Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
  H́nh Ảnh Từ Thiện
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Thông Tin
  Thông Báo
  Báo Tin
  Liên Lạc Ban Điều Hành
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Nhờ Coi Quẻ
  Nhờ Coi Ngày
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Tử Vi
  Tử Bình
  Kinh Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Bói Bài
  Đoán Điềm Giải Mộng
  Khoa Học Huyền Bí
  Thái Ất - Độn Giáp
  Y Dược
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch và Phong Thủy 3
Kỹ Thuật
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
Thư Viện
  Tủ Sách
  Bài Viết Chọn Lọc
Linh Tinh
  Linh Tinh
  Giải Trí
  Vườn Thơ
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 211 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
chindonco (3250)
hiendde (2589)
HoaCai01 (2277)
vothienkhong (1807)
dinhvantan (934)
ryan88 (805)
Vovitu (713)
ruavang (691)
lancongtu (667)
TranNhatThanh (644)
Hội viên mới
redlee (0)
dautranhsinhton (0)
Chieu Tim1234 (1)
huyent.nguyen (0)
tamsuhocdao (0)
henytran2708 (0)
thuanhai_bgm (0)
Longthienson (0)
thuyenktc (0)
liemnhi (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Truyện tâm linh - hiendde Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 801 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 5:05pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      - Tôi đă t́m thấy ánh sáng Chân Lư và không cần đến khoa Chiêm Tinh để hướng dẫn cuộc đời tôi. Khoa ấy chỉ hữu ích cho những kẻ c̣n lần ṃ đi trong bóng tối. Tôi đă đặt cuộc đời tôi hoàn toàn trong tay Thượng Đế và đă dẹp bỏ mọi điều lo nghĩ ưu phiền về hiện tại hay tương lai.

      Bất cứ điều ǵ xảy đến cho tôi, tôi đều chấp nhận như là ư muốn của Thượng Đế. Tôi đă giao phó vận mạng của tôi cho Ngài, luôn cả thể xác, lư trí, t́nh cảm và hành động.

      - Nếu ông bị một kẻ dữ nó định hăm hại ông, và tánh mạng ông bị lâm nguy, ông có nói rằng đó là ư muốn của Thượng Đế và không làm ǵ để tự vệ chăng?

      - Tôi biết rằng trong khi nguy cấp, tôi chỉ cần cầu nguyện là tôi sẽ được Ngài che chở. Cầu nguyện là điều cần thiết, c̣n sợ sệt chẳng có ích lợi ǵ. Tôi vẫn thường cầu nguyện và luôn luôn được che chở.

      Tuy nhiên, tôi cũng đă trải qua những lúc khó khăn, trong những lúc đó tôi đều ư thức được sự giúp đỡ của Ngài và tôi hoàn toàn đặt đức tin nơi Ngài trong mọi trường hợp. Ông cũng vậy, có ngày ông cũng sẽ bất chấp tất cả mọi sự xảy đến trong đời ḿnh và hoàn toàn thản nhiên đối với tương lai.

      Tôi tỏ vẻ nghi ngờ:

      - Chắc là tôi phải có một sự thay đổi rất lớn lao trước khi đạt tới mức ấy.

      - Sự thay đổi đó chắc chắn sẽ đến với ông.

      - Ông có chắc như vậy không?

      - Tôi tin chắc. Người ta không thể thoát khỏi định mệnh. Sự cải tạo tinh thần đó là một cái ân huệ của Thiêng Liêng, dầu rằng ta có định t́m nó hay không.

      - Những điều ông nói thật là lạ lùng, Sudhei Babu.

      Ư niệm về Thượng Đế là một điều tôi luôn luôn nghe nói đến trong những cuộc đàm luận của tôi với những người ở xứ này. Người Ấn Độ là một dân tộc có tinh thần tôn giáo rất mạnh, và tôi lấy làm ngạc nhiên mà nghe họ nói đến Thượng Đế một cách quá thông thường.

      Họ có thể nào hiểu cái quan điểm của một người Âu có óc hoài nghi, thường thay thế cái đức tin đơn giản bằng cái lư trí phức tạp hay chăng?

      Tôi thấy rằng không có ích ǵ mà nêu ra vấn đề Thượng Đế để bàn căi với nhà Chiêm Tinh trong lúc này. Có lẽ y sẽ nhồi sọ tôi với một tràng lư thuyết siêu h́nh mà hiện thời tôi không có hứng thú muốn nghe chút nào. Tôi bèn xoay chiều câu chuyện qua những vấn đề khác ít phiền phức hơn.

      - Chúng ta hăy nói qua cái vấn đề khác th́ hay hơn, v́ Thượng Đế với tôi chưa từng gặp nhau bao giờ.

      Y nh́n thẳng vào tôi không chớp mắt, cặp mắt tinh anh của y dường như t́m cách soi thấu cơi ḷng tôi:

      - Lá số của ông không nói sai bao giờ, v́ nếu không phải như vậy th́ tôi đă không thổ lộ những điều hiểu biết của tôi cho một người chưa chuẩn bị sẵn sàng, nhưng các tinh tú vận chuyển đúng phép không bao giờ sai chạy.

      Những điều mà ông chưa hiểu rơ trong lúc này sẽ nằm trong tiềm thức của ông một thời gian và sẽ xuất hiện trở lại với mănh lực tăng gấp đôi. Tôi lặp lại lần nữa là tôi sẵn sàng truyền pháp môn Brahma Chinta lại cho ông.

      - Và tôi cũng sẵn ḷng muốn học pháp môn đó.

      Mỗi buổi chiều tôi đều trở lại nhà của Sudhei Babu để thụ giáo về pháp môn Brahma Chinta. Ngọn đèn dầu leo lét chiếu ánh sáng lập ḷe trên gương mặt khổ hạnh và trắng như sáp của nhà Chiêm Tinh, trong khi y giảng giải cho tôi nghe những bí thuật của khoa Yoga Tây Tạng cổ truyền.

      Y không bao giờ lên mặt kẻ cả hay lên giọng thầy đời, mà trái lại y là hiện thân của sự khiêm tốn, và luôn luôn mở đề mỗi bài giảng với câu:

      - Trong pháp môn Brahma Chinta có dạy rằng ...

      Một hôm tôi hỏi y:

      - Cái mục đích rốt ráo và tối hậu của pháp môn này là thế nào?

      - Mục đích ấy là đạt tới trạng thái xuất thần nhập định v́ chỉ trong trạng thái đó, người hành giả mới nhận định rơ ràng rằng y là một linh hồn. Chừng đó, y mới tách rời trí óc của y ra khỏi những vật ở ngoại cảnh; những sự vật ở chung quanh y lu mờ dần và ngoại giới dường như đă biến mất đối với y.

      Y nhận thấy rằng linh hồn là một điều có thật, và y cảm thấy sự an lạc tuyệt vời cùng quyền năng vô song của nó tràn ngập con người của y. Y chỉ cần có một kinh nghiệm duy nhất đó để có đủ bằng chứng cụ thể rằng trong người y vốn có một sự sống thiêng liêng và bất diệt. Sau khi y có cái kinh nghiệm đó rồi, th́ y không bao giờ có thể quên nó được nữa.

      Tôi hỏi với một vẻ hoài nghi:

      - Ông có chắc rằng tất cả những điều đó không phải là một h́nh thức tự kỷ ám thị chăng?

      Trên miệng y thoáng hiện một nụ cười:

      - Khi một người mẹ sinh ra một đứa con, có khi nào bà ấy lại nghi ngờ rằng đứa con ấy không phải là thật? Và khi bà mẹ ấy hồi tưởng lại khi lâm bồn, có thể nào bà ấy cho rằng đó chỉ là một sự tự kỷ ám thị chăng? Khi bà ấy nh́n đứa con càng ngày càng lớn, có thể nào bà ấy lại nghi ngờ không tin rằng đứa trẻ vẫn c̣n sống chăng?

      Giống như thế, sự giác ngộ tâm linh là một biến cố quan trọng trong đời của một người đến nỗi y không thể nào quên được, v́ nó làm cho người ấy hoàn toàn thay đổi và trở nên một người mới. Khi người hành giả bước vào trạng thái xuất thần đại định, th́ một sự trống không được tạo ra trong trí của y.

      Khi đó th́ Thượng Đế, nếu ông không thích dùng danh từ này, th́ linh hồn, hay một quyền năng thiêng liêng chẳng hạn, sẽ tràn vào và chiếm lấy cái khoảng trống không đó. Khi nào việc ấy xảy ra, th́ người hành giả cảm thấy tràn đầy một nguồn hạnh phúc vô biên và an lạc tuyệt vời không thể tả.

      Y cũng cảm thấy tràn đầy một t́nh yêu bao la rộng lớn và nồng nàn đối với toàn thể chúng sinh trong hoàn vũ. Lúc ấy, người ngoài sẽ nh́n thấy xác thân của người hành giả có vẻ dường như chết, v́ mọi sự sinh hoạt đều ngưng hẳn, chí đến hơi thở cũng ngừng luôn, khi y đạt tới điểm cao tột của cơn đại định xuất thần.

      - Như thế có nguy hiểm ǵ không?




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 802 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 5:09pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde





ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ




      Một người hành khất già đi một cách khép nép dọc theo vách tường phía bên kia đường lộ. Y nh́n tôi với cặp mắt dọ hỏi, h́nh như cử chỉ của tôi làm cho y được yên ḷng, y bèn đánh bạo lại xin tiền.

      Chúng tôi đi qua đường Hàng Gạo, tại đây người ta thấy các cửa hàng bày những đống gạo và thóc lúc màu đỏ và màu vàng. Người buôn thóc ngồi xếp bằng trước cửa hàng, liếc nh́n chúng tôi với cặp mắt ṭ ṃ, rồi lại kiên nhẫn ngồi đợi người mua. Trong những con đường khác, những mùi vị pha lẫn một cách hỗn tạp xông vào mũi thành một thứ mùi đặc biệt.

      Khi chúng tôi đến gần bờ sông, chúng tôi đi thẳng vào một khu h́nh như là nơi tập hợp của giới hành khất, những người ăn mày gầy c̣m lê lết dọc theo con đường đầy cát bụi. Một người trong bọn đến gần tôi và nh́n tôi vào tận mắt như để thăm ḍ. Y có một vẻ mặt đau khổ, nó làm cho ḷng tôi se lại. Cách đó một quăng, suưt nữa tôi đạp nhằm một bà già thân thể gầy ốm chỉ c̣n da bọc xương. Bà ấy cũng ngước mặt lên nh́n tôi.

      Trong cái nh́n ấy, tôi không thấy lộ vẻ oán hận hay đau khổ, mà chỉ thấy có sự an phận trong âm thầm. Tôi móc túi lấy cái ví tiền, cử chỉ đó làm nhen nhúm lại một tia sáng trong cặp mắt đă hết tinh thần của bà ta. Bà ấy đưa ra một cánh tay gầy g̣ và nắm lấy đồng tiền bố thí của tôi một cách sốt sắng.

      Tôi lấy làm ngượng thầm mà nghĩ đến số phận tốt lành của tôi và tất cả những ǵ tôi sở hữu, cơm ăn, áo mặc, nhà ở, và nhiều thứ khác. Khi tôi nghĩ đến những cặp mắt tuyệt vọng của những người bần cùng khốn khổ đó, tôi cảm thấy h́nh như một sự hối hận.

      Tôi có quyền ǵ mà sở hữu bấy nhiêu tiền bạc, trong khi những kẻ khốn cùng kia chỉ có những mảnh giẻ rách che thân? Nếu như do một sự t́nh cờ của định mệnh, mà tôi lại sinh ra làm một trong những người hành khất ấy, th́ sao? Tôi không dám suy tưởng lâu hơn nữa về cái ư nghĩ rùng rợn đó.

      V́ lư do nào mà một người lại t́nh cờ sinh ra trên vỉa hè lầm than cát bụi, trong khi số phận lại đặt một người khác trên nhung gấm ở một ṭa lâu đài gần bên? Đời người quả thật là một bài toán bí hiểm.

      - Chúng ta hăy ngồi đây.

      Nhà Chiêm Tinh nói khi chúng tôi vừa đến bờ sông. Chúng tôi ngồi trong bóng mát và nh́n xuống sông, trên bờ là những bực thang đá nhiều nấc, những nhóm người hành hương lên xuống không ngớt. Cách đó một quăng, hai ngọn tháp nhọn, cao gần đến một trăm thước, nhô lên một cách yểu điệu trên nền trời xanh thẳm. Đó là tháp của ngôi đền Hồi giáo, mà nhà vua Aurangzeb đă xây cất tại đây thuở xưa, khi Ấn Độ bị quân Hồi chiếm đóng.

      Nhà Chiêm Tinh có lẽ đă nh́n thấy sự phản ứng buồn bực của tôi đối với những người hành khất, nên y day lại và nói:

      - Ấn Độ là một nước nghèo, dân tộc xứ này đă đắm ch́m trong sự ngủ mê, bất động. Tuy nhiên, việc thịnh suy của Trời Đất nối tiếp nhau như ngày với đêm, âm dương vận hàng theo định luật Tuần Hoàn. Lịch sử của các nước cũng không ngoài cái định luật đó. Ấn Độ đang hồi suy vong, nhưng có lúc nó sẽ quật cường, khi nào những hoài băo tinh thần cao cả của nó thuở xưa được đánh thức dậy trong ḷng người, để mở màn cho một giai đoạn tích cực hoạt động và phục hưng xứ sở.

      Ngày nay Châu Âu đang sống mạnh với những hoạt động thực tế, nhưng phong trào duy vật mănh liệt của nó có lúc sẽ trôi qua và nó sẽ quay đầu trở về những lư tưởng cao cả hơn. Nó sẽ đi t́m những hoạt động tâm linh và những hoài băo tinh thần. Cả nước Mỹ cũng ở trong t́nh trạng đó.

      Tôi lẳng lặng ngồi nghe. Y nói tiếp một cách trịnh trọng:

      - Bởi lẽ đó, những giáo lư về triết học và tâm linh của Ấn Độ sẽ tràn qua Tây phương như một luồng sóng mới. Các nhà học giả đă phiên dịch vài bộ sách bút tự Phạn ngữ và Thánh Kinh của Ấn Độ ra các sinh ngữ Âu Tây, nhưng có nhiều sách vở tài liệu vẫn c̣n giữ ǵn trong những thư viện bí mật ẩn trong hang núi, ở những sách vở đó có ngày cũng phải được tiết lộ ra cho thế giới biết.

      Không bao lâu sẽ đến lúc mà nền Triết Học uyên thâm và Đạo Lư cổ truyền của Ấn Độ sẽ phối hợp với những môn khoa học thực tế của Tây phương. Những điều huyền bí của thời đại cổ xưa phải được phổ biến để ứng đáp lại những nhu cầu của thế hệ này. Tôi mong rằng điều đó rốt cuộc sẽ được thực hiện.

      Tôi vừa ngồi nghe vừa nh́n ḍng nước xám xanh của sông Hằng. Ḍng nước yên lặng một cách lạ thường, đến nỗi nước sông đứng yên dường như không chảy. Mặt nước phẳng lặng của nó phản chiếu ánh nắng mặt trời như một tấm gương trong.

Nhà Chiêm Tinh lại nói tiếp:

      - Mỗi dân tộc sẽ thực hiện định mệnh của nó cũng như số mạng của mỗi người phải được hoàn thành. Thượng Đế vốn Toàn Năng. Các quốc gia cũng như các dân tộc sẽ không thoát khỏi định mệnh mà họ tự tạo nên, nhưng họ có thể được che chở trong những cơn nguy biến.

      - Làm sao con người có thể được sự che chở đó?

      - Bằng sự cầu nguyện, bằng cách trở lại ngây thơ và hồn nhiên như trẻ con khi người ra quay đầu về đấng Chí Tôn, và bằng cách nhớ đến Ngài luôn, không phải trên đầu môi chót lưỡi, mà ở tự trong tâm của ḿnh mỗi khi người ta bắt đầu làm một công việc nào đó.

     Chúng ta hăy đón nhận những ngày vui tươi như một phần thưởng và ân huệ của Thượng Đế, và đón nhận những lúc đau khổ như một phương thuốc mầu nhiệm để cứu chữa những điều lầm lạc của ḿnh. Chúng ta không có ǵ phải sợ sệt, v́ Ngài hoàn toàn từ ái đối với chúng sinh.

      - Như vậy ông không tin rằng Thượng Đế ở cách xa chúng ta và dửng dưng đối với những đau khổ của thế gian chăng?

      - Không, Thượng Đế là một nguyên lư ẩn vị, ngự trong tất cả muôn loài vạn vật cũng như trong con người. Khi ông nh́n thấy cái đẹp trong thiên nhiên, như một phong cảnh đẹp chẳng hạn, ông đừng quên rằng sở dĩ nó đẹp là v́ có Thượng Đế ở trong. Ta hăy tập nh́n thấy cái đẹp trong mọi người và mọi vật, đó là cái tinh thần bên trong nó làm chủ động cho mọi h́nh thức sinh hoạt trên thế gian.

      - Ông có một lối đặc biệt là pha lẫn những lư thuyết về định mệnh, tôn giáo và Chiêm Tinh một cách lạ lùng, Sudhei Babu.

      - Sao lại lạ lùng? Những lư thuyết đó không phải của tôi đặt ra, mà nó được truyền lại cho chúng ta từ những thời đại xa xăm nhất trong quá khứ. Những dân tộc cổ xưa nhất cũng đă từng biết rơ về những vấn đề định mệnh, về Thượng Đế và về khoa Chiêm Tinh.

      Họ không phải là những dân tộc dă man như người Âu Tây vẫn lầm tưởng. Như tôi đă nói, trước khi thế kỷ này kết thúc, Tây phương sẽ khám phá và nh́n nhận có những mănh lực vô h́nh trong Trời Đất, ảnh hưởng đến sự sinh hoạt của con người và vạn vật.

      - Thật không dễ ǵ mà làm cho người Tây phương từ bỏ cái quan niệm về sự tự do ư chí của con người trong việc điều khiển cuộc đời của họ.

      - Bất cứ việc ǵ xảy đến đều do ư muốn của Thượng Đế, và điều mà ta xem dường như là tự do, thật ra chỉ là hành động với cái quyền năng của Ngài. Thượng Đế trả lại cho người những hậu quả lành hay dữ của những tư tưởng và việc làm của họ trong những kiếp khác.

      Tốt hơn hết là nên chấp nhận ư muốn của Ngài, và con người sẽ không bị ngă quỵ dưới gánh nặng của nghịch cảnh, nếu y biết hướng về Thượng Đế để t́m cái sức mạnh tinh thần hầu chịu đựng được những nghịch cảnh đó.

      - Tôi ước mong rằng ông nói có lư, nếu đó chỉ là để an ủi những kẻ hành khất khốn cùng mà chúng ta vừa gặp khi năy.

      - Đó là điều duy nhất mà tôi có thể trả lời cho ông. Nếu ông áp dụng thuật "Hồi quang nhăn chiếu" để đi sâu vào nội tâm theo pháp môn Brahma Chinta mà tôi đă chỉ dẫn cho ông, th́ những vấn đề đó sẽ tự nó giải quyết lấy.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 803 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 5:11pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde





ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ




      Tôi biết rằng y đă đưa tôi đến cái mức giới hạn của những khả năng tranh luận của y, và không c̣n ǵ để nói nhiều hơn nữa. Từ nay tôi phải tự t́m lấy con đường đi của ḿnh.

      Nằm trong túi tôi, là một bức điện tín nó gọi tôi hăy đáp chuyến xe lửa sắp tới để lên đường. Tôi yêu cầu nhà Chiêm Tinh hăy cho tôi chụp một bức ảnh kỷ niệm. Y lễ phép chối từ, tôi khẩn khoản mời mọc. Y đáp:

      - Để làm ǵ với gương mặt gầy xấu và bộ quần áo xốc xếch này?

      - Tôi muốn có vật kỷ niệm này của ông khi tôi đi xa.

      Y đáp một cách dịu dàng:

      - Cái kỷ niệm hay nhất là những tư tưởng lành và những việc làm vị tha.

      Tôi đành phải ch́u ḷng y một cách tiếc rẻ, và xếp lại máy ảnh. Khi chúng tôi đứng dậy ra về tôi nh́n thấy gần bên có một vị tu sĩ ngồi kiết dà dưới bóng mát của một cây dù lớn. Y đắm ch́m trong một cơn thiền định, và tôi nhận thấy, do bộ áo màu vàng sậm rằng đó là một tu sĩ thuộc về một ḍng tu khá cao. Khi chúng tôi đến ngă ba đầu đường, tôi kêu một chiếc xe ngựa và chúng tôi chia tay đôi ngă.

      Trong những ngày kế đó, tôi ngồi trên xe lửa. Ban đêm, tôi dừng chân nghỉ ở các lữ quán của chánh phủ dựng lên cho khách đi đường dùng làm nơi tạm trú. Một trong những quán trọ ấy không có tiện nghi ǵ đáng kể, ngoại trừ một đàn kiến rất đông.

      Sau hai tiếng đồng hồ thao thức trằn trọc và cố gắng đẩy lui cuộc tấn công của chúng nhưng vô hiệu quả, tôi đành phải bỏ giường và ngồi nghỉ trên một chiếc ghế bành. Thời gian trôi qua một cách rất chậm chạp. Tôi suy nghĩ vẫn vơ và hồi tưởng lại câu chuyện triết lư về định mệnh của nhà Chiêm Tinh thành Ba Nại La.

      Đồng thời tôi nhớ lại những hành khất đáng thương, lê lết tấm thân tàn trên con đường đầy cát bụi. Cuộc đời không để cho họ sống, nhưng cũng không để cho họ chết! Chiếc xe ngựa đẹp lộng lẫy của một tay phú thương vừa đi ngang qua, làm văng bùn vào ḿnh họ, nhưng họ chấp nhận điều ấy một cách thản nhiên cũng như chấp nhận cái số phận lầm than của họ, hoàn toàn tuân theo ư muốn của Thượng Đế.

      Trên dải đất nóng gắt này, chí đến một người phong cùi, phế tật h́nh như cũng bằng ḷng với số mạng. Thuyết định mạng của Ấn Độ chắc hẳn là đem đến cho họ một nguồn an ủi giống như ảnh hưởng của chất ma túy làm xoa dịu những vết thương ...

      Một người Âu chủ trương sự tự do ư chí không thể nào tranh luận được với một người Đông phương tin tưởng nơi thuyết định mệnh bất di dịch. Đối với người sau này, không hề có vấn đề tự do được nêu ra: định mệnh cai quản cuộc đời y và cả gia đ́nh y, đó là tất cả vấn đề, không c̣n ǵ phải nói nữa.

      Nhưng có người Âu nào lại chịu nh́n nhận rằng ḿnh chỉ là một vật thụ động, chịu bó tay dưới sự độc đoán của số mạng nó chỉ định và sắp đặt cuộc đời ḿnh với một bàn tay vô h́nh? Đến đây tôi liền nhớ lại câu nói bất hủ của Nă Phá Luân, khi đạo binh của ông ta mở đường khai núi vượt qua dăy Alpes:

      - Danh từ "Bất khả" không có ở trong tự điển của ta.

      Nhưng tôi đă nghiên cứu tiểu sử của cuộc đời ông ta, và tôi cũng nhớ cả những hàng chữ lạ lùng mà ông ta đă viết tại Sainte Hélène trong lúc bị đày ra hải đảo:

      "Tôi vẫn luôn luôn tin tưởng ở định mệnh. Những ǵ đă khắc trên tinh tú là đă quyết định rồi! Ngôi sao của tôi đă lu mờ, tôi cảm thấy tôi không c̣n quyền hành ǵ nữa, và tôi cũng không làm thế nào được."

      Một người có những ư tưởng trái ngược như thế hẳn là chưa giải quyết xong bài toán của định mệnh, nhưng thật ra có ai đă giải quyết được điều bí hiểm ấy? Có thể rằng kể từ khi con người bắt đầu biết dùng bộ óc để suy gẫm, th́ vấn đề cổ lỗ này đă từng được tranh luận ở bất cứ nơi nào trên Địa Cầu.

     Những người chất phác đơn sơ không màng giải quyết vấn đề đó, c̣n bậc Hiền Giả th́ vẫn luôn luôn do dự không nói dứt khoát giữa bao nhiêu tư tưởng trái ngược.

      Vài ngày sau, tôi đă ở cách xa Ba Nại La đến vài trăm dặm, khi tôi được tin cho biết có những cuộc nổi loạn và bạo động xảy ra ở đó. Đó là chuyện xung đột giữa những người Ấn và Hồi giáo, thường bắt đầu bằng những duyên cớ nhỏ nhặt không đáng kể, nhưng có những kẻ bất lương lợi dụng vấn đề tôn giáo để tạo loạn và gây rối hầu có thi hành những thủ đoạn cướp bóc và sát nhân của chúng.

      Trong nhiều ngày, thành phố Ba Nại La đắm ch́m trong sự hỗn loạn và khủng bố. Người ta thường nghe nói đến những chuyện đầu rơi máu đổ và giết chóc. Tôi lấy làm lo ngại cho sự an ninh của nhà Chiêm Tinh, nhưng không thể nào tiếp xúc được với y. Những người đem thư lại quá sợ hăi không dám ra đường, và không có thơ từ hay điện tín nào được phát trong những ngày loạn lạc đó.

      Tôi đành phải đợi cho đến khi t́nh h́nh tạm yên trở lại, và gửi một bức điện tín trong số những bức đầu tiên nhận được ở Ba Nại La sau những ngày khủng bố. Vài ngày sau tôi nhận được thư trả lời cảm ơn của nhà Chiêm Tinh, trong đó y cho biết rằng y được b́nh yên nhờ sự che chở của đấng Toàn Năng.

      Và ở trang sau, y cũng không quên chép luôn vào đó mười điều quy luật về sự thực hành pháp môn Yoga của phái Brahma Chinta.

      



Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 804 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 5:14pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ


Một Cuộc Gặp Gỡ Lạ Lùng


Chương Mười Một



     Tôi đă trở lại miền Tây một lần nữa, nhưng không có một chương tŕnh nhất định. Tôi đă quá mệt mỏi v́ những chuyến xe lửa nhiều bụi bặm và những cỗ xe ḅ thiếu tiện nghi nên tôi thuê một chiếc xe hơi cũ và một người Ấn vừa làm tài xế vừa là người bạn đường vừa là người chân tay bộ hạ. Phong cảnh thay đổi liền liền.

      Khi xe đi qua một khu rừng, người tài xế phải ngừng xe khi trời tối, nếu không thấy có làng mạc nào ở gần bên, th́ y đốt một ngọn lửa lớn để làm cho thú dữ tránh xa. Dường như trong rừng có rất nhiều beo và mèo rừng, nhưng ánh lửa sáng cũng đủ làm cho chúng không dám lại gần.

      Ngoài ra c̣n có loài sơn cẩu, phát ra những tiếng sủa rùng rợn trong cụm rừng gần bên. Ban ngày, loài kêu bay lượn trên không, dưới một ṿm trời nắng gắt.

      Một buổi chiều đẹp trời, trong khi ngồi trên xe nhẹ lướt trên đường bộ, tôi nh́n thấy bên vệ đường có hai người lạ lùng. Một người mặc áo tu sĩ ngồi tĩnh tọa dưới bóng cây, c̣n người kia là một thanh ciên, dường như là đệ tử của người tu sĩ.

      Người tu sĩ già dặn hơn vẫn ngồi điềm nhiên bất động, và có lẽ đang ngồi thiền định, v́ y không buồn chú ư đến chiếc xe vừa đi qua, mặc dầu người thanh niên đă nh́n thấy tôi, nhưng có một cái ǵ nó hấp dẫn tôi đến gần người tu sĩ và tôi quyết định ngừng xe.

     Tôi bảo người tài xế hăy trở lại để hỏi thăm vài điều về hai người lạ mặt, và trong một lát tôi đă thấy người tài xế đang nói chuyện một cách sôi nổi với người thanh niên.

      Khi người tài xế trở lại xe, th́ y cho biết rằng hai người lạ mặt quả là thầy tṛ. Người thầy tên là Chandi Das, là một tu sĩ Yogi có những quyền năng lạ lùng. Họ đi ta bà từ làng này sang làng khác, và đă vượt qua rất nhiều dặm đường, có khi đi bộ, có khi đi xe lửa. Họ khởi hành từ tỉnh Bengale là nơi quê hương của họ, đă từ hai năm về trước.

      Tôi mời họ lên xe, và người tu sĩ nhận lời với một thái độ thản nhiên c̣n người thanh niên th́ lộ một tia mừng rỡ trong cặp mắt. Chiếc xe ngừng lại một làng kế cận và chúng tôi định ngủ đêm tại đây. Đường sá vắng tanh không có một bóng người, trừ một tên mục đồng coi giữ một đàn ḅ gầy ốm ở bên cổng làng.

      Ngày đă hầu tàn nhưng trời c̣n nóng bức, chúng tôi đến gần một cái giếng để uống nước, nước có vẻ khả nghi nhưng uống rất mát. Làng này không có vẻ ǵ hấp dẫn, và chỉ có độ năm mươi gian nhà tranh dọc theo hai bên một con đường lộ duy nhất. Nóc nhà lợp bằng rơm, tường nhà đắp bằng đất với hàng rào tre tối, trước cửa nhà của họ, một bà già bước gần giếng, nh́n chúng tôi với cặp mắt khô khan, múc đầy nước vào cái b́nh đồng và lẳng lặng bước đi.

      Người tài xế sau khi đă pha trà xong, liền đi kiếm nhà người thôn trưởng trong làng. Hai thầy tṛ người Yogi vẫn im lặng ngồi nghỉ ngơi trên băi cỏ. Người Yogi chỉ biết có vài tiếng Anh, không đủ để nói chuyện, tôi định phỏng vấn y và sẽ nhờ người tài xế làm thông ngôn khi mọi người đă an nơi an chỗ.

      Dần dần, một nhóm nhỏ gồm có đàn ông, đàn bà và trẻ con đă vây quanh chúng tôi. Dân chúng ở vùng nội địa ít khi thấy được người Âu, nói chuyện với họ không phải là một điều vô ích, họ rất hồn nhiên và có những ư kiến bất ngờ và chân thật đối với cuộc đời. Đối với trẻ con, tôi là một vật lạ, nhưng tôi chinh phục chúng dễ dàng bằng vài đồng xu.

      Chúng cũng tỏ ra hâm mộ cái đồng hồ reo của tôi, và lấy làm ngạc nhiên khi tôi vặn cho nó reo vang để làm vui tai chúng. Một người đàn bà đến gần và rạp người lạy người Yogi ở ngay giữa đường, bà ta lấy tay đụng vào chân người Yogi rồi để lên trán ḿnh để tỏ dấu cung kính. Người tài xế trở lại với người thôn trưởng và cho hay trà đă sẵn sàng.

      Y đă tốt nghiệp ban Trung học, nhưng y vẫn làm đủ mọi nghề: Phu khuân vác, tài xế, thông ngôn. Y tọc mạch muốn biết về mọi sự việc của Tây phương, và hy vọng rằng có ngày tôi sẽ đem y sang Âu Châu. Tôi đối xử với y như bạn, v́ y thông minh và có nhiều thiện chí.

      Trong khi chờ đợi, chắc có ai mời mọc hai thầy tṛ người Yogi, v́ họ đă biến mất. Người dân làng thường hiếu khách hơn là người ở tỉnh thành. Chúng tôi bèn lên đường về nhà người thôn trưởng, mặt trời đă ngả về Tây, và sa xuống đỉnh các ngọn đồi ở tận chân trời màu đỏ thắm. Chúng tôi dừng chân trước một nhà tranh cao ráo sạch sẽ hơn những nhà khác. Tôi ngỏ lời cám ơn chủ nhà. Người này đáp:

      - Sự hạ cố của quư vị là một điều hân hạnh cho tôi.

      Sau khi dùng trà, mọi người c̣n ngồi lại một lát. Bóng hoàng hôn đă ngă xuống khắp cánh đồng, những người mục đồng đă đủng đỉnh dắt trâu về chuồng. Tôi nhờ tài xế đi t́m người Yogi và xin y dành cho tôi một cuộc hội kiến. Một lát người tài xế trở về và đưa tôi đến một nhà nhỏ và thấp, vẻ nghèo nàn.

      Tại đây chỉ có người đệ tử trẻ tuổi đón tiếp tôi, c̣n người Yogi th́ vắng mặt, v́ ông ta được mời đi chữa cho một người bịnh nặng và tôi phải đợi chờ người Yogi trở về. Một chập sau, y trở về và vừa gặp tôi, y liền ra bộ và nói một câu mà người tài xế dịch lại rằng:

      - Xin chào Tiên sinh, và cầu xin Thánh Thần phù hộ ông.

      Nói xong, y liền ngồi bệt xuống đất, hai chân xếp bằng sau khi từ chối một tấm mền vải của tôi đưa ra để làm nệm lót cho y. V́ y ngồi đối diện ngay trước mặt, nên tôi có thể quan sát y tỉ mỉ, bộ râu không chải chuốt làm cho y già đi, tuy thế y có vẻ không hơn năm mươi tuổi.

      Y để tóc dài chí cổ, vành môi nghiêm khắc h́nh như không bao giờ cười. Điều đáng chú ư nhứt là cặp mắt sáng quắc. Cái nh́n đó không phải là của trần gian, tôi cảm thấy rằng nó sẽ ám ảnh tôi suốt nhiều ngày. Người Yogi mở lời trước:

      - Ông từ phương xa đến đây?

      Tôi gật đầu. Y hỏi tiếp:

      - Ông nghĩ sao về đại đức Mahasaya?

      Tôi giật ḿnh v́ ngạc nhiên! Làm sao y biết được rằng tôi vừa đến viếng tỉnh Bengale và gặp Đại đức Mahasaya ở Culcutta? Tôi lặng thinh một hồi và đáp:

      - Đại đức đă chinh phục được tấm ḷng tôi. Nhưng tại sao ông lại hỏi như vậy?

      Người tu sĩ làm như không nghe câu hỏi của tôi, và tôi phải nói tiếp để phá tan sự im lặng:

      - Tôi định sẽ gặp lại Đại đức khi tôi trở về Calcutta. Đại đức có biết ông không, và ông có muốn gởi lời chào Đại đức chăng?

      - Không. Ông sẽ không gặp lại Đại đức Mahasaya. Vào lúc này, Tử Thần Yama đang gọi Đại đức về cơi giới bên kia!

      Sau một lúc im lặng, tôi nói tiếp:

      - Tôi rất thích thú về pháp môn Yoga và đời sống của các tu sĩ. Ông có thể nói cho tôi biết nhân duyên ǵ đă khiến cho ông trở nên một người Yogi, và nhờ đó ông đă thâu hoạch được những kết quả ǵ chăng?

      Nhưng Chandi Das không có vẻ muốn nói nhiều. Y đáp:

      - Dĩ văng là một đống tro tàn. Tôi không muốn bươi móc dĩ văng để t́m lại những sự việc nay đă không c̣n nữa. Tôi không sống trong dĩ văng, cũng không sống trong tương lai. Những điều đó chỉ là hư ảo, như những cái bóng chập chờn vô định. Đó là cái minh triết mà pháp môn Yoga đă đem đến cho tôi.

      Điều này làm tôi ngạc nhiên. Tôi bèn phản đối:





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 805 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 5:30pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde





ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ




      - Nhưng chúng ta là những kẻ sống trong thời gian, làm sao mà không biết đến thời gian được?

      Y bèn hỏi ngược lại tôi:

      - Trong thời gian? Ông có chắc rằng có cái ǵ gọi là thời gian hay không?

      Coi chừng sa lầy, v́ đó là một cuộc tranh luận không có lối thoát. Người tu sĩ này quả thật có khả khiếu lạ lùng như người đệ tử của y đă tuyên bố chăng? Tôi đánh bạo hỏi:

      - Nếu thời gian không có, th́ dĩ văng và tương lai đều hiện ra cùng một lúc ngay trong hiện tại. Nhưng kinh nghiệm chỉ cho ta thấy trái ngược lại.

      - Ông muốn nói rằng kinh nghiệm của ông, kinh nghiệm của thế gian dạy cho ông biết như thế?

      - Lẽ tự nhiên, nhưng phải chăng ông muốn nói rằng ông có một kinh nghiệm khác hẳn về vấn đề này?

      - Đúng vậy.

      - Phải chăng tôi nên kết luận rằng tương lai cũng là hiện tại đối với ông?

      Chandi Das đáp:

      - Tôi sống trong cơi vô cùng. Tôi không t́m biết trước những sự việc sẽ đến với tôi trong tương lai.

      - Nhưng phải chăng ông có thể biết trước những điều sẽ xảy đến trong tương lai của người khác?

      - Phải, nếu tôi muốn.

      Tôi quyết định hỏi cho thật rơ:

      - Xin ông nói rơ thêm. Phải chăng ông có thể tiên đoán việc tương lai?

      - Một phần nào thôi, v́ đời người không phải được sắp đặt trước một cách tỉ mỉ từng chi tiết.

      - Nhưng ông có thể đoán biết một phần cái tương lai của tôi và nói cho tôi biết chăng?

      - Ông muốn biết để làm ǵ? Nếu Thượng Đế đắp một tấm màn bí mật lên tương lai của con người, ông tưởng rằng không có lư do hay sao?

      - Tôi bị ám ảnh dày ḍ bởi nhiều vấn đề nghiêm trọng. V́ muốn soi sáng phần nào những vấn đề đó, mà tôi đi, hoặc nó cũng có thể cho tôi biết rằng bao nhiêu công lao khó nhọc của tôi đều là vô ích.

      Người Yogi ngước lên nh́n tôi với cặp mắt đen láy. Tôi bị hấp dẫn bởi cái nh́n phong độ ung dung tự tại và sự minh triết của người đạo sĩ dường như chiếu hào quang sáng rỡ vào cái cḥi tranh nghèo nàn ẩn náu trong rừng thẳm. Sau cùng, Chandi Das cất tiếng nói:

      - Tôi không được biết nhiều về khoa học Âu Tây, nhưng nếu ông sẵn ḷng nghe tôi, th́ cuộc hành tŕnh của ông sẽ không phải là vô ích. Ông hăy trở lại thành phố đầu tiên khi ông bước vào Ấn Độ, và trong tháng sau ông sẽ được như ư nguyện.

      - Trở lại Bombay?

      - Phải.

      Tôi không hiểu ǵ cả. Bombay, một thành phố đă bị Âu hóa hết ba phần tư. Tôi c̣n thâu thập được ǵ ở Bombay nữa bây giờ? Tôi nói:




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 806 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 5:33pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      - Tôi xin thú thật là ở Bombay tôi chưa t́m được ai để dẫn dắt tôi hết cả.

      - Tuy nhiên, đó là con đường của ông. Ông hăy đi cho mau đừng để mất thời giờ, ông hăy đi vào ngày mai.

      - Đó là tất cả những ǵ ông muốn nói với tôi sao?

      - Tôi có thể nói nhiều hơn nhưng tôi chưa suy nghĩ kịp.

      Người Yogi lại đắm ch́m trong sự im lặng. Cặp mắt y giống như mặt nước hồ trong vắt trong một lúc xuất thần, và sau cơn nhập định y cho biết:

      - Ông sẽ từ giă Ấn Độ để trở về phương Tây trước mùa thu tới đây. Ông sẽ bị đau nặng vào lúc ông sắp sửa rời khỏi xứ này. Tinh thần ông c̣n chiến đấu trong trong một xác thể tàn tạ nhưng ngày giờ giải thoát của nó chưa đến. Ông sẽ được thấy cái ư muốn ẩn dấu của định mệnh v́ nó sẽ làm cho ông trở lại đất Ấn Độ tất cả là ba lần. Một vị Tôn Sư mà ông có nhân duyên trong quá khứ hiện nay đang chờ đợi ông, và sau cùng ông sẽ trở lại với chúng tôi.

      Người Yogi lại im lặng một lúc, đôi mí mắt y dường như hơi cử động. Kế đó, y nh́n thẳng vào cặp mắt tôi và nói:

      - Ông đă nghe chưa? Đó là tất cả những ǵ tôi muốn nói với ông.

      Chandi Das từ chối không chịu nói ǵ về cuộc đời cá nhân của y, làm cho tôi không biết nghĩ sao về những lời tiên tri lạ lùng đó, và tôi cảm thấy rằng c̣n có nhiều điều khác nữa mà y không chịu nói. Trong khi câu chuyện đang tiếp diễn, tôi phải bật cười mà nghe người đệ tử hỏi tôi với một vẻ mặt trịnh trọng, h́nh như y cũng tự hào về cái bản lĩnh cao cường của thầy y:

      - Những người Yogi của Anh Quốc có thể nói tiên tri được như vậy chăng?

      Tôi phải khó nhọc một lúc mới làm cho y hiểu rằng ở Anh Quốc không có đạo sĩ Yogi. Trong buổi tối diễn ra với những cơn im lặng kéo dài, và khi người Yogi cho tôi biết rằng y không c̣n điều ǵ muốn nói nữa, th́ người nông phu tiến tới và mời tôi hăy ở lại dùng bữa cơm đạm bạc với y.

      Tôi đáp rằng tôi đă có sắm sửa đủ mọi thứ mang theo trong xe, và sẽ làm cơm tại nhà người thôn trưởng rồi ở lại ngủ đêm tại đó. Người nông dân trả lời rằng y phải tuân theo những bổn phận cổ truyền của người chủ nhà là phải tiếp khách ở phương xa đến, và khẩn khoản mời mọc hết lời, làm cho tôi không c̣n cách nào từ chối. Người nông dân bèn đặt trước mặt tôi một đĩa cơm rang nóng sốt. Một vầng trăng khuyết lu mờ hiện ra trong khung cửa sổ nhỏ hẹp.

      Tôi nghĩ rằng không có một sự học vấn hay một trí óc siêu việt nào của những người ở tỉnh thành có thể bù trừ được với tấm ḷng tốt đơn giản của những người thất học ở chốn đồng quê. Khi tôi từ giă hai thầy tṛ đạo sĩ Chandi Das, người nông dân gỡ lấy cái đèn lồng treo trên trần nhà và tiễn đưa tôi ra tận đường cái. Y đưa bàn tay lên trán để chào và đứng một lúc nh́n khách lên xe.

      Kế đó, tôi trở về nhà người thôn trưởng dưới ánh đuốc lập ḷe do người tài xế cầm nơi tay. Tôi trằn trọc ngủ không yên giấc, và nghĩ đến những lời tiên tri của người đạo sĩ. Giấc ngủ của tôi bị quấy rối bởi những tiếng kêu rùng rợn của con sơn cẩu trong rừng kế bên, và những tiếng sủa không dứt ở đằng xa của một con chó sủa trăng.

      Tuy không có ư định nghe theo lời khuyên của người đạo sĩ, nhưng tôi vẫn đi Bombay. Vừa yên nơi yên chỗ xong th́ tôi đau nặng. Nằm trong bốn vách tường của một căn pḥng khác sạn, mệt mỏi cả tâm hồn lẫn thể xác, tôi đă phải vất vả chiến đấu với sự ngă ḷng. Tôi đă bắt đầu cảm thấy chán nản xứ Ấn Độ. Tôi đă vượt qua hàng ngàn dặm đường, dưới những điều kiện thật khó khăn, để rốt cuộc nằm ụ một nơi trong khu sang trọng của một thành phố lớn.

      Không phải giữa những nơi tửu điếm, những khiêu vũ trường, những ṣng bài bạc và những cốc rượu mạnh pha soda sủi bọt mà tôi sẽ khám phá ra cái Ấn Độ huyền bí của tôi đang đi t́m. Sự la cà của tôi ở những khu b́nh dân bổn xứ chắc chắn đă giúp đỡ tôi trong sự sưu tầm, nhưng điều đó lại có ảnh hưởng bất lợi cho sức khỏe của tôi.

      C̣n nói về những cuộc phiêu lưu ở những chốn non cao động cả, hay những vùng làng mạc xa xôi trong rừng thẳm, th́ tôi đă phải trả một cái giá rất đắt là ăn uống thất thường, thiếu bổ dưỡng, thiếu vệ sinh, những cuộc hành tŕnh vất vả mệt nhọc lúc ban ngày và những đêm mất ngủ v́ tiết trời nóng nực. Kết quả là nay tôi đang mang cái thể xác của tôi như một cái gánh nặng.

Tôi sẽ chịu đựng được một đời sống như thế này trong bao lâu nữa? Đôi mắt tôi đă nặng trĩu v́ mất ngủ, một cơn mất ngủ nó bám víu tôi một cách chặt chẽ như một con mực khổng lồ bám lấy mồi, kể từ khi bắt đầu cuộc hành tŕnh.

      Sự bắt buộc phải sống chung đụng với những người thuộc một ṇi giống khác, phải luôn luôn giữ thế quân b́nh giữa một bộ óc xét đoán khoa học và một sự thụ cảm tâm linh, làm cho thần kinh hệ của tôi bị căng thẳng đến cực độ. Tôi đă phải tập phân biệt những nhà đạo sĩ hiền triết chân tu với những kẻ điên rồ, lầm lạc những điều ảo vọng với những cảm hứng thiêng liêng.

      Tôi cũng phải biết phân biệt những tu sĩ thần bí với những kẻ buôn thần bán thánh, những điều đó trong một thời gian tối thiểu, v́ dầu sao tôi cũng không thể bỏ phí nhiều năm của một đời người để chạy theo một sự t́m ṭi như thế.

      Nếu thể xác tôi đă kiệt quệ, th́ tâm hồn tôi cũng không hơn ǵ: Tôi có cảm giác như bị hoàn toàn thất bại cả vật chất lẫn tinh thần. Dĩ nhiên là tôi đă gặp những người chân tu có một giá trị tâm linh cao khiết, tôi cũng đă gặp những người thực hiện được những điều lạ lùng, nhưng tôi chưa gặp được bậc siêu nhân mà tôi t́m kiếm, bậc danh sư có thể làm thỏa măn cả lư trí lẫn t́nh cảm của tôi.

      Những vị đệ tử quá sốt sắng đă cố gắng lôi cuốn tôi theo về môn phái của họ. Tôi đă thừa hiểu rằng cũng ví như trong thời niên thiếu người ta lầm tưởng một chuyện ái t́nh vụn vặt là một mối t́nh lớn của cả một đời, th́ những người trẻ tuổi này đă lầm tưởng cái kinh nghiệm đầu tiên của họ là một sự khám phá tuyệt diệu, nó ngăn trở không cho họ tiến tới nữa.

      Có ích lợi ǵ mà nhồi vào bộ óc của tôi thêm một giả thuyết hư vô, thần bí, nếu đồng thời tự trong tâm tôi không có xuất hiện một cái ǵ sống động, độc đáo, đặc biệt là của riêng tôi, một sự giác ngộ thiêng liêng nó là của tôi chứ không phải là một thứ ánh sáng mượn tạm từ bên ngoài?

      Nhưng nghĩ lại, tôi là ai mà dám mơ ước những triển vọng cao cả như thế. Tôi có quyền lực ǵ mà dám ước mong đến những ân huệ cao sang của định mệnh như thế. Nh́n về khía cạnh nào của vấn đề, tôi cũng chỉ thấy có những lư do chán nản, tuyệt vọng.

      Khi tôi đă thấy hơi khỏe để có thể bước xuống pḥng ăn, tôi thấy ở bàn kế bên có một người sĩ quan. Người này mới nói chuyện với tôi về bà vợ của y đang đau ốm trầm trọng chạy chữa thuốc thang không hết, về đơn xin nghỉ phép của y bị từ chối, ... Điều này càng làm cho tôi chán nản hơn nữa. Bữa cơm xong, vị sĩ quan vừa châm một điều x́ gà lớn vừa nói:

      - Đời người phải chăng là một tấn hài kịch? Hả ông bạn?

      Tôi cũng đáp buông xuôi lấy lệ:

      - Ừ! Hài kịch!

      Nửa giờ sau, tôi gọi xe taxi đi đến đường Hornby Road và bước vào văn pḥng một công ty hàng hải. Tôi mua vé tàu với ư nghĩ rằng trong hoàn cảnh hiện thời không c̣n có giải pháp nào khác hơn là lên đường càng sớm càng hay. Và tôi liền trở về khách sạn mà không màng để ư đến những ṭa lâu đài, dinh thự đồ sộ nguy nga của thành phố Bombay.

      Chiều đến, người bồi đặt trên bàn tôi một dĩa cari ngon lành và thơm phức, nhưng tôi không thấy đói. Tôi chỉ uống một ly nước đá lạnh và gọi taxi ra đi. Xe ngừng trước một rạp chớp bóng, đèn ống chiếu sáng ḷa cả vùng chung quanh: đó là một món quà của phương Tây nhập cảng sang Ấn Độ. Thỉnh thoảng tôi vẫn đi xem chớp bóng, và đó là một nguồn lăng quên, ví như nước sông Léthé ở cảng âm ti.

      Người ta không c̣n thấy cô đơn khi mà trong bất cứ một thành phố nào của thế giới, người ta cũng có thể thuê một chiếc ghế bành êm dịu trong gian pḥng ấm cúng để xem hát trong vài giờ. Tôi bước vào và liền thấy trên màn bạc người vợ ngoại t́nh và người chồng chơi bời phóng túng trong một khung cảnh sang trọng quư phái. Nhưng cốt chuyện trên màn bạc làm tôi chán nản, tôi đă mất cái thích thú đi xem chớp bóng.

      Tấn bi hài kịch trên màn bạc không c̣n có thể làm cho tôi cười hay khóc được nữa. Trong khi đó, cảnh vật chung quanh tôi, cả gian pḥng lẫn màn bạc, đều như xóa mờ trong một thế giới huyền ảo và tâm trí của tôi lại quay về cái vấn đề nó vẫn ám ảnh tôi từ trước.

      Bỗng nhiên, thần kinh và cân năo tôi bị căng thẳng mănh liệt, tôi cảm thấy dường như có một luồng điện chạy qua trong bầu không khí chung quanh và một sự thay đổi lớn đang diễn ra trong người của tôi. Một tiếng nói từ trong nội tâm phát ra và bắt buộc tôi phải chú ư:

      - Cuộc đời chẳng khác nào như một cuốn phim chiếu bóng, một ảo ảnh di động luôn, nó diễn ra từ cái nôi đến nấm mồ. Những sự vật trong dĩ văng nay c̣n đâu: Ngươi có thể kêu gọi nó ra được chăng? Thay v́ tiếp tục thẳng tiến đến cái chân thật, bền bỉ, trường tồn, ngươi lại dừng chân ở nơi đây và lăng phí thời giờ với một cái h́nh ảnh c̣n phỉnh lừa hơn là cuộc đời, với một câu chuyện tưởng tượng, một ảo ảnh trong cái ảo ảnh.

      Thật vậy, tôi đă chán nản những tấn bi kịch về t́nh ái của người đời. Tôi bèn đứng dậy đi ra để thở cái không khí mát mẻ ở bên ngoài, đi thơ thẩn vô định dọc theo các đường phố dưới ánh trăng êm dịu. Đến một góc đường, một người hành khất đến gần tôi và thốt ra một tiếng kêu lạ lùng, nó làm cho tôi ngẩng mặt lên:

      Tôi thụt lùi lại trong sự khủng khiếp, v́ gương mặt của người ấy bị một chứng bệnh quỷ quái ǵ nó ăn lở loét đến tận xương. Nhưng ḷng trắc ẩn mạnh hơn sự ghê tởm, tôi bèn ném hết tất cả những đồng tiền lẻ vào bàn tay lật ngửa của y. Tôi đi đến bờ biển để t́m một nơi hẻo lánh và tránh chỗ đông người, dưới ṿm trời đầy sao, tôi nghĩ đến cơn khủng hoảng vừa rồi trong rạp hát, và tự thả trôi theo những ư nghĩ triền miên không dứt.






Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 807 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 5:38pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      Chỉ c̣n vài ngày nữa là tôi sẽ xuống tàu vượt biển trở về Châu Âu. Thôi, hăy tạm ngưng việc học Đạo. Tôi tự nghĩ tất cả những ǵ mà tôi có thể hiến dâng như thời giờ, tiền bạc, trí năo, công lao, tôi không hy sinh nữa để chạy theo những giả thuyết vu vơ. Khi ngồi trên tàu, có lẽ tôi sẽ nghĩ như vậy, nhưng trong khi chờ đợi, tiếng nói của nội tâm lại dằn vặt tôi một cách ráo riết, không dung tha:

      "Đồ điên! Th́ ra kết quả của bao nhiêu nguyện vọng thiết tha, của bao nhiêu năm tầm Đạo, nay chỉ có bấy nhiêu đó thôi sao? Ngươi sẽ trở lại với cuộc đời tầm thường, noi theo con đường bằng phẳng của thế nhân, quên hết tất cả những ǵ ngươi đă học và nhận ch́m viện ngọc tâm linh quư báu của ngươi xuống chỗ bùn nhơ của thất t́nh nhục dục.

      Nhưng này, ngươi hăy coi chừng! Cuộc đời học Đạo của người có thể thoát khỏi một cách dễ dàng những đ̣i hỏi của một nguyện vọng như thế hay sao? Ngươi đừng hy vọng thoát khỏi, v́ đó là những sợi dây trói buộc người đă từ lâu."

      Một ḿnh đứng dưới ṿm trời đầy sao, tôi không thể cưỡng lại được cái tiếng nói nội tâm nó dằn vặt tôi một cách thẳng tay không chút tội nghiệp, làm cho tôi trở nên bất lực trước sự khủng hoảng. Và tiếng nói vô âm thinh kia lại tiếp tục:

      "Ngươi có chắc rằng trong những người mà ngươi đă gặp, không có ai đáng mặt là vị danh sư mà ngươi t́m kiếm hay chăng?"

      Tôi hồi tưởng lại tất cả những người tu sĩ và đạo sĩ Yogi mà tôi đă gặp ở dọc đường. Tất cả những gương mặt rám nắng hoặc đen xạm diễn lại trong trí tôi, từ những nét mặt nhanh nhẹn vui tươi của ngươi miền Bắc, thản nhiên của người miền Nam, linh hoạt và dễ xúc cảm của người miền Đông và im lặng trầm tĩnh của người miền Tây.

      Những gương mặt đó tuy khác nhau về sự thiện cảm hay thù nghịch, khôn ngoan hay đần độn, có hảo ư hay có ác ư, nhưng tất cả đều có một điểm chung là bí hiểm, khôn ḍ. Tuy nhiên có một gương mặt tách riêng ra khỏi những gương mặt khác, mà đôi mắt không rời khỏi đôi mắt của tôi. Tôi đă nh́n ra rồi: đó là đức Maharichi, vị Tôn Sư ẩn dật trên ngọn Đồi Thiêng ở dưới tận miền Nam xa xôi của Ấn Độ.

      Không bao giờ tôi có thể quên Ngài và thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ đến Ngài nhưng những sự biến thiên, thay đổi của cuộc đời, cùng những điều lo nghĩ dồn dập đă xóa mờ dần cái kỷ niệm êm đềm cùng những ngày ngắn ngủi mà tôi đă sống ở đạo viện.

      Tôi phải nh́n nhận rằng không có một người nào ở trần gian đă từng hấp dẫn tôi một cách lạ kỳ như thế. Nhưng Ngài dường như quá ẩn dật, quá cách biệt đối với một người Âu như tôi, và quá thản nhiên đối với những mục đích khiêm tốn của tôi. Tuy nhiên, cái tiếng nói của nội tâm lại vang lên:

      - Thản nhiên ư! Ngươi có chắc không? Phải chăng ngươi đă bỏ ra đi quá sớm?

      Và lư trí của tôi cũng đáp lại để tự bào chữa:

      - Phải, có lẽ tôi đă quá vội vàng ra đi, v́ tôi nghĩ đến chương tŕnh của tôi. Tôi có thể nào làm khác được chăng?

      - Ít nhất có một điều mà ngươi có thể làm: Hăy trở lại đạo viện.

      - Như vậy, phải chăng là tôi làm một điều miễn cưỡng, gượng gạo?

      - Cái đó không quan hệ, điều quan hệ là sự thành công. Ngươi hăy trở lại với đức Maharichi.

      - Nhưng Ngài ở tận dưới miền Nam xa xôi, ở nơi tận cùng của xứ Ấn Độ, mà tôi th́ đă quá mệt mỏi và đau ốm để có thể lên đường.

      - Điều đó cũng không quan hệ. Nếu ngươi muốn gặp Tôn Sư th́ ngươi đừng quản công lao khó nhọc.

      - Tôi đă quá mệt mỏi và chán nản nên không c̣n thiết đến điều ǵ nữa, và cũng không chắc rằng tôi c̣n có ư muốn đi t́m Thầy. Tôi đă giữ chỗ trên tàu và sẽ khởi hành trong ba ngày. Muốn đổi ư kiến th́ cũng đă trễ rồi.

      - Không bao giờ là quá trễ. Ngươi hăy xét đoán sự vật theo đúng giá trị của nó. Ngươi nói rằng đức Maharichi là ngươi siêu việt nhất mà ngươi đă gặp, vậy mà ngươi bỏ ra đi khi ngươi mới vừa được biết Ngài. Hăy trở lại cho mau!

      Cái lư trí đă chịu khuất phục và vâng theo tiếng nói của nội tâm, nhưng cái thể xác đau yếu c̣n chống cự lại. Tiếng nói bí mật kia lại tiếp tục:

      - Ngươi hăy hủy bỏ chương tŕnh đă định, và hăy trở lại với đức Tôn Sư.

      Tiếng nói đó phát ra như một cái lịnh và vang lừng trong tâm giới của tôi. Sự biện luận của lư trí và sự chống đối của cái xác thể mỏi mệt cũng trở nên vô hiệu quả. Tôi cũng như một đứa trẻ nhỏ yếu đuối bất lực, không c̣n sức tự chủ.

      Vào lúc mà tiếng nói kia kêu gọi một cách mănh liệt nhất, réo rắt thâm trầm nhất, th́ h́nh ảnh của đức Maharichi hiện ra trước mắt tôi, một h́nh ảnh sống động và hấp dẫn, không thể nào kháng cự lại được nữa. Tôi đành chịu thua và bỏ cuộc, như một kẻ chiến bại đành buông khí giới và rời khỏi chiến trường.

      Tôi sẽ trở lại đạo viện, và nếu Tôn Sư bằng ḷng, tôi sẽ giao phó vận mạng tôi cho Ngài định đoạt. Thế là xong, tôi đă bị chinh phục, mặc dầu tôi vẫn c̣n hoang mang chưa hiểu ra sao cả, nhưng tôi cảm thấy rằng tôi không c̣n thuộc về tôi nữa. Tôi trở về khách sạn, uống một chén trà nóng, tôi đă hoàn toàn thay đổi, và cảm thấy nhẹ nhàng như trút được một gánh nặng.

      Sáng ngày hôm sau, tôi thấy trong ḷng vui vẻ và khỏe khoắn lạ thường, đó là lần đầu tiên từ khi trở lại Bombay. Người bồi bàn của tôi trong bộ áo đồng phục trắng tinh, nịt thắt lưng vàng, khi vừa thấy tôi bước vào pḥng ăn liền vui vẻ cười và nói:

      - Có thư của ông đây.

      Tôi mở thư ra xem th́ lấy làm ngạc nhiên mà thấy thư gửi từ đạo viện Arunachala, trên ngọn Đồi Thiêng. Thư ấy là của một vị Thẩm phán trong Hội Đồng Lập Pháp tỉnh Madras, người này v́ một tấn thảm kịch gia đ́nh, đă quyết định đi tu và trở nên một vị đệ tử của đức Maharichi.

      Tôi đă từng làm quen với y và thỉnh thoảng có trao đổi thư từ qua lại. Trong thư, y nói rằng tôi sẽ được hoan nghinh nếu tôi trở lại đạo viện. Câu cuối cùng trong thư lại nói: "Ông rất may mắn được gặp vị Tôn Sư mà ông vẫn t́m kiếm." Bức thư này đến với tôi như một điềm lành, tôi liền đến văn pḥng Công ty hàng hải để xin hủy bỏ vé tàu về Anh Quốc.

      Một lần nữa tôi lại từ giă thành phố Bombay và vượt qua vùng cao nguyên Décan để trực chỉ miền Nam. Lần này tôi có cảm tưởng như đi đến ánh sáng và an lạc. Qua ngày hôm sau, tôi lấy làm sung sướng mà nh́n thấy lại những phong cảnh êm đềm và những ngọn đồi đất đỏ của miền Nam.

      Tôi càng phấn khởi hơn khi chuyến xe lửa đă qua khỏi vùng đồng nội khô khan và tôi bắt đầu thở cái không khí mùi gió biển của thành phố Madras, chấm dứt chặng đầu của cuộc hành tŕnh.

      Tại Madras, tôi phải đổi qua chuyến xe lửa khác và trong khi chờ đợi, tôi đến viếng thăm nhà văn hào Mani, người bạn đồng nghiệp đă giới thiệu tôi với đức Tăng Thống Shri Shankara độ nọ. Nhà văn hào tiếp đón tôi một cách nồng nhiệt và khi được biết rằng tôi trở lại đạo viện của đức Maharichi th́ y nói rằng:

      - Tôi không ngạc nhiên, v́ tôi đă biết trước.

      Tôi ngạc nhiên nhưng vẫn cứ hỏi:

      - V́ đâu mà anh lại nói như vậy?

      Y mỉm cười đáp:

      - Bạn ơi, bạn có nhớ chăng, khi chúng ta từ giă đức Tăng Thống ở Chingleput, khi ra tới hành lang, Ngài có day lại nói nhỏ với tôi vài điều.

      - À! Bây giờ anh nhắc lại, tôi mới nhớ. Vậy đức Tăng Thống nói những ǵ?

      - Ngài nói với tôi như vầy: "Người bạn anh sẽ đi châu du khắp xứ Ấn Độ để t́m Thầy. Y sẽ gặp nhiều vị đạo sĩ, nhưng sau cùng y sẽ trở lại với đức Maharichi, v́ đó là vị Tôn Sư duy nhất sẽ thích hợp với y."

      Thật là lạ lùng! Phải chăng đức Tăng Thống Shri Shankara quả thật là một nhà tiên tri. Dầu sao, những lời này cũng xác nhận và củng cố thêm cho quyết định của tôi, rằng tôi đă t́m thấy đúng con đường của tôi đi.

      



Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 808 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 5:42pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ


Đạo Viện Trong Rừng Thẳm


Chương Mười Hai



     Có những giờ mà người ta có thể khắc bằng chữ vàng trong quyển lịch của đời ḿnh. Đó là một trong những giờ phút thần tiên mà định mệnh đă dành cho tôi khi tôi trở lại đạo viện của đức Maharachi.

      Ngài vẫn ngồi ở Tịnh xá như thường lệ, trên tấm da cọp rất đẹp. Những cây nhang nối tiếp nhau cháy một cách chậm chạp trên chiếc bàn nhỏ, tỏa ra khắp pḥng một mùi hương thơm dịu.

      Trong lúc đó, đức Tôn Sư không ngồi nhập định, Ngài vẫn tỉnh táo như thường, đôi mắt nh́n tự nhiên và đôi môi Ngài mở một nụ cười tiếp đón khi tôi bước vào Tịnh Xá và nghiêng ḿnh kính cẩn chào Ngài. Vài vị đệ tử ngồi cách xa Ngài một cách cung kính, một vị đứng gần kéo cái quạt tre treo trên trần để quạt cho mát khắp pḥng.

      Lần này tôi định tŕnh bày cho Tôn Sư biết rơ ư muốn của tôi, và chỉ yên ḷng khi tôi biết được quyết định của Ngài. Nhưng tôi có nhiều hy vọng được Ngài thâu nhận, v́ cái tiếng nói trong nội tâm nó gọi tôi từ Bombay trở về đây, và nó vang lên như một cái lịnh, là một tiếng nói mănh liệt mà tôi không thể nào căi lời và không nghe theo.

      Sau vài lời giải thích tôi tŕnh bày lời thỉnh cầu của tôi một cách vắn tắt, gọn gàng, Đức Maharichi vừa nh́n tôi vừa mỉm cười, nhưng vẫn giữ im lặng. Tôi lập lại câu nói của tôi, và lần này Ngài trả lời trực tiếp bằng tiếng Anh rất lưu loát:

      - Cần ǵ phải nói đến việc thầy tṛ? Những sự khác biệt đó chỉ có dưới quan điểm của người sơ cơ. Đối với người nào đă phản hồi nguyên tánh của ḿnh, th́ không có chuyện thầy với tṛ, mà chỉ có người với người mà thôi.

      Tôi tự nghĩ phải chăng đó là một sự từ chối, tôi cố gắng tŕnh bày lời yêu cầu của ḿnh một cách khác và tôi được trả lời như sau:

      - Anh phải t́m thầy ở tự nơi anh, tôi muốn nói ở nơi Chân Ngă, hay Chân Như Phật tánh của ḿnh.

      Tôi bắt đầu hiểu ư Ngài: đức Maharichi không muốn trả lời trực tiếp câu hỏi của tôi, tôi phải t́m hiểu những lời nói của Ngài, nó rất u ẩn và tế nhị. Tôi không nói thêm nữa về việc đó, và chỉ nói chuyện với Tôn Sư về chuyến du hành của tôi. Kế đó, tôi trở về chỗ an nghỉ dành riêng cho tôi trong đạo viện, và chuẩn vị ở trong một thời hạn lâu dài.

      Trong tuần lễ kế đó, tôi sống một cuộc đời bất thường. Ban ngày tôi đến ngồi trong Tịnh Xá của đức Maharichi để nghe những lời vàng ngọc của Ngài và để hy vọng nhận được câu trả lời mà tôi đang chờ đợi. Nhưng ban đêm tôi vẫn bị chứng mất ngủ, mặt dầu tôi nằm dưới đất một cách giản dị trong một cái cḥi mới cất ở cách đạo viện chừng một trăm thước.

      Cḥi này vách tường làm bằng đất, nóc lợp tranh, ở chung quanh toàn là những bụi cây có gai, những loại cây xương rồng, là chỗ bắt đầu của khu rừng hoang rậm rạp, không hề có chân ngọn núi Thiêng, ở phía nam, có một cái ao lớn, mặt nước phẳng lặng, trên bờ ao có nhiều cḥm cây và rất nhiều loài khỉ vượn nhảy nhót trên cành.

      Những chuỗi ngày trôi qua một cách đều đặn. Mỗi ngày, tôi dậy sớm trước khi mặt trời mọc và xuống ao tắm. Tôi phải đập nước và làm nhiều tiếng động để cho loài rắn tránh xa. Kế đó, tôi uống một cách ngon lành ba chén trà thơm nóng, nó là cái xa xỉ phẩm duy nhất của tôi ở đạo viện thâm nghiêm này.

      C̣n nói về những bữa ăn của tôi, th́ chỉ có một người bồi lo việc bếp núc và đi chợ nấu ăn. Tuy thế, tôi chỉ có ăn một buổi trưa c̣n buổi chiều th́ tôi uống sữa hay uống trà. Sau khi điểm tâm xong, tôi thong thả bước lần xuống Tịnh Xá, có khi tôi ngừng lại xem những bụi hoa hường trong vườn, hoặc ngồi dưới những gốc dừa sai trái. V́ buổi sớm mai mặt trời chưa lên cao nên dạo chơi trong vườn để thưởng hoa như thế là một điều thích thú.

      Kế đó tôi bước vào Tịnh Xá, cúi đầu chào Tôn Sư, và ngồi xếp bằng dưới sàn gạch. Tôi được tự do đọc sách hay viết thư trong một lúc hoặc nói chuyện với các vị đệ tử, chất vấn Tôn Sư về một vấn đề nào đó, hoặc tham thiền trong một giờ về một đề tài của Tôn Sư đưa ra. Buổi tối th́ dành cho cuộc tham thiền chung.

      Nhưng, dầu cho tôi mắc bận việc ǵ, tôi cũng cảm thấy cái ảnh hưởng tốt lành của bầu không khí chung quanh nó tiềm tàng một niềm an tịnh thiêng liêng, phảng phất trong đạo viện. Chỉ ngồi bên cạnh đức Maharichi cũng đủ làm cho tâm hồn được tạo ra khi tôi với Tôn Sư ngồi gần nhau. Điều này tuy rất tế nhị, nhưng không thể nào lầm lẫn được.

      Đúng mười một giờ, tôi trở về cḥi dùng cơm và nghỉ trưa, kế đó tôi trở lại ngồi nơi Tịnh Xá.

      Thỉnh thoảng để thay đổi không khí, tôi đi dạo vùng chung quanh hoặc xuống tỉnh để viếng ngôi đền Bà La Môn vĩ đại và tôn nghiêm ở đó. Đôi khi, đức Maharichi bổn thân đến nơi cḥi tranh để viếng tôi mà không báo trước. Lẽ tự nhiên, tôi không bỏ qua những dịp đó để hỏi Ngài về nhiều vấn đề thắc mắc.

      Ngài nghe tôi một cách vô tư tuy rằng với những danh từ ngắn ngủi, ít khi thành một câu trọn vẹn. Có lần tôi hỏi mà Ngài không trả lời. Cặp mắt ngài đắm ch́m vào chỗ hư không ở tận chân trời, Ngài im lặng như thế trong vài phút, không chút cử động, h́nh như Ngài không có ở đó nữa.

      Ngài mắc thiền định suy tư, hay măi nh́n vào một vật vô h́nh nào ở trong không gian, mà chỉ có Ngài mới nh́n thấy? Ngài có nghe thấy tôi chăng? Dầu sao đứng trước mặt Ngài, tôi bị một cái sức mạnh ǵ nó xâm chiếm và chế ngự cả tâm hồn tôi.

      Việc ấy đă cho tôi một bài học. Có ích ǵ mà đặt ra những câu hỏi nọ kia và thảo luận dông dài khi mà tôi đă có tự nơi ḿnh một cái giếng hiểu biết mà tôi chỉ cần đào xới lên để t́m thấy? Tốt hơn là hăy chấm dứt mọi suy luận, đôi co và cố gắng khai thác những ǵ tiềm tàng trong bổn tánh Chân như của ḿnh. V́ thế, tôi vẫn giữ im lặng và chờ đợi.

      Nửa giờ sau, đức Maharichi vẫn điềm nhiên bất động. H́nh như Ngài đă quên sự có mặt của tôi nhưng tôi cảm thấy rơ ràng rằng sự giác ngộ bên trong của tôi vừa thần giao cách cảm, một ảnh hưởng huyền bí toát ra từ thân ḿnh của Ngài.

      Có lần, trong một cuộc viếng thăm bất thần như thế, Ngài thấy tôi đang bị dày ṿ bởi một cơn khủng hoảng, buồn rầu. Ngài mới an ủi và khuyến khích tôi, và nói về cái mục đích huy hoàng hứa hẹn cho người nào thực hành pháp môn Yoga.

      - Nhưng bạch Tôn Sư, pháp môn đó là một con đường đầy những chướng ngại, và tôi tự biết rơ về sự yếu đuối của tôi.

      - Đó là điều chắc chắn nhứt để tŕ kéo ta lại, v́ chính sự thiếu tin tưởng đó, cái tinh thần chủ bại đó, làm tê liệt mấy ư chí tiến thủ của con người.

      - Nhưng nếu sự chủ bại đó có căn cứ?

      - Nó không có căn cứ nào cả. Điều lầm lạc lớn nhứt của ta là tưởng rằng con người tự nhiên vốn yếu đuối, xấu xa, hèn kém, nó là do những thói quen, ḷng ham muốn và dục t́nh sinh ra, chớ không phải chính là của ta.

      Những lời nói đó có một sự kích thích rất mạnh. Có lẽ tôi sẽ gạt bỏ, nếu là từ người nào khác thốt ra, nhưng lương tri của tôi cho biết rằng lời Ngài thốt ra là đúng Chân Lư, rằng Tôn Sư không phải là một triết gia phân tách từ cái mũi kim, mà là một bực Hiền Giả nói ra những kinh nghiệm thâm sâu và dồi dào phong phú của Ngài. Một lần khác, trong một cuộc nói chuyện về đời sống ở phương Tây, tôi nói:

      - Tôn Sư không có ǵ khó khăn để t́m thấy sự an tịnh trong một đạo viện êm đềm v́ ở đây Ngài bị xao lăng hay xáo trộn tinh thần.

      - Anh tưởng như vậy, nhưng một khi đă đi tới mục đích, một khi anh đă được sự giác ngộ, th́ dầu cho anh sống giữa chốn phồn hoa náo nhiệt của tỉnh thành hay giữa sự im lặng của rừng thẳm, điều đó không có khác biệt chi cả.

      Một lần khác, tôi phàn nán về việc người Ấn Độ không chú ư đến sự tiến bộ về vật chất, th́ Ngài nói:





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 809 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 5:44pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      - Thật vậy, chúng tôi thuộc về một chủng tộc mà các anh gọi là lạc hậu. Nhưng chúng tôi quen sống đơn giản. Nhiều sự tiến bộ khoa học vẫn c̣n xa lạ đối với chúng tôi, nhưng chúng tôi lấy làm an phận và không có quá nhiều sự nhu cầu như các anh. Như vậy, tuy ít tiến bộ hơn, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng tôi kém hạnh phúc.

      Bằng cách nào đức Maharichi đă đạt tới cái tŕnh độ tâm linh tuyệt vời và siêu đẳng như thế? Nhờ sự góp nhặt tài liệu về cuộc đời Ngài, do các đệ tử thuật lại hoặc do chính Ngài thốt ra một đôi khi, mặc dầu Ngài không thích nói về đời tư của ḿnh, tôi đă chép lại đại khái tiểu sử của Ngài như sau:

      Ngài tên là Ramana, sinh năm 1879, tại một làng cách thành phố Madrua độ ba mươi dặm, thành phố này có một ngôi đền vĩ đại nổi tiếng ở miền Nam Ấn Độ. Cha ngài, một vị thẩm phán thuộc ḍng Bà La Môn, có tiếng là nhân từ, giàu ḷng bố thí và hay cấp dưỡng cơm áo cho người nghèo. Ngài được nuôi nấng và giáo dục tại Madrua, tại đây ngài học Anh văn ở một trường đạo của các vị giáo sĩ người Mỹ sáng lập.

      Lúc thiếu thời chàng thanh niên Ramana thích thú chơi các môn thể thao và điền kinh, chàng tập chơi các môn vật, đánh quyền và bơi lội. Chàng không có biểu lộ một sự thích thú đặc biệt nào về tôn giáo hay triết học.

      Có điều lạ là hồi đó chàng thường có những cơn mê sảng, nửa đêm đứng dậy đi trong giấc ngủ và tiếp theo đó là cơn ngủ say li b́, không có tiếng động nào có thể đánh thức dậy. Những bạn học cùng lớp kiêng sợ chàng lúc ban ngày v́ chàng trả đũa lại rất mau chóng mọi sự khiêu khích của chúng. Nay chúng thấy vậy, mới lợi dụng lúc ban đêm để trả thù.

      Chúng kéo chàng ra khỏi giường nằm, đưa chàng ra sân trường và đánh chàng túi bụi rồi đem chàng để lại chỗ cũ trên giường mà chàng vẫn không tỉnh giấc. Qua ngày sau, chàng vẫn không hay biết chi cả. Đối với nhà tâm lư học quan sát hiện tượng lạ lùng này, th́ đó là những triệu chứng hiển nhiên của một cơn thoát trần đại định.

      Ngày kia có một người thân nhân đến viếng chàng, và thuật lại rằng y vừa đi hành hương ở Arunachala trở về. Danh từ này vang dội một âm thanh lạ lùng huyền bí trong trí của người thiếu niên mà chàng không hiểu lư do v́ đâu.

     Chàng bèn hỏi thăm về Arunachala và khi chàng biết được sự tích của ngôi đền lớn ở tại đó, chàng liền bị một sự ám ảnh. Tuy Ấn Độ có đến mười hai nơi Thánh Địa, nhưng tại sao Arunachala lại làm sao cho chàng say mê và thích thú nhiều hơn những nơi Thánh Địa khác th́ chàng cũng không thể trả lời được.

      Chàng tiếp tục sự học tại trường đạo nhưng không biểu lộ một khả năng đặc biệt nào, mặc dầu chàng là một đức học tṛ thông minh và chăm chỉ. Năm chàng mười bảy tuổi th́ định mệnh mới bắt đầu hành động. Chàng bỏ trường và thôi học mà không có lư do rơ rệt, cũng không cho các giáo sư hoặc cho gia đ́nh biết trước.

      Sự thay đổi th́nh ĺnh đó, nó phá tan mọi triển vọng về tương lai của chàng, có một nguyên nhân nào chăng? Cái nguyên nhân đó đối với chàng thật là hiển nhiên, nhưng nó làm cho gia đ́nh chàng phải bóp trán nghĩ ngợi.

      V́ cuộc đời, vị Thầy học lớn nhứt của ta, vừa đặt để người thanh niên ấy trên một con đường mà các ông giáo sư không hề nghĩ đến. Sáu tuần lễ sau đó, chàng rời khỏi trường, từ giă Madura và không hề trở lại nữa.

      Ngày đó chàng đang ở một ḿnh trong pḥng th́ tự nhiên chàng bị xâm chiếm bởi một cơn khủng hoảng lạ kỳ. Mặc dầu đang mạnh khỏe, chàng có cảm giác như người sắp chết. Bị ám ảnh bởi ư nghĩ đó, chàng chuẩn bị để đón tiếp Tử Thần, dường như là sự chết đă đến nơi.

      Chàng tự nghĩ rằng: "Thế là hết. Cái thể xác này sẽ chết, người ta sẽ đem nó ra thiêu ngoài đồng và nó sẽ thành một nhúm tro tàn. Nhưng c̣n tôi, tôi cũng sẽ chết với cái xác này chăng? Cái xác này có phải là tôi không, cái xác này đă cứng đờ và im lặng, nhưng tôi vẫn c̣n tiếp tục cảm thấy cái tôi trong sức mạnh vô biên của nó."

      Đức Maharichi đă diễn tả cơn khủng hoảng lạ lùng đó bằng những lời lẽ trên đây. C̣n việc ǵ xảy ra sau đó th́ rất khó hiểu, nếu không là khó thuật lại. Chàng dường như rơi vào một trạng thái đại định có ư thức, khi đó chàng đạt tới nguồn gốc của Chân Ngă, tức là tinh hoa của bản thể.

      Khi đó chàng quan niệm rằng xác thể là một vật ở ngoài Chân Ngă, và Chân Ngă vẫn tồn tại không thay đổi trong khi chết. Chân Ngă xuất hiện với chàng như là một sự chân thật tuyệt đối, nhưng bị ẩn dấu và chôn sâu trong chỗ tận cùng của con người, đến nỗi cũng như bao nhiêu người khác, trước khi đó chàng không hề biết nó là ǵ.

      Khi chàng Ramana tỉnh lại sau cơn khủng hoảng đó th́ chàng hoàn toàn thay đổi. Chàng đă mất hết mọi thích thú về sự học, chơi điền kinh, về bạn bè, v́ sự thích thú của đời chàng đă tập trung về cái ư niệm Chân Ngă nó th́nh ĺnh xâm chiếm lấy chàng.

      Mọi ư niệm về sự chết trước đây đă biến mất. Chàng đă chinh phục được, với một niềm an tịnh bên trong, một sức mạnh tinh thần nó không hề mất đi hoặc suy chuyển chút nào kể từ khi đó.

      Xưa kia chàng phản ứng mănh liệt như thế nào đối với những bạn học khi bị chúng nó phá phách, th́ nay đối với chúng chàng chỉ có một ḷng ưu ái và nhân từ. Chàng chịu đựng mọi sự bất công một cách thản nhiên và biểu lộ một sự khiêm tốn hoàn toàn trong mọi việc. Chàng từ bỏ những thói quen có từ xưa, t́m kiếm sự yên tịnh để lo việc tham thiền quán tưởng và sống đời sống nội tâm.

      Những sự thay đổi tâm tính như thế không khỏi làm cho người chung quanh chú ư. Một hôm người anh cả của chàng bước bào pḥng, thấy chàng đang nhắm mắt và đắm ch́m trong một cơn thiền định, những sách vở nhà trường rơi rớt tản mát dưới đất, như là chàng vừa ruồng bỏ chúng một cách chán nản. Người anh cả liền trách móc:





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 810 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 5:48pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      Cuộc đời cô đơn và khổ hạnh của chàng thanh niên lạ lùng này kết thúc giai đoạn đầu tiên khi chàng đă đạt tới điểm thâm trầm cao siêu nhất trong phép tham thiền.

      Sự lánh trần và ẩn độn không c̣n cần thiết nữa, nhưng chàng vẫn tiếp tục sống trong hang cho đến khi có một nhà bác học Bà La Môn ưu tú tên Ganapati Shastri đến viếng chàng trong động đá. Cuộc thăm viếng này đánh dấu một khúc quanh trong đời chàng, và chàng bắt đầu bước vào một thời kỳ nhập thế.

      Trước khi đó, nhà bác học có đến ở gần ngôi đền để tiện bề học Đạo và tham thiền quán tưởng. Y nghe nói đến một người Yogi trẻ tuổi sống trên đồi, và do tánh hiếu kỳ mới đi t́m xem cho biết. Khi y gặp Ramana th́ chàng đang vận nhỡn lực nh́n thẳng vào Mặt Trời. Chàng vẫn thường nh́n Mặt Trời như thế suốt nhiều giờ cho đến khi vầng Thái Dương khuất dạng dưới chân trời hướng Tây.

      Một người chưa từng kinh nghiệm về điều này không thể nào biết được cái mănh lực của những tia nắng mặt trời ở Ấn Độ vào buổi trưa. Tôi c̣n nhớ có một lần tôi trèo lên sườn đồi vào một giờ quá trễ và bận trở về tôi đi đầu trần vào đúng lúc giữa trưa.

      Tôi bị say nắng và đi loạng choạng như người say rượu trong một lúc. Người ta có thể hiểu rơ hơn cái bản lĩnh của chàng Ramana là như thế nào, khi chàng nh́n thẳng vào Mặt Trời buổi trưa như thế.

      Nhà bác học nọ đă từng học hỏi những kinh sách Ấn Độ về nền Minh Triết cổ truyền trong hai mươi năm, và đă thực hành những phép công phu tu luyện khắc khổ để hy vọng đạt tới một vài kết quả thật sự về đường tâm linh, nhưng y vẫn bị chướng ngại bởi những điều thắc mắc và nghi ngờ.

      Y bèn đưa ra cho Ramana một câu hỏi, và sau mười lăm phút y được một câu trả lời đầy Minh Triết nó làm cho y phải ngạc nhiên. Y đưa ra thêm nhiều câu hỏi khác cùng những điều thắc mắc về các vấn đề triết học tâm linh, và y càng ngạc nhiên hơn nữa mà thấy rằng những điều thắc mắc nghi ngờ nó vẫn dày ṿ y hằng bao nhiêu năm, nay đă được giải quyết mau chóng.

      Y bèn khấu đầu làm lễ trước mặt chàng đạo sĩ trẻ tuổi và trở nên một đệ tử của người từ đó. Shastri cũng có riêng một nhóm đệ tử theo học Đạo với y ở tỉnh Vellore. Y bèn trở về nói cho họ biết rằng y đă gặp được một vị Maharichi (tức là Đại Hiền hay Thánh Sư).

      Vị này chắc chắn là người đă đạt tới một tŕnh độ tâm linh siêu đẳng, và những giáo lư của Ngài thật là khác thường đến nỗi nhà bác học chưa từng thấy trong tất cả những kinh sách mà y đă đọc.

      Kể từ khi đó, các giới trí thức ở Ấn Độ bắt đầu gọi chàng Ramana bằng cái danh hiệu Maharichi, c̣n giới b́nh dân th́ lại quá tôn sùng khi họ được biết rơ đạo hạnh và đời sống của Ngài và muốn tôn thờ Ngài như một vị Thánh Sống.

      Nhưng đức Maharichi triệt để ngăn cấm mọi sự biểu lộ ḷng tôn sùng như thế trước mặt Ngài. Phần nhiều những đệ tử và những người trong vùng đều gọi Ngài là bậc Thánh trong khi họ nói chuyện với nhau hoặc trong những câu chuyện riêng với tôi.

      Sau đó ít lâu, có một nhóm đệ tử quy tựu chung quanh Ngài. Họ xây cất một ngôi nhà bằng gỗ dưới chân đồi và yêu cầu Ngài sống chung với họ tại đó. Bà mẫu của Ngài cũng đă nhiều lần đến viếng Ngài, và khi người con trưởng của bà cùng những người thân quyến khác đều đă qua đời, bà đến đây và yêu cầu Ngài để cho bà được ở đây với Ngài.

      Ngài vui ḷng chấp thuận, bà sống sáu năm cuối cùng của đời bà ở bên cạnh Ngài, và sau cùng bà trở nên một đệ tử trung kiên của con bà. Trong thời gian ở đạo viện, bà được chôn dưới chân đồi và vài người đệ tử của đức Maharichi xây một cái miếu nhỏ ở chỗ đó.

      Tại đây người ta đốt nhang đèn cháy thường xuyên để tưởng niệm công đức của một người đàn bà để đem đến cho nhân loại một vị Thánh Sống, và hằng ngày đều có người đem dâng bông hoa cúng trước bàn thờ.

      Thời gian trôi qua, danh tiếng của đức Maharichi đă được đồn khắp gần xa, và những người hành hương ở ngôi đền lớn thường hay trèo lên ngọn Đồi Thiêng để chiêm ngưỡng Ngài trước khi về nhà. Về sau, đức Maharichi nghe theo lời thỉnh cầu của bá tánh và bằng ḷng lưu trú tại ngôi nhà lớn của họ mới cất dưới chân đồi để làm chỗ ở cho Ngài và các đệ tử.

      Đức Maharichi không hề thâu nhận món ǵ của ai trừ ra lương thực và luôn luôn từ chối không chịu nhận lănh tiền bạc. C̣n những thứ lễ vật ǵ đem đến cho Ngài đều là do kẻ khác tự nguyện hiến dâng và khẩn khoản yêu cầu Ngài nhận cho.

      Trong những năm đầu tiên, khi Ngài c̣n sống cuộc đời ẩn dật và đơn chiếc một ḿnh trên núi để tu luyện và tham thiền, Ngài thỉnh thoảng vẫn rời khỏi hang với cái b́nh bát trong tay để đi xuống làng xóm xin ăn mỗi khi Ngài thấy đói. Một bà già góa bụa động ḷng trắc ẩn, bèn cung cấp thức ăn cho Ngài đều đều mỗi ngày, và sau cùng bà tự nguyện đem thức ăn lên đến tận hang để cho Ngài khỏi phải đi khất thực.

      Như thế, cái đức tin nó khiến cho Ngài bỏ nhà ra đi, từ giă cuộc đời khá giả của một gia đ́nh trung lưu, để chứng minh rơ rằng Người dốc ḷng cầu Đạo, không cần phải lo thiếu hụt về bề vật chất, và những quyền năng thiêng liêng vẫn luôn luôn che chở và cung cấp cơm ăn nhà ở cho họ. Từ đó có nhiều quà tặng và lễ vật được đem đến cống hiến cho Ngài, nhưng Ngài đều luôn luôn từ chối.

      Có một đêm nọ, một đám quân cướp đột nhập vào tịnh xá và lục lạo khắp nơi để kiếm tiền bạc chôn dấu, nhưng chúng chỉ t́m được có vỏn vẹn vài đồng rupee trong túi người quản gia lo về việc mua sắm đồ vật thực. Quân ăn cướp lấy làm thất vọng, chúng bèn nổi giận và đánh đập đức Maharichi bằng gậy lớn làm cho thân thể Ngài có nhiều vết bầm.

      Ngài không những chịu đựng điều ấy một cách kiên nhẫn, mà c̣n mời chúng ở lại dùng cơm trước khi ra về! Kế đó, Ngài thực sự đem cơm và thức ăn ra đăi chúng. Đối với chúng Ngài không hề có một sự oán giận hay thù ghét nào trong ḷng, mà chỉ có một ḷng thương hại cho sự vô minh hắc ám của chúng.

      Ngài để cho chúng tự do trốn thoát, nhưng một năm sau chúng bị bắt trong khi đánh cướp ở một nơi khác và lănh án tù chung thân.

      Nhiều người Âu không khỏi cho rằng một cuộc đời như thế thật là một cuộc đời lăng phí vô ích. Nhưng có lẽ chúng ta cũng cần có một đôi người tách ḿnh ra khỏi thế cuộc phù vân và nh́n xét cuộc đời dùm cho chúng ta từ đằng xa.

      Người ngoại cuộc có thể nh́n thấy thế sự một cách rơ ràng sáng suốt hơn. Ai dám bảo rằng một nhà Hiền Giả sống trong rừng thẳm đă chinh phục được cái bản ngă của ḿnh, lại thua kém ǵ những thằng ngốc sống cuộc đời phiêu bạt như chiếc lá giữa ḍng, và rốt cuộc chẳng biết rằng ḿnh đi đến đâu?

      Mỗi ngày qua càng đem đến cho tôi những bằng chứng xác nhận về sự cao cả tâm linh của đức Maharichi. Trong số những người thuộc đủ các giai cấp đến viếng thăm đạo viện, một hôm có một người cùng đinh bị dày ṿ bởi một cơn đau khổ tinh thần rất lớn, vừa bước vào tịnh xá vừa khóc kể và trút hết những nỗi đau thương của y dưới chân đức Maharichi.

      Ngài không nói một lời, v́ Ngài lúc nào cũng vẫn im lặng và kín đáo, và người ta có thể đếm những lời của Ngài thốt ra trong một ngày. Ngài chỉ lẳng lặng nh́n một lúc vào người kia, trong giây lát, những tiếng khóc kể của y cũng lần lần giảm bớt và hai giờ sau, khi y rời khỏi tịnh xá ra về th́ y đă trở nên một người vui vẻ b́nh tĩnh và tinh thần phấn khởi hơn trước.

      Tôi mới hiểu rằng đó là phương pháp của Ngài để giúp đỡ kẻ khác, tức là tỏa ra những luồng sóng rung động có tánh cách an ủi, xoa dịu vết thương của những tâm hồn đau khổ bằng một phương pháp thần giao cách cảm bí mật mà có ngày khao học sẽ phải khám phá và giải thích.

      Một hôm, một người Bà La Môn có học thức đến tịnh xá và tŕnh bày tâm sự của y với nhiều câu hỏi. Người ta không bao giờ biết trước rằng nhà Hiền Giả sẽ trả lời hay không, v́ nhiều khi Ngài rất hùng biện mà không cần phải thốt ra bằng lời nói.

     Nhưng hôm ấy Ngài có vẻ cởi mở và chỉ vài câu nói vắn tắt bao hàm những ư nghĩa sâu sắc thâm trầm cũng đủ hé mở những chân trời mới lạ về tư tưởng để giải đáp những nỗi thắc mắc cho người khách kia.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 811 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 5:51pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      Mỗi buổi chiều vào lúc mặt trời lặn là giờ tham thiền chung trong tịnh xá. Đức Maharichi thường bắt đầu giờ tham thiền bằng cách chính Ngài tĩnh tọa công phu và xuất thần nhập định, quên hẳn cả thế giới bên ngoài. Trong những giờ tham thiền hàng ngày bên cạnh đức Maharichi, tôi đă học được phương pháp gom tư tưởng của tôi vào nội tâm đến một điểm thâm sâu nhất.

      Trong những cuộc tiếp xúc thường xuyên với đức Maharichi, người ta không khỏi được giác ngộ từ bên trong và nhận thấy rằng ḿnh được soi sáng tâm hồn trí năo bằng một tia sáng phát ra từ hào quang của Ngài. Càng ngày tôi càng nhận thấy rơ rệt rằng Ngài thâu hút tâm trí của tôi vào cái ṿng ảnh hưởng đặc biệt của Ngài trong những giờ yên tịnh đó.

      Và chính trong những lúc đó mà người ta bắt đầu hiểu rằng tại sao sự im lặng của Ngài lại hùng biện và nhiều ư nghĩa hơn là những lời nói. Sự yên tịnh trầm lặng của Ngài có ẩn dấu một cái quyền năng mạnh mẽ phi thường, nó có thể ảnh hưởng mănh liệt đến một người mà không cần đến ngôn ngữ hay hành động bên ngoài.

      Có những lúc tôi cảm thấy cái quyền năng đó một cách rơ rệt đến nỗi tôi biết rằng Ngài chỉ cần ra lệnh cho tôi làm một việc hèn mạc nhất, là tôi sẽ vâng lời theo tức khắc.

      Nhưng đức Maharichi không phải là người bắt những đệ tử tuân lệnh và vâng lời một cách mù quáng và nô lệ, mà trái lại, Ngài để cho mọi người được tự do hành động. Về phương diện đó, Ngài thật là khác hẳn với phần nhiều những danh sư và đạo sĩ mà tôi đă gặp ở Ấn Độ.

      Những buổi tham thiền của tôi vẫn noi theo đường lối mà Ngài đă chỉ dẫn cho tôi trong cuộc thăm viếng đạo viện lần đầu, khi mà Ngài làm tôi ngạc nhiên v́ những câu trả lời dường như mơ màng và bí hiểm của Ngài. Tôi đă bắt đầu nh́n vào cái bản ngă của tôi:Tôi Là Ai?

      Phải chăng tôi là cái thể xác bằng xương bằng thịt này? Phải chăng tôi là cái trí tư tưởng hay là những t́nh cảm dục vọng nó phân biệt tôi với những người khác?

      Xưa nay, người ta vẫn đáp là "Phải," nhưng đức Mahatichi đă dặn tôi đừng chấp nhận như thế. Nhưng Ngài cũng không đưa ra một câu trả lời dứt khoát, mà chỉ đưa chỉ thị như sau:

      - Hăy đặt câu hỏi "Tôi là ai?" và hăy phân tách toàn bộ con người của anh. Hăy cố t́m xem cái tư tưởng về bản ngă bắt đầu từ chỗ nào? Hăy tiếp tục cuộc tham thiền về điều này và chuyển hướng mọi sự chú ư vào nội tâm.

      Một ngày kia cái ṿng tư tưởng của anh sẽ quay chậm lại và trực giác sẽ hiện ra. Hăy noi theo cái trực giác đó, ngưng hết mọi tư tưởng và sau cùng nó sẽ đưa anh đến mục đích.

      Tôi đă chiến đấu hàng ngày với những tư tưởng của tôi và lần lần vạch một đường đi vào tận những chỗ thâm sâu kín đáo nhất của tâm hồn. Nhờ có đức Maharichi ngồi gần bên, những cơn tham thiền của tôi càng ngày càng trở nên ít mệt nhọc hơn và càng hữu hiệu hơn.

      Sự d́u dắt của Ngài giúp nguồn cảm hứng rất nhiều cho những cố gắng thường xuyên và liên tục của tôi. Có những giờ phút lạ lùng mà tôi ư thức được rơ rệt cái ảnh hưởng và quyền năng thần diệu của Ngài nó làm cho tôi tiến sâu vào lănh vực huyền bí của nội tâm.

      Sau buổi tham thiền chung, đức Maharichi cùng với các đệ tử và khách khứa đều rời khỏi tịnh xá và bước qua pḥng ăn để dùng cơm tối. V́ tôi không dùng được cơm Ấn Độ và cũng không muốn nhọc công nấu bữa ăn chiều, nên tôi thường ngồi lại một ḿnh trong tịnh xá và chờ họ trở lại.

      Tuy nhiên, có một món ăn trong đạo viện mà tôi thấy ngon lành và ăn được, là món sửa chua. Đức Maharichi, khi nhận thấy rằng tôi thích món ấy, thường dặn người đầu bếp mỗi chiều đem cho tôi một bát lớn.

      Độ nửa giờ sau khi cả bọn đều trở lại, những người nội trú của đạo viện cùng những quan khách ở lại ban đêm đều chen chúc nhau nằm trên sàn gạch của nhà tịnh xá, mỗi người đều quấn một cái chăn bằng vải mỏng và sửa soạn đi ngủ. Đức Maharichi th́ ngủ luôn trên chiếc giường gỗ của Ngài thường dùng, Trước khi Ngài đắp chăn vải mỏng lên ḿnh, có một người tiểu đồng đấm bóp và xoa dầu lên tay chân của Ngài.

      C̣n tôi, tôi cầm chiếc đèn lồng rời khỏi tịnh xá và đi một ḿnh về cḥi tranh của tôi. Có vô số những con đom đóm bay lập ḷe trong những khóm hoa bụi cỏ và các cḥm cây trong vườn, có một đêm tôi về trễ độ chừng vài tiếng đồng hồ, lúc ấy có lẽ đến gần nửa đêm, tôi thấy tất cả đom đóm đều đồng thinh tắt hẳn những đóm sáng kỳ dị của chúng.

      Tôi phải rón rén cẩn thận và coi chừng kẻo đạp nhầm loài ḅ cạp hay rắn rết khi đi trong đêm tối. Có đôi khi, tôi vừa đi vừa đắm ch́m trong sự trầm tư mặc tưởng và tôi cũng không cần chú ư đến những con đường ṃn nhỏ hẹp đưa tôi về cḥi tranh. Về đến cḥi, tôi đóng chặt cánh cửa lớn và các cửa sổ để các loài thú rừng hay rắn độc khỏi đột nhập vào lúc ban đêm.

      



Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 812 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 5:54pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ


Những Chân Lư Diệu Huyền


Chương Mười Ba



     Một buổi chiều, tôi nh́n thấy một người khách lạ bước vào tịnh xá với một điệu bộ trầm tĩnh và ngồi xuống sàn gạch gần bên giường của đức Maharichi. Người ấy có một màu da đem sậm và một gương mặt rất sáng sủa tế nhị. Y vẫn im lặng không nói ǵ, nhưng đức Maharichi liền tiếp đón y bằng một nụ cười thân mật.

      Cái phong độ cốt cách của người này ghi một ấn tượng sâu xa trong ḷng tôi. Y có vẻ giống như một pho tượng Phật tạc trong tảng đá, gương mặt y biểu lộ một sự bằng an, trầm lặng khác thường. Khi bốn mắt chúng tôi gặp nhau, y nh́n thẳng vào mặt tôi một hồi lâu làm cho tôi ngượng và day mặt đi chỗ khác. Suốt buổi chiều hôm đó, y không thốt ra một lời nào cả.

      Qua ngày hôm sau, tôi lại gặp y trong một trường hợp bất ngờ. Tôi vừa rời khỏi tịnh xá trở về cḥi để nấu nước pha trà, v́ người nô bộc của tôi đă đi vắng ngoài chợ. Khi vừa mở khóa cánh cửa lớn, tôi sắp sửa bước vào th́ có một vật cựa quậy dưới đất và ngừng lại cách chân tôi trong gang tấc.

      Những cử động im lặng của nó và một tiếng huưt nhỏ như sáo mà tôi nghe thoáng qua trong bóng tối trước khi tôi nh́n thấy rơ đó là vật ǵ, nhắc nhở cho tôi biết rằng có một con rắn ở trong cḥi. Trong một lúc, tôi cảm thấy trong ḷng rối loạn v́ sợ hăi và không biết phải là thế nào. Thần kinh tôi bị căng thẳng đến cực độ. Tôi nh́n con rắn không chớp mắt, và nó cũng vừa phùng mang vừa giương hai mắt nh́n lại tôi.

      Sau cùng, tôi định tĩnh tinh thần và hối hả rút lui. Tôi định đi t́m một cây gậy lớn để đập cho nó một gậy dập xương sống, th́ bỗng đâu người khách lạ ngày hôm qua th́nh ĺnh xuất hiện ở ngoài sân. Gương mặt trầm tĩnh và đôi mắt nh́n yên lặng của y làm cho tôi bớt sợ hăi và lấy lại sự b́nh tĩnh.

      Y đến gần cḥi tranh, với cái nh́n thoáng qua y đă thấu rơ t́nh h́nh và thản nhiên bước vào cḥi. Tôi bèn la lớn để báo động nhưng y không màng để ư đến tiếng kêu của tôi. Một lần nữa tôi lại băn khoăn sợ hăi, v́ mặc dầu y không có khí giới y vẫn đưa hai tay về phía con rắn.

      Con rắn há miệng và le cái lưỡi dài h́nh mũi chĩa tḥ ra thụt vào, nhưng không định mổ vào người kia. Trong khi đó có hai người đang tắm dưới ao gần bên, nghe tiếng kêu của tôi bèn vội vă chạy tới. Trước khi họ đến gần cḥi tranh th́ người khách lạ đă khom lưng ngồi gần bên con rắn và lấy tay nhẹ vuốt trên lưng nó trong khi con rắn cuối đầu sát đất và nằm im lặng!

      Nó không c̣n phùng mang le lưỡi một cách dữ tợn như trước nữa, cho đến khi hai người kia bước đến và làm cho nó giựt ḿnh. Khi ấy, nó bèn quẫy đuôi dường như sực tỉnh, và trước bốn cặp mắt của chúng tôi, nó nhanh nhẹn ḅ ra khỏi cḥi tranh và trong khoảng khắc đă biến mất dạng trong khu rừng rậm.

      - Đó là một con rắn hổ mang!

      Một trong hai người mới đến sau b́nh phẩm. Người này là một thương gia ở thành phố gần bên, thường đến thăm đạo viện để chiêm ngưỡng đức Tôn Sư hoặc đàm đạo với tôi. Tôi bày tỏ sự ngạc nhiên về việc người khách lạ giỡn với con rắn không một chút sợ hăi. Y bèn giải thích:

      - À, đó là đạo sĩ Ramiah, y là một trong những đệ tử cao cấp nhất của đức Maharichi. Y là một người có bản lĩnh khá lắm.

      Tôi không thể tṛ chuyện với người Yogi này v́ tôi nhận thấy rằng y giữ giới tịnh khẩu, ngoài ra những giới hạnh khác nữa thuộc về phần kỷ luật đặc biệt của y, và cũng bởi v́ y là người thuộc về địa phương nói tiếng thổ ngữ Telugu, chứ không biết tiếng Anh.

      Tôi cũng nghe nói rằng y là một người rất ẩn dật và kín đáo, thường không chịu giao thiệp với ai, rằng y ở một cái nhà nhỏ xây bằng gạch dưới bóng mát của một tảng đá khổng lồ bên cạnh bờ ao, và y là đệ tử của đức Maharichi đă mười năm nay.

      Tuy nhiên, sau đó không lâu, sự cách biệt giữa chúng tôi đă được lấp bằng. Tôi gặp y trên bờ ao khi y cầm một cái b́nh nhỏ bằng đồng xuống ao để múc nước. Dáng điệu ung dung tự tại của y làm cho tôi thích thú, lúc đó tôi sẵn có đem theo máy ảnh trong túi, tôi mới yêu cầu y, bằng cách ra dấu, để cho tôi chụp một bức ảnh.

      Y không phản đối, và sau khi chụp ảnh y cũng đi theo tôi về cḥi. Tại đây chúng tôi thấy một người đệ tử già của đức Maharichi, nay đă bảy mươi lăm tuổi, làm công chức sở Hỏa Xa về hưu, ngồi đợi ngoài cửa chờ tôi về.

      Cũng do sự t́nh cờ, tôi được biết ông lăo này biết tiếng Telugu khá giỏi cũng như tiếng Anh và ông sẵn ḷng làm thông ngôn cho chúng tôi, tuy rằng chỉ nói bằng bút đàm. Người đạo sĩ không thích nói nhiều và không muốn bị ai phỏng vấn, nhưng tôi t́m cách gợi chuyện để biết thêm vài điều về cuộc đời y.

      Đạo sĩ Ramiah đă trên bốn mươi lăm tuổi, có sở hữu đất ruộng tại tỉnh Nellore, và mặc dầu y không chính thức xuất gia, y vẫn để cho gia đ́nh y cai quản đồn điền tài sản để cho y có thời giờ theo đuổi việc học Đạo.

      Y có một nhóm đệ tử riêng ở tỉnh Nellore, nhưng mỗi năm một lần, y rời khỏi tỉnh này để viếng đức Maharichi, và ở lại đạo viện của Ngài mỗi lần đôi ba tháng.







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 813 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 5:56pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde





ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ




      Trong thuở thiếu thời, y đă từng đi châu du khắp miền Nam Ấn để t́m thầy học Đạo. Y đă học với nhiều vị danh sư và phát triển được vài quyền năng đặc biệt. Phép luyện khí công và tham thiền y đều thực hàng được rất dễ dàng.

      Dường như y đă vượt bực các danh sư của y v́ y đă trải qua những kinh nghiệm thần bí mà các vị danh sư không thể giải thích được một cách thỏa đáng. Sau đó y t́m đến đức Maharichi, Ngài liền giải thích cho y nghe một cách đúng đắn, và giúp đỡ y thêm về phần tu luyện.

      Đạo sĩ Ramiah cho tôi biết rằng y định đến ở trong hai tháng tại đạo viện, y có đem theo một người tiểu đồng, và y lấy làm vui ḷng mà thấy có một người Âu chú trọng đến nền Minh Triết cổ truyền của Đông phương. Tôi đưa cho y xem một tờ tạp chí Anh ngữ có in h́nh ảnh, và y b́nh phẩm một cách lạ lùng về một bức ảnh trong đó:

      - Chừng nào các nhà bác học thông thái ở phương Tây không c̣n t́m cách làm cho các động cơ chạy mau hơn những thứ máy móc mà họ đă có, và bắt đầu nh́n vào nội tâm của họ, th́ chừng đó chủng tộc các anh có thể t́m thấy hạnh phúc chân thật và vững bền hơn.

     Anh có dám chắc rằng người Âu Tây các anh sẽ an phận và sung sướng hơn chăng, mỗi khi họ phát minh ra được một thứ máy móc mới lạ để giúp cho họ di chuyển mau chóng hơn?

      Trước khi từ giă, tôi hỏi y về chuyện con rắn hổ mang hôm trước. Y mỉm cười và viết câu trả lời:

      - Có ǵ mà phải sợ? Tôi đến gần nó với tấm ḷng thành, không nuôi tư tưởng ác, và với một t́nh bác ái đối với tất cả chúng sinh.

      Tôi nghĩ rằng chắc c̣n có điều ǵ ẩn dấu đằng sau những lời giải thích giản dị đó, nhưng tôi không hỏi ǵ thêm mà để cho y trở về nhà.

      Trong những tuần lễ sau cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với nhà đạo sĩ Ramiah, tôi đă có dịp biết y nhiều hơn nữa. Chúng tôi thường gặp nhau hoặc ở chỗ đất trống chung quanh cḥi, hoặc trên bờ ao, hoặc ở trước nhà y.

      Mối t́nh bằng hữu đă nảy sinh ra giữa chúng tôi, nhưng đó là một mối t́nh câm, không lời, và một hôm nó được biểu lộ bằng cử chỉ, khi người đạo sĩ đặt một bàn tay trên đầu tôi để ban ân huệ và siết chặt hai bàn tay tôi trong hai bàn tay của y. Ngoài ra vài câu bút đàm mà người đệ tử già dịch lại cho tôi nghe chúng tôi không ai nói với nhau một lời nào trong thời gian kết bạn.

      Tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng giữa tôi và đạo sĩ Ramiah có một sợi dây liên lạc mật thiết, không thể nào cắt đứt đi được. Thỉnh thoảng tôi đi bách bộ chơi với y trong khu rừng rậm, có đôi lần chúng tôi cùng trèo lên sườn đồi giữa những tảng đá lớn dựng lên lởm chởm và đi một cáh rất vất vả mệt nhọc trên đường núi gồ ghề, nhưng dầu cho chúng tôi đi chơi đâu, bao giờ y cũng giữ một thái độ ung dung tự tại mà tôi không khỏi lấy làm cảm phục.

      Một lần nữa đó không lâu, tôi lại có dịp nhận thấy y biểu lộ rơ ràng cái quyền năng phi thường của y. Tôi vừa nhận được một bức thư từ bên nhà gởi sang với những tin chẳng lành. T́nh h́nh tài chánh của tôi gặp cơn khủng hoảng bất ngờ, và bởi đó tôi sẽ không thể kéo dài chuyến du hành của tôi ở Ấn Độ nữa.

      Lẽ tự nhiên là tôi có thể ở lại đạo viện thêm ít lâu, v́ các đệ tử của đức Maharichi sẵn có cảm t́nh với tôi và sẵn ḷng dung nạp, nhưng bản tính của tôi vốn không thích như thế. Tôi chỉ c̣n có cách là trở về xứ sở.

      Việc này xảy đến cho tôi như một sự thử thách về sự tu luyện tinh thần mà tôi đă theo đuổi bấy lâu nay, nhưng bản lĩnh của tôi thật ra cũng chưa có ǵ đáng kể nên tôi không vượt qua nổi cơn thử thách đó. Tôi cảm thấy trong ḷng nao núng và chán nản vô cùng.

      Tôi không thể tạo sự giao cảm tâm linh với đức Maharichi như mọi khi, và đành rời khỏi tịnh xá một cách đột ngột sau khi đến viếng Ngài chỉ có một lát. Suốt ngày hôm đó, tôi trở về cḥi nằm ngă trên giường, cả thể xác lẫn tinh thần đều mệt mỏi.

      Tôi nằm dă dượi và thiếp đi được một lúc, nhưng tôi giựt ḿnh ngồi chồm dậy khi tôi nghe có tiếng gơ cửa. Tôi mời khách vào và ngạc nhiên mà thấy đó không ai khác hơn là đạo sĩ Ramiah.

      Tôi ngồi dậy và khi y ngồi xếp bằng dưới nền gạch, tôi cũng ngồi như thế trước mặt y. Có lẽ y đă nhận thấy cơn xáo trộn và khủng hoảng tinh thần vừa qua trên nét mặt tôi, nên y chăm chú nh́n tôi với một câu hỏi trong ánh mắt.

      Mặc dầu chúng tôi ngôn ngữ bất đồng, nhưng một cảm giác lạ lùng khiến tôi cứ nói chuyện với y bằng tiếng Anh, hy vọng rằng y sẽ hiểu được tư tưởng của tôi nếu y không hiểu được những lời tôi nói. Với vài câu vắn tắt, tôi thuật lại những tin chẳng lành vừa xảy ra bất ngờ từ bên nhà, và phụ họa thêm bằng những cử chỉ và sắc mặt thất vọng và chán nản.

      Ramiah ngồi lẳng lặng nghe. Khi tôi đă nói xong, y gật đầu đáp lại một cách trịnh trọng, tỏ dấu cho tôi biết rằng y đă hiểu rơ được câu chuyện. Một chập sau, y đứng dậy và lấy tay ra dấu mời tôi đi theo. Chúng tôi đi xuyên qua khu rừng rậm, nhưng chỉ độ một lát là đến một khoảng đất trống, ánh nắng mặt trời xế trưa rọi thẳng vào người chúng tôi.

      Tôi tiếp tục đi theo y độ nửa tiếng đồng hồ đến một gốc cây đa lớn, chúng tôi ngừng lại và ngồi nghỉ dưới bóng mát. Sau khi ngồi nghỉ được một lúc, chúng tôi lại đi bộ thêm nửa giờ nữa xuyên qua rừng rậm và sau cùng, chúng tôi đi xuống một cái ao lớn do một con đường tắt mà Ramiah có vẻ rất quen thuộc.

      Chúng tôi ngồi trên bờ ao, dưới ao có rất nhiều hoa sen. Người Yogi chọn bóng mát của một thứ cây lùn thấp và ngồi dưới gốc cây, tôi cũng ngồi bên cạnh y. Ngôn cây nhành lá sum sê tỏa ra trên đầu chúng tôi như một cây dù lớn. Cảnh vật nơi đây hoàn toàn vắng lặng không có một bóng người, chỉ có toàn là rừng rậm bao bọc chung quanh.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 814 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 6:01pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      Ramiah ngồi xếp bằng, hai chân tréo, và ra dấu bảo tôi ngồi xích lại gần, Kế đó, y day mặt về phía ao sen và trong giây phút y đă đắm ch́m trong một cơn thiền định. Giờ phút trôi qua một cách chậm chạp, nhưng Ramiah vẫn ngồi điềm nhiên bất động, gương mặt y cũng yên tịnh như mặt nước hồ sen, thân ḿnh y ngay ngắn như pho tượng đồng.

      Nửa giờ trôi qua, y vẫn ngồi yên như thế, gương mặt y dường như biến đổi bởi sự yên tịnh càng thâm trầm hơn trước, đôi mắt đứng tṛng của y nh́n thẳng vào chỗ hư không hay là nh́n vào những ngọn đồi xa xa ở tận chân trời, điều đó tôi không thể biết được.

      Sau một chập không lâu, tôi dần dần chịu ảnh hưởng của bầu không khí im lặng chung quanh và sự điềm tĩnh lạ lùng của ông bạn tôi. Một sự bằng an tuyệt vời đă xâm chiếm lấy tâm hồn tôi một cách từ từ, thấm thía, dịu dàng và chắc chắn.

      Một sự ung dung tự tại và thản nhiên trước nghịch cảnh mà tôi chưa hề bao giờ đạt tới từ trước, nay đến với tôi một cách dễ dàng. Người đạo sĩ đă giúp đỡ tôi bằng một phương pháp bí mật và huyền diệu của y, tôi không c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Y đă dùng cái bí thuật nào để ảnh hưởng đến tôi một cách mầu nhiệm như thế, sự bằng an tuyệt vời nó toát ra từ con người y nguồn gốc do đâu mà ra?

      Sức nóng mặt trời đă giảm bớt khi đến lúc xế chiều, băi cát nóng gắt cũng nguội dần. Một vài tia nắng màu vàng sậm từ hướng Tây chiếu thẳng vào gương mặt của người đạo sĩ, làm cho thân ḿnh y dường như tỏa hào quang sáng chói.

      Một niềm an lạc vô biên tràn ngập cơi ḷng tôi, những sự thay đổi của cuộc đời, những nỗi thăm trầm của số kiếp nay không c̣n là điều quá ư quan trọng đối với tôi nữa khi tôi bắt đầu sống với nội tâm thiêng liêng của tôi.

      Trong lúc đó, tôi nhận thấy một cách rơ ràng rằng con người có thể thản nhiên và an vui trước nghịch cảnh nếu y t́m thấy cái Chân Ngă của ḿnh, rằng thật là một điều khờ dại mà bám víu lấy những sự vật phù du giả tạm của cuộc đời trần gian, khi mà y sẵn có một sự che chở thiêng liêng ở hầu kề một bên, rằng nếu đức chúa Jesus ngày xưa đă bảo các môn đệ đừng lo nghĩ đến ngày mai, đó là v́ Ngài biết rằng có một quyền năng thiêng liêng che chở cho họ.

      Tôi cũng nhận thấy rằng khi con người tin tưởng và nghe theo tiếng, y sẽ có thể trải qua những cơn phong trần tục lụy, ch́m nổi ba đào của cuộc đời thế gian mà ḷng không nao núng hay sợ sệt.

      Và tôi cảm thấy rằng ở một nơi nào đó trong nội tâm nhưng lại rất gần chúng ta, biểu hiện rơ cái giá trị căn bản của cuộc đời, khi mà người ta nh́n thấy nó rồi, th́ tất cả những sự lo âu phiền năo của cuộc đời sẽ tiêu tan và không c̣n nữa. Nhờ sự cải tạo tinh thần nó vừa diễn ra trong tâm hồn tôi, mà nay tôi đă trút được gánh nặng của sự thất vọng ưu phiền.

      Tôi không c̣n nhớ tới thời gian trong khi tôi đă trải qua cái kinh nghiệm tốt đẹp nói trên, và tôi cũng không biết làm sao có thể giải thích một cách mỹ măn sự huyền diệu của nội tâm, nó hoàn toàn vắng lặng và không tùy thuộc ở thời gian và không gian. Bóng hoàng hôn đă ngả xuống khu rừng rậm.

      Lúc ấy tôi không c̣n ư thức được cảnh vật chung quanh nữa, nhưng từ chỗ sâu thẳm của tiềm thức, tôi nhớ lại rằng màn đêm sụp xuống rất mau chóng ở vùng nhiệt đới, và lúc đó tôi đang ngồi ở giữa rừng sâu hoang vắng cô liêu. Tuy nhiên, tôi lại không cảm thấy sợ sệt chút nào khi tôi ngồi bên cạnh người đạo sĩ, nhất là khi người ấy lại dắt tôi đến thám hiểm vào chỗ nội tâm huyền bí để được thấm nhuần trong bầu không khí an lạc tuyệt vời ...

      Sau cùng khi người đạo sĩ sờ nhẹ vào tay tôi để ra hiệu cho tôi đứng dậy th́ chung quanh trời đă tối đen. Chúng tôi nắm tay nhau đi trong đêm tối xuyên qua khu rừng hoang để trở về nhà, không có đèn đuốc soi đường chi cả, nhưng người đạo sĩ dường như được d́u dắt bởi một thứ giác quan lạ lùng.

      Ở vào lúc khác, khu rừng này lẽ đă làm cho tôi phải sợ sệt, v́ ban đêm là lúc mà các loài thú dữ rời khỏi sào huyệt của chúng để đi kiếm mồi, và người ta có cảm giác rằng có bao nhiêu những độc trùng ác thú lởn vởn chung quanh.

      Tôi nhớ lại con chó Jackie ở đạo viện vẫn thường đi chơi với tôi trong vườn hoặc chia sớt bữa ăn với tôi ở cḥi tranh, một hôm trở về nhà với cuống họng bị xé toang, máu me đầm đ́a v́ vết cắn của một con beo gấm, và một con chó khác cũng bị cọp tha mất, không trở về.

      Biết đâu đêm nay tôi cũng sẽ thoáng nh́n thấy trong bóng tối cặp mắt xanh biếc và sáng ngời của một con beo gấm, hay vô ư đạp nhầm một con rắn hổ mang nằm khoanh tṛn dưới đất hoặc dẫm chân lên một con ḅ cạp lửa mà nọc độc có thể làm chết người?

      Nhưng ngay tức khắc tôi cảm thấy hổ thẹn v́ những ư nghĩ đó bên cạnh người đạo sĩ không hề sợ sệt, và tôi liền nép ḿnh vào cái hào quang che chở của y mà tôi cảm thấy h́nh như nó bao bọc lấy tôi.

      Đêm càng khuya, khu rừng càng vang rền những âm thanh rùng rợn. Tiếng sủa của một con chó rừng văng vẳng ở đàng xa, những loài phi cầm tẩu thú khác cũng rú lên để đáp lại, và khi chúng tôi về đến gần cái ao bên cạnh nhà chúng tôi, th́ tiếng ễnh ương, rắn mối, trùng dế, dơi chuột ḥa thành một khúc nhạc lạ lùng, bí hiểm.

      Sáng ngày hôm sau, khi tôi thức giấc, tôi cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái, sẵn sàng chào đón một vũ trụ tràn đầy ánh sáng, nhộn nhịp tưng bừng ...

      C̣n biết bao nhiêu chuyện mà tôi có thể viết về đời sống ở đạo viện và về những cuộc đàm thoại của tôi với đức Maharichi. Tôi càng thấy rằng Ngài là người nối nghiệp của một thời quá khứ xa xăm, khi người ta coi sự khám phá ra một điều chân lư thiêng liêng cũng có giá trị không kém ǵ sự t́m ra một mỏ vàng.

      Từ nay tôi biết chắc rằng tôi đă gặp ở nơi thâm sơn cùng cốc này, một trong những bậc siêu nhân cuối cùng c̣n sót lại của xứ Ấn Độ. Gương mặt trầm lặng của nhà Hiền Giả này làm cho tôi cảm thấy gần gũi hơn với những bậc Thánh Nhân Hiền Triết của xứ Ấn Độ thời xưa. Tuy nhiên, người ta cảm thấy rằng cái phần thâm sâu huyền diệu nhất của Ngài vẫn chưa được biểu lộ rơ ràng trước mắt tôi.

      Có khi Ngài vẫn sống cách biệt một cách lạ lùng, và những khi khác Ngài lại ban rải ân huệ thiêng liêng của Ngài cho tôi với một hảo ư tuyệt vời, nó nối liền tôi với Ngài bằng những sợi dây nhân duyên bền chặt và trường cửu.

      Tôi đă tập quen với cái phong độ bí hiểm của Ngàivà chấp nhận Ngài theo chỗ tôi nh́n thấy. Tuy Ngài sống cách biệt với cơi giới bên ngoài và không chịu tiếp xúc với người thế gian, nhưng người nào có đầy đủ nhân duyên sẽ được dẫn dắt đến sự giao cảm tâm linh với Ngài.

      Tôi càng yêu quư Ngài hơn nữa khi tôi thấy Ngài rất giản dị và khiêm tốn giữa một bầu không khí cao cả và thiêng liêng thật sự mà người ta cảm thấy rơ rệt ở chung quanh Ngài.

      Ngài không hề tuyên bố có những quyền năng thần bí hay có một sứ mạng thiêng liêng nào để ḷe đời, nhứt là điều đó lại càng rất dễ đối với người Ấn Độ là một dân tộc sẵn có óc tin tưởng thần quyền, và sẵn sàng thần thánh hóa Ngài ngay trong khi Ngài c̣n sống, nếu Ngài không phải là một người hoàn toàn chân thật và cực lực phản đối những tư tưởng đó.

      Sự có mặt trên thế gian của những người như đức Maharichi h́nh như không phải là do dự ngẫu nhiên t́nh cờ. Ngài cũng như một vị sứ giả thiêng liêng tiếp tục công tŕnh của những bậc hiền giả đă từng xuất hiện trải qua gịng lịch sử của nhân loại để ǵn giữ, duy tŕ sự sinh hoạt tâm linh trên mặt địa cầu.

      Người ta phải chấp nhận sự kiện này là những bậc hiền giả đó xuất hiện để tiết lộ cho chúng ta ít nhiều chân lư, chứ không phải để thảo luận đôi co ǵ với chúng ta. Dầu sao, những giáo lư của Ngài có một tính cách rất hấp dẫn đối với tôi v́ nó rất thực tế và đúng tinh thần khoa học.

      Ngài không có sử dụng đến sức mạnh thần thông siêu phàm nào và không đ̣i hỏi một đức tin mù quáng. Danh từ Thượng Đế cũng ít khi xuất hiện trên môi của Ngài. Ngài chỉ đưa ra một phương pháp phân tách bản ngă, nó có thể thực hành bất luận rằng người ta có những tín ngưỡng như thế nào, một phương pháp nó sẽ đưa con người đến sự thực hiện Chân Ngă, hay Chân Như Phật Tánh của ḿnh.

      Càng ngày tôi càng nhận thức được rằng có một phần sức mạnh tinh thần của đức Maharichi được chuyển qua cho tôi, mặc dầu chúng tôi không có trao đổi với nhau một lời nào. Tuy nhiên, ngày dự định lên đường sắp tới làm trở ngại những cố gắng của tôi. Tôi cố ở nán lại ít lâu, nhưng sức khỏe của tôi lại bị giảm sút và làm cho tôi phải quyết định từ giă đạo viện càng sớm càng hay.

      Thật vậy, trong khi tôi nghe theo tiếng nói của nội tâm nó kêu gọi tôi từ Bombay trở về đây, tôi đă có đủ ư chí gạt bỏ sự kháng cự của một thể xác đau yếu và một tinh thần mệt mỏi để lưu ngụ tại vùng nóng bức này.   

     Nhưng sức người có hạn, làm sao có thể thắng đoạt được thiên nhiên, thành thử không bao lâu cơn bịnh cũ của tôi đă bộc phát trở lại và sức khỏe của tôi lại đi xuống dốc đến một mực độ báo nguy và tôi chưa từng cảm thấy bị suy yếu như thế bao giờ.

      Vài giờ trước khi bước vào giai đoạn quyết liệt trong cơn thiền định bên đức Maharichi, th́ tôi bắt đầu run một cách dữ dội khắp cả thân ḿnh và toát mồ hôi như tắm, triệu chứng của cơn sốt sắp đến.

      Sau khi viếng thăm một nơi Thánh Điện thâm nghiêm ở ngôi đền lớn, tôi hối hả trở về và bước vào tịnh xá trong khi giờ công phu buổi chiều đă trôi qua hết nửa phần. Tôi lẳng lặng ngồi xuống sàn gạch và tréo chân theo thế ngồi thiền như thường lệ.

      Trong vài giây đồng hồ, tôi định tĩnh tinh thần và gom tất cả mọi tư tưởng vào một trung tâm điểm nhứt định. Đến lúc tôi nhắm mắt, th́ thần thức của tôi đă gom vào nội tâm và tập trung ở đó.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 815 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 6:04pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      H́nh thức của đức Maharichi ngồi nhập định hiện rơ ràng trong trí của tôi. Noi theo chỉ thị thường lập đi lập lại của Ngài, tôi cố gắng vượt qua h́nh bóng ấy để trụ vào cái phần vô sắc tướng, tức là cái thực thể tự tại, hay linh hồn Ngài.

      Tôi ngạc nhiên mà thấy rằng những cố gắng của tôi có kết quả rất mau chóng, cái h́nh bóng của ngài đă biến mất trong trí óc tôi, và tôi không c̣n cảm thấy ǵ khác hơn sự hiện diện tâm linh của ngài.

      Những sự suy gẫm thuộc về lư trí trong những cơn tham thiền ban sơ của tôi trước kia đă dứt hẳn. Tôi đă từng dọ hỏi, cân nhắc những ư thức của tôi về thể chất, về t́nh cảm và lư trí nhưng khi đă biết đó không phải là Chân Ngă, tôi đă loại bỏ hết tất cả những điều đó. Kế đó, tôi gom thần thức vào chính trung tâm của nó, để t́m xem nguồn gốc của nó ở đâu. Đây là lúc tôi bước vào giai đoạn quyết liệt.

      Trong khi tôi giữ ǵn cho tâm thần yên tịnh, cái lư trí đă tự rút lui cảnh vật chung quanh bắt đầu lu mờ và đắm ch́m trong chỗ vắng lặng hư không. Trong trạng thái đó người hành giả phải luôn luôn giữ ǵn sự tập trung tư tưởng, không để cho thần thức bị xao lăng hay lo ra. Cuộc đời thế gian với bao nhiêu sự cám dỗ, thử thách, vẫn ŕnh rập chung quanh y. Giữ ǵn cho thân tâm vắng lặng, không bị xao động bởi ngoại cảnh, thật là một điều khó lắm thay.

      Đêm nay, tôi đạt tới điểm đó một cách mau chóng, sau khi đă loại trừ một loạt những tư tưởng vẫn vơ nó vẫn thường đột nhập vào trí óc trước khi tâm thần được b́nh tĩnh yên lặng. Một sức mạnh mới mẽ và dồi dào bắt đầu hành động một cách mănh liệt trong tâm giới của tôi và thúc đẩy tôi tiến sâu vào nội tâm với một tốc lực không ǵ cưỡng nổi.

      Trận giao phong đầu tiên đă kết liễu mau chóng, hầu như khỏi cần chiến đấu, và sự căng thẳng của nó được nối tiếp theo sau bằng một cảm giác sung sướng, dễ dàng thoải mái.

      Trong giai đoạn kế tiếp, tôi đứng ngoài ṿng hoạt động của lư trí, và nh́n nó một cách khách quan. Một tiếng nói của trực giác báo cho tôi biết rằng cái lư trí đó chỉ là một khí cụ mà thôi. Tôi nh́n xem những tư tưởng của tôi với một sự siêu thoát lạ thường.

      Cái trí biện luận, suy tư, từ trước đến nay vẫn được coi như một khả năng quư báu mà người ta lấy làm tự hào, nay đă trở nên một vật cần phải loại bỏ, và tôi nhận thấy muốn đứng ngoài ṿng lư trí, nhưng vẫn là ḿnh. Tôi muốn tiến vào một chỗ c̣n thâm sâu hơn là tư tưởng. Tôi muốn biết xem tự giải thoát ra khỏi sự kiềm tỏa của bộ óc và trí năo sẽ gây cho tôi cái cảm giác như thế nào, tôi bèn chờ đợi với một tinh thần tỉnh táo và lanh lẹ.

      Thật là một điều lạ lùng mà có thể đứng ngoài ṿng và quan sát sự hoạt động của bộ óc dường như nó là của một người khác hơn ḿnh, nh́n xem tư tưởng phát khởi bằng cách nào và chấm dứt ra sao.

      Nhưng c̣n lạ lùng hơn nữa khi ta có cái linh cảm rằng ḿnh sắp sửa bước vào một lănh vực huyền bí nó che dấu cái phần thâm sâu u ẩn nhứt của linh hồn người. Tôi có cảm tưởng như một Kha Luân Bố sắp sửa đổ bộ lên một sự chờ mong với những cảm giác đầy thú vị.

      Nhưng làm sao có thể tự giải thoát khỏi áp lực chuyên chế của tư tưởng?

      Tôi nhớ lại rằng đức Maharichi không bao giờ bảo tôi nên chận đứng một cách quyết liệt những hoạt động của lư trí. Ngài luôn luôn dặn ḍ và lập lại rằng: "Hăy đi ngược ḍng tư tưởng cho đến tận nguồn gốc của nó, chờ cho Chân Ngă xuất hiện ra, và chừng đó những tư tưởng sẽ dứt".

      Tôi bèn rời bỏ mọi sự cố gắng và tự buông trôi theo một sự thụ động hoàn toàn tuy vẫn cảnh giác chờ mong cũng như con rắn đang ŕnh mồi.

      Tôi vẫn giữ vững trạng thái đó cho đến khi tôi khám phá rằng những sự tiên đoán của nhà Hiền Giả quả thật không sai. Những luồng sóng tư tưởng bắt đầu giảm bớt lần lần, sự hoạt động của lư trí sụt xuống dần cho đến điểm số không. Tôi bắt đầu kinh nghiệm được một cảm giác lạ lùng nhứt từ trước đến giờ.

      Thời gian dường như muốn ngừng trôi, khi cái khiếu linh năng trực giác của tôi bắt đầu ḍ đường để tiến sâu vào lănh vực huyền bí của nội tâm. Những cảm xúc của giác quan h́nh như đă chết hẳn, tôi không c̣n nghe, thấy, cảm hay nhớ điều ǵ nữa. Tôi biết rằng bất cứ lúc nào kể từ khi đó, tôi sẽ đứng ngoài ṿng mọi sự vật của trần gian, và ở ngay ngưỡng của của cơi giới diệu huyền.

      Sau cùng cái giờ phút đó đă đến. Tư tưởng đă tắt hẳn như một đóm lửa tàn. Lư trí đă rút lui về cái địa hạt của nó, và thần thức không c̣n bị chướng ngại. Bộ óc đă bước vào một trạng thái hoàn toàn ngơi nghỉ, cũng như trong giấc ngủ mê nhưng tâm thần vẫn tỉnh táo, tuyệt nhiên không chút mê muội.

      Tôi vẫn điềm tĩnh và biết rơ tôi là ai cùng những ǵ đang diễn ra ở chung quanh. Tuy nhiên cái ư thức của tôi đă rút lui ra khỏi những giới hạn chật hẹp của bản ngă, và thuộc về một cái ǵ huyền diệu vô cùng, nó bao gồm hết tất cả hơn nhiều cái bản ngă vô vị kém hèn mà từ trước đến giờ tôi vẫn tưởng là Tôi, một cái ǵ thâm sâu hơn, thiêng liêng huyền diệu hơn, hỗn hợp với tâm thức của tôi.

      Tôi cảm thấy được một điều mới lạ, đó là một sự tự do tuyệt đối hoàn toàn, và thoát ra khỏi sự hoạt động độc đoán của tư tưởng chẳng khác nào như thoát ra khỏi chốn ngục tù để thở bầu không khí tự do phóng khoáng bên ngoài.

      Tôi đă vượt qua khỏi giới hạn và bước ra ngoài ṿng tâm thức của quả Địa Cầu.

      Bầu Hành Tinh vẫn dung dưỡng chứa chấp tôi thuở nay, đă biến mất dạng. Tôi đang phiêu diêu giữa một biển ánh sáng rạng ngời. Biển ánh sáng này, tôi cảm thấy h́nh như là chất Tiên Thiên. Khí làm căn bản cấu tạo nên các bầu thế giới, tức là trạng thái nguyên thủy của vật chất hồng trần. Nó bao trùm khắp nơi trong cơi không gian bao la vô tận, và sống động một cách không thể tả.

      Trong khoảnh khắc, tôi đă thấu rơ ư nghĩa tấn tuồng sinh hoạt nhiệm mầu của Vũ trụ nó diễn ra trong không gian. Tôi, cái Tôi mới, được tràn ngập một niềm hạnh phúc và an lạc vô biên.

      Tôi đă uống cạn chén nước cam thủy của gịng sông Léthe, tức gịng nước quên lăng. Những đắng cay của dĩ văng, những phiền muộn của tương lai, thảy đều tiêu tan và đắm ch́m trong sự lăng quên. Tôi đă đạt tới một sự tự do thiêng liêng và một niềm phúc lạc không thể tả.

      Tôi mở rộng hai tay đón lấy toàn thể vũ trụ và chúng sinh với một t́nh thương bao la thâm trầm, v́ tôi đă hiểu một cách thâm sâu rằng: Hiểu biết tất cả không phải chỉ là tha thứ tất cả, mà c̣n thương yêu hết tất cả!





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 816 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 6:06pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      Linh hồn tôi đă say sưa trong cơn đại định, thoát trần! ...

      Làm sao tôi có thể ghi chép lại được một sự kinh nghiệm siêu linh và huyền diệu như thế, v́ nó quá tế nhị để có thể diễn tả bằng ng̣i bút của tôi?

      Tuy nhiên, những điều chân lư bất hủ mà tôi đă thu thập được cần phải được diễn tả bằng ngôn ngữ của trần gian, và sự cố gắng đó sẽ không phải là vô ích. Bởi vậy, tôi đă thử ghi chép lại, dẫu rằng một cách vụng về, một vài điểm kư ức của cơi giới diệu huyền mà người đời chưa từng thám hiểm, nó ở ngoài ṿng giới hạn tâm trí của con người.

      Con người có thể tự hào rằng y thuộc về một gịng giống thiêng liêng: Một Đấng vô cùng cao cả hơn người mẹ của y vẫn chăm nom săn sóc y từ thuở ấu thơ. Trong những khi khôn ngoan sáng suốt hơn, y sẽ nhận biết điều này.

      Có một thuở, trong cái thời kỳ dĩ văng xa xăm, con người đă từng thề nguyền chung thủy với Đấng Hóa Công, và trong một bầu không khí lộng lẫy huy hoàng, y đă nghe theo tiếng gọi của cuộc đời trần gian tục lụy, th́ cũng có những người không hề quên lời thề nguyền thuở xưa, họ sẽ nhắc nhở cho y nhớ lại đúng vào giờ phút thích nghi.

      Trong con người, có một yếu tố bất diệt, đó tức là Chân Ngă. Y đă lăng quên mất Chân Ngă của ḿnh, nhưng sự lăng quên đó không bao giờ có thể làm giảm bớt đi sự cao cả thiêng liêng của nó. Y có thể quên mất nó đi và ngủ mê trong sự truy hoan, nhưng một ngày kia nó vươn ḿnh cho trỗi dậy và đánh thức y, y sẽ nhớ lại rằng y là ai và thu hồi lại được linh hồn của ḿnh.

      Con người không t́m thấy cái chân giá trị của ḿnh bởi v́ y đă mất cái ư thức về Thiêng Liêng. Bởi đó, y chạy quàng xiên theo những lư thuyết của người khác, trong khi y có thể t́m thấy lẽ sống chân thật ở tự nơi ḿnh. H́nh biểu tượng Sphinx không nh́n cảnh vật bên ngoài. Cái nh́n khó lường của nó luôn luôn hướng vào bên trong, và ư nghĩa thâm sâu của nụ cười bí hiểm của nó là Tự Biết Ḿnh.

      Người nh́n vào bên trong chỉ thấy có sự bất măn, yếu đuối, vô minh và sợ sệt, chớ vội thất vọng và hoài nghi. Y hăy nh́n sâu hơn và lâu hơn, cho đến khi y nhận thấy những dấu hiệu thoáng qua nó sẽ xuất hiện khi cái tâm hoàn toàn vắng lặng.

      Y hăy cẩn thận ḍ xét những dấu hiệu đó, v́ nó sẽ sống động và tăng trưởng lên thành những tư tưởng siêu việt vượt ra ngoài ṿng giới hạn của lư trí, chẳng khác nào như những vị Thiên Thần tiền phong báo hiệu trước một tiếng nói huyền diệu sắp đến. Đó là tiếng nói của một vật ẩn dấu, huyền bí, thâm trầm nó ngự trong nội tâm của y, tức là tiếng nói của Chân Ngă.

      Mỗi người đều sẽ có lúc được hưởng ân huệ thiêng liêng trong đời ḿnh, nhưng nếu y thản nhiên bỏ qua cơ hội, th́ ân huệ đó cũng ví như một hột giống gieo trên băi đá sạn. Không ai bị sa thải ra ngoài cái ân huệ thiêng liêng đó, mà chỉ là con người tự sa thải lấy ḿnh. Con người đi t́m ṭi khám phá cái ư nghĩa bí ẩn của cuộc đời, hăy nên biết rằng cái Nguồn sống sinh ra y vốn cao cả và thiêng liêng hơn là y có thể tưởng tượng.

      Y hăy tin tưởng nơi Thiên Ư và tuân theo những mệnh lệnh thâm trầm nhắn nhủ vào cơi ḷng y bằng những linh cảm tế nhị và sâu sắc. Người nào tưởng rằng y có thể sống tự do theo ư ḿnh, chiều theo tiếng nói của dục vọng mà khỏi phải chịu trách nhiệm về những hành động của y về sau này, thật là trói buộc cuộc đời y với điều mộng ảo. Kẻ nào phạm tội với người đồng loại hay với chính họ, ấy là tự họ tuyên án lấy ḿnh.

      Họ có thể giấu diếm tội lỗi khuất mắt người đời, nhưng họ không thể che dấu các đấng Thần Minh. Nền Công Lư vẫn cai quản thế gian một cách đúng phép mặc dầu người ta không nh́n thấy những hành động của nó, và không phải lúc nào cũng t́m thấy nó ở những Pháp Đ́nh của trần gian. Kẻ nào thoát khỏi luật pháp trần gian sẽ không thoát khỏi lưới công b́nh thưởng phạt của Thánh Thần.

      Những người đă từng chịu đựng đắng cay gian khổ, những người đă trải qua những cơn nghịch cảnh tối tăm, gan bầm ruột héo, lệ sầu tuôn rơi sẽ sẵn sàng hơn để tiếp nhận tiếng nói của Chân Lư. Nếu họ không nghe thấy ǵ khác hơn, ít nhất họ có thể nhận định rơ tính cách phù du giả tạm của cuộc đời, họa phước vô thường biến đổi. Nếu họ không bị phỉnh lừa bởi những ngày sáng sủa vui tươi, ho sẽ ít khổ hơn trong những giờ đen tối.

      Đời người gồm cả vui sướng lẫn đau khổ, không ai có thể tự hào rằng ḿnh được trọn vẹn suốt đời. Người nào c̣n tự đắc, kiêu hănh đối với kẻ đồng loại sẽ chuốc lấy điều tai họa hiểm nghèo. Trước sự hiện diện vô h́nh của các đấng Thần Minh, th́ đức khiêm tốn là bộ áo duy nhất mà con người nên khoác lấy, v́ các Ngài có thể lấy đi trong khoảnh khắc tất cả những ǵ mà con người đă thu thập trong nhiều năm.

      Số phận của mọi vật được định đoạt theo từng chu kỳ, và chỉ có những người vô trí thức mới không nhận biết điều đó. Trăng tṛn rồi lại khuyết, hết nước lớn lại nước ṛng, sự vật trong vũ trụ luân chuyển theo định luật tuần hoàn. Đời người cũng không ngoài cái định luật đó, hết thịnh đến suy, hết già đến trẻ; sức khỏe là một khách vô thường, t́nh yêu vừa mới đến th́ đă ra đi.

      Hết cơn bỉ cực đến hồi thái lai, hết lúc suy vong đến hồi thịnh trị. Một bài học lớn về định luật đó là dù con người có biết hay không biết, nơi trú ẩn rốt ráo cùng tột của con người là ở tự nơi ḿnh.

      Thuở xưa con người biết rơ điều ấy và đă t́m nguồn an ủi ở nơi đó. Nếu y quên đi cái nguồn gốc cũ của ḿnh, th́ sự thất vọng và đau khổ lại cùng liên kết với nhau để đem y trở về. Không ai có thể tránh khỏi được hai điều ấy tức là hai bậc Thầy của ṇi giống nhân loại.

      Con người chỉ được che chở và an toàn khi nào y xét thấy rằng có những cánh tay thiêng liêng đùm bọc lấy y. Ngày nào con người chưa được giác ngộ th́ những phát minh mới mẻ tân kỳ nhất của y sẽ trở nên những chướng ngại khó khăn nhất, và bất cứ điều ǵ thúc đẩy y tiến sâu thêm vào cơi giới vật chất sẽ trở nên những sợi dây trói buộc mà về sau y lại phải cởi mở để thoát ly.

      Vậy y hăy quên đi những điều lo âu phiền muộn về những sự vật trần gian để lo trau dồi Chân Ngă, chừng đó y sẽ được sống trong an vui và hạnh phúc.

      Người nào thấy được một lần cái Chân Ngă hay Chân Như Phật Tánh của ḿnh sẽ không c̣n thù ghét được ai nữa. Không có tội ác nào lớn hơn ḷng thù hận, không có đau khổ nào lớn hơn chiến tranh.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 817 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 6:10pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



       Không ai thoát khỏi sự ḍ xét của các đấng Thần Minh, tuy im lặng và vô h́nh, nhưng các Ngài vẫn nh́n thấy mọi hành động của người trần gian. Sự thù hận sẽ biến mất trên thế gian khi nào con người tập nh́n thấy kẻ đồng loại không phải bằng cặp mắt phàm, mà bằng một cái biệt nhăn.

       Nó cho thấy những khả năng thiêng liêng của họ, và khi nào y có thể nh́n họ với một ḷng kính nể, v́ trong ḷng họ có ngự một quyền năng thiêng liêng mà người ta gọi là Thượng Đế.

      Những nhà học giả có thể bươi móc, lục lạo những chồng sách cổ kim chất hàng đống trong các thư viện, họ cũng không t́m được một Chân Lư nào cao xa và thâm trầm hơn cái Chân Lư tối trọng này là: "Chân Ngă con người vốn bất diệt và thiêng liêng.

      Những triển vọng thiết tha nhất của con người có thể phai mờ dần với thời gian nhưng cái hy vọng một đời sống trường cửu, một t́nh yêu toàn vẹn không dời đổi, một niềm hạnh phúc chân thật có ngày sẽ được thực hiện, v́ nó được hứa hẹn với chúng ta bởi một cái định mệnh chắc chắn không bao giờ phỉnh lừa và không ai tránh khỏi."

      Con người hướng về những bậc Giáo Chủ và Hiền Triết thời xưa để t́m những tư tưởng siêu việt và những triết lư cao thâm, nhưng khi một người nh́n thấy được cái bản tính chân thật của ḿnh, y sẽ được sống trong ánh sáng. Tất cả những ǵ tốt đẹp cao cả về tư tưởng và t́nh cảm đều đến với y một cách dễ dàng mà y khỏi phải t́m kiếm.

      Trong sự bằng an của tâm hồn y, hiện ra những linh ảnh thiêng liêng không kém ǵ những linh ảnh của các nhà tiên tri Do Thái hay Ả Rập thời xưa. Cũng do ánh sáng thiêng liêng đó mà đức Phật thoát nhiên đại ngộ và truyền lại cho hậu thế cái ư niệm về cơi Niết Bàn.

      Sự giác ngộ ấy cũng làm thức tỉnh một t́nh thương bao la rộng lớn đến nỗi nó hoán cải được cả một đời người, và chính v́ đó mà nàng Marie Madeleine ngày xưa đă rửa sạch tội lỗi bằng nước mắt của nàng dưới đức Chúa Jesus.

      Không có lớp bụi mờ nào có thể bao phủ những điều chân lư cổ kính này, mặc dầu nó đă trải qua nhiều thế hệ từ khi con người bắt đầu xuất hiện trên quả địa cầu. Không có một dân tộc nào mà không nhận được từ buổi sơ khai những điều tiết lộ cao cả và thâm trầm này.

      Người nào sẵn sàng đón nhận những chân lư thâm sâu đó, không những hiểu nó bằng lư trí mà thôi mà c̣n phải mở rộng cơi ḷng để thông cảm cho đến khi nhờ nó đem nguồn cảm hứng mà họ có được những hành động cao cả siêu việt.

      Một sức mạnh mà tôi không cưỡng lại được đă bắt buộc tôi quay trở về cơi đời thực tế. Trải qua những giai đoạn tuần tự và rất chậm răi, tôi đă dần dần ư thức được cảnh vật chung quanh. Tôi nhận thấy rằng tôi vẫn c̣n ngồi trong tịnh xá của đức Maharichi, nhưng gian pḥng vắng lặng như tờ.

      Đôi mắt tôi chợt nh́n đồng hồ trên vách và tôi nhận ra rằng giờ này có lẽ mọi người đă qua bên pḥng ăn để dùng cơm chiều. Kế đó, tôi cảm thấy h́nh như có người ngồi ở bên cạnh tôi. Vị đệ tử già bảy mươi lăm tuổi, làm xếp ga hồi hưu, vẫn c̣n ngồi lại bên cạnh tôi trên sàn gạch và chăm chú nh́n tôi một cách rất có thiện cảm.

      Y cho tôi biết:

      - Sư huynh đă xuất thần nhập định được gần hai tiếng đồng hồ.

      Gương mặt của y có đầy những vết nhăn sâu hoắm, dấu tích sự tàn phá của thời gian. Y vừa nói vừa nở một nụ cười rất tươi, dường như y cũng chia sớt niềm hạnh phúc của tôi. Tôi định mở lời để đáp lại, nhưng lấy làm ngạc nhiên tôi không thể nói được nữa. Gần mười lăm phút trôi qua, tôi mới thu hồi lại được giọng nói của ḿnh. Trong khi đó, ông lăo lại nói tiếp:

      - Đức Maharichi đă theo dơi sư huynh một cách chặt chẽ trong suốt thời gian đó. Tôi chắc rằng Ngài dùng tư tưởng để d́u dắt sư huynh trong cơn nhập thiền.

      Khi đức Tôn Sư trở lại tịnh xá, những người đi theo Ngài cũng vào ngồi lại một chút trước khi sửa soạn đi ngủ. Ngài bước lên giường gỗ ngồi xếp bằng như thường lệ. Ngài ngồi nghỉ, khủyu tay mặt chống lên đùi, bàn tay mặt đỡ lấy cằm, hai ngón tay đặt bên g̣ má. Bốn mắt chúng tôi gặp nhau, và ngài tiếp tục nh́n tôi một cách chăm chú.

      Khi người tiểu đồng hạ thấp cái bấc đèn theo như lệ thường mỗi đêm, tôi lại ngạc nhiên mà thấy cái tia sáng lạ thường trong cặp mắt yên lặng của đức Tôn Sư. Đôi mắt của Ngài chiếu sáng ngời như hai ngôi sao giữa đêm tối. Tôi chưa từng gặp một người nào có cặp mắt lạ lùng như nhà hiền triết này. Nếu cặp mắt con người có thể phản ảnh cái quyền năng thiêng liêng, th́ đó là trường hợp của đức Maharichi vậy.

      Khói trầm bay lên nghi ngút tỏa mùi thơm khắp pḥng trong khi tôi vẫn nh́n đôi mắt không chớp của Ngài. Bốn mươi phút trôi qua trong cái t́nh trạng đó, tôi với Ngài đều im lặng nh́n nhau không ai thốt ra một lời nào. Giữa lúc này, lời nói nào có ích ǵ.

      Bây giờ, chúng tôi hiểu nhau hơn trong im lặng, v́ trong cái im lặng thâm trầm đó tâm hồn chúng tôi hoà hợp lẫn nhau nột cách tuyệt diệu và trong cuộc giao cảm thâm trầm này tôi nhận được một thông điệp không lời nhưng rất rơ ràng.

      Sau khi tôi đă nhận thức được quan điểm của đức Maharichi về cuộc đời, từ nay đời sống nội tâm của tôi đă bắt đầu ḥa hợp làm một với đời sống tinh thần của Ngài.








Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 818 of 1146: Đă gửi: 21 October 2010 lúc 6:13pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde





ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ



      
      Trong hai ngày kế đó, tôi phải chiến đấu với cơn sốt sắp đến và cố gắng giữ vững tinh thần. Vị đệ tử già bước đến cḥi của tôi vào một buổi trưa và nói:

      - Thời gian chung sống của Sư Huynh với chúng tôi nay đă chấm dứt. Nhưng chắc có ngày Sư Huynh sẽ trở lại với chúng tôi chứ?

      - Lẽ tất nhiên tôi sẽ trở lại.

      Tôi đáp một cách tự tin. Khi y ra về, tôi đứng trước cửa nh́n lên ngọn Đồi Thiêng, Arunachala, nói theo tiếng Ấn Độ. Nó đă trở nên cái bối cảnh linh thiêng của cuộc đời tôi.

      Bất cứ lúc nào khi tôi đang làm ǵ, dầu là đang ăn uống, nói chuyện, đi bách bộ, hay ngồi thiền, tôi chỉ ngước mắt lên là tôi nh́n thấy cái h́nh dáng hùng vĩ của nó nhô lên trước mặt tôi, hoặc ở chỗ lộ thiên, hoặc xuyên qua khung cửa sổ.

      Người ta không thể quan niệm được rằng một nơi đạo viện thâm nghiêm như chốn này mà không có một ngọn đồi như thế, và tôi cũng đă chịu ảnh hưởng bởi cái sức hấp dẫn lạ lùng của nó.

      Chiều đến, tôi chào từ giă tất cả mọi người trong đạo viện, trừ ra đức Maharichi. Tôi cảm thấy nhẹ nhàng sung sướng bởi v́ tôi đă thành công trong sự chiến đấu để đạt tới một kết quả chắc chắn về đường tâm linh, và cũng bởi v́ tôi đă thắng trận mà khỏi phải hy sinh cái thái độ hợp lư của tôi cho một đức tin mù quáng.

      Tuy nhiên, khi đức Maharichi cùng với tôi bước ra đến sân đạo viện một lần cuối cùng,tôi cảm thấy sự sung sướng của tôi th́nh ĺnh biến mất và nhường chỗ cho một nỗi buồn man mác. Tôn Sư đă chinh phục được tôi một cách lạ lùng và tôi cảm thấy buồn vô hạn khi phải từ giă Ngài ra đi.

      Ngài đă nối liền hai tâm hồn chúng tôi bằng những sợi dây nhân duyên vô cùng bền chặt tuy rằng Ngài không có ư muốn nào khác hơn là làm cho một người trở về nguyên bổn để giúp cho y tự giải thoát. Ngài đă giúp cho tôi thực hiện Chân Như Phật Tánh và diễn đạt cái danh từ vô nghĩa đó thành một kinh nghiệm sống động, độc đáo và vô cùng huyền diệu.

      Tôi cố kéo dài giờ phút từ biệt và không thể nào biểu lộ hết những nỗi xúc cảm thâm trầm trong ḷng tôi. Nền trời xanh thẳm chiếu muôn ngàn ánh sao lóng lánh, vầng trăng non mới mọc giống như cái lưỡi liềm bằng bạc treo lủng lẳng trên không trung.

      Hàng ngh́n con đom đóm lập ḷe làm cho khu vườn trở thành một tấm thảm chói sáng rực như thêu kim cương, và những chiếc lá dừa đẩy đưa một cách dịu dàng trước ngọn gió chiều hiu hắt.

      Cuộc phiêu lưu kỳ diệu của tôi trên cơi giới tâm linh đă chấm dứt, nhưng biết đâu thế cuộc xoay vần, cái bánh xe thời gian lại chẳng có ngày đưa tôi trở lại chốn này? Tôi chắp hai tay đưa lên trán theo phong tục bản xứ và thốt vài lời từ biệt.

      Ngồi trên chiếc giường gỗ, Tôn Sư không nói một lời, dưới ánh đèn dầu leo lét, tôi c̣n thoáng thấy gương mặt trầm lặng của Ngài với màu da đồng bạch và cặp mắt sáng ngời, một cái chắp tay vái chào cuối cùng, một cái vẫy tay nhẹ của Ngài đáp lại, và thế là hết.

      Tôi trèo lên cỗ xe ḅ đợi ngoài sân, người phu xe đưa roi quất mạnh, cỗ xe từ từ lăn bánh, hai con ḅ dễ dạy bèn lầm lũi tiến bước trong đêm khuya thơm ngát mùi hương của vùng nhiệt đới.

      


Dịch Giả: Nguyễn Hữu Kiệt







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 819 of 1146: Đă gửi: 06 November 2010 lúc 10:19pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 820 of 1146: Đă gửi: 25 November 2010 lúc 5:57am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




LUÂN HỒI DU KƯ




Tiểu Sử PHẬT SỐNG TẾ CÔNG



Phật Sống Tế Công người đời Nam Tống 1150-1209, nguyên quán thuộc huyện Thiên Thai, tỉnh Triết Giang, họ Lư tên Tu Duyên quy y tại chùa Linh Ẩn ở Tây Hồ thuộc Hàng Châu, pháp danh Đạo Tế, v́ thường dùng kế giả điên để cứu đời nên thế nhân thường gọi đùa là Tế Điên.

Thân Phật Sống là Kim Thân La Hán hóa thân, là Giáng Long Tôn Giả, thông hiểu sâu xa tam muội, tức là chính định, điều tâm tĩnh tọa để đạt trạng thái trực giác vô tư lự hầu thấu triệt cùng liễu ngộ Phật pháp, ư là: “Muôn pháp vốn xuất hiện bởi tâm”.

Và tu thẳng tâm Phật không nhờ phương tiện, nên nói: “Tu tâm không tu miệng để trở thành Phật sống” v́ lẽ các tăng ni thời đó chỉ “giới khẩu” không “giới tâm” cho nên Phật Sống nói lên tiếng cảnh tỉnh để giúp họ giác ngộ.

Ngài thần thông quảng đại, cứu nhân độ thế, trượng nghĩa pḥ nguy, đối với bọn giả thiện chuyên làm điều ác ngài thường giễu cợt để khiến bọn đó giác ngộ. Nhưng riêng đối với lũ làm ác không biết hối cải ngài thẳng tay đả kích không ngần ngại, khiến người đời rất ư khoái trá, bởi vậy mọi người gọi ngài là thánh tăng, tôn ngài là Phật Sống hẳn chẳng phải do sự ngẫu nhiên.

Phật Sống từng ở chùa Tịnh Từ, chùa gặp hỏa hoạn, cần gỗ để trùng tu, Phật Sống hành hóa tới Nghiêm Lăng, dùng áo cà sa trùm các núi, nhổ trụi cây đem thả sông cho trôi về Hàng Châu.

Ngài về báo cho chúng tăng trong chùa là “gỗ ở trong giếng Hương Tích” chúng tăng chạy ra coi th́ quả nhiên có thực, những chuyện lạ như vậy đời truyền tụng rất nhiều. Khoảng năm Gia Định 1209 ngài viên tịch, an táng tại tháp Hổ Bào, phút lâm chung có làm một bài hát:

Ca viết

Lục thập niên lai lang tạ
Đông bích đả đảo tây bích
Ư kim thu thập quy lai
Y cựu thủy liên thiên bích.

Hát rằng

Sáu mươi năm đời ta tan tác
Tường phía đông xô tường phía tây
Góp nhặt măi vẫn về tay trắng
Nước liền trời biếc một màu mây.

Sau khi nhập diệt, có vị tăng gặp Phật Sống dưới chân tháp Lục Ḥa, trong thư gởi về có đính kèm một bài thơ như sau:

Thơ

Ức tích diện tiền đương nhất tiễn
Chí kim do giác cốt mao hàn
Chỉ nhân diện mục vô nhân thức
Hựu văng Thiên Thai tẩu nhất phiên.

Dịch

Nhớ xưa trước mắt chắn tên bay
Xương thịt cớ sao lạnh lúc này
Mặt mũi hỏi ai c̣n nhớ nổi
Thiên Thai ta lại tới vui vầy.

Như vậy là Bồ Tát đă hứa hẹn sẽ trở lại trần gian. Phật Sống suốt đời cứu độ hành hóa, dạo cơi nhân gian để chọc tức chọc cười, không lo lắng ngại ngùng tu “hạnh đầu đà” tức là tu khổ hạnh, hành đạo Bồ Tát, một manh áo cà sa rách rưới, vui cảnh đời thoát tục.

Đôi giày rách sũng nước ngập bùn, tay cầm quạt Bồ chẳng sợ trên cao dưới thấp, đỉnh đầu sáng chói hào quang, gió chẳng dập, mưa chẳng vùi há c̣n cần nón lá? Chân không, lạnh nóng chẳng xâm phạm, cần chi áo mặc? Không khất thực v́ chẳng đói khát.

Lười trang nghiêm v́ thiếu da lông, khôi hài cười cợt, kết thiện duyên rộng răi, trần thế chẳng lánh mặt, t́m tiếng cứu khổ, trăm họ giành nhau tôn kính, từ bi vô lượng, thánh đức tuyệt vời, không một tăng sĩ lánh đời ẩn tu nơi chốn thâm sơn cùng cốc nào sánh nổi.

Mỗi lời mỗi tiếng như gai nhọn dao sắc châm chọc, ĺa nhà từ miền Ngũ Nhạc tri thức vốn khoan dung, cho nên đời sau chốn cửa Phật nào tự cho ḿnh là thanh cao ắt tránh né không bàn tới.

V́ vậy mà một bực cao tăng thánh đức bị mai một không hiển lộ nổi, may mà Phật tôi từ bi không than oán, không chán nản, sống siêu thoát ngoài ṿng tục lụy, thể hiện pháp thiền khắp chốn, thực hành Phật pháp mang đầy sắc thái vui tươi, cho nên đại danh “thiền sư” vang dội khắp nơi.

Tinh thần xuất thế vĩ đại chuyển thành công lao nhập thế tích cực, thực quả là gương sáng cho những ai ngày nay học Phật tu đạo, cho nên khi được đời tặng thánh danh “Phật Sống” kể cũng hữu lư lắm vậy.

Nay gặp thời mạt pháp, chúng sinh bị lửa dục thiêu đốt, đắm ch́m biển khổ, Phật Sống quyết tâm cứu độ người đời cho nên diệu pháp thần thông ngày trước lại tỏ ngời, phát nguyện hiện thân trở lại, giáng lâm Thánh Hiền Đường, hướng dẫn nguyên linh Dương Sinh dạo thăm âm phủ, sưu tầm những bằng chứng xác thực để răn đời.

Từ đấy những điều bí mật tại địa ngục được tiết lộ, tạo thuyền từ để cứu độ chúng sinh. Những ai có phước được tắm mưa pháp, vĩnh viễn xa ĺa đường ác. Vĩ đại thay, tác phẩm lớn lao đă hoàn thành, c̣n lưu lại muôn đời, ghi nhớ hoài đức lớn.

TỤNG VIẾT

Đương đầu hát bổng, hoán hồi thế thượng mê đồ
Nhất tiếu niêm hoa, bản thuộc thiền môn diệu quyết
Nhân sinh như hư, diễn đắc xuất thần nhập hóa
Vạn pháp quy tâm, biến du địa ngục thiên đường.

LỜI TỤNG

Đem đạo vào đời, kêu gọi mọi người tỉnh ngộ
Cầm hoa mỉm cười, cửa thiền diệu pháp bí truyền
Một vở tuồng đời, đóng vai vào Thần ra Phật
Nhập tâm muôn pháp, dạo khắp địa ngục thiên đường.



Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 

<< Trước Trang of 58 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.0391 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO