Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
  H́nh Ảnh Từ Thiện
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Thông Tin
  Thông Báo
  Báo Tin
  Liên Lạc Ban Điều Hành
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Nhờ Coi Quẻ
  Nhờ Coi Ngày
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Tử Vi
  Tử Bình
  Kinh Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Bói Bài
  Đoán Điềm Giải Mộng
  Khoa Học Huyền Bí
  Thái Ất - Độn Giáp
  Y Dược
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch và Phong Thủy 3
Kỹ Thuật
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
Thư Viện
  Tủ Sách
  Bài Viết Chọn Lọc
Linh Tinh
  Linh Tinh
  Giải Trí
  Vườn Thơ
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 237 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
chindonco (3250)
hiendde (2589)
HoaCai01 (2277)
vothienkhong (1807)
dinhvantan (934)
ryan88 (805)
Vovitu (713)
ruavang (691)
lancongtu (667)
TranNhatThanh (644)
Hội viên mới
redlee (0)
dautranhsinhton (0)
Chieu Tim1234 (1)
huyent.nguyen (0)
tamsuhocdao (0)
henytran2708 (0)
thuanhai_bgm (0)
Longthienson (0)
thuyenktc (0)
liemnhi (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Truyện tâm linh - hiendde Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 761 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 2:23pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      - Dường như thế.

      - Chúng tôi cũng không nói ǵ khác hơn. Chúng tôi chỉ nói rằng người hành giả nào có thể cầm lại hơi thở trong ḿnh tùy theo ư muốn, sẽ nhờ đó mà giữ lại nguồn sinh lực trong cơ thể y. Bạn hiểu rơ chăng?

      - Tôi cũng ráng hiểu.

      - Bạn hăy tưởng tượng rằng người Yogi có thể cầm lại hơi thở không những chỉ trong vài phút, mà trong nhiều tuần, nhiều tháng hay nhiều năm. V́ bạn đă nh́n nhận rằng hơi thở ở đâu tức là sự sống ở đó, th́ phải chăng đây là triển vọng để con người có thể kéo dài sự sống tùy theo ư muốn?

      Tôi không c̣n biết nói sao. Làm sao có thể bảo rằng điều đó là vô lư? Nhưng làm sao tôi có thể chấp nhận điều ấy mà không có sự kiểm điểm lại một cách chặt chẽ? Những nhà thuật sĩ của phái Luyện Kim (Alchimistes) hồi thời Trung cổ cũng đă từng nuôi cái mộng trường sinh bất tử.

      Nhưng dưới ngọn lưỡi hái của Thần Chết, họ vẫn ngă quỵ hết người nọ đến người kia ngay bên cạnh những ḷ luyện Kim Đơn để t́m ra thuốc phản lăo hoàn đồng! Có lẽ Brama tự dối lấy ḿnh, nhưng có điều chắc chắn là y không có ư định lừa dối tôi.

      Y không hề có ư đến t́m kiếm tôi hay t́m kiếm một người đệ tử nào cả. Y điên chăng? Không phải v́ y lư luận mọi sự một cách hoàn toàn sáng suốt. Hay là y chỉ tự dối lấy ḿnh? Một cái ǵ bảo cho tôi biết là không. Tôi không biết nghĩ sao.

      - Bạn không tin à? Bạn có nghe nói về một người thuật sĩ chịu để cho vua Ranjit Singh chôn sống trong một huyệt xây bằng đá ở Lonhorw chăng? Khi đem chôn sống có cả sự hiện diện của những viên sĩ quan Anh và nhà vua Singh.

      Ngôi mộ được giao cho quân sĩ canh gác suốt ngày đêm trong sáu tuần lễ, đúng ngày, người ta mới cậy nắp quan tài th́ người thuật sĩ Ấn Độ ở trong chui ra vẫn c̣n sống nhăn, không sao cả! Bạn hăy điều tra lại xem, tôi nghe nói rằng việc này đă được phúc tŕnh cẩn thận và tờ biên bản vẫn c̣n được lưu trữ trong văn khố của chánh phủ Anh.

      Như vậy, người thuật sĩ đă hoàn toàn chủ trị được phép hô hấp và có thể ngưng thở tùy ư muốn mà không sợ chết. Tuy thế, y cũng chưa phải là một môn đồ chân chính của pháp môn Yoga, v́ tôi có nghe nói rằng đời tư của y chẳng có ǵ đáng ca tụng.

      Y tên là Haridas và sống ở miền Bắc Ấn. Nếu người ấy có thể ngừng thở mà vẫn sống trong một thời gian lâu như thế ở một chỗ bít bùng không có không khí, th́ thử hỏi: Các bậc danh sư của môn phái chúng tôi, là những người không thích quảng cáo và không hề vụ lợi, c̣n có thể làm được tới những điều ǵ nữa?

      Sau một lúc im lặng, Brama tiếp:

      - Pháp môn Yoga c̣n đem lại cho ta nhiều quyền năng khác nữa. Nhưng trong thời buổi suy đồi hiện nay, có mấy ai là người chịu công phu cố gắng tu luyện?

      - Làm sao bây giờ, khi người ta c̣n phải lăn lộn trong đời sống hàng ngày, th́ không c̣n thời giờ để nghĩ đến những hoạt động cho một lư tưởng nữa.

      - Đúng vậy, những phép tu luyện này chỉ để dành cho một số ít người. Như thế, bạn sẽ hiểu tại sao nó được các bậc danh sư giữ ǵn trong im lặng và bí mật hoàn toàn. Những bậc danh sư ấy không bao giờ đi t́m đệ tử, mà chính các đệ tử phải đi t́m các Ngài.

      Lần sau, Brama đến dùng cơm tại nhà tôi. Cơm nước xong chúng tôi ra ngồi ngoài hàng ba dưới ánh trăng sáng. Tôi ngồi trên ghế c̣n Brama thích ngồi trên chiếu trải sàn gạch.

      Chúng tôi ngồi im lặng trong vài phút để thưởng thức cái đẹp của đêm trăng. Nhưng nhớ lại câu chuyện lần trước, tôi vẫn c̣n ṭ ṃ muốn biết thêm về vấn đề kỳ quái là có những người có thể lường gạt được Tử Thần!




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 762 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 2:24pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ


      
      Brama nói:

      - Một trong những vị danh sư của môn phái chúng tôi sống trong vùng hẻo lánh trên dăy núi Nilgiri, và không hề bước ra khỏi am. Một vị khác sống trong động đá trên dăy Hi Mă Lạp Sơn. Những người ấy bạn không bao giờ gặp được v́ họ lánh xa cơi thế tục. Tuy thế, theo truyền thuyết của người trong xứ th́ các vị ấy đă từng sống đến vài trăm năm nay.

      - Bạn có tin như vậy chăng?

      - Lẽ dĩ nhiên, v́ chính Thầy tôi cũng là một người trong số đó.

      Thầy của y! V́ bây giờ chúng tôi đă quen nhau như thế này và giữa chúng tôi không c̣n sự lạnh lùng cách biệt nữa, nên tôi đánh liều hỏi một câu:

      - Brama, Thầy của anh là ai?

      Y c̣n do dự trong một lúc, nhưng liền nói với một giọng trang nghiêm:

      - Thầy tôi danh hiệu là Yetrumbu Swami. Ở dưới miền Nam, đệ tử của Người cũng đông, nhưng Người thường đi lên miền Bắc và ở trên dăy Hi Mă Lạp Sơn.

      - Tôn Sư đă đạt tới mức tối thượng của pháp môn Yoga chưa?

      - Điều đó hẳn là dĩ nhiên rồi.

      - Và bạn tin rằng lệnh Tôn Sư đă sống đến ...

      - Trên bốn trăm năm.



Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 763 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 2:26pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      Brama nói câu đó với một giọng vô cùng tự nhiên, và y nh́n thấy sự ngạc nhiên trong cặp mắt của tôi. Y nói tiếp:

      - Tôn Sư thường kể cho tôi nghe nhiều chuyện mà người đă từng chứng kiến và đă xảy ra dưới triều đại các vua Hồi. Người cũng thuật cho tôi nghe những chuyện xảy ra từ hồi Công Ty Ấn Độ của người Anh mới bắt đầu thành lập tại Madras.

      Điều này thật khó mà tin được, đối với một kẻ đa nghi như tôi. Tôi nói:

      - Nhưng bất cứ một đứa học tṛ nào đă học lịch sử cũng nói được những điều đó.

      Brama làm như không nghe và nói tiếp:

      - Thầy tôi c̣n nhớ rơ trận Panipat và có nói với tôi rằng Người không bao giờ quên những ngày kỷ niệm đầu tiên của trận Plassey. Tôi c̣n nhớ có lần nghe người nói chuyện về một đệ tử tên là Beahudananda, như là nói một đứa trẻ con. Người đệ tử này hồi đó đă được tám mươi tuổi.

      Dưới ánh trăng, tôi nh́n thấy rơ vẻ mặt b́nh thản tự nhiên của người Yogi khi y nói những chuyện lạ lùng trên đây. Một người Âu đă từng quen suy luận với những phương pháp sưu tầm của khoa học tiên tiến, làm sao có thể chấp nhận những điều này mà không có sự điều tra chắc chắn? Dầu sao, Brama là người Ấn Độ, chắc y cũng vẫn c̣n cái thói quen hay tin tưởng những chuyện hoang đường. Tôi vẫn lẳng lặng ngồi nghe, để cho y nói:

      - Tôn Sư đă từng làm cố vấn cho một vị Quốc Vương xứ Nepal trên mười một năm. Dân chúng xứ này quư mến người như Thần Thánh. Người cũng đối với họ như cha đối với con. Người gạt bỏ mọi sự thành kiến về giai cấp và coi mọi người cùng b́nh đẳng như nhau.

      - Nhưng làm sao một người có thể sống lâu như thế?

      Brama mơ màng nh́n về cơi xa xăm, dường như quên cả sự có mặt của tôi; y đáp:

      - Có ba phương pháp để kéo dài sự sống. Phương pháp thứ nhất là tập hết tất cả những tư thế (Asana), và tất cả các phép luyện khí công, gồm cả những phép luyện bí mật của pháp môn Hatha Yoga. Những phép tập luyện này lẽ tự nhiên là phải được thực hành cho đến mức toàn hảo, điều này chỉ có thể thực hiện được dưới sự d́u dắt của một bậc danh sư đă có nhiều kinh nghiệm.

      Phương pháp thứ hai là thường dùng một vài loại cỏ thuốc rất quư và rất hiếm, mà chỉ có một vài vị danh sư của môn phái chúng tôi biết được. Những vị ấy đi t́m những loại cỏ này trong ṿng bí mật và dấu trong ḿnh mỗi khi đi đâu xa.

      Khi đến lúc một vị phải từ giă cơi đời, th́ người chọn trong số các đệ tử một người xứng đáng nhất và tiết lộ cho y biết sự bí mật về loại cỏ quư đó. Người này từ nay sẽ là người duy nhất được biết sự bí mật ấy mà thôi. C̣n phương pháp thứ ba th́ hơi khó nói một chút.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 764 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 2:28pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      - Bạn cứ nói luôn.

      - Tôi nói ra chắc là bạn sẽ bật cười!

      Tôi cam đoan với y rằng trái lại, tôi rất quư trọng những điều tiết lộ của y. Y nói:

      - Vậy th́ đây: Trong bộ óc con người có một lỗ trống nhỏ, là chỗ của linh hồn, nó có một thứ nắp che đậy phía ngoài. Nơi dưới đốt tận cùng của xương sống, là chỗ xuất phát luồng sinh lực mà chúng ta đă có dịp nói đến. Sự tiêu hao luồng sinh lực đó gây nên sự già nua, trái lại, kiểm soát được nó sẽ giúp cho ta được sống lâu.

      Khi một người đă hoàn toàn làm chủ được thể xác, y có thể bắt đầu tập kiểm soát luồng sinh lực này bằng những phép luyện bí mật mà chỉ có những người Yogi thượng đẳng của môn phái chúng tôi mới biết được mà thôi.

     Nếu y làm cho luồng sinh lực vô h́nh đó đi ngược lên đến tận phần trên của tủy xương sống, y sẽ cố gắng gom nó lại trong chỗ lỗ trống trong bộ óc mà tôi vừa nói ở trên. Nhưng phải có một vị danh sư giúp y mở cái nắp che đậy ở phía ngoài.

    Nếu y t́m được một người Thầy bằng ḷng giúp y việc đó, th́ luồng sinh lực nói trên sẽ lọt vào chỗ lỗ trống và sẽ có cái tác dụng của một thứ nước Cam lồ trường sinh như chúng ta thường nghe nói.

      Đó không phải là chuyện dễ làm. Kẻ táo bạo dám luyện thử một ḿnh chắc chắn sẽ chết toi mạng! Trái lại người luyện được thành công có thể đánh lừa được Thần Chết. Người Yogi nào thực hành đủ ba phương pháp nói trên có thể sống đến vài trăm năm, nếu y muốn.

      Y có thể chọn ngày giờ chết của ḿnh, và chừng đó sự khám nghiệm tử thi sẽ kết luận rằng y chết một cách tự nhiên. Khi y chết, loài sâu bọ sẽ không phạm đến thể xác của y, xác y sẽ tươi như hồi sống và sẽ không hề hư hại trải qua nhiều thế kỷ.

      Tôi tỏ lời cám ơn Brama, và mặc dù tôi rất thích thú, nhưng tôi cũng vẫn chưa chịu tin. Khoa Sinh Lư Học không hề biết đến luồng sinh lực đó, và tôi e rằng những chuyện lạ kỳ trên đây chỉ có trong óc của những người chất phác và hồn nhiên ở xứ này.

      Tuy nhiên, sự kiểm soát hơi thở và mạch máu mà tôi đă chứng kiến, cũng đủ chứng minh rằng quyền năng của các nhà đạo sĩ không phải là những điều viễn vông, và những quyền năng đó có thể làm nhiều việc phi thường. Theo ư tôi, th́ đó là tất cả những ǵ mà người ta có thể nói về vấn đề này. Tôi vẫn giữ im lặng và không muốn thổ lộ những ư tưởng riêng của ḿnh. Brama lại nói tiếp:

      - Tất cả mọi người ai cũng muốn thắng sự chết, nhưng bạn đừng quên rằng áp dụng phương pháp này rất nguy hiểm. Bởi đó, không ai ngạc nhiên mà thấy rằng những vị danh sư của chúng tôi giữ ǵn những phép luyện đó trong ṿng bí mật, chẳng khác nào người ta giữ vật báu.

      - Bạn có thể cho tôi biết phương pháp đó được chăng?

      - Người ta phải tập đi cho vững trước khi tập chạy mau.

      Tôi xin hỏi bạn một câu cuối cùng:

      - Thầy bạn hiện nay ở đâu?




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 765 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 2:29pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      - Người ở ẩn trong một ngôi đền hẻo lánh ở vùng núi non xứ Nepal.

      - Bạn có nghĩ rằng một ngày kia, Tôn Sư sẽ trở xuống đồng bằng hay chăng?

      - Làm sao tôi biết được ư nghĩ của Tôn Sư? Người có thể ở lại xứ Nepal thêm nhiều năm nữa trước khi xuống núi để đi ta bà khắp nơi. Người thích ở Nepal hơn ở Ấn Độ bởi v́ ở xứ đó, môn phái của chúng tôi thịnh hành hơn. Pháp môn Hatha Yoga có những cách dạy khác nhau tùy theo môn phái, và môn phái của chúng tôi gọi là Tantra, được người Nepal thông hiểu dễ dàng hơn là người Ấn.

      Brama trở lại với sự im lặng. Chắc y để tư tưởng đi xa lắm và nhớ đến h́nh ảnh của vị Tôn Sư quư mến. Ôi! Nếu những điều tôi vừa nghe không phải là một ảo tưởng, th́ thật là một triển vọng đáng mừng cho những ai là người nuôi cái mộng trường sinh bất tử.

      Đêm Ấn Độ đến rất mau chóng, chứ không có một hoàng hôn kéo dài như ở trời Âu. Khi bóng tối bao phủ cái cḥi tranh của y, Brama thắp một ngọn đèn dầu treo lủng lẳng trên xà nhà bằng một sợi dây, và chúng tôi ngồi dưới ánh đèn dầu leo lét.

     Bà lăo bước ra ngoài một cách kín đáo để cho chúng tôi tự do nói chuyện, với một người thông ngôn trẻ tuổi của tôi đem theo. Khói nhang tỏa khắp gian pḥng một mùi hương huyền bí. Ư nghĩ về sự chia ly sắp đến làm cho tôi buồn man mác, tôi cố gắng vượt qua cơn buồn ám ảnh, nhưng vô hiệu.

      Vấn đề bất đồng ngôn ngữ, và phải nói chuyện qua một người thứ ba là một sự chướng ngại, v́ tôi không thể bày tỏ tâm sự đang tràn ngập cơi ḷng tôi theo như ư tôi muốn. Trong giờ phút này, những lư thuyết lạ lùng kia có thật hay không, điều đó không quan hệ lắm. Điều đáng kể, là người đạo sĩ đă vui vẻ sốt sắng để cho tôi bước vào cuộc đời cô độc đơn chiếc của y.

      Tôi đă nhận thấy có sự thông cảm giữa hai tâm hồn chúng tôi, và bây giờ tôi đă hiểu rằng đối với một người như vậy, thật là một sự hy sinh lớn lao mà dẹp bỏ sự dè dặt kín đáo của ḿnh để thổ lộ tâm sự với một người lạ mặt. Nhưng lúc này ḷng mong muốn hiểu biết thêm của tôi lại thắng thế. Tôi viện cớ sắp từ biệt y trong nay mai để cố gắng thuyết phục y tiết lộ cho tôi một vài điều bí mật cuối cùng. Nhưng y đă giữ thế thủ:

      - Anh có sẵn sàng từ bỏ chốn phồn hoa náo nhiệt của thị thành và ẩn ḿnh nơi thanh vắng của chốn núi rừng tịch mịch chăng?

      - Điều đó cần phải được suy nghĩ kỹ, Brama.

      - Anh có sẵn sàng từ bỏ mọi hoạt động, mọi công việc làm ăn, mọi thú vui trần tục, và để trọn thời giờ thực hành pháp môn Yoga, không phải chỉ trong một lúc, mà trong nhiều năm liên tiếp chăng?

      - Chắc là không, tôi chưa đủ chuẩn bị sẵn sàng. Một ngày kia, có lẽ ...

      - Nếu vậy, tôi không thể nào d́u dắt bạn đi xa hơn. Pháp môn Yoga không phải là một môn tiêu khiển trong những giờ nhàn rỗi.

      Thế là tôi sẽ không bao giờ trở nên Đạo sĩ! Phải thành thực mà nh́n nhận như vậy. Một môn tu luyện khó khăn như thế, với một kỷ luật gắt gao khổ hạnh, không phải để dành cho một kẻ hoài nghi như tôi! Tuy nhiên, có một cái ǵ nó hấp dẫn tôi hơn là những quyền năng của xác thể. Tôi bèn bày tỏ tâm sự với người đạo sĩ:




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 766 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 2:31pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      - Brama, những quyền năng đó hẳn là một điều huyền diệu và hấp dẫn vô cùng. Tôi mong ước có ngày tôi sẽ được thụ giáo theo pháp môn Yoga của bạn. Nhưng rốt cuộc, nó có thể đem đến cho ta một sự hạnh phúc lâu bền nào chăng? Trong khoa Yoga, c̣n có một mục đích nào cao hơn nữa chăng? Tôi không biết bạn có hiểu ư tôi không?

      Brama mỉm cười và nói:

      - Tôi hiểu. Những Thánh Kinh của Ấn Độ nói rằng pháp môn Hatha Yoga (luyện xác thân) phải đi đôi với pháp môn Raja Yoga (luyện tinh thần). Sự thật, pháp môn trên chỉ là dọn đường cho pháp môn Hatha Yoga, các Ngài biết rằng đó không phải chỉ ngắm vào mục đích tinh luyện cái thể xác vật chất mà thôi ...

      Các Ngài hiểu rằng sự chinh phục thể xác chỉ là một bước đầu tiên đưa đến sự rèn luyện tinh thần, và điều sau này cũng chỉ là một giai đoạn đưa con người đến một mục đích Toàn Thiện.

      - Như thế, chắc là c̣n có một pháp môn chuyên về việc rèn luyện tinh thần?

      - Đúng vậy, và mục đích của pháp môn đó là dùng lư trí con người như một ngọn đèn pha để chiếu thẳng vào địa hạt tâm linh thuần túy.

      - Muốn bắt đầu học pháp môn này, phải làm sao?

      - Tự nhiên là phải có Thầy.

      - Phải có Thầy, nhưng t́m Thầy ở đâu ra?

      Brama hơi nhún vai:

      - Bạn ơi! Kẻ đói bụng th́ đi t́m món ăn, nhưng c̣n người sắp chết đói th́ quên hết tất cả mọi sự để kiếm cho được đồ ăn mà thôi. Nếu bạn ước vọng t́m Thầy cũng như người chết đói ước được món ăn th́ bạn sẽ t́m thấy. Bạn hăy t́m Thầy với một đức tin, rồi định mệnh sẽ d́u dắt bạn đến với Người vào đúng ngày giờ mà Người chọn lựa.

      - Bạn tin rằng định mệnh cũng có dính dáng đến việc này à?

      - Ấy là bạn nói như thế.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 767 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 2:32pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      - Tôi thấy trong sách có nói ...

      - Không có Thầy, th́ sách vở chỉ là nắm giấy lộn. Danh từ Guru của chúng tôi có nghĩa là Người dẹp tan sự tối tăm u ám. Người nào nhờ sự gắng công t́m ṭi và nhờ sự d́u dắt của định mệnh mà t́m ra được một vị danh sư, sẽ đi thẳng đường đến sự giác ngộ v́ người đệ tử cùng chia sớt những khả năng huyền dịu của người Tôn Sư.

      Nói đến đây, Brama tiến gần đến chiếc ghế dài đựng giấy tờ và cầm đưa cho tôi một đạo linh phù đầy những dấu hiệu thần bí, những h́nh biểu tượng và chữ Tamoul vẽ bằng mực đỏ, xanh và đen. Trên hết có vẽ một h́nh tṛn khu ốc, hẳn là biểu tượng của ngôi Mặt Trời, h́nh mặt trăng và một con mắt, c̣n khoảng giữa th́ để trống. Y nói:

      - Tôi vẽ lá bùa này cho bạn trong đêm qua. Khi bạn ra đi, bạn hăy dán một tấm ảnh của tôi ở khoảng trống ngay chính giữa.

      Brama cho biết rằng tôi chỉ cần tập trung tư tưởng trong năm phút vào lá bùa lạ lùng này trước khi đi ngủ, th́ tôi sẽ nằm mộng thấy y một cách hoàn toàn rơ rệt. Y nói:

      - Dầu cho chúng ta có cách xa nhau hàng ngàn dặm, chúng ta sẽ gặp nhau bằng linh hồn nếu bạn tập trung tư tưởng vào lá bùa này. Những cuộc gặp gỡ trong giấc mộng sẽ có thật cũng như những cuộc thăm viếng mà chúng ta đă trao đổi lẫn nhau.

      Câu nói đó làm cho tôi nghĩ rằng ngày từ biệt của chúng tôi đă sắp đến và tôi tỏ ư băn khoăn không biết ngày nào chúng tôi mới gặp nhau trở lại. Brama bèn an ủi tôi:

      - Chúng ta hăy phó mặc cho định mệnh, nó không bao giờ lỗi hẹn. C̣n về phần tôi, tôi cũng sẽ ra đi vào mùa xuân đến địa phận tỉnh Tanjore, tại đây có hai người đệ tử đang chờ đợi tôi. C̣n tương lai về sau ra thế nào, tôi không thể nói trước, v́ như bạn đă biết, tôi vẫn luôn luôn chờ đợi lời kêu gọi của Tôn Sư.

      Brama im lặng một lúc, và nói tiếp bằng một giọng rất thấp mà tôi nghe như tiếng th́ thầm. Tôi đoán chừng hay là y lại tiết lộ thêm điều ǵ bí mật nữa chăng? Tôi quay lại người thông ngôn th́ nghe nói rằng:

      - Tôn Sư đă hiện ra với tôi trong đêm vừa qua. Người có nói chuyện về anh. Người nói với tôi rằng "Vị Shahib bạn con đang khao khát sự hiểu biết. Y vốn là người đồng môn với chúng ta trong một kiếp trước. Y đă tu luyện theo phép môn Yoga, nhưng thuộc về một môn phái khác. Ngày nay, y đă trở lại Ấn Độ trong bộ da của một người Anh.

      Y đă quên những ǵ y đă học với chúng ta, nhưng sẽ không lâu. Ngày nào mà y chưa gặp được Thầy để ban ân huệ cho y, th́ y vẫn sẽ không phục hồi lại được trí nhớ của dĩ văng. Tuy nhiên, cái kư ức vẫn c̣n tiềm tàng, Thầy y chỉ cần khơi động một chút cũng đủ làm cho nó bừng tỉnh dậy.

      Vị Tôn Sư đó, con hăy cho y biết, y sẽ gặp Người. Điều đó sẽ đến chắc chắn, y hăy đừng băn khoăn ǵ nữa. Y sẽ được như ư nguyện trước khi rời khỏi xứ này, v́ định mệnh đă đặt để rằng y sẽ không trở về tay không."

      Nghe đến đây, sự ngạc nhiên của tôi quả là vô hạn. Dưới ánh đèn dầu leo lét, gương mặt của người bạn tôi dường như biến đổi một cách khác thường.

      - Phải chăng bạn đă nói lệnh Tôn Sư đang ở xa lắm, tận trên xứ Nepal? Tôi hỏi y với một giọng mà tôi lấy làm hối tiếc là đă lộ vẻ nghi ngờ.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 768 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 2:33pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      - Phải, Tôn Sư vẫn ở trên đó.

      - Tức là cách đây 1, 200 dặm, làm sao Tôn Sư có thể nói chuyện với bạn trên một quăng đường dài như vậy?

      - Tôn Sư luôn luôn có mặt khi tôi kêu gọi đến Người, dầu cho chúng tôi ở cách xa nhau muôn dặm. Tôi không cần đến thơ từ chi cả để nhận được thông điệp của Tôn Sư. Tư tưởng của Người đến với tôi xuyên qua không gian và biểu hiện rơ ràng trước mắt tôi.

      - Phải chăng đó là thần giao cách cảm?

      - Đúng như vậy.

      Tôi đứng dậy, v́ đă đến lúc kiếu từ. Chúng tôi c̣n đi dạo một lần cuối cùng dưới ánh trăng khuya, dọc theo những vách tường cũ của ngôi đền bên cạnh nhà của Brama. Chúng tôi dừng bước dưới một hàng dừa mà cành lá xum xuê để cho ánh sáng rọi xuyên qua in bóng dưới đất. Trước khi từ giă, Brama th́ thầm:

      - Bạn thấy rằng tôi không ǵ nhiều. Đây là một vật quư nhất của tôi, bạn hăy cầm lấy.

      Nói xong, y rút chiếc nhẫn mà y đeo ở ngón áp út bên trái và đặt vào ḷng bàn tay lật ngửa của y. Dưới ánh trăng, tôi thấy chiếu sáng ngời một viên ngọc bích màu xanh có gân màu nâu sậm, lồng trong khung nhẫn bằng vàng.

      Brama đeo chiếc nhẫn vào ngón tay tôi và siết bàn tay tôi để từ giă. Tôi vừa tỏ ư không dám nhận món quà tặng quư giá này th́ Brama đă ngăn chận lời từ chối của tôi bằng cách siết bàn tay chật hơn nữa. Y nói:

      - Tôi thọ lănh chiếc nhẫn này của một người hiền giả có tiếng. Người đă tặng cho tôi khi tôi bắt đầu bước chân lên đường Đạo. Bây giờ, đến lượt bạn hăy đeo nó.

      - Không hẳn như vậy, nhưng viên ngọc thạch này là một linh vật rất hiệu nghiệm. Nó sẽ giúp cho bạn có duyên may hội ngộ với các bậc Hiền Giả, nó sẽ kích động những tư tưởng kỳ lạ xâm chiếm lấy khối óc huyên náo của bạn.

      Lời nhắn nhủ lạ lùng của vị Tôn Sư ở cách xa ngàn dặm, điều đó vốn thật lạ quá đối với tôi, nên xin miễn luận bàn. Một cơn chiến đấu mănh liệt đang diễn ra trong tâm hồn tôi giữa sự ngờ vực và đức tin. C̣n chiếc nhẫn này?

      Làm sao mà tin được rằng một chiếc nhẫn lại có thể xui khiến được định mệnh, và gây cho tôi một ảnh hưởng bí mật về phương diện tâm linh? Phải chăng đó là một điều dị đoan? Nhưng Brama tin tưởng ở điều đó. Tôi phải tự nhủ rằng việc ǵ cũng có thể được cả ở cái xứ lạ lùng huyền bí này.

      Tôi vẫn vơ suy nghĩ và lo ra đến nỗi tôi quên đường và đụng đầu vào một gốc dừa. Dưới nhành lá dịu dàng phất phơ của nó, chiếu những điểm ánh sáng do những con đom đóm bay lượn thành những ṿng tṛn. Nền trời trong vắt một màu xanh thẳm.

      Sao Kim Tinh chói rạng tỏa ra một ánh sáng rực rỡ coi dường như rất gần. Cảnh vật thiên nhiên đắm ch́m trong bầu không khí hoàn toàn yên lặng. Không ai nghe tiếng động của những con dơi lớn bay ngang trên đỉnh đầu chúng tôi. Tôi tự thả trôi một lúc theo cái thú vị triền miên của giờ phút thần tiên này.

      Về đến nhà, tôi trằn trọc suốt đêm không t́m thấy giấc ngủ. Măi đến gần sáng, giấc ngủ mới đến và làm lắng dịu những ư nghĩ vẫn vơ trong đầu óc của tôi.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 769 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 2:35pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ


Người Tu Sĩ Suốt Đời Không Nói


Chương Năm



     Một hôm, tôi nghe nói có một người tu sĩ nổi tiếng đang ở vùng ngoại ô, cách thành phố Madras chừng nửa dặm. Người này thích ẩn dật, tránh tất cả mọi người và ít người được biết. Điều này khêu gợi sự ṭ ṃ của tôi, tôi bèn quyết định xin vào yết kiến.

      Nhà của người tu sĩ ẩn khuất sau một hàng rào tre dựng lên thành h́nh vuông ở chính giữa một khoảng đồng. Người dẫn đường cho tôi chỉ vào một cái hàng rào và nói:

      - Tôi nghe nói rằng người Yogi nhập định suốt ngày. Dầu cho chúng ta có la làng và đập cửa hàng rào, y cũng không nghe; và nếu y nghe được th́ y sẽ cho chúng ta là những kẻ mất dạy.

      Một cánh cửa thô sơ khép chặt hàng rào và được khóa lại rất chắc. Ở phía trong không ai nghe một tiếng động. Chúng tôi đi ṿng chung quanh hàng rào và gặp một đứa trẻ nhỏ nói rằng nó biết nhà người giữ cửa và sẵn ḷng đưa chúng tôi đến nhà người ấy.

      Người giữ cửa là một nô bộc của người Yogi, vợ y và một bầy con quấn quưt theo chân y. Chúng tôi tỏ ư muốn nhờ y mở cửa, nhưng y liền từ chối. Y nói rằng nhà tu sĩ tịnh khẩu không tiếp khách qua đường và chỉ muốn ở yên một ḿnh. Người nhập định h́nh như suốt ngày, và sẽ lấy làm bực ḿnh nếu có kẻ nào vô phước muốn đột nhập vào tịnh xá.

      Tôi yêu cầu người nô bộc hăy đặc cách dành cho tôi một sự dễ dàng ngoại lệ, nhưng y vẫn cương quyết từ chối. Người bạn tôi bèn dùng thử những phương pháp mạnh bạo: Anh ta hăm dọa người giữ cửa bằng sự trừng phạt của chánh quyền địa phương, nếu y không làm chúng tôi được thỏa măn. Tự nhiên, đó chỉ là một sự dọa nạt.

      Chúng tôi trở lại cửa hàng rào và mở một ống khóa lớn bằng sắt. Người nô bộc cho biết rằng người tu sĩ không có tài sản ǵ nhiều, và không có đến một cái ch́a khóa. Cửa hàng rào được khóa trái lại ở phía ngoài, và y không thể bước ra khỏi nhà nếu người nô bộc không đến mỗi ngày hai lần để mở cửa.

      Chúng tôi c̣n nghe nói rằng người tu sĩ mắc nhập định suốt ngày, nhưng đến chiều y dùng một ít vật thực như bánh trái và một chén sữa. Có những buổi chiều, đồ vật thực để trước mặt y vẫn c̣n y nguyên. Đôi khi, trời tối đến, y bước chân ra khỏi nhà và thỉnh thoảng đi dạo chơi ngoài đồng.

      Chúng tôi qua khỏi sân và đến trước một ngôi nhà xây bằng đá, kiểu tân thời. Người nô bộc lấy ch́a khóa mở một cánh cửa nặng và rất chắc. Tôi lấy làm lạ về sự bế môn chặt chẽ như vậy đối với một người có tiếng là không sở hữu của cải hay tài sản. Người nô bộc bèn giải thích lư do:

      - Cách đây mấy năm, người tu sĩ ở trong hàng rào tre, không có khóa trong khóa ngoài ǵ cả. Một hôm, một người say rượu đột nhập vào trong thấy người tu sĩ có một ḿnh và không có tự vệ, bèn ra tay hành hung. Hắn nắm cḥm râu người tu sĩ và đánh y bằng gậy với những lời chửi rủa. Cũng may trong lúc đó có vài người thanh niên đang đá banh trên miếng đất trống ở gần bên.

      Nghe tiếng động, họ bèn chạy vào nhà và giải cứu người tu sĩ thoát khỏi tay tên bợm rượu, khi đó một người trong bọn chạy đi báo động với hàng xóm. Người làng tựu đến nơi và định cho tên du côn kia một bài học, y suưt nữa bị ăn đ̣n một trận nhừ tử nếu không có sự can thiệp của người tu sĩ, người này vẻ mặt vẫn b́nh thản tự nhiên ngay từ khi bị hành hung.

      Người tu sĩ viết trên một mảnh giấy: "Nếu các anh đánh đập người này th́ cũng như các anh đánh đập tôi. Hăy cho y ra về, v́ tôi đă tha thứ cho y." V́ lời nói của người tu sĩ luôn luôn được tôn trọng, nên người say rượu được thả về, tuy rằng một cách tiếc rẻ.

      Người nô bộc liếc nh́n vào trong nhà và yêu cầu chúng tôi đừng cử động v́ người tu sĩ đang thiền định. Tôi cởi giày và để ngoài hàng ba theo phong tục bổn xứ. Lúc quay vào, tôi nh́n thấy trên vách tường có một tấm bia đá đề chữ Tamoul, người bạn tôi đọc: "Đây là am thất của nhà tu sĩ tịnh khẩu."

      Gian pḥng rộng răi cao ráo và rất sạch sẽ. Ở chính giữa có một cái bục bằng cẩm thạch bề cao độ ba tấc, lót một tấm thảm bằng gấm Ba Tư, trên đó nhà tu sĩ ngồi im lặng, hoàn toàn bất động như một pho tượng đá.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 770 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 2:36pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ


      
      Người có một thân ḿnh dài và ngay ngắn, màu da nâu sậm. Người ngồi bán dà, bàn chân bên mặt đặt lên đùi bên trái, đầu, gáy và lưng thẳng. Tóc dài và đen bỏ xơa xuống tận vai, một bộ râu rậm và đen phủ đầy cằm; hai bàn tay đặt lên hai đầu gối. V́ người chỉ mặc có một cái chăn vấn ngang lưng, ḿnh để trần, tôi nhận thấy thân ḿnh đầy bắp thịt rắn chắc, biểu lộ một sức khỏe lành mạnh.

      Gương mặt người lộ vẻ ung dung tự tại, đôi môi h́nh như sẵn sàng nở một nụ cười. Người này hẳn là đă giải thoát khỏi gánh nặng của cuộc đời thế gian mà chúng ta là những kẻ phàm tục bị bắt buộc phải mang lấy trên vai, mặc dù chúng ta nhận biết được sự phù du giả tạm của nó.

      Mũi ngắn và thẳng, hai mắt mở lớn nh́n thẳng về phía trước, mí mắt không chớp. Toàn thân đều yên lặng, tuyệt nhiên không cử động.

      Người dẫn đường của tôi cho biết nhà tu sĩ đang nhập định, tức là đắm ch́m trong cái trạng thái hợp nhất với Đại Thể của Vũ Trụ. Trong trạng thái đó, người hành giả ḥa hợp tâm thức ḿnh với tâm thức của vạn vật, và tạm thời không c̣n ư thức được việc ǵ xảy ra ở chung quanh ḿnh.

      Tôi để ư nh́n kỹ người Yogi: Cơn thoát trần đại định đó quả có thật, không c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Điều lạ lùng nhất là đôi mí mắt không chớp, mở suốt nhiều giờ mà không thấy mỏi. Cặp mắt mở lớn nhưng không nh́n vật ǵ; nếu tinh thần c̣n tỉnh táo th́ chắc nó đă đi xa lắm, cách xa cơi trần gian tục lụy. Những hoạt động của cơ thể cũng tạm thời ngưng hẳn, trừ ra thỉnh thoảng có một giọt nước mắt chạy quanh theo g̣ má, mà nguyên nhân chắc hẳn là v́ hai mí mắt không chớp đă lâu.

      Một con thằn lằn từ trên trần nhà ḅ xuống, chạy lên tấm thảm gấm và từ từ ḅ lên bàn chân ngồi bán dà của người tu sĩ, nhưng tuyệt nhiên không có một cử động, chẳng khác nào như người bằng đá. Vài con ruồi đáp xuống và ḅ lên mặt người, nhưng h́nh như không c̣n cảm giác, chẳng khác như gương mặt bằng đồng. Hơi thở dịu dàng và đều, nhưng thoảng nhẹ, dường như không thể nhận ra được nữa. Tuy thế, đó là cái dấu hiệu duy nhất chứng tỏ rằng người c̣n sống.

      Để tạm quên thời gian chờ đợi, tôi lấy máy ảnh đem theo chụp lấy vài tấm, nhưng trong gian pḥng thiếu ánh sáng, tôi đành phải thôi.

      Tôi nh́n đồng hồ: Hai giờ đă trôi qua từ khi chúng tôi bước vào. Toàn thân người tu sĩ vẫn trơ trơ, không có chút cử động. Tôi sẽ ở lại đây suốt ngày nếu cần, để đạt mục đích của tôi, là được yết kiến người tu sĩ lạ lùng này. Nhưng người nô bộc cho chúng tôi biết là chờ đợi vô ích, và nếu chúng tôi trở lại trong một hai ngày, có lẽ chúng tôi đành chịu thất vọng ra về, nhưng điều ấy càng làm tăng thêm sự ṭ ṃ của tôi.

      Những ngày sau đó, tôi cố gắng dọ hỏi và thu thập tài liệu về người tu sĩ này. Những cuộc điều tra của tôi đ̣i hỏi sự nhẫn nại và óc phân biện sáng suốt của một thẩm sát viên. Cuộc điều tra bắt đầu bằng một buổi nói chuyện dài với người nô bộc, và kết thúc bằng việc phỏng vấn một viên thanh tra cảnh sát. Nhờ đó, tôi có thể chắp nối từng giai đoạn và ghi chép lại được ít nhất một phần nào tiểu sử của người tu sĩ.

      Y đến ở trong vùng này đă được tám năm nay. Không ai biết y là ai, và từ đâu đến. Y đóng căn cứ trên khoảng đất trống gần bên miếng đất của nhà y ở bây giờ. Những kẻ ṭ ṃ đến gần định hỏi chuyện y nhưng đều ra về tay không.

      Y không nói chuyện với ai, cũng không muốn nghe ai nói; không ai có thể cậy miệng y và bắt y khai khẩu. Thỉnh thoảng, y chỉ đưa ra một cái gáo dừa để xin cơm ăn. Y vẫn ngồi luôn ngày đêm trên khoảnh đất này, không có một mái che, không quản mưa nắng dăi dầu, gió sương, cát bụi, và côn trùng sâu bọ. Y dường như hoàn toàn rút lui ư thức ra khỏi ngoại cảnh, chỉ vận có một cái chăn, và luôn luôn giữ có một thế ngồi.

      Tuy nhiên, vùng ngoại ô của một thành phố lớn như Madras không phải là nơi thuận tiện cho sự thiền định của một người tu sĩ ẩn độn và lánh đời. Một chỗ như thế có lẽ tạm được ở một nước Ấn Độ thời cổ, chứ c̣n người Yogi ở thời đại này th́ phải ẩn ḿnh trong rừng sâu núi thẳm, hay ít nhất cũng phải ở trong một gian pḥng vắng vẻ tĩnh mịch.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 771 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 2:38pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      Tại sao người ẩn sĩ lạ lùng này lại chọn một nơi tối kỵ cho sự tu hành như thế? Người ta đă t́m được lư do sau một chuyện không hay đă xảy đến cho y. Một hôm, một đám du côn nh́n thấy người tu sĩ này và liền dùng y làm cái đích cho sự nghịch ngợm của chúng. Mỗi ngày, chúng đến ném đá và rác rến vào người tu sĩ và buông lời chửi rủa.

      Người tu sĩ vẫn thản nhiên, mặc dầu y có thể sửa cho chúng một trận đích đáng. Nhưng y cũng không quở mắng chúng một lời, v́ y đă có lập nguyện giữ tịnh khẩu. Việc ấy có thể kéo dài,nếu không có một người qua đường nh́n thấy bọn du đăng kia đang làm tṛ mất dạy. Người này thấy vậy lấy làm bất b́nh, bèn đi báo sở cảnh sát Madras, họ bèn giải tám đám tiểu quỷ sau khi đă quở mắng chúng một trận nặng nề.

      Sau khi việc ấy xảy ra, một viên thanh tra cảnh sát bèn quyết định t́m ra lư lịch của người ẩn sĩ. Nhưng v́ không t́m được người nào biết rơ lư lịch của y, nên viên cảnh sát không c̣n cách nào khác hơn là sử dụng công quyền để chất vấn chính người tu sĩ vậy. Sau rất nhiều do dự, người này mới viết những lời sau đây trên một tấm bảng đá: "Tôi là một đệ tử của Marakayar.

      Thầy tôi đă dạy tôi hăy đi xuyên qua các vùng đồng bằng và hăy đến tỉnh Madras. Chính Thầy tôi đă chỉ cho tôi t́m ra khoảnh đất này. Người bảo tôi hăy ở lại đây và tiếp tục thực hành pháp môn Yoga cho đến khi thành Đạo. Tôi đă từ bỏ cuộc đời thế gian và chỉ yêu cầu có một điều, là người ta hăy để tôi yên. Tôi không t́m một lợi lộc ǵ ở Madras, mà chỉ muốn theo con đường tu hành."

      Viên thanh tra cảnh sát hài ḷng về câu trả lời trên đây và nhận ra người này là một đạo sĩ thượng hạng, bèn hứa sẽ dành cho người mọi sự che chở. Y biết Marakayar là một vị đạo sĩ Hồi giáo nổi tiếng, vừa mới qua đời cách đây không bao lâu.

      Tục ngữ có câu: Trong cái học, ắt có ẩn cái phước. Vụ rắc rối kể trên thấu đến tai một người mộ đạo ở Madras, người này bèn hiến cho người tu sĩ không muốn làm trái lời Thầy dặn. Sau cùng, người mộ đạo kia mới t́m ra một giải pháp bằng cách xây một nhà tịnh thất trên miếng đất gần bên chỗ ở của người Yogi.

      Người này bằng ḷng qua ở bên tịnh thất và từ đó mới có chỗ ẩn trú và nương dựa để dễ bề hành đạo.Cũng chính người hảo tâm ấy đă chỉ định một người nô bộc theo săn sóc người Yogi để cho y khỏi phải đi khuất thực. Không biết vị Tôn Sư Marakayar có tiên liệu trước rằng cơn thử thách dành cho người đệ tử này rốt cuộc sẽ kết thúc một cách tốt đẹp êm thắm như thế chăng?

      Tôi cũng được biết rằng người tu sĩ không có đệ tử. Y không t́m kiếm cũng không thâu nhận một đệ tử nào cả. Y định tiến mau đến đích giải thoát bằng cách tu hành ẩn độn trong sự hoàn toàn cô đơn. Thái độ đó, theo quan niệm của người Âu, th́ dường như ích kỷ. Tuy nhiên, thật cũng khó mà cho là ích kỷ, một người đă có ḷng từ bi hỉ xả đối với một kẻ say rượu hành hung ḿnh và không thèm trả thù đám tiểu quỷ đến hành hạ y.

      Tôi đến lần thứ nh́ để định phỏng vấn người tu sĩ tịnh khẩu, nhưng lần này có hai người cùng đi với tôi, một là người thông ngôn đă quen biết và người kia là Brama, người đạo sĩ bên bờ sông Adyar đă từng dạy cho tôi biết nhiều điều quư báu. Brama không thích tới lui chỗ thành thị, nhưng khi nghe tôi bày tỏ mục đích cuộc thăm viếng của tôi, liền bằng ḷng đi theo tôi không chút do dự.

      Gần đến hàng rào, chúng tôi gặp một người khách lạ cũng vừa xuống xe ngừng giữa đường, và đi bộ qua cánh đồng. Người này cũng muốn được vào yết kiến nhà tu sĩ. Y cho chúng tôi biết rằng y là em của bà Vương hậu xứ Gadwal, một tiểu quốc dưới sự bảo hộ của Quốc Vương xứ Hadetabad.

      Người này cũng cho biết y là một ân nhân che chở của người tu sĩ tịnh khẩu, và có góp phần trong việc trùng tu am thất của người Yogi. Y đến Madras có việc trong vài ngày, và trước khi ra về, y muốn đến viếng thăm nhà tu sĩ và xin người ban ân huệ. C̣n cái ân huệ này có giá trị bao nhiêu, th́ tôi được biết qua câu chuyện sau đây do người khách lạ thuật lại.

      Một bà lớn trong triều xứ Gadwal có một đứa con bị một chứng bệnh hiểm nghèo. Bà ấy nghe tiếng đồn về nhà tu sĩ tịnh khẩu. Bà không do dự, liền đi tới Madras để thỉnh cầu người tu sĩ ban ân huệ, và cứu giùm đứa con bà. Người Yogi bằng ḷng và đứa nhỏ khỏi bệnh một cách mầu nhiệm. Việc này đồn thấu đến tai bà Vương hậu, bà liền đến tận nơi để cám ơn người tu sĩ.

      Bà Hoàng biếu cho y một túi bạc đựng sáu trăm rupee, nhưng y từ chối không nhận. Bà Hoàng khẩn khoản mời y nhận dùm, th́ y yêu cầu rằng số bạc đó đem dùng để xây một cái hàng rào chung quanh tịnh thất để cho y khỏi bị quấy rầy trong lúc tham thiền. Bà Hoàng liền làm đúng theo lời.

      Người nô bộc đưa chúng tôi vào cùng một lượt, nhưng chúng tôi lại thấy người tu sĩ ngồi nhập định cũng như lần trước. Chúng tôi lẳng lặng ngồi theo ṿng bán nguyệt chung quanh người tu sĩ, trông chẳng khác nào như một pho tượng oai nghi hùng dũng đặt trên một phiến đá bằng cẩm thạch.

      Độ một tiếng rưỡi đồng hồ sau, chúng tôi nh́n thấy những dấu hiệu đầu tiên của sự hồi sinh. Hơi thở của người trở nên dài hơn và dễ nhận thấy hơn, hai mí mắt đă thấy chớp, tṛng con mắt trở lại b́nh thường. Những bắp thịt đă co giăn trở lại, thân ḿnh cũng trở lại dáng điệu tự nhiên.

      Trong năm phút sau, sắc diện biểu lộ trong cặp mắt chỉ rằng người tu sĩ đă trở về với cơi tục và đă ư thức được mọi sự vật ở chung quanh. Y chăm chú nh́n người thông ngôn của tôi, day đầu nh́n về phía Brama và người khách lạ, sau cùng mới day về phía tôi.

      Tôi liền nắm ngay lấy cơ hội, và đặt dưới chân y một cây viết và một tờ giấy. Sau một lúc do dự, y cầm lấy những vật này và viết bằng một tuồng chữ Tamoul rất đẹp: "Hôm nọ có ai đến đây và định chụp ảnh?"

      Tôi đành phải thú thật. Thật ra những bức ảnh hôm đó tôi chụp đều hư hết cả, v́ thiếu ánh sáng. Người tu sĩ lại viết: "Lần sau, khi ông đến viếng các đạo sĩ đang xuất thần, xin đừng bao giờ làm phiền rộn họ như thế, v́ ông có thể làm gián đoạn cơn thiền định của họ một cách phũ phàng.

      Đối với tôi, điều đó không quan trọng, tôi chỉ dặn ông như thế để lần sau ông có thể đến viếng những nhà đạo sĩ khác. Một sự gián đoạn như thế có thể rất hiểm nghèo đối với họ và ông sẽ bị nguyền rủa."

      Quả thật tôi đă vi phạm vào một điều thiêng liêng bằng cách đột nhập vào nơi ẩn trú của người tu sĩ, và tôi bày tỏ sự hối tiếc.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 772 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 2:39pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      Vị điện hạ của triều vua Gadwal lên tiếng kính chào và bày tỏ ḷng ngưỡng mộ đối với người tu sĩ. Khi y đă xong, mới đến lượt tôi tiến lên và tự giới thiệu như một người ngoại quốc hâm mộ về nền Minh triết cổ truyền của Ấn Độ.

      Tôi nghe nói rằng xứ Ấn Độ ngày nay vẫn c̣n những bậc Hiền Triết đă đạt tới mức tối thượng của pháp môn Yoga và tôi đang đi t́m các bậc ấy. Tu Sĩ có thể giúp đỡ tôi phần nào trong việc sưu tầm này chăng?

      Người Yogi vẫn ngồi yên như pho tượng, vẻ mặt thản nhiên không chút cử động. Mười phút trôi qua, tôi tự hỏi không biết y có nghe tôi hỏi chăng? Hay là tôi lại sắp bị thất vọng? Có lẽ đối với y, một người Âu chỉ là một kẻ quá thiên về vật chất, không có ǵ phải nói nhiều.

      Hay là y cũng c̣n hận tôi về cái tật ham chụp ảnh? Và phải chăng tôi đă đ̣i hỏi quá nhiều khi làm cho một người tu sĩ lánh đời như thế phải ngưng cơn thiền định để thỏa măn tánh hiếu kỳ của một kẻ vô tín ngưỡng và nặng ḷng trần tục? Dầu sao, đây cũng là một sự thất vọng chua cay.

      Nhưng không, đó là tôi quá tưởng tượng. Người tu sĩ cầm cây viết ch́ và viết vài chữ trên tờ giấy. Tôi ngă tới trước để nhận lấy trên tay y và đưa cho người thông ngôn. Người này nói:

      - Tôi không hiểu, v́ chữ viết rất khó đọc.

      - Vũ trụ thật là đầy những sự huyền bí.

      Tôi nói đỡ lời cho y đừng băn khoăn nhưng tôi thấy những lời này làm nở một nụ cười hơi chua chát trên môi người tu sĩ. Y nói:

      - Nếu ông không tự biết ḿnh, làm sao ông có thể biết được Vũ trụ?

      Bây giờ, y nh́n thẳng vào mắt tôi. Tôi cảm thấy đằng sau cái nh́n đó có cả một thế giới tư tưởng thầm kín, đầy những bí mật được giữ ǵn một cách chặt chẽ.

      - Tôi cũng vẫn c̣n hoang mang, và lời nói của tu sĩ cũng chưa giải đáp được sự thắc mắc của tôi, đó là tất cả những ǵ tôi có thể nói trong lúc đó.

      - Như vậy, tại sao ông cứ đi t́m quanh quẩn như con ong đi kiếm từng giọt mật, trong khi cả một khối mật ngọt vốn luôn luôn có sẵn hầu kề một bên?

      Tôi lấy làm vô cùng ngạc nhiên. Một câu trả lời như thế có lẽ là đầy đủ đối với một người Á Đông, và ư nghĩa bóng gió của nó có một thi vị đáng yêu, nhưng tôi không được thỏa măn khi tôi muốn hỏi y về sự giải đáp cho những vấn đề thắc mắc của tôi.

      - Nhưng t́m ở đâu, và phải đi đến đâu bây giờ?





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 773 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 2:40pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      - Hăy t́m ở tự nơi ḿnh. Chân Lư vốn ở tự nơi ta chứ không ở đâu xa.

      - Tôi t́m ở nơi tôi và chỉ thấy có sự vô minh.

      - Sự vô minh chỉ có trong tư tưởng của ông mà thôi.

      - Xin lỗi Thầy, những câu trả lời của Thầy chỉ làm tăng thêm sự hoang mang của tôi mà thôi.

      Người tu sĩ bật cười một cách tự nhiên về sự thành thật của tôi. Y do dự một lúc và viết trên tập giấy: "Tư tưởng của ông đă đưa ông đến sự vô minh hiện tại. Bây giờ ông hăy quay trở về sự minh triết, tức là hăy tự biết ḿnh. Tư tưởng con người cũng ví như một chiếc xe ḅ đưa người vào trong hang tối. Ông hăy quay ngược trở ra th́ sẽ thấy lại ánh sáng."

      Người tu sĩ thấy tôi bối rối thêm, bèn ra dấu đ̣i lại tập giấy, và sau khi ngừng một lúc, y viết:

      - Việc gom tư tưởng đi ngược trở về nguyên bổn, đó là bí quyết của pháp môn Yoga. Bây giờ ông đă hiểu chưa?

      Tôi thấy hơi rơ hơn một chút, nhưng vẫn chưa thấy một người khách vừa mới bước vào. Người này ngồi khít đằng sau lưng tôi, và tôi chỉ nhận biết được sự có mặt của y khi y nói nhỏ vào tai tôi những lời lạ lùng.

      Tôi đang ngẫm nghĩ về câu nói của người tu sĩ và hơi thất vọng về tính cách mập mờ khó hiểu của nó, th́ tôi nghe sau lưng tôi có người nói nhỏ th́ thầm một câu bí mật bằng một thứ tiếng Anh rất thạo:

      - Thầy tôi sẽ nói cho ông nghe câu trả lời mà ông mong đợi.

      Tôi quay đầu nh́n lại. Người mới đến là một người trạc độ bốn mươi tuổi, khoác áo màu vàng của người tu sĩ hành khất, nước da sậm như màu đồng đỏ, tác người cao lớn và vai rộng. Y có một cái mũi dài và lộ như mũi chim ưng, đôi mắt rất nhỏ dường như lúc nào cũng nhíu lên một cái cười dài bất tận.

      Y có vẻ như cười cợt và làm tôi khó chịu. Hơn nữa, thật là bất lịch sự mà nói chuyện riêng với người khác ở trước mặt nhà tu sĩ, nên tôi không nói chuyện với y và day mặt trở lại về phía người Yogi.

      Một câu hỏi khác vừa hiện ra trong trí tôi, nhưng phải chăng nó quá táo bạo và dường như hỗn hào:

      - Bạch Thầy, thế gian đau khổ đang kêu cứu. Những bậc Hiền giả như Thầy tại sao lại ẩn ḿnh ở một nơi vắng vẻ và đành chịu mai một với đời?




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 774 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 2:43pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      Một nét chua chát hơi thoáng qua trên gương mặt thản nhiên của người tu sĩ:

      - Nếu ông không tự biết ḿnh, làm sao ông có thể tự hào biết được tôi? Thảo luận về những vấn đề tâm linh không có ích lợi bao nhiêu. Ông hăy tập luyện một cách kiên tâm bền chí, rồi ông sẽ t́m thấy sự giải đáp cho mọi vấn đề.

      Tôi hỏi thêm một câu cuối cùng:

      - Nhân loại đang khát khao t́m ánh sáng. Tôi cũng đang đi t́m để hy vọng chia sớt phần nào cho kẻ khác được nhờ. Vậy tôi phải làm sao?

      - Khi ông thấy được Chân Lư, ông sẽ biết rằng ông sẽ làm ǵ để phụng sự nhân loại và chừng đó ông sẽ có không thiếu ǵ phương tiện. Nếu một cái hoa có chứa mật, tự nhiên con ong sẽ phân biệt được nó trong tất cả những cái hoa khác. Khi một người đă đạt được sự Minh triết và có sức mạnh tâm linh, y không cần đi t́m ai cả, những người khác sẽ tự họ đến t́m y. Ông hăy lo trau dồi Chân Ngă, đó là điều duy nhất cần phải làm, và không cần theo một giáo lư nào khác.

      Nói đến đây, người tu sĩ ra hiệu cho biết rằng y muốn ngưng cuộc nói chuyện để trở lại cơn tham thiền. Tôi yêu cầu y ban cho tôi một ân huệ cuối cùng. Cặp mắt y dường như đắm ch́m một lúc trong một cơn trầm tư mặc tưởng. Kế đó, y cầm viết ch́ viết trên tập giấy và trao cho tôi, trong đó y viết như sau: "Tôi rất vui ḷng v́ ông đă đến đây. Ông hăy nhận lấy món quà này của tôi để kỷ niệm ngày hội ngộ hôm nay."

      Tôi chưa kịp hiểu ư nghĩa câu này, th́ th́nh ĺnh tôi cảm thấy một mănh lực lạ lùng xâm chiếm lấy tôi. Cái mănh lực ấy đi xuyên qua tủy xương sống, duỗi thẳng cái gáy và làm tôi ngẩng đầu lên. Nó làm tăng sức mạnh ư chí của tôi lên gấp trăm ngàn lần.

      Tôi cảm thấy một sự thúc giục bên trong nó bắt buộc tôi phải tự chinh phục lấy ḿnh, và bắt thể xác tuân theo mệnh lệnh của ư chí để thực hiện những lư tưởng cao cả nhất. Tôi có linh cảm rằng những lư tưởng đó chỉ là những tiếng nói của Chân Ngă, và chân hạnh phúc không c̣n ở đâu nữa, nếu không phải là ở đó.

     Tôi có cảm giác một luồng từ điển vô h́nh từ người tu sĩ tỏa ra và được truyền thẳng vào người tôi do một phương pháp thần giao cách cảm bí mật nào đó. Phải chăng y đă dùng cách đó để cho tôi thấy một bằng chứng về cái quyền năng kỳ diệu của y?

      Đôi mắt của người Yogi lại đứng tṛng, và cái nh́n của đôi mắt đó lại mất hút trong cơi xa xăm nào. Toàn thân y lại cứng đờ như pho tượng sau khi y giữ lại cái thế ngồi quen thuộc như mọi khi.

      Y đă thả tâm hồn đi xa lắc, ngoài ṿng hoạt động của tư tưởng đến tận những cơi giới thâm u huyền diệu của nội tâm, mà y yêu thích hơn là cơi thế gian này. Phải chăng đây là một người Yogi chân chính? Phải chăng y đang bước vào những cuộc thám hiểm huyền bí của nội tâm, khả dĩ đem lại một vài tia sáng cho nhân loại? Biết đâu?

      Khi chúng tôi bước ra ngoài, Brama, người đạo sĩ trên bờ sông Adyar, quay lại tôi và nói với một giọng b́nh thản:

      - Người Yogi này đă đạt tới một tŕnh độ rất cao, tuy rằng y chưa đạt đến mức tột đỉnh. Y có những quyền năng thần bí, nhưng y c̣n đang gắng công tu luyện để tiến đến tŕnh độ tâm linh siêu đẳng. Y có một thể xác kiện toàn, mà tôi cho là nhờ tập luyện môn Hatha Yoga đă lâu năm, nhưng y cũng đă tiến xa trên con đường luyện tinh thần theo pháp môn Raji Yoga. Tôi biết y trước đây đă lâu.

      - Từ bao giờ?

      - Tôi đă thấy y nhiều năm về trước ở giữa một cánh đồng, không có mái che. Tôi liền nhận ra ngay rằng y là một bạn đồng môn. Y cho tôi biết, bằng cách viết trên giấy, rằng hồi c̣n trẻ y có nhập ngũ trong quân đội. Sau khi giải ngũ, y cảm thấy chán nản cuộc đời và lui về ở ẩn nơi thanh vắng. Chính trong lúc đó, y gặp nhà đạo sĩ trứ danh Marakayar và trở nên đệ tử của vị này.

      Bận về, chúng tôi đi ngang qua cánh đồng rồi mới trở ra đường cái. Tôi không thổ lộ với ai về cái kinh nghiệm bất ngờ và khó hiểu đă xảy đến với tôi trong tịnh thất khi năy. Tôi cần phải suy nghĩ lại về vấn đề này trong khi cái âm hưởng của nó hăy c̣n vang dội chưa dứt trong tâm hồn tôi.

      Tôi không c̣n gặp lại người tu sĩ một lần nào nữa. Y không muốn cho ai đột nhập vào cuộc đời vắng lặng của y, và tôi phải tôn trọng sự mong ước đó. Tôi để cho y tiếp tục những cơn thiền định cô đơn của y, hoàn toàn cách biệt với cuộc đời trần gian tục lụy.

      Y không hề có ư muốn lập môn phái, hay quy tụ một nhóm môn đồ, và dường như không có tham vọng ǵ khác hơn là sống một cuộc đời hoàn toàn âm thầm lặng lẽ. Y không có ǵ để nói thêm vào những ǵ y đă nói với tôi, và khinh thường sự nói năng hoạt bát hùng biện, mà chúng ta vẫn đề cao như một nghệ thuật và coi như một điều quan trọng thay.

      



Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 775 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 2:45pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ


Nhà Lănh Đạo Tinh Thần Miền Nam


Chương Sáu



     Chúng tôi chưa ra tới đường cái để trở về Madras, th́ đă có nghe có tiếng chân người theo dơi tôi ở phía sau. Tôi quay lại nh́n th́ thấy người Yogi mặc áo vàng ngồi sau lưng tôi ở trong tịnh thất lúc năy. Y vừa nh́n tôi vừa nhăn răng cười. Y có một cái cười đặc biệt, hai quai hàm xếch ngược lên tận hai mang tai, và cặp mắt nhỏ híp lại thành hai vết nhăn, h́nh như lúc nào cũng có vẻ đùa cợt. Tôi bèn hỏi:

      - Anh muốn nói chuyện với tôi chăng?

      - Thưa ông, phải. Y đáp một cách mau mắn, với một tiếng Anh rất gịn. Xin ông có thể cho tôi biết ông làm ǵ ở xứ này?

      Sự tọc mạch của y làm cho tôi do dự, tôi bèn đáp một cách vu vơ:

      - Tôi đi du lịch, chỉ có vậy thôi.

      - H́nh như ông có vẻ chú ư đến những tu sĩ ở xứ này, phải chăng?

      - Phải, xem chơi tiêu khiển vậy thôi.

      - Tôi cũng là một người Yogi, thưa ông.

      Tôi nghĩ thầm sao lại có người Yogi khoe khoang một cách lạ kỳ như vậy. Tôi hỏi:

      - Được bao lâu rồi?

      - Đă được ba năm. Trước kia tôi cũng có nhập ngũ trong quân đội Hoàng Gia suốt bảy năm.

      - Thật vậy sao?

- Thưa ông, đúng vậy. Tôi đă có ṭng quân theo đạo binh Ấn Độ trong trận chiến tranh Trung Đông. Sau chiến tranh, nhờ giỏi giắn và thông minh, nên tôi được thuyên chuyển sang Pḥng Kế Toán quân đội.

      Tôi phải mỉm cười về sự tự giới thiệu đặc biệt của y. Y nói tiếp:

      - Về sau tôi xin từ chức v́ một sự rối rắm trong gia đ́nh và đă trải qua một cơn khủng khoảng tinh thần rất lớn, nó làm cho tôi bước vào con đường tu hành và trở nên một người Yogi.

      Tôi đưa cho y một tấm danh thiếp và xin y cho biết quư danh. Y đáp:

      - Tôi tên là Subramanya, thuộc ḍng dơi Bà La Môn, giai cấp Aiyar.

      - Ông Subramanya, ông hăy giải thích về lời nói th́ thầm của ông bên cạnh tôi lúc năy, ở trong am thất của nhà Tu Sĩ tịnh khẩu.

      - Chính tôi cũng đợi dịp giải thích cho ông. Ông hăy đến chất vấn Tôn Sư tôi, v́ Ngài là một bậc Hiền minh nhất của xứ Ấn Độ; sự minh triết của Ngài c̣n cao xa hơn của những người Yogi.

      - Thật vậy à? Anh đă từng đi hết khắp xứ Ấn Độ hay chưa? Anh đă gặp hết tất cả những nhà đạo sĩ trứ danh hay chưa mà anh dám nói như thế?

      - Tôi đă gặp nhiều vị đạo sĩ chân tu, và tôi biết rơ Ấn Độ từ mũi Comorin đến tận dăy Hi Mă Lạp Sơn.

      - Sao nữa?

      - Bởi v́ chính Ngài đă đưa tôi đến để gặp ông. Chính quyền năng của Ngài đă làm cho ông bị thu hút đến xứ Ấn Độ.

      Lời tuyên bố đại ngôn này quá sức lố lăng, nó làm cho tôi dội ngược, không thể chịu nổi. Tôi vẫn thường không thích những lời nói phóng đại khoác lác của những kẻ quá khích, và người tu sĩ áo vàng này quả thật là một tay quá khích thượng thặng. Giọng nói, cử chỉ, h́nh dáng và cốt cách của y biểu lộ điều ấy một cách rơ ràng.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 776 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 2:47pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



Tôi đáp một cách lạnh lùng:

      - Tôi không hiểu anh muốn nói ǵ?

      Y càng trở nên hùng biện và nói nhiều hơn:

      - Tôi được gặp Ngài cách đây tám tháng về trước. Tôi được phép sống gần Ngài trong năm tháng trường, và sau đó Ngài dạy tôi hăy tiếp tục cuộc đời khuất sĩ ta bà khắp nơi. Ông sẽ không bao giờ gặp được một người nào như Ngài.

      Quyền năng của Ngài cao siêu đến nỗi Ngài có thể trả lời những tư tưởng thầm kín của ông trước khi ông thốt ra lời. Ông chỉ cần ở bên cạnh Ngài một thời gian ngắn, cũng đủ thấy tŕnh độ tâm linh cao cả của Ngài là dường nào.

      - Anh có chắc rằng Ngài sẽ vui ḷng đón tiếp tôi chăng?

      - Chắc chắn mười phần, thưa ông. Chính do sự hướng dẫn tâm linh của Ngài, mà tôi đến gặp ông.

      - Tôn Sư bây giờ ở đâu?

      - Ở tại Arunchala, trên ngọn Đồi Thiêng.

      - Đó là ở vùng nào vậy?

      - Trong địa phận tỉnh Arcot, ở tận miền Nam. Tôi sẽ dẫn đường cho ông đi đến tận nơi. Thầy tôi sẽ giải quyết mọi sự băn khoăn và thắc mắc của ông, v́ Ngài đă đạt tới một tŕnh độ tâm linh siêu đẳng.

      - Điều ấy thật là lư thú, tôi nh́n nhận một cách do dự, nhưng tôi rất tiếc là hiện giờ tôi không thể đi được. Hành trang của tôi đă sẵn sàng và tôi sẽ lên miền Đông Bắc nay mai, v́ tôi có hai việc quan trọng cần phải thu xếp.

      - Rất tiếc rằng chúng ta gặp nhau quá trễ. Tôi đă chuẩn bị mọi việc sẵn sàng và không thể nào thay đổi được nữa. Tôi có thể trở lại miền Nam về sau này, nhưng c̣n bây giờ th́ không thể đi được.
Người Yogi có vẻ thất vọng rơ rệt:

      - Ông để lỡ mất một cơ hội tốt, thưa ông, và ...

      Tôi nhận thấy nói nhiều vô ích, nên tôi đành cắt đứt ngang câu chuyện:

      - Tôi phải đi ngay bây giờ. Dầu sao cũng cám ơn anh.

      - Tôi không nhận lời từ chối của ông. Y nói dai như đĩa. Chiều mai tôi sẽ đến nhà ông và tôi hy vọng rằng chừng đó ông sẽ đổi ư kiến.

      Đến đây, y bèn quay lưng đi thẳng. Tôi nh́n theo cái bóng người cao lớn mạnh khỏe, khoác áo vàng đi băng qua đường lộ và lần lần mất dạng.

      Khi về đến nhà, tôi bắt đầu tự hỏi phải chăng tôi đă quyết định một cách quá vội vàng? Nếu vị Tôn Sư này chỉ đúng độ nửa phần những lời ca tụng của y, th́ cũng đáng cho tôi chịu một phen khó nhọc đi xuống miền Nam. Nhưng tôi đă chán những người đồ đệ quá mê tín, họ luôn luôn ca tụng Thầy họ một cách quá đáng, nhưng đến khi gặp gỡ tận mặt, th́ ra đó chỉ là những người đạo hạnh tầm thường, không có ǵ là đặc sắc. Hơn nữa, những đêm không ngủ và những ngày nóng bức như thiêu đă làm cho thần kinh tôi bải hoải, thân thể ră rời. Bởi vậy, tôi càng lo ngại nhiều hơn lúc thường rằng chuyến đi này lại có thể là một cuộc săn vịt như những lần trước.

      Tuy nhiên, sự lư luận đó vẫn không đánh tan được một sự linh cảm từ bên trong nội tâm. Một cái bản năng lạ lùng nhắc nhở cho tôi biết h́nh như có một cái ǵ chân thật ẩn dấu đằng sau sự khẩn khoản mời mọc của người khất sĩ. Điều này càng làm cho tôi lưỡng lự và bối rối.

      Sau một giấc ngủ trưa vừa thức dậy, đến giờ dùng trà, bỗng có khách đến. Đó là một bạn đồng nghiệp trong giới cầm bút, nhà văn sĩ Mani. Tôi được biết y do một bức thư giới thiệu của một người quen trước khi tôi đến Madras. Nhờ có bức thư giới thiệu này mà y biết địa chỉ và đến thăm tôi.

      Văn sĩ Mani là một nhân viên Hội Đồng Đại Học Viện của tỉnh Madras, và là tác giả của nhiều áng văn và tiểu thuyết nói về đời sống ở thôn quê. Y là nhà văn Ấn Độ đầu tiên trong tỉnh Madras đă viết sách bằng Anh ngữ và được ban thưởng về những công tŕnh phục vụ văn nghệ. Y viết với một thể văn tao nhă, đă từng được sự khen tặng của thi hào Tagore ở Ấn Độ và Lord Haldane ở Anh Quốc. Văn chương của y chuyên diễn tả những cảnh tượng mơ buồn của những làng mạc hoang vu tẻ lạnh.

      Khi y bước vào pḥng, tôi để ư nh́n dung mạo gầy g̣ mảnh khảnh với vẻ mặt trầm lặng, đôi mắt tinh anh và cặp kính trắng của y. Đó là đôi mắt của một nhà tư tưởng, một triết gia và một thi sĩ, đôi mắt ấy cũng phản chiếu những nỗi ưu sầu của những người nông dân đau khổ ở chốn đồng quê.

      Trong chốc lát, chúng tôi đă nhận thấy có sự thông cảm và đồng quan niệm trên nhiều lĩnh vực. Sau khi chúng tôi bày tỏ tâm sự về nhiều vấn đề, bàn về t́nh h́nh chính trị và ca tụng những nhà văn mến chuộng của chúng tôi, tôi cảm thấy cần tiết lộ cho y biết rơ mục đích của tôi khi viếng xứ Ấn Độ.

      Tôi thành thật nói cho y biết ư định của tôi, tôi hỏi y về các nhà đạo sĩ chân tu ở xứ này; và nói trước cho y biết rằng tôi không cần gặp những nhà tu khổ hạnh ở bẩn hay những nhà làm tṛ quỷ thuật.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 777 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 2:49pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      Y lắc đầu nói:

      - Ngày nay, Ấn Độ không c̣n là nơi sản xuất ra những người Hiền Giả chân tu như thế nữa. Với trào lưu vật chất đang lên, sự suy tàn của nền văn minh cổ và sự xâm nhập bởi nền văn hóa không hồn của Tây phương, những bậc Hiền Triết, Thánh Sư mà anh t́m kiếm ngày nay đă biến mất, không c̣n nữa.

      Tuy nhiên, tôi tin tưởng rằng một vài người trong số đó c̣n đang ẩn dật ở những nơi rừng sâu núi thẳm, và trừ phi anh dành trọn đời để đi t́m các Ngài, tôi e rằng anh khó t́m ra được. Khi những người Ấn như chúng tôi muốn t́m Thầy học đạo, ngày nay họ c̣n phải đi phiêu lưu ta bà khắp nơi, huống chi một người Âu như anh lại càng khó hơn.

      - Như vậy, theo ư anh, chắc là không có hy vọng?

      - Tôi không dám nói trước, đó là một vấn đề may rủi.

      Tôi hỏi thêm:

      - Anh có nghe nói về một bậc danh sư hiện đang sống trên một ngọn đồi trong tỉnh Arcot?

      Y lắc đầu tỏ vẻ không biết. Chúng tôi quay trở về các vấn đề văn chương. Mani cao hứng thổ lộ tâm sự của y và ca tụng một cách nồng nhiệt những lư tưởng cao siêu của nền văn hóa cổ Ấn Độ mà ngày nay không c̣n nữa. Y đề cập đến những lư tưởng như một đời sống đơn giản, phụng sự nhân quần xă hội, cùng phát triển tâm linh. Y muốn tảo trừ cái trào lưu vật chất sa đọa đang lên, nó hăm dọa tràn ngập hết xă hội Ấn.

      Nhưng điều quan trọng nhất đối với y là làm thế nào để giải thoát những vùng làng mạc thôn quê của Ấn Độ đă sắp sửa trở nên những trung tâm tuyển mộ nhân công vào những khu xóm tồi tàn chật hẹp của những thành phố kỹ nghệ Âu Châu, y nhận thấy điều đó sẽ là cái hậu quả chắc chắn của trào lưu hiện tại.

      Mani cho biết rằng y sinh trưởng trong một gia đ́nh khá giả, có tài sản ở vùng đồng quê. Y nuôi trong trí những kế hoạch cải tiến t́nh trạng sinh hoạt của người dân quê, và không thể quan niệm được một hạnh phúc nào ở thế gian nếu đời sống của người nông dân hăy c̣n lầm than khổ sở.

      Tôi lẳng lặng nghe để t́m hiểu quan niệm của y. Sau cùng y đứng dậy ra về và tôi nh́n theo bóng y hút mất dạng ở cuối đường lộ.

      Sáng ngày hôm sau, tôi ngạc nhiên mà thấy y trở lại viếng tôi một cách bất ngờ. Y hối hả đậu xe ngay trước cửa nhà, v́ y sợ rằng tôi có thể đi sớm. Y vừa thở vừa nói:

      - Tôi vừa nhận được một bức điện tín hồi đêm hôm cho biết rằng vị đỡ đầu cao cả của tôi sẽ ghé qua tỉnh Chingleput và sẽ ở lại đó một ngày.

      Sau khi đă lấy lại được hơi thở và đă bớt mệt, y nói tiếp:


      - Đức Tăng Thống Shankara ở tỉnh Kumbokonam là vị lănh đạo tinh thần của miền nam Ấn Độ. Hằng triệu người tôn sùng Ngài như một vị thánh sống, sứ giả của Thượng Đế ở cơi trần. Ngài đă chú ư đến tôi rất nhiều và khuyến khích sự nghiệp văn chương của tôi.

      Lẽ tự nhiên, Ngài là người mà tôi trông cậy để d́u dắt tôi về phương diện tâm linh. Người Ấn chúng tôi xem Ngài như bậc Hiền Triết đă đạt tới một tŕnh độ tâm linh cao cả nhất. Nhưng Ngài không phải là một người Yogi.

      Ngài là vị Chủ Tể của Ấn Độ giáo miền Nam, một bậc chân tu mô phạm và một nhà đạo đức uyên thâm. V́ Ngài biết rơ những trào lưu đạo đức tâm linh của thời đại này, và do bởi đạo căn của Ngài, nên Ngài có thể biết được những nhà đạo sĩ Yogi chân chính.

      Ngài đi châu du khắp nơi từ làng này sang làng khác và từ tỉnh này sang tỉnh khác, bởi đó Ngài biết nhiều về vấn đề này. Bất cứ nơi nào Ngài đi đến, những vị tu sĩ và tăng lữ trong xứ đều đi đến chào mừng Ngài. Ngài có thể cho anh nhiều ư kiến hữu ích. Anh có muốn gặp Ngài không?

      - Cám ơn anh nhiều. Tôi rất muốn gặp Ngài. Chingleput cách đây bao xa?

      - Chỉ có ba mươi lăm dặm thôi. Nhưng này ...

      - Chi đó?

      - Tôi bắt đầu nghi ngại không biết đức Tăng Thống có chịu tiếp kiến anh không. Lẽ tự nhiên tôi sẽ hết sức cố gắng để xin Ngài cho anh được vào yết kiến. Nhưng ...

      - Hay là v́ tôi là người Âu chăng? Tôi đỡ lời luôn hết câu cho y. À, tôi hiểu.

      - Anh có sẵn ḷng đón nhận một sự từ chối chăng? Y hỏi một cách hơi băn khoăn, e ngại.

      - Tự nhiên là chịu. Thôi chúng ta đi.

      Sau một bữa ăn lót dạ, chúng tôi ra xe đi đến tỉnh Chingleput. Tôi hỏi thăm ông bạn đồng nghiệp của tôi về Đại Đức Shankara, nhân vật mà tôi hy vọng được gặp trong ngày hôm đó.

      Tôi được biết rằng về phương diện cá nhân, Đại Đức sống rất đơn giản, nhưng trong những khi đi tuần du khắp nơi trong xứ, trọng trách của Ngài bắt buộc Ngài phải dùng những nghi lễ oai vệ, lộng lẫy như các bậc vua chúa. Trong những khi Ngài di chuyển, th́ trước sau đều có xe cộ, ngựa voi, tiền hô hậu ủng, cờ, quạt, vơng, lọng tưng bừng. Dân chúng tấp nập ở nơi nào Ngài đi đến.

      Họ đến để cầu xin sự giúp đỡ của Ngài về tất cả mọi phương diện, không những về phương diện tâm linh, mà cũng về mặt tinh thần, vật chất, và thậm chí đến cả sự giúp đỡ về tiền bạc. Không có ngày nào là không có những người giàu sang, quyền thế đến dâng cho Ngài những số tiền khổng lồ, nhưng v́ Ngài đă phát nguyện giữ đức thanh bần, nên những số tiền đó đều được đem dùng vào những công việc từ thiện.

      Ngài nâng đỡ những kẻ khốn khó, trợ giúp tiền cho các trường học, tu bổ các đền thờ, kiến thiết và sửa sang hệ thống đào ao tát nước, dẫn thủy nhập điền, để trừ hạn hán trong xứ mà sông ng̣i rất hiếm. Nhưng đó chỉ là những công việc phụ thuộc: Sứ mạng chính yếu của Ngài là coi sóc hàng triệu tín đồ và giáo hóa họ về mặt đạo đức tâm linh.

      Bất cứ nơi nào Ngài đi đến, Ngài đều cố gắng dạy dỗ cho dân chúng biết quay về cái thuần phong mỹ tục và đạo đức cổ truyền của Ấn Độ Giáo và gây cho họ một nguồn cảm hứng sâu xa về tinh thần.

      Thường khi, Ngài thuyết pháp trong đền chùa của địa phương và sau đó Ngài tiếp khách riêng từng người trong số những khách khứa thập phương đến viếng. Đại Đức là vị kế nghiệp sáu mươi sáu đời của ḍng tu sĩ Shankara, mà người sáng lập đầu tiên là Đức Giáo Chủ Shankara Charya, một người Đại Hiền Triết ḍng Bà La Môn, đă sống ở Ấn Độ cách đây hai ngàn năm, dường như Ngài sinh ra đời với một sứ mạng.

      Vào thời kỳ đó, Ấn Độ Giáo đang hồi suy vong, mọi sinh hoạt tâm linh dường như sắp sửa điêu tàn. Năm mười tám tuổi, đức Shankara Charya chu du khắp nơi trong xứ, thảo luận về Đạo lư với các nhà bác học và các bậc Giáo sĩ. Ngài cũng giảng đạo khắp nơi và thâu phục một số tín đồ càng ngày càng đông.

      Trí óc thông minh tuyệt vời của Ngài làm cho các nhà bác học trong xứ phải ngạc nhiên. Không bao lâu Ngài được người đương thời kính nể và suy tôn như một bậc tiên tri. Ngài có những ư kiến rộng răi và lên án nhiều sự dị đoan, mê tín, núp bóng dưới h́nh thức tôn giáo.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 778 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 2:52pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      Ngài khuyên răn người đời hăy trau dồi những đức tánh tốt và trong những lần thuyết pháp, Ngài chỉ rơ sự vô ích của một tôn giáo chỉ căn cứ trên sự lễ bái, cúng tế, mà không có sự công phu tu luyện.

      Ngài phá luôn cả luật lệ gia cấp bằng cách chính Ngài hành lễ đám táng của thân mẫu Ngài, điều này làm cho Ngài bị rút phép thông công và bị trục xuất ra khỏi Bà La Môn giáo, v́ theo tôn giáo này chỉ có những giáo sĩ mới có quyền hành lễ trong các nghi thức: Quan, hôn, tang, tế mà thôi.

      Với hành động phá giai cấp đó, Ngài đă tỏ ra xứng đáng là một người kế nghiệp của Phật Thích Ca, v́ chính Đức Phật là người đầu tiên đả phá chế độ giai cấp ở Ấn Độ. Trái với các nhà giáo sĩ Bà La Môn, Ngài dạy rằng mọi người không phân biệt giai cấp hay màu da, đều có thể tham dự vào đời sống tinh thần, và học hỏi Đạo lư.

      Ngài không lập nên một tôn giáo mới nào, mà chỉ dạy rằng bất cứ tôn giáo nào cũng đưa con người đến Thượng Đế, miễn là nó được thi hành một cách đứng đắn. Để chứng minh cho lập luận đó, Ngài lập nên một hệ thống triết học hoàn bị và để lại cho đời một cái di sản quư báu về tinh thần, nó vẫn c̣n uy tín trong những đạo viện khắp nơi trong xứ. Chính những nhà học giả uyên bác Ấn Độ cũng rất sùng mộ công tŕnh về triết học và tâm linh của Ngài.

      Đức Giáo Chủ Shankara Charya đi châu du khắp xứ Ấn Độ với chiếc áo màu già và cây gậy hành hương của nhà tu sĩ. Với một chánh sách khôn khéo, Ngài thành lập bốn đạo viện lớn ở bốn phương trời mà một ở Badrinath tại miền Bắc, và một ở Puri tại miền Đông Ấn.

      Đại bản dinh của Ngài gồm có một ngôi đền và một tu viện được đặt ở miền Nam, nơi đó Ngài bắt đầu đi thuyết pháp. Cho đến ngày nay, miền Nam Ấn Độ vẫn được coi là nơi Thánh Địa chính tông của Ấn Độ Giáo. Những đạo viện đó là những trung tâm tinh thần truyền bá giáo lư của đức Giáo Chủ Shankara Charya lúc c̣n sanh tiền có hứa với các vị đệ tử rằng Ngài sẽ luôn luôn ở gần bên họ bằng tinh thần, và sẽ phù hộ cho những người kế nghiệp của Ngài ở chức vụ Tăng Thống.

      Mỗi vị Tăng Thống đều lấy tên là Shankara, và khi gần qua đời th́ Ngài chỉ định một đệ tử xứng đáng nhất để kế nghiệp của Ngài, v́ người đệ tử này thường được chỉ định sẵn khi c̣n là một thanh niên trẻ tuổi, nên y được giao phó cho các vị danh sư dạy dỗ và chuẩn bị cho y thực hành chức vụ cao cả của một vị Tăng Thống sau này.

      Sự học tập của y không chỉ về mặt trí dục và đức dục mà thôi, nó c̣n gồm cả những giai đoạn cao đẳng của pháp môn Yoga và sự thực hành môn thiền định. Chương tŕnh giáo dục này được tiếp theo bằng một thời kỳ hoạt động nhập thế của người thanh niên, hoàn toàn hiến dâng cuộc đời để phụng sự nhân loại.

      Thật là một điều kỳ lạ mà nhận thấy rằng gịng tu này được tiếp tục hành đạo trải qua nhiều thế kỷ mà từ trước đến nay không hề có một vị Tăng Thống nào làm trái với lư tưởng vị tha, giúp đời một cách tuyệt đối trong sạch cao thượng nhất.

      Mani c̣n kể cho tôi nghe nhiều giai thoại về những quyền năng của Đại Đức Shankara thứ sáu mươi sáu. Trong những câu chuyện đó, có sự chữa bệnh cho một người thân nhân, bị bệnh kinh niên: Đại Đức Shankara dùng tay truyền điện, trong khoảng không đầy ba giờ, đă làm cho bệnh nhân ngồi dậy được, và sau đó ít lâu, Ngài chữa cho y hoàn toàn hết bệnh. Người ta cũng nói rằng Ngài đọc được tư tưởng của người khác.

      Chúng tôi đi vào thành phố Chingleput do một con đường hai bên đường trồng cây dừa và đi qua một hệ thống chằng chịt những đường nhỏ hẹp, giữa những nhà quét vôi trắng, nóc đỏ. Trung tâm thành phố náo nhiệt và đông người. Tôi được đưa vào một nhà kia, nơi đó có cả một nhóm thư kư đang bận rộn mở những bức thư chất thành đống được chuyển cho Đại Đức sau khi Ngài xuất hành từ thị trấn Kumbakonam và đi tuần du khắp nơi.

      Tôi chờ đợi trong một hành lang trong khi Mani nhắn một người thư kư trở ra nói rằng Đại Đức không thể tiếp khách người Âu. Hơn nữa, đă có hai trăm người xin được gặp Ngài, trong số đó, đă có nhiều người xin ngủ lại từ đêm trước để chắc được Ngài tiếp kiến.

     Người thư kư xin lỗi không ngừng. Tôi chấp nhận việc ấy một cách b́nh tĩnh nhưng Mani nhất định không chịu thua: Y cho biết y sẽ cậy ở t́nh quen biết cố cựu với Đại Đức để xin cho tôi được vào yết kiến.

      Trong đám đông có những người khác, tuy thế, y dùng sự khéo léo ngoại giao để lọt vào trước và một lúc sau y trở ra với một nụ cười đắc thắng: Đại Đức sẽ đặc cách ban một ngoại lệ cho anh và sẽ tiếp anh trong một giờ.

      Trong khi chờ đợi, tôi dùng thời giờ để đi bách bộ chơi dọc theo những con đường nhỏ rất ngoạn mục đưa đến ngôi đền lớn. Tôi gặp một vài người đầy tớ đang dắt một đàn voi xám và lạc đà đi uống nước. Có người chỉ cho tôi thấy con voi tuyệt đẹp của Đại Đức Shankara, vẫn thường chở Ngài đi tuần du khắp nơi.

      Ngài dùng nghi vệ xứng đáng với bậc vua chúa. Cái ngai trên lưng voi vàng son ḷe loẹt, lót nệm gấm, thêu chỉ vàng coi rất lộng lẫy.

      Tôi nh́n theo con voi tiến bước một cách chậm chạp và oai vệ, dường như nó cũng ư thức được cái địa vị cao sang của chủ nó.

      Tôi nhớ lại rằng theo phong tục Ấn Độ, khi đến viếng thăm một nhân vật đạo đức chân tu, người ta thường mang theo hoa quả bánh trái làm lễ vật ra mắt. Tôi định đi mua quà biếu, nhưng ở quanh vùng chỉ t́m thấy có hai món, là bông hoa và cam, tôi bèn mua luôn cả hai thứ đem về.

      Trong đám đông người chen chúc nhau ngoài cửa ngơ nhà Đại Đức, tôi lại quên cả một phong tục khác, là cởi giày trước khi vào nhà. Mani mau mắn nhắc tôi. Tôi bèn cởi giày bỏ ngoài đường, hy vọng rằng đôi giày sẽ c̣n nguyên ở chỗ cũ khi tôi ra về.

      Chúng tôi đi qua một dăy hành lang và bước vào một gian pḥng lớn. Ở cuối pḥng, trong một góc thiếu ánh sáng, tôi nhận thấy có một người đứng khuất trong bóng tối. Tôi bước đến gần, đặt mâm lễ vật mọn của tôi một bên, và cúi rạp ḿnh làm lễ. Tôi nhận thấy cái nghi lễ giản dị này có một tính cách lịch sự mà tôi rất thích, ngoài ra sự cần thiết của nó để bày tỏ ḷng tôn kính.

      Tôi biết rằng Đại Đức Shankara không phải là một vị Giáo Hoàng, v́ bên Ấn Độ không có một chức sắc như thế, nhưng Ngài là một vị Giáo Chủ và lănh đạo tinh thần của một số con chiên và tín đồ rất đông đảo. Toàn thể dân chúng Ấn Độ miền Nam đều kính cẩn nghiêng ḿnh dưới sự bảo hộ của Ngài.

Tôi im lặng nh́n Đức Tăng Thống. Ngài tác người hơi thấp, khoác bộ áo màu vàng sậm của vị tăng lữ xuất gia, và chống gậy tu sĩ. Tôi được biết rằng Ngài mới trên bốn mươi tuổi, nhưng tôi ngạc nhiên mà thấy tóc Ngài đă điểm bạc.

      Ngài có một tác phong cao quư, vẻ mặt khiêm tốn, dịu dàng, đôi mắt lớn đen như huyền trông rất đẹp và có vẻ yên tịnh khác thường. Mũi ngắn, thẳng và đều đặn, một bộ râu đen hơn ngắn phủ ở trên cằm, đôi môi khép chặt và nghiêm chỉnh.

      Gương mặt Ngài giống như của một vị Thánh Gia Tô thời Trung Cổ. Người Tây phương có thể cho rằng cặp mắt đen của Ngài có vẻ quá mơ mộng, nhưng tôi cảm thấy, bằng một cách khó giải thích, rằng ở đằng sau đôi mí mắt đó c̣n có những cái ǵ khác hơn là những giấc mơ.

      Tôi nói để mở lời vào đề:

      - Đại Đức đă quá hạ cố mà tiếp tôi. Thật rất hân hạnh ...

      Đại Đức Shankara quay lại ông bạn tôi và nói ít lời bằng tiếng bổn xứ nhưng tôi có thể đoán được ư nghĩa. Bạn tôi nói lại với tôi:

      - Đại Đức hiểu tiếng Anh nhưng Ngài không nói được, và muốn tôi dịch lại những câu trả lời của Ngài.

      Tôi nói qua về những kinh nghiệm đầu tiên của tôi ở xứ này. Ngài muốn biết những cảm tưởng của một người ngoại quốc về người và vật của xứ Ấn Độ. Câu chuyện kéo dài và tôi ngạc nhiên mà được biết rằng Đức Tăng Thống đọc thường xuyên những báo chí của Anh Quốc và biết rơ mọi sự xảy ra hàng ngày ở thế gian này. Tôi sực nhớ Đại Đức Shankara có tiếng là một nhà tiên tri. Tôi bèn hỏi ư kiến Ngài về tương lai của Trái Đất.

      - Xin Đại Đức cho biết trong tương lai, thời cuộc thế giới có khả quan hơn bây giờ không?

      - Tôi không thấy có sự thay đổi trong một ngày gần đây. Đó là một vấn đề thời gian. Làm sao mà có sự thay đổi t́nh h́nh trong khi mà các nước đều đua nhau vơ trang bằng vũ khí tối tân giết người?

      - Người ta từng nói nhiều về vấn đề tài binh. Đại Đức nghĩ sao về vấn đề này?

      - Dầu các anh có tháo gỡ những chiến hạm và đem quăng những cỗ đại bác vào đống sắt vụn, điều đó cũng không ngăn cản được chiến tranh. Những dân tộc các anh sẽ đánh nhau bằng gậy gộc nếu họ không c̣n súng ống để vơ trang.

      - Bây giờ phải làm sao?




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 779 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 2:54pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      - Điều cần phải thay đổi, chính là cái tinh thần bên trong. Chỉ có ḥa hợp tinh thần giữa các nước và mọi giai cấp xă hội, mới gây cho nhau ḷng tin tưởng, và tái lập ḥa b́nh, cùng sự thịnh vượng chung.

      - Điều đó chắc là c̣n lâu lắm. Như vậy phải chăng hiện nay chúng ta rất ít có hy vọng?

      Đức Tăng Thống chống một tay lên gậy và nói:

      - C̣n có Thượng Đế.

      - Nếu có Thượng Đế th́ dường như Ngài ở xa lắm. Tôi bạo gan phản đối.

      Đại Đức nói với một giọng dịu dàng:

      - Thượng Đế chỉ có một t́nh thương đối với nhân loại.

      Tôi không cưỡng lại được một sự mai mỉa cai đắng nó dâng lên cơi ḷng tôi khi tôi thốt ra những lời này:

      - Cứ xét qua bao nhiêu sự lầm than đau khổ trên thế gian hiện nay th́ Thượng Đế chỉ có một sự dửng dưng đối với nhân loại.

      Đức Tăng Thống nh́n tôi một cách lạ lùng. Ngay tức khắc tôi liền thấy hối tiếc về những lời nói vội vàng của tôi.

      - Với một ít kiên nhẫn, anh sẽ nh́n thấy xa hơn. Thượng Đế sẽ an bày mọi sự một cách êm thấm vào ngaỳ giờ mà Ngài chọn lựa. Những sự tranh chấp náo loạn giữa các quốc gia, sự đồi trụy tinh thần của dân chúng và sự lầm than đau khổ của hàng triệu người sẽ đưa đến một sự phản ứng, và chừng đó sẽ có một bậc vĩ nhân lănh sứ mệnh thiêng liêng xuất hiện để cứu độ thế gian.

      Như thế, nghĩa là mỗi thế kỷ đều có một đấng cứu thế. Điều này đúng như một định luật vật lư học. Thế gian càng vô minh đau khổ đồi trụy bao nhiêu, th́ bậc vĩ nhân xuất hiện để cứu độ đời càng cao cả bấy nhiêu.

      - Như vậy, Đại Đức nghĩ rằng một vị cứu thế cũng sẽ xuất hiện vào thời buổi hiện tại chăng?


      - Vào thế kỷ hiện tại, Ngài sửa lại câu nói của tôi. Lẽ tất nhiên là như vậy. Sự nhu cầu của thế gian rất cấp bách, và sự vô minh ám muội của người đời rất dày đặc, đến nỗi một bậc vĩ nhân sứ giả của Thượng Đế chắc chắn sẽ xuất hiện.

      Tôi hỏi:

      - Phải chăng Đại Đức nghĩ rằng con người càng ngày càng trở nên sa đọa hơn trước?

      - Không, tôi không nghĩ thế. Ngài đáp một cách khoan dung. Một linh hồn cao cả thiêng liêng ngự trong con người và rốt cuộc sẽ kéo y quay trở về Thượng Đế.

      - Nhưng ở những thành phố Tây phương của chúng tôi, có những kẻ bất lương hành động chẳng khác nào như có quỷ vương ngự trong ḷng của họ. Tôi đáp và nghĩ đến những tay đại bợm, ăn cướp một cách khoa học của thời đại này.

      - Chúng ta đừng nên trách người, mà hăy trách những hoàn cảnh xă hội đă đào tạo ra họ. Chính hoàn cảnh chung quanh ở ngoài xă hội đưa đẩy họ vào con đường tội lỗi, dầu ở Đông phương hay Tây phương cũng vậy. Xă hội phải được cải tiến đến một tŕnh độ cao hơn. Chủ nghĩa vật chất phải được thay thế bằng những hoài băo tinh thần và lư tưởng tâm linh.

      Không có phương thuốc nào mầu nhiệm hơn nữa để chữa cơn bệnh trạng của nhân loại. Những sự khó khăn đau khổ của các quốc gia trên thế giới hiện nay thật ra là những cơn hấp hối nó sẽ đưa đến sự thay đổi nói trên, cũng chẳng khác nào như sự thất bại thường là một bài học hay, nó chỉ cho chúng ta thấy sự lỗi lầm và hăy đổi qua con đường khác.

      - Phải chăng Đại Đức muốn cho mọi người đều áp dụng những lư tưởng tâm linh vào công việc xử thế của họ?

      - Đúng vậy, điều đó không phải khó làm, bởi v́ đó là phương tiện duy nhất để đem lại những kết quả lâu bền mà cứu cánh là sẽ làm thỏa măn tất cả mọi người. Chúng ta chỉ c̣n thiếu những người đă giác ngộ tâm linh và sẵn sàng đi truyền bá ánh sáng chân lư.

      Xứ Ấn Độ có những người ấy và đó là cái vinh hạnh của nó, ở đây, những bậc Hiền Giả được kính trọng biệt đăi, tuy rằng không được như ngày xưa. Nếu tất cả thế giới đều làm giống như thế và tuân theo sự d́u dắt của những người đă có sự giác ngộ tâm linh, th́ chừng đó nhân loại sẽ được sống trong ḥa b́nh và thịnh vượng.

      Câu chuyện kéo dài, tôi nhận thấy rằng Đại Đức Shankara không chê bai chỉ trích phương Tây để rồi đề cao và tán tụng phương Đông như nhiều người Ấn Độ khác. Ngài nh́n nhận rằng mỗi phương bán cầu đều có những đức tính và khuyết điểm riêng, và như thế, cả hai phương Đông và Tây đều xấp xỉ bằng nhau. Ngài hy vọng rằng một thế hệ khôn ngoan hơn sẽ ḥa hợp những ưu điểm của hai nền văn minh Âu Á để tổ chức một cơ cấu xă hội quân b́nh tốt đẹp và cao thượng hơn.

      Tôi qua vấn đề khác và xin phép hỏi Ngài một vài câu hỏi có tính cách cá nhân. Ngài bằng ḷng ngay không chút do dự.

      - Đại Đức giữ chức vụ này đă được bao lâu?

      - Từ năm 1907. Hồi đó tôi có mười hai tuổi. Bốn năm sau khi tôi được chỉ định, tôi lui về ở tại một làng trên bờ sông Cauvery để học tập và tham thiền quán tưởng trong ba năm. Sau đó, tôi mới bắt đầu ra làm việc công ích.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 780 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 2:56pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      - H́nh như Đại Đức ít khi lưu ngụ tại tổng hành dinh ở kumbakonam?

      - Lư do là vào năm 1918, tôi được Quốc Vương xứ Nepal mời tôi đến làm thượng khách của Ngài trong một thời gian. Tôi nhận lời và từ đó tôi vẫn đi từ từ lên miền Bắc để đến Nepal.

      Nhưng trong những năm đó, tôi không đi xa hơn vài trăm dặm đường, bởi v́ truyền thống của chức vụ tôi bắt buộc tôi phải lưu gót ở lại mỗi làng và mỗi thành phố mà tôi đi ngang qua trên lộ tŕnh của tôi, hoặc ở mỗi thị trấn nào mời tôi ghé qua, nếu không cách xa lắm. Tôi phải thuyết pháp ở tại ngôi đền chùa của mỗi địa phương, và phủ dụ dân chúng ở quanh vùng.

      Tôi mới nói qua vấn đề t́m Đạo và đức Tăng Thống hỏi tôi về những người đạo sĩ mà tôi đă gặp ở dọc đường. Tôi không giấu diếm ǵ cả:

      - Tôi muốn gặp một người đạo pháp khá cao để có thể cho tôi thấy một vài bằng chứng về đời sống tâm linh. Nhiều nhà tu sĩ ở đây, khi người ta yêu cầu họ chứng minh một cách cụ thể những điều họ nói, th́ họ không làm ǵ khác hơn là tuôn ra một tràng lư thuyết nghe như suối chảy! Hay là tôi đ̣i hỏi một điều quá đáng chăng?

      Đức Tăng Thống vuốt cḥm râu ngắn của Ngài và nói:

      - Nếu anh muốn nhập môn vào khoa Yoga thượng đẳng, anh không có đ̣i hỏi quá đáng. Tấm ḷng chân thành sẽ giúp đỡ anh, v́ tôi cảm thấy anh có một ư chí rất mạnh. Ánh sáng bắt đầu chớm nở nơi anh và sẽ d́u dắt anh đến ngay mục đích.

      - Tôi phải làm ǵ bây giờ?

      Đức Tăng Thống đáp:

      - Anh hăy tiếp tục công việc t́m kiếm của anh. Xong rồi, anh hăy tưởng đến những nhà đạo sĩ Yogi và những tu sĩ thánh đức mà anh đă gặp. Anh hăy chọn lựa người nào mà anh thấy thích hợp nhất, rồi người đó sẽ d́u dắt anh bước vào cửa đạo diệu huyền.

      - Nhưng thưa Đại Đức, nếu tôi không thấy thích hợp với một người nào, th́ chừng đó tôi phải làm sao?

      - Nếu như thế anh hăy tự tu tiến lấy một ḿnh cho đến khi Thượng Đế giúp nguồn cảm hứng cho anh. Anh hăy tập tham thiền đều đặn, quán tưởng những điều thanh cao và nuôi dưỡng t́nh bác ái trong ḷng, hăy luôn luôn nghĩ đến đời sống tâm linh và sự tiến hóa của linh hồn, cùng những phương tiện dẫn dắt cho con người được tiến hóa mau trên đường Đạo.

      Thời giờ tốt nhất cho sự tham thiền là buổi sớm mai và buổi chiều. Những giờ đó cảnh vật thiên nhiên đều đắm ch́m trong yên lặng, và giúp cho sự tham thiền được dễ dàng hơn.

      Lời nói thành thật và tốt bụng của Ngài làm cho tôi cảm động. Tôi đâm ra ao ước sự an tịnh hoàn toàn trên gương mặt Ngài. Không, quả tim này không bao giờ biết những sự thắc mắc băn khoăn nó dầy ṿ quả tim tôi. Tuân theo một sự thúc giục bên trong nó mạnh hơn ư chí của tôi, tôi hỏi Ngài:

- Nếu tôi không t́m được ai, tôi có thể xin Ngài giúp đỡ được chăng?

      Đức Shankara lắc đầu một cách nhẹ nhàng:

      - Tôi đứng đầu một cơ quan tinh thần, và thời giờ không phải là của tôi. Nó là của chung cho mọi người. Tôi chỉ ngủ có ba tiếng đồng hồ mỗi đêm từ nhiều năm nay. Làm sao thâu nhận đệ tử trong những điều kiện đó? Anh hăy t́m một vị đạo sư có thể dành nhiều th́ giờ cho anh.

      - Tôi nghe nói rằng những vị danh sư rất hiếm, và một người Âu ít có khi may mắn được gặp.

      - Thật vậy. Nhưng nếu người ta cố công t́m, ắt có ngày sẽ gặp.

      - Đại Đức có thể chỉ dùm cho tôi t́m được chăng?

      - Cũng được, nếu anh muốn. Tôi chỉ biết có hai vị danh sư có thể làm cho anh được như ư nguyện. Một vị hiện đang sống ẩn dật tại Bénarès, nhưng ít người có may mắn được ông ta tiếp kiến, đừng nói chi một người Âu lại càng khó hơn. Tôi có thể giới thiệu anh, nhưng tôi sợ ông ta từ chối.

      - C̣n vị thứ hai?

      - Người kia ở tận dưới miền Nam, đi sâu vào nội địa. Tôi chỉ gặp ông ta có một lần, nhưng tôi biết ngay đó là một bậc danh sư. Ông ta ở tại Arunachala, trên ngọn đồi thiêng, trong địa phận Arcot. Người ta thường gọi Ngài là đức Maharichi (tiếng Phạn, có nghĩa là bậc Đại Sư, hay Đại Hiền). Anh muốn biết thêm nữa không?

      Những lời nói đó như đem đến cho tôi một tia sáng. Tôi sực nhớ lại người khất sĩ mặc áo vàng đă khẩn khoản mời mọc tôi đến viếng thầy y. Tôi không nghe lầm; chính y cũng nói đến ngọn đồi thiêng.

      - Cám ơn Đại Đức! Tôi hiện có một người để dẫn đường đến nơi đạo viện của Ngài.

      - Như vậy anh sẽ đi chăng?




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 

<< Trước Trang of 58 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 1.9609 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO