Tác giả |
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 841 of 1146: Đă gửi: 25 November 2010 lúc 6:22am | Đă lưu IP
|
|
|
LUÂN HỒI DU KƯ
HỒI MƯỜI LĂM
TẠI QUÁN “CÂY C̉N” ĐÀN CHÓ ĐẦY PHẪN NỘ
NƠI NHÀ HỌ TRẦN CHÓ TRẮNG BÁO ƠN XƯA
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 21 tháng 11 năm Tân Dậu 1981
Thơ
Dạ lai Thánh Đức tả kim tiên
Ân cập phi cầm bố đại thiên
Chính hợp thiên thời khai phổ độ
Thu viên vạn lợi luyện thần tiên.
Hồ thuyết Tế Phật cẩu nhục lương
Gia gia cứu khổ tạo từ hàng
Tâm hoài đại đạo kỳ khuông thế
Khởi cảm tham luân băo đỗ trường.
Dịch
Bút giáng Thánh Đường hiện mỗi đêm
Muôn loài khắp chốn được ban ơn
Trời cao đang lúc ban chân pháp
Mọi giới mau lo luyện thánh tiên.
Thịt chó vu oan Phật Sống ăn
Nhà nhà cứu độ thoát dương trần
Mong đem đạo lớn truyền nhân thế
Thơm nức cầy tơ há dám tham.
Tế Phật: Các loài cầm thú cùng tất cả chúng sinh là một, v́ thú và người cùng ở trên mặt đất, chúng lại được trời cao ban cho quyền sống giống như người. Người đời đói biết ăn no, rét biết mặc ấm, biết đau biết đớn, cho nên cũng là loài sinh vật có t́nh cảm, có giác quan, sinh mệnh quả là có nhiều sinh lực.
Người ta lúc không c̣n sự sống chẳng khác nào là đồ phế thải. Nhân loại có được loài vật thân yêu do trời sinh ra để cùng chung sống quư hóa biết bao, bởi vậy phải biết luật sống ḥa đồng để duy tŕ mối tương quan tương ái. Loài vật hóa trang giúp loài người là những diễn viên trên trái đất, nên loài vật đă trở thành bạn đường thân thiết của loài người.
Song có một thiểu số thiên lệch, không chịu nh́n nhận sự thực này, để rồi đưa đến cảnh giết chóc khiến thịt đổ máu rơi. Bữa nay thầy hướng dẫn Dương Sinh phỏng vấn một số động vật để thâu lượm tài liệu sống khuyến hóa bến mê. Dương Sinh lên đài sen, chuẩn bị khởi hành.
Dương Sinh: Thưa, con đă sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đă đến nơi, Dương Sinh xuống đài sen.
Dương Sinh: Thưa, vừa lên đài sen lại xuống ngay là tại sao?
Tế Phật: Bán anh em xa mua láng giềng gần, bữa nay chẳng cần đi xa, tới chợ ở Đài Trung cũng gặt hái được kết quả.
Dương Sinh: Thưa gặt hái kết quả ǵ?
Tế Phật: A, thịt cầy nướng. Con hăy nh́n quán bên đường kia, trên lồng đèn có viết ḍng chữ “Mộc Tồn Vương Nhục”.
Dương Sinh: Thưa con đă nh́n thấy cái lều bán thịt chó dựng bên đường, ban ngày đi qua đây không thấy có chợ họp.
Tế Phật: Chợ thịt cầy thường họp vào ban đêm lúc khí trời lành lạnh mới hấp dẫn.
Dương Sinh: Có nhiều chó sủa bên ngoài quán, giống như muốn nhào vô cắn người trong quán, có kẻ nằm lăn ra ngủ, có kẻ ngồi trên ghế không giống khách hàng, hai mắt đỏ ngầu, nắm tay đập xuống bàn rầm rầm, như có ư đ̣i nợ chủ quán.
Tế Phật: Đó là những nguyên linh chó bị giết thịt, sau khi chết trong ḷng uất ức, liền theo máu thịt núp trong quán, khách ăn thịt uống rượu rất khoái chí nhưng không hay phía sau lưng, oan hồn chó sủa không dứt. Những kẻ ngồi trên ghế nắm tay đập bàn rầm rầm cũng là một oan hồn chó bị giết, v́ nguyên linh mạnh mẽ nên nó đă hóa thành h́nh người, ḷng vô cùng phẫn uất, khăng khăng đ̣i nợ kẻ đă giết nó, quả là hồn oan chẳng thể tiêu tan.
Dương Sinh: Người đời thường nói ân sư lúc c̣n ở thế gian rất thích ăn thịt chó, bữa nay tới đây chắc hẳn thầy cũng sẽ ăn một bữa thật no nê.
Tế Phật: Tṛ ngoan thật khéo pha tṛ, ta ăn thịt chó nhưng không phải thứ thịt chó này mà là loại chó trời, thứ đó mới chính hiệu “vương nhục” c̣n đây chỉ là loại thịt chó phàm tục th́ làm sao có thể gọi là “vương nhục” được.
Dương Sinh: Thưa tại sao lại gọi là thịt chó trời? Quả là lần đầu tiên con mới được nghe nói tới.
Tế Phật: Tục ngữ có câu: “Ăn thịt cóc hủi lại ngỡ thịt ngỗng trời!”. C̣n ta th́ quan niệm kẻ phàm tục không được ăn thịt chó trời, vậy chó trời là ǵ? Sao lạ vậy? Ḱ hơn nữa người đời đề pḥng trộm cắp, ngoài cổng lại c̣n đề câu: “coi chừng chó dữ”.
Trong các truyện viết về Tế Công soạn giả cho người đọc thấy ta là một ḥa thượng chuyên ăn thịt chó, nhiều kẻ liền tin ngay không chịu nghĩ sâu, chẳng lẽ ta đă xuất gia mà lại c̣n phá giới phá luật được ư! Tiểu thuyết chỉ là giả tưởng như rượu bỏ thêm men, nguyên nhân chỉ tại ta vốn là la hán hóa thân, kiếp trước đạo pháp thâm hậu cho nên lúc ở chùa Linh Ẩn bị nhiều kẻ ghét.
Mỗi khi ta làm pháp luân thường chuyển, nước ngọt quỳnh tương tuôn chảy khắp châu thân, tỉnh tỉnh say say quay cuồng cùng trời đất, cho nên họ tưởng là ta say rượu. Rượu tục làm loạn trí, rượu thánh an định trí, biết bao lần ta đă cắn răng co lưỡi, chỉ đôi khi nói ít câu về thiền định, thử hỏi có ǵ quá quắt lắm đâu?
Mua rượu phải có tiền mà ta th́ lại túi rỗng. Mặc dù hai tay trắng, nhưng khi muốn uống rượu bồ đề không phải rượu thường th́ ta lại chỉ cần với tay là có, không tiền cũng vẫn trả được v́ đó chính là mưa pháp cam lộ tắm gội tâm linh thức tỉnh trong lành. Có những kẻ phàm tục mới uống ít chén đă say sưa ói mửa, nghiêng nghiêng ngửa ngửa ma men hành hạ cả thể xác lẫn tâm hồn.
Ta là Phật Sống đồng thời cũng là quỷ say làm sao so sánh được? C̣n việc ăn thịt chó th́ trong mỗi con người ai chả có một con chó thực ác độc, tham dâm ngang ngược, chuyên cắn trộm chủ nhân, lỡ có thứ chó này không giết mà nhậu quách đi, c̣n muốn nuôi nó tới bao giờ? Người đời không rơ lẽ đó, nên đă vô t́nh nuôi một con chó ác độc đó trong người, mỗi lần có cướp trộm tới nó liền cúi đầu quẫy đuôi hân hoan đón tiếp, nhưng khi thấy chủ th́ cắn lại liền, loại chó này ta rất thích nhậu thịt nó.
Dương Sinh: Những lời ân sư vừa chỉ dạy, ân sư đă lấy ác niệm trong tâm người đời ra ví dụ. Thứ chó ác độc ấy cũng là nguyên linh của người, vốn trong sáng thuở chưa giáng phàm biến thể thành cho nên c̣n gọi là chó trời. Ăn thịt chó trời biểu thị giết chết được vọng niệm, trừ khử nổi tư dục, diệt sạch được tà kiến, thưa có phải như vậy chăng?
Tế Phật: Đúng vậy, chúng ta bất ḱ nằm ngồi đi đứng lúc nào cũng pháp luân thường chuyển th́ nước ngọc quỳnh tương tràn đầy, chân khí bay lên như hơi men rượu bốc ngất ngây, trong ḷng vô cùng sung sướng, hoàn toàn tự tại. Những tăng ni tâm ưu ư sầu, có hột bồ đề mà không biết đem trồng ở đâu, ḷng chẳng nở hoa hôn mê ch́m đắm không thể chịu nổi, lối tu khổ hạnh này không thể chịu nổi, lối tu khổ hạnh này vô ích.
Ta có quạt bồ, quạt một cái là có gió mát trong lành. Một đôi giày cỏ, đạp khắp chân trời góc biển. Một chiếc mũ nỉ che tai về thăm nước Phật. Chuyên đánh chó dữ khuyên đời, thích nâng chén lành để tâm được tĩnh, có ǵ chẳng được? Người đời nếu như có lực đạo này tâm tính không điên loạn, chân tay không cuống quưt, học pháp Tế Công ta ắt thành Phật Sống.
Dương Sinh: Thưa ân sư vừa tŕnh bày bí quyết tu đạo, phàm những ai có ḷng chắc chắn sẽ lănh hội được chân lí. Mùa đông lạnh lẽo nhiều kẻ ham ăn thịt chó, v́ họ cho rằng thân thể sẽ được nóng ấm cường dương, những người thân thể yếu đuối cũng thường nghĩ vậy, c̣n ân sư ăn thịt chó trời có cảm giác ra sao?
Tế Phật: Vương nhục, vương nhục tại sao lại hấp dẫn người ta? V́ ăn nó vào thân thể nóng như thiêu như đốt, mà vẫn chẳng hay rằng hồn chó rên siết, quằn quại, giăy giụa, cắn nhai khiến huyết mạch trong người căng thẳng mà c̣n cho là bổ béo, không biết đó là tính chó hoành hành, lại c̣n cho là ơn ích, ăn rồi c̣n nhả ra chi bằng chẳng ăn có hơn không? Người xưa nói: “Tiết dục tốt hơn bồi bổ tinh dịch”. Nếu như người đời không mua thịt chó mà ăn th́ ốm o gầy yếu cả hay sao?
Dương Sinh: Thưa, thịt chó không có hương tại sao người đời gọi là “hương nhục” tức thịt thơm?
Tế Phật: Kẻ bán thịt muốn đắt hàng mới gọi thịt chó là “vương nhục” hay “hương nhục” cốt để quảng cáo cho đông khách hàng. Chó hoang suốt đời không tắm, ăn xác chết śnh thối cùng phân người, hăy ngửi chó thử coi hẳn là sẽ thấy hôi ŕnh, các chủ quán thịt chó thử quảng cáo là “thịt chó hôi” xem có c̣n thực khách nào dám tới ăn không? Cho nên họ phải mượn cái tên đẹp đẽ “hương nhục” hay “vương nhục” là lẽ dĩ nhiên.
Nếu như họ dùng dầu thơm tắm cho chó trước khi làm thịt th́ cái tên “hương nhục” nghe c̣n có lư đôi chút. Chẳng kể chó hoang, chó có chủ thịt chúng ăn cũng không hợp vệ sinh, bởi lẽ chúng chuyên nằm dưới đất, phần đông mang đầy vi trùng bệnh hoạn.
Khuyên người đời chớ ăn là hơn. C̣n nếu như muốn ăn th́ đừng nói là bắt chước Tế Phật, v́ thịt chó mà Tế Phật ăn là thịt chó trời, do chính ḿnh nuôi dưỡng nó, ngày ngày tắm rửa, đánh răng, xức nước bông, thuốc sát trùng thuốc tiêu độc, mỗi bữa đều cho ăn loại rau có tánh dược, hàng ngày dẫn lên núi tản bộ, đêm ngủ nằm chung giường th́ đó mới là chó thuần bổ ích ăn thịt mới có lợi.
Một khi chó đă thân cận với ḿnh th́ t́nh nghĩa nảy sinh sâu đậm, chưa kể lại c̣n giữ cửa, coi nhà dùm, lại nỡ ḷng giết một người thân cận trung thành để ăn thịt cho bổ béo thân xác, th́ chẳng hóa ra là kẻ ḷng lang dạ sói sao? Hành động như vậy chỉ ích cho thân mà hại cho tâm, hối hận suốt đời.
Dương Sinh: Thưa, đệ tử thường nghe tăng chúng hay phỉ báng ân sư v́ trước kia thầy thích ăn thịt chó, nay lại lớn tiếng thuyết về trai giới giữa đàn cơ khuyên dạy chúng sinh, há chẳng ngược với bản tính của ân sư sao? Hay là trước nhậu nhẹt rượu thịt quá nhiều, nay đă sửa sai, tự ḿnh đổi mới, tạo công chuộc tội, thuyết pháp độ đời?
Tế Phật: Ha ha, tăng khùng tụng chính kinh khiến đám tăng chúng giả kinh nghi ngờ. Ngày xưa ta dùng thân Phật Sống biến hóa h́nh thể, giễu cợt thế tục, huệ nhăn của họ chưa mở, dùng mắt tục nh́n đời đương nhiên tự d́m ḿnh trong vũng bùn. Chúng sinh đă hân hoan nghe ta giảng chính kinh, hiện tại nếu chẳng muốn th́ cớ sao lại c̣n phỉ báng ta?
Dương Sinh: Bữa nay quán thịt cầy náo nhiệt v́ thực khách quá đông.
Tế Phật: V́ thân xác họ suy nhược rồi, không c̣n cách nào ứng phó nên chỉ c̣n cách cầu cứu thịt chó thôi.
Dương Sinh: Thưa thịt chó bổ dưỡng cơ thể lắm sao?
Tế Phật: Giết chó không những bị cảnh sát bắt giải ṭa v́ hành vi thiếu đạo đức, thiếu vệ sinh nên dù cho có bổ đi nữa th́ cũng là bổ ác, chẳng phải bổ thiện.
Dương Sinh: Thưa, vậy th́ lẽ đạo đó ra sao?
Tế Phật: Chó rất trung thành với loài người, nên chẳng nỡ giết chó ăn thịt, nuôi gà vịt để ăn thịt th́ nhiều mà nuôi chó để ăn thịt th́ rất ít. Bởi v́ hiếm chó cho nên những tay buôn thịt chó thường đánh bả cho chó chết rồi đem về làm thịt, nên thứ thịt chó đó có nhiều độc tố, ăn vào sinh ra nhiều chứng bệnh ngặt nghèo.
Chó hoang chuyên lục thùng rác ăn đồ dơ bẩn thối tha, nên nó bị nhiễm nhiều loại vi trùng, có lắm kẻ sau khi ăn phải loại thịt của loài chó này, trúng độc không chữa trị nổi, bởi vậy người đời nên cử thịt chó là hơn.
Dương Sinh: Hiện có nhiều chó đang kêu gào rên siết ở sau quán, thưa ân sư có nên phỏng vấn chúng không?
Tế Phật: Rất cần phỏng vấn chúng, có thể phóng điển để chúng hiện h́nh thuyết pháp.
Dương Sinh: Kính xin ân sư điểm hóa hầu giúp chúng hiện h́nh người để cùng đàm đạo.
Tế Phật: “Chó ơi, chó ơi, các mi đều có Phật tánh, thân tuy hôi hám song nhiều người lại nói là thịt mi thơm, hăy ngẩng đầu lên, trước cái chết của thể xác chớ có kinh hoàng, oán giận, bạo tợn. Người ta không sợ thịt mi hôi mà lại c̣n xưng tụng là thơm, mi nên lấy đó làm hài ḷng.
Hăy thử nh́n xác con người sau khi chết coi, nó thối ŕnh, không dám lại gần, chỗ thiêu xác chẳng ai bảo chốn đó thơm cả. Vậy th́ được làm kiếp chó là điều vinh hạnh, hăy coi nhẹ và vất bỏ cái xác thân đă chết đó đi, mau giác ngộ bản lai tính Phật, không được kêu la rên siết hoài như vậy, mi không cắn thân thịt của họ nổi nên họ chẳng sợ mi. Hăy chấp nhận số mệnh, thịt hôi của mi đă thoát phàm trở thành chả thơm với cái tên đẹp đẽ ‘hương nhục’”.
Dương Sinh: Nghe xong lời dạy của ân sư, tâm linh chúng dường như được điểm hóa nên không c̣n thấy chúng oán hận sủa vang, mà chạy lại gần thầy tṛ ḿnh mắt ứa lệ, quỳ gối, dần dần hiện rơ h́nh người, có nam có nữ, y phục đủ màu, nào trắng nào đen, nào cà phê sữa, nước mắt nước mũi chảy ṛng ṛng, vẻ rất thê thảm.
Tế Phật: Ta là Phật Sống Tế Công, phụng mệnh hướng dẫn thánh bút Dương Thiện Sinh tới đây phỏng vấn, vừa rồi ta đă ban Phật pháp điểm hóa cho các ngươi, ai nấy hăy thuật rơ lại nghiệp quả của ḿnh để chép vào sách Luân Hồi Du Kí, một là lập công chuộc tội, hai là sinh linh siêu thoát, công đức vô lượng.
Chó Mực: Cảm tạ Đức Phật Sống Tế Công đă độ hóa cùng ân ban linh quang, chúng con chẳng may bị đầu thai làm kiếp chó, ăn cơm thừa, gặm xương gặm xẩu. Mùa đông giá lạnh đă không mảnh vải che thân lại c̣n bị người ta đem giết, thật là đau đớn không sao tả nổi, hi vọng lời vàng ngọc khuyên can của đức Phật Sống, kẻ ḷng đang muốn giết, muốn bán cùng người miệng thèm ăn hẳn tâm sẽ tỉnh, kính xin ngài giải oan nghiệt cho tất cả chúng con!
Dương Sinh: Oan có thể giải không thể buộc. Các ngươi hiện thời thân đâu c̣n là thân sống mà là giả thân, nên để cho họ lấy xác, làm lông, ăn thịt cho thân họ ấm, há chẳng an nhiên tự tại lắm sao?
Chó Mực: Nói th́ dễ mà làm mới khó. Khi bị giết đau đớn vô cùng, lông dựng đứng hết lên. Tôi sinh tại làng Thái B́nh huyện Đài Trung, một bữa chạy rong ngoài đường bị một kẻ cầm gậy sắt từ phía sau đập tới trúng đầu, bể sọ, máu chảy lênh láng, nằm lăn ra đất giăy chết.
Hắn bèn lượm lên thảy vào cốp xe hơi, trong đó có nhiều đồng loại cũng đang rên la thảm thiết. Chúng tôi bị hắn chở về nhà, ở nhà đă có sẵn thùng nước sôi, chúng tôi từng mạng một bị thảy vào, có kẻ c̣n đang ngắt ngoải, gặp nước sôi lửa bỏng, chồm lên kêu bạn chạy trốn, rồi sau đó mới dần dần trút linh hồn, do đó sự thống hận tăng vượt bực.
Bị nhúng vào nước sôi cả hồn lẫn xác đau đớn, muốn vỡ tim nứt phổi, sau đó bị lóc da, mổ bụng, lưỡi dao sắc cắt thịt nhức buốt, vô cùng kinh hoàng. Sau khi làm thịt xong người ta đem phân phối cho các quán thịt cầy, kiếm được tiền lời rất nhiều, chúng tôi sẽ tố cáo với Diêm Vương.
Tế Phật: Thôi đừng tố cáo, hăy tự kiểm thảo xem kiếp trước như thế nào?
Chó Mực: Thưa vâng, nghe lời khuyên của đức Tế Phật ḷng con lắng dịu hẳn lại. Nhớ lại kiếp trước làm quan hành động chuyện mờ ám, chuyên tham nhũng hối lộ, thấy vợ con của kẻ thuộc cấp có nhan sắc liền thi hành thủ đoạn gian dâm, nếu như không nghe lời liền nghĩ kế hăm hại. Có một người vợ của kẻ dưới quyền con rất đẹp, con muốn mà không được liền nghĩ, trước bỏ tù chồng, sau làm áp lực với vợ bằng cách đ̣i điều kiện nếu như chịu hiến thân sẽ thả chồng ra.
Người vợ v́ quá thương chồng nên đành chịu nhục hiến thân. Sau đó con nghĩ nếu thả người chồng ra ắt chẳng c̣n những dịp may, cho nên lại khép tội chồng nặng hơn, để khỏi có ngày ra tù, rồi nói dối với người vợ là mặc dầu con đă ráng hết sức lo liệu cho chồng nàng, nhưng không thể cứu gỡ nổi, do đó chẳng c̣n cách nào khác có thể thả chồng nàng ra được.
Người vợ thấy rơ kế gian manh của con vô cùng căm phẫn và tuyệt vọng, bèn uống độc dược quyên sinh, v́ con phạm tội quá lớn này, sau khi chết bị chuyển kiếp đầu thai làm loài chó.
Tế Phật: Trước đă như vậy, giờ phải hiến thịt cho kẻ khác ăn há c̣n bất b́nh được sao? Kẻ ăn thịt ngươi, ngươi không nhận ra họ là ai sao? Đó chính là người vợ bị ngươi bức dâm nên tự sát chuyển kiếp đó, cơi u minh đă xếp đặt để cho người đó ăn thịt ngươi, thôi ngươi quên hết những nỗi giận hờn đi.
Ngươi thấy người đó ăn rất ngon lành so sánh với cái thuở mi làm ác chẳng kém nhau đâu, đó cũng là lẽ nhân quả báo ứng, nên người mới ăn thịt ngươi như thế đó. Thời gian ở tại quán thịt cầy này đă lâu, thôi thầy tṛ ḿnh tới nơi khác để thay đổi không khí.
Dương Sinh: Thưa tới nơi nào?
Tế Phật: Tới nhà số... thuộc hẻm 112 đường Đông Hưng, thôn Đông Hưng, làng Đại Lư, huyện Đại Trung, phỏng vấn một con chó rất có duyên với chủ. Thôi theo ta lên đài sen.
Dương Sinh: Thưa, xin tuân lệnh...
Tế Phật: Đă tới nơi, đây là nhà họ Trần, có nuôi một con chó vá, hàng ngày nó theo chủ đi đây đó, tối về ngủ chung giường với chủ thật quả như h́nh với bóng chẳng rời nhau. Trước đây có một độc giả của tạp chí Thánh Đức dẫn con chó đó tới Thánh Đức Đường, giới thiệu là con chó đó rất mực kỳ dị, khác hẳn những con chó khác, giờ hi vọng thầy tṛ ḿnh phỏng vấn để nghe nó thuật rơ lại lai lịch của nó, con có muốn như vậy không?
Dương Sinh: Thưa con muốn lắm. Bữa trước Trần Tiên Sinh và một bạn đồng tu dùng xe chở con chó đó tới bản đường tham bái Tiên Phật cùng để cho các tín hữu phỏng vấn nó, con chó đó rất đẹp đẽ, hiền lành.
Tế Phật: Thầy điểm hóa cho nó để nó hiện h́nh người rồi phỏng vấn nó. “Tiểu Viên, Tiểu Viên cái tên mà chủ nhân thường thân mật xưng hô, sớm tối được gần nhau, hẳn là có tiền duyên, này chó kỳ dị ở thế gian ơi! Hăy thuật lại chuyện kiếp trước của ngươi”.
Dương Sinh: Ân sư v́ chó mà ban pháp điểm hóa, niệm xong câu chú, chó dần dần biến thành một người con gái mặc áo trắng thêu hoa hồng, vô cùng diễm lệ.
Tế Phật: Tṛ ngoan có thể phỏng vấn.
Dương Sinh: Tôi là thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường ở Đài Trung, bữa nay đặc biệt theo thầy Tế Phật tới đây để phỏng vấn cô, vậy mong cô thuật lại chuyện kiếp trước cho tôi được rơ.
Tiểu Viên: À th́ ra đức Phật Sống Tế Công điểm hóa cho tôi, nên mới rồi tôi có cảm giác như vừa tỉnh mộng, giống như đương từ nơi tối tăm chợt thấy ánh mặt trời... Tôi xin thuật lại chuyện kiếp trước cũng như kiếp này tôi làm kẻ hầu nhà họ Trần.
Từ bé nhà nghèo tôi phải tới giúp việc cho nhà họ Trần, v́ tôi làm việc chăm chỉ cho nên được chủ nhân quư mến, tôi họ Trương tên Viên nên cả nhà gọi tôi là Tiểu Viên và tôi lấy làm sung sướng lắm. Chủ nhân đối xử với tôi thật là tốt, đă từng giúp tiền để mua thuốc chữa cho cha mẹ tôi khỏi bệnh.
V́ mang ân cứu mạng song thân, dần dần tôi đem ḷng cảm phục yêu thương chủ nhà, song v́ lễ giáo nghiêm ngặt, tôi chẳng dám hé răng nên mắc bệnh tương tư. Từ đó thân thể suy nhược ốm yếu. Có một bữa trong cơn mê sảng tôi đă âu yếm kêu họ tên chủ nhà, người vợ chủ nhà nghe được thấy vô cùng ḱ quái, âm thầm ḍ xét t́nh ư của tôi nên đă rơ sự việc, liền thuật lại với chồng.
Chủ nhà bèn tới an ủi tôi, khuyên tôi không nên nghĩ ngợi vẩn vơ, cố giữ cho tâm được trong sáng, cả nhà đối xử với tôi rất tốt, tôi cứ an tâm dưỡng bệnh mới là hay hơn cả, rồi mua thêm thuốc chữa trị cho tôi. Song v́ căn bệnh tương tư của tôi đă lâu ngày, nên phổi bị lao, cuối cùng ĺa bỏ cơi trần.
Sau khi chết hồn xuống tới âm phủ, mối t́nh này khó quên, Diêm Vương thấy tôi bệnh t́nh trầm trọng, nên muốn cắt đứt nghiệp quả, song v́ thời cơ chưa tới, đành phải chờ đợi tại âm phủ. Tới khi chủ nhân qua đời chuyển kiếp tái đầu thai làm người, thành gia lập nghiệp xong tôi mới được đầu thai làm chó để đền ơn kiếp trước.
Dương Sinh: Cô đă chung t́nh đến mức đó, cớ sao Diêm Vương không cho phép cô được đầu thai lên làm người, để cùng người chủ cũ sống đời chồng vợ?
Tiểu Viên: V́ người chủ nhà có nhân duyên chồng vợ với người khác, vả lại ba kiếp nhân quả của tôi tội nghiệp nặng nề, nên dù người chủ nhà đă giúp đỡ tiền bạc để cứu mạng cha mẹ tôi và mặc dù tôi rất chân t́nh song chỉ đủ làm thân khuyển mă để đền ơn thôi, chứ không đủ tư cách để chuyển kiếp đầu thai lên làm người sống đời chồng vợ.
Dương Sinh: A th́ ra nguyên nhân là như vậy.
Tiểu Viên: Tôi ở quán bán chó, chủ nhân họ Trần thấy được, tự nhiên trong ḷng vui thích, liền bỏ tiền ra mua tôi đem về. Ở nhà họ Trần mỗi ngày tôi một lớn khôn, hết ḷng giữ nhà giữ cửa, luôn luôn làm tṛn phận sự.
Họ cũng đối xử với tôi rất tốt, hàng ngày tắm rửa cho tôi, v́ kiếp trước có nhân duyên nên tôi và chủ nhà rất là thân mật, h́nh bóng chẳng rời nhau, ban ngày chủ nhân ra ngoài làm ăn buôn bán, đều cho tôi leo lên xe chở đi, mỗi bước có nhau.
Ở nhà chủ luôn luôn để tôi leo lên ghế, tối đến cho tôi ngủ chung giường, chủ nhân bảo sao tôi nghe vậy liền, tới giờ đi làm tôi biết đánh thức chủ nhân tỉnh dậy, tuy không phải là vợ chồng thực sự song cũng cảm thấy vô cùng an ủi. Đó là nhân quả kiếp trước của tôi.
Dương Sinh: Thực là câu chuyện kỳ lạ chưa từng được nghe giữa người và súc vật lại có thể có được. V́ hiện tại ngôn ngữ chẳng thông, chẳng rơ có điều ǵ muốn nói cùng chủ nhân chăng?
Tiểu Viên: Vợ chồng chủ nhân đối xử với tôi rất tốt, nên ḷng tôi vô cùng cảm kích, chỉ mong họ bớt bận rộn bởi kế sinh nhai, có dư th́ giờ nghiên cứu kinh sách, gần người hiểu đạo tu tâm dưỡng tính, sửa đổi được những thói quen không mấy tốt lành, có như vậy kiếp tới mới có thể phiêu diêu miền cực lạc, hoặc chuyển sinh vào một gia đ́nh tốt đẹp hơn. Nếu như đọa lạc không tu chắc chắn kiếp tới sẽ xuống dốc rất nhiều, khi ấy hẳn là ḷng tôi đau đớn lắm.
Dương Sinh: Hoàn cảnh này thực là cảm động, mong chủ nhân thể hiện được đời sống tinh thần trong lành để người con gái si t́nh kiếp trước khỏi thất vọng.
Tế Phật: Câu chuyện người con gái si t́nh Tiểu Viên khiến ta xúc động vô cùng, đă thành thực thuật rơ lại hết nhân quả kiếp trước, rất có công trong việc khuyên đời, kiếp tới ban phước cho ngươi được đầu thai lên làm người tại một gia đ́nh phú quư vinh hoa. Bữa nay thời giờ đă muộn, chúng ta chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh.
Tế Phật: Đă về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 842 of 1146: Đă gửi: 25 November 2010 lúc 6:23am | Đă lưu IP
|
|
|
LUÂN HỒI DU KƯ
HỒI MƯỜI SÁU
TÁNH TRỜI KHÔNG TỐI HÓA THÂN THÀNH HẠC TRẮNG
THEO CHIM TU THÂN LUYỆN ĐẠO CÓ CÁCH HAY
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 14 tháng 11 năm Tân Dậu 1981
Thơ
Nam cực tinh huy bạch hạc phi
Thiên la địa vơng bất năng vi
Tiên cầm tuệ tính thông thần ư
Viễn khứ nhân gian thị dữ phi.
Điểu tri trạch thụ tác lâu thân
Nhân yêu tu chân cận thánh thần
Tự ái vũ mao cần lập đức
Tiêu dao khoái lạc miễn trầm luân.
Dịch
Nam cực sao ngời hạc trắng bay
Lưới trời bẫy đất hết giăng bày
Chim tiên mở huệ thông thần ư
Ĺa bỏ trần gian dở với hay.
Chim biết lựa cây dựng tháp thiền
Người nên học đạo gặp thần tiên
Rỉa lông rỉa cánh trui rèn đức
Sung sướng thảnh thơi khỏi đọa trầm.
Tế Phật: Tính cầm thú gần gũi với tính người nên cầm thú cũng có khi trung nghĩa; ngược lại người đời phần đông chôn vùi nhân tính, do đó sánh với cầm thú kém xa. Bộ lông cũng là sự vinh hạnh của con người, có nhiều kẻ trong lúc sống hạnh phúc không biết giữ ǵn, đang tâm giỡn lửa tự thiêu cháy đen mặt mày, không c̣n mặt mũi nh́n ai nữa.
B́nh thường đầu mỗi người đều xức dầu, mặt thoa phấn, quư mến dung nhan, song sự trang điểm bề ngoài chẳng giúp ích được ǵ. Trong đám ăn mặc đẹp đẽ có nhiều kẻ là cầm thú hóa thân, nhất cử nhất động đều phản bội luân thường.
Nói như vậy có nghĩa là mặt mày vóc dáng trang điểm quá lộng lẫy chỉ là lớp vỏ ngụy trang. Nếu để ta lột mặt nạ đó ra hẳn là thấy ngay bộ mặt thực quỷ ma mới thấy hết hồn, khác hẳn chó mèo hèn mọn, chúng thật là đáng yêu biết mấy, có thể gần gũi hoài hoài. Dương Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Thưa bữa nay thầy tṛ ḿnh tới thăm chốn nào?
Tế Phật: Đến Nam Cực.
Dương Sinh: Thưa Nam Cực chắc lạnh giá lắm?
Tế Phật: Nam Cực tuy lạnh nhưng ta có thể đem sức ấm của đạo tâm ra dung ḥa, nếu ḷng người lạnh th́ ta đem ḷng nhiệt thành, chí hăng say ra cảm hóa cái lạnh. Bữa nay thầy tṛ ḿnh tới Nam Cực để phỏng vấn tiên ông Nam Cực cùng đồng tử Bạch Hạc.
Dương Sinh: Nếu như gặp được đồng tử Bạch Hạc th́ quả là ba kiếp may mắn, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đă tới điện Trường Sinh ở Nam Cực mau xuống đài sen.
Dương Sinh: Cảnh tượng ở đây vô cùng mĩ lệ, rừng cây xanh biếc, trăm hoa đua nở, dưới cầu nước chảy, bên hồ hạc trắng tung bay, ḷng trắng như tuyết, mắt ngắm nh́n ḷng hân hoan vô hạn. Phía trước có một ṭa cung điện nguy nga trên đề ḍng chữ “Điện Trường Sinh Nam Cực”.
Tế Phật: Đó là cung điện của tiên ông Nam Cực. Tiên ông cũng là v́ sao trường sinh, nên c̣n được gọi là Trường Sinh đại đế. Ngài lănh đạo chư tiên, tuổi đạo cao nhất, là một vị Hỗn Nguyên Kim Tiên. Dương Sinh hăy theo thầy vào cung điện, lạy chào ra mắt đức ngài.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh (nói dứt liền theo chân ân sư tiến vào trong điện thấy trăng sao vằng vặc tỏa chiếu sáng ngời, quả là phong cảnh kỳ lạ vô cùng, hoàn toàn là cảm giác khoan khoái. Một vị tóc hạc dung nhan đồng tử, râu bạc trắng và dài tha thướt ngồi giữa điện, tay cầm cây gậy, dáng vẻ rất hiền từ, có một tiên đồng bận đồ trắng đứng hầu bên cạnh, vẻ mặt tươi cười nom thật đáng yêu).
Tế Phật: Thưa bữa nay phụng mệnh hướng dẫn đệ tử Dương Sinh tới bái yết tiên ông Nam Cực cùng đồng tử Bạch Hạc, xin tiên ông và đồng tử chỉ dạy nhiều cho.
Tiên Ông: Lành thay, Tế Phật thân gánh mệnh trời, phổ độ Tam Tào, hướng dẫn Dương Sinh dạo khắp ba cơi, trước viết hai cuốn sách du kư Địa Ngục Thiên Đàng mở cửa trời, đóng cửa đất, nay phổ độ súc sinh cơi trần, lại lănh ư chỉ của Dao Tŕ hướng dẫn Dương Sinh phỏng vấn loài vật để chúng thuật rơ nhân quả, cứu độ sinh linh súc vật, cảnh giác nhân tâm thế đạo, công nghiệp lớn lao vô tiền khoáng hậu.
Bữa nay hai vị tới thăm cơi tiên, lăo tiên chuẩn bị bữa tiệc đạm bạc để được cùng nhau ngồi thổ lộ đôi điều tâm sự. (Liền sai đồng tử chuẩn bị trà tiên ngon nhất kính mời Tế Phật cùng Dương Sinh).
Tiên Đồng: Xin tuân lệnh... Đă sửa soạn xong trà tiên và trái tiên ngon.
Tiên Ông: Kính mời Tế Phật và Dương Sinh ngồi, từ sáu năm nay hai vị lặn lội khắp ba cơi, biết bao khổ cực, giờ xin dâng chén trà đạm bạc gọi là để tỏ tấc ḷng cảm phục.
Tế Phật: Cảm tạ tiên ông đă đăi đằng long trọng, thầy tṛ tôi xin phép được ngồi.
Dương Sinh: Ghế bàn tỏa chiếu sáng ngời, ngồi lên trên có cảm giác lạnh toát.
Tiên Ông: Chúng tôi xin phép cùng ngồi.
Tế Phật: Bữa nay tới đây, kính mong tiên ông ban lời vàng ngọc để được chép vào sách Luân Hồi Du Kí.
Tiên Ông: Xin hai vị chớ làm khách, mời dùng trà và trái cây.
Dương Sinh: Cảm tạ sự tiếp đăi nồng hậu của tiên ông, trái tiên hương thơm ngạt ngào, trà tiên ấm ngọt thông cổ hạ đàm, thứ nào mùi vị cũng tuyệt hảo.
Tiên Ông: Người đời gọi Lăo Tiên là “Sao Trường Thọ”, trà và trái cây này đều là loại trường sinh. Dương Sinh theo Tế Phật lặn lội khắp ba cơi để trước tác sách quư cứu đời độ thế, giáo hóa quần sinh, công đức vô lượng, song tâm thần cùng thể lực giảm sút quá nhiều, cho nên bữa nay xin dâng vật quư của Nam Cực để bồi bổ, hỗ trợ linh khí.
Dương Sinh: Cảm tạ muôn phần.
Tế Phật: Bữa nay tới đây cốt để nghe tiên đồng Bạch Hạc tự giới thiệu về lai lịch của ḿnh. V́ Bạch Hạc là loài chim tiên, nếu luận theo loài vật th́ thuộc về súc sinh, cớ sao lại được sống tiêu dao tại cơi Nam Cực, luôn ở cạnh tiên ông.
Tiên Đồng: Muốn t́m hiểu lai lịch của tôi hăy quan sát kĩ bộ lông trên ḿnh tôi. Lông bạch hạc tinh khiết, không chút bợn nhơ. Phẩm tính của người nếu suốt đời trong sạch như tờ giấy trắng không tỳ vết ắt có giá trị như thân bạch hạc.
Bạch hạc lông trắng chân cao, lội trong bùn ô uế nhờ chân dài tất nhiên thân không bị nhiễm trược. C̣n người ta đứng ở một vị trí của bất cứ hoàn cảnh nào, chân dĩ nhiên đặt lên nó, song thân tâm vẫn biệt lập, cho nên phải quư mến bộ lông, càng ở chỗ tối tăm càng lộ rơ tâm thân trong sạch thanh cao.
Tôi vốn là một đồng tử đạo sĩ trên núi Côn Lôn, theo thầy học đạo hơn mười năm, v́ c̣n tánh trẻ thơ nên thích nô đùa, một bữa không cẩn thận lăn xuống sườn núi, gặp lúc tiên ông Nam Cực vân du qua đó, dùng phép tiên đỡ tôi đem về Nam Cực cho làm đệ tử, công phu dạy dỗ ngày đêm luyện tập, do đó tôi thường tâm niệm Nam Cực Tiên Ông là ân sư cứu mạng tôi.
Ân sư từng trải nhiều và biết lắm phép tiên trường thọ, nên vào những dịp cầu thọ người đời đều khấn như sau: “Xin đức Thọ Tinh ban phước” bởi vậy ân sư c̣n có danh hiệu là “Trường Sinh Đại Đế”. Ân sư biểu thị cho đạo cao thần chẳng già, tóc hạc dung mạo hài đồng, cho nên ngài cũng biến đổi h́nh hài tôi thành bạch hạc, nên thân tôi hài đồng và tóc tôi trắng như lông hạc, do đó mới đạt nổi quả vị tiên “Ấu thanh lăo bạch diện mạo”.
Dương Sinh: Tại sao tiên ông Nam Cực biến vị thành hạc trắng?
Tiên Đồng: Câu chuyện ân sư biến tôi thành hạc trắng vô cùng li ḱ. Theo lời ân sư dạy th́: “Ngày trước con té núi, thầy cứu con thoát chết, ngày nay thầy truyền dạy cho con nhiều phép tiên xong thầy muốn thả con về với núi xanh mây biếc, con phải tự ḿnh vận dụng công lực đạo để thoát hiểm sống c̣n, nếu như con không vượt nổi khó khăn sẽ bị đọa lạc xuống trần đầu thai làm người, chịu luân hồi khổ hải, không mong có ngày cất nổi đầu”.
Nghe xong lời dặn ḍ của ân sư, ḷng tôi kinh hoàng khôn xiết, tự nhủ nếu như không thể tự ḿnh vượt thoát nổi khó khăn sợ một đi không trở lại. Ba ngày trôi qua, ân sư liền gọi tôi tới bảo đă tới lúc khởi sự rồi, cho con tấm áo đạo màu trắng này, mau mau mặc vào người, nếu như một niệm trần dấy động, áo trắng ô nhiễm, áo trời rách nát ắt chẳng tránh khỏi bị tiêu diệt.
Tôi thay áo đạo xong thấy tâm thân trở thành rỗng rang trong trắng coi sống chết không có, tôi tự nhủ: Ân sư đă cứu mạng, lại c̣n bỏ biết bao công sức trong bấy nhiêu năm dạy phép đạo cho ta, hàng ngày tu luyện thân tâm, giờ này phải can đảm v́ nghĩa ra đi, chẳng ngại có về được hay không, v́ chẳng muốn ân sư thất vọng.
Ân sư cưỡi gió đè mây bay tới núi Côn Lôn liền đẩy tôi xuống, thoạt mới đầu thân thể tôi quay tít, song tâm tôi không hề bấn loạn, chỉ một mực niệm thầm: Bay giữa không trung hóa thành hạc trắng mới có thể thoát khỏi bị đọa phàm trần.
V́ dốc tâm cầu như vậy, chỉ một sát na, thân thể tức thời nhẹ nhơm, bay lượn trên mây, áo trắng hóa thành lông trắng, xác thân biến thành hạc trắng bay giữa không trung, chẳng bị rớt xuống. Mới đầu tôi có cảm giác sợ hăi liền nghe tiếng ân sư vang vọng giữa trời: “Đồng tử Bạch Hạc bay về, ngươi đă nắm nổi cơ trời, chí đuổi kịp mây, do đó được miễn đọa phàm trần, ngày sau ở gần ta ngươi tự do ra vào giữa chốn trời mây”. Kể từ đó tôi hóa thành đồng tử Bạch Hạc.
Tiên Ông: Tôi tuy già lăo cổ xưa, song vẫn c̣n một đệ tử tiên đồng, thân già mà tâm non trẻ, coi vẻ thiên chân bất lăo. Lăo Tiên cũng là “Trường Sinh Đại Đế”. Người đời bất ḱ ai cầu sống lâu liền có được tâm non trẻ của Lăo Tiên ngay.
Tiên Đồng: Tôi tuy hóa làm Hạc Trắng, song nhờ sau một thời gian dài luyện tập, mà nay diện mạo trở thành hồn nhiên như tiên đồng, cho nên: “Do tâm học đạo, tướng đổi theo tâm” (Đạo do tâm học, tướng tùy tâm chuyển). Đạo lớn đạt thành h́nh hài biến hóa, đă nhẹ nhàng lại c̣n dễ dàng hoạt động, đó là nhân duyên may mắn mà tôi đă gặp được.
Tiên Ông: Tiên đồng đă tự thuật xong, sự biến hóa ḱ dị này giúp những người tu đạo trên đời vượt thắng mọi trở ngại do ma quỷ chặn đường cản lối, chỉ một dạ chân thành, phút ĺa đời tŕ trí kiên tâm nguyện rằng: “Chốn ta tới chắc chắn là cơi trời, ta sẽ được bay lượn nơi miền cực lạc”. Điểm tín niệm này phát ra đạo lực sinh sản vô biên con người cũng có thể mọc cánh hóa thành hạc trắng bay tới cơi trời tiêu dao.
Điều đó đủ chứng minh rằng một con hạc trắng nếu như biết chăm lo săn sóc bộ lông trắng tinh khiết không để cho ô uế, giữ đúng bổn phận, th́ cọp mạnh cũng có thể trở thành thần. Nơi bàn thờ ở các miếu trần gian há chẳng thờ thần hổ đó sao? Hổ dữ mọi người đều sợ, cho nên mới lập miếu thờ hẳn đă chứng minh là muôn loài vạn vật đều có bản tính quang minh, chỉ cần một mực chân thành bỏ ác theo thiện đều có thể đắc đạo.
Thế nhân ơi! Các ngươi đều không phải là những kẻ đại gian đại ác, nên muốn đắc đạo, thành đạo chẳng khó khăn đâu. C̣n nếu như trở thành hổ được thờ dưới đất theo ta cũng đă hơn người, c̣n nếu siêu thoát thành tiên, không được về trời th́ cũng được đặt lên bàn thờ, như vậy thực là cao thượng cùng quang minh chính đại.
Dương Sinh: Tiên ông thuộc vị sao trường thọ nên người đời có thể cầu sống lâu. Song phần lớn không biết phương pháp dưỡng tính, nên thường giết loài vật để ăn thịt một cách cực kỳ vô nhân đạo. Để tránh cho súc vật khỏi bị cái họa sát sinh, có thể cầu tiên ông ban cho diệu pháp sống lâu không?
Tiên Ông: Đạo tiên là đạo trường sinh, người đời nay đă ưa nhàn hạ ghét khó nhọc, song lại toàn ăn thịt cá có nhiều chất mỡ béo, do đó cơ thể yếu đuối dễ sinh bệnh. Sát sinh để bổ dưỡng thân song vô ích cho thân, sao bằng học cách vận động của các loài cầm thú, tự ḿnh rèn luyện thân thể ḿnh đó mới là đạo trị bệnh tận gốc.
Nay trước tác sách Luân Hồi Du Kí đặc biệt đem năm phương pháp tập luyện của loài thú chép vào để trao truyền, mong mọi người dành thời giờ thực hành. Bây giờ đồng tử Bạch Hạc bắt đầu biểu diễn phương pháp:
NGŨ CẦM HÍ (Bắt chước động tác năm loài thú)
Ngũ Cầm Hí là cách bắt chước động tác của năm loài thú là Cọp, Hươu, Gấu, Vượn, Chim do y sư Hoa Đà đời Hậu Hán sáng chế để bảo vệ sức khỏe cùng trị bệnh hầu giúp con người sống được lâu.
Đó là phép vun bồi sức khỏe thần tiên, chỉ dẫn rành mạch về cách cử động của năm loài thú là Cọp, Hươu, Gấu, Vượn, Chim, nghĩa là mọi động tác đều phối hợp uyển chuyển giữa lục phủ, ngũ tạng với toàn thể cơ năng trong thân xác con người một cách thật nhịp nhàng, để khí huyết lưu thông nơi các đường kinh mạch được dễ dàng có hiệu quả, nên có thể khỏi bệnh và sống lâu.
I. HỔ KHÍ (Bắt chước cách của cọp) Bắt chước cách của cọp để cho khí phổi sung măn, tinh lực hưng vượng.
Giảng giải: Tính cọp hùng mạnh, thân ḿnh cường tráng, giỏi dùng chân nhảy vồ, tát vả nên phải luyện tập theo cách oai phong lẫm liệt của cọp. Hai mắt tṛn sáng có thần uy, khi nh́n trừng con ngươi, gườm gườm áp đảo đối phương.
Hai tay khi cử động phải bắt chước h́nh dáng móng vuốt của cọp, co duỗi mạnh mẽ, sự vận chuyển thân thể phải cứng cỏi vững vàng, tất cả mọi động tác đều phải phát lực từ hai bên hông.
Phương pháp:
1. Trước hết phải ḅ dưới đất, ḅ tới ba lần, ḅ lui hai lần một cách lanh lẹ, lúc ḅ các đầu khớp xương và gân chuyển động mạnh.
2. Sau đó ḅ ngửa, cũng ḅ tới ba lần, ḅ lui hai lần.
3. Những động tác trên phải làm liên tục bảy lần.
II. LỘC HÍ (Bắt chước cách của hươu) Bắt chước cách của hươu để cho công năng của lá lách, bao tử, gan, thận mạnh mẽ thêm.
Giảng giải: Cơ thể của hươu thuần dương nên cử động nhẹ nhàng mau lẹ, giỏi chạy nhảy và dùng sừng húc chọi, lúc luyện tập phải bắt chước các động tác của hươu để cho các đầu khớp xương và gân hoạt động; hông, đùi, bắp chân và gân vận chuyển nhiều, hai tay làm chân, tứ chi phải phối hợp điều ḥa.
Phương pháp:
1. Trước hết phải sẵn sàng theo tư thế ḅ trên mặt đất, nghểnh đầu về phía sau, quay qua trái ba lần, quay qua phải hai lần.
2. Sau đó chân trái co duỗi ba lần, chân phải hai lần.
III. HÙNG HÍ (Bắt chước cách của gấu) Bắt chước cách của gấu để cho gan hạ hỏa, cơ thể tăng thêm sức, tinh thần thanh tịnh, giấc ngủ yên ổn.
Giảng giải: Tính gấu dũng cảm, thân thể mạnh mẽ, giỏi dùng hai chân trước đun đẩy mọi vật cùng leo trèo. Trong lúc luyện tập phải học tính dũng cảm, cách đi đứng ngang tàng để cầu t́m được tĩnh trong động.
Phương pháp:
1. Nằm ngửa, cong người lên, hai chân ôm đầu gối, nghểnh cao cổ, vận dụng hết sức lực chuyển động qua trái, qua phải.
2. Sau đó lật sấp ḿnh, chống một tay xuống đất để đỡ thân thể, làm xong tay trái đổi qua tay phải.
IV. VIÊN HÍ (Bắt chước cách của vượn) Bắt chước cách của vượn để cho thần kinh bộ năo được linh hoạt, khí lực khai triển, các mạch máu lưu thông.
Giảng giải: Động tác vượn linh hoạt tinh anh, lúc luyện tập phải bắt chước tinh thần lanh lợi của vượn, hai tay như móng vuốt ló ra. Điều quan trọng là sự hô hấp cùng động tác nắn bóp.
Phương pháp:
1. Làm động tác đu người lên.
2. Trước tiên hai tay nắm chắc cây gỗ tṛn lớn vừa tay nắm bắc ngang cao khỏi đầu, thân ḿnh đu lên thả xuống bảy lần.
3. Sau đó dùng chân thay thế cho tay treo ngược người , làm xong chân phải đổi qua chân trái, lần lượt bảy lần.
4. Hai tay chống xuống đất, hai chân chống ngược lên trời, làm động tác đứng dộng ngược như thế bảy lần.
V. ĐIỂU HÍ (Bắt chước cánh của chim) Bắt chước cánh của chim để cho tim mạch khỏi bế tắc, khí huyết lưu thông.
Giảng giải: Trong các giống chim, loài hạc tượng trưng cho sự trường thọ, cho nên phải bắt chước động tác của chim hạc trắng. Thân hạc nhẹ nhàng giỏi bay lượn, lực quân b́nh rất cao, do đó trong lúc luyện tập phải học cách bay lượn của hạc, cùng phối hợp các loại động tác co duỗi để điều ḥa quân b́nh năng lực, phát triển công năng hô hấp. Đồng thời đầu cổ thân ḿnh, tay chân phải tùy động tác mà hô ứng cho nhịp nhàng.
Lúc chim hạc đậu chỉ dùng một chân mà vẫn vững vàng yên ổn. Lưng đổ dốc xuống phía sau, một chân co lên, gót chân và phía sau gáy đối nhau. Lúc bắt chước cách chim bay, các khớp xương gân của phần thân trên phải mềm mại mà vẫn có sức mạnh, mau chậm đều đúng lúc. Hai tay dang thẳng, co một chân lên, duỗi thẳng ra sau rồi lần lượt làm như vậy hết chân trái tới chân phải bảy lần.
Phương pháp:
1. Hai tay dang thẳng, một chân co lên duỗi thẳng ra sau giống như đuôi dài của gà trống.
2. Hai tay đưa thẳng về phía trước, mắt nh́n định thần như mắt chim ưng.
3. Tập trung tinh thần, chân trái chân phải cũng làm động tác như trên bảy lần.
4. Sau đó ngồi xuống, hai chân duỗi thẳng về phía trước, khom lưng dùng hai tay bưng chặt gót chân, làm như vậy bảy lần.
5. Sau đó co duỗi tay để cho khuỷu tay chuyển động, làm như vậy bảy lần.
Phương pháp luyện cơ thể của năm loài thú trên đây, trong thời gian ôn tập, thân xác có thể bị đau nhức, bầm sưng, mồ hôi đổ, ngứa ngáy, đó là phản ứng với sự b́nh thường lúc chưa tập luyện, chớ có sợ hăi. Cũng không cần luyện đủ các môn mà lựa một trong năm phương pháp thực hành trước rồi tuần tự tiếp theo cho tới hết cũng được.
Điều quan trọng là công phu thật đều đặn và kiên tŕ, hàng ngày chăm luyện tập tới lúc tuổi già mắt vẫn sáng, tai vẫn thính, răng không rụng, thân thể cường tráng. Chưa thể là khách cơi trời, hăy là tiên cơi trần, phải gắng sức làm những việc tốt lành, vun bồi công đức, nếu thân không mạnh th́ tính cũng có thể dưỡng để c̣n hoàn thành đạo vô thượng.
Dương Sinh: Sau khi nghe xong tiên ông giảng về năm phương pháp tập luyện cơ thể của loài thú cùng được coi đồng tử Bạch Hạc biểu diễn cho coi cách thức thực hành thực quả tầm mắt đă được mở rộng, tài liệu quư báu này hẳn làm tăng giá trị của sách Luân Hồi Du Kí lên đến cả trăm ngàn lần.
Tế Phật: Các loài thú đều có phương pháp tu luyện riêng của chúng, người ta nếu như gia công học tập các động tác của chúng tự nhiên sẽ đạt kết quả tốt đẹp không thể ngờ nổi. Gân cốt mệt mỏi, thân thể ốm o, hít chân khí vào, thở uế khí ra, là người tu đạo, phải gắng rèn luyện. Bữa nay tạm ngưng cuộc phỏng vấn ở đây, Dương Sinh chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.
Dương Sinh: Cảm tạ Tiên Ông Nam Cực và tiên đồng Bạch Hạc đă tận t́nh chỉ bảo cùng biểu diễn cho coi các phương pháp, v́ thời giờ đă trễ, xin cáo từ quư tiên.
Tế Phật: Đă về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 843 of 1146: Đă gửi: 25 November 2010 lúc 6:23am | Đă lưu IP
|
|
|
LUÂN HỒI DU KƯ
HỒI MƯỜI BẢY
SÁT SINH ĐĂI TIỆC CHUỐC THÊM L̉NG OÁN HẬN
PHÚC THẦN HAM NHẬU BỊ RƯỢU ĐỘC HẠI THÂN
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 24 tháng 11 năm Tân Dậu 1981
Thơ
Bái Phật kính thần vật sát sinh
Phi cầm đao hạ lệ doanh doanh
Bi ai tẩu thú hô oan uổng
Hại đắc thần tiên biện bất thanh.
Miếu tự thần tiên đa oán hồn
Chỉ nhân mê chúng khẩu trung thôn
Thôi ngôn bái bái đáp thiên ư
Phản đạo vô biên tội nghiệp căn.
Dịch
Lạy Phật thờ thần chớ sát sinh
Thấy dao gà vịt lệ tung hoành
Buồn đau chó lợn kêu oan uổng
Hại cả thánh tiên chuyện chẳng lành.
Chùa miếu thần tiên lắm quỷ hồn
Si mê chỉ bởi miệng tham ăn
Vâng vâng dạ dạ chiều ḷng Phật
Phản bội chịu bao ác nghiệp căn.
Tế Phật: Nhờ đời sống dân chúng khá giả, chùa miếu mọc lên khắp nơi. Vào những dịp lễ đều tổ chức lớn lao, nào như giết heo, cá thịt đầy bàn, ruồi nhặng ào ào bay tới, đă không hợp vệ sinh lại c̣n lăng phí tiền bạc, tập quán này không phù hợp với thời đại mới nữa, cần phải sửa đổi, chỉ nên dâng cúng Thánh Thần, Tiên Phật hương hoa, đèn nến trái cây cũng đủ rồi.
Bữa nay thầy hướng dẫn Dương Sinh đi phỏng vấn linh hồn các con vật bị giết làm lễ tế thần để thấy bằng chứng cụ thể. Dương Sinh chuẩn bị lên đài sen.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh, thưa con đă lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.
Tế Phật: Hướng dẫn Dương Sinh t́m kiếm đối tượng để phỏng vấn th́ tới trấn Viên Lâm, huyện Chương Hóa. Dương Sinh, thầy tṛ ḿnh xuống đài sen, con có thể tĩnh tâm quan sát xem thấy được những ǵ?
Dương Sinh: Trước cửa nhà này có treo tấm chướng h́nh tám vị tiên cùng đôi câu đối, h́nh như gia đ́nh có chuyện vui lắm.
Tế Phật: Nhà họ Hoàng cưới vợ.
Dương Sinh: Thưa, ngoài ra con không c̣n thấy điểm nào khác nữa.
Tế Phật: Ha ha, hồn của heo, gà và vịt đă khóc suốt ba ngày ba đêm khan cả tiếng, để thầy hướng dẫn ra sau nhà, con sẽ phát hiện được nhiều điều mới lạ.
Dương Sinh: Thưa vâng. (Theo ân sư ra sau nhà, quả nhiên thấy khoảng chục con vừa gà vừa vịt cùng hai con heo đang than khóc, tiếng nghe khàn khàn yếu ớt, thật là đáng thương).
Tế Phật: Ngày hôm qua nhà họ Hoàng đă mở tiệc khoản đăi khách, đă giết nhiều gia súc. Đám gia súc bị hi sinh tính mạng để mua vui cho bữa tiệc vô cùng đau đớn bất b́nh.
Dương Sinh: Nh́n bầy gia súc thật đáng thương, kính xin ân sư siêu độ nguyên linh cho chúng.
Tế Phật: Nhân dịp trước tác sách Luân Hồi Du Kí ta siêu độ cho các ngươi, hướng dẫn linh hồn các ngươi tới phủ hồi hồn ở địa ngục tŕnh báo.
Dương Sinh: Thưa, sau khi chết tại sao chúng lại không thể rời bỏ chỗ này?
Tế Phật: Một số ít oán khí đă sớm bay khỏi đây, c̣n số lớn khác v́ không thấy đường nên c̣n bồi hồi quanh quẩn ở lại chưa đi nổi. Để thầy điểm hóa giúp nó bay đi: “Này heo, này gà, này vịt, thôi đừng đau khổ nữa, giúp người ta ngon miệng và no bụng là hy sinh cái ḿnh bé nhỏ để hoàn thành cái ḿnh to lớn, đó cũng là nghiệp báo kiếp trước.
Người đời v́ không có huệ nhăn, nên chẳng thể phân biệt được trong số các ngươi đây cũng có kẻ là thân quyến của họ, để tới nỗi thay đầu đổi mặt ăn thịt người quen, chớ oán trách nữa, hăy nghe lời ta cùng xuống địa ngục báo cáo, để kiếp tới được chuyển kiếp đầu thai lên làm người”.
Dương Sinh: Đám gia súc nhờ được ân sư điểm hóa, h́nh như đă giác ngộ nên đều cúi đầu lănh ư.
Tế Phật: Các ngươi hăy ở lại đây, chờ tới lúc ta kết thúc việc viết sách, sẽ dẫn các ngươi xuống địa ngục tŕnh diện. V́ việc lễ tân hôn ta chưa phỏng vấn xong, vấn đề này là tập tục của trần gian, phải cử hành lễ này là bởi trai gái mong sau khi thành vợ chồng sẽ sống với nhau tới thuở bạc đầu, có con để nối gịng.
Vào các dịp lễ này ta khuyên người đời phải giới sát phóng sinh, để vạn vật cùng vui, khách tới dự nên hân hoan dùng tiệc chay. Ngày xưa hai vị đạo sĩ ở Hàn Sơn thấy con gái một nhà nọ lúc đi lấy chồng, đánh trống gơ phèng la, sát sinh mở tiệc đăi khách, hai ngài bèn dùng huệ nhăn nh́n, th́ thấy từ vật dụng đến gia súc làm thịt đều là gia nhân quyến thuộc từ ba đời, bèn làm một bài kệ như sau:
Đường thượng đả cổ đả ông b́
Oa nội liệt chữ thị cô di
Tam thế tổ ma thú vi phu
Ngă kim bất tiếu đẳng hà thời.
Da ông làm trống đánh trong nhà
Nồi chảo nấu chiên nấu cả cô
Bà nội ba đời thành vợ mới
Giờ đây há đợi hăy cười chê.
Bài kệ trên đây ư nghĩa thâm sâu cực kỳ siêu diệu mong người đời đọc nó để sớm giác ngộ. Dương Sinh mau lên đài sen, chúng ta mau tới trạm thứ hai.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Thưa con đă sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đây là làng Lôn Bối huyện Vân Lâm, phía trước có một ngôi miếu nhỏ thờ Thổ Địa. Thầy tṛ ḿnh hăy xuống đài sen tới phỏng vấn.
Dương Sinh: Thưa hay lắm, được đàm thoại cùng thổ địa thực là hứng thú.
Tế Phật: Thổ Địa ơi! Bữa nay không báo trước bất chợt tới thăm mong thứ lỗi cho. Từ lâu đă nghe danh Thổ Địa linh thiêng hiển hách, được dân làng hương khói phụng thờ nghi ngút, mồng một mười rằm rất đông thiện nam tín nữ tới chiêm bái, gà vịt thịt cá ăn không hết. Bữa nay ta hướng dẫn Dương Sinh tới thăm, mong được uống cùng Thổ Địa một vài chén, không rơ ư của người ra sao?
Thổ Địa: Đức Tế Phật dẫn Dương Sinh tới đây thăm mà tôi không biết trước để sửa soạn việc nghênh tiếp, thực là thất lễ quá. C̣n những điều đức Tế Phật vừa dạy chân t́nh hay giễu cợt?
Tế Phật: Cách xa cả ngàn dặm đă ngửi thấy mùi rượu thịt thơm ngon báo hại nước miếng ta chảy dài ba thước, thèm quá không chịu nổi nên ta tính chuyện bỏ chay phá giới. Vả lại chỉ có ba chúng ta ở đây, nếu bưng chén cầm đũa lùa đầy miệng, nhai ngồm ngoàm nói chẳng ra hơi cũng không ai biết.
Thổ Địa: Đức Tế Phật khéo khôi hài quá, xin mời vô trong ngồi có rượu đế rượu cao lương, uống vài chén cũng không sao.
Dương Sinh: Trong này mùi tanh xông lên nồng nặc cảm thấy nặng nề, thật quá lạ lùng không rơ nguyên nhân tại sao? Dưới gầm bàn chất đầy rượu cùng cá thịt đă nướng qua bằng hương đốt, lần đầu tiên trong đời nh́n thấy, quả thực không hiểu nổi?
Thổ Địa: V́ thần của tôi linh thiêng hiển hách, hễ cầu là ứng ngay, do đó thiện nam tín nữ các nơi đem rượu thịt tới tạ lễ tôi rất nhiều, ăn không hết nổi, lại cũng không có tủ để chứa, cho nên mới chồng đống dưới gầm bàn, sợ nó thiu thối, lấy hương hơ đốt để pḥng hư thối.
Dương Sinh: Kỳ lạ quá, kỳ lạ quá. Tại sao không kêu thiện nam tín nữ mua tủ lạnh đem tới cúng dường để chứa thịt?
Thổ Địa: Sợ không tiện. Tiểu thần chỉ thích dùng cách này cốt sao lúc nào cũng được no bụng là thích rồi.
Tế Phật: Xin tạm ngắt lời, Thổ Địa có hiểu tại sao tôi tới đây không?
Thổ Địa: Đức Tế Phật khỏi cần nhắc, tôi xin mạn phép tiếp khách. Dương Sinh thích ăn đồ tươi, thịt này lại sấy bằng hương đốt, liệu có hợp khẩu vị không?
Tế Phật: Tục ngữ nói: “Không cá tôm càng tốt thành tâm uống nước lă cũng thấy ngọt” quả chẳng sai.
Thổ Địa: Nếu không chê, mời hai vị ngồi, để tôi sửa soạn rượu thịt.
Dương Sinh: Thưa, tại sao bữa nay ân sư lại chỉ thích khôi hài?
Tế Phật: Hừ, nói nhỏ thôi, làm như vậy là thầy muốn mượn sự chế giễu này để ám chỉ ư nghĩa sâu xa khác. Bữa nay v́ muốn độ vị Thổ Địa này, ḿnh phải trước dùng thái độ thân thiện đối xử, để tỏ ra chí đồng đạo hợp, rồi sau mới hạ thủ, như con vật đă chui vào hũ chỉ việc tḥ tay bắt, há chẳng dễ dàng sao?
Dương Sinh: Kế của ân sư thật là tuyệt diệu, tuyệt diệu.
Thổ Địa: Bữa nay tiết trời thật lạnh lẽo, chẳng rơ thịt lạnh, rau lạnh hai vị có ăn nổi không? Chẳng ngại, cũng may c̣n ba b́nh rượu cao lương, thứ rượu mạnh này uống vào nóng ran khắp ḿnh, ấm lắm. Hai vị là thượng khách, kính mời đức Tế Phật một ly... Tại sao ngài lại không uống?
Tế Phật: Thứ rượu này vô vị, uống chẳng ra ǵ.
Thổ Địa: Tôi c̣n thứ rượu ngoại quốc, chắc ngon lắm.
Tế Phật: Bữa nay chúng tôi tới đây với tấm ḷng thành, chỉ một chén nước trà cũng đủ.
Thổ Địa: Ư kiến hay biết mấy, tôi cũng có trà ngon. V́ hàng ngày có người pha trà mang tới đây, b́nh nước trà c̣n nguyên, để tôi mang ra mời hai vị.
Tế Phật: Cảm tạ Thổ Địa.
Thổ Địa: Để ḿnh tôi uống rượu, mời hai vị dùng trà, tôi xin thất lễ.
Tế Phật: Chớ khách sáo, cứ tự nhiên (mọi người cùng nâng chén).
Thổ Địa: Trời ơi! Cổ họng tôi như bị lửa đốt đau đớn không chịu nổi. Thứ rượu mạnh này, tôi đă uống nhiều năm, nhẹ hều như nước lạnh, cớ sao bữa nay vị nó lại khác hẳn thế này? Trời ơi! Bụng dạ ruột gan quặn đau hoài không dứt, chịu sao thấu. Nguyên nhân v́ đâu chẳng biết, kính mong đức Tế Phật ra tay cứu độ, nhức nhối tới mức chỉ muốn chết...
Tế Phật: Này Thổ Địa ơi, hăy b́nh tâm tĩnh trí ta sẽ trị liệu cho... B́nh rượu này là tất cả vấn đề, hăy lợi dụng phương pháp khoa học để phân tích sẽ biết ngay... Đúng rồi, người ta đă dùng các chất hóa học chế thành rượu giả, Thổ Địa tham lam uống vào bị trúng độc rồi.
Thổ Địa: Thưa, từ lâu đă biết Phật pháp của đức Tế Phật vô cùng siêu diệu, xin ngài mau mau cứu giúp con.
Tế Phật: V́ không mang theo thuốc Phật, làm cách nào chữa trị được đây?
Dương Sinh: Thấy Thổ Địa bụng quặn đau, thân lăn lộn trên đất thật là khổ sở, kính xin ân sư mở rộng lượng từ bi ban phép chữa trị dùm.
Tế Phật: Tṛ ngoan nói như vậy th́ ta cũng ráng ban pháp cứu Thổ Địa coi. Dùng nước trà không ngờ lại tốt. Thôi để ta niệm chú coi: “Trời sinh ra nước, nước nhuần thấm đất, đất ngấm sương, muôn vật hồi sinh, úm ma ni bát di hồng”. Ban pháp xong liền vội vàng bành mồm Thổ Địa ra đổ nước phép vào rửa ruột mới hy vọng cứu sống.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Con đă bành rộng mồm Thổ Địa ra rồi, mời ân sư rửa ruột dùm.
Tế Phật: Ai biểu nhà ngươi tham chén, chẳng kiêng cữ rượu giả, may nhờ có ta ở đây, c̣n không sợ rằng Thổ Địa đă biến thành quỷ tham ăn tham uống rồi.
Dương Sinh: Trước đây toàn thân Thổ Địa xám ngắt, hơi thở yếu ớt lại bị đứt quăng, sau khi được ân sư đổ nước phép hơi thở đă dần dần điều ḥa, mặt mũi thấy tươi tỉnh trở lại rồi.
Thổ Địa: Trời ơi! Đau đớn quá, vừa rồi ngũ tạng tưởng nát nhừ, cổ họng bỏng rát giống như đang bị lửa thiêu đốt, khổ sở vô cùng, may nhờ đức Tế Phật đổ nước phép bây giờ thấy mát mẻ dễ chịu hẳn rồi.
Tế Phật: Dương Sinh hăy nâng Thổ Địa ngồi dậy.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Mời Thổ Địa ngồi dậy nào, tôi đỡ lên ghế nhé, thật hối hận quá, chỉ v́ tiếp đăi thầy tṛ tôi mà đến nỗi trúng độc như thế này.
Thổ Địa: Không phải lỗi tại hai vị, có lỗi chăng là tại các thiện nam tín nữ. Tôi sẽ kêu mấy người dâng cúng rượu giả tới hành hạ khốn khổ xong nhét rượu vào tay bắt mang về uống.
Dương Sinh: Không phải lỗi tại người đời, họ không biết rượu đó là rượu giả, chỉ biết có tấm ḷng thành kính dâng cúng Thổ Địa mà thôi, có lỗi chăng chỉ tại Thổ Địa tham ăn tục uống mà thôi.
Tế Phật: Các vị thiện nam tín nữ có phước lớn, lúc nhận các b́nh rượu giả đó để đem về nhà, nhờ trời có mắt khiến họ tuột tay đánh bể, thoát khỏi tai nạn.
Thổ Địa: Tránh được tai nạn, như vậy kể cũng hay, c̣n không đem về nhà uống trúng độc chết, dân làng lại nghĩ là Thổ Địa không bảo vệ nổi mạng sống của họ, từ đây về sau không cúng lễ nữa th́ sao?
Tế Phật: Tự hại ḿnh không quan hệ, tuyệt đối không được hại kẻ khác, Thổ Địa cảm thấy lúc này trong ḿnh ra sao?
Thổ Địa: Thưa rất dễ chịu, nhưng bụng đói lắm.
Tế Phật: V́ dùng nước phép tẩy ruột, các chất nhờn trong ruột được rửa sạch, do đó lúc này cảm thấy bụng trống rỗng, hăy lấy thịt cá ăn đi để giúp cho bộ tiêu hóa trở lại trạng thái hoạt động b́nh thường, bữa khác ta lại tới thăm.
Thổ Địa: Thưa đức Tế Phật đă dạy như vậy tôi cũng không dám cưỡng, vả lại lúc này bụng tôi lại đói cồn cào.
Dương Sinh: Thổ Địa này, là chủ nhân hăy lo cho ḿnh trước đi, bữa nay tôi cùng ân sư được Thổ Địa mời uống trà cũng đầy đủ và quư hóa lắm rồi.
Thổ Địa: Tại sao tôi lúc này lại cảm thấy bụng khó chịu vô cùng, quả là bất hạnh, bắt đầu quặn đau dữ dội chịu không thấu, trời ơi! Trời ơi!
Dương Sinh: Bệnh cũ của Thổ Địa lại tái phát không rơ nguyên nhân tại sao?
Thổ Địa: Xin cứu mạng, cứu mạng! Đức Tế Phật mau cứu tôi, không rơ bữa nay tại sao lại bị khảo đảo tới mức này, đau đớn chịu không nổi, xin Tế Phật ban pháp để cứu mạng tôi.
Dương Sinh: Thổ Địa lại nằm lăn ra đất, ôm bụng quằn quại rên la.
Tế Phật: V́ c̣n mắc bận nhiều chuyện quan trọng khác không thể giúp thêm được, khuyên Thổ Địa giữ thật kĩ khối đất đó.
Thổ Địa: Đức Tế Phật xuất gia, tại sao lượng từ bi lại hẹp quá vậy, thấy người sắp bị chết mà chẳng cứu?
Tế Phật: Không phải tại ta không cứu, v́ bệnh trúng độc của Thổ Thần quá nặng, không thể cứu nổi.
Thổ Địa: Tha thiết cầu khẩn Tế Phật cứu thêm lần nữa, tôi nguyện sẽ nghe lời chỉ giáo.
Tế Phật: Ta thấy khó mà cứu nổi ngươi.
Thổ Địa: Dương Thiện Sinh hăy xin với đức Tế Phật cứu mạng tôi.
Dương Sinh: Phật lấy từ bi làm gốc, xin ân sư cứu Thổ Địa thêm lần nữa.
Tế Phật: V́ có lời cầu khẩn của tṛ ngoan Dương Sinh, ta cứu ngươi thêm một lần nữa, song ngươi phải giữ lời hứa.
Thổ Địa: Phải hứa như thế nào tôi cũng xin hứa hết.
Tế Phật: Phải như vậy ta mới cứu ngươi. Từ nay về sau chỉ nên nhận lễ cúng trà và trái cây, tĩnh tâm hưởng hương thơm, cố gắng tu luyện. Thổ Địa chỉ là chức thần nhỏ nhoi, ngươi tham lam mưu đồ lễ vật thịnh soạn, uống máu nhân gian, tới khi hết phúc sẽ bị đọa làm kiếp súc sinh, luân hồi không dứt.
Kiếp ngươi là một vị lí trưởng, phục vụ dân chúng trong làng, có chút công đức nên sau khi chết được bổ nhậm làm chức Phúc Thần. Bởi lúc sống không cầu đạo học pháp, v́ phép tu tâm dưỡng tính hoàn toàn không hay biết nên c̣n chấp thân thịt kiếp trước, chẳng hay xác phàm giả tạm có rồi không, chỉ tính linh mới trường tồn, thịt cá rượu rau là ảo cảnh, ngươi lấy giả làm thực thành kẻ mê muội.
Nay nhờ Tam Tào phổ độ khắp hết thần người quỷ ma cùng súc sinh, nên ta tới đây độ ngươi tu thành chính quả, không được tham lam uống máu nhân gian thêm nữa, lễ vật đă hưởng nhiều, rượu thịt đă ăn lắm khiến bản tính ngươi tiêu tan, đọa lạc luân hồi. Nếu biết hối cải, ta sẽ dùng nước pháp của Phật cứu ngươi, Dương Sinh hăy cạy miệng Thổ Địa cho hả lớn ra.
Dương Sinh: Thưa, xin tuân lệnh... Miệng Thổ Địa đă hả lớn.
Tế Phật: Được. Để ta rót nước pháp của Phật vào. V́ ăn phải thịt cá ruồi nhặng bu nhiễm trùng nên bụng Thổ Địa bị đau, những lễ vật không hợp vệ sinh này từ nay chớ ăn nữa.
Dương Sinh: Thổ Địa uống nước pháp của ân sư đă hồi tỉnh lại rồi.
Thổ Địa: Đa tạ ơn cứu mạng của đức Tế Phật cùng sự giúp đỡ của Dương Sinh, từ nay tôi xin quy y Tế Phật, tŕ trai tu đạo, cầu mong Tế Phật độ về phương tây cực lạc.
Tế Phật: Dương Sinh hăy đỡ Thổ Địa ngồi dậy để ta điểm hóa.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Thưa con đă nâng Thổ Địa ngồi dậy rồi, sau khi bị cơn bệnh hiểm nghèo hành hạ, sức khỏe giờ đây yếu lắm.
Tế Phật: Chớ có lo, để ta điểm hóa cho Thổ Địa, Thổ Địa nghe thấy như sau: “Trên đầu có Linh Sơn, dưới chân có đất đai, thân người từ đất mọc ra, đất là cửa ngơ sống chết, chỉ đầu bản tính sáng, chỉ đất đất nở hoa, thân pháp là gốc h́nh tướng, thân thịt là bụi trở về đất, nhớ lại thuở chưa sinh, trước mắt là cơi hư không, cũng là chốn ở hỗn độn ban đầu. V́ người ta chỉ rơ, máu huyết vốn hư ảo, tượng gỗ cũng không thực, hăy giác ngộ đường vĩnh cửu, về sống cơi tây phương”.
Dương Sinh: Ân sư chỉ đường sáng cho Thổ Địa, Thổ Địa dường như đă giác ngộ.
Thổ Địa: Đa tạ đức Tế Phật đă khai mở trí huệ dùm cho, từ nay xin phát nguyện tu thân luyện tính, trợ đạo cứu nhân.
Tế Phật: Lành thay, lành thay! Nếu tu được đúng như vậy ba năm sẽ thành, có thể trở về tây phương tu luyện thêm nữa để chứng ngộ chính quả. Ta ban cho ngươi một bài kệ:
Chính môn dĩ khai tỏa
Tiểu miếu phi cơ sở
Đại đạo hảo cầm tu
Kim tiên phú đức tố.
Cửa chính đă mở khóa
Miếu con chớ nên ở
Đạo lớn gắng lo tu
Thần Tiên ban phước đức.
Bữa nay tạm ngưng cuộc phỏng vấn tại đây, Dương Sinh mau trở lại Thánh Đức Đường.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Thưa con đă lên đài sen.
Tế Phật: Đă về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 844 of 1146: Đă gửi: 25 November 2010 lúc 6:24am | Đă lưu IP
|
|
|
LUÂN HỒI DU KƯ
HỒI MƯỜI TÁM
PHÁP SƯ CHỬI ĐẠO BỊ ĐỌA LÀM LOÀI THÚ
THÁNH MẪU NHÂN TỪ CHỈ NHẬN LỄ VẬT CHAY
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 5 tháng 12 năm Tân Dậu 1981
Thơ
Luân hồi kỹ độ phục nhân thân
Thủ ác lợi đao nộ mục sân
Súc đạo ai thanh tần khiếu khổ
San trung huyết nhục ám thương thần.
Động vật đồng nhân hữu cảm t́nh
Kê năng báo hiểu khuyển minh thanh
Dương tri quy nhũ nha phản bộ
Thế thượng vi nhân ứng tự kinh.
Dịch
Bao thuở luân hồi mới có thân
Tay cầm dao sắc mắt bừng sân
Thảm thương súc vật hoài rên siết
Máu thịt người ăn tủi mảnh hồn.
Loài vật vốn luôn sống cạnh ta
Gà thường báo thức chó coi nhà
Dê quỳ bú mẹ chim nuôi nấng
Cảnh ấy con người há ngó lơ.
Tế Phật: Gà vàng báo thức, trời đất thái ḥa Thánh Đức Đường ứng vận được thành lập cùng phụng chỉ trước tác sách Luân Hồi Du Kư để phổ độ Tam Tào. Năm tháng như vó câu qua cửa sổ, thấm thoát công việc viết lách tới nay đă gần một năm, một năm mới tạo sứ mệnh mới, tác phong mới, sách quư mới, tuy nhiên việc truyền bá sách mới không phải là không gặp trở ngại.
Lấy chuyện gà mà luận th́ gà trống gáy là việc làm tốt song nếu “gió mưa tăm tối, gà gáy không dứt!”. Gà mái đẻ trứng, ấp con để di truyền thêm một cuộc sống mới, đó là cái lẽ tự nhiên của trời đất. Những bậc làm cha mẹ hiện tại trước đây cũng đă từng làm con, những kẻ ngày nay làm con ngày sau sẽ làm cha mẹ, từ xưa tới nay, đạo truyền giống đời nọ nối tiếp đời kia măi không dứt mới đạt được sứ mệnh duy tŕ chúng sinh.
Cho nên ta nay hô hào các tôn giáo, các đàn cơ hăy vứt bỏ tư kiến, ôm ấp hoài băo từ bi lớn lao, đoàn kết hợp tác với nhau. Chớ thấy sự thành công của người mà sinh ḷng ghen ghét phá hoại, đạo lớn chí công vô tư, trời cao muốn chúng sinh sống có đạo đức, có chí hướng thượng, cùng chung lo phát huy đạo lớn.
Nay thấy các tôn giáo đều cho là đạo của ḿnh đúng c̣n đạo khác sai, không ngừng phỉ báng nói xấu nhau, đă chôn vùi mất tinh thần tôn giáo, xa ĺa chân lí để rồi cuối cùng đều đi đến chỗ bế tắc, quả là bất hạnh cho cửa thánh. Nay ta có lời nhắn nhủ những kẻ tu đạo, lo việc đạo phải giữ tâm thiện lành, coi mọi chi phái tôn giáo như nhau, hẳn là đạo sẽ hưng, chúng sinh sẽ được độ.
Sách Luân Hồi Du Kư phải tŕnh bày như trên là v́ sợ chúng sinh vô t́nh hành động trái với đạo làm người, sẽ bị sa đọa làm kiếp thú, há chẳng tự hại người hại ḿnh sao? Suốt một năm qua, ta cùng Dương Sinh dạo cơi nhân gian để phỏng vấn các loài cầm thú là v́ sinh linh mở con đường sống, v́ chúng sinh chặn nẻo ác tà, có thể nói là đă dốc hết tâm lực, mâm cát bút thánh của đàn cơ kết tinh, ḷng nhiệt huyết của thiện nam tín nữ đă giúp sách quư có được hào quang tỏa chiếu.
Để đánh dấu thành quả việc vâng lệnh ư chỉ của đức Dao Tŕ Lăo Mẫu, dự định vào mùa xuân tới sau khi cho đăng tải hàng tuần trên tạp chí Thánh Đức xong sẽ in thành sách, ta rất lấy làm mừng v́ chúng sinh dưới gầm trời lại có được một cuốn sách quư rơ về mặt thực của thế giới loài cầm thú.
Cơi nhân gian đă tỏ rạng lẽ huyền vi, đă ngập tràn lẽ đạo, đường luân hồi súc sinh cận kề, song người nh́n rơ thức tâm lại quá ít, giữa người với người ở cơi trần bàn luận với nhau dễ dàng, nhưng cũng có một số người không thông cảm, lại nói ngược là “Sao không độ người lại độ cầm thú” hoặc “sao không cứu người lại cứu sâu bọ”.
Những lời tuyên bố này biểu lộ ḷng lang dạ sói ác độc, mong rằng nó sẽ bị tiêu diệt để không thể tác yêu tác quái. Do đó phải viết sách Luân Hồi Du Kư để giúp tính linh nhân loại tỉnh thức và thanh tĩnh lại.
Người xưa nói: “Phải nh́n vào gương để thấy rơ sự hưng suy của cổ kim, lấy tâm làm gương mới có thể soi tỏ được sự thiện ác của người”. C̣n ta nói: “Hăy lấy sách này làm gương mới phân biệt được sự bất đồng giữa người và súc vật”. Dương Sinh chuẩn bị lên đài sen.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh, được nghe lời chỉ dạy của ân sư từ cao truyền xuống, khi hay tin mừng sách Luân Hồi Du Kư mùa xuân tới sẽ in thành sách, sở nguyện khi đó ắt hẳn chu toàn.
Tế Phật: Thầy tṛ ḿnh đồng tâm hiệp lực gắng thực hiện cho ḱ được đường đạo mới, kinh báu mới th́ thành tích thực là đẹp đẽ, Thánh Thần Tiên Phật khắp ba cơi đang thiết tha ḱ vọng, nếu như chúng ta đem hết tâm huyết ra phục vụ hẳn là sẽ hoàn thành được công tŕnh quư giá vô cùng đó.
Dương Sinh: Thưa, tại sao đêm nay ân sư lại hướng dẫn con tới chốn núi sâu hoang vu này? Phía trước có một cái hang cỏ dại mọc đầy, coi vẻ âm u thật là đáng sợ!
Tế Phật: Nơi đó chính là địa ngục, con dám tới coi không?
Dương Sinh: Thưa, v́ trách nhiệm thâu thập tài liệu để viết sách khuyên đời, nguy hiểm mấy con cũng không được phép thoái chí, tục ngữ có câu: “Không vào hang cọp sao bắt nổi cọp”.
Tế Phật: Đương nhiên là như vậy, để thầy hướng dẫn con vào trong hang quan sát sự t́nh.
Dương Sinh: Ôi cha! Có măng xà, heo rừng, hươu núi, chó sói, v.v... nh́n mà khiếp hăi, cớ sao chúng lại tụ họp nhau tại động này đông như vậy mà không tàn sát lẫn nhau.
Tế Phật: Con không rơ, đây là sự tụ họp rất kỳ quái, thầy ban cho con một viên thuốc thông linh, sau khi uống vào tự nhiên con hiểu rơ chúng tụ họp tại đây để bàn luận về việc ǵ? Để tiết kiệm th́ giờ chẳng cần phải điểm hóa cho chúng hiện h́nh người rồi mới phỏng vấn. Con uống viên thuốc này đi.
Dương Sinh: Cảm tạ ân sư. Uống viên thuốc vào lỗ tai nghe lùng bùng như trống đánh, thứ âm thanh chát chúa vang rền.
Tế Phật: Đợi một lát con sẽ nghe tiếng các loài thú nói với nhau. Dương Sinh: Quả nhiên đúng như vậy, hai tai tự nhiên khai thông, đă nghe rơ tiếng các loài thú nói chuyện với nhau trong động.
Măng Xà: Bữa nay chúng ta t́m tới động này tụ họp, chia nhau ăn thịt con gấu rừng này. Kiếp trước chúng ta cùng là đoàn viên trong một đảng cướp, mặc dù chết phải chuyển kiếp đầu thai thành nhiều loại thú mang h́nh dáng khác nhau song tinh thần đoàn kết của chúng ta bất diệt, có phúc cùng hưởng, hăy mau cùng chia nhau ăn.
Heo Rừng: Lăo đại đă ra lệnh cho chúng ta ăn thịt con thú rừng săn được này, mời các bạn dùng. Tôi kiếp trước đă thay thế lăo đại hy sinh tính mệnh, kiếp này đầu thai làm heo rừng đời sống thực là cực khổ, thợ săn giăng lưới gài bẫy khắp nơi, không làm người chẳng những không được ăn ngon mà c̣n bữa no bữa đói, thức ăn hết cỏ lại vỏ cây, chẳng thể ngờ hôm nay lại có được bữa ăn thịnh soạn tới mức này.
Hươu Núi: Cảm tạ lăo đại đă ban cho các tiểu đệ bữa tiệc thật thịnh soạn này, song riêng tiểu đệ th́ ăn cỏ c̣n ngon hơn, thịt gấu tiểu đệ chẳng thể nào ăn nổi.
Dê Núi: Tiểu đệ với huynh hươu giống nhau v́ cùng quen ăn cỏ, vả lại không nỡ nhẫn tâm ăn thịt đồng loại, và nhất là thứ thịt đó lại chẳng ngon lành ǵ.
Chó Sói: Như vậy là các huynh đă phản bội lời thề kiếp trước sao? Có thịt ăn thịt, có rau ăn rau, có rượu uống rượu, cần giết là giết, cần đánh là đánh, nếu như nay ăn chay tức là coi khinh lăo đại sợ rằng các huynh sẽ bị trừng trị đích đáng.
Măng Xà: Mấy đứa bây là đồ phản phúc, chê thịt không ăn c̣n nói bá xàm bá láp, nếu như cưỡng lệnh ta khi ra khỏi động tụi bay sẽ bị giết ngay lập tức.
Hươu Núi: Phải lo cứu nguyên linh chứ. Chúng tôi đă cải tà quy chính, ăn chay tu hành, tại sao bảo chúng tôi không ăn thịt là phản bội, lại c̣n hăm dọa giết chúng tôi nữa là cớ ǵ?
Măng Xà: Câm miệng ngay để ta ăn thịt ngươi xong rồi hăy nói, kiếp tới ta bị đầu thai làm ǵ cũng được.
Dương Sinh: Xin ân sư cứu mạng dê núi và hươu núi. Măng xà đă nổi giận phùng mang trợn mắt nhe nanh độc, lo le lưỡi đỏ sắp sửa ăn thịt mấy con thú hiền lành.
Tế Phật: Bữa nay ḿnh tới đây thực quả là may mắn, măng xà đă không biết hối hận lại c̣n giở thói hành hung bạo tợn, không biết rằng đá ở trên nắp hang đổ xuống bất ḱ lúc nào. Nếu như có kẻ nổi loạn nói càn lập tức đá sẽ rơi xuống đè nát thây, vùi xác trong hang đen này, vạn năm chẳng được siêu sinh, giờ ta dùng pháp Phật chế phục măng xà hung bạo này.
Dương Sinh: Ân sư niệm chân ngôn xong, liền lấy rượu trong bầu đổ lên đầu măng xà, măng xà lăn ra bất động, các con thú khác trông thấy đều kinh hăi.
Tế Phật: Ta đă chế phục được măng xà, các con vật khác hăy mau ra khỏi hang, trốn đi nơi khác, gắng lo tu thân để kiếp sau được đầu thai lên làm người. Giờ ta đặc biệt điểm hóa cho các ngươi để các ngươi tu tâm sửa tính.
Dương Sinh: Những con vật đó khi nghe ân sư ban pháp điểm hóa, đều cúi đầu cảm ơn cứu mạng xong mới kéo nhau rời khỏi hang.
Tế Phật: Con măng xà này quá hung ác, kiếp trước lập bè lập đảng, là tay anh chị dưới trướng có nhiều đàn em, chuyên làm chuyện bất lương, hà hiếp kẻ yếu, hoang đàng dâm đăng, cướp của giết người tội ác ngập trời.
Sau khi chết cả bọn bị chuyển kiếp đầu thai làm dă thú trong chốn rừng hoang, có kẻ thức tâm tu hành, có kẻ c̣n si mê, v́ ác khí quá mạnh nên tính linh hăy c̣n, bữa nay tính ác xưa trổi dậy liền săn mồi đưa tới đây chia nhau ăn, v́ có kẻ không chịu ăn đă khiến măng xà nổi giận.
Hiện tại xă hội loài người cũng có hiện tượng này và đă gây nhiều cảnh hại người, nếu như không sớm hối cải chắc chắn sau khi chết sẽ bị đầu thai làm loài thú. Thầy sẽ xin với đức Huyền Thiên Thượng Đế để ngài thu hồi măng xà hung ác này về.
Dương Sinh: Ân sư niệm chân ngôn xong hướng về phương bắc phất tay một cái, Huyền Thiên Thượng Đế quả nhiên từ trên trời giáng xuống, toàn thân uy dũng, nh́n thấy phải kính sợ.
Huyền Thiên Thượng Đế: Cám ơn Phật Sống Tế Công đă mời ta xuống.
Tế Phật: Xin ngài thu hồi măng xà về làm kẻ hầu để tránh di hại cho kẻ nhân gian.
Huyền Thiên Thượng Đế: Ta độ về bắc cực trị tội, sau đó sẽ sung vào quân đội làm lính hầu.
Tế Phật: Nơi này đă dẹp yên, thầy tṛ ḿnh tới chốn khác.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh, thưa con đă lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.
Tế Phật: Cảm hứng dâng tràn, ta đặc biệt ngâm một bài thơ:
Vị độ thế nhân nhật dạ mang
Vân du tam giới tạo từ hàng
Loan môn phổ chủng bồ đề thụ
Thánh đức hân thành tuyển Phật tràng.
Sớm tối cứu đời bận chẳng ngưng
Thuyền từ tạo dựng khắp muôn trùng
Bồ đề cửa pháp mang trồng khắp
Thánh Đức Đường nay chọn đạo tràng.
(Trong lúc ngâm thơ bất chợt đă tới trấn Bắc Cảng...)
Dương Sinh: Tới đây đột nhiên nghe tiếng gà gáy, xin hỏi ân sư là gà thường gáy sáng, cớ sao gà ở chốn này lại gáy tối?
Tế Phật: Tất nhiên là có nguyên do của nó, phải phỏng vấn mới rơ. Con gà này là gà của nhà họ Lâm nuôi, hăy tiến lại gần chuồng gà.
Dương Sinh: Đàng sau nhà có một chuồng gà, nuôi khoảng chừng mười con gà. Thưa ân sư, đêm tối lần tới chuồng gà nhà người ta, con sợ rằng người ta la lên là ḿnh tới ăn cắp gà của họ th́ thật là thê thảm lắm.
Tế Phật: Con quên là ḿnh tới đây bằng thân pháp chứ đâu phải bằng thân thịt mà họ có thể nh́n thấy ḿnh, con chớ bận tâm.
Dương Sinh: Gà trống gáy thêm, thật là lạ lùng, tiếng gáy nghe đau khổ hết sức, giống như kêu cứu vậy.
Tế Phật: Lúc ở trong núi con uống thuốc thông linh, hơi thuốc c̣n mạnh cho nên con hiểu nổi tiếng gà gáy, đúng là gà muốn được cứu mạng. Để thầy điểm hóa trước, rồi con phỏng vấn sau. “Gà trống, gà trống ơi! Tại sao ngươi lại gáy đêm? Có phải tại tâm phiền ư loạn, đau đớn chịu chẳng nổi phải không?
Ai biểu mi kiếp trước lắm lời, mở miệng ra là chửi bới, tự cho là đắc ư, ăn của người lại vong ân bội nghĩa, nên kiếp này làm gà tiếng gáy nghe đau đớn, bữa nay ta tới đây đặc biệt độ mi, hăy thuật lại rơ quá khứ”.
Dương Sinh: Gà trống nghe ân sư thuyết pháp xong liền ngưng gáy, lại c̣n cúi đầu giống như giác ngộ.
Tế Phật: Dương Sinh, con hăy phỏng vấn gà đi.
Dương Sinh: Xin hỏi gà trống, cớ sao lại bị chuyển kiếp đầu thai làm gà?
Gà Trống: A Di Đà Phật, tội lỗi quá, tội lỗi quá, kiếp trước tôi là một kẻ xuất gia, người đời kêu tôi là pháp sư..., đọc nhiều sách, giảng đạo, thuyết pháp, viết sách phê b́nh tôn giáo khác cho là thuyết của ḿnh đúng hơn cả, nên lời lẽ lư luận hăng say, bác bỏ mọi thuyết của các tôn giáo khác, dạy mọi người không tin th́ chớ thờ lạy, cho h́nh thức cơ bút là tà ma quỷ quái, chỉ có đạo của ḿnh là chính đạo mà thôi.
Tuy suốt đời tu hành, niệm Phật, chỉ v́ gươm bút quá bén nhọn, sát khí đằng đằng nên đă phạm vào giới thứ nhất của nhà Phật là giới sát. Sau chết mới rơ là pháp Phật bao trùm tất cả, không hề quan niệm người khác ḿnh là ma, tôn giáo không giống ḿnh là quỷ, cho nên về sau hối chẳng kịp. Thấy nhiều vị cao tăng đại đức hàm dưỡng thâm sâu, quư ngài đều “tự giác điều sái quấy của chính ḿnh” cũng không c̣n kịp, lấy th́ giờ đâu để phê b́nh cái sai của người khác.
Nhờ vậy mà các ngài đều được độ về nước Phật tây phương, tôi v́ sát khí quá nặng cho nên mới bị đọa lạc đầu thai là kiếp gà, ngày ngày phải lớn tiếng gáy để sám hối, v́ thiện căn c̣n nông, lại biết đức Tế Phật tạt qua đây nên kêu cứu. Bữa nay đă thuật hết lỗi lầm quá khứ, hi vọng các nhân sĩ thuộc các giáo phái nên lấy tâm quảng đại mà đối xử với các nhân sĩ của tôn giáo bạn.
Nếu như phạm tội phỉ báng công kích là xa ĺa giáo nghĩa Phật Đà, là chỉ thuyết giảng cái pháp của riêng ḿnh, tương lai nhất định đọa lạc tam ác đạo. Tôi đă thuật xong tiền kiếp của tôi, kính xin đức Tế Phật cứu độ cho.
Tế Phật: Lành thay, đă biết giác ngộ th́ có thể cứu được. Kiếp trước phần lớn ngươi được các nhân sĩ đạo khác giúp đỡ nuôi nấng, song lại coi các vị ân nhân đó là ma quỷ, miệng thích nói xàm, kiếp này có cơ hội để ngươi phát huy ưu điểm.
Tính Phật b́nh đẳng, các tôn giáo đều dạy người đời “Chớ làm điều ác, hăy chăm làm điều thiện”. Phải tôn trọng sự b́nh đẳng, nhất là kẻ xuất gia cần phải lấy từ bi làm gốc, đối với một con kiến c̣n muốn phóng sinh th́ tại sao lại nỡ dùng gươm bút sát phạt tôn giáo khác, làm mất hết tư cách của nhà Phật, mong chư đệ tử chốn cửa thiền suy ngẫm kỹ.
Thế giới ngày nay, tôn giáo và học thuật đă bước vào thời ḱ trao đổi qua lại, không c̣n độc tôn đóng cửa như xưa, cũng sẽ không c̣n cảnh chỉ ḿnh ta siêu việt, dưới đất trên trời chẳng có ai hơn, phải tích cực giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau nỗ lực phát huy tinh thần tín ngưỡng của nhân loại, người biết là sai lầm có thể sửa chữa.
Chỉ nội trong ba ngày nữa là ngươi thác một cách tự nhiên chủ nhân bỏ xác ngươi không dám ăn thịt, như thế là ngươi được miễn h́nh phạt dao sắc xẻ thây, chảo dầu chiên thịt, được chuyển kiếp đầu thai làm người, có duyên trở lại cửa Phật tu đạo.
Song kiếp tới chẳng thể hành động khua môi múa mỏ gây thành khẩu nghiệp, xuất gia mà tính t́nh khờ khạo, nói năng ấp úng, chỉ chăm dọn dẹp chùa chiền, tụng kinh gơ mơ tu hành tránh gây ác nghiệp.
Gà Trống: Xin cảm tạ đức Tế Phật đă độ hóa cho.
Tế Phật: Chúng ta chuẩn bị tới “Cung Triều Thiên” tham bái Thánh Mẫu.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Thưa, tại sao ân sư lại nghĩ tới việc bái lạy Thánh Mẫu?
Tế Phật: Thánh Mẫu đă cứu quá nhiều người, do đó ta phải tới phỏng vấn mới biết được nhiều hoàn cảnh éo le để chúng sinh học hỏi.
Dương Sinh: Ân sư thực là quá chu đáo, thưa con đă lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành...
Tế Phật: Đă tới cung Triều Thiên ở Bắc Cảng, đêm đă về khuya, các thiện nam tín nữ tới chiêm bái đă về hết, chúng ta hăy vào trong lạy chào ra mắt ngài.
Dương Sinh: Con đă tới cung Triều Thiên hai lần, v́ thần linh hiển hách, b́nh thường dân chúng tới lễ bái rất đông, trong cung có nhiều bàn thờ hương khói nghi ngút... Theo ân sư vào nội điện, thấy Thánh Mẫu ngồi trên ngai, hai vị tướng quân Thiên Lư Nhăn và Thuần Phong Nhĩ đă tiến lại.
Tướng Quân: (Hai vị tướng quân đồng thanh nói) Hoan nghênh đức Tế Phật cùng thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường tới thăm, xin mời ngồi.
Tế Phật: Cảm tạ hai tướng quân đă trọng đăi.
Dương Sinh: Hai tướng quân tiếp đăi nồng hậu quá, thực cảm kích không ít.
Thiên Lí Nhăn: Thưa, đă thấy hai vị từ ngoài ngàn dặm, đêm nay hai vị thân hành tới thăm bản cung hết sức hoan nghênh.
Thuần Phong Nhĩ: Thưa, đă nghe thấy tiếng cưỡi gió đè mây của hai vị từ ngoài ngàn dặm, rất hoan nghênh được thấy hai vị tới thăm.
Dương Sinh: Phép thần thông của hai ngài quả là cao siêu.
Tế Phật: Đức Thánh Mẫu chính là Quán thế Âm Bồ Tát, sở dĩ hai bên có hai tướng quân Thiên Lí Nhăn cùng Thuần Phong Nhĩ chầu hầu là để nghe tiếng kêu cứu cùng nh́n cảnh khổ đau của cơi đời.
Dương Sinh: À th́ ra là như vậy. Kính thưa Thánh Mẫu, đệ tử là thánh bút Dương Thiện Sinh thuộc Thánh Đức Đường ở Đài Trung, bữa nay theo bóng ân sư Tế Phật tới quư cung tham bái đức Thánh Mẫu.
Thánh Mẫu: Miễn lễ. Hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Sinh tới thăm bản cung.
Tế Phật: Thưa hai thầy tṛ phụng chỉ trước tác sách Luân Hồi Du Kí, mặc dù được biết quư cung thiện nam tín nữ tới chiêm bái rất đông, song để cải thiện thêm tập tục tín ngưỡng dân gian, kính xin Thánh Mẫu ban lời vàng ngọc chỉ giáo cho.
Thánh Mẫu: Các thiện nam tín nữ khắp nơi đổ về bản cung lễ bái thật là đông, chứng tỏ đời sống của dân chúng ở tỉnh này được tự do cùng no ấm, nên mới được thảnh thơi, tới các đ́nh đền chùa chiền lễ bái, và lễ vật chỉ có hương hoa, không có rượu thịt. H́nh thức sinh hoạt tính ngưỡng này rất bổ ích cho thân tâm, thanh điển được thanh tịnh, đă hợp vệ sinh lại không lăng phí.
Kính thần trọng Phật phải biết ngưng việc sát sinh, chỉ dâng hương hoa bông trái không những tiết kiệm được tiền bạc phải đổ mồ hôi mới có, mà c̣n được thần thánh dễ dàng chứng giám cho. Ngoài ra phải lưu ư câu: “Thánh Mẫu ăn chay, xin đừng sát sinh cúng đồ mặn” treo trên tường rất hợp ư cùng tiêu biểu nhất cho tấm ḷng trong của Thánh Mẫu. Dương Sinh hăy lấy một bản “Trần T́nh Văn” đem về in vào trong sách Luân Hồi Du Kư hầu giúp đám gia súc khỏi thác oan v́ phải làm vật tế thần.
Dương Sinh: Cảm tạ Thánh Mẫu đă ân ban lời chỉ dạy vô cùng quư báu, chắc chắn sách Luân Hồi Du Kí sẽ có được nhiều luồng hào quang sáng chói.
THƯ TRẦN T̀NH VỀ LOÀI THÚ
Thánh Mẫu ăn chay xin chớ cúng mặn
Thánh Mẫu sinh quán ở làng Mi Châu huyện Bồ Điền tỉnh Phúc Kiến vào đời Tống, họ Lâm tên húy Mặc Nương, ăn chay trường, dốc tâm tu hành từ bé, về sau công quả viên măn, phụng ngọc chiếu siêu thăng, v́ thành đạo nên được coi là Thánh Mẫu cơi trời.
Ngài thường hiển hóa một cách uy linh để cứu độ dân chài mỗi khi họ gặp nạn ngoài khơi, do đó được toàn dân duyên hải thuộc vùng đông nam Trung Quốc và Việt Nam sùng bái. Ngài đại từ bi, có cầu là có chứng, ẩn hiện dị kỳ, không thấy hiển lộ mà vẫn ứng nghiệm, được nhân gian lưu truyền bao thế kỷ, đền thờ được xây cất khắp nơi, dân đánh cá đều kính trọng ngài, phong ngài là thần biển.
Ít năm gần đây kinh tế Đài Loan phát triển mau lẹ, nhân dân phú cường, tuy đời sống văn minh khoa học vật chất tiến bộ vượt bực, song tất cả các giới sĩ, nông, công, thương đều thờ ngài.
Nhờ phương tiện giao thông tiện lợi, hàng năm các thiện nam tín nữ từ khắp nơi đổ xô về những nơi có đền thờ ngài để chiêm bái đông như nước chảy, nhất là trước và sau ngày thánh đản 23 tháng 3 âm lịch, chung quanh đền ngài ngựa xe đông nghẹt, mọi ḷng nao nức lạ thường.
Song sự kính thờ Thánh Mẫu của mọi người lại có sự sai lầm lớn lao là v́ từ bé ngài đă phát nguyện tŕ trai giữ giới ăn chay trường, mà ngày nay các thiện nam tín nữ lại dâng cúng ngài đồ mặn, thịt cá tanh tưởi.
Thánh Mẫu là bậc linh tri linh giác, không những chẳng chấp nhận, mà c̣n đau ḷng sa lệ thương xót những con vật bị giết để cúng dường ngài, đó là nguyên nhân chính khiến mọi người phải vứt bỏ tập tục cúng mặn hủ lậu đó đi, chỉ nên dâng cúng Thánh Mẫu các thứ lễ vật chay tịnh mà thôi.
Thánh Mẫu từ bi chính trực, sở dĩ ngài hiển hóa cứu đời là muốn chúng sinh thoát khỏi ṿng nguy khốn khổ hải, không hề mong chúng sinh cúng bái ngài. Ngày nay chúng sinh muốn bày tỏ ḷng sùng bái th́ nên tŕ trai tu thân, hành thiện lập đức, giúp đỡ kẻ khó, tạo phúc cho xă hội, hẳn là hợp ư ngài hơn cả.
Các thiện nam tín nữ mỗi khi tưởng niệm công ơn vĩ đại của Thánh Mẫu hoặc muốn cầu khẩn điều ǵ th́ chỉ cần trai giới, tắm rửa sạch sẽ, thanh tịnh thân tâm, tư thế cung kính trang nghiêm, tới đền ngài vái lạy cùng dâng hoa hương cũng đủ bày tỏ tấm ḷng thành kính của ḿnh rồi, chẳng cần phải sát sinh để lấy thịt làm đồ mặn cúng dường. Thánh Mẫu là bậc đại giác, thần thông trí minh, kẻ công đức ngài ban phước quả.
C̣n như muốn trả ơn ngài th́ chỉ nên gắng làm nhiều việc thiện, tu thân tích đức hẳn là Thánh Mẫu hài ḷng, chẳng cần phải đốt giấy vàng giấy bạc tốn tiền vô ích. Tương truyền thuở Thánh Mẫu c̣n tại thế, ngài là người con rất hiếu thảo với cha mẹ, ngày mẹ gặp nạn ngài tụng kinh lễ Phật để cầu cho cha mẹ được b́nh an trường thọ.
Ngày nay mỗi khi làm lễ mừng tuổi thọ cho cha mẹ, người đời lại giết gia súc làm cỗ mặn bày đầy bàn cúng lạy th́ thực là hành động ngược lại hẳn ư Thánh Mẫu, cũng chỉ tại không biết nên làm vậy, ḷng thương xót chúng sinh của Thánh Mẫu bao la, tuy không quở phạt song ḷng ngài hẳn là buồn lắm.
Khổ thay! Trời muốn nói mà không mở miệng, thần muốn bàn mà chẳng nên lời, có ai biết được rằng buổi lễ Thánh Mẫu chiều qua, khi ngài nh́n thấy chúng sinh không biết hành thiện tu thân, chỉ biết gian xảo cướp bóc, chẳng biết tích đức tạo phúc, chạy đôn chạy đáo, không độ một đời chịu khổ muôn đời luân hồi măi măi.
Thánh Mẫu nh́n cảnh tượng này ḷng đau xót vô biên, ngài thấy ḿnh được sống đời thiện lành, trong khi chúng sinh phải chịu hoạn nạn tai ương, không giải nổi nghiệp quả báo ứng, dùng xác chết thú vật dâng cúng thần thánh để cầu phúc thọ lợi lộc, có lúc ngài đă nhỏ lệ xót thương.
Vậy thời nếu như ai c̣n có ḷng tôn kính Thánh Mẫu th́ hăy sống hợp ḷng trời để phát huy đức hiếu sinh, hành pháp thánh từ bi cứu thế đền ơn Tiên Phật, lo làm việc thiện, lấy thân làm thiện, không sát sinh, trộm cướp, gian dâm, cần phải gần người thiện, đi đường thiện, làm việc thiện, lấy tâm hành thiện, không tham sân si, kính trọng trời đất, thần linh, cha mẹ, người hiền.
Miệng nói điều thiện, không ác khẩu, hai lưỡi, nói càn nói bậy, chỉ bàn điều lành giảng đạo lí, khuyên người hành thiện tu thân, tích âm đức, cho gạo, tặng áo quan, sửa cầu cống đường xá, lợp chùa miếu, sửa sang tượng, ấn tống kinh sách, bỏ tiền không tiếc, bỏ sức không mệt, chẳng cầu đền ơn, chẳng cần người biết, trọn đời hành thiện mà vẫn cảm thấy c̣n thiếu bổn phận.
Khi lễ bái chỉ dâng hương hoa, trái cây, v.v… C̣n như muốn làm cỗ cúng th́ phải cúng cỗ chay, tuyệt đối không sát sinh. Thực hành được như vậy th́ dầu không cầu xin trời Phật cũng ban ân phước, Thánh Mẫu cũng phù hộ độ tŕ. Nếu như có ḷng thành Xin dâng lễ cúng chay. Có chủ nhân nào lại đi mời một thực khách ăn chay trường tới nhà, rồi dọn đồ mặn thịt cá mời khách ăn mà khách dám ăn không?
Và làm như vậy chủ nhân có c̣n là người biết giữ phép lịch sự xă giao không? Cửa đạo cũng thế, chúng ta đều rơ Thánh Mẫu ăn chay mà lại cúng dường đồ mặn thịt cá th́ thử hỏi ngài có nhận không? Có nhiều người nghĩ rằng thần tướng, thần binh của Thánh Mẫu ăn mặn th́ họ cúng mặn, nhưng thử hỏi khi lễ chúng ta niệm Thánh Mẫu hay niệm chư thần? Vả lại nếu đă là thần linh ắt đều chê đồ mặn.
Những thần linh chính trực đều muốn các thiện nam tín nữ tŕ trai giới sát để đền đáp đức hiếu sinh của trời đất. Việc ăn chay của Thánh Mẫu là tấm gương sáng cho các đồ đệ cùng bộ thuộc của ngài noi theo, nếu không sẽ chẳng c̣n xứng đáng gần ngài để thọ hưởng phúc lộc của ngài ban phát. Do đó, nếu đă thành tâm chỉ dâng cúng đồ chay mới được trời ngó tới, được thánh thần pḥ trợ. Quẻ không chứng v́ lễ vật không xứng.
Khoảng hai năm trước đây có nghe nói gia đ́nh họ Hoàng, gia đạo êm ấm, tổ đức thơm danh, hai người con dâu đều tŕ trai giữ giới tu Phật, v́ trong nhà c̣n nhiều người ăn mặn, ngày lễ Thánh Mẫu năm ấy, hai người con dâu họ Hoàng liền đem đồ mặn tới cung Thiên Hậu ở Lộc Cảng lễ. Theo thói quen họ gieo quẻ để hỏi xem lễ vật có làm vừa ḷng Thánh Mẫu không?
Th́ quả nhiên quẻ gieo nhiều lần không chứng, chẳng phải ít giấy vàng giấy bạc, quên mang rượu, thiếu gà hấp ngon, nh́n lại lễ vật quả không thiếu một món ǵ, t́m hiểu măi cũng chẳng hiểu nguyên do, chính lúc nỗi nghi hoặc không giải nổi, hốt nhiên linh cơ lay động, liền hỏi Thánh Mẫu: “Thưa có phải tín nữ ăn chay mà lại dâng cúng Thánh Mẫu lễ mặn phải không?
Nếu đúng vậy kính xin chứng quẻ cho”. Hỏi xong gieo quẻ được chứng ngay lập tức. Tín nữ trong ḷng vui khôn xiết liền hứa với Thánh Mẫu là từ nay về sau, hàng năm tới ngày kỉ niệm Thánh Mẫu sẽ chỉ dùng hương hoa trái cây dâng cúng. Bởi vậy đă từ hai năm nay, mỗi kỳ lễ Thánh Mẫu hai người con dâu nhà họ Hoàng chỉ mang đồ chay tới đền ngài mà thôi. Đầu heo gà vịt cá mú bày đầy bàn Thần linh chỉ giáng chốn cúng đồ chay.
Ở Chương Hóa có gia đ́nh họ Tăng, từ ông bà cha mẹ đến con cháu, ba đời đều ăn chay, sống ḥa thuận, phước thiện ḷa trời. Có một bữa, nhằm ngày thánh lễ mùa thu, một số thiện nam tín nữ tới đền mang theo lễ vật thịt cá bày đầy bàn.
Cuối cùng tới lượt Tăng Thái Thái, v́ trong nhà tŕ trai giữ giới để tu nên chỉ có chút đồ chay làm bằng đậu, v́ các bàn bày đầy lễ vật không c̣n chỗ trống, nên phải để đỡ ở góc bàn, Tăng Thái Thái lại thấy các người khác mang lễ vật đầu heo, gà hấp, vịt quay c̣n ḿnh th́ chỉ có chút đồ chay, trong ḷng cảm thấy vô cùng áy náy.
Nhưng sau đó khi thần linh giáng lâm th́ ngài chỉ thích đồ chay. Do đó, thần linh luôn luôn khuyên người giới sát, chỉ muốn chúng sinh cúng dường lễ vật chay tịnh, v́ cơi trời thanh khiết mà đồ mặn cá thịt th́ ô trược tanh tưởi.
Tế Phật: Thiên Trần T́nh Văn này thật là kỳ diệu, chúng sinh xem xong chắc chắn sẽ cảm động và giác ngộ, khi lễ thần bái Phật sẽ không c̣n sát sinh như trước nữa. Bữa nay tạm ngưng việc viết sách ở đây, Dương Sinh chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.
Dương Sinh: Cảm tạ sự chỉ giáo của Thánh Mẫu đệ tử xin cáo từ.
Thánh Mẫu: Các tướng quân hăy đánh trống khua chiêng đưa tiễn.
Tế Phật: Đă về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 845 of 1146: Đă gửi: 25 November 2010 lúc 6:25am | Đă lưu IP
|
|
|
LUÂN HỒI DU KƯ
HỒI MƯỜI CHÍN
QUAN ÂM CỨU KHỔ DỰNG NHIỀU T̉A SEN ĐÁ
NHÂN LOẠI LÀM LÀNH GIỚI SÁT LO PHÓNG SINH
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 8 tháng 12 năm Tân Dậu 1981
Thơ
Độ thế vô từ thế lộ ngoan
Đăng cao vọng viễn tục t́nh san
Du thư tự tự ngưng cam lộ
Đức trạch kham dung Tu Di Sơn.
Thu viên vạn loại phản tây thiên
Lăo Mẫu từ bi nhăn dục xuyên
Súc Đạo Luân Hồi thành bảo giám
Lưu truyền cảnh thế nhất giai thiên.
Dịch
Chẳng ngại gian nan quyết cứu đời
Lên cao nh́n rộng chỉ ta thôi
Mỗi trang du kí nhuần sương ngọt
Ân đức cao sâu sánh bể trời.
Muôn giống thâu tṛn trở lại trời
Từ bi Lăo Mẫu mắt trông vời
Luân Hồi Du Kư thành gương sáng
Truyền tụng nhân gian sửa trị đời.
Tế Phật: Người ta sống ở trên đời đáng lư phải tuân theo đạo làm người của thánh hiền răn dạy, song không hiểu tại sao xă hội lại có rất nhiều kẻ ngang ngược không chịu nghe lời, bỏ đạo làm người là phản bội thiên lư, mà thiên lư tức lương tâm, nhân đạo tức thiên đạo.
Do đó, kẻ muốn tu thiên đạo trước hết phải tu nhân đạo, Tam Tào phổ độ rất chú trọng đạo lớn “ngũ luân” tức năm giềng mối quan hệ giữa vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè.
Bởi v́ ḷng người băng hoại, thế đạo xa rời, chính khí trời đất tan biến, trời cao muốn cứu độ các nguyên linh nên mới ban ân đạo lớn, cho nên những kẻ tu đạo lớn trước hết phải bắt đầu tu từ nhân đạo, v́ cái lớn tức người đạt cái một, nên nhân đạo là đại đạo.
Trời là sự hợp hôn của đạo lớn, đạo lớn đạt cái một gọi là thiên đạo, vậy thiên đạo là ǵ? Phải chăng là giữ được cái bản tính, lương tâm trong lành. Đức Khổng Tử chuyên giảng về đạo làm người, hết sức chú trọng tới tam cương, tức mối liên hệ giữa vua tôi, cha con, vợ chồng, cùng ngũ thường tức năm điều giới cấm, mọi người phải giữ là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, tin dầu chết cũng không bỏ.
Những kẻ tu đạo ngày nay phần lớn đều là cư sĩ tại gia, đương nhiên phải tu tṛn nhân đạo, có hiếu thảo với cha mẹ, vợ chồng ḥa hợp, anh em ḥa thuận, bằng hữu tín nghĩa, nói lời thiện lành.
Làm việc thiện lành thực hành được những đức tính đó trong hoàn cảnh đó, tự nhiên gây dựng nổi cho ḿnh tư cách vẹn toàn, dễ dàng tu thành Tiên thành Phật; v́ tại thế gian đă có người đạt tiêu chuẩn hoàn toàn, th́ cơi thiên đàng cực lạc đương nhiên dành sẵn chỗ ngồi cho ḿnh.
Sau khi rũ bỏ xác phàm, được phiêu diêu cơi trời, đó là một loại pháp môn tự nhiên thành tựu. Dương Sinh chuẩn bị lên đài sen, bữa nay chúng ta phỏng vấn đức Phật Nam Hải.
Dương Sinh: Được thăm rừng trúc tía đệ tử trong ḷng sung sướng vô biên.
Tế Phật: ...Đă tới rừng trúc tía, đức Quán thế Âm đang ngồi trên sen vàng, thấy thầy tṛ ḿnh tới, vẻ mặt vui tươi, miệng mỉm cười.
Dương Sinh: Thưa, trước đây khi thầy cùng con viết sách Thiên Đàng Du Kư, từng đến chốn này bái yết Bồ Tát, bữa nay may mắn được thăm lại rừng trúc tía thuộc cơi tây phương, ḷng cảm thấy hân hoan.
Trúc tía vốn tươi thắm lại càng tươi thắm hơn, nước chảy mây trôi man mác, không khí thanh nhẹ lạ kỳ. Trúc thắm bên cạnh Bồ Tát Quan Âm có chim xanh đậu, miệng ngậm chuỗi ngọc Phật ban thực là kỳ diệu.
Tế Phật: Chúng ta trước hết hăy làm lễ ra mắt Bồ Tát.
Dương Sinh: Thưa tuân lệnh, đệ tử xin lạy chào ra mắt Nam Hải Bồ Tát.
Quán thế Âm Bồ Tát: Tế Phật cùng Dương Sinh hăy đứng lên. Hai vị đă trải bao khổ cực gian lao mới viết xong hai cuốn du kư Thiên Đàng và Địa Ngục, nay lại phụng chỉ trước tác sách Luân Hồi Du Kư, phước ân trải khắp mọi loài cầm thú.
Hẳn là phải có nhân duyên vô thượng th́ sứ mệnh vô cực mới được trao tận tay hai vị, bữa nay tới đây, ḷng ta vui mừng khôn xiết. Thiện Tài Long Nữ đâu, hăy mau dâng trà cam lộ mời hai vị quư khách.
Thiện Tài Long Nữ: Xin tuân lệnh... kính dâng hai chén nước trà cam lộ.
Dương Sinh: Ân sư ngồi trên ghế đá xanh bên hồ sen, có cảm tưởng rất lạ lùng mới mẻ, chẳng rơ những thứ đó làm bằng ǵ.
Tế Phật: Bồ Tát ngồi trên hoa sen, đó là hoa sen nước có tên là Thủy Liên Hoa, c̣n thầy tṛ ḿnh hiện cũng đang ngồi trên hoa sen nhưng là hoa sen đất, được gọi là Thạch Liên Hoa.
Dương Sinh: Hoa sen mọc trong nước con có nghe qua, c̣n hoa sen trồng trên đất lần đầu tiên con mới thấy. Tại sao lần trước tới thăm con không gặp cảnh lạ lùng này?
Tế Phật: Kỳ trước đáp thuyền pháp đi trên biển, bữa nay đi trên đất không dùng thuyền pháp nên khác nhau.
Dương Sinh: Thưa như vậy nghĩa là sao?
Bồ Tát: Lành thay. Thấy hai vị luận đạo, ta cũng nhân cơ hội bàn rộng thêm để vấn đề được sáng tỏ hơn. Hoa sen mọc trong nước, nếu như không có bùn nhơ nuôi dưỡng, hẳn là hoa không tinh khiết.
Do đó người tu đạo, nếu như cứ sống ở một hoàn cảnh b́nh thường, ăn ở đi lại nằm ngồi không lo không phiền, th́ hoàn cảnh đó không thể có được môi trường tốt, chẳng thể sinh nổi bông hoa diễm lệ.
Người ta nếu như suốt đời không gặp nghịch cảnh éo le, th́ dầu có thành công đi nữa cũng chỉ là việc b́nh thuờng, v́ người ta như quả bóng da, da thịt bao bọc xác thân, c̣n trong rỗng rang đầy ắp khí, trái bóng da này để trên đất đứng yên bất động, th́ chỉ là trái banh chết, song nếu ném trên đất hẳn là lăn qua lăn lại, đó chỉ là trái bóng b́nh thường.
C̣n nếu là bóng nẩy, dùng sức thảy mạnh xuống đất, sẽ thấy đất không động đậy, c̣n bóng nẩy cao khỏi đầu người, nếu có ai bất măn với ḿnh th́ ḿnh chớ có cạn tàu ráo máng tuyệt t́nh với họ, mà hăy chừa cho họ một lối thoát, c̣n không hại người mà thành hại ḿnh. Những kẻ thành công trên đời đều gặp khó khăn nguy khốn, rồi sau mới đạt nổi mục đích.
Hoa sen không nhờ bùn chẳng có được nhụy thơm, cánh mướt, hoa sen mọc dưới nước tới khi nước cạn, th́ ao sen há chẳng biến thành vườn sen sao? Có nước gọi là bùn nhơ, không nước trở nên đất sạch, bởi vậy mà Dương Sinh lúc này mới thấy hoa sen trên đất lành, v́ thân hóa cứng cho nên gọi là sen đá, có như vậy mới giúp chúng sinh phương tiện đài sen để tu đạo.
Dương Sinh: Thưa tại sao không giúp chúng sinh tọa thủy liên đài (đài sen nước) mà chỉ cho họ ngồi ṭa thạch liên đài mà thôi?
Bồ Tát: Hiện tại là lúc cứu độ chúng sinh giữa thời mạt pháp, mọi người đều học Phật tu đạo tại gia, nửa thánh nửa phàm, ít có gối thiền để ngồi, hàng ngày phải ngồi trên ghế gỗ, nên phải giúp phương tiện để các tu sĩ tại gia tu đạo, trên đất cũng có thể thành Phật, cho nên ở cơi tây phương cực lạc, thạch liên hoa bừng nở khắp mọi nơi.
Dương Sinh: Bồ Tát đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn, muốn chúng sinh có phương tiện tu đạo nên đă tận tâm, tận lực ban thạch liên đài để tất cả mọi chúng sinh tùy nghi sử dụng, đệ tử xin thay mặt người đời tạ ơn Bồ Tát.
Tế Phật: Ha ha, trời cao vốn từ bi vô lượng, chỉ mong chúng sinh tại thế gian “Ngồi trên ghế được ngay ngắn, tu trong tâm được tốt lành”. “Trần thổ” hóa thành “tĩnh địa” “ghế tục” tức là “đài sen” cơi tây phương cực lạc mọi người đều được dự phần.
Dương Sinh: Thưa, như vậy th́ tất cả chúng sinh đều có thể thành Phật được hay sao?
Bồ Tát: Đúng vậy, chúng sinh dưới gầm trời thành Phật th́ những chỗ ngồi mới được sửa sang ngay ngắn, những con tim mới được gột rửa trong lành. Đă có được cơ duyên may mắn, chúng sinh khỏi cần vượt biển trèo non, ngàn dặm xa xôi t́m kiếm minh sư cầu chỉ dạy, Tiên Phật hóa thân đến tận nhà ban pháp hóa độ.
Chỉ mong mọi người nương theo đường đạo tu tâm sửa tính, hành vi đoan chính, trong nhà ngoài cửa, trong tâm ngoài thân dọn dẹp lau chùi sạch sẽ, rồi mới có thể ngồi trên đất và nằm trên cỏ, trần gian biến thành thiên đàng cơi tiên, cơi Phật.
Dương Sinh: Thưa, tại sao những chiếc ghế đá sen kia hào quang lại tỏa chiếu sáng ngời, cùng hiện rơ tên tuổi của người? Đệ tử thấy có cả phương danh của một bạn đạo Thánh Đức Đường.
Bồ Tát: Lành thay những đệ tử của Thánh Đức Đường thiện căn đều thâm hậu, chăm chỉ nghiên cứu kinh điển, đại đạo chân tu lập công, lập đức lớn lao, trong ngoài như một, nhẫn nhục tinh tiến, do đó cơi tây phương cực lạc đă chiếu theo công đức của họ mà an bài quả vị đài sen.
Những đài sen lớn nhỏ kia c̣n tùy tâm tùy công đức của mỗi người mà thay đổi, cho nên nói: “Muốn có chỗ ở cơi trời, phải tu đức ở cơi người”. Thế mới hay: “Việc do người làm”.
Dương Sinh: Trúc biếc xanh cạnh chỗ ngồi của Bồ Tát tại sao lại có chim xanh đậu, miệng ngậm ṿng ngọc Phật, vừa hót líu lo, vừa lần chuyển xâu chuỗi, chẳng khác nào người đời niệm Phật lần tràng hạt vậy, quả là thích thú, song chẳng rơ chim nói điều chi?
Bồ Tát: Lành thay, con chim xanh này là chim thần, c̣n gọi là chim loan, miệng vừa lần xâu chuỗi vừa niệm Phật, điều đó chứng tỏ rằng loài chim cũng có con siêu thoát. C̣n người đời ai ai cũng có miệng có tay, song lại chẳng niệm Phật, chẳng lần tràng hạt.
Miệng họ toàn dành để nói điều gian xảo, trá ngụy, độc ác quả là thua kém loài chim, v́ chim biết nói tiếng êm dịu nhẹ nhàng nghe đă vui tai, lại c̣n tiêu sầu giải muộn, diệt trừ hỏa khí.
Chim thiêng trong rừng trúc biếc, tâm trí đă nương theo pháp nên miệng không ngớt niệm danh hiệu Phật và đạt thành chính quả, c̣n người đời há lại không mau mau tu tâm sửa miệng sao?
Rừng trúc biếc là một cảnh tiên thánh tự nhiên ở bên ngoài chốn phàm trần, màu trúc biếc ḥa nhập màu trời, thảm cỏ xanh êm như nệm, ḍng nước trôi man mác, sống một ngày trên đó bằng cả năm hạnh phúc dưới trần. Đài sen đá, thảm cỏ xanh nằm ngồi êm ái thảnh thơi, đă v́ chúng sinh chuẩn bị chỗ ngồi đệ nhứt hạng như vậy, mong tất cả người đời hăy bước lên thuyền pháp.
Dương Sinh: Thiện căn của chim loan quả thực sâu dày. Thưa Quán thế Âm Bồ Tát, sách Luân Hồi Du Kư sắp hoàn thành, Bồ Tát phát nguyện rằng “không cứu độ chúng sinh, thề không thành Phật” và c̣n dạy rằng “cầm thú dễ tu, người đời khó độ”.
Từ muôn ngàn kiếp trước tới giờ chúng sinh oan nghiệp trùng trùng, xương trắng chất thành non, có kẻ muốn tu đạo thiện lành song v́ thân thế lắm bệnh hoạn gia đ́nh xào xáo, con cháu ngược ngạo, nghịch cảnh không dứt, khiến kẻ tu đạo tâm có thừa mà sức chẳng đủ.
Bồ Tát đă nguyện cứu độ hết chúng sinh, vậy xin ngài chỉ giáo cho ngả đường đi tới đích, hầu giúp mọi người thân tâm thường an lạc, vạn sự như ư, mới có thể chuyên chú tu đạo để tính linh mau có ngày thành Phật.
Bồ Tát: Ta tuy phát nguyện cứu độ chúng sinh song chúng sinh si mê chưa thể diệt dục tu tâm sửa tính, nên càng lúc càng đắm ch́m sâu thêm, biển khổ lại mênh mông, trôi dạt không biết đâu là bờ bến nên chưa thành Phật, có thể nói: “Phật chẳng thể độ người, mà người phải tự độ ḿnh”.
Bữa nay tạm mượn một chương sách Luân Hồi Du Kư để tŕnh bày “cái đạo chúng sinh tự độ ḿnh thành Phật”. Từ ngàn xưa tới nay, chúng sinh trên đời thường cá lớn nuốt cá bé, người giết chóc người, người tàn sát thú để ăn thịt uống máu, nên tính linh của người và thú lẫn lộn, khiến thân tâm người càng ngày càng biến đổi.
V́ trong cơ thể người có máu thịt các loài cầm thú, huyết khí của người và thú không thể điều ḥa, tự nhiên sinh bệnh tật. Cho nên những kẻ ăn thịt, tính linh họ và thú dễ bị hỗn độn, ảnh hưởng tới tâm tính người, khiến ḷng người đời nay không bằng người đời trước, khắp nơi thấy toàn hiện tượng mặt người dạ thú.
Nhất là con người sống ở xă hội văn minh, lại c̣n có nhiều hành vi dă man hơn đâu hết, đă từ lâu con người đă xâm phạm lănh vực đời sống loài vật, làm tổn hại sinh linh chúng quá nhiều, cho nên mối tương quan của đạo sống giữa người và vật không c̣n tốt lành đẹp đẽ, tính linh của người bị ảnh hưởng nghiệp lực hạ cấp, đọa lạc vô cùng, ngày đạt đạo thành Phật quá xa.
Bởi vậy người muốn thành đạo phải đoạn tuyệt ác nghiệp với loài vật, cữ ăn mặn, giới sát sinh, chỉ lo phóng sinh để hoàn thành nhân tính thanh tịnh, lo thực hiện trách nhiệm giúp đỡ loài vật thành đạo, tự nhiên ngày càng gần Phật.
Dương Sinh: Kính mong Bồ Tát giảng dạy rơ thêm về phương pháp giới sát, ăn chay, phóng sinh cùng giúp đỡ loài vật thành đạo để chúng sinh theo đó mà tuân hành.
Bồ Tát: Được, ta sẽ thuyết minh từng điểm một như sau:
1. Giới sát: Tất cả động vật đều có tính linh có máu lệ, có khổ đau, có t́nh cảm, căn cứ theo tinh thần từ bi bác ái th́ không nên giết hại chúng. Mạnh Tử nói: “Người quân tử tránh xa bếp núc” tức là không nên sát hại, không nên nh́n sự chết chóc, nhân loại đă có ḷng yêu mến bảo vệ loài vật, th́ giữa người và người không c̣n hành vi tỵ hiềm chém giết, do đó sự giới sát động vật là nền tảng bồi dưỡng đức nhân của người quân tử.
2. Giới thực: Ngoài việc giới sát ra c̣n phải cữ ăn mặn, bởi v́ có ăn chay mới tự giúp ḿnh bớt sát sinh, ngũ cốc rau trái rất tốt đối với cơ thể con người. V́ các loài súc sinh không tắm rửa, thân xác dơ dáy đầy vi trùng, ăn thịt chúng dễ mắc các chứng bệnh ngặt nghèo, thầy thuốc bó tay, cuối cùng chịu thác.
Vả lại ăn xác thú dễ bị hồn thú nhập vào ḿnh, khiến tinh thần bất an, cơ thể bệnh hoạn. Mong người đời bỏ ăn mặn chỉ ăn chay, càng giảm thiểu sự ăn uống bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Không c̣n cảnh cá lớn nuốt cá bé, th́ ḷng người cũng hết c̣n tham ô xảo trá, chiếm đoạt.
3. Phóng sinh: Thực hành được giới sát ăn chay không chưa đủ, mà c̣n lo phóng sinh loài chim cá khi chúng gặp họa chết chóc, phải nghe theo tiếng gọi của ḷng từ bi trắc ẩn mua chúng về phóng sinh, để chúng được sống lại cuộc đời tự do, cứu những con vật sắp bị giết, ơn cứu mạng của chúng đối với ḿnh vô lượng.
Có kẻ nói, bọn chúng chuyển kiếp đầu thai làm loài thú là v́ kiếp trước nghiệp quá nặng, nên giết chúng cũng phải, quan niệm như vậy là sai, bởi người có ḷng nhân bao giờ cũng sẵn sàng tha thứ những lỗi lầm của kẻ khác, loài khác, hơn nữa ta thấy kiếp này chúng chẳng c̣n khả năng cùng ư muốn hăm hại một ai.
Đă biết lo phóng sinh, cùng cứu sống loài vật, th́ khi đối xử với người lượng từ bi cũng tự nhiên mở rộng, sự nhẫn nhục sẽ khuất phục được cá tính không tốt lành. Sự bàn luận về tính linh thanh tịnh vừa rồi, cho thấy sự quan trọng là phải bồi dưỡng đạo tâm, muốn bồi dưỡng đạo tâm th́ phải tu đạo, kiêng sát sinh, cữ ăn mặn nhất là phải phóng sinh.
Phương thức giúp loài vật thành đạo đề cập tới trong sách Luân Hồi Du Kư, chan chứa t́nh thương yêu đùm bọc, tiếng kêu trầm thống của loài vật càng vang dội xa, càng có cơ hội giúp chúng tạo công chuộc tội.
Chúng sinh muốn sạch nghiệp thành Phật, phải phát nguyện ấn tống sách Luân Hồi Du Kư để khuyên răn người đời, để người đời được rơ loài vật vốn từ người biến hóa ra, chúng có quyền được sống b́nh đẳng ngang loài người trên trái đất.
Có thực hiện được lẽ công bằng này mới trừ sạch được bạo lực cùng giết chóc, biến thế giới ta bà thành nước Phật hoa sen, người và vật chung hưởng thái ḥa, là bầu bạn với nhau, vật giúp người làm việc, cùng được sống b́nh an, cơi trần là cơi tiên, có như vậy nguyện ước cứu độ tất cả chúng sinh của ta mới mau chóng hoàn thành.
Tế Phật: Lời dạy của Bồ Tát quả là những tiếng chuông từ bi hỷ xả vọng về từ cơi Phật xa xôi.
Bồ Tát: Cũng may các đệ tử của cửa Phật hiện nay đang hô hào giới sát, chúng sinh mỗi lúc một đông, bài văn giới sát của đạo sư Liên Tŕ giúp ích rất nhiều cho chúng sinh, Lư Viên Tĩnh một đệ tử của Phật, qua bài Hộ Sinh Thống Ngôn (Tiếng kêu cứu sống thương đau) đă cảnh tỉnh đời không ít, quả đă có công cải tử hoàn sinh.
Dương Sinh hăy chép vào sách Luân Hồi Du Kư để được rộng đường khuyên răn người đời.
HỘ SINH THỐNG NGÔN
Tiếng kêu cứu sống đau thương
I. Đức lớn của trời đất gọi là “cứu sống”, ác lớn của người đời gọi là “giết chóc”. Hai câu nói của người xưa nhắn lại với người sau nghe thực là thống thiết. Chúng ta đều biết rằng sinh mệnh là cái quư nhất trên đời, sát sinh là sự bi thảm vô cùng của thế gian.
Chúng ta đọc sách, đọc tới h́nh phạt thứ năm trong số ba ngàn, th́ tội chết là lớn nhất, thế mới biết kẻ gian phạm là kẻ ác tột đỉnh, tội chúng ngập trời, chỉ c̣n đổi mạng sống mới đền nổi tội mà thôi, ngoài ra không c̣n cách nào khác.
Song ngược lại trường hợp phạm tội sát sinh loài vật vẫn vô hại, vẫn không phải đền mạng, được luật trời bao dung, luật nước không nói tới, khiến con người tàn sát dă man để lấy xác ăn, để làm tṛ chơi vui mắt.
Thương ôi! Trần gian tội ác ngập tràn, không sớm phát huy công lư, hẳn là c̣n măi gia tăng. Các loài vật ở thế gian tất cả đều có sự sống, từ người đến muôn loài, từ dưới nước bơi lội, trên cạn chạy nhảy, giữa trời bay lượn, tuy thân ḿnh to nhỏ không đều, song tính linh cùng một loại.
Hoặc nói khác đi, loài vật không giống h́nh người song tính vật chẳng khác tính người, loài nào cũng biết yêu sự sống, biết sợ cái chết. Bởi vậy được may mắn làm người th́ phải biết xử với vật như xử với người, chớ có thấy vật khác người mà sinh ḷng phân biệt.
Căn cứ ở điểm này ta thấy rằng cần phải có một nguyên tắc căn bản tối thiểu, đối với sinh vật trên trái đất, bởi lẽ tất cả đều hít thở sinh khí của trời đất như nhau, th́ tuyệt đối không được kỳ thị.
Thử nghĩ khi ta nhổ một cọng lông th́ toàn thân rúng động, lấy ngải đốt châm vào da thịt toàn thân đau đớn, hẳn rơ rằng một mà là tất cả, tất cả mà chỉ là một, sự sống của muôn loài là sự sống của ta, huyết khí hoàn toàn tương đồng th́ đau đớn, há chẳng tương quan sao? Người là loài linh thiêng của muôn loài.
Mới hay trời đất sinh ra một giống thông minh biết quư trọng mạng sống gọi là “người”, sinh ra nhiều loài ngu xuẩn khinh rẻ mạng sống gọi là “vật”, cùng hưởng sinh khí cùng sống trên đời, cũng như người ta sinh con cả, con thứ và con út, tuy có sự phân biệt cả, thứ, út song cùng chung cốt nhục, cùng chung ḍng máu thắm thiết.
Chỉ v́ trí lực của người đủ khống chế đời sống vạn vật, khiến nhiều kẻ mê lầm nghĩ rằng trời sinh ra vạn vật cốt để cho người giết chóc ăn thịt, hẳn là vô lư chẳng cần bàn căi. Hổ lang gặp người liền ăn thịt, há cũng tin được là trời sinh người để hổ lang ăn thịt chăng?
Sự dinh dưỡng của con người có ngũ cốc rau trái quả là đầy đủ, trời ban cho người như vậy không lẽ không hậu đăi hay sao, mà lại c̣n đi ăn thịt loài vật, chỉ hoàn toàn lợi dụng tính mệnh của vạn vật vào vấn đề dưỡng sinh của người sao?
Nói tất cả chúng sinh đều cùng một thể, người đời phần đông cho rằng không đúng, v́ nghĩ rằng người ta ai ai cũng có cá thể, làm sao có thể tin là một thể được.
Kỳ thực người trong gia đ́nh là một thể, mẹ con là một thể, sự kiện này chứng minh một cách vô cùng xác thực, chẳng chối cải nổi, tất cả chúng sinh là một thể. Người mẹ thấy con vui th́ ḿnh cũng vui, thấy con buồn th́ ḿnh cũng buồn, thậm chí con bệnh, con chết mẹ cũng muốn bệnh muốn chết thay con.
Tất cả những bà mẹ dưới gầm trời này, ai cũng nghĩ con ḿnh và ḿnh là một thể, khiến nó thương nhà yêu nước cũng bởi tại lẽ đó, đến cả đạo thương người yêu chúng sinh chẳng khác chút nào, thầy Mạnh Tử nói: “Người đời có kẻ chết ch́m tức là ḿnh chết ch́m, người đời có kẻ đói tức là ḿnh đói vậy”.
Bồ Tát Địa Tạng nói: “C̣n một chúng sinh chưa thành Phật, ta nguyện không thành Phật”. Tinh thần này chẳng khác nào t́nh người mẹ chân thành nghĩ tới con ḿnh, có quan hệ mật thiết một hồn, một xác chẳng thể tách rời. Người này với người kia, người kia với toàn thể chúng sinh, tính chất vốn là một, chẳng qua túi da đựng ít chục cân khiến nó chia cách, trở thành ta của ta, nó của ta.
Nhưng khi túi da đựng thịt không c̣n phân chia, gặp cơ hội sự đồng tính chất của cái ta này, cái ta kia liền hợp ngay làm một, ngoài cái gốc ta bé nhỏ của một cái ta lớn lao, càng lớn lao càng hội hợp, rồi cứ lớn lao hội hợp hoài hoài, cho tới bao giờ tràn ngập hư không th́ tất cả cái ta hợp thành một thể, khi đó cái ta mới toàn vẹn, mới chân thực.
C̣n sự phân biệt cái ta nhỏ bé, cùng nhân cách đạo đức cao thấp qua cái nh́n của kẻ nhỏ mọn, cái ta đó chỉ là cái ta vỏn vẹn trong ṿng túi da đựng ít chục cân thịt, do đó mà hành vi của họ trở thành cực đoan, ích kỷ chỉ nghĩ tới lợi lộc của riêng ḿnh, khiến tội ác nẩy mầm đâm nhánh.
Tội ác giết chóc hoành hành nguyên nhân chỉ tại thiếu t́nh đồng tâm. T́nh đồng tâm sở dĩ không có nổi là bởi không có quan niệm được, là tất cả chúng sinh vốn cùng chung một thể.
II. Không kể loài nào giết loài nào, đều là việc không nên. Song người đời lại thường không nghĩ như vậy, nên chẳng chịu giới sát, nào như cảnh người giết người, người giết cầm thú, rồi cầm thú giết người, vậy thử phân tích ba cách sát sinh này, người đời cho người giết người là quan trọng nhứt, hung bạo nhứt, song người giết cầm thú lại cho là việc đương nhiên, c̣n cầm thú giết người th́ cho là kỳ quái.
Tôi mong mọi người hăy tự xét lương tâm ḿnh, rồi thử suy ngẫm về ba cách giết chóc vừa kể trên, hẳn câu trả lời sẽ cho thấy tội giết loài cầm thú là tội lớn nhất so với hai tội kia, như vậy nghĩa là tại sao? Bởi lẽ người giết nhau th́ có pháp luật phân xử hoặc có sự chống trả tự vệ, sức lực tương đương.
C̣n cầm thú giết lẫn nhau th́ hẳn là hổ báo không thể hại nổi chim bay, cá không thể hại nổi các giống trên bờ, th́ việc cầm thú hại nhau kể như cũng c̣n có giới hạn. Chỉ có người giết vật là không biên giới, dù là trên không, dưới biển, trong chốn núi rừng, đồng hoang băi vắng, bất luận ở đâu con người cũng có thể giăng bẫy buông lưới.. để bắt các loài cầm thú một cách dễ dàng.
Lớn là ḅ dê chó lợn, nhỏ là tôm cua cá mú, tất cả đều bị người giết để ăn thịt, khiến chim mất bạn bay cao, thú bỏ bầy sống cô độc quả là tội ác ḷa trời. Song v́ pháp luật không can thiệp nên người ta lại càng ham hành động một cách thích thú, ca ngợi hết ḿnh, thế mới hay người hại người c̣n có giới hạn, song người hại vật th́ không biên giới.
Xem ra như vậy th́ tội giết hại cầm thú c̣n lớn lao hơn cả tội giết người, vậy th́ tội cầm thú giết người c̣n coi là hung bạo chăng? Đă tự coi ḿnh là loại linh thiêng nhất trong muôn loài, há lại c̣n tàn nhẫn ham giết chóc được nữa hay sao? Tiếc thay người đời từ nhỏ tới lớn, từ lớn tới già luôn luôn tạo nghiệp ác sát sinh.
Người mẹ mới thụ thai ăn mừng cũng sát sinh, khi con đầy tháng cũng sát sinh, lúc con đầy năm cũng sát sinh. Lễ cưới hỏi cũng sát sinh, cúng bái thần thánh cũng sát sinh, đón khách cũng sát sinh, tiễn khách cũng sát sinh.
Ham ăn th́ lắm bệnh, chỉ v́ miệng lưỡi và bao tử mà đến nỗi phải sát sinh, một đời giết rồi lại giết, vui cũng giết, buồn cũng giết, những sinh mệnh bị ḿnh hủy diệt lên tới con số ngàn vạn mới thôi, nọc độc không giải trừ ắt hẳn có lúc lâm trọng bệnh, v́ muốn cầu được sống mà hành động lại hủy diệt sự sống, lễ mừng tuổi thọ là muốn được sống lâu mà lại sát sinh, lễ cưới hỏi muốn được đoàn tụ mà phải giết chóc.
Sinh con trai vốn là để nối dơi tông đường mà lại đi giết gà mẹ gà con, như vậy c̣n nghĩa lư ǵ? Theo lẽ thường t́nh, mỗi khi ăn mừng việc lành th́ phải cữ sát sinh mới đúng. Như mừng sinh nhật chỉ nên kể chuyện rùa hạc sống lâu, mừng sinh con trai th́ kể chuyện loài sinh nhiều trứng, chớ nên trong lúc có chuyện vui mừng mà lại bày tṛ giết chóc.
Chớ hại sự sống lâu của loài khác để làm vui cho sự sống lâu của ḿnh, loài khác phải tuyệt giống để ḿnh mừng có nhiều con trai. Cùng trong một ngôi nhà mà phía trước có tiệc tùng vui vẻ, phía sau là ḷ sát sinh, bên trên mừng vui chúc phúc, bên dưới kêu thương thảm thiết, quả khó mà chịu nổi.
Lại c̣n có kẻ lấy sự sát sinh làm tṛ chơi, lấy sự giết chóc làm khoái chí cùng chứng tỏ là ḿnh quyền uy. Ôi! Thực quả là kỳ quái. Thế mới biết người đời chỉ v́ một bữa ăn mà thành ham chém giết, cả mười con chim sẻ bị bỏ mạng mới đủ một bữa ăn, như ngao ṣ ốc hến phải giết bao trăm con mới đủ một bữa nhậu.
Xác loài vật vốn đă ngon miệng song v́ tính ham thích vị lạ, lại c̣n chế biến thành trăm ngàn món để thỏa măn sự khoái khẩu, chỉ có vậy mà cầm thú bị họa. Người đời ăn sống nuốt tươi, mổ cả bụng chửa để kiếm ăn bào thai, lột da lóc xương, có cả trăm ngàn phương cách sát hại loài vật.
Ăn cho no say rồi dương dương tự đắc, hơi chậm mang đồ ăn ra đă mắng bồi bếp, không biết rằng những vật thực trong mâm đều oán hận ḿnh vô cùng, v́ bắt chúng phải khổ đau để cho ḿnh sướng miệng, vậy mà vẫn đang tâm nuốt trôi được nữa hay sao?
Không cần phải luận về báo ứng, chỉ cần có suy nghĩ một chút, hẳn là sẽ thấy việc làm của ḿnh tàn ác nào có khác chi loài lang sói. Chỉ v́ người đời bị miệng lưỡi và bao tử đ̣i hỏi nên mới đang tâm làm chuyện ác độc như vậy mà thôi.
Trên cơi đời này, mỗi ngày có biết bao nhà trở thành ḷ sát sinh, chứa đầy dao sắc, chỉ trong khoảnh khắc trên toàn thế giới hàng vạn ức sinh linh đầu ĺa khỏi ḿnh, xác chất cao hơn núi, máu chảy thành sông biển, cảnh tượng bi thảm bày ra ngập đất, tiếng rên la hờn oán như sấm dậy rung trời, từ sớm tới tối, chỉ thấy dao sắc mổ bụng, dao nhọn moi tim, lột da lóc thịt, cứa cổ cắt họng, nhúng nước sôi, quay trong ḷ lửa, thái nhỏ ướp muối tiêu hành tỏi.
Than ôi! Khổ nạn đáng thương biết mấy, đau đớn sức nào chịu thấu, tạo nghiệp ác ngợp trời kiếp này, kết thành mối hận ngh́n đời kiếp này muôn kiếp về sau chung quy chỉ tại miệng lưỡi và bao tử mà ra cả, quả là tội quá lớn lao.
III. Nhân lễ nghĩa trí tín là những điều làm thân con người phải lo tu bổ. Có giữ được ngũ thường tức năm điều vừa nói trên mới không thẹn là mang tấm thân con người bảy thước, đầu đội trời chân đạp đất, cao lớn bằng trời đất, cùng trời đất thành ba ngôi, gọi là tam tài. Chúng ta hăy t́m hiểu cứu cánh cuối cùng của cuộc đời là ǵ? Người là loài linh thiêng nhất trong muôn loài, thử hỏi nhờ cậy được ǵ?
Bởi lẽ là người đều có năm đức tốt đẹp là ngũ thường tức nhân lễ nghĩa trí tín, cho nên không thẹn mà nói rằng ḿnh to lớn sánh cùng trời, là một trong ba ngôi. Không hổ với danh hiệu là loài linh thiêng nhất trong muôn loài, vậy mà c̣n phạm luật sát sinh th́ chẳng hóa ra đem năm đức tốt đẹp đó chôn vùi đi mất hay sao?
Xả thân kẻ khác để nuôi ḿnh béo mập là điều bất nhân, chia ĺa quyến thuộc của kẻ khác để bày tiệc khoản đăi thân bằng của ḿnh là bất nghĩa, đem thịt da kẻ khác cúng bái thần thánh là vô lễ, thân phước đức lại ăn đồ tanh hôi là bất trí, bày mưu thiết kế để kẻ khác rơi vào bẫy sập là kẻ bất tín.
Thương ôi! Người ta sống trên đời hoàn toàn nhờ cậy ngũ thường là năm đức tốt lành, điều kiện để làm người đă mất, con người có khác chi loài cầm thú, có phải là cùng loài với chúng không? Chu Ân Sĩ nói: “Nhân là đầu của ngũ thường, từ là ngọn của vạn đức” nếu như chúng ta c̣n muốn khôi phục thiên chức làm người, th́ trước hết phải lo thức tỉnh ḷng nhân từ.
Thế nào gọi là ḷng nhân từ? Tức là phải đem tâm ḿnh, cảm thông cùng muôn loài, nghĩ tới vạn vật khiến kẻ hung ác cùng cực cũng phải động tâm. Đă không tàn nhẫn với vật th́ hẳn chẳng thể ác độc với người, do đó tự cổ chí kim, kẻ đă mến vật ắt yêu người, kẻ yêu người ắt thương vật.
Tôi sở dĩ không ngại khó nhọc nói về vật chính v́ muốn quảng bá ḷng nhân từ để mọi người từ bỏ việc sát sinh, chung hưởng thái ḥa. Xin những ai ham giết chóc hăy hồi tâm suy nghĩ, nhớ lại cảnh cầm thú kinh hoàng muốn t́m đường thoát thân, giận trời không giúp thang, hận đất không bẻ khóa.
Khi chúng bị ta lùng bắt hồn tan phách lạc như ngây như dại, phải nghĩ t́nh đồng loại cũng là chúng sinh, chỉ giết một con gà cả đàn gà kinh hăi, chẳng khác nào khi đất nước chúng ta bị giặc hoành hành bày cảnh tử biệt sinh ly kinh hồn táng đởm, thử hỏi khi đó ḷng ta tan nát tới mức nào?
Nghĩ tới phút chúng sinh bị giết kêu khóc than gào, mong tha mạng sống, huyết tuôn xối xả, tiếng rên la c̣n hoài văng vẳng, nào có khác chi khi ta bị lên đoạn đầu đài, chỉ mong thần Phật cứu độ, thần thức phân ly, so lúc sống thử hỏi c̣n phân biệt được ǵ? Nếu như kẻ ăn thịt nghĩ loài cầm thú không biết nói song há lại nhẫn tâm giết kẻ câm sao? Cho cầm thú là không có lễ nghĩa, há lại đành ḷng giết đứa nhỏ đó sao?
Cho cầm thú là không ơn huệ, há lại đang tâm giết một người say điên rồ hay sao? Cho cầm thú là có ác nghiệp nặng phải đọa lạc, phải trả quả, há lại nhẫn tâm giết một kẻ bần tiện hay sao? Thương ôi! Người đời thường trách cứ các loài khác là mạnh hiếp yếu, lớn ăn thịt nhỏ, song hăy thử nh́n lại ḿnh xem nào có khác chi, vậy th́ loài người liệu có tránh khỏi bị loài vật trách cứ không?
Khi người ăn thịt loài vật đương nhiên người mạnh vật yếu, nếu như ta tha chết cho chúng hẳn là chúng ca ngợi ta không ngớt. Thế mới biết dù người hay vật cũng đều ham sống sợ chết, t́nh thương yêu đối với người thân dù vật hay người chẳng khác, lúc bị giết người và vật đều đau đớn như nhau. Điểm bất đồng có chăng là người có trí c̣n vật vô tri, người biết nói vật không biết nói, người khỏe mạnh vật yếu đuối mà thôi.
Người cho rằng loài vật vô tri không biết nói không thể tố cáo, yếu đuối chẳng thể thắng nổi ta, mà cho rằng ta hơn vật kém, ta trên vật dưới, để rồi mặc t́nh ăn thịt chúng, th́ cái lư đó chẳng phải cái lư của trời, càng không phải cái lư của người, thương ôi! C̣n biết nói sao đây.
Người ta mỗi khi gặp tai nạn xảy tới, ai ai cũng mong được cứu mạng, mắt chưa nhắm hẳn là miệng c̣n cầu xin, gặp gươm súng, đạo tặc thân xác run rẩy, tóc dựng ngược, hai hàm răng lập cập đánh vào nhau, mặt biến sắc, táng đởm kinh hồn, nếu như có người tới giải cứu, hẳn là vô cùng cảm kích ghi nhớ tới chết không quên.
C̣n như khi bắt được loài vật th́ người lại quên ngay, chẳng c̣n biết đau đớn buồn thương thống khổ là ǵ, giống như chưa từng nghe từng thấy bao giờ! Thật đáng trách những người khi bị kiến hoặc muỗi cắn liền tức giận ra tay tàn sát chúng.
Mới vừa nhức đầu đau mắt liền tới ngay bác sĩ, dược sĩ, lỡ bị thương nào như giải phẫu băng bó để cầu thoát chết. Yêu cái thân xác của ḿnh tới mức đó, tại sao vô t́nh không chút đoái hoài tới cầm thú nỡ ḷng tàn sát chúng, quả là không hề nghĩ tới lẽ trời báo ứng, pháp Phật giới cấm, chỉ biết yêu ḿnh một cách hoàn toàn ích kỷ, không biết yêu vật, hoàn toàn bất nhân bất nghĩa, hành động mưu cầu lợi ích riêng tư, không biết tới sự tự trọng mà người quân tử cần phải có.
Người đời phải đối xử với những loài yếu đuối hèn mọn bằng t́nh thương yêu đùm bọc, tuy giặc cướp tàn nhẫn, hổ lang dữ tợn cách mấy đi nữa song vẫn c̣n hy vọng chúng biết phát tâm từ bi, huống nữa con người so với loài vật có nhiều ưu điểm hơn mà lại thua kém chúng sao?
Không chịu yêu thương đùm bọc các loài yếu đuối dại khờ thật đáng chê cười, v́ đă bỏ thiện theo ác, nếu tâm dễ dàng cảm kích nhất định phải coi trọng chúng, chỉ tại ḿnh suốt đời không chịu làm thiện nên t́nh thương yêu mới bị thui chột, mới không chế phục nổi tánh ác, do đó mới đàn áp coi thường loài vật.
Ỷ mạnh hiếp yếu, cậy đông đè ít, hành động ác độc đê hèn đó là mầm móng gây ra tất cả những tội lỗi trên cơi thế gian này. Căn cứ vào đó mà quan sát nhân loại, th́ mới thấy rằng nếu như không sửa đổi cách cư xử đối với loài vật chắc chắn có ngày tư cách của người không được bằng chúng, khi đó loài người sẽ bị sỉ nhục biết là bao.
Sở dĩ thánh nhân ban bố giáo pháp là v́ coi trọng nhân nghĩa, nhân nghĩa sẽ giúp ḿnh tiến bộ bằng người, khuyến khích ḿnh đem ḷng yêu thương loài vật. Gần đây thế giới có xuất hiện một thiên sách làm rung động nhân loại do hội bảo vệ loài vật công bố, nội dung chủ trương “Hăy mở rộng t́nh thương đối với loài vật”.
Lương tâm con người đă bị băng hoại, v́ vậy cần phải mau mau phục hoạt, để loại trừ tính bất nhân, vị anh hùng vô danh đó đă phát tâm từ bi vô lượng để mở những cánh cửa ḷng bằng sắt khép kín, sức mạnh của quư vị đó vô cùng lớn lao khi nêu ra mười vấn đề:
1) Những năm chiến tranh trước đây chúng ta đă trốn lánh, may nhờ trời đất che chở mới sống c̣n. Giả thử khi đó bị giặc đuổi gắt, sắp bắt được ta, nếu như ta tránh được khỏi tay giặc th́ ta sẽ nghĩ sao, liệu có khỏi kinh hoàng sợ hăi không?
2) Giả sử ngày ấy giặc bắt được, trói ta như heo dê, biết chắc sẽ bị giết, th́ ta sẽ nghĩ sao? Liệu có tránh khỏi loạn óc không?
3) Giả sử ngày ấy nh́n thấy bạn ta bị giặc tàn sát, máu đổ thịt rơi, ta sẽ nghĩ sao, liệu tinh thần có khỏi khủng hoảng thất kinh không?
4) Giả sử ngày ấy nh́n thấy người thân bị giặc trói lại lấy dao đâm mà không cứu nổi th́ ta sẽ nghĩ sao, liệu có tránh khỏi thống khổ không?
5) Giả sử ngày ấy, cái chết đến với ta, chân tay rụng rời, lớn tiếng kêu cầu, cứ ngoắc ngoải hoài chẳng được chết ngay, ta sẽ nghĩ sao, liệu có khỏi oán hận chăng?
6) Giả sử ngày ấy, gần gũi cái chết, chợt giặc tha không giết ta, thử hỏi ta sẽ nghĩ sao, có vui mừng được thoát chết hay không?
7) Giả sử ngày ấy, không thù không hận mà giặc cứ muốn giết ta, thử hỏi ta sẽ nghĩ sao, có khỏi oán giận giặc không?
8) Giả sử ngày ấy, giặc tha ta sống, chỉ bắt làm tù binh, đương hy vọng được cứu thoát chết, chợt có một tên giặc lại tuyên bố là ta đă tới lúc tận số rồi, đem ra xử tử, thử hỏi ta sẽ nghĩ sao, có oán hờn không?
9) Giả sử ngày ấy, trong đám bạn hữu bệnh hoạn, đáng lư là phải được phóng thích, song lại có một tên giặc kết án các bạn ta là những đồ phế thải, phải đem giết đi, chẳng để chúng sống làm ǵ, thử hỏi ta sẽ nghĩ sao, có khỏi phẫn nộ chăng?
10) Giả sử ngày ấy, trong hàng quyến thuộc của ta phần lớn là những trẻ thơ, đáng lư phải được phóng thích, song có một tên giặc lại tuyên bố là những trẻ nít không giết cũng chết, chi bằng hăy ăn thịt chúng, thử hỏi ta sẽ nghĩ sao, có khỏi oán giận không?
Ta hăy thử suy nghĩ lại những điểm nêu trên một cách thật kỹ càng đi. Nếu như tất cả mọi người đều tự vấn lương tâm để t́m hiểu, th́ hẳn đều rơ là ḿnh chỉ v́ cái miệng và bao tử mà nỡ ḷng giết cầm thú cùng các loại cá mú tôm cua, đặt chúng nằm trên thớt, lấy dao băm vằm mổ xẻ bỏ vào nồi.
Thử nghĩ chính thân ḿnh quyến thuộc ḿnh, bằng hữu ḿnh mà phải lâm vào cảnh ấy th́ hẳn ḿnh khổ sở biết bao, nói chẳng nên lời, thoáng giây hồn ĺa khỏi xác, thử hỏi lúc đó ḿnh sẽ nghĩ sao đây!
Hăy đem tâm so sánh với tâm, cùng những điều vừa tŕnh bày. Thêm một cái ví dụ khi bị giặc bắt chín phần chết chỉ c̣n một phần sống, may mắn vừa được lệnh ân xá, song lại bị giặc bác liền, đem đi xử tử, trước cảnh tượng này sẽ nghĩ sao đây? Chắc hẳn mọi người sẽ đồng thanh trả lời:
"Chúng ta thề sẽ giới sát, không làm phước chắc chắn gặp nạn v́ chính thân ḿnh biết sợ khổ, sợ chết th́ trí ḿnh hẳn là đă sáng, việc mượn thân xác loài khác để nuôi ḿnh béo mập chẳng hề suy nghĩ kỹ càng quả là bất nhẫn. Tâm này nguyện giữ ǵn trong sáng, làm được như vậy linh hồn chúng ta đă hoàn toàn thức tỉnh rồi đó".
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 846 of 1146: Đă gửi: 25 November 2010 lúc 6:25am | Đă lưu IP
|
|
|
LUÂN HỒI DU KƯ
HỒI HAI MƯƠI (TIẾP THEO)
QUAN ÂM CỨU KHỔ DỰNG NHIỀU T̉A SEN ĐÁ
NHÂN LOẠI LÀM LÀNH GIỚI SÁT LO PHÓNG SINH
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 8 tháng 12 năm Tân Dậu 1981
IV. Người trần nếu như một đời tâm không dấy niệm giết chóc chỉ lo phóng sinh loài vật sẽ bảo vệ chính ḿnh sống c̣n một cách chân chính; cứu được một con vật khỏi chết chẳng khác nào ḿnh được cứu tử, làm như vậy tất cả chúng sinh tự nhiên không c̣n sợ hăi.
Mỗi ngày mười hai giờ, mỗi giờ sáu mươi phút chúng ta phải lo phóng sinh cứu tử, chớ chậm trễ, sợ rằng loài vật không kiên nhẫn chịu đựng nổi sự nguy khốn; chẳng thể phó thác cho kẻ khác, sợ rằng loài vật sẽ bị hại bởi họ; không được hẹn lần sợ kẻ ḷng tham bắt mất loài vật; không thể tin là chỗ đó yên ổn, sợ rằng kẻ ham ăn thịt loài vật ḍ la thấy được.
Gặp trước mắt phải mua liền và phóng sinh ngay; ở chốn đồng hoang phải thả thật xa, kẻo trước sau cũng bị người ta bắt giết, th́ cơ hội sống sót mới tăng dần. Bầu khí thái ḥa không chỉ ở ngoài vũ trụ mà c̣n chan chứa trong cái ḿnh nhỏ bé của chính ta. Chớ nghĩ rằng giết một thân xác nhỏ bé như con sâu cái kiến là vô hại hay cứu sống con giun con dế là vô ích.
Chớ sợ phiền toái mà ngại làm việc thiện, chớ thấy vật giá mắc mỏ mà phế bỏ thiện duyên, phải biết một vật nhỏ mọn cũng không phải là nhỏ, tất cả chúng sinh cũng không phải nhiều, ruồi muỗi không bé, trâu ḅ không lớn, một xu cũng đủ, ngàn vàng không dư, chỉ tại tâm ḿnh c̣n tham muốn mà thôi.
Chúng ta càng không lưu ư tới loài vật th́ sự tàn ác càng xảy ra nhiều, bởi vậy ta phải luôn luôn khuyên nhủ hàng xóm láng giềng, kẻ thân người thuộc bỏ dần tính sát sinh, nuôi dưỡng ḷng trắc ẩn, nếu như khiến được mọi người lưu tâm, hẳn là ta đă lập được công đức lớn lao.
Người đời thường quan niệm chỉ cần tâm hiền chẳng cần ăn chay, thử hỏi ḷng lang dạ sói ngập trời đầy đất, ăn cả thịt họ th́ họ nghĩ sao? Tâm hiền của họ có giải quyết nổi vấn đề không?
Đại khái tâm bất nhẫn đă là người ai cũng có, v́ vậy khi nh́n thấy đồ tể giết chóc mà không kinh hăi, là v́ ư nghĩ những con vật đó ḿnh cũng sẽ ăn, chung quy chỉ tại người đă chẳng chịu bỏ tật ăn mặn, đổ tội cho người khác gánh, cốt sao ḿnh được no béo sướng miệng mà thôi.
Đâu có phải chỉ một ḿnh kẻ bán mà cả người ăn cũng mang tội, phải biết là nguồn thực phẩm của trời đất cung cấp cho người ăn như các loại ngũ cốc, trái cây, rau đậu dưới nước cũng như trên cạn hiện thời nhiều vô số kể.
Người đời lại c̣n có phương pháp chế biến rất tinh vi khoa học để có được những món đồ chay ngon lành bổ dưỡng không kém đồ mặn, mà tại sao lại c̣n giết chóc những loài cũng có khí huyết, có t́nh mẹ con, có tri thức, cảm giác như ḿnh để ăn thịt!
Tàn sát biết bao sinh mệnh cốt chỉ để ăn cho sướng miệng, nhưng sau khi buông đũa bỏ chén, sự khoái khẩu đó cũng chẳng c̣n, mà nghiệp sát sinh th́ phải đeo mang măi măi, há không phạm tội sao? Người đời ăn đồ mặn mắc tiền bị nhiễm độc phải trả giá mạng sống cũng chẳng rẻ nào, nên lấy chay thay mặn, lấy sống thay chết, một được một mất, sự sai đúng khác nhau muôn phần.
Ăn chay đương nhiên tâm ta được yên ổn vô cùng, lợi ích cho thân ta vô hạn. Những năm gần đây việc ăn chay ở các nước coi có vẻ đă thịnh hành, t́m hiểu nguyên nhân th́ thấy các nền khoa học đều tiến bộ, đă chứng minh rằng giữa việc ăn thịt với ăn rau th́ việc ăn chay có lợi hơn, đă cảnh giác người đời rất nhiều.
Mạng sống ḿnh ai mà chẳng quư, nên việc ăn chay ngày càng phổ biến, nhất là tại Hiệp Chủng Quốc sự ăn chay cũng rất thịnh hành, các khóa giảng giải về việc ăn chay tuy chưa được triệt để song cũng đă trở thành hiện tượng, cải biến được nhiều hủ tục tập quán.
Để bảo vệ sinh mệnh ta chủ trương nhất định không ăn thịt, phải bất b́nh trước vấn đề ăn mặn là thiếu vệ sinh, nếu cần bàn căi có nên ăn thịt hay không ăn thịt th́ phải lí luận thật đanh thép để chứng minh cho thấy là ăn thịt rất có hại, ăn chay rất có lợi, th́ nền tảng giới sát mới được xây dựng, tiếng kêu gọi giới sát bi thiết sẽ đánh động lương tâm mọi người.
Tŕnh bày một cách khoa học cho người ta thấy về cái hại của sự ăn thịt, để giảng giải thêm về sự độc hại của việc ăn mặn xin tŕnh bày một cách vắn tắt như sau:
a) Một hóa học gia người Pháp đă khám phá ra rằng trong thịt của các loài cầm thú đều có ít nhiều loại vi sinh vật độc hại, lúc cầm thú bị đau đớn tột cùng, tiết ra độc tố rất nhiều, trong khoảnh khắc lan tràn khắp cơ thể, nếu như ăn phải thứ thịt này, ắt hẳn bị tai hại lớn.
Một tâm lư gia người Mỹ tuyên bố: “Lúc tâm lư con người biến đổi mạnh th́ có các loại vật chất hóa học tương ứng tiết ra ngoài cơ thể, như khi giận dữ mồ hôi toát ra, c̣n lúc bi ai th́ chất toát ra lại là khác, cũng giống như khi mở miệng than gào th́ luồng khí trong cơ thể toát ra, mỗi trường hợp biến hóa đều khác nhau.
Lúc b́nh thường ta lấy một ống thủy tinh lạnh hà hơi vào, hơi đó ngưng đọng thành nước trong suốt, không có màu sắc, nhưng khi phẫn nộ lại khác hẳn. Khi giận dữ khí thổi ra trong năm phút đă ngưng đọng thành sương trong ống thủy tinh, lại c̣n có màu sắc và đóng cặn.
Người ta dùng phương pháp đó thí nghiệm các loại t́nh cảm của con người. Kết quả cho thấy sự giận dữ hóa thành loại vật chất có sắc chim diều hâu, sự bi thảm hóa thành thứ vật chất màu tro, sự hối hận hóa thành thứ vật chất màu đá”.
Về sau hóa học gia đó lại thực nghiệm một cuộc thí nghiệm khác, bằng cách lấy chất nước của một kẻ đang giận dữ chích vào một vật khác, tinh thần nó liền có sự phản ứng kịch liệt cùng nổi giận ngay. Lại lấy chất nước đó của một kẻ chuyên đố kỵ chích vào ḿnh heo, ḿnh chuột chỉ ít phút sau chúng liền lăn ra chết.
Căn cứ theo kết quả của những cuộc thí nghiệm, th́ sự giận dữ làm hao tổn tinh lực trong ḿnh rất nhiều v́ chất nước tiết ra rất phức tạp, rất độc địa. Cho trẻ con bú vú mẹ lúc người mẹ đang phẫn nộ th́ thật quả là bất hạnh bởi đứa nhỏ có thể sinh bệnh do t́nh cảm bất măn của người mẹ đă là nguyên nhân chính sinh ra độc tố.
Xem như vậy th́ sự oán hờn của một bát canh thịt quả thật sâu như biển, miếng thịt gắp trên đũa nỗi hận thật khó mà phê phán, song ngày ngày theo thói quen không ngớt nuốt vào đầy bụng. Ôi! C̣n biết chạy chữa cách nào, nguy hiểm thay, nguy hiểm thay!
b) Hiện tại có một số y học gia dùng kính hiển vi t́m thấy trong thịt của các loài cầm thú đều có ít nhiều loại vi sinh vật độc hại, do đó kẻ ăn thịt thường bị nhiễm các loại vi trùng đó, nhẹ th́ bệnh hoạn, nặng th́ vong mạng.
Trong thịt heo, thịt ḅ đều có nhiều vi trùng, giới y học Mĩ quốc mở cuộc thí nghiệm để điều tra tuyên bố kết quả như sau: “Người ăn thịt phần đông mắc bệnh” nhất là bệnh phổi, thổ tả, thực khách thường hay bị nhất. Bên Anh quốc trước đây bệnh đau nhức khớp xương cho là tại rượu, song hiện nay th́ đă biết rơ là tại thịt.
Chúng ta phải biết rằng ăn thịt cơ thể sẽ có nhiều độc tố, khiến máu lưu thông chậm chạp, năo bộ sinh hoạt bất b́nh thường nên dễ sinh chứng bệnh đau thần kinh. Ăn thịt sức đề kháng trong cơ thể bị tiết giảm nên bị bệnh phù thũng, ăn thịt uống rượu quá nhiều dễ khiến thận nóng.
Tóm lại tôi chẳng muốn dài ḍng luận bàn cùng quư vị về y học, mà chỉ muốn nêu một số bằng chứng cụ thể để quư vị rơ ăn thịt quả đúng là có hại nhiều hơn có lợi, điều đó hoàn toàn chính xác. Ngày hè nóng nực, đồ mặn dễ bị thiu thối, thịt đóng hộp lại càng dễ bị rỉ sét, tất cả đều cho thấy ăn thịt rất nguy hiểm.
Đây chỉ nêu một số ví dụ thông thường, tôi chẳng cần phải nêu nhiều bằng chứng, song cũng đủ thấy rằng kẻ ăn thịt vô h́nh trung đă tự chuốc biết bao loại vi trùng thối tha tanh tưởi vào trong cơ thể của ḿnh. Than ôi! Thế mới biết kẻ băng rừng, vượt suối thường gặp nhiều cọp dữ, quả là đáng sợ, đáng sợ.
Tôi xin phép tiếp tục tŕnh bày thêm về lợi ích của việc ăn chay, mục đích của sự ăn uống là để dưỡng sinh, sở dĩ chúng ta phải dùng đồ ăn là cốt mong có tinh lực, mà tinh lực do ánh sáng mặt trời tạo ra, chỉ có loại thực vật sống trong khoảng trời đất là biết lợi dụng nhiệt độ của ánh sáng mặt trời mà hấp thụ nguồn tinh lực đó một cách trực tiếp.
Nên chỉ có hạt mầm cây cỏ là thừa hưởng được nhiều kho trời chung vô tận đó mà thôi. Nếu đem phân tích chất bổ dưỡng trong thịt, ắt thấy thịt có chất ǵ th́ rau cỏ ngũ cốc cũng có đầy đủ các chất đó, song có cái lợi lớn hơn là dễ tiêu hóa.
Ví dụ nếu đem phân chất loại đậu nành th́ thấy chất đản bạch chiếm tỉ lệ tới bốn chục phần trăm, c̣n trong thịt chỉ có hai chục phần trăm mà thôi. Chất đản bạch của thịt lại khó tiêu hóa là v́ cơ cấu tổ chức cơ tạng của động vật đă sử dụng mất một phần nên chất đản bạch đă bị giảm thiểu.
Bởi vậy đem đồ mặn sánh với đồ chay mới thấy chất đản bạch trong đồ chay rơ ràng là phong phú hơn. Thực vật sinh trưởng giữa trời đất, được gió sương mưa nắng cùng ánh sáng mặt trời tưới tắm nuôi nấng rất đầy đủ chất dưỡng sinh cho người dùng, th́ cớ sao ta lại để máu thịt dơ bẩn thối tha của loài động vật làm hại cơ thể ḿnh.
Nếu như so sánh giữa việc ăn mặn và ăn chay, chúng ta sẽ thấy rơ ràng có sự phân biệt là ăn chay được trường thọ, ăn mặn chóng chết; ăn chay thị dục lợt, ăn mặn thị dục đậm; ăn chay thần trí trong, ăn mặn thần trí đục; ăn chay đầu óc mẫn tiệp, ăn mặn thần kinh tŕ độn; ăn chay sức lực được dồi dào, ăn mặn sức khỏe yếu kém.
Ăn chay huyết dịch trong, sức đề kháng mạnh mẽ, ăn thịt huyết dịch đục, dễ bệnh hoạn. Những hội thể dục quốc tế khi tranh tài, kẻ ăn chay phần đông thắng cuộc, đó là một chứng minh đă cho thấy rơ. Vậy thời muốn xây dựng sự nghiệp, bất luận cá nhân hay quần chúng, không phải chỉ những kẻ khí huyết thô bạo mới nắm chắc phần thành công.
Người xưa nói rất đúng: “Kẻ ăn thịt thô bỉ”. Vậy muốn lập chí để trở thành người đường đường chính chính, trước hết phải bỏ ăn thịt, tập ăn chay, không những ích lợi cho cơ thể mà c̣n cho cả tâm hồn nữa. Tóm lại chắc chắn kẻ ăn chay thân tâm thường an lạc.
V. Đây là chương sau cùng, tôi là một tín đồ Phật giáo nên chỉ luận bàn về điểm quan trọng của việc cấm sát sinh theo pháp Phật chủ trương. Giới sát ăn chay, vốn không phải chỉ Phật giáo quan niệm, phàm những chủ thuyết coi trọng nhân đạo đều đề cập tới, và bao gồm cả lư thuyết lẫn thực hành.
Những điều tŕnh bày ở trên, đều bàn theo lập trường chủ nghĩa nhân đạo, song Phật giáo cấm sát sinh c̣n có lư do quan trọng khác, theo giới luật của Phật giáo th́ ngũ giới, thập giới, hai trăm năm mươi giới tỳ khưu, bồ tát giới đều lấy giới sát làm đầu, nếu muốn làm thiện đều phải bắt nguồn từ đó.
Người đời đều nghĩ rằng ḿnh ăn thịt có ai hài tội đâu, cớ sao lại sợ? Than ôi! Thứ tâm địa đó chẳng thể nào bàn căi nổi, bởi v́ ḷng họ vốn đă điên đảo coi thường luật lệ, khinh rẻ sinh mệnh. C̣n chúng ta là người biết giới sát để bảo vệ mạng sống cũng chỉ v́ có chút lương tâm chớ có phải v́ luật này luật nọ cấm đoán đâu.
Giờ đây nếu như không xét lại bản tâm, buông bỏ tất cả tới lúc cơ duyên mất đi muốn cải đầu hoán diện, thân xác tuy c̣n không làm sao thực hiện nổi? Đă có mắt tai thử hỏi nh́n nghe được ǵ? Đă có lục phủ ngũ tạng thử hỏi nh́n nghe được ǵ?
Thưa quư vị, chớ cậy có thân trăm năm, v́ cái chết tới chỉ trong chớp mắt, thật là rợn ḿnh! Ai ai cũng biết rằng kiếp này làm người, song đều quên kiếp trước ḿnh từng là loài ǵ! Kiếp sau ḿnh là giống ǵ! Phật có dạy:
“Những chúng sinh bị ta giết kiếp này, phần lớn là người thân của ta kiếp trước”. Quả là lời thống thiết, đúng là lí chân xác. Phật c̣n dạy tiếp: “Người nào cũng có tâm thức là ruộng, một niệm thiện ác dấy lên là hạt giống, nếu như tâm giới sát dấy lên một niệm thảy đều hạt gieo vào ruộng, thành mầm luân hồi muôn kiếp”.
Các chúng sinh bị giết, niềm phẫn uất dấy động cũng là hạt giống gieo vào ruộng thức, thành mầm oán hận luân hồi muôn kiếp, đời nọ nối tiếp đời kia vay trả trả vay không bao giờ dứt. Đại sư Liên Tŕ nói:
“Nay ta buồn đau mà bày tỏ với thế nhân rằng, ta chẳng dám bắt các người ăn chay, chỉ khuyên các người giới sát thôi, v́ hễ nhà nào giới sát được, thần thánh liền bảo hộ, tai họa tiêu trừ, sống lâu trăm tuổi, con cháu hiếu thảo thuận ḥa, phước lộc vô biên không thể tả nổi”.
Lời dạy về lẽ nhân quả trên đây thực là chí lư, mọi người phải ghi nhớ kỹ để rồi nghiêm chỉnh thực hành. Thế nào gọi là nhân quả? Tôi xin trích dẫn hai đoạn dưới đây để trả lời và đồng thời cũng để thay thế phần kết cho bài này.
“Tất cả các sự vật trên đời đều bị chi phối bởi luật nhân quả tuần hoàn, sự sống chết thọ yểu, phúc lộc họa hoạn, gặp gỡ thịnh suy của người cùng sự hưng phế của một quốc gia đều không phải ngẫu nhiên xảy tới, từ không mà có.
Người xưa nói: “Tích thiện hưởng phước, tích ác chịu họa” đó là lẽ nhân quả vậy. Lẽ nhân quả này với lẽ số mệnh là một, như một cộng một là hai, ba nhân ba là chín, đều có một kết số nhất định, nhân nào quả nấy. Nhân đă thành h́nh th́ quả đương nhiên xuất hiện, quả nặng nhẹ bao nhiêu chắc chắn nhân cũng y như thế.
Lẽ nhân quả đơn giản này người đời ai ai cũng hiểu, c̣n lẽ nhân quả phức tạp cũng khó tŕnh bày. Một cái nhân gieo xuống nếu như không tương ứng nhất định sẽ tạo một nhân khác cộng với cơ duyên trước đó tất nhiên sẽ được tương ứng, lẽ nhân quả này thực chẳng đơn giản mà là phức tạp vậy.
Sự biến đổi phức tạp muôn phần ở cơi thế gian hoàn toàn tương ứng với sự biến đổi phức tạp muôn ngàn trong nội tâm con người, bởi vậy mới có cảnh sáu ngả luân hồi, muôn ngàn khác biệt bày ra, và bởi tâm niệm của người không một phút giây lắng đọng là nhân nên mới phát sinh thiện ác là quả.
Sở dĩ có hiện tượng ân đền oán trả dài ngắn trước sau là do nghiệp nhân chuyển biến. Nghiệp nhân đă có cơ hội biến đổi theo thời khắc th́ quả báo cũng tự nhiên có khả năng biến đổi theo thời khắc. Sự vật biến đổi muôn h́nh vạn trạng, nhân nhân quả quả, như chủ nợ đuổi theo con nợ, kẻ mạnh nắm lấy, thiện ác cuối cùng đều báo đáp, chỉ sớm hay muộn mà thôi.
Giống như trồng dưa được dưa, trồng đậu chắc chắn đúng y như vậy”. “Phật dùng mắt huệ nh́n thấy mười phương ba cơi, cho nên khi giảng về nhân quả báo ứng, mỗi lời mỗi đúng, cái nh́n cái biết của Phật vượt hẳn thời đại, bao quát muôn ngàn kiếp, giống như chúng ta nh́n thấy sự việc đang diễn ra trước mắt hết sức rơ ràng.
Song mắt chúng ta là mắt thịt, chỉ nh́n thấy những ǵ thuộc về vật chất giữa không gian, chẳng thấy nh́n thấy nhân quả siêu thời gian. Mắt thịt thấy vật, chẳng cần bàn rơ ra sao, như bị tờ giấy che ngăn, không thấy được những ǵ phía bên kia tờ giấy.
C̣n như nhân quả siêu thời gian, càng chẳng thể nói rơ nổi. V́ chúng sinh sống trong cảnh luân hồi, sống chết ràng buộc, thần thức biến dịch, ngũ uẩn bưng bít, giống như con ngựa bịt mắt, chỉ biết đời này, chẳng rơ tiền kiếp hậu kiếp ra sao.
Chúng ta phải biết là đạo trí tuệ và tri thức khác nhau, trí tuệ tự nhiên đại giác, chiếu sáng cùng khắp, tất cả các pháp xuất thế của thế gian đều rơ ràng, thấu triệt. C̣n phạm vi tri thức chỉ có thể suy nghĩ tính toán những việc trước mắt thuộc về đời, người thường cũng hiểu nổi, v́ sờ thấy, nghĩ tới được.
Những môn học hiện giờ trên thế giới như khoa học, triết học, chúng ta là đệ tử của Phật không phản đối mà c̣n khuyến khích, đến như đem lại tri thức này phê b́nh đánh giá cùng phỉ báng thuyết nhà Phật th́ không thể được. Chúng ta hiểu phương pháp khoa học là tự nhiên trong thực nghiệm, thái độ của nhà khoa học là phải thực tế chứng minh được rồi sau mới tin, song biết dùng phương pháp thực nghiệm nào?
Hay là lại đem ngũ quan ra làm công cụ để thí nghiệm chăng? Bất cứ dùng phương pháp nghiêm mật cùng khí cụ tinh xảo tới đâu tất cả đều không thể vượt qua phạm vi của ngũ quan. Thử hỏi ngũ quan có thực chính xác không? Có thể xác định được tiêu chuẩn bất di bất dịch không?
Ví dụ như phân, người ta cảm thấy thối chẳng thể gần nổi th́ chó lại có thể ăn, cái mà lưỡi có thể nếm th́ không có tiêu chuẩn, cũng như dấu chân của người đi đường, chó có thể đánh hơi mà người chẳng phân biệt được, c̣n ngoài ra đều có thể t́m kiếm sự tương đồng.
Xem như vậy th́ mọi kết quả của khoa học đều phải dùng ngũ quan làm công cụ t́m kiếm, nói là vạn năng th́ ai có thể tin nổi? Nếu lùi mười ngàn bước thừa nhận khoa học cầu là được, là lẽ tuyệt đối đi, song vũ trụ vốn lớn vô cùng, c̣n vị trí của nhân loại dĩ nhiên là khó mà có thể h́nh dung nổi, vả lại sự kiến giải của nhân loại thật là rất giới hạn, nên sự kiến giải rất giới hạn đó chẳng thể tin cậy được!
Bởi vậy chỉ có trí huệ mới có thể thấu triệt tất cả các pháp thế gian vượt thế gian thôi, c̣n như trông cậy vào tri thức th́ chẳng thể đạt tới nổi. Có một số người không tin thuyết luân hồi nhà Phật, luôn luôn giữ ư kiến có chứng nghiệm được th́ họ mới chịu tin, song nói tới chứng nghiệm là phải nghĩ tới việc dùng tai mắt để t́m hiểu, phải đem cái xa cái lớn ra làm chứng.
Phải đem những thuyết của các bậc hiền triết cổ kim ra làm bằng cớ. Đem những chứng nghiệm xưa nay ra để cho chúng ta thấy, nếu như c̣n nghi hoặc, liền đem sự hiểu biết gian dối của chính ḿnh ra chứng nghiệm để tin tưởng, đă chứng nghiệm mà c̣n nghi ngờ không tin, hiện tại có chứng không tin, không chứng cũng không tin.
Pháp sư Ấn Quang nói: “Nhân quả báo ứng trong kinh chữ nho rất nhiều, tiếc rằng các nhà nho không chiêm nghiệm nhiều về sống chết, cho nên thấy cũng như chưa thấy, do đó người có thiện căn nhân duyên chẳng cần có chứng nghiệm rồi mới tin, c̣n kẻ nghiệp chướng nặng tuy có chứng nghiệm song họ vẫn không tin.
Tin hay không tin là việc của cá nhân họ, c̣n sự chứng nghiệm vẫn là sự chứng nghiệm, sự thực nhân quả tương ứng vẫn không v́ những kẻ không tin mà thay đổi. Người đời phần đông v́ những chuyện bất b́nh trước mắt mà sau tránh không khỏi ác nghiệp của quả báo, há chẳng đáng thương sao!”.
Tế Phật: Chúng sinh đọc xong bài “Hộ Sinh Thống Ngôn” tức tiếng kêu cứu sống đau thương do Lư Viên Tĩnh thuật hẳn là sẽ động ḷng trắc ẩn, rất mực thương yêu đùm bọc các loài động vật có thân xác máu thịt như người.
Sát sinh nhiều dĩ nhiên không tốt, khoa học kỹ thuật phát đạt, y học tiến bộ, y viện tối tân, hàng ngày dùng dao kéo mổ xẻ con bệnh không biết bao nhiêu mà kể, về phía bệnh nhân khi tới đó cũng đành phó thác thân xác của ḿnh.
Từ cơi vô h́nh nh́n xuống mới thấy đời nay người ta bị mổ xẻ cắt bao tử, ruột già ruột non, lóc thịt cạo xương, cưa chân cưa tay, lục phủ ngũ tạng bấy nhầy, nguyên nhân tạo cảnh này bởi kiếp trước sát sinh nhiều quá nên giờ đây lại diễn lại tấn tuồng thịt đổ máu rơi.
Nhất là đám ghiền ma tuư thân thể bị tàn phế, nào như xương mục, tủy rỗng, khi y sĩ mạnh tay xuống dao té đái ḷi phân. Những oan hồn đứng bên thấy chủ nợ máu thịt của ḿnh bị mổ xẻ cắt thiến đau đớn như vậy th́ lại vỗ tay reo ḥ: “Sướng thay! Sướng thay!”.
Thế mới hay luật tàn sát sinh linh ở cơi thế gian thật là khắc nghiệt, miệng càng thích hưởng sung sướng bao nhiêu th́ càng phải trả quả đau đớn trên bàn mổ bấy nhiêu.
Bồ Tát: Tế Phật nói rất chí lư, ở vào thời đại dân chúng giàu có này, trừ những kẻ cơ thể suy nhược bệnh hoạn không kể, c̣n có biết bao người thân thể khỏe mạnh mà cũng bệnh rề rề, trị hết thuốc này tới thuốc kia, bệnh nọ vừa dứt bệnh khác lại tới liền, để rồi trước sau ǵ cũng lên bàn mổ chịu h́nh phạt đau đớn.
Bởi kiếp trước nghiệp sát sinh quá nặng, tham ăn tục uống thịt máu quá nhiều nên kiếp này phải trả sạch nợ nần, đó cũng là sự xét xử công b́nh của trời xanh, “có phúc cùng hưởng có họa cùng gánh”.
Hiện tại là thời ḱ phổ độ chúng sinh nên trời đất đại xá, có oan kêu oan, có nợ đ̣i nợ, cho nên phải hứa cùng Táo Quân hoặc Tiên Phật ấn tống sách Luân Hồi Du Kư để giải trừ oan nghiệp, để những oan hồn sớm rời xa, nếu như không tiêu trừ được nghiệp chướng th́ việc tu đạo kiếp này hẳn là gặp nhiều trở ngại.
Trời cao phổ độ chúng sinh, ân phước ban khắp mọi loài cầm thú, v́ sứ mệnh mở đường sống cho tất cả sinh linh, nên mới có cuốn sách vô cùng quư giá này. Mỗi khi trong gia đ́nh hoặc họ hàng có người thân qua đời, phải mở rộng tâm từ bi ấn tống sách này cùng giảng giải khai mở vô lượng cửa thiện cho họ, phải độ ḿnh độ người, độ tổ tiên, độ linh hồn cầm thú, lợi người lợi ḿnh, công đức vô lượng.
Mong chúng sinh trước hăy ngẫm nghĩ cho kỹ những điều ta nói, rồi sau phát đại nguyện. “Độ hết chúng sinh mới mong thành Phật” th́ hẳn là rừng trúc biếc cơi tây phương cực lạc sẽ dành sẵn cho ḿnh một đài sen Phật.
Dương Sinh: Tấm ḷng từ bi của Bồ Tát Quan Âm Đại Sĩ khiến muôn loài chúng sinh cảm động sâu xa, đệ tử nguyện học tập đạo Bồ Tát cùng nỗ lực phổ hóa thật rộng răi.
Bồ Tát: Lành thay, lành thay, đồng tử chim loan bên cạnh Kim Mẫu tức là chim loan xanh trong rừng trúc biếc hóa thân độ thế, trước tác sách quư phát huy cơ bút cứu đời, thuyền Phật phổ độ, công quả lớn lao, siêu huyền bạt tổ, hăy gắng sức lên.
Tế Phật: Bữa nay tạm ngưng viết sách ở đây, xin cảm tạ những lời chỉ giáo ngọc vàng của Đại Sĩ, Dương Sinh chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.
Dương Sinh: Lạy chào từ biệt đức Quán thế Âm Bồ Tát.
Tế Phật: Đă về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 847 of 1146: Đă gửi: 25 November 2010 lúc 6:26am | Đă lưu IP
|
|
|
LUÂN HỒI DU KƯ
HỒI HAI MƯƠI MỐT
XEM MINH VƯƠNG XỬ PHẠT TRƯỚC ĐÀI CHUYỂN KIẾP
THẤY TỘI HỒN SI MÊ TỰ NGUYỆN ĐẦU THAI
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 13 tháng 1 năm Nhâm Tuất 1982
Thơ
Quang âm dịch thệ khổ luân hồi
Súc đạo thành h́nh bách niệm hôi
Nghi tạ nhân thân tu Phật thể
Âm dương lộ thượng mạc bồi hồi.
Huyền quan chính khiếu thấu tiên thiên
Chính pháp nhăn tàng tại mục tiền
Du kư kham tham chỉ nguyệt lục
Bảo thu hiệt hiệt lộ chân thuyên.
Dịch
Thời gian trôi chảy hận luân hồi
Cầm thú đầu thai khổ một đời
Tu dưỡng thân phàm thành xác Phật
Âm dương đôi ngả hết bồi hồi
Diệu huyền cửa chính thấu tiên thiên
Mắt huệ chơn như tỏ mọi miền
Du kư tốn nhiều ngày với tháng
Từng trang sách quư hiện tâm hiền.
Tế Phật: Việc viết sách Luân Hồi Du Kư đă tới phần cuối, mong rằng tiếng kêu trầm thống này của loài cầm thú là tiếng kêu cuối cùng, hy vọng kiếp tới chúng đều được đầu thai lên làm người, không c̣n phải chịu cảnh khủng bố hy sinh đau khổ.
Xin dẫn chứng kinh “Pháp Cú Tỷ Dụ”. Thuật lại chuyện đớn đau của loài cầm thú. Thuở trước có một vị t́ khưu trí rất tinh anh, chuyên ngồi thiền định dưới gốc cây trong chốn núi sâu, được các loài chim, rắn, hươu, nai rất kính trọng nên hàng ngày chúng đi kiếm vật thực về cúng dường ngài.
Một buổi tối nọ chúng kéo tới ngồi bên cạnh t́ khưu, cùng bàn luận với nhau để xem nỗi khổ nào lớn nhất trên đời? Có một con quạ nhận xét rằng: “Theo tôi nỗi khổ lớn nhất trên đời là sự đói khát, chỉ cần một ngày đói không có thức ăn, khát không có thức uống, tự nhiên mắt hoa, đôi cánh bủn rủn, kêu chẳng thèm nghe, trạng thái tâm thần lúc đó hoàn toàn bấn loạn.
Tri giác đă bị mất th́ dễ dàng lọt vào lưới và bẫy sập, để rồi bị thợ săn bắt đem về giết, v́ vậy mà tôi thấy đói khát là sự khổ đau nhất trên đời”. Tiếp đến là chim cưu phát biểu: “Quạ đen nói rất đúng, đói khát quả nhiên là sự thống khổ phi thường, song t́nh yêu trai gái c̣n khổ hơn đói khát.
Căn cứ theo ṇi giống chúng ta th́ thường v́ t́nh dục nhất thời quấy động nên lư trí mất kiểm soát, thị phi phán đoán không c̣n minh bạch, dần dần bị đẩy đưa vào hoàn cảnh nguy nan, cuối cùng mạng sống quư báu cũng chẳng c̣n. Một khi t́nh yêu bộc phát không cách nào chế ngự nổi, v́ vậy tôi quan niệm sự đau đớn nhất trên đời là t́nh yêu trai gái”.
Tới phiên ḿnh phát biểu, rắn tuyên bố: “Theo loài rắn của tôi th́ sự khổ năo nhất trên đời là tâm sân hận, v́ mỗi khi bọn tôi nổi giận liền không c̣n phân biệt thân sơ, cắn nhau tới chết, cuối cùng cả hai bên đều mất mạng, chính v́ chúng tôi tính t́nh quá sân si nên răng có nọc độc, v́ răng có nọc độc nên loài người hễ gặp là giết ngay, không hề tha chết để chúng tôi được sống. Đó chẳng phải là nỗi thống khổ nhất trên đời sao?”.
Cuối cùng hươu nói: “Nỗi thống khổ lớn nhất theo tôi là ḷng kinh hăi, mỗi khi thấy chúng tôi sài lang hổ báo liền vồ lấy nhai sống nuốt tươi, nên chúng tôi chỉ c̣n cách t́m đường chạy trốn. Nhất là thợ săn, v́ chúng tôi như cái đích của họng súng họ, do đó hễ thấy bóng họ là chúng tôi bỏ chạy liền.
Hươu mẹ dễ dàng trốn thoát song c̣n hươu con mới thật khó khăn, bởi vậy mỗi khi gặp nạn mẹ con thường phải chịu cảnh âm dương đôi ngả, măi măi chẳng c̣n được hưởng lộc trời, quả thực là nỗi khổ đau nhất đời”.
Sau khi nghe bọn chúng tôi thổ lộ hết tâm can, tỳ khưu mới bắt đầu khai khẩu từ tốn nói: “Thưa bần tăng đă nghe xong những lời tŕnh bày của chư vị, nguồn cội của các nỗi khổ đau đó, theo tôi nghĩ đều do ta có xác thân, nên túi thịt là món đồ dung chứa mọi nỗi khổ đau trên đời.
Trần gian là biển khổ, song biển khổ không ở ngoài xác thịt. Do đó khi chán ghét đau khổ hăy chán ghét thân xác ḿnh trước, nếu như không c̣n xác thân này th́ khổ đau cũng tiêu tan hết, và mục đích sự tu hành của tôi cũng chỉ mong là sao tiêu trừ được thân tâm để chứng ngộ niết bàn, đạt cứu cánh giải thoát diệt trừ phiền năo.
Phải biết rằng khổ đau có tuyệt diệt th́ mới thực hiện nổi sự b́nh yên và tự tại”. Sau khi nghe tỳ khưu thuyết giảng xong, tất cả bọn chúng đều cúi đầu, chứng tỏ trí tuệ đă khai thông, chân lư đă giác ngộ, nhờ vậy mà tâm hồn chúng được an tịnh.
Bữa nay thầy hướng dẫn Dương Sinh xuống thăm địa ngục để xem Diêm Vương xử những tội hồn phải chuyển kiếp đầu thai làm loài cầm thú để viết vào sách Luân Hồi Du Kư. Dương Sinh chuẩn bị lên đài sen.
Dương Sinh: Thưa con đă lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.
Tế Phật: Đă tới ngă ba biên giới âm dương, chúng ta hăy tạm dừng chân quan sát.
Dương Sinh: Thưa, đă lâu không trở lại đây, tại ngă rẽ này người lên thiên đàng th́ ít, kẻ xuống địa ngục lại đông, không rơ tại sao?
Tế Phật: Địa ngục náo nhiệt v́ người đời tánh họ hiếu kỳ thích t́m tới chốn ồn ào, họ không biết rằng nơi đó là nơi giam giữ những tội hồn do đó mới hành động giống như ruồi nhặng thích bu đồ ngọt nên đôi cánh lại dính lấy keo của người giăng bẫy, bởi vậy mới thành Phật ngay tại đó.
Dương Sinh: Thưa, thành Phật ngay tại đó là nghĩa thế nào?
Tế Phật: Bởi khi đôi cánh bị dính lấy keo ruồi liền cải tà quy chính, không c̣n tái phạm tội ác gieo rắc vi trùng truyền nhiễm nữa là buông được dao đồ tể để thành Phật ngay lập tức.
Dương Sinh: Ân sư ví dụ thật hay.
Tế Phật: Sách Luân Hồi Du Kư viết gần xong, nhiều loài rất có cảm t́nh với ta, v́ mấy ai có thể nói lên được nỗi ḷng của cầm thú, cùng ban lời cứu khổ thanh tịnh để hóa độ chúng? Pháp Phật vô biên, mong phổ độ khắp nẻo luân hồi, song tiếc rằng người đời chỉ nói nơi cửa miệng, chẳng chịu thực hành.
Ta nay vâng mệnh trời, trên mở cửa thiên đàng, dưới độ hồn địa ngục, giữa khuyến hóa người đời làm lành lánh dữ, giúp cầm thú thoát li cảnh khổ bị con người tàn sát, để chúng được sống đời tự nhiên an b́nh, sứ mệnh đó ta đă hoàn thành.
Nếu có kẻ không tin phỉ báng, lời nói đó nếu như phát ra từ miệng đứa phàm phu tục tử th́ ta bỏ qua, c̣n nếu như từ cửa nhà Phật th́ ta xin đáp: “Đáng thương, đáng thương” bọn họ đă không chịu thuyết pháp dạy đạo để phổ độ quần sinh lại c̣n tự tôn tự đại, dần dần xa lánh chúng sinh.
Hào quang Phật chiếu rọi khắp nơi không đâu không tới, pháp Phật tám vạn bốn ngàn pháp môn, ta chọn pháp giáng bút đàn cơ là pháp hợp làm một cảm ứng linh thiêng thông suốt, để trước tác ít kinh sách quư giúp đời, cùng dốc hết tâm lực cứu độ chúng sinh.
Mong chúng sinh phát huy lương tri mạnh mẽ, bỏ tánh tranh chấp về h́nh tượng. Dương Sinh, thầy tṛ ḿnh hăy tới thăm thập điện Diêm Vương.
Thầy tṛ nắm tay nhau, chỉ sát na qua chính điện, tới điện thứ mười được quan sát cảnh phân linh chuyển kiếp, tái đầu thai làm loài cầm thú nơi đài chuyển bánh xe pháp luân. Thập Điện Chuyển Luân Vương v́ sớm biết hai thầy tṛ Dương Sinh và Tế Phật sẽ tới thăm nên đă chuẩn bị đầy đủ nghi lễ đón tiếp.
Dương Sinh: Đệ tử xin lạy chào ra mắt đức Chuyển Luân Vương.
Chuyển Luân Vương: Miễn lễ, Dương Sinh hăy đứng dậy, hai vị trải qua biết bao gian lao khổ cực, trước đây khi phụng chỉ trước tác sách Địa Ngục Du Kư đă từng tới thăm bản điện, phần lớn những điều bí mật của bản điện đă được tiết lộ với người đời, nay lại muốn thuyết giảng thêm về nhân đạo.
Tôi xin hướng dẫn hai vị đi thăm cảnh chuyển kiếp đầu thai làm loài cầm thú, để thâu thập tài liệu quư hầu cảnh cáo người đời thức tâm. Trước hết tôi xin mời hai vị tới coi đài Chuyển Luân.
Dương Sinh: Thấy quán cháo lú bà Mạnh nằm bên trái đài Chuyển Luân, người nào người nấy đang xếp hàng đi lên đài để chuyển kiếp đầu thai.
Minh Vương: Những người đó đă húp cháo lú nên thần trí tỉnh táo, họ đều phải lên đài Chuyển Luân, chờ bánh xe pháp quay hồn mới miên man bất tỉnh và chuyển kiếp. Những vong linh này phải đầu thai làm súc vật!
Dương Sinh: Dung mạo những tội hồn này hầu hết đều hung bạo, không có một chút ǵ là từ bi cả. Không rơ họ đă chịu h́nh phạt ở địa ngục chưa?
Minh Vương: Các tội hồn đă phải chịu h́nh phạt ở địa ngục rồi, nên bữa nay mới được thả ra để đầu thai làm loài khác.
Dương Sinh: Thưa Minh Vương họ phải được sống đời tự do mới đúng, v́ các tội hồn đă chịu đủ thứ h́nh phạt ở địa ngục rồi, nên theo lí mà nói th́ hiện giờ họ vô tội, cớ sao c̣n bắt họ lại phải đầu thai làm loài thú, như vậy há chẳng bất nhân lắm sao?
Minh Vương: Nhờ trời có đức hiếu sinh, cho nên họ mới được đầu thai, như vậy là luật rất công bằng. Các tội hồn này v́ thiếu nhân đạo cho nên được làm người song không chịu làm người tốt, thực quả là uổng phí.
Kiếp tới bắt họ đầu thai làm loài cầm thú là chỉ cốt giúp họ có cơ hội học hỏi thêm, để biết rơ thế nào là cuộc sống phi nhân trái đạo làm người, và có thể nghiệm một cách chân thực th́ sự cảnh cáo mới có hiệu quả chắc chắn, kiếp tới nữa mới được thăng tiến lên cấp cao hơn.
Tục ngữ nói: “Có mất tự do mới biết tự do là quư” quả là lời giáo hóa vô cùng thực tế, không thể t́m ở đâu hơn.
Trời vốn hiếu sinh nên đă mở cho những kẻ súc sinh một con đường sống, chớ nghĩ là trời đất bất công! Dù phải chuyển sinh cách nào đi nữa, khi đầu thai dung nhan hoàn toàn đổi khác.
Giống như kẻ phạm tội đại ác ở thế gian bị kết án khổ sai chung thân, sau khi ở tù ra trở lại nơi xưa chốn cũ hẳn là mọi việc đă đổi khác, có khi đến cả vợ con cũng tứ tán, chẳng c̣n biết t́m kiếm ở đâu, th́ một tội hồn ở âm phủ sau khi chịu h́nh phạt bị chuyển kiếp đầu thai làm loài thú cũng giống y hệt vậy.
Dương Sinh: À th́ ra nguyên nhân là như vậy. Những người này đă chẳng phải là kẻ lương thiện tại sao Minh Vương c̣n thả họ ra?
Minh Vương: Đă trở thành cầm thú, sống trong một hoàn cảnh lí tưởng, hẳn cũng được hài ḷng.
Dương Sinh: Đường luân hồi xem ra hoàn toàn do ḿnh lựa chọn, chẳng phải quỷ thần sắp xếp.
Minh Vương: Đúng vậy, muốn làm người hay làm gà vịt trâu ḅ đều tại ḿnh lựa. Quyền lực của con người rất lớn, bánh xe pháp của đài chuyển kiếp ở địa ngục chỉ cung cấp phương tiện giao thông chuyên chở họ tới một nơi lư tưởng, nên hiện tại tôi cũng chỉ làm công việc mở đường khai lối mà thôi.
Dương Sinh: Minh Vương ngồi trên án, hai tướng quân Ngưu Mă đứng hầu bên cạnh, các phán quan văn vơ lần lượt an tọa) Thưa đệ tử chợt nghĩ đến một vấn đề, kính mong Minh Vương chỉ giáo cho.
Minh Vương: Có vấn đề ǵ cứ hỏi.
Dương Sinh: Ở địa ngục có tướng quân Ngưu Mă là do hóa trang, c̣n trâu ngựa thuộc hệ thống thú vật th́ âm phủ sao có nổi để làm đầu trâu mặt ngựa?
Minh Vương: Ha ha, câu hỏi của Dương Sinh thật là chí lư, kẻ ác nhân đă không chịu làm người tốt th́ có khác ǵ trâu ngựa, chỉ để cho người ta đánh đập, khi xuống tới địa ngục thấy cảnh quỷ đầu trâu mặt ngựa hành hạ người mới rơ là cánh dùng trâu ngựa trị trâu ngựa thật quả là hay.
Chức tướng quân của trâu ngựa ở địa ngục cũng giống như chức cai ngục ở thế gian. Thôi, đă tới giờ tôi xử án. Các tội hồn hăy lắng nghe, nhân có thánh bút Dương Thiện Sinh tại Thánh Đức Đường ở Đài Trung phụng chỉ theo ân sư Phật Sống Tế Công trước tác sách Luân Hồi Du Kư để khuyên đời.
Bữa nay đặc biệt tới đây sưu tầm các bản án, các tội hồn đều đă trải qua những h́nh phạt ở các điện rồi mới giải giao qua bản điện để đưa lên đài bánh xe pháp để chuyển kiếp đầu thai, song chẳng rơ các tội hồn muốn đầu thai nơi nào?
Bữa nay nhân có người trần ở đây, bản điện đặc biệt mở rộng cửa một lần, để các tội hồn được tùy ư lựa chọn chốn đầu thai, v́ các tội hồn đă húp cháo lú nên mặc dầu c̣n tỉnh song sẽ dần dần ch́m vào hôn mê, quên hết dĩ văng, bởi vậy phải lợi dụng lúc lư trí c̣n đang sáng suốt này mà lựa chọn ngay đi.
Dương Sinh: Minh Vương tuyên bố xong, các tội hồn nhiệt liệt hoan nghênh, lớn tiếng cảm tạ Minh Vương ân đức lớn bằng trời bể, rồi tất cả tội hồn đều nghĩ: Bữa nay kể như được thấy mặt trời, đă phải chịu nhiều h́nh phạt khổ đau, kiếp tới muốn được chuyển kiếp sinh vào các nhà giàu có để hưởng thụ vinh hoa phú quư một phen.
Minh Vương: Nhân dịp đại ân xá, mọi người được tự do lựa chọn chốn đầu thai, bản điện nhất định thi hành đúng như lời hứa hẹn. Hiện tại tội hồn Giáp muốn bày tỏ ư kiến về việc chuyển kiếp đầu thai, hăy nói mau.
Hồn Giáp: Thưa, con đă chịu nhiều h́nh phạt khổ sở đớn đau ở địa ngục, v́ kiếp trước chuyên sang đoạt lừa đảo khắp nơi, dâm đăng lưu manh khắp chốn, kiếp tới mong được đầu thai làm con trai nhà giàu có, để hàng ngày hát xướng, nhậu nhẹt, nhảy nhót sung sướng một đời.
Minh Vương: Thần trí của ngươi c̣n rất tỉnh, không thẹn làm chủng tử phong lưu, bản điện cho phép ngươi được đầu thai như ư muốn, quan văn ghi chép vào sổ, quan vơ cùng tướng quân trâu ngựa dẫn tội hồn lên đài, lại c̣n cho thêm một bộ đồ vía láng nháy làm bằng để tội hồn chuyển sinh làm chim bay trên núi.
Dương Sinh: Thưa, tại sao Minh Vương không thi hành theo ư tội hồn là muốn đầu thai làm người?
Minh Vương: Dương Sinh không rơ nếu cho chuyển sinh làm người sẽ di hại xă hội, nên mới đặc biệt cho đầu thai vào hoàn cảnh tốt đẹp đúng như ư tội hồn mong cầu, được ở “nhà cao cửa rộng”, sống trên cây, ḿnh mặc áo năm màu, bộ lông cực kỳ mỹ lệ.
Hàng ngày miệng hót líu lo, nhảy nhót múa may trên cành, lá xanh hoa đỏ, lộng lẫy khoan thai dưới ánh đèn màu. Cả đàn bạn gái chim muốn ai được nấy, khát có nguồn cam lộ vô tận cùng suối nước trong, uống vào chẳng say, loại rượu trong đặc biệt này khó kiếm trên đời. Bản điện sắp bày cảnh sống như vậy hẳn là rất thích hợp với tội hồn.
Dương Sinh: Cảnh Minh Vương sắp bày cực kỳ xảo diệu, đệ tử tâm cũng như khẩu đều hết sức kính phục.
Minh Vương: Tội hồn Ất hăy mau tŕnh bày ư muốn được đầu thai đi.
Hồn Ất: Thưa, v́ con đă phải chịu nhiều h́nh phạt ở địa ngục, kiếp tới xin được đầu thai lên làm người, để được sống những ngày nhàn hạ, toàn thân da dẻ hồng hào, ngủ có giường êm nệm ấm, ngày ba bữa cơm bưng nước rót dâng tận miệng, bạn hữu đầy nhà, vui chơi suốt ngày, tản bộ tiêu dao, chẳng phải làm việc, được sống một đời như vậy tôi rất lấy làm măn nguyện.
Minh Vương: Hay lắm, hay lắm, ngươi kiếp trước phỉ báng người tŕ trai tu đạo, khuyên kẻ khác bỏ chay ăn mặn mới có thể siêu độ được thú vật, đặt điều xuyên tạc là những kẻ ăn chay hành động thường thất bại, khiến người thân vừa mới ăn chay đă phá giới.
Lại c̣n thiêu hủy kinh Phật và sách quư răn đời, cũng thường gạt tiền bạc của kẻ khác rất nhiều. Quan vơ và tướng quân ngưu, mă hăy cho y một chiếc áo đen rồi dẫn lên đài pháp chuyển luân để bánh xe pháp chuyển kiếp thành heo.
Dương Sinh: Minh Vương truyền lệnh chuyển sinh tội hồn thành heo như vậy là bởi tại sao?
Minh Vương: Địa vị đó rất tốt cho một chủng tử phong lưu, thiết nghĩ cách đó sẽ giúp thân ḿnh tội hồn mọc đầy lông, ngày ba bữa được người dâng đồ ăn tận miệng, đă không muốn làm việc th́ hăy làm heo lười biếng th́ thích hợp vô cùng. Thịt heo để cho mọi người ăn, đó cũng là điều mà tội hồn thường khuyến khích người đời bỏ chay ăn mặn. Nhân quả báo ứng thật là kỳ diệu, chẳng thể nghĩ bàn.
Dương Sinh: Minh Vương xét tội quả như thần.
Minh Vương: Tội hồn Bính hăy nói lên nguyện vọng chuyển kiếp đầu thai của ḿnh mau.
Hồn Bính: Thưa v́ con đă phải chịu những h́nh phạt quá nặng nề tại âm phủ, nên được thấy rơ hai tướng quân Ngưu Đầu, Mă Diện cùng âm binh uy phong lẫm liệt trong ḷng lấy làm thích thú lắm, con muốn được đầu thai làm người, trở thành kẻ chuyên môn bắt bớ những ai phạm pháp để có dịp chứng tỏ là ḿnh anh hùng.
Minh Vương: Hay lắm, kiếp trước ngươi đă là người trộm cướp lại c̣n giết người, giờ có ḷng muốn trị an xă hội tức là đem công chuộc tội, song ta chỉ muốn người v́ dân trừ hại, chứ không phải để ngươi kiêu hănh, nếu như không làm tṛn trách nhiệm, sợ rằng sẽ bị mất chức và đói khổ. Quan vơ và tướng quân Ngưu, Mă hăy đưa cho tội hồn bộ áo lông để đầu thai làm mèo.
Dương Sinh: Thưa, Minh Vương xử tội hồn làm mèo là tại sao?
Minh Vương: V́ tội hồn muốn làm thần bắt bớ, nên chuyển sinh làm mèo rất thích hợp. Kẻ ăn cắp vặt, ác xấu kêu là chuột, mỗi khi gặp mèo liền chạy trốn, mèo thần khí mạnh, song nếu một ngày lười biếng sẽ bị đói ngay.
Dương Sinh: Minh Vương dạy rất đúng.
Minh Vương: Hồn Đinh muốn chuyển kiếp như thế nào hăy cho biết?
Hồn Đinh: Thưa, con muốn được đầu thai làm đàn bà, mặc quần áo đẹp, mang nữ trang đầy ḿnh, có nhiều đàn ông bu quanh, hẳn là được sung sướng.
Minh Vương: Sự lựa chọn của ngươi không phải là không chính đáng.
Hồn Đinh: V́ kiếp trước con bị nam giới khinh bỉ quá nhiều, kiếp tới muốn trả thù.
Minh Vương: Theo nguyện vọng chuyển kiếp của ngươi sợ rằng đời c̣n sẽ khổ hơn. Bản điện thương ngươi kiếp trước lỡ lầm đọa lạc vào chốn yên hoa bị người chà đạp, đă mất thân c̣n mất của, bởi vậy không thể nhẫn tâm để ngươi đọa lạc chốn đó lần thứ hai.
Tế Phật: Tam Tào phổ độ là mong cầm thú sớm có ngày hết tội được chuyển kiếp đầu thai lên làm người, xin Minh Vương xử tiếp.
Minh Vương: Thưa vâng, quan vơ và tướng quân Ngưu, Mă hăy cấp cho tội hồn một bộ quần áo hai màu vừa trắng vừa đen loang lổ để tội hồn đầu thai làm ḅ sữa Mỹ Châu, chuyên sản xuất sữa tươi nuôi trẻ thơ để tiêu trừ nghiệp chướng.
Dương Sinh: Thưa, có phải ḅ sữa sản xuất sữa để cung cấp cho người có công đức lớn lao không?
Minh Vương: Đúng vậy, nếu căn cứ theo ư nguyện của tội hồn th́ phải đầu thai là chó cái nuôi con, song v́ bản điện không muốn để tội hồn bị đọa lạc nên mới cho chuyển kiếp làm ḅ sữa.
Dương Sinh: Minh Vương tính tuy nghiêm khắc song lại có ḷng từ bi thực đáng kính phục.
Minh Vương: Tội hồn Mậu hăy mau nói rơ ư nguyện đầu thai của ngươi xem.
Mậu Hồn: Thưa, con muốn được đầu thai làm kẻ nhà ở có sắt thép bùn nước, ngày ba bữa có người dâng đồ ăn tận miệng, thân thể cường tráng khỏe mạnh, xưng hùng xưng bá một cơi, ai nh́n thấy cũng phải sợ uy, để mong giải trừ mối hận kiếp trước bị người ta giết.
Minh Vương: Ngươi c̣n dũng khí lại mong xưng hùng xưng bá, vơ quan và tướng quân Ngưu, Mă hăy ban cho tội hồn một bộ áo có vằn, rồi giải tội hồn tới đài chuyển luân để đầu thai làm cọp.
Dương Sinh: Nh́n mặt tội hồn dữ dằn quá, nếu như đầu thai làm cọp há chẳng giúp thêm nanh vuốt sao?
Minh Vương: Không phải vậy, tội hồn tuy hung dữ song sẽ bị nhốt trong chuồng sắt nơi sở thú để khách du lịch thưởng lăm, tính bạo ngược hẳn là không c̣n đất dùng. Tội hồn này kiếp trước là tay cường hào ác bá, chuyên hút máu dân lành, vô lương bất nghĩa, giết người chẳng gớm tay, cuối cùng bị kẻ khác hại, nên giờ đây muốn được báo thù. Hồn Kỷ hăy mau tŕnh ư nguyện muốn được đầu thai của ngươi.
Hồn Kỷ: Thưa, con đă chịu đủ mọi h́nh phạt khổ đau nơi địa ngục, hiện tại nỗi bi thương không chịu nổi, kiếp trước con rất nghèo, không được hưởng phước, kiếp tới con chỉ muốn ăn chay học đạo tu thân, song vẫn c̣n ư mong cầu riêng tư là muốn có một ngôi biệt thự tại chốn núi xanh suối biếc để hưởng thú thanh nhàn, được như vậy là con rất măn nguyện.
Minh Vương: Được, vơ quan và tướng quân Ngưu, Mă ban cho tội hồn một áo da tro rồi hướng dẫn tới đài chuyển luân để chuyển kiếp làm dê.
Dương Sinh: Thưa tại sao lại như vậy?
Minh Vương: Tội hồn này kiếp trước thần tan phách lạc, sống hoang đàng bừa băi trong căn nhà nhỏ, có bữa gặp một thiếu nữ si t́nh trong trắng đă nẩy tật gian dâm, đưa nàng vào đường sa ngă vô cùng bất hạnh, tội ác quá lớn lao song may mắn biết cải tà quy chánh được chuyển kiếp làm dê, ăn cỏ non, ở nhà tranh ở cảnh núi xanh nước biếc là ngôi biệt thự huy hoàng, từ nay được tự do ăn chay tu đạo rất ư thoải mái.
Dương Sinh: Sự sắp xếp của Minh Vương quả là thần diệu.
Tế Phật: V́ thời gian có hạn, việc quan sát t́nh h́nh được chuyển kiếp đầu thai tới đây kể như đă hoàn thành được một phần. Dương Sinh chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.
Minh Vương: Quan vơ và tướng quân Ngưu, Mă sửa soạn lễ tiễn hành.
Dương Sinh: Cảm tạ Minh Vương đă chỉ giáo cho những lí đạo siêu diệu, giúp đệ tử giác ngộ được chân ư nghĩa “Muôn pháp do tâm ḿnh tạo”. Xin bái từ Minh Vương. Thưa, con đă lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.
Tế Phật: Đă về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 848 of 1146: Đă gửi: 25 November 2010 lúc 6:27am | Đă lưu IP
|
|
|
LUÂN HỒI DU KƯ
HỒI HAI MƯƠI HAI
THẬP ĐIỆN DIÊM VƯƠNG BÀN LẼ ĐẠO CHUYỂN KIẾP
BỐN LOÀI CHÚNG SINH NƠI CỬA HẸP ĐẦU THAI
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 15 tháng 1 năm Nhâm Tuất 1982
Thơ
Súc đạo khiếu khổ thán cơ hàn
Lân mẫn thương t́nh cảm tỵ toan
Thụ thủ thân lai ly hỏa nhiệt
Phi thăng cực lạc mộng hồn an.
Dạ bút huy sa Thánh Đức Đường
Huề đồ phỏng đạo quá sơn trang
Vân du mỗi băo từ bi nguyện
Khổ hải hành châu độ thập phương.
Dịch
Cầm thú cô đơn lạnh oán than
T́nh thương cay đắng muốn chu toàn
Xa rồi lửa nóng buông tha hết
Cực lạc siêu thăng phách mới an.
Đem bút giáng cơ Thánh Đức Đường
Dẫn tṛ hỏi đạo chốn rừng hoang
Dạo thăm t́nh cảm buồn man mác
Biển khổ chèo thuyền độ thập phương.
Tế Phật: Hôm nay là ngày lễ Thiên Quan ban phước đầu năm, đồng thời cũng là tiết Nguyên Tiêu rằm tháng giêng, Thiên Quan không những chỉ ban phước cho loài người, mà c̣n cho cả loài vật. Người lớn treo đèn kết hoa khắp chốn, trẻ con rước đèn khắp nơi, đêm tối bỗng sáng trưng, những linh hồn ẩn náu chốn tối tăm được dịp thấy lại ánh sáng hy vọng.
Sách Luân Hồi Du Kư hoàn thành được là nhờ trời cao ban phước, đêm nay nhân cơ hội này thắp ngọn đèn Phật cùng mang theo ch́a khóa vạn năng dạo thăm chốn đồng ruộng thôn quê.
Dương Sinh: Tiết Nguyên Tiêu vân du mang theo đèn quả là thích hợp, c̣n ch́a khóa vạn năng ân sư cầm trong tay th́ đệ tử không hiểu để làm ǵ?
Tế Phật: Ha ha, có đèn th́ không khóa, ta đánh chẳng mở đuổi chẳng đi, họ th́ đánh chẳng mở ra chẳng được.
Dương Sinh: Thưa, ban đêm ân sư mang ch́a khóa lén mở cửa nhà người là quân tử đường hoàng hay trộm đạo gian manh.
Tế Phật: Ha ha, người đời ở nhà có cửa đóng then cài thêm khóa sắt, có khác ǵ tự nhốt ḿnh trong ngục thất, nếu như không có chiếc ch́a khóa vạn năng này th́ làm sao mở được cửa chính nhà họ. Sở dĩ thầy mang theo đèn Phật và ch́a khóa pháp chẳng phải là kẻ trộm mà là hành giả, là quân tử đường hoàng, đêm nay ta sẽ mở cửa một số nhà đóng kín.
Dương Sinh: Thưa, ân sư hành đại đạo như vậy hẳn là có can đảm lớn.
Tế Phật: Đêm rằm tháng giêng thầy tṛ viết câu đố lên lồng đèn chơi, thật là tâm tâm tương ứng, đêm nay ta rọi đèn mở khóa tâm người đời giúp họ sáng mắt, đúng là “canh ba thắp đèn canh năm gà gáy”. Đem đèn đi khắp xóm làng mở cửa chuồng, lồng nhốt cầm thú cứu mạng những sinh linh đang chờ giờ đem ra thịt.
V́ tất cả chúng sinh đều có Phật tính, có khi đức tính của cầm thú chẳng kém người, đôi khi ḷng ta đầy trắc ẩn v́ thấy có người mở lượng từ bi tế độ. Trước đây có Trương Đạo Hiển làm chức huyện lệnh tại Thanh Đài thuộc Loan Phụng Sơn để khuyên giải sự tranh chấp sản nghiệp giữa văn sinh Trầm Trọng Nhân và vơ sinh Trầm Trọng Nghĩa, đă làm bài văn dưới đây:
“Chim phụng khóc con, chim quạ mớm con là nhân; nai thấy cỏ rủ bầy, kiến được mồi kêu bạn là nghĩa. Ong có vua tôi, nhạn bay có hàng ngũ là lễ; chim trong tổ kêu mà biết có gió, ếch kêu ran mà biết có mưa là trí. Én bay về biết thời tiết, gà gáy lúc trời gần sáng là tín.
Chim chóc côn trùng c̣n biết ngũ thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín huống con người lại không biết tới được sao? Đường Ngu thoái vị, thiên hạ trị b́nh; Di Tề nhường nước chết đói ở Thủ Dương. Các ngươi tâm chưa hủ bại, c̣n giữ chí Việt Ngô. Từ xưa tới nay, bởi chỉ v́ nghe lời vợ xúi mà t́nh anh em cốt nhục chia ĺa.
Trầm Trọng Nhân chẳng phải là bất nhân, Trầm Trọng Nghĩa chẳng phải là bất nghĩa. Anh thông kinh sử sao chưa dạy em, em có tài thao lược v́ đâu nuôi chí hại anh. Bất nhân bất nghĩa thương tổn luật trời; không anh không em dứt tuyệt nhân luân, khuyên các ngươi đối xử với nhau sao cho trên thuận dưới ḥa”.
Sau khi nghe xong hai anh em Trọng Nhân, Trọng Nghĩa ôm chầm lấy nhau khóc ṛng, nguyện đối xử với nhau trên kính dưới nhường. Huyện lệnh Trương Đạo Hiển bèn làm thêm những vần thơ khác để hai anh em họ Trầm lưu giữ như sau:
Tổ tông gia nghiệp bất tu tranh
Đồng bào huynh đệ nhất khí sinh
Nhất hồi tương kiến nhất hồi lăo
Năng đắc kỉ thời vi đệ huynh.
Đệ huynh đồng cư nhẫn tiền an
Mạc nhân hào mạt khởi tranh đoan
Nhăn tiền sinh tử hựu huynh đệ
Lưu dữ huynh tôn tác dạng khan.
Cha ông sản nghiệp chớ tranh giành
Một dạ anh em được mẹ sanh
Trẻ mới thấy đây già đă đến
Liệu em mấy thuở được gần anh.
Chung sống anh em nhẫn trước tiên
Chớ v́ lợi lộc hại tâm hiền
Sinh con nếu muốn thành người tốt
Phải sống làm gương để chúng tin.
Qua kinh nghiệm thực chứng này, hẳn đă thấy được rằng người với cầm thú chẳng khác nhau là mấy. Trên đời có lắm gia đ́nh ngay cả anh em ruột thịt, chỉ v́ tranh giành tiền của mà nỡ nhẫn tâm sát hại lẫn nhau, khác nào súc sanh quỷ đói uống máu không tanh. Loài người phải biết thương yêu và coi trọng loài vật th́ sự đối xử giữa người và người mới tốt đẹp hơn.
Sở dĩ xă hội loài người c̣n chém giết nhau là v́ đối với loài vật ta chưa dứt khoát dẹp bỏ được ư niệm ham sát hại chúng, để không c̣n cảnh loài thú thấy người là trốn tránh hoặc quá sợ hăi tới nỗi chết giấc. Giờ tôi xin họa bài thơ xin anh em đừng tranh giành của vị huyện lệnh để thức tâm người đời vun bồi t́nh yêu thương để khỏi thẹn với t́nh anh em c̣n thua cả loài vật.
Luân hồi lục đạo bất tương tranh
Vạn loại đồng nguyên nhất khí sanh
Đa thực huyết tinh nhân dị lăo
Nghi tư cốt nhục ngă đệ huynh.
Đại địa đồng cư nhẫn tiện an
Mạc nhân khẩu phúc khởi tranh đoan
Ngật nhân bị ngật khi huynh đệ
Bất tín lai sinh nhất dạng khan.
Luân hồi cầm thú chớ tương tranh
Cùng gốc muôn loài một khí sanh
Ăn mặn tuổi già càng chóng đến
Thịt xương loài khác cũng em anh.
Đất rộng sống chung nhẫn trước tiên
Chớ dùng miệng lưỡi hại tâm hiền
Giết qua giết lại thành không tốt
Kiếp tới chẳng tin cũng phải tin.
Bài thơ đă ngâm xong, Dương Sinh chuẩn bị lên đường.
Dương Sinh: Thưa con đă lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành... Vừa mới ra khỏi cửa Thánh Đức Đường thấy chung quanh toàn là cầm thú, mà những chỗ đó không có một trại nuôi súc vật, không rơ tại sao lại như vậy?
Tế Phật: Thấy được cảnh đó là v́ thầy tṛ ḿnh phụng chỉ trước tác sách Luân Hồi Du Kư, loài vật được nhờ ân phước lớn nên bọn chúng đều hân hoan vui mừng, sách viết sắp xong, Thánh Đức Đường lại đang lo chuẩn bị cử hành đại hội.
Các sinh linh loài vật được tin này kéo nhau tới nghe ngóng để cầu mong thánh tiên ba cơi, thần Phật mười phương cứu giúp, cho nên trong suốt thời gian chư vị ba cơi về đây hội họp là để siêu độ sinh linh cầm thú, phải lo tụng kinh để giúp chúng sớm thoát khỏi ṿng khổ hải, có như vậy mới ứng hợp với sứ mệnh ba cơi Tam Tào phổ độ.
Dương Sinh: Quả là chẳng thể bàn căi. Đệ tử xin kính cẩn vâng lời, sẽ cùng chư vị tín hữu tụng kinh siêu độ cùng cầu xin chư Thánh Tiên Phật đại xá tội nghiệp cho các sinh linh cầm thú, để chúng bay về cơi cực lạc.
Tế Phật: Ư nghĩa kỳ đại hội này vô cùng trọng đại, không chỉ để người cầu an lạc mà c̣n giúp cho siêu thăng, sau khi sách này xuất bản, chắc chắn loài vật dần dần được giúp đỡ che chở cùng giảm bớt tội nghiệp, thoát ly khổ hải. Thôi thầy tṛ ḿnh hăy đến thăm điện thứ mười... Đă tới nơi.
Dương Sinh: Chuyển Luân Vương tại điện thứ mười đă ra khỏi điện ...Đệ tử Dương Sinh xin lạy chào ra mắt đức Chuyển Luân Vương.
Minh Vương: Miễn lễ, bữa trước v́ thời giờ eo hẹp nên chưa tŕnh bày được cặn kẽ về t́nh h́nh chuyển kiếp súc sinh tại điện thứ mười, bữa nay có dịp may tái ngộ sẽ tŕnh bày thực rơ ràng hết mọi khía cạnh.
Dương Sinh: Cảm tạ Minh Vương đă ban ân phước lớn.
Minh Vương: Xin mời hai vị đi theo tôi.
Dương Sinh: Theo chân Minh Vương chớp mắt đă tới đài chuyển kiếp, thấy trong sông đỏ có một một bánh xe cực lớn đang xoay tṛn...
Minh Vương: Phía trước là đài chuyển bánh xe pháp.
Tế Phật: Bánh xe trong sông đỏ chính là bánh xe pháp xoay không ngừng nghỉ, được làm người hay phải làm quỷ, thành Tiên hoặc thành Phật đều bởi đó mà ra. Dương Sinh: Thưa, thành Tiên thành Phật có phải qua đài chuyển luân không?
Tế Phật: Mặc dù không phải qua đài chuyển luân, song cơi phàm trần cũng là một cái đài chuyển luân vậy. Bánh xe trong sông đỏ chuyển động như một ống trúc vạn hoa, tâm tính kẻ tu đạo c̣n mê hoặc th́ bánh xe sông đỏ làm sao có thể biến thành thuyền pháp để hành giả tiêu dao nổi, có chăng chỉ để cho các tội hồn chuyển sinh thành các loài cầm thú.
Khi các vong linh tội lỗi bước vào bánh xe sông đỏ, tức th́ đầu óc u mê tăm tối giống như xe mê thuyền mê, trước tiên ói mửa, trường hợp nặng hơn ói ra cả máu, cứ mơ hồ mê mẩn như vậy rồi chuyển kiếp đầu thai.
Dương Sinh: Thưa, lời dạy của ân sư và sự chuyển kiếp đầu thai cực kỳ siêu diệu.
Minh Vương: Những tội hồn kia đang bị các âm sai đẩy lên đài chuyển luân, tiếp tục đi hết những đoạn đường c̣n bỏ dở.
Dương Sinh: Thưa, những tội hồn này sẽ đầu thai làm người hay súc vật, họ có được tự ư lựa chọn đường đi không?
Minh Vương: Không phải, mới đầu chỉ cần để người đời biết về trạng thái si mê của tội hồn, nghiệp đă quá nặng mà c̣n muốn trở lại trần gian hưởng phước th́ đó chỉ là ảo tưởng.
Tất cả các tội hồn sau khi chịu các h́nh phạt ở chính điện xong liền bị giải giao qua điện thứ mười, rồi căn cứ theo ác nghiệp kiếp trước, cùng ba kiếp nhân quả mà bị chuyển kiếp đầu thai làm loài cầm thú, chứ không thể tự do lựa chọn.
Dương Sinh: A th́ ra nguyên nhân là như vậy, chẳng c̣n lấy làm lạ khi thấy các tội hồn khóc than mếu máo, v́ biết rằng kiếp tới sẽ phải chịu muôn phần khổ cực. Đệ tử c̣n có điều nghi ngờ, xin Minh Vương chỉ giáo cho.
Thưa đệ tử thường gặp một số vị rất có ḷng tu đạo thiện đức, song không rơ tại sao thân ḿnh lắm bệnh và gia đ́nh gặp nhiều tai biến. Trong khi đó có những kẻ không tin thần Phật, gian manh xảo trá thân thể lại khỏe mạnh, gia đ́nh lại b́nh an?
Minh Vương: Ha ha, người hiền lương th́ lâm bệnh v́ kiếp trước nghiệp họ quá nặng, sau khi chịu h́nh phạt ở các điện, đă phát nguyện kiếp tới tu hành chăm chỉ để trở thành người tốt, bị mắc nhiều bệnh tật và tai nạn là v́ nghiệp lực kiếp trước gây ra.
Chớ nên oán trời trách người, phải ăn năn sám hối, tạo công lập đức, một sớm nghiệp chướng giải trừ tự nhiên sạch nợ thân thể nhẹ nhàng. C̣n kẻ gian ác lại được hưởng phúc là nhờ kiếp trước tu nhân tích đức.
Minh Vương không xử phạt, họ cũng không phát nguyện kiếp tới tu thân để trở thành người hiền lương, do đó kiếp này chạy theo đường ác mà lại được hưởng phước lộc, song khi phước lộc hết, kiếp tới chắc chắn sẽ bị ác báo. Cho nên có câu nói: “Họa phước không có cửa chỉ do người tự chuốc. Thiện ác quả báo như bóng theo h́nh”.
Người đời chớ căn cứ một kiếp hiện tại mà kết luận rằng không có nhân quả báo ứng. Quả kiếp này đều do nhân kiếp trước tạo thành, cho nên nếu gặp cảnh nghèo hèn bệnh hoạn cũng đừng oán trời trách người, mà phải tu nhân tích đức, cải thiện nhân quả. Kẻ kiếp này được hưởng phước lộc lại càng phải tu nhân tích đức nhiều hơn, c̣n không tới khi phước hết họa tới, đương nhiên phải đền tội.
Dương Sinh: Cảm tạ Minh Vương đă khai thị, người đời đều là những phàm thai mắt thịt th́ làm sao biết nổi tổ tiên cùng thân bằng quyến thuộc chuyển kiếp đầu thai tới chốn nào?
Minh Vương: Muốn biết rơ số kiếp người ta th́ phút lâm chung hăy quan sát ngũ quan biến hóa, thân xác cứng cỏi hay mềm mại, vẻ mặt có đoan chính không, hẳn là sẽ rơ kẻ đó có được tiêu dao miền cực lạc hay sẽ bị đọa lạc địa ngục.
I. Nếu như phút lâm chung, ngũ quan đoan chính, thân thể mềm mại, vẻ mặt tươi tắn như khi sống kể là đắc đạo, siêu thăng miền cực lạc.
II. Nếu như phút lâm chung, thân xác cứng đơ, nét mặt và ngũ quan lộ vẻ kinh hoàng sợ sệt, hẳn là tính linh sẽ bị đọa lạc địa ngục.
III. Nếu như phút lâm chung, thân xác cứng đơ, sắc diện và ngũ quan lộ vẻ kinh hoàng sợ hăi sẽ ảnh hưởng tới cơ thể trở thành “biến tướng” sẽ bị đầu thai làm loài cầm thú. Tai mắt mũi miệng sẽ là tai mắt mũi miệng thú, v́ mắt có nước mắt, tai có ghét, mũi có nước mũi, miệng có nước miếng, bốn cửa đó phút lâm chung không đóng kín nổi hẳn là sẽ bị đầu thai làm loài cầm thú hoặc cá tôm sâu bọ.
1) Mắt ham nh́n sắc đẹp quá độ, phút lâm chung trong mắt mở lớn, tính linh thoát ra từ mắt kiếp tới đầu thai làm các loài chim như hạc, yến, nhạn... Mắt ngó bốn phương, bay lượn khắp chốn.
2) Tai thích nghe những lời điêu ngoa, phút lâm chung tai vểnh cao, tính linh thoát ra từ tai, đầu thai làm loài thú như trâu, ḅ, lừa, ngựa hiểu được tiếng người để cho người sai bảo.
3) Miệng là huyệt chôn phẩm giá của kẻ khác v́ thích nói xấu người, phút lâm chung miệng há hốc, tính linh thoát ra từ miệng, đầu thai làm tôm, cá, cua, cáy, miệng thường ăn những đồ dơ dáy bùn śnh cuối cùng bị người bắt làm thịt.
4) Mũi ngửi nhiều hương lạ, thích tiền bạc tanh tưởi, phút lâm chung hai lỗ mũi phồng to, linh tính thoát ra từ mũi, đầu thai làm ruồi nhặng thích ngửi mùi hôi thối. Phàm những loài côn trùng, sâu, bọ kiếp trước v́ nghiệp chúng quá nặng, phút lâm chung hồn phách tiêu tan hết.
Người ta lúc chết hồn đều thoát ra từ bốn cửa mắt, tai mũi, miệng là bởi phước ít họa nhiều. Bốn cửa này vốn giúp đỡ chủ nhân hay chủ tính linh là cửa chính huyền quan để lo phận sự, nếu như dùng sự nh́n ngó, nghe ngóng, hít hà, nói năng vào việc thiện lành là “tứ chính” th́ cả bốn đều nghiêm chỉnh, c̣n như dùng vào việc gian tà là “tứ tặc” tức bốn tên giặc làm hại bản tính.
Lúc sống đă quen chạy theo đường tà dua nhập bàng môn tả đạo, lúc hết đương nhiên hồn thoát ra từ bốn cửa phụ này, đọa lạc đầu thai làm trâu ḅ, lừa ngựa, gà vịt, chim muông, cá tôm, côn trùng, sâu bọ...
Cho nên đức Khổng Tử chủ trương thiếu lễ không nh́n, thiếu lễ không nghe, thiếu lễ không nói, thiếu lễ không động là cốt để khuyến giới người đời. Căn cứ vào bốn tướng của Phật mà nói th́:
• Mắt: Chủ bố thí, nếu như có thể yên lặng quan sát chúng sinh, coi chúng sinh như con đẻ, không lựa chọn thân sơ, b́nh đẳng tế độ, xử sự công bằng, không phân biệt ta và người, không coi rẻ kẻ khác, đó không phải là tướng người thường.
• Tai: Chủ tĩnh lặng, nếu như biết thân này là ảo, gặp thế sự vô thường hành xử theo giáo pháp của đạo lớn, thấy việc nghĩa hăng hái làm, không tiếc mạng sống để hoàn thành đại ngă tức cái ta lớn rộng, v́ người v́ nước hy sinh tiểu ngă tức cái ta nhỏ bé, được vậy gọi là “vô ngă tướng” tức cái tướng cá nhân không c̣n.
• Mũi: Chủ nghe ngóng, hành động không thức thần, chỉ nương theo phương tiện nguyên lực hành tŕ, không bị trầm luân khổ hải, không vọng tưởng, sống lâu trăm tuổi.
• Miệng: Chủ ban bố, nếu như diệt trừ được hết phàm tâm tục tánh, không c̣n tham luyến buộc ràng, giải thoát khỏi ách luân hồi.
Tóm lại bốn cửa không đóng, bốn tướng không tịnh, ắt tạo nghiệp vô biên, không giữ ǵn không thành đạo, phút lâm chung ắt sẽ đầu thai làm loài cầm thú sâu bọ, vĩnh viễn chẳng thể phục hồi bản lai diện mục.
Mong người đời mau lo tu đạo, đi cửa chính huyền môn, hành động theo lương tâm ắt sẽ “Lúc sống không làm chuyện bất nhân, nửa đêm chẳng sợ quỷ gơ cửa".
Phật tại linh sơn mạc viễn cầu
Linh sơn chỉ tại nể tâm đầu
Nhân nhân hữu cá linh sơn tháp
Hảo hướng linh sơn tháp hạ tu.
Phật ở linh sơn há kiếm xa
Linh sơn ở tại đáy tim ta
Linh sơn tháp báu người người có
Mau tới linh sơn tháp đó tu.
Mong người đời sớm giác ngộ.
Dương Sinh: Chỉ cần nghe đức Chuyển Luân Vương chỉ giáo một lần c̣n hơn mười năm đọc sách. Sự tŕnh bày về các kiếp luân hồi vừa rồi cho thấy phút lâm chung cứ quan sát ngũ quan là biết rơ.
Minh Vương: Ha ha, chỉ cần “tứ quan” không cần tới “ngũ quan”. Tứ quan bất chính th́ ngũ quan làm sao đoan chính nổi, quan sát sắc diện lúc lâm chung là có thể đoán được linh hồn đó sẽ bị đầu thai làm kiếp ǵ rồi, c̣n nếu cẩn thận hơn nữa th́ mới cần tham khảo thêm mà thôi.
V́ có tới ba kiếp nhân quả cho nên thiện ác, công tội được phân xử rơ ràng, số phận mỗi người đều có nguyên nhân kết quả cực kỳ chính xác, bởi vậy qua sắc diện phút lâm chung mới biết rơ được là nẻo luân hồi của kẻ đó tốt xấu, phước họa ra sao.
Sự luân hồi của con người đều ghi dấu nơi cơ thể, mắt Phật nh́n rơ hết mong người đời đi nẻo chính đường ngay, tránh lối quanh co, kiếp tới mới mong thuận buồm xuôi gió.
Dương Sinh: Thưa, đệ tử thấy báo chí thường thông tin đăng h́nh những quái thai trên thế giới, nào như thân thể hai trẻ sơ sinh dính liền nhau hoặc ḿnh người mà đầu heo... như vậy việc này có quan hệ ǵ đối với việc chuyển kiếp đầu thai không?
Minh Vương: Nói về quái thai, theo y học th́ người mẹ thụ thai đă lạm dụng thuốc men, khiến bào thai phát triển lệch lạc. C̣n nói theo nhân quả th́ cơ thể người mẹ cảm ứng tự chuốc tội nghiệp, tạo thành bào thai ngũ quan bất chính, tứ chi bất toàn; cảm ứng tự chuốc hồn thú tạo thành bào thai mang h́nh thú vật, tất cả đều do nguyên h́nh đầu thai chưa thoát hóa.
C̣n các bào thai dính liền nhau đều do duyên kiếp trước tạo thành như trai gái yêu nhau, các tay anh chị kết bè lập đảng hành động bất chính, tạo thành nghiệp quả thân thể dính liền, suốt đời chẳng ĺa nhau, nếu để nguyên th́ cử động rất bất tiện, c̣n giải phẫu tách rời ra th́ cũng máu đổ thịt rơi, thật là đau đớn.
Có làm người đường hoàng mới mong sinh con lành lặn, khi người mẹ thụ thai cần phải hết sức lưu tâm, không được lạm dụng các thứ thuốc men để tránh các hậu quả tai hại cho bào thai.
Tế Phật: V́ thời giờ eo hẹp, bữa nay tạm ngưng cuộc phỏng vấn tại đây, sách Luân Hồi Du Kư đă viết xong, cảm tạ Chuyển Luân Vương đă tận t́nh chỉ giáo.
Kể từ lúc viết sách Luân Hồi Du Kư tới ngày mồng tám tháng hai này là đúng một năm tṛn, đệ tử Thánh Đức Đường phải chuẩn bị năm mâm trái cây, đức Dao Tŕ sẽ khai mạc Thánh Hội để chúc mừng sách Luân Hồi Du Kư hoàn thành, ta cùng tṛ ngoan Dương Sinh sẽ tham gia thánh điển, đức Dao Tŕ Lăo Mẫu sẽ khai yến, ban phép nhiệm mầu, kẻ có phước sẽ được hưởng.
Dương Sinh: Cảm tạ đức Chuyển Luân Vương đă ban cho đệ tử biết bao điều diệu lư chân ngôn, xin cáo từ.
Minh Vương: Các đệ tử của Thánh Đức Đường chịu khổ cực nhiều, công lao thực là to lớn, chúc hoàn thành được tác phẩm Luân Hồi Du Kư để thánh đức sáng chói phổ chiếu toàn thiên hạ.
Dương Sinh: Thưa con đă lên đài sen, kính mời ân sư trở về Thánh Đức Đường.
Tế Phật: Phụng hành thánh chỉ mới, phải trải qua biết bao gian nan khổ cực, tắm gội gió sương mưa nắng, ngoài song giông băo, trong ḷng lắng tĩnh, giờ đây trách nhiệm hoàn thành trở về, mong đem thành quả này dâng hiến người đời... Đă về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 849 of 1146: Đă gửi: 25 November 2010 lúc 6:29am | Đă lưu IP
|
|
|
LUÂN HỒI DU KƯ
HỒI HAI MƯƠI BA
LUÂN HỒI DU KƯ VIẾT XONG THÀNH SÁCH QUƯ
DAO TR̀ LĂO MẪU BÀY TIỆC CHÚC CÔNG THÀNH
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 8 tháng 2 năm Nhâm Tuất 1982
Thơ
Súc đạo xuất đầu hướng Phật tu
Luân hồi lộ thượng đoạn nguyên lưu
Ṭng kim tỉnh ngộ quy gia khứ
Khổ hải vô ba bất tái du.
Vạn giáo quy tông Thánh Đức Đường
Ḱ thư tạo tựu hóa mê phương
Nguy nga đạo nghiệp hoằng đồ triển
Phổ tế quần sinh bổ khang trang.
Dịch
Cầm thú cúi đầu hướng Phật tu
Luân hồi nẻo cũ đă xa ĺa
Từ nay tỉnh ngộ về nhà mới
Biển khổ sóng êm hết có lo.
Vạn giáo quy tông Thánh Đức Đường
Hoàn thành sách quư cứu muôn phương
Hoằng dương đạo lớn thêm cao cả
Hướng dẫn chúng sinh tiến chẳng ngừng.
Tế Phật: Ha ha, hôm nay là ngày vui mừng v́ sách Luân Hồi Du Kư gồm cả thảy hai mươi hai hồi vừa hoàn tất. Đă lâu trời không mưa, giờ đây đột nhiên mưa lớn, ao khô chớp mắt nước đầy tràn, cá vùng vẫy bơi lội thật là sung sướng.
Loài vật sinh tồn tại thế gian, trừ một số ít được người che chở, hưởng đặng ḷng nhân đạo, c̣n phần lớn vô phước số mệnh bị đày đọa khổ đau muôn phần, cả đời chúng chẳng hề được tắm rửa, chỉ lúc bị đem làm thịt mới xối nước sôi nhổ lông cho dễ, loài vật lúc đó quả là bất hạnh.
Bữa nay, việc Thánh Đức Đường phụng chỉ viết sách Luân Hồi Du Kư đă xong, ta đặc biệt hóa phép để mưa pháp cam lộ tuôn tràn, tắm mát muôn loài sinh vật, giúp tính linh chúng thanh tịnh hầu sống được lâu. Được mưa pháp xối ướt, loài vật rất lấy làm sung sướng, nhất là lũ gà vịt không những không phản đối mà c̣n tỏ ra vô cùng thích thú.
V́ đă từ lâu chúng chỉ được uống nước vũng śnh hôi thối, giờ đây cổ nghểnh cao, mỏ há lớn để mong uống được nhiều nước mưa trời. Trâu vùng vằng để trút sạch bùn đất bám trên ḿnh, hổ, báo, sư tử và voi cũng nhân dịp này tắm rửa sạch sẽ.
Dương Sinh: Thưa, bữa nay con thấy tinh thần ân sư nhẹ nhàng thoải mái, c̣n phần con cũng cảm thấy ḷng dạ hân hoan, v́ sứ mệnh mới của trời giao phó đă hoàn thành.
Tế Phật: Thuyền pháp mới không dính hạt bụi, ngồi nghỉ muôn phần thích thú, tuy có chút sóng gió song chỉ vừa đủ để con thuyền bồng bềnh giúp ḿnh khoan khoái.
Nh́n năm mâm trái cây tươi bày trên bàn thờ trong chánh điện Thánh Đức Đường ta thèm quá chỉ muốn ăn, song nghĩ đó là lộc để ban cho những tín hữu đạo quả tṛn đầy, c̣n ta phước đức đâu mà hưởng. Ta chỉ xin tŕnh bày về ư nghĩa của năm mâm trái cây tươi cùng các tín hữu mà thôi:
1) Thảo môi: Trái thảo môi đỏ thắm thật đáng yêu, đầu có núm giống h́nh đức Phật, ăn chua chua ngọt ngọt tượng trưng cho kẻ tu đạo vừa khổ vừa vui, có bị mưa dập gió vùi, lửa đỏ nấu nung mới có thể tu thành quả Phật.
2) Liên vụ: Trái liên vụ phấn đỏ đáng yêu, h́nh giống trái chuông treo giữa trời sương gió. Thả xuống đất giống tựa bông sen nên có tên gọi là liên vụ, tức bông sen sương khói. Ăn vị ngọt mát, đó là trái mở ḷng người tu đạo, ăn trái này mới có thể ngồi ṭa sen bay giữa trời mây khói.
3) Tảo tử: Trái táo h́nh tṛn giống như quả trám là đạo quả tranh thủ được, tu đạo cũng như chơi banh, phải sứt tai bể đầu máu chảy mới thắng nổi. Nếu phải tranh thắng cùng ma đạo, chánh đạo chẳng thể nhường, v́ trên trận địa đạo đức nếu như trái banh đạo bị ma quỷ sút vô gôn, th́ kẻ tu đạo kể như là bại tướng tại trận tiền rồi vậy.
4) Bồ đào: Thứ trái cây nhập cảng từ Hoa Kỳ, kẻ tu đạo dùng thứ trái cây này rất tốt. Bồ đào tượng trưng cho ngọc Phật, ai thấy cũng ưa thích. Chùm bồ đào ngọc Phật này vừa niệm vừa ăn quả là thiết thực, nếu chúng sinh không rời xa Phật ắt hẳn bồ đào cầm chắc trong tay.
C̣n bỏ Phật không được ăn trái bồ đào miệng sẽ đắng ngắt, để rồi than thở: “Tây phương xa quá đi chẳng tới, đào tiên ở măi trên trời ăn chẳng được”. Cơi tây phương mười vạn tám ngàn dặm xa, bồ đào Mỹ quốc chẳng thể với tới, do đó không thể nói là không có khả năng.
5) Thích ca: Đó là mâm trái cây quư báu và kính trọng nhất được đặt ở giữa bàn, chúng sinh một đời khổ cực vắt cạn năo tủy khiến đầu óc hôn mê, héo hắt cuối cùng vong mạng.
Song c̣n đức Thích Ca đầu to lại mọc thêm đầu nhỏ, cũng như một người hóa thành vô số người, một đầu trở thành vô lượng đầu, đầu đầu là đạo, nên có thể thành tựu quả vị Phật một cách huy hoàng, đó là thứ trái cây cao quư nhất, kẻ có duyên mới nhận được.
Điều đó nói lên ư nghĩa khi lễ Tiên Phật chỉ nên dâng trái cây tươi, vả lại sau khi cúng xong kẻ ăn lộc đó mới không phạm giới. Sau khi chúng sinh xem xong sách Luân Hồi Du kư, chắc chắn trên các bàn thờ sẽ chẳng c̣n thấy bày đồ mặn tanh tưởi như trước nữa (thịt gà, thịt vịt quăng vội xuống gầm bàn. Ha ha).
Dương Sinh: Thưa, lời dạy ân sư rất chí lư, con đă từng được đọc một bài thơ trong sách đạo với tựa đề là “Khuyên Ăn Chay” ư nghĩa cực kỳ sâu xa, xin ghi vào đây để tặng người đời.
Cầu thần bái Phật giáng cát tường
Tiên hoa thủy quả lễ tối đương
Tam sinh tửu lễ khai sát giới
Bất năng đắc phúc phản họa ương
Lục đạo luân hồi quân bất tín
Quan thích bằng hữu chuyển ngưu dương
Mỗ giáp sát kê nguyên sát tử
Ất quân đồ trư cánh đồ nương
Quán Âm nhự tố hà dụng tửu
Phật Tổ tối kị bái trư dương
Thần linh đa thị nhân từ tâm
Khởi hữu tham phúc băo đỗ trường
Chỉ hữu tà đạo tham khẩu phúc
Vị kiến chính thần hoại cương thường
Khuyến quân mạc tín tam sinh tế
Nhất phiến thành tâm tam trụ hương
Đa hiến tài bạch tế bần khổ
Thế đại tử tôn đắc an khang
Tố thực bất hại vô cô mệnh
Nhất niên tứ quư bảo b́nh an.
Cầu xin Tiên Phật trải t́nh thương
Trái ngọt hoa tươi lễ cúng dường
Chớ có một đời dâng rượu thịt
Phúc lành chẳng hưởng hưởng tai ương
Luân hồi cầm thú không lo tránh
Đọa kiếp trâu dê thật khó lường
Giết vịt giết con mà chẳng biết
Giết heo giết mẹ lại không tường
Quán Âm chay tịnh đâu thèm rượu
Phật Tổ thịt thà há vấn vương
Thần thánh vốn giàu t́nh bác ái
Dạ nào chỉ muốn được no ḷng
Tham ăn chỉ bọn chuyên buôn thánh
Chửa thấy thần tiên phá kỉ cương
Khuyên chớ vội tin ba kiếp trước
Nếu cần khấn khứa đốt tâm hương
Bạc tiền bố thí người nghèo khổ
Con cháu nối đời được kiện khang
Bỏ mặn theo chay lành chẳng hại
Mỗi mùa mỗi tuổi sống b́nh thường.
Tế Phật: Bài thơ khuyên ăn chay này hay lắm, sự chỉ dạy về cách thờ thần kính Phật chay tịnh đầy ư nghĩa sâu xa, mong người đời thể ngộ được lời khuyên chân thành này. Dương Sinh y phục chỉnh tề, bữa nay Dao Tŕ cử hành Thánh Hội, Lăo Mẫu muốn được thấy lại thầy tṛ ḿnh, chuẩn bị lên đài sen.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh, thưa con đă sửa soạn xong, kính mời ân sư khởi hành...
Tế Phật: Bữa nay con lănh phận sự chỉ huy, tự tay lèo lái ṭa sen này.
Dương Sinh: Thưa con chẳng dám, c̣n ṭa sen bữa nay lại to lớn gấp bội, hào quang lấp lánh tỏa chiếu sáng ngời, trong suốt tựa pha lê vô cùng quư giá, tṛ ngu không có can đảm lănh tránh nhiệm điều khiển.
Tế Phật: Ṭa sen này chở thầy tṛ ḿnh đi dạo khắp ba cơi, viết xong ba cuốn sách trời quư báu, đối với trời, đất, người và cầm thú ḿnh đă tạo lập được mảnh vườn đẹp đẽ, nhờ vậy mà ṭa sen mỗi ngày một to lớn sáng đẹp hơn.
Vô số chúng sinh đọc xong ba cuốn sách quư liễu ngộ nhân sinh, chân tu đại đạo cũng được đáp ṭa sen này nên đạo lực phi phàm, bởi vậy con chớ có lo sợ, tâm niệm nhất động, nghĩ tới cơi Vô Cực Dao Tŕ Lăo Mẫu, ṭa sen tự nhiên bay vút tới nơi.
Dương Sinh: Thưa ân sư có được nổi sự kiện này sao?
Tế Phật: Đương nhiên, lúc mê th́ có thầy có tṛ, khi ngộ th́ tự độ, giờ phút này tự ngộ tự độ.
Dương Sinh: Ân sư đă dạy như vậy th́ con xin niệm chân ngôn: “Đài sen, đài sen, ta và ân sư muốn tới Dao Tŕ tham dự Thánh Hội, mong người hăy khởi hành...”.
Quả là kỳ diệu, niệm xong chân ngôn, đài sen như phi thuyền cất cánh bay vút lên trời, vượt qua bao tầng mây, hướng nẻo Dao Tŕ phóng tới... Tốc độ quá mau, mắt không mở nổi.
Tế Phật: Con có thể nhắm mắt tĩnh thần dưỡng khí, chỉ sát na tới Dao Tŕ.
Dương Sinh: Thưa, xin tuân lệnh, con tạm nhắm hai mắt... Hào quang phía trước chói ḷa, chắc chắn đây là cơi trời vô cực.
Tế Phật: Đă tới Dao Tŕ, để thầy ngưng lại, Dương Sinh xuống đài sen. Hội trường đă ngồi đầy chư Thánh Tiên Phật cơi trời, mau tới trước lạy chào ra mắt đức Lăo Mẫu.
Dương Sinh: Dao Tŕ bày tiệc linh đ́nh, khách khứa tấp nập là thường.
Thuần Dương Đại Đế: Hoan nghênh Tế Phật cùng thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường ở Đài Trung đă tới. Tôi đảm nhận chức trưởng ban nghi lễ buổi Thánh Hội hôm nay, xin mời hai vị theo tôi.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh, cảm tạ sự hướng dẫn của Lă Tổ Sư.
Thuần Dương Đại Đế: Đây là hàng ghế danh dự, mời Tế Phật cùng Dương Sinh ngồi.
Dương Sinh: Cảm tạ Lă Tổ Sư. (Thấy một chiếc bàn tṛn cực lớn phủ vải đỏ, trên bày nhiều thứ trái cây tươi cùng rượu quỳnh tương. Đức Quán thế Âm cũng vừa an tọa). Đệ tử Dương Sinh xin lạy chào ra mắt bồ tát.
Quán thế Âm: Miễn lễ, bữa nay hai vị là thượng khách, mời ngồi.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh, cảm tạ bồ tát ban ân.
Thuần Dương Đại Đế: Bữa nay là ngày mừng sách Luân Hồi Du Kí viết xong Dao Tŕ Lăo Mẫu đặc biệt mở Thánh Hội này, bày một trăm lẻ tám bàn tiệc mời đại biểu Thánh Tiên Phật khắp ba cơi. Lăo Mẫu cùng Ngọc Đế thân hành tới dự.
Tế Phật: Dương Sinh mau lạy chào ra mắt.
Dương Sinh: Đệ tử xin lạy chào ra mắt đức Lăo Mẫu cùng đức Ngọc Đế.
Lăo Mẫu: Lành thay, miễn lễ, mau đứng lên về chỗ ngồi.
Dương Sinh: Cảm tạ đức Lăo Mẫu đă ban ơn phước. (Ngồi trên ghế nh́n phong cảnh Dao Tŕ bên ngoài cực ḱ mĩ lệ, chẳng khác nào cảnh đào nguyên nơi cơi tiên, các bậc Thần Thánh Tiên Phật khắp nơi tấp nập đổ về dự Thánh Hội, trên đầu vị nào vị nấy các ṿng hào quang tỏa chiếu sáng ngời khiến cảnh hội trường vô cùng rực rỡ).
Thuần Dương Đại Đế: Để chúc mừng Thánh Đức Đường Vô Cực Đài Trung đă phụng chỉ trước tác xong sách Luân Hồi Du Kí, Dao Tŕ khai mạc Thánh Hội, mời chư vị đứng lên lạy ba lạy để kính chào đức Lăo Mẫu cùng đức Ngọc Đế. Tiên Cô Ma Nương hướng dẫn các tiên nữ cung Dao Tŕ tấu nhạc tiên, cùng biểu diễn vũ khúc Nghê Thường. Mời chư vị an tọa để khai tiệc.
Lăo Mẫu: Dương Sinh chớ làm khách, bữa nay cử hành Thánh Hội là hoàn toàn v́ con, chư Tiên Thánh Phật thuộc ba cơi vốn là khách ngoài chốn dương gian, sớm hưởng tiêu dao cơi trời nên Thánh Hội này đối với chư vị đó không quan trọng, chỉ cốt giúp con mở rộng tầm mắt, thấy được cảnh tiên an lạc siêu diệu này để con tŕnh bày lại cho người đời được rơ, hầu hướng dẫn họ hướng về cơi trời, do đó cơi Dao Tŕ mới mở Thánh Hội này, các vị giáo chủ các tôn giáo đều tích cực hỗ trợ Mẫu, Dương Sinh và Tế Phật cả hai đều gian nan và khổ cực vô cùng.
Tế Phật: Thưa, đó là nhiệm vụ trời trao phó.
Dương Sinh: Con có phước được Mẫu thương, ban cho trách nhiệm theo ân sư dạo cơi nhân gian, phỏng vấn các loài cầm thú để viết sách quư khuyên đời, lộc trời vô lượng, ơn thầy cao sâu, biết làm sao đền đáp nổi?
Lăo Mẫu: Dương Sinh chớ lo báo đền ơn phước, chỉ cần gắng gỏi nhiều hơn để đi hết đường đạo chông gai dài muôn ngàn dặm, ngày sau đạo quả ắt sẽ tṛn đầy. Hăy nhận trái tiên quư báu này của Mẫu ban.
Tế Phật: Dương Sinh đừng làm khách, đó là lộc Mẫu ân ban.
Dương Sinh: Cảm tạ đức Lăo Mẫu, số trái tiên này vừa đào vừa lê, ăn ngon vô cùng, hương vị ngọt ngào vô kể. Trên bàn c̣n bày năm mâm nữa, nhưng tại sao lại giống hệt năm mâm trái cây do Thánh Đức Đường dâng cúng?
Lăo Mẫu: Lành thay, Dương Sinh có điều chưa tỏ, năm mâm trái cây này là lễ vật của Thánh Đức Đường cúng dường, Dao Tŕ mở đại tiệc, Thánh Đức Đường cũng khai tiểu yến, trời và người phút này hợp nhất, con để ư quan sát hẳn sẽ thấy h́nh ảnh Thánh Đức Đường hiển hiện trước cung Dao Tŕ.
(Giờ đây nơi miệng của các đệ tử nhiều công quả của Thánh Đức Đường đầy ắp nước pháp cam lộ). Mẫu hướng dẫn toàn thể nguyên linh các đệ tử của Thánh Đức Đường nhiều công quả lên đây dự Thánh Hội, song điển nguyên linh của họ thuộc tầng giới khác không giống ở đây.
Dương Sinh: Thực quả chẳng thể bàn căi nổi. Đâu có ngờ được là các tín hữu phát tâm công quả của Thánh Đức Đường cũng tới đây dự tiệc.
Lăo Mẫu: Con hăy uống cạn chén rượu quỳnh tương này.
Dương Sinh: Cảm tạ đức Lăo Mẫu, uống xong rượu quỳnh tương con có cảm giác toàn thân nhẹ lâng lâng bay bổng, mát mẻ nhẹ nhàng. Kính hỏi đức Lăo Mẫu, trên hàng ghế danh dự ngoài các vị giáo chủ thuộc các tôn giáo, Tam Quan Đại Đế, Quán thế Âm, tiên đồng Dao Tŕ ra c̣n có sáu vị trưởng lăo khác, đức hạnh cao dày không rơ chư vị đó là ai?
Lăo Mẫu: Nhân gian luân hồi gặp mặt mà quên, sau khi Dương Sinh viết xong hai bộ sách du kư Thiên Đàng và Địa Ngục, khuyến hóa được vô lượng chúng sinh, tạo được công đức vô thượng, ngay khi con dâng nộp sách Thiên Đàng Du Kư, Mẫu đă ban ân để cho cửu huyền thất tổ của con siêu thăng, bởi vậy các vị đó chính là tổ tiên của con đă nhờ công đức con che chở vậy.
Một năm trước đây được phiêu diêu các cơi trời tu luyện, có vị tại Thiên Phật Viện, có vị tại Tử Trúc Lâm, có vị tại cung Dao Tŕ, bữa nay lại đặc biệt mời các vị đó tới đây tham dự Thánh Hội để gặp mặt con từ cơi dương gian tới.
Dương Sinh: Cảm tạ Lău Mẫu từ bi đă đề bạt ông nội và cha đẻ của con, v́ phải ngồi theo thứ tự trên dưới nên vừa rồi con đă không nhận ra, con cũng kính mong ông nội và cha tha lỗi cho con.
Lăo Mẫu: Giờ ông nội Tái Thiêm của Dương Sinh hăy phát biểu.
Tái Thiêm: Bữa nay phước đức được gặp lại cháu ngoan tại Dao Tŕ, trong ḷng vui mừng khôn xiết, ông kiếp trước vị quốc tận trung, đă thác v́ giao tranh cùng quân Nhật, khi đó cha của con mới ba tuổi, gia cảnh lại cực kỳ nghèo khổ. Tới khi cha của con trưởng thành phải nhẫn nại chịu đựng mọi đắng cay.
Vừa cày ruộng vừa làm thuê, tuy khổ cực nhưng không hề tham lam, giúp đỡ làng xóm láng giềng, cứu người thoát khỏi cơn nguy khốn, ḷng dạ hiền lành, rất chăm lễ bái thần Phật. Nhờ tổ tiên nhà họ Dương nối đời tu thân tích đức, con cháu dầu gặp cảnh khổ song trời Phật cũng ban ơn cứu độ.
Ngay từ ngày c̣n nhỏ cháu đă biết theo cha tới chùa lễ bái Phật, dần dần giác ngộ được pháp Phật huyền vi, nhờ vậy được Phật khai khiếu thông linh nên đă xả thân thay trời hành đạo, viết xong hai cuốn du kư Thiên Đàng, Địa Ngục, tuyển trích biết bao ư đạo thâm sâu từ nhiều kinh sách quư báu lập công lập đức, nhờ ơn đức ấy mới có thể giúp cha ông siêu thăng.
Ông v́ quốc tận trung, thân xác mất song tính linh được làm tướng tại cơi Nam Thiên, nay được chứng quả vị vô cực, đức Lăo Mẫu phong cho tước vị Phổ Đức Chân Nhân, mong cháu tiếp tục gia sức thế thiên tuyên hóa, ngày sau tổ tiên cùng được hưởng phước báu.
Dương Sinh: Con xin kính cẩn vâng lời. Cảm tạ Lăo Mẫu ban ân khiến tổ tiên của con mới có được quả vị phước đức này.
Lăo Mẫu: Có công cày bừa có ngày gặt hái. Tiếp tục dùng đào tiên cùng thức ăn của cơi trời.
Dương Sinh: (Tiên Cô Ma Nương đang hướng dẫn các tiên nữ tới để vũ khúc nghê thường, hát nhạc tiên, cùng dâng đào tiên lên đức Lăo Mẫu).
Lăo Mẫu: Hăy đem đào tiên này ban cho Dương Sinh.
Dương Sinh: (Quả nhiên Tiên Cô Ma Nương mang đào tới tặng).
Tiên Cô Ma Nương: Xin tặng Dương Sinh đào tiên Dao Tŕ, chúc sự nghiệp hoằng dương đạo pháp ngày càng sáng chói.
Dương Sinh: Cảm tạ Tiên Cô Ma Nương đă phụng chỉ ban đào tiên.
Tiên Cô: Xin chớ làm khách.
Dương Sinh: Đệ tử sẽ mang đào tiên này về Thánh Đức Đường để toàn thể tín hữu cùng chung hưởng. Bữa nay hoàn thành được sách Luân Hồi Du Kư là nhờ sự đồng tâm hiệp lực của tất cả các bạn đạo ngày đêm công quả mới đạt được sự thành công này, quư vị đó là những người dâng hiến công lao mà chẳng cần nêu tên, song được phước th́ phải cùng hưởng.
Lăo Mẫu: Đúng vậy, các đệ tử của Thánh Đức Đường đă tham gia việc thực hiện sách quư, ngày đêm chịu nhiều khổ cực, công đức lớn lao. Mẫu có một hũ rượu quỳnh tương tặng Dương Sinh mang về, để toàn thể đệ tử Thánh Đức Đường cùng hưởng.
Ngọc Đế: Nguyên linh các chúng sinh vốn do Mẫu sinh ra, cầm thú bữa nay đặc biệt được đức Lăo Mẫu hóa độ, chỉ mong giác ngộ tiền duyên, tự tu tự tiến, không c̣n sát hại đồng loài, tương lai đầu thai lên làm người. Thế nhân cũng cần phải tu tiến hơn nữa mới mong tránh khỏi đọa lạc xuống hàng cầm thú, đó là sở nguyện của Trẫm vậy.
Đạo Tổ: Cúng thần lễ thánh chớ có sát sinh, nơi thờ tự cần phải thanh tịnh, hoa thơm trái ngọt hương trầm rừng núi đều do linh khí trời đất kết tinh, dùng làm lễ vật cúng dường thần thánh tiên Phật rất quư, mong chúng sinh gắng lo tu thiện, người và cầm thú đều được siêu thăng.
Đức Phật: Lành thay, Phật vốn từ bi độ hết chúng sinh mới mong thành Phật. Cầm thú hưởng phước bữa nay đều được siêu sinh, mong người đời che chở tính linh các loài động vật. Có nhiều tính linh là quyến thuộc đời trước của chúng sinh, do đó phải nuôi dưỡng tâm từ bi mới có thể đối xử tốt với họ. Mong mọi người cố gắng thi hành, chăm chỉ học Phật tu thiện, đạo quả sẽ thành.
Đức Khổng Tử: Kẻ yêu vật chẳng sát sinh, người không phải là thánh, lỗi lầm có thể sửa, đức thiện chẳng lớn sao?
Đức Chúa: Thượng Đế thương yêu loài người cùng các loài động vật có tính linh và sinh mệnh. Loài vật thường giúp đỡ người như chó giữ nhà, gà báo thức, ḅ cày ruộng vắt sữa, bởi vậy loài người phải hết ḷng thương yêu loài vật. Không được bắt loài vật có máu lệ thịt xương đóng đinh trên thập tự giá, bởi lẽ chúng sẽ tái sanh trở lại trần gian làm người.
Mục Sư: Hăy buông dao đồ tể, rửa sạch tay ngươi ướt đẫm máu tươi, ăn chay thanh tịnh mới là người hết ḷng vâng ư Chúa.
Quán thế Âm: Lành thay, thuyền từ thánh đức chở đầy chúng sinh, người tới gà vịt cùng tới, sách Luân Hồi Du Kí đă viết xong, muôn nhà sinh Phật, gà chó siêu thăng.
Tiên Đồng Dao Tŕ: Đức thánh biến thành trúc thánh, Quán Âm ban thuyền từ, trúc tía che chở chúng sinh, mong chúng sinh quán tự tại bồ tát, phát tâm bát nhă ba la mật đa.
Lăo Mẫu: Dương Sinh hăy dùng trà tiên, Thánh Hội sắp kết thúc tṛn đầy. Thánh Đức Đường phụng chỉ của Mẫu phát huy đạo giáo, v́ Dao Tŕ trực thuộc thuyền pháp vô cực, truyền ban diệu lư vô cực, đại thừa Phật pháp.
Bữa nay viết xong sách Luân Hồi Du Kư nên đặc biệt mở Thánh Hội để ban phát phẩm vật cao quư của đức Dao Tŕ cho Dương Sinh cùng các chư vị khác tại buổi tiệc đoàn viên ở Ao Ngọc này. Mong mọi người gắng đọc sách, tha thiết việc giác ngộ, mau xa rời nẻo ác, tránh ngả luân hồi, đầu thai tại chốn đồng hoang núi vắng, hoặc bị giam trong cũi sắt lồng tre.
Hoặc bị ch́m đắm giữa chốn bể khổ bao la, giữa nơi giếng sâu vực thẳm, sống để người giết chóc, chết để người ăn thịt, một lần mất thân, muôn kiếp khó phục hồi. Dương Sinh hăy gắng gỏi thêm, Mẫu ban hào quang thánh đức, băng đường đạo lớn ngàn dặm, khen Tế Phật công đức vô lượng, cùng cứu độ thế gian lượng Phật vô biên.
Tế Phật: Cảm tạ đức Lăo Mẫu đă ân ban lời vàng ngọc, bần đạo nguyện lấy thiên hạ làm nhà, thề không làm Phật cơi trời, mong chúng sinh noi theo tinh thần cứu độ của bần tăng, học đạo tu thân th́ công lao trước tác ba cuốn sách quư của bần tăng cùng Dương Sinh mới không uổng phí.
Thuần Dương Đại Đế: Thánh Hội bữa nay đă kết thúc tốt đẹp, mời toàn thể quư vị đứng lên lạy chào tạm biệt đức Lăo Mẫu cùng đức Ngọc Đế.
Lăo Mẫu: Miễn lễ, Mẫu ban đào tiên, rượu quỳnh tương cùng năm mâm trái cây để Dương Sinh mang về cho các đệ tử Thánh Đức Đường cùng hưởng, đài sen của Dương Sinh được nâng cao thêm ba bậc.
Dương Sinh: Cảm tạ đức Lăo Mẫu đă ân ban, con sẽ mang phẩm vật này về Thánh Đức Đường để tất cả các tín hữu cùng chung hưởng. Xin từ biệt đức Lăo Mẫu, đức Ngọc Đế cùng chư vị tiên thánh Phật cao minh.
Tế Phật: Cảm tạ đức Lăo Mẫu cùng chư vị cao minh đă ân ban cho tṛ ngu của Thánh Đức Đường nhiều phẩm vật quư giá. Dương Sinh mau lên đài sen chuẩn bị trở lại dương gian.
Thuần Dương Đại Đế: Mời chư vị tiễn đưa Tế Phật cùng Dương Sinh...
Tế Phật: Cưỡi đài sen dạo thăm ba cơi để hoàn thành cuốn kinh báu cứu đời, cùng làm món ăn tinh thần cho chúng sinh. Bữa nay cơi trời ban rượu quỳnh tương để thân thể khỏe mạnh, tinh thần tỉnh táo, tuổi thọ thêm cao.
Nhờ dạo cơi nhân gian tế độ vô lượng chúng sinh, loài cầm thú cũng nương nhờ chiếc xe pháp đài sen này. Có chí cùng chung chớ phân biệt thân ta với thân người, vô lượng thọ Phật, chớ có bàn luận tính linh cao thấp.
Chúng ta đều là con của Lăo Mẫu, đồng tâm hiệp lực kiến lập đất lành tại cơi nhân gian, mong mọi người từ nay hướng thiện tu thân, cầm thú bắt đầu cải tà quy chánh, tu tâm sửa tánh để chuẩn bị đầu thai làm người.
Ghi nhớ thanh âm tha thiết của Tế Phật, măi măi c̣n văng vẳng kêu gọi mọi người... Đă tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 850 of 1146: Đă gửi: 25 November 2010 lúc 6:30am | Đă lưu IP
|
|
|
LUÂN HỒI DU KƯ
Ư CHỈ
Tiên Cô Ma Nương Cung Dao Tŕ
Giáng
Thơ
Phổ độ Tam Tào biến xứ du
Thiên đường địa ngục khuyến nhân tu
Tâm hoài súc đạo luân hồi khổ
Tế Phật huề đồ tạo pháp châu.
Dịch
Tam Tào cứu độ khắp nơi đi
Địa ngục thiên đàng khuyến kẻ tu
Cầm thú luân hồi lo khổ hải
Dương Sinh Tế Phật tạo thuyền từ.
Đức Thánh Dạy
Đêm nay ta phụng mệnh đức Dao Tŕ Lăo Mẫu tuyên đọc Ư Chỉ, mọi người cúi đầu lắng nghe.
Ư Chỉ của đức Dao Tŕ Lăo Mẫu răn rằng:
“Ta ngự tại cơi Dao Tŕ, ḷng luôn lo lắng chúng sinh cơi trần. Trời vốn có đức hiếu sinh, thấy loài người phạm giới sát sinh không ngừng tạo cảnh gươm đao chém giết, bày cảnh tham dâm khắp chốn.
Nhờ duyên trời đất muôn loài đều do một khí vô cực sinh ra, Mẫu được là chủ nguyên linh của tất cả chúng sinh, nên mỗi khi thấy nguyên linh chúng sinh đọa lạc loài khác, ḷng Mẫu đau đớn vô cùng.
Con người lúc mới sinh ra tất cả đều vẹn toàn, song dần dần biến thành cầm thú, khiến xă hội điêu linh lầm than khổ cực, mặc dù có pháp luật cảnh cáo để ngăn ngừa, song vẫn c̣n nhiều phần tử ngoan cố không chịu tuân theo.
Cho nên mới bị luật trời cùng âm phủ trừng phạt, dùng phẩm đức đoan chính để tôi luyện tính linh vô h́nh, để cho người đời thấy rơ lẽ nhân quả luân hồi báo ứng, một sợi tơ sợi tóc không sai chệch.
Phàm những kẻ được sinh làmngười mà không tu nhân đạo, kiếp sau chắc chắn sẽ bị đầu thai làm loài cầm thú, cầm thú giác ngộ lỗi lầm kiếp trước lại được chuyển kiếp lên làm người, kẻ làm người biết tu thánh đạo được siêu thăng lên cơi trời, cứ có công là được chứng quả.
Mẫu v́ phổ độ chúng sinh, trước kia đă ban Ư Chỉ để Tế Phật hướng dẫn Dương Sinh trước tác hai bộ sách du kư Thiên Đàng và Địa Ngục, cơ huyền nhiệm của trời đất đă tiết lộ sơ qua.
Nay đem việc nhân loại chuyển sinh làm cầm thú công bố để mọi người hiểu rơ, mong giảm bớt những hành vi súc sanh của thế nhân.
Ngày 8 tháng 2 năm Tân Dậu 1981, lại ban Ư Chỉ cho Vô Cực Thánh Đức Đường ở Đài Trung trước tác sách Luân Hồi Du Kư, vẫn do Tế Phật đích thân hướng dẫn Dương Sinh dạo cơi nhân gian, phỏng vấn loài cầm thú để viết thành sách quư.
Tới nay đă gần một năm. Phàm những tài liệu có liên quan đến cầm thú luân hồi, chân lư tu đạo đều sưu tầm đầy đủ ghi vào trong sách, v́ cần gấp cho nên việc cứu độ chúng sinh ra lệnh tới ngày mồng 5 tháng 3 năm Nhâm Tuất 1982, sách phải hoàn thành.
Để mừng đệ nhất chu niên ngày phát hành tạp chí Thánh Đức, cùng ngày thành lập ngôi Thánh Đức Đường ra lệnh làm lễ, cầu tai qua nạn khỏi được b́nh an vào những ngày 3, 4, 5 tháng 3, vong linh tổ tiên được siêu thăng.
Công đức Thánh Hội lưu ba cơi,những ai phát tâm ấn tống sách Luân Hồi Du Kư vào dịp Thánh Hội, cùng có tín hữu có duyên khắp nơi tạo công gieo phước, sẽ giải trừ được sát nghiệp, oan nghiệp, cùng chuộc tội phải đầu thai làm loài cầm thú của người thân trong gia đ́nh.
Vào ngày Thánh Hội cần phóng sinh một trăm lẻ tám con chim để giúp loài vật siêu thăng. Kỳ Thánh Hội phát huy đạo pháp này, kẻ thành tâm tŕ trai tắm rửa, phát tâm sám hối cùng tham gia tạo công đức sẽ được lấy công chuộc tội.
Giúp tổ tiên ông bà giải thoát, lập công siêu thăng, người phàm tiêu nghiệp giảm tội, Tam Tào phổ độ đại xá những nguyên linh hướng thiện.
Mong thiên hạ chúng sinh gắng sức tu nhân tích đức, chăm tu thánh đạo, thoát ly cầm thú luân hồi, trở lại cơi trời vô cực sum họp cùng Lăo Mẫu để Mẫu được yên ḷng.
Các bạn đạo Thánh Đức Đường tham gia việc trước tác sách quư, để khuyến khích Mẫu đặc ban nguyên linh tổ tiên ông bà cha mẹ của các bạn đạo, thăng tiến ba cấp, con cháu cơi trần nghiệp lực giảm thiểu ba phần”.
Kính vâng không xao nhăng, cúi đầu tạ ơn.
Vận trời ngày 12 tháng 1 năm Nhâm Tuất 1982
Dịch giả: Đào Mộng Nam
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 851 of 1146: Đă gửi: 25 November 2010 lúc 6:47am | Đă lưu IP
|
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 852 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 8:47am | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
MỤC LỤC TỔNG QUÁT
CHƯƠNG MỘT: VÀI NÉT PHÁC HỌA TÍNH CÁCH CỦA BÀ BLAVATSKY
I.
II.
III.
IV.
CHƯƠNG HAI: HÀNH TR̀NH SANG ẤN ĐỘ
I.
II.
III.
IV.
CHƯƠNG BA: MỘT ĐỘNG PHÙ THỦY
I.
II.
III.
CHƯƠNG BỐN: BIỆT THỰ HOA HỒNG
I.
II.
CHƯƠNG NĂM: VIẾNG ĐỘNG KARLI
I.
II.
CHƯƠNG SÁU: MỘT CHUYẾN ĐI LÊN MIỀN BẮC
I.
II.
III.
CHƯƠNG BẢY: NỮ TU SĨ MAJI
I.
II.
III.
CHƯƠNG TÁM: PHÁP MÔN YOGA
CHƯƠNG CHÍN: VIẾNG THĂM TÍCH LAN
I.
II.
III.
CHƯƠNG MƯỜI: MỘT CUỘC KHỦNG HOẢNG NỘI BỘ
I.
II.
III.
CHƯƠNG MƯỜI MỘT: THỊ TRẤN SIMLA
I.
II.
III.
CHƯƠNG MƯỜI HAI: VÀI MẨU CHUYỆN BÊN LỀ
I.
II.
III.
IV.
V.
CHƯƠNG MƯỜI BA: ADYAR
I.
II.
III.
CHƯƠNG MƯỜI BỐN: CÁI GIẾNG THẦN
I.
II.
CHƯƠNG MƯỜI LĂM: BÍ QUYẾT CỦA SỰ CHỮA BỆNH
I.
II.
III.
IV.
V.
VI.
VII.
CHƯƠNG MƯỜI SÁU: CHÂN SƯ K. H. TẠI LAHORE
I.
II.
III.
IV.
V.
CHƯƠNG MƯỜI BẢY: DAMODAR BIỆT TÍCH
I.
II.
III.
IV.
DỊCH GIẢ: NGUYỄN HỮU KIỆT
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 853 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 8:53am | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
CHƯƠNG MỘT: VÀI NÉT PHÁC HỌA TÍNH CÁCH CỦA BÀ BLAVATSKY
I.
Trong quyển Hồi kư của H. S. Olcott đă miêu tả tính cách của bà Blavatsky ngoài xă hội. Bây giờ, chúng ta hăy nhận xét bà khi ở nhà. Nếp sinh hoạt hằng ngày của chúng tôi tại tư gia (mà tôi đặt cho tên gọi hài hước là “Lạt-ma Viện”) thường diễn ra như sau đây.
Chúng tôi ăn điểm tâm lúc tám giờ, dùng bữa chiều lúc sáu giờ, làm việc đến hai giờ sáng mới nghỉ, tùy theo việc làm của chúng tôi và những lúc gián đoạn công việc khi có khách đến viếng.
Bà Blavatsky dùng bữa trưa tại nhà, c̣n tôi thường ăn trưa ngoài phố, ở một nơi gần văn pḥng Luật của tôi.
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đă chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đ́nh đám và mọi hoạt động thế tục nói chung.
Sau bữa ăn điểm tâm, tôi đến văn pḥng làm việc, c̣n bà Blavatsky ngồi vào bàn làm việc tại nhà. Đến bữa ăn chiều, chúng tôi hầu như bao giờ cũng có khách, hiếm khi không có; và dẫu cho những ngày không có khách đến dùng bữa, thường cũng có người đến chơi vào buổi tối.
Việc bếp núc của chúng tôi rất đơn giản. Chúng tôi không uống rượu và chỉ ăn uống sơ sài, đạm bạc. Chúng tôi thường có một người giúp việc nhà, hay nói đúng hơn là một chuỗi dài những người giúp việc luân phiên đến rồi đi, v́ chúng tôi không giữ ai ở lâu.
Khi người giúp việc dọn dẹp bữa ăn chiều xong th́ được về nhà nghỉ, và sau đó chúng tôi phải tự ḿnh trả lời những tiếng gơ cửa. Tuy việc ấy không bận rộn bao nhiêu, nhưng điều nghiêm trọng hơn là phải cung ứng trà, sữa và đường cho một số đông quan khách thường đến chật nhà, có khi đến tận một giờ sáng.
Những dịp đó, bà Blavatsky nhân lúc cao hứng tự pha cho ḿnh một chén trà, và với một cách điệu rộng răi hào phóng, không màng nghĩ đến những khả năng cung ứng thực phẩm hiện có trong nhà, bèn tuyên bố: “Tất cả mọi người đều uống chơi một chén, quư vị nghĩ sao?”
Dẫu cho tôi ra dấu làm hiệu để can gián cũng vô ích, bà vẫn không chú ư. Thế là, sau nhiều cơn lục lạo đi t́m sữa và đường một cách vô hiệu ở vùng lân cận vào lúc nửa đêm, tôi bèn dán một tờ cáo tri lên vách về việc đó như sau:
MỜI UỐNG TRÀ
“Quư khách sẽ t́m thấy nước sôi và trà trong nhà bếp, có thể có cả sữa và đường. Xin hăy tự pha chế và tùy nghi sử dụng.”
Điều này có vẻ như phù hợp với bầu không khí tự do phóng khoáng ở tư gia chúng tôi, nên không ai nghĩ ǵ khác, và sau đó thật là một điều thú vị khi thấy những khách quen thản nhiên đứng dậy đi vào nhà bếp để tự pha lấy một chén trà nóng. Các bà mệnh phụ, các vị giáo sư, học giả, nghệ sĩ và kư giả nổi tiếng, tất cả đều vui vẻ trở thành những nhân viên tự động pha trà trong nhà bếp của chúng tôi.
Bà Blavatsky không hề có chút kiến thức sơ đẳng nào về vấn đề nội trợ. Có lần, muốn ăn trứng luộc, bà đă đặt những quả trứng sống trên ḷ than hồng! Đôi khi, người giúp việc xin phép nghỉ cuối tuần vào chiều thứ bảy và chúng tôi phải tự xoay xở lấy bữa ăn chiều. Những lần đó, có phải bà Blavatsky ra tay nấu nướng và dọn ăn không? Hẳn là không, mà chính là tôi, người bạn đồng nghiệp bất hạnh của bà! C̣n bà th́ ngồi viết và hút thuốc lá, hoặc bước vào nhà bếp nói những câu chuyện đùa để tiêu khiển.
Đôi khi, có những vị nữ khách đến nhà trong những dịp đó, liền giúp tôi một tay, chẳng hạn như tuần vừa rồi có nữ bá tước L. P. đến đúng lúc và làm giúp tôi món xà lách ngon tuyệt trần.
Hồi đó, bà Blavatsky luôn luôn có một tính cách trẻ trung, vui nhộn. Tôi không thể diễn tả tâm trạng vui tươi phấn khởi của bà hồi đó bằng cách nào khác hơn là trích dẫn một đoạn văn phóng sự đăng trên nhật báo Hartford nói về bà. Phóng viên báo ấy viết như sau:
“... Blavatsky phu nhân cười! Khi tôi viết về cái cười của bà Blavatsky, tôi cảm thấy dường như tôi muốn nói rằng bà là hiện thân của thần hài hước ngay trong pḥng khách! V́ trong tất cả những chuỗi cười dài trong sáng, vui tươi, gịn giă mà tôi đă từng nghe trong đời, th́ chuỗi cười của bà thật là độc đáo, điển h́nh.
“Thật vậy, bà dường như là tiêu biểu cho tinh thần hài hước mà bà biểu lộ thường xuyên bất cứ lúc nào. Điều đó chứng tỏ nơi bà một nguồn sinh khí dồi dào bất tận.”
Đó là cái sắc thái sinh hoạt nơi tư gia chúng tôi; cùng với tính vui vẻ hồn nhiên, ngôn ngữ hoạt bát linh động, t́nh thân hữu đậm đà của bà Blavatsky đối với những người bà ưa thích hoặc muốn cho họ quí mến bà, những đề tài trao đổi lạ lùng kỳ bí và bộ môn hấp dẫn nhất đối với số đông các quan khách là những phép thuật vô cùng kỳ bí của bà, làm cho “Lạt-ma Viện” của chúng tôi trở thành pḥng khách sáng giá nhất của thành phố New York vào thời đó, tức là những năm đầu tiên vừa thành lập Hội Thông thiên học Thế giới.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 854 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 8:54am | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
II.
Pḥng khách của chúng tôi được trang hoàng với một vẻ mỹ quan đặc biệt lạ thường. Nói chung, nó có một phong cách rất mỹ thuật và hấp dẫn đối với cả gia chủ và quan khách; nó từng là đề tài của nhiều bài phóng sự trên các báo và cũng là đề tài của những câu chuyện mạn đàm trong các giới bạn hữu của chúng tôi.
Không một bối cảnh nào có thể thích nghi hơn để làm nổi bật cái cá tính lạ lùng của chủ nhân nó là nhân vật kỳ bí Blavatsky. Nhiều nhà báo đă từng viết bài diễn tả pḥng khách của chúng tôi đăng trên các báo Mỹ thời bấy giờ, trong số đó có bài tường thuật của phóng viên nhật báo Hartford Times như sau:
“... Bà Blavatsky ngồi nơi pḥng khách, vừa là pḥng làm việc của bà, mà người ta cũng có thể gọi là pḥng trưng bày đồ cổ, v́ không một gian pḥng nào có thể sánh với gian pḥng này về số lượng những vật quư lạ, những đồ cổ xưa, đẹp mắt, sang trọng, đắt giá, và xen lẫn với cả những đồ có vẻ tầm thường vô giá trị nữa. Miệng ngậm thuốc lá, tay cầm kéo, bà đang bận rộn cắt ra những đoạn văn, những bài báo, bài phê b́nh, và những bài vở đủ mọi loại, từ những đống báo chí đến từ khắp nơi trên thế giới nói về bà, về quyển sách của bà viết, về Hội Thông thiên học, và về bất cứ chuyện ǵ liên quan đến công việc và mục đích của đời bà.
“Bà đưa tay ra hiệu mời chúng tôi ngồi, và trong khi bà đang chăm chú đọc một bài báo, chúng tôi có thời giờ quan sát qua một lượt cảnh vật trang trí trong pḥng khách của “Lạt-ma Viện” này.
“Đứng sững ngay giữa pḥng là một con khỉ đột nhồi cứng, mặc quần áo chỉnh tề, với cổ ‘cồn’ trắng thắt cà vạt, tay cầm tập bản thảo một bài diễn văn, sống mũi đeo kính trắng. Phải chăng đó là một sự châm biếm ngầm các hàng giáo phẩm?
“Phía trên cánh cửa lớn là một đầu sư tử cái nhồi bông, quai hàm mở lớn với những nanh nhọn nhe ra một cách dễ sợ, đôi mắt trừng lên với vẻ độc ác tự nhiên của loài mănh thú rừng xanh. Giữa những đồ vật cổ xưa, những pho tượng Phật bằng trầm hương và những vật linh tinh khác, bà Blavatsky nổi bật trong chiếc áo choàng bằng tơ óng ánh, màu sặc sỡ, hoàn toàn phù hợp và thích nghi với cảnh vật chung quanh.
“Bà có một tác phong đặc biệt, như toát ra một sức mạnh và sự tự tin lạ thường. Trên gương mặt bà, dường như luôn luôn có sự diễn biến của nhiều sắc thái và tâm trạng khác nhau. Bà dường như không bao giờ chú tâm vào một vấn đề nhất định. Có một luồng cảm xúc linh động, tế vi, sắc bén biểu lộ trong cặp mắt bà, làm cho chúng tôi có ấn tượng rằng bà cùng lúc có hai cá tính: vừa như bà đang ở đây, nhưng lại vừa như không có ở đây; bà nói chuyện nhưng tâm trí bà đang suy tư, hay bà đang bận hoạt động ở một cảnh giới khác.
“Bà có một bộ tóc rất dày, màu nâu nhạt, dợn sóng tự nhiên và không thấy có một sợi bạc nào. Da mặt bà hơi sậm, hẳn là v́ phơi nắng và hứng gió miền biển, nhưng không có một vết nhăn nào. Hai cánh tay và bàn tay bà trắng nơn nà như tay con gái.
“Toàn thể cá tính của bà biểu lộ một sức tự chủ, một phong thái uy nghi và nội lực điềm tĩnh của nam giới, nhưng vẫn không vượt qua cái giới hạn những đức tính thuần hậu, dịu dàng tế nhị của nữ giới.”
Như đă nói ở trên, các quan khách đến viếng trụ sở “Lạt-ma Viện” đều rất thích thú khi có dịp thấy bà Blavatsky làm những hiện tượng thần bí ngoài việc được nghe những câu chuyện lạ lùng thú vị, cùng thưởng thức tài hùng biện và nói năng lưu loát, hấp dẫn của bà. Đôi khi, câu chuyện tạm ngưng một lúc, một vị khách bỗng đưa một ngón tay lên với cử chỉ ngạc nhiên, rồi tất cả đều nín thở lắng tai nghe trong im lặng, th́ kế đó có tiếng nhạc reo trong không gian. Có khi tiếng nhạc ấy chỉ thoảng nghe vọng lại từ đàng xa, rồi từ từ đến gần và vang dội âm thanh cho đến khi nó vang rền khắp pḥng, vọng lên trần nhà, và sau cùng tan biến dần trong khoảng không. Hoặc có khi bà Blavatsky đưa tay đánh mạnh trong không khí vài cái, th́ nghe vọng lại có tiếng ngân như tiếng chuông.
Nhiều khi, trước mặt người khác, bà đặt bàn tay lên một thân cây, một vách tường, một cái thùng lớn, hoặc trên đầu một người, hoặc bất cứ vật ǵ khác hay ở bất cứ chỗ nào được yêu cầu, và làm cho tiếng “chuông âm” vang động ở bên trong chất liệu của cái vật thể đông đặc mà bà vừa đặt tay lên.
Có lần, tôi với bà cùng có mặt tại nhà của ông bà Sinnett ở Simla, và khi chúng tôi đang đứng ngoài hàng ba, bà làm cho những tiếng nhạc vọng đến chúng tôi từ xa, trong không gian của một đêm sao sáng.
Tôi cũng có mặt tại chỗ trong một buổi tiếp tân khi bà làm cho tiếng “chuông âm” ngân vang trong đầu của một vị khách có chức vị cao, và một tiếng “chuông âm” reo trong túi áo ngoài của một vị quan chức lớn khác nữa.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 855 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 8:55am | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
III.
Về h́nh dáng, bà Blavatsky từ khi c̣n trẻ vẫn là một người đầy đặn phương phi, và khi đến độ trung niên th́ bà là người có một thân h́nh rất đồ sộ. Dường như đó là do huyết thống của gia đ́nh. Nhưng trong trường hợp của bà th́ cái khuynh hướng ấy càng trở nên trầm trọng hơn bởi nếp sinh hoạt của bà hoàn toàn thiếu vận động về thể xác, và bà ăn uống rất khỏe chỉ trừ những khi ngă bệnh. Nhưng ngay cả những lúc đó bà cũng ăn nhiều thịt mỡ và thường cho rất nhiều bơ lỏng lên trứng gà chiên khi ăn điểm tâm.
Bà không uống rượu mà chỉ uống trà và cà phê. Bà không phải là một người khổ hạnh, không ăn uống chay lạt, mà ăn thịt dường như là điều cần thiết cho sức khỏe của bà, cũng như đối với nhiều người khác trong Hội, kể cả tôi. Tôi biết có nhiều người cố gắng ăn chay với tất cả thiện chí và vài người khác, trong đó có tôi, đă ăn chay trong nhiều năm liên tiếp, nhưng sau cùng phải bỏ cuộc và quay về với lối sống trước kia ngoài ư muốn của họ. Vài người khác, trái lại, như bà A. Besant và những bạn đạo tên tuổi khác mà tôi biết, đă trở nên lành mạnh hơn, sáng suốt hơn và có sức khỏe tốt hơn với cách ăn uống chay lạt, và lâu dần đă trở nên sợ ăn thịt dưới bất cứ h́nh thức nào.
Bà Blavatsky, như cả thế giới đều biết, là một người ưa hút thuốc lá. Bà tiêu thụ rất nhiều thuốc lá mỗi ngày, và do thói quen, bà vấn thuốc rất khéo. Thậm chí bà có thể vấn thuốc lá bằng tay trái trong khi cầm bút viết bằng tay mặt. Trong khi bà viết bộ “Vén màn Isis” tại New York, bà không hề bước chân ra khỏi nhà suốt một thời gian sáu tháng trường. Bà ngồi vào bàn làm việc từ sớm mai cho đến khuya, thường là đến gần hai giờ sáng. Một điều thông thường không ai lạ, là bà làm việc mỗi ngày mười bảy giờ đồng hồ. Sự vận động duy nhất của bà là đi vào pḥng ăn hay pḥng tắm rồi trở lại bàn viết.
Tính vui vẻ hồn nhiên là một trong những khía cạnh duyên dáng hấp dẫn của bà Blavatsky. Bà hay nói những chuyện trào phúng hài hước và thích nghe người khác nói những chuyện ấy. Như đă nói ở trên, pḥng khách của bà không bao giờ nhàm chán, vô vị, trừ ra đối với những người không hiểu biết ǵ về triết học Đông phương hay không có chút kiến thức nào về đạo lư cổ truyền. Đối với họ, thời gian có thể kéo dài một cách nặng nề khi bà Blavatsky và tiến sĩ Wilder hay tiến sĩ Weisse, hay vài nhà bác học khác bận thảo luận về những giáo lư thâm sâu hay những quan điểm cao siêu huyền bí suốt nhiều giờ liên tiếp. Dẫu cho trong những lúc đó, bà cũng nói năng hoạt bát tự nhiên, không g̣ bó kiểu cách và phát biểu những quan điểm của bà một cách lưu loát dễ dàng như ḍng suối chảy bất tận, đến nỗi nếu người nghe không thể theo dơi ḍng tư tưởng của bà th́ cũng phải thán phục tài hùng biện và khoa ngôn ngữ điêu luyện hấp dẫn của kỳ nữ Blavatsky.
Trong những lúc nhàn rỗi, tức là sau những giờ làm việc ban đêm, hoặc khi có khách đến viếng, hoặc những khi rất hiếm hoi mà bà muốn nghỉ ngơi giải trí trong giây lát, bà kể cho tôi nghe những chuyện lạ lùng, kỳ bí, những chuyện pháp môn phù thủy hoặc những chuyện phiêu lưu mạo hiểm của bà, và đổi lại, bà bảo tôi huưt sáo miệng, hoặc hát những bài hát khôi hài để chọc cười, hoặc kể những câu chuyện vui vô lư.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 856 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 8:56am | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
IV.
Về mặt xă giao, lúc b́nh thường bà là người hay nói thẳng, nói toạc ra sự thật mà không sợ mích ḷng, nhưng khi cần phải lễ độ đối với một nhân vật mới quen biết th́ bà tỏ ra là một phụ nữ quí phái chính cống.
Dù cho bà ăn mặc xuề x̣a không chải chuốt về h́nh dáng bên ngoài, bà vẫn có cái tác phong của một người thuộc ḍng quí tộc, và nếu muốn bà vẫn có thể sang trọng, hào hoa như một bà công tước nước Pháp. Nhưng trong đời sống b́nh thường hằng ngày, những lời châm biếm của bà thật sắc như dao, và những cơn thịnh nộ của bà như những quả bom nổ!
Đối với bà, điều khả ố duy nhất không thể tha thứ là sự giả dối, khoác lác, với vẻ thượng lưu, trang trọng giả tạo bề ngoài. Khi gặp những trường hợp đó, bà không ngần ngại nói thẳng vào mặt kẻ giả dối, làm cho anh ta cảm thấy như bị tạt một gáo nước lạnh vào mặt! Với một khả năng phán đoán chính xác đến lạ kỳ, bà thường thấy rơ được tất cả thói hư tật xấu của những người mà bà tiếp xúc; và nếu họ tỏ ra chê bai giáo lư Thông thiên học hoặc nói đến bà với một giọng khinh thường, th́ bà sẽ phô bày tất cả những sự thật bỉ ổi kia trước mặt mọi người!
Những người giả dối làm cho bà phát ghét, c̣n đối với những người nghèo khổ, dốt nát nhưng ngay thẳng, thật thà th́ bà luôn dành một ḷng ưu ái và rất thường giúp đỡ, tặng quà. Tinh thần khoáng đạt không chịu sự g̣ bó chật hẹp theo nghi thức xă hội, đối với bà gần như một điều thiêng liêng và bà cảm thấy không ǵ thích thú hơn là làm hoặc nói ra những điều làm sửng sốt những kẻ đạo mạo mực thước. Thí dụ như tối hôm nọ, bà mặc áo ngủ nằm trên giường tiếp chuyện với một nhóm khách quen cả nam lẫn nữ. Đó là một lối sinh hoạt theo cung cách của các vị phu nhân vương giả quư phái hồi thời tiền cách mạng ở Âu Châu.
Tính chất tự nhiên không chút mặc cảm của bà trong cách xă giao đó cũng không làm cho ai khó chịu. Không một vị nữ khách nào nh́n thấy nơi bà một kẻ t́nh địch khả hữu, và không một người đàn ông nào nghĩ rằng bà có thể bị họ ve văn đến phải xiêu ḷng.
Bà nguyền rủa, chửi thề như lính tập ngoài mặt trận nhưng không chút ác ư, và nếu cái thú vui dị thường đó của bà không làm cho ai chú ư và lên án th́ bà sẽ thôi không tiếp tục. Đó là điểm tâm lư chung của mọi người, cũng như trong tính chất tự nhiên của bà, là thích làm những điều cấm kỵ chỉ v́ có sự phản kháng.
Cuộc đời thế gian đối với bà là một tṛ vô nghĩa, mồi danh bă lợi chỉ là rơm rác. Cuộc sống thức tỉnh của bà lúc ban ngày chỉ là một sự sống ảm đạm, khô khan, tẻ nhạt; đời sống thật sự của bà là lúc ban đêm, khi bà rời khỏi thể xác để đến ngồi dưới chân các đấng chân sư.
Bà khinh bỉ những nhà bác học thiển cận mù quáng, đầu óc nông cạn chật hẹp. Họ không hề nh́n thấy mảy may sự thật nhưng lại xét đoán, nhận xét về bà một cách bất chính và thiên lệch, sai lầm, rồi họ t́m cách ngăn chặn bà bằng những âm mưu vu khống.
Đối với các hàng giáo phẩm nói chung, bà rất ghét, bởi v́ họ thường không biết ǵ về những chân lư trên lănh vực tinh thần, nhưng lại nắm quyền dắt dẫn những kẻ mù quáng tâm linh, kiểm soát tín ngưỡng của người thế tục, hưởng thụ lợi lộc mà họ không hề làm ra và lên án những người “ngoại đạo”, nhưng những người này lại thường là những nhà hiền triết, những bậc thức giả.
Bà Blavatsky có vô số bạn bè thân hữu, nhưng thường hay mất bạn. Thậm chí có người về sau lại trở thành thù nghịch với bà. Không ai có thể dễ mến hơn bà khi bà muốn, đó là những khi bà muốn qui tụ những người cộng tác với bà trong công việc đạo sự. Những khi đó th́ bà tỏ ra rất ngọt ngào dễ thương trong giọng nói và thái độ, cử chỉ, làm cho người kia cảm thấy được bà xem như một người bạn tốt nhất, nếu không phải là duy nhất của bà.
Đối với những người thường gặp như tôi và những người cộng tác thân tín khác, tôi không thể nói rằng bà luôn trung hậu, chân thành. Tôi nghĩ rằng bà chỉ xem chúng tôi như những quân cờ trong một ván cờ, thế thôi, chứ không hề có một cảm t́nh tŕu mến sâu xa tự đáy ḷng. Bà kể cho tôi nghe những điều bí mật của nhiều người, cả nam lẫn nữ, thậm chí cả những điều rất tổn thương danh dự mà họ đă kể cho bà nghe, và tôi tin chắc rằng bà cũng xử sự y như vậy đối với những việc riêng tư của tôi.
Nhưng bà luôn trung thành tuyệt đối với các đấng chân sư; v́ công việc của các ngài, bà sẵn ḷng hy sinh không phải chỉ trọn một cuộc đời, mà thậm chí c̣n có thể đến nhiều đời sau nữa.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 857 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 8:59am | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
CHƯƠNG HAI: HÀNH TR̀NH SANG ẤN ĐỘ
I.
Ngày dời Trụ sở Hội quán của chúng tôi càng đến gần th́ bà Blavatsky càng phấn khởi hơn trong việc ca tụng xứ Ấn Độ cũng như những người Ấn giáo và toàn thể người Đông phương nói chung. Bà cũng hăng hái hơn trong việc chỉ trích người Tây phương với những tập quán xă hội, óc độc tài tôn giáo và những tư tưởng hẹp ḥi nói chung của họ.
Có những đêm hào hứng sôi nổi diễn ra tại “Lạt-ma Viện”. Trong những đêm đó, có xảy ra một chuyện đáng kể. Nhà nghệ sĩ Walter Paris, một trong những hội viên đắc lực nhất đă từng sống vài năm ở Bombay với chức vụ kiến trúc sư của chính phủ, đă thích thú nói chuyện với chúng tôi về xứ Ấn Độ. Nhưng ông ta không có ḷng kính trọng đặc biệt đối với Ấn Độ và ḷng ưu ái đối với dân tộc xứ ấy như chúng tôi, nên ông thường làm phật ḷng bà Blavatsky với những lời lẽ mà tôi cho rằng theo lập trường của giới cai trị Anh Ấn.
Một đêm nọ, ông ta kể chuyện về một việc lỗi lầm ngu ngốc của người giúp việc trong khi thắng yên ngựa, và thản nhiên nói rằng ông đă quất người ấy bằng roi vọt. Ngay tức khắc, dường như bị những roi vọt ấy quất vào mặt ḿnh, bà Blavatsky chồm hẳn dậy, đứng ngay trước mặt người kia, và trong một tràng độc thoại kéo dài độ năm phút, bà cho y một trận sửa sai và quở trách nặng nề đến mức làm cho ông ta ngồi im không thốt ra được một lời nào. Bà lên án hành động của ông ta như một cử chỉ hèn mạt, và nhân dịp ấy bà ứng khẩu thốt ra một bài luận thuyết hùng hồn chỉ trích cách đối xử của giới cai trị Anh Ấn đối với các chủng tộc Đông phương.
Đó không phải là một trường hợp duy nhất cho thấy mối bất b́nh của bà đối với cách xử sự của người Tây phương. Bà vẫn luôn bày tỏ thái độ đó trong nhiều dịp khác nữa, và tôi đă từng thấy bà biểu lộ hào khí và cách nói năng bạo dạn y như vậy trong nhiều lần tiếp xúc với những viên chức cao cấp Anh Ấn ở Allahabad, Simla, Bombay, Madras, và ở các nơi khác.
Khi cuộc hành tŕnh sang Ấn Độ của chúng tôi đă được quyết định, tôi bắt đầu thu xếp mọi công việc riêng vào mùa thu năm 1878. Việc trao đổi thư từ vẫn tiếp tục với các bạn đạo ở Bombay và Tích Lan (Śrỵ Lanka). Chúng tôi không công khai tuyên bố ư định xuất hành, nhưng các bạn bè thân hữu đă đến rất đông khi biết tin chúng tôi sắp ra đi. Những ghi chép của bà Blavatsky trong tập nhật kư của tôi khi tôi thường vắng mặt tại New York trong những tuần lễ cuối cùng cho thấy sự hối thúc của các chân sư mong muốn chúng tôi lên đường càng sớm càng hay.
Ngày 22 tháng 10, bà viết: “N. xuất ra và S. nhập vào (thể xác của bà) với mật lệnh của Quần tiên hội, dạy phải hoàn thành tất cả mọi việc vào đầu tháng 12.”
Câu ấy ngụ ư có sự thay đổi cá tính các nhân vật mượn xác bà Blavatsky, và các đoạn nhật kư với những lời ghi bằng tuồng chữ khác nhau cũng xác nhận việc ấy.
Một đoạn nhật kư tương tự ngày 14 tháng 11 nói rằng chúng tôi phải cố gắng tối đa để lên đường trước ngày 20 tháng 12 như kỳ hạn cuối cùng.
Ngày 22 tháng 11, những thượng lệnh khẩn cấp khác nữa cũng đến bằng một đường lối ấy, và chúng tôi được lệnh phải bắt đầu chuẩn bị đầy đủ hành lư.
Nhiều bạn đạo muốn tháp tùng chúng tôi sang Ấn Độ, và vài người cũng đă cố gắng sửa soạn chuyến đi, nhưng sau cùng chỉ có hai người là cô Bates, một cô giáo người Anh, và ông Wimbridge, một họa sư kiêm kiến trúc sư, cùng đi với chúng tôi. Kể từ đó, các thượng lệnh vẫn tiếp tục đến luôn không ngớt và hối thúc chúng tôi lên đường.
Những quan khách đến viếng thăm tới lui dồn dập, nhộn nhịp. Có những bài viết xuất hiện trên các báo nói về chuyến đi của chúng tôi và những bài trả lời của bà Blavatsky.
Ngày 13 tháng 12, tôi nhận được một bức thư viết tay của Tổng thống Hoa Kỳ[1] giới thiệu tôi cho tất cả các viên đại sứ và lănh sự Hoa Kỳ ở hải ngoại; và một thẻ thông hành đặc biệt của Bộ Ngoại giao, giống như những thẻ thông hành cấp cho các nhà ngoại giao Mỹ, với sứ mạng tường tŕnh cho chính phủ Mỹ về triển vọng và khả năng nới rộng những quyền lợi thương măi của Hoa Kỳ ở châu Á.
Những văn kiện này về sau đă tỏ ra có tác dụng hữu ích ở Ấn Độ, khi bà Blavatsky và tôi bị nghi ngờ là gián điệp của Nga! Những chi tiết của diễn biến khôi hài này sẽ được tường thuật ở một chương sau.
Trong những ngày cuối cùng, tôi không nghỉ ngơi được chút nào, thường ngồi suốt đêm để viết thư, hoặc di chuyển thường xuyên đến các thành phố xa gần để thu xếp công việc, và ăn uống rất thất thường trong khi đi lại. Trong khi đó th́ vẫn luôn vang dội những mật lệnh hối thúc chúng tôi phải lên đường trước ngày 17 tháng 12 là kỳ hạn chót.
Tuồng chữ của bà Blavatsky có vẻ nguệch ngoạc, và trong đoạn nhật kư đề ngày 15 tháng 12, tôi nhận thấy có hai lối viết khác nhau của tuồng chữ bà như đă nói trước đây, chứng tỏ rằng có hai vị chân sư đă mượn xác của bà trong đêm hôm đó.
Ngày 17 tháng 12 là ngày cuối cùng của chúng tôi trên đất Mỹ. Đoạn nhật kư của bà Blavatsky viết:
“Một ngày đáng ghi nhớ! Olcott trở về lúc bảy giờ tối với những vé tàu Canada và ngồi viết thư đến 11 giờ 30. Maynard mời Blavatsky dùng cơm tối tại nhà y. Bà về nhà lúc chín giờ. Đến gần mười hai giờ đêm, Olcott và Blavatsky rời khỏi nhà bước lên xe ngựa để ra bến tàu.”
(Hăy lưu ư là người viết luôn đề cập đến bà Blavatsky bằng đại từ ngôi thứ ba, như thể đây là một người khác viết về bà!)
Thế là chấm dứt giai đoạn đầu tiên của lịch sử Hội Thông thiên học, với cuộc khởi hành của hai nhà sáng lập rời khỏi Mỹ Quốc. Sau lưng chúng tôi là một dĩ văng ba năm tranh đấu, với những chướng ngại đă vượt qua, những kế hoạch đă thực hiện được vài phần, những nỗ lực trước tác sách vở, những bạn bè bỏ cuộc nửa chừng, những kẻ thù nghịch phải đối phó, và trọng trách thiết đặt nền tảng rộng lớn cho một cơ cấu vĩ đại được xây dựng lên trải qua thời gian để qui tụ các quốc gia. Thành quả này, quả thật ban đầu chúng tôi không thể nào ngờ trước được. Bởi v́ chúng tôi đă xây dựng được một công tŕnh qui mô rực rỡ và tốt đẹp hơn nhiều so với dự tưởng, hay ít ra cũng phải nói là tốt đẹp hơn nhiều so với là sự tưởng tượng của riêng tôi.
Những ǵ thuộc về tương lai chúng tôi không thể tiên liệu trước. Ư nghĩ về sự phát triển kỳ diệu và lạ lùng của Hội Thông thiên học không hề thoáng qua ngay cả trong những ước mơ của chúng tôi.
Một bạn đạo của chúng tôi tuyên bố rằng Hội Thông thiên học đă chết một cách tự nhiên trước khi chúng tôi lên đường sang Ấn Độ. Sự thật là trong những năm đầu ở New York, Hội tương đối bất động và không có hoạt động ǵ đáng kể, nhưng lại bắt đầu hồi phục kể từ khi Trụ sở Hội được dời sang Ấn Độ.
Chiếc tàu “Canada” rời bến vào ngày 18 và phải đợi cho nước thủy triều lên cao mới ra khơi vào trưa ngày 19 tháng 12. Sau cùng, chiếc tàu đă vượt ra giữa đại dương màu xanh biếc, thẳng hướng về vùng “đất hứa” của chúng tôi.
Ḷng tôi tràn đầy một niềm hứng khởi và triển vọng tương lai, đến nỗi tôi không c̣n muốn đứng trên boong tàu để ngắm nh́n cảnh tượng đất Mỹ lui dần rồi tan biến khỏi tầm mắt, mà liền đi xuống pḥng “cabin” để t́m vị trí hải cảng Bombay trên tấm bản đồ Ấn Độ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 858 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:00am | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
II.
Tuy rời khỏi cảng New York vào ngày 17 tháng 12 năm 1878, nhưng chúng tôi vẫn chưa ra khỏi hải phận Mỹ cho đến trưa ngày 19, v́ bị nước ṛng vào ngày 18 và tàu phải bỏ neo ở vịnh Lower Bay để chờ nước lên.
Bạn đọc hăy thử tưởng tượng tâm trạng của bà Blavatsky! Bà quở trách, quát tháo vị thuyền trưởng, viên hoa tiêu, các kỹ sư, chủ tàu, và cả những con nước thủy triều lên xuống!
Sau hơn hai tuần vượt Đại Tây Dương, vào ngày đầu năm 1879, tàu chúng tôi tiến vào hải phận Anh trong một biển sương mù dày đặc, cũng giống như cái tương lai hăy c̣n mờ mịt của chúng tôi. Sáng hôm sau, tàu cập bến Gravesend.[2] Tại đây chúng tôi đáp xe lửa đi London, và thế là kết thúc giai đoạn đầu của cuộc hành tŕnh.
Đến thủ đô Anh quốc, chúng tôi được tiến sĩ Billing và phu nhân tiếp đón nồng hậu tại tư gia của họ ở vùng ngoại ô Norwood Park. Ngôi nhà này đă trở thành trung tâm qui tụ tất cả những bạn đạo và thư tín viên của chúng tôi ở London kể từ lúc đó.
Ngày 15 tháng 1, tôi chủ tọa một phiên họp của xứ bộ Thông thiên học Anh quốc để bầu cử một Ban chấp hành và bàn về nhiều vấn đề linh tinh khác.
Thời gian chúng tôi ở London hoàn toàn bận rộn với những công việc của Hội, tiếp khách và viếng thăm Viện Bảo Tàng Anh cùng nhiều nơi khác. Ngoài ra cũng có những dịp biểu diễn phép mầu của bà Blavatsky và những buổi họp đàn với bà Hollis-Billing và một vong linh mệnh danh là “Ski” mà toàn thể giới Thần linh học đều biết.
Diễn biến kỳ diệu nhất trong thời gian chúng tôi ở London là việc gặp gỡ một vị chân sư khi tôi và hai bạn đạo cùng nhau dạo chơi trên đường Cannon Street.
Sáng hôm đó, sương mù dày đặc đến nỗi người ta không nh́n thấy bờ bên kia đường, và cả thành phố đều hoàn toàn mờ mịt. Hai bạn tôi nh́n thấy ngài trước nhất, c̣n tôi lúc ấy mải lo nh́n quanh nên không để ư. Khi hai bạn tôi thốt lên một tiếng kêu ngạc nhiên, tôi mới quay đầu nh́n lại và bắt gặp cái nh́n của chân sư. Khi ấy ngài cũng vừa quay đầu nh́n lại đằng sau.
Tôi nhận ra ngài không phải như một người quen biết thường, mà là nhận ra gương mặt của một đấng cao cả, v́ gương mặt ấy khi người ta đă gặp một lần th́ không bao giờ có thể lầm lẫn. Cũng như ánh sáng huy hoàng chói rạng của mặt trời so với ánh sáng nhẹ nhàng êm dịu của mặt trăng, vốn có một sự khác biệt rơ ràng giữa sự sáng sủa dịu hiền trên gương mặt một người hiền lương của thế tục so với sự xán lạn huy hoàng rực rỡ trên gương mặt của một vị chân sư, v́ gương mặt ấy phản ảnh cái ánh sáng bên trong của một tinh thần đă thức tỉnh về phương diện tâm linh và hoàn toàn giải thoát.
Chúng tôi ba người cùng dạo chơi trong thành phố và cùng về một lượt, nhưng khi vừa bước vào nhà th́ đă nghe bà Billing và bà Blavatsky nói cho chúng tôi biết rằng chân sư đă đến đây và ngài có nói đă gặp chúng tôi đi chơi ngoài phố. Ngài cũng có nêu tên cả ba người.
Câu chuyện của bà Billing thuật lại rất thú vị. Bà nói rằng cửa trước vẫn đóng và khóa chặt như thường lệ, và không ai có thể vào nhà mà không reo chuông báo hiệu. Tuy nhiên, khi bà rời khỏi pḥng khách đi qua hành lang để đến pḥng bà Blavatsky th́ bà suưt đụng phải một người lạ mặt h́nh dung cao lớn, đứng sững ngoài hành lang trước cửa buồng của bà Blavatsky.
Bà mô tả người ấy như là một người Ấn Độ có tác phong cao quư, với đôi mắt sáng và cái nh́n như soi thấu ḷng người. Lúc ấy bà ngạc nhiên đến nỗi không thốt ra được môt lời nào, nhưng người lạ mặt nói: “Tôi muốn gặp bà Blavatsky”, và tiến về phía cửa pḥng của bà Blavatsky.
Bà Billing đích thân mở cửa cho ngài và mời ngài vào. Ngài bước vào pḥng, tiến đến gần bà Blavatsky, chào bà theo cung cách của người phương Đông, và bắt đầu nói chuyện với bà Blavatsky bằng thứ ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ đối với bà Billing, tuy rằng bà này, với tư cách một người đồng tử công cộng với nhiều năm thực nghiệm, đă từng tiếp xúc với đủ mọi hạng người của nhiều xứ khác nhau.
Lẽ tự nhiên là bà Billing đứng dậy để bước ra ngoài, nhưng bà Blavatsky mời bà ở lại và bảo bà đừng để ư về việc hai người nói chuyện với nhau bằng một thổ ngữ lạ, v́ họ cần thảo luận với nhau về một việc đạo sự trên phương diện huyền linh. Tôi không biết là người khách Ấn Độ bí mật này có trợ giúp thêm thần lực cho bà Blavatsky hay không, nhưng khi ngồi vào bàn ăn tối hôm đó, bà làm cho vị nữ gia chủ rất vui mừng thích thú khi tḥ tay xuống dưới mặt bàn rồi lấy lên một ấm trà Nhật Bản bằng sứ rất đẹp, dường như là theo lời yêu cầu của chủ nhà, tuy rằng tôi không chắc lắm về chi tiết này.
Ngày 15 tháng 1, chúng tôi sửa soạn đến Liverpool để đáp tàu “Speke Hall” đi Ấn Độ qua ngă Địa Trung Hải, Hồng Hải và Ấn Độ Dương rồi thẳng vào Bombay.
Đúng một tháng sau, ngày 15 tháng 2, chúng tôi đă vào hải phận Ấn Độ và sáng hôm sau tàu cập bến hải cảng Bombay.
Đêm hôm đó, tôi đă ngồi trên boong tàu đến một giờ sáng để ngắm nh́n bầu trời xanh biếc hùng vĩ của xứ Ấn Độ, và căng mắt nh́n lên bờ để mong thấy được ánh sáng đầu tiên của thành phố Bombay.
Sau cùng, từ xa một ngọn đèn nhỏ xuất hiện trên mặt biển, và tôi liền trở về ca-bin để thân xác mỏi mệt được nghỉ ngơi chờ đón những công việc của ngày mai.
Trước khi mặt trời mọc, tôi lại trở lên boong tàu, và khi chiếc tàu lướt trên mặt nước, tôi ngắm nh́n và thưởng thức cảnh tượng hải cảng Bombay hiện ra trước mắt tôi. Động Voi (Elephanta Cave) ngay trước mặt là địa điểm đầu tiên mà chúng tôi muốn xem, v́ đó là kiểu mẫu điển h́nh của xứ Ấn Độ cổ xưa, tức đất Thiên Trúc thiêng liêng cổ kính của muôn đời (Bharata-Varsha) mà chúng tôi vẫn kính ngưỡng tận đáy ḷng và ước mong được nh́n thấy sự phục sinh nơi xứ Ấn Độ ngày nay.
Nhưng than ôi! Khi chiếc tàu lượn ṿng quanh ngọn đồi Malabar Hill th́ mơ ước của chúng tôi liền tiêu tan như mây khói. Cảnh tượng mà chúng tôi thấy ngay trước mắt là một xứ Ấn Độ tân thời với những dinh thự, lầu đài nguy nga tráng lệ, lồng trong cái bối cảnh xinh tươi của những công viên được chăm sóc lịch sự theo kiểu mẫu du nhập từ Anh quốc, và bao phủ bằng tất cả những dấu hiệu của sự giàu có sung măn thu hoạch được bằng các dịch vụ kinh doanh thương măi!
Xứ Tây Vực cổ kính của Elephanta[3] xa xưa nay đă bị xóa nḥa bởi sự lộng lẫy huy hoàng của một nền kiến trúc mới, trong đó triết học và tôn giáo không có dự phần, và ḷng tôn sùng nhiệt thành nhất được đặt vào h́nh ảnh của thần tượng Nữ hoàng trên tờ giấy bạc Ru-pi!
Bây giờ chúng tôi đă quen với thực trạng, nhưng lần đầu tiên th́ cảnh tượng đó đă gây cho chúng tôi cảm giác đau ḷng của sự thất vọng chua cay. Tàu chưa bỏ neo cập bến th́ đă có ba người Ấn sắc phục chỉnh tề đến t́m chúng tôi. Đó là Mulji Thackersey, Krishnavarma và Sitaram, đă gia nhập Hội Thông thiên học bằng thư từ và được cấp chứng thư của Hội. Ba người này đă ngủ đêm trên một chiếc ca-nô nhỏ để đợi tàu cập bến và lấy làm vui mừng được tiếp đón chúng tôi, cũng như chúng tôi rất vui mừng khi được đến đất nước của họ.
Chúng tôi bốn người cùng xuống ca-nô với họ để vào bờ. Khi vừa lên đất liền, cử chỉ đầu tiên của tôi là cúi rạp xuống hôn bậc tam cấp bằng đá, một hành động chiêm bái do bản năng tự nhiên thúc đẩy! Đây là giờ phút chờ đợi từ lâu, chúng tôi đă thật sự được đặt chân lên dải đất thiêng liêng, nơi đất lành của các chân sư, quê hương của các tôn giáo cổ từ ngh́n đời, xứ sở của những huynh đệ đồng môn cùng một lư tưởng tâm linh với chúng tôi, và được cùng sống chết với họ là tất cả những ǵ chúng tôi có thể mong ước.
Tất cả những ǵ người ta nói với chúng tôi trên tàu về những thói hư, tật xấu của người Ấn như sự nhu nhược tinh thần, thói a dua, nịnh hót, bợ đỡ, sự bất trung bất tín... đều đă bị quên hết cả. Đó là v́ chúng tôi thương yêu họ, v́ những truyền thống tổ tiên của họ, và thậm chí c̣n v́ những điểm thiếu sót bất toàn của họ nữa. Nói đúng hơn, chúng tôi sẵn ḷng thương yêu họ bất luận họ là như thế nào. Ít nhất là đối với tôi, cái cảm nghĩ đó vẫn c̣n nguyên vẹn cho đến tận ngày nay. Tôi cảm thấy thật sự rằng dân tộc họ là dân tộc của tôi, quê hương xứ sở họ là quê hương xứ sở của tôi: ước mong sao những ân huệ của các đấng chân sư minh triết luôn luôn đến với họ và che chở họ măi măi!
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 859 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:01am | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
III.
Những đường phố của Bombay có một tính chất đặc biệt Đông phương làm cho chúng tôi vô cùng thích thú. Những dinh cơ nguy nga đồ sộ, những sắc phục màu mè sặc sỡ của dân bản xứ gồm đủ mọi thành phần vô cùng phức tạp, những xe cộ h́nh dạng dị kỳ, cái cảm giác mới mẻ lạ lùng mà toàn thể cảnh tượng đó gây ra nơi thẩm quan mỹ thuật của chúng tôi, và niềm phúc lạc thần tiên được đạt tới mục đích cuộc hành tŕnh sau chuỗi ngày khắc khoải chờ mong kéo dài, để đến được dải đất của những dân tộc mệnh danh “ngoại đạo” thân yêu của chúng tôi. Để tiếp xúc và sống chung với họ, chúng tôi đă vượt qua bao vùng biển cả trùng dương và chạm trán với bao cơn giông tố băo bùng. Tất cả những cảm giác, ấn tượng sống động đó làm cho ḷng chúng tôi tràn ngập một niềm sung sướng hạnh phúc khôn tả.
Chiều ngày 17 tháng 2, một cuộc tiếp tân được tổ chức tại tư gia một bạn đạo với 300 quan khách được mời đến để gặp gỡ chúng tôi. Như thường lệ, trong những dịp này có đọc diễn văn chúc mừng, với những ṿng hoa choàng vào cổ và nước hoa rẩy vào người chúng tôi theo phong tục bản xứ.
Bà Blavatsky, ông Wimbridge, ông Scott và tôi đều có đáp từ tùy theo khả năng và cảm hứng của mỗi người, và cơn xúc động sâu xa trong ḷng đă khiến tôi rơi nước mắt!
Ngày hôm sau, chúng tôi được mời tham dự cuộc lễ kỷ niệm “Shivaratri” của Ấn giáo tại Động Voi (Elephant Cave). Sau đó, hằng ngày đều có quan khách dồn dập đến viếng thăm chúng tôi càng lúc càng đông, trong số đó có các gia đ́nh cư sĩ tại gia theo Parsi (Bái hỏa giáo), Ấn giáo, và các tu sĩ xuất gia, tăng lữ Kỳ-na giáo (Jain) v.v...
Có những mâm lễ vật hoa quả được gửi đến tặng chúng tôi kèm theo thông điệp chào mừng. Một đêm văn nghệ đặc biệt với vở kịch Ấn Độ “Sitaram” được tŕnh diễn cho chúng tôi xem tại Hí Viện Elphinstone.
Ngày 7 tháng 3, chúng tôi dời đến một ngôi biệt thự nhỏ ở số 108 đường Girgaum. Chúng tôi đă ở luôn tại đây suốt hai năm liền và dùng nơi này làm Tổng hành dinh của Hội Thông thiên học Thế giới.
Bạn Mulji có t́m được cho chúng tôi một thiếu niên giúp việc chừng 15 tuổi, tên Babula. Ai cũng biết thằng bé có ḷng trung tín đối với bà Blavatsky hầu như tuyệt đối, cho đến khi bà rời khỏi xứ Ấn Độ.
Mỗi đêm chúng tôi đều có quan khách đến viếng. Trong những dịp đó, những vấn đề triết học, siêu h́nh và khoa học phức tạp, khó khăn nhất được mang ra thảo luận. Chúng tôi sống trong một bầu không khí tinh thần, trí tuệ, với những lư tưởng tâm linh cao cả nhất.
Trong bối cảnh tinh thần đó lần đầu tiên đă xuất hiện những bạn đạo đồng thanh khí với chúng tôi. Những người này về sau đă có liên hệ mật thiết với sự phát triển của phong trào Thông thiên học.
Trong số những người bạn mới của chúng tôi lúc ấy, có hai anh em MM. và AM. Kunte. Người anh là một giáo sư kiêm học giả ưu tú về môn Phạn ngữ, c̣n người em là một vị bác sĩ giảng dạy khoa Cơ thể học tại trường Đại học Y khoa ở Bombay.
Nhưng người bác sĩ này về sau đă tỏ ra thiếu hẳn sự can đảm, tinh thần bạc nhược đến mức khiến tôi phải đem ḷng khinh bỉ.
Ông ta là một thành viên trong Hội đồng Quản trị của Hội Thông thiên học, được đối xử trên một cương vị b́nh đẳng và thân hữu, quan hệ mật thiết với chúng tôi. Lúc đầu, ông ta rất nhiệt thành với Hội, sẵn ḷng trợ giúp và đáp ứng rộng răi mọi nhu cầu của Hội. Ông sẵn ḷng cung hiến nhà ở, tài sản, xe ngựa cho chúng tôi tùy nghi sử dụng, thật sự xem chúng tôi như anh em một nhà.
Bỗng nhiên, một ngày nọ, người giúp việc của ông ta mang đến cho tôi một bức thư từ chức và xin ra khỏi Hội mà không một lời giải thích lư do. Tôi c̣n không tin ở mắt ḿnh và nghĩ rằng đó hẳn là một tṛ đùa đáng trách, nhưng khi tôi hối hả đến nhà ông ta th́ mới bật ngửa người ra mà nghe ông ta xác nhận rằng đó là sự thật.
Sau nhiều lần cật vấn về lư do của sự việc ấy, tôi mới biết rơ sự thật. Vị Khoa trưởng ở trường Đại học Y khoa đă khuyên ông ta nên chấm dứt mọi liên hệ với chúng tôi, v́ Hội Thông thiên học đă bị chính phủ Anh Ấn nghi ngờ là có những ư đồ và mục tiêu chính trị!
Như vậy, thay v́ mạnh dạn đứng ra bênh vực chúng tôi và tuyên bố rằng Hội Thông thiên học hoàn toàn không dính dáng ǵ đến vấn đề chính trị– với tư cách là bạn thân của chúng tôi và là một thành viên Hội đồng Quản trị của Hội, ông ta có thể làm điều đó một cách dễ dàng – th́ người bác sĩ giàu có phong lưu này, người mà vấn đề sinh kế không phụ thuộc chút nào vào số tiền lương chết đói của chính phủ, lại chạy thẳng một mạch về nhà và biểu lộ sự hèn nhát của y trên giấy trắng mực đen!
Những ai biết chuyện sẽ hiểu được cái cảm giác khinh bỉ của tôi đối với ông ta kể từ đó về sau. Ngày hôm sau, tôi viết thư cho vị giáo sư Phạn ngữ nói rằng v́ người em ruột của ông thấy có điều bất lợi trong việc liên hệ với Hội Thông thiên học, nên tôi hy vọng rằng không một sự e ngại tế nhị nào có thể ngăn cản sự rút lui của ông nếu ông cũng chia sẻ sự băn khoăn ấy. Câu trả lời của ông ta là một lá đơn từ chức viết tay!
Trong một trường hợp khác, tôi có nói với một bạn đạo Ấn Độ mà tôi biết rằng vấn đề sinh kế phải phụ thuộc vào số lương nghèo nàn của chính phủ là 40 ru-pi mỗi tháng: “Này anh Martandras Bhai, giả dụ như sáng mai đến sở làm anh thấy trên bàn giấy một bức thư nói rằng anh hăy chọn một trong hai điều, là chỗ làm của anh và Hội Thông thiên học, bởi v́ Hội chúng ta bị nghi ngờ là có âm mưu chính trị, khi ấy anh sẽ nghĩ sao?”
Người bạn này lộ vẻ đăm chiêu nghĩ ngợi, nét mặt cứng rắn như người sắp phải quyết định một việc nghiêm trọng, và kế đó với đôi môi mím chặt và một cái lắc đầu, anh ta đáp một cách quyết liệt: “Tôi... tôi không thể làm trái với lương tri của tôi!”
Tôi bèn ôm chầm lấy anh ta và kêu to với bà Blavatsky ở pḥng kế bên: “Qua đây! Bà hăy qua đây để nh́n xem một người Ấn Độ chân chính, một con người can đảm!”
Tên đầy đủ của người này là Martandras Babaji Nagnath. Anh ta là một người Bà-la-môn thuộc tiểu bang Maratha.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 860 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:02am | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
IV.
Những quan khách thuộc đủ mọi tầng lớp xă hội vẫn tiếp tục đến viếng Trụ sở Thông thiên học của chúng tôi càng ngày càng đông, và thường ở nán lại mỗi đêm đến khuya để thảo luận về các vấn đề tôn giáo.
Nhờ những cuộc tiếp xúc này trong giai đoạn ban đầu sống trên đất Ấn Độ mà chúng tôi mới nhận thức được sự khác biệt giữa những quan niệm sống của người phương Đông và phương Tây, và thấy rằng người phương Đông có một nhân sinh quan cao cả, thoát tục hơn nhiều. Những vấn đề danh lợi trần gian, khác biệt chủng tộc, doanh thương hay chính trị không hề lọt vào ngưỡng cửa của chúng tôi. Sự tiến hóa tâm linh là đề tài thảo luận thường xuyên nhất, và đó là lần đầu tiên mà bà Blavatsky và tôi chú trọng sâu xa đến những vấn đề tiến hóa tuần tự của linh hồn qua từng giai đoạn luân hồi chuyển tiếp theo định luật tuần hoàn.
Chúng tôi cảm thấy hoàn toàn thỏa măn với sự ẩn cư trong một biệt thự hẻo lánh dưới bóng những hàng dừa râm mát, trong một khu vực b́nh dân của thành phố này. Những chuyến tàu đến đi chở đầy của cải vật chất; sự ồn ào, náo nhiệt của thị trường thương măi; sự cạnh tranh ráo riết của các xí nghiệp doanh thương trên thị trường bông vải và sự lên cao xuống thấp của các giá trị cổ phần; sự tranh đua ti tiện nhỏ nhen giữa các quan chức; những cuộc tiếp tân linh đ́nh trọng thể tại dinh Chính phủ; tất cả những thứ đó không hề thoáng qua trong trí óc của chúng tôi. Chúng tôi lấy làm sung sướng mà quên lăng việc đời cũng như được người đời bỏ quên!
Người đời có thể cho chúng tôi là cuồng tín, mộng mơ, có những hứng khởi điên rồ, không thiết thực, nạn nhân của những điều giả tưởng ngông cuồng, hoặc tự lừa dối ḿnh. Tuy nhiên, những mộng mơ của chúng tôi là ước mơ sự toàn thiện của loài người, khát khao sự minh triết thiêng liêng; hy vọng duy nhất của chúng tôi là giúp đỡ nhân loại, nâng cao hoài băo tinh thần và sống một cuộc đời thanh cao tốt đẹp hơn.
Và dưới bóng những hàng dừa râm mát, chúng tôi đă được sự đích thân viếng thăm của các đấng chân sư. Sự hiện diện cao cả của các ngài đă giúp thêm sức mạnh cho chúng tôi tiến bước trên con đường đang theo đuổi, và tưởng thưởng chúng tôi gấp trăm lần nhiều hơn tất cả những sự lừa đảo, phản bội, nhạo báng, lăng nhục, ngược đăi của người đời và sự ŕnh rập theo dơi của những nhân viên an ninh, cảnh sát mà chúng tôi đă phải gánh chịu.
Khi đă có các ngài thường xuyên hỗ trợ chúng tôi, th́ có hề ǵ nếu chúng tôi bị người đời chống đối, thù nghịch? Thế gian không chinh phục được chúng tôi, nhưng nghiệp quả đă mang đến cho chúng tôi cái vai tṛ thắng đoạt sự thờ ơ lănh đạm của nó và rốt cuộc đáng được thế gian tôn trọng.
Chúng tôi không biết, nhưng các đấng chân sư biết, rằng hai chúng tôi sẽ được sử dụng như một trung tâm cần thiết cho sự tập trung và phổ biến những giáo lư huyền môn cổ truyền của Ấn Độ, nay đă đến chu kỳ tái xuất hiện để đáp ứng nhu cầu của nhân loại theo định luật tuần hoàn. Một người thừa hành luôn luôn cần thiết như một phương tiện để phát động những phong trào phục hưng trí tuệ và tâm linh, và tuy hăy c̣n là thiếu sót bất toàn nhưng chúng tôi cũng tạm gọi là khá tốt để thi hành sứ mạng đó, bởi v́ ít nhất chúng tôi cũng có được niềm hứng khởi nhiệt thành, ḷng ưu ái và sự vâng lời tuyệt đối.
Những điểm thiếu sót bất toàn cá nhân của chúng tôi không đáng kể vào đâu so với những nhu cầu cấp bách của nhân loại. Bởi vậy nên, hiểu theo một ư nghĩa, chúng tôi là những người hướng đạo mở đường, khai sáng phong trào Thông thiên học, có tác động như một trung tâm để thể hiện và phát huy bầu ánh sáng rạng ngời của nền minh triết cổ truyền phương Đông. Phong trào này đang tạo ra sự thán phục và ca tụng trong các giới học giả quốc tế hiện đại nhờ vào sự thanh cao mỹ lệ và giá trị độc đáo vô song của nó.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|