Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
  H́nh Ảnh Từ Thiện
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Thông Tin
  Thông Báo
  Báo Tin
  Liên Lạc Ban Điều Hành
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Nhờ Coi Quẻ
  Nhờ Coi Ngày
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Tử Vi
  Tử Bình
  Kinh Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Bói Bài
  Đoán Điềm Giải Mộng
  Khoa Học Huyền Bí
  Thái Ất - Độn Giáp
  Y Dược
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch và Phong Thủy 3
Kỹ Thuật
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
Thư Viện
  Tủ Sách
  Bài Viết Chọn Lọc
Linh Tinh
  Linh Tinh
  Giải Trí
  Vườn Thơ
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 49 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
chindonco (3250)
hiendde (2589)
HoaCai01 (2277)
vothienkhong (1807)
dinhvantan (934)
ryan88 (805)
Vovitu (713)
ruavang (691)
lancongtu (667)
TranNhatThanh (644)
Hội viên mới
redlee (0)
dautranhsinhton (0)
Chieu Tim1234 (1)
huyent.nguyen (0)
tamsuhocdao (0)
henytran2708 (0)
thuanhai_bgm (0)
Longthienson (0)
thuyenktc (0)
liemnhi (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Truyện tâm linh - hiendde Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 861 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:06am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



CHƯƠNG BA: MỘT ĐỘNG PHÙ THỦY
I.


Mọi người đều biết tên tuổi của ông A. P. Sinnett, Phó Hội trưởng Hội Thông thiên học, có t́nh thân hữu đậm đà với hai nhà sáng lập và liên hệ mật thiết với mọi ngành hoạt động của Hội trong một thời gian dài.

Sự quen thuộc của ông với chúng tôi bắt đầu bằng một bức thư đề ngày 25 tháng 2 năm 1879, tức chín ngày sau khi chúng tôi đến Bombay. Trong thư đó, với tư cách Chủ nhiệm tờ nhật báo Pioneer, ông bày tỏ ư muốn làm quen với chúng tôi và sẵn ḷng công bố trên mặt báo mọi sự kiện lư thú về sứ mạng của chúng tôi ở Ấn Độ.

Cũng như toàn thể báo giới Ấn Độ, nhật báo Pioneer đă đăng tin chúng tôi đến. Trong thư ông Sinnett nói rằng, hồi c̣n ở London ông đă có nhiều dịp khảo sát một số hiện tượng đồng tử đáng kể, do đó ông cảm thấy thích thú với những vấn đề huyền linh hơn những kư giả thông thường. V́ lẽ những định luật về các hiện tượng này c̣n chưa được khám phá, những cuộc biểu diễn thường xảy ra dưới những điều kiện không thỏa đáng, và cái trí lực đằng sau các hiện tượng này vẫn c̣n được giải thích bằng nhiều lư thuyết mâu thuẫn, hỗn độn, không được rơ ràng dứt khoát, nên sự ṭ ṃ của ông không được thỏa măn đúng mức, và lư trí của ông cũng chưa được thuyết phục.

Bức thư trả lời của tôi đánh dấu sự bắt đầu một mối liên hệ quư giá và một t́nh thân hữu bền bỉ lâu dài. Sự trợ giúp của ông Sinnett đă đến với chúng tôi vào đúng lúc khẩn thiết nhất, và tôi không bao giờ quên rằng Hội Thông thiên học nói chung, và cá nhân chúng tôi nói riêng, đều có một sự biết ơn sâu xa đối với ông.

Vừa rời thuyền lên đất liền không bao lâu, chúng tôi đă được mọi người biết là có khuynh hướng đồng hóa với tư tưởng phương Đông và không có thiện cảm với quan niệm nhân sinh của các giới trong cộng đồng Anh Ấn. Không những vậy, chúng tôi lại định nơi cư trú trong một ngôi nhà hẻo lánh ở trung tâm khu bản xứ của thành phố Bombay, được nghênh đón một cách hứng khởi, nồng nhiệt và được người Ấn Độ chấp nhận như những người đại diện cho nền đạo lư cổ truyền và hoằng khai tôn giáo của chính họ.

Hơn nữa, chúng tôi không đến ra mắt các quan chức trong dinh Chính phủ, cũng không viếng thăm xă giao những nhân vật quan trọng của giai cấp người Âu, v́ giai cấp này thật hoàn toàn dốt đặc về Ấn giáo và về dân tộc Ấn, cũng như họ vốn mù tịt về cá nhân chúng tôi. Bởi vậy, đương nhiên chúng tôi không có quyền trông đợi một ân sủng nào từ phía những người đồng chủng của ḿnh, và cũng không có ǵ đáng ngạc nhiên khi bị Chính phủ nghi ngờ là có những ư đồ riêng tư, bí mật.

Không một vị chủ báo Anh Ấn nào khác sẵn ḷng có hảo ư với chúng tôi, hoặc có thái độ vô tư trong việc thảo luận về những quan điểm và lư tưởng của chúng tôi. Chỉ có ông Sinnett là người bạn duy nhất và người phê b́nh vô tư, chân chính của chúng tôi. Ông là một bạn đồng minh có thế lực rất mạnh, v́ ông làm chủ tờ nhật báo có ảnh hưởng lớn nhất ở Ấn Độ, và hơn tất cả mọi vị chủ báo khác, ông được sự tín nhiệm và kính trọng của những quan chức thượng cấp trong Chính phủ.

Tôi luôn ngạc nhiên khi nói chuyện với các nhân vật Anh Ấn, v́ thấy rằng họ và chúng tôi sống trong những thế giới rất khác biệt nhau trên cùng một đất nước Ấn Độ. Thế giới của họ chỉ là một sự nới rộng nếp sống quen thuộc ở quê nhà, gồm những thú vui tầm thường và những tṛ tiêu khiển vô vị để giúp cho những giờ phút nghỉ ngơi của họ được ít nhàm chán nhất. Ngược lại, thế giới của chúng tôi là những lư tưởng thấm nhuần đạo lư phương Đông, suy tư cảm nghĩ với những tư tưởng phương Đông, không hề có chút thời gian rảnh để vui chơi hưởng lạc, cũng không bao giờ cảm thấy có nhu cầu về những tṛ tiêu khiển, những tiệc tùng đ́nh đám, những buổi dạ hội tiếp tân xă giao tầm thường...

Nếu không phải do kinh nghiệm bản thân, người ta không thể tưởng tượng được rằng có một sự tương phản lớn lao và rơ rệt đến như vậy!


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 862 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:07am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



II.

Ít lâu sau khi chúng tôi đến định cư tại ngôi nhà ở đường Girgaum, một giai thoại xảy ra và về sau bà Blavatsky đă viết lại thành một chuyện rất ly kỳ trong quyển “Động thẳm rừng già của Ấn Độ”.

Tôi chỉ tŕnh bày ở đây một cách đơn giản, ngắn gọn những sự việc đă xảy ra, và độc giả sẽ thấy bằng cách nào bộ óc tưởng tượng dồi dào phong phú của bà đă biến đổi chúng hoàn toàn khác hẳn, từ một chuyện rất thông thường bà đă tạo thành một chuyện phiêu lưu kỳ diệu đầy tính chất rùng rợn quái đản.

Một buổi chiều nọ, chúng tôi đang ngồi trong nhà th́ nghe có tiếng trống nhỏ vang dội bên tai làm cho tôi chú ư. Tiếng trống vẫn tiếp tục kéo dài lặp măi một kiểu độc âm, buồn tẻ, nhàm chán chứ không theo một nhạc điệu nào. Chúng tôi sai một người giúp việc đi thăm ḍ, và khi trở về anh ta cho biết rằng đó là tiếng trống ở một nhà láng giềng, báo hiệu rằng một “bà bóng”, vốn là cốt của một vị “nữ thánh”, sắp sửa lên đồng và trả lời những câu hỏi về những vấn đề họa phước của các tín chủ.

Ư muốn chứng kiến một màn lên đồng hấp dẫn lạ kỳ đă thúc đẩy chúng tôi t́m đến nơi để xem việc ǵ xảy ra. Thế là chúng tôi đến nhà bà bóng. Trong một gian nhà tranh vách đất nhỏ hẹp, chúng tôi thấy độ ba, bốn mươi người bản xứ thuộc giai cấp nghèo hèn đang đứng ṿng quanh, có vài ngọn đèn dầu dừa để kê sát vách, và ngồi xếp bằng ngay chính giữa nền đất là một người đàn bà trông có vẻ man dại, đầu bỏ tóc xơa, thân ḿnh lắc lư từ bên nọ qua bên kia, và xoay đầu đảo ṿng tṛn làm cho bộ tóc dài cũng cuốn xoay ṿng quanh ḿnh.

Độ một lát, có một trẻ từ cửa sau bước vào, cầm một cái đĩa bàn tṛn trên có vài miếng long năo đang cháy, vài nhúm bột son đỏ và mấy lá cây xanh. Đứa trẻ đưa cái đĩa lại gần mặt bà bóng, bà này cúi mặt xuống chất long năo bốc khói, vừa hít vào từng hơi dài vừa thốt ra những tiếng rên khoái trá.

Sau đó một lúc, bà nhảy dựng người lên, giật lấy cái đĩa bàn, cầm đưa qua bên mặt, bên trái, đầu lại xoay tṛn như trước, và với bàn chân nhúnnhảy theo nhịp trống, bà đi quanh khắp pḥng và nh́n thẳng vào gương mặt khiếp sợ của những người chung quanh.

Sau khi đă đi quanh khắp pḥng như vậy nhiều lần, th́nh ĺnh bà bóng lao ḿnh vút đến trước mặt một phụ nữ trong đám đông, phóng cái đĩa bàn về phía người ấy, và nói với cô ta vài câu bằng tiếng thổ ngữ Marathi, mà lẽ tất nhiên là chúng tôi không hiểu, nhưng dường như có liên quan đến việc riêng của bà kia. Dù đó là việc ǵ, ảnh hưởng của câu nói ấy đă hiển hiện ngay tức khắc, v́ người phụ nữ ấy bật ngửa người và thụt lui lại một bước, gương mặt lộ vẻ kinh hoàng, và đưa hai tay nắm chặt về phía bà bóng, dường như trong cơn xúc động sâu xa.

Cũng một sự việc tương tự được tái diễn với nhiều người khác trong số cử tọa. Sau đó nhà nữ linh thị đi xoay ṿng vào giữa gian pḥng, vẫn tiếp tục xoay ṿng sang bên nọ bên kia trong một lúc, thốt lên vài âm thanh nghe dường như một câu thần chú, rồi chạy thoát ra khỏi pḥng qua cửa sau.

Sau vài phút bà ấy trở lại, với bộ tóc ướt sũng nhỏ giọt, lại để rơi ḿnh xuống đất, đầu lại đảo quay ṃng ṃng như trước, lại nhận cái khay đựng long năo đốt cháy, và tái diễn cảnh lao vút ḿnh vào người đứng xem để nói với họ những ǵ họ muốn biết. Nhưng lần này, giọng nói của nhà tiên tri hơi khác một chút và những động tác của bà có vẻ nhẹ nhàng hơn.

Chúng tôi được cho biết rằng đó là v́ đă có một nữ thánh khác nhập vào khi bà bóng ngâm đầu vào một chậu nước đặt sẵn ở ngoài cửa.

Tính cách mới lạ của sự việc này không bao lâu đă trở thành nhàm chán đối với chúng tôi, và chúng tôi quay bước trở về nhà.

Câu chuyện chỉ có thế thôi, không hơn không kém. Đó là những sự kiện đơn giản, và không có ǵ khác lạ hơn nữa. Thế nhưng, nếu độc giả mở cuốn “Động thẳm rừng già của Ấn Độ”, ở chương “Một động phù thủy”, th́ sẽ thấy bà Blavatsky làm cho nó biến chất như thế nào. Thay v́ câu chuyện xảy ra trong một căn nhà lá tồi tàn ở một xóm b́nh dân lao động của thành phố Bombay, với một số khán giả gồm toàn những người lao công lam lũ bần hàn, chúng tôi lại được bà mô tả là ngồi trên lưng voi, đi trên con đường ṃn dưới ánh đuốc bập bùng mờ ảo, xuyên qua một khu rừng rậm, ở độ cao hơn 600 mét trên dăy núi Vindhya. Bà viết:

“Giữa cơn im lặng thâm trầm, chỉ nghe có tiếng chân voi bước đều đặn và nghiền nát sỏi đá trên đường núi gập ghềnh; thỉnh thoảng, chợt nghe có những tiếng th́ thầm quái đản và những âm thanh lạ lùng huyền bí. Đến một chỗ nọ, chúng tôi cho voi quỳ xuống để chúng tôi xuống đất và đi bộ xuyên qua những bụi cây xương rồng rậm rạp, gai đâm đau nhói!

“Chúng tôi gồm một đoàn ba mươi người, kể cả những phu cầm đuốc. Ông Đại tá (tức là tôi) ra lệnh cho tất cả những khẩu súng trường và súng ngắn đều phải lắp đạn sẵn sàng để sửa soạn vượt qua truông núi.

“Sau khi đă bỏ lại phần lớn y phục trên những cành gai nhọn của bụi cây lê rừng, trèo lên một ngọn đồi, và vượt qua một khe núi khác nữa, chúng tôi đến nơi động phủ của một vị nữ phù thủy mệnh danh là “Bà cốt của Ấn Độ”. Bà sống một cuộc đời chân tu thánh thiện và là một nhà tiên tri xuất sắc. Động phủ của bà nằm trong hang núi, trong một ngôi đền cổ hoang tàn xây bằng đá ong đă loang lổ nhiều nơi, nơi cư trú của bà ở trong một đường hầm. Tại đây, người ta tin rằng bà đă sống đến ba trăm tuổi!

“Khoảnh đất vuông vức phía trước mặt ngôi đền được soi sáng bằng một ngọn lửa trại khổng lồ; ở giữa sân có một đám thổ dân miền núi trần truồng nước da đen sậm giống như những thể tinh đang nhảy múa một vũ khúc ếm quỷ theo nhịp trống cổ và trống cơm.

“Lúc đó, một vị lăo trượng có cḥm râu bạc nhảy ra và xoay tít thân ḿnh đi theo ṿng tṛn chung quanh sân, hai cánh tay duỗi thẳng như hai cánh và nhe ra hàm răng nhọn như răng chó sói. Thân ḿnh ông cứ xoay tít măi cho đến khi ngă quị xuống đất, bất tỉnh nhân sự.

“Th́nh ĺnh, vị nữ phù thủy xuất hiện, từ đâu và bằng cách nào cũng không ai biết. Bà có thân h́nh cao lêu khêu, gầy đét như bộ xương. Nơi bờ vai xương xẩu của bà có treo lủng lẳng một cái xương sọ nhỏ bé của trẻ con đă chết. Đôi mắt sâu hoắm, phóng ra những tia lửa đỏ từ cái liếc nh́n sắc như dao đâm xuyên vào mắt bạn, làm cho bạn phải sởn ốc cùng ḿnh. Bạn bắt đầu cảm thấy óc ḿnh tê liệt, tinh thần bấn loạn không c̣n suy tư sáng suốt và máu bạn đông đặc lại trong huyết quản!

“Bà phù thủy đứng yên không cử động trong giây lát, một tay cầm cái đĩa đựng long năo đốt cháy, tay kia cầm một nắm gạo. Bà giống như một pho tượng tạc trên đá, cái cổ nhăn nheo đeo ba ṿng tiền vàng cổ xưa, đầu quấn một con rắn bằng vàng khoanh tṛn. Thân h́nh dị dạng của bà bao phủ bằng một lớp áo vải mịn màu vàng nghệ...”

Tiếp theo đó là sự mô tả cơn nhập đồng của bà phù thủy, với những cử chỉ giống như người bị chứng động kinh, phong giật; một màn nhảy múa xoay tít thân ḿnh như một chiếc lá vàng trong cơn gió lốc; cái nh́n rùng rợn của đôi mắt sắc như dao; những cơn múa may quay cuồng, những bước nhảy dựng chồm người lên; và những động tác man dại rừng rú khác. Rồi đến những màn thay đổi các “giá đàn”: thần thánh luân phiên xuất nhập xác bà bóng, tất cả là bảy vị; những màn phát ngôn tiên tri họa phước; một vũ điệu kỳ quái với cái bóng của chính bà phù thủy; những màn đập đầu lên những bực đá tam cấp phát ra tiếng động nghe đến rợn người, vân vân và vân vân...

Sự diễn tả cảnh tượng động phù thủy chiếm trọn hai mươi trang giấy với một bút pháp điêu luyện làm cho người đọc say mê thích thú, cơ hồ như chính họ được đưa vào tận chốn rừng thiêng bí ẩn để chứng kiến bao nhiêu sự việc quái đản, dị kỳ.

Một trí óc có thể làm được việc kỳ diệu như vậy, hẳn phải là một khối óc đầy tài năng. Hơn nữa, điều mà bà đă làm trong câu chuyện này, bà cũng đă làm trong toàn bộ cuốn sách: một số sự việc giản dị, tối thiểu trong mỗi trường hợp cũng đủ để cho bà chế biến thành một chuyện ly kỳ huyền bí chứa đựng nhiều chi tiết hấp dẫn đến độ độc đáo, thần t́nh.

(Những chuyện phiêu lưu du kư của bà Blavatsky viết ở Ấn Độ, trước hết được viết bằng tiếng Nga để gửi đăng từng kỳ hạn hằng tuần trên tạp chí “Russky Vyestnick”, tờ tạp chí lớn nhất ở Moskowa; về sau mới được dịch sang Anh ngữ và sưu tập lại để in thành sách nhan đề “Caves and jungles of Hindustan” (Động thẳm rừng già của Ấn Độ).


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 863 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:07am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



III.

Những hy vọng của chúng tôi về một cuộc sống ẩn cư không bao lâu đă tiêu tan như mây khói. Không những chúng tôi luôn luôn bị vây phủ bởi những khách đến viếng, trong số đó có vài người hứng khởi nhiệt thành, dốc ḷng tầm đạo, và đáng được chúng tôi giúp đỡ, nhưng chúng tôi cũng bị lôi cuốn vào việc giao dịch thư từ ngày càng nhiều, phần lớn là với người Ấn Độ, về những vấn đề liên quan đến giáo lư Thông thiên học.

Ngày 23 tháng 3 năm ấy, tôi cung hiến một buổi diễn thuyết công cộng đầu tiên ở Ấn Độ tại hội trường Framji Cowasji Hall ở Bombay, với đề tài: “Hội Thông thiên học và những mục đích của Hội”.

Nói về tính cách mới mẻ và lạ mắt, th́ cảnh tượng của hội trường hôm ấy thật là ngoạn mục, thích thú đến tuyệt đỉnh: thính đường trông như một biển khăn vấn đầu trăm màu ngh́n sắc, những thính giả mặc sắc phục bằng vải hay tơ trắng xóa như tuyết, những bộ “sari” bằng tơ óng ánh, màu mè sặc sỡ của các phụ nữ Ấn, những cặp mắt màu vân thạch chiếu trên những gương mặt màu nâu sậm với những nét thanh tao biểu lộ dân tộc tính với một truyền thống duy linh có sẵn từ muôn đời.

So với những bộ Âu phục màu đen, những gương mặt nhợt nhạt và đầu trần của những thính giả Tây phương, không có một màu sắc nào ngoại trừ những khăn choàng của phái nữ, th́ cảnh tượng ấy tŕnh bày một sự tương phản rơ rệt.

Hàng thính giả đông nghẹt đến mức chật ních cả hội trường, choán hết các bao lơn, cầu thang, cho đến khi không c̣n chứa thêm được một người nào nữa. Tuy vậy, họ vẫn giữ im lặng, trật tự, và chăm chú nghe dường như mỗi người đều có đủ chỗ rộng răi, thoải mái cho riêng ḿnh.

Nhóm bốn người của chúng tôi ngồi trên diễn đàn, hàng ghế đầu được dành cho những nhân vật trưởng thượng của những cộng đồng bản xứ khác nhau thuộc thành phố Bombay, và bài diễn thuyết của tôi được tất cả mọi người lắng nghe với một sự chú ư dường như muốn nín thở, thỉnh thoảng bị gián đoạn bởi những tràng pháo tay hoan hô.

Đó thật là một diễn biến lịch sử, v́ đây là lần đầu tiên một người phương Tây đứng ra đề cao tính chất cao siêu hùng vĩ của nền đạo lư cổ truyền phương Đông và kêu gọi t́nh thuơng yêu tổ quốc giống ṇi của người Ấn Độ, hăy tưởng nhớ đến truyền thống tổ tiên của họ mà giữ vững lấy nền tôn giáo cổ xưa của ḿnh.

Tinh thần buổi giảng như tràn ngập cả tâm hồn của diễn giả cũng như thính giả, và có một lúc tôi không thể chế ngự được xúc cảm, phải tạm ngưng v́ cơn xúc động làm cho tôi thấy nghẹn ở cổ họng và trào nước mắt! Tôi có cảm tưởng như một thằng ngốc v́ đă mất b́nh tĩnh và không tự chủ được, nhưng tôi không thể làm khác hơn; tiếng nói của quả tim bị đè nén làm cho tôi không thốt được nên lời, mặc dù tôi cố gắng vượt qua.

Trong buổi thuyết tŕnh, tôi bày tỏ quan niệm rằng sự phục hưng của một quốc gia phải đến từ hành động của những nhà lănh đạo sáng suốt của quốc gia ấy, chứ không phải đến từ bên ngoài; và nếu muốn ngăn chặn sự suy vong của Ấn Độ th́ người có thiên ân sứ mạng phải được t́m kiếm ngay trên lănh thổ xứ Ấn, chứ không phải ở nước ngoài, cũng không phải trong số những người ngoại chủng.

Về phần chúng tôi, chúng tôi hoàn toàn phủ nhận mọi vai tṛ lănh đạo, hay cho rằng ḿnh có đủ điều kiện đóng vai tṛ ấy.

Về sau, khi đă trải qua một thời gian hai mươi năm kinh nghiệm về xứ Ấn Độ, tôi tin rằng đó là quan niệm chính đáng và là quan niệm duy nhất có thể đứng vững.

Tôi vẫn tin tưởng, cũng như tôi đă thuyết tŕnh ngày hôm ấy, rằng đấng Giáo chủ tâm linh ấy vốn có thật, và sẽ xuất hiện vào đúng lúc, khi thời giờ đă điểm. Thật vậy, những dấu hiệu về sự hạ phàm của Ngài vẫn đến dồn dập hằng ngày, và ai dám nói rằng sự ra đời của Hội Thông thiên học, bà A. Besant, đạo sư Vivekànanda, Dharmapala, và nhiều vị khác nữa, không phải là những dấu hiệu báo trước cái ngày được chờ đợi từ lâu, khi mà sự khát khao tâm linh sẽ sống động trở lại trong ḷng tất cả mọi người?

Lẽ tự nhiên, trong hoàn cảnh xă hội và t́nh trạng tâm lư của thời bấy giờ, sự việc diễn biến nói trên đây đă gây một ấn tượng mạnh mẽ sâu xa. B́nh phẩm bài diễn văn của tôi, nhật báo “Indian Spectator” viết:

“Chưa bao giờ có một sứ mạng nào lớn lao hơn thế. Thiết tưởng, người Ấn Độ hăy kết hợp lại với nhau trong một lư tưởng chung. Người Ấn giáo, Bái hỏa Giáo, Hồi giáo, Gia Tô giáo... hăy quên đi những sự khác biệt của họ, rồi cái ngày phục hưng xứ Ấn Độ sẽ không c̣n bao lâu nữa.”

Nhật báo “Amrita Bazaar Patrika” số ra ngày 8 tháng 5 năm 1879 nhắc lại lời của tôi rằng “mục tiêu của chúng tôi là mục tiêu vĩ đại nhất mà con người đă từng theo đuổi từ trước đến nay”.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 864 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:09am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



CHƯƠNG BỐN: BIỆT THỰ HOA HỒNG
I.


Kể từ ngày 29 tháng 3 năm 1879 đă lần lượt xảy ra một loạt những sự việc dị kỳ mà nhân chứng quan trọng là bạn Mulji Thackersey, không kể bà Blavatsky.

Ngày đó, bà Blavatsky bảo Mulji gọi một cỗ xe ngựa, và cùng với anh ta lên xe. Bà không trả lời khi anh ta hỏi bà đi đâu, mà chỉ bảo anh nói với người phu xe hăy rẽ về bên mặt, hay bên trái, hoặc đi thẳng, tuần tự theo chỉ dẫn của bà.

Những ǵ đă xảy ra, Mulji thuật lại cho chúng tôi nghe khi anh ta trở về nhà chiều hôm đó. Bà Blavatsky đă chỉ đường cho xe chạy xuyên qua rất nhiều ngơ ngách quanh co, cho đến khi ra đến ngoại ô thành phố Bombay cách đó độ tám đến mười dặm, vào một rừng thông rậm rạp, ở khu vực Parel. Mulji biết rơ vùng này v́ anh ta đă hỏa táng xác chết của mẹ ḿnh ở vùng lân cận.

Trong rừng thông có nhiều đường ṃn xuyên nhau qua lại chằng chịt, nhưng bà Blavatsky không hề lạc đường, và chỉ bảo người đánh xe đi quanh đi quẹo một hồi lâu cho đến khi ra tới bờ biển. Sau cùng, Mulji vô cùng ngạc nhiên khi thấy xe đưa họ vào cổng một khuôn viên rộng lớn, với một vườn hoa hồng ở phía mặt, và một biệt thự nguy nga với những hành lang rộng răi theo kiểu kiến trúc phương Đông.

Bà Blavatsky xuống xe, bảo Mulji hăy đợi bà ở đó, và không được vào nhà v́ bất cứ v́ lư do nếu muốn được an toàn tính mạng. Thế là anh ta ngồi đợi trên xe trong một trạng thái băn khoăn khó hiểu, v́ cái dinh cơ này, dù là người đă sống cả đời ở Bombay mà anh chưa từng nghe nói đến bao giờ!

Anh ta gọi một trong những người làm vườn đang trồng hoa, nhưng người này không nói ǵ cả về tên họ, tung tích của chủ nhân, cũng không cho biết người đă ở đó từ bao giờ, hoặc ngôi nhà đă được xây cất từ lúc nào. Đó là một điều rất bất thường giữa những người Ấn Độ với nhau.

Bà Blavatsky đi thẳng đến ngôi nhà, được một người Ấn Độ h́nh dung cao lớn, mặc áo rộng trắng, với một phong cách sang cả tôn quư khác thường, ân cần tiếp đón bà từ ngoài cửa và hai người cùng đi vào nhà. Sau một lát, hai người lại bước ra cửa. Người lạ mặt bí mật kia chào từ giă, và trao cho bà một bó hoa hồng lớn mà một người làm vườn vừa đem mang vào.

Bà Blavatsky trở lại chỗ cũ, bước lên xe và bảo người đánh xe trở về nhà. Tất cả những ǵ mà Mulji được biết do bà Blavatsky nói lại có thể tóm tắt như sau: Người lạ mặt là một nhà huyền học mà bà có liên hệ trực tiếp và có việc phải thương lượng vào ngày đó. C̣n bó hoa hồng th́ người ấy gửi cho tôi và nhờ bà trao lại.

Phần lạ lùng nhất trong câu chuyện này là theo chỗ chúng tôi biết th́ bà Blavatsky không thể biết ǵ về vùng ngoại ô này và con đường đưa đến đó. Dù sao, kể từ khi chúng tôi đến Bombay, v́ bà không hề rời khỏi nhà một ḿnh! Nhưng bà lại tỏ ra hoàn toàn quen thuộc đường sá lẫn cả vùng này. Ngôi biệt thự kia có thật hay không, chúng tôi không thể biết được, trừ phi tin theo lời tường thuật của Mulji.

Anh ta rất ngạc nhiên về việc này đến nỗi đă thuật lại câu chuyện cho các bạn trong thành phố nghe. Việc ấy làm cho một người đă từng quen thuộc với vùng ngoại ô này bỏ ra một trăm ru-pi để đánh cuộc rằng không bao giờ có một biệt thự nào như thế ở gần bờ biển, và Mulji không thể hướng dẫn bất cứ người nào đến đó.

Khi bà Blavatsky nghe câu chuyện đó, bà cảnh cáo Mulji rằng chắc chắn y sẽ thua cuộc; c̣n Mulji tuyên bố chắc chắn rằng y có thể trở lại, bởi y thuộc từng tấc đất trên lộ tŕnh đă đi qua, và chấp nhận cuộc thách đố.

Tôi bèn cho gọi một cỗ xe ngay lập tức, và ba chúng tôi cùng lên xe. Do một người Ấn làm thông ngôn, tôi bảo người phu xe hăy tuân theo chỉ thị của Mulji về lộ tŕnh sẽ đi qua và thế là chúng tôi khởi hành.

Sau một cuộc hành tŕnh kéo dài qua nhiều ngơ ngách quanh co, chúng tôi lại đến khu rừng thông như lần trước, là nơi tọa lạc của ngôi nhà bí mật kia. Những đường lộ trong khu rừng quanh co chằng chịt, tôi mới bảo Mulji hăy cẩn thận nhắm hướng thật kỹ kẻo đi lạc đường. Tuy nhiên, anh ta vẫn rất tự tin như bao giờ, mặc dù bà Blavatsky đă nói với anh những lời chế giễu về t́nh trạng mê hoặc của anh và việc anh chắc chắn sẽ thua cuộc mất một trăm ru-pi.

Cỗ xe chúng tôi vẫn tiếp tục giong ruổi độ hơn một tiếng đồng hồ, quanh bên nọ, quẹo bên kia, có khi ngừng lại để Mulji bước xuống xe và nhắm hướng. Sau cùng, và chỉ độ một hai phút sau khi y tuyên bố hoàn toàn chắc chắn rằng chúng tôi đang thẳng đến ngôi biệt thự trên bờ biển, th́ ô ḱa, lạ thay, một chuyến xe lửa chạy đến ầm ầm trên đường sắt gần bên, và điều đó cho Mulji thấy rằng y đă hướng dẫn chúng tôi theo một phương hướng ngược chiều với mục tiêu phải đi tới.

Chúng tôi đề nghị dành cho y nhiều thời giờ tùy nghi sử dụng để theo đuổi sự t́m kiếm ngôi nhà bí mật, nhưng y cảm thấy hoàn toàn lạc hướng và rối loạn tinh thần, rồi chịu thua và bỏ cuộc!

Thế là chúng tôi đành quay xe trở về nhà. Bà Blavatsky nói cho chúng tôi biết rằng Mulji đă có thể t́m thấy ngôi nhà bí mật nếu y không bị một bức màn ảo giác làm che lấp tầm mắt.

Ngôi biệt thự này, cũng như tất cả những nơi cư trú khác của các vị chân sư, luôn luôn được bảo vệ chống lại sự đột nhập của người đời bằng một ṿng đai ảo giác bao phủ chung quanh và được ǵn giữ, canh pḥng cẩn mật bởi những vị thần linh. Ngôi nhà đặc biệt này được đặt dưới sự chăm sóc thường xuyên của một người tin cẩn, và được dùng làm nơi tạm trú, hội họp của các chân sư và đệ tử trong khi di chuyển, lưu động.

Bà nói rằng tất cả những thư viện cổ xưa chôn dưới ḷng đất, và những kho tàng châu báu của cải c̣n chôn giấu kín cho đến khi nào nghiệp quả cho phép khai quật lên để sử dụng, đều được bảo vệ chống lại sự khám phá của kẻ thế nhân phàm tục.

Có những bức màn ảo ảnh được tạo ra dưới h́nh thức những núi dựng như vách, mặt đất cứng rắn, hố sâu vực thẳm, hoặc những chướng ngại vật tương tự, để đánh lạc hướng những kẻ t́m ṭi. Nhưng bức màn ảo giác đó sẽ tan biến khi một người nào đó có duyên phần thụ hưởng, và sẽ được dẫn dắt đến tận nơi vào lúc thời giờ đă điểm.

Dù sao, tôi chỉ kể lại chuyện này một cách vô tư, như tôi vẫn giữ thái độ đó trong mọi trường hợp mà tôi không chứng kiến tận mắt. Tôi chỉ nói như một người kể chuyện, và để cho độc giả tự nhận xét, dù họ tin hay không tin, việc ấy cũng không can dự ǵ đến tôi.

Nhưng nếu tôi được yêu cầu cho biết ư kiến, th́ tôi phải nói rằng theo ư tôi, câu chuyện ngôi nhà bí mật có thể là sự thật, bởi v́ như đă nói trước đây, chúng tôi đă từng được nhiều vị chân sư đến viếng thăm tại nhà ở đường Girgaum trong thể xác của các ngài.

Và một đêm trăng sáng, bạn Damodar và tôi cùng với bà Blavatsky đang đi trên đường đưa đến ngôi nhà ẩn giấu, th́ thấy một vị tiến đến gần và hỏi thăm chúng tôi, chỉ cách nhau có một tầm tay. Những chi tiết của chuyện này không cần phải nêu ra đây v́ tôi c̣n nhiều chuyện khác phải kể tiếp.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 865 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:11am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ


II.

Bây giờ tôi xin kể theo thứ tự thời gian một câu chuyện du hành lư thú, độc đáo. Những sự việc diễn biến ở đây đă được bà Blavatsky khai triển thêm một cách vô cùng phong phú trong quyển “Động thẳm rừng già của Ấn Độ”.

Chuyện này vẫn in sâu trong kư ức tôi như một kỷ niệm đáng kể và thích thú nhất trong những mối liên hệ của tôi với bà Blavatsky. Ngày 4 tháng 4 năm 1879, bạn Mulji và tôi rời khỏi Bombay bằng xe lửa trong một chuyến du hành đến những hang động Karli. Cùng đi có một em trai giúp việc là Babula.

Đến ga Narel, chúng tôi xuống xe và dùng kiệu đi lên đồi đến Matheran, là Trung tâm bồi dưỡng của Sở Y tế thành phố Bombay. Tôi được cho biết rằng chúng tôi đến động Karli do lời mời của một vị chân sư mà tôi đă có liên hệ mật thiết ở Mỹ trong thời gian soạn bộ sách “Vén màn Isis”, và những đồ vật thực cần thiết cho sự tiện nghi của chúng tôi khi đi đường đă được ngài ra lệnh cung ứng đầy đủ.

Bởi vậy, tôi không ngạc nhiên chút nào khi gặp tại ga Narel một người Ấn Độ ăn vận ra dáng trung lưu. Người này tiến về phía chúng tôi và vái chào rồi đưa ra một thông điệp bằng thổ ngữ Marathi. Mulji thông dịch lại cho chúng tôi hiểu đó là những lời chào mừng của vị chủ nhân, và đề nghị chúng tôi tùy ư chọn cách đi kiệu hay đi ngựa để lên núi, v́ cả hai loại phương tiện này đều sẵn sàng.

Bà Blavatsky và tôi chọn đi kiệu, c̣n Mulji và Babula chọn đi ngựa. Thế rồi, chúng tôi lên đường trong đêm trăng sáng rỡ như ban ngày, mỗi chiếc kiệu có mười hai người phu khiêng vóc dáng vạm vỡ, mạnh khỏe, nước da sậm, dường như là thổ dân Thakur. Họ vừa đi lên dốc với những bước chân vững chắc, vừa hát theo một điệu nhạc b́nh dân nghe êm tai để giữ nhịp bước cho nhanh.

Đó là một đêm của vùng nhiệt đới. Cuộc hành tŕnh của chúng tôi đầy những nét thi vị với một nền trời đầy sao chói sáng trước khi trăng lên, với tiếng côn trùng vang vang khắp nơi trong rừng già, với những loài chim ăn đêm gọi đáp lẫn nhau, những loài dơi lớn bay lượn thấp thoáng nhưng âm thầm không một tiếng động, tiếng lá dừa xào xạc trước gió cùng hương thơm của hoa rừng tỏa ra một mùi vị ấm áp, cay nồng, với tiếng hát lạ tai của những người phu khiêng kiệu để giữ nhịp đều với những bước chân đi nhanh thoăn thoắt.

Sáng hôm sau, chúng tôi lên xe lửa đi Khandalla, một thị trấn có khí hậu mát mẻ thuộc vùng núi. Tại đây, người phục vụ của chúng tôi ở Narel lại tiếp đón chúng tôi với một chiếc xe ḅ rộng răi để đưa chúng tôi đến lữ quán của Chính phủ. Tại đây, chúng tôi nghỉ ngơi suốt một ngày và đêm hôm sau.

Chiều hôm chúng tôi đến, bạn Mulji dạo chơi đến ga xe lửa để nói chuyện với người xếp ga vốn là một người quen cũ, và gặp một việc lạ lùng làm anh ta rất ngạc nhiên.

Một chuyến xe lửa đến từ Bombay và ngừng lại bến ga, khi đó anh ta nghe có người gọi tên ḿnh rất lớn từ trong xe. Nh́n từ toa xe này đến toa xe khác, anh thấy một người Ấn Độ đang vẫy tay gọi, anh liền bước đến gần cửa sổ của toa xe ấy. Th́ ra người lạ mặt là nhân vật kỳ bí mà bà Blavatsky đă đến viếng thăm tại ngôi nhà bí mật!

Người ấy trao cho Mulji một bó hoa tươi, dường như cùng một loại hoa hồng mà anh đă thấy trong vườn hoa của biệt thự trên bờ biển, và là thứ hoa đẹp nhất mà anh đă từng được biết. Người lạ mặt nói trong khi đoàn xe bắt đầu chuyển bánh: “Anh hăy trao bó hoa này lại cho Đại tá Olcott và nói là của tôi gửi tặng.”

Thế rồi Mulji trao bó hoa cho tôi và kể lại đầu đuôi câu chuyện. Một giờ sau đó, tôi nói với bà Blavatsky rằng tôi muốn gửi lời cảm ơn vị chân sư về hảo ư của ngài đối với chúng tôi, và nếu bà có thể trao thư của tôi đến tay ngài th́ tôi sẽ viết. Bà bằng ḷng.

Thế là tôi viết một thông điệp ngắn rồi đưa cho bà. Bà đưa cho Mulji và bảo anh ta hăy đi thẳng theo con đường trước mặt và giao bức thư ấy. Mulji hỏi: “Nhưng tôi phải trao thư cho ai và ở đâu? V́ tôi không thấy có tên và địa chỉ người nhận ở ngoài bao thư.” Bà nói: “Không hề ǵ, anh hăy cầm lấy, rồi anh sẽ biết phải giao cho ai.”

Mulji làm theo lời dặn và thẳng tiến trên đường, nhưng sau đó mười phút, anh ta chạy trở về không kịp thở và lộ vẻ rất ngạc nhiên. “Thư đi rồi”, anh ta nói qua hơi thở đứt đoạn. Tôi hỏi: “Sao? Anh nói ǵ?” Anh ta lắp bắp: “Thư... lá thư... người ấy lấy đi rồi...” Tôi gặn hỏi: “Ai lấy thư ấy? Người ấy là ai?” Anhta nói: “Thưa Đại tá, tôi không biết, nếu đó không phải là ma quỉ hiện h́nh. Người ấy có thể từ dưới ḷng đất chui lên, tôi có cảm tưởng như vậy. Tôi đang từ từ tiến bước, nh́n bên mặt, bên trái, và không biết phải làm ǵ để thi hành ư muốn của bà Blavatsky.

Chung quanh tôi không có một bóng cây hay bụi rậm để có thể ẩn núp, mà chỉ có con đường bụi bặm và trắng xóa. Th́nh ĺnh xuất hiện ngay trước mặt tôi một người chỉ cách đó có vài thước, cơ hồ như từ dưới đất chui lên và tiến về phía tôi. Đó là người ở ngôi biệt thự có hoa hồng, người đă đưa cho tôi bó hoa để tặng ông ở ga Khandalla, mà tôi đă nh́n thấy trên chuyến xe lửa đi Poona!”

Tôi phản đối: “Vô lư, anh đă mơ hoảng rồi đấy!”

“Không đâu, tôi vẫn tỉnh táo như thường. Người ấy nói: ‘Anh định đưa thư cho tôi phải không, lá thư anh đang cầm nơi tay?’ Tôi ngạc nhiên và nói: ‘Thưa ngài, tôi cũng không biết, v́ thư không có địa chỉ.’ Ông ta nói: ‘Thư ấy của tôi, anh đưa đây.’ Rồi ông ấy lấy thư trên tay tôi và nói: ‘Bây giờ anh hăy về đi.’ Tôi quay lưng đi vừa độ một lát và quay lại nh́n xem th́ ông ta đă biến mất: con đường trống trơn!

Tôi sợ quá, quay lại chạy về, nhưng vừa chạy được chừng năm mươi thước th́ nghe một giọng nói bên tai tôi: ‘Đừng có điên lên như thế, hăy b́nh tĩnh một chút, mọi việc đều tốt lành.’ Điều này lại càng làm cho tôi sợ hơn nữa, v́ chung quanh tôi không có một người nào. Tôi chạy một hơi không nghỉ về đến đây.”

Đó là câu chuyện tường thuật của Mulji và tôi lặp lại trung thực những lời anh ta đă nói với tôi. Nếu có thể tin ở bề ngoài, th́ chắc chắn anh ta đă nói sự thật, v́ cơn sợ hăi và xúc động của anh thật quá rơ rệt, không thể nói đó là sự giả vờ với một người rất vụng về như anh ta.

Hơn nữa, có một nội dung yêu cầu trong bức thông điệp của tôi đă được chân sư trả lời trong một bức thư của ngài mà sau đó tôi đă nhận được tại lữ quán ở Bhurtpore, tỉnh Rajputana, cách chỗ Mulji gặp người lạ mặt trên một ngàn dặm đường. Và đó là một sự kiện đáng kể.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 866 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:12am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



CHƯƠNG NĂM: VIẾNG ĐỘNG KARLI
I.


Đó là một đêm trăng sáng. Chúng tôi ba người cùng ngồi thưởng trăng trên sân cỏ trước nhà cho đến khuya, và bàn kế hoạch du ngoạn hang động Karli vào ngày hôm sau.

Tối hôm đó, bà Blavatsky ngồi nhập định trong một lúc, và sau đó khi xả thiền bà nói với tôi rằng đúng năm giờ chiều mai, sẽ có một vị tăng lữ Bà-la-môn đến gặp chúng tôi trong hang.

Bốn giờ sáng hôm sau, Baburao, người thừa sai của chân sư, rón rén bước vào pḥng ngủ của tôi và Mulji, sẽ đánh thức tôi dậy, nhét vào tay tôi một cái hộp sơn mài nhỏ, h́nh tṛn, đựng một miếng trầu có têm vôi và gia vị gói ở trong, như người ta thường gói sẵn cho gọn để mời khách, và nói nhỏ vào tai tôi thánh danh của vị chân sư bảo trợ chúng tôi trong cuộc đi chơi này.

Ư nghĩa món quà này là: trong tổ chức Huyền môn của chúng tôi, đó là dấu hiệu thâu nhận đệ tử mới. Chúng tôi thức dậy, đi tắm, dùng cà phê sáng xong, đúng năm giờ lên xe ḅ đi Karli và đến nơi vào lúc mười giờ.

Vào giờ này, mặt trời đă lên cao, chúng tôi phải đi lên dốc một cách vất vả, khó nhọc trên con đường ṃn từ dưới chân đồi dẫn lên các hang động trên núi. Bà Blavatsky có vẻ mệt lử và hơi thở hổn hển như sắp dứt, đến nỗi vài người phu phải đem lại một chiếc ghế bành và kiệu bà đi trên đoạn đường dốc cuối cùng.

Tôi không cần phải miêu tả ở đây ngôi đền vĩ đại khoét trong hang núi và những xà lim nhỏ vuông vức đục trong vách đá dùng làm chỗ ngủ của các tu sĩ khổ hạnh thời xưa. Toàn bộ kiến trúc gây cho du khách một cảm giác bàng hoàng kinh ngạc về tính cách hùng vĩ của công tŕnh mỹ thuật độc đáo vô song này.

Mọi cuốn du lịch chỉ nam đều có mô tả hang động Karli với đầy đủ chi tiết. Mệt mỏi sau cuộc leo núi dưới ánh mặt trời nóng bức, chúng tôi bước vào trong hang lớn, trải nệm và cắm trại luôn trên nền đá. Kế đó chúng tôi ăn trưa và đàm đạo với nhau về vấn đề thịnh vượng và suy vong của nền minh triết cổ truyền (Brahma Vidya) của Ấn Độ, và những triển vọng phục sinh của nó trong tương lai.

Cuộc đàm thoại về những vấn đề cao siêu đó làm tiêu hao thời gian cho đến khi tôi nh́n đồng hồ th́ thấy chỉ c̣n có sáu phút nữa là đúng năm giờ chiều. Thế là bạn Mulji và tôi để bà Blavatsky ở lại đó rồi cùng đi ra cḥi canh ở ngoài cửa hang để ngồi đợi. Không có một tăng lữ khổ hạnh nào xuất hiện, nhưng sau độ mười phút th́ thấy có một người tu sĩ đẩy tới trước một con ḅ cái có tật với một cái chân thứ năm ngắn ngủi mọc ra từ cái gù trên lưng. Có một người nô bộc đi theo ông ta .

Người tu sĩ có một gương mặt dịu dàng, khôi ngô, dễ mến. Ông ta có một đầu tóc đen dợn sóng và xơa xuống tận vai. Một bộ râu rậm chẻ hai ở dưới cằm theo kiểu dân Rajput, đuôi râu vắt lên hai bên mép tai và xoắn lại với tóc trên đầu. Ông mặc bộ áo vàng của người tu sĩ xuất gia, trên vầng trán rộng biểu lộ sự thông minh có bôi tro xám biểu hiệu chi phái thờ thần Shiva.

Chúng tôi để ư ḍ xét xem ông ta có nhận ra chúng tôi không, nhưng thấy là không. Sau cùng chúng tôi mới lên tiếng để bắt chuyện với ông ta. Ông ta nói rằng ngày hôm qua trong khi ông đang trên lộ tŕnh hành hương ở Hardwar th́ sư phụ ông dạy rằng hăy đến đây ngày hôm nay, lúc năm giờ chiều, v́ có những người mà ông cần gặp gỡ. Ngoài ra, ông không được dặn ḍ ǵ thêm.

Nếu chúng tôi trông đợi ông ta, th́ chúng tôi hẳn là những người mà sư phụ ông ta muốn nói đến, nhưng ông ta lại không mang đến một lời nhắn nào cho chúng tôi, hoặc ít nhất chúng tôi cũng chưa biết được điều đó.

Sư phụ ông ta không đích thân nói chuyện với ông, mà ông nghe được lời dạy của ngài qua một giọng nói dường như th́ thầm bên tai. Điều này chúng tôi biết được, sau khi đă gặn hỏi ông ta nhiều câu hỏi quanh co, và sau một lúc im lặng, ông ta có vẻ như đang lắng nghe giọng nói của một người nào đó mà không ai trong chúng tôi nh́n thấy. Đó cũng chính là cách ông ta tiếp nhận những lời dạy của sư phụ trong khi đi đường.

Thấy rằng không c̣n khai thác thêm được điều ǵ nữa từ ông ta, chúng tôi tạm biệt và trở lại với bà Blavatsky. Chúng tôi quyết định ngủ đêm trên núi, và sau khi thông báo quyết định ấy cho Baburao, anh ta và Mulji liền đi t́m một nơi cư trú thích hợp. Khi họ trở lại, chúng tôi cùng di chuyển hành lư đến một hang nhỏ dùng làm pḥng ngủ đục trong vách đá, ở cách đó không xa.

Những nhà điêu khắc thời cổ đă kiến tạo ở cổng vào hang động này hai cây cột đá chạm trổ tinh vi, và bên trong động là mười căn pḥng nhỏ, với những hành lang đưa đến một pḥng vuông vức rộng lớn dùng làm đại sảnh trung tâm hay hội trường. Bên trái cổng vào là một bồn chứa nước đục vào vách đá để tiếp nhận một thứ nước suối rất trong và mát lạnh.

Bà Blavatsky cho chúng tôi biết rằng từ một căn pḥng nhỏ trong hang có một cửa bí mật thông với những hang động khác ở trung tâm quả núi. Tại đây có các bậc siêu nhân đang ẩn trú mà người thế gian không hề biết được mảy may tung tích. Bà nói rằng, nếu có thể t́m thấy một bộ phận nào đó trên vách đá và đẩy vào đó theo đúng phương pháp th́ sẽ có thể lọt vào bên trong cửa động bí mật. Đó là một sự tiết lộ rất hấp dẫn trong hoàn cảnh hiện tại!

Tôi đă thăm ḍ, t́m kiếm rất lâu và trong một hang nhỏ khác cách đó không xa, tôi đă thử đặt tay vào một chỗ nọ và sắp sửa đẩy mạnh vào th́ bà Blavatsky gọi giật tôi lại một cách hối hả. Trong bức thư của chân sư mà tôi nhận được ở Bhurtpore sau đó, ngài cho tôi biết rằng lúc ấy tôi đă thật sự đặt tay vào đúng chỗ và đă có thể đột nhập quá sớm vào nơi ẩn trú của ngài nếu tôi không bị gọi giật trở lại.

Mulji và Babula đă cùng với Baburao đi xuống chợ trong làng để mua vật thực, chỉ c̣n bà Blavatsky và tôi ở lại. Chúng tôi ngồi trước cổng hút thuốc và nói chuyện. Một lát sau, bà bảo tôi hăy ngồi yên một chỗ trong vài phút và đừng nh́n quanh cho đến khi bà lên tiếng. Kế đó, bà đi vào động, c̣n tôi vừa hút thuốc vừa ngắm cảnh vật rừng núi mênh mông trải rộng dưới chân đồi.

Th́nh ĺnh, từ phía trong hang vọng ra một tiếng động lớn giống như tiếng đóng sầm của một cánh cửa rất nặng, và một chuỗi cười dài ngạo nghễ nghe vang tai. Tự nhiên là tôi day đầu lại, nhưng bà Blavatsky đă biến mất. Bà không có mặt trong bất cứ gian pḥng nhỏ nào mà tôi đă xem xét tỉ mỉ từng chi tiết. Tôi cũng quan sát cẩn thận những mặt đá trên tường, nhưng không thấy một chỗ rạn nứt nào hay một dấu hiệu ǵ tỏ rằng có một cánh cửa bí mật.

Tôi đă từng trải qua nhiều kinh nghiệm huyền linh trong một thời gian lâu dài với bà Blavatsky nên không thắc mắc nhiều về điều bí hiểm này, và trở lại ngồi chỗ cũ, châm lửa hút thuốc, thản nhiên chờ đợi mọi diễn biến có thể xảy ra.

Nửa giờ đă trôi qua kể từ lúc bà biến mất dạng, bỗng tôi nghe có tiếng chân người ngay sau lưng và giọng nói của bà Blavatsky nói chuyện với tôi, một giọng nói rất tự nhiên dường như không có ǵ đă xảy ra một cách khác thường. Tôi liền hỏi xem năy giờ bà đi đâu. Bà đáp rằng v́ bà có đạo sự cần bàn tính với chân sư X. nên bà đă đến viếng ngài tại nơi trú ẩn bí mật của ngài.

Có điều lạ là bà cầm nơi tay một ngọn đao đă gỉ sét, kiểu cổ xưa trông rất kỳ dị. Bà nói là đă lượm được trong một hành lang bí mật và mang theo tới đây. Bà không chịu để cho tôi giữ cây đao ấy, mà dùng hết sức quăng nó ra xa. Tôi nh́n thấy nó rơi xuống một bụi rậm ở tận dưới chân đồi.

Tôi không giải thích những sự việc đă xảy ra, để cho độc giả tự t́m hiểu tùy khả năng của mỗi người. Tuy nhiên, để rào đón trước sự thiên lệch của những người có ít nhiều thành kiến, tôi có thể nói rằng, ngoài chuyện cây đao gỉ sét, tất cả đều có thể giải thích bằng giả thuyết thôi miên.

Tiếng động của cánh cửa đá đóng sầm lại và giọng cười vang dội kéo dài, sự tàng h́nh và th́nh ĺnh xuất hiện trở lại của bà Blavatsky, tất cả đều có thể giải thích như những ảo giác do bà Blavatsky dùng thuật thôi miên tác động trên giác quan của tôi.

Bà có thể đă đi qua cổng hang ngay bên cạnh tôi để đến một nơi nào đó, và trở lại ngay trước mắt tôi mà tôi không nh́n thấy. Đó là một cách giải thích, tuy rất bấp bênh mơ hồ, của người môn đệ sơ cơ như tôi đối với một người đă lăo luyện tinh thông về khoa phương thuật.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 867 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:14am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ


II.

Khi các người bạn Ấn Độ đi mua sắm vật thực đă trở về, chúng tôi được ăn một bữa tối nóng sốt trong hang và sau đó ra ngắm cảnh đồi núi dưới ánh trăng. Đêm hôm đó, chúng tôi trải nệm trên sàn đá và ngủ ngon lành cho đến sáng. Baburao ngồi trước cổng hang và đốt lửa trại suốt đêm để ngăn ngừa sự đột nhập của loài thú dữ.

Trong quyển “Động thẳm rừng già của Ấn Độ” có đoạn diễn tả tôi bị rơi xuống vực thẳm và được người tu sĩ Ấn Độ có con ḅ năm chân cứu thoát, nhưng đó chỉ là chuyện giả tưởng. Cũng thế, những “tiếng gầm thét của chúa sơn lâm từ xa vọng lại dưới chân đồi; một con cọp lớn ŕnh chụp chúng tôi lúc nửa đêm và bị đẩy xuống vực sâu do một quyền năng bí mật che chở chúng tôi, v.v...” đều là do óc tưởng tượng của bà Blavatsky để làm cho câu chuyện phiêu lưu du kư này thêm phần ly kỳ hấp dẫn đối với độc giả bên Nga.

Sáng hôm sau, Mulji và tôi thức dậy trước bà Blavatsky, và sau khi chúng tôi đi tắm dưới suối, y xuống làng mua sắm thức ăn trong ngày, c̣n tôi đứng trên đồi ngắm cảnh vật chung quanh dưới ánh nắng ban mai. Sau một lúc, tôi lấy làm vui thích mà thấy người tu sĩ có con ḅ năm chân bước đến gần tôi và hiển nhiên là có ư muốn nói chuyện với tôi.

Tôi c̣n do dự không biết phải làm sao, v́ bà Blavatsky và tôi không ai biết nói thổ ngữ địa phương. Nhưng sự băn khoăn của tôi về vấn đề này đă được giải tỏa ngay, v́ y liền đến gần bên cạnh tôi, nắm lấy bàn tay tôi, bày tỏ ḷng thiện cảm đối với Hội Thông thiên học, và nói nhỏ vào tai tôi thánh danh của một chân sư! Kế đó, y chào từ giă tôi một cách rất lịch sự, và lui bước. Chúng tôi không c̣n gặp y lần nào nữa.

Suốt ngày hôm đó, chúng tôi đi thám hiểm các hang động, và đến bốn giờ rưỡi chiều mới trở về lữ quán Khandalla.

Đang khi chúng tôi c̣n ở trong hang lớn, bà Blavatsky chuyển đạt cho tôi một huấn lệnh của chân sư mà bà nói là đă nhận được bằng thần giao cách cảm. Ngài dạy chúng tôi phải đi Rajputana, trong tỉnh Punjab.

Sau bữa ăn tối, chúng tôi ra ngồi ngoài sân cỏ ngắm trăng. Hai bạn tôi vừa đi rảo bước vừa nói chuyện với nhau và đi ṿng ra phía sau quán trọ, nhưng bỗng Mulji hối hả trở lại, và trong cơn xúc động bàng hoàng nói rằng bà Blavatsky đă biến mất dạng ngay trước mắt anh ta trong khi anh đang đứng nói chuyện với bà dưới ánh trăng.

Anh ta vừa nói vừa run cầm cập, dường như sắp sửa muốn phát chứng động kinh. Tôi bảo anh ta ngồi xuống, hăy giữ b́nh tĩnh và đừng có phát điên lên, v́ đó chỉ là một tṛ thôi miên che lấp thị giác của anh ta. Tṛ ấy vốn tuyệt đối vô hại, và bất cứ nhà thôi miên nào cũng có thể tác động như thế trên một đối tượng nhạy cảm.

Độ một lát, bà xuất hiện trở lại, ngồi lại chỗ cũ, và chúng tôi lại tiếp tục nói chuyện. Bỗng thấy có hai người Ấn Độ mặc sắc phục trắng đi qua sân cỏ cách chúng tôi độ năm mươi thước. Khi đến một chỗ đối diện với chúng tôi, họ ngừng lại và bà Blavatsky bảo Mulji hăy đến nói chuyện với họ. Trong khi Mulji đang tiếp đón họ, bà Blavatsky lặp lại cho tôi nghe những ǵ họ nói với nhau, và Mulji cũng đă tường thuật lại đúng y như vậy khi y trở lại một lúc sau đó.

Đó là một thông điệp nhắn cho tôi biết rằng bức thư của tôi gửi cho chân sư đă tới tay ngài và được ngài chấp thuận, và tôi sẽ nhận được thư trả lời khi tôi tới Rajputana.

Trước khi Mulji nói dứt lời, tôi thấy hai người sứ giả ấy quay gót ra đi độ một quăng ngắn, đến sau một bụi rậm nhỏ không đủ che khuất một người mặc áo rộng trắng, nhất là dưới ánh trăng sáng tỏ như ban ngày, rồi biến mất dạng. Chung quanh bụi rậm là đồng cỏ trống trơn, nhưng cả hai người đều biến mất không c̣n dấu vết.

Lẽ tự nhiên, phản ứng đầu tiên của tôi là chạy ngang qua sân cỏ và t́m kiếm đằng sau bụi rậm xem có dấu hiệu ǵ chỉ rằng có một đường hầm trú ẩn nào chăng, nhưng tuyệt nhiên không thấy có ǵ khả nghi: mặt đất vẫn trơn láng, bằng phẳng, không có hang lỗ, hầm hố hay vết tích đào xới nào. Tôi chỉ bị thôi miên mà thôi!

Sáng hôm sau, chúng tôi lên xe lửa trở về Bombay, nhưng cuộc phiêu lưu của chúng tôi vẫn chưa chấm dứt. Baburao chào từ giă chúng tôi ở ga Khandalla sau khi đă từ chối không nhận tiền “trà nước” của tôi tặng, đó là một cử chỉ hy sinh hiếm có trong giới người thuộc giai cấp lao công Ấn Độ. Ba chúng tôi lên toa xe hạng nh́, c̣n Babula t́m được chỗ trong toa hạng ba. Sau một lát, Mulji ngả ḿnh nằm trên băng “cút-xét” và ngủ luôn, c̣n bà Blavatsky và tôi ngồi nói chuyện.

Bà nói:

– Ước ǵ chân sư đừng bảo tôi nhắn miệng cho ông bức thông điệp về việc đi Rajputana!

– Tại sao?

– Bởi v́ Wimbridge và cô Bates sẽ nghĩ rằng đó là chuyện bịa đặt để ông đưa tôi đi chơi một chuyến thích thú và để cho họ nằm không ở nhà một ḿnh.

– Ồ! Không sao. Tôi chỉ tin nơi lời nói của bà là đủ.

– Nhưng họ sẽ nghĩ xấu về tôi v́ chuyện đó.

– Nếu vậy, tốt hơn là ngài nên viết cho bà ít chữ. Điều này ngài có thể làm một cách dễ dàng. Nhưng bây giờ dù có hối tiếc cũng đă quá trễ. Chúng ta đă đi qua khỏi Khandalla độ mười lăm hay hai mươi dặm. Thôi, hăy bỏ qua việc ấy.

Bà ngẫm nghĩ trong vài phút rồi nói:

– Dù sao, để tôi thử xem, vẫn chưa phải là quá trễ.

Kế đó bà viết vài chữ trên một trang giấy trong cuốn sổ tay bỏ túi của bà bằng hai thứ chữ, nửa trang trên viết bằng chữ cổ tự Senzar, là ngôn ngữ đặc biệt bà dùng để giao dịch thư từ với các chân sư, c̣n nửa trang dưới viết bằng tiếng Anh để cho tôi đọc. Bức thông điệp ấy viết như sau:

“Yêu cầu Sư phụ Gulab Singh gửi điện tín cho Olcott những huấn lệnh do đạo nữ truyền cho ông ấy ở động đá ngày hôm qua. Đó sẽ là một thử thách cho những người khác cũng như cho chính ông.”

Bà xé rời trang giấy, xếp lại thành h́nh tam giác, dùng ngón tay vẽ nguệch ngoạc trên đó vài dấu hiệu dị kỳ (mà bà nói là có tác dụng khống chế các loại tinh linh). Bà cầm nó trên đầu các ngón tay của bàn tay trái, dường như sắp sửa ném ra ngoài cửa sổ. Tuy nhiên, tôi giữ tay bà lại và nói:

– Bà muốn đây là một thử thách cho tôi chăng? Vậy bà hăy để tôi mở ra xem lại.

Bà bằng ḷng, tôi nh́n lại bên trong tờ giấy, trả nó lại cho bà, và theo lời bà dặn, theo dơi tờ giấy khi bà quăng nó ra ngoài toa xe lửa. Tờ giấy bị gió cuốn hút đi, xoay ṿng theo chiều gió và bay đến một cái cây trơ trọi gần bên đường sắt. Lúc ấy chúng tôi đang ở trên đỉnh của dăy núi Ghats, độ một ngàn mét chiều cao, chung quanh không có nhà cửa xóm làng chi cả, mà chỉ có vài thân cây trơ trọi lẻ tẻ bên cạnh đường xe lửa.

Trước khi để bà quăng tờ giấy ra ngoài cửa sổ, tôi đă đánh thức Mulji, nói cho y biết sự việc ấy, cùng với y xem giờ trên đồng hồ, và y cùng tôi đồng kư tên trên một chứng thư trong quyển sổ tay của tôi, mà hiện giờ tôi đang có ngay trước mặt, và nhờ đó tôi đă nhớ lại từng chi tiết của sự việc đă xảy ra. Bản chứng thư ấy có ghi những chi tiết về địa điểm và ngày tháng như sau:

“Ga Kurjit, ngày 8 tháng 4 năm 1879, lúc 12 giờ 24 phút” và có nhân chứng Mulji Thackersey kư tên.

Đến ga Kurjit, Mulji và tôi muốn xuống ga đi bách bộ một lát để cho giăn gân cốt, nhưng bà Blavatsky bảo chúng tôi đừng rời khỏi toa xe cho đến khi xe đến Bombay. Bà đă được lệnh và chúng tôi sẽ hiểu sự việc ấy vào đúng lúc. Thế là chúng tôi cũng ở lại trên toa xe với bà. Đoàn xe lửa đến nơi đúng giờ quy định, tôi liền đi ra phố có việc, và vắng mặt độ một giờ. Khi về đến nhà, cô Bates đón tôi trước cửa và đưa cho tôi một bức điện tín đựng trong phong b́ có niêm khằng do nhân viên Sở Bưu điện đem đến, và cô đă kư nhận thay tôi.

Bức điện tín ấy ghi như sau:

“Thời điểm: 2 giờ chiều ngày 8 tháng 4 năm 1879. Từ ga Kurjit đến ga Byculla. Gulab Singh gửi Đại tá H. S. Olcott. Đă nhận được thư. Sẽ trả lời tại Rajputana. Hăy lên đường ngay lập tức.”

Như đă nói trên, tôi xem sự việc này như một trong những bằng chứng chân thật nhất và không thể lầm lẫn mà tôi đă từng có về những mối tương quan huyền diệu của bà Blavatsky với các đấng chân sư cao cả.

Khi chúng tôi đến Bhurtpore trong chuyến đi Rajputana sau đó, một đêm nọ bà Blavatsky và tôi đang ngồi ở ngoài hành lang của quán trọ th́ thấy một người Ấn cao niên mặc áo rộng trắng bước đến gần, chào theo phong tục bản xứ, rồi đưa cho tôi một phong thư và lẳng lặng bước đi ngay. Tôi mở thư ra xem, th́ ra đó là thư trả lời bức thông điệp của tôi gửi cho sư phụ Gulab Singh tại Khandalla, mà ngài đă báo trước cho tôi biết trong bức điện tín gửi từ Kurjit, rằng tôi sẽ nhận được khi tôi đến Rajputana.

Đó là một bức thư chứa đựng những lời khuyên ưu ái đầy thiện cảm, và quan trọng nhất đối với tôi, v́ trong đó ngài dạy tôi rằng con đường tốt nhất và đảm bảo nhất để t́m chân sư là con đường hoạt động trung kiên v́ mục đích phụng sự nhân loại xuyên qua Hội Thông thiên học.

Con đường đó, tôi vẫn theo đuổi tận tụy đến cùng, và bức thư của ngài là một ân huệ và nguồn an ủi thường xuyên đối với tôi trong những cơn khó khăn, gian lao nghịch cảnh.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 868 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:16am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



CHƯƠNG SÁU: MỘT CHUYẾN ĐI LÊN MIỀN BẮC
I.


Trong chuyến đi lên miền Bắc, chúng tôi có dịp đến bờ sông Jumna để viếng thăm một nhà tu khổ hạnh tên Babu Surdass, một đệ tử của đạo sư Nanak. Người ấy đă thể hiện đến một tŕnh độ tuyệt luân những khả năng làm chủ thể xác với một ư chí kiên cường không hề lay chuyển.

Kể từ năm 1827, tức là trong 52 năm trường, ông ta đă ngồi yên một chỗ trong tư thế tọa thiền trên một cái bệ đá ở gần pháo đài, trên đầu không một mái che, bất chấp mọi sự thay đổi thời tiết, nóng lạnh, mưa gió và giông tố, băo bùng.

Ông ta vẫn ngồi nhập định như thế trải qua suốt thời kỳ chiến tranh, khi quân bản xứ nổi loạn chống giai cấp thống trị người Anh, không màng chú ư đến những tiếng nổ kinh hồn của những khẩu đại bác hay những trận giao phong đẫm máu diễn ra khắp nơi ở các vùng chung quanh. Những tiếng động ồn ào náo loạn của chiến tranh không thể xâm nhập vào cơi giới thiền định thâm sâu mà trong đó ông đă chôn vùi suốt cả cuộc đời.

Ngày chúng tôi đến viếng ông ta là một ngày nóng như thiêu đốt, mặt trời cháy rực như lửa than hồng, người tu sĩ vẫn để đầu trần nhưng dường như không cảm thấy ǵ là khó chịu. Ông ta vẫn ngồi yên bất động suốt ngày và suốt đêm ở một chỗ ấy, trừ ra vào lúc nửa đêm mới đứng dậy và đi đến chỗ gặp nhau giữa hai con sông Hằng và sông Jumna để tắm rửa và cầu nguyện.

Những gian lao khổ nhọc của phép tu khổ hạnh đă làm cho ông mù cả hai mắt và phải có người dắt ông đi đến bờ sông, tuy nhiên gương mặt ông toát ra một niềm an lạc tuyệt vời, với một nụ cười dịu dàng và chân thật.

Nhờ Mulji làm thông ngôn, chúng tôi nói chuyện được với vị tu sĩ già. Ngài cho chúng tôi biết rằng ngài đă được một trăm tuổi. Điều này có thật hay không cũng không quan hệ ǵ, nhưng thời gian mà ngài đă trải qua trên bục đá lại là một sự thật lịch sử.

Trường hợp của người tu sĩ này quả là ly kỳ độc đáo, xét theo tiêu chuẩn đời sống của xă hội phương Tây. Làm sao ông ta có thể ngồi yên bất động trong sự tham thiền quán tưởng trải qua đến nửa thế kỷ giữa những dục vọng, đam mê và náo loạn của loài người luôn khuấy động ồ ạt ở chung quanh? Những điều đó hoàn toàn không ảnh hưởng ǵ đến ông ta, dù tốt hay xấu, ví như những đợt sóng cồn gầm thét lăn xả vào một ghềnh đá trên bờ biển nhưng tuyệt nhiên không thể làm rung chuyển cái nền tảng vững chắc của nó.

Câu chuyện của vị tu sĩ này cũng có hàm xúc vài nét thi vị, chẳng hạn như khi ông nói rằng bậc hiền giả nhận định và nắm vững những điểm chân lư cũng giống như con trai hấp thụ giọt nước mưa để chuyển hóa thành hạt trân châu.

Ông ta vẫn điềm nhiên khi nghe tôi nói về sự cấu tạo thành hạt trân châu, và bảo rằng khoa học nói sai, nên ông vẫn giữ lập trường của ḿnh. Trích dẫn lời dạy quen thuộc trong các thánh kinh Ấn Độ, ông nhắc nhở chúng tôi rằng, chỉ khi nào tâm hồn yên tịnh, thần trí vắng lặng hư không, người ta mới có thể nhận biết được chân lư, cũng ví như h́nh chiếu của mặt trời chỉ có thể thấy được trên mặt nước phẳng lặng êm đềm.

Nói về những tai biến, hoạn nạn nghịch cảnh trong đời người, ông cho rằng những kinh nghiệm đó làm thức động phần tinh anh tế nhị của tâm hồn, ví như chất dầu thơm chỉ có được bằng cách nghiền nát và chế biến những cánh hoa tươi.

Khi được hỏi rằng ông có thể biểu diễn phép thuật thần thông cho chúng tôi xem hay không, ông quay cặp mắt trống rỗng không c̣n thị giác về phía chúng tôi và đáp rằng, người hiền giả không bao giờ tách rời tâm trí của ḿnh ra ngoài đường đạo và để cho bị lôi cuốn bởi những tṛ chơi đó của kẻ ngu dốt. Ông nói, khi ở trong tâm trạng thích hợp, ông có khả năng nh́n thấu suốt cả quá khứ và tương lai, nhưng ông từ chối không cho chúng tôi thấy bằng chứng cụ thể về năng lực thần nhăn đó.

Kể từ đó về sau, mỗi khi có dịp trở lại Allahabad tôi đều đến thăm viếng nhà tu khổ hạnh này, nhưng trong lần vừa qua, tôi nghe nói rằng ông đă từ trần. Hẳn sẽ là một điều lư thú nếu người ta được biết rằng cuộc đời trường kỳ khổ hạnh của ông đă ảnh hưởng như thế nào đến t́nh trạng tâm thức của ông sau khi chết.

Từ đó, chúng tôi tiếp tục chuyến đi đến Kanpur. Tại đây chúng tôi gặp những người bạn mới là hai anh em ông Ross Scott và Walter Scott. Người anh là một kỹ sư làm việc cho Chính phủ.

Sáng hôm sau, chúng tôi đến viếng một tu sĩ khổ hạnh khác. Người này đă từng sống trên bờ sông Hằng khoảng một năm. Ông ta có một gương mặt với những nét thanh tú, biểu lộ một đời sống tinh thần dồi dào, một thân ḿnh gầy ốm và một phong độ hoàn toàn thản nhiên đối với những sự vật trần gian. Người này cũng từ chối không biểu diễn cho chúng tôi xem những hiện tượng thần thông, với một vẻ mặt dường như khinh bỉ.

Thật hiển nhiên là những tu sĩ Ấn Độ này có một lập trường khác hẳn với quan niệm của người Tây phương, và khinh thường những phép thuật nhiệm mầu nhất của những đồng tử giỏi nhất. Dù sao, đó chỉ là cảm nghĩ của tôi. Tuy nhiên, vị này có nói cho chúng tôi nghe chuyện một nhà tu khổ hạnh khác tên là Jungli Shah, đă nhiều lần làm phép lạ theo kiểu “bánh ḿ và cá” được kể trong Kinh Thánh. Ông ta đă làm gia tăng số lượng thực phẩm dành cho một người ăn đến mức khiến cho hàng trăm người ăn được một bữa no nê.

Kể từ khi đó, tôi đă nhiều lần nghe nói có những tu sĩ Ấn Độ khác cũng đă làm các phép lạ tương tự. Những nhà phương sĩ lăo luyện đều nói rằng việc làm tăng số lượng một vật giản dị đơn thuần, chẳng hạn như hạt gạo, một trái cây, một ly nước lạnh, v.v... là tương đối dễ dàng. Điều kiện cần thiết là phải có một trung tâm hạt nhân để hành giả có thể qui tụ chung quanh nó chất liệu của không gian.

Nhưng tôi muốn biết phải chăng sự tăng gia số lượng thực phẩm đó chỉ là những ảo giác, và nếu vậy th́ người ăn những thực phẩm mầu nhiệm ấy có thực sự được bổ dưỡng hay không?

Tôi c̣n nhớ giáo sư Berheim đă cho tôi thấy rằng bằng phương pháp thôi miên ông có thể làm cho một đối tượng trong một lúc cảm thấy bỗng no tràn thức ăn, và một lúc sau đó liền cảm thấy bao tử trống rỗng và đói kinh khủng.

Người tu sĩ trẻ nói trên cũng cho biết rằng nhà đạo sĩ Lukhi Bawa và một tu sĩ khổ hạnh có quyền năng làm cho nước biến thành sữa.

Khoảng ba giờ chiều hôm ấy, chúng tôi cưỡi voi đi viếng Jajmow, một thành phố cổ hoang tàn ở cách Kanpur bốn dặm. Tương truyền rằng đó là kinh đô của chủng tộc Thái Âm (Lunar Race) vào thời kỳ năm ngàn năm trăm năm trước Công nguyên. Mục đích chuyến đi này là viếng thăm nhà đạo sĩ Lukhi Bawa đă nói ở trên.

Chúng tôi nhận thấy vị đạo sĩ này có một tác phong khả kính. Ông là một triết gia và một nhà chiêm tinh lỗi lạc. Một lần nữa, chúng tôi lại bị từ chối sự biểu diễn phép thuật thần thông, khi chúng tôi bày tỏ ư muốn được xem ông ta thi thố quyền năng nhiệm mầu.

Đại khái, đó là khía cạnh nghiêm chỉnh của chuyến đi này. Nhưng ngoài ra nó cũng có một khía cạnh trào lộng rất buồn cười. Con voi của chúng tôi cưỡi có cái tên rất thi vị là Chenchal Peri, có nghĩa là “tiên nữ linh động”. Trên lưng nó không có bành để ngồi dựa lưng cho thoải mái mà chỉ có đặt một tấm nệm lớn và dày được buộc chặt vào ḿnh voi bằng những sợi dây cói khổng lồ.

Khi voi cất bước di chuyển, người cưỡi phải khéo léo giữ thăng bằng mới ngồi được yên, và tôi để cho những bạn bè quen thuộc với bà Blavatsky hăy thử tưởng tượng việc ǵ xảy ra khi bà với bốn bạn đạo sơ cơ về môn cưỡi voi cùng chia sẻ với nhau khoảng trống có giới hạn trên tấm nệm.

V́ phép lịch sự, chúng tôi đỡ bà trèo cái thang ngắn lên ngồi trước, đương nhiên nghĩ rằng bà sẽ dành chỗ cho chúng tôi lên sau, nhưng bà lại không nghĩ như vậy! Bà nghiễm nhiên chiếm trọn khoảng giữa của tấm nệm, và không chịu nhích một phân để cho chúng tôi có cơ hội trèo lên. Bà c̣n phát ngôn mạnh mẽ và cứng cỏi khi chúng tôi nhắc nhở cho bà nhớ rằng bà không có độc quyền chiếm trọn tấm nệm cho một ḿnh bà!

Thế rồi, khi “nàng tiên linh động” bắt đầu đập hai cánh quạt trên lỗ tai và biểu lộ những cử chỉ sốt ruột khác nữa, v́ sự giằng co của chúng tôi. Bọn chúng tôi bốn người là W. Scott, Mulji, Babula và tôi, đều lần lượt trèo lên và bám lấy bốn góc của tấm nệm, tùy sự xoay xở tháo vát của mỗi người. Bạn Walter Scott ngồi phía sau và bỏ một chân tḥng xuống, nhưng con voi đầy hảo ư, ngoắt cái đuôi nó lên đỡ lấy bàn chân anh ta và giúp anh ngồi lại ngay ngắn, an toàn.

Thế là chúng tôi khởi hành. Bà Blavatsky miệng ph́ phèo thuốc lá, vẻ mặt hân hoan cơ hồ như đă từng quen thuộc với môn cưỡi voi từ thuở nhỏ. Nhưng chỉ độ vài trăm thước đầu tiên cũng đủ lấy mất đi cái bộ vó tự phụ của bà.

Bà ngả nghiêng bên nọ bên kia một cách nặng nề, chậm chạp, làm cho bao nhiêu mỡ trong người bà đều quấy động và hơi thở của bà như thổi hết ra ngoài, cho đến khi bà nổi trận lôi đ́nh và nguyền rủa bọn cười đùa chúng tôi, cùng với con voi và cả thằng nài, đều chết sa đọa xuống âm ty!

Bạn Ross Scott, em ruột của Walter, v́ đau chân không thể cưỡi voi nên ngồi trên một chiếc xe nhỏ kiểu bản xứ, trông rất lạ mắt, gọi là ekka, giống như một cái thùng mà chỗ ngồi là một mảnh gỗ lớn hơn bàn tay, do một con ngựa kéo. Suốt chuyến đi dài bốn dặm đường trường, (mà bà Blavatsky quả quyết là hai mươi dặm), chúng tôi đi trong sự vất vả khổ nhọc, c̣n bà th́ trong cơn ầm ĩ thịnh nộ.

Nhưng đến bận về, không một sự thuyết phục nào có thể làm cho bà Blavatsky tiếp tục ngồi lại chỗ cũ trên lưng voi. Bà bảo bạn Scott ngồi thu ḿnh nép vào một bên trên chỗ ngồi của chiếc ekka và bà cùng ngồi chung trên xe ấy để trở về nhà.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 869 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:18am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



II.

Do nhiều bạn đạo kể chuyện và sau khi đă trao đổi quan niệm bằng cách giao dịch thư từ với nhóm Arya Samaj, một chi phái Ấn Giáo tiến bộ, tôi được biết đạo sư (Swami) Dynand Saraswati như một nhà bác học Phạn ngữ (Pandit) và một nhà cải cách tôn giáo, đang lănh đạo một phong trào tâm linh rất mạnh mẽ mệnh danh là tổ chức Arya Samaj, nhằm mục đích phục hưng tôn giáo Phệ-đà (Veda) thuần túy cổ xưa của Ấn Độ.

Khi chúng tôi đến Agra, chúng tôi được người đại diện địa phương của đạo sư Dynand Saraswati đến viếng thăm và trao đổi với chúng tôi nhiều điều về vị lănh đạo tôn giáo này. Sự tŕnh bày của ông ta rất thỏa đáng nên chúng tôi quyết định đi Saharanpore để gặp vị Swami khi ngài đi hành hương từ Hardwar trở về.

Tại Saharanpore, những tín hữu của chi phái Arya Samaj nghênh tiếp chúng tôi rất nồng hậu với những quà tặng bánh trái và hoa quả. Nhưng sự vui thích của chúng tôi đă có phần giảm bớt do sự có mặt của mấy tên mật vụ. Họ theo dơi mọi sự di chuyển của chúng tôi, khám xét thư từ, đọc điện tín của chúng tôi, và làm cho chúng tôi có cảm tưởng như ḿnh đang phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ của ngành an ninh!

Trụ sở chi phái Samaj dành cho chúng tôi một cuộc tiếp tân long trọng và một bữa tiệc theo phong tục bản xứ. Chúng tôi ngồi ăn dưới đất với bàn tay mặt rửa sạch, bốc thức ăn đựng trong những cái đĩa kết bằng lá cây.

Đạo sư (Swami) về đến nơi vào sáng sớm ngày hôm sau. Bạn Mulji và tôi cùng đến để chào mừng. Tôi vô cùng cảm kích về tác phong, dáng điệu, giọng nói ấm áp cũng như những cử chỉ lịch sự và cốt cách tôn nghiêm cao quí của ông. Đạo sư nắm tay tôi, đưa tôi đến một hàng ba rộng răi lộ thiên, cho người đem đến một ghế dài và mời tôi ngồi bên cạnh người.

Sau khi đă trao đổi với nhau những lời chúc mừng, chúng tôi chia tay từ giă, và độ một giờ sau đó, đạo sư đích thân đến nơi quán trọ của chúng tôi để thăm xă giao bà Blavatsky.

Trong cuộc nói chuyện dài tiếp theo sau đó, đạo sư cho biết quan điểm của ông về các vấn đề Thượng đế, Giải thoát và Niết-bàn. Chúng tôi nhận thấy những điều này hầu như hoàn toàn phù hợp với quan niệm của chúng tôi.

Hôm sau, chúng tôi cùng đạo sư đáp chuyến xe lửa đi Meerut. Khi đến nơi, chúng tôi được đưa đến ngôi biệt thự của ông Sheonarain, một nhà thầu giàu có làm việc cho Chính phủ. Ông này là một tín hữu phái Samaj, đă t́nh nguyện cung ứng ngôi nhà của ông cho chúng tôi sử dụng.

Chiều hôm sau, vào lúc sáu giờ rưỡi chúng tôi tham dự một buổi hội họp đông đảo của môn phái Arya Samaj, được tổ chức ở một sân rộng lộ thiên, giữa những ngôi nhà lầu bao quanh. Ở cuối sân có một bục xây bằng gạch, trên có trải nệm và thảm Ấn Độ. Đạo sư Swami ngồi xếp bằng trên tấm thảm, dựa lưng vào một cái gối tṛn và dày. Loại gối này rất thông dụng ở các xứ phương Đông.

Tác phong trầm tĩnh, oai nghi, đạo sư nổi bật giữa đám đông, và trong một bầu không khí im lặng hoàn toàn, toàn thể hội trường đều lắng tai nghe ông thuyết pháp.

Sau khi phái đoàn chúng tôi được đưa đến chỗ ngồi đă sắp đặt sẵn, ngài Swami im lặng tọa thiền trong vài phút, kế đó ông ngẩng mặt lên trời, rồi với một giọng trầm ấm, ngân vang những thánh ngữ: “AUM, AUM! Shantih, Shantih, Shantih!” (ngụ ư: Cầu cho muôn loài được b́nh an), và khi những âm thanh vang dội đă tan dần, ông mới bắt đầu một thời pháp về đề tài “Cầu nguyện”.

Ông định nghĩa rằng cầu nguyện tức là làm việc. Cầu nguyện không phải là thốt lên những lời lẽ vô vị trên đầu môi chót lưỡi; không phải là nịnh hót hay ca tụng Thượng đế, v́ như thế sẽ không đem lại một kết quả nào. Có lần, ông nghe một tín đồ phái Brahmo Samaj bỏ phí mất hai giờ đồng hồ chỉ để lặp đi lặp lại cả ngàn lần những lời này: “Ôi! Thượng đế, Ngài là từ bi và công bằng vô lượng vô biên!” Làm như vậy có ích ǵ?

Ông nói, có người nói chuyện với Thượng đế như người ta nói chuyện với kẻ tôi tớ; cơ hồ như họ có quyền áp đặt, sai phái! Thật là rồ dại, ngu ngốc. Người nào muốn cầu nguyện có hiệu quả, hăy làm việc, làm việc và làm việc. Tất cả những ǵ ở ngoài khả năng của ḿnh phải được t́m kiếm bằng sự công phu thiền định và phát triển những năng lực tâm linh...

Đạo sư tiếp tục thuyết giảng một cách hùng biện, giọng nói truyền cảm, ngôn ngữ dễ dàng lưu loát như gịng nước chảy. Trước khi ông kết thúc, ánh trăng bạc chiếu vào mặt tiền ngôi nhà trước mặt chúng tôi trong khi chúng tôi ngồi ẩn khuất trong bóng tối, dưới nền trời xanh biếc một màu thăm thẳm. Một tia trăng sáng rọi vào bối cảnh phía sau lưng đạo sư, giống như một bức màn bằng bạc đánh bóng, làm nổi bật thân h́nh của ông với những nét thanh tú như một pho tượng đồng.

Ngày hôm sau, đến lượt tôi thuyết tŕnh. Buổi thuyết tŕnh được tổ chức trong một lều vải khổng lồ được dựng lên trong khuôn viên nhà của ông Sheonarain. Sàn gạch được phủ lên bằng những tấm nệm vải cứng và dày để làm chỗ ngồi, bên trên có trải những tấm thảm Ấn Độ và Ba Tư.

Ngoài một cái bàn riêng cho tôi và vài chiếc ghế cho các thính giả người Âu, kỳ dư là thính giả bản xứ, kể cả đạo sư Swami, đều ngồi xếp bằng trên sàn gạch. Có vài vị quan chức người Anh tham dự, lại có cả những người mật vụ hôm trước, lần này với bộ râu mép cạo sạch nhẵn, h́nh như với mục đích hóa trang!

Cuộc nói chuyện của tôi do Mulji làm thông dịch, tŕnh bày những lợi ích hỗ tương có thể đạt được bằng cách phối hợp những quyền lợi và khả năng thiên phú của cả hai chủng tộc Đông phương và Tây phương.

Ngày hôm sau, vị Swami kể cho chúng tôi nghe nhiều sự việc lư thú về những kinh nghiệm bản thân của ông và của những đạo sĩ Yoga khác trong rừng già. Ông đă từng sống gần như khỏa thân (chỉ đóng một cái khố rất nhỏ trên người) suốt bảy năm trong rừng rậm, ngủ trên mặt đất hoặc trên tảng đá, ăn toàn hoa quả, rễ cây và uống nước suối, cho đến khi thể xác ông hoàn toàn không c̣n cảm giác đối với tiết trời nóng, lạnh, vết thương, xây xát hay lửa bỏng.

Ông không hề bị các loài độc xà, ác thú làm hại. Có lần ông chạm trán với một con gấu đói trên đường đi, con gấu nhảy chồm lên định vồ lấy ông, nhưng ông đưa tay khoát nó đi ra chỗ khác, và đường đi được giải tỏa. Một vị siêu nhân mà ông đă gặp tại núi Abu, tên là Bhavani Gihr, có thể uống cạn một chai thuốc độc mà chỉ một giọt thôi cũng đủ giết chết một người thường. Vị này có thể nhịn ăn suốt bốn mươi ngày một cách dễ dàng và thực hiện được nhiều hiện tượng lạ lùng khác.

Chiều hôm đó, có một cuộc hội họp khác của các tín hữu Arya Samaj cũng đông đảo như lần trước để gặp gỡ chúng tôi, và một cuộc thảo luận đă diễn ra giữa đạo sư (Swami) và vị hiệu trưởng của trường trung học địa phương về những luận cứ chứng minh cho sự hiện diện của Thượng đế.

Ngày hôm sau, chúng tôi sửa soạn lên đường trở về Bombay, và được vị Swami cùng với một số đông tín hữu của môn phái ông tiễn đưa ra tận nhà ga. Họ tung hoa hồng vào người chúng tôi và hô to khẩu hiệu “Namasté” để tiễn biệt khi đoàn xe lửa lăn bánh.

Sau những ngày và đêm nóng bức trên chuyến xe lửa với những tiếng động ồn ào, bụi bặm, thiếu tiện nghi, chúng tôi đă đến Bombay. Trước khi kiểm soát lại hành lư, bà Blavatsky đi ngay đến trước mặt tên mật vụ, và ngay trên sân ga, bà cho hắn ta một bài học đích đáng. Với một giọng nhạo báng chua cay, bà thốt ra lời khen ngợi y về những thành quả lớn lao mà y hẳn đă gặt hái được trong chuyến đi đắt tiền trên toa xe hạng nhất, và nhờ y chuyển đạt những lời chúc mừng và cảm ơn nồng hậu của bà lên thượng cấp của y! Tên mật vụ thẹn đỏ mặt, lúng túng ngập ngừng nói không ra lời, và chúng tôi bước đi, bỏ y lại đó một cách trơ trẽn.

Kế đó, thay v́ đi thẳng về nhà để tắm rửa và ăn sáng, chúng tôi gọi xe đến Lănh sự quán Hoa Kỳ và yêu cầu viên lănh sự gửi một thông điệp cực lực phản kháng viên Cảnh sát trưởng về cách đối xử có tính cách nhục mạ của y đối với những công dân Mỹ vô tội.

Mọi sinh hoạt của chúng tôi vẫn trôi chảy một cách êm đềm. Những cảnh tượng lạ mắt của nếp sinh hoạt bản xứ diễn ra trong đời sống hằng ngày, càng ngày càng gây ấn tượng sâu xa hơn trong tâm hồn chúng tôi. Phạm vi giao tiếp của chúng tôi với người bản xứ cũng ngày càng mở rộng thêm, nhưng chỉ trừ một vài trường hợp lẻ loi rất hiếm, c̣n nói chung th́ chúng tôi không tiếp xúc với người Âu.

Việc họ có ưa thích chúng tôi hay không cũng chẳng quan hệ ǵ; sự thật là họ không thể dạy chúng tôi những ǵ mà chúng tôi muốn biết. Nếp sống thường ngày và những công việc bận rộn của họ không có chút thú vị ǵ đối với chúng tôi.

Sau khi tôi gửi một bức thư phản kháng cho chính quyền địa phương tỉnh Bombay qua trung gian của ông Franham, lănh sự Hoa Kỳ, tôi được một bức thư trả lời rằng họ không hề có thái độ cố ư khiếm nhă trong việc cho nhân viên mật vụ theo dơi mọi hành động của chúng tôi.

Về sau, khi đến Simla, tôi được các viên chức cao cấp trong phủ Toàn quyền của vị Phó vương Anh cho biết rằng họ rất bực ḿnh khi thấy công tác do thám được thi hành một cách quá ư lộ liễu và vụng về đến nỗi đă làm cho chúng tôi chú ư.

Họ nói thêm rằng, việc theo dơi chúng tôi chỉ là chuyện thông thường, v́ luật lệ Nhà nước ở Ấn Độ qui định phải theo dơi tất cả những người ngoại quốc nào có vẻ thân thiện đặc biệt với người bản xứ và tránh né sự giao thiệp với người của giai cấp thống trị.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 870 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:19am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



III.

Khi chúng tôi trở về Bombay, một buổi chiều tà, bà Blavatsky, bạn Damodar và tôi đă trải qua một kinh nghiệm lạ lùng mà trước đây tôi đă có kể lại sơ lược bằng trí nhớ. Nhưng bây giờ đă đến lúc tôi phải tường thuật đầy đủ chi tiết.

Chúng tôi ba người ngồi trên chiếc xe ngựa mui trần mà Damodar đă làm quà tặng cho bà Blavatsky, nhắm về phía cầu Warli gần bờ biển để hóng gió mát. Một cơn giông có sấm chớp đang diễn ra từ đằng xa nhưng không có mưa. Những tia chớp nối tiếp nhau thường xuyên một cách sống động đến mức chiếu sáng cả vùng lân cận như ban ngày. Bà Blavatsky và tôi ngồi hút thuốc và cả ba chúng tôi đều cùng nhau đàm luận việc này việc nọ.

Bỗng nghe có tiếng nói chuyện của nhiều người từ trên bờ biển đi về phía tay mặt chỗ chúng tôi ngồi. Ngay khi đó, xuất hiện một nhóm người Ấn ăn mặc lịch sự vừa nói vừa cười đùa với nhau. Họ đi qua khỏi chỗ chúng tôi và lên xe riêng của họ đậu thành hàng trên đường Warli, rồi chạy về thành phố.

Để nh́n theo, bạn Damodar đang ngồi quay lưng về phía người đánh xe liền đứng dậy và ngước mắt nh́n lên thùng xe. Khi đoàn người cuối cùng từ bờ biển đi lên vượt ngang qua xe chúng tôi, anh ta lẳng lặng sờ nhẹ vào vai tôi và hất đầu làm hiệu cho tôi nh́n về hướng ấy.

Tôi đứng dậy và thấy đằng sau nhóm người cuối cùng đi hóng gió biển trở về, một bóng người lẻ loi bước đến gần chúng tôi. Cũng như những người kia, người này mặc sắc phục trắng, nhưng sắc trắng của y phục người này vượt trội hẳn làm cho y phục của những người kia có vẻ như màu xám, cũng ví như ánh sáng đèn điện làm cho ngọn đèn hơi sáng tỏ nhất cũng hóa ra đục mờ.

Người này vóc dáng cao hơn nhóm người kia đến một cái đầu, và dáng đi của người quả thật là biểu lộ một cốt cách thần tiên. Người ấy bước đến gần, tách rời khỏi đường lộ và đi về phía chúng tôi, khi ấy chúng tôi mới nhận ra ngài là một vị chân sư.

Cái khăn trắng bịt đầu, chiếc áo rộng trắng, mái tóc đen xơa xuống vai và bộ râu đen, mới thoạt nh́n chúng tôi tưởng là đức “sư phụ”, nhưng khi ngài bước đến bên hông xe chỉ cách chúng tôi độ một thước, ngài đặt nhẹ bàn tay ngài lên cánh tay trái của bà Blavatsky lúc ấy đang gác lên trên thùng xe, nh́n chúng tôi vào tận mắt, và đáp lại sự kính cẩn vái chào của chúng tôi, chừng đó chúng tôi mới biết không phải là sư phụ, mà là một vị chân sư khác.

Bà Blavatsky về sau có một bức chân dung của ngài lồng trong một cái khuôn vàng bà đeo trước ngực mà nhiều người đă từng thấy. Ngài không nói một lời nào, mà lẳng lặng đi về phía đường lộ, không màng chú ư đến những người du ngoạn khi họ ngồi trên xe chạy về thành phố.

Những tia chớp liên tục của cơn giông chiếu sáng thân h́nh ngài khi ngài đứng bên cạnh chúng tôi, và khi ngài đă đi trên con đường lót đá cách xa chúng tôi độ hai mươi thước, tôi nhận thấy rằng ánh đèn trên chiếc xe cuối cùng rọi lại làm cho thân h́nh ngài nổi bật trên bối cảnh chân trời ở đằng xa.

Không có cây cối hay bụi rậm nào che khuất ngài khỏi tầm mắt chúng tôi, nên chúng tôi vận hết nhỡn lực để theo dơi động tác của ngài. Chúng tôi vừa mới nh́n thấy ngài đây, th́ trong khoảnh khắc ngài đă biến mất dạng, cũng như một tia chớp sáng ḷe rồi vụt tắt.

Dưới sự phản ứng của cơn xúc động bàng hoàng, tôi nhảy vọt ra ngoài xe, chạy đến chỗ mà tôi nh́n thấy ngài lúc năy, nhưng không thấy ǵ nữa. Tôi chỉ nh́n thấy có con đường lộ vắng tanh phía sau lưng của chiếc xe vừa chạy qua.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 871 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:20am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



CHƯƠNG BẢY: NỮ TU SĨ MAJI
I.


Ngày 2 tháng 12 (năm 1879), bà Blavatsky và tôi, cùng với bạn Damodar và em Babula đáp chuyến xe lửa đi Allahabad để viếng thăm ông bà Sinnett mà trước đây chúng tôi chỉ giao dịch bằng thư từ chứ chưa từng được quen biết tận mặt.

Sau hai ngày ngồi trên xe lửa, sáng sớm ngày thứ ba, chúng tôi đến Allahabad và được ông Sinnett đến đón tại nhà ga cùng với một cỗ xe song mă với người đánh xe và hai người hầu bản xứ mặc đồng phục rất đẹp.

Bà Sinnett tiếp đăi chúng tôi tại nhà với một cung cách vô cùng lịch sự, và chỉ qua chừng dăm ba câu trao đổi, chúng tôi biết ngay rằng ḿnh đă gặp được một người bạn quư.

Trong số các vị khách đến nhà ông Sinnett ngày hôm ấy, có một vị Thẩm phán Ṭa Thượng thẩm và ông Giám đốc Nha Học chính. Ông bà A. O. Hume đến vào ngày hôm sau và bà Gordon đến vào ngày mồng bảy, sau khi đă đi một chuyến hành tŕnh rất dài để đến gặp bà Blavatsky.

Dần dần chúng tôi đă có dịp quen biết với phần đông những nhân vật Anh Ấn của thành phố này. Họ cũng đáng được làm quen, v́ họ tỏ ra khôn ngoan lịch thiệp và tâm hồn cởi mở. Vài người trong số đó có cử chỉ rất khẩn khoản, ân cần và dễ thương, nhưng thu hút chúng tôi nhiều nhất là ông bà Sinnett và bà phu nhân Gordon. Bà này hồi đó đang ở vào thời kỳ xuân sắc lộng lẫy và trí thông minh chói rạng. Tôi nghĩ thật không uổng công lặn lội sang tận xứ Ấn Độ khi được quen biết với ba người này.

Theo một qui ước chặt chẽ trong các giới xă hội thượng lưu Anh Ấn, người mới đến xứ này thường đi viếng thăm xă giao những nhân vật hiện đang cư trú tại địa phương. Nhưng v́ bà Blavatsky không muốn đi thăm ai cả, nên ai muốn làm quen với bà phải bỏ cái tập quán kia đi và đích thân đến viếng bà.

Thời gian chúng tôi ở tại đây luôn luôn có khách đến viếng. Ngoài ra c̣n có những bữa tiệc tiếp tân, và trong một dịp này tôi c̣n nhớ rơ đă xảy ra một chuyện lư thú.

Một buổi chiều, ông bà Sinnett, bà Blavatsky và tôi cùng lên xe đi dự một bữa cơm tối. Xe chạy ngang qua một khu phố hăy c̣n xa lạ đối với chúng tôi. Đến một ngă tư, bà Blavatsky bỗng nhiên rùng ḿnh một cái, và nói: “Lạ quá! Thật là một cảm giác rùng rợn! Ở chỗ này h́nh như đă có xảy ra một vụ tàn sát đẫm máu.”

Ông Sinnett hỏi: “Bà không biết đây là chỗ nào hay sao?”

Bà đáp: “Không! Làm sao tôi biết được, v́ đây là lần đầu tiên tôi đi ra khỏi nhà ông”.

Khi đó, ông Sinnett đưa tay chỉ một ngôi dinh cơ đồ sộ ở phía tay mặt chúng tôi, và nói cho bà biết rằng trước đây đó là câu lạc bộ của quân đội, và chính tại đó các sĩ quan Anh của một lữ đoàn quân Anh Ấn đă bị các thuộc viên của họ thảm sát giữa bữa ăn trong cuộc nổi loạn của quân bản xứ.

Nhân dịp đó, bà Blavatsky nói cho chúng tôi nghe về tính cách trường cửu bất diệt của “kư ức không gian”, có tác dụng ghi nhận mọi hành vi của con người trải qua thời gian không bao giờ mất.

Qua ngày hôm sau, tôi thuyết tŕnh trước một cử tọa đông đảo về đề tài: “Thông thiên học và những mối liên hệ với xứ Ấn Độ”. Ngồi trên ghế Chủ tọa cuộc họp là ông A. O. Hume, một luật gia nổi tiếng. Ông đă khai mạc buổi thuyết tŕnh và giới thiệu diễn giả bằng một bài diễn văn rất hay và rất hùng hồn làm cảm động người nghe.

Ngày 15 tháng 12, chúng tôi từ giă ông bà Sinnett và cùng bà Gordon đáp xe lửa đi Ba-la-nại (Bénarès). Đến nơi vào lúc bốn giờ chiều, chúng tôi được vị đại diện của Quốc vương Vizianagram đón tiếp tại nhà ga và mời chúng tôi về ở tại một ṭa lâu đài của Quốc Vương với tư cách là tân khách của ngài.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 872 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:22am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



II.

Ngày hôm sau, sau khi ăn điểm tâm, chúng tôi lên xe để đến viếng đạo viện của bà Maji, một vị nữ tu sĩ rất nổi tiếng, làu thông kinh điển Phệ-đà. Bà ở trong một động đá dưới hầm của đạo viện, nằm bên bờ sông Hằng, cách thành phố Ba-la-nại độ hai dặm. Bà thừa kế đạo viện này của thân phụ bà, vốn là một Yogi, cùng với một ngôi nhà trong thành phố và một thư viện Phạn ngữ rất phong phú và quư giá.

Đó là một nơi ẩn cư rất tĩnh mịch, nhất là vào buổi sáng sớm, và rất thuận lợi cho việc công phu thiền định. Tọa lạc bên bờ sông, độ mười lăm thước cao hơn mặt nước, và được che khuất dưới những lùm cây cổ thụ, thật là một nơi đạo viện lư tưởng có phong vị thần tiên khi chúng tôi ngồi trên bệ đá dưới những gốc ḥe nở hoa đỏ thắm, cành lá sum suê rậm rạp và luận đàm về đạo lư với nhà nữ tu trí thức này.

Đó là một trong những kinh nghiệm kỳ thú nhất của chúng tôi trên đất Ấn Độ, mà người quen sống ở các xứ Tây phương không bao giờ có thể tưởng tượng được.

Hồi ấy, bà Maji trạc bốn mươi tuổi, màu da lợt, với một phong độ trang nghiêm và cốt cách lịch sự làm cho người ta phải kính nể. Bà có một giọng nói dịu dàng, gương mặt và thân h́nh đầy đặn, đôi mắt tinh anh biểu lộ sự thông minh và đức tính quả cảm, cương nghị.

Bà từ chối không biểu diễn phép thuật thần thông, như chúng tôi vẫn luôn yêu cầu các nhà đạo sĩ trong những dịp tương tự. Những lư do từ chối của bà đều được tất cả các bạn trong nhóm chúng tôi chấp nhận là đầy đủ, và cuộc thăm viếng vẫn có ảnh hưởng thuận lợi cho tất cả mọi người.

Tôi không biết rằng bà có khả năng thực hiện phép mầu hay không, nhưng vốn là một tín đồ chân chính của triết học Vedanta, bà mạnh dạn chỉ trích sự dại khờ của những kẻ ham mê các tṛ chơi ấu trĩ ấy, thay v́ để tâm hồn được yên tĩnh vắng lặng như nền đạo lư cổ truyền từ ngh́n xưa vẫn luôn khuyên nhủ các môn sinh trên đường tầm đạo.

Dù đi đến bất cứ nơi nào trên đất Ấn Độ, người ta luôn luôn nhận biết được kinh nghiệm đó. Những nhà tu khổ hạnh cao siêu nhất vẫn luôn từ chối không biểu diễn những quyền năng thần bí, trừ phi trong những trường hợp rất đặc biệt. Những ai biểu diễn phép thuật nhiệm mầu bị xem như thuộc hạng thấp kém, chẳng hạn như các nhà phù thủy Hắc phái, họ chỉ được sự bảo trợ và trọng vọng của những người thuộc các giai cấp hạ tiện.

Vài ngày sau, vị nữ tu Maji đến viếng thăm trả lễ bà Blavatsky. Việc ấy gây sự ngạc nhiên trong các giới Ấn Độ, và chúng tôi được cho biết rằng đây là một điều rất lạ thường, v́ vị nữ tu này hiếm khi đích thân đến viếng một người nào khác ngoài tôn sư của bà, c̣n việc bà đến viếng thăm một người Âu th́ chưa từng có.

Tôi cảm thấy một sự say mê thích thú về nữ tu sĩ này do những chuyện mà tôi đă nghe kể lại về bà, và thật sự tôi đă đến viếng bà mỗi khi có dịp ghé qua thánh địa Ba-la-nại. Lần cuối cùng tôi đến viếng bà là cùng với bà Annie Besant và nữ bá tước Wachtmeister. Trong nhiều năm, tôi vẫn tin rằng bà là một siêu nhân.

Trong cuộc viếng thăm của bà lúc ấy, bà vẫn là một người hoàn toàn xa lạ đối với chúng tôi, và theo chỗ chúng tôi biết, không một người nào đă từng nói cho bà biết chúng tôi là ai, trừ ra chúng tôi tự giới thiệu trong dịp đến viếng đạo viện của bà lần đầu tiên. Tuy vậy, bà đă nói cho các bạn đạo cùng đi với tôi, trong một dịp bà Blavatsky vắng mặt, nghe một chuyện dị kỳ về bà Blavatsky.

Bà nói rằng thể xác của bà Blavatsky đă được một nhà đạo sĩ Yoga mượn tạm v́ mục đích phổ biến Triết học Đông phương. Đó là cái thể xác thứ ba mà nhà đạo sĩ đă dùng vào mục đích ấy, và thời gian ông ta đă trải qua trong ba cái thể xác đó, cộng chung lại là độ một trăm năm mươi năm.

Trong một chuyến đi Calcutta nhiều năm sau đó, tôi đă đến khu ngoại ô Bhowanipore để viếng Maji, trong dịp bà từ Ba-la-nại đến đây để viếng thăm một bạn đạo là Nobin Bannerji tại nhà ông này. Tôi đă hội kiến với bà hằng ngày trong thời gian hai tuần ở Calcutta và rất thích thú mà nghe lời thuyết giáo của bà.

Bà lúc nào cũng có một số người tầm đạo vây quanh, và những lời giải đáp thắc mắc của bà luôn biểu lộ một học lực uyên thâm, sâu sắc. Phong thái hấp dẫn và giọng nói dễ mến của bà làm cho bà càng thêm đắc nhân tâm và được nhiều người ngưỡng mộ.

Sau hết, c̣n có sự hấp dẫn của những năng lực thần bí, thường được gán cho những đạo sĩ chân tu ở Ấn Độ, một di sản c̣n sót lại của những truyền thống từ thời đại cổ xưa. Những quyền lực đó, bà Maji hẳn là phải có đến một mức độ nào, bởi v́ chúng ta đă thấy rằng lần gặp gỡ đầu tiên giữa bà với chúng tôi hồi năm 1879, trước khi người ta được biết ǵ về sự liên hệ giữa bà Blavatsky với hai vị chân sư.

Bà Maji đă nói với tôi những điều về các ngài mà không ai có thể nói lại cho bà biết, và trong tập nhật kư của bạn Damodar có ghi rằng bà đă làm cho ông ta vô cùng ngạc nhiên với những lời tiết lộ của bà về nhà huyền học T. Subba Rao và về những nhân vật khác nữa.

Sau khi bà Maji từ Calcutta trở về đạo viện của bà ở Ba-la-nại, chúng tôi đă có dịp trở lại viếng thăm bà lần nữa, nhưng không ngờ đây là lần cuối, v́ sau đó ít lâu chúng tôi được tin bà từ trần.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 873 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:23am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



III.

Khi chúng tôi trở về Bombay, một buổi chiều tà, bà Blavatsky, bạn Damodar và tôi đă trải qua một kinh nghiệm lạ lùng mà trước đây tôi đă có kể lại sơ lược bằng trí nhớ. Nhưng bây giờ đă đến lúc tôi phải tường thuật đầy đủ chi tiết.

Chúng tôi ba người ngồi trên chiếc xe ngựa mui trần mà Damodar đă làm quà tặng cho bà Blavatsky, nhắm về phía cầu Warli gần bờ biển để hóng gió mát. Một cơn giông có sấm chớp đang diễn ra từ đằng xa nhưng không có mưa. Những tia chớp nối tiếp nhau thường xuyên một cách sống động đến mức chiếu sáng cả vùng lân cận như ban ngày. Bà Blavatsky và tôi ngồi hút thuốc và cả ba chúng tôi đều cùng nhau đàm luận việc này việc nọ.

Bỗng nghe có tiếng nói chuyện của nhiều người từ trên bờ biển đi về phía tay mặt chỗ chúng tôi ngồi. Ngay khi đó, xuất hiện một nhóm người Ấn ăn mặc lịch sự vừa nói vừa cười đùa với nhau. Họ đi qua khỏi chỗ chúng tôi và lên xe riêng của họ đậu thành hàng trên đường Warli, rồi chạy về thành phố.

Để nh́n theo, bạn Damodar đang ngồi quay lưng về phía người đánh xe liền đứng dậy và ngước mắt nh́n lên thùng xe. Khi đoàn người cuối cùng từ bờ biển đi lên vượt ngang qua xe chúng tôi, anh ta lẳng lặng sờ nhẹ vào vai tôi và hất đầu làm hiệu cho tôi nh́n về hướng ấy.

Tôi đứng dậy và thấy đằng sau nhóm người cuối cùng đi hóng gió biển trở về, một bóng người lẻ loi bước đến gần chúng tôi. Cũng như những người kia, người này mặc sắc phục trắng, nhưng sắc trắng của y phục người này vượt trội hẳn làm cho y phục của những người kia có vẻ như màu xám, cũng ví như ánh sáng đèn điện làm cho ngọn đèn hơi sáng tỏ nhất cũng hóa ra đục mờ.

Người này vóc dáng cao hơn nhóm người kia đến một cái đầu, và dáng đi của người quả thật là biểu lộ một cốt cách thần tiên. Người ấy bước đến gần, tách rời khỏi đường lộ và đi về phía chúng tôi, khi ấy chúng tôi mới nhận ra ngài là một vị chân sư.

Cái khăn trắng bịt đầu, chiếc áo rộng trắng, mái tóc đen xơa xuống vai và bộ râu đen, mới thoạt nh́n chúng tôi tưởng là đức “sư phụ”, nhưng khi ngài bước đến bên hông xe chỉ cách chúng tôi độ một thước, ngài đặt nhẹ bàn tay ngài lên cánh tay trái của bà Blavatsky lúc ấy đang gác lên trên thùng xe, nh́n chúng tôi vào tận mắt, và đáp lại sự kính cẩn vái chào của chúng tôi, chừng đó chúng tôi mới biết không phải là sư phụ, mà là một vị chân sư khác.

Bà Blavatsky về sau có một bức chân dung của ngài lồng trong một cái khuôn vàng bà đeo trước ngực mà nhiều người đă từng thấy. Ngài không nói một lời nào, mà lẳng lặng đi về phía đường lộ, không màng chú ư đến những người du ngoạn khi họ ngồi trên xe chạy về thành phố.

Những tia chớp liên tục của cơn giông chiếu sáng thân h́nh ngài khi ngài đứng bên cạnh chúng tôi, và khi ngài đă đi trên con đường lót đá cách xa chúng tôi độ hai mươi thước, tôi nhận thấy rằng ánh đèn trên chiếc xe cuối cùng rọi lại làm cho thân h́nh ngài nổi bật trên bối cảnh chân trời ở đằng xa.

Không có cây cối hay bụi rậm nào che khuất ngài khỏi tầm mắt chúng tôi, nên chúng tôi vận hết nhỡn lực để theo dơi động tác của ngài. Chúng tôi vừa mới nh́n thấy ngài đây, th́ trong khoảnh khắc ngài đă biến mất dạng, cũng như một tia chớp sáng ḷe rồi vụt tắt.

Dưới sự phản ứng của cơn xúc động bàng hoàng, tôi nhảy vọt ra ngoài xe, chạy đến chỗ mà tôi nh́n thấy ngài lúc năy, nhưng không thấy ǵ nữa. Tôi chỉ nh́n thấy có con đường lộ vắng tanh phía sau lưng của chiếc xe vừa chạy qua.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 874 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:25am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



CHƯƠNG TÁM: PHÁP MÔN YOGA


Ngày 27 tháng 8 năm ấy, bà Blavatsky và tôi cùng với em trai giúp việc là Babula lại đáp chuyến xe lửa đêm từ Bombay đi lên miền Bắc. Đến thị trấn Meerut, chúng tôi được toàn thể chi bộ của môn phái Arya Samaj tại địa phương đến tiếp đón tại nhà ga, và đưa chúng tôi về trụ sở của họ. Tại đây, chúng tôi đă gặp lại đạo sư Dyànand Saraswati, nhà lănh đạo tinh thần của môn phái Arya Samaj đă nói ở trên.

Trước sự có mặt của các tín hữu trong môn phái ông, chúng tôi mở một cuộc thảo luận nhằm biết rơ quan điểm thật sự của ông về pháp môn Yoga và về những năng lực tâm linh có thể đạt được của con người.

Chúng tôi được biết rằng những giáo lư ông đă dạy các tín hữu luôn khuyến cáo họ không nên thực hành pháp môn khổ hạnh, và thậm chí c̣n gieo sự nghi ngờ về sự thật của các quyền năng thần bí. Trái lại, trong những cuộc đàm thoại với chúng tôi trước đây ông có một luận điệu khác hẳn. Cuộc phỏng vấn của tôi lần này đă được các tín hữu trong môn phái ghi chép lại đúng y nguyên văn mà tôi xin thuật lại như dưới đây:

“...Câu hỏi đầu tiên đưa ra cho Thầy (Swami) là: ‘Pháp môn Yoga có phải là một khoa học thực nghiệm, hay chỉ là một giả thuyết siêu h́nh; và đạo sư Patanjali có tin rằng người ta có thể đạt được những quyền năng thần bí hay không? Và đă có ai đạt được những quyền năng ấy hay chưa?’

“Thầy đáp rằng: Pháp môn Yoga có thật và căn cứ trên sự hiểu biết những định luật thiên nhiên.

“Câu hỏi kế tiếp là những quyền năng siêu đẳng, hiện nay người ta c̣n có thể sở đắc được hay không, hay là thời kỳ ấy nay đă qua rồi?

“Câu trả lời là những định luật thiên nhiên vốn không dời đổi và không bị giới hạn trong thời gian và không gian. Những ǵ người ta đă làm được trong quá khứ đương nhiên cũng vẫn áp dụng trong hiện tại. Không những ngày nay người ta có thể làm tất cả những ǵ đă được diễn tả trong các sách cổ xưa, mà chính Thầy (Swami) có thể truyền dạy các phương pháp ấy cho bất cứ người nào thật t́nh mong ước đi vào con đường ấy.

“Có nhiều người đă đến xin thụ giáo Swami và quả quyết rằng họ có khả năng đạt tới sự thành công; Thầy đă thử hết ba người, nhưng tất cả đều thất bại. Lúc đầu họ tỏ ra có nhiều thiện chí, nhưng không bao lâu họ đâm ra chán nản và bỏ cuộc. Yoga là một khoa học khó khăn nhất, và ngày nay rất ít người có thể sở đắc được.

“Câu hỏi tiếp theo là ngày nay c̣n có chăng những đạo sĩ Yoga chân chính có thể thực hiện những hiện tượng nhiệm mầu như đă diễn tả trong các sách cổ Ấn Độ.

“Thầy đáp rằng những vị đạo sĩ ấy ngày nay vẫn c̣n, nhưng rất hiếm. Họ ẩn cư ở những nơi hẻo lánh, và ít khi, hay không bao giờ xuất hiện ở những nơi công cộng. Họ không bao giờ tiết lộ những bí quyết của họ cho kẻ thế nhân phàm tục, cũng không truyền dạy bí pháp của họ, trừ phi cho những người mà họ nhận thấy là xứng đáng sau nhiều cơn thử thách.

“Đại tá Olcott hỏi rằng phải chăng những vị chân sư luôn luôn khoác bộ áo vàng của nhà tu sĩ xuất gia như người ta thường thấy, hay cũng mặc y phục thường?

“Thầy đáp rằng các ngài có thể mặc mọi thứ sắc phục thích nghi tùy nhu cầu của hoàn cảnh.

“Đáp lời yêu cầu cho biết người đạo sĩ chân tu có những thứ quyền năng nào, Thầy nói rằng người Yogi chân chính có thể làm những việc mà người thế gian gọi là những phép lạ. Không cần phải nêu ra những loại quyền năng nào, v́ trên thực tế quyền năng của y chỉ bị giới hạn bởi ḷng mong muốn và sức mạnh của ư chí.

Chẳng hạn như họ có thể giao cảm bằng tư tưởng với những vị đạo sĩ khác dù họ ở cách nhau bao xa trong không gian, và không cần sử dụng những phương tiện viễn thông thường lệ như thư từ hay điện tín. Họ có thể đọc tư tưởng của người khác. Họ có thể di chuyển (trong chân ngă) từ một nơi này đến một nơi khác, không cần sử dụng những phương tiện chuyên chở thông thường, và với một tốc độ mau chóng hơn nhiều.

Họ có thể đi trên mặt nước hay trên không trung; vượt cao khỏi mặt đất. Họ có thể xuất hồn ra khỏi xác và nhập vào thể xác một người khác, trong một thời gian ngắn hay trong nhiều năm tùy ư muốn.

“Họ có thể kéo dài sự sống của thể xác bằng cách xuất hồn trong giấc ngủ, và bằng cách tiết giảm những hoạt động của cơ thể đến mức tối thiểu, họ tránh được phần lớn sự già nua. Thời gian dùng trong việc ấy sẽ cộng vào và tăng thêm tổng số thời gian sinh tồn tự nhiên của thể xác trong kiếp sống hiện tại.

“Hỏi: Cho đến ngày giờ nào của cuộc đời th́ người Yogi có thể sử dụng quyền năng chuyển di linh hồn hay chân ngă của họ qua thể xác của một người khác?

“Đáp: Phải đến giờ phút chót, thậm chí đến từng giây cuối cùng. Người Yogi biết trước, thậm chí đến từng giây đồng hồ, lúc nào họ phải chết, và đến lúc đó họ có thể xuất hồn để nhập vào thể xác một người khác, nếu có một thể xác sẵn sàng cho họ chiếm đóng.

Nhưng nếu họ bỏ lỡ giây phút đó trôi qua th́ sẽ không thể làm ǵ được nữa. Sợi dây bạc đă bị đứt đoạn vĩnh viễn, và nếu người Yogi chưa được tinh luyện đến mức toàn thiện để đạt tới sự giải thoát th́ anh ta phải tái sinh theo luật luân hồi.

Sự khác biệt duy nhất giữa trường hợp của anh ta với trường hợp thông thường của mọi người là công phu tu luyện để trở nên tốt đẹp hơn, thông tuệ hơn và minh triết hơn người thường, nên anh ta sẽ được tái sinh trong những hoàn cảnh thuận lợi hơn.

“Hỏi: Người Yogi có thể chuyển di từ thể xác của anh ta qua thể xác của một người đàn bà hay không?

“Đáp: Cũng như người ta có thể khoác lấy y phục đàn bà một cách dễ dàng, người Yogi có thể nhập vào thể xác của một người nữ. Chừng đó, xét về h́nh dáng và cử chỉ bên ngoài th́ đó là một người nữ, nhưng xét về phần nội tâm th́ anh ta vẫn là một người nam.

“Hỏi: Tôi đă gặp hai người như vậy; nghĩa là hai người nữ xét về h́nh dáng bề ngoài, nhưng hoàn toàn mang nam tính trong mọi yếu tố khác. Một trong hai người ấy, ông có nhớ chăng, trước đây chúng ta đă có dịp cùng viếng thăm tại Ba-la-nại, trong một đạo viện bên bờ sông Hằng?

“Đáp: À, đó là nữ tu sĩ Maji.

“Hỏi: Pháp môn Yoga có tất cả mấy loại?

“Đáp: Có hai loại pháp môn Yoga, luyện thể xác (Hatha Yoga) và luyện tinh thần (Raja Yoga). Trong pháp môn Hatha Yoga, hành giả thực hành công phu luyện xác một cách rất khổ hạnh nhằm mục đích bắt thể xác phải tuân theo mệnh lệnh của ư chí. C̣n Raja Yoga là một pháp môn tu luyện khiến cho ư chí được phát triển mạnh mẽ đến mức làm chủ được tinh thần.

Pháp môn Hatha Yoga đem lại những kết quả thể chất, c̣n Raja Yoga giúp hành giả phát triển những khả năng tâm linh. Nhưng bất cứ hành giả nào muốn thuần thục pháp môn Raja Yoga đều phải trải qua công phu tu luyện Hatha Yoga.

“Hỏi: Nhưng sự thật là có những người đă đạt được những năng lực tâm linh siêu đẳng của pháp môn Raja Yoga mà không hề trải qua giai đoạn khổ luyện xác thân theo Hatha Yoga. Chính tôi đă gặp ba người như vậy ở Ấn Độ, và chính họ đă cho tôi biết rằng họ không hề khổ luyện xác thân.

“Đáp: Đó là do họ đă có tu luyện pháp môn Hatha Yoga trong kiếp trước.

“Hỏi: Xin ông vui ḷng giải thích làm sao người ta có thể phân biệt những hiện tượng nào là thật hay giả khi được thực hiện bởi một người mệnh danh là Yogi?

“Đáp: Những hiện tượng lạ gồm có ba loại: loại thấp nhất được tạo ra bằng sự lanh lẹ của bàn tay, như ta thường thấy trong những màn tŕnh diễn ảo thuật hay trong các gánh xiếc; loại thứ nh́ bằng cách sử dụng hóa chất hay những máy móc dụng cụ; loại thứ ba và là loại cao nhất, được thực hiện bằng những năng lực thần bí của con người.

“Việc thực hiện những tṛ lạ mắt làm cho cử tọa ngạc nhiên đều do hai phương pháp đầu tiên, và được tuyên bố giả dối rằng đó là những hiện tượng siêu nhiên hay phép lạ, gọi là tamasha, hay sự phỉnh gạt bất lương. Nhưng nếu những hiện tượng đó được người ta đưa ra một sự giải thích đúng đắn và chân thật th́ chừng đó chúng được coi như sự biểu diễn xảo thuật khoa học hay kỹ thuật.

“Chỉ có những hiện tượng tạo nên bởi việc sử dụng ư chí đă được tập luyện thuần thục của con người, không tùy thuộc các máy móc, dụng cụ, mới là thuộc pháp môn Yoga chân chính.

“Hỏi: Xin định nghĩa tính chất của linh hồn con người.

Đáp: Linh hồn (atmà) con người gồm hai mươi bốn thứ khả năng, trong số đó có ư chí, hành động, kiến thức, kư ức sắc bén, v.v... Khi tất cả những khả năng đó được đem ra tác dụng ở ngoại giới, người chủ động tạo nên những kết quả được xếp hạng dưới chủ đề là Khoa học vật lư. Khi người ấy đem áp dụng chúng vào nội tâm, hay thế giới nội tàng, th́ đó là Triết học tâm linh, hay Yoga nội môn.

“Khi hai người nói chuyện với nhau từ hai nơi cách biệt nhau rất xa bằng điện thoại, th́ đó là họ sử dụng kiến thức khoa học; khi nào họ giao tiếp với nhau không phải bằng máy móc dụng cụ mà bằng cách sử dụng kiến thức về những gịng từ điện và sức mạnh thiên nhiên, th́ đó là kiến thức Yoga.

“Cũng chính do kiến thức Yoga mà nhà thuật sĩ làm cho những đồ vật thuộc bất cứ loại nào được đem tới cho ông ta từ một nơi cách xa, và ngược lại, gửi những đồ vật ấy từ chỗ của ông ta đến bất cứ nơi nào, trong cả hai trường hợp đều không dùng những phương tiện chuyên chở như xe, tàu, v.v...

“Người xưa từng biết rơ những định luật hấp dẫn và xô đẩy của tất cả mọi sự vật trong thiên nhiên, tác động hỗ tương giữa chúng với nhau, và những hiện tượng thần thông mầu nhiệm trong pháp môn Yoga đều căn cứ trên sự hiểu biết đó. Người Yogi có thể thay đổi hay tăng cường những sức mạnh hấp dẫn và xô đẩy đó tùy ư muốn.

“Hỏi: Hành giả muốn sở đắc những quyền năng đó phải có những điều kiện tiên quyết như thế nào?

“Đáp: Đó là các yếu tố:

1. Sự ước muốn học hỏi. Ḷng ước vọng đó phải mănh liệt giống như của người sắp chết đói mong có thức ăn, hay người khát thèm nước uống.

2. Hoàn toàn làm chủ mọi thứ đam mê và dục vọng.

3. Sự trinh khiết; giao du với những bạn bè tốt và có đức hạnh; ăn uống chay tịnh, chỉ dùng những đồ vật thực trong lành, tinh khiết; nơi ăn chốn ở phải thanh tịnh sạch sẽ, không bị ô nhiễm bởi những ảnh hưởng xấu xa ô trược bất cứ loại nào; không khí trong sạch; ở nơi vắng vẻ.

“Ngoài ra, hành giả phải có trí thông minh để có thể hiểu biết những định luật thiên nhiên; phải biết tập trung tư tưởng để không suy nghĩ mông lung khiến cho trí lực bị phân tán trong cơn thiền định, và phải biết tự chủ, kiểm soát mọi thứ đam mê, dục vọng. Anh ta phải diệt trừ năm điều sau đây: vô minh, tự kiêu ngă mạn, dâm dục, ích kỷ và sợ chết.

“Hỏi: Như vậy, phải chăng ông không tin rằng người Yogi có thể hành động trái với những định luật tự nhiên?

“Đáp: Không bao giờ! Bởi v́ không có ǵ xảy ra trái với những định luật thiên nhiên. Do pháp môn Hatha Yoga, người ta có thể thực hiện vài loại hiện tượng nhỏ, chẳng hạn như tập trung tất cả sinh lực của ḿnh vào trong một ngón tay, hoặc trong cơn thiền định biết được những tư tưởng của người khác.

Bằng pháp môn Raja Yoga, hành giả trở nên có phép thần thông, có thể làm bất cứ việc ǵ tùy ư muốn, và biết được bất cứ điều ǵ muốn biết, thậm chí đến những ngôn ngữ chưa bao giờ học. Nhưng tất cả những việc ấy đều hoàn toàn phù hợp với những định luật tự nhiên.

“Hỏi: Đôi khi tôi được thấy những vật thể vô tri như thư từ, tiền đồng hay kim loại, bút ch́, đồ nữ trang, v.v... được tạo ra thành những bản sao ngay trước mắt tôi. Làm sao giải thích điều đó?

“Đáp: Trong không gian có chứa đựng những nguyên tử của mọi vật thể hữu h́nh trong một trạng thái vô cùng tế vi. Người Yogi biết tập trung những nguyên tử đó bằng cách sử dụng ư chí, và tượng h́nh những vật thể đó theo kiểu mẫu mong muốn bằng trí óc sáng tạo của ḿnh.

“Đến đây, Đại tá Olcott hỏi vị Swami có ư kiến ǵ về những hiện tượng thần thông mà bà Blavatsky đă làm từ trước đến nay trước sự có mặt của nhiều nhân chứng, chẳng hạn như bà làm cho những hoa hồng rơi xuống như mưa từ trên trần nhà trong một pḥng khách ở Bénarès hồi năm ngoái, gây tiếng chuông reo trong không khí, làm cho ngọn lửa trong một cây đèn lu mờ dần cho đến khi hầu như sắp tắt, rồi truyền lệnh cho nó bùng cháy lên cao vút mà không động đến cái bộ phận vặn bấc đèn, v.v...

“Câu trả lời là: Đó là những phép thuật thuộc lănh vực của pháp môn Yoga. Vài loại hiện tượng này, những người làm tṛ ảo thuật có thể bắt chước, nhưng những phép thuật của bà Blavatsky không phải thuộc loại đó.”

Tôi nghĩ rằng đây là những quan điểm tóm lược đơn giản, rơ ràng, sáng sủa và gợi mở nhất về pháp môn Yoga của Ấn Độ. Người đối thoại với tôi là một trong những nhân vật ưu tú nhất trong giới tu sĩ Bà-la-môn, một người học vấn uyên thâm, một nhà tu khổ hạnh đầy kinh nghiệm, một nhà biện thuyết hùng hồn và một người có tinh thần yêu nước cao độ.

Sau đó ít lâu chúng tôi đă trải qua một giai đoạn khó khăn trong vấn đề giao tiếp với đạo sư Dyanand Saraswati. Không có một lư do nhỏ nhặt nào, nhưng bỗng nhiên ông ta có thái độ thù nghịch đối với chúng tôi. Ông ta viết cho chúng tôi những bức thư lời lẽ gay gắt, nặng nề; kế đó ông đấu dịu lại đôi chút; rồi lần sau lại đổi giọng, và như thế ông đặt chúng tôi vào một t́nh trạng căng thẳng thường xuyên.

Sự thật là tờ tạp chí của chúng tôi không thể là một cơ quan ngôn luận đặc biệt của môn phái Arya Samaj, và chúng tôi cũng không chịu tách rời khỏi các nhóm tín đồ Phật giáo và Bái hỏa giáo, như ông ta vẫn mong muốn. Hiển nhiên là ông muốn bắt buộc chúng tôi phải chọn lựa một trong hai điều: hoặc là sự tiếp tục bảo trợ từ môn phái của ông ta; hoặc là sự trung thành với lư tưởng không bè phái của chúng tôi. Và chúng tôi đă chọn lựa. V́ những lư tưởng và nguyên tắc của Hội, chúng tôi không chịu nhượng bộ bất cứ một áp lực nào từ bên ngoài.

Cũng xin nhắc lại rằng sau những lần tiếp xúc đầu tiên với chi phái Ấn giáo Arya Samaj, đạo sư Dyanand đă cùng tôi thảo luận về những điều lệ mới của Hội Thông thiên học.

Ông ta đă nhận lănh một chân trong Hội đồng Quản trị của Hội, cho tôi có thẩm quyền thay mặt y trong những cuộc biểu quyết của Hội đồng bằng một văn thư chính thức, và hoàn toàn phê chuẩn kế hoạch của chúng tôi, là dung ḥa những phân chi gồm có những tín đồ các giáo phái khác nhau như Phật giáo, Bái hỏa giáo, Hồi giáo, Ấn giáo, v.v...

Nhưng về sau, tinh thần khoan dung, không bè phái của ông ta đă thay đổi trở thành óc bè phái, độc đoán, và thiện chí tốt đẹp của ông ta đối với chúng tôi đă trở thành sự đố kỵ thù nghịch.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 875 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:27am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



CHƯƠNG CHÍN: VIẾNG THĂM TÍCH LAN
I.


Chúng tôi đă quyết định viếng thăm đảo Tích Lan theo lời mời khẩn cấp của các vị chức sắc lănh đạo Phật giáo xứ ấy, và đă bận rộn suốt một tháng để chuẩn bị lên đường.

Khi mọi việc đă chuẩn bị xong, chúng tôi xuống tàu chạy miền duyên hải của công ty hàng hải Anh Ấn để đi Tích Lan.

Ngoài bà Blavatsky, ông Wimbridge và tôi, phái đoàn c̣n gồm có bạn Damodar và bốn người Ấn Độ khác. H́nh như phái đoàn chúng tôi là những hành khách duy nhất trên tàu. Trong chuyến đi này, nhờ chiếc tàu sạch sẽ, các sĩ quan hăng hái vui vẻ dễ mến, tiết trời quang đăng và những hải cảng ghé dọc đường đầy vẻ thích thú hấp dẫn, nên chúng tôi cảm thấy vui thích như được đi nghỉ mát trên tàu riêng của ḿnh.

Bà Blavatsky tinh thần đầy hứng khởi vui tươi, nói chuyện trào phúng khiến cho cả tàu đều vui nhộn. Vốn là người thích chơi bài tây, có khi bà ngồi suốt nhiều giờ mỗi ngày để đánh bài tiêu khiển với các sĩ quan trên tàu, ngoại trừ viên thuyền trưởng Wickes, v́ quy luật hàng hải ngăn cấm vị thuyền trưởng chơi bài với các viên chức trực thuộc.

Viên thuyền trưởng già là một người đẫy đà, vui tính, và không có mảy may tin tưởng vào các vấn đề tâm linh hay huyền bí. Ông ta thường nói đùa với bà Blavatsky về những quan niệm của chúng tôi với một sự dốt nát về toàn thể vấn đề đến mức làm cho chúng tôi phải bật cười.

Ngày nọ, bà Blavatsky đang chơi bài một ḿnh, tṛ chơi đơn độc mà bà thích thú nhất, th́ vị thuyền trưởng bước vào và yêu cầu bà hăy nói tiên tri số mạng của ông ta bằng một quẻ bài. Thoạt tiên bà từ chối, nhưng sau cùng bà bằng ḷng, và bảo ông ta hăy xáo trộn những quân bài rồi chọn và lật bài lên bàn.

Sau khi xem, bà nói lẩm bẩm:

– Thật là lạ lùng, có thể nào lại như vậy!

Vị thuyền trưởng hỏi:

– Bà nói thế nghĩa là sao?

– Đó là những ǵ hiện lên trên các lá bài. Ông hăy xáo bài lần nữa.

Vị thuyền trưởng làm y theo lời, khi các quân bài được chọn và lật ngửa lên th́ dường như cho thấy kết quả cũng giống y như lần trước, v́ bà Blavatsky nói rằng quẻ bài tiên tri một chuyện thật vô lư đến nỗi bà không muốn nói cho ông ta biết.

Viên thuyền trưởng khẩn khoản yêu cầu, bà mới nói rằng theo quẻ bài cho biết th́ ông ta sẽ không c̣n đi biển được bao lâu nữa; ông sẽ được cấp trên đề nghị nhận một việc làm trên đất liền, và sẽ giải nghệ.

Viên thuyền trưởng to béo cười lớn, và nói cho bà biết rằng đó chính là điều mà ông ta đang mong ước. C̣n nói về việc từ bỏ nghề đi biển, th́ không ǵ làm cho ông thích thú hơn, nhưng ông không thấy có chút triển vọng nào sẽ được sự may mắn đó.

Đến đây không ai nói thêm điều ǵ nữa, ngoài việc viên thuyền trưởng lặp lại lời tiên tri ấy cho một viên sĩ quan nghe, rồi qua ông này, nó trở nên một đề tài trào lộng chọc cười cho cả tàu!

Nhưng chưa phải là hết. Một hay hai tháng sau khi chúng tôi trở về Bombay, bà Blavatsky nhận được một bức thư của thuyền trưởng Wickes, trong đó ông nói ông phải xin lỗi bà về thái độ của ông đối với quẻ bài, và ông phải thú nhận rằng lời tiên tri ấy đă được thực hiện. Sau khi chúng tôi đổ bộ lên đảo Tích Lan, ông tiếp tục chuyến đi đến Calcutta. Khi tàu cặp bến, ông được đề nghị nhận lấy chức vụ hải quan ở cảng Karwar. Ông bằng ḷng nhận và đă đi chuyến trở về như một hành khách trên chính chiếc tàu của ông!

Đây là một trường hợp điển h́nh trong nhiều quẻ bài tiên tri khác nữa của bà Blavatsky. Tôi không nghĩ rằng những lá bài có ăn nhằm ǵ đến lời tiên tri ấy, trừ phi chúng có thể đă tác động như một cái khoen liên lạc giữa bộ óc linh thị của bà và cái hào quang tâm linh của vị thuyền trưởng, và bởi đó nó khích động khả năng thần nhăn của bà để nh́n thấy việc tương lai.

Tuy nhiên, dù bà có năng khiếu đó, tôi không thấy bà đă từng tiên liệu trước một việc nào trong số những biến cố đau thương và tổn hại thanh danh đă xảy đến cho bà do âm mưu của những kẻ phản bội và những kẻ thù nghịch đầy ác ư. Hoặc nếu có, bà cũng không hề nói với tôi hay với bất cứ một người nào, theo chỗ tôi được biết.

Có lần ở Bombay, bà bị mất trộm một kỷ vật đáng giá, nhưng bà vẫn không thể t́m ra kẻ gian, cũng không trợ giúp được nhân viên cảnh sát trong việc truy nă thủ phạm.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 876 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:28am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



II.

Nói về khả năng tiên tri, tôi nghĩ rằng có lẽ tôi cũng có đôi chút khi tôi viết trong nhật kư của tôi câu này một ngày trước khi đến hải cảng Colombo: “C̣n phải đương đầu với những trách nhiệm mới mẻ và lớn lao: những vấn đề quan trọng độc đáo c̣n tùy thuộc nơi kết quả của chuyến đi này.”

Thật không có ǵ đúng hơn nữa! Chúng tôi bỏ neo ngoài khơi cảng Colombo vào sáng ngày 16 tháng 5, và sau đó một lúc, một chiếc tàu nhỏ tiến đến cặp vào hông tàu, có chở theo Đại đức Megittuwatte Gunananda và vài nhà sư trẻ trong tu viện Phật giáo của ông đến đón chúng tôi. Đại đức Megittuwatte tuổi độ trung niên, râu tóc cạo sạch, vóc dáng trung b́nh, trán cao, mắt sáng, miệng rộng, có tác phong đầy tự tin và dáng người rất nhanh nhẹn.

Không như những nhà sư khác có vẻ trầm tư, mắt thường nh́n xuống đất khi nói chuyện, Đại đức thường ngang nhiên nh́n thẳng vào mắt người đối thoại. Ông là nhà diễn giả hùng biện, ăn to nói lớn nhất trong các giới lănh đạo Phật giáo ở xứ này, và là một mối kinh hoàng, nể sợ đối với các nhà truyền giáo Gia Tô. Vừa nh́n thấy ông, người ta biết ngay ông là một nhà tranh luận hơn là một tu sĩ khổ hạnh. Trong nhiều năm, ông là nhà lănh tụ táo bạo, xuất chúng và có uy thế mạnh mẽ nhất của Phật giáo Tích Lan, và hiện nay là lănh tụ phong trào phục hưng Phật giáo tại xứ này.

Sau khi chào hỏi chúng tôi một cách đặc biệt thân t́nh và nồng hậu, Đại đức yêu cầu chúng tôi cứ tiếp tục ở trên tàu để đi tới hải cảng Galle, tại đây đă có sắp đặt mọi việc để dành cho chúng tôi một cuộc tiếp đón quan trọng, c̣n Đại đức sẽ đích thân đáp xe hỏa đi Galle ngay chiều hôm đó.

Rạng sáng hôm sau, chúng tôi đă ở ngoài khơi hải cảng Galle. Tàu bỏ neo ngoài khơi, cách bờ độ năm trăm thước, chúng tôi bước xuống một chiếc thuyền lớn được trang hoàng lịch sự, kết hoa sặc sỡ, trên đó có các vị chức sắc Phật giáo cao cấp đến đón chúng tôi. Trên bến tàu và dọc theo băi biển, một đám đông quần chúng khổng lồ đă đợi sẵn, chờ chúng tôi đến, và đồng thanh hô to khẩu hiệu chào mừng: “Sahdu! Sahdu!” vang cả một góc trời!

Một khoảng đường được lót bằng vải trắng từ những bậc tam cấp ven bờ biển đưa lên mặt đường lộ, tại đây đă có xe chờ sẵn, và muôn ngh́n lá cờ được phất lên một cách nhiệt t́nh để nghênh đón chúng tôi. Quần chúng vây quanh và đi theo đoàn xe, cuộc diễu hành trực chỉ nơi trú quán dành sẵn cho chúng tôi là biệt thự của bà Wijeratne, quả phụ của một nhà thầu tỷ phú tại Galle.

Khi đến nhà, có ba vị sư trưởng đón tiếp và ban ân huệ cho chúng tôi tại ngưỡng cửa, miệng lẩm nhẩm đọc kinh chúc lành bằng thổ ngữ Nam Phạn (Pli). Kế đó, chúng tôi có một buổi hội kiến với các nhân vật địa phương và vô số quan khách đến chào mừng.

Bà Wijeratne và con trai bà lo săn sóc phục dịch chúng tôi một cách chu đáo tận t́nh. Trên các bàn lớn giữa nhà luôn luôn có đầy những mâm kẹo bánh, thực phẩm ngon lành và hoa quả, trái cây tươi ngon cỡ thượng hạng không đâu s ánh kịp. Chốc chốc lại có thêm một cuộc diễu hành mới, gồm các phái đoàn sư săi áo vàng, sắp đặt theo thứ tự thâm niên của họ kể từ khi xuất gia, tuần tự đến viếng và chúc lành chúng tôi.

Thật là một kinh nghiệm độc đáo, một điềm triệu tốt lành rực rỡ mở màn cho những mối quan hệ tương lai của chúng tôi với xứ này. Trong thời gian sau đó, luôn luôn chúng tôi có khách đến viếng đầy nhà và văng lai không ngớt suốt ngày, ngày nào cũng như ngày ấy.

Những cuộc thảo luận về đạo lư vẫn tiếp diễn không ngừng với vị sư trưởng cao niên Bulatgama Sumanatissa và với những nhà sư thông thái khác. Do sự sắp đặt của Ban tổ chức, tôi có một bài thuyết tŕnh trước công chúng vào ngày 22 về Thông thiên học, với số cử tọa đông đảo chật ních cả hội trường. Ngoài phái đoàn của chúng tôi c̣n có đủ mặt tất cả các sư trưởng và chức sắc của nhiều chi phái Phật giáo đến dự thính.

Cuộc thăm viếng này của chúng tôi là bước khởi đầu giai đoạn thứ nh́ của phong trào phục hưng Phật giáo do Đại đức Megittuwatte khởi xướng trước đây. Đó là một phong trào nhằm mục đích qui tụ toàn thể giới thanh thiếu niên Tích Lan vào những trường học Phật giáo.

Tờ thông tri dưới đây do bạn Damodar chính thức công bố cho thấy những bước đầu tiên do chúng tôi thực hiện để đưa đến việc thành lập những Chi hội Thông thiên học trên đảo Tích Lan.

“THÔNG TRI

Một cuộc hội họp sẽ được tổ chức vào chiều thứ hai tới đây tại Minuvengoda lúc 20 giờ. Trong dịp này, Đại tá Olcott sẽ tŕnh bày về những mục đích của Hội Thông thiên học. Sau đó, quư vị nào muốn gia nhập Hội có thể ghi tên.

Galle, ngày 22 tháng 5 năm 1880

(Thừa lệnh)

Damodar K. Mavalankar

Phó Tổng Thư Kư Hội Thông Thiên Học”

Cuộc hội họp ấy do vị Sư trưởng Bulatgama chủ tọa, và Đại đức Megittuwatte khai mạc bằng một bài diễn văn hùng hồn làm khích động ḷng người.

Ngày hôm sau, có mười một người đầu tiên được tôi thâu nhận vào hàng ngũ hội viên, và cùng với họ, tôi tổ chức Chi hội Thông thiên học tại Galle.

Thế rồi bắt đầu một cuộc hành tŕnh dài hạn để viếng thăm nhiều thành phố khác nhau ở các vùng địa phương trên đảo. Những sự việc đă xảy ra tại Galle lại tái diễn ở các nơi khác: những cuộc tiếp đón long trọng; những sự vui mừng nồng nhiệt của quần chúng; những buổi nói chuyện trước những cử tọa đông đảo, thường có đến vài ngàn người; những cuộc viếng thăm các tu viện, chùa chiền, bàn luận giáo lư với các vị sư trưởng và các vị sư tăng ưu tú lỗi lạc, v.v...

Với đà diễn biến đó, dần dần tôi thành lập được các Chi hội Thông thiên học tại Colombo với 27 hội viên; Chi hội Kandy với 17 hội viên; các Chi hội Lanka, Bentota (23 hội viên), Welitara, Panadure, Matara, v.v...

Ngoài ra, tôi c̣n nhận được hàng chục thư mời đến viếng những làng mạc xa xôi ở các vùng quê hẻo lánh. Thế là, sau cuộc viếng thăm các thành phố lớn, tôi bắt đầu đi thăm viếng các vùng làng mạc và thôn quê.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 877 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:29am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



III.

Nếu có ai nghĩ rằng cái ảnh hưởng mà Hội Thông thiên học tạo ra ở các xứ phương Đông đă có được một cách dễ dàng mà không phải mất nhiều công lao khó nhọc, xin hăy đọc qua những trang của quyển hồi kư này.

Ngày ngày hoạt động, suốt tuần, suốt tháng, suốt năm, đều được ghi chép về những chuyến đi công tác đạo sự bằng tất cả mọi loại phương tiện di chuyển, từ toa xe lửa cho đến các loại xe ngựa, xe thồ, lớn nhỏ đủ kiểu, do một con ngựa hay con ḅ kéo. Có khi đi bằng thứ xe ḅ thông dụng ở vùng đồng quê, với những bánh xe to lớn, chỗ ngồi làm bằng tre phủ lên một lớp rơm mỏng, do một cặp ḅ gù lưng mang trên cổ một cái ách bằng cây kéo đi chậm chạp. Có khi đi bằng thuyền ván đóng sơ sài với một mái che bằng lá dừa thiếu tiện nghi, chỗ ngồi không có ghế hoặc nệm chi cả. Khi th́ ngồi trên lưng voi trong một cái bành, hoặc thông thường hơn nữa là lưng voi không có bành, mà chỉ có một tấm nệm dày buộc vào ḿnh voi bằng những sợi dây to lớn.

Có khi di chuyển trong những ngày sáng sủa tốt trời, có khi gặp những ngày mưa dầm như trút nước; có khi đi trong những đêm trăng sáng, có đêm đi dưới ánh sao. Có những đêm, giấc ngủ của tôi bị gián đoạn bởi những âm thanh, tiếng động chọc thủng lỗ tai của cái thế giới sâu bọ trong rừng già của vùng nhiệt đới, tiếng kêu rùng rợn của loài chó rừng, tiếng động từ xa của những con voi rừng đi xuyên qua các băi mía, những tiếng ḥ hét không ngừng của người phu xe thúc đẩy những con ḅ chậm chạp, và những bài dân ca mà anh ta hát vang thường trộn lẫn với những âm thanh chát chúa để giữ cho anh ta khỏi buồn ngủ dọc đường.

Ngoài ra, c̣n có những đám muỗi ṃng vây phủ quanh ḿnh khi ngồi trên xe, với tiếng vo ve inh ỏi và những mũi dùi nhọn của chúng, gây nên một thứ cực h́nh chậm chạp và những vết mẩn đỏ nổi trên da thịt sáng hôm sau.

Kế đó là lúc đến nơi, xe tiến vào các làng mạc lúc trời hừng sáng; toàn thể dân làng đứng chực sẵn hai bên đường để đón tiếp; sự ṭ ṃ của họ phải được thỏa măn; những sự khó khăn gặp phải khi bạn cần tắm rửa sạch sẽ khi vừa đến nơi, sau chuyến đi vất vả mệt nhọc; bữa ăn điểm tâm với cà phê, bánh hấp và trái cây; cuộc viếng thăm các nơi tịnh xá, tu viện; những cuộc thảo luận về kế hoạch, chương tŕnh hành sự và những triển vọng tương lai với các nhà lănh đạo Phật giáo; một buổi nói chuyện ngoài trời, hoặc nơi một giảng đường nếu có, trước một quần chúng đông đảo.

Kế đó là việc ghi tên họ những người quyên góp vào quỹ phước thiện, cho thỉnh kinh sách Phật giáo nhập môn và Phật giáo vấn đáp. Đến chiều, có khi c̣n phải nói chuyện lần thứ nh́ cho những người mới đến sau từ những làng lân cận.

Rồi đến những màn từ giă, giữa những tiếng trống dồn dập và tiếng kèn bản xứ inh ỏi vang tai, những dân làng phất cờ tiễn đưa và hô to khẩu hiệu “Sadhu! Sadhu!”, rồi lại tiếp tục chuyến đi qua những làng khác trên những chiếc xe ḅ kêu kĩu kịt.

Bấy nhiêu sự việc vẫn tiếp diễn ngày này qua ngày khác, trong khi tôi đi châu du khắp nơi trong miền tây đảo Tích Lan, làm cho quần chúng lưu ư đến vấn đề giáo dục con em theo đường lối, tôn chỉ nền quốc giáo của dân tộc họ, phân phát kinh sách, và kêu gọi sự quyên góp, cúng dường vào quỹ Phật giáo để thực hiện kế hoạch công ích vĩ đại này.

Ngày 12 là ngày cuối cùng của chúng tôi trên đảo Tích Lan. Ngày 13, tàu đến, và chúng tôi lên tàu lúc hai giờ trưa, để lại sau lưng nhiều bạn hữu ứa lệ v́ tiếc thương, và đem theo chúng tôi nhiều kỷ niệm êm đềm của t́nh tương thân tương ái, sự vui ḷng trợ giúp và thiện chí tốt đẹp.

Thêm vào đó là kỷ niệm của những chuyến đi thích thú thần tiên với những danh lam thắng cảnh đẹp như mơ, những quần chúng đầy hứng khởi nhiệt thành, và những kinh nghiệm lạ lùng, cũng khá đủ tràn đầy kư ức với những h́nh ảnh sống động, để c̣n hồi tưởng lại trong những năm về sau với một niềm sung sướng triền miên, với sự trợ giúp của vài hàng nhật kư cũ.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 878 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:30am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



CHƯƠNG MƯỜI: MỘT CUỘC KHỦNG HOẢNG NỘI BỘ
I.


Vào khoảng cuối năm 1879, bắt đầu có sự bất ḥa trong cuộc sống tập thể của nhóm bốn người trong chúng tôi. Đó là nguyên nhân đưa đến sự phân ly giữa nhóm người lưu vong khởi hành từ Hoa Kỳ sang đây. Sự kết hợp của nhóm người này là một điều vô lư và phản tự nhiên, một sản phẩm kỳ khôi ngông cuồng của bà Blavatsky và đương nhiên là phải gây xáo trộn.

Bà Blavatsky và tôi, như đă nói trước đây, vẫn luôn luôn đồng một quan niệm về vấn đề các đấng chân sư, sự liên hệ giữa chúng tôi với các ngài, và về lư tưởng phụng sự. Dầu cho giữa chúng tôi một đôi khi có sự va chạm nào, do bởi sự cách biệt phàm ngă và bởi cái nh́n khác biệt nhau về các vấn đề thế sự, chúng tôi vẫn luôn luôn hoàn toàn ḥa hợp ư kiến về một lư tưởng chung và về việc thực hiện lư tưởng đó.

Nhưng đối với hai người bạn kia th́ lại khác. Ông Wimbridge và cô Bates đều là người Anh, và chỉ được phết một lớp sơn hiểu biết nông cạn về các vấn đề huyền học, siêu h́nh, do ḷng hứng khởi nồng nhiệt của bà Blavatsky truyền sang.

Ông W. là một họa sĩ kiến trúc sư, c̣n cô Bates là một nữ giáo viên dạy trẻ, độ chừng ba mươi lăm tuổi. Cả hai đều đă sống vài năm ở Mỹ, và được giới thiệu cho bà Blavatsky do những bạn quen của đôi bên. Cả hai đều tán thành kế hoạch của bà Blavatsky theo đó họ sẽ cùng đi với chúng tôi sang Ấn Độ để hành nghề tùy khả năng của mỗi người, với sự trợ giúp có thể t́m cho họ do ảnh hưởng của chúng tôi đối với những người Ấn Độ có thế lực.

Tôi không có ǵ phiền trách ông W., nhưng cảm thấy một sự đố kỵ tự nhiên đối với cô kia. Tôi yêu cầu bà Blavatsky đừng cho cô ấy đi theo chúng tôi. Bà luôn luôn đáp rằng v́ cả hai đều là người Anh có tinh thần yêu nước, nên có họ đi cùng với ḿnh sẽ là một sự bảo đảm đối với nhà cầm quyền Anh Ấn, cho thấy sự vô tư của chúng tôi, hoàn toàn không có ư đồ hay mục tiêu chính trị. Bà c̣n nói bà sẽ gánh chịu tất cả mọi hậu quả của việc này, v́ bà biết rằng sự liên hệ với hai người ấy hoàn toàn vô hại.

Trong việc này, cũng như trong một trăm trường hợp khác nữa, tôi luôn luôn nhượng bộ trước sự tiên kiến chắc hẳn là huyền diệu và cao siêu hơn của bà; và thế là chúng tôi tất cả bốn người cùng vượt biển sang Ấn Độ và cùng định cư với nhau ở Bombay.

Nhưng than ôi! Thật là không may mắn chút nào! Cô Bates bắt đầu gây nên một sự hiểu lầm giữa bà Blavatsky và một thiếu phụ khác, hội viên Hội Thông thiên học ở New York, lôi cuốn ông W. vào cuộc tranh chấp, và làm tan vỡ sự ḥa hợp trong nhóm chúng tôi.

Tôi không dính dáng ǵ vào sự hiềm khích ấy, nhưng sau cùng tôi phải đảm nhiệm cái công tác không thú vị là bắt buộc cô Bates phải ra khỏi Hội. Đó là cái số phận luôn được gán ghép cho tôi: bà Blavatsky là người vô t́nh gây nên những vụ căi lẫy, tranh chấp, c̣n tôi phải hứng chịu những cú đấm đá và đuổi cổ những kẻ bất hảo! Điều này, tất cả những bạn bè quen thuộc của chúng tôi đều biết rơ.

Bà bạn tôi luôn nói đến năng khiếu “linh cảm, linh giác” của bà, nhưng cái năng khiếu đó rất ít khi giúp bà phát hiện một kẻ phản bội hay một kẻ thù truyền kiếp đến với chúng tôi dưới lớp ngụy trang của một t́nh bạn giả tạo.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 879 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:31am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



II.

Trong chuyến đi Tích Lan kể trên, chúng tôi để cô Bates và bà Coulomb ở lại coi sóc Hội quán. Ông bà Coulomb là hai người Pháp vừa mới đến giúp việc cho chúng tôi. V́ cô Bates là phụ nữ độc thân, c̣n bà Coulomb đă có kinh nghiệm về nội trợ, nên tôi bỗng có cái ư nghĩ dại dột là bảo cô Bates hăy giao chức quản gia của cô lại cho bà Coulomb, c̣n cô lănh nhiệm vụ khác.

Cuộc đời làm gia trưởng trên mười lăm năm của tôi vẫn chưa dạy cho tôi biết điều khôn dại này, là đừng nên để cho một người mới đến có cái cơ hội làm “bà chủ” để sai phái chỉ huy người đàn bà kia! Bây giờ th́ tôi đă biết rồi. Khi chúng tôi trở về Bombay, th́ thấy Hội quán có một bầu không khí rất căng thẳng: cô Bates và bà Coulomb đang xung đột nhau, tất cả mọi sự tố giác và phản kích được cả hai người tranh nhau đổ vào lỗ tai không muốn nghe của chúng tôi!

Cô Bates tố giác bà Coulomb toan bỏ thuốc độc cho cô, và bà này cũng trả đũa bằng một sự tố giác tương tự, ăn miếng trả miếng. Tôi muốn lấy chổi quét cả hai ra khỏi nhà, và đó là một điều rất tốt nếu tôi có thể làm. Nhưng thay v́ như thế, tôi lại được mời làm phán quan phân xử những sự tranh chấp căi lẫy của họ.

Thế là tôi đành phải ngồi nghe những chuyện vô lư của họ suốt hai đêm liên tiếp, và sau cùng tôi quyết định rằng vụ tố giác bà Coulomb bỏ thuốc độc không đủ lư do buộc tội v́ không có bằng chứng cụ thể.Lư do chính của vụ xung đột là v́ chúng tôi đă giao chức vụ quản gia cho bà Coulomb khi chúng tôi vắng mặt, và cô Bates không hài ḷng với nhiệm vụ biên tập viên tạp chí mà chúng tôi giao cho cô.

Trong khi tôi phân xử, bà Blavatsky ngồi kế bên; bà có vẻ hút thuốc lá hơi nhiều hơn lúc thường, và thỉnh thoảng cũng góp một lời, nhưng ư kiến của bà lại có khuynh hướng làm tăng thêm hơn là làm dịu bớt sự căng thẳng.

Sau cùng, ông Wimbridge, với tư cách là bạn của cô Bates, cũng đồng ư với tôi để bắt buộc cả hai đàng phải chịu ḥa giải, và tạm thời cơn giông tố đă lắng dịu. Những ngày kế đó, chúng tôi hoàn toàn bận rộn với công việc sưu tập và soạn bài cho tờ tạp chí “Theosophist”, một việc đă trở nên rất khẩn thiết sau thời gian vắng mặt khá lâu của chúng tôi.

Ngay trước khi trở về Bombay, chúng tôi được tin bạn Mulji Thackersey đă từ trần, và thế là Hội Thông thiên học đă mất đi một cộng tác viên đắc lực. Chiều tối ngày 4 tháng 8 năm ấy, một vị chân sư đến viếng bà Blavatsky, và tôi được gọi đến để gặp ngài trước khi ngài từ giă.

Ngài đọc cho tôi viết một bức thư dài rất quan trọng cho một bạn đạo có thế lực của chúng tôi ở Paris, và đưa cho tôi những gợi ư quan trọng về vấn đề quản trị công việc của Hội.

Tôi được mời ra ngoài trước khi cuộc viếng thăm kết thúc, và v́ tôi để ngài ngồi lại trong pḥng với bà Blavatsky, nên tôi không thể biết rằng ngài đă ra đi bằng cách nào, và ngài có biến mất một cách mầu nhiệm hay không.

Cuộc viếng thăm ấy đến với tôi rất đúng lúc, v́ chính vào ngày hôm sau đă xảy ra một vụ nổ lớn: cô Bates phẫn nộ với bà Blavatsky về một việc có liên quan đến người thiếu phụ ở New York kể trên, và căm giận quyết định của tôi trong vụ phân xử cuộc xung đột giữa cô với bà Coulomb.

Trong khi cô day lưng về phía tôi và c̣n đang căi vă với bà Blavatsky th́ một bức thư của vị chân sư đến chiều hôm trước từ trên không trung rơi xuống chỗ tôi ngồi. Tôi mở thư ra xem, th́ thấy đó là lời khuyên của ngài về hành động tốt nhất mà tôi phải làm trong cơn khó khăn hiện tại.

Ngày hôm sau, bắt đầu cuộc chia ly giữa bốn người trong nhóm chúng tôi; ông Wimbridge đứng về phe cô Bates. Có sự đồng ư chung về kế hoạch mua vé tàu cho cô Bates trở về New York, nhưng rốt cuộc điều này đă bị cô bác bỏ, sau khi một bạn đạo là ông Seervai đă lo sắp đặt xong mọi việc và làm các thủ tục cần thiết.

Thật là một điều đáng tiếc v́ câu chuyện xảy ra do sự ganh tị, hiềm khích nhỏ nhen giữa đàn bà, một vụ xung đột thật vô lư và không đáng xảy ra. Lẽ ra nó đă có thể tránh khỏi bằng cách sử dụng lư trí và một chút nhẫn nhục, tự chủ.

Tuy rằng đối với chúng tôi, chuyện ấy không có ǵ đáng bận tâm, nhưng nó đă gây một ảnh hưởng xấu cho Hội. Một hậu quả đáng tiếc là những người ly khai đă t́m cách liên hệ với một tờ nhật báo bản xứ ở Bombay, từ trước vẫn không hề có thiện cảm với chúng tôi, và tờ báo này đă công khai mạ lỵ Hội Thông thiên học với những lời lẽ cay đắng vẫn c̣n tiếp tục cho đến bây giờ.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 880 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:33am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



III.

Cộng thêm vào cái viễn ảnh đen tối đó, sau chuyến đi Tích Lan trở về, chúng tôi thấy những Hội viên đều im ĺm mê ngủ và Chi hội Bombay hoàn toàn bất động. Hai tháng vắng mặt của chúng tôi dường như đă làm tê liệt mọi hứng thú đối với công việc Hội, và khi tờ nhật báo bản xứ nói trên bắt đầu khai pháo tấn công th́ ṿm trời của chúng tôi có vẻ rất u ám.

Tuy vậy, chúng tôi vẫn tiếp tục với một ư chí kiên cường dũng mănh, cố gắng cho tờ tạp chí ra đúng kỳ hạn mỗi tháng và trả lời thư từ bốn phương gửi đến chúng tôi với số lượng càng ngày càng nhiều. Đó là một trong những cơn khủng hoảng của Hội, mà trong t́nh trạng hầu như cô đơn, bà Blavatsky và tôi cùng sát cánh với nhau một cách chặt chẽ nhất để hỗ trợ tinh thần và khích lệ lẫn nhau.

Tuy rằng những bạn bè thân tín nhất có thể phản bội và những cộng tác viên đắc lực nhất có thể bỏ cuộc nửa chừng, chúng tôi luôn nói với nhau những lời đầy lạc quan, cố ư làm cho nhau nghĩ rằng cơn nghịch cảnh hiện tại không có ǵ đáng kể, và sẽ trôi qua như một cụm mây thưa thớt của mùa hè.

Khi đó, chúng tôi biết, v́ cả hai chúng tôi đều có bằng chứng cụ thể và thường xuyên, rằng các đấng cao cả mà chúng tôi phục vụ luôn bao bọc che chở chúng tôi với nguồn thần lực mạnh mẽ và ân huệ của các ngài; đó là một cái khiên vững chắc để bảo vệ chúng tôi khỏi mọi sự trắc trở nguy vong, và một điềm triệu báo trước sự thành công hoàn toàn trong sứ mạng.

Tuy nhiên, với thời gian qua chúng tôi không đến nỗi cô đơn. Một số bạn đạo người Ấn Độ thường xuyên đến trợ giúp chúng tôi, và dần dần chúng tôi phục hồi lại được cái tư thế đă mất của thuở ban đầu.

Trong số những người cộng tác đắc lực với chúng tôi có bạn Damodar Mavalankar, một thanh niên Ấn thuộc ḍng Bà-la-môn mà tôi đă nhiều lần đề cập tới trước đây.

Tuy dáng người mảnh mai, ốm yếu, anh ta đă lao ḿnh vào công việc của Hội với tất cả tâm hồn và biểu lộ một tấm ḷng trung kiên sắt đá không ǵ lay chuyển. Hồi c̣n thơ ấu, anh đă từng vướng một chứng bệnh ngặt nghèo và bị sốt nặng sắp chết. Trong cơn mê sảng, anh nh́n thấy linh ảnh một bậc hiền giả đạo mạo bước đến gần, nắm tay anh và bảo anh chưa nên chết vội, mà phải sống để làm việc đạo trong tương lai.

Sau khi gặp bà Blavatsky, nhăn quang tâm linh của Damodar phát triển dần dần, và anh nhận ra đấng mà chúng tôi gọi là chân sư K. H. chính là nhà hiền giả đă xuất hiện trong cơn mê sảng của anh ta hồi c̣n bé, khi anh đang nằm hấp hối trên giường bệnh. Điều này đă làm cho anh càng quyết tâm trung thành với lư tưởng và mục đích của chúng tôi; và xem bà Blavatsky như người mẹ đỡ đầu.

Đối với tôi Damodar đặt một niềm tin tuyệt đối, lẫn cả t́nh thương và ḷng kính trọng. Anh ta bênh vực tôi khi tôi vắng mặt, trước những sự vu khống công khai hay riêng tư, và đối xử với tôi như con đối với cha. Damodar đă hợp tác chặt chẽ và sát cánh với chúng tôi trong một t́nh thân hữu đậm đà nhất.

Anh ta làm việc với một ḷng trung thành và vô kỷ tuyệt đối cho đến năm 1885, khi đó anh khởi hành từ Madras sang Tây Tạng, qua Darjiling, và vẫn c̣n ở đó dưới sự huấn luyện của chân sư để chuẩn bị cho anh ta làm công tác phụng sự nhân loại trong tương lai. Thỉnh thoảng, có tin đồn nhảm được loan truyền rằng anh ta đă chết trên lộ tŕnh đầy tuyết phủ trong chuyến đi lên dăy Tuyết Sơn, nhưng tôi có lư do vững chắc để tin rằng anh vẫn c̣n sống mạnh khỏe và có ngày sẽ trở về. Tôi sẽ trở lại vấn đề này ở một đoạn sau.

Có lần Damodar nhận được bốn bức thư gửi đến từ bốn thành phố cách nhau rất xa và tất cả đều có đóng dấu sở Bưu điện. Tôi đưa tất cả cho Giáo sư Smith, yêu cầu ông hăy vui ḷng xem xét cẩn thận mỗi bao thư xem có dấu hiệu ǵ chỉ ra rằng có ai đă bóc thư hay không, v́ trong thư tín của chúng tôi thường thấy có những lời ghi chú của chân sư viết thêm vào những khoảng trống.

Sau khi đă khám xét tỉ mỉ, giáo sư trả lại cho tôi và nói rằng tất cả các thư đều c̣n nguyên vẹn hoàn toàn, không có dấu vết ǵ khả nghi. Tôi liền yêu cầu bà Blavatsky hăy thử “nh́n” xem có thông điệp nào của chân sư trong đó không. Bà bèn cầm lấy các thư vẫn c̣n nguyên vẹn, để từng cái một lên trán, và nói rằng trong hai bức thư có chữ viết của chân sư.

Kế đó bà đọc các thông điệp bằng khả năng linh thị, và tôi yêu cầu giáo sư Smith hăy tự tay ông mở các bao thư. Ông này săm soi xét kỹ các bao thư một lần nữa rồi lấy dao rọc mở các bao, và tất cả chúng tôi đều thấy rằng nội dung các thông điệp đều giống y như bà Blavatsky đă đọc.

Chính vào ngày chia ly giữa nhóm chúng tôi như đă kể trên, chúng tôi nhận được thư ông Sinnett mời chúng tôi lên chơi tại nhà nghỉ mát của ông ở Simla, thủ đô mùa hè của Chính phủ Ấn Độ, ở dưới chân dăy Tuyết Sơn.

Chúng tôi rời khỏi Bombay bằng xe lửa và dọc đường chúng tôi ghé lại vài thị trấn trên miền Bắc để viếng thăm các Chi hội đă thành lập trước đây. Kế đó, chúng tôi ngồi xe thồ leo đường dốc núi đến Kalka, nghỉ ngơi tại đó nửa ngày rồi mới thuê xe ngựa để đi Simla.

Cảnh vật miền núi thật là hùng vĩ, ngoạn mục với những đỉnh núi cao trùng điệp nối tiếp nhau đến tận chân trời. Chúng tôi đến thị trấn Simla trước khi mặt trời lặn, những ngôi biệt thự phản chiếu ánh nắng vàng làm cho thành phố có vẻ rất hấp dẫn.

Một người giúp việc của gia đ́nh ông Sinnett đón tiếp chúng tôi khi vào thành phố với những chiếc kiệu nhỏ hai người khiêng ở hai đầu, và không bao lâu chúng tôi đă đến ngôi biệt thự của ông bà Sinnett. Tại đây, một cuộc tiếp đón nồng hậu đang chờ đợi chúng tôi.



Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 

<< Trước Trang of 58 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 1.9375 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO