Tác giả |
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 201 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:06pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHẬN DIỆN MA ÁM
Các bạn thân mến.
Tôi viết bài này với mục đích tŕnh bày một sự thật đau ḷng đă và đang xảy đến cho gia đ́nh tôi, và mong bạn đọc nếu có thể được, th́ phổ biến tin tức này cho người thân quen dùm, để tránh những đau thương tuơng tự có thể xảy đến cho người khác.
Tôi không mong mỏi bạn tin tưởng một phần, hay hoàn toàn vào những điều tôi viết sau đây, v́ những điều này quả thật khó tin. Tôi cũng không có đủ khả năng, thời gian và công sức để dấn thân vào một cuộc tranh luận, về những điều tôi viết là sự thật hay mê tín, là một vấn đề về thuộc bệnh tâm thần, chứ chẳng phải vấn đề tâm linh.
Tôi chỉ là một người băn khoăn với sự an nguy, của hai đứa em gái thân yêu trong gia đ́nh, hiện đang phải đối phó với những kẻ thù ma mănh, có hồn mà chẳng có thân xác, đang chiếm ngự thân xác của hai em.
Tôi cũng rất quan tâm đến sự an nguy của những người có thể là nạn nhân tương lai, của việc học nhân điện khoa tự động, mà đánh liều viết bài này với tất cả tâm thành.
Tôi cố gắng tŕnh bày chuyện đă xảy ra trong gia đ́nh, hy vọng bạn đọc qua kinh nghiệm đau thương của gia đ́nh tôi, mà không bước vào vết xe đổ này nữa. Những chuyện tôi viết sau đây là chuyện thật sự xảy ra, không một lời thêm bớt theo trí hiểu biết hạn hẹp của tôi.
Khoảng đầu tháng tư năm 2007, qua lời giới thiệu của một người cháu ruột, hai em gái của tôi tạm gọi là em An và em B́nh, đă đến thọ giáo với thầy Mai viết Nhự, địa chỉ 151/31 C khu phố hai Phường Tam Ḥa, Biên Ḥa tỉnh Đồng Nai, điện thọai 061-3811-956.
Thầy Nhự dạy học tṛ môn Nhân Điện Khoa Tự Đông, thầy không có tính tiền học phí ǵ cả. Thầy chỉ dạy học tṛ trong sáu ngày, chứ không như các môn phái nhân điện khác, thường phải mất nhiều thời gian hơn có thể đến sáu tháng.
Khi đến học thầy sẽ để tay lên đầu lên trán, để mở luân xa số bảy và số sáu, bằng nhân điện của chính thầy. Thầy cũng mở những luân xa năm, bốn, ba, hai và một, bằng cách để tay lên vị trí những luân xa này trên sống lưng.
Quư vị có thể t́m hiểu thêm về những luân xa này qua quyển Journey to the East, của giáo sư Spalding. Bản dịch rất hay của Nguyên Phong là Hành Tŕnh Về Phương Đông, chương chín nói về Cơi Giới Vô H́nh. Thầy Hằng Trường cũng có giảng về những luân xa này, trong số các băng giảng của thầy mà tôi không nhớ được tên.
Luân xa số sáu và số bảy là cửa ngơ để thể xác của con người, có thể tiếp xúc được với thế giới tâm linh và cơi giới vô h́nh, mà ḿnh không thấy được. Theo tôi hiểu đó cũng là cánh cửa bảo vệ những người đang sống trong thế giới này, khỏi phải tiếp xúc với những hồn ma bóng quế, của thế giới những người đă chết.
Trong trường hợp em B́nh của tôi, chỉ năm phút sau khi thầy Nhự dùng nhân điện của thầy để mở luân xa cho em, B́nh rùng ḿnh một cái rồi hai tay B́nh tự động chắp lại, không hề theo sự điều khiển của B́nh, vái lạy tứ phương và B́nh có thể quay người dẻo dai như người lên đồng, múa lên những động tác mà B́nh một người thường bị đau lưng kinh niên, không bao giờ có thể làm được.
Bệnh đau lưng mệt mỏi trong B́nh do đi làm vất vả, lại thêm cuộc hành tŕnh xuống nhà thầy Nhự từ Saigon trên cái xe không êm ái, trên đoạn đường kẹt xe như nêm như cối thốt nhiên biến sạch. C̣n em An, th́ sau bốn ngày tập luyện, sang đến ngày thứ năm th́ em cũng thấy tự nhiên hai tay em chắp lại, vái lạy tứ phương rồi đi vào những điệu múa mà dù em đang tỉnh táo 100% vẫn không sao chủ động ngừng lại được.
Cần nhắc lại là em An của tôi đă bị mổ gai cột sống vài tháng trước và hai tay đang bị hiện tượng như Carpel Tunnel Syndrome và Tennis Elbow, không cử động được hai bàn tay và hai cổ tay, đau nhức dần lan tới hai vai, bác sĩ Tây Y đă đề nghị phải mổ cả hai tay rồi.
Với nhân điện học được, cả hai em gái tôi tuy mới đầu cùng cảm thấy lạnh tóc gáy, sởn gai ốc v́ việc vái lạy tự động cùng các động tác siêu nhiên mà hai em không làm chủ được, nhưng vẫn đủ sáng suốt để tự quan sát những động tác quái lạ này, vẫn cảm thấy rất hài ḷng với những kết quả y học thần kỳ trên cơ thể của hai em.
Hai em rất vui vẻ sung sướng nghe lời thầy Nhự dạy bảo là, khi muốn chữa bệnh cho ḿnh hoặc người khác là chỉ cần kêu "sáu, bảy hăy chữa bệnh này đi!" là luân xa sáu và bảy sẽ làm đúng y như vậy.
Em An c̣n hân hoan khoe với tôi qua điện thọai là sáu, bảy của em rất giỏi, có một hôm em sơ ư bị một hộp thịt đă mở cắt đứt tay rất sâu, máu chảy dầm dề. Em bèn kêu sáu, bảy cầm máu lại, là máu ngưng chảy liền.
Em kể cho tôi nghe rất hăng hái, khuyên tôi nên về Việt Nam để đi học nhân điện ở thầy Nhự, để chữa bệnh tiểu đường vốn đă làm bạn đồng hành với tôi từ lâu năm.
Thú thật với các bạn tôi nghe những thông tin này, mà chỉ cười thầm là sao hai em tôi có ăn học tử tế, là những người tốt nghiệp đại học hoặc tương đương, rất thành công trong công ăn việc làm với chủ nhân, là những công ty nước ngoài, lại có thể nói những chuyện không tưởng như thế này.
Nhưng tôi biết cả hai em tôi là những người rất thẳng thắn, không nói trăng nói cuội, không mê tín dị đoan, do đó tôi không bài bác ǵ cả, chỉ im lặng lắng nghe và nghĩ thầm "Muốn chữa bệnh hoạn th́ phải thay đổi lối sống của ḿnh, phải ăn đồ ăn tốt, nhiều rau cỏ bớt thịt đỏ mỡ màng, tập thể dục đều đặn, đi bác sĩ khám định kỳ, chứ sao lại có cái vụ Nhân Điện Khoa Tự Động, cứ như chuyện Liêu Trai Chí Dị thế này!"
Bẵng đi đến khoảng cuối tháng sáu năm 2007, em trai tôi ở Saigon bỗng gởi email cho cả đại gia đ́nh bên Mỹ rằng, em An và em B́nh nay đă phát hiện ra rằng sáu, bảy của hai em, thực chất ra là hai hồn ma vất vưởng vốn đă chết từ mấy chục năm nay, qua sự mở luân xa sáu, bảy của thầy Nhự, mà xâm nhập thân thể của hai em, và đang mở chiến dịch chiếm hữu đầu óc, rồi dần dần thân xác của hai em.
Em B́nh hiện đang rất vất vả đối phó với con ma trong em, c̣n con ma trong An th́ êm ả hơn nhưng dùng chiến dịch nói ngọt như mía lùi, để chiếm hữu ḷng tin của em An.
Đọc thơ em trai mà tôi ngỡ như trong mơ. Ông xă và tôi lập tức xin nghỉ phép ở sở, và mua vé về Việt Nam để xem t́nh h́nh thế nào. Trong lúc chờ đợi visa và vé máy bay, tôi vào internet và đọc tất cả các tài liệu hoặc nghe băng giảng của các thầy Hằng Trường về Thân Trung Hữu, thầy Nhật Từ về Quyết Nghi về Ngọai Cảm và Cơi Âm.
Cận Tử Nghiệp của thầy Tâm Thiện, những bài nói chuyện của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, sách Hành Tŕnh Về Phương Đông của Nguyên Phong dịch từ cuốn Journey To The East như đă nói ở phần trên.
Sau này về tới Saigon tôi đọc thêm sách Hiệu Ứng Sinh Học của Kỹ Sư Đỗ Thanh Hải, tôi xin lỗi không nhớ rơ tên lót của Kỹ Sư Hải, một kỹ sư tài ba và dồi dào kiến thức về vấn đề này, sách con Người Thoát Thai Từ Đâu của một nhà khoa học Nga tôi không nhớ tên.. để t́m hiểu về thế giới của những nguời đă khuất và hồn ma bóng quế là ǵ.
Theo những ǵ tôi góp nhặt được từ những nguồn tài liệu vừa nêu, th́ con người chúng ta được câu tạo bởi phần xác, physical body hay khung cộng hưởng sinh học theo chữ dùng của Kỹ Sư Hải và phần hồn mind sóng sinh học theo Kỹ Sư Hải. Khi chúng ta chết đi th́ chỉ có phần xác tan ră thôi, nhưng phần sóng sinh học vẫn c̣n hiện diện dưới dạng các sóng năng lượng.
Với những người khi chết đi với tấm ḷng thanh thản, không có ǵ nuối tiếc lưu luyến với cơi trần vừa tạm sống, các sóng sinh học của người mới chết sẽ dễ dàng siêu thoát để đi đầu thai kiếp khác, hay lên cơi thiên Đàng, cơi Trời nào đó.
C̣n những người chết oan ức, chết bất đắc kỳ tử, chết trong đau đớn hay lo sợ, trong tiếc nuối về những công chuyện c̣n dở dang trên trần thế th́ sóng sinh học của họ sẽ không bay cao được mà cứ là là trên mặt đất, thành những hồn ma vất vưởng lang thang, thân xác đă mất mà ḷng ham muốn, tham sân si, ngă, mạn vẫn c̣n đó.
Cho đến khi các sóng sinh học hay vong linh này hiểu ra rằng ḿnh đă chết, và tất cả các mong muốn trần tục của ḿnh chỉ là không, th́ họ sẽ bay cao lên các tầng trên, để trở lại đầu thai cho kiếp mới.
Thế nhưng cũng có những vong linh dù đă chết hàng trăm năm, hay vài chục thế kỷ vẫn không giác ngộ được lư vô thường của cuộc đời, lại muốn t́m đuờng tắt mà đi, bèn t́m cách nhập vào thân xác của những người c̣n sống đă bị mở luân xa sáu, bảy như hai cô em của tôi.
Hoặc có vong linh có sóng sinh học cộng hưởng với sóng sinh học của người c̣n sống, th́ sẽ nhập vào thân xác của những người này, và t́m cách chiếm hữu trí năo của người bị xâm nhập trước, rồi từ đó sẽ sai khiến các hành động của người này theo ư của vong linh.
Các vong linh này là ma ác, rất khó giác ngộ và người bị xâm nhập sẽ rất vất vả để đánh đuổi quân xâm lược này ra khỏi cơ thể của họ. Các vong linh có tính khí hệt như tính khí của họ lúc c̣n sống, dù đă chết cách đây bao nhiêu năm.
Đa số các vong linh th́ hiền lành hơn, không hề có ư định xâm nhập cơ thể của bất kỳ ai. Cũng có những vong linh, nếu có xâm nhập một cơ thể người sống nào, th́ cũng chỉ ở tạm trong một thời gian rất ngắn để nhờ người này giúp ḿnh hoàn thành tâm nguyện, mà vong linh đă không hoàn thành được khi c̣n sống, rồi vui vẻ ra đi khi tâm nguyện đă thành.
Khi về Saigon tôi quan sát cả hai cô em, và hiểu rơ ràng rằng mỗi em đă bị một hồn ma xâm nhập. Trong môi trường làm việc bên Mỹ của tôi, tôi cũng đă có dịp tiếp xúc với một số bệnh nhân có bệnh tâm thần, do đó đây là điều tôi để ư trước khi làm việc với hai em của tôi, để xem coi hai em có bị chứng Disassociative Identity Disorder (formerly Multiple Personality Disorder) dường như dịch sang tiếng Việt là bệnh tâm thần phân liệt dạng hoang tưởng hay sao đó?
Một trong những criteria của bệnh này theo DSM IV (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders Fourth Edition) là bệnh nhân không nhớ được những ǵ ḿnh đă làm, khi nhân cách thứ hai chiếm hữu thần trí và cơ thể họ.
Thí dụ chị Jane có hai nhân cách trong người chị, mà thường xuất hiện nhiều lần:
Một là chị Jane hiền lành nhút nhát không thích đi shopping, và nhân cách thứ hai là anh John th́ rất ư là kiêu ngạo, thích sắm đồ thể thao.
Khi John xuất hiện trong thể xác của chị Jane, th́ John đi Big 5 sắm nào là quần áo bơi, kiếng lặn, ống lặn... Đến khi chị Jane trở lại làm chủ bản thân của chị th́ chị cứ ngẩn ngơ ra, không thể hiểu tại sao tự nhiên trong nhà ḿnh lại có mấy cái đồ mua từ Big 5 như vậy.
Cá nhân chị Jane thường xuyên bị những lúc quên đi, không nhớ nổi những chuyện ḿnh đă làm, khi hành động với nhân cách thứ hai của ḿnh (Inability to recall important personal information that is too extensive to be explained by ordinary forgetfulness).
Trường hợp của hai em tôi th́ khác hẳn, cả hai đều biết rất rơ ḿnh là ai, không hề bị lẫn lộn nhân cách ngay cả khi người âm trong hai em, nói chuyện với hai em bằng tư tưởng.
Xin nói rơ hơn là nguời âm trong hai em tôi, không hề lên tiếng nói được trong đầu (no voice), mà họ chỉ gởi tư tưởng chạy trong đầu như kiểu email, tôi gọi là E thoughts (electrical thoughts) cho hai em hiểu, con ma trong em B́nh thi rất lắm mồm, nói huyên thuyên suốt ngày toàn chuyện hắn ta và gia đ́nh bị giết như thế nào ở Cambodia, trong thời kỳ Khmer Đỏ 1975 và cũng dùng những ngôn ngữ thô tục để sách nhiễu em B́nh.
Em B́nh rất cương quyết chống đối lại những sách nhiễu này, và cương quyết không tham dự vào bất cứ cuộc nói chuyện nào của con ma trong em.
Do đó hắn ta rất giận dữ và thường phản ứng lại bằng cách, gởi những luồng điện mạnh vào khoảng 1.5 volt, để châm chích vào những huyệt đạo trong người em B́nh, để tạo những cảm giác nhức nhối như bị kiến cắn trong ṿng 1/2 tới một giây đồng hồ.
Sau đó hắn ta cũng hết điện phải recharge lại khoảng vài giờ sau, mới có thể tấn công tiếp. Qua thông tin của hắn, em B́nh kể lại cho tôi biết rằng, con ma này bị bè lũ PonPot bắn chết hoặc cắt cổ chết, hắn không nhớ rơ được hắn chết như thế nào, v́ có lẽ quá kinh hoàng khi bị giết năm 1975, khi mới hai mươi bốn tuổi, cùng với người vợ khi đó đang có thai bốn tháng.
Trong ba mươi hai năm qua, hắn đă nhập vào bảy nguời, trong đó em B́nh tôi là nạn nhân thứ bảy. Chúng tôi đă nhờ nhiều sư tăng, ni sư và cả một cha bên Công giáo nói chuyện với hắn bằng bút đàm, để khuyên nhủ và hỏi xem chúng tôi có thể làm ǵ để giúp hắn siêu thoát.
Thoạt đầu hắn c̣n đóng vai tṛ tử tế nào xin lễ cầu siêu ở chùa, rồi lễ rửa tội ở nhà thờ. Chúng tôi đă thực hiện đầy đủ các yêu cầu này cho hắn, th́ cuối cùng hắn tuyên bố là hắn chỉ đ̣i hỏi thế để câu giờ mà thôi, chứ hắn hoàn toàn không có ư định nào để xuất ra khỏi người em B́nh cả.
Hiện nay chúng tôi đang nhờ chị Khánh theo Công giáo ở Houston Texas, hàng đêm gọi điện thọai trừ tà qua phone, theo lời giới thiệu của một vị linh mục khả kính chuyên lo việc trừ tà. Linh mục này tên là T. Cha T. sống và làm việc ở một nhà thờ Việt Nam
nhưng cha hiện đang công tác dài ngày bên Mỹ.
Khi chúng tôi liên lạc được với cha để nhờ giúp đỡ, th́ cha giới thiệu chị Khánh sẽ giúp em B́nh hàng đêm qua phone. Thực t́nh khi nghe cha T. nói như thế, tôi rất thất vọng và lẩm bẩm làm sao mà có thể trừ tà qua phone được, nghe cứ như chuyện hoang đường. Ấy thế mà lại là sự thực đấy các bạn ạ.
Chị Khánh đă giúp em B́nh qua phone bằng cầu nguyện, đọc kinh Tân Ước, xức dầu thánh, uống nuớc thánh và con ma trong B́nh ngày càng yếu dần đi, đến độ không thể gởi E thoughts cùng như năng lượng của hắn, cũng như số lần châm chích em B́nh ngày càng giảm dần đi.
Chị Khánh tin tuởng rằng em B́nh sẽ đánh bật kẻ xâm lược, ra khỏi cơ thể em trong một thời gian ngắn, hy vọng thời gian chữa trị không quá hai mươi ngày. Chị Khánh cũng cho tôi biết rằng thời gian vừa qua, có một số nữ tu công giáo từ Mỹ về Việt Nam, cũng đến học nhân điện với thầy Nhự ở Biên Ḥa.
Khi về tới Mỹ tất cả các nữ tu này đều có hiện tượng ma nhập, từ chối vào giáo đường, la hét ói mửa khi đọc kinh hoặc lên cơn động kinh, múa may những động tác supernatural trong nhà thờ. Cha T. Chị Khánh và một người nữa, có khả năng trừ tà đă và đang giúp số nữ tu này b́nh phục trở lại.
Do đó chi Khánh có rất nhiều kinh nghiệm đối phó với những hồn ma, không hiểu vô t́nh hay cố ư mà thầy Nhự đă tạo cơ hội cho những hồn ma này, nhập vào các nạn nhân ngây thơ đến nộp ḿnh cho quỷ, mà lúc đầu các nạn nhân này tưởng rằng chỉ đi học nhân điện, để mong tự trị bịnh cho ḿnh.
Xin Chúa ban phuớc lành cho những người như chị Khánh. Chúng tôi rất cảm kích trước sự giúp đỡ nhiệt thành của chi Khánh và cha T.
Về phần em An th́ chúng tôi có khó khăn hơn nhiều so với em B́nh. Lư do là con ma nhập vào em An tự xưng là một vong nữ có tên rất đẹp, tôi không tiện nêu lên ở đây. Con ma này nói rằng cô ta sinh năm 1901 là con một của một gia đ́nh gốc Việt giàu có bên Cam Bốt.
Cô ta là nữ sinh trường Marie Curie, nói tiếng Pháp rất giỏi. Thuở sinh tiền cô thuộc loại con gái nhà giàu hư hỏng, dùng tiền cha mẹ ăn chơi nhảy đầm trác táng, cuối cùng chết v́ bịnh hen suyễn hay ho lao năm 1943, trong sự tiếc thương của cha mẹ cô.
Cô ta nói chuyện hết sức ngọt ngào, rất nịnh hót em An của tôi, nào là em An tử tế tốt bụng, nào là các con của em thông minh học giỏi ngoan ngơan, lại hết sức chăm sóc sức khoẻ cho em An mỗi khi trái nắng trở trời.
Khi tôi về Saigon cô ta cũng dùng bút đàm khen tôi nào là hay là tốt đủ kiểu. Cô ta ngọt ngào đến nỗi em rể của tôi chồng của An, cũng thấy rằng sự hiện diện của cô trong em An, chỉ là điều tốt cho gia đ́nh v́ sức khoẻ của An rơ ràng được cải thiện.
Rất khó cho tôi để thuyết phục em An, là em đang bị con ma nữ này dùng chiến thuật mật ngọt chết ruồi, để dần dần chiếm trọn đầu óc An, rồi một ngày nào đó các con của An, sẽ chỉ có cái xác là mẹ An mà hồn và hành động sẽ là của con ma ấy.
Mỗi lần nói chuyện này với em An là em lại nổi nóng lênn cho rằng em hoàn toàn làm chủ thân xác và ư tưởng của em, c̣n con ma th́ hiền lành giống như một bà tiên vậy. Nh́n em và nghe em nói như thế, tôi chỉ âm thầm khóc và lo sợ mà chả biết làm ǵ, khi cả gia đ́nh riêng của em tôi, không hề coi đó là chuyện quan trọng.
Em An rất thương và lo lắng cho em B́nh, trong việc đánh đuổi kẻ xâm lược trong B́nh, nhưng chưa hề có ư định nào, để đánh đuổi cái vong nữ trong người của chính em An cả.
Phước nhà c̣n dày cho nên vào khoảng đêm thứ bốn, sau khi chị Khánh từ Texas bắt đầu giúp em B́nh đánh đuổi tà ma trong người em, chị Khánh than phiền với gia đ́nh tôi là tại sao qua phone, chị đă đánh con ma trong B́nh tơi tả, và nó đang yếu đi rơ ràng, th́ tự nhiên lại có một sức mạnh ngoại nhập ở đâu giúp con ma trong B́nh mạnh trở lại.
Chúng tôi bèn dùng phương pháp loại suy xem những người nào hiện diện với em B́nh, khi em đang nhận điện thọai từ chi Khánh. Chúng tôi phát hiện ra rằng, khi con ma trong B́nh kêu rên khóc lóc, tức là em B́nh kêu khóc một chút xíu, rồi em B́nh lại trở lại là em B́nh 100%
Tức th́ em An lại lo đấm bóp cho B́nh một cách không b́nh thường như kiểu ma nhập, tức là mặt An hơi dại đi, tay chân dẻo quẹo xoa bóp cho B́nh.
Lúc đó tôi có bảo sao An lại làm vậy, th́ em trả lời là sáu, bảy của em ghét con ma trong B́nh lắm, và muốn xoa bóp giúp B́nh đỡ mệt.
Chúng tôi có ngờ đâu là con ma nữ này đang truyền nhân điện giúp con ma trong B́nh hồi phục lại.
Khi nghe chi Khánh than phiền, tôi bèn nói An không được phép ở trong pḥng B́nh và đụng chạm vào nguời B́nh nữa.
Em An bực ḿnh bèn hạch hỏi con ma nữ trong em. Con ma này bèn viết một lá thư dài hai trang giấy xin lỗi cả gia đ́nh tôi, là quả thật nó có giúp đỡ con ma trong B́nh, v́ thấy con ma này bị chị Khánh đánh tả tơi, nó cầm ḷng không đậu nên ra tay tiếp thêm nội lực cho nó.
Con ma nữ xin lỗi cả nhà tôi đặc biệt là với tôi, v́ nó nói tôi vẫn đối xử với nó lich sự lắm, không ngờ nó lại làm tôi thất vọng như vậy. Nó cũng hứa là sẽ xuất khỏi An nếu chúng tôi đưa nó lên tịnh xá Linh Quang ở 40/60 Nguyễn Khoái, Quận bốn Saigon để nó xuất gia đầu Phật vào thứ Bảy July 28, 2007 hai ngày sau đó.
Em trai tôi cho biết là trước đó, con ma nữ này cũng đă hứa nhăng hứa cuội nhiều lần, là đưa nó lên chùa này chùa nọ để nó xuất ra, mà lần nào cùng chỉ toàn dối trá.
Nhưng vấn đề là em An của tôi vẫn một mực tin yêu và cho rằng con ma này có tâm hồn nhân hậu, chỉ một phút yếu ḷng mà giúp đỡ con ma trong B́nh thôi.
Tôi bèn nhân cơ hội này bảo với em An rằng, thôi được rồi, tôi tin lời hứa của con ma, tôi vẫn tiếp tục đối xử tử tế với nó, sẽ tha thứ lỗi lầm của nó nếu như nó giữ đúng lời hứa là sẽ ra đi vào thứ Bảy July 28.
Riêng bản thân tôi, tôi hứa sẽ trọn đời cầu nguyện cho linh hồn của cô ta hàng đêm, sau khi cô ta thực hiện lời hứa của cô. Nhưng nếu đến thứ Bảy đó, sau khi ḿnh đă làm đủ theo yêu câu của cô ta, mà cô ta cũng không đi, th́ em An phải quyết tâm đánh đuổi con ma ra và cắt đứt mọi liên lạc với nó.
Em An bằng ḷng như thế với tôi. C̣n con ma cũng ra vẻ rất nhiệt t́nh và rất cảm động truớc lời hứa này.
Hai ngày sa, tôi đua em An lên chùa Linh Quang. Chúng tôi đến từ lúc 10g30 sáng, dự lễ cầu an cho người sống tới 11 giờ rồi ăn cơm chay tại chùa.
Rất nhiều người đến chùa để được chữa bệnh, có người th́ bệnh vật lư như ung thư, nhức mỏi, có người bị bệnh tâm thần nhưng cũng có rất nhiều người bị ma ám như em An, thái độ của người bị ma ám rất khác với người bệnh tâm thần, tôi cảm nhận được nhưng không diễn tả đuợc.
Đến 12g30 trưa, người có bệnh đă xếp hàng ngồi thành hai hàng trong đại điện dài đằng dặc, dễ có đến hơn một trăm năm chục người chứ không ít.
Tôi quỳ ngay sau lưng em An, đợi khoảng hơn nửa tiếng đồng hồ th́ tới phiên em An được vị sư già mặc áo tăng bào vàng hơi đỏ, vai áo bên phải để trần, chắc là vị sư này thuộc phái Nam Tông, chữa bệnh. Tôi quỳ ngay sau lưng em An, nghe loáng thoáng em vắn tắt thưa với thầy là có một vong nữ trong em, có nhờ em đưa lên chùa này hôm nay, v́ vong nữ này muốn xuất khỏi người em hôm nay, mong thầy giúp đỡ.
Vị sư này bèn để ba ngón tay lên đầu em, miệng lâm râm niệm chú, rồi để một cái mơ nhỏ lên đầu em, gơ lóc cóc vài cái. Xong thầy quay sang bên cạnh, lấy một ly nước nhỏ do người đệ tử bên cạnh trao cho, co mấy ngón tay lại trên miệng cốc, lẩm nhẩm chú niệm ǵ đó trong miệng, rồi đưa cốc nước cho em tôi uống.
Thế là xong em tôi ra khỏi hàng, đến quỳ ngay truớc bàn thờ Phật Bà Quan Âm ngay cạnh đó. Tôi bèn nhảy ra khỏi hàng, hỏi em An là chuyện ǵ xảy ra vậy, con ma đă xuất ra chưa?
Thốt nhiên tôi thấy em tôi xoè bàn tay phải ra, giơ thẳng bàn tay ra trước mặt, rồi dùng hết sức lực đấm th́nh thịch vào ngực, đỉnh đầu và trán của em liên tiếp mấy chục cái.
Sức đấm mạnh đến nỗi người em tôi lảo đảo sau từng cú đấm. Tôi kinh hoàng hỏi em:
- Em ơi chuyện ǵ vậy, sao em lại tự đánh em như thế ?
Em trả lời tôi:
- Bà ấy muốn ra em đang làm thế để giúp bà ấy ra.
Nh́n nét mặt của em, tôi thật t́nh không biết lúc đó em là em tôi hay là con ma nữa. Tôi chỉ cảm thấy toàn thân tôi đau đớn như đang bị đánh, những cú đánh của em tôi mạnh mẽ vang lên trong tim trong óc tôi.
Cả bao nhiêu người trong đại điện, cả vị sư già ngồi cách em tôi chừng nửa thước, chả ai thèm để ư đến em cả, dường như những sự việc ma nhập, tự hành hạ thân xác như thế đă diễn ra quá thường xuyên ở đây.
Không biết làm ǵ, tôi nhảy trở vào hàng người đang xếp hàng, bây giờ đă ngắn đi rất nhiều để hỏi vị sư già trị bịnh đầu đuôi câu chuyện.
Chỉ khoảng năm phút sau đă đến phiên tôi, tôi bèn quỳ chắp tay hỏi rằng:
- thưa thầy, em gái của con vừa rồi có thưa với thầy là, cái vong nữ trong người nó có nói rằng, nhờ đưa lên chùa hôm nay để vong nữ này xuất ra, em của con đă được gặp thầy và đang ngồi kia, tôi chỉ tay về phía em An, xin thầy giảng cho con biết chuyện ǵ đang xảy ra vậy?
Vị thầy nh́n tôi cười, tôi không thể xác định đó là nụ cười thương hại hay mai mỉa, bảo tôi rằng:
- Cô không biết là người ta đă nói là nói dối như ma à ? Người ta đă nói dối với cô và đang lừa dối em cô đó. Muốn chữa khỏi bệnh này, em cô phải đi chùa rất nhiều lần, chứ một lần làm sao hết.
Nói xong thầy quay qua chữa bệnh cho người kế tôi.
Tôi quay sang em tôi và hỏi:
- Em có nghe thầy nói chưa, ḿnh lại bị lừa dối nữa đó.
Nh́n vẻ mặt đau đớn của em, tôi không cầm được nước mắt, tôi biết em tôi vừa cảm nhận được sự thật phũ phàng là bà tiên trong nó, thực chất chỉ là một ma nữ thâm trầm nham hiểm, nói dối như cuội và vừa rồi, con ma nữ đă lợi dụng ḷng tin của em tôi để đánh em tôi một trận nhừ tử bằng chính bàn tay của em.
Cầm tay tôi em An bảo:
- Chị đừng lo, em sẽ quyết đánh cho con ma nữ giảo họat, dối trá ra khỏi người em. Em sẽ nhất quyết không cho nó nói chuyện hay viết lách ǵ cho em nữa.
Nh́n vẻ mặt của em, tôi biết em đă cương quyết lập chí dành lại độc lập cho thân xác ḿnh. Tôi vừa đau đớn vừa mừng rỡ rằng, ít nhất em tôi đă vượt qua được một giai đọan khó khăn, trong cuộc chiến tranh với ma quỷ này, là lập quyết tâm đánh đuổi quân thù.
Hiện nay em tôi hàng ngày lên chùa Linh Quang để con ma có cơ hội nghe kinh kệ, và nhờ thần lực tín tâm của sư tăng trong chùa và trong chính em, để kêu gọi con ma xuất khỏi em tôi.
Em An cũng hứa rằng nếu sau ba tuần đi chùa, mà con ma vẫn không nhúc nhích di chuyển ǵ cả, th́ em sẽ đổi qua biện pháp mạnh hơn để trục ma.
Tôi xin tóm lược những ư chính tôi muốn nêu lên trong bài này, mà trong lúc xúc động tôi đă không viết đuợc rơ ràng và mạch lạc như sau:
1. Xin hết sức cẩn thận khi đi học nhân điện khoa tự động, ở những người thầy như thầy Mai Viết Nhự. Tôi không đủ dữ kiện để kết luận, là thầy Nhự có liên quan trực tiếp đến vấn đề, tạo cầu nối giúp các hồn ma nhập vào cơ thể các học viên của thầy hay không ?
Tôi chỉ biết là hai cô em gái của tôi đều bị ma nhập, ngay trong lúc đang học nhân điện với thầy, sau khi thầy mở luân xa số sáu và bảy cho hai em.
Chị Khánh cũng cho tôi biết là một số nữ tu Công giáo, cùng bị hiện tuợng ma nhập sau chuyến du hành từ Mỹ về Việt Nam, sau khi cũng học khóa nhân điện với thầy Nhự. Sao lại có sự trùng lặp đặc biệt như thế ?
2. Tôi sẽ không bao giờ để ai sờ lên đầu lên cổ của ḿnh, ai biết được là họ có khả năng mở luân xa sáu, bảy hay không ?
3. Đến thời điểm ḿnh phải ĺa cơi trần ra đi, xin hăy ra đi với ḷng thanh thản, dù có c̣n bổn phận trách nhiệm với người c̣n sống, cũng hăy xin hiểu rằng phận sự của ḿnh đến thời điểm đó là hết, đừng nuối tiếc ǵ cả, để phần tâm linh của ḿnh có thể nhẹ nhàng siêu thoát, không trở thành vong linh vất vưởng lang thang.
Phần người sống, xin đừng khóc than níu kéo người đă ra đi, xin hăy nói cho người hấp hối biết, là họ đă làm xong nhiệm vụ của họ trên trần thế, ḿnh là người ở lại cũng sẽ OK, để nguời chết yên tâm mà đi.
4. Xin hăy đối xử với những người bị ma nhập tử tế, đừng xa lánh họ. Con ma chẳng có nhiều quyền lực ǵ cả, trừ trường hợp người bị ma nhập không hiểu được bản chất của ma, th́ sẽ rất sợ hăi trước những lời hăm dọa của ma, chẳng hạn như:
- Tao sẽ giết mày nếu mày không nghe lời tao.
Những lời hăm dọa đó chỉ là lời hăm dọa xuông, con ma vốn chỉ là những sóng sinh học âm, sức lực chỉ bằng cục pin rechargeable 1.5 volt.
Con ma sẽ rất mạnh mẽ khi tâm hồn và thể xác của người bị nhập yếu đuối, sợ hăi và không có được sự giúp đỡ thương yêu của gia đ́nh và bạn bè.
Con ma sẽ dùng chiến thuật tâm lư, ngọt bùi cay đắng có cả để thoạt đầu mua chuộc ḷng tin của người bị nhập, để dần dần chiếm toàn bộ lư trí của họ và tiến đến khống chế thể xác, v́ bản thân con ma chỉ là phần tinh thần của người đă chết, nay mong muốn chiếm đoạt thân xác và tâm trí của người c̣n sống, để hành xử theo ư riêng của ḿnh.
Con ma cũng sẽ nhăn răng múa vuốt, qua cử chỉ của người bị nhập như kiểu trong phim Exorcist, nhưng cường độ yếu hơn nhiều chứ không như kỹ xảo Hollywood, để hăm dọa người chung quanh, làm cho họ cảm thấy sợ hăi mà xa lánh người bị ma nhập.
Những kỹ xảo này của con ma chỉ làm tôi bật cười, thương hại cho kẻ lực bất ṭng tâm, và yêu thương em tôi hơn.
5. Phải có ḷng tin nơi Thượng Đế, Chúa hay Phật để đối phó với các thế lực đen tối của thế giới bên kia. Chính nghĩa bao giờ cũng thắng tà ma, tôi đă mục kích con ma trong em B́nh, rất sợ những câu trong Kinh thánh, cũng như các câu niệm Phật Bà Quan Âm hay mật chú Tây tạng.
Hy vọng các bạn đọc bài viết này của tôi và rút tỉa được vài điều nào đó, mà có thể giúp ích cho bạn bè hay người thân, thêm ít thông tin về thế giới bên kia, một thế giới mà ta không hiểu rơ.
Tôi mong bài viết này có thể đóng góp chút nào trong việc ngăn ngừa, những trường hợp không may có thể xảy ra, sau khi học nhân điện khoa tự đông.
Xin các bạn nếu có thể, post bài viết này của tôi ở bất cứ website hay báo chí nào, trong hoặc ngoài nước để hy vọng thông tin này sẽ giúp ích cho người đọc chút nào chăng.
Xin cảm ơn các bạn.
Bác Mù
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 202 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:07pm | Đă lưu IP
|
|
|
CON NGƯỜI CÓ THỂ LINH CẢM TRƯỚC CÁI CHẾT
Một chiều vợ Grigority Doroni, mới hai mươi tuổi bất chợt nói:
- Em mệt quá, chắc là em sắp rời bỏ thế gian này. Ngày hôm sau cô ấy bị tai nạn ô tô và chết. Một số người có thể nh́n thấy cái chết của ḿnh đang đến gần ? Liệu việc tiên đoán hay linh cảm về cái chết là sự thật ?
Không ai biết trước được khi nào ḿnh sẽ tới số, và cái ǵ sẽ khiến cho ḿnh phải vĩnh biệt thế gian, mà bước vào một thế giới vô cùng xa lạ nào đó. Tuy nhiên một số người có thể thấy được, cái chết của bản thân ḿnh đang đến gần. Trực giác kỳ lạ là cái giúp cho con người, có thể giải thích bí ẩn không thể hiểu thấu này.
Inna P kể lại:
Một mùa hè vợ chồng chị về quê. Rồi một hôm khi đang đứng trên ban công ngó ra con sông Volga, anh ấy đột nhiên lên tiếng:
- Em có nghĩ là anh sẽ chết ở đây không ?
Dĩ nhiên là người vợ rất xốc trước câu hỏi ấy, v́ chồng chị đang là người đàn ông khoẻ mạnh. Nhưng rồi vài tuần sau, bất ngờ anh ấy từ giă cơi đời v́ cơn đau tim.
Có rất nhiều ví dụ như vậy. Các bác sĩ người Mỹ, William Green, Stefan Goldstein và Alex Moss, chuyên nghiên cứu hiện tượng chết, đă t́m hiểu hàng ngh́n câu chuyện ẩn đằng sau các bệnh nhân ra đi "bất đắc kỳ tử". Các kết quả cho thấy đa số họ đoán trước được cái chết của ḿnh.
Thật t́nh "linh cảm" của họ không xảy đến như là lời nói tiên tri, hay sự chuẩn bị đúng lúc cho việc chôn cất, mà từ một trạng thái tâm lư đặc biệt và thường nằm trong ước muốn, sắp xếp các vấn đề đâu vào đấy.
Vấn đề là thời gian ngắn ngủi trước khi cái chết bước đến, nhiều người thường trải qua một trạng thái trầm uất, có thể kéo dài từ một tuần cho đến nửa năm.
Y học cho rằng sự sầu muộn lạ lùng này xảy đến, do những thay đổi hoóc môn trong cơ thể gây ra. Đặc điểm tâm lư của hiện tượng, mà bề ngoài như là sự chán nản vô cớ này, là sự chuẩn bị của hệ thần kinh trung ương, cho sự rời khỏi cơi đời không tránh khỏi.
Nhận định này tương ứng với ư kiến được nhiều nhà nghiên cứu chia sẻ, đó là cái chết đơn thuần chỉ là sự "quá độ" của ư thức, sang một dạng sống khác, một tŕnh độ năng lượng của sự tồn tại.
Tuy vậy tại sao cơ thể cần đến "sự chuẩn bị về tâm lư" này ? Chắc chắn không thể để chuẩn bị cho mọi thứ đâu vào đấy.
Khả năng đoán trước cái chết của con người có thể được giải thích như thế nào ? Cuốn Tử thư Tây Tạng có câu trả lời cho vấn đề này. Theo niềm tin của người phương Đông, con người là một sinh vật có hai thể mạnh và yếu.
Thể mạnh làm nên thể xác con người. C̣n thể yếu cấu thành tinh thần, vô h́nh bao bọc linh hồn. Cái chết chính là sự tách biệt thể yếu khỏi thể mạnh. Thể yếu có vầng hào quang, mà chỉ có những nhà ngoại cảm mới thấy được.
Sự phát xạ từ hào quang này, cho phép nhà ngoại cảm chẩn đoán được t́nh trạng sức khoẻ của một người, và do đó cũng có thể nh́n thấy trước được cái chết.
Nhưng tại sao con người lại phải trải qua thứ linh tính khủng khiếp đó ? Tự nhiên có sự can thiệp nào không ? Có một giả thiết đáng quan tâm về mặt này.
Từ lâu các nhà khoa học đă biết vấn đề này trong pḥng thí nghiệm: Trước khi chết các tế bào của cơ thể đang sống, phát ra một loạt mạnh các tia phóng xạ bất ngờ.
Nhà vật lư học người Ba Lan Janusz Slawinsky cho rằng, luồng sóng khá mạnh này có thể chứa đựng thông tin về sinh mạng của một cơ thể sắp chết, và cũng có thể bảo lưu các mẩu ư thức và kư ức. Có phải đây là mục đích chính, của tín hiệu cuối cùng do các tế bào sắp chết phát ra ?
Tôn giáo thường nói về sự tiếp tục của cuộc sống sau cái chết. Hào quang sẽ biến mất trước khi chết, giống như bất kỳ loại vật chất vũ trụ nào, cũng để lại dấu vết trong không gian trước khi bị phân huỷ. Cùng với một phức hệ năng lượng của người thể yếu, hào quang sẽ mang sang thế giới khác, toàn bộ thông tin về một người chết, nói khác đi là ư thức.
Do đó chỉ có thể là thể xác chết, c̣n ư thức vẫn tiếp tục tồn tại, như là một đám mây năng lượng. Sự phát ra luồng phóng xạ từ các mô sinh vật vào lúc chết, dường như đem lại cho "thể yếu" cái xốc nảy cuối cùng, gửi linh hồn bất tử của một người vào vũ trụ.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 203 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:07pm | Đă lưu IP
|
|
|
LÁI XE VỀ QUÁ KHỨ
Khi nhắc đến vấn đề đi vào quá khứ, người ta không thể quên những chuyện lạ có thật do Hans Holzer, một nhà nghiên cứu về các hiện tượng siêu tâm lư kể lại như sau:
Năm 1964, một người đàn ông tên là Robert Cory, một con người khá nổi tiếng trong làng văn học nghệ thuật tại Hoa Kỳ, đă lái xe trên đường đến Los Angeles. Hôm đó trời quang đăng. V́ đường xa nên khi đến địa phận Oregon th́ trời vừa tối, nhưng ông Cory vẫn tiếp tục cuộc hành tŕnh.
Bỗng nhiên một trận băo tuyết nổi lên lại gặp lúc xe ông đang trên dốc núi. Ông buộc ḷng phải ngưng xe lại để quan sát t́nh h́nh v́ tuyết đổ liên tục và đường lại cheo leo.
Ông vừa xuống xe th́ thấy từ xa có ánh sáng chiếu như có đèn ai đang mở ḍ đường. Ông Cory liền cho xe chạy đến đó xem thử. Tại đây chẳng có ai. Mọi vật hoàn toàn yên lặng. Chỉ có bảng chỉ đường sáng lóa như được chiếu sáng bởi một nguồn sáng nào từ đám mây.
Theo bảng chỉ đường, ông Cory cho xe chạy xuống núi và cuối cùng ông thấy trước mặt, một vùng có nhà cửa mà đường sá th́ có vẻ cũ kỹ, đầy ổ gà trồi sụp. Ông dừng xe lại trước một ngôi nhà bằng gỗ rộng lớn mà ông nghĩ đó là khách sạn. Ông Cory quyết định nghỉ tại đây v́ trời c̣n xấu.
Ông bước vào ngôi nhà lớn ấy. Dọc hành lang ngôi nhà lớn ấy được trang hoàng bằng những chiếc đầu các loại thú. Có những tấm bảng gỗ tróc sơn nứt nẻ có ghi các năm 1800.
Điều kỳ dị ngôi nhà vắng vẻ lạ lùng không một bóng người. Ông định trở ra nhưng lại thấy có lửa cháy bập bùng ở ḷ sưởi pḥng khách lớn, nên lại đẩy cửa bước vào. Trời lạnh như cắt nên ông phải cần được sưởi ấm. Ông đến bên ḷ sưởi và ngồi lên chiếc ghế dài.
Cạnh đó ông thấy cái bàn nhỏ, trên bàn đặt cái điện thoại mà nh́n kỹ, th́ đây là loại điện thoại quá xưa cũ, mà hầu hết các cơ sở làm ăn khắp nước Mỹ chẳng bao giờ t́m thấy có, đó là loại điện thoại phải quay số rườm rà trước khi gọi.
Tuy nhiên ông Cory cũng phải dùng đến cái điện thoại này để gọi về nhà báo tin cho người thân. Nhưng cái máy h́nh như không c̣n hoạt động nữa. Ông Cory cảm thấy mơi mệt và buồn ngủ. Bỗng nhiên cái vắng vẻ yên lặng ấy ông bỗng nghe có tiếng động, tiếng động rất nhẹ và ông thấy một ông già đang từ tầng lầu trên đi xuống.
Ông Cory tưởng đó là người quản thủ khách sạn. Nhưng khi nh́n kỹ lại, ông cụ giống một người nông dân ở vùng quê xa xôi nào đó, v́ nh́n lối ăn mặc và cử chỉ thấy ông ta thật vụng về thô lỗ cục mịch vô cùng. Ông cụ lầm ĺ đi đến bên ḷ sưởi và coi sự xuất hiện của ông Cory là tự nhiên. Có lẽ v́ đây là một khách sạn. Thế rồi ông Cory ngủ thiếp đi trên cái ghế dài.
Sáng hôm sau, ánh nắng xuyên qua cửa kính chiếu vào mắt khiến ông Cory chợt tỉnh. Ông thấy có nhiều người xuất hiện trong khách sạn, mà phần lớn là những người già. Nhiều người nh́n ông nhưng có vẻ lơ đảng không quan tâm. Ông Cory đă đến bên những người ấy để hỏi về ngôi làng xa lạ này, và luôn tiện hỏi thăm có trạm xăng nào ở gần đây không?
Ông mơ màng như thấy ít người đáp lời, và nếu có th́ những lời nói của họ không có mạch lạc, hoặc chẳng có ăn nhập ǵ với câu hỏi mà ông đă nêu ra cả.
Ông Cory cảm thấy hoang mang trong ḷng. Cái cảm giác trống vắng, lẻ loi, lạ lùng bỗng đến với ông thật nhanh theo ḍng linh cảm. Ông hỏi: Đây là đâu xin các ông vui ḷng cho biết ? Hiện tôi đang ở đâu đây ? Có vài người bước tới nh́n ông và h́nh như có người cầm tay ông, ân cần vỗ về và chỉ đường cho ông rồi sau cùng nói: Ông đừng sợ! Chẳng có ǵ phải sợ cả.
Ông Cory chợt nhớ đến chiếc xe, ông chạy ra khỏi khách sạn. Chiếc xe ông vẫn c̣n đó. Ông mở cửa xe và nổ máy chiếc xe chuyển động và ông Cory vội vă như muốn thoát khỏi một nơi thâm trầm kỳ bí chưa từng thấy này.
Chiếc xe băng qua những con đường gập ghềnh. Ông Cory thấy một vài người lầm lũi bước đi hai bên đường. Những người này ăn mặc những áo quần mà h́nh như chỉ thấy đâu đó trong sách vở, tự điển. Ông Cory có cảm tưởng như đó là những kiểu áo quần ở thời đại xa xưa nào đó. Điều kỳ dị hơn nữa là trong khi lái xe ra khỏi vùng này, ông có cảm giác như xe đang di chuyển trong lớp sương mờ.
Về sau, câu chuyện có thật mà ông Cory đă trải qua được nhiều nhóm nghiên cứu về những vấn đề không thể giải thích ghi nhận. Người ta không loại bỏ việc xác định lại vùng hoang dă, nơi ông Cory lái xe đến đó và vùng dân cư cùng ngôi nhà lớn mà ông đă bước vào như qua một đêm.
Tài liệu lưu trữ tại thư viện lớn ở đây cho biết xưa kia đây là vùng thưa dân, nhưng có ngôi nhà Bưu Điện Quốc gia lớn tên là US Post Office National, Indiana. Đó là khoảng những năm 1850, 1851.. Rồi tám mươi năm sau đó, nghĩa là vào năm 1930 th́ nơi đây biến thành bệnh viện lớn dành cho các cựu chiến binh.
Vậy rơ ràng ông Cory đă t́nh cờ đi ngược ḍng thời gian và vào quá văng cách thời đại ông đến hơn cả trăm năm.
Một hiện tượng tương tự cũng không kém lạ lùng đă xảy ra, khi hai nhà leo núi kỳ cựu là Donald Watt và George Bruce trong chuyến leo núi tháng năm năm 1987, cả hai đều thấy rơ ràng có một ngôi nhà hai tầng nằm bên bờ hồ Mullardoch gần Cannich xứ Scotland rất nên thơ.
Nhà có vách xây bằng đá Hoa Cương (Granite) và trông khá bề thế đầy tiện nghi. Trước đó hai người này đă nghiên cứu kỹ qua bản đồ chi tiết của vùng mà họ sẽ đến, và không có dấu vết ǵ ghi chú về căn nhà nói trên.
Khi cả hai thấy ngôi nhà đó họ vô cùng ngạc nhiên, và tưởng như là một chuyện kỳ khôi v́ không thể nào có ngôi nhà xuất hiện, ở một nơi hoang vu lạ lùng như thế được. Tuy nhiên sự kiện xảy ra sau đó càng làm họ ngạc nhiên nữa, khi cả hai sau một hồi leo núi quay lại nh́n th́ không thấy ngôi nhà ấy đâu nữa.
Khi trở xuống, họ đi ṿng khắp hồ nhưng ngôi nhà đă hoàn toàn biến mất. Cả hai nhà leo núi ghi lại những ǵ ḿnh thấy vào nhật kư. Sau đó, các tài liệu tra cứu có liên hệ về vùng này được các nhà sưu tập nghiên cứu phân tích, và kết quả người ta được biết rằng khoảng những năm 1950, ở đây có một số nhà cửa được dựng lên, trong đó có một cơ sở nghiên cứu của nhà nước.
Rồi v́ một vụ ngập nước làm ngôi nhà bị chôn vùi xuống đáy hồ. Khi hai nhà leo núi trông thấy lại ngôi nhà, th́ rơ ràng ngôi nhà ấy là h́nh ảnh của quá khứ, một h́nh ảnh mà trước đó khoảng ba mươi năm năm nó là sự thật. Như vậy hai nhà leo núi George Bruce và Donald Watt đă thấy được h́nh ảnh của quá khứ...
Tâm Linh
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 204 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:12pm | Đă lưu IP
|
|
|
THIÊN NHẢN VÀ ÂM DƯƠNG NHẢN
Trong kinh Phật gọi Thiên Nhản là Thiên Nhản Trí Thí Thông, có nghĩa là năng lực của Thiên Nhản là sự biểu hiện của trí huệ, có được năng lực thần thông vạn năng.
Tuy nhiên trong mắt của người tu tŕ Thiên Nhản là do bẩm sinh mà có, chớ không phải có được nhờ sự tu hành .
Thiên Nhản Thông chỉ có những vị Thần Tiên trong chuyện thần thoại mới có được, thật ra khả năng có Thiên Nhản chỉ là một hư cấu trong trí tưởng tượng của con người mà thôi, bởi v́ xưa nay không có một người nào có được thiên nhản và thấy được thiên nhản là như thế nào ?
Âm Dương Nhản, tức cặp mắt âm dương th́ có nhiều người bẩm sanh đả có được hoặc, người ta đả thấy được và nghe được, nhiều người đả có được âm dương nhản.
Những người có được âm dương nhản, có thể thấy được ảnh vô h́nh của linh giới như quỷ thần , hoặc họ có thể tiên liệu sự việc có thể sẻ xảy ra trong tương lai, họ c̣n có thể xem trong ḿnh người khác đả có bệnh ǵ xảy ra.
Nhưng sự thủ đắc cặp mắt âm dương được h́nh thành, thông thường nhờ thông qua sự t́m thầy học đạo, tập luyện thần thông, hoặc có người sau một thời gian tập luyện khí công, và không biết làm sao mà tự nhiên, đả làm khơi hoạt được cặp mắt âm dương nhản này.
Có người sau một cơn trọng bệnh, hoặc bị thương tích nào đó, th́ liền có được cặp mắt âm dương, có người th́ đả có từ nhỏ, có người th́ tự nhiên trong một lúc bần thần xáo trộn nào đó, tự nhiên có được cặp mắt âm dương .
Những người khi thủ đắc được âm dương nhản , mặc dù là có thị lực hơn người thường, nhưng bản thân họ cũng không thể giải thích được hiện tượng này ?
Do đó hiện nay có rất nhiều người khai mở được âm dương nhản, có thể xem thấy được những linh thể vô h́nh.. nên đả tự xưng là có được thiên nhản thông, và mở lớp thu nhập học viên để giảng dạy cách khai mở thiên nhản này.
Theo sự nh́n nhận của đại đa số, th́ thật ra không thể phân biệt được sự khác nhau giửa thiên nhản và âm dương nhản là như thế nào ?
Bởi v́ những người đả có được âm dương nhản, tự thân cũng không biết là thiên nhản hay là âm dương nhản, nên đả có người tự nhận rằng ḿnh có thiên nhản, và âm dương nhản và thiên nhản là giống nhau.
Trên thực tế, thiên nhản và âm dương nhản có nhiều chổ khác nhau:
Tùy theo năng lực khác nhau, tổng quát có năm loại mắt là: Thứ nhất là mắt thường.
Nhục nhản nh́n thấy được các vật hữu h́nh.
Âm dương nhản là mắt thứ hai.
Thiên nhản là mắt thứ ba.
Pháp nhản là mắt thứ tư.
Phật nhản là mắt thứ năm.
Trừ những người bị mù c̣n cặp mắt thịt th́ mọi người sanh ra đả có, c̣n lại các loại mắt khác th́ cần phải thông qua sự tu tŕ bí pháp đặc biệt, th́ mới có thể sở đắc được.
Từ xưa đến nay chỉ có Đức Quán Thế Âm Bồ Tát , Phật Thích Ca Như Lai và Đức Chúa Jesus mới có được những loại mắt này.
Ở đây chúng ta chỉ nói đến sự khác biệt giữa âm dương nhản và thiên nhản mà thôi.
1. Âm Dương Nhản: Là do sự tu tŕ bí pháp linh giới mà thụ đắc, có người do sự tu hành trong tôn giáo mà có được, có người do thần linh nhập thể mà có được, có người do một phút boàng hoàng hốt hoảng nào đó cũng có được mắt âm dương.
Có một số người khi có được âm dương nhản th́ rất mừng vui, v́ có thể nh́n thấy được linh khí, linh thể hoặc thấy được những việc có thể xảy ra trong tương lai hoặc xem bệnh..
Nhưng có một số người khi có được cặp mắt âm dương, nhưng trí huệ và kiến thức về cỏi linh giới hay tâm linh không có nhiều, nên cảm thấy sự có được cặp mắt âm dương mang đến sự phiền phức và khổ nảo cho họ.
Nhiều khi những cái họ muốn nh́n thấy th́ không thể nh́n thấy, c̣n những cái họ không muốn nh́n thấy th́ lại bổng nhiên hiện ra trước mắt, có khi họ nh́n thấy những h́nh ảnh kinh dị của linh khí hoặc linh thể, làm họ hoảng hốt và những hiện tượng này xảy ra tùy thời gian và nơi chốn khác nhau không nhất định, nên cặp mắt âm dương nầy đả làm xáo trộn cuộc sống hằng ngày của họ.
Nên những người này cần phải biết rằng, dù thấy hay không thấy, kinh dị ghê sợ hay đẹp đẻ th́ cũng đừng chú ư đến chúng, v́ chúng dù sao cũng là h́nh ảnh mà thôi, nếu ta không chú ư đến chúng nó và không sợ nó th́ ta không bị nó ảnh hưởng.
Chúng ta chỉ bị hại nếu chúng ta tin nó là thật, rồi sinh ra tâm loạn động, rồi từ đó sanh ra tâm trí bất thường th́ dể đi đến điên loạn, c̣n nếu chúng ta thấy sự vật quái dị, nhưng tâm ta xem là b́nh thường, ta làm việc của ta nó làm việc của nó, đường ai nấy đi th́ mọi việc sẻ an toàn tự nhiên.
Nếu có, ta chỉ thu nhận những h́nh ảnh hay thông tin nào, có chất lượng xây dựng và hiền lành, giúp thân tâm ta và mọi người được an lạc thịnh vượng, khơe mạnh và hạnh phúc, th́ ta có thể tham khảo mà thực hành và tin theo mà thôi.
Do đó, ngoại trừ những người mở được cặp mắt âm dương nhờ sự chỉ dẩn của minh sư, qua sự chuyên tu để mở âm dương nhản, th́ họ có thể sử dụng một cách tùy ư thích.
C̣n đại đa số những trường hợp khác, do sự bột phát tự nhiên hay do thương tật, tai nạn, bệnh tật mà làm khai phát cặp mắt âm dương, th́ họ không biết cách sử dụng khả năng này một cách tùy ư thích, và thường không có sự chuẩn bị tâm lư cho việc sử dụng khả nầy này, nên thường bị hoảng sợ khi thấy được những cảnh của cỏi linh giới.
Nên có một số người cảm thấy không thích, khi họ bổng nhiên có được khả năng này, nhưng không biết làm sao cho nó mất đi, để có được cuộc sống an lạc khi xưa .
Chỉ c̣n một cách là học hỏi và t́m hiểu thêm, những kiến thức về âm dương nhản, thiên nhản hay những kiến thức về tâm linh, nay đả có rất nhiều ở sách vở và trên các mạng lưới internet tâm linh, mổi ngày đều cập nhật hóa và phong phú hơn.
2. C̣n cách thức hai là dù có nh́n thấy hay không thấy những h́nh ảnh hay cảnh vật kinh dị, ghê sợ hay đẹp đẻ th́ ta cũng đừng chú ư đến chúng, v́ chúng dù sao cũng là h́nh ảnh hay chỉ là ảo ảnh mà thôi, nếu ta không chú ư đến chúng nó và không sợ nó th́ ta không bị nó ảnh hưởng.
THẤY QUÁI DỊ MÀ KHÔNG CHO LÀ QUÁI DỊ, TH̀ SỰ QUÁI DỊ ĐÓ SẺ TỰ TAN BIẾN.
Chúng ta chỉ bị hại nếu chúng ta tin nó là thật, rồi sinh ra tâm loạn động, rồi từ đó sanh ra tâm trí bất thường th́ dể đi đến xáo trộn sinh hoạt thường ngày.
C̣n nếu chúng ta thấy sự vật quái dị, nhưng tâm ta xem là b́nh thường, ta làm việc của ta, nó làm việc của nó, đường ai nấy đi, th́ mọi việc sẻ an toàn tự nhiên.
Nếu có, ta chỉ thu nhận chọn lọc những h́nh ảnh hay thông tin nào, có chất lượng xây dựng và hiền lành giúp thân tâm ta và mọi người được an lạc thịnh vượng, khơe mạnh và hạnh phúc th́ ta có thể tham khảo mà thực hành và tin theo mà thôi .
C̣n những thông tin mà không phù hợp đạo đức luân thường của con người, th́ không nên tin và làm theo, nếu không th́ sẻ bị quả báo nhản tiền cho thân tâm ngay trong kiếp nà̀y.
Nên cần cẩn thận mà sớm tránh xa nó, để thân tâm luôn được an lạc và hưởng được những quả lành, của sự thủ đắc khả năng của cặp mắt âm dương này.
ÁNH SÁNG T2
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 205 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:15pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN TRONG PHÚT HẤP HỐI
Con người đă và đang t́m kiếm các dấu hiệu tin cậy về cái chết để tránh xảy ra những trường hợp đáng tiếc. Bên cạnh đó, các nhà khoa học thực sự lúng túng khi một số người đă kể lại cái chết cho biết những ǵ mà họ cảm nhận được trong thời gian hoàn toàn bất tỉnh hoặc mất hết hy vọng được cứu sống.
Vào năm 1957, tại một sân bay nhỏ của Anh đă xảy ra tai nạn khi máy bay hạ cánh. Một bác sĩ ngồi ghế phía sau bị văng khỏi máy bay, ngất đi và không có dấu hiệu sống. Từ nơi mà ông ngă gục không thể nào nh́n được quang cảnh xung quanh, nhưng thật lạ lùng là người đó thấy rơ tất cả những ǵ xảy ra ở sân bay.
Nạn nhân thấy thân thể của ông ta nằm bất động ở phía dưới ḿnh khoảng 60m, thấy cả người hoa tiêu và phi công dính máu đang chạy về phía ḿnh. Việc những người đó biểu lộ sự chú ư đối với thân thể của ông đă làm bác sĩ ngạc nhiên và bực tức. Ông muốn được yên tĩnh.
Sau đó, nạn nhân thấy một ôtô cứu thương từ nhà để xe đi ra và một bác sĩ nhảy vào. Xe chở nạn nhân dừng lại một trạm xá và lấy theo một thiết bị. Tiếp đó, nạn nhân theo dơi thấy xe chạy với vận tốc lớn, mang "thi thể" của ông tới bệnh viện thành phố. Thân thể nạn nhân được đặt lên một cái bàn trắng, mọi người cúi xuống làm việc.
Ông ta cảm thấy mùi khó chịu của clorua amonium. Vào đúng thời điểm đó, ư thức rơ ràng và b́nh thản của nạn nhân đột nhiên mờ hẳn và lại quay vào "trong" thân thể bị thương, kèm theo cảm giác đau đớn. Sau này do ṭ ṃ, người đó đă phục hồi tỉ mỉ các sự việc ấy và những điều mô tả hoàn toàn khớp với thực tế.
Vào năm 1892, một nhà địa chất người Thụy Sĩ tên là Enbơ Hem bị trượt ngă xuống vực sâu, nhưng may mắn thoát chết. Quan tâm đến những cảm nhận của ḿnh trong khoảnh khoắc hoàn toàn thất vọng, nhà địa chất đă thu thập được 32 trường hợp tương tự. Ông nhận thấy rằng, tất cả các "đồng sự" của ḿnh đều trải qua một cái ǵ đó giống nhau ở ngưỡng cửa của cái chết khó tránh khỏi. Những quan sát đó của E. Hem đă được bổ sung đáng kể, đặc biệt là vào những năm gần đây, khi công việc hồi sinh đă có nhiều kết quả.
Khi rơi từ độ cao lớn, ở thời điểm đầu tiên, con người trải qua sự sợ hăi mạnh mẽ, t́m kiếm một cách vô vọng các khả năng cứu thoát. Giai đoạn thứ hai xuất hiện sự nhận thức đầy đủ về cái chết không tránh khỏi và các ư định thoát thân đă rời khỏi năo bộ. Cái chết không c̣n làm kinh hoàng và phiền muộn, nhưng những điều vụn vặt ngớ ngẩn lại làm lo lắng: xót xa v́ rách bộ quần áo đang mặc, vỡ vụn cặp kính đang đeo hoặc hỏng mất cái máy ảnh...
Nếu thời gian rơi đủ dài th́ sẽ xuất hiện giai đoạn thứ ba, hồi tưởng quá khứ. Các thời điểm quan trọng nhất của cuộc đời hiện ra thành các mảng h́nh ảnh, giống như quan sát chúng từ tầng trên của rạp hát. Tuy nhiên, những h́nh ảnh ấy mănh liệt đến mức nào c̣n tuỳ thuộc vào đặc điểm cá nhân của mỗi con người.
Vào năm 1972, một người trượt tuyết 19 tuổi bị ngă từ độ cao hàng ngàn mét và thoát chết với cái mũi dập nát. Nạn nhân kể lại: "Khi bắt đầu rơi, tôi gào thét thảm thiết, nhưng sau đó, tôi hiểu rằng tôi đă chết. Cả cuộc đời hiện ra trước mắt tôi như một ánh chớp. Tôi thấy khuôn mặt mẹ tôi, thấy ngôi nhà mà trong đó tôi sống, thấy các bạn bè ...".
C̣n Hem lại mô tả bức tranh quá khứ như sau: "Tôi thấy ḿnh là đứa bé bảy tuổi đi đến trường học, rồi thấy ḿnh hồi lớp bốn cùng với thầy giáo yêu quư".
Các cảm xúc hồi tưởng quá khứ kéo dài không lâu và chuyển qua một trạng thái thần bí. Khi một người rơi xuống vực thẳm th́ người đó hiểu được rằng, thân thể của ḿnh sẽ va vào đá và bị hủy hoại, xương sẽ găy vụn và dập nát. Nhưng sự hồi tưởng về bản thân hoàn toàn không liên quan tới cơ thể nữa. Bắt đầu từ một thời điểm nào đó, nạn nhân không hề lưu tâm đến "thân xác" của ḿnh.
Sự cảm nhận của nạn nhân bị xâm chiếm bởi các ư nghĩ tuyệt đẹp và xen lẫn những nốt nhạc du dương. Một trạng thái tinh thần thanh thản, nạn nhân bay qua các bầu trời mày hồng và màu lam lộng lẫy, ở trạng thái siêu việt đó, nạn nhân cảm thấy dễ chịu đến nỗi nảy sinh sự phản kháng rơ rệt chống lại những cố gắng đưa cơ thể về với sự sống.
Tuy nhiên, đôi khi con người cũng có thể rơi vào trạng thái đặc biệt do quá sợ hăi. Trường hợp như vậy đă xảy ra với nhà du lịch nổi tiếng Đevit Lêvingxtơn tại một vùng rừng Phi Châu. Một con sư tử nhảy đến sau lưng ông và bắt đầu cắn xé. Nạn nhân ngă sấp, cảm thấy rơi vào trạng thái thiêm thiếp, không hề thấy đau và hoảng hốt. Nạn nhân không thể và không muốn cử động, phản kháng. Con sư tử chấm dứt hành hạ cơ thể nạn nhân và ngồi cạnh ông. Khi đó sức lực của nhà du lịch đột nhiên trở lại. Ông bật dậy và phóng chạy thoát thân.
Trong những năm gần đây, các cảm nhận của những người chết lâm sàng đă được phân tích tỉ mỉ trong cuốn sách của R.Mouđi: Cuộc sống sau cái chết. Những người như vậy trải qua một cái ǵ đó giống nhau, mặc dù độ rơ nét có thể khác nhau. Họ rời bỏ "thân xác" và dễ dàng bay bổng lên không trung, quan sát hành vi của mọi người khác từ phía trên. Sau đó một quầng sáng xuất hiện, giúp họ nhớ lại các sự cố của cuộc đời. Quầng sáng có thể thúc giục họ trở lại với "thân xác" v́ c̣n chưa tới lúc "chuyển tiếp"...
Một câu hỏi hay được đặt ra là làm thế nào để phân biệt một người bất tỉnh nhân sự với một người vừa mới chết?
Lịch sử y học đă chứng kiến nhiều trường hợp mà trong đó các bác sĩ giàu kinh nghiệm nhất cũng mắc phải sai lầm. Vào thế kỷ XI, Anđrei Vazali bị kết án tử h́nh v́ đă giải phẫu thân thể một nhà quư tộc Tây Ban Nha. Người này đă tỉnh lại trên bàn mổ và b́nh phục trở lại. Tuy thế, bản án đối với AVazali vẫn được thi hành. Một điều trùng hợp kỳ lạ là chính viên quan toà đă dựng lên án đó, chẳng bao lâu cũng hồi tỉnh trên bàn mổ tử thi, nhưng sau đó ông ta không qua khỏi.
Vào năm 1964, tại một trong các nhà xác ở New York có một "tử thi" sống lại, đă nắm chặt lấy cổ và tay nhà phẫu thuật bệnh lư khi ông ta vừa thao tác dao mổ. Một nhà thơ tên là Patrarka đă hồi tỉnh trước khi đưa đi mai táng 4 giờ và c̣n sống thêm được 30 năm nữa.
Một người phục vụ ở Vatican được coi là đă chết do bệnh hen. Trong số các bác sĩ làm nhiệm vụ có một người rất cẩn thận, đă đưa ngọn nến đến gần mắt người chết. "Tử thi" co giật mạnh và sau đó c̣n sống được khá lâu, với một cái sẹo trên mũi do bỏng.
Vào đầu thế kỷ XX, một hội đồng các bác sĩ có uy tín của Anh đă tiến hành nghiên cứu và kết luận rằng, mỗi năm ở nước này có khoảng 2.500 người bị chôn sống.
Có thể điều vừa nêu bị phóng đại, nhưng quả thật có không ít trường hợp những người c̣n sống đă bị chôn vùi. Chính tại Anh và cuối những năm 60, đă xuất hiện một thiết bị đầu tiên cho phép ghi nhận được hoạt tính điện rất nhỏ của tim. Trong lần thử đầu tiên tại một nhà xác, người ta đă phát hiện được một cô gái c̣n sống nằm giữa các tử thi.
Những điều nêu trên cho thấy rằng, giữa sự sống và cái chết không có một ranh giới rơ ràng như đôi khi chúng ta vẫn tưởng. Sự ngưng thở được coi là dấu hiệu đầu tiên của cái chết. Nhưng ngay từ thế kỷ trước, quan niệm đó đă bị phủ nhận hoàn toàn.
Một số nhà Yoga có thể tự ngừng thở mà sau đó vẫn sống khoẻ mạnh. Dấu hiệu khác của cái chết là sự mất mạch và sự ngừng hoạt động của tim. Tuy nhiên, điều đó không phải bao giờ cùng đúng. Các nhà Yoga có thể điều khiển nhịp đập của tim sao cho các dụng cụ đo chính xác cũng chỉ báo là tim hoàn toàn ngừng đập.
Số đo thân nhiệt cũng không thể là dấu hiệu đầy đủ của cái chết. Đă có những trường hợp người đứng tuổi sống qua ngày ở một khu nhà lạnh lẽo, nhiệt độ thân thể hạ xuống khoảng 24ºC mà họ vẫn không chết.
Một cậu bé ở Thụy Điển được t́m thấy dưới lớp tuyết với nhiệt độ thân thể 18ºC, nhưng đă b́nh phục mà không có những biến chứng đáng kể. Một số chứng bệnh (như tả, đậu mùa, uốn váng) có thể làm cho thân thể tăng nhiệt độ sau khi chết.
Sự thay đổi ở nhăn cầu hay sự cứng đờ của thân thể cũng không phải là dấu hiệu tin cậy của cái chết. Hơn nữa, một số cơ quan tiếp tục hoạt động sau thời điểm chết lâm sàng. Cái chết tiến đến không tức thời. Đó là một dạng tồn tại đặc biệt, một sự tiến hoá dần dần với một xác suất thuận nghịch nhất định. Tử thi không có trường sinh học và cái đó cũng không thể là dấu hiệu của cái chết, bởi v́ trường sinh học ở một số người sống cũng có thể tạm thời biến mất. Tử th́ có thể lưu giữ một hoạt tính điện nào đó cho đến ngày thứ 39, khi mà xung năo đáng kể cuối cùng được ghi nhận.
Tuy vậy, việc hồi sinh được phép tiến hành sau khi nạn nhân bị chết lâm sàng chỉ mấy phút. Bởi v́ nếu để lâu quá th́ trong một số trường hợp, những người được cứu sống sẽ tiếp tục tồn tại mà không có tri giác, giống như những con búp bê sống. Giới hạn thời gian hồi sinh phụ thuộc vào các khả năng của nền y học hiện đại.
Tất cả những điều nêu trên có tác dụng lưu ư chúng ta hăy thận trọng khi xem xét các quá tŕnh xảy ra với con người trên ranh giới giữa sự sống và cái chết.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 206 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:17pm | Đă lưu IP
|
|
|
GƯƠNG LƠM DIỆU KỲ
Năm 212 trước Công nguyên, đoàn thuyền La Mă đang vây thành Syracuse (thuộc Hy Lạp), bỗng trên mặt thành xuất hiện vô số tấm gương phản chiếu ánh nắng mặt trời, khiến đoàn thuyền bốc cháy. Nhà bác học Hy Lạp Archimet đă lợi dụng hiệu ứng gương lơm để tập trung ánh sáng vào một điểm, thiêu cháy kẻ địch.
Người xưa từng sử dụng gương lơm vào nhiều mục đích khác nhau, chủ yếu là trong các tṛ pháp thuật. Gương lơm vốn tạo được một thế ánh sáng không hắt bóng ở tiêu điểm của ḿnh. Các thầy phù thủy và các nhà pháp thuật cho rằng chính ở tiêu điểm của gương lơm tập trung một nguồn năng lượng sinh học vô h́nh, và nếu mắt ai lọt được vào đúng tiêu điểm ấy th́ người đó sẽ có khả năng thấu thị.
Ở nhiều dân tộc có tục gọi hồn người đă khuất bằng chén hoặc chậu đồng ḷng cong, mặt trong nhẵn bóng như gương, thực chất cũng là một dạng gương lơm. Năm 1950, trong một hang sâu ở Epire thuộc miền tây Hy Lạp, nhà khảo cổ Sotir Dakar t́m thấy một chiếc nồi đồng rất lớn, mặt trong nhẵn bóng, có niên đại khoảng 3.000 năm.
Điều kỳ lạ là hễ đưa mắt đến sát mặt phẳng miệng nồi nh́n vào trong, người ta có thể thấy những h́nh ảnh huyền ảo rất lạ lùng, kỳ bí, đặc biệt là mỗi người lại nh́n thấy một h́nh ảnh khác nhau và cùng một người nhưng nh́n ở hai thời điểm khác nhau th́ h́nh ảnh nh́n thấy cũng khác nhau.
Đó là những h́nh ảnh quang cảnh hoặc người, thú vật nhưng ở thời kỳ thời rất xa xưa. Tính toán theo độ cong của đáy nồi, người ta xác định được tiêu điểm của mặt cong này nằm đúng tâm của mặt phẳng miệng nồi. Đáng tiếc là chẳng bao lâu sau, chiếc nồi này bị đánh cắp từ kho của một viện bảo tàng ở Hy Lạp và từ đó đến nay không ai biết ǵ về số phận của nó.
Ở một số dân tộc, các nhà tiên tri lại sử dụng gương lơm để đoán hậu vận. Các pháp sư Ấn Độ thường dùng gương lơm mặt trong tráng vàng, nhưng cũng có người lại ưa dùng loại gương làm bằng sắt ṛng. Sắt nguyên chất, tinh khiết đến 99,999% không bao giờ bị sét rỉ, khi được đánh kỹ th́ cho độ bóng tuyệt hảo và gương sắt được gọi là "gương của hoàng đế Solomon", được đánh giá rất cao trong giới pháp sư chuyên phán hậu vậu cho mọi người. B́nh nguyên Naska với hàng triệu đường hào thẳng tắp, nhằng nhịt. Cũng có những loại gương lơm của người xưa mà công dụng của chúng cho tới nay vẫn c̣n là điều bí ẩn.
Chẳng hạn những chiếc gương được t́m thấy rất nhiều ở gần khu vườn h́nh học Naska ở Peru. Những chiếc gương này có đường kính khoảng nửa mét, hơi cong, được làm bằng hợp kim vàng, bạc và đồng, mặt trong được đánh rất nhẵn. V́ mặt gương chỉ hơi lơm nên gương có tiêu cự đến vài kilomét.
Do mặt gương rất bóng nên sức phản chiếu rất mạnh: ánh nắng mặt trời hắt ra từ gương có thể nh́n thấy rơ ở tiêu điểm, dù nơi đó cách mặt gương hàng cây số. Người ta không hiểu thổ dân da đỏ Inka cổ xưa dùng những tấm gương này làm ǵ. Căn cứ vào khả năng chiếu xa của chúng, có thể đoán họ dùng chúng như một công cụ truyền tín hiệu. Cũng có thể đó là một công cụ xác lập đường thẳng (tại b́nh nguyên Naska có hàng triệu đường hào cắt nhau nhằng nhịt, mỗi đường hào dài hàng chục đến hàng trăm kilomét nhưng đều thẳng tuyệt đối).
Không ít phát minh khoa học ra đời từ gương lơm. Nhà bác học người Anh Roger Bacon (1214-1294) từng sở hữu những tấm gương lơm "bách khoa". Người đương thời coi ông là "nhà phù thuỷ vĩ đại", song theo cách hiểu ngày nay, ông là một nhà thực nghiệm cần mẫn, suốt đời khám phá những bí ẩn của tự nhiên. Không chỉ là nhà vạn vật học, Bacon c̣n là nhà "vạn sự vật học" v́ đă lao vào hầu hết mọi lĩnh vực của cả khoa học tự nhiên lẫn xă hội.
Ông đă chế ra hai tấm gương lơm kỳ diệu, đem giảng dạy ở Đại học Oxford. Với tấm gương thứ nhất, người ta có thể đốt nến vào bất cứ thời điểm nào trong ngày, bằng cách đưa đầu ngọn nến vào đúng tiêu điểm của gương. Tấm gương thứ hai có khả năng giúp người sử dụng nh́n thấy quang cảnh của bất cứ nơi nào trên trái đất nếu mắt người nằm ở đúng vị trí cần thiết cách mặt gương một khoảng nhất định nào đó; nếu xê lệch gương sang góc khác và mắt người cũng di chuyển theo cách thích hợp th́ sẽ nh́n thấy một quang cảnh khác.
Cứ như toàn bộ quang cảnh trên bề mặt trái đất được phản ánh lên một tấm gương nào đó ở thượng tầng không khí rồi phản ánh ngược vào tấm gương kỳ diệu của Bacon. Tấm gương thứ nhất bị các giáo sư đồng nghiệp phản đối v́ sinh viên suốt ngày chỉ chăm chỉ thực tập đốt nến mà không đoái hoài ǵ đến sách vở và các loại thí nghiệm khác. Tấm gương thứ hai th́ bị giáo hội cáo buộc là một vật "tà đạo". Kết quả là cả hai bị đập nát và Bacon bị tước quyền giảng dạy.
Cũng do vụ rắc rối trên đây mà nhiều tài liệu, sách vở, những ghi chép... của Bacon bị đốt bỏ. Nhưng những ǵ c̣n lại đến ngày nay cũng cho biết rằng chính ông là người đầu tiên dự đoán sự ra đời của kính hiển vi, kính viễn vọng, động cơ cho ôtô, máy bay, tàu thuỷ. Hàng trăm năm trước khi Berthold Schwarz chế tạo ra thuốc súng, Bacon đă có những ghi chép về thành phần hoá học cũng như nguyên lư hoạt động của một loại chất có thể gây cháy nổ tương tự như thuốc súng về sau.
Cũng chính nhờ vào kết quả những thực nghiệm về quang học của Bacon mà kính đeo mắt được ra đời vào năm 1287. Những ghi chép của Bacon c̣n cho thấy ông đă mường tượng được cấu trúc tế bào, hiểu được thực chất của quá tŕnh thụ thai chính là sự kết hợp của tinh trùng và trứng. Ngoài ra, Bacon c̣n nắm được nguồn gốc một dạng năng lượng mà tính ra c̣n mạnh hơn gấp nhiều lần năng lượng nguyên tử!
Nhờ đâu Bacon có được những hiểu biết sâu rộng như vậy, khi mà ông sống ở thế kỷ 13, trước vài trăm năm so với các nhà bác học hàng đầu thế giới như Giordano Bruno, Galileo Galilei, Leornado da Vinci, Isaac Newton, Albert Einstein... với những phát minh về sau mới trở thành tri thức của nhân loại? Các nhà bác học cho rằng đó là v́ ông chế tạo ra được những dụng cụ khoa học đặc biệt hoặc được hưởng những dụng cụ như vậy từ một nguồn gốc bí ẩn nào đó.
Một trong những loại dụng cụ đặc biệt ấy chính là gương lơm. Trong những ghi chép của Bacon c̣n lại đến ngày nay có một tài liệu cho biết ông đă "nh́n thấy bằng gương lơm một ngôi sao h́nh con ốc sên nằm ở khoảng giữa các cḥm sao Pegas, Andromed và Kassiopei". Thật đáng kinh ngạc là 400 năm sau, vào thế kỷ 17, với những kính viễn vọng mạnh, các nhà thiên văn học châu Âu đă t́m ra tinh vân Andromed h́nh xoắn ốc ở đúng ngay vị trí này.
Tại sao gương lơm lại có những khả năng đặc biệt như vậy? Chưa ai có thể giải đáp thấu triệt, nhưng đại để, cũng như gương phẳng, gương lơm phản xạ những năng lượng nh́n thấy được và không nh́n thấy được, thậm chí cả những bức xạ tinh tế của cơ thể con người, nhưng gương lơm có thể gia cường những dạng năng lượng này. Đặc biệt, chỉ gương lơm mới tạo ra được tiêu điểm, điểm hội tụ tất cả những tia phản xạ. Đây cũng chính là điểm mấu chốt của những ǵ được coi là khả năng huyền bí, diệu kỳ của gương lơm.
Năm 1667, các nhà khoa học ở viện hàn lâm khoa học Florentie đă làm một thí nghiệm sau: hướng mặt gương lơm về phía một khối băng lớn đặt ở khoảng cách khá xa và kết quả đo đạc cho thấy nhiệt độ ở tiêu điểm của gương lơm thấp hơn đáng kể so với nhiệt độ không khí xung quanh. Các viện sĩ kết luận rằng vật lạnh cũng phát ra bức xạ lạnh, tương tự như vật thể nóng phát ra bức xạ nhiệt.
Ngày nay chúng ta biết rằng không hề có cái gọi là "bức xạ lạnh". Căn cứ trên quy luật nhiệt động học, khoa học hiện đại chứng minh được rằng thực ra không phải "tia lạnh" hội tụ ở tiêu điểm gương lơm mà chính là do nhiệt ở điểm đó có xu hướng thoát ra môi trường xung quanh. Như vậy, gương lơm có đặc tính không chỉ của một ăngten thu mà c̣n của ăngten phát. Ngày nay, các ăngten thu phát sóng vô tuyến truyền thanh, truyền h́nh đều có dạng ḷng chảo (ăngten parabol) là v́ thế.
Gương lơm không chỉ mang lại những điều kỳ diệu mà c̣n có thể gây tai họa bởi chúng có khả năng ghi nhận và lưu trữ thông tin. Vào khoảng cuối thập niên 1980, giáo sư Kozyrev, người Nga, đă chế tạo một hệ thống gương lơm bằng nhôm để nghiên cứu các loại bức xạ khác nhau, trong đó có cả những bức xạ từ các sinh thể. Thật kỳ diệu, hệ thống gương Kozyrev c̣n phát huy tác dụng trong một hoạt động được gọi là tác động từ xa.
Vào đầu thập niên 1990, các nhà khoa học ở Phân viện hàn lâm khoa học Nga tại Novosibirsk đă tiến hành một số thí nghiệm với gương lơm Kozyrev và thu được những kết quả đáng kinh ngạc, trong đó phải kể đến cuộc thí nghiệm trao đổi thông tin giữa những người xa lạ ở cách nhau nửa ṿng trái đất mà không cần đến một thiết bị kỹ thuật liên lạc nào, với sự tham gia của hơn 4.000 người ở 22 quốc gia khác nhau. Nhưng gương lơm không chỉ mang lại những điều kỳ diệu mà c̣n có thể gây tai họa bởi chúng có khả năng ghi nhận và lưu trữ thông tin.
Năm 1997, Hội cổ vật Pháp yêu cầu báo chí phổ biến rộng răi lời cảnh báo đối với những người sưu tầm đồ cổ nói riêng và dân chúng nói chung là không nên lưu giữ, mua hoặc bán một chiếc gương cổ có ḍng chữ "Louis Arpo, năm 1743" trên khung bao, nếu có nó trong tay, hăy mau đem nộp cho chính quyền hoặc cảnh sát. Theo thống kê của các nhà thi hành luật pháp nước này, cho đến đầu thế kỷ 20, trong gần 200 năm tồn tại và qua tay nhiều chủ, chiếc gương đă gây cái chết cho tổng cộng 38 người.
Cần biết rằng đây là một chiếc gương hơi lơm, có thể phóng to h́nh ảnh lên một chút, rất thuận tiện cho các bà các cô dùng để sửa lông mi, kẻ lông mày và thực hiện một số trang điểm tinh tế trên mặt.
Từng có nhiều giả thuyết khác nhau về cơ chế gây hại của nó. Có người cho rằng đây là một chiếc gương đặc biệt, có khả năng phản chiếu những tia sáng dị thường gây xuất huyết năo. Người khác đoán rằng chiếc gương đă tích tụ những nguồn năng lượng siêu nhiên nào đó rồi phản ánh, tác động lên người đối diện. Lại có người cho rằng đó là một chiếc gương chứa phép thuật, có thể h́nh dung như một cái phễu, hút linh hồn con người sang thế giới bên kia.
Tất cả chỉ là phỏng đoán, chưa có một nghiên cứu khoa học nào, v́ chiếc gương này bị nhốt trong kho suốt gần 1 thế kỷ và khi có nhà khoa học nhớ tới th́ nó đă không cánh mà bay. Dù sao, các nhà khoa học vẫn cố gắng t́m lời giải đáp cho những cái chết bí ẩn mà người ta cho rằng do chính chiếc gương nọ gây ra.
Theo một luận thuyết th́ gương có một đặc tính gần như nam châm: hút và lưu giữ những chất độc. Từ thế kỷ 17, nhà triết học người Italy Tomaso Campanella (tác giả cuốn sách Thành phố mặt trời, được coi là tuyên ngôn của chủ nghĩa xă hội không tưởng) từng viết: "Những phụ nữ già yếu hay nhỏ đờm giăi và chảy nước mắt sống, hơi thở nặng mùi, mỗi khi soi gương th́ làm cho gương mờ đi do tác động của những chất độc hại thoát ra từ nước mắt, đờm giăi và hơi thở...".
Năm 1739, các nhà khoa học ở Viện hàn lâm khoa học Pháp cũng có một kết luận tương tự, được ghi thành văn bản hẳn hoi: "Khi một người phụ nữ già yếu ngồi trước gương lâu hơn cần thiết, trên mặt gương sẽ tích tụ hơi ẩm chứa những chất không tốt từ người đó. Các phân tích hóa học cho thấy những chất đó rất độc hại...".
Kết luận này phần nào lư giải điều kiêng kỵ trong dân gian: không được soi gương khi đang ốm đau hay cảm thấy mệt mỏi trong người, thậm chí khi tâm trạng có điều ǵ buồn bực. Người ta cho rằng những lúc như thế, trong người thường phát ra hơi độc, hơi độc này được gương hấp thu rồi sau đó phát ra rất mạnh, gây ảnh hưởng không tốt đến người sử dụng gương sau đó.
Tuy nhiên, theo các nhà khoa học hiện đại, chiếc gương Louis Arpo nếu thật sự gây ra cái chết cho mấy chục người th́ cũng không phải do chất độc tích tụ trên mặt gương. Chất độc, dù mạnh đến mấy, cũng có thể lau rửa dễ dàng, đặt biệt là trên mặt gương sáng bóng, mà suốt mấy trăm năm lẽ nào chiếc gương này không được lau rửa một lần? Nhưng có thể tiếp cận vấn đề từ một hướng khác: rất có thể chiếc gương đă tích tụ, lưu giữ và rồi phát ra một lượng thông tin nào đó, hay nói đơn giản, đó là một chiếc gương có kư ức...
Chiếc gương treo hay đặt trong nhà chính là một nhân chứng thầm lặng, chứng kiến toàn bộ những ǵ xảy ra trong thị trường của ḿnh. Nói cách khác, nó như là một chiếc máy quay phim ghi lại tất cả những ǵ diễn ra trước "ống kính" của ḿnh. Song chúng ta ai cũng biết rằng h́nh ảnh phản chiếu trong gương chỉ là ảnh ảo và gương soi không bao giờ có được tính năng của máy quay phim.
Tuy nhiên, việc gương soi có khả năng ghi nhận, lưu giữ thông tin tuy khó tin nhưng lại rất có thể có thật. Cũng giống như nhiều thứ đồ vật khác, gương có thể mang trong ḿnh dấu ấn nhân cách người chủ. Từ xa xưa, người ta đă quan niệm rằng một đồ vật nào đó được một người sử dụng lâu dài th́ sẽ hấp thụ tư duy, t́nh cảm của người đó.
Ngoài ra, gương cũng như nhiều thứ đồ vật khác có thể hấp thụ, lưu giữ thông tin về những diễn biến của các sự vật diễn ra xung quanh ḿnh, đặc biệt đối với một chiếc gương lơm vốn có tính năng của một ăngten thu, phát như đă nói phần trước.
Trong một thí nghiệm sinh học có sử dụng gương, các nhà nghiên cứu Nga đă t́nh cờ phát hiện đặc tính "nhớ" của gương: Những chiếc gương sau khi được sử dụng trong thí nghiệm vẫn lưu giữ và phát xạ thông tin về những vật thí nghiệm được đặt ở trước mặt chúng. Đặc tính này của gương gây không ít phiền toái cho các nhà khoa học, v́ ở các thí nghiệm sau, những thông tin được lưu giữ từ những lần trước do gương phát ra có thể gây nhiễu, ảnh hưởng đến kết quả. Tuy nhiên, đây lại là cơ sở khoa học khá vững chắc để lư giải hiện tượng chiếc gương "sát thủ" ở Pháp.
Từ xa xưa, trong nhiều dân tộc ở châu Âu tồn tại quan niệm rằng làm vỡ gương là một điềm xấu. Dĩ nhiên, trong một gia đ́nh êm ấm, những thông tin lưu giữ trong gương là những điều tốt đẹp và nếu đó là một chiếc gương lâu đời th́ đó chính là cuốn biên niên sử của gia đ́nh. Tuy nhiên, thử h́nh dung những người chủ thường sử dụng gương trong những thời điểm đặc biệt như khi đang tức giận, buồn bực, căm thù, oán hận...
Khi đó, cơ thể bị kích hoạt rất mạnh, v́ thế, nguồn năng lượng sinh học mà họ phát ra cũng mạnh tương ứng, rất dễ dàng hấp thụ vào gương để rồi sau đó phát ra. Nếu đó là gương phẳng th́ tác hại không lớn lắm, nhưng nếu là gương lơm th́ năng lực phát xạ có thể cao hơn gấp nhiều lần, mà tiêu điểm của gương chính là nơi hội tụ những tia năng lượng "xấu" này.
Những chủ nhân về sau, dù hoàn toàn vô tội, nhưng nếu cơ thể họ ở vào đúng tiêu điểm của gương th́ sẽ rất có hại, đặc biệt nếu tiêu điểm rơi vào đúng những bộ phận quan trọng của cơ thể như năo, tim chẳng hạn th́ sự nguy hiểm đến tính mạng là điều khó tránh khỏi.
Pravda
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 207 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:18pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÓNG NGƯỜI TRÊN SƯƠNG MÙ
Ở ngoài, đêm tối như mực. Trong toa hạng nh́, riêng tôi ngồi đối diện với Trạch, một người bạn cũ, t́nh cờ gặp v́ cùng đi một chuyến xe. Mười năm trước, bạn tôi c̣n là một người cầm lái xe lửa, cũng hàn vi như tôi; bây giờ gặp nhau trong toa hạng nh́, hai người cùng ngạc nhiên và cùng mừng cho nhau.
Lúc nói chuyện, tôi thấy bên cạnh bạn có cái hộp khảm rất đẹp, liền cầm lấy xem, rồi t́nh cờ mở hộp ra; bạn tôi như có ư không bằng ḷng, nhưng v́ nể tôi nên không nói ǵ. Tôi nh́n vào hộp thấy rất lạ: hộp bịt kín, ở trong có một con bướm rất to, hai cánh đă xơ xác. Tôi hỏi bạn:
- Con bướm này vùng tôi thường thấy luôn, quư ǵ mà anh giữ cẩn thận thế này.
- Vâng, bướm thường, nói cho đúng th́ chính là một con ngài, nhưng đối với tôi..
Vừa nói đến đấy, xe rầm rầm đi qua một cái cầu sắt. Bạn tôi lắng tai nghe rồi nói:
- Xe đi qua cầu N.G.. Tôi bắt con bướm chính ở giữa cái cầu này đă mười năm nay..
Thấy bạn có vẻ khác, tôi đoán có chuyện ǵ, liền hỏi:
- Con bướm này chắc cũng có sự tích ǵ đấy
- Vâng, nhưng sự tích buồn... chuyện đă ngoài mười năm: mười năm trước độ anh đi Saigon th́ tôi c̣n là anh cầm lái tầu hỏa. Chính độ ấy tôi chạy con đường này, t́nh cảnh tôi độ ấy anh đă rơ.
- Cũng như t́nh cảnh tôi..
- Nhưng có một việc tôi không nói anh hay là độ ấy tôi có lấy một người vợ, nhưng giấu nhà, giấu mọi người, giấu anh. Chúng tôi sống trong t́nh cảnh nghèo khổ mà thật lấy làm sung sướng. Nhưng v́ cảnh nghèo, v́ nhà tôi không quen chịu được kham khổ nên người một ngày một yếu dần.
Về sau nhà tôi bị bịnh nặng mà tôi th́ vẫn phải đi làm, không ai trông nom ở nhà. Một đêm nhà tôi yếu quá ngất người đi mấy lần, mà chính đêm ấy là đêm tôi được ông Chánh cử đi cầm lái chuyến xe riêng chở quan Toàn Quyền. Thật là một dịp rất hay cho tôị Nhưng tôi biết không thể nào đi được, liền vào kêu với ông Chánh, nói là vợ ốm. Ông Chánh đập bàn đập ghế, gắt:
- Tôi không biết! Một là mười giờ đêm nay anh phải có mặt ở ga, hai là từ giờ này trở đi anh đừng bước chân tới đây nữa. Thôi anh ra!
Lời ông Chánh nói quả quyết, tôi phân vân không biết nghĩ ra sao: lúc về nhà, ngồi ở đầu giường, nh́n đến vợ mới biết rằng không đi được, dầu có mất việc làm cũng không cần.
Nhà tôi thấy tôi có vẻ lo nghĩ, hỏi nguyên cớ v́ sao, tôi liền đem việc ấy kể lại cho nhà tôi nghẹ Nhà tôi nghe xong, vẻ mặt tươi hẳn lên bảo tôi rằng:
- Thế cậu đi chứ! Việc ǵ phải ngần ngừ! Tôi không việc ǵ đâu, đă thấy đỡ nhiều. Chiều mai về mua cái ǵ làm quà cho tôi đấy.
Tôi thấy nhà tôi cười nói vui vẻ, tôi vững tâm, thay quần áo ra ga. Đến ga đúng mười giờ. Nhưng khi cho xe chạy rồi, tôi mới thấy lo, tôi mới biết là tôi liều Lúc đó tôi có cái cảm giác lạ lắm: h́nh như tôi đi thế này, lúc về chắc không nh́n thấy mặt vợ tôi nữa. Tôi cố định trí để cầm máy, nhưng chỉ được một lúc thôi.
Bỗng cả chuyến xe lửa nghiêng về một bên, rồi lắc lư như muốn đổ. Người "ét" của tôi vội bỏ cái xẻng xúc than, níu lấy tôi nói:
- Ô hay! hôm nay ông làm sao thế? Chỗ ấy đường cong nguy hiểm thế mà ông không hăm máy. Ông ngủ à?
Tôi không ngủ nhưng người tuy ở đây mà trí c̣n nghĩ đến người vợ nằm đợi chết một thân, một ḿnh trong gian nhà nhỏ kia. Mắt tôi hoa lên, mồ hôi ra ướt đẫm cả người.
Xe đi vào khe núi, hết cao lại xuống thấp như có vẻ nhọc nhằn. Tôi tḥ đầu ra cửa nh́n thẳng trước mặt, nhưng đêm ấy sương mù đầy trời, không nh́n rơ ǵ cả, chỉ một màu trắng xóa dưới ánh hai cái đèn ở đầu toa. Bỗng tôi thấy.. rơ ràng, tôi thấy in trên sương mù một cái h́nh người đàn bà mặc áo rộng đứng dang tay. Tôi dụi mắt tưởng ḿnh trông hoảng, nhưng không, h́nh người đàn bà vẫn đấy. Tôi gọi người "ét" lại cửa toa, bảo ông ta nh́n rồi hỏi:
- Bác có thấy ǵ không?
Vừa nói xong h́nh người vụt biến mất. Bác "ét" tḥ đầu ra và bảo tôi:
- Chỉ thấy sương mù! ông lại mê ngủ rồi.
- Không rơ ràng tôi thấy có h́nh người đàn bà in trên sa mù nhưng vừa biến mất.
Người "ét" cười ra vẻ không tin, lấy xẻng xúc than cho vào ḷ, c̣n tôi vẫn đứng nguyên chỗ cũ đăm đăm nh́n thẳng trước mặt. Được một lát, h́nh người đàn bà lại hiện ra, lần này rơ ràng hơn, hai tay ngăn thẳng như muốn ngăn đường không cho xe chạy lên nữa.
Tôi gọi người "ét" nhưng bác ta làm bộ không nghe thấy cứ cắm đầu xúc than cho vào ḷ. Tôi biết tôi không mê, tôi biết là cái h́nh người ấy có thật, mà ai cũng phải thấỵ Tôi đến cầm lấy tay bác "ét" kéo bác ra xem rồi bảo, cả quyết:
- Nh́n xem!
Bác ta há hốc mồm giương to đôi mắt, hốt hoảng nói:
- Lạ thật!... ma ông ạ!
Xe tiến đến đâu, cái h́nh người lại đến đấy, có lúc mờ, lúc rơ, lơ lửng giữa lưng trời.
Rồi cái h́nh người ấy vẫy hai tay một cách thong thả, như có ư bảo chúng tôi đừng tiến lên nữa, có sự ǵ nguy hiểm.
Tôi bảo bác "ét":
- Bác này, có sự ǵ lạ sắp xảy ra.
- Vâng, sao cái h́nh lại như lấy tay làm hiệu bảo ta đứng lại.
Cái h́nh người trước c̣n vẫy tay thong thả, sau vẫn thật nhanh như người tỏ ư thất vọng, v́ bảo chúng tôi mà chúng tôi không nghe.
- Hay ta dừng xe lại xem sao, chắc là ma!
- Không được, tự nhiên vô cớ.
C̣n tôi lúc bây giờ hai tai ù như người mất trí khôn: tôi văng vẳng nghe có tiếng người ở thật xa đưa lại, tiếng một người đàn bà bảo tôi:
- Đỗ lại! Đỗ lại!
Tôi lắng tai, tay nắm chặt lấy cái "phanh" như định hăm rồi lại không hăm.
Một lát, tôi lại nghe thấy tiếng người đàn bà, rơ hơn lần trước, giục tôi:
- Hăm lại! Hăm ngay lại!
Lúc bấy giờ tôi không biết ǵ nữa, nhắm mắt hăm phanh lại thật mạnh. Các toa rùng một cái, bánh xe kêu rít lên trong đêm thanh vắng. Xe chạy từ từ một quăng rồi đỗ hẳn. Tôi chưa kịp bước xuống, đă thấy người "xếp tanh" cầm đèn lên hỏi:
- Việc ǵ thế?
Tôi luống cuống không biết trả lời làm sao, v́ nói thật ai tin ḿnh. Tôi trả lời một cách mập mờ:
- Chắc có sự ǵ lạ. Để tôi cầm đèn đi xem đă.
Lúc bấy giờ mấy ông quan hầu quan Toàn Quyền cũng vừa đến, rồi thấy lạ, đi theo chúng tôị Vừa đi được một quăng th́ nghe trước mặt có tiếng nước chảy ầm ầm. Tôi định tâm mới nhớ ra rằng đó là cầu N.G..
Mấy đêm ấy mưa lũ, nước chắc chảy xiết, nên mới réo to như vậỵ Đến bờ sông, giơ đèn lên soi, mấy người đều kinh hoảng: cái cầu N.G. bị nước nguồn chảy về xoáy gẫy làm đôi.
Một tí nữa, nếu không hăm kịp th́ cả một chuyến xe riêng chở quan Toàn Quyền đâm nhào xuống sông sâu, chắc không sống sót một ai; tưởng không có cái tai nạn nào ghê gớm hơn, thế mà chính v́ tôi nên mới không có cái tai nạn ấy. Tôi đứng ngẩn người không hiểu sao cả.
Người "xếp tanh" mừng cuống quít, hỏi tôi:
- Sao ông biết mà hăm?
- Tôi cũng không hiểu.
Mấy người quan hầu có vẻ mừng lộ ra mặt, xúm xít quanh tôi hỏi dồn, tôi không biết trả lời ra sao, một lát, mọi người đứng giăn ra, quan Toàn Quyền đến, ngài không nề tôi là người lao động, trong lúc mừng quá, ngài giơ tay bắt tay tôi, cái bàn tay đầy bụi than, rồi ngài tỏ lời khen.
Tôi chắc rồi sau thế nào cũng được trọng thưởng, nhưng trọng thưởng lúc đó đối với tôi cũng như không. Tôi chỉ nghĩ đến nhà tôi ở nhà, không biết ra sao. Tôi đi trở lại và thoáng thấy cái ǵ bám ở cái đèn để đầu toa, nh́n kỹ th́ ra một con bướm thật to, vướng vào đèn, đương đập cánh để t́m đường thoát. Chính là con bướm trong cái hộp này đây.
Trông thấy con bướm tôi thốt nghĩ ra ngay. Chính phải rồi, chính cái h́nh người đàn bà lúc năy là cái bóng con bướm này in lên trên sương mù, đầu con bướm là đầu h́nh người mà hai cánh con bướm đập là hai cái tay người vẫy.
Tôi bắt con bướm rồi định thả cho nó bay đi, sau nghĩ con bướm đă giúp ḿnh được việc, nên giữ lại làm kỷ niệm. Tôi nh́n vào đồng hồ trong toa, thấy kim chỉ đúng hai giờ đêm...
Hôm sau tôi vừa về tới cổng nhà th́ thằng nhỏ chạy ra báo tin nhà tôi mất, mất vào khoảng một giờ đêm qua.
Tôi không hay tin nhảm; tôi chắc đó chỉ là một sự t́nh cờ, một sự ngẫu nhiên, nhưng tôi vẫn yên trí rằng linh hồn nhà tôi đă nhập vào con bướm này để phù hộ cho tôi tránh được tai nạn hôm ấy. Nhưng tránh được tai nạn mà làm ǵ, tôi thoát được thân tôi mà làm ǵ, giầu sang phú quư bây giờ đối với tôi cũng như không, tôi cũng chỉ như con bướm này, xác đấy mà hồn tận đâu đâu.
Bạn tôi kể xong câu chuyện, đậy cái hộp khảm lại, rồi lại thẫn thờ nói:
- Bây giờ chỉ c̣n lại cái xác bướm không hồn!
Nhất Linh
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 208 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:18pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐIỀU BÍ ẨN VỀ GIÁC QUAN
Hầu như ai trong số chúng ta cũng có một vài mức độ của khả năng ngoại cảm. Có người giống như chim thiên di, v́ họ luôn biết hướng bắc nằm ở đâu, trong khi những người khác không cần phải đeo đồng hồ, v́ họ biết lúc nào là mấy giờ. Khi bị ai đó nh́n lén, chúng ta đều có cảm giác “nhồn nhột”, khó chịu.
Nếu bạn nghĩ rằng con người có 5 giác quan th́ vẫn chưa chính xác. Ngoài các giác quan thông thường như: thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác và vị giác, con người c̣n có thêm một giác quan nữa, được gọi là cảm giác vận động trong cơ thể, tức là chúng ta có thể nhận thức được mức độ căng cứng của các cơ, vị trí tương đối của các chi trong cơ thể chẳng hạn.
Tuy nhiên, các nhà tâm lư học và khoa học c̣n đề cập về giác quan thứ bảy, chứ không phải là “giác quan thứ sáu” như chúng ta vẫn thường hay nói!
Giác quan thứ bảy là một tập hợp của các giác quan, gọi chung bằng cái tên “khả năng ngoại cảm”. Một trong những bằng chứng sống kỳ lạ nhất về ngoại cảm là cô Jane O'Neil ở Anh. Cô đă tận mắt chứng kiến một tai nạn giao thông nghiêm trọng. Cú sốc lớn đến nỗi cô phải nghỉ việc trong nhiều tuần. Sau biến cố này, cô phát một khả năng nh́n thấy bằng “con mắt thứ ba”.
Một ngày nọ, cô cùng với một người bạn đi nhà thờ Fotheringhay ở Northamptonshire. Jane nh́n ra phía sau bàn thờ và thấy có một bức tranh rất đẹp, trong khi cô bạn th́ chẳng thấy ǵ cả.
Sau đó, hai cô quay trở lại nhà thờ lần nữa để “làm cho ra ngô ra khoai”. Nhưng lần này th́ Jane hết sức kinh ngạc khi trông thấy quang cảnh của một nhà thờ hoàn toàn khác lạ, nhỏ bé hơn nhà thờ hiện tại, nhưng bức tranh th́ đă biến mất.
Cô mô tả h́nh ảnh này với một chuyên gia am hiểu về lịch sử địa phương, th́ được biết đấy chính là căn nhà thờ cổ có từ trước đó 400 năm, và được trùng tu vào năm 1553. Tuy nhiên, có nhà khoa học lư giải rằng Jane đă trải qua một biến động trong cuộc sống, nên cô đă có một số ảo giác. Và một trong các ảo giác đó vô t́nh trùng hợp với thực tế của lịch sử.
Cô Jane là một trong những trường hợp có khả năng nh́n về quá khứ của 4 thế kỷ trước. Một số người có thể cảm nhận được sự hiện hữu của một vật thể lớn ở gần đấy. Và dù có bị bịt mắt, họ vẫn không dại ǵ bước đâm sầm vào một bức tường. Khá nhiều người trong chúng ta có khả năng phân tích cường độ và chất lượng âm thanh. Chỉ cần nghe qua một đoạn nhạc là có thể nói đích xác đó là những nốt ǵ. Danh sách về các giác quan c̣n có thể thêm vào rất nhiều.
Chuyển sang thế giới động vật, chúng ta đă khám phá ra vô số những giác quan mà con người không có. Dơi, cá heo và những con vật khác dùng sóng âm siêu âm là một ví dụ rơ ràng nhất. Nếu giải thích đó là sự mở rộng của khả năng thính giác th́ quá đơn giản, đặc biệt là trong trường hợp của cá heo. Người ta vẫn chưa hiểu nhiều về một giác quan ở một số loài cá, giúp chúng có thể phát hiện ra một vật thể dựa vào những hoạt động điện tinh tế của vật thể này.
Nhiều cơ quan ở những con thú săn mồi ban đêm có thể “thấy”, sử dụng các tế bào nhạy cảm với nhiệt. Đây cũng là một danh sách có thể bổ sung thêm nhiều cùng với thời gian. Thậm chí đă có một số bằng chứng là cây cối cũng có giác quan, nhưng những giác quan đó là ǵ th́ chúng ta vẫn chưa biết được đích xác.
Nói tóm lại là không có câu trả lời chắc chắn nào cho câu hỏi thế giới sinh vật có bao nhiêu giác quan.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 209 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:19pm | Đă lưu IP
|
|
|
KHÁM PHÁ THẾ GIỚi BÙA NGẢI THỜI CỔ ĐẠI
Nhiều thầy pháp bất lương luyện một loại ngải hại người, đó là ngải yêu (hay bùa mê, thuốc lú). Ai bị trúng ngải đó là tâm thần mê man, bỏ nhà cửa chạy theo tiếng gọi của ái t́nh.
Trong thế giới của những thầy pháp thời cổ đại tồn tại nhiều bí kíp kỳ lạ. Bùa ngải là một trong số đó. Ngày nay khoa học đă cho thấy đó là những điều hoang đường, tuy nhiên những câu chuyện đồn đại xung quanh chúng vẫn là những điều đầy hấp dẫn và nhuốm màu huyền bí.
Thuật luyện những giống thực vật đặc biệt và truyền cho chúng những khả năng siêu nhiên để đoán biết tương lai, cải tạo số phận, hay chữa trị bệnh nan y... thời xa xưa khá thịnh hành ở nhiều nước châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ và khu vực Đông Nam Á. Người ta gọi đó là luyện ngải và tin rằng ngải giúp con người chế ngự sức mạnh huyền bí.
Những pháp sư cao thủ dành cả cuộc đời ḿnh để luyện "công lực". Họ có thể biểu diễn những kỹ năng kinh dị như nhúng tay vào vạc dầu sôi, hay dùng đinh đâm xuyên qua người... Sau khi đă luyện thành cao thủ, họ sẽ t́m và chăm sóc một số loài thực vật mà theo họ có khả năng đặc biệt để truyền "công lực" sang. Các thầy pháp thuộc diện cao thủ bao giờ cũng là tay chuyên luyện bùa ngải hay độc trùng. Thông qua việc nuôi ngải, luyện độc trùng, các pháp sư khẳng định quyền năng của họ, qua đó đánh giá tài cao thấp.
Theo những câu chuyện lưu truyền, loại ngải quư hiếm nhất là Phù phấn ngải. Đây là một loại thực vật giống hoa lan đất nhưng có bộ rễ lớn hơn, thường mọc trong rừng thẳm. Loại ngải này có một lớp bột mịn phủ trên lá, nếu ai vô ư đụng phải sẽ thấy ngứa ngáy khó chịu, sau đó toàn thân sưng phù, đau đớn trong khoảng 100 ngày sẽ chết nếu không được các vị cao tăng cứu chữa. Loại ngải này rất hiếm, được gọi là "Phù phấn ngải" v́ lớp bột rất độc trên lá. Nhưng nếu được tôi luyện đúng cách, nó sẽ trở thành một loại ngải cứu người rất quư.
Những cao tăng muốn t́m được loại ngải này phải vào sâu trong rừng thẳm. Khi t́m được, phải loại bỏ lớp phấn độc bên ngoài một cách rất khéo rồi đem trồng vào chậu đất nung, cho các chất tượng trưng cho Ngũ hành vào (gồm có đất núi, diêm sinh, sắt, gỗ mục, muối biển).
Sau khi nuôi trồng, người ta đặt ngải lên bàn thờ và bắt đầu luyện bằng các quyền phép của bản thân. Khi ngải được luyện xong, trong nó sẽ có 2 phần được gọi là thiên năng (năng lực tự nhiên) và linh phù (năng lực của người luyện). Các tay luyện ngải cao cấp c̣n nuôi ngải bằng trứng gà, hoặc máu gà. Họ cho rằng làm như vậy ngải sẽ mạnh hơn. Nhưng với những người non tay, cách luyện này có thể gây nguy hại cho chính họ. Phù phấn ngải luyện xong dùng để trị bệnh mất trí, hoảng sợ, thậm chí có thể t́m được người bị mất tích.
Một loại ngải c̣n quư hiếm hơn và đă bị thất truyền hàng trăm năm là Bạch đại ngải. Người ta cho rằng Bạch đại ngải mọc ở đâu th́ các loài thú dữ đều hoảng sợ và không dám sinh sống ở quanh đó. Nếu ai đó trồng loại ngải này mà không biết về tu luyện th́ sẽ nguy hại cho bản thân. Trước khi nhổ cây, phải ngâm một bài bùa chú, đại khái: "Nhiệm màu thay, nhiệm màu thay/Bạch đại ngải, Bạch đại ngải...". Nếu loài ngải này mà được một cao tăng luyện th́ sẽ có thể giúp con người cải tử hoàn sinh.
Những pháp sư chạy theo vụ lợi cá nhân thường luyện một loại ngải hại người, đó là ngải yêu hay bùa mê, thuốc lú. Đó là thứ ngải để "lừa t́nh". Ai bị trúng ngải đó là tâm thần mê man, không biết ǵ về đạo lư, bỏ nhà cửa chạy theo tiếng gọi của ái t́nh. Những người bị trúng ngải yêu có dáng điệu luôn suy tư, hờ hững với xung quanh.
Loại Mê tâm ngải có tác dụng tương tự. Cây mê tâm lá màu xanh sẫm to bản, h́nh cái kiếm, hoa màu tím đen có đốm trắng, có mùi hắc rất khó chịu. Người trúng ngải này sẽ mất ăn mất ngủ, tâm thần bất loạn. Những kẻ muốn dùng ngải mê tâm hại người bắt buộc phải biết tên tuổi của nạn nhân th́ mới thành công. Những tay nuôi loại ngải này thường bị dân làm ngải coi thường, liệt vào loại mờ ám.
Một loại ngải khác có tên khá kinh dị là Huyết nhân ngải. Nó mọc trong các khu rừng có thú dữ. Muốn t́m được Huyết nhân ngải, phải đợi vào đêm, khi ngải ửng lên màu đỏ như máu mới có thể nh́n thấy và nhổ được v́ ban ngày lá cây màu xanh như b́nh thường. Hoa của loài ngải này nhỏ li ti và có màu đỏ như những giọt máu.
Tương truyền, loài hổ báo sau khi ăn thịt những người tuổi Dần sẽ bỏ lại quả tim của nạn nhân, từ quả tim bỏ lại đó sẽ mọc lên Huyết nhân ngải. Khi nhổ loài ngải này, phải đọc thần chú, luyện để nó hội đủ khí âm dương trong hàng năm trời. Củ của Huyết nhân ngải nếu đem ngậm một lát nhỏ sẽ giúp nhịn đói 1 tuần mà sức lực không suy giảm. Ngải này giúp người dùng có thần giao cách cảm, đoán biết được những sự kiện ngh́n trùng xa cách.
Tại Trung Hoa có một loài thực vật rất quư hiếm mọc trong rừng sâu, trên những thân cây gỗ mục. Có những pháp sư cả đời đi t́m không thể thấy, nhưng nếu ai có duyên sẽ gặp được, đó là loại Mai hoa xà vương ngải. Theo những tài liệu về bùa ngải th́ loài này có thân mềm mại, lá xanh đốm vàng trông như rồng cuốn. Hoa nở sắc vàng, hồng rực rỡ, có mùi hương vô cùng quyến rũ. Xung quanh cây có nhiều rắn chúa Mai hoa đến ở mới có tên như vậy.
Mai hoa xà vương ngải nếu luyện được thành công, khi ngậm vào miệng sẽ giúp thân thể cứng rắn như thép, dao chém không đứt. Nếu chẳng may ngải chết, người luyện phải làm lễ ma chay rất trang trọng và đem chôn trên vùng núi cao thoáng mát.
Ngày nay khoa học phát triển, không c̣n đất cho các pháp sư hành nghề luyện ngải nữa. Tuy vậy, những câu chuyện đậm màu huyền bí vẫn là đề tài hấp dẫn những người hiếu kỳ trong lúc "trà dư, tửu hậu". Mặt khác, các nhà Đông y học đang tiếp tục nghiên cứu những loài thực vật rất quư hiếm vốn được dùng làm ngải để dùng cho việc chữa bệnh.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 210 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:21pm | Đă lưu IP
|
|
|
CÓ HAY KHÔNG KIẾP LUÂN HỒI
Sau khi chết, con người có “trở lại” mặt đất theo một vài dạng khác không? Giới khoa học phương Tây và các chuyên gia tâm lư đă dày công nghiên cứu một cách có hệ thống về “kiếp luân hồi” từ rất lâu nhằm phân tích dưới ánh sáng khoa học về bản chất vấn đề.
Dẫn đầu là một nhóm giáo sư thuộc Trường đại học Yale ở Mỹ từng thu thập khắp thế giới các bằng chứng liên quan đến “kiếp trước” hoặc sự “đầu thai vào kiếp sau”. Rồi họ nghiên cứu chúng một cách tỉ mỉ, logic và nghiêm túc.
Nếu phát hiện ra điều ǵ đó “không b́nh thường”, họ liền phân tích một cách chuyên sâu hơn nhằm khám phá xem có liên quan ǵ tới “kiếp luân hồi” theo quan điểm tín ngưỡng cố hữu không? “Mảnh đất màu mỡ” cho các cuộc nghiên cứu nói trên đa số là các trẻ em.
Roberta Morgan, sinh ngày 28/8/1961 ở tiểu bang Minnesota (Mỹ), bắt đầu kể về “kiếp trước” của ḿnh:
Trong thời c̣n là một bé gái. Người mẹ th́ cho rằng con bé nói rặt những chuyện ngốc nghếch và luôn t́m cách ngắt lời đứa bé. Nhưng Roberta vẫn không ngừng kể về “cha mẹ trước đây” của ḿnh. Em c̣n kể về chiếc ôtô mà “người cha kiếp trước” từng có và khẳng định rằng em đă cùng sống với “cha mẹ cũ” tại một khu trang trại.
Khi bé gái lên 4 tuổi, em được dẫn tới một trại chuyên thuần ngựa ṇi. Roberta rất tự nhiên và phấn chấn nói: “Con từng cưỡi ngựa thuần thục nhiều lần rồi”. Thật ra, em đă trèo lên ḿnh ngựa bao giờ đâu. Roberta c̣n đ̣i mẹ làm những món thức ăn “khoái khẩu” mà “mẹ trước” đă từng nấu. Em tả lại cách thức nấu các món đó hoàn toàn chính xác. Tới năm 9 tuổi, Roberta Morgan đột nhiên quên hẳn quăng đời “kiếp trước” của ḿnh và không bao giờ nhớ lại được nữa?.
C̣n Samlini Permac sinh đầu năm 1962 ở Colombo, Sri Lanka:
Trước khi bé biết nói, cha mẹ nhận thấy rằng em rất sợ... nước. Mỗi khi người mẹ định tắm cho bé, đều gặp phải các phản ứng dữ dội cùng tiếng kêu khóc. Em c̣n rất sợ ôtô. Khi Samlini nói được, em đă mô tả “quăng đời trước đây” của ḿnh một cách tỉ mỉ. Em kể:
“Một hôm cha mẹ “kiếp trước” sai em đi mua bánh ḿ. Phố xá đang bị lụt, chiếc xe buưt đi sát bên cạnh, hất em xuống ḍng nước. Em cố giơ tay quá đầu cầu cứu và hét lên: “Mẹ ơi!”. Sau đó, em bị ch́m hẳn vào giấc ngủ vô biên”. Cha mẹ của Samlini suy nghĩ rất nhiều về chuyện này. Sau đó một thời gian, họ biết được câu chuyện của một bé gái 11 tuổi từng bị chết đuối trong hoàn cảnh tương tự, y hệt câu chuyện mà cô con gái họ đă kể lại.
Hai trường hợp tiêu biểu trên được bác sĩ tâm lư học nổi tiếng người Mỹ John Stevenson, người đă nghiên cứu các hiện tượng về “kiếp trước” suốt nửa thế kỷ nay kể lại.
Ông cùng các đồng nghiệp thuộc Trường đại học Tổng hợp Virginia đă thử t́m các bằng chứng, được tồn tại như một “thực trạng X”, mặc dù không t́m được những yếu tố vô lư trong “các X” và họ cũng không thể lư giải chúng dưới ánh sáng khoa học được.
Giáo sư Bác sĩ J.Steveson cùng các đồng nghiệp đi tới quyết định chỉ tồn tại một khả năng duy nhất: giống như “ảo giác”, nếu nói về khả năng phân tích khoa học hiện nay. C̣n một nhà phân tâm học người Mỹ, Bác sĩ Scot Rogo. cũng đă từng dày công nghiên cứu các trường hợp liên quan tới sự “đầu thai” hoặc “kiếp luân hồi” hơn ba thập niên gần đây, cũng mới chỉ đưa ra các giả thiết, chứ chưa “dám” nêu lên một kết luận khoa học chắc chắn nào cả.
Trước đây nhiều năm, đa số các nhà khoa học phủ nhận sự “đầu thai”, cho đó là một tṛ “hoàn toàn lừa bịp”. Nhưng ngày nay đa phần trong số họ đă thừa nhận hiện tượng này như là một phương cách chữa các chứng khủng hoảng tâm lư.
C̣n Giáo sư Tiến sĩ Abraham Kelsy, Trưởng khoa Y học lâm sàng của Viện Đại học New York, trong các thực nghiệm riêng của ḿnh đă dùng những phương pháp giúp các bệnh nhân nhớ lại “quăng đời kiếp trước” của họ, và bằng cách này giúp họ giải phóng khỏi những vướng mắc hiện tại.
Ông giải thích:
“Tôi đă rút ra được kết luận là, rất nhiều biểu hiện hiện tại của người bệnh là hệ lụy của kiếp trước, và chính chúng là những trở ngại phong tỏa nghị lực của cuộc sống thực tại. Theo tôi, cơ thể con người luôn mang sẵn những thứ phi vật chất, những thứ vẫn tồn tại sau khi thân xác đă chết. Nôm na như người phương Đông gọi là “hồn”.
Chính thứ “hồn” này được tái sinh đầu thai lại. Niềm tin này của tôi càng được củng cố qua các phân tích tỉ mỉ về “chất lượng riêng” của mỗi cá nhân.
Tại sao trong một gia đ́nh, trẻ em thường khác biệt nhau, dù rằng chúng được sinh ra cùng cha cùng mẹ, có cùng một tổng thể gien và lớn lên trong cùng một môi trường?
Rất nhiều trẻ em, khi đang chơi, luôn có xung quanh chúng “những người bạn vô h́nh” nào đó mà chúng luôn cho là đang hiện hữu thật sự. Tới độ 4-5 tuổi, thứ cảm giác ấy đột nhiên biến mất. Điều này theo các nhà khoa học chính là kỷ niệm về những người bạn "kiếp trước" của chúng.
Vẫn chưa có một nhà tâm lư học nào có thể giải thích một cách logic về những cá tính khác nhau, cũng như các “chất lượng cá nhân” khác nhau của đám con trẻ được sinh ra từ một gia đ́nh chung.
Trong từng trường hợp, thể hiện những dấu hiệu ảnh hưởng từ “kiếp trước”, được giới tâm lư học nêu ra các giả thuyết về những “biến dạng của tâm lư”: như mê ngủ, nghe hoặc đọc được ở đâu đó..
Giới vương quyền Ai Cập thời cổ cũng từng hay nói về các “kiếp luân hồi”, cả Hoàng đế Pháp Napoléon, cũng như nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng khác cũng vậy, những người thường nhớ về "kiếp trước", để chỉ muốn tạo ra cái ấn tượng về “xuất xứ thần thánh” của họ.
Đa phần trong chúng ta không hề gợi nhớ lại “kiếp trước” ngay cả qua những cách tân tiến hoàn thiện nhất. Trong trường hợp đó, không tồn tại quan niệm “đầu thai” trong thực tế. Ngoài ra cũng c̣n nhiều điểm bất đồng ngay cả giữa những người vốn luôn tin vào “kiếp trước”.
Tới giờ, giới khoa học vẫn chưa có sự đồng nhất về thực chất của tiến tŕnh này, đó là cơ sở gây nên sự hoài nghi về khả năng “đầu thai” trong “ṿng xoay luân hồi” của mỗi người.
ÁNH SÁNG-T2
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 211 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:23pm | Đă lưu IP
|
|
|
KINH HOÀNG VỚI HIỆN TƯỢNG MA GIẤU
Có thể câu chuyện tôi kể ra dưới đây sẽ không làm các bạn ngạc nhiên cho lắm, nhưng đối với tôi đó là một trong những câu chuyện kinh dị xác thực nhất tôi đă từng nghe. V́ sao ư? V́ đó là sự thực, đó là một hiện tượng xảy ra cho những bạn trẻ hư không biết nghe lời.
Có thể bạn đă nhiều lần từng đặt chân tới Đà Lạt, nơi đây không chỉ có những cảnh vật đẹp tuyệt vời mà c̣n có những lời đồn đại về oan hồn ma quỷ, đó chính là những đặc trưng thuộc về Đà Lạt. Tôi sẽ không để các bạn sốt ruột, tôi sẽ đi ngay vào câu chuyện chính sau đây:
Thứ Sáu vừa rồi trường mẹ tôi tổ chức đi Đà Lạt dành cho khối 12, coi như đó là một kỷ niệm cuối cấp đáng nhớ cho các học sinh. Tôi th́ không đi v́ tôi nghĩ đi với "tụi lóc cóc" chẳng có ǵ vui thế là nằm vùi ở nhà. Và tôi đă được nghe diễn biến câu chuyện từ mẹ tôi, Giáo viên cấp III, v́ thế đừng nói là tôi thổi phồng mọi chuyện.
Ngày đầu tiên mọi việc diễn ra suôn sẻ, tụi học sinh đi chơi và ngắm cảnh. Đến ngày thứ hai trường Tổ chức cho đi leo núi Lang Biang. Học sinh nào lên đỉnh núi đầu tiên sẽ giựt được giải "chinh phục" của trường trị giá 300.000đ.
Ai cũng hăng hái leo cật lực để về đích đầu tiên, và cũng không có ít học sinh ham tiền cố gắng suy nghĩ cách lên nhanh nhất, nhưng cũng chẳng có ai liều bằng cậu học sinh A1, lớp cô Hoàn chủ nhiệm.
Cậu ta cũng leo núi b́nh thường như các bạn, đến gần đích đột nhiên cậu ta nổi hứng rủ các bạn leo lên núi dốc bằng đường tắt. "Lối này tuy dốc và nhiều đá nhưng chúng mày yên tâm đi, lên đích nhanh lắm".
Thế nhưng 3 đứa bạn c̣n lại đi cùng nhóm, không ai tán thành. Chàng ta bỏ mặc sự can ngăn của bạn bè và tự tiếp tục "mở lối đi riêng!"
Cậu bé cứng đầu ấy tên là Hà Trung, hiện đang học lớp 12A1. Nói riêng một chút, chắc có lẽ bị sự mặc cảm anh trai cậu học hệ B, nên cậu có vẻ không thích đi chung với nhóm (1 nhóm 3 người, trong đó có anh trai Trung, đứa anh tuy quậy, nhưg có lẽ nó cũng biết nên chỉ biết đi khúm núm sau lưng thằng em).
Tách ra riêng rồi... Trung tiếp tục leo măi theo hướng thẳng đứng, với dốc đá và độ cao khá nguy hiểm. Trong đầu đinh ninh một ư nghĩ rất trẻ con, là ḿnh sẽ tới trước nhất. Dĩ nhiên sẽ chẳng có ǵ đáng nói nếu như Trung đi với một người bản xứ thông biết lối đi, đàng này cậu ta muốn tự thân, xung quanh chẳng có ai đi cùng, tiếng í ới đùa giỡn của các học sinh dần xa tầm tai của Trung, cậu ta cho rằng đó là chuyện b́nh thường, v́ chắc mẩm ḿnh đă leo cao lắm rồi (?) v́ Trung sẽ đi đúng hướng cần đi.
Lúc này những ánh nắng đă chiếu rọi, Trung cảm thấy nóng, nóng v́ leo núi và cũng nóng v́ hừng hực khí thế, cậu ta bỏ chiếc áo lạnh ra và chỉ mặc duy nhất mỗi một chiếc áo ngắn tay.
Càng leo càng mệt và Trung càng thở dốc. Khi cả đoàn đă lên tới đỉnh núi và cũng đă xác định được người thắng cuộc, nhưng ngươờ thắng không phải là Trung. Những đứa bạn vô tư cười khẩy với nhau định bụng sẽ chọc tức Trung một trận ra tṛ khi gặp Trung tại đỉnh núi này, chúng hồn nhiên đâu biết rằng Trung đang dần lạc lối và đang chuẩn bị rơi vào cuôc chiến đấu với tử thần và rừng thiêng nước độc...
Càng leo Trung càng mệt. Có lẽ Trung cũng sẽ leo lên được đỉnh Lang Biang đúng hướng, nhưng cũng có lẽ một âm lực ma quỷ nào đó đă điều khiển tầm mắt của Trung và bẻ ngoặt hướng đi của Trung qua ngọn đồi bên cạnh.
Mà nghe nói rằng ngọn đồi này cây cối chằng chịt và rất âm u ghê rợn, thú dữ luôn chực chờ và những cái bẫy thú nếu dẫm nhầm phải là chết ngay tức khắc (bẫy thú của người dân tộc rất sâu và ngă xuống th́ không có đường lên, 2-3 ngày người ta mới đi thăm bẫy thú 1 lần). Trung mất hồn, trời càng nắng Trung càng cố leo để mong gặp được một ai đó quen mặt trong đoàn ḿnh.
Gần 12 giờ trưa, mọi người chuẩn bị xuống núi để dùng cơm, vẫn chưa thấy Trung đâu. Một số thầy cô đă nghi ngờ và điểm danh có mặt và xác định ngay sự vắng mặt của Trung. Trưa chiều cả trường sốt ruột, bắt đầu tá hoả v́ không thấy Trung. Sẩm tối, cả đoàn hoảng hồn lên v́ Trung lạc ngay núi Lang Biang. Khí hậu đă bắt đầu se lạnh thêm, ánh sáng dần nhường chỗ cho những bóng đèn, cột đèn néon ở ngoài đường.
Một kế hoạch truy t́m người bị lạc đă huy động cả công an toàn thành phố, mặt các thầy cô lo lắng v́ sự mất tích của cậu học tṛ, c̣n những đứa con gái th́ nhăn mặt rú rít lên v́ sợ, c̣n các đứa con trai x́ xầm một cách thất thần với nhau cái ǵ đó. Riêng ba đứa bạn cùng nhóm với Trung bắt đầu run rẩy và xám ngắt, nói ǵ th́ nói, 3 đứa này cũng có một phần trách nhiệm trong đó.
Mẹ tôi thấy xót cả ruột khi biết được Trung chỉ mặc độc nhất chiếc áo ngắn tay, bữa trưa và bữa tối nó cũng chưa ăn ǵ. Một thầy giáo vội t́m đến ngôi làng của người dân tộc bản xứ, đưa tiền cho họ để hỏi thăm tung tích của Trung và các thầy cô rợn hết cả tóc gáy khi nghe người dân tộc nói:
Một là chỉ có 5% nó đi lạc, 2 là 85% nó đă chết bị sẩy chân té vực hoặc thú dữ ăn thịt, 10% c̣n lại nó đă bị ma giấu. Không thể nào t́m được.
Càng leo Trung càng kiệt sức vừa đói lại vừa lạnh, Trung tủi thân rất nhiều. Chỉ mới bảy giờ mà trong rừng tối đen như mực, Trung cố sức kêu gọi khản cổ mà đáp lại chỉ là tiếng vọng của núi rừng. Xung quanh Trung bây giờ chỉ c̣n tiếng cú, tiếng côn trùng kêu và tiếng Trung đi đạp lên lá khô loạt xoạt.
Đột nhiên Trung cảm thấy ớn lạnh, Trung ngồi xuống đám lá nghỉ mệt một chút rồi lại ṃ lối để đi tiếp.
9 giờ tối, ánh trăng vằng vặc chiếu xuống khu rừng làm cho cây cối mang những h́nh thù quái dị và ghê rợn, Trung bắt đầu tự nhát ḿnh, Trung nh́n cây nào cũng tưởng như nó đang nh́n lại Trung, cười khanh khách và quơ tay vẫy Trung.
Cũng trong thời gian này cả trường vẫn đang náo loạn, các thầy cô, CA và cả người dân tộc đang bủa vào rừng t́m cậu ta. Mọi người cũng có những suy nghĩ tiêu cực nhưng không dám nói (nếu Trung chết th́ cũng phải t́m bằng được xác cậu ta mới về).
Cô Hoàn chủ nhiệm lớp Trung rất tội, cô lo cho cậu học sinh của ḿnh, cô bỏ ăn, bỏ nghỉ ngơi, trên tay thường trực chiếc điện thoại di động, cũng không thể nào nhớ được hôm đó cô đă gọi đi bao nhiêu cuộc điện thoại. Cô đă khóc rất nhiều, người tiều tuỵ hẳn đi.
Một số thầy cô được giao ở lại trông nom và trấn an lũ học sinh, số c̣n lại cùng CA và người thiểu số leo tiếp lên núi để t́m Trung trong những ngọn đèn pin leo lét. Rừng về đêm thật khủng khiếp, nó âm u và đáng sợ, cộng thêm cái lạnh trên dưới 5 độ C làm cho mọi người đều sởn gai ốc.
Những người dân tộc sống ở vùng núi rất hay, họ có thể nh́n trên những đám lá khô mà thấy được có dấu chân người hay dấu chân thú đi qua lối nào. V́ thế họ đă nh́n và khẳng định Trung leo hẳn sang ngọn đồi bên kia (đứng trên đỉnh Lang Biang có thể nh́n thấy).
Cả đoàn người lại hớt hăi chạy đi t́m Trung, tiếng nói chuyện, tiếng gọi vang cả khu rừng, nhưng vẫn không nghe thấy tiếng trả lời dù là lời thều thào nhỏ nhất. Riêng cô Nga tổ Văn ráng sức đâm thẳng qua đỉnh ngọn đồi ấy, nhưng không hiểu sao cô không thể nào đi tiếp được, dưới những đám lá chi chít đầy những gai và hố.
V́ thế không hiểu bằng cách nào Trung vẫn băng qua được những đám hố gai này và hướng thẳng lên đỉnh núi (theo dấu chân cậu ta đă để lại). Cả Đoàn không đi tiếp được nữa đành ở vị trí đó mà ráng sức gọi. Hơn 11g đêm mọi chuyện vẫn chưa đâu vào đâu, vẫn rối tinh rối mù.
Về phần Trung sau khi nghỉ mệt và cố gắng lết đi tiếp Trung quá đuối sức. Trời quá tối Trung ṃ mẫm đi mà không xác định được phương hướng, Trung kéo lê từng bước mệt nhọc. Trung đă từng nghĩ đến cái chết và h́nh ảnh thân thương đầu tiên hiện lên trong tâm trí cậu là mẹ ḿnh và toàn bộ gia đ́nh, Trung thấy hối hận thấy sợ hăi và hoảng loạn. Trung đă khóc rất nhiều và ngất đi không c̣n biết ǵ nữa.
Tỉnh dậy, trăng đă lên đỉnh đầu. Hàm răng run lập cập v́ quá lạnh, mặt mũi Trung tái mét, lờ đờ hốc hác như người bị bỏ đói lâu ngày. Trung cố gắng lê thêm mấy bước, dưới ánh trăng lờ mờ cậu ta thấy một chấm tṛn màu trắng ở xa xa.
Mất ư thức, Trung vội vă leo ngay lên đó, không cần biết nó là cái ǵ và nó ra sao, mặc kệ cho đôi môi tím tái v́ lạnh cùng với đôi chân đầy những vết trầy xước tứa máu. Trung thấy như in trong mắt cậu ta là một ngôi miếu nhỏ, Trung thấy trong ngôi miếu này có chăn, có chiếu, có gối như là có ai đă sắp đặt để "chờ đón" Trung vậy.
Nhưng cái lạ là ở chỗ, trước thềm tam cấp có treo một tấm bảng loè loẹt nét chữ màu đỏ: "Cấm Vào Nếu Không Sẽ Bị Bắn Chết", nét chữ xiên xiên vẹo vẹo cùng với màu sơn đó khiến Trung có cảm tưởng như ai đó lấy máu quệt bằng ngón tay mà thành tấm bảng này vậy. Trung thấy lành lạnh sau gáy cậu bước thụt lùi, chỉ dám đứng ngó cái chiếu có bày sẵn chăn mền ngay ở cửa miếu dưới ánh trăng ma quái.
Được một lúc thật lâu, với cái rét căm căm và những đốm sáng lập loè của mắt thú rừng xa xa, Trung đánh liều chui vào đại để trú qua đêm nay. Trung đói bụng quá, lại vừa mệt định bụng sẽ ngủ nhưng không hiểu sao chăn chiếu lúc năy biến đâu mất hết?
Trung ảo giác ư chắc chắn không phải, Trung không mệt đến độ không nh́n được vật ngay sát mắt? Ma ư? Không, lại càng không, Trung vốn là người theo Đạo Thiên chúa, Trung không tin vào mấy chuyện ma quái ǵ vớ vẩn ở đây cả. Thây kệ Trung ngả lưng và co quắp để cố chống chọi với cái lạnh. Trung bắt đầu thiếp đi, là chiếc đồng hồ đeo trên tay Trung chỉ đúng... 12g đêm!
Cả đoàn người đêm ấy bị một phen mất ngủ, một số người hồi hộp lẩm bẩm cầu nguyện điều ǵ đó. Ai cũng loé lên suy nghĩ Trung bị té vực, nhưng cũng không ai dám mạnh miệng để nêu lên trường hợp ấy. Những câu tṛ chuyện, những sự hoạt động của mọi người cũng chỉ để cho có, chỉ để xua đi những ư nghĩ quái quỷ đeo bám, mọi người như vô hồn, thẫn thờ ngồi chờ đợi tin tức của Trung, mong một điều ǵ đó kỳ lạ có thể xảy ra.
Thiếp đi trong cơn mê, Trung nghe thoang thoảng rất nhiều tiếng người í ới gọi cậu, nhưng v́ Trung quá mệt và quá đuối rồi, Trung không gượng dậy nổi nữa. Trung cố hết sức nhưng chỉ nghe được những tiếng kêu âm ỉ phát ra từ họng ḿnh, như là có một bàn tay vô h́nh nào đó chắn ngang trước miệng Trung, cản tiếng gọi của Trung.
Ngoài kia ánh đèn pin rọi qua rọi lại, các thầy cô đi qua lại gần ngay trước mặt Trung, Trung có thể nh́n thấy bóng họ nhưng tuyệt nhiên họ không nh́n thấy cậu ta.
Đoàn người ra về trong sự mệt mỏi, các thầy không tránh khỏi lo lắng, c̣n các cô th́ mắt trũng lại v́ khóc và v́ thất vọng. Các thầy cô định bụng rằng về sẽ nghỉ một giấc rồi 2-3 tiếng sau (lúc trời sáng) sẽ vào rừng t́m Trung tiếp.
Về đến nơi đồng hồ chỉ 2g30. Trời gần sáng khu rừng có chút ánh mặt trời th́ lại thấy đỡ ghê sợ hẳn. Tiếng lá khô lại loạt xoạt v́ những bước chân của mọi người bủa đi t́m. Chợt thầy Long không tin vào mắt ḿnh khi thấy thấp thoáng đằng xa Trung đang từ từ bước xuống, khuôn mặt Trung tái nhợt v́ lạnh, hai chân run rẩy không vững.
Không chần chừ một giây thầy bước tới đỡ Trung, quá xúc động hai thầy tṛ ôm nhau khóc ṛng, ngay cả những người khác cũng quá vui mừng mà không cầm được nước mắt.
Dẫn Trung về Khách sạn, không khí nặng nề bao trùm trên những khuôn mặt lo sợ dần tan biến, mọi người đều thở phào tạ ơn Bề trên đă giúp đỡ.
Người dân tộc nói đây là hiện tượng "ma đưa lối, quỷ dẫn đường", nghĩa là ma quỷ chỉ muốn hù con người và cảnh cáo họ khi họ lọt vào địa phận cấm mà không xin phép, chứ không hề làm hại một ai. Khoảng vài ngày sau ma quỷ sẽ trả người về địa thế.
Ngay cả những người theo đạo Thiên chúa dưới chân núi cho biết: họ vốn không tin vào những chuyện này, nhưng khi sinh sống ở đây, chứng kiến hàng chục trường hợp tương tự, họ không tin cũng phải tin! Bên cạnh đó, họ c̣n cho biết thêm là thường th́ ma giấu người rất lâu (khoảng 3 ngày), nhưng chắc vừa rồi quá đông người t́m kiếm đă đánh động cả khu rừng, v́ không muốn phiền đến địa phận thiêng nên ma quỷ đă trả Trung về sớm. Tôi cũng xin nhấn mạnh lại các chi tiết:
- Trung leo đúng đường, nhưng không hiểu sao bị bẻ ngoặt hướng sang ngọn đồi bên cạnh.
- Trung điềm nhiên băng qua được các bẫy thú dưới đám lá khô, mà cũng là con đường đó th́ không ai qua được.
- Giữa chốn núi rừng hoang vu lại xuất hiện một ngôi miếu ở gần trên đỉnh, ai rảnh đi xây miếu? Và để làm ǵ? v́ dưới chân núi đă có miếu rồi?
- Một điều lạ nữa trong miếu lại để sẵn chăn mền chờ Trung, để Trung chui vào rồi th́ lại biến mất?
- Cậu trai lạc giữa rừng với thời tiết lạnh 2 độ C, duy nhất một chiếc áo ngắn, không ăn không uống vẫn có sức lết xuống núi?
Tôi không biết suy nghĩ của bạn thế nào, nhưng riêng tôi th́ tôi thấy quá sợ hăi khi kể lại câu chuyện này, và tôi tin: "Ma giấu" là có thực.
NKM
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 212 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:24pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHUYỆN VỀ NHỮNG NGƯỜI BIẾT BAY
Các vị thần trong thần thoại phương Đông có một khả năng đặc biệt. Họ có thể bay. Tuy nhiên những người b́nh thường như các giáo sĩ Bà La môn ở Ấn Độ, người luyện Yoga, các thuật sĩ và ẩn sĩ cũng có thể khinh công và lơ lửng trong không khí.
Có một chương trong kinh Vệ Đà nói về thuật bay lên, trong đó hướng dẫn phương pháp luyện tập đạt tới t́nh trạng nhấc ḿnh lên khỏi mặt đất. Nhưng không may trải qua nhiều thế kỷ, nhiều từ cổ Ấn Độ và các khái niệm trong đó đă bị quên mất, nên những điều truyền thụ vô giá này không thể chuyển được thành ngôn ngữ hiện đại.
Cũng liên quan đến những người biết bay thời cổ, nhiều tài liệu chép tay cho biết họ có thể tự nhấc ḿnh lên khỏi mặt đất đến chín mươi cm. Họ làm việc này không phải để biểu diễn cho công chúng xem, mà chỉ v́ mục đích chọn một vị trí phù hợp, nhằm thực hiện những nghi thức tôn giáo.
Thuật khinh công đă tồn tại từ rất lâu ở Ấn Độ và Tây Tạng. Nhiều nhà bác học, trong các cuộc nghiên cứu về phương Đông đă đề cập đến các "thầy tu Tây Tạng biết bay".
Alexandra David Neel, một nhà thám hiểm người Anh, một ngày nọ đă chứng kiến một tu sĩ Phật giáo bay lên khỏi mặt đất hàng chục mét trên cao nguyên đầy thông, Cnang Tang. Neel kể lại rằng tu sĩ nọ bật lên khỏi mặt đất nhiều lần như một quả bóng tennis nẩy.
Cặp mắt của ông ta hướng về một số ngôi sao đang ở nơi nào đó trên bầu trời để xác định vị trí đến. Vị tu sĩ ấy có thể thấy được các v́ sao vào ban ngày...
Những người châu Âu từ lâu cũng đă quan tâm đến khả năng bay lên của con người. Tuy nhiên có một sự khác biệt lớn giữa những người biết bay thời Trung cổ ở phương Đông và phương Tây.
Không giống những giáo sĩ Bà La Môn, thuật sĩ Yoga và những ẩn sĩ, các tu sĩ ở châu Âu không tham gia bất cứ một lớp huấn luyện đặc biệt nào để được bay lên. Họ thường lơ lửng trong không trung sau khi đă đạt đến trạng thái xuất thần.
Theo những tài liệu đáng tin cậy, Thánh Theresa nữ tu ḍng Carmelite, là một trong những người có thuật khinh công của thời Trung cổ. Bà đă bay trước sự chứng kiến của hai trăm ba mươi tu sĩ Công giáo. Vị nữ tu đă viết về "món quà" bất thường của ḿnh trong tự truyện vào năm 1565. Một điều cần lưu ư trong tự truyện này là bản thân Thánh Theresa không muốn bay.
Bà đă mất nhiều giờ cầu nguyện trong một nỗ lực xin thoát khỏi năng lực đặc biệt này. Vào một đêm nọ, Thượng đế đă nghe được lời cầu xin của bà và người nữ tu không bao giờ c̣n bay được nữa.
Josef Desa từng là "người bay" nổi tiếng nhất. Ông ta xuất thân từ một gia đ́nh mộ đạo ở miền Nam Italy. Từ khi c̣n là một cậu bé, Josef đă là một người rất sùng tín, sẵn sàng chịu đựng mọi khổ hạnh để đạt được trạng thái xuất thần. Sau đó, ông gia nhập ḍng thánh Francis và luyện được khả năng bay.
Giới khoa học đă quan sát hơn một trăm trường hợp về khả năng bay của Josef và ghi chép những nhận xét trong tài liệu chính thức. Tuy nhiên những người Cơ đốc giáo tỏ ra không hài ḷng về hiện tượng này, và hậu quả là Josef được đưa đến một tu viện xa xôi vào năm 1653. Ba tháng sau ông lại phải đến một tu viện khác, rồi tiếp tục đến một tu viện khác nữa...
Khi Josef xuất hiện, tin tức về "người có phép mầu" lan ra nhanh chóng. Nhiều người từ những vùng lân cận t́m đến đứng bên ngoài bức tường của tu viện chờ đợi một điều kỳ diệu. Cuối cùng Josef lại được đưa đến một tu viện ở Osimo. Ông đă mất tại đây vào năm 1663 và được phong thánh bốn tháng sau đó.
Daniel Douglas Hewm là người có thuật phi thân nổi tiếng nhất thế kỷ 19. Trên một tờ báo Mỹ, một nhà báo đă mô tả trạng thái bồng bềnh trong không gian của Hewm như sau: "Bất th́nh ĺnh Hewm bắt đầu nhấc ḿnh lên khỏi mặt đất khiến những người trong pḥng sửng sốt, ngạc nhiên. Tôi thấy chân của ông ta cách mặt đất khoảng 0,3 mét. Ông ta vọt lên rồi hạ xuống. Đến lần thứ ba th́ ông ta chạm trần nhà..."
Hewm đă biểu diễn năng lực đặc biệt này trước hàng ngh́n khán giả, trong đó có cả những người nổi tiếng như William Makepeace Thackeray, Mark Twain, Napoleon III cùng những nhà chính trị, bác sĩ, khoa học gia. Người ta không phát hiện ra sự lừa đảo nào trong hiện tượng này.
Có nhiều tranh căi liên quan đến sự bay lên của con người. Một số nhà nghiên cứu nói rằng đó là sản phẩm của trường sinh học, tạo ra bởi một dạng năng lượng tinh thần đặc biệt phát ra từ năo người.
Bác sĩ Alexander Dubrov chuyên gia về sinh vật học, là người ủng hộ giả thiết này. Ông chỉ ra rằng trường sinh học được tạo ra một cách có chủ ư bởi người phi thân, do đó họ có thể kiểm soát và thay đổi hướng khi lơ lửng trên không.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 213 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:26pm | Đă lưu IP
|
|
|
NGƯỜI CHẾT CÓ NHẬN ĐƯỢC SỰ CÚNG DƯỜNG KHÔNG?
Câu chuyện dưới đây xảy ra trong cuộc đối đáp giữa Đức Phật và Bà la môn Janussoni. Bà la môn Janussoni hỏi :
- Bạch tôn giả Gotama, chúng tôi là các Bà la môn chuyên làm các lễ cúng cho người chết, với mục đích mong rằng sẽ đem lại lợi ích cho người chết. Như vậy thưa tôn giả có thật sự lợi ích không ?
Đức Phật đáp :
- Này Bà la môn, nếu có Tương Xứng người chết sẽ hưởng được phẩm vật cúng dường, bằng ngược lại chẳng có lợi ích ǵ cả.
Bà la môn Janussoni nóng ruột hỏi:
- Nhưng thế nào là tương xứng và không tương xứng ?
- Này Bà la môn, ai sống sát sanh lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói thêu dệt, có tham ái, có sân si và tà kiến, sau khi mạng chung sanh vào Địa Ngục. Tại đó, y nuôi sống và tồn tại bằng thức ăn của địa ngục. Cúng đồ ăn của con người là không tương xứng. Y sẽ không hưởng được ǵ từ sự cúng dường của thân thuộc đó.
- Này Bà la môn, nếu người nào sống đầy dẫy mười ác đă nêu, khi mạng chung bị sanh vào loài Bàng Sanh. Tại đấy, y nuôi sống và tồn tại bằng thức ăn của loài bàng sanh. Quả là không tương xứng, khi người thân quyến đem phẩm vật con người để cúng quảy cho họ. Làm sao người chết đă thọ thân bàng sanh ăn được ?
- Ngay cả trường hợp, người chết khi c̣n sống tu tập, trau giồi mười thiện nghiệp, được tái sanh làm Con Người, hoặc phước báu hơn là làm Chư Thiên đi nữa, th́ tại đấy, tùy theo con người hoặc chư thiên, họ có món ăn riêng để nuôi sống hiện hữu của họ. Cả hai trường hợp này cũng thật không tương xứng, nếu người thân quyến cúng dường mong người chết thọ nhận được. Người chết đă tái sanh làm người, làm chư thiên rồi làm sao thọ nhận !
- Duy có một trường hợp người chết tái sanh làm thân Ngạ Quỷ, món ăn nào mà thân quyến bè bạn con cái muốn hiến cúng cho họ, th́ họ sẽ trọn hưởng được. Loài ngạ quỷ sẽ sống và hiện hữu nhờ vào các món ăn cúng quảy này. Đây là trường hợp duy nhất có sự tương xứng .
- Thưa Tôn giả Gotama, người Bà la môn hỏi, các trường hợp người thân chết tái sanh vào các loài bàng sanh, địa ngục hay sanh lại làm người hoặc sanh làm chư thiên, sự cúng quảy không có sự thọ hưởng. Nhưng nếu người thân chết không tái sanh vào cơi ngạ quỷ, th́ ai sẽ là đối tượng thọ hưởng những của bố thí đó ?
- Này Bà la môn, nếu không là người thân thuộc đó, th́ những người thân thuộc khác của người cúng, ở ngạ quỷ, sẽ được hưởng thay trọn phần .
- Nhưng nếu cả ḍng họ thân thuộc của người bố thí ấy, không có ai bị tái sanh trong ngạ quỷ th́ phẩm vật cúng sẽ thuộc về ai ?
- Không có trường hợp này, rằng chỗ ấy có thể trống không trong một thời gian dài, mà không có một ai đó trong huyết thống bị sanh vào. Nhưng này Bà la môn, nên nhớ rằng, mặc dù thế, người bố thí ấy phải được hưởng quả báo tốt .
- Có phải Tôn giả đă nói về một giả thiết không thể xảy ra ?
- Đúng thế, này Bà la môn, trong suốt quá tŕnh sống, người nào tuy sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói thêu dệt, có tham có sân si, tà kiến, nhưng người ấy biết bố thí, ủng hộ cho những người có đạo đức, người sống v́ sự nghiệp đạo đức. Người ấy khi mạng chung sẽ sanh cộng trú với loài voi, nhưng là loài voi được ăn uống, trang sức đầy đủ.
Nếu nghiệp duyên của người ấy sanh vào loài ngựa, ḅ hay trâu, hay bất kỳ loài bàng sanh nào khác, th́ tại đấy, y vẫn thọ hưởng đầy đủ đồ ăn uống trang sức tương xứng .
Nếu như ai đó, từ bỏ sát sanh, trộm cướp, tà hạnh từ bỏ nói láo, lời độc ác, lời hai lưỡi, lời thêu dệt, từ bỏ tham, sân si và tà kiến, lại c̣n biết bố thí và nhất là bố thí cho người có cuộc sống đạo đức, người v́ sự nghiệp đạo đức. Khi người ấy tái sanh làm người, th́ tại đấy y sẽ hưởng thọ năm thứ công đức của loài người.
Nếu người ấy tái sanh vào chư Thiên, th́ tại đấy, y sẽ hưởng thọ năm thứ công đức của chư thiên. Trong mọi trường hợp, người bố thí vẫn gặt kết quả tốt tương xứng. Người bố thí, cúng dường nhất định có kết quả .
Sau pháp thoại đầy ư vị, hứng thú Bà la môn Janussoni đă bỗng chốc trở thành một nam cư sĩ tinh tấn .
(Kinh Tăng Chi III-539-543)
MỘT ÍT NHẬN XÉT
Thế nào là hành trang tư lương cho người mất, và làm thế nào để người mất nhận được hành trang tư lương đó. là một vấn đề rất quan trọng và bức thiết trong Phật giáo.
Phật giáo, nền giáo lư nhân bản, chăm lo đến đời sống con người khi con người c̣n trong thai mẹ cho đến lúc sanh trưởng và cái ngày từ giă cuộc sống. Đối với Phật giáo, cái chết được đánh giá ngang bằng và quan trọng như cái sống, là một tiền đề nối liền với cái sống kế tục.
Chuẩn bị cho cái chết không chu đáo, người chết sẽ gặp phải nhiều bất hạnh. Và do đó, chuẩn bị chu đáo cho cái chết cũng tức là chuẩn bị tốt cho cái sống.
Chết và sống không thể tách rời. Lợi ích và bất hạnh sẽ tùy thuộc phần lớn vào hành vi cuộc sống thường nhật và nhất là tâm niệm và hành vi cuộc sống lúc lâm chung hay trong thời gian bốn mươi chín ngày của thân trung ấm.
Thân trung ấm là giai đoạn chuyển tiếp cần thiết để một người mạng chung, có được điều kiện thích hợp thọ sanh vào nơi thích ứng với nghiệp đă tạo tác của nó. Thân trung ấm sẽ tồn tại từ lúc một người vừa tắt thở cho đến tối đa là bốn mươi chín ngày.
Thời gian tồn tại dài hay ngắn, hoàn toàn tùy thuộc vào tính chất phức tạp của nghiệp nhân người đó đă gieo trổ quả tái sanh trong một điều kiện và nhân duyên thích hợp và tương ứng.
Thời gian này là một dịp tốt để thân nhân quyến thuộc tu tạo nhiều phước duyên hồi hướng cho người mới mất. Và chính người mới mạng chung đó cũng c̣n được cơ hội hồi tâm, hướng thiện để hoặc là giảm bớt nghiệp ác đă làm khi c̣n sống, hoặc là tăng trưởng thêm phúc duyên, nếu khi sống ḿnh đă sống thiện .
Kinh Địa tạng, một bộ kinh ṇng cốt dạy về cách chuẩn bị hành trang tư lương cho người mất, giới Phật giáo Bắc tông ai cũng đều biết đến và thọ tŕ đọc tụng rất thường xuyên trong các lễ tang, các tuần thất, các ngày kỳ giỗ, và nhất là nửa tháng c̣n lại của tháng bảy âm lịch .
Kinh Địa tạng dạy, hành trang tư lương cho người mất, không ǵ khác hơn là những tu tạo phước đức như là làm phước, tu thiện, phóng sanh, bố thí, cúng dường, tụng kinh, hồi hướng công đức từ những người thân quyến c̣n sống thực hiện với tất cả sự thành tâm.
Tuy nhiên, kinh Địa tạng cũng khẳng định rất rơ là hành trang tư lương đó có chu đáo cỡ nào, th́ người mất chỉ tiếp hưởng được một phần mà thôi, c̣n sáu phần c̣n lại, người thân quyến tu tạo sẽ trọn hưởng.
Đây là một nguyên tắc nhân quả, ai gieo nhân tốt th́ người đó hưởng quả tốt, người được hồi hướng chỉ được cộng hưởng một phần công đức mà thôi (Xem kinh Địa Tạng, phẩm bảy, mục ba). Thực chất phương pháp này cốt yếu nhắm vào sự làm lợi ích cho người c̣n sống, thông qua việc tạo hành trang cho người mất.
Bản thân người mất, trong thời gian thân trung ấm, có được lợi ích nhiều hay ít, hoàn toàn tùy thuộc vào sự tùy hỷ vào việc làm cho ḿnh, và nhất là sự hồi tâm hướng thiện, thanh tịnh hóa ḿnh trước khi thọ sanh.
Trường hợp mẹ tôn giả Mục Kiền Liên trong kinh Vu Lan Bồn là sự kiện điển h́nh. Bà được thoát khổ, sanh về thiện giới do cải tạo hoàn toàn tâm lư tham lam, sân hận, si mê trước đó.
Việc làm hành trang này chỉ có hiệu quả, khi người chết chưa đi thọ sanh, do chưa t́m được nhân duyên và điều kiện thích ứng. C̣n trường hợp thọ sanh rồi th́ sao? Câu trả lời thích đáng đă nằm trong tích truyện kinh Tăng Chi vừa nêu .
Trong cuộc đối thoại giữa Đức Phật với Bà la môn Janussoni, Đức Phật đă vạch ra một chân lư đáp số rằng, người mất chỉ nhận được hành trang tư lương do thân quyến gởi đến, trong trường hợp tương xứng, không tương xứng ta sẽ có một đáp số ngược lại.
Khái niệm tương xứng của Đức Phật, bao gồm hai nội dung:
Thứ nhất, tự nghiệp nhân thiện ác của người mất, sẽ tự quyết định thiện thú hay ác thú họ phải sanh vào.
Thứ hai, mọi hành trang tư lương chỉ đến tay người mất, và người mất thụ hưởng được khi mà họ đang thọ thân ngạ quỷ .
Các thọ thân c̣n lại như trời, người, a-tu-la, địa ngục và súc sanh th́ không được.
V́ tại năm cơi sống đó, người mất đi thọ sanh sẽ sống với điều kiện thọ sanh từ nghiệp nhân của ḿnh.
Trời có cách thọ dụng của trời, người có cách thọ dụng của người. A-tu-la, địa ngục và súc sanh mỗi mỗi cũng có cách thọ dụng của riêng ḿnh, do đó hành trang tư lương sẽ không phù hợp, và không cần thiết với năm loại thọ sanh này.
Song mặc dù thế, Đức Phật vẫn lưu ư chúng ta về phước báu tất yếu cho người tạo tác, các hành trang tư lương. Quả báo đó luôn luôn tốt đẹp và có lợi nhiều mặt cho người ấy.
Sống với mười ác nghiệp nhưng có bố thí, dù đọa lạc làm bàng sanh, cũng thù thắng hơn các bàng sanh khi sống đă tạo mười nghiệp ác mà không có bố thí.
C̣n nếu người ấy khi sống thực hiện mười hạnh lành mà c̣n có bố thí, th́ khi thọ nhân con người hay chư thiên, luôn luôn là con người hay chư thiên thù thắng hơn các con người và chư thiên khác.
Qua tích truyện này chúng ta thấy kinh điển Nam tông và Bắc tông sẽ bổ sung cho nhau, sẽ hoàn thiện và làm toàn bích tri thức chúng ta về sự nhận định, tiếp cận và thực hành lời dạy Đức Phật.
Nhận thức điều này, chúng ta nên xa ĺa tri kiến phân biệt Tông phái, cái mà Đức Phật cho là điều chướng ngăn thánh đạo, để cùng nhau chung lo ngôi nhà Phật giáo toàn diện không Nam tông Bắc tông, không chi không phái, không phân chia biệt thù.
Làm lợi ích cho con người và nhân loại, những thực thể sống ngày một khô cằn, chai sạn bởi sự bế tắc của vật chất, bởi sự lẩn quẩn của tôn giáo, triết phái đang khao khát những món ăn tinh thần thanh khiết, đầy bổ dưỡng thật sự của Phật giáo chánh kiến, viên dung .
LotusNet
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 214 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:27pm | Đă lưu IP
|
|
|
LỜI NGUYỀN CỦA NGƯỜI TỬ TỘI
Năm 1821, tại thị xă Newtown Montgomeryshire thuộc nước Wales1, có một người đàn ông tên là John Newton mang tội giết người và được đưa ra trước ṭa để thẩm phán. Đứng trước quan ṭa ông ta khẳng định tuyên bố rằng, ông là người vô tội.
Nhưng dựa vào những chứng cớ của hai người, mà ông ta nói rằng họ sẽ được lợi ích nếu ông chết đi, cho nên những lời ông nói đều vô hiệu. Cuối cùng ông ta bị kết án và xử tử treo cổ.
Nh́n thẳng vào quan ṭa với ánh mắt nẩy lửa Newton thét lớn:
- TÔI VÔ TỘI! TÔI LÀ NGƯỜI VÔ TỘI! ĐỂ CHỨNG MINH ĐIỀU ĐÓ, TÔI SẼ KHÔNG CHO NGỌN CỎ XANH TƯƠI NÀO MỌC TRÊN MỒ CỦA TÔI. MĂI MĂI KHÔNG CÓ NGỌN CỎ TƯƠI XANH NÀO MỌC TRÊN NGÔI MỒ CỦA TÔI..
Vài ngày sau, John Newton đă bị treo cổ công khai trước quần chúng. Thật là kỳ lạ khi lễ xử tội bắt đầu th́ bỗng đâu một cơn băo kéo tới, sấm sét vang rền làm những người có mặt tại hiện trường đều ngạc nhiên và lo sợ.
Sau khi ông Newton chết, xác của ông được chôn trên mảnh đất sau một thánh đường thuộc vùng ngoại ô thành phố. Khu nghĩa địa này là một mảnh đất xanh tươi với những ngọn cỏ được bón phân cắt tỉa mỗi tuần, với những mộ bia nằm từng hàng thẳng tắp trong thật đẹp mắt.
Nhưng từ khi xác của John Newton được chôn ở đây, th́ miếng đất này không được hoàn mỹ giống như xưa. Ấy là v́ giữa một tấm thảm cỏ xanh mướt lại có một khoảng đất h́nh chữ nhật, trơ trọi mọc một loại cỏ dại ḅ chung quanh theo khuôn khổ của chiếc quan tài nằm bên dưới.
Mỗi ngày những dân cư đi qua đều có thể trông thấy ngôi mộ của Newton, v́ thế mặc cảm tội lỗi và nỗi đau buồn về một kẻ bị giết oan càng ngày càng
tăng dần trong khu thị xă nhỏ này.
Để xóa đi những cảm giác ấy, chính quyền địa phương đă nghĩ ra một cách nếu cỏ không tự mọc trên ngôi mộ này được, th́ họ có thể trồng cỏ lên trên đó. Họ đem những thứ đất tốt đổ lên ngôi mộ trải ra cho đều, sau đó họ rải những hạt cỏ lên rồi tưới nước rất cẩn thận.
Nhưng nhiều ngày trôi qua không một hạt cỏ nào nẩy mầm. Và vài tháng sau người ta lại t́m đủ mọi cách để trồng cỏ, cứ như vậy người ta lại trồng cỏ bón phân tưới nước, nhưng trải qua nhiều năm một cọng
cỏ xanh tươi cũng không thể mọc được trên nấm mồ của người đàn ông Welsh này.
Vào năm 1852 một vị giáo sĩ tên là Robert Mostyn Price, đă đứng lên biện hộ cho người đàn ông bị treo cổ. Ông ta viết:
"Đă ba năm trôi qua mà chúng ta không thể trồng cỏ trên nấm mồ này, cho dù chúng ta đă dùng đủ mọi cách, đủ mọi phương pháp nhưng một cọng cỏ cũng
không thể mọc lên. V́ vậy tôi cùng nhiều người khác tin rằng đây là sự chứng minh "vô tội" của người đàn ông đáng thương."
Nhưng khó có thể làm cho người ta chấp nhận được sự thật rằng, quan ṭa đă xử án sai lầm để một người đàn ông vô tội phải chết. Cho nên một lần nữa họ lại gắng sức làm cho cỏ mọc trên ngôi mồ của Newton bằng cách đổ lên đó một thứ đất phân thật tốt, rồi cấy những cây cỏ xanh tươi dễ trồng nhất, rồi tưới nước và chăm sóc rất kỹ lưỡng.
Mọi người hồi hộp chờ đợi. Cuối cùng th́ người ta cũng thấy được những cây cỏ mới cấy bắt đầu trổ lá non, lúc đó ai cũng hớn hở v́ cỏ đă mọc được trên nấm mồ Newton rồi, như vậy họ sẽ không c̣n cảm thấy mặc cảm tội lỗi bao trùm trong bầu không khí chung quanh đây nữa.
Nhưng tiếc thay chỉ qua một đêm, những loại cỏ dại đă ḅ lên dầy đặc nuốt chửng mất những cây cỏ
xanh tươi vừa mới bắt đầu trổ lá non. Không biết tại sao loại cỏ này lại mọc nhanh như thế? Mọi người không ai có thể hiểu nổi, có lẽ chỉ có linh hồn người quá cố nằm bên dưới quan tài mới biết được.
Cũng từ đó không ai màng đến việc trồng cỏ lên ngôi mộ của ông Newton nữa, v́ họ biết rằng cho dù có trồng th́ cũng vô dụng, v́ vậy mảnh đất nhỏ
xấu xí này tiếp tục đứng vững trong vùng đất xanh mướt màu cỏ non.
Cho đến thế kỷ sau, năm 1941, một người đến viếng khu nghĩa địa này, vẫn có thể chỉ đúng ngay ngôi mồ của Newton, một mảnh đất có nhiều cỏ dại ḅ ngổn
ngang theo khuôn của chiếc quan tài, vẫn c̣n nằm giữa mảnh đất xanh tươi đẹp đẽ.
Đó là chứng cớ thầm lặng về sự phán xét sai lầm của ṭa án với lời nguyền của người đàn ông nước Wales.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 215 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:31pm | Đă lưu IP
|
|
|
CỬU THIÊN HUYỀN NỮ
Cửu Thiên Huyền Nữ, nghĩa đen là người phụ nữ huyền diệu nơi từng Trời thứ chín. Đây là một danh hiệu của Đức Phật Mẫu.
Nhơn loại được biết Đức Phật Mẫu qua danh hiệu Cửu Thiên Huyền Nữ vào thời thượng cổ, đời vua Hiên Viên Huỳnh Đế bên Tàu. Sử kư chép như sau:
Sau đời vua Thần Nông, các bộ lạc đều tự tách ra hùng cứ mỗi nơi. Có một bộ lạc hùng mạnh mà vị thủ lănh là Xuy Vưu, muốn thôn tính các bộ lạc khác để lên làm bá chủ, nhưng Xuy Vưu lại quá độc ác, ai không thuận theo th́ bị giết chết rất tàn nhẫn.
Các bộ lạc liền liên kết nhau, tôn vị thủ lănh Hữu Hùng Thị, nay ở huyện Tân Trịnh tỉnh Hà Nam, lên chỉ huy chống lại Xuy Vưu. Trận đánh dữ dội quyết định sự thắng bại với Xuy Vưu xảy ra ở Trác Lộc.
Sương mù dày đặc, quân Hữu Hùng Thị bị Xuy Vưu vây chặt, không nhận định được phương hướng đánh ra giải vây, nên thường bị Xuy Vưu đánh bại phải tháo lui. Sự thảm bại của Hữu Hùng Thị thấy rơ trước mắt.
Trong lúc nguy cấp như thế, Đấng Cửu Thiên Huyền Nữ hiện ra dạy Hữu Hùng Thị chế ra xe hai bánh chỉ Nam, có bộ phận chỉ rơ hướng Nam, để phân định phương hướng và vị trí tiến quân, lại dạy cho binh pháp. Nhờ vậy, Hữu Hùng Thị củng cố binh mă, từ trong đánh ra bất ngờ, làm cho binh đội Xuy Vưu thảm bại, bắt sống được thủ lănh Xuy Vưu đem giết chết.
Thế là yên giặc, tất cả dân chúng các bộ lạc đều hoan nghinh Hữu Hùng Thị, tôn Hữu Hùng Thị lên ngôi Minh chủ, lấy hiệu là Hoàng Đế hay Huỳnh Đế. Nguyên Hữu Hùng Thị được sanh ra tại g̣ Hiên Viên, nên về sau gọi là Hiên Viên Huỳnh Đế.
Sau đó, Đấng Cửu Thiên Huyền Nữ cũng thường ứng hiện giúp vua Huỳnh Đế và những người hiền tài trong nước, như giúp Hoàng Hậu Nguyên Phi chế ra nghề nuôi tằm lấy tơ dệt lụa, giúp ông Dung Thành chế ra máy Cai Thiên để xem Thiên tượng, giúp ông Thương Hiệt chế ra chữ viết tượng h́nh để thay cho việc thắt nút ghi nhớ các sự việc.
Ngoài ra Đấng Cửu Thiên Huyền Nữ truyền khoa Lục Nhâm Độn Giáp, và phép bói 64 quẻ Dịch mà đoán kiết hung.
Cửu Thiên Huyền Nữ có rất nhiều danh hiệu kể ra như sau :
- Diêu Tŕ Thánh Mẫu ( trong các câu chú của Tiên giáo thường niệm danh này )
- Kim Bàn Phật Mẫu.
- Phật mẫu.
- Mẹ Sanh.
- Tây Vương Mẫu.
- Thiên Hậu.
Có một số người lầm rằng bà Cửu Thiên Huyền Nữ và Tây Vương Mẫu là hai bà, nhưng thật sự chỉ có một mà thôi.
Một vấn đề nữa có người nghĩ Tây Vương Mẫu là mẹ của Ngọc Đế, hiểu vậy là sai.
Vợ Ngọc Đế là Tây Vương Mẫu ở núi Côn Lôn, cùng một đàn Tiên nữ. Tây Vương Mẫu có một vườn Đào, cứ ba ngàn năm trái chín một lần, ăn vào th́ được trường sanh bất tử.
Hoàng Trọng Miên
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 216 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:32pm | Đă lưu IP
|
|
|
HẾT OAN
Câu chuyện này có thật mà tôi nghe kể từ một người bạn. Tôi không tiện viết tên thật của ngườ́ chết nên thay vào một cái tên khác.
Hậu năm nay vừa đúng hai mươi tuổi, v́ ham chơi nên Hậu bỏ học nửa chừng đi theo bạn bè rồi lập băng đảng. Đúng ngày mùng một tết Hậu cùng vớí đám bạn rủ nhau đi chơi đánh bài. Bài bạc th́ lúc nào củng xảy ra nhửng chuyện không hay như cải nhau hay gây v́ chuyện tiền bạc ǵ đó.
Rồi một người bạn của Hậu đả tranh cải ǵ vớí một người khác. Hai người họ kênh nhau và nói là sẽ thanh toán nhau. Tưởng chỉ là nói thôi, nhưng thật không ngờ Hậu cùng mấy người bạn vừa bước ra parking, th́ người mà lúc nảy gây với bạn của Hậu đă chờ sẳn ngoài đó. Tay th́ cầm cây súng đứng cách Hậu khoảng mười lăm thước.
Người đó đưa súng chỉa vào bạn Hậu và lảy c̣. Nhưng thật không ngờ viên đạn đó đi lạc hướng và trúng ngay vào cổ Hậu. Hậu té xuống giẫy giụa mấy cái rồi chết luôn. Người mà dau khổ nhất cái chết của Hậu là má Hậu. Khi nghe tin con ḿnh bị chết th́ bà ngả ra xỉu.
Sau khi lo tang ma cho con ḿnh đàng hoàng th́ mọi việc đả trở lại như củ. Nhưng tối nào mổi khi lên giường th́ bà đều nhớ tới đứa con đă mất rồi, nước mắt bà cứ chảy ra cho dến khi bà ngủ hồi nào cũng không hay. Một hôm đang ngủ nửa khuya th́ bà nghe tiếng của thằng Hậu vang vang bên lổ tai ḿnh:
"Má ơi .. dậy nói chuyện vớí con má ơi. Con buồn quá má ơi.. "
Bà hốt hoảng ngồi dậy th́ thấy căn pḥng vẩn vắng lặng với ngọn đèn ngủ tù mù đang toả ánh sáng yếu ớt trong căn pḥng. Ngoài trời th́ gió đung đưa cây cối xào xạc tạo ra những âm thanh thật kỳ quái làm cho bà tự nhiên rùng ḿnh.
Bà tự nhủ rằng không lẻ thằng Hậu nó về hay sao, nó kêu ḿnh dậy nói chuyện với nó. Không lẻ hồn nó chưa được siêu thoát sao. Nhưng bà lại nghỉ ra một lư do đễ tự trấn an ḿnh là chắc tại nhớ nó quá. Nên nằm mơ thấy vậy thôi.
Nhưng vừa nhắm mắt lại th́ tiếng của Hậu lại vang vang bên tai bà. Mổi lúc một lớn làm bà không tài nào ngủ được. Người bà bắt đầu run lên v́ biết thằng con bà nó hiện hồn về và đ̣i nói chuyện với bà. Rồi trời củng hừng sáng và bà lập tức chạy ra khỏi pḥng kể đầu đuôi câu chuyện cho mọi người nghe. Nhưng không ai trong nhà tin là Hậu hiện hồn về. Họ cứ cho là bà v́ nhớ thương nó quá nên ảo tưởng vậy thôi.
Sang đêm hôm sau th́ cũng như đêm hôm qua, đúng vào nữa đêm th́ tự nhiên gió thổi mạnh lên làm cho cánh cửa mở toang ra và đập mạnh vào. Bà lấy hết can đảm đi tới cửa sổ đóng kỷ cánh cửa lại và cài luôn then chốt. Đang nằm trên giường mà bà vẫn nghe tiếng gió ở bên ngoài thổi mạnh làm cho cây cối kêu cà kẹt tạo cho bà cảm giác rùng rợn. Rồi có tiếng như ai đó đang đập vào cửa sổ của bà nghe cốp.. cốp. Bà hoảng quá kéo cái mền trùm lên quá đầu và co rúm người lại.
Tiếng gỏ cửa lớn dần lên và nhỏ từ từ theo gió.. chằng bao lâu th́ có một ngọn gió khác thổi mạnh lên và lần này bà không c̣n nghe tiếng gỏ cửa nữa mà tiếng bàn tay ai của ai đó đang cào lên cửa sổ cũa bà. Lúc này mặt của bà tái xanh giống như không c̣n một giọt máu nào. bà sợ hăi lấy hai tay bịt lổ tai ḿnh lại hy vọng đừng nghe những âm thanh kỳ quái đó nữa. khoảng một lát sau th́ bà lại nghe tiếng của Hậu ở ngoài cửa sổ vọng vào:
" Má ơi..mở cửa cho con vào má ơi.. con lạnh quá má ơiii ..
Lúc này th́ tim bà như ngừng đập người bà cứng đơ, đúng rồi Hậu hiện hồn về thật rồi không phải ḿnh tưởng tượng ra, bà vừa sợ vừa thấy tội nghiệp cho con. Không lẻ hồn nó c̣n loanh quanh trong nhà này sao. Lúc này bà nhớ lại nhửng lời người ta nói là:
Nếu ai bị chết oan th́ bốn mươi chín ngày sau người đó mới biết ḿnh chết. không lẽ thằng Hậu nó c̣n chưa biết nó chết rồi sao. Suốt đêm đó bà chẳng ngủ được v́ lo sợ. Sáng hôm sau th́ bà lập tức đi đến chùa đễ nhờ các thầy sư tụng kinh cho con ḿnh mau được siêu thoát đừng về làm cho ḿnh sợ nữa.
Vài ngày sau, khi bà đang giặt quần áo th́ bổng dưng máy giặt ngưng chạy. Nước trong máy giặt từ từ dâng cao lên và tràn ra ngoài, điện đèn trong nhà th́ tắt lụi hết, các cửa trong nhà th́ mở toang ra và có một làn gió lạnh thổi thốc vào làm bà rùng ḿnh toàn thân ớn lạnh, bà biết Hậu về nữa nên bà lập tức đi ra bàn thờ của Hậu lấy vài cây nhang đốt lên rồi van vái:
" Con ơi.. nếu con có bị chết oan th́ con hăy mau đi đầu thai đi, đừng có về đây làm cho má sợ nữa.."
Sau câu nói của bà th́ đèn điện đỏ lại và máy giặt cũng chạy lại b́nh thường. Từ đó về sau bà không c̣n thấy Hậu về nữa.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 217 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:38pm | Đă lưu IP
|
|
|
ÔNG ĐỊA CỦA TÔI
Thông thường trong đời sống hằng ngày người ta chọn một tôn giáo, một niềm tin nào đó để khấn vái, để cầu xin những điều mà họ mong mỏi, họ bị lâm nguy hay khi trong hoàn cảnh tuyệt vọng. Ví dụ mẹ tôi thường cầu trời khấn phật, bạn tôi cầu xin mẹ Maria, d́ tôi khấn vái phật bà Quan Âm, ông bán thịt quay BBQ ở phố Tàu mà tôi quen vái ngài Quan Công.
Riêng tôi Ông Địa là đấng vạn năng trong đời sống tâm linh của tôi. Tại sao vậy ? Bởi v́ tôi xin ngài thứ ǵ th́ ngài cho ngay không một chút lưỡng lự, ngoại trừ điều ước cuối cùng là trúng Superlotto Jackpot tuần này vô cùng nóng hổi: US$100M, có thể chọn cash value option, tiền tươi.
Tôi nguyện ḷng khi nào ngài cho tôi vào danh sách ưu ái nhận giải Superlotto Grand Prize này th́ tôi bế ngài đi mỗi bước du hành từ Tahiti sang Cancun, từ Jamaica sang Bahamas...
Ông Địa và Phật Di Lặc :
Thông thường người ta hay nhầm lẫn giữa hai vị thần linh này. Khi tôi sang Trung Quốc, bạn tôi đưa tôi vào một nơi đại lư bán đồ sứ, người bán hàng chỉ tôi vài mẹo vặt phân biệt. Các tay làm đồ gốm khi làm mô h́nh khuôn đúc đức phật Di Lặc, th́ họ cho những dấu hiệu phân biệt để nhận diện như: ngài Di Lặc th́ khoác áo choàng cà sa có dấu chữ vạn, hay tay ngài đeo chuỗi hạt.
C̣n ông Địa hay ông Thổ Địa thường cầm quạt, hay quấn khăn trên đầu như chú cuội. Dáng dấp hai vị này dù là đức Di Lặc hay ngài Thổ Thần, Thổ Địa đều bề thế, costeau, đô con, nặng cân, mũm mĩm và bụ bẫm như nhau.
Tôi bảo người bán hàng cho hai ông ngồi ngang nhau trên bàn, để tôi so sánh là nên thỉnh ngài nào. Bạn đi chung cùng tôi bảo tôi so sánh làm ǵ, ngài nào cũng vậy thôi hay là thỉnh cả hai. Tôi trả lời anh:
- Này nhé, anh nh́n xem hai ngài đều nặng kư cả đấy, lo thức ăn đàng hoàng cho các ngài là cả vấn đề lớn lao, chứ phải giỡn sao.
V́ nhà tôi thờ ngài nào là thức ăn, trái cây, mâm quả phải thay đổi định kỳ, tươm tất như lời huấn thị của madame nội tướng của tôi. Trong khi liếc nh́n thoáng qua lại ngài nào cũng tốt mă, tốt tướng, đẹp giai và nụ cười quư ngài tươi như hoa, nhân hậu, rất duyên dáng như thống đốc heavy weight champ Jesse Ventura của tiểu bang Minnesota.
Cuối cùng tôi nghe lời người bạn thỉnh luôn hai vị về Mỹ. Tiền thỉnh không đáng là bao, nhưng sợ lỡ các ngài bị thương, mang tật nguyền như sút tay, găy chân là ḿnh ân hận suốt đời, quư ngài sẽ quở trách tôi cho cuộc đời này te tua.
Hiệp 1. Ông Địa giúp trên biển.
Sau khi lấy tàu hỏa từ Thẩm Uyến (Shengzhen) về lại Cửu Long (Kowloon), chúng tôi lên phà từ Kowloon trở lại Hong Kong. Phà đang bị cơn băo dữ đe dọa, phà nhấp nhô, lắc lư v́ bị sóng gió nhồi, đột ngột thấy phía trước mặt chúng tôi, là chiếc tàu sắt đánh cá đang chống chọi lại cơn băo, và thật tội nghiệp con tàu đánh cá di chuyển như con rùa ḅ.
Trong khi phà chúng tôi cho c̣i hú inh ỏi báo động và cố lách, tránh né. Hai chiếc phà và tàu tránh nhau trong đường tơ kẽ tóc, ruột gan tôi co bóp theo từng tiếng c̣i tàu hụ, tôi ôm chiếc xách tay có tượng Ông Địa ngồi tịnh khẩu ở trong đó, Ông Địa chẩn từng nhịp tim, từng hơi thở để cho tôi sự b́nh yên.
Lên trên bờ chúng tôi vào một tửu lầu ăn tối, tôi cho người bạn đồng hành biết, tôi may mắn v́ có vị thần linh bám sát tôi, bạn tôi hỏi ai vậy. Tôi cầm bức tượng Ông Địa ra cho bạn tôi xem vị thần đỡ mạng chúng tôi hiệp một, gặp nạn trên biển.
Hiệp 2. Ông Địa giúp trên không.
Trên chuyến bay từ Hong Kong sang Đài Bắc, ngài Di Lặc được yên nghỉ trong valise gởi trong compartment máy bay, riêng Ông Địa lại nằm theo xách tay di động của tôi, tôi cưng ngài như cưng trứng mỏng.
V́ trời băo bùng trong eo biển vịnh Đài Loan, chiếc Boeing 747 của hăng Eva Airlines bị băo nhồi khủng khiếp, nó lắc lư con tàu đi, làm hành khách hoảng vía lắc lư như con tim sai nhịp đập. Băo nhồi tiếp tục càng mạnh hơn, máy bay gầm thét làm thân tàu chao đảo khi con tàu cố giữ thế thăng bằng.
Giọng tiếp viên hàng không báo động cài seatbelt, giữ b́nh tĩnh và pḥng hờ emergency đă được hướng dẫn. Tôi ôm Ông Địa vào ḷng mà miệng đọc chú tiếng quốc ngữ Annamta:
- Úm bà la cho tai qua nạn khỏi. Ông Địa c̣n là con c̣n. Ông Điạ đi là con đi. Ông Địa có chút từ bi. Cho con thoát nạn con th́ đội ơn. Úm bà la cho tai qua nạn khỏi ...
Cứ thế mà úm bà la niệm chú chừng chục lần là mọi việc xong xuôi. Thế rồi phi trường Chang Kai Shek của Đài Bắc hiện ra trước mặt, chúng tôi thoát nạn v́ nhờ Ông Địa. Ngài đỡ chúng tôi hiệp hai.
Hiệp 3. Cháy khách sạn Nam Hoa.
Chúng tôi vào trọ tại khách sạn Nam Hoa, năm tầng lầu, nhân viên khách sạn cho biết họ chỉ c̣n pḥng trống ở lầu ba và năm thôi. Người bạn đồng hành của tôi chọn pḥng ở lầu ba v́ gần tầng dưới hơn. Tôi bảo bạn tôi nên chọn tầng thứ năm, v́ tôi muốn quan sát phong cảnh chung quanh khu vực thành phố.
Vă lại tôi không ưa số pḥng là hai mươi ba, con số vô duyên với tôi. Bạn tôi ch́u ư. Khi đồng hồ chỉ đúng 12:30 khuya, khách trong khách sạn chạy náo loạn, tiếng la bằng ngôn ngữ Quan thoại, dân Annamta như tôi bí lù, chả biết thiên hạ nói ǵ, anh bạn đồng hành phiên dịch lại. C̣i hụ báo hiệu chuyện chẳng lành, chúng tôi ngó xuống đường, xe cứu hỏa vừa trờ đến, khói từ lầu ba bốc ra ngoài.
Chúng tôi không dùng thang máy được v́ điện cúp, thang lầu bi kẹt cứng v́ pḥng hai mươi hai bị cháy sát thang lầu. Khi mọi diễn biến xong xuôi, chúng tôi đi ngủ lại lúc ba giờ sáng, bạn tôi bảo:
- Hên quá, tụi ḿnh suưt book pḥng số hai mươi ba.
Tôi cười kh́ và trả lời:
- Ông Địa bảo rồi pḥng hai mươi ba không tốt mà.
Tôi ôm Ông Địa ra hôn ngay vào bụng "pregnant" của ngài như lời tạ ơn sâu xa nhất. Bất cứ nơi nào bạn đi, trên trời, dưới biển hay trên bộ, ngài sẵn ḷng nở nụ cười hiền ḥa độ lượng bảo vệ tính mạng cho bạn được b́nh yên.
Ông Thổ Địa và Ông Thần Tài:
Ngày vợ tôi sang tiệm neo để tự làm chủ lấy ḿnh, tiệm này vốn là ngôi chùa Bà Đanh, khách lưa thưa vắng vẻ quá. Người co partner xúi bà nhà tôi nhào vô thử thời vận.
- Sợ ǵ một ăn hai thua..
Bà co-partner nói khích chúng tôi. Nhà tôi hỏi ư tôi. Tôi trả lời kiểu a dua a ṭng rất nịnh đầm:
- Bà sao tui vậy.
Thế là nàng vô vai tṛ làm co-owner. Sau hai tháng đầu tiệm y chang như xưa, khách vẫn ít ơi thưa thớt. Người co-partner là một phụ nữ Annamta gốc Bông bèn mời ông thầy tướng số gốc Trung quốc cư ngụ tại vùng Bông kiều Alhambra, nghe đâu người có nội công thâm hậu, thượng thừa về tử vi, phong thủy cho các cơ sở thương mại tại các khu vực đậm nét Bông kiều.
Thầy ếm bùa bát quái trước sau, thầy kêu chúng tôi treo kiếng ếm diệt tà ma quỷ. Qua người thông ngôn dịch lại là quỷ vampire Dracula c̣n sợ kiếng, huống chi quỷ ở tiệm neo là loại cắc ké, dế óc tiêu, dễ trị như trở bàn tay và không đáng kể.
Ông đi từ trước ra sau, ông lắc đầu ngao ngán, ông nói bọn tôi mua tiệm lầm chết bỏ v́ hướng cửa trước chạy thẳng một đường ra ngỏ cửa sau, chả kín đáo ǵ cả thảo nào vắng khách, nếu có bỏ thêm tiền vào th́ như con bệnh sốt xuất huyết thôi, v́ tiền vào ngă trước chạy thẳng ra ngă sau mất tiêu hết.
Ông c̣n chê thêm cái cây oak khổng lồ ở sân trước parking đậu xe là biểu tượng ma quỷ án ngữ cản khách vào. Thầy bùa cho treo miếng kiếng chống lại bọn tà ma quỷ ám haunting ghost trước cửa ra vào, mấy bà co owners tin như điếu đổ. Thầy bảo tiệm phải có chậu nước hay bồn nước trước cửa, một nguyên tắc chính của khoa địa lư phong thủy.
Chúng tôi mua chiếc bồn nước kiểng có cây bonsai, ngoài ra trang trí thêm cho kế hoạch hốt bạc là chưng cây tiền (money tree) mà lá có năm hay sáu cánh như lá cây khoai ḿ, rồi thêm vài cây thủy tre (water bamboo) mà các nơi bây giờ hay chưng. Phong thủy cần nước mà water bamboo nói lên cả một cái lư thuyết Âm Dương ngũ hành: "Thủy sinh mộc, Mộc sinh hỏa, Hỏa sinh thổ, Thổ sinh Kim". Mà kim là tiền tươi.
Theo thầy tướng số vừa đi, mồm th́ thầm chú trù ếm tà ma khi thầy bấm các nốt đốt tay. Đoạn thầy bảo các bà điều quan trọng hơn cả là phải có vị Thần Tài phù trợ. Vụ này thầy bùa cung cấp v́ vị thần này do một danh pháp sư Trung quốc đă thỉnh tận Trung quốc mới linh thiêng mà thầy biết nơi thỉnh.
Sau này khi tôi nhận h́nh mà ḷng tự hỏi sao Thần Tài Trung quốc của danh pháp sư lại y chang các vị Thần Tài đang ngồi chễm chệ trên các kệ bán nhang đèn ở phố Broadway, khu Chinatown.
Tôi chăm chú nh́n một h́nh vẽ ngài Thần Tài trong y phục Trung hoa y như các đấng thần linh Quan Công, Trương Phi hay Lưu Bị. Sau khi thiết kế xong chương tŕnh pḥng chống tà ma quỷ ám tại tiệm, thầy bái bai chúng tôi và chúc lành mọi điều may mắn.
Thế là tiệm neo phục vụ người bản xứ Cờ Bông cộng thêm vị Thần Tài gốc Trung Bông trấn giữ ngay địa đầu cửa ải th́ nhất xứ thiên hạ, chứ c̣n lo ǵ nữa ? Cái lư thuyết địa lư phong thủy đó cắn bọn tôi một phần máu, máu đă đổ mà thầy bùa pháp sư từ Trung quốc không lật nổi thế cờ, người co partner xin tự nguyện rút lui.
Chúng tôi c̣n lại lẽ loi đơn chiếc và cô thế như chưa ai sẵn ḷng thế cô. Trên đường đi làm về, ngồi trên xe vợ tôi hỏi tôi tính ra sao, tôi bảo nhà tôi là kể từ nay tôi thỉnh Ông Địa của tôi hiện đang thờ ở nhà, lên giải vây thế vai tṛ ngài Thần Tài Trung quốc của vị pháp sư họ Ma, tức họ Mă theo chữ bỏ dấu Annamta.
Ngày "điều động" Ông Địa của tôi lên cho mặt trận miền tây đang yên tĩnh của thành phố Hồ tây (Westlake), chúng tôi làm lễ ra mắt cúng bái ŕnh rang như cô dâu mới về nhà chồng, nào là heo sữa BBQ Liên Hoa và vịt quay cùng hiệu Liên Bông BBQ từ Little Saigon lên yểm trợ, rượu Mai Quế Lộ theo đúng tiêu chuẩn văn hóa gốc Bông bên nhà vợ tôi.
Nhang khói vừa tàn ngay vào mùa prom các nữ sinh hai trường trung học Westlake high school và Thousand Oaks high school chen chân nối đuôi vào, bà chủ chú tâm mần bá thở.
Nhà Tiên Tri Tí Hon Aaron McBain.
Nếu chúng tôi cưng Ông Địa chúng tôi bao nhiêu th́ chú bé Aaron, con trai bà Barbara McBain cưng Ông Địa chúng tôi bấy nhiêu. Bé Aaron năm tuổi, da mịn màng trắng toát như bông bưởi, đôi mắt vừa xanh biếc như màu nước biển crystal blue, vừa tṛn xoe, tóc vàng hoe, cười khoe hàm răng trắng đều đặn, thật xinh xắn.
Bà Barbara có một ḿnh cháu Aaron nên đi đâu cũng vác nó theo. Ông xă của bà là một pilot cho một hăng máy bay airlines lớn, ông thường vắng nhà. Tội nghiệp bà, đôi khi bà cô đơn, bà ghé tiệm chúng tôi làm neo, rồi tán dóc hay đôi khi chạy tạt qua thăm hỏi chúng tôi. Có hôm bà ghé tiệm bán sách kế bên để hai mẹ con bà xem sách. Tựu trung bà là khách quen thân như người trong gia đ́nh đối với chúng tôi.
Một hôm Barbara đang ngồi chuyện tṛ với nhà tôi trong lúc làm neo, tôi ngồi bàn desk bên trong đọc sách, một sự kiện bất thường, Aaron không chạy tung tăng như mọi lần, cháu ngoan ngoăn im lặng ở khu vực bàn thờ. Mọi người yên tâm tṛ chuyện mà chả màng thắc mắc Aaron đang nghĩ ǵ.
Cách thiết trí của tiệm là những tủ kiếng chắn phía trước che luôn bàn thờ, th́ từ bên trong tiệm chúng tôi không thể nh́n thấy bàn thờ và cháu Aaron. Trong sự hồ nghi nào đó v́ cháu Aaron im lặng quá, tôi bỏ cuốn sách xuống bàn đi về phía Aaron, tôi há hốc mồm khi trong thấy cái messy party lầy lội của Aaron.
Cháu quá vồn vă với Ông Địa của tôi. Cháu cho Ông Địa một buổi ăn trưa no nê, cháu đút Ông Địa đủ thứ mà mẹ cháu mang theo trong bao xách tay, từ bánh brownie đen ng̣m, chocolate pudding cũng đen ng̣m nốt, cho luôn một hủ Yoplait strawberry yogurt tưới lên đầu Ông Địa, lót dạ thêm McDonald's pancake, eggs, syrup. Cuối cùng bồi thêm b́nh sửa của cháu và ly Coke của mẹ cháu giải khát cho Ông Địa.
Tôi la báo động lên, mặt cháu tái mét, mẹ cháu chạy ra tức giận phết mấy cái tát vào mông cháu. Thế là nhà tôi âu sầu, người măi lẩm bẩm:
- Thôi chết rồi tận thế rồi, phá Ông Địa như vậy th́ chỉ có nước húp cháo rùa thôi.
Người ta nghỉ là cháo thượng hạng như cháo hải sâm, cháo bào ngư, kế nữa là cháo tôm, cháo cá và cháo thịt, tệ hơn th́ có cháo hột vịt muối, cháo dưa mắm, cháu củ cải muối, cháo củ kiệu, và hạng bét là cháo rùa v́ rùa làm ǵ có thịt, cái mai rùa nhai vào mỏi hàm, ê răng tức làm giàu cho nha sĩ thôi. Do đó cháo rùa là cháo đạm bạc, nghèo nàn nhất xứ, nghèo hết thuốc chữa.
Chúng tôi bỏ gần ba tiếng đồng hồ lau dọn cho khu vực được sạch sẽ. Cuối ngày khách ra về hết, hai vợ chồng lui cui tắm cho Ông Địa bớt nhầy nhụa, nhơ nhớp v́ các chất sữa, bơ, bột và đường bám vào người Ông Địa.
Khi Ông Địa được lau khô bằng Kleenex soft paper tissues, rồi cho tí nước hoa fragrant body splash, mùi lemon romance vào hai vai ngài, mà h́nh như nhà tôi đang nói khẽ ngỏ lời xin lỗi, v́ chú bé Aaron chơi dại quá, đă hỗn láo với ngài.
Tôi c̣n bàn thêm trên đường về chuyến này tụi tôi xui tận mạng: "Ông Địa ra đời, nguyên quán Trung quốc tại miệt Á châu chỉ ưa ăn thức ăn Á đông thôi, sao bé Aaron nỡ tâm Mỹ hoá hay Americanized Ông Địa, thế th́ hỏng hết nát bét hết. Tôi c̣n đưa ra lời tiên đoán, từ ngày mai trở đi là tiệm chúng tôi sẽ vĩnh viễn húp cháo rùa dài dài.
Ngày mai trở lại tiệm mọi người âu lo chờ đợi lời Ông Địa phán. Cái chúng tôi không ngờ là thằng bé dạy cho chúng tôi bài học vỡ ḷng về việc vệ sinh cho Ông Địa, là đă tám tháng trời ngài bị nhang khói bụi bậm hành hạ.
Trong khi theo Hiệp Hội Tim Mạch Hoa Kỳ hay Hội Ung Thư Mỹ Quốc th́ đă có hàng triệu người Mỹ là nạn nhân của sự thể second hand smoker để rồi họ bị ung thư phổi, bị hen suyễn, bị bệnh tim mạch như heart attack hay stroke,...
Trong khi đó tám tháng qua Ông Địa chúng tôi phải vất vă hít thở nhang khói, khổ sở trăm lần hơn các nạn nhân second hand smokers, và tôi lại nhẫn tâm dùng dây xiềng xích Ông Địa lại. Lư do v́ các cháu nhi đồng của nước Mỹ khi lại tiệm thường hay bê Ông Địa ra chơi như búp bê, mà đă xích chân Ông Địa th́ làm cách nào Ông Địa exercise, hay vận đông thể dục được sau mỗi ngày ăn no nê.
Trong khi mỗi ngày lượng cholesterol Ông Địa càng gia tăng, v́ nào là bánh bao, bánh ḿ thịt Lee's Sandwiches, há cảo, sủi cảo, dumplings, xá xíu, xíu mại,... toàn thứ high cholesterols thôi. Sau khi Ông Địa được cho tắm piscine mát mẻ th́ ngày đó đông khách lạ thường.
Bài học từ bé Aaron nhắc nhở: Nên tắm cho Ông Địa thường xuyên, đổi thức ăn cho ngài, ăn đồ Á châu hoài Ông Địa sẽ ngán ngẩm, chán chết mà ngài không dám nói.
Ông Địa cảnh cáo.
Tháng sau đó Barbara dẫn Aaron lại tiệm chúng tôi trong nỗi tức giận, khi Barbara khóc bù lu bù loa thông báo cho chúng tôi biết, Mark (bố cháu Aaron) đă đi theo con mèo hai chân bỏ sang Dallas và bỏ bà rồi. Những giọt nước mắt oan khiên, cô đơn được nhà tôi mách nước là chắc tại cháu Aaron đă chơi hỗn với vị thần linh là Ông Địa, nên mới có chuyện xui nhà bà ấy.
V́ Barbara nói lần đầu tiên xảy ra, sau sáu năm sống chung vô cùng hạnh phúc. Vợ tôi dẫn Barbara ra trước bàn thờ Ông Địa mách bảo như đạo diễn rằng th́ là Barbara nên chuộc tội xin lỗi, khấn vái Ông Địa và xin ngài cho Mark trở lại với gia đ́nh.
Barbara tin lời nhà tôi cứ mỗi hai tuần ghé qua làm neo và khấn vái đốt nhang và xá ba xá rất thuần thục, nhuyễn nhừ. Nhiệm mầu thay hai tháng sau Mark bị con mèo hai chân Dallas đá lăn cù, chàng chạy về lại Cali xin lỗi Barbara xin cho ở lại.
Thế là tiếng đồn gần xa đến tai các khách khác. Mấy nàng Mỹ nữ bị chồng lay off, kép cho retire, bồ cho de, bị phụ t́nh đến kính cẩn nghiêng ḿnh thắp nhang cho Ông Địa của chúng tôi để cầu xin một phép nhiệm mầu trong đời sống hôn nhân hay trong t́nh yêu tràn trề hạnh phúc kiểu Cờ Bông.
Bé Aaron với bài học. Trở về với cát bụi.
Trong một hôm sáng đầu tuần vắng khách, cũng nhân dịp lễ Trung Thu vừa qua, ai nấy miệt mài làm việc cho khách hẹn. Mẹ cháu Aaron măi mê đang đọc sách ở tiệm bên cạnh, Aaron lẻn vào tiệm neo chúng tôi thực hiện kế hoạch mission impossible, Aaron liếc nh́n bàn thờ có thím gà mái dầu hấp muối của tiệm Sam Woo, gà mái bị phủ một lớp giấy kiếng trong suốt, transparent wrap cho khỏi bị bám bụi nhang.
Bên cạnh có nước tương gừng, nước chấm xí mụi, cơm nấu theo kiểu Hải Nam mà tất cả đều có bao kiếng wrap, rồi hai hộp chè hạt sen, bạch quả, khoai môn cũng để nguyên ngăn nắp trong hộp (theo kiểu chè Cali), kế bên là hộp bánh Trung Thu thập cẩm cũng c̣n nguyên trong hộp.
Chú bé Aaron ngẫm nghĩ không hài ḷng hay sao đó: "Tại sao cúng lại cho Ông Địa mà mọi thứ đều bị niêm phong, phủ kín mít từ gà, cơm, bánh, chè ? Tại sao cúng mà không mở ra ?".
Thế là cháu cho tự động mở toạc ra hết. Lư nhang quá đầy cháu đem các cọng nhang tàn trong lư hương đă đốt c̣n phần đỏ, cháu ném vung vẩy tứ tung ra thảm, xong lấy tro tàn nhang thoa lên thím gà mái, xong thoa luôn bốn cái bánh Trung Thu nhân thập cẩm, rưới tro tàn nhang lên cơm, lên chè...
Lại một lần tôi nữa tôi bắt gặp Aaron làm hỗn với Ông Địa, vị thần linh của tôi, tôi quát tháo lên. Thế là mẹ cháu từ tiệm sách bên cạnh chạy vội sang. Kỳ này Barbara giận dữ v́ Aaron dám trù ếm Ông Địa của chúng tôi sớm về với cát bụi, nên cháu thật sự muốn tập sự cho Ông Địa làm quen dần với bụi bậm.
Barbara lại đốt nhang quỳ tạ lỗi, cầu xin khấn vái sợ Ông Địa trở về với cát bụi th́ chắc là chàng Mark kia sẽ bỏ mẹ con nàng nhà sang Dallas luôn và dứt t́nh Cali muôn thuở. Sau khi Aaron cho Ông Địa xơi món gà ướp tro, ḷng tôi hơi lo âu, v́ lỡ Ông Địa có mệnh hệ chi th́ business của bà nhà đi đong như chơi, nhất là ở giai đoạn suy thoái kinh tế trầm trọng nhất của nước Mỹ hiện tại.
Vă lại cái dáng bề thế heavyweight champ của ngài mà chúng tôi cứ măi cúng kiến gà, vịt, tôm càng, heo, bánh bao, bánh ḿ thịt, xíu mại, xá xíu, há cảo, sủi cảo, dumplings, ... th́ Ông Địa sẽ một sớm một chiều sẽ thật sự trở về với cát bụi như chơi. Tôi đề nghị nhà tôi cho ngài theo chương tŕnh comprehensive diet, tức ăn kiếng toàn diện hay ăn chay.
Từ nay Ông Địa chỉ được dâng hưởng trái cây tươi và fruit juice thôi, ưu tiên là chuối cau (baby bananas) có nhiều potassium tốt cho bệnh nhân tim mạch và cho ông uống nước dừa xiêm loại tươi, nước mát bông cúc, nước mát rau má.. nước sâm American ginseng sẽ mát rượi tâm hồn. để ngài có được an giấc ngủ ngon, chứ không ngủ ngon chúng tôi sẽ có thêm nhiều khốn đốn vất vă.
Và cũng từ nay Ông Địa không c̣n được cung cấp các đặc sản "bia ngoại" như Heineken, Sapporo, Budweiser hay đế Mai Quê Lộ nữa, mà chỉ có: Nước sâm, nước mát, nước dừa. Trong ba thứ đó ông ưa nước nào ?
Cách đây hai tuần, mẹ con Barbara và Aaron McBain đến từ giă chúng tôi. Barbara cho biết Mark t́m được việc làm mới tại Georgia, nên gia đ́nh sẽ dọn qua Atlanta. Barbara và Aaron đốt nhang vái Ông Địa lần cuối cùng và bé Aaron thật dễ thương trong nụ cười thơ ngây hồn nhiên, cháu hôn má và cái bụng pregnant của Ông Địa.
Tôi bảo Barbara là Ông Địa sẽ pḥ hộ cho Aaron học hành giỏi và biết đâu, mười ba hay mười lăm năm sau này cháu trở lại Cali, theo học đại học hay đi làm.
Hy vọng khi đó Ông Địa sẽ c̣n hiện hữu để tiếp đón người xưa với cái ân t́nh tri kỷ mà cháu Aaron đă dành cho Ông Địa của tiệm chúng tôi.
"Goodbye and good luck to you all the way you go.."
ViN 79;t Hải
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 218 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:39pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐẠO TƯỞNG
Tân Châu được biết, tên thật của ông là Lâm Văn Quốc tự Ba Quốc, con của ông Lâm Văn Ngươn, mẹ là Nguyễn Thị Nhỏ, quê ở Cái Cùng xă Long Điền, một thôn nằm ở giữa xă Vĩnh Mỹ và Gia Thái tỉnh Bạc Liêu.
Cái đất sinh ra ông là Cái Cùng. Tên "Cái Cùng" gợi cho người ta một vùng rừng đất hoang sơ của U Minh, một vùng rừng c̣n những con rắn khổng lồ đêm đêm treo ḿnh giữa hai thân cây, tự lấy thân ḿnh làm gàu tát nước giữa đêm khuya để bắt cá.
Thuở nhỏ nhà nghèo, Cái Cùng là nơi xa xôi hẻo lánh, nên ông chỉ học đến lớp abc.. Lớn lên với thân h́nh vạm vỡ của ông, ông thích vơ nghệ. Ông thích giao du với các hảo hớn, học vơ "Thiếu lâm tự" để thỏa chí b́nh sanh, ông lưu lạc lên đất Miên, qua Lào, học thêm bùa ngải.
Sau bao năm "tầm sư học đạo" ông trở lại đất Tân Châu, lănh cai quản cho gia đ́nh người cậu của ḿnh là ông Nguyễn Chánh Sắt, người có tiếng trong làng văn làng báo thời bấy giờ. Ba Quốc nổi tiếng là người siêng năng, giỏi giang việc đồng áng, to lớn và "hầm hừ" vậy, nhưng hiền lành dễ thương.
Chẳng bao lâu vào một đêm mưa gió, những đêm mà sông Tiền như con rồng chuyển ḿnh, dậy sóng hàn đập ́ ầm, sau những ngày bần thần ră rượi, biếng nói biếng cười, cặp mắt như lờ đờ, khi đỏ ngầu, thân xác ông như bị một vị khuất mặt nào đó hành hạ ông, ông la, ông hét, ông đấm ngực, ông đụng đầu vào cột nhà, rồi ông "phát huệ", ông lại xưng là "ta là tướng núi" và đủ thứ danh tánh.
Sau đó ông lập am hành đạo. Rời nhà người cậu bỏ việc đồng áng, bằng bùa ngải ông bỏ công đi trị bịnh cho bà con dọc theo sông Tiền. Theo lời kể, lạ thay, bịnh nào ông trị cũng hết. Đó là bịnh nhẹ. C̣n bịnh nặng những bịnh kinh niên, ông gọi là bịnh tà ma ám ảnh, sau khi cho bịnh nhân uống bùa ngải, ông ra thần oai, ông đụng đầu vào cột nhà cho tà ma hoàn xuất.
Rồi ông trầm tư dùng luồng sáng của đôi mắt chiếu vào bịnh nhân. Lạ thay bịnh nhân nào cũng thấy nhẹ người, người nào cũng thấy nhẹ người, người nào cũng lồm cồm ngồi dậy xá lạy ông.
Vào năm 1928, cái am bằng tre lá như một cái cḥi ruộng được dựng lên, bề thế tọa lạc trên con đường gọi là Hương Chùa, cách chợ Tân Châu độ cây số ngàn.
Đạo của ông lấy kinh gốc từ chùa Tây An. Mỗi ngày ông hành lễ ba thời: khuya, ngọ và chiều. Trước hết ông lễ Bàn Thầy, Bàn Thánh, Bàn Thần. Bàn chư vị Năm Ông, mỗi bàn mười hai lạy. Xong ông ra lễ bàn Thông Thiên lạy đủ bốn phương: đông, nam, tây, bắc.
Khi hành lễ cũng có chuông mỏ ngân vang như nhà chùa. Sau mười bốn năm hành đạo 1925-1939 ông có trên mười ngàn tín đồ, sống rải rác trên khắp cả đất Tân Châu, từ sông lớn đến kinh rạch qua các đồng sâu.
Ông đi đến đâu cũng được tín đồ tung hô vái lạy. Từ đó ông tự xưng là "Minh Hoàng Quốc", lúc ban đầu, đạo tưởng có nghĩa là ông ngồi tưởng cho bịnh nhân thoát bịnh. Sau cái nghĩa của Đạo Tưởng được nâng cao hơn, tưởng về "giang san tổ quốc, tưởng đến ngôi vua".
Dần dần cái sân am hành đạo của ông biến thành sân vơ. Một đêm đệ tử thấy thần oai ông đụng đầu vào một thân cây, cây lá rung rinh như đương đầu trước ngọn gió. Như vậy chắc ông thấy cũng chưa đủ, có lần ông đóng cây đinh ba tấc vào cột nhà, trước mặt hàng ngàn tín đồ đứng vây quanh, ông đụng đầu vào cây đinh, cây đinh quẹo ngang mà đầu ông không hề có một vết xước sát.
Rồi đêm đêm, như một thời xa xưa nào được dựng bên bờ sông đất Tân Châu. Trước cái sân am hành đạo của ông, lá dừa bó thành đuốc nổ lép bép, đỏ đùng đục như ánh ma trơi. Hàng trăm tín đồ với sắc phục vàng hươm, kiếm loang loáng trong ánh đuốc đỏ rực dưới trời đêm, bên con sông không bao giờ mệt mỏi, vừa trôi vừa vỗ sóng dập bờ.
Chừng như đă có một đạo quân, ông Đạo Tưởng bắt đầu lập triều đ́nh: Ông là Minh Hoàng Quốc, quân trẻ của Nguyễn Văn Hương, Đinh Phan, Vương Lèo và Nguyễn Soái Năm. Đă có tham vọng có triều đ́nh có quân đội, ắt phải có ngày hành động.
Theo sách đă ghi, đó là đêm mùng 8 rạng ngày 9 âm lịch năm Kỷ Măo (20 -2 -1939) đêm trăng lưỡi liềm mờ mờ ảo ảo cùng nhang khói, tín đồ từ xa kéo đến nghe ông thuyết pháp. Buổi thuyết pháp trong đêm huyền ảo ấy, ông không giảng giáo lư cao siêu của đấng Từ bi hay đức hy sinh cao cả của Phật Thích Ca, mà chuyển giọng sang sảng như tiếng kèn thúc quân.
"Hỡi đồng bào. Dân tộc ta đă bị người Lang Sa cai trị nhục nhă gần trăm năm nay, số của chúng ta đă sắp măn, đồng bào hăy cùng bổn đạo đánh đuổi quân thù rửa nhục nước". Rồi ông đưa tay vỗ ngực dơng dạc tự xưng "Ta là Chánh v́ Vương thừa mạng trời lập Quốc".
Như sóng dậy từ ḷng người, tiếng ḥ hét của tín đồ dâng lên như sấm, đuốc huơ cao, dao gươm kiếm vung lên loang loáng, tiếng reo tiếng trống tiếng phèng la nổi dậy trời... Chó dọc theo con sông cất tiếng tru xao xác cả dân chợ dân làng.
Rạng ngày mùng 9 trời vừa hừng sáng, c̣ Laffont, quận trưởng Nguyễn Văn Đề, thơ kư Phan Văn Thông cùng với hai tiểu đội lính vũ trang súng trường, xếp hàng theo một bờ kinh Vĩnh An tiến vào đường chùa. Quân của c̣ Laffont vây tṛn lấy cái am của ông Đạo Tưởng trong tầm súng.
Ông Đạo Tưởng không hề nao núng... Cái am của ông không c̣n là cái am hành đạo nữa. Là một triều đ́nh đă bày binh bố trận, sẵn sàng chinh chiến. Đuốc trước am, ông Đạo Tưởng oai vệ trong sắc phục vàng, áo tay rộng, đầu phủ bịch cân, lưng thắt dây đen, chân mang giày vàng, cổ đeo ḷng tḥng xâu chuỗi bồ đề, theo cách mô tả của người cùng thời "ông đường đường như Vu Hồng đương kiểm binh vua tướng quỷ, sái đậu thành binh hầu xuất trận".
Đứng hai bên dài dọc theo sân vơ, gồm hàng trăm nam nữ "đầu trọc áo vàng" tay gươm tay giáo, bừng bừng khí thế. Giữa sân vơ là hai cái thây của hai vợ chồng Hương Kiếm đă bị đem ra tế cờ vào giữa đêm v́ tội phản đạo. Ông cất giọng về phía quân thù, nhằm nói với tên c̣ Laffont và quận Lễ:
- Các ông cứ bắn súng đi. Súng đạn của các ông không lủng được da thịt của quân "Minh Hoàng Quốc" này đâu. Bắn đi.
Sau lời thách thức của ông, súng vẫn im. Với giọng nói hùng hồn và sang sảng của ông, tín đồ không chỉ tin súng không làm ǵ được ông mà kể cả họ nữa. Họ đă được thầy tẩm cho bùa ngải rồi. Cả ông, cả họ không c̣n là người thường nữa, họ là người ḿnh đồng da sắt.
Quận Lễ đứng từ xa cất tiếng:
- Ba Quốc hăy buông gươm giáo đầu hàng. Không sẽ thiệt mạng.
Đạo Tưởng phất tay áo:
- Hỡi binh sĩ. Trẫm nay vốn thiệt là "Minh Hoàng". Các người hăy trả áo lại cho bọn Lang Sa cùng ta tiêu diệt kẻ thù. Tiến.
Tín đồ của ông một loạt trụ bộ, rừng chân đi vừa chĩa gươm giáo vừa hô, tiếng hô như tiếng gầm phát ra từ những lồng ngực rừng rực máu.
Phía bên c̣ Laffont và quận Lễ, đạn lên ṇng, một họng súng cất lên trời.
- Cốp.
Súng không nổ. Viên đạn lép đầu tiên của c̣ Laffont là bằng chứng cho ḷng tin của Đạo Tưởng và tín đồ.
Gươm giáo lủa tủa trong vang lên cùng tiếng gầm thét. Súng bắt đầu nổ. Nhưng đạn chỉ cày lên sân cỏ bốc khói chẳng trúng ai. Quân "đầu trọc áo vàng" của Đạo Tưởng vừa nhảy vừa xông lên như một đám lân vừa đạp xác pháo vừa cất cao đầu.
Khi mặt dần giáp mặt, ông Đạo Tưởng vừa lắc hai vai vừa bước, phất hai tay áo, đưa hai bộ vuốt hùm, mắt trợn nh́n c̣ Laffont, Lê trong nháy mắt, hai bộ vuốt hùm của ông sẽ móc cả ruột gan c̣ Laffont. C̣ Laffont vừa lùi bước vừa móc súng, bàn tay cầm súng của hắn run lẩy bẩy. Một tiếng nổ.
Nghe tiếng "hực" của ông, binh lính tín đồ giật ḿnh quay lại. Con người siêu phàm đang loạng choạng, vừa ngă, vừa đưa cái bàn tay móng vuốt hùm lên lồng ngực. Cái lồng ngực căng đầy của ông máu tràn đẫm cả chiếc áo vàng. Không một lời trối trăn, chỉ có tiếng "ừng ực" uất nghẹn không nên lời, hai con mắt nh́n trời trợn ngược.
Bao năm tu luyện bùa ngải, chỉ cần một tiếng nổ, một viên đạn đồng bằng đầu đũa, mộng lớn của ông bỗng tan biến như khói hương trong am hàng đạo trong cơn gió. Ông ngă xuống, không một tín đồ nào ở bên ông, quanh ông chỉ c̣n là gươm giáo của tín đồ đă tản chạy.
Sau này có một lăo râu dài đến tận ngực, vốn trước kia, thỉnh thoảng ông được Đạo Tưởng mời vào am đàm đạo. Ông kể lại với một vài bạn tri âm:
"Ông Đạo muốn làm vua nước Nam, nhưng ông không biết biên giới nước Nam ḿnh từ đâu đến đâu. Nước Nam có bao nhiêu sông lớn, bao nhiêu núi cao, ông cũng không rành. Ông tưởng đánh được đồn Tân Châu th́ cả quân Pháp đầu hàng. Ông tội thay".
Ông lăo đă đến bàn thờ ông Đạo Tưởng thắp ba nén nhang:
- Chí khí của ông thật là đáng phục, xin ông nhận cho tôi ba lạy.
Ông quỳ, ông lạy ba lạy rồi chắp tay ngửa mặt lên trời:
- Hỡi ôi. Ông Đạo Tưởng.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 219 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:40pm | Đă lưu IP
|
|
|
HAI CON MẮT
Ông Cửu Niệm ốm li b́ đă gần hai tháng. Ông ta mắc một bệnh mà các thầy lang đều cho là bệnh mê sảng của những người già lẫn, tuy ông Cửu năm nay chưa đầy sáu mươi. Bệnh như không tăng mà cũng không lui. Đêm nào cũng vậy cứ vào khoảng một, hai giờ khuya ông Cửu lại ú ớ kêu la cầu cứu, khiến con cháu ông đều thức dậy chạy cả đến bên giường.
Vừa thở hổn hển ông vừa thuật lại giấc mơ dữ dội: hai con mắt hiện lên ám ảnh ông chăm chú nh́n ông, hai con mắt to như mắt hộ pháp ḷng trắng dă và tṛn, ḷng đen đen nháy và vuông. Ông rên hừ hừ:
- Ối trời ơi.. hai con mắt.. hai con mắt vuông..
Rồi cho đến sáng ông Cửu không sao ngủ được. Một hôm ông gọi đông đủ con cháu đến bảo:
- Tao chắc đây là một việc báo thù hay một việc đ̣i của.
Ông Cửu như ngần ngại, sợ hăi xấu hổ nằm im ĺm suy nghĩ, giương mắt nh́n thẳng lên đỉnh màn. Trong khi ấy các con cháu ông yên lặng, lo lắng kính cẩn đứng đợi. Về sau không giữ nổi ông thở dài kể tiếp:
- "Chúng mày hẳn không biết v́ sao ngày nay tao có cái cơ nghiệp này, cha mẹ tao có để cho tao một đồng một chữ nào đâu. Cả người trong làng cũng vậy, thấy tao đương nghèo đói, đói thực ấy bỗng trở nên giàu có, làm nhà làm cửa, tậu vườn tậu ruộng th́ họ cũng đoán và đồn rằng tao được của,thế thôi, chứ sự thực th́ tao chưa hé ra với ai một lời nào.
Nhưng sự thực th́ chính tao được của. Ngày xưa tao nghèo lắm, thường đi gánh thuốc lào thuê cho người hoặc làm bất cứ công việc ǵ, để kiếm một ngày hai bữa cơm và vài tiền quư, có khi trời làm đói kém, chỉ được một ngày hai bữa cơm thôi cũng đă là may lắm rồi.
Một hôm tao đào móng nhà cho ông chánh Thà. Lúc ấy về chiều tối, ai nấy đă nghỉ tay sắp sửa ăn cơm. Nhưng tao c̣n đào chơi vài nhát thuổng nữa. Có lẽ trời xui khiến ra thế, v́ có ai bắt ḿnh làm đâu! Mà nào ḿnh có làm việc cho ḿnh cho cam!
Bỗng giữa những tiếng giục giă:
- Ra ăn rỗi, anh Niệm!
Tao thấy chỏi tay và nghe thấy một tiếng cạch, lưỡi thuổng của tao vừa xiên xuống một vật rắn chắc như thành một cái tiểu sành vậy. Tao cúi xuống bới nh́n th́ đó là một cái vật nhỏ đậy nắp mà nắp lại trát gắn bùn rất cẩn thận. Tao đồ rằng trong đó có vật quư nên lấp lại điềm nhiên đi ăn cơm với mọi người.
Đêm hôm ấy tao xin ngủ lại chỗ xưởng làm, như thể là một sự rất thường ḿnh vẫn ở làm thuê cho ông chánh, có khi trong luôn năm ba bữa nửa tháng không về qua nhà. Tao chờ đêm khuya vắng đến chỗ móng đào bới đất moi lên được một cái vại chỉ bằng cái vại nén cà nhỏ ấy thôi. Nhưng mà tao bê thấy nặng quá.
Nền nhà mới dựng vào một khu vườn rộng, ông chánh Thà giàu lắm đất ở thênh thang có tới vài mẫu. Tao đem cái vại của tao tới bụi chuối rậm, rồi mở nắp lấy hết những vật ở trong, gói vào giẻ rách giấu đi. Tao cũng không biết đó là những vật ǵ. Măi hôm sau đem về mới biết là vàng, toàn những vàng thoi..."
Ông Cửu ngừng kể. Các con cháu vẫn im lặng đứng chờ, v́ chưa thấy có liên lạc giữa hai con mắt vuông, với cái vại vàng chôn. Sau một lúc lâu ông Cửu lại nói:
- "Vậy tao chắc nay... nó đ̣i của. Nó theo tao nó đ̣i của. Hai con mắt nó hiện ra kia.. hai con mắt nó về để báo cho tao biết.. để báo cho tao biết rằng tao đă đến ngày tận số"
Ông Cửu nghẹn ngào như bị hai bàn tay vô h́nh bóp cổ. Người con cả ông an ủi.
- "Thưa thầy, thầy được của là trời cho thầy. Của ấy là của trời. Nếu là của ông cha ông chánh Thà để lại, th́ sao ông chánh lại không biết ǵ, th́ sao xưa kia ông ta lại không đả động tới, mà các cụ tiền nhân cũng không báo mộng báo mù ǵ cho ông ta hay, nhất là tại sao của ấy lại không lọt vào tay ông ta.
Lại điều này nữa khiến con tin chắc chắn rằng trời dành của ấy cho thầy, là tại sao thầy lại t́m thấy cái vại để vàng giữa lúc nghỉ việc ? Nếu thầy đào được sớm hơn vào buổi sáng hay buổi trưa chẳng hạn, th́ có phải đă ầm ĩ lên và ông chánh đă nhận mất vàng rồi c̣n đâu.
Không, con dám quả quyết rằng của ấy là của trời chứ không phải là của tổ tiên ông chánh. Của trời dành cho thầy. V́ thuở xưa hay kiếp trước thầy đă tu nhân tích đức nhiều lắm".
Ông Cửu mỉm cười nhắc lại:
- Thầy đă tu nhân tích đức nhiều lắm.
Ông nghĩ đến những việc ông đă làm, nào cho vay nặng lăi, nào trữ thóc gạo lại không bán làm cho giá cao lên trong khi bao nhiêu người chết đói, và ông lẩm bẩm:
- Hay đó là hai con mắt của bọn ấy đến đ̣i mạng đến bắt ḿnh phải đem mạng ḿnh ra mà thế mạng.
Nhưng ông nghĩ tiếp ngay, v́ trong khi ốm tinh thần ông sáng suốt khác thường.
"Nếu là mất của chúng th́ sao hai con mắt ấy lại lạ lùng thế. Sao tṛng đen lại vuông lại to thế ? Không, chắc đây là mắt thần".
Tự nhiên trong tưởng tượng của ông, một vị thần hiện ra ngồi trên bệ gạch, một vị nữ thần miệng gắn nhựa trám và hai con mắt to thao láo tṛng trắng tṛn tṛng đen vuông. Rồi pho tượng biến dần biến dần, chỉ c̣n lại hai con mắt đăm đăm nh́n ông. Ông lại la:
" Trời ơi..hai con mắt..hai con mắt vuông.
Và lắc đầu xua tay đuổi cả con cháu ra ngoài pḥng.
Mấy người con bàn nhau về căn bệnh cha. Họ đoán có tiền căn nghiệp chướng chi đây. Họ liền mời các vị cao tăng đến lập đàn ba ngày ba đêm ở sân để tụng kinh giải ách cho cha.
Đêm thứ ba cúng chúng sinh: một nhà sư tốt giọng hát bài ca chiêu hồn để gọi linh hồn chúng sinh về nghe kinh phật, trong bọn có đủ các hạng cùng khổ trong loài người.
Nào những kẻ sa cơ, lỡ bước...
Bỗng ông Cửu kêu rú lên một tiếng rồi ngất đi. Và ông mơ thấy ông đi trên con đường nắng chân mỏi bụng đói. Hai bên đường lúa mọc xanh rờn, người làm việc đông đảo. Họ hát những câu ca dao mà ông cũng thuộc và những khi đi gặt hái ông thường hát.
Tới một cái miếu con ẩn trong bóng cây đa um tùm, ông dừng chân ngồi nghỉ. Một tia hy vọng vụt chiếu rọi vào mắt ông: ông vừa trông thấy kê trước cửa miếu một cái nia đầy những xu và trinh... Ông đưa mắt nh́n quanh: không một ai. Mấy nén hương cắm trên một thẻ vàng tỏa mùi thơm lạnh lẽo và càng làm tăng phần tĩnh mịch nơi miếu vắng.
Ông tự nhủ thầm:
"Ḿnh chỉ việc đưa tay ra bốc một nắm bỏ túi là sẽ có cơm ăn, là sẽ không chết đói".
Và ông đưa tay ra thực. Nhưng ông lại rụt tay lại, tưởng như có ai ghé mắt đâu đó đứng nh́n. Ông nghĩ đến câu chuyện Mường, chuyện Thổ, những chuyện ma xó giữ nhà: ḿnh vào nhà lấy trộm vật ǵ trong khi chủ đi vắng; con ma sẽ đọc tên vật ấy lên rồi nó theo dơi ḿnh mà bóp cổ cho ḿnh chết. Tự nhiên, ông rùng rợn dựng tóc gáy vội vă bỏ đi.
Đi được một quăng ông lại quay về cái nia tiền. Ông định bụng cứ lấy một ít đi ăn cơm rồi chết th́ chết cũng cam ḷng. Chết c̣n hơn đói. Giữa lúc ấy một người đi đến. Ông sợ hăi nấp vào sau gốc đa. Người kia thản nhiên qua miếu, và ông nghe thấy hắn ném vào nia một đồng trinh. Chờ cho hắn đi khỏi, ông lại nhô ra đến bên cái nia đăm đăm nh́n. Nhưng vẫn không sao dám nhặt vài đồng trong nia tiền.. của thánh.
"Của thánh.. lấy tội chết thánh quật chết"
Ông Cửu Niệm th́ thầm. Rồi quả quyết đi thẳng. Một quăng xa, ông gặp trên con đường rẽ vào một cái chợ đương họp, một chị ăn mày ngồi phục bên một cái rổ, một cái gậy, và ngước mắt trắng đục nh́n trời, miệng kêu than như ca hát:
"Con người th́ có, con mắt th́ không...".
Trong rổ có hai đồng trinh. Mắt ông Cửu như dán vào đó. Ông đứng im một hồi lâu, tai như lắng nghe câu van lơn của người ăn mày. Nhưng sự thực ông đương nghĩ thầm:
"Nó mù! Nó mù! Nó không trông thấy ḿnh.. Quanh đây không một ai.."
Và ông cúi xuống lẳng lặng cúi xuống, rón rén nhặt hai đồng trinh thu vào trong bọc. Rồi ông hấp tấp chạy như sợ người mù đuổi theo. Ông vào chợ mua bát cơm đầy ăn ngốn ngấu. Ăn xong ông quay về con đường cũ. Qua đầu đường ông vẫn thấy người ăn xin ngồi nguyên chỗ, và trong rổ của nó hai đồng trinh vẫn c̣n. Ông mừng thầm tự nhủ:
"Th́ ra ḿnh mơ thấy ḿnh lấy hai đồng trinh của nó. Kỳ thực ḿnh có lấy đâu?
Tới miếu cũ ông ngắm lại cái nia. Lạ lùng chưa! Bao nhiêu trinh trong nia đă sắp thành từng đôi một. Và chỉ trong một giây biến thành những cặp mắt. Những cặp mắt ấy to măi ra, to măi ra và trừng trừng nh́n thẳng vào mắt ông, những cặp mắt tṛng trắng tṛn, tṛng đen vuông. Cùng một lúc tiếng ăn mày cất lên tứ phía giọng nghe thê thảm:
"Lạy ông lạy bà, ông bà thương con, con người th́ có, con mắt th́ không".
Rồi bao nhiêu cặp mắt vuông bay tới tấp vây chặt lấy ông Cửu..Ông kêu thét lên:
- Trời ơi..hai con mắt vuông.
Rồi ông tỉnh mộng. Ngoài sân tiếng nhà sư đọc bài chiêu hồn chúng sinh, giọng trầm bổng như kẻ ăn mày kêu đường. Ông Cửu thở hổn hển rồi lại ngất đi.
Sáng hôm sau ông gọi các con đến trối trăn:
- Cha nhiều tội lắm. Cha ở ác với rất nhiều người, nhưng với hai con mắt... với hai con mắt vuông ấy th́ cha chết mất. Đó là hai con mắt thịt, hai con mắt trần, chứ không phải mắt thần, mắt thánh nào cả như cha vẫn tưởng nhầm. Ngày ấy..đă lâu lắm..Nhưng mà thôi đă có các con chuộc tội cho cha. Ngay hôm nay các con rao mơ rằng luôn năm hôm cha phát chẩn cho những người đói khó trong khắp vùng này. Mỗi người các con cho một bát gạo với hai đồng trinh. Hai đồng trinh các con nhớ chưa? Đó là cha trả nợ c̣n bát gạo là cha trả lăi.
Chiều hôm ấy ông Cửu nghe tiếng mơ rao, và biết rằng các con ông sẽ làm theo lời ông trối lại. Ông sung sướng mỉm cười trong giấc ngủ cuối cùng. ông chắc chắn sẽ thoát khỏi sức áp bách, sức thôi miên của hai con mắt vuông.
Đời Nay
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 220 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:41pm | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH ĐI VỀ BÊN KIA THẾ GIỚI
Khi được hỏi về t́nh trạng sức khỏe của ḿnh, người Ai Cập cổ thường chỉ có một cách trả lời: "Hôm nay tôi khỏe, ngày mai th́ tùy thuộc vào thần linh". Nền văn minh cổ Ai Cập gắn bó rất chặt chẽ với tôn giáo, và số lượng lớn các thần linh trong đó có Thần Anubis, vị thần đầu chó rừng được xem như vị thần sáng chế ra kỹ thuật tẩm hương thơm và chủ tŕ cho toàn bộ công việc ướp xác, cùng đồng hành với người chết đi sang thế giới bên kia.
CÁI CHẾT VÀ CUỘC SỐNG Ở BÊN THẾ GIỚI BÊN KIA
Ước mong của mỗi một người Ai Cập là, sau khi sống mạnh khỏe đến tuổi 110 ở trần thế, sẽ được thờ phụng khi bước sang thế giới bên kia. Người quá cố muốn được những con ḅ kéo trên một chiếc xe tang đến tận ngôi mộ đă được chuẩn bị đầy đủ, chu đáo của ḿnh về hướng Phương Tây, với những nghi thức tang lễ và rưới rượu, và có những thân bằng quyến thuộc đưa tiễn.
Những câu chữ và h́nh khắc họa trên đá, phía trước và bên trong ngôi mộ, phải tôn vinh đến muôn đời những kỳ tích kiên cường mà kẻ quá cố đă đạt được ở cơi trần, và khích lệ người qua đường quan tâm niệm câu thần chú sau: "Cầu cho nhà vua hiến lễ cho Osiris, Chúa tể của Abydos1 và Chủ nhân của nghĩa trang, để ngài ban ngh́n bánh ḿ và chum bia, ngh́n ḅ và ngỗng, vải lanh ướp xác và thuốc dẻo tẩm hương thơm, và một ngh́n những thứ tốt lành tinh khiết, cần cho cuộc sống của các thần linh, tất cả sản phẩm của trái đất và sự dồi dào của sông nước, ban cho linh hồn-Kâ của X, xin được chứng giám".
Cũng có những câu chữ khắc họa c̣n trực tiếp hơn như sau: "Ngươi là kẻ đang sống ở cơi trần và đi qua ngôi mộ này, bởi v́ ngươi yêu cuộc sống và căm ghét cái chết, nếu ngươi muốn thành đạt và được cấp trên khen tụng, nếu ngươi muốn sống để nh́n thấy con trai ngươi hành nghề của ngươi và được nâng bậc cao hơn, ngươi phải niệm câu thần chú.
Nếu ngươi đến ngôi mộ này với ư định tốt, th́ xin mời. Nhưng nếu ngươi đến đây để phá hủy hay nguyền rủa, th́ bản thân thần Amon sẽ bắt ngươi, nữ thần Mout sẽ bắt vợ ngươi và thần Khonsou sẽ bắt con cái ngươi, cho đến muôn đời".
Đối với người Ai Cập, cái chết chỉ là một sự chuyển hóa đơn giản (nhưng khó khăn) từ dạng tồn tại này sang một dạng tồn tại khác, và dạng tồn tại mới này tuyệt vời và thỏa ḷng đến mức những thành phần cấu tạo nên con người vừa mới qua đời phải được đảm bảo an toàn và được bổ sung bằng những phương tiện thích đáng để anh ta có thể tiếp tục tồn tại, và những nghi thức của lễ tang phải được thực hiện đầy đủ.
Người Ai Cập quan niệm rằng con người được tạo nên từ những yếu tố là thân xác, kâ (nguyên tắc tạo nên sự sống), linh hồn, bóng và tên, và khi chết, những yếu tố bị tách rời đó cần được quy tụ lại để đảm bảo cho một cuộc sống khác. Xác chết do đó cần được bảo toàn với thời gian. Nghệ thuật ướp xác chính là sinh ra từ đó.
Ngày nay, Bảo tàng về Ướp xác ở thành phố Louxor vẫn thường xuyên mở cửa để du khách vào tham quan. Ở đó, trong ánh đèn hiu hắt như trong thế giới cơi âm, người ta có thể theo dơi các công đoạn ướp xác, kỹ thuật ướp, những vật liệu cần thiết cho việc ướp xác và tẩm liệm, chôn cất, cũng như một số sản phẩm xác ướp động vật (mèo, cá sấu...). Ở Bảo tàng Cairo, du khách cũng có thể tận mắt nh́n thấy xác ướp của người.
Hiện tượng chuyển dịch hàng ngày của mặt trời tạo cho người Ai Cập niềm hy vọng về một cuộc sống khác sau khi chết. Mặt trời há chẳng chết đi mỗi chiều tối để lại chói sáng vào sáng hôm sau, trẻ trung và mạnh mẽ trở lại đó sao? Do số phận của vua Ai Cập gắn liền với thần mặt trời, trong khi sống cũng như trong cái chết, nên nhà vua không phải e ngại về nguy cơ bị rơi vào t́nh trạng "không tồn tại".
Và bởi triều thần cũng có trách nhiệm phục vụ cho nhà vua ở thế giới bên kia, cũng như họ đă làm ở trần thế, nên họ cũng có quyền hy vọng sẽ sống c̣n sau khi chết. Theo ḍng thời gian, từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, niềm tin vào sự phục sinh và một cuộc sống sau khi chết đă tiến dần xuống những bậc thang thấp hơn trong xă hội và chiếm lĩnh đời sống tâm linh của toàn bộ dân chúng.
Để có cơ may sống c̣n sau khi chết, mỗi cá nhân phải chuẩn bị cho cái chết của ḿnh. Người Ai Cập biết rằng trái tim của người chết (nơi ngự trị mọi ư tưởng và t́nh cảm) phải được đem đi cân, theo những chuẩn mực nghiêm ngặt của thần Maât (luật về những hành xử đạo đức phù hợp với mong muốn của các thần linh và những chỉ dụ của nhà vua). Anh ta phải là người đức hạnh và trong sáng để có thể được thần Thot "chứng thực", và được phép đi đến vương quốc của thần Osiris.
Những kẻ có hành xử đạo đức không tốt th́ t́m cách náu ḿnh trong ma thuật. Một con bọ hung được đặt trên ngực người chết với nhiệm vụ che giấu công thức xưng tội, nhằm ngăn chặn không để cho trái tim người quá cố đưa ra một chứng cứ không có lợi nào vào ngày phán xét.
Xác ướp phải được bảo vệ một cách chắc chắn. V́ vậy phải có một mộ phần bằng đá hơn là bằng đất, hay tốt hơn cả là được khoét trong một tảng đá c̣n nguyên. Thông thường mộ phần được chuẩn bị ngay từ khi chủ nhân của nó vẫn c̣n sống. Phần lớn những ngôi mộ tư nhân thời Cựu Vương triều là những lăng mộ được gọi là "mastaba" có h́nh kim tự tháp đứt đoạn, trong khi những ngôi mộ vua chúa lại là những kim tự tháp bắt đầu có vào thời Trung Vương triều.
Các hầm mộ gia tộc th́ thịnh hành từ thời Tân Vương triều. Các vị pharaon đầu tiên được chôn cất trong những kim tự tháp (nổi tiếng nhất là những kim tự tháp Giza, trong đó đặc biệt hơn cả là kim tự tháp mang tên Khéops). Các pharaon "thế hệ mới" lại chọn cho ḿnh những ngôi mộ nằm sâu trong ḷng đất (hypogée) được đào trong một "ouadi" (hay "wadi") ở vùng sa mạc phía tây của thành Thèbes, có tên gọi là "Thung lũng các Vị Vua" (Vallée des Rois). Vợ và con của họ được chôn cất ở một "ouadi" ở gần đó, nhưng ít nổi tiếng hơn, gọi là "Thung lũng các bà Hoàng" (Vallée des Reines).
Việc tẩm hương được những người chuyên nghiệp đảm nhiệm. Công việc chính thức kéo dài bảy mươi ngày. Trong thời gian đó người quá cố được moi ruột ra và được ngâm trong một dung dịch có tác dụng loại nước. Sau đó, người ta nhồi vào những chỗ trũng những hương liệu và các loại thuốc dẻo mau khô (onguent siccatif).
Cuối cùng xác chết được bọc trong rất nhiều lớp băng quấn bằng lanh trắng phủ thạch cao, nhựa và chất bitum. Những tấm bùa được chèn vào giữa các lớp băng, để bảo vệ từng phần, từng cơ quan của cơ thể người quá cố. Một tấm mặt nạ dành cho người quá cố được phủ lên phần đầu đă quấn băng.
Bốn chiếc b́nh di hài (vase canope) được dùng để đựng nội tạng đă được làm khô và được xếp vào trong một cái hộp đặt trong pḥng mộ chính. Nắp các b́nh di hài có h́nh đầu người hoặc, về sau này, h́nh các con trai của thần Horus: chim cắt, người, khỉ đầu chó và chó rừng. Sau khi làm khô trái tim, người ta trả nó về chỗ cũ. Chỉ ở những công đoạn sau cùng bộ năo mới được rút ra khỏi đầu qua đường mũi.
Xác ướp được đặt trên một chiếc xe tang kéo, với những con ḅ được đóng vào xe để kéo, và được trịnh trọng đưa đến ngôi mộ giữa những tiếng ca hát, than khóc và khói hương nghi ngút. Gia đ́nh, bằng hữu đi theo xác ướp, mang theo những vật dụng của người quá cố cần thiết cho cuộc sống ở thế giới bên kia.
Ngôi mộ đă có sẵn những đồ đạc nặng, những áo quan và quách.
Trong đoàn đưa tang có cả những phụ nữ khóc thuê. Trước lối vào lăng mộ, một vị tu sĩ hay người thừa kế của kẻ quá cố thực hiện những nghi thức cuối cùng. Nghi thức quan trọng hơn cả là việc "khai khẩu" (mở miệng), thể hiện ở thao tác chạm vào những bộ phận liên quan đến các giác quan, trên mặt nạ của kẻ quá cố (miệng, mũi, mắt và tai) với một bộ vật dụng bằng đá lửa và đồng, đồng thời niệm những câu thần chú để dùng ma thuật phục hồi các giác quan cho người chết.
Xác ướp được phủ đầy các ṿng hoa, và cuối cùng được đặt vào trong một hay nhiều chiếc quan tài, và lăng mộ được niêm phong lại. Bên ngoài, một bữa cơm vội vàng được dọn ra để tưởng nhớ người đă khuất, và những thức ăn c̣n thừa được chôn bên cạnh, cùng với những ǵ c̣n lại của quá tŕnh ướp xác.
Hành tŕnh về đến vương quốc của thần Osiris thật phức tạp và đầy hiểm nguy nên không thể không lắng nghe những lời khuyên bảo thích hợp, bởi cần thiết phải tránh những phần tử xấu và những kẻ canh giữ có vũ trang đáng sợ. "Tử thư" hay "Cuốn sách của Những Người Chết" (Livre des Morts) cung cấp cho người qua đời những lời chỉ dẫn và những công thức ma thuật cho phép vượt qua những khó khăn đó.
Kể từ thời Tân Vương triều, cuộn giấy papyrus đó trở thành một thành phần cốt yếu trong việc trang bị lăng mộ. Nó bao gồm những văn bản và biểu tượng họa đồ, cũng như tên và chức danh của người quá cố. Vào khoảng cuối Cựu Vương Triều, một bản hướng dẫn về thế giới bên kia, cổ xưa hơn nhưng về cơ bản là tương tự như thế, cũng đă được sử dụng trong những ngôi mộ vua chúa (kim tự tháp), nhưng dưới dạng những chữ viết hiéroglyphe được khắc họa và vẽ trên tường các pḥng bên trong.
Thuyền, vốn là một phương tiện di chuyển hết sức thông dụng của người Ai Cập, cũng được xem là phương tiện đi lại của thần linh (các thuyền thiêng). Ngay cả trên mặt đất, thần linh cũng có thể đi lại bằng thuyền, và những chiếc thuyền này được các vị tu sĩ gánh trên vai. Vua cũng di chuyển bằng thuyền. Khi qua đời, kẻ quá cố sẽ được chuyên chở qua bờ Tây của ḍng sông Nile trong những chiếc thuyền tang, và ở thế giới bên kia, họ cũng dùng thuyền để đi đến xứ sở Abydos của Osiris, cũng như để di chuyển ở những vùng sông nước bên trong xứ sở đó.
Ngay cả ở thế giới bên kia, kẻ quá cố được xem như vẫn phải tiến hành những công việc tay chân nặng nhọc nếu như thần linh buộc họ phải làm, như quét dọn những ḷng kênh tắc nghẽn, chuyên chở cát qua sông... Để thoát khỏi những lao dịch đó mà không mắc phải tội khước từ ư thần linh, một h́nh nhân người quá cố, được gọi là "oushabti", được đặt trong ngôi mộ.
Một công thức ma thuật, được vẽ hay khắc họa trên thân của h́nh nhân bằng gỗ này, tự động bắt h́nh nhân nhận lănh công việc thay cho người quá cố. Những công cụ lao động và một cái túi cũng được vẽ trên tay và trên vai h́nh nhân. Gia đ́nh kẻ quá cố có nhiệm vụ thường xuyên thăm viếng ngôi mộ để mang đến thức ăn, tu sửa những hư hỏng, và chăm lo việc thờ phụng.
Với niềm tin vào hiệu ứng ma thuật của những h́nh ảnh, người Ai Cập phủ lên các bức tường trong ngôi mộ những tác phẩm hội họa, khắc nổi nhiều màu, hay maket ba chiều, với các câu chữ và h́nh ảnh thể hiện những cảnh trí như hoạt động mỹ nghệ, nông nghiệp cần thiết cho việc sản xuất ra những vật dụng phục vụ cho cuộc sống, như lương thực, đồ dùng trong nhà, y phục, những tấm bùa... Những h́nh ảnh này chính là những chứng cứ vô giá về cuộc sống hàng ngày của người Ai Cập cổ.
Trong ngôi mộ cũng phải có những bức tượng của người quá cố, được thể hiện một ḿnh hay cùng với những thành viên khác trong gia đ́nh, bởi v́ Kâ (nguyên tắc tạo nên sự sống) có thể nhập vào đó. Phần lớn các tác phẩm của nghệ thuật làm tượng tư nhân đă được t́m thấy chính trong các ngôi mộ.
Những h́nh ảnh được thể hiện trên một bức tường của ngôi mộ cổ của Sennedjem ở Deil el-Medina, gần thung lũng các vị vua, cho thấy từ trên xuống dưới, những nghi thức tuần tự theo thời gian: hai khỉ đầu chó chào đón mặt trời đang mọc trên chiếc thuyền của ḿnh. Sennedjem và vợ đang tôn vinh các vị thần Ré-Horakhty, Osiris, và Ptah, một người con trai của họ đang chèo thuyền và thần Khonsou đang tiến hành thủ tục "khai khẩu" (mở miệng) cho người quá cố, cuối cùng là đôi uyên ương đang lao động trên những cánh đồng của thế giới thiên đường.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|