Tác giả |
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 921 of 1146: Đă gửi: 07 December 2010 lúc 1:24pm | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ ĐẠI SƯ TÁI SINH TÂY TẠNG
Đại sư thứ chín: WANGCHUK DORJE (1555-1603)
Đại sư Wangchuk Dorje sinh năm 1555, tại vùng Tre-shư thuộc miền đông Tây Tạng, đúng như lời dự báo của đức Karmapa đời thứ tám trước khi viên tịch. Trong khi mang thai, người mẹ nghe có tiếng tụng kinh, tŕ chú vang ra từ trong bụng.
Sau khi sinh ra, đứa bé ngồi ở tư thế kết già trong suốt 3 ngày liền. Và không bao lâu sau đó, đứa bé tuyên bố với mọi người: “Ta là Karmapa.”
Những chi tiết kỳ lạ về đứa bé được mọi người kể cho nhau nghe và truyền đi nhanh chóng đến tai ngài Tai Situpa Chưkyi Gocha, v́ ngài đang ở cách nơi ấy không xa.
Căn cứ vào những chi tiết được ghi trong di thư của đức Karmapa đời thứ tám, ngài nhanh chóng xác định đứa bé chính là hóa thân tái sinh của đức Karmapa. Sự việc sau đó một năm được xác nhận lần nữa bởi Sharmapa Konchok Yenlak.
Khi Wangchuk Dorje được 6 tuổi, Shamarpa Konchok Yenlak tổ chức một nghi lễ chính thức để công nhận ngài chính là hóa thân tái sinh của vị Karmapa. Kể từ đó, Wangchuk Dorje được truyền dạy đầy đủ các phần giáo pháp căn bản và chuyên sâu của tông phái.
Ngài thọ giới sa-di với Pawo Rinpoche và Shamar Rinpoche trong một nghi lễ long trọng. Sau đó, ngài bắt đầu học về giáo pháp Đại thủ ấn và Sáu pháp Naropa.
Sau khi hoàn tất việc học tập toàn bộ giáo pháp của ḍng Karma Kagyu, ngài Wangchuk Dorje bắt đầu công cuộc hoằng hóa với việc truyền dạy giáo pháp khắp đất nước Tây Tạng. Buổi giảng pháp đầu tiên của ngài có sự tham dự của 1.800 vị tăng và nhiều quan chức chính quyền miền trung Tây Tạng.
Cũng nên biết một điều là vào thời ấy, những mối quan hệ giữa tôn giáo và chính trị tại Tây Tạng đă được thiết lập chặt chẽ đến mức không một tông phái nào thoát khỏi được các ảnh hưởng chính trị. Chính các quan chức ở miền trung Tây Tạng cũng có tham gia trong việc công nhận trường hợp tái sinh của vị Karmapa.
Ngài chính thức thọ giới tỳ-kheo với Shamar Rinpoche vào năm 1580. Từ đó, ngài dành thời gian để nghiên cứu Luật tạng và giáo pháp của các vị Karmapa đời trước. Ba năm sau đó (1583), vị đạo sư Shamar Rinpoche viên tịch.
Ngài tổ chức tang lễ và thu thập xá-lợi của thầy để nhập tháp thờ phụng tại chùa Yangbachen. Những vật sở hữu của vị đạo sư để lại được chia đều cho tăng chúng.
Phần lớn thời gian trong cuộc đời hoằng pháp của ngài được dành cho những chuyến đi du hóa khắp mọi nơi. Ngài thăm viếng rất nhiều tu viện ở miền nam và khuyến khích tăng sĩ phải chú tâm nhiều hơn đến việc thực hành thiền định.
Ngài không viếng thăm Trung Hoa, nhưng có thực hiện những chuyến đi quan trọng đến Mông Cổ và Bhutan. Ngài giảng dạy giáo pháp và khơi dậy tinh thần tu tập ở các trung tâm tu học, tự viện trên đường ngài đi qua.
Đức Karmapa đời thứ chín cũng nhận được lời thỉnh cầu đến viếng Sikkim. Mặc dù không thể trực tiếp đi, nhưng ngài đă cho một vị đệ tử lớn thay ngài đến đó và theo đúng sự hướng dẫn của ngài để thành lập 3 tu viện lớn là Rumtek, Phodong và Ralang.
Đức Karmapa tổ chức nghi thức cầu nguyện và ban phép lành cho các tu viện này từ Tây Tạng. Về sau, Rumtek trở thành trụ sở của các vị Karmapa ở Ấn Độ vào những năm đầu thập niên 1960.
Đức Karmapa đời thứ chín Wangchuk Dorje không dành nhiều thời gian cho việc biên soạn, trước tác. Mặc dù vậy, trong số các tác phẩm để lại của ngài có nhiều bản luận giải kinh điển và Tan-tra quan trọng.
Trong số đó có 3 tập luận giải về Đại thủ ấn là Đại hải quyết định nghĩa, Triệt phá vô minh và Hiển bày Pháp thân. Các tác phẩm này đă giữ một vai tṛ quan trọng trong việc giảng dạy và truyền thừa giáo pháp Đại thủ ấn tại Tây Tạng.
Vào lúc bấy giờ, sự phân chia tông phái ở Tây Tạng ngày càng đi theo chiều hướng sai lệch, rối rắm hơn. Những khác biệt giữa các tông phái dần dần chuyển thành cách biệt rồi mâu thuẫn, công kích nhau. Đức Karmapa đời thứ chín đă giữ một vai tṛ tích cực trong việc ḥa giải và xóa đi những cách biệt giữa các tông phái.
Ngài và ba vị Karmapa tiếp theo sau đó (đời thứ 10, 11 và 12) được lịch sử Tây Tạng ghi nhận là đă có những đóng góp tích cực trong việc duy tŕ sự ổn định và ḥa b́nh cho đất nước.
Nhằm mục đích khơi dậy truyền thống tốt đẹp của Phật giáo Tây Tạng từ thời những vị vua sùng tín, ngài tổ chức trùng tu các ngôi cổ tự được xây dựng từ những thời kỳ này như Srongtsen Gampo và Trisong Detsun.
Đức Karmapa đời thứ chín đặc biệt quan tâm đến việc giáo hóa những người dân thường. Khi đến vùng Nagakphu, ngài tổ chức lễ xuất gia cho rất nhiều người dân địa phương. Sự thuyết giảng của ngài khơi dậy nhận thức từ bi và tôn trọng sự sống.
Ngài khuyên mọi người nên từ bỏ các nghề nghiệp như săn bắn và đánh cá, cũng như biết tôn trọng sự sống của súc vật. Ngài cũng vận động xây dựng và sửa sang rất nhiều cầu cống, đường giao thông.
Đức Karmapa đời thứ chín viên tịch vào năm 1603, khi được 48 tuổi. Ngài để lại một di thư nói rơ về sự tái sinh trong đời kế tiếp và giáo quyền dẫn dắt tông phái cho vị Shamarpa đời thứ sáu là Chưkyi Wangchuk. Sau lễ hỏa táng, xá-lợi của ngài được thu thập và thờ phụng ở Tsurphu.
Chưkyi Wangchuk là một trong các vị đệ tử lớn của đức Karmapa đời thứ chín. Ông sinh năm 1584 tại vùng Drikhung thuộc miền trung Tây Tạng. Đức Karmapa đời thứ chín đă xác nhận ông là Shamar tái sinh đời thứ sáu.
Từ nhỏ ông đă được theo học với đức Karmapa đời thứ chín và nhận được sự truyền thừa toàn bộ giáo pháp của ḍng Karma Kagyu. Ông trở thành một trong các vị học giả nổi tiếng nhất của Tây Tạng vào thời bấy giờ, với sự tinh thông và uyên bác về kinh điển. Ông đă biên soạn rất nhiều bản luận giải quan trọng.
Ông là đạo sư của Desi Tsangpa, người cai trị miền trung Tây Tạng vào thời đó. Ông đă có công xây dựng lại tu viện ở Kampo Neynang.
Khi du hóa ở tỉnh Kham thuộc miền đông Tây Tạng, chính ông đă phát hiện và rồi trở thành thầy dạy chính của đức Karmapa đời thứ mười. Ông là người đă truyền lại toàn bộ giáo pháp của ḍng Karma Kagyu cho đức Karmapa đời thứ mười: Chưying Dorje.
Ông cũng đă có những chuyến đi du hóa rất lâu dài gian khổ đến tận Trung Hoa và Nepal. Là một học giả uyên bác, ông giảng dạy giáo pháp cho đức vua Laxman Naran Singh và những Phật tử thuần thành ở Nepal bằng tiếng Sanskrit nguyên thủy. Ông viên tịch trên dăy núi Helambu tại Nepal vào năm 1629.
Đức Karmapa đời thứ chín c̣n có rất nhiều vị đệ tử nổi tiếng khác. Trong số đó có Lotsawa Taranatha, người đă có công biên soạn một quyển lịch sử Phật giáo Ấn Độ, và các vị như Situ Chokyi Gyaltsen, Pawo Tsuglak Gyaltsho, Drigung Karma Kagyupa Chokyi Rinchen Namgyal, Taglung Karma Kagyupa Chokyi Kunga Tashi...
Họ đều là những người nối tiếp sự nghiệp hoằng hóa của ngài, truyền dạy giáo pháp của ḍng Karma Kagyu ra khắp mọi nơi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 922 of 1146: Đă gửi: 07 December 2010 lúc 1:29pm | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ ĐẠI SƯ TÁI SINH TÂY TẠNG
Đại sư thứ mười: CHÖYING DORJE (1604 - 1674)
Đại sư Choying Dorje sinh ngày 8 tháng 3 năm Mộc Th́n (1604) tại vùng Golok, cực bắc Tây Tạng. Trong thời gian mang thai ngài, người mẹ có nhiều giấc mơ xuất hiện như những điềm lành. Tương truyền, ngay sau khi sinh ra ngài đă đứng dậy bước đi bảy bước như khi đức Phật Thích-ca vừa đản sinh.
Sau đó, ngài được vị Shamar Chokyi Wangchuk nhận biết là hóa thân tái sinh của đức Karmapa. V́ đức vua xứ Tsang là người sùng kính giáo pháp của ḍng Karma Kagyu nên sau đó ngài liền được đưa vào nuôi dưỡng trong lâu đài của một vị hoàng tử ở Machu là Chang Mowa, và ngay từ khi c̣n bé đă được đối xử như một vị đạo sư phi thường.
Chỉ vào năm 6 tuổi ngài đă biểu lộ tài năng xuất chúng khi vẽ những bức tranh đẹp hơn tất cả các vị thầy dạy của ḿnh và thể hiện tài năng của một nhà điêu khắc tài hoa. Đồng thời ngài cũng sớm thể hiện tâm từ bi vô hạn ngay từ khi c̣n là một đứa trẻ.
Một hôm, ngài nh́n thấy những người thợ cạo lông cừu. Ngài xúc động rơi nước mắt và khẩn khoản đến xin những người thợ hăy dừng ngay việc ấy. Một ngày khác khi ngài đang dạo chơi, một con nai đang bị săn đuổi đă chạy đến chỗ ngài để t́m sự che chở.
Ngài đứng chắn trước con nai để nó không bị chó săn làm hại, rồi dùng tâm từ bi làm chuyển hóa con chó săn, khiến nó trở nên hiền lành, không c̣n hung hăng như trước nữa. Khi người thợ săn đuổi đến, ngài thuyết phục ông ta hăy bỏ nghề và trao cho ông một số tiền. Người thợ săn cảm động trước tấm ḷng từ bi của ngài đến nỗi ông ta thề sẽ không bao giờ làm nghề săn bắn nữa.
Năm ngài được 8 tuổi, Shamar Chokyi Wangchuk tổ chức nghi lễ chính thức công nhận ngài là hóa thân tái sinh của đức Karmapa. Tiếp theo, một buổi lễ đăng quang được tổ chức long trọng tại tu viện Nyingche Ling để tất cả mọi người đều được biết đến sự ra đời của ngài.
Sau đó, ngài lên đường đến Tsurphu để gặp đại sư Pawo Tsuglak Gyaltsho. Vị này đă truyền giới sa-di cho ngài cũng như truyền dạy các phần giáo pháp căn bản. Sau một thời gian nỗ lực học tập tại đây, ngài đă có thể nắm vững hầu hết những phần giáo pháp quan trọng nhất.
Tiếp đó, ngài nhận lời thỉnh cầu đến viếng thăm vị hoàng tử xứ Tsang là Karma Phuntsog Namgyal, người hiện đang nắm quyền ở hầu hết các vùng lănh thổ của Tây Tạng sau khi triều đại Rinpung sụp đổ.
Năm 21 tuổi, ngài chính thức thọ giới cụ túc để trở thành một vị tỳ-kheo. Vào thời điểm này, ngài đă nhận được sự truyền thừa toàn bộ giáo pháp của ḍng Karma Kagyu. Từ đó, ngài tập trung mọi nỗ lực tu tập vào việc thực hành thiền định.
Vào thời đức Karmapa đời thứ mười, mối quan hệ giữa phái Gelugpa (Cách-lỗ) và phái Karma Kagyu không được tốt đẹp. Đức vua Desi Karma Tenkyong Wangpo của xứ Tsang là người tin theo phái Karma Kagyu và hiện đang nắm giữ quyền cai trị trên hầu hết các vùng lănh thổ của Tây Tạng.
Đức Karmapa Chưying Dorje đă dự báo trước về những cuộc chiến tranh và xung đột chính trị sắp xảy ra, khi phái Gelugpa (Cách-lỗ) muốn liên kết với người Mông Cổ để chống lại phái Karma Kagyu.
Ngài nhận biết rằng sự quan tâm về chính trị sẽ lôi kéo quân đội Mông Cổ vào việc ủng hộ phái Gelugpa, và trong cuộc xung đột này ngài sẽ phải rời khỏi miền trung Tây Tạng trong một thời gian dài.
V́ thế, ngài mang tất cả những tài sản sở hữu của ḿnh phân phát cho người nghèo, và đồng thời chỉ định Goshir Gyaltsab làm người đại diện cho ngài.
Quả nhiên, quân đội Mông Cổ do Đại Hăn Gushri chỉ huy đă tấn công Shigatse và sau đó tiếp tục tấn công hầu hết các vùng của Tây Tạng, gây ra những sự tàn phá và hủy hoại phần lớn đất nước, rồi cuối cùng bao vây và khống chế tu viện Tsurphu của đức Karmapa, nơi đặt trụ sở chính của phái Karma Kagyu.
Đức Karmapa Chưying Dorje bị buộc phải rời khỏi vùng này. Vào đêm xảy ra cuộc chiến loạn, nhiều người nh́n thấy ngài nắm tay người tùy tùng của ngài và cả hai cùng bay bổng giữa không trung, vượt qua những đoàn quân lính đang vây chặt bên dưới.
Bằng cách đó, ngài đă thoát khỏi sự vây hăm của quân đội và đi thẳng đến những vùng rừng núi hoang vắng của Bhutan và sống tại đây trong 3 năm. Sau đó họ đi đến vùng đất mà ngày nay là miền bắc của tỉnh Yunnan, thuộc Trung Hoa. Các tu viện ở đây vui mừng đón tiếp ngài và được ngài truyền dạy giáo pháp.
Trong suốt thời gian sau đó, khi đức Karmapa đi qua bất cứ nơi nào ngài cũng đều truyền dạy giáo pháp và khơi dậy tinh thần tu tập, đồng thời ngài cũng thành lập được một số chùa và tu viện.
Trải qua 20 năm sau đó, đức Karmapa đời thứ mười mới có thể trở về quê hương của ḿnh. Vào lúc này, ngài phát hiện các hậu thân của Shamar Yeshe Nyingpo, Goshir Gyaltsab, và Pawo Rinpoche. Ngài công nhận các hậu thân này và truyền dạy giáo pháp của ḍng Karma Kagyu cho họ.
Vào thời điểm này, bối cảnh chính trị tại Tây Tạng đă thay đổi lâu dài. Đức Đạt-lai Lạt-ma đời thứ năm, Ngawang Lobsang Gyatso (1617-1682) đă trở thành người chính thức nắm giữ chính quyền, và vai tṛ này về sau tiếp tục được chuyển giao cho các hậu thân tái sinh của ngài. Mối quan hệ giữa hai phái Cách-lỗ và Karma Kagyu v́ thế cũng không c̣n căng thẳng nữa.
Đức Karmapa đời thứ mười, Chưying Dorje, viên tịch vào năm 1674, khi ngài được 70 tuổi. Ngài để lại một di thư báo trước về sự tái sinh của ḿnh cùng những chỉ dẫn chi tiết để nhận biết.
Goshir Gyaltsab Norbu Sangpo trở thành người thay thế tạm thời của ngài tại Tsurphu. Sau lễ hỏa táng, xá-lợi ngài được thu thập và nhập tháp thờ phụng tại Tsurphu. Shamar Yeshe Nyingpo được chọn làm người kế thừa giáo pháp của ngài.
Shamar Yeshe Nyingpo sinh năm 1631 tại vùng Golok thuộc miền đông Tây Tạng. Ông được đức Karmapa đời thứ mười xác nhận là hậu thân tái sinh đời thứ bảy của Shamar.
Ông hết sức thành tín và nỗ lực tu tập theo sự chỉ dẫn của đức Karmapa Chưying Dorje. Ông nhận được sự truyền thừa toàn bộ giáo pháp của ḍng Karma Kagyu và có nhiều biểu hiện chứng đắc về các pháp thiền định Đại thủ ấn (Mahamudra) cũng như Đại cứu cánh (Dzogchen).
Yeshe Nyingpo viên tịch vào năm Thổ Tuất (1694), khi ông được 63 tuổi. Ông là người đă nhận biết và trở thành thầy dạy chính của đức Karmapa đời thứ 11: Yeshe Dorje.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 923 of 1146: Đă gửi: 07 December 2010 lúc 1:31pm | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ ĐẠI SƯ TÁI SINH TÂY TẠNG
Đại sư thứ mười một: YESHE DORJE (1676- 1702)
Đại sư Yeshe Dorje sinh năm Hỏa Th́n (1676) ở vùng Mayshư thuộc miền đông Tây Tạng, trong một gia đ́nh Phật tử thuần thành. Từ khi c̣n rất nhỏ, đứa bé đă thường kể cho cha mẹ nghe về những giấc mơ kỳ lạ của em.
Ban đầu, mọi người rất thích thú với những câu chuyện do em kể lại, nhưng dần dần họ nhận ra là có những ư nghĩa rất sâu xa và mầu nhiệm trong hiện tượng lạ thường này.
Khi tin đồn về một em bé với những giấc mơ kỳ lạ được lan ra, các vị Shamar Yeshe Nyingpo và Gyaltsab Norbu Sangpo đă gửi những người đại diện của họ đến t́m hiểu và xác nhận được nhiều chi tiết quan trọng.
Tiếp theo đó, căn cứ vào những chỉ dẫn được để lại trong di thư của đức Karmapa đời thứ mười, Shamar Yeshe Nyingpo và Gyaltsab Norbu Sangpo nhận biết được em bé này chính là hóa thân tái sinh của đức Karmapa.
Yeshe Dorje được đón tiếp long trọng tại chùa Dechen Yangbachen, do Shamar Rinpoche làm trụ tŕ. Sau đó, em được đưa đến Tsurphu ở miền trung Tây Tạng và chính thức trở thành vị Karmapa đời thứ mười một sau một nghi lễ đăng quang được tổ chức tại tu viện Tsurphu, dưới sự chủ tŕ của Shamar Yeshe Nyingpo.
Yeshe Dorje thọ Ngũ giới với sự truyền thụ của Shamar Rinpoche. Sau đó, ngài bắt đầu việc học tập giáo pháp dưới sự chỉ dạy của các vị Shamar Rinpoche, Gyaltshap Rinpoche và Karma Thinleypa.
Yeshe Dorje nhận sự truyền thừa Đại thủ ấn (mahamudra) và các giáo pháp khác từ vị Shamar. Ngài cũng được học về các giáo pháp bí truyền (Terma), là những phần giáo pháp của ngài Liên Hoa Sinh (Padmasambhava) nhưng từ lâu giấu kín và chỉ được khám phá gần đây do một số bậc thầy đủ cơ duyên.
Ngài học các giáo pháp này với Yong-ge Mingur Dorje và Taksham Nden Dorje. Điều này tương ứng với lời dự báo của ngài Liên Hoa Sinh trước đây rằng vị Karmapa đời thứ mười một sẽ nắm giữ được một phần giáo pháp bí truyền.
Sau khi Shamar Yeshe Niyingpo viên tịch, Karmapa Yeshe Dorje đến học với Yong-ge Mingur Dorje và Taksham Nden Dorje. Chính trong thời gian này ngài được tiếp thu trọn vẹn những phần giáo lư bí truyền do 2 vị này nắm giữ.
Vào năm Thủy Tuất (1682), đức Đạt-lai Lạt-ma đời thứ năm viên tịch. Trong khi chờ đợi hậu thân tái sinh của ngài, vị nhiếp chính là Desi Sangye Gyalsho tạm thời nắm giữ mọi quyền hạn.
Vị này vẫn tiếp tục chính sách ḥa giải giữa các tông phái. Một trong những đệ tử của Karmapa Yeshe Dorje là Karma Tendzin Thargye cũng là người phụng sự cho đức Đạt-lai Lạt-ma.
Karmapa Yeshe Dorje là một bậc đại đạo sư có khả năng thực hiện nhiều phép thần thông mầu nhiệm. Ngài đă nhận biết và xác nhận hóa thân lần thứ tám của vị Shamarpa là Palchen Chưkyi Dhondrup, được sinh ra gần ngọn núi Jomo Gangkar tại Nepal.
Mặc dù đây là một địa điểm rất xa xôi, nhưng qua những linh ảnh nh́n thấy trong khi nhập định, ngài đă có thể đưa ra những chỉ dẫn chi tiết để phái đoàn t́m kiếm do ngài cử đến có thể dễ dàng t́m ra em bé hóa thân này.
Em bé được đưa về Tsurphu và được chính đức Karmapa tổ chức nghi lễ công nhận em là người kế thừa ḍng Shamarpa, với một vương miện màu đỏ được đội lên để tượng trưng cho vai tṛ đứng đầu phái này. Sau đó, Palchen Chưkyi Dhondrup trở thành đệ tử lớn của đức Karmapa và được giao trách nhiệm kế thừa dẫn dắt tông phái.
Karmapa Yeshe Dorje cũng nhận biết và công nhận hậu thân tái sinh của Siyu là Tenpi Nyingche và hậu thân tái sinh của Pawo Rinpoche là Chokyi Dondrup.
Đức Karmapa đời thứ mười một là vị có đời sống ngắn ngủi nhất trong số các vị Karmapa. Mặc dù vậy, trong quăng đời ngắn ngủi của ḿnh, ngài đă hợp nhất được cả hai phần giáo pháp của ḍng Karma Kagyu và ḍng Nyingma (Ninh-mă). Sự giáo hóa của ngài được thực hiện một cách siêu việt và hoàn hảo.
Một lần, khi trong các đệ tử có một số người hoài nghi về giáo pháp hóa thân, ngài lập tức hóa hiện ra cùng lúc nhiều thân khác nhau, mỗi thân chỉ dạy cho một người đệ tử. Với sự hiển bày này, mọi sự nghi ngờ về khả năng hóa thân của chư Phật và Bồ Tát đều được xóa sạch.
Ngài viên tịch vào năm 1702, sau khi đă để lại cho Shamar Palchen Chưkyi Dưndrup một di thư nói rơ chi tiết về lần tái sinh kế tiếp.
Vào hôm ngài viên tịch, rất nhiều đệ tử nh́n thấy ngài hiện ra trong một mặt trời chói sáng cùng với hai vị đạo sư khác. Sau lễ hỏa táng, các đệ tử thu thập xá-lợi của ngài rồi nhập tháp thờ phụng tại Tsurphu.
Người kế thừa đức Karmapa trong thời gian chờ đợi hóa thân của ngài là Palchen Chưkyi Dhondrup. Vị này sinh năm 1695 trong một gia đ́nh người Nepal, tại Yolmo (Helambu) thuộc lănh thổ Nepal.
Đức Karmapa Yeshe Dorje đă nhận biết được sự sinh ra của ông nhờ vào những linh ảnh được thấy trong thiền định, và đă cử đến một phái đoàn t́m kiếm với những chỉ dẫn chính xác để họ có thể dễ dàng t́m được ông.
Ông được cha mẹ cho phép rời Nepal để đến Tây Tạng vào năm lên 7 tuổi, và được đức Karmapa công nhận là hóa thân đời thứ tám của vị Shamar.
Sau đó, Palchen Chưkyi Dhondrup nhận được sự truyền thừa toàn bộ giáo pháp của ḍng Karma Kagyu từ đức Karmapa, và cũng được học tập với vị Treho thứ ba là Tendzin Dhargye, với Goshir Dhưnyư Nyingpo và nhiều vị thầy khác nữa.
Ông đă thực hiện những chuyến đi du hóa đến Trung Hoa và Nepal để truyền bá rộng răi những giáo pháp mà ông đă học được cũng như làm lợi ích cho nhiều người. Ông viên tịch vào năm Thủy Tư (1732), khi được 37 tuổi. Ông là người đă truyền lại toàn bộ giáo pháp ḍng Karma Kagyu cho đức Karmapa đời thứ mười hai: Changchup Dorje.
Trong số các đệ tử của đức Karmapa đời thứ mười một c̣n có các vị nổi tiếng khác như Tewo Rinpoche, Karma Tendzin Thargye...
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 924 of 1146: Đă gửi: 07 December 2010 lúc 1:33pm | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ ĐẠI SƯ TÁI SINH TÂY TẠNG
Đại sư thứ mười hai: CHANGCHUP DORJE (1703 - 1732)
Đại sư Changchup Dorje sinh năm 1703 ở gần Yangtse, tại Kyile Tsaktor, thuộc tỉnh Derge, miền đông Tây Tạng. Gia đ́nh ngài vốn thuộc ḍng dơi vua Trisong Detsun trước đây. Tuy vậy, vào lúc sinh ra ngài th́ cha ngài là một người người chủ ḷ gốm.
Không lâu trước khi ngài ra đời, người cha đă nhận được lời dự báo của đại sư Yong-ge Mingur Dorje rằng gia đ́nh ông sắp có một điều lành trọng đại.
Khi mới được 2 tháng tuổi, một hôm đứa bé bỗng thốt ra thành lời: “Ta là Karmapa.” Sự kiện kỳ lạ này nhanh chóng được loan truyền khắp nơi. V́ thế, đại sư Chưkyi Dhưndrup đă gửi ngay một phái đoàn đến để xác minh sự việc.
Sau khi t́m đến nơi, phái đoàn này tin chắc rằng đứa bé mà họ gặp được chính là vị Karmapa tái sinh, và họ ngay lập tức đưa đứa bé đến gặp vị Shamarpa. Vị này tiếp xúc với đứa trẻ và tức thời có thể dựa vào những chỉ dẫn trong di thư của đức Karmapa để nhận ra đây chính là hóa thân tái sinh của ngài.
Vị Karmapa trẻ tuổi được học tập giáo pháp với nhiều bậc đạo sư xuất chúng. Những vị thầy đầu tiên của ngài là Tsuglak Tenpi Nyingje, Situ Chokyi Jungnay và Nyenpa Tulku.
Năm lên 7 tuổi, ngài được đưa đến Karma Gưn để tiếp tục việc học. Sau đó, ngài đến tu viện ở Kampo Gangra để nỗ lực thực hành thiền định. Một thời gian sau ngài lại đi đến Nangchen, rồi đến Tsurphu để học tập các phần giáo pháp cao hơn.
Vào lúc này, người Mông Cổ tiến đánh miền trung Tây Tạng, các vị Lapzang Khan, Minling Lotsawa Dharma Śrỵ, Padma Gyurme Gyaltsho và nhiều đạo sư khác của phái Nyingma (Ninh-mă) bị giết chết. T́nh h́nh trở nên hỗn loạn, rối ren và kéo dài trong 4 năm, khiến cho các tu viện Mindroling, Dorje Drag và rất nhiều tu viện, chùa chiền khác bị hủy hoại.
Nhiều thánh tích, tài sản, kho tàng bị cướp phá. Phải đợi đến khi đức Đạt-lai Lạt-ma thứ bảy là Kelsang Gyatso (1708-1757) từ tỉnh Kham trở về Tsurphu th́ t́nh h́nh mới lắng dịu, quân Mông Cổ rút đi. Vào lúc này, ngài có đến viếng thăm đức Đạt-lai Lạt-ma Kelsang Gyatso và cúng dường một số phẩm vật.
Tại Tsurphu, ngài chia sẻ giáo pháp sâu xa của ḍng Karma Kagyu với vị thầy nổi tiếng của phái Nyingma (Ninh-mă) là Lạt-ma Katok Tsewang Norbu, và vị này cũng chia sẻ với ngài những giáo pháp truyền thống của phái Nyingma.
Nhận thấy t́nh h́nh chính trị tại Tây Tạng vẫn c̣n nhiều rối ren, hỗn loạn, Karmapa Changchup Dorje đă lên đường sang Ấn Độ và Nepal để chiêm bái các thánh tích Phật giáo. Cùng đi với ngài có các vị Shamar Rinpoche, Situ Rinpoche và Gyaltsap Rinpoche.
Khi đến Kathmandu, phái đoàn được vua Jagajayamalla vui mừng tiếp đón một cách long trọng và cung kính. Trong thời gian lưu lại Nepal, ngài có đến thăm viếng và lễ bái thánh tích Yanglayshod, nơi vị đạo sư Liên Hoa Sinh (Padmasambhava) đă thành tựu pháp môn thiền định Kim cương trí, dứt sạch mọi chướng ngại trên đường tu tập.
Vào lúc này, vị quốc vương đă khẩn khoản thỉnh cầu ngài ban phúc ngăn chặn một trận dịch bệnh đang hoành hành và cầu nguyện mưa xuống để chấm dứt một giai đoạn hạn hán nghiêm trọng. Ngài chấp nhận lời thỉnh cầu của vị quốc vương và đề nghị tất cả mọi người cùng quán tưởng về đức Bồ Tát Quán Thế Âm.
Sau buổi quán tưởng, ngài thực hiện một lễ tẩy tịnh bằng cách dùng nước sạch rảy lên hư không và quán tưởng nước ấy làm sạch cho cả vùng.
Một trận mưa bỗng nhiên đổ xuống và nạn dịch cũng hoàn toàn chấm dứt. Quốc vương Nepal vui mừng tổ chức một buổi lễ trọng thể để cùng với tất cả quần thần và nhân dân bày tỏ ḷng tôn kính đạo hạnh của ngài.
Khi sang đến Ấn Độ, ngài đă viếng thăm và lễ bái rất nhiều thánh tích mà trước đây đức Phật Thích-ca đă từng xuất hiện.
Trên đường trở về Tây Tạng, ngài nhận được một lời thỉnh cầu của hoàng đế Thế Tông (tức Ung Chính) nhà Thanh, mong được ngài đến giảng pháp tại Trung Hoa. Ngài chấp nhận lời thỉnh cầu nhưng không đi Trung Hoa ngay mà tiếp tục trở về Tsurphu.
Trước khi lên đường sang Trung Hoa, ngài dành một thời gian để ẩn cư tu tập thiền định. Sau đó, ngài viếng thăm thủ đô Lhasa và từ đó thực hiện một chuyến đi về miền nam Tây Tạng. Trong chuyến đi này, ngài truyền giảng giáo pháp cho rất nhiều đệ tử.
Ngài cũng đă gặp được Surmang Trungpa Rinpoche và truyền thụ Sáu pháp Du-già của Naropa cùng với giáo pháp Đại thủ ấn. Sau đó, ngài giao quyền dẫn dắt phái Karma Kagyu cho đại sư Situ Chokyi Jungnay trong thời gian ngài vắng mặt, rồi lên đường sang Trung Hoa.
Chuyến đi Trung Hoa của ngài khởi đầu vào năm 1725, có vị Shamar Rinpoche tháp tùng. Khi đến tỉnh Amdo, ngài có tổ chức một buổi lễ long trọng để tất cả mọi người cùng nhau cầu nguyện cho ḥa b́nh thế giới. Khi đi ngang qua hồ Kokonor, ngài cũng tổ chức một buổi lễ tương tự như vậy.
Sau khi đến Trung Hoa, ngài nỗ lực thực hiện việc truyền giảng giáo pháp ở nhiều nơi. Trên đường hoằng hóa, ngài luôn được các giới chức cầm quyền tại mỗi địa phương tiếp đón long trọng. Thông qua những buổi tiếp xúc với họ, ngài cố gắng truyền dạy tư tưởng bất bạo động và ḷng từ bi, tôn trọng sự sống. Đối với một số Phật tử thuần thành, ngài cũng truyền dạy các pháp môn tu tập sâu xa hơn.
Năm 1732, ngài và những người cùng đi đến Lan Chu. Tại đây, ngài rằng biết thời điểm viên tịch đă đến gần nên gửi về cho vị Tai Situpa đời thứ tám là Chokyi Jungney một di thư, trong đó báo trước những chi tiết về sự tái sinh của ngài.
Sau đó, ngài chấp nhận mắc bệnh đậu mùa và viên tịch vào ngày 30 tháng 10 năm Thủy Tư (1732). Vị Sharma Rinpoche cũng mắc bệnh sau ngài 2 ngày và rồi cũng viên tịch. Chokyi Jungney trở thành người kế thừa giáo pháp của ngài tại Tây Tạng.
Chokyi Jungney sinh năm Thổ Măo (1700) tại vùng Derge, thuộc tỉnh Kham, miền đông Tây Tạng. Ông cũng được biết đến với tên gọi là Situ Panchen.
Ông đă học tập với vị Shamar đời thứ tám là Chưkyi Dhưndrup và đức Karmapa đời thứ mười hai là Changchup Dorje và nhận được sự truyền thừa toàn bộ giáo pháp của ḍng Karma Kagyu. Ngoài ra, ông cũng từng nỗ lực học hỏi với nhiều bậc thầy khác, chẳng hạn như Rikdzin Tsewang Norbu.
Chưkyi Jungney đă đến gặp đức Karmapa và Shamar Chưkyi Dhưndrup khi họ đang trên đường đến Trung Hoa, vào khoảng năm 1725.
Ông là một trong số các học giả nổi tiếng đương thời tại Tây Tạng, và cũng là một bậc thầy uyên thâm về thiền định. Trong sự nghiệp hoằng pháp của ông có một thành tựu nổi bật nhất là khảo đính và đốc thúc việc khắc bản gỗ in các giáo pháp của ḍng Karma Kagyu và Tengyu bằng tiếng Tây Tạng, dưới sự bảo trợ của đức vua xứ Derge.
Đây là một ấn bản nổi tiếng, được cả thế giới biết đến với tên gọi là ấn bản Derge, và được xem là những bản in chính xác nhất của các phần giáo pháp quan trọng trong truyền thống Tây Tạng.
Hoạt động hoằng hóa của Situ Panchen phát triển mạnh mẽ và lan rộng. Ông đă khôi phục, tu sửa và xây dựng mới nhiều tu viện, trung tâm tu học ở khắp nơi trên đất nước Tây Tạng và xứ Jang.
Situ Panchen là người đă nhận biết và xác nhận hóa thân tái sinh lần thứ mười ba của đức Karmapa và hóa thân tái sinh của Shamar Rinpoche. Chính ông đă truyền lại toàn bộ giáo pháp của ḍng Karma Kagyu cho vị Karmapa đời thứ mười ba: Ddul Dorje. Ông viên tịch vào năm 1774, khi được 74 tuổi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 925 of 1146: Đă gửi: 07 December 2010 lúc 1:54pm | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ ĐẠI SƯ TÁI SINH TÂY TẠNG
Đại sư thứ mười ba: DÜDUL DORJE (1733 - 1797)
Đại sư Dudul Dorje sinh vào tháng 8 năm Thủy Ngưu (1733) tại làng Chaba Drony ở Nyen Chawatrong thuộc miền nam Tây Tạng. Ngay khi ngài vừa sinh ra, Kathok Rigdzin Tsewang Norbu nh́n thấy một linh ảnh trong khi nhập định, qua đó ông thấy rơ nơi vị Karmapa tái sinh.
Ngay khi vừa lớn lên, đứa bé đă làm cho tất cả mọi người kinh ngạc khi kể lại một cách chi tiết những ǵ đă xảy ra trong đời sống trước đây.
Tin đồn về hóa thân của vị Karmapa lập tức lan truyền khắp nơi, và Tai Situpa Chưkyi Jungney đă t́m được đứa bé một cách khá dễ dàng. Theo đúng những chỉ dẫn trong di thư của đức Karmapa đời thứ 12, vị này xác nhận đứa bé này chính là hóa thân tái sinh của đức Karmapa.
Đứa trẻ được đưa về Tsurphu vào năm 4 tuổi. Lễ đăng quang được tổ chức bởi đại sư Goshir Gyaltsab Rinpoche để chính thức công nhận đây là vị Karmapa đời thứ mười ba. Ddul Dorje được trao cho chiếc vương miện màu đen truyền thống của ḍng Karma Kagyu.
Đức Đạt-lai Lạt-ma đời thứ bảy là Kelsang Gyatso cùng với vị Thủ tướng đương nhiệm của chính quyền Tây Tạng là Pholha Sonam Thobjay đều gửi lời chúc mừng đến vị Karmapa vừa chính thức nhận cương vị đứng đầu phái Karma Kagyu.
Năm lên 8 tuổi, vị Karmapa đă được vị thầy dạy chính là Tai Situpa Chokyi Jungnay truyền thụ toàn bộ giáo pháp của ḍng Karma Kagyu. Ngài cũng học tập với nhiều bậc thầy siêu việt khác của cả hai phái Nyingma (Ninh-mă) và Karma Kagyu, chẳng hạn như Kathok Rigdzin Tsewang Norbu, Karma Kagyu Trinley Shingta, Pawo Tsuklak Gawa...
Năm 14 tuổi, ngài thọ giới sa-di với Situ Rinpoche tại Tsurphu. Lễ truyền giới được tổ chức trước pho tượng Phật Thích-ca do chính đức Karmapa đời thứ hai là Karma Pakshi đă kiến tạo trước đây. Việc học tập của ngài được tiếp tục cho đến khi ngài trở thành một bậc đạo sư uyên bác về hết thảy mọi phần giáo pháp khác nhau.
Ngài thọ giới tỳ-kheo vào năm 21 tuổi, do Situ Rinpoche làm vị thầy truyền giới. Sau đó, ngài nỗ lực thực hành Sáu pháp Du-già của Naropa và giáo pháp Đại thủ ấn.
Trong sự tu tập của ngài, những tính cách của một vị học giả và một bậc thầy thiền định được phối hợp hài ḥa và mănh liệt, tạo nên sức mạnh tự nhiên của ḷng đại bi mở rộng đến khắp muôn loài.
Ngài thực sự thương yêu các loài thú vật, chim chóc, và có thể làm cho chúng cảm nhận được sự thương yêu đó. Các loài vật khác nhau thường tụ tập đến một cách đông đảo chung quanh những nơi ngài tu tập thiền định.
Có một lần ngôi đền Jo-kang ở Lhasa, nơi có pho tượng Jo-wo nổi tiếng, bị đe dọa bởi nước từ sông Tsangpo dâng lên rất nhanh. Trước đây, vị Guru Rinpoche đă thấy trước việc này và để lại một lời dự báo, trong đó nói rằng chỉ có đức Karmapa mới có đủ khả năng ngăn chặn trận lụt này, v́ nó thực sự gây ra bởi sức mạnh của Long vương (Nga).
V́ thế, giới chức chính quyền ở Lhasa đă gửi lời thỉnh cầu ngài lập tức đến Lhasa để cứu nguy. Vào lúc ấy, ngài đang ở Tsurphu và biết rằng không thể nào đến Lhasa kịp thời để ngăn chặn trận lụt.
Ngài liền viết một lá thư và chú nguyện vào đó với tâm đại bi của Bồ Tát Quán Thế Âm, rồi đốt lá thư để gửi đến cho Long vương.
Sau đó, ngài mới lên đường đến Lhasa. Khi ngài đến nơi th́ quả nhiên là nước lụt đă rút đi từ trước đó. Ngài đến viếng đền Jokhang để xác định là pho tượng Jowo vẫn c̣n nguyên vẹn không hư hại.
Trong dịp này, ngài ban cho pho tượng một chiếc khăn quàng trắng (kata). Tương truyền pho tượng đă đưa tay ra để đón nhận, và tư thế thay đổi này vẫn c̣n giữ nguyên cho đến nay.
Một lần khác, đức Karmapa Dudul Dorj được thỉnh cầu ban phúc cho một tu viện ở Powo Gyaldzong thuộc miền đông nam Tây Tạng, cách Tsurphu một quăng đường rất xa.
Ngài nhận lời nhưng vẫn ở yên tại Tsurphu và vào đúng ngày làm lễ cầu phúc của tu viện, ngài ban phúc cho tu viện ấy bằng cách ném lên không trung những hạt gạo đă có sự chú nguyện của ngài.
Tại tu viện ở Powo Gyaldzong xa xôi kia, mọi người đều nh́n thấy rơ những hạt gạo ban phúc của ngài rơi xuống từ giữa không trung.
Năm 1772, Karmapa Ddul Dorje và Tai Situpa đă cùng với Kathok Rigdzin Tsewang Norbu phát hiện hóa thân tái sinh của vị Shamar đời thứ mười là Mipham Chưdrup Gyatso, người em trai của đức Ban-thiền Lạt-ma đời thứ tư, Palden Yeshe.
Năm 1774, trong khi thiền định ngài nh́n thấy một linh ảnh và biết rằng hóa thân mới của vị Situ vừa được sinh ra. Ngài cử một phái đoàn t́m kiếm đến nơi ngài đă biết, và với những chỉ dẫn của ngài họ t́m được hóa thân của vị Situ.
Ngài đă tổ chức một buổi lễ để chính thức công nhận vị Situ mới là Pema Nyingche Wangpo. Vị này về sau chính là người được chọn để nối tiếp truyền thống Karma Kagyu.
Đức Karmapa đời thứ mười ba có một nếp sống cực kỳ giản dị. Mặc dù ngài thường xuyên nhận được những khoản cúng dường lớn lao, kể cả vàng bạc và nhiều tài sản quư giá khác, nhưng bao giờ ngài cũng phân phát tất cả những thứ ấy cho người nghèo khổ hoặc dành để hỗ trợ cho việc in ấn, phát hành kinh điển.
Ngài viên tịch vào năm 1797, sau khi để lại một di thư nói rơ những chi tiết về sự tái sinh sắp tới. Sau lễ hỏa táng, các đệ tử thu thập xá-lợi của ngài để thờ phụng trong một ngôi tháp bằng bạc tại Tsurphu.
Họ cũng đúc một pho tượng bạc phỏng theo chân dung ngài để thờ phụng. Trong số các đệ tử của ngài có những vị nổi bật nhất là Pema Nyinje Wangpo, Sangye Nyenpa Tulku, Pawo Tsuglak Chogyal, Khamtrul Jigme Senge, Ladakhi, Drukchen Kunzig Chokyi Nangwa, Hemi Gyalsay ...
Situpa Wangpo Pema Nyinchey được chọn làm người kế thừa giáo pháp của ngài. Tuy nhiên, vị này c̣n phải trải qua một thời gian tiếp tục học tập với bậc thầy là Mipham Chưdrub Gyatso.
Mipham Chưdrub Gyatso sinh năm 1742 tại Tashi Tse ở vùng Tsang thuộc miền trung Tây Tạng. Ông là em trai đức Ban-thiền Lạt-ma đời thứ tư Lobsang Palden Yeshe ở chùa Tashi Lhunpo. Ông được đức Karmapa đời thứ mười ba cùng với vị Situ Chưkyi Jungne phát hiện và công nhận là hóa thân tái sinh lần thứ mười của vị Shamar.
Ông đă học hỏi và nghiên cứu giáo pháp trong nhiều năm với Situ Chưkyi Jungney cũng như với Pawo Tsuklak Gawa và Rikdzin Tsewang Norbu. V́ thế, ông trở thành một vị học giả uyên bác cũng như một bậc thầy uyên thâm về thiền định.
Ông đă đến Nepal vào những năm thập niên 1780. Tại đây, ông tiếp tục thực hành những hạnh nguyện của một vị Bồ Tát. Ông tổ chức việc tu sửa ngôi tháp Swayambhu, một thánh tích nổi tiếng, cũng như giúp đỡ cho rất nhiều tăng sinh đang học tập ở Nepal và Tây Tạng.
Ông viên tịch vào năm 1793 tại Nepal, ở một nơi gần ngôi tháp Boudhanath. Một trong những công việc quan trọng nhất mà ông đă thực hiện được là truyền thụ toàn bộ giáo pháp của ḍng Karma Kagyu cho người kế thừa của đức Karmapa đời thứ mười ba là vị Situ đời thứ chín, Pema Nyinje Wangpo.
Pema Nyinje Wangpo sinh vào năm Mộc Ngọ (1774) tại Yilhung thuộc miền đông Tây tạng. Ông được đức Karmapa đời thứ mười ba phát hiện và xác nhận là hóa thân đời thứ chín của vị Situ Rinpoche, với sự trợ giúp của các vị Shamar Chưdrup Gyatso và Pawo Tsuklak Gawa. Trước đây, đại sư Liên Hoa Sinh (Padmasambhava) đă có lời dự báo về sự tái sinh này.
Ông học tập và nghiên cứu, thực hành giáo pháp với nhiều bậc thầy nổi tiếng, đặc biệt là với đức Karmapa đời thứ mười ba và vị Shamar đời thứ mười. Sau đó, ông trở thành một học giả uyên bác và một bậc thầy về thiền định.
Sự nghiệp hoằng pháp của ông lan rộng khắp đất nước Tây Tạng. Ông đă thành lập nhiều trung tâm tu học và tự ḿnh giảng dạy, truyền bá rộng răi giáo pháp của ḍng Karma Kagyu.
Ông cũng khuyến khích và khơi dậy truyền thống tu tập thiền định theo phương pháp của ḍng Karma Kagyu. Ông cũng trước tác nhiều tác phẩm giá trị để hướng dẫn người tu học. Các tác phẩm này được truyền lại trong ba tuyển tập.
Sau khi nhận được sự truyền thừa toàn bộ giáo pháp truyền thống của ḍng Karma Kagyu, ông trở thành thầy dạy chính của đức Karmapa đời thứ mười bốn là Thekchok Dorje. Ông đă truyền lại toàn bộ giáo pháp của ḍng Karma Kagyu cho đức Karmapa Thekchok Dorje.
Ông cũng có một đệ tử kiệt xuất khác nữa là Jamgon Kongtrul Lodro Thaye. Ông viên tịch vào năm 1853.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 926 of 1146: Đă gửi: 07 December 2010 lúc 1:56pm | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ ĐẠI SƯ TÁI SINH TÂY TẠNG
Đại sư thứ mười bốn: THEKCHOK DORJE (1798 - 1868)
Đại sư Theckchok Dorje sinh vào năm Hỏa Tỵ (1798) tại làng Danang, vùng Salmo Gang ở tỉnh Kham, thuộc miền đông Tây Tạng. Ngài sinh ra vào khoảng giữa mùa đông, nhưng bỗng nhiên các loài hoa quanh vùng đều nở rộ.
Và người ta nh́n thấy những mống cầu vồng bảy sắc xuất hiện trên bầu trời. Và điều kỳ lạ hơn là đứa bé vừa sinh ra đă có thể phát âm được những chữ cái trong tiếng Sanskrit.
Tin đồn loan ra khắp nơi về một em bé sinh ra với những điềm lành kỳ dị, và không bao lâu đă đến tai đại sư Drukchen Kunzig Chokyi Nangwa, người đang nắm giữ bức di thư của đức Karmapa đời thứ mười ba, trong đó nói rơ các chi tiết về sự tái sinh của ngài.
Chokyi Nangwa liền cử ngay một phái đoàn t́m kiếm đến tỉnh Kham. Tại Salmo Gang, họ gặp hai phái đoàn khác do Situ Rinpoche và Gyaltshap Rinpoche cử đến, cũng với mục đích t́m kiếm hóa thân tái sinh của đức Karmapa.
Mọi người cùng t́m gặp được đứa bé và sau đó họ đều tin chắc rằng đây chính là hóa thân tái sinh của đức Karmapa. Với sự cho phép của cha mẹ, đứa bé được đưa về tu viện Ogmin.
Tại đây, vị Tai Situpa đời thứ chín là Pema Nyinje Wangpo căn cứ theo di thư của đức Karmapa đời thứ mười ba để xác nhận em bé chính là hóa thân đời thứ mười bốn của đức Karmapa. Ngài tổ chức một buổi lễ chính thức công nhận hóa thân của đức Karmapa, và cũng đồng thời truyền giới sa-di cho em bé.
Đức Karmapa nhận được sự truyền dạy giáo pháp từ cả hai vị Pema Nyinche Wangpo và Drukchen Kunzig Chokyi Nangwa. Ngài được học giáo pháp truyền thống của ḍng Karma Kagyu và cả những giáo pháp của phái Nyingma (Ninh-mă).
Sau buổi lễ đăng quang chính thức để nhận vương miện kim cương màu đen và trở thành vị Karmapa đời thứ mười bốn, Theckchok Dorje rời tu viện Ogmin để đi đến Tsurphu và tiếp tục những chương tŕnh học cao hơn.
Năm 19 tuổi, ngài thọ giới tỳ-kheo với Situ Rinpoche và Drukchen Chokyi Nangwa để chính thức trở thành một vị tăng sĩ. Vào lúc này ngài đă có nhiều hoạt động hoằng pháp đáng kể như trùng tu, sửa chữa các tu viện và chùa tháp trong vùng.
Đức Karmapa Theckchok Dorje sống một cuộc sống hết sức đơn giản và có thể xem là khuôn mẫu lư tưởng cho tất cả tăng sĩ. Ngài có năng khiếu thi ca bẩm sinh và tài biện luận xuất chúng. Ngài cũng tinh thông trong các ngành điêu khắc, thủ công mỹ nghệ và cả nghệ thuật đúc kim loại.
Ngài tham gia tích cực vào phong trào Ri-me, một phong trào kêu gọi sự chấn hưng Phật giáo Tây Tạng thông qua việc xóa bỏ mọi ranh giới ngăn cách giữa các tông phái khác nhau, nhờ đó mà các học giả lớn của mỗi tông phái bắt đầu có sự quan tâm học hỏi và chia sẻ những truyền thống tốt đẹp và giáo pháp của các tông phái khác.
Phong trào này được khởi xướng từ tỉnh Kham và nhanh chóng lan rộng khắp nơi, với sự tham gia hưởng ứng của nhiều bậc thầy thuộc các tông phái khác nhau. Ngoài các học giả và các bậc thầy thiền định, phong trào này cũng cuốn hút cả những người Phật tử thuộc các ngành nghề khác nhau.
Sự giao lưu theo phong trào chấn hưng này đặc biệt phát triển rất mạnh mẽ giữa hai truyền thống Karma Kagyu và Nyingma (Ninh-mă), khi đức Karmapa Thekchok Dorje truyền dạy giáo pháp cho Jamgon Kongtrul Rinpoche và Jamyang Chentse Wangpo của phái Nyingma và nhận được sự chỉ dạy của vị đạo sư Chogyur Lingpa về các Tan-tra quư giá của phái này.
Đạo sư Chogyur Lingpa là người đă có lần nh́n thấy trước các hóa thân Karmapa cho đến tận đời thứ hai mươi mốt.
Đức Karmapa Thekchok Dorje đi khắp mọi nơi trên đất nước Tây Tạng để truyền dạy rộng răi giáo pháp. Năm 1860, ngài du hóa qua địa phận tỉnh Kham và nhận biết được hóa thân đời thứ mười của vị Situ là Pema Kunzang ở tu viện Palpung.
Ngài đă công nhận và tổ chức lễ đăng quang chính thức cho vị Situ này. Cũng tại nơi đây, ngài truyền dạy giáo pháp cho Jamgon Kongtrul Lodrư Thaye. Khi ngài trở về Tsurphu, vị này vẫn tiếp tục theo học một cách chuyên cần.
Một thời gian ngắn trước khi đức Karmapa viên tịch, Jamgon Kongtrul Lodrư Thaye nhận được sự truyền thừa toàn bộ giáo pháp truyền thống của ḍng Karma Kagyu.
Đức Karmapa Thekchok Dorje viên tịch vào năm 1868, khi được 70 tuổi. Ngài để lại một di thư nói rơ chi tiết về lần tái sinh sắp tới của ḿnh.
Người kế thừa giáo pháp của đức Karmapa đời thứ mười bốn là đại sư Jamgon Kongtrul Lodrư Thaye, một bậc thầy vĩ đại trong phong trào Ri-me, và cũng là một tác giả để lại nhiều tác phẩm quan trọng.
Đại sư Jamgon Kongtrul Lodrư Thaye sinh năm 1813 tại làng Rong-gyap ở Derge, miền đông Tây Tạng. Sự ra đời của đại sư đă được đức Phật Thích-ca dự báo trước trong kinh Tam-muội vương (Samadhiraja-stra) và ngài Liên Hoa Sinh (Padmasambhava) cũng nhiều lần nhắc đến trong các phần giáo pháp bí truyền (Terma) của ngài.
Đại sư Jamgon Kongtrul Lodrư Thaye nghiên cứu và tinh thông giáo pháp của đức Phật nói chung, và giáo pháp Mật tông nói riêng. Ngài cũng am tường cả giáo lư của đạo Bon, một tôn giáo cổ xưa của Tây Tạng.
Trong số rất nhiều bậc thầy mà đại sư Jamgon Kongtrul Lodrư Thaye theo học, những vị quan trọng nhất là đức Karmapa đời thứ mười bốn, Situ Pema Nyinje Wangpo, và đại sư Khyentse.
Ngài không chỉ là một trong các bậc thầy vĩ đại nắm giữ truyền thống của phái Karma Kagyu mà c̣n là người nắm vững toàn bộ giáo pháp bốn trường phái lớn của Phật giáo Tây Tạng.
Lodrư Thaye là một trong những tên tuổi nổi bật nhất của phong trào chấn hưng Phật giáo có tên gọi là Ri-me ở Tây Tạng, cùng với đại sư Khyentse.
Ngài là thầy dạy chính của đức Karmapa đời thứ mười lăm Khakhyap Dorje, chịu trách nhiệm trao truyền toàn bộ giáo pháp của ḍng Karma Kagyu cho đức Karmapa. Ngài nổi tiếng là một bậc thầy vĩ đại, một học giả uyên bác, một nhà văn, nhà thơ, nhà điêu khắc, với hơn 100 tác phẩm để lại thuộc đủ mọi thể loại.
Trong số này, được biết đến nhiều nhất là bộ luận văn về Năm kho tàng, gồm có Kho tàng các chân ngôn của ḍng Karma Kagyu, Kho tàng các chỉ dẫn cương yếu, Kho tàng các Mật pháp vô giá, Kho tàng Phật pháp vô lượng và Kho tàng tri thức.
Đại sư Jamgon Kongtrul Lodrư Thaye viên tịch vào năm 1899 và luôn được tưởng nhớ đến cùng với các vị đệ tử kiệt xuất khác của đức Karmapa đời thứ mười bốn như Jamyang Khyentse Wangpo, Dechen Chogyur Lingpa, Drukchen Mipham Chokyi Gyaltsho, Pawo Tsuglak Nyingche ...
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 927 of 1146: Đă gửi: 07 December 2010 lúc 1:59pm | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ ĐẠI SƯ TÁI SINH TÂY TẠNG
Đại sư thứ mười lăm: KHAKHYAP DORJE (1871 - 1922)
Đại sư Khakhyap Dorje sinh năm 1871 tại làng Sheikor ở tỉnh Tsang thuộc miền trung Tây Tạng. Đứa bé sinh ra với cḥm lông trắng mọc xoắn ở khoảng giữa hai lông mày. Đây là một trong 32 tướng tốt của một vị Phật, như trước đây đức Phật Thích-ca đă từng có đủ.
Ngay khi sinh ra, người ta đă nghe đứa bé tụng đọc thần chú đại bi của đức Quán Thế Âm. Chi tiết kỳ lạ này được lan truyền ra khắp nơi và đứa bé nhanh chóng được nhận biết bởi các vị Kyabgon Drukchen, Migyur Wanggi Gyalpo, Jamgon Kongtrul, Jamyang Khyentse Wangpo, Terchen Chokgyur Lingpa và Pawo Tsuklak Nyinchey.
Căn cứ vào những điều được nói rơ trong di thư của đức Karmapa đời thứ mười bốn, tất cả các vị đều thống nhất công nhận đứa bé khác thường này chính là hóa thân tái sinh lần thứ mười lăm của đức Karmapa.
Mặc dù vậy, một buổi lễ long trọng cũng được cử hành dưới sự chủ tŕ của hai vị Kyabgon Drukchen và Migyur Wanggi Gyalpo để chính thức công nhận hóa thân mới của đức Karmapa.
Khakhyap Dorje nhận được một nền giáo dục toàn diện và mở rộng với nhiều vị học giả nổi tiếng, và cuối cùng được trao truyền toàn bộ giáo pháp truyền thống của ḍng Karma Kagyu từ đại sư Jamgon Kongtrul Lodrư Thaye.
Bậc thầy vĩ đại này cũng truyền dạy cho ngài những phần tinh yếu của hàng trăm quyển luận giải mà ông đă soạn, bao gồm toàn bộ giáo pháp sâu xa của tất cả các truyền thống Phật giáo khác nhau ở Tây Tạng, cùng với những kiến thức sâu xa về các lănh vực y học, hội họa, ngôn ngữ...
Ngài cũng được học tập với nhiều bậc thầy khác nữa như đại học giả Khenchen Tashi Ozer ở chùa Palpung, hay vị Pawo Rinpoche đời thứ chín...
Trong tất cả các môn học, ngài luôn chứng tỏ là một người học tṛ chuyên cần và tinh tấn, luôn nỗ lực nghiên cứu học hỏi không mệt mỏi. Ngài cũng bày tỏ đức tin sâu xa từ rất sớm. Năm lên 8 tuổi, ngài lập một bàn thờ vị Đại hộ pháp Mahakala và tự ḿnh làm một bài tụng để cầu nguyện với vị này.
Năm lên 10 tuổi (1881), ngài đến thăm đức Đạt-lai Lạt-ma thứ mười ba là Tubten Gyatso tại triều đ́nh ở Lhasa khi vị này mới được 5 tuổi. Sau đó, ngài trở lại Tsurphu và bắt đầu theo học với vị đại học giả Khenchen Tashi Ozer ở chùa Palpung.
Ngài nhận được ở vị này toàn bộ các kiến thức căn bản và chuyên sâu về cả Kinh, Luật và Luận. Sau đó, ngài được vị Pawo Rinpoche đời thứ chín dạy cho sáu bộ giáo pháp bí truyền (Terma) của Rigdzin Jatson Nyingpo.
Vào năm 1886, ngài đến học với đại sư Jamgon Kongtrul Lodrư Thaye ở chùa Palpung. Vị đại sư học giả này là học tṛ kiệt xuất của đức Karmapa đời thứ mười bốn, rất vui mừng khi được gặp hóa thân bậc thầy của ḿnh.
Ông đă làm lễ truyền pháp và chỉ dạy cho Karmapa Khakhyap Dorje bộ luận văn về Năm kho tàng do chính ông trước tác.
Bộ luận văn đồ sộ này có đến hàng trăm quyển, tŕnh bày đầy đủ về cả các phần giáo lư và thực hành của các truyền thống khác nhau được xét từ góc độ của các nhà cải cách trong phong trào chấn hưng, xóa bỏ đi mọi sự ngăn cách do thiên kiến hẹp ḥi.
Những nghiên cứu học hỏi mang tính toàn diện này tạo ra một ảnh hưởng rất lớn trong sự nghiệp hoằng pháp của ngài về sau.
Sau thời gian học tập tại chùa Palpung, đức Karmapa đời thứ mười lăm lên đường du hóa đến chùa Dzongsar, một chùa lớn của phái kya (Tát-ca). Tại đây, ngài học tập với vị đại sư Jamyang Khyentse Rinpoche.
Sau đó, khi viếng thăm ngôi chùa của phái Drukpa Karma Kagyu ở Sang Ngag Choling, ngài phát hiện và công nhận hóa thân tái sinh của vị Drukchen và tổ chức lễ truyền Ngũ giới.
Năm 1888, Karmapa Khakhyap Dorje trở lại chùa Palpung để tiếp tục theo học với Jamgon Kongtrul Lodrư Thaye. Từ đây, các ngành học của ngài được mở rộng và chuyên sâu, bao gồm các môn như Phạn văn (Sanskrit), giáo lư Bát-nhă, Luật tạng, Trung quán luận, Thắng pháp luận, Di-lặc ngũ luận ...
Ngài cũng nghiên cứu thêm về các ngành thiên văn học, y học, nghệ thuật...
Sau đó, ngài lại đến Dzongsar để nhận lễ truyền pháp về các giáo pháp truyền thống của phái kya (Tát-ca) do đại sư Khyentse Rinpoche chủ tŕ.
Khi trở lại Palpung, ngài được Kongtrul Lodrư Thaye truyền dạy các giáo pháp truyền thống của phái Shanpa Karma Kagyu. Ngài đă nỗ lực học tập và nghiên cứu suốt cả ngày đêm không lúc nào ngơi nghỉ.
Năm 1890, đức Karmapa đời thứ mười lăm xác nhận hóa thân tái sinh của vị Situ Rinpoche thứ bảy là Pema Wangchok Gyalpo. Vị này trở thành một trong các đệ tử thân cận nhất của ngài.
Ngài đă tiếp tục các hoạt động Phật sự cũng như truyền dạy giáo pháp ở khắp mọi nơi trên đất nước Tây Tạng. Ngài cũng thu thập được nhiều bản văn quư hiếm từ xưa để lại và tổ chức việc khắc bản in lại để lưu truyền.
Khakyab Dorje là vị Karmapa đầu tiên và duy nhất trong ḍng Karma Kagyu chấp nhận việc lập gia đ́nh. Ngài lấy vợ và có 3 người con trai. Một người trong số đó được công nhận là hóa thân tái sinh của Jamgon Kongtrul Lodrư Thaye.
Cuộc đời ngài là tấm gương sáng ngời của một vị Bồ Tát với sự khao khát không ngừng học hỏi để giúp đỡ và mang lại lợi ích cho hết thảy mọi chúng sinh.
Trong số rất nhiều đệ tử của ngài, những vị thường xuyên gần gũi với ngài là Tai Situ Pema Wangchok Gyalpo, Jamgon Kongtrul Palden Khyentse Ưser và Beru Khyentse Lodro Mize Jampe Gocha.
Khoảng vài năm trước khi viên tịch, ngài trao lại cho các đệ tử tất cả những bản văn quư giá mà ngài đă thu gom được trong suốt cuộc đời, bao gồm các trước tác của đại sư Jamgon Kongtrul Lodrư Thaye và của chính ngài, cùng với nhiều phần giáo pháp bí truyền do ngài phát hiện được tại xứ Tsari.
Sau đó, ngài đến ẩn cư trong một hang động trên sườn núi gần tu viện Tsurphu. Gần trước lúc viên tịch, đức Karmapa gọi vị thị giả là Golok Gelong Jampal Tsultrim đến và trao cho một túi vải nhỏ màu đỏ, được may kín lại cũng bằng chỉ đỏ.
Ngài dặn ḍ: “Ta ban cho con linh phù hộ thân này, phải giữ ǵn hết sức cẩn thận. Trong tương lai, khi nào con nhận được một tin vui đến từ tu viện Palpung th́ hăy mở túi vải này ra.”
Đức Karmapa đời thứ mười lăm viên tịch vào năm Thủy Tuất (1922). Người được chọn nối tiếp truyền thống Karma Kagyu trong lúc chờ đợi hóa thân tái sinh của ngài là Pema Wangchok Gyalpo.
Pema Wangchog Gyalpo sinh năm 1886 tại Lithang, miền đông Tây Tạng. Ông được đức Karmapa đời thứ mười lăm công nhận là hóa thân tái sinh lần thứ mười một của vị Situ Rinpoche.
Ông đă theo học với rất nhiều bậc thầy nổi tiếng đương thời, trong đó có cả các vị Jamgon Kongtrul Lodrư Thaye và Khenchen Shenga Rinpoche. Ông trở thành một học giả uyên bác và tinh thông kinh điển cũng như các truyền thống Mật tông.
Ông đă nhận được sự truyền thừa giáo pháp của ḍng Karma Kagyu từ đức Karmapa đời thứ mười lăm, và xem ngài như vị thầy dạy chính của ḿnh.
Situ Pema Wangchok viên tịch vào năm 1953. Công việc quan trọng nhất mà ông đă thực hiện được trong đời là phát hiện và công nhận hóa thân lần thứ mười sáu của đức Karmapa, và sau đó truyền dạy toàn bộ giáo pháp của ḍng Karma Kagyu cho vị Karmapa này.
V́ thế, ông là một trong hai vị thầy dạy quan trọng nhất của đức Karmapa đời thứ mười sáu. Vị thầy thứ hai là Palden Khyentse Ưser, người đă truyền dạy cho đức Karmapa đời thứ mười sáu giáo pháp Đại thủ ấn (Mahamudra)
Palden Khyentse Ưser sinh năm 1904 tại Tsurphu, là con trai của đức Karmapa đời thứ mười lăm. Năm 12 tuổi, ông được công nhận là hóa thân tái sinh lần thứ hai của Jamgon Kongtrul Lodrư Thaye.
Ông đă trải qua nhiều năm học tập ở Tsadra Rinchen Trak, trú xứ của vị Jamgon Kongtrul thứ nhất. Ông học hỏi với nhiều bậc thầy uyên bác và nhận được một nền tảng giáo dục toàn diện cũng như sự truyền thừa giáo pháp từ đức Karmapa.
Sau khi hoàn tất việc học, ông mở rộng hoạt động giáo hóa ra khắp nơi, mang lại lợi ích cho rất nhiều người ở cả Tây Tạng và Trung Hoa.
Palden Khyentse Ưser là một trong các bậc thầy nổi tiếng về giáo pháp Đại thủ ấn (Mahamudra), và là người giữ cương vị truyền thụ giáo pháp này.
Ông viên tịch vào năm 1953. Trong cuộc đời hoằng pháp của ḿnh, chính ông đă truyền thụ giáo pháp Đại thủ ấn (Mahamudra) cho đức Karmapa đời thứ mười sáu là Rangjung Rikpe Dorje.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 928 of 1146: Đă gửi: 07 December 2010 lúc 2:05pm | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ ĐẠI SƯ TÁI SINH TÂY TẠNG
Đại sư thứ mười sáu: RANGJUNG RIKPE DORJE (1923 - 1981)
Đại sư Rangjung Khyapdak Rigpe Dorje, thường được biết với tên gọi là Gyalwang Karmapa, sinh ngày rằm tháng 6 năm Mộc Tư (1923) ở Denkhok, vùng Derge, thuộc tỉnh Kham, miền đông Tây Tạng, trong một gia đ́nh thuộc ḍng quư tộc Athubsang.
Mẹ ngài là bà Kalzang Chodron đă được nhiều bậc thầy khác nhau ở Derge - trong đó có cả đại sư Chokyi Dorje trụ tŕ chùa Dzok Chen thuộc phái Nyingma (Ninh-mă) - dự báo là bà sẽ mang thai một vị Đại Bồ Tát.
V́ thế, bà liền đến ở trong một hang động linh thiêng, nơi trước đây đức Guru Rinpoche đă từng cư ngụ. Bà ở lại đây để chờ đợi cho đến khi sinh nở. Cùng đi với bà có một vị Khenpo để hướng dẫn thực hiện nghi lễ tẩy tịnh.
Khi sắp đến ngày sinh, bào thai bỗng nhiên biến mất hoàn toàn khỏi bụng mẹ và người mẹ trở lại trạng thái b́nh thường như người không mang thai. Hiện tượng kỳ lạ này chấm dứt đúng một ngày sau đó, và người mẹ cảm thấy hết sức khoan khoái, dễ chịu trước khi sinh nở.
Việc sinh nở diễn ra rất dễ dàng. Những người có mặt ở đó đều nghe thấy đứa bé vừa sinh ra nói với mẹ rằng nó sẽ không ở lâu với bà.
Kỳ lạ hơn nữa, ly nước mà người ta mang đến cho bà khi ấy bỗng hóa thành một ly sữa. Những diễn tiến kỳ lạ trên khiến cho người mẹ càng tin chắc rằng ḿnh đă hạ sinh một đứa con rất phi thường.
Vào thời điểm này, vị Tai Situ Pema Wangchok Gyalpo trong khi thiền định nh́n thấy một linh ảnh về sự tái sinh của đức Karmapa đời thứ mười lăm. Để xác nhận lại những ǵ đă thấy, ông liền cho người đến tu viện Tsurphu để hỏi xem ai là người đang giữ di thư của đức Karmapa.
Khi ấy, mọi người mới nhớ lại là đức Karmapa đời thứ mười lăm đă không để lại di thư như tất cả các vị Karmapa trước đó đă từng làm. Các vị trưởng lăo trong tu viện Tsurphu đă cho t́m kiếm trong tất cả các di vật để lại của ngài, hy vọng sẽ t́m ra một manh mối nào đó, nhưng tất cả đều thất vọng.
Trong khi tất cả các vị đệ tử của đức Karmapa đều lúng túng không biết làm sao xác định được sự tái sinh của ngài, họ liền cử những người đứng đầu tu viện Tsurphu và tu viện Palpung đến thỉnh cầu sự giúp đỡ của đức Đạt-lai Lạt-ma đời thứ mười ba là Tubten Gyatso trong việc t́m kiếm hóa thân tái sinh của đức Karmapa.
Sau khi nhập định quán sát, đức Đạt-lai Lạt-ma liền viết một thư phúc đáp gửi đến tu viện Palpung. Lá thư được đóng dấu và niêm kín, trong đó ngài mô tả những chi tiết có thể giúp các vị đệ tử t́m ra hóa thân tái sinh của đức Karmapa.
Nhận được thư phúc đáp của đức Đạt-lai Lạt-ma, các vị ở tu viện Palpung hết sức vui mừng, liền lập tức thông báo tin vui này đến tu viện Tsurphu.
Khi tin mừng về sự giúp đỡ của đức Đạt-lai Lạt-ma được đưa từ Palpung đến Tsurphu, vị thị giả của đức Karmapa là Golok Gelong Jampal Tsultrim bỗng nhớ lại lời dặn ḍ của đức Karmapa trước lúc viên tịch.
Ông liền lập tức mở túi vải màu đỏ khâu kín do đức Karmapa ban cho ngày trước ra. Bên trong quả nhiên là một bức di thư do chính tay đức Karmapa viết, mô tả chi tiết về sự tái sinh của ngài.
Jampal Tsultrim liền dâng bức di thư lên cho các vị trưởng lăo của tu viện Tsurphu, và họ lập tức yêu cầu các vị Tai Situpa, Beru Khyentse, và Jamgon Kontrul tiến hành việc xác nhận.
Kỳ diệu thay, các chi tiết trong bức di thư hoàn toàn trùng khớp với sự mô tả trong bức thư của đức Đạt-lai Lạt-ma, và cũng hoàn toàn phù hợp với những linh ảnh mà Pema Wangchok Gyalpo đă nh́n thấy.
Căn cứ vào những chi tiết này, một phái đoàn t́m kiếm lập tức được thành lập và lên đường t́m đến nơi đức Karmapa tái sinh.
Ngay khi đến nơi, vị Tai Situpa đời thứ mười một là Pema Wangchok Gyalpo đă nhanh chóng nhận biết đứa trẻ chính là hóa thân tái sinh của đức Karmapa. Ông liền thỉnh cầu sự xác nhận của đức Đạt-lai Lạt-ma.
Vị Karmapa tái sinh trước hết được thọ giới sa-di với Tai Situpa và Jamgon Kongtrul Rinpoche, hai vị đệ tử xuất sắc của đức Karmapa đời thứ mười lăm. Sau đó, đức Đạt-lai Lạt-ma đời thứ mười ba là Tubten Gyatso cũng chính thức công nhận sự tái sinh này.
Karmapa Rangjung Rigpe Dorje vẫn ở lại Derge cho đến năm 8 tuổi. Khi ấy, người ta đă mang tất cả những lễ phục và cả chiếc vương miện kim cương màu đen của đức Karmapa đời thứ mười lăm từ Tsurphu đến cho ngài.
Năm ấy, ngài chấp nhận lời mời của Situ Rinpoche và lên đường đến viếng thăm tu viện Palpung. Trên đường, ngài dừng lại ghé thăm và làm lễ ban phúc cho một nhà in của tu viện ở Derge. Tại đây, ngài đưa ra lời dự báo về một ấn bản kinh điển sẽ được ngài thực hiện tại Ấn Độ sau này.
Một buổi lễ đăng quang được vị Tai Situpa tổ chức để chính thức công nhận cương vị của ngài là Karmapa đời thứ mười sáu. Sau đó, vị Tai Situpa cùng đi với ngài đến Tsurphu, trụ sở của các vị Karmapa ở miền trung Tây Tạng.
Tại đây, đức Karmapa được chào mừng bởi các vị Goshir Gyaltsab Rinpoche, Jamgon Kongtrul Rinpoche và Nenang Pawo Rinpoche.
Không bao lâu sau khi đến Tsurphu, đức Karmapa đời thứ mười sáu được đức Đạt-lai Lạt-ma đời thứ mười ba đón tiếp và chủ tŕ buổi lễ xuống tóc cho ngài.
Trong khi thực hiện nghi lễ này, đức Đạt-lai Lạt-ma xác nhận là đă nh́n thấy vương miện kim cương màu đen tượng trưng cho trí tuệ, là biểu tượng vẫn thường xuyên hiện hữu trên đầu của tất cả các vị Karmapa.
Sau buổi lễ này, đức Karmapa chính thức nhận cương vị của ngài tại Tsurphu. Lễ đăng quang lần thứ hai được chủ tŕ bởi vị Tai Situpa và người đứng đầu trường phái Drukpa Karma Kagyu.
Ngài tiếp nhận sự truyền thừa toàn bộ giáo pháp của ḍng Karma Kagyu từ các vị Tai Situpa Pema Wangchok Gyalpo và Jamgon Kongtrul Palden Khyentse Ưser. Sau đó, ngài nghiên cứu các kinh văn Mật tông với đại sư Gangkar Rinpoche và Khyentse Rinpoche.
Ngài nhận được sự truyền thừa giáo pháp Đại thủ ấn (Mahamudra) từ vị đại sư Jamgon Kongtrul Palden Khyentse Ưser, và cũng nghiên cứu, học tập với rất nhiều bậc thầy nổi tiếng đương thời khác nữa.
Đức Karmapa đă đến thăm tu viện Lithang Pangphuk. Tại đây, ngài hiển thị quyền năng kỳ diệu của một vị Karmapa bằng cách để lại những dấu chân của ngài trên một tảng đá.
Năm 18 tuổi (1941), đức Karmapa trở lại Tsurphu và dành rất nhiều thời gian trong khoảng từ năm 1941 đến năm 1944 để sống ẩn cư. Mặc dù vậy, tu viện Tsurphu trong suốt giai đoạn này đă được mở rộng diện tích rất nhiều.
Đầu năm 1944, đức Karmapa bắt đầu củng cố mối quan hệ với các nước láng giềng theo Phật giáo trong vùng Hy-mă-lạp cũng như với Ấn Độ. Trong một chuyến hành hương đến miền nam Tây Tạng, đức Karmapa cũng chấp nhận lời mời của đức vua Bhutan là Jigme Dorje Wangchuk và đến thăm vương quốc Bhutan.
Tại đây, ngài và những người cùng đi đă viếng thăm Bumthang ở miền bắc Bhutan và nhiều vùng khác. Đoàn đă tổ chức và tham gia rất nhiều hoạt động tín ngưỡng trong suốt thời gian này.
Năm 1945, ngài thọ giới cụ túc với vị Tai Situpa để chính thức trở thành một vị tỳ-kheo. Ngài cũng nhận được sự truyền dạy về những phần chuyên sâu hơn của giáo pháp ḍng Karma Kagyu qua các buổi lễ truyền pháp.
Ngài cũng được vị đại sư Urgyen Rinpoche truyền dạy cho toàn bộ giáo pháp của ḍng Nyingma, được truyền lại bởi vị Terton Chojur Lingpa, người đă có những dự báo rất quan trọng về cuộc đời của các đức Karmapa sắp tới cho đến tận thế kỷ 21.
Năm 1947, đức Karmapa và phái đoàn của ngài lại hành hương đến Nepal và Ấn Độ. Tại Ấn Độ, ngài viếng thăm bang Sikkim ở vùng đông bắc Ấn Độ, trên sườn phía nam của dăy Hy-mă-lạp sơn. Cho đến thời điểm này, Sikkim vẫn c̣n là một vương quốc độc lập.
Ngài cũng đến lễ bái ở nhiều thánh tích nơi đức Phật Thích-ca đă từng xuất hiện, như vườn Lam-tỳ-ni (Lumbini) ở Nepal, nơi đức Phật đản sinh; thành Ba-la-nại (Benares), nơi đức Phật lần đầu tiên chuyển pháp luân; và Bồ-đề Đạo tràng (Bodhgaya), nơi đức Phật thành đạo.
Sau khi đi xuyên qua vùng Kinnaur (thuộc bang Himachal Pradesh, miền bắc Ấn Độ) và Purang để viếng thăm núi Kailas, đức Karmapa trở về tu viện Tsurphu ở Tây Tạng trong năm 1948.
Vào năm 1948, tại Tsurphu ngài nhận được những chỉ dạy cuối cùng về giáo pháp truyền thống của ḍng Karma Kagyu từ hai vị đạo sư: vị Palpung Kongtrul đời thứ hai và vị Tai Situpa đời thứ mười một.
Cho đến lúc này, việc học tập giáo pháp của ngài xem như hoàn tất, không chỉ là giáo pháp của ḍng Karma Kagyu, mà c̣n là của các ḍng Sakya (Tát-ca) và Nyingma (Ninh-mă). Trong thực tế, vào năm 1953 chính ngài đă giảng dạy giáo pháp của Terton Chojur Lingpa (ḍng Nyingma) cho Mindroling Rinpoche, người đứng đầu ḍng Nyingma và là một trong bốn vị Đại Lạt-ma của Tây Tạng.
Năm 1954, đức Karmapa cùng với đức Đạt-lai Lạt-ma đời thứ 14 là Tenzin Gyatso và nhiều vị Lạt-ma cao cấp khác cùng viếng thăm Trung Hoa. Trên đường từ Trung Hoa trở về Tây Tạng, ngài dừng lại ở nhiều nơi để viếng thăm các tu viện ở miền đông Tây Tạng.
Cũng trong chuyến đi này, qua một linh ảnh nh́n thấy trong thiền định, ngài nhận biết được vị Tai Situpa thầy dạy của ḿnh viên tịch trong năm 1952 đă tái sinh. Ngài liền gửi những thông tin chỉ dẫn đến tu viện Palpung để yêu cầu t́m kiếm.
Theo đúng những chỉ dẫn của ngài, người ta đă t́m được đứa trẻ tái sinh, hoàn toàn phù hợp với những ǵ ngài nh́n thấy trong thiền định. Trên đường trở về Tsurphu, ngài đă dừng lại để tổ chức lễ đăng quang cho vị Tai Situpa tái sinh này tại tu viện Palpung.
Năm 1956, đức Karmapa cùng với một phái đoàn cùng đi đă đến Sikkim và từ đó tiếp tục một cuộc hành hương. Ngài cùng với đức Đạt-lai Lạt-ma và đức Ban-thiền Lạt-ma đến Ấn Độ theo lời mời của Hội Phật giáo Đại Bồ-đề (Mahabodhi Society) ở Ấn Độ để tham gia Đại lễ kỷ niệm 2.500 năm ngày đức Phật thành đạo (Buddha Jayanti).
Trong chuyến đi này, đức Karmapa và phái đoàn lại một lần nữa ghé thăm các thánh tích ở Ấn Độ để chiêm ngưỡng và lễ bái. Cũng trong chuyến đi này, đức Karmapa củng cố mối quan hệ với các đệ tử của ngài là Tashi Namgyal, đức vua xứ Sikkim, và Ashi Wangmo, công chúa xứ Bhutan.
Đức vua Sikkim mời ngài đến thăm Rumtek, một tu viện ở Sikkim được đức Karmapa đời thứ chín thành lập vào cuối thế kỷ 16. Ngài không nhận lời mời, nhưng hứa rằng sẽ đến đó trong tương lai vào một lúc thích hợp.
Đầu năm 1957, dân chúng đổ xô kéo về miền trung Tây Tạng để tỵ nạn. Một số đệ tử lớn của ḍng Karma Kagyu cũng có mặt trong số người di cư tỵ nạn, như các vị Sangye Nyenpa Ripoche, Situ Rinpoche, Talep Rinpoche...
Ngay trong giai đoạn rối rắm này, đức Karmapa phát hiện và công nhận hóa thân tái sinh của các vị Gyaltsab Rinpoche, Palpung Jamgon Kongtrul và Drongsar Chentse. Tu viện trung tâm Tsurphu trở thành nơi lánh nạn của các vị Tulku trẻ tuổi của ḍng Karma Kagyu từ miền đông Tây Tạng t́m về.
Bất chấp những khó khăn do t́nh h́nh chiến sự gây ra, đức Karmapa xem các vị này là trụ cột tương lai của ḍng Karma Kagyu nên vẫn dành rất nhiều sự quan tâm chăm sóc và đào tạo cho các vị.
Khi chiến tranh diễn ra ngày càng khốc liệt hơn và gây thiệt hại nặng nề cho các tu viện cũng như đời sống tu tập tại Tây Tạng, ngài bắt đầu nghĩ đến những giải pháp để bảo toàn truyền thống tu tập của tông phái.
Ngài đưa các vị Sangye Nyenpa Ripoche, Situ Rinpoche và Kalu Rinpoche sang Bhutan. Palpung Jamgon Kongtrul được đưa sang Ấn Độ. Và vào đầu năm 1959, ngài thông báo với đức Đạt-lai Lạt-ma rằng chính ngài cũng sẽ rời khỏi Tây Tạng nhằm mục đích bảo toàn Phật pháp.
Sau đó, đức Karmapa rời khỏi Tsurphu cùng với một phái đoàn tháp tùng đông đảo, khoảng 150 người gồm cả tăng sĩ và cư sĩ, trong đó bao gồm tất cả những vị Tulku có nhiều năng lực nhất.
Đoàn người ra đi mang theo những thánh tượng, xá-lợi và những thánh vật khác do các vị Karmapa truyền lại và nhanh chóng t́m đường ra khỏi Tây Tạng. Mọi kế hoạch chi tiết của chuyến đi đă được người trợ lư chính của ngài là Dhamchoe Yondu dự tính kỹ lưỡng. Lịch tŕnh chuyến đi được tính toán để cả đoàn sẽ đến được Bhutan mà không quá vất vả.
Dù vậy, đó là một chuyến đi để lại nhiều ấn tượng đáng kinh ngạc trong ḷng mọi người và thực sự không dễ dàng. Trước hết, cả đoàn đă đi băng qua vùng phía nam của Lodrak, nơi các vị đạo sư Marpa và Milarepa đă sáng lập tông phái truyền thống mà họ đang tiếp bước.
Tại đây cũng hiện hữu ngôi tháp chín tầng được xây một cách cực kỳ công phu và tỉ mỉ bởi duy nhất một ḿnh ngài Milarepa, như một sự thử thách niềm tin của ngài đối với bậc đạo sư của ḿnh. Gần 9 thế kỷ đă trôi qua nhưng ngôi tháp vẫn trơ trơ đứng đó như một sự thách thức với thời gian.
Khi cả đoàn sắp đến một sườn núi có độ cao 6.000 mét nằm ở biên giới Tây Tạng và Bhutan, hầu hết mọi người đều mệt mỏi và muốn dừng lại nghỉ ngơi trước khi vượt đèo.
Nhưng đức Karmapa thúc giục họ tiếp tục đi, và nhất định phải vượt qua khỏi đèo ngay trong ngày hôm ấy. Mặc dù mệt mỏi, tất cả mọi người đều vâng lời ngài, và họ đă qua khỏi đèo trước khi trời tối.
Ngay khi đêm vừa xuống, một cơn băo tuyết ập đến và con đường lên đèo bị lấp kín. Bên kia đèo, về hướng Tây Tạng, một đoàn quân đuổi theo họ đă phải dừng lại v́ không thể vượt qua băo tuyết.
Cả đoàn người không hề hay biết rằng họ đang bị đuổi bắt lại, nhưng quyết định sáng suốt của đức Karmapa đă giúp họ vượt thoát.
Như vậy là, sau chuyến đi kéo dài ba tuần lễ, đoàn người đă an toàn đến được miền bắc Bhutan và được đón tiếp long trọng bởi nhiều quan chức cao cấp của chính phủ Bhutan cùng với vị công chúa Bhutan là Ashi Wangmo mà lúc này đă xuất gia thành một vị tỳ-kheo ni. Cũng tại đây, hai vị Tai Situpa và Kalu Rinpoche đă t́m đến để gia nhập vào đoàn.
Nhà vua Sikkim thỉnh cầu đức Karmapa đặt trụ sở chính của ngài tại Sikkim, và 2 tháng sau khi đến Bhutan th́ đoàn của ngài đă rời Bhutan đến vùng Gangtok của Sikkim.
Trong số rất nhiều địa điểm được đức vua Tashi Namgyal của Sikkim đề nghị, đức Karmapa đă chọn Rumtek. Ngài tuyên bố rằng Rumtek sẽ là trụ sở chính của ngài ở ngoài nước, mặc dù ngài vẫn hy vọng là có một ngày sẽ được trở về Tây Tạng.
Đức Karmapa và đoàn tùy tùng rời Gangtok đi Rumtek ngay sau khi đức vua Sikkim chấp thuận việc ngài sẽ cư trú tại Rumtek. Mặc dù tu viện tại Rumtek đă được đức Karmapa đời thứ chín xây dựng từ nhiều thế kỷ trước đây, nhưng đến năm 1959 th́ tất cả hầu như đă đổ nát.
Dân cư quanh vùng Rumtek cũng c̣n chưa phát triển và không có đủ những điều kiện cần thiết cho sự lưu trú của đức Karmapa cùng với đoàn người đi theo ngài. Đức Karmapa và các vị đạo sư cùng với mọi người phải sống trong những căn lều tạm.
Trong thời gian đó, đức Karmapa cố gắng t́m kiếm những nguồn tài trợ để có thể bắt đầu xây dựng lại tu viện cũng như có thể đảm bảo điều kiện sống cho những người đi theo ngài.
Năm 1963, công việc xây dựng tu viện mới với tên gọi Shedrub Chokhor Ling được bắt đầu. Viên đá đầu tiên được đặt xuống công tŕnh xây dựng này bởi chính tay đức vua mới lên ngôi của Sikkim là Palden Thondup Namgyal.
Vị trợ lư chính của đức Karmapa là Dhamchoe Yongdu chịu trách nhiệm điều hành công việc và kinh phí xây dựng chủ yếu dựa vào sự cúng dường của hoàng gia Sikkim.
Sau đó, khi đức Karmapa gặp gỡ Thủ tướng Pandit Nehru của Ấn Độ th́ chính phủ Ấn Độ quyết định dành một khoản tài trợ cho công việc xây dựng tại Rumtek là 1,4 triệu rupee, tương đương khoảng 35.000 đô-la Mỹ.
Việc xây dựng tu viện Shedrub Chokhor Ling hoàn tất vào năm 1966. Những thánh vật và xá-lợi mang theo từ Tây Tạng được tôn trí tại đây.
Vào ngày đầu năm mới theo lịch Tây Tạng, đức Gyalwa Karmapa chính thức tuyên bố nơi đây là trụ sở mới các vị Karmapa với tên gọi là Trung tâm Hoằng pháp (The Dharmachakra Center), là nơi đáp ứng những điều kiện tu tập và hành tŕ giáo pháp cho tất cả mọi người dưới sự dẫn dắt của các đức Karmapa.
Năm 1974, đức Karmapa đời thứ mười sáu bắt đầu chuyến du hóa đầu tiên trên thế giới. Trong chuyến đi này, ngài viếng thăm Hoa Kỳ, Canada và một số nước châu Âu. Cùng đi với ngài có các bậc đạo sư khác của phái Karma Kagyu và rất nhiều vị tăng sĩ.
Ngài đă có rất nhiều buổi thuyết giảng giáo pháp gây ảnh hưởng sâu xa trong cộng đồng phương Tây. Ngài cũng thực hiện nhiều nghi lễ ban phước lành, lễ truyền pháp cũng như đưa ra những lời khuyên dạy về phương thức tu tập cho Phật tử ở những nơi ngài viếng thăm.
Vào khoảng giữa tháng giêng năm 1975, đức Karmapa có đến Rome để gặp gỡ lần đầu tiên với đức Giáo hoàng Paul Đệ lục.
Trong năm 1976-1977, đức Karmapa du hóa phương Tây một lần nữa với những buổi tiếp xúc và truyền pháp được mở rộng hơn.
Tiếp theo đó là một chuyến đi dài ṿng quanh thế giới, ngài đă viếng thăm các trung tâm tôn giáo trên khắp các châu lục, gặp gỡ các nhà lănh đạo chính trị, tôn giáo ở nhiều quốc gia, cũng như tiếp xúc với đông đảo quần chúng thuộc đủ mọi tầng lớp trong xă hội.
Trong khoảng hai thập niên 1960 và 1970, hoàng gia Bhutan đă cúng dường đức Karmapa một ṭa lâu đài và một vùng đất rộng để ngài có thể thiết lập một tu viện lớn. Mối quan hệ giữa ngài và Bhutan càng được củng cố chặt chẽ hơn nữa qua hai thập kỷ này.
Vào ngày 28 tháng 11 năm 1979, đức Karmapa đặt nền móng đầu tiên cho việc xây dựng một trung tâm hoằng pháp nằm về phía đông nam New Delhi, Ấn Độ, trong một buổi lễ long trọng có sự tham dự của Tổng thống và Thủ tướng Ấn Độ.
Trung tâm hoằng pháp này dự kiến sẽ là một cơ sở dành cho nghiên cứu học tập giáo pháp cũng như thực hành thiền định, và đặc biệt là đảm nhận cả việc phiên dịch, in ấn và phát hành kinh điển.
Tháng 5 năm 1980, đức Karmapa bắt đầu chuyến du hóa cuối cùng ṿng quanh thế giới. Ngài viếng thăm Hy Lạp, Anh, Hoa Kỳ và vùng Đông Nam Á.
Trong chuyến đi này, ngài có nhiều buổi thuyết giảng giáo pháp và tổ chức các buổi lễ đội vương miện kim cương, lễ truyền pháp, trả lời phỏng vấn của giới báo chí, nói chuyện với công chúng và tham gia nhiều hoạt động phúc lợi xă hội.
Ngày 5 tháng 11 năm 1981, đức Karmapa đời thứ mười sáu để lại một di thư và viên tịch trong một bệnh viện tại Zion, một địa điểm gần Chicago, thuộc bang Illinois, Hoa Kỳ. Di thể (kudung) của ngài được đưa về Ấn Độ bằng máy bay.
Ngày 20 tháng 12 năm 1981, lễ hỏa táng nhục thân đức Karmapa được cử hành ở tu viện tại Rumtek. Nhân dân Ấn Độ và hàng chục ngàn đệ tử của ngài từ khắp nơi trên thế giới đă quy tụ về đây để tham dự buổi lễ này.
Ngày 21 tháng 12 năm 1981, xá-lợi của ngài thu thập sau lễ hỏa táng được đặt trong một hộp thiêng (jangchub chorten) để thờ kính.
Một cuộc họp mở rộng các vị lănh đạo của phái Karma Kagyu được tổ chức tại Rumtek theo sự triệu tập của Dhamchoe Yongdu, vị trợ lư thứ nhất của đức Karmapa đời thứ mười sáu.
Dhamchoe Yongdu đă yêu cầu bốn vị Rinpoche lớn là Shamar Rinpoche, Tai Situ Rinpoche, Jamgon Kongtrul Rinpoche và Goshir Gyaltsab Rinpoche cùng nhau thành lập một hội đồng để tạm điều hành mọi hoạt động của tông phái.
Hội đồng này cũng chịu trách nhiệm về việc nghiên cứu các chi tiết trong di thư của đức Karmapa để t́m ra hóa thân tái sinh của ngài. Cả 4 vị Rinpoche đă nhận lănh trách nhiệm và bày tỏ sự mong muốn sẽ sớm hoàn tất được những ư nguyện của đức Karmapa.
Trong suốt cuộc đời ḿnh, đức Karmapa đời thứ mười sáu đă thể hiện tấm gương mẫu mực của một vị đạo sư chứng ngộ. Những lời dạy của ngài mang lại lợi ích lớn lao trong cuộc sống cho tất cả những ai có may mắn được gặp ngài, và ngay cả cho những ai chỉ được biết đến những lời dạy ấy qua sự truyền tụng, ghi chép.
Cũng tương tự như tất cả những vị đạo sư chứng ngộ từ xưa nay, ngài thể hiện những quyền năng mầu nhiệm và những thần thông tự tại mà kiến thức thông thường của con người không thể nào lư giải được.
Việc ngài để lại những dấu chân trên đá cứng là một sự thật được nhiều người truyền tụng, nhưng không ai có thể giải thích được là v́ sao ngài có thể làm được điều đó!
Một hôm, khi ngài đang tắm ở suối nước nóng Tarzi, những con rắn độc từ trong các khe đá gần đó kéo nhau ḅ ra và quấn quanh người ngài, nhưng ngài vẫn tươi cười không biểu lộ chút ǵ sợ hăi. Và sự thật là chúng không hề làm hại ngài!
Có một lần, trước sự chứng kiến của rất đông người, ngài cầm trên tay một thanh kiếm to nặng và nhẹ nhàng uốn cong nó lại, quấn tṛn và gút lại như thể đó là một sợi dây mềm mại.
Nhiều người được chứng kiến đă kể lại rằng, với sự hiện diện của ngài, nhiều loài vật b́nh thường vốn chẳng bao giờ ưa thích nhau bỗng trở nên hiền ḥa và biểu lộ sự thương yêu, gần gũi nhau.
Một lần ở Rumtek, sau khi chụp ảnh đức Karmapa, người thợ nhiếp ảnh đă bàng hoàng kinh ngạc sau khi rửa ảnh v́ nh́n thấy ở vị trí của ngài trong bức ảnh lại chẳng có ǵ cả, giống như đó là một vật thể vô h́nh.
Ông ta đă khảo sát rất kỹ âm bản phim và bản in phóng đại của bức ảnh nhưng không t́m thấy một lỗi kỹ thuật nào. V́ thế, ông hoàn toàn không thể đưa ra bất cứ lời giải thích nào cho hiện tượng kỳ lạ này.
Những hiện tượng mầu nhiệm như trên trong cuộc đời ngài c̣n có thể kể ra nhiều vô số. Tuy nhiên, phần lớn đều được truyền tụng bởi những người Phật tử, bởi những người hết ḷng tin kính ngài.
Điều gây ấn tượng nhất đối với thế giới phương Tây có lẽ chính là khi ngài thể hiện sự mầu nhiệm ấy cho cả những người chưa từng biết đến Phật pháp cũng được chứng kiến. Đó là vào thời điểm ngài viên tịch.
Điều không sao giải thích được đă xảy ra tại bệnh viện American International Clinic ở Zion thuộc bang Illinois, Hoa Kỳ, nơi ngài viên tịch, và được ghi chép lại bởi một bác sĩ người Ấn Độ là Kotwal. Ông này đă chịu trách nhiệm về việc chăm sóc sức khỏe cho đức Karmapa trong nhiều năm.
Vào thời điểm đức Karmapa viên tịch, cơ thể của ngài vẫn giữ nguyên tư thế thiền định trong 3 ngày liền. Suốt thời gian này, trái tim ngài vẫn giữ được độ ấm và da thịt vẫn mềm mại như khi c̣n sống.
Các bác sĩ đă vô cùng kinh ngạc khi chứng kiến sự thật này, mặc dù mọi dấu hiệu y khoa đều chứng tỏ là ngài thực sự đă chết. Rất nhiều nhân viên của bệnh viện đă t́m đến để có thể tận mắt chứng kiến sự kiện chưa từng có và không thể giải thích này. Chỉ sau 3 ngày, các dấu hiệu thông thường của sự chết mới bắt đầu xuất hiện nơi cơ thể ngài.
Trong buổi lễ hỏa táng nhục thân của đức Karmapa tại tu viện Rumtek, bốn vị Rinpoche đă tuần tự mang những ṿng mạn-đà-la cúng dường lên ngài. Khi đến lượt Tai Situpa, vị này tiến lên phía bắc của dàn hỏa thiêu để dâng ṿng mạn-đà-la và chợt nh́n thấy một vật ǵ đó rơi xuống từ di thể của đức Karmapa đang bốc cháy trong ngọn lửa.
Khi Tai Situpa cho người đến xem th́ mới biết đó chính là trái tim của đức Karmapa, vẫn c̣n nguyên vẹn dù có hơi cháy sém ở bề mặt. Trái tim này được giữ lại như một thánh vật, hiện được đặt trong một tháp nhỏ bằng vàng ở tu viện Rumtek để thờ kính.
Nhiều hạt xá-lợi được t́m thấy sau khi hỏa táng, và một số các mẩu xương vẫn c̣n nguyên vẹn cho thấy chúng đă được h́nh thành theo dáng của các tượng Phật.
Những hiện tượng mầu nhiệm này hầu như lặp lại một cách chính xác những ǵ đă từng xảy ra trước đây khi đức Karmapa đời thứ nhất là Dsum Khyenpa viên tịch cách đây 8 thế kỷ!
Mấy ngày sau lễ hỏa táng, đại sư Jamgưn Kongtrul Rinpoche t́nh cờ phát hiện có những dấu chân hài nhi in trên ṿng mạn-đà-la đặt ở phía bắc của lễ đài. Có lẽ đức Karmapa đă để lại dấu hiệu cho thấy phương hướng nơi ngài sẽ tái sinh.
Thật ra, không chỉ những hiện tượng mang tính siêu nhiên như trên mới là mầu nhiệm, mà ngay chính cuộc đời của ngài cũng là cả một sự mầu nhiệm và hoàn hảo.
Dưới sự hướng dẫn của ngài, các vị Tulku và Rinpoche của truyền thống Karma Kagyu đă tạo ra được sự quan tâm sâu sắc trong các cộng đồng dân cư ở Hoa Kỳ, châu Âu và cả ở vùng Đông Nam Á, thông qua các trung tâm hoằng pháp và tu tập mà ngài đă thành lập và điều hành.
Ngài đă dành trọn cả đời ḿnh để tạo ra nền tảng quan trọng và thiết yếu cho việc truyền giảng giáo pháp cũng như sự phát triển của Phật pháp trên toàn thế giới, thông qua việc giáo dục, đào tạo các vị Lạt-ma và tăng sĩ trẻ tuổi, nuôi dưỡng sự phát triển của tăng đoàn, và hỗ trợ vật chất cũng như tinh thần cho việc in ấn, thu thập và phiên dịch kinh điển cũng như luận giải của các vị Tổ sư.
Trong suốt cuộc đời, ngài đă chủ tŕ lễ xuất gia cho nhiều ngàn vị tăng, nhận biết và đào tạo hàng trăm vị Tulku. Đặc biệt, ngài đă tổ chức việc in ấn và phát hành đến rất nhiều trung tâm tu học bản in đầy đủ của Tam tạng kinh điển (Kinh, Luật, Luận) và những bản sớ giải, luận giải quan trọng kèm theo.
Đây là một khối lượng bản in cực kỳ đồ sộ và đ̣i hỏi những khoản kinh phí khổng lồ, nhưng ngài đă thực hiện được điều đó chỉ hoàn toàn dựa vào nếp sống đạo hạnh của ḿnh.
Niềm tin mà đức Karmapa tạo ra cho tất cả những ai đă từng được tiếp xúc với ngài đă khiến cho sự ra đi của ngài không để lại bất cứ sự xáo trộn tinh thần nào. Mọi người đều tin chắc rằng không bao lâu ngài sẽ trở lại thế giới này để tiếp tục dẫn dắt họ trên con đường vươn lên chân lư giải thoát.
Và điều này đă trở thành hiện thực khi tin tức về sự tái sinh của ngài tại Tây Tạng được chính thức công bố và Văn pḥng nội các của đức Đạt-lai Lạt-ma đời thứ 14 đă ra thông báo xác nhận vào ngày 30 tháng 6 năm 1992.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 929 of 1146: Đă gửi: 07 December 2010 lúc 2:14pm | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ ĐẠI SƯ TÁI SINH TÂY TẠNG
Đại sư thứ mười bảy: URGYEN TRINLEY DORJE (1985 - )
Đức Karmapa đời thứ mười bảy sinh ngày 8 tháng 5 năm Mộc Sửu theo lịch Tây Tạng, nhằm ngày 26 tháng 6 năm 1985, tại Lhathok, thuộc miền đông Tây Tạng, trong một gia đ́nh du mục. Cha ngài tên là Karma Dưndrub và mẹ là Gazi Loga.
Gia đ́nh ngài sinh sống nhờ vào việc nuôi dưỡng một đàn ḅ khoảng 80 con, liên tục di chuyển từ vùng này đến vùng khác trên đồng cỏ bao la, thay đổi tùy theo bốn mùa trong năm.
Gia đ́nh ngài được kính trọng trong số khoảng 70 gia đ́nh du mục cùng sống chung với nhau thành đoàn, với khoảng hơn 400 nhân khẩu. Những người dân du mục này dễ dàng được nhận ra với làn da rám nắng và đôi g̣ má lúc nào cũng ửng đỏ. Cuộc sống của họ gắn liền với những lều trại liên tục di chuyển trên thảo nguyên.
Mặc dù vậy, theo một tập quán đă có từ lâu đời, ông bà Dưndrub đă mang đứa con trai đầu tiên đến tu viện Kampagar của ḍng Nyingma, một trong các tu viện của Khamtrul Rinpoche để chuẩn bị cho việc trở thành một tăng sĩ trong tương lai.
Sau đó, họ lần lượt hạ sinh cả thảy 5 đứa con, nhưng tất cả đều là con gái. Hết ḷng mong muốn có được một đứa con trai, họ t́m đến đại sư Karma Norzang để thỉnh cầu sự giúp đỡ. Vị đại sư này nổi tiếng là Milarepa tái sinh. Ngài ban cho họ những lời khuyên, và họ đă cố gắng hết sức ḿnh thực hiện đúng những lời khuyên ấy.
Theo lời khuyên của đại sư Karma Norzang, ông bà Dưndrub thường xuyên cầu nguyện, lễ bái, và kèm theo đó là bố thí cho người nghèo khó, thí thức ăn cho loài vật như chim, cá... và họ cũng hành hương đến thánh địa Lhasa.
Họ đă thực hiện những việc này với tất cả sự thành tâm cầu nguyện, nhưng có lẽ những hạt giống tốt lành ấy vẫn c̣n chưa đủ thời gian để nảy mầm, nên đứa con tiếp theo của họ vẫn là con gái.
Vào lúc ông bà Dưndrub muốn tiếp tục thỉnh cầu sự ban phước để có được một đứa con trai th́ đại sư Karma Norzang đă viên tịch. V́ thế, họ t́m đến để thỉnh cầu sự chỉ dạy của đại sư Amdo Palden, vị trụ tŕ ở tu viện Kalek, một tu viện ḍng Karma Kagyu, vốn trước đây thuộc về đức vua Lhatok.
Thoạt tiên, đại sư Amdo Palden không dám chắc rằng có thể giúp được ǵ cho trường hợp của hai người, nhưng sau nhiều lần thiền định quán chiếu ngài chấp nhận giúp hai người đạt được ư nguyện.
Ngài nói rằng, họ có thể sinh được một người con trai, nhưng phải hứa chắc là sẽ giao đứa bé cho ngài chăm sóc và nuôi dưỡng. Ông bà Dưndrub vui mừng chấp nhận và hứa chắc với ngài là họ sẽ làm như vậy. Đại sư Amdo Palden liền tổ chức một buổi lễ ban phúc cho họ.
Không bao lâu sau đó, bà Gazi Loga mang thai. Trong thời gian mang thai, bà nằm mộng thấy 3 con hạc trắng bay đến dâng lên cho bà một bát sữa chua. Trên mặt váng sữa, bà nh́n thấy những ḍng chữ sáng rực màu vàng, cho biết rằng bà sắp sinh ra một người con trai.
Những con hạc trắng nói với bà rằng chúng được Guru Rinpoche sai đến để báo trước việc bà sẽ hạ sinh một bé trai, nhưng bà cần phải giữ kín điều này cho đến thời điểm thích hợp trong tương lai.
Một lần khác, bà mơ thấy có 8 biểu tượng tốt lành xoay quanh trong một vầng sáng cầu vồng bảy sắc tỏa ra từ vị trí trái tim của bà.
Một đêm trước khi ngài sinh ra, cha ngài nh́n thấy những vầng sáng cầu vồng trên mái lều họ đang ở. Ông vô cùng ngạc nhiên v́ mặt trời đă khuất sau dăy núi từ lâu.
Đứa bé được sinh ra một cách dễ dàng, không đau đớn, ngay trước lúc những tia nắng đầu tiên chiếu sáng căn lều. Cùng lúc ấy, một con chim lớn đậu xuống nóc lều và cất tiếng hót lảnh lót.
Hai ngày sau đó, trong không trung bỗng vang lừng âm thanh êm dịu và trầm ấm như tiếng tù và bằng vỏ ốc. Tất cả những người dân du mục quanh đó đều nghe thấy. Đức Karmapa đời thứ mười sáu đă có mô tả về âm thanh này trong bức di thư của ngài khi nói rơ về sự tái sinh sắp tới.
Thoạt tiên, những người bên ngoài đều nghĩ rằng âm thanh ấy xuất phát từ bên trong căn lều, và những người trong lều lại cho rằng nó vang lên từ bên ngoài. Nhiều người liên tưởng đến tiếng lễ nhạc thường được cất lên khi có sự xuất hiện của các vị Lạt-ma cao cấp, nhưng họ lại không nh́n thấy ǵ cả.
Chỉ sau đó, mọi người mới biết là âm thanh kỳ diệu kia đă vọng xuống từ không trung. Âm thanh kỳ diệu này kéo dài qua buổi trưa và đến hơn 2 giờ sau đó. Rồi những cánh hoa tươi bỗng xuất hiện và rơi xuống từ giữa không trung.
Và không lâu sau đó, mọi người đều nh́n thấy giữa không trung xuất hiện cùng lúc 3 mặt trời chói lọi, với một vầng sáng bảy màu bao quanh mặt trời ở giữa. Hiện tượng này không chỉ được nh́n thấy bởi những người trong vùng, mà tất cả những người dân ở miền đông Tây Tạng đều xác nhận là họ cũng nh́n thấy.
Khi ông Dưndrub và bà Loga t́m đến đại sư Amdo Palden để xin ngài ban một tên gọi cho đứa con trai mới ra đời, theo như tập quán của người dân Tây Tạng, ngài bảo họ rằng đây là một đứa bé rất đặc biệt nên một vị trụ tŕ tầm thường như ngài không nên đặt tên cho nó.
Ngài nói rằng, phải là một bậc thầy vĩ đại như vị Tai Situpa mới có thể đặt tên cho đứa trẻ này, và v́ thế họ nên chờ đợi cho đến lúc điều đó có thể được thực hiện.
Nhưng dù sao cũng cần có một tên gọi tạm thời cho đứa bé, nên cha mẹ ngài liền sử dụng tên gọi mà người chị của ngài bảo rằng đă nhận được từ một người bên bờ sông ngay sau khi ngài vừa được sinh ra. Tên gọi ấy là Apo Gaga, trong tiếng Tây Tạng có nghĩa là “đứa em trai mang lại niềm vui”.
Từ khi c̣n rất nhỏ, Apo Gaga đă tỏ ra vô cùng đặc biệt, với những năng lực và dự cảm phi thường. Chẳng hạn, ngài có thể nói chính xác cho mọi người biết chỗ để t́m kiếm những con cừu hay gia súc bị lạc mất.
Điều tất nhiên là khi tin đồn này loan ra, tu viện Kampagar nơi cha mẹ ngài đang sống liền đề nghị cha mẹ ngài cho ngài đến tu viện để được nuôi dưỡng và đào tạo theo phương thức đặc biệt nhằm có thể trở thành một vị Lạt-ma mang lại hạnh phúc và lợi ích cho nhiều người.
Nhưng vào lúc đó, đại sư Amdo Palden nhắc lại lời hứa trước đây của cha mẹ ngài, và nhận đưa ngài về tu viện Kalek để ông tự tay chăm sóc và nuôi dạy.
Tu viện Kalek nằm cách xa nơi gia đ́nh ngài đang ở nên có phần bất tiện, nhưng cha mẹ ngài vẫn nhớ lời đă hứa và đồng ư gửi ngài cho đại sư Amdo Palden. Dù vậy, để yên ḷng hơn họ liền t́m đến một vị tiên tri rất giỏi trong vùng và hỏi về tương lai đứa bé.
Vị này nh́n thấy một vỏ ốc lớn màu trắng với ṿng xoáy theo chiều kim đồng hồ, và dự báo rằng Apo Gaga sẽ là người mang đến lợi ích lớn lao cho rất nhiều người, nhưng tương lai của đứa bé chưa thể biết rơ trước lúc 8 tuổi.
Cách tính tuổi của người dân Tây Tạng cũng tương tự như cách tính theo âm lịch của người Việt Nam, nên năm dự báo của vị tiên tri này là năm 1992.
Em bé Apo Gaga trải qua khoảng 4 năm được dạy dỗ đặc biệt ở tu viện Kalek, với sự dẫn dắt của một vị Lạt-ma tái sinh chưa được biết đến. Ngài có một cái ngai nhỏ trang trọng ở bên cạnh điện thờ chính để ngồi và một người hầu lúc nào cũng ở bên cạnh để giúp ngài trong mọi việc.
Ngài không được phép tham gia các tṛ chơi đùa thông thường như những đứa trẻ khác, và tất cả bọn chúng lúc nào cũng bày tỏ sự kính trọng đối với ngài.
Thỉnh thoảng ngài có đến thăm gia đ́nh ở nơi làng du mục đang sống. Những lúc này, cha ngài kể lại rằng ngài thường chơi đùa bằng cách xây lên những tu viện tí hon với đất và đá, hoặc tự làm một cái ngai nhỏ rồi ngồi lên đó và đọc những lời cầu nguyện.
Họ cũng kể rằng ngài thường cưỡi trên lưng những con thú chạy lên đồi, và thường khóc khi thấy chúng bị đánh đập hay giết hại. Ngài luôn biểu lộ ḷng từ bi, thương yêu tất cả. Ngài tỏ ra đặc biệt quan tâm đến cây cối, thường xuyên trồng và chăm sóc những cây xanh.
Ngài cũng bày tỏ sự không hài ḷng khi nh́n thấy có ai chặt phá cây cối. Những ḍng suối nhỏ thường xuất hiện ở những nơi ngài trồng xuống nhiều cụm cây xanh.
Vào năm 1992, ngài bỗng nhiên thúc giục cha mẹ phải dời đến đồng cỏ mùa hè sớm hơn một tháng so với dự tính, nhưng không giải thích lư do.
Mặc dù không hiểu v́ sao, nhưng cha mẹ ngài vẫn nghe lời và dời trại sớm hơn. Chính điều này đă giúp họ đến đúng vị trí dự báo trong di thư của đức Karmapa đời thứ mười sáu, và đúng vào lúc phái đoàn t́m kiếm ngài cũng vừa đến đó.
Apo Gaga đă chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ để ra đi. Ngài sắp xếp gọn gàng một số đồ vật, hành lư ngay trước khi nhóm đi trước của phái đoàn t́m kiếm ngài đến nơi.
Ngài thức dậy sớm hơn vào hôm đó và xếp gọn một số quần áo rồi đặt lên lưng con dê của ḿnh, một con dê đặc biệt không có sừng, và nói với mẹ rằng những tu sĩ của ngài đang đến, và ngài đă sẵn sàng để lên đường đi với họ về tu viện của ḿnh.
Ngài nói, nếu có thể được th́ ngài sẽ mang theo một vài vật kỷ niệm của tu viện Kalek. Người anh của ngài là Yeshe Rabsal đang ở tại Kalek khi nhóm đi trước của phái đoàn t́m kiếm ngài vừa đến.
Họ gọi Yeshe Rabsal từ trên đồi xuống để nói cho biết rằng những tu sĩ được phái từ Tsurphu đến hiện đă đến Katok và đang trên đường đến Barkor để t́m kiếm hóa thân tái sinh của một vị Lạt-ma đặc biệt. Khi nghe được tin tức này, đức Karmapa trẻ tuổi đă cười lớn và nhảy múa reo mừng.
Cha mẹ ngài đă dựng lên một căn lều đặc biệt để tiếp đón phái đoàn. Sau những nghi thức chào hỏi thông thường, các vị tu sĩ liền hỏi mẹ ngài những chi tiết về ngài và về những giấc mơ của bà hoặc của bất cứ thành viên nào khác trong gia đ́nh.
Cha mẹ ngài kể lại tất cả những chi tiết về sự ra đời của ngài, về những dấu hiệu đặc biệt, về giấc mơ có những con hạc trắng, những giấc mơ của cha ngài và anh ngài, về con chim đến hót trên nóc lều, về âm thanh kỳ diệu vọng xuống từ không trung, về 3 mặt trời hiện ra...
Thật ra, nhóm đi trước của đoàn t́m kiếm đă được nghe hầu hết những chi tiết này từ những người dân du mục khi họ ḍ hỏi trên đường t́m đến đây. Lạt-ma Domo thay mặt cho tu viện Tsurphu trao cho cha ngài một bản sao bức di thư của đức Karmapa đời thứ mười sáu và ông Dondrup ngay lập tức nhận hiểu được một cách chính xác về đứa con trai phi thường của ḿnh.
Sau một vài trao đổi ngắn, những vị tu sĩ cùng nhau tháp tùng đức Karmapa trẻ tuổi đến tu viện Kalek để chờ hai vị Akong Tulku Rinpoche và Sherab Tarchin sẽ đến ngay trong vài ngày sau đó.
Không bao lâu, hai vị này đă đến. Và tin tức về sự phát hiện này liền được gửi về cho Tai Situpa và Goshir Gyaltsab đang ở Ấn Độ. Hai vị ngay lập tức thông báo việc này lên đức Đạt-lai Lạt-ma.
Tại tu viện Kalek, khi những chi tiết về hóa thân tái sinh của đức Karmapa một lần nữa được khẳng định, hai vị Akong Rinpoche và Sherab Tarchin liền dâng lên cậu bé Apo Gaga, nay đă trở thành đức Gyalwa Karmapa đời thứ mười bảy, bộ lễ phục đặc biệt và những thánh vật thiêng liêng mà họ thay mặt hai vị Tai Situpa và Goshir Gyaltsab mang đến từ Ấn Độ.
Một số phẩm vật và quà tặng đặc biệt được mang đến dâng lên cho cha mẹ đức Karmapa để bày tỏ ḷng biết ơn của tất cả mọi người về việc họ đă sinh thành và nuôi dưỡng ngài.
Mọi người cùng lưu lại Kalek một thời gian ngắn để trong khi chuẩn bị cho chuyến đi về Tsurphu. Hai vị Akong Rinpoche và Sherab Tarchin thay mặt cho Tai Situpa và Goshir Gyaltsab, và một phái đoàn khác cũng được cử đến từ Tsurphu.
Sau đó, tất cả cùng tháp tùng đức Karmapa trên đường đến Tsurphu, nơi mà đức Karmapa đời thứ mười sáu đă rời đi trước đó 33 năm.
Trước khi đoàn người rời khỏi tu viện Kalek, giữa bầu trời đầy sương mù của hôm ấy bỗng nhiên xuất hiện 3 mặt trời chói lọi và hàng trăm người quanh đó đều có thể nh́n thấy rơ.
Mặt trời ở giữa lớn hơn và có một quầng sáng bảy màu vây quanh, trong khi hai mặt trời bên cạnh nhỏ hơn và có những cụm mây bao quanh.
Ngày 15 tháng 6 năm 1992, đức Karmapa đến Tsurphu trong một khung cảnh vô cùng cảm động khi hàng ngàn người dân Tây Tạng vừa nghe tin đă nhanh chóng quy tụ về để đón mừng ngài.
Sau khi xuống xe, đức Karmapa đi về tu viện trên một con ngựa trắng được tô điểm xinh đẹp và nghiêm trang, với các vị tăng sĩ vây quanh mang những biểu ngữ lớn với lời chào mừng ngài, cùng với đầy đủ dàn lễ nhạc truyền thống.
Đám đông đón rước ngài tháp tùng theo sau, nhiều người trong số đó cưỡi ngựa, tạo thành một quang cảnh vừa trang nghiêm vừa nhộn nhịp.
Đức Karmapa tiến vào tu viện Tsurphu dưới một cây lọng vàng, nghi lễ chỉ dành cho những bậc đại sư, và được chào đón bởi một đám đông đang chờ sẵn. Rời khỏi lưng ngựa, ngài được mời đến ngồi trên một vị trí dành sẵn trước điện thờ chính.
Các vũ công với trang phục “sư tử tuyết” thực hiện điệu múa sư tử cổ truyền chào đón ngài, và dâng “sữa sư tử” lên ngài. Một nhóm vũ công đeo mặt nạ tượng trưng cho các vị hộ pháp của ḍng Karma Kagyu tiến đến chào ngài từng người một theo đúng nghi lễ như đối với các bậc thánh xưa kia, bày tỏ ḷng mong muốn cho cuộc sống của ngài sẽ được dài lâu và khỏe mạnh.
Những buổi lễ chào mừng ngài tiếp tục kéo dài trong nhiều ngày sau đó và người dân Tây Tạng thuộc đủ mọi thành phần vẫn tiếp tục kéo đến để bày tỏ sự vui mừng. Mỗi ngày, đức Karmapa đều thực hiện nghi lễ ban phước lành cho tất cả mọi người.
Ngày 27 tháng 6 năm 1992, Chính phủ Trung Quốc chính thức công nhận ngài là hóa thân tái sinh đời thứ 17 của đức Karmapa. Ngài trở thành vị Lạt-ma tái sinh đầu tiên được chính phủ Trung Quốc công nhận kể từ năm 1959.
Điều này gợi nhớ lại một sự thật là từ 8 thế kỷ qua, nhiều hóa thân tái sinh của đức Karmapa đă từng là đạo sư của các vị hoàng đế Trung Hoa.
Hai vị Tai Situpa và Goshir Gyaltsab đă được phép trở về Tây Tạng để tổ chức lễ đăng quang chính thức của đức Karmapa đời thứ mười bảy. Nhà cầm quyền cũng cho phép tổ chức một buổi lễ xuống tóc và đặt pháp danh cho ngài tại ngôi đền Jo-kang nổi tiếng ở Lhasa.
Nơi đây có một pho tượng Phật Thích-ca do công chúa Văn Thành mang đến từ Trung Hoa khi bà trở thành hoàng hậu Tây Tạng vào thế kỷ 7. Tương truyền pho tượng này trước đó đă được mang từ Ấn Độ đến Trung Hoa, và nó đă được tạo ra ở Ấn Độ bởi một nghệ sĩ tên là Visvakarman ngay trong thời đức Phật c̣n tại thế.
Pho tượng miêu tả đức Phật vào năm ngài được 12 tuổi, và đă được chính đức Phật ban phước lành sau khi hoàn tất. Người ta tin rằng bất cứ ai được nh́n thấy pho tượng này đều sẽ được nhiều may mắn.
Nhiều phái đoàn đại diện của các nhóm Phật giáo ḍng Karma Kagyu từ các quốc gia trên thế giới đă chuẩn bị đến Tây Tạng để được tham gia buổi lễ đăng quang của bậc thầy trước đây đă khai sáng cho họ, và họ đă nôn nóng chờ đợi sự tái sinh của ngài từ lâu.
Theo đúng như dự báo trước đây của đại sư Chojur Lingpa, vị Tai Situpa Pema Dưnyư sẽ trở thành thầy dạy chính của đức Karmapa đời thứ mười bảy. Dự báo này đă được đại sư Chojur Lingpa đưa ra từ trước đây gần một thế kỷ, khi ngài nh́n thấy những linh ảnh về các hóa thân của Karmapa cho đến tận đời thứ hai mươi mốt.
Vị Tai Situpa là người mà đức Karmapa đời thứ mười sáu đă giao lại bức di thư. Trong di thư cũng có nói đến việc ông sẽ là thầy dạy của vị Karmapa tái sinh.
Hai vị Tai Situpa và Goshir Gyaltsab đến Tây Tạng vào ngày 12 tháng 7 năm 1992. Họ đến ngay Tsurphu sau một đêm nghỉ lại thủ đô Lhasa và viếng thăm tu viện của Pawo Rinpoche, thực hiện lễ ban phước cho hàng trăm tín đồ nhiệt thành.
Tu viện Tsurphu được đức Karmapa Dsum Khyenpa thành lập từ năm 1190 và từ đó đến nay luôn là trụ sở chính cả tất cả các vị Karmapa. Vào thời điểm tiến hành cuộc Cách mạng Văn hóa th́ Tsurphu có đến 900 tăng sĩ và bao gồm trong nó 4 tu viện với rất nhiều công tŕnh xây dựng.
Một trong bốn tu viện này là nơi ở của các vị Goshir Gyaltsab qua nhiều lần tái sinh từ xưa đến nay. Các vị Goshir Gyaltsab luôn là người thay mặt đức Karmapa để dẫn dắt tông phái trong thời gian chuyển tiếp giữa hai lần tái sinh. Trong tiếng Tây Tạng, “gyaltsab” có nghĩa là “người nhiếp chính, người thay quyền”.
Vị đứng đầu tu viện Tsurphu lúc đó là Drupon Dechen Rinpoche, chính là bậc thầy ở Rumtek trước đây. Ông đă cùng với đức Karmapa đời thứ mười sáu rời Tây Tạng vào năm 1959, mang theo một số những xá-lợi và thánh vật từ Tsurphu đến Sikkim.
Những xá-lợi và thánh vật này hiện đang được tôn trí tại Rumtek. Chính đức Karmapa đời thứ mười sáu đă khuyên ông trở về Tsurphu để đôn đốc việc xây dựng lại tu viện này. Trong thực tế, Drupon Dechen Rinpoche đă phải nỗ lực kiến tạo lại tất cả từ những đống đổ nát trong những năm gần đây, nhờ vào sự ủng hộ nhiệt thành của rất nhiều người.
Cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa đức Karmapa đời thứ mười bảy và hai vị Rinpoche là một buổi tiếp xúc mang tính nghi thức truyền thống. Sau các nghi thức chào mừng bên ngoài điện thờ, hai vị được đưa đến để lễ bái đức Karmapa lần đầu tiên và dâng phẩm vật cúng dường lên ngài.
Những ngày sau đó, sự tiếp xúc mới dần trở nên thân mật, cởi mở và vui vẻ v́ không c̣n mang nặng h́nh thức lễ nghi. Những mối quan hệ thành tín, tôn kính và yêu thương lẫn nhau được phát triển một cách tự nhiên và mănh liệt.
Theo niềm tin của người Tây Tạng, ba vị là hóa thân của đức Bồ Tát Quán Thế Âm (Avalokiteśvara), Bồ Tát Di-lặc (Maitreya) và Bồ Tát Kim Cang Thủ (Vajrapṇi) và đă từng gặp gỡ, giúp đỡ nhau trong công cuộc độ sinh từ nhiều thế kỷ qua.
Cũng giống như Akong Rinpoche trong hơn một tháng qua, hai vị Tai Situpa và Gyaltsab bắt đầu khám phá ra những mối quan hệ chuyển tiếp nổi bật trong tính cách của vị Karmapa đời thứ mười bảy với đức Karmapa trước đây.
Ngài cũng biểu lộ sự tự tin, không sợ sệt, luôn vui tính và chân thành thương yêu với một tâm lượng từ bi vô hạn, không khác ǵ so với đức Karmapa trước đây.
Lễ xuống tóc của đức Karmapa được tổ chức tại ngôi đền thiêng Jo-kang ở Lhasa, vào sáng sớm ngày 2 tháng 8 năm 1992. Hai vị Tai Situpa và Goshir Gyaltsab tiến hành các nghi lễ trước thánh tượng đức Phật Thích-ca, tượng trưng cho sự hiện hữu của đức Phật trong buổi lễ.
Đây là lần thứ hai trong lịch sử một vị Karmapa nhận lễ xuống tóc tại ngôi đền này. Nhiều phẩm vật cúng dường được gửi đến dâng lên ngài, và có cả quà tặng từ đức Đạt-lai Lạt-ma:
Một lời cầu chúc trường thọ và khỏe mạnh, một tấm khăn choàng đă được ngài ban phúc, và một tràng hạt của chính ngài. Các đại diện của nhà cầm quyền tại Lhasa cũng có mặt trong buổi lễ.
Sau buổi lễ xuống tóc, đức Karmapa chính thức nhận một tên gọi mới đă được dự báo bởi đại sư Chogyur Dechen Lingpa là Pal Khyabdak Rangjung Urgyen Trinley Dorje.
Ngày 27 tháng 9 năm 1992, hơn 20.000 Phật tử từ khắp nơi đă tụ họp về Tsurphu để tham dự lễ đăng quang của đức Karmapa. Ngoài đại diện của các trung tâm tu học thuộc truyền thống Karma Kagyu trên toàn thế giới, c̣n có đại diện của tất cả các ḍng phái Phật giáo khác tại Tây Tạng và đại diện của các tôn giáo khác.
Tuy nhiên, chiếm đa số trong những người tham dự là các Phật tử Tây Tạng, nhiều người đă phải vượt hàng ngh́n cây số để về đây. Nhiều vị tulku đă quy tụ về từ khắp các vùng thuộc Tây Tạng, Ấn Độ và quanh vùng Hy-mă-lạp. Đối với người dân Tây Tạng, việc được hiện diện tại buổi lễ này và có cơ hội nh́n thấy đức Karmapa có một ư nghĩa cực kỳ to lớn.
Từ trước năm 1959, điều này vốn đă là một truyền thống lâu đời, và sự khao khát mong chờ của họ càng được nhân lên gấp bội vào thời điểm năm 1992, khi nh́n thấy hé ra một tia hy vọng mới cho tương lai Phật pháp của đất nước.
V́ thế, trong dịp này vùng thung lũng Tolung bao quanh Tsurphu trở thành một băi cắm trại khổng lồ nhộn nhịp đầy màu sắc.
Sau lễ đăng quang của đức Karmapa, vào ngày 29 tháng 9 năm 1992, đức Karmapa Urgyen Trinley Dorje chủ tŕ một buổi lễ ban phúc cho hàng chục ngàn người.
Buổi lễ kéo dài trong nhiều giờ, tuy có sự trợ giúp của hai vị Tai Situpa và Gyaltsab nhưng vị Karmapa chỉ mới 7 tuổi đă bộc lộ năng lực siêu việt với giọng nói vang rền và tự tin trước một cử tọa hàng chục ngàn người.
Mặc dù mọi hoạt động Phật sự của một đức Karmapa, hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, đều được xem là quan trọng đối với người Tây Tạng, nhưng buổi lễ ban phúc này được xem như một khởi đầu tốt lành và hứa hẹn nhiều hoạt động tốt đẹp mà ngài chắc chắn sẽ làm v́ mọi người trong cương vị của một đức Karmapa.
Nhiều điềm lành xuất hiện như để làm tăng thêm ḷng tin và sự vui mừng của những người dự lễ. Bầu trời quang đăng với chỉ một vài cụm mây trôi lăng đăng, nhưng lại có tuyết rơi nhẹ như những bông hoa trắng đẹp rơi xuống từ không trung, và từng bầy chim đông đảo bỗng tụ về một cách khác thường trong ngày hôm ấy, bay lượn thành những ṿng tṛn cao vút trên bầu trời xanh.
Nhưng ấn tượng nhất đối với tất cả mọi người là một mống cầu vồng bảy màu vĩ đại bắc ngang qua cả bầu trời, hiện ra cao vút ở trên cả những bầy chim đang bay,
Sau khi chính thức nhận cương vị là một đức Karmapa, Urgyen Trinley Dorje bắt đầu giai đoạn học tập nghiêm túc với các vị thầy chính là Tai Situpa và Gyaltsabpa, cùng với sự giúp đỡ của Drupon Dechen Rinpoche, người đứng đầu tu viện Tsurphu.
Ngài bắt đầu bộc lộ rơ khả năng của một vị Karmapa tái sinh trong việc học tập kinh điển. Ngài chỉ cần nghe qua một chủ đề hoặc đọc qua một bản kinh văn nào đó là có thể ngay lập tức nắm hiểu được. Đôi khi ngài c̣n tỏ ra thông thạo cả những vấn đề mà các vị thầy chưa hề đề cập đến.
Ngài bộc lộ sự thông minh, nhạy bén và một trí nhớ phi thường. Mặc dù vậy, các vị thầy dạy vẫn yêu cầu ngài phải học qua tất cả các môn học, các phần giáo pháp truyền thống, giống như tất cả các vị Karmapa trước đây đă làm. Điều này nêu lên một tấm gương chuyên cần cho tất cả mọi người noi theo.
Mặc dù vậy, đối với một người Phật tử b́nh thường, cho dù có nỗ lực hết sức và được sự chỉ dạy tận tâm của những bậc thầy vĩ đại th́ cũng không thể nào hoàn tất được hết thảy những ǵ mà vị Karmapa đă học, đơn giản chỉ v́ đó là một khối lượng kiến thức quá nhiều!
Trong giai đoạn học tập đầu tiên, ngài được sự trợ giúp của hai vị thầy uyên bác và nhiều kinh nghiệm là Omdze Thubten Zangpo và Lama Lodro Sherab. Sau đó, Lama Lodro Sherab phải trở lại với tu viện Rumtek v́ ở đó đang cần đến ông.
Dưới sự hướng dẫn của Omdze Thubten Zangpo, ngài học tập những kỹ năng hành lễ và nghi thức truyền thống. Sau đó, ngài đă vượt qua được kỳ thi Umdze. “Umdze” có nghĩa là “thông thạo về các lễ nghi”, và bao gồm rất nhiều phần nghi thức truyền thống khác nhau.
Một học giả cư sĩ tên là Lodro cũng giúp đỡ ngài trong việc học. Đức Karmapa đă khiến cho tất cả mọi người đều phải kinh ngạc khi ngài học thuộc ḷng một phần nghi thức tán tụng dài hơn 100 trang chỉ với thời gian chưa đến một tháng, và mỗi ngày chỉ dành chưa đến một giờ cho việc học nghi thức này!
Khoảng năm 1995, đức Karmapa bắt đầu có những linh ảnh trong thiền định giúp ngài phát hiện được sự tái sinh của nhiều vị đại sư, trong đó có cả những vị thầy nổi tiếng như Pawo Rinpoche, Jamgon Kongtrul Rinpoche và Dabzang Rinpoche.
Từ năm 1992 đến năm 1999, sự hiện diện của đức Karmapa đă mang lại niềm tin và sức mạnh cho đông đảo Phật tử Tây Tạng. Ngài chủ tŕ và thúc đẩy tiếp tục công việc xây dựng lại tu viện Tsurphu.
Mặc dù trước đó, một số công tŕnh hư hỏng của tu viện đă được ngài Drupon Dechen Rinpoche khôi phục, nhưng phải đến giai đoạn này th́ việc trùng tu mới thực sự hoàn tất, với nhiều kiến trúc phức tạp nguyên sơ được khôi phục đầy đủ và nhiều công tŕnh xây dựng mới được thêm vào để đáp ứng với sự phát triển của tu viện.
Ngày 28 tháng 12 năm 1999, đức Karmapa quyết định rời khỏi Tây Tạng v́ tương lai phát triển của Phật pháp. Chỉ mấy ngày trước khi bước sang thiên niên kỷ mới, ngài cùng với một số ít các vị tùy tùng bí mật rời khỏi Tsurphu và t́m đường sang Ấn Độ.
Ngày 5 tháng 1 năm 2000, ngài đến Dharamsala, Ấn Độ và lần đầu tiên yết kiến đức Đạt-lai Lạt-ma.
Đức Karmapa lưu trú tại Ấn Độ và sống gần Dharamsala. Ngài đă thực hiện một số chuyến đi tham bái các thánh tích Phật giáo tại Ấn Độ, và hằng năm đều chủ tŕ những buổi lễ truyền thống của ḍng Karma Kagyu tại Bồ-đề Đạo tràng (Bodhgaya).
Nơi đức Phật thành đạo, và Lộc Uyển (Sarnath), nơi đức Phật lần đầu tiên chuyển pháp luân. Ngài cũng viếng thăm Ladakh (nơi định cư của người Tây Tạng ở miền nam Ấn Độ) và nhiều nơi khác trong vùng Hy-mă-lạp.
Cuối năm 2001, ngài chủ tŕ một buổi lễ quan trọng của ḍng Karma Kagyu, với sự tham gia của đông đảo tăng sĩ thuộc ḍng phái này từ khắp nơi trên thế giới, cùng quy tụ về ngôi đền Mahabodhi ở Bồ-đề Đạo tràng (Bodhgaya), ngay bên dưới cây bồ-đề mà trước đây đức Thế Tôn đă thành đạo. Đây là một nghi lễ được tổ chức hằng năm của ḍng Karma Kagyu.
Năm 2002, ngài nhận lời mời của Hội Phật giáo Đại Bồ-đề (Maha Bodhi Society) của Ấn Độ, đến viếng thăm Kolkata ở miền đông Ấn Độ, như một vị thượng khách danh dự.
Cùng với đức Đạt-lai Lạt-ma, ngài cũng tham gia một số hoạt động Phật sự tại Sarnath ở miền bắc Ấn Độ, nơi đức Phật trước đây đă thuyết giảng giáo pháp lần đầu tiên.
Hiện nay ngài đang có dự tính sẽ rời Dharamsala để đến tu viện Rumtek ở Sikkim, trụ sở chính của các vị Karmapa ở bên ngoài Tây Tạng do đức Karmapa đời thứ mười sáu lập ra.
Nguyễn Minh Tiến
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 930 of 1146: Đă gửi: 23 December 2010 lúc 7:16am | Đă lưu IP
|
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 931 of 1146: Đă gửi: 23 December 2010 lúc 7:19am | Đă lưu IP
|
|
|
MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ
MỤC LỤC TỔNG QUÁT
MẤY LỜI ĐẦU
Phần thứ nhất: CUỘC VÂN DU CỦA MỘT BÀ ĐẠO NHÂN
1.Vị sư kỳ lạ
2 .Cây linh thiêng của đức Tsong-Khapa
3.Mấy vị thượng tọa tái sanh
4.Một gương nghị lực
5. Phép chạy đường trường
6. Phép chuyển lửa trong ḿnh
7. Phép chuyển di tư tưởng
8. Tu thiền
PHẦN THỨ HAI : MỘT NGƯỜI PHÁP LÀM THẦY TU
9. Một người Pháp làm thầy tu Tây Tạng
10. Tại chùa Chumi-Jadsa
11. Thỉnh chư thần hộ trợ
12. Đến Lhassa, gặp thần tiên tri
13 . Vị sư làm sấm sét
14. Buổi mật nghị
15. Trên đường tu luyện
16. Nơi miền an lạc
Phần thứ ba: MỘT TU SĨ Ở MÔNG CỔ
17. Một vị sư chiến sĩ
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 932 of 1146: Đă gửi: 23 December 2010 lúc 7:22am | Đă lưu IP
|
|
|
MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ
MẤY LỜI ĐẦU
Sách này được phân làm ba phần:
Phần thứ nhất, từ mục thứ nhất đến mục thứ 9, là những điều trông thấy của bà Alexandra David Neel trong thời gian bà du hành bên xứ Tây Tạng.
Phần thứ hai, từ mục thứ 10 cho đến mục thứ 17, ghi lại những cuộc khảo sát và nghiên cứu của ông Jean Marquès Rivière, một người Pháp có đến Tây Tạng và thọ giới xuất gia, tu tŕ trong các ngôi chùa lớn bên ấy. Riêng về ông J. M. Rivière, sẽ được đề cập đến trong mục thứ 10.
Phần thứ ba, trích dịch trong quyển “Từ Súc sinh, Nhân loại đến Thánh thần” của ông Ferdinand Ossendowski, một nhà mạo hiểm người Ba-lan đă từng đến Mông Cổ và Tây Tạng. Ông này được một vị thượng tọa chùa Na-ra-băn-si, là người được tôn sùng như một vị Phật sống thời nay, ban cho một chiếc nhẫn quư.
Nhờ vậy, nên khi đi qua các nơi trong xứ Mông Cổ và Tây Tạng, ông thường được người ta ủng hộ một cách nhiệt thành. Nhất là giới tăng sĩ ở các chùa luôn đón tiếp ông như một người đă đắc Đạo đi truyền Pháp. Nhờ vậy mà ông được biết lắm điều huyền bí trong chốn cửa Thiền.
Ở đây, xin nói qua về bà Alexandra David Neel. Bà là một nhà tu người Pháp. Có kẻ nói bà là người Mỹ, song theo lời tự nhận của chính bà, th́ bà là người Pháp. V́ ham mộ giáo lư đạo Phật nên bà đă từng đặt chân đến nhiều nơi có những ngôi chùa xưa và tham học với nhiều vị danh tăng. Bà đă viếng khắp cơi Thiên Trúc, có làm lễ ở những nơi thờ dấu tích và tro tàn xá-lợi của đức Phật.
Bà cũng có đến nước Nhật, dự nhiều buổi lễ trang nghiêm trong các chùa lớn do các vị lăo tăng chủ tŕ. Bà có sang Trung Hoa, từng sống cuộc đời thanh tĩnh giữa chư tăng trong một số ngôi chùa cổ ở Bắc Kinh. Đặc biệt là bà có viếng qua khắp những miền linh thiêng trong xứ Tây Tạng, nương náu trong ṿng mười bốn năm ở các đỉnh núi tuyết, gần gũi với các vị danh tăng đạo cao đức cả.
Chính bà có quen thân với đức Ban-thiền Lạt-ma, một trong các vị đứng đầu hàng tăng sĩ Tây Tạng mà khắp xứ đều tôn trọng và xem như là hóa thân của đức Phật A-di-đà. Bà là người tận tâm với Phật Pháp, đă từ bỏ nếp sống phong lưu, quư phái mà chịu nhọc nhằn sống đến các nơi hẻo lánh để cầu Đạo, cho nên bà biết nhiều chuyện tích rất hay.
Tuy chính phủ Tây Tạng vẫn cấm người da trắng vào xứ này, song bà được chính giới tăng sĩ giúp đỡ nên bước đường tu niệm và nghiên cứu của bà đều được dễ dàng hơn. Bà có soạn nhiều quyển sách giá trị về Phật giáo và về phong tục xứ Tây Tạng. Có thể kể ra đây một số như là:
– Những cuộc thuyết pháp của các vị Lạt-ma)
– Cuộc du hành của một người phụ nữ Paris đến Lhassa( )
– Pháp thuật v́ ái t́nh và tà thuật – Những phong tục xứ Tây Tạng mà rất ít người biết đến
– Vị Lạt-ma đắc ngũ thông
– Mấy thầy tu huyền bí và chư vị Pháp sư ở Tây Tạng( )
Phần thứ nhất trong sách này có 9 mục, được soạn từ nơi quyển “Mấy thầy tu huyền bí và chư vị Pháp sư ở Tây Tạng” vừa kể trên. Quư độc giả có ḷng muốn tu học, nên xem qua cho biết sự tu luyện khó nhọc, cam go của các vị tăng sĩ trên vùng cao núi tuyết. Quư ngài sẽ thấy nhiều sự linh diệu, ly kỳ và nhiều phép huyền vi của các vị tu hành chân chính.
Soạn dịch và cho ra đời quyển sách này, tôi mong muốn là sẽ góp được một phần nào phổ biến rộng thêm giáo lư nhà Phật, khuyến khích những ai c̣n nghi ngờ trở nên tin chắc, giúp cho các vị cư sĩ tu tại gia đem ḷng tín phục mà công nhận rằng: tinh thần được trau luyện kỹ th́ trở nên mạnh mẽ vô ngần, và cầu cho các bậc xuất gia càng dũng mănh mà tiến tới trên đường đức hạnh và giải thoát.
Đoàn Trung C̣n
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 933 of 1146: Đă gửi: 23 December 2010 lúc 7:25am | Đă lưu IP
|
|
|
MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ
Phần thứ nhất: CUỘC VÂN DU CỦA MỘT BÀ ĐẠO NHÂN
1.Vị sư kỳ lạ
(Theo lời tự thuật của bà A. DAVID NEEL)
Năm ấy t́nh h́nh chính trị trong xứ có những biến động nghiêm trọng nên đức vua Tây Tạng ngự giá ra khỏi xứ. Ngài đến đóng trại nơi biên thùy trong cơi Thiên Trúc. Thật là cơ hội rất may cho tôi để bệ kiến ngài và cầu ngài giải đáp những điều tôi muốn biết về đạo Phật ở Tây Tạng.
Những người ngoại quốc được phép đến chầu ngài thật ít lắm. Tuy ngài đi tỵ nạn, nhưng cũng không để cho một người đàn bà ngoại quốc nào đến gần long thể. Thật ra, trong hàng phụ nữ ngoại quốc, duy có ḿnh tôi được bệ kiến ngài thôi.
Một buổi sáng mát mẻ mùa xuân, tôi từ giă thành Darjeling để đến thành Kalimpong, chính là nơi đang dừng binh hạ trại của đức vua.
Trong khi ngựa bước gập ghềnh theo sườn non, tôi những tưởng cuộc du hành của ḿnh chắc cũng chẳng lâu lắm, và vẫn nghĩ rằng sẽ đến phỏng vấn đức vua rồi thôi, chẳng ngờ đâu cơ hội ấy hóa ra lại là một dịp may đưa tôi đi khắp các nơi trong nước Tây Tạng.
Sau khi gặp vua, ḷng tôi bỗng sinh ra vô cùng ngưỡng mộ giáo lư đạo Phật đang lưu hành trong xứ Tây Tạng, thành ra cuộc hành tŕnh của tôi kéo dài ra hơn mười năm.
Khi gặp vua, ngài có nói với tôi một câu rằng: "Bà nên học tiếng Tây Tạng." Câu nói của Ngài càng làm tôi thêm hừng chí. Lúc đầu, khi mới ra đi, tôi nhớ tới lời ấy măi, và tôi bỗng có ư tưởng ngộ nghĩnh rằng, dường như Ngài là một người trông thấy có kẻ đi ṿng ngoài rào toan tính vào nhà ḿnh, bèn chỉ ngơ cho kẻ ấy biết để mà vào cho nhanh.
Quả thật, lời nói ấy cũng như Ngài muốn chỉ cho tôi cách thức để đi vào xứ sở nghiêm cấm của Ngài, để gặp được những cao tăng danh đức, để thọ giáo với những bậc tu hành đắc đạo ở toàn xứ Tây Tạng, và nhất là ở kinh thành Lhassa.
Tại Kalimpong, đức vua ngự trong một cảnh biệt thự rộng lớn của vị đại thần ở triều vua xứ Bhoutan. Từ con đường chính đi vào đến hành cung, hai bên đường đều có dựng những cây phướn có câu chân ngôn "Án ma ni bát di hồng" và một số cây phướn có h́nh con ngựa bay với những câu linh phù.
Theo chầu quanh vua có cả trăm người, hết thảy đều có dáng vẻ ung dung, tự tại. Và lúc nào cũng có quan khách cùng đi với những người hầu cận đến để xin bệ kiến đức vua tại hành cung.
Trước hôm từ giă ngài, tôi có chứng kiến một cuộc thủ hộ do ngài ban phép lành cho cả ngàn người. Sự thủ hộ của vua Dalai-Lama có khác với nghi lễ ban phép lành của đức Giáo hoàng ở thành La Mă. Đức Giáo Hoàng thường ban phép chung cho nhiều người, có khi là cả ngàn người một lượt. C̣n ở Tây Tạng, đức vua ban phép lành riêng cho từng người.
Đối với những người theo chi phái Lạt-ma giáo của đạo Phật ở Tây Tạng, có ba cách thủ hộ, theo mức độ khác nhau. Cách thứ nhất là lấy hai bàn tay mà sờ lên đầu người thọ phép, tức là cách thủ hộ vinh dự và cao diệu hơn hết. Cách thứ hai là lấy một bàn tay mà sờ đầu, hoặc có khi dùng hai ngón tay, thậm chí một ngón tay mà sờ lên đầu người thọ phép, cũng đều là cách thủ hộ có tánh cách trân trọng.
Cách thủ hộ thứ ba là cách thông thường nhất và thường được áp dụng rộng răi nhất cho mọi người, là dùng cây phất trần có những mảnh lụa khác màu buộc vào nơi cán mà gơ nhẹ lên đầu người thọ phép.
Người đạo Phật ở Tây Tạng tin rằng việc làm phép thủ hộ tức là truyền sự thanh tịnh, trong sạch của chư Phật xuống đến người ban phép thủ hộ, và cũng truyền sức huyền diệu của phép thủ hộ qua cho người thọ phép, cho nên các vị mới cần phải lấy tay mà sờ vào đầu người thọ phép.
Những người có thiện tâm hành cước đến thành Kalimpong để thọ lễ thủ hộ của vua thật là đông đảo vô cùng. Điều ấy cho thấy rằng dân chúng vẫn sùng bái Ngài nhiều lắm. Người ta lần lượt kéo nhau đi ngang dưới ngai rồng giờ này qua giờ kia không dứt.
Chẳng những người đạo Phật gốc xứ Tây Tạng thọ phép thủ hộ mà thôi, mà người các đạo khác ở xứ Bengale cũng đến để chờ được sự ban phép lành của đức vua. Chính mắt tôi thấy có nhiều người, ban đầu chỉ định đến xem cho biết, nhưng rồi sau cùng như chịu một sức hấp dẫn huyền vi nào đó, thúc giục họ đến nhập bọn mà thọ phép thủ hộ.
Trong khi nh́n quang cảnh ấy, tôi để ư thấy từ xa có một người ngồi dưới đất, tóc rối, quấn tṛn theo kiểu những vị tu khổ hạnh bên Thiên Trúc. Nhưng người ấy dáng vẻ không phải là người Thiên Trúc. Người che thân bằng một cái áo của hàng sa-môn Lạt-ma giáo, vẻ như đă rách nát tự lâu đời, và có để một cái túi vải bên ḿnh.
Ông thầy tu ấy ngồi nh́n mọi người với một vẻ rất khinh miệt. Thấy vậy, tôi mới gọi Dawasandup là vị sư đang làm thông ngôn cho tôi và chỉ cho thầy xem. Thầy Dawasandup đáp rằng: "Chắc là một vị sư huyền bí Naldjorpa đi lữ hành." Thấy tôi ṭ ṃ muốn biết thêm, thầy liền đến hỏi chuyện với vị sư ấy.
Khi trở lại, thầy có vẻ nghiêm nghị mà nói rằng: "Ngài là một vị sư Lạt-ma gốc ở xứ Bhoutan, thường đi khắp đó đây. Khi th́ ngài ở chỗ này, khi th́ ở chỗ khác, có khi ở trong động đá, có lúc ở trong mấy cảnh nhà bỏ hoang, hay ở dưới cội cây trong rừng. Ngài ghé lại đây ít hôm và ngụ trong một ngôi chùa nhỏ gần đây.
Tôi chú ư ngay đến vị sư này và định bụng sẽ đến cảnh chùa ấy mà viếng ngài. Tôi lấy làm lạ khi thấy ngài có vẻ như khinh thường đối với nhà vua và những người có thiện tâm đến để thọ phép thủ hộ. Tôi nghĩ, chắc là có lư do ǵ đây.
Tôi mang ư kiến ấy mà bàn với thầy Dawasandup. Thầy cũng thuận t́nh đi theo tôi. Chúng tôi lên ngựa cùng đi. Chẳng bao lâu th́ đến một ngôi chùa, trông giống như một ṭa nhà rộng lớn ở miền quê. Vị sư đang ở trong chánh điện, ngồi trên một chiếc gối đặt trước một cái bàn thấp. Ngài đang thọ trai có vẻ như vừa xong.
Thấy chúng tôi vào, vị sư trụ tŕ đem gối đến lót mời chúng tôi ngồi và bưng nước trà đến tiếp đăi. Tôi chưa tiện nói chuyện với vị sư lữ hành, v́ thấy ngài vẫn c̣n đang nhai cơm trong miệng. Chúng tôi chào ngài một cách có lễ phép, song ngài chỉ đáp lại bằng một tiếng "hự" trong cổ họng mà thôi.
Tôi đang t́m lời để mở đầu câu chuyện th́ ngài bỗng cười lên mà thốt ra ít lời. Thầy thông ngôn cho tôi có vẻ lấy làm khó chịu. Tôi liền hỏi:
- Ngài dạy điều chi vậy?
Thầy đáp:
– Xin lỗi bà. Mấy vị sư này thường hay dùng những lời không mấy thanh nhă. Không biết tôi có nên dịch ra cho bà nghe hay chăng...
Tôi đáp ngay:
– Thầy nên cứ tự nhiên. Tôi đi đây là để ghi nhận những điều tai nghe mắt thấy, lại càng muốn nghe những điều có tính cách đặc biệt.
– Xin lỗi bà vậy ... Ngài nói rằng: "Con mẹ ngu ấy đến đây mà làm ǵ?"
Tôi nghe xong vẫn không lấy làm lạ, và thật cũng không có ḷng hờn giận chi cả. Bên Thiên Trúc tôi cũng biết rằng mấy vị sư khổ hạnh vẫn hay giả vờ chửi mắng những ai đến cầu Đạo với ḿnh.
Tôi nói với thầy thông ngôn rằng:
– Nhờ thầy thưa lại thế này: "Tôi viếng ngài để hỏi xem tại sao ngài ra vẻ khinh miệt những người đến để thọ phép lành của đức vua."
Vị sư ấy liền đáp bằng một giọng ậm ừ trong miệng rằng:
– Toàn là hạng người tự cao. Họ cứ tưởng rằng việc làm của họ là hệ trọng lắm... Ấy chẳng qua là gịi trong cứt đó thôi.
Cuộc đối đáp đến đây thật đă có chiều ngộ nghĩnh. Tôi liền thưa hỏi rằng:
– Thế c̣n ngài, xin hỏi ngài có ra khỏi đống phẫn uế ấy không?
Ngài cười, tiếng nghe rổn rảng:
– Hễ càng lánh xa th́ càng chui đầu sâu vào hơn nữa. Bần tăng đây lăn nhào vào đó như con heo, tiêu hóa nó ra, chuyển cho nó thành cát vàng, thành suối nước trong. Ấy cũng như lấy cứt chó mà làm thành những ngôi sao. Như vậy mới là công phu hành đạo.
Ngài cố ư lấy những từ chỉ vật ô uế mà làm tỷ dụ. Ấy phải chăng cũng là một cách nói chuyện của hạng người thoát tục!
Tôi lại thưa rằng:
– Những người có tín tâm ấy, nhân dịp có đức vua ngự hành đến mà cầu ngài ban cho phép lành, ấy chẳng phải là một điều chính đáng sao? Họ là hạng người chất phát chẳng biết xem kinh đọc sách, chẳng hiểu triết lư thuần lạc, nên đành nương cậy ở sự ban phước của nhà vua.
Ngài ngắt lời tôi mà nói rằng:
– Bà nên biết, muốn cho một cuộc thủ hộ có hiệu quả, th́ người ban phép phải có một mănh lực để truyền ra. Người có mănh lực ấy thiếu ǵ cách dùng đến nó. Nếu đức vua hẳn có cái mănh lực ấy, ngài có cần chi quân lính để chống cự với binh Trung Hoa hoặc những bọn phản nghịch nào khác?
Sao ngài không dùng nó mà đuổi giặc ra khỏi xứ Tây Tạng và bao bọc đất nước bằng một hàng rào vô h́nh mà chẳng ai có thể vượt qua? Đức vua Padmasambhva có được mănh lực huyền bí ấy. Ngài đă về cảnh Cực Lạc rồi, nhưng hiện nay có ai thật tâm cần đến th́ Ngài cũng c̣n truyền phép thủ hộ cho. Bần tăng tuy là kẻ học đạo tầm thường, song cũng...
Câu nói dứt ngang nửa chừng ấy như tỏ ra rằng ngài có đắc phép huyền bí nào đó. Vị thầy thông ngôn của tôi lấy làm khó chịu. Thầy rất kính mộ đức vua Dalai-Lama, song thầy cũng nể sợ vị sư lang thang này lắm.
Tôi định ra về. Nghe thầy trụ tŕ cho hay rằng vị sư ấy hôm sau sẽ ra đi, tôi bèn trao vài quan tiền cho thầy thông ngôn, nhờ đến cúng dường để ngài mua thức ăn đem theo đường. Ngài chẳng nhận, nói rằng đồ ăn c̣n rất nhiều, mang theo không hết. Thầy thông ngôn muốn nài ép, liền bước đến toan để tiền trên cái bàn thấp gần ngài.
Bất chợt, thầy bước chưa được ba bước th́ liền lảo đảo, thối lui và chạm mạnh lưng vào vách, dường như bị ai đẩy mạnh lắm vậy. Khi ấy, thầy kêu to lên và lấy tay ôm bụng. Vị sư đứng dậy và bước ra khỏi pḥng, vừa đi vừa cằn nhằn.
Thầy thông ngôn nói với tôi rằng:
– Tôi bị vị sư ấy dùng phép thần thông mà đánh rất đau. Chắc là ngài giận tôi. Không biết có bề ǵ không.
Tôi phải an ủi thầy và khuyên giải rằng v́ thầy xây xẩm mà tự té đó thôi, chứ vị sư kia đâu có thấy đánh đập ǵ. Tuy vậy nhưng thầy vẫn chưa an ḷng...
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 934 of 1146: Đă gửi: 23 December 2010 lúc 7:27am | Đă lưu IP
|
|
|
MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ
2. Cây linh thiêng của đức Tsong-Khapa
Ngôi chùa Koum-Boum nổi tiếng là nhờ một cây linh thiêng từ đời đức Tsong-Khapa. Tên chùa cũng do cây linh thiêng ấy mà ra.
Đức Tsong-Khapa ra đời năm 1355, tại làng Amdo về phía Đông Bắc xứ Tây Tạng, là nơi có ngôi chùa Koum-Boum bây giờ. Ngài là nhà cải cách đạo Phật ở Tây Tạng, đă sáng lập ra phái Gelougs-pas, tức là chi phái tu sĩ mũ vàng, áo vàng.
Khi ngài sanh ra, đức Lạt-ma Doubtchén Karma Dordji có tiên đoán rằng cuộc đời của ngài sẽ trở nên anh linh kỳ diệu lắm và người ta phải giữ cho tinh khiết vùng đất chỗ bà mẹ sanh ra ngài. Chẳng bao lâu, nơi ấy có một cái cây mọc lên. Người ta cho rằng cây ấy sanh ra là nhờ thọ lấy huyết bồn của bà mẹ đức Tsong-Khapa lúc ngài vừa ra đời.
Ban sơ, cấy ấy cũng b́nh thường, chẳng có chi khác lạ. Song, v́ biết gốc tích kỳ lạ của nó, nên người ta có ḷng tôn trọng. Có một vị sư bèn đến gần đó cất lên một cái am để ở mà tu niệm. Đó là chỗ khởi đầu của một ngôi chùa to lớn tráng lệ sau này.
Thời gian trôi qua, đức Tsong-Khapa lớn lên, tu hành đắc đạo, khởi sự thi hành cuộc cải cách về Phật giáo trong nước. Bấy giờ, bà mẹ v́ xa cách lâu, nhớ con nên viết thư gọi ngài về. Đức Tsong-Khapa đang ở tại miền trung tâm xứ Tây Tạng. Ngài tham thiền nhập định, biết rằng dẫu về làng Amdo cũng chẳng có ích ǵ.
Ngài bèn viết thư cho mẹ. Trong khi đưa thư cho sứ giả, ngài cũng đưa cho hai bức chân dung của ngài, một bức để tặng bà mẹ và một bức tặng bà chị ngài. Ngài cũng gởi kèm theo một bức tượng của đức Bồ-tát Văn-thù và nhiều bức tượng của Bồ-tát Cambara mà người họa phép linh bên Tây Tạng đều có thờ phụng. Sứ giả về tới quê nhà, giao chân dung và tượng cho gia quyến ngài.
Cũng trong khi ấy, ngài đang ở xa, thế mà ngài chuyển phép thần thông làm cho h́nh đức Văn-thù và đức Cambara hiện ra rất rơ ràng trên mặt mỗi lá cây linh, đến nỗi chẳng họa sĩ nào có thể vẽ cho rơ hơn. Ngoài h́nh tượng của hai đức Bồ-tát, nơi cành cây và thân cây c̣n thấy hiện ra những câu linh chú Án ma ni bát di hồng.
V́ phép linh ấy hiển hiện ra, từ đó về sau người ta gọi ngôi chùa ấy là chùa Koum-Boum. Trước đây, trong một cuộc thám hiểm đến xứ Tây Tạng, có hai linh mục Thiên chúa giáo là Huc và Gabet có đến viếng thăm cây linh thiêng ấy. Hai người đều thấy được những ḍng chữ Án ma ni bát di hồng hiện ra nơi cành lá và thân cây.
Cho đến gỡ đi một chút vỏ cây th́ liền thấy h́nh tượng chữ trong vỏ non hiện ra, hoặc khi một lá non vừa nhú ra th́ đă có tượng h́nh mấy chữ linh thiêng đó rồi.
Hiện nay người ta có xây cất một đỉnh tháp bề cao chừng mười lăm mét, bao quanh cây linh thiêng ấy. Người ta có chiết từ cây mẹ ra được một nhánh đem trồng trước cửa chùa, ngoài có hàng rào bao bọc. Dân chúng thường đến lễ bái và chiêm ngưỡng.
Người ta cũng trồng được một nhánh khác trong vườn hoa trước chùa. Cây này mọc lên mạnh mẽ, cao lớn hơn. Hai cây ấy hiện nay đều c̣n, lá cây và thân cây đều có những câu chú linh thiêng ấy. Mỗi khi có lá nào rụng th́ các vị tăng nơi đây nhặt lấy để dành phân phát cho những vị hành cước từ phương xa đến.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 935 of 1146: Đă gửi: 23 December 2010 lúc 7:31am | Đă lưu IP
|
|
|
MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ
3. Mấy vị thượng tọa tái sanh
Ở Tây Tạng, trong nhiều ngôi chùa lớn, người ta đều truyền rằng những vị thượng tọa sau khi chết có khả năng tái sanh trở lại để cầm quyền nơi ngôi chùa của ḿnh như trước. Có một số ít vị được người ta gọi là Phật sống,( ) tuy đă tu hành đắc đạo song cũng c̣n tái sanh để hộ tŕ ngôi Tam bảo,( ) hoặc để thực hiện cho xong hạnh nguyện của ḿnh.
Sau khi những vị Lạt-ma ấy thác đi, th́ người ta liền t́m kiếm nơi họ tái sanh ra để mà thỉnh về chùa. Có khi các ngài đầu thai vào những gia đ́nh ở cách chùa rất xa, chẳng tiện cho người ta t́m kiếm, rồi ngẫu nhiên một hôm thầy tṛ gặp nhau, cùng ôn lại những chuyện xưa cũ mà nhận ra nhau. Soạn giả dịch thuật dưới đây hai chuyện do bà Alexandra David Neel đă tận mắt chứng kiến.
Năm ấy tôi ở tại Koum-Boum, trong đền của đức Lạt-ma tái sanh tên là Pegvai. Gần đó có đền của đức Lạt-ma tái sanh khác tên là Agnai-Tsang. Vị này tịch đă bảy năm rồi, song người ta chưa t́m ra được nơi tái sanh của ngài.
Trong lúc ấy, viên tri sự xem ra không lấy ǵ làm buồn bă. Ông tự cai quản điền sản của vị thượng tọa đă mất và của ḿnh đôi bên đều được thuận tiện. Cơ nghiệp của ông càng ngày càng mở mang phát đạt.
Một hôm, nhân việc giao dịch ông phải đi về một vùng quê xa xôi, bèn ghé lại một nhà nông dân xin nước uống và nghỉ chân. Trong khi bà chủ pha trà đăi khách, ông này lấy trong túi vải ra một bộ đồ hút nước bằng ngọc thạch.
Vừa kê miệng vào hút th́ một đứa trẻ đang chơi gần đó bỗng chạy đến ngăn ông lại, đặt tay lên bộ đồ hút, vừa hỏi ông với giọng quở trách rằng:
– Sao lại dùng bộ đồ hút nước của ta?
Viên tri sự dường như bị sét đánh. Thật ra, bộ đồ hút nước quư báu ấy thật chẳng phải của ông. Ấy là của vị sư Agnai-Tsang đă qua đời. Không phải ông muốn chiếm đoạt, song sẵn có th́ ông cứ lấy mà dùng hằng ngày. Lúc ấy, ông lính quính, run rẩy, c̣n đứa trẻ th́ nh́n ông, gương mặt bỗng khác đi, trở nên nghiêm nghị, hờn giận và chẳng c̣n có vẻ chi là trẻ con nữa.
Cậu truyền lên rằng:
– Trả bộ đồ hút nước đây. Nó là của ta.
Viên tri sự lấy làm hối quá, sợ sệt, hổ ngươi, bèn quỳ mọp và lạy dưới chân ông thầy tái sanh của ḿnh.
Ít hôm sau, tôi thấy người ta làm lễ long trọng mà thỉnh vị thượng tọa tái sanh trở về chùa. Ngài mặc một cái áo gấm màu vàng, cỡi một con ngựa ô rất đẹp, c̣n viên tri sự th́ theo pḥ tá, nắm lấy dây cương. Khi cả đoàn vào tới đền, vị sư trẻ mới hỏi rằng:
– Sao lại rẽ qua tay trái mà vào cái sân thứ nh́? Ta nhớ cửa vào ở bên mặt mà.
Quả đúng thế! Sau khi vị thượng tọa qua đời, v́ một nguyên do ǵ đó, người ta mới bít cái cửa bên mặt và mở một cửa khác bên trái để ra vào.
Mấy sư trong chùa thấy vậy càng lấy làm tin phục, biết rằng cậu bé ấy hẳn là chủ cũ của ḿnh. Người ta thỉnh thượng tọa vào thất riêng của ngài và đem trà dâng lên.
Vị sư trẻ tuổi ngồi trên một chồng gối, nh́n một cái tô bằng ngọc thạch với dĩa bằng bạc mạ vàng có nắp bằng ngọc bích, để trên một cái bàn trước mặt ngài.
Sư dạy rằng:
– Hăy đem cái tô sứ cho ta.
Mọi người không ai biết. Ngài bèn tả cái tô sứ Trung Hoa và chỉ rơ h́nh vẽ trên tô ấy. Nhưng không ai thấy cái tô ấy bao giờ. Viên tri sự và chư tăng đều cung kính bạch rằng chẳng có cái tô ấy trong chùa.
Vị sư dạy thêm rằng:
– Các ngươi cứ t́m kỹ đi, rồi sẽ thấy.
Rồi như có một ánh sáng nào đó lóe lên trong trí, ngài nhớ ra và bảo đến t́m trong cái tủ sơn để trong một căn pḥng, nơi người ta vẫn cất giữ những đồ vật ít dùng đến.
Chư tăng theo lời đi t́m gần nửa giờ th́ mang lại cái tô với dĩa và nắp, quả là để dưới đáy tủ mà ngài thượng tọa đă chỉ.
Viên tri sự bèn thưa rằng:
– Tôi có ngờ cái tô để ở đó đâu. Chính tự tay ngài cất, chúng tôi đâu biết. V́ trong pḥng ấy chỉ để những thứ tầm thường mà thôi.
Tôi cũng có chứng kiến việc cuộc t́m ra một vị thượng tọa tái sanh khác nữa. Câu chuyện rất ly kỳ. Việc này xảy ra trong một quán trọ ở vùng quê, thuộc vùng sa mạc Gobi.
Trên con đường diệu vợi từ Mông Cổ( ) chạy dài xuống Tây Tạng, có nhiều đường tẻ chật chội và hiểm trở, cho nên khách lữ hành phải đi từng đoàn trên lưng lạc đà.
Một hôm, lúc mặt trời gần lặn, tôi vừa đi đến một quán nhỏ. Tôi hơi thất vọng khi thấy trong quán đă choán đầy một đoàn lữ khách. Những người ấy coi bộ xôn xao, dường như có việc chi hệ trọng vừa mới xảy ra. Tuy vậy, với sự nhă nhặn thường lệ của họ, và thấy Yong-đen( ) với tôi đều mặc y phục của các vị Lạt-ma, nên họ vui ḷng nhường cho bọn tôi một pḥng trong quán và một cái tàu cho mấy con thú của chúng tôi.
Tôi với Yong-đen đang đứng nh́n mấy con lạc đà nằm trong sân, bỗng thấy một cái cửa pḥng mở ra. Một thiếu niên dáng người cao ráo, gương mặt thanh nhă, vận y phục nghèo nàn theo lối Tây Tạng, đến đứng nơi cạnh cửa và hỏi chúng tôi có phải là người Tây Tạng chăng.
Chúng tôi đáp phải, cũng trong lúc ấy, một vị Lạt-ma lớn tuổi, theo cách trang phục th́ chúng tôi đoán ra là chủ đoàn, ra đứng phía sau thiếu niên ấy và cũng hỏi thăm chúng tôi bằng tiếng Tây Tạng.
Trong những dịp gặp gỡ như vậy, đôi bên hỏi thăm quê quán, ở đâu đến và đi về đâu là chuyện thường.
Vị Lạt-ma ấy từ bên Mông Cổ đi qua, tuy đang là mùa đông lạnh lẽo, nhưng ngài cũng nhất định hành cước đến kinh đô Lhassa. Song bây giờ đi nữa cũng vô ích, nên ngài sắp trở về. Bon tùy tùng của ngài nghe vậy đều có vẻ hài ḷng. Tôi lấy làm lạ về sự thay đổi trong cuộc hành tŕnh của họ. Đă toan hỏi thăm vị Lạt-ma, song thấy ngài lui gót vào pḥng nên tôi không tiện đi theo.
Tuy vậy, tối lại họ có hỏi thăm bọn của chúng tôi về việc làm, rồi đến mời chúng tôi sang uống trà. Nhờ vậy, tôi mới biết rơ mọi việc. Người thiếu niên thanh nhă ban chiều ấy tên là Migyur, gốc người ở tỉnh Ngari xa xôi, thuộc miền Tây Bắc xứ Tây Tạng. Dường như chàng có thuật Nhăn thông.
Từ thuở bé thơ, chàng đă từng thấy ra rằng xứ sở nơi chàng sanh trưởng không phải là xứ sở thật của ḿnh. Đối với làng mạc, đối với gia tộc, chàng như người xa lạ... Trong giấc ngũ, chàng thường trăi qua những phong cảnh mà chàng không thấy ở tỉnh Ngari: những quảng đồng thanh vắng với cát trắng xóa bát ngát bao la, những trại bằng nĩ giăng tṛn và xa trên ngọn đồi, lố dạng một ngôi chùa.
Có khi trong lúc thức, những h́nh ảnh ấy cũng hiện lại cho chàng, chất chồng trên những nhân vật thật chung quanh ḿnh, làm cho những nhân vật này lu mờ đi, và làm cho chàng măi măi thấy một cảnh bào ảnh quanh ḿnh. Đến năm mười bốn tuổi, chàng cất ḿnh ra đi, v́ không chịu nổi với sự muốn biết sự thật của những h́nh ảnh hiện ra trước mắt.
Từ đó, ra thân phiêu bạt, làm thuê chỗ này, xin ăn chỗ kia mà sống lang thang qua ngày. Trong thời gian ấy, chàng cứ xao xuyến măi, không ở yên được chỗ nào, cứ lần bước đi măi theo sự tưởng tượng của ḿnh. Vừa rồi, chàng ở phía Bắc đồng cỏ Aric mà đi đến đây.
Theo lệ thường, chàng cứ đi tới măi, đi mà không biết ḿnh sẽ đi đâu. Vừa tới cái quán trọ nhỏ, trước tôi chừng vài giờ. Thấy đoàn lạc đà trong sân, chàng bước vào và đi ngay lại cửa, chẳng biết ḿnh đi vào đó để làm ǵ. Kế gặp vị lăo sư Lạt-ma... Và thật bất ngờ, nhanh như làn chớp, chàng nhớ ra những việc đời trước của ḿnh.
Vị sư Lạt-ma tuy già, song chàng xem như hàng tuổi nhỏ, đệ tử của ḿnh. C̣n chàng th́ tự thấy ḿnh chính là vị Lạt-ma lớn tuổi, chủ tŕ trong chùa. Chàng nhắc rằng, một thuở nọ, cũng trên con đường này, hai người đồng đi hành hương đến các nơi thánh địa ở Tây Tạng và trở về ngôi chùa cao ẩn trên đồi non.
Chàng nhắc những việc ấy với vị Lạt-ma chủ đoàn một cách rơ ràng, chi tiết. Và chàng cũng nhắc đến những sự tỉ mỉ hằng ngày hồi hai người c̣n ở trên chùa.
Vị lăo sư lấy làm bằng ḷng. Mục đích ngài đến kinh đô Lhassa là để cầu đức vua chỉ cho t́m vị Lạt-ma tái sanh của chùa ḿnh. Bây giờ t́m được rồi th́ đi Lhassa có ích ǵ? Vậy nên đoàn lữ hành sắp trở về, trở về với vị thượng tọa tái sanh, sau hai mươi năm cách biệt.
Chắc đây rồi thế nào họ cũng làm lễ tạ ơn đức Phật sống Đạt-lai Lạt-ma.( ) Vị họ nghĩ rằng nhờ có sức ủng hộ của ngài nên mới khiến cho thầy tṛ gặp nhau, chứ từ lâu họ đă lắm công ḍ hỏi, song hạc nội mây ngàn, hồ dễ t́m đâu cho thấy!
Cũng xin nói thêm với bạn đọc rằng, khi t́m được và nh́n nhận rồi, họ c̣n phải thử nữa; sau khi ấy họ mới nhất quyết. Cách thử thông thường là thế này. Vị lăo sư lấy trong hành lư ra nhiều món đồ. Trong những đồ đó, có ít món là của riêng của vị Lạt-ma qua đời và hồi c̣n sanh tiền ngài rất thích dùng. Bấy giờ, thiếu niên phải lựa món đồ của ḿnh. Lựa trúng th́ hẳn là vị thượng tọa tái sanh, không c̣n nghi ngờ ǵ nữa.
Hôm c̣n ở nán lại trong quán, tôi thấy đoàn lữ hành ra đi theo nhịp chân chầm chậm của lũ lạc đà và mất dạng vào phía chân trời nơi đồng cát trắng Gobi vắng lặng. Đây rồi vị Lạt-ma tái sanh sẽ sống một cuộc đời kỳ diệu nơi ngôi chùa mà ngài đă từng cai quản từ lâu...
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 936 of 1146: Đă gửi: 23 December 2010 lúc 7:35am | Đă lưu IP
|
|
|
MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ
4. Một gương nghị lực
Sư Karma Dordji vốn xuất thân là con nhà hàn vi hạ tiện. Từ thuở bé, ông đă được cha mẹ gởi vào tu học trong một ngôi chùa. Song những bạn đồng tu thuộc giai cấp cao hơn thường hay khinh miệt ông.
Khi lớn lên, những sự khinh miệt ấy cũng thay đổi tính cách, không chỉ lời nói của họ mới làm ông đau đớn, mà cử chỉ, hành vi cho đến cách lặng thinh của họ cũng đủ làm cho ông hiểu rằng họ vẫn khinh ông là thuộc giai cấp thấp hèn.
Karma Dordji là một nhà sư tự trọng và rất có nghị lực, cương quyết. Từ lúc c̣n trẻ, ông đă tự nguyện rằng sẽ lướt lên cao hơn bọn quư phái đă khinh chê ḿnh.
Ở vào thân thế và hoàn cảnh của ông, chỉ có một phương tiện để đạt mục đích thôi: ông phải trở nên một nhà tu huyền bí, một bậc pháp sư có phép thần thông, có thuật chế ngự và sai khiến quỷ thần. Thấy phép linh của ông, bọn xấc xược mới khiếp sợ và kính nể, rồi ông sẽ hài ḷng. Như vậy là ông báo thù đó.
Với những ư nghĩ ấy, ông đến ra mắt thượng tọa trong chùa và cầu xin vắng mặt một độ hai năm để vào sơn lâm ngồi tịnh.
Một nhà sư thỉnh cầu như vậy th́ lúc nào cũng được như ư. Ông bèn lên núi, chọn một chỗ phải thế, gần suối nước và cất lên một cái cốc.( ) Liền đó, theo gương mấy vị tu khổ hạnh đắc phép nội công chuyển lửa trong ḿnh, ông bỏ hết y phục và để tóc ra dài. Lâu lâu, một hai vị sư ở chùa mới đem thức ăn lên, thấy ông ngồi bất động, ḿnh trần giữa mùa đông nhập trong cơn thiền định.
Người ta đă khởi sự nói chuyện với ông rồi. Song ông cho rằng chưa đạt chí nguyện của ḿnh. Ông hiểu ra rằng ngồi thiền nơi chỗ thanh tịnh và tu ḿnh trần như vậy chưa đủ làm cho người ta hoàn toàn kính phục. V́ vậy, ông xuống núi mà về chùa.
Lần này, ông cầu đức thượng tọa cho ông ra khỏi xứ mà t́m thầy dắt dẫn.( ) Ông cũng được toại ḷng.
Ông t́m măi, song chưa gặp được bậc pháp sư đáng cho ông tín nhiệm. Ông bèn định dùng đến phương pháp huyền vi. Ông vốn tin nơi chư quỷ thần hộ trợ Phật Pháp, lại sẵn biết thuật tạo ra ṿng phép,( ) ông liền xuống một trũng núi, lấy đá sắp thành ṿng tṛn, làm phép tự hộ trợ và ngồi vào ṿng. Ông bắt ấn niệm chú cầu chư quỷ thần Hộ pháp đưa ông đi t́m thầy.
Ngồi đến đêm thứ bảy, bỗng có một tiếng nổ vang dội rất lớn. Ḍng nước chảy dưới trũng vùng nổi lên. Một cái ṿi nước bắt từ trên núi tuôn xuống rất mạnh. Ṿi nước ấy tràn ngập nơi eo núi chỗ ông ngồi và rồi cuốn ông đi cùng với cái ṿng phép và đồ vật dụng của ông.
Lăn từ ḥn đá này qua ḥn đá nọ, song may mắn lạ kỳ, ông không chết ch́m và không bị thương tích chi cả, lại được đưa xuống một chỗ thung lũng bát ngát mênh mông. Sáng ra, thấy trước mặt có một cảnh am tự ẩn sau vách đá, trên sườn non.
Am tự với vách vôi, dưới bóng trời ban mai, xem ra sáng hực, ửng hồng. Nhà sư thoát chết dường như thấy có những luồng hào quang phóng ngay vào trán ḿnh. Bèn tưởng quyết rằng: ở trên đó, thế nào cũng có bậc tôn sư mà ḿnh đang mong cầu.
Trong việc này, âu cũng là một sự đưa đường dẫn lối của chư quỷ thần đây. Nghĩ vậy, ông mạnh dạn bước chân lên am, chẳng thiết nghĩ đến đồ ăn, quần áo và vật dụng đều đă lạc mất đi tự lúc nào.
Vừa đến nơi, ông gặp một đệ tử của vị sư ẩn cư đi xuống múc nước. Thấy dị nhân xuất hiện trước mặt ḿnh, vị đệ tử hoảng kinh và đánh rơi cái chậu đang xách nơi tay.
Phong thổ ở miền Tây Tạng núi non thật là lạnh lẽo gay go, không mấy ai dám để ḿnh trần. Họa chăng một vài vị tu hành huyền bí lánh ḿnh nơi động đá trong chốn non xa, lâu lâu mới xuất hiện ra, nên ai thấy mà không kinh sợ?
Ngài Karma Dordji liền hỏi:
– Ai ở trên am này?
– Thầy tôi, là đức Lạt-ma Tobsgyais.
Không cần hỏi thêm chi nữa, v́ ông đă biết trước rồi, chư quỷ thần hộ pháp thật đă đưa ông đến gặp tôn sư. Ông bèn nói một cách cao kỳ rằng:
– Xin phiền sư huynh lên bạch với đức Lạt-ma rằng: chư vị hộ pháp có đưa đến một người đệ tử.
Người đệ tử ấy sửng sốt, chạy một mạch lên báo với thầy. Đức Lạt-ma cho vào.
Ông lạy ra mắt thầy, cầu xin làm đệ tử, v́ chư thần hộ pháp đă đưa ông đến tận chân thầy.
Đức Lạt-ma là một nhà sư có văn học. Ông nội ngài là một viên quan Trung Hoa lấy vợ Tây Tạng. Theo bên nội, nên ngài vẫn tin theo một ư tưởng rằng: tu hành th́ tốt thật, song khó mong thành Phật hoàn toàn.
Có lẽ ngài chỉ muốn ẩn nơi đồng vắng để thỏa chí thích của hàng tao nhân mặc khách và rỗi răi mà xem kinh t́m nghĩa đó thôi. Cho nên trong thời kỳ ngụ tại am, không mấy khi Karma Dordji gặp mặt ngài.
Địa thế nơi am cũng phù hợp với ư nói trong kinh: không quá gần làng mà cũng không quá xa làng. Đứng nơi cửa sổ mà nh́n xuống, nhà sư ẩn dật thấy một thung lũng bát ngát và vắng vẻ. Am ở về phía sườn non bên này, c̣n dưới sườn non bên kia là một thôn xóm, băng đường núi đi chừng nữa ngày th́ tới.
Chốn nhàn cư thật đơn giản, thanh bai, song có một kho tàng kinh sách rất là đầy đủ. Vài bức tranh treo tường cho thấy rằng sư cụ chẳng phải ở kẻ nghèo hèn và không có khiếu thẩm mỹ. Trong cuộc gặp gỡ đôi bên, hẳn là hai lối cực đoan: một người th́ phong nhă thanh tao, c̣n người kia th́ cao lớn dềnh dàng, tóc dài chấm gót và chẳng có một mảnh vải che thân.
Sư cụ lặng nghe Karma Dordji thuật lại từ việc tạo ra ṿng phép cho đến việc ḍng nước cuốn ḿnh đến tận chân thầy. Ông không quên nói rằng được dịp may mắn này là nhờ có chư quỷ thần hộ pháp tiếp tay. Đức Lạt-ma chỉ đáp rằng từ nơi động đá Dordji đến chốn am mây của ngài hẳn là xa xôi lắm. Rồi ngài hỏi tại sao để ḿnh trần mà đi.
Ông đáp rằng có học phép nội công chuyển hỏa theo thánh Hérouka( ) và có ngồi tịnh hai năm nơi sơn lâm, chẳng mặc áo quần chi hết.
Đức Lạt-ma nh́n ông giây lát, kế đến gọi một đệ tử, dạy rằng:
– Đưa gă này ra sau, cho ngồi gần lửa và đem nước trà thật nóng mà cho uống. Và đi t́m một cái áo cũ bằng lông chiên cho gă mặc. Dù sao, gă cũng đă chịu lạnh trong mấy năm nay.
Dạy xong, ngài bảo lui. Được mặc áo lông, ông lấy làm vui, tuy rằng cái áo rất cũ. Kế đó, được hơ lửa và uống trà nóng, ông thấy dễ chịu hơn sau một đem trôi dạt. Tuy vậy, được no ấm rồi mà ông lại có ư buồn, v́ đức Lạt-ma chẳng tiếp ḿnh đặc biệt theo như một đệ tử do quỷ thần hộ pháp đưa đến.
Chờ măi chẳng thấy gọi, dường như thầy quên hẳn ông rồi. Có lẽ ngài đă dặn người ta nên đối với ông cho tử tế, nên ông được ăn uống đầy đủ và cho ngồi chỗ ấm áp gần ḷ lửa.
Hết ngày này đến ngày kia, ông măi chờ đợi rất khó chịu. Tuy ở trong cảnh ấm áp, no đủ nơi nhà sau, ông nôn nao thấy như ở chốn ngục tù. Ông cũng muốn được làm lụng, như đi lấy nước hoặc nhặt củi, song các vị đệ tử của thầy chẳng cho. Họ nói rằng: “Thầy không bảo sư huynh làm chi cả, thầy chỉ dặn sư huynh hơ lửa cho ấm và ăn cho no mà thôi.”
Ăn không ngồi rồi măi, ông sanh hổ thẹn. Mấy lúc đầu, ông có nhờ một đôi vị đệ tử đến nhắc với thầy. Song ai cũng từ chối, nói rằng nếu thầy có cần đến th́ sẽ cho gọi. Về sau, ông không dám nhờ ai nữa.
Tuy vậy, thỉnh thoảng thấy dạng đức Lạt-ma ra ngồi nơi bao lơn hóng mát, hoặc nghe tiếng ngài giảng giải kinh nghĩa với đệ tử, hoặc nói chuyện với khách đến viếng thăm, th́ ông cũng đỡ ḷng sầu. Ngoài những khoảnh khắc tươi đẹp ấy, ông lại ch́m vào những giờ dai dẳng, tối tăm. Ông cứ ôn lại trong trí sự việc đă đưa đẩy ḿnh đến am mây này.
Như vậy được chừng hơn một năm, ông sống trong cảnh buồn thảm. Ông cầu sao cho trưởng lăo thử ḷng ông, bắt ông làm những chuyện khó nhọc nặng nề, c̣n hơn là bỏ quên ông, để ông chịu bề tủi hổ. Cho đến có khi ông ngờ rằng trưởng lăo vốn đắc phép thần thông, thấu rằng ông gốc con nhà bần tiện, nên cho ông nương náu là may lắm rồi.
Tư tưởng này ám ảnh măi trong trí ông, làm cho ông đau đớn. Song, lại nghĩ đến sự huyền diệu đă đưa ông tới được am mây mà gặp thầy, ông quyết định không t́m đi đâu khác nữa. Tuy vậy mà đôi khi ư tưởng quyên sinh cũng lảng vảng trong đầu ông.
Đang khi tột cùng chán nản, bỗng một hôm có người cháu của trưởng lăo đến thăm. Người này là một bậc thượng tọa tái sanh, có nhiều vị sư theo hầu. Mặc y phục bằng gấm vàng rực rỡ và cũng đội mũ vàng, kẻ tùy tùng rầm rộ theo hầu. Ông này dừng chân nơi cánh đồng, phía dưới am. Rồi người ta dựng lên mấy cái trại xinh đẹp.
Đức trưởng lăo sai người đem xuống một b́nh trà lớn bằng bạc. Uống trà xong, vị sư thượng tọa lên am mà thăm chú. Trong mấy ngày sau, thấy ông mặt mũi kỳ dị, choàng áo lông chiên cũ và để tóc dài chí gót, sư thượng tọa bèn kêu lại và hỏi thăm tại sao ông ngồi măi gần ḷ lửa.
Cho rằng dịp này âu cũng có chư thần xui khiến, ông bèn đem việc ḿnh mà thuật lại từ đầu chí đuôi: nào khi nhập định trong rừng, nào lúc tạo ra ṿng phép, kế bị nước cuốn và đưa đến chân núi, rồi thấy có hào quang từ trên am phóng xuống trán ḿnh. Ông không quên nói rằng đức Lạt-ma chẳng đoái tưởng tới ḿnh trên một năm nay và ông cầu sư thượng tọa thưa lại giùm.
Ông sư cũng điềm đạm như chú ḿnh, nghe xong lặng thinh. Kế nh́n Karma Dordji với vẻ ngạc nhiên, sư hỏi ông muốn đức Lạt-ma dạy về khoa nào. Thấy có người chú ư đến công việc ḿnh, ông được vững ḷng. Bèn nói rằng muốn đắc phép thần thông, muốn bay liệng trên không gian và làm cho quả đất rung rinh. Nhưng ông không nói rơ nguyên do sâu kín trong ḷng ḿnh.
Sư thượng tọa lấy làm thích mà nghe những lời ấy và hứa sẽ thưa lại giúp. Kế đó, trong khoảng hai tuần lễ ở nơi am, lại không hề thấy ông ngó ngàng ǵ tới Karma Dordji nữa. Sư Thượng tọa từ tạ chú và xuống núi. Dưới cánh đồng, mấy sư tùy tùng đang chờ.
Đứng nơi cửa am trông xuống, thấy mấy sư thủ hạ kềm cương mấy con ngựa đẹp có phủ nỉ đỏ và vàng, yên và đồ bắt kế khảm bạc chói rỡ dưới ánh trời hồng ban mai. Karma Dordji lặng nh́n cảnh tượng ấy, nghĩ rằng sư thượng tọa quên thưa giúp chuyện ḿnh với đức Lạt-ma. Bây giờ ông ấy ra đi, mối hy vọng đành trôi theo ḍng nước.
Ông sắp sửa chào sư thượng tọa. Vừa lúc ấy, sư nói vắn tắt rằng:
– Hăy theo tôi.
Karma Dordji lấy làm lạ. Sư chưa hề cậy mượn ông việc ǵ, nay lại muốn chi đây? Vả lại, trại và hành lư th́ đă có kẻ tùy tùng thâu xếp và đoàn thú đă chở đi hồi tảng sáng rồi. Hay là ông mượn đem món chi lên giao lại cho trưởng lăo chớ ǵ?
Đến chân núi, sư quay lại nói:
– Tôi có thưa với trưởng lăo về việc ông muốn đắc phép thần thông. Trưởng lăo dạy rằng ở đây không có bộ kinh ấy cho ông học. Bên chùa tôi th́ có. Trưởng lăo dạy tôi rước ông về bên ấy đặng tu học. Có sẵn một con ngựa cho ông đây. Vậy ông lên yên đi với mấy sư tùy tùng của tôi.
Nói xong, sư trở lưng đi theo chư tăng trọng chức đặng lên đường. Ai nấy đồng xây về phía am, nghiêng ḿnh chào trưởng lăo Tobsgyais một cách cung kính rồi lên yên cho ngựa ra đi.
Karma Dordji ngồi cứng đơ, lấy làm bất ngờ. Một viên tùy tùng đặt dây cương vào tay cho ông. Ngồi trên yên, ông cứ để cho ngựa chạy, và v́ quá th́nh ĺnh nên ông không nhớ những sự vừa mới xảy ra.
Về đến chùa, ông ở và ăn chung với mấy sư tùy tùng ấy, không thấy sư thượng tọa kêu gọi ḿnh. Chùa không mấy tráng lệ, song ở xa trông thật nghiêm chỉnh, và đến nơi thấy cuộc bài trí rất đoan trang.
Được bốn ngày, một vị sư đến cho ông hay rằng sư thượng tọa có phái người đem để nơi tịnh thất( ) bộ kinh mà Trưởng lăo Tobsgyais dặn ông theo đó tu hành. Vị sư ấy nói thêm rằng trong thời kỳ ông nhập thất, dưới chùa sẽ thường phái người đem đồ ăn lên cho ông dùng.
Ông đi theo vị sư ấy khỏi chùa chẳng xa, gặp một cái nhà nhỏ, địa thế xinh lịch. Đứng nơi cửa sổ trông xuống, thấy mấy đảnh nóc vàng rực của ngôi chùa, và trông xa xa, thoáng thấy một thung lũng cây cối bao giăng chung quanh, chạy dài từ trên tới dưới.
Phía trong thất có một cái bàn thờ nhỏ. Gần đó có một cái kệ nhiều ngăn chất chừng ba mươi quyển kinh to lớn, bao rất kỷ, có dây buộc ràng và ngoài có b́a là hai bản cây chạm chặn lại.
Ông lấy làm hài ḷng và vui thích mà thấy người ta khởi sự đối đăi với ḿnh có bề trọng hậu.
Trước khi từ giả ông, vị sư dẫn đường nói rằng sư thượng tọa cũng không buộc ông nhập thất một cách gắt gao. Ông tự tiện sắp đặt chương tŕnh theo ư thích của ḿnh. Ông có thể xuống suối gần đó mà múc nước hoặc đi dạo cho giải khuây. Và sư chỉ lương thực với củi chất sẵn trong thất, rồi quay gót ra về.
Ông bèn khởi sự học kinh. Ông học thuộc ḷng rất nhiều câu chân ngôn, thần chú. Đọc đi đọc lại măi và chờ chừng ra khỏi tịnh thất sẽ nhờ thầy dắt dẫn là sư Tobsgyais nghe xem ông đọc có đúng giọng hay không. Theo lời dặn trong kinh, ông tạo ra nhiều cái ṿng phép và lấy bột với bơ làm ra nhiều cái bánh phép đủ cỡ.
Ông cũng y theo kinh mà ngồi thiền nhập định. Trong thời kỳ mười tám tháng, ông tu hành rất tinh tấn. Chỉ ra khỏi thất đặng đi múc nước thôi. Mỗi tháng, mấy sư dưới chùa đem lương thực lên hai lần. Song ông không hề nói chuyện với họ, cho đến không lại gần cửa sổ mà nh́n ra ngoài. Lần lần, có những tư tưởng mà ông chưa hề nhận biết thâm nhập nơi ông trong những khi thiền định.
Ông thấy ra rằng một vài câu kinh, năm ba bức họa có chứa những ư nghĩa khác thường. Ông đứng nơi cửa sổ, nh́n xem chư tăng đi đi lại lại. Sau cùng, ông ra khỏi thất, trải qua cảnh núi, lặng nh́n thật lâu những ḥn đá, cánh hoa, xem mây bay trên trời, nước chảy dưới suối, bóng ác( ) lao xao.
Giờ này qua giờ kia, ông măi ngồi, mắt nh́n xuống những hương thôn rải rác dưới đồi, ngắm những người nông phu làm lụng trong đồng, đoàn thú chở nặng qua lại trên đường và những bộ hành đi thong dong trên đồng cỏ.
Mỗi buổi chiều, sau khi khêu ngọn đèn chong trên bàn thờ, ông lại ngồi tham thiền. Song ông không c̣n dựa theo những lối chỉ vẽ trong kinh, không c̣n tưởng đến h́nh dáng của chư Phật Thánh và chư thần linh ǵ nữa cả.
Măi tới khuya, có khi gần sáng, ông vẫn ch́m sâu trong cơn thiền định im ĺm, thân tâm chẳng động và không cảm giác chi hết, bấy giờ ông thấy ḿnh dường như tựa trên bờ biển, trông xuống con nước trắng xóa đang lên, sắp tràn ngập và chụp lấy ḿnh.
Tháng này qua tháng kia, bỗng một đêm, không nhớ là đêm nào, ông thấy thân ḿnh nhấc lên khỏi chiếc gối đang ngồi. Ông vẫn giữ kiểu ngồi kiết già, lách ḿnh qua cửa, bay lên không khí và lướt tới trên không gian. Ông về đến xứ sở, trước cảnh chùa hồi thuở bé. Nhằm lúc ban mai, mấy sư công phu xong vừa đi ra.
Ông nh́n biết rất nhiều người: đây là mấy vị chức phận, nọ là mấy sư tái sanh, ḱa là những bạn bè xưa. Ai nấy đều có vẻ mệt mỏi, nhọc nhằn và buồn rầu, ông ngắm nh́n họ một cách thích ư. Ở trên mây trông xuống, thấy họ bé làm sao. Đây rồi ông đáp xuống, họ sẽ ngạc nhiên và kinh dị biết mấy. Chắc là họ sẽ quỳ mọp trước mặt ông, v́ ông đă tu đắc phép thần thông.
Cái tư tưởng ấy làm cho ông mĩm cười thương xót. Trông lâu cũng chán, rồi ông định không hiện xuống. Cho họ thấy để mà làm ǵ? Ông bây giờ chỉ tưởng đến sự an lạc của ḿnh thôi, sự an lạc nơi cảnh xán lạn và yên tịnh vô cùng.
Ông không c̣n thiết chi đến sự xét nghĩ, tôn trọng của họ, không màng chi đến lời mai mỉa của họ ngày xưa và càng không sá chi đến sự vui thích mà báo thù.
Chuyển ḿnh trên hư không, ông sắp bay trở về...Bỗng mấy ṭa nhà trong chùa rung rinh và phân ră ra. Mấy ḥn núi gần đó đều xao động; cây đá lăn rớt xuống và có những ḥn núi khác vượt lên. Mặt nhật lướt ngang qua không gian dường như ở đâu trên bầu trời sa xuống.
Kế một cái mặt nhật khác hiện ra ở không trung. Những hiện tượng ấy liên tiếp nhau một cách mau chóng, ông chỉ nhận ra như một nguồn nước hung tợn, mà bọt nước là tất cả nhân vật hiệp thành...
Về đến tịnh thất và nh́n quang cảnh chung quanh, thấy chẳng món nào thay đổi. Pḥng thất với mấy chồng kinh trên kệ bàn thờ và ḷ lửa cũng y như hôm qua và từ ba năm nay. Ông đứng dậy và tựa cửa sổ trông ra. Ḱa là ngôi chùa, dưới núi vẫn là cánh đồng chung quanh có cây cối bao giăng, tất cả đều y như cũ.
Chẳng có vật nào thay đổi, song trông ra đều khác hết. Ông rất b́nh tỉnh, đi lại nhóm lửa. Lửa cháy, ông cắt bỏ đầu tóc thầy tu khổ hạnh của ḿnh và quăng vào. Kế đó, ông pha trà, ăn và uống một cách điềm nhiên. Rồi ông gom góp lương thực, quảy lên vai, đóng cửa tịnh thất và ra đi.
Tới chùa, ông đến ṭa nhà của vị thượng tọa. Gặp một sư tùy phái trong sân, ông nhờ lên thưa với vị thượng tọa rằng ông xin giă từ và cám ơn ngài thượng tọa đă ra công chu cấp bấy lâu. Rồi ông cất bước. Được một khoảng đường, nghe có người kêu lại. Một vị sư trẻ tuổi, con nhà quư phái, có họ hàng với thượng tọa, chạy theo sau và nói rằng:
– Đức thượng tọa có việc hỏi thăm ông.
Ông bèn quay gót trở lại, Sư Lạt-ma tái sanh hỏi ông một cách cung kính rằng:
– Ông đi đâu?
– Tôi đi tạ ơn đức Thầy dắt dẫn.
Sư thượng tọa nín lặng một chặp, kế đáp giọng buồn bă rằng:
– Chú tôi đă tịch trên sáu tháng rồi.
Karma Dordji lặng thinh.
– Như ông muốn đến am của chú tôi, tôi sẽ tặng một con ngựa cho ông cỡi, gọi là lễ vật giă từ. Có một vị đệ tử của chú tôi ở nơi am, ông đến đó th́ gặp.
Ông cám ơn, song không nhận lănh chi hết. Ít hôm sau, ông thấy cảnh am, nơi ấy buổi xưa dường như có mấy lằn hào quang phóng ngay trán ḿnh. Ông vào pḥng thầy, nơi ông đặt bước vào chỉ có một lần hồi mới đến. Ông quỳ trước linh tọa rất lâu, nơi ấy lúc trước đức Lạt-ma thường ngồi. Ông thức trọn đêm mà tham thiền.
Sáng lại, ông giă từ sư trụ tŕ. Sư này trao ra một bộ cà-sa, nói rằng của đức Lạt-ma trối lại dặn giao cho ông chừng ông ra khỏi tịnh thất.( )
Từ đó về sau, sư Karma Dordji sống đời vô định như các vị hiền thánh thoát trần. Ông đi lang thang, khi chỗ này, lúc chỗ kia, khuyên giải người này, cứu độ kẻ khác và không an trụ chốn nào. Chính tôi( ) có gặp ông được mấy lần. Bấy giờ ông đă cao niên, song vẫn thích cuộc đời phiêu lưu nhàn tản. Và chính ông đă thuật lại cho tôi nghe cái tiểu sử tu hành kiên tŕ và nhẫn nại của ông.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 937 of 1146: Đă gửi: 23 December 2010 lúc 7:37am | Đă lưu IP
|
|
|
MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ
5. Phép chạy đường trường
Bên Tây Tạng có một hạng tu sĩ học phép nội công chạy đường trường,( ) người ta gọi mấy vị ấy là Loung-gom-pa. Mấy sư này chạy nhanh vô cùng, có thể chạy một hơi mấy trăm cây số không cần ngừng nghỉ và ăn uống chi cả.
Chính thánh Milarespa( ) có tự nhận thế này: Sau khi luyện phép nội công ấy, trong vài ngày ông trải qua một con đường mà trước kia ông phải đi trên một tháng. Ông bảo rằng nhờ biết cách đưa hơi thở vào trong nên mới được cái thuật ấy.
Tôi( ) có biết một vài vị sư Loung-gom-pa. Tuy rằng có nhiều vị học phép chạy đường trường này, song thành tựu đến nơi đến chốn th́ không mấy người.
Lần đầu, tôi gặp một sư Loung-gom-pa ở cánh đồng cỏ phía Bắc xứ Tây Tạng.
Hôm ấy, nhằm buổi xế chiều, chúng tôi cỡi ngựa đi lững thững trên một khoảng đồng rộng. Tôi vừa nh́n ra xa, chếch về bên trái, thấy có một chấm đen nhỏ. Đặt ống ḍm vào, tôi biết là một người.
Tôi rất lấy làm lạ. Ở miền này không hay gặp ai, chúng tôi đi đă mười bữa mà chẳng nh́n thấy một người nào. Vả lại, trên khoảng đồng vắng bao la này, có ai một ḿnh đi bộ th́ cũng lạ thật.
Một kẻ tùy tùng của tôi nghi rằng người ấy có lẽ cùng đi với một đoàn khách thương, chẳng may bị bọn cướp chặn đánh nên lạc đoàn. V́ chạy cho thoát chết nên mới một ḿnh bơ vơ trên đồng vắng.
Lời nói ấy, ngẫm cũng có lư. Nếu hẳn thật như vậy, tôi sẽ đưa người đến một dăy trại của kẻ chăn chiên hay một xóm nào theo đường mà gởi gắm người, rồi người muốn đi về đâu th́ đi. Tôi lấy ống ḍm mà xem nữa, thấy người lướt tới một cách lạ lùng và mau lẹ vô cùng.
Mấy kẻ tùy tùng của tôi lấy mắt không mà nh́n nên chỉ thấy một chấm đen lay động trên cỏ mà thôi. Song một lát sau, họ cũng nhận ra rằng cái chấm ấy lướt tới mau lạ thường. Tôi trao ống ḍm cho họ. Xem đâu được ít phút, một người nói nhỏ rằng: Chắc là một ông sư Loung-gom-pa.
Nghe mấy tiếng Loung-gom-pa, tôi bỗng lấy làm thích. Tôi đă từng nghe nói về mấy ông sư ấy chứ chưa được thấy tận mắt. Dịp may này nay xảy đến cho tôi chăng?
Người ấy càng đến gần và rơ ràng lướt tới một cách mau lẹ. Nếu hẳn là một vị sư Loung-gom-pa th́ tôi phải làm sao? Tôi muốn nh́n người tận mặt, nói chuyện với người, hỏi thăm người và luôn tiện chụp ảnh người. Tôi muốn rất nhiều việc. Nhưng vừa nghe tôi nói mấy điều ấy, người tùy tùng khi năy nhận ra sư Loung-gom-pa liền nói rằng:
– Bạch sư bà! Sư bà đừng có chặn đường ông sư ấy, đừng có nói chuyện với ông ấy. Làm như vậy, ông ấy có thể phải chết mất. Những vị sư Lạt-ma ấy, trong khi phi hành không được ngưng sự thiền định của ḿnh. Các vị chẳng ngớt niệm chân ngôn và có thâu vào ḿnh sức linh của một đức Phật hộ tŕ. Nếu đức linh ấy th́nh ĺnh thoát ra, không thể tránh khỏi việc bị kích thích mạnh cho đến chết.
Lời dặn pḥng ngừa ấy tuy mới nghe như quá đáng, nhưng thật có phần hữu lư. Theo tôi biết về thuật này, người đang chạy ở trong cơn nhập định, nếu th́nh ĺnh bị ngăn đón, dẫu không đến nỗi chết th́ cũng bị xúc động rất đau đớn về thần kinh. Tôi không biết cuộc xúc động này sẽ nguy hiểm đến đâu, song không nỡ đem một vị sư ra mà thí nghiệm, e sự rủi ro bất tường.
Lại c̣n một lẽ nữa cản không cho tôi thỏa tánh hiếu kỳ. Người Tây Tạng đều công nhận tôi là một sư bà, họ biết tôi theo đạo Phật, song họ không biết phân biệt sở kiến về triết lư đạo Phật của tôi với đạo Phật Lạt-ma giáo.
Vậy muốn cho họ tin tưởng và kính phục bộ đồ nhà sư tôi đang mặc, tôi phải giữ theo phong tục Tây Tạng, nhất là phong tục của nhà thiền. Cho nên tôi đành gác lại một bên những sự nghiệm xét về khoa học, đành dẹp bỏ cái ư muốn phỏng vấn, chỉ lặng nh́n vị sư viễn khách dị kỳ ấy thôi.
Người c̣n cách chúng tôi chẳng bao xa. Tôi có thể trông rơ gương mặt tự nhiên không cảm xúc của người với cặp mắt mở rộng dường như nh́n chăm chú vào một chấm nào đâu đó ở trên hư không. Nh́n người ấy không phải đang chạy như b́nh thường, mà dường như băng ḿnh lên khỏi đất trong khi bước tới và nhảy từng cái một, toàn thân dẻo và nhẹ như trái banh cao su.
Người mặc đồ nhà sư Tây Tạng, áo trong và áo choàng đều màu hơi sậm. Tay trái nắm lấy một vạt áo choàng và phân nửa ẩn vào trong áo. Tay mặt cầm một cái gươm phép.( ) Trong khi đi tới, người nhẹ nhẹ lung lay tay mặt cho ăn rập với bước chân, và người chống trên gươm như chống gậy, tuy là mũi gươm cao khỏi mặt đất rất xa.
Mấy kẻ tùy tùng của tôi thảy đều xuống ngựa và quỳ lạy sát đất trong khi ông sư đi qua. Nhưng ông cứ đường thẳng mà tiến tới, dường như không để ư đến chúng tôi. C̣n tôi th́ tưởng cho rằng không ngăn đón ông, tức là tôi kính trọng phong tục trong xứ nhiều rồi. Tôi khởi sự tiếc v́ không được hầu chuyện cùng ông.
Định nh́n ông lâu hơn, tôi bèn kêu bọn tùy tùng lên ngựa cho mau đặng chạy theo, tuy ông đi đă xa. Chúng tôi không muốn theo kịp ông, chúng tôi cũng không muốn cách xa ông. Nhờ có ống ḍm, con tôi và tôi vẫn thấy ông rất rơ.
Chúng tôi không c̣n thấy mặt ông nữa, song có thể nh́n bước chân nhẹ nhàng của ông nối nhau một cách đều đặn lạ lùng, đều như tiếng tích tắc đồng hồ. Chúng tôi đi theo trên một đoạn đường độ chừng ba cây số ngàn, kế ông bỏ đường ṃn, chạy dài theo một triền núi và lẫn khuất vào trong mấy trái núi.
Ngựa theo không được nữa, chúng tôi thôi nh́n và quay đầu trở lại, đi theo hướng cũ. Tôi đoán rằng ông sư biết chúng tôi theo sau, nên tách qua đường khó đặng chúng tôi theo không được nữa.
Bốn ngày sau, vào buổi sáng, chúng tôi đến miền Thébgyai, nơi đây có nhiều trại của kẻ chăn chiên nằm cách nhau xa xa. Chúng tôi thuật với họ rằng chúng tôi có gặp một ông sư chạy bộ trên con đường ṃn đưa vào đồng cỏ của họ. Vài kẻ chăn có thấy ông ấy năm bữa trước, lúc chạng vạng tối, trong khi họ lùa chiên về.
Tôi độ ra biết rằng mấy sư Loung-gom-pa có thể chạy luôn cả đêm lẫn ngày, chạy một mực không ngừng nghỉ trong nhiều hôm. Thật lạ, thật tài, người b́nh thường không thể nào làm như vậy được.
Lần thứ nh́, tôi gặp một sư Loung-gom-pa ở xứ sở của những phường dân độc lập, gần phía tây tỉnh Tứ Xuyên,( ) Trung Quốc. Chúng tôi đang đi trong rừng, đến một ngả quanh, con nuôi tôi và tôi đang đi bộ trước đoàn tùy tùng bỗng thấy một người ở trần có quấn xiềng sắt khắp ḿnh.
Người ấy ngồi trên một ḥn đá và dường như trầm ngâm trong cơn thiền định, cho nên không nghe chúng tôi đến. Chúng tôi lấy làm lạ, bèn dừng chân lại. Nhưng có cái dấu hiệu chi báo cho người ấy biết rằng có chúng tôi đến. Người ấy quay đầu lại thấy chúng tôi, lẹ làng đứng dậy, và phóng vào rừng rậm mất dạng. Trong một lát, chúng tôi chỉ c̣n nghe tiếng dây xiềng sắt khua nhỏ dần, rồi im bặt.
Yongden, con nuôi của tôi nói rằng: “Ấy là một vị sư Loung-gom-pa. Con có thấy một số vị như vậy. Các vị quấn xiềng cho nặng thêm, v́ phép nội công làm cho thân h́nh nhẹ đi, sợ e bay trên không mà chạy chẳng tiện.”
Chính mắt tôi có lần đă thấy một vị sư dùng phép nội công mà chạy đến giáp mặt chúng tôi. Chừng gặp rồi, ông đứng yên một lát, mắt hăy c̣n ngó ngay tới trước. Xem ông không mệt, song nửa tỉnh nửa mê và không nói năng, hành động chi được. Lần lần ông ra khỏi cơn thiền định, bấy giờ mới b́nh tĩnh lại như thường.
Đáp lại mấy câu hỏi của tôi, ông nói rằng ông học phép nội công chạy đường trường do thầy ông ở gần chùa Pabong truyền dạy. Thầy ông không c̣n ở trong xứ nên ông tính qua Chalu mà học thêm.
Thầy ông có dạy rằng những lúc tảng sáng, chạng vạng( ) và những đêm trong trẻo rất tiện lợi cho nhà sư chạy đường trường. Thầy ông cũng có dặn rằng, trong khi luyện phép ấy, hăy nh́n chăm chú vào một ngôi sao trên trời.
Tôi khó mà hỏi thêm nữa, v́ ông cũng như mấy thầy tu huyền bí khác, phải giữ kín những khoa mật ẩn mà ḿnh đă thọ truyền. Song tôi có thăm nhiều vị sư về phép nội công chạy bộ, nên cũng góp nhặt được đại lược đôi điều, tôi đều ghi ra dưới đây:
Muốn học môn này, cũng như mấy môn khác, trước hết phải chịu lễ điểm đạo truyền Pháp.( ) Kế đó, nhờ có thầy dắt dẫn, phải luyện tập phương pháp hô hấp trong nhiều năm. Tới chừng có sự tiến bộ mới khởi sự chạy đường trường. Chừng ấy, tôn sư điểm đạo truyền Pháp cho một lần nữa và dạy niệm một câu chân ngôn.
Vị đệ tử phải định tâm mà niệm thuộc ḷng câu chân ngôn ấy trong trí ḿnh, niệm cho ăn nhịp với hơi thở trong khi chạy bộ và cũng niệm cho những chữ trong câu chân ngôn ăn nhịp với bước chân ḿnh.
Trong khi chạy chẳng được nói, chẳng được tưởng đến việc chi khác, chẳng được ngó bên này bên kia. Cặp mắt phải nh́n một vật nào ở xa, về phía trước, không được chú ư đến vật ǵ khác.
Nhập định rồi, tuy tâm thức bị chặn lại, nhưng cũng c̣n đủ sức để dắt ḿnh tránh khỏi những chỗ chướng ngại và đưa ḿnh đi theo đúng hướng. Hai việc ấy được thi hành một cách tự nhiên không cần suy nghĩ. Những khoảng đồng trống, những nơi bằng phẳng, cùng là những lúc hừng đông hay trời chạng vạng, đều là những cảnh ngộ rất thuận tiện cho cuộc chạy đường trường.
Có khi trọn cả ngày chạy xa, sức mệt, song vào lúc mặt trời lặn th́ nhập định lại cũng rất dễ dàng. Bấy giờ hết thấy mệt, nhà sư có thể chạy thêm hàng trăm cây số nữa. Lúc rạng sáng chạy cũng tốt, song không bằng buổi hoàng hôn. C̣n giữa trưa, xế qua, với những nơi sủng thấp, quanh quẹo, những chỗ cây cối, gập ghềnh, thật rất trở ngại cho người luyện phép chạy bộ. Duy có những vị thật tài giỏi mới lướt qua được những cảnh ấy mà thôi.
Về đêm, những đêm trong trẻo rất dễ luyện tập, nhất là những đêm có sao. Chư vị tôn sư thường bảo đệ tử nên nh́n măi một ngôi sao trong khi chạy đường trường. Có nhiều đệ tử đang chạy, không thấy ngôi sao, hoặc v́ lặn mất, hoặc ẩn phía sau núi, liền ngừng lại ngay. Có những vị khác, mặc dầu sao đă mất, song cũng dùng tư tưởng mà tạo ra một ngôi sao trong mắt, nên chạy như thường.
Một ít vị lại nói rằng hễ luyện tập trong nhiều năm, chừng ḿnh chạy được một quăng xa, bấy giờ hai bàn chân hết chấm đất, ḿnh như lướt tới trên không gian một cách mau lẹ vô cùng. Ở trong cảnh ấy, nhà sư đi giờ này đến giờ kia chẳng biết mệt mỏi chút nào, lại thấy ḿnh vui thích, sung sướng là khác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 938 of 1146: Đă gửi: 23 December 2010 lúc 7:41am | Đă lưu IP
|
|
|
MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ
6. Phép chuyển lửa trong ḿnh
Giữa mùa đông, một ḿnh ngồi trong động đá, cao hơn mặt biển bốn năm ngàn thước, mà mặc có một cái áo mỏng che thân, hoặc ở trần, thế mà không hề ǵ, nghĩ cũng lạ thật.
Giá như người thường th́ đă chết cóng c̣n chi. Thế mà mấy vị sư khổ hạnh và huyền bí bên Tây Tạng ngồi một cách tự nhiên ngày này qua ngày kia. Ấy là nhờ các vị biết phép chuyển lửa trong ḿnh, tức là lửa tam-muội.( )
Lửa tam-muội hay là hỏa hậu có nhiều thứ và sự linh diệu của nó khác nhau tùy theo tŕnh độ của người tu. Một vị sư có khi đang ở trong cơn thiền định th́ lửa ấy tỏa ra và bao phủ quanh ḿnh làm cho êm dịu, ấm áp như mặc áo tiên.
Thường thường, các vị tu hành trên núi tuyết, nhờ biết dẫn lửa tam-muội nên chẳng thấy lạnh lẽo. Mấy vị sư bí truyền cũng nhờ lửa tam-muội mà lấy làm dễ chịu nơi thân, dường như được hưởng các điều lạc thú ở cảnh tiên vậy. Theo mật giáo, lửa tam-muội cũng là một sự nóng.
Nó giữ cho ấm áp cái tinh ba, nó dắt dẫn cái sức mạnh trong thân trải qua nhiều đường gân mà lên đến đỉnh đầu. Như vậy, nó làm cho người tu cực kỳ khoái lạc về trí tuệ và tinh thần. Và chính nhờ dưỡng được lửa tam-muội nên mấy thầy tu huyền bí mới đắc nhiều phép thần thông.
Tuy nhiên, v́ là một phương pháp bí truyền nên phải có thầy dắt dẫn, chứ nghe theo lời nói hoặc coi theo sách mà luyện th́ đă không thành lại có khi nguy hại cho tánh mạng là khác. Phải tu tập cho lâu, phải luyện nhiều phương pháp hô hấp, phải ngồi thiền nhập định cho vững chắc, rồi mới mong học phép chuyển lửa tam-muội.
Vị sư truyền giáo cũng phải là một bậc giỏi phép tam-muội, phải trân trọng ḍ xem tánh t́nh của đệ tử, và sau khi xét nết thử ư nhiều phen mới nhận d́u dắt cho.
Muốn học phép tam-muội phải có thân thể cường tráng và bộ ngực nở nang, những ai phổi yếu th́ rất nguy hại.
Được diểm đạo truyền Pháp rồi, vị đệ tử bèn bỏ áo lông và không được gần lửa. Theo thầy và luyện tập một thời gian, sau đó lên ngồi thiền nơi am thanh động vắng chốn non cao, từ bốn ngàn mét trở lên.( )
Không được luyện phép chuyển lửa nơi nhà cửa xóm làng, v́ ở mấy nơi ấy không khí ḥa với khói nấu ăn, với nhiều mùi tạp nhạp nên không được tốt, lại có nhiều nguyên nhân khác không hợp với người học đạo đang cần chỗ thanh tịnh.
Chọn được chỗ phải thế rồi, người tu chẳng được gặp mặt ai khác hơn là thầy ḿnh. Thỉnh thoảng, ông thầy đến thăm chừng, cho biết sự tiến bộ của đệ tử và nhắc chừng cho. Mỗi ngày nên luyện tập trong khoảng trời c̣n khuya cho đến lúc mặt trời sắp mọc. Dầu cho lạnh thế nào cũng phải ở trần hoặc mặc một cái áo mỏng mà thôi.
Mấy vị mới tập th́ ngồi trên một tấm thảm hay một tấm ván. C̣n những vị tu lâu ngồi ngay trên mặt đất, trên tuyết hay trên mặt nước đóng băng dưới sông. Trong khi luyện phải để bụng trống và không được uống nước, nhất là nước nóng.
Có hai cách ngồi. Hoặc ngồi theo kiểu kết già xếp chân, hoặc ngồi tḥng chân xuống, hay bàn tay úp trên hai đầu gối, ngón cái, ngón trỏ, và ngón út đưa ra: ngón giữa và ngón áp út thâu vào ḷng bàn tay. Vừa khi ngồi hô hấp đặng cho thông hơi hai lỗ mũi.
Kế đó, thở ra vừa tưởng tượng rằng ḿnh tống ra những tánh trược như tham, sân si, ngạo mạn, giải đăi và ngu muội. Rồi khi hít vào, tưởng tượng rằng ḿnh đem vào những điều thanh lành như sức hộ trợ của chư Thánh chư Phật, Bồ-đề tâm, các nền đạo hạnh, Bát-nhă ba-la-mật-đa, cùng với những sự tốt tươi, cao thượng trong vũ trụ.
Định tâm một lúc, bèn bỏ ra tất cả những sự lo lắng tư lự và khởi sự nhập vào thiền định.( ) Ḿnh tưởng tượng rằng trong thân ḿnh, nơi lỗ rún, có một hoa sen bằng vàng. Trong hoa sen, có một cái mặt trời hiện ra rất sáng suốt, tức là chữ đọc ra thành âm ram.( ) Phía trên nữa có chữ đọc ra thành âm ma.
Trong chữ này, thấy hiện ra đức Phật bà Dordji-Naldjorma. Hễ tưởng tượng thấy Phật bà Dordji-Naldjorma hiện ra khỏi chữ ma th́ nhập định làm một với bà. Kế đó, định tâm vào chữ A nơi rún và chữ ha nơi đỉnh đầu.( ) Từ từ hít hơi vào rất sâu, hơi ấy thổi cho cháy cục than lửa đang vùi dưới tro.
Than lửa ấy ở trong chữ A nơi rún, nó h́nh tṛn và cỡ bằng một liều thuốc. Mỗi khi hít hơi vào ḿnh thấy như đem hơi vào bụng chỗ rún đặng quạt cho lửa cháy lên. Và mỗi lần hít dài hơi là mỗi lần ḿnh giữ hơi trong bụng khá lâu. Càng hít th́ giữ càng lâu. Ḿnh tưởng tượng thấy lửa cháy và lần theo đường gân Ouma( ) mà lên đến giữa thân ḿnh.
Trong khi hít hơi vào, giữ hơi lại và thở hơi ra phải làm rất đều, lại nương theo một câu chân ngôn niệm măi không dứt. Và trong tâm th́ thấy lửa và nghe hơi nóng, ngoài ra không được tưởng đến h́nh dáng chi khác.
Trọn thời kỳ nhập định chuyển lửa phân ra làm mười giai đoạn:
1. Ḿnh tưởng tượng và thấy rằng đường gân chánh là gân Ouma cỡ bằng sợi chỉ hoặc sợi tóc. Lửa theo đường gân ấy mà lần lên và hơi ḿnh hít vào cũng đi theo đường gân ấy nữa.
2. Đường gân lớn bằng ngón tay nhỏ.
3. Đường gân lớn bằng cánh tay.
4. Đường gân choán trọn thân ḿnh. Bấy giờ toàn thân như là một cái ống mà phía trong là lửa.
5. Kế đó không thấy thân ḿnh nữa. Cái thân lớn ra vô cùng, nó bao phủ khắp hoàn cầu và người tu ở trong cảnh tam-muội thấy ḿnh như một ngọn lửa có gió thổi, ngọn lửa ấy ở trong một đám lửa mênh mông.
Từ giai đoạn thứ nhất đến giai đoạn thứ năm, phải ngồi ít nhất là một giờ. Những bậc đă rèn luyện cao siêu th́ ngồi lâu hơn, v́ rất thích để tâm trọn vẹn vào trong sự tham thiền theo từng giai đoạn.
Kế đó, người tu tham thiền tưởng tượng ngược lại.
6. Đám lửa mênh mông ấy với cơn gió lớn hạ lần. Những ngọn lửa dịu bớt và thấp dần. Đám lửa rút lại và thâu vào trong thân.
7. Đường gân bây giờ c̣n bằng cánh tay.
8. Đường gân c̣n bằng ngón tay nhỏ.
9. Đường gân c̣n bằng sợi tóc.
10. Đường gân biến mất. Người tu không thấy lửa nữa. Tâm trí không c̣n nhận ra h́nh dáng chi khác, không c̣n tưởng tượng chi nữa. Người tu vào cơi hư vô, không thấy ḿnh, không thấy vật. Giai đoạn nhập định này lâu hay mau là tùy sức của người tu.
Trong khi nhập định chuyển lửa, ai muốn luyện đủ mười giai đoạn càng hay, hoặc trải qua năm giai đoạn cũng được. Trong ngày lúc nào nhập định cũng được, nhất là những khi thấy lạnh.
Song tiện hơn hết là lúc gần sáng.
Thánh Milarespa, có một lúc về mùa đông bị tuyết chận nghẹt trên miền Hy-mă-lạp sơn, nơi đỉnh Everest, cao hơn các núi trong hoàn cầu. Ngồi trong động, phần th́ bị lạnh, phần th́ không đủ thức ăn, song ngài nhờ nhập định phép chuyển lửa tam-muội nên ở yên cho đến mùa xuân. Trải qua lần ấy, ngài có làm một bài thơ mà toàn xứ Tây Tạng đều khen ngợi. Soạn giả trích và dịch bằng lục bát một đoạn dưới đây:
Chán mùi trần tục, thế t́nh,
T́m nơi yên tĩnh non xanh dưỡng nhàn.
Đất trời như có tính toan,
Tạo nên giông tố phá an lăo thầy.
Thủy, phong hội với đoàn mây,
Làm cho nhật, nguyệt chẳng bày lố ra.
Mưa tuôn, gió lại thổi nà,
Các vị tinh tú chẳng là thấy đâu.
Bầu trời tăm tối âu sầu,
Sa mù bao phủ, khó hầu sáng ra.
Ngày đêm chín bữa tuyết sa,
Cuộc to, cuộc nhỏ thấy đà khắp nơi.
Tuyết bay như thể chim trời,
Rớt lăn trên đá, lại rơi trên cành,
Trông ra bốn phía bao quanh,
Trên th́ đỉnh núi, dưới cành cây thông.
Non rừng trắng xóa mênh mông,
Khác nào vách nọ thảy đồng quét vôi.
Dưới ao hôm đó sóng nhồi,
Nay toàn giá lạnh, hết hồi lô nhô!
Bên khe nước bích chảy ồ,
Bây giờ đông đặc, chảy phô thấy nào.
Đất bằng, sủng thấp, đồi cao,
Khác nào đồng rộng giăng bao ngàn trùng.
Người người kẹt chốn thôn trung,
Thú th́ bị đói, chim rừng nhịn ăn;
Chuột kia ẩn dưới đất bằng,
Trên toàn giá phủ, khôn phăng lên đường.
Nhằm khi thời cuộc nguy nan,
Tuyết tuôn xối xả, lại vương băo bùng.
Bần tăng áo mỏng che thân,
Ngồi thiền trên núi đấu cùng nạn nguy.
Trên ḿnh tuyết đổ chẳng thôi,
Tuông nhằm lại hóa ra ng̣i chảy đi.( )
Gió đông chẳng có nể chi,
Thổi nà vào tấm áo thầy bằng bông.
May ra có chứa lửa hồng,
Nhà sư phấn đấu, cũng không hề ǵ.
Rồi ra trổi thắng một khi,
Lửa thiền đủ sức tống đi lạnh lùng.
Hỡi người đạo hữu các vùng,
Khi nào bị lạnh th́ dùng lửa linh.
Tuy đức Milarespa đứng về phương diện thi nhân mà tả cảnh, song vẫn là hiển nhiên như vậy. Mấy sư ẩn cư trên núi tuyết, gặp phải mùa đông, lớp bị lạnh, lớp không đủ đồ ăn, đành ngồi nhập định phép chuyển lửa tam-muội cho qua cơn nguy!
Bên Tây Tạng, mấy vị đệ tử luyện phép tam-muội xong, thường tựu lại để khảo thí. Một đêm mùa đông có trăng và gió thổi lớn, những vị nào thấy ḿnh đủ sức th́ đi với tôn sư đến mé sông không có giá. Nếu trên mặt sông nước đóng băng hết, người ta bèn xoi một cái lỗ cho thủng xuống.
Mấy vị đệ tử ngồi xuống đất, xếp chân theo kiểu kết già và chẳng mặc y phục. Người ta tḥng nhiều tấm nỉ dưới nước đóng băng, để chờ đông lại mới lấy lên. Rồi mỗi vị đắp tấm nỉ lên ḿnh cho nước đá tan ra và để cho đến khô.
Chờ cho nỉ khô người ta lại tḥng xuống sông nữa và mỗi vị đệ tử đắp lên ḿnh nữa. Như vậy cho đến rạng đông. Vị nào làm khô nhiều tấm nỉ hơn hết, th́ đứng bậc nhất trong cuộc khảo thí. Có vị làm khô đến bốn chục tấm nỉ trong một đêm!
Muốn xứng với danh hiệu Réspa( ) mà người ta gọi ḿnh, người tu phải xông cho khô ít nhất là ba tấm nỉ đóng nước băng giá trong một đêm. Mỗi tấm nỉ cỡ bằng cái khăn choàng lớn.
Réspa nghĩa là lúc nào cũng chỉ mặc một cái áo vải mỏng mà thôi, dù mùa hạ hay mùa đông cũng vậy. Bên Tây Tạng nhiều vị sư khổ hạnh đủ gan lướt qua khỏi đức Réspa, mấy vị này bỏ luôn cả áo, ngồi ḿnh trần trên núi cao năm này qua năm kia, có khi trọn cả đời.
Nói tóm lại, về phép chuyển lửa tam-muội, lúc mới nhập học, c̣n luyện th́ c̣n thấy hơi nóng làm cho ḿnh ấm áp dễ chịu. Hết luyện th́ thấy lạnh lại lần lần. C̣n đối với những vị rèn luyện trong nhiều năm, lúc nào cũng thấy ḿnh ấm áp, hàn thử biểu càng xuống th́ nhiệt độ trong ḿnh càng lên, lên một cách tự nhiên.
Chẳng riêng ǵ bà Alexandra David Neel trông thấy mấy nhà sư ẩn cư ngồi trên đỉnh núi tuyết mặc áo mỏng hoặc để ḿnh trần, mà tất cả các nhà thám hiểm Âu châu trong khi toan vượt núi Everest cũng đều lấy làm hăi hùng mà thấy những bậc tu tŕ khổ hạnh ấy sống một cuộc đời mà người b́nh thường không làm sao theo nổi!
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 939 of 1146: Đă gửi: 23 December 2010 lúc 7:44am | Đă lưu IP
|
|
|
MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ
7. Phép chuyển di tư tưởng
Bên Tây Tạng, từ các vị tu sĩ trong các chùa, cho đến những bậc ẩn tu trên núi cao, rất nhiều người biết luyện phép chuyển di tư tưởng. Khi luyện được phép này, tuy hai hoặc nhiều người ở cách xa mà vẫn có thể trao đổi ư kiến với nhau vượt qua cả không gian.
Trong thực tế, giữa tôn sư và đệ tử tuy có t́nh nghĩa hộ trợ và kính yêu rất khăng khít, song chẳng mấy khi được gần nhau. Tuy chẳng gần nhau, nhưng cũng chẳng thể nói là xa nhau, v́ các ngài thường vẫn bàn luận, hỏi han nhau bằng phép chuyển di tư tưởng.
Lúc nào cần lắm, năm ba tháng hoặc một đôi năm, thầy tṛ mới đến gặp nhau, chính là khi vị thầy muốn biết xem đệ tử đă tiến bộ đến đâu, hoặc cần gặp mặt để truyền dạy thêm pháp môn nào khác nữa.
Phép chuyển di tư tưởng cũng tương tự như cách truyền thông bằng vô tuyến mà ngày nay ta vẫn thường dùng. Nhờ có phương tiện máy móc hiện đại, người nói ở một nơi, người nghe ở một nẻo, mà vẫn nhận hiểu nhau rất dễ dàng.
Nhưng ở miền núi tuyết, các vị tu hành không dùng phương tiện máy móc như thế, mà dùng sự tập trung tư tưởng để hỏi han nhau. Có điều khác là, qua nói chuyện vô tuyến, cùng lắm th́ hai bên cũng chỉ hiểu nhau qua lời nói, c̣n với các bậc chân tu th́ hai bên c̣n chuyển đạt cho nhau cả lời nói và tư tưởng nữa.
Phép chuyển di tư tưởng chẳng phải là mới đây. Từ xưa đến nay các nhà tu hành đều thường dùng.
Như hồi đức Phật c̣n tại thế, những ai hoạn nạn, nguy khốn, mà tưởng niệm đến Ngài, thành tâm cầu nguyện Ngài, hoặc khấn vái Ngài, tức th́ Ngài liền đến mà giải thoát, cứu hộ cho. Đó chính là nhờ phép chuyển di tư tưởng.
Phép này cũng c̣n gọi là thần giao cách cảm, tức là chuyển tư tưởng của ḿnh đến cho người ở xa nhận biết. Và từ phép chuyển di tư tưởng hay thần giao cách cảm cho tới Tha tâm thông, một trong sáu thần thông của Phật, La-hán, thật là không xa chi mấy.
Người Tây Tạng cho rằng phép chuyển di tư tưởng không khó, người thực tâm muốn học th́ được. Song phải ra công luyện học và ǵn giữ cho thân tâm lúc nào cũng có thể đón nhận hoặc chuyển đạt. Cần phải thực hành nhiều phương pháp khác nhau để được phép ấy, song điều cần nhất là phải có một sức mạnh về tập trung tư tưởng, về sự nhập định.
Phải chế ngự tư tưởng một cách hoàn toàn, chẳng khác nào vị tướng ra trận cầm cương ngựa, như vậy th́ lúc nào muốn nhập định cũng đều được dễ dàng.
Sự tập trung tư tưởng, nhập định cho mạnh mẽ và dễ dàng, tức là căn bản trong luyện phép chuyển di tư tưởng. V́ khi nhập định, bao nhiêu tư tưởng, cảm t́nh phải trừ tuyệt hết, chỉ c̣n gom về một đầu mối, một vấn đề mà thôi. Mặt khác, phải dùng nhiều phương pháp để khai thông sự nhận biết, phân tách những luồng tư tưởng đang rung động trong không gian.
Một ít vị ẩn cư, trong khi ngồi thiền, nhận ra những lời dạy bảo của thầy ở xa truyền đến bằng phép chuyển di tư tưởng. V́ đệ tử hằng nhớ tưởng và tôn trọng thầy, hai bên gần gũi nhau về tinh thần, nên sự hiểu biết nhau được thuận tiện.
Nhiều vị sư khác tinh thông phép tham thiền nhập định và diệt hết phiền năo, tự nhiên được phép chuyển di tư tưởng. Các ngài có thể gởi tư tưởng ḿnh đi và nhận biết tư tưởng hoặc lời nói của người khác liên quan đến ḿnh, mà chẳng phải bỏ công luyện phép ấy. Cũng như các vị đắc đạo chứng Tha tâm thông vậy.
C̣n những ai muốn luyện, thường là phải theo những bước khái quát như dưới đây:
Trước hết, thi hành những phương pháp nhằm đạt đến tập trung tư tưởng. Tập trung tư tưởng tức là giữ trong trí chỉ một vấn đề mà thôi, chú tâm cho đến nhập trọn vào vấn đề ấy mà ḥa làm một với chính ḿnh.
Và cũng phải luyện tập thêm cho tâm trí trở nên trống lổng, nghĩa là chẳng để cái tư tưởng, cảm xúc ǵ trong tâm trí hết, giữ cho nó lặng lẽ và yên tịnh.
Kế đó, tập phân biệt và phân tách những ảnh hưởng khác nhau xảy đến th́nh ĺnh làm cho ḿnh thấy phát động nơi thân tâm, như những cảm giác chợt vui, chợt buồn, hoặc lo sợ, tưởng nhớ đến ai, xét nghĩ đến vật ǵ. Mà những cảm xúc tinh tế ấy, những nhân vật ấy không có dính dấp ǵ với ḿnh trong lúc bấy giờ. Tập được như vậy độ vài năm th́ vị đệ tử được phép ngồi chung với thầy mà tham thiền.
Thầy tṛ vào trong một cảnh tịnh thất lặng lẽ và chú tâm vào một việc. Chừng hết tham thiền, vị đệ tử bạch cho đức Lạt-ma biết những điều ḿnh đă trải qua trong khi thiền định, từ đầu cho đến cuối: có những ư tứ ǵ, nhận thấy làm sao, cảm tưởng thế nào, thảy thảy đều thuật hết với thầy. Đức Lạt-ma khi ấy đem so sánh với chính tư tưởng của Ngài. Nếu hai bên có nhiều phần tương hợp th́ phép chuyển di tư tưởng sẽ mau thành tựu.
Rồi đến lúc thầy không nói ra cho đệ tử biết phải chú tâm vào việc ǵ. Mà chỉ bảo đệ tử ngồi lại tham thiền. Bấy giờ vị đệ tử nhập định, làm cho tâm trí ḿnh trở nên trống không.
Sau khi ấy, để ư mà ḍ xét coi những tư tưởng ǵ, những mối cảm ǵ, những vật ǵ hiện lại nơi trí ḿnh; mà những tư tưởng ấy, những mối cảm ấy, những vật ấy b́nh thường không ăn thua ǵ với ḿnh cả. Những chổ nhận thấy trong khi thiền định bèn đem thuật lại với thầy. Nếu hai bên giống nhau th́ tṛ rất dễ thâu nhận những điều phát ư của thầy.
Bấy giờ thầy với tṛ cách nhau xa xa. Thầy âm thầm truyền lệnh cho tṛ. Nếu tṛ hiểu th́ hoặc âm thầm đáp lại, hoặc ra tay đi làm việc thầy mới truyền. Rồi dần dần thầy tṛ cách nhau càng xa.
Có khi thầy ở một ngôi chùa này, tṛ ở một cảnh núi kia, cách nhau năm ba cây số, vài mươi cây số hoặc hàng trăm cây số, hai bên nhập định mà hỏi han nhau, trao đổi ư kiến với nhau. Chừng đó, vị đệ tử đă thành tựu về phép chuyển di tư tưởng.
Có khi năm ba vị đệ tử học chung với nhau dưới sự trông nom của một đức Lạt-ma. Mấy vị ấy thường nhập định mà chuyện văn với nhau bằng tư tưởng vượt qua không gian.
Vị nào có sự vượt trội hơn th́ thường thử năng lực của ḿnh bằng cách này: Trong khi các bạn tu của ḿnh bận việc và chẳng tưởng đến sự cảm nhận ǵ cả, người vẫn chuyển luồng tư tưởng của ḿnh đến cho bạn, buộc phải cảm nhận cho được và hồi đáp.
Sự này thường xảy ra giữa chư vị Lạt-ma ở các chùa trên núi tuyết. Có vị cho tư tưởng ḿnh phát ra và hiện lại nơi tâm trí của người ngoài cuộc. Bà Alexandra David Neel trong khi du hành bên xứ Tây-tạng, thường tiếp nhận những tư tưởng mà nhiều vị Lạt-ma gởi đến cho bà.
Cũng có vị khéo trau luyện tư tưởng cho đến có sức cảm hóa thú vật và sai khiến chúng nó nữa. Việc này ta thấy ngay từ hồi đức Phật c̣n làm Thái tử ḍng Thích-ca. Ngài là người mà tư tưởng và sức cảm hóa rất mạnh. Trong một cuộc tranh tài, có con ngựa chứng mà ai lên cỡi cũng bị nó hất nhào.
Đến phiên Ngài, Ngài dùng lời nói êm dịu và tư tưởng an lành mà cảm hóa nó, sai khiến nó đưa Ngài đi. Ngựa chứng bèn trở nên hiền, chịu cho thái tử ngồi lên và rồi chạy rất êm.
Bà Alexandra David Neel chính mắt có thấy hai lần chuyển di tư tưởng. Vậy soạn giả dịch ra dưới đây:
... Cuộc chuyển di tư tưởng mà tôi thấy lần đầu xảy ra tại miền trung châu sông Dainchine, trong khi tôi lần bước đến kinh đô Lhassa. Vị đại đức Lạt-ma hiện phép ấy vốn tu tại chùa Tcheu-dzong.
Đêm ấy, con nuôi của tôi là Yongden và tôi ngủ ngoài trời, dưới một cái mương nước đă đóng băng rất cứng. Sáng lại, không thấy đâu có củi để nấu nước pha trà, chúng tôi đành để bụng trống ra đi. Vừa giữa trưa, chúng tôi thấy ven lề đường có một vị sư đạo mạo ngồi trên một tấm thảm lót yên ngựa.
Ngài dùng bữa vừa xong. Đi với ngài có ba thầy tu trẻ tuổi, gương mặt đàng hoàng, dường như đệ tử theo hầu. Chung quanh mấy vị ấy, thấy có buộc bốn con ngựa đang ăn mấy cọng cỏ khô. Mấy vị khách ấy có đem theo một ôm củi, họ nhúm lửa, một ấm trà sôi đang lên hơi trên lửa than.
Giữ theo phong tục của hạng khách nghèo, chúng tôi chào vị sư rất có lễ phép.( ) Lúc ấy, chắc là sự thèm trà hiện ra nơi gương mặt của chúng tôi, v́ chúng tôi vừa thấy ấm trà, cho nên vị sư than nho nhỏ rằng: Tội nghiệp thay!
Rồi ngài lớn tiếng mời chúng tôi đưa bát ra( ) mà nhận trà và cơm lớ.( ) Một thầy trẻ tuổi rót nước trà c̣n lại trong ấm vào bát của chúng tôi và để một túi cơm lớ gần chúng tôi. Rồi thầy đi chất đồ lên ngựa, chuẩn bị lên đường. Th́nh ĺnh, một con ngựa hoảng hốt chạy đi. Thầy ôm theo một đường dây và chạy đi bắt ngựa.
Vị sư ngồi yên, lấy mắt nh́n con ngựa chạy bên này bên kia. C̣n chúng tôi th́ lẳng lặng ngồi ăn. Nh́n quanh, tôi thấy một cái b́nh bằng cây đă đựng sữa. Tôi đoán rằng vị sư đă xin sữa trong một căn nhà nằm cách lộ xa xa, mà từ chỗ ngồi chúng tôi có thể nh́n thấy. Tôi kê miệng vào tai con tôi và nói rằng:
-Chừng ngài đi rồi, chúng ta sẽ đến ngôi nhà đằng kia mà xin sữa.
Tôi nói nhỏ hết sức, nhưng dường như ngài nhận ra mấy lời ấy. Ngài ngó tôi rất lâu bằng cặp mắt ḍ xét. Kế ngài cũng than thở như ban năy rằng: Tội nghiệp thay! Rồi ngài quay đầu đi nơi khác.
Con ngựa chạy không xa, nhưng vị thầy tăng khó mà đến gần nó được. Sau cùng, nó để cho thầy tṛng dây vào cổ và dắt đi một cách dễ dăi.
Trong khi ấy, vị sư lẳng lặng ngồi yên, ngài lấy mắt nh́n chăm chú thầy tiểu đang đi tới. Th́nh ĺnh thầy này dừng lại, đứng yên một lát và ra dáng chú ư. Kế thầy dắt ngựa đến một ḥn đá và cột lại. Rồi thầy đi trở lại, bỏ đường cái và hướng về phía ngôi nhà. Chẳng bao lâu, tôi thấy thầy đi trở lại chỗ con ngựa, tay ôm vật ǵ mà tôi không nhận ra.
Khi thầy đến gần chúng tôi, vật ấy rơ ra là một cái b́nh bằng cây đựng đầy sữa. Thầy không để trước mặt tôn sư, vừa ôm b́nh nơi tay vừa lấy mắt nh́n ngài, dường như bạch hỏi rằng: Phải thầy dạy đem món này chăng? Tôi để ở đâu? Đáp lại câu hỏi âm thầm ấy, vị sư gật đầu. Rồi ngài bảo đệ tử đem sữa đến cho tôi.
Lần thứ nh́ mà tôi thấy phép chuyển di tư tưởng không phải xảy ra chính trong xứ Tây Tạng mà ở miền biên giới, thuộc về hai tỉnh Kansou và Szetchouan bên Trung Hoa. Nhằm nơi rừng rú lại phải lên đèo, nên có sáu người hành khách tháp tùng với bọn tôi. Ở miền này, bọn cướp người Tây Tạng rất gan dạ, thường hay quấy nhiễu kẻ bộ hành, nên ai muốn đi xa phải tụ họp nhiều người có đủ khí giới mới dám đi.
Trong sáu người theo chúng tôi, có năm người thương khách Trung Hoa và người thứ sáu là một vị pháp sư Bung-bo.( ) Thầy này cao lớn dềnh dàng, đầu tóc bịt trong một cái khăn đỏ rất to. Vốn thích nghiên cứu về đạo lư và pháp thuật, tôi mời thầy ăn uống với tôi, v́ ư tôi muốn biết những điều ḿnh đang t́m hiểu.
Nhờ vậy, tôi được biết rằng thầy đi đây là để giáp mặt với tôn sư, là một bậc đại pháp sư đang làm phép trên một ḥn núi c̣n cách chẳng xa. Tôn sư thầy đang lập đàn để thâu phục một con yêu thường hay nhiễu hại những đoàn dân trong xứ.
Sau khi đă trổ những ngón khôn khéo về ngoại giao, tôi ngỏ ư muốn được viếng ngài đại pháp sư. Song vị đệ tử liền nói rằng việc ấy quyết không được. Trong trọn tuần trăng, tức là trong thời kỳ hành lễ, ngài đại pháp sư không được xao lảng v́ ai.
Nghĩ rằng có nài nỉ cũng vô ích, tôi định bụng rằng khi qua khỏi đèo, chừng thầy từ giă th́ tôi quyết đi theo thầy. Như vậy, có thể đến chỗ đại pháp sư một cách bất ngờ, ḿnh mới có thể xem cái ṿng pháp với những vật hành lễ của ngài.
Kế ấy nghĩ cũng hay, nên tôi dặn bọn tùy tùng đừng để cho thầy lẻn đi. Chắc là bọn tùy tùng của tôi nói chuyện ấy ra nên thầy mới biết. Thầy nói với tôi rằng tôi định thử tôn sư thầy chi cho vô ích.
Tôi đáp rằng tôi chẳng có ư ác chi cả, tôi chỉ muốn viếng ngài đại pháp sư đặng cầu học mà thôi. Tôi lại dặn bọn tùy tùng giữ chừng thầy kỹ hơn nữa. Thấy ḿnh bổng nhiên bị giam lổng, song nhận ra rằng không ai muốn hại thầy, lại đăi thầy ăn uống đầy đủ, nên thầy chẳng lấy làm buồn. Thầy nói với tôi rằng:
– Bà đừng sợ tôi trốn. Như muốn chắc ư, bà cứ trói tôi đi. Tôi chẳng cần phải chạy trước bà để báo cho thầy tôi hay đâu. Ngài đă biết rồi. Tôi có báo cho Ngài biết bằng tư tưởng.
Nghe thầy ấy nói, tôi không mấy quan tâm, v́ tôi biết bọn pháp sư nhiều người hay khoe khoang ngoài miệng.
Lần ấy, quả thật tôi lầm.
Qua khỏi đèo, chúng tôi đến miền đồng cỏ. Ở đây hết sợ bọn cướp, v́ chúng nó chẳng có chổ ẩn núp. Năm người thương khách Trung Hoa trong mấy hôm nay, ngày đêm không rời bọn tôi nửa bước, bây giờ đă vững bụng bèn mau mắn cỡi la ra đi. Pháp sư cũng sắp rời chúng tôi, song tôi định không bỏ thầy.
Vừa lúc ấy, có một bọn sáu người cỡi ngựa chạy như bay tới. Đến gần tôi, bọn họ xuống ngựa chào tôi, tặng cho tôi mấy cái khăn choàng( ) và ít miếng bơ. Làm lễ xong, một người lớn tuổi hơn hết nói rằng vị đại pháp sư phái họ đến để yêu cầu tôi đừng đến viếng ngài, v́ ngài không thể gặp mặt ai khác hơn là một vị đệ tử đă được điểm đạo truyền pháp. Duy có vị đệ tử ấy mới được đến gần ṿng pháp của ngài thôi.
Nghe vậy, tôi đành thôi. Hẳn thật vị pháp sư có thông tin với thầy qua tư tưởng.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 940 of 1146: Đă gửi: 23 December 2010 lúc 7:49am | Đă lưu IP
|
|
|
MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ
8. Tu thiền
Những người tu hành bên Tây Tạng phân ra rất nhiều bậc, từ bậc thấp kém là bọn mê tín, ỷ lại cho đến bậc cao viễn là mấy vị tự tại, thần thông. Nhưng đó là nói về tŕnh độ cao thấp, c̣n xét về phương thức tu tập, ta có thể phân ra hai hạng: hạng tu chùa và hạng tu thiền.
Tu chùa là các sư tŕ giới, lập hạnh nguyện, nương nhờ giới hạnh mà lần đến chỗ giải thoát. C̣n tu thiền là các sư quyết được trí huệ bằng vào sự nhập định nơi núi vắng rừng sâu.
Những vị tu thiền thường cho rằng việc sống đời hiền đức với giữ ǵn tịnh hạnh ở chùa vốn là tốt thật, cần thật, song chẳng qua chỉ là buổi ban sơ để giúp cho ḿnh bước lên con đường thanh cao hơn, c̣n lấy đó mà làm cứu cánh giải thoát th́ trọn không thể được.
C̣n những vị tu chùa th́ cho rằng tu chùa là dễ hơn, tiện cho phần đông chúng tăng. Giữ ǵn tịnh hạnh, làm việc phước đức, đọc tụng kinh kệ, gác ḿnh ngoài ṿng danh lợi, mấy sự ấy vừa sức với hết thảy mọi người. Tuy đến cơi giải thoát có lâu hơn thật, song chắc chắn hơn, vững vàng hơn.
C̣n tu thiền là đi đường ngay nẻo tắt, tuy nhanh chóng nhưng lại rất cam go. Một đàng như đi ṿng theo ḥn núi mà lần lên đỉnh, c̣n một đàng th́ như từ chân núi mà lướt thẳng lên, vượt qua đá cao, vực thẩm. Cứng rắn lắm, hùng dũng lắm th́ mới tới nơi tới chốn, c̣n yếu ớt, dụ dự, bỏ dở th́ nguy to, thường hại tới tánh mạng, có khi v́ thất nguyện mà sa vào mấy đường đọa lạc cũng không chừng.
Thực tế là những vị tu thiền ít hay sống chung trong các nhà chùa. Mấy vị này ở tịnh thất( ) và ẩn chốn đồng cát mênh mông, hoặc nơi non cao có tuyết phủ. Trong các vị tu thiền, cũng có lắm sở ư khác nhau. Người th́ thấy kinh sách giảng giải chẳng thỏa chí ḿnh, nên muốn t́m chổ yên tịnh để tự giải quyết những vấn đề cao siêu.
Kẻ th́ muốn đắc thuật thần thông, ngồi một chỗ mà hóa phép mầu và hàng ma phục quỷ. Có vị nghĩ rằng chắc là c̣n những pháp lư siêu tuyệt hơn những pháp lư mà Phật Thánh giảng độ chúng sanh, nên quyết thiền định đặng t́m cho được.
Cũng có vị cho rằng dẫu làm đến bao nhiêu việc thiện cũng không đưa ḿnh ra ngoài ṿng luân hồi, chẳng bằng lên núi cao nhập định, diệt phiền năo mà chứng đắc Niết-bàn cho nhanh. Ngoài ra, c̣n nhiều sở ư, nguyện vọng khác nhau nữa của những vị tu thiền.
Phần lớn những vị này đều xuất thân từ trước nơi nhà chùa. Song v́ có nguyện vọng lớn, chí hướng cao, không thỏa măn với sự mở mang chậm lụt của hàng tăng chúng nơi chùa, nên xin phép vị trụ tŕ mà tách xa, vào tịnh thất.
Hễ tu thiền, nhập thất th́ chẳng c̣n giữ phận sự hằng ngày của một thầy tăng. Tùy ư sắp xếp sinh hoạt của ḿnh sao cho thuận tiện đều được. Song muốn cho dễ tấn hóa và khỏi lạc lầm, phải nhờ những vị cao tăng điểm đạo truyền pháp và dắt dẫn cho.
Sở ư của hạng tu thiền đă nhiều điều khác nhau, th́ sự nhập thất và cảnh tịnh thất cũng rất khác nhau.
Nhập thất tức là ngăn cách ḿnh ra bằng một tấm vách, một bực đất, một dấu ghi. Trong một hạn định nào đó, ḿnh không được qua khỏi chỗ ngăn ấy. Đối người sơ cơ th́ cần sự ngăn cách bằng tường, đất, dấu ghi. Với bậc huyền bối cao siêu, không cần lấy vật chất làm giới hạn; về tinh thần, lúc nào các ngài cũng thấy ḿnh tách ra với thế cuộc, với sự thấp kém thông thường.
Tịnh thất có nhiều cảnh, dưới đây ghi nhận khái quát từ đơn giản cho đến phức tạp:
Có khi lập tịnh thất nơi nhà. Một vị Lạt-ma có vợ hay một người tu tại gia nguyện nhập thất trong pḥng riêng, hoặc trong một gian nhà cách biệt. Khi ấy, người không hề ra khỏi thất. Trừ khi tới ngày vía Phật th́ có thể đến chùa, tháp mà làm lễ rồi quay về.( )
Tùy theo bổn nguyện, có khi người được nói chuyện vắn tắt với người nhà, hoặc với một vài vị khách.
Có khi người không thấy mặt ai khác hơn là vị thị giả phục vụ cơm nước cho ḿnh. Lúc ấy, nếu người có tiếp khách, th́ khách đứng phía ngoài, có một bức màn ngăn lại, hai bên chẳng thấy mặt nhau, song có thể hỏi han nhau năm ba tiếng.
Trong một số trường hợp khác, người nhập thất chỉ tiếp xúc, trao đổi với thị giả mà thôi. Có người giữ tịnh khẩu hay cấm khẩu, chẳng nói ra một lời nào, cần lắm mới viết giấy trao cho kẻ ra vào hầu việc. Có người nhất định chẳng thấy cảnh vật ở ngoài, bèn bít cửa sổ chừa một khoảng trên thấy trời.
Cũng có người bít hết cửa, chỉ để một ít chỗ hở cho không khí lưu thông mà thôi. Lại cũng có người nhất định chẳng thấy mặt ai cả. Trong trường hợp này, đồ ăn đem vào phải để ở một nơi định trước, người nhập thất tự đến lấy mà ăn.
Ăn xong, đến giờ vị thị giả tự biết mà đến thu dọn chén bát về. Có người cần điều chi th́ viết giấy trao cho thị giả. Cũng có người tịnh cho đến không viết chi cả. Ở ngoài đưa vào vật chi th́ dùng, không đưa th́ thôi, không đ̣i hỏi chi hết.
Nhập thất tại nhà th́ không mấy lâu, nhất là đối với người lập nguyện thật gay gắt. Thường th́ chừng một năm là lâu rồi, có khi ba tháng, một tháng hoặc chỉ năm ba ngày.
Thường thường, không thuận tiện lắm cho việc nhập tịnh thất ở nhà. Những tiếng xao động, những lời ăn nói với công việc của kẻ thế tục đôi khi cũng vẳng đến tai của người nhập thất, làm cho việc thiền định chẳng được hiệu quả bao nhiêu. Một số nhà chùa có cất riêng tịnh thất để dành cho người tu thiền.
Tịnh thất này nhiều kiểu khác nhau. Có chỗ, người tu có thể mở cửa sổ mà ngắm cảnh sau khi xuất định. Có chỗ, chung quanh đều có bức tường chận lại, song ở trong có một cái sân trống. Vị sư có thể dạo mát nơi sân, ngồi thong thả ngoài trời, nhưng không thấy cảnh vật ở ngoài và không ai được giáp mặt với ḿnh hết.
Đôi khi, có một chú tiểu ở nhà bếp phía sau, lâu lâu bưng cơm nước vật dụng lên. Có khi chú tiểu cất cḥi ở ngoài, hoặc ở dưới chùa, mỗi ngày đem đồ ăn uống lên vài lần. Nơi vách đă đục sẵn một lỗ nhỏ có cửa khóa phía ngoài và phía trong. Chú tiểu mở khóa ngoài mà để đồ vô, rồi ra hiệu cho nhà sư biết. Cơm th́ thường mỗi ngày một lần, c̣n nước trà th́ nhiều lần.
Thường thường, thời kỳ nhập thất theo lệ là ba năm ba tháng. Có nhiều sư đúng kỳ rồi lại xin nhập nữa, nhiều lượt như vậy. Có vị nhập tịnh thất luôn cho tới măn đời. V́ nơi ấy có sự an lạc, thỏa thích riêng, nên các ngài chẳng muốn trở về chùa, chẳng c̣n muốn chung lộn với phàm tăng và thế tục nữa.
Mỗi sư tu thiền đều có một vị thầy điểm đạo truyền Pháp và dắt dẫn cho. Ngay hôm nhập thất, tôn sư đến làm lễ cầu nguyện và thủ hộ. Nếu là một cuộc nhập thất gắt gao, tức là vị sư chỉ nhận đồ dùng để nơi lỗ đục vào vách và chẳng được thấy mặt ai, th́ tôn sư khóa chặt cánh cửa ra vào và đóng con dấu ḿnh vào đó mà niêm phong.
Hoặc giả lâu lâu, Tôn sư đến viếng đệ tử, đặng ḍ xét học lực và truyền Pháp thêm. Nếu cuộc nhập thất thông thường hơn th́ Tôn sư cho treo nơi cửa thất một cây phướn có ghi tên những người được phép viếng thăm. C̣n nếu là cuộc nhập thất măn đời, người ta để một cành cây khô gần vách, tỏ dấu rằng nhà sư dứt hẳn với sự việc ở trần.
Gay gắt hơn nữa, có những tịnh thất xây dưới đất, trong hang đá. Trong thời kỳ nhập thất nhiều năm hoặc trọn đời, nhà sư chẳng hề thấy ánh sáng mặt trời. Thất này, người ta gọi là động. Có cảnh động c̣n thấy lờ mờ.
Song nếu động quanh co nhiều khúc hoặc ăn luồn vào sâu th́ tuyệt nhiên tối hẳn; không khí c̣n tới được chớ ánh sáng bị những chỗ quanh chận lại hết. Chừng nhà sư muốn ra khỏi động, th́ ra lần hồi, phải tập cho con mắt quen dần với ánh sáng mới được.
Có những chỗ tịnh thất rất xa chùa, theo sườn non, trong rừng, hoặc nơi hẻo lánh. Người ta gọi là cốc, hoặc am.( ) Trong xứ Tây Tạng, cứ tách khỏi đường cái mà đi vào sâu, lâu lâu lại thấy những cảnh am mây lưng chừng theo sườn núi, xem rất ngoạn mục. Thật là:
Phía trong, đá núi dựng lên,
Nh́n ra trước mặt, hồ xanh nước tràn!
Hoặc là:
Một bên th́ núi chập chồng,
Bên kia sông rộng gương lồng bóng nga.
Hoặc nữa là:
Am mây, nhàn hạ cuộc đời,
Xem trăng lố mọc, nh́n trời rựng đông.
Ở nơi rừng núi thật rất yên tịnh, nhà sư thanh thản mà tham thiền. Tuy cũng là tịnh thất, song nhà sư không cần phải ngăn ḿnh trong bốn tấm vách. Người có thể đi xuống suối mà múc nước, hoặc đi lấy củi, đi dạo quanh am, hoặc ngồi trên bàn đá mà tham thiền.
Sự vắng lặng nơi đây rất đầy đủ, hoàn cảnh dễ cho ḿnh tu luyện, nên chẳng cần chi giam ḿnh trong bốn bức tường. Lâu lâu, nửa tháng hoặc một tháng, có người dưới chùa đem vật thực lên. Hoặc là nhà sư có một vài tiểu đồng lo giúp việc ấy.
Ẩn dật trên am, các vị tu thiền quyết đi theo đường ngay nẻo tắt để đạt đến chỗ giải thoát, thật không nương vào sự giáo độ( ) ở chốn già lam.( ) Thảy đều là những bậc huyền vi, tự tại, nh́n thế cuộc như bọt nước, như chiêm bao. Cũng có đôi nhà dật sĩ chán cảnh phồn hoa, bèn lui về đó mà đọc kinh sách và di dưỡng tinh thần hoặc t́m sự yên tĩnh đặng dễ bề viết sách dịch kinh.
Ngoài ra, c̣n có những vị sư tu tŕ khổ hạnh,( ) cũng là hạng người muốn đi đường tắt, từ chân núi mà lướt một hơi cho tới đỉnh núi, để ngồi một cách tự tại trên đỉnh huyền diệu, anh linh. Các vị sư này tách riêng một ḿnh nơi chỗ xa thẳm, hẻo lánh, cất lên một cái cốc sơ sài, hay chui vào một cái động đá nào đó cũng xong. Những nơi càng xa vắng, hiểm trở, lại càng hợp với sở thích thoát tục của các ngài.
Người tầm thường nếu bị buộc ở vào cảnh ngộ của các vị sư tu thiền, chắc phải buồn rầu, chán ngán lắm, hoặc trở nên ngu xuẩn, điên dại cũng có. Thỉnh thoảng, trông thấy những cảnh tịnh thất, am mây, động đá, hang sâu, họ cũng đủ sợ sệt, kinh khủng rồi, nói ǵ đến sự nương ḿnh nơi đó?
Song các vị này là những người sở ư thanh cao, tri thức quảng bác, trông rộng thấy xa. Các ngài vui t́m nơi vắng vẻ để dễ bề suy nghĩ, tham thiền. Tuy ở trong cảnh nhàn cư mà các ngài không bao giờ rỗi rảnh.
Lắm khi quên cả thời giờ, không nhận ra là ngày hay đêm, v́ măi tập trung chú ư vào những sự điều dưỡng tinh thần hoặc sự hô hấp, suy xét những lẽ huyền bí, hay những vấn đề triết học tinh vi. Tâm trí để cả vào những sự suy nghiệm, hành tŕ, nên chẳng thấy ḿnh cô độc, buồn chán.
Đời sống của một vị ẩn cư thật là thú vị. Nhiều vị sư khi được bước vào tịnh thất và đưa tay lên khóa chốt cửa lại, bỗng thấy ḿnh vui sướng lạ thường. Nhiều vị sư khác, đứng trên am nh́n mấy cụm tuyết đầu mùa sa xuống dưới đồng, bèn lấy làm thích chí mà nghĩ rằng trong nhiều tháng tới đây, các đường truông đều bị phủ kín không c̣n ai đến quấy rối ḿnh.
Chẳng ai có thể biết hết những hành vi của các sư ẩn cư tu thiền. Thật là đủ vẻ, đủ cách, dù bao nhiêu sách vở kể cũng không xiết. Vả lại, có ở trong cuộc th́ sự hiểu nhau càng hay, c̣n việc ghi chép thành sách vở một cách thông thường chỉ làm mất đi sự thanh cao, huyền diệu đi vậy.
Tuy nhiên, soạn giả cũng sẽ tạm kể qua ít phương pháp luyện trí của các vị tu hành nhập thất ẩn cư, để quư độc giả được biết sơ qua vậy.
Có người chẳng thông kinh thuộc nghĩa, chỉ lấy đức tin của ḿnh mà dâng lên chư Phật, thành tâm mà tŕ nguyện. Giả như nguyện rằng:
Quy y Phật, Pháp, Tăng già,
Cầu cho cha mẹ ông bà quá vong,
Hăy c̣n luân chuyển sáu ṿng,( )
Mau chân giải thoát, ngưỡng mong Phật đài.
Hoặc là niệm: Nam-mô A-di-đà Phật. Hoặc là tŕ danh hiệu một đức Phật, một đức Bồ-tát. Những người ấy ngồi thiền mà niệm, hoặc dùng linh phù, Pháp ấn mà niệm, nhất là lễ bái mà niệm. Tŕ niệm hết ngày sang đêm chẳng biết mệt nhọc, niệm cả vạn, cả ức lần một câu nguyện, một chân ngôn, một danh hiệu.
Nhất là chẳng quản công lễ bái. Trước bàn thờ, đối với tượng Phật, họ lạy dập đầu sát đất. Những vị chân tu có thể nhận biết việc đắc quả nhờ ở sự thành tín mà nguyện vái và lễ bái vậy.
Cũng có người theo phép Du-già,( ) tức là họ tập phương pháp hô hấp, hít vào, giữ hơi và thở ra. Cho tiện luyện tập, phải mặc loại y phục thích hợp, thoáng rộng. Luyện được thuật Du-già th́ có nhiều khả năng khác thường, như ngồi trên tuyết chẳng biết lạnh, chạy bộ cả trăm cây số rất mau...
Ngoài ra lại được những sự lợi ích về tinh thần: diệt hết những mê muội, giận hờn, dâm dục, con người trở nên đoan trang, ham mộ việc tham thiền đặng tiến hóa về trí đức. Hầu hết các vị sư ở Tây Tạng đều công nhận rằng: trên con đường giải thoát, hơi thở là con ngựa, c̣n tâm là người cỡi ngựa.
Mỗi ngày, sau khi luyện hô hấp, người ta cũng tham thiền mà chế ra những ṿng phép.( ) Nói về ṿng phép, thật rất đa dạng, kể ra không xiết. Mỗi sư tùy theo căn cơ, tŕnh độ của ḿnh mà tập luyện. Và phải có tôn sư điểm Đạo truyền Pháp và dắt dẫn cho mới được. Ṿng phép là một bản họa trên giấy, trên vải, trên chất kim, trên đá, trên cây...
Người ta cũng dùng cả những cờ và phướn đỏ, đèn, nhang ... hợp lại mà sắp ra ṿng phép. Người ta cũng chế ṿng phép vào vách pḥng hay trên mặt đất, dùng phấn màu mà vẽ một cách phân biệt tỉ mỉ. Cỡ nhỏ hơn hết bằng bàn tay và cỡ lớn đường kính đến ba bốn thước. Có nhiều vị ngồi năm này đến năm kia mà luyện ṿng phép.
Phải được điểm Đạo truyền Pháp mới có thể luyện ṿng phép. Một cái ṿng phép chế ra bởi người chẳng được chân truyền không có giá trị ǵ hết. Ấy là một vật chết, chẳng cử động, chẳng cảm xúc, chẳng có sức linh hiển.
Các vị sư tu thiền trong tịnh thất, trong am, cốc, thường luyện ṿng pháp, vẽ h́nh tượng rồi làm lễ khai quang điểm nhăn để biết sức nhập định của ḿnh. Các ngài luyện phép này xong, lại luyện qua phép khác.
Các ngài cũng luyện ṿng phép về tinh thần, tức là không cần phấn màu hoặc đồ vật chất nữa. Các ngài dùng tư tưởng ḿnh mà vẽ ra một cái ṿng. Hoặc là không vẽ cũng được. Rồi nghĩ đến h́nh dáng của một đức Phật hay Bồ-tát. Ban đầu, trong khi nhập định, chỉ thấy có một đức Phật hay Bồ-tát ấy mà thôi.
Lâu dần, lại thấy có nhiều vị hầu quanh, thường thường là ba, bốn vị, có khi cả ngàn, cả muôn vị cũng có. Khi thấy đủ rồi, tức là thấy rơ ràng một vị ở chính giữa, có nhiều vị theo vây quanh, bấy giờ mới tưởng tượng thấy từng vị tản nhập lần hồi vào trong vị ở giữa. Cuối cùng chỉ c̣n có một vị ở giữa mà thôi.
Vị này rồi cũng khởi sự tan dần. Trước hết là từ hai bàn chân, kế tới thân h́nh, lên đầu, và sau rốt toàn cảnh chỉ c̣n lại một cái chấm mà thôi. Cái chấm này sậm có, màu có, sáng suốt cũng có. Người thầy dắt dẫn theo chỗ đặc biệt này mà biết tŕnh độ, chí hướng của đệ tử. Sau cùng, cái chấm ấy như đến người nhập định và nhập vào. Ở đây, vị thầy dắt dẫn cũng để ư tới chỗ mà chấm ấy nhập vào.
Nếu do nơi trán chỗ hai chân mày đâu lại mà nhập vào th́ tốt hơn hết. Bấy giờ, người tu thiền lại cho cái chấm ấy trở ra. Hiện thành cái đầu, đến thân h́nh, rồi đến toàn thân vị Phật hoặc Bồ-tát cùng với tất cả các vị theo hầu. Người cứ cho hiện ra và nhập lại vào ḿnh măi, cho đến khi nào thuần thục hẳn mới thôi.
Cũng có vị tưởng tượng một đóa hoa sen. Hoa sen ấy nở ra. Trên mỗi cánh thấy ngự một vị Bồ-tát, và giữa hoa có một vị trung tâm. Hoa sen nở ra rồi, lại thấy khép lại. Mỗi cánh hoa khi khép vào th́ phóng hào quang vào giữa hoa sen. Khi trọn cái hoa sen nở đă khép lại thành búp rồi, th́ có hào quang chiếu vào người đang tham thiền. Sự nhập định về hoa sen như vậy cũng có rất nhiều cách khác nhau.
Cũng có vị nhập định, thấy chư Phật, Bồ-tát hiện đến với ḿnh. Ngài th́ ngự trên đầu, ngài th́ ngự trên vai, ngài th́ ngự trên cánh tay, trên bàn tay, khắp chỗ trên thân ḿnh. Người tu hành thấy được cảnh này, lấy làm khoái lạc lắm. Bấy giờ dù ở nơi tịnh thất lạnh lẽo nhưng vẫn cảm thấy ḿnh sung sướng vô cùng.
Người ngồi thiền cũng có thể thấy chư Phật hiện đến ḿnh, có thể nhận ra chư Bồ-tát ban phép lành thủ hộ ḿnh và thốt lời diệu âm khen tặng ḿnh. Bấy giờ người thỏa chí đến cực điểm. Rồi người nhập định muốn thấy các ngài hiện ra lúc nào cũng được. Người tu do đó mà hiểu được lẽ này: Phật tức Tâm, Tâm tức Phật. Ấy là đúng theo ư câu thơ của vị thánh tăng kiêm thi sĩ Milarespa:
Phật và Bồ-tát hành hào,
Do tâm xuất hiện, tản vào nơi tâm.
Nhà sư tu thiền đắc phép định cao siêu th́ muốn thấy cảnh giới nào cũng được, muốn trông thấy đức Phật, đức Bồ-tát nào cũng được. Nhờ thiền định, mà người trở nên thần thông, trí tuệ và đắc chánh lư của Phật, tức là cái lư này:
Phật, tiên, thần, quỷ cơi trần,
Thảy đều bào ảnh, chẳng ngần ngại chi;
Bao nhiêu nhân vật cơi này,
Do tâm tạo tác, nhập th́ vào tâm.
Và đắc cái lư ấy tức là đắc Đạo vậy.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|