Tác giả |
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 781 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 2:58pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ
Tôi c̣n do dự:
- Tôi đă sắp đặt tất cả mọi việc để đi miền Bắc.
- Nếu vậy, tôi có một lời yêu cầu anh. Anh hăy hứa với tôi là anh sẽ không rời khỏi Ấn Độ trước khi gặp đức Maharichi.
Cặp mắt Ngài biểu lộ sự thành thật rơ rệt, làm cho tôi hứa ngay không do dự. Một nụ cười đầy hảo ư hiện trên gương mặt Ngài.
- Như vậy anh đừng băn khoăn ǵ nữa. Điều mà anh đi t́m, anh đă gặp rồi đó.
Lúc ấy, tôi nghe phía ngoài có tiếng ồn ào của đám đông người đă chờ đợi từ lâu. Tôi bèn kiếu từ:
- Tôi e rằng đă quá lạm dụng thời giờ của Đại Đức. Xin kính chào Ngài.
Nhưng đức Tăng Thống rất vui vẻ. Ngài tiễn đưa tôi đến tận hành lang và quay lại nói nhỏ điều ǵ bên tai người bạn tôi. Tôi chợt nghe thoảng có tên tôi trong đó. Ra đến cửa tôi quay lại chào Ngài một lần cuối cùng. Đức Tăng Thống dặn với tôi một câu:
- Anh hăy nhớ đến tôi luôn luôn, và tôi cũng sẽ không quên anh.
Với những lời bí hiểm đó, tôi từ giă Ngài mà ḷng c̣n luyến tiếc một người đă hiến dâng trọn cuộc đời cho đấng thiêng liêng. Một người không màng đến danh vọng quyền thế ở đời này, và đă từ bỏ mọi sự ở trần gian để phụng sự nhân loại. Những ǵ người đời đem dâng cho Ngài, Ngài đều đem bố thí tất cả. Một người hiền giả như thế chắc không khi nào xóa mờ trong kí ức của tôi.
Tôi c̣n ngao du suốt ngày trong thành phố Chingleput, mà vẻ cổ kính làm cho tôi ưa thích, và c̣n chiêm ngưỡng đức Tăng Thống một lần cuối cùng trước khi về nhà. Tôi gặp Ngài trong ngôi đền lớn, lúc Ngài đang thuyết pháp trước một cử tọa đông đảo gồm cả nam phụ lăo ấu.
Giọng nói của Ngài vang rền giữa một sự im lặng hoàn toàn, mặc dầu tôi không hiểu nghĩa, tôi cũng thấy rằng tất cả mọi người đều chăm chú nghe với hết cả tâm hồn, từ nhà bác học Bà La Môn đến người nông phu thất học. Nhờ biết rơ về tâm tính của Ngài, tôi đoán rằng Ngài tŕnh bày những chân lư sâu xa bằng những lời nói rất giản dị, mặc dầu tôi kính phục cái tâm hồn cao quư của Ngài nhưng tôi lại đâm ra thèm muốn cái đức tin đơn giản của những người ngồi nghe Ngài thuyết pháp.
Họ không hề biết những nỗi dày ṿ thắc mắc của sự hoài nghi: Họ tin và chỉ có thế thôi. Họ không hề biết sự thất vọng năo nề cay đắng của một người nh́n thấy thế gian như một trường cạnh tranh xô xát phủ phàng, Thượng Đế chỉ là một điều không tưởng hư vô, và đời người chỉ là một tṛ ngẫu nhiên t́nh cờ thoáng qua trong một cái vũ trụ khô khan, không mục đích.
Chúng tôi từ giă Chingleput dưới một ṿm trời xanh biếc. Một cơn gió mát đưa những ngọn lá dừa dọc hai bên đường lộ, nghe xào xạc trên đỉnh đầu chúng tôi. Người bạn tôi phá cái im lặng đó trước nhất. Y có vẻ rất hài ḷng và nói:
- Anh có thể tự hào là tốt số! Đây là lần đầu tiên mà đức Tăng Thống tiếp kiến một văn sĩ người Âu.
- Thật vậy sao?
- Và từ nay ân huệ của Ngài sẽ theo anh măi măi.
Khi tôi về đến nhà, đă gần nửa đêm. Lúc ấy, sao mọc đầy trời, một cảnh tượng mà tôi chưa hề thấy ở góc trời Âu. Khi tôi vừa bước lên hàng ba trước cửa nhà, th́ một người từ trong bóng tối hiện ra. Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Subramanya, anh làm ǵ ở đây? Người khất sĩ áo vàng lại nhăn mặt cười một cái cười đặc biệt mà từ nay tôi đă quen mắt.
- Phải chăng tôi đă hứa sẽ gặp lại ông đêm nay?
Trong câu hỏi của y có đượm một vẻ trách móc. Nhưng tôi liền dịu giọng:
- Thầy của anh là đức Maharichi phải không?
- Sao ông biết, ai nói với ông như vậy?
- Điều đó anh không cần biết. Nhưng tôi đă đổi ư kiến. Chúng ta lên đường sáng ngày mai.
- À! Đó là một tin rất vui cho tôi.
- Được! Nhưng tôi chỉ có thể đến viếng thăm đạo viện trong vài ngày thôi, chớ không thể ở lâu ...
Đêm đó người khất sĩ nghỉ tại nhà tôi để chờ ngày mai cùng lên đường. Cũng trong đêm ấy có xảy ra một chuyện lạ. Tôi đă ngủ mê được một lúc, th́nh ĺnh tôi tỉnh giấc; đồng hồ dạ quang chỉ đúng ba giờ mười lăm phút. Chung quanh trời tối đen như mực. Tôi cảm thấy thần kinh bị căng thẳng đến tột độ, dường như có một luồng điện chạy trong bầu không khí chung quanh.
Chính trong lúc đó, cặp mắt hé mở, tôi nh́n thấy có một vệt sáng ở dưới chân giường. Tôi giật ḿnh ngồi chồm dậy để xem cho rơ. Trước hết tôi nh́n thấy cặp mắt của đức Tăng Thống Shri Shankara, gương mặt và toàn thân của Ngài hiện ra, đó không phải là một ảo ảnh, v́ tôi đă hoàn toàn thức giấc.
Tôi nh́n thấy Ngài, không phải như một cái bóng ẩn hiện chập chờn, nhưng là một người thật, bằng xương bằng thịt. Gương mặt Ngài hiện ra trong một ṿng hào quang huyền bí như mờ như tỏ, chính cái hào quang đó nó cho tôi cái cảm giác một vật sáng sáng ở dưới chân giường lúc năy.
Thật là kỳ lạ! Không thể có như vậy được! V́ tôi vừa từ giă đức Tăng Thống ở tỉnh Chingleput hồi sớm mai này! Tôi thử nhắm mắt lại. H́nh ảnh đức Shri Shankara vẫn c̣n đó, rơ ràng như khi năy!
Ngài hiện h́nh ra với sự hiện diện của một người bạn lành và che chở. Tôi lại mở mắt ra: Th́ thấy gương mặt của Ngài h́nh như cử động, đôi môi mỉm cười và mấp máy h́nh như nói với tôi rằng: "Người hăy khiêm tốn, rồi người sẽ gặp!" Những lời này tôi chỉ nghe tự trong tâm giới vọng ra nhưng tôi chắc chắn rằng đó không phải là một ảo ảnh, mà có một người đứng ở trước mặt và nói chuyện với tôi.
Kế đó, cái h́nh ảnh biến đi một cách bí mật cũng như nó đă hiện ra. Nó để lại cho tôi một niềm an vui hạnh phúc mà không có ǵ có thể làm mất đi được. Cái h́nh ảnh đó hiện ra, có ư nghĩa ǵ? Tôi tự hỏi như thế nhưng không t́m thấy sự giải đáp.
C̣n cố nằm ngủ lại đêm ấy, th́ nó không thành vấn đề. Tôi thức luôn tới sáng, và hồi tưởng lại cuộc gặp gỡ với đức Tăng Thống Shri Shankara ở tỉnh Kumbokanam, vị đại diện cho đấng Chí Tôn đối với những dân tộc miền Nam Ấn Độ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 782 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 3:01pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ
Ngọn Đồi Thiêng
Chương Bảy
Madras của Sở Nam Ấn Hỏa Xa, Subramanya và tôi đổi qua chuyến xe lửa khác trên đường thiết lộ đi Tích Lan. Xe chạy trong nhiều giờ qua những vùng đồi núi và đồng ruộng, phong cảnh thay đổi liền liền. Những ruộng lúa màu xanh lá mạ tiếp theo những ngọn đồi đất đỏ ở chân trời, những vườn dừa cao vút và che bóng mát rượi lại nối theo sau những cánh đồng xanh tươi với những người nông phu đang cấy lúa gieo mạ.
Ngồi trên toa xe nh́n ra cửa sổ, bóng hoàng hôn qua mau phút chốc đă làm cho cảnh vật mờ dần và đắm ch́m trong bóng tối. Tôi ngẫm nghĩ về những sự việc lạ lùng đă xảy ra từ khi tôi đeo chiếc nhẫn vàng mà Brama đă tặng cho tôi. Tất cả những chương tŕnh của tôi đều bị đảo lộn. Sự phối hợp ngẫu nhiên của những hoàn cảnh bất ngờ đă thúc đẩy tôi đi xuống miền Nam.
Thay v́ đi lên miền Đông Bắc như tôi đă dự định. Tôi tự hỏi rằng phải chăng viên ngọc thạch trên chiếc nhẫn có cái quyền năng kỳ bí mà người đạo sĩ đă tin là có thật? Mặc dù tôi cố gắng giữ một thái độ cởi mở, nhưng đối với một người Âu có tinh thần khoa học th́ thật khó mà chấp nhận điều đó.
Tôi bèn gạt bỏ cái giả thuyết ấy, nhưng tôi vẫn không thể nào dẹp tan sự lưỡng lự phân vân nó lởn vởn trong đầu óc của tôi. Có một cái ǵ lạnh lùng bí ẩn nó d́u dắt những bước chân của tôi đi đến thâm sơn cùng cốc này. Hai người tu sĩ áo vàng kia phải chăng là những khí cụ của định mệnh để hướng dẫn tôi đến nơi đạo viện của đức Maharichi?
Tôi dùng chữ định mệnh không phải theo cái ư nghĩa thông thường, nhưng tôi không t́m thấy được chữ nào khác. Có ai ngờ rằng đôi khi những sự việc nhỏnhặt h́nh như vô nghĩa lại có thể đóng một vai tṛ quan trọng trong đời của một người?
Khi đoàn xe lửa đến một nhà ga cách thành phố Pondichéry độ bốn mươi dặm, tôi và người khất sĩ cùng xuống và đón chuyến xe lửa khác để đi sâu vào nội địa. Đến một nhà ga nhỏ ở đồng quê, th́ trời vừa hừng sáng. Cách đó vài dặm, một ngọn núi nhô lên ở tận chân trời, chân núi rất hùng vĩ, ngọn núi hăy c̣n khuất dạng trong sương mù ban mai.
Lần theo những tiếng ngáy rất lớn phát ra từ một góc bên cạnh nhà ga, người khất sĩ đưa đường t́m ra được một người đánh xe c̣n ngủ mê trên một cỗ xe ḅ nhỏ. Người khất sĩ bèn đánh thức y dậy và cho y biết rằng chúng tôi muốn đi đến đạo viện của đức Maharichi. Điều này dường như kích thích sự sốt sắng của người phu xe, nhưng tôi nh́n một cách ngần ngại cỗ xe nhỏ hẹp và mảnh khảnh làm bằng tre đặt trên hai bánh.
Tuy nhiên chúng tôi cũng lên xe ngồi trong khi người phu xe chất hành lư ở phía sau. Người khất sĩ cố thu h́nh vào một gốc để choán thật ít chỗ và nhường chỗ rộng hơn cho tôi, c̣n người phu xe ngồi phía đằng trước, ở giữa hai con ḅ, cằm y tựa trên hai đầu gối. Khi mọi người đă ngồi xong một cách tạm yên như thế, th́ chiếc xe bắt đầu lăn bánh.
Cỗ xe không đi mau được bao nhiêu mặc dầu những cố gắng của hai con ḅ trắng mập mạp to lớn. Ơ xứ này, loài ḅ lại hữu ích hơn ngựa ít nhất là để kéo xe, v́ chúng chịu đựng dẻo dai hơn và nuôi ít tốn kém hơn. Đời sống ở tỉnh nhỏ và ở thôn quê trong vùng nội địa vẫn trầm trệ, không có tiến bộ nào từ nhiều thế kỷ.
Cỗ xe ḅ này vẫn là loại xe đă từng chở hành khách ở Ấn Độ cách đây trên hai ngàn năm. Người đánh xe với gương mặt rám nắng rất hănh diện với cặp ḅ của y. Những cặp sừng dài của chúng đều có nạm đồ trang sức bằng vàng, những chuông lục lạc bằng đồng cột vào bốn chân của chúng phát ra một tiếng reo nghe rất vui tai.
Phong cảnh chung quanh rất ngoạn mục, với những đồi núi nối tiếp nhau ở tận chân trời. Đất màu đỏ, rải rác đó đây những bụi cây rậm rạp và ở hai bên đường là ruộng lúa xanh tươi một màu lá mạ. Một người nông phu với vẻ mặt gân guốc, đen xạm, bước chân ra đồng làm việc.
Một cô thôn nữ Ấn, một tay vịn một b́nh nước bằng đồng mà cô đội trên đầu, đi qua một cách dịu dàng, lả lướt. Cô ấy mặc một chiếc Sari bằng vải màu đỏ sậm, quấn chung quanh ḿnh vai để trần, lỗ mũi có gắn một viên ngọc đỏ, cổ tay đeo một cặp neo vàng chiếu lóng lánh dưới ánh nắng mặt trời.
Các cô gái Ấn miền Nam nước da sậm, vui vẻ hồn nhiên hơn và thích nói chuyện hơn các thiếu nữ miền Bắc, và giọng nói các cô nghe êm tai hơn. Các nh́n ngạc nhiên của cô thôn nữ làm cho tôi nghĩ rằng sự hiện diện của một người Âu chắc không phải là một việc thông thường ở chốn đồng quê hẻo lánh này.
Cỗ xe chở chúng tôi đă vào thành phố. Thành phố này có vẻ thịnh vượng, với một ngôi đền cổ rất lớn mà những mặt tiền chạy dọc theo nhiều đường lộ. Chúng tôi đi qua một cổng lớn trước đền. Tôi bảo ngừng xe một lúc và bước xuống để xem phía trong đền. Ngôi đền này có một kiểu kiến trúc vừa vĩ đại vừa uy nghiêm.
Phía trong đền làm thành một h́nh bốn góc tầm nhỡn quang của du khách có cái cảm giác như lạc bước vào một nơi bát trận đồ không có ngơ ra. Bốn vách tường rào bên ngoài đă từng chịu đựng sự dăi dầu của thời gian, nung nấu dưới ánh nắng như thêu đốt của mặt trời vùng nhiệt đới.
Đền có bốn cổng lớn, phía trên mỗi cổng đền đều có một ngọn tháp nhô lên với thiên h́nh vạn trạng những h́nh tượng điêu khắc tiêu biểu những vị Thần. Phía trong đền có những nơi Tịnh Xá, những dăy hành lang với rất nhiều cột bằng đá chạm trỗ tinh vi, và chung quanh là những chỗ điện thờ tối tăm, thờ rất nhiều h́nh tượng các vị Thần của Bà La Môn Giáo.
Hai con ḅ lại tiếp tục kéo cỗ xe một cách nhẫn nại, vô tư và một lần nữa lại chở chúng tôi ra vùng đồng quê. Sau khi đă vượt qua sáu dặm đường, cỗ xe đến gần ngọn núi mà tôi đă nh́n thấy từ nhà ga. Sương mù đă tan dần, ngọn núi gồm đất đỏ và đá mầu nâu đứng cô lập một ḿnh giữa ánh sáng trong vắt của buổi sớm mai.
Người khất sĩ kêu to, với một giọng đầy hứng khởi và tôn sùng không thể tả: "Arunachala! Ngọn Đồi thiêng!"
Tôi hỏi:
- Tại sao lại gọi là ngọn đồi thiêng?
Người khất sĩ cho biết:
- Mỗi năm một lần, vào ngày lễ lớn được cử hành trong đền, người ta đốt một ngọn lửa trại rất lớn trên đỉnh núi. Ngọn lửa trại này được đốt lên với rất nhiều bơ và long năo và cháy suốt nhiều ngày, có thể thấy rơ từ những vùng chung quanh ở cách xa đền mấy dặm. Khi ngọn lửa bốc cháy lên, th́ mọi người ở vùng lân cận đều cúi lạy. Ngọn lửa đó chỉ rằng ngọn núi này là một vùng rất linh thiêng và được sự che chở của một vị Thiên Thần rất lớn.
Chúng tôi đă gần đến nơi. Chiếc xe ḅ đă rời khỏi đường cái và đi theo một con đường dốc đưa đến một vườn dừa và xoài rất rậm rạp. Qua khỏi vườn cây này là chỗ cùng đường, chiếc xe ngừng trước cửa đạo viện. Người phu xe bước xuống đẩy cánh cửa cổng và đưa chúng tôi vào sân. Đạo viện của đức Maharichi ở dưới chân núi, phía trước có trồng cây và một khoảnh vườn, chung quanh toàn là những hàng rào bằng cây xương rồng.
Bên ngoài hàng rào là những rừng, bụi rậm rạp phủ chung quanh đến tận chân trời. Chung quanh không có nhà cửa, xóm làng chi cả. Thật không có chỗ nào hoang liêu, cô tịch hơn nữa, và là một nơi lư tưởng cho việc thiền định suy tư.
Đạo viện gồm có một dăy nhà dài bằng gạch, lợp ngói, cất theo kiểu tân thời, và hai túp nhà tranh ở phía bên trái. Trước dăy nhà dài có một hàng ba, và giữa sân có một cái giếng nước. Một đứa trẻ nhỏ ở trần, nước da đen sậm đang kéo một thùng nước từ dưới giếng bằng một cái tay quay.
Khi chúng tôi vừa đến, th́ trong nhà có vài người bước ra sân và trố mắt nh́n một cách ngạc nhiên. Người khất sĩ vừa cười vừa tiến lên và giới thiệu vài câu bằng tiếng Tamoul. Tức thời mọi người đều đổi sắc mặt và nh́n tôi mỉm cười vui vẻ. Tôi cảm thấy tôi đă yêu mến những người dân lành chất phác và hồn nhiên đó.
Người khất sĩ mời "Chúng ta hăy vào trong." rồi ra dấu cho tôi đi theo y. Tôi mới ngừng lại ngoài hàng ba để cởi giày và sắp sửa lại rổ trái cây mà tôi mang theo để làm lễ vật ra mắt vị tôn sư.
Hai mươi cặp mắt đổ dồn vào chúng tôi khi chúng tôi bước vào nhà Tịnh Xá. Họ ngồi xếp bằng theo ṿng bán nguyệt trên nền gạch màu đỏ. Cách đó một khoảng, trong góc pḥng có một người ngồi trên một chiếc giường gỗ dài lót nệm trắng, đó là đức Maharichi.
Người khất sĩ đưa đường cho tôi tiến đến gần giường và cúi xuống lạy, gương mặt úp vào trong hai bàn tay. Gần đó có một cửa sổ lớn chiếu vào vị Tôn sư và tôi thấy rơ Ngài từng chi tiết.
Thừa dịp thuận tiện tôi mới đến gần cửa sổ, đặt mâm trái cây ở dưới chân Ngài và lùi lại một bước.
Đức Maharichi lúc đó vào khoảng năm mươi tuổi, tác người cao lớn, nước da ngâm ngâm như đồng bạch, nét mặt đều đặn, tóc hoa râm và cắt ngắn, trán cao và rộng, dấu hiệu của một bộ óc thông minh khác thường. Chiếc giường của Ngài ngồi lót nệm trắng, chân Ngài đặt trên một tấm da cọp rất đẹp.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 783 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 3:03pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ
Một sự im lặng hoàn toàn ngự trong căn pḥng. Đại đức ngồi tĩnh tọa, tuyệt nhiên không cử động. Tôi tự hỏi không biết Ngài có biết chúng tôi đến chăng? Một vị đệ tử nước da sậm, tay nắm một sợi dây kéo cái quạt bằng tre treo trên trần nhà ngay trên đầu đức Tôn sư, để quạt cho Ngài. Tôi bèn nh́n thẳng vào mắt Tôn Sư, hy vọng làm cho Ngài chú ư đến tôi. Cặp mắt Ngài màu nâu sậm, và mở lớn.
Không có dấu hiệu ǵ chỉ rằng Ngài biết có tôi ở đó. Toàn thân Ngài yên lặng như một pho tượng. Sự yên lặng đó hẳn là một điều phi thường. Không, Ngài không nh́n thấy tôi v́ cặp mắt Ngài bận nh́n vào chỗ hư không, huyền bí. Hồi c̣n ở Âu Châu tôi thường hay đặt cái nguyên tắc là hăy nh́n trong cặp mắt để biết rơ tâm tính của một người. Nhưng trước cặp mắt của đức Maharichi, tôi đă đi lạc hướng và tôi không đọc được ǵ cả.
Giờ phút trôi qua một cách chậm chạp. Kim đồng hồ treo trên tường đă chỉ qua nửa giờ rồi một giờ, nhưng không ai nhúc nhích cử động, cũng không ai nói năng ǵ cả. Tôi tập trung hết nhăn lực vào vị Tôn Sư đang ngồi tĩnh tọa trên divan. Mâm lễ vật của tôi vẫn c̣n y nguyên trên chiếc bàn nhỏ, không có ai để ư đến.
Người đưa đường cho tôi không có dặn cho tôi biết trước rằng tôi sẽ được đón tiếp một cách khác thường như thế, nghĩa là không được Ngài chú ư đến ḿnh. Nhưng dầu cho Ngài không nói, tôi cũng hiểu rằng Ngài đang nhập định. Tôi bỗng có một ư tưởng thoáng qua: Cơn nhập định đó phải chăng là làm cho tâm trí vắng lặng trống không? Nhưng rốt cuộc tôi cũng gạt bỏ ư định đó, v́ tôi không thể trả lời được.
Dầu sao có một cái ǵ ở trong người của đức Tôn Sư, nó hấp dẫn tôi như đá nam châm hút sắt. Tôi hoàn toàn bị thu hút và không thể nào day mặt để nh́n ra chỗ khác. Sự ngạc nhiên của tôi lúc ban đầu cùng sự băn khoăn của tôi đă tiêu tan và lần lần nhường chỗ cho một sự hấp dẫn say mê lạ lùng và mănh liệt. Hai tiếng đồng hồ đă trôi qua kể từ khi tôi mới bước vào. Tôi bắt đầu nhận thấy có một sự thay đổi huyền diệu, nó đang diễn ra trong người của tôi mà tôi không thể nào cưỡng lại được.
Những câu hỏi mà tôi sắp đặt một cách công phu, tỉ mỉ trên xe lửa để chất vấn Ngài giờ đây biến đi đâu mất. Tôi không màng đưa ra những câu hỏi đó nữa, cũng không màng t́m sự giải đáp cho những nỗi khó khăn thắc mắc nó vẫn dày ṿ tôi từ bao lâu nay.
Tôi chỉ biết là một niềm an tịnh vô biên đang xâm chiếm lấy tôi, cũng như nó đang tràn ngập bầu không khí trong gian pḥng này. Tâm hồn tôi, trí năo tôi, từ lâu nay bị dày ṿ, căng thẳng bởi sự độc đoán của tư tưởng, biện luận, suy tư, có lẽ đến nay mới được nghỉ ngơi đôi chút.
Và những câu hỏi mà tôi đă chuẩn bị một cách rất công phu để hỏi Ngài, nay tôi nhận thấy nó tầm thường, vô vị làm sao. Tôi nhận thấy rằng trí năo chúng ta tự tạo ra những sự thắc mắc, khó khăn, để rồi sau đó tự dày ṿ một cách vô ích để t́m ra sự giải đáp. Nay tôi tự thả trôi theo sự nghỉ ngơi và an tịnh một cách tuyệt diệu đến nỗi hai giờ đồng hồ trôi qua mà tôi không cảm thấy chút nào bực dọc hay khó chịu.
Tuy nhiên lần lần, một câu hỏi mới được nêu ra: Sự an lạc tuyệt vời nó vừa tràn ngập cơi ḷng tôi đó, là từ đâu đến? Hay là nó toát ra từ người của đức Tôn Sư, cũng như hương thơm tỏa ra từ cái hoa?
Tôi không thể trả lời câu hỏi này, nhưng tôi biết rơ những phản ứng của tôi, tôi biết rằng cái niềm an tịnh thiêng liêng nó xâm chiếm tâm hồn tôi lúc đó là do đức Maharichi tạo nên. Ngài tạo ra nó bằng cách nào? Bởi tánh chất phóng quang của linh hồn (Ratio activité de lâme) hay bởi một phương pháp thần giao cách cảm nào đó chăng? Tuy nhiên, Ngài vẫn ngồi đó, hoàn toàn bất động, h́nh như không hay biết chi cả về sự có mặt của tôi. Chung quanh bầu không khí vẫn hoàn toàn im lặng như tờ.
Trên mặt hồ phẳng lặng đó, một gợn sóng nhỏ. Có một người bước lại gần và nói nhỏ vào tai tôi:
- Ông muốn hỏi đức Tôn Sư điều chi chăng?
Người bạn đồng cảnh của tôi đă mất sự kiên nhẫn của y chăng? Hay là y tưởng rằng tôi đă kiên nhẫn quá mức, v́ chờ đợi đă quá lâu? Nhưng này bạn ơi, quả thật tôi định đến đây để chất vất Tôn Sư của bạn, nhưng vào giờ này tôi đă có được sự an thuận với thế gian và an thuận với chính ḿnh tôi nữa, th́ tại sao tôi lại c̣n bận rộn dày ṿ trí óc của tôi với những câu hỏi của tôi để làm ǵ?
Thuyền tôi đă xuôi ḍng đi trên mặt biển yên lặng thần tiên của chốn non Bồng nước Nhược, mà bạn c̣n muốn giữ nó lại ở chỗ phong ba băo táp của bến trần ai tục lụy mà tôi vừa thoát khỏi hay sao?
Tuy nhiên, cái gợn sóng nhỏ mà người bạn tôi đă gieo trên mặt hồ phẳng lặng đó, cũng đủ làm gián đoạn cái giờ phút thiêng liêng ấy. Dường như đó là một ám hiệu đă trông đợi từ lâu, chung quanh tôi, mọi người đă đứng dậy, những tiếng nói đă vọng vào tai tôi, và kia, hai mí mắt của đức Maharichi đă chớp vài lần. Ngài day mặt về phía góc pḥng và trong giây phút tôi đă lọt vào tầm nhăn quang của Ngài.
Ngài vừa thức tỉnh sau một cơn đại định rất dài. Có lẽ người bạn đồng hành của tôi tưởng rằng sở dĩ tôi không trả lời v́ tôi không nghe bèn lập lại câu hỏi của y lớn giọng hơn trước. Nhưng trong cặp mắt sáng dịu hiền của Tôn Sư nh́n vào tôi, tôi đọc được một câu hỏi khác: "Anh c̣n nghi ngờ ǵ nữa chăng, trong khi anh vừa cảm giác được cái yên tịnh thâm trầm của tâm hồn, mà tôi vừa ban cho anh cũng như cho tất cả những người kia?"
Quả thật, một niềm an tịnh vô biên dâng tràn ngập cơi ḷng tôi. Tôi bèn day lại người khất sĩ và đáp:
- Không, tôi không muốn hỏi ǵ ngay bây giờ. Thôi, hăy để khi khác ...
Tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng sự có mặt của tôi trong pḥng làm cho nhiều người ngạc nhiên, không phải đức Maharichi, mà là những người đang nói chuyện huyên thuyên ở chung quanh tôi. Người bạn đồng hành của tôi cho biết một vài người trong số đó là những đệ tử, những người khác là những du khách viếng thăm đạo viện.
Subramanya bèn giới thiệu tôi với mọi người. Y nói bằng tiếng Tamoul với một giọng sôi nổi hào hứng và rất nhiều bộ tịch. Chắc y đă dậm thêm ít nhiều, v́ những lời của y được tiếp đón bằng những tiếng kêu ngạc nhiên của những người trong bọn.
Buổi cơm trưa vừa xong. Mặt trời vùng nhiệt đới làm cho mực thủy ngân trong hàn thử biểu vọt lên cao. Tuy thế tôi thấy đời sống ở đây có vẻ hồn nhiên, v́ tôi có thể tiếp xúc với đức Maharichi bằng cách mà tôi ưa thích, nghĩa là bằng cách tham dự sinh hoạt hàng ngày của Ngài một cách tự nhiên và không kiểu cách.
Chiều hôm ấy, tôi trở lại Tịnh Xá của đức Tôn Sư và ngồi cạnh dưới chân Ngài. Ngài ngồi dựa bên một chiếc gối lớn, một đứa tiểu đồng cầm sợi dây kéo cái quạt treo trên trần nhà để quạt cho Ngài như thường lệ.
Đức Maharichi cầm trong tay một quyển vở, và viết một cách rất chăm chú. Một lúc sau, Ngài bỏ quyển vở qua một bên và gọi một vị đệ tử đến gần, rồi nói với y vài câu bằng tiếng Tamoul. Người đệ tử đến gần tôi và nói Tôn Sư rất tiếc rằng tôi không thể dùng bữa chung với những người trong Đạo viện, v́ họ chưa từng tiếp khách người Âu nên họ không biết rơ cách ăn uống của tôi ra sao.
Tôi bèn cám ơn Tôn Sư và nói rằng tôi sẵn ḷng dùng cơm với họ và nếu có thiếu món chi tôi sẽ có thể mua ở ngoài chợ gần bên. Tôi nói thêm rằng đó chỉ là một vấn đề phụ thuộc, và tôi đến đây với một mục đích quan trọng hơn. Tôn Sư chăm chú nghe tôi và với một vẻ mặt thản nhiên, Ngài nói:
- Cái mục đích đó rất đáng khen.
Câu hỏi của Ngài làm cho tôi hứng chí nói tiếp theo.
- Bạch Tôn Sư, tôi đă từng tham khảo triết học và khoa học Âu Tây, tôi đă từng chen vai thích cánh với người đời, tham dự những công việc của thế gian, hưởng những thú vui trần tục, và đă từng để cho những tham vọng của người đời lôi cuốn. Nhưng những điều đó không làm cho tôi quên lăng mục đích tu hành. Tôi đă học hỏi với những bậc Hiền Triết Tây phương, bây giờ, tôi phải nh́n về phương Đông để t́m về ánh sáng.
Đức Maharichi hơi gật đầu, như muốn nói rằng: "Tôi hiểu." Tôi nói tiếp:
- Tôi đă nghe nhiều lư thuyết, đọc nhiều sách vở nhưng không có ǵ làm cho tôi được thỏa măn. Chỉ có kinh nghiệm bản thân mới có thể làm cho tôi có đức tin. Xin lỗi Ngài, tôi xin thú thật là tôi không có điều mà người ta gọi là tinh thần tôn giáo. Ngoài sự sống của thể xác hữu h́nh c̣n có ǵ nữa chăng? Nếu có, làm sao tôi có thể biết được?
Ba hay bốn người đệ tử chung quanh nghe nói, đều trố mắt im lặng v́ ngạc nhiên. Tôi tự nghĩ không biết tôi đă vi phạm một quy luật nào trong Đạo Viện hay đă xúc phạm đến Tôn Sư v́ sự nói thẳng của tôi chăng?
Không sao, sự cay đắng của nhiều năm mỏi ḷng chờ đợi và thất vọng đă làm cho tôi phải thốt ra bằng lời, không c̣n tự chủ được nữa. Nếu đức Maharichi là người mà tôi tin tưởng, th́ Ngài sẽ vượt lên trên những điều thường t́nh đó, và Ngài sẽ hiểu.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 784 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 3:06pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ
Trong khi chờ đợi, Ngài không trả lời, và dường như theo đuổi ḍng tư tưởng của Ngài. Nay v́ tôi đă nói ngon trớn, tôi không dễ ǵ ngừng lại nửa chừng, và nói tiếp luôn:
- Các nhà bác học Âu Tây cũng phải thú nhận rằng họ không biết ǵ cả về những vấn đề siêu h́nh. Tôi nghe rằng ở các xứ phương Đông, có những người có thể trả lời về những điều mà khoa học Âu Tây phải chịu bất lực không giải thích nổi. Có phải đúng vậy không? Tôn Sư có thể giúp tôi t́m thấy ánh sáng chăng? Hay đây cũng chỉ là một ảo mộng?
Tôi đă đi ngay vào đề và chỉ c̣n đợi câu trả lời. Đức Tôn Sư vẫn tiếp tục nh́n tôi. Tôi tự hỏi: "Hay là Ngài đang suy nghĩ về các câu hỏi của tôi chăng?" Mười phút trôi qua, đôi môi của Ngài mới bắt đầu cử động, Ngài nói với một giọng rất dịu dàng:
- Anh vừa nói: "Tôi muốn biết." Vậy cái tôi đó là cái ǵ?
Lần này Ngài nói thẳng với tôi bằng tiếng Anh và không cần thông ngôn. Tôi lấy làm bối rối v́ không hiểu Ngài muốn nói ǵ. Tôi nói bằng một giọng yếu ớt:
- Xin lỗi Ngài tôi không hiểu.
- Câu hỏi của tôi không rơ ràng sao? Anh hăy suy nghĩ đi.
Tôi suy nghĩ rồi lấy tay chỉ vào tôi và tự xưng danh.
- Anh có thật biết y là ai chăng?
Tôi cười và đáp:
- Suốt cả đời tôi.
- Cái mà anh nói đó, chỉ là cái thể xác của anh, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tôi lặp lại câu hỏi: "Anh là ai?"
Làm sao trả lời được một câu hỏi lạ kỳ như vậy? Đức Maharichi nói thêm:
- Anh hăy cố làm sao biết được cái Tôi đó, anh sẽ biết được Chân Lư.
Tâm trí tôi đă đi lạc hướng, và tôi không dấu diếm được sự ngạc nhiên. Có lẽ Tôn Sư đă cạn vốn Anh Ngữ của Ngài, v́ Ngài day lại người thông ngôn và nói ít lời. Người này dịch lại như sau:
- Anh chỉ cần làm một việc: Hăy nh́n vào nội tâm. Nếu anh làm được như vậy, anh sẽ t́m thấy sự giải đáp cho mọi vấn đề.
- Nhưng tôi phải làm sao để nh́n vào nội tâm?
- Anh hăy suy gẫm về cái chân tướng hay chân ngă của anh bằng sự tham thiền quán tưởng liên tục không gián đoạn. Đó là con đường đi đến ánh sáng.
- Tôi đă suy gẫm về những điều đó mà không thấy tiến bộ chút nào.
- Sao anh biết được? Sự tiến bộ trên địa hạt tâm linh không phải dễ ǵ nhận biết được như trên địa hạt vật chất.
- Trong sự thiền định, quán xét nội tâm, cần phải có Thầy hay không?
- Thầy chỉ giúp phương tiện, d́u dắt mà thôi. C̣n thiền định phải là một vấn đề kinh nghiệm về bản thân.
- Nếu có Thầy d́u dắt, phải mất bao lâu mới t́m thấy ánh sáng?
- Điều đó tùy nơi tŕnh độ riêng của mỗi người. Thuốc súng bắt lửa ngay tức khắc, c̣n than củi phải cháy lâu hơn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 785 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 3:09pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ
Tôi có cảm giác rằng Tôn Sư h́nh như không thích bàn về vấn đề t́m thấy hoặc những phương pháp nọ kia. Tôi hỏi qua chuyện khác:
- Thế giới đang trải qua những cơn khủng hoảng trầm trọng. Xin Tôn Sư dạy cho biết tương lai của nhân loại sẽ ra sao?
- Anh đừng lo ǵ về tương lai. Anh đă biết cái hiện tại hay chưa? Hăy lo cái hiện tại đi đă, rồi cái tương lai sẽ tự nó quyết định.
Đây cũng lại là một câu khó hiểu nữa. Nhưng lần này tôi không chịu bỏ qua một cách dễ dàng, v́ tôi tự nghĩ rằng tôi sống ở cơi thế gian mà những sự đau khổ đè nặng lên vai của người đời, nhiều hơn là ở nơi một Đạo viện êm đềm ẩn trong rừng thẳm. Tôi nói:
- Xin Tôn Sư nói cho biết trong tương lai gần đây thế giới sẽ bước vào một thời kỳ ḥa b́nh hay là sẽ rơi vào một t́nh trạng hỗn loạn?
Đức Maharichi có vẻ không bằng ḷng:
- Có một đấng Tạo Hóa quản trị cơi thế gian, đó là việc riêng của Ngài. Đấng Sáng Tạo ra thế giới càn khôn biết rơ hơn chúng ta về những bổn phận mà Ngài phải làm. Gánh nặng cả thế gian là trách nhiệm của Ngài, không phải của anh.
- Tuy nhiên, nếu người ta để ư quan sát, người ta không thấy có vùng nào trên thế giới là thật sự được hưởng ân huệ tốt lành của đấng Hóa Công.
Tôi không tiến thêm được bao nhiêu, nhưng dầu sao tôi cũng được một câu trả lời:
- Con người như thế nào, th́ thế gian như thế ấy. Người đi t́m Chân Lư không cần biết đến những vấn đề đó và phí công vô ích với những chuyện bên ngoài. Anh hăy t́m Chân Lư ở tự nơi anh, rồi anh sẽ thấy Chân Lư ẩn tàng ở cơi thế gian chung quanh ḿnh.
Gian pḥng lại im lặng. Người tiểu đồng tiến đến b́nh lư hương và đốt thêm một cây nhang. Đức Maharichi, sau khi nh́n một làn khói xanh bay lên nghi ngút, bèn cầm lại quyển vở của Ngài và chăm chú viết, làm cho tôi hiểu rằng Ngài tiếp chuyện tôi như thế là đủ.
Sự thản nhiên đó làm cho tôi có cảm giác như bị một gáo nước lạnh. Tôi c̣n ngồi đó thêm một khắc đồng hồ, nhưng tôi thấy rơ là đức Tôn Sư không muốn nói chuyện nữa, làm sao bây giờ, nếu không đứng dậy và chắp tay kiếu từ.
Tối hôm ấy, khi chúng tôi bước vào Tịnh Xá và ngồi xuống sàn gạch, th́ h́nh như cái yên lặng của cảnh vật thiên nhiên cũng đă xâm chiếm cả Đạo viện và thấm nhuần cả bầu không khí chung quanh. Số người nhóm họp mỗi buổi chiều ngồi ṿng quanh theo h́nh bán nguyệt như thường lệ, nhưng không ai thốt ra một lời nào, và tất cả đều giữ im lặng.
Đức Maharichi vẫn ngồi trên giường, hai chân xếp bằng, hai bàn tay để trên hai đầu gối. Gương mặt Ngài nghiêm chỉnh nhưng vẫn không kém nét giản dị và khiêm tốn, cặp mắt đứng tṛng của Ngài chỉ nh́n về một điểm duy nhất, ở phía tướng bên kia. Cái nh́n không chớp mắt đó đối với tôi là một sự bí hiểm, nó trụ vào một vật ở ngoại cảnh, hay là Ngài đă đắm ch́m trong cảnh hư không, trừu tượng và không thấy ǵ đang diễn ra ở chung quanh?
Luồng khói hương trầm bay lên và tỏa ra mùi thơm khắp pḥng. Tôi thử nh́n ngay vào cặp mắt trống trơn của Ngài, nhưng trong vài phút sau, cặp mắt tôi đă nhắm lại. Tôi đắm ch́m trong một cơn mơ màng, như tỉnh như mơ, giữa cái êm như ru của bầu không khí huyền diệu ở chung quanh. Trong giây lát, tâm hồn tôi trở nên trống rỗng, và đến lượt tôi bước vào cái thế giới huyền ảo của cảnh mộng ...
Tôi sống trở lại như một đứa bé năm tuổi. Tôi trèo lên một trong những con đường ṃn dốc đứng, nó chạy quanh co theo ngọn núi đá đỏ ngoại đạo viện, tay tôi nắm lấy bàn tay đức Maharichi, nhưng tác Ngài cao lớn hơn tôi bội phần. So với tác bé nhỏ của tôi, th́ Ngài coi như một người khổng lồ. Chúng tôi cùng đi ra khỏi đạo viện, mặc dầu trời tối Ngài dắt tôi đi một cách vững vàng.
Trăng sao dần dần ló dạng và chiếu xuống một thứ ánh sáng lu mờ. Tôi nhận thấy rằng đức Maharichi dắt tôi tránh những lỗ hang, hầm hố và những tảng đá lớn nhô lên ở phía trên đầu, dường như sẵn sàng đè bẹp chúng tôi. Ngọn núi cao, đường dốc đứng, che khuất trong hang núi, hoặc trong bụi rậm, là những động đá của các nhà tu sĩ, rải rác dọc theo con đường ṃn chúng tôi đi.
Những tu sĩ này bước ra chào khi chúng tôi đi ngang qua động đá của họ, và mặc dầu họ ẩn hiện như những bóng ma dưới ánh trăng mờ, tôi cũng nhận ra nhiều hạng đạo sĩ Yogi. Chúng tôi vẫn tiến bước không ngừng cho tới khi lên tới đỉnh núi. Tại đây, chúng tôi dừng bước và ḷng tôi chờ đợi một sự ǵ quan trọng sắp tới.
Đức Maharichi nh́n tôi, và tôi ngước mặt lên nh́n Ngài. Ngay khi đó, tôi cảm thấy một sự thay đổi huyền diệu đang diễn ra trong người tôi. Những quan niệm và những lẽ sống của tôi trước kia nay không c̣n nữa. Những tham vọng và dục t́nh nó hướng dẫn cuộc đời tôi nay đă biến mất.
Những sự đố kỵ, sự hiểu lầm, sự lănh đạm, ḷng ích kỷ, nó đi kèm với mọi sự giao tế của tôi với những người trần gian nay đă tiêu tan. Một niềm an vui khôn tả xâm chiếm cơi ḷng tôi và bây giờ tôi đă biết rằng không c̣n có sự ǵ ở trên đời mà tôi ước mong hơn nữa.
Khi đó, đức Maharichi bảo tôi nh́n xuống dưới chân đồi. Tôi vâng lời và nh́n thấy thế giới Tây phương diễn ra dưới chân tôi. Những đám quần chúng hỗn độn gồm những dân tộc các nước trà trộn lẫn nhau dưới một bức màn vô minh hắc ám, bao phủ cả tinh thần lẫn vật chất.
Đức Tôn Sư nói với tôi:
- Khi con trở về với họ ở góc trời Âu, con sẽ giữ măi niềm an tịnh này trong ḷng con. Nhờ nó con sẽ gạt bỏ cái ư tưởng cho rằng con là một thể xác, một bộ óc nhất định. Khi con nhận thấy nguồn an vui tràn ngập cơi ḷng, con đă hướng cuộc đời con về theo ánh sáng chân lư ...
Khi tôi thức tỉnh và hăy c̣n bàng hoàng về giấc mộng thiêng liêng đó, th́ hai con mắt tôi gặp phải hai con mắt của Tôn Sư. Tôi không lầm, gương mặt Ngài lúc ấy đang day về phía tôi, và chính Ngài đang nh́n tôi.
Có một ư nghĩa thâm sâu nào ẩn dấu đằng sau giấc mộng vàng của tôi vừa rồi? Những sự ước mơ, những dục vọng, những nỗi đắng cay của dĩ văng, tất cả đều tiêu tan như mây khói. Một trạng thái thản nhiên đối với chính ḿnh tôi, và một ḷng nhân từ bác ái sâu xa đối với mọi người hăy c̣n lưu lại trong ḷng tôi sau khi thức tỉnh.
Làm sao giải thích được điều này? Tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng cái ấn tượng đó chỉ tồn tại trong một lúc chớ không kéo dài. Nó đẹp quá, nó chưa phải để dành cho tôi.
Tôi ngồi tại đây từ bao lâu rồi? Nh́n chung quanh, tôi thấy mọi người đă đứng dậy và sửa soạn đi ngủ. Tôi cũng phải đi ngủ chứ, nhưng không khí trong pḥng nóng bức v́ thiếu gió, nên tôi phải ra nằm ngủ ngoài sân. Một vị đệ tử vóc người vạm vỡ, có cḥm râu xám bạc, cầm đến cho tôi một cây đèn lồng và dặn tôi hăy để đèn cháy suốt đêm, v́ sợ các thứ rắn độc hoặc thú dữ đột nhập lúc ban đêm. Để đèn sáng, chúng sợ không dám lại gần.
Nằm dưới đất không có nệm lót, tôi thấy khó ngủ. Nhưng tôi không thấy buồn, tôi có đủ đề tài suy nghĩ đêm nay, v́ tôi tin rằng rốt cuộc, tôi đă gặp người mà tôi t́m kiếm bấy lâu nay, một người lạ lùng, huyền bí nhất mà định mệnh đă đặt để trên bước đường đời của tôi.
Tôi có cảm giác như tôi đang đứng trước một giai đoạn quyết liệt, nhưng chưa biết chắc sự ǵ sẽ xảy ra. Đó chắc chắn là một cái ǵ thuộc về địa hạt tâm linh, hoàn toàn xa cách với cơi giới vật chất phàm tục. Trí tôi vẫn tưởng tới cái giấc mộng vừa qua, và tim tôi hồi hộp đập mạnh trước một sự ǵ huyền diệu sắp đến, tuy chưa rơ rệt, nhưng chắc hẳn là thâm thúy vô cùng.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 786 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 3:12pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ
Trong những ngày kế đó, tôi t́m cách tiếp xúc trở lại với đức Maharichi, nhưng không có kết quả. Ngẫm nghĩ về đều này, tôi nhận thấy có ba lư do.
Trước hết đó là bản tính dè dặt tự nhiên của Ngài, Ngài không thích thảo luận, bàn căi và hoàn toàn thản nhiên với mọi sự tin tưởng và mọi ư kiến của người đời. Điều chắc chắn là Ngài không màng hoán cải bất cứ một người nào, và không hề có ư muốn kiếm thêm đệ tử.
Lư do thứ hai có vẻ lạ lùng, nhưng tôi cảm thấy rơ rệt. Từ ngày tôi có giấc mộng huyền linh đó, mỗi lần đến trước mặt Tôn Sư, tôi đều cảm thấy một sự tôn kính thiêng liêng. Những câu hỏi mà tôi định đưa ra chất vấn Ngài đều im bặt, tôi cho rằng thật là một điều phạm thượng mà thảo luận một cách b́nh đẳng, ngang vai với một người đă đạt tới một tŕnh độ siêu phàm như thế.
Lư do thứ ba giản dị hơn. Trong Tịnh Xá lúc nào cũng có người, và tôi không thích phô bày trước công chúng những điều thầm kín nhất của ḷng ḿnh. Dầu sao đối với những người ấy tôi cũng chỉ là một người ngoại quốc. Sự bất đồng ngôn ngữ không quan hệ, nhưng cái óc hoài nghi đặc biệt của người Âu, sự hoàn toàn thiếu hẳn tinh thần tôn giáo trong việc tŕnh bày ư kiến của tôi có thể làm trái ư phần nhiều những người chung quanh.
Bởi đó, mỗi lần tôi muốn nói, th́ một trong ba lư do trên đây ngăn trở tôi và bắt tôi phải im lặng. Lúc đầu, tôi định viếng thăm đạo viện trong hai ngày cuối tuần, nhưng nay cả một tuần lễ đă trôi qua. Tôi tự hỏi cuộc đàm luận đầu tiên của tôi với đức Maharichi phải chăng cũng là buổi nói chuyện cuối cùng?
Ngoại trừ một vài câu nói xă giao thường lệ, một vài tiếng chào hỏi thoáng qua, tôi và Tôn Sư, cả hai người đều dè dặt, không ai mở lời trước. Mười lăm ngày đă qua, càng ngày tôi càng cảm thấy một cách đậm đà thâm sâu, những ảnh hưởng tốt lành của niềm an tịnh thiêng liêng nó bao trùm cả Đạo viện, thậm chí đến cả bầu không khí người ta thở tại đây.
Ngày cuối cùng đă đến, mà tôi không tiến đến gần đức Maharichi được thêm một bước nào. Trong thời gian ở tại Đạo viện tôi cảm thấy có khi vui khi buồn, một trạng thái không chừng đổi nó làm cho tôi thất vọng. Tôi cảm thấy chán nản, phần nhiều những người ở đây đối với tôi lại bất đồng ngôn ngữ, và có sự cách biệt từ phương diện bên ngoài lẫn cả bên trong.
Làm sao hy vọng có một sự thông cảm giữa tôi với họ được? Tôi nghĩ đến đức Tôn Sư cũng như con chim đại bàng bay cao vút trên chín tầng mây bạc, và nhận xét đời người dưới một quan điểm cao siêu đến nỗi tôi không hiểu được.
Lẽ tất nhiên, Ngài không giống như mọi người, Ngài không phải thuộc về ḍng giống nhân loại như chúng ta. Ngài chẳng khác nào như ngọn núi trơ trọi, độc nhất, nó nhô lên cao ở phía sau đạo viện, như cụm rừng xanh rộng răi bao la đến tận chân trời, hoặc như ṿm trời cao ṿi vọi không thể đo lường. Một cái ǵ vô h́nh và huyền diệu của Ngọn Đồi Thiêng kia hẳn là đă truyền qua tâm hồn của đức Maharichi.
Người ta nói rằng Ngài ở tại đó đă ba mươi năm nay và không bao giờ rời khỏi ngọn núi ấy dầu là chỉ trong một ngày. Một sự liên đới chặt chẽ như thế hẳn là phải có ảnh hưởng vang dội đến tâm tính của Ngài. Đức Maharichi yêu Ngọn Đồi Thiêng của Ngài, và có người đă dịch lại cho tôi xem một vài câu thơ rất hay và cảm động do chính tay Ngài viết để biểu lộ t́nh yêu đó.
Cũng như ngọn núi Thiêng một ḿnh tách ra khỏi khu rừng rậm rạp và nhô lên trời, đức Maharichi vươn ḿnh vượt khỏi đám rừng người của thế gian, và sự cao cả của Ngài cũng là độc nhất vô nhị. Một ḿnh Ngài đă vượt bậc tiến tới trước, và những người khác yếu đuối hơn không thể theo kịp Ngài.
Cho tới nay, tôi mới gặt hái được có một niềm an vui tự tại trong buổi hội kiến ban đầu, và một giấc mơ huyền diệu nó chói rạng như một ngôi sao trong kư ức của tôi. Thời gian trôi qua, trong mười lăm ngày ở đạo viện, tôi chỉ mới có được một cuộc hội đàm đáng kể với đức Tôn Sư! Gương mặt nghiêm nghị của Ngài cũng đủ làm cho tôi lánh bước không dám lại gần.
Tôi tự nghĩ rằng tôi không ngờ đến một sự tiếp đăi như thế, sau khi tôi được thấy những triển vọng tươi sáng về đời sống ở Đạo viện mà người khất sĩ hành hương đă phô bày trước mắt tôi.
Tuy nhiên, chính đức Maharichi, chớ không phải ai xa lạ, là người mà tôi muốn được yết kiến lần nữa để được nghe lời vàng ngọc của Ngài, v́ tôi quả quyết chắc chắn rằng trong những người mà tôi đă gặp, th́ đức Maharichi là người duy nhất đă giải quyết được các bài toán khó khăn của cuộc đời, và không có một sự đau khổ nào ở thế gian có thể phạm đến Ngài được nữa.
Tôi đă t́m cách gặp Ngài một lần nữa. Tôi đi t́m người đệ tử kỳ cựu, có nhiều thiện cảm đối với tôi ngay từ lúc đầu và nói cho y biết rằng tôi muốn được hội kiến một lần cuối cùng với đức Tôn Sư, nhưng không dám xin Ngài một cách trực tiếp.
Vị đệ tử liền thông cảm và mỉm cười. Y liền bước đi ngay và một chặp sau, y trở lại với câu trả lời: đức Maharichi rất vui ḷng tiếp kiến tôi. Tôi bèn trở lại chỗ ngồi trong Tịnh Xá gần kế bên giường. Đức Tôn Sư day lại tôi và làm cho tôi cảm thấy thoải mái tự nhiên bằng cách nghiêng đầu chào tôi một cách rất lịch sự.
Tôi hỏi:
- Những nhà đạo sĩ Yogi nói rằng muốn t́m Chân Lư, người ta phải từ bỏ thế gian và sống ẩn dật trong chốn rừng sâu núi thẳm. Ở các xứ Tây phương, đó là một việc gần như không thể làm được v́ cách sinh hoạt của chúng tôi khác hẳn. Tôn Sư có đồng ư với những người Yogi chăng?
Đức Maharichi day lại một đệ tử, một người Bà La Môn rất lễ độ, người này dịch lại câu trả lời của Ngài:
- Sự từ bỏ cuộc đời hoạt động của thế gian không phải là cần thiết. Anh hăy tham thiền một giờ hay hai giờ mỗi ngày và hăy theo đuổi những công việc hàng ngày của anh. Khi anh biết thiền định đúng cách, anh sẽ tự tạo cho anh một nguồn sinh hoạt tâm linh nó sẽ thấm nhuần đến công việc làm hàng ngày. Nói một cách khác, sự hoạt động hàng ngày của anh sẽ tiếp diễn trong một bầu không khí tâm linh do sự tham thiền tạo nên.
- Chừng đó kết quả ra sao?
- Kinh nghiệm sẽ giúp cho anh nhận thấy rằng quan niệm của anh về cuộc đời hoặc về nhân tâm, thế sự, sẽ thay đổi lần lần.
- Như vậy, phải chăng ư kiến của Ngài ít nhất cũng khác những người Yogi về điểm này?
Tôn Sư không muốn trả lời trực tiếp về điểm đó.
- Chính sự ích kỷ cá nhân nó làm cho con người bị trói buộc với thế gian. Vậy con người hăy tự giải thoát khỏi sự ích kỷ đó. Sự dứt bỏ thật sự chính là sự trừ diệt cái bản ngă v́ bản ngă của ta vốn là một điều hư vọng và phỉnh lừa.
- Nhưng làm sao có thể trừ diệt được sự ích kỷ khi người ta c̣n phải sống ở thế gian?
- Vốn không có sự mâu thuẫn giữa đời sống thế gian và sự Minh Triết.
- Phải chăng Tôn Sư muốn nói rằng người ta vẫn có thể tiếp tục làm công việc của ḿnh ở thế gian và đạt được sự minh triết?
- Tại sao không? Nhưng trong trường hợp đó, không phải cái phàm ngă của con người nó tiếp tục sự sinh hoạt hàng ngày nữa v́ tâm thức của y đă lần chuyển qua một địa hạt tâm linh ngoài ṿng chật hẹp nhỏ nhen của thế t́nh.
- Tôi thấy điều đó có sự khó khăn, sự sinh hoạt hàng ngày có thể dành cho ta bao nhiêu th́ giờ để tham thiền?
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 787 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 3:13pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ
Đức Maharichi không băn khoăn v́ câu hỏi tầm thường đó:
- Dành một thời giờ riêng cho sự tham thiền là việc làm của kẻ sơ cơ. Người đă tiến bộ ít nhiều trên đường t́m Chân Lư sẽ t́m thấy sự an lạc nó là điều thường có đối với chúng tôi, dầu cho y đang bận rộn công việc. Trong khi hai tay của người ấy hoạt động, th́ trí óc của y bay bổng trên những cơi giới siêu linh.
- Nhưng phải chăng điều đó không phải là pháp môn Yoga nữa?
- Người Yogi cố gắng đưa tâm trí của y đến mục đích cũng ví như kẻ chăn ḅ mộng đi trước mặt y, nhưng người chăn ḅ trước hết phải dụ dỗ con ḅ với một nắm rơm lúa.
- Tôn Sư muốn nói chi?
- Anh hăy tự đặt câu hỏi: Tôi là ai? Sự t́m kiếm này sẽ giúp cho anh khám phá, xuyên qua những hang, ngách của tâm thức những ǵ ẩn dấu đằng sau tâm trí của con người. Khi anh giải quyết được vấn đề căn bản này, anh sẽ giải quyết được tất cả những vấn đề khác.
Tôi cố t́m hiểu câu nói đó. Nh́n qua cửa sổ, tôi thấy ở đằng xa, ngọn Đồi Thiêng dưới ánh nắng ban mai. Đức Maharichi nói tiếp:
- Tôi sẽ nói rơ hơn. Tất cả mọi chúng sinh đều đi t́m hạnh phúc, một cái hạnh phúc thật sự mà họ có thể nắm lấy được và không bao giờ dứt. Cái bản năng đó rất chính đáng. Nhưng anh có khi nào để ư đến sự kiện này là chính họ tự thương yêu ḿnh trước nhất?
- Và sau đó?
- Anh hăy so sánh việc sau này với điều tôi vừa kể trên. Muốn đạt được hạnh phúc, họ cần một phương tiện, có người chọn ly rượu mạnh, có người chọn ái t́nh, có người th́ chọn tôn giáo. Anh thấy chăng, bản tánh thật sự của con người là như thế.
- Tôi không thấy rơ ...
Ngài nói tiếp:
- Bản tánh chân thật của con người, tức là hạnh phúc vậy. Hạnh phúc vốn sẵn có nơi Chân Ngă. Sự t́m kiếm hạnh phúc, chính là sự t́m kiếm Chân Ngă, nhưng một cách vô ư thức. Chân Ngă vốn bất diệt, cho nên người nào đă t́m thấy nó rồi, th́ đồng thời cũng t́m thấy một cái hạnh phúc trường cửu, vô tận.
- Nhưng có biết bao nhiêu sự đau khổ trên thế gian!
- Lẽ tất nhiên, đó là bởi v́ thế gian không hề biết cái bản tánh chân thật của nó. Tuy nhiên, tất cả mọi người, dầu có ư thức hay không, cũng đều đang đi t́m hạnh phúc.
- Kể cả những kẻ khốn cùng, những kẻ tàn bạo, sát nhân?
- Đúng vậy, nhưng họ lầm lạc v́ họ tưởng rằng họ có thể t́m thấy bí quyết của hạnh phúc trong những tội lỗi của họ. Cái hoài băo đó là do bản năng thúc đẩy, nhưng v́ họ t́m hạnh phúc trong những hành vi bất chính. Sự sai lầm của họ rất là tai hại, v́ con người gieo nhân nào phải gặt quả nấy.
- Như vậy, phải chăng nếu chúng ta thực hiện được Chân Ngă của ḿnh th́ chúng ta sẽ đạt được hạnh phúc trường cửu?
Tôn Sư gật đầu cho là phải. Xuyên qua cửa sổ, một tia nắng chiếu vàng gương mặt đức Maharichi. Vầng trán Ngài phản ảnh sự an tịnh bên trong, vành môi rơ rệt biểu lộ một sự ung dung tự tại hoàn toàn, đôi mắt Ngài phản chiếu một sự an lạc tuyệt vời. Không có ǵ trong cái phong độ của Ngài tương phản với những lời Ngài nói.
Những lời nói của Ngài có bao hàm điều ǵ khác hơn là cái ư nghỉa h́nh như đơn giản đó chăng? Người thông ngôn đă dịch lại đúng y nguyên văn, nhưng ngoài ra c̣n có cái ǵ sâu xa hơn nữa mà y không dịch hết ư chăng? Cái đó, chính tôi phải tự khám phá lấy. Đức Tôn Sư nói không phải như một triết gia, hoặc một nhà biện thuyết, mà lời nói của Ngài phát tự đáy ḷng. Hay là Ngài chỉ bày tỏ cái kinh nghiệm quư báu riêng của Ngài chăng?
Tôi hỏi Ngài:
- Sự t́m Chân Ngă có dễ thực hành hay chăng?
- Tự nhiên là dễ. Sự quán xét nội tâm có thể đi ngược trở lại đến chỗ mà Phàm Ngă lần lần tiêu tan.
- Chừng đó th́ c̣n lại cái ǵ? Con người sẽ rơi vào một trạng thái vô ư thức, hay đần độn chăng?
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 788 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 3:16pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ
- Không bao giờ. Chừng đó con người sẽ đạt tới một trạng thái tâm thức bất diệt, và một sự minh triết do bởi sự thức tỉnh của Chân Ngă, tức là cái bản tính chân thật của con người.
- Và cái ư thức về bản ngă phải chăng cũng là do cái bản tánh chân thật đó mà ra?
- Cái ư thức về bản ngă thuộc về Phàm ngă của con người; nó thuộc về phần xác thể và trí óc. Khi con người lần đầu tiên nhận thức được Chân Ngă, th́ có một cái ǵ xuất hiện từ những chỗ thâm sâu bí ẩn của tâm hồn và xâm chiếm lấy y. Cái đó vốn là một cái ǵ trường tồn, vô tận và thiêng liêng.
Người ta gọi nó bằng nhiều danh từ khác nhau, chẳng hạn như Cơi Trời, Linh Hồn, Niết Bàn, người Ấn Độ Giáo gọi là Giải Thoát, anh cũng có thể gọi nó là ǵ tùy ư. Dầu sao, khi điều đó xảy ra, th́ con người không phải là mất, mà y tự t́m thấy.
Câu sau này làm tôi nhớ lại những lời nói của đức Jésus, đến ngày nay vẫn c̣n là một điều bí hiểm đối với nhiều tín đồ Thiên Chúa giáo: "Kẻ nào tham sống, th́ sẽ chết, kẻ nào ghét sống th́ sẽ ǵn giữ được sự sống toàn vẹn." (Celui quy aime sa vie la perdra, et celui quy hait sa vie la conservera.)
Sự tương hợp giữa hai ư tưởng đó thật là rơ rệt, và nhà Hiền Triết Ấn Độ này đă đạt tới cái chân lư đó bằng sự thiền định suy tư, mà không cần đến sự dẫn chứng với câu nói của đức Jésus. Đức Tôn Sư nói tiếp:
- Ngày nào mà con người vẫn chưa bước vào con đường đó th́ sự nghi ngờ băn khoăn sẽ c̣n theo sát một bên y.
Các bậc vua chúa, các nhà chánh trị tưởng rằng họ cai trị thế gian, nhưng nếu họ tự xét ḿnh, họ sẽ phải thú nhận rằng họ chưa biết tự trị lấy ḿnh. Cái quyền năng thật sự là ở trong tay người nào đă tiến sâu vào những chỗ bí ẩn thâm sâu của linh hồn.
Các nhà bác học Âu Tây cặm cụi suốt đời để sưu tầm học hỏi và hiểu biết, sẽ phải cúi đầu khi người ta hỏi họ đă giải quyết được các vấn đề bí hiểm của đời người, và đă tự biết ḿnh hay chưa? Như vậy, t́m biết sự vật bên ngoài thế gian có ích ǵ, nếu chúng ta không biết ǵ cả về sự diễn biến trong người chúng ta và không biết rằng chúng ta là ai? Chúng ta thường trốn tránh không muốn nghĩ đến điều đó. Tuy nhiên, có cái học nào là đáng cho chúng ta chú trọng hơn nữa?
- Phải chăng v́ đó là một công việc rất khó, hầu như quá sức của con người?
Câu hỏi của tôi làm cho Ngài hơi nhún vai:
- Phải thử rồi mới biết. Sự khó khăn không phải là quá lớn lao như anh tưởng.
- Đối với người Âu như chúng tôi, là những người hoạt động và thực tế, th́ sự quán xét nội tâm một cách vô tư đó thật là ...
Tôi c̣n do dự, không biết phải kết thúc câu nói ra sao, Ngài đă nói tiếp:
- Sự hiểu biết chân lư là một hoạt động tâm linh, dầu cho đối với người Ấn hay người Âu cũng vậy. Tôi nh́n nhận rằng nó không phải dễ dàng đối với người c̣n hoạt động ở thế gian, nhưng trong trường hợp nào cũng vậy, người ta có thể thành công.
Điều cần thiết là tạo nên, bằng phương pháp tham thiền, một nguồn sinh hoạt tâm linh mà sau đó người ta chỉ cần duy tŕ, ǵn giữ bằng thói quen và sự thực hành. Khi anh ngẫm nghĩ về câu hỏi: "Tôi là ai?" khi anh bắt đầu hiểu rằng cái xác thân, hay những dục vọng, không phải thật là ta, th́ chừng đó anh sẽ có một thái độ rơ rệt đối với chính ḿnh.
Do đó, câu trả lời sẽ xuất hiện tự những chỗ thâm sâu cùng tột của bản thể, nó sẽ hiện ra như một cái phần thưởng, như một sự thực hiện thâm trầm và sâu sắc. Anh hăy tự biết ḿnh, và chừng đó chân lư sẽ chói rạng trong tâm hồn anh như một tia sáng mặt trời.
Tâm trí anh sẽ t́m thấy sự yên tịnh, một nguồn an lạc vô biên sẽ tràn ngập cơi ḷng anh bởi v́ thực hiện Chân Ngă tức là t́m thấy Hạnh Phúc. Hai danh từ đó, Chân Ngă và Hạnh Phúc, vốn đồng nghĩa. Tất cả những sự nghi ngờ của anh sẽ tiêu tan, khi mà anh đạt tới sự thực hiện Chân Ngă một cách trực tiếp.
Nói đến đây, đức Tôn Sư quay đầu lại và nh́n thẳng về một điểm ở đằng xa, ở phía tường bên kia. Tôi hiểu rằng cuộc đàm thoại đă chấm dứt, và Ngài nói như thế đă đủ. Tôi cũng lấy làm hài ḷng v́ đă được yết kiến Ngài thêm một lần nữa.
Thời gian thắm thoát trôi qua, và ngày vĩnh biệt đức Tôn Sư đă đến. Chiều hôm ấy, tôi bước vào nhà Tịnh Xá, hai giờ trước khi cỗ xe ḅ đến để chở tôi lên đường và từ giă nơi đạo viện êm đềm ở chốn rừng hoang u tịch này.
Không khí trong pḥng phảng phất mùi hương trầm thơm ngát. Đức Maharichi ngồi bán dà trên divan, chăm chú nh́n tôi, không nói một lời. Tôi nhận thấy bên cạnh Ngài cái ṿ nước bằng đất nung và cây gậy trúc. Đó là tất cả vật sở hữu của Ngài trên mặt đất, nó là sự trả lời hùng biện cho cái bản năng chiếm hữu, cho sự khao khát của cải của người thế gian.
Bỗng nhiên đôi mắt mở lớn của Ngài lại đứng tṛng, toàn thân Ngài lại trở nên ngay ngắn như pho tượng, đầu Ngài hơi thở lắc lư qua lại vài cái trước khi ngừng hẳn. Trong vài phút, đức Maharichi lại ch́m đắm trong cơn nhập định mà tôi đă thấy khi mới đến. Có người bước lại một bên tôi và kề tai nói nhỏ:
- Đức Maharichi đang nhập định. Chúng ta không nên nói chuyện.
Chung quanh mọi người đều im lặng, sự im lặng càng trở nên thâm trầm với giờ phút trôi qua. Tôi tự thả trôi theo một sự sùng kính thiêng liêng nó xâm chiếm lấy tôi một cách khó cưỡng lại được, chẳng khác nào như con ong bị hấp dẫn bởi mùi hương của cái hoa.
Một mănh lực vô h́nh, huyền bí phảng phất trong không khí của gian pḥng và tôi không c̣n nghi ngờ ǵ nữa rằng nguồn mănh lực đó là từ đức Maharichi tỏa ra. Đôi mắt Ngài chiếu sáng một cách đặc biệt.
Tôi cảm thấy trong ḿnh tôi có những cảm giác lạ lùng. Cặp mắt sáng rực như tia lửa của Ngài dường như soi thấu vào những chỗ bí ẩn nhất của tâm hồn tôi. Tôi nhận định rằng Ngài nh́n thấy rơ hết tất cả những ǵ của tôi: Tư tưởng, t́nh cảm, dục vọng và tôi hoàn toàn bất lực trước quyền năng của Ngài.
Trước hết tôi cảm thấy khó chịu, v́ tôi biết rằng không có ǵ trong cuộc đời dĩ văng của tôi mà Ngài không nh́n thấy, và tôi không thể dấu diếm che đậy cuộc đời quá khứ của tôi, nhưng tôi cảm thấy một cách mơ màng rằng sự quan sát tỉ mỉ đó sẽ có nhiều ích lợi cho tôi trong tương lai.
Và như vậy, tất cả những sự yếu đuối lầm lạc của tôi trong dĩ văng, tất cả những ưu điểm và khuyết điểm của tôi đều biểu hiện rơ ràng trước cặp mắt của Ngài. Nhưng đồng thời, tôi cũng được an tâm, v́ như thế chắc Ngài cũng sẽ thấy luôn cả tấm ḷng mộ Đạo của tôi, nó thúc giục tôi từ giă quê hương, gia đ́nh, lánh xa cuộc đời phồn hoa tục lụy và lao ḿnh vào chốn rừng sâu núi thẳm để t́m những người như Ngài.
Lần lần tôi cảm giác được rơ ràng cái luồng thần giao cách cảm giữa đôi mắt đứng tṛng của Ngài và cái nh́n non nớt của tôi, nó như dẫn dụ và mời mọc tâm hồn tôi hăy cùng chia sẻ cái trạng thái an tịnh vô biên và trường cửu của Ngài. Cái niềm an tịnh lạ lùng đó cũng đi kèm với một cái cảm giác nhẹ nhàng lâng lâng và an lạc tuyệt vời không có ǵ sánh kịp.
Thời gian dường như ngừng lại. Tâm hồn của tôi đă trút được cái gánh nặng của những điều thắc mắc ưu phiền. Dường như kể từ nay, tôi đă vĩnh viễn được che chở, không c̣n bị những nỗi đắng cay của sự thất bại, và nỗi đau buồn của những dục vọng không được thỏa măn.
Tôi nhận định một cách thâm sâu rằng cái bản năng nó bắt buộc con người hăy ngẩng mặt lên và hăy hy vọng trong sự tuyệt vọng, nó nâng đỡ con người trong những giờ phút tối tăm đau khổ, là một cái bản năng không bao giờ lầm lạc, v́ nó vốn thuộc về tánh chất thiêng liêng.
Trong cái im lặng thần tiên đó, mà đồng hồ ngừng chạy, thời gian ngừng trôi, mà những đau khổ và lầm lạc của dĩ văng đă lùi lại vào đúng chỗ của nó, th́ h́nh như toàn thân của tôi hỗn hợp làm một với đức Tôn Sư, h́nh như tôi đă cảm được sự minh triết đến mức tột độ, và cái nh́n sáng rực của Ngài có cái quyền năng giống như một chiếc đũa thần nó gợi cho ta thoáng thấy một cơi giới siêu linh đầy những sự huy hoàng huyền diệu bất ngờ.
Đă bao lần tôi lấy làm ngạc nhiên mà thấy những đệ tử của Ngài trong nhiều năm sống tại Đạo viện, hàng ngày vẫn cứ đến ngồi dưới chân đức Tôn Sư, cũng chẳng nghe được bao nhiêu lời dạy bảo của Ngài, mà tự bằng ḷng với cuộc đời trầm lặng như thế, không có một sự hoạt động nào bên ngoài để tự nâng đỡ hay giải trí. Bây giờ tôi mới bắt đầu hiểu một cách trực tiếp, do kinh nghiệm cá nhân của tôi, rằng mỗi ngày trôi qua đều đem lại cho họ một cái phần thưởng tuyệt diệu.
Sau nhiều giờ ngồi tịnh tâm trong gian pḥng im lặng như tờ, có người lẳng lặng đứng dậy và rón rén nhẹ bước đi ra. Một người khác cũng đứng dậy, rồi một người nữa, và trong giây lát, chỉ c̣n có một ḿnh tôi ngồi đối diện với đức Maharichi. Khi đó, kỳ lạ thay, đôi mắt của Ngài cử động, Ngài thu tầm nhăn quang lại giữa đôi mi hé mở.
Tôi cảm thấy dường như thân ḿnh tôi trở nên nhẹ nhàng và cùng với Ngài bay bổng trong không gian vô tận. Đó là một giờ phút quyết liệt. Nhưng tôi do dự, và sau cùng tôi phải gián đoạn trước tiên cái giây phút huyền diệu đó, và tức khắc tôi đă trở về với thể xác của tôi. Cả Tôn Sư và tôi, không ai nói một lời nào. Tôi bèn thu thập tinh thần, nh́n đồng hồ trên vách và lẳng lặng đứng dậy, giờ lên đường đă sắp đến.
Tôi cúi đầu từ giă đức Tôn Sư, Ngài cũng nghiêng đầu đáp lại. Tôi thốt ra vài lời cám ơn, Ngài nhận lănh mà không nói ǵ. Tôi c̣n do dự bước chân trên ngưỡng cửa nhưng bên ngoài, tiếng reo của chiếc lục lạc đồng trên cỗ xe ḅ đă vọng đến tai tôi, và tôi chắp hai tay lại một lần cuối cùng để chào vĩnh biệt. Chúng tôi từ giă nhau như thế đó.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 789 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 3:21pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ
Tu Sĩ Và Thuật Sĩ
Chương Tám
Tôi đă có dịp nhận định rằng các nhà tu sĩ ở Ấn Độ gồm một thành phần vô cùng phức tạp. Trong số đó, phần nhiều là những người tốt và vô hại, mặc dầu họ có vẻ rất nghèo nàn về phương diện quyền năng hay minh triết. Có một số gồm những người thất bại ở ngoài đời hoặc là những người lười biếng không muốn làm việc nhọc xác.
Một trong những người này đến gần tôi để xin tiền. Đầu tóc rối nùi, thân thể bôi tro và bộ mặt bất hảo của y làm cho y có một h́nh dáng bề ngoài ghê tởm. Tôi bèn cưỡng lại sự đường đột của y để thử xem kết quả ra sao. Sự chống cự của tôi càng làm cho y đeo lấy tôi như đĩa đói.
Sau cùng y thử dùng một chiến thuật mới bằng cách đ̣i bán cho tôi xâu chuỗi bồ đề của y. Đó là một vật coi rất dơ bẩn mà có lẽ y rất quư trọng, v́ y đ̣i bán với một giá rất cao. Tự nhiên là tôi từ chối và quay đi chỗ khác.
Một số ít gồm những người khổ hạnh một cách vô lư và phô trương trước công chúng những sự hành thân hoại thể của họ. Có người đưa một cánh tay lên trời cho đến khi móng tay mọc dài ra đến năm tấc và xoắn tṛn. Có người lại đứng một chân suốt nhiều năm ở một chỗ. Không biết rằng họ muốn đạt được những cái ǵ với những sự phô trương kém mỹ thuật đó, ngoài vài đồng xu mà người ta ném vào cái bát ăn xin của họ.
Một số người khác dường như dùng tà thuật một cách công khai. Họ là những thầy phù thủy hạ cấp của Ấn Độ và hoạt động phần nhiều trong các làng mạc ở thôn quê. Với một số tiền thù lao nhỏ, họ có thể làm hại kẻ thù của bạn, đem đến cho bạn một người đàn bà, hoặc giúp bạn thực hiện ḷng tham vọng một cách dễ dàng bằng cách vật ngă kẻ địch thủ của bạn với một vài ám tật hoặc chứng bệnh kỳ lạ.
Người ta vẫn thường nghe những chuyện ám muội và lạ lùng về những tay phù thủy Bàn Môn này. Họ cũng tự phụ rằng họ là những người Yogi, hay thuật sĩ (Fakir).
C̣n lại một thiểu số những nhà tu sĩ có học thức và văn hóa, những người này đă bỏ ra nhiều năm t́m ṭi và khổ công tu luyện, từ bỏ cuộc đời thế gian để bước vào con đường đi t́m Chân Lư. Họ có một cái bản năng nó nói cho họ biết rằng đạt tới Chân Lư tức là đạt được hạnh phúc vững bền.
Người ta có thể hoài nghi về tánh cách hợp lư của vần đề này, nghĩa là từ bỏ cuộc đời trần thế để chạy theo một cái viễn ảnh mông lung không có ǵ thiết thực, nhưng c̣n cái chí nguyện bên trong nó xui khiến họ dốc ḷng tầm Đạo th́ điều này vốn là thành thật và không ai nghi ngờ hay chất vấn.
Một người Âu trung b́nh không có thời giờ để dành cho một cuộc t́m ṭi như thế. Người ấy viện một lư lẽ rất tốt để chấp nhận cái thái độ lănh cảm chung của mọi người: Y nghĩ rằng nếu y lầm lạc, th́ tất cả vùng lục địa ở Tây Bán Cầu đều lầm lạc chung với nhau cả một xuồng, chứ không riêng ǵ một ḿnh y.
Trong cái thế hệ vật chất hiện tại, người ta coi sự đi t́m Chân Lư như một điều vô ích, nhưng người ta không ngờ rằng trong khi đó họ phung phí rất nhiều năng lực để theo đuổi những điều, mà xét cho cùng cũng chẳng phải là có ích lợi bao nhiêu và rốt cuộc cũng chỉ là những sự vật phù du giả tạm.
Thuở xưa, một người Tây phương đă từng đến viếng xứ Ấn Độ với một sứ mạng không giống như của tôi, nhưng những nhân vật mà y gặp ở xứ ấy đă làm cho y bị đánh lạc hướng, đến nỗi y suưt nữa đă quên hẳn mục đích đầu tiên của cuộc hành tŕnh. Đó là vua A Lịch Sơn Đại Đế, đem binh chinh phục các xứ phương Đông để nới rộng giang sơn bờ cơi. Người đă gần trở thành một triết gia khi rời khỏi xứ này.
Tôi thường phỏng đoán những ư nghĩ của vua A Lịch Sơn khi Ngài ngồi trên chiến xa vượt qua các vùng núi non tuyết phủ và những băi sa mạc hoang vu trên đường khải hoàn trở về xứ sở. Trong thời gian ở xứ Ấn Độ, vua A Lịch Sơn đă từng bị chinh phục bởi các nhà Hiền giả và Đạo sĩ Yogi mà Ngài gặp ở dọc đường.
Ngài đă từng chất vấn và thảo luận sôi nổi với họ nhiều lần suốt nhiều ngày liên tiếp về các vấn đề triết lư. Nếu Ngài có dịp ở lại và sống chung với họ thêm vài năm nữa, có lẽ Ngài đă đưa thế giới Tây phương vào những con đường khác hẳn.
Trong số những nhà tu sĩ ở Ấn Độ ngày nay, vẫn c̣n có một vài người cố gắng hoạt động để giữ ǵn cho lư tưởng đạo đức và ngọn lửa tâm linh của xứ sở họ vẫn luôn luôn bừng cháy. Phần nhiều trong số đó có thể là những kẻ dối trá bịp bợm: đó là cái hậu quả không thể tránh khỏi của một thời đại suy tàn, nhưng ta đừng quên v́ thế mà không biết đến một thiểu số c̣n lại là những bậc chân tu gương mẫu.
Như trên đă nói, giai cấp tu sĩ gồm một thành phần vô cùng phức tạp và hỗn độn đến nỗi người ta không thể dùng một cái nhăn hiệu chung, dầu là khen hay chê, để gán cho cả toàn thể. Tôi đă hiểu thái độ của những người sinh viên quá khích ở các nơi đô thị khi họ nói rằng tận diệt thành phần "Tu sĩ ăn bám" sẽ là một ân huệ tốt lành cho xứ Ấn Độ.
Tôi cũng thông cảm không kém đối với những người đứng tuổi và ôn ḥa hơn, khi họ nói với tôi rằng ngày nào mà xă hội Ấn không c̣n sản xuất nên những bậc Hiền Triết và Đạo sĩ chân tu của họ nữa, th́ đó là ngày Ấn Độ bắt đầu suy tàn.
Vấn đề này có một tầm quan trọng riêng đối với xứ Ấn Độ, bởi v́ nền kinh tế quẩn bách khó khăn của xứ ấy bắt buộc người ta phải duyệt xét lại giá trị của một vài vấn đề. Người tu sĩ thật ra không có thực hiện một vai tṛ hữu ích cho xứ sở về phương diện kinh tế. Hằng trăm người mệnh danh tu sĩ chỉ là những kẻ dốt nát và thất học, họ đi ta bà khắp nơi qua các làng và các thành phố trong những dịp hội hè, tế tự ở các đền chùa.
Họ là những kẻ ăn mày xấc láo và lắm khi làm quấy rầy, phiền nhiễu. Họ là một gánh nặng cho xă hội v́ họ không có ích ǵ cho đời để bù lại những ǵ họ thụ hưởng. Tuy nhiên, cũng có những tâm hồn cao quư đă từ bỏ địa vị cao sang hoặc bố thí hết tài sản của họ để dốc ḷng tầm Đạo.
Họ là những tấm gương lành, gây nguồn cảm hứng cho những người chung quanh, ở bất cứ nơi nào họ đi đến. Những cố gắng của họ để tự giác và giác ngộ kẻ khác, chắc hẳn là xứng đáng với mẫu bánh ḿ hay chén cơm lạt mà họ nhận được của bá tánh.
Tấm màn đêm vừa buông xuống thành phố khi tôi đi dạo chơi quanh quẩn trên những đường phố nhỏ hẹp ở Calcutta. Tôi vẫn c̣n nghĩ đến cảnh tượng rùng rợn mà tôi vừa thấy hồi sớm mai.
Chuyến xe lửa của chúng tôi chạy qua một khu rừng nguy hiểm đầy những loài beo gấm. Hồi đêm khuya, xe lửa cán nhằm một con beo và khi đến ga Howrah, xác con beo bị nghiền nát và đẫm máu hăy c̣n dính chặt vào những bánh sắt, và người ta đă phải vất vả khó nhọc lắm mới gỡ ra được.
Chuyến xe lửa này đầy chật hành khách, cũng như hầu hết những chuyến xe lửa chạy đường xa ở Ấn Độ. Trong toa xe mà tôi đă may mắn t́m được một chỗ nằm c̣n trống, những người bạn đồng hành của tôi gồm một nhóm khá phức tạp.
Những người hành khách thảo luận công khai những vấn đề làm ăn kinh doanh của họ, nên chẳng bao lâu mọi người đều biết rơ họ là ai và từ đâu đến. Trong nhóm người này, tôi nhận thấy có một người Hồi giáo mặc áo dài bằng lụa đen, gài nút đến tận cổ và đội một cái mũ tṛn cũng màu đen có thêu chỉ vàng rất đẹp.
Có một người thổ dân Mahratti miền Tây với cặp chân mày đậm, một người Marwari bịt khăn vàng thuộc giai cấp lái buôn, làm nghề cầm đồ và cho vay bạc. Sau cùng là một anh chàng tác người vạm vỡ, thuộc ḍng Bà La Môn và làm nghề luật sư. Tất cả đều là những người khá giả, có địa vị. Khi xe lửa ngừng ở mỗi nhà ga lớn, đều có những người gia nhân, tôi tớ đến săn đón và hỏi thăm những nhu cầu của chủ họ.
Người Hồi giáo, sau khi đă ban cho tôi một cái nh́n im lặng bèn nhắm mắt lại và ngủ một giấc ngủ của người hiền, người thổ dân Mahratti th́ c̣n đang đàm luận sôi nổi với người lái buôn, người Bà La Môn th́ vừa mới lên xe và c̣n chưa ngồi yên chỗ, về phần tôi, th́ tôi đang có hứng muốn nói chuyện, nhưng không t́m được người đối thoại.
H́nh như có một bức rào vô h́nh ngăn cách tôi với những người hành khách khác, cũng như có nhiều sự cách trở giữa Đông và Tây phương.
Nhưng tôi liền cảm thấy thoải mái dễ chịu khi tôi thấy người Bà La Môn da mặt hồng hào lấy ra một quyển sách với một cái tựa lớn bằng chữ Anh nằm ngang một cách ngạo nghễ ở ngoài b́a "Đời sống của Ramakrishna." Tôi bèn nắm ngay lấy cơ hội để vào đề câu chuyện.
Phải chăng có người đă nói với tôi rằng Ramakrishna là vị cuối cùng của những bậc siêu nhân ở Ấn Độ mà người ta gọi là các đấng Rishi? Tôi bèn mở đề câu chuyện về điểm này với người đồng hành của tôi, và y sẵn ḷng tiếp chuyện. Chúng tôi thảo luận về các vấn đề triết lư cao siêu, hoặc đề cập đến những khía cạnh thông thường của đời sống ở Ấn Độ.
Mỗi khi y nói đến danh từ Rishi (Chơn Sư), th́ giọng nói của y xúc động với một ḷng kính mến, tôn sùng và một tia sáng hiện rơ trong cặp mắt của y. Ḷng sùng tín của y đối với vị Chơn Sư đă quá văng này không c̣n phải nghi ngờ ǵ nữa.
Sau hai giờ đàm luận, tôi được biết rằng người Bà La Môn này có một người Thầy, vị này lại là một trong những vị đệ tử c̣n sót lại của đức Ramakrishna. Vị Tôn Sư của y nay đă gần tám mươi tuổi, và không sống ẩn dật ở một nơi hẻo lánh nào, mà ở ngay trung tâm khu bổn xứ của thành phố Calcutta. Tôi xin địa chỉ của Thầy y th́ y liền cho ngay và nói:
- Ông không cần giới thiệu, ông chỉ cần bày tỏ ư muốn gặp Người là đủ.
Chính v́ lư do đó mà hôm nay tôi đến Calcutta để đi t́m nhà của danh sư Mahasaya, đệ tử của đức Ramakrishna. Tôi đi qua một cái sân rộng giáp mặt đường lộ, cuối sân có một cái thang đưa lên một ngôi nhà lớn và có vẻ cổ xưa. Một người trẻ tuổi bước vào và yêu cầu tôi hăy đợi một lát.
Sau đó mười phút tôi nghe có tiếng chân người bước vào pḥng, tôi không cần có ai giới thiệu nữa. Một bậc kỳ lăo đáng kính đă xuất hiện trước mặt tôi, giống như những vị tộc trưởng trong Kinh Thánh hồi thời của giáo chủ Moise. Người hơi sói đầu, có một bộ râu dài đă bạc trắng, một cốt cách nghiêm chỉnh, đôi mắt có vẻ trầm tư, đôi vai hơn c̣ng v́ gánh nặng của gần tám chục mùa đông; người đó không ai khác hơn là vị danh sư Mahasaya.
Ngài ngồi trên giường và day mặt lại phía tôi. Trước sự hiện diện nghiêm trang và đạo mạo của Ngài, tôi nhận định ngay rằng chỗ này không phải là chỗ nói chơi hay nói đùa. Thậm chí, những lời nói có vẻ hoài nghi hay châm biếm một cách trắng trợn mà tôi thường hay thốt ra một đôi khi, thật là không phải chỗ của nó ở đây.
Bất cứ ai cũng có thể đọc được trên gương mặt và phong tư cốt cách của Ngài, một tâm hồn cao quư và một đức tín thuần khiết nơi đấng Thiêng Liêng. Ngài nói với tôi bằng một giọng Anh ngữ lưu loát:
- Tôi rất hoan hỉ mà được gặp ông ở đây.
Ngài bảo tôi xích lại gần và cùng ngồi trên giường với Ngài. Ngài cầm lấy bàn tay tôi trong một lúc. Tôi bèn tự giới thiệu và nói mục đích cuộc thăm viếng của tôi. Khi tôi đă nói xong, Ngài lại siết chặt bàn tay tôi một cách thân mật và nói:
- Một sức mạnh thiêng liêng đă d́u dắt anh đến xứ Ấn Độ và giúp cho anh gặp gỡ những bậc Hiền giả của xứ này. Việc ấy có một mục đích bí ẩn và tương lai sẽ tiết lộ cho anh biết. Anh hăy kiên nhẫn chờ đợi rồi anh sẽ biết rơ.
- Xin Ngài nói cho tôi biết vài điều về Sư Phụ Ngài, là đức Ramakrishna.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 790 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 3:24pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ
- À! Đó là một vấn đề tâm sự mà tôi thích nói nhất. Sư Phụ qua đời đă gần nửa thế kỷ nay, nhưng tôi không thể nào quên được Ngài, h́nh ảnh của Ngài vẫn luôn luôn sống động và bất diệt trong tim tôi. Hồi đó, tôi hăy c̣n là một thanh niên mới hai mươi bảy tuổi khi tôi gặp Ngài, và sau tôi vẫn luôn luôn sống bên cạnh Ngài trong những năm cuối cùng trước khi Ngài viên tịch.
Kết quả là tôi đă trở nên một người hoàn toàn thay đổi, thái độ của tôi đối với cuộc đời đă đổi hẳn kể từ khi đó. Đó là do ảnh hưởng lạ lùng của đức Ramakrishna. Ngài gieo một sự xúc cảm tâm linh mănh liệt cho tất cả những ai đến viếng Ngài. Ngài làm cho họ say mê, ngây ngất. Thậm chí những kẻ nặng mùi vật chất định đến để đùa cợt chế nhạo, đều câm miệng v́ ngạc nhiên trước mặt Ngài.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Nhưng làm sao những người đó có thể cảm thấy kính phục trước vấn đề tâm linh, một vấn đề mà họ không hề tin tưởng?
Đức Mahasaya mỉm cười đáp:
- Ta hăy đưa hạt tiêu cho hai người nếm thử. Một người biết rơ và đă quen mùi, c̣n người kia chưa biết hạt tiêu là ǵ. Tuy vậy, phải chăng cả hai người cùng nếm một hương vị giống như nhau? Phải chăng cả hai người cùng cảm giác được vị cay của hạt tiêu trên đầu lưỡi? Cũng y như thế, người vật chất phàm tục tuy không biết ǵ về sự cao cả tâm linh của đức Ramakrishna, nhưng không phải v́ thế mà họ không nếm được cái ảnh hưởng tâm linh thấm nhuần nó toát ra từ toàn thân Ngài.
- Như vậy, phải chăng Ngài quả là một bậc Siêu Nhân?
- Đúng thế, và theo tôi tưởng th́ Ngài c̣n cao hơn bực đó nữa. Ramakrishna là một người giản dị, dốt chữ và thất học. Ngài dốt chữ đến nỗi không viết được chữ kư tên, đừng nói chi viết một lá thư. Ngài rất khiêm tốn về h́nh dáng bề ngoài, và c̣n khiêm tốn hơn nữa về cách sinh hoạt. Tuy thế, Ngài thâu phục được tấm ḷng tôn kính sùng mộ của những bậc thượng lưu trí thức đương thời của xứ Ấn Độ.
Những người này phải cúi đầu trước cái mănh lực tâm linh cao cả của Ngài nó tỏa ra một cách thật sự đến nỗi người ta có thể cảm giác được. Ngài dạy chúng ta biết rằng những tiền tài danh vọng, giàu sang, địa vị, quyền tước ở đời này chỉ là những thứ phù vân không đáng kể so với đạo đức tâm linh, và chỉ là những tṛ hư ảo nó gạt gẫm giác quan con người.
Những ngày tuyệt diệu thuở xưa kia, nay c̣n đâu. Hồi đó, Ngài thường hay đắm ch́m trong những cơn đại định có một tính cách thiêng liêng đến nỗi chúng tôi ngồi chung quanh Ngài trong khi đó cảm thấy Ngài dường như là một vị Thần Thánh chớ không phải là Người.
Một điều lạ, là Ngài có cái quyền năng đưa những đệ tử vào cái trạng thái xuất thần nhập định đó với một cái sờ nhẹ bằng bàn tay. Trong trạng thái đó, họ có thể hiểu những điều huyền diệu thâm sâu về đấng Thiêng Liêng bằng sự linh cảm trực tiếp. Để tôi nói cho anh nghe Ngài đă ảnh hưởng đến tôi như thế nào.
Tôi đă hấp thụ một sự học vấn theo giáo dục Âu Tây và lấy làm tự hào về cái kiến thức của ḿnh. Tôi đă từng làm giáo sư Đại Học ở Calcutta, dạy các môn văn khoa, Anh ngữ, lịch sử và môn kinh tế chính trị. Hồi đó đức Ramakrishna ở tại đền Dakshineswar, cách thành phố Calcutta chừng vài dặm.
Tại đó, một ngày mùa xuân mà tôi vẫn nhớ măi, tôi đă gặp Ngài bày tỏ với những lời lẽ giản dị những ư tưởng về tâm linh do kinh nghiệm trực tiếp của Ngài. Tôi định thử bàn luận vài điều, nhưng tôi không nói được ǵ cả trước sự có mặt thiêng liêng của Ngài, mà ảnh hưởng đối với tôi quá thâm trầm sâu sắc để có thể thốt ra bằng lời.
Từ đó trở đi, tôi lại đến viếng Ngài nhiều lần, và không thể nào ở cách xa Ngài được nữa, cho đến một ngày kia, đức Ramakrishna nói đùa một cách hài hước:
- Có người đem cho con công ăn một liều thuốc phiện. Qua ngày hôm sau, con công lại đến vào đúng giờ như hôm qua. Nó đă say mê mùi thuốc phiện và đến t́m một liều khác.
Quả thật đúng như vậy. Tôi không bao giờ từng được hưởng những giờ phút an lạc tuyệt vời như khi tôi sống gần đức Ramakrishna. V́ thế, không ai lạ ǵ mà thấy tôi trở lại với Ngài luôn luôn. Bởi đó, tôi đă trở nên một trong những đệ tử thân tín của Ngài, khác hẳn với những khách viếng thăm qua đường. Một ngày kia, Sư phụ bảo tôi:
- Thầy nhận trong tướng mặt, cặp mắt và chân mày của con có những dấu hiệu chỉ rằng con là một người Yogi. Con hăy làm việc hết ḷng, nhưng vẫn để tâm trí của con nơi đấng Thiêng Liêng. Gia đ́nh, cha mẹ, vợ con, con hăy sống với họ và nuôi dưỡng họ như những người thế gian. Con rùa bơi lội trên mặt hồ, nhưng tâm trí nó vẫn đặt ở một nơi trên hồ mà nó để trứng. Con hăy làm công việc thế gian, nhưng hăy đặt tâm trí nơi Thượng Đế.
Sau khi Sư Phụ chúng tôi từ trần, phần nhiều các đệ tử t́nh nguyện xuất gia, khoác bộ áo vàng và đem truyền bá giáo lư của đức Thầy ở khắp nơi trong xứ Ấn Độ. Riêng tôi, tôi không bỏ nghề nghiệp cũ và vẫn tiếp tục dạy học. Tuy nhiên, tôi đă quyết định dứt bỏ cuộc đời trần thế tự trong tâm, mặc dầu bề ngoài tôi vẫn sống như mọi người.
Có nhiều đêm, tôi đi lang thang như kẻ không nhà, và ngủ trên các vỉa hè của thành phố, chung lộn với những lẻ ăn mày hành khất. Điều này đem đến cho tôi cái cảm giác, ít nhất là tạm thời, của một người cùng đinh không tài sản không gia đ́nh.
Ramakrishna không c̣n nữa, nhưng nếu anh đi châu du khắp xứ Ấn Độ, anh sẽ thấy những công tŕnh cứu tế xă hội, từ thiện, y tế và giáo dục được thực hiện khắp nơi trong xứ dưới sự hướng dẫn của những vị đệ tử của Ngài thuở xưa, mà phần đông nay cũng đă qua đời.
Điều mà anh không thấy một cách hiển hiện rơ ràng là những người đă hoàn toàn thay đổi tâm tính và xoay hướng cuộc đời của họ, nhờ ảnh hưởng của đức Tôn Sư. Giáo lư của Ngài đă được truyền khẩu qua các vị đệ tử, những vị này về sau lại truyền bá rộng răi trong dân chúng.
Tôi đă được hân hạnh ghi chép những lời dạy của Ngài bằng tiếng Bengali, những sách vở in ra những giáo lư đó rất phổ thông khắp cả mọi gia đ́nh trong tỉnh Bengale và những bản dịch cũng được phát hành đi khắp các vùng ở Ấn Độ. Như thế, anh thấy ảnh hưởng của Ramakrishna đă bành trướng rộng răi như thế nào ngoài ṿng của nhóm đệ tử thân tín.
Đức Mahasaya ngừng nói và đắm ch́m trong im lặng. Tôi nh́n kỹ gương mặt của Ngài và lấy làm ngạc nhiên mà thấy rằng Ngài có những nét mặt và màu da không giống như của người Ấn Độ. Diện mạo và cốt cách của Ngài thật là cao quư đạo mạo tuyệt vời. Ḷng hảo tâm, thiện chí, đạo đức, từ bi và thành thật của Ngài biểu lộ rơ ràng. Ngài có cái đức tự trọng của một người đă từng sống một cuộc đời hoàn toàn tuân theo tiếng gọi của lương tri.
Tôi hỏi:
- Không biết đức Ramakrishna sẽ nói như thế nào với một người không thể chỉ sống bằng đức tin mà thôi, mà c̣n phải thỏa măn lư trí nữa?
- Ngài sẽ bảo người ấy hăy cầu nguyện. Cầu nguyện là một sức mạnh rất nhiệm mầu. Chính Ramakrishna đă cầu nguyện Thượng Đế hăy gởi đến cho Ngài những người có đạo tâm, và sau đó ít lâu, liền xuất hiện những người dốc ḷng t́m đạo, về sau trở nên những vị đệ tử của Ngài.
- Nhưng nếu người ấy chưa từng cầu nguyện bao giờ, th́ làm sao?
- Cầu nguyện là cái phương tiện, nó là cái phương sách tối hậu của con người. Khi nào lư trí của y thất bại, th́ cầu nguyện sẽ giúp y đạt tới mục đích.
- Nhưng nếu có người nói rằng sự cầu nguyện không thích hợp với bản tính của họ, th́ ông sẽ nói sao?
- Nếu vậy, người ấy hăy nên thường giao du, kết hợp với những bậc chân tu đại đức đă từng có nhiều kinh nghiệm về đường tâm linh. Sự tiếp xúc gần gũi với những bậc ấy sẽ giúp cho y khai mở đạo tâm hăy c̣n tiềm tàng của y. Những vị đă tiến hóa cao có thể giúp chúng ta hướng tâm tư ư chí của ḿnh theo về những mục đích cao cả. Trên hết mọi sự, các vị ấy kích thích cho chúng ta có một ḷng mong ước mănh liệt muốn sống một cuộc đời tâm linh.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 791 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 3:26pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ
Bởi vậy, sự tiếp xúc giao thiệp với những bậc đó là một bước đầu tiên rất quan trọng, và nó cũng thường là bước cuối cùng, như Ramakrishna vẫn thường nói. Như thế, chúng tôi thường đàm luận về những vấn đề đạo đức tâm linh trong những ngày tôi c̣n lưu trú ở Calcutta.
Suốt những buổi chiều, luôn luôn có khách đến viếng cho đến khi gian pḥng chứa đầy những người Ấn Độ, đệ tử của đức Mahasaya. Họ đến đều đều mỗi đêm và bước lên thang lầu của ngôi nhà để nghe một cách chú ư mỗi lời nói do thầy của họ thốt ra. Tôi cũng nhập bọn với họ trong thời gian.
Tôi đến đều đều mỗi đêm thật ra không phải để nghe đức Mahasaya thuyết pháp, mà là để tẩm ḿnh trong bầu không khí tâm linh sáng lạn do sự hiện diện của Ngài tạo nên. Bầu không khí chung quanh Ngài thật là tốt lành, êm đẹp, dịu dàng và đầy thiện cảm, Ngài đă t́m thấy sự an lạc bên trong và cái an lạc đó tỏa ra chung quanh một cách thật sự, dường như người ta có thể cảm biết được.
Tôi thường không nhớ hết những lời nói của Ngài thốt ra, nhưng tôi không thể nào quên cái phong độ hiền từ, nho nhă của Ngài. Trước kia đức Ramakrishna đă từng hấp dẫn Ngài như thế nào, th́ ngày nay Ngài cũng hấp dẫn tôi giống y như thế, và tôi bắt đầu hiểu rằng nếu Ngài là đệ tử mà có một sức thu hút mănh liệt như thế đối với tôi, th́ vị Tôn Sư Ramakrishna c̣n có ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu rộng đến đâu.
Đêm ấy là đêm cuối cùng mà tôi có mặt tại nhà đức Mahasaya. Tôi quên cả thời gian khi tôi ngồi bên cạnh Ngài trên chiếc giường gỗ. Giờ khắc trôi qua một cách mau chóng, sau khi chúng tôi đă dứt câu chuyện, Ngài cầm tay tôi và dắt tôi ra đứng trên nóc bằng để hóng mát. Dưới ánh trăng rằm trong sáng, tôi nh́n thấy những cây kiểng và những khóm hoa đựng trong chậu sắp thành hàng coi rất đẹp.
Dưới chân chúng tôi, chiếu muôn ngàn ánh đèn rực rỡ của thành phố Calcutta. Đức Mahasaya đứng yên lặng cầu nguyện trong một lúc, khi đă xong, Ngài mới day lại, đưa tay lên ban ân huệ và đặt nhẹ bàn tay lên trán tôi.
Tôi cúi đầu một cách khiêm tốn trước mặt Ngài, tuy rằng tôi không có ḷng tín ngưỡng tôn giáo. Sau một lúc im lặng, Ngài nói với một giọng nhẹ nhàng:
- Sứ mạng của tôi đă gần chấm dứt. Cái thể xác này đă gần làm tṛn công việc của nó trong kiếp hiện tại. Anh hăy nhận lấy ân huệ của tôi trước khi tôi đi.
Ngài đă làm tôi xúc động một cách lạ lùng. Bận về, tôi đi bách bộ thơ thẩn qua nhiều đường phố và quên cả giấc ngủ. Tôi nghĩ rằng nếu ở thế gian này có một người nào có thể làm cho tôi thoát khỏi sự hoài nghi và sống với một đức tin đơn giản, th́ người đó không ai khác hơn là vị danh sư Mahasaya.
Bác sĩ Bandyo, giám đốc một bệnh viện tại Calcutta, là một trong những chuyên viên giải phẫu có tài nhất ở thành phố này. Ông đă thực hiện được tất cả sáu ngàn cuộc giải phẫu, và tôi đă có dịp thảo luận với ông về một vài điều hiểu biết về khoa Hatha Yoga mà tôi đă thâu nhập được. Tầm kiến thức rộng răi của ông về ngành Y học và khoa Cơ Thể Học đă giúp ích cho tôi hiểu thêm về vấn đề Yoga trên một b́nh diện khoa học.
Bác sĩ nói:
- Tôi hầu như không biết ǵ về khoa Yoga. Đó là một vấn đề mới lạ đối với tôi. Tôi cũng chưa từng gặp một người Yogi nào, ngoài ra Narasingha Swami, người này đến Calcutta cách đây không lâu.
Tôi hỏi thăm về người Yogi này, nhưng câu trả lời làm tôi thất vọng:
- Narasingha Swami đă đến Calcutta, gây một luồng dư luận sôi nổi, rồi sau đó đi đâu không ai biết. H́nh như y đă sống ẩn dật trong vùng nội địa trước khi đến thành phố này, như vậy có lẽ y đă trở về nơi am thất của y.
- Xin bác sĩ cho biết việc ǵ đă xảy ra?
- Y đă làm cho cả thành phố bàn tán về y trong một thời gian ngắn. Người đă khám phá ra y là bác sĩ Neoghy, giáo sư Hóa học tại trường Đại Học Calcutta, cách độ một hai tháng về trước tại Madhupore. Bác sĩ Neoghy thấy y liếm vài giọt của một chất cường toan rất độc, và để than hồng vào miệng ngậm cho đến khi ḥn than tắt hẳn.
Bác sĩ lấy làm ngạc nhiên và mời người Yogi đến Calcutta. Trường Đại Học của thành phố này liền tổ chức một buổi tŕnh diễn công cộng để cho Narasingha biểu diễn quyền năng của y trước một cử tọa gồm toàn là các nhà bác học và y sĩ. Tôi cũng có trong số những người được mời đến chứng kiến.
Cuộc biểu diễn được tổ chức tại giảng đường Vật Lư Học. Chúng tôi là một thành phần gồm các nhà khoa học, có một khối óc phê b́nh chặt chẽ, và như ông đă biết, tôi ít có chú ư đến các vấn đề tôn giáo, Yoga, và những vấn đề tương tự, v́ tôi đă để hết thời giờ và tâm trí vào ngành Y khoa.
Người Yogi đứng ngay chính giữa giảng đường, và người ta đưa cho y những thứ thuốc độc lấy trong pḥng thí nghiệm hóa học của trường. Trước hết, chúng tôi đưa cho y một lọ lưu huỳnh toan (acide sulfurique). Y rót vài giọt trên ḷng bàn tay của y và đưa lưỡi liếm. Kế đó người ta đưa cho y một lọ cường toan Phenol, và y cũng làm như trên. Chúng tôi liền thử với một loại thuốc độc dữ nhất, là chất Cyanure de Potassium, nhưng y nuốt luôn cả thứ này mà vẫn dửng dưng như không.
Sự kiện này thật là lạ lùng và thật không thể nào tin được, tuy nhiên chúng tôi vẫn phải chấp nhận bằng chứng hiển nhiên đang diễn ra trước mắt chúng tôi. Y đă nuốt một liều Cyanure de Potassium đủ mạnh để giết chết một người trong ṿng ba phút đồng hồ; tuy thế, y vẫn đứng trơ trơ nhăn răng cười và không suy chuyển tí nào cả.
Sau đó, một chai thủy tinh dầy được đập vỡ ra từng mảnh và tán ra thành bột. Narasingha Swami nuốt luôn cả thứ bột miểng chai này, là một thứ giết người một cách chậm chạp. Ba giờ sau khi y đă nuốt trôi bữa ăn khác thường này, một vị bác sĩ trong bọn liền đặt ống bơm vào bao tử của người Yogi và bơm ra những ǵ c̣n lại. Những loại thuốc độc kể trên vẫn c̣n y nguyên trong bao tử. Qua ngày hôm sau, người ta nhận thấy chất bột miểng chai trộn lẫn với phân của y đi đại tiện ra ngoài.
Cuộc thí nghiệm của chúng tôi đă quá rơ ràng. Người ta thử lại cái cường độ của chất lưu huỳnh toan, th́ thấy nó làm tan ră một vật bằng đồng. Trong số những người có mặt trong cuộc tŕnh diễn, có sir C.V Raman, nhà bác học trứ danh chiếm giải thưởng Nobel, ông này tuyên bố rằng cuộc tŕnh diễn của người Yogi là một sự thách thức lớn lao đối với khoa học hiện tại.
Khi chúng tôi hỏi Narasingha Swami làm sao y có thể bắt thể xác của y chịu đựng được những sự thí nghiệm đó, th́ y nói rằng ngay sau khi trở về nhà, y liền ngồi xuất thần nhập định theo phương pháp Yoga, và bằng cách tập trung tư tưởng, y sẽ phá tan ảnh hưởng khốc hại của các thứ thuốc độc.
Tôi được biết rằng Narasingha Swami đă trở lại Calcutta sau đó ít lâu và đi qua Ngưỡng Quang (Rangoon), thủ đô Miến Điện. Tại đây, y cũng trổ tài trong một cuộc tŕnh diễn tương tự, nhưng khi về đến nhà, v́ có khách đến th́nh ĺnh nên y quên ngồi nhập định và xuất thần theo như thường lệ. Kết quả là y đă bị thuốc độc vật ngă một cách mau chóng và chết sau đó.
Tôi bèn hỏi bác sĩ Bandyo:
- Bác sĩ có thể giải thích sự kiện này bằng lư luận Y học được chăng?
Vị bác sĩ lắc đầu:
- Không, tôi không thể giải thích nổi. Việc này hoàn toàn làm tôi ngạc nhiên và không hiểu ra sao cả.
Khi tôi trở về nhà, tôi lục trong mớ tài liệu cất kỹ trong rương để t́m quyển sổ mà tôi đă ghi chép những cuộc nói chuyện của tôi với Brama, người đạo sĩ trên bờ sông Adyar độ nọ. Tôi lật qua vài trang và thấy những ḍng tài liệu này:
"Những thuốc độc dầu mạnh đến bực nào cũng không thể làm hại được đạo sĩ đă thực hành giai đoạn Đại Công Phu. Giai đoạn này gồm có sự phối hợp một vài loại tư thế, phép khí công, luyện ư chí và tập trung tư tưởng. Theo truyền thuyết của môn phái chúng tôi, nó làm cho người Đạo sĩ có cái quyền năng nuốt vào bụng bất cứ vật ǵ, dầu là thuốc độc mà không tổn hại đến sức khỏe.
Đó là một phép công phu rất khó và phải được luyện tập một cách đều đặn và thường xuyên, nếu muốn cho có kết quả tốt đẹp. Tôi có nghe nói về một người Yogi sống ở thành Bénarès có thể uống rất nhiều thuốc độc mà không sao cả. Vị Yogi này tên là Trailingya Swami, y rất có tiếng tăm ở thành phố này hồi thời kỳ đó, nhưng y đă qua đời từ nhiều năm nay.
Trailingya là một đạo sĩ có bản lĩnh rất cao cường về môn Hatha Yoga. Y thường ngồi trên bờ sông Hằng suốt nhiều năm, gần như không mặc áo quần ǵ cả, nhưng không ai có thể nói chuyện được với y, v́ y đă phát nguyện giữ tịnh khẩu."
Tôi tưởng rằng sự kiện này thật là không thể tin và không thể có được, th́ những lời Brama đă giải thích cho tôi rơ lần đầu tiên về vấn đề này.
Đôi khi tôi đă lấy làm thắc mắc về những việc làm không thể tin và không thể hiểu được của những người đạo sĩ Yogi. Nhưng biết đâu, có lẽ họ nắm giữ được những bí quyết mà đời sống của người phương Tây đang cố gắng để khám phá bằng một ngàn cuộc thí nghiệm khoa học?
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 792 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 4:40pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ
Vị Pháp Sư Thành Ba Nại La
Chương Chín
Chuyến xe lửa của tôi vọt lên chiếc cầu sắt lớn bắc ngang qua sông Hằng cổ kính và thiêng liêng, phát ra những tiếng động ầm ầm càng biểu lộ thêm một bằng chứng xâm lăng của thế hệ cơ giới tân tiến đối với một xă hội cổ xưa và bảo thủ. Con sông Hằng linh thánh chắc sẽ không c̣n linh thánh được bao lâu nữa khi mà những người ngoại chủng vô tín ngưỡng bắt đầu phóng những đoàn hỏa xa gầm thét như sống động vượt ngang ḍng nước xám xanh và yên lặng của nó.
Thành Ba Nại La! Sử Ấn Độ chép rằng Ba Nại La là một thành phố đă có từ mười hai thế kỷ trước Tây lịch kỷ nguyên. Người Ấn Độ coi thành phố này như một nơi Thánh Địa. Giàu hay nghèo, sang hay hèn, tất cả mọi người ở khắp mọi nơi trong xứ đều chiêm ngưỡng Thánh Địa Ba Nại La, và cố gắng đi đến đây ít nhất là một lần trong một đời người để được tẩm ḿnh trong bầu không khí linh thiêng.
Những kẻ đau ốm, hấp hối cũng t́m mọi phương tiện để có mặt ở nơi đây trong những ngày cuối cùng của họ, v́ họ tin rằng chết ở đất Thánh sẽ được vĩnh viễn thăng lên cơi Thiên Đàng và thoát khỏi ṿng Luân Hồi Sinh Tử.
Qua ngày hôm sau, tôi đi thẩn thơ qua các đường phố nhỏ hẹp trong thành phố để t́m nhà của một vị pháp sư, mà một người đệ tử ở Bombay đă cho tôi địa chỉ. Tôi đi qua những con đường chật hẹp đến nỗi một chiếc xe không thể chui lọt vào. Tôi đi lần theo những phố xá buôn bán đông đảo tấp nập, tại đây người ta thấy nhiều sắc dân đủ mọi chủng tộc và đủ mọi hạng người trong xă hội chen chúc lẫn nhau.
Khu vực này gồm có nhiều đường quanh co khúc khủyu, đi vào đây người ta có cảm giác như đi lạc vào một Mê Hồn Trận. Thêm vào đám rừng người hỗn tạp đó là những con chó hoang chạy rong và những bầy ruồi nhặng bu ở các quầy hàng.
Có những bà lăo tóc bạc da mồi, mắt ḷa chân chậm, những thiếu phục c̣n trẻ, gương mặt nơn nà, mặc những chiếc Sari màu mè sặc sỡ, những người đi hành hương tay lần chuỗi bồ đề, miệng lầm thầm tụng niệm những câu chân ngôn mà họ lập đi lập lại có lẽ đến năm chục ngàn lần. Những tu sĩ khổ hạnh khoác bộ áo vàng, chống gậy lê bước đi chậm răi, nét mặt trầm tư, và c̣n bao nhiêu nhân vật khác nữa, tất cả đều cùng chen chúc nhau trên những con đường nhỏ hẹp từ khu mê lộ này đưa xuống tận bờ sông Hằng.
Tôi đi lần theo một khu phố náo nhiệt ồn ào, màu sắc rực rỡ. Vừa qua một khúc quanh, tôi đă đứng trước cổng ngôi Đền Vàng, là một ngôi đền rất được sùng thượng trong các giới tôn giáo chính thống ở Ấn Độ. Có những người tu sĩ hành khất bôi tro đầy ḿnh, ngồi xếp thành hàng ở ngoài cổng đền. Những người hành hương ra vào tấp nập không dứt, có người đem những tràng hoa vào đền, màu hoa tươi sặc sỡ coi rất vui mắt. Những người từ trong đền bước ra kính cẩn cúi đầu rạp xuống, lấy trán đụng vào bực thềm đá trước cổng rồi mới ra đi.
Hai mái bầu tṛn, làm bằng vàng khối rất dày, chói ḷa dưới ánh nắng mặt trời. Những con két kêu vang bu lại rất đông trên một ngọn tháp gần bên. Ngôi Đền Vàng này thờ thần Shiva, một vị Thần tối cao của Ấn Giáo.
Tôi vẫn tiến bước, đến gần ngưỡng cửa của một ngôi đền khác và nh́n xem người ta đang lễ Thần Krishna. Người ta đốt chất long năo trước một tượng Thần bằng vàng, tiếng chuông trong đền ngân không dứt, tiếng tù và thổi vang tai. Một vị sư tăng gầy g̣ khắc khổ bước ra và nh́n tôi với cặp mắt ḍ xét. Tôi liền bước đi chỗ khác.
Tôi đi xuyên qua những con đường tối tăm, chật hẹp, để t́m nhà vị pháp sư. Sau cùng, tôi đến một con đường có những ṭa nhà to lớn đồ sộ, trước nhà có sân rộng răi khoảng khoát. Tôi tiến đến một cửa cổng bên ngoài có một tấm bia đá khắc chữ "Vishudha" Tôi bước vào cổng, v́ đây là ngôi nhà mà tôi t́m kiếm, và tiến đến gần một người ngồi ở ngoài hàng ba. Đó là một thanh niên có vẻ mặt thông minh lanh lợi. Tôi hỏi thăm vị Pháp Sư và được đưa vào trong nhà.
Trong một gian pḥng rộng răi, tôi thấy có một nhóm người Ấn Độ ăn mặc chỉnh tề, ngồi xếp bằng theo h́nh bán nguyệt dưới sàn gạch. Một vị trưởng lăo có một cḥm râu bạc ngồi dựa trên một chiếc divan ở chỗ cuối pḥng. H́nh dáng khả kính và chỗ ngồi danh dự của người này cũng đủ cho tôi biết rằng đây là người mà tôi t́m kiếm. Tôi chắp tay chào theo kiểu Ấn Độ, hai ḷng bàn tay giao nhau đưa lên trước trán, và nói Shànti (chúc Thầy b́nh an).
Tôi tự giới thiệu là một nhà văn đi du lịch ở Ấn Độ để học hỏi về môn Triết học và Đạo học của xứ này. Tôi cũng biết rơ là người đệ tử mà tôi đă gặp, có giải thích cho tôi biết rằng Thầy y không bao giờ biểu diễn những quyền năng ở nơi công cộng, và dầu cho ở chỗ kín đáo trong tư thất, người cũng không phô trương những quyền năng đó trước mặt những người ngoại quốc.
Tuy nhiên, v́ lẽ tôi có một sự thích thú sâu xa đối với nền minh triết cổ truyền của họ, tôi yêu cầu họ thông cảm và đối xử với tôi như là một trường hợp ngoại lệ.
Những vị đệ tử giương mắt nh́n nhau, và day lại nh́n Thầy họ, như để chờ đợi câu trả lời. Vishudha có lẽ đă trên bảy mươi tuổi, người có một sống mũi ngắn và một bộ râu dài, đôi mắt lớn và sâu sắc. Trên cổ có đeo một sợi dây Thánh, biểu hiện của giai cấp Bà La Môn.
Người phóng tầm nhăn quang nh́n thẳng vào tôi, chẳng khác nào tôi là một vật thí nghiệm dưới một ống kính phóng đại. Tôi cảm thấy có một cái ǵ lạ lùng nó là thức động đến tâm hồn tôi, quả thật một mănh lực huyền bí dường như phảng phất trong gian pḥng này.
Sau cùng, vị Pháp Sư thốt ra vài lời bằng tiếng Bengali với một người đệ tử, người này bèn day lại và cho tôi biết rằng Thầy y bằng ḷng tiếp kiến tôi, nếu tôi dắt theo bác sĩ Kavir, giám đốc trường Phạn ngữ của chánh phủ, để làm thông ngôn. Bác sĩ Kavir vừa biết tiếng Anh thành thạo, vừa là đệ tử thâm niên của pháp sư Vishudha, và sẽ là một người thông ngôn lư tưởng cho chúng tôi. Pháp sư nói:
- Anh hăy đến vào lúc chiều mai. Tôi sẽ đợi anh vào lúc bốn giờ.
Tôi đành phải ra về. Ra đến đường cái, tôi gọi một chiếc xe ngựa để đi đến trường Phạn ngữ nhưng ông Giám Đốc không có ở đó, có người nói chắc ông ta đă về nhà, tôi bèn ra xe đi thêm một chặng đường gần hết nửa tiếng đồng hồ nữa. Sau cùng tôi gặp ông ta ở một ngôi nhà cao hai tầng.
Bác sĩ Kavir ngồi trên lầu, giữa những chồng sách và giấy tờ chất cao như núi ở chung quanh. Ông ta có một gương mặt sáng sủa và thông minh của một nhà học giả. Tôi nói lư do cuộc thăm viếng của tôi, người hơi do dự, nhưng sau cùng người bằng ḷng cùng đi với tôi ngày hôm sau. Sau khi đă hẹn chắc tôi bèn kiếu từ.
Tôi đi thẳng xuống bờ sông Hằng, bước lên bực thang bằng đá xây thành một dăy dài và cao đến mấy trăm nấc dọc theo bờ sông để cho những người hành hương bước xuống sông tắm. Trải qua nhiều thế kỷ, những bực đá này cũng đă chịu sự tàn phá của thời gian, nhiều nơi đă sụp đổ và loang lổ.
Có những ngón tháp đă ngả nghiêng và sụp xuống nước. Những đền đài dinh thự nguy nga đồ sộ ở ven bờ sông chen chúc lẫn nhau cái cao cái thấp dường như tranh nhau một chỗ đứng danh dự trên bờ sông Hằng linh thiêng. Người Ấn Độ rất mực tôn sùng và tượng trưng sông Hằng như một vị Nữ Thần đem lại nguồn sống cho vùng đồng bằng ph́ nhiêu của miền Bắc Ấn.
Những tu sĩ, tăng lữ, và người hành hương đều có mặt ở khắp nơi. Tôi nhận thấy có vài nhà bác học Ấn đang dạy học tṛ trong những gian pḥng nhỏ và lộ thiên, thầy ngồi giữa trên những tấm nệm, học tṛ ngồi xếp bằng dưới đất ở chung quanh, đang cố gắng thâu thập những giáo lư từ ngh́n đời của tôn giáo họ.
Một nhà tu khổ hạnh râu ria xồm xoàm làm cho tôi chú ư. Hỏi thăm người chung quanh th́ nghe nói y đă lăn ḿnh dưới đất đến bốn trăm dặm đường trường, không quản bụi bặm chông gai, mưa nắng dăi dầu, để đến Thánh Địa Ba Nại La, thật là một cách đi hành hương lạ lùng và hi hữu, có một không hai ở trên đời này. Ở một góc kia, tôi gặp một nhân vật khác có cái h́nh dáng kỳ dị: Y đă đưa một cánh tay thẳng lên trời từ nhiều năm nay.
Những gân cốt trên cánh tay đă ră rời khô kiệt, c̣n các bắp thịt th́ đă khô và teo lại, da cũng khô như tờ giấy. Làm sao có thể giải thích được những cuộc biểu diễn vô lư và kém mỹ thuật này, nếu không phải là mặt trời vùng nhiệt đới đă làm cho họ bị loạn trí hay loạn thần kinh? Rất có thể rằng sự sống dưới một khí hậu năm mươi độ trong bóng mát đă làm đảo lộn mọi sự thăng bằng trí năo của một dân tộc vốn sẵn có máu cuồng tín từ trong huyết quản.
Qua ngày hôm sau, đúng bốn giờ chiều, bác sĩ Kavir và tôi cùng đến nhà vị pháp sư, bước vào gian pḥng lớn và lễ phép chào vị chủ nhân. Có độ sáu người đệ tử cũng đang có mặt tại đó.
Pháp sư Vishudha mời tôi ngồi xích lại gần, tôi bèn ngồi xếp bằng cách giường độ vài thước. Người hỏi tôi:
- Anh có muốn xem một vài pháp thuật của tôi chăng?
Tôi mừng rỡ đáp:
- Nếu pháp sư vui ḷng cho xem, th́ thật là vô cùng hân hạnh.
- Vậy anh hăy đưa cho tôi cái khăn tay của anh. Nếu khăn bằng lụa th́ càng hay. Tùy ư anh muốn có một loại hương thơm nào, th́ mùi hương đó sẽ được đem đến cho anh chỉ bằng một cái kính phóng đại và ánh sáng mặt trời dùng làm phương tiện.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 793 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 4:42pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ
Cũng may trong lúc đó tôi có mang theo một chiếc khăn tay bằng lụa, tôi liền đưa cho vị pháp sư. Người lấy ra một cái kính phóng đại nhỏ và giải thích rằng người muốn thâu ánh sáng mặt trời, nhưng v́ vị trí của mặt trời trong lúc đó bị mái nhà che khuất nên không thể thâu một cách trực tiếp.
Tuy nhiên, người có thể vượt qua sự chướng ngại đó bằng cách cho một người đệ tử ra đứng ngoài sân, người này sẽ dùng một mảnh kính thường và rọi ánh nắng vào pḥng xuyên qua một cửa sổ.
Vishudha tuyên bố:
- Bây giờ tôi sẽ thâu mùi hương ở trong không khí. Anh muốn thứ hương thơm nào?
- Tôi muốn có mùi hoa lài.
Y cầm cái khăn tay của tôi bên tay trái, và tay mặt cầm cái kính phóng đại đưa lên. Trong khoảng hai giây đồng hồ, một tia nắng rọi lên góc chiếc khăn lụa. Kế đó, người bỏ kính ra và đưa cái khăn cho tôi. Tôi đưa lên mũi ngửi, th́ rơ ràng là mùi thơm nồng của hoa lài đượm trên một góc của chiếc khăn.
Tôi xem kỹ cái khăn nhưng không thấy có dấu ướt và không có bằng chứng ǵ chỉ rằng một thứ dầu thơm lỏng đă được nhểu lên đó. Tôi rất ngạc nhiên và nh́n vị pháp sư với một vẻ hoài nghi. Người đề nghị biểu diễn lại một lần nữa.
Lần thứ hai, tôi chọn mùi hoa hường. Tôi chăm chú nh́n cuộc thí nghiệm lần này. Tôi ḍ xét tỉ mỉ mọi cử chỉ của y, và những ǵ xảy ra ở chung quanh. Tôi quan sát hai bàn tay và chiếc áo trắng của người đang mặc với cặp mắt ṭ ṃ, nhưng không thấy có ǵ khả nghi. Người lập lại cuộc biểu diễn như lần trước, và tạo nên cái mùi hoa hường thơm phức ở một góc khác của cái khăn.
Lần thứ ba tôi chọn mùi hoa tím. Lần này người cũng thành công như những lần trước. Vishudha có vẻ rất thản nhiên với sự thành công này. Người coi cái tṛ biểu diễn này dường như một việc tầm thường xảy ra hàng ngày, không hề nở một nụ cười.
Th́nh ĺnh người tuyên bố:
- Bây giờ đến lượt tôi chọn mùi hương. Tôi sẽ tạo nên mùi hương của một thứ hoa chỉ mọc ở bên xứ Tây Tạng.
Người thâu ánh nắng mặt trời lên góc cuối cùng của chiếc khăn tay. Lần này người tạo ra một mùi thơm thứ tư, mà tôi không biết là mùi hoa ǵ.
Hơi ngạc nhiên, tôi bèn đút chiếc khăn tay của tôi vào túi. Việc này có lẽ dường như là một phép lạ. Hay là người dấu những loại dầu thơm này trong người chăng? Hoặc trong áo chăng? Nếu như thế, th́ chắc người phải dấu tất cả một lô rất nhiều thứ dầu thơm, bởi v́ y không thể biết tôi sẽ chọn thứ mùi hoa nào. Chiếc áo dài đang mặc không thể nào chứa đựng hết cả một lô đủ những dầu thơm cần thiết, vả lại người không hề đút tay vào áo một lần nào.
Tôi xin người cho tôi xem cái kính phóng đại. Đó chỉ là một loại kính phóng đại thường, lồng trong một cái khung thép tṛn với một cái bàn nhỏ cũng bằng thép. Tôi không thấy có ǵ khả nghi, ngoài ra, không phải chỉ có một ḿnh tôi ḍ xét từng cử chỉ của vị Pháp Sư.
Chung quanh người c̣n có khoảng sáu người đệ tử. Vị bác sĩ đă cho tôi biết rằng tất cả đều là những người có địa vị, có học thức rộng và chức nghiệp cao. Người dùng thuật thôi miên chăng? Điều này có thể thử biết được, khi về nhà, tôi sẽ đưa cái khăn cho những người khác xem.
Vishudha c̣n định cho tôi xem một phép thuật khác kỳ diệu hơn, tuy rằng phép thuật này người ít khi nào biểu diễn cho người khác xem, người cho biết thêm rằng, để biểu diễn cái tṛ thứ hai này sẽ cần có ánh mặt trời nắng gắt. Khi đó mặt trời đă sắp lặn và trời sắp tối. Tôi phải đến lần sau vào lúc giữa trưa của một ngày cuối tuần, người sẽ trổ phép thuật làm cho một sinh vật đă chết tạm thời sống lại được.
Tôi bèn kiếu từ và trở về nhà, tôi đưa cái khăn tay cho ba người xem. Mỗi người đều nhận thấy rằng nó vẫn c̣n tiết ra những mùi thơm nồng nặc. Như vậy, không có thể nói rằng tôi đă bị thôi miên. Và tôi cũng không thể coi cuộc biểu diễn vừa qua như một tṛ quỷ thuật.
Tôi trở lại nhà vị pháp sư lần nữa. Người cho tôi biết rằng người có thể làm cho một sinh vật đă chết phục hồi sự sống trở lại được, nhưng chỉ có loài vật nhỏ mà thôi, và thường th́ thí nghiệm với một loại chim.
Một con chim sẻ được bóp cổ chết và đặt trước mặt chúng tôi độ một tiếng đồng hồ, để cho chúng tôi thấy rơ là nó đă chết thật. Đôi mắt của nó không c̣n chớp, toàn thân nó đă cứng đơ không chút cử động, tôi không thấy dấu hiệu ǵ chỉ rằng nó c̣n sống.
Vị pháp sư lấy kính phóng đại và rọi một tia nắng mặt trời vào một mắt của con chim. Vài phút trôi qua, không có sự ǵ xảy ra. Pháp sư chăm chú làm việc, người mở đôi mắt lớn và tập trung nhăn lực vào con chim, nét mặt lạnh lùng và cương nghị.
Th́nh ĺnh, người mở miệng thốt ra những câu thần chú kỳ dị bằng một thứ tiếng nghe rất lạ tai. Sau đó một lát, thân ḿnh con chim đă bắt đầu giật vài cái. Kế đó, cánh và lông của nó hơi giương lên, nó bắt đầu đập hai cánh, đứng dậy trên hai chân và nhảy vài cái trên sàn gạch. Nó đă sống lại, không c̣n nghi ngờ ǵ nữa.
Trong giai đoạn kế đó, con chim sẻ đă có đủ sức bay bổng và t́m chỗ cao để đậu. Thật là một chuyện khó tin đến nỗi tôi phải thâu thập tinh thần để biết chắc rằng tôi đang thức tỉnh chứ không nằm mơ. Cuộc thí nghiệm diễn ra độ nữa giờ. Th́nh ĺnh tôi lấy làm ngạc nhiên mà thấy con chim ngă xuống không cựa quậy ở ngay trước mặt chúng tôi. Tôi nh́n kỹ th́ thấy nó không thở nữa và đă chết thật. Tôi hỏi:
- Pháp sư có thể kéo dài sự sống của nó lâu hơn nữa được không?
Người đáp:
- Đó là tất cả những ǵ tôi có thể cho anh xem trong buổi hôm nay.
Vị bác sĩ kề tai nói nhỏ với tôi rằng pháp sư sẽ c̣n biểu diễn những phép thuật lạ lùng hơn nữa, nhưng chúng ta không nên lạm dụng ḷng tốt của người trong lúc này, pháp sư không phải là một nhà làm tṛ ảo thuật, và tôi hăy thỏa măn với những ǵ tôi đă thấy. Điều này càng làm cho câu chuyện trở nên bí mật thêm đối với tôi, và rốt cuộc tôi chẳng hiểu được ǵ cả.
Tôi cũng được biết rằng pháp sư có thể làm xuất hiện những chùm nho tươi từ trong khoảng không, và làm những viên kẹo ngọt với hai tay không mà thôi. Người chỉ cần nắm trong ḷng bàn tay một cái hoa đă héo, cũng đủ làm cho nó tươi tốt thơm tho trở lại như cũ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 794 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 4:44pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ
Vị pháp sư có cái bí quyết như thế nào? Tôi thử t́m hiểu vấn đề này, nhưng vẫn không t́m ra được câu giải đáp. Sự bí mật vẫn c̣n đó ở sau cái trán vồ và bí hiểm của vị pháp sư thành Ba Nại La.
Người chưa hề tiết lộ sự bí mật đó cho ai, chí đến người đệ tử thân tín nhất. Sau một cuộc điều tra kín đáo về cuộc đời của người, tôi đă thu thập được những chi tiết như sau:
Người sinh ở tỉnh Bengale, năm mười ba tuổi bị rắn độc cắn sắp chết. Người mẹ đă tuyệt vọng và muốn cho người đến trút linh hồn ở bờ sông Hằng, bởi v́ đối với người Ấn Độ, th́ không có cái chết nào tốt đẹp và thiêng liêng hơn nữa.
Người ta trầm ḿnh y xuống sông trong khi tất cả gia quyến đều tề tựu trên bờ sông để làm lễ tống táng. Sự mầu nhiệm xảy ra khi đó. Mỗi khi xác y bị trầm ḿnh xuống sông, th́ nước sông lại rút xuống dường như sông Hằng từ chối không chịu nhận lănh xác đứa trẻ trong ḍng nước chảy xiết.
Trong khi đó, một người đạo sĩ ngồi trên bờ nh́n thấy việc xảy ra như thế, liền đứng dậy và tiên đoán rằng đứa trẻ này sẽ có một định mệnh lớn lao, v́ nó sẽ trở nên một người Yogi. Người đạo sĩ liền thoa vết thương của đứa trẻ với một vài loại cỏ thuốc, và liền ra đi. Một tuần lễ sau, người trở lại và nói cho cha mẹ đứa trẻ biết rằng nó đă b́nh phục.
Quả nhiên đứa trẻ hết bịnh và mạnh khỏe như xưa. Nhưng trong tuần lễ đó, một chuyện lạ đă xảy ra: Tánh t́nh đứa trẻ bỗng nhiên thay đổi, người chán ngán cảnh sống trong gia đ́nh, và chỉ muốn bỏ nhà ra đi để trở thành một đạo sĩ. Vài năm sau, sau khi đă dày ṿ mẹ người về ư nghĩ này, người được mẹ ưng thuận cho. Người bèn ra đi để t́m Thầy học Đạo.
Người thẳng đường đi sang Tây Tạng để hy vọng t́m một danh sư trong số những nhà đạo sĩ ẩn dật ở xứ này. Người Ấn Độ vẫn luôn tin tưởng rằng người học đạo chỉ có thể tiến mau trên đường tu luyện bằng cách trở nên đệ tử của một vị danh sư đă có kinh nghiệm trên con đường này. Người thiếu niên Begali sau khi đă t́m ṭi lục lạo khắp các nơi non cao động cả, đương đầu với những cơn băo tuyết dữ dội trên miền sơn cước tuyết phủ quanh năm đành chịu thất vọng trở về tay không.
Nhiều năm đă trôi qua mà không làm giảm sút ḷng nhiệt thành của người. Người bèn ra đi lần nữa và lần này, đi băng qua những vùng sa mạc bao la ở miền Nam xứ Tây Tạng. Tại đây, trong một cḥi tranh ẩn khuất trong động đá của miền núi non hẻo lánh hoang vu mà chân người không hề đi đến, người đă gặp vị danh sư vẫn hằng t́m kiếm. Đến đây tôi nghe một chuyện mà lúc khác có lẽ tôi đă bật cười, nhưng lúc này tôi chỉ nghe mà không phản đối.
Người ta quả quyết với tôi rằng vị danh sư Tây Tạng này đă có trên một ngàn hai trăm tuổi. Họ nói điều này một cách tự nhiên và b́nh thản cũng như chúng ta nói rằng một người kia đă bốn mươi tuổi. Đây là lần thứ ba mà tôi nghe nói về những người sống lâu.
Brama đă từng quả quyết với tôi rằng sư phụ ở xứ Nepal đă trên bốn trăm tuổi. Một vị tu sĩ khác mà tôi gặp ở miền Tây một ngày kia có cho tôi biết rằng có một ngàn tuổi, và già đến nỗi hai mí mắt trên của ông ta lâu ngày chảy xệ xuống che lấp cả đôi mắt.
Tôi đă gạt bỏ những chuyện trên đây như là những chuyện hoang đường, th́ hôm nay người ta lại thuật cho tôi nghe một câu chuyện tương tự, và tin tưởng rằng những vị đạo sĩ già nọ đă t́m ra được thuốc trường sinh.
Vị danh sư Tây Tạng liền truyền dạy cho chàng thanh niên Vishudha học pháp môn Hatha Yoga. Dưới sự chỉ dẫn của Thầy, người thanh niên này lần lần tập luyện và phát triển những khả năng thể xác và tinh thần đến một mực độ phi thường. Trong mười hai năm, không quản thời tiết khắc nghiệt trên miền núi ở Tây Tạng, người gắng công tập luyện dưới sự d́u dắt của vị danh sư đă nắm được cái bí quyết của thuật trường sinh.
Sau thời kỳ huấn luyện, người được Thầy cho xuống núi trở về quê nhà, và đến lượt người trở nên một danh sư của pháp môn Yoga. Người lưu trú một thời gian ở tỉnh Puri và có một biệt thự ở tại đây.
Những đệ tử của người đều thuộc về thành phần thượng lưu trong xă hội, gồm những tay phú thương, nghiệp chủ, công chức cao cấp, trong số đó có cả một vị vương tước (Rajah). Nếu tôi không lầm th́ h́nh như người ta không khuyến khích sự nhập môn của những kẻ bạch đinh tay trắng.
Th́nh ĺnh tôi buộc miệng hỏi:
- Pháp sư làm những phép thuật ấy bằng cách nào?
Vishudha thản nhiên đáp:
- Những điều anh đă thấy không phải là thuật Yoga, mà là thuộc về một khoa học huyền bí gọi là khoa Thái Dương Học. Mục đích chính của khoa Yoga là phát triển ư chí và tinh thần, chứ không có dính dáng ǵ đến khoa Thái Dương Học. Khoa này gồm có những bí thuật mà sự thực hành không cần bắt buộc phải trải qua một sự huấn luyện đặc biệt nào. Người ta có thể học khoa này bằng những phương tiện giống như bất cứ ngành khoa học nào của Tây phương.
Báv sĩ Kavir giải thích cho tôi biết rằng khoa học này cũng gần giống như khoa điện học hay khoa từ điển. Tôi không hiểu được bao nhiêu, th́ vị pháp sư lại nói rơ thêm:
- Khoa Thái Dương Học của Tây Tạng thật ra không phải là mới lạ ǵ. Những nhà đạo sĩ Ấn Độ đă từng biết nó từ những thời đại quá khứ xa xăm nhất, nhưng ngày nay, nó đă bị mai một và thất truyền. Những tia nắng mặt trời có chứa đựng những nguồn sinh lực rất mạnh. Nếu anh có thể chọn lọc và cô lập những nguồn sinh lực đó, anh sẽ làm được những phép thuật mà tôi đă làm. Trong ánh sáng mặt trời, cũng có những mănh lực thuộc chất dĩ thái, mà người nào biết cách sử dụng sẽ làm được những điều phi thường.
- Pháp Sư có dạy khoa này cho các đệ tử chăng?
- Chưa, nhưng tôi đang chuẩn bị việc đó, tôi sẽ chọn lựa vài người đệ tử để truyền dạy những bí thuật của tôi. Hiện thời chúng tôi đang bận xây cất một pḥng thí nghiệm lớn để làm giảng đường dạy về khoa này.
- Nhưng hiện giờ Pháp Sư dạy về môn ǵ?
- Pháp môn Yoga.
Trong pḥng chỉ có vài ba người đệ tử c̣n ở lại, những người khác đă lần lượt kiếu từ. Bác sĩ Kavir ngồi bên cạnh tôi và chăm chú nh́n Thầy một cách tôn kính. Vishudha nh́n tôi và day mặt qua chỗ khác, gương mặt của người có một vẻ tôn nghiêm khác thường. Tôi thử t́m cách cảm thông với cái nét mặt nghiêm nghị đó, nhưng vô hiệu quả.
Tâm hồn của người vẫn khép chặt đối với một người Âu như tôi, chẳng khác nào như Thánh Điện thâm nghiêm của ngôi Đền Vàng ở Ba Nại La! Con người của người toát ra một mănh lực thần bí của phương Đông, và tôi cảm thấy rơ rệt rằng từ khi mới gặp nhau lần đầu, người ta đă dựng lên một bức rào cách biệt vô h́nh mà tôi không thể vượt qua.
Những cuộc biểu diễn phép thuật mà người đă làm cho tôi xem chẳng qua chỉ là một phép xă giao lịch sự bề ngoài: ở đây không phải là chỗ của những kẻ ṭ ṃ và những người đệ tử Ây Tây.
Bỗng nhiên, Pháp Sư thốt ra mấy lời thật là bất ngờ đối với tôi:
- Tôi không truyền pháp cho anh nếu không có sự chuẩn y của Tôn Sư tôi. Đó là điều kiện cần thiết hơn hết.
Người đă đọc được tư tưởng của tôi chăng, hay là người muốn nói ǵ? Tôi không hề xin làm đệ tử của pháp sư bao giờ. Tôi cũng không hề có ư muốn làm đệ tử bất cứ người nào. Vả lại, tôi cũng biết rằng một sự yêu cầu như thế chắc chắn là sẽ bị từ chối. Tôi bèn hỏi:
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 795 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 4:48pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ
- Nhưng làm sao ông có thể tiếp xúc với lệnh Tôn Sư trong khi người ở cách xa như thế?
- Chúng tôi vẫn giao tiếp thường xuyên với nhau bằng tư tưởng.
Tôi nghe rơ, nhưng tôi không tin tưởng cho lắm. Một câu hỏi khác đến trên môi của tôi:
- Thưa Pháp Sư, làm sao có được sư Bằng An?
- Nếu không thực hành pháp môn Yoga, th́ làm sao có được sự Bằng An.
- Tôi nghe nói rằng Yoga là một môn học rất khó nếu không có Thầy d́u dắt. Nhưng t́m Thầy cũng là một việc không phải là điều dễ.
Pháp Sư thản nhiên đáp:
- Nếu người đệ tử sẵn sàng th́ Thầy sẽ xuất hiện.
Tôi tỏ sự nghi ngờ về điểm này. Người nói tiếp:
- Anh hăy tự chuẩn bị sẵn sàng, sau đó, dầu là anh ở đâu, Thầy sẽ có ở đó, nếu không phải bằng thể xác th́ tất là người sẽ hiện ra trong tâm giới của anh.
- Nhưng trong trường hợp sau này, tôi phải làm sao?
- Anh hăy dành riêng mỗi ngày một ít thời giờ để tập lấy thế ngồi rất giản dị mà tôi sẽ làm cho anh xem. Đồng thời, anh hăy tập chế ngự tánh nóng giận, giảm bớt những xúc cảm và thất t́nh lục dục.
Tiếng chuông đền ngân vang, báo hiệu những cuộc lễ về đêm. Màn đêm rủ xuống rất mau chóng dưới một ṿm trời xám ngắt. Mặt trời lặn đem đến một tiếng vọng khác: Từ trên đài cao của một ngôi đền Hồi Giáo, các giáo sĩ ngân vang những lời kêu gọi tín đồ cầu nguyện giờ chiều. Tôi ngồi trên bờ sông Hằng linh thiêng nh́n theo cảnh vật và lắng tai nghe theo ngọn gió chiều thổi vi vu xuyên qua các ngọn cây.
Một người hành khất bôi tro đầy ḿnh tiến đến gần tôi. Đây chắc là một người hành hương thuộc về một loại đặc biệt, v́ tôi nhận thấy trong cặp mắt của y chiếu một tia sáng lạ thường không phải là của trần gian. Tôi vẫn chưa hiểu rơ tất cả những ǵ là huyền bí ở cái xứ ngàn năm văn vật này.
Tôi vừa móc túi vừa tự hỏi rằng không biết cái hố sâu cách biệt giữa tôi với y có thể lấp bằng được chăng? Y nhận lấy của bố thí của tôi với một vẻ thản nhiên, đưa hai bàn tay lên trán để chào rồi rút lui.
Tôi nghĩ đến vị pháp sư có phép thuật rút hương thơm trong không khí và phục hồi được sự sống cho con chim đă chết. Sự giải thích về khoa Thái Dương Học của người không đủ thuyết phục được tôi. Lẽ tất nhiên, người ta không thể cho rằng khoa học hiện đại đă biết hết tất cả về ánh sáng mặt trời và những khả năng tiềm tàng của nó, nhưng điều này cũng chỉ lùi thêm một bước trong việc làm sáng tỏ vấn đề.
Tôi có nghe nói về hai người Yogi cũng đă rút hương thơm trong không khí như Pháp Sư Vishudha. Cả hai đều đă qua đời vào cuối thế kỷ trước, nhưng tôi có thể tin được chuyện này. Trong cả hai trường hợp, đều có một chất dầu xuất hiện trên ḷng bàn tay của người Yogi, h́nh như là từ trong thân ḿnh họ bài tiết ra, cũng như chất mồ hôi. Chất dầu này có khi khá đặc để có thể tỏa hương thơm ra khắp pḥng.
Cái đó cũng chính là cái quyền năng của Vishudha, th́ chắc là y đă chuyển hương thơm từ bàn tay của y sang chiếc khăn trong khi y cầm cái kính phóng đại. Nếu như thế, th́ việc thâu ánh nắng mặt trời chỉ là một cái mẹo để che mắt người đời. Có một việc xác nhận giả thuyết này, là vị Pháp Sư chưa truyền cái bí thuật này lại cho ai.
Nếu vấn đề dùng kính phóng đại để thâu ánh nắng chỉ là một sự phỉnh lừa th́ vị Pháp Sư đă dùng phương pháp nào? Có lẽ đó là phép thuật Yoga chăng? Nhưng đây không phải là việc của tôi. Tôi chỉ có phận sự tŕnh bày những sự việc mà tôi đă thấy, chứ không phải là giải thích căn nguyên của mọi vấn đề.
Đây là một khía cạnh bí ẩn của đời sống ở Ấn Độ, nó vẫn khép chặt đối với chúng ta, v́ dẫu cho vị pháp sư hay một vị đệ tử nào đó sẵn ḷng biểu diễn trước công chúng và kêu gọi sự chú ư của các nhà bác học, th́ sự bí mật kia cũng vẫn c̣n đó. Đó là tất cả những ǵ người ta có thể nói trong lúc này.
Nhưng c̣n chuyện kia: Bằng cách nào y đă phục hồi sự sống cho con chim đă chết? Những chuyện về khả năng kéo dài sự sống tùy theo ư muốn của người Yogi có thật không? Phải chăng ở phương Đông có những người đă t́m ra cái bí quyết trường sinh bất tử?
Tôi đành phải bỏ qua những câu hỏi đó và không màng t́m câu giải đáp. Chiều nay, nh́n không gian bao la vô tận, ḷng tôi nao nao bồi hồi. Dưới ṿm trời đầy sao, mà đêm nhiệt đới càng làm tăng thêm phần tỏ rạng, tôi nh́n xem những ṭa đền đài cung điện, dinh thự chùa chiền ở chung quanh cùng với bao nhiêu người đồng loại của tôi đang sống trong đó, mà tự hỏi không biết có mănh lực vô h́nh huyền bí nào làm vận chuyển tất cả những thứ ấy trong sự sinh hoạt thường xuyên hàng ngày?
Những vật tầm thường nhất đêm nay cũng đượm lấy một màu sắc huyền ảo, những h́nh người ẩn hiện chập chờn như những bóng ma, những chiếc thuyền câu lấp lánh ánh đèn dầu lướt nhẹ trên sông trong đêm tối, cảnh vật mơ huyền dưới ánh sao khi mờ khi tỏ làm cho người ta có cảm giác thoát ly ra khỏi cảnh đời thực tế để lọt vào cơi mộng.
Tư tưởng triết học Ấn Độ cho rằng thế gian chỉ là một tṛ hư ảo, đă xâm chiếm lấy tâm hồn tôi đêm nay, và càng gây cho tôi cái cảm giác lâng lâng thoát tục. Phải chăng từ nay tôi đă sẵn sàng bước vào một kinh nghiệm lạ lùng nhất trên địa hạt tâm linh như có người đă tiên đoán?
Trong lúc đó, cái âm điệu mơ buồn của một bài ca Ấn Độ do anh lái đ̣ cất tiếng hát văng vẳng trên ḍng sông, kéo tôi ra khỏi giấc mơ thoát trần, và lại đưa tôi trở về cái tṛ hỗn tạp pha lẫn những thú vui giả tạm và những đau khổ bất ngờ mà người ta gọi là Cuộc Đời!
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 796 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 4:50pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ
Đời Người Khắc Trên Tinh Tú
Chương Mười
Những mái bầu trên các ngọn tháp chói rạng và phản chiếu ánh nắng mặt trời ban mai, những người hành hương xuống tắm gội dưới sông nô đùa vui vẻ, và cảnh tượng tưng bừng rực rỡ đầy màu sắc phương Đông của thành phố Ba Nại La trên bờ sông Hằng linh thiêng diễn ra trước mắt tôi. Tôi ngồi trên một chiếc thuyền lớn, cái lái thuyền chạm h́nh đầu rắn hổ mang, thả trôi theo ḍng sông, do ba người chèo.
Người bạn đồng hành ngồi kế bên tôi là một thương gia ở Bombay. Y cho tôi biết rằng y có ư định giải nghệ về hưu khi y trở về thành phố này. Y là một người rất mộ đạo nhưng cũng là một người rất thực tế.
Trong khi y lo lập công bồi đức để tạo một kho tàng tâm linh quư báu, th́ tạm thời y cũng không quên dự trữ một số tiền lớn trong ngân hàng. Tôi được biết y từ một tuần nay và nhận thấy rằng y là một người tốt bụng và tánh t́nh cởi mở. Y giải thích cho tôi nghe:
- Tôi sẽ về hưu đúng vào năm mà Sudhei Babu đă tiên đoán cho tôi biết.
Tôi hỏi:
- Sudhei Babu là ai vậy?
- Ông không biết sao? Y là một nhà Chiêm Tinh giỏi nhất của thành Ba Nại La.
- Có thế thôi à?
Tôi nói với một giọng châm biếm. V́ tôi đă từng thấy hạng người thầy bói ngồi xổm trên lề đường ở khu Maidan tại Bombay, trong những lều quán ở Calcutta, và đón khách qua đường ở những thành phố nhỏ. Phần nhiều là những người có vẻ bẩn thỉu, đầu tóc rối nùi, gương mặt họ lộ vẻ ngu xuẩn và mê tín.
Đồ nghề của họ gồm có một vài quyển sách bói cáu bẩn và một cuốn niên lịch chứa đầy những dấu hiệu bí mật, khó hiểu. Họ tự hào là có thể biết rơ và định đoạt vận mệnh sang hèn của người khác, nhưng dường như không nhận thấy rằng họ lại không định đoạt được vận mạng của chính ḿnh.
Tôi nói thêm, với cái giọng của người biết chuyện và khuyên răn kẻ khác:
- Ông làm tôi ngạc nhiên. Một thương gia tại sao lại phó mặc cho các bầu tinh tú điều khiển công việc kinh doanh của ḿnh? Sao lại không dùng cái trí óc suy xét, phân biện, chẳng là hay hơn sao?
Người bạn tôi lắc đầu và mỉm cười một cách khoan dung:
- Nếu vậy, làm sao giải thích được những ǵ ông ta đă tiên đoán về tôi? Làm sao ông ta có thể biết trước rằng tôi sẽ giải nghệ về hưu vào năm bốn mươi mốt tuổi?
- Có lẽ đó là do sự t́nh cờ.
- Được rồi, nhưng để cho tôi kể cho ông nghe một chuyện. Mấy năm về trước, tôi gặp một nhà Chiêm Tinh ở Lahore và mở một cuộc kinh doanh theo lời khuyên của ông ta. Hồi đó tôi đang chung vốn với một người khác, nhưng người này cho rằng công cuộc kinh doanh quá mạo hiểm, y không chịu hùn và rút vốn lại.
Tôi tiếp tục kinh doanh lấy một ḿnh, việc này thành công bất ngờ và đem lại cho tôi một số tiền lời rất lớn. Tuy vậy, nếu không có lời khuyên của nhà Chiêm Tinh ở Lahore, th́ có lẽ tôi đă không dám mạo hiểm lănh lấy công việc đó.
- Như vậy, ông cho rằng ...
Người bạn tôi liền nói luôn hết câu thế cho tôi:
- Đời người là do số mạng định đoạt, mà số mạng của mỗi người, giàu hay nghèo, sang hay hèn, hay hay dở, đều được chỉ định trước bởi vị trí của các ngôi sao.
Tôi nói với một giọng hoài nghi:
- Nhưng các tay thầy bói mà tôi đă gặp đều là những kẻ dốt nát và ngu xuẩn đến nỗi tôi không thể nào tin được những lời bói toán và tiên tri của họ.
- Có lẽ, nhưng ông đừng lầm một nhà Chiêm Tinh lành nghề và xuất sắc như Sudhei Babu với những tay thầy bói kiếm cơm. Ông đă gặp phải những tay bịp bợm rồi. C̣n đây là một người Bà La Môn thượng lưu trí thức, y ở riêng một cái biệt thự hẳn ḥi. Y đă từng khảo cứu công phu về khoa này từ nhiều năm nay và có nhiều bộ sách rất cổ xưa và rất hiếm.
Dầu sao người bạn đồng hành của tôi cũng không phải là một người ngu. Y thuộc về hạng người Ấn Độ tân tiến, có óc thực tế, và biết sử dụng những phát minh khoa học mới mẻ nhất của Âu Tây. Y c̣n cấp tiến hơn tôi ở một vài điểm: Y mang theo lên thuyền một cái máy quay phim chớp bóng rất đẹp, c̣n tôi chỉ có một cái máy chụp ảnh Kodak bỏ túi.
Tên gia nhân của y cầm một cái b́nh thủy Thermos rót ra cho chúng tôi những ly nước cam mát rượi uống giải khát, làm cho tôi nhớ lại rằng tôi đă quên đem theo một vật dụng rất cần thiết trong khi đi đường.
Trong khi nói chuyện, tôi được biết rằng ở Bombay, y thường dùng máy điện thoại nhiều hơn tôi khi c̣n ở Âu Châu. Tuy thế, y lại tin tưởng nơi khoa Chiêm Tinh, tôi lấy làm ngạc nhiên về những điểm trái ngược và dị đồng trong tâm tính của y. Tôi nói:
- Chúng ta hăy t́nm hiểu nhau. Ông bạn tin rằng cuộc đời của mỗi người và mỗi cuộc diễn biến trên thế giới đều được định đoạt bởi các bầu tinh tú, cách xa Trái Đất hằng muôn triệu dặm hay sao?
- Phải, tôi tin như vậy. Y trả lời một cách b́nh thản.
Tôi nhún vai và không biết nói sao. Y nói tiếp:
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 797 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 4:52pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ
- Sao ông bạn không đi xem thử một lần cho biết? Tục ngữ xứ ông có câu: "Muốn biết bánh ngon hay không, hăy nếm thử." Ông bạn hăy thử nghe lời tiên tri của Sudhei Babu một lần xem nào, chính tôi cũng không tin những anh thầy bói nói dựa, nhưng tôi hoàn toàn tin tưởng nơi tài tiên tri của ông này.
- Tôi rất nghi ngờ những kẻ sống về nghề bói toán hay tướng số. Tuy nhiên, tôi nghe theo lời ông. Vậy ông có vui ḷng đưa tôi tới gặp nhà Chiêm Tinh này chăng?
- Tự nhiên là tôi vui ḷng. Vậy mời ông bạn tới dùng trà với tôi chiều mai, rồi chúng ta sẽ cùng đi.
Chúng tôi cho thuyền đi từ từ trên ḍng sông. Trên bờ, những ṭa lâu đài, dinh thự, đền chùa nối tiếp nhau diễn ra trước mắt chúng tôi. Tôi nh́n xem những bực đá dọc theo bờ sông, đầy những người hành hương xuống tắm gội, nhưng trí óc tôi vẫn vơ ở chỗ khác.
Tôi nghĩ rằng nếu khoa học có thể tự hào đă loại trừ sự dị đoan mê tín, th́ một mặt khác, nó cũng không ngăn cấm sự t́m ṭi tọc mạch để t́m hiểu mọi vấn đề. Nếu ông bạn tôi có thể đưa ra những bằng chứng cụ thể về sự thật của khoa lư số, nó làm cho phần đông người Ấn Độ tin tưởng ở định mệnh, th́ tôi sẽ nghiên cứu vấn đề này với một tinh thần cởi mở và không thành kiến.
Qua ngày hôm sau, ông bạn của tôi đưa tôi đến một con đường cũ kỹ, chật hẹp, đi xuyên qua hai dăy nhà nóc bằng. Chúng tôi ngừng trước một ngôi nhà cổ xưa xây bằng đá. Y đưa đường cho tôi đi qua một hàng lang tối tăm và thấp, kế đó chúng tôi lên nhiều nấc thang bằng đá, thang này rất nhỏ hẹp, chỉ vừa một người đi lọt. Chúng tôi đi qua một gian pḥng nhỏ và kế đó, đến một hàng ba của một cái sân rộng ở chính giữa, ngôi biệt thự xây chung quanh.
Một con chó lớn sủa dữ dội khi nó nh́n thấy chúng tôi đến gần. Những chậu kiểng sắp thành hàng dọc theo hàng ba. Tôi tự hỏi phải chăng nhà Chiêm Tinh chơi kiểng để giải trí sau những giờ phút khảo cứu mệt nhọc về khoa lư số của ông ta?
Ông bạn tôi cất tiếng gọi vào trong nhà, và chỉ được đáp lại bằng những âm hưởng do những vách tường cũ dội lại tiếng gọi của y. Chúng tôi đợi thêm vài phút. Con chó lại càng sủa dữ dội hơn trước, trong nhà vẫn im lặng dường như một cái nhà hoang vô chủ. Tôi bắt đầu nghĩ rằng chuyến đi hôm nay chắc là vô ích th́ nghe có tiếng chân người từ trên thang lầu bước xuống và tiến về phía cửa pḥng chúng tôi.
Một người mảnh khảnh, một tay cầm cái đèn cầy và một tay cầm xâu ch́a khóa, hiện ra trên ngưỡng cửa. Sau vài câu chuyện trao đổi qua lại trong bóng tối, nhà Chiêm Tinh lấy xâu ch́a khóa mở một cánh cửa khác và chúng tôi cùng bước vào. Y lấy tay kéo hai tấm màn lớn và mở một cái cửa sổ ngó ra sân.
Ánh sáng rọi qua cửa sổ chiếu vào gương mặt của nhà Chiêm Tinh. Đó là một người có cái gương mặt xanh xao, thiếu máu dường như là người ở dưới nấm mồ mới chui lên, chỉ có cặp mắt chiếu sáng ngời, phản ảnh một đời sống nội tâm dồi dào.
Cái h́nh dáng như xác chết, sự gầy ốm khác thường, những cử chỉ rất mực chậm chạp của y, gây nên một cái ấn tượng rất lạ lùng cho người chung quanh. Tṛng trắng của y lại nhiều hơn tṛng đen, điều này lại càng làm nổi bật thêm cái ấn tượng nói trên một cách rơ rệt.
Nhà Chiêm Tinh ngồi bên một cái bàn lớn, trên bàn tay có rất nhiều tờ giấy. Y nói tiếng Anh khá, và bằng ḷng nói chuyện ngay với tôi mà không cần một người thông ngôn. Tôi nói ngay vào đề:
- Xin ông hiểu cho, tôi chỉ là một người sưu tầm, chứ không phải là người tin về khoa này.
- Được, tôi sẽ lấy lá số cho ông và ông sẽ cho tôi biết là có đúng không.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 798 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 4:56pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ
- Tôi phải trả ông bao nhiêu?
- Tôi không có giá nhất định. Những người có địa vị khá thường trả tôi sáu chục rupee. Những người khác trả tôi hai chục. Cái đó tùy ông.
Tôi nói cho y biết rằng trước khi nói đến vận mạng tương lai, tôi muốn y nói cái dĩ văng để thử tài y. Y bằng ḷng. Trong một lúc, y ngồi tính toán rất tỉ mỉ về ngày sinh của tôi, sau vài phút, y day lại phía sau ghế của y và lục trong giấy tờ và những tài liệu chép bằng bút tự trên lá buông đă trổ màu vàng.
Sau cùng, y lấy ra một mớ là buông nhỏ, tṛn dài và rất cũ, đă đóng lại h́nh như một quyển sách và vẽ trên một tờ giấy một bức đồ h́nh rất lạ:
- Đây là bản đồ các tinh tú trên trời vào đúng giờ sinh của ông. Và những tài liệu chữ Phạn này giải thích ư nghĩa của mỗi phần trong lá số. Bây giờ tôi sẽ cho ông biết các tinh tú nói ǵ về ông.
Y xem lá số lại rất kỹ, tra cứu tài liệu trong quyển sách lá buông chép bằng bút tự và nói bằng một giọng trầm trầm:
- Ông là một nhà văn từ Châu Âu đến. Có phải chăng?
Tôi gật đầu. Y nói tiếp theo về thuở thiếu thời của tôi và kể thêm vài sự việc quan trọng đă xảy ra trong thời kỳ đó. Trong tất cả bảy điều quan trọng có năm điều đúng, c̣n hai điều kia hoàn toàn sai.
Như thế, tôi đă có thể xét giá trị của y tới đâu, c̣n nói về sự thành thật của y th́ điều đó đă hiển nhiên, tôi dám chắc rằng y không bao giờ có ư lừa dối ai cả. Một cuộc thí nghiệm đầu tiên với một kết quả mỹ măn đến bảy mươi lăm phần trăm cũng đủ để kết luận rằng khoa Chiêm Tinh Ấn Độ đáng được người ta sưu tầm, nhưng nó cũng chỉ rằng đó không phải là một khoa học hoàn toàn đúng đắn.
Một lần nữa, Sudhei Babu lại lục trong đống giấy tờ rải rác của y và miêu tả tánh t́nh của tôi một cách khá đúng. Kế đó, y nói về những khả năng trí thức của tôi nó đă giúp cho tôi theo đuổi nghề văn. Đến đây, y ngẩng đầu lên và hỏi:
- Tôi nói có đúng không?
Tôi phải biểu đồng t́nh và không thể chối căi những lời đoán số của y. Y lại nh́n vào lá số và nói về tương lai:
- Thế giới sẽ là nhà của ông. Ông sẽ đi du lịch khắp nơi, luôn luôn với cây bút trong tay, và sống với nghề nghiệp văn chương.
Y nói luôn một hồi về những ǵ sẽ xảy ra trong tương lai. Nhưng tôi không hề xét đoán những lời này, và hăy để đó, để chờ thời gian xác nhận những điều đă được ... Viết trên tinh tú.
Sau khi đă nói xong, y lại hỏi tôi rằng có được hài ḷng hay chăng? Những lời y đoán khá đúng về dĩ văng và tánh t́nh của tôi đă làm cho tôi định thốt ra trước khi đến đây. Tôi tự hỏi: "Phải chăng y chỉ nói càn, cầu may mà thôi? Phải chăng y không làm ǵ khác hơn là phỏng đoán, rồi cứ nói bừa đi." Nhưng tôi phải thú nhận rằng những lời tiên tri của y đă làm cho tôi ngạc nhiên, tuy thế, chỉ có thời gian mới có thể xác nhận những điều đó.
C̣n cái thái độ hoài nghi của tôi đối với vấn đề định mệnh, phải chăng lần này nó sẽ sụp đổ dưới chân tôi như một cái lâu đài bằng cát? Tôi có thể nói ǵ về vấn đề này? Tôi bước đến gần cửa sổ, đứng nh́n ra ngoài một lúc để t́m những câu hỏi mà tôi có thể chất vấn nhà Chiêm Tinh, nhưng y đă nói trước:
- Hay là ông cho rằng các bầu tinh tú ở cách xa Trái Đất bằng một quăng không gian khá lớn, nên không thể có ảnh hưởng ǵ đối với chúng ta chăng? Nếu vậy, làm sao có thể giải thích ảnh hưởng của Mặt Trăng đối với nước thủy triều lên xuống, ảnh hưởng của mỗi chu kỳ Mặt Trăng đối với cơ thể của người đàn bà, và phải chăng ánh nắng Mặt trời nhiều hay ít cũng ảnh hưởng đến t́nh cảm vui buồn của con người?
- Đúng vậy, nhưng bấy nhiêu đó cũng chưa đủ để chứng minh cho khoa lư số. Nếu tôi có bị đắm tàu chết đuối hay không, th́ việc ấy có ăn thua ǵ đến Mộc Tinh hay Hỏa Tinh.
Y nh́n tôi với một vẻ mặt thản nhiên:
- Tốt hơn là ông hăy xem các bầu tinh tú như là những biểu tượng ở trên Trời mà thôi, không phải tinh tú có ảnh hưởng ǵ đến chúng ta, nhưng chính cái dĩ văng của chúng ta nó ảnh hưởng đến chúng ta vậy.
Ông sẽ không bao giờ hiểu các bí quyết của khoa Chiêm Tinh, nếu ông không chấp nhận thuyết Luân Hồi, theo đó con người tái sinh trở đi trở lại nhiều kiếp ở cơi trần và định mệnh của y theo dơi y trong mỗi kiếp.
Nếu y thoát khỏi hậu quả của những ác nghiệp của y trong một kiếp, những nghiệp báo đó sẽ theo dơi y trong một kiếp sau; và nếu y không hưởng được phước lành do kết quả của những nghiệp thiện của y trong một kiếp này th́ chắc chắn y sẽ gặt hái những kết quả tốt lành đó trong một kiếp khác.
Nếu không có định luật Luân Hồi khiến cho linh hồn con người luôn luôn tái sinh trở lại cơi trần để học hỏi kinh nghiệm và tiến hóa cho đến khi trở nên toàn thiện, th́ những điều họa phúc xảy đến trong đời người có vẻ dường như là do sự ngẫu nhiên, t́nh cờ. Một đấng Thượng Đế rất mực công b́nh và bác ái làm sao có thể dung túng được điều đó? Không bao giờ.
Chúng tôi tin rằng khi một người qua đời, th́ tánh t́nh, dục vọng, tư tưởng và ư chí của y vẫn tồn tại cho đến khi y tái sinh trở lại và khoác lấy một thể xác mới của một đứa hài nhi. Những hành vi thiện và ác của y đă gây ra trong kiếp trước sẽ được đền bồi, thưởng phạt trong kiếp hiện tại hay trong những kiếp sau. Đó là sự giải thích của chúng tôi về ư nghĩa của chữ định mệnh.
Khi tôi nói rằng có ngày ông sẽ bị đắm tàu và suưt bị chết đuối, th́ đó là cái định mệnh mà Thượng Đế, do định luật công bằng ẩn vi và huyền diệu của Ngài, đă dành cho ông đă gây ra trong một kiếp quá khứ. Không phải là những bầu hành tinh nó làm cho ông bị đắm tàu mà chính là hậu quả không thể tránh khỏi của những việc làm ác trong dĩ văng.
Những bầu tinh tú chỉ có cái tác dụng là ghi nhận này th́ điều đó tôi không thể nói được. Không có một người nào có thể dùng cái trí phàm của ḿnh để phát minh ra khoa Chiêm Tinh bao giờ. Khoa này được truyền lại cho chúng ta đă từ lâu, do các đấng Thánh Nhân thời cổ tiết lộ cho nhân loại được biết về định mệnh của đời người.
Tôi ngồi nghe những lời nói hữu lư của nhà Chiêm Tinh, mà không biết phải đối đáp ra sao. Theo y th́ đời người thật là nối liền với định mệnh, nhưng có một người Âu nào với một khối óc sáng suốt lành mạnh lại chịu để cho cuộc đời của y hoàn toàn lệ thuộc ở định mệnh mà không sử dụng được cái quyền tự do ư chí của ḿnh?
Tôi ngạc nhiên mà nh́n nhà Chiêm Tinh gầy g̣, lả lướt và khổ hạnh này, y ngồi tính toán tới lui qua lại trong các cung Hoàng Đạo một cách tự nhiên và quen thuộc như đi trong nhà của y. Tôi nói:
- Chắc ông cũng biết rằng ở vài vùng dưới miền Nam, các nhà Chiêm Tinh đứng vào hàng quan trọng bực nh́ sau các vị Tăng Lữ, và không có một việc làm quan trọng nào được bắt đầu thực hiện mà người ta không dọ hỏi trước ư kiến của nhà Chiêm Tinh.
Những người Âu Tây chúng tôi sẽ mỉm cười về điều đó, v́ chúng tôi không hề tin tưởng nơi sự bói toán hoặc tiên tri. Chúng tôi chỉ tin rằng con người vốn hoàn toàn tự do chứ không phải là những nạn nhân tuyệt vọng của một cái định mệnh bất di dịch.
Nhà Chiêm Tinh nhún vai mà nói:
- Trong một bộ sách cổ của chúng tôi là sách Hitopadesa có nói rằng: "Không ai có thể chống lại số mạng, nó đă ghi sẵn trên trán của mỗi người." Chúng ta phải gánh chịu hậu quả của mọi việc làm của chúng ta.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 799 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 4:59pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ
Tôi vẫn lộ vẻ hoài nghi. Nhà tiên tri bỏ ghế đứng dậy. Tôi hiểu ư và liền kiếu từ. Y nói nhỏ dường như nói thầm một ḿnh:
- Tất cả đều ở trong tay của Thượng Đế. Không một ai thoát khỏi tay Ngài. Có ai là người hoàn toàn tự do? Dầu cho đi tận chân trời góc bể, chỗ nào mà không có Ngài?
Đến ngưỡng cửa, y nói thêm một cách ngập ngừng:
- Nếu ông muốn trở lại đây lần nữa, chúng ta có thể nói chuyện thêm về vấn đề này.
Tôi cám ơn và bằng ḷng nhận lời mời của y. Y liền đáp:
- Được. Tôi sẽ đợi ông chiều mai vào khoảng sáu giờ.
Chiều hôm sau, tôi lại đến nhà của Sudhei Babu. Tôi không có ư nhắm mắt nghe theo tất cả những ǵ y nói với tôi, nhưng tôi cũng không có lư do để bác bỏ tất cả. Tôi đến để nghe, có thể là để học hỏi, nếu những lời nói của y có thể chứng minh được rơ ràng.
Tôi không từ chối một kinh nghiệm, nếu tôi nhận thấy rằng nó có đủ lư do vững chắc. Lá số mà Sudhei Babu lấy cho tôi đă đủ thuyết phục được tôi rằng khoa Chiêm Tinh Ấn Độ không phải là một điều dị đoan, và nó đáng được cho ta khảo cứu và sưu tầm cặn kẽ. Cái thái độ của tôi tạm thời là như thế.
Chúng tôi ngồi ngang nhau nơi bàn viết của y. Một ngọn đèn dầu chiếu ánh sáng lờ mờ trong gian pḥng. Hằng triệu gia đ́nh ở Ấn Độ hiện thời vẫn c̣n thắp đèn dầu trong nhà ban đêm. Nhà Chiêm Tinh nói với tôi:
- Nhà tôi có tất cả mười bốn buồng, tất cả đều chứa đầy những sách cổ chép bằng bút tự, phần nhiều bằng chữ Phạn. Đó là lư do v́ sao tôi cần dùng một ngôi biệt thự lớn, mặc dầu tôi chỉ sống có một ḿnh. Mời ông hăy xem kho sách của tôi.
Y cầm cái đèn treo trên vách và đưa tôi vào một pḥng kế bên. Những tủ lớn được sắp thành hàng chung quanh những vách tường. Tôi nh́n xem một tủ th́ thấy chứa đầy những sách và giấy tờ. Trên sàn gạch cũng bày la liệt những giấy má, những bộ sách cổ mà b́a đă trổ màu vàng. Tôi cầm lên một bó lá buông nhỏ, mỗi tờ đều viết đầy những chữ khó hiểu và đă phai màu. Chúng tôi đi từ buồng này sang buồng khác và buồng nào cũng đầy những tủ sách giống như nhau.
Kho sách của nhà Chiêm Tinh có vẻ như ở trong một t́nh trạng hỗn độn, thiếu trật tự, nhưng y cho tôi biết rằng y đă quen thuộc với mỗi quyển sách và mỗi tài liệu và biết chúng nằm ở đâu mỗi khi y cần đến. Tôi có cảm tưởng rằng tất cả kho tàng minh triết của Ấn Độ đều tập trung trong ngôi nhà này. Sau khi đă xem khắp các buồng sách, chúng tôi trở về chỗ cũ. Nhà Chiêm Tinh nói cho tôi biết:
- Tất cả gia tài sản nghiệp của tôi đều tiêu dùng để mua những bộ sách và lá buông bút tự này. Nhiều bộ sách trong đó rất hiếm và mua rất đắt tiền. V́ thế mà bây giờ tôi mới nghèo như thế này.
- Sách đó nói về những vấn đề ǵ?
- Đó là những sách nói về các vấn đề Đạo Lư và Minh Triết cổ truyền, và có nhiều quyển nói về khoa Chiêm Tinh.
- Nếu vậy, ông cũng là một nhà Triết Học?
Y mỉm cười đáp:
- Một người không hiểu về Triết Lư sẽ là một nhà Chiêm Tinh hạng tồi, hay chỉ là một anh thầy bói hạ cấp.
- Xin ông thứ lỗi cho, tôi thấy ông có vẻ mệt mỏi v́ đọc sách nhiều quá. Tôi đă ngạc nhiên v́ sắc mặt nhợt nhạt của ông khi tôi đến đây lần đầu.
Y thản nhiên đáp:
- Đó không có ǵ là lạ. Tôi không ăn đă sáu ngày nay rồi.
Tôi tỏ vẻ lo lắng và hỏi han ân cần. Y nói:
- Không, đó không phải là vấn đề tiền. Chị bếp của tôi thường hay đau yếu luôn. Chị ấy nghỉ ở nhà đă sáu ngày nay rồi.
- Vậy sao ông không t́m một người bếp khác?
Y lắc đầu đáp:
- Không, tôi không thể dùng một người đầu bếp thuộc giai cấp hạ tiện. Thà rằng tôi nhịn ăn luôn một tháng c̣n hơn. Tôi phải đợi đến khi chị bếp của tôi b́nh phục trở lại, nhưng có lẽ chị ấy sẽ trở lại trong một hai ngày.
Tôi nh́n kỹ th́ thấy y đeo ở cổ sợi dây Thánh, tiêu biểu cho giai cấp "Con của Thần Brahma." Sợi dây này kết ba sợi dính liền nhau, được tṛng vào cổ của mỗi người Bà La Môn từ khi mới sinh ra, và y đeo luôn suốt đời cho đến lúc chết. Tôi hỏi:
- Sao ông lại chịu khổ thân v́ một thành kiến giai cấp như thế? Sức khỏe của ông chẳng phải là quan trọng hơn hay sao?
- Đó không phải là một thành kiến dị đoan. Mỗi người đều có phát ra một thứ từ điển, tuy vô h́nh nhưng nó vẫn có thật, mặc dầu khoa học Âu Tây chưa khám phá ra. Người đầu bếp làm món ăn phóng từ điển của y vào đồ ăn, mặc dầu y không hay biết chi cả. Một người bếp hạ cấp và tánh t́nh hèn hạ sẽ ô nhiễm thức ăn với loại từ điển xấu của y, nó sẽ chui vào bụng của người nào ăn những thức ăn đó.
- Đó là một giả thuyết rất lạ lùng.
- Nhưng đó là sự thật.
Tôi nói qua vấn đề khác:
- Ông làm nghề Chiêm Tinh kể từ bao giờ?
- Đă mười chín năm nay. Tôi làm nghề này sau khi tôi lập gia đ́nh.
- À tôi hiểu.
- Không, tôi không phải là góa vợ. Khi tôi lên mười ba tuổi, tôi cầu nguyện đấng Thiêng Liêng ban cho tôi sự hiểu biết, tôi đă học với nhiều Thầy và đọc nhiều sách vở. Tôi hiếu học đến nỗi tôi thường ngồi đọc sách suốt ngày và thức đến khuya.
Cha mẹ tôi cưới vợ cho tôi, vài ngày sau đám cưới, vợ tôi nổi giận với tôi và nói: "Tôi không phải lấy chồng, mà lấy nhầm một quyển sách!" Sau đó đúng một tuần lễ, nó bỏ nhà trốn đi với người phu xe của chúng tôi.
Nói đến đây y ngừng một lúc. Tôi không khỏi mỉm cười v́ câu nói trắng trợn của bà vợ, sự bỏ nhà ra đi của bà ấy chắc hẳn đă gây nên dư luận sôi nổi ở một xứ bảo thủ như Ấn Độ. Nhưng đàn bà thường có một tâm địa ngoắt ngoéo và rất khó lường. Y nói tiếp:
- Đó là một sự xúc động rất lớn cho tôi, nhưng sau một thời gian, tôi cũng nguôi ngoai dần và quên hẳn việc đó. Tôi càng đi sâu vào việc khảo cứu khoa Chiêm Tinh và Đạo Lư cổ truyền. Chính lúc đó, tôi bắt đầu tham khảo môn học cao nhất của tôi là bộ sách Brahma Chinta.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 800 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 5:00pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ
- Sách đó nói về vấn đề ǵ?
- Cái tựa của bộ sách ấy có thể dịch là Minh Triết Thiêng Liêng, hay là Minh Triết của Trời. Bộ sách này có đến mấy ngàn trang nhưng tôi chỉ khảo cứu có một phần. Tôi đă phí mất hai chục năm mới góp nhặt được có bấy nhiêu đó, v́ bộ sách ấy chỉ gồm những phần rời rạc, lẻ tẻ, phải đi t́m ở khắp nơi mới mua được đủ bộ. Sách ấy gồm có mười hai phần chính và nhiều chương phụ, và giảng về những đề tài như Triết Học, Chiêm Tinh Học, Yoga, đời sống nên kia cửa Tử, và những vấn đề thâm sâu khác.
- Sách ấy có bản dịch Anh văn hay chăng?
Y lắc đầu:
- Tôi không nghe nói có bản dịch đó. Dẫu cho người Ấn Độ cũng ít có người được biết về bộ sách này. Từ trước đến nay, nó vẫn được giữ ǵn bí mật. Nó vốn xuất xứ từ bên Tây Tạng, ở xứ này nó được xem như một bộ sách Thần, và chỉ có những vị môn đồ chọn lọc mới được phép học bộ sách ấy.
- Sách ấy được viết ra từ bao giờ?
- Bộ sách ấy được viết ra từ hàng mấy ngàn năm nay do nhà Hiền Triết Bhrigu, vị này sống vào thời kỳ cổ xưa đến nỗi không ai biết vào năm nào. Sách ấy dạy về một môn Yoga hoàn toàn khác hẳn với tất cả những pháp môn khác tại Ấn Độ. Ông cũng thích khảo cứu về môn Yoga phải chăng?
- Sao ông biết?
Để đáp lại, Sudhei Babu lẳng lặng đưa ra lá số mà y đă lấy cho tôi, và cầm cây bút ch́ chỉ vào những dấu hiệu lạ lùng, nó chỉ những vị trí các tinh tú và các cung Hoàng Đạo.
- Là số của ông làm tôi ngạc nhiên. Nó thật là khác thường đối với một người Âu, thậm chí nó cũng khác thường đối với cả người Ấn Độ. Nó chỉ rằng ông có khuynh hướng rơ rệt về đường Đạo, và ông sẽ được sự d́u dắt của các bậc Hiền Giả để tiến sâu vào vấn đề này. Tuy nhiên, không phải ông chỉ học Yoga mà thôi, mà c̣n rất ưu tú về các môn học siêu h́nh và thần bí khác nữa.
Y ngừng một lúc và nh́n thẳng vào cặp mắt tôi. Tôi có cái cảm tưởng rằng y sắp sửa tiết lộ điều ǵ về đời sống nội tâm của y.
- Ở đời có hai hạng Hiền Giả: Những người giữ bí mật những kiến thức của họ một cách ích kỷ, và những người sau khi đă giác ngộ cho ḿnh. Liền chia xẻ sự giác ngộ tâm linh đó cho những người khác. Lá số của ông chỉ rằng ông đă bước đến gần cửa Đạo và bởi đó những lời nói của tôi sẽ không phải là nước đổ đầu vịt. Tôi sẵn sàng chia sớt sự hiểu biết của tôi cho ông.
Tôi lấy làm ngạc nhiên về điều lạ lùng này. Trước nhất tôi đến nhà Sudhei Babu để thử xem khoa Chiêm Tinh Ấn Độ là như thế nào. Tôi đến lần nữa để nghe y bàn rộng thêm về nền tảng và bí quyết của khoa Lư Số, và bênh vực cho những phép đoán số của y. Và bây giờ, th́nh ĺnh y tự nguyện làm Thầy tôi về môn Yoga. Y nói tiếp:
- Nếu ông thực hành những phương pháp của Brahma Chinta, ông sẽ không cần có Thầy. Linh hồn ông sẽ là Thầy của ông.
Tôi liền thấy ngay rằng tôi đă nghĩ lầm và tự hỏi phải chăng y đă đọc được tư tưởng của tôi. Tôi nói:
- Ông làm tôi ngạc nhiên.
- Tôi đă chỉ dẫn cho vài người, nhưng tôi không bao giờ tự nhận là Thầy họ, mà chỉ là một người anh cả hay một người bạn. Tôi không muốn làm Thầy của ông theo cái ư nghĩa thông thường. Cái tinh thần của nhà Hiền Triết Bhrigu chỉ dùng tôi làm cái khí cụ để truyền những giáo lư ấy cho ông.
- Tôi không hiểu bằng cách nào ông có thể phối hợp nghề coi số Chiêm Tinh với việc dạy pháp môn Yoga.
Y đặt hai bàn tay gầy g̣ của y lên bàn và nói:
- Th́ đây. Tôi sống trên thế gian và phụng sự thế gian bằng nghề nghiệp của tôi, tức là nghề coi Chiêm Tinh. Tôi không muốn cho ai xem tôi như một ông Thầy dạy Yoga, bởi v́ trong môn phái Brahma Chinta, vị Tôn Sư duy nhất là Thượng Đế. Ngài là vị Thầy duy nhất của chúng tôi mà chúng tôi nh́n nhận. Với tư cách là Đại Thể hay Đại Hồn của Vũ Trụ, Ngài cũng ngự ở trong tâm chúng ta và sẽ d́u dắt chúng ta. Ông hăy xem tôi như một người huynh đệ nếu ông muốn, nhưng đừng xem tôi như một người hướng dẫn tinh thần.
Những người có Thầy thường hay ỷ lại và nương dựa vào ông Thầy thay v́ họ phải tự cường và chỉ nghe theo tiếng gọi của lương tri, tức là chính linh hồn của họ.
- Nhưng ông cũng dùng khoa Chiêm Tinh để hướng dẫn cuộc đời của ông phải chăng?
- Ông đă lầm. Tôi không bao giờ ḍ xem lá số của tôi nữa, thật ra tôi đă xé bỏ nó từ nhiều năm nay.
Tôi lộ vẻ ngạc nhiên về lời tuyên bố này. Y đáp:
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|