Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
  H́nh Ảnh Từ Thiện
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Thông Tin
  Thông Báo
  Báo Tin
  Liên Lạc Ban Điều Hành
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Nhờ Coi Quẻ
  Nhờ Coi Ngày
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Tử Vi
  Tử Bình
  Kinh Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Bói Bài
  Đoán Điềm Giải Mộng
  Khoa Học Huyền Bí
  Thái Ất - Độn Giáp
  Y Dược
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch và Phong Thủy 3
Kỹ Thuật
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
Thư Viện
  Tủ Sách
  Bài Viết Chọn Lọc
Linh Tinh
  Linh Tinh
  Giải Trí
  Vườn Thơ
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 188 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
chindonco (3250)
hiendde (2589)
HoaCai01 (2277)
vothienkhong (1807)
dinhvantan (934)
ryan88 (805)
Vovitu (713)
ruavang (691)
lancongtu (667)
TranNhatThanh (644)
Hội viên mới
redlee (0)
dautranhsinhton (0)
Chieu Tim1234 (1)
huyent.nguyen (0)
tamsuhocdao (0)
henytran2708 (0)
thuanhai_bgm (0)
Longthienson (0)
thuyenktc (0)
liemnhi (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Truyện tâm linh - hiendde Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 941 of 1146: Đă gửi: 23 December 2010 lúc 8:02am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ



PHẦN THỨ HAI : MỘT NGƯỜI PHÁP LÀM THẦY TU

9. Một người Pháp làm thầy tu Tây Tạng

Thỉnh thoảng, có một hai người, tuy sanh trưởng ở Âu Châu, mang xác thịt người Âu Châu, song tinh thần lại giống như người Á Châu. Ông Jean Marques Riviere là một người như thế.

Ông gốc người quư phái ở Paris, con nhà sang trọng, học lực cao, xuất thân nơi các trường đại học, và có đạt nhiều văn bằng giá trị. Ông lại có xem cách viết về triết học cổ kim, có ngẫm xét các nền đạo lư, thế mà ông chưa thỏa ḷng, thấy trong người c̣n thiếu thốn măi. Ông đă từng nghiền ngẫm những tư tưởng của Kant, Bergson và Freud, song vẫn là tạm xem tạm thích đó thôi.

Một hôm, nơi pḥng khách của một bậc phú hào ở Paris, ông được hân hạnh làm quen với một nhà sư Tây Tạng bậc Gelong. Nhờ vị sư này chỉ dẫn, ông bước lên con đường mới mẽ và xán lạn sau này. Chính nhờ vị sư Gelong ấy điểm Đạo truyền Pháp cho, ông mới hé mở thấy được ánh sáng Phật Pháp và gắng công tu tŕ.

Từ đây, ông hết ngờ vực, nghi nan. Ông thấy ra các nền triết học, các phái giáo của Âu Tây đều là vô công hiệu đối với ai muốn tầm sự an lạc và giải thoát. Ông thấy ra những chức tước, những văn bằng đều chẳng ích lợi vào đâu; con người ta bước chân ra khỏi trường đại học vẫn c̣n là ngu dốt đối với sự sống, chẳng khác nào đứa trẻ nên ba.

Cho đến trong các học phái, trong các cuộc nhóm họp của những nhà học giả có danh, người ta cũng chỉ thấy là trống lổng mà thôi, thật là hữu danh vô thực. V́ vậy mà ông đâm ra chán nản đối với xă hội và đạo đức phương Tây. Quay về phương Đông, ông được vững ḷng.

Cái tâm đau đớn của ông thấy êm dịu, ông bắt đầu tự thấy được tŕnh độ của ḿnh và xác lập được mục đích vươn đến, nên bắt đầu thấy yêu sự sống. Muốn thấu Đạo một cách trực tiếp, ông nhất định qua xứ Tây Tạng, đành bỏ hết chức tước với các sự phú quư vinh hoa. Ông tu hạnh xuất gia. Trở nên một nhà sư Tây Tạng, mặc áo cà-sa, ôm b́nh bát, bỏ hết việc thế trần.

Nhờ vậy, ông được chính thức nhập hàng chư tăng, được coi như một người Tây Tạng, được các vị đại đức điểm Đạo truyền Pháp cho. Ông có tu tại am tự Chumi-Jadsa. Về sau, ông đến kinh thành Lhassa, vào thọ giáo nơi ngôi chùa lớn Ramot’ché là một ngôi chùa Mật giáo rất có danh ở gần đền Potala của nhà vua. Các sư ở chùa này rất giỏi về các phép huyền bí, khắp nước Tây Tạng đều kính nể.

Rồi đó, bước đường đạo đức của ông càng ngày càng tấn phát. Ông có đến thọ bí truyền với nhiều vị Pháp sư ẩn ḿnh trên núi cao, ông có ngồi thiền nhập định nơi động xa, cốc vắng. Và chính ông có ngồi ḿnh trần trên núi tuyết trong tiết đông lạnh lẽo, ngày này sang ngày nọ, có khi cả tuần lễ chỉ ăn năm bảy hạt lúa mạch mà thôi. Sau cùng, ông được chánh truyền của Mật Giáo, được bước lên đường thành tựu và giải thoát.

Nhờ ở trong giới tăng sĩ, lại có trải qua các cuộc tu hành luyện đạo, nên J.Marques Riviere có sự khảo cứu hợp lư hơn các người Âu Tây khác. Ông là người hiểu thấu tư tưởng thanh bạch, ḷng bác ái và tâm siêu việt của người Phương Đông. Những khi rỗi rảnh, nhớ lại cố hương và muốn giáo hóa, cứu độ cho người quê cũ, ông bèn viết sách, soạn kinh.

Soạn xong mỗi quyển, trước khi ấn hành, ông đều có tŕnh lên để chư thượng tọa và đại đức khảo duyệt. Những điều nào đáng công bố th́ các ngài phê cho, những chỗ bí truyền, những đoạn quá cao siêu mà kẻ phàm phu không thể lănh hội th́ các ngài khuyên nên bỏ. Nhờ vậy mà ông luận giải rất chính xác và thích hợp. Tôi được biết ông có cho ra đời những quyển sách dưới đây:

• Le Bouddhisme au Thibet (Đạo Phật ở Tây Tạng)
• Le Yoga tantrique hindou et thibetain (Cách luyện đạo theo Mật giáo Du-già của Thiên Trúc và Tây Tạng)
• Vers Bénarès, la ville Sainte (Đến thành Ba-la-nại, nơi Thánh địa)
• L'lnde Secrète et sa Magie (Cơi Thiên Trúc bí ẩn và phép huyền thuật)
• À l’ombre des monastères Thibétains (Nương bóng chùa Tây Tạng)

Tiếp theo đây, tôi sẽ trích dịch ít bài trong quyển À lombre des monastères Thibétains (nương bóng chùa Tây Tạng), xem ra khá kỳ thú và hay ho. Độc giả sẽ thấy những cách tu hành ẩn mật của những vị sư Mật tông Tây Tạng.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 942 of 1146: Đă gửi: 23 December 2010 lúc 8:05am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ



10. Tại chùa Chumi-Jadsa

Cũng như nhiều ngôi chùa bên Tây Tạng, ngôi chùa Chumi-Jadsa ở lưng chừng theo triền núi. Chung quanh toàn là rừng. Cảnh thật vắng lặng, duy có tiếng vượn hú và thú gọi bầy mà thôi. Xa xa, mấy ḥn núi khác bao giăng, đỉnh trắng xóa giữa bầu trời xanh ngắt.

Tôi bắt đầu làm quen với sự sống nơi chùa chiền. Phong thổ mát mẻ dễ chịu. Tôi c̣n nhớ măi hôm chiều tôi mới đến, lúc sư thượng tọa chức Umzè tiếp rước tôi, hồi ngài và tôi gặp nhau lần đầu. Bấy giờ vật chi đối với tôi cũng là mới lạ cả. Tôi thấy ḿnh ở trong một hoàn cảnh khác, giữa một dân tộc khác.

Trong chùa, cột và vách đều sơn màu vàng rực. Theo tường, có nhiều bức tượng nổi, họa đủ các tích trong đời của đức Phật tổ. Có nhiều bức phướn bằng lụa rũ xuống, mỗi bức có thêu mấy chữ Án ma ni bát di hồng. Chung quanh pḥng có thờ tượng cốt của chư vị thượng tọa đă tịch, người ta phụng sự nhang đèn hằng năm.

Trong cảnh nửa tối nửa sáng, mấy ngọn đèn dầu khi mờ khi tỏ soi lên gương mặt vàng rực của chư vị trụ tŕ quá văng làm cho mấy tượng cốt im lặng ấy dường như sống trở lại giữa cuộc đời. Thật là lạ lùng thay!

Th́nh ĺnh hai vị sư đưa tôi đi bỗng thụp xuống đảnh lễ. Trước mặt chúng tôi là sư thượng tọa chức Umzè. Chính sư Gelong quen với tôi ở Paris đă giới thiệu tôi đến ông này.

Về mặt đạo đức, ông đậu đến hàng Tiến sĩ( ) và ông có học khoa huyền bí tại ngôi chùa đặc biệt ở Morou. V́ thế, ông cũng được phong chức Tiến sĩ về khoa huyền bí nữa. Từ nhỏ đến nay, tôi chưa từng gặp ai thông minh như ông. Ông lại có trí nhớ rất tinh tường và có cái bí thuật nh́n thấu suốt người đối diện với ḿnh.

Tôi thật sự rất khâm phục. Ấy là một vị trưởng lăo dáng người cao gầy, đầu cạo trọc. Ông mặc y phục đại lễ màu vàng, v́ ông vừa ở trong chánh điện mới ra. Với cặp sâu ẩn vào trong hố mắt, ông chăm chú nh́n tôi một lúc. Bỗng tôi nhận ra dường như bị một lưỡi gươm bằng thép đâm vào người tôi, đào bới trong đầu tôi, trong tâm hồn tôi. Trước sự soi xét ấy, tôi chẳng che dấu ǵ nơi thân tâm tôi được.

Dường như tôi bị phân ra từng thớ nhỏ vậy. Tuy chưa gặp tôi, nhưng ông đă biết tôi rồi, v́ ông thường có thư từ qua lại với sư Gelong ở Paris. Trực giác của tôi như nhận ra rằng ông là người mà tôi đă từng quen biết. Song quen nơi đâu, lúc nào, thật khó mà nhớ được.

Trong khi gương mặt thanh nhă của vị đại đức này nh́n tôi và mỉm cười, tôi nhận thấy một sự thiêng liêng bí mật nào đó như trở lại giữa ông và tôi, làm cho tôi tin chắc rằng tôi đă từng quen biết và gần gũi với ông trong một thuở...

Ông với tôi chuyện văn rất lâu. Ông hỏi thăm những sở nguyện của tôi, cuộc hành tŕnh của tôi từ Pháp đến Tây Tạng và có hỏi qua cuộc đời của tôi ở Âu Châu nữa. Ông chăm chú đọc hết bức thư rất dài của sư Gelong bên Paris giới thiệu tôi.

Kế ông lui vào chánh điện, sau một bức màn màu vàng có thêu mấy chữ Án ma ni bát di hồng rất lớn. Dường như tôi nghe có tiếng chuông ngân. Rồi th́ im lặng. Thật là kỳ lạ cho cái định mạng của tôi. Chân tôi đă bước vào đất nước Tây Tạng, nơi đây tôi sẽ sống phần đời c̣n lại cho đến khi gởi nắm xương tàn. Tôi sắp ĺa hẳn cái thân thế của một người Tây phương để sống theo như hàng du tăng lặng lẽ...

Nửa giờ sau, vị sư trở ra. Về sau, tôi mới biết rằng chính buổi ấy, ông tọa thiền để quán xét việc có nên thâu nhận tôi hay không, và cuối cùng ông chuẩn thuận. Khi trở ra, ông bèn trịnh trọng bắt ấn hộ trợ cho tôi. Cặp mắt ông chăm chú nh́n tôi dường như để nhận cho tỏ rơ một vị đệ tử mà cơ duyên vừa đưa đến, và cũng như để soi cho thấu đáo tâm hồn tôi nữa.

Tiếp đến là nghi thức điểm Đạo truyền Pháp, tức là tạo sự liên hiệp mật thiết về tinh thần giữa tôn sư và đệ tử. Buổi sáng, mặt trời vừa mọc, hết hồi niệm kinh công phu, tôi theo sư Umzè vào tăng pḥng. Ông giảng cho tôi nghe mấy đoạn kinh.

Sau đó, ông chỉ thật rơ phương pháp tọa thiền với những cách kềm giữ thân h́nh. Rồi ông nhắc tới chư Phật, chư Thánh xưa kia đă từng dũng mănh diệt phá vô minh với các nhân duyên chằng chịt đă làm cho con người khốn đốn, trôi lăn trong luân hồi. Các ngài thắng phục rồi, bèn trở nên nhàn lạc đời đời. Song các Ngài có ḷng từ bi hằng lo cứu hộ chúng sanh măi.

Tôi ngồi thiền nơi mấy cội cây trong cảnh rừng gần đó. Ở đây, cây này tàn tạ, ră rục th́ cây khác sanh nảy lên. Cũng trải qua đủ một sự sống đầy vui sướng, khổ lụy và diệt mất. Tôi nhận thấy sức mạnh của sự sống như chạy vào, làm sinh động những thảo mộc, điểu thú và côn trùng mà tiếng dội vang lên khắp rừng. Hữu ích thay là sự ngồi thiền nơi sơn lâm. Mỗi ngày ḿnh có dịp cho tâm trí ḥa nhập với sự vật chốn này.

Buổi tối tôi trở về chùa niệm kinh công phu. Kế tôi đến bạch với Thầy việc trong ngày của tôi, tŕnh bày những nhận biết khi thiền định, và tôi lắng nghe những lời giảng giải, khuyên bảo của thầy.

Thật tôi khó mà tả hết sự thanh thú siêu việt trong cuộc đời huyền bí này. Khó mà bày tỏ sự thay đổi thâm diệu trong người tôi, một ngày qua là một ngày tôi đổi khác. Tôi không phải là một người Âu Châu nữa. Những tập tục, những tư tưởng bên ấy bây giờ tôi coi ra kỳ chướng lắm. Và đối với sự vật, tôi không thấy cảm giác khác lạ ǵ, tôi thành ra như những người Á Châu chung quanh tôi vậy.

Tôi nhận ra những sức lực tiềm ẩn trong người tôi. Tôi thám hiểm cái thân tôi, càng t́m thấy những sự mới mẽ, tôi càng lấy làm lạ lùng và mến thích. Theo sự chỉ dẫn trong kinh, tôi ngồi thiền theo kiểu kết già, chân xếp, thân h́nh ngay ngắn, và tôi hô hấp theo một phương pháp riêng vừa niệm những chữ linh.

Lúc ấy, tôi thấy như có lửa sanh ra trong người tôi. Chính cái sức mạnh vô cùng trong người của tôi khởi sự dấy lên, nó là cái khởi nguyên của nền bí thuật, cái phát điểm của sự bí truyền. Sự nóng của nó lần lần choán trọn cái thể của tôi đương ngồi yên, và ngọn lửa ấy đi lần ở trong thân tôi, đốt tới đâu th́ trong sạch tới đó.

Một hôm, ngồi thiền gần một tàn cây nhỏ đơm hoa trắng tinh, tôi vô t́nh hà hơi lên một đóa hoa buông hờ trước mặt tôi... Bỗng tôi thấy nó teo lại, xám và khô dường như bị đốt. Như vậy, tôi hiểu ra rằng những vị sư khổ hạnh có thể ngồi ḿnh trần trên non cao vào mùa đông, giữa khi tuyết đổ gió tuôn là v́ vậy ...

Cùng với những phép tập luyện cho thể xác tôi trở nên trong sạch, thầy tôi c̣n trao cho mấy bài kinh để tham thiền nhằm làm cho trí tôi trở nên thuần thục và cải hóa. Ấy là những bài trích trong bộ kinh Đại tạng Kanjour.

Bộ này dịch ra từ chữ Tây Tạng thật là vĩ đại, tất cả là 108 quyển, mỗi quyển chừng một ngàn trang. Có hai bản cây to chạm trổ chận phía ngoài làm b́a. Muốn đọc hết bộ Đại Tạng Kanjour phải mất gần trọn một đời người. Song muốn đọc cho có hiệu quả th́ c̣n phải có thầy chỉ dẫn mới được.

Thầy tôi chọn lấy những đoạn vừa với tŕnh độ của tôi. Tôi khởi sự đọc mấy bài trong bộ kinh kỳ diệu ấy. Nhờ đọc tụng, tư tưởng của tôi thay đổi rất nhanh. Trước tôi c̣n quen theo tâm trí người Âu Tây, hay phân biệt, chia tách ra cái của ḿnh với cái của người. Về sau tôi dần dần ḥa nhập với tâm trí của người Á Đông, hay tham xét, ḥa hợp.

Bên phương Đông muốn thấu hiểu một vật nào, người ta nhập vào đó, làm một với nó, cho đến những vật mọn cũng vậy. Ở trong mỗi vật, đều có cái Phật tánh. Nhà hiền triết phương Đông bao giờ cũng sùng thượng cái tánh linh ấy. Nó thường trụ thường ẩn nơi sinh mạng mỗi chúng sanh, cho đến các loài vật nhỏ mọn như côn trùng, chim chuột...

Tâm tôi dần dần như được vào một cảnh giới mới. Tôi thấy mấy ông sư khổ hạnh ḿnh trần, đi đâu cũng cầm theo một cây phất trần bằng lông chiên, bước tới một bước th́ phất một cái để khỏi đạp nhằm và giết chết những sinh mạng của chúng sanh.

Ngày trước, nếu nghe việc ấy chắc là tôi mỉm cười chê ngạo. Bây giờ, tôi thấu nỗi ḷng từ bi của các vị. Mỗi khi có những vị sư ấy đi qua chỗ chúng tôi th́ tôi chào hỏi một cách thành kính.

Những cuộc tham thiền tập cho tôi quen với sự sống về tinh thần. Người Tây Tạng cũng như người Á Đông, rất xem thường cuộc sống vật chất, không muốn t́m ṭi để phát triển lên. Họ chỉ dồn nghị lực phấn đấu để đạt những sự cứu cánh về tinh thần.

Theo gương họ, tôi luyện tập để thể nhập được vào chính cái yên tịnh nơi thâm tâm tôi, mà trước kia tôi đâu có ngờ. Song cũng là một việc chẳng dễ ǵ làm được: phải trải qua nhiều nỗ lực gay go, hiểm trở. Và tôi khó mà thuật ra hết những trăi nghiệm trong tâm tôi. Tuy vậy tôi có thể kết luận câu này: Khi mà người ta kềm giữ thân tâm theo một qui luật nhất định th́ chẳng c̣n sự ngăn cách giữa thân thể và tâm hồn nữa.

Người phương Đông nhờ các bậc thánh nhân thành đạo trực tiếp truyền mật lư cho nên dễ lần theo chân Tiên gót Phật. Chứ người Âu Châu th́ đành thối bước trước những phương pháp huyền vi. Chính phải luyện phép hô hấp lâu ngày chầy tháng và rất mực cam go, lại phải nương nhờ vào một bậc thầy dắt dẫn có tài đức nữa. Phải luyện những cách ngồi, học những lời nói, v́ câu chân ngôn tùy theo cơ cuộc mà có một sức mạnh lạ thường.

Thân thể tôi rung động một cách điều ḥa dường như dây đàn trỗi giọng dưới ngón tay nghệ sĩ. Ở trong cảnh cao vi ấy, tâm trí rất nên trong trẻo, ḿnh nhận ra tất cả hoàn vũ đều thay đổi và ḿnh không c̣n chú ư tới những quan niệm về thời gian và không gian. Bấy giờ, cái ṭa sen mười sáu cánh với một ngọn lửa ở trong tim mặc t́nh nẩy nở và cháy bùng ra.

Khi tôi lần xuống núi trở về chùa th́ chân trời ánh đỏ, v́ là buổi hoàng hôn. Tôi cũng thấy những màu sắc tốt đẹp phi thường chói ḷa nơi mấy ḥn núi tuyết phía tây, nơi ấy có đỉnh núi thiêng Everest mà những gót chân phàm tục không dễ ǵ bước tới.

Thỉnh thoảng, nơi cửa thiền cũng có những vị cao tăng đáng kính ghé viếng thăm. Ấy là những vị trưởng lăo rất thanh bạch, từ trên am mây du hành đến miền đồng bằng. Mấy vị Lạt-ma trong chùa hỏi thăm các Ngài. Tôi được nghe những chuyện huyền bí về đời của bậc chân tu thành đạo đă diệt sự tử sanh. Tôi nghe biết bao điều linh diệu thuật lại bởi các sư.

Lâu lâu, nơi cửa thiền thanh vắng lại nghe xướng lên một bài kệ ca ngợi ḷng yêu thương của chư Phật ngàn xưa. Các Ngài là bậc tiền bối của chúng ta trên đường đạo lư, đă từng làm người như chúng ta, đă từng khổ năo khóc than như chúng ta, và đă từng mắc vào cạm bẫy luân hồi. Bậc đệ tử phải hết ḷng kính yêu vị tổ sư điểm Đạo truyền Pháp cho ḿnh, kính yêu đức Lạt-ma, bậc thầy, người cha về tinh thần, người sanh ta lần thứ hai vậy.

Nhờ thầy, ta mới nghe được những tiếng gọi trong cơi thâm mật và trực tiếp giao cảm với các bậc tiên thánh trong cảnh trang nghiêm nơi điện linh. Và sự mật truyền của vị Lạt-ma từ nơi miệng thầy mà qua tai tṛ, sự mật truyền ấy từ đời này đến đời kia, là một cái lợi khí rất đáng quư của người tu hành được điểm chứng.

Giữa t́nh sư đệ bao giờ cũng có một sự liên lạc về tinh thần, tâm ư đôi bên đều tương thông, tuy hai mà như một. Tṛ trọn gởi thân vào thầy, cả hai đồng tin nhau, vừa giúp nhau, hy sinh cho nhau trên đường tinh thần và đạo lư.

Giữa cuộc ḥa lạc ấy, với những tâm hồn chung hợp nhau một cách thanh bai ấy, giữa những cuộc đồng bước để lên cơi giác ngộ, th́ sá kể ǵ những cuộc luyến ái thế thường, c̣n kể chi những sự mê luyến ảo năo và khóc than.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 943 of 1146: Đă gửi: 23 December 2010 lúc 8:12am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ



11. Thỉnh chư thần hộ trợ

Hôm nay là cuộc lễ cúng thánh thần hộ trợ. Tại chùa Chumi-Jadsa, các sư tới lui tấp nập. Những cái cối quay để cầu nguyện quay nghe chát chúa, vừa quay vừa khua chuông.

Mấy vị trưởng lăo ẩn cư đă lần lượt hạ sơn, v́ trong một cuộc lễ như thế này cần có nhiều vị Lạt-ma đại đức mới được. Các Ngài mặc y phục đại lễ, an tọa nơi giáo đường, yên tịnh và nhắm mắt, ngồi kiểu kết già như đang nhập thiền định.

Ấy là cuộc lễ chư vị thánh thần. Từ những vị thường đem sự từ bi mà ủng hộ, cho đến những vị tùy dùng phương tiện, có khi hung dữ, bạo tợn để mà pḥ tŕ Phật Pháp.

Các vị thánh thần được xem là vẫn hiện diện trong thế giới này, song không đồng cảnh giới với loài người. Các vị hiện diện chung quanh ta, đông đảo vô cùng, song mắt thường ta không trông thấy.

Và các vị cũng xen vào việc thế trần. Các vị cũng đang bước trên đường giải thoát, và phận sự của các vị sắp được hoàn thành. Hôm nay là ngày thánh thần tề tựu và ḥa lạc với chư tăng. Ấy là ngày trọng hệ nhất, v́ có mặt vị đại đức thay quyền cho đức Ban-thiền Lạt-ma.( )

Giáo hội để riêng cho đại đức ở yên tịnh trên căn pḥng cao nghiêm hơn hết. Ngài thay mặt đức Ban-thiền mà làm chủ tọa cuộc lễ này. Với cái lưỡi sấm sét( ) của Ngài, thứ bửu bối linh thiêng nhất ở Tây Tạng, Ngài sẽ ban phép lành của đức Ban-thiền mà thủ hộ cuộc lễ.

Tôi có hỏi mấy vị sư tường tận về cái lưỡi sấm sét ấy, song ai nấy đều nhắm mắt chắp tay ra vẻ sợ hăi lắm. Tôi cầu thầy tôi là đức Umzè cắt nghĩa cho tôi song ông lắc đầu lặng thinh. Tôi hiểu ra rằng chưa đến lúc mà tôi cần biết. Đây rồi cuộc lễ sẽ cử hành trong sự bí ẩn, ly kỳ...

Rất nghiêm trang trong những bộ cà-sa vàng, chư vị đại đức lần lượt tựu đến và an tọa, trầm ngâm lặng lẽ. Tiếng chuông lớn và tiếng ốc tù và dội lên thỉnh các Ngài tề tựu. Chư tăng khắp nơi đều trở về chùa. V́ là cuộc đại lễ nên ai nấy đều nhịn ăn từ bữa hôm qua.

Thầy tôi sắp tôi vào hàng sa-di,( ) đứng cách chư vị đại đức một quăng xa. Tôi cũng mặc cà-sa vàng và đội mũ lễ. Một hồi chuông và tù và trổi lên nữa. Kế đó, chư vị Lạt-ma đồng thanh đọc kinh. Âm nhạc nhà chùa Tây Tạng thật có đủ những đặc tính về tôn giáo.

Từ trước người ta đă định đặt đâu đó rất hợp lư rồi. Mới nghe cũng tương tự như âm nhạc tôn giáo Âu Tây, song chú ư kỹ th́ nó huyền bí và hùng dũng hơn. Nhờ tu tŕ nơi ngôi chùa này, thân thể tôi trở nên tinh vi, nên nghe các sư đồng thanh xướng lên một lúc th́ trong ḷng tôi thấy rung động, thành ra minh mẫn hơn, như có thể nhận ra những điều siêu h́nh...

Cuộc lễ xướng kéo dài thêm, ḥa với những tiếng trống, kèn.

Trong khi chư tăng xướng kệ đều đặn và thâm trầm, th́ phía trong đền vị sứ giả của đức Ban-thiền đứng nghiêm trang, có tàn lọng che rất uy nghi. Kế bên Ngài là thầy tôi, sư Umzè, và mấy vị trưởng thượng trong chùa. Các sư đều quay mặt về phía chư vị trưởng thượng mà xướng kinh, ai nấy đều có đủ vẻ phước lạc và an tịnh huyền vi.

Khi cuộc đồng xướng gần măn, vị sứ giả của đức Ban-thiền đứng dậy, miệng đọc thần chú, tay mặt cầm lưỡi sấm sét. Trầm hương bay tỏa khắp đền. Các sư vừa bắt ấn, vừa xướng kệ, vừa đánh chuông. Ai nấy đều thủ lễ thật nghiêm túc.

Các vị thánh thần như đều tựu lại đủ, v́ thầy tôi là đức Umzè đă triệu tập các vị bằng phép niệm chân ngôn. Lúc ấy, gió mạnh thổi tới và rú lên chung quanh đền. Những cờ phướn vàng và trắng treo dài theo tường đều bị lay chuyển rất mạnh.

Người ta mới thổi mấy cây kèn to lớn lên. Loại kèn này, tiếng Tây Tạng gọi là Rha-doungh, đặt ở hai bên cửa đền, đúc bằng đồng, dài đến hai mét, thổi lên nghe như sấm vang, ḥa với tiếng gió băo vừa kéo đến ầm ầm. Các thứ thanh âm sắc tướng ấy gây nên một cảnh tượng huyền bí, trang nghiêm, bao bọc tất cả từ ngôi chánh điện, tường vách, cờ phướn, cho đến các vị sư.

Bây giờ đến những lời quyết liệt, những tiếng anh linh. Những tiếng ca xướng trở nên dịu hơn, êm hơn, tự nhiên hơn. Trong người tôi lấy làm lạnh lẽo, tôi gắng chống chịu hết sức, nhưng cũng không khỏi run lên từng chặp. Tôi khoác vạt áo cà-sa mà trùm ḿnh.

Chắc là có sự chi bí ẩn lắm nơi chỗ ngồi vị sứ giả của đức Ban-thiền. V́ có một bức màn lụa màu vàng che khuất mấy vị trưởng thượng nên chúng tôi chẳng thấy được các ngài.

Lúc này, những tiếng ca xướng thấy nhỏ và dịu lần. Thần kinh của tôi bị kích động rất căng thẳng. Trông ra, tôi thấy vài ba vị sư bỗng kêu rú lên và té lăn ra, nằm liệt trên đất. Chắc là các vị này chịu không nỗi với sức chấn động quá cao.

Không khí nặng nề v́ những mùi trầm, hương, hoa với mùi bơ thắp trong mấy ngọn đèn trước tượng cốt. Các vị sư đă cầu thỉnh đến từ thánh thần cho đến những vị Lạt-ma đă qua đời. Tôi thấy dường như trong cuộc lễ c̣n đang hiện đến những hung thần, ác quỷ nữa.

Hạng sa-di chúng tôi sợ lắm, nên lần lần rón rén trùm áo lên đầu mà rút lui ra hết. Về pḥng, chúng tôi nằm im trọn cả ngày, tâm trí hăy c̣n căng thẳng măi v́ những cảm giác lạ kỳ đă trăi qua trong cuộc lễ nơi đền...




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 944 of 1146: Đă gửi: 23 December 2010 lúc 8:16am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ



12. Đến Lhassa, gặp thần tiên tri

Tôi đă từ giă ngôi chùa Chumi-Jadsa. V́ thầy tôi khuyên tôi đến kinh đô Lhassa mà theo học với mấy sư đạo cao đức trọng khác. Lại nữa, ở đền Potala của đức vua, mấy nhà quyền chức hay rằng có người Âu châu được điểm đạo truyền pháp, nên các ngài muốn biết mặt tôi đặng coi tôi có thành tâm hay không.

V́ vậy nên tôi ra đi với mấy vị sư trong chùa. Tôi cũng mặc cà-sa như các vị ấy. Qua nhiều ngày, sương gió với ánh nắng mặt trời dần dần đổi màu da tôi ra như người bổn xứ.

Sự truyền pháp cho tôi là một việc rất quan hệ cho thầy tôi. Nếu v́ mục đích quốc sự, v́ giả dối mà tôi nhập Đạo, th́ nguy cho tánh mạng thầy tôi lắm. Song sự gởi gắm của thầy tôi, một bậc tu hành có chức lớn và pháp thuật, làm cho cả hội đồng trưởng lăo đem ḷng tin. Người ta sẽ gạn hỏi tôi, luôn dịp sẽ truyền thêm giáo pháp cho tôi, nếu nhận ra tôi có đủ thành tâm và sức lực.

Nhờ chúng tôi là hạng thầy tu khoác áo cà-sa mà viễn hành, nên đến đâu cũng được tiện lợi, không ai tra hạch chi cả. Sau những khổ nhọc thường lệ v́ sự lên đèo xuống vịnh, chúng tôi đến kinh thành uy nghi và tinh sạch. Nơi đây có đức Phật sống Dalai-Lama( ) làm chúa tể cả nước.

Nơi đây có chư vị thượng tọa tái sanh giữ mgôi vị trong đời trước của các ngài. Cũng như các bạn đồng hành, tôi lấy làm cảm kích một cách sùng thượng khi thấy dạng thành Lhassa. Và cũng như các bạn, tôi thụp xuống làm lễ cảnh thành phố tinh sạch trước mắt chúng tôi...

Đến Lhassa, tôi trụ nơi chùa Ramotché, ở về phía bắc, cách đền Potala không bao xa. Tôi học thêm phép huyền vi với một ông sư chức cao, bạn của thầy cũ tôi ở chùa Chumi-Jadsa.

Đến đây, tôi bước vào một quảng đời khác, với những cuộc tu luyện khác. Ban đầu tôi hơi lấy làm lạ. Lúc ở chùa Chumi-Jadsa, tôi học khoa thần bí. Ở đây, có mấy vị tôn sư dắt dẫn những lễ giáo về huyền thuật.

Tôi khởi sự học qua những sức lực huyền vi trong vũ trụ. Mấy vị tôn sư giảng cho tôi cái sức mạnh siêu nhiên chi phối cuộc sống. Các Ngài đạy tôi cách khuất phục và vận dụng được sức mạnh đó. Tôi cũng có dự được nhiều cuộc lễ về huyền thuật.

Tôi cũng có học biết về những khí cụ linh thiêng nữa. Trước hết là cái lưỡi sấm sét mà có lần tôi đă được biết trước đây, là một thứ khí cụ linh thiêng nhất, cán dài và tṛn, đầu có năm cái chấu uốn cong theo h́nh như ngọn lửa. Kế nữa là cái búa linh( ) h́nh tam giác.

Trong khi hành lễ, nhà sư niệm chú và vung lưỡi búa, ấy là biểu hiệu chặt đứt tham dục, diệt trừ phiền năo. Tiếp đến là xâu chuỗi hạt làm bằng xương rắn.( )

Ramotché là cảnh chùa của Vua, xây dựng hùng vĩ lắm. Nơi chánh điện chạm trổ và bày trí khéo léo vô cùng, theo những đường nét mỹ thuật rất cổ xưa.

Ở đây, người ta thực hiện nhiều cuộc lễ huyền vi và linh diệu lắm. Ngôi chùa này vẫn được xem là đứng bậc nhất trong nước về huyền thuật. Ở đây, các vị sư phân tích, t́m hiểu những sức mạnh siêu nhiên trong vũ trụ và ngay chính trong thân người một cách tỉ mỉ lắm.

Những môn tâm lư thần bí bên Âu Tây so với ở đây th́ chẳng nhằm vào đâu cả. Ở đây, tôi thấy rất nhiều sự lạ mà không một nhà thông thái nào ở Âu Châu có thể hiểu và giải thích rơ được. Có khi trong cuộc lễ nơi đền, giữa tiếng kèn bằng xương người và tiếng trống bằng da người, tôi bỗng thấy lạnh ḿnh và run lên.

Người ta đưa tôi đến đối diện với một vị thần tiên tri. Hội đồng ở đền Potala muốn nhờ thần ban cho những lời linh ứng về việc tôi. Họ nghĩ như vậy là chắc chắn hơn hết. V́ chính đức Vua cũng đă từng tin cậy nơi thần.

Nói cho rơ hơn, đó là một vị Lạt-ma có thuật tiên tri, tu tại chùa Garmikhia, phía đông thành Lhassa. Ông này thường được một vị thần tiên tri mượn xác để nhập vào mà nói trước những việc trong tương lai.( )

Khi người dẫn đường đưa tôi đến, ông đang chờ chúng tôi nơi pḥng riêng trên từng lầu. Ngồi yên trên một cái ngai bằng cây nhung có cẩn xà cừ, ông mặc lễ phục bằng lụa có dát vàng và dát ngọc, đầu đội một cái măo rất lạ... Người ta đem trà ra đăi tôi và tặng cho tôi một bức lụa gọi là lễ mừng khách theo phong tục Tây Tạng.

Kế đến, người ta hỏi thăm qua về sức khỏe, sự học đạo và các cuộc hành tŕnh của tôi. Tôi hiểu đó là phương pháp thanh nhă mà vị sư tiên tri dùng để dọ tâm ư và chí hướng tôi. Tôi nh́n gương mặt nhăn nhíu và mĩm cười của ông: nó như chứa đầy các sự bí ẩn.

Trong khi ấy, có tiếng kèn to trỗi lên gọi các sư vào cuộc lễ. Người ta đưa chúng tôi vào một chỗ tối trong đền, nơi đây chúng tôi thấy rơ có một cái ngôi oai nghiêm để ở giữa. Những đồ chạm trổ chói lên dưới ánh sáng của rất nhiều ngọn đèn. Tiếng nhạc và tiếng xướng tụng ḥa nhau xen với tiếng mơ nhịp.

Kế đó, vị sư cốt thần hiện ra. Với những đồ trang phục rực rỡ và huy hoàng thái quá, xem ông già hơn, gầy hơn khi năy mà chúng tôi gặp nơi tăng pḥng.

Tiếng mơ càng đổ to và tiếng đồng xướng trổi cao lên cực điểm. Vị sư cốt thần đang ngồi yên trên ngôi. Bỗng ông run lên. Nơi cặp mắt nhắm khít của ông, thấy nước mắt chảy dài trên mặt. Tay chơn ông chấn động từng hồi theo nhịp kèn và tiếng xướng tụng. Một vị Lạt-ma mặt phủ kín sau một bức lụa đen, lâm râm đọc mấy câu chân ngôn huyền diệu...

Th́nh ĺnh mơ và kèn rộ lên, cùng với tiếng xướng tụng của các sư ḥa theo. Vị sư cốt thần té xuống đất trước ngôi. Ông vừa uốn ḿnh vừa rú lên. Hai ông sư giúp việc vội chạy đến đỡ ông. Dường như lúc này vị thần tiên tri đă nhập vào ông rồi.

Lần lần ông tỉnh lại. Nhờ hai ông sư tiếp sức, ông ngồi dậy và xỉu trên ngôi. Lạ lùng thay, lúc này mặt mày và dáng vẻ ông trông giống hệt bức tượng vị thần được thờ nơi chánh điện.

Cũng một cách ngồi, cũng mấy ngón tay rút lại, cũng thân ḿnh uốn cong, cũng một gương mặt y như h́nh vị thần thêu trong bức gấm trên bàn thờ. Ông từ từ mở miệng và thốt ra lời.

Ông nói rất mau, các vị sư bao quanh để nghe cho rơ. Tiếng nói nghe rổn rảng, vang dội. Thần nói tiếng Tây Tạng cổ có pha tiếng Mông Cổ. Tôi thấy người ta cặm cụi ghi chép lại, nghe nói c̣n sẽ phải tra khảo ở một bộ cẩm nang giữ kín trong một tàng viện bí mật mới có thể hiểu hết được ư thần.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 945 of 1146: Đă gửi: 23 December 2010 lúc 8:19am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ



13 . Vị sư làm sấm sét

Tôn sư tôi bảo tôi đến viếng một vị Lạt-ma bằng hữu của ngài. Ông này ẩn cư nơi một cảnh hoa viên nho nhỏ cách chùa Sera chẳng bao xa. Người ta bảo ông biết những thuật hô phong hoán vũ và làm sấm sét. Tôi cần phải ở gần ông một thời gian để t́m hiểu những môn ấy.

Theo phong tục người Tây Tạng thanh cao, thầy tôi trao cho tôi ít món đồ quư để kính tặng pháp sư. Riêng phần tôi cũng sắm ít món lễ đặng ra mắt ông. Tôi mua một xấp nỉ, kèm theo vài nén vàng, ít món trang sức, mấy xâu chuỗi 108 hạt bằng xương rắn, cùng với mấy pho kinh mà thầy tôi gởi theo để cho pháp sư nhận biết tŕnh độ học đạo của tôi.

Nhằm mùa xuân, phong cảnh đất trời xem ra đầy thi vị. Chúng tôi từ giă thành Lahssa mà đi lên phía bắc. Dọc đường, thường gặp mấy vị sư, mấy nhà hành cước lần đến thánh địa,( ) mặt mày sáng rỡ. Đến những nơi non linh cảnh đẹp, họ thường niệm kinh cầu thần thánh hộ tŕ.

Tôi cũng có gặp những vị hành cước bỏ lắm công phu: đi một bước th́ lạy một lạy, dập đầu trên bụi bặm giữa đường, vừa lạy vừa niệm kinh, tưởng Phật. Họ giữ hạnh khổ nhục hết sức: quần áo lem luốc, mặt mày rướm máu, mắt sưng vù, chịu đói, chịu lạnh và chịu khát trong khi trăi qua đồng cát.

Vừa đi vừa lạy như vậy năm này qua năm nọ, họ tin rằng nếu đến thánh địa Lhassa th́ họ sẽ được về cơi Phật. Lắm khi họ chẳng đạt mục đích, v́ đói khát lạnh lẽo mà chết dọc đường. Song dầu chẳng đến nơi, nhưng với sự khổ hạnh và ḷng thành tín của họ, họ cho là được phước lớn lắm.

Vị Lạt-ma pháp sư ở trên một đỉnh núi cao. Danh tiếng của ông rất lớn, nhiều người kính nể ông. Trước kia, có thời ông cũng đă tu tại chùa Ramotché.

Ở Tây Tạng, đôi khi người ta nhờ đến các nhà sư để kêu mưa gọi gió hoặc ra oai sấm sét. Tôi sắp đối diện với một vị sư có năng lực ấy. Không bao lâu rồi tôi sẽ tận mắt thấy được những phép thuật của ông.

Pháp sư tiếp đón tôi trong một ngôi nhà bằng đất cất trên đỉnh núi. Tôi dâng lên lễ vật với thơ tiến dẫn và cầu xin ông truyền giáo cho.

Ông bảo tôi rằng: “Sư huynh ta đă từng giúp đỡ ta. Lẽ nào ta từ chối mà chẳng truyền dạy cho con. Vậy con hăy qua ngụ nơi động Ánh Trăng về phía bên phải con đường ṃn này. Ở đó mà chờ ta, lát nữa ta sẽ đến...

Tôi theo lời đi qua động Ánh Trăng nằm về phía bên kia triền núi. Đứng trên động nh́n xuống, tôi thấy mấy đoàn cừu do một đứa trẻ đang dắt đi ăn. Trong động có trải một tấm da cừu làm chỗ nằm với mấy cái mền thô, và cái bát đĩa để đựng đồ ăn. Người ta có đục đá bốn phía vách thành ngăn để đựng kinh sách.

Kế đó vị Lạt-ma qua tới. Ông đưa tôi trở lại ngôi nhà đất của ông mà ăn lớ, do bà vợ dọn ra. Ông tu theo phái áo mũ đỏ,( ) được phép có vợ, và vợ ông cũng được điểm Đạo truyền Pháp, cộng tác với ông trong các lễ giáo huyền linh.

Tôi bắt đầu học những câu thần chú mời thỉnh. Cũng có học vẽ ṿng phép, học linh phù( ) theo đúng phương pháp và tỉ mỉ lắm. Phải biết bày sắp cuộc lễ theo phong lược, phải thuộc đủ ấn chú mới triệu thỉnh được thánh thần đến. Trước đàn cúng tế, thỉnh đến rồi phải biết sai khiến thánh thần. Lúc ấy, tất cả đều làm theo mệnh lệnh của pháp sư.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 946 of 1146: Đă gửi: 23 December 2010 lúc 8:21am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ



14. Buổi mật nghị

Tôi ở tu tại chùa Ramotché đă được nhiều tháng và có tiến bộ về huyền thuật. Mấy ông thầy tôi đều vừa ḷng. Tuy tôi được vinh hạnh tu tŕ tại một ngôi chùa lớn của vua, nhưng mấy vị trưởng thượng trong đền Potala vẫn c̣n để tâm nghi ngờ, ḍ xét tôi măi.

Một hôm, có lịnh đ̣i tôi vào đền để tŕnh diện với Hội đồng mật nghị của nhà vua, gồm mười hai vị sư trưởng thượng, chưởng giáo phái Không môn. Khi viên tùy phái đem lịnh ấy đến, tôi hối hả mặc lễ phục Lagoi và theo chân viên tùy phái của hoàng thượng.

Chúng tôi đi theo một trong hai con đường có trồng cây dẫn vào đền. Khi qua khỏi trường Y học, chúng tôi đi giữa hai bờ lan can của một cái thang to lớn và lần lên cảnh đền chói đỏ rực dưới ánh mặt trời. Đền này sáng lập bởi đức Phật sống thứ năm, mới trông qua th́ hùng vĩ lắm.

Tuy gọi là đền vua, nhưng thực sự bên trong có đủ cả các công tŕnh xây dựng như chùa, điện thờ, doanh trại, chỗ vua ngự, trường học v.v... Trong đền, im lặng vô cùng, ấy là sự im lặng đặc biệt trong các ngôi chùa ở Á Đông. Không nghe thấy âm thanh ǵ cả, ngoài ra tiếng động của mấy cái cối quay cầu nguyện có dán những câu linh chú, có mấy vị sư ngồi canh chừng gần nơi bực thang. Mấy vị này cứ lầm thầm niệm kinh măi.

Có lắm vị sư phương xa đến thành Lhassa chỉ để vào đền Potala nhặt vài ba mảnh đá xưa, gạch cũ và đem về xứ mà làm thánh tích.

Chúng tôi thấy mấy ông sư đi đi lại lại, chân bước rất đều, dáng vẻ nghiêm nghị, mặt cúi xuống, các ngài vừa đi vừa lần chuỗi mà niệm Phật.

Chúng tôi bước vào một cánh cửa nhỏ và thấp, cách chánh điện một quăng xa. Khi đi qua khỏi ṭa nhà giống như một trại lính với những đồn canh tuần, những hang nhỏ hẹp, chúng tôi đến một cảnh xán lạn, rực rỡ vô cùng. Nơi đây chạm trổ đủ những thứ vàng, bạc và xà cừ.

Nhiều dăy hành lang, nhiều pḥng ốc chỉ thuần có một màu mà thôi: hoặc xám, hoặc vàng, hoặc xanh biếc. Nhất là màu xanh biếc trong đèn Potala th́ đẹp vô song. Tôi nói với viên tùy phái xin dừng chân một chút để tôi xem cho rơ mọi thứ. Thật tưởng chừng như đang lạc bước lên cung điện bằng ngọc bích của đức Ngọc đế vậy!

Sau rốt chúng tôi cũng đến nơi. Một vị sư vào báo tin. Chúng tôi ngồi chờ phía trước ṭa mật nghị. Vị sư trở lại và mời tôi vào. Khi tôi đi ngang mặt, ông dặn nhỏ vào tai tôi rằng: “Nhớ giữ lễ giáo Tây Tạng.”

Tôi dâng bức lụa chúc mừng và những lễ vật ra mắt chư vị trưởng thượng. Kế tôi quỳ lạy theo triều nghi ở đền Potala. Ban đầu v́ cúi xuống, nhắm mắt và thốt lời cầu chúc nên tôi chẳng thấy ǵ. Song tôi nhận ra không khí thật là êm dịu lạ thường và tiếng nói của tôi dội ra, vang lại nghe rơ vô cùng.

Sau cùng, tôi ngồi yên giữa ṭa. Nh́n quanh, tôi thấy giống như đang ở giữa một giáo đường tṛn trịa và không có cửa sổ. Vách tường sơn vàng, chói rực dưới những ánh đèn màu. Trên trần có vẽ đủ thập giới. C̣n dưới gạch th́ có họa những linh phù, những ṿng phép rất phức tạp, có nhiều cái tôi chưa hiểu nổi. Quanh theo pḥng, có một cái trường kỷ chất đầy gối.

Trên trường kỷ, mười hai vị trưởng thượng đang ngồi kiểu kết già và chăm chú nh́n tôi. Mỗi vị đeo một thứ biểu chương và mặc một sắc phục riêng. Trước mặt mỗi vị có kê một cái ghế đẩu để giấy tờ sổ sách và bút mực. Các vị ngồi ṿng theo h́nh bán nguyệt, vị Nghị trưởng ngồi giữa. Chính ngài khởi sự hỏi chuyện tôi trước:

“... Này con, chúng ta biết rơ đường đi nước bước của con. Song trước khi nhận con vào ṿng huyền linh bí ẩn của chúng ta, chúng ta cần phải thấy cho rơ con, biết con và nghe con nói ...”

Tôi nh́n gương mặt mười hai vị trưởng thượng. Thảy đều giống với gương mặt của thầy cũ tôi, ông sư chức Umzè tại chùa Chumi-Jadsa. Cũng là sắc mặt thanh cao, tóc râu cạo sạch, sóng mũi ngay và dáng mặt theo ḍng quí phái phương Đông.

Cũng là một cách ngồi trầm tĩnh y như mấy lúc tọa thiền. Xem các ngài hệt như những cốt Phật bằng đá trong các ngôi đền. Các ngài có oai nghi nghiêm chỉnh, cao cả. Ấy là những bậc chưởng giáo có đủ quyền hành, ảnh hưởng lan ra đến cả muôn người.

Vị Nghị trưởng nh́n tôi và nói tiếp:

“Chúng ta cũng có biết chút ít về những giáo thuyết ở phương Tây. Chúng ta lấy làm lạ mà thấy con đến với chúng ta. Con đến để t́m sự an lạc và quang minh... Đó là điều tốt. Chúng ta tưởng cũng nên hỏi qua cho biết những sở học của con để tiện giúp con tu học thêm...”

Ngài Nghị trưởng nói mà chẳng ngừng nh́n vào tôi. Tôi kinh ngạc thay, v́ ngài diễn tả rành mạch trọn cả quăng đời vừa qua của tôi, trưng bày những cuộc tra cứu, học hỏi của tôi! Ngài tả ra một cách rơ rệt, cho đến chính tôi cũng chẳng dám thốt ra với tôi như vậy nữa.

Ngài tố trần một cách nghiêm khắc và không tư vị làm cho tôi phải sửng sốt. Ngài tách bạch cả tâm hồn tôi. Ngài biết hết tư tưởng tôi, các thâm ư, các sở vọng và chí nguyện sâu kín của tôi.

Ngài đem tường thuật ra hết. Tôi đành chịu phục, chẳng hổ thẹn mà mong chối căi. Vả lại, chư vị nơi đây thảy đều có bụng dạ thanh cao, từ ḥa, th́ tôi e ngại ǵ? Tôi thấy ḿnh mạnh mẽ thêm và thanh thản hơn.

Kế đó, ngài Nghị trưởng thuật qua các sự suy tầm của tôi hồi c̣n ở Âu Châu. Ngài nêu tên những tác giả mà tôi đă đọc, những bực hiền triết mà tôi đă mộ danh và chịu ảnh hưởng. Ở trong pḥng kỳ diệu này, tại thành Lhassa, nơi trung ương cơi Á Châu, mà nghe một nhà sư thốt ra những tên như Kant, Bergson, Freud... tưởng cũng thật lạ thường và khó tin lắm thay!

Tôi nhận thấy một cái vực sâu giữa tư tưởng huyền linh và tư tưởng phàm thế, giữa Phật Thánh và loài người. Tôi thấy khác nhau một trời một vực giữa những cuộc tranh căi của các giáo phái phương Tây với cuộc dung ḥa tốt đẹp của phương Đông. Th́ ra hai bên chẳng chung cùng nhau được.

Những lư lẽ mà phương Tây vừa mới biện minh, phương Đông thẩm xét đă bao thế kỷ rồi! Những lư thuyết mới với những cuộc phát minh, sưu tầm ở Âu Tây, dẫu có tánh cách mạo hiểm đến đâu đi nữa cũng đều chất chứa trong mấy pho bản thảo ở nhà chùa. Chính tôi có thấu rơ nên mới công nhận sự huyền diệu của phương Đông...

Ngài Nghị trưởng đă thuật xong quăng đời đă qua của tôi. Trọn hai giờ đồng hồ cặp mắt ngài không ĺa khỏi gương mặt tôi một giây phút nào, tôi bị ngài phân tách hầu như trọn vẹn. Kế đấy, ai nấy đều nín lặng. Mười hai vị trưởng thượng đồng nhắm mắt.

Tôi lấy làm khó chịu mà đối diện với Hội đồng yên lặng này. Các ngài sẽ xử trí với tôi cách nào? Tôi rất ái ngại. Từ khi bước chân vào Nghị viện, tôi chỉ mới làm lễ các ngài, chớ chưa thốt ra lời. Thế mà các ngài c̣n biết tôi nhiều hơn chính tôi! Hẳn các ngài ở trong một cảnh giới mà tôi không có sức theo...

Bấy giờ, tôi nghe tiếng chuông ngân, tiếng chuông có sức ám ảnh lạ thường. Liền đó, tôi không thấy ǵ chung quanh tôi nữa. Tư tưởng tôi như chạy lạc hết. Tôi cảm thấy ḿnh sợ sệt quá. Tiếng chuông càng trỗi thêm lên. Tôi không c̣n sức tự chủ, không c̣n nghe biết ǵ nữa. Dường như tôi sa vào vực thẳm, vào cơi không trung...

Sáng hôm sau, tôi thức dậy rất trễ và nghe nặng đầu. Tôi không hiểu cuộc thẩm vấn trong buổi mật nghị kết liễu ra thế nào. Ấy là sự bí mật mà không ai tỏ ra với tôi. Tôi chẳng biết ǵ về cuộc định đoạt của Hội đồng mười hai vị chưởng giáo.

Sau rốt, người ta cho tôi hay rằng tôi được phép theo đuổi sự tu tập. Song tôi phải làm lễ tuyên thệ rằng tôi không bước chân ra khỏi xứ Tây Tạng nữa. Một vị trưởng lăo Lạt-ma đáng tôn kính đem tin ấy đến tôi. Ông dạy thêm rằng:

“Bây giờ đây, con hăy c̣n thong thả mà trở về nước. Con có thể từ giă cơi đất linh thiêng này. V́ người ta mới truyền dạy cho con những điều ngụ ư, những lư luận huyền vi mà thôi, ấy là chỗ sơ khởi trên đường tu học. Chớ con chưa biết những sự bí ẩn oai linh, những sự quang minh vô lượng.

Và Hội đồng chưởng giáo định rằng sẽ không truyền dạy thêm cho con nếu con chẳng nhập với chúng ta, hoàn toàn như chúng ta. Các ngài tuyển thầy đến d́u dắt con lên đường huyền linh, lên nẻo an lạc của chư Phật. Cho nên thầy đứng làm trung gian giữa ban Mật nghị của đức vua Dalai-Lama với con... Bây gờ con nên suy nghĩ. Và chiều nay, lúc trời chạng vạng, con sẽ cho thầy biết sở định của con...”

Kế đó, trưởng lăo mỉm cười và nhẹ nhàng lui gót vào trong bóng tối nơi cảnh hoàng cung linh diệu. Đă lâu rồi, tôi luống đợi cái giờ phút này. Tôi đă từng bị ngờ vực, xa lánh, trong những khi tôi nương ḿnh trong mấy cảnh am mây trên núi tuyết! Song tôi tự nhủ cho là có hân hạnh lắm, có chư Phật pḥ tŕ nên bước đường tu học của tôi mới mau lẹ như thế này...

Tôi biết rằng cam đoan rồi th́ trọn đời tôi sẽ phải ở lại Tây Tạng, v́ là lịnh vua luật nước và c̣n là một tâm nguyện thiêng liêng nữa.

Vậy th́ có nên dành cả cuộc đời cho sự tu học về tinh thần chăng? Nhưng nghĩ đến sự trở về với những thành thị đông đúc, đầy khói, sa mù, trở về với những đám người tranh đấu, những dân tộc hỗn chiến, trở về nơi bùn lầy bẩn chật của thế tục, tôi tự hỏi: để mà làm ǵ?

Thấy lại cuộc hung ác, tàn bạo, cuộc khổ lụy để mà làm ǵ? Dự vào những cuộc bất công, cuộc chém giết mà ḿnh chẳng có phương cứu chữa, để mà làm ǵ?

Khi những tia sáng cuối ngày vàng vàng tím tím của cảnh tà dương chói trên mấy nóc đền vàng, cánh cửa bật ra để cho vị trưởng lăo bước vào, có lẽ để nhận câu trả lời của tôi.

Tôi bèn nhập định theo cách Phật ngồi thiền xả bỏ cuộc đời, vị Lạt-ma hiểu ư. Ông gật đầu và ngồi lặng yên bên tôi một lúc. Bóng hoàng hôn tràn ngập cả căn pḥng. Xa xa, các ngôi chùa vọng đến tiếng chuông, dường như kêu gọi hết thảy thế nhân nhập ṿng tịnh niệm.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 947 of 1146: Đă gửi: 23 December 2010 lúc 8:27am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ



15. Trên đường tu luyện

Tôi theo thọ giáo với vị sư mà Hội đồng đă tuyển ra để d́u dắt tôi. Vị này thuộc phái Không môn, tức là phái Vô vi. Bậc tôn sư tùy căn cơ của đệ tử mà chỉ dạy, có khi là khẩu truyền, có khi là thâu vắn một bài kinh hay nói rộng ra, có lúc mật truyền chỉ một câu chú. Lại có khi thầy tṛ cùng ra nơi đồng xa rừng vắng mà truyền thọ một vài lư vô vi.

Nhờ tu học, tâm trí tôi biến đổi dần dần. Tôi nhập học với các bạn, chúng tôi học một môn mà thầy tôi thường gọi là Phật bi tâm. V́ ông hay đem cái đề này ra để cho chúng tôi tham thiền. Không tập huyền thuật, không luyện Du-già, chúng tôi tham thiền theo những đề mục trong kinh do tôn sư chỉ dạy. Giả như tham thiền với đề mục như sau:

“Ai nghĩ rằng: ‘Tôi là Phạm Thiên’, th́ người đó trở thành Phạm Thiên. Đối với người ấy, các thần linh đều tuân lịnh và chẳng làm hại nổi, v́ chư vị thần linh đều có cái bổn tánh, cái chân linh của đức Phạm Thiên... C̣n ai thờ phụng thần linh với tâm niệm rằng: ‘Vị thần này cao trổi quá, c̣n tôi th́ thấp hèn.’ Nói như vậy là không thông lẽ đạo.

Kẻ thờ phụng thần linh có khác nào con vật được nuôi dưỡng cho mập để nạp thịt. Người thờ vị thần nào tức là nuôi dưỡng vị thần ấy. Thần linh không muốn cho người ta biết điều này: mất đi một người khổ hạnh thờ phụng, ấy cũng như mất hết một con vật trong đoàn để nạp thịt. Thần linh thật không muốn hao mất những kẻ nuôi ḿnh, nạp lễ vật đặng cho ḿnh hưởng.”

Tôn sư dần dần giảng rộng bài ấy ra cho chúng tôi nghe. Ông chỉ ra các hạng thần linh trong thế giới với những công năng và quyền hạn của mỗi vị. Nào là thần núi, thần lửa, thần đất đai, thần mùa màng, thần tinh tú, thần sông rạch, với những thần ưa phá hại người, nào là thần bổn mạng theo khuyến khích mấy vị tu hành.

Lại cũng có những hung thần độc ác, thô trược, ham ăn thịt, uống huyết, khiến người ta sợ mà dâng nạp lễ cúng để tránh tai họa. Tôi được dạy cho sự rèn luyện để chế ngự thần linh, giữ ḿnh thoát khỏi sự đè ép, trói buộc của họ.

Có khi, sau một ngày tŕ kinh, thầy tôi gọi tôi ra nơi vắng lặng mà đàm đạo. Chúng tôi lần bước xuống ḥn núi nơi có cảnh đền Potala xây cất bên trên. Thầy tôi đem sự mầu nhiệm ngàn xưa mà giảng lại với tôi, nhất là những cuộc đời thanh cao của chư vị tổ sư đă thành đạo.

Lấy những gương của chư Phật, các vị hiền thánh, Lạt-ma đă thành đạo, thầy tôi vạch con đường để tôi noi theo: con đường giải thoát và an lạc. Tôi bắt đầu thực hiện những sự học hỏi từ trước tới nay và tôi có dịp mà chiêm nghiệm điều này: được gần bậc giác ngộ, dầu ai thô chướng cũng dần trở nên thanh cao, và vui chân mà bước tới cơi lành.

Và gần bậc Lạt-ma thọ chánh truyền, ánh sáng trí tuệ chói ḷa, th́ kẻ đệ tử tự thấy ḿnh cũng minh mẫn hơn đôi chút. Nương theo ánh sáng của thầy, chúng tôi tham thiền, thấu lư và tiến tới trên đường trí huệ.

Sau giai đoạn tu học của tôi ở thành Lhassa, tôi từ giă tôn sư. Ông ban phép lành cho tôi và đeo vào tay tôi hai chiếc nhẫn dính với nhau, dấu hiệu chứng nhận việc tôi đă được điểm Đạo truyền Pháp. Chắc là ông cũng có cảm động về sự thầy tṛ chia tay, song tôi thấy gương mặt ông vẫn giữ vẻ an nhiên.

Hôm ra đi, tôi thấy h́nh sắc ông gầy hơn, lưng ông c̣m hơn, có vẻ như lụng thụng trong bộ áo cà-sa vàng. Tôi biết rằng cuộc phân ly này hẳn là lâu lắm. Trước bữa tôi ra đi, ông truyền dạy tôi rất kỹ và căn dặn đủ điều. Mới biết trên đường học đạo, t́nh nghĩa thầy tṛ cũng khắn khít mặn nồng biết bao!

Mặt trời hồng ban mai rọi xuống mấy nóc vàng ngôi đền Potala. Cảnh đô thị thánh địa vừa tỉnh giấc trong đám sương mù hơi xanh xanh. Tôi ngoảnh nh́n nó lần cuối cùng...

Tôi đi về hướng nam để đến ngôi chùa Phuta-Gumpa ẩn trên dăy núi Hy-mă-lạp sơn, miền đất linh diệu nhất. Đoàn lữ hành của chúng tôi khi th́ trải qua những cánh đồng xanh dọc theo bờ sông Brahmapoutre, khi th́ luồn vào những khoảng rừng rậm không khí nóng như lửa, có khi lại trèo lên những ḥn núi tuyết mà chịu những cơn giông tố lạnh lùng.

Có khi phải đi qua những động cát, đoàn ḅ bị lún rất nguy. Dầu vậy, chúng tôi vẫn có được những niềm vinh hạnh hân hoan: đến mỗi danh lam cổ tự, chúng tôi đều ghé lại để lễ Phật và thăm viếng chư vị Lạt-ma. Đó là những dịp để cho tôi thâm nhập, t́m hiểu thêm về phong tục của các nhà tu đang hành tŕ tại xứ sở bí ẩn này.

Hẳn là không dễ có một nhà mạo hiểm nào có điều kiện để t́m đủ các tư liệu về chùa chiền và phong hóa đạo đức ở đây cho bằng tôi. Tôi có nhiều dịp tiếp xúc với lắm vị Lạt-ma tái sanh, các vị được xem như là Phật sống, thánh sống.

Cuộc đời của các ngài đầy những sự huyền diệu anh linh! Tôi không quên vị thượng tọa chùa Chekhar-Dzong đă truyền pháp Mật tông cho tôi. Ngài cho tôi uống thứ nước cam lộ đựng trong một loại chén huyền bí của mấy vị sư thọ mật truyền.

Gần đến chùa Puta-Gumpa. Trong khi bầy thú của chúng tôi trơn trợt trèo lên những đường ṃn trên tuyết, hai bên đầy những vực thẳm rất ghê rợn, tôi thấy ra một cảnh tượng làm cho tôi ngỡ đâu ḿnh đang trong giấc chiêm bao.

Quả thật, tôi chỉ mới tận mắt thấy cảnh này lần đầu. Lúc ấy là về đêm, theo vách đá tôi thấy có ánh sáng lạ thường, tôi thúc ngựa đến gần. Kinh khủng thay! Giữa cảnh tuyết phủ quanh năm, gió lạnh buốt thấu xương, mấy vị tu sĩ đang để ḿnh trần ngồi yên nhập định.

Chỗ này có danh là nơi luyện đạo của Mật tông. Chúng tôi trông thấy cảnh tháp thờ đức thánh Milarespa, là bậc chân tu thành đạo nổi danh ở Tây Tạng. Đă nhiều thế kỷ nay, ảnh hưởng ngài vẫn c̣n thịnh hành. Ngài vừa tinh thông các giáo điều, kinh luận của Phật tổ, lại vừa ra sức tu tŕ bằng sự nhập định trên núi tuyết rất dày công...

Vừa đến phía dưới chùa Phuta-Gumpa, tôi đă thấy ngài thượng tọa chờ đón tôi. Ngài biết có tôi đến nên đi xuống đón từ hôm qua. Ngôi chùa của ngài bị phủ dưới tuyết, chẳng có ai bước chân tới, thế mà ngài biết trước ngày giờ tôi đến.

Kể cũng lạ thật! Tôi tŕnh lên ngài xem những ấn, nhẫn và mấy xâu chuỗi đạo, những vật chứng cho tâm nguyện tu học của tôi. Và tôi cũng bày tỏ rơ nguyện vọng của ḿnh. Ngài nghiêng ḿnh để nghe, đưa ra cái đầu đội mũ đỏ, v́ ngài vốn thuộc phái thầy tu mũ áo đỏ. Kế đó, tôi lấy làm lạ mà nghe ngài hỏi han tôi. Những câu hỏi của ngài cho tôi biết rằng ngài đă biết rất rơ về lai lịch của tôi rồi.

Ngài dắt tôi vào viếng một ngôi tháp. Chúng tôi rẽ những dây leo sắn b́m mà bước vào. Nơi ngạch cửa có những cái cối quay cầu nguyện rất to và rất cổ xưa. Phía trong trang hoàng thật nguy nga, tráng lệ. Nơi chánh điện có tượng cốt của đức thánh Milarespa rất lớn, lớn hơn cả các tượng Phật trên điện.

Ngài thượng tọa v́ mắc bận nơi chùa trên, nên giao việc tiếp đón tôi cho một vị sư. Ông này là một vị ẩn tu khổ hạnh đă từng ngồi đại định trên mấy đỉnh núi cheo leo. Hiện giờ, quả thật tôi chưa thể sống nổi như các ngài: chỉ ăn ít hạt cơm trong một tuần lễ.

Tôi ngụ trong điện thờ đức Milarespa và vị sư ẩn tu thỉnh thoảng đưa tôi lên đỉnh núi mà nghe kinh với ngài thượng tọa. Trong khi lướt qua những quảng rừng sâu hoặc những cánh đồng cao có tuyết phủ, chúng tôi thường gặp nhiều bầy thú rừng. Song chúng chẳng hề sợ sệt. Dường như chúng rất an tâm đối với tâm từ bi của các vị tu hành.

Có khi ngài thượng tọa thân hành xuống viếng chúng tôi. Vị ẩn tu chào ngài rất kính cẩn và dâng lớ đăi ngài. Hai vị thường cùng tọa thiền nhập định hoặc chuyện văn, đàm đạo với nhau.

Nơi cảnh núi cao tuyết phủ, lời giảng của bậc tôn sư có sức mạnh rất thâm sâu. Dưới chân ngài, tôi ngồi giờ này qua giờ kia, quên hết thời gian. Ngoài những khi nhập định, ngài thường nhắc cho tôi nghe sự tích của đức đại thánh Milarspa. Gương tu tŕ khổ hạnh và huyền pháp của đại thánh, tất cả chư tăng Tây Tạng đều nghe biết và ghi nhớ rất rơ ràng.

Ngài thượng tọa thường xưng tụng bài kệ này:

Ở trong biển khổ luân hồi,

Trong miền tam giới cảnh đời xuống lên.

Thân người mộng ảo hay quên,

Tham mê, ưa mến cho nên khổ đời.



Hỡi ai muốn được thảnh thơi,

Chớ ham no ấm, vui chơi tháng ngày.

Thoát ra thế tục phàm phu,

Ngồi thiền cho đạt công phu mới là.



Hoa sen trong trí chẳng xa,

Lửa trời sáng hực tỏa ra độ ḿnh.

Ta nay ngồi tịnh non xanh,

Lấy ḷng thanh bạch kính thành chư linh,

Thánh, thần, các vị sư huynh,

Các ngài mau khá bước lên Niết-bàn!




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 948 of 1146: Đă gửi: 23 December 2010 lúc 8:30am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ



16. Nơi miền an lạc

Tôi sắp vào tịch cốc ở chốn non cao. Thầy tôi dạy rằng: “Từ nay con không cần học nữa, mà phải chuyên tâm hành tŕ. Con đă học đủ giáo lư, đă từng suy xét, nghiền ngẫm rồi. Con đă vượt qua nhiều gian khổ bước đầu, nay đến thời kỳ thành tựu vậy... C

on ơi! Hăy nghe ta, đây là lời chân thật về cuộc sống đời đời: tất cả vũ trụ đều là mộng ảo. Tất cả đều ở trong tâm con, từ trong tâm con mà sanh ra và khi mất đi cũng nhập vào tâm con. Tự thân con là một cảnh đền thờ uy nghiêm rồi, c̣n phải đi kiếm t́m đâu nữa?

Con có thể dùng cái ảo mộng của ánh sáng nơi cơi thế mà tạo ra tất cả. Mọi vật đều là ảo ảnh, bóng dáng hết. Con cứ ngồi thiền nơi chốn yên tịnh, rồi con sẽ thấy ra điều đó.

“Có hai cảnh đời: cảnh đời phù du, tạm gởi và cảnh đời chắc thật, miên viễn. Hăy bỏ đi sự ảo mộng ám ảnh để bước lên cảnh nhàn lạc đời đời.

“Con ơi! Hăy nhất tâm mà nhập định hành tŕ, làm cho êm dịu đi những sóng gió, băo táp trong ḷng. Hăy bỏ ra khỏi tâm trí những h́nh sắc giả tạo, hăy nhập vào cảnh giới vô h́nh, vô sắc, cảnh giới chân thật đời đời.

“Hăy dứt trừ sự tham muốn với cả những gốc rễ của nó ra khỏi ḷng con. Đừng khởi nên các hành vi, đừng xao động tâm trí. Mỗi ngày nên chuyên cần nhập định đủ bốn thời.

“Ḱa những kẻ phàm phu tục tử, họ măi chịu đau đớn trôi lăn trong cảnh luân hồi. Họ đuổi theo sự sung sướng măi mà có được đâu. V́ họ chỉ đuổi theo những lượn sóng và cát bụi mà thôi. Con hăy ngồi thiền nhập định, hăy thoát ra khỏi sự luyến ái, tŕu mến, rồi con sẽ đắc nhập sự an nhiên, thoát ra ngoài cảnh đời phàm tục vậy.

“Nên biết rằng những vị thần linh cũng hằng ao ước được như chúng ta, các vị cũng muốn được tu định như ta. Vậy con hăy bỏ đi những nghi lễ, những sự thờ cúng mê muội. Tấm ḷng từ bi xóa bỏ giới hạn giữa ta với các đấng thần linh. Nếu được sự an nhiên, chân thật vô vi th́ tự phát khởi tấm ḷng từ bi ấy.

Hăy vào cảnh hư vô của chư Phật. Ở đó, con mới thấy được đạo. C̣n khi loay hoay trong ṿng thanh sắc, tâm trí con chỉ chứa đầy những sự sợ sệt và biếng nhác. Hăy mạnh dạn mà lột bỏ cả chiếc áo cà-sa này, nhập vào cảnh đại định. Con sẽ bước vào cơi hư vô cũng như con cá xuống nước vậy.

Con ơi! Tất cả đều là ảo mộng, bóng dáng, thần tiên, cơi người cho đến hết thảy các thế giới cũng vậy. Tất cả đều tạo ra bởi từ cái tâm, nó làm cho luân chuyển trong ṿng khổ lụy. Chỉ có một vật duy nhất là không dời đổi mà thôi. Con hăy cố mà t́m cho ra vật ấy, ḥa nhập làm một với chính nó. Với công phu tham thiền, rồi con sẽ thấy...”

Theo lời chỉ giáo của tôn sư, tôi ngồi lại tham thiền, dùng một sợi dây( ) quấn ra phía sau để chịu lấy ḿnh tôi. Ngày này qua ngày nọ, trí tôi chẳng để ư đến thời giờ, chẳng biết đến ngày đêm, măi mê trong cuộc nhất tâm thiền định.

Ánh sáng dần dần tỏa rạng trong người tôi. Và như một bức màn từ từ vén lên...

Tôi cũng ngồi ḿnh trần, luyện phép dẫn lửa và lấy làm ấm áp mà nhập định trên non cao có tuyết lạnh quanh năm. Tôi được công nhận vào hàng thánh giáo chân truyền do tổ sư Milarespa sáng lập.

Ngồi xếp chân nơi am mây cốc quạnh, tôi được sự an lạc và như nhiên. Rồi, thời giờ dài dặc kéo qua như người ta lần từng hạt trong một xâu chuỗi dài. Tôi chẳng gặp gỡ một ai. Lâu lâu, chỉ có thầy tôi đến viếng và truyền cho tôi thêm ít câu chân ngôn huyền diệu mà thôi.

Những sự thấy biết của tôi nơi miền sâu thẳm, thật chẳng thể kể hết ra được. Nơi đây là một cảnh giới đầy đủ sự an vui, khoái lạc. Tôi như tách hẳn cơi hồng trần. Tôi không hề xuống núi. Và đă lâu rồi tôi không hề bước chân đến cảnh điện phía dưới thờ đức Milarespa.

Trong ḷng tôi đă dứt những sự tham cầu, vọng động. Tôi đắc nhập sự an nhiên, tịnh lạc trong cảnh núi cao rừng thẳm ở cơi Á Đông này...




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 949 of 1146: Đă gửi: 25 December 2010 lúc 10:05pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




MẤY THẦY TU HUYỀN BÍ VÀ MÔNG CỔ



Phần thứ ba: MỘT TU SĨ Ở MÔNG CỔ

Từ súc sanh, nhân loại đến tiên thánh

Nhân khi xem quyển Bêtes, Hommes et Dieux( ) của soạn giả Ferdinand Ossendowski, tôi thấy có nhiều việc huyền bí về miền Tây Tạng và Mông cổ, nên tôi trích dịch dưới đây để cống hiến cùng chư độc giả.

Nơi trung tâm cơi Á châu, từ Tây Tạng đến Mông cổ vẫn được xem là miền ẩn chứa rất nhiều điều huyền bí. Nhất là tại xứ Mông cổ. Ông Ferdinand Ossendowski đă từng có một thời gian sống ở nơi ấy, và đă từng nhận thấy lắm sự linh diệu.

Xứ sở này là nơi phát tích của nhiều dân tộc đă từng ghi danh vào lịch sử nhân loại, và cũng là nơi có lắm truyện truyền kỳ. Đây c̣n là quê hương của những dũng sĩ phi thường đă ra đi chinh phục hoàn cầu trong đoàn quân viễn chinh của vị đại đế Thành-cát Tư-hăn.

Ngày nay người ta vẫn c̣n thấy được những lăng tẩm cổ xưa, những kinh thành vùi lấp dưới trận mưa cát trong sa mạc Gobi mênh mông.

Nơi xứ này, dân chúng thờ cúng các vị thần, thờ Phật. Họ rất sùng kính vị thượng tọa Lạt-ma ở chùa xứ Ourga. Vị này ở trong chi phái Lạt-ma giáo của đạo Phật, là vị Phật sống thứ ba, sau ngài Dalai-lama( ) và ngài Trashi-lama.( )

Ông F. Ossendoswki vốn người Ba Lan, qua ở bên Nga. Về sau, ông lại bỏ xứ ở Nga mà lần xuống miền Á Châu, trải qua nhiều sự nguy khổ tưởng đă bỏ ḿnh. Ông định lần xuống Tây tạng rồi qua Ấn Độ, rồi sẽ vượt biển từ Ấn Độ mà qua Âu châu. Song khi đến Tây Tạng, ông bị bọn cướp đường chặn đánh và giết rất nhiều bạn đồng hành.

Ông liền phải trở lên Mông Cổ để qua Trung Hoa, để rồi từ Bắc kinh đi tàu thủy mà sang Âu Châu. Ông sống ở Mông Cổ trong 6 tháng, vào năm 1921. Nhờ có sư thượng tọa tái sanh ở chùa Na-ra-băn-si( ) ban cho một chiếc nhẫn, nên trong khi trải qua các nơi ở Tây tạng và Mông Cổ, ông được những vị sư ở các chùa giúp đỡ tận t́nh.

Người ta xem ông như người đă được điểm Đạo truyền Pháp, nên không có sự che dấu ǵ đối với những sự thắc mắc, t́m hiểu của ông. Lắm khi ông lâm nạn hoặc thọ bệnh nguy kịch, các sư cũng hết ḷng cứu thoát. V́ vậy, ông rất có cảm t́nh với các bậc tu tŕ trong đạo Phật.

Bài mà tôi trích dịch thuật dưới đây vốn là lời tự thuật của ông F.Ossendowski, ghi lại những ǵ ông đă tận mắt chứng kiến và t́m hiểu trong thời gian lưu lạc.



Dịch Giả: Đoàn Trung C̣n





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 950 of 1146: Đă gửi: 28 December 2010 lúc 11:38am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

   
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 951 of 1146: Đă gửi: 28 December 2010 lúc 2:36pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




HOA VÔ ƯU




Quyển Hoa Vô Ưu này được kết tập từ các bài giảng của Ḥa thượng Viện chủ Thiền viện Thường Chiếu Thích Thanh Từ.

Trong đó, gồm một số bài Ḥa thượng giảng cho Tăng Ni, Phật tử tại các Thiền viện và một số bài giảng phổ thông cho Phật tử trong cũng như ngoài nước.

Để đáp ứng nhu cầu t́m hiểu pháp thiền và hâm mộ tu thiền của Tăng Ni, Phật tử, nhưng quí vị chưa đủ điều kiện tu học trực tiếp nơi Ḥa thượng, chúng tôi tŕnh xin ư kiến của Ngài và được Ngài hoan hỷ cho biên tập lại các bài giảng trên.

Tuy nhiên, v́ là văn nói nên tập sách không sao tránh khỏi sự trùng lặp tất yếu của nó. Rất mong độc giả đạt ư quên lời. Được thế, hy vọng tập sách sẽ đến tay quư vị với những lợi ích thiết thực nhất.

Như vậy, chúng ta có thể t́m hiểu thâm nhập và hành tŕ pháp thiền. Đồng thời trên bước đường tu học, chúng ta có thêm bạn đồng hành luôn cảm thông với chúng ta.

Thường Chiếu, ngày 01.08.2002

THÍCH NHẬT QUANG




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 952 of 1146: Đă gửi: 28 December 2010 lúc 2:36pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




HOA VÔ ƯU

ĐẠO PHẬT THỰC TẾ KHÔNG HUYỀN HOẶC

(CHƯƠNG MỘT)


Phật giáo tồn tại trong ḷng nhân loại đến nay đă trên 2000 năm. Do đâu được như thế? Chính là nhờ Phật giáo nói đúng lẽ thật, đưa con người trở về với sự thật muôn đời.

V́ vậy có thể nói Phật giáo rất thực tế, không phải huyền hoặc. Đó là đề tài chúng tôi muốn nói với quí vị hôm nay.

Tại sao chúng tôi nói đề tài này? Bởi v́ đa số người theo đạo Phật, nhất là các vị lớn tuổi không t́m hiểu đúng chánh pháp. Trái lại cứ tin tưởng theo tập quán cổ truyền, do đó đạo Phật không c̣n thực tế lại trở thành huyền hoặc.

Đó là một trong những điều khiến cho Phật pháp đi đến suy tàn. Nếu để cái đà này như thế măi, các thế hệ Phật tử về sau chắc sẽ tránh xa đạo Phật, v́ thấy đạo Phật không c̣n thích hợp với thời đại mới, với nền khoa học hiện đại. V́ vậy chúng tôi muốn nói rơ đạo Phật không phải huyền hoặc, mà rất thực tế.

Nghe vậy, quí vị sẽ đặt câu hỏi: Lấy đâu làm bằng chứng? Tôi xin dẫn bài kinh đầu tiên, đức Phật dạy năm vị Tỳ-kheo trước kia đă từng theo Ngài tu khổ hạnh. Đó là bài Tứ Diệu Đế.

Đây là bài kinh hết sức cụ thể, thực tế, không có ǵ khó hiểu hay huyền hoặc. Tứ Diệu Đế là bốn chân lư chắc thật. Trong đó đế đầu tiên là Khổ đế. Nghe từ Khổ đế, thiên hạ vội kết luận đạo Phật bi quan.

Khổ đế, chữ “đế” nghĩa là chắc thực, không sai chạy. Như vậy cái khổ Phật đưa ra là một lẽ thực, không ai chối căi được. Khổ có mấy thứ? Đầu tiên là khổ về thân. Thân này có sanh, già, bệnh, chết, bốn thứ đó Phật nói là khổ.

Có người chưa chịu sanh là khổ, v́ lúc mới lọt ḷng mẹ có biết ǵ đâu mà khổ. Nói không biết ǵ hơi quá đáng, không biết vậy chớ ai khóc? Biết khóc tức là có cảm giác khổ. Trăm đứa bé lọt ḷng mẹ đều khóc, chứng tỏ chúng có thọ khổ. Đó là khổ khi sanh.

Ngoài ra c̣n có những nỗi khổ trong cuộc sống. Ở đời nếu được những việc như ư th́ người ta vui, không như ư th́ buồn, buồn tức là khổ. Mỗi vị nh́n lại cuộc đời ḿnh xem được nhiều điều như ư hay nhiều điều bất như ư? Ai cũng bảo ḿnh gặp những điều bất như ư.

Người có diễm phúc th́ điều bất như ư ít hơn, nhưng tất cả đều có gặp việc bất như ư. Đă bất như ư th́ khổ hay vui? Khổ. Như vậy đời sống của chúng ta thường gặp khổ nhiều hơn vui. Khi lọt ḷng mẹ đă có cảm giác khổ, rồi trong cuộc sống kéo dài mấy mươi năm cũng khổ.

V́ vậy Phật nói sanh khổ, chúng ta chối căi được không? Thế nhưng nhiều người lại cứ tưởng như vui, đó là vui trong tưởng tượng thôi chớ không có thật. Vậy mà thiên hạ cứ bảo cuộc đời hạnh phúc, cuộc đời có nhiều thú vui, nói lung tung nhưng rốt cuộc ai cũng vỡ mộng hết. Hạnh phúc đâu không thấy, chỉ nghe đau khổ ê chề. Đó là khổ thứ nhất, sanh khổ.

Thứ hai là già khổ. Xưa nay có ai vỗ ngực nói già vui quá không? Hay ai cũng than già khổ đủ thứ. Khổ v́ thân yếu đuối, ăn uống không ngon, trí nhớ kém cỏi, đi đứng mất tự do v.v… Những đang già, đă già biết rất rơ điều này, không nghi ngờ ǵ nữa. Đó là khổ thứ hai, già khổ.

Thứ ba là bệnh khổ. Từ bé cho tới lớn, ai cũng đều biết bệnh là khổ hết. Có người nào bệnh không rên không khóc đâu. Bệnh ít ít khả dĩ cắn răng chịu nổi, chớ bệnh nhiều rên la là điều không chối căi được rồi. Đó là khổ thứ ba, bệnh khổ.

Thứ tư là chết khổ. Như chúng ta thấy người thân khi sắp lâm chung đau đớn quằn quại rất thống khổ. Đó là chưa kể thần thức hôn mê, người sắp chết thấy những cảnh giới ǵ đó hiện ra, ḷng họ hoảng sợ, kêu gào than khóc, thật là thảm thương. Đó là khổ thứ tư, chết khổ.

Phật nói thân hiện tại của chúng ta đây, mang tính chất đau khổ từ lúc mới sanh, trưởng thành cho tới già, bệnh, chết đều khổ hết. Đó là một lẽ thực. Mới nghe người ta thấy đạo Phật như bi quan, nhưng không phải vậy.

Nếu nói thẳng th́ đạo Phật rất lạc quan, chớ không bi quan. Tại v́ đạo Phật nói rơ lẽ thật của cuộc đời, để con người không lầm lẫn, sống b́nh thản trên những khổ vui đó. Như vậy không phải lạc quan là ǵ?

Ví dụ như ta đang gánh một gánh nặng lâu quá mỏi mệt, nếu để được gánh nặng ấy xuống, lúc đó vui hay khổ? Vui. Gánh nặng trên vai th́ khổ, để xuống hết nặng là vui. Sau khi biết khổ rồi mới thấy vui, chớ vui không ngoài khổ.

Như ở nhà buồn đi xem hát thấy vui, chớ nếu ở nhà vui cần ǵ đi xem hát? Như vậy chúng ta t́m cái vui sau khi bị khổ. Cũng thế, đạo Phật nói khổ để chúng ta phăng t́m nguồn gốc của nó mà dẹp trừ, khổ hết th́ vui đến. Đó là bốn cái khổ về thân.

Kế đến c̣n bốn thứ khổ về tâm nữa, tổng cộng vừa thân tâm là tám thứ. Nếu kể tiếp theo th́ thứ năm là ái biệt ly khổ. Khổ do thương mến mà xa ĺa. Người ḿnh thương mến mà phải xa ĺa, có hai trường hợp: xa ĺa trong lúc đang sống và xa ĺa v́ kẻ âm người dương, tức kẻ chết người sống.

Lúc đó vui hay khổ? Khổ. Nên nói ái biệt ly khổ. Ái nhiều th́ khổ nhiều, nếu không có ái th́ khổ không thành. Bởi v́ đâu phải ai đi xa ḿnh cũng khổ, chỉ người ḿnh thương đi xa ta mới khổ thôi. Khổ này gốc từ tham mà ra. Do khao khát, tham muốn sống gần người ḿnh thương mến mà phải xa, không được toại ư nên khổ.

Thứ sáu là oán tắng hội khổ. Ngược lại với mến thương là oán ghét. Người ḿnh ghét mà cứ hiện diện trước mặt hoài, ta rất bực bội khó chịu, muốn họ đi đâu cho khuất mắt.

Nhưng ngặt nỗi, trên đời này người ḿnh thương th́ cứ phải chịu xa ĺa, c̣n kẻ ḿnh ghét thường hay gặp gỡ. Khổ này gốc từ sân mà ra. Do sân hận nên người ḿnh oán ghét mà phải sống chung th́ khổ.

Thứ bảy là cầu bất đắc khổ. Những ǵ ḿnh muốn mà không được th́ khổ. Ví dụ đi thi mong muốn được đậu, mà lỡ rớt th́ sao? Khổ. Ngoài việc thi cử ra, c̣n bao nhiêu thứ cầu mong khác nữa. Như trong công việc làm ăn, trong t́nh cảm… Nhiều người muốn tự vận v́ cầu mong mà không được như ư.

Thứ tám là ngũ ấm xí thạnh khổ. Khổ do thân năm ấm này chung hợp lại. V́ sự chung hợp này được kết nối bởi các thứ duyên có khuynh hướng nghịch nhau, bên trong luôn mâu thuẫn, chống trái nhau. V́ vậy mà khổ.

Nhiều người c̣n trẻ nghe nói thân này khổ không tin. V́ họ nghĩ đến tương lai hạnh phúc, làm sao khổ được? Có người nói rằng khi nào xúc chạm phải những điều trái ư mới khổ. Nếu xúc chạm những điều như ư th́ đâu có khổ.

Ví dụ lỗ tai nghe những âm nhạc hay, lỗ mũi ngửi mùi thơm, lưỡi nếm vị ngon… những lúc ấy là vui chớ đâu có khổ? Do đó Phật nói khổ là Ngài hơi nghiêng về một bên, nghĩa là chỉ thấy toàn khổ mà không thấy vui.

Sự thực không phải vậy. Phật nói thân này là gốc của khổ. Tại sao? V́ vô thường nên khổ. Ngày nay trẻ ngày mai lớn lên, rồi già, bệnh và cuối cùng là chết, không dừng ở một chỗ.

Nói chung những ǵ luôn biến đổi, không dừng ở một chỗ th́ làm cho người ta khổ. Quí vị khi bốn mươi tuổi ít ai nhớ ḿnh sẽ già tới, mà cứ nhớ hồi c̣n hai mươi, mười tám. Tới chừng năm mươi tuổi cũng không nhớ ḿnh năm mươi tuổi nữa, cứ nhớ hồi ba mươi bốn mươi.

Tại sao lại cứ nhớ lúc trẻ hoài? Mấy ông già bảy tám mươi tuổi ngồi lại kể chuyện, toàn chuyện thời đó trai trẻ oai hùng nhất làng. Ít khi nào kể bây giờ ba già lẩm cẩm, run rẩy, chậm lụt… Luôn luôn nhớ về thuở c̣n sung sức vui tươi, không chịu nhận lúc ḿnh đang đuối sức, gầy ṃn.

Phật nói thân này vô thường nên khổ, chớ không vui. Giả sử có những cảm giác vui th́ cũng vui trong tạm bợ vô thường. Qua rồi khổ lại, chớ không có vui thật. Vui của vô thường, Phật nói vui trong đau khổ, không phải vui thật nên nói chung tất cả đều là khổ.

Phật dạy cốt để chúng ta nhận định kỹ về cuộc đời này, luôn khổ không vui. Như vậy chúng ta phải có thái độ thế nào? Buồn, nhăn mặt nhíu mày cả ngày phải không? Nếu vui cười th́ e trái lời Phật dạy. Quí vị nghĩ sao cho đúng?

Thật ra Phật dạy khổ không có nghĩa để chúng ta ôm ấp nỗi khổ đó suốt đời. Phật nói khổ để ḿnh diệt khổ, hết khổ. Cũng như bác sĩ xem mạch biết bệnh nhân bị bệnh nguy hiểm, nhưng bệnh trạng chưa xuất phát nên người bệnh không biết.

Bác sĩ v́ muốn cho người đó sớm trị hết bệnh nên buộc ḷng phải nói cái nguy hiểm của căn bệnh kia. Nó bắt đầu khởi mầm như thế nào, phát triển như thế nào v.v… Nói cho họ hiểu để lo trị sớm, trị sớm th́ sẽ lành bệnh. Nếu bác sĩ thấy mầm bệnh rơ ràng nguy hiểm mà không chịu nói th́ chừng nào bệnh nhân mới trị hết bệnh được?

Cũng vậy, Phật thấy được nỗi khổ của chúng sinh, đó là quả xuất phát từ nhân họ đang gây tạo hoặc đă gây tạo. Nên khi nói Khổ đế Phật liền nói qua Tập đế.

Khổ không phải tự có mà do nhân duyên gom góp lại tạo thành. Nhân ấy nhà Phật gọi là Tập đế. Như vậy Phật đi từ quả phăng tới nhân. Bởi v́ không biết nhân làm sao trị tận gốc khổ được?

Tập đế là những cội gốc của phiền năo, là tập nhân tạo thành quả khổ. Cội gốc phiền năo c̣n được gọi là căn bản phiền năo. Có sáu thứ: Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Sáu thứ này là nhân tạo thành quả khổ.

Nếu ai diệt hết sáu thứ đó sẽ hết quả khổ. Ví dụ người biết tu bỏ sạch ḷng tham, th́ có khổ v́ cầu bất đắc không? Không. Người diệt bỏ nóng giận th́ có khổ v́ oán tắng hội không? Không. Các thứ khác cũng thế.

Đến ngă mạn tức thấy ta cao, ta quan trọng. Do thấy như thế nên khi sắp mất rất khổ. Bây giờ nếu thấy ta là hư giả, tạm bợ th́ có phách lối với ai không, thân này sắp hoại có khổ không? Sở dĩ chúng ta khinh người là v́ thấy ḿnh cao quí quá, quan trọng quá.

Bây giờ thấy ḿnh là tạm bợ, giả dối th́ đâu có ǵ quan trọng. Không trọng ḿnh nên đâu có khinh người. Rơ ràng chỉ cần chúng ta có một chút trí tuệ thấy đúng như thật, th́ khổ về sanh già bệnh chết hết liền.

Nếu lư giải bằng trí tuệ th́ thật thân này không có ǵ quan trọng hết. Chẳng qua chỉ là một nhóm nhân duyên tụ hội lại chớ có ǵ đâu. Nhiều người thường vỗ ngực xưng tôi, nhưng hỏi cái ǵ là tôi th́ trả lời không chạy.

Nếu da thịt là tôi th́ khi nó bệnh bác sĩ mổ bỏ đi, cái tôi đó thành ǵ? Chỉ cần da thịt có vết thương hôi thối, lúc đó ḿnh quí hay muốn bỏ? Khi c̣n lành lặn ta thấy quí, khi nó hư hoại xem không ra ǵ, bỏ đi không chút thương tiếc. Rơ ràng cái ta không phải những ǵ ḿnh đang mang đây.

Phật nói ví dụ thế này. Như người đi qua khu rừng vắng vào ban đêm, chỉ một ḿnh không có bạn bè. Lúc mệt mỏi quá anh thấy một túp lều người ta cất để làm rẫy, liền vào đó trú đỡ qua đêm. Ở trong đó chưa bao lâu, anh thấy một con quỉ to vác thây người đem vào quăng dưới đất.

Sợ quá anh đứng núp sát kẹt vách. Kế đó một con quỉ khác xông tới, hai đứa giành nhau cái thây chết. Con quỉ thứ hai nói xác này của nó, con quỉ thứ nhất cũng nói của nó. Giành giật với nhau một hồi, chúng phát hiện ra anh đang núp trong kẹt vách. Thế là anh được lôi ra cử làm trọng tài.

Do chứng kiến từ đầu tới cuối, nên khi bọn chúng hỏi xác này của ai, anh trả lời của con quỉ thứ nhất. Giận quá con quỉ thứ hai giựt cánh tay của anh quăng ra ngoài. Con quỉ thứ nhất liền xé cánh tay của xác chết ráp lại cho anh.

Con thứ hai giựt tiếp cánh tay c̣n lại của anh quăng ra ngoài. Con thứ nhất lại ráp cánh tay của xác chết vào. Cứ thế, một con giựt một con ráp từng thân phần của xác chết vào người anh.

Rốt cuộc tay chân của xác chết đă được ráp vào cho anh. Hai con quỉ bấy giờ mỏi mệt quá, thấy hai tay hai chân quăng ra ngoài đó, liền lấy chia nhau ăn. Ăn xong chúng bỏ đi.

Bấy giờ anh chàng tội nghiệp kia nh́n lại thấy rơ ràng thân ḿnh bị quăng ra rồi, bây giờ tay chân này của ai? Nghĩ vậy, anh mới đi t́m một vị A-la-hán hỏi:

“Thưa Thầy, tôi có phải là tôi không?” Vị A-la-hán nói rằng: “Nếu anh biết anh không phải là anh th́ gần với đạo rồi”. Ngay đó anh phát tâm tu, chẳng bao lâu sau chứng được A-la-hán.

Phật kể câu chuyện này để làm ǵ? Bởi chúng ta thấy thân này quá thật nên tu hoài vẫn không tới đâu. Lúc nào ḿnh cũng thấy cái ngă là quí là thật nên khổ v́ nó.

Nếu chúng ta biết cái ngă không thật, không quí th́ bỏ nó một cách dễ dàng, không đau khổ tí nào hết. C̣n ngă mạn v́ thân là c̣n đau khổ, hết ngă mạn mới hết đau khổ. Đó là ngũ ấm xí thạnh khổ.

Tám cái khổ đó không phải tự có mà do các thứ bệnh sanh ra. Bệnh tham, bệnh sân, bệnh si, bệnh mạn, bệnh nghi, bệnh ác kiến. Riêng nghi có chia ra hai thứ:

Một, nghi do phân vân không quyết đoán điều hay lẽ thật, cái nghi này làm chướng ngại việc tu. Hai, trong nhà thiền thường dùng câu “Đa nghi đa ngộ”, nghĩa là nghi nhiều ngộ nhiều. Tại sao? V́ cái nghi của nhà thiền là nghi để phăng t́m.

Do phăng t́m mới sáng lên, c̣n cứ một bề nghe sao hay vậy, không thắc mắc ǵ cả th́ không bao giờ hiểu thấu đáo được. Cho nên nói đa nghi đa ngộ. Cái nghi này là nghi tốt, giúp cho chúng ta tiến trên con đường tu.

Cuối cùng là bệnh ác kiến. Đây là bệnh rất trầm trọng. Chữ kiến là nhận định, chữ ác là sai lầm. Khi nhận định sai lầm, lại cố chấp nhận định của ḿnh là đúng th́ trở thành ác, gây ra tội lỗi.

V́ nhận định sai lầm mà cố chấp vào đó sẽ dẫn đến dám làm những điều tai họa cho nhân loại. Do đó ác kiến là cái nguy hiểm nhất. Song ở thế gian lại có nhiều ác kiến.

Ví dụ chúng ta nghĩ tu là được vui, được sanh về các cơi lành hoặc được giải thoát. V́ thế cứ tu cho ḿnh mà không nghĩ tới những người chung quanh như cha mẹ, anh em v.v... Không cần biết tới mọi chuyện trong sinh hoạt hằng ngày.

Ai sao mặc, miễn ta yên ổn tu là được. Nếu có người khuyên bảo, nhắc nhở trách nhiệm, liền đổ quạo bảo ma vương phá không cho tu. Nghĩ v́ ḿnh nhiều quá nên càng tu mọi người chung quanh càng chán ḿnh. Bởi họ thấy ta ích kỷ.

Tu mà để cho người ta phiền hà khó chịu cũng là cố chấp. Cho nên ác kiến cũng là một trở ngại trên đường tu của chúng ta.

Phật gọi sáu thứ bệnh đó là sáu thứ phiền năo căn bản. Nếu dẹp sạch sáu thứ này mới được an vui thật sự. Như vậy Phật nói khổ không phải để chúng ta chịu khổ, mà nói khổ để chúng ta dẹp hết gốc khổ, được vui.

Cho nên mới có đế thứ ba là Diệt đế, nghĩa là diệt sạch hết nhân khổ. Khi hết khổ, Phật nói hết khổ chớ không nói vui. Tại sao? Thường thường chúng ta cứ mắc kẹt trên đối đăi khổ vui, muốn hết khổ để được vui.

Nhưng sự thực hết khổ là vui rồi. Hết khóc tức hết buồn, c̣n buồn th́ c̣n khóc. Không nói vui mà vẫn tự vui.

Phật nói cứu kính Niết-bàn tức là Diệt đế. Sao nói diệt mà không nói được cái ǵ hết? Không nói được ta cảm thấy buồn. Phật biết chúng sanh nặng về bệnh tham cầu nên trong kinh Bát-nhă, Ngài dạy:

“dĩ vô sở đắc cố Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhă ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu kính Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhă-ba-la-mật-đa...”

nghĩa là v́ không có sở đắc nên Bồ-tát mới xa ĺa điên đảo mộng tưởng, cứu kính Niết-bàn. Ba đời chư Phật cũng y Bát-nhă mà thành Phật. Rơ ràng Phật nói cứu kính của công phu tu hành không có sở đắc.

Nhưng tu mà không được ǵ, thiên hạ không chịu, đ̣i phải được. Hết khổ phải được vui. Sự thực hết khổ là vui rồi. Vui mà nói “được” th́ không phải thật vui. Tại sao? V́ khi nói “được” là cái đó không phải tự ḿnh có.

Như khi ta đi đường lượm được một tấm giấy bạc th́ nói tôi lượm được giấy bạc này. Nếu giấy bạc ấy sẵn trong túi, ra chợ ta lấy ra xài th́ không nói “được”, v́ nó là của ḿnh mà. Nói được th́ cái đó không phải của ḿnh.

Lâu nay chúng ta có bệnh đ̣i “được” mà không biết cái được đó không phải của ḿnh. Biết rơ chỗ này mới tu hạnh Bồ-tát và đi tới quả Phật được, c̣n đ̣i được sẽ không bao giờ được.

Đa số người tu lầm lẫn điều này nên dễ bị người ta đánh lừa. Nghe nói tu theo tôi ba tháng, bảy tháng được cái này cái kia, thích quá theo liền. Tu phải được cái này cái kia mới vui chứ. Tu như quí thầy dạy không được ǵ hết, buồn quá.

Khổ vốn không tự có mà do nhân tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến mới có. Nếu những nhân này diệt hết th́ vui tự đến. Sạch hết nhân khổ th́ quả vui hiện ra, chớ đâu có ai đem cho chúng ta cái vui mà nói được.

Nên biết vui này không phải từ ngoài mà được. Nói như thế nghe hơi khó hiểu, nhưng nếu quí vị chịu khó nghiền ngẫm kỹ sẽ thấy. Đức Phật không muốn nói tu để được cái này được cái kia ǵ hết. Tại sao? V́ trong chúng ta có hai thứ:

Một là tánh sáng suốt thanh tịnh, hai là tâm ô nhiễm loạn động. Bây giờ muốn tánh sáng suốt thanh tịnh hiển bày th́ phải dẹp bỏ tâm ô nhiễm. Phật không thể cho chúng ta sự giác ngộ, mà chính ḿnh dẹp sạch các nhân phiền năo th́ tự sáng lên, đó là giác ngộ.

Như khi đọc kinh sách chúng ta hiểu, cái hiểu đó nhờ đức Phật hướng dẫn, nương nơi Phật mà hiểu. C̣n nếu chúng ta ngồi thiền, tâm yên trí sáng hiểu biết thấu đáo, đúng đắn mọi việc. Đó là do đâu? Do chính ông Phật của ḿnh hiện ra nên trí tuệ sáng suốt viên măn, thấy biết tất cả.

Khi đức Phật Thích-ca giác ngộ dưới cội Bồ-đề là do Ngài thiền định, chớ đâu phải suy gẫm hay nghiên cứu vấn đề ǵ, chỉ là tâm định. Tâm định th́ trí sáng mới thấy tất cả, gọi là giác ngộ. Phật thường tuyên bố “ta học đạo không có thầy”, tức không có ai dạy mà tự giác ngộ.

Như vậy giác ngộ này là trí tuệ sẵn của ḿnh, chớ không phải ai đem đến. Cho nên người nào tu Phật mà phóng tâm ước mơ gặp những hiện tượng lạ bên ngoài đều gọi là ngoại đạo. T́m đạo ở ngoài ḿnh là ngoại đạo.

Hiểu thế mới thấy sự thâm trầm của đạo Phật. Đức Phật chỉ dạy chúng ta dẹp sạch hết những nhân đau khổ ḿnh hằng chứa chấp th́ hết đau khổ. Khi hết khổ chúng ta tự an vui. Đó là lẽ thực.

Như vậy công phu tu hành là công phu của ai? Chính ḿnh phải tự gạn lọc những nhân xấu nhân khổ loại ra. Loại hết nhân xấu khổ th́ tự nhiên được vui. Diệt hết các nhân khổ gọi là Diệt đế tức hết khổ. Nhưng diệt bằng cách nào? V́ vậy Phật đưa ra Đạo đế, tức con đường diệt khổ. Đây là đế thứ tư trong Tứ đế.

Đạo đế là những phương tiện, những cách thức để chúng ta ứng dụng tiêu diệt các nhân khổ. Đạo đế theo giáo lư Nguyên thủy có ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Ở đây không có th́ giờ nói hết, chỉ nêu tên cho tất cả có khái niệm thôi. Đủ duyên quí vị nên nghiên cứu thêm.

Như vậy bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật rất cụ thể, rất thực tế, không có ǵ huyền hoặc. Nhưng bây giờ chúng ta tu có giống lời Phật dạy chưa? Đó là vấn đề cần được nêu lên để chúng ta thấy rơ cái ǵ thực, cái ǵ hư.

Các ngôi chùa cổ ở Việt Nam cũng như nước ngoài đến nay vẫn c̣n ứng dụng theo nếp cũ, đa số chú trọng về nghi thức. Mà nghi thức nhị thời khóa tụng phát xuất từ đời nhà Thanh của Trung Quốc.

Đời này Phật giáo suy vi, nguyên quán vua chúa nhà Thanh ở gần Hy Mă Lạp Sơn nên đa số nặng về Mật giáo. Do đó họ yêu cầu các Thiền sư soạn nghi Nhị thời khóa tụng, phần nhiều đều của Mật giáo. Đầu hôm tụng kinh Di-đà, sau đó tụng chú.

Trọn một buổi khuya tụng Lăng Nghiêm, Thập chú đều thuộc về Mật tông hết. Thế là phần giáo lư uyên thâm của đức Phật không thấy nhắc đến, không được đem ra ứng dụng.

Phật giáo Việt Nam chúng ta lại ảnh hưởng Trung Hoa, nên cũng tu theo nghi thức của người Trung Hoa soạn, vào thời kỳ Phật giáo tại nước họ suy đồi.

Nghi của người Trung Hoa soạn th́ không phải là của Phật thời xưa, mà chúng ta lấy đó làm nếp tu hành suốt đời th́ thật là đáng buồn! Thí dụ như bây giờ Phật sự của Tăng Ni là ǵ? Phật tử có cha mẹ mất th́ đi hộ niệm.

Như vậy cũng tốt, nhưng hộ niệm xong rồi tới ǵ nữa? Cầu siêu trong mấy tuần thất. Mấy tuần thất xong rồi ǵ nữa? Tới ba tháng, bốn mươi chín ngày, rồi giáp năm, sau đó lâu lâu là giỗ.

Như vậy cứ liên miên Phật tử này đến Phật tử khác, ai đ̣i cũng phải đi. Thành ra Tăng Ni đi tối ngày, không rảnh chút nào hết lấy chi mà công phu.

Song tôi đặt câu hỏi lại, thầy cô tụng kinh cầu siêu cho Phật tử, nhưng có bảo đảm rằng họ siêu hay không? Có ai dám kư giấy giao kèo “tôi cầu nhất định người đó siêu” không? Không dám kư. Ta làm một việc không bảo đảm, không chắc chắn mà cứ làm như vậy có hợp lư, có thực tế không?

Trong kinh A-hàm có kể lại thế này. Một hôm sau khi đức Phật thọ trai xong, có năm bảy vị Bà-la-môn tới hỏi:

- Thưa ngài Cồ-đàm, đệ tử Ngài khi chết, Ngài cầu cho họ sanh về cơi trời được không?

Phật không trả lời mà hỏi lại:

- Nếu đệ tử các ông chết, các ông có cầu cho họ sanh về cơi trời được không?

Các vị Bà-la-môn đáp:

- Được.

Phật liền dùng ví dụ thế này để hỏi các thầy Bà-la-môn:

- Như có người lăn một cục đá to xuống giếng, sau đó họ yêu cầu các thầy chấp tay cầu nguyện cho cục đá đừng ch́m, các thầy làm được không?

Các thầy Bà-la-môn đáp:

- Không được.

- Tại sao?

- V́ đá nặng quá, rớt xuống giếng nhất định ch́m, cầu cách chi cũng không thể nào nổi được.

Phật lại nói:

- Giả sử có người đem dầu đổ lên mặt nước, sau đó yêu cầu các thầy chấp tay cầu nguyện cho dầu ch́m tận đáy giếng được không?

- Không được.

- Tại sao?

- V́ dầu nhẹ nhất định phải nổi lên trên mặt nước, có cầu mấy cũng không ch́m được.

Phật nói:

- Cũng vậy, người làm nghiệp ác phải đọa, các ông cầu sao cho khỏi đọa. C̣n người làm nghiệp thiện dù các ông có ác ư muốn cầu họ đọa, họ cũng sanh lên cơi trời như thường.

Qua ví dụ này chúng ta nghĩ sao? Nghiệp thiện nghiệp ác là nhân chủ yếu để sanh lên hay đọa xuống, chớ không phải do cầu mà được.

Sở dĩ Phật giáo Việt Nam gần đây theo nếp cúng kính nhiều, chẳng qua là ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc. Ở Trung Quốc, Nho giáo là gốc. Bởi thế nên họ nặng về h́nh thức nghi lễ.

Cha mẹ chết phải để tang, phải ra nằm giữ mộ ba tháng, phải để râu tóc… đủ thứ nghi lễ rườm rà. Khi Phật giáo sang Trung Hoa so với Nho giáo nghi lễ rất nghiêm trang, nếu người theo đạo Phật không lễ mễ như vậy, họ buồn không chịu theo, buộc ḷng các thầy cũng chế ra nghi lễ.

Thế là Phật tử có cha mẹ chết cũng rước quí thầy lại để hiến tửu, hiến trà, hiến phạn đàng hoàng. Đó là phương tiện độ người Trung Hoa thời đó, cho họ thấy đạo Phật cũng có nghi lễ nghiêm chỉnh, không thua sút nhà Nho.

Người sau không hiểu phương tiện tùy thời của các bậc tiền bối, lại đem phương tiện biến thành chỗ cứu kính, làm cho giáo lư nhà Phật bị sai lạc. Thật là đáng tiếc!

Chúng ta phải hiểu đạo Phật từ gốc, không nên theo ngọn. Do đó tôi phải nhắc để quí vị nhớ, thật ra đạo Phật rất cụ thể, rất thực tế, chớ không huyền hoặc như nhiều người lầm tưởng.

Trong những bài thuyết pháp đầu tiên của Phật cũng như những bài pháp sau này, Phật đều không chấp nhận cúng kính cầu nguyện là việc chính của các Tỳ-kheo. Thế mà bây giờ ḿnh lại lấy cúng kính cầu nguyện làm Phật sự chính, rồi cả đời tu cứ dồn vào đó, có phải đáng tiếc không?

Người tu là người t́m ra con đường sáng suốt giác ngộ cho ḿnh và mọi người. Tăng bảo là những vị tăng thanh tịnh cao cả, truyền tŕ mạng mạch của Phật pháp, chớ không phải thầy cúng đi đám cho Phật tử vui.

Chúng ta thăm viếng khi hữu sự cho có đạo t́nh một chút với Phật tử, tạo niềm an ủi để hướng dẫn họ đi theo con đường chánh th́ được. C̣n cứ mải miết theo cái thường t́nh thế gian, rồi mắc kẹt ra không được gọi là sa lầy trong phương tiện.

Người học Phật phải thấy rơ chủ yếu của đạo Phật là cứu khổ. Đă là cứu khổ th́ phải chỉ cái khổ cho người ta thấy. Biết khổ rồi không nghi ngờ nữa, kế đó ta chỉ nhân gây ra đau khổ để tiêu diệt nó.

Nhân đau khổ hết th́ quả đau khổ cũng hết. Muốn thế phải có phương pháp cụ thể, ứng dụng một cách thiết thực, chớ không phải cầu nguyện suông. Đó là việc làm chính của người tu sĩ Phật giáo.

Phật không tu thế cho chúng ta được, mà tự ḿnh tu tập để được giải thoát. Lâu nay tôi hơi khổ một chút là v́ bị Phật tử bắt tôi vuốt đầu. Cứ nói “thầy vuốt đầu cho con tu tinh tấn”. Tôi khổ ghê mà không có cơ hội để giải thích.

Thật ra quí vị phải tự tinh tấn lấy, chớ không phải do tôi vuốt đầu mà siêng được. Phật tử cứ mơ ước người khác làm thế ḿnh, không chịu tự làm. Đó là một lối ỷ lại không tốt.

Hiểu như vậy rồi th́ khỏi hỏi ai tôi tu được không, học hành đỗ đạt không, cúng kính cầu nguyện được không? Tự chúng ta quyết định lấy, không cần phải hỏi ai, v́ không ai có thể trả lời được ngoài ḿnh.

Tôi nghĩ rằng muốn cho người sau thấy được cái hay của đạo Phật, bây giờ Tăng Ni phải khai sáng, giảng trạch những ǵ đúng những ǵ sai cho Phật tử hiểu. Không nên che lấp những khiếm khuyết, sai trái c̣n tồn đọng trong ḷng Phật giáo.

Bởi v́ nếu che lấp như vậy măi th́ thế hệ con cháu của chúng ta sau này sẽ bỏ đạo. V́ chúng thấy đạo Phật chẳng có ǵ hay, chỉ mang màu sắc mê tín thần bí đâu đâu, không giải quyết được những vấn đề hiện thực trong đời sống con người. Như thế vô t́nh chúng ta đă phá đạo rồi.

Đức Phật thường tuyên bố Ngài là một vị đạo sư, tức vị thầy dẫn đường, chớ không phải người đưa chúng sanh lên cơi Cực Lạc. Nếu Phật đưa được th́ bây giờ chúng ta không c̣n ngồi đây nữa.

Hiện giờ ta c̣n lang thang đây th́ biết rằng Phật không dùng phép thần thông đưa ta được. Ngài hướng dẫn chỉ đường cho ḿnh đi, ta không chịu đi Phật cũng bó tay. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy đạo Phật rất cụ thể, rất thực tế.

Trong kinh Tiễn Dụ, có một vị Tỳ-kheo tới hỏi Phật: Thế giới là hữu biên hay vô biên, chúng sanh là hữu biên hay vô biên? v.v... Phật im lặng không trả lời. Vị Tỳ-kheo kia nói Phật không trả lời tức là Ngài không biết nên không hỏi nữa, cũng không thèm tu.

Bấy giờ Phật nói ví dụ, như có người bị trúng tên độc. Khi ấy thân nhân anh ta rước thầy thuốc đến mổ khử độc. Ông thầy định nhổ mũi tên ra, anh ta ngăn lại: Khoan đă, đừng nhổ gấp, để tôi hỏi xem mũi tên này từ đâu bắn lại, người bắn là ai ở đâu, cao hay thấp, trắng hay đen. Trả lời xong những thắc mắc này rồi sẽ nhổ.

Thầy nghĩ sao? Chưa trả lời hết những câu hỏi kia th́ anh đă thấm thuốc độc chết mất rồi. Cũng vậy, đợi ta nói chuyện thế giới hữu biên hay vô biên, chúng sanh hữu biên hay vô biên th́ kiếp sống thầy đă qua mất rồi.

Mạng người có mấy chục năm quá ngắn ngủi, không lo tu hành cứ t́m hiểu thế giới hữu biên vô biên v.v... Thực tế hỏi ḿnh có đau khổ hay không, tại sao đau khổ, làm cách nào để hết khổ, đó mới là chuyện cần làm ngay. Thế mà chúng ta không chịu làm việc ấy trước, hỏi chi chuyện xa xôi?

Đức Phật rất thực tế, cụ thể, không viển vông mơ hồ. Chúng ta tu theo Ngài cũng phải như vậy, không chấp nhận việc ǵ không biết kết quả ra sao mà vẫn cứ làm.

Khi nào xét thấy rơ ràng, nhân quả tương ưng như thế ta mới làm. Ví dụ Phật dạy tám cái khổ trên là do sáu nhân phiền năo căn bản mà có.

Bây giờ bớt tham th́ không có khổ cầu bất đắc, bớt ái th́ không có khổ ái biệt ly, bớt chấp ngă th́ không có khổ về thân ngũ ấm. Làm được cái nào kết quả ngay cái đó, không nghi ngờ.

Thời đại của chúng ta hiện nay khoa học ngày càng phát triển. Nếu đạo Phật mang màu sắc huyền bí th́ dần dần sẽ không đủ sức thuyết phục những thế hệ sau.

Truyền giáo như thế th́ đạo Phật sớm đi đến ngày cáo chung. Do đó chúng ta, hàng xuất gia cũng như cư sĩ tại gia phải ư thức được bổn phận, trọng trách của ḿnh ở ngày mai.

Đừng nuôi lớn những tư tưởng sai lầm cho người để cuộc sống của ḿnh được an nhàn. Đó là chúng ta có tội với Phật pháp, có tội với chúng sanh.

Để kết thúc, chúng tôi xin nhắc tất cả Tăng Ni cũng như Phật tử nỗ lực tu tập để chuyển nghiệp của ḿnh.

V́ chỉ khi nào dứt nghiệp, sạch nghiệp chúng ta mới thấy được chân giá trị của đạo Phật, là đưa con người thoát khỏi đau khổ một cách triệt để. Lợi ích ấy vô cùng lớn lao và thiết thực.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 953 of 1146: Đă gửi: 28 December 2010 lúc 2:38pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




HOA VÔ ƯU

ÔNG THIỆN ÔNG ÁC

(CHƯƠNG HAI)



Hôm nay chúng tôi xin giới thiệu sơ lược với quí vị một vài lối nh́n của Phật giáo Việt Nam qua kinh điển Phật dạy. Nếu nhận định chín chắn chúng ta sẽ thấy Phật giáo Việt Nam có những ưu điểm đáng cho ḿnh học tập và ứng dụng theo.

Những ngôi chùa cổ ở Việt Nam, từ ngoài cổng đi vào chúng ta nh́n bên phải thấy tượng một vị rất hiền ḥa, dân gian gọi đó là ông thiện, bên trái tượng một vị rất dữ dằn, dân gian gọi đó là ông ác. Nhiều người thắc mắc chùa là nơi hướng dẫn Phật tử trở về con đường lành, thờ ông thiện đủ rồi, tại sao lại thờ ông ác?

Nhưng với cái nh́n của chúng tôi, bản ư của chư Tổ qua hai h́nh tượng ông thiện ông ác, mang một ư nghĩa thâm trầm, cao siêu hơn. Bởi v́ ḷng từ bi trong nhà Phật lúc nào cũng muốn đem lại sự an vui lợi lạc cho tất cả chúng sanh.

Nhưng v́ tŕnh độ chúng sanh không giống nhau, nên các phương tiện hóa độ của chư Phật, Bồ-tát cũng khác nhau. Có người dùng lời hiền ḥa, cử chỉ thương yêu chỉ dạy họ liền cảm mến nghe theo. Có người ngang bướng dùng lời hiền ḥa nói họ không chịu nghe, buộc ḷng phải có thái độ dường như ác dữ mới chuyển họ được.

Người dùng lời hiền ḥa chỉ bảo dạy dỗ chúng ta, nhà Phật gọi là thiện hữu tri thức. Ngược lại những người rầy rà mắng chửi chúng ta, nhà Phật gọi là ác tri thức. Nghe nói ác là ḿnh không ưa, điều này hầu hết Phật tử đều nh́n nhận như vậy.

Nhưng nhà Phật không nghĩ thế. Bởi v́ với người tu nhất là tu Phật, chúng ta không nên nh́n một mặt, mà phải nh́n thấu suốt toàn diện. Khi gặp khó khăn, những lúc thối chí, chúng ta phải nhờ thiện hữu tri thức hiền lành an ủi nhắc nhở, mới cố gắng vươn lên được.

Nhưng khi tu hành an ổn, tự thấy như ḿnh đạt đạo tới nơi th́ tâm sanh kiêu mạn, tự hào. Trong trường hợp này nếu không có cơ hội cảnh tỉnh th́ chúng ta rất khó thức tỉnh, cho nên phải có ác tri thức thử thách để hỗ trợ.

Ví dụ như chúng ta nguyện tu hạnh nhẫn nhục. Nếu ai cũng quí kính, tán thưởng th́ ḿnh thấy như thành công tới nơi rồi. Nhưng thật t́nh không có ǵ để làm bằng chứng rằng ta đă thực hành hạnh nhẫn nhục.

Hôm nào bất thần có người đến chửi mắng, lúc đó ḿnh ra sao? Chắc ta nghĩ người chửi mắng kia là kẻ ác muốn phá hoại sự tu hành của ḿnh. Nghĩ như vậy là nh́n có một mặt. Chính cơ hội bị chửi mắng chúng ta mới thấy ḿnh c̣n nóng giận, bực tức không? Bị chửi mắng mà c̣n nóng giận, bực tức th́ hạnh nhẫn nhục chưa thực hành được.

Nếu người yếu hèn nhút nhát bị chửi mắng dễ thối lui. C̣n người thấy rơ kẻ chửi mắng là ác tri thức, là người cảnh tỉnh để ta đừng mắc bệnh tự măn. Nhờ chửi mắng nên ḿnh thấy được ḿnh. Nếu c̣n dở th́ cố gắng tu thêm, nếu an nhẫn được trước sự chửi mắng, ḷng vẫn thản nhiên tự tại th́ mừng hạnh nhẫn nhục đă thành công.

Như vậy người chửi mắng là ông giám khảo của chúng ta. Nhờ ông mà ta biết ḿnh đậu hay rớt. Thế th́ đó là người ân hay là kẻ oán? Người chửi mắng cho ḿnh tiến lên, đạt được sở nguyện tu hành là người ân, chớ đâu phải kẻ oán.

Một bên an ủi vỗ về khích lệ chúng ta tiến tu. Một bên chửi mắng làm nhục ḿnh mà ta vẫn tự tại. Hai người đó khác nhau không? Tuy hai hành động khác nhau nhưng kết quả đều đưa chúng ta đi lên chớ không phải d́m xuống.

Trừ người chưa biết tu hoặc tu dối dối th́ gặp cơ hội đó nổi sân lên oán hờn người ta. Chớ thật ra cả hai đều là ân nhân thành tựu đạo nghiệp cho ḿnh cả. Chúng ta tu phải có đủ hai mặt.

Có khi được người khuyên lơn vỗ về để khích lệ ḿnh tiến lên trong lúc yếu đuối, nhưng cũng có khi nhờ người mạnh bạo dám chửi mắng, dám dùng những thủ đoạn ác để khử trừ bệnh ngă mạn, giúp chúng ta tiến lên. Cho nên cả hai người đều là bạn thân của chúng ta. Nh́n như thế mới hợp với đạo lư Phật dạy.

Chúng ta thường có bệnh phân biệt đây là người thân, kia là kẻ thù. Đă có thân có thù tức có thương có ghét, phiền năo từ đó mà phát sanh. Bây giờ phải sửa lại, người giúp ḿnh thân đành rồi, người phá hoại cũng thấy là người thân luôn.

Được vậy đâu có thù ghét ai, đâu có phiền năo dấy khởi. Thế nên ông thiện là biểu trưng cho hạnh từ bi thuận, phù hợp với việc lành; c̣n ông ác là biểu trưng cho hạnh từ bi nghịch, phù hợp với hạnh dữ. Nếu hiểu được vậy, quí Phật tử tu hành sẽ tiến nhanh, không thấy ǵ trở ngại hết. C̣n không hiểu thế, tu một lúc dễ thối tâm. Bởi v́ trên đường tu không phải lúc nào cũng gặp việc như ư.

Nhiều người không hiểu cứ than với chúng tôi, tại sao tu mà vẫn bị phá phách. V́ cho rằng phá phách là làm trở ngại sự tu hành của ḿnh. Phật tử cứ nghĩ một bề, tu là ai cũng thương cũng quí kính ḿnh hết, đó là sai lầm.

Chúng ta tu trong nhà Phật dùng từ chuyên môn là khai chiến với ma quân. Do khai chiến nên bao nhiêu hiểm nguy dồn tới ḿnh, để làm ǵ? Để thấy ta là chiến sĩ thắng trận hay bại trận. Nếu không có những thử thách đó, chắc rằng trên đường tu không ai là người xứng đáng hết.

Vô chùa gặp việc ǵ cũng hay cũng tốt, lâu ngày ḿnh mắc bệnh tự cao ngă mạn không hay. Cho nên những cái khó, những trở ngại là cơ hội tốt để chúng ta tiến tu

Như ở ngoài xă hội có cơ quan từ thiện, cũng có cơ quan cảnh sát. Thường thường nghe cơ quan từ thiện chúng ta có cảm t́nh, nhưng nghe cơ quan cảnh sát chúng ta hơi khó chịu. Song thử hỏi lại từ thiện và cảnh sát, cứu kính thế nào? Một bên giúp người khổ nạn để họ được an vui, một bên ǵn giữ trật tự an ninh cho dân chúng sống b́nh yên.

Cả hai đều có chung một mục đích là giúp cho mọi người sống an ổn. Thế th́ ta đều phải quí phải thương hết hai bên mới phải, tại sao một bên thương, một bên không thích. Rơ ràng đó là quan niệm sai lầm.

Trong kinh Phật thường dạy, người tu phải bỏ hai bên, đừng oán đừng thân. Tức kẻ oán đừng chứa chấp trong ḷng, người thân đừng trói buộc thêm. Muốn bỏ hai bên phải có lối nh́n như chúng tôi đă nói, người thân là ông thiện, người oán là ông ác. Ông thiện ông ác đều là người giúp cho ḿnh tiến lên, nên cả hai đều b́nh đẳng đối với sự tu tiến của chúng ta.

Bên nào cũng đưa ḿnh lên chớ không bên nào muốn hạ ḿnh xuống. Nếu có xuống là tại v́ chúng ta c̣n yếu đuối thôi. Nói người ta làm khó tôi tu không được, điều đó sai lầm. Chỉ nên nói v́ tôi yếu đuối nên gặp cảnh khó tôi thối lui. Lỗi ở ḿnh chớ không phải lỗi ở cảnh.

Đa số chúng ta hay đổ thừa ngoại cảnh mà ít nhận lỗi nơi ḿnh. Bây giờ nên tập nh́n khó và dễ, thiện và ác đối với chúng ta đều là cơ hội tốt. Nh́n tường tận như vậy th́ trên đường tu không có ǵ cản trở ḿnh được, chắc chắn chúng ta sẽ tiến và tiến măi.

Tinh thần này trong kinh Pháp Hoa, Phật đă nói rơ qua phẩm Đề-bà-đạt-đa. Đức Phật tuyên bố Đề-bà-đạt-đa đă từng hại Ngài nhiều đời nhiều kiếp, nhờ thế nên Ngài mới chóng thành Phật quả. Cho nên Đề-bà-đạt-đa chính là người ân, là nghịch hạnh tri thức bậc nhất tác thành đạo nghiệp cho Thế Tôn.

Do hiểu đạo lư chúng ta nh́n người ngăn trở gây khó khăn cho ḿnh là ân nhân cở lớn, chớ không phải ân nhân thường. V́ người hiền lành không dám chửi ai, sợ mang tội. Chỉ có người dám chịu tội chửi ta để thử xem ḿnh vươn lên được không, đó mới là tri thức cở lớn, là bậc Bồ-tát hy sinh v́ chúng sanh.

Người an ủi khuyến khích chúng ta tiến lên th́ dễ quá, có phước chớ đâu sợ tội. C̣n v́ lợi cho người mà dám gánh tội về ḿnh mới có công đức lớn, chúng ta phải bái phục họ chớ không nên giận hờn. Đó là Phật tử nh́n đủ cả hai mặt, không nh́n phiến diện. Đây là điểm thứ nhất.

Điểm thứ hai, Phật giáo luôn luôn dạy chúng ta phải biết tất cả chúng sanh đều có tánh Phật. Ai cũng có tánh Phật nên ai cũng có khả năng thành Phật. Kinh Pháp Hoa đă nói rất rơ về điều này.

Trong phẩm Bồ-tát Thường Bất Khinh, Phật bảo Bồ-tát Thường Bất Khinh đi đâu, gặp ai cũng chấp tay lễ bái nói: “Tôi không dám khinh các ngài, v́ các ngài đều sẽ thành Phật”. Như vậy Ngài có tu, có làm lợi ích ǵ cho ai chưa?

Chúng ta có bệnh khi nói đến Phật th́ nghĩ Ngài là bậc cao cả tuyệt vời, ḿnh không bao giờ với tới. Do tự ti mặc cảm như thế nên chỉ mơ ước ḿnh tu mai kia được làm tôi tớ của Phật là phước lắm rồi, chớ mong chi làm Phật.

Bồ-tát Thường Bất Khinh muốn phá tâm tự ti mặc cảm đó, nên Ngài luôn chấp tay bái chúng ta “tôi không dám khinh các ngài, v́ các ngài đều sẽ thành Phật”. Đó là Ngài trao cho chúng ta một niềm tin rằng ḿnh có khả năng làm Phật.

Tại sao chúng ta tin như vậy? Bởi v́ đức Phật Thích-ca cũng là một con người, Ngài sống trong hoàng cung cũng có vợ có con, chớ đâu phải là ông thánh từ trên trời rơi xuống. Nhờ nỗ lực tu Ngài thành Phật. Chúng ta cũng là con người, nếu nỗ lực tu chúng ta cũng sẽ thành Phật, không nghi.

Tất cả chúng ta đều có khả năng như Ngài, nhưng tại ta mặc cảm nên cứ thấy Ngài ở trên mây xanh, c̣n ḿnh ở dưới đất. Giờ đây chúng ta thấy rơ ḿnh có khả năng thành Phật nên cố gắng tu để đạt kết quả như nhau. Chỉ khi không cố gắng, không chịu tu chúng ta mới xa Phật thôi.

Một khi nh́n ra ai cũng có khả năng thành Phật, th́ không chỉ giới xuất gia mới có khả năng thành Phật, mà kể cả hàng cư sĩ tại gia cũng có khả năng thành Phật. Không chỉ trong phạm vi người tu theo Phật mới có khả năng thành Phật mà người không tu theo Phật cũng có khả năng thành Phật.

Nên nói cái nh́n của đạo Phật không phân biệt tôn giáo, không phân biệt màu da, chủng tộc, tất cả mọi người ai cũng có thể thành Phật, nếu biết tu.

Nh́n thấy ai cũng có khả năng thành Phật là Phật nhân. Tu hành tới cứu kính viên măn là thành Phật quả. Ví dụ chúng ta đă sẵn có trong túi hạt bắp tốt. Giờ đây muốn có cây bắp, quả bắp th́ chịu khó gieo hột trồng. Nếu có trồng có chăm sóc th́ cây bắp sẽ vươn lên cho hoa cho trái.

Chỉ người lười biếng không chịu trồng, có hạt giống mà để đó th́ không bao giờ đạt được kết quả. Cũng thế, Phật tánh sẵn có trong mọi người, nhưng nếu ai chịu khó vén những lớp vô minh phiền năo, phá hết các bệnh tự cao ngă mạn, mới có thể thành tựu Phật quả.

C̣n người biết ḿnh có khả năng thành Phật, nhưng không phá trừ phiền năo, tự cao tự đại th́ có Phật nhân mà không được Phật quả nên vẫn khổ như bao nhiêu chúng sanh khác. Lẽ thật như thế, chớ không ai cao hơn ai cả.

Tôi thường ví dụ như cha mẹ giàu, có nhiều ḥn ngọc quí như nhau. Trong gia đ́nh năm ba anh em, khi cha mẹ gần mất mới đem ngọc quí đó chia mỗi đứa một viên. Người anh cả biết đem bán ra xài th́ sẽ giàu có sang trọng. Nhưng mấy người em mải lo việc học hành hay việc này việc nọ, họ cất kỹ viên ngọc và quên luôn.

Người anh cả nhà cửa sang trọng thấy mấy đứa em nhà cửa xấu xí nhưng có dám khinh không? Tuy h́nh thức hiện tại thấy ḿnh hơn các em, nhưng thật ra của báu bên trong chúng nó cũng như ḿnh. Do đó đâu dám khinh.

Hiểu như vậy tất cả chúng ta dù tu trước hay tu sau đều biết ai cũng có thể thành Phật. Cho nên không bao giờ nghĩ ta tu cao người kia tu thấp. Hoặc ta biết tu, người kia không biết tu…

Người có của quí mà biết dùng th́ được sang trọng. Người có của quí nhưng quên lăng, không biết dùng th́ tạm thời nghèo khổ, chớ thật sự không phải nghèo.

Trách nhiệm của chúng ta là nhắc nhở, đánh thức nhau lấy của báu ra dùng. T́nh thương cứu giúp như vậy nhà Phật gọi là ḷng từ bi. Cho nên từ bi trong đạo Phật là làm sao mọi người có của quí đều biết dùng, để cùng được sung sướng như nhau.

V́ có t́nh thương đó nên đạo Phật không cho phép chúng ta ngồi ngó lơ, ai khổ mặc họ, không thèm biết tới, sống như vậy th́ ích kỷ quá.

Các chùa Việt Nam đa số đều khuyên Phật tử nên tụng kinh Pháp Hoa, có khi tụng cả tuần lễ. Đó là v́ kinh Pháp Hoa rất quan trọng, rất cần thiết, quí thầy cô muốn tất cả Phật tử ai cũng đều hiểu, đều sống đúng với tinh thần ấy.

Song rất tiếc có những người tụng mà không ứng dụng. Nếu biết học theo gương của Bồ-tát Thường Bất Khinh, chúng ta sẽ tiến được nhiều ít? Bệnh lớn của con người là tự cao ngă mạn, thấy ai hơn ḿnh th́ đâm ra bực tức đố kỵ, thấy ai thua ḿnh th́ khinh rẻ.

Ai ở cho vừa ḷng ḿnh? Cứ nghĩ ai hơn là lấn lướt ḿnh, ai thua là hèn hạ hơn ḿnh, mà không ngờ ḿnh và mọi người đều có khả năng thành Phật như nhau. Hơn thua chẳng qua là nghiệp tập thôi.

Ví dụ người có phương tiện đi học có cấp bằng này cấp bằng nọ, c̣n người không có phương tiện không được đi học nên quê dốt. Người quê dốt và người học cao có khác ở sự huân tập. Huân tập hay th́ trở thành hay, huân tập dở th́ trở thành dở.

Huân tập là cái mới chớ không phải cái sẵn, cái sẵn th́ ai cũng như nhau cho nên không có cao thấp. Chúng ta nh́n trên mặt huân tập sai biệt, mà không nh́n ngay cội nguồn căn bản, để thấy ai cũng có khả năng giác ngộ. Nh́n như thế mới không dám khinh miệt ai hết.

Người có tâm đố kỵ là do nh́n trên nghiệp tướng sai biệt, mà không nhận ra bản tánh b́nh đẳng của muôn loài. Hiểu thế rồi chúng ta phải làm sao có cái nh́n thấu suốt rơ ràng rằng ai cũng có tánh Phật.

Đă có tánh Phật th́ mọi người đều có khả năng thành Phật, quả vị Phật không chỉ dành riêng cho ḿnh, c̣n người khác không có.

Ai cũng có quyền làm Phật hết. Người hiểu đạo đi trước nhắc người đi sau, để cùng nhau nhận ra tánh Phật b́nh đẳng ấy, không ai khinh khi ai. Được vậy đức khiêm tốn sẽ đến với ḿnh, chấp ngă dần dần tiêu mất.

Chỉ cần hai cái nh́n, thứ nhất là không có thân và thù. Kẻ thân người thù chẳng qua là phương tiện giúp chúng ta tiến tu thôi. Ai cũng được xem như ân nhân của ḿnh hết. Đă là ân nhân th́ không có chuyện thương người này ghét người kia, ta đều thương mến mọi người như nhau.

T́nh thương đó mới b́nh đẳng, mới gọi là từ bi chứ. Cái nh́n thứ hai là ai cũng có khả năng thành Phật, do đó ta không dám khi người này, đố kỵ người kia. Chúng ta sống trong tinh thần bao dung ḥa hợp, khiêm tốn, cung kính mọi người.

Cho nên Bồ-tát Thường Bất Khinh suốt đời chỉ làm một việc, gặp ai Ngài cũng bái nói:

“Tôi không dám khinh các ngài, v́ các ngài đều sẽ thành Phật”.

Mới nghe qua chúng ta thấy như Ngài không đem lợi lạc ǵ cho ai, nhưng đức Phật Thích-ca đă nói:

"Bồ-tát Thường Bất Khinh ngày xưa là tiền thân của Ngài. Do tu hạnh ban rải niềm tin đến cho mọi người, giúp họ nhận ra ḿnh có khả năng thành Phật, mà Ngài được thành Phật hiệu Thích-ca".

Chúng ta thấy nhân dường như quá đơn giản mà quả to lớn vô cùng. Đó là hai cái nh́n tốt đẹp trong tinh thần Phật giáo Việt Nam nói riêng cũng như tinh thần Phật giáo nói chung.

Đến cái nh́n thứ ba là cái nh́n của Thiền sư. Ở Việt Nam có phái thiền Trúc Lâm Yên Tử, Sơ tổ là một ông vua đi tu tức vua Trần Nhân Tông. Ngài xuất gia tu hành ngộ đạo, sau đó lập ra hệ phái thiền Trúc Lâm Yên Tử. Sau này Ngài được tôn là Sơ tổ Trúc Lâm. Chúng tôi thành lập Thiền viện cũng để tên Thiền viện Trúc Lâm là muốn nói lên tinh thần của Thiền tông Việt Nam.

Thế th́ Thiền tông Việt Nam có những điểm ǵ đáng cho chúng ta phải lưu tâm? Ở đây tôi nói qua một nét nhỏ thôi, v́ không đủ thời gian nói nhiều. Quí vị nào có đọc bài phú Cư Trần Lạc Đạo bằng văn Nôm của vua Trần Nhân Tông, sẽ nhớ phần kết thúc Ngài viết bốn câu kệ bằng chữ Hán thế này:



               Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,

               Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.

               Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,

               Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.

Dịch:    

               Ở đời vui đạo hăy tùy duyên,

               Đói đến th́ ăn mệt ngủ liền.

               Trong nhà có báu thôi t́m kiếm,

               Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.



Chỉ bốn câu thôi mà ư nghĩa thật tuyệt diệu. Ở đời vui đạo hăy tùy duyên là sống giữa cơi trần tục, tức ngay giữa ḷng đời, chúng ta vẫn vui với đạo. Làm sao để được vui? Ngài dạy phải khéo tùy duyên.

Tùy duyên thế nào? Đói đến th́ ăn mệt ngủ liền, dễ quá phải không? Ai cũng bằng ḷng như thế. Nhưng thưa đừng hiểu lầm chỗ này. Ai không đói ăn mệt ngủ. Nhưng bốn chữ đói ăn mệt ngủ này mang tính chất cụ thể của ư nghĩa tùy duyên. Cụ thể thế nào?

Bởi v́ tùy duyên là khi nhu cầu đến chúng ta giải quyết ngay nhu cầu đó, đừng băn khoăn, đừng lo liệu, đừng sợ hăi. Đói ăn, mệt ngủ tức là những nhu cầu trong sinh hoạt b́nh thường của chúng ta. Tùy theo hoàn cảnh mà ḿnh giải quyết, đừng tính toán băn khoăn hay trông đợi ǵ cả, đó là tùy duyên.

Nếu chúng ta băn khoăn, tính toan, lo sợ v.v… trước hoàn cảnh hiện tại, cứ do dự măi nên không giải quyết được ǵ cả, đó là chưa biết tùy duyên.

Nghĩa là khi nào có sự việc xảy đến, chúng ta cứ ngay đó giải quyết, không nghĩ đây là việc to rồi hồi hộp sợ hăi; không nói đây là lợi tâm sanh vui mừng, hoặc đây là hại nên bực bội tức tối.

Tùy duyên giải quyết, việc ǵ đến th́ làm một cách an nhàn tự tại, đó là sống tùy duyên. C̣n giải quyết bằng cách cau có bực bội là chưa biết tùy duyên.

Muốn sống giữa cơi đời mà vẫn vui với đạo th́ phải biết ư nghĩa tùy duyên ấy. Nếu gặp việc thuận th́ mừng, việc nghịch th́ giận là chưa tùy duyên.

Người như thế không thể t́m nguồn vui của đạo ở trong ḷng cuộc đời. Hai câu này đă nói lên một pháp tu rồi. Tu cả đời cũng chưa xong nữa. Làm sao trong cuộc sống này mọi việc xảy ra đều được như ư chúng ta hết.

Phần nhiều sự việc như ư ít mà việc bất như ư th́ nhiều. Nếu ḿnh không biết tùy duyên, gặp việc bất như ư buồn khổ năm bảy ngày, như vậy một đời người chúng ta lăn lộn trong cơi trần chịu khổ đến bao nhiêu? Làm sao vui với đạo được!

Nhờ biết tùy duyên, sự việc đến chúng ta b́nh thản giải quyết, không lo lắng sợ sệt. Cũng như khi đói gặp cơm th́ ăn. Có ǵ ăn nấy không đ̣i hỏi món này món nọ, không chê khen ngon dở. Khi mệt nằm xuống liền ngủ, không nghĩ xa nghĩ gần, không toan tính việc ǵ cả.

Người sống như vậy là tùy duyên. Chớ đừng nghĩ tùy duyên đói ăn mệt ngủ, rồi đói lúc nào lôi cơm ăn lúc ấy, mệt lúc nào nằm ́ ra ngủ lúc đó, không biết giờ khắc tu hành ǵ hết, th́ không được. Hiểu như thế chúng ta mới thấy tinh thần tu của Sơ tổ Trúc Lâm.

Trong nhà có báu thôi t́m kiếm, Ngài thấy rơ nơi con người chúng ta có ḥn ngọc quí sẵn bên trong, nên bảo ḿnh đừng chạy t́m kiếm ở đâu cho nhọc. Chúng ta đă có ngọc, ngọc đó là tánh giác, là Phật.

Như vậy muốn t́m Phật đâu cần phải leo lên non hay lặn xuống biển, chỉ ngay nơi ḿnh xoay đầu nh́n lại là có Phật thôi. Chúng ta khéo đừng để những phiền năo ô nhiễm che lấp tánh giác sẵn có.

Lặng hết phiền năo ô nhiễm th́ ông Phật của ḿnh hiện tiền. Cho nên nhiều người tới chùa thấy thờ các vị A-la-hán, có vị phạch ngực ra, bên trong có h́nh Phật ngồi. Đó là để chỉ ông Phật sẵn đây rồi, chỉ cần vạch hết phiền năo nhớp nhúa sang một bên, th́ Phật hiện ra ngay, không khó khăn ǵ hết.

Đến câu chót là câu rất chí thiết trong nhà thiền. Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền. Đối cảnh tức là mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi v.v… Khi sắc đẹp đến, mắt vẫn thấy mà không có tâm muốn được, không dính mắc ở sắc đẹp.

Tai nghe tiếng, biết rơ mà không có tâm khen chê. Mũi ngửi mùi phân biệt rơ ràng thơm hôi, nhưng không v́ hôi mà bực, không v́ thơm mà nhiễm. Lưỡi nếm vị có ngon dở, nhưng không v́ ngon mà đ̣i thêm, không v́ dở mà chán bực.

Tóm lại, đối với sáu trần chúng ta không có niệm đuổi theo, không có niệm dính mắc. Ngay đó là thiền rồi, khỏi cần hỏi ai hết. Rất đơn giản.

Thiền rất đơn giản nhưng tại chúng ta không chịu giản đơn thành ra cứ nắm, cứ dính hoài. Đừng thèm dính th́ đơn giản vô cùng. Nên biết thiền không phải cái ǵ huyền bí xa xôi, chỉ cần đừng đuổi theo, đừng dính mắc với năm trần bên ngoài.

Người không dính mắc với năm trần có tự tại, có an lạc không? Tự nhiên là tự tại, là an lạc. C̣n người đuổi theo, dính mắc với năm trần th́ dĩ nhiên là bị nó trói buộc lôi đi. Điều đó quá rơ ràng, chúng ta đă biết hết rồi, chỉ không ứng dụng tu nên chưa được an lạc, chưa được tự tại thôi.

Như vậy thiền của đạo Phật dạy cho chúng ta đừng dính mắc với năm trần bên ngoài và pháp trần bên trong, nói chung là sáu trần. Đừng dính với sáu thứ đó th́ tự tại an nhàn.

Quí vị kiểm nghiệm lại xem, những sai lầm của ḿnh từ trước đến giờ có phải do ta không sống đúng với tinh thần Phật dạy không? Nếu chúng ta ứng dụng hai câu trên, tùy duyên sống trong cơi đời mà vui với đạo, th́ cuộc sống rất thong dong, tự tại. Thấy rơ nơi ḿnh có của báu rồi, khỏi đi hỏi ai, khỏi t́m cầu nơi nào khác. Ta tự an ổn bằng cách làm cho ḥn ngọc quí của ḿnh hiện ra.

Người đời khổ v́ mắt thấy sắc cho là đẹp, muốn được về ḿnh, không được th́ buồn. Tai nghe tiếng hay muốn tiếng đó tiếp tục măi, không được cũng buồn. Lưỡi thích vị ngon nên đưa vị dở vô cũng buồn. Chúng ta cứ đuổi theo, đ̣i hỏi năm trần thành ra khổ.

Nếu ḿnh không dính mắc ǵ hết, không có niệm đuổi theo nó th́ cứ đói ăn, mệt ngủ, không ngại chi cả. Tu tức là t́m nguồn an lạc trong tâm, chớ không phải có nhiều tiền nhiều của. Chỉ không dính mắc bên ngoài là tâm an lạc.

Cho nên đối với cái nh́n của Phật giáo Việt Nam, việc tu rất đơn giản. Nếu chúng ta khéo ứng dụng, chỉ bốn câu kệ của Sơ tổ Trúc Lâm đời ḿnh cũng đă thảnh thơi rồi. Tôi xin nhấn mạnh phải khéo ứng dụng, chớ không phải học thuộc ḷng bốn câu kệ đó mà thong dong tự tại.

Việc ngừng đuổi theo năm trần là việc làm của chúng ta, không phải của Phật, Tổ hay thầy ḿnh. Dính cũng ḿnh, không dính cũng ḿnh. Ai cũng có quyền làm việc đó hết. Chỉ chịu làm hay không chịu làm thôi.

Hiểu vậy mới thấy đạo Phật rất gần với chúng ta, nhưng v́ ḿnh không thức tỉnh nên thấy như cách xa. Ai cũng có khả năng thành Phật, dù ngày nay người đó chưa tu c̣n nhiều nghiệp ác, nhưng ngày mai thức tỉnh họ tu th́ cũng tốt. C̣n chúng ta đang tu, nhưng nếu ngày mai thối tâm th́ cũng thành người xấu như thường.

Bởi vậy trong nhà thiền có kể câu chuyện: Ngày xưa anh chàng làm hàng thịt nọ buôn bán mấy chục năm ngoài chợ, bất thần hôm đó anh thức tỉnh bỏ nghề hàng thịt, xuất gia tu hành. Khi xuất gia rồi, sáng sờ đầu bỗng có tỉnh, anh làm bài kệ:



               Tạc nhật dạ-xoa tâm,

               Kim triêu Bồ-tát diện.

               Dạ-xoa dữ Bồ-tát,

               Bất cách nhất điều tuyến.

Dịch:

               Hôm qua tâm dạ-xoa,

               Ngày nay mặt Bồ-tát.

               Dạ-xoa cùng Bồ-tát,

               Không cách nhau đường tơ.



Mới hôm qua làm người hàng thịt là tâm quỉ dạ-xoa, nhưng khi thức tỉnh, cạo đầu tu th́ bữa nay nh́n ra mặt Bồ-tát. Như vậy Bồ-tát và quỉ dạ-xoa cách nhau bao xa? Không cách một đường tơ, gần bên nhau chớ không xa chút nào hết.

Hiểu như vậy chúng ta thấy trên đường tu ai cũng có phần, dù người đó đang lao đao lận đận trong cảnh tội lỗi. Nhưng khi họ thức tỉnh rồi cũng sẽ thành Bồ-tát.

Do đó ta không dám khinh khi ai, phải học theo hạnh Bồ-tát Thường Bất Khinh, gặp mọi người đều lễ bái nói “tôi không dám khinh các ngài, v́ các ngài đều sẽ thành Phật”.

Nếu chúng ta biết tu và ứng dụng đúng theo lối của Phật Tổ dạy, chắc rằng con đường giải thoát không xa. Chỉ không khéo ứng dụng tu mới thấy con đường giải thoát cách xa trời vực.

Hôm nay tôi chỉ giới thiệu đơn giản một vài nét của Phật giáo Việt Nam cho quí vị nhớ ứng dụng tu, để Phật tử đừng hiểu lầm Phật giáo Việt Nam chuyên đi cúng đi lễ bái hoài.

Phật giáo Việt Nam có những ưu điểm hay lắm nhưng tại chúng ta ứng dụng, thực hành chưa đúng. Mong tất cả hiểu và ứng dụng tu theo những ǵ Tổ tiên ḿnh đă chỉ dạy. Được vậy lợi ích thiết thực nhất định sẽ đến với chúng ta.



Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 954 of 1146: Đă gửi: 28 December 2010 lúc 2:38pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




HOA VÔ ƯU

MÊ VÀ GIÁC

(CHƯƠNG BA)



Buổi giảng này tôi sẽ nói cho quí Phật tử biết rơ những điều cần thiết để quí vị ứng dụng tu cho xứng đáng với danh nghĩa người Phật tử. Đề tài hôm nay là Mê và giác.

Đạo Phật là đạo giác ngộ. Tiếng Phạn Buddha, Trung Hoa dịch âm là Phật đà, dịch nghĩa là “người giác ngộ”. Cho nên đạo Phật là con đường đưa chúng ta tới giác ngộ, lấy giác ngộ làm nền tảng, không giống những tôn giáo khác lấy ḷng tin làm căn bản. V́ vậy đệ tử tu theo Phật được gọi là Phật tử, chớ không gọi “Tín đồ đạo Phật”.

Tại sao? V́ tín đồ là đồ đệ lấy ḷng tin đối với đạo làm chỗ tuyệt đối. Đạo Phật không như thế, phải có giác ngộ hoặc ít hoặc nhiều, chớ không lấy ḷng tin làm trên hết. Phật là giác, tử là con, Phật tử là con bậc giác ngộ.

Không thể cha giác ngộ mà con mê muội được. V́ vậy Phật tử khi tu phải thấy lẽ thật, thấy chân lư đức Phật đă dạy để được giác ngộ. Cho nên giác là tinh thần của Phật tử, c̣n mê là tinh thần của chúng sanh.

Trước tiên tôi nói về phần mê. V́ chúng sanh đang mê nên chư Phật mới thương xót chỉ dạy để được giác ngộ. Mê cái ǵ? Người thế gian nói mê là tối tăm mù mịt, giác là sáng suốt. Thấy biết sai sự thật, không đúng lẽ thật mà tưởng thật, gọi là mê. Như hoa trắng mà thấy đen là mê, v́ thấy trái lẽ thật.

Thí dụ hiện giờ ai lỡ xúc phạm tới danh dự ḿnh một chút, quí vị có giận không? Có. Giận nhiều hay ít? Giận nhiều. Nhưng chúng ta thử hỏi lại “danh dự là ǵ, nó ra sao?” Không ai biết hết.

Nói chạm tới danh dự của tôi, khiến tôi nổi giận nhưng lại không biết danh dự là ǵ. Đừng nói tới danh dự, chính tôi cũng không biết “tôi là ǵ” nữa! Những điều ǵ trái với ư nghĩ, trái với ư muốn của ḿnh, ta nói nó sai quấy. Nhưng sự thật không biết ai sai?

Như Phật tử không phải là người xấu, mà có kẻ nói anh xấu hay chị xấu, quí vị có biến thành xấu liền không? Không. Họ nói qua rồi mất tiêu, không có ǵ hết, nổi giận làm chi. Nếu họ nói mà ta biến thành xấu th́ nên giận.

Đằng này họ nói xấu ḿnh vẫn không thay đổi sắc diện, có ǵ sợ. Chỉ khi nổi giận ta sẽ trở thành xấu thật, cho nên không phải người ta nói xấu ḿnh thành xấu, mà tại nổi giận nên thành xấu.

Phật tử phải xử sự thế nào cho đúng trong trường hợp đó? Người ta nói nhưng ḿnh không chuyển đổi thân tâm th́ có quan hệ chi đâu, như gió lùa qua tai rồi mất, có ǵ phải giận.

Nhưng tại sao chúng ta giận? V́ muốn ai ai cũng phải khen ngợi, cũng phải tôn trọng ḿnh. Cho nên nghe một lời khinh chê, thấy một hành động bất kính là tức giận liền.

Con người sống trong ảo tưởng nhiều hơn thực tế. V́ vậy Phật nói chúng sanh si mê. Người đời v́ mê mà tiêu tan hết sự nghiệp, v́ mê mà bệnh hoạn, khổ đau. Như mê rượu chè, mê cờ bạc, mê đàn điếm, mê hút sách…

Những cái mê đó đưa tới hư hại cả cuộc đời và làm liên lụy đến gia đ́nh cha mẹ, anh em, rộng hơn nữa là xă hội. Càng mê nhiều càng khổ nhiều, nên nói mê là nhân của đau khổ.

Hồi xưa những vị lớn tuổi ở Việt Nam hay dùng từ “tứ đổ tường” tức là rơi vào bốn bức vách. Bốn bức vách đó là ǵ? Là tửu, sắc, tài, khí. Tửu là mê rượu, sắc là mê sắc đẹp, tài là mê cờ bạc, khí là hút sách, á phiện.

Nếu rơi vào bốn thứ đó là đụng vào bốn bức tường không có lối thoát, v́ bị bốn vách ấy vây kín cả rồi. Bị vây kín là bị tù hăm, khổ đau.

Ngày nay chúng ta thấy rơ ai kẹt trong những chuyện đó đều đau khổ. Nhưng khi đi vào con đường ấy, họ có nói đi t́m đau khổ đâu, mà nói là t́m vui! Như vậy con người v́ si mê nên khổ tưởng là vui. Càng đi sâu trong đó chừng nào, khổ đau càng đậm càng nhiều, chớ không vui được. Đó là nói cái mê ở ngoài da.

Vậy mê hơi sâu trong thịt là mê ǵ? Mê danh, mê lợi. Mê ở trên chúng ta thấy rơ tai hại như vừa kể, c̣n mê ở đây không tai hại như thế, nhưng lại có tai hại khác. Người thích danh thích lợi muốn cho ḿnh trở thành người có địa vị cao nhất trong xă hội, muốn trở thành người giàu nhất nước.

Nhà Phật nói ham muốn như vậy là mê. Tại sao? V́ người ta nghĩ làm quan lớn sẽ sung sướng, có đầy quyền uy. Nhưng nếu nói đúng nghĩa của người làm quan, trách nhiệm lớn chừng nào th́ khổ chừng ấy. Phải lo cho mấy triệu dân được b́nh an, được no cơm ấm áo, lo bù đầu rảnh đâu mà vui.

Tinh thần căng thẳng, luôn luôn t́m cách này, cách nọ làm cho dân hết nghèo, hết khổ. Đó là nỗi khổ lớn, chớ đâu phải vui. Nhưng chỉ v́ một chút danh vị, được người ta chào đón hoan nghênh, mà biết bao người ch́m trong nỗi khổ lớn ấy.

Đó là chưa kể trước khi được quan chức phải vận động. Vận động người này, vận động người kia bỏ thăm cho ḿnh. Khi đắc cử rồi rất mừng. Như vậy chưa được cũng khổ, v́ cầu cứu người này, xin xỏ người kia. Được rồi cũng khổ v́ phải lo cho dân, cho nước.

C̣n một cái khổ nữa, là sợ sơ suất bị người ta hất xuống, mất mặt. Hoặc măn nhiệm kỳ rồi, không biết c̣n cái ghế nào để ngồi không? Tóm lại cả ba thời đều khổ: trước khổ, giữa khổ, sau khổ.

Nói rơ hơn là chưa được khổ, đă được khổ, được rồi mất khổ. Song đáng tiếc người đời lại cho đó là vui, nên suốt đời chạy theo danh vọng, để suốt đời phải lao đao lận đận v́ danh vọng.

Người muốn làm giàu, giàu lớn, có khổ không? Chúng ta chưa ở địa vị giàu lớn, chắc không biết cái khổ đó đâu. Người ở địa vị đó mới thấm thía được nỗi khổ nhà giàu.

V́ muốn giàu nên phải t́m mọi cách để ra tiền, lúc đó đau đầu tính toán nên khổ. Khi có tiền nhiều rồi sợ mất, sợ bị người khác sang đoạt nên khổ. Chưa kể tới lúc già sắp chết, con cái giành của. Cha mẹ phải nằm đó nh́n thấy cảnh nồi da xáo thịt, thật là khổ.

Từ khi chưa làm giàu ḿnh bao nhiêu tuổi, bắt đầu làm giàu được rồi bao nhiêu tuổi, khi thật giàu nh́n lại đầu bạc sắp ra đi. Như vậy tiền của nhiều mà chết tới, không hưởng được càng khổ.

Khổ v́ tiếc bao nhiêu năm vắt kiệt sức lực mà bây giờ không được hưởng. Lúc chưa giàu, ngỡ khi tiền của nhiều sẽ vui, không ngờ giàu sang rồi rốt cuộc vẫn khổ. V́ vậy Phật nói ham mê danh lợi là khổ.

Bây giờ thử hỏi lại, người ít danh ít lợi có khổ không? Hồi xưa đọc truyện Tàu, tôi nhớ câu chuyện Hứa Do với Sào Phủ. Một hôm vua Nghiêu đi dạo trong dân gian, nghe đồn có hai vị hiền triết là Hứa Do và Sào Phủ.

Nhà vua mới t́m tới. Đầu tiên gặp Hứa Do, vua hỏi: “Nghe khanh là người hiền, vậy Trẫm mời khanh về triều làm quan có được không?”. Sau khi từ chối lời mời của vua, Hứa Do bịt tai đi tới ḍng suối rửa tai. Khi ấy Sào Phủ dẫn trâu xuống suối uống nước.

Thấy Hứa Do rửa tai liền hỏi: “Ông làm sao mà rửa lỗ tai vậy?” Hứa Do nói: “Tôi nghe danh lợi dơ lỗ tai nên đến đây rửa”. Sào Phủ liền giựt mũi trâu lên không cho uống nước. Hứa Do hỏi: “Sao không cho trâu uống nước?”. Sào Phủ nói: “Sợ trâu uống nước dơ miệng bởi mùi danh lợi”.

Hai vị hiền triết, một người nghe danh lợi rửa lỗ tai, một người sợ nước dính mùi danh lợi dơ mồm trâu nên không cho uống. Như vậy để thấy người xưa xem danh lợi đáng ghét tới mức nào. Vậy mà ngày nay người ta thèm khát danh lợi đến khổ cả đời vẫn không thấy chán. Đó là cái mê thứ hai, hơi sâu hơn một chút. Mê trong thịt.

Đến mê thứ ba thấm tận xương tủy. Đó là sợ chết. Tại sao chúng ta sợ chết? Tại tham sống nên sợ chết. Tham sống là muốn sống lâu nên sợ chết. Nhưng con người ai cũng phải trải qua bốn giai đoạn sanh, già, bệnh, chết; không thể tránh khỏi. Nếu biết già bệnh chết là cái không tránh khỏi, mà sợ là thiếu sáng suốt hay nói cách khác là si mê.

Chúng ta sợ chết v́ quí thân, muốn thân c̣n măi. Nhưng nếu giữ được cũng nên ráng giữ, giữ không được mà vẫn muốn giữ hoài, đó là chấp mê nên khổ. Người không muốn giữ thân, nghe nói sắp chết chỉ cười thôi, v́ thấy đâu có ǵ quan trọng. C̣n người muốn giữ nghe nó sắp mất liền hoảng hốt sợ sệt. Sợ v́ mê chấp thân. Đó là nói về chấp thân.

Kế đến là mê chấp tâm. Chúng ta thường cho những suy nghĩ phải quấy, tốt xấu là tâm ḿnh. Khi nổi giận lên th́ nói tôi giận, v́ chấp cái giận là tôi. Khi thương ai nói tôi thương người đó quá. Khi ghét ai nói tôi ghét người đó quá.

Như vậy cái giận là tôi, cái thương là tôi, cái ghét là tôi. Nếu thương, giận, ghét, buồn, tức, oán, hờn v.v… cái nào cũng tôi hết, như vậy chúng ta có bao nhiêu cái tôi? Cả trăm ngàn thứ tôi. Vậy cái nào là tôi thật?

Chúng ta v́ chấp những nghĩ suy phân biệt hơn thua, phải quấy là tôi rồi cứ theo đó mà tạo nghiệp. Giận th́ muốn làm cho người ta khổ, thương th́ muốn làm cho người ta vui v.v… đủ thứ chuyện trên thế gian. Đă chấp suy nghĩ là tâm ḿnh, ai làm ngược với suy nghĩ của ḿnh th́ ta chống đối, giận hờn, ai làm vừa ư ḿnh th́ có cảm t́nh.

Nhưng thử hỏi lại cái nghĩ của ḿnh có đúng 100% không? Không. Tại sao? Nếu chúng ta nghĩ đúng 100% chắc bây giờ ai cũng là đại phú gia hết. V́ nghĩ đâu đúng đó nên làm ăn ǵ được nấy. Bởi nghĩ không đúng nên bây giờ chưa giàu to.

Những suy nghĩ của chúng ta, có khi đúng, có khi sai. Nếu cho suy nghĩ là ḿnh, khi nghĩ đúng là ḿnh, khi nghĩ sai cũng ḿnh nữa. Chẳng lẽ ta là hai thứ nghịch nhau?

Bây giờ xét kỹ lại, khi chúng ta buồn giận, ḿnh nh́n lại xem cái buồn giận đó ở đâu ra? T́m một hồi không thấy nó ở đâu. Tại sao? V́ nó là cái hư ảo, không thật làm sao t́m được. Ví dụ quí vị đang buồn v́ làm ăn thất bại, bất thần có người bạn khá giả ở xa tới thăm.

Nghe tâm sự của quí vị, người bạn cho mượn một số tiền lớn để trả nợ, lúc đó c̣n buồn không? Lúc đó lại cười. Nếu buồn là thật th́ buồn hoài. Nhưng mới buồn đó, bây giờ gặp duyên tốt trở lại vui. Vậy cái buồn không thật, cái vui cũng không thật. Nó luôn luôn chuyển biến tùy duyên.

Nghĩ tôi buồn tôi vui tức cho tôi là cái tạm bợ, giả dối rồi. Chúng ta lâu nay do không có cái nh́n tường tận nên chấp lầm về thân, chấp lầm về tâm. Song nhiều người thắc mắc: Đang là ḿnh đây mà nói không thật ḿnh sao được? Nhưng thật t́nh không phải thật ḿnh.

Vừa rồi tôi gặp một Phật tử ở Melbourne. Năm nay thấy ông mập hơn, hỏi ra mới biết ông vừa thay gan. Trước kia, lá gan của ông gần như nát hết, bác sĩ nói không thế nào cứu được. Chỉ có cách cắt bỏ lá gan cũ, lấy gan khác thay vô mới hy vọng lành bệnh.

Sau khi gia đ́nh đồng ư thay gan, các bác sĩ tiến hành phẩu thuật thay gan của một người khác cho ông. V́ vậy năm nay gặp lại, tôi thấy ông mập và khỏe hơn. Thế th́ cái gan đó của ai? Của ai không biết mà ráp vô bụng ḿnh rồi th́ nói chắc là của ta, không thể của ai được nữa.

Giả sử bác sĩ giỏi ráp đủ các bộ phận của người này qua người kia. Chừng đó ta hỏi anh này có thật từ trước tới giờ là anh không? Nếu thật là anh th́ các bộ phận bị thảy ra là ai, các bộ phận trước khi ráp vào tại sao của người khác?

Bộ phận của ai không biết mà bây giờ nói tôi thế này, tôi thế nọ. Chúng ta thấy rơ ràng thân này có thể từ các thân phần khác hợp lại, nó không thật của ḿnh. Tâm lăng xăng lộn xộn khi thương khi buồn khi giận, khi ghét v.v… đủ hết mà cũng nói là tâm ḿnh.

Nó không thật mà nói nó thật nên gọi là si mê. Si mê này là si mê tận xương tủy, người nào cũng có hết, chớ không riêng cá nhân ai.

Nh́n kỹ lại tất cả chúng ta đang si mê hay đang giác? Đang si mê. Vậy mà ra đường ai chỉ mặt nói chị si mê quá th́ nổi sân liền. Si mê mà không chịu si mê mới khổ chớ. Nếu đang si mê, ai nói ḿnh si mê liền chắp tay xá nhận “quả thật tôi đang si mê”, như vậy hết si mê liền. Si mê biết si mê th́ hết si mê, c̣n si mê mà không biết si mê th́ rơ ràng là si mê.

Chúng ta muốn hết si mê th́ khi ai chỉ mặt nói chị si mê quá, liền chắp tay xá cám ơn. V́ người đó đă nhắc nhở cho ḿnh biết để bỏ si mê, trở thành sáng suốt. Được vậy chắc dễ tu lắm.

Nếu căi lại là đang si mê đậm, chớ không phải si mê sơ sơ. Nói thế để chúng ta thấy ḿnh đang sống trong si mê mà không biết ḿnh si mê.

Bởi không biết nên tất cả buồn thương giận ghét bao phủ chúng ta, khiến ḿnh gây tạo không biết bao nhiêu thứ nghiệp khổ. Đời này tạo nghiệp khổ, đời sau tiếp tục trôi lăn trong các đường khổ không có ngày ra khỏi. Chư Phật thương chúng sanh là thương ở chỗ si mê đó.

Bây giờ muốn hết si mê phải làm sao? Phải giác ngộ. Biết ḿnh mê th́ phải t́m con đường sáng, con đường giác ngộ. Cũng như biết ḿnh đang ở chỗ tối th́ t́m đèn bật lên cho sáng. Như vậy mới hết tối, hết tối th́ hết khổ. Biết ta đang si mê th́ phải t́m con đường giác ngộ để được giác.

Giác th́ thoát khỏi si mê. Con đường giác ấy trong kinh Phật dạy nhiều lắm. Ở đây tôi không dẫn hết, chỉ nêu gương một vài vị đă giác, mà giác từng phần chớ không phải toàn giác, để chúng ta có thể tu học theo.

Ngày xưa ở Trung Hoa có ông Bàng Long Uẩn là một cư sĩ ngộ đạo, khi chết rất tự tại. Ông sống trong mái nhà lá đơn sơ, có cô con gái tên Linh Chiếu đan sáo bán nuôi cha.

Một hôm ông dặn người con gái: “Con ra ngoài coi đúng ngọ vô cho ba hay”. Cô con gái ra nh́n mặt trời, rồi vô nói: “Thưa ba tới giờ ngọ rồi, nhưng mặt nhật bị nguyệt thực”, tức mặt trời bị mặt trăng ăn. Nghe vậy ông lấy làm lạ chạy ra coi.

Bấy giờ cô Linh Chiếu lên bộ ngựa của ông ngồi kiết già tịch. Ông chạy vô thấy vậy nói: “Con gái ta lanh lợi quá”. Lẽ ra bữa đó ông tịch, nhưng thấy con gái đi trước nên ông lo thiêu con xong rồi đi sau. Làm lễ trà tỳ cô Linh Chiếu xong, ông báo cho bạn bè biết vài hôm nữa ông từ giả.

Vài bữa sau, có người bạn là quan huyện tới thăm. Đang nói chuyện, ông bảo: “Tôi hơi mỏi anh cho tôi tựa đầu vào gối một chút”. Người bạn đưa đầu gối cho ông gát. Vừa gát đầu lên xong, ông tịch. Hai cha con ông Bàng Long Uẩn chết rất là thảnh thơi, ra đi một cách tự tại, không có trở ngại ǵ hết.

Việt Nam chúng ta cũng có một cư sĩ là Tuệ Trung Thượng Sĩ ở đời Trần thế kỷ thứ XIII. Ông ngộ đạo với thiền sư Tiêu Dao và là thầy của vua Trần Nhân Tông. Được vua Thánh Tông ban cho một sở đất, ông lập gia trang ở đó và cất một cái am nhỏ đặt tên là Dưỡng chân trang.

Khi sắp tịch ông ra nằm giữa bộ ngựa nhắm mắt. Thấy vậy thê thiếp khóc ̣a lên, ông mở mắt ngồi dậy bảo lấy nước xúc miệng rửa mặt, xong ông quở: “Sống chết là lẽ thường, buồn thảm luyến tiếc làm ǵ, làm xao động chân tánh của ta”. Quí bà nghe quở im lặng, không dám khóc nữa. Sau đó ông nằm xuống thở kh́ liền đi.

Chết như vậy vui không? Rất vui, không khổ sở như chúng ta ngày nay. Bởi các vị đó đă thấy đạo, tuy là cư sĩ mà khi đi rất tự tại. Trong lúc đang tu, muốn nhắc nhở người đời ông có làm bài thơ “Khuyên người đời tiến tu” bằng chữ Hán. Ở đây tôi đọc bản dịch:



               Ngày tháng xoay vần xuân lại thu,

               Xăm xăm tóc bạc đáp lên đầu.

               Giàu sang nh́n lại một trường mộng,

               Năm tháng mang theo vạn hộc sầu.

               Nẻo khổ luân hồi xe chuyển bánh,

               Sông yêu ch́m nổi tợ phù âu.

               Gặp trường chẳng chịu sờ lên mũi,

               Vô hạn duyên lành chỉ thế thôi.



Ngày tháng xoay vần xuân lại thu. Chúng ta sống trên thế gian này cứ ngày qua tháng lại, hết xuân lại thu, cứ như vậy mà trôi qua trôi qua. Xăm xăm tóc bạc đáp lên đầu.

Lâu lâu nh́n lại tóc bạc đă đáp trên đầu rồi. Để thấy cuộc đời vô thường, theo ḍng thời gian chuyển biến, con người chúng ta cũng chuyển biến theo. Ngày nào đó đầu xanh bây giờ tóc đă bạc.

Giàu sang nh́n lại một trường mộng. Tất cả giàu sang con người tạo ra được, cuối cùng nh́n lại như một giấc mộng dài, chớ không có ǵ hết. Nên người xưa hay nói: Công danh cái thế màn sương sớm, Phú quí kinh nhân giấc mộng dài.

Chúng ta ngày nay cho công danh cái thế là sang tột bực, không phải màn sương sớm. Sự thật cái sang tột bực có hưởng măi được không? Không hưởng măi được, chỉ lúc nào thôi. Cho nên người xưa thức tỉnh thấy đó là màn sương, có đó rồi mất đó.

Phú quí kinh nhân là giàu đến nổi người nghe phải giựt ḿnh, nhưng chẳng qua cũng chỉ là giấc mộng dài thôi. Ít chục năm qua rồi tiêu tan, c̣n ǵ đâu. Đây là lời nhắn nhủ cho chúng ta bớt mê đắm trong công danh, phú quí. Thấy như vậy là cái thấy của người giác.

Năm tháng mang theo vạn hộc sầu. Mỗi một năm, mỗi một tháng cứ chồng chất buồn bực, khổ sở. Như vậy cả đời mang bao nhiêu buồn khổ? Hồi bé buồn khổ ít, càng lớn chừng nào buồn khổ càng nhiều chừng ấy.

Lớn vừa vừa buồn khổ về chuyện gia đ́nh, lớn khá nữa buồn khổ về con cái… Lớn có cái khổ của lớn, nhỏ có cái khổ của nhỏ. Càng già càng thấy cô đơn, những chuyện vui buồn của thời gian trước nh́n lại chồng chất tràn trề trong tâm, không biết bao nhiêu mà kể. Nhớ lại người ḿnh thương bây giờ đâu mất rồi, c̣n người ḿnh ghét, cứ tới lui làm phiền hoài… đủ thứ.

Bên Úc mỗi sáng mấy cụ già thường dẫn chó đi chơi. Ở xứ văn minh người già được nhà nước đối xử rất tốt, nhưng t́nh nghĩa giữa những người trong gia đ́nh với nhau th́ không được thủy chung.

V́ không thủy chung nên già cô đơn, chỉ chơi với chó là có thủy chung. V́ vậy họ nuôi chó, dẫn đi chơi tới chết thôi. Ở Việt Nam c̣n thấy các ông già, bà già dẫn cháu nội cháu ngoại đi chơi, ở đây chỉ thấy các cụ già dẫn chó đi chơi thôi.

Do buồn khổ chồng chất, nên ngài nói: Năm tháng mang theo vạn hộc sầu. Cái buồn đong tới một vạn hộc. Hộc là đơn vị đo lường hồi xưa, bây giờ nói đơn giản như thùng lúa đi. Một vạn thùng sầu tràn trề trong tâm. Đây là lời nhắc nhở rất chí thiết.

Nẻo khổ luân hồi xe chuyển bánh. Nẻo khổ luân hồi là con đường khổ đau luân hồi như chiếc xe lăn, cứ lăn măi lăn măi, lên xuống lên xuống không dừng.

Chúng ta cũng vậy, hết tạo nghiệp này đến tạo nghiệp nọ, nổi lên ch́m xuống luôn luôn không dừng. Khi đi xuống các đường dữ, khi được lên các cơi lành, cứ vậy tiếp nối không bao giờ cùng. Đó là luân hồi.

Sông yêu ch́m nổi tợ phù âu. Ở đây Ngài nói sông yêu, chỗ khác gọi là biển ái. Chúng ta ch́m trong sông yêu thương, trồi lên hụp xuống măi không ngoi đầu lên được.

Quí vị thương nhiều, ghét nhiều hay quân b́nh? Thương nhiều th́ chết phải theo cái thương đó mà lên xuống. Ghét nhiều cũng thế. Chỉ có quân b́nh là ít lên xuống ch́m nổi. Thương ghét đều là hai mối làm cho chúng ta phải luân hồi không dừng.

Như trong ḷng ḿnh thường nghĩ chuyện ǵ th́ khó quên được. Cũng thế, người ta rất thương hoặc rất ghét có quên được không? Suốt đời không quên. Cho nên khi nhắm mắt những h́nh ảnh đó đi theo ḿnh, đời sau gặp lại để thương để ghét nữa.

Thương th́ khổ theo thương, ghét th́ khổ theo ghét. Bởi vậy có người sanh con dễ dạy làm sao, bảo đâu nghe đó. Đây là thương mà gặp nhau. Có người sanh con ngỗ nghịch, nói không thèm nghe, c̣n cự lại nữa.

Đây là ghét mà gặp nhau. Cứ như vậy mà khổ. Người không thân thuộc chống đối ta khổ ít, nhưng con của ḿnh mà chống đối cha mẹ nên rất buồn, rất tức. Buồn tức mà không bỏ được, nên rất khổ.

V́ vậy thương ghét càng nhiều gặp nhau càng lắm, chớ có ích ǵ. Muốn đừng gặp nhau hoài chúng ta phải làm sao? Bớt thương, bớt ghét đi. Có nhiều người nói tôi thù người đó không đội trời chung, tức muôn đời không muốn gặp lại.

Càng không muốn gặp th́ càng gặp lại, nên khổ muôn đời. Hiểu như vậy chúng ta phải thức tỉnh, không nên mê. Bởi v́ mê là gốc của đau khổ, thương ghét từ mê mà sanh. Bây giờ không thương ghét nữa th́ hết mê.

Sông yêu ch́m nổi tợ phù âu. Phù âu là bọt nước, theo sóng vỡ tan liên tục. Ch́m ở trong sông yêu rồi, ra không được. Tất cả quí vị sống trong cuộc đời này yêu nhiều hay ít? Yêu nhiều. Yêu nhiều th́ ch́m sâu, chớ chưa ra được.

Gặp trường chẳng chịu sờ lên mũi, Vô hạn duyên lành chỉ thế thôi. Lỗ mũi chúng ta ở đâu? Trên mặt. Nhưng có thấy không? Không thấy, đợi soi gương mới thấy. Sờ th́ đụng nhưng nh́n không thấy. Lỗ mũi là dụ cho thể tánh trong sạch của chúng ta.

Nó sẵn như lỗ mũi ở trên mặt vậy, nhưng nh́n không thấy. Khi đủ duyên được thầy bạn nhắc nhở ta có lỗ mũi ngay trên mặt, ḿnh phải chịu khó sờ lên mũi mới đúng. Lẽ thật đă sẵn chỉ cần ta sớm thức tỉnh, đừng đi trong mê nữa th́ hợp chân. Nên nói Gặp trường chẳng chịu sờ lên mũi.

Vô hạn duyên lành chỉ thế thôi. Duyên lành vô hạn chỉ là tự tỉnh, tự nhận cái chân thật của ḿnh, như tự sờ lên lỗ mũi vậy. C̣n t́m kiếm bên ngoài chỉ uổng công thôi. Do thấy đạo Ngài nhắc chúng ta biết đừng ch́m trong biển ái nữa, để tránh đau khổ của cuộc đời.

Ngài c̣n có bài “Sống chết nhàn mà thôi”, ư tứ rất sâu sắc, rất tha thiết nói về điểm khác nhau giữa người giác và kẻ mê. Kẻ mê đối với việc sống chết khổ, c̣n người giác sống chết nhàn mà thôi.



               Tâm mà sanh chừ sanh tử sanh,

               Tâm mà diệt chừ sanh tử diệt.

               Sanh tử xưa nay vốn tánh không,

               Thân huyễn hóa này rồi cũng diệt.

               Phiền năo Bồ-đề bỗng mất tiêu,

               Địa ngục thiên đường tự khô kiệt.

               Chảo dầu ḷ lửa tự mát liền,

               Núi kiếm rừng đao chốc găy hết.

               Thanh-văn ngồi thiền ta không ngồi,

               Bồ-tát nói pháp ta nói thiệt.

               Sanh dối sanh chết dối chết,

               Bốn đại vốn không nương đâu dấy.

               Chớ như hươu khát đuổi bóng nắng,

               Nắm đông bắt tây không ngớt chạy.

               Pháp thân không lại cũng không qua,

              Chân tánh chẳng phải cũng chẳng quấy.

               Đến nhà thôi chớ hỏi đường chi,

               Thấy nguyệt t́m ǵ ngón tay ấy.

               Kẻ ngu sống chết măi lo âu,

               Người trí rơ không nhàn thôi vậy.

               Tôi sẽ giải thích từng câu cho quí vị rơ.

               Tâm mà sanh chừ sanh tử sanh,

               Tâm mà diệt chừ sanh tử diệt.



Tâm này là tâm nào? Tâm nghĩ suy hơn thua, tốt xấu đó. Tâm này sanh là nhân của sanh tử, tâm này lặng th́ sanh tử hết. Bởi vậy người tu Tịnh độ niệm Phật được nhất tâm, những nghĩ suy hơn thua tốt xấu đâu c̣n, nên Phật rước về Cực Lạc. Người tu thiền được định, mới nhập Niết-bàn tức vô sanh.

Chúng ta sở dĩ bị sanh tử liên tục v́ tâm sanh diệt liên tục. V́ vậy nói Tâm mà sanh chừ sanh tử sanh. Bao giờ tâm đó lặng hết th́ sanh tử hết, nên nói Tâm mà diệt chừ sanh tử diệt.



               Sanh tử xưa nay vốn tánh không,

               Thân huyễn hóa này rồi cũng diệt.



Chết và sống xưa nay tánh nó là không. Thế nào là tánh không? Như tôi đưa tay lên, co nắm ngón lại gọi là nắm tay. Nắm tay trước không có, bây giờ nếu tôi buông ra nó cũng không có.

Như vậy do duyên hợp mới có nắm tay, duyên tan th́ không c̣n. Thân này cũng vậy năm uẩn trước đâu có, đợi đủ duyên cha mẹ sanh mới có. Có rồi tới ngày nào hết duyên nó cũng trở về không. Trước không, giữa do duyên hợp giả có, sau trở về thành không. Vậy mà chúng ta nói thân thật nên khổ.

Cho nên Ngài nói gốc sanh tử là do tâm niệm thương ghét mà ra, hết tâm niệm đó th́ hết sanh tử. Ai nuôi dưỡng tâm thương ghét buồn giận? Chính ḿnh. Ai diệt tâm thương ghét buồn giận? Cũng ḿnh. Phật không làm thế được.

Vậy mà Phật tử cứ lạy Phật xin Ngài ban cho con hết khổ. Tâm thương ghét c̣n đậm quá, Phật làm sao ban được. Tâm ấy ở nơi ḿnh ta không chịu bỏ, lại yêu cầu Phật giải, làm sao Ngài giải được.

Người tu Phật phải biết rơ mê là tự ḿnh mê, giác cũng ḿnh giác, chớ Phật không thế được. Ngài chỉ dạy thôi, chúng ta phải tự sửa, tự tu

.

               Sanh tử xưa nay vốn tánh không,

               Thân huyễn hóa này rồi cũng diệt.



Sanh tử vốn tánh không, trước khi chưa vào bào thai cha mẹ chúng ta đâu có. Bây giờ vào đó mang thân, có thân rồi tới ngày nào nó cũng hoại trở thành không. Như vậy có rồi mất, huyễn hóa tạm bợ mà chúng ta cứ thấy thật. Thấy thật là mê, biết tạm bợ huyễn hóa là giác.



               Phiền năo Bồ-đề bỗng mất tiêu,

               Địa ngục thiên đường tự khô kiệt.



Sao vậy? Bởi v́ trong lục đạo luân hồi có địa ngục, có thiên đường. Người tu Thập thiện được sanh thiên đường, người tạo thập ác phải xuống địa ngục. Nếu tâm không c̣n sanh không c̣n đi vào hai nơi ấy nữa. V́ đâu c̣n đi trong lục đạo luân hồi mà có thiên đường, có địa ngục. Nên nói Phiền năo Bồ-đề bỗng mất tiêu.

Phiền năo là đối ngược với Bồ-đề. Khi tâm không dấy niệm lúc đó có phiền năo, Bồ-đề không? Không c̣n niệm th́ không c̣n mê, không c̣n giác. C̣n niệm mới có mê có giác. Giác là Bồ-đề mê là phiền năo. Bây giờ hết niệm rồi th́ Bồ-đề, phiền năo cũng mất. Mất đó không phải là mất ḿnh mà là mất tâm đối đăi.    



               Chảo dầu ḷ lửa tự mát liền,

               Núi kiếm rừng đao chốc găy hết.



Nếu tâm không c̣n các niệm th́ chảo dầu sôi, núi kiếm thảy đều găy tan hết. Tại v́ chúng ta có sanh tâm mới có tạo tội, có tạo tội mới xuống địa ngục, vào chảo dầu sôi hay đi trong rừng đao núi kiếm.

C̣n tâm không sanh tức không dấy niệm, không dấy niệm th́ không tạo nghiệp, không tạo nghiệp th́ không rơi vào địa ngục. Cho nên tất cả các cảnh giới khác cũng không có. Thanh-văn ngồi thiền ta không ngồi,



               Bồ-tát nói pháp ta nói thiệt.



Câu này nghe hơi khó hiểu một chút. Bởi v́ các ngài tu Thanh-văn thừa lấy Bát chánh đạo làm chỗ tu cứu kính. Phần chót của Bát chánh đạo là chánh định. Các ngài lấy việc ngồi thiền nhập định làm gốc.

C̣n pháp của Bồ-tát lấy Lục độ làm chỗ tu cứu kính, trong đó trí tuệ là độ cuối cùng. Thanh-văn lấy định làm gốc, Bồ-tát lấy tuệ làm gốc, đi đứng nằm ngồi trong tỉnh giác, không bị sự trói cột của phiền năo, không bị lôi kéo đi trong sanh tử. Hai bên khác nhau như vậy.

Nói Bồ-tát nói pháp ta nói thiệt, tức Ngài luôn cảnh tỉnh đánh thức mọi người không bị mê muội, lấy giác ngộ làm gốc, chớ không tu theo hạnh Thanh văn, lấy ngồi thiền làm gốc.



               Sanh dối sanh chết dối chết,

               Bốn đại vốn không nương đâu dấy.



Tứ đại chúng ta trước khi cha mẹ chưa sanh nó đâu có. Nhờ cha mẹ sanh ra, nuôi dưỡng thân này từ từ lớn lên, chúng ta lại tưởng nó thật. Nó do vay mượn mà có, thật sao được. Mượn cái ǵ? Gần nhất là lỗ mũi đang hít thở, hít thở. Hít là mượn không khí của trời đất.

Mượn rồi giữ không được phải trả ra. Hít vô trả ra, mượn trả, mượn trả. Mượn trả đều đặn lâu ngày thành quen, ta thấy như không có mượn trả, chớ sự thật đang mượn trả. Nếu mượn trả ngừng th́ sao? Chết ngay. Đó là mượn trả gió.

Tới nước, một lát mượn tách nước. Mượn rồi cũng trả, chỉ lâu hơn hơi thở một chút. Mượn trả được th́ b́nh an, mượn mà trả không được cũng khổ. Thành ra phải mượn trả suôn sẻ mới được.

Đó là mượn nước. Tới đất, sáng trưa chiều ngày ba bữa cơm, hoặc ăn bánh ḿ v.v.. là mượn đất. Trong đất có chất ấm, chất cay là lửa. Mượn đất mượn lửa đem vô cũng phải trả ra.

Như vậy chúng ta định nghĩa thế nào là cuộc sống có hạnh phúc? Người ta cứ tưởng gia đ́nh b́nh yên giàu có là hạnh phúc, sự thật không phải vậy. Sống có hạnh phúc là mượn dễ dàng, trả thuận tiện.

Nếu trả trục trặc th́ chở đi cấp cứu liền, hết hạnh phúc rồi. Lẽ thật của cuộc sống chỉ thế thôi, vay trả, vay trả suốt ngày, có ǵ thật đâu. Vậy mà ai cũng thấy thật nên Phật mới nói chúng ta mê.

Nếu thấy được thân này huyễn hóa tạm bợ vay mượn là chúng ta đă giác rồi. Như vậy mê và giác cách nhau bao xa? Như trở bàn tay. Chúng ta có quyền thấy đúng như thật mà không chịu thấy, cứ thấy sai lầm nên mê suốt kiếp.

Giác không t́m ở đâu hết mà chính nơi ḿnh. Ta lỡ mê rồi bây giờ phải giác hay chấp nhận mê luôn? Phải giác, chớ không thể chấp nhận mê luôn. Nếu mê luôn th́ ta ch́m đắm măi trong luân hồi sanh tử, chịu vô lượng khổ đau, không biết đâu là cùng. Nên tu là sửa, sửa mê thành giác. Đó là điều thực tế.



               Chớ như hươu khát đuổi bóng nắng,

               Nắm đông bắt tây không ngớt chạy.



Trong kinh thường ví dụ, như con nai đi trong rừng vào mùa hạn. Nó thấy sóng nắng chập chờn đàng xa tưởng là nước nên cấm đầu chạy tới để uống nước. Đến nơi không ngờ chẳng phải nước. Cứ thế chạy đông chạy tây suốt ngày, t́m vẫn không thấy nước, nên khát càng thêm khát.

Chúng ta cũng vậy cứ t́m hạnh phúc đời này, hạnh phúc đời sau mà chưa bao giờ được hạnh phúc, cuối cùng chỉ thấy khổ dồn khổ mà thôi. Thế nên ngài dạy ḿnh phải tỉnh, đừng mê lầm như con nai kia.



               Pháp thân không lại cũng không qua,

              Chân tánh chẳng phải cũng chẳng quấy

.

Phật có ba thân Pháp thân, Báo thân, Hóa thân. Chúng ta cũng có ba thân, pháp thân là thân bằng tánh giác của ḿnh. Thân tứ đại đang mang là báo thân, nhưng báo thân của chúng ta thô xấu nhơ nhớp, không như báo thân của Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp.

Phật có hóa thân chúng ta cũng có hóa thân. Hóa thân Phật v́ chúng sanh làm vô số việc lợi ích, c̣n hóa thân của chúng ta tạo vô số nghiệp. Đang ngồi đây nghĩ chuyện bên Tây bên Tàu, đó là hóa thân của ḿnh.

Ta có hóa thân mà hóa thân mộng, chẳng làm được việc ǵ chỉ tạo thêm khổ. C̣n chư Phật Bồ-tát dùng Hóa thân làm lợi ích chúng sanh.

Pháp thân sẵn có không đến không di, không qua không lại, hiện tiền ở trước mắt nên nói không lại cũng không qua. Rồi Chân tánh chẳng phải cũng chẳng quấy.

Chân tánh là tánh chân thật của ḿnh, không có phải quấy, không có tốt xấu, hơn thua, được mất v.v… C̣n có hai bên đều là đối đăi hư giả, chân tánh không có hai bên nên không đối đăi hư giả.

Quí vị thử ngồi lại chừng một giờ hoặc nửa giờ, đừng thèm nghĩ phải quấy, hơn thua, được mất, lúc đó sống hay chết? Ḿnh cũng đang sống. Có biết không? Cũng đang biết.

Chúng ta đang biết mà không cần phải suy nghĩ phân biệt. Nhưng v́ không nhận ra cái biết ấy nên cứ chạy theo cảnh phân biệt. Ngồi đâu cũng nghĩ cái này cái kia. Không lúc nào dừng được, thành ra cái hiện tiền đang có mà quên mất, chôn sâu nó trong ṿng lẩn quẩn của vọng tưởng.

Bây giờ muốn thấy được chân tánh phải bỏ hơn thua, phải quấy đi. Bỏ hơn thua, phải quấy người đời gọi ta là ngu hay điên. Tại sao? V́ khác người ta. Họ điên mà thấy ḿnh không giống th́ họ nói ḿnh điên.

Quí vị tới bệnh viện điên sẽ thấy bệnh nhân nh́n ḿnh cười, v́ họ bảo ta điên. Ngược lại ta thấy người điên ta cũng cười, v́ họ khác ḿnh. Người điên chỉ chấp nhận người điên thôi, nếu có người không điên tới, họ sẽ nói người không điên đó là bậy, là xấu, v́ không giống họ.

Cũng vậy người thế gian si mê, nếu gặp người giác họ tưởng đó là người điên. Nhưng điên trong cái giác ta cũng nên điên, đừng chạy theo khôn lanh, nguy hiểm của thế gian mà muôn đời phải chịu đọa.



               Đến nhà thôi chớ hỏi đường chi,

               Thấy nguyệt t́m ǵ ngón tay ấy.



Người tới nhà rồi không t́m kiếm hay hỏi đường nữa. Tới nhà mà c̣n hỏi đường tức chưa biết nhà. Quí vị c̣n hỏi tu sao cho được giải thoát, tức chưa biết giải thoát. Như trên đă nói, niệm không sanh, tâm không sanh th́ sanh tử hết. Sanh tử hết là giải thoát, đâu cần phải hỏi.

Chúng ta có quyền giải thoát không? Đủ điều kiện giải thoát không? Dư nữa, mà tại không chịu làm, cứ tạo duyên lăng xăng lộn xộn hoài cho nên không được giải thoát.

Nếu chúng ta nhớ được ḿnh có cái chân thật là tới nhà, khỏi cần hỏi đường. Cũng như mùng bảy âm lịch, có mặt trăng lưỡi liềm mọc ở phương tây rất khó thấy. Người thấy được liền lấy ngón tay chỉ mặt trăng cho người chưa thấy xem.

Khi thấy mặt trăng rồi, ngón tay c̣n nghĩa lư ǵ không? Không. Thấy mặt trăng rồi ngón tay không cần nữa.

Phật nói kinh điển của Ngài cũng như ngón tay chỉ mặt trăng. Chúng ta tu để t́m cái thật nơi ḿnh, giáo pháp của Phật là ngón tay thôi, cái thật của chính chúng ta mới là mặt trăng. Khi nhận được cái thật rồi th́ phương tiện trở thành vô ích.

Hiện nay có nhiều Phật tử thắc mắc, tại sao tôi không khuyên quí vị tụng kinh này kinh nọ, mà bắt sám hối sáu căn? Kinh là ngón tay chỉ mặt trăng, chúng ta đọc để hiểu lời Phật dạy cho ḿnh tu, chớ không phải đem ra đọc hoài.

Thấy mặt trăng rồi cứ chấp ngón tay là khờ, phải không? Thấy mặt trăng rồi phải bỏ ngón tay.

Cũng vậy chúng ta nhận ra được yếu chỉ Phật dạy rồi, phải ứng dụng tu chớ không nên đem kinh ra đọc hoài. Đọc cho ai nghe? Phật tử có bệnh đọc kinh cho Phật nghe.

Cứ tụng hết bộ này sang bộ nọ cho Phật nghe, rồi tính công với Phật. Ngài nói ra bây giờ đọc lại bắt Ngài nghe, có khổ cho Phật chưa? Tu cái ǵ mà lẩn quẩn vậy. Lâu nay Phật tử vẫn lầm lẫn như thế.



               Kẻ ngu sống chết măi lo âu,

               Người trí rơ không nhàn thôi vậy.



Người ngu th́ cứ lo sống chết. Người trí thấu suốt tất cả pháp tánh không nên thảnh thơi, không lo sợ chi hết. Bởi vậy người giác thấy rơ được lẽ thật nên bớt khổ. Người mê không thấy được lẽ thật nên khổ suốt đời.

Đời này khổ đời sau cũng khổ, không biết bao nhiêu đời. Tu là cốt giải khổ. Muốn giải khổ th́ phải tỉnh giác, chớ không nên ch́m trong mê. Ch́m trong mê th́ muôn kiếp không bao giờ hết khổ.

Như vậy giữa mê và giác, chúng ta chọn cái nào? Giác. Tất cả đều đồng ư như vậy. Thế th́ chúng ta phải ráng tu. Không ai cứu ḿnh bằng chính trí tuệ giác ngộ của ḿnh.

Chỉ như thế chúng ta mới chấm dứt khổ đau trong đời này và nhiều đời sau nữa. Mong tất cả đều được sống an vui trong sự tỉnh thức của chính ḿnh.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 955 of 1146: Đă gửi: 28 December 2010 lúc 2:39pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




HOA VÔ ƯU

ĐƯỜNG LỐI TU THEO ĐẠO PHẬT

(CHƯƠNG BỐN)



Khi nhắc nhở tu hành, chúng tôi nghĩ trước tiên phải nói cho quí Phật tử hiểu đường lối tu theo đạo Phật, sau đó mới ứng dụng tu th́ việc tu mới có kết quả và không bị lầm lạc. Nên đề tài buổi giảng hôm nay là Đường lối tu theo đạo Phật.

Về căn bản, đầu tiên trong đạo Phật có chia ra ba môn học gọi là Tam tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ. Kế đến Tam vô lậu học là Giới, Định, Tuệ. Hai môn học này liên hệ tới sự tu hành của chúng ta như thế nào? Tôi sẽ giải thích cho quí Phật tử rơ.

Chủ trương của đạo Phật, mỗi người đến với đạo không phải chỉ tin mà phải hiểu, không phải chỉ hiểu mà phải tu. Đó là điểm trọng yếu. Cho nên trong kinh A-hàm, đức Phật dạy rằng người Phật tử tới chùa không chưa đủ, mà phải gặp chư Tăng.

Gặp chư Tăng không chưa đủ mà phải hỏi giáo pháp. Hỏi giáo pháp không chưa đủ mà phải suy gẫm lời chư Tăng nói đúng hay sai, nếu đúng th́ đem ra thực hành. Như vậy mới đúng ư nghĩa đi chùa.

Chúng ta lâu nay hay có thói quen, đi chùa cốt lạy Phật, cầu xin Ngài cho ḿnh nhiều phước là đủ rồi. Chư Tăng không cần thiết. Nếu có gặp chư Tăng, quí thầy nói ǵ tin nấy, không chịu suy gẫm lời nói đó đúng hay sai?

Do đó nhiều Phật tử đi chùa năm này tháng nọ mà về nhà phiền năo cũng như xưa, không hơn không kém. Đó là điều không hợp với đạo lư.

Trước tôi nói về Tam tuệ học. Đầu tiên là Văn tuệ tức là được nghe quí thầy giảng đạo lư. Nghe rồi, thu nhặt những lời thầy giảng về suy gẫm xem lời dạy đó đúng không? Bởi v́ chư Tăng nhiều thành phần phức tạp, có người học đạo kỹ càng mới hoằng hóa, có người học sơ sài cũng ra hoằng hóa.

Có người lớn tuổi cạo đầu vô chùa năm ba năm, thấy già thiên hạ kêu Ḥa thượng, Thượng tọa, nhưng thật ra giáo lư c̣n kém cỏi. Không biết ai là người đáng tin cậy. V́ vậy Phật giáo bắt buộc chúng ta phải có tư duy, tức phải suy gẫm gọi là Tư tuệ.

Suy gẫm thấy đúng rồi mới ứng dụng tu, gọi là Tu tuệ. Như vậy việc tu sẽ được lợi ích thiết thực. Ngược lại nếu chúng ta không suy gẫm, nói đâu tin đó th́ đi chùa là họa chớ không phải phước.

Nói theo thế gian Văn là học lư thuyết, tư là thí nghiệm, tu là thực hành hay ứng dụng. Đạo Phật không phải là đạo huyền bí xa lạ mà rất thực tế, một môn học cụ thể chớ không phải trừu tượng.

Nhiều người cứ ngỡ học Phật đơn giản là lạy Phật, kính Phật, như thế đủ rồi. Không phải vậy. Học Phật phải hiểu cho thấu đáo nên gọi là tuệ học, tức học để phát sanh trí tuệ. Trí tuệ này do chúng ta học, suy gẫm rồi ứng dụng tu mà được.

Phần thứ hai Tam vô lậu học c̣n gọi là ba môn học giải thoát. Ba môn học giải thoát đó là ǵ? Là Giới học, Định học và Tuệ học. Tăng Ni cũng như Phật tử vào đạo, đều tuân giữ giới luật của Phật đă chế ra th́ đạo đức mới tốt.

Gần nhất như quí Phật tử tại gia nếu không giữ năm giới th́ không thể gọi là Phật tử chân chánh được. Phật tử chân chánh đâu thể say lèm nhèm, huống nữa là mấy giới kia.

Đă là Phật tử đầu tiên phải giữ giới, v́ giới là đức hạnh, là con đường để chúng ta tiến vào đạo đức. Nếu thiếu giới con đường đạo đức sẽ không có nghĩa ǵ hết. Đó là nói về Giới học thứ nhất.

Thứ hai là Định học. Định là thiền định. Chúng ta phải tập thiền định để tất cả những niệm lự điên đảo lặng xuống hết, trí tuệ mới sáng suốt. Đó gọi là Định học thứ hai.

Thứ ba là Tuệ học. Tuệ này khác với tuệ ở trên. Tuệ trên là do Văn, Tư, Tu mà được, c̣n tuệ này do giới sanh định, do định phát tuệ. Hai Tuệ này khác nhau, khác ở điểm nào? Đó là điều chúng tôi muốn nói hôm nay.

Chúng ta c̣n nhớ đức Phật đến dưới cội Bồ-đề trải cỏ tọa thiền bốn mươi chín ngày đêm. Ở trong an định, trí tuệ phát sanh Ngài được giác ngộ thành Phật. Như vậy trong bốn mươi chín ngày đêm ấy Ngài học cái ǵ?

Chỉ là định tâm, lóng lặng, trí tuệ phát sanh th́ giác ngộ. Tuệ này từ định sanh nên được gọi là tuệ giải thoát. V́ vậy ba môn học này có tên là ba môn học giải thoát.

Hồi xưa có nhiều người thắc mắc đặt câu hỏi rằng: Đức Phật ngồi dưới cội Bồ-đề suốt bốn mươi chín ngày đêm như vậy nhọc quá, Ngài có đi ra ngoài không hay ngồi luôn?

Đó là điều chính hồi xưa tôi cũng nghi. Bởi thân chúng ta là thân phàm xác tục nên có đủ vấn đề, ngồi luôn một mạch bốn mươi chín ngày đêm e không được. Nhưng sau này qua thời gian tôi cho Tăng Ni nhập thất tu, tôi mới hết nghi vấn đề đó.

Nếu sinh hoạt b́nh thường, trong hai mươi bốn giờ chúng ta phải ăn uống tiểu tiện đủ thứ, tức mượn vô trả ra hoài. Bây giờ ngồi thiền thời gian dài ba bốn chục tiếng đồng hồ, mấy lần đi ra?

Thực sự không phải vậy. Khi ngồi thiền được định rồi th́ ba bốn ngày cũng không có chuyện đó. Nó rất lạ. Không có những nhu cầu phàm tục như chúng ta. Từ đó chúng tôi mới hiểu được Phật ngồi suốt bốn mươi chín ngày đêm, không phải đi đâu.

Đó là điều nếu chúng ta không tu th́ không bao giờ biết được. Nhờ tu mới thấy đó là lẽ thực, không chối căi.

Cho nên những vấn đề trong đạo Phật, nếu chỉ học hỏi, nghiên cứu qua loa chúng ta sẽ có rất nhiều nghi vấn. Hồi xưa các vị Thiền sư khi nhập định tới cả hai ba mươi ngày, tùy mức độ tu tập của mỗi vị.

Các Ngài sống trong thiền định như vậy rất là b́nh yên. Từ đó chúng ta thấy sức định có giá trị không phải lấy trí phàm phu mà hiểu nổi. Được định thanh tịnh rồi th́ trí sáng suốt phát sanh.

Trí tuệ đó từ ḿnh mà có, không do ai cho nên gọi là trí vô sư. Nên khi giác ngộ rồi, đức Phật tuyên bố “Ta học đạo không có thầy”. Vô sư là không có thầy.

Trong quyển “Góp nhặt cát đá” của ông Đỗ Đ́nh Đồng dịch các câu chuyện thiền của Nhật Bản, có câu chuyện tên “giáo lư Thượng thừa” như thế này.

Một anh chàng mù nọ đi thăm người bạn thân. Tới nhà người bạn, hai vị lâu ngày gặp nhau tṛ chuyện tới khuya lơ khuya lắc, anh mù mới về. Thấy trời tối đen, anh bạn đốt cho một cây đèn đưa cho anh bạn mù cầm về.

Anh mù cầm đèn cười bảo: “Đối với tôi ngày cũng như đêm, đêm cũng như ngày, cần ǵ đèn”. Người bạn giải thích: “Tuy nhiên như vậy, anh cứ cầm cây đèn này. Ở xa người ta thấy anh người ta tránh, khỏi đụng vào anh”. Nghe có lư, anh mù cầm đèn về. Nửa đường có người đụng vào, giựt ḿnh anh la lên:

- Không thấy tôi sao?

Người kia trả lời:

- Thưa bạn, tôi không thấy.

- Anh không thấy tôi cầm cây đèn đây à?

- Thưa bạn, cây đèn của bạn đă tắt từ bao giờ!

Câu chuyện đó có tên là giáo lư Thượng thừa. Một câu chuyện tầm thường như vậy lại gọi là giáo lư Thượng thừa, có khó hiểu không? Ở đây tôi chưa giải thích vội, mà dẫn thêm câu chuyện khác của một Thiền sư Trung Hoa.

Ngài Đức Sơn trước khi thành Thiền sư, Ngài là một Giảng sư giảng kinh Kim Cang nổi tiếng. Nghe các Thiền sư, nhất là Thiền sư thuộc hệ phái của Lục Tổ ở phương Nam nói “tức tâm tức Phật”, Ngài không bằng ḷng.

Ngài nói trong kinh Phật dạy người tu phải trải qua ba vô số kiếp mới thành Phật, nói “tức tâm tức Phật” th́ có vẻ xem thường lời Phật quá! Đó là ma nói chớ không phải Phật nói.

Thế nên quảy một gánh kinh, Ngài nhất định t́m cho được mấy vị Thiền sư, ruồng đuổi tận hang ổ của bọn ma, ngơ hầu báo đền ân Phật.

Suốt mấy ngày liền Ngài gánh kinh Kim Cang sớ sao đi về phương Nam. Sáng sớm hôm đó nghe đói bụng, thấy có bà già bán bánh, Ngài để gánh kinh xuống hỏi:

- Bà bán cho tôi ít món điểm tâm.

Bà già thấy ông thầy hơi lạ, đi đâu mà quảy kinh kềnh càng, nên hỏi:

- Thượng tọa gánh cái ǵ vậy?

Ngài trả lời:

- Gánh kinh Kim Cang sớ sao.

Bà nghe xong liền nói:

- Nếu Thượng tọa trả lời được câu hỏi của tôi, xin cúng dường điểm tâm. Bằng trả lời không được xin mời đi nơi khác điểm tâm.

Ngài bảo:

- Được, bà cứ hỏi.

Bà già hỏi:

- Trong kinh Kim Cang, Phật nói quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc. Xin hỏi Thượng tọa điểm tâm nào?

Ngài Đức Sơn bí không trả lời được, đành quải gánh kinh đi. Trước khi đi Ngài hỏi bà già:

- Gần đây có Thiền sư không?

Bà nói:

- Trên núi có chùa Long Đàm, ở đó có Thiền sư hiệu Sùng Tín.

Nghe thế Ngài liền gánh kinh đi. Lên tới tận chùa, bước vào nhà khách bỗng gặp Thiền sư Sùng Tín ở trong đi ra. Ngài liền nói:

- Ở xa nghe danh Long Đàm, đến nơi Long không thấy mà Đàm cũng chẳng hiện.

Ngài Sùng Tín chỉ nói một câu:

- Như vậy ông gần tới Long Đàm rồi.

Nghe câu đó, Đức Sơn bèn xin ở lại làm đệ tử.

Long là rồng, đàm là đầm, Long Đàm là cái đầm rồng. Ngài Đức Sơn nói “Ở xa nghe danh Long Đàm, đến nơi Long không thấy mà Đàm cũng chẳng hiện” là có ư chê nghe thiên hạ đồn đăi như vậy, nhưng đến nơi cũng chẳng có ǵ đặc biệt. Thiền sư Sùng Tín trả lời đơn giản mà Ngài nể phục.

Đọc sách thiền rất khó, khó ở chỗ đó. Người không hiểu, đọc một hồi thấy như các ngài đùa chơi với nhau thôi. Ngài Đức Sơn nghe Thiền sư Sùng Tín trả lời một câu đơn giản thôi nhưng lại khâm phục, nguyện ở lại làm đệ tử.

Thế nghĩa là sao? Thật ra trong nhà thiền có thuật, khi đối phương đề cao các ngài, các ngài sẽ hạ thấp đối phương. Khi đối phương hạ thấp các ngài, các Ngài sẽ đề cao đối phương. Làm như thế là để thử phản ứng của Thiền sư, xem có hợp đạo lư th́ mới theo, nếu không hợp đạo lư th́ đi chỗ khác.

Nói ở xa nghe danh Long Đàm, tức ở xa tôi nghe hay lắm, Ngài là một Thiền sư nổi tiếng. Nhưng đến nơi đầm không thấy, rồng cũng không hiện, tức tới nơi không có ǵ đáng kể hết. Như vậy là hạ thấp Thiền sư Sùng Tín.

Nếu là hạng phàm phu như chúng ta nghe thế nổi bực rồi. Nhưng ngài Sùng Tín chỉ nói một câu “Như vậy là ông đă gần đến Long Đàm rồi”, tức ông gần được ta rồi. Tại sao lại gần được?

Bởi v́ ngài Đức Sơn lúc đó được người đời gọi là Chu Kim Cang. Do Ngài họ Chu lại giảng kinh Kim Cang, rất thông suốt giáo lư của Phật. Phật dạy người nào phá được ngă chấp đó là hàng Thanh văn, phá luôn được pháp chấp đó là hàng Bồ-tát.

Ở đây rồng tượng trưng cho ngă, đầm tượng trưng cho pháp. Thiền sư Sùng Tín nói nếu ông không có ngă, không có pháp là ông gần được ta. Thế th́ ta là thầy của ông rồi. Nghe vậy Ngài mới phục, không ngờ Thiền sư thấy sâu xa đến thế.

Khi đă vào ở trong chùa, Ngài rất cố gắng trong việc học và tu. Lúc nào cũng trông chờ Thiền sư Sùng Tín nói câu nào đó cho ḿnh giác ngộ, nhưng chờ hoài vẫn không thấy.

Một hôm ngài đứng hầu Thiền sư Sùng Tín tới khuya. Sùng Tín nói “Đêm đă khuya ngươi nên đi xuống”. Ngài xá, kế ra vén rèm rồi trở lại thưa: “Bạch Ḥa thượng, bên ngoài tối đen”. Nghe thế Thiền sư Sùng Tín liền đốt cây đèn cầy đưa cho Ngài.

Ngài vừa đưa tay cầm cây đèn liền bị Sùng Tín thổi tắt. Ngay đó Ngài sụp xuống lạy. Thiền sư Sùng Tín hỏi: “Ngươi thấy cái ǵ mà lạy?” Ngài trả lời: “Từ đây về sau con không c̣n bị đầu lưỡi các Ḥa thượng lừa nữa”. Ngài Sùng Tín gật đầu.

Đến đây quí vị đă thấy ư nghĩa của giáo lư Thượng thừa chưa? Cây đèn của ngài Sùng Tín đưa có khác với cái cây đèn của anh bạn đưa cho người mù không? Những câu chuyện như vậy rất nhiều trong nhà thiền.

Nếu người học thiền không hiểu th́ đọc sách thiền chơi cho vui thôi, chớ không thấy giá trị của nó. Ở đây tôi sẽ thứ tự giải thích lại cho quí vị hiểu.

Một Thiền sư nói rằng “Nếu ông có cây gậy, ta cho ông cây gậy. Nếu ông không có cây gậy, ta cướp cây gậy của ông”. Nói câu lạ đời, đă có lại cho, không có lại cướp, là sao? Thiền sư là vậy đó. Hiểu được câu nói này mới hiểu được cây đèn.

Người bạn sáng mắt thương anh bạn mù đi đêm không có đèn sợ người ta đụng, nên thắp cây đèn cho bạn cầm đi. Nhưng rất tiếc người bạn cầm cây đèn mà gió thổi tắt hồi nào không hay, cứ đinh ninh là đèn c̣n cháy.

Tới chừng người ta đụng vào ḿnh, hỏi ra mới biết cây đèn tắt rồi. Câu chuyện đó gọi là giáo lư Thượng thừa, Thượng thừa ở chỗ nào?

Như tôi đă nêu ở trên, tuệ do học được giống như cây đèn do người bạn trao cho ḿnh. Nếu ta không định tâm, không mở sáng trí tuệ của ḿnh th́ giống như người mù tuy có cây đèn nhưng chính ḿnh cũng không thấy không biết ǵ hết.

V́ vậy nó c̣n, nó tắt không hay. Người tu nhờ học tức nhờ hữu sư trí để đi tới vô sư trí. Trí này mới cứu được ḿnh. Hữu sư trí là ngọn đèn do thiện hữu tri thức trao để ta khai thác được vô sư trí của ḿnh.

Nếu không tự khai thác, ta cũng không cứu được ḿnh thoát khỏi luân hồi sanh tử. Như vậy có phải là giáo lư Thượng thừa chưa?

Ngài Đức Sơn tha thiết muốn được thầy chỉ dạy chỗ thiết yếu, mà thầy không chỉ. Đức Sơn không biết rằng Thiền sư Sùng Tín không muốn Ngài bị kẹt ở trí hữu sư. Cho nên tuy không chỉ mà Thiền sư tạo điều kiện cho Ngài thắc mắc.

Đức Sơn mở cửa thấy “ngoài kia tối đen”, để nói rằng con c̣n mù mịt lắm, xin thầy khai sáng cho. Thiền sư Sùng Tín liền đốt cây đèn trao cho. Nhưng Đức Sơn vừa đưa tay cầm, ngài Sùng Tín bèn thổi tắt. Để nói rằng tôi trao cho không phải là ngọn đèn thực của ông.

Khi Thiền sư thổi tắt, Đức Sơn bừng ngộ mới thấy ngọn đèn thực từ ḿnh phát ra, chớ không phải người khác cho. Từ đó Ngài trở thành Thiền sư nổi tiếng, không nói chỉ đánh hét thôi.

Bởi v́ thủ thuật trong nhà thiền là phải tạo điều kiện cho người ta thức tỉnh. Chớ c̣n nhắc nhở bằng lời lẽ hoài, đối phương khó sáng được.

Trở lại câu nói của Thiền sư “ông có cây gậy ta cho ông cây gậy, ông không có cây gậy ta cướp cây gậy của ông”. Cũng cùng một kiểu như thế. “Có cây gậy” để nói nếu ḿnh đă sáng th́ các ngài ấn tâm cho.

“Không có gậy” tức chưa sáng th́ không cho ǵ hết, nên nói cướp cây gậy của ông. Cho nên ngôn ngữ trong nhà thiền, từ thủy tới chung rất là lạ. Tuy nhiên hiểu rồi mới thấy cái thâm trầm của người tu. Đó là tôi nhắc qua các Thiền sư.

Kế đến tôi sẽ dẫn kinh. Như kinh Pháp Hoa, phẩm Tùng Địa Dũng Xuất, đức Phật tán thán kinh Pháp Hoa là tối thượng, kinh Pháp Hoa là ḥn ngọc báu, Ngài dặn ḍ hàng đệ tử phải ráng bảo vệ, duy tŕ kinh Pháp Hoa trên thế gian.

Có một số Bồ-tát từ phương xa tới nghe kinh, nghe Phật tán thán như vậy liền đi nhiễu Phật ba ṿng, rồi qú gối chấp tay bạch: “Bạch Thế Tôn, chúng con nguyện hộ tŕ những người tŕ kinh Pháp Hoa ở cơi Ta-bà này.”

Đức Phật nói: “Thôi đi không cần các ông”. Như Lai vừa nói xong, bỗng dưới đất rúng động, chư Bồ-tát từ dưới đất vọt lên vô số, nhiễu quanh Phật ba ṿng, rồi qú gối chấp tay thưa:

“Bạch Thế Tôn, chúng con nguyện bảo vệ những người thọ tŕ kinh Pháp Hoa ở cơi này”. Phật nói “Được, các ông hăy nên bảo hộ những người tŕ kinh”.

Tại sao Bồ-tát tha phương xin bảo vệ những người tŕ kinh ở đây đức Phật từ chối, đợi Bồ-tát ở dưới ḷng đất vọt lên xin bảo hộ Ngài mới cho?

Nếu không giải thích những điểm này, chúng ta sẽ không thấy được ư nghĩa thâm trầm của kinh Pháp Hoa. Bồ-tát tha phương tượng trưng cho trí tuệ ở bên ngoài, nên đức Phật không cho bảo vệ kinh Pháp Hoa.

Tại sao? V́ kinh Pháp Hoa đề cao tri kiến Phật tức là cái thấy biết Phật của chính ḿnh. Cái thấy biết đó không phải trí tuệ bên ngoài đến mà bảo vệ được. Bồ-tát dưới ḷng đất vọt lên tượng trưng cho tánh giác từ hông ngực của ḿnh phát ra.

Thân chúng ta là tứ đại, quả đất cũng tứ đại, trong tứ đại phát ra đó là vô sư trí, trí sẵn của chúng ta. Trí này mới bảo vệ được tri kiến Phật. Kinh Pháp Hoa dạy sâu xa như vậy, mà lâu nay có biết ǵ đâu.

Phật dạy tất cả chúng ta đều có trí tuệ sẵn, không phải học mà được nên gọi là vô sư trí. C̣n trí tuệ do học hành mà được là hữu sư trí.

Đứng về giáo lư căn bản mà nói th́ hữu sư trí thuộc về tam tuệ học, vô sư trí thuộc về tam vô lậu học. Trí vô sư mới thật là trí của ḿnh, c̣n trí hữu sư là trí vay mượn của thầy bạn, không phải của ḿnh.

Trong nhà thiền dạy tu rất đơn giản. Trong “Góp nhặt cát đá” kể lại: Một hôm có vị tiến sĩ tới chùa xin học thiền. Thiền sư mời uống trà. Ngài rót trà, mặc dù chung trà đă đầy nhưng Ngài cứ rót hoài, nên nước trà chảy tràn lan ra ngoài.

Thấy vậy, tiến sĩ mới nhắc: “Thưa Ngài, chung trà đă tràn. Thiền sư b́nh thản nói: “Cũng vậy, trong đầu của ông tới ba bốn bằng tiến sĩ, nó đă đầy quá rồi. Bây giờ cho thêm thiền vào nữa, nó sẽ tràn”.

Với người đang nặng về hữu sư trí th́ không thể học đạo được. Bởi v́ học đạo là học vô sư trí, mà vô sư trí th́ không học được. Chỉ có định tâm, rồi từ đó phát sanh trí thật của ḿnh. Chúng ta ngày nay học đạo ít thực hiện được điều đó.

Phật tử tới chùa nghe tụng kinh, niệm Phật coi như là tu rồi. C̣n quí thầy ngồi im lặng ngó xuống thấy như không tu ǵ hết, nhưng không ngờ đó là gốc của sự tu.

Chính đức Phật do tu thiền mà được giác ngộ. Các hàng Thánh đệ tử của Ngài như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp… cũng tu thiền mà chứng A-la-hán, giải thoát sanh tử.

Nói Giới, Định, Tuệ là ba môn học giải thoát, v́ nhờ đó mà người tu được giải thoát sanh tử. Chúng ta tu theo Phật th́ phải hiểu đường hướng rơ ràng, nếu không hiểu sẽ ngờ vực con đường tu của ḿnh, do đó dẫn tới việc tu không có kết quả.

Hầu hết những kinh Đại thừa đều nói về vô sư trí qua các h́nh ảnh. Nếu đọc, ta cứ nhớ h́nh ảnh, mà không biết trọng tâm bên trong thế nào th́ dễ trở thành mê tín.

Cứ cho rằng tụng kinh Pháp Hoa là cao nhất, tụng có phước nhiều nên tụng hết bộ này sang bộ nọ để được phước.

Bồ-tát Thường Bất Khinh không tụng câu kinh nào, Ngài chỉ nói “Tôi không dám khinh các ngài, v́ các ngài đều sẽ thành Phật”. Chỉ câu nói đó thôi mà Phật bảo là Ngài tŕ kinh Pháp Hoa.

V́ Ngài biết tất cả chúng sanh đều có vô sư trí hay c̣n gọi tánh giác, Phật tánh, căn bản trí. Nhờ có trí này chúng ta mới có khả năng giác ngộ. Tại sao? V́ hữu sư trí là trí bên ngoài do huân mà được.

Đă bên ngoài huân được nên nó không phải thật của ḿnh. C̣n trí vô sư sẵn có, không do ai đem đến nên nó là thật của ḿnh, không bao giờ mất. Chừng nào chúng ta nhận được nó gọi là giác ngộ. Do nó có sẵn nơi ḿnh nên nó chính là nguyên nhân để dẫn đến sự giác ngộ.

Lâu nay chúng ta cứ ca ngợi trí bên ngoài, như vậy ḿnh có khác nào rô-bô. Đôi khi c̣n thua nó nữa, bởi v́ cái máy nhớ giỏi hơn ḿnh nhiều. Mới thấy trí tuệ của đạo Phật thật là thâm sâu, không phải nông cạn bên ngoài.

Đó là lư do tại sao bắt người học Phật phải buông bỏ hết những suy luận bên ngoài. Ngồi thiền là để tâm trong lặng, gọi là định. Từ cái trong lặng đó phát ra trí tuệ, trí tuệ này khác với trí tuệ do học từ bên ngoài rất xa.

Có người nói học nhiều thầy, sẽ có nhiều kiến thức, nhiều hiểu biết sâu rộng hơn tự ḿnh phát ra. Sự thực không phải vậy. Trí tuệ từ chính ḿnh phát ra mới siêu thoát, mới vượt hơn tất cả những hiểu biết của trần gian.

Đức Phật khi ngồi yên định phát ra trí tuệ, Ngài hoàn toàn giác ngộ. Bấy giờ Thế Tôn chứng được tam minh, lục thông, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng v.v... nhiều lắm. Ở đây tôi chỉ nói về tam minh thôi.

Tam minh là ǵ? Là ba cái sáng: Túc mạng minh, Thiên nhăn minh, Lậu tận minh. Do có tam minh nên Ngài có những kỳ đặc mà trước kia chưa ai có. Thứ nhất là Túc mạng minh, Ngài biết vô số kiếp về trước.

Những kinh Bổn sanh Bổn sự, Phật kể rơ những đời trước của Ngài và các vị đệ tử thế nào. Phật nói Ngài nhớ rơ những đời quá khứ như việc hôm qua, rơ ràng như vậy. Thế nên đức Phật thấy chúng ta sanh tử luân hồi chẳng phải chỉ một đời này mà từ vô số kiếp.

Trong kinh thường nói nước mắt chúng sanh nhiều hơn nước biển cả, là v́ chúng sanh đă khóc trong nhiều đời. Đó là Phật thấy mà nói, chớ không phải tưởng tượng mà nói. Đó là chứng được Túc mạng minh.

Thứ hai là Thiên nhăn minh. Thiên nhăn minh chia làm hai phần: một phần thấy hiện tượng thế gian, một phần thấy chúng sanh đi trong lục đạo luân hồi. Về hiện tượng thế gian Ngài thấy xa tít mù, nghĩa là thấy trong không gian có hằng hà sa số thế giới.

Trong kinh thường nói Phật thấy thế giới nhiều như cát sông Hằng. Trước đây hai mươi lăm thế kỷ ai dám nói câu đó? Hồi xưa nói thế giới nhiều như cát sông Hằng chúng ta không tin nổi, nhưng bây giờ tin rồi. Để thấy cái thấy của Phật không nhờ phương tiện khoa học.

Kế đến Phật thấy những sinh vật cực nhỏ. Nh́n trong bát nước Ngài thấy vô số vi trùng, nên nói “Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng”. Nghĩa là Phật nh́n trong bát nước thấy tám muôn bốn ngàn vi trùng, nên Ngài dạy các thầy Tỳ-kheo trước khi dùng nước phải có đăy lọc nước, v́ sợ vi trùng chết, nên lọc bỏ nó ra.

Hồi đó ai tin, nhưng bây giờ khoa học đă chứng minh những ǵ Phật thấy biết đều đúng. Song khoa học vẫn thấy sau và có những vấn đề chưa thấy bằng đức Phật.

Về phần chúng sanh, Ngài thấy chúng sanh luân hồi sanh tử trong lục đạo như người đứng trên lầu cao nh́n xuống ngă tư đường, thấy người qua kẻ lại rơ ràng không nghi ngờ.

Cái thấy đó là do thiên nhăn mà thấy, chớ không phải do suy luận. Giá trị của đạo Phật là thấy mới nói, không c̣n nghi nữa. Bây giờ khoa học tuy có nhiều phát minh, nhưng có thể người phát minh sau tiến hơn người trước phát minh nên cái thấy khác đi.

Trong Phật học, từ xưa tới giờ không hề thay đổi, v́ đó là những ǵ Phật đă thấy mới nói, không suy lư mà là chân lư. Đó là Thiên nhăn minh.

Thứ ba là Lậu tận minh. Lậu là lọt, chúng ta bị lẩn quẩn loanh quanh trong lục đạo luân hồi không ra khỏi gọi là trầm luân sanh tử. Người nào vượt ra khỏi đó gọi là giải thoát sanh tử. Chữ Hán dùng từ vô lậu là không c̣n rơi rớt lại trong tam giới nữa, nên nói giải thoát sanh tử.

Khi chứng được Lậu tận minh rồi, đức Phật thấy rơ nguyên nhân nào đưa chúng sanh đi trong luân hồi sanh tử và nguyên nhân nào để dứt bỏ luân hồi sanh tử. Bởi thấy rơ như thế nên bài thuyết pháp đầu tiên của Phật là Tứ diệu đế.

Trong đó, Khổ đế và Tập đế là nhân quả luân hồi. Diệt đế và đạo đế là nhân quả giải thoát. Những ǵ Phật nói đều do Ngài tu chứng mà nói, chớ không có lư luận, không có tưởng tượng. Hiểu vậy chúng ta mới thấy học Phật là học pháp đúng như thật.

Đức Phật dạy chúng ta đến với đạo Phật để mà thấy, chớ không phải đến để tin. Người học đạo phải nhận ra lẽ thật bằng chính trí tuệ của ḿnh mới được. Học Phật để tu chớ không phải để hiểu biết suông.

Nếu chúng ta không ứng dụng tu, dù có đi chùa lạy Phật bao nhiêu nữa, rốt cuộc vẫn không hết khổ. Hiện tại không hết khổ th́ mai kia cũng không hết khổ.

V́ vậy tu là gốc của an lạc, chấm dứt khổ đau. Nhân với quả luôn đi sát nhau, ngày nay vui th́ mai kia cũng vui, ngày nay khổ mà đ̣i mai kia vui, chắc khó.

Hôm nay tôi lược nói vài nét căn bản về đường lối tu của đạo Phật. Mong tất cả Phật tử hiểu rơ, nắm vững tông chỉ đức Phật đă chỉ dạy, theo đó ứng dụng tu hành. Được vậy chắc chắn kết quả sẽ tốt đẹp, không nghi.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 956 of 1146: Đă gửi: 28 December 2010 lúc 2:49pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




HOA VÔ ƯU

NGUỒN AN VUI LÂU DÀI

(CHƯƠNG NĂM)



Hôm nay tôi sẽ nói những ǵ cần yếu cho Phật tử biết để tu hành. Bài giảng với đề tài là Nguồn an vui lâu dài. Rất đơn giản.

Tại sao tôi chọn đề tài này? Bởi v́ tất cả chúng ta ai cũng muốn đời sống được an vui. Đời sống an vui mới có hạnh phúc, con người mới thảnh thơi nhàn hạ.

Nhưng nếu chúng ta không biết thế nào là an vui lâu dài, thế nào là an vui tạm bợ th́ chỉ hưởng được cái vui tạm bợ thôi, không bao giờ thấy được nguồn an vui lâu dài. V́ vậy tôi sẽ hướng dẫn quí Phật tử phương thức đi t́m sự an vui lâu dài.

Những người mới bước vào hoặc mới nghiên cứu đạo Phật thường lầm tưởng đạo Phật bi quan. Tại sao? V́ khi nghe Phật giảng bài kinh đầu tiên ở vườn Lộc Uyển: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế, người ta kết luận Phật bắt đầu giảng đạo là Ngài nói cái khổ trước rồi, đă nói khổ th́ làm sao vui được.

Phật nói rơ: “Đứng về thân th́ có sanh, già, bệnh, chết. Đó là khổ”. Những người trẻ tuổi chưa thấy già, chưa gặp bệnh, chưa tới chết nên họ nói không thấy khổ ǵ hết.

Song với người già sáu bảy mươi tuổi, cái khổ hiện rơ ràng, không chút ngờ vực. Đó là khổ về thân thể xác. C̣n về tinh thần, Phật nói cũng có bốn thứ là ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ.

Người thương mà phải xa ĺa là khổ. Người oán ghét cứ gặp gỡ là khổ. Làm việc ǵ mong cầu cho thành đạt, nhưng kết quả không được như ư là khổ. Thân năm ấm lôi kéo, thúc giục là khổ.

Quí vị nào sáu mươi hoặc năm mươi hơn, nghe ai nói anh hay chị năm nay già rồi th́ trong ḷng đă nghe buồn. Tại sao? Ḿnh không muốn già mà bây giờ nó già tức là trái với mong ước của ḿnh, v́ vậy nên khổ.

Cái già chưa hoành hành ǵ mà đă cảm thấy khổ rồi. Tới chừng thật già, đi đứng bất an, bệnh hoạn yếu đuối, sức khỏe ngày càng suy giảm, lúc đó cái khổ hiện tiền. Nói về bệnh khổ, chúng ta thấy dù trẻ dù già, mắc bệnh đều khổ, không ai chối căi được.

Bệnh không qua, cái chết sắp tới, lúc đó có khổ không? Khổ. Sắp tắt thở thân thể hoành hành đau đớn rất là khổ. Một đời người mấy mươi năm kết thúc chỉ toàn đau khổ. Đó là nói khổ về thân.

Ở đời ai không có người thương, người ḿnh quí trọng. Nếu người đó phải rời xa, không gần gũi được th́ khổ. Kế đến những việc ta muốn thành công mà nó cứ thất bại, làm chúng ta tán gia bại sản, lúc đó rất khổ.

C̣n cái khổ này hơi lạ một chút, người ḿnh ghét cay ghét đắng mà sao họ cứ nhan nhăn trước mặt hoài, đi đâu cũng gặp, có khổ không? Thật khổ. Cuối cùng thân năm ấm này khi hưng thịnh, nó hoành hành ta đủ thứ về thể xác cũng như tinh thần, nhà Phật gọi là ngũ ấm xí thạnh khổ.

Đă xác nhận cuộc đời là khổ, tại sao tôi lại khuyên quí vị đi t́m vui? Vui ở đâu mà t́m? Đó là điều chúng ta phải lưu tâm, suy gẫm kỹ càng xem thế nào là cái vui của Phật dạy.

Người đời ham hưởng thú vui, nhưng thú vui đó chỉ là tạm bợ, qua rồi mất. Hoặc có khi nó lại là trá h́nh của đau khổ. Ví dụ những người nam vào tiệc rượu, bạn bè chung nói cười vui ha hả. Một lát say rồi th́ sao? Lúc đó nói bậy bạ, căi nhau ầm ỉ, vui trở thành khổ.

Đó là chưa kể khi nổi say, ra về quờ quạng lái xe không khéo đụng người ta thêm khổ nữa. Rơ ràng cái chúng ta ngỡ vui lại không thật vui, chỉ tạm bợ thôi.

Bây giờ t́m vui trong đạo Phật là thế nào? Phật dạy người tu có nhiều thứ vui, nhưng ở đây tôi nói giản lược hai thứ thôi. Thứ nhất là vui trong sanh tử, thứ hai là vui trong vĩnh cửu, nghĩa là thoát ly sanh tử.

Vui trong sanh tử là vui thế nào? Với cái nh́n của Phật, Ngài thấy trong ṿng luân hồi sanh tử có sáu đường: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, a-tu-la, trời. Ba đường khổ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Ba đường lành là người, a-tu-la, trời.

Người là vui bậc hạ, a-tu-la vui bậc trung, trời vui bậc thượng. Cho nên ai tu nhân đi theo ba đường này là t́m vui trong lục đạo.

Khi qui y Tam bảo, kết quả thế này: “Qui y Phật khỏi đọa địa ngục, qui y Pháp khỏi đọa ngạ quỷ, qui y Tăng khỏi đọa súc sanh”.

Đó là chúng ta t́m ra một lối để khỏi đọa ba đường khổ địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Muốn ra khỏi ba đường khổ đó không ǵ hơn là hướng về Phật, hướng về Pháp, hướng về Tăng.

Nhưng muốn được làm người, Phật dạy phải giữ ǵn năm giới cấm. Giữ năm giới là tư cách một con người tốt, con người sống vui tươi.

Giới thứ nhất Phật cấm giết người, chẳng những không giết người mà những con vật lớn cũng không được giết. Tại sao? V́ chúng sanh không có cái sợ nào lớn bằng sợ chết.

Ai cũng sợ chết, con vật nào cũng sợ chết. Dù khổ như trâu ḅ, chúng vẫn sợ chết. V́ vậy phải biết sinh mạng là trên hết. Chúng ta làm một điều lành là đem lại sự b́nh an cho chúng sanh. Chúng ta tạo một điều dữ là đem lại đau khổ cho chúng sanh.

Bây giờ ta nguyện suốt đời, kể từ ngày qui y Tam bảo cho tới trăm tuổi, không giết hại người và các vật lớn. Tôn trọng sinh mạng của chúng sanh, là ta đă ban cho chúng sanh mạng sống b́nh an.

Quí vị thử nghĩ nếu mạng sống của ḿnh bị ai đe dọa muốn giết hại th́ ta lo sợ biết mấy. Cũng thế, nếu ta giữ giới không giết hại sinh vật th́ những người sống gần ta yên ḷng, không sợ bị đe dọa về tánh mạng.

Như thế là ban vui cho mọi người. Nếu ḿnh ban sự b́nh an cho mọi người th́ mọi người cũng để cho ḿnh b́nh an. Đó là điều công bằng.

Giới thứ hai không trộm cướp. Lo sợ thứ nhất là lo sợ mạng sống của ḿnh bị đe dọa. Lo sợ thứ hai là lo sợ của cải tài sản bị cướp giựt. Nếu cạnh nhà ḿnh, có kẻ hay trộm cướp quí vị sợ không? Sợ.

Như vậy thọ giới không trộm cướp là chúng ta giữ ǵn tài sản của những người chung quanh, không làm việc xâm phạm gây tai hại về tài sản của họ. Mọi người được b́nh an, khỏi lo mất mát, ŕnh rập đó là đem vui cho mọi người rồi. Người ta vui th́ ḿnh cũng vui.

Giới thứ ba không tà dâm. Con người muốn gia đ́nh hạnh phúc, sau khi có đôi bạn rồi người chồng hoặc người vợ phải chân thật, không có tâm lang chạ với ai khác. Được vậy bảo đảm gia đ́nh đó sống b́nh an, vui vẻ, hạnh phúc.

Nếu ai cũng nguyện không phạm giới tà dâm th́ gia đ́nh ḿnh, gia đ́nh người cũng được vui vẻ, khỏi lo sợ. Đó là đem lại sự b́nh an cho ḿnh và cho mọi người chung quanh.

Giới thứ tư không nói dối. Nói dối là dối gạt lừa bịp người. Kẻ ưa nói dối, ưa lừa gạt người th́ thiên hạ có tin không? Không tin. Đă không tin th́ họ sống giữa muôn người cũng lạc loài như sống ngoài sa mạc.

Không ai thèm nói chuyện với ḿnh, không ai thèm gần ḿnh, không ai muốn thấy ḿnh. Sống trong chỗ đông đảo mà mọi người đều t́m cách xa lánh, là tự ḿnh làm khổ ḿnh rồi.

Giới thứ năm không được uống rượu. Phần nhiều Phật tử nam khi qui y sợ giới này lắm. Ngày xưa Phật chỉ cấm uống rượu, bây giờ nói đủ hơn là cấm uống rượu mạnh, uống say, hút á phiện, x́ ke ma túy. V́ thời Phật không có mấy thứ đó, bây giờ mấy thứ đó nguy hiểm hơn rượu nữa nên phải giữ.

Đạo Phật là đạo giác ngộ, nếu chúng ta phạm giới uống rượu say, tâm trí không được sáng suốt, đôi khi trở thành cuồng dại nữa là khác. Uống say th́ tội lỗi không thể tránh. Cho nên uống rượu thấy như thường nhưng rất nguy hiểm. C̣n những thứ á phiện, x́ ke, ma túy càng nguy hiểm hơn.

Chúng ta tu muốn trở thành con người sáng suốt, có trí tuệ hiểu Phật pháp, hiểu cuộc sống th́ không được uống rượu. V́ muốn đem lại cuộc sống thanh b́nh, lợi lạc cho mọi người nên Phật cấm không được uống rượu mạnh, uống say, không được hút á phiện, x́ ke, ma túy.

Quí vị Phật tử nam v́ hoàn cảnh giao thiệp buộc ḷng phải uống, th́ nhớ uống chút chút thôi, đừng uống say. V́ say là nguy hiểm, rất dễ dẫn đến trường hợp cuồng dại. Hoặc quí vị sống ở xứ lạnh cũng vậy, có thể uống chút chút cho ấm thôi, đừng để say.

Phật chế giới cấm là v́ lợi ích của chúng ta, chớ không phải của Ngài. Đức Phật là bậc toàn giác, tâm hoàn toàn thanh tịnh, thoát khỏi ba cơi đâu cần phải giữ giới làm ǵ. Phật tử giữ giới không giết hại, không trộm cướp th́ khỏi ở tù.

Không tà dâm th́ gia đ́nh được hạnh phúc. Không dối gạt người th́ mọi người tin tưởng, quí trọng ḿnh. Không uống rượu say th́ trí tuệ thông minh sáng suốt, được mọi người kính nể. Như vậy v́ tư cách của ḿnh, sống xứng đáng là một con người nên chúng ta phải giữ năm giới cấm.

Giữ được năm giới th́ bản thân ḿnh b́nh an, láng giềng cũng b́nh an. Đó là cách tu để đem lại sự an vui cho bản thân, gia đ́nh và xă hội.

Hiện tại Phật tử giữ tṛn năm giới th́ khi sắp ra đi có sợ không? Thật ra nếu chúng ta giữ tṛn năm giới th́ khi ra đi không có ǵ phải sợ. Tại sao? V́ giữ giới không sát sanh, đời sau sanh ra tuổi thọ dài lâu.

Giữ giới không trộm cướp, đời sau sanh ra có nhiều của cải, không bị hao mất. Giữ giới không tà dâm, đời sau sanh ra gia đ́nh đầm ấm vui tươi, bản thân được đẹp đẽ nữa. Giữ giới không nói dối, đời sau sanh ra nói năng lưu loát, ai nghe cũng tin quí.

Giữ giới không uống rượu, đời sau sanh ra trí tuệ sáng suốt. Năm giới này giữ đủ, khi chết rồi sanh trở lại được làm người rất tốt đẹp, rất hoàn hảo. Nhà Phật gọi là tu Nhân thừa Phật giáo.

Chúng ta tu giữ năm giới được trong sạch, khi gần nhắm mắt biết rơ đời sau trở lại làm người tốt hơn đời này. V́ đời này có khi được cái này mất cái kia. Ví dụ được sống dai mà lại nghèo. Hoặc được sống dai, có của nhưng xấu xí.

Sống dai, có của, đẹp nhưng nói ngọng cũng khổ. Hoặc được bốn điều tốt: Sống dai, giàu sang, đẹp, nói năng trôi chảy mà đần độn, thi đâu rớt đó có vui không? Cũng khổ.

Bây giờ ráng giữ tṛn năm giới, đời sau sanh ra sẽ được hoàn toàn hơn. Như vậy chết không c̣n đáng sợ nữa, v́ biết ḿnh sẽ được thân sau tốt hơn thân này.

Ví như chúng ta đă để dành tiền kha khá. Bây giờ chiếc xe cũ hư xấu quá, có người hỏi ta tính sao? Dĩ nhiên ḿnh trả lời xe hư xấu th́ bỏ, mua xe khác đẹp hơn v́ tôi đang có tiền.

Cũng thế, thân này là bộ máy, xài một thời gian nó bại hoại, không ai giữ măi được. Khi bại hoại chúng ta có hướng đi, biết được mai sau ḿnh thế nào, đó là sự an vui, tốt lành. Như vậy nhờ tu năm giới hiện đời ḿnh được an vui, đời sau càng an vui hơn.

Người tu khá hơn nữa được sanh vào loài a-tu-la. Nếu tu Thập thiện được sanh lên cơi trời. Đó là kế t́m an vui lâu dài. Nhưng lâu dài này chỉ là lâu dài trong cuộc sanh tử, theo ba đường lành.

Bây giờ nói đến cái vui siêu thoát hơn, vui măi măi, vui vĩnh viễn, không bao giờ khổ. Tiến lên chỗ này hơi khó một chút, nhưng ai khéo tu vẫn có thể tiến được.

Nhà Phật nói vui ra khỏi sanh tử là cái vui siêu thoát mà người đời ít ai biết đến. Trước khi nói cái vui đó, tôi xin hỏi “Tất cả quí vị thấy thân này phải thật là ḿnh không?” Không. Nếu không thật, có ai bẻ ngón tay ḿnh nổi giận không? Điều này thật khó nói.

Nhà Phật phân tích thân này do bốn thứ đất, nước, gió, lửa hợp lại thành. Tuy nó có h́nh tướng, có bao nhiêu thứ tế bào nhưng thật ra cũng không ngoài bốn thứ đất, nước, gió, lửa.

Chất cứng trong người là đất, chất ướt là nước, thở ra thở vào động là gió, hơi ấm là lửa. Trong bốn thứ không thể thiếu thứ nào hết, nếu thiếu một thứ th́ chết ngay. Thân này đă do bốn thứ hợp thành, khi đủ duyên nó c̣n, thiếu duyên nó hoại.

C̣n và hoại là theo duyên chớ không phải quyền của chúng ta. Có ai muốn thân này hoại đâu, nhưng hết duyên nó phải hoại.

Thân đă do đất nước gió lửa hợp thành th́ có thật không? Không thật. Hiện giờ toàn thể quí Phật tử ngồi đây lỗ mũi đang làm ǵ? Thở. Thở là sao? Là mượn không khí bên ngoài đem vô. Đem vô rồi trả ra, cứ liên tục như thế.

C̣n đem vô, c̣n trả ra th́ c̣n sống, trả ra không thèm đem vô th́ chết ngay. Đó là cái thứ nhất không thật. Đất, nước, lửa cũng thế đem vô rồi trả ra. Thiếu nước th́ khát, thiếu cơm th́ đói, thiếu hơi ấm th́ lạnh.

Thiếu cái ǵ cũng khó chịu, cũng khổ. Mượn vô rồi không có điều kiện trả ra lại càng khổ hơn. Như vậy chúng ta sống chỉ bằng sự vay mượn.

Thế th́ quí vị định nghĩa hạnh phúc của thân này là ǵ? Mượn vô tốt trả lại dễ dàng, đó là hạnh phúc. Nếu trả lại trục trặc th́ chở vô bệnh viện liền. Rơ ràng có cái ǵ là thật ḿnh đâu.

Nếu thật th́ không mượn, đă mượn th́ không thật. Thế mà người thế gian không hiểu, cứ ngỡ thân này là thật, không ngờ chúng ta đang vay mượn để tồn tại trong từng phút giây. Khi sự vay mượn đó dừng, tất cả chúng ta phải ra đi.

Cho nên hạnh phúc của cuộc đời như người ta thường mơ ước chỉ là sự tưởng tượng mà thôi. Nếu nói thẳng hạnh phúc của cuộc đời là mượn vô tốt, trả ra dễ dàng.

Thân này không thật, đến tâm có thật không? Những nghĩ suy hơn thua, phải quấy, tốt xấu vui buồn là tâm ḿnh phải không? Nhiều Phật tử cả đời không biết tâm ḿnh là ǵ?

Nếu hơn thua, phải quấy, tốt xấu v.v… là tâm ḿnh th́ quí vị nghĩ ḿnh có bao nhiêu tâm? Đă nhiều tâm th́ cái nào là ḿnh? Chẳng lẽ tôi là trăm thứ sao? Khi buồn nói tôi buồn, khi giận nói tôi giận, khi thương nói tôi thương v.v… cái nào tôi thật? Đó là lầm lẫn về tâm.

Ở đây tôi chỉ nói hai thứ tâm. Một là tâm tạm bợ giả dối, hai là tâm chân thật, danh từ chuyên môn là vọng tâm và chân tâm. Tất cả chúng ta đều có hai thứ tâm, nhưng ḿnh chỉ biết vọng tâm sanh diệt, c̣n tâm chân thật th́ quên mất tiêu.

Bởi vậy trong kinh Pháp Hoa đức Phật nói ví dụ, có anh nhà nghèo đi xin ăn gặp người bạn giàu. Sau khi tiệc rượu say sưa rồi, anh bạn giàu lấy một ḥn ngọc nhét trong túi áo anh nhà nghèo, nghĩ rằng qua cơn say, anh ta sờ vào túi thấy ḥn ngọc, đem đi bán sẽ được giàu sang, hết một kiếp nghèo. Anh bạn nghèo hết say, không thấy chủ nhà cũng từ giả đi luôn và tiếp tục lang thang ăn mày nữa.

Qua một thời gian khá dài, anh nhà giàu bất chợt gặp lại người bạn cũ, thấy vẫn đi ăn mày, tức quá anh hỏi: “Trước tôi đă tặng cho anh viên ngọc nhét trong túi áo, sao tới giờ vẫn c̣n lang thang vậy?” Nghe thế, anh nhà nghèo ṃ vô túi được viên ngọc, lấy ra xài, từ đó hết nghèo.

Viên ngọc dụ cho cái chân thật, quí như ngọc báu mà ḿnh quên nên cứ sống lang thang theo tâm sanh diệt, tạo nghiệp luân hồi muôn kiếp. Chúng ta cứ luôn luôn đuổi theo buồn thương giận ghét, đời này khổ đời khác khổ, không biết bao giờ hết.

Đó là nghiệp luân hồi sanh tử. Muốn ra khỏi nghiệp luân hồi sanh tử chỉ có tu thôi. Tu bằng cách nào? Là dừng hết những tâm sanh diệt, để tâm chân thật hiện ra, chừng đó mới ra khỏi ṿng sanh tử nghiệp báo.

Muốn dừng tâm sanh diệt, trong kinh dạy nhiều cách. Hoặc dùng câu niệm Phật để quên hết những tâm niệm phải quấy, hơn thua. Chừng nào những tâm niệm lăng xăng đó dừng lặng, chỉ c̣n một tâm chân thật, lúc đó mới thấy Phật Di Đà.

Như vậy tu Tịnh độ để đi tới chỗ nhất tâm. Hoặc tu thiền, như đức Phật ngày xưa tu thiền để được định. Tu thiền định th́ tâm lăng xăng không c̣n, tâm lăng xăng không c̣n th́ mới giải thoát sanh tử.

Trong kinh Phật dạy các Tỳ-kheo tu theo thiền Nguyên thủy: từ Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền cho tới Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi phi tưởng xứ, tới cuối cùng là Diệt thọ tưởng định.

Diệt là diệt sạch, thọ là cảm giác đối duyên xúc cảnh, tưởng là tưởng tượng, suy gẫm. Vậy Diệt thọ tưởng định hay Diệt tận định là dứt sạch cảm giác đối với sáu trần bên ngoài, lặng hết tâm tưởng bên trong. Diệt tận định rồi chứng quả A-la-hán, được Niết bàn vô sanh. Đó là con đường chư vị A-la-hán ngày xưa tu.

Đọc sử chư Tổ tu thiền ở Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam, chúng ta thấy các Ngài có một lối đi khác hơn. Không đi quanh co từ Sơ thiền, Nhị thiền… mà đi thẳng gọi là thiền đốn ngộ. Tổ Bồ-đề-đạt-ma sang Trung Hoa, có bốn câu châm ngôn dạy tu thế này:



               Bất lập văn tự,

               Giáo ngoại biệt truyền.

               Trực chỉ nhân tâm,

               Kiến tánh thành Phật.

Nghĩa là:

               Không lập văn tự,

               Truyền ngoài giáo lư.

               Chỉ thẳng tâm người,

               Thấy tánh thành Phật.



Ngài không nói Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền ǵ hết. Như vậy con đường của Ngài thế nào? Ở đây Ngài chỉ thẳng một con đường để ra khỏi sanh tử, chấm dứt mọi khổ đau. Giải thoát sanh tử là nguồn an vui vĩnh cửu, không c̣n phiền lụy nữa. Đó là con đường đốn giáo hay nói cách khác là con đường Thiền tông.

Con đường Thiền tông được truyền từ tổ Ca Diếp dài xuống măi cho tới tổ Đạt-ma. Đó là chư tổ ở Ấn Độ. Đến tổ Đạt-ma, Thiền tông được truyền sang Trung Hoa, rồi tới Việt Nam. Chư tổ ở Việt Nam nhận được yếu chỉ tu hành, các ngài cũng ngộ đạo, cũng được làm Tổ. Thế nên con đường thiền này rất thiết yếu.

Khi c̣n học ở trường tới đoạn tổ Đạt-ma sang Trung Hoa gặp tổ Huệ Khả hỏi đạo, tôi lắc đầu v́ các Ngài dạy thiền giống như đùa cợt chơi vậy, không có ǵ để cho ḿnh hiểu.

Nhưng tới khi tu rồi tôi mới thấy đó là một lối chỉ tuyệt diệu, khó ai khéo hơn các Ngài. Sau khi ngài Huệ Khả được tổ Đạt-ma nhận làm đệ tử rồi, một hôm Ngài thưa:

- Bạch Ḥa thượng, tâm con không an xin Ḥa thượng dạy con pháp an tâm.

Tổ Đạt-ma nh́n thẳng vào mặt ngài Huệ Khả nói:

- Đem tâm ra ta an cho.

Lời của Tổ, Huệ Khả không dám xem thường, nên Ngài nh́n lại xem tâm bất an ở đâu. Càng nh́n, nó càng mất dấu mất h́nh, t́m không ra. Ngài thật thà thưa:

- Bạch Ḥa thượng, con t́m tâm không được.

Tổ bảo:

- Ta đă an tâm cho ngươi rồi.

Ngay câu đó, ngài Huệ Khả có chỗ vào. Vậy Ngài vào đường nào? Đó là điều dường như bí ẩn. Nhưng khi khám phá được rồi, chúng tôi thấy tuyệt diệu, phi thường.

Con đường không phải người thường t́nh t́m được. Bảo “ta đă an tâm cho ngươi rồi” th́ ngài Huệ Khả biết được lối vào. Lối vào ở đâu?

Một thời gian sau, ngài Huệ Khả thưa:

- Bạch Ḥa thượng, con đă dứt hết các duyên.

Tổ Đạt-ma liền nh́n thẳng nói:

- Coi chừng rơi vào không.

Ngài Huệ Khả trả lời:

- Rơ ràng thường biết, làm sao không được.

Ngay đó Tổ ấn chứng:

- Ông như vậy, Ta như vậy, chư Phật cũng như vậy.

Đơn giản làm sao! Công phu nhiều ít? Thiền vốn không có nói. Nhưng tôi nghĩ ở thời đại này, nếu không nói thiền sẽ bị ch́m vào quên lăng luôn, chớ không có người ngộ hiểu như ngày xưa. Thế nên tôi gượng nói yếu chỉ rất tài t́nh của Tổ.

Thường chúng ta hay cho những nghĩ tưởng suy tính theo duyên, theo cảnh là tâm ḿnh. Ngồi lại thấy chạy hoài, hết chuyện này tới chuyện kia, năm trên năm dưới, nhớ đủ hết do đó tâm bất an.

Bây giờ muốn an nó phải làm sao? Tổ nói tâm lăng xăng đó là tâm hư dối, không thật. Cho nên Ngài bảo “đem tâm ra ta an cho”, tức bắt phải nh́n lại xem nó ra sao, ở đâu? Nếu nó có thật th́ đem ra ta an cho. T́m không ra th́ biết nó không thật.

Lâu nay chúng ta mê lầm nhận cái hư ảo đó là tâm ḿnh thật. Từ nhận lầm nên cứ theo nó tạo nghiệp. Nó buồn, nó thương, nó ghét, nó giận, đủ thứ chuyện để tạo nghiệp.

Tạo nghiệp th́ đi trong luân hồi sanh tử. Bây giờ quay lại t́m xem nó ở đâu, có thật hay không? Quả tang nó mất tăm mất tích, tức là không thật, không thật th́ có ǵ đâu phải an.

Cho nên khi Huệ Khả t́m tột cùng thấy không có, ngài nói “con t́m tâm không được”. Tổ bảo “ta đă an tâm cho ngươi rồi”. T́m không thấy biết nó không thật, đó là chỗ an tâm.

Nhà thiền sau này dùng từ “Phản quan tự kỷ”, tức xem xét lại chính tâm ḿnh. T́m là chiếu soi lại, xem tâm bất an đang chạy đi đâu? Quay lại t́m tức là xem xét lại chính ḿnh.

Khi xem xét lại th́ nó mất. Tôi thấy các Thiền sư Trung Hoa rất hay, các Ngài diễn tả đường lối tu này bằng h́nh ảnh mười mục chăn trâu. Mục đầu là t́m trâu. T́m trâu là t́m ai? Là t́m tâm lăng xăng đó, thử coi nó đang ở đâu.

T́m thấy nó không thật, nhưng v́ nó cứ lải nhải hoài nên phải chinh phục, phải đánh đập, lần lần mới điều phục được nó.

Chúng ta v́ mê lầm chấp thân hư giả làm thân thật, chấp tâm hư giả làm tâm thật của chính ḿnh. Trọn cuộc đời đi trong mê lầm, rồi tạo nghiệp hư giả, sanh tử không cùng.

Bây giờ tu theo Phật là phải trở lại, phải thấy đúng như thật thân này hư giả, tâm vọng tưởng không thật. Phật thường nói thân tạm bợ vô thường, duyên hợp hư giả mà chúng ta thấy thân này thật nên quí nó, khổ v́ nó.

Phật thấy rơ được lẽ thật nên Ngài là bậc giác. C̣n chúng ta thấy mê lầm nên làm chúng sanh hoài. V́ bảo vệ thân tâm hư giả này mà con người tranh giành với nhau, rốt cuộc cả đời đau khổ dồn dập.

Người biết thân hư giả, tâm hư giả không thật là tiến được bao nhiêu bước? Nếu ai thật sự thấy thân này rơ ràng hư giả tạm bợ, sống mượn nó để làm những điều tốt đẹp, ích lợi cho đời th́ được.

Dùng tâm hư giả để phương tiện giúp đở người th́ được. Ngược lại nếu ai bảo vệ nó v́ tưởng nó là ḿnh thật, là chân lư th́ sai lầm.

Tổ Đạt-ma chỉ nói “đem tâm ra ta an cho”, chớ không nói hư giả. Tự ḿnh t́m không được, chừng đó sực tỉnh biết nó là hư giả, ngay đó giác ngộ thân tâm hư giả.

Có phải là kỳ diệu không? Nên tôi nói các Ngài có thủ thuật độ người hết sức kỳ diệu. Tất cả chúng ta muốn tu được giải thoát phải thấy đúng như thật. Đó là giác ngộ về thân, giác ngộ về tâm.

Chúng ta giác ngộ thân tâm đúng như thật rồi, mới bước sang lănh vực khác. Cho nên chúng tôi thấy rơ con đường Thiền tông tu rất đơn giản, mà kết quả hết sức lớn lao, hết sức thiết thực.

Chúng ta tu là cốt giác ngộ. Khi nào tâm hư giả lặng sạch như tổ Huệ Khả nói “con dứt hết các duyên”, tức là đối với sáu trần không dính mắc nữa. Tổ Đạt-ma sợ ngài chấp không nên gạn lại “coi chừng rơi vào không”.

Ngài trả lời “rơ ràng thường biết, làm sao không được”. Không dính với sáu trần mà tâm vẫn hằng tri, hằng giác nên đâu phải không ngơ hay không có tâm.

Như khi chúng ta ngồi chơi dưới gốc cây, nếu không nghĩ ǵ hết, gió thổi vẫn nghe mát, chim kêu vẫn nghe tiếng, người đi vẫn thấy bóng… Rơ ràng đang thấy, đang biết chớ đâu phải không biết ǵ hết.

Tâm lăng xăng là hư dối không thật lặng rồi, tâm chân thật hằng ở bên ḿnh. Nhưng v́ chúng ta bỏ quên nó, cứ chạy theo cái giả dối nên khổ. V́ vậy Phật nói: “Chúng sanh mê lầm ch́m trong sanh tử khổ đau”.

Bây giờ trở về với tâm thật th́ hết khổ đau. Đó là cứu khổ. Sống với tâm chân thật, không c̣n giành hơn thua, phải quấy th́ ngay đời này hết khổ rồi. Mai sau khi bỏ thân này được giải thoát sanh tử, đó là vui vĩnh cửu, chớ không phải vui thường.

Phật dạy chúng ta tu là t́m đến chỗ vui vĩnh cửu, đó mới thật là người biết đạo, biết cầu giải thoát. Cho nên t́m về với tâm chân thật là gốc của sự tu.

Trong lời tựa Thiền Tông Chỉ Nam, vua Trần Thái Tông đă tả lại cảnh nhà vua lên núi Yên Tử gặp Quốc sư Đạo Viên và được Quốc sư chỉ dạy điều cốt yếu của việc tu thiền thế này:

“Thấy Trẫm, Quốc sư mừng rỡ. Người ung dung bảo Trẫm: Lăo tăng ở chốn sơn dă đă lâu, xương cứng mặt gầy, ăn rau răm, nhai hạt dẻ, uống nước suối, vui cảnh núi rừng đă quen, ḷng nhẹ như đám mây nổi, cho nên mới theo gió mà đến đây.

Nay Bệ hạ bỏ địa vị nhân chủ mà nghĩ đến cảnh quê mùa rừng núi, hẳn là muốn t́m cầu ǵ ở đây, cho nên mới đến phải không?”

Đọc qua đoạn này chúng ta h́nh dung rơ một Thiền sư ở núi. Lăo tăng ở chốn sơn dă đă lâu tức Ngài nói ḿnh ở núi rừng đă lâu. Xương cứng mặt gầy, ngài ốm nên xương cứng mặt gầy. Ăn rau răm, nhai hạt dẻ, uống nước suối.

Hạt dẻ ở Việt Nam khác hạt dẻ ở đây, nó chỉ bằng ngón tay út thôi mà cứng lắm. Ăn rau răm, uống nước suối, chớ không uống nước lọc như bây giờ. Sống trên rừng núi đạm bạc như vậy. Vui cảnh núi rừng đă quen, ở núi rừng quen vui với cảnh núi rừng.

Ḷng nhẹ như đám mây nổi, nên mới theo gió mà đến đây, diễn tả tâm hồn Ngài không vướng bận ǵ, như mây trên trời nhẹ nhàng, thong dong. Bởi hai chữ mây nổi này mà người sau gọi Ngài là Quốc sư Phù Vân.

Nay bệ hạ bỏ địa vị nhân chủ mà nghĩ đến cảnh quê mùa rừng núi, hẳn là muốn t́m cầu ǵ ở đây cho nên mới đến, phải không?

Bấy giờ vua Trần Thái Tông nói:

Trẫm nghe lời thầy hỏi hai hàng nước mắt ứa ra, liền thưa với thầy rằng: Trẫm c̣n thơ ấu, đă sớm mất mẹ cha, trơ vơ đứng trên sĩ dân, không có nơi nương tựa.

Lại nghĩ rằng sự nghiệp đế vương đời trước hưng phế bất thường, cho nên mới vào đây, chỉ muốn cầu thành Phật, chớ chẳng muốn t́m ǵ khác”.

Quốc sư dạy:

Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta. Nếu tâm lắng lặng trí tuệ xuất hiện, đó chính là Phật. Nếu Bệ hạ giác ngộ được tâm ấy th́ tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần đi t́m cực khổ ở bên ngoài”.

Câu chỉ dạy hết sức đơn giản: Phật không có trên núi, chỉ ở trong tâm. Tâm ḿnh là Phật. Đó cũng chính là chủ trương của Mă Tổ ngày xưa “tức tâm tức Phật”. Phật là ǵ? Phật là giác ngộ. Mà giác ngộ là tâm ḿnh giác, chớ cái ǵ giác.

Đi t́m chỗ nào cũng không có giác ngộ, v́ giác ngộ chính ở nơi tâm ḿnh. Như vậy muốn t́m Phật th́ phải soi lại tâm ḿnh, dẹp những lăng xăng cho nó yên rồi th́ trí tuệ sáng, đó là giác ngộ.

Nếu tâm vắng lặng trí tuệ xuất hiện, đó chính là Phật. Tâm vắng lặng phản quan nh́n lại, bấy giờ cái tâm lăng xăng im đi th́ trí tuệ sáng.

Phật đâu phải ở chỗ xa thẳm mà t́m không được, Phật ở nơi tâm ḿnh. Như vậy mới thấy tinh thần Thiền tông rất phi thường, không nói quanh co khó t́m khó thấy, mà nói thẳng.               

Nếu bệ hạ giác ngộ được tâm ấy th́ tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần đi t́m cực khổ ở bên ngoài. Nếu giác ngộ nơi ḿnh có tâm chân thật, th́ thành Phật tại chỗ, khỏi đi t́m kiếm ở đâu.

Đó là một thiền sư Việt Nam nói thẳng cho chúng ta biết. Ở Trung Hoa các Ngài c̣n nói ẩn, chớ ở Việt Nam Thiền sư nói thẳng, chỉ thẳng cho chúng ta thấy tu thiền là t́m Phật ngay nơi tâm ḿnh, chớ không t́m Phật ở đâu khác. Đó là một đoạn tôi thấy thiền sư Việt Nam đă chỉ rơ tinh thần tu thiền cho chúng ta.

Sau khi nghe lời Quốc sư Phù Vân, vua Trần Thái Tông theo Trần Thủ Độ trở về triều. Ngài trở về với tâm tư tỉnh táo sáng suốt, đó là tâm tư giác ngộ nên sau này Ngài có những lời thật hay, thật khéo. Chúng ta nghe tiếp một đoạn Ngài nói về sắc thân:

Các ông nên chính chắn xem, chỉ sắc thân này khi chưa vào bào thai th́ nơi nào được có. Bởi do niệm khởi duyên hội, năm uẩn hợp thành, thể mạo vọng sanh, h́nh dung giả có.

Quên thật quên gốc, hiện giả hiện dối, hoặc nữ hoặc nam, hoặc đẹp hoặc xấu. Trọn ḷng buông tâm chạy đi, toàn không một bước trở về, chạy rong trên đường sanh tử, mất tuốt “bản lai diện mục”. Do đó, giương mắt nh́n bên ngoài, ai biết xoay đầu ngó lại bên trong.

Khi lại, sanh là hóa sanh; nơi đến, trong mộng nói mộng. Lăng xăng lộn xộn, vội vội vàng vàng, lấy giả làm chân, trái không đến sắc.

Đầu sọ khô cài hoa giắt ngọc, túi da hôi ướp xạ xông hương, cắt lụa là che đậy máu tanh, giồi son phấn át thùng phân thối. Trang sức như thế trọn là gốc nhớp. Không thể nơi đây tự thẹn, lại hướng trong ấy mến yêu.

Làm vua cung phi mỹ nữ rất đông mà ngài không lầm. Ngài thấy tường tận đó là tướng giả, không đáng ǵ phải bận tâm.

Chúng ta bây giờ giả c̣n thêm lớp giả nữa. Cứ vậy mà chồng chất hết lớp giả này đến lớp giả khác, rồi gạt lừa nhau, đủ thứ chuyện khổ sở. Người tu thấy đúng như thật về thân, đúng như thật về tâm là đă giác.

Nhưng đó chỉ mới giác phần đầu thôi, c̣n phải tiến lên buông xả, không cho niệm chạy theo cảnh, lần lần nhận ra cái chân thật của ḿnh.

Kế tiếp là đoạn Ngài khuyên phát tâm Bồ-đề:

Ở đời cái quí tột chỉ là vàng ngọc mà thôi. Nhưng xét kỹ chỗ quí tiếc ấy chẳng bằng thân mạng. Ví như có người giàu sang được phong làm đại tướng, dùng vàng ṛng làm giáp để che đở cho thân.

Đến khi lâm chiến binh đao bị thua, hoặc cởi giáp ném gươm mà chạy, mong được thân mạng an toàn mà thôi, giáp vàng ṛng đâu rảnh nghĩ tiếc. Mới biết cái quí vàng ṛng chẳng bằng cái quí thân mạng, đây là thực vậy.

Ngày nay th́ không thế, trái lại quí vật kia mà khinh thân này. Chẳng biết thân này khó được có ba. Thế nào là ba?

1. Trong lục đạo chỉ có người là quí, đến khi nhắm mắt rồi, mờ mờ mịt mịt chẳng biết chỗ đến. Hoặc vào đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, chẳng được làm người. Đây là cái khó được thứ nhất.

2. Đă được làm người, lại sanh nơi mọi rợ, tắm th́ đồng sông, ngủ th́ chung giường, trật tự tôn ty không có, nam nữ lẫn lộn, chẳng được phong tục nhân thuần, chẳng nghe chư Thánh giáo hoá. Đây là cái khó được thứ hai.

3. Đă được sanh nơi phồn thịnh mà sáu căn không đủ, thân thể tật nguyền, mù, điếc, câm ngọng, què, thọt, c̣ng, gù; miệng mũi hôi tanh, thân h́nh nhơ nhớp. Thầy chẳng được gần, chúng chẳng được thân. Tuy ở nơi phồn thịnh dường thể ở ngoài quê vắng. Đây là cái khó được thứ ba.

… Rơ ràng thời gian trăm năm, toàn ở trong sát na, thân huyễn tứ đại đâu thể lâu dài. Mỗi ngày ch́m đắm trong trần lao, mỗi lúc nghiệp thức càng mênh mông vô tận. Chẳng biết một tánh viên minh, luống theo sáu căn tham dục.

Công danh cái thế cũng chỉ là một trường đại mộng, phú quí kinh nhân khó khỏi vô thường hai chữ. Tranh nhân tranh ngă rốt cuộc thành không, khoe giỏi khoe hay cứu kính chẳng thật.

Đây là những câu Ngài giải thích cho chúng ta thấy rơ thân này không thật, nhưng trong cái không thật đó có một ḥn ngọc quí, mà chúng ta bỏ quên, chạy theo công danh phú quí. Công danh cái thế cũng chỉ là một trường đại mộng, phú quí kinh nhân khó khỏi vô thường hai chữ.

Thiền sư Minh Chánh nói: “Công danh cái thế màn sương sớm, Phú quí kinh nhân giấc mộng dài”, hai ư này giống nhau, diễn tả công danh sự nghiệp ở đời không có ǵ thật.

Chúng ta kiểm nghiệm lại bao nhiêu người của đầy kho rồi cũng chết. Khi chết, của đó thuộc về ai? Dù lúc sống được chức to, của nhiều, cuối cùng cũng không giữ được. Cho nên Ngài thức tỉnh chúng ta bằng hai câu thơ:



               Gió lửa khi tan không già trẻ,

               Núi sông bại hoại mấy anh hùng.



Gió lửa một khi đă tan, không phân già trẻ. Ai tới thời kỳ đó th́ tự tan. Có mấy kẻ anh hùng ǵn giữ được núi sông măi măi? Tới lúc nào đó cũng phải bại hoại thôi.

Đầu xanh chưa mấy lúc tóc bạc đă sớm điểm sương; ngày vui vừa đến th́ ngày điếu cũng đi theo. Một bao máu mủ nhiều năm khổ luyến ân t́nh, bảy thước h́nh hài buông ḷng tham mê tài bảo.

Thở ra khó mong được hít vào, ngày nay không bảo đảm ngày mai.Sông yêu ch́m nổi lúc nào thôi,



               Nhà lửa đốt thiêu bao giờ tắt?



Qua những lời nhắc nhở của Ngài, chúng ta thấy công danh, phú quí chỉ là tạm bợ, hư ảo. Ngồi trên địa vị ông vua có chức vị nào hơn, mà ngài vẫn coi nó như tṛ chơi, như mộng ảo.

Đầu xanh chưa mấy lúc tóc bạc đă sớm điểm sương. Quí vị rờ trên đầu xem có điểm sương chưa? Chẳng những điểm sương mà nó muốn thành thúng bông nữa.

Mới ngày nào đó ḿnh c̣n trẻ, ngày nay đă già rồi. Nhớ lại khác nào giấc mộng, có ǵ quan trọng. Ngày vui vừa đến th́ ngày điếu cũng đi theo, nghĩa là ngày sanh th́ vui mừng nên gọi là mừng sinh nhật. Nhưng thời gian sau ngày chết sẽ đến, người ta đi điếu. Bởi có sanh th́ có tử.

Một bao máu mủ nhiều năm khổ luyến ân t́nh, thân này chỉ là một đăy da chứa đầy máu mủ, thịt xương, vậy mà cứ thương cứ ghét, nên nhiều năm phải chịu khổ sở.

Bảy thước h́nh hài buông ḷng tham mê tài bảo. Mang thân bảy thước mà cứ đắm mê tiền của không dừng. Bảy thước đây là bảy thước xưa. Thở ra khó mong được hít vào, ngày nay không bảo đảm ngày mai. Nhà vua mà thấy như vậy th́ thật là phi thường.



               Sông yêu ch́m nổi lúc nào thôi,

               Nhà lửa đốt thiêu bao giờ tắt?



Chúng ta cứ ch́m đắm trong sông yêu và nhà lửa. Cứ theo đuổi nhau trong đau khổ không biết chừng nào ra khỏi. V́ vậy Ngài chỉ ra lẽ thật, muốn cho mọi người đều thấy, đều biết để rồi chúng ta thoát khỏi những nỗi khổ đó.

Như vậy người tu muốn ra khỏi ṿng luân hồi sanh tử phải làm sao? Phải phá chấp thân thật, phá chấp tâm suy nghĩ là tâm ḿnh thật. Khi thấy thân không thật, tâm không thật th́ bớt dính với ngoại cảnh, lúc đó tâm mới yên. Tâm yên rồi th́ trí tuệ sáng, đó là đi tới giác ngộ.

Thế nên giác ngộ không phải là chuyện ở đâu, mà là chuyện sẵn nơi ḿnh. Tâm ta giác đó là giác ngộ, tâm ta mê đó là chúng sanh. Nếu ngay trong cơi đời này chúng ta nhận ra được cái thật của ḿnh, th́ không c̣n lầm các pháp ở thế gian nữa.

Nhờ thế sống tự tại, ra đi cũng an lành, không sợ sệt ǵ cả. C̣n không nhận được như vậy, khi mất thân sẽ hoảng hốt, không biết ra sao? Đó là cái đau khổ triền miên của con người.

V́ vậy tu là để giác ngộ, để đi tới chỗ cuối cùng là giải thoát sanh tử, an vui vĩnh viễn; chớ không phải chỉ t́m nguồn an vui lâu dài trong sanh diệt mà thôi




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 957 of 1146: Đă gửi: 28 December 2010 lúc 2:50pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




HOA VÔ ƯU

TU HÀNH PHẢI TINH TẤN

(CHƯƠNG SÁU)



Hôm nay là ngày đầu của mùa an cư, tôi có vài điều nhắc nhở Tăng Ni để quí vị tu hành được tăng tiến. Trước hết tôi nói về phần an cư, sau nhắc về phần tu hành phải tinh tấn.

Ngày xưa chư Tăng Ni thời đức Phật sau khi học hiểu nơi Ngài xong, mỗi vị đều đi nơi này nơi kia để khất thực giáo hóa chúng sanh, ít khi tụ họp lại một chỗ. V́ vậy có những vị mới thọ giới Tỳ-kheo hoặc c̣n Sa-di, chưa hiểu đạo lư nhiều, đi nơi này nơi nọ thường xảy ra những điều không hay.

Do đó đức Phật lợi dụng ba tháng mùa mưa, kêu gọi tất cả Tăng Ni tụ họp lại từng nhóm ở mỗi bản xứ riêng, cùng nhau thúc liễm thân tâm tu hành. Trong mỗi nhóm có những vị trưởng lăo, hoặc Tăng hoặc Ni có kinh nghiệm tu hành dày dặn, chịu trách nhiệm nhắc nhở, dạy dỗ trong nhóm ấy.

Làm thế nào sau mỗi mùa an cư, Tăng Ni thêm nhiều công đức, xứng đáng là người xuất gia có đạo hạnh. V́ vậy đức Phật rất quan trọng ba tháng an cư, bởi v́ trong một năm Tăng Ni chỉ tụ hội lần này, ở yên một chỗ được nghe nhắc nhở, dạy bảo chăm sóc từng oai nghi cử chỉ nhỏ nhiệm, đó là điều hết sức quí báu.

Cho nên sau mùa an cư tới ngày tự tứ tức ngày măn hạ, chư Tăng Ni mới cầu thỉnh các bậc trưởng lăo chỉ dạy những điểm sơ suất của ḿnh, nhờ các Ngài bổ túc cho.

Qua lễ tự tứ chư Tăng chư Ni nhất là hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni được thêm một tuổi hạ, tức một tuổi công đức. Nếu Tăng Ni nào không được tụ họp một chỗ tu hành trong ba tháng, coi như không có tuổi hạ.

Tại sao? V́ đức Phật xem như vị ấy không đủ điều kiện để tu hành tinh tấn nên không được nhận tuổi hạ. Tầm vóc của mùa an cư quan trọng như vậy, do đó ngày nay chư Tăng Ni cũng vẫn theo sự sắp đặt trước kia của đức Phật mà ứng dụng tu tập trong ba tháng an cư.

Tuy thực hiện theo nếp cũ của đức Phật, song phần lớn ngày nay chúng ta có nhiều duyên sự phải đi đây đi kia, nên mùa an cư không được an ổn mấy, đó cũng là điều thiếu phước của ḿnh.

V́ đi nhiều th́ xao động nhiều, xao động nhiều th́ sự tu không được đầy đủ, nên khó tiến. Đó là tôi nói ư nghĩa của ngày an cư.

Kế đến nói về ư nghĩa tinh tấn của sự tu hành. Tôi đă nhiều lần nhắc tới nhắc lui với chư Tăng Ni rằng chúng ta đi tu không phải do cha mẹ ép buộc, không phải hoàn cảnh bên ngoài bức bách mà do mỗi người tự ư thức, tự tỉnh giác cuộc đời vô thường, đau khổ mà đi tu.

Chúng ta t́m đến với đạo để cầu sự an lạc giải thoát. Thế nên làm sao để được an lạc, làm sao để được giải thoát, đó là hai mục tiêu chính mà toàn thể Tăng Ni, không ai có thể lơ là được.

Trước hết tôi nói về niềm an lạc của sự tu. Tôi c̣n nhớ những năm ở Chân Không, có một số thầy ḍng từ Nha Trang, Đà Lạt vào thăm. Các vị hỏi tôi thế này:

“Tại sao gần đây chư Tăng Ni cũng như các thầy ḍng tu một thời gian rồi ra đời khá nhiều?” Từ b́nh dân thường dùng là “người tu rụng như sung”. V́ cây sung khi ra bông ra trái rất nhiều, nhưng thời gian sau nó rụng gần hết.

Cũng thế, người vào chùa hoặc nhà ḍng nhiều nhưng nửa chừng lại bỏ về không tu nữa, tại sao như thế? Tôi trả lời: “Bởi v́ họ không t́m thấy được nguồn an vui trong đạo”.

Ở thế gian người ta sống vui vẻ là nhờ hưởng thụ dục lạc. V́ đua nhau t́m hưởng dục lạc nên mỗi người nỗ lực cố gắng tạo điều kiện cho có đủ dục lạc để hưởng, do đó họ quên ngày quên tháng, cứ lao ḿnh trong dục lạc.

Tuy nhiên, bên cạnh những kẻ chạy theo dục lạc thế gian, có những người thức tỉnh biết dục lạc là tạm bợ, không có giá trị ǵ, nên họ bỏ đời vào đạo. Vào đạo v́ chán cái tạm bợ, đau khổ ở thế gian. Do đó khi vào đạo, lúc nào người ta cũng nghĩ t́m được nguồn an vui.

Nhưng rất tiếc vào đạo rồi cũng lẩn quẩn trong những h́nh thức tu hành mà không t́m được chút thú vui đạo lư nào nên sau một thời gian họ thối tâm Bồ-đề. T́m vui mà không được cái vui trong đạo nên họ trở lại t́m cái vui ngoài đời. Nên tôi nói sở dĩ họ thối tâm là v́ không t́m được nguồn vui trong đạo.

Tăng Ni cũng như những người tu đạo khác nửa chừng bỏ không tu nữa, đó là v́ đang hứng thú hay đang chán nản, đang buồn tẻ với sự tu hành? Dĩ nhiên đang chán, đang buồn. Bởi chán buồn nên mới bỏ đạo.

Người phát tâm tu th́ rất đông nhưng đi nửa chừng, hoặc một phần ba, phần tư đường lại thối tâm. Đó là do đâu mà ra? Ở đây tôi tạm kể những lư do thối tâm của một số người tu chúng ta.

Lư do thứ nhất, trong khi tu không t́m được nguồn an vui nào cả. Cứ lẩn quẩn hết tháng hết năm không thấy chút vui nên sanh chán nản. Lư do thứ hai, trong sự tu hành đa số nghĩ tu sẽ vui, sẽ hạnh phúc.

Nhưng không ngờ vào chùa rồi, lâu lâu huynh đệ cũng xảy ra chuyện phiền năo. Hạnh phúc đâu chưa thấy mà thấy phiền năo nhiều quá. Người này phiền người kia, người kia trách người nọ, đi t́m hạnh phúc mà trái lại gặp phiền năo nên đâm ra chán nản. Lư do thứ ba, trong khi tu thiếu tinh tấn nên việc tu không tiến.

Ngồi thiền một hai giờ, tiến đâu không thấy mà đau chân gần chết. Thêm buồn ngủ nữa, cứ gục lên gục xuống hoài cho nên muốn thối lui. Lư do thứ tư, trong khi tu ai cũng nghĩ ḿnh sẽ được thầy, cô hay huynh đệ lớn hơn vuốt ve an ủi, nói lời nhẹ nhàng.

Nhưng không ngờ được an ủi ít mà bị rầy nhiều. Mất niềm vui được cha mẹ cưng chiều an ủi, vào chùa trông cậy niềm vui nơi thầy nhưng không được nên thối tâm. Đó là những lư do khiến cho người tu dễ thối tâm.

Khi tu được thầy an ủi, vỗ về hay được thầy rầy la, trường hợp nào dễ tu tiến? Nếu người muốn được an ủi vỗ về th́ tôi nghĩ nên ở nhà với má chắc sướng hơn. V́ má lúc nào cũng cưng, cũng an ủi ḿnh.

C̣n vào đạo là lúc nào cũng sẵn sàng chấp nhận mọi khó khổ để tu tiến. Do đó chuyện an ủi vỗ về đối với người quyết chí tu là bằng thừa. Bởi chúng ta đă can đảm, đă quyết tu th́ không như những đứa bé nũng nịu đ̣i cha mẹ nuông chiều.

Trong nhà Phật thường nói người tu là người phi thường, là thượng sĩ xuất trần. Xuất trần là ra khỏi sáu trần, thượng sĩ là bậc, bậc thượng ra khỏi sáu trần. Nói cách khác là Bồ-tát ra khỏi sáu trần. Đă là thượng sĩ th́ đâu thể yếu đuối, đâu thể nũng nịu như những đứa bé con đ̣i cha mẹ nuông chiều.

Hồi xưa nhiều vị tu vào rừng, lên núi, ăn trái cây, uống nước suối, ngủ dưới gốc cây, chớ không như chúng ta bây giờ. Ăn th́ cơm trắng, uống th́ nước lọc, ngủ th́ mùng mền đàng hoàng.

Như vậy đối với người xưa chúng ta hơn các Ngài vật chất khá nhiều, nhưng lại kém tinh thần quá xa. Vậy nên chúng ta nhớ ḿnh đă quyết chí làm người xuất trần th́ đừng đ̣i hỏi, đừng mong muốn những thứ tầm thường theo thế tục.

Chúng ta nên mong muốn vị thầy của ḿnh là người hiểu đạo, người thực tu. Có hiểu đạo, có thực tu mới xứng đáng là thầy của ḿnh.

Trong kinh Trung A-hàm đức Phật dạy, nếu Tỳ-kheo đến trụ xứ nào nương ở tu hành, mà nơi đó thiếu ăn thiếu mặc, thiếu luôn cả giáo lư th́ từ giă ra đi, không nên ở lâu. Nếu đến chỗ nào thiếu ăn thiếu mặc mà được sự dạy dỗ, có giáo lư th́ cũng phải cố gắng ở lại, không nên đi.

Như vậy giá trị của người tu không phải việc ăn việc mặc mà là giáo lư. Quí vị đă có duyên được đến Thiền viện hoặc ở chung quanh Thiền viện, có cơ hội nghe giáo lư, hiểu giáo lư, nên biết nơi đây là duyên tốt xứng đáng cho ḿnh nương gá.

V́ vậy phải tinh tấn tu hành, không nên coi thường. Bởi nhu cầu của người tu không phải ở việc ăn mặc mà là ở chánh pháp. Có chánh pháp chúng ta mới biết được hướng đi, biết đường lối tu hành.

Nếu không có chánh pháp th́ đời tu của ḿnh trở thành trống rỗng, không lợi ích cho ḿnh, cũng không lợi ích cho ai. Cho nên tất cả quí vị tu hành an ổn là nhờ hiểu được chánh pháp. Hiểu được chánh pháp rồi mà không nỗ lực tinh tấn tu th́ thật là đáng tiếc.

Tinh tấn theo tinh thần đức Phật dạy là lúc nào chúng ta cũng phải tinh tấn. Có tinh tấn mới có khinh an. Nếu không nỗ lực, không cố gắng th́ khó t́m được sự an lạc cho ḿnh. Thiền sư Hoàng Bá có mấy câu kệ nói về sự tinh thần rất hay, “Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt, hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”.

Nếu không một phen chịu cái lạnh buốt của mùa đông th́ khó hưởng được mùi thơm của hoa mai. Chịu được cái lạnh buốt của mùa đông để nói lên sức mạnh tinh tấn khiến cho chúng ta quên đau quên khổ.

Như trên tôi đă nói, ngồi thiền thấy đau nhức mà cứ bắt ngồi hoài nên ngán. Hoặc bị ma ngủ lấn lướt hay ma loạn tưởng quấy nhiễu liên tục, cứ ngồi hàng phục chúng măi đâm chán.

Hàng phục vọng tưởng vừa yên yên một chút th́ gục lên gục xuống. Hết đau nhức tới vọng tưởng, hết vọng tưởng tới ngủ gục, lẩn quẩn có ba chuyện đó th́ hết giờ ngồi thiền, thành ra đâm chán. Đó là v́ quí vị chưa nỗ lực vượt qua được giai đoạn ấy.

Ai có kinh nghiệm trong công phu tu sẽ thấy rơ lư do thối Bồ-đề tâm chính từ sự thiếu tinh tấn mà ra. Quí vị gắng nỗ lực vượt qua được đau nhức của chân, vượt qua được các loạn tưởng, vượt qua được buồn ngủ, chừng đó sẽ thấy an lạc đến với ḿnh.

Có hưởng được nguồn an lạc này rồi mới thấy thế gian chưa có cái vui nào sánh kịp với cái vui của người tu. Người đă hưởng được nguồn an lạc trong đạo, dù ai níu kéo hoặc cam kết mọi sự an ổn cho họ để ra đời, họ cũng không bao giờ ra.

Tại sao? Bởi v́ họ đă thấy cái vui của thế gian là trá h́nh của đau khổ. Chỉ có vui của đạo mới là niềm vui chân thật. Song niềm vui này chỉ đến với những ai tinh tấn tu hành mà thôi.

Quí vị nhớ chúng ta tu là tu cho ḿnh, chớ không phải tu cho thầy. Ngày nay Tăng Ni thường tu giùm cho thầy, cho Phật chớ không phải tu cho ḿnh. Thầy rung chuông kêu dậy th́ ráng ngồi dậy tu, chớ thầy đi khỏi là nằm xuống ngủ liền.

Tu như thế là tu giùm cho thầy, không phải tu cho ḿnh. Tu kiểu đó dù một năm, hai năm hay cả đời cũng không bao giờ tiến. Nên nhớ tu là phải có sức tinh tấn, vừa nghe tiếng chuông là trổi dậy ngay, không chần chờ, không đợi kêu réo ǵ hết.

Đâu có ai rủ hay ép ḿnh đi tu, mà bây giờ phải kêu phải gọi. Có vị nào không lạy lên lạy xuống đ̣i tu cho được, th́ bây giờ phải làm bổn phận của ḿnh chứ!

V́ vậy nếu chúng ta là người chân chánh xuất gia, quyết tâm cầu giải thoát th́ phải nỗ lực, không được chần chờ, không đợi kêu mời, nhắc nhở, phải tự cố gắng nỗ lực.

Có vị thầy nào muốn quở phạt đệ tử hoài đâu. Sở dĩ thầy quở phạt là v́ ḿnh chểnh mảng, không muốn học, không muốn làm, không muốn tu. Ngủ kêu không muốn dậy, không rầy sao được. Đó là những điểm yếu dở, nhưng thường chúng ta không chịu nhận lỗi của ḿnh, cứ trách tại sao thầy rầy ḿnh, phạt ḿnh?

Ông thầy thâu đệ tử đâu phải để rầy phạt, mà thâu đệ tử vô để hướng dẫn tu hành cho được kết quả tốt, mai sau nối tiếp ngọn đèn chánh pháp của Phật tổ. Đâu ai muốn thâu đệ tử để rầy, rầy chi cho sanh phiền năo.

Mục đích ban đầu của chúng ta quá cao thượng, nhưng tới khi thực hành lại lếch bết, lôi thôi, buộc ḷng người lớn có trách nhiệm phải rầy phải phạt. Bị rầy phạt ḿnh đâm ra chán, nghĩ sao vào đạo không thấy vui, cứ nghe rầy phạt hoài. Đó là lỗi tại ḿnh mà ra.

Nếu một vị tăng hay ni nào vừa nghe tiếng kiểng liền trổi dậy súc miệng rửa mặt, chuẩn bị ngồi thiền ngay, thử hỏi thầy nào rầy được? Khi ngồi thiền đỉnh đạt ngay thẳng, tỉnh táo suốt giờ. Lúc công tác, sai đâu làm tṛn đó, bảo đảm trăm phần trăm không ai rầy ḿnh hết. V́ chúng ta không cố gắng, không tinh tấn nên thầy mới quở phạt. Quở phạt ḿnh, thầy cũng đâu có vui.

Như vậy chữ tinh tấn mà chúng tôi đề ra là tinh tấn trong mọi trách nhiệm thầy giao phó, chúng ta phải cố gắng làm tṛn. Tinh tấn trong giờ tu, tinh tấn trong giờ học, tinh tấn chinh phục phiền năo nữa. Nghĩa là vừa có một niệm buồn niệm chán dấy lên, phải tinh tấn hàng phục liền.

Hàng phục bằng cách nào? Nếu khi đang tu mà gặp duyên ǵ hơi buồn chán, ta nghĩ thôi trở về ở với ba với má khỏe hơn, lúc đó phải thế nào? Phải tự hỏi lại ai bắt ḿnh đi tu? Hồi đi ba má khóc không cho, đến khi vô chùa rồi lại muốn trở về.

Tại sao lúc trước anh hùng, bây giờ lại thành kẻ bại trận? Như vậy ḿnh đâu xứng đáng là người quyết tâm đi tu. Nhờ tự nhắc như thế, nên trong ḷng mạnh mẽ lên, ta cố gắng vượt qua được tâm trạng buồn chán.

Sự cố gắng có được là do ta biết chinh phục phiền năo. Nhiều người ở ngoài xă hội có địa vị chút chút, khi vô chùa tu thấy sao không ai quí ḿnh. V́ tu sau nên bị những người nhỏ tuổi hơn nhưng tu trước chỉ bày quở trách th́ nản, tự nghĩ sao đi tu ai cũng xem ḿnh thấp.

Đó là điều sai lầm. Đi tu là xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo. Tất cả những thứ giàu sang của thế gian, ta đều bỏ để trở thành một bần tăng hay bần ni. Xả thân cầu đạo là quên thân để cầu đạo.

Chúng ta ngày nay ăn rau luộc với nước tương lâu lâu, đă muốn làm reo rồi. Ăn như vầy sao chịu nổi, sao tu được. Như vậy đă quên thân v́ đạo chưa?

Thân này không có nghĩa lư ǵ, dù chúng ta yêu quí nó bao nhiêu, có ngày cũng sẽ bại hoại. Cưng chiều trong sung túc, nhưng rồi cũng đưa tới kết quả tan hoại. Dùng thân bại hoại để cầu cái bất hoại, đó là mục đích chủ yếu của người xuất gia, c̣n quí thân bại hoại đuổi theo nó măi sẽ không bao giờ đạt được cái bất hoại.

Bại hoại là luân hồi sanh tử, bất hoại là Niết-bàn, vô sanh. Chư Tổ ngày xưa dám hy sinh thân bại hoại này để cầu đạo giải thoát, chớ không quí chuộng nó như chúng ta bây giờ.

Trong giáo lư căn bản của nhà Phật nói các pháp vô ngă. Vô ngă tức là không chủ thể. Muôn pháp đều từ duyên hợp, nên không có cái ǵ là chủ thể. Thân này cũng do duyên hợp nên không có chủ thể. Đă là vô ngă duyên hợp th́ làm sao giữ măi được?

Hiểu được vậy, chúng ta tranh thủ dùng thân tạm bợ vô thường để cầu cái xuất thế chân thường. Trên đường tu chúng ta nỗ lực dù khó khăn mấy cũng không nản, không chán, miễn sao mỗi ngày đều được an ổn tu hành, mỗi ngày đều có tiến.

Bước tiến tuy thầm lặng bên trong nhưng ḿnh có thấy có biết, chớ không phải căn cứ trên những h́nh thức bên ngoài. Ví dụ ngày xưa quí vị chưa biết đạo, nghe người ta nói nặng một câu th́ phiền năo cả ngày.

Bây giờ ḿnh biết tu rồi, nghe nói nặng một câu, ta cũng có phản ứng nhưng biết kềm hăm lại, không để nó lôi kéo ḿnh mất nhiều th́ giờ, sau đó buông xả đi. Người biết buông xả lẹ làng mau chóng, đó là người tu tiến nhanh.

C̣n người nghe những điều trái tai tuy không nói ra, nhưng ôm ấp ngày này tháng nọ để buồn bực, than phiền, khóc lóc th́ tu không tiến chút nào. V́ cái đáng xả lại không xả, đáng vươn lên lại không vươn lên.

Ai tu rồi mà vẫn c̣n cố chấp những lời của thầy rầy hay những phê b́nh của huynh đệ, ôm ấp buồn tủi măi là duyên cớ để loạn tâm, dẫn tới thối Bồ-đề tâm.

V́ vậy người biết tu là phải biết xả, xả những phiền năo đến với ḿnh, vừa đến liền xả. Đó là tinh tấn. C̣n nếu ôm ấp chứa giữ măi, đó là không tinh tấn. Tinh tấn của người tu có những điểm như sau:

Thứ nhất, tinh tấn để khắc phục thói quen lười nhát của bản thân. Đang ngủ mà nghe kiểng thức chúng là trổi dậy liền. Giờ ngồi thiền dù đau nhức cũng phải cố gắng, nghĩa là thân luôn luôn khắc phục.

Đừng để ma ngủ làm chủ, đừng để sự đau nhức chi phối. Chúng ta nhớ phải làm chủ nó để vươn lên. Đó là tinh tấn thuộc về thân.

Thứ hai là tinh tấn thuộc nội tâm. Nội tâm chúng ta thường có những điểm yếu tùy theo mỗi người. Các phiền năo dư sót lại chúng ta cố gắng bỏ hết, gạt qua một bên, đừng nuôi dưỡng, đừng chứa chấp chút buồn phiền nào trong ḷng, tâm hồn sẽ trong sạch.

Mà trong ḷng không buồn bực th́ ngồi thiền tâm rất nhẹ nhàng, thanh thản. Ngược lại nếu buồn giận ai, ngồi thiền rất nặng nề. Một giờ ngồi thiền là một giờ vật lộn với bao nhiêu vọng tưởng. Tu như thế rất mệt, làm sao có niềm vui nổi.

Ngồi thiền mà tâm chưa an ổn th́ chạy theo vọng tưởng hết giờ không hay. Bữa nào ít vọng tưởng thấy thời gian dường như kéo dài, v́ chưa quen với sự vắng lặng. Chỉ người ngồi thiền tâm được an định vững vàng, sâu lặng mới thấy thời gian ngắn, mới đó đă tới giờ xả thiền rồi.

Kinh nghiệm cho thấy người nào ngồi thiền cứ nh́n đồng hồ hoài, đó là sức an định chưa nhiều. Ngồi thiền tính giờ để trả nợ, giống như người đi làm thuê, ḍm xem hết giờ chưa đặng vác cuốc về. Quí vị ngồi thiền cũng vậy, trông cho hết giờ để xong một buổi trả nợ cho thầy, cho Tổ.

Nếu ngồi thiền tinh tấn khắc phục được mọi thứ phiền năo, buông xả hết loạn tưởng điên đảo, chỉ c̣n một tâman ổn thanh tịnh, được vậy sẽ thấy thời gian qua mau. Buổi ngồi thiền trở thành khinh an, nhẹ nhàng. Tu như vậy mới vui, mới ham tu chứ!

Trong nội tâm chúng ta có những thứ phiền năo rất sâu, muốn khắc phục nó thật khó chớ không phải đơn giản. Những phần nổi cạn, ḿnh dễ thấy nên dễ buông bỏ, phần ch́m sâu khó thấy nên khó buông bỏ.

Ví dụ như đang ngồi yên, bất chợt những niềm vui nỗi buồn tích lũy đâu năm mười năm về trước bỗng trổi dậy. Đây là những h́nh ảnh tiềm tàng trong tâm thức chúng ta từ lâu nên rất khó buông. Bỏ cái này nó dẫn tới cái kia, nhiều khi mệt mỏi ta đâm ra chán nản.

Ngoài ra về bản thân như ngủ thiếu, ăn thiếu chúng ta cũng cảm thấy khó chịu. Những nhu cầu đ̣i hỏi của thân, đôi khi làm phiền chúng ta không ít. V́ vậy Phật dạy người tu phải xem thường những đ̣i hỏi của thân, thấy không có ǵ quan trọng hết mới thắng được nó.

Tăng Ni nên quán chiếu mọi thứ đều là tướng vô thường, bại hoại, có ǵ phải quan tâm. Đừng để những chuyện bâng quơ giết mất th́ giờ quí báu trong lúc tọa thiền.

Nhiều vị xem buổi ngồi thiền như bị bắt buộc phải làm, chớ không thấy đó là thời gian quí báu vô cùng. Thật ra giờ ngồi thiền là giờ quí báu vô cùng, v́ đó là giờ để chúng ta nhận lại cái chân thật của ḿnh, nhận lại ḥn ngọc vô giá có sẵn từ lâu, nhưng ta đă bỏ quên.

Thấy như vậy mới trân quí, mới nỗ lực trong giờ tọa thiền. C̣n ngồi cho rồi, không phải ngồi để thắng được nội tâm của ḿnh, th́ sẽ không bao giờ tiến.

Nhớ tới giờ ngồi thiền là chúng ta nhớ tới giờ phút linh thiêng. Cả ngày đêm hai mươi bốn tiếng đồng hồ, ta chỉ được có mấy giờ quí báu đó nên phải rất trọng, rất quí nó. Qua một phút là tiếc một phút. Bởi v́ khi làm việc nhọc nhằn, chúng ta khó làm chủ được, mắt thấy tai nghe đủ thứ nên tâm luôn xao động.

Chỉ có giờ ngồi thiền là không nhọc nhằn về thể xác, không thấy nghe những chuyện bên ngoài, ta làm chuyên một việc là chinh phục nội tâm thôi. Nên giờ đó hết sức quí báu, quí vị đừng xem thường, đừng để mất đi.

Người nào biết trân quí giờ ngồi thiền, tự nhiên sẽ thấy giá trị và kết quả của ngồi thiền, c̣n vị nào cho đó là giờ trả nợ, sẽ không bao giờ thấy được giá trị và kết quả của ngồi thiền.

Muốn chinh phục ḿnh, làm sao đừng để nội tâm có những niệm sai lầm, đừng nghĩ giờ này là giờ bị bắt ngồi thiền. Phải biết đó là giờ phút quí báu dành cho ḿnh tu.

Nhất là buổi khuya ngủ dậy tỉnh táo, khí hậu mát mẻ, ngồi thiền là cơ hội hết sức tốt để nhận lại cái ḿnh sẵn có. Người dồn hết tâm lực trong sự tu, nhất định sẽ đạt kết quả không nghi. C̣n người cảm thấy ḿnh bị bắt buộc tu th́ ngàn năm cũng không tiến.

Do thấy giờ ngồi thiền quí báu nên chúng ta không dám xem thường, nhờ đó lúc nào cũng nỗ lực tinh tấn. Nếu không thấy như vậy sẽ dễ thối tâm, dễ lùi bước trên con đường đạo. Đó là lẽ thật.

Nên biết tinh tấn là sức mạnh của người tu, bởi v́ có cố gắng chúng ta mới vượt qua được những khó khăn. Vượt qua được khó khăn gian khổ, mới có an lạc. An lạc từ thân cho tới tâm.

Như Thiền viện qui định mỗi buổi ngồi thiền hai giờ đồng hồ, nhưng người mới vào chùa ngồi hai giờ khó hay dễ? Chắc không dễ. Nó đau thấu xương. Kinh nghiệm của Tăng Ni tại Trúc Lâm, có vài vị tới giờ sau, ngồi khóc thút thít tại chỗ.

Lấy làm lạ tôi hỏi, quí vị không dám nói nhức quá khóc, sợ huynh đệ cười yếu đuối, nên nói “Con nhớ má”. Tôi bảo “nhớ má th́ về”.

Điều đó không có ǵ lạ. Bởi v́ thời gian đầu đa số người chưa được thuần thục, nên tôi phải đi giám thiền. Tôi giám thiền không ai dám xả chân nên ngồi tới chịu không nổi mới khóc.

Khóc như vậy, lẽ ra thầy từ bi dỗ hoặc cho xả chân một chút, nhưng tôi lại làm ngơ, không thèm nói tới, khóc bao nhiêu th́ khóc. Mới nghe qua thái độ đó, quí vị cho rằng tôi tàn nhẫn, nhưng thật ra không phải.

Như tôi đă nói tu là xả thân cầu đạo, đă xả thân th́ mọi khó khổ ḿnh phải vượt qua, chớ khó một chút, khổ một chút cần được vuốt ve an ủi th́ xả cái ǵ. Nhiều khi càng vuốt ve cái ngă càng to, nói ǵ đến xả thân. Thế nên tôi hay làm lơ trước những thử thách khó khổ của quí vị.

Thấy một đứa bé khóc tôi không nỡ bỏ, nên đến an ủi vuốt ve nó, tại sao thấy thầy cô khóc tôi lại làm thinh? Cho nên quí vị phải hiểu cái làm thinh ấy. V́ đứa bé không nguyện xả thân, c̣n thầy cô nguyện xả thân.

V́ thế tôi phải tạo điều kiện cho quí vị xả thân chứ. Nếu vuốt ve là làm tăng trưởng bản ngă, chẳng những không giúp mà c̣n gây chướng ngại thêm cho quí vị. Hiểu vậy mới thấy cái tàn nhẫn trong nhà thiền có một ư nghĩa rất trọng đại, giúp cho hành giả thực hiện được bản nguyện của ḿnh, chớ không phải chuyện thường.

Từ sự đau nhức chúng ta chiến thắng được, mới thấy an ổn, sau đó ngồi lâu vẫn b́nh thường, không khó khăn như buổi đầu. Nếu không cố gắng vượt qua giai đoạn thử thách này th́ công phu không làm sao tiến được.

Có qua khó khổ rồi mới tới b́nh yên, không bao giờ mới ngồi kéo chân lên liền được an vui suốt thời. Không có chuyện đó, tất cả đều phải qua giai đoạn khó khổ.

Hôm rồi tôi có hỏi chú thị giả:

- Đố chú tu là khổ hay vui?

Chú đáp:

- Bạch Sư ông, tu là khổ.

- Tại sao khổ mà chú vẫn cứ tu?

- Bạch Sư ông, v́ trước khổ mà sau vui.

Trả lời như vậy là cũng thông minh. Bởi thật ra không ai mới tu mà vui liền được, nhất định trước phải khổ. Từ khổ chúng ta cố gắng vượt qua, sau này mới có nguồn vui.

Không có chuyện an ổn sung sướng trước mà đi tới kết quả thành đạo. Điều đó đă được thể hiện rất rơ qua h́nh ảnh của đức Phật. Ngài là một vị Hoàng tử, mà khi đi tu rồi nhất định một ḿnh tay không vào rừng, không nghĩ tới ngày mai đói rét, hiểm nguy thế nào.

Bây giờ quí vị đi tu xách theo một đăy tương đối kha khá, vô chùa lại có Phật tử ủng hộ cơm nước không thiếu chi. Chỉ gặp một hai chuyện phiền toái cỏn con thôi, chịu c̣n không muốn nổi.

Đức Phật nhờ liều chết mới t́m được đạo. Nhưng đâu phải t́m là thành Phật liền, phải qua năm năm tầm đạo, sáu năm tu khổ hạnh, những ǵ đau khổ Ngài đều nếm trải hết. Khổ hạnh tới phải ngất xỉu dưới đất.

Một Hoàng tử cầu đạo xả thân như vậy, c̣n chúng ta là ǵ, ông hoàng hay ông nông phu? Vậy mà đi tu c̣n đ̣i cái này cái kia đủ thứ hết, thiếu một chút không chịu. Như vậy ư nghĩa xả thân ở chỗ nào? Do đó tu hoài cũng không tới đâu.

Khi qua Ấn Độ, tới cội Bồ-đề, tôi hồi tưởng lại thấy quả thật đức Phật gan cùng ḿnh. Cây Bồ-đề ở giữa rừng, không có nhà cửa xóm làng. Xứ Ấn Độ lại nhiều rắn độc, Ngài quyết định ngồi dưới cội Bồ-đề đến khi nào thành đạo mới thôi, chết sống ǵ cũng không dời chỗ.

Từ sự xả thân đó đức Phật mới đạt được đạo. Phải chi Ngài cất cái thất trong hoàng cung, có người hầu hạ cơm nước đầy đủ, tu ba tháng thành Phật, th́ bây giờ chúng ta đ̣i hỏi tiện nghi là điều hợp lư. Viện lư do có người phục vụ sung măn tôi tu mới thành đạo.

Chính đức Phật đă hy sinh xả thân cầu đạo nên mới đạt đạo, tại sao ngày nay chúng ta lại không hy sinh, không gắng sức bỏ thói quen tật xấu của thế gian, để t́m cái cao siêu trong đạo?

Đức Phật như thế, chư Tổ cũng như thế. Chúng ta thấy như tổ Huệ Khả chặt tay, tổ Huệ Năng giă gạo, tổ Trúc Lâm tu hạnh đầu-đà… Tất cả quí Ngài cầu đạo đều phải xả thân hết. Tổ Huệ Khả cầu đạo đứng suốt đêm dưới tuyết mà tổ Bồ-đề-đạt-ma mặt lạnh như tiền.

Tổ ngồi xoay mặt vào vách, người ở ngoài đứng khoanh tay chờ, Tổ có biết không? Làm ǵ không biết. Biết mà vẫn thản nhiên, có phải tàn nhẫn không? Nhưng như thế cũng chưa tàn nhẫn mấy, tới khi Tổ xoay ra thấy tuyết lên gần tới đầu gối mà Ngài vẫn thản nhiên nói

“muốn cầu đạo vô thượng Bồ-đề, đâu thể dùng chút ít khổ hạnh như vậy mà được ư?”

C̣n Lục Tổ tới Huỳnh Mai hỏi đạo, qua cuộc đối đáp ban đầu, Ngũ Tổ thấy có khả năng lănh hội giáo lư nên Ngài mới bảo xuống nhà trù công quả. Xuống nhà trù không biết ông trưởng nhà trù có ư ǵ không mà bắt Ngài giă gạo suốt tám tháng.

Lúc đó v́ quá ốm yếu, Ngài đứng trên cái chày nhưng không đủ sức cho chày cất lên. Nếu là ḿnh, ta sẽ khiếu nại xin thêm người phụ, phải không? Nhưng Ngài thấy ḿnh không đủ lực làm cho cái chày cất lên, th́ cột thêm cục đá ngang lưng để đủ sức cất chày, chớ không khiếu nại.

Treo đá giă gạo như vậy lâu ngày, sợi dây xiết vô da thịt lở loét tới có ṿi mà ngài vẫn không than một tiếng. Tổ v́ cầu đạo đă xả thân như thế. Khi Ngũ Tổ xuống thấy liền nói: “Con v́ cầu đạo mà quên thân đến thế sao?”

Quí vị ngày nay tới Thiền viện, nhiều lắm là lạy vài ba lạy xin xuất gia. Nếu năn nỉ không được th́ thôi về quách cho rồi, tu hành ǵ mà khó quá! Hoặc hôm nào thầy Tri sự sắp cho công tác hơi nặng, huynh đệ khác làm nhẹ hơn là bất b́nh ngay.

Khiếu nại Tri sự bất công quá, bắt tôi làm cái này nặng gần chết, mấy người kia làm nhẹ… Mấy huynh đệ có ai bị thúi thịt như Lục tổ chưa? Chắc chưa. Vậy mà c̣n thối tâm thay, huống nữa là có!

Chúng ta mới thấy người xưa v́ đạo quên thân, bởi quên thân nên mới đạt đạo. C̣n ḿnh bây giờ quí thân quá nên khó đạt đạo. Thật ra đạo không phải khó t́m mà v́ ḿnh quí thân, trọng bản ngă quá cho nên không thấy đạo.

Chúng ta đă quyết tu th́ phải nhớ gương của người xưa nỗ lực tinh tấn tu hành, đừng yếu đuối, đừng chần chờ, đừng chểnh mảng, mất bao nhiêu th́ giờ quí báu. Đó là điều hết sức thiết yếu.

Tinh tấn trong đạo là quên thân cầu đạo, quên tất cả những thứ vui buồn phiền năo. Xả bỏ hết cho thân tâm thanh tịnh th́ trí tuệ mới sáng suốt. C̣n thân tâm bị xáo trộn chao đảo hoài, trí tuệ không bao giờ sáng được.

V́ vậy làm sao trong mùa an cư, mỗi vị đều nỗ lực tinh tấn tu hành cho trọn mùa an cư. Sức tinh tấn ấy phải được thực hiện liên tục, không ngừng nghỉ th́ mới thấy được kết quả phi thường của nó. Được vậy tôi tin chắc nguồn an lạc sẽ đến với quí vị, từ đó công phu không bao giờ thối chuyển.

Đó là lời nhắc nhở của tôi nhân ngày đầu mùa an cư. Mong tất cả Tăng Ni cố gắng nỗ lực tu hành để khỏi uổng phí một đời xuất gia cao cả của ḿnh.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 958 of 1146: Đă gửi: 28 December 2010 lúc 2:50pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde





HOA VÔ ƯU

PHƯƠNG PHÁP TU TỊNH ĐỘ TÔNG VÀ THIỀN TÔNG

(CHƯƠNG BẢY)



Hôm nay đủ duyên ban Hoằng pháp mời chúng tôi về đây giảng pháp cho Tăng Ni, Phật tử nghe. Nhận thấy người Phật tử cần có niềm tin chân chánh đối với giáo pháp, đồng thời để cho giới Tăng Ni hiểu rơ những pháp môn Phật dạy nên tôi sẽ nói về Phương pháp tu Tịnh độ tông và Thiền tông.

Trong nhà Phật không có pháp chống đối với pháp nào, chỉ phương pháp thực hành khác nhau thôi. Hôm nay chúng ta sẽ đối chiếu giữa hai pháp môn Tịnh độ và Thiền tông, để nhận rơ những điểm dị đồng của hai pháp môn này.

Phật tử Việt Nam tu theo Phật từ thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 19, đa số nặng về tu Thiền. Nhưng đến thế kỷ thứ 19, 20 lại nghiêng về Tịnh. Như vậy hai pháp này có ǵ giống nhau, có ǵ khác nhau?

Chúng ta phân tích cho rơ, để không nghĩ tu Thiền đúng hay tu Tịnh độ đúng. Nếu hiểu lầm chúng ta dễ phỉ báng nhau, chống đối nhau. Đó là điều không tốt trong đạo.

Trước hết tôi nói về phương pháp tu Tịnh độ, cốt lơi nằm ở chỗ nào? Chúng ta ai cũng biết rơ phương pháp tu Tịnh độ là niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà.

Niệm cho đến bao giờ nhất tâm bất loạn th́ khi lâm chung Phật sẽ đón về Cực Lạc, hoặc thấy Phật hiện ở trước mắt. Phương pháp này rất dễ tu, chỉ dùng câu niệm Phật chí thành sẽ được kết quả.

V́ vậy Phật dạy người tu pháp môn Tịnh độ phải đủ ba điều kiện: một là Tín, hai là Hạnh, ba là Nguyện.

Tín nghĩa là tin chắc rằng có cơi Cực Lạc cách thế gian mười muôn ức thế giới. Cơi này hiện có đức Phật A Di Đà đang thuyết pháp. Nếu người thành tâm niệm tới chỗ nhất tâm bất loạn th́ Phật Di Đà sẽ đón về cơi Cực Lạc.

Tin khẳng định như vậy niệm Phật mới có kết quả. Câu Nam-mô A Di Đà Phật đă hết sức là giản đơn, vậy mà sau này có nhiều người chế biến đơn giản hơn nữa. Chỉ niệm A Di Đà Phật là đủ. Đó là một sai lầm.

Tôi xin nêu ví dụ thế này, nếu tên cha của chúng ta là Nguyễn Văn A, có người nào đó kêu Nguyễn Văn A, Nguyễn Văn A hoài, ḿnh giận không? Kêu tên cha ḿnh sao không giận được? Đức Phật hiệu A Di Đà, đó là tên của Ngài.

Cứ niệm A Di Đà Phật hoài tức là kêu tên Ngài, như vậy có tội không? Đó là một nghi vấn đa số Phật tử khi bị hỏi đều lúng túng. Ở đây tôi sẽ giải thích cho quí vị hiểu rơ.

Tên Phật là A Di Đà Phật, tiếng Phạn là Amita Buddhda. Chữ Nam-mô tiếng Phạn là Namo cũng đọc là Nẳng mồ, dịch nghĩa là cung kính hướng về. Namo Amita Buddha, nghĩa là thành tâm hướng về đức Phật A Di Đà.

Nếu ta niệm Nam-mô A Di Đà Phật là cung kính hướng về đức Phật A Di Đà, như vậy có tội không? Như nói cung kính hướng về ông Nguyễn Văn A, th́ người đó có giận ta không? Không.

Đằng này Phật tử bỏ hai chữ cung kính, chỉ niệm A Di Đà Phật, khác nào kêu tên Phật. Như thế vô t́nh làm giảm ḷng cung kính của ḿnh đối với đức Phật. Cho nên Phật tử đừng đơn giản hóa như vậy.

Xưa nay chúng ta quen nghe từ lục tự Di Đà, nghĩa là sáu chữ Di Đà. Nam mô là hai, A Di là bốn, Đà Phật là sáu. Hai chữ đầu là cung kính, bốn chữ sau là tên.

Lúc nào chúng ta cũng thành tâm cung kính niệm Phật, nhờ vậy mới đi tới nhất tâm bất loạn. Nếu niệm để niệm th́ việc niệm Phật không có ư nghĩa ǵ cả.

Thứ hai là Hạnh. Biết có cơi Cực Lạc, đức Phật A Di Đà đang giáo hoá ở đó, giờ đây chúng ta phải tha thiết thành tâm niệm danh hiệu Ngài để được nhất tâm bất loạn.

Nhờ tâm tha thiết đó, niệm lâu sẽ được kết quả nhất tâm bất loạn. Trong kinh Di Đà có câu: “Hoặc một ngày, hai ngày, ba cho đến bảy ngày niệm danh hiệu Phật A Di Đà được nhất tâm bất loạn, khi lâm chung sẽ thấy đức Phật A Di Đà và Thánh chúng hiện ở trước”.

Niệm Phật muốn cho kết quả tốt đẹp phải tha thiết, đi đứng nằm ngồi đều niệm Phật để cho tâm ḿnh đừng nghĩ tưởng loạn động nữa. Như vậy mới đi tới chỗ nhất tâm bất loạn. Đó là phần Hạnh.

Thứ ba là Nguyện. Người tu niệm Phật lúc nào cũng nguyện được văng sanh về cơi Cực Lạc, làm dân ở cơi Phật. Nguyện đó cần phải tha thiết th́ công phu mới có kết quả như sở nguyện.

Ba phần Tín, Hạnh, Nguyện là căn bản, cốt lơi trong sự tu của pháp Tịnh độ. Nếu thiếu một trong ba phần này, tu sẽ không kết quả.

Gần đây nhiều vị lại nói quá đơn giản rằng ai niệm Phật mười câu, khi nhắm mắt cũng được Phật đón về Cực Lạc. Gọi đó là đới nghiệp văng sanh, tức mang nghiệp về Cực Lạc tu tiếp.

Đơn giản hóa khiến cho Phật tử sanh tâm lười biếng, tu sơ sơ thôi. Chừng nào gần chết niệm mười câu th́ Phật đón về bên ấy. Tu lơ mơ kiểu đó Phật nào dám đón. Nói thế là vô t́nh làm cho Phật tử sanh tâm khinh lờn, lười biếng.

Kinh Di Đà không nói như vậy. Phật dạy chúng ta niệm Phật cho tới nhất tâm bất loạn, chừng đó Phật mới đón. Chúng ta tu đúng kết quả mới đúng, tu không đúng kết quả sẽ không đúng.

Quí vị thử nghĩ người nóng giận, tham lam, c̣n nhiều tật xấu, chỉ cần gần chết niệm mười câu danh hiệu Phật là được đón về Cực Lạc, thật vô lư. Tại sao? V́ Cực Lạc là tịnh độ, hoàn toàn trong sạch th́ đâu có chứa những chúng sanh c̣n đầy dẫy tham, sân, si.

C̣n nghiệp xấu làm sao mang về bên đó được, ai dung ḿnh? Cho nên tôi hay nói đùa, quí Phật tử c̣n sân nhiều mà về Cực Lạc, lỡ nổi sân căi nhau, chừng đó Phật mất công đưa về bên này nữa.

V́ làm ô uế cơi thanh tịnh th́ phải trở lại chớ sao! Muốn sanh về cơi tịnh th́ nghiệp cũng phải thanh tịnh. Nghiệp c̣n xấu xa nhơ nhớp mà đ̣i về cơi tịnh th́ quá đáng, khó chấp nhận được. Đó là một lẽ thực.

Phật tử hay có bệnh niệm Phật tính chuỗi. Bữa này được hai chuỗi, ba chuỗi. Ngày mai tính thêm bốn chuỗi. Tính rồi ghi vô sổ, tới tháng tŕnh với thầy. Tính chuỗi để tŕnh mà tâm chưa yên. Niệm Phật như vậy là chưa đúng cách, chưa được.

Chúng ta niệm Phật đừng nghĩ tính chuỗi để tŕnh thầy, làm sao đi đứng nằm ngồi cũng đều niệm Phật. Khi có việc cần nghĩ th́ nghĩ, không có việc th́ cứ nhớ niệm Phật luôn.

Như vậy mới tới chỗ nhất tâm, đức Phật mới hiện ra lúc lâm chung. Nhiều vị cầm chuỗi niệm mà tính số hoài, nên cuối cùng không có kết quả ǵ.

Chúng ta tu phải thật tu, tu cho thành công. Chớ không phải tu cho thiên hạ thấy ḿnh tu giỏi. Trọng tâm của niệm Phật là niệm đến nhất tâm bất loạn.

Tại sao? Bởi v́ tâm của chúng ta luôn loạn động, ít khi được yên hoàn toàn. Nếu có cũng một tí xíu thôi, rồi nghĩ chuyện khác. Hết nghĩ chuyện này tới nghĩ chuyện kia liên miên.

Tâm chao đảo, xao xuyến đó là tâm tạo nghiệp với nào là thương ghét, buồn giận v.v… Hoặc nghiệp sanh lên các cơi lành, hoặc nghiệp đọa xuống các đường dữ.

Bây giờ muốn cho nghiệp lặng hết th́ phải làm sao? Phải tin tưởng có đức Phật A Di Đà, tin tưởng có cơi Cực Lạc. Tin như vậy rồi chú tâm niệm Phật không nhớ ǵ hết.

Lâu ngày chỉ c̣n câu niệm Phật, cuối cùng câu niệm Phật cũng lặng luôn. Đó là niệm tới nhất tâm. Nhất tâm là không c̣n niệm thứ hai nữa. Cuối cùng niệm Phật cũng phải buông, chừng đó mới thấy Phật.

Chủ đích của pháp môn này là dùng câu niệm Phật để dẹp trừ tâm loạn tưởng. Tâm loạn tưởng hết rồi gọi là niệm Phật nhất tâm, lúc đó trí tuệ sáng suốt hiện tiền.

Cho nên niệm Phật tới nhất tâm là đi tới chỗ định, từ định phát sanh trí tuệ. Gốc của sự tu là đi tới thiền định và trí tuệ để được giải thoát. Cho nên biết nhất tâm của người tu niệm Phật gọi là Niệm Phật Tam-muội, cũng đồng nghĩa với chỗ định của người tu thiền.

Như thấy người đi ngoài đường, vừa đi vừa nói lẩm nhẩm một ḿnh, chúng ta bảo kẻ đó điên. Người tỉnh táo sáng suốt có chuyện cần nói mới nói, không th́ thôi. C̣n cứ lẩm nhẩm một ḿnh hoài, không phải điên là ǵ?

Cũng thế, chúng ta khá hơn một chút không nói ra miệng, nhưng nói thầm trong bụng. Cứ lầm thầm nói này nói kia hoài không yên, như vậy ḿnh có điên không? Nên Phật gọi là vọng tưởng điên đảo. Điên đảo là nghĩ bậy, lộn xộn, không có thứ tự.

Nhiều việc không cần nói mà cứ nói, không cần nghĩ mà cứ nghĩ. Đó là v́ chúng ta không làm chủ được ḿnh. Do đó phải mượn câu niệm Phật để quên các niệm lăng xăng, nhớ làm chủ. Đến lúc nào các thứ vọng tưởng điên đảo hoàn toàn lặng hết th́ trí tuệ sáng ngời, là lúc thấy Phật. Đó là tôi nói về Tịnh độ.

Bây giờ nói về tu Thiền. Thiền tông tu như thế nào? Nói tới tu thiền là nói tới định. Trong ba môn vô lậu học Giới, Định, Tuệ; Định là thiền định, từ thiền định phát sanh trí tuệ. Cho nên Giới, Định, Tuệ c̣n được gọi là ba môn giải thoát.

Trong Bát chánh đạo, từ Chánh kiến tới cuối cùng là Chánh định, Phật cũng dạy tu để được định. Tâm loạn tưởng hết gọi là định. Nói về pháp Lục độ cũng phải định rồi tuệ: bố thí, tŕ giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ. Có thiền định mới có trí tuệ.

Người tu Phật phải biết rơ Phật là bậc giác ngộ sáng suốt, giác ngộ một cách viên măn. Lâu nay chúng ta thường học: Tự giác, giác tha, giác hạnh viên măn. Tức là ḿnh giác ngộ rồi, giúp cho người khác cũng được giác ngộ. Ḿnh và người đều giác ngộ tṛn đầy th́ thành Phật.

Nhưng giác ngộ từ đâu mà có? Từ tâm định mà có, chớ không phải ở ngoài đến. Lâu nay chúng ta không biết, cứ nghĩ tu để được phước đức nhiều, để Phật độ cho làm ăn phát tài, để gia đ́nh không bị tai nạn v.v…

Thật sự tu là phải dẹp bỏ tâm lăng xăng điên đảo của ḿnh. Nó được lặng yên đi th́ mới đi tới trí tuệ sáng suốt. Người tu thiền nhất là Thiền tông, tâm phải được định.

Lâu nay tôi vẫn thường nghĩ nước Việt Nam chúng ta được duyên lành gặp Phật pháp từ thế kỷ thứ III. Ngài Khương Tăng Hội dạy Lục Diệu Pháp Môn, là sáu phương pháp tu để cho tâm an định. Có khi Ngài cũng ứng dụng pháp Lục độ để tu.

Như vậy từ thể kỷ thứ 3 Tổ tiên ḿnh đă tu thiền. Tới thế kỷ thứ 6 có tổ Tỳ-na-đa-lưu-chi từ Trung Hoa sang dạy tu thiền. Thế kỷ thứ 9 có ngài Vô Ngôn Thông cũng từ Trung Hoa sang dạy tu thiền. Thế kỷ 17, 18 có các ngài Nguyên Thiều, Liễu Quán đều dạy tu thiền. Như vậy hệ thống tu thiền dài gần hai ngàn năm.

Có một lần đi Nhật, trên tàu tôi gặp hai, ba vị cũng qua Nhật. Tôi làm quen và hỏi: “Quí vị qua Nhật làm ǵ?” Họ nói: “Qua Nhật để học thiền”. Sau này tôi được một Phật tử tŕnh bày cho nghe, có vị sư Nhật lập một thiền đường ở Paris Pháp. Đến kỳ nghỉ hè vị ấy đi thăm các nước Đông Nam Á.

Lúc về sư kể lại Phật giáo các nước Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan v.v… cho những thiền sinh nghe. Trong số ấy, có một Phật tử Việt Nam hỏi:

- Thưa thầy, thầy có sang Việt Nam không?

Sư đáp: Có.

Phật tử hỏi tiếp:

- Thưa thầy, thầy thấy Phật giáo Việt Nam thế nào?

Sư cười ha hả nói:

- Tạp nhạp.

Nghe vậy tôi rất buồn. Khi sang Nhật tôi thấy rơ có những tông phái: Nếu là Thiền th́ thiền đường rất đàng hoàng. Nếu là Tịnh th́ tu cũng rất đàng hoàng. Tu môn ǵ ra môn ấy. Về tới Việt Nam thật là chịu thua, không biết ḿnh tu pháp ǵ, đủ thứ hết. V́ vậy người ta chê tạp nhạp.

Tại sao thiền được truyền vào Nhật Bản sau Việt Nam năm trăm năm, mà bây giờ người ta qua đó học. C̣n Thiền tông đă có mặt ở Việt Nam lâu thôi là lâu, mà không ai thèm tới học với ḿnh, ngược lại ḿnh c̣n qua Nhật học nữa chớ.

Có tủi chưa! Đó là điều tôi thấy rất tủi. V́ thế sau khi học xong chương tŕnh trong đạo, tôi phát nguyện chuyên tâm nghiên cứu về thiền, nhất là thiền Việt Nam.

Lúc đầu tôi đọc sử ba mươi vị Tổ ở Ấn Độ, Trung Hoa. Đọc tới đọc lui muốn điên cái đầu mà vẫn không hiểu ǵ hết. Thấy như các Ngài nói đùa nói cợt chơi vậy, chớ không có lẽ thật.

Nhất là đọc câu chuyện tổ Đạt Ma với ngài Huệ Khả. Ngài Huệ Khả hy sinh đứng ngoài tuyết suốt đêm tại Thiếu Lâm. Miền Bắc Trung Hoa bấy giờ tháng mười một, tuyết xuống ngập đầu gối, mà Ngài vẫn đứng thản nhiên để cầu đạo.

Tổ Đạt-ma nh́n thấy hỏi: “Ông cầu ǵ mà khổ hạnh như vậy”. Ngài Huệ Khả thưa: “Con muốn cầu Ngài chỉ phương pháp tu để được giác ngộ”. Tổ quở: “Muốn cầu giác ngộ thành Phật phải nhiều đời nhiều kiếp hy sinh thân mạng mới được.

Ông dùng chút khổ hạnh như vậy làm sao cầu được?”. Ngài Huệ Khả nghe thế, liền đi xuống bếp lấy dao chặt một cánh tay dâng lên nói: “Con xin dâng cái này để cầu pháp”. Tổ gật đầu nói “Được” và đặt hiệu là Huệ Khả.

Câu chuyện này tôi dịch rồi mà vẫn bán tín bán nghi. Ngài Huệ Khả chặt cánh tay đem dâng Tổ, lúc đó có ra máu không, sao không nghe băng bó? Chẳng lẽ để máu me chảy dầm dề dâng cho Tổ? Tôi ngờ ngay chỗ đó.

Hơn nữa, sau này không thấy sử ghi Ngài cụt một cánh tay. Đó là hai điều tôi ngờ. Do đó tôi nghĩ đây là các ngài muốn diễn tả tâm quyết liệt tu hành. Dù chết, dù bỏ thân mạng cũng không tiếc, để người sau bắt chước. Sự thật ra sao th́ không rơ.

Sau khi được Tổ nhận làm đệ tử rồi, một hôm Ngài bạch với Tổ: “Tâm con không an, xin Ḥa thượng dạy con pháp an tâm”. Khi đó Tổ nh́n thẳng vào mặt ngài Huệ Khả bảo:

“Đem tâm ra ta an cho”. Ngài sửng sốt quay lại t́m tâm. T́m một hồi không được, Ngài thưa: “Bạch Ḥa thượng, con t́m tâm không được”. Tổ bảo: “Ta đă an tâm cho ngươi rồi”. Ngay đó Ngài biết đường vào.

Lúc trước chúng tôi đọc đi đọc lại nhiều lần, cứ ngỡ như Tổ đùa chơi vậy, không dạy ǵ cả. Nhưng sau một thời gian, có cơ hội nhập thất chuyên tu, đọc lại chỗ đó tôi sửng sốt không ngờ Tổ chỉ một cách hết sức khéo léo, hết sức cụ thể, chớ không phải chuyện tưởng tượng. Thật là khéo léo làm sao!

Tâm không an là tâm nghĩ chuyện này, chuyện nọ. Có khi ḿnh dặn nó nhớ Phật thôi đừng nhớ bậy, mà nó cứ nhớ bậy hoài. Hoặc bảo nó nhớ hơi thở, đừng nhớ bậy mà nó cứ nhớ chuyện này chuyện nọ, không an.

Nhưng tổ Đạt-ma không dạy cách nào hết, mà bảo “Đem tâm ra ta an cho”. B́nh thường nó lăng xăng lộn xộn, nhưng khi t́m lại nó ở đâu? T́m lại th́ mất tăm, mất dạng. Cho nên ngài Huệ Khả tŕnh bày một cách thật thà “Con t́m tâm không được”. Tổ bảo “Ta đă an tâm cho ngươi rồi”.

An bằng cách nào? Đó là điều hết sức quan trọng mà người học Phật chúng ta không nắm được. Tổ Đạt-ma khi truyền thiền sang Trung Hoa, ngài có lập bốn câu châm ngôn:



               Bất lập văn tự

               Giáo ngoại biệt truyền

               Trực chỉ nhân tâm

               Kiến tánh thành Phật.



Lấy bốn câu đó làm tiêu chuẩn. Như vậy bảo “Đem tâm ra ta an cho”, câu đó trong kinh điển nào? Không có. Thế mà ngài Huệ Khả nhân đó ngộ được pháp tu. Nên nói bất lập văn tự.

Trong mười mục chăn trâu, mục thứ nhất là t́m trâu. Nhà thiền c̣n dùng từ “Phản quan tự kỹ”, tức là nh́n lại chính ḿnh. Bởi v́ lâu nay chúng ta mê lầm cho tâm lăng xăng lộn xộn là tâm ḿnh thật.

V́ thế bị nó dẫn dụ lôi kéo tạo nghiệp không cùng. Bây giờ ta nh́n thẳng mặt xem nó ở đâu th́ nó mất. Như vậy cần ǵ mượn phương tiện, cứ nh́n thẳng xem tâm lăng xăng đó ở đâu, nó sẽ tự mất.

Nh́n lại tâm lăng xăng của chính ḿnh gọi là phản quan tự kỷ. Đó là lối tu không dùng lời giảng trong kinh, cũng không dùng chữ nghĩa, chỉ nh́n lại ḿnh là vọng tưởng tự lặng, tự yên.

V́ thế chúng tôi mới hướng dẫn Tăng Ni và Phật tử tu bằng cách, khi niệm dấy khởi ḿnh nh́n lại biết nó hư vọng th́ nó tự mất.

Người tu Tịnh độ niệm Phật để dứt niệm bậy, dừng các thứ nghĩ khác. C̣n người tu thiền nh́n thẳng vào những dấy niệm đó xem mặt mũi thế nào, th́ nó tự mất.

Cả hai pháp chủ yếu đều dẹp tâm lăng xăng. V́ tâm lăng xăng là tâm tạo nghiệp, tâm giả dối. Thấy rơ được bộ mặt thật của nó rồi, tự nhiên nó không c̣n, v́ bản chất của nó vốn là hư vọng.

Chúng ta có hai thứ mê lầm: một là lầm thân này thật, hai là lầm tâm sanh diệt là tâm ḿnh thật. Thân xác thịt này thật không?

Ai cũng nói nó giả, nhưng thử thiên hạ đánh một bạt tay, lúc đó mới biết giả hay thật? Nhất định ăn thua tới cùng. Khi học kinh Phật nói giả ta cũng tin là giả, nhưng gặp việc th́ thành thật hết.

Tất cả chúng ta đều nhiều lần chứng kiến những người thân của ḿnh đang sống khỏe mạnh, bỗng nhiên ngả bệnh rồi chết. Khi c̣n sống, c̣n nói năng, làm việc ta cho là thật.

Nhưng ngả bệnh tắt thở, lúc đó thật hay giả? Nếu thật th́ c̣n, mà bây giờ không c̣n. Nên thấy người đi trước giả th́ biết thân ḿnh tuy c̣n hoạt động đây nhưng cũng là đồ giả. Thế nhưng chúng ta vẫn cứ mê lầm ngỡ nó là thật.

Từ mê lầm ngỡ thân này thật, đi tới mê lầm thứ hai là những nhu cầu nó đ̣i hỏi, ta cũng thấy thật luôn. Muốn ăn ngon phải chạy t́m món ăn ngon, muốn mặc đẹp phải chạy t́m mặc đẹp.

Tất cả những ǵ nó muốn đều chạy theo nó hết. Suốt đời làm cho nó thỏa măn, mà có bao giờ được thỏa măn đâu. Như vậy không mê lầm là ǵ?

V́ muốn thỏa măn vật chất nên con người không từ bỏ những việc làm xấu nào để đạt được mong muốn của ḿnh. Từ đó sanh ra tranh đấu giành giựt, rồi sát phạt nhau đủ thứ khổ đau.

Bây giờ biết cuộc sống này giả tạm, bảy tám chục năm là cùng. Th́ thôi sống vừa phải, giành giựt nhau làm ǵ, cuối cùng có c̣n không? Mất hết. Trên thế gian bao nhiêu sự giết hại, cũng v́ giành giựt với nhau để thỏa măn cho thân này. Đó là lầm về thân.

Kế đến là lầm về tâm. Những thứ nghĩ phải nghĩ quấy, nghĩ hơn nghĩ thua cho đó là tâm ḿnh thật. Khi cho nó là tâm ḿnh thật rồi, ta nghĩ thế này là đúng, người khác nghĩ thế khác, họ cũng cho là đúng.

Hai cái đúng nghịch nhau gặp nhau sẽ tóe lửa, chớ không thể nào yên được. Cho nên người ta căi vă, đánh đập nhau cũng chỉ v́ cái đúng của tôi. Nhưng thật ra có tâm vô thường nào đúng đâu?

Nó chỉ đúng với người này mà không đúng với người khác. Hoặc đúng trong trường hợp này mà không đúng trong trường hợp khác.

Ví dụ tôi ngồi trên núi thấy hướng nam có một cụm mây đen, gió thổi bay qua một chút sau trời mưa. Hôm sau tôi cũng thấy như thế nên kêu mọi người chung quanh đem đồ vô, lát nữa trời sẽ mưa.

Người nào không chịu đem vô tôi giận, bực bội la “Tại sao không đem đồ để mưa ướt”. Nhưng một lát gió thổi ngược hướng, mây bay tuốt, trời không mưa? Như vậy tôi la có đúng không?

Cái nghĩ của ḿnh chẳng qua do kinh nghiệm quá khứ, ḿnh đặt ra như vậy và tưởng là đúng. Nhưng quá khứ đâu có lặp lại, mọi sự luôn đổi thay, lấy việc quá khứ cho là hiện tại rồi kết luận đúng 100% là một sai lầm. Bởi lầm mê cho cái nghĩ của ḿnh là thật nên sanh ra tranh đấu, hơn thua, phải quấy với nhau.

Khi ta nghĩ thế này, người khác nghĩ thế khác, mỗi người chỉ nên nói đây là cái nghĩ của tôi. Nếu những suy nghĩ ấy giống nhau th́ tốt, không giống nhau cũng không sao.

Đừng nói cái nghĩ của tôi là đúng. Bởi v́ hai cái nghĩ khác nhau đều đúng sẽ dẫn đến đấu tranh. Trong khi đó chuyện đúng sai không quyết định được, v́ các pháp luôn thay đổi.

Sống yên ổn vui vẻ ḥa hợp là được. Đừng cho lư lẽ của ḿnh là đúng, người khác sai rồi giận hờn trách cứ làm chi cho mệt.

Những suy nghĩ của chúng ta là vọng tưởng, không phải chân lư, làm sao cả quyết là đúng được? Nó sanh đó rồi diệt đó, không phải tâm ḿnh thật, chỉ là bóng dáng sanh diệt thôi.

Biết nó không thật th́ việc tu dễ dàng. Đức Phật đă thấy được tận gốc ngọn của đau khổ. Từ chấp thân chấp tâm thật mà tạo ra không biết bao nghiệp khổ đau. V́ vậy Phật dạy trước phải phá chấp thân là thật.

Thân này hiện có do duyên hợp tạm bợ, không phải thật. Tâm phân biệt duyên theo cảnh, duyên theo bóng dáng sáu trần cũng là tạm bợ không thật. Thân và tâm không chấp thật, nhất định sẽ tới chỗ an định tâm, trí tuệ sáng suốt chân thật hiện ra.

Phương pháp niệm Phật cũng để diệt tâm loạn tưởng. Phương pháp thiền định cũng để diệt tâm loạn tưởng. Kết quả chung của người tu đạo Phật là đi tới chỗ định, dừng tâm loạn tưởng.

Tâm loạn tưởng dừng rồi th́ trí tuệ chân thật mới hiện ra. V́ vậy chúng ta không phải t́m kiếm ở đâu xa, mà hăy quay lại thấu suốt nơi ḿnh, tự nhiên sẽ nhận ra cái chân thật sẵn có.

Cái chân thật đó đức Phật Thích-ca đă thực hiện được sau khi thiền định bốn mươi chín ngày đêm dưới cội Bồ-đề.

Những ǵ Ngài thấy biết, nói lại cho chúng ta nghe, muôn đời không sai chạy. C̣n thấy biết thế gian chỉ có giá trị tạm thời trong một giai đoạn nào thôi. Tùy theo nhu cầu sống thay đổi nó cũng thay đổi, chớ không nguyên vẹn. Cho nên lời Phật dạy là chân lư.

Có lần Phật hỏi các Tỳ-kheo:

- Mạng người sống trong bao lâu?

Có thầy thưa:

- Bạch Thế Tôn, mạng người sống trong ba tháng.

Phật lắc đầu nói:

- Ông chưa hiểu đạo.

Vị khác thưa:

- Bạch Thế Tôn, mạng người sống trong một tháng.

Phật cũng lắc đầu. Các thầy lần lượt đứng lên thưa bảy ngày, ba ngày, chỉ trong bữa ăn. Phật đều lắc đầu nói: “Ông cũng chưa thấy đạo”. Cuối cùng một Tỳ-kheo thưa:

- Bạch Thế Tôn, mạng người sống trong hơi thở.

Phật nói:

- Đúng, ông mới thấy đạo.

Chúng ta thử nghiệm lại xem có người nào thở kh́ ra, không hít lại mà sống không? Thở kh́ ra không hít lại là chết. Đó là lẽ thật. Phật chỉ đúng lẽ thật cho chúng ta không lầm lẫn. Nhưng người thế gian lầm lẫn nhiều quá. V́ vậy nghe Phật dạy khó hiểu, không thâm nhập được.

Phật nói do thiền định có trí tuệ. Trí tuệ này khác với trí thức. Muốn có trí tuệ này phải thiền định, từ định sanh tuệ. Muốn định th́ phải buông xả hết mọi suy nghĩ, mọi lo lắng, mọi tính toán. C̣n học giả hay trí thức, tức là giỏi phân biệt.

Trí phân biệt này do lượm lặt kiến thức của người này, người kia gom lại thành một số kiến thức của ḿnh, gọi là trí thức. Nếu gom thật nhiều gọi là bác học. Thế nên lư thuyết của người khác chỉ đúng trong một thời đại, một giai đoạn.

Qua thời đại khác, giai đoạn khác nó không c̣n đúng nữa. Như vậy suốt đời lao theo việc học, rốt lại cũng không có cái ǵ là của ḿnh, không có ǵ đúng măi.

Ví dụ như Tổ tiên, ông bà chúng ta ngày xưa rất quí trọng Nho giáo. Những lư thuyết của đức Khổng Tử đều được tôn trọng và học hiểu. Nhưng tới thời này đem ra dùng không được.

Những ǵ Khổng Tử nói ngày xưa chẳng những bây giờ không dùng, mà c̣n có thể bị phản đối nữa là khác. Như phái nữ hồi xưa dạy tam tùng tứ đức, tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử.

Bây giờ ở Tây phương họ không chịu như thế. Bất kỳ một học thuyết nào khi đă bị chống đối th́ nó không phải là chân lư rồi. Vậy học cho thật nhiều thành nhà bác học, rốt cuộc cũng bỏ chơi thôi.

C̣n trí tuệ Phật nói phát xuất từ tự tâm ḿnh. Do tâm yên lặng trí phát sáng, thấy đúng như thật. Như khi tâm Phật định rồi sáng lên, Ngài chứng được Thiên nhăn minh, thấy vô số vi trùng trong bát nước, thấy vô số thế giới bên ngoài vũ trụ.

Phật thấy thân này là một ổ vi trùng nên trong kinh chữ Hán có câu: “Nhân thân chi nội hữu vô số vi trùng tại trung vi trú”. Hồi xưa có ai biết vi trùng là ǵ đâu, ngày nay mới biết thân này có bao nhiêu tỉ tế bào đang thay nhau hoạt động, để giữ cho thân được tồn tại trong một khoảng thời gian giới hạn nào đó.

Đức Phật đă thấy tường tận mọi thứ bằng trí tuệ của Ngài, chớ không học với ai hết. Ngồi yên định, tâm sáng tự phát ra thấy tột lẽ thật của muôn pháp. Trí tuệ này c̣n được gọi là Tự nhiên trí hay Vô sư trí, là trí không thầy hay trí có sẵn. Giới, Định, Tuệ trong nhà Phật là vậy. Hiểu rơ chỗ này chúng ta mới biết đường tu.

Tu niệm Phật hay tu thiền cốt đi tới định tâm. Nhất tâm là không c̣n niệm thứ hai, đó là định. Thiền định cũng không c̣n dấy niệm khác, đó là định. Trọng tâm của đạo Phật dạy không hai, nhưng phương tiện dùng có khác.

Với người tin ở bên ngoài th́ dạy niệm Phật. Với người tin nơi ḿnh, trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật th́ dạy tu thiền. Chỉ thẳng tâm người, cái ǵ giả biết giả đừng theo, nhận ra bản tâm liền được giác ngộ. Hai bên khác nhau ở trong và ngoài. Nhưng gặp nhau một chỗ là đều đi tới nhất tâm.

Phật nói Tịnh độ có hai phần: sự Tịnh độ và lư Tịnh độ. Sự Tịnh độ là tin có cơi Cực Lạc, có đức Phật A Di Đà sẽ đón ḿnh. Lư Tịnh độ là tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.

Nghĩa là tâm tịnh th́ cơi nước tịnh, Phật A Di Đà là tánh giác của chúng ta. Như trên đă nói A Di Đà là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là vô lượng thọ, vô lượng quang, nghĩa là sống lâu vô lượng, ánh sáng vô lượng.

Phật nói tánh giác sẵn có của ḿnh không sanh diệt nên tuổi thọ vô lượng. Tánh giác đó cũng là trí tuệ sáng ngời, thấy biết đúng như thật nên gọi là vô lượng quang.

Như vậy Tự tánh Di Đà, chỉ tâm thanh tịnh là tịnh độ. So với Thiền tông chỗ cứu kính không hai. Thiền định để dừng tâm lăng xăng, trí tuệ phát sáng. Định tuệ song song, có an định mới có trí tuệ và ngược lại có trí tuệ th́ luôn an định.

Nói vậy nhiều vị cho rằng khó hiểu. Bây giờ tôi lấy ví dụ gần nhất, như khi chúng ta gặp việc rối, đầu óc nặng trĩu. Lúc đó ḿnh nghĩ được ǵ không? Không nghĩ được ǵ hết. Khi tâm trí thanh thản nhẹ nhàng ḿnh mới nghĩ được điều hay.

Thế nên các nhà khoa học phát minh được những điều mới từ sự chăm chú. Họ dồn hết tâm lực vào một vấn đề, chuyên ṛng năm bảy năm vào việc ấy, hôm nào đó bỗng nhiên họ sáng tỏ. Thử hỏi lúc đó họ học với ai? Không học với ai hết, chỉ do chú tâm yên định vào một vấn đề nên phát sáng ra.

Trí vô sư ai cũng có hết, nhưng chúng ta không sử dụng được v́ tâm loạn động. Muốn sử dụng nó phải lắng tâm loạn động ấy đi nó mới xuất hiện. Trí vô sư c̣n gọi là Phật tánh. Cho nên thiền định của Thiền tông là phải lặng tâm lăng xăng hư ảo không thật, đừng chạy theo nó nữa.

Các Thiền sư khéo diễn tả những giai đoạn tu bằng h́nh ảnh thằng chăn rượt bắt con trâu. Lúc đầu trâu c̣n hoang khó dạy, lôi đầu nó không được, buộc ḷng phải có roi có dây dàm để lôi nó. Đó là chỉ cho người tu giai đoạn đầu, tâm quá lăng xăng cần có giới luật làm dây dàm để kiềm chế.

Nếu không có giới lấy ǵ kềm chế, cứ thả trôi riết th́ không c̣n làm chủ được ḿnh nữa. V́ vậy giới luật là sợi dây xỏ mũi, là cây roi chận đón con trâu, không cho chạy càng vào lúa mạ người. Điều khiển con trâu từ hung hăng trở thành hiền hoà.

Tới khi trâu đă thuần thục, thằng chăn nằm ngủ kḥ, không thèm coi chừng nó cũng yên. Nhưng c̣n trâu, c̣n chăn là chưa xong. Tới ngày nào con trâu mất, thằng chăn cũng không c̣n, chừng đó chỉ c̣n mặt trăng sáng.

Chúng ta tu cho tới chỗ không c̣n vọng niệm, cũng không c̣n chăn vọng niệm mới là lúc hoàn toàn an định. An định rồi th́ trí tuệ mới phát sáng. Trí tuệ phát sáng chúng ta mới làm lợi ích cho mọi người một cách tự tại.

V́ vậy bức tranh số chín là h́nh ảnh một ông già quảy cá chép, bầu rượu vô xóm. Đó là tự tại đi giáo hóa chúng sanh, không c̣n lo phiền ǵ nữa.

Như tôi chẳng hạn, ngày xưa đi giảng nhiều, ngày nào cũng phải soạn bài. Có khi soạn không kịp, khuya tôi ngồi thiền yên tịnh, tự hỏi mai giảng cái ǵ đây, bỗng nhiên trong trí hiện ra đề tài cho ngày mai giảng.

Rơ ràng khi ta không nghĩ lăng xăng th́ trí sáng, c̣n suy nghĩ hoài trí không sáng suốt nên không giải quyết được việc ǵ. Đó là những kinh nghiệm nhỏ thôi, nếu thiền định được hoàn toàn an định th́ trí tuệ tuyệt vời biết mấy. Nhà Phật gọi từ chân tánh phát ra diệu dụng là vậy.

Trí đó là tuệ chớ không phải là thức. Tuệ là cái thấu suốt được chân lư muôn đời không thay đổi, c̣n thức do lượm lặt được ở người khác, nó sẽ đổi thay. Một bên thâu vô, một bên loại ra. Muốn có trí thức th́ thâu vô, muốn được trí tuệ th́ loại ra.

Chúng ta ngồi thiền bỏ hết vọng tưởng th́ trí tuệ sáng suốt phát sinh. C̣n thế gian thu vô, học cho nhiều riết đầu óc tối mù, không sáng nổi. Như vậy trí thức là do học bên ngoài mà được, c̣n trí tuệ do thiền định mà được.

Hiểu như vậy mới thấy được ư nghĩa của người tu Phật. Nhiều người tu mà không biết tu để làm ǵ, niệm Phật để làm chi. Cứ nghĩ niệm để có công đức vậy thôi, không biết rằng mục đích niệm Phật để đạt được kết quả định tâm, phát sanh trí tuệ.

Nhờ câu niệm Phật chúng ta dập tắt hết những nghĩ suy loạn tưởng. Chúng lặng hết rồi th́ trí tuệ sáng ngời. Trí tuệ sáng ngời mới giác ngộ, thành Phật.

Phật tử tu mà c̣n lăng xăng lộn xộn quá. Tu cũng ham nhưng nghe ông thầy nào coi số hay cũng muốn coi thử số ḿnh tốt hay xấu. Hoặc sửa soạn cưới vợ gả chồng cho con cái, nhờ thầy xem tuổi.

Đứa được tuổi nó không chịu, đứa không được tuổi nó chịu, rồi đâm ra phiền năo đủ thứ hết. Đó là v́ không biết đạo. Phật không dạy những điều như thế. Phật dạy chúng ta tu nếu biết làm lành, biết tạo duyên tốt th́ sẽ hưởng quả tốt, chớ không phải tướng số làm cho chúng ta tốt.

Mỗi con người đều có tâm tư nguyện vọng khác nhau, cha mẹ không thể áp đặt con cái phải giống ḿnh. Nó có quyền của nó. Nó thương người nào là duyên của nó, lấy con mắt của cha mẹ áp đặt cho con, có tàn nhẫn không?

Tôi nói đó là áp đặt một cách độc tài. Tại sao ḿnh muốn theo ư ḿnh, mà bắt nó không được theo ư nó. Thế gian cứ sai lầm như vậy mà làm khổ nhau. Nhiều khi dẫn tới chuyện tự tử chết nữa, có phải ác độc không?

Hiểu đạo rồi, chúng ta có cái nh́n sâu hơn, thấy cuộc sống này giả tạm, theo duyên hợp tan nên có cuộc sống hết sức ḥa hợp. Chúng ta sống hết sức bao dung, không bắt buộc ai hết.

V́ biết cái nghĩ của ḿnh chưa phải là chân lư, bắt buộc người ta theo làm chi. Chừng nào ta hoàn toàn an định rồi, được giác ngộ có trí tuệ mới thấy đúng, nói đúng lẽ thật.

Phật thường nói Như Lai chỉ là bậc đạo sư dẫn đường, đi hay không là tự chúng ta. Như đối với năm giới, Phật bảo: “Năm điều đó là tư cách của một con người. Nếu giữ đúng như vậy đời này là người tốt, đời sau trở lại làm người càng tốt hơn.

Nếu giữ không đúng đời sau sẽ không được trọn vẹn”. Khi truyền giới quí thầy hỏi Phật tử giữ được không? Nếu giữ được quí vị thưa “con giữ được”. Nếu giữ chưa được th́ làm thinh, Phật không bắt buộc. V́ tu là tu cho ḿnh chớ không phải cho Phật. Chúng ta có cái khổ là bị bắt buộc mới làm, c̣n để tự do không chịu làm. Do đó mà không có tiến bộ.

Đạo Phật rất tôn trọng tự do, tôn trọng lẽ thật của con người. Trong kinh Phật nói, như người thế gian phạm tội thập ác, một Phật tử cũng phạm tội thập ác, cả hai đều bị đoạ địa ngục.

Không phải v́ Phật tử là đệ tử Phật mà được nhẹ tội. Song có cái khác là người thế gian phạm tội đọa địa ngục, khi hết tội họ cũng không biết làm lành. C̣n Phật tử có tu, khi phạm tội đọa địa ngục, tới lúc hết tội ăn năn hối hận, biết làm lành nhờ thế có phước được sanh về chỗ lành.

Tóm lại đối chiếu giữa pháp tu Tịnh độ và pháp tu Thiền, chúng ta thấy có những điểm như sau. Người tu Tịnh độ lấy Tín, Hạnh, Nguyện làm căn bản. Tu thiết tha, chân thành, không định thời gian, không định số lượng, tới chỗ nhất tâm bất loạn sẽ đạt được kết quả như nguyện.

C̣n người tu Thiền phải được an tâm, tức được định. Từ định mới phát tuệ. Định là dứt hết các duyên, tuệ là tâm thường hằng sáng suốt. Hiểu như vậy th́ mới thấy đức Phật dạy pháp nào cũng đều đi đến một mục tiêu, chớ không có khác. Nếu khác chăng là phương tiện tùy căn cơ của chúng sanh thôi.

Hiểu vậy chúng ta học đạo, tu đạo mới không sai lầm, cũng không chống chọi ai hết. Gặp người tu thiền th́ khuyên ráng tu cho được định. Gặp người tu niệm Phật th́ khuyên ráng niệm Phật cho được nhất tâm.

Như vậy đâu có ǵ trái với đạo. Hiểu cho sâu, thấy cho rơ khuyến khích nhau tu hành tới nơi tới chốn. Đó là Phật tử biết đạo, thấy đạo đúng như thật.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 959 of 1146: Đă gửi: 28 December 2010 lúc 2:51pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




HOA VÔ ƯU

NGHIỆP THỨC VÀ TÁNH GIÁC

(CHƯƠNG TÁM)



Hôm nay chúng tôi sẽ giảng về đề tài Nghiệp thức và tánh giác, để quí Phật tử nhận rơ trên đường tu hành, chúng ta có phương pháp cụ thể như thế nào.

Ngày xưa ở Trung Quốc có Thiền sư Triệu Châu Tùng Thẩm nổi tiếng là nhanh nhẹn nhất. Một hôm có người đến hỏi Ngài:

- Bạch Ḥa thượng, con chó có Phật tánh không?

Ngài trả lời:

- Không.

Vị này đă từng đọc kinh Đại thừa, nghe thế khởi nghi, hỏi tiếp:

- Bạch Ḥa thượng, trong kinh nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tại sao con chó lại không có Phật tánh?

Ngài trả lời:

- V́ nghiệp thức che đậy.

Hôm khác, cũng có người đến hỏi giống như vậy:

- Bạch Ḥa thượng, con chó có Phật tánh không?

Ngài đáp:

- Có.

Vị kia thắc mắc:

- Đă có Phật tánh tức là sáng suốt, tại sao lại chui vào trong đăy da lông lá lù xù vậy?

Ngài trả lời:

- V́ biết mà cố phạm.

Một sự việc mà hai lối trả lời khác nhau, như vậy có mâu thuẫn không? Đó là lối trả lời của Thiền sư khiến người nghe hơi khó hiểu. Chúng tôi sẽ giải thích cho quí vị thấy rơ ư nghĩa thâm thúy trong từng câu đáp của ngài Triệu Châu.

Người trước hỏi con chó có Phật tánh không, Ngài trả lời không. Vị ấy hỏi tiếp, tại sao tất cả chúng sanh đều có Phật tánh mà riêng con chó không có. Ngài nói v́ bị nghiệp thức che đậy.

Chúng ta đọc kinh điển Đại thừa, ai cũng hiểu Phật dạy tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đă thế tại sao Ngài nói con chó không có Phật tánh? V́ nghiệp thức che đậy. Ví dụ đêm rằm trăng sáng nhưng mây đen che mịt mù, dưới này chúng ta nh́n lên không thấy mặt trăng.

Bấy giờ có người hỏi “hôm nay có trăng không?” Có, nhưng ḿnh không thấy, nên đáp không. Không đây tức là v́ mây che không thấy, chớ không phải không có mặt trăng. Nói vậy cũng hợp lư.

Cũng thế, Phật tánh dụ như mặt trăng, mây đen che dụ cho nghiệp thức. Chúng ta v́ nghiệp thức lăng xăng liên tục che mờ Phật tánh nên ḿnh không thấy được.

Vậy nghiệp thức là ǵ? Tức thức t́nh phân biệt của chúng ta. Suy nghĩ việc này việc nọ, dừng lại không được, đó là ta đang chạy trong nghiệp thức. Nói cách khác sự phân biệt theo thói quen chính là nghiệp thức.

Thói quen thế nào? Như chúng ta quen suy nghĩ về những vấn đề hơn thua, phải quấy, tốt xấu… Khi ngồi lại nói chuyện lúc nào cũng xoay quanh những vấn đề ấy, v́ nó đă trở thành thói quen của ḿnh rồi.

Người hay suy nghĩ về danh dự vinh nhục, khi ngồi lại những thứ nhục vinh cứ trồi lên hụp xuống, kềm không nổi. Tóm lại những thói quen nào chúng ta đă tập, khi ngồi lại nó trồi lên, tâm duyên theo không dừng, nên tánh Phật bị che khuất.

Tuy đức Phật dạy chúng ta có Phật tánh, nhưng ḿnh chưa thấy, chỉ tin thôi. Tại sao không thấy? V́ nghiệp thức liên miên che đậy. Ngồi thiền cả một hai giờ, nhưng chưa chắc đă được mười phút, hai mươi phút hoàn toàn lóng lặng, không có niệm nào dấy khởi.

Niệm niệm liên tục dấy khởi cũng như mây đen liên tục kéo đến che khuất mặt trăng, làm sao ta thấy được trăng sáng? Muốn thấy được mặt trăng th́ mây phải tan. Muốn thấy được Phật tánh th́ phải dừng nghiệp thức. Nghiệp thức không dừng không bao giờ chúng ta thấy được tánh Phật.

Cho nên các Thiền sư dạy chúng ta tu thiền cốt để dừng nghiệp thức. Nghiệp thức dừng lại th́ trí tuệ mới sáng. Giả sử chưa dừng được hoàn toàn nhưng thưa thưa bớt, chúng ta cũng thấy sáng phần nào. Tu thiền là để trí vô sư hiển lộ.

Như khi quí Phật tử đọc kinh hay nghe quí thầy giảng, có vấn đề ǵ nghi, chưa hiểu rơ nên trong ḷng cứ chuyên chú vào vấn đề đó, không tan được. Bất chợt hôm nào trong lúc ngồi thiền, tuy ḿnh không suy nghĩ về vấn đề đó, nhưng bỗng dưng nó sáng lên, mọi nghi ngờ tiêu tan hết.

Đó là do mây nghiệp thức lặng xuống hết nên ánh sáng của tánh giác hiện ra, khiến chúng ta thấy được mọi vấn đề thông suốt, rơ ràng.

Người tu thiền nỗ lực trong một thời gian dài sẽ có những khoảng sáng như thế. Từ đó chúng ta mới thấy giá trị của sự tu. Nếu không như thế, nhiều vị tu hoài vẫn không thấy ǵ lạ hết.

Như đức Phật do tâm thanh tịnh, Ngài mới chứng được Túc mạng minh nhớ lại vô số kiếp về trước của ḿnh như những chuyện hôm qua. Nếu vị nào để ư sẽ thấy, khi ngồi thiền được yên chúng ta sẽ nhớ những chuyện cũ một cách rơ ràng, dù ḿnh không tác ư nhớ.

Nhiều người bực ḿnh tự trách “giờ này không phải giờ nhớ, tại sao lại nhớ?” Nhưng đó là chuyện đương nhiên thôi. Bởi v́ khi tâm chúng ta yên, những ǵ ḿnh quên nó hiện ra.

Chỉ yên có một chút mà nhớ được chuyện mấy năm về trước, huống là hoàn toàn yên định. Cho nên đức Phật nhớ tới mấy muôn kiếp về trước, đâu phải chuyện lạ.

Qua những kinh nghiệm đó chúng ta mới thấy những ǵ đức Phật tu được, ḿnh cũng có thể tu được. Nhưng v́ khả năng yên tịnh của chúng ta ít quá nên nhớ những việc gần, không nhớ những chuyện xa.

Nếu tâm hoàn toàn thanh tịnh trong thời gian dài, tự nhiên những chuyện xa mấy ta cũng nhớ được. Bởi vậy những người ngoại đạo tu thiền cũng có Thần túc thông.

Chúng tôi đọc trong kinh Trường A-hàm, Phật nói nhiều vị ngoại đạo tu nhớ được ba kiếp hoặc sáu kiếp, mười kiếp… Nhưng Phật kết luận trí nhớ ấy cũng c̣n giới hạn, quá tầm đó họ không biết. Chỉ có đức Phật mới nhớ được vô số kiếp.

Nhiều người nghĩ ḿnh tu thiền, bỏ hết chuyện đời không biết sau này có bị lơ lơ lửng lửng không? V́ họ sợ không nhớ, không học thêm th́ dễ quên. Không phải vậy.

Chúng ta quên những thứ lăng xăng lộn xộn mà nhớ bằng trí dụng. Các chủng tử từ nhiều đời nằm trong tàng thức không mất, ta thấy biết rơ ràng. Cái đó không thể tưởng tượng nổi, v́ nó quá sức của người phàm.

V́ thế có những điều của Phật nói tới bây giờ chưa ai tin nổi, v́ nó vượt quá xa sức tưởng tượng của chúng ta.

Người tu thiền khi ứng dụng tu phải cố dẹp tan đám mây nghiệp thức từ lâu đời. Đám mây ấy tan rồi, chừng đó chúng ta không cầu sáng tự nó cũng sáng. Phật tử thường tụng kinh Bát-nhă, thấy đoạn chót nói chư Bồ-tát tu tập không có sở đắc.

V́ không có sở đắc nên Bồ-tát vượt qua hết những điên đảo vọng tưởng, cứu kính đạt Niết-bàn. Ba đời chư Phật cũng v́ không có sở đắc mà chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên trong nhà thiền thường nói vô đắc mà đắc.

Đọc kinh nếu không khéo, chúng ta sẽ thấy toàn là mâu thuẫn, không thể hiểu nổi. Tại sao? Bởi v́ chúng ta tu có tâm cầu chứng cầu đắc, trong khi Phật nói tu là không có chứng đắc.

Tại sao? Tôi thường ví dụ, như người đi ngoài đường thấy một số tiền đánh rơi, họ lượm lên bỏ túi. Khi lượm lên gọi là được hay đắc. Trước đó không có, bây giờ lượm được là đắc.

Nếu người đó có tiền sẵn trong túi, khi cần lấy ra xài, không nói là được v́ tiền đă sẵn trong túi rồi. Cái chưa có mà bây giờ có mới gọi là được, c̣n đă có chỉ cần lấy ra xài, không gọi là được.

Cũng vậy, chúng ta biết ḿnh có tánh giác sẵn, chỉ v́ đám mây nghiệp thức che đậy nên nó khuất mất, chúng ta không thấy được. Bây giờ chúng ta phá tan đám mây nghiệp thức đi th́ tánh giác sáng suốt hiển lộ ra, đó là điều đương nhiên như vậy, không nói được ǵ cả.

Cho nên không có được mà được, được mà không có chỗ được. Hồi xưa không sáng bây giờ sáng, chính nhờ cái sáng đó mà nói đắc, chớ thật ra không có ǵ lạ để đắc cả. Thế nên nói v́ vô sở đắc nên Bồ-tát được Niết-bàn, v́ vô sở đắc mà chư Phật thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Nghiệp thức từ đâu mà ra? Từ thân, khẩu, ư tạo tội mà ra. Như kẻ ăn trộm có biết làm việc đó là tội lỗi không? Vẫn biết, họ c̣n biết nếu gặp cảnh sát bắt th́ họ sẽ bị bỏ tù nữa.

Biết mà họ vẫn cố làm, cho nên quả ở tù không nghi ngờ ǵ cả. Không ở tù sớm th́ ở tù muộn nếu họ cứ hành nghề đó măi. V́ vậy Thiền sư nói con chó tuy có Phật tánh, nhưng nó vẫn chui vào đăy da xấu xí là v́ biết mà cố phạm.

Cũng vậy, chúng ta là người tu biết phải quấy, thiện ác rơ ràng mà vẫn tạo nghiệp ác nên nói biết mà cố phạm. V́ thế dù có Phật tánh cũng vẫn bị nghiệp ác ấy dẫn tới chỗ xấu xa, khổ đau như thường.

Thiền sư nói biết mà cố phạm th́ phải chui vào đăy da lông lá lù xù, đây là câu nói rất cụ thể để nhắc nhở chúng ta. Con người hầu như ai cũng thế, biết cái đó là lỗi mà vẫn cố làm, ít ai hay chưa có ai biết cái đó lỗi nên không làm.

Người có tu chút chút th́ nghĩ rằng ḿnh làm ǵ khổ thiên hạ là tội, nhưng khi giận lên cũng quên làm khổ người ta ḿnh mang tội. Rơ ràng đó cũng là biết mà cố phạm. Đă là biết mà cố phạm th́ không tránh khỏi phải đọa vào đường ác.

Ở đây tôi chỉ cho quí vị thấy chủ trương tu của đạo Phật. Phật giáo chủ trương giác ngộ giải thoát, giải thoát là tự do. Tự do tức là không bị ai lôi kéo. Nhưng bây giờ nếu chúng ta phạm tội th́ làm sao có tự do? Biết việc đó sai trái mà v́ ḷng tham, v́ nóng giận ta vẫn làm việc sai trái th́ kết quả không thể nào có tự do được.

Phần nhiều người ta đ̣i tự do ở bên ngoài. Như đ̣i tự do với cha mẹ, đ̣i tự do với chính quyền mà không đ̣i tự do với ḿnh, đó là một sự lầm lẫn lớn.

Chúng ta thử nghĩ nếu ḿnh nổi nóng lên, mất tự chủ, cơn sân hận xúi bảo ḿnh phải nói năng dữ dằn cho hả dạ, mà nói năng theo sự sai khiến của cơn giận là mất tự do rồi. Biết đó là quấy mà ta vẫn phải làm theo áp lực của nó là bị nó lôi đi mất, đâu c̣n tự do nữa.

Chúng ta tu hành phải nhớ, áp lực của ba thứ độc tham sân si rất mạnh. Nó bắt ḿnh làm theo nó, ta không đủ sức tự chủ, đời này đă theo sự sai khiến của nó rồi th́ đời sau nó dẫn đi đâu ta theo đó.

Chúng ta tu muốn chọn con đường tốt trong hiện đời cũng như đời sau th́ phải đừng bị áp lực của ba thứ độc tham sân si lôi kéo. Ba thứ độc đó chuyên xúi bảo chúng ta tạo nghiệp ác, từ nghiệp ác ấy mà ḿnh bị dẫn đi trong các đường ác.

Do đó ta mất tự do ngay bây giờ và đời sau lại tiếp tục mất tự do nữa. Cho nên tu là đ̣i tự do với chính ḿnh, chớ không phải đ̣i tự do với ai bên ngoài.

Ai cũng tỏ ra ḿnh là người tự do tự tại, tôi làm cái này tôi làm cái kia. Nhưng sự thực chúng ta không tự tại chút nào hết. Một cơn tham nổi lên là bị nó lôi, một cơn sân nổi lên cũng bị nó lôi, có tự tại ǵ đâu!

Lúc tỉnh chúng ta không làm điều sai quấy, nhưng khi nổi giận lên, nó xúi ǵ ta làm đó, không c̣n tí tự do nào. Đôi khi làm xong lại hối hận th́ sự việc đă muộn rồi. Cho nên quan trọng là giữ b́nh tĩnh, tâm luôn tỉnh sáng biết điều nào dở xấu, chúng ta không làm.

Đừng để tham sân si làm chủ dẫn đi, đă bị nó dẫn th́ ḿnh hết quyền làm chủ. Ngày nay không có quyền làm chủ th́ ngày mai nhất định cũng không có quyền làm chủ. Như vậy là hoàn toàn mất tự do.

Hiểu như thế chúng ta nên đ̣i tự do ở chính ḿnh, đó là sự tự do tuyệt đối. Muốn tự do tuyệt đối th́ ba chú độc tham, sân, si phải giải quyết cho xong. Đừng để nó có thẩm quyền xúi giục ḿnh nữa.

Như vậy chúng ta mới có tự do trong cuộc sống hiện tại, tự do kể cả mai sau. Cái tự do đó là nhân để đưa tới giải thoát sanh tử. Cho nên tu là cả một vấn đề, phải nh́n thấy từng cái hay cái dở của chính ḿnh, chớ không phải tu trên h́nh tướng sơ sài thôi.

Người tu mà tham vẫn nuôi, sân vẫn giữ th́ tu làm chi. Có nhiều người nói “câu đó đáng giận quá, không giận sao được?” Ngày xưa lúc tôi bệnh có lên Phương Bối am ở với thầy Nhất Hạnh.

Lúc đó Phật tử ở các tỉnh gởi thư cho tôi, kể chuyện bị người ta ăn hiếp, cuối cùng họ nói “Thưa Thầy, người ấy làm như vậy thật là đáng giận”. Tôi gởi thư trả lời rằng “Không có cái ǵ đáng giận cả, chỉ tại Phật tử nhẫn không được thôi”.

Chúng ta nhẫn không được rồi đổ thừa sự việc đáng giận, con người đáng giận để mà giận. Thật ra cái ǵ cũng có thể bỏ qua được hết, khi ta biết rơ nó không thật. Bởi không biết rơ nên càng nghĩ càng giận.

Đáng giận hay dễ giận là câu tục ngữ để che đậy lỗi dễ sân của chúng ta. Tu như vậy làm sao phá được sân si? Chừng nào phá được sân si, ta mới có phần tự chủ, có tự chủ mới có tự do.

Tự do là nhân sẽ đưa đến quả giải thoát. Người tu cần phải chiêm nghiệm kỹ nội tâm của ḿnh, chớ không phải đua nhau trên h́nh thức bên ngoài.

Tôi từng nhắc nhở quí Phật tử, không phải ăn chay nhiều là tu, không phải tụng kinh giỏi là tu. Có nhiều vị tụng kinh rất siêng, ăn chay rất giỏi, mà con cháu nói trái ư một chút th́ chửi om ṣm.

Như vậy có phải tu chưa? Tu như thế chỉ làm cho người ta cười thêm. Người biết tu, thật tu là phải tự kềm chế ḿnh, tự kiểm tra lại những lỗi lầm sai quấy của bản thân để chừa bỏ. Siêng năng sửa lỗi hằng ngày hằng giờ mới có thể tiến được.

Muốn tánh giác hiện bày, chúng ta phải dẹp tan nghiệp thức. C̣n nghiệp thức th́ tánh Phật không bao giờ hiển lộ. Đó là một lẽ thật. Ngài Triệu Châu đáp hai câu hỏi thật đơn sơ mà là cả một bài học rất thâm thúy về sự tu.

Đáp như Ngài là nói rơ cho học nhân hiểu rồi, các Thiền sư khác thường ít nói trắng ra như vậy. Như câu chuyện Hoàn Lục Công tới ngài Nam Tuyền, ông hỏi thế này:

- Bạch Ḥa thượng, có người nuôi một con ngỗng trong cái b́nh. Con ngỗng từ từ lớn bằng cái b́nh, bây giờ làm sao đem con ngỗng ra mà đừng đập bể cái b́nh?

Ngài Nam Tuyền đem ra rất dễ. Ngài kêu:

- Đại phu.

Hoàn Lục Công ứng thinh:

- Dạ.

Ngài bảo:

- Ra rồi.

Ngay đó Hoàn Lục Phu đảnh lễ.

Hồi xưa giảng tới đây, tôi không nói ǵ nữa nên nhiều vị nghe khó hiểu quá. Tại sao tôi không giảng? Để quí vị khám phá. Nhưng ngày nay nếu không nói ra, chẳng có ai chuyên tâm khám phá, phần tôi th́ không c̣n cơ hội gặp Phật tử nữa, nên hôm nay tôi tạm giải thích.

Hoàn Lục Công là người đă thâm hiểu về thiền nên ông mới đặt câu hỏi như thế. Con ngỗng là chỉ cho chân tâm hay tánh giác của ḿnh, cái b́nh là chỉ cho thân này. Thân và tâm không tách rời nhau, nên hỏi làm sao đem con ngỗng ra mà đừng làm hư cái b́nh.

Nghĩa là ngay cái thân này làm sao biết được có tâm chân thật? Ngài Nam Tuyền kêu “Đại phu”, ông liền ứng thinh “Dạ”, Ngài nói “Ra rồi”. Tánh giác tuy không có h́nh tướng nhưng nó thường hiển lộ nơi sáu căn của chúng ta. Tức mắt hay thấy sắc, tai hay nghe tiếng…

Vừa kêu liền dạ là có đầy đủ tánh nghe tánh biết rồi. Cho nên Ngài bảo “Ra rồi”, tâm chân thật ở ngay nơi cái hay thấy, hay nghe, hay biết đó. Hoàn Lục Công là một cư sĩ am hiểu lư thiền, nên nghe đến đó ông liền đảnh lễ.

Trong nhà thiền có nhiều câu đáp lạ lùng, người ngoài nghe tới đây bí thôi, không làm sao giải nổi. Nhưng khi hiểu được rồi mới thấy hay đáo để. Các Thiền sư không có ǵ giấu giếm chúng ta cả, chỉ v́ ḿnh không hiểu không nhận được nên thấy khó.

Có Phật tử hỏi tôi tu thiền làm sao đừng kẹt vào tĩnh. Chữ tĩnh này là lặng. Thật ra thiền được yên lặng là tốt, nhưng đừng nghĩ ḿnh được lặng mới không kẹt vào tĩnh. C̣n nghĩ là c̣n kẹt, c̣n kẹt th́ chưa phải tĩnh.

Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác có nói “Tỉnh tỉnh lặng lặng, phải”. Tỉnh đây là tỉnh sáng chớ không phải tĩnh lặng. “Tỉnh tỉnh loạn tưởng, sai”. Tỉnh mà loạn tưởng là sai. “Lặng lặng tỉnh tỉnh, phải. Lặng lặng hôn trầm, sai”.

Chúng ta tu cứ lấy đó làm nguyên tắc. Tỉnh mà lặng th́ đúng, chớ tỉnh mà nhớ tứ tung th́ không được. Lặng mà phải tỉnh th́ đúng, chớ lặng mà gục lên gục xuống cũng không được.

Lại có nhiều vị thắc mắc khi hành thiền nên quán chiếu hay phải giữ cho tĩnh? Thiền có hai lối hoặc chỉ hoặc quán. Có khi chúng ta dùng pháp quán chiếu để dừng tâm loạn tưởng, có khi ta dùng yên lặng để định tâm.

Ví dụ Phật tử thường áp dụng phương pháp thở vô thở ra, tưởng toàn thân an lành, toàn thân vui tươi, đó là thuộc về pháp quán. Hoặc có chỗ khác dạy chúng ta quán Tứ niệm xứ, đây cũng thuộc về quán.

C̣n người ngồi trụ tâm vào một cảnh nào đó gọi là chỉ. Trong lúc tu, hành giả linh động có khi chỉ, có khi quán, áp dụng thế nào tâm an ổn là tốt. Nếu quán lâu tâm hơi nghĩ nhiều, không được yên th́ chuyển sang chỉ, tâm định trở lại.

Cho nên không thể cố định vào một cách thức nào cả, tùy sự tu tập riêng của mỗi người mà chúng ta có các cách ứng dụng thích hợp, miễn sao đúng là tốt.

Trong sinh hoạt thường ngày, quan trọng là làm sao Phật tử thoát khỏi phiền năo đau khổ. Thế th́ có cách nào để tu tại gia được an vui không? Phải luôn luôn hằng tỉnh hằng giác, đừng để tham sân si dẫn đi.

Chỉ có cách duy nhất đó thôi. Chúng ta nên nhớ không phải người xuất gia cạo đầu mới hết phiền năo. Ở chùa chưa chắc đă hết phiền năo, vậy tại sao Phật tử lại sợ ở nhà phiền năo. Nếu sợ ở nhà phiền năo, chạy vô chùa phiền năo hơn nữa th́ sao?

Lúc tôi đang ở Thường Chiếu, có một Phật tử từ Bến Tre lên vào lúc mười giờ trưa. Ông xin gặp và hỏi tôi một câu rồi trở về liền. Tôi nghĩ đường xa, đạo hữu này tha thiết hỏi có một câu rồi về nên tôi hoan hỷ chấp nhận.

Ông kể từ khi qui y rồi ăn chay, biết tụng kinh, biết tội phước đàng hoàng, nhưng sao thấy cái ǵ đẹp cũng c̣n tham, ai nói trái tai cũng c̣n giận. Bây giờ xin thầy dạy con làm sao bớt tham sân?

Tôi cười và hỏi “tại sao ba thứ độc, mà đạo hữu sợ có hai thứ, c̣n si bỏ đâu?” Tôi giải thích thật ra tham với sân chỉ là ngọn, gốc từ si mà ra. Sợ tham sân, muốn hết tham sân mà không bỏ si th́ không bao giờ hết.

V́ sao chúng ta tham? V́ bản ngă. Thấy cái đó đẹp ḿnh thích, thích được để ta hưởng. Từ chấp ta mà sanh ra tham hưởng thụ những thứ đẹp. Bây giờ nếu thấy ta không thật th́ tham đẹp làm ǵ.

Do chính cái si, nên thân không thật mà chấp là thật, mới sanh ra tham sân. Bây giờ đạo hữu cứ nh́n thấy rơ thân ḿnh không thật th́ hết tham, hết sân.

Trong kinh Bát-nhă, đức Phật dạy chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Nghĩa là soi thấy thân năm uẩn này không thật liền vượt qua tất cả khổ nạn.

V́ chúng ta thấy thân thật nên muốn đem những tốt đẹp về cho ḿnh. Khi bớt được tham th́ bớt sân luôn, v́ những ǵ ta muốn mà bị ai ngăn trở th́ nổi giận. Bây giờ ḿnh không muốn nữa nên ai làm ǵ th́ làm, đâu có giận.

Sân gốc từ tham mà ra, tham gốc từ si mà có. Chỉ cần phá si th́ hai thứ kia cũng theo đó mất luôn. Nên biết cột trụ của phiền năo là từ chấp ngă. Phá tan chấp ngă th́ mọi thứ phiền năo theo đó dứt hết.

Như vậy Phật tử tại gia muốn bớt phiền năo, bớt nghiệp thức th́ đừng thèm chấp ngă là thật. Thường chúng ta hiểu theo lư của Phật dạy mà không chiêm nghiệm kỹ.

Nghe Phật nói thân giả th́ cũng nói theo, nhưng thật ra không thấy giả chút nào cả. Hồi xưa ngồi chiêm nghiệm lại, chúng tôi thấy Phật nói thân này là giả, nhưng làm sao để giải thích giả một cách cụ thể cho người ta hiểu. Ta nói giả do duyên hợp th́ được, nhưng vẫn chưa rơ hết sự thực của cái giả ấy.

Bây giờ tôi có thể nói giả qua sự vay mượn liên tục bốn chất đất, nước, gió, lửa của thân. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta sống là nhờ tứ đại ở trong cộng với tứ đại bên ngoài hỗ trợ liên tục.

Như lỗ mũi đang hít thở đều đặn, không ngừng nghỉ. Rồi uống nước, ăn cơm… Mượn vô trả ra, mượn vô trả ra, cứ như thế tiếp nối hoài. Nếu quá tŕnh ấy gián đoạn hay ngừng nghỉ th́ ḿnh chết ngay.

Như vậy chúng ta sống bằng cái vay mượn, chớ có ǵ là ḿnh thật đâu? Nh́n cho thật tường tận mới thấy đời sống của con người chỉ là chuyện mượn trả đều đều, không có ǵ sang, cũng không có ǵ quí.

Mượn trả êm xuôi th́ c̣n thấy vui, nếu mượn trả trục trặc th́ chở đi bác sĩ liền. Cho nên hạnh phúc của thế gian chẳng qua là sự vay mượn êm xuôi, nếu khác đi là mất hạnh phúc, là đau khổ liền. Thế th́ cuộc sống quí giá ở chỗ nào? Vậy mà nói giả người ta không chịu!

Hiểu như vậy rồi c̣n ǵ để chúng ta tham nữa không? Mà không tham th́ cái ǵ trái ư ḿnh bỏ qua. Ta không thật, người cũng không thật, tranh hơn thua với nhau làm chi, có được ǵ? Được vậy tự nhiên phiền năo hết sạch.

Thiền sư sống tự do tự tại là nhờ vậy đó. Các Ngài thấy rơ có ǵ đâu phải buồn phiền, có ǵ đâu phải hơn thua được mất? Lâu nay chúng ta không chịu nghiệm lại ḿnh, cứ lo t́m cái này cái kia bên ngoài, mà cái gần nhất chính là bản thân ḿnh, lại không biết ǵ hết.

Cứ lo ăn ngon, hít thở không khí tốt, uống nước trong mát v.v… mà không ngờ tất cả những thứ đó đều mượn trả, không có ǵ của ḿnh hết.

Như vậy quí Phật tử muốn hết phiền năo, chỉ cần dùng trí tuệ quán chiếu thấy rơ phiền năo gốc từ si mê chấp ngă mà ra. Phá được gốc si mê này th́ hết phiền năo, chớ đừng nói ở chùa hết phiền năo.

Hết phiền năo th́ nghiệp thức không c̣n, nghiệp thức đă dứt sạch th́ tánh giác hiện tiền. Điều đó rơ ràng như vậy.

Hôm nay tôi lược nói về nghiệp thức và tánh giác để tất cả quí vị hiểu rơ, ứng dụng tu hành cho có kết quả. Tôi tin chắc nếu ai quyết tâm vén áng mây mờ nghiệp thức th́ mặt trăng trí tuệ sáng suốt sẽ chiếu soi, không nghi.

Mong tất cả lắng nghe, suy gẫm và thực hành đạt được nhiều lợi ích thiết thực.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 960 of 1146: Đă gửi: 28 December 2010 lúc 2:52pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




HOA VÔ ƯU

TỨ ÂN TRONG Ư CHÍ HIẾU TU

(CHƯƠNG CHÍN)



Hôm nay nhân ngày lễ Khánh thành chùa Phật Quang, chúng tôi có ít lời nhắc nhở Tăng Ni cũng như Phật tử trên con đường tu hành và hoằng hóa chánh pháp. Tôi tạm đặt tên đề tài buổi nói chuyện này là Tứ ân trong ư chí hiếu tu.

Sau buổi lễ, tôi có hai cảm xúc sâu đậm. Thứ nhất là có một nguồn vui sâu xa trong ḷng chúng tôi. Thứ hai là nỗi lo buồn cũng khá sâu xa trong ḷng chúng tôi. Cho nên tôi muốn thuật lại hết những tâm tư ấy cho Tăng Ni, Phật tử thông cảm để cùng chung gánh vác Phật sự lớn lao trong hiện tại cũng như mai sau.

Trước hết tôi nói về niềm vui. Chúng tôi xuất thân tu học từ hai ngôi chùa Phật Quang và Phước hậu. Sau bao năm đi xa, mỗi lần về thăm thấy Phật Quang và Phước Hậu, Chánh điện nhà tổ có vẻ điêu tàn, tôi thầm nguyện lúc nào đủ duyên, cố gắng vận động trong hàng môn đồ, pháp quyến chung lo, chung sức xây dựng lại hai ngôi tổ đ́nh này.

Tôi nhớ rất rơ hồi c̣n học ở Phật học đường Nam Việt, có một lần khoảng năm 1958 hay 1959, tôi theo Ḥa thượng Viện trưởng về thăm quê. Một hôm, Ḥa thượng được Sư ông tôi kêu lên nhà tổ dạy: “Ngôi chùa Phước Hậu ngày xưa, khi tôi đứng ra nhận lănh c̣n mới, nhưng bây giờ đă hư mà tuổi tôi lại già.

Tôi chỉ dành dụm được chút ít, không đủ sửa sang, nay tôi giao cho ông. Ông cố gắng làm sao sửa sang lại cho được lành lặn, để trước khi nhắm mắt tôi thấy ngôi chùa như xưa, th́ mới vui”. Chính tôi được nghe lời dặn ḍ đó và thấy Sư ông trao tiền cho thầy tôi.

Từ đó thầy tôi có bổn phận phải vận động Phật tử để xây cất lại chùa Phước Hậu chắc chắn như ngày nay chúng ta thấy. Như vậy các bậc thầy đi trước của chúng ta khi nhận một ngôi chùa là nhận lănh một trách nhiệm.

Trách nhiệm đó không phải chỉ duy tŕ ngôi Tam bảo trong lúc c̣n sống, mà duy tŕ măi cho đến ngày nhắm mắt, làm sao ngôi chùa vẫn c̣n nguyên vẹn để trao lại cho những người sau, tiếp nối truyền bá chánh pháp không bị ngưng trệ.

V́ vậy mỗi lần về tôi thấy chùa hư, trong ḷng không an. Nhưng sự thật trước đây không đủ phương tiện để lo, mấy năm qua tôi cứ xót xa trong ḷng. Đến năm này đủ duyên, chúng tôi kêu gọi môn đồ pháp quyến chung lưng hợp sức xây cất lại chùa Phật Quang.

Chúng tôi nghĩ ngày xưa Sư ông chịu trách nhiệm nhận lănh ngôi chùa này, Ḥa thượng sư bác tôi là người được giao Trụ tŕ, thầy chúng tôi cùng với Ḥa thượng Trí Tịnh đem lớp học ngoài Trung vào. Hai vị đặt chân ở đây đầu tiên để dạy dỗ Tăng Ni.

Nếu không kể giai đoạn về trước tức không kể trường Lưỡng Xuyên v.v... th́ chùa Phật Quang là điểm đầu mở những lớp học do các Ḥa thượng từ Huế về giảng dạy. Như vậy chùa Phật Quang được xem như Phật Học Đường đầu tiên trong thời điểm đó.

Cho nên chư Tăng các nơi gần cũng như xa tụ hội về tu học khá đông. Thời ấy xứ sở ḿnh đang có những cuộc chống Pháp, nên một số chư Tăng đang học phải cởi cà sa khoác chiến bào. Do đó tăng chúng dần dần ít đi, c̣n lại không bao nhiêu. Năm tôi vào chùa, quí thầy bắt đầu đi từ từ.

Ngôi Tam bảo Phật Quang này là chiếc nôi đầu tiên khi tôi vào đạo. Tôi nghĩ hồi xưa Sư ông đă lănh chùa thế nào, bây giờ ḿnh làm lại cũng phải thế ấy, để trước hết là Sư ông tôi, kế đó Sư bác và thầy chúng tôi được hoan hỷ, v́ cơ sở truyền bá chánh pháp từ xưa đến nay vẫn được tṛn đủ.

V́ vậy tôi yêu cầu ban tổ chức phải làm đúng như tất cả những ǵ ngày xưa đă làm. Đó là điểm tôi nghĩ quí vị thông cảm cho chủ ư của tôi muốn làm giống chùa xưa, chớ không được làm khác.

Lại nữa, ngôi chùa này ngày xưa đă có kỷ niệm sâu đậm với tôi. Ngày rằm tháng tư năm 1949, tôi được thầy Hoằng Huệ, một ân nhân hướng dẫn chúng tôi về đây xin tu. Nên ngày này là ngày đầu tiên đặt chân đến Phật học đường Phật Quang.

Nhưng thầy tôi nhận cho ở tu với điều kiện phải công quả ba tháng, để xem ư chí và tinh thần xuất gia của tôi mạnh yếu thế nào. Cho nên suốt ba tháng mùa an cư năm đó tôi chỉ làm công quả thôi, chớ chưa được xuất gia.

Song tôi có tánh hiếu học. Tuy làm công quả, nhưng những giờ học của Tăng Ni tôi đều dự thính ở sau. Qua ba tháng Ḥa thượng thấy tôi có ư chí tu quyết liệt, nên rằm tháng bảy Ngài cho tôi xuất gia tại đây.

Thời gian đó tôi từng dọn dẹp chung quanh chùa, nhất là mấy cái mương trồng dừa, phải bồi đất cho tốt đẹp nên tôi cũng đă đóng góp khá nhiều công sức để xây dựng cảnh quan chung quanh chùa.

Như vậy năm 1949 tôi đă có mặt ở đây. Đến năm 1951, có một tai nạn lớn xảy ra nơi đây. Hai chiếc máy bay Pháp, nó quần bắn từ tám giờ sáng tới mười giờ trưa. Lúc đó tại chùa có ba lớp học trẻ con, tôi lănh dạy một lớp.

Gần hai trăm học tṛ và Tăng Ni nằm mấy tiếng đồng hồ dưới đất, nh́n lên chỉ thấy đạn xẹt tóe lửa ngang mấy cây cột, khói bụi mù mịt không ai thấy ai hết. Qua một trận đó rồi, không phải ngưng luôn mà tối nào lên giường nằm cũng nghe thụt trái Ô-bít. Đang nằm trên giường mạnh ai nấy nhảy xuống đất.

Như vậy kéo dài một thời gian đáng kể, thầy tôi thấy ở đây không tiện nuôi Tăng Ni và việc học hành của trẻ con cũng không bảo đảm, nên mới xin Sư ông tôi được về Phước Hậu. V́ vậy năm 1952, thầy và chúng tôi đều về Phước Hậu tá túc tiếp tục học tập.

Chùa đây giao lại cho Ḥa thượng Hoàn Tâm tức Sư bác tôi. Xem như tại chùa Phật Quang, Ḥa thượng Viện trưởng tức thầy chúng tôi chỉ sinh hoạt từ năm 1945 tới năm 1951, tṛn sáu năm.

Riêng tôi chỉ có mặt ở đây từ năm 1949 tới năm 1951, ba năm đầu tiên vào đạo, nhưng bước đầu bao giờ cũng nhiều kỷ niệm nhất. Bởi v́ nếu không có bước đầu th́ những bước khác không bao giờ có. Ba năm tṛn ở đây tôi học Sơ đẳng, nhưng học nhảy.

V́ tôi vào nhằm năm thứ hai, sắp qua năm thứ ba. Phần dốt đặc tôi không biết một chữ nho, làm sao học kịp. Nhưng mà v́ hiếu học, hơn nữa ở nhà ông cụ thân sinh của tôi biết chữ nho. Mỗi khi uống rượu, ông nói chữ nho cho tôi nghe nhiều lắm, nên tuy không học mà tôi cũng thuộc chữ nho.

Do thuộc giải nghĩa được mà thấy mặt chữ không biết. V́ thế lúc tôi vào chùa, có chú Thanh Đức thông minh lại học trước, nên tôi hợp tác với chú. Hai chú cháu, chúù đọc chữ, tôi giải nghĩa. Mỗi lần học hai chú cháu nằm gần,

chú đọc hết chữ nho tôi nghe, kế tôi giải nghĩa lại cho chúù nghe. Nhờ vậy tôi ráng học theo kịp. Thành ra chỉ hơn một năm tôi đă học hết lớp Sơ đẳng ba năm.

Trong thời gian học Sơ đẳng, có một lần chúng tôi được Ḥa thượng dạy về Tân Quốc Văn. Hôm đó học nhằm bài nói về ư chí, Ngài bắt chúng tôi phải học thuộc câu này “Địa du cố mộc du kiên. Gian nan giả, phi khốn ngă giả, nhi trợ ngă giả dă.” Đây là câu tôi rất thích nên sau này thường đem ra nhắc nhở Tăng Ni măi.

Nghĩa là đất càng chai th́ cây càng cứng, đó là thí dụ. “Gian nan giả, phi khốn ngă giả, nhi trợ ngă giả dă”, tức gian nan không phải làm khốn khổ ta mà chính là trợ giúp cho ta vậy, đó là hợp pháp. Nhờ những câu này làm cho tôi mạnh thêm, quyết chí thêm.

Mới thấy rằng người xưa chỉ dạy cho chúng ta hiểu, tất cả những khó khăn khốn khổ của cuộc đời là những bài học có sức mạnh lớn giúp chúng ta vươn lên, thành tựu sở nguyện của ḿnh, chớ không phải làm trở ngại cho ta.

Ví dụ hết sức cụ thể, nếu chỗ nào đất chai mà cây mọc lên được th́ biết cây đó rất cứng, c̣n chỗ nào đất mầu mỡ đất xốp th́ cây yếu mềm. Nên sống trong môi trường khó khăn là cơ hội để chúng ta rèn luyện ư chí, dũng mănh tiến lên. Đó là một bài học lúc tôi học chữ Hán lớp Sơ đẳng.

Năm 1951, tôi bắt đầu học Trung đẳng, Ḥa thượng giảng các bộ kinh của cấp Trung đẳng. Thời gian này công việc của Ngài rất bề bộn. Ngoài giảng dạy cho Tăng Ni mỗi buổi chiều, buổi sáng Ḥa thượng làm việc xă hội.

Thầy tôi có mở một pḥng thuốc, Phật tử hay dân chúng bị bệnh tới đây, cần hốt thuốc thang, thuốc bắc Ḥa thượng chẩn mạch hốt thuốc bắc. Ai cần chích thuốc tây, Ḥa thượng theo toa chích thuốc tây giùm.

Buổi tối Thầy mở lớp xóa nạn mù chữ cho dân quê. Ngài dạy bằng phương pháp vần chữ “o”. Thầy cho vẽ con gà gáy có ba chữ “̣, ó, o” ở trước, nhờ thế quí vị lớn tuổi trong xóm học rất dễ, chỉ trong ṿng ba tuần lễ là đọc được. Đó là sáng kiến của Ḥa thượng.

Như vậy buổi sáng Ḥa thượng làm công tác y tế, buổi tối công tác về văn hóa, buổi chiều dạy kinh cho Tăng Ni. Phần chúng tôi buổi khuya thức dậy công phu từ lúc bốn giờ. Năm giờ dùng tiểu thực. Sáu giờ tới tám giờ lao động trồng rau trồng cải.

Tám giờ, vô dạy các em nhỏ từ lớp đánh vần a, b, c cho tới lớp ba. Dạy học tới mười giờ, nghỉ một chút là tới giờ ăn cơm. Buổi chiều thức dậy hai giờ học giáo lư. Tới bốn giờ học xong, tôi phải điều khiển hai mươi mấy chú nhỏ lao động, đứa nhổ cỏ chặng này, đứa nhổ cỏ chặng kia.

Đầu hôm chừng khoảng sáu giờ rưỡi, Ḥa thượng Viện trưởng lạy một thời hồng danh sám hối, tôi cũng bắt chước lạy theo. Sau đó tám giờ là thời công phu Tịnh độ của đại chúng, không thể bỏ được, c̣n sám hối buổi chiều tối là thời riêng của Ḥa thượng.

Tóm lại chúng tôi không có th́ giờ rảnh rỗi và giờ học lại quá ít. Cho nên khuya lẽ ra bốn giờ thức dậy công phu, th́ tôi đă thức trước từ hai giờ để ḍ bài. V́ học nhảy nên tôi ḍ bài cực hơn quí thầy.

Năm đó học Lăng Nghiêm, nhất là tới đoạn Thất xứ trưng tâm, ḍ tới đâu tôi khóc tới đó. Tôi thấy có những điểm thật kỳ đặc, sao lời Phật dạy hay quá mà hồi đó tới giờ ḿnh chưa từng nghe. V́ vậy xúc động quá, đọc tới đoạn nào ư nghĩa thâm sâu tôi khóc ngon lành.

Hồi xưa v́ không biết nguồn xúc cảm ấy là từ túc duyên mà ra, nên tôi cứ lấy làm lạ tại sao ḿnh đọc kinh mà khóc hoài? Măi tới sau này, khi nghiên cứu tu Thiền tôi mới hiểu đó là do chủng duyên nhiều đời của ḿnh.

Đọc tới đoạn nào nói về thiền, làm như tôi nhớ tưởng một cái ǵ quen thuộc của quá khứ nên cảm thấy buồn, xúc động lạ kỳ. Do đó từ lúc học kinh Lăng Nghiêm cho tới về sau, tôi dự cảm có một lối đi quen thuộc mà ḿnh chưa t́m được rơ ràng.

V́ vậy đối với kinh Phật tôi rất quí kính, xem như khuôn vàng thước ngọc, giúp cho ḿnh có một định hướng trong cuộc đời tu đạo. Đây chính là dấu hiệu báo trước cho nhân duyên tu thiền của tôi về sau này, mà ngày trước tôi không biết.

Đó là những kỷ niệm của tôi trong thời mới xuất gia, học chữ Hán, học kinh, và kỷ niệm xúc động nhất là học kinh Lăng Nghiêm. C̣n về cách đối xử, thầy thấy tôi có chí học nên rất thương.

Ở lớp mỗi người phải tự chép kinh để học, Ḥa thượng biết tôi mới vô, đâu có th́ giờ học chữ Hán mà viết, nên Ngài lấy kinh sách sẵn trong tủ cho tôi học. Đó là lư do tôi biết dịch mà không biết viết chữ Hán.

Chữ Hán tôi viết xấu lắm v́ ít viết. Tôi cảm nhận được những ưu đăi mà Ḥa thượng đă dành cho ḿnh, khiến một số huynh đệ đồng thời không bằng ḷng, họ hay có những gay cấn nho nhỏ với tôi. Điều đó cũng hợp lư thôi.

Thêm một điểm nữa, tôi vô chùa hoàn toàn không có liên hệ với gia đ́nh, chỉ biết ăn cơm chùa, sống chết với chùa, chớ không có thí chủ riêng. V́ khi tu là trốn đi mà, nên đâu có dám về nhà xin giúp đỡ

. Do đó một cây bút, một b́nh mực, một cuốn tập thầy tôi cũng phải cho, nhất nhất việc ǵ thầy đều lo hết. Cho nên t́nh thầy tṛ không biết kể sao cho hết. Nhờ vậy những năm ở đây đối với tôi là những năm gầy dựng được tinh thần quyết tâm tiến tu rất vững mạnh.

Nhờ công ơn giáo dưỡng của Thầy, từng bước tôi hiểu được giáo lư cao siêu của Phật, khiến niềm tin đối với Phật pháp ngày càng mănh liệt. Tôi c̣n nhớ Ḥa thượng dạy rất kỹ, mỗi bữa học phải ḍ bài trước.

Ví dụ hôm nay học bài đó, chúng tôi phải đọc và giải nghĩa xong hết, thầy mới giảng sau. Thành ra không ai dám ỷ lại, nhờ thế chúng tôi nhớ rất kỹ. Đó là lối dạy giúp học tṛ tiến rất nhanh.

Sau khi học giáo lư kha khá, thầy bắt chúng tôi tập giảng. Lần đầu giảng tôi run quá chừng, v́ đúng ngay ngày rằm mà ḿnh mới học có ba năm thôi, nhưng thầy dạy sao làm vậy, không dám căi lời.

V́ vậy tới năm 1953 về Ấn Quang tôi vừa học vừa có thể bắt đầu đi giảng nơi này nơi kia. Cho nên mỗi lần nhớ đến thầy, tôi nhớ đến bổn phận của ḿnh phải làm sao cho nơi này luôn được tốt đẹp vững chắc.

Trong bốn ân tức ân cha mẹ, ân Thầy Tổ, ân đàn na thí chủ, ân quốc gia, tôi thấy rất nặng nề. Với tôi th́ ân Thầy Tổ thật là sâu nặng, bởi v́ tôi nhờ Thầy Tổ mà hiểu được đạo lư, nhờ Thầy Tổ mà tiến trên con đường đạo, làm chút ít lợi lạc cho Phật tử, cho chúng sanh.

Tất cả đều nhờ ân của Thầy Tổ hết. Cũng v́ thế mà tôi thấy ḿnh phải xây dựng lại chùa Phật Quang cho được khang trang tốt đẹp, để phần nào cảm tạ công ơn của Thầy cũng như công ân của đàn na thí chủ thiết lập ngôi chùa này.

Ngày nay chúng tôi đă khuyến khích vận động chư Tăng Ni cũng như Phật tử địa phương xây dựng lại ngôi chùa xưa trang nghiêm mỹ măn như vầy, tôi rất vui mừng. Làm được một việc mà lâu nay ḿnh muốn làm nhưng chưa thể làm, trong ḷng nó rất là vui, rất an ổn.

Song khi nói tới niềm vui đó, chúng tôi cũng không tránh khỏi cái lo. Tại sao phải lo? V́ lâu nay chư Tổ thường dạy, chúng ta xây dựng chùa chiền, lập cơ sở là điều khó, nhưng không khó bằng gầy dựng được những vị Tăng Ni có tài có đức, để gánh vác Phật sự, duy tŕ ngôi Tam Bảo.

Đó mới là điều khó. V́ thế tôi lo, bởi hiện giờ chùa này có Ban trụ tŕ, nhưng Nhật Hỷ đi Sài G̣n, Nhật Đạo cũng rày đây mai đó, không có mặt thường xuyên. C̣n Hải Trí ở đây th́ lại bệnh hoạn, rất yếu đuối không biết đủ sức đảm đang ngôi Tam bảo, gầy dựng được một số ni chúng đông đảo để tu hành không?

Phần tôi tuổi thọ như mặt trời sắp gác núi, không c̣n lâu dài nữa. Nếu việc ǵ cũng lo hết, chắc tôi không thể lo được. Thế nên thành tựu được ngôi tổ đ́nh này là trách nhiệm của tôi, c̣n phần duy tŕ và mở mang về sau là phần của những người có trách nhiệm hiện tại.

Ban trụ tŕ phải cố gắng hợp tác với nhau, làm sao duy tŕ được ngôi Tam bảo lâu dài, để khỏi cô phụ công ơn của Thầy Tổ chúng ta, đó là điều thứ nhất.

Điều thứ hai, sở dĩ ngày xưa chùa Phật Quang được tiếng tốt, lợi ích cho đạo là do có mở mang dạy dỗ Tăng Ni, đồng thời tạo cơ sở làm từ thiện xă hội. Do đó ngày nay nếu Ban trụ tŕ yếu đuối không làm nổi, th́ kế đó Ban Trị sự Phật giáo Tỉnh, Huyện nên hợp tác chung lo.

V́ trên thực tế, Ban Trị sự cũng là những người thân thiết chớ không ai xa lạ, lớn như thầy Thiện Phước Phó trưởng ban, xem như đă từng học đạo lư với tôi, kế đó th́ Đắc Pháp, Đắc Huyền v.v… là đệ tử, học tṛ của tôi.

V́ vậy tôi nghĩ trách nhiệm này phải giao lại cho quí vị, hy vọng các thầy cố gắng hợp tác với Ban trụ tŕ, làm sao cho chùa Phật Quang sau khi trùng tu lại rồi, mỗi ngày mỗi được lợi ích cho Tăng Ni cũng như xóm làng, dân chúng địa phương.

Không thể cất ngôi chùa rồi đóng cửa để đó, chờ hai ba mươi năm sau hư mục cất nữa. Đó là chuyện vô ích, tốn công tốn của đàn na thí chủ không có nghĩa lư ǵ hết. Nên phần thứ hai là phần của Ban Trị sự, xin quí vị ḍm ngó chung lo cho những vị ở đây đủ điều kiện phát triển Phật pháp, duy tŕ ngôi Tam bảo được lâu bền.

Phần thứ ba là ban hộ tự. Hồi xưa không có Ban hộ tự, nhưng bây giờ v́ Ban trụ tŕ hơi yếu nên phải nhờ Ban hộ tự chung sức. Những vị cư sĩ nhiệt tâm, nhất là Trưởng ban hộ tự hiện giờ, tức cháu của ông bà tư hồi xưa, lúc nào cũng đem hết tinh thần lo lắng cho chùa.

Quí vị hết đời ông tới đời cha, đời con rồi đời cháu, đều chung lo Phật sự ở đây. Tôi thấy đó là điều rất tốt, rất đáng tán dương. Làm sao cho ngôi chùa của chúng ta tại đây ngày càng được tốt đẹp hơn, càng lợi ích cho đạo cho đời nhiều hơn. Như thế mới là tṛn bổn phận của đệ tử, đệ tôn trong tông môn.

Quí vị có trách nhiệm cố gắng tạo điều kiện cho người dân trong xóm làng chung quanh chùa hiểu Phật pháp, mỗi nửa tháng giảng giáo lư một lần, hoặc không giảng được th́ cũng mở băng đạo cho họ nghe.

Tôi rất buồn khi thấy nhiều chùa, Phật tử ở chung quanh không hiểu đạo lư ǵ hết, chỉ biết tới chùa coi ngày coi giờ, cúng sao cúng hạn, xin xăm bói quẻ v.v… Như vậy ngôi chùa không làm sáng tỏ được chánh pháp, trái lại c̣n gieo rắc mê tín dị đoan cho quần chúng, không lợi ích ǵ cho đạo, cho đời.

V́ vậy tôi mong tất cả các Ban cùng với Tăng Ni có bổn phận bảo trợ ǵn giữ ngôi Tam bảo. Cho nên Ban hộ tự ở đây vừa nhiệt t́nh lo cho đạo, vừa phải cố gắng nhắc nhở quí vị có trách nhiệm truyền bá Phật pháp, đừng để ngôi chùa trở thành nơi văng cảnh chơi thôi, c̣n đạo pháp tối tăm mù mịt th́ thật là vô nghĩa.

Đó là trách nhiệm của ba ban: Ban trụ tŕ, Ban Trị sự và Ban hộ tự, quí vị chung sức chung ḷng với nhau lo lắng, duy tŕ ǵn giữ, đồng thời mở mang cho ngôi Phật Quang này ngày càng sáng hơn, đúng với ư nghĩa Phật Quang tức là ánh sáng của Phật trùm khắp muôn nơi. Đó là phần tâm t́nh của tôi với Tăng Ni cũng như Phật tử tại đây.

Kế đến tôi nói về Tứ ân. Một là ân cha mẹ, v́ có cha mẹ mới có thân ta. Chúng ta tu được, tạo duyên cho cha mẹ biết qui y Tam bảo, đó là đền ân cha mẹ. Ta tu không được th́ không thể đền ân cha mẹ.

V́ vậy thương cha mẹ, quí kính cha mẹ chừng nào chúng ta ráng tu chừng ấy. Làm sao nhờ đức của ḿnh mà cha mẹ mất đi, sanh ra gặp Phật pháp, đời sau tu hành. Tôi nhớ trong sử có câu chuyện kể về một vị tu sĩ, v́ đọc lâu tôi không nhớ tên, chỉ nhớ đại khái thế này:

Vị ấy lúc đầu mới xuất gia, tu hành rất tinh tấn, khiến mọi người đều quí trọng. Bà mẫu của vị đó mất đọa vào đường xấu nhưng không bị tra tấn ǵ hết. Họ nói rằng bà có đứa con tu hành tinh tấn quá, nên không dám động tới mẹ vị tăng kia.

Nhưng thời gian sau, không biết v́ duyên cớ ǵ ông thối Bồ-đề tâm, tu yếu ớt. Bấy giờ sống trong cảnh khổ, người mẹ bị tra tấn quá chừng. Chịu hết nổi bà mới xin “cho tôi về nhắc con tôi một chút”. Khi đó người giữ ngục cũng khoan dung cho bà đi.

Bà về báo mộng với con rằng: “Mấy năm trước nhờ con tinh tấn tu hành, nên mẹ tuy đọa địa ngục nhưng không ai hành phạt. Bây giờ con tu hành bê bối quá, v́ vậy người ta hành phạt mẹ đau khổ vô cùng.

Nói rồi bà khóc và bỏ đi. Khi đó vị tăng giật ḿnh thức dậy, kiểm lại thấy quả nhiên ḿnh đang thối tâm. Từ đó nghĩ muốn cứu mẹ, nên vị tăng cố gắng tu hành tinh tấn như xưa. Nhờ thế bà mẹ cũng được an ổn, không bị tra tấn nữa.

Tôi kể lại câu chuyện này để nhắc nhở quí vị cố gắng tu hầu mong đền ân cha mẹ. Không phải ở chùa lâu năm, được thăng chức từ Sa-di lên Tỳ-kheo, rồi Đại đức, Thượng tọa, Ḥa thượng mà không tu, dù cho chức ǵ đi nữa cũng không cứu được cha mẹ đâu.

Chúng ta muốn đền ân cha mẹ phải cố gắng tu, làm sao đời này ḿnh giải thoát được những khổ đau của bản thân, đồng thời trợ lực cho cha mẹ khỏi phải khổ đau nơi này nơi nọ.

Thứ hai là ân Thầy Tổ. Như tôi đă kể ở trên, nếu không có Thầy Tổ, th́ ai mở con mắt trí tuệ cho ḿnh? Cha mẹ sanh thân chúng ta chỉ có một đời, c̣n Thầy Tổ sanh giới thân huệ mạng cho chúng ta đời đời.

Tu hành được giác ngộ giải thoát, vĩnh viễn vượt ra ba cơi, chấm dứt khổ đau muôn kiếp, đều nhờ ân Phật tổ hay Thầy Tổ. Cho nên công ân này không thể tính kể, ngôn ngữ lời lẽ chẳng thể nói hết được.

Chỉ có tu hành đạt được kết quả viên măn, sau đó cứu giúp chúng sanh cùng thoát khổ trầm luân mới mong đền đáp được thâm ân vô lượng này.

Thứ ba là ân đàn na thí chủ. Nhờ có đàn tín ủng hộ, giúp đỡ tài vật, tạo điều kiện cho Tăng Ni yên tâm tu hành, chúng ta mới chuyên tâm tiến đạo. Chúng ta tu được mới có thể làm lợi ích chúng sanh, đền ân đàn na thí chủ.

Nếu tu không được th́ hư hết một đời, cuối cùng ta phải chuốt quả khổ v́ mang nặng ân đàn na tín thí mà không đền trả được.

Trong luật Sa-di có câu chuyện về một Tỳ-kheo thọ nhận của ông Trưởng giả rất nhiều, tu hành cũng có đức hạnh nhưng không thông suốt lư đạo. Sau khi chết, vị này biến thành cây, mọc nấm cho Trưởng giả ăn suốt đời.

Khi Trưởng giả chết, cây mới hết ra nấm. Đó là cách đền ân thí chủ bằng hoa báo, tức mọc nấm trên cây để trả lại công của thí chủ. Cho nên đâu phải chúng ta được đàn na thí chủ thương giúp nhiều là có phước!

Phật tử cúng dường cho chúng ta đều nghĩ gieo duyên với ḿnh, để sau được hóa độ, chớ không phải cúng dường cho chúng ta xài tùy ư. Nếu ḿnh tu hành không có đức hạnh, tiền bạc của cải ấy phải trả, chớ không thể nào không trả. Tôi thường nói người tu trả ân đàn na thí chủ bằng hai cách:

Một là nếu có đạo đức, ngay trong đời này chúng ta giáo hóa chỉ dạy cho Phật tử hiểu đạo. Nhờ hiểu đạo, họ tiến tu, đó là ta làm thầy để đền ân thí chủ. Hai là nếu nhận của thí chủ rồi ăn xài phung phí, không chịu tu hành, nhất định sau khi nhắm mắt sẽ làm trâu cày, ngựa cỡi hoặc nhẹ là hoa báo như câu chuyện ở trên, trả suốt đời chớ không được rảnh rang đâu.

Tôi thường nói, tôi nợ thí chủ ngập đầu. Bởi v́ ai cũng muốn gieo duyên với tôi, nên giúp tôi làm được nhiều Phật sự. Tôi không dám hănh diện ḿnh có phước, mà tôi thấy chính ḿnh thiếu nợ nhiều nhất với đàn na thí chủ.

V́ vậy ngoài bổn phận tôi phải cố gắng tu, tôi c̣n khuyên Tăng Ni hàng đệ tử cũng cố gắng tu, để thầy tṛ hợp sức nhau trả nợ cho đàn na thí chủ. Chúng ta tu được, đem công đức ấy giáo hóa cho mọi người được an vui bớt khổ trong đời này và những đời về sau.

Đó là chúng ta chọn cách trả nợ thứ nhất. Nên nhớ chỉ là trả nợ thôi, chớ đừng hănh diện ḿnh làm thầy thiên hạ.

Tôi thường ví dụ như ở thế gian, nếu có một giáo chức mượn nợ mà không có tiền trả. Chủ nợ có mấy đứa con đi học, biết vị ấy không có tiền trả nên nhờ về dạy kèm con họ.

Đó là lấy công để trả nợ, trả bằng cách làm thầy của con họ. Chúng ta cũng thế, trả nợ nhưng mà trả bằng cách làm thầy. Nếu người dốt nát không học hành ǵ, mượn nợ không có tiền trả th́ phải đi làm thuê làm mướn để trả nợ, chớ đâu thể mượn mà không trả được.

Rơ ràng ở thế gian cũng như trong đạo, chúng ta không thể tự hào rằng tôi được Phật tử cúng nhiều là có phước, rồi tha hồ ăn xài tự do. Nếu vậy e rằng mai kia không biết mấy trăm lần phải trở đi, trở lại để đền trả nợ trước.

V́ vậy tôi nhắc cho tất cả Tăng Ni hiểu hai chữ cúng dường Tam bảo để gieo duyên là nói nghe cho đẹp. Chớ nói thẳng ra là Phật tử cho Tăng Ni vay nợï. Chúng ta nghe cúng dường thấy cao quí, chớ không ngờ là nhận nợ, mà nhận nợ th́ phải trả nợ.

Bởi vậy tôi thấm nhất là ngày xưa đức Phật bắt Tăng Ni phải đi khất thực. Đi khất thực để làm ǵ? Làm kẻ ăn mày tới xin người ta. Phật tử cho ḿnh gọi là gieo duyên, tức cho vay nợ. Họ cho vay bằng cơm th́ ta trả lại bằng pháp. Trả ngay tức th́, không để thiếu nợ. Đức Phật quả thật quá hay!

Phật tử trao tài vật cho tôi là trao nợ, nợ lớn hoặc nợ nhỏ. Nếu nợ lớn th́ tôi phải trả nhiều trả lâu, nợ nhỏ th́ tôi trả ít trả mau. Cho nên tới tuổi này mà tôi vẫn c̣n giảng.

Bởi v́ trao đổi hai chiều mà, Phật tử trao cho tôi cái này, tôi phải trao lại cái khác. Chẳng lẽ tôi để nợ cho tới chết mang theo? Cho nên luôn luôn phải giảng, phải dạy cho Phật tử hiểu đạo, tu hành được an vui. Đó là bổn phận, là trách nhiệm tôi phải trả.

Tăng Ni chúng ta ư thức được việc làm, bổn phận của ḿnh th́ không bao giờ có thể thờ ơ, lănh đạm với tinh thần mộ đạo kính tăng của Phật tử. Phật tử v́ muốn gieo duyên với Tam bảo, muốn tiến lên trên con đường đạo đức mà chưa đủ điều kiện, nên gieo duyên với chúng ta.

Nói cách khác như họ muốn có tiền để dành, nhưng sợ xài hết nên bây giờ đem gởi ngân hàng. Gởi ngân hàng mỗi tháng chút chút, lâu ngày dồn lại cất được cái nhà. Cho nên gởi ngân hàng không có nghĩa là đem tiền bỏ, mà c̣n tính có lời nữa.

Cũng vậy, Phật tử muốn tu, muốn tiến trên đường đạo đức mà bây giờ chưa tiến được, nên làm có chút ít gởi thầy. Thầy thiếu nợ ḿnh, mai mốt có đủ điều kiện thầy độ ḿnh tu.

Đó là lư do Phật tử v́ muốn tu, v́ muốn tiến trên đường đạo nên mới cúng dường Tăng Ni. Ư nghĩa ân đàn na thí chủ là như vậy.

Thứ tư là ân quốc gia hay ân chánh quyền. Nhờ có những vị này giữ ǵn đất nước thanh b́nh, chúng ta mới được an ổn tu hành, an ổn hoằng pháp lợi sanh. Đây là ân rất lớn, trong nhà Phật c̣n gọi là ân hộ pháp.

Nếu không có những vị này đứng ra chịu trách nhiệm bảo vệ an ninh, giữ ǵn xứ sở th́ chúng ta đâu có yên mà tu. V́ vậy ân quốc gia hay ân chính quyền đối với chúng ta rất nặng. Do đó chúng ta ráng tu cho có đức hạnh. Nhờ công đức này ḿnh mới khuyên dạy những người Phật tử chung quanh, bảo họ tránh điều ác làm điều lành, giúp cho xă hội ngày càng tốt đẹp, văn minh.

Đó là cách đền ân chánh quyền của người tu chúng ta. Nếu không tu, bản thân chúng ta không có đạo đức, nhiều khi bịa ra những chuyện huyền bí, mê tín dị đoan làm hại dân phiền lụy cho chính quyền nữa. V́ vậy tu đúng với chánh pháp là nhu cầu không thể thiếu được đối với hàng tăng sĩ chúng ta.

Đức Phật đă dạy chúng ta về tứ ân hết sức đầy đủ. Bổn phận của một người tu đối với ân Phật Tổ hay ân Thầy Tổ, là truyền đăng tục diệm, duy tŕ ngôi Tam bảo. Đối với cha mẹ th́ cố gắng tu cho có đức có hạnh để cha mẹ nương nhờ đức hạnh ấy được sớm sanh về cơi lành.

Hoặc gặp duyên cha mẹ c̣n sống, chúng ta độ cha mẹ qui y Tam bảo, tiến tu trên con đường đạo đức. Đối với đàn na thí chủ, vay nợ th́ gắng trả nợ. Vay bao nhiêu trả bấy nhiêu, trả trội hơn càng tốt, đừng để thiếu nợ. Danh từ lợi tha cũng là nói cho đẹp, chớ thật ra lợi tha là trả nợ đàn na.

Chúng ta nỗ lực tu hành độ ḿnh độ người, đó là bổn phận của hàng tu sĩ xuất gia nghĩ đến ân đàn na thí chủ. Đối với quốc gia hay chánh quyền, chúng ta tu hành tốt và giúp mọi người dân cũng có nếp sống đạo đức lành mạnh.

Khuyên Phật tử giữ ǵn năm giới, để xă hội có cuộc sống văn minh tốt đẹp, đất nước giàu có thanh b́nh. Đó là cách đền ân quốc gia của người tu sĩ chúng ta.

Tôi nhắc lại một lần nữa, v́ tuổi của tôi như mặt trời sắp gác núi, nên tôi không thể làm ǵ xa hơn, lâu hơn đượïc nữa. Hôm nay tôi cố gắng vận động Tăng Ni, Phật tử chung sức xây lại ngôi chùa Phật Quang này.

Bổn phận tôi đă xong, tôi có thể yên ḷng đối với Thầy Tổ được rồi, nhưng công việc duy tŕ, mở mang là phần của quí vị.

Không phải chỉ riêng ngôi chùa Phật Quang thôi, bất cứ một ngôi chùa nào trong làng, trong xă, trong huyện đều là những nơi để Phật tử có cơ hội hiểu đạo lư, sống theo nếp sống đạo, trở thành những con người tốt đẹp có lợi ích cho gia đ́nh, cho xă hội.

Như vậy chùa nào cũng cần sự ǵn giữ như tôi đă nói. Có thế mới xứng đáng là một ngôi chùa trong tâm tư của Phật tử Việt Nam. Chớ chùa mà không làm được những việc đó th́ không gọi là chùa.

Vậy tôi mong những vị có trách nhiệm ư thức được bổn phận, trọng trách của ḿnh đối với ngôi Tam bảo. Quí vị cố gắng đem hết khả năng của ḿnh làm tṛn bổn phận.

Cho tôi được yên ḷng thấy rằng việc làm của ḿnh không phải vô ích, để chúng ta không hổ thẹn là người con của Phật pháp. Đó là chỗ mong mỏi tha thiết của tôi.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 

<< Trước Trang of 58 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 1.6660 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO