Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
  H́nh Ảnh Từ Thiện
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Thông Tin
  Thông Báo
  Báo Tin
  Liên Lạc Ban Điều Hành
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Nhờ Coi Quẻ
  Nhờ Coi Ngày
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Tử Vi
  Tử Bình
  Kinh Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Bói Bài
  Đoán Điềm Giải Mộng
  Khoa Học Huyền Bí
  Thái Ất - Độn Giáp
  Y Dược
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch và Phong Thủy 3
Kỹ Thuật
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
Thư Viện
  Tủ Sách
  Bài Viết Chọn Lọc
Linh Tinh
  Linh Tinh
  Giải Trí
  Vườn Thơ
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 242 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
chindonco (3250)
hiendde (2589)
HoaCai01 (2277)
vothienkhong (1807)
dinhvantan (934)
ryan88 (805)
Vovitu (713)
ruavang (691)
lancongtu (667)
TranNhatThanh (644)
Hội viên mới
redlee (0)
dautranhsinhton (0)
Chieu Tim1234 (1)
huyent.nguyen (0)
tamsuhocdao (0)
henytran2708 (0)
thuanhai_bgm (0)
Longthienson (0)
thuyenktc (0)
liemnhi (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Truyện ngắn huyền bí - hiendde Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 221 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:42pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



THẤN ANUBIS VỊ THẦN ĐẦU CHÓ RỪNG (Tiếp Theo)


Anubis là vị thần Ai Cập được thể hiện với h́nh dạng thân người và đầu chó rừng, cũng có khi là cả đầu và thân đều là của chó rừng như trong trường hợp Anubis đang trong tư thế canh giữ "kho báu" của Tutankhamun. Anubis được xem như vị thần sáng chế ra kỹ thuật tẩm hương thơm và chủ tŕ cho toàn bộ công việc ướp xác, và cùng đồng hành với người chết đi sang thế giới bên kia.

Là vị thần chuyên về việc tẩm hương cho xác chết và "cân linh hồn", trước tiên Anubis là nhân vật có nhiệm vụ canh gác các khu nghĩa địa và các ngôi mộ cá nhân, và là bậc thầy của việc tẩy uế. Vị thần đầu chó rừng này được tôn vinh từ thời kỳ đầu của Cựu Vương Triều như một vị thần lớn của những người quá cố, tham gia vào việc phán xét linh hồn.

Về sau, Anubis bị Osiris thay thế, nhưng vẫn giữ một vai tṛ quan trọng ở thế giới bên kia: đó là vị thần của nghệ thuật tẩm hương thơm, và thao tác tẩm hương thơm lần đầu tiên Anubis thực hiện, chính là trên Osiris vừa tạ thế và qua đó đă khiến cho Osiris được hồi sinh trở lại.

Về sau, vị thần đầu chó rừng Anubis c̣n được xem là "kẻ dẫn dắt linh hồn"; và với vai tṛ này của Anubis, người Hy Lạp đă đồng hóa vị thần này với thần Hermès để tạo ra một nhân vật thần linh pha trộn là Hermanubis.

Du khách tham quan Ai Cập có thể t́m thấy h́nh ảnh của thần Anubis ở rất nhiều nơi, được khắc họa trên đá hay thể hiện trên các bức vẽ trong các đền thờ, lăng mộ. Sau đây là một vài thí dụ minh họa:

- Anubis ở bức khắc nổi nhiều màu trên đá, với Séthi đệ I. Vị vua này đang nhận từ tay của thần Anubis những chiếc vương trượng tượng trưng cho vương quyền.

- Anubis (được thể hiện dưới dạng song đôi và đặt đối xứng) đang che chở cho Sennedjem và vợ trong nghi lễ tôn vinh mười ba vị thần của địa phủ, đứng đầu là Osiris và Ré Horus.

- Anubis cùng đứng với Horus sau lưng thần Osiris đang ngồi, trong tư thế đón chào vị vua vừa tạ thế, ở h́nh vẽ trang trí cho ngôi mộ của vua Horemheb.

- Anubis cùng với Ramsès III, nhà vua đang mang chiếc mũ không vành màu đỏ. Sau lưng vua là vị hoàng tử trẻ với lọn tóc truyền thống của tuổi vị thành niên, tay cầm chiếc quạt nghi lễ, biểu hiện của vai tṛ cố vấn cho nhà vua.

- Anubis trong cảnh cân linh hồn của Djet Khonsou ioufankh, tu sĩ của Amon và Thot, minh họa cho cuốn "Tử thư" bằng giấy papyrus đặt trong ngôi mộ của người quá cố. Anubis đang chủ tŕ buổi lễ cân linh hồn. Linh hồn được cân nhưng thay cho quả cân thông thường là một chiếc lông đà điểu, biểu tượng của thần Maât. Thần Thot đang ghi lại kết quả trên một tấm bảng thư lại. Người quá cố đưa tay lên cao nhằm biểu lộ sự ngay thẳng của ḿnh. Nếu trái tim nặng hơn chiếc lông, th́ điều đó có nghĩa là người quá cố là một kẻ tội lỗi.

Ngoài ra, những tư liệu c̣n lưu giữ được cũng cho thấy cảnh ướp xác và tẩm hương thơm cùng những công đoạn và vật liệu được dùng cho việc ướp xác và tẩm liệm. Những người làm công việc tẩm hương thơm và những vật dụng cần thiết để chuẩn bị cho người qua đời mang sang thế giới bên kia:

1. Ở công đoạn quấn băng, người phụ trách chính công việc tẩm hương thơm mang mặt nạ h́nh chó rừng, tượng trưng cho thần Anubis, vị thần bảo vệ cho những người quá cố.

2. Tất cả những thành phần thuộc cơ thể người chết được quấn trong những lớp băng riêng. Ở mỗi công đoạn, người phụ trách việc tẩm hương thơm phải niệm những câu thần chú. Cũng có khi xác ướp được bọc trong một tấm vải liệm.

3. Một số tấm bùa chú mang những h́nh thù khác nhau được xếp xen vào các lớp băng quấn, với nhiệm vụ bảo vệ từng phần của xác chết, trong đó có những tấm bùa mang h́nh ảnh thần chó rừng Anubis.

4. Với những kẻ giàu có, xác ướp được đặt vào những lớp áo quan xếp chồng vào nhau được tạo nên từ vải lanh, hay giấy papyrus nhúng trong thạch cao, và cuối cùng được đặt trong một cái quách bằng đá;

a- áo quan bên trong thuộc thời Tân Vương Triều.

b- áo quan thời Trung Vương Triều.

c- quách thời Tân Vương Triều.

5. Gan, phổi, dạ dày và ḷng được đặt trong những chiếc b́nh di hài và cất trong một chiếc hộp, bên cạnh quan tài.

Nhưng có lẽ đặc biệt và ấn tượng hơn cả là h́nh ảnh thần Anubis ngự trên chiếc rương gỗ mạ vàng, ở đó có những h́nh vẽ biểu trưng của thần Osiris và thần Isis. Thần Anubis được thể hiện dưới h́nh dạng một con chó rừng (cả đầu lẫn thân), một bức tượng làm bằng gỗ, dáng uy nghi, thanh thoát.

Cổ, tai và mắt được mạ vàng, nổi bật trên màu đen của cả thân h́nh đang trong tư thế ngồi. Khi nhà khảo cổ học Carter đă không c̣n chút hy vọng nào nữa trong việc t́m kiếm của ḿnh, th́ ông t́nh cờ phát hiện ra một bậc cấp bằng đá vôi trong thung lũng các vị vua...

Ở bậc cấp thứ mười sáu, ông thấy hiện ra một cánh cửa niêm phong với những dấu hiệu của Tutankhamun. Có những vết tích cho thấy ngôi mộ đă bị xâm nhập và sau đó được niêm phong lại. May mắn thay, kẻ trộm chỉ lấy đi vài thứ vặt vănh. Tấm mặt nạ bằng vàng khối tuyệt vời và lừng danh của Tutankhamun, cũng như tất cả những vật dụng dùng cho việc chôn cất, đều c̣n y nguyên:

Ba chiếc quan tài lồng vào nhau (hai bằng gỗ và một bằng vàng) nơi Tutankhamun an nghỉ, được bảo vệ trong một cái quách bằng đá, bốn nhà táng bằng gỗ mạ vàng, được chạm trổ với h́nh ảnh những tấm bùa, chiếc rương đựng những b́nh di hài. Một bức tượng của thần Anubis, vị thần cai quản các ngôi mộ, ngồi chễm chệ trên chiếc rương đựng di hài và ngăn lối vào căn pḥng ngang, nơi cất giữ phần lớn kho báu đă được chôn cất.

Phải chăng ở đây thần Anubis, vị thần mang h́nh dạng chó rừng của thần dân Ai Cập, vị thần của nghệ thuật tẩm hương thơm và cai quản mộ phần, đă thực hiện một cách xuất sắc nhiệm vụ được giao phó đối với lăng mộ của Tutankhamun, để bảo tồn và lưu giữ những di sản vô giá không những của các vương triều Ai Cập cổ đại, của mọi người dân Ai Cập xưa và nay, mà c̣n là của toàn nhân loại, từ Đông sang Tây, từ thuở xa xưa cho đến tận muôn đời.

Cũng có thể ở đâu đó Anubis vẫn đang hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vẻ vang của ḿnh, ở những lăng mộ, đền thờ cổ xưa nào đó hiện đang bị thời gian, đất cát chôn vùi, mà vài chục năm nữa, hoặc vài trăm năm nữa, thậm chí vào một thời điểm nào xa xôi hơn trong tương lai, nhân loại sẽ có cơ may và diễm phúc cùng nh́n ngắm, thưởng ngoạn, và khâm phục.



                                                                  Tia Sáng







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 222 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:46pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



BÁT TIÊN


Bát Tiên là tám vị Tiên ở tám động đá của núi Bồng Lai trên đảo Bồng Lai nơi cơi Thiêng liêng.

Bát Tiên gồm tám vị Tiên kể tên ra sau đây:

1. Lư Thiết Quày. (Thiết Quày hay Thiết Quải là cây gậy sắt) nhưng thường gọi là Lư Thiết Quả.

2. Hớn Chung Ly.

3. Lữ Động Tân (Động là cái hang núi) nhưng thường gọi là Lữ Đồng Tân.

4. Lam Thể Ḥa.

5. Trương Quả Lăo.

6. Hà Tiên Cô.

7. Hàn Tương Tử.

8. Tào Quốc Cựu.

Sau đây là sự tích của Bát Tiên, viết theo Truyện Đông Du Bát Tiên:



1. LƯ THIẾT QUẢ



Ngài họ Lư, tên là Huyền, hiệu là Ngưng Dương, nên thường gọi là Lư Ngưng Dương, diện mạo nghiêm trang, tánh hạnh trong sạch, học rộng biết nhiều, không mộ công danh, muốn đi tu Tiên. Biết được Lư Lăo Tử đang dạy Đạo trên núi Họa Sơn, Lư Ngưng Dương liền t́m đến đó để xin học Đạo.

Đi dọc đường, Ông ngâm thơ rằng:

Tâm tánh con người có thấp cao,
Khen ḷ Tạo Hóa đúc anh hào.
Làm trai biết thấu ṿng vinh nhục,
Đặng chữ thanh nhàn khỏi chữ lao.

Khi đến núi Họa sơn th́ Trời đă tối. Lư Ngưng Dương tự nhủ: Ḿnh là đệ tử đi cầu thầy học Đạo, lẽ nào ban đêm dám gơ cửa. Chi bằng ngủ đỡ trên bàn thạch trước cửa động, chờ Trời sáng sẽ xin vào ra mắt.

Ở trong động, Đức Lăo Tử đang đàm đạo với Huyễn Khưu Chơn Nhơn, xảy có cơn gió thanh, Đức Lăo Tử hỏi:

- Ông có biết gió ấy là điềm chi chăng?

- Chắc có người gần thành Tiên đi tới.

- Ta đă rơ Lư Ngưng Dương gần thành Tiên và là Tiên đứng đầu sổ hết thảy.

Nói rồi, Đức Lăo Tử truyền Tiên đồng ra mở cửa động mà đón. Xảy thấy một Đạo sĩ đang đứng trước động, liền hỏi:

- Có phải Lư Ngưng Dương đó không?

- Sao Tiên đồng lại biết tên tôi?

- Tôi vâng lịnh Lăo Quân ra cửa đón anh.

Lư Ngưng Dương vô cùng mừng rỡ, chắc là ḿnh có phước lớn nên mới được Lăo Quân biết đến, liền đi theo Tiên đồng vào ra mắt, thấy Lăo Quân có hào quang sáng ḷa, dung nhan tươi nhuận, râu tóc bạc phơ, và Huyễn Khưu Chơn Nhơn cũng vậy.

Lư liền qú lạy ra mắt Lăo Quân và Huyễn Khưu. Hai vị đáp lễ rồi mời ngồi. Lư Ngưng Dương qú thưa rằng: Đệ tử tầm sư học Đạo, lẽ nào dám ngồi. Xin Thầy dạy bảo.

Lăo Tử bảo: Ngươi ngồi xuống rồi ta nói cho nghe:

Học Đạo cho minh,
Lẳng lặng làm thinh,
Đừng lo đừng rán,
Cho tịnh cho thanh,
Chẳng nên nhọc sức,
Chớ khá tổn tinh,
Giữ đặng tánh t́nh,
Là thuốc trường sanh.

Lư Ngưng Dương mừng rỡ lạy tạ Lăo Quân.

Huyễn Khưu nói: Ngươi có tên trong Sổ Tiên, đứng đầu hết thảy. Về tu như vậy th́ thành.

Nói rồi truyền Tiên đồng đưa Lư Ngưng Dương ra khỏi động, xuống núi. Lư Ngưng Dương lạy tạ rồi theo Tiên đồng rời khỏi động, trở về quê, lên núi cất nhà bên động đá, tu theo lời Đức Lăo Tử dạy, cứ tu luyện hoài như vậy. Chẳng bao lâu cảm thấy nhẹ ḿnh, bước đi như gió.

Một người dân quê tên là Dương Tử lên núi thấy vậy cũng phát tâm mộ đạo, xin Lư Ngưng Dương thâu làm đệ tử, ở lại tu hành.

Ngày kia, Lư Ngưng Dương thấy hào quang chiếu vào cửa sổ, th́ biết có Thần Tiên giáng hạ, rồi mau sửa soạn lên núi đón tiếp. Xảy nghe tiếng hạc, ngó lên thấy Đức Lăo Tử và Huyễn Khưu Chơn Nhơn cỡi hạc đáp xuống.

Lư Ngưng Dương lạy chào mừng rỡ.

Đức Lăo Tử nói:

- Bữa nay tinh thần hơn trước. Ta nhắm ngươi xuất hồn đặng. Vậy mười ngày ngày nữa, ngươi xuất hồn đi dạo các nước với ta.

Nói rồi liền từ giă, và hai vị cỡi hạc bay trở về núi.

Cách chín ngày sau, Lư Ngưng Dương kêu học tṛ là Dương Tử đến dặn rằng: Thầy sẽ xuất hồn đi thiếp bảy ngày ngươi phải ǵn giữ xác ta cẩn thận. Nếu sau bảy ngày mà ta không trở về th́ hăy thiêu xác.

Dặn ḍ xong, Lư Ngưng Dương nằm thiếp xuất hồn đi.

Khi Dương Tử giữ xác thầy được sáu ngày th́ người nhà đến báo tin rằng: Mẹ anh bịnh nặng, đang hấp hối, trông anh mau về cho mẹ thấy mặt mà tắt hơi. Dương Tử khóc lớn than rằng: Thầy đi thiếp chưa về, nếu ta đi, lấy ai giữ xác thầy, bằng không đi th́ làm sao thấy mặt mẹ, ôi khổ biết chừng nào!

Người nhà liền hỏi rơ Dương Tử về sự đi thiếp của thầy, rồi nói:

"Xác người chết đă sáu ngày, ngũ tạng thảy đều hư hết, lẽ nào sống lại bao giờ. Vả lại, thầy có dặn bảy ngày th́ thiêu xác, chắc thầy đă thành Tiên. Nay sáu ngày mà thiêu xác thầy cũng không lỗi. Mau thiêu xác thầy rồi về gặp mặt mẹ."

Dương Tử bần dùng không nỡ, nhưng túng thế cũng phải nghe lời, liền đặt nhang đèn, hoa quả tế thầy, rồi thiêu xác. Vừa khóc vừa đọc bài kệ sau đây:

Mẹ bịnh ngặt hầu kề, Thầy đi thiếp chưa về,
Mẫu thân t́nh một thuở, Sư phụ nghĩa nhiều bề,
Vẹn thảo nên quyền biến, Lỗi ngh́ luống ủ ê,
Hồn linh xin chứng chiếu, Khoái lạc chốn non huê.

Thiêu xác thầy xong, Dương Tử liền gấp rút chạy về nhà, vừa đến cửa nhà th́ mẹ vừa tắt thở. Rủi ơi là rủi! Lỗi hết hai đàng, đă bất nghĩa với thầy, lại không tṛn hiếu sự.

Nhắc lại, Lư Ngưng Dương, hồn xuất về chầu Đức Lăo Tử, được thầy dẫn đi khắp các nước trên cơi thiêng liêng, đến núi Bồng Lai, gặp các Thánh Tiên, ra mắt đủ mặt, đến bảy ngày th́ xin về. Đức Lăo Tử cười nói rằng:

Hăy nghe bài kệ nầy th́ rơ:

Tịch cốc ăn lúa ḿ, Đường quen xe phơi phới,
Muốn t́m cốt cách xưa, Lại gặp mặt mày mới.

Lư Ngưng Dương nghe bài kệ của thầy th́ ghi nhớ chớ không hiểu ngụ ư ǵ, nhưng cũng lạy thầy từ tạ ra về. Khi hồn về tới nhà th́ không thấy xác, không thấy học tṛ, coi lại th́ xác đă ra tro bụi.

Lư Ngưng Dương rất giận đứa học tṛ bất nghĩa nầy. Hồn bay phưởng phất xuống chân núi, gặp một thây ăn mày nằm dựa bên đường, kế bên cây gậy, có một chân cùi.

Lư Ngưng Dương nghĩ lại bài kệ của thầy cho, chợt hiểu, biết phận ḿnh phải vậy chớ không nên oán trách học tṛ, liền nhập hồn vào xác ăn mày, rồi ngậm nước phun vào gậy tre hóa ra gậy sắt. Bởi cớ đó, người đời không biết họ tên ông ăn mày này, thấy cầm cây gậy sắt, nên gọi là Ông Thiết Quày, sau gọi trại ra là Thiết Quả.

Sở dĩ Đức Lăo Tử không cho hồn Lư Ngưng Dương về kịp trước khi học tṛ thiêu xác là v́ Đức Lăo Tử muốn Lư Ngưng Dương bỏ xác phàm cho tuyệt sự hồng trần mà về luôn nơi Tiên cảnh, c̣n xác ăn mày là mượn tạm để tu, chớ muốn biến hóa thế nào cũng được.

Thiết Quả đánh tay biết rơ các việc đă xảy ra với đứa học tṛ ḿnh là Dương Tử. Thiết Quả liền đem linh dược đến cứu tử mẹ nó, kẻo đứa học tṛ tức tối ân hận cả đời tội nghiệp. Đến nơi thấy Dương Tử đang ôm quan tài mẹ khóc ngất, rồi rút gươm ra định tự vận. Thiết Quả kịp đến ngăn cản và nói:

- Ngươi có ḷng thành nên Trời khiến ta đến đây đem linh dược cứu tử mẹ ngươi. Vậy ngươi mau giở nắp quan tài ra, cạy miệng mẹ ngươi ra mà đổ thuốc.

Nói rồi lấy ra một hoàn thuốc đưa cho Dương Tử. Dương Tử làm y lời, giây lát, bà mẹ hắt hơi lấy lại hơi thở, rồi ngồi dậy bước ra khỏi quan tài, xem có vẻ mạnh khỏe hơn trước. Cả nhà vô cùng mừng rỡ. Dương Tử quỳ lạy Thiết Quả, thưa rằng:

- Cảm tạ Tiên ông, xin Tiên ông cho biết danh hiệu.

- Ta đây là Lư Ngưng Dương, là thầy của ngươi. Bởi ngươi thiêu xác ta nên hồn ta phải nhập vào xác ăn mày này. Biết rơ việc làm của ngươi, nên ta không chấp, lại đến cứu tử mẹ ngươi để ngươi nuôi mẹ phỉ t́nh. Ta tặng thêm cho ngươi một hoàn thuốc nữa để ngươi uống vào sống lâu nuôi mẹ. Thầy tṛ sẽ gặp lại sau nầy.

Dương Tử cúi đầu lạy tạ thầy, chưa kịp hỏi thăm th́ Thiết Quả đă biến mất.

Thiết Quả biến hóa về núi Họa sơn, hầu thầy. Đức Lăo Tử cười nói:

- Vậy mới chắc thành Tiên, không lo trở lại trần thế.

Nói rồi truyền dọn tiệc ăn mừng Thiết Quả.



2. HỚN CHUNG LY



Hớn Chung Ly, họ là Chung Ly đời nhà Hớn (Hán), tên là Quyền, hiệu là Vân Pḥng, làm Đại Tướng trong triều đ́nh nhà Hớn.

Khi mới sanh, Chung Ly Quyền có điềm khác lạ, trên nóc nhà hào quang sáng đỏ, ai nấy đều kinh, lớn lên thành một vị tướng quân, vơ nghệ như thần, oai danh quá cọp.

Khi ấy triều đ́nh nhà Hớn nhận được sớ khẩn cấp của tướng trấn ải báo có binh Phiên do Bất Dực thống lănh đánh vào ải rất nguy kịch, xin triều đ́nh cử binh cứu viện.

Xem xong, Hớn Đế rất kinh hăi, liền hạ chiếu sai Đại Tướng Chung Ly Quyền làm Nguyên soái, Phùng Dị làm Phó Tướng, kéo đại binh năm mươi vạn gấp rút đi ra quan ải cứu viện.

Nguyên Soái Chung Ly tế cờ, hiểu dụ tướng sĩ xong th́ kéo quân đi ngay tới ải Kỳ Thủy đóng trại. Rạng ngày hôm sau, hai bên ra trận. Bất Dực đánh không thắng nổi Chung Ly, quân Phiên bại trận chạy dài. Tin chiến thắng liên tiếp báo về triều đ́nh, danh tiếng Nguyên soái Hớn Chung Ly vang dậy.

Lúc đó, Lư Thiết Quả đang ở Cung Tiên, đánh tay biết Hớn Chung Ly đă thắng quân Phiên nhiều trận, uy danh lừng lẫy, và lại biết kiếp trước của Hớn Chung Ly là Tiên coi sổ bộ ở Thượng giới, phạm tội bị đọa trần, nay mê việc chiến tranh mà không lo tu hành, biết chừng nào trở về ngôi vị cũ.

Lư Thiết Quả muốn độ Chung Ly, nhưng nếu để Chung Ly thắng trận hoài, triều đ́nh sẽ gia phong quan tước, th́ bị mê đắm trong ṿng phú quư vinh hoa, nên Thiết Quả định làm cho Chung Ly bại trận th́ mới độ được. Tính rồi liền hóa ra một Ông già bay xuống dinh Phiên của Bất Dực.

Lúc bấy giờ Bất Dực đang ngồi trong dinh, thở vắn than dài, không t́m được kế chi để đánh binh Hớn. Xảy thấy quân vào báo: Có một ông già cốt cách Thần Tiên xin vào ra mắt.

Bất Dực lấy làm lạ, liền cho mời vào, hỏi:

- Lăo trượng đến tôi có việc ǵ?

- Tôi đến đây bày cho Tướng quân kế thắng binh Hớn. Đêm nay tôi biết bên dinh Hớn có hỏa hoạn lớn, Tướng quân thừa dịp nầy kéo quân vào cướp dinh th́ chắc thắng mười phần.

Ông già nói xong liền từ giă đi mất.

Bất Đực, ḷng bán tín bán nghi, sợ lầm kế của Nguyên soái Chung Ly, nhưng cũng truyền lịnh chuẩn bị canh hai đến cướp dinh Hớn. Nếu thấy dinh Hớn bị hỏa hoạn như lời của ông già th́ sẽ tràn quân đánh vào, bằng không th́ rút binh về.

Bên dinh Hớn, tuy vừa mới thắng quân Phiên, nhưng cũng không dám kiêu, cắt đặt canh pḥng ban đêm rất cẩn mật v́ sợ cướp dinh.

Khoảng giữa canh ba, Lư Thiết Quả hóa phép đốt dinh Hớn, ngọn lửa cháy lan rất mạnh, binh lính không dập tắt nổi.

Bất Dực thấy đúng thời cơ, liền kéo đại binh đánh vào. Chung Ly Nguyên soái cầm giáo lên ngựa đánh với Bất Dực, thấy binh Hớn hoảng sợ chạy hết th́ cả kinh, quày ngựa bại tẩu. Bất Dực muốn bắt sống Chung Ly nên buông tên nhắm vào con ngựa của Chung Ly đang cỡi, làm ngựa trúng tên té nhào, may Phó tướng Phùng Dị chạy đến tiếp cứu, bắt một con ngựa khác đưa cho Nguyên soái. Hai người bại tẩu, ngó lại dinh Hớn bị lửa thiêu rụi, binh Hớn bỏ chạy tán loạn. Nguyên soái tức quá té nhào xuống ngựa chết giấc. Khi tỉnh lại than rằng:

- Ta làm Đại Tướng vâng chỉ đánh Phiên, ngỡ là cứu nước rạng danh, nào hay Trời khiến ta thảm bại thế nầy, chẳng những mắc tội với vua, lại c̣n hổ mặt với triều thần, thiệt là Trời muốn giết ta, ta c̣n sống làm chi nữa.

Than rồi, Hớn Chung Ly toan rút gươm tự vận. Phùng Dị cứ măi khuyên can. Xảy thấy binh Phiên kéo đến truy nă. Phùng Dị cản hậu, Hớn Chung Ly chạy trước. Chạy tới sáng th́ lạc mất, Hớn Chung Ly đến một nơi không có nhà cửa dân chúng, phía trước là núi, vừa đói vừa khát, tiến thoái lưỡng nan. Xảy thấy một ông săi mắt xanh chống gậy đi tới. Chung Ly mừng rỡ bước đến thưa rằng:

- Tôi là Hớn Nguyên soái Chung Ly Quyền đem quân đi đánh Bắc Phiên, bị bại trận nên chạy lạc tới đây, xin thầy chỉ nhà cho tôi tá túc để trở về triều đ́nh xin binh cứu viện.

Ông săi gật đầu, dắt Chung Ly chỉ một cái am, nói rằng

- Đây là chỗ ở của Đông Huê Chơn nhơn, tướng quân vào đó mà tạm nghỉ.

Nói rồi đi thẳng như bay. Hớn Chung Ly đi đến am, nh́n thấy cảnh vật xinh tươi yên tĩnh, phải chỗ của Thần Tiên, đến trước cửa am, định gơ cửa th́ nghe có tiếng ngâm thơ từ trong am vọng ra:

Việc thế chẳng đua tranh,
Thanh nhàn lánh lợi danh,
Thân nương theo động đá,
T́nh gởi tại mây xanh.
Chơi dạo say mùi đạo,
Thong dong dưỡng tánh lành,
Hỏi ai là bạn tác?
Gió mát với trăng thanh.

Lư Thiết Quả sắp đặt trước, giả làm săi mắt xanh dẫn Hớn Chung Ly đến cho Đông Huê Chơn Nhơn dạy đạo.
Hớn Chung Ly nghe tiếng ngâm thơ vừa dứt th́ có một ông Lăo cốt cách Thần Tiên, chống gậy bước ra hỏi:

- Có phải Chung Ly Quyền Nguyên soái đó chăng?

Hớn Chung Ly kinh hăi thưa:

- Phải, tôi vâng chỉ đi đánh Phiên, chẳng may thất trận chạy lạc đến đây, xin Thượng Tiên từ bi cho tôi tá túc.

Đông Huê Chơn Nhơn mời vào am đăi cơm chay, nói:

- Công danh như bọt nước, phú quư như ngọn đèn trước gió. Từ xưa đến nay, giang sơn nhiều chủ, phước thọ ít người. Bần đạo chán cảnh đời đau khổ, t́m nơi u nhă, sống thanh nhàn, thoát ṿng lợi danh trần tục. Tướng quân cũng nên thừa dịp nầy mà tu tâm dưỡng tánh, c̣n ham công danh phú quư làm chi. Chung Ly Nguyên soái lắng nghe liền tỉnh ngộ, muốn theo học đạo, hỏi:

- Tiên ông luyện phép chi mà đặng trường sanh?

- Phép trường sanh có ǵ lạ đâu, ḷng phải trống mà bụng phải đặc. Ḷng trống là không lo lắng, để cho thơ thới như không; bụng đặc là không theo sắc dục, nguơn khí chẳng hao, được như vậy th́ thành Tiên, trường sanh bất tử.

Hớn Chung Ly nghe vậy th́ mừng rỡ thưa rằng:

- Nhờ Tiên ông chỉ dạy, tôi xin lạy để làm học tṛ. Xin thầy cho biết tôn hiệu.

- Ta là đạo sĩ thời thượng cổ, nay đă thành Tiên, hiệu là Đông Huê.

Nói rồi truyền cho Hớn Chung Ly phép tu luyện và dạy luôn cho Chung Ly phép chỉ đá hóa vàng, rồi tặng cho một cây gươm thanh long chém quỷ.

Hôm sau, Hớn Chung Ly lạy thầy xin trở về nhà lo thu xếp việc nhà. Đông Huê Chơn Nhơn chỉ đường về nhà. Khi Chung Ly ngó lại th́ thấy thầy và nhà cửa đều biến mất, suy nghĩ biết là Tiên ông biến hóa để độ ḿnh. Chung Ly Quyền tự đặt hiệu cho ḿnh là Vân Pḥng, rồi cải trang đi riết về nhà đặng thăm gia quyến.

Gia đ́nh Chung Ly Nguyên soái hay tin thất trận và mất tích, tin tưởng là đă chết nên cả nhà than khóc để tang. Nay lại thấy Chung Ly cải trang trở về th́ thất kinh mừng rỡ, hỏi thăm cớ sự. Chung Ly thuật lại đủ hết. Gia quyến mừng rỡ nói rằng: Khi mới sanh ra có điềm lành, chẳng lẽ lại thác về nghiệp dữ.

Chung Ly Quyền không dám ở nhà lâu, sợ vua hay tin bắt tội, liền ăn mặc theo Đạo sĩ, từ giă gia quyến để đi tu, lại đến thăm anh ruột là Chung Ly Giảng, đang làm chức Lang Trung. Chung Ly Giảng ham mộ đạo đức đă lâu, nay nghe em nói, mừng rỡ bội phần, liền sắp xếp hành trang, cùng em trốn lên non tu luyện. Hai người nhắm núi Họa sơn đi tới. Dọc đường, thấy con c̣ trắng đang ngóng cổ, Vân Pḥng nói:

- Con c̣ cổ dài, le le cổ ngắn, không thể nào cắt bớt mà can bổ cho bằng. Việc đời cũng vậy, kẻ ưa danh lợi, người mến thanh nhàn.

Nhờ có gươm phép của thầy trao tặng, Vân Pḥng giết được cọp tinh đang phá hại dân làng, lại thấy dân quá nghèo khổ, nên dùng phép chỉ đá hóa vàng, lấy vàng phát cho dân.

Ngày kia, Đông Huê Chơn Nhơn t́m đến để dạy đạo thêm, truyền thêm phép tu luyện cho hai người.

Chung Ly Vân Pḥng đi dạo chơi đến núi Tứ Hạo, th́nh ĺnh một tiếng sấm nổ vang, núi nứt ra một cái khe. Vân Pḥng thấy lạ, liền tiến vào khe, gặp một cái hộp đá có một cuốn kinh, liền lấy kinh đem ra ngoài xem th́ khe núi biến mất, vách núi liền lại như cũ. Vân Pḥng thầm biết là Thần Tiên đă ban kinh cho ḿnh tu luyện, nên càng cố công. Chẳng bao lâu th́ đạt đến mức cao siêu.

Bỗng nghe tiếng nhạc vang Trời, nh́n lên thấy mây lành năm sắc, Tiên hạc bay xuống đáp trước mặt Vân Pḥng, nói tiếng người rằng: "Thượng Đế sai tôi xuống rước Vân Pḥng trở về phục chức cũ ở Thượng giới,"

Vân Pḥng liền đưa sách lại cho anh, dặn ḍ và giă từ, cỡi hạc lên Trời. Chung Ly Giảng ở lại tu theo sách đó, lâu ngày cũng thành Tiên, được Vân Pḥng cỡi hạc xuống rước.



3. LỮ ĐỒNG TÂN


Lữ Đồng Tân, con của Thứ Sử Hải Châu, sanh ngày 14 tháng 4. Khi bà mẹ mới sanh Ông th́ trong pḥng mùi hương thơm phức, có hạc trắng bay vào pḥng rồi biến mất. Ấy là Huê Dương Chơn Nhơn đầu thai xuống trần làm Lữ Đồng Tân.

Lữ Đồng Tân lớn lên, mắt phụng mày ngài, tay dài, cổ cao, mũi thẳng, xương g̣ má cao, chơn mày bên tả có nốt ruồi, dưới bàn chơn có chỉ như lưng qui, ḿnh cao 8 thước 2, tánh ưa bịt khăn huê dương (bao đảnh xanh), mặc áo đạo sĩ.

Khi ấy có thầy coi tướng Măn Tổ đến coi đoán rằng: "Người trẻ nầy tướng khác phàm tục, sau gặp chữ Lư th́ đắc thời, gặp chữ Chung th́ thành đạo."

Mọi người trong nhà đều nghe nhưng không hiểu ǵ.

Năm 20 tuổi, Lữ Đồng Tân xưng hiệu là Thuần Dương, nên gọi là Lữ Thuần Dương, đi thi đỗ Tú Tài, tiếp theo đỗ luôn Cử Nhân, nhưng khi thi Tiến Sĩ th́ rớt. Khi đến núi Lư sơn, gặp Huỳnh Long Chơn Nhơn dạy cho phép tu luyện và tặng cho một thanh gươm chém được yêu quái.

Ngày kia, Lữ Đồng Tân đến chợ Trường An, huyện Hàm Đan, vào quán rượu, gặp một đạo sĩ mặc áo trắng đang đề thơ trên vách ba bài thi như sau:

Ngồi đứng hằng mang rượu một bầu,
Chẳng cho cặp mắt thấy Hoàng Châu.
Dạo chơi ít kẻ tường tên họ,
Trên thế thanh nhàn muốn được đâu?

Thần Tiên t́m bạn khó không nài,
Có phước theo ta dễ mấy ai?
Đông Hải rơ ràng nhiều động đá,
Ít người được thấy núi Bồng Lai.

Dạo chơi theo thuở, ở theo thời,
Danh lợi làm chi mắc nợ đời.
Nằm nghĩ co tay hằng đếm măi,
Mấy ai ao ước được như lời.

Lữ Đồng Tân thấy đạo sĩ cốt cách Thần Tiên, đề thơ thanh thoát th́ cảm phục lắm, liền đến làm quen, chắp tay chào hỏi và xin Đạo sĩ cho biết họ tên. Đạo sĩ mời ngồi, rồi nói rằng:

- Ông hăy làm một bài thơ cho ta biết ư trước đă.

Lữ Đồng Tân liền đọc:

Cân đai ràng buộc ư không màng,
Áo vải coi ra rất nhẹ nhàng.
Danh lợi cuộc đời chưa phỉ nguyện,
Làm tôi Thượng Đế mới nên trang.

Đạo sĩ nói:

- Ta là Chung Ly Vân Pḥng, tu ở núi Triều Hạc, Ông có muốn đi chơi với ta không?

Đồng Tân có vẻ lưỡng lự. Vân Pḥng biết họ Lữ c̣n muốn đi thi Tiến Sĩ để trổ danh với đời, nên ư c̣n dùng dằng.

Vân Pḥng muốn độ Lữ Đồng Tân nên ngồi nấu một nồi huỳnh lương, tức là nồi bắp vàng. Trong lúc chờ cho nồi bắp chín, Vân Pḥng đưa cho Lữ Đồng Tân một cái gối, bảo nằm xuống nghỉ, c̣n ḿnh th́ tiếp tục chụm củi đun nồi bắp.

Đồng Tân nằm xuống, kê đầu lên gối, giây lát chiêm bao thấy ḿnh vác lều chơng đi thi, ngang qua nhà giàu nọ, gặp người con gái rất đẹp th́ ướm lời. Nàng nói rằng: Nếu chàng thi đậu Trạng Nguyên th́ thiếp nguyện nâng khăn sửa trấp.

Lữ Đồng Tân vào khoa thi đỗ Trạng, về cưới nàng ấy, sau lại cưới thêm hầu thiếp, được vua bổ làm quan Gián Nghị, lần lần thăng lên. Sau bốn mươi năm năm được vua phong tới chức Thừa Tướng, con cái đông đảo, sui gia cũng bực quan lớn, lại có cháu nội cháu ngoại. Thật là vinh sang phú quư tột bực.

Chẳng may, sau đó bị gian thần hăm hại, vu oan giá họa, vua tin lời, bắt tội, truyền tịch thâu gia sản, đày qua núi Lănh Biển, cực khổ vô cùng. Kế giựt ḿnh thức dậy.

Vân Pḥng ngồi kế bên cười lớn, ngâm câu thơ:

Nồi bắp hăy c̣n ng̣i,
Chiêm bao đà thấy cháu.

Lữ Đồng Tân lấy làm lạ hỏi rằng:

- Thầy biết sự chiêm bao của tôi sao?

- Chiêm bao năm mươi năm, công việc cả muôn, thiệt không đầy một lát, đặng chẳng khá mừng, mất không nên thảm, hết vinh tới nhục là lẽ thường. (Do sự tích nầy mà người ta nói: Giấc Huỳnh lương, Giấc kê vàng, Giấc Hàm Đan, là để chỉ giấc mộng của Lữ Đồng Tân, xem vinh hoa phú quí là phù du mộng ảo).
Đồng Tân nghe Vân Pḥng nói vậy, liền tỉnh ngộ, ngẫm nghĩ thấy chán ngán cuộc đời, cầu xin Vân Pḥng truyền đạo.

Vân Pḥng nói:

- Việc nhà hăy chưa an, đời sau tu cũng không muộn.
Nói rồi liền bỏ đi. Lữ Đồng Tân trở về nhà, bỏ việc công danh, lo tu tâm dưỡng tánh. Trong thời gian đó, Chung Ly Vân Pḥng lần lượt bày ra mười điều để thử tâm chí của Lữ Đồng Tân. Vân Pḥng rất hài ḷng về người đệ tử nầy, nói:

- Ta đă thử mười điều, khen ngươi bền chí, đáng được truyền đạo trường sanh. Song ngươi chưa có công quả bao nhiêu, nên ta rước gấp chưa được. Nay ta dạy ngươi phép chỉ đá hóa vàng, ngươi cứu đời cho có công quả, rồi ta sẽ rước ngươi về Thượng giới.

Lữ Đồng Tân thưa rằng:

- Vàng ấy chừng bao lâu mới phai?

- Cách 3000 năm mới trổ.

Lữ Đồng Tân châu mày thưa rằng:

- Như vậy th́ cứu người nghèo bây giờ mà lại làm hại những kẻ 3000 năm sau nhiều lắm, thiệt tôi chẳng nỡ.

Vân Pḥng khen:

- Ḷng ngươi nhơn đức mười phần, truyền đạo bây giờ cũng đặng.

Nói rồi dắt Lữ Đồng Tân về núi Triều Hạc, và sau đó truyền hết các phép tu luyện cho Lữ.

Một ngày nọ, Vân Pḥng gọi Lữ Đồng Tân nói:

- Ta sắp lên chầu Thượng Đế, sẽ tâu xin đem tên ngươi vào sổ Tiên. Cách mười năm nữa, đến gặp ta tại Động Đ́nh Hồ.

Xảy có một vị Tiên cỡi hạc bay đến nói:

- Có chiếu chỉ của Đức Thượng Đế phong Vân Pḥng làm chức Kim Khuyết Thượng Tiên. Hăy mau lên lănh sắc.

Vân Pḥng liền từ giă Lữ Đồng Tân rồi bay lên mây. Lữ Đồng Tân vẫn ở núi Triều Hạc để tu và lập công quả.

Ngày nọ, Lữ Đồng Tân đến sông Giang Hoài, được biết có một con giao thành tinh, phá hại dân chúng. Đă có nhiều đạo sĩ đến trị nó không nổi. Lữ Đồng Tân biết ḿnh có gươm phép của Huỳnh Long Chơn Nhơn ban cho, chắc trừ nó đặng, nên nói với quan Phủ để ḿnh lănh cho.

Nói rồi, rút gươm phép ra, miệng niệm Thần chú, phóng gươm xuống sông Giang Hoài, giây phút thấy nước sông nổi sóng, máu tươi vọt lên thắm đỏ ḍng sông, con giao long bị chém đứt họng nổi lên. Gươm linh nầy chém xong lại trở vô vỏ. Quan Phủ rất mừng, tặng cho Lữ vàng bạc để đền ơn, nhưng họ Lữ không nhận.

Lữ Đồng Tân đi qua Châu Nhạc Dương, bố thí thuốc chữa bịnh, và t́m người lành độ dẫn tu hành. Kế tới ngày hẹn với Chung Ly, Lữ Đồng Tân sắp đặt để đi đến Động Đ́nh Hồ đón Vân Pḥng và cùng Vân Pḥng đi độ Hàn Tương Tử.




4. LAM THỂ H̉A



Lam Thể Ḥa là Xích Cước Đại Tiên đầu thai xuống trần, nên c̣n nhớ tánh cũ, thường mặc áo rộng xanh, buộc dây lưng đen, một chân đi đất, một chân mang giày, mùa hè mặc áo bông mà không biết nóng nực, mùa đông chỉ mặc áo chiếc mà không biết lạnh, thật lạ lùng.

Thường ngày, Ông Lam Thể Ḥa hay cầm cặp sanh dài ba thước (thước Tàu), đi ra ngoài chợ, vừa ca vừa nhịp, để xin tiền bố thí. Những bài ca do Ông tự đặt ra đều có ư khuyên đời bỏ dữ theo lành. Tiền xin được, Ông cột vào dây lưng, vừa đi vừa ca, khi tiền rớt cũng không thèm ngó lại, khi lại dùng tiền nầy bố thí lại cho người nghèo khổ.

Những trẻ nhỏ có dịp thấy Ông Lam Thể Ḥa, đến chừng lớp trẻ nầy lớn lên rồi già (tức là 60 hay 70 năm sau) th́ vẫn gặp ông Lam giống y như thuở trước, vẫn ăn mặc như trước, vừa đi vừa ca vừa nhịp, không già như người thường.

Về sau, Lam Thể Ḥa gặp Lư Thiết Quả, hai người đàm đạo trên lầu ở quận Hào Lương. Kế nghe tiếng nhạc vang Trời, đôi chim hạc từ trên không đáp xuống, rước hai vị Tiên về Thượng giới.

Khi cỡi hạc, Ông Lam bỏ cặp sanh rơi xuống đất, hóa thành ngọc, giây phút biến mất.

Trong Bát Tiên, Lam Thể Ḥa có tánh thuần hậu nhứt.



5. TRƯƠNG QUẢ LĂO



Trương Quả Lăo gốc là một con dơi trắng hồi tạo Thiên lập Địa, tu luyện lâu năm, hóa h́nh người, sau đến núi Trung Điều ở Hàng Châu, học đạo với Huyễn Khưu Chơn Nhơn, làm bạn với Lư Thiết Quả.

Các ông già bà lăo thuật chuyện về Trương Quả Lăo:

Khi các ông bà ấy c̣n con nít, th́ đă biết và gặp Ông Trương, thường thấy Ông cỡi con lừa trắng đi dạo khắp nơi, đặc biệt Ông ngồi ngược chiều, quay mặt ra phía sau. Đến khi đi về tới nơi ở, Ông liền đè bẹp con lừa, biến ra lừa giấy, xếp cất vào khăn. Khi muốn đi chơi, Ông lấy lừa giấy ra, phun nước vào th́ hiện ra con lừa trắng để Ông cỡi đi chơi. Khi các ông bà ấy già, vẫn gặp lại Ông Trương giống y như trước, không già hơn chút nào, thật là Ông đă đạt được phép trường sanh bất lăo.

Đến đời vua Đường Thái Tông, vua cho triệu Ông vào triều, nhưng Ông không chịu đến.

Qua đời Vơ Hậu, Bà cũng biết tiếng Ông Trương, nên cũng cho sứ giả đến triệu vào triều. Ông Trương đi được nửa đường th́ chết, giây lát thây thúi hóa ṿi, sứ giả phải bỏ thây lại đó mà về triều tâu lại cho Vơ Hậu rơ.

Nhưng sau đó, người ta vẫn gặp Ông Trương cỡi lừa trắng đi dạo như thường.

Đến đời Đường Minh Hoàng, vua sai quan là Bùi Ngộ đem chiếu đến rước ông Trương, ông Trương giả chết. Bùi Ngộ thắp nhang cầu khẩn, ông Trương từ từ sống lại, nhưng không chịu đi. Bùi Ngộ không dám ép, đành trở về triều tâu lại.

Đường Minh Hoàng lại sai hai sứ giả nữa là Dự Thông và Lư Trang Huyền, đem sắc chỉ đến rước nữa. Ông Trương thấy vua có ḷng trọng vọng nên mới chịu tới, được nhà vua và bá quan kính trọng mười phần. Minh Hoàng hỏi Trương Quả Lăo về chuyện Thần Tiên, Ông Trương ngồi làm thinh, nín hơi mấy bữa, không chịu nói.

Ngày kia Minh Hoàng làm tiệc đăi Trương Quả Lăo, Ông từ chối, nói rằng: "Tôi không biết uống rượu, duy có học tṛ tôi nó uống tới một đấu."

Vua Minh Hoàng xin vời tới. Giây phút có một đạo sĩ trẻ chừng mười sáu tuổi từ ngoài bay vào, ra mắt nhà vua.

Trương Quả Lăo nói:

- Nó là đệ tử của tôi, xin đứng hầu Bệ hạ.

Minh Hoàng thưởng cho nó một đấu rượu, nó liền uống hết. Minh Hoàng lại ép uống nữa. Trương Quả Lăo nói:

- Chẳng nên cho nó uống nhiều, nếu quá chén, ắt sanh điều quái gở.

Minh Hoàng cứ ép uống rượu để xem sự thể ra sao.

Giây phút, trên đầu đệ tử hiện ra một cái quả bằng vàng, rồi người đệ tử biến mất, quả bằng vàng ở dưới đất trơ trơ, giở nắp ra thấy rượu đầy quả. Coi lại, đó là quả vàng của vua. Ai nấy đều phục phép Tiên của Trương Quả Lăo.

Vua hỏi Ông Trương bao nhiêu tuổi. Ông Trương đáp:

- Tôi sanh năm Bính Tư đời vua Nghiêu.

Vua Đường lấy làm lạ, v́ thấy Ông Trương tuổi lối 70 hay 80, liền truyền lịnh cho quan coi tướng là H́nh Ḥa Phát coi tuổi Trương Quả Lăo, nhưng coi cũng không ra.

Vua liền sai Sư Dạ Quang là người coi thấu việc quỷ thần, coi cũng không biết tướng tinh của Trương Quả Lăo. Khi ấy có Đạo sĩ Diệp Pháp Thiện, học được phép Tiên, biết việc quỷ thần, rất được Minh Hoàng yêu mến, được Minh Hoàng vời đến hỏi tướng tinh của Trương Quả Lăo.

Diệp Pháp Thiện tâu rằng:

- Nếu Bệ hạ chịu cất măo cổi giày mà xin tội cho tôi với Trương Quả Lăo th́ tôi mới dám nói.

Vua Minh Hoàng v́ tính hiếu kỳ nên ưng chịu.

Diệp Pháp Thiện tâu rằng:

- Trương Quả Lăo cỡi lừa kỳ lắm, ngồi day ngược ngó ra sau, thiệt là con dơi trắng thời thượng cổ.

Nói vừa dứt lời th́ Diệp Pháp Thiện bị sặc máu tươi chết liền tại chỗ. Vua Minh Hoàng kinh hăi, liền cất măo cổi hài như đă hứa, đến gặp Trương Quả Lăo xin tội cho Pháp Thiện. Trương Quả Lăo nói:

- Nó nhiều chuyện lắm, nếu không trị nó th́ lậu cơ Trời.

Minh Hoàng cứ đứng đó năn nỉ hoài, buộc ḷng Trương Quả Lăo phải tha cho Pháp Thiện, đến phun nước vào mặt th́ Pháp Thiện sống lại như thường.

Minh Hoàng sắc phong cho cho Trương Quả Lăo là Thông Huyền Tiên Sinh, lại sai vẽ chơn dung của Ông Trương treo ở lầu Tập Hiền.

Ngày kia, Minh Hoàng đi săn, bắt được con nai tại đất Hàm Dương, truyền làm thịt đăi yến. Ông Trương can rằng:

- Nó là Tiên lộc ngàn năm, chẳng nên giết. Nguyên trước đây, vua Hớn Vơ Đế săn đặng con nai nầy, vua cho đóng đính bài trên gạt bên tả rồi thả cho đi.

Minh Hoàng truyền coi lại th́ trên gạt con nai nầy có đính bài đúng như Ông Trương nói, nhưng chữ trên đính bài đă ṃn. Minh Hoàng hỏi:

- Từ đó đến nay bao nhiêu năm?

Trương Quả Lăo đáp:

- Năm Quư Hợi, Hớn Vơ Đế đào ao Côn Minh, đến nay là năm Giáp Tuất, cộng lại là 852 năm.

Vua truyền quan Thái Sử coi lại th́ y số.

Sau Trương Quả Lăo xin về dưỡng già. Minh Hoàng cầm không được, liền ban tặng cho một chiếc xe, một cây lụa, hai lính hầu, đưa Trương Quả Lăo về Hàng Châu. Ông Trương cho một tên lính hầu về trào, chỉ giữ lại một tên, rồi hai thầy tṛ đi vào núi Thiên Bửu.

Ít lâu sau, Minh Hoàng lại cho triệu Trương Quả Lăo. Ông bèn giả chết, tên lính hầu lo chôn cất tử tế rồi báo về triều. Mấy hôm sau đó, người ta lại thấy Trương Quả Lăo cỡi lừa ngược đi dạo. Tên lính ấy lấy làm lạ, đào mộ của Ông Trương lên xem, chỉ thấy cái ḥm không.

Vua Minh Hoàng hay tin, cho lập một cái miểu tại núi Thiên Bửu để thờ Trương Quả Lăo.



6. HÀ TIÊN CÔ


Hà Tiên Cô, tên thật là Hà Tố Nữ, quê ở Quảng Châu, huyện Tăng Thành. Khi c̣n bé, Hà Tố Nữ có sáu cái xoáy trên đầu, ai cũng cho là kỳ. Hà Tố Nữ ở với mẹ tại khe Vân Mẫu.

Nhằm đời Đường Vơ Hậu, Hà Tố Nữ nằm chiêm bao được Thánh nhơn mách bảo nên ăn bột Vân Mẫu th́ nhẹ ḿnh chẳng thác. Hà Tố Nữ thức dậy, nhớ lại làm y lời. Bà mẹ thấy Tố Nữ đến tuổi trưởng thành nên có ư kén rể. Hà Tố Nữ nhứt định không chịu lấy chồng, chỉ muốn ở vậy nuôi mẹ.

Ngày kia, Tố Nữ đi kiếm bột Vân Mẫu th́ gặp hai Tiên Lư Thiết Quả và Lam Thể Ḥa đang mang giỏ Hoa Lam đi hái bông. Hai vị thấy Hà Tố Nữ gần thành Tiên, liền gọi đến, truyền cho phép tu luyện, và kêu tặng là Hà Tiên Cô.

Vơ Hậu nghe đồn, cho người đến rước Hà Tiên Cô, nhưng dọc đường đi về trào, Hà Tiên Cô biến mất.

Sau quan Thứ Sử họ Cao gặp Hà Tiên Cô ở trên lầu Quảng Châu. Thứ Sử về trào tâu cho Vơ Hậu rơ.

Lư Thiết Quả đến độ cả hai mẹ con Hà Tiên Cô về cảnh Bồng Lai.



7. HÀN TƯƠNG TỬ


Hàn Tương Tử sanh nhằm đời Đường, cháu ruột của Hàn Dũ, kêu Hàn Dũ bằng chú. Thuở nhỏ, Hàn Dũ ép cháu học Nho để tiến thân trên đường làm quan nhưng Hàn Tương Tử không chịu nên nói:

- Chú mộ công danh phú quư, cháu mộ đạo Thần Tiên.

V́ vậy, Hàn Tương Tử thường lo tu tâm dưỡng tánh.

Ngày nọ, Hàn Tương Tử gặp Chung Ly và Lữ Đồng Tân. Ba người dắt lên non hái đào chín. Chung Ly biết Hàn Tương Tử sắp thành Tiên, liền kêu Hàn leo lên cây hái đào chín, nhánh đào găy, Hàn Tương Tử té xuống bỏ xác thành Tiên, theo Hớn Chung Ly và Lữ Đồng Tân lên ở núi Bồng Lai.

Hàn Tương Tử có ư muốn độ chú ḿnh là Hàn Dũ. Năm ấy, Trời hạn hán, Hàn Dũ vâng lịnh vua cầu mưa nhưng không linh. Bỗng nghe một đạo sĩ (do Hàn Tương Tử biến hóa ra) rao lên rằng:

- Ai muốn mua mưa tuyết, ta bán cho.

Hàn Dũ liền rước vào yêu cầu đạo sĩ cầu mưa, giây phút mưa xuống ngập đồng, tuyết sa chất ngất. Hàn Dũ nói:

- Không chắc ai đảo vơ mà đặng mưa tuyết nầy. Ta cầu đă nửa ngày rồi, có khi kết quả chậm một chút.

Đạo sĩ nói:

- Mưa tuyết do tôi cầu cao ba thước ba tấc.

Hàn Dũ đo lại, đúng y như lời đạo sĩ, mới tin đạo sĩ là Thần Tiên có phép mầu.

Đến ngày Hàn Dũ ăn lễ sinh nhựt, Hàn Tương Tử đến chúc thọ chú. Hàn Dũ thấy vậy, nửa mừng nửa giận hỏi:

- Bấy lâu nay ngươi theo học đạo Thần Tiên thế nào? Làm một bài thơ nghe thử.

Hàn Tương Tử ngâm rằng:

Đă quyết chí tu tŕ, Thành Tiên chẳng khó chi,
Mây xanh hằng cỡi hạc, Động đá cứ ngâm thi.
Đặt rượu trong giây phút, Trồng hoa nở tức th́.
Lâu dài ngàn tuổi thọ, Điều độ kẻ tương tri.

Hàn Dũ nói:

- Ngươi cướp quyền Tạo Hóa đặng sao? Hăy đặt rượu và trồng hoa xem thử.

Hàn Tương Tử bảo đem một cái ché không, đặt giữa bàn, lấy mâm đậy lại, trong giây phút, rượu ngon đầy ché. Rồi Hàn ra trước sân, đào đất vun đống, tức th́ mọc lên một cây hoa mẫu đơn nở bông rất lớn, giữa bông có hiện ra hàng chữ:

Vân hoành Tần lănh gia hà tại,
Tuyết ủng Lam quan mă bất tiền.

Hàn Dũ đọc rồi ngẫm nghĩ măi mà không hiểu ư ǵ, liền hỏi Hàn Tương Tử. Hàn Tương Tử đáp rằng:

- Ngày sau chú sẽ biết, bây giờ không dám lậu Cơ Trời.

Ai nấy trong bàn tiệc đều lấy làm lạ kỳ. Măn tiệc, Hàn Tương Tử từ giă về núi.

Lúc ấy nhằm đời vua Đường Hiến Tông, bên Tây Trúc đem dâng tượng Phật, vua muốn rước vào cung để thờ. Bá quan không ai dám can gián. Hàn Dũ thấy vậy liền dâng sớ can vua:

- Từ Tam Hoàng Ngũ Đế đến vua Vơ vua Thang, vua Văn Vương, chưa có Đạo Phật th́ thiên hạ thái b́nh. Đến đời Hớn, vua Minh Đế đem Đạo Phật vào Trung Nguyên th́ nhà Hớn chẳng lâu dài. Sau qua đời Lương Vơ Đế, vua rước Phật về thờ phượng hết ḷng, nhưng vua bị Hầu Kiển vây khổn, phải chết đói tại Đài Thành, sao Phật không cứu? Như thế chẳng nên tin Phật. Xin Bệ hạ đăi bọn Tây Vức rồi truyền đem tượng Phật ném xuống sông hay quăng vào lửa mà hủy đi kẻo thiên hạ mê lầm.

Đường Hiến Tông xem sớ xong th́ nổi giận, truyền lột chức Hàn Dũ và đày ra Triều Châu tức th́.

Hàn Dũ bị dẫn đi đày, đến một nơi hoang vắng, chẳng có nhà cửa người ở, mây giăng chót núi mịt mù, tuyết rơi bít lối. Chợt thấy phía trước có một đạo sĩ đang quét tuyết dọn đường, nh́n kỹ lại là Hàn Tương Tử. Hàn Dũ mừng rỡ hỏi:

Xứ nầy là chốn nào?

Hàn Tương Tử đáp:

Đây là Ải Lam quan, núi nầy là Tần lănh.

Hàn Dũ nhớ lại hai câu thơ trong hoa mẫu đơn th́ than:

Như vậy, số Trời đă định, chạy sao cho khỏi.

Từ đó, Hàn Dũ mới tin Trời và trọng Đạo. Đêm ấy, chú cháu bàn chuyện đạo đức đến khuya. Rạng ngày, Hàn Tương Tử tặng cho chú một hoàn thuốc, rồi dặn chú:

- Chú uống một hoàn thuốc Tiên nầy th́ khỏi sanh các bịnh. Không bao lâu, ở Triều Châu có sấu nổi lên phá hại, chú đặt văn tế đưa nó phải đi, kế đặng phục chức trở về triều. Sau đó, cháu sẽ về độ chú, truyền cho phép tu luyện.

Nói rồi, Hàn Tương Tử từ giă chú trở về cung Tiên.



8. TÀO QUỐC CỰU



Tại núi Bồng Lai, trong lúc ăn tiệc, uống rượu quỳnh tương, Lư Thiết Quả nói:

- Tại Bồng Lai có 8 động đá, mà anh em ta có bảy người, phải ráng độ thêm một vị nữa. Ta nhắm em của Tào Thái Hậu là Tào Quốc Cựu có khí tượng Thần Tiên, cũng nên độ kẻo uổng.

Hớn Chung Ly thưa rằng:

- Để tôi xuống coi thử, nếu thực vậy th́ tôi lo điều độ.
Nói về Tào Quốc Cựu, tên thật là Tào Hữu, em ruột của Tào Thái Hậu, đời vua Tống. Tào Hữu có một người em ruột là Tào Nhị, ỷ thế của anh và chị, lập phe đảng hại dân, sang đoạt tài sản. Tào Hữu rất giận, thường la mắng Tào Nhị, nhưng Tào Nhị vẫn chứng nào tật nấy, lại đem ḷng oán trách.

Tào Hữu thường than rằng: Chứa lành có phước, chứa dữ mang họa. Em ḿnh làm dữ mười phần, lẽ nào không bị hại, tuy qua đặng dương pháp, chớ chạy sao khỏi luật Trời. Nếu tai họa tới th́ ḿnh phải tội liên can, chi bằng nên lánh trước kẻo nhơ danh và mắc nạn.

Suy nghĩ rồi, liền bán hết tài sản, đem tất cả tiền thâu được bố thí cho dân nghèo, rồi mặc áo quần đạo sĩ đi lên núi, t́m chỗ thanh vắng để tu hành. Qua được vài năm th́ Hớn Chung Ly và Lữ Đồng Tân t́m đến gặp mặt, hỏi rằng:

- Ông tu luyện ra sao?

- Ḷng mộ đạo Thần Tiên th́ lánh việc trần, chớ tôi không biết phép tu luyện chi hết.

Hai Tiên liền hỏi tiếp:

- Đạo ở đâu mà mộ?

Tào Quốc Cựu chỉ Trời.

- Trời ở đâu?

Tào Quốc Cựu chỉ vào trái tim.

Hớn Chung Ly nói:

- Tâm là Trời, Trời là đạo. Ông đă biết rơ cội rễ, tu chắc thành Tiên.

Nói rồi, liền đưa Tào Quốc Cựu về núi Bồng Lai.

Từ đây về sau, núi Bồng Lai có đủ Bát Tiên ở trong tám động, tiêu diêu nhàn lạc vô cùng. Ngày kia, Hà Tiên Cô nói với bảy Tiên rằng:

- Lẽ thường, Tiên Ông mới thành th́ ra mắt Đông Vương Công, c̣n Tiên Nữ mới thành th́ ra mắt Tây Vương Mẫu. Kỳ trước, sanh nhựt của Đông Vương Công, Tiên Nữ cũng đi chúc thọ. Nay gần đến sanh nhựt của Đức Tây Vương Mẫu, bảy Ông tính đi chúc thọ không?

Hớn Chung Ly và Lam Thể Ḥa đồng nói:

- Tây Vương Mẫu không cai trị chúng ta, song Bà là vị làm đầu Tiên Nữ, các Thần Tiên đều phó hội, lẽ nào chúng ta không đi, ngặt chẳng có vật chi báu để dâng lễ Chúc thọ. Trương Quả Lăo nói:

- Tây Vương Mẫu ở Cung Diêu Tŕ thiếu chi vật báu, chúng ta đặt văn chúc thọ mà khánh hạ th́ hay hơn.

Lư Thiết Quả khen phải. Lữ Đồng Tân nói:

- Văn của chúng ta cũng tầm thường, ước đặng văn của Lăo Quân th́ mới xứng đáng.

Hà Tiên Cô nói:

- Thái Thượng Lăo Quân hậu đăi Lư Tiên Trưởng lắm, nếu Lư Tiên Trưởng cầu Ngài chắc đặng.

Lư Thiết Quả nói:

- Phải, song việc đông người mà đi một ḿnh ta th́ thất lễ. Vậy th́ tám anh em ta cùng đi đến mà cầu Lăo Quân.

Nói rồi, Bát Tiên đồng đằng vân qua Cung Đâu Suất. Đức Lăo Quân tiếp Bát Tiên, mời vào Cung, nói:

- Thuở nay, nhà Nho hay học sách của ta như Đạo Đức Kinh, Kinh Cảm Ứng, song dùng cho thông ư tứ mà làm văn, chớ chẳng bắt chước theo lời dạy bảo. Lại có kẻ kiêu ngạo, chê Phật, chê Lăo, nên ta chẳng đặt sách chi thêm nữa mà dạy đời.

Lư Thiết Quả thấy Lăo Quân có sắc buồn, nhưng cũng rán cầu xin đặt bài chúc thọ Vương Mẫu. Lăo Quân cười nói:

- Ta ít ưa việc ấy, v́ nhiều người làm không đặng mà lại hay chê. Song tám vị cầu ta, ta đặt giúp cho một bài từ cũng đủ.

Lăo Quân nói xong, liền viết một bài, đưa cho Bát Tiên xem thử. Ai nấy đều khen ngợi vô cùng. Bát Tiên từ tạ lui ra, đến cậy Chức Nữ làm trục bằng gấm, dán chữ sáng như sao, rồi đem đi chúc thọ. Bát Tiên đến Hội Bàn Đào chúc thọ Tây Vương Mẫu, thấy các Thần Tiên đến đông lắm. Bát Tiên dâng bức trướng chúc thọ. Tây Vương Mẫu khen văn đặt rất hay.

Sau khi măn tiệc, các Thần Tiên đều về hết, Bát Tiên c̣n lưu lại. Tây Vương Mẫu gọi bốn nàng thị nữ đến bảo rằng:

- Đổng Song Thành, Vương Tử Phá, Hứa Phi Yến, An Phát Trinh, bốn người từ khi ca múa tại Hoa Điện của vua Hớn Vơ Đế đến nay cũng đă khá lâu, bây giờ hăy thổi sáo và đờn ca cho Bát Tiên uống rượu.

Bốn nàng vâng lời. Lam Thể Ḥa khen hay, rót rượu dâng lên Tây Vương Mẫu. Vương Mẫu nói:

- Nghe tiếng Lam Tiên ca hay, nên tŕnh nghề chung vui.

Lam Thể Ḥa vâng lời, lấy cặp sanh ra, vừa nhịp vừa ca. Ai nấy đều khen và cười ngất. Tây Vương Mẫu thưởng cho rượu và đào. Lam Thể Ḥa nói:

- Hàn Tương Tử thổi sáo hay lắm.

Tây Vương Mẫu bảo thử. Hàn Tương Tử vâng lời. Tây Vương Mẫu nghe xong, khen hay, bảo:

- Bản ấy rất hay, An Phát Trinh phải nhớ mà tập.

Tiệc xong, Bát Tiên từ tạ. Tây Vương Mẫu truyền đưa Bát Tiên đến chơn mây.

Bát Tiên thấy sóng biển Đông cao lắm. Đồng Tân nói:
- Thuở nay nghe đồn Đông hải mà chưa đến xem phong cảnh thế nào. Sẵn dịp nầy, chúng ta nên xem qua một chuyến.

Lư Thiết Quả nói phải. Trương Quả Lăo can rằng:

- Bữa nay chúngta uống nhiều rượu say rồi, để khi khác.

Hớn Chung Ly nói:

- Sẵn dịp nầy chẳng đi dạo, c̣n đợi dịp nào?

Bát Tiên đồng đi đến mé biển. Lữ Đồng Tân nói:

- Nay đằng vân quá hải, không lấy làm tài, chi bằng mỗi người thả một phép xuống biển, cỡi qua tới mé bên kia mới thiệt thần thông.

Lư Thiết Quả quăng gậy xuống nổi lên mặt nước, rồi nhảy xuống đứng một chân trên gậy.

Hớn Chung Ly ném Phất chủ xuống biển và nhảy xuống đứng trên Phất chủ.

Trương Quả Lăo thả Lừa giấy, Lữ Đồng Tân thả Ống tiêu, Lam Thể Ḥa thả Ngọc bản, Hàn Tương Tử thả giỏ Hoa lam, Tào Quốc Cựu thả Thủ quyển, Hà Tiên Cô thả Bông sen.

Tất cả Bát Tiên đều đứng trên bửu pháp của ḿnh, giống như đứng trên thuyền, đồng vượt qua Đông hải.

                                                                        
                                                                  ST






Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 223 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:48pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



BÁC SĨ GEORGE RITCHIE. CÂU CHUYỆN HỒN L̀A KHỎI XÁC


Trường hợp lạ lùng của bệnh nhân George Ritchie đă chết rồi sống lại. hiện đang là Bác Sĩ Tâm Trí, đă khiến cho các Khoa Học Gia cũng như các nhà Tâm Lư Học đặc biệt chú ư. Câu chuyện có thật này đă được đưa lên màn ảnh với tựa đề Beyond And Back, nó đă làm chấn động dư luận.


Lúc hai mươi tuổi George Ritchie, một sinh viên y khoa với hoài băo trở thành bác sĩ, đă phải gia nhập Quân Đội. Sau này anh đă trở thành vị bác sĩ trẻ tuổi nhất tốt nghiệp tại Đại Học Đường Virginia. Khi chiến tranh chấm dứt cũng là lúc anh tốt nghiệp y khoa và được tuyển chọn gửi đi huấn luyện tại Đại Học Đường Y Khoa Virginia.

Trước hôm đi anh bị sưng phổi nặng nặng. Bệnh t́nh của George Ritchie rất trầm trọng. Sau đó ít lâu th́ ông tắt thở. Người ta đă khám nghiệm và chuyển ông vào nhà xác. Nhưng chỉ trong khoảng chín phút sau ông đă tỉnh lại. Bác Sĩ Donald G. Francy, Y Sĩ Trưởng của Trại Barkeley gọi trường hợp của George Ritchie sống lại, là một trong những sự lạ lùng và ly kỳ nhất chưa từng bao giờ có. Trong một bài đă được kiểm chứng Bác Sĩ Francy viết như sau:

- "Bệnh nhân George Ritchie đă chết hẳn rồi lại sống lại rất mạnh khoẻ là một trường hợp chưa từng có. Điều đáng lưu ư là một người bị bệnh tim, khi tim ngưng đập có thể dùng cách này hay cách khác để làm tim đập lại. Nhưng trường hợp của George Ritchie với bệnh sưng phổi, cơ thể đă bị nhiễm độc, các cơ quan trong người đều bị phá hủy th́ việc làm cho trái tim đập lại không thể thực hiện được. Hơn nữa, George Ritchie đă chết ít nhất là chín phút, th́ bộ năo hư hỏng không thể toàn vẹn được".

Ritchie kể:

- "Lúc được chuyển sang nhà xác, cảm thấy tinh thần rất tỉnh táo. Lúc này khoảng nửa đêm. Ư nghĩ đầu tiên của anh là phải đi chuyến xe buưt sáng sớm để tới Trường Y Khoa tại Richmond để kịp dự lễ khai giảng khóa mới. Nhưng lạ lùng thay! Quần áo của anh đâu rồi? Anh t́m khắp nơi trong pḥng. À! có lẽ ở dưới giường chăng?

Tôi đi ṿng quanh rồi lạnh cứng. Có người nào đó đang nằm trên giường tôi ḱa! Tôi lại gần đó là một người đàn ông c̣n trẻ, tóc mầu nâu cắt ngắn nằm ngay đơ. Nhưng... không thể như thế được! Chính tôi vừa ra khỏi cái giường này mà. Tôi thắc mắc khó hiểu sự kỳ lạ này. Thật là quá lạ lùng nghĩ đến việc này nhưng không c̣n th́ giờ nữa.

Anh đi t́m người phụ trách để lấy lại quần áo. Ritchie trông thấy một trung sĩ đang đi ngoài hành lang, anh chận lại và yêu cầu ông ta giúp đỡ. Nhưng người này không thấy anh và cũng không nghe thấy anh nói cứ tiếp tục đi thẳng, khiến anh phải tránh ra nhường lối cho ông ta đi. Nóng ḷng tới Trường Đại Học, Ritchie ra khỏi bệnh viện rồi bay theo hướng bắc về Richmond với một tốc độ nhanh chóng. Anh phân vân không biết đi có đúng đường không.

Một con sông rộng ở dưới tôi. Tôi thấy có một cái cầu dài, cao và tít đằng xa bên kia sông có một thành phố lớn mà tôi chưa bao giờ đến cả. Tôi muốn đáp xuống kiếm người hỏi thăm. Tôi từ từ ngưng lại, ngay dưới tôi có hai con đường chập lại làm một và tôi bị cuốn hút bởi một luồng ánh sáng xanh chiếu ra từ một bảng hiệu gắn đèn nê-ông của một ṭa nhà có mái ngói đỏ. Tấm bảng hiệu "Past Blue Ribbon Beer" treo ngay trên cửa sổ và trước nhà bảng hiệu "Cafe" lơ lửng trên cửa ra vào...

Trên con đường nhỏ dẫn vào quán Cafe bán đêm này, có một người đang rảo bước. Tôi bèn xuống đi bên cạnh và hỏi:

- Làm ơn cho tôi biết đây là thành phố nào?

Ông ta vẫn tiếp tục đi thẳng... Chúng tôi tới quán Cafe. Ông ta xoay tay nắm cửa bước vào. Có lẽ ông ta bị điếc hẳn? Tôi lấy tay trái đập lên vai của ông ta. Không có ǵ cả mà h́nh như tay tôi vừa để vào khoảng không. Rơ ràng tôi thấy ông ta mà, tôi c̣n nhận ra ông ta có một cḥm râu đen ở cầm cần phải cạo đi nữa".

Mọi suy nghĩ Ritchie tựa hẳn vào một người đàn ông đang mắc dây điện thoại ở kế bên và đi xuyên qua.
Trước khi đi đến phần kế tiếp, chúng tôi thấy cần phải báo cáo là, một năm sau đó bất ngờ Ritchie đă khám phá ra tên của thành phố này.

Trên đường trở về trại Barkeley trước khi đi công tác tại Âu Châu, Ritchie cùng những người bạn sinh viên y khoa đi xe hơi về trại. Đến ngày thứ ba họ tới Tiểu Bang Missisipi, một Tiểu Bang mà chưa bao giờ Ritchie đặt chân tới cả. Khi đến vùng ngoại ô của Vicksburg, Ritchie đă tả lại như sau:

- "Thành phố này tuy xa lạ nhưng h́nh như rất quen thuộc. Tôi đă biết rơ từng nét cong của bờ biển, từng khúc rẽ đường. Nơi đó, tôi biết rơ đường phố như thế nào! Tôi biết chắc chỉ c̣n một con đường ngắn là tôi có thể đến ngôi nhà trắng có mái ngói đỏ, có chữ Cafe bằng nê-ông gắn trên cửa ra vào.

Khi xe tới gần tôi nhận được ra con đường nhỏ mà tôi đă cùng một người không nhận ra tôi đi tới quán này. Cũng c̣n cả cột điện thoại mà tôi đă đứng ở đó rất lâu... bao lâu? Giờ nào, ngày nào với loại thân h́nh nào"

Trong cơn thoát xác, Ritchie cảm thấy đi Richmond thật phù phiếm, không ai thấy và nghe được anh cả.

- "Nếu tôi có trở về gia đ́nh th́ cũng chẳng ai thấy tôi? Ư tưởng cô đơn xâm chiếm tôi, dù sao tôi cũng phải về ngay nơi mà mọi người thấy tôi và nghe được tôi chứ".

Rồi George Ritchie nghĩ đến cái xác hăy c̣n đang nằm tại bệnh viện. Ritchie đă vội vàng quay trở về bệnh viện tại Trại Barkeley. Tới nơi Ritchie đă phải xục xạo t́m lại cái xác nằm tại một trong hai trăm căn pḥng, của năm ngàn binh sĩ đang ngủ. Lúc đó Trại Barkeley có hai trăm năm mươi ngàn khóa sinh.

Đèn không được sáng, thật khó khăn mới nh́n được mặt họ. Cả giờ rồi đă toát cả mồ hôi, qua hết pḥng này đến pḥng khác mà vẫn không kết quả. Đột nhiên anh nhớ ra! Tay trái anh có đeo một cái nhẫn hội viên Phi Gamma Delta. Và tiếp tục t́m kiếm, anh đă t́m được cái xác một người đàn ông trong một căn pḥng nhỏ, phủ một tấm chăn và tay trái có đeo chiếc nhẫn.

- "Tôi tiến lại từ từ, mắt dán chặt vào cái bàn tay đeo nhẫn. Tôi khiếp hăi. Dưới ánh đèn mờ ảo, tôi thấy bàn tay đó thật trắng và thật mềm. Trước đây, tôi đă nh́n thấy bàn tay này ở đâu rồi nhỉ? Tôi đă nhớ ra: Cha Dabney nằm trong pḥng khách Moss Side.

Tôi lùi lại gần cửa ra vào. Người nằm trên giường đă chết. Tôi cảm thấy khó chịu như trước đây tôi đă phải ở chung với người chết trong một pḥng.. Nhưng.. cái nhẫn là của tôi mà, vậy chính là tôi mà.. vậy th́ một phần của tôi nằm trên cái giường này, phủ bởi tấm chăn.

Vậy có nghĩa là tôi đă... Đó là lần đầu tiên tôi đă trực nhận đến chữ "chết" liên quan đến những ǵ đang xảy ra cho tôi. Nhưng tôi chưa chết mà.. sao tôi có thể chết trong khi tôi vẫn c̣n thức đây? Tôi bấu vào tấm chăn, cố gắng kéo xuống để mắt tôi nh́n được phía ngoài. Nhưng vô ích tất cả các cố gắng của tôi, cũng không đủ để tạo một cơn gió nhẹ, thoáng qua căn pḥng im lặng nhỏ bộ này.

Sau cùng thất vọng tôi ngồi xuống giường. Tôi nghĩ: Tôi đă thoát ra khỏi xác nên không tiếp xúc lại được. Đây là chính là lúc tôi cảm thấy da thịt tôi và tôi (h́nh hài và linh hồn) ở hai hành tinh riêng biệt".

Chợt George Ritchie thấy trong pḥng tự nhiên sáng hẳn lên. Anh nh́n vào cái bóng đèn mười lăm watts và chắc chắn cái bóng đèn này không thể sáng đến thế được!

- "Tôi ngạc nhiên thấy ánh sáng càng ngày càng rút lên ở trong pḥng, tất cả các bóng điện trong bệnh viện thắp lên cũng không thể sáng như thế, tất cả những ngọn đèn trên thế giới cũng không thể sáng như thế, sáng như cả triệu ngọn đèn dùng để bàn cùng cháy lên một lúc".

Bây giờ George Ritchie nhận thấy không phải là ánh sáng mà là một người đang bước vào pḥng, nói đúng hơn là một Người được làm bằng ánh sáng.

- "Con Người này đă tỏa ra sức thần thông của chính ḿnh, xưa hơn cả thời gian và hiện đại, hơn bất cứ ai mà tôi đă được gặp. Người này đă nh́n thấy suốt cuộc đời của anh. Người này đă biết đến cả những ǵ khó ưa trong tôi, Người đă chấp nhận và thương yêu tôi".

Người này đă hỏi anh:

- Anh đă làm được những ǵ trong đời?

Câu hỏi được nhắc đi nhắc lại nhưng anh lẩn tránh. Cuối cùng là anh cũng phải trả lời là chẳng làm được ǵ trong suốt cuộc đời. Không thể nào trong một vài chương mà có thể kể hết được. Con Người Thiên Thể này đă dẫn dắt Ritchie đi; sau này Ritchie gọi là "Một Cuộc Kinh Lư Giáo Dục".

Ritchie đă được dẫn đến thế giới thiên thể ở tầng trời cao nhất. Ỏ thế giới thiên thể này Ritchie đă nh́n thấy cảnh các linh hồn đam mê cảnh thế gian. Những người nghiện rượu được kéo ra khỏi các quán rượu, các quán cà phê và đây là địa ngục của họ:

Những người nghiện rượu trông thấy người khác đang uống mà không được động đến cái ly. Đây là địa ngục của họ. Ritchie đă nh́n thấy những người tự tử v́ thất vọng. Ritchie cũng được dẫn đến thăm một văn pḥng, mà người thoát xác đang la hét, và bắt người làm phải thi hành công việc như thế nào, nhưng các người làm này đâu c̣n tuân lệnh nữa. Đây là ông chủ đă quá cố của Ritchie.

Tuy đă được Southern Baptist một tông phái Tin Lành dạy dỗ nghiêm khắc. Ritchie cũng vẫn thấy giật ḿnh. Anh thấy Anh đang ở trong một Thư Viện Vĩ Đại có nhiều cuốn sách nói về vũ trụ mà chưa ai viết, và cuốn Thánh Kinh chỉ là một mà thôi.

Khi được đưa tới tầng trời thứ ba th́ Ritchie bị ngất ngây, bởi vô lượng ánh sáng của người Đồng Hành Thiên Thể, mà sau này Ritchie nghĩ là Đấng Tối Thượng, Tối Cao hơn cả. Đó là Đức Chúa Christ với người Thiên Chúa Giáo. Đức Phật với người Phật Giáo. Khrisna Phạm Thiên với người Ấn Độ Giáo. Messiah Giáo Chủ với người Do Thái Giáo. Có lẽ tất cả đều đúng. Đă đến lúc phải trở về với nhiều nuối tiếc.

- "Những bức tường đă ngăn chận chúng tôi. Những bức tường rất hẹp như những cái hộp, rồi trong khoảnh khắc tôi nhận ra được cái pḥng của bệnh viện, mà tôi đă bỏ đi trong một thời gian".

Anh cố gắng nhập vào cái xác đang nằm trên giường, Anh cố gắng mở mắt nhưng không sao mở mắt được v́ bị tấm chăn phủ mất. Anh muốn giở hai tay nhưng không thể được, và cảm thấy như đang nâng hai thanh sắt nặng. Anh chậm chạp xích hai bàn tay lại gần nhau và xoay cái nhẫn vài lần.

Rồi đầu óc Ritchie lại mờ đi. Ritchie lại rơi vào t́nh trạng hôn mê và h́nh như lại chết một lần nữa. Chính sau này thân xác anh cử động được, nhưng đầu óc anh vẫn mê man mất ba ngày.

Lần này khi mở mắt ra anh nh́n thấy cô y tá đang nh́n anh mỉm cười và nói:

- Thật vui mừng ông đă trở lại với chúng tôi, đă có lúc chúng tôi tưởng không thành công.

Sau này Ritchie được biết khi người trông nom bệnh viện, trở lại để sửa soạn đưa Ritchie vào nhà xác, th́ đôi tay anh đă được đổi vị trí. Nguyên lúc Bác Sĩ khám nghiệm phủ mặt Ritchie, đặt hai cánh tay thẳng và để đôi bàn tay úp xuống. Nhờ vậy Ritchie đă nh́n thấy cái nhẫn của ḿnh.

Nhận thấy có sự thay đổi (đôi tay không ở vị trí có) người trông nom (binh nh́) vội cấp báo Bác Sĩ. Sau khi khám nghiệm lại cẩn thận, vị Bác Sĩ đă một lần nữa tuyên bố Ritchie đă chết hẳn.

Tuy nhiên người trông nom bệnh viện này không thừa nhận lời tuyên bố của Bác Sĩ đề nghị:

- "Có thể chích một mủi Adrenalin vào thẳng tim cho Ritchie sống lại".

Về việc này George Ritchie đă nhận xét như sau:

- "Việc này không thể có được, thứ nhất là v́ một người binh nh́ đâu có thể tranh căi với cấp sĩ quan chỉ huy của ḿnh, hơn nữa lại là một bác sĩ chuyên môn có bằng cấp, thứ hai lời đề nghị của người trông nom trên phương diện y khoa chuyên môn, thật là lố bịch và buồn cười.

Bệnh sưng phổi đă làm tê liệt tất cả các bộ phận trong cơ thể, việc tiêm thuốc kích thích tim không thể chấp nhận được. Về trường hợp của tôi, bất cứ một nhà y khoa nào cũng không thể làm ǵ hơn được.

Ấy thế mà đề nghị cho một người đến canh chừng của người trông nom bệnh viện, với Bác Sĩ cho rằng việc này không hữu lư, đă được chấp thuận và đề nghị này lại thành công!

Thời gian b́nh phục thật là khó khăn. Khi trở về Richmond, Ritchie chỉ như một bộ xương, không ai có thể tin được Ritchie có thể theo học lớp y khoa. Phải mất đúng một năm Ritchie mới hoàn toàn b́nh phục".

Sau đó Ritchie được chuyển trở lại Trại Barkeley, và được gửi sang phục vụ một đơn vị ở Âu Châu. Khi chiến tranh kết liễu, Ritchie đă tiếp tục học lại, đậu Bác Sĩ và đă trở thành một Bác Ś chuyên khoa về tâm trí.

Bác Sĩ George Ritchie đă viết như sau:

- "Khi tôi xin vào nội trú tại Đại Học Đường Virginia, một người bạn đă khuyên tôi đừng nên cho Ban Tuyển Chọn biết chuyện tôi đă xuất hồn, v́ những người chấm điểm có thể nghi ngờ tôi. Người đầu tiên phỏng vấn tôi là Bác Sĩ Wilfred Abse, Giáo Sư Ngành Phân Tâm Học, Tâm Lư Học thuộc Viện Tâm Trí và là một trong những người, đứng đầu trong Ngành Phân Tâm Học tại Virginia. Ngay khi bước vào pḥng Bác Sĩ Abse đă nói với tôi:

- Tốt, này Bác Sĩ Ritchie h́nh như ông đă được gặp Chúa Christ. Tôi tưởng rằng cơ may của tôi đă bị ném qua cửa sổ.

Bác Sĩ Abse là người Do Thái, một người nghiên cứu về triết học Freud. Ông ta đă trực tiếp phỏng vấn tôi. Tôi đă nói hết sự thực và không giấu giếm chút nào về việc xảy ra tại Trại Barkeley, Texas.

Không thể ngờ được hai tuần lễ sau cuộc phỏng vấn, tôi nhận được thư thông báo Ban Tuyển Chọn, đă chấp nhận tôi vào nội trú, và tôi đă trở thành một Bác Sĩ về tâm trí.

Những năm sau này Bác Sĩ Abse trở thành người bạn thân của tôi. Trong một câu chuyện giữa chúng tôi, Bác Sĩ Abse đă cho biết:

- "Mọi người nơi đây đều biết rơ câu chuyện xuất hồn của Anh, nếu trong cuộc phỏng vấn anh giấu giếm th́ tôi đă không chọn anh, v́ cho anh là một người không có tinh thần vững vàng, một người như vậy ắt hẳn không thể phân biệt đâu là sự thật, đâu là ảo tưởng".

Cũng tại Bệnh Viện này, Bác Sĩ George Ritchie đă tiến tới chức vụ Viện Trưởng Viện Tâm Trí.




ST











Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 224 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:49pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



CHIẾC NANH HEO RỪNG CỦA ĐẠO VUỐT


Trên quốc lộ mười lăm đường đi Sàig̣n Vũng Tàu, vào khoảng cây số tám mươi lăm, về phía bên tay trái, đối diện Rừng Sát là núi Ông Trịnh. Trên lưng chừng đồi núi này có một cái hang mà trước đây ông "Đạo Vuốt" đă từng tu trong đó. Ngày nay ông Đạo đă đi đâu bặt tăm mà chẳng ai biết, hang bỏ hoang trông thật tiêu điều hoang vắng.

Dưới chân núi Ông Trịnh là những g̣ mả nằm ngỗn ngang, v́ lâu ngày không ai chăm sóc sửa sang nên cỏ gai mọc um tùm. Người ta đồn rằng vào những đêm trăng mờ gió lạnh, có những tiếng khóc than thật thê lương hờn tủi, xuất phát từ những ngôi mộ đó, lời ai oán này chính là những phụ nữ đă bị ông đạo giết chết lấy hài nhi để luyện thiên linh cái. Không ai dám lai văng đến nơi đây, ngoại trừ lũ chồn cáo đào hang làm ổ mặc sức hoành hành, đêm đêm lẻn vào xóm làng để bắt gà vịt.

Trong làng có chú Ba Ten sống bằng nghề hái măng bẩy thú. Trước đây chú từng là đệ tử của ông đạo vuốt. Vào một buổi chiều mua thu trời tím thẫm, mưa gió rả rích, trong một căn cḥi tranh vách nứa, bên chai rượu đế và mấy con sóc nướng xă ớt, chú Ba Ten kể cho tôi nghe một chuyện về ông đạo vuốt.

- "Ông tên thật là Nguyễn văn Kiên thuộc phái Bửu Sơn Kỳ Hương do đức Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên sáng lập rao giảng về nghĩa tứ ân là: ân tổ tiên, cha mẹ, đất nước và ân đồng bào. Ông gốc người Long xuyên về đây giữa năm 1960 cất một cái cḥi tranh, hàng ngày đi giảng đạo và chữa bệnh. Lúc ấy tôi đang bị sốt rét nặng, tưởng đă chết may nhờ có ông cứu chữa mới qua được cơn bạo bệnh. Sau đó tôi xin theo ông học cách chữa bệnh.

Thường ngày tôi và ông vào rừng, leo núi t́m cây hái thuốc. Một buổi trưa chúng tôi t́m được một hang sâu và rộng, trong đó có một ngọn suối nhỏ, nước trong và mát uống vào ngọt lịm. Bên ngoài hang xung quanh c̣n có nhiều cây ăn trái như xoài, bưởi, khế.. cảnh vật thật yên tĩnh xinh đẹp. Trước mặt nh́n ra biển cả bao la, bên trái là những cánh đồng lúa chín, bên phải là lăng của ông Trịnh, sau lưng là núi Thị Văi hùng vĩ phong cảnh thiêng liêng và hữu t́nh.

Thầy Kiên phấn khởi lắm. Ông nói:

- Hang đá nầy có lẽ là cái hàm rồng mà từ lâu ta vẫn để công t́m kiếm, vậy ta sẽ tu tại đây.

Một hôm hai thầy tṛ chúng tôi chuẩn bị thức ăn thật nhiều, đi thật sâu vào rừng để t́m các loại thuốc quư và hiếm, chúng tôi băng rừng vượt suối, nơi đây chưa hề có bước chân người lai văng, cây cối xanh mướt lạ thường, bốn bề vắng lặng chẳng nghe tiếng động của một con thú nào, kể cả tiếng chim cũng không có.

Hai thầy tṛ vẫn tiếp tục tiến sâu vào. Đến một cánh đồng cỏ tranh bỗng có tiếng cọp gầm liên hồi và tiếng hồng hộc giận dữ của loài heo rừng phát ra từ hướng trước mặt. Tôi giật ḿnh lo sợ, trống ngực đánh th́nh thịch tính lùi lại quay về, nhưng thầy Kiên lại ra dấu đừng sợ, ông cầm cây roi bằng gỗ mun tiến lên.

Bất đắc dĩ tôi phải rón rén hồi hộp từng bước theo sau. Tiếng mănh thú gầm gừ mỗi lúc một gần hơn, thầy Kiên ra dấu dừng lại, vạch đám cỏ phía trước ra. Tôi giật ḿnh khiếp đăm chết trân. Trước mặt chúng tôi là một con cọp vằn vện to bằng con ḅ, cặp mắt long lên ṣng sọc, nh́n đối thủ là con heo rừng khủng khiếp lông lưng dựng đứng, đầu to như cái thúng cặp nanh dài bén nhọn như hai lưỡi dao, chĩa lên phía trước như thách thức đợi chờ. Hai mănh thú gườm nhau, cọp bỗng mọp người xuống, phóng lên đánh tạt vào má heo thật mạnh, heo tránh được, đâm ngược chiếc nanh trúng bă vai cọp xé một đường dài, cọp gầm lên tức giận chụp lên lưng heo, nhờ lớp da dầy và chai cứng che chở, heo chỉ bị thương nhẹ. Hộc lên một tiếng thật lớn hất cọp rớt xuống, dùng bốn chân dậm túi bụi vào lưng và bụng cọp, cọp lăn lộn gầm thét ngữa miệng lên cắn vào chân và đùi heo, hai con mănh thú lăn xả vào nhau cắn xé, đâm chém bụi bay mịt mù.

Bỗng cọp gầm lên phóng ḿnh ra ngoài ṿng chiến, nằm phục xuống căm hờn nh́n đối thủ. Một hồi sau như đă nghỉ mệt xong và có lẽ đă t́m được lối đánh mới, cọp đập đuôi xuống đất, gầm lên một tiếng thật lớn phóng người lên cao, lộn ngược đầu xuống chụp ngược vào hậu môn heo, ư chừng muốn rút ruột heo lôi ra. Nhưng cọp không ngờ đă sa vào thế đánh của heo, heo đă nhanh như chớp quay lại cắm ngập chiếc nanh vào họng cọp, máu phọt ra có ṿi, cọp gầm lên đau đớn rồi phóng ḿnh bỏ chạy heo hăng hái đuổi theo. Cọp chạy đến một g̣ mối phóng ḿnh lên, heo chạy đến vừa đưa đầu ngước lên liền bị cọp thọc chân xuống móc mắt lôi ra, bị trúng đ̣n độc heo bật ngửa ra sau, giẫy giụa kêu vang thảm thiết, máu từ hốc mắt chảy ra lai láng, không bỏ lỡ cơ hội, cọp phóng xuống cắn mạnh vào họng heo giữ chặt ngấu nghiến, heo vùng vẫy yếu dần.

Tôi nhắm mắt lại không dám nh́n thêm cảnh tượng quá dă man tàn bạo nầy. Bỗng thầy Kiên chụp cây roi nhảy ra ngoài vọt ḿnh lên cao, hét lên một tiếng thật lớn dơ thẳng cây roi dùng hết sức b́nh sanh đập mạnh xuống lưng cọp "bốp", xương cọp gẫy rụm, cọp rống lên máu họng trào ra, ngáp ngáp mấy cái rồi ngoẽo đầu sang một bên chết tốt. Con heo rừng thoát chết từ từ đứng dậy, yên lặng nh́n thầy Kiên một chút rồi chậm chạp đi vào rừng cây. Lúc nầy tôi mới hoàn hồn, mon men đến bên thầy, ôm thầy thật chặt kính phục tài nghệ của thầy.

Về đến nhà tôi báo cho dân làng mang xe ḅ vô rừng kéo xác cọp về. Trông thấy xác cọp ai cũng lắc đầu lè lưỡi, có người kêu lên:

- Trời ơi! cọp nầy lớn quá, tôi mới thấy lần đầu phải trên ba trăm kg là ít.

Sau đó một người đánh diêm lên đốt bộ râu cọp. Theo lời người xưa kể lại, nếu nhét một sợi râu cọp vào mụt măng non, khi măng già râu cọp sẽ biến thành một loại sâu lạ, phân của sâu là một loại thuốc độc cực mạnh. Muốn giết ai chỉ cần bỏ một chút xíu vào nước hay rượu cho người đó uống sẽ chết ngay tức khắc. Để tránh tội ác phải thiêu hủy bộ râu cọp trước.

Vài tuần sau lúc trời vừa chạng vạng tối, tôi đang phụ với thầy xúc thuốc phơi nắng bỏ vào bao đem cất, th́ con heo một mắt tới, thân h́nh nó thật ghê tởm lở lói, bên mắt hư của nó đỏ như quả ổi chín bị chim ăn gịi bọ lúc nhúc. Nó nh́n chúng tôi một chốc rồi quay lại phóng ḿnh thật mạnh đâm vào cây bằng lăng nằm im bất động. Khi đến xem th́ nó đă chết, chiếc nanh cắm thật sâu vào thân cây.

Hai tháng sau cây bằng lăng bỗng nhiên trụi lá chết khô. Rồi vào một đêm khuya mưa gió băo bùng, cây bằng lăng bị đánh trốc gốc, ngă dài trên mặt đất, chỗ có chiếc răng ngửa lên trên. Tôi và thầy Kiên dùng ŕu đẽo chặt cả tiếng mới lấy chiếc nanh ra được. Thầy Kiên quư chiếc răng nầy lắm, lúc nào cũng mang bên ḿnh.

Thầy Kiên là một thầy thuốc Nam rất giỏi, chữa bệnh rất mát tay, đă chữa cho nhiều người hết bệnh, tiếng tăm thầy vang lừng, người từ phương xa nghe danh ùn ùn kéo đến. Những người chữa theo Tây âu dần dần mất thân chủ, tức giận và đố kỵ tài năng, họ t́m cách hăm hại thầy, họ phao tin đồn là thầy có thiên linh cái. Từ đó ác danh đạo vuốt được gán cho thầy với những tội ác tày trời làm náo động khắp vùng, nên chính quyền t́m cách bắt thầy nhưng thầy đă thoát được. Báo chí làm ầm lên, họ phái phóng viên xuống địa phương băng rừng, leo núi vào tận trong hang chụp ảnh, t́m ṭi viết những bài phóng sự giật gân, hấp dẫn lôi cuốn người đọc. Mọi người đều say mê, thích thú với những truyền thuyết huyền thoại về thầy, họ muốn biết mặt thầy t́m hiểu về thầy nhiều hơn nữa.

Nhưng bóng dáng thầy vẫn bặt tăm. Sự biến mất đầy bí ẩn của thầy làm mọi người thắc mắc ṭ ṃ hơn, biết bao nhiêu câu chuyện được đồn đăi lên, mỗi người kể mỗi khác về những ǵ họ thấy và có liên quan đến thầy. Ông Chín Tọc làm nghề bắt cắc kè quả quyết đă trông thấy thầy ngồi thiền trên tảng đá trong dăy núi Tóc Tiên, chị Mười Núi hái măng thấy thầy dạo trong rừng trúc trên núi bà Tám, anh Nhâm c̣n nói điều kỳ bí lạ lùng hơn là đă thấy thầy ngồi trong chiếc hang của thầy tu trước kia.

Thời gian qua đi mọi người v́ lo cho nhu cầu cơm áo hằng ngày nên vấn đề quan tâm thắc mắc về thầy cũng từ đó vơi dần. Cho đến một đêm khuya tiết trời oi bức, không một cơn gió thổi, tôi nằm trên giường cứ trằn trọc măi mà không ngủ được, đang thao thức bỗng có tiếng gơ cửa, bước ra ngoài tôi giật ḿnh sững sốt gặp lại thầy Kiên. Thầy đưa tôi một gói nhỏ và nói:

- Con giữ vật này, nó sẽ mang lại cho con nhiều may mắn.

Nói xong ông quay lưng lại bước vào màn đêm rồi mất hút. Vào nhà đốt đèn lên, mở ra xem th́ đó là chiếc nanh heo rừng."

Kể xong câu chuyện tôi thấy những giọt nước mắt đă lăn trên khuôn mặt bâng khuâng nhiều xúc cảm của chú Ba Ten. Uống cạn ly rượu đặt xuống bàn, chú yên lặng đứng dậy đi đến bàn thờ lấy xuống một gói vải đỏ, mở ra đưa cho tôi xem chiếc nanh heo rừng. Chiếc nanh thật đẹp dài gần hai tấc, lên nước bóng loáng như có thoa một lớp dầu bóng, có chổ ửng vàng như màu ḷng đỏ trứng gà, có chỗ màu nâu chocolate có chỗ màu nâu đen như màu máu khô, nh́n kỹ thấy gần đầu nanh có một lằn nứt ngang gần giáp ṿng, tôi nghĩ có lẽ đây là vết tích do heo húc quá mạnh vào thân cây khi trước.

Cầm chiếc nanh mát lạnh trong bàn tay, mà đầu óc tôi cứ nghĩ miên man về những huyền thoại của nó. Chuyện quyết đấu sanh tử giữa heo và cọp, chuyện heo "hiến" răng cho thầy Kiên và những truyền thuyết huyền bí về ông. Sau này trước khi tổ chức cho gia đ́nh đi vượt biên, tôi có nói với chú Ba Ten, chú tặng lại cho tôi chiếc nanh heo và nói:

- Ông bà ḿnh có câu có thờ có thiêng, có kiêng có lành, cháu nhớ lấy.

Tôi vô cùng xúc động trước tấm ḷng bao dung, nhân ái đầy vị tha của chú. Tôi nghĩ rằng chú phải thương tôi lắm mới cho tôi một vật quư giá và đầy kỷ niệm.
Chuyện tôi tổ chức vượt biên bất thành, công an truy nă ráo riết, tôi phải trốn lánh từ nơi này đến nơi khác, phải mấy năm sau tôi mới qua được Campuchia, từ đó tôi vượt biên qua Thái Lan thành công.

Sáng nay trong một căn pḥng thật yên tĩnh, bên ly trà nóng, đầu óc trong sáng thảnh thơi không một chút suy tư, tay tôi cầm chiếc nanh heo, nhớ lại những chuyện đă qua, tôi nghĩ phải có một cái ǵ đó linh thiêng, huyền bí lắm đă chở che cho tôi vượt qua những gian nguy thử thách. Chợt tôi nhớ đến câu của chú Ba Ten:

- Có thờ có thiêng có kiêng có lành.

Thật là huyền diệu.



                                                          Nguyễn Tường Lâm





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 225 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:49pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



BÍ ẨN CHIẾC BÀN XOAY


Dù để mặt bàn ở đâu th́ bàn đều xoay như ư muốn người trắc nghiệm không kể tay đặt âm hay dương, không kể nam hay nữ, không kể người thành hôn hay chưa thành hôn, nam đặt tay sấp cùng nữ đặt tay ngửa.

Trong chuyến vào Thành Phố Đà Lạt năm 2006, t́nh cờ tôi gặp ba chiếc bàn xoay và được biết chúng xuất xứ từ một gia đ́nh người làng An Ḥa, xă Nhơn Ḥa, huyện An Nhơn, tỉnh B́nh Định.

Điều lạ lùng là khi một ḿnh tôi đặt tay lên chiếc bàn xoay tại nhà số 30A đường Khe Sanh, th́ bàn không xoay dù tôi đă ra lệnh. Phải hai người đặt tay bàn mới xoay. Nhưng khi đến khu du lịch đồi Mộng Mơ, một ḿnh tôi đặt hai tay lên mặt bàn ra lệnh th́ bàn xoay.

Bấy giờ có mươi khách tham quan đang đứng vây quanh bàn. Một du khách kêu lớn: "Ông này ghê quá!". Tôi nảy ra ư định thử t́m hiểu vấn đề này. Không chuyên về hiện tượng siêu nhiên mà có người gọi là "Ngoại cảm", "Đặc dị công năng", "Tâm linh"… tôi chỉ gặp gỡ trong một vài cuốn sách trên bước đường nghiên cứu các tín ngưỡng và tôn giáo. Tôi biết với sức lực và tri thức một ḿnh tôi th́ không thể nghiên cứu tương đối khoa học về vấn đề này. Tôi cũng không có mục đích nghiên cứu khoa học thật sự đề tài này, chẳng qua một chút hiếu kỳ lúc có cơ hội.

Đầu năm 2007, trong một dịp trở lại Đà Lạt, nhân ngày chủ nhật rảnh rỗi, tôi dự định làm một cuộc trắc nghiệm bàn xoay, dùng bốn nam hai nữ, có người đă kết hôn, người chưa kết hôn, người có tŕnh độ sau đại học...
Đáng tiếc đến chiều th́ Đà Lạt đổ mưa chỉ c̣n tôi và một nam tài xế taxi tên là Nguyễn Anh Tuấn đi nghiên cứu. Nhờ một cán bộ khoa Đông Phương giúp đỡ, tôi được Tạ Hoàng Giang, Trưởng pḥng Kinh doanh Công ty Du lịch đồi Mộng Mơ giúp đỡ tận t́nh. Nếu không có anh việc nghiên cứu khó ḷng được như đă làm.

Kế hoạch của tôi là trắc nghiệm từng cá nhân đặt một tay, hai tay, một ngón tay lên bàn xoay. Tay đặt sấp ngửa, nam nữ thay nhau để kiểm tra khả năng có tác dụng âm dương hay không. Đo đạc và cân mặt bàn để t́m hiểu lực cản. Đo tốc độ di chuyển của bàn nhanh chậm. Nhưng việc đo tốc độ không thực hiện được v́ thiếu trợ lư. Những chiếc bàn xoay đều là đối tượng khai thác khách tham quan nên không thể tiếp tục nghiên cứu làm ảnh hưởng kinh doanh của chủ nhân chiếc bàn. Thời gian nghiên cứu dài nhất là chiếc bàn xoay ở đồi Mộng Mơ.

Cả ba chiếc bàn được tôi chọn trắc nghiệm đều cùng một mô thức: ba chân nhỏ đỡ thân bàn là một trụ gỗ tṛn mà đầu trụ đặt vào một lỗ tṛn dưới mặt bàn làm trục cho mặt bàn xoay. Cả ba bàn đều như thế và mặt bàn đều là ván ghép chứ không phải một tấm gỗ tṛn nguyên vẹn. Dưới mặt bàn đều có hai thanh gỗ dài nhỏ ghép đỡ mặt bàn và cùng hai đoạn gỗ ngắn cấu tạo thành một ô tứ giác, trong đó có lỗ trục h́nh tṛn.

Độ tṛn ba mặt bàn đều không hoàn toàn chuẩn nhưng không sai số lớn nên nh́n mắt thường đều tṛn.
Theo nh́n nhận của tôi th́ ba chiếc bàn cùng một loại gỗ đen sẫm thớ rất mịn, không biết gỗ ǵ nhưng có lẽ không phải gỗ tạp mà cũng không phải tứ thiết. Khác biệt chăng là bàn cao thấp khác nhau, đường kính mặt bàn khác nhau, độ dày mặt bàn khác nhau.

Kích thước cụ thể của chiếc bàn xoay ở đồi Mộng Mơ như sau: cao 87cm, đường kính mặt bàn 74cm, mặt bàn dày 1,7cm, mặt bàn cân nặng 8,5kg.

Lần lượt trắc nghiệm bốn người: đặt một tay, hai tay, úp bàn tay và ngửa bàn tay, dùng suy nghĩ khiến bàn xoay quay trái phải nhanh chậm dừng, không cần nói to thành lời. Hiệu quả là tất cả các trường hợp trắc nghiệm:

Mặt bàn đặt trên trục bàn, mặt bàn úp sấp trên ghế nhựa, mặt bàn để ngửa trực tiếp trên sàn gạch men, mặt bàn đặt nghiêng trên sàn gạch men th́ bàn đều xoay như ư muốn người trắc nghiệm không kể tay đặt âm hay dương, không kể nam hay nữ, không kể người thành hôn hay chưa thành hôn, nam đặt tay sấp cùng nữ đặt tay ngửa. Về chiếc bàn xoay nhà bác Trần Mến, anh Tạ Hoàng Giang nói:

- Bàn xoay này do bác Trần Mến bốn mươi bảy tuổi, cổ đông sáng lập Công ty Du lịch đồi Mộng Mơ mang đến. Bác Trần Mến là người xă Hoài Phú, gần thị trấn Tam Quan huyện Hoài Nhơn tỉnh B́nh Định, mua bàn xoay ở xă Nhơn Ḥa, huyện An Nhơn tỉnh B́nh Định. Bác Mến lập nghiệp bằng bàn xoay. Hiện tại nhà bác c̣n một chiếc bàn xoay nhỏ hơn.

Nguyễn Anh Tuấn và tôi tiến hành trắc nghiệm kết quả giống như chiếc bàn xoay ở đồi Mộng Mơ. Chúng tôi đến nhà bác Lưu Xuân Ưởng ở số 30A đường Khe Sanh. Bác sáu mươi tuổi, người xă Trực Thành huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định, thuê gian nhà này để kinh doanh bàn xoay. Bác cho biết bác mua chiếc bàn xoay này của ông Nguyễn Tại thôn An Ḥa, xă Nhơn Ḥa, huyện An Nhơn tỉnh B́nh Định. Bác Ưởng biểu diễn để mặt bàn lên ghế nhựa cho xoay.

Do khó khăn về thời gian và người giúp việc nên tôi chỉ trực tiếp trắc nghiệm nhiều lần chiếc bàn xoay ở đồi Mộng Mơ, trắc nghiệm một vài lần ở hai bàn xoay sau, c̣n lại là do chủ nhân các bàn xoay và Nguyễn Anh Tuấn tiến hành. Các cuộc trắc nghiệm c̣n ở dạng quá thô sơ và v́ nhiều lư do nên chưa thực sự kỹ càng. Tôi thừa nhận trắc nghiệm chưa đủ giá trị khoa học. Nhưng dù vậy, tôi nhận thấy: Quả có một năng lượng từ trong thân thể tôi phát ra và tôi điều khiển được bàn xoay một ḿnh theo ư muốn của tôi.

Luồng năng lượng đó thắng được trọng trường 8,5kg (trọng lượng mặt bàn xoay) và hướng tác động vào bàn xoay tùy thuộc ư chí của tôi. Điều này giống như khi tôi điều khiển con lắc. Để con lắc cách bàn tay trái một người nam vài centimets th́ nó quay ṿng tṛn khi úp sấp bàn tay, lắc dọc khi đặt ngửa bàn tay; với tay phải nam giới th́ lắc dọc khi úp sấp, xoay tṛn khi lật ngửa bàn tay; đối với nữ th́ ngược lại… Điều này đă có tài liệu nói đến.

Nghĩa là hướng con lắc di động tùy theo âm hay dương của bàn tay và nam hay nữ; tuy nhiên tôi cũng có thể khiến cho con lắc đứng yên theo ư chí của tôi. Nhưng trường hợp bàn xoay th́ không phân biệt âm dương. Đáng tiếc, tôi đă không mang theo con lắc khi trắc nghiệm bàn xoay. Nhưng có lẽ con lắc và bàn xoay là hai hiện tượng khác nhau? Chúng chỉ giống nhau ở một điểm là ư chí con người có thể điều khiển được sự vận động của cả bàn xoay lẫn con lắc.

Bàn xoay cũng có hiện tượng người trắc nghiệm vô t́nh đẩy khi bàn đă xoay đưa cánh tay chạy ra xa mà người trắc nghiệm chưa kịp bước theo; hoặc giả người trắc nghiệm cố ư đẩy bàn xoay. Không phải ai cũng một ḿnh điều khiển được bàn xoay. Theo chủ nhân của ba chiếc bàn xoay th́ số người như thế không ít, nhưng đa số phải hai người mới điều khiển được bàn xoay. Hơn bốn mươi nam nữ sinh viên năm thứ nhất Khoa Hàn Quốc, học thuộc Trường Đại học Đà Lạt không ai một ḿnh điều khiển được bàn xoay.

Năm 2006 tôi không điều khiển được bàn xoay nhà 30A Khe Sanh nhưng ngay sau đó đến đồi Mộng Mơ th́ một ḿnh tôi điều khiển được chiếc bàn xoay ở đây. Như vậy là có vấn đề sức khỏe của người trắc nghiệm. Lái xe Nguyễn Anh Tuấn là một thanh niên cường tráng đă t́nh cờ thành người trắc nghiệm chính của tôi. Anh cho biết thường xuyên đưa khách tham quan bàn xoay và lần nào một ḿnh anh cũng điều khiển được bàn xoay.

Đă có một số sách báo viết về loại năng lượng này. Nói chung, tôi đọc không nhiều và không chuyên. Các tác giả sách báo đó đề cập đến hào quang con người, nhân điện, trường sinh học, trường năng lượng con người, trường năng lượng vũ trụ (ESP), năng lượng sinh học, bioplasma… khá phức tạp và trắc nghiệm khoa học với máy móc tinh vi, đưa ra những trị số khác nhau của năng lượng đó.

Nhưng không có điều ǵ giải thích hiện tượng bàn xoay và cũng chưa đề cập đến hiện tượng này dù có bàn về Psychokinesis (PK tức Viễn di sinh học). Tôi đề nghị các nhà nghiên cứu chuyên về lĩnh vực tiềm năng con người, tổ chức một dự án nghiên cứu kỹ càng hiện tượng bàn xoay, một cách tỉ mỉ khoa học, phối hợp nhiều nhà chuyên môn nhiều lĩnh vực hữu quan.

Các hiện tượng cận tâm lư (Parapsychology) đều cận khoa học đều là hiện tượng siêu việt (Paranormal) đă được tiền nhân cảm nhận như trong Yoga, Khí công, Thiền định, Cầu cơ… nay cần trắc nghiệm khoa học. V́ là hiện tượng siêu việt nên dễ bị người ta lừa gạt kẻ cả tin. Những trắc nghiệm ở Trung Quốc tiến hành mươi năm gần đây đă chứng minh điều đó. Nghiên cứu nghiêm túc, khoa học, hợp tác chân thành th́ hiện tượng bàn xoay sẽ có đóng góp cho việc nghiên cứu cái mà nay gọi hỗn tạp là Ngoại cảm




Nguyễn Duy Hinh









Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 226 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:51pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



CHUYỆN SỐ MẠNG


Tôi bị mồ côi cha từ nhỏ. Mẹ tôi cho theo nghề Y học và nói với tôi rằng: Học nghề làm thuốc vừa có thể nuôi sống vừa có thể giúp người. Vả lại luyện tập một nghề cho tinh vi có tăm tiếng, chính là sở nguyện của cha mày khi trước.

Sau đó, có một hôm tôi đến lễ chùa Từ Vân, nhân gặp một cụ già râu dài tướng đẹp, dáng mạo phơi phới như tiên, tôi đem ḷng kính mộ. Cụ nói với tôi: "Ta coi cậu là người trong chốn quan trường, sang năm đă đến khoa thi tấn học, sao cậu không chịu đọc sách?". Tôi tŕnh bày lư do và hỏi thăm tên họ quê quán của Cụ.

Cụ bảo: Ta họ Khổng, người đất Vân Nam. Ta được chánh truyền phép lư số trong sách Hoàng Cực của Thiệu Ưng tiên sinh. Ta muốn truyền lại cho cậu.

Tôi liền dẫn Cụ về nhà giới thiệu với mẹ tôi, mẹ tôi dạy tiếp đăi Cụ rất hậu, và yêu cầu Cụ thử chấm số của tôi xem ra thế nào, th́ quả nhiên từ những việc mảy may đều được Cụ đoán trúng rành mạch. Từ đó tôi nảy sanh ư muốn đọc sách, và đem chuyện bàn với người anh cô cậu là Trầm Sinh. Anh ấy bảo tôi: hiện nay có Úc Hải Cốc tiên sinh đang mở khóa giảng tại nhà ông Trầm Hữu Phu, để anh gởi em tới đó học, rất tiện. Sau đó tôi trở thành học tṛ của thầy Úc Hải Cốc.

Khổng tiên sinh chấm số tôi như vầy: Lúc nhỏ thi huyện đậu thứ 14, thi phủ đậu thứ 71, thi tỉnh đậu thứ 9. Quả nhiên năm sau tôi đi thi cả ba nơi đều có tên đậu đúng như lời đoán.

Cụ lại đoán cả việc lành dữ trong suốt đời tôi, rằng năm nào thi đậu thứ mấy, năm nào được bổ Bẩm sinh năm nào được bổ chức Cống sinh, sau đó năm nào được bổ Tri huyện tỉnh Tứ Xuyên, nhưng làm tri huyện đủ ba năm rưỡi lại nên cáo thối và thọ đến 53 tuổi, chết vào giờ sửu ngày 14 tháng tám. Chỉ đáng tiếc số người không con.

Các lời đoán này tôi đều ghi lại và nhớ cẩn thận. Từ đó về sau, phàm mỗi lần thi cử, tên tuổi đậu đạt đứng trước đứng sau của tôi thế nào đều đúng như lời tiên sinh dự đoán, duy có điều này làm tôi hơi nghi là tiên sinh đoán tôi ăn lộc trong thời gian Bẩm sinh đủ số 91 thạch 5 đấu gạo th́ được bổ Cống sinh.

Nhưng cập kỳ tôi mới tiêu hết số gạo 71 thạch, đă được Đồ Tôn sư phê chuẩn cho tôi bổ Cống sinh, nên tôi nghi điều này tiên sinh đoán sai, không ngờ sau đó tôi bị quan đại lư Dương Công bác khước, phải kéo dài thời gian măi đến năm Đinh măo mới nhờ Minh Tôn sư thấy quyển văn thi của tôi tại khoa trường, khen rằng: Năm thiên sách này chính là năm thiên tấu nghị lên triều đ́nh, người có tài văn bài thế này há lại để vùi lấp măi ở chỗ song môn sao? Rồi ông tŕnh văn bài của tôi lên quan huyện và tôi được phê chuẩn bổ Cống sinh.

Kiểm điểm lại số gạo tiêu trong thời gian này cộng với số gạo 71 thạch khi trước th́ vừa đủ số 91 thạch 5 đấu không sai; do đó tôi càng tin chắc đời người tiến thối có số mạng, mau chậm có vận thời, nên tôi cứ dửng dưng không c̣n để ư mong cầu một điều ǵ.

Sau khi bổ Cống sinh tôi phải vào yến đô học tại Quốc tử giám. Suốt một năm lưu lại kinh đô, tôi chỉ thường ngồi lẳng lặng, không buồn xem văn thư ǵ cả. Qua năm Kỷ tỵ đi dạo Nam Ưng. Trước khi vào Quốc tử giám, tôi có đến viếng thăm Thiền sư Vân Cốc Hội ở núi Thể Hà. Ngồi chung với Thiền sư một nhà suốt ba đêm ngày liền, mắt không hề nhắm.

Thiền sư hỏi tôi: người ta ở cơi đời sở dĩ không làm được Thánh Hiền chỉ v́ bị vọng niệm ràng buộc, nay ông ngồi suốt ba ngày mà không thấy khởi lên một niệm nào, là tại làm sao? Tôi trả lời: Thưa Thiền sư, tôi được Khổng tiên sinh chấm số, cho biết mọi điều vinh nhục tử sinh đều do số định, dầu có móng ḷng mơ tưởng điều ǵ cũng vô ích, v́ vậy tôi không cần nghĩ tưởng điều ǵ.

Thiền sư cười: Lâu nay tôi đăi ông như bậc hào kiệt, không ngờ ông chỉ là một kẻ phàm phu chay! Tôi giựt ḿnh, hỏi Thiền sư cho biết lư do, Thiền sư dạy: những người chưa được "không tâm" mới phải bị âm dương chi phối, số mệnh buộc ràng. Nhưng số mệnh chỉ câu thúc kẻ phàm phu, không thể câu thúc được người cực thiện cũng như cực ác, ông suốt 20 năm nay chịu bó tay trước số mệnh không chuyển đổi được tí ǵ, như thế, há không phải phàm phu th́ là ǵ?

Tôi hỏi: Thưa Thiền sư, vậy số mệnh có thể tránh được ư? Thiền sư dạy: Số mệnh do ta gây ra, họa phước chính ta t́m lấy. Đó là điều sách vở đă dạy đành rành. Kinh Phổ Môn, Phật dạy: Cần giàu sang được giàu sang, cần con trai con gái, được con trai con gái, cần sống lâu được sống lâu. Ôi! Vọng ngữ là một giới cấm nặng của nhà Phật, há lẽ chư Phật Bồ Tát lại khi cuống người đời mà nói ra câu ấy hay sao!

Tôi hỏi tiếp: Thầy Mạnh Tử nói: Hễ cầu thời được, ấy là nói cầu những điều chính nơi tâm ḿnh có thể làm được kia, như điều đạo đức nhân nghĩa thời có thể ra sức mong cầu, c̣n như công danh phú quư là đều ngoài năng lực ḿnh, làm sao mong cầu được? Thiền sư nói: Thầy Mạnh Tử nói không lầm, chỉ tại ông hiểu lầm thôi. Ông không nghe ngài Lục tổ Huệ Năng nói sao? Ngài nói: Hết thảy phước điền, không ngoài gang tấc, hễ tâm cầu chi đều cảm thông nấy. Cầu ngay nơi ta, không những được đạo đức nhân nghĩa, cũng được luôn công danh phú quư, hễ trong đạt được th́ ngoài đạt được, nên càng thấy rơ hiệu nghiệm của tâm hướng nội mong cầu.

Người nào không chịu khó ngó lui ḿnh để tu tỉnh, cứ như một bề dong ruổi t́m cầu bên ngoài, tuy họ có lập cách t́m cầu thế nào chăng nữa, kết quả vẫn tùy số mệnh định đoạt cả thôi. Lối mong cầu này hoài công vô ích. Những người không chịu hồi tâm tu tỉnh, lo cầu mong phú quí công danh bằng con đường đạo đức nhân nghĩa, lại chỉ lo t́m cầu mọi thủ đoạn gian ác, rốt cuộc họ phải bị thiệt tḥi cả hai mặt, là công danh phú quí không thành mà đạo đức nhân nghĩa cũng hỏng.

Thiền sư lại hỏi tôi về việc chấm số của Khổng tiên sinh, tôi thuật lại đúng cả mọi điều. Thiền sư hỏi lại tôi: Bây giờ ông thử xét lại ông c̣n có hy vọng thi đậu không? Tôi ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi trả lời: Không thể. Người khoa giáp phải là người có phước tướng, c̣n tôi chỉ là kẻ bạc phước, lại không biết dồn chứa công hạnh làm nền tảng phước đức, không chịu khó giúp ai, không khoan dung đại độ, có khi c̣n cậy ḿnh tài trí lấn lướt kẻ khác, nghĩ ǵ làm nấy, nói năng khinh suất dối trá, chẳng nể v́ ai.

Đấy toàn là những tướng của kẻ bạc phước, làm sao tôi mong cầu được khoa giáp! Vả lại phàm đất nhớp mới có nhiều vi trùng sinh, nước trong th́ đâu có cá lội, thế mà xét lại tính tôi vốn ưa tinh khiết, nên tôi không con là phải; phàm khí tiết ôn ḥa mới nuôi dưỡng muôn vật, thế mà xét lại tính tôi hay nóng nảy, thế nên không con là phải; phàm nhân ái là gốc sinh hóa, nhẫn tâm là gốc suy tàn, thế mà xét lại tính tôi cứ khư khư danh tiết hảo huyền, chẳng hề hy sinh giúp ai, thế nên tôi không con là phải. Đó là chưa kể tôi c̣n có tật nói nhiều làm tổn khí, tật ưa uống rượu làm tán tỉnh, tật ưa ngồi suốt đêm không biết bảo tồn khí cốt và nếu kể hết tật xấu của tôi th́ hẳn c̣n nhiều nữa...

Thiền sư nói: Không riêng ǵ một việc thi cử, chính tất cả mọi việc thế gian này thảy đều nằm trong lư nhân quả. Những người có được sản nghiệp trị giá ngàn vàng tức là người có được cái phước hưởng ngàn vàng đó, những người có được sản nghiệp trị giá trăm vàng tức là người có được cái phước hưởng trăm vàng đó, những người bị chết đói, tức là người có cái nghiệp chết đói đó.

Thế mà người đời không nhận rơ lẽ này, cứ đổ dồn cho trời đất xui nên, kỳ thật trời đất bất quá chỉ gia thêm những điều ḿnh đă tạo sẵn, chứ trời đất có bao giờ sanh được mảy may họa phúc nào cho ai đâu. Ngay đến việc sinh con cũng thế. Người nào có công đức trăm đời thời sẽ sinh con cháu trong mười đời kế tiếp ǵn giữ; người nào có công đức ba đời, hai đời thời sẽ sinh con cháu trong ba đời, hai đời kế tiếp ǵn giữ, c̣n người nào tuyệt nhiên không con, ấy là người chỉ có công đức mỏng manh vậy.

Nay ông đă biết chỗ khuyết điểm của ḿnh, ông hăy tận t́nh gột bỏ cái tướng không phát khoa giáp và không sinh con kia đi. Và muốn vậy, ông phải lo tích đức, phải mở ḷng bao dung, phải giữ niệm ḥa ái, phải yêu tiết tinh thần, bao nhiêu việc trước đập tan ngày qua đă chết, bao nhiêu việc sau phát khởi như ngày nay đă sinh, được vậy tức là ông tự làm một cuộc tái sinh đầy nghĩa lư đó.

Cái thân xác thịt c̣n có vận số, huống cái thân đầy nghĩa lư này lại không cảm thông cùng trời đất? Thiên thái giáp trong kinh Thi có câu: Trời làm ương nghiệt, ḿnh có thể tránh, ḿnh làm ương nghiệt không thể nào tránh. kinh Thi nói: Thường hay nói phối hợp thiên mạng chính là nói tự ḿnh cầu được nhiều phước. Trước đây Khổng tiên sinh đoán số ông không phát khoa giáp, không sinh con, đó là điều ương nghiệt do trời đất gây ra, nó có thể tránh gỡ. Nếu ông mở rộng đức tính, gắng làm việc thiện, dồn chứa âm công, ḿnh gây ra phước, há ḿnh không được hưởng thụ hay sao?

Dịch là bộ kinh mưu tính việc sưu các ty hung giúp cho người quân tử, hạng người biết phản tĩnh tu đức. Nếu thật có cái thiên mạng cố định, ai tốt cứ tốt, ai xấu cứ xấu, th́ đâu có thể nói đến chuyện mưu tính sưu các ty hung? Mở đầu kinh Dịch c̣n có câu: Nhà nào chứa điều thiện sẽ có thừa điều phúc (tất thiện chi gia tất hữu dư khánh), ông có tin nỗi điều ấy chăng?

Tôi tin lời Thiền sư nói, nên thành tâm bái lănh. Tôi liền đến trước Phật đài tận t́nh phát lộ sám hối bao nhiêu tội cũ của ḿnh, và dâng một sớ bạch, trước hết cầu được đăng khoa giáp, tiếp phát nguyện làm ba ngàn điều lành, để báo đáp ân đức của trời đất tổ tông.

Thiền sư đưa bảng "Công hóa cách" chỉ cho tôi, khiến cứ mỗi ngày có công việc thiện ghi vào, c̣n làm ra mấy việc ác th́ thối trừ và gắng chuyên tŕ chú Chuẩn-Đề, như thế sở nguyện của ông tất có hiệu nghiệm.

Thiền sư lại dạy tiếp: Một nhà Phù lục thường nói rằng: Người họa phù mà không hiểu cách thức, tất bị quỷ thần chê cười, song bí truyền của cách họa phù không chi lạ, chỉ cốt giữ tâm không lay động mà thôi. Khi cầm bút họa phù, điều cần thiết trước tiên phải dũ sạch muôn mối duyên lự trong ḷng, tâm đừng khởi lên mảy may tưởng nghĩ nào cả.

Ngay khi tâm bất động ấy, hạ bút chấm một chấm gọi là hỗn độn khai cơ, rồi từ đó tiếp huơ bút họa viết, không để một tư lự nào móng lên, được như thế là điệu phù thành linh nghiệm. Phàm người kỳ đảo trời đất cầu sửa đổi số mệnh cũng phải làm như thế, phải do từ cái tâm không vọng động, không loạn tưởng khởi mới có cảm cách.

Khi thầy Mạnh Tử luận đến cái học lập mạng có câu: yểu và thọ không hai. Thực tế ta thấy chết yểu và sống lâu hai điều khác xa nhau, tại sao thầy Mạnh lại nói khác? Nên biết khi tâm không vọng niệm, th́ ngay đó đâu có phân chia số mạng thọ yểu, giàu nghèo, cùng thông... Chỉ từ tâm móng khởi thiện ác mới tạo nên những số mệnh sai khác giữa giàu nghèo v.v... Nhưng phàm đă sinh ra ở đời, ai không coi việc chết sống là quan trọng, nên trên đây chỉ nói đến việc sống lâu và chết yểu, kỳ thật ư đă bao gồm tất cả mọi sự thuận nghịch xảy ra trên suốt cả đời người.

Đến như câu "Tu thân dĩ sĩ chi" mà Mạnh Tử đă nêu lên, là cốt nhắc người đời nhớ lấy điều tích đức tu nhân làm hệ trọng.

Hễ tu được nhân đức thời dầu có mọi tội lỗi vẫn cải bỏ được hết, và nói chờ đợi (sĩ) tức có ư nói gắng lo tu nhân tích đức đến khi công phu sâu dày, tự nhiên số mệnh thay đổi, chớ không phải chỉ đem cái hy vọng suông cầu cho được thế này thế kia mà được kết quả thế này, thế kia. Người thông đạt đạo lư, dù một mảy may hy vọng cũng chẳng để dính mắc trong ḷng, được như thế mới đạt đến cảnh giới bất động niệm hồn nhiên, mới đạt đến chỗ thật học cao siêu.

Nay Ông chưa được "không tâm", Ông hăy tŕ niệm chú Chuẩn-Đề, cần niệm măi không gián đoạn, không cần kể số ít nhiều, tŕ niệm đến khi nào được thuần thục, trong tŕ niệm mà không tŕ niệm, trong không tŕ niệm mà tŕ niệm, th́ bây giờ được tâm không lay động, mà có sự ứng nghiệm rơ ràng.

Sau khi được Thiền sư chỉ dạy, tôi liền đổi hiệu Học Hải trước kia để lấy Liễu Phàm, v́ từ đây đă hiểu cái lư nghĩa lập mạng là thế nào, không muốn để ḿnh rơi vào sào huyệt phàm phu nữa. Từ nay trở đi, suốt ngày ǵn giữ cẩn thận, do đó tôi tự thấy ngày nay khác xa ngày trước. Ngày trước tôi chỉ là con người lêu lỏng buông xuôi, nhưng từ nay tôi đă biết lo ǵn ḷng giữ ư, cẩn thận từng khắc từng giờ, dẫu ở chỗ kín đáo riêng tư, ḷng vẫn sợ lỡ làm điều chi sai quấy, mắc tội với trời đất, hoặc dẫu gặp ai ganh ghét, phá phách, tôi cũng cố giữ tánh điềm nhiên hỷ xả.

Bước sang năm sau, bộ Lễ mở khoa thi, Khổng tiên sinh đoán bộ sẽ khảo thí từ tên đậu ba trong khóa trước trở xuống, nhưng nay bộ lại khảo thí từ tên đậu nhất. Thế là lời dự đoán của Khổng tiên sinh lần này không ứng nghiệm; và Tiên sinh không đoán tôi được đậu Cử nhân thế mà tôi đă đậu Cử nhân trong ḱ Hương thí mùa thu!

Tuy nhiên tôi tự xét việc hạnh nghĩa ḿnh làm chưa thuần thục, sai sót c̣n nhiều. Hoặc có khi thấy việc lành mà làm không hăng hái, hoặc có khi cứu giúp người mà tâm c̣n do dự, hoặc có khi thân gắng làm lành mà miệng có nói ác, hoặc khi tỉnh th́ tháo vác mà khi say lại phóng dật... tôi đem tội chiết tính bù trừ với công, th́ thấy hẳn có nhiều ngày ḿnh sống uổng!

Tôi phát nguyện từ năm Kỷ tỵ mà măi đến năm Kỷ măo, suốt mười năm năm, mới hoàn thành ba ngàn việc thiện! Khi rời Lư Tiệm Am tiên sinh để vào Bản bộ Trung Quốc, tôi chưa kịp làm lễ hồi hướng ba ngàn việc thiện kia, năm Canh th́n có dịp trở lại Nam Biên, tôi mới thỉnh các Ḥa thượng Thánh Không, Huệ Không đến Đồng tháp Thiền đường chứng minh cho lễ hồi hướng, nhân đó tôi lại phát nguyện làm thêm ba ngàn điều lành khác để cầu sinh con, và đến năm Tân tỵ, tôi đă may mắn hạ sinh một quư tử.

Mỗi lần làm một việc ǵ, tôi liền lấy bút ghi vào sổ, vợ tôi không viết được, nên hễ làm được việc ǵ th́ lấy nắp bút chấm son ấn vào tờ lịch một khoanh tṛn. Chẳng hạn như bố thí cho người nghèo, mua vật phóng sinh, tính ra mỗi ngày có đến mười khoanh.

Sang tháng tám năm Quư mùi, tính lại đủ số ba ngàn điều lành, sau khi đă khấu trừ các điều ác. Tôi lại thỉnh các Ḥa thượng Thánh Không, Huệ Không đến nhà chứng minh lễ hồi hướng. Ngày 13 tháng 9, tôi lại phát nguyện làm thêm một vạn điều lành, cầu th́ đậu Tiến sĩ, quả nhiên năm Bính tuất tôi thi đậu và được bổ làm Tri huyện Bửu Đê.

Trong lúc làm Tri huyện, tôi sắm sẵn một tập sách để ghi thiện ác, đặt tên là Trị Tâm Thiền (sách sửa ḷng). Cứ mỗi sáng dậy, gia nhân đem nó giao lính hầu đem đến để trên án làm việc. Nếu trong ngày, tôi làm được điều lành điều dữ nào dù lớn dù nhỏ đều ghi rơ ràng vào sách, đêm đến thiết án giữa trời, bắt chước ông Triệu Duyệt Đào thắp hương cáo với trời đất. Vợ tôi thấy đă lâu mà chẳng làm được bao nhiêu việc lành, mới châu mày buồn bă nói: Trước Ông ở nhà có tôi giúp sức, nên Ông đă làm đủ ba ngàn điều lành theo sở nguyện. Nay Ông nguyện làm thêm một vạn điều, nhưng ở tại công đường chẳng có việc ǵ để làm, th́ biết bao giờ Ông mới làm đủ số ấy.

Đêm đó, mộng thấy một Thần nhân, tôi mới than thở về lư do khó là đủ các điều lành minh đă hứa. Thần nhân bảo: Chỉ một việc giảm khinh tiền thuế cho dân của Ông vừa rồi, cũng đủ sánh bằng một vạn điều lành. Nghe lời Thần nhân bảo, tôi liền xét lại nhớ ḿnh có làm việc đó thật. V́ khi trước thuế ruộng của huyện Bửu Đê, mỗi mẫu phải đóng 2 phân 3 ly 7 hào, xét ra quá nặng đối với muôn dân nên tôi đă khu xữ làm cho giảm xuống mỗi mẫu chỉ đóng 1 phân 4 ly 6 hào.

Tuy vậy, tôi vẫn hồ nghi không hiểu tại sao việc làm đó lại có thể sánh bằng một vạn điều lành, may đâu gặp được Huyền Như Thiền sư vừa từ núi Ngũ Đài đến, tôi đem chuyện nằm mộng ra hỏi có đáng tin không, Thiền sư trả lời: Hễ có thiện tâm chân thiết, th́ một việc lành có thể đương được muôn việc lành, huống chi giảm thuế cho cả một huyện, muôn dân đều chịu ơn. Tôi liền cúng một số tiền lương, nhờ Thiền sư đem về Ngũ Đài trai Tăng một vạn vị sư, gọi là để làm lễ hồi hướng cho tôi.

Khổng tiên sinh trước kia đoán tôi đến năm 53 tuổi gặp tai nạn, nhưng đến năm đó chẳng có ǵ xảy ra, dù tôi không hề cầu đảo xin tăng thọ, và nay th́ tuổi tôi đă 69 rồi. Trong Kinh Thi có câu: Trời không dễ tin, mạng không định thường, lại có câu: Vận mạng chẳng nhất định. Những câu ấy đâu phải là lời dối trá! Do đó tôi biết chắc rằng, họa phúc đều phải cầu ngay nơi ḿnh, đó mới thật đúng ư của Thánh Hiền, ngược lại người nào nói họa phúc do mệnh trời, th́ đó là lối suy luận thông thường của kẻ thế tục.

Hiện tại số mệnh mỗi người thế nào chưa dễ biết được. Vậy đang khi được hiển vinh hăy tưởng như gặp điều không vừa ư, đang khi được thuận lợi hăy tưởng như gặp điều trái nghịch, đang khi được sung túc hăy tưởng là thiếu nghèo, đang khi được mọi người ái kính hăy tưởng khi bị khuất phục, đang khi gia thể trọng vọng hăy tưởng như ḿnh ở hạng thấp hèn, đang khi có chút học vấn uyên thâm hăy tưởng ḿnh c̣n thiển cận.

Xa về trước, nghĩ tới công đức tổ tiên để lo kế tuyên dương, gần hiện tại, nghĩ tới lầm lỗi của mẹ mà t́m cách bồi bổ, trên lo đền ơn trước, dưới lo tạo phước gia đ́nh, ngoài th́ giúp người tai nạn, trong th́ lo ngăn ngừa tà ác chính ḿnh. Cốt phải ngay thấy chỗ sai quấy của ḿnh để lo toan hối cải. Nếu một ngày không tự biết ḿnh quấy tức một ngày an ḷng tự cho ḿnh là phải, một ngày không ăn năn hối quá tức một ngày không tiến bộ.

Hạng người thông minh tuấn kiệt trong thiên hạ đâu phải hiếm, nhưng nếu họ không gắng lo tu đức, mở mang thiện nghiệp, họ cũng chỉ sống một đời đ́nh trệ, an phận dật dờ gặp chăng hay chớ mà thôi!

Cái thuyết lư an thân lập mạng của Vân Cốc Hội Thiền sư trao dạy trên đây thật là chí t́nh, chí lư, chí chân, chí chánh. Nếu biết ngẫm kỹ và thực hành sẽ khỏi một đời luống trôi vô ích vậy.




    HT Thích Trí Siêu









Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 227 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:52pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



MẸ TÔI VÀ BÍ ẨN TÂM LINH


Mỗi độ Thu về nh́n lá vàng rơi giăng phủ kín lối đi, với những cơn gió thổi nhè nhẹ, hơi se lạnh làm tôi cảm thấy buồn man mác và nhớ mẹ tôi vô cùng. Mẹ tôi mất cũng vào mùa Thu, cách đây đă mười tám năm rồi, nhưng đối với tôi mẹ vẫn luôn hiện hữu và tưởng chừng như chuyện mới xảy ra mà thôi.

Không riêng ǵ tôi có cảm giác này, mà các anh chị tôi cũng vẫn thường nhắc nhở đến mẹ với tất cả t́nh cảm trân quư. Có dịp gặp nhau anh chị em tôi luôn nhắc đến kỷ niệm về Bố Mẹ, cuối cùng cũng xoay quanh về Mẹ với những điều khó tin về tâm linh, nhưng lại là sự thật đă xảy đến với gia đ́nh chúng tôi.

Khi c̣n nhỏ tôi thường được mẹ cho đi theo tới nhà họ hàng vào dịp lễ, tết đến nhà các bác tôi, trong lúc mẹ tôi và các bác tṛ truyện, nhiều lần tôi nghe các bác nói với mẹ tôi: Bà chết đi sống lại hóa ra thọ hơn ông nhà bà. Có lúc tôi nghe bác nói: Lúc bà chết, ông ấy khóc quá và làm thơ khóc bà nữa?! ...

V́ c̣n nhỏ nên tôi không chú ư mấy đến câu chuyện của các cụ nói với nhau. Khi khôn lớn mỗi lần nghe các bác tôi nhắc lại những lời nói trên, tôi thắc mắc hỏi lư do nào mà nói mẹ tôi chết đi sống lại, bác tôi bèn kể cho nghe câu chuyện về mẹ tôi.

Tôi sinh ra được tám tháng th́ mẹ tôi bị bệnh. Sau mấy tuần lễ ốm nằm liệt giường, một buổi sáng mẹ tôi dậy rất tỉnh táo, khoẻ mạnh, đ̣i ăn uống và tắm rửa thay giường chiếu sạch sẽ, rồi mẹ tôi dặn ḍ mọi chuyện trong gia đ́nh. Xong xuôi mẹ tôi cho biết trưa ngày hôm sau người sẽ ra đi.

Tưởng rằng cơn bệnh đă khiến mẹ tôi mê sảng nói thế, nào ngờ trưa hôm đó mẹ tôi mặc áo quần chỉnh tề và nằm ngay ngắn trên giường rồi ra đi thật. Cả nhà lo buồn và chuẩn bị tang lễ cho mẹ tôi. Bố tôi cắt đặt mọi việc nhà, chuẩn bị ngày hôm sau sẽ tẩm liệm. Ông nhờ một người bà con ngồi túc trực bên giường để canh xác trong lúc họ hàng tới đông đủ phụ lo cỗ bàn dựng rạp.

Trong lúc ngồi bàn chuyện với khách đến thăm, bố tôi đă làm bài thơ khóc mẹ tôi. Anh chị tôi lúc đó c̣n nhỏ nên chỉ nhớ được mấy câu, cho tới bây giờ mỗi lần có dịp gặp nhau, tôi vẫn được anh cả đọc cho nghe:

..Con thơ dậy dỗ bế bồng. Em về chín suối đau ḷng chăng em. Nhớ em trăm thảm ngh́n sầu. Nhớ em đến lúc bạc đầu chưa quên.

Theo lời kể của bác tôi, đêm hôm trước ngày tẩm liệm mẹ tôi, người anh bà con ngồi canh bên giường. Anh uống rượu say, vào quan tài của mẹ tôi nằm khóc và nói:

- Bà ơi! Bà hăy sống dậy đi để lo cho các cô, các cậu c̣n nhỏ, để con chết thay cho Bà. Mọi người lôi anh ta ra và trách anh say rượu rồi nói càn!

Đến gần sáng mọi việc đă chuẩn bị xong xuôi, chờ tới giờ thầy cúng làm nghi lễ tẩm liệm. Ngay giờ bắt đầu làm lễ, mọi người ở dưới nhà ngang, nơi để giường mẹ tôi nằm (mẹ tôi mất ở quê), nghe như có tiếng rên khe khẻ. Hốt hoảng v́ tưởng con mèo nhảy qua người mẹ tôi nên mới có chuyện này, mọi người vội báo cho bố tôi biết.

Cụ bèn đến nơi và sờ người mẹ tôi, thật lạ v́ mẹ tôi mất đă cách đêm mà người Bà c̣n hơi ấm và mềm mại. Lát sau bố tôi xem lại th́ thấy cảm giác này tăng dần, ông bèn cho mời ông thầy thuốc đến bắt mạch đổ sâm cho uống.

Bố tôi cho rằng mẹ tôi đă sống lại. Ông không tin theo lời dị đoan nói rằng v́ có con mèo nhảy qua người mẹ tôi nên mới có hiện tượng lạ này. Sau khi đổ sâm cho uống, vài giờ sau mẹ tôi tỉnh lại, tuy c̣n rất yếu nhưng nói được vài câu. Mọi người trong gia đ́nh lúc đó đều nói: thật là điều bí ẩn khong thể giải thích được.

Sau khi mẹ tôi sống lại, bố tôi đem trả lại nhà hàng áo quan đă mua để lo cho mẹ tôi. Vài tháng sau, người bà con đă khóc đ̣i chết thế cho mẹ tôi đột ngột qua đời. Khi mua áo quan lo cho anh, gia đ́nh lại mua đúng cái mà anh đă từng nằm vào. Thật là sự mầu nhiệm trùng hợp lạ lùng! Sau khi đă b́nh phục hoàn toàn, mẹ tôi kể lại cho bố tôi và bà con nghe những những sự việc bà đă nh́n và nghe thấy trong lúc hồn xuất dương:

Mẹ tôi được bà nội tôi dắt tay đến các cửa quan ở địa ngục (bà nội tôi mất đả lâu rồi). Hai bà đi qua nhiều nơi lắm, thấy có những nơi người bị giam cầm tra tấn, giống như những cảnh bà đă thấy trong những bức tranh treo trong chùa. Bà nội tôi không cho mẹ tôi đứng lại xem, lôi đi và dặn mẹ tôi đừng lên tiếng.

Bà nội và mẹ tôi đi qua tất cả chín cửa quan, nơi nào bà nội tôi cũng quỳ lạy, khóc xin tha cho mẹ tôi sống thêm ít lâu nữa để lo cho con cái khôn lớn. Đến nơi thứ chín, có ba vị quan lớn râu dài mặt đỏ, ngồi trên ṭa sen cao, dưới đất trải chiếu hoa, chén đĩa đựng trái cây, trầu cau, ly đựng nước đều bằng bạc cả.

Bà nội tôi cũng quỳ lạy xin tha cho mẹ tôi được sống thêm lo cho con cái khôn lớn, bà nội tôi cứ quỳ và khóc măi không chịu đứng dậy. Hai người quỳ một hồi lâu th́ vị quan ngồi giữa nói với bà nội tôi, là ông tạm tha cho mẹ tôi về nuôi con.

Quá mừng bà nội đă dắt mẹ tôi chạy ra xe ngựa để trở về nhà. Về tới cổng nhà mẹ tôi nói với bà cho mẹ xuống xe. Chúng tôi đoán rằng có lẽ lúc mẹ tôi nói với bà tôi, là lúc ở nhà nghe được tiếng rên khe khẽ của mẹ tôi phát ra.

Chuyện mẹ tôi chết đi sống lại, tuy mới nghe có vẻ khó tin nhưng tất cả đều là sự thật. Sau khi mẹ tôi b́nh phục hoàn toàn và trở lại đời sống b́nh thường, có nhiều chuyện lạ xảy đến với gia đ́nh tôi nữa. Chính mẹ tôi đă kể lại cho chị em chúng tôi nghe:

...Bố tôi làm việc ở Nam Định, thỉnh thoảng mới về quê chơi ít ngày rồi lại đi. Riêng mẹ tôi thường về quê và sống nhiều ngày hơn, bao giờ bà cũng đưa chị em tôi cùng về. Hè năm đó nóng hơn mọi năm. Một hôm trời oi bức nóng nực, mẹ tôi dắt hai chị tôi lúc ấy c̣n rất nhỏ, ra cổng nhà đứng hóng mát.

Sáng hôm sau ngủ dậy mắt trái của người chị thứ hai sưng vù, con ngươi đỏ ngầu đau nhức nên chị khóc la dữ lắm. Chờ sáng hẳn mẹ tôi nhờ người giúp việc, chèo đ̣ đưa bà và chị tôi qua sông lên Nam Định gặp một vị bác sỹ bạn với bố tôi, nhờ ông khám xem chị tôi ra sao và xin thuốc chữa trị.

Sau vài lần điều trị mắt của chị tôi đă không khỏi, mà c̣n tệ hại hơn nữa, bác sỹ cho biết không chữa lành được. Quá tuyệt vọng mẹ tôi quay ra chữa thuốc nam cho chị. Trên đường đi hốt thuốc bà gặp một người quen mách cho biết là ở làng bên cạnh có một người lên đồng bóng, cho thuốc chữa khỏi rất nhiều người.

Mẹ tôi nghĩ : c̣n nước c̣n tảt nên đă đến nhà người này để xin thuốc chữa con mắt cho chị tôi. Đến nơi gặp ông Hưu, người lên đồng, mẹ tôi tŕnh bày lư do và xin được giúp đở. Ông bày lễ vật và cúng bái xong, một lát thấy người ông cứ lắc qua, lắc lại, rồi ôm mặt khóc hu hu. Khóc một hồi th́ ông quay qua mẹ tôi nói rằng:

- Con là cô Chín đây, con của mẹ mất đă lâu. Con muốn về nhà báo cho cha mẹ biết nhưng không biết cách nào. Mới đây nhân dịp về nhà, thấy mẹ dắt em ra đường đứng chơi nên con đă dí bông hoa nhài lên mắt em để mong mẹ biết mà t́m đến con.

Khóc xong một hồi th́ người lên đồng đưa cho mẹ tôi nước cúng, trái ớt, nhánh tỏi, nói đem về giă rồi đắp lên mắt chị tôi sẽ khỏi. Nói xong th́ thăng. Bán tín bán nghi không biết ra sao, mẹ tôi đánh liều làm theo lời dặn v́ theo lời bác sỹ, mắt chị tôi không chữa khỏi được coi như hư luôn rồi.

Sau khi đắp ớt tỏi cho chị tôi xong, mẹ tôi bế chị nằm ngủ ở vỏng. Đến nửa đêm trong lúc mơ màng nửa tỉnh nửa mê, mẹ tôi thấy một người con gái đứng bên vơng nói:

- Để con ngắt bông hoa nhài cho em.

Mẹ tôi tỉnh dậy và cùng lúc đó chị tôi khóc thét lện. Mẹ tôi vội vặn lớn ngọn đèn dầu, thấy máu và mủ ở mắt chị tôi chảy ra, bà lau sạch cho chị rồi dỗ chị ngủ tiếp. Sáng hôm sau mắt chị tôi bớt sưng. Vài ngày sau thỉ khỏi hẳn. Thật như là một phép lạ khó tin nhưng đă xảy đến với người thân của tôi, nên từ ngày đó gia đ́nh tôi rất tin tưởng nơi thần linh.

Mẹ tôi cho biết chị cả của chúng tôi mất lúc chị mới lên chín tuổi. Chị cảm sơ trước khi mất đ̣i ăn nhăn, ăn xong th́ hôm sau chị mất. Mẹ tôi khóc nhớ thương chị măi, nhưng v́ chị mất lúc c̣n nhỏ nên không lập bàn thờ ở nhà chỉ cúng mỗi dịp giỗ chị thôi. Sau chuyện này xảy ra, mẹ tôi đă đến nhà thờ Tổ, nơi thờ cúng chị tôi, xin bát nhang về thờ. Nay bát nhang chính vẫn c̣n được thờ ở nhà thờ Tổ của ḍng họ ở ngoài Bắc.

Sau ngày đổi đời của đất nước, chú Út tôi từ ngoài Bắc vào chơi đă kể lại cho mẹ và chị em tôi về sự linh thiêng của chị Cả tôi, sự linh thiêng đă khiến dân làng rất tin tưởng và hàng năm họ góp gạo đến nhà thờ Tổ, nơi có bát nhang thờ Chị tôi, cùng nhau làm lễ cúng bái, chú tôi kể lại như sau:

- Khi gia đ́nh tôi di cư vào miền Nam sinh sống, nhà cửa bị tiếp quản, đóng trụ sở tại đó, tới mùa trái cây như nhăn, mận, ổi, họ leo lên cây hái trái để ăn và đem bán, lần nào trèo cây cũng bị té ngă găy tay, găy chân hoặc u đầu sứt trán, không cách nào leo lên cây được, đêm đến có người con gái lay giường bắt dậy, đ̣i trả nhà cho bố mẹ Cô.

Sau đó có người mách bảo nhà có người chết linh thiêng lắm, đến nơi thờ phượng, khấn vái xin phép hái hoa trái đem bán, nghe lời khuyên, họ mang bông trái cây đến nhờ chú tôi giúp, chú tôi nói, phải có ḷng thành, đích thân cúng mới được. Từ đó về sau, mùa nào trái ấy, họ đều đem lễ vật đến cúng chị Cả tôi rồi mới trèo cây hái trái, mọi việc êm xuôi, không bị té ngă nữa.

Dân làng ai có chuyện ǵ đều đến cầu xin chị tôi và đều được toại nguyện cả, nên ai ai cũng tin tưởng lắm. Chú út tôi c̣n kể cho nghe nhiều chuyện về sự linh thiêng của chị tôi nữa, chẳng hạn thời giặc Pháp hay về làng càn quét, cướp của giết người. Mỗi lần nghe báo động có giặc về làng, mọi người bồng bế, gồng gánh chạy loạn, nhiều lần chạy trong đêm tối, không nh́n rơ mặt nhau, trong hoàn cảnh như vậy, chú tôi khấn vái chị tôi phù hộ cho gia đ́nh và dân làng thoát nạn.

Thật là mầu nhiệm, chú tôi và mọi người nh́n thấy thấp thoáng phía trước có bóng người con gái cầm đèn soi đường cho mọi người. Dân làng cứ lặng lẽ đi theo ánh đèn, bao giờ cũng tránh được giặc Tây, không bị thiệt hại ǵ cả.

Sau ngày 30/4 vài tuần, tôi đến nhà thăm mẹ, đúng lúc đó tôi thấy bà chị dâu thứ đang đứng khóc hu hu trước bàn thờ và người lắc như lên đồng. Mẹ tôi vội thắp nhang và khấn vái rằng, nếu có phải chị Cả tôi về đồng, muốn nhập vào chị dâu tôi th́ cho biết chứ đừng hành xác chị tôi nữa, tội nghiệp chị ấy!

Sau đó mẹ tôi đưa rượu cho chị tôi uống, khai khẩu. Một lát sau chị dâu tôi ngừng khóc và nói cho biết chị Cả tôi về đồng, nhập vào chị dâu thứ của tôi để nói chuyện, một sự lạ là chị dâu tôi xưa nay đả phá đồng bóng dữ lắm, không tin dị đoan bao giờ, thế mà giờ chị Cả tôi lại nhập vào chị.

Chị tôi về đồng và nói rất thương mẹ và các em, nhưng không cứu văn được v́ hạn gia đ́nh phải gánh, cho biết sau này tất cả các em của Chị tôi sẽ sinh sống ở nước ngoài, có cuộc sống hạnh phúc, sung sướng, con cháu thành đạt nơi xứ người.

Mẹ tôi nói không tin v́ nay em trai, em rể Cô đă đi tù, những đứa ở nhà th́ sống vất vả, lo lắng mọi bề, cả nhà đều bị kẹt lại không ai đi thoát ra nước ngoài sinh sống cả. Chị tôi cười và nói cứ tin nơi Chị, sẽ có ngày đó đến với các em của Chị, nói xong th́ chị thăng.

Sau ngày đó, Chị tôi không về nhập đồng nữa, mọi người trong gia đ́nh cũng quên lăng câu chuyện này. Rồi phong trào vượt biên xảy ra, chồng tôi sau khi đi tù cải tạo được thả về, mẹ chồng tôi giúp vốn đă vượt biên thành công, con các chị tôi cũng vượt biển, tới được đất Mỹ sinh sống. Chưong tŕnh ra đi có trật tự được thực hiện, chồng tôi bảo lănh cho ba mẹ con tôi, gia đ́nh các chị tôi được con cái bảo lănh, gia đ́nh anh tôi đi diện HO.

Tất cả năm gia đỉnh anh chị em tôi đều sinh sống ở đất nước tự do này, con cái đều thành đạt, nên người. Bây giờ nhớ lại lại những lời mà Chị Cả tôi về đồng nói lúc năm xưa, không sai điểm nào cả. Vấn đề tâm linh thật khó mà giải thích!

Mẹ tôi sau này về ở với ba mẹ con tôi, bà nói chồng tôi không có nhà, tôi th́ trẻ chưa qua, già chưa tới, sợ mọi người ḍm ngó v́ có chồng gửi quà từ Mỹ về nuôi, và lúc đó hai con tôi c̣n quá nhỏ cần có người chăm sóc để tôi có thời giờ đến trường dạy học. Mẹ tôi sống rất nhân đức hiền từ, hết ḷng thương yêu con cái.

Mẹ tôi là một bà mẹ quê Việt Nam điển h́nh với tính t́nh đôn hậu, chịu thương, chịu khó, hy sinh cả đời lo cho chồng con. Những người quen cần ǵ, mẹ tôi sẵn ḷng giúp ngay. Những người buôn bán hàng rong kiếm sống qua ngày, mẹ tôi mua bao giờ cũng trả đúng giá đ̣i, không kỳ kèo bớt xén ǵ cả, nhiều người hoàn cảnh quá khổ, túng thiếu, mẹ tôi c̣n cho mượn vốn buôn bán, cho vay từ tháng giêng đến ba mươi tết đem trả, qua mùng bốn tết đến mượn lại mà không lấy bất cứ quà cáp ǵ mà họ đem biếu cả.

Mẹ tôi thường nói:

- Của trời của Phật đừng lo sợ mẩt, giúp ai được điều ǵ th́ nên giúp với tất cả tấm ḷng. Ảnh hưởng cách sống của mẹ tôi nên tôi và các con cũng học được tính vị tha, thương người của Bà, sẵn ḷng v́ mọi người. Chưa bao giờ tôi thấy mẹ tôi to tiếng với con cái hay người ngoài cả, nếu không bằng ḷng con cái điều ǵ, mẹ tôi chỉ chép miệng thở dài thôi.

Tôi c̣n nhớ lúc các con tôi c̣n nhỏ, con nít ham vui lười học nhất là con trai tôi, tối bị cúp điện thắp đèn dầu, muỗi vo ve bên tai mẹ tôi ngồi bên cạnh, quạt đuổi muỗi cho con trai tôi học bài, mẹ tôi nói ráng mà học con ạ, ở đâu, thời buổi nào cũng cần người có học cả, có học không sợ đói, mai đây qua đoàn tụ với bố các con, thấy các con học giỏi bố mới không phàn nàn mẹ con chứ, những câu nói của mẹ tôi khó quên được.

Mẹ tôi dường như biết trước ngày mất. Hai ngày trước khi mất mẹ tôi ngủ trưa và miệng nói chuyện rang rang. Tôi đánh thức mẹ tôi dậy th́ Bà nói để yên cho mẹ nói chuyện. Khi mẹ tôi tỉnh ngù, Bà cho biết sắp đến lúc mẹ đi rồi, trước kia được phép sống thêm để nuôi các con khôn lớn, nay là lúc về với Ông Bà, đă tám mươi bốn tuổi rồi, sống vậy là quá thọ rồi.

Rồi mẹ kể cho nghe vừa nói chuyện với mấy bà bác, mất đă lâu lắm rổi, các bạn đi chùa với mẹ tôi nữa, các cụ ngồi đầy xe bus chờ mẹ ngoài cổng, mẹ nói chờ mẹ về nhà lấy cây dù rồi sẽ đi sau. Biết chuyện ngày xưa mẹ đă từng chết đi sống lại, tôi rất tin tưởng lời mẹ nói là mẹ sắp ra đi.

Hôm sau tôi cho dọn dẹp nhà cửa gọn gàng sạch sẽ, những thứ không cần thiết, dẹp lên gác hết cho rộng nhà. Sáng hôm sau anh trai thứ của tôi đến thăm mẹ, tôi gọi anh ra pḥng ngoài kể cho anh nghe hiện tượng về mẹ tôi, anh gạt đi và nói tôi đừng quá lo lắng và tin chuyện mẹ nói sắp ra đi, mẹ rất khoẻ, không đau ốm ǵ cả th́ làm ǵ xảy ra chuyện cho mẹ được.

Tôi tạm yên ḷng, mẹ tôi gọi anh tôi đến, móc túi cho tiền và phân phát cho con cháu hết số tiền đang có, nói tôi đưa bọc quần áo mà mẹ tôi đă sắp sẵn, có cả miếng vàng nhỏ để trong túi nhỏ nữa. Trưa đó mẹ tôi tắm gội sạch sẽ, cho thay giường chiếu giặt mùng màn. Đến ba giờ sáng mẹ tôi thức giấc, tôi cũng vừa chợt tỉnh và qua giường Bà nằm, hỏi thăm cần tôi giúp việc ǵ không, Bà nói :

- Mẹ mệt quá chắc không sống được, nói xong ngả đầu vào tay tôi nhắm mắt đi luôn, tất cả chưa đến năm phút đồng hồ! Ôm mẹ trong ḷng mà không dám tin là mẹ đă mất, tôi không c̣n khóc được v́ chuyện xảy đến quá đột ngột!

Nghe tin mẹ tôi mất, bà con họ hàng xa gần xóm giềng tới thăm viếng rất đông, ai ai cũng thương tiếc mẹ tôi và nói :

- Mẹ tôi là người nhân hậu đạo đức thương người, sống rất giản dị cởi mở với tất cả mọi người, nên Cụ ra đi dễ dàng nhanh chóng như vậy. Có những người cháu của Bố tôi với tuổi đời trên dưới bảy mươi, đă khóc mẹ tôi và kể những công đức mà ngày mẹ c̣n ở quê giúp đỡ con cháu họ hàng. Được biết những chuyện về mẹ mà trước đây tôi chưa bao giờ nghe mẹ nhắc đến, tôi càng kính phục mẹ thêm.

Đă mười tám năm rồi tôi vẫn luôn nhớ đến mẹ và thấy thật là bất hạnh không c̣n mẹ để chia xẻ những khó khăn, vui buồn của cuộc đời, được nghe những lời khuyên của mẹ. Nhất là vào dịp lễ Vu Lan, về chùa dự lễ, thấy mọi người được cài bông hồng đỏ trên áo, c̣n tôi với bông hồng trắng, cảm thấy buồn và tủi thân vô cùng, thật thấm thía với câu thơ của thi nhân:

Hoàng hôn phủ trên mộ. Chuông chùa nhẹ rơi rơi. Tôi thấy tôi mất mẹ. Như mất cả bầu trởi. Nhớ mẹ con nghẹn ngào. Lời ca sầu vút cao. Hoa trắng cài lên áo.
Thương mẹ mắt lệ trảo.

Mẹ ơi, hôm nay ngồi viết những ḍng chữ này về mẹ, con xin nguyện cầu cho mẹ được an nghỉ b́nh yên. Suốt cuộc đời mẹ đă cho chúng con t́nh yêu thương vô bờ bến, mẹ là bóng mát dịu êm đă che chở, nuôi nấng con nên người, mẹ là nguồn sống là t́nh thương yêu bất tận. Cả đời mẹ hy sinh chịu đựng, sẵn sàng gánh vác sự khó khăn cho con cái. Con xin gửi đến mẹ lời thơ của Thầy Thanh Trí Cao, nói lên tâm sự của con:

Vu Lan ư nhiệm mầu. Báo hiếu nghĩa thâm sâu. Đời con cài hoa trắng. Mẹ hiền giờ ở đâu. Lạy Phật con nguyện cầu. Cho dù mẹ ở đâu. Trần gian hay nước Phật Hồn mẹ không khổ đâu.



Kim Phương Oanh








Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 228 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:56pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



RẮN LẠI NGHE PHÁP


Chú dẫn : Ngày chủ nhật, 20 tháng 6 năm 1982, đúng lúc cử hành Pháp diên, bốn chúng đệ tử trong Vạn Phật Thành mới cùng nhau niệm "A Di Đà Phật" trên đường về Đại điện, th́ phát hiện ra một con rắn lục có vằn nằm ngay nơi cửa trước Đại điện, dài khoảng ba bốn bộ, h́nh dạng rất nhỏ và dài.

Đại chúng thấy rắn th́ sợ không dám tiến vào, bấy giờ vị Tăng giám thị, thầy Hằng Vô, muốn đem con rắn vứt ra ngoài. Song lúc đó th́ Hoà Thượng cũng đang tiến lại, Ngài mỉm cười nói rằng : "Không cần thiết đâu, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, con rắn tới là để thân cận Tam Bảo, để nghe Pháp, không nên đuổi nó !"

Kỳ lạ thay, con rắn này không giống như những con rắn b́nh thường khác, ḿnh nó trườn dài ra mặt đất, tuy có trăm người bước qua ḿnh, mà nó không sợ hăi ǵ cả, nó hết sức thuần thục và hiền lành. Khi Hoà Thượng lên đài thuyết Pháp th́ dạy rằng : "Kêu con rắn vào đây mà nghe Pháp đi."

Con rắn nghe như vậy th́ lập tức tiến vào, nó ḅ từ từ vào đến ngay giữa Chánh điện không hề làm kinh sợ những người hai bên, rồi từ nơi Đại điện ở phía trái nó ḅ qua bên phải, rồi mới nhiễu quanh tượng Phật một ṿng, xong từ từ nằm phục xuống ở Pháp ṭa, cũng giống như là quỳ trước tượng Phật vậy, nằm im nghe Pháp.

Hoà thượng mới khai thị cho nó như vầy :

"Nhất thiết chúng sinh
Giai hữu Phật tánh
Giai kham tác Phật."

Đó là câu nói từ kim khẩu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chỉ v́ vọng tưởng chấp trước nên chúng sinh không chứng được trí huệ đức tướng của Như Lai. Từ nơi câu nói nầy chúng ta có thể suy ra mọi chúng sinh đều có tánh Phật ; đă vậy th́ không nên sát sinh, không nên trộm cắp, không nên tà dâm, không nên vọng ngữ, không nên uống rượu ; mà phải giữ năm giới ! Sát sinh là giết mười phương chư Phật, v́ chúng sinh là do Phật thị hiện mà ra. Do v́ một niệm không giác ngộ nên sinh ra ba thứ vô minh rất vi tế (nghiệp tướng, hiện tướng, chuyển tướng), chúng sinh mới trầm luân trong biển khổ, xa ĺa rồi vĩnh viễn mất đi nền Đạo chân thật !

Các vị tu Đạo hăy quán tưởng rằng tất cả chúng sinh đều là cha mẹ của ḿnh trong quá khứ, đều là những vị Phật trong tương lai, nên khi họ chưa thành Phật, ḿnh phải tôn kính họ. Ḿnh phải đối với chúng sinh như là đối với ba đời chư Phật vậy. Suy nghĩ như vậy th́ tự nhiên hết khinh thường, bất kính, hay nhiễu loạn chúng sinh. Chúng sinh không phải chỉ là thứ hữu h́nh, thậm chí thứ vô h́nh như quỷ, thần, thiên, ma đều là chúng sinh cả. Cho nên ḿnh phải b́nh đẳng cung kính, tôn trọng họ, không nên coi thường họ.

Hôm nay con rắn mà các vị gặp ở Phật điện cũng là một chúng sinh. Song, do nó thị hiện thân rắn, nên chúng ta thấy sợ, thấy mà không nhận thức, thậm chí c̣n bị lừa nữa. Rắn này tới đây chỉ để thân cận Tam Bảo, để nghe Pháp, nghe Kinh, nếu không vầy th́ sao nó vào đây mà hết sức hiền hoà, nằm phủ phục chẳng động đậy ǵ cả nơi bục cửa ?

Tuy nhiên, lấy mắt nh́n th́ nó chỉ là con rắn nhỏ ; kỳ thật rắn này có sức thiên biến vạn hóa ; có thể ẩn h́nh, có thể thu nhỏ, biến lớn, lại biết đằng vân giá vũ, bay qua luợn lại trong không trung. Chúng ta không thể biết được bản lĩnh của nó. Rắn này tương lai tu hành thành công cũng sẽ đắc đạo. Trong Kinh Phật có đề cập tới Thiên Long Bát Bộ, th́ rắn này thuộc một trong tám bộ đó : Tức là Ma Hầu La Già (đại măng xà).

Quan sát nhân duyên con rắn này, có thể là : Ở thời nhà Châu, rắn này là một vị đại thần, xong tâm địa rất xấu xa, hiểm ác. V́ âm mưu soán đoạt ngôi vua, cho nên y dùng một con dao găm có tẩm rượu độc bỏ vào trong tay áo rồi đi hành thích nhà vua. Tuy nhiên, chẳng những y không soán đoạt được ngôi vua mà ngược lại, c̣n làm cho trời giận, dân oán. Vị đại thần đó khi lâm chung th́ sinh tâm hết sức sân hận, độc địa, cho nên chết rồi đọa làm thân rắn, rồi có đời chuyển thành con trăn lớn.

Ở trên thế gian có hai thế lực là âm và dương, hay thiện và ác. Nếu theo đường thiện mà tận lực tu phuớc và huệ th́ có thể thành Thiên, thành Thánh, thành Bồ-tát, thành Phật. Nếu theo đường ác mà luyện tập th́ thế lực càng ngày càng lớn, song toàn làm những chuyện hắc ám, nào là hăm hại, tàn sát, oán hận, báo thù, do đó mỗi ngày mỗi chồng chất oán khí đầy đặc, lớn lao ; kẻ tích tập oán khí sâu dầy đó sau này sẽ biến thành rắn độc, rồng độc v.v...

Những thứ rắn độc hay rồng độc không phải là thứ mà phàm thấy đặng, song chúng đầy dẫy trong thế giới này. Thứ rắn độc, rồng độc đó là do tâm tham, sân, si tích lũy h́nh thành. Cho nên khi bọn chúng tới chỗ nào là chỗ đó có tai họa. Thiên tai, nhân họa, phi thi (xác chết biết đi), tà quỷ (quỷ phá làng phá xóm), yêu tinh (những thứ cây cối thực vật, khoáng chất ... hấp thụ tinh khí trời đất mà thành), ma yếm (quỷ tu luyện lâu năm thành ma), hay hoạnh dịch lưu hành (những thứ bịnh nan y) đều do những thứ rắn độc này tác quái. C̣n rồng độc, dịch quỷ, th́ chuyên phóng khí độc, để làm loạn tâm người hoặc đoạt tinh khí của người, làm cho người ta kinh sợ, điên cuồng.

Cho nên, hiện thời lưu hành đủ thứ bịnh tâm lư, như là tinh thần phân liệt, hoặc là điên cuồng, khiếp sợ và đủ thứ tật bịnh sinh lư ..., tất cả đều không ra ngoài phạm vi làm sóng làm gió của bọn yêu ma quỷ quái này. Tâm lư học và y học hiện đại không hiểu được một cách sâu sắc nguyên do của những chứng bịnh đó, cho nên không thể đối bịnh cho thuốc để chữa trị. Đương nhiên Phật Pháp th́ có linh dược triệt để trừ hết được tai nạn, dứt hết được tai ương !

Lại nói đến nhân duyên của rắn độc này : V́ sẵn có tâm sân hận, lại thêm tu luyện cái tâm sân hận đó cho nên mới thành tinh. Rắn luyện pháp thuật càng ngày càng cao. Trải qua một thời gian lâu dài th́ nó thông thiên triệt địa, nhưng chỉ lấy chuyện hại người làm vui. Những chuyện tương tợ như con rắn này trong trời đất có nhiều vô số kể, nên tôi hy vọng bọn chúng mau sinh tâm sám hối, đừng làm chuyện yêu nghiệt, gieo họa cho nhân gian nữa.

Cho đến đời nhà Tống th́ con rắn này trở nên một con rồng độc. Nó ngự trị trên một con sông lớn, chuyên làm sóng gió mưa băo, sát hại không biết bao nhiêu thuyền chài, ngư phủ và khách qua sông. Cả một thời gian dài, có vị Thánh Tăng pháp thuật rất cao cường đặc biệt tới để giải cứu.

Vị đó tay cầm tích trượng, đứng bên bờ sông, lớn tiếng khiển trách rồng độc. Rồng độc nghe được th́ vô cùng tức giận, mới trổ hết bản lĩnh hiện ra thân h́nh măng xà dài ngàn trượng. Song, vị Pháp Sư v́ có Kim Cang Tam Muội chấp tŕ nên chẳng hề sợ hăi. Ngài dùng pháp "Câu triệu" và pháp "Hàng phục" (hai phương pháp để chế phục quỷ thần), trải qua ba ngày ba đêm sống chết chiến đấu với nó, cuối cùng th́ Ngài chiết phục được rồng độc.

Tà không thắng chánh ! Khi ác thuật bị phá rồi th́ rồng độc chẳng c̣n cách ǵ khác hơn là phải đầu hàng. Bấy giờ vị Pháp Sư này mới thuyết Pháp rằng :"Tất cả mọi thứ đều là khổ, là không, là vô thường, là vô ngă, và chỉ có cái nghiệp là theo thân ḿnh !" Đồng thời Ngài dạy nó nên sinh ḷng từ bi, dùng pháp thuật để giúp ích chúng sinh, chớ không thể gia hại sinh linh nữa.

Rồng nghe Pháp rồi th́ thức tỉnh, nên được con mắt thanh tịnh. Vị Pháp Sư mới truyền thọ cho nó Tam Quy, Ngũ Giới, rồi biểu nó tới một sơn động nọ để tu hành, đừng làm năo hại nhân dân nữa ; rồng độc liền tuân theo lời dạy. Từ đời Tống đến nay đă trải qua mấy trăm năm lịch sử rồi, con rồng đó đă trở thành một trong Thiên Long Bát Bộ, thần thông biến hóa vô cùng."

Có lần trong Điện Vạn Phật có một vị Tỳ-kheo-ni nói rằng :"Mấy ngày trước, khi đi ngang qua Đại Hỷ Xả Viện tôi thấy đuôi con rắn này tḥ ra ngoài, cho nên tôi lấy cây gắp bỏ nó vào hộp gỗ, định đem đi xa rồi thả để nó đừng gây hại người. Ai ngờ chỉ quay đầu lại, mở hộp ra th́ rắn đă biến mất rồi. Rơ ràng rắn không cách ǵ có thể thoát ra được, nhưng lạ thay, thật là nó có thần thông."

Hoà Thượng cười mà nói rằng :"Con rắn này tôi đă biết nó từ trước rồi ! Hai mươi năm trước, khi tôi c̣n ở Chùa Từ Hưng trên núi Đại Dư ở Hương Cảng th́ nó đă từng tới Chuà để nghe Kinh. Tuy nó không làm hại ai nhưng ai cũng đều sợ nó ! Sợ cái tướng rắn. Có lần có người cũng nhặt nó bỏ trong hộp, rồi đem đi thật là xa, không biết bao nhiêu dặm, chừng khi mở hộp để thả nó, th́ rắn không cánh mà bay mất. Ngày nay Phật Pháp truyền sang Tây Phương, rắn này cũng không chối từ đường sá xa xôi bay qua Mỹ để hộ Pháp."

Sau cùng Hoà Thượng giảng dạy như sau :"Chúng sinh học Phật cần phải tin sâu nhân quả. Nếu không trồng nhân ác th́ tự nhiên chẳng kết quả ác, nếu trồng nhân tốt th́ tương lai chắt chắn sẽ được kết quả tốt. Nhân, quả không sai một mảy may. Ḿnh giết cha người khác th́ có người giết cha ḿnh, ḿnh giết anh người khác th́ người khác sẽ giết anh ḿnh.

Đừng nghĩ rằng có thể tùy tiện làm chuyện ác v́ làm chuyện ác sẽ hết sức tổn hại cho ḿnh. V́ sao ? V́ trời cao có đức hiếu sinh, không muốn cho chúng sinh làm hại chúng sinh. Khi ḿnh làm sai với lư nhân quả th́ : Thân người mà mất đi, vạn kiếp khó có lại được. Cho nên, chuyện ǵ không tin cũng được, nhưng không thể không tin lư nhân quả ! Nếu bài bác lư nhân quả th́ tương lai sẽ hết sức nguy hiểm.

Bồ-tát sợ nhân mà không sợ quả, cho nên hết sức thận trọng lúc trồng nhân. V́ nếu vô ư mà trồng nhân ác, th́ lúc thọ quả báo ác, các Ngài đối mặt tiếp thọ quả báo, không chạy trốn, không oán trời cũng không trách người. Ngược lại, chúng sinh th́ sợ quả báo mà không sợ lúc trồng nhân. Lúc trồng nhân th́ hết sức tùy tiện làm chuyện điên đảo, đến lúc thọ quả báo ác th́ sợ hăi vô cùng, oán người trách trời : "Tại sao tôi phải chịu đau khổ thế này ? Tại sao tôi phải chịu báo ứng bất công như thế này.. ?"

Các vị có biết đâu rằng nếu như khi xưa không trồng nhân như vậy th́ bây giờ sao gặt quả như thế ? Hôm nay gặp nhân duyên này, có Thiên Long Bát Bộ hiện thân thuyết Pháp, cho nên tôi nhân cơ hội nó cho các vị biết tiền nhân hậu quả.

Chỉ nhân nhất trước thác,
Thâu liễu măn bàn kỳ.

Nghĩa là :
Chỉ đi sai một nước,
Mà thua cả ván cờ.

Sai lầm chỉ một niệm mà kiếp vận khó văn hồi. May thay là con rắn nay đă quy y Tam Bảo, tương lai nó c̣n có cơ hội để minh tâm kiến tánh. Nếu các vị không tin vào nhân duyên này, th́ cứ tự ḿnh thí nghiệm xem ; c̣n nếu tin nhân quả, th́ đừng nên nghi ngờ ǵ chuyện này cả !




Hoà Thượng Tuyên Hoá














Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 229 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:56pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



SỨC MẠNH CỦA D̉NG ĐIỆN SINH HỌC


Năm 1938, tại trường ḍng Pèlerin bên bờ sông Hương đă xảy ra một chuyện kỳ lạ, làm xôn xao dư luận Huế. Một em học tṛ nghèo chết, được cuộn trong chiếu rách và đặt nằm tạm trên nền đất ẩm của một chiếc lều con ở cuối vườn. Ngồi cạnh xác là một em học tṛ khác, rất thương bạn nhưng cũng rất sợ ma.

Khoảng nửa đêm, một h́nh thù quái đản, tóc xoă, mặt bôi đen, lưỡi dán giấy đỏ dài, bỗng ho khẽ một tiếng, rồi lừ lừ tiến vào trong lều. Em học tṛ canh xác hoảng sợ, bỏ chạy. Không may, chân em vướng vào một lỗ rách giữa chiếu và dẫm lên da thịt cái thây. Thế là xác chết bỗng giẫy mạnh một cái như bị điện giật, chồm lên, quờ tay níu lấy chân cậu bé. Con ma, vốn là một cậu bé nghịch ngợm mặc dù sợ rúm cả người, vẫn liều chết lao tới, gh́ chặt "con quỷ nhập tràng", mong cứu bạn...

Rạng sáng, các thầy ḍng vào lều bỗng sững lại trước một cảnh thương tâm: giữa lều là ba cái xác bé bỏng, co quắp nằm đè lên nhau: xác em bé sợ "ma", xác "quỷ nhập tràng" và xác "con ma giả"... Căn cứ vào cách ăn mặc của "con ma giả" và tư thế của ba xác chết, cảnh sát và các thầy ḍng đă dựng lại diễn biến của câu chuyện theo tŕnh tự kể trên.

Hai mươi năm sau, trong thư viện của Trạm sinh học Poiaconda trên bờ sông Đen ở vùng Bắc Cực, giáo sự Lê Quang Long người Huế, đă t́nh cờ t́m ra ch́a khoá của chuyện buồn xảy ra trên quê hương ông, trong một bài báo của tập san "Kỹ thuật và Tuổi trẻ", số 193. Báo kể lại một chuyện tương tự, nhưng đánh thức "quỷ nhập tràng" không phải một em bé, mà là một con mèo đen!

Ḍng điện rất mạnh của sự khiếp đảm do cơ thể mèo, quạ và cậu bé phát đi đă làm cái xác "bị giật bắn". Mọi tế bào của một cơ thể sống đều là những pin điện tí hon. Ḍng điện của chúng rất yếu.

Với thực vật: điện của tế bào rễ củ hành là năm mươi mV, của tảo Nitella là sáu mươi mV, của bèo Nhật Bản là sáu mươi lăm mV... Với động vật và người, điện của tế bào cảm quang mắt là bốn mươi mV, của bắp thịt là sáu mươi mV, của năo là chín mươi mV...

Ta lấy một ví dụ: cách đây khoảng năm ngàn năm, người cổ Ai Cập sống trên bờ sông Nile đă biết: "dưới sông có những con cá trê (Malapterus) quật ngă được nhiều thú lớn như trâu ḅ khi chúng xuống sông uống nước bằng những cú đánh hiểm hóc và đột ngột, mà mắt của người trần không sao thấy kịp".

Ngày nay khoa học đă phát hiện trên chín trăm loài cá có khả năng phóng điện như vậy. Loài nào cũng mang trên ḿnh 1-2 "nhà máy điện" gồm vô số đơn vị phát điện trị số 60-120 mV.

Cá đuối điện (Torpedo) trong biển Italy hay quần đảo Guyan có chín mươi "cột điện" đấu song song, mỗi cột gồm bốn trăm "tấm điện" đấu nối tiếp.

Cá ch́nh điện ở Nam Mỹ (Electrophorus) có một trăm bốn mươi cột điện và sáu ngàn tấm điện. Lúc săn mồi hoặc đánh nhau với kẻ thù, cá phóng liên tiếp 3-5 (có lúc 30-50) xung điện, mỗi xung điện của cá ch́nh điện có thể lớn tới sáu trăm V, với cường độ một ampe.

Người ta đă có lần đo được trên một con cá đuối điện lớn miền Tây Âu (Torpedo occidentalis) ḍng điện phóng đi lớn cỡ một ngàn V, với công suất sáu kW! (Theo Prosper 1962).

Năm 1974, dư luận Italy xôn xao v́ có một em bé tên là Supina, lúc cáu giận có thể đốt cháy sách, chăn, màn, và cả chiếc giường em đang nằm. Tổng thống Italy dạo ấy là Santorini, đă treo giải năm chục ngàn USD cho ai giải thích được hiện tượng đó. Thực ra, "lưỡi tầm sét" đáng sợ của "ông Thiên Lôi" mười hai tuổi, đó là tia chớp điện phóng đi từ mười lăm tỷ tế bào pin sống của năo cậu bé.

Mấy năm sau, đến lượt Đài truyền h́nh nước Nga thông báo: cô bé mười ba tuổi Lútmila dùng má gây điện từ, hút một lúc sáuchiếc bàn ủi! C̣n Manzacki ở Ba Lan th́ tuyên bố: năo người là một trạm thu và phát sóng điện từ có chiều dài sóng lớn vài mươi mét, nên chẳng có ǵ lạ nếu ta có khả năng "thần giao cách cảm"!

Những chuyện giật gân như vậy nhiều vô kể trong các tập san và tạp chí vật lư, hoá học, sinh học đông tây kim cổ và cả trong đời thường. Bệnh viện lớn nào của ta chẳng có máy ghi điện tim? Và khoa tâm thần của các bệnh viện Hà Nội, Sài G̣n, Huế, Cần Thơ... đều có máy ghi điện năo.

Nhà vật lư Anh M. Faraday, người phát hiện và ứng dụng điện cảm ứng vào chữa bệnh đă có lần nói: "Cho dù điện vật lư có hấp dẫn bao nhiêu th́ cũng chẳng thể nào đem so được với sức cuốn hút kỳ diệu của điện sinh học, của ḍng điện đang sống trong mỗi chúng ta".



                                                                           ST





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 230 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 4:59pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



CĂN BỆNH LẠ HAY LỜI NGUYỀN KHỦNG KHIẾP


Tại Italia có một ḍng họ đă hơn hai trăm năm nay liên tục xảy ra những cái chết bí hiểm. Người dân địa phương đồn đại rằng họ bị ám ảnh bởi một lời nguyền khủng khiếp. C̣n đối với các nhà khoa học, đó là những nạn nhân khốn khổ của một căn bệnh kỳ lạ.


Những cái chết bí ẩn


Năm 1791, cậu bé Giacomo ra đời trong một gia đ́nh trung lưu khá giả tại một thị trấn nhỏ gần Venice. Cũng giống như tất cả các anh chị em trong nhà, Giacomo lớn lên khỏe mạnh và đầy sức sống. Cậu lập gia đ́nh với một phụ nữ cũng khỏe mạnh và xinh đẹp, rồi sinh ra những đứa con kháu khỉnh.

Cuộc sống tưởng như chẳng c̣n ǵ hạnh phúc hơn. Nhưng đến năm bốn mươi lăm tuổi, Giacomo đột nhiên mắc một chứng bệnh bí hiểm. Suốt nhiều tháng trời, ông không thể chợp mắt dù chỉ một vài phút. Mặc dù đă chữa qua tất cả các thầy thuốc danh tiếng nhưng bệnh của Giacomo không hề thuyên giảm. Sau một thời gian, ông mất trí nhớ và qua đời trong t́nh trạng hoàn toàn suy kiệt v́ mất ngủ.

Trong hơn hai thế kỷ sau đó, hậu duệ của Giacomo đă trở thành một gia đ́nh đông đúc. Họ đều là những người khỏe mạnh, đẹp đẽ và giàu có. Nhiều người đă trở thành những chính khách, thương gia nổi tiếng ở Italia. Nhưng có một điều kỳ lạ là thế hệ nào cũng có những cái chết bí ẩn ở lứa tuổi trung niên. Nguyên nhân được ghi lại trong gia phả th́ rất nhiều, từ viêm màng năo, động kinh cho đến mất trí. Nhưng nguồn gốc của tất cả đều chỉ là chứng mất ngủ.

Căn bệnh diễn biến hết sức bất ngờ. Bệnh nhân là những người ở lứa tuổi từ bốn mươi đến năm mươi và trước đó hoàn toàn khỏe mạnh. Rồi một ngày, đột nhiên họ không sao chợp mắt được, dù đă thử đủ cách. Huyết áp tăng. Cơ thể mệt mỏi và suy yếu dần.

Sau đó là ảo giác, mất trí nhớ, hoặc tệ hại hơn nữa là vẫn tỉnh táo nhưng liệt toàn thân, sau đó ch́m dần vào hôn mê và chết. Riêng trong thế kỷ XX, đă có ba mươi người trong số các con cháu của Giacomo chết một cách đau đớn như vậy. Người dân địa phương đồn đại rằng gia đ́nh này bị ám ảnh bởi một lời nguyền.

V́ thế cho dù họ là một gia đ́nh danh giá, có học thức và giàu có, nhưng rất nhiều người không thể kết hôn.
Họ cũng bị từ chối tham gia bảo hiểm nhân thọ v́ không hăng bảo hiểm nào dám chấp nhận rủi ro khi đón nhận những khách hàng mà bất cứ lúc nào cũng có thể bị thần chết thăm hỏi.

Nỗi bất hạnh của 30 gia đ́nh

Măi cho đến năm 1986, định mệnh bí ẩn bao trùm gia đ́nh bất hạnh này mới được khoa học làm sáng tỏ. Đó không phải là lời nguyền hay bùa chú mà là một căn bệnh cực hiếm được gọi là mất ngủ di truyền gây tử vong (FFI).

Đây là một căn bệnh di truyền, hiện chỉ gặp ở khoảng ba mươi gia đ́nh trên toàn thế giới. Nếu một trong bố hoặc mẹ bị bệnh th́ con có 50% khả năng di truyền. Nguyên nhân là do đột biến kép xảy ra ở protein PrP. Cho đến nay, chưa có phương pháp điều trị FFI và người mắc căn bệnh này chắc chắn sẽ tử vong.

Hy vọng duy nhất là liệu pháp gen, nhưng v́ đây là một căn bệnh vô cùng hiếm gặp, số người mắc bệnh không nhiều. V́ vậy không mấy nhà nghiên cứu để tâm t́m cách chữa trị. Do đó, hy vọng của những người mắc bệnh là cực kỳ nhỏ.

Trong số các con cháu của Giacomo hiện c̣n sống, có ít nhất hai mươi lăm người đang mang các gen gây bệnh. Điều đó có nghĩa là sẽ có hai mươi lăm con người không thể tránh khỏi cái chết ở lứa tuổi trung niên. Và điều bất hạnh là ở chỗ, họ đă biết rơ điều ǵ đang chờ đợi ḿnh, nhưng không có cách nào tránh khỏi nó.





                                                           Khoa Học Đời Sống








Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 231 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:01pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



CÁI ĐẦU LÂU


Chiều hôm đó, tôi ngồi chơi với Ngô Đàm trong pḥng sách của anh ta. Sau một hồi chuyện phiếm, bạn tôi lấy ra một cái hộp gỗ trắng đem khoe tôi:

- Tôi mới mua được cái này hay lắm.

- Cái ǵ?

- Rồi anh sẽ biết.

Nắp hộp mở, anh lấy ra một cái đầu lâu lớn, nương nhẹ đặt lên bàn, rồi nh́n tôi mỉm cười. Tôi hỏi:

- Anh mua vật này làm ǵ?

Đàm không trả lời ngay, lim dim mắt, gạt tàn thuốc lá và thong thả nói:

- Cái đầu lâu là biểu hiện sự chết, là một vật mà các nhà hiền triết hoặc tu hành bên Âu châu thường bày trước mặt, bên những chồng sách đầy bụi bám để suy nghiệm về những lẽ huyền bí của "đời sau". Đối với một nhà thông thái th́ đó là một vật khảo cứu cũng như viên đá lạ, một chất hóa học hay một ống cấy vi trùng.

Tôi không phải là nhà hiền triết, không phải là nhà tu hành hay nhà thông thái, nên cái đầu lâu đối với tôi là một thứ bài trí ghê gớm, một thứ đồ... "mỹ thuật" của người hiếu kỳ như tôi.

Nhưng có lẽ trong những lúc đọc sách ở nơi tĩnh mịch này, trong những khi suy xét về những điều bí hiểm của sự chết, của đời người, thứ đồ "bài trí" kia sẽ là một vật kích thích cho trí tưởng tượng của tôi... Biết đâu bạn anh sẽ chẳng là một nhà tư tưởng trầm mặc như nhà hiền triết, nhà tu hành?

Câu nói văn hoa, nửa nghiêm trang, nửa đùa cợt của Đàm khiến tôi hơi ngạc nhiên, nh́n bạn.

Bỗng cửa pḥng bật mở, một người thiếu niên mặc âu phục bước vào, chưa kịp nói ǵ đă trông thấy cái đầu lâu, rồi đứng đực ra đó. Đàm hỏi:

- Ḱa, anh Chung, sao hôm nay trông kỳ khôi thế?

Lúc ấy, Chung mới ngoảnh lại sẽ gật đầu chào tôi, rồi lại trân trân nh́n cái đầu lâu trên bàn, măi mới nói:

- ồ anh Đàm! Anh cũng có cái này ư?

- "Cũng có?" Thế ra tôi không thể có một cái đầu lâu được sao?

- ồ, thế anh không thấy ǵ lạ chứ? Anh không thấy ǵ ư?

Chung ngồi xuống, đưa tay vuốt tóc, mặt hăy c̣n vẻ lo lắng, nh́n hết tôi đến Đàm rồi đến cái đầu lâu. Anh nói:

- Sao lại có sự ngẫu nhiên lạ thường đến thế? Tôi đến đây cũng định thuật cho anh nghe về cái đầu lâu ở nhà tôi... th́ lại gặp ngay chính vật này... Chính cái đầu lâu này. Tôi đă tưởng nó đang ở nhà tôi biến lại đây, nên tôi mới sửng sốt đến thế. Để tôi kể đầu đuôi câu chuyện các anh nghe.

Chung lấy chén nước uống cạn một hơi, lóng cóng châm điếu thuốc lá rồi nói tiếp:

"Trước kia tôi vẫn ở trên Hàng Bông như anh đă biết. Nhưng cách đây nửa tháng, anh Lịch là người học trường Mỹ thuật mới ra năm nay, t́m được một cái nhà ngói ở ngoại ô để làm pḥng vẽ. Nhà ấy một tầng chia làm hai căn rộng. Lịch ở một căn c̣n một căn gọi anh Thao học năm thứ hai trường thuốc với tôi đến ở cho vui và chịu đỡ Lịch ít tiền thuê nhà.

Chỗ này ở xa thành phố, chung quanh toàn băi cỏ, một mặt ngoảnh ra phía đường cái. ở chỗ yên tĩnh như thế để học hành, lại rẻ tiền nhà, mà có hai người bạn cùng nhă nhặn tử tế cả th́ c̣n ǵ dễ chịu hơn. Tôi không bao giờ phàn nàn nếu trưa hôm kia anh Thao không có cái ư kiến kỳ quặc đem về nhà một cái đầu lâu.

Đầu lâu th́ tôi không lạ ǵ. Hồi c̣n học trường Bưởi, tôi đă được trông thấy nhiều lần ở pḥng thí nghiệm. Nhưng cái mà anh Thao lấy ở nhà thương về lại là của một tên tù mới chết, trông c̣n mới, trắng hơn cái này nhiều, mà xương chưa được khô lắm. Thao xem ra quư hóa cái vật quái gở ấy lắm. Tôi th́ không. Tôi thoạt trông thấy nó bỗng ghê rợn cả người...

Có lẽ v́ tôi thoáng nghĩ đến cảnh hiu quạnh chung quanh nhà của chúng tôi, hay có lẽ tôi vừa mới đọc xong những truyện linh hồn hiển hiện anh cho mượn ngày trước... Cái đầu lâu đặt trên bàn học anh Thao kê gần cửa sổ lúc nào cũng như chăm chú nh́n tôi bằng hai con mắt đen và rỗng, mà hai hàm răng th́ nhe ra một cách chế giễu độc địa.

Tôi có cái cảm giác khó chịu h́nh như "nó" biết cả những điều tôi nghĩ thầm. Tôi sinh ác cảm với "nó" và chắc hẳn "nó" cũng không ưa ǵ tôi. Cái vật trơ trơ kia không ngờ lại làm tôi băn khoăn đến thế. Tôi lấy đủ các nhẽ để tự nhủ ḿnh cũng không xong, mà nỗi lo ngại của tôi mỗi lúc một thêm nặng nề như đè nén măi ḷng ḿnh.

Tối hôm ấy, thấy bứt rứt trong người, để Thao ngồi học một ḿnh, tôi đi nằm trước. Anh Lịch ở pḥng bên cạnh vào nói mấy câu chuyện rồi lại ra ngay. Tôi nằm đó chừng đến hơn một giờ đồng hồ mới ngủ đi được. Nhưng cả trong giấc ngủ, tôi vẫn bị cái đầu lâu kia ám ảnh hoài. Tôi nằm mơ toàn thấy những đầu lâu với xương người, hay những cái ghê sợ hơn thế.

Một lần tôi hốt hoảng thức dậy th́ ngọn đèn cây trên bàn học anh Thao đă tắt, trong nhà tối đen như bưng lấy mắt, bên ngoài cũng vậy, v́ tôi cố t́m cái cửa sổ chấn song sắt cũng không trông thấy đâu. Bên cạnh tôi anh Thao chừng đă ngủ say, tiếng thở đều và thong thả. Thỉnh thoảng một tiếng ngáy ở buồng anh Lịch lại đưa sang. Mọi vật quanh nhà đều im ĺm.

Không một tiếng lá bay, không một hơi gió thoảng. Tôi muốn quên mà không thể quên cái đầu lâu kia được. Tôi thấy h́nh như nó có tri giác, nó "vẫn c̣n thức" và trong bóng tối, đang nhăn răng tráo mắt nh́n sự kinh khiếp của tôi.

Bỗng nhiên tôi thấy lạnh tái người đi. Từ phía bàn giấy anh Thao, tôi chợt nghe thấy những tiếng ken két như hai hàm răng nghiến vào nhau. Tiếng ấy nghe mỗi lúc một rơ dần, mà lâu đến gần một phút. Trước tôi c̣n muốn tin là tiếng anh Thao nghiến răng trong mơ.

Nhưng Thao nằm bên cạnh tôi, mà tiếng kia th́ rơ ràng ở bàn giấy đưa lại. Tiếng nghiến răng vẫn không dứt, nghe ra giận dữ và ghê gớm hơn lên... Tôi vội nắm lấy cánh tay anh Thao, hết sức lay. Thao thức dậy hỏi th́ tiếng nghiến răng lại ngừng bặt. Tôi ghé tai Thao nói rất nhỏ:

- Này Thao ạ, tôi vừa thấy một việc lạ quá!

- ở đâu?

- ở cái đầu lâu.

- Có lẽ nào?

- Cứ để yên mà nghe.

Rồi chúng tôi không nói ǵ thêm, lắng tai nghe ngóng một lúc th́ lại thấy như trước, tiếng nghiến răng cứ trước nhỏ, sau to dần. Thao liền đứng phắt lên, chạy lại bàn đánh diêm thắp đèn: cái đầu lâu vẫn nguyên chỗ cũ, nhưng lúc ấy ngoảnh mặt nh́n về phía giường tôi nằm.

Chúng tôi nh́n khắp nhà một lượt. Không có ǵ lạ. Cửa sang pḥng anh Lịch vẫn đóng kín. Của sổ tuy không có cánh, nhưng có chấn song sắt, mà cái bàn giấy của Thao kê xa đó những năm sáu bước, áp vào bức tường đối diện với giường của chúng tôi.

Thao bảo tôi rằng những tiếng vừa rồi là tiếng chuột gặm, nhưng chính anh cũng biết nhà chúng tôi không có qua một con chuột nào. Và cái tiếng lúc nẫy nghe to, nghe rơ một cách khác thường lắm.

Thao thấy tôi lo ngại cũng không b́nh tĩnh được, nhưng anh cố t́m lời an ủi tôi.

Chúng tôi để đèn rất lâu chờ xem, song không thấy ǵ. Nhưng khi tắt đèn lên giường nằm chưa đầy nửa giờ, th́ cái tiếng nghiến răng lúc năy lại bắt đầu, mà lần này thêm dữ dội.

Lúc ấy, cây đèn để ngay cạnh giường ngủ. Tôi chập ba que diêm làm một bật lên thắp. Trông sang bàn giấy th́ cái đầu lâu đang lắc lư như thằng phỗng nhựa của trẻ con chơi!

Ngô Đàm bỗng ph́ cười lên th́ Chung có ư không bằng ḷng.

"Quả thế, cái đầu lâu cứ nhăn nhở, lắc lư đến nửa phút. Mà chả có ǵ đáng cười hết. Chính anh Thao là người không sợ ǵ cả, lúc ấy cũng phải kinh ngạc mà nh́n tôi.

Suốt đêm ấy, chúng tôi không ngủ, cứ để đèn ngồi ŕnh th́ lại không thấy xảy ra việc ǵ nữa.

Sáng hôm sau (tức là hôm qua) chúng tôi nói chuyện ấy cho anh Lịch nghe th́ anh cũng không tin. Sau thấy tôi nhất định nài anh Thao đem cái đầu lâu vứt đi, Lịch mới cho là chuyện có thực. Nhưng anh nói:

- Đă thế th́ để đêm nay tôi cũng ŕnh xem, rồi có thế nào vứt đi cũng không muộn.

Th́ đêm qua cũng lại giống đêm trước. Cứ tắt đèn được một lúc lại thấy cái đầu lâu nghiến răng ken két mà thắp đèn lên lại thôi.

Tôi nhân đọc các sách anh cho mượn và gần đây lại được đọc một đoạn dật sử về hồi đại cách mệnh Pháp, thấy kể chuyện những thủ cấp sau ba, bốn giờ vẫn c̣n sống được, nên tôi càng cho việc cái đầu lâu kia nghiến răng là một việc phi thường.

Bây giờ th́ tôi ṭ ṃ hơn là khiếp sợ. Tôi bảo Thao cứ để yên cái đầu đấy và đến rủ anh ngủ ở nhà chúng tôi một tối xem. Tôi vẫn biết anh hay để ư đến những thứ chuyện kỳ dị này lắm".

Ngô Đàm vui ḷng nhận lời. Tôi cũng ngỏ ư muốn đi với anh ta một thể và cùng hẹn đến tối sẽ có mặt ở nhà anh Chung.

Lúc Chung ra khỏi, Đàm xoa tay mỉm cười một ḿnh. Tôi hỏi ư anh về chuyện vừa rồi ra sao, th́ Đàm chỉ nhún vai, nói:

- Tôi sợ không gặp được cái ly kỳ như anh Chung nói, không khéo lại chỉ là một câu chuyện buồn cười thôi. Nhưng dẫu sao, ta cứ đi xem, không biết đâu mà nói trước được.

Bẩy giờ rưỡi hôm ấy chúng tôi đến nhà th́ các anh Thao, Chung và Lịch đang ăn cơm ở pḥng vẽ của Lịch. Đàm đứng xem mấy bức vẽ than của Lịch được chừng năm phút th́ các anh ăn xong. Chúng tôi sang cả pḥng bên kia nói chuyện.

Trước hết, Đàm đi lại bên bàn cầm cái đầu lâu ngắm nghía măi. Mặt anh có vẻ nghiêm trang như nhà thông thái đang khảo cứu, nhưng đôi mắt tươi cười một cách hóm hỉnh. Bỗng anh quay lại hỏi Lịch:

- Anh có thấy ǵ lạ ở cái đầu lâu này không?

- Không.

- Giá lúc anh cầm nó lên xem, anh chú ư chút nữa, th́ thấy bốn chiếc răng trong cùng hà gần một nửa.

Lịch ngạc nhiên hỏi:

- Nhưng sao anh lại biết tôi đă cầm lên xem?

- Có ǵ là lạ. Anh cầm lên xem cẩn thận lắm, nhưng lúc chực bỏ cái quai hàm dưới ra để xem bộ răng th́ trượt tay suưt đánh rơi xuống bàn. Có phải không?

- Phải. Nhưng sao anh biết?

- Tôi thường đọc sách của Conan Doyle, nên cũng tập được một đôi chút tỉ mỉ. Những vết đen này là bởi than vẽ ở ngón tay anh ra... Chỉ cần để ư một chút cũng thấy được. Anh đang vẽ ở pḥng ngoài chắc chợt nghĩ đến cái đầu lâu, nên vào xem thử chứ ǵ?

Rồi Đàm đi khắp gian nhà, cúi nh́n các chân tường một cách cẩn thận như người đi t́m một vật quư đánh rơi. Anh lại nhờ Lịch cầm đèn ở pḥng bên sang, c̣n tự anh cũng cầm cây đèn bên cạnh cái đầu lâu, và bảo dẫn đi xem chung quanh nhà.

Bên ngoài tối như mực. Trên trời mây ám không có một ánh sao nào. Ngoài một hàng dóc rào mau, xa xa thấy một đám sáng chiếu lên: đó là thành phố Hà Nội. Sau một cuộc t́m xét rất kỹ càng, nhưng rất vô ích, Đàm đạo mạo như một nhà trinh thám, bước vào trong nhà rồi xoa hai tay vào với nhau. Thốt nhiên, như sực nghĩ ra điều ǵ, anh nói:

- Tôi khờ quá, không đem cái đèn bấm ở nhà tôi lại.

Thao nói:

- Hay để tôi lên phố mượn?

- Anh chắc có mượn được không. Thôi để tôi về nhà lấy vậy. Phiền thực, nhưng thế chắc chắn hơn.

Lúc Đàm trở lại th́ đă gần mười một giờ: anh đi nửa đường th́ xe đạp nổ bánh.

Chúng tôi để sẵn diêm với đèn gần tầm tay. Cái đèn bấm Đàm trao cho Chung, c̣n anh ta th́ ngồi ở một cái ghế thấp bên cạnh cửa sang pḥng anh Lịch. Trước khi tắt đèn, Đàm dặn chúng tôi không ai được làm ǵ, nếu không có lời anh ấy bảo.

Đèn tắt. Bóng tối dầy đặc trong nhà. Tôi đưa tay lên tận mắt cũng không trông thấy. Thao với Lịch nằm sát vách, c̣n Chung và tôi th́ ngồi ở mép giường. Không ai nói qua một lời. Tôi nghe hơi thở của Chung th́ biết anh ta hồi hộp lắm.

Cái lo ngại dần dần ám đến. Mà sự yên lặng ở gian pḥng có nhiều người này lại càng có vẻ khác thường. Chúng tôi cùng hết sức lắng tai, tiếng đồng hồ đeo ở tay anh Lịch nghe rơ mồn một. Tôi đếm tiếng tích tắc để biết thời giờ, nhưng măi cũng sinh chán, và trong ḷng lúc ấy thấy nôn nao một cách lạ. Tâm linh h́nh như bị kích thích và h́nh như báo cho tôi biết trước có một điều ghê gớm sắp xẩy ra...

Có lẽ chúng tôi ngồi đó đă ngót một giờ, có lẽ lâu hơn nữa; mà tịnh không thấy một tiếng động nào hết. Hai anh Thao và Lịch chừng như đă ngủ, tôi đưa tay định xem họ c̣n thức không th́ bỗng Chung nắm chặt lấy cánh tay tôi, nói khẽ quá đến nỗi tôi phải đoán ra chứ không nghe rơ:

"Im! Nghe!"

Tôi chú ư nghe th́ quả nhiên thấy có tiếng ken két nghiến răng thực. Lúc ấy tôi mới hiểu cái khiếp sợ của Chung. Lúc ấy tôi mới thấy rơ ràng cái ghê rợn của người gặp ma quái. Tay Chung vẫn nắm chặt lấy cánh tay tôi, nhưng hơi run run. C̣n tôi th́ cứ muốn quát to lên, quát rất lớn để phá tan cái yên lặng ghê gớm lúc đó.

Thấy hơi nóng ở sau gáy, tôi biết hai anh Thao và Lịch đă ngồi dậy. Tôi tráo mắt nh́n bóng tối đen đặc và mỗi lúc tưởng thấy h́nh thù dị thường hiện lên.

Tiếng nghiến răng càng lâu càng rơ thêm. Thỉnh thoảng ngừng lại một giây rồi lại nghiến nữa. Đàm ngồi trên chiếc ghế gần đó có lẽ cũng sinh nát đảm: chúng tôi không trông thấy anh, mà đợi măi cũng không thấy anh bảo sao.

Hốt nhiên, từ phía đầu lâu, một tiếng quái gở gào lên trong những tiếng cười nghe sởn tóc gáy. Mọi người đều vùng dậy, tôi không đợi anh Đàm nữa, vớ lấy diêm đánh, mà Chung cũng bật đèn bấm lên.

Cái đầu lâu lắc lư như điên cuồng, và ngay cạnh đấy, một vật đen ng̣m đang giẫy giụa. Mắt chúng tôi khi đă đỡ chói th́ nhận ra đó là một con mèo đen bị giữ trong tay Đàm.

Đám lúc ấy, tay th́ giữ mèo trên bàn, nhưng người th́ ở dưới gầm bàn. Anh cả cười lách chui ra, vừa gặp lúc chúng tôi ồ cả lại. Con mèo giương mắt kinh hăi nh́n chúng tôi. Một con mèo to, đen, mà gầy, lông mọc xờ xạc không đều và không mượt.

"Đấy (lời Đàm nói) cái quái dị mấy hôm chỉ là ở con vật đói này mà ra cả. Các anh nên nhớ rằng cái đầu lâu vô tri giác kia c̣n mới, mới luộc xong, vẫn c̣n hơi thịt... Từ lúc anh Chung mới kể chuyện, tôi đă ngờ thế... Đến lúc xem lại cái đầu lâu với cái cửa sổ không có cánh này, th́ tôi đă hơi chắc. Mà bây giờ th́ đă nắm được, h́! Đă nắm được "điều huyền bí" ở trong tay".

Sự lo sợ của chúng tôi bấy giờ lại đổi ra sự kinh ngạc. V́ có ngờ đâu câu chuyện kỳ quái ấy chỉ gây nên bởi một con mèo.




Bên Đường Thiên lôi






Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 232 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:02pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



BẠN TIN CÓ MA HAY KHÔNG? TẠI HOA KỲ?


Đây là một đề tài nghiêm túc v́ có liên quan đến nhiều người có tai mắt tại cộng đồng Việt Nam hải ngoại, như nghệ sỉ Nam Lộc, giám đốc nghệ thuật Trúc Hồ và trung tâm Asia phải cầu nguyện.

Tại hư viện Quốc Gia National Theatre. Lần này trung tâm Asia lấy chủ đề: “ Hành Tŕnh Ba Mươi Năm “ cho cuốn DVD ca nhạc của trung tâm này . Họ chọn rạp The National Theatre tại Washington DC làm nơi tŕnh diển.

Rạp này cách The White House chừng ba blocks đường, nằm đối diện với Freedom Plaza hay gọi công trường Tự Do. Theo đài Á Châu Tự Do th́ sở dỉ trung tâm Asia chọn The National Theatre v́ người thực hiện chương tŕnh là nhạc sỉ Trúc Hồ, họ chọn là có thể mời cảm tạ các ân nhân đă đón nhận người tị nạn, đồng thời cố gắng vươn lên và đạt thành quả của người Việt sau ba mươi năm ra hải ngoại.

Do đó anh yêu cầu luật sư Trịnh Hội và nữ khoa học gia Dương Nguyệt Ánh cùng điều khiển chương tŕnh nầy cùng với nghệ sỉ Nam Lộc, Việt Dzũng ..

Trung tâm Asia thường chọn những rạp nổi tiếng như Kodak Theatre, nơi này tại Hollywood thường dùng để trao giải Oscar hàng năm. Theo nguồn tin hành lang đáng tin cậy, th́ chi phí thuê rạp lên đến nữa triệu mỹ kim cho một ngày.

C̣n chi phí thuê rạp The National Thatre lên đến bảy trăm ngàn mỹ kim. Đó là tiền thuê rạp mà thôi, c̣n tiền chi phí như ê kíp quay h́nh, thu âm, ca sỉ.. nên tiền vượt lên trên hơn một vài triệu mỹ kim là thường.

C̣n rạp Kodak chứa đến ba ngàn chổ ngồi, trong khi rạp The National Thatre có sức chứa khoảng một ngàn ba trăm người. Thế nhưng tất cả tiền triệu triệu đó suưt trở thành mây khói...v́ trục trặc kỷ thuật trầm trọng một cách khó hiểu..

Theo nghệ sỉ Nam Lộc th́ 9 cái camera thu h́nh DVD đă không hoạt động đuợc ngay từ đầu xuất trưa. Trong lúc các kỷ thuật chuyên viên đang lo lắng sữa chữa th́ trên sân khấu các MC như Nam Lộc, Dương Nguyệt Ánh, Việt Dzũng, Trịnh Hội ráng kéo dài để câu giờ chờ sữa chữa xong...nhưng đến ba giờ chiều th́ vẩn chưa xong.

Khán giả bắt đầu khó chịu và một số yêu cầu trả tiền vé lại. Nếu 9 cái camera mà không thu h́nh cho DVD được th́ kể như khán giả bốn phương trời sẽ không có DVD thu h́nh gọi là "Hành Tŕnh Ba Mươi Năm" của trung tâm Asia.

Rạp The National có một oan hồn là một kịch sỉ tên là : John McCullough.

Các nghệ sỉ trong hậu trường bắt đầu suy nghỉ đến sự cúng vái hồn ma, nên các nghệ sỉ Thanh Thúy, Thanh Tuyền và Lâm Nhật Tiến bắt đầu đi mua hoa quả, nhang đèn bánh trái .

Anh Kim là một khoa học gia cho chương tŕnh NASA qua tâm sự với ṭa soạn, chính anh là người đi mua đồ cúng cho Thanh Tuyền. Khi anh mang đồ cúng vào rạp th́ bị người gác rạp ngăn anh lại không cho mang vào, nhưng anh tŕnh bày là dùng để cúng oan hồn th́ người gác rạp vui vẽ cho vào.

Các nghệ sỉ Công Giáo th́ nắm tay nhau đọc kinh . các nghệ sỉ Phật Giáo vừa đọc kinh vừa vái lạy cung kính. Không khí thật u tịch và linh thiêng.

Trong lúc tuyệt vọng th́ hai nhạc sỉ Trúc Hồ và Việt Dzũng đứng trên sân khấu thầm cầu nguyện linh hồn nhạc sỉ Trầm tử Thiêng, Duy Khánh và hàng trăm ngàn vong hồn các người tị nạn chết trên con đường vựot biên bằng đường bộ, đường thủy.. sống khôn chết thiêng về rạp The National Theatre thương lượng với oan hồn nghệ sỉ John McCullough để show quay được h́nh DVD.

Cúng xong th́ như phép lạ xảy ra...tất cả một loạt 9 cái camera thu h́nh đồng loạt hoạt động tốt. Khi 9 cái camera chạy tốt, cô Thy Vân giám đốc trung tâm Asia đùa: “ Có lẽ anh Trầm tử Thiêng, Duy Khánh và linh hồn hàng trăm ngàn người đă cùng nhau đánh với oan hồn kịch sỉ nên được mọi chuyện tốt.

Chính nghệ sỉ Nam Lộc hỏi các chuyên gia kỷ thuật máy móc thu h́nh th́ họ trả lời: “ Chúng tôi cũng không biết v́ sao như vậy ? Trong đời chúng tôi mấy chục năm trong nghề mà chưa lần nào thấy chuyện kỳ cục như vậy, tự dưng tất cả 9 máy không chạy, rồi tự dưng tất cả 9 máy chạy lại ?

Có điều sau khi oan hồn kịch sỉ John McCullough chịu thua, th́ bầu không khí trong hội trường bốc lên chưa từng thấy, đến nổi Thứ trưỡng Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ là Arthur Gene Dewey bốc lên trong lúc đọc diển văn dài đến trên mười phút, thay v́ ba phút mà thôi.



                                                              Kỳ Phát



















Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 233 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:13pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



THUẬT THẤY MA QUỶ


1. Phương pháp nhiếp Quỷ


Đầu tiên ngồi xếp bằng nhắm mắt tỉnh tọa, quên hết mọi việc bên ngoài, để dần dần đi vào mặc tưởng, dùng phương pháp hô hấp toàn thân, đưa tâm lực đi vào đơn điền, để đưa chân khí từ đan điền lên hai bàn tay đang bắt ấn Huyền Thiên Thượng Đế, tức hai tay trước bắt ấn như sau:

Đầu tiên ngón đeo nhẩn co lại vào ḷng bàn tay, kế đến ngón út bắt quàng qua lưng của ngón đeo nhẩn , ngón giửa co lại vào ḷng bàn tay, ngón cái đè trên đầu ngón giửa lại, c̣n ngón trỏ duổi thẳng ra, xong hai tay chắp lại, ḷng bàn tay hướng vào ḿnh, và hai đầu ngón trỏ bên trong của hai tay chạm ngửa nhẹ vào nhau, gọi là là Lư Sơn Lưu Ly Ấn.

Tiếp đến dùng tâm lực vận khí từ đan điền lên tỏa ra đầy lồng ngực, và từ đó để ư tại tâm nhản, như vậy không lâu sẻ trông thấy ma quỷ sẻ hiện h́nh, nhưng nếu ta mở mắt ra th́ ma quỷ liền biến mất ngay.


2. Phương pháp ban đêm trông thấy ma


Cách thứ nhất thấy ma tạm thời: Lấy hai mắt của con chim quạ đen, đem đi ngâm nước vài ngày, xong dùng nước này thoa lên trên mí mắt trái ba ngày, tối ngày thứ tư sẻ thấy quỷ hiện h́nh, tục gọi là mở quỷ nhản hay âm dương nhản.

Cách thứ hai vỉnh viển thấy ma quỷ: Lấy hai tṛng con mắt tươi của con chim quạ đen, đem nhúng xuống nước sôi vài lần và nuốt trọng xuống trong bụng, th́ suốt đời bạn sẻ trông thấy ma quỷ, mà không có cách giải cứu được, nếu có hối hận củng đả muộn, nên tính kỷ mới thực hành.


3. Phương pháp mở mắt thấy quỷ


Lấy nước sương trong ngày tiết thanh minh hay tiết đoan ngọ, đổ vào một chậu sành, bỏ hai lá cây liểu xanh tươi vào trong đó, ngâm trong nước sương nầy trong ba ngày, sau đó lấy nước nầy thoa vào mắt hay lấy lá nầy dán trên mí mắt sẻ thấy quỷ ngay.


4. Phép đợi quỷ


Sáng sớm khoảng một giờ đến ba giờ sáng, đi đến dưới một chân cầu vắng vẻ, xong đốt ba cây nhang trước mặt, kế đến đem một bó rơm nhỏ đội lên đầu và quỳ ở dưới chân cầu, gần nơi có nước ḍng nước chảy qua, đừng nên động đậy, như thế một lúc sau sẻ thấy ma quỷ đến, sẻ tưởng bạn là thần thổ địa và đến lạy bạn, th́ bạn đừng sợ và đừng lên tiếng, cũng đừng động đậy hoặc bỏ chạy, sẻ nguy hiểm cho bạn, cách nầy rất nguy hiểm.


5. Cách thấy quỷ trong tiết trung nguyên


Mổi năm đến tiết trung nguyên, th́ chùa chiền hay đạo quán đều tổ chức lể siêu độ rất lớn, do đó nếu bạn ngưng khí hội thần nh́n các đồ cúng, hay đứng dưới vạt áo của các thầy mà nh́n ra, th́ sau khi các thầy đọc kinh tụng chú xong, bạn sẻ thấy cô hồn các đản sẻ đến tranh lấy đồ cúng, khi nh́n bạn cần thành tâm th́ mới linh.

Mổ́i năm vào tháng bảy âm lịch là tháng của ma quỷ th́ ma quỷ ra nhiều, dể thấy chúng nó, c̣n những tháng khác th́ ít hơn. Nếu bạn sợ ma, không muốn thấy ma th́ chỉ đọc chơi thôi.




   ÁNH SÁNG T2

                                   











Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 234 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:15pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



KHOA HỌC TÂM LINH TỔNG HỢP


Những hiện tượng tâm linh và linh hồn, đă và đang là một vấn nạn từng trải qua bao thời đại; nó rất phức tạp và đa dạng; Do đó v́ những trở ngại mọi mặt trong một xă hội quy ước của con người, mặc dầu rất khó khăn cho người t́m chân lư, nhưng nhờ ta có thể nh́n những hiện tượng chung quanh, mà có thể biết được nguyên nhân.

Nh́n tất cả những kết quả cuối cùng, có thể biết được hư thật có không, mà ta không cần phải nói ra , hay cần đến sự chấp nhận hay đồng ư của mọi người. Mặc dù chân lư nầy không có ai nói đến, hay không được ghi chép rỏ ràng từ trong sách vở. Việc ǵ cũng có lư do của nó.

Tinh hoa của con người là Thần thức và Linh hồn; do đó con người có thể làm cho nó trở thành bất tử, qua kỷ thuật tâm linh siêu cấp, nhờ đó mà sinh mạng thức toàn vẹn của con người, được tiếp nối liên tục và sinh tồn măi măi...luôn hưởng hạnh phúc và phồn thịnh, trên cảnh thiên đàng nơi hạ giới này..

Con người nhờ sự di truyền của cha mẹ mà được sanh ra ở thế giới vật chất. Con người sanh ra được sở đắc một thể xác vật chất do mẩu DNA di truyền của cha mẹ tạo nên, theo một khuôn mẩu đă định sẳn trong DNA.

Với một bộ nảo vật chất mổi ngày một phát triển với một mức độ hoàn hảo, nơi đây trở thành trung tâm lưu giữ những kư ức, ấn tượng thu nhận của các giác quan, kinh nghiệm cùng kiến thức, văn hóa học tập của một cá nhân; ngoài ra nảo bộ c̣n là trung tâm thu và phát sóng và trao đổi thông tin đến các cá nhân khác, hay các tác nhân đồng bộ trong môi trường và vũ trụ xa gần chung quanh.

Khi đứa bé sinh ra các hoạt động sinh tồn, đều đặt dưới ảnh hưởng của DNA, vô thức hay linh hồn A lại da thức lúc nầy rất đơn giản; nhờ sự tiếp xúc của ngũ thức: mắt, tai, mủi, miệng, thân mà ư thức được tạo ra và sự chất chứa những thông tin bên ngoài, mổi ngày được tăng lên và trở thành đa dạng và phức tạp.

Từ đó tiềm thức hay thể vía t́nh cảm của đứa bé được tạo thành, với tuổi đời chồng chất, kho vô thức hay linh hồn trở thành nơi chứa của Dương Thần, Kư ức của dương thần và linh hồn cá nhân.

Các chức năng vi tế của nảo bộ là ư thức, tiềm thức và vô thức; ư thức là dụng cụ cho con người sử dụng tư duy hàng ngày, để sinh tồn trong thế giới vật chất, tiềm thức hổ trợ cho ư thức trong hoạt động tư duy và c̣n là chiếc cầu nối cho ư thức liên lạc với Dương thần.

Kư ức của dương thần và linh hồn, khi con đường siêu thức Antaskarana được khai thông. Dương thần vừa hướng dẩn ư thức trong tư duy, vừa là nơi cung cấp tất cả kư ức, kinh nghiệm và kiến thức xưa nay của cá nhân thu thập trong suốt một đời người. Ư thức chỉ có thể lưu thông với thể vía, hay tiềm thức và chỉ giao thông được với kư ức của dương thần, dương thần và linh hồn, khi nó nối được cầu siêu thức ANTASKARANA.

C̣n linh hồn cá nhân hay Âm thần là nơi chứa Dương thần cùng kư ức của dương thần ( kư ức của dương thần cũng là nơi chứa thể vía hay là tiềm thức của con người ) và cũng là nơi thông lộ liên lạc của một cá nhân với linh hồn của những người khác, đồng thời cũng là nơi liên lạc và đọc được những thông tin được lưu giữ trong kư ức của vũ trụ AKASHIC RECORD.

Khi con người c̣n sống, nhờ tập luyện phát triển những tiềm năng tiềm ẩn của con người, nên những người này khả năng tâm đặc biệt có thể đọc được những bức xạ tàn dư của người chết, và đọc được kư ức của vũ trụ.

khi cơ thể người này bị hư hại v́ tai nạn, bệnh tật hay già yếu, người này dùng phương pháp Tá Thi Hoàn hồn hay là Đoạt Xă Trọng Thức để chuyển toàn bộ tinh hoa tâm linh của họ qua một hài nhi mới sanh, hay qua một cơ thể khơe mạnh khác, hay qua thể xác mới của ḿnh nhờ vào phương pháp CLONE hiện đại. Nếu không t́m được một thể xác lư tưởng cho việc đoạt xă, th́ thần thức của người nầy phải tan rả như người b́nh thường.

C̣n những người b́nh thường, khi họ chết th́ tự ngă, ư thức tự thể và dương thần của họ cũng bị chết và tan mất, chỉ c̣n lại bốn hạt lưu tánh nguyên tử:

1. Linh hồn cá nhân và kư ức của dương thần, là một phần của dương thần đả mất ư thức

2. Trí, hạ trí

3. Vía, tiềm thức

4. Phách, được phóng ra trong không gian và được lưu trử như là một loại bức xạ tàn dư hoàn chỉnh, bán hoàn chỉnh hay không hoàn chỉnh; nó sẻ được tái hiện trở lại cỏi vật chất qua bộ nảo của một người nào có kết cấu rung động đồng bộ với nó...Như những hiện tượng hồn ma, luân hồi, nói chuyện với người chết, thế giới của cỏi âm ..v...v...

Chúng ta quên đi những tiền kiếp, v́ chúng ta khi chết đi, thần thức của chúng ta cũng chết đi; và khi đứa bé mới được sinh ra, th́ phần tâm linh do nảo bộ cấu thành hoàn toàn trong trắng và vô tư, nếu nhờ sự cấu trúc đặt biệt của nảo bộ rung động đồng bộ với một bức xạ tàn dư hoàn chỉnh, nên đứa bé hay người nào đó sẻ trở thành thiên tài hay cao nhân trong tức khắc, và bức xạ tàn dư hoàn chỉnh này hoàn toàn nằm dưới quyền sử dụng của dương thần hay tự ngả mới của đứa bé hay người đó.

Hoặc trong trường hợp đặt biệt do thể xác đứa bé hay một người nào đó bị đoạt xă, bởi một người khác biết kỷ thuật này, th́ thể xác của đứa bé hay người đó sẻ hoàn toàn chiếm ngự bởi tự ngả cùng bản ngả của người dùng kỷ thuật đoạt xả hay tá thi hoàn hồn.
Ở những người b́nh thường, khi tâm nảo của họ bị thôi miên hay đi vào đại định, th́ họ có thể nhớ lại dĩ văng cùng những kỷ niệm của họ; nhưng khi đi sâu hơn nữa, th́ nảo bộ được sắp xếp lại theo một mức độ rung động khác thường, nên nó có khả năng bắt được một bức xạ tàn dư nào đó, làm cho con người có cảm tưởng là ḿnh đă từng sống ở một kiếp xa xăm nào đó, và tưởng lầm ḿnh là người đó ở kiếp trước.

Cả những trường hợp thí nghiệm, đặt nảo bộ dưới một kích thích điện từ hay tiêm một chất hóa học nào đó, cũng có thể điều chỉnh, tái phối trí các ḍng điện nảo của nảo bộ, và nó sẽ tạo sự cộng hưởng với những bức xạ tàn dư nào đó, th́ con người cũng có thể thấy hay đọc được những thông tin này và lầm tưởng là hiện tượng luân hồi, tái sinh hay kiếp sống trước đó của ḿnh.

V́ tất cả những thông tin ở môi trường chung quanh con người, đều phải đi xuyên qua ngũ quan của con người, cuối cùng đều biến đổi thành những luồng xung động thần kinh đă được mă hóa đặc biệt dưới ngôn ngữ của nảo bộ; nên những cuộc thí nghiệm như, kích thích nảo bộ của con người đang nhắm mắt hay đang ngũ, bằng một ḍng điện từ đă được mă hóa những thông tin mutimedia nào đó, th́ người này có thể thấy, nghe và như là đang sống thật trong ảo giác đó.

Trường hợp của Cô Kumari Shanti và Jeny được xem là tái sinh, cũng là trường hợp nảo bộ của hai người có cấu trúc đặc biệt có thể tự nhiên và thường xuyên bắt được bức xạ tàn dư hoàn chỉnh của người đă chết, mà hạ trí của họ bị đồng hóa với hạ trí được lưu giữ trong bức xạ tàn dư; nên hai người có thể nhớ lại toàn bộ sinh hoạt và t́nh cảm của người đă chết này như trong câu chuyện nêu trên; nhưng v́ là tự ngă của hai người vẩn c̣n, nên hai người này c̣n có thể nhận biết cha mẹ hiện giờ của họ là ai và cha mẹ kiếp trước trong bức xạ tàn dư là ai. Đây có thể xem trong tâm thần bệnh học là một con người hai cá tính.

C̣n trường hợp của Lanfranco Davito có thể nhớ lại sáu kiếp trước, là do nảo bộ của anh ta có một cấu trúc phức hợp, có thể lần lượt thu nhận tự nhiên được sáu bức xạ tàn dư hoàn chỉnh, của sáu người đă chết ở những địa điểm và thời gian khác nhau.

Với hệ thống tín ngưởng và phong tục hiện nay của xả hội không giải thích được hiện tượng trên, nên lầm tưởng là người này đă sống qua sáu kiếp trước vậy, v́ sáu bức xạ tàn dư này, không có sự tồn tại Dương thần của người đă chết, nên sáu bức xạ tàn dư này được thông dịch và đọc ra bởi tự ngả và ư thức của chàng Lanfranco Davito.

Như máy DVD hay máy vi tính đọc dĩa hay nối với mạng multi-media internet vậy. Việc này được
những nhà ngoại cảm cao cấp hay những nhà tâm linh đắc đạo có thể phân biệt và nhận chân được những dạng bức xạ này.

Ngày nay dần dần nhờ có sự sự hợp tác của khoa học quy ước và khoa học không quy ước ở phạm vi xả hội hay phạm vi cá nhân; luật luân hồi và tái sinh của linh hồn được giải thích với một nhản quang mở rộng hơn và cập nhật hơn, thích hợp với kỷ nguyên bảo b́nh của tâm linh và trực giác con người.

Dần dần con người có thể làm chủ vận mạng của ḿnh, thông qua sự tu luyện thiền định và yoga, con người có thể nâng cao định lực, tâm lực và linh lực của ḿnh; nhờ đó con người có thể tách rời cảm thể khỏi thể xác để khỏi chịu sự đau đớn của xác thân khi bệnh tật hay tai nạn.

Con người có thể du hành khắp mọi nơi qua kỷ thuật Remote viewing, xuất thần ngao du; con người có thể nói chuyện với nhau qua kỷ thuật truyền âm nhập mật, tha tâm thông; con người có thể dùng thuật khinh thân Lunggom để thâu ngắn con đường thiên lư; sống trong băng giá mà không bị lạnh qua kỷ thuật nội hỏa Tumo; con người có thể tự giải thoát thân tâm qua sự thăng hoa và chế ngự sự loạn động các thể xác, vía, trí ..

Một nền văn hóa mới sẽ dần dần được h́nh thành, và sẽ giúp đở nhân loại sống hài ḥa và hạnh phúc hơn, với đà tiến bộ với tốc độ ánh sáng của khoa học kỷ thuật quy ước và không quy ước của kỷ nguyên Bảo B́nh đầy hoa và ánh sáng này.




                                                            ÁNH SÁNG T2

                                                                                                                                             







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 235 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:16pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



THIỆN ÁC VÀ THẦN THÔNG


Thiện ác giai thiên lư. Đạo không có chánh tà. Đạo là một khoa học cao cấp; Chánh Tà do Tâm con người xữ dụng nó mà làm thành ra chính tà.

Do đó xă hội ngày nay chánh tà lẩn lộn, kẻ có thế lực đè đầu cưởi cổ người khác để trục lợi, mà luật pháp không trừng trị, th́ tại sao người hiền đức không có khả năng để cứu họ, là một người đạo đức, chẳng lẻ cứ than như thế mải th́ cuộc đời sẽ tươi đẹp ư...

Những người ác chẳng những họ có khả năng tự bảo vệ cho bản thân gia đ́nh của họ, mà họ lại c̣n dư thừa khả năng để làm hại người khác; c̣n những người hiền đức, tối ngày cứ bô bô cho ḿnh là chánh đạo, là chân chính.

Khi gặp kẻ ác đến hảm hại, th́ nhẩn nhục, nhút nhát mà lại c̣n cảm ơn kẻ ác đến cướp đi sinh mạng quư báu của ḿnh, và bảo rằng nhờ có họ, nên đă giúp ḿnh được trả nợ trần, được tiêu diêu nơi miền cực lạc và đạt đến niết bàn tịch tịnh...

Điều nầy không đúng theo tinh thần Bi - Trí - Dủng . Người đời chỉ có Bi , v́ họ có ḷng thương người bị bùa ngải hại, họ lại có Dủng v́ họ dám đánh phèn la, la bài hải có thầy ngải hại người....việc này ai cũng thấy và biết rỏ ...

Bùa , Ngải , Thư , Phù , Ếm , Đối , Thần Thông , Huyền năng , Pháp Thuật....là những khoa học cao cấp; Chính quyền của tất cả các nước trên thế giới đều có thiết lập những trung tâm nghiên cứu từ lâu , cũng như đă từng áp dụng trong những trận chiến quan trọng, hay những chiến lược bí mật..

Những ứng dụng về vũ khí hóa học, vi trùng, vũ khí sinh học..mà ta có thể dùng nhục nhản và ngũ quan để thấy được là vũ khí đă được tinh chế hóa và phát triển rút ra được từ Ngải, Thư, Ếm..

Những vũ khí về hạ âm và trường sinh học là kết quả tinh hoa được rút ra từ bùa chú, huyền năng và ngoại cảm..

Những vấn đề nầy thuộc bí mật quốc pḥng của các nước , không có phổ biến cho những người không có trách nhiệm và những người thường dân, nếu có th́ chỉ là vô số tài liệu được tung ra để đánh lừa và đánh sai hướng tiến lên của những người đạo đức mà thôi , như khuyên người ta nên hiền lành đạo đức là đủ rồi.

Đừng ham quyền năng thần thông, v́ nó sẽ cản trở con đường tu tập, cứ lo tu hành đạo đức đi th́ thần thông tự nhiên sẽ đến vậy, cũng như là ta trồng hạt cải sẽ thu hoạch được hạt gạo, trồng hạt đậu sẽ ra cây cam vậy...Thiệntai, thiện tai, nhân quả nhản tiền, đă có biết bao nhiêu người đă bị luật nhân quả chi phối là:

NGƯỜI LÀNH CHẾT YỂU, KẺ ÁC SỐNG DAI, CỎI ĐỜI Ô TRỌC, ĐỪNG TRANH DÀNH LÀM G̀, HẢY BỎ LẠI TẤT CẢ VẬT CHẤT TIỀN TÀI LẠI CHO NGƯỜI ÁC ĐI, TH̀ CON SẼ ĐƯỢC HƯỞNG ĐẦY ĐỦ NƠI THIÊN ĐÀNG CON Ạ...

HẢY KỆ HỌ CON Ạ, HẢY ĐỂ CHO NGƯỜI ÁC HỌ ĂN CƯỚP CỦA CON ĐI, V̀ THÓI ĐỜI ĐĂ CÓ NÓI: ĂN ÍT NO DAI, ĂN NHIỀU NO DỮ...MÀ.

Những điều nêu trên là do những người ác trêu chọc người hiền đức; người ác rất thích họ được như thế. Trong thế giới Huyền học không đơn giản như chúng ta nghĩ. Huyền bí học tự nó là một khoa học của kinh nghiệm tích trữ mà nhân loại đă có được và lưu truyền từ xa xưa đến nay, nếu ai cố công t́m ṭi học hỏi th́ sẽ thành công.

V́ là khoa học huyền bí cũng như khoa học tự nhiên hay một khoa học quy ước cũng như không quy ước nào khác, tự bản chất của nó là không có chính trị, đạo đức và thiện ác xen vào.

Nếu ta tập đúng hành đúng đủ hỏa hầu, định lực vững, tâm lực mạnh, theo đúng mục tiêu chỉ dẩn th́ sự huyền diệu sẽ xảy ra.

Cũng như theo đúng công thức của thuật luyện kim , ngoại đơn hay nội đơn hay pháp thuật, bạn có được công thức gia truyền, nếu có đủ các hóa chất hay dược vật, th́ ta củng có thể làm lay chuyển càn khôn và chuyển ngược t́nh thế đấy; và khoa học này vào tay người ác th́ sẽ thành ác quỷ hại người, khoa học nầy vào tay người đạo đức th́ sẽ thành Tiên Phật mà cứu khổ sanh linh.

DO ĐÓ ĐẠO ĐỨC LÀ ĐẠO ĐỨC, THẦN THÔNG LÀ THẦN THÔNG, KHÔNG CÓ VIỆC LO TU HÀNH ĐẠO ĐỨC MÀ SẼ CÓ THẦN THÔNG, CŨNG NHƯ KHÔNG THỂ NGỒI MÀI HOÀI MỘT MIẾNG NGÓI MÀ CÓ THỂ LÀM THÀNH GƯƠNG SOI MẶT ĐƯỢC; NGƯỢC LẠI KHÔNG THỂ CHỈ LO TRAO GIỒI THẦN THÔNG TH̀ SẼ PHÁT TRIỂN ĐẠO ĐỨC ĐƯỢC.

Mà người đạo đức song song với việc trao giồi đạo đức th́ cũng lo trao giồi những quyền năng c̣n ẩn tàng trong cơ thể của con người, có như vậy BI-TRÍ-DỦNG được phát triển thăng bằng, th́ việc cứu nhân độ thế mới nằm trong khả năng đạo đức chân chính của ḿnh được, chứ không nên ỷ lại Trời Phật mà tự ḿnh trói ḿnh lại, tự dâng sinh mạng của ḿnh cho kẻ ác và kẻ ác thích lắm chứ....

Hảy tự nghĩ xem, khi kẻ ác dùng cường quyền để trục lợi người khác, mà chính quyền đương thời c̣n bênh vực và bảo vệ họ, th́ lúc đó người đạo đức liền dùng thần thông của ḿnh để cứu người th́ hiền đức th́ tốt biết chừng nào, khi cứu được người rồi mà quỷ thần c̣n chưa biết được, c̣n nói chi kẻ ác. Nếu làm được như thế nhiều lần, và mọi người đều làm được như vậy, chắc sẽ không có ai làm ác nữa v́ mới suy nghĩ ác từ đầu óc, th́ liền bị phát giác ra rồi, th́ c̣n đâu mà hại người khác nữa.

DO ĐÓ TẬP LUYỆN THẦN THÔNG KHÔNG PHẢI CHỈ LÀ ĐẶC QUYỀN CỦA KẺ ÁC, MÀ NÓ CŨNG LÀ QUYỀN ƯU TIÊN ĐỂ CHO NGƯỜI ĐẠO ĐỨC, NHANH CHÂN LÊN KẺO TRỂ, NẾU V̀ LƯ DO VÔ MINH HOẶC NGHE THEO TÀ TRÁI, TH̀ CỨ NIỆM PHẬT MÀ CẦU VẢNG SINH CHO NHAU VẬY. THIÊN ĐÀNG VÀ NIẾT BÀN CHỈ DÀNH CHO NHỮNG NGƯỜI CÓ TRÍ TUỆ BÁT NHĂ, KHÔN NGOAN NHƯ RỒNG VÀ HIỀN NHƯ BỒ CÂU H̉A B̀NH VẬY.

Bùa ngải cũng như những pháp thuật khác, đă được lưu truyền từ xưa đến nay nếu nó không có giá trị, th́ nó đă bị ch́m vào quên lảng từ lâu, không c̣n ai nhắc tới nó nữa. Trong xă hội cận đại người ta chỉ sợ hải bùa ngải, từ những ông thầy bùa tả phái; nhưng người ta không biết bùa ngải cũng giúp người rất nhiều của những ông thầy bùa thuộc các phái Lổ Ban Thần, hay những Cao Tăng đắc đạo.

Con người sợ hải khi nói tới nó, nhưng lại thích nghe hoặc t́m hiểu nó, cũng như người sợ ma mà lại thích nghe người ta kể chuyện ma. Trong thời kháng chiến chống Nhật tại Đông Dương, có những người kháng chiến dùng bùa ngải, phương thuật và khả năng ngoại cảm để chống giặc, làm cho bọn Nhật điêu đứng trước đối thủ vô h́nh này.

Và Nhật cũng là một quốc gia nghiên cứu nhiều về Mật Tông, Đạo gia và Thần đạo một cách nghiêm túc , họ gạt ra ngoài những hào quang mờ ảo và thần bí của kinh điển trong các tôn giáo và Du già Fakir; nên họ đă biết rằng những hiện tượng kỳ lạ và ma quỷ hiện ra quấy nhiểu toàn là do những người kháng chiến Nhật gây ra; nên họ đă ra lệnh tàn sát toàn bộ cư dân tại vùng đó; kể từ đó không c̣n những hiện tượng kỳ quái xảy ra để quấy nhiểu hay sát hại binh lính Nhật nữa.

Trong thời kỳ chiến tranh Đông dương các binh lính Tây Phương tràn vào đền thờ để tàn phá các tượng thờ trong nhà thờ, chùa chiền, họ tưởng rằng làm như thế sẻ tiêu diệt và làm khiếp đảm dân Đông Dương, gây cho họ hoang mang không c̣n nơi nương tựa của tinh thần nữa; nhưng họ đâu có biết rằng nền huyền học đông phương quá cao, không thể nào tiêu diệt được, v́ những đàn tràng hay h́nh tượng của chư Phật và Chúa đă in sâu vào tâm hồn của người dân đông phương.

Họ đi đến nơi nào đến lúc họ cần cầu nguyện, th́ họ chỉ cần ngồi xuống, lưng dựa vào thân cây, nhắm mắt lại là khung cảnh của nhà thờ hay đàn tràng của bổn tôn hay h́nh Đức Phật đă HIỆN NGAY RA TRONG TÂM NHẢN CỦA HỌ, VÀ HỌ ĐƯỢC TỰ DO MÀ CẦU NGUYỆN, NÊN NỀN HUYỀN HỌC ĐÔNG PHƯƠNG NHỜ ĐÓ MÀ TỒN TẠI.

Như việc tại một đền thờ một vị Thần tại miền nam Việt Nam, ngay trước khoảng trống trước tượng thờ, có bản thông báo, v́ sự thiêng liêng của vị Thần nà̀y xin mọi người đừng bước vào vùng trên, mà chỉ nên đứng ngoài phạm vi cho phép mà chiêm nghiệm mà thôi.

Có một dịp nọ một người lính Tây đi vào, và bất kể lời can ngăn của mọi người, người lính Tây này mới vừa kéo bứt dây bước vào chổ cấm, mặt mày hung hăng mà cười cợt bất kính đối với vị Thần trên kia, chỉ trong hai phút thất khiếu của người này liền bị ra máu, miệng ói ra nhiều máu và chết liền tại chổ.

Như vậy có phải sự linh ứng của vị Thần kia hay không, việc này th́ kính xin Thần Thánh trả lời. C̣n chuyện ở trần thế th́ thế này , vốn là người phác họa và tạo ra ngôi đền thờ này, đă có dự đoán sẳn để trừng phạt cho những người phá hoại hoặc đến gây sự, người này trước đó đă giấu sẳn một loại bột thuốc độc cực độc không mùi vị ở bên trên xà ngang trên đầu phía trước tượng Thần, và sợi dây được nối liền với sợi dây kéo ngang ngăn cấm mọi người không cho bước vào phạm vi ngăn cấm.

Cơ quan bài trí này chỉ có người phác họa sơ đồ và người giữ đền biết được mà thôi. Do đó khi người lính Tây nầy xông xáo bứt dây và bước vào trong pḥng, đă vô t́nh đưa ḿnh vào phạm vi của bột độc vừa được anh ta đă kéo tung vào không khí nên chỉ trong vài phút anh ta liền bị ngộ độc nặng và chết ngay lập tức. Rồi từ đó tiếng dử đồn xa, sự linh thiêng được xác định thêm lần nữa, nên từ đó uy danh của vị Thần nầy càng được mọi người cho là linh hiển, giúp ích được cho nền đạo đức của dân chúng và duy tŕ phong tục của xả hội.

Trong thời kỳ cách mạng ở Trung Hoa, các thầy bói , thầy bùa ngải đều được chính quyền ân xá cho tự kiểm, phải viết ra tất cả bí mật nhà nghề của họ, nên trong thời gian hơn mười năm trở lại đây, những tài liều nầy được chính quyền Trung Hoa phổ biến rộng rải trong quần chúng qua sách vở bày bán tự do, hoặc cho phép các thầy bùa ngải có quyền mở lớp dạy nghề, dùng bùa ngải để trị bệnh, giúp người v..v...

Đương nhiên là có người ác họ học xong đi hại người cũng có, chính quyền rất cởi mở, v́ khả năng của đă họ có thể kiểm soát các việc này một cách dể dàng, v́ các chuyên gia về các khoa huyền học nầy đều đă phục vụ trung thành cho lợi ích của dân tộc và nhà nước của họ cả rồi.

Cũng như tại Hoa kỳ là nơi bạn có thể, nếu có tiền bạn cũng có thể t́m học quyền năng để trở thành giáo chủ chánh phái hay trở thành ác quỷ Satan cũng rất dể dàng, cũng tương tự như vậy, v́ Hoa Kỳ cũng đă từ lâu biết và rành về các khoa huyền học nầy rồi, nên họ cũng cho tự do, v́ họ có thừa khả năng kiểm soát, nên ở các nước có nền kỷ thuật và huyền học cao, mổi năm đều có những hội chợ tâm linh như : Spychics fair Body, Spirit, Mind Festival, Witch Festival ..

Ngoài ra ở các nước này đều có vô số viện bảo tàng huyền bí học, viện bảo tàng phù thủy và những tiệm bán sách chuyên môn về huyền bí học, Phù Thủy, Bùa Ếm v..v..Trong đó có rất nhiều tài liệu quư giá được lọt ra từ trong những trường bí giáo từ những người đă học qua hoặc bỏ môn phái ra ngoài lập môn phái riêng theo chí hướng của họ cho ít g̣ bó và ít giáo điều hơn, và những những pháp chỉ dẩn rất dể hiểu và dể thực hành, chỉ cần bạn có một số kiến thức căn bản sau một thời gian t́m hiểu học hỏi, là bạn có thể lảnh hội một cách dể dàng.

Không như các phương pháp lề mề, lạc hậu hiện nay được truyền dạy trong các tôn giáo hiển giáo, quy ước xả hội. Cũng như một số thầy bùa ngải hay thầy bói, khi họ đă có niềm tin về Chúa th́ họ không hành nghề bùa ngải và thầy bói nữa, và họ cũng đă viết sách để kể ra những bí mật nhà nghề cho mọi người biết, thí dụ như những bí mật của giới bói toán ở thế giới người Hoa là GIANG TƯỚNG PHÁI CÙNG NHỮNG PHÁP THUẬT CỦA NÓ ở thời Dân Quốc và c̣n bí mật lưu truyền đến nay.

Ngày nay với nền khoa học kỷ thuật cùng tin hoc tiến bộ, những pháp thuật lợi dụng các chất hóa học cùng pháp thuật thuộc ảo thuật, ảo giác đă bị đào thải trong ṿng một trăm năm qua, hay những chất hoá học hay những chất thuốc này đă bị chính quyền cấm bán cho công chúng nhưng lại vô hiệu đối với các thầy chuyên môn, v́ họ biết cách bào chế các chất nầy qua vật liệu thiên nhiên hay qua các công nghệ phẩm dùng thường ngày.

Tuy nhiên khoa học chỉ là một đứa trẻ đối với nền huyền học bao la chân chính của nhân loại. Dù sao đi nữa, cho dù khoa học có tiến bộ đến đâu đi nữa, th́ con người cũng là một khâu chính trong việc quyết định quan trọng.

Nước nào sớm thành công và phát triển mạnh khoa học nhân thể trước, th́ nước đó sẽ trở thành cường quốc. Kỷ nguyên của trí xảo đă qua; Kỷ nguyên này là Kỷ nguyên của Trực giác và Tâm linh, cầu mong con người được thoát gông cùm của vô minh để có thể hưởng thụ những lợi ích của cuộc sống của vật chất và tung ḿnh thoát khỏi sự níu kéo của địa từ, để có thể sống an vui hài ḥa trong hai cỏi Tinh Thần và Vật Chất, đúng theo sự cấu tạo có ư nghĩa, khi Tạo Hóa đă nên con người.


TRI THỨC VÀ TUỆ GIÁC LÀ ÁNH SÁNG XUA TAN VÔ MINH VÀ SỢ HẢI .

CON NGƯỜI KHÔNG THỂ CHỐNG LẠI TẠO HOÁ MÀ CHỈ CÓ THỂ HỢP TÁC VỚI TẠO HOÁ MÀ THÔI.

KẺ THÙ CỦA CON NGƯỜI KHÔNG PHẢI LÀ CON NGƯỜI

MÀ KẺ THÙ CỦA CON NGƯỜI LÀ VÔ MINH - NGHÈO ĐÓI - BỆNH TẬT - THIÊN TAI VÀ CHIẾN TRANH.

NÓ ĐĂ CUỐN TRÔI ĐI BAO NHIÊU TÂM HUYẾT VÀ TRÍ TUỆ CỦA TIỀN NHÂN.

MÀ ĐÀN CON CỦA HỌ NGÀY QUA C̉N NGỤP LẶN ĐỂ T̀M VỀ NGUỒN SÁNG VÀ GIA TÀI Ấ .

VÀ HIỆN NAY ĐÀN CON ẤY ĐĂ T̀M ĐƯỢC NGUỒN SÁNG CÙNG GIA TÀI NÀY VÀ ĐANG BỒI ĐẮP ĐỂ NÓ THÊM PHONG PHÚ VÀ LUÔN RẠNG NGỜI MẢI MẢI.

SUNG SƯỚNG VÀ HẠNH PHÚC THAY, TA ĐƯỢC SINH RA LÀM NGƯỜI VÀ TA LÀ VẠN VẬT CHI LINH ĐỂ SỐNG HÀI H̉A CÙNG VẠN HỮU.

THIÊN ĐÀNG VÀ NIẾT BÀN LÀ Ở TẠI NƠI TRẦN THẾ NÀY , V̀ CÁC CỎI NẰM CHỒNG LÊN NHAU THEO KHÔNG GIAN NHIỀU CHIỀU ĐO, CÓ ĐIỀU LÀ TA CHỊU MỞ TÂM NHẢN RA HAY KHÔNG VẬY. NẾU MUỐN, TA HẢY CÙNG NHAU SÁNH BƯỚC, ĐỒNG TIẾN LÊN CÁC BẠN....



                                                              HUYỀN MÔN





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 236 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:16pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



BÍ ẨN TIỀM TÀNG BÊN TRONG CỦA

HIỆN TƯỢNG QUỶ NHẬP TRÀNG


Rất có thể xung quanh chúng ta hoặc bất thần trong gia đ́nh một ai đó đă gặp hiện tượng chết đi sống lại. Có thể đó là hiện tượng hồn của người chết tự t́m được về với thể xác của ḿnh. Y học quen gọi là chết lâm sàng.

Thế nhưng chuyện quỷ nhập tràng lại là chuyện khác, tiềm ẩn bên trong nó sự khiếp đảm và kinh hăi của thế giới thần bí, mà đến tận bây giờ lư giải nó chỉ là điều nan giải mà thôi.

Tôi xin trích ngang câu chuyện mà tôi đă được bà ngoại kể từ hồi c̣n nhỏ, nhưng câu chuyện đó c̣n động lại trong tôi đến tận giờ. Người thầy của bà ngoại tôi, cụ học phép phù thủy của Khổng Minh và Quỷ Cốc tử.

Chính v́ vậy mà những các huyền bí xung quanh đạo học, cụ đều nắm rơ. Chỉ có điều riêng thuật bắt ma th́ có lẽ cụ không cao tay. Điều này không phải là do đạo học của cụ kém mà do chính Thiên Can Địa Chi quyết định. Cụ tuổi Tư mệnh mộc nên cái uy, hay đúng hơn là cái khí sắc không thể đủ uy lực trừ tà sát quỷ.

Riêng Bà ngoại tôi-người học tṛ-người con nuôi duy nhất được cụ truyền hết bá học lại có cái uy đó. Bà tôi kể rằng có lần cụ nói với bà tôi rằng:

- Con có căn mệnh của cụ Ngộ Không (bà tôi tuổi thân mệnh Kiếm Phong Kim, thanh kiếm thần) vậy nên con có cái uy sát quỷ trừ ma, nhưng nhớ là cái nghề này nó bạc. Ḿnh càng giúp dân độ thế được nhiều th́ quỷ ma càng oán ḿnh nhiều. Và đây là câu chuyện của một lần bắt ma của bà ngoại tôi.

Một buổi sáng sớm một người phụ nữ dắt một cô gái mặt mũi ngây dại đến gơ cửa nhà bà ngoại tôi. Nh́n sắc mặt ngây dại nhưng vẫn nhơn nhơn của cô gái th́ ai cũng bảo là nó bị điên rồi, cho vào nhà thương điên kia đi.

Nhưng chỉ có người phụ nữ kia Mẹ của cô gái, hiểu rơ là con bà ta bị ma nhập. Bởi theo lời bà ta kể th́ cứ thỉnh thoảng con ma kia lại mượn lời của cô gái, và luôn mồm nói muốn lấy cô làm vợ.

Bà đă chữa trị nhiều nơi nhưng chỉ được lúc tức thời, c̣n về nhà đâu lại hoàn đấy. Mẹ tôi mở cửa cho hai mẹ con người kia vào trong nhà. Người con gái mặt c̣n nhơn nhơn nằng nặc đ̣i mẹ dẫn về, vừa bước qua cửa để vào nhà bà tôi, th́ mặt chuyển sắc không dám nói năng, mà khuôn mặt cũng không c̣n vẻ ngây dại nữa, cô ta ngồi im không nói không rằng, không c̣n có biểu hiện điên loạn ḥ hét nữa.

Bà tôi cứ để hai mẹ con họ ngồi đấy, bà đi đánh răng rửa mặt xong, pha ấm trà rồi mời mẹ con họ uống. Người con gái lễ phép cầm cốc trà lên uống. Vừa uống xong th́ chân tay cô gái co quắp lại và quỳ xuống than khóc:

- "Con lạy thầy, thầy tha cho con. Con chỉ là bộ đội chết ở cây đa gần nhà Hoa (tên cô gái) con thương Hoa nên muốn lấy Hoa làm vợ chứ con đâu có muốn làm Hoa điên. Nhưng v́ con mụ này (hắn chỉ vào mặt mẹ cô gái) lại mời thầy bà về bắt con, nên con điên con quyết làm Hoa điên để bắt Hoa làm vợ con. Thầy thương con..."

Hóa ra sau này tôi mới biết là trong cốc nước trà bà tôi đưa cho cô gái đă được bà dùng Trú quyết trong đó (Trú đó là Trú trói ma) đồng thời bàn chân phải của bà luôn di trên sàn nhà như kiểu viết chữ ǵ đó để khoán tà ma. Bà tôi chậm răi uống cốc trà và bảo với anh bộ đội kia :

- Ngươi chết kiểu ǵ?

- Con chết bom trong một trân. càn của địch.

-Thế ngươi có định đi đầu thai không?

- Con không thích đi đầu thai, con muốn sống với Hoa, anh bộ đội trả lời.

- Hai người một trần một âm mà lại c̣n đ̣i lấy nhau th́ là loạn lẽ Trời. Không những Trời người không dung mà người c̣n bị đánh tan hồn vía vĩnh viễn không được nh́n thấy ánh mặt trời ở dưới ngục A tỳ thôi. Ngươi xem nếu ngươi yêu Hoa th́ nỡ để cô ta chết cùng ngươi à, hay để cô ta ngớ ngẩn thế này măi. Ngươi cũng có gia đ́nh người thân. Gia đ́nh ngươi đau khổ thế nào khi ngươi mất đi th́ Mẹ Hoa, gia đ́nh cô ta cũng vậy.

zNgười bộ độ cúi đầu lặng yên. Bà tôi dần không di chân phải nữa, người cô gái không c̣n bị co quắp nữa và tay chân được thoái mái hơn. Cô gái khóc, giọt nước mắt của anh bộ đội. Hắn đă thấu hiểu và không c̣n muốn cái ước vọng lấy Hoa làm vợ nữa. Nhưng hắn đ̣i làm cho hắn một mâm cỗ, một h́nh nhân nữ giống Hoa, tiền bạc, thuyền để hắn c̣n đi đầu thai chịu tội.

Mẹ cô gái ghi hết những lời hắn yêu cầu. Cuối cùng bà tôi nói với hắn rằng :

- Ngươi đă hiểu ra là tốt, nhưng đă hứa buông tha là phải buông tha. Người nhà Hoa sẽ làm theo đúng thỉnh cẩu của nhà ngươi để cho ngươi mau đi đầu thai chịu tội. C̣n nếu mà ngoan cố lừa gạt th́ lúc đấy ta dùng Phép trục hồn ngươi ra khỏi người Hoa để ngươi măi không được siêu sinh. Ngươi nhớ đấy.

Và rồi bà tôi quơ ba nén hương trước mặt cô gái, cô ta giật ḿnh và chạy tới ôm bà mẹ khóc nức nở sợ hăi. Người bộ đội đă thoát mệnh thể khỏi người cô
Bà tôi kéo mẹ cô gái vào pḥng trong nhà, đưa cho bà ta năm đạo Dấu (Bùa của Đức Thánh Trần) và dặn là đeo trước cửa nhà hai lá, cô gái hai lá, một lá đốt cho cô gái uống. Bà tôi dặn rơ ràng như vậy bởi sợ rằng con ma kia bội tín.

Khoảng tháng sau, hai mẹ con cô gái đến nhà bà tôi tạ lễ bởi cô gái đă b́nh ổn. Nét mặt cô rạng rỡ hơn sau ba năm ngây dại.

Sau này khi tôi đă được tám tuổi, bà đă không c̣n theo cái nghiệp bắt ma nữa, bởi v́ bắt nhiều quá nên quỷ ma nó oán, và nó luôn theo để báo thù con cái cháu chắt của Bà ngoại tôi. Và Mẹ tôi cũng đă bị một lần ma nhập báo thù. Và sau lần chữa cho Mẹ tôi th́ bà đă quỳ trước Điện tiền xin không theo nghiệp bắt ma nữa.

Câu chuyện quỷ nhập tràng của bà như sau :

Ở nhà nọ, người vợ bị ốm đă lâu mà không thấy thuyên giảm. Người chồng hàng ngày vẫn bán hàng nước để nuôi vợ và kiếm kế sinh nhai. Có lần người vợ đột nhiên qua đời, người chồng đau khổ lắm mới để đến sáng hôm sau th́ liệm.

Không ngờ bốn tiếng sau khi tắt thở, người vợ đột nhiên bừng tỉnh và khỏe hơn bao giờ hết. Ăn bao nhiêu cũng không thấy no. Người chồng thấy vợ sống lại th́ mừng lắm và ông c̣n mừng hơn nữa khi bệnh t́nh của vợ cũng khỏi luôn.

Chỉ có điều là vợ ông từ lúc sống lại cả ngày chỉ ở trong pḥng, ăn xong rồi trùm chăn mà rất sợ ánh sáng. Ông cũng thấy lạ nhưng nghĩ là chắc vợ mới khỏi bệnh nên mệt. Thấm thoát đă được ba tháng trôi qua, người vợ giờ đă bớt sợ ánh sáng hơn và sắc mặt trở nên sạm đen hơn nhưng đặc biệt là rất khỏe.

Một buổi sáng nọ, có ông già dáng vẻ hành khất đến quán nước của người chồng uống nước (Đó là thầy của bà ngoại tôi). Cụ già này sắc mặt hồng hào nhưng bàn tay trái th́ bị tật nên hơi khó cầm các thứ. Cụ ngồi lại nơi quán hàng nước của người chồng và nhâm nhi chén trà chát. Thỉnh thoảng lại thấy người chồng chạy vào trong pḥng rồi lại chạy ra, rất tất bật như chăm con thơ vậy. Cụ già cất lời :

- Ta thấy bác vất vả quá nhỉ, nhà có người ốm à hay phải chăm sóc bà đẻ vậy.

- Dạ, không ạ. Nhà cháu đấy ạ. Nhà cháu vừa mới khỏi bệnh nên ăn nhiều lắm mà lạ là ăn không biết no a. Người chồng vui vẻ đáp lời.

Cụ già ngồi đó nhâm nhi mẩu ô mai mặn và đang định bước đi th́ bất thần cụ nh́n thấy cái bát mà người chồng mang ra rửa, sau khi cho vợ ăn. Một vết xước dài đen ng̣m hằn trên bát. Vết đen này chắn chỉ nhăn quang như cụ mới nh́n thấy được. Cụ giật ḿnh và tim đập mạnh, trong đầu cụ hiện lên ba chữ QUỶ NHẬP TRÀNG. Cụ ngồi lại nơi quán nước để đợi người chồng ra tính tiền. Cụ lân la hỏi chuyện:

- Này Bác, cho tôi hỏi là bác gái nhà ḿnh bệnh ǵ vậy mà ăn khỏe thế?

- Cụ ơi, nhà con khỏi rồi cụ ạ. Cũng may mắn lắm cơ, nhờ Trời nhờ Phât mà hóa rủi thành may. Ba tháng trước con tưởng là mất nhà con rồi cơ cụ ạ thế mà nhà con sống lại mà lại mạnh khoe mới mừng chứ cụ ạ!

- Được ba tháng rồi cơ à? Cụ già lộ vẻ lo sợ.

- Vâng, được tṛn ba tháng rồi cụ ạ! Con giờ chỉ chăm sóc nhà con thôi cũng thấy vui. Người chồng đáp lời trong sự vui mừng khôn tả.

Kinh nghiệm và ḷng nhân hậu của người Thầy đă thôi thúc cụ già phải cứu anh chồng và cả gia đ́nh họ hàng anh ta. Nhưng giờ cứu như thế nào đây khi mà con quỷ nhập tràng kia đă được ba tháng rồi. Giờ nó tinh ranh và ma quái hơn nhiều.

Xin cho tôi ngừng chuyện để giải thích QUỶ NHẬP TRÀNG là ǵ? quỷ nhập tràng là cụm từ mà trong giới phù thủy bắt ma gọi là hiện tượng, Khi một người mất đi th́ hồn người đó sẽ bị hai ông quỷ sai(Chiêu Hồn Sứ) dẫn đi chịu tội.

Nhưng trong cái khoảnh khắc đó th́ có một hồn ma khác lại nhẩy vào chiếm cái thể xác kia khi mà cái xác đó vẫn c̣n hơi ấm và sự sống, như kiểu sống kư sinh. Nhưng tai hại là do mượn xác nên không thể ḥa nhập ngay với cái xác kia được, mà phải mất đúng ba tháng mười ngày, mới hoàn toàn điều khiển được cái xác mượn kia. Chỉ có điều là quỷ nhập tràng rất sợ ánh sáng, ăn rất khỏe và không biết no. Tai hại hơn là sau ba tháng mười ngày hắn sẽ đi t́m bằng hết họ hàng của cái xác mượn kia để ăn thịt.

Trở lại với câu chuyện của người chồng. Sau một hồi suy nghĩ khá lâu, cụ già kéo người chồng ra chỗ cách xa nhà của anh ta, rồi mới nói hết những cái mà cụ nhin thấy về gia cảnh hiện tại của anh. Anh thanh niên lạc quan cười bảo :

- Cụ ơi nhà con con biết, nhà con không bị quỷ nhập tràng đâu.

- Thế anh có thấy dạo này gà vịt hay lợn trong nhà anh bị mất con nào không?

- Cụ nói con mới nhớ, gần đấy con nuôi hai con lợn định đem bán th́ hôm nọ mất một con, chả hiểu là bị ai bắt mà vào chuồng chỉ c̣n thấy vũng máu. C̣n gà th́ mất nhiều cụ ạ, con nghĩ chắc mấy đứa trẻ quanh xóm nó bắt chơi.

- Không đơn giản như anh nghĩ đâu. Đấy là quỷ Nhập tràng nó ăn đấy. Bởi v́ đến tầm ba tháng là nó đă cứng lắm rồi, giờ nó thích máu tươi hơn. Anh phải nghe tôi để cứu anh và cả ḍng họ anh nữa. Anh phải làm theo tôi th́ mới mong thoát tai kiếp này.

- Vâng.. cụ dạy con... Người chồng đă bắt đầu run sợ thật sự.

- Giờ nó rất tinh ranh, không biết chừng giờ nó đă biết tôi gặp anh để bày tṛ bắt nó nên nó coi chừng đấy. Bởi nó đọc được suy nghĩ của anh. Giờ anh về là nó bắt anh nó cắn xé đấy. Chúng ta phải thu bát nó ngay đêm nay. Giờ anh làm đúng như tôi nhé, nếu không là cả tôi và anh cũng không thoát nổi nó đâu.

Ở đấy có bảy lá bùa Thái Thượng Lăo Quân. Giờ anh kiếm cho tôi con gà sống và bảy cái bát sành. Anh dán bảy cái dấu này vào ḷng bảy cái bát sành. Anh mang con gà và bảy cái bát đă dán dấu trèo lên mái nhà anh, chỗ có pḥng ngủ mà con Quỷ Nhập Tràng ở, ném con gà xuống trước, đợi cho nó ăn xong con gà th́ lần lượt ném bảy cái bát xuống. Tôi sẽ ở ngoài Trấn Huyệt hộ anh. Anh đi làm ngay đi.

Người chồng đi làm đúng theo lời cụ già dặn. Anh nhẹ nhàng trèo lên nóc nhà, lấy miếng ngói đỏ ra và ném con gà xuống. Con quỷ nhào ra nhai ngấu nghiến con gà trong thèm khát, người chồng quay mặt đi ghê sợ. Rồi khi lần lượt từng cái bát sứ chui vào bụng con Quỷ Nhập Tràng, đến cái bát thứ bảy th́ nó lăn ra, mùi hôi của cái xác người vợ ba tháng bốc lên nồng nặc. Cụ già vẫn ở ngoài Trấn huyệt. Cụ thấy một luồng khí xanh bay qua, rồi vụt chạy thẳng vào tít xa mà không thấy quay trở lại. Sáng hôm sau người chồng an táng vợ.



                                                                      ST







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 237 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:17pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HIỆN TƯỢNG MA QUỶ


Ma hay Quỷ nói đúng hơn là một hiện tượng có thật trong Thần Học. Vậy ma quỷ là ai? Là chính chúng ta vậy.

Ma là khi chết đi th́ phần hồn của người đó tích tụ lại thành những vong hồn. Có những vong hồn bị hai ông Chiêu Hồn Sứ bắt về Âm Tào để thụ án Đầu Thai hay là chuyển kiếp.

Có những vong hồn bất hảo khôn ngoan th́ trốn lại vất vưởng ở Trần Gian : Ma đói. Những vong hồn sống Lưu vong ở Trần Gian này lại hay gây ra những chuyện kỳ lạ.

C̣n Quỷ th́ là những vong hồn đă chết vào giờ Thiêng, họ được Âm Tào giữ lại làm Quỷ Sai. Ngoài ra ngay trong bản thân con người cũng có hai đến ba phần là Quỷ chế ngự.

Có những lúc mà phần Người không chế ngự được hai, ba phần Quỷ này th́ người đó sẽ dễ dẫn đến những hành động ác không lương thiện.

Cái hai, ba phần Quỷ này Đạo Phật gọi là THAM SÂN SI. Tất cả cái ác, tội lỗi của con người đều do THAM SÂN SI mà ra cả. Vậy ai sẽ là đối tượng của Ma ám? Là bất kỳ ai. Khi mà vong hồn vất vưởng đó hợp ai là sẽ theo người đó.

Nhưng có những người Căn mạng cao nên những vong hồn lưu vong có muốn Nhập hồn cũng không được. Vậy muốn không trở thành nạn nhân của Ma Quỷ ám th́ bản thân mỗi con người hăy làm trong sạch Tâm Hồn (Xóa bỏ THAM SÂN SI con Ma của mỗi con người) hướng thiện nhiều hơn và ăn mày cửa Phật, của Hội đồng các Giá, các Quan. Như vậy ḿnh sẽ được chở che khỏi những thế lực Ma Quỷ.

Khi mà Ma Quỷ ám, đến một thời gian nào đó khi mà vong hồn đó đă hoàn toàn đồng nhất trong suy nghĩ của người bị nhập (Chiếm ba hồn chín vía sống) th́ người đó sẽ hoàn toàn bị Điên.

Lúc đó suy nghĩ và hành động của người đó sẽ hoàn toàn bị Hồn Ma kia chế ngự mà không thể nào thoát ra được. Đây gọi là hiện tượng Ma Ám Bắt Hồn thường thấy.

Một hiện tượng nữa mà bên các thầy Pháp hay gọi là hiện tượng Động Nhà Thần. Hiện tượng này là hiện tượng mà người nào đó đi ra đường, chẳng may gặp phải Ma đói (Ma chết đuối, chết chém mất đầu, ngũ Quỷ, Thạch tinh...) trêu quở.

Lúc đó tùy theo mỗi loại Ma mà người bị trêu sẽ bị đau đầu, ốm đau hay là bị khó chịu, dù có khám bệnh cũng không ra bệnh ǵ cả. Chỉ khi xem thầy Pháp th́ mới biết là Động nhà Thần.

Khi đó sửa soạn lễ vật để cúng kiến th́ bệnh tự nhiên khỏi ngay tức th́. Hiện tượng này chỉ cần cúng kiến là khỏi, v́ vong Nhà Thần đó chỉ đ̣i cúng kiến mà thôi chứ không có dụng ư là bắt hồn.

Giải pháp tốt nhất cho hiện tượng khỏi bị Ma Quỷ ám là trong người luôn có Dấu hộ thân (Bùa hộ mệnh). Có nhiều loại dấu khác nhau nhưng dấu linh nghiệm hơn cả là dấu của Ngọc Hoàng Đại Đế, Thái Thượng Lăo Quân (dấu dập xóa), Trần Triều Hưng Đạo Vương, Ngũ Dinh Thần Tướng, Quỷ Cốc Tử, Thái Ất Thần Quan.

Có một điểm cần chú ư là Dấu (bùa) ở đây khác hoàn toàn với chữ Vạn hay những tấm Điệp của Phật. Chúng ta không nên lầm tưởng đó là Dấu. Gần đây th́ do lợi nhuận nên có một số vị Sư săi đă lừa phỉnh Điệp nhà Phật là Bùa hộ mệnh.

Đạo Phật vốn dĩ không có Bùa chú, v́ Đạo Phật dạy con người hướng Thiện nên không tồn tại Bùa chú Yểm Đảo, mà cái này chỉ có trong Đạo Pháp mà thôi.

Đạo Phật chỉ có các Trú (Khẩu Quyết, Chân Ngôn mà chúng ta vẫn thấy trong Kinh Sách) giúp cho con người thoái mái, tinh bạch Tâm hồn và một số chú trừ diệt Nghiệp Chướng và một số chú trừ Tà (không tiện nêu ra ở đây). Chúng ta cứ hiểu nôm na rằng Dấu là giấy tờ chứng nhận chúng ta là con cháu của các Ngài, các Giá, các Quan nên Ma Quỷ sẽ kiêng nể ra mà không dám động đến.




                                                          huykokuyo







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 238 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:18pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



LÊN ĐỒNG MÊ TÍN HAY NHU CẦU

THÀNH DANH VỚI THẦN THÁNH


Ngày cuối tuần, tôi chưa có kế hoạch ǵ cho ḿnh th́ nhận được điện thoại của một người bạn:

“Cậu có đi xem hầu đồng không?”.

Tôi từ chối bởi tôi không phải là người quan tâm nhiều đến những chuyện liên quan đến tín ngưỡng. Chưa kịp giải thích lư do, anh bạn tôi nhanh nhảu:

“Cậu đi đi, hấp dẫn lắm đấy. Cậu mà đi sẽ có khối đề tài để viết bài”.

Bị lôi cuốn bởi lời chào mời, tôi gật đầu đồng ư, coi như đó là một hoạt động cho ngày cuối tuần. Lên đồng, vốn là sự thăng hoa của các điệu múa dân gian, giờ đây đă nhuốm nhiều mầu sắc mê tín, dị đoan. Nhiều kẻ đă và đang trục lợi trên sự mê tín này của một số người dân chất phác... Bạn có thể tự cảm nhận được sự hài hước và sự trục lợi không cần tinh vi lắm của những kẻ lạm dụng nghi thức "Lên đồng". Thậm chí, một số người chấp nhận sự "mê tín" đó để được "nhẩy múa", được "thành danh" với thiên hạ rằng ḿnh đă từng "nhập đồng".....

Theo tín ngưỡng dân gian, "Hầu đồng", ngoài sự thăng hoa của các điệu múa, th́ nó c̣n là nghi lễ nhập hồn của các vị Thánh tứ phủ vào thân xác ông đồng bà cốt. Trong nghi lễ đó, hát vǎn phục vụ cho quá tŕnh nhập đồng hiển thánh.

Sau khi đă múa các thánh thường ngồi nghe cung văn hát, kể sự tích lai lịch vị thánh đang giáng. Với các giá ông Hoàng th́ cung văn ngâm các bài thơ cổ. Thánh biểu hiện sự hài ḷng bằng động tác về gối và thưởng tiền cho cung văn.

Lúc này cũng là lúc thánh dùng những thứ người hầu đồng dâng như rượu, thuốc lá, trầu nước... Các thứ thánh dùng phải làm nghi thức khai cương (khai quang) cho thanh sạch.

Hầu đồng là nghi thức có trong tục thờ Mẫu chỉ có ở Việt Nam. Tôi đă đọc cuốn “Mẫu thượng ngàn” của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh. Với tôi, nếu xét ở góc độ văn học th́ đây không phải là cuốn tiểu thuyết xuất sắc. Nhưng nếu xét trên góc độ của một người ham t́m hiểu về văn hóa Việt Nam (trong đó có tục hầu đồng và hát văn) th́ đây sẽ là một cuốn sách rất thú vị.

Tôi cũng đă đọc nhiều cuốn sách viết về hầu đồng nhưng chưa bao giờ được tận mắt chứng kiến. Tôi luôn băn khoăn không hiểu điều ǵ có thể khiến cho con người ta có được những giây phút thăng hoa như thế. Đúng như lịch hẹn với anh bạn, chúng tôi khởi hành.


Trên đường đến ngôi chùa ở làng Yên Ḥa, anh thao thao kể về chuyện lên đồng như để tăng thêm sự thuyết phục đối với tôi:

“Cậu biết không, “cô” Cường này phải bỏ ra 60 triệu đồng để hầu giá này đấy. Khổ, căn cơ nó thế, nó mà không hầu th́ thánh vật chết. Đi làm ăn ở bên Đức cả năm, về chuyến này lại phải bỏ ra cả đống tiền để hầu. Mà cũng lạ, vợ con nó không biết đâu nhé”.

Tôi chưa hết choáng váng v́ số tiền mà “cô” Cường phải bỏ ra th́ anh bạn tôi tiếp:

“Lúc đầu ḿnh cũng không tin, nhưng ở gần nhà ḿnh có một cô làm ở Ṭa án nhân dân, tránh măi đấy mà không tránh được. Lúc đi làm th́ ngại đồng nghiệp lời ra tiếng vào, bây giờ về nghỉ hưu rồi, năm nào cũng phải hai lần hầu thánh”.


Đang mải huyên thuyên th́ xe của chúng tôi đă đến cổng chùa. Đồng hồ của tôi chỉ 2 giờ chiều. Chùa mới được xây lại nên khá khang trang và rộng răi. Sư thầy đón chúng tối với vẻ niềm nở bởi anh bạn tôi là phật tử “ruột” của chùa. Nom sư thầy phương phi, môi đỏ chót, miệng nhai trầu bỏm bẻm. Thầy thong thả bảo:

“Hôm nay thằng Cường nó không hầu đâu. Bên kia “cô” Sơn đang hầu. Giá này phải đến 6 giờ chiều mới xong. Sau đấy là giá của “cô” Hà ở nhà hát…”.


Từ gian thờ mẫu của chùa, tiếng nhạc và tiếng hát văn văng vẳng vọng ra. Không kịp để cậu bạn giải thích lư do “cô” Cường không thể hầu được, tôi xin phép sư thầy rồi kéo cậu bạn sang gian Mẫu.

Phía bên trong, đă đông chật người ngồi vây quanh tấm phản. Ở chính giữa ngay dưới chân diện thờ là tấm phản nơi “cô” Sơn đang lên đồng. Trong đám khói nhang nghi ngút, cô “Sơn” “mặt hoa da phấn” (theo đúng nghĩa của từ này) đang nhảy múa trong tiếng hát văn và tiếng nhạc phát ra từ ban nhạc ngồi ngay bên trái của giá, thỉnh thoảng cô lại liếc một cái rơ dài về phía các con nhang đệ tử đang ngồi phía dưới.


Các con nhang liên tục miệng:

“Lạy cô, lạy cô, cô xinh quá, cô múa hay quá”.

Ngay lập tức, “cô” trao lại hai chùm nến đang hừng hực cháy trên tay cho hai người hai bên và nhận từ họ một xấp tiền mệnh giá 2.000 đồng mới cứng và x̣e ra. Lúc này, các con nhang ở dưới tay vỗ theo điệu nhạc, miệng liên tục:

“cô xinh quá, cô đẹp quá”.

Lời khen lập tức có hiệu lực, xấp tiền trên tay cô được tung ra khắp nơi như mưa, các con nhang thôi không “miệng khen tay vỗ” nữa mà hú hét, tranh nhau “lộc” của “cô” vừa ban xuống.

Hết một giá, “cô” ngồi xuống trước bàn thờ, một chiếc khăn đỏ được trùm lên đầu “cô”, ngay sau đó “cô” về trời, chiếc khăn được gỡ ra và hai người hai bên lại thay cho cô một bộ đồ khác để vào giá mới.


Mùi nhang đặc quánh khiến cho tôi khó thở, tôi bỏ ra phía ngoài. Lúc này, những người đứng xem vẫn tiếp tục vỗ tay khi “cô” vào giá mới. Tôi hỏi chuyện một bà lăo đă ngoài 70 đang đứng phía ngoài ngóng vào bên trong v́ không c̣n chỗ, bà vừa vỗ tay, vừa nhún nhảy, vừa đáp:

“36 giá cậu ạ, mỗi giá “cô” sẽ thay một bộ xiêm y mới”.

Tôi liếc nh́n đống quần áo c̣n khá dày và tất cả c̣n đang mới, và phải khẳng định nh́n “thật” hơn rất nhiều so với quần áo của các diễn viên tuồng hay cải lương mà tôi đă thấy trên sân khấu.


Đoán chừng phần của “cô” Sơn sẽ c̣n lâu nên tôi sang gian chính của chùa uống nước cùng sư thầy. Thông qua sư thầy, tôi được biết “cô” Sơn là sư bác đang tu tại chùa. “Cô” sinh năm 1983, “hầu thánh” đă được gần 10 năm. Chi phí của mỗi cuộc là do các con nhang đệ tử chu cấp hết bởi trong số họ, nhiều người có căn nhưng đang công tác nên phải nhờ cậy “cô” hầu giúp.

C̣n cô “Hà” hầu ngay sau cô Sơn là diễn viên của một nhà hát ở Hà Nội. “Cô” đă tốt nghiệp Trường Sân khấu điện ảnh, nhưng “căn quả” nặng quá nên năm nào cũng hầu ở chùa này. Cô sinh năm 1978 nhưng đă có thâm niên hầu thánh tới 10 năm.


Đang ngồi trong chùa th́ có một chiếc Dylan đổ xịch trước sân chùa. Người ngồi trước là một thanh niên vạm vỡ mặc chiếc áo pull cộc tay màu đen, dù trời khá lạnh. Người đàn ông phía sau ôm chặt cứng người phía trước. Xe vừa tắt máy, người thanh niên phía sau, tay xách một túi màu đỏ lớn, miệng dẻo quẹo:

“Con chào thầy, thằng Sơn nó hầu lâu chưa hả thầy?”.

Mấy bà nh́n thấy anh ta th́ chạy tới đon đả:

“Chuẩn bị đến đâu rồi, lâu lắm mới được xem “cô” hầu thánh đấy”.

Anh ta nguưt một cái rơ dài rồi tiếp:

“Lát các bà các cô ở đây đấy nhé, lộc đă chuẩn bị hết rồi đây”.

Anh ta ch́a cái túi đỏ to tướng về phía những người đàn bà kia. Lúc này sư thầy lên tiếng:

“Hà mới đến hả con, vào uống nước rồi đi trang điểm không lại muộn mất. Bên kia chắc cũng gần xong rồi”.


Ngay sau đó, tiếng nhạc dừng hẳn. Những con nhang đệ tử túa ra từ phía gian thờ Mẫu. Một số người lấy xe ra về, một số người khác xuống bếp nhà chùa ăn bún để tiếp tục ca 2. Lúc này, cô “Sơn” đă đi vào pḥng tẩy trang sau hơn 4 giờ nhảy múa liên tục. Tôi ṭ ṃ muốn tận mục khuôn mặt thật sau lớp son phấn của “cô”.


Cửa pḥng mở ra, tôi sững người v́ không ngờ một người đàn ông lại có thể đẹp đến như thế. Trước mặt tôi là một khuôn mặt nhỏ, làn da trắng mà bất kỳ cô gái nào cũng phải mơ ước, đôi môi đỏ mọng và điều đặc biệt trên khuôn mặt ấy là đôi mắt đen ướt và sâu thăm thẳm. Tôi luôn bị cuốn hút bởi những cô gái có đôi mắt đẹp và ướt bởi v́ nó rất sâu, rất xa và nó buộc người ta phải khám phá.

Trước mặt tôi đây, vẻ đẹp mong manh đang hiện hữu khiến tôi như chết lặng. Và khoảnh khắc ấy đến thật nhanh, cũng qua thật nhanh. Tôi giật ḿnh và chắp tay, miệng lẩm bẩm một câu nói phát ra từ trong vô thức:

“Sư bác hầu hay quá”.

Anh cúi đầu cảm ơn và nhanh chóng đi về phía gian bếp của nhà chùa để tiếp tục công việc. Phía gian Mẫu, không gian lại tiếp tục nóng lên khi hầu hết các con nhang đệ tử đă lại tề tựu quanh tấm phản gỗ trước điện thờ Mẫu.

Lần này, tôi thấy phía bên dưới có khá nhiều gương mặt quen thuộc: Một nam ca sĩ, một nam diễn viên trẻ, một nhà thiết kế (bạn tôi cho biết, anh là nhà thiết kế trang phục chính cho một show ca nhạc lớn trên truyền h́nh). Tất cả đều là khách mời của “cô” Hà. Cuộc hầu của “cô” Hà cũng diễn ra theo tŕnh tự giống như cuộc trước. Có điều lần này, tôi chú ư nhiều hơn tới những lời hát văn đầy ư nghĩa.


Tôi không nhớ rơ nhưng những câu như “cầu cho mưa thuận gió ḥa” hay “cầu cho non nước thanh b́nh” hoặc “cầu cho quốc thái dân an” được lặp lại rất nhiều lần. Bà lăo đứng phía ngoài của cuộc trước, giờ đă có được một chỗ ngồi ở phía trong ngay kề sát tôi th́ lầm bẩm:

“Cô” nhảy đẹp quá, chưa thấy “cô” nào nhảy đẹp như cô này.

Thỉnh thoảng bà lại hét lên:

“Lạy cô, lạy cô, cô xinh quá, cô đẹp quá, cô nhảy hay quá”.

Người phụ nữ đứng cạnh giá hầu, cứ sau mỗi giá lại cầm xấp tiền và lần lượt đi phát cho tất cả những người đứng xem.

S au mỗi lần chầu, khi th́ một mâm bia có ngọn, khi th́ mâm trái cây, lúc lại là ḿ tôm được người phụ nữ ấy bê ra chia lộc cho từng con nhang. H́nh như trong lúc thánh nhập, “cô” vẫn nhận ra người quen của ḿnh. Những nhân vật khách mời quen mặt lần lượt được cô chỉ mặt, vẫy lên tấm phản và ban lộc. Tôi chợt nảy ra một ư nghĩ “phạm húy”: Nếu là thánh, lẽ ra ngài nên công bằng hơn bởi người phụ nữ ngồi gần tôi đă khản cổ họng, bà ngồi xem với một niềm tin tuyệt đối, nhưng cả buổi chẳng thấy ngài đoái hoài đến.

Hai giá đồng đă hết. Nhạc đă tắt nhưng sau tôi vẫn thấy ngẩn ngơ tiếc một điều ǵ đó. Tôi biết rằng, tục hầu đồng đă có từ ngày xưa nhưng người ta không có nhiều tiền để làm những cuộc hầu hoành tráng như bây giờ.

Cả hai buổi tôi xem, nhiều tiền đă được vung ra, nhiều bia, hoa quả, bánh kẹo, thuốc lá và nhiều đồ đắt tiền khác được phát cho các con nhang đệ tử (kể cả những người xem như tôi). Có lẽ, khi người ta giàu có lên, “phú quư sinh lễ nghĩa”, nhu cầu tâm linh của con người ta cũng nhiều lên chăng? Và tôi cũng băn khoăn không biết rằng, những bản chầu văn mà họ hát có c̣n là thứ chầu văn cổ nữa không khí đôi lúc, lỗ tai tôi vẫn bùng nhùng bởi khi những “nghệ nhân” ấy hát sai chính tả từ “n” sang “l” và không chỉ một lần.


60 triệu để được hầu một giá đồng. Một cái giá quá đắt khiến tôi không khỏi giật ḿnh. Ở quê tôi, người ta có cố gắng nỗ lực cả năm cũng không kiếm nổi 1/3 số tiền ấy, vậy họ sẽ làm ǵ khi nặng “căn quả” như người ta vẫn nói?

Thực sự tôi không hiểu được lư do. Tôi th́ có cách nghĩ riêng của ḿnh: H́nh như những người ấy (những người hầu đồng) là những người có tâm hồn quá mức nhạy cảm. Ngày thường, họ không được là ḿnh, không thể là chính ḿnh, nhất là những người trí thức có địa vị trong xă hội. Những bức xúc ấy được tích tụ, dồn nén và họ không có cách ǵ xả ra được.

Nhưng có một khoảnh khắc, để họ có thể là chính ḿnh, đó là khoảnh khắc họ được thăng hoa dưới tiếng đàn đáy, dưới điệu hát văn say ḷng. Lúc ấy, họ vứt hết đi giai tầng, địa vị, vứt hết đi giới tính, vứt đi những ẩn ức để được lên tiên, để có được cảm giác tất cả thiên hạ quỳ dưới chân ḿnh và đợi chờ ban lộc. Nếu thế, trong cuộc đời này, ai mà chẳng ít nhiều có căn?


Mẹ tôi vẫn hay thường bảo:

“Mày đừng có mà báng bổ thần thánh”.

Tôi giật ḿnh nghĩ về lời mẹ khi ư nghĩ về hầu đồng vừa kết thúc. Bà lăo lúc năy không được “lộc” của cô lúc này vẫn đứng trước mặt “cô” Hà và khen:

“Lúc năy thánh nhập vào “cô” nhảy hay quá, “cô” đẹp quá “cô” ạ !”.

“Cô” nguưt bà lăo một cái rơ dài:

“Thánh chỉ nhập có một lúc thôi, c̣n lại là thăng hoa, thăng hoa”.

Rồi cô lên xe. Chỉ c̣n bà lăo đứng ngẩn ngơ trong làn khói xe đang tan dần cùng tiếng cười ha hả của “cô” giữa sân chùa.




                                                                          Lưu Thủy







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 239 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:19pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



BÍ ẨN KIM TỰ THÁP AI CẬP


Trong 7 kỳ quan của thế giới cổ đại, th́ Kim Tự Tháp Ai Cập được xếp hàng đầu. Trong quần thể Kim Tự Tháp Ai Cập th́ đứng đầu lại là lăng mộ của quốc vương Đệ Tứ.

Kim Tự Tháp Khê Ốp (Khéóp) là tráng lệ nhất. Nó được xây vào năm 2600 trước Công Nguyên, gồm 2.300.000 phiến đá cực lớn, nặng trung b́nh 2.5 tấn xếp chồng lên nhau.

Tổng trọng lượng của Kim Tự Tháp là 60.000.000 tấn, tương đương với độ cao của ṭa nhà cao chọc trời 40 tầng. Với con mắt người hiện đại th́ bản thân nó đă trở thành một câu hỏi cực lớn và một dấu than lớn làm day dứt biết bao thế hệ.

Kim Thự Tháp Khê Ốp chứa hàng loạt các câu hỏi khiến ta không thể không bàn tới.

Thứ Nhất: Kim Tự Tháp được kết cấu và thiết kế với các số liệu vô cùng chính xác. Tháp cao 146.5 x 1000 triệu th́ tương đương với khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trời, lấy 2 lần chiều cao tháp chia cho diện tích tháp 52.900 mét vuông th́ sẽ là số p (3.14159).

Đường kinh tuyến đi qua tháp vừa đúng là đường phân chia hai nửa bằng nhau, giữa lục địa và hải dương của quả đất. C̣n b́nh phương chiều cao tháp th́ bằng diện tích h́nh tam giác của một mặt tháp.

Nếu kéo dài đường góc đối h́nh vuông góc đáy tháp, th́ vừa đúng bao gồm vùng Tam Giác Châu cửa sông Nile. C̣n kéo dài đường chia đôi hướng dọc từ điểm đỉnh tam giác sẽ đi qua đường chia đôi của châu thổ này.

Thứ hai: Đo lường kiến trúc vô cùng chính xác. Tất cả đầu đá mặt tháp đều được xếp chồng lên nhau và dựa vào trọng lượng của bản thân để liên kết mà không dùng bất cứ một chất kết dính nào.

Các khe hở ở bề mặt thân tháp và đầu đá xếp khít với nhau tới mức một lưỡi dao cực sắc, cực mỏng cũng không thể luồn vào được. Chênh lệch độ cao ở góc Đông Nam và góc Tây Bắc chỉ tới 1.27 cm. Sai lệch chiều dài các cạnh đáy cũng không quá 20 cm, đúng sai không quá 9/1000.

Thứ ba: Có nhiều lực thần bí siêu tự nhiên. Bên trong Kim Tự Tháp như một chiếc tủ lạnh cực lớn. Nếu đem sữa tươi, nước quả, hoa quả, thịt tươi đặt vào trong đó vài ngày vẫn giữ được như mới. Nếu gieo mầm các loại sản phẩm ở trong Kim Tự Tháp th́ thời gian sinh trưởng ngắn hơn vài lần so với gieo trồng ở ngoài tháp mà sản lương lại cao, chắc hạt.

Các vật bằng kim loại đang có các vết đốm gỉ nếu đặt trong Kim Tự Tháp một thời gian sẽ trở lên sáng bóng lấp lánh. Ngoài ra trong tháp c̣n có hiệu ứng gây tê và chống thối rữa. Người nào suy nhược thần kinh, nếu nằm ngủ trong tháp sẽ nhanh chóng đi vào giấc mộng.

Người khó chịu toàn thân, bao gồm đau đầu, đau răng, phong thấp, viêm khớp ... khi vào tháp sẽ cảm thấy dễ chịu, tinh thần sảng khoái, đau đớn tiêu tán. Những cây gỗ c̣n ở trong tháp đều được thoát (bay) nước tự nhiên và diệt khuẩn, có thể tồn trữ đă vài ngàn năm mà vẫn không bị mục.

Các nhà khoa học phát hiện trong Kim Tự Tháp thực tế có một loại khoảng không dao động viba tương đối tốt. Trong khoảng này, hiệu ứng viba (kể cả hiệu ứng nhiệt) được phát huy một cách đầy đủ. Điều này làm cho gỗ trong tháp được bảo quản lâu dài.

Các nhà khoa học c̣n phát hiện trong tháp c̣n tồn tại sóng vũ trụ rất lớn, có ảnh hưởng với mức độ khác nhau ở đầu và cơ thể người. Vậy sóng vũ trụ trong tháp từ đâu tớỉ. Các nhà nghiên cứu cho rằng:

Trong quần thể Kim Tự Tháp Ai Cập (gần trên 70 tháp nằm rải rác vùng Chi-Tát, hai bên bờ hạ lưu sông Nil và một khu rộng lớn ở phía Nam) th́ tháp nào cũng đều có hướng chính Nam đi Bắc và không hề có sai lệch.

Theo hướng này th́ hoàn toàn đúng với đường sức từ của trái đất, như vậy sẽ làm cho đường sức từ đi qua tháp được nhiều nhất. Bên trong tháp c̣n có đá hoa cương thu nhận sóng vũ trụ và có khả năng tích điện.

Bên ngoài tháp lại là đá vôi không thể thu nhận, tồn trữ các loại điện năng và sóng vũ trụ. Như vậy đá hoa cương trong tháp sau khi đă tiếp nhận, tồn trữ từ năng quả đất và sóng vũ trụ th́ dùng đá vôi ở bên ngoài tháp đề pḥng khuếch tán.

Chính v́ vậy, trải qua trên 4.000 năm, bên trong Kim Tự Tháp đă thu nhận và tồn trữ một lượng rất lớn sóng vũ trụ và năng lượng địa cầu. Từ những gợi ư về kết cấu của Kim Tự Tháp Ai Cập, hiện nay đă có nhiều nước xây dựng các vật kiến trúc theo kiểu Kim Tự Tháp với nhiều h́nh dáng khác nhau để tiến hành thử nghiệm.

Có nói th́ xây kho theo đúng kiểu Kim Tự Tháp, dùng để bảo quản lâu dài lương thực, hoặc là các kho chứa vật dự trữ chiến tranh.

Vậy thi ai là người xây Kim Tự Tháp lớn nhất (Kim tự Tháp Khê Ốp) và hoàn thành công tŕnh vĩ đại này như thế nào ? Ngày nay mọi người không ai nghi ngờ ǵ về vị vua thứ 4 của Ai Cập cỗ, là người đă đề xướng và xây nên Kim Tự Tháp lớn nhất.

V́ hầu như toàn bộ các văn bia và sách cổ của ai Cập lưu giữ đều nói khá rơ việc này. Nhưng có nhà nghiên cứu lại cho rằng:

Nếu theo sức lao động của người đương thời, th́ Kim Tự Tháp lớn cơ hồ không thể xây dựng được xong trong thời gian cuộc đời Khê Ốp. Giám định ở đây có khả năng Khê ốp ngụy tạo ra các văn bia và thư tịch, về người xây dựng Kim Tự Tháp lớn, nhằm đề cao cái uy cái đức và công lao của ông tạ Thủ pháp này, vào thời cổ không phải là hiếm thấy.

Trong thư viện Bô Đéc Li An đại học oxford phía Bắc nước Anh, có lưu giữ một bản thảo cho thấy: Kim Tự Tháp lớn là do quốc vương Sô Lít cách thời Khê ốp khá xa đề xướng xây dựng.

Bản thảo này là di cảo của Ma Si Út, nhà văn người Kô phút Ai Cập. Tác giả đă qua một thời gian dài nghiên cứu điều tra cho biết:

Trước đại hồng thủy nhà vua hiền Su bít trị v́ Ai Cập, đă từng ra lệnh cho tín đồ của ḿnh là ghi chép tất cả những học vấn của ḿnh lại, và lưu cất trong Kim Tự Tháp. Tác giả c̣n vạch rơ rằng theo truyền thuyết của người Kô phút, th́ Kim Tự Tháp thực ra là được xây dựng vào trước thời đại Hồng Thủy.

Như vậy nó có trước vài trăm năm thời Khê ốp. Trong cuốn lịch sử (quyển 2) của nhà sử học Hy Lạp cổ Hêrodotos, xác thực là có sự suy diễn này. Bây giờ chúng ta hăy t́m hiểu số lượng người tham gia xây dựng tháp và thời gian xây dựng nó thực tế phải mất bao lâu ?

Theo Herodotos (ông đă đến Ai Cập thế kỷ 5 trước Công Nguyên và đă khảo sát thuộc địa Kim Tự Tháp) th́ việc xây dựng đại Kim Tự Tháp này phải mất tổng cộng 30 năm.

Thợ xây được chia thành từng kíp 100.000 người. Mỗi kíp thợ phục dịch 3 tháng, luân phiên thay đổi. Nhưng theo một nhà nghiên cứu khác lại cho rằng:

Theo điều kiện đương thời, chưa có cần cẩu và các máy móc vận chuyển hiện đại, chỉ có thể dựa vào con lăn, đ̣n bẩy và các dụng cụ thủ công khác. Vậy th́ làm thế nào để đưa khối đá lớn nặng 2.5 tấn tới độ cao trên 100 mét ?

Quá tŕnh thao tác sẽ phải như sau: Trước hết phải xây xong lớp mặt nền, sau đó đắp dốc bằng đất có độ cao bằng tầng thứ nhất rồi trượt theo dốc đất mà kéo đưa đá lên tầng 2 .

Khi xây xong tháp mới chuyển đất đi để lộ Kim Tự Tháp ra. Tính toán theo cách làm này th́ mỗi ngày thực tế chỉ có thể xây được 10 khối đá, mà toàn bộ Kim Tự Tháp dùng tới 2.300.000 khối đá lớn, th́ phải dùng tới 230.000 ngày tức là 630 năm.

Do đó tháp xây xong mà Su lít vẫn chưa nh́n thấy c̣n Khê ốp th́ ngồi ăn sẵn mà được hưởng. Về việc này lại có học giả cho rằng:

Thời bấy giờ gỗ ở Ai Cập rất hiếm, mà phần nhiều là cây cọ. Người Ai Cập lại không biết chặt đẽo làm thành con lăn. Hơn nữa quả cọ lại là thực phẩm không thể thiếu được của họ. Thân cọ khô và lá cọ là vật liệu duy nhất dùng để che nắng, chống nóng của dân vùng này.

Nói về công cụ vận chuyển để xây tháp là con lăn, th́ người Ai Cập cổ chỉ có thể nhập khẩu gỗ về, mà khả năng của nước Ai Cập thời đó liệu có làm nổi không ?

Ngoài ra muốn nhập khẩu được gỗ th́ phải có một đội thuyền khả quan, phải chặt gỗ từ núi Ali, chuyển ngược ḍng sông Nil, tới Cai rô, Chi ta. Vào thời xây tháp, người Ai Cập lại chưa có ngựa và xe ngựa. Măi tới vương triều thứ 17, Khoảng năm 1600 trước Công Nguyên th́ ngựa và xe ngựa mới thấy có ở Ai Cập. Vậy th́ với số lượng gỗ lớn như vậy, sẽ không có cách nào đưa được tới Cai rô, Chi ta.

Nhà học giả Pun-Đan-Ni-ken đề xuất:

Kim tự tháp Ai Cập, đặc biệt là Kim Tự Tháp Khê ốp là do người ngoài hành tinh thực hiện. Người cho rằng Ai Cập cổ xưa chưa có kỷ thuật đo lường, vùng này lại thiếu đá và gỗ, không thể làm được một công tŕnh kiến trúc cao to như vậy.

Ông c̣n nhấn mạnh:

Muốn xây ngọn Kim Tự Tháp như vậy, th́ ngoài số thợ có mặt tại công trường xây tháp, c̣n phải có một đội ngũ hậu cần phục vụ rất lớn. Nếu kể cả thành viên trong gia đ́nh đi theo, th́ cần phải có tới 500.000.000 người mới ứng phó được.

Nhưng theo suy đoán số nhân khẩu vào năm 2600 trước Công Nguyên th́ thế giới lúc bấy giờ chưa vượt quá 20.000.000 người, về số liệu này tuyệt đại đa số các chuyên gia đều công nhận như vậy.

V́ thế Đan-Ni-Ken đoán rằng:

Nhất định là có người ngoài hành tinh mang theo dụng cụ đo khoảng cách bằng tia laser, máy tính điện tử và cần cẩu ... hạ xuống vùng hạ lưu sông Nil để xây dựng Kim Tự Tháp.

Theo các báo cáo gần đây, nhóm khảo cổ học của tiến sĩ Pon-Gia-Lu phát hiện một đống vật đóng băng trong một buồng kín ở Kim Tự Tháp. Họ đă dùng các máy móc thám trắc hiện đại để đo kiểm, phát hiện thấy con vật này có nhịp tim và báo hiệu có huyết áp.

Tiến sĩ Ga-ba cho rằng:

Con vật này vẫn là sinh vật có sức sống, tin rằng nó đă tồn tại 5.000 năm trước. Ngoài ra được biết trong pḥng kín (mật thất) này c̣n có một cuốn sách ghi chép bằng chữ tượng h́nh.

Cuốn sách có ghi cách đây 500 năm về trước, có một cỗ xe "thiên mă" đi vào gần thành Cai-rô để lại một người "Sinh hoàn giả". Đây là một nhà thiết kế, khả năng người này đă thiết kế ra Kim Tự Tháp. Kim tự Tháp này dùng làm tháp tín hiệu thông báo cho đồng loại ở bầu trời tới cứu viện.

Nhà hóa học đương đại người Pháp là Da-vi-du-uưt, lại có một cách giải thích khác. Ông cho rằng:

Những khối đá lớn xây dựng Kim Tự Tháp là những khối đá nhân tạo đổ ép lại, không phải là đá thiên nhiên, ông đă lấy mẫu các viên đá nhỏ thu được ở Kim Tự Tháp đem về hoá nghiệm.

Kết quả cho thấy những viên đá này được làm từ những mỏ đá vỏ ṣ. V́ thế, thời bấy giờ rất có khả năng sử dụng phương pháp "Hóa chỉnh vi linh" tức là trước hết cho bê tông đă trộn vào các khoang sọt rồi mới đưa lên Kim Tự Tháp đang xây, từ đấy mới đúc từng khối một, từng tầng từng tầng cao dần.

Với giả thiết này cũng có thể là lời giải đáp v́ sao các mối ghép giữa các viên đá với nhau lại khít như vậy. Mặt khác, Đa-vi-du-uưt c̣n dự đoán rằng:

Số nô lệ lao động trên công trường vào thời ấy không quá 1.500 người, mà không phải là 100.000 người như Heroestos nêu ra. Lời giải thích này hoàn toàn thống nhất với quan điểm của đại đa số người trước đây, cho rằng người Ai Cập cổ hoàn toàn có đủ khả năng tự thiết kế và hoàn thành việc xây dựng Kim Tự Tháp.



                                                                      ST









Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 240 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:20pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



BÍ ẨN VỀ THẾ GIỚI PHÙ THỦY CỔ ĐẠI


Người ta cho rằng buổi b́nh minh của văn minh nhân loại tràn ngập bởi ma thuật của các phù thủy, lễ hiến tế, các nghi thức cầu xin trời đất, ma quỷ. Đó là thời kỳ hoàng kim của các phù thủy.

Quyền năng phù thủy

Các tṛ pháp thuật phù thủy rất thịnh hành ở các nước châu Á như Ấn Độ, Trung Quốc. Trong một tài liệu cách đây hàng trăm năm của một du khách người Á-rập mô tả rất kỹ buổi hành lễ ở Trung Hoa. Trước đám đông người, một phù thủy dùng một quả cầu gỗ có buộc dây thừng và ném nó lên trời.

Quả cầu bay cao và biến mất hút, chỉ c̣n sợi dây treo lơ lửng. Phù thủy sai một cậu bé bám vào sợi dây để leo lên trời. Chỉ ít phút sau cậu bé cũng biến mất. Tộc trưởng suy nghĩ và nói một điều ǵ đó với phù thủy, lập tức phù thủy dùng dao cắt đứt dây, cắt rời từng phần cơ thể của cậu bé rơi xuống đất.

Quang cảnh đẫm máu làm cho những người chứng kiến kinh hăi. Nhưng sau đó tộc trưởng lầm rầm khấn vái một điều ǵ đó, các bộ phận của cậu bé dính vào nhau và cậu ta sống lại như b́nh thường. Buổi hành lễ kết thúc trước sự kinh ngạc của những người chứng kiến.

Kinh Mật tông Phật giáo nói đến việc các pháp sư tạo ra những đám đông và làm biến mất họ từ hàng ngh́n năm trước. Những người theo môn phái tu luyện này thừa nhận sức mạnh của bùa chú, pháp thuật và cho rằng chúng góp phần tạo nên niềm tin tôn giáo.

Những tài liệu hàng ngh́n năm ghi nhận vua Pàla (Ấn Độ cổ) "bằng pháp thuật của ḿnh đă tạo ra thuốc trường sinh phân phát cho mọi người để những người già 100 tuổi có thể trẻ lại".

Những lễ nghi của ḍng Mật tông thường được giữ kín nhưng không bao giờ thiếu việc niệm thần chú, biểu diễn màn nhảy múa tôn giáo và thiền định, trong đó các pháp sư, giống với vai tṛ của các phù thủy, sẽ cầm trịch các buổi hành lễ đó.

Người ta cho rằng, các bài thuốc chỉ có thể mang lại tác dụng khi được các pháp sư đọc thần chú gọi là mantra. Đó là tuyệt kỹ chỉ có các phù thủy mới làm được. Người ta cho rằng, khi nghe các âm thanh mantra sẽ làm ma quỷ sợ hăi, biến đi trong phút chốc và nếu gặp nguy hiểm th́ sử dụng các thần chú này.

Màn ảo thuật hấp dẫn

Các buổi hành lễ của phù thủy không thể thiếu được những vũ điệu được gọi là múa phù thủy. Đó là các vũ điệu nhằm kích động thần kinh của những người tham gia. Người ta dùng các động tác tay, chân, lắc lư đầu và các đạo cụ như chuông, bát hương để tạo ảo giác với những người chứng kiến.

Tại Ai Cập cổ đại người ta dùng các pháp thuật để chiếm được niềm tin của công chúng. Một pháp thuật gia nổi tiếng thời đó là westcar Papyrus 1.700 năm trước Công Nguyên, đă biểu diễn màn chặt đầu và nối lại nguyên vẹn cho nạn nhân. Những thầy tu cao cấp ở Hy Lạp thời đó trong các buổi hành lễ ở đền thờ, thường dùng pháp thuật mở cửa đền và đốt sáng các ngọn đuốc mà không cần đến các công cụ.

Ở châu Phi, phù thủy thường là phụ nữ già xấu xí, sống độc thân. Họ thường hoạt động bí mật vào ban đêm và cũng không ư thức được các hành động của ḿnh. Họ bị coi là một mối đe dọa đối với cộng đồng v́ người ta cho rằng các tai họa như ốm đau, đói kém mất mùa, thiên tai là do các phù thủy gây ra theo yêu cầu của kẻ thù.

Tại Gana người ta làm một khu làng để giam giữ cách ly những người làm nghề phù thủy nhằm tránh tai họa. Ở Nam Mỹ, các bộ tộc da đỏ thường có các phù thủy để làm phép trị bệnh. Họ tổ chức buổi nhảy múa quanh đống lửa và dùng pháp thuật lấy trong miệng người bệnh ra các bộ phận bị mắc bệnh.

Thời xa xưa, các pháp thuật phù thủy đă xuất hiện tại Việt Nam. Thầy phù thủy có nhiều quyền năng kỳ lạ: có thể gọi âm binh, luyện bùa, ngải để biến người ta thành u mê. Phù thủy có thể sai khiến âm binh đi làm việc đồng áng ban đêm như tát nước, tấn công trả thù người khác.

Những thầy phù thủy mỗi khi điều khiển âm binh xong phải có lễ khao quân, nếu không âm binh sẽ phản lại. Chỉ được sai âm binh vào buổi đêm và thu lại trước khi trời sáng nếu không sẽ gặp họa. Nếu làm lộ thiên cơ, âm binh sẽ đánh trả thầy.

Ngày nay, nhờ sự phát triển của khoa học, người ta đă lư giải được nhiều pháp thuật của phù thủy chỉ là những màn ảo thuật hoặc cách tạo ra các tác động tâm lư. Nhưng dù sao, phù thủy và các pháp thuật của họ vẫn là một thế giới bí ẩn đầy hấp dẫn. Nó là chất liệu cho rất nhiều tác phẩm nghệ thuật, mà điển h́nh nhất là thế giới phù thủy của cậu bé Harry Potter.

Trên thế giới, duy nhất có lễ hội phù thủy được tổ chức vào ngày 1 tháng 5 hằng năm tại thành phố Gossnal Đức. Có hàng trăm phù thủy ở khắp các châu lục về đây tŕnh diễn những màn pháp thuật do họ luyện được.

Ở đây có một viện bảo tàng về các dụng cụ của phù thủy qua các thời kỳ. Hà Lan có trường dạy các pháp thuật phù thủy, sau khi tốt nghiệp các phù thủy sẽ được cấp chứng chỉ. Giá của khóa học khá đắt, lên tới hơn 2.000 euro. Một trong những yêu cầu của các phù thủy là không được dùng pháp thuật để hại người và phải tuân thủ theo pháp luật.



                                                                   Ánh Ngọc









Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 

<< Trước Trang of 72 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.4141 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO