Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
  H́nh Ảnh Từ Thiện
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Thông Tin
  Thông Báo
  Báo Tin
  Liên Lạc Ban Điều Hành
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Nhờ Coi Quẻ
  Nhờ Coi Ngày
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Tử Vi
  Tử Bình
  Kinh Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Bói Bài
  Đoán Điềm Giải Mộng
  Khoa Học Huyền Bí
  Thái Ất - Độn Giáp
  Y Dược
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch và Phong Thủy 3
Kỹ Thuật
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
Thư Viện
  Tủ Sách
  Bài Viết Chọn Lọc
Linh Tinh
  Linh Tinh
  Giải Trí
  Vườn Thơ
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 196 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
chindonco (3250)
hiendde (2589)
HoaCai01 (2277)
vothienkhong (1807)
dinhvantan (934)
ryan88 (805)
Vovitu (713)
ruavang (691)
lancongtu (667)
TranNhatThanh (644)
Hội viên mới
redlee (0)
dautranhsinhton (0)
Chieu Tim1234 (1)
huyent.nguyen (0)
tamsuhocdao (0)
henytran2708 (0)
thuanhai_bgm (0)
Longthienson (0)
thuyenktc (0)
liemnhi (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Truyện tâm linh - hiendde Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 881 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:35am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



CHƯƠNG MƯỜI MỘT: THỊ TRẤN SIMLA
I.


Thị trấn Simla phô bày trước mắt chúng tôi những cảnh tượng rất hùng vĩ của miền sơn cước. Ngôi biệt thự của ông Sinnett tọa lạc trên một triền núi, nh́n xuống một vùng thung lũng rất ngoạn mục, và ngồi trên hàng ba nhà ông, người ta có thể nh́n thấy những biệt thự của phần nhiều những vị quan chức Anh Ấn cao cấp nắm guồng máy cai trị cả một đất nước rộng lớn này.

Sáng hôm sau, hành động đầu tiên của ông Sinnett là bắt đầu có một cuộc nói chuyện rất nghiêm trọng với bà Blavatsky về chính sách mà bà nên theo đuổi. Ông khẩn khoản yêu cầu bà hăy xem cuộc viếng thăm này như một chuyến đi chơi giải trí mà thôi, và trong thời gian ba tuần lễ ở tại đây đừng nói ǵ đến Hội Thông thiên học, cũng đừng đề cập đến việc chúng tôi bị Chính phủ theo dơi v́ t́nh nghi là gián điệp của Nga.

Nói tóm lại, hăy quên đi việc riêng của ḿnh, mà tốt hơn hăy đạt kết quả bằng cách gây cảm t́nh trong các giới quen biết tại đây, những giới này sẽ không có thiện cảm nếu họ bị bắt buộc phải nghe những quan niệm dị kỳ của chúng ta và nghe những sự than phiền về những nỗi bất công vô lư mà chúng ta phải chịu.

Lẽ tất nhiên, bà Blavatsky hứa sẽ nghe theo, và cũng lẽ tất nhiên, bà quên hết tất cả khi người khách đầu tiên vừa bước chân vào nhà. Những tin tức từ Bombay về hậu quả của vụ xung đột với cô Bates làm cho bà xúc động đến cực điểm, và sáng ngày hôm sau, như thường lệ, bà trút hết tất cả mọi tội lỗi, trách nhiệm lên đầu tôi. Bà giậm chân, đi tới đi lui trong pḥng và nói một ḿnh cơ hồ như tôi là nguyên nhân của tất cả mọi sự đắng cay khổ sở của bà.

Sau đó, ông Sinnett, trong một buổi nói chuyện riêng với tôi, có bày tỏ sự thất vọng v́ thấy rằng bà không chịu tự chủ mà đă bỏ mất tất cả những cơ hội kết thân với những người rất cần gây thiện cảm như một điều tối ư quan trọng.

Ông nói rằng người Anh luôn xem đức tính tự chủ, điềm nhiên như một dấu hiệu của giá trị nhân bản thật sự. Bà bạn trung kiên của chúng tôi, phu nhân Gordon, là vị khách đầu tiên tại Simla, và sau đó nối tiếp nhau một loạt những quan chức quan trọng nhất của Chính phủ ông Sinnett cố t́nh mời đến nhà để gặp bà Blavatsky.

Trong tập nhật kư của tôi có chép rằng bà bắt đầu thực hiện những hiện tượng thần thông ngay lập tức. Từ ngày đầu tiên cho đến sau, không một buổi dạ tiệc nào được xem như đầy đủ mà không có sự biểu diễn những phép thuật của bà Blavatsky, chẳng hạn như phát động tiếng gơ nhịp dưới mặt bàn và tiếng chuông reo trong không khí, v.v... Thậm chí, bà c̣n làm cho tiếng chuông reo ở trên và bên trong đầu của những vị chính khách nghiêm trang khả kính nhất.

Từ trước đến nay, chúng tôi vẫn bị Chính phủ ghét và theo dơi v́ nghi ngờ là gián điệp của Nga. Một mục tiêu của chuyến đi này là phải làm sao giải tỏa sự hiểu lầm vô lư đó để cho công việc của chúng tôi ở Ấn Độ khỏi bị ngăn trở, chướng ngại. Nhưng tôi phải đợi cho đến khi chúng tôi đă đích thân gặp gỡ và tiếp xúc với tất cả những vị quan chức ở cấp lănh đạo, để cho họ có cơ hội nhận xét trực tiếp về tác phong, hạnh kiểm và ư đồ khả hữu của chúng tôi khi đến xứ Ấn Độ.

Khi nhận thấy đă đến lúc, một ngày nọ sau bữa ăn tối, tôi nói chuyện một cách thân hữu với vị Bộ trưởng Bộ Ngoại vụ trong Chính phủ, và sắp đặt một cuộc trao đổi thư từ, kèm theo với những bản sao các văn kiện, chứng thư riêng của tôi. V́ tính cách lịch sử và tầm mức quan trọng của vấn đề này, nên tôi in lại nguyên văn bức thư của tôi như sau:

“Simla, ngày 27 tháng 9 năm 1880

Kính gửi: Ông Bộ trưởng Bộ Ngoại vụ.

Thưa ông Bộ Trưởng,

Tham chiếu cuộc đàm thoại giữa chúng ta ngày thứ Bảy vừa qua về Hội Thông thiên học và công việc của Hội tại Ấn Độ, và thể theo lời đề nghị của chính ông, tôi xin tŕnh bày lại vấn đề bằng văn thư.

1. Hội Thông thiên học được tổ chức tại New York năm 1875 bởi một số học giả khoa Đông phương học và Tâm linh học, nhằm mục đích học hỏi khảo cứu các tôn giáo, triết lư và khoa học cổ của Á châu với sự trợ giúp của các nhà học giả, chuyên viên bản xứ.

2. Ngoài những mục đích kể trên, Hội không có mục đích nào khác nữa, và nhất là không có ư định xen vào các vấn đề chính trị, dù ở Ấn Độ hay bất cứ ở đâu.

3. Năm 1878, hai nhà sáng lập Hội là bà H. P. Blavatsky (một công dân Nga đă nhập quốc tịch Mỹ[4] và là một học giả khoa Tâm linh học Á châu) và tôi, cùng với hai hội viên khác (thuộc quốc tịch Anh) đă đến Ấn Độ để xúc tiến công việc của Hội. V́ lẽ hai người trong nhóm chúng tôi là người Anh, người thứ ba có quốc tịch Mỹ, và tôi là một công dân sinh trương tại Mỹ, nên chúng tôi không hề dính líu đến vấn đề chính trị của xứ Ấn Độ.

Riêng tôi có một thẻ thông hành đặc biệt (theo thể thức ngoại giao) do Ngoại trưởng Evarts cấp, với một chứng thư của Bộ Ngoại giao Mỹ giới thiệu tôi cho các vị đại sứ và lănh sự Mỹ ở hải ngoại, cùng với một chứng thư tương tự viết tay của Tổng thống Hoa Kỳ. Những bổn sao các văn kiện trên đă được lưu trữ tại Văn khố của Chính phủ tiểu bang Bombay, và sẽ được gửi đến Bộ Ngoại vụ Ấn Độ trong nay mai.

4. Những báo cáo sai lầm, do không hiểu biết rơ hay có ác ư, về mục đích của chúng tôi tại Ấn Độ đă được đệ tŕnh lên Chính phủ Ấn, bởi đó chúng tôi bị đặt dưới sự canh chừng và theo dơi của nhân viên an ninh, nhưng công việc này đă được thi hành một cách vụng về đến nỗi làm cho cả nước đều chú ư, và người dân bản xứ thấy rằng mọi liên hệ với chúng tôi sẽ gây ác cảm đối với chính quyền, và sẽ ảnh hưởng bất lợi đến tương lai của họ.

Như vậy, những kế hoạch lợi ích của Hội chúng tôi bị ngăn trở một cách trầm trọng, và chúng tôi phải chịu nhiều sự ngược đăi hoàn toàn không có lư do chính đáng, do hậu quả hành động của Chính phủ căn cứ trên những tin đồn nhảm và thất thiệt.

5. Bất cứ người nào đă từng có dịp biết rơ sự thật, đều nhận thấy rằng trong thời gian lưu trú của chúng tôi trên mười tám tháng nay ở Ấn Độ, chúng tôi đă tạo một ảnh hưởng lành mạnh và bảo thủ đối với dân bản xứ, và được họ chấp nhận như những người bạn tốt lành, chân chính của dân tộc và xứ sở họ. Chúng tôi có giữ nhiều thư từ gửi đến từ khắp mọi nơi trên xứ Ấn Độ để chứng thực điều ấy.

Nếu Chính phủ có thể giải tỏa những sự bất lợi mà họ đă vô t́nh gây cho chúng tôi, và phục hồi trở lại thanh danh mà chúng tôi vẫn có trước khi cái nhăn hiệu “âm mưu chính trị” bị chụp mũ lên đầu chúng tôi một cách tàn nhẫn và bất công như đă kể trên, th́ chúng tôi sẽ có thể làm một công việc phụng sự lớn lao không những cho dân chúng Ấn Độ mà c̣n cho cả nền văn hóa và khoa học Đông phương.

Nhưng nếu lệnh theo dơi chúng tôi chỉ bị hủy bỏ không thôi cũng vẫn chưa đủ, v́ sự nghi ngờ đă âm thầm tác động từ trên xuống dưới trong guồng máy cai trị của Chính phủ, xuyên qua tất cả mọi giai tầng cơ sở trong quần chúng Ấn, làm cho chúng tôi đương nhiên trở thành một h́nh ảnh của tai họa.

Như một giải pháp hữu hiệu, chúng tôi yêu cầu Bộ Ngoại vụ ra lệnh cho các cấp trực thuộc hăy thông báo cho từng địa phương biết rơ sự kiện này là chúng tôi không c̣n bị nghi ngờ, và xét v́ công việc của chúng tôi làm là v́ sự lợi ích cho xứ Ấn Độ, nên nó được chấp nhận.

Và điều này, với tư cách là một sĩ quan và một công dân Mỹ, tôi trân trọng giải bày với tôn ông như nhà đại diện của nền công lư và luật pháp công minh của Anh quốc.

Trân trọng kính thư,

Kư tên:

Đại tá Henry S. Olcott.

Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học Thế Giới

Sự trả lời của Chính phủ Ấn Độ vẫn chưa làm tôi thỏa măn. Tuy họ có lời bảo đảm rằng chúng tôi sẽ không bị quấy rầy nếu chúng tôi không xen vào việc chính trị, nhưng họ không nói rằng những lệnh truyền cho các quan chức Anh Ấn ở các tiểu bang theo dơi và ḍ xét chúng tôi sẽ được hủy bỏ.

Trong một bức thư thứ nh́, tôi đă lưu ư Bộ Ngoại vụ về vấn đề này, và sau đó ít lâu, tôi đă đạt được như ư muốn. Kể từ khi đó, chúng tôi đă được tự do.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 882 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:37am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ


II.

Ngày 29 tháng 9, bà Sinnett, bà Blavatsky và tôi cùng đi dạo chơi trên đỉnh một ngọn đồi ở vùng chung quanh. Trên nóc lợp ngói của một ngôi miếu nhỏ của Ấn giáo tại đó, giữa vô số những chữ khắc tên họ của du khách bốn phương đến viếng, tôi nhận thấy có một chữ khắc ám hiệu của Chân Sư M. với tên tôi ở dưới, nhưng do đâu mà có chữ đó th́ tôi cũng không biết.

Khi chúng tôi đang ngồi nói chuyện, bà Blavatsky nhân lúc cao hứng, mới hỏi chúng tôi có ai mơ ước điều ǵ không? Bà Sinnett nói: “Tôi muốn có một thông điệp của chân sư rơi xuống ngay chỗ tôi ngồi.”

Bà Blavatsky bèn lấy từ trong quyển sổ tay bỏ túi của bà một tờ giấy màu hồng, dùng ngón tay vẽ lên đó vài phù hiệu bí mật, xếp tờ giấy thành h́nh ba góc, cầm nó trong tay đi xuống sườn đồi cách đó độ hai mươi thước, day mặt về hướng tây, đưa tay vẽ một đạo bùa trên không gian, x̣e cả hai bàn tay ra, và tờ giấy kia liền biến mất.

Thay v́ nhận được thư trả lời rơi xuống chỗ bà đang ngồi, bà Sinnett nhận thư bằng cách trèo lên một cái cây ở gần bên. Thông điệp ấy được viết trên tờ giấy màu hồng lúc năy, cũng xếp thành h́nh ba góc, và mắc vào một nhánh nhỏ trên cây. Trên tờ giấy có chữ viết do một bàn tay lạ, để trả lời một câu hỏi riêng tư của bà Sinnett, và do chân sư K. H. kư tên bằng chữ Tây Tạng.

Bây giờ tôi xin kể một chuyện khác. Một nhóm chúng tôi gồm sáu người, ba người nam và ba người nữ, sửa soạn từ nhà ra đi trong một cuộc du ngoạn dưới một thung lũng cách xa thành phố. Người quản gia của gia đ́nh Sinnett đă sắp đặt các giỏ mây đựng đồ vật thực, và đă gói vào trong giỏ sáu bộ chén dĩa kiểu lạ để dùng trà.

Khi chúng tôi sắp sửa ra đi th́ một người khách đến th́nh ĺnh, và cũng được mời cùng đi với chúng tôi. Những người giúp việc đă xách các giỏ mây đi trước, c̣n chúng tôi từ từ đi sau theo hàng một, trên con đường ṃn gồ ghề khúc khuỷu đưa xuống thung lũng. Sau một chuyến đi bộ dạo chơi thong thả, chúng tôi đến một chỗ bằng phẳng trên sườn một dăy đồi cỏ cây sầm uất, với những cây cổ thụ to lớn có tàn cây che mát rượi.

Chúng tôi bèn cắm trại ở đây, và nằm ngồi rải rác trên băi cỏ xanh, trong khi những người giúp việc dọn chỗ trên băi cỏ và bày đồ vật thực. Họ vừa nhóm lửa nấu nước pha trà, th́ thấy người quản gia vẻ mặt băn khoăn bước đến gần bà Sinnett và thưa với bà rằng c̣n thiếu một bộ chén dĩa cho ông khách mới đến vào phút chót. Bà nói với một giọng bực ḿnh:

– Anh thật là lơ đễnh, sao không nhớ đem thêm một bộ chén dĩa nữa khi anh biết rằng ông khách ấy cũng sẽ dùng trà như mọi người?

Kế đó bà quay lại với chúng tôi và vừa nói vừa cười:

– H́nh như trong các bạn chắc phải có hai người uống chung một cốc.

Lúc ấy tôi mới nói rằng, trước đây trong một trường hợp tương tự, chúng tôi đă giải quyết vấn đề bằng cách đưa cái chén cho một người và cái dĩa cho người kia. Đến đây, một người trong nhóm mới nói đùa với bà Blavatsky:

– Bây giờ, thưa bà, đây là một cơ hội để cho bà thực hiện phép mầu.

Tất cả chúng tôi bất giác cười lớn v́ câu nói đùa bỡn vô lư đó, nhưng khi thấy bà Blavatsky có vẻ sẵn ḷng chấp nhận th́ mọi người đều hoan hô thích thú, và yêu cầu bà làm ngay lập tức. Những người nằm trên băi cỏ cũng đă đứng dậy và tề tựu chung quanh. Bà Blavatsky nói rằng để làm cái việc này, bà cần có sự trợ giúp của Thiếu tá X., một bạn hữu của chúng tôi cũng đang có mặt lúc ấy.

Ông này tỏ vẻ bằng ḷng. Bà yêu cầu ông đemtheo một đồ dụng cụ để đào đất; ông ta bèn chụp lấy con dao lớn đựng trong giỏ và đi theo bà. Bà Blavatsky nh́n chăm chú trên mặt đất, đưa mặt chiếc nhẫn lớn của bà đeo, chiếu xuống chỗ nọ chỗ kia, và sau cùng bà nói: “Ông hăy đào ở chỗ này.”

Ông khách ra tay đào xới, và nhận thấy rằng phía dưới lớp cỏ xanh che phủ mặt đất là một hệ thống chằng chịt những rễ cây của những cây lớn nhỏ ở gần bên. Ông ta cắt những đám rễ và lôi ra từng nắm, kéo đất rời qua một bên, và đụng phải một vật màu trắng. Th́ ra đó là một cái chén sứ uống trà nằm trong ḷng đất, và khi ông ta lấy cái chén ra th́ thấy nó thuộc cùng một kiểu giống y như sáu cái chén kia.

Hăy tưởng tượng những tiếng kêu ngạc nhiên và xúc động của nhóm người đứng xem chung quanh! Bà Blavatsky bảo ông kia hăy tiếp tục đào nữa ở chỗ ấy, và sau khi ông này đă cắt bỏ và kéo ra một rễ cây lớn bằng ngón tay út của tôi, ông ta lôi ra một cái dĩa cũng cùng một kiểu với những bộ chén dĩa khác. Điều này làm cho cả bọn xúc động đến cực điểm, và ông khách sử dụng con dao lại là người kêu to ầm ĩ nhất v́ ngạc nhiên và khoái trá.

Khi cuộc đi chơi kết thúc và chúng tôi trở về nhà, bà Sinnett và tôi cùng đi thẳng đến cái tủ đựng chén để kiểm điểm lại, th́ thấy bốn bộ chén dĩa uống trà bỏ sót lại ở nhà vẫn c̣n nguyên, cùng với sáu bộ đem theo là tất cả mười bộ. Thế là bộ thứ bảy do bà Blavatsky tạo thêm trong cuộc đi chơi, không phải ở trong số mười bộ chén của bà Sinnett.

Nếu có kẻ hoài nghi đưa ra giả thuyết rằng bộ chén sau cùng này có thể đă được chôn dấu từ trước để ḷe bịp chúng tôi, th́ sự thật hiển nhiên đă đính chính ngay điều ấy. Mọi người có mặt đều nh́n thấy rơ rằng bộ chén dĩa ấy nằm gọn trong ḷng đất y như những mảnh đá vụn, giữa những rễ cây mọc dọc ngang chằng chịt như mạng lưới, phải dùng sức mạnh và dao bén để chặt đứt và bứng ra một cách mạnh mẽ mới lôi bộ chén dĩa kia ra được.

Lớp cỏ trên mặt đất ở chỗ ấy vẫn xanh tươi và không có dấu hiệu ǵ khả nghi, và nếu có ai đă đào đất lên để chôn bộ chén dĩa từ trước, th́ mặt đất bị đào xới đă không thể nào thoát khỏi cái nh́n nhận xét tinh vi của toàn thể quan khách đứng vây chung quanh trong khi ông thiếu tá ra tay làm việc.

Sau buổi ăn trưa, bà Blavatsky c̣n làm một phép mầu khác, nó làm tôi ngạc nhiên hơn cả. Một trong những vị khách nói rằng ông ta sẵn ḷng gia nhập Hội Thông thiên học nếu bà Blavatsky có thể làm ngay tại chỗ cho ông ta một chứng chỉ Hội viên đă hoàn tất mọi thủ tục. Đó hẳn là một yêu cầu quá đáng, nhưng bà bạn tôi không hề e ngại, đưa tay khoát một cái trên không trung, và chỉ vào một bụi rậm cách đó một khoảng ngắn, bà bảo người kia hăy đến đó xem có ǵ không, v́ cây và bụi rậm thường được dùng làm các trạm phát thư tín.

Người khách kia vừa cười vừa đi đến chỗ bụi rậm, dường như không tin tưởng lắm về kết quả mong ước. Nhưng khi đến nơi, ông ta rút ra từ trong bụi rậm một chứng chỉ hội viên bằng chữ in có ghi tên họ của ông và ngày tháng hôm đó, với một bức thư chính thức của vị Hội trưởng, mà tôi biết chắc rằng tôi không hề viết, nhưng lại viết bằng chính tuồng chữ của tôi!

Điều này làm cho tất cả mọi người đều hoan hô vui vẻ, và v́ bà Blavatsky đang nhân lúc cao hứng, nên dường như không một phép lạ nào khác mà bà không làm cho chúng tôi xem. Những màn biểu diễn phương thuật của bà Blavatsky đă có kết quả là làm cho nhiều nhân vật người Âu có thế lực đă gia nhập Hội Thông thiên học, và biểu lộ một ḷng ưu ái đầy thiện cảm đối với bà bạn của tôi.

Ngày 7 tháng 10, tôi thuyết tŕnh về đề tài: “Thần linh học và Thông thiên học” tại hội trường của Viện Phụng sự hợp nhất (United Service Institution). Tôi được cho biết rằng số thính giả hôm ấy gồm một cử tọa đông đảo nhất chưa từng thấy tại Simla.

Tối hôm đó tôi được mời tham dự buổi dạ tiệc tiếp tân của vị Phó vương Anh là Lord Ripon tại Dinh Chính phủ và được nhiều bạn hữu đến chúc mừng, khen tặng tôi về buổi diễn thuyết và về những mối giao tế được cải thiện tốt đẹp với Chính phủ Anh Ấn.

Hằng ngày chúng tôi đều bận rộn tiếp khách. Bà Blavatsky vẫn tiếp tục thực hiện các hiện tượng huyền bí đến mức làm cho một nửa dân số Simla tin rằng bà được sự “trợ giúp của Quỷ vương (Satan)”. Một viên sĩ quan Anh trong nhóm quan khách cũng đă không ngần ngại mà nói thẳng với bà như vậy.

Chiều hôm đó, ông Hume đưa cho bà bức thư đầu tiên để nhờ bà chuyển đạt lên chân sư K. H. Đó là bước khởi đầu một cuộc trao đổi thư từ vô cùng thú vị giữa ông với chân sư, thỉnh thoảng vẫn được mọi người nhắc đến.

Những ngày cuối cùng của chúng tôi ở Simla vẫn c̣n tiếp nối những buổi dạ tiệc tiếp tân và những cuộc đi du ngoạn ngoài thành phố. Trong những dịp đó một vài màn biểu diễn phép thuật của bà Blavatsky đă làm cho các quan khách thích thú đến cực điểm.

Ngày hôm đó, bà Sinnett, bà Blavatsky và tôi đang ngồi đợi ông Sinnett tại pḥng khách. Các bà ngồi chung với nhau trên chiếc đi-văng. Bà Sinnett cầm tay bà Blavatsky để ngắm nh́n đến lần thứ hai mươi và trầm trồ khen ngợi một chiếc nhẫn kim cương màu vàng rất đẹp, vốn là món quà tặng của bà Wijeratne, vợ một nhà thầu giàu có ở tỉnh Galle trong dịp viếng thăm của chúng tôi đến Tích Lan trong năm ấy. Đó là một hạt kim cương loại rất hiếm và quư giá, long lanh chớp sáng và chiếu ra những tia sáng chói lấp lánh.

Bà Sinnett đă có lần yêu cầu bà Blavatsky dùng phép thuật tạo thêm cho bà một bản sao của hạt kim cương ấy, nhưng bà này không hứa ǵ cả. Tuy nhiên, lần này bà chịu làm. Bà Blavatsky dùng hai ngón của bàn tay kia xoa lên hạt đá quư độ một lúc, kế đó bà ngừng tay và để lộ chiếc nhẫn đeo trên bàn tay bên này.

Nằm sánh đôi với hạt kim cương của bà đeo, giữa ngón tay đeo nhẫn và ngón tay bên cạnh là một hạt kim cương khác cũng màu vàng, tuy không chói sáng bằng hạt của bà, nhưng cũng là một hạt kim cương rất đẹp. Bà liền tặng hạt kim cương ấy cho bà Sinnett. Cho đến bây giờ, món bảo vật ấy vẫn c̣n là sở hữu của bà bạn quí mến của chúng tôi.

Buổi cơm tối hôm đó, bà Blavatsky không ăn ǵ cả, nhưng trong khi mọi người đang dùng bữa th́ bà ngồi sưởi ấm hai bàn tay trên dĩa bàn đựng nước nóng đặt trước mặt bà. Độ một lát, bà xoa hai bàn tay và chà xát thật mạnh th́ thấy có hai hạt ngọc bích nhỏ rơi xuống dĩa.

Hiện tượng làm cho xuất hiện các loại đá quư này cũng rất thường xảy ra với Stainton Moses, người bạn Anh mà chúng tôi có đề cập tới trong quyển hồi kư trước đây. Đôi khi, các loại đá quư nhỏ rơi xuống như mưa trên người ông ta và rơi khắp pḥng, có khi là vài viên ngọc thạch lớn.

Người Đông phương nói rằng đó là do tác động của những tinh linh của loài khoáng thạch, thuộc loại mà người Tây phương gọi là Thổ tinh (Gnomes), hay tinh linh của các hầm mỏ, và thổ ngữ Tamoul Ấn Độ gọi là Kalladimanden.

Ông Sinnett có ghi chép lại một việc xảy ra ngày 20 tháng 10 mà ông gọi là “hiện tượng cái gối”. Hôm ấy chúng tôi đi du ngoạn và cắm trại trên một ngọn đồi. Ông Sinnett đang trông đợi một thông điệp trả lời bức thư ông gửi cho một vị chân sư, nhưng ông không nghĩ rằng ông sẽ nhận được trong chuyến đi dạo chơi hôm đó. Tuy nhiên, một người trong nhóm đề nghị với bà Blavatsky làm xuất hiện một vật ǵ đó bằng phép mầu.

Bà Blavatsky hỏi: “Các ông muốn nhận được vậy ấy ở đâu khác ngoài trên một cành cây? Không nên làm cho sự việc trở thành nhàm chán v́ cứ lặp lại những chuyện cũ.”

Mọi người thăm ḍ ư kiến lẫn nhau, và sau cùng họ đồng ư yêu cầu bà làm cho vật ấy xuất hiện bên trong cái gối dựa lưng của bà Sinnett đang dùng ở trên chiếc ghế bành của bà lúc ấy.

Bà Blavatsky liền nói: “Được rồi, hăy mở nó ra xem có vật ǵ ở trong không.”

Ông Sinnett liền lấy con dao bỏ túi của ông và rọc cái gối. Cái áo gối ở ngoài mặt có thêu hoa, được lót bằng da hay một thứ vải cứng và may bằng thứ chỉ lớn, dày và rất chắc. Đó là một cái gối kiểu xưa, và đường chỉ đă trở nên cứng chặt với thời gian, làm cho công việc cắt rạch nó ra hơi có phần khó nhọc. Tuy nhiên, sau cùng th́ cái bao ngoài đă bị rách đứt, và bên trong là một cái bao thứ nh́ chứa đựng lông chim và cũng được may bằng một thứ chỉ rất chắc.

Khi cái gối trong đă bị cắt ra xong, ông Sinnett mới thọc tay vào, ṃ trong đống lông chim, và lấy ra một bức thư với cái trâm cài đầu. Đó là bức thư của chân sư K. H. đề cập đến một câu chuyện giữa ông Sinnett với bà Blavatsky; c̣n cái trâm cài đầu là của bà Sinnett, và ngay trước khi xuất hành bà c̣n để nó lại trên mặt bàn phấn của bà. Tôi muốn để cho độc giả hăy tự rút lấy kết luận của những sự việc kể trên.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 883 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:38am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



III.

Để hoàn tất đầy đủ việc ghi chép lịch sử những mối giao thiệp đầu tiên của chúng tôi với Chính phủ Ấn Độ, và cho thấy họ đă đi tới hành động cực đoan vô lư như thế nào để tự bảo vệ chống những âm mưu chính trị khả hữu của Hội Thông thiên học, tôi đă quyết định in lại bức thư nhà cầm quyền Anh Ấn trả lời bức thư của tôi đề ngày 27 tháng 9.

Thư ấy tuy cũng khá thân thiện, nhưng không đủ làm thỏa măn yêu cầu của chúng tôi. Nguyên văn bức thư ấy như sau:

“Bộ Ngoại vụ

Tổng lư sự vụ

Số 1025 E. G.

Simla, ngày 2 tháng 10 năm 1880

H. M. Durand,

Thứ trưởng Ngoại vụ Chính phủ Ấn Độ

Kính gửi: Đại tá H. S. Olcott

Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học

Kính Ông,

1. V́ lư do công vụ, ông Bộ Trưởng A. C. Lyall vắng mặt tại Simla, nên tôi được chỉ thị trả lời bức thư ông đề ngày 27 tháng 9 vừa qua.

2. Ông tŕnh bày rằng Hội Thông thiên học không có chủ trương can thiệp vào việc chính trị, dù ở Ấn Độ hay bất cứ ở đâu; nhưng ông đă bị theo dơi và quấy nhiễu trong những khi đi lại ở Ấn Độ v́ công việc của Hội; và bởi lẽ đó những chương tŕnh hoạt động công ích của Hội đă bị ngăn trở trầm trọng. Ông yêu cầu Chính phủ Ấn Độ giải tỏa những sự bất lợi đă vô t́nh gây ra cho ông trong vấn đề này bởi việc cho người theo dơi mọi động tác và sự đi lại của ông.

3. Tôi xin cảm ơn ông về những tin tức, dữ kiện mà ông đă có nhă ư tŕnh bày về những mục đích và hoạt động của Hội Thông thiên học, và tôi xin bảo đảm rằng Chính phủ Ấn Độ không có ư muốn gây sự bất tiện cho ông trong thời gian lưu trú tại xứ này.

Nếu như những hội viên của Hội chỉ theo đuổi sự học hỏi khảo cứu triết học và khoa học, hoàn toàn không dính dấp đến vấn đề chính trị, như ông có giải thích rằng đó là mục đích duy nhất của họ, th́ các hội viên không cần phải lo ngại bất cứ sự phiền phức nào đến từ các viên chức an ninh.

4. Tôi xin nói thêm rằng, Chính phủ Ấn Độ sẽ rất hân hạnh nếu ông vui ḷng gửi đến Bộ Ngoại vụ những bản sao các văn kiện nêu ra ở đoạn thứ ba trong thư ông.

Trân trọng kính thư,

Kư tên:

H. M. DURAND

Thứ trưởng Bộ Ngoại vụ”

Ngày 20 tháng 12, tôi nhận được của chính quyền bức thư sau cùng mà tôi trông đợi, giải tỏa mọi sự khó khăn giữa chúng tôi với các quan chức Anh Ấn. Thư ấy viết như sau:

Bộ Ngoại vụ

Tổng lư sự vụ

Số 1060 A. G.

Simla, ngày 20 tháng 10 năm 1880

H. M. DURAND,

Thứ trưởng Ngoại vụ

Kính gửi:

Đại tá H. S. Olcott

Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học

Kính Ông,

1. Tôi được chỉ thị kư nhận thư ông đề ngày 14 tháng 10, có kèm theo những văn kiện, chứng thư của ông gửi cho Chính phủ Ấn Độ, và yêu cầu rằng tất cả những viên chức Chính phủ có lệnh theo dơi canh chừng ông trước đây, được thông báo cho biết rằng mục đích của ông khi đến Ấn Độ nay đă được giải thích rơ ràng.

2. Tôi xin đa tạ ông về những bản sao văn kiện mà ông đă gửi, và chúng tôi sẽ cho lưu trữ tại Văn khố của Bộ Ngoại vụ.

3. Về khoản yêu cầu của ông, tôi được chỉ thị trả lời rằng những viên chức địa phương mà chúng tôi đă báo động về sự có mặt của ông ở xứ này, sẽ được thông tri cho biết rằng những biện pháp theo dơi do lệnh truyền cho họ thực thi trước đây, nay đă được thâu hồi.

4. Tuy nhiên, tôi xin nói thêm rằng sở dĩ có quyết định này là do hậu quả của sự tín nhiệm mà Tổng thống và Ngoại trưởng Hoa Kỳ đặt nơi ông, chứ không nên được hiểu là đương nhiên bày tỏ thái độ lập trường của Chính phủ Ấn Độ đối với Hội Thông thiên học, mà ông là Hội Trưởng.

Trân trọng kính thư,

Kư tên:

H. M. DURAND,

Thứ trưởng Bộ Ngoại vụ”

Đoạn chót của bức thư này đề cập đến bản sao những văn kiện của tôi gửi, gồm có bức thư viết tay của Tổng thống Hayes giới thiệu tôi cho tất cả các vị Đại sứ và Lănh sự Hoa Kỳ ở hải ngoại và yêu cầu giúp đỡ, cùng một bức thư giới thiệu tương tự của Ngoại trưởng W. M. Evarts[5] và thẻ Thông hành Ngoại giao của tôi.

Thời gian viếng thăm Simla của chúng tôi đă chấm dứt. Chúng tôi liền rời khỏi thị trấn miền núi đẹp đẽ này để tiếp tục chuyến đi công tác đă sắp đặt trước ở các vùng đồng bằng.

Kiểm điểm lại những kết quả đă thu thập được, có thể nói rằng chúng tôi đă có thêm vài bạn hữu, giải tỏa Hội Thông thiên học khỏi sự vướng mắc về phương diện chính trị, và tạo thêm nhiều kẻ chống đối thù nghịch trong các giới Anh Ấn, họ vẫn bám giữ lư thuyết cho rằng có sự can thiệp của Quỷ vương Satan trong các vấn đề nhân sự (mà trong trường hợp này là bà Blavatsky được sự trợ giúp của Quỷ vương Satan để làm các phép mầu).

Trong một xă hội nghiêm chỉnh và bảo thủ như ở đây th́ những cử chỉ, tác phong kiểu giang hồ phóng đăng như bà Blavatsky đương nhiên là đă làm chướng mắt mọi người; khả năng tri thức, tâm linh xuất chúng của bà đă gây nên sự tị hiềm, đố kỵ; và những quyền năng kỳ bí của bà đă làm cho người ta nh́n bà bằng cái nh́n sợ hăi, kinh hoảng.

Dù sao, nhận xét chung th́ những lợi điểm thu hoạch được vẫn trội hơn sự mất mát thua thiệt, và chuyến đi này có thể được xem như một sự thành công xứng đáng.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 884 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:39am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



CHƯƠNG MƯỜI HAI: VÀI MẨU CHUYỆN BÊN LỀ
I.


Sau khi rời thị trấn Simla, bận về chúng tôi dừng chân tại Amritsar, thành phố nổi tiếng với Ngôi Đền Vàng, một kỳ công kiến trúc mỹ lệ của người dân Sikh, một chủng tộc thiện chiến và có tinh thần thượng vơ ở miền Punjab (Bắc Ấn).

V́ lúc đó chúng tôi c̣n đang được sự bảo trợ tinh thần của đạo sư Dyanand Saraswati nên sự giao tế của chúng tôi với những tín hữu môn đệ của ông rất thân thiện tốt đẹp, và những chi bộ địa phương của môn phái Arya Samaj đă dành cho chúng tôi những cuộc tiếp đón thân mật đầy hảo ư ở khắp mọi nơi.

Có ba mươi tín hữu Arya Samaj đến đón chúng tôi tại nhà ga xe lửa Amritsar và đưa chúng tôi về quán trọ nghỉ ngơi. Ngày hôm sau, một phái đoàn Arya Samaj đến từ Lahore, do các bạn Rattan Chand và Siris Chandra cầm đầu. Đó là hai bạn đạo lịch thiệp và khả kính mà tôi rất hân hạnh xem như những người bạn tốt và vẫn giữ mối t́nh thân hữu cho đến ngày nay.

Một cuộc đàm luận về đạo lư rất thú vị đă diễn ra với độ ba mươi hay bốn mươi tín hữu Ấn giáo Arya Samaj, và đến chiều tối, khi mọi người đă ra về và chỉ c̣n có hai người bạn trẻ nói trên ở lại với chúng tôi, bà Blavatsky làm reo vang những tiếng “chuông thần” một cách rơ ràng và du dương hơn tất cả những lần mà tôi đă từng được nghe bà làm ở Ấn Độ trước đây.

Kế đó, bà đề nghị với hai người bạn trẻ một việc dẫn đến sự hiểu lầm mà tôi thấy cần phải thuật lại một cách chính xác để tránh sự đáng tiếc có thể xảy ra nếu có một kẻ thù nghịch nêu việc ấy để chống lại bà trong tương lai.

Từ trước đến nay, ông Sinnett chưa bao giờ có dịp thảo luận về đạo lư với một người Ấn Độ trí thức nào. Đó là điều mà ông và chúng tôi đều lấy làm tiếc. Sự trao đổi thư từ giữa ông với chân sư K. H. vẫn đang tiếp tục, nhưng ông muốn được có dịp gặp gỡ tận mặt với ngài hay một vị đệ tử của ngài.

Nhận thấy bạn Rattan Chand là người có đủ tính chất cần thiết để lănh nhiệm vụ giao liên, bà Blavatsky, với sự chấp thuận của chân sư (như bà nói cho y và tôi biết điều ấy), đă cố gắng thuyết phục y đến gặp ông Sinnett với tư cách là một sứ giả đem thư của chân sư K. H. Anh ta sẽ không được tiết lộ cho ông Sinnett biết ǵ về cá nhân ḿnh như tên họ, thân thế, chỗ ở... mà chỉ trả lời đầy đủ tất cả những câu hỏi của ông Sinnett về những vấn đề triết học và tôn giáo.

Bà Blavatsky c̣n cho anh ta biết rằng mọi tư tưởng và luận thuyết cần thiết sẽ được truyền đạt cho anh ta vào lúc cần dùng bằng phương pháp thần giao cách cảm.

Hai người bạn trẻ, vốn chưa biết ǵ về hiệu lực của phương pháp chuyển di tư tưởng, và không thấy tung tích chân sư cũng như bức thư của ngài ở đâu, nên đă tỏ ra e ngại và không có hứng thú để làm việc này. Nhưng sau cùng, họ bằng ḷng và trở về Lahore để xin phép nghỉ việc ngắn hạn rồi sẽ trở lại ngày hôm sau.

Khi họ đă ra đi, bà Blavatsky tỏ vẻ hài ḷng và nói với tôi rằng vai tṛ của họ sẽ đem lại kết quả rất thuận lợi cho ông Sinnett, và gây một nghiệp quả rất tốt lành cho hai người bạn trẻ.

Ngày hôm sau, không thấy họ trở lại mà chỉ có một bức điện tín nói rằng họ cực lực từ chối không chịu thực hiện vai tṛ nói trên; và trong một bức thư sau đó, họ cho biết rằng họ không muốn tham dự vào một hành động giả trá phỉnh lừa như thế.

Việc ấy làm cho bà Blavatsky rất bực ḿnh và bày tỏ sự bất măn bằng những lời lẽ nặng nề. Bà không do dự mà gọi họ là hai thằng điên v́ đă gạt bỏ một cơ hội hiếm có là được làm việc với các chân sư để mang lại những kết quả lớn lao.

Bà cho tôi biết rằng nếu họ chịu hợp tác, th́ bức thư của chân sư sẽ rơi xuống ngay trước mắt họ từ trên không gian, và họ sẽ có dịp thi hành sứ mạng.

Đây là một trong những trường hợp mà một việc hoàn toàn có thể thực hiện được đối với nhà huyền học, vốn đă khai mở những giác quan nội tàng và những quyền năng tâm linh, lại có vẻ như một việc không tưởng, viễn vông đối với người thường, v́ họ không thể quan niệm rằng việc ấy có thể làm được, trừ phi bằng những mưu mẹo dối trá, phỉnh lừa.

Thế là những người bạn trẻ chưa tiến hóa kia đành phải tự tạo lấy nghiệp quả của họ. Họ đă chọn lấy con đường thích hợp với ḿnh, và đă bỏ mất đi một cơ hội tốt.

Đă có hằng bao nhiêu trường hợp tương tự mà bà Blavatsky bị hiểu lầm và chuốc lấy sự chê trách đắng cay chỉ v́ sự thiếu hiểu biết tâm linh của kẻ khác, mà ư muốn thành thật của bà chỉ là để giúp đỡ họ.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 885 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:40am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



II.

Ngày 27 tháng 10, tôi thuyết tŕnh về đề tài “Môn phái Arya Samaj và Hội Thông thiên học” trước một cử tọa đông đảo, và ngày 29, tôi có dịp nói tiếp về đề tài “Quá tŕnh lịch sử và tương lai của Ấn Độ”.

Những ai nghĩ rằng người Ấn không có tinh thần yêu nước, ước ǵ họ có dịp nh́n thấy tác dụng của buổi diễn thuyết này đối với toàn thể hội trường đông đảo như hôm ấy. Khi tôi diễn tả tính cách vĩ đại huy hoàng của nền văn minh cổ Ấn Độ, và t́nh trạng suy đồi của Ấn Độ ngày nay, toàn thể cử tọa phát ra những tiếng th́ thầm vui sướng hoặc những tiếng thở dài đau đớn năo nuột. Có lúc họ hoan hô và vỗ tay nhiệt liệt, một lúc sau đó họ ngồi im lặng, và rơi nước mắt.

Tôi lấy làm ngạc nhiên và sung sướng, nhưng cảnh tượng bi ai đau đớn của họ làm tôi xúc động đến mức tôi gần như muốn ngất xỉu. Đó là một trong những dịp vẫn thường xảy ra với những cuộc tiếp xúc giữa chúng tôi với người Ấn Độ, trong khi đó những sợi dây liên lạc của t́nh tương thân tương ái kết hợp tâm hồn chúng tôi, và chúng tôi cảm thấy thật là một ân sủng quí báu khi có cơ hội đến đây để sống chung và phụng sự sát cánh với những bạn đạo cùng chung lư tưởng.

Tôi c̣n nhớ một kinh nghiệm tương tự đă trải qua khi tôi cùng đi với bà Annie Besant trong chuyến đi diễn thuyết đầu tiên của bà. Trong dịp đó, bà nói về đề tài “Vị trí của Ấn Độ trên thế giới” tại một tỉnh nhỏ ở miền Nam Ấn. Nói theo nguồn cảm hứng thiêng liêng và sử dụng những ư nghĩ gần giống như của tôi, bà lôi cuốn toàn thể cử tọa theo với bà, và làm cho họ đáp ứng như những sợi dây đàn mà những ngón tay điêu luyện của bà có thể tác động khéo léo để tạo ra bất cứ âm điệu nào bà muốn.

Bận về ngồi trên xe, tôi với bà không ai có thể thốt ra một lời nào, mà chỉ ngồi đê mê trong im lặng, cơ hồ như vừa bước ra từ một nhạc viện trong đó vị nhạc trưởng vừa mới tŕnh bày những âm điệu nhạc khúc của cơi trời. Những ai chưa từng cảm xúc được nguồn cảm hứng thiêng liêng rung động trong người th́ không bao giờ biết rơ được ư nghĩa của danh từ “hùng biện”.

Ngày hôm sau, chúng tôi đáp xe lửa đi Lahore. Tại đây một cuộc tiếp đón nồng nhiệt đă chờ đợi chúng tôi. Một phái đoàn Ấn giáo hùng hậu của chi phái Arya Samaj đến đón chúng tôi tại nhà ga và đưa chúng tôi về quán trọ. Kế đó họ trở về nhà dùng bữa và tối hôm đó họ trở lại để thảo luận về đạo lư với chúng tôi cho đến khuya.

Những đề tài thảo luận là vấn đề tính chất của Thượng đế, Thượng đế hữu ngă và vô ngă. Những quan điểm của tôi và bà Blavatsky đưa ra đều trái ngược hẳn với những sự tin tưởng của họ.

Hôm sau, bảy tín hữu Arya Samaj, gồm cả hai người bạn trẻ mà chúng tôi đă gặp tại Amritsar trước đây, gia nhập Hội Thông thiên học và đứng ra thành lập một Chi hội tại địa phương.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 886 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:41am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



III.

Trong thời gian ở tại Lahore, chúng tôi luôn luôn bận rộn tiếp khách và thảo luận về những vấn đề đạo lư, nhưng không phải là không có những cơ hội tiêu khiển. Chẳng hạn như chuyến đi tham quan kinh lư của vị Phó vương Anh, Lord Ripon, vào ngày mồng 10, và chúng tôi có dịp xem cuộc tiếp rước linh đ́nh trọng thể diễn ra trong thành phố.

Phó vương cưỡi một con voi lớn, lưng voi phủ vải vàng óng ánh, đầu voi cũng đội một thứ măo hay đồ trang sức bằng vàng. Bành voi mạ vàng sáng chói, đứng một bên là một người hầu Ấn Độ mặc sắc phục sặc sỡ cầm một cây lọng vàng che trên đầu ngài.

Những vị Quốc vương và Đại vương (Maharajah) Ấn Độ mặc triều phục lộng lẫy, cưỡi voi đi theo sau tùy theo cấp bậc chức vị lớn nhỏ, và tất cả đều được những quan viên dân sự người Anh cũng cưỡi voi đi theo hộ tống (bà Blavatsky cho là dường họ như bị canh chừng).

Nối tiếp theo sau là những toán kỵ binh Anh và kỵ binh xứ Bengale, quân bản xứ mặc sắc phục đỏ, những đội quân Ấn Độ cầm kích và cầm giáo dài, những toán quân nhạc thổi kèn, đánh trống, và đánh chập chơa.

Thật là một cuộc diễn hành long trọng huy hoàng, tiền hô hậu ủng, rực rỡ tưng bừng. Tôi quả quyết rằng mỗi người Anh trong cuộc diễn hành hẳn là phải cảm thấy lố bịch, và mỗi vị Quốc vương bản xứ chắc cũng cảm thấy bị hạ thấp trong cái màn tŕnh diễn công khai phô trương thanh thế và uy lực này, làm nổi bật trước mắt công chúng cái vị thế của kẻ chinh phục và kẻ bị trị, mà cái ư nghĩa thật sự của nó, trong thâm tâm mỗi người đều biết rằng mọi người khác cũng biết rơ như ḿnh.

Bà Blavatsky và tôi đứng xem cuộc diễn hành từ trên lầu một nhà ga xe lửa được xây cất như một pháo đài để có thể sử dụng như một công sự pḥng thủ khi có biến. Những lời b́nh phẩm của bà về cuộc diễn hành và về những nhân vật ăn mặc trang sức lố lăng thái quá, làm cho tôi luôn luôn phát cười nôn ruột, và về sau, trong một bài phóng sự du kư của bà đăng trên tạp chí Russky Vyestnick, bà làm cho cả nước Nga đều cười vỡ bụng về chuyện vắng mặt của vị Đại vương xứ Kashmir trong cuộc diễn hành, mà thoạt tiên người ta nghi ngờ là có che giấu một âm mưu chính trị, nhưng sau đó mới vỡ lẽ ra rằng chỉ v́ ngài bị tiêu chảy!

Ngày 15 tháng 11, vị Phó vương Anh, Lord Ripon, chủ tọa một cuộc lễ tiếp kiến các vị Đại vương, Quốc vương và các ông Hoàng bản xứ.

Một sảnh đường rộng lớn được dựng lên bằng vật liệu nhẹ, gồm những tấm vải cứng lớn có sọc xanh được căng ra làm nóc trên những cột đứng bằng sắt, và những tấm vách ngăn cũng bằng một loại vải cứng tương tự, dưới đất trải những tấm thảm gấm đỏ, bên trong thắp sáng bằng những ngọn đèn lớn.

Phó Vương ngự trên một chiếc ngai bằng bạc, mặc triều phục chỉnh tề có thêu chỉ vàng và gắn đầy phù hiệu, huy chương, với một tấm băng lụa xanh vắt ngang trên ngực. Đứng phía sau ngài là những người hầu bản xứ mặc đồng phục trắng tay cầm những cây quạt lớn màu đỏ thêu phù hiệu của Hoàng gia Anh; hai người hầu khác cầm những cây phất thủ trắng làm bằng đuôi giống ḅ Yak của xứ Tây Tạng, và hai người hầu nữa cầm những cây vương trượng tượng trưng cho quyền uy của vị Phó vương.

Giữa sảnh đường là hai hàng ghế đối diện nhau. Các quan viên Anh ngồi ở hàng ghế bên tay mặt Phó vương, các vị vương hầu bản xứ ngồi bên tay trái; ở giữa hai hàng ghế là lối đi rộng răi từ cửa vào đưa đến ngai Chủ tọa. Các vị Quốc vương, Đại vương và những ông Hoàng khác của xứ Ấn Độ được chỉ định chỗ ngồi theo thứ tự cấp bậc, vị cao nhất ngồi gần Phó vương.

Khi mỗi ông Hoàng vừa đến ngoài cửa, có tiếng súng đại bác chào mừng, quân dàn hầu hai bên bồng súng chào, và đoàn quân nhạc thổi kèn.

Ông Alfred Lyall, Trưởng ban Nghi lễ, mặc quốc phục ngoại giao, tiếp đón và đưa mỗi ông Hoàng đến trước ngai vị Phó vương. Ông Hoàng Ấn Độ dâng lên một mâm lễ vật gồm có một số đồng tiền vàng đựng trên một cái mâm bạc. Vị Phó vương đưa tay sờ với một cử chỉ tượng trưng rồi trả lại (nghĩa là không nhận). Cả hai, chủ và khách, đều cúi đầu chào nhau. Kế đó, ông Hoàng được đưa đến chỗ ngồi an tọa, rồi đến lượt một ông Hoàng khác.

Sau khi tất cả các ông Hoàng đă được tiếp đón xong, vị Phó vương mới đứng dậy làm lễ ban phát quà tặng quí giá gồm có những đồ trang sức bằng vàng ngọc châu báu, những đồ khí giới nạm bạc, yên ngựa thêu vàng, vân vân... Những ông Hoàng chỉ đưa tay sờ một cái rồi để cho những quân hầu mang đi.

Những bộ triều phục lộng lẫy và khăn vấn đầu giát ngọc chớp sáng lập ḷe của những ông Hoàng Ấn Độ tŕnh bày một cảnh tưởng huy hoàng đặc biệt của phương Đông, và làm cho buổi lễ càng thêm phần long trọng.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 887 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:43am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



IV.

Sau khi đă viếng thăm vài trạm dọc đường, chúng tôi tiếp tục đi Bénarès và được tiếp đón như những tân khách của vị Quốc vương tại địa phận này. Trong thời gian tám ngày ở Bénarès, chúng tôi thường hội kiến với vị Quốc vương và các triều thần cùng với những nhân sĩ của thành phố này.

Có lần, Quốc vương đi với hai người thông dịch đến nơi quán trọ và thảo luận suốt nhiều giờ với chúng tôi về những vấn đề đạo lư, triết học và tôn giáo. Một lần khác, Quốc vương đi với viên quan giữ kho và đề nghị cho viên quan này đếm ngay tại chỗ vài ngàn đồng ru-pi (một số tiền rất lớn) để cung hiến cho Hội Thông thiên học nếu bà Blavatsky chịu biểu diễn cho ông ta xem vài phép lạ.

Lẽ tự nhiên, bà từ chối; cũng như bà đă từ chối làm điều đó đối với nhiều nhà tỷ phú Ấn Độ khác. Một là ông Mungaldas ở Bombay, nhưng khi ông này vừa đi khỏi th́ bà liền biểu diễn một số phép lạ cho những vị khách nghèo không có tiền. Tuy nhiên, bà đă tiết lộ cho vị Quốc vương biết một điều bí ẩn về nơi chôn giấu những văn kiện giấy tờ quan trọng của Hoàng gia nay đă mất, mà nếu tôi không lầm th́ những giấy tờ đó đă được đem chôn giấu một cách vội vă trong cuộc nổi loạn năm 1857.

Tuy bị thất vọng, nhưng tôi có lư do để tin rằng vị Quốc vương kính trọng bà bội phần hơn là nếu bà đă chấp nhận món quà tặng của ông ta. Thái độ thản nhiên đối với tiền bạc luôn luôn được người Ấn Độ xem như một bằng chứng chắc chắn về đức xả thân vô kỷ của một vị đạo sư.

Một người đạo sĩ ở Lahore từng biểu diễn xuất thần nhập định trước Quốc vương Runjit Singh, đă vĩnh viễn tự hạ thấp nhân cách ḿnh khi nhận lănh những món quà đắt tiền của nhà vua.

Một người cận thần cũ đă già của nhà vua có lần nói với tôi tại Lahore rằng: “Nếu người đạo sĩ ấy không nhận quà biếu, mà tỏ thái độ dửng dưng đối với của cải tiền bạc, th́ có lẽ vị Quốc vương đă giữ ông ta lại suốt đời bên cạnh ḿnh và tôn sùng ông ta như một vị thánh.”




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 888 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:44am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



V.

Ngày đầu năm 1881, tôi ngồi vào bàn làm việc đến hai giờ khuya để viết bài cho tạp chí Theosophist. Nói chung th́ trong những tuần lễ đầu năm, mọi việc vẫn b́nh thường, không có ǵ đáng kể, trừ ra những dịp chúng tôi tiếp xúc và có những mối quan hệ thân thiện hay không thân thiện với một vài nhân vật.

Tác giả quyển sách nổi tiếng “Nhựa sống”, với bút danh là Mirza Murad Ali Beg, đến với chúng tôi lần đầu tiên vào ngày 20 tháng 1. Anh ta là một thanh niên Anh, thuộc ḍng dơi của gia đ́nh Mitford đă từng đào tạo ra nhiều nhà văn nổi tiếng ở Anh quốc. Anh ta sinh trưởng tại Madras, có một nếp sống dị thường, và theo Hồi giáo.

Khi gặp chúng tôi th́ anh ta đang giữ một chức vụ trong quân đội của vị Đại vương xứ Bhavnagar, với cấp bậc “sĩ quan kỵ binh”, nhưng trên thực tế th́ đó chỉ là một chức vụ ngồi không ăn lương. Anh ta sống một cuộc đời phiêu lưu, phóng dật, dẫy đầy những nỗi trắc trở gian lao. Anh ta đă từng thực hành khoa bàng môn tả đạo, và cho tôi biết rằng tất cả những nỗi khổ đau mà anh đă trải qua trong ṿng vài năm trước đây đều có thể trực tiếp truy nguyên từ những tác động hiểm ác của vài loại âm binh bất hảo mà anh đă kêu gọi để trợ giúp trong việc chinh phục một người con gái đức hạnh mà anh ta thèm muốn.

Tuân theo sự chỉ dẫn của một nhà phù thuœy hắc phái Hồi giáo, anh ta đă ngồi suốt bốn mươi ngày trong một gian pḥng kín, mắt nh́n chăm chú vào một cái chấm đen trên vách tường, dùng trí tưởng tượng h́nh dung khuôn mặt của người con gái ấy và niệm một câu thần chú nửa Ả Rập và nửa tiếng Phạn, lặp đi lặp lại đến cả trăm ngàn lần. Anh ta phải tiếp tục làm như vậy cho đến khi nh́n thấy khuôn mặt của người con gái ấy linh động như thật, và khi thấy đôi môi nàng mấp máy như sắp sửa nói chuyện th́ khi đó nàng đă hoàn toàn bị quyến rũ bởi ma lực và sẽ tự động t́m đến với anh ta.

Tất cả sự việc đă xảy ra y như đă dự liệu trước. Ư đồ hiểm ác xấu xa của anh ta được thực hiện. Cô gái kia bị hại trong tay anh, nhưng chính anh lại bị phụ thuộc vào quyền năng của những âm binh bất hảo mà anh không có đủ sức mạnh tinh thần để chế ngự sau khi đă nhờ đến sự giúp sức cưỡng ép của chúng.

Thật sự là anh ta đang rơi vào một t́nh trạng bi đát, khốn cùng. Thần kinh anh ta căng thẳng, dễ bị kích động, không quyết đoán được điều ǵ, luôn phải nô lệ những cảm xúc của chính ḿnh, nh́n thấy những khả năng cao quư của bản chất con người nhưng lại bất lực không thể đạt tới.

Anh ta đến với chúng tôi để t́m nơi ẩn trú, và đă ở lại nhà chúng tôi trong vài tuần. Tuy là người Anh, nhưng anh ta lại có một h́nh thù dị dạng. Anh ta mặc y phục của người Hồi giáo, gồm một cái áo vải trắng rộng và dài phủ đến chân. Anh để tóc dài màu nâu lợt, bới cao lên phía sau đầu như phụ nữ; nước da trắng và mắt xanh.

Từ ngày anh ta đến với chúng tôi, dường như anh trải qua một cơn xung đột mănh liệt trong nội tâm. Anh than phiền rằng ḿnh bị lôi cuốn, giằng co từ mọi phía, trước hết bởi những ảnh hưởng tốt lành, và kế đó bởi những lực lượng bất hảo.

Anh ta có một bộ óc thông minh, đă đọc qua nhiều sách vở và rất muốn gia nhập Hội Thông thiên học. Nhưng v́ tôi không tin tưởng nơi căn bản đạo đức của anh ta nên đă từ chối. Tuy nhiên, v́ bà Blavatsky đề nghị chịu trách nhiệm về anh ta, nên tôi không phản đối và để cho bà bảo trợ sự gia nhập của anh ta.

Vài tháng sau đó, anh ta trả ơn bà một cách đích đáng bằng cách giật lấy cây gươm của một lính canh ở ga Wadhwan và toan đâm chết bà, rồi la lớn lên rằng bà và các chân sư đều là ma quỉ! Nói tóm lại, anh ta đă nổi điên.

Đây nhắc lại khi trí óc anh ta c̣n lành mạnh và đang ở chung với chúng tôi. Anh ta có viết vài bài đăng trong tạp chí “Theosophist” và một đêm nọ, sau một cuộc nói chuyện với chúng tôi, anh ta ngồi viết một bài tham luận về quyền năng của ư chí và tác dụng của nó đối với sự sống lâu. Bà Blavatsky và tôi c̣n ngồi lại trong pḥng, và khi anh ta bắt đầu viết, bà bước đến gần và đứng phía sau lưng anh ta, cũng như hồi ở New York bà đă đứng phía sau lưng họa sĩ Harisse khi người này đang vẽ bức chân dung của một vị chân sư theo sự hướng dẫn bằng phương pháp chuyển di tư tưởng của bà.

Bài tham luận của Mirza Sahib được sự chú ư của mọi người khi nó xuất hiện trên tạp chí, và được coi như một trong những bài có giá trị nhất trong văn chương đạo lư của Hội Thông thiên học. Anh ta tỏ ra có tŕnh độ trí thức, và có nhiều triển vọng cứu văn phần lớn những khả năng tâm linh đă bị mất nếu anh ta chịu ở lại với chúng tôi. Nhưng sau khi đă hứa làm như vậy, anh ta lại tuân theo một động lực vô h́nh không thể cưỡng, và bỏ đi theo tiếng gọi của sự diệt vong.

Anh ta không thể nào phục hồi lại được sự thăng bằng của trí năo. Sau đó, anh ta theo đạo Gia Tô, rồi quay trở lại Hồi giáo, rồi sau cùng anh ta chết và được chôn tại Junagadh. Tại đây tôi có nh́n thấy nắm mồ sơ sài của y.

Trường hợp của Mirza Sahib là một trường hợp đáng sợ về cái hiểm họa chờ đợi những người nào thực hành bàng môn tả đạo trong khi c̣n những đam mê thú dục tiềm ẩn trong ḷng.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 889 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:47am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



CHƯƠNG MƯỜI BA: ADYAR
I.


Trong chuyến đi Ba-la-nại, một buổi sáng chúng tôi ngồi thuyền lướt trên mặt nước sông Hằng, và bận về chúng tôi cho thuyền trôi dọc theo bờ sông để ngắm cảnh tượng độc đáo của muôn ngh́n tín đồ Ấn giáo sùng tín xuống tắm dưới sông vào buổi sáng sớm.

Hàng ngh́n tín đồ lũ lượt đi xuống những bậc tam cấp xây bằng đá ven bờ sông. Họ ngồi kiết-già nhập định trên những bục gỗ có mái che bằng lá dừa, hoặc đứng dưới sông, chỗ mực nước vừa tới đầu gối, chắp tay lẩm bẩm đọc kinh cầu nguyện.

Vài người giặt giũ y phục trên những bậc thang bằng đá. Những nhà tu khổ hạnh ḿnh trần bôi tro thánh biểu hiệu cho ḍng tu hay môn phái của họ. Những phụ nữ lấy bùn lau chùi và đánh bóng những b́nh đựng nước bằng đồng cho đến khi sáng chói như mới, múc đầy nước sông Hằng vào b́nh rồi cắp bên hông, thong thả đi lên bờ.

Những nhóm người khác tiến đến khu vực hỏa táng. Tại đây xác người chết được thiêu trên đống lửa hồng, trong khi những tử thi khác chờ đến lượt.

Ánh nắng ban mai chiếu sáng rực trên những b́nh đựng nước bằng đồng của các cô gái Ấn, làm nổi bật màu sắc ḷe loẹt trên y phục đỏ thắm của họ cùng những khăn vấn đầu màu sặc sỡ của bọn đàn ông. Những đám đông lũ lượt nối tiếp nhau lên xuống không ngớt trên những nấc thang rộng răi từ mặt nước sông đưa lên đến mặt đường lộ của thành phố tấp nập ồn ào.

Trong khi đó, những chiếc thuyền h́nh dáng lạ mắt với mũi thuyền chạm h́nh con công từ từ lướt trên gịng sông. Cảnh tượng ấy thật không đâu có, ngoài ra ở thánh địa Ba-la-nại vào những buổi sáng sớm. Điều gây một ấn tượng sâu xa hơn nữa là cũng một cảnh tượng ấy vẫn tái diễn hằng ngày kể từ những thế hệ xa xưa nhất. Những ǵ người ta nh́n thấy ngày hôm nay dường như đă từng diễn ra kể từ khi đấng hóa thân Krishna xuất hiện giữa loài người.

Nhưng khung cảnh này sẽ c̣n tồn tại bao lâu nữa th́ không ai có thể nói trước. Bàn tay tàn phá của thời gian đă tác động vào những dinh thự lâu đài trên bờ sông. Vài ngôi dinh cơ đồ sộ nguy nga nhất và vài khu vực trên những bậc thang tam cấp bằng đá đă loang lổ, sụp đổ. Những ngôi kiến trúc to lớn, nền tảng bị lung lay v́ những trận ngập lụt của nước sông Hằng lên cao, đă ngả nghiêng xiêu vẹo, hoặc sụp xuống dưới mặt nước.

Những tảng vôi, hồ, đă rơi xuống từ những vách tường loang lổ của các ngôi dinh thự, để lộ ra ngoài những viên gạch đỏ. Một ngôi đền Hồi giáo vĩ đại với những bầu tṛn và tháp nhọn nhô lên cao như có vẻ ngự trị khắp vùng, được xây bằng những tảng đá của những ngôi đền Ấn giáo cổ mà quân Hồi đă phá huœy.

Khu hỏa táng là một nơi xác xơ tiêu điều. Tại đó những đống cuœi lửa thiêu xác được chất trên những đống gạch ngói hoang tàn.

Tôi có cảm tưởng rằng những tín đồ Ấn giáo ngày nay xuống sông tắm gội mỗi buổi sáng, dường như làm những nghi thức tôn giáo này một cách hời hợt cẩu thả cho có h́nh thức thế thôi, chứ không phải do động lực thúc đẩy sâu xa của ḷng sùng tín chân thành như xưa kia.



Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 890 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:48am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



II.

Trong suốt thời gian liên hệ giữa chúng tôi, bà Blavatsky và tôi chưa bao giờ sống gần bên nhau một cách thân mật như trong chuyến du hành trên một chiếc thuyền trên con kênh đào Buckingham.

Kênh đào này là một công tŕnh thuœy lợi để cứu giúp cho hàng ngh́n nông dân bị mất mùa, đói kém trong một trận thiên tai kinh khuœng hồi thời Quận công Buckingham đảm nhiệm chức vụ Thống đốc tỉnh Madras.

Từ trước đến giờ, chúng tôi vẫn sinh hoạt và làm việc chung với sự có mặt của các bạn bè thân hữu, hay nói chung là bao giờ cũng có một “người thứ ba”. Nhưng trong dịp này, chúng tôi sống riêng biệt trong một chiếc du thuyền, chỉ có đứa bé giúp việc Babula và vài người chèo thuyền.

Khoang thuyền được trang bị như một pḥng ca-bin nhỏ, hai bên là hai cái tủ nhỏ để đựng hành trang, trên mặt có trải nệm để làm giường nằm. Ở giữa có một cái bàn xếp, khi nào không cần dùng đến th́ có thể xếp lại và treo lên nóc khoang.

Phía ngoài là chỗ nấu bếp, có lu đựng nước uống, có mọi thứ tiện nghi tối thiểu và mọi thứ phẩm vật cần dùng trong khi đi đường. Khi có gió thổi th́ buồm được giương lên để thuyền lướt nhẹ trên mặt nước. Khi gió ngược th́ những phu chèo thuyền nhảy lên bờ, dùng dây cói buộc lên vai họ và kéo thuyền đi với tốc độ khoảng năm cây số giờ.

Theo sau chúng tôi, c̣n một chiếc thuyền khác chở vài bạn đạo thân tín nhất thuộc tỉnh Madras. Trong số đó có bạn Ivalu Naidu, công chức Sở Thuế vụ đă về hưu, một người có tấm ḷng vàng mà chúng tôi rất quư mến và hănh diện khi được kết t́nh thân hữu với ông.

Mục tiêu của chuyến đi trên sông này là thị trấn Nellore, phải mất hai ngày đi thuyền mới tới. Chúng tôi khởi hành lúc bảy giờ tối một đêm trăng sáng, nhằm ngày 3 tháng 5 năm 1882, trăng đă tṛn, thuyền lướt nhẹ trên mặt nước lặng yên và trong như bạc, làm cho chúng tôi có cảm giác như đi vào cảnh mộng.

Sau khi ra khỏi thành phố, không một tiếng động làm gián đoạn cái im lặng thâm trầm của miền đồng quê, trừ ra tiếng kêu lẻ loi của những con chó rừng, giọng nói th́ thầm của những phu chèo thuyền nói chuyện với nhau, và tiếng nước vỗ nhẹ vào hai bên mạn thuyền.

Xuyên qua các cửa sổ, một ngọn gió đêm thổi vào mát rượi, đượm mùi ruộng lúa trổ bông với hương vị đồng quê thật nhẹ nhàng bát ngát.

Tôi với bà Blavatsky cùng ngồi thưởng thức cảnh vật êm đềm, tinh thần sảng khoái trong giờ phút nghỉ ngơi rất hiếm có giữa nếp sống lăn lộn vô cùng kích động, ồn ào và nhộn nhịp của chúng tôi.

Chúng tôi chỉ nói rất ít, dưới ảnh hưởng mê ly đầy thi vị thần tiên của một đêm trăng Ấn Độ. Đến tận khuya chúng tôi mới chia tay để cùng nghỉ ngơi dưỡng sức.

Nhờ có ngọn gió nồm từ hướng tây nam thổi mạnh, chiếc thuyền thẳng tiến suốt đêm, và lộ tŕnh của chúng tôi được nhẹ nhàng êm ái, không trở ngại.

Trời vừa hừng sáng, thuyền tấp vào bờ để những người phu chèo thuyền nhóm lửa nấu cơm. Các bạn hữu trên thuyền kia cũng cho thuyền đậu và sang với chúng tôi.

Khi mọi người đă dùng bữa xong, chúng tôi lại tiếp tục lên đường, hai chiếc thuyền lướt nhẹ êm ru như những bóng mây. Bà Blavatsky và tôi bận rộn suốt ngày hôm đó với công việc trả lời thư từ c̣n ứ đọng và soạn bài vở cho tạp chí Theosophist, thỉnh thoảng cũng tạm ngưng để cùng nhau mạn đàm trong giây lát.

Lẽ tất nhiên, đề tài duy nhất của chúng tôi là t́nh h́nh và triển vọng của Hội Thông thiên học, và tác dụng rốt ráo khả hữu của những tư tưởng Đông phương mà chúng tôi đang truyền bá đối với dư luận quần chúng đương thời. Về vấn đề này, chúng tôi cùng lạc quan như nhau, và không một điểm nghi ngờ hay bất đồng nào thoáng qua trong trí óc.

Chính niềm tin mănh liệt đó đă giúp chúng tôi luôn thản nhiên, b́nh tĩnh trước mọi biến cố, tai ương và nghịch cảnh, những sự ngăn chặn biết bao nhiêu lần trong cuộc đời hoạt động của chúng tôi.

Vài bạn đồng hành hiện hữu có lẽ không thỏa măn, nhưng quả thật là những sự tiên liệu của chúng tôi nhắm vào ảnh hưởng của giáo lư Thông thiên học đối với trào lưu tư tưởng cận đại nhiều hơn là bàn về sự bành trướng khả hữu của Hội khắp nơi trên thế giới. Thật sự chúng tôi không hề trông đợi việc ấy có thể xảy ra.

Cũng như khi rời khỏi New York đi Bombay, chúng tôi không hề mơ tưởng rằng Hội có thể mở Chi hội cùng khắp Ấn Độ và Tích Lan, th́ bây giờ cũng thế, trên chiếc du thuyền lướt đi trong im lặng này, chúng tôi không hề nghĩ rằng Hội có thể khuấy động quần chúng để mở đường cho việc tổ chức các Chi hội và thành lập những trung tâm truyền bá giáo lư Thông thiên học khắp nơi ở châu Mỹ, châu Âu; đừng nói chi đến châu Úc, châu Phi và Viễn Đông.

Làm sao chúng tôi có thể nghĩ đến điều đó? Chúng tôi có thể trông cậy nơi ai? Ai là người dũng lực phi thường để có thể gánh lấy trên vai của ḿnh cái trách nhiệm nặng nề như thế? Bạn đọc hăy nhớ rằng, hồi đó chỉ mới là năm 1882, và ngoài châu Á ra, chỉ có ba Chi hội Thông Thiên Học trên thế giới (không kể trung tâm New York vẫn c̣n chưa được tổ chức lại). Chi hội London và Chi hội Corfu (Hy Lạp) chỉ là những cơ quan bất động.

Ông Judge đă sang Nam Mỹ để làm việc cho một công ty khai thác mỏ bạc, và Trụ sở Thông thiên học ở New York vẫn im ĺm không hoạt động. Chỉ c̣n có hai người bạn già chúng tôi trên chiếc du thuyền này là nắm giữ giềng mối điều khiển mọi sự, và khoảnh đất dụng vơ của chúng tôi là phương Đông.

Cũng không hơn ǵ tôi, lúc ấy bà Blavatsky không hề biểu lộ khả năng tiên tri nào, nên chúng tôi vẫn làm việc và xây dựng nền tảng cho cái tương lai vĩ đại mà không người nào trong hai chúng tôi có thể nh́n thấy trước.

Trong số hàng ngh́n hội viên Hội Thông thiên học hiện tại, chắc hẳn có bao nhiêu người sẵn ḷng đổi lấy với bất cứ giá nào, t́nh tương thân đầm ấm mà bà Blavatsky dành cho tôi trong chuyến du hành bằng thuyền này! Điều làm cho chuyến đi này càng thú vị và lợi lạc hơn nữa, là bà có sức khỏe tốt, tinh thần lên cao, và không có ǵ làm che ám bầu không khí vui tươi giữa t́nh bạn của chúng tôi.

Nếu không được như thế, hẳn tôi đă trở thành một kẻ bị nhốt trong chuồng cọp, làm bạn với một con sư tử cái trong Sở Thú! Và như vậy, chắc hẳn là tôi thà nhảy lên bờ đi bộ, hoặc chuyển sang thuyền kia để làm bạn với Iyalu Naidu c̣n dễ chịu hơn!

Ôi! Blavatsky, người bạn đáng thương, bạn đồng môn, người cộng tác, người hướng dẫn của tôi! Không ai có thể làm khổ tôi hơn bà trong những cơn giông tố ồ ạt, và cũng không ai dễ mến và đáng yêu hơn bà trong những khi tinh thần lên cao, khi bà có một tác phong đằm thắm dịu dàng!

Tôi luôn tin rằng chúng tôi đă từng làm việc chung với nhau trong những kiếp trước, và tôi cũng tin rằng chúng tôi sẽ c̣n hợp tác với nhau trong những kiếp tương lai v́ mục đích phụng sự nhân loại.

Chúng tôi đến Nellore lúc mười một giờ khuya và được tiếp đón trọng hậu. Một ngôi biệt thự to lớn đă được trang hoàng lịch sự để cho phái đoàn chúng tôi tạm trú, và tuy giờ đă khuya, tôi vẫn phải đáp từ hai bài diễn văn, một bằng tiếng Phạn và một bằng tiếng Anh. Sau đó chúng tôi mới được về pḥng ngơi nghỉ, ai nấy đều thấm mệt.

Từ ngày hôm sau trở đi, chúng tôi lại bắt đầu chương tŕnh hoạt động thông thường như mọi cuộc viếng thăm ở những nơi khác: một buổi diễn thuyết trước một cử tọa đông đảo. Ngày kế đó dành cho công việc soạn bài vở tạp chí và thu nhận hội viên mới. Chiều đến, một phái đoàn học giả ưu tú về môn Phạn ngữ đến viếng và chất vấn chúng tôi về đạo lư; và đến mười một giờ khuya, chúng tôi chính thức thành lập Chi hội Thông thiên học tại Nellore.

Kế đó chúng tôi tiếp tục chuyến đi đến Mypaud, rồi đi Guntur. Và cứ như thế, chương tŕnh hoạt động của chúng tôi lại tái diễn như trên.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 891 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:50am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ


III.

Trong những chuyến đi hoạt động khắp Ấn Độ và Tích Lan, tôi đă tham quan nhiều địa điểm, khảo sát nhân vật và khí hậu của từng miền để chọn lựa một nơi thích hợp nhất hầu có thể thiết lập một Tổng hành dinh lâu dài cho Hội Thông thiên học. Nhiều dinh cơ tốt đẹp đă được cung hiến cho chúng tôi ở Tích Lan, không phải trả tiền thuê mướn; đảo Tích Lan lại có nhiều phong cảnh đẹp rất hấp dẫn đối với những ai muốn t́m một chỗ định cư trên đất Á châu.

Nhưng nó cũng có những khía cạnh bất lợi, như vị trí cô lập đối với Ấn Độ, những tổn phí về bưu điện, và tŕnh độ tri thức lạc hậu của dân chúng nói chung. Những điều bất lợi đó đă làm nghiêng lệch đ̣n cân và làm cho chúng tôi chọn xứ Ấn Độ.

Tuy nhiên, cho đến nay chúng tôi vẫn chưa t́m được một nơi nào vừa ư và chưa có một kế hoạch nào nhất định. Trong một dịp đến Madras, vài bạn đạo đề nghị với chúng tôi hăy đi xem một khu bất động sản có thể mua được với giá rẻ. Chúng tôi được đưa đến khu ngoại ô Adyar, và vừa xem qua, chúng tôi biết ngay đó là nơi cư trú thích hợp mà ḿnh đang t́m kiếm.

Ngôi dinh cơ đồ sộ, những ngôi biệt thự lớn nhỏ dựa bờ sông, cùng những dăy nhà phụ thuộc, vườn cây to bóng mát, những cây đa cổ thụ và rừng thông ven bờ biển làm cho khu này càng thêm vắng vẻ u tịch, có thể dùng làm một nơi ẩn cư lư tưởng với một phong vị thần tiên. Giá tiền phải trả là chín ngàn ru-pi, tương đương khoảng sáu trăm đồng bảng Anh. Quả thật quá rẻ, hầu như chỉ là một giá tượng trưng, và chúng tôi quyết định mua.

Một bạn đạo ứng trước một phần tiền, số c̣n lại do một bạn đạo khác đứng ra vay mượn với những điều kiện thật dễ dàng. Sau đó, một thông tri lập tức được công bố để kêu gọi sự đóng góp của các hội viên, và trong ṿng một năm sau, tôi rất hài ḷng v́ đă có thể thanh toán ṣng phẳng khoản tiền vay mượn trên và nhận đủ giấy tờ sở hữu khu đất.

Lư do khu đất này được bán với giá rẻ là v́ Chính phủ vừa phóng một đường xe lửa từ Madras đến Uty, một thị trấn cao nguyên có khí hậu mát mẻ dưới chân dăy núi Nilgiri, làm thu ngắn lộ tŕnh và sự giao thông từ Madras lên miền núi chỉ c̣n một ngày đường. Nhờ đó, những viên chức cao cấp của Chính phủ Madras có thể định cư trên vùng cao nguyên sáu tháng mỗi năm để tránh khí hậu nóng nực của mùa hè, làm cho những dinh cơ đồ sộ của họ ở Madras trở nên không c̣n giá trị cao như trước.

Khi trở về Bombay, chúng tôi bắt đầu lo chuẩn bị thu xếp ḥm xiểng, rương trắp, sách vở và đồ tư trang để chuyển đến Madras. Chi hội Thông thiên học ở Bombay có tổ chức một bữa tiệc tiễn đưa trọng thể trước khi chúng tôi lên đường.

Ngày 17, chúng tôi đáp xe lửa đi Madras để định nơi cư trú tại Adyar. Khi đă yên nơi yên chỗ, chân sư M. hằng ngày đều đích thân đến viếng bà Blavatsky tại trụ sở mới của chúng tôi.

Năm 1883 là một trong những năm bận rộn nhất, lư thú nhất và thành công nhất trong lịch sử Hội Thông thiên học. Có bốn mươi ba Chi hội mới được thành lập, phần nhiều ở Ấn Độ và do tôi tổ chức.

Những chuyến đi công tác của tôi đă trải qua trên bảy ngàn dặm đường (độ mười hai ngàn cây số), có khi đi xe lửa, hoặc ngồi trên lưng voi, hoặc đi bằng xe ḅ. Bà Blavatsky và tôi thường cách biệt nhau, bà th́ ở nhà coi sóc bài vở cho tạp chí Theosophist, c̣n tôi phiêu bạt khắp nơi trên xứ Ấn Độ để diễn thuyết, chữa bệnh và thành lập những Chi hội mới.

Trong những tháng đầu năm, hàng đống thư từ được gửi đến Trụ sở Hội tại Adyar từ các nước Âu Mỹ, chứng tỏ rằng thế giới càng ngày càng chú trọng đến giáo lư Thông thiên học.

Xét v́ cuộc đời của mỗi người trong chúng ta đều được cấu tạo bởi vô số những chuyện lặt vặt không đáng kể, và v́ tôi muốn cho câu chuyện tường thuật của tôi được hoàn toàn trung thực, nên tôi đă kể lại nhiều chuyện nhỏ nhặt để bổ túc vào cái bối cảnh lịch sử của Hội Thông thiên học nói chung. Những chuyện tầm thường nhỏ nhặt đó cũng tŕnh bày chúng tôi, những nhà tiền phong khai sáng phong trào Thông thiên học, như những nhân vật sống rất b́nh thường, tức là cũng giống như mọi người chứ không phải là những nhân vật phi phàm như người ta thường suy tôn một cách quá đáng và thêu dệt thêm nhiều chuyện vô lư.

Nếu bà Blavatsky là người đă viết ra những bộ sách hi hữu và độc đáo, th́ hằng ngày bà cũng ăn sáng với hạt gà chiên rưới lên rất nhiều mỡ, và tập Hồi Kư này chỉ tŕnh bày mỗi nhân vật dưới h́nh thức tả chân chứ không siêu việt hóa họ như một nhân vật lư tưởng. Bởi vậy, tôi cũng ghi lại một chi tiết nhỏ, mà tôi cảm thấy khá thích thú vào lúc nó xảy ra, làm cho tôi muốn ghi chép lại.

Phía sau nhà của chúng tôi tại Adyar có một con sông nhỏ, làm cho chúng tôi luôn muốn bơi lội như sở thích đă sẵn có từ ngày xưa. Và thế là chúng tôi rủ nhau xuống sông, luôn cả bà Blavatsky. Những người Âu ở láng giềng chắc hẳn là rất ngạc nhiên khi thấy những người da trắng như chúng tôi lại tắm chung với độ nửa chục người bản xứ màu da sậm, cùng nhào xuống nước vẫy vùng và đùa giỡn với nhau một cách thân t́nh, cơ hồ như chúng tôi không tin rằng ḿnh thuộc về một chủng tộc cao quí hơn!

Tôi chỉ dẫn cho bà bạn tôi tập bơi lội, hay nói đúng hơn là tập làm động tác sao cho khỏi ch́m, và cũng chỉ dẫn luôn cho bạn Damodar thân mến, anh bạn trẻ này lại là một người rất nhát gan. Anh ta là một trong số những người sợ nước nhất mà tôi đă từng gặp. Anh ta bắt đầu run rẩy lập cập khi mực nước mới ngập tới đầu gối, làm cho bà Blavatsky và tôi đều phải buông ra những lời mỉa mai, châm biếm.

Tôi c̣n nhớ rơ sự việc ấy đă thay đổi ra sao. Tôi nói: “A ha! Anh muốn trở thành một siêu nhân bằng cách nào khi thậm chí anh không dám để ướt cái đầu gối của ḿnh?”

Lúc đó, anh ta không nói ǵ. Nhưng ngày hôm sau, khi chúng tôi lại cùng nhau đi tắm, anh ta thản nhiên phóng ḿnh xuống nước và lội ngang qua sông!

Lời nói châm biếm của tôi không ngờ lại có tác dụng đặc biệt đối với anh ta, và anh đă quyết định rằng hôm ấy anh phải lội qua sông hoặc là chịu chết!

Đó chính là bí quyết để trở thành một siêu nhân. Hăy dấn thân! Đó là định luật để tiến hóa. Bạn có thể thất bại năm chục lần, hay năm trăm lần, nếu cần; nhưng hăy cứ dấn thân tiến bước, và tiến lên măi, nhất định không chịu lùi, rồi sau cùng bạn cũng sẽ thành công.

Sự rụt rè thối chí không bao giờ rèn luyện nên một con người đúng nghĩa, càng không thể xây dựng nên một thế giới tốt đẹp.


Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 892 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:54am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



CHƯƠNG MƯỜI BỐN: CÁI GIẾNG THẦN
I.



Tôi trở lại Tích Lan sau nửa năm vắng mặt, để tiếp tục công việc Hội và cũng để trợ giúp công cuộc chấn hưng Phật giáo tại xứ này.

Ngày 29 tháng 8, có xảy ra một việc tại khu hoa viên của thành phố Galle, nay đă trở thành một diễn biến lịch sử. Sau buổi diễn thuyết của tôi hôm ấy, có một cuộc quyên góp để gây quỹ cho công việc hoằng truyền Phật giáo tại xứ này.

Một người tên Cornelis Appu được ông Jayasekera, Chi hội trưởng Chi hội Thông thiên học tại Galle giới thiệu cho tôi. Người ấy đă góp số tiền nửa ru-pi, và xin lỗi về số tiền quá nhỏ v́ ông ta bị bệnh tê liệt một cánh tay và một chân từ tám năm nay, không thể làm ǵ được để kiếm sống.

Khi tôi từ Bombay vừa đến Colombo, vị Sư trưởng Phật giáo có cho tôi biết rằng Giáo hội Gia Tô đă chuẩn bị mọi việc để sử dụng cái giếng trong nhà một giáo dân, gần thị trấn Kelanie, như một cái “giếng thần” để chữa bệnh cho dân chúng, theo kiểu giếng Đức Mẹ tại Lộ Đức. Tôi liền nói với vị Sư trưởng rằng đây là một vấn đề nghiêm trọng cần lưu ư.

Một khi sự gợi ư đó đă bắt đầu thấm nhuần vào tư tưởng người dân, th́ nó sẽ trở thành một sự thôi miên tập thể. Không bao lâu sẽ có những trường hợp khỏi bệnh thật sự, và chừng đó những Phật tử kém hiểu biết và tin tưởng mù quáng sẽ bỏ đạo ḿnh để hùa nhau theo đạo khác.

Vị Sư trưởng nói: “Tôi biết làm sao bây giờ?”

Tôi nói: “Đại đức phải ra tay hành động, hoặc phải có một vị sư danh tiếng nào khác hăy nhân danh Đức Phật để chữa bệnh cho mọi người.”

Sư trưởng đáp: “Nhưng chúng tôi không thể làm được; chúng tôi không biết ǵ về những việc đó.”

Tôi nói quả quyết: “Nhưng dù sao th́ việc ấy vẫn phải được thực hiện.”

Khi người bệnh nói trên diễn tả căn bệnh bại liệt của ông ta, tôi cảm thấy trong thâm tâm có một cái ǵ h́nh như muốn nói với tôi: “Đây là cơ hội cho anh sử dụng cái giếng thần!”

Tôi đă khảo cứu về khoa nhân điện và chữa bệnh bằng nhân điện (Mesmérisme) trong ba mươi năm, nhưng chưa bao giờ thực tập, mà chỉ có làm vài cuộc thí nghiệm cần thiết lúc ban đầu. Nhưng bây giờ, do sự thúc đẩy của t́nh thương (vốn là cái động cơ căn bản cho việc chữa bệnh có kết quả), tôi đưa hai bàn tay truyền điện lên cánh tay bại liệt của người bệnh một vài lần, và nói với ông ta rằng tôi hy vọng ông sẽ cảm thấy khá hơn đôi chút. Kế đó, ông ta trở về nhà.

Chiều hôm đó, tôi đang ngồi nói chuyện với các bạn đạo tại nhà th́ thấy người bệnh bại liệt ngày hôm qua, tay chống nạng, chân đi khập khiễng bước vào. Ông ta xin lỗi đă đến làm rộn, và nói rằng ông cảm thấy khá nhiều nên đến để cảm ơn tôi.

Tin lành bất ngờ này khích lệ tôi tiếp tục chữa bệnh cho ông ta. Sau độ một khắc đồng hồ truyền điện cho cánh tay bại liệt, tôi dặn ông ta hăy trở lại vào sáng hôm sau.

Tôi phải nói thêm rằng, không một ai ở Tích Lan biết tôi có quyền năng chữa bệnh, và có lẽ họ cũng không hề biết ǵ về quyền năng này. Như vậy không thể có giả thuyết được nêu ra về sự ám thị hay ảo giác tập thể trong trường hợp này.

Sáng hôm sau người kia lại đến và tỏ vẻ tôn sùng tôi như một siêu nhân v́ y cảm thấy bớt hẳn. Tôi lại tiếp tục chữa cho y luôn ba ngày liên tiếp, và qua ngày thứ tư y đă có thể vung cánh tay bại liệt của y lên ṿng quanh đầu, mở và khép bàn tay, và sử dụng bàn tay để làm các động tác thông thường một cách dễ dàng.

Trong ṿng bốn ngày kế đó, ông ta đă có thể sử dụng bàn tay được chữa khỏi để kư tên vào một chứng thư kể rơ trường hợp của ông và cho công bố. Đó là lần đầu tiên ông ta có thể cầm đến một cây viết kể từ chín năm nay.

Tôi cũng đă chữa khỏi luôn cái chân bại liệt của ông ta, và độ một hai ngày sau, ông ta đă có thể nhảy với cả hai bàn chân, nhảy ḷ c̣ bằng cái chân bại liệt, đá lên vách với một chiều cao đồng đều nhau bằng cả hai chân, và chạy một cách tự do theo ư muốn.

Giống như rơm khô bắt lửa, tin ấy loan truyền rất nhanh khắp cả mọi nơi trong tỉnh. Cornelis đưa đến một người bạn bại liệt giống như ông ta, cũng được tôi chữa khỏi. Kế đó, những người khác đến. Lúc đầu c̣n đến từng nhóm nhỏ đôi ba người, kế đến hàng chục người, và trong ṿng độ một tuần lễ sau, ngôi nhà tôi ở bị bệnh nhân vây phủ suốt ngày từ sáng sớm cho đến khuya, để nhờ tôi truyền điện chữa bệnh cho họ.

Sau cùng, họ trở nên quấy rầy, phiền nhiễu đến nỗi tôi cũng không c̣n biết phải làm sao để thoát khỏi ṿng vây. Lẽ tất nhiên, với sự tăng gia đức tin nơi khả năng của ḿnh, sức mạnh nhân điện của tôi tăng vọt lên gấp bội, và những chứng bệnh mà lúc đầu tôi phải mất đến nhiều ngày mới chữa khỏi, nay tôi có thể chữa trong ṿng nửa tiếng đồng hồ.

Một điều bực bội, khó chịu nhất trong việc này là thái độ ích kỷ, thấp hèn của đám đông. Họ bao vây tôi trong buồng ngủ khi tôi c̣n chưa thay quần áo, theo sát tôi từng bước một, không cho tôi có thời giờ ăn cơm, và làm áp lực ráo riết đối với tôi, bất luận rằng tôi bị mệt mỏi và kiệt sức đến độ nào!

Tôi chữa bệnh cho họ suốt bốn, năm giờ liên tiếp, cho đến khi tôi cảm thấy kiệt quệ, không c̣n chút sinh lực nào. Khi đó tôi mới nghỉ độ nửa giờ đi xuống biển để tắm nước mặn, và khi trở lên nhà, tôi lại cảm thấy tràn đầy sinh lực, thể xác được tăng cường. Tôi bèn tiếp tục công việc chữa bệnh cho đến khi hoàn toàn xế trưa, tôi đă mệt lả và phải yêu cầu bệnh nhân hăy trở về nhà.

Lúc ấy tôi ở trên tầng lầu thứ nhất của ngôi nhà trọ, nên phần nhiều những người bệnh nặng phải được thân nhân bạn bè khiêng lên lầu và đặt họ nằm dưới chân tôi. Có những người hoàn toàn bại liệt, với những tay chân co quắp làm cho họ có một h́nh thù dị dạng giống như những rễ cây có bướu trông rất dễ sợ. Sau một hay hai lần truyền điện, mỗi lần độ nửa giờ, tôi đă làm cho họ duỗi thẳng tay chân và đi đứng được như thường.

Tôi dùng cái hàng ba rộng lớn của ngôi nhà làm một sân vận động, chọn lấy hai ba người trong số những người bệnh nặng nhất vừa được chữa khỏi, và bắt họ chạy đua theo chiều dài hàng ba. Họ và những người đứng xem đều cười lớn về sự đùa giỡn khôi hài đó, và ngạc nhiên tự hỏi sao lạ vậy, nhưng tôi làm vậy là có mục đích truyền cho họ một đức tin nơi hiệu lực của phép chữa bệnh, giống như đức tin của tôi, để cho sự b́nh phục của họ được hoàn toàn chắc chắn.

Tôi cũng cảm thấy rất sung sướng khi có thể làm dịu bớt bao nhiêu nỗi khổ đau của nhân loại, và trong nhiều trường hợp, đă làm cho những phế nhân phục hồi lại được tất cả niềm vui của một sức khỏe lành mạnh và tất cả những khả năng hoạt động của một đời người.

Sự việc trên vẫn tiếp tục cho đến tận những vùng làng mạc xa xôi hẻo lánh trên lộ tŕnh hoạt động của tôi ở miền Nam đảo Tích Lan. Tôi thường đến mỗi thị trấn hay làng xă bằng xe ngựa hay xe ḅ, và thấy bệnh nhân rải rác nằm ngồi đợi tôi trên các hàng ba, băi cỏ, và trong đủ mọi loại xe cộ, hoặc kiệu khiêng bằng tay, đến từ các vùng lân cận.

Baddegama là một trung tâm nổi tiếng về những hoạt động truyền giáo, và cũng về sự thù nghịch đối với Phật giáo nói chung. Có những tin tức hăm dọa rằng các nhà truyền giáo sẽ tấn công tôi trong buổi diễn thuyết tại đây, và lẽ tự nhiên các Phật tử sẽ tề tựu đông đảo để nghe tôi nói chuyện. Nhiều hội viên Thông thiên học cũng từ Galle đến dự thính, và trong đám đông, tôi nh́n thấy Cornelis Appu. Ông ta đă đi bộ suốt hai mươi cây số đường trường để đến đây. Thế là không c̣n nghi ngờ ǵ về việc ông ta đă được hoàn toàn chữa khỏi bệnh bại liệt!

Một trường hợp lư thú đă đến với tôi ở một tiểu ấp tên Agalya. Một bà lăo bảy mươi hai tuổi bị một con trâu cái đá khi bà đang vắt sữa độ vài năm trước đây; bà bị vẹo xương sống, không thể đứng thẳng người và đi phải chống gậy. Bà bất giác cười lớn một cách ḍn dă khi tôi nói rằng không bao lâu tôi sẽ làm cho bà nhảy múa được.

Nhưng chỉ sau có mười phút truyền điện dọc theo xương sống và tay chân, bà đă cảm thấy b́nh phục sức khỏe. Tôi bèn nắm tay bà, quăng bỏ cây gậy chống và bảo bà cùng chạy với tôi trên sân cỏ. Bà đă chạy được như thường!



Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 893 of 1146: Đă gửi: 26 November 2010 lúc 9:55am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ



II.

Xong việc, tôi trở về Trụ sở Hội Thông thiên học tại Galle, và một cuộc vây khổn thứ nh́ của bệnh nhân đang chờ đón tôi tại đây. Tôi có ghi nhận một việc cho thấy cái tinh thần ích kỷ, hẹp ḥi, vô nhân đạo của vài người trong giới y sĩ đối với vấn đề chữa bệnh miễn phí của những lương y mà họ gọi là “tay ngang”, trong khi những người này lại chỉ làm việc v́ t́nh thương nhân loại.

Một số bệnh nhân của bệnh viện Galle phải rời khỏi bệnh viện v́ là bệnh nan y không thể chữa khỏi. Họ đă đến với tôi và được b́nh phục sức khỏe. Lẽ tự nhiên, họ loan truyền tin lành đó một cách hào hứng, sôi nổi. Giới y sĩ chuyên nghiệp không thể làm ngơ hay dửng dưng trước sự việc ấy, và ngày nọ một vị bác sĩ trẻ trong tỉnh đă đến chứng kiến việc làm của tôi.

Ngày đó, có một trăm bệnh nhân đến nhờ tôi chữa, và tôi đă truyền điện cho hai mươi ba người, trong số đó có những trường hợp khỏi bệnh một cách rất nhiệm mầu. Khi đă chứng kiến tận mắt, bác sĩ K. thành thật nh́n nhận hiệu lực của khoa chữa bệnh bằng nhân điện và đă ở lại với tôi suốt ngày, trợ giúp tôi trong việc chẩn bệnh, và làm những công việc của một người trợ tá bệnh viện.

Chúng tôi đều ưa thích nhau, và khi chia tay, ông ta hẹn sẽ đến sáng ngày hôm sau để trợ giúp tôi tùy theo khả năng. Chính ông cũng đang bị đau chân v́ một chứng bệnh cứng xương mắt cá, và tôi đă chữa khỏi cho y.

Ngày hôm sau, ông ta không đến, cũng không cho biết lư do tại sao. Sự bí mật ấy về sau được giải thích trong một bức thư ông viết cho một người bạn quen giữa đôi bên. Chính người này đă giới thiệu ông ta đến với tôi trước đây.

Dường như khi chia tay tôi hôm trước, ḷng đầy hứng khởi với những ǵ đă tận mắt chứng kiến, ông ta liền đến gặp vị Bác sĩ trưởng của bệnh viện và báo cáo mọi việc. Vị thượng cấp của ông nghe một cách lạnh lùng, và khi đă nghe xong liền nói lên một nhận xét cay độc về tôi. Ông cho rằng tôi là một lang băm, việc chữa bệnh ấy chỉ là một tṛ dối gạt phỉnh lừa, những bệnh nhân đă được trả tiền để nói dối, và vị bác sĩ trẻ bị ngăn cấm không được có bất cứ liên hệ ǵ với tôi hay những “tṛ khỉ” của tôi nữa.

Ông ta c̣n cảnh cáo vị bác sĩ trẻ rằng, nếu không tuân lệnh, hăy coi chừng có thể bị mất việc. Và nếu thấy tôi có nhận tiền thù lao, phải tố giác tôi trước pháp luật v́ hành nghề lương y mà không có giấy phép!

Thế là người trợ tá và hâm mộ tôi đă quên cả bổn phận học hỏi cầu tiến trong sự chữa bệnh, quên cả sự trung thành đối với chân lư, quên cả lương tâm chức nghiệp đối với khoa học, quên tất cả những ǵ anh ta đă tận mắt nh́n thấy tôi làm, cả sự hứa hẹn những ǵ mà với thời gian anh ta cũng sẽ có thể làm, thậm chí cũng không nhớ cả cái bàn chân đau của anh ta đă được tôi chữa khỏi, và quên cả phép lịch sự tối thiểu của người không đến được nơi hẹn như lời hẹn trước. Người bác sĩ ấy không đến, thậm chí cũng không có một lời xin lỗi.

Tôi cảm thấy thương hại anh ta, bởi v́ tất cả những triển vọng tương lai đen tối của anh ta trong sự trói buộc; đồng thời tôi cũng cảm thấy rằng anh ta đă đánh mất đi sự quư trọng mà lẽ ra tôi vẫn dành cho anh ta nếu anh dám đứng ra chống lại óc nô lệ nghề nghiệp xấu xa ích kỷ.

Đó là một sự thiên lệch, hủ bại về tinh thần, luôn khiến cho toàn thể nhân loại phải chịu đựng bệnh tật chứ không được chữa trị một cách hiệu quả, trừ phi bởi những lương y “chính thống”, với cái gọi là “hiểu biết” và “không hề lầm lẫn” của ngành Y học chính thức!



Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 894 of 1146: Đă gửi: 03 December 2010 lúc 1:08pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ


CHƯƠNG MƯỜI LĂM:


BÍ QUYẾT CỦA SỰ CHỮA BỆNH I.


Bí quyết chữa bệnh hữu hiệu bằng khoa nhân điện đă được tiết lộ cho tôi nhờ một kinh nghiệm trải qua tại một làng nhỏ ở miền nam Tích Lan.

Một người bệnh bán thân bất toại, tê liệt hết nửa thân ḿnh, được đưa đến cho tôi chữa. Tôi bắt đầu truyền điện trên cánh tay y dọc theo các đường gân và bắp thịt, và thỉnh thoảng thổi vài cái lên trên.

Trong không đầy nửa tiếng đồng hồ, tôi đă làm cho cánh tay anh ta co giăn được như thường đến mức có thể vung tay ṿng quanh đầu, mở và xếp các ngón tay tự nhiên, cầm bút, thậm chí nhặt một cây kim nhỏ, và làm mọi động tác chính xác tùy ư muốn.

Kế đó, v́ tôi đă chữa liên tiếp nhiều trường hợp tương tự suốt nhiều giờ và đă cảm thấy mệt mỏi, tôi mới yêu cầu Ban tổ chức hăy bảo người bệnh ngồi đợi để tôi nghỉ ngơi giây lát.

Trong khi tôi ngồi nghỉ và ngậm ống điếu hút thuốc, một người trong Ban tổ chức nói cho tôi biết rằng bệnh nhân ấy rất giàu có, ông ta đă tốn tiền cho các bác sĩ, thuốc men hết một ngàn năm trăm ru-pi mà bệnh vẫn không thuyên giảm.

Ông ta lại là một người rất hà tiện và ai cũng biết rơ tính keo kiệt, bủn xỉn của ông ta. Ái chà! Trong tất cả những thói hư tật xấu ghê tởm nhất đối với nhà huyền học, th́ sự tham muốn tiền bạc là một: đó là một sự đam mê ti tiện và bỉ ổi nhất! Trong ḷng tôi tự nhiên mất hết thiện cảm đối với người ấy.

Theo lời đề nghị của tôi, Ban tổ chức mới hỏi ông ta xem định quyên góp bao nhiêu tiền vào quỹ phước thiện Phật giáo. Ông ta nói rằng ḿnh rất nghèo và đă phải tốn nhiều tiền cho các bác sĩ, nhưng dù sao cũng sẽ đóng góp một ru-pi! Thế là hết chỗ nói!

Sau một lúc nghỉ ngơi, tôi lại tiếp tục chữa cái chân bại xuội của y và chỉ độ nửa giờ sau, cái chân y đă cử động và đi đứng được như thường. Ông ta bước chân ra về một cách tỉnh táo lành mạnh như mọi người.

Người thư kư của tôi cũng đă bảo ông ta viết một chứng thư về sự chữa khỏi bệnh cho ông ta và tôi c̣n giữ bức văn kiện ấy như một kỷ niệm trong chuyến đi Tích Lan.

Ban tổ chức của tôi đă sắp đặt một loạt những chuyến đi diễn thuyết ở các vùng, mỗi lần kéo dài độ hai tuần lễ, rồi trở về Galle là địa điểm trung tâm.

Khi chuyến đi này kết thúc, một hôm tôi hỏi thăm về t́nh trạng sức khỏe của vài bệnh nhân mà tôi chú trọng nhất v́ tính cách đặc biệt của bệnh trạng, trong số đó có trường hợp của bệnh nhân hà tiện bủn xỉn kể trên.

Tôi rất ngạc nhiên khi nghe biết rằng cánh tay ông ta đă hoàn toàn lành mạnh, nhưng c̣n cái chân th́ không khỏi hẳn, mà đă trở lại t́nh trạng liệt bại như cũ!

Tuy tôi không thấy có trường hợp nào tương tự trong các sách vở dạy về khoa nhân điện, nhưng lư do đă nổi bật ngay tức khắc. Đó là v́ tôi đă mất thiện cảm đối với người kia sau khi nghe nói về thói bủn xỉn, hà tiện của ông ta.

Bởi vậy, nguồn sinh lực của tôi không rung động dọc theo hệ thần kinh của ông ta như trong trường hợp chữa cánh tay, và kết quả là chỉ có một sự kích thích lành mạnh tạm thời, rồi lại trở về t́nh trạng bại liệt như cũ.

Trong cả hai trường hợp, tôi đă áp dụng cùng một kỹ thuật chữa bệnh giống nhau, và đă truyền qua cho ông ta một lượng sinh lực đồng đều nhau, nhưng trong trường hợp sau, tôi không cảm thấy có chút t́nh thương và hảo ư nào để đem lại sự khỏi bệnh thật sự và lâu dài như trong trường hợp của cánh tay.

Vài nhà viết sách về khoa nhân điện, trong đó có tác giả Younger, cũng đă khẳng định rằng “t́nh thương là bí quyết căn bản để chữa hầu hết mọi bệnh tật bằng cách truyền nhân điện”.

Trường hợp trên cũng nhắc nhở sự thật của những giáo lư cổ xưa dạy rằng những tư tưởng tốt lành của ta đưa đến cho người khác có tác dụng rất nhiệm mầu để gây cho người ấy niềm phúc lạc và sự lành mạnh lâu bền, c̣n những tư tưởng ác gây ra một hậu quả ngược lại.

Điều đó cảnh báo chúng ta hăy cẩn thận giữ ǵn đừng nghĩ quấy cho kẻ khác, và bởi đó chúng ta sẽ hiểu dễ dàng lư do tại sao có sự sợ sệt những nhà phù thủy với những phép trù ếm và thốt ra những lời nguyền rủa hại đời.

Những việc đó đều có căn cứ chắc chắn, và người ta có thể sử dụng những sức mạnh vô h́nh để gây họa cũng như để đem đến niềm vui và hạnh phúc cho người chung quanh.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 895 of 1146: Đă gửi: 03 December 2010 lúc 1:10pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ


II.


Ngày 17 tháng 2, tôi xuống tàu đi Calcutta. Sau một chuyến đi thích thú, tôi cặp bến vào ngày 20 và được tiếp đón tại nhà khách của Quốc vương Jotendra Mohun Tagore. Ngôi dinh thự của ngài bỗng dưng biến thành một bệnh viện, v́ bệnh nhân đă tề tựu rất đông để chờ đợi tôi cứu chữa.

Một trong những bệnh nhân đầu tiên là một thanh niên Ấn bị bệnh động kinh (epilepsy), thường lên cơn từ năm mươi đến sáu mươi lần mỗi ngày. Tuy nhiên, bệnh ấy thuyên giảm rất mau dưới bàn tay truyền điện của tôi, và qua ngày thứ tư, những cơn động kinh đă hoàn toàn dứt hẳn.

Tôi không biết rằng sự khỏi bệnh này có được lâu bền hay không, nhưng chắc là không. V́ những nguyên nhân sâu xa đến nỗi đă gây nên một số quá nhiều những lần lên cơn như vậy mỗi ngày, không có lẽ lại bị tiêu trừ sau chỉ có mấy ngày chữa trị.

Đáng lư ra bệnh nhân phải được chữa trị trong một thời hạn lâu dài, có thể là nhiều tuần trước khi có thể hoàn toàn b́nh phục. Và quả nhiên sự việc về sau đă xảy ra đúng như tôi nhận xét.

Bệnh động kinh tuy là một trong những chứng bệnh dễ sợ nhất, nhưng cũng là một trong những bệnh dễ trị nhất bằng phương pháp truyền nhân điện.

Ngoài ra, tôi cũng gặp những trường hợp lư thú tương tự khác nữa. Trong số đó có một thanh niên Bà-la-môn chừng hai mươi tám tuổi, bị chứng tê liệt các đường gân trên mặt đă hai năm qua, làm cho anh ta phải ngủ với cặp mắt mở to v́ không thể khép mí mắt lại, và cũng không thể nói chuyện v́ lưỡi không cử động được.

Khi hỏi tên anh ta là ǵ, anh chỉ có thể thốt ra một âm thanh chát chúa trong cổ họng, v́ lưỡi và đôi môi đều tê cứng và anh ta không sử dụng được như ư muốn.

Khi vừa bước vào pḥng, anh ta đứng nh́n tôi trong câm lặng và ra hiệu bằng tay để mô tả căn bệnh của ḿnh.

Sáng hôm ấy, tôi cảm thấy sinh lực tràn đầy cuồn cuộn, cơ hồ tôi có thể truyền điện cho cả một con voi. Tôi đưa cánh tay và bàn tay mặt thẳng lên trời, và đôi mắt nh́n thẳng vào người bệnh, tôi dơng dạc hô to bằng thổ ngữ Bengali:

“Anh hăy khỏi bệnh!” Đồng thời tôi hạ cánh tay xuống tư thế ngang bằng và chĩa bàn tay tôi vào mặt anh ta.

Lúc ấy, bệnh nhân có phản ứng cơ hồ như bị điện giật. Anh ta run rẩy khắp cả thân ḿnh, đôi mắt y nhắm lại và mở ra, cái lưỡi y bị tê cứng đă lâu, nay lại thè ra thụt vào, anh ta thốt lên một tiếng kêu mừng rỡ với một âm thanh vang dội và sụp xuống lạy dưới chân tôi.

Anh vừa ôm hôn hai đầu gối tôi, vừa tỏ ḷng biết ơn bằng những lời nói nhiệt thành rối rít.

Cảnh tượng ấy thật quá xúc động. Sự khỏi bệnh của anh ta thật quá đỗi nhanh chóng, đến nỗi mỗi người có mặt trong pḥng đều chia sẻ nỗi cảm xúc mừng vui không tả xiết của người thanh niên, và không có ai là không rơi lệ.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 896 of 1146: Đă gửi: 03 December 2010 lúc 1:12pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ


III.


Trường hợp sau đây có lẽ là trường hợp lư thú nhất. Có một người tên Badrinath Banerji, là luật sư ṭa án thị trấn Bhagalpore. Ông ta bị mù hoàn toàn, phải nhờ một đứa trẻ dắt đi.

Sau khi đă qua tay những y sĩ nhăn khoa giỏi nhất của thành phố Calcutta và phải rời khỏi bệnh viện v́ vơng mạc teo nhỏ dần không thể chữa khỏi, ông ta đến nhờ tôi chữa bệnh.

Tôi nắm chặt hai bàn tay, chĩa ngón cái của bàn tay mặt trước một mắt của y, và ngón cái của bàn tay trái chĩa vào đằng sau gáy. Tôi vận dụng ư chí phóng một luồng nhân điện từ đầu dương cực do ngón cái tay mặt chạy xuyên qua con mắt và bộ óc của người bệnh, cho tiếp nối với đầu âm cực ở ngón cái chĩa vào sau gáy.

Thế là tôi sử dụng thân ḿnh tôi như một cái b́nh phát điện, ḍng điện lưu thông theo một mạch khép kín (circuit fermé) với hai cực âm dương là hai ngón tay cái, để “sạc” điện vào con mắt và đường dây thần kinh trong năo bộ của người bệnh.

Phương pháp “sạc điện” này được tiếp tục độ nửa giờ, trong khi đó người bệnh vẫn hoàn toàn tỉnh táo, thỉnh thoảng ông cũng thốt lên vài lời để bày tỏ cảm giác mà ông tiếp nhận được.

Sau cùng, ông ta thoáng thấy một tia sáng đỏ lờ mờ trong con mắt đó. Tôi bèn đổi qua con mắt bên kia, và cũng áp dụng một phương pháp tương tự, kết quả cũng giống y như trước.

Khi ấy, tôi mới cho bệnh nhân về và dặn ngày hôm sau trở lại. Qua hôm sau, tôi lại tiếp tục, và lần này cái ánh sáng lờ mờ màu đỏ đă biến mất mà trở thành màu trắng. Tôi kiên nhẫn chữa trị luôn mười ngày liên tiếp, và sau cùng tôi đă thành công.

Thị giác của ông ta đă được phục hồi, và ông ta có thể đọc bằng một mắt những chữ in kiểu nhỏ nhất trên một tờ báo hay cuốn sách. Tất nhiên, ông ta không c̣n cần đến người dẫn đường và đi lại như mọi người thường.

Trường hợp khỏi bệnh này đă gây dư luận sôi nổi, v́ người này vẫn c̣n giữ chứng thư của những vị y sĩ ưu tú và nổi tiếng nhất, quả quyết rằng bệnh mù mắt của ông ta không thể chữa khỏi! Vả lại, sự mù ḷa của ông ta đă được tất cả mọi người biết và xác nhận trong cả tỉnh Bhagalpore.

Giai đoạn tiếp theo sau sự khỏi bệnh này mới thật rất lư thú và lạ lùng. Thị giác của ông ta đă mờ dần và mất hẳn hai lần, và cả hai lần đều được tôi phục hồi trở lại. Lần đầu tiên sau khi chữa khỏi được sáu tháng, và lần thứ nh́ sau đúng mười hai tháng.

Trong mỗi trường hợp, ông ta đều mù hoàn toàn và tôi đă làm cho ông sáng mắt trở lại sau khoảng nửa giờ chữa trị. Muốn cho ông ta được hoàn toàn khỏi hẳn, tôi cần phải giữ ông ta bên cạnh tôi để có thể chữa trị mỗi ngày cho đến khi những triệu chứng của bệnh hoàn toàn dứt hẳn.

Điều này về sau đă được thực hiện, và chứng bệnh mù mắt của ông ta không c̣n tái phát nữa.

Tôi cũng rất may mắn và “mát tay” trong việc chữa bệnh điếc. Người anh của bệnh nhân mù nói trên là một công chức cao cấp của Sở Bưu điện, bị điếc đến nỗi người đối thoại phải thét lớn vào tai anh ta mới nghe được.

Sau hai lần chữa trị bằng nhân điện trong hai ngày liên tiếp, anh ta đă có thể nghe tôi nói chuyện bằng một giọng b́nh thường ở khoảng cách chừng mười lăm thước tây.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 897 of 1146: Đă gửi: 03 December 2010 lúc 1:14pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ


IV.


Trong số những người Âu đến viếng khu nhà khách của Quốc vương Mohun Tagore ở Calcutta để chứng kiến việc chữa bệnh của tôi có mục sư Philip Smith, thuộc một phái bộ truyền giáo người Anh.

Ông ta rất nhă nhặn, lịch sự đối với tôi, và tôi đă dành cho ông ta mọi cơ hội thuận tiện để quan sát các sự việc, hầu có một nhận xét đúng đắn về khoa chữa bệnh bằng phương pháp truyền nhân điện.

Ông ta theo dơi mỗi trường hợp, đưa ra nhiều câu hỏi cho mỗi bệnh nhân, và ở lại bên cạnh tôi cho đến chiều tối, khi tất cả mọi người đă ra về. Kế đó, chúng tôi nói chuyện với nhau về vấn đề chữa bệnh và phân tích tỉ mỉ từng trường hợp mà ông ta đă quan sát tại chỗ.

Ông ta tuyên bố hoàn toàn thỏa măn về sự giải thích của tôi, và nói rằng nếu ông ta không nh́n thấy tận mắt mọi việc đă xảy ra, th́ có lẽ ông ta đă không thể tin được khi nghe người khác thuật lại.

Kế đó, vị mục sư nêu ra vấn đề các phép lạ được diễn tả trong Kinh Thánh, và thú nhận rằng ông ta đă thấy tôi chữa khỏi nhiều chứng bệnh một cách mầu nhiệm, giống như Đức Giê Su và các Thánh Tông Đồ đă làm khi xưa.

Làm cho người mù được sáng, người điếc được nghe, người câm được nói, người bại liệt quăng nạng gỗ, chữa khỏi các bệnh đau thần kinh, đau bụng kinh niên, phong giật, động kinh, và các chứng bệnh nan y khác.

Tôi nói:

“Thưa mục sư, xin ông vui ḷng nói cho tôi biết, ông thấy việc chữa bệnh của tôi với những phép chữa bệnh diễn tả trong Kinh Thánh có khác nhau ở điểm nào?

Nếu những ǵ ông thấy tôi làm đều giống y như những trường hợp nói trong Kinh Thánh, th́ phải chăng cả hai loại đều phải được giải thích giống như nhau?

Nếu cách chữa bệnh trong Kinh Thánh được gọi là phép lạ, th́ phải chăng phép chữa bệnh của tôi cũng phải được gọi như vậy?

C̣n nếu không phải, mà phép chữa của tôi chỉ là hoàn toàn đúng theo luật tự nhiên, th́ tại sao lại muốn cho người ta tin rằng những phép chữa bệnh của Đức Giê Su và các Thánh Tông Đồ là do quyền năng thiêng liêng hay phép lạ nhiệm mầu? Phải chăng như vậy là không hợp lư?”

Vị mục sư ngồi suy nghĩ một hồi lâu, có vẻ đắm ch́m trong cơn suy tư thâm trầm, và kế đó ông ta đưa ra một câu trả lời rất độc đáo mà tôi không bao giờ quên. Ông nói:

“Tôi nh́n nhận rằng phép chữa bệnh trong cả hai trường hợp đều hoàn toàn giống y như nhau. Tôi không c̣n nghi ngờ ǵ về việc đó.

Tôi chỉ có thể giải thích bằng cách suy luận rằng những phép chữa bệnh của Đức Giê Su đă được thực hiện bằng sức người, tức là qua cái khía cạnh thể chất hồng trần của ngài!”




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 898 of 1146: Đă gửi: 03 December 2010 lúc 1:16pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ


V.


Trước đây, những trường hợp chữa khỏi bệnh của tôi ở Tích Lan được phản ảnh rầm rộ trên báo chí đă tạo nên một sự sôi động trong quần chúng Ấn Độ, và nhiều người đă khẩn thiết yêu cầu tôi đi chữa bệnh trong tỉnh Bengale.

Sự việc ấy nay lại tái diễn một lần nữa, v́ những bài tường thuật hấp dẫn trên báo chí miền Bắc Ấn về việc làm của tôi, đă làm cho tôi “bị” mời mọc khẩn cấp, ráo riết để đi cứu chữa bệnh nhân ở miền Nam Ấn.

Dân chúng vây phủ lấy tôi ở Tinnevelly, cũng như ở tất cả các ga xe lửa khác trong vùng, và tôi đă thực hiện vài trường hợp chữa khỏi bệnh nan y một cách rất thần diệu.

Một thanh niên Ấn Độ chừng ba mươi tuổi được người cha dắt đến và nhờ tôi chữa khỏi bệnh câm đă mắc phải từ ba năm về trước. V́ bị đám đông vây chặt làm nghẽn hết lối đi, tôi mới trèo lên bực tam cấp của ngôi đền Bà-la-môn gần bên, và kéo người câm cùng bước lên với tôi.

Lúc ấy, tôi đưa tay làm hiệu để yêu cầu đám đông giữ im lặng, và bảo người cha tuyên bố cho mọi người biết tự sự. Sự việc diễn ra sau đó đă được một bạn đạo là ông Ramaswamier tường thuật lại và đăng trong mục phụ bản tạp chí Theosophist, số tháng 8 năm 1883.

Ông viết như sau:

“Giữa một đám quần chúng tề tựu đông đảo trước ngôi đền Nelliappa, Đại tá Olcott đặt hai bàn tay lên người câm. Ông khoát tay bảy lần ṿng quanh đầu, và bảy lần dọc theo thân ḿnh người bất hạnh, tất cả mọi sự đă diễn ra trong không đầy năm phút, và người câm đă nói được!

“Giữa những tràng pháo tay vang động và những tiếng hoan hô nồng nhiệt, Đại tá Olcott đă chỉ thị cho người câm thốt lên hồng danh của Shiva, Gopala, Rama, Ramachandra và của các đấng thần minh khác một cách trôi chảy dễ dàng như bất cứ người nào trong đám đông đang chứng kiến sự việc ấy.

“Tin lành về việc chữa khỏi bệnh cho người câm đă loan truyền tức khắc ra khắp cả thành phố và đă gây nên một cơn xúc động sâu xa.”

Điều ấy cũng không lạ ǵ, v́ khi tôi làm cho người câm hô to danh hiệu các vị thần bằng giọng lớn tột đỉnh của y, th́ một nửa đám đông vô cùng xúc động, bèn đổ xô ra đường như điên như dại, vung tay lên khỏi đầu, và la lớn những tiếng ngạc nhiên, mừng rỡ theo kiểu Ấn Độ, nghe rền cả một góc trời: “Wah! Wah! Wah!”

Trong tờ Phụ bản của tạp chí Theosophist số tháng 5 năm 1883, độc giả sẽ thấy đăng tờ y chứng của Bác sĩ Purna Chandra Sen ở Dacca, nói về việc tôi đă chữa khỏi trong ṿng hai mươi phút hai bệnh nhân bị chứng sốt rét trầm trọng, với hậu quả là bị sưng lá lách, mệt tim và loạn thần kinh.

Cũng trong Phụ bản tạp chí ấy số tháng 6 năm 1883, có bản tường thuật của Bác sĩ Mohun Ghose về mười trường hợp khó trị do tôi chữa khỏi, trong số đó có trường hợp của chính ông ta.

Đó là trường hợp mù mắt bên tay trái mà các y sĩ nhăn khoa danh tiếng ở Calcutta đều tuyên bố là không thể chữa khỏi, và có thể là một chứng bệnh do bẩm sinh đă có.

Bác sĩ Mohun viết:

“Nhưng hôm nay, sau vài phút truyền điện bằng cách thổi vào một cái ống dẫn điện nhỏ bằng bạc, Đại tá Olcott đă phục hồi thị giác cho tôi. Ông bảo tôi nhắm con mắt bên phải, và đọc bằng con mắt bên trái từ trước vẫn bị mù.

Tôi đă đọc được báo in bằng kiểu chữ nhỏ loại thông thường. Những cảm xúc của tôi như thế nào, hẳn người ta có thể tưởng tượng rơ ràng hơn là do tôi diễn tả.”

Phải, nhưng hăy thử tưởng tượng những cảm xúc của các y sĩ nhăn khoa trứ danh của thành phố Calcutta, đă tuyên bố là con mắt ấy không thể chữa khỏi!





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 899 of 1146: Đă gửi: 03 December 2010 lúc 1:17pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ


VI.


V́ những trường hợp chữa khỏi bệnh bằng nhân điện của tôi được các báo chí phổ biến rộng răi và b́nh luận thường xuyên, nên độc giả có thể thích thú mà đọc một bản tóm lược những con số thống kê do bạn Chandra Mukerji công bố.

Ông này cùng đi với tôi suốt những cuộc hành tŕnh trong năm 1882 và trợ giúp tôi phần việc của một người thư kư riêng.

Ông cho biết, tổng số bệnh nhân mà tôi đă chữa trị là hai ngàn tám trăm mười hai người trong một chuyến đi ṿng quanh các thị trấn miền Đông Bắc, kéo dài độ năm mươi bảy ngày!

Bà C. Wallace, tác giả một bộ sách về khoa nhân điện, khi nh́n thấy bản thống kê tổng số bệnh nhân do tôi chữa khỏi trong năm ấy, có viết thư cho tôi biết rằng không một nhà chữa bệnh bằng nhân điện nào ở Âu châu có thể thành công tới một nửa số đó.

Lẽ tất nhiên, bà chỉ nói về những nhà chữa bệnh chuyên nghiệp như bà mà thôi, chứ không đề cập đến những bậc thiên tài như Schlatter, Newton, Linh mục Ars, Zouave Jacob và những vị khác được cho là có sự hỗ trợ của một quyền năng thiêng liêng.

Riêng phần tôi, tôi thành thật thú nhận rằng tôi không thể nào chịu đựng nổi một sự phung phí sinh lực lớn lao và thường xuyên như vậy, nếu tôi không được sự trợ giúp thần lực của các đấng chân sư, tuy rằng điều này các ngài không hề nói cho tôi biết.

Điều mà tôi bắt buộc phải nh́n nhận là tôi không c̣n có được một quyền năng nhiệm mầu như vậy nữa kể từ khi tôi được lệnh ngưng mọi công tác chữa bệnh, tức là vào khoảng cuối năm 1885.

Sau đó, tuy tôi vẫn luôn cố gắng tối đa, tôi vẫn không chữa khỏi những trường hợp tuyệt vọng mà trước kia tôi đă có thể thành công dễ dàng với chỉ độ nửa giờ chữa trị, hoặc có khi ít hơn.

Sau đó, tại Bombay, tôi được lệnh của sư phụ truyền cho tôi hăy ngưng tất cả mọi công tác chữa bệnh cho đến khi có lệnh mới. Sự ngăn cấm này không phải đến quá sớm v́ tôi nghĩ rằng chính tôi cũng có thể bị tê liệt nếu tôi vẫn tiếp tục cố gắng và dùng sức quá nhiều vào việc ấy.

Khi đến Madras, một buổi sáng tôi nhận thấy ngón tay trỏ bên bàn tay trái của tôi không c̣n cảm giác, và đó là một sự cảnh cáo rơ rệt cho tôi biết là tôi phải cẩn thận.

Ở những trạm dọc đường giữa Madras và Bombay, tôi đă phải mất nhiều th́ giờ hơn và dùng sức cố gắng lớn lao hơn nhiều để chữa khỏi những chứng bệnh tương tự so với những lần trước đây, và tỷ lệ thất bại cũng cao hơn nhiều.

Điều này cũng không lạ ǵ, v́ sau khi chữa trị bằng cách này hay cách khác độ tám ngàn bệnh nhân trong ṿng mười hai tháng, th́ dù cho một lương y trẻ có sinh lực dồi dào mạnh khỏe nhất cũng phải cảm thấy kiệt sức và khô cạn sinh khí, đừng nói chi một người tuổi đă ngoài năm mươi như tôi.

Vả lại, với những chuyến du hành mệt mỏi thường xuyên, việc ngủ nghỉ ăn uống thất thường, sự lao phí tâm lực để trả lời thư tín bốn phương, tiếp khách hằng ngày, và những buổi diễn thuyết hầu như mỗi ngày của tôi về những đề tài triết lư thâm sâu, những điều này đương nhiên là phải đưa đến hậu quả nói trên.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 900 of 1146: Đă gửi: 03 December 2010 lúc 1:19pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ


VII.


Sau khi lệnh ngưng công tác chữa bệnh của tôi được giải tỏa, tôi lại tiếp tục làm việc. Trong một chuyến đi hành đạo ở Madura, miền Nam Ấn, có rất đông bệnh nhân tề tựu đến nhờ tôi chữa bệnh, và mỗi trường hợp chữa khỏi bệnh lại làm cho dân chúng càng thêm sôi động.

Tôi đă phải nhờ Ban tổ chức sắp xếp trật tự, và chọn lựa những bệnh nhân được chữa ưu tiên, trong số đám đông vây chặt và xô đẩy nhau ở cửa ra vào.

Bản báo cáo của một bạn đạo gửi đăng trên tạp chí Theosophist cho biết rằng tôi đă truyền điện cho hai mươi bảy bệnh nhân, và những trường hợp khỏi bệnh đáng kể nhất gồm có ba người điếc, một trường hợp bệnh thấp khớp tủy xương sống đă kéo dài chín năm mà y học không thể chữa khỏi, và hai chứng bại liệt.

Nói chung, đó là một loạt những sự việc mệnh danh là “phép lạ”, mà nếu được một giáo sĩ của bất cứ một tôn giáo nào khai thác triệt để, cũng đủ chứng minh cho người đời thấy rằng y là người có thiên ân, v́ quần chúng mê tín dị đoan của bất cứ đất nước nào cũng sẵn sàng tin tưởng như vậy.

Độc giả sẽ nhận thấy rằng nếu hai nhà sáng lập Hội Thông thiên học quả thật là những kẻ gian trá lừa bịp như họ thường bị vu khống, th́ họ đă có thể tóm thâu những số bạc khổng lồ và được tôn sùng như thần thánh, thay v́ chỉ có những số lợi tức ít oi như được tường tŕnh trong các bản báo cáo t́nh h́nh tài chính hằng năm của Hội.

Không phải là chúng tôi không có cơ hội, bởi v́ mọi cơ hội tốt mà bất cứ một nhà cải cách tôn giáo nào ở Ấn Độ đă từng có, th́ chúng tôi cũng đă có. Trong thời kỳ hiện tại, ḷng tín ngưỡng chân chính đă suy thoái, và các hàng giáo phẩm, tư tế đă hầu như lụn bại, đồi trụy tinh thần.

Th́ những phép thuật thần thông của bà Blavatsky và khả năng chữa bệnh nhiệm mầu của tôi đă gây ấn tượng sâu xa trong tâm hồn dân chúng đến mức làm cho các nhà tỷ phú sẵn sàng hiến dâng vàng bạc của cải dưới chân chúng tôi, và những số bạc khổng lồ đă được cung hiến để cho chúng tôi biểu diễn quyền năng trước mắt họ.

Một người Hồi giáo ở tỉnh Bengale có lần đề nghị dâng hiến cho tôi mười ngàn ru-pi nếu tôi ngưng việc chữa bệnh cho công chúng trong vài giờ để chữa bệnh bại liệt cho vợ y.

Lẽ tất nhiên là tôi từ chối, mà đáng lẽ ra tôi đă có thể chữa khỏi bệnh cho người vợ nếu ông ta là một người nghèo khổ cùng đinh hoặc chỉ cần ông ta đến với tôi theo cách của những người dân thường mà không đặt ra vấn đề mua chuộc bằng tiền bạc.

Chúng tôi đă từ chối tất cả những đề nghị đó với một sự thành thật hiển nhiên, và đó chính là cái bí quyết làm cho chúng tôi được quần chúng mến phục và kính trọng ở khắp mọi nơi trong xứ Ấn Độ, kể từ lúc đầu cho đến bây giờ.

Nếu chúng tôi đă thâu nhận một món quà nào cho riêng ḿnh, th́ toàn thể quần chúng Ấn Độ có lẽ đă bỏ rơi chúng tôi trong cơn khủng hoảng về vụ Coulomb, có lẽ chúng tôi đă bị coi như những kẻ bịp bợm, “buôn thần bán thánh”, hoặc “mượn đạo tạo đời”.

Trái lại, với t́nh trạng hiện hữu, tất cả các nhà truyền giáo của mọi chi phái và tất cả mọi tổ chức hiệp hội trên thế giới vẫn không thể làm mất đi những cảm t́nh mà chúng tôi đă tạo ra trong ḷng dân chúng Ấn.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 

<< Trước Trang of 58 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 1.8984 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO