Msg 12 of 24: Đă gửi: 15 October 2010 lúc 10:50pm | Đă lưu IP
|
|
|
Nguyên tác: Trần Thế Hưng, “Hôn ngoại t́nh thiên”, Tiêm Đoan, Đài Bắc 1994.
VDTT phỏng dịch và chú thích
Trường hợp 11: Cô Dương, trang 154-171 (tiếp theo và hết)
Định nghĩa vài thuật ngữ:
Tiên thiên (ứng toàn bộ): Tiên thiên mệnh là cung mệnh, tiên thiên phu là cung phu v.v…
Hậu thiên, hạn (ứng đại hạn 10 năm): Hậu thiên mệnh hoặc hạn mệnh là cung đại hạn. Từ cung đại hạn lùi lại 2 cung th́ được hậu thiên phu hoặc hạn phu. Thí dụ đại hạn ở cung Hợi th́ gọi Hợi là hậu thiên mệnh hoặc hạn mệnh, gọi Dậu là hậu thiên phu hoặc hạn phu.
Lưu (ứng một năm): Lưu mệnh là cung chứa lưu Thái Tuế. Từ lưu mệnh lùi lại hai cung được lưu phu. Như năm xem hạn là năm Tí th́ Tí là lưu mệnh, Tuất là lưu phu.
Kỷ Măo (26 đến 35 tuổi): Tứ hóa như hạn Kỷ Sửu, chỉ khác là bây giờ (Lộc Quyền Kỵ) ở hạn quan thay v́ hạn di. Ba hạn liên tiếp bản mệnh đắc Lộc, hạn mệnh đắc Quyền nên trong gian khổ cô Dương vẫn đi đến trước. Hạn quan của cô Dương h́nh thành nhiều cách cục nên đổi việc khá nhiều lần; nhưng mặc dù công việc khác nhau vẫn có điểm chung là cơ bản dựa trên tiền thưởng, tiền hoa hồng.
Tiên thiên phu (chú: tức phu nguyên thủy) cũng ba hạn hội Lộc, cô Dương chẳng phải bỏ qua chuyện ái t́nh, chẳng qua hạn Mậu Dần binh hoang mă loạn, chẳng có thời giờ để bàn tính yêu đương; huống chi tiên thiên phu bị song Kị giáp chế (dịch giả chú: theo phái Tử Vân, một Kị của Âm từ Ngọ chiếu vào cung Tí VCD, Kị kia là Cơ ở Tuất hạn Mậu), nào phải dễ đâu!
Vận Kỷ Măo th́ khác. Hạn thê có Lộc (Vũ) chiếu, thêm Linh thành cách Linh Tham, dễ nói chuyện yêu đương. Nhưng bị Khúc Kỵ thành cách Khúc Tham và Linh Xương Đà Vũ, sinh hoạt ái t́nh khó tránh trở ngại, muốn gặp đối tượng hôn nhân thích hợp có phần khó, huống chi hạn phu chính là bản mệnh là vị trí vừa bất ổn vừa yếu đuối, giả như kết hôn th́ có thể sinh biến.
Người viết từng nhấn mạnh nhiều lần. Mười hai cung đều là ta cả. Cách cục đều sẽ gặp, chỉ khác là khi gặp th́ hóa Lộc hoặc hóa Kỵ mà thôi. Như trường hợp cô Dương tiên thiên mệnh yếu nhược như thế, lại h́nh thành quá nhiều cách cục: Cơ Lương Ḱnh Dương hội, Cự Hỏa Ḱnh, Xương Tham, Linh Tham, Khúc Tham, Linh Xương Đà Vũ v.v… hành vận quả là khó khăn, trở ngại hơn người ta nhiều.
Kế tiếp chúng ta xét đoạn t́nh giữa cô Dương và ông M.
Năm Quư Hợi cô Dương 29 tuổi, lưu phu ở Dậu có lưu Lộc (Phá Quân) và Linh Tinh hội chiếu. Đại vận phu có Vũ Lộc Khúc Kỵ và Tham Kỵ xung chiếu là một kết cấu “cát xứ tàng hung” (Lộc phùng xung phá, phát động các cách xấu, đi đường dài th́ gặp trở ngại.) Tiên thiên phu cũng hội chiếu song Lộc và song Kỵ. Cô Dương nội tâm không bài xích ái t́nh, lưu niên lại có cơ hội dẫn động, tự nhiên dễ sinh chuyên t́nh cảm, chỉ là vận phu kết cấu quá yếu, nên một là gặp đối tượng rồi có vấn đề, hai là cố duy tŕ nhưng gặp trở ngại trùng trùng.
Coi cung phu của lưu niên như cung mệnh của ông M th́ Mùi là thê của ông này; lắm cách cục như thế, lại hiện đủ Lộc Kỵ xem ra mặt t́nh cảm của ông M phức tạp biến động nhiều. Nói cách khác, không dùng điều kiện du nhập thêm đă thấy năm này cô Dương muốn gặp đối tượng tốt thật chẳng dễ ǵ.
Ở đây có vấn đề trong ṿng bàn căi: Cùng lá số, vận phải giống y nhau hay sao? Cho nên người biết lô gích khoa học bài xích Tử Vi, bảo là phi lí, mê tín. Ông Liễu Vô có đề xướng rằng phải du nhập thêm dữ liệu mới mong luận mệnh, đừng ḥng dùng lá số chung mà đoán cho trường hợp riêng (dgc: Liễu Vô đây là ông Liễu Vô cư sĩ, từng đề xướng nhu cầu thêm dữ liệu trong loạt sách Hiện Đại Tử Vi. Thực ra, đây là luận điểm của thầy ông Liễu Vô cư sĩ, tức ông Tử Vân, ông Liễu Vô cư sĩ chỉ làm việc tường thuật. Sau này ông Liễu Vô có một số chủ trương khác với ông Tử Vân, nhưng đó là chuyện khác). Luận điểm này xét ra hợp lư, nhưng rốt ráo th́ mệnh lư thuộc triết học không phải khoa học, không thể lập lại thí nghiệm, cũng có những tính chất không giải thích bằng khoa học được. Ta không thể nói cái ǵ khoa học không giải thích được th́ không tồn tại (bởi) chúng ta biết rằng khoa học vẫn không giải thích được hết mọi hiện tượng và sự thật.
Cùng một lá số nhất định có điểm giống nhau, nghĩa là có (một số) tiềm năng, cá tính, khuynh hướng tương tự; nhờ đó mà chúng ta có thể chỉ bằng lá số mà đoán cá tính và kể ra những đặc trưng về nhân cách, khiến người ta không thể hoài nghi về độ chuẩn xác (của lá số). Vận hạn lên xuống, chuyển ngắt v́ chịu ảnh hưởng hoàn cảnh mà là phương diện có tính cá biệt hơn hết. Tuy nhiên, chỉ cần cùng lá số là phải có điểm tương tự. Chẳng hạn một người lên đỉnh cao th́ không thể nào người khác xuống vực thẳm. Giá trị tuyệt đối có thể khác nhau, nhưng nội tâm cảm thấy thế nào (tâm thái) th́ phải tương tự.
Du nhập điều kiện chẳng qua là tùy người, sự, vật đặc thù mà quan sát, phân tích, so sánh; hy vọng từ đó suy ra sự phát triển hỗ tương (giữa các yếu tố). Nói rộng hơn chút là hy vọng dùng lá số của ḿnh để đoán ra trạng thái của đối phương mà thôi.
Các sao trong lá số đă định th́ có thể đoán các vận tốt xấu thế nào. Người có kết cấu thế này th́ dễ xảy ra diễn biến thế kia; việc này khi phát sinh th́ dễ có kết cục như thế kia v.v… Bởi vậy người luận mệnh theo cách truyền thống không du nhập thêm dữ kiện mà vẫn thường đoán ra hoàn cảnh của bạn.
Về việc luận hạn không đúng, thường tùy thuộc kinh nghiệm tu dưỡng của người đoán. Như người không tiêu hóa cái cũ, không uyển chuyển biến thông th́ nhất định đoán không đúng; người biết phân tích khách quan, chịu vận dụng các điều kiện được du nhập để quan sát th́ có thể tăng độ chính xác; nhưng đừng nghĩ đến việc chính xác trăm phần trăm v́ khi xét đại hoàn cảnh của con người th́ xă hội hôm nay phức tạp hơn hẳn ngày xưa, chỉ qua một đêm đảng cộng sản giải thể (dgc: Sách này in năm 1994, nhiều đảng cộng sản Đông Âu giải thể năm 1989, có lẽ đây ám chỉ việc ấy), qua một đêm sẽ c̣n chuyện lớn nào xảy ra nữa? Khó mà dự liệu. Độ chính xác con người có thể đạt tới khó mà biết được.
Hóa Lộc tăng độ tự tin và khả năng phán đoán của ta. Hóa Kị khiến ta ḷng động tâm biến, thậm chí tạo hành vi sai lầm. Nh́n từ một góc độ khác hóa Lộc là “động năng” có ích cho thực tế mưu danh cầu lợi, hóa Kị là “tĩnh năng” (dịch giả chú: Ở đây soạn giả dùng chữ “vị năng”, vị đây là vị trí, ư nghĩa chính xác nhưng tiếng Việt dễ bị hiểu lầm, bởi vậy dịch giả mạn phép đổi thành “tĩnh năng”, tĩnh đây phản lại nghĩa động, thiếu chính xác hơn so với “vị năng” nhưng khó hiểu lầm hơn) thích hợp cho việc tiềm ẩn tích lũy, lợi cho việc phản tỉnh, kiểm thảo, tập luyện. Hóa Lộc th́ phải phát huy tinh lực, xung kích đạt mục tiêu; hóa Kị th́ phải suy tư, lo nghĩ, cẩn thận trong công việc. Như thế Lộc Kị đều là đời sống con người, có ǵ phải sợ? Sợ chăng không biết tiến thối mà thôi!
Hệ thống giáo dục của chúng ta dạy chúng ta phải “hóa Lộc” như thế nào, nhưng ít nói đến khi “hóa Kị” phải cư thể nào cho đúng; có nói chúng ta phải cắn răng cố vượt qua khổ ải, đừng táng tâm thối chí, không thành công th́ thành nhân v.v… Đời người chỉ là tranh chức quán quân hay chăng? Quán quân chỉ có một người, cũng chẳng có “thường thắng tướng quân” (ông tướng thắng hoài), vậy những người c̣n lại chẳng có tiền đồ hay sao? Học mệnh lư phải nh́n rộng, ḷng cũng phải mở rộng, tâm phải có sự thiện, bằng không càng học càng phiền, càng không thoải mái; chẳng bằng không học biết ǵ về mệnh lư.
Nói lan man vậy quá đủ. Chúng ta hăy trở lại với liên hệ hỗ tương giữa cô Dương và ông M.
Ông M sinh năm Mậu Tí, thành ra Lộc (Tham) chiếu hai cung phu nguyên thủy và hậu thiên (của cô Dương), lại tam hợp lưu niên, cho nên cô Dưong dễ động ḷng v́ cái t́nh của đối phương. Từ cung Tí là cung trọng điểm của ông M mà xét thấy có Âm Hỏa Kị thành cách “thập ác”, nhưng cung Tuất lại có Lộc (Cơ) Quyền (Lương) nguyên thủy của cô Dương, ư là ông M cùng cô Dưong có t́nh không duyên, lâu rồi cô Dương sẽ bỏ ông, nhưng v́ lưu niên dẫn động quá mạnh, đại vận phu lại có kết cấu như thế mới tạo thành mối t́nh lẽ ra không nên có như vậy.
Bất luân dùng lưu niên hoặc thái tuế nhập quái, cung thê của ông M đều hiển nhiên có vấn đề to. Lưu niên thê ở Mùi tựa hồ là vị trí đa t́nh và bất ổn; c̣n Tuất th́ có Kị (Cơ) nguyên thủy của ông M, lại thành cách cô khắc “Cơ Lương Ḱnh”. Ông M năm ấy 37 tuổi, có gia đ́nh rồi mới phải, nhưng vẫn độc thân (Ḱnh của ông M ở Ngọ cũng chiếu vào Tuất).
Năm Giáp Tí 1984 cô Dương có thai, chuẩn bị lấy ông M th́ phát hiện ông M bề ngoài văn nhă mà thực ra có đi lại với băng đảng, vả tính t́nh bất định, ở càng lâu càng chịu không nổi, không biết thời khắc tới là vui hay giận. Trong cảnh bạn với người như bạn với hổ đó, cô quyết định bỏ đi, bạn thử đoán xem tại sao?
Lưu niên tam kỳ gia hội (Liêm Phá Vũ) tái cát hóa Hợi và Dậu; nhưng Nhật kỵ dẫn động Âm Kị xung Tí, lại khiến Mùi thành song Kị giáp Kị. Mùi đại biểu ǵ? Lại xung Sửu có ư nghĩa ǵ? Xin độc giả suy nghĩ. Chẳng phải là người viết “bán cái” mà là để quí vị tự xem ḿnh đă luyện đến đâu.
Năm Ất Sửu Lộc Quyền ở bản mệnh tử và lưu niên tử, nhưng đại hạn tử không tốt. Cô Dương sinh hai trai, trao cho người khác nuôi nấng.
Hạn Canh Th́n (36-45 tuổi)
Đại hạn VCD có Ḱnh Hỏa không khỏi lao khổ. Được Nhật hạn Lộc và Cơ nguyên Lộc chiếu nên (thành quả) tốt. Hai Lộc này giáp Dậu nên sự phát triển của hạn này dựa trên cái nền có sẵn của hạn Kỷ Măo (dịch giả chú: Ấy bởi v́ song Lộc ứng với cái tốt của hạn Th́n lại làm lợi Dậu, mà Măo tức đại hạn trước xung Dậu, nên cái tốt của hạn này có liên hệ với hạn trước, tức là những liên hê của hạn cũ có biến chuyển tốt đẹp trong hạn này).
Hạn quan của cô Dưong 20 năm tọa Lộc là cơ hội tốt, sự nghiệp phải có một thành tựu nào đó. Nhưng hạn Kỷ Măo Lộc Kỵ cùng thủ tạo nhiều cách ác thành thử khó ổn định. Hạn Canh Th́n tốt hơn, dù có sát tinh nhưng chỉ có Lộc không gặp Kỵ trở ngại tương đối ít. Thế nhưng muốn việc suôn sẻ từ đầu đến cuối e chẳng dễ dàng; rốt ráo th́ v́ nguyên mệnh và hạn mệnh đều vô chính diệu khó tránh ảnh hưởng của hoàn cảnh, phải đổi thay cho phù hợp khó mà giữ được lập trường, phương hướng.
Hạn phu ở Dần VCD Đà La Địa Kiếp thủ là vị trí bất ổn. Tam phương tuy được song Lộc chiếu nhưng cũng bị song Kị ở hạn phúc chiếu (chú: Âm Kị nguyên thủy và Đồng hạn Kị); vậy là Lộc phùng xung phá, không tốt.
Nếu coi cung Dần (hạn phu) là đối tượng, th́ cung thê của đối tượng ở Tí VCD lại bị Hỏa Âm (thập ác) và Ḱnh Âm (nhân li tài tán) chiếu. Cô Dương có nhiều cơ hội được người theo đuổi, chỉ là những người ấy cảm t́nh có vấn đê.
Năm Tân Mùi cô Dương 37 tuổi, lưu niên ở di nguyên thủy, cách cục to, nhưng Xương lưu Kị thủ, cô Dương có xác xuất cao hành xử sai lầm.
Bản mênh phu có cách ác Xương Tham chiếu, nội tâm đối với hôn nhân có khuynh hướng làm trái lẽ thường, tuy không nhất định kết hôn nhưng có thể dính líu đến một đoạn “kỳ t́nh”.
Đại vận phu đắc 3 Lộc hội chiếu, tăng độ ổn định rất nhiều, nhưng cung VCD rốt ráo vẫn là VCD, có mối nguy ch́m nổi bất thường.
Lưu phu có Thiên Phủ là một sao ổn định, ngưởi gặp điều kiện có lẽ chẳng dở (cung quan Dậu có hai Lộc giáp phù), cung phu Măo bị Ḱnh Đà giáp chế (cho nên) cẩn thận trong việc hôn nhân, nhưng gặp Xương Kị (cho nên) năm ấy cảm t́nh, hôn nhân có vấn đề.
Ông R sinh năm Kỷ Măo 1939, hơn cô Dương 16 tuổi, mệnh Lôc (Vũ) và Kỵ (Khúc) đều ở lưu niên mệnh (Mùi) cũng là cung thân của cô Dương, lại chiếu tiên thiên phu (ở Hợi) nên năm Tân Mùi cô Dương cảm sự chiếu cố của ông R.
Măo là cung trọng điểm của ông R, hai cung giáp đều VCD. Nhật Lộc (hạn Canh) xung đến Dần, Cơ Lộc (mệnh Ất) xung đến Th́n, khiến Măo được tính ổn định của song Lộc giáp, chỉ là ảnh hưởng tương đối nhỏ (chú: v́ đều do xung cả). Cô Dương ắt có ấn tượng tốt với ông R, và có một loại duyên phận khó diễn tả thành lời được.
Sửu ứng cung thê của ông R, chính là bị cách Linh Xương Đà Vũ, quan hệ giữa cô Dương và ông R. có tính “đảo điên”, lẽ ra không nên có lại có (chú: V́ cách Xương Tham, Khúc Tham là “li chính vị nhi đảo điên”). Ông R. sự nghiệp đă thành, vợ con đều đă di cư ra nước ngoài chỉ c̣n ḿnh ông trong nước, mới có cơ hội trồng nhân cho đoạn t́nh này.
Cô Dương và ông R tương lai phát triển thế nào?
Nếu xét đại vận phu th́ Tân Tị, Nhâm Ngọ hai hạn Lộc đều chiếu đến Dần (chú: Cự hóa Lộc và Lương hóa Lộc), tựa hồ t́nh chưa hết; nếu xét Sửu (chú: coi là cung thê của ông R sinh năm Măo) th́ ba vận sau Kị đều chiếu cả, tựa hồ t́nh đă dứt; vậy giải thích làm sao?
Cô Dương không thể thành vợ của ông R, nhưng liên hệ giữa hai người có thể tiếp tục phát triển, chỉ là từ hạn Tân Tị trở đi th́ t́nh cảm cô Dương dành cho ông R càng lúc càng nhạt đi. Nhanh th́ năm Bính Tí (42 tuổi ta) Liêm Kị nhập Măo t́nh cảm phai mờ, chậm th́ năm Nhâm Ngọ (48 tuổi ta) v́ Vũ Kị xung kích Măo.
Các hạn về sau:
Ba hạn Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Quư Mùi Kỵ đều ở Mùi, phá hoại mệnh, thân và ảnh hưởng tiên thiên phu, khiến cô Dương tâm t́nh khó ổn định, chuyện muốn kết hôn khó xảy ra, mà nếu kết hôn th́ chẳng tốt đẹp được.
Ngoài ra cô Dương hạn Canh Th́n, Tân Tị phúc đức đều hóa Kị, thành các cách ác Âm Hỏa, Linh Xương Đà Vũ v.v… ngoài cái lo mất tiền ra, trạng thái tâm lư cũng cần đề pḥng, nhất là hạn Tân Tị (dịch giả chú: V́ phúc ở Mùi cách cục rất rơ nét).
Lời kết:
Cô Dương cảm t́nh không thuận lợi, có thể cả đời không thành hôn, nguyên nhân có thể quy về:
Một: Mệnh vô chính diệu, hai cung giáp cũng vô chính diệu, hội họp có nhiều cách ác; khiến cá tính bất an, hành sự thiếu chín chắn, phán đoán dễ sai lầm.
Hai: Tiên thiên phu sao quá cương, lại vào cách cô quân, trừ tiêu chuẩn cảm t́nh quá cao, xử lư t́nh cảm quá cương nghị, thiếu cái dịu dàng của nữ giới. (Nhưng) cũng có thể v́ đó mà phù hợp với sinh hoạt cảm t́nh độc lập như vậy.
Ba: Các hạn trong tuổi thích hợp thành hôn cung phu đều bị Kị xâm phạm, gây trở ngại trong cảm t́nh, không dễ gặp đối tượng tốt, lại là cung VCD thiếu ổn định.
Hạn Mậu Dần, Tí VCD bị tiên thiên Kị xung, thành cách Âm Hỏa.
Hạn Kỉ Măo, Sửu VCD bị Khúc Kị xung, thành cách Linh Xương Đà Vũ.
Hạn Canh Th́n, Dần VCD bị song Kị (Âm nguyên Kị, Đồng hạn Kị) chiếu.
Rồi đến hạn Tân Tị lại bị Xương Kị; rơ là bị Liên Kị nên trên đường t́nh ái bị cảnh gập ghềnh khó đi.
Ngoài ra bốn vận Kỷ Sửu, Mậu Dần, Kỷ Măo, Canh Th́n Lộc hoặc Quyền đều ở tiên thiên di khiến cô Dương hiếu thắng, đ̣i tranh đấu với số mệnh.
Tóm lại, lá số như cô Dương một đời nhiều xung động biến hóa, chuyện ǵ sẽ xảy ra chẳng dự liệu được nhưng chẳng đáng ngạc nhiên.
__________________ Xin lỗi: Không nhận và không đọc PM
|