi mỗi đều y theo tâm trời song vẫn chưa minh. Nhưng hiện nay th́ nhất cử nhất động đều giống như trăm mũi tên bắn ra, mũi nào mũi nấy đều trúng tâm ṿng tṛn xạ điểm.
Nhớ xưa Thần Tú tài cao ngút trời, sức học uyên thâm, ngày ngày theo sát Ngũ Tổ nhưng vẫn chẳng giác ngộ nổi chân đạo, cho nên mặt dù đă mất rất nhiều công t́m ṭi nhưng chỉ mới ḍ kiếm được tới lá chứ chưa tới cành tới gốc. C̣n Lục Tổ Huệ Năng vô học song lại thức giác chân đạo, đốn ngộ bản lai, trở thành tổ Thiền Tông đời thứ sáu.
Thái Sinh: Cảm tạ ân sư đă truyền dạy cho con chân đạo để giúp con sáng tỏ lẽ đạo vô thượng bồ đề, giống như Ngũ Tổ canh ba truyền đạo, ngài Huệ Năng chỉ đọc một bài kệ liền đại ngộ; Phật Tổ cầm hoa, ngài Ca Diếp mỉm cười liền đại giác.
Sự tu đạo chứng đạo của con trước đây tâm chưa đạt mức chân như bồ đề. Giống như kẻ mê đánh bạc chỉ v́ ngứa tay mà đánh; ghét tay ngứa chỉ biết cào cấu tay mà không hiểu rằng cào cấu tay chỉ là chữa ngọn, chế phục được tâm mới là chữa gốc. Ngày nay thiên kinh vạn quyển, song kẻ ngộ đạo chỉ có một, kẻ mê muôn ngàn.
Muôn kinh ngàn sách giống như một cây, cây dù có muôn cành ngàn lá, song vẫn quy về một gốc, kẻ mê chỉ lượm được lá, người tỉnh không chỉ lượm được lá mà c̣n hiểu biết gốc rễ, thấy rơ được cội nguồn. Con may mắn bữa nay được ân sư chân truyền, nguyện hướng dẫn cho những kẻ c̣n thấp kém, cùng bạn đạo trau dồi.
Tế Phật: Ha ha, chân nhân đắc chân đạo, mê nhân đắc mê đạo, thượng nhân đắc thượng đạo, trung nhân đắc trung đạo, hạ nhân đắc hạ đạo. Đó là nhân duyên hội hợp kiếp này của thầy và con. Nếu như kẻ không thông được lẽ đạo này, sẽ sống hồ nghi, sự tối tăm thường nổi dậy mà coi rẻ đạo, vĩnh viễn khó hành đạo này, thế mới rơ đạo này khó ngộ, khó truyền, khó chứng, bởi vậy chẳng thể nhiều lời bàn bạc qua sách vở.
Thái Sinh: Thưa đúng vậy, con phải tùy tâm chúng sinh mà truyền pháp cho chúng sinh.
Tế Phật: Con đă đạt được đạo chân truyền của thầy nên con mới lập nguyện đền ơn như vậy.
Thái Sinh: Con xin cảm tạ ơn trời đă ban.
Tế Phật: Đêm nay thời giờ đă trễ, tṛ ngoan hăy mau lên đài sen.
Thái Sinh: Thưa con đă sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đă tới nơi, con có thể mở mắt ra.
Thái Sinh: Tới chốn lạ lùng, thấy trong căn nhà phía trước có một phụ nữ đă đứng tuổi, đang ngồi đàm đạo với ba phụ nữ khác tại pḥng khách.
Phụ nữ đó sắc diện đẹp tươi, thứ sắc diện cao quư phàm nhân tục tử không thể xâm phạm, hẳn là không phải thứ sắc diện của loài người trang điểm phấn son nơi chốn phồn hoa, đô hội mà chính là sắc diện đẹp tươi, chân chất của người tu đạo phát tiết tự nhiên, thật đáng ngưỡng mộ vô cùng.
Tế Phật: Tṛ ngoan này, con quả có tuệ giác, mới nh́n qua đă nhận diện ra được kẻ chân tu, quả không sai, vị tu sĩ đạo trời này tính tới nay đă tu được hai mươi bốn năm, luôn luôn bền chí, đốt sáng tâm tuệ, quét sạch vô minh cho nên khí lành tràn ngập, thường chăm chỉ tới đàn cơ công phu, công quả cho nên tâm thường được khí lành hội tụ và tỏa chiếu.
Thái Sinh: Quả là không đơn giản, người tu đạo thường hiếu ḱ và tham cầu, không chịu thực hành chân pháp, luôn luôn giả dối, đa số bỏ dở nửa chừng.
Tế Phật: Đêm nay ta chẳng thể sắp xếp để con vấn đạo vị nữ đạo sĩ này, chúng ta hăy t́m một vị khác để thảo luận.
Thái Sinh: Thưa đúng... Xin thầy giảm bớt tốc độ, v́ vừa rồi mở mắt ra, con cảm thấy không chịu đựng nổi sức gió.
Tế Phật: Hiện tại công lực con chưa đủ nên mới cảm thấy như vậy, tốt hơn con hăy nhắm mắt lại.
Thái Sinh: Thưa vâng.
Tế Phật: Trên lầu tiệm buôn phía trước có một cụ già chuyên làm việc thiện.
Thái Sinh: Thưa ân sư, con đă nh́n thấy căn lầu, bên trong có một cụ già, đỉnh đầu ngời tỏa hào quang, tướng mạo quá phi phàm, chắc chắn là người tu hành đúng đạo.
Tế Phật: Đúng, vị đó là người tu hành chân chính, lại thường cúng tiền in kinh sách và tạp chí, hoặc giúp đỡ kẻ nghèo khó, nhưng luôn giấu họ giấu tên. Giao tiếp với người luôn luôn giữ lễ độ, không ham danh hăo, không chuộng phú quư vinh hoa, vị này đáng làm gương sáng cho người đời.
Thái Sinh: Quả đúng như vậy, con nghĩ một người luôn luôn giữ được tâm trong sáng hẳn là phải xa ĺa được cảnh đời vật chất cùng các thú vui để thực hiện những điều ích lợi về tinh thần cho ḿnh và cho cả người, chúng sinh cớ sao lại không thể làm như thế nổi?
Tế Phật: Ha ha, trên đời có ba loại người, loại thứ nhất “nói là làm được” cư xử đúng đắn. Loại thứ hai “nói mà không làm được” cả lời nói lẫn việc làm đều giả dối, chuyên xảo trá kiếm lợi. Loại thứ ba “nói chẳng được nhưng lại làm được” đây là loại người chân thành tu đạo, chẳng tham danh lợi. Cụ già đó thuộc người thứ ba này.
Thái Sinh: Chăm chỉ cày bừa, chẳng bận tâm đến sự được mất, luôn luôn được mọi người kính trọng. Bây giờ đă muộn, liệu ân sư c̣n có thể sắp xếp thêm để giúp con tới nơi khác học đạo tiếp?
Tế Phật: Đêm nay thời giờ đă trễ, thôi để tới đêm mai, con hăy chuẩn bị lên đài sen để trở lại Thánh Hiền Đường.
Thái Sinh: Thưa con đă sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 699 of 1146: Đă gửi: 16 October 2010 lúc 2:43am | Đă lưu IP
|
|
|
NHÂN GIAN DU KƯ
HỒI SÁU
CÁC CĂN ÁC TÀ NIỆM DÂM DỤC, TỰ MÊ TRẦM TỘI NGHIỆP SÂU
CÁC GỐC THIỆN CHÍNH TÂM TU THÂN, LO GIỮ M̀NH CÔNG ĐỨC C̉N
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 19 tháng 10 năm Tân Dậu (1981)
Thơ
Sắc tự đầu thượng nhất bả đao
Phong tự lợi kiếm trảm anh hào
Đa thiểu mê mông si hoa khách
Trầm luân nghiệt hải khốn khổ lao.
Dịch
Chữ sắc (色) trên đầu có chữ đao (刀)
Bén như gươm sắt chém anh hào
Say hoa mê muội đời bao kẻ
Biển khổ đọa đày tránh được sao?
Tế Phật: Xướng ca, khiêu vũ là dâm, dan díu với vợ và con gái nhà người là dâm, ư tưởng bẩn thiểu là dâm, phá hoại danh tiết của người là dâm. Tục ngữ nói “Sâu ăn rau sâu chết dưới rau, ong hút mật hoa ong chết dưới hoa” (Thái trùng thái hạ tử; hoa phong hoa hạ vong). Lă Tổ dạy :
Thơ
Nhị bát giai nhân thể tự tô
Yêu trung trượng kiếm trảm ngu phu
Tuy nhiên bất kiến nhân đầu lạc
Ám lư giáo quân cốt tủy khô.
Dịch
Thân ngọc nơn nà đẹp gái tơ
Lưng đeo gươm sắc chém trai khờ
Tuy rằng kẻ ấy đầu không rụng
Nhưng sẽ có ngày cốt tủy khô.
Tiên Thánh dạy phải luôn luôn kính sợ ḷng người, không được nhiễm ư dâm đăng mê hoặc, không được hủ hóa v́ sắc đẹp để rồi bị đọa đày nơi biển khổ, sau này hối hận th́ đă muộn.
Thái Sinh: Lời dạy của ân sư rất hữu lư... Bữa nay giống như đem vấn đề dâm ra làm đề tài thảo luận, để truy tầm mục phiêu, cùng t́m ṭi nhiều ư nghĩa sâu xa khác.
Tế Phật: Đúng vậy, dâm là đầu mối của muôn tội ác, cho nên đêm nay trước tiên phải truy tầm phỏng vấn về vấn đề cái họa của dâm, để mong chúng sinh dưới gầm trời đều có thể bỏ thói tà dâm mà giữ ǵn trinh tiết.
Thái Sinh: Xă hội ngày nay trong mọi ngành hoạt động đều ngấm ngầm dùng sắc đẹp để mua chuộc ḷng người, lôi cuốn khách hàng cho nên phong khí càng lúc càng sa đọa, những vụ án về gian dâm mỗi ngày mỗi nhiều, mối họa xét ra đều do tà dâm gây nên.
Việc trước tác sách Du Kư đêm nay, những ai có duyên xem được đều giật ḿnh tỉnh giấc để rồi cố gắng tu tâm sửa tính.
Tế Phật: Đúng vậy, tâm ấn Ngọc Hoàng chứa diệu kinh: “Ba loại thuốc có giá trị cao là tinh khí thần, do đó có thể coi là ba báu vật quư nhất của con người, trên hết mọi thứ thuốc, nếu như cố bảo vệ tinh khí thần, tiết dục để tâm trong, cử ăn sơn hào hải vị, bát trân thập toàn, tự nhiên thân thể điều ḥa, trăm bệnh lánh xa.”
Có thơ rằng :
Thơ
Tích hữu hành đạo nhân
Lộ thượng phùng tam lăo
Niên thọ các bách dư
Cần kiệm sừ ḥa mạch
Trú xa vấn tam lăo
Hà dĩ đắc thử thọ Nhất
lăo tiền trí từ
Thất nội phu mạo xú (tiết dục)
Nhị lăo tiền trí từ
Lượng phúc tiết sở thụ (tiểu thực)
Tam lăo tiền trí từ
Dạ ngọa bất phúc thủ (an niên)
Yêu tai tam lăo ngôn
Sở dĩ năng trường cửu!
Dịch
Xưa có kẻ đi đường
Gặp được ba ông lăo
Tuổi thọ thật là cao
Chăm lo việc đồng áng
Ngừng xe hỏi các lăo
Cách nào sống được lâu
Một lăo vội tŕnh tâu
Vợ tôi nhan sắc xấu (giảm dục)
Lăo sau kể rơ rằng
Bụng trống ít ăn uống (giảm ăn)
Lăo chót nói cho biết
Đêm ngủ không trằn trọc (ngủ yên)
Hay thay lời ba lăo
Rơ lẽ tuổi thọ cao.
Thái Sinh: A, đúng rồi, hôm trước tại Thánh Hiền Đường có một bạn đạo hỏi rằng làm cách nào để có thể xuất hồn đi học đạo như tṛ ngu? Theo ư ân sư có nên giúp vị đó thỏa ước nguyện mong cầu không?
Tế Phật: Tṛ ngoan nghĩ rằng có thể đem việc ngồi đàn cơ ra làm tṛ biểu diễn được chắc?
Thái Sinh: Thưa ân sư quả là con sai lầm.
Tế Phật: Các tṛ biểu diễn nơi đàn cơ rất nguy hiểm, như việc nuốt kiếm, nuốt lửa, nuốt đinh vô cùng tinh túy, người ở dưới đàn cơ nh́n thấy rùng ḿnh kinh hăi, sau khi tṛ ngoan xem xong liệu có dám làm theo không?
Thái Sinh: Thưa, con không làm nổi, chẳng thể đem sinh mệnh ra thử thách.
Tế Phật: Sỡ dĩ người đời không thoát được phàm thân, mà đ̣i xuất hồn đi theo học đạo th́ chỉ như những kẻ đồng bóng biểu diễn tṛ này tṛ nọ mà thôi, làm sao có thể tự đóng cửa tạo xe mây, nên chỉ đạt thức một cách mù ḷa.
Việc tu đạo phải từ từ từng bước một, tới ngày công thành quả măn thoát xác siêu thăng, tự ḿnh tạo được chiếc xe mây, qua đông qua tây thong dong đi lại, đó mới chính thực là được vân du.
C̣n các xe đi mượn đều phải trả, đó không phải là cứu cánh, hà tất lại đem tâm hiếu ḱ đi mong cầu thỏa măn dục vọng nhất thời sao. Ồ, bữa nay thời giờ đă trễ, tṛ ngoan lên đài sen chuẩn bị vân du.
Thái Sinh: Thưa con đă sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đă tới nơi tṛ ngoan có thể mở mắt ra.
Thái Sinh: Bữa nay ân sư hướng dẫn con tới thăm một khu phố về ban đêm, hàng quán bày đầy đường, nguời qua kẻ lại đông nghẹt, giữa cảnh ồn ào náo nhiệt này làm sao phỏng vấn nổi?
Tế Phật: Được, v́ dưới mắt huệ quan sát của thầy, thanh niên ngồi ăn ḿ trong quán kia phạm tội hiếu sắc, hiếu dâm.
Thái Sinh: Thưa con đă nh́n thấy người thanh niên đó mồm ngậm điếu thuốc đi tới ngồi trên chiếc ghế dài, ngó ngang ngó dọc, tâm thần bất định, trên bàn có một tô ḿ, một chén rượu, mắt láo liên coi vẻ không phải người lương thiện, tính khí rất hung hăn nóng nảy, không rơ đă phạm phải những tội ác ǵ.
Tế Phật: Theo như sự ghi chép của Thần Tam Thi, vị thanh niên này thường dùng ba tấc lưỡi làm thân với đàn bà con gái, rồi lợi dụng trong lúc tṛ chuyện lấy bùa mê, thuốc lú dấu sẵn trong người ra bỏ vào đồ ăn thức uống, khiến bao kẻ mắc phải, thân bị làm nhục.
Thái Sinh: A, tán tận lương tâm đến mức đó được sao, lừa người mà chẳng biết nhục, nếu y đặt ḿnh vào hoàn cảnh của người sẽ thấy thế nào, hoặc chị em ruột thịt của y bị thất thân, th́ y sẽ cảm thấy ra sao? Thứ người này chẳng c̣n chút liêm sỉ, chôn vùi lương tri, hỏi sao không chịu nghiệp quả báo ứng.
Tế Phật: Tổ đức của kẻ này vẫn c̣n nên báo ứng chưa thể xảy đến ngay, nhưng năm năm nữa, hắn sẽ thập tử nhất sinh, bởi vậy ta hi vọng hắn mau mau quay đầu tỉnh ngộ, không v́ một chút khoái lạc mà phải mang họa muôn đời.
C̣n các thiếu nữ phải lựa bạn mà chơi, chớ mắc vào tṛng thứ bạn lang sói, phải coi xét hành vi tính t́nh của kẻ muốn quen ḿmh xem có chân thành không đă rồi hăy kết bạn, như vậy mới tránh được hậu họa.
Thái Sinh: Ân sư dạy quả là đúng, người thanh niên đó đă cưỡi xe gắn máy phóng đi... Thưa ân sư đêm nay ta nên t́m thêm một người nữa để phỏng vấn viết sách không?
Tế Phật: Nên chứ, chúng ta hăy tiến tới trước, v́ quán sách đằng kia có một thanh niên theo như thần Tam Thi ghi th́ hắn đă say mê coi sách báo khiêu dâm từ thời c̣n học trung học.
Thái Sinh: Thưa con đă nh́n thấy người thanh niên đó, coi vẻ mặt rất sáng sủa cớ sao lại có những hành vi như vậy.
Tế Phật: Ba năm trước đây sau khi coi sách báo khiêu dâm xong, thanh niên này bị tư tưởng dâm đăng ám ảnh, thân thể suy nhược không thể tập trung tinh thần, phải nghỉ học một năm, trong thời gian này vô t́nh có một người bạn đem tới tặng cuốn “Quan Thánh Đế giới dâm kinh” nhờ được đọc kinh này, hiện giờ đă bỏ được thói quen xấu xa.
Thái Sinh: Người ta không phải là thánh hiền, lỡ phạm điều sai quấy, nếu biết sửa đổi há lại không trở nên tốt lành được hay sao. Sống biết nhắm ngả thiện mà đi, hẳn là đường phía trước thênh thang mở rộng... C̣n nếu như lạc hướng, say mê xem sách báo khiêu dâm hẳn là không tránh nổi họa lớn.
Tế Phật: Tuổi trẻ khí huyết cương cường, nếu như mắc phải tội tà dâm, th́ chẳng khác nào ruồi muỗi có đôi cánh để bay lại bị mắc vào bẫy dính, khó mà vượt thoát nổi.
Thái Sinh: Thưa đúng vậy, bẫy dính ruồi muỗi phía trên có bôi một lớp mật ngọt ngào, giống như sự dâm dục bên ngoài phủ lớp hương sắc đắm say dễ khiến ḷng người mê mẩn song bên trong lại ẩn dấu dao nhọn để cướp bóc của quư báu.
Nếu như hưởng được chút khoái lạc nhất thời th́ lại phải đánh đổi cái họa lớn sau này. Kẻ đam mê vật dục, tâm linh vô phương thanh tĩnh nổi, hành động đó sẽ nuôi dưỡng sự tồi tệ cùng tai họa, tự t́m hoạn nạn, hành động quả là mê muội, làm cách nào để chữa trị được căn bệnh nhơ bẩn này?
Tế Phật: Có thể sám hối trước thần linh, in tặng kinh sách, dùng sự bận rộn công phu, công quả để trấn áp sự tán loạn của tâm linh.
Nếu như lửa dục bốc lên mà lại giải tỏa bằng cách xem sách báo khiêu dâm mong thỏa măn nó th́ phương cách đó chỉ là phương cách nhất thời, không phải là phương cách giải quyết trọn vẹn. Phải tu đạo, giữ ǵn cái gốc, cái nguồn, minh tâm kiến tính đó mới là phương cách đạt được cứu cánh mà thôi.
Thái Sinh: Hy vọng chúng sinh dưới gầm trời đều có thể đem cái nh́n mở huệ này cắt đứt tà ư mê muội ngu si.
Tế Phật: Đúng vậy. Thầy thấy một vị trung niên ở trong quán ḿ vịt, giống hệt như những ǵ thần Tam Thi đă ghi chép, kẻ đó đă có gia đ́nh lại c̣n lén lập riêng một tổ uyên ương chung sống với một người con gái.
Thái Sinh: Thưa, con đă nh́n thấy vị trung niên đó, đang nhậu nhẹt với bạn bè.
Tế Phật: Nếu vị trung niên này không mau mau sám hối, sửa đổi thói hư tật xấu, sự nghiệp sẽ sụp đổ tan tành.
Thái Sinh: Hiện nay trong nước có phong trào vận động “Cha ơi! Về nhà dùng bữa cơm chiều” ư nghĩa thật quả là sâu xa cụ thể, nhằm mục đích xây dựng hạnh phúc gia đ́nh êm ấm, mong những kẻ làm cha hiểu rơ trách nhiệm gia đ́nh mà chăm lo gánh vác.
Tế Phật: Ha ha, kẻ tham sắc cũng giống như kẻ mê đánh bạc, đầu năm không đánh không yên.
Thái Sinh: Thưa, câu ân sư vừa dạy: “Đánh bạc đầu năm” ư nghĩa ra sao?
Tế Phật: Lúc b́nh thường bận rộn về chuyện gia đ́nh, sự nghiệp nên không được rảnh rang, song vào dịp đầu năm mới lại khác hẳn, các hăng xưởng đóng cửa, mọi người rảnh rang, những ai có chút máu cờ bạc há lại chẳng thử thời vận vào dịp này sao?
Thái Sinh: Ha ha, lời dạy của ân sư quả là sâu sắc, kẻ ham đánh bạc lúc b́nh thường c̣n chẳng ngăn nổi nữa là khi rảnh rỗi. Song c̣n mănh lực của sắc đẹp cũng lôi cuốn người ta không kém.
Tế Phật: Kỳ thực là sắc đẹp cũng chỉ là một h́nh tượng ảo hóa mà thôi, nhưng người ta khi đă mê nó th́ cũng khó mà dứt nổi.
Thái Sinh: C̣n biết nói sao đây?
Tế Phật: V́ kẻ hiếu sắc chỉ ham mê cái vẻ đẹp trẻ trung bên ngoài, cho nên phụ nữ lúc về già, nhan sắc phai tàn, đàn ông không ngó ngàng tới, đó là lẽ tất nhiên. Ví dụ một minh tinh điện ảnh đang được mọi người hoan nghênh, có lần tự hóa trang thành kẻ xấu xí dơ bẩn, khi đi dạo phố hẳn mọi người sẽ tránh xa, chẳng dám ḍm dám ngó.
Bởi vậy nhan sắc cũng giống như một đóa hoa lúc nở đẹp được mọi người ưa thích, khi tàn rụng xuống vũng bùn nhơ, thử hỏi ai dám tới ngắm nghía khen ngợi? Cho nên lánh xa sắc đẹp là minh tâm, c̣n nếu tâm chưa sáng, lăn lóc đắm ch́m trong chốn tửu điếm, lầu xanh để cho rượu hồng màn tía vùi chôn anh hồn.
Đợi tới lúc già sau khi đă bị sắc đẹp làm hại mới chợt tỉnh ngộ, mới rơ sự vô tri của quá khứ th́ hẳn là đă quá muộn màng.
Thái Sinh: Thưa, lời dạy của ân sư rất đúng, sắc đẹp đă khiến cho bao anh hùng hảo hán mê muội, người đời sống an lạc trong hang, trong hốc, tự ḿnh sung sướng say sưa, chợt tới khi gặp nguy khốn thất bại, quỳ lạy cầu xin, nhưng vẫn không cứu văn nổi.
Tế Phật: Bữa nay tạm dứt cuộc vân du tại đây, tṛ ngoan hăy mau mau lên đài sen, chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường.
Thái Sinh: Thưa vâng, con đă sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 700 of 1146: Đă gửi: 16 October 2010 lúc 2:53am | Đă lưu IP
|
|
|
NHÂN GIAN DU KƯ
HỒI BẢY
CHỐN NHÂN GIAN, CHÚNG SINH TU TR̀ GIEO NHÂN ĐẠO
CƠI PHẬT TRỜI, HÀNH GIẢ THANH TỊNH LUYỆN TÍNH LINH
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 29 tháng 10 năm Tân Dậu (1981)
Thơ
Tu đạo vô kỳ bản tự nhiên
Nhất tính viên minh dưỡng tính thiên
Tự cổ hành tŕ vô tiệp kính
Thủ trú bản lai kết Phật duyên.
Dịch
Tu đạo chớ lo kể tự nhiên
Tính luôn tṛn sáng dưỡng hồn Tiên
Ngày xưa tu tập cần tŕ chí
Nguồn cội giữ bền kết Phật duyên.
Tế Phật: Ngày nay tu đạo, thật chẳng c̣n lạ lùng, song lại có người chỉ muốn tu mau nên cố t́nh chạy đuổi, nhưng càng đi gấp, đường càng xa cách thêm, nguyên nhân bởi tại đâu? Đều do tự ḿnh đi lạc vào đường bàng môn tả đạo, nên càng tu càng mê đó là tất cả lư do chính.
Thái Sinh: Thưa lời dạy của ân sư rất đúng, cửa đạo lớn luôn luôn rộng mở chẳng thèm vào, đạo nhỏ cửa đóng then cài người ta lại chui luồn kẽ ngách.
Tế Phật: Ha ha, đạo lớn quá xa, đạo nhỏ quá gần, kẻ theo tiểu đạo bàng môn, cuối cùng đường cụt cửa đóng, để rồi miễn cưỡng quay đầu trở lại.
Thái Sinh: Mong rằng như vậy.
Tế Phật: Hăy chuẩn bị vân du viết sách, mau lên đài sen.
Thái Sinh: Thưa vâng, con đă sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đă tới nơi. Tṛ ngoan, con hăy mở mắt ra.
Thái Sinh: Phật đài phía trước hào quang chói ḷa giống hệt một đạo tràng để nghiên cứu giáo lí cùng hành tŕ Phật pháp.
Tế Phật: Những hành giả ở đây đều tŕ trai giới sát, cứu thế độ nhân, v́ đạo tận lực hi sinh phục vụ, quả là một gia đ́nh Thần Tiên.
Thái Sinh: Trên lầu có một vị đứng tuổi đang sửa soạn bàn Phật, đúng là chủ nhân của Phật đài này... Hiện tại giáo phái quá nhiều theo ư ân sư làm cách nào để phân biệt được chân giả?
Tế Phật: Đạo vốn vô đạo, giáo vốn vô giáo, giáo vốn do người bày, đạo do người hành. Công chính hành đạo, đó là chính đạo; giả trá hành đạo, đó là tà đạo. Thời nay muôn vạn pháp môn phát triển mạnh mẽ, có phái ẩn, có phái hiện, có phái nhập thế, có phái xuất thế, tuy tính chất khác biệt, không hoàn toàn giống nhau song các giáo đều lấy sự tu tâm, bố thí, tôn chỉ cứu nhân độ thế.
C̣n nếu như làm ngược lại tức là xa rời giáo, phản bội đạo. Hư danh sắc tướng đều giả trá, chân chính ngụy tạo là đó, chẳng cần để tâm phân biệt, cũng chớ có tranh giành phá phách, được vậy mới đích thực là biết hành đạo, và có công giúp đời vậy.
Thái Sinh: Thưa muốn đạt đức lớn, khi tạo được “ngoại công” rồi, phải biết tu cả “nội công” nữa, c̣n nếu như chưa tu “nội công” hoặc là “ngoại công” chưa đủ, lúc viên tịch liệu có thể lên tới được cơi trời vô cực không?
Tế Phật: Như vậy là chưa phải là tính mệnh song tu, thật quả đáng tiếc, nếu xét cách tu tŕ đơn hành “ngoại công” như vậy, đạo tâm tuy kiên định, song “nội công” chưa tṛn đầy, chỉ cần một mực giữ đạo tâm.
Nếu như gặp duyên, Tiên Phật sẽ hướng dẫn tới viện Bát Quái hoặc viện Trời Phật, để luyện lại tính linh cho sạch hết tạp chất, tới khi nào bản tính chân như hoàn toàn sáng lại, mới có thể trở lại được cơi trời vô cực.
Thái Sinh: Thưa, tṛ ngu vẫn thường được nghe nói tới tên viện Trời Phật, đêm nay ân sư có thể hướng dẫn con lên thăm viện đó một lần được chăng?
Tế Phật: Hiện thời thầy tṛ ḿnh soạn sách Nhân Gian Du Kư, nếu như t́m tới thiên đàng hay địa ngục để thăm hỏi th́ hạn hoàn thành sách này sẽ bị kéo dài.
Thái Sinh: Nếu như mang được đại đạo ra hoằng hóa phổ độ chúng sinh, tṛ ngu nguyện chấp nhận thời gian viết sách kéo dài.
Tế Phật: Con có tâm nguyện hoằng đạo, trời có ḷng lẽ nào lại không phù hộ con, kẻ làm thầy lẽ nào lại không giúp đỡ con. Bữa nay chúng ta tới viện Phật Trời.
Thái Sinh: Đa tạ ân sư.
Tế Phật: Muốn lên cơi Tiên, hăy đợi thầy chuẩn bị một b́nh nước trời cho con uống để tăng thêm công lực.
Thái Sinh: Thưa hay lắm... Nước trời quả là thần diệu, con cảm thấy thân tâm khoan khoái mát mẻ, tinh thần phấn khởi.
Tế Phật: Mau lên đài sen, chúng ta khởi hành.
Thái Sinh: Con đă sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đă tới viện Phật Trời, Thái Sinh xuống đài sen.
Thái Sinh: A, cơi trời quả là đẹp đẽ vô cùng, hoa thơm cỏ lạ, núi non trùng điệp, ngọc ngà chất ngập, bao vẻ mĩ lệ nh́n không xuể... Thưa ân sư, phía trước có một người đi tới, không rơ họ là ai?
Tế Phật: Đó là lính hầu ở viện Phật Trời, v́ bữa nay chúng ta không thông báo trước bất chợt tới đây, khiến họ ngạc nhiên.
Lính Canh: Kính chào ngài Tế Phật, bữa nay không một ai được phép vào thăm bản viện. C̣n việc ngài dẫn thêm một người phàm tới đây không rơ điều chi dạy bảo.
Tế Phật: Bữa nay hai thầy tṛ tôi tới đây để lo việc viết cuốn sách trời cuối cùng, xin vào trong tŕnh cho ngài Viện Trưởng rơ như vậy... (Một lát sau, Viện Trưởng viện Phật Trời từ trong viện bước ra gặp Tế Phật, hai người tṛ chuyện hỏi han nhau).
Viện Trưởng: Vừa rồi lính canh thông báo như vậy quả là thất lễ, xin thứ lỗi cho.
Tế Phật: Không sao, không sao, xin ngài Viện Trưởng chớ khách sáo, bữa nay v́ phải viết cuốn sách thông thiên địa nhân cuối cùng nên mới tới đây, c̣n vị này là Thái Sinh thuộc Thánh Hiền Đường.
Thái Sinh: Bữa nay quả là ba đời may mắn mới được tương ngộ ngài Viện Trưởng, quả là không dễ dàng, mong ngài Viện Trưởng chỉ giáo nhiều cho.
Viện Trưởng: Thánh Hiền Đường v́ có sứ mệnh phổ biến đạo lớn, nên đă hết ḷng hết sức, các hành giả lại tới đây luyện khí, hầu hết là đọc giả tạp chí Thánh Hiền Đường.
Thái Sinh: Nếu vậy th́ sự hiến dâng tâm lực để phổ hóa đạo lớn của các bạn đạo Thánh Hiền Đường quả là không uổng phí.
Viện Trưởng: Chư đệ tử đă học được tinh thần của con thiêu thân, tự đốt ḿnh để soi sáng cho kẻ khác, công đức siêu việt ba cơi, quả vị vô cùng lớn lao, thật không phải dễ đạt được.
Thái Sinh: Thưa ngài Viện Trưởng quá khen, vừa rồi lính hầu mang một văn kiện vào trong viện là văn kiện ǵ?
Viện Trưởng: Đó là văn kiện Tam Quan Cửu Khẩu xét định công quả các hành giả xem nhiều hay ít, để bản viện sắp xếp việc trở lại đây tu tiến thêm. Nếu như mức rèn luyện đă đạt mức trí viên, tính minh mới tŕnh lên Vô Cực khảo chứng quả vị phẩm liên (giá trị hoa sen).
Thái Sinh: À th́ ra nguyên nhân là như vậy, thật không thể tưởng tượng được là thủ tục lại phức tạp đến mức đó.
Viện Trưởng: Đương nhiên như vậy, thời mạt pháp đă tới, kẻ tu đạo mỗi lúc một đông, cho nên công việc của viện cũng rất bận rộn, mời Thái Sinh vào trong viện lăm giám.
Thái Sinh: Sảnh đường của viện to lớn vô cùng, rộng răi vô kể, khách đạo, khách tiên ra vào vẻ mặt vị nào vị nấy ôn ḥa cung kính, tiêu dao thanh nhàn, tâm trí sáng suốt chân thành, được thấy cảnh tượng này ḷng tôi vô cùng phấn khởi.
Viện Trưởng: Hiện nay có rất ít nhiều môn phái phát triển, mỗi mỗi đều được phước duyên gia hộ, từ lúc có đời tới nay, các hành giả tới tu luyện tại viện Phật Trời này đều có đủ thiện căn, tâm giác ngộ đă đạt mức siêu nhân. (Tế Phật, Viện Trưởng và Thái Sinh lúc này đă vào trong viện, lính hầu vội vàng dâng trà thơm và trái quư).
Tế Phật: Thực quá làm phiền quư viện, bữa nay tới đây thăm viếng cùng t́m hiểu t́nh h́nh để làm tài liệu tham khảo viết sách, tạo tấm gương sáng cho những kẻ tu đạo soi chung. Đă đến giờ khởi hành, xin tạm biệt.
Viện Trưởng: V́ bận lo trách nhiệm, tôi không thể lưu giữ lâu hơn, xin tạm giă từ... Hiện giờ đạo pháp đă tới thời kư mạt vận, tuy kẻ tu đạo nhiều song kẻ kiên nhẫn tu tŕ lại ít, những hành giả trong viện Trời Phật đều là những người lúc sinh thời kiên nhẫn tu tŕ... (Thái Sinh theo sau Tế Phật cùng Viện Trưởng vừa đi vừa đàm đạo tới “tu luyện đường”.
Thái Sinh dừng bước quan sát các tu sĩ phía trong đang luyện khí dưỡng thần thấy họ đều đạt mức hàm súc tinh thông, tâm không nghiêng lệch, trên đầu vị nào vị nấy hào quang tỏa chiếu sáng ngời.
Thái Sinh nh́n thấy ngậm miệng chẳng thể nói năng, chỉ thầm khen ngợi không dứt. Khi tới chỗ thứ hai, thấy vẻ vô cùng thanh tĩnh, các tu sĩ tâm ư đều vắng lặng, nguyên linh tṛn sáng, chút bụi không vương, chân khí ban sơ vận chuyển ba ngàn quang hoa.
Khi tới “nghi lễ đường” các tu sĩ đều răm rắp chào hỏi lễ độ, thần khí tṛn đầy, dục tính phàm trần đều dứt tuyệt. Lúc tới “tĩnh dưỡng đ́nh” thấy rằng ḿnh đă quá quen thuộc liền dừng bước trầm tư...).
Thái Sinh: Phía trước có một vị xem mặt quá quen thuộc, giống như là...
Viện Trưởng: Vị đó là Từ Sinh, tu tŕ phước đức, đă từng ngồi đàn cơ của Thánh Hiền Đường.
Thái Sinh: Đúng vậy, vị đó là tiền bối của đám hậu sinh ngồi đàn cơ Thánh Hiền Dường. Dung nhan bây giờ nh́n khác trước quá nhiều, tinh thần tu tŕ tiến bộ khá xa, tôi nhận chẳng ra.
Viện Trưởng: Để tôi kêu lính hầu tới mời Từ Sinh lại đây.
Thái Sinh: Quả là không hẹn mà gặp... Bác Từ, bác mạnh giỏi chứ?
Từ Sinh: Cháu là người ngồi đàn cơ của Thánh Hiền Đường đấy ư?
Thái Sinh: Dạ phải, thật là mong mỏi quá lâu bữa nay mới được gặp.
Từ Sinh: Ngày nay bác được tới viện Phật Trời này tu luyện, chính là nhờ c̣n sống chí đạo vững bền, cùng nhờ ân chủ Thánh Hiền Đường khuyến khích, lại nhờ con bác là Khánh Tôn tạo được nhiều công đức tại Thánh Hiền Đường.
Thái Sinh: Bữa nay thật quả ḱ duyên mới có thể gặp bác Từ tại viện này, cháu vô cùng mừng rỡ. Ước mong bác Từ công thành quả măn, chứng ngộ thành đạo. (Từ Sinh và Thái Sinh quyến luyến nhau mật thiết tới nỗi tưởng chừng gỡ không ra). Xin hỏi ngài Viện Trưởng tôi thường nghe kẻ trở về trời nếu như c̣n nổi thân thịt mềm mại th́ đó là chứng đắc thiên lư vô cực, thưa lời nói đó có đúng không?
Viện Trưởng: Phàm kẻ có đức thiện lớn lao, hoặc hành đạo kiên tŕ, lúc trở về trời phần lớn được Thần Thánh dẫn dắt lên Trời, do đó tâm linh sảng khoái, thân tâm không c̣n bị trói buộc khổ sở, bởi vậy thân thịt trở thành mềm mại.
Thái Sinh: Tại sao kẻ tu đạo không chứng thẳng cơi trời vô cực mà c̣n phải tới đây tu luyện?
Viện Trưởng: V́ là thời ḱ mạt pháp, ḷng người ô uế, thế gian ngày nay so với thời thượng cổ, trung cổ khác nhau xa, kẻ tu đạo đạt tới cảnh giới ḷng trong, thân sạch, miệng thơm, ngoại công đức, nội quả phước đều tṛn đầy thời nay rất ít, bởi vậy mới thiết lập viện Phật Thiên để làm nơi thực hành chân tâm, một mực thanh tĩnh luyện tập để tạo chiếc cầu bắt lên Vô Cực.
Kẻ tu đạo chốn phàm trần đă dốc tâm hành tŕ mà nửa đường bị khảo đảo, nếu như không thối chí, phần lớn đều tới đuợc bản viện tu luyện cho tới khi nào nguyên linh trong sáng tṛn đầy, tự tại mới thôi.
Thái Sinh: À th́ ra nguyên nhân là như vậy.
Viện Trưởng: Chúng ta tiếp tục thăm nơi khác.
Thái Sinh: Hay lắm, trên bục giảng tại thiền đường phía trước có một vị đại Phật đang thuyết pháp, tu sĩ dưới đài vị nào vị nấy đạo mạo uy nghi tập trung thần lực, chăm chú lắng tai nghe.
Viện Trưởng: Đây là buổi họp mặt măn khóa học để lên lớp tu cao hơn, chúng ta hăy lên phía trên.
Thái Sinh: Đây là nhà tụng kinh, kẻ hậu học này nghe chẳng rơ tụng kinh ǵ mà lại giống như niệm Phật.
Viện Trưởng: Cả nhà mọi người đều tụng quán tâm niệm niệm thanh âm vang rền.
Thái Sinh: Các vị đó định thần tâm không loạn, chắc chắn đă đạt tới cảnh giới “niệm vô sở niệm”... Tới căn khác là nhà giảng, có nhiều vị đang nghiên cứu lư đạo, không rơ có tác dụng ǵ?
Viện Trưởng: Nghiên cứu lí đạo để giúp họ hiểu rơ lẽ tu chân chính, cùng khai mở trí tuệ đạt tới cảnh giới giải thoát.
Thái Sinh: Đúng, nếu mở tâm huệ, tự nhiên thoát ṿng nhân duyên không c̣n bị pháp ràng buộc, qua đông qua tây hoàn toàn tự do.
Tế Phật: Bữa nay xin tạm ngừng cuộc tham quan tại đây.
Viện Trưởng: Hay lắm (Viện Trưởng cùng lính hầu đều vui vẻ tiễn chân Tế Phật và Thái Sinh).
Tế Phật: Bữa nay tạm kết thúc cuộc vân du tại đây, tṛ ngoan mau lên đài sen, chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường.
Thái Sinh: Thưa vâng, con đă sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đă về tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|