Tác giả |
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 241 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:21pm | Đă lưu IP
|
|
|
BỨC TRANH QUÁI DỊ
Trước nhà thờ Saint Sébalt, nơi góc đường Des Trabans là một quán nhỏ, vừa hẹp vừa cao, cửa kính bụi bậm, trên nóc có dựng bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh bằng thạch cao. Đó là nơi tôi trải qua những ngày buồn thảm nhất đời.
Tôi đến thành phố Nureemberg để học hội họa từ các họa sư tên tuổi ở Đức, nhưng v́ thiếu tiền nên đành phải vẽ ảnh, những ảnh xoàng xĩnh như các mụ to béo lắm lời, con mèo ngồi trên đầu gối, những ông xă trưởng đội mũ ba góc,những ông nhà giàu, đầu chụp tóc giả...
Hết vẽ ảnh, tôi vẽ những bản phác họa (Croquis) và sau cùng vẽ h́nh bóng (Silhouettes). Với tôi, không có ǵ thê thảm cho bằng luôn luôn bị viên quản lư khách sạn hạch sách. Sáng nào ông ta cũng mím môi giọng ồn ào, vẻ xấc láo nạt nộ:
"Chừng nào ông mới chịu trả tiền cho tôi? Ông có biết tiền pḥng của ông lên tới bao nhiêu rồi không? Hai trăm đồng "florin" và mười đồng "kreutzer". Không có bao nhiêu phải không?".
Những ai chưa nghe giọng xấc láo của tên quản lư khách sạn này không thể hiểu được nỗi khổ của tôi trong lúc bấy giờ. T́nh yêu nghệ thuật, óc tưởng tượng, sự hăng hái đi t́m cái đẹp của tôi hoàn toàn khô héo. Tôi trở nên vụng về, nhút nhát. Bao nhiêu nghị lực đều biến cũng như ḷng tự trọng... Và thấy ông xă trưởng từ xa là tôi đă cúi đầu chào cẩn thận.
Một đêm, không một xu dính túi, quá lo ngại, sợ bị viên quản lư dể sợ kia cho vào tù, tôi nhất định tự tử bằng cách cắt họng. Với ư nghĩ đó, tôi ngồi trên chiếc giường tồi tàn ngó ra cửa sổ, triền miên nghĩ ngợi đến trăm ngàn ư nghĩ về triết lư. Tôi tự hỏi:
"Con người là ǵ? Một con thú ăn tạp! Hai hàm răng có các loại răng chó, răng cửa, răng hàm chứng minh điều đó. Răng chó để ăn thịt, răng cửa để ăn trái cây và răng hàm để nghiền. Nhưng khi không c̣n ǵ để nghiền th́ con người là một thứ vô nghĩa trong vũ trụ, một điều thừa, một bánh xe thứ năm...".
Đó là những cảm nghĩ của tôi. Tôi không dám mở con dao cạo ra, sợ rằng tôi bỗng nhiên trở nên can đảm mà tự tử. Sau những lư luận như thế, tôi thổi ngọn đèn sáp, hoăn lại mọi việc vào ngày mai.
Tên quản lư khách sạn đă làm cho tôi trở nên ngu ngốc hoàn toàn.
Tôi không thấy ǵ khác hơn là những h́nh bóng và điều mong muốn duy nhất của tôi là có tiền để ném vào mặt hắn mỗi khi hắn ta đến quấy rầy tôi. Nhưng đêm đó, có một cuộc cách mạng kỳ lạ trong đầu óc tôi. Tôi thức dậy vào lúc một giờ khuya, vẽ nhanh lên giấy một bức phác họa theo loại Ḥa Lan, tức là loại kỳ quái, không có một chút liên hệ ǵ tới các quan niệm về hội họa thông thường của tôi.
Các bạn h́nh dung, bức phác họa là một khoảng sáng tối âm u, nằm giữa những bức tường cao, loang lở. Những bức tường dầy đó có những móc sắt nhọn hoắt đóng ở trên cao vào khoảng hai ba thước. Người ta đoán ngay từ đầu khung cảnh đó là một ḷ sát sinh.
Bên trại có một hàng rào mắt cáo. Bạn thấy một con ḅ mổ banh ra, treo lên trần bằng những cái móc to tướng. Những vũng máu chảy trên nền gạch và dồn xuống một đường mương đầy rác đến dị kỳ. Ánh sáng chiếu từ trên, giữa các ống khói. Bóng các mái nhà kế cận chồng chất lên nhau.
Bên trong là một trại... Dưới trại là một đống củi. Trên đống củi có một cái thang, vài bó rơm, một đống dây, một chuồng gà và một chuồng thỏ phế thải. Làm sao các chi tiết ô hợp đó lại chạy vào trí tưởng tượng của tôi? Tôi cũng không biết, không thấy một cảnh nào như vậy đê nhớ lại rồi vẽ ra. Ấy vậy mà mỗi một nét bút chỉ là một nét vẽ chững chạc được nghiên cứu cẩn thận. Không thiếu một cái ǵ hết!
Nhưng bên mặt, c̣n một góc bỏ trắng. Tôi không biết vẽ ǵ lên đó. Ḱa, có một vật ǵ thấp thoáng cử động. Bỗng nhiên tôi thấy một bàn chân, một bàn chân lật ngược, tách khỏi mặt đất. Mặc dầu vị trí đó không thể có được tôi vẫn theo sáng kiến đó, không hề hiểu rơ ḿnh sẽ vẽ ǵ đây. Bàn chân đó dính vào ống quyển... và trên ống quyển có một chéo áo...
Liền sau đó, một mụ già, xanh xao, tiều tụy, tóc rối bời té sấp trên bờ giếng trong khi chống cự với một nắm tay đang siết cổ mụ..Th́ ra tôi vẽ một bức tranh giết người. Ngọn bút rơi khỏi bàn tay tôi. Mụ già trong tư thế chống cự tận lực, nằm vắt lên thành giếng, mặt nhăn nhó v́ kinh hăi, hay tay bám chặt lấy cánh tay của kẻ sát nhân, mụ ta làm tôi hoảng sợ...
Tôi không dám nh́n mụ. Nhưng về phần tên sát nhân th́ tôi không thấy, trừ cánh tay. Tôi không thể kết thúc được bức tranh. Tôi tự nhủ: "Mệt rồi. Chỉ c̣n có nét mặt của tên sát nhân nữa mà thôi. Ngày mai ḿnh sẽ vẽ nốt. Dể mà!".
Tôi nằm xuống giường, hăy c̣n kinh sợ trước những ǵ vừa thấy qua nét vẽ của chính ḿnh. Năm phút sau, tôi ngủ như chết. Sáng hôm sau, tôi thức dậy khi trời hăy c̣n mờ tối. Vừa mặc quần áo xong và sắp sửa tiếp tục bức tranh bỏ dở th́ có hai tiếng gơ cửa.
Tôi lên tiếng:
- Cứ vào!
Cánh cửa mở. Một người đă già, cao, ốm, mặc toàn màu đen bước vào thềm. Hai mắt ông gần nhau quá, mũi ông quặp xuống như mũi két, trán ông rộng, xương xẩu. Gương mặt ông có vẻ nghiêm khắc, ông chào tôi, hỏi thật nghiêm:
- Ông là họa sĩ Christian Vénius?
- Chính tôi thưa ông.
Ông ta gật đầu một lần nữa, tự giới thiệu:
- Tôi là Nam tước Frederic Van Spreckdal!
Sự xuất hiện của ông Van Spreckdal, chánh án ṭa đại h́nh trước căn gác tối tăm của một họa sĩ vô danh khiến tôi thấy mất b́nh tĩnh. Tôi nh́n bàn ghế tồi tàn, sàn gác bụi bậm, xấu hổ trước cảnh nghèo của ḿnh. Nhưng ông Van Spreckdal không chú ư đến những chi tiết đó. Ông ngồi trước bàn nhỏ của tôi nói:
- Họa sĩ, tôi đến đây...
Nhưng, cùng lúc đó, hai mắt ông dừng lại trên bức họa chưa hoàn thành... ông không nói hết câu. Tôi ngồi trên chiếc giường tồi tàn và sự chiếu cố bất ngờ của nhân vật này dành cho một trong các tác phẩm của tôi khiến tim tôi đập mạnh v́ mối lo sợ khó nói.
Độ một phút, Van Spreckdal ngước đầu lên nh́n tôi thật chăm chú.
- Ông là tác giả bức họa kia?
- Dạ phải.
- Giá bức họa đó bao nhiêu?
- Tôi không bán các bức phác họa. Đó chỉ là một dự án.
Ông khách kêu lên một tiếng "A!" khi đỡ tờ giấy lên với mấy đầu ngón tay bằng vàng, ông lấy một kính phóng đại trong áo "gi lê" ra, bắt đầu nghiên cứu bức họa một cách trầm lặng. Ánh nắng mặt trời chiếu xiên xiên qua gác. Van Spreckdal không nói một lời nào, sống mũi ông quằm xuống, đôi mày ông cau lại.
Không khí hoàn toàn im lặng, tôi nghe rơ tiếng vo ve của một con muỗi mắc trong lưới nhện. Sau cùng, không nh́n tôi, ông hỏi:
- Khuôn khổ bức tranh này như thế nào?
- Bề ngang ba bộ, bề dài bốn bộ.
- Giá tiền?
- Năm mươi đồng "ducat".
Van Spreckdal đặt bức ảnh xuống, lấy trong túi chiếc ví dày màu xanh lá cây, giống như một quả lê. Ông trút các đồng tiền vàng ra:
- Đây, năm mươi "ducát".
Nam tước đứng lên chào tôi. Tôi nghe tiếng chiếc gậy cán ngà của ông nện trên các bậc thang gác. Khi ông ta xuống đến tầng dưới tôi mới hoàn hồn và sực nhớ chưa cảm ơn ông ta. Tôi chạy nhanh xuống năm tầng lầu. Nhưng ra tới đường, nh́n hai bên, con đường vắng tanh. Tôi hổn hển" "Lạ quá!", rồi hổn hển leo trở lên gác.
Sự xuất hiện đột ngột của Van Spreckdai khiến tôi ngây ngất bàng hoàng. Ngắm chồng "ducat" ngời sáng dưới ánh nắng, tôi ngẫm nghĩ:
"Hôm nay, ḿnh tính cắt cổ tự tử v́ mấy đồng "florin" không đáng, bây giờ th́ cả một sản nghiệp từ trên trời rơi xuống. Ḿnh không mở con dao cạo ra là phải! Và từ đây về sau, nếu có ư nghĩ tự tử nữa th́ ḿnh nên hoăn lại ngày hôm sau. Sau những cảm nghĩ đó tôi ngồi lại để tiếp tục vẽ nốt bức tranh. Chỉ cần bốn nét bút là xong.
Nhưng tôi thất vọng năo nề. Bốn nét bút đó tôi không vẽ được. Tôi mất tong cảm hứng. Nhân vật bí hiếm kia, tôi không thể nào h́nh dung ra mặt mũi. Tôi cố suy nghĩ, cố phác họa, nhưng không vẽ ra hồn. Tôi đổ mồ hôi có giọt.
Đúng lúc đó, tên quản lư bước vào pḥng tôi, không gơ cửa theo thói quen. Hắn nh́n chồng tiền vàng, kêu lên:
- A ha! Tôi bắt được quả tang ông có nhiều tiền vàng như thế này, thế mà ông bảo là không có tiền!
Và mấy ngón tay nhọn hoắt của hắn quờ quạng về phía đống tiền vàng trên bàn. Tôi ngẩn ngơ vài giây. Rồi chợt nhớ tên quản lư luôn hoạnh họe bấy lâu nay, tôi nhảy xổ tới thộp cổ hắn tống ra khỏi pḥng, rồi sập cửa, làm hắn dập cả mũi. Tất cả những việc đó xảy ra thật nhanh. Tôi nghe viên quản lư kêu ầm lên ở bên ngoài:
- Trả tiền đây! Đồ ăn cắp!
Những người mướn pḥng xung quanh đổ ra ngoài. Tiếng họ lao xao:
- Có việc ǵ vậy?
Tôi mở cửa thật bất ngờ, đạp mạnh vào mông tên quản lư khiến hắn lăn ùng ục xuống lầu, có đến vài mươi bậc thang. Tôi hét lên:
- Việc ǵ hả? Tôi tống cổ thằng đó xuống lầu. Chỉ có vậy thôi!
Xong, tôi khóa cửa lại trong tiếng cười của các bạn pḥng bên. Tôi rất hài ḷng về chuyện vừa làm, xoa tay thích thú. Chuyện xảy ra khiến tôi hứng chí. Tôi ngồi xuống toan tiếp tục vẽ th́ có tiếng động kỳ lạ. Đó là tiếng báng súng đặt xuống vỉa hè. Tôi nh́n qua cửa sổ, thấy ba cảnh sát, súng dựng dưới chân, đứng canh trước cửa nhà. Tôi lo sợ hỏi thầm:
"Thằng quản lư găy tay, lọi cẳng chăng?".
Các bạn có thấy điều kỳ quái trong đầu óc con người chưa. Ngày hôm qua tôi tính cắt cổ tự tử, mà bây giờ lại run rẩy khi nghĩ tới cảnh lính bắt về tội đạp tên quản lư té lầu! Có tiếng ồn ào trên thang lầu, tiếng chân người, tiếng súng khua, tiếng những lệnh truyền cộc lốc. Bỗng người ta cố mở cửa pḥng tôi. Cửa đă khóa. Có tiếng hô to:
- Mở cửa! Cho lính vào!
Tôi đứng lên, run rẩy, hai chân lảo đảo.
- Mở cửa!
Tôi có ư nghĩ muốn trèo lên mái nhà. Nhưng vừa ló đầu qua khung cửa sổ nhỏ bé, tôi giật thụt lùi, đầu óc choáng váng. Tôi thấy các cửa sổ ở tầng dưới với những cửa kính, những chậu hoa... dưới nữa là bao lơn, sau cùng là trụ đèn đường, bảng hiệu "Tônnelet Rouge" và sau hết là ba lưỡi lê sáng chóe đang chờ tôi rơi xuống đê đâm suốt từ ḷng bàn chân đến gáy.
Trên mái nhà đối diện có con mèo to, màu hung đỏ, núp sau ống khói ŕnh một đàn chim sẻ đang kêu chíu chít trên máng xối. Tôi không thể h́nh dung mắt con người có thể thấy thật rơ và nhanh đến vậy trong khi lo sợ. Bên ngoài người ta ra lệnh đến lần thứ ba:
- Mở cửa! Hay để người ta phá cửa đây!
Thấy trốn không được, tôi lảo đảo đến cửa... vặn khóa. Vụt một cái, hai cánh tay chụp lấy cổ tay tôi. Một người mập lùn, miệng đầy hơi rượu nói:
- Đây rồi!
Ông ta mặc áo xanh ve chai, gài nút tới cổ, để râu rậm, đeo đầy cà-rá và tên là Passauf. Hắn là cảnh sát trưởng. Bên ngoài có đến năm tên lính bồng súng nh́n tôi chăm chỉ. Tôi hỏi Passauf:
- Ông muốn ǵ?
Hắn quát:
- Xuống lầu!
Và ra lệnh cho một tên lính nắm tay tôi lôi đi. Mấy tên kia lập tức xông đến lục tung căn pḥng nhỏ bé của tôi. Tôi bước xuống lầu, dựa vào tên lính, như một kẻ ho lao đến thời kỳ thứ ba, tóc tai rối nùi, mỗi bước mỗi vấp.
- Tôi bắt anh!
Người ta vứt tôi lên xe ngựa, kẹp tôi giữa hai tên lính vạm vỡ. Khi chiếc xe chạy, tôi c̣n nghe có tiếng bước chân chạy theo của trẻ nhỏ. Tôi hỏi một trong hai người lính:
- Tôi bị bắt về tội ǵ?
Tên này nh́n tên lính kia, mỉm cười một cách khó hiểu, nói:
- Này Hana, nó hỏi nó bị bắt về tội ǵ ḱa?
Nụ cười đó khiến tôi sợ tái người. Không lâu, một bóng mát bao trùm lên chiếc xe. Tiếng chân ngựa vang dưới nền gạch khô khốc. Chừng như tôi đă được đưa tới khám đường. Đối với tôi, bây giờ cái ǵ cũng trở lên đen tối. Từ móng vuốt của tên quản lư, tôi rơi vào nơi ngục tối, nơi người vô th́ nhiều mà người ra th́ ít. Người ta giam tôi một cách thản nhiên như cất một đôi vớ trong tủ, rồi mặc kệ đó, nghĩ đến những chuyện khác.
Tôi ngồi bất động đến mười phút, nghĩ mông lung:
Thằng cha quản lư đă hét to: "Nó giết tôi" khi bị tôi đạp té xuống thang lầu. Nhưng hắn không nói rơ là ai giết hắn. Ḿnh sẽ khai thủ phạm là ông già bán kính ở kế bên. Lăo ta sẽ bị treo cổ thay cho ḿnh.
Ư nghĩ đó làm tôi bớt lo. Tôi nh́n xung quanh pḥng giam. Pḥng mới quét vôi, không có một h́nh vẽ nào trên tường trừ một h́nh cái giá treo cổ mà kẻ vào đây trước tôi đă vẽ. Ánh sáng bên ngoài chiếu vào qua một lỗ tṛn trên cao, cách mặt đất chừng ba thước. Đồ đạc trong pḥng chỉ gồm một cái ổ rơm và một cái chậu.
Tôi ngồi lên ổ rơm, hai tay bó gối, buồn thảm không tả nổi. Tôi nghĩ là tên quản lư trước khi chết đă tố cáo tôi. Tự nhiên tôi thấy nhột ở chân như có kiến ḅ và tôi ngẩng cổ lên, húng hắng ho như có sợi dây siết mạnh ở cổ.
Ngay lúc đó tên cai ngục mở cửa bảo tôi đi theo hắn. Tôi rùng ḿnh v́ lúc nào hắn cũng có hai tên đồ tể vạm vỡ theo sau. Chúng tôi đi qua mấy dăy hành lang dài. Tôi thấy sau lưới sắt tên Jic Jack sắp sửa bị hành quyết vào sáng hôm sau. Hắn mặc áo bó sát tay chào và hát lên với giọng khàn khàn. Khi thấy tôi hắn kêu lên:
- Chào người anh em! Tôi sẽ dành cho người anh em một chỗ ở phía bên mặt.
Hai tên lính và viên cai ngục nh́n nhau cười trong khi tôi nổi da gà.
Viên cai ngục đẩy tôi vào một gian pḥng cao, thật tối, có ghế sắp theo h́nh bán nguyệt. Pḥng vắng vẻ, có hai cửa sổ cao đóng lưới sắt kín mít và pho tượng chúa bằng gỗ nâu, hai tay dang ra, đầu ngả xuống vai. Cảnh tượng đó khiến tôi hoang mang cực độ. Tất cả ư nghĩ vu khống trước đó bỗng dưng biến mất. Đôi môi tôi mấp máy cầu nguyện.
Đă từ lâu tôi không cầu nguyện, nhưng tai biến luôn luôn khiến con người khuất phục trước đấng vô h́nh.
Trước mắt tôi, trên ghế cao là hai nhân vật ngồi quay lưng về phía ánh sáng. Dù vậy tôi cũng nhận ra Nam tước Van Spreckdal nhờ cái bóng ông in trên cửa kính.
Nhân vật thứ hai mập, má đầy thịt, hai bàn tay ngắn. Hắn cũng mặc áo thẩm phán như ông Van Spreckdal. Người phía dưới là lục sự Conrad. Hắn đang cho cán viết vào đầu lỗ tai. Khi tôi đến hắn dừng tay lại, nh́n tôi một cách ṭ ṃ. Người ta bảo tôi ngồi xuống. Van Spreckdal cao giọng hỏi:
- Christian Vénius, làm sao anh có bức ảnh này?
Ông ta đưa lên bức tranh tôi vẽ chưa xong. Người ta trao bức tranh đó cho tôi. Sau khi xem, tôi đáp:
- Tôi là tác giả.
Im lặng khá lâu, rồi lục sự Conrad ghi lời nói của tôi. Tôi nghe ng̣i bút của ông ta cào trên giấy và tôi nghĩ:
"Câu hỏi đó có nghĩa ǵ? Nó có liên quan ǵ đến việc tôi đập thằng cha quản lư đâu!"
Van Spreckdal lại hỏi:
- Anh là tác giả, chủ đề của bức tranh là ǵ?
- Đó là bức tranh tưởng tượng.
- Anh có thấy các chi tiết này ở đâu không?
- Thưa không. Tất cả các chi tiết đều do tôi tưởng tượng.
Ông chánh án nói với giọng nghiêm khắc:
- Bị can Christian! Tôi yêu cầu anh nêu suy nghĩ cẩn thận. Đừng có nói dối!
Đỏ mặt, và với giọng bất b́nh tôi kêu to:
- Tôi nói sự thật!
Van Spreckdal nói:
- Lục sự ghi vào biên bản.
Ng̣i bút lại chạy rần rật trên giấy. Ông chánh án lại hỏi:
- C̣n người đàn bà này. Người đàn bà mà người ta giết bên miệng giếng, anh cũng tưởng tượng ra nốt?
- Đúng vậy!
- Anh không hề nh́n thấy bà ta?
- Không hề!
Van Spreckdal đứng lên, bực ḿnh. Nhưng ông ta ngồi xuống tham khảo ư kiến đồng nghiệp. Hai bóng đen thẩm phán nổi bật lên trên nền sáng của cửa sổ, và ba người đứng sau lưng tôi. Không khí trong pḥng im lặng đến ngột ngạt... tất cả đều làm cho tôi hoang mang lo sợ đến bải hoải. Tôi nghĩ thầm:
"Họ muốn ǵ ở ḿnh?
Bỗng Van Spreckdal nói với ba người lính:
- Đưa hắn lên xe. Chúng ta tới đường Metzrstrasse.
Rồi ông nói với tôi:
- Christian Vénius. Anh đang ở trong t́nh thế ngặt nghèo. Nếu anh thấy công lư của loài người cứng rắn th́ anh chỉ c̣n chờ sự tha thứ của Chúa. Anh sẽ xứng đáng với t́nh thương của Chúa nếu anh thú tội.
Lời nói đó như búa bổ vào đầu tôi. Tôi ngă người ra sau, đưa tay lên trời kêu to:
- Trời ơi! Thật là một cơn ác mộng!
Rồi tôi ngất xỉu. Khi tôi tỉnh lại, chiếc xe đang chầm chậm trên đường. Phía trước có một chiếc xe khác. Hai tên đồ tể vạm vỡ vẫn luôn kè kè bên tôi. Một tên mời bạn hút thuốc. Tôi đưa tay về phía bao thuốc, hắn vội vàng giựt tay lại, cho vội bao thuốc vào túi.
Mặt tôi đỏ lên v́ xấu hổ. Tôi quay đầu vào vai che giấu cơn xúc động. Bỗng tên lính có bao thuốc nói:
- Nếu anh nh́n ra ngoài chúng tôi bắt buộc phải c̣ng tay anh lại.
Tôi nghĩ thầm:" Quỷ sao không vật mày chết cho rồi!".
Chiếc xe dừng lại. Một tên bước xuống. Tên c̣n lại nắm cổ tôi, khi thấy tên kia đă sẵn sàng để đón tôi, hắn đẩy tôi xuống xe một cách tàn nhẫn. Tất cả những sự thận trọng đó cho thấy con người tôi đích thị là một kẻ bất lương. Nhưng tôi vẫn chưa hiểu rơ lời buộc tội từ phía hai ông thẩm phán. Bỗng một cảnh tượng ghê gớm mở mắt tôi ra, đẩy tôi vào tận cùng tuyệt vọng.
Người ta đẩy tôi bước vào một con đường thấp, lót gạch lồi lơm, tường rỉ nước vàng, mùi hôi thối xộc vào mũi khiến tôi choáng váng. Tôi ṃ mẫm đi giữa bóng tối, phía sau có hai tên lính vạm vỡ áp giải. Đằng xa thấp thoáng một cái sân rộng. Càng đi tới gần tôi càng kinh sợ. Không phải một sự lo sợ thông thường, mà đó là một sự khiếp đảm ghê gớm, giống như một cơn ác mộng. Tôi chỉ muốn lùi lại, chứ không thể bước được. Một tên lính đẩy mạnh vai tôi, ra lệnh:
- Bước tới chứ!
Đến đầu hành lang, tôi thấy trước mắt cái cảnh mà tôi vừa vẽ trong đêm qua. Đúng là cái sân ở giữa những bức tựng dày, có những móc sắt, những đống sắt vụn, chuồng gà, chuồng thỏ... không có một chi tiết nhỏ nào bị bỏ quên. Tôi như bị sét đánh ngang tai trước hiện tượng kỳ lạ đó.
Hai ông thẩm phán đứng bên cạnh miệng giếng. Dưới chân họ nằm sóng sượt một mụ già. Mụ nằm dưới tóc tai rối bời, mặt tái ngắt, hai mắt mở trừng trừng, lưỡi thè giữa hai hàm răng. Thật là một cảnh tượng kinh tởm. Van Spreckdal nói với giọng trịnh trọng:
- Sao, anh nghĩ ǵ?
- Anh có nhận đă ném mụ già này? Mụ Thérésa Beker xuống giếng sau khi bóp cổ giựt tiền của mụ ta?
Tôi gào to lên:
- Không! Tôi không biết mụ già này. Tôi không hề nh́n thấy mụ ta. Xin Chúa chứng cho tôi!
Van Spreckdal gắt:
- Thôi, bao nhiêu đó đủ rồi!
Không nói thêm một lời, ông cùng bạn đồng nghiệp bước nhanh ra. Hai tên lính nghĩ là họ có bổn phận c̣ng tay tôi lại. Họ đưa tôi trở về khám. Trong cơn bàng hoàng, lúc đó tôi hoàn toàn hoang mang, không biết có đúng là ḿnh đă giết mụ già kia hay không.
Đối với những tên lính gác, tôi rơ ràng đă là một tên tử tội.
Tôi không kể ra đây cơn xúc động của tôi trong đêm đầu tiên nằm khám. Tôi ngồi thừ trên ổ rơm, nh́n qua khung cửa sổ nhỏ, thấy đoạn đầu đài xa xa. Tôi nghe tiếng người gác đêm kêu to lên trong thanh vắng:
"Hỡi dân chúng Nuremberg. Hăy yên giấc. Một giờ!... Hai giờ!... Ba giờ!...".
Tôi thắc mắc, nghĩ ngợi nhiều. Người ta bảo thà bị xử giảo vô tội c̣n hơn là có tội. Đúng! Nhưng đó là về phần hồn. C̣n về phần xác th́ chết vô tội hay có tội cũng y như nhau. Trái lại, phần xác vẫy vùng, tự giải thoát khi biết vai tṛ của ḿnh đă chấm dứt bằng sợi dây thắt cổ. Đó là những cảm nghĩ buồn thảm của tôi trong đêm ghê gớm ấy.
Ngày dần dần sáng, thoạt tiên c̣n mờ mờ rồi từ từ sáng tỏ. Bên ngoài, đường phố nhộn nhịp. Ngày hôm ấy nhằm ngày thứ sáu, ngày nhóm chợ. Tôi nghe rơ mồn một tiếng cọc cạch của xe ḅ chở rau cải, gà vịt. Tiếng gà kêu trong chuồng, tiếng những người nông dân tṛ chuyện với nhau khiến ḷng tôi lâng lâng.
Khu chợ trước mặt khám đă mở cửa. Người ta chắc đang sửa soạn chỗ ngồi. Khi ngày sáng rực, tiếng cười nói của dân chúng vang lên. Những người đi chợ lui tới, bàn căi, mặc cả giúp tôi đoán bây giờ vào khoảng tám giờ sáng. Với ánh sáng, tôi yên tâm hơn. Những ư nghĩ đen tối trong đêm biến mất. Tôi cảm thấy thèm thấy những ǵ đang xảy ra bên ngoài.
Những người tù trước tôi đă đục những lỗ hổng trên tường để leo lên khung cửa sổ cho dể. Tôi leo lên đó, đút đầu qua cái lỗ tṛn nh́n ra ngoài. Tôi thấy đám đông, sự sống. Tự nhiên tôi chảy nước mắt. Tôi không nghĩ tới tự vẫn nữa. Tôi cần sống, cần thở. Đó thật là một điều phi thường. Tôi lầm bầm:
"Được sống là hạnh phúc. Dù người ta bắt ḿnh kéo xe hay xiềng chân vào sắt cũng mặc, miển sống được là được rồi!".
Tôi lại nh́n sang chợ, nh́n những mụ già đang ngồi sau những thúng rau, giỏ gà... rổ trứng. Các người hàng thịt đang chặt thịt trên thớt. Mấy anh nông dân đầu đội nón nỉ rộng vành, chống gậy, chắp tay sau lưng hút thuốc. Tiếng động của đám đông, sinh hoạt náo nhiệt của chợ giúp tâm trí tôi biết suy nghĩ và trong hoàn cảnh buồn thảm hiện tại tôi vẫn thấy sung sướng được c̣n sống trong thế giới loài người.
Khi tôi nh́n ra ngoài như vậy, có một người đi ngang qua. Hẳn là một tên đồ tể, đang nghiêng lưng vác một phần con ḅ trên vai. Hai cánh tay trần, khuỷu tay đưa lên trên, đầu cúi xuống. Tóc bay phất phới che kín cả mặt. Dù vậy, vừa thấy hắn ta là tôi đă giựt nảy ḿnh. Tôi nói thành tiếng:
- Chính hắn!
Tất cả máu trong người tôi chạy dồn về tim. Tôi leo xuống, toàn thân run rẩy đến cả đầu móng tay, tái xanh hết cả mặt mày, lẩm bẩm:
- Chính hắn!
Trong khi hắn tự do phây phây th́ ḿnh sắp chết thay cho hắn! Chúa ơi! Bây giờ tôi phải làm ǵ? Phải làm ǵ? Một ư nghĩ đột ngột, một sáng kiến từ trên cao lóe lên trong trí tôi. Tôi cho tay vào túi áo... hộp bút ch́ hăy c̣n trong đó. Tôi liền chạy ngay lại bức tường dày, vẽ lại khung cảnh xảy ra vụ ám sát với một hứng thú lạ thường, không c̣n có sự mơ hồ, dọ dẫm.
Tôi biết kẻ sát nhân. Tôi trông thấy hắn dường như hắn đang làm mẫu trước mắt tôi. Vào khoảng mười giờ, viên cai ngục bước vào khám giam. Nét mặt chim cú thường ngày của hắn nhường chỗ cho sự thích thú. Bước trên thềm hắn hỏi:
- Có thể như thế chăng?
Tôi vẫn tiếp tục ngồi vẽ với tất cả sự phấn chấn tột cùng.
- Đi gọi các ông thẩm phán đến đây giùm tôi!
Tên cai ngục ngần ngừ:
- Các ông ấy đang chờ nơi pḥng biện lư.
Tôi vẫn chăm chú vẽ nhân vật kỳ lạ trong bức tranh nói:
- Tôi muốn tiết lộ nhiều điều mới lạ với các ông thẩm phán. Nhân vật tôi vẽ như sống thật. Bộ mặt hắn rất đáng sợ.
Tên cai ngục bước ra ngoài. Vài phút sau hai vị thẩm phán tới. Họ đứng nh́n bức tranh, kinh ngạc đến cực độ. Tôi đưa cánh tay ra, cả người run rẩy, nói:
- Đây là thủ phạm!
Sau khi im lặng một lúc, Van Spreckdal hỏi:
- Tên hắn?
- Tôi không biết. Nhưng hắn hiện ở trong chợ, đang chặt thịt ở thớt thứ ba, bên trái nếu đi từ con đường Trabans vào chợ. Van Spreckdal quay lại ông bạn đồng nghiệp:
- Ông nghĩ sao?
Ông thẩm phán kia trịnh trọng bảo:
- Cho người đưa hắn tới đây.
Vài tên lính đứng ngoài hành lang thi hành lệnh đó. Các thẩm phán vẫn đứng nh́n bức tranh của tôi. C̣n tôi, tôi ngồi vật xuống ổ rơm, đầu gục lên gối mệt nhoài như chết. Không bao lâu có tiếng chân vang lên bên ngoài. Những ai chưa hề chờ giải thoát, chưa đếm từng phút dài như những thế kỷ, những ai chưa biết đến xúc động cực mạnh của sự chờ đợi, của sự kinh hăi, của sự hy vọng, của hoang mang... những kẻ đó không thể thông cảm được rúng động của tôi lúc bấy giờ.
Tôi nghe cả tiếng chân của tên sát nhân bước giữa đám lính. Tôi nghe họ tiến tới gần. Ngay cả hai vị thẩm phán cũng lộ vẻ xúc động. Tôi ngước đầu lên, tim se lại như có một bàn tay sắt đang siết chặt. Tôi nh́n chăm chú vào cánh cửa mở... Tên sát nhân bước vào.
Má hắn đỏ rực, hai hàm răng cắn chặt làm nổi bật hai thớ thịt, bạnh đến tận vành tai. Hai con mắt ti hí lo ngại, dữ tợn chợt như hai con mắt sói, long lanh dưới đôi chân mày rậm và nâu. Van Spreckdal chỉ bức tranh cho hắn xem. Vừa nh́n, hắn tái mặt, rồi rú lên một tiếng dữ dội làm tất cả chúng tôi lạnh người.
Đôi cánh tay vạm vỡ của hắn gạt bung mấy tên lính ra. Rồi hắn nhảy lùi ra đằng sau mấy bước. Một cuộc xung đột ác liệt diễn ra ở hành lang. Người ta chỉ nghe tiếng thở hổn hên của tên đồ tể, những lời nói ngắn ngủi và tiếng chân của lính gác đổ lên. Cuối cùng là tiếng rơi nặng nề xuống sàn gạch. Cuộc xung đột xảy ra hơn một phút. Sau đó, tên sát nhân bước vào pḥng, đầu cúi xuống, mắt đầm đ́a máu, tay bị trói thúc ra sau lưng.
Hắn ngước nh́n bức tranh lần nữa, ra dáng suy nghĩ lung lắm, rồi nói nho nhỏ như nói với chính hắn:
- Làm sao lại có người trông thấy ḿnh vào lúc nửa đêm?
Vậy là tôi thoát chết!
Erckmann Chatrian
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 242 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:25pm | Đă lưu IP
|
|
|
PHÁN QUAN MẶT XANH
Chu Nhĩ Đán là học tṛ ở Lăng Dương, tính t́nh rất hào phóng nhưng kém thông minh nên học siêng mà vẫn không giỏi. Một hôm cùng bạn học ngồi uống rượu, có kẻ đùa với Đán:
Anh muốn nổi tiếng th́ đêm nay đến đền Thập Vương cơng tượng ông Phán quan về đây, chúng tôi xin đăi rượu.
Ngôi đền Thập Vương ấy thờ các tượng thần bằng gỗ sơn son thếp vàng và tô vẽ y như người sống, phía Đông có pho tượng Phán quan đứng , mặt xanh râu đỏ trông rất hung dữ.
Bạn bè thách Đán v́ trong vùng có lời đồn rằng ông Phán quan nầy rất thiêng, hằng đêm hành lang phía Đông vẫn nghe có tiếng tra khảo quát tháo, mọi người sợ hăi nên không ai dám đến gần.
Đán gật đầu nhận lời.
Nhóm bạn ngồi đợi một lát th́ thấy Đán gọi cửa:
Tôi rước ngài Phán về đây rồi!
Ai nấy đều sửng sốt bàng hoàng. Đán ôm tượng Phán quan vào nhà, đặt ngồi trên ghế rồi rót rượu mời uống. Cả bọn sợ quá, năn nỉ Đán cơng trả tượng về đền.
Đán cứ mặc kệ nhóm bạn, cầm ly rượu khấn rằng:
Tiểu sinh vô lễ xin tôn sư dung thứ. Nhà tiểu sinh cách đền ngài không xa, nếu chứng giám ḷng thành, kính thỉnh ngài ghé chơi.
Khấn xong Phán ung dung cơng tượng Phán quan về đền.
Nhóm bạn thua cuộc phải hùn nhau làm tiệc đăi Chu rất hậu. Chiều tối hôm ấy, khi đă ngà say Chu lảo đảo đi về nhà, nhưng tửu hứng vẫn c̣n nên Đán rót rượu uống một ḿnh.
Đột nhiên có người xô cửa bước vào, nh́n kỹ th́ là Phán quan.
Đán hốt hoảng đứng dậy:
Ngài đến xử tội vô lễ của tiểu sinh hôm qua chăng?
Phán quan mỉm cười:
Hôm qua cậu hẹn tôi đến chơi, cảm ḷng tốt của cậu nên hôm nay rănh việc đến đấy mà.
Đán mừng rỡ, vội vàng lấy thêm chén đĩa rồi hối vợ con mau kiếm thêm thức nhắm. Vợ Đán hoảng sợ níu lấy chồng khuyên đừng uống rượu với Phán quan nữa. Đán không nghe cứ chén tạc chén thù với người bạn mới.
Hỏi thăm tên họ, Phán quan đáp:
Chỉ cần biết tôi họ Lục là đủ.
Chuyện văn một hồi, khi bàn đến văn chương chữ nghĩa, Lục đều làu thông kim cổ, ứng đối rất lưu loát. Đán hỏi:
Về văn chương trường thi ngài có sành không?
Cơi âm học không khác ǵ cơi dương nên tôi cũng biết đôi chút.
Tửu lượng của Phán quan rất cao, thường uống một hơi cạn mười chung lớn.
Riêng Đán suốt ngày đă uống với chúng bạn, giờ đây lại uống thêm nữa nên nhanh chóng say mềm, gục xuống bàn.
Lúc Đán tỉnh lại th́ ngọn đèn trên bàn đă tàn, c̣n người bạn thần đă đi mất rồi.
Từ đó, khoảng vài ngày Lục phán quan lại ghé thăm Đán, t́nh bạn ngày càng thắm thiết, có đêm ngủ ở lại nằm gác lên nhau mà chuyện văn.
Đán đưa văn bài của ḿnh cho Lục phê duyệt, Lục thường chê là kém.
Một đêm, Đán say quá, đang uống rượu với Phán quan th́ Đán vật ra nằm, mặc cho Lục một ḿnh ngồi uống.
Trong lúc say mèm Đán mơ màng nằm ngủ, chợt chàng thấy ruột gan hơi nhói đau. Đán mở choàng mắt th́ thấy Lục đă ngồi chồm hổm bên cạnh, và đang mổ bụng chàng, moi ruột gan của chàng ra xếp riêng từng bộ phận, Đán kinh sợ hỏi:
Là bạn bè, sao ngài nỡ hại tôi thế?
Lục cười đáp:
Đừng sợ, tôi thấy ông tối dạ quá nên đổi tặng ông trái tim sáng đây.
Nói rồi từ tốn xấp ruột gan của Đán vào bụng lại, lấy tay chà thịt cho dính liền với nhau rồi dùng vải bó quanh bụng.
Công việc xong rồi Đán nh́n lên giường thấy không dây một chút máu, chỗ bụng bị xẻ chỉ hơi tê tê. Thấy có cục thịt đỏ hỏn trên bàn Đán hỏi là cái ǵ. Lục đáp:
Chính là trái tim của ông. Sở dĩ văn bài ông kém v́ trái tim này bị bế tắc. Gần đây dưới cơi âm tôi kiếm được trái tim rất sáng suốt nên đem về thay cho ông, c̣n trái tim cũ của ông, tôi phải đem về thế vào trái tim tôi đă lấy đi.
Nói xong Phán quan tạm biệt.
Sáng hôm sau, Đán tháo chỗ vải bó, chàng thấy vết mổ đă liền hẳn, chỉ c̣n lờ mờ vết đỏ.
Từ dạo đó, văn chương của Đán hay lên hẳn, chau chuốt lạ thường, phàm đọc sách chỉ cần Đán liếc qua một bận là đă nhớ. Đưa văn bài mới cho Lục xem, Lục khen:
Hay lắm. Nhưng ông không có số đại khoa, chỉ đậu đến cử nhân thôi.
Nhưng bao giờ th́ tôi mới đậu?
Chỉ trong năm nay.
Mấy tháng sau có khoa thi, Đán lều chơng đi thi, quả nhiên khoa ấy trúng giải nguyên.
Các bạn học cũ xưa nay vẫn cười Chu học hành tối dạ, nay xem quyển thi của chàng đều kinh ngạc khen hay.
Họ nài ép Chu nói rơ nguyên do rồi đua nhau xin được làm quen với Lục.
Lục vui vẻ nhận lời cả.
Cả bọn liền làm một tiệc thịnh soạn, nhờ Đán mời Lục đến. Đầu canh một Lục đến thật, mặt xanh râu đỏ y như tượng mà hai mắt sáng như điện. Nhóm bạn nh́n bộ dạng sợ mất vía, không ai dám đùa giỡn câu ǵ, sau đó dần dần rút đi hết. Chỉ c̣n Đán với Lục phán ngồi đối ẩm với nhau.
Rượu vào ngà ngà, Đán mới nói:
Ơn ngài thay cho trái tim tôi xin ghi dạ nhưng vẫn lấy làm tiếc một việc, chẳng biết phiền ngài được không?
Lục chưa biết việc ǵ nhưng cũng hứa sẽ giúp, Đán thú thật:
Tim ruột thay được th́ chắc mặt mũi cũng có thể thay. Không giấu ǵ ngài, trước đây tôi vẫn hận là vợ tôi không phải người xấu nết, tiếc mặt nàng không được đẹp. Phiền ngài giúp việc thay đổi ấy, ngài nghĩ sao?
Lục cười nhận lời nhưng xin hẹn thư thả.
Vài bữa sau Phán quan đến gơ cửa nhà Đán giữa đêm. Ông vội vàng mở cửa bước vào. Khi thắp đèn sáng Đán mới thấy Lục ôm theo một gói lớn, hỏi gói ǵ, Lục đáp:
Tôi vẫn nhớ việc ông nhờ. Kiếm măi mấy bữa mới được cái đầu mỹ nhân, xin đem tới để đổi cho vợ ông.
Rồi Lục giở gói ra, bên trong là một cái đầu người đẹp c̣n tươi rói, máu ở cổ vẫn c̣n chảy giọt.
Lục hối mau bắt tay vào việc kẻo sáng khó ḷng.
Đán dẫn vào pḥng vợ, cửa pḥng tự động mở như đă chờ sẵn.
Vợ Đán đang nằm ngủ nghiêng một bên. Lục đưa gói đầu cho Đán ôm rồi rút một lưỡi dao sáng mỏng như giấy, một tay đè lên cổ vợ Đán, một tay cắt nhẹ nhàng thuần thục như người chuyên nghiệp, thoáng cái đầu vợ Đán đă ĺa ra khỏi ḿnh.
Rồi chớp nhoáng Lục đă lắp đầu mới cho vợ Đán, lấy tay chà liền vết ráp chung quanh để da liền lại. Cái đầu cũ của vợ Đán, Lục sai Đán đem chôn ở nơi kín đáo.
Xong việc, Lục vội vă đi ngay.
Sáng hôm sau, vợ Đán tỉnh dậy thấy cổ hơi ngứa, sờ lên thấy máu đă đặc lại, vô cùng hoảng sợ nhưng vẫn không biết chuyện ǵ.
Đến khi lấy nước rửa mặt thấy chậu nước đỏ ngầu máu nàng lại càng kinh dị hơn. Sau đó nàng soi gương và thấy mặt mũi ḿnh đă hoàn toàn đổi khác, mới kêu toáng lên. Đán phải giải thích cặn kẽ cho vợ biết, vợ yên tâm dần, rồi thấy ḿnh đẹp như tiên nên rất vui vẻ.
Nguyên cái đầu ấy là của con gái viên quan họ Ngô, một hôm đi lễ đền Thập Vương gặp một tên du đăng, hắn thấy nàng quá đẹp liền theo dơi, biết nhà nàng, đang đêm hắn leo tường vào. Khi leo vào đến cửa pḥng nàng, gặp một con tỳ nữ, nó bèn đâm chết rồi xông vào. Cô gái chống cự la hét dữ quá, nên thằng vô lại không c̣n đường nào khác bèn chém nàng một dao đứt đầu.
Cả nhà hốt hoảng thắp đèn chạy đến th́ thấy đầu nàng đă rời khỏi cổ, đành khóc lóc mà phủ xác nàng trong pḥng.
Sáng hôm sau họ mở tấm vải liệm th́ thấy xác c̣n nguyên mà cái đầu đă biến mất. Mẹ nàng kêu khóc chửi mắng người nhà v́ tội không coi sóc cẩn thận để bị chó tha đầu đi mất.
Quan trên cho truy lùng nhưng sau đă ba tháng vẫn không t́m ra thủ phạm.
Giữa lúc ấy chuyện thay h́nh đổi dạng của vợ Đán đồn đến tai viên quan họ Ngô.
Ngô sinh nghi sai gia nhân lén đến nhà Đán t́m hiểu, bọn gia nhân thấy mặt vợ Đán giống hệt con gái của họ Ngô nên kinh sợ về báo lại.
Ngô nửa tin nửa ngờ, nhưng không có chứng cớ nên chẳng biết quyết định ra sao, trong bụng chỉ nghi Đán dùng ma thuật giết con gái ḿnh. Bèn đến tra vấn Đán, Đán đáp:
Tôi chưa hề gặp con gái ông, vậy làm sao bảo tôi thù oán giết nàng? Chuyện vợ tôi nằm mộng thấy bị thay đầu th́ có liên quan ǵ đến con gái ông?
Ngô ức, kiện lên quan trên.
Cả nhà Đán phải ra trước công đường. Mọi người t́nh thật khai báo, nhưng quan không có chứng cớ ǵ để ghép tội Đán.
Ở công đường về, Đán mời Lục đến kể rơ sự t́nh, Lục bảo:
Khó ǵ việc ấy, để tôi khiến cho con gái họ tự nói sự thật th́ ai mà không tin?
Ngay đêm đó Ngô nằm mộng thấy con gái về khóc nói:
Việc con chết không liên hệ ǵ đến họ Chu đâu, con bị tên Dương Đại Niên giết chết rồi Lục phán quan thấy con có nhan sắc nên lấy đầu con ráp vào vợ của Đán. Tuy chết rồi nhưng đầu con vẫn c̣n sống, như thế con cũng măn nguyện rồi. Xin cha đừng kiện cáo mà oan cho người.
Ngô dậy kể giấc mộng cho vợ nghe, vợ bảo cũng nằm mơ giống như vậy. Ngô bèn tŕnh quan, quan cho bắt liền tên Dương Đại Niên, hắn bị tra khảo chịu không nổi, khai ra sự thật.
Ngô lại t́m đến Đán xin được nhận vợ là con và Đán là con rể, lại xin cái đầu cũ của vợ Đán đem ráp vào ḿnh con gái rồi tống táng rất trọng.
Ba lần sau Đán đi thi hội đều phạm trường quy không đậu.
Một đêm, Lục phán đột ngột đến nói với Chu:
Ông sắp măn số rồi.
C̣n bao lâu?
Năm ngày nữa.
Có cách cứu được không?
Lục bảo:
Mạng trời đă định, sức tôi làm sao được? Vả chăng, sống chết như nhau, chưa chắc sống là sướng mà chết là khổ.
Đán liền sắm trước quan tài, xong xuôi rồi lên giường nằm chờ chết.
Hôm ấy, vợ Đán ôm xác chồng khóc lóc thê thảm, bỗng thấy Đán lững thững ở cửa đi vào. Vợ Đán hoảng kinh th́ chàng ôn tồn:
Tôi là ma đây, nhưng có khác ǵ người sống? Tôi đă chết rồi, nhưng ḷng c̣n băn khoăn v́ cảnh nhà vắng vẻ nên không sao đi hẳn được.
Vợ Đán khóc lăn ra chiếu, chàng phải vỗ về măi. Vợ than:
Nghe ngài Lục phép tắc thần thông, sao ông không cầu xin cho sống lại với vợ con?
Đán trả lời:
Mạng trời ai dám căi được?
Thế ông sẽ làm ǵ ở âm ty?
Lục phán quan có tiến cử tôi vào một chân quan nhỏ, nên cũng nhàn nhă, không có ǵ khổ cả.
Rồi Đán kêu lên:
Lục phán đi cùng với tôi về, hăy liệu lo cơm rượu.
Vợ chàng theo lời, dọn cơm rượu cho chồng rồi xuống nhà dưới. Nghe trên nhà có tiếng nói cười va chạm cốc chén như hồi chồng c̣n sống.
Lát sau nàng nh́n lên th́ thấy cả hai đă biến mất từ lúc nào.
Đán cách vài ngày lại về một lần, sắp xếp việc nhà không khác ǵ lúc sống.
Khi con Đán được mười lăm tuổi, học trường quận Đán mới bớt về nhà. Đêm nọ Đán nói:
Từ nay tôi sẽ không về nữa.
Vợ hỏi tại sao, chàng đáp:
Thượng đế bổ nhiệm tôi vào chức mới cách xa đây vạn dặm, không thể về thăm được.
Vợ Đán than khóc, chàng nói:
Khóc chẳng được ǵ. Ở đời có ǵ tồn tại măi đâu? Nay sinh kế ở nhà đă ổn, con cái trưởng thành rồi, tôi yên ḷng mà đi xa.
Nói xong Đán ra cửa đi luôn.
Từ đó không bao giờ chàng trở về nữa.
Bồ Tùng Linh
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 243 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:26pm | Đă lưu IP
|
|
|
CÓ MA KHÔNG?
Miền Nam mưa nắng hai mùa. Ở thôn quê vào khoảng tháng 8, tháng 9 Âm lịch, th́ bầu trời ui ui ảm đạm, mưa rỉ rả, gió lành lạnh thổi. Sáng mưa rơi, trưa sụt sùi, chiều đổ lệ... Bà nội tôi thường nói:
“Mưa ǵ mà mưa ngày, mưa đêm, mưa thúi trời thúi đất, không làm ăn ǵ được ráo!”.
Ông bà cha mẹ lo mùa màng bị mưa dai dẳng sũng nước làm úng gốc, vàng mầm... th́ cây trái, rau cải sẽ không được tươi tốt. Gạo nếp mà thất mùa th́ thôn dân sẽ phải chạy gạo mệt cầm hơi chớ phải chơi đâu!
Ấy vậy mà bọn con nít chúng tôi chịu lắm! Bởi sau khi cơm nước cho buổi chiều xong. Ngoài trời mưa vẫn c̣n giọt ngắn giọt dài. Gió thổi hiu hiu, lâu lâu hắt mạnh mưa rào rào vào vách nhà. Và thỉnh thoảng có tiếng sấm gầm gừ, từng vệt sét nổ ṛn tan, lóe ánh sáng rồi phụt tắt. Mọi nhà đều lên đèn, là lúc gia đ́nh tôi, nhứt là mấy chị em tôi rất hạnh phúc.
Ba tôi ngồi vót lạc tre, hay đan rổ. Má tôi khâu lại mấy chiếc áo sút nút, hay sứt đường chỉ. Chị em chúng tôi ngồi quanh bên bà nội đứa th́ bóp tay, đứa th́ đấm lưng hay bóp chân, và miệng eo éo đ̣i bà kể chuyện đời xưa. Các chị lớn của tôi th́ bao giờ cũng có nhiều ư kiến. Chị Hai tôi bảo:
- Kể chuyện ma đi bà nội.
Tôi cũng lên tiếng đ̣i:
- Nội kể chuyện đời xưa đi. Chuyện đời xưa hay hơn.
Chị Ba tôi là đứa xảnh xẹ nhứt nhà, thường hay ăn hiếp tôi. Chị quay sang nguưt tôi con mắt có đuôi rồi bảo:
- Ngày nào mầy cũng đ̣i nội kể chuyện: Con Tấm Con Cám, Chàng Nhái Kiển Tiên, Nàng út Ống tre, Thạch Sanh Lư Thông... Nghe hoài mấy chuyện đó bộ mầy không biết chán sao? C̣n tao nghe riết rồi thuộc ḷng luôn. Mầy muốn nghe hôm nào tao sẽ kể cho mầy nghe tối ngày sáng đêm. Bây giờ hăy để nội kể chuyện ma. Nội kể chuyện ma hay lắm. Kể chuyện ma cho chúng cháu nghe đi nghen nội
Thấy tôi đỏ mắt, v́ vô cớ bị chị nạt. Bà nội tội nghiệp cô cháu gái nhỏ nầy, nên rầy chị và dỗ dành tôi:
- Cháu đừng nạt em như vậy. Thôi để bà nội kể chuyện ma rồi chút nữa vô mùng bà sẽ kể chuyện: “Đờn kêu tích tịch t́nh tang, ai đem công chúa lên thang mà về? Tôi cảm thấy được nội ưu đăi hơn các chị nên khoái chí mỉm cười gật đầu bằng ḷng. Chị Ba tôi có vẻ ghen tức nên xụ mặt và không quên ném cái háy nẩy lửa, trề cái môi dài cả thước về phía tôi.
Hai chị tôi đă lớn nên biết nịnh bợ. Khi xong cơm nước, muốn nghe kể chuyện đời xưa, là họ đă chuẩn bị cho nội b́nh trà nóng, những lá trầu vàng tươi mơn mởn mới hái và vài trái cau dầy ruột đỏ ḷng son đă chẻ sẵn để trong khai cho bà.
Nội tôi khoan thai phết lớp vôi trắng mỏng lên một phần của lá trầu vàng. Bà từ từ cuốn lá trầu lại để vào miệng nhai nhỏ nhẻ với miếng cau dầy. Rồi bà tằng hắng, lấy giọng kể:
- Ma là hồn của người chết không được thầy chùa tụng niệm hướng thiện, không được gia đ́nh cúng kiếng nên đói khổ vất vưởng bên ngoài thành ma. Hoặc người lúc sống làm những chuyện sát nhơn ác đức nên khi chết xuống Âm Phủ bị phạt làm ma. Không được đầu thai làm người hay con vật hoặc đồ vật khác... Trong số các loại ma, có ma cà rồng là hung dữ nhứt.
Bà tôi dừng lại, vo tṛn cục thuốc xỉa để vào giữa hai môi rồi độn lên mép môi trên. Tôi xích gần lại bà hơn. Chị Hai, chị Ba tôi nh́n bà châm bẩm, không nói năng ǵ. Bà chẩm răi tiếp:
- Ma thường nhảy nhảy trên mặt đất, chớ gót nó không đi chấm đất như người đời được. Ma c̣n thẳng một đường chớ không chạy nhảy quanh co được. Đó là những con ma hiện được h́nh... C̣n ma không có h́nh mà chỉ có hồn lẫn lộn trong mưa, trong gió, chỉ có cái bóng nó ẩn hiện cho người ta thấy trong lúc không có ánh sáng mặt trời nhứt là vào những đêm tối mưa gió lạnh lùng.
Bỗng chị Hai tôi lên tiếng :
- Hồi nào đến giờ nội có thấy ma chưa nội ?
- Chưa! Bà chưa bao giờ thấy ma, người ta nói ai yếu bóng vía hoặc gần chết mới thấy ma.
Chị Ba tôi xen vào:
- Vậy thật sự có ma không nội? Con nghe chú Bảy Cho ở xóm trong bảo là đêm hôm qua trời đánh cây da xà trên đ́nh. V́ cây da có cái bọng to lắm, lâu nay bọn ma quỷ trú ẩn ở trỏng, và con tắc kè tu lâu năm thành quỷ kêu rang rảng trong những đêm khuya. Ma quỷ thường hay phá phách ai ban đêm đi qua.
Hoặc ai đi chợ sớm đội trái cây trên đầu, th́ chúng ngồi vắt vẻo trên nhánh cây tḥ tay xuống lấy... Hôm sau trên các cành cây đầy bánh trái. Chú Bảy nói là sau trời đánh đêm qua, sáng ra không thấy xác người hoặc con vật chết mà thấy máu me dính đầy chung quanh gốc cây! Chú c̣n bảo đó là máu của quỷ ma nữa... Thiệt là dễ sợ quá hả bà?
Chị Hai tôi càm ràm, nhăn mặt :
- Thôi mầy đừng có hỏi nữa! Cứ đâm xuồng bần vô hoài hà, để nội kể con ma cà rồng cho mà nghe.
Bà nội kể:
- Ma cà rồng dữ lắm, có nhiều cách để gạt người. Nó hiện h́nh được, nó đi được, chạy nhảy được, nó thành bóng hiện trong gió, trong tối và nhứt là nó hiện thành người nào đó để gạt người mà khó ai có thế phát giác ra được. Người ta kể rằng:
Trong gia đ́nh đó cưới được con dâu. Cô dâu mới giỏi, lễ phép, kính trên nhường dưới. Vui vẻ với mọi người. Trong gia đ́nh chồng ai cũng thương mến. Một hôm ông chồng phát giác ra đêm đó vợ ḿnh đi đâu mất tiêu gần sáng mới về.
Bởi từ khi cưới vợ đến giờ, ông không để ư vợ ông tối nào cũng cho ông uống thuốc bổ, nhưng thật ra đó là thuốc ngủ cho ông đến sáng, nên ông mê man tàng tịch không hay biết chi cả. Tối hôm đó bà cũng cho ông uống, nhưng ông lỡ tay làm đổ, sợ vợ trách nên làm thinh không nói. Ngủ giữa khuya, thức giấc ông thấy cái đầu vợ ông tự động tách ra khỏi ḿnh, rồi lẹ làng lông lốc lăn đi. Ông sợ điếng hồn, nhưng cũng chạy theo phía sau coi cái đầu lăn đi đâu, và làm ǵ?
Tôi đă ngồi vào ḷng bà hồi nào tôi không hay biết. C̣n hai chị tôi th́ mỗi người ngồi sát và nắm lấy vạt áo bà cứng ngắc. Cả ba chị em chúng tôi như nín thở để nghe bà kể:
- Ông chồng lặng lẽ theo sau, thấy vợ lăn xuống nhà cầu ngoài sau vườn ăn sạch... Ông mới nhớ là những người nhà ông, dạo nầy bị ma cà rồng ăn phân th́ trở nên xanh xao vàng vọt ốm đau hoài.
Bà dừng lại uống nước. Chị Hai tôi thúc:
- Rồi sao nữa bà?
- Ông chồng mới nhờ ông Pháp sư giỏi bắt ma quỷ về làm phép. Dân làng xúm lại bắt bà ta trói rồi chất lửa đốt. Bà ta bị đốt nóng khóc ỉ ôi. Đến khi lửa cháy đứt mất dây cột, bà nhe hàm răng nanh ra cười ha hả rồi bay mất dạng...
Chị Hai tôi lo sợ, hỏi vội:
- Rồi sao nữa nội? À, hèn ǵ con thấy nhà cô Hai Hụ chung quanh nhà bả bỏ chà chôm bằng nhánh tre gai. Chắc là để cho ma cà rồng không vào được chớ ǵ?
Bà nội tôi chưa trả lời th́ chị Ba lấy tay của chị lạnh ngắt thọt vào lưng phía trong áo của chị Hai và sửa giọng la lớn: “ma cà rồng đây!”. Chị Hai tôi nhảy dựng lên và hét lớn! V́ vừa sợ vừa giựt ḿnh! Thế là hai người vừa căi vừa đánh lộn rầm rầm. Ba tôi nổi giận, lôi ra đánh mỗi người mấy roi và cấm từ rày cả hai không được đ̣i bà nội kể chuyện ma cho nghe nữa!
Mấy năm sau, hai chị tôi có chồng ở xa. Tôi theo gia đ́nh về chốn thị thành v́ ba tôi đổi về làm việc ở đó. Và cứ mỗi năm, sau lễ Bắc (Paques, lễ Phục Sinh) đến mùa hè, các trường được nghỉ. Học sinh không bận rộn nhiều thi cử, th́ tôi được ba má cho về ngoại ở suốt mùa hè. Ba má tôi nghĩ, về quê có không khí trong lành, ăn trái cây, rau đậu mới hái, cá tôm tươi, được hít thở hương đồng cỏ nội sẽ giúp nhiều cho cơ thể c̣m cơi nay đau mai yếu của tôi.
Tôi nhớ con sông Mỹ Đức Đông chảy quanh thôn ngoại. Có bóng dừa, cau, xoài, mận, g̣n, me keo, ô môi... xanh um, gie ra che mát dọc theo hai bên bờ sông có chỗ uốn quanh, có chỗ dài mút mắt. Nước sông trong vắt, mát rượi và ngọt quanh năm từ nhánh sông Tiền Giang chảy vào.
Nhờ ḍng sông nầy mà thôn ngoại tôi trù phú. Bởi sông cho nhiều thủy sản ngon, hiền cùng phù sa để nuôi mầm lúa mạ. Sông dài nối liền những con sông khác chuyên chở gạo nếp, trái cây tôm cá đưa ra thị thành và tải về các loại đồ sành, đồ gốm từ Lái Thiêu đưa tới. Đường Thốt Nốt, khô, mắm lóc từ miệt Cà Mau, Tân Châu, Hồng Ngự chở sang
Tôi không sao quên được nơi ngă ba sông có ngôi nhà lá nhỏ của chú Năm Chài. Thím Năm người nhỏ, dáng gầy ốm và nước da xanh xao. Trên đầu thím luôn đội cái khăn sọc vằn trắng đen cũ màu đă lợt phai. Gia đ́nh chú Năm có chú thím, và 2 đứa con. Đứa con gái lớn 15 tuổi giúp hết mọi việc trong nhà cho thím quanh năm cứ eng eng đau bịnh. Thằng con út 15 cũng phụ giúp nhiều trong việc chài lưới phụ với cha trong sinh nhai của gia đ́nh.
Vào mùa hè năm đó, tôi ở khoảng 16 hay 17 tuổi. Mợ dâu tôi đang ngồi chẻ cau để phơi khô, mợ đă kể rằng :
- Hôm qua mợ lên xóm trên nghe bà Bảy Rỗ nói vợ ông Năm Chài bị “mắc đàng dưới”. Thiệt hèn ǵ bả cứ bịnh hoài.
Ngoại tôi hỏi mợ:
- Bây nghe ai nói vậy? Tội nghiệp, nó mắc phải cái ngữ như vậy (sau tôi mới biết bà ngoại không dám nhắc đến mắc đàng dưới), có môn chờ bà Thủy kéo chớ không làm ǵ hết được?
Mợ dâu tôi trả lời:
- Con nghe nói hôm rằm vừa qua có ông Pháp sư ở đâu núi Điện Bà thuộc Châu Đốc xuống thăm sư cụ trên chùa đi ngang qua nhà thím. Ông sanh nghi, bắt ấn biết ngay thím bị thứ đó. Nghe nói chú Năm và các con chú đến lạy sư cụ nhờ nói với ông Pháp sư cứu thím. Nhưng ông Pháp sư trả lời là quá trễ rồi, ngày giờ thím đi không c̣n bao lâu nữa...
Là một đứa trẻ sống ở tỉnh thành nên tôi nghĩ tại sao bị bịnh mà không đưa đến bác sĩ hoặc đến nhà thương khám bịnh để trị. Ở đó tin ông thầy chỉ đi ngang qua mà nói thôi. Nhưng 2 hôm sau, tôi thấy mợ dâu tôi đi đâu về mà mặc áo bà ba đen, đầu tóc chải gọn gàng. Hỏi ra, tôi mới biết mợ đi đám ma thím Năm Chài!
Mợ c̣n kể cái chết lạ lùng của thím Năm Chài cho cả nhà nghe vào buổi cơm chiều hôm đó:
- Ở xóm không ai c̣n lạ thím Năm Chài bịnh rề rề quanh năm suốt tháng. Nghe ông Pháp Sư nói ai cũng bán tính bán nghi. Nhưng chú Năm và hai đứa nhỏ con chú rất tin khi nghe Pháp Sư nói: “Phải canh giữ bả vào giờ... đêm.... đừng cho bả rời mọi người nửa bước nhứt là đừng cho bả đến gần sông, gần rạch. Nếu qua khỏi đêm đó th́ bả tự nhiên hết bịnh và sẽ sống lâu trăm tuổi...”.
Chú Năm và hai đứa nhỏ túc trực bên thím. Tối trước khi đi ngủ th́ cửa đóng then gài. Chú nằm ngang cửa trước, đứa con trai th́ nằm cửa sau. C̣n con gái th́ ngủ chung mùng với thím. Vào đúng đêm cấm kỵ đó, khi chùa dộng trống, chuông công phu sáng rộn ră, nhưng ngoài trời vẫn c̣n tối thui. Con gái thím la hoảng lên là thím đi đâu mất rồi... Cha con chú đánh mơ la làng, cḥm xóm chạy đến đi t́m kiếm giùm...
Sáng khi mặt trời lên, người ta phát giác thím Năm Chài nằm chết dưới băi śnh, bên đám ô rô ở bờ sông trước nhà.Lúc đó tôi bắt đầu thấy ơn ớn xương sống. Nhưng tôi hỏi:
- Mắc đàng dưới là bịnh ǵ vậy ngoại?
Ngoại tôi có vẻ e ngại. Bà đến bên bàn Phật đốt nhang lâm râm cầu nguyện ǵ đó rồi bà dè dặt nói cho tôi nghe:
- Người ta đồn ai mà chạng vạng (trời vừa tối) đi tắm sông, hay sáng sớm mà nh́n xuống nước cười với bóng ḿnh th́ sẽ bị Hà Bá bắt. Nếu bắt cả thân xác không được th́ sẽ bắt hồn rồi sẽ bắt thân xác sau như thím Năm đó.
- Hà Bá là ai? Và bắt người ta để làm ǵ vậy ngoại?
- Đó là ma quỷ ở dưới nước. Bà nghe người ta nói Hà là sông nước, c̣n Bá là bá vương là người có quyền hạn lớn. Nó tóm lại là một con quỷ có nhiều quyền lực ở dưới nước. Nó bắt người để làm kẻ hầu người hạ làm nô lệ, hoặc để dành ăn thịt.. Nhứt là những đứa con gái chưa chồng, mà đêm hôm tắm sông, hay bọn trẻ tối ngày trầm nghịch dưới nước th́ không nên đâu đó...
Rồi có những chuyện ma được kể trong nhân gian ở miệt quê th́ đủ loại, đủ thứ, đủ thiên h́nh vạn trạng... Người nghe mà rùng ḿnh rỡn óc. Nghe không dám bước xuống giường. C̣n nằm ở trên giường th́ trùm mền kín mít, không dám bỏ ra dù trời nóng và mồ hôi đổ ra như tắm. Họ c̣n nói những nơi có nhiều ma nhứt là những cây cao bóng mát có từ mấy chục năm quanh đ́nh, miễu, chỗ có người thắt cổ tự vận, khúc sông có người chết ch́m...
Thời gian đó đă qua mấy mươi năm rồi. Bà nội, bà ngoại và những người thân yêu của tôi đă lần lượt qua đời. Và bây giờ hai chị tôi cũng đă ra người thiên cổ.
Lúc ở quê nhà, suốt mười mấy năm làm việc ở nhà thương cho đến năm bảy lăm. Những người chết oan khuất v́ bom đạn lúc nào cũng có. Và v́ nghề nghiệp ngày nào tôi cũng thấy người chết, có khi họ chết trên tay ḿnh trong lúc cấp cứu. Người ta nói, ở trong bệnh viện, nhà xác là nơi nhiều ma nhứt. Có người đă bị ma nhát, hoặc có kẻ đă gặp ma kêu đói, kêu lạnh...
Nhiều lúc trực đêm, có việc tôi cũng phải đến nhà xác... Nhưng đi với một vài người nên tôi không thấy ma. Thậm chí nhân viên bệnh viện đồn bà y công B bị ma nhập lên đồng. Nhưng tôi cũng chưa thấy bà lên đồng lần nào. Và có nhiều người tin ở cầu cơ rất linh biết chuyện quá khứ vị lai. Nhưng tôi cũng chưa có dịp ngồi vào bàn cơ để cầu như họ, hoặc nh́n người khác đang cầu cơ, mà chỉ nghe nói thôi.
Nay sống ở vùng đất tạm dung, tôi đọc sách vở của ngoại quốc kể về những chuyện ma quỷ và xem phim ảnh nhiều chuyện ma thật là rùng rợn... Những chuyện ma quỉ trong các lâu đài cổ kính, trong các ngôi biệt thự của các băng đảng có tiếng từ mấy chục năm... Những hồn ma, những con ma bị giết, bị thanh toán kêu oan. Không biết đó có phải là sự ăn năn của những kẻ đă hành động, nay đến tuổi sắp ĺa đời kể lại bằng sách vở, hoặc bằng phim ảnh hay không.
Lúc c̣n ở quê nhà, và nay ở xứ người cũng vậy. Cứ mỗi năm vào rằm tháng bảy Âm lịch, là chùa chiền, đ́nh miễu và có khi ở các nhà buôn bán thường cúng thí rất lớn vào dịp cúng cô hồn những hồn ma vất vưởng không nơi nương tựa. Và vào tháng 10 Dương lịch đă vào mùa thu. Tiết trời lành lạnh, mưa rơi rỉ rả, lá vàng tan tác rơi đầy đường đầy sá.
Trước sân nhà đa số là nhà dân bản xứ họ dựng bia mộ, làm nghĩa trang cùng treo những cái ḥm, treo những h́nh ảnh ma quỷ. Và cuối tháng 10 vào ngày Halloween, th́ trẻ con người lớn hóa trang thành những h́nh thù quái dị, đến từng nhà gơ cửa xin bánh, kẹo... Và trong dịp nầy, cũng có nhiều cơ sở mở đại hội hóa trang để ăn nhậu, vui chơi...
Nhiều sách vở, hoặc trên các báo chí Việt ngữ tôi đă đọc được ở đâu đó, hoặc nghe thuật lại, kể lại về những chuyện ma như là: Ma đội mồ, ma thần trùng, ma da, ma cà rồng,... C̣n có cả ma chó, ma mèo, ma trâu, ma ngựa...
Và ở đây, gần như chúng ta nghe thấy hiện tượng của các nhà bắt ma thu được cho chiếu trên màn ảnh truyền h́nh, có cả máy thu nghe được tiếng nói, tiếng kêu cứu, tiếng cười, tiếng khóc ỉ ôi của ma nữa!...
Nhưng theo nhận xét của riêng tôi th́ đó chỉ là những âm thanh na ná giống chớ không phải là một giọng nói rơ ràng. Và cũng không thấy ma mà chỉ tưởng tượng. Bởi không có ǵ xác định đó là ma cả?
Nếu ai hỏi tôi :
- Từ nhỏ cho đến bây giờ cô đă thấy ma chưa?
Tôi xin trả lời rằng:
- Thật sự tôi chưa thấy ma.
C̣n nếu hỏi cô tin có ma không?
- Tôi xin mượn câu trả lời của người xưa: “Nếu tin th́ có! C̣n nếu không tin th́ không có...”.
Dư Thị Diễm Buồn
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 244 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:27pm | Đă lưu IP
|
|
|
TRỊ BỆNH
Đây là bài viết về những con người thật, cùng những sự việc có thật. Tuy nhiên sau hơn 23 năm nhớ lại, thật khó nhớ chính xác những khoảng thời gian, nên những năm, tháng trong bài viết chỉ là tương đối. V́ tôn trọng cuộc sống riêng tư của những người được nói đến trong bài viết, tôi đă không dùng tên thật, hoặc cố tránh dùng tên khi viết.
V́ dự định sẽ viết thêm vài bài nữa, không biết c̣n dám viết nữa không! có cùng không gian và con người trong bài viết này, và để khỏi phải nhắc lại những chi tiết lặt vặt trong các bài viết sau, nên bài viết này bắt đầu bằng những mô tả dài ḍng về một xóm nhỏ, và con người ở đó, không có ǵ là huyền thuật hết! Thôi th́ đối với quư vị sống xa quê, hăy xem như đó là một chút ǵ để nhớ quê hương. Đối với quư vị sanh ra và lớn lên ở nước ngoài, cứ xem như là chút tư liệu về quê hương Việt Nam vậy.
Gia đ́nh tôi dọn nhà về đây sau mùa hè năm 71, một xóm nhỏ giống như muôn ngàn khu xóm trong các thành phố Việt Nam vào đầu thập niên 70. Xóm tôi nằm dọc theo con hẽm dài, chiều ngang hẹp, chỉ vừa đủ cho một chiếc xe lôi, hoặc xe ba gác chạy vào. Nhà cửa cất san sát nhau, lẩn lộn giữa nhà tường, nhà lá và nhà cây.
Cuối hẻm là một khu nghĩa địa lớn. Người lạ đến đây sẽ nghĩ ngay rẳng, con hẽm chấm dứt ở khu nghĩa địa, nhưng thật ra qua khỏi khu nghĩa địa c̣n thêm vài gia đ́nh nữa. Con hẽm thật sự chấm dứt ở một ngă rẽ đi vào một con hẽm khác. Mặt trước của con hẽm là lộ cái, chạy dọc theo bờ một nhánh sông rộng.
Dân trong xóm thuộc đủ thành phần, đa số là người lao động làm đủ mọi nghề từ phu khuân vác, chạy xe lôi, đến mua gánh, bán bưng kiếm sống từng ngày. Phần c̣n lại là vài gia đ́nh có cơ sở làm ăn, buôn bán lớn, nhỏ. Vài gia đ́nh công chức. Vài gia đ́nh quân nhân may mắn được làm việc tại thành phố. Vài gia đ́nh thuộc viện ”tứ đổ tường”.
Cha, mẹ tôi dạy con theo nguyên tắc ”kính cổng, cao tường”, không cho tôi lê la với trẻ con trong xóm, sợ bị lây những tật xấu như chữi thề ngỗ nghịch. V́ vậy từ khi dọn về con hẽm này cho đến bốn năm sau, năm 75, tôi mới biết được hết bà con lối xóm.
Trong bốn năm đầu tôi chỉ biết rơ vài gia đ́nh hàng xóm đối diện và bên cạnh nhà tôi. Có những anh thanh niên tôi chỉ nghe tên, nhưng chưa bao giờ thấy mặt. Họ là những người lính trận ít khi về thăm gia đ́nh. Có người trong số họ vĩnh viển không về với người thân nữa. Gia đ́nh họ nhận được giấy thông báo mất tích, để từ đó sống khoắc khoải trong hy vọng, một ngày nào đó họ sẽ trở về như lời các thầy bói, đồng, bóng ”người nam này chưa chết đâu, đang ở xa, sẽ trở về”.
H́nh ảnh đă in sâu vào kư ức tuổi thơ tôi là cảnh trở về của một anh thanh niên trong xóm, tôi chưa từng biết mặt. Ngày về với gia đ́nh anh nằm im trong chiếc quan tài phủ lá quốc kỳ, do bốn quân nhân khiêng từ đầu hẽm vào. Không biết vô t́nh hay cố ư, nhà kế bên đă mỡ lớn bài hát ”Kỹ vật cho em”. Tôi đă có cảm giác rợn người khi nh́n chiếc quan tài và nghe lời hát ”anh trở về có khi bằng ḥm gỗ cài hoa”.
Nhà tôi gần đầu hẻm, chiều chiều tôi thường đứng trước cửa nh́n bà con lối xóm trở về sau một ngày làm việc. Một số đàn ông sau khi về nhà, thay quần đùi, đi ngược ra đầu hẽm để xuống bến sông tắm. Có người dẫn theo con cái. Đó là khoảng thời gian ồn ào nhất của xóm tôi. Người ra vào chào hỏi, nói chuyện cười đùa khá nhộn nhịp.
Đứng nh́n người ra vào trong giờ cao điểm, tôi dần nhận ra những khuôn mặt của bà con lối xóm, trong đó có bác Lục. Bác Lục tuổi trung niên, dáng người cao lớn vạm vỡ, mặt chữ điền, đôi mắt sáng quắc dưới cặp lông mày dài rậm. Trái ngược với dáng dấp ”hầm h́” bác ít nói luôn có vẽ suy tư. Giọng nói to rổn rảng, được bác điều chỉnh vừa đủ nghe khi tiếp chuyện với người khác. Tuy ít nói bác rất vui vẽ, ḥa nhă và sẵn sàng giúp đở bà con trong xóm.
Lúc đó tôi chỉ biết bác Lục làm trong ngành giao thông vận tải. Bác làm tài xế tự lái chiếc xe lớn của bác. Bác thường vận chuyển đường gần sang các tỉnh thành lân cận, sáng đi chiều về. Ít khi bác ở nhà v́ phải vận chuyển đường xa. Bác Lục gái là một người nội trợ hiền lành, cũng ít nói như chồng. Gia đ́nh bác Lục thuộc viện đông con nhưng khá giả. Sau này tôi được biết thêm, bác Lục trước kia ở một miền quê, cùng với anh em, dọn đến con hẽm này lập nghiệp lâu rồi.
Thêm một thời gian, tôi được biết trong hẻm có một bà già, sống bằng nghề bói bài, tự cho là xác cô, được hồn một cô gái nhập, nên bói bài rất linh nghiệm. Sự thật tôi không biết xác cô bói bài linh nghiệm như thế nào, chỉ thấy các thân chủ là người từ nơi khác đến, c̣n người trong xóm không đến nhờ xác cô.
Có chăng chỉ là vài thanh niên rắn mắc khi dư tiền, chẳng biết làm ǵ đến nhờ xác cô xem bói bài. Âu cũng là một h́nh thức nữa chọc ghẹo mua vui, nữa giúp đỡ người láng giềng già qua việc cúng tiền sau khi xem bói.
Thỉnh thoảng có một người Chà lớn tuổi ghé tạm trú nhà một người trong xóm trong chuyến buôn vải. Khi th́ ông đến một ḿnh, lúc ông đến với người con trai cao lớn vạm vỡ, lúc khác lại đến với đứa cháu gái c̣n nhỏ. Nghe người trong xóm th́ thầm ông là một thầy bùa.
Cuộc sống tưởng chừng như cứ thế tà tà trôi qua như h́nh ảnh những người hàng xóm về ngang qua cửa nhà tôi mỗi buổi chiều, không ngờ bất chợt thay đổi hoàn toàn vào cuối tháng tư năm 75. Sau tháng tư năm75 vài gia đ́nh bán nhà về quê làm ruộng, nhưng dân số trong xóm vẫn tăng lên đến mức đáng kể. Những anh thanh niên, trung niên trước là lính trận theo đơn vị lưu lạc khắp nơi, nay trở về với gia đ́nh mang theo vợ con. Một số thanh thiếu niên, nam, nữ trước ở nhà bà con tại Sài G̣n hoặc các thành phố khác học hành, hoặc làm việc nay cũng về với gia đ́nh.
Gia đ́nh tôi cũng thay đổi theo thời cuộc đổi thay. Tôi vẫn tiếp tục đi học, nhưng không gian của tôi đă mỡ rộng ra khắp xóm. Sau một thời gian lê la khắp xóm, sang năm 76 tôi phát giác ra một điều khá thú vị về bác Lục. Bấy giờ tôi mới biết rơ bác Lục vừa là một thầy bùa, vừa là người rất giỏi trị bệnh bằng thuốc nam.
Có lẽ những người sống lâu năm trong xóm này đều biết bác Lục là thầy bùa, dạy thần quyền, nhưng tôi không nghe ai nói đến việc này. Việc tôi biết về bác Lục, chỉ là lẽ đương nhiên phải xăy ra theo sự thay đổi của thế cuộc.
Thời đó, không biết ở các tỉnh thành khác ra sao, nhưng nơi tôi sống các vơ đường đều bị đóng cửa. Thanh thiếu niên muốn học vơ pḥng thân, không có chỗ học, dần dần chuyển sang học thần quyền. Lúc bấy giờ huyền thuật cũng bị cấm. Nhưng thần quyền dễ dạy và học lén, dễ tránh sự kiểm soát của công an và chánh quyền địa phương.
Có lẽ thời gian sau tháng tư năm 75 đến 80 là khoảng thời gian môn thần quyền được thanh thiếu niên miền tây biết đến nhiều nhất. Thuốc tây trở nên khan hiếm. Người bệnh lên trạm xá phường, chỉ được khám sơ sài, rồi được phát cho một gói Hà Thủ Ô, hoặc Xuyên tâm Liên mang về nấu uống.
Bệnh nặng muốn vào bệnh viện phải xin giấy giới thiệu ở phường, mới được nhập viện, mà lên phường th́ chắc chắn sẽ được đưa qua trạm xá phường… để lảnh Xuyên Tâm Liên. Để tránh cái ṿng lẫn quẫn phiền phức đó, người có tiền khi bệnh sẽ đến nhà y tá, bác sĩ để khám bệnh, chích thuốc. Nhưng dù bác sĩ, y tá có giỏi đến đâu đi nữa, cũng không thể trị lành những chứng bệnh ngặt nghèo khi không có thuốc.
Những người bệnh nặng, trong cơn tuyệt vọng quay sang t́m các thầy thuốc nam, thuốc bắc hoặc thầy pháp, thầy bùa. Trong hoàn cảnh đó bác Lục đương nhiên trở thành người sáng giá. Cũng vào năm 76 chiếc xe của bác Lục đă bị quốc hửu hóa, đưa vào quốc doanh. Bác Lục bị sa thải. Có lẽ nhờ vào của cải dành dụm trong những năm khá giả, nên gia đ́nh bác Lục vẫn sống tà tà.
Bác Lục th́ không có vẽ ǵ lo lắng ngồi nhà chờ thời. Nhân lúc rảnh rổi bác luyện thêm pháp thuật, dạy thần quyền và trị bệnh. Đầu tiên là những anh thanh niên lớn tuổi trong xóm, đến xin học thần quyền, chúng tôi gọi nôm na là ”vô bùa”, rồi đến những anh nhỏ tuổi hơn xin được vô bùa.
Dần dần đa số thanh thiếu niên trong xóm đều là đệ tử của bác Lục, v́ bác rất dễ tánh, đa số những người xin vô bùa đều được bác nhận lời. Chỉ có vài người, không biết bác thấy thế nào mà không chấp nhận. Lạ một điều là trong số vài người không được chấp nhận đó có cả cháu ruột, gọi bác là cậu!
Và có lẽ theo lối suy nghĩ của vài thanh niên khác trong xóm th́ ”Phật trong nhà không linh”, nên họ đă t́m thầy nơi khác học đạo. Có người lặn lội đến một tỉnh nào xa lắc để học thần quyền. Khác với việc nhận học tṛ, bác Lục không bao giờ từ chối chữa bệnh, khi người bệnh t́m đến.
Để tránh rắc rối với chánh quyền, khi vô bùa cho đệ tử mới, hay tẩm (vô thêm bùa, luyện quyền cho các đệ tử đă nhập môn) cho đệ tử cũ, bác Lục mượn pḥng khách của một gia đ́nh ở cuối hẽm, sau khu nghĩa địa. Nhưng khi trị bệnh th́ bác Lục trị tại nhà, phần v́ mượn chỗ dạy thần quyền dễ, mượn chỗ trị bệnh khó, phần v́ người bệnh đă quá yếu đuối khi t́m đến bác, việc di chuyển bệnh nhân đến nơi khác rất khó khăn.
Cách trị bệnh của bác hơi lạ. Sau khi trừ tà đuổi ma ra khỏi người bệnh, bác vô bùa cho bệnh nhân để thần, tổ hộ mạng không cho tà ma trở lại nhập xác người bệnh. Và người đó đương nhiên trở thành đệ tử của bác, có thể luyện thần quyền nếu thích.
Sau này nghe con trai và đệ tử bác kể lại, hồi bác c̣n nhỏ ở dưới quê bị bệnh nặng, tưởng khó thoát khỏi tay tử thần. May mắn trong lúc thập tử nhất sanh gặp một vị thầy bùa gốc người Thái Lan sống tại Việt Nam chửa lành bệnh và vô bùa cho bác.
Về sau vị thầy này thấy bác siêng năng luyện tập nên đă truyền hết huyền thuật và cách trị bệnh bằng thuốc nam cho bác. Như vậy cách trị bệnh của bác giống với cách của thầy bác, từ đó tôi suy gẫm ra, có lẽ đây là đặc điểm của môn phái của bác Lục.
Từ khi biết rơ về bác Lục, tôi thường theo bác để xem bác trị bệnh, vô bùa cho đệ tử, và xem các đệ tử của bác luyện thần quyền. Nói ngay lúc đầu tôi xem để giải trí, v́ cái TV nhà tôi đă ra chợ trời từ lâu rồi. Tôi tháp tùng với người trong xóm xem ké TV nhà bác Lục. Thời đó cứ hôm nay có điện, th́ ngày hôm sau không có điện, lâu lâu c̣n bị cúp điện đột xuất hai ngày liền.
Những đêm không có điện bác Lục thường dẫn đệ tử đến căn nhà sau khu nghĩa địa để vô bùa. Tôi biết được theo xem cho … đỡ buồn. Có hôm bác phải trị cho người bệnh, không mở TV, th́ tôi xem bác trị bệnh cũng là cho … đở buồn. Dần dần tôi xem cho thỏa trí ṭ ṃ, và sau cùng tôi xem cho thỏa ḷng say mê huyền thuật.
Thật ra lâu lâu mới có một người đến nhờ bác Lục chữa bệnh. Phần lớn những người đến với bác điều bị liệt khi được người nhà khiêng đến. Điều lạ lùng là những người được bác trị đều lành bệnh. Trong số đó có một anh trong xóm, nhà rất nghèo bệnh nằm liệt một chỗ không đi lại được. Bà con lối xóm người bảo là trúng gió kẻ nói trúng tà. Anh ta được bác Lục trị lành bệnh, sau nầy mạnh khỏe đi lại b́nh thường và c̣n đủ sức hành nghề xe đạp ôm.
Tôi đă chứng kiến những lần chữa bệnh của bác Lục, nhưng những lần chữa bệnh đó không để lại trong tôi ấn tượng ǵ sâu sắc. Cho đến một ngày của năm 1977. Có một người đàn bà ẳm đứa con trai bệnh nặng đến xin bác Lục chữa trị. Đứa nhỏ chỉ c̣n da bọc xương nước da xanh xám. Nó yếu đến độ không nói năng đi đứng ǵ được.
Nghe nói đứa bé đứa bé đă được tám, chín tuổi ǵ đó, nhưng v́ bệnh lâu ngày, chỉ c̣n trơ xương và da, nên trông như một đứa bé mới chừng năm, sáu tuổi. Thằng bé ở dưới quê, h́nh như cùng quê với bác Lục, đă hết cách chạy chữa, nên mẹ nó mới ẳm nó, lặn lội đường xa đến nhà bác Lục.
Lần trị bệnh đầu tiên cho thằng bé, bác Lục cũng làm giống như khi trị cho những người bệnh khác. Bác đặt nó trên chiếc giường lớn, đúc bằng bê tông. Chiếc giường này chiếm phân nữa pḥng khách nhà bác. Dưới giường là trảng xê (hấm trú ẩn để tránh đạn trong thời chiến). Ban ngày chiếc giường này là chỗ dùng cơm (mọi người ngồi xếp bằng hoặc chồm hổm trên giường ăn cơm). Ban đêm chiếc giường này là giường ngũ. Chiếc giường này c̣n là nơi bác vô bùa, luyện thần quyền cho các đệ tử trong những ngày mưa gió hay v́ một lư do nào đó, bác không dẫn đám đệ tử đến căn nhà cuối xóm.
Sau khi chuẩn bị đồ nghề là một cây roi dâu tằm ăn (cây dâu người nuôi tằm trồng lấy lá cho con tằm ăn) dài khoảng 1,5 m tṛn cở ngón tay út, đặt trái cây lên bàn thờ tổ, đốt nhang, khấn vái xong, bác Lục tay phải cầm ba nén nhang đến bên thằng bé. Rồi tay phải với ba nén hướng về phía thằng bé, bác dùng ba nén nhang vẽ bùa, miệng th́ đọc thần chú.
Tay vừa vẽ xong chữ bùa th́ thần chú cũng vừa dứt. Thằng bé đang yếu ờ, yếu ợt, nằm nhắm mắt bổng dưng ngọ ngoạy uốn éo như một con rắn. Bác Lục liền ra lệnh ”mau xuất ra khỏi người này”. Thằng bé vẫn tiếp tục ngọ ngoạy một lúc rồi nắm im, bác Lục lại tiếp tục tay vẽ bùa, miệng đọc thần chú rồi ra lệnh.
Mười phút trôi qua, chẳng có chút tiến triển khả quan nào. Bác Lục bèn đổi chiến thuật, tay trái chụp lấy cây roi dâu, tay phải vẫn cầm ba nén nhang hướng về phía thằng bé vẽ bùa, miệng vẫn đọc thần chú, rồi vừa ra lệnh ”mau xuất ra” bác vừa vụt roi dâu vào người thằng bé.
Bị roi dâu quất vào người, thẳng bé ngọ ngoạy uốn éo nhanh hơn, một lúc sau lại nằm im. Cảnh dằng co này kéo dài đến lúc gần tàn ba nén nhang trên tay, th́ bác Lục ngưng buổi trị bệnh. Bác dặn ḍ người mẹ thằng bé mang nó về, t́m vài món thuốc nam cho thằng bé uống, chờ đến ngày rằm (15 âm lịch) th́ mang nó đến cho bác trị tiếp.
Tôi không nhớ rơ mấy lần trị bệnh sau đó, v́ lư do ǵ mà tôi không có mặt. Nhưng dù không có mặt tôi vẫn đoán ra những lần trị kế tiếp, bác Lục sẽ cúng rượu và 1 con gà luộc, để con ma nhập xác thằng bé, phần được ăn uống no say, phần sợ bị đánh bằng bùa và roi dâu, phần bị các vị thần, do bác Lục mời về đuổi ma, sẽ xuất ra khỏi người thằng bé.
Nhưng sự thật không dễ dàng như tôi nghĩ. Và cũng có lẽ đây là một trong những con ma dữ dằn nhứt bác Lục gặp từ trước đến giờ. Trải qua bao lần chữa trị, thằng bé vẫn trơ trơ như lần đầu tiên mẹ nó ẳm nó đến t́m bác Lục. Đến nước này th́ phải làm mạnh tay.
Trước ngày thằng bé đến trị bệnh, bác Lục đă gọi anh Ngọc, người học mới nhập môn hơn một năm, cũng ở trong xóm tôi đến gặp bác. Bác Lục dặn anh phải có mặt trong ngày rằm sắp tới để cùng bác chữa bệnh cho thằng bé. Bác cũng dặn ḍ anh những điều cần thiết trong lúc chữa bệnh.
Anh Ngọc chỉ mới nhập môn hơn một năm, nhưng được bác Lục cưng, dạy nhiều pháp thuật v́ anh siêng năng và ”dày công hạn mă”. Tuy đệ tử của bác Lục trong xóm nầy khá đông, nhưng họ chỉ hứng thú với thần quyền, chứ không ai thích luyện phép trừ ma trị bệnh. Chỉ có ḿnh anh Ngọc siêng năng luyện các phép này, nên bác Lục rất cưng anh ta.
Mấy tháng trước đây con trai út của bác, chỉ mới 4, 5 tuổi bị bệnh nặng, chỉ có ḿnh anh Ngọc lặn lội với bác ra ngoại ô t́m thuốc nam về trị bệnh cho thằng bé. Ngày nào hai thầy tṛ cũng cọc cạch trên chiếc xe đạp của anh Ngọc từ sáng sớm, đến trưa, có khi đến chiều mới về đến nhà.
Anh Ngọc theo bác Lục t́m cho đến khi đủ thuốc trị dứt bịnh cho con bác mới thôi (h́nh như bác Lục không có trị bệnh cho đứa con trai út bằng bùa!). Chuyện này làm bác Lục càng đặt nhiều hy vọng nơi anh Ngọc hơn.
Sẵn dịp gặp con ma cứng đầu, bác Lục vừa tập cho anh Ngọc đuổi ma, vừa dùng thêm sức của anh, để có thể đuổi con ma cứng đầu này dễ dàng, nhanh chóng hơn. Ngày rằm rồi cũng tới. Khi tôi ăn cơm chiều xong, đến nhà bác Lục th́ đă có đông người đến xem.
Thường th́ các con trai, gái của bác ít khi xem bác trị bệnh, vô bùa, thế mà hôm nay họ cũng có mặt gần đủ. Tôi lách vào ṿng người th́ được ṿng người dăn ra một chút nhường chỗ. Thằng bé được đặt nằm giữa chiếc giường bê tông như trước. Nhưng lần này đặc biệt là trên người nó từ đầu đến chân được phủ kín bởi một tấm vải trắng lớn, rộng có vẽ đầy chữ bùa bằng mực tàu.
Hai bên hông tấm vải trắng này, dọc theo người thằng bé, có hai miếng văi đỏ đầy chữ bùa, dài bằng chiều dài tấm vải trắng, chiều ngang khoảng nữa gang tay người lớn, nằm chồng lên. Trên bàn thờ tổ đầy hoa, trái cây, khói hương nghi ngút.
Phía dưới chân thằng bé gần sát mép giường là một con gà luộc c̣n nóng hổi nằm trên đĩa. Gần hai bàn chân thằng bé là hai cái ly hột mít bằng thủy tinh dầy (ly nhỏ dùng để đựng trà, rượu để cúng). Anh Ngọc đứng bên kia phía đầu giường, hướng về đầu thằng bé. Cỗ tay trái của anh đeo chuỗi bồ đề, cỗ tay phải đeo dây ngũ sắc, lưng mang dây cà tha mắc bằng ch́.
Từ vai phải xéo xuống thắt lưng trái của anh đeo một dây văi đỏ rộng khoảng nữa gang tay, đầy chữ bùa vẽ bằng mực tàu. Tay phải anh cầm ba nén nhang hướng về phía thằng bé vẽ bùa, miệng đọc thần chú. Mỗi lần vẽ xong chữ bùa th́ anh ngưng đọc chú, đưa ba nén nhang về gần miệng, rồi thổi phù một cái, cho tàn đỏ của nhang bay về phía thằng bé. Rồi anh lại tiếp tục vẽ, đọc và thổi. Lúc này mặt anh đang đỏ gay, có lẽ anh hơi mắc cở v́ lần đầu chửa bịnh trước đám đông.
Bác lục cũng đứng bên kia giường, ngang bụng thằng bé. Bác vẫn vậy, trên ḿnh không mang một bửu bối nào. Tay phải bác cầm ba nén nhang vẽ bùa, miệng đọc thần chú. Rồi bác rót rượu vào 2 cái ly hột mít và bảo ”uống rượu đi”.
Bác vừa dứt lời th́ lạ thay, hai bàn chân thằng bé tḥ ra khỏi tấm vải trắng, các ngón hướng lên trời, rồi hai chân nó cứ thế như hai con rắn trườn ngoằn ngoèo về hướng hai cái ly. Khi hai chân nó đến gần hai ly rượu th́ dừng lại, bàn chân và các ngón chân từ từ hạ xuống, hai ngón chân cái bây giờ giống như hai cái đầu rắn ngọ ngoạy, chúi vào giữa hai chiếc ly.
Khi hai ngón chân cái đă nhúng sâu vào hai cái ly, 2 ngón chân cái cùng 2 ngón chân kế bên kẹp thành ly vào giữa, rồi cùng lúc lật ngang 2 chiếc ly sang hai bên phải và trái. Hai cái ly ngă xuống lăn sang 2 bên, rượu đỗ ra ngoài.
Hai chân thắng bé ngọ ngoạy rút về. Lẽ ra với khoảng cách giữa 2 chân và hai ly rượu, hai chân nó không thể nào vươn tới hai ly rượu được, thế mà nó đă thật sự vươn tới, h́nh như lúc đó 2 chân nó dài ra hơn lúc b́nh thường.
Bác Lục dựng hai chiếc ly lên rồi nói ”ăn uống xong rồi th́ mau xuất ra”. Rồi bác đọc thần chú và vẽ bùa. Thằng bé ngọ ngoạy. H́nh như con ma vẫn trấm trơ, trấm trất không chịu xuất ra. Bác Lục chụp cây roi dâu, đọc một tràng thần chú rồi quất liên tiếp 2 roi vào người thằng nhỏ. Anh Ngọc cũng đọc chú lớn hơn như để trợ lực cho thầy.
Lại một chuyện lạ nữa xăy ra. Khi bị thầy Lục quất roi vào người, toàn thân thằng nhỏ ngọ ngoạy uốn éo như con rắn, tấm vải trắng đầy chữ bùa đắp trên người nó cũng nhúc nhích theo, nhưng dù nó ngọ ngoạy, uốn éo cở nào cũng không thể thoát ra hai bên hông miếng vải trắng được.
Hai miếng văi đỏ nằm chồng trên hai mép, dọc theo chiều dài miếng vải trắng, giờ như hai thanh nẹp sắt kẹp chặt tấm vải trắng xuống sàng giường, không cho thằng bé thoát ra.
Rồi bác Lục lại rót rượu bảo nó uống. Con ma trong người thằng bé vẫn uống rượu bằng chân như trước. Rồi bác lục lại bảo con ma phải xuất ra, rồi đánh, rồi cho uống rượu. Phần anh Ngọc vẫn vẽ bùa đọc chú và thổi tàn nhang vào người thằng bé. Những việc này lập đi lập lại nhiều lần, nhưng mọi người vẫn chăm chú xem không chán, coi ṃi thích thú với cách uống rượu của con ma trong người thằng bé.
V́ anh Ngọc dùng nhang vẽ bùa và thổi vào người thằng bé, nên nhang trên tay anh mau tàn hơn của bác Lục. Nhang của anh Ngọc sắp cháy đến chân rồi. Bác Lục hỏi lớn với vẽ bực bội ”tại sao cho ăn th́ ăn, cho uống th́ uống, no say rồi sao không chịu xuất ra?”, rồi bác nói tiếp ”đứa nào lấy cho tao cây dao coi”.
Rồi bác đọc thần chú và quất roi dâu vào người thằng bé. Mọi người tiếp tục coi, yên chí rằng lời bác bảo lấy dao là để hù con ma thôi. Thêm vài phút trôi qua, bác Lục có vẽ bực bội hơn, hỏi lớn ”tại sao nói hoài mà không chịu xuất ra?”.
Rồi bác lại hỏi tiếp ”Sao tao kêu đi lấy dao, mà không đứa nào lấy hết vậy?”. Bấy giờ đứa con trai kế út của bác (thằng bé này tính hơi liếng khỉ) mới chạy vào bếp rút một con dao nghe đánh xoảng một tiếng, rồi cầm con dao to, bén ngót, dùng để làm cá chặt thịt chạy ra. Mặt mày hớn hở như mới vừa làm được chuyện ǵ rất quan trọng, nó đến bên bác Lục, đưa con dao và nói ”dao đây ba”.
Bác Lục bỏ cây roi dâu xuống giường, chụp lấy con dao. Lúc này anh Ngọc đứng xớ rớ chẳng biết làm ǵ, v́ nhang trên tay anh đă cháy hết. Bác Lục lập lại câu hỏi lúc năy ”tại sao cho ăn th́ ăn, cho uống th́ uống, no say rồi sao không chịu xuất ra?”. Rồi bác đọc một tràng thần chú, âm thanh vút cao, trầm trọng, và nhanh như cắt bác đưa con dao lên cao, chém mạnh xuống bụng thằng bé!
Binh!
Con dao bật ngược lên khoảng một gang tay. Thuận đà bác Lục giơ con dao lên ngang vai gh́m chặt chuẩn bịị chém xuống thêm một lần nữa. Thằng bé hết ngọ nguậy, ngay đơ như người chết. Căn pḥng với bao nhiêu người lớn, nhỏ, trai, gái, đứng xem bỗng nhiên ch́m vào im lặng đến rợn người.
Im lặng đến độ có thể nghe được tiếng thở của người bên cạnh, nhưng h́nh như mọi người đang nín thở. Tôi liếc mắt lên, bất chợt bắt gặp đôi mắt người con gái lớn của bác Lục mỡ to, phảng phất nét kinh hoàng. Thường th́ phụ nữ hay thét lên khi bị giật ḿnh hay hoảng sợ, nhưng ở đây không có tiếng thét nào, có lẽ chị quá sợ đến cứng miệng, không thét lên được. Sợ đến độ không kịp chớp mắt.
Là con của một thầy bùa mà chị hoảng hốt như vậy, có lẽ đây là lần đầu tiên bác Lục buộc phải dùng đến tuyệt chiêu để đuổi ma. Anh Ngọc lúc này đứng im mặt mày đỏ ké. Lúc năy mặt anh đỏ v́ mắc cở, bây giờ mặt anh đỏ v́ hoảng.
Tôi không dám nh́n mặt bác Lục. H́nh như không một ai dám nh́n mặt bác Lục trong lúc này. Một ư nghĩ bất chợt hiện ra trong đầu tôi ”thằng nhỏ này mà có chuyện ǵ th́ bác Lục khó ḷng được yên thân”.
Rồi tôi mường tượng như thấy bên dưới tấm khăn trắng đầy chữ bùa, một ḍng máu đang từ từ loang rộng trên sàng giường. Một phút trôi qua, dài như một thế kỷ. H́nh như đă chờ phản ứng của con ma trong người thằng bé đủ lâu, hay v́ biết mọi người đang hồi hộp đến nghẹn thở, nhất là mẹ của thằng bé, chắc đang lo con ḿnh giờ đă chết, bác Lục đặt con dao xuống giường, rồi đưa tay nắm miếng văi trắng từ từ giỡ lên.
Mọi người hướng mắt về phía bụng thằng bé, hồi hộp như đang ḍ vé số. Tấm vải trắng đă được bác Lục giỡ tung lên hất sang một góc. Không thấy một vết máu trên áo thằng bé. Như muốn chứng minh với mẹ thằng bé và mọi người, bác Lục vén luôn chiếc áo trắng thằng bé đang mặc lên tới ngực.
Trên bụng thằng nhỏ, nơi bị chém không có một dấu vết ǵ! Da thịt liền trân, không cả một lằn đỏ! Nếu có ai, mới vừa đến khi bác Lục giở áo thằng bé lên, nh́n vào bụng thằng bé lúc này, sẽ không thể nào tin nỗi, mới cách đây mấy phút, thằng nhỏ đă lănh một dao như trời giáng vào bụng!
Bây giờ mới nghe được nhiều tiếng thở ra, hít vào cùng một lúc của nhiều người. Không ai nói ǵ, nhưng mọi người đều có cảm giác như vừa trút được gánh nặng ngàn cân, như vừa thoát qua một đại nạn!
Thằng bé từ từ mỡ mắt ngơ ngác nh́n người chung quanh như vừa trải qua một giấc mơ. Nó cử động tay chân một cách yếu ớt, những cử động rất… người.
Bác Lục thần sắc vui vẽ, bảo anh Ngọc và các con bác dọn dẹp. Như vậy là văn tuồng. Không cần ở lại tôi cũng biết bác Lục sẽ dặn ḍ mẹ thằng bé đưa nó về nhà, t́m những vị thuốc nam cho nó uống, rồi mười lăm ngày sau, ngày 30 âm lịch, đưa nó đến nhà bác, để bác vô bùa cho nó.
Vô bùa rồi các vị thần, tổ sẽ hộ mạng cho nó, con ma cũ, hoặc những ma mới sẽ không thể nhập vào, và nó sẽ được miễn dịch… ma!
Tôi chuồn ra ngoài ḷng đầy thắc mắc. Độ chừng anh Ngọc đă dọn dẹp xong và ra về, tôi đi t́m anh.
Anh ngọc lớn hơn tôi hai tuổi, nhưng chúng tôi rất thân nhau. Tôi có thắc mắc ǵ anh Ngọc đều giải thích chỉ bảo. Anh Ngọc đă về nhà, thấy anh đứng cà nhỗng, chẳng làm ǵ tôi vô đề ngay:
- Hồi năy bác Lục chém một dao, em hết hồn, tưởng thằng nhỏ đi đời rồi. Lúc năy anh có sợ không? Anh Ngọc cười lớn rồi lên giọng:
- Sợ hả? Tao thiếu điều… tè trong quần. Sức thầy Lục mạnh như vậy chém một dao, không chừng người lớn c̣n đứt làm hai, huống chi thằng nhỏ ốm trơ xương! Lúc năy lỡ mà thằng nhỏ chết, là thầy tṛ đi tù cả nút.
Lạ thật, tôi đă từng xem anh luyện phép gồng, dao chém vào người dội ra, không đứt thịt, đáng lẽ anh phải tin tưởng hơn người thường, sao lại sợ như vậy? Anh Ngọc trầm ngâm một lúc rồi nói như giải thích với chính ḿnh:
- Tấm văi trắng của thầy Lục oai lực kinh khủng thật, bị một dao mà không rách. C̣n hai miếng vaỉ đỏ dằn hai bên mép miếng văi trắng nữa, toàn là những chữ bùa tối thượng vẽ trên đó. Có lẽ những chữ bùa này đă che chở cho thằng bé.
Tôi lại hỏi tiếp:
- Sao hồi năy anh mang nhiều đồ nghề trên người quá vậy?
- À là v́ anh c̣n non tay ấn, phải mang thêm bửu bối để trợ lực. Cũng là pḥng hờ nếu gặp con ma dữ dằn, khi đuổi nó ra khỏi người bị nhập nó phản phé nhập vào người đuổi nó nếu người đó non tay ấn.
Lại thêm một thắc mắc nữa! Nếu bác Lục sợ đệ tử ḿnh non tay ấn sẽ bị ma nhập, sao lại để cho chúng tôi, những người không có thần, tổ che chở, trên ḿnh cũng không có một bửu bối chống ma nào đứng xem, lỡ ma xuất khỏi người bệnh nhập vào một người trong bọn tôi th́ sao? Ḷng càng thêm thắc mắc, không biết hỏi ai. Hỏi bác Lục th́ chắc chắn là tôi không dám hỏi rồi.
Độ vài tháng sau, một hôm tôi đang cặp kè cùng thằng bạn trong xóm, từ cuối hẽm đi ra, ngang nhà bác Lục, tôi thấy bác Lục đang ngồi trước cửa, mẹ con thằng bé bị ma nhập hôm nào đang trước mặt bác.
Thằng bé bây giờ trông tươi tắn, mạnh khỏe, bộ dạng đă giống đứa bé tám chín tuổi, nh́n cũng được trai. Nó khoanh tay trước ngực, cúi đầu rồi nói lớn:
- Thưa thầy con về.
Bác Lục cười khà khà trả lời:
- Ừ, về nhà ráng tập nhe mậy, tập nhiều cái chân mới mau hết.
Thằng bé cười tươi, dạ một tiếng rồi quay lưng đi, những bước đi hơi khập khểnh nơi chân phải. Thấy tôi đứng nh́n chăm chú, thằng bạn nói vào tai tôi:
- Thằng nhóc này khi đánh vơ bùa, cái ḿnh nó loay hoay, tay chân khèo khào coi quái chiêu lắm!
Hải Phong
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 245 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:29pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHUYỆN TÁI SINH CỦA SAMTEN
Thượng tọa Thubten Zopa Rinpoche, sáng lập viên Hội Bảo vệ Truyền thống Phật giáo Đại thừa, năm 1975, văn pḥng trung ương đặt tại bang California, Hoa Kỳ. Hiện tổ chức này có gần một trăm chi nhánh trên khắp các châu lục.
Vừa qua một tu viện tại Nepal đă cử hành lễ "thụ phong" cho một chú bé bốn tuổi, mà giới Phật Giáo Tây Tạng xem đây là người tái sinh của cụ bà Amala, cố mẫu thân của Thượng tọa Thubten Zopa Rinpoche.
Dưới đây là bài viết của Sư cô Robina Courtin, người Hoa Kỳ, đúc kết lại những ǵ đă nghe và thấy về cuộc "hành tŕnh chuyển tiếp" khá lư thú này.
- "Tôi đă t́m thấy được mẹ tôi"
Ngawang Samten, chị của Thượng tọa Zopa, la lên một cách vui sướng khi vừa gặp lại cô Merry Colony người Anh, vào tháng Tám năm 1993, sau hai năm vắng mặt từ ngôi làng bé nhỏ, nằm trong vùng núi đá lởm chởm thuộc vùng Khumbu, nước Nepal.
Trong thực tế, cụ bà Amala, bà thân sinh của Thượng tọa Zopa Rinpoche, được rất nhiều người biết đến, đă qua đời vào đầu năm 1991. Merry nghĩ rằng chắc Ngawang Samten muốn ám chỉ một điều ǵ đó có liên quan đến sự tái sinh của cụ Amala.
Merry rất thân với cụ Amala và Ngawang Samten trong dịp cô đến tu thiền trong một hang động gần đó và thường đến thăm họ ở Chùa Lawudo. Cả hai đều là nữ tu, công việc chính của họ là chăm sóc các hang động và ngôi Chùa này. Họ đến đây từ Thami, Tây Tạng.
- "Gia đ́nh tôi rất nghèo"
Ngawang Samten nhớ lại
- "Bố tôi qua đời lúc em trai tôi, Sangye, c̣n trong bụng mẹ. Mẹ tôi suốt ngày đi chặt củi đổi lấy gạo để nuôi cả gia đ́nh. Bà chỉ kiếm vừa đủ để nuôi anh em chúng tôi và bà thường lượm những mảnh vải người ta vứt trong thùng rác để may áo quần cho chúng tôi.”
- "Và bà ta thường đến biên giới Tây Tạng, hai ngày đi bộ mua muối" Merry nói.
"Đem về bán cho người ở trong làng. Bà cụ là một người nhỏ nhắn nhưng rất khỏe mạnh, bà đă làm mất đi nhiều ngón tay của ḿnh khi chặt củi. Giống như nhiều người ở miền núi, bà cụ không biết chữ, bà cũng không biết nhiều về giáo lư.
Nhưng bà tin tưởng đức Bồ Tát Quán Thế Âm và siêng năng thọ tŕ câu thần chú "Án ma mi bát di hồng" trong mọi lúc mọi thời, và bà cụ rất tận tụy với các Tăng Ni. Mỗi ngày bà đều chăm sóc hang động, quét dọn, cúng dường hương đăng trên các bàn thờ.”
Gần đây, Thượng tọa Zopa Rinpoche cũng cho biết rằng:
- "Sau khi làm xong mọi việc trong Chùa mỗi ngày, bà cụ đều đến đảnh lễ Phật và cầu nguyện cho tôi. Bà cụ nói là bà cầu nguyện cho tôi 3 lần trong một ngày: sáng, trưa và buổi tối.”
- "Mẹ cầu nguyện những ǵ?"
Tôi hỏi bà cụ.
"Bà nói rằng bà chỉ cầu mong chư Phật gia hộ cho tôi vượt qua mọi chướng ngại trên con đường tu học của ḿnh.”
Vào tháng 12 năm 1990, cụ Amala muốn đi thăm đức Đạt Lai Lạt Ma ở Ấn Độ, trước khi cụ qua đời. Già và yếu, nhưng bà vẫn cố gắng băng núi đèo để đến Kathmandu, và rồi đến đỉnh Sarnath Bắc Ấn, đi cùng với bà có cậu út Sangye và Ngawang Samten.
- "Đó là ngày trăng tṛn tháng Giêng năm 1991"
Sangye nhớ lại
- "cũng là ngày cuối cùng của khóa tu Mật tông Kalachakra. Suốt ngày hôm đó, cụ Amala, chị Ngawang và tôi đă dự lễ điểm đạo của đức Đạt Lai Lạt Ma. Sau đó chúng tôi trở lại túp lều và cụ Amala bảo:
- "Mẹ muốn nghỉ ngơi, đừng quấy rầy mẹ.”
- "Chúng tôi linh cảm là có một điều ǵ đó sắp xảy ra, chúng tôi quanh giường của cụ khoảng mấy phút sau, cụ trở ḿnh nghiêng bên phải và rồi "mất" tại đó. Khuôn mặt của bà như đang ngủ.”
"Bà cụ vẫn nằm trong tư thế "kiết tường" như vậy trong 3 ngày, nét mặt đẹp hơn, sáng hơn. Chúng tôi không chạm đến thi thể của cụ cho đến chiều ngày thứ ba, nét mặt vẫn không thay đổi. Chúng tôi tiến hành tang lễ và hỏa táng sau đó. Có hơn 200 Tăng Ni và Phật tử đến dự.”
"Rơ ràng vào ngày cụ Amala qua đời là ngày trăng tṛn, người dân trong vùng Lawudo ở Nepal, nh́n thấy một con chim ưng lông trắng bay lượn ba ṿng ở trong vùng, rồi sau đó bay về hướng Đông Tây Tạng. Sau này họ nói với tôi về điều đó, họ nói là họ rất ngạc nhiên."
Trên đây là toàn bộ câu chuyện mà Ngawang đă kể cho cô Merry nghe, khi cô đến thăm Lawudo vào tháng Tám năm 1993.
Vào đầu tháng Bảy năm 1993, Ngawang Samten hay tin một người bạn láng giềng của chị, là Lhakpa bị tai nạn, v́ thế chị quyết định đi thăm cô ta. Ngawang không gặp cô ta từ khi cụ Amala qua đời. Gia đ́nh cô dời về ở một ngôi làng Genukpa cách Chùa Lawudo khoảng mười lăm phút đi bộ.
Đó không phải là nơi gần với Lawudo, nên Ngawang Samten và Lhakpa ít khi gặp nhau. Lhakpa bị thương ở chân nhưng không nặng lắm. Cô ta rất mừng khi gặp lại Ngawang Samten.
Lhakpa có 4 đứa con, đứa nhỏ nhất là một cậu bé được sanh sau khi cụ Amala mất vài tháng ở Ấn Độ. Lhakpa bắt đầu nói với Samten về đứa con trai út của ḿnh.
Nó là một đứa trẻ thông minh lạ thường, cô ta nói, từ khi nó tập nói lúc 2 tuổi, chú bé thường nhắc đến Chùa Lawudo, một ngôi Chùa mà chú chưa từng biết đến bao giờ. V́ thế, điều này làm cho cô ta và cả gia đ́nh rất kinh ngạc.
Và khi Ngawang Samten gặp riêng chú bé, chú dường như nhận ra chị, và chú yêu cầu chị đưa chú đi thăm Chùa Lawudo. Chú bé là một đứa trẻ đẹp và khỏe mạnh, chú bày tỏ sự quen thuộc đối với Lawudo: nhắc đến tên của 3 con ḅ chẳng hạn.
Và chú tiếp tục nói là chú muốn đi đến đó:
- "Đó là nơi mà cháu đă từng sống", chú nói.
Ngawang Samten rất ngạc nhiên và chị bắt đầu đến thăm chú bé thường xuyên hơn, và luôn luôn t́m thấy những điều tương tự. Chú yêu cầu chị:
- "Hăy đưa cháu về Lawudo đi.”
Một điều đáng chú ư hơn, là chú thường nhắc đến Sangye, Thượng tọa Zopa Rinpoche và ngôi tu viện Kopan của Ngài, trong khi tu viện đó ở dưới thung lũng Kathmandu.
- "Cháu tự hỏi không biết khi nào Thượng tọa và Sangye sẽ đến thăm cháu", chú nói.
Ngawang Samten đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, khi chú đưa ra những thông tin mới hơn:
- "con đường đi đến tu viện Kopan rất xấu, có lẽ họ đang bận rộn sửa sang lại nó.”
Rơ ràng đó là sự thật. Chú bé cũng thường bày tỏ ư định muốn đến Kopan một ḿnh. Một ư tưởng nảy sinh, phải phải chăng chú bé này là một bằng chứng tái sinh của mẹ chị ?
Ư tưởng đó đă ngự trị và trở nên rối bời trong đầu óc của Ngawang Samten nghĩ rằng ḿnh không thể ngạc nhiên và bỏ qua cơ hội này và chị quyết định trắc nghiệm chú bé.
Cuối cùng, chị đưa chú bé về thăm Chùa Lawudo.
- "Ngay khi bước vào pḥng ăn", chị nhớ lại
"chú bé bắt đầu mô tả nhà bếp, những băng ghế, cái ḷ sưởi và điều đáng chú ư là chú chạy lên Chánh điện và đi kinh hành mấy ṿng, giống như cụ Amala đă từng làm, dù ở đây chú hay bị vấp và té, bởi v́ chú nhỏ quá.”
Ngawang Samten cùng kiểm tra với Ḥa thượng Wangchuk, một Lạt Ma địa phương lừng danh trong việc quan sát các trường hợp như thế.
Và Ngài đă xác nhận chú bé này đúng là người tái sinh của cụ Amala.
Thích Nguyên Tạng
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 246 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:30pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHƯ MỘT HUYỀN THOẠI
Thuở nhỏ, Sư đă rất lạ. Nhà nghèo, cha mất sớm. Mẹ buôn bán tảo tần nuôi Sư. Bà thường bảo con trai ra đồng ṃ cua, phụ mẹ kiếm miếng ăn. Sư cũng vâng lời, nhưng chiều nào cũng về tay không, rồi nói đối với mẹ :
"Con t́m không thấy con cua ở đâu".
Một hôm, trước khi quảy gánh ra chợ bán như mọi khi, mẹ Sư dặn :
"Nè ! Mẹ có mua một xâu cua để ở dưới ao. Con ở nhà giă cua nấu canh. Trưa mẹ về, hai mẹ con ḿnh ăn".
Dặn rồi, mẹ đi. Nh́n theo chiếc gánh oằn vai, Sư thương mẹ nhiều lắm. Chạy ra bờ ao, Sư thấy ngay xâu cua.
"Cua ơi ! Mẹ bảo tao giă mày nấu canh".
Nh́n chúng thật lâu, bỗng nhiên Sư thấy những ḍng bọt trắng trào ra, trào ra nḥe cả một vùng nước. Đau ḷng, Sư buông xâu cua xuống :
"Cua ơi ! Đừng khóc nữa. Tao không giă mày đâu. Tao thả mày đây. Đi nhanh lên".
Thế là, Sư tháo hết xâu cua, thả xuống ao. Mẹ về. Sư đón lấy gióng gánh.
"Chà ! Mẹ đói bụng quá. Con nấu canh cua rồi chưa?".
Sư ngập ngừng : "Mẹ ơi ! Con... con thả chúng nó hết rồi".
Vừa mệt, vừa đói, mẹ Sư không dằn được cơn giận, liền quơ lấy cây roi. Sợ quá, Sư chạy thẳng một mạch ra khỏi nhà, không dám ngoái đầu nh́n lại. Và mẹ Sư không ngờ, cái bóng roi vô t́nh đă chia cắt mẹ con kể từ ấy.
Non bốn mươi năm sau. Con đường làng xưa cũ chỉ c̣n là những khúc đê buồn rối chỉ. Tất cả đều hun hút theo thời gian. Sư lặn lội nhiều lần trên những con đường, qua lại quanh những bờ ao... nhưng vẫn không t́m thấy dấu cũ. Mệt quá, Sư tấp vào một cái cḥi tranh ven đường. Bà lăo thấy khách, liền rót một chung trà :
- Sư dùng trà.
- Dạ
Nh́n mái đầu bạc phơ của cụ tương phản với mái tranh cũng bạc màu, rệu ră mục; cả hai như ch́m ẩn trong nhau cùng chịu đựng, cùng ṃn mỏi, già nua. Sư nhớ mẹ đến nao ḷng.
- Cụ à ! Cụ ở đây có một ḿnh sao ?
- Già ở đây một ḿnh,
- Cụ sống bằng cách nào ?
- Già bán trà sống lây lất qua ngày.
- Cụ không có con cháu ǵ sao ?
- Hồi xưa, già có một đứa con trai. Nhưng nó đă bỏ đi từ năm 12 tuổi. Già t́m kiếm, trông đợi, thương nhớ... gần bốn chục năm nay. Thân quạnh quẽ không có ai, già che đỡ cái cḥi tranh này, bán trà sống qua ngày.
Sư im lặng nuốt nghẹn. Bây giờ th́ chắc chắn rồi. Mưa nắng dù có cuồn cuộn trên tóc, trên mắt mẹ nhưng vẫn không làm thay đổi được cái ánh nh́n năm xưa. Thăm thẳm. Yêu thương.
- Cụ à ! Nếu như tôi rước cụ về chùa, cụ có chịu không ?
- Về chùa th́ tôi chịu lắm. Nhưng già rồi, không làm ǵ được, ăn cơm chùa, tôi sợ tội.
- Không sao ! Cụ đừng lo. Ở chùa thiếu ǵ việc. Người trẻ làm việc trẻ. Người già làm việc già. Nhổ cỏ, lượm lá... cũng là công quả vậy. Miễn cụ chịu ăn chay, niệm Phật là không có tội.
- Nếu được vậy th́ Sư cho già theo về chùa với.
Sư nh́n mẹ, mỉm cười đằm thắm :
- Cụ ở đây đợi nhé ! Tôi về chùa xin phép quư Thầy rồi sẽ trở lại đón cụ đi.
Về chùa, không nói ǵ đến mẹ ḿnh. Sư chỉ kể lại hoàn cảnh của một bà lăo trên đường. Quư Thầy thương quá, xin Sư cho đi đón về. Sư mới dám. Bà lăo được nghỉ trong một am tranh nhỏ nhắn sau vườn chùa. Mỗi sáng, Sư đến t́m mẹ thăm hỏi, rồi khoanh một ṿng cỏ tṛn, nói :
- Bữa nay, cụ làm xong bao nhiêu đây rồi nghỉ, vào niệm Phật nhé.
- Dạ.
Bà lăo vui lắm. Sư cũng vui. Thời gian sau bà bệnh. Sư tự tay chăm sóc mẹ. Càng ngày, bà càng yếu dần. Hôm ấy, nh́n thần sắc mẹ, Sư biết. Nhưng v́ có việc, Sư phải vắng chùa vài hôm. Trước khi đi, Sư căn dặn quư Thầy :
- Nếu ở chùa, bà lăo có mất, quư Thầy đặt bà vào áo quan, đợi tôi về hăy đậy nắp.
Quả như điều Sư đoán. Vừa trở về, được tin mẹ mất. Sư đi thẳng tới am tranh, nh́n mặt mẹ lần cuối, rồi từ từ đậy nắp quan. Giữa hai hàng Tăng chúng, Sư cầm tích trượng, đứng cạnh quan tài mẹ, trầmtĩnh nói :
- "Như lời Phật dạy, một người tu hành ngộ đạo, cha mẹ được sanh thiên. Nếu lời ấy không ngoa, xin cho chiếc quan tài này bay lên hư không".
Nói xong, Sư liền gơ tích trượng ba cái, chiếc quan tài từ từ bay lên hư không và nứt ra nhiều mảnh.
Đến lúc ấy, chư Tăng mới biết bà lăo là mẹ của Thầy ḿnh. Không cho mẹ biết tung tích về ḿnh. Không cho Tăng chúng biết tung tích về mẹ. Sư đă thầm lặng tạo cho mẹ phần công đức mang theo về cơi lành. Trái hiếu thảo đă chín, rụng xuống nắp quan mẹ một quả thơm ngọt tràn đầy, dâng lên cúng dường mười phương Phật.
Sư chính là Thiền sư Tông Diễn, hiệu Chơn Dung (1640-1711), một cao tăng Việt Nam đă cứu Phật pháp thoát khỏi ách nạn vào đời Hậu Lê, mà suưt chút nữa vua Lê Hy Tông đă làm cho mai một.
Và v́ thế, Sư đă trở thành bậc tôn sư của triều đ́nh đương thời. Tầm vóc là vậy, nhưng Sư vẫn là "Ḥa Thượng Cua" trong ḷng nhân gian, luôn sống măi với cái khoảnh khắc chóng vánh thuở thiếu thời. Chóng vánh nhưng không dễ tan.
Bởi v́ chính cái khoảnh khắc ấy đă thu gọn, cô đọng những ǵ lớn lao nhất, ư nghĩa nhất của một người con Phật khi bắt đầu chọn cho ḿnh một lối đi. Chất liệu từ bi và ḷng hiếu thảo vô bờ của Sư đă thể hiện được con đường Bồ Tát đạo trong Phật giáo.
Cuộc đời và công hạnh của Sư như một huyền thoại. Một huyền thoại mà làm nên những cái thật muôn đời.
Từ đó, người ta gọi Ngài là Ḥa Thượng Cua, và cũng theo lời người ta kể ba mảnh vỡ của chiếc quan tài hiện vẫn c̣n tồn tại ở một ngôi chùa Bắc Việt để mọi người ghi nhớ câu chuyện lạ lùng và cảm động về Hoà Thượng Cua và vị thân mẫu sinh ra Ngài.
“Tu một thuở cứu thân vĩnh kiếp
Độ ḿnh c̣n cứu vớt Mẹ Cha
Thuyền to một chiếc sắm ra
Tất nhiên chở hết cả nhà xuống đi”.
Hạnh Chiếu
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 247 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:31pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐƯỜNG LÊN NÚI LINH
Cách thị trấn năm dặm về hướng tây là một cánh rừng rậm bọc quanh một ngọn núi cao ngất. Ngọn núi sừng sững trấn ngự một phương trời như một vị thần cô độc xa lánh trần gian. Dù rằng từ thị trấn đến chân núi chẳng xa là bao, dân trong thị trấn ít khi nào léo hánh đến vùng núi. Họ chỉ nh́n thấy ngọn núi từ xa và mỗi khi nh́n thấy th́ trong ḷng mỗi người như chỗi dậy một niềm kính tín thiêng liêng.
Không biết từ đời nào, người ta truyền miệng nhau hoặc dạy cho nhau về những linh nghiệm của ngọn núi, khiến cho từ thế hệ này đến thế hệ kia, đều nh́n ngọn núi với cánh rừng bao quanh ấy như là một vùng thánh địa. Muốn cầu nguyện việc ǵ, người ta không cần phải đến tận vùng thánh địa, cứ việc đứng trong nhà, thắp nhang hướng về núi ấy, van vái.
Điều cầu nguyện của mỗi người có được đáp ứng hay không th́ chẳng biết; chỉ biết xưa nay người ta cứ gọi núi đó là núi Linh, có người c̣n kiêng gọi chữ "núi", chỉ dám gọi là "ông": Ông Linh. Chưa bao giờ người ta thấy được một Ông Linh toàn vẹn. Suốt ngày đêm mây trắng và sương mù giăng kín hết nửa phần trên của núi, chỉ để lại phần chân núi xanh thẫm. Nửa phần ch́m trong mây khói kia là cả một kho tàng của linh thoại.
Một trong những linh thoại được truyền cho nhau đă trở thành như một sự thật, đó là trên đỉnh núi có một hang động rất lớn. Từ Phật Tổ Thích Ca, Nhị Tổ Ma Ha Ca Diếp, cho đến các vị Thánh tăng nhiều đời, ở khắp nơi, đều tập trung trong hang động đó. Mỗi ngày đức Phật đều thăng ṭa thuyết pháp y như lúc c̣n tại thế. Linh thoại ấy từ nhiều đời, đă khiến cho nhiều người trong thị trấn không ngăn được hiếu kỳ, hoặc không kiềm được nỗi khát vọng giải thoát giác ngộ, đă t́m cách băng rừng rồi leo lên ngọn núi ấy.
Chẳng biết họ có gặp Phật gặp Tổ hay không. Chỉ thấy có nhiều người đi mà ít có người quay trở lại. Thảng hoặc có người từ núi Linh quay trở về, người ta xúm xít hỏi han th́ chỉ được nghe một câu ngắn gọn: "Đâu có đường lên," hoặc "chỉ thấy một nhà sư lúc ẩn lúc hiện," hoặc "chỉ thấy mây giăng mù mịt". Những câu trả lời đại loại như thế chỉ làm tăng thêm niềm tin về những linh thoại mà thôi.
Cuối cùng, núi Linh vẫn là núi Linh, chẳng bao giờ và chẳng ai khám phá thêm được ǵ khác ngoài những chi tiết huyền hoặc tô vẽ thêm cho một kho tàng bí nhiệm vốn vượt khỏi tầm nhận thức và kinh nghiệm sống của con người trần tục.
Cho đến khi có hai nhà sư trẻ từ thị trấn lên núi Linh học đạo trở về, bức màn huyền bí của hang động Phật Tổ cũng chưa được vén lên. Nài nỉ cách mấy người ta cũng không cạy miệng được hai nhà sư trẻ này. Chỉ nghe họ tiết lộ duy nhất một điều là sư phụ của họ hiện đang ở trên núi ấy. Hỏi sư phụ ấy có phải là Phật, là Tổ không, th́ được đáp rằng: "Là sư phụ, là một lăo tăng, thế thôi."
Hai vị sư trẻ này chia nhau đi khắp thị trấn để hành đạo. Trông họ có vẻ như đang nỗ lực thực hiện việc truyền bá chánh pháp cho kịp một thời điểm nào đó, và có lẽ họ sẽ trở lại núi Linh với thành tích hành đạo của họ tại thị trấn này.
Vị lăo tăng có bộ râu bạc phơ dài đến ngực nhưng da mặt ông không nhăn lắm. Đôi mắt ông sáng và trông rất nhân hậu dưới đôi mày cũng dài và bạc theo màu râu tóc. Khi hai nhà sư trẻ mới từ thị trấn đến núi Linh bái thỉnh lăo tăng làm thầy để cầu học đạo, họ đă được lăo tăng tiết lộ cho biết rằng lăo tăng chỉ là "người giữ cửa". Người đệ tử lớn tuổi, được coi là sư huynh và được lăo tăng đặt cho đạo hiệu là Tuệ Trí, nhíu mày hỏi:
"Bạch thầy, xin hỏi thầy giữ cửa ǵ ạ?"
Vị thầy cười nhẹ nói:
"Cửa Không."
"À, à... cửa Không. Nhưng... cửa Không th́ đâu cần ǵ phải giữ, bạch thầy? và cái cửa Không sẽ dẫn đến đâu? có phải là..."
"Dĩ nhiên là nó dẫn đến nơi ấy," vị thầy khoát một cử chỉ mơ hồ hướng về đỉnh núi, "nhưng không phải ai muốn vào cũng được. Ta giữ cửa là giữ theo nghĩa đó, nghĩa là ta có bí quyết, có ch́a khóa cho những ai hội đủ điều kiện vượt qua cái cửa Không này."
Tuệ Trí nh́n ra ngoài cửa sổ, đảo mắt một ṿng chung quanh thảo am, qua con suối nhỏ chảy róc rách và những tảng đá lớn phía sau, dừng lại nơi mấy cây tùng cổ thụ đứng thẳng như những người lính gác im lặng và tận tụy dưới nắng sương...
"Cánh cửa ấy ở đâu vậy, bạch thầy? Có phải chỗ mấy cây tùng..."
"Cửa ấy không có cánh. Và nó bắt đầu ngay từ bước chân của con chứ chẳng ở đâu xa. Có điều, không phải bước chân nào cũng cất lên được một cách hài ḥa và khế hợp với chiều kích củu cánh cửa ấy."
"Vậy nhiệm vụ giữ cửa của thầy tức là hướng dẫn hành giả phương cách bước vào cái cửa không cánh ấy?"
"Phải," vị thầy ôn tồn đáp.
"Bằng cách nào và bao lâu chúng con mới có thể bước vào cửa ấy?" Tuệ Trí nóng nảy hỏi.
"Không có ǵ phải gấp gáp như vậy. Cứ ở đây, ta sống sao các con sống vậy, rồi một lúc nào đó, ta sẽ chỉ đường cho các con, hoặc có thể các con sẽ tự thấy con đường và cánh cửa đó mà đi vào. À, này Tuệ Đức, con có điều ǵ nghi ngờ không, năy giờ ta không nghe con lên tiếng?"
Tuệ Đức, vị sư đệ trầm lặng, mặt mày không được sáng láng thông minh như Tuệ Trí nhưng phong cách th́ chuẩn mực, nghiêm túc, và nét mặt th́ nhân hậu, thiết tha, biểu lộ sự chân thành trọn vẹn hướng đến mục tiêu giải thoát. Nghe thầy hỏi, Tuệ Đức cung kính thưa:
"Bạch thầy không ạ."
"Tốt. Thôi, chúng ta cùng đi dạo để các con quen với cảnh mới này."
Trải ba năm không rời khỏi núi, cùng ở tu trong mái thảo am dưới sự dẫn dắt của vị thầy già ấy, một hôm, Tuệ Trí và Tuệ Đức được thầy gọi đến dạy:
"Ta nghĩ đă đến lúc để các con đem những kiến văn và sở học của ḿnh ra mà truyền rộng cho nhiều người khác cùng được lợi ích. V́ vậy, hôm nay, hai con hăy lên đường, xuống núi hành đạo."
Tuệ Trí ngạc nhiên hỏi:
"Bạch thầy, thế c̣n... cách vào cái cửa Không? Chừng nào thầy mới dạy cho?"
"Các con cứ xuống núi hành đạo. Khi nào cảm thấy là ḿnh đă tạo nên được công đức ǵ đáng kể, đáng gọi là thành tựu, th́ quay trở về đây. Các con tưởng rằng một người không có chút công đức hay thành quả nào hết mà có thể qua được cánh cửa ấy sao?"
Tuệ Trí x́u mặt, suy nghĩ: "Tu học ba năm cực nhọc ở đây rồi mà vẫn chưa đủ công đức! Biết bao năm nữa mới gọi là đủ đây?"
Vị thầy vuốt cḥm râu bạc, đứng dậy, bước đến bên cửa sổ, nh́n ra ngoài. Một lúc lâu, ông quay lại nói:
"Nhưng trước khi các con rời núi, ta muốn nghe các con tŕnh bày vài nét về sự hiểu đạo của các con; bằng vào phương châm nào mà các con dấn thân vào trần gian để hành đạo; bằng vào phương tiện thiện xảo nào mà các con có thể tự kiểm thúc được thân tâm ḿnh giữa cơi đời phiền lụy. Tuệ Đức, con nói trước đi."
Tuệ Đức liền quỳ xuống chắp tay cung kính thưa:
"Quy y Phật, Pháp, Tăng; hành động, lời nói và ư nghĩ luôn luôn quy thuận và phù hợp với Phật, Pháp, Tăng."
Vị thầy hỏi tiếp: "C̣n ǵ nữa không?"
"Thưa, chỉ có vậy," Tuệ Đức nhỏ giọng thưa.
Sư huynh Tuệ Trí nghe vậy th́ bật cười lên một tràng, thương hại thay cho người sư đệ cục mịch quê mùa, ba năm học tập kinh điển ở đây chưa ra khỏi bước đầu học Phật. Vị thầy cũng nở một nụ cười, tủm tỉm quay trở lại ngồi xuống bồ-đoàn, hỏi Tuệ Trí:
"Đừng cười ! Sư đệ con căn tính tŕ độn. Biết ǵ th́ nói nấy, có sao đâu. Thế c̣n con, con xuống núi với tâm nguyện và hành xử nào đây, nói ta nghe và để sư đệ con có cơ hội học hỏi thêm luôn thể?"
Tuệ Trí đang đứng, xoay một ṿng, bước ra cửa, ngửa mặt lên trời, vừa đi vừa nói:
"Nh́n mây bay, thấy tóc xanh thuở xưa c̣n tung xơa
Nghe chim hót, tin tiếng ḷng năm cũ măi âm vang."
Nói rồi Tuệ Trí đi thẳng xuống núi. Vị thầy ngồi im, gật gù bảo Tuệ Đức:
"Hai đứa con mỗi đứa có một căn tính và sở đắc khác nhau. Đều tốt cả. Khi đă nói là phương tiện thiện xảo th́ không có vấn đề cao thấp. Khác nhau chăng là chỗ diệu dụng, ư ta muốn nói cái dụng quả, của mỗi phương tiện mà thôi. Con chuẩn bị gói ghém hành lư chi đó rồi lên đường. Mong rằng chuyến đi của các con không làm ta thất vọng. Ta chờ đợi các con đó."
Tuệ Đức lạy thầy ba lạy rồi lui ra.
Nơi thị trấn, Tuệ Trí và Tuệ Đức chia nhau hai ngă, du hành khắp nơi để truyền bá chánh pháp. Mỗi người có một lối giảng dạy riêng về Phật Pháp, về Thiền đạo, nhưng cả hai đều thành công, thu phục được nhiều đệ tử, tạo được nhiều uy tín và tiếng vang trong khắp thị trấn ấy, rồi lan dần đến các thị trấn lân cận.
Nhưng tiếng tăm lẫy lừng, nổi bật nhất, vẫn là từ Tuệ Trí, vị sư huynh cao ráo, trắng trẻo, điển trai, nói năng hoạt bát và lôi cuốn, học rộng biết nhiều, lại có cả tài làm thơ viết văn rất tuyệt, chinh phục hầu hết giới trí thức trong nước. Nhờ những thuận lợi về thể chất lẫn kiến thức và tài năng đó mà Tuệ Trí thành công rất nhanh, tự ḿnh tạo nên một tông phái Phật giáo rất mạnh và có ảnh huởng trong cả nước.
Giáo lư nền tảng của tông phái Tuệ Trí xem ra th́ không có ǵ mới mẻ, vẫn là dựa vào kinh điển Phật để xiển dương; nhưng nhờ kiến văn quảng bác và khả năng xét đoán thời cuộc rất nhạy bén, Tuệ Trí biết nhắm đến hoàn cảnh và nhu cầu tâm lư của con người thời đại, nhờ vậy mà mở ra những sinh hoạt có vẻ mới mẻ, tiến bộ; lôi kéo được nhiều người trí thức từ thôn quê đến thành thị, ùn ùn quy tụ học hỏi.
Nhiều người bỏ cả sản nghiệp để dâng cúng cho Tuệ Trí. Nhiều chùa chiền, thiền thất, đại tùng lâm ở khắp nơi cũng được xây dựng để dâng trọn vẹn cho Tuệ Trí tùy nghi sử dụng. Đồ chúng t́m học Tuệ Trí càng lúc càng đông. Dần dần, nhu cầu tu học theo tông phái Tuệ Trí trở nên một phong trào quần chúng không phân biệt trí thức hay dân giả cùng đinh thất học.
Nhưng một khi đă trở thành phong trào rồi th́ mặt phẩm chất không c̣n là điều hệ trọng nữa; chỉ c̣n sức lớn mạnh không ǵ ngăn nổi của phần số lượng. (Thực ra, không phải là do những người ít học tham dự vào phong trào đă làm giảm đi phần phẩm chất của tông phái Tuệ Trí, tu học đạo giác ngộ đâu có căn cứ vào chuyện học thức hay thất học! mà chính sức lớn mạnh quá nhanh của phong trào đă như ḍng độc dược giết chết từ trứng nước cái khát vọng hướng đến giải thoát giác ngộ, vốn là điều đ̣i hỏi nhiều kinh nghiệm tu chứng tâm linh hơn là sinh hoạt và nghi thức kiểu cách rườm rà, ŕnh rang, học đ̣i, bắt chước, truyền đạt mau chóng từ người này đến người kia-và thay vào đó chỉ là khát vọng được gần gũi tông chủ Tuệ Trí, được tông chủ đặt cho một cái đạo danh và được gắn cho cái huy hiệu riêng của tông phái nơi vai phải, để hănh diện rằng ḿnh là đệ tử thuộc ḍng Tuệ Trí.
Say mê trong hào quang danh vọng của một tông chủ sáng chói đó, Tuệ Trí quên bẵng chuyện quay về núi Linh với sư phụ để được vào cánh cửa Không. Thỉnh thoảng, Tuệ Trí có nghe các đệ tử báo cáo cho biết về t́nh h́nh sinh hoạt của sư đệ Tuệ Đức tại một vài nơi hẻo lánh nào đó trong nước. Nghe nhắc Tuệ Đức th́ Tuệ Trí nhớ đến núi Linh, nhưng rồi chỉ khỏanh khắc sau đó là ch́m ngập vào những công việc khẩn thiết mà các tu viện do ḿnh trực tiếp đảm nhận đ̣i hỏi, hoặc phải chú tâm nghiên cứu những dự án phát triển tông phái do các môn đồ đề xuất...
Bao nhiêu việc phải làm, phải để tâm đến, chiếm hết cả thời giờ tu tập của Tuệ Trí đến độ mỗi lúc Tuệ Trí đăng đàn thuyết pháp hay hướng dẫn các khóa lễ, các khóa thiền tọa đại chúng, chàng cũng chỉ có mặt như một cái xác không hồn để làm và nói những điều đă quen và thuộc ḷng, c̣n tâm trí th́ lúc nào cũng bận bịu với các chương tŕnh, các lễ hội sắp tới...
Một hôm, Tuệ Đức trên đường hoằng hóa ghé ngang tu viện của Tuệ Trí, bèn nẩy ư muốn vào thăm sư huynh, đồng thời muốn trao đổi với sư huynh chút kinh nghiệm tu học và hành đạo.
"Ô, Tuệ Đức đó hả? Vào đi," Tuệ Trí đưa tay ngoắc sư đệ vào, "mấy năm rồi, sư đệ cũng chẳng thay đổi ǵ hết, nh́n là nhận ra ngay. Này, các con pha trà mời sư chú đi."
Tuệ Đức nh́n vào căn buồng phía sau phương trượng, thấy một nhóm người lăng xăng, x́ xào, lấp ló, chỉ trỏ ḿnh; chàng e dè theo sự ra dấu của sư huynh, ngồi xuống ở một cái trường kỷ chạm trổ xa cừ bóng lộn.
"Sư huynh bây giờ thấy khác nhiều, nếu gặp ngoài đường e rằng đệ nhận không ra," Tuệ Đức nói.
"Khác dữ vậy sao? Ha ha. Chắc ta ốm và xanh đi nhiều phải không? Ừ, th́ công việc nhiều quá khiến ta như vậy."
"Không, huynh đâu có ốm xanh. Mập trắng ra th́ có. Phát tướng đấy. Trông sư huynh bây giờ đường bệ hơn xưa nhiều. Sư huynh có nhớ năm xưa cùng đệ đi tham vấn nhiều nơi, cuối cùng là đến núi Linh... lúc đó sư huynh rơ đúng là một tăng lữ khổ hạnh..."
"Thôi đừng nhắc chuyện cũ nữa. À này, sư đệ t́m ta có việc ǵ không? Có cần giúp đỡ ǵ không th́ cứ nói thật. Có cần tu bổ hay xây chùa, đúc tượng, in thỉnh kinh sách ǵ th́ cứ nói, ta sẵn sàng chu cấp tất cả những ǵ đệ cần."
"Không, cảm ơn huynh. Đệ đâu có chùa chiền ǵ đâu mà tu bổ. Chỉ nhân chuyến du hóa vùng này, ghé thăm sư huynh thôi."
"Không có chùa? Nói giỡn sao? Thế... lâu nay đệ trú ở đâu?"
"Dạ th́ nơi nào cần th́ đệ đến. Thường thường là ở các chùa ở vùng quê hẻo lánh, nơi mà Phật Pháp suy yếu hoặc chưa được phát triển."
"À, ra thế. Thảo nào trông đệ hăy c̣n dáng vẻ lam lũ, khổ nhọc như năm xưa. Trà có rồi hả, được rồi, chế ra tách dâng sư chú đi."
Có khoảng sáu nữ đệ tử của Tuệ Trí, xếp hàng hai bước ra, người dâng khay trà, người bưng khay tách, người dâng bánh, người dâng quả, hai người cầm quạt đứng hầu hai thầy. Tuệ Đức cảm nghe có gió mát phía sau lưng, quay lại thấy một nữ nhân đang quạt cho ḿnh th́ giật thót người đứng dậy, khoát tay:
"Mô Phật, tôi không dám, xin miễn cho."
Tuệ Trí cười khan:
"Thôi, sư chú các con không quen gió lạnh, vào trong đi."
Cả bọn nữ nhân kéo nhau vào phía trong. Tuệ Đức hăy c̣n đỏ mặt, lúng túng chẳng biết làm ǵ. Tuệ Trí nói tiếp:
"Ta cũng định một ngày nào đó trở lên núi Linh. Có lẽ là cuối năm này. Đệ nghĩ sao? Chúng ta cùng đi chứ hả?"
"Vâng, đệ muốn theo sau huynh, đâu dám vô phép lên núi trước. Nhưng cuối năm nay th́ hơi sớm đối với đệ. Có lẽ phải cuối năm tới."
"Sao vậy? Đệ không lập chùa mà, có bận bịu ǵ đâu?"
"Bận bịu th́ không rồi, nhưng... đệ cảm thấy là mấy năm nay chưa làm được ǵ đáng kể, tự nghĩ là chưa đủ công đức để trở lại tŕnh sư phụ."
"À, ra thế. Vậy là từ đây đến cuối năm sau đệ sẽ nỗ lực làm thêm công đức. Ta hiểu rồi. Ừ mà sao đệ không đến đây phụ giúp ta một tay để gầy dựng thêm công đức. Cần ǵ phải đi đâu xa xôi, bụi bặm. Tính đến nay, bốn năm trời, một ḿnh ta đă xây hơn bốn chục cảnh chùa, chưa kể các đạo tràng của các môn đồ mọc lên khắp nước, phải kể đến số ngàn. Đồ chúng theo ta tu học th́ có thể tính bằng số vạn. Công đức ấy... ôi, nhiều quá, kể sao hết. Ta đây mà có người phụ tá như đệ th́ công việc hẳn là tiến hành nhanh chóng và tốt đẹp hơn."
"Không dám, xin sư huynh miễn thứ cho, đệ c̣n có những Phật sự phải làm ở vùng quê đă dự tính trước. Đệ chỉ ghé thăm sư huynh để học thêm kinh nghiệm hành đạo của sư huynh mà thôi."
"Kinh nghiệm ư? Ừm, để coi nào. Lâu nay ta chỉ làm, chẳng bao giờ để ư chi cái kinh nghiệm. Nói đại khái th́ phải có một thuyết lư ǵ đó mới lạ để thu phục số đông. Thuyết lư đó cũng cần cái phong cách nổi bật của chính ḿnh để phù trợ nữa. Khi quần chúng đă quy phục rồi, ta muốn ǵ lại chẳng được...
Nhưng, ta và đệ khác nhau lắm, ta e đệ không áp dụng được kinh nghiệm của ta đâu. Cái kinh nghiệm ấn tống một cuốn kinh, đúc một tượng Phật, xây một ngôi chùa, th́ có thể chỉ bày cho nhau được, chứ kinh nghiệm sáng tác thơ văn, tư tưởng và biện tài thuyết giáo... nó thuộc về tài năng thiên bẩm, làm sao ta có thể truyền dạy đây?"
"Thưa không, đệ chỉ xin sư huynh một bài kệ, một câu thơ ǵ đó thôi, cũng đủ làm hành trang cho đệ trên đường chu du rồi."
Tuệ Trí bật cười lên một tràng:
"Thơ, kệ à? Ừm, để coi, lâu nay ta cũng ít sáng tác v́ bận quá. À, để ta đọc đệ nghe mấy câu thơ cũ của tiền nhân, được chứ hả? Coi nào, đệ hỏi đột ngột quá, ta chưa kịp nghĩ câu nào có thể thích hợp để đọc cho đệ. Nhớ rồi, bốn câu thơ này của Thiền sư Ngộ Ấn, ta vẫn thường đọc cho các đệ tử nghe:
Diệu tính hư vô bất khả phân
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận
Liên phát lô trung thấp vị càn.
Đệ từng nghe bài đó chưa? Hiểu chứ hả? Thôi để ta đọc luôn bản dịch của ta cho đệ:
Diệu tính hư vô khó nghĩ bàn
Một khi liễu ngộ c̣n khó chi
Ngọc thêu trên núi màu vẫn sáng
Sen đốt trong ḷ sắc thêm tươi.
Độc đáo quá hả? Nói thiệt đệ nghe, bài thơ ấy làm cho ta thêm tự tin khi dấn thân vào chốn bụi hồng để hoằng truyền chánh pháp. Sao? Đến giờ hành lễ rồi à? Được rồi, thầy sắp xong rồi. Hay là sư đệ cùng ta hành lễ rồi sau đó đàm đạo tiếp?"
"Thưa không, thỉnh sư huynh đăng đàn, đệ chỉ ghé thăm, được sư huynh cho nghe bốn câu thơ, tưởng cũng đủ lắm rồi, không dám phiền sư huynh nữa. Đệ xin cáo."
Cuối năm sau, Tuệ Đức lại ghé đạo tràng của Tuệ Trí để cùng sư huynh lên núi Linh th́ nhằm lúc Tuệ Trí đang bận lo một buổi lễ kỷ niệm đệ tứ chu niên ngày thành lập tông phái của Tuệ Trí. Đồ chúng tụ tập quá đông, khiến Tuệ Đức phải khó nhọc lắm mới vào đến được phương trượng để gặp sư huynh. Thấy sư huynh bận rộn với ngày lễ, Tuệ Đức cáo lui, đi bộ hơn một dặm đường mới t́m được chỗ vắng vẻ, có bóng mát, dưới một gốc đại thụ, lánh xa được đám đông ồn ào lễ hội.
Ba ngày sau, Tuệ Đức mới quay trở lại tu viện của Tuệ Trí để mời sư huynh cùng lên núi. Tuệ Trí nói:
"Sau ngày lễ, ta không được khỏe lắm, nhưng ta sẽ đi với đệ. Nhất quyết là phải đi. Tạm thời gác mọi công việc sang một bên cái đă. Giấc mộng của anh em ḿnh xưa nay làm sao nguôi ngoai được, phải không? Này, đem y áo của thầy ra đây. Thầy có việc phải vắng mặt một thời gian, mọi việc trong tu viện thầy đă giao cho sư cô Diệu Bảo thay thầy đảm trách, bây giờ thầy phải đi với sư chú lên núi lạy sư ông của các con."
Đám nữ nhân đệ tử Tuệ Trí xúm xít quanh thầy tỏ vẻ bịn rịn, quyến luyến dữ lắm khiến Tuệ Trí cũng nao ḷng. Nhưng rồi chàng cũng mạnh dạn lên đường. Đám đệ tử định che lọng, rước kiệu tiễn đưa tông chủ Tuệ Trí đến tận chân núi nhưng chàng xua tay bảo thôi, chỉ cho phép sáu nữ đệ tử thân tín tháp tùng. Tuệ Đức thấy vậy th́ nhíu mày, tỏ ư không bằng ḷng. Tuệ Đức thưa nhỏ với sư huynh:
"Huynh bảo họ ở lại tu viện chứ đi theo làm ǵ cho vướng bận. Sư phụ chẳng vui đâu. Hơn nữa, nếu sư phụ mở đường cho chúng ta vào cửa Không th́ sư huynh cũng đâu có mang họ theo được, không lư bắt họ ở dưới chân núi chờ hoài?"
"Ôi, đệ cố chấp quá làm sao giải thoát được. Ta đă đọc cho đệ nghe bài thơ của thiền sư Ngộ Ấn rồi, không lẽ đệ chẳng thấm nhập ǵ hết sao? Đi. Đừng nói nhiều."
Vậy là hai huynh đệ lên đường, có sáu đệ tử lẽo đẽo theo sau.
Đường đến núi Linh vào mùa đông hơi lầy lội v́ đă có nhiều cơn mưa trước đó. Đến b́a rừng, muỗi vắt ào ào bu đến, đám đệ tử la khóc eo éo. Tuệ Trí phải dừng chân chăm sóc, khuyến dụ. Vậy mà rồi họ vẫn không bỏ ư định đi theo Tuệ Trí đến tận chân núi. Có thêm đoàn tùy tùng này, con đường đến núi Linh đối với Tuệ Đức như dài thêm gấp mười lần v́ đi một đoạn đường lại cứ phải cùng sư huynh đứng lại chờ đợi sáu người kia.
Sau một ngày đường vất vả, cuối cùng, đoàn người cũng đến được chân núi. Tuệ Trí dặn ḍ đám đệ tử:
"Thầy cùng sư chú lên núi. Các con cứ chờ ở đây. Sáng mai nếu không thấy thầy trở xuống th́ các con tự động trở về tu viện, tạm thời nương sư cô Diệu Bảo mà tu học. Khi nào xong việc thầy sẽ xuống núi, tiếp tục hướng dẫn các con."
Tuệ Đức đứng chờ sư huynh dặn ḍ, rồi thêm chuyện đệ tử tác bạch tiễn đưa, thề ước, thưa bẩm, gởi gắm, nhắn nhủ, bịn rịn t́nh nghĩa thầy tṛ cũng mất cả nửa giờ. Đến khi mặt trời sắp sửa khuất sau núi Linh rồi, hai huynh đệ mới bắt đầu cất bước.
Sư phụ ngồi trên bồ đoàn, hai huynh đệ sụp lạy. Xong, Tuệ Trí thưa:
"Bạch thầy, năm năm qua con vâng lời thầy xuống núi đă thực hiện nhiều Phật sự, tạo nhiều công đức. Nay xin thầy từ bi hoan hỷ mở cánh cửa cho con bước vào nhà Không của Như Lai."
Tuệ Đức chỉ quỳ chắp tay, lặng thinh.
Sư phụ gật gù hỏi:
"Phật sự của các con làm thầy có biết. Nay thầy chỉ muốn nghe các con tŕnh bày ngắn gọn một câu thôi mà tóm thâu tất cả những ǵ trong năm năm vừa qua. Tuệ Đức con nói trước đi."
Tuệ Đức cung kính thưa:
"Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Tam thiên oai nghi, bát vạn tế hạnh không rời một khỏanh khắc."
Tuệ Trí nghe vậy cũng muốn bật cười lên, nhưng chưa kịp cười th́ sư phụ đă hỏi đến ḿnh.
"Tuệ Trí, con nói đi."
Tuệ Trí bèn thưa: "Trên đầu sợi tóc mỹ nhân, thấy sự mầu nhiệm linh thiêng của thế giới hoa tạng; ngày đêm ăn ngủ nói cười mà vẫn cùng Phật Tổ sánh vai không rời một bước."
"Sở học cao thâm, ngữ khí trượng phu lắm. Nhưng, đối với ái dục th́ sao, nói ta nghe, Tuệ Trí?"
"Có vướng cũng không bận," Tuệ Trí tự tin đáp.
Sư phụ quay qua Tuệ Đức:
"Đối với ái dục con thế nào?"
Tuệ Đức thưa:
"Lặng trong không vướng, không bận."
Sư phụ im lặng rời bồ đoàn đứng dậy, bước ra sân. Hai đệ tử cũng bước theo. Sư phụ quay lại nói:
"Cửa Không đă sẵn mở, các con bước vào đi."
Tuệ Đức hốt nhiên đại ngộ, tươi sáng nét mặt, cúi lạy thầy rồi ung dung bước thẳng lên đỉnh núi, thoáng chốc là biến mất trong lớp mây mù. Trong khi đó, Tuệ Trí hăy c̣n phân vân, nghi ngại; vừa tính dợm chân bước th́ thấy nặng tŕ ở dưới gót chân phải, như đeo phải đá, không sao cất lên nổi.
"Bạch thầy, sao lại có chuyện lạ như vậy? Chân con, không biết sao, kỳ cục quá, không cất lên được..."
Vừa nói đến đó bỗng thấy Tuệ Đức từ trên núi lướt xuống. Thân h́nh cục mịch nhà quê của Tuệ Đức lúc này trông nhẹ như mây. Lướt ngang chỗ sư phụ và sư huynh, Tuệ Đức chắp tay vái chào rồi bay thẳng xuống núi.
"Tuệ Đức, đi đâu vậy? Bạch thầy, sao Tuệ Đức lại xuống núi, chẳng lẽ trên đó không có ǵ hết sao?"
"Hoa tạng thế giới của con đâu mà giờ này c̣n hỏi? Đă cùng với Phật Tổ sánh vai th́ cần ǵ phải t́m Phật t́m Tổ trên núi! Kiến tánh thành Phật rồi th́ ra vào tự tại, có cánh cửa nào có thể ngăn ngại được đâu. Cửa Không có bao giờ đóng đâu mà phải cần thầy mở. Kiến tánh rồi th́ tự khắc thấy đường đi thôi. Tuệ Đức thong dong được là do lẽ đó."
Tuệ Trí bấy giờ mới thức ngộ, bật khóc. Bao nhiêu danh từ và chương cú hoa mỹ về Phật, về Thiền, về Hoa Nghiêm, về Bát Nhă, về Lăng Già, về Như Lai Tạng Tính... mà lâu nay chàng từng sử dụng, bây giờ mới thấy chỉ là những cụm từ rỗng tuếch, không dính nhập ǵ đến thực tại tối hậu.
Sư phụ thương cảm, nói lời an ủi:
"Căn tính con thông tuệ, nhạy bén hơn Tuệ Đức rất nhiều. Trí tuệ là khí giới tối hảo để đạt đến đạo quả giác ngộ; nhưng từ nhiều năm nay, con chưa hề tạo được một công đức nhỏ nào cả. Tất cả những ǵ con làm ở thế gian, đều chỉ là những manh động của dục vọng, làm sao tạo nên được công đức! Phước Đức và Trí Tuệ giống như đôi chân của con vậy, phải đủ cả hai và phải cùng song hành, không thể thiếu một mà có thể bước đi được," vị thầy ngưng một lúc, thở dài nói tiếp "à, con có nhớ những lời đơn sơ của Tuệ Đức không? Quy y Phật, Pháp, Tăng. Tại sao? V́ quy y Phật là trở về với thể tính thanh tịnh, đoạn trừ tất cả những tham dục, cấu bẩn; quy y Pháp là trở về với trí tính vô biên, đoạn trừ hết những si mê, cố chấp và ḷng kiêu ngạo; quy y Tăng là trở về với tự tính ḥa hợp b́nh đẳng, trừ bỏ những ḷng hận thù, ganh ghét...
Không có trí tuệ siêu việt nào có thể bừng vỡ trên mảnh đất c̣n tràn ngập những tham, sân, si và các phiền năo căn bản. Cho nên, theo ư thầy th́ con nên ở lại đây, nỗ lực tu tập thêm một thời gian nữa; hay con muốn tiếp tục trở về với tu viện dưới núi của con th́ tùy ư, nhưng dứt khoát là dù ở đâu, cũng phải dẹp hết những thứ phiền năo linh tinh từng quấy nhiễu phá rối tâm con th́ may ra mới vào được cánh cửa Không ấy."
Tuệ Trí lạy tạ ơn thầy chỉ dạy rồi đứng dậy, phân vân một lúc, nhớ rằng sáu đệ tử của ḿnh đang chờ đợi dưới núi. Tuệ Trí quyết định từ giă thầy, lủi thủi cúi mặt bước xuống núi, nhưng được nửa đường th́ đứng lại. Tưởng tượng mấy chục ngôi chùa và hàng trăm đạo tràng với bao nghi lễ ŕnh rang xôm tụ đang chờ đón ḿnh bên dưới, rồi nhớ đến cả lô học giả trí thức bày tṛ đốn ngộ chứng Thánh mở miệng là nói thiền ngôn mật ngữ nhưng chưa bao giờ nếm được một giọt nước nhỏ trong đại dương giải thoát, rồi nghĩ đến đám nữ nhi phàm tục dễ sa nước mắt quấn quít nhơng nhẽo đêm ngày...
Ôi, sao mà rỗng tuếch, vô vị, cho dù có thêm triệu năm nữa để đóng kịch và bày tṛ, cũng chẳng một mảy may nào trong những thứ ấy có thể với đến được cánh cửa huyền vi của ngọn núi Linh này. Tuệ Trí c̣n nhớ có một ông lạt-ma Tây Tạng hứa sẽ dạy chàng về pháp đằng vân (cỡi mây) với điều kiện chàng phải xây cho ông ấy một tu viện nguy nga tận xứ Tây Tạng và chàng đă hứa sẽ sắp đặt thời gian rảnh để học phép thuật này.
Bây giờ, chàng thấy cũng không cần thiết nữa. Cho dù có học được phép cỡi mây, cỡi gió đi khắp nơi th́ cũng chỉ lẩn quẩn trong ṿm trời hữu hạn của trần gian, không làm sao lọt vào được cơi Không bát ngát thênh thang mà chàng hằng ôm ấp. Tất cả những thứ kể trên, ngay lúc này, chàng thấy không c̣n cần thiết nữa. Chàng đứng im một lúc ở lưng núi khi trời đang tối dần.
Trong khi sáu nữ đệ tử của Tuệ Trí từ chân núi nh́n lên thấy núi Linh mây phủ mờ mịt, gợi lên bao huyền thoại kỳ bí xa xăm th́ ở lưng núi, Tuệ Trí cũng quay đầu ngước nh́n lên núi cao, trong mắt chàng lúc ấy, mây mù đă tan sạch, đỉnh núi Linh cao vợi lần đầu tiên hiện ra sừng sững giữa trời tây trong vắt. Thực sự là không c̣n một huyền thoại hay một kho tàng mầu nhiệm nào đáng để t́m cầu khám phá nữa. Chàng bật lên một tràng cười sảng khoái, rồi đi ngược lên núi, t́m sư phụ, bắt đầu cuộc hành tŕnh đi vào cửa Không.
Vĩnh Hảo
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 248 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:32pm | Đă lưu IP
|
|
|
NÚI BÀ ĐEN
Ngày xưa, núi Bà Đen có tên gọi là Núi Một. Trên đó có một tượng Phật bằng đá, rất linh thiêng. Dân chúng rủ nhau chặt cây lá dọn đường lên núi cúng Phật.
Người lên núi thường phải đi từng đoàn, v́ dọc đường có rất nhiều beo cọp. Có một người con gái tên là Lư Thị Thiên Hương, văn hay vơ giỏi, gốc ở Trảng Bàng. Vào mỗi ngày rằm trăng sáng, cô hay lên núi lễ Phật. Trong làng, có chàng trai tên là Lê Sĩ Triệt để ư cô, đem ḷng thương mến.
V́ thấy cô có nhan sắc, một ông quan nọ định dùng vơ lực bắt cô đem về làm thiếp. Ông ra lệnh cho một thầy vơ thi hành kế gian. Khi cô Lư bị thầy vơ kia đánh bại, sắp gặp nạn, th́ Lê Sĩ Triệt xông ra cứu thoát.
Về nhà, cô thuật truyện lại, được cha mẹ đồng ư gả cô cho chàng trai cứu mạng. Vào lúc ấy, Vơ Tánh đang chiêu binh giúp Gia Long đánh nhà Tây Sơn, Lê Sĩ Triệt ra ṭng quân. Một hôm, giữa lúc đang chờ chồng trở về đoàn tụ, cô đang cầu khẩn trên núi th́ có một bọn cướp đến vây bắt. Cô chạy thoát vào rừng trốn, rồi mất tích luôn.
Sang đời vua Minh Mạng, có một vị hoà thượng trụ tŕ trên núi Tây Ninh ngày kia đang niệm Phật, bỗng thấy một người con gái mặt đen nhưng xinh đẹp hiện ra nói văng vẳng:
- "Ta đây họ Lư, khi 18 tuổi bị rượt bắt nên té xuống hố chết. Nay ta đă đắc quả, xin Hoà Thượng xuống triền núi phía Đông Nam t́m thi hài ta mà chôn cất dùm".
Vị hoà thượng này y lời, đi t́m xác cô, đem về chôn cất. Câu chuyện đồn đăi ra tới tai Thượng Quốc Công Lê Văn Duyệt. Ông bèn lên núi t́m hiểu hư thực, và hứa dâng sớ về triều phong chức cho cô gái họ Lư này, nếu cô linh hiển cho ông thấy tận mắt sự thật.
Cô bèn nhập vào xác một đứa con gái, nói rằng:
- "Hồn của thượng quan sau này sẽ được chức thần kỳ vinh hiển, nhưng xác của thượng quan sẽ bị hành hạ".
Lê Văn Duyệt nói:
- "Bổn chức không cầu xin cho biết tương lai ḿnh, mà chỉ muốn biết rơ căn nguyên của nàng".
Xác cô gái rơi nước mắt, kể lại câu chuyện chết oan ức của ḿnh, và nhắc lại duyên nợ tiền định với chàng Lê Sĩ Triệt.
Theo lời kể, sau khi Vơ Tánh tự hoả thiêu ngày thành B́nh Định thất thủ, Lê Sĩ Triệt được phong chức chỉ huy 2 tỉnh Khánh Hoà và B́nh Thuận. Hai người v́ chưa sống chung nhau, nên được trường sinh bất tử. Nhờ vậy, nàng trở thành tiên thánh, xuống cơi trần thế để cứu nhân độ thế.
Kể dứt lời, cô gái nọ té nhào, bất tỉnh hồi lâu mới dậỵ Lê Văn Duyệt đă thay mặt vua, phong cho cô Lư thị Thiên Hương chức vị "Linh Sơn Thánh Mẫu", ngự ở Núi Một, tức là núi Bà Đen ngày nay ở Tây Ninh.
Núi Bà Đen nổi danh là một địa thế linh hiển, kỳ bí, nhiều phép lạ, khó ai giải thích được.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 249 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:32pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN CHÙA TIÊU SƠN VÀ NHỮNG PHÁT HIỆN KỲ THÚ
Gần bảy tháng sau khi được rước ra khỏi ngôi tháp cổ ngày 26-9, pho tượng di thể của thiền sư Như Trí đă được tu bổ khôi phục xong. Nhưng chung quanh pho tượng táng (viên tịch nhưng thân xác không phân hủy) cực kỳ quư giá thứ tư, được t́m thấy ở Việt Nam vẫn c̣n rất nhiều bí ẩn.
Ngày 5-3-2004, trước sự chứng kiến của hàng trăm nhà sư, phật tử và đại diện chính quyền địa phương, ngôi tháp cổ đă được khai mở. Và nhục thân Thiền sư Như Trí trong tư thế ngồi kiết già được rước ra bị hư hỏng nặng:
Tay rụng, mắt trái thủng, toàn thân nứt nẻ. Nơi cất giữ tượng ẩm thấp, nước vẫn tiếp tục nhỏ xuống từ các mạch vữa lở lói. Trên tháp có tấm bia nhỏ ghi:
Đây là "Viên Tuệ tháp" được đệ tử nối pháp của ngài là Tính Phong, cùng hàng môn nhân dựng vào mùa xuân năm 1723 đời vua Lê Dụ Tông, niên hiệu Bảo Thái thứ tư. Như vậy pho tượng và ngôi cổ tháp đă có ít nhất 281 năm tuổi.
Tuy nhiên, đây không phải là lần đầu tiên pho tượng được phát hiện. Theo nhà sư Đàm Chính trụ tŕ chùa Tiêu Sơn cách đây hơn 60 năm, đă có một người nh́n thấy h́nh pho tượng và lấy que chọc thủng mắt trái. Sau đó, lỗ hổng trên tháp được nhà chùa bít lại nhưng không ai nghĩ đó là di thể thật của một thiền sư.
Nhiều năm sau, dư luận được dịp sửng sốt v́ sự phát hiện ra ba pho tượng táng của Thiền sư Nguyễn Khắc Minh, Nguyễn Khắc Trường ở Chùa Đậu, thiền sư Chuyết Tuyết ở chùa Phật Tích, nhưng vẫn không ai để ư đến câu chuyện pho tượng ở Tiêu Sơn tự, dù đây là ngôi chùa có lịch sử 1.000 năm, đă từng là Trung tâm thuyết giảng và đào tạo về Phật giáo lớn nhất Việt Nam, dưới thời quốc sư Lư Vạn Hạnh và một số đệ tử nối pháp trụ tŕ.
Măi đến năm 1995, khi các nhà lănh đạo thiền phái Trúc Lâm có dịp về thăm chốn Tổ Tiêu Sơn, sự việc này được xới lại và chín năm sau, tháng 3-2004, pho tượng mới được rước ra khỏi tháp.
Kỳ công độc nhất vô nhị
Dự án tôn tạo, tu bổ tượng được TS Nguyễn Lân Cường, họa sĩ sơn mài Đào Ngọc Hân, với sự tham gia của Viện 69. Viện Khoa học công nghệ Việt Nam thực hiện trong bốn tháng. Trong suốt quá tŕnh đó, những nghiên cứu di cốt đă cho kết luận: Thiền sư Như Trí là một người đàn ông, cao xấp xỉ 1,65m, viên tịch trong độ tuổi từ 45-50.
Một vị chức sắc Phật giáo cho rằng, ở cái tuổi đó mà thiền sư Như Trí đă luyện được cách, khiến di thể bất hoại, là một kỳ công độc nhất vô nhị.
Qua vị trí sắp xếp các xương; qua phương pháp phân tích phổ hồng ngoại, các nhà khoa học cũng nhận thấy: Thiền sư được phủ sơn ta, sơn mài truyền thống và các phụ gia khác ngay sau khi viên tịch.
Một trong những phát hiện kỳ thú nhất là trong bụng nhục thân có một khối to hợp chất bằng quả bưởi . Hợp chất này, sau khi phân tích bằng phương pháp nhiễu xạ tia X, có thể khẳng định: đây là các chất vô cơ có cấu trúc tinh thể, và nó là các chất c̣n lại của phần phủ tạng trong bụng thiền sư.
Như vậy đây cũng là pho tượng táng cả ngũ tạng, đặc biệt hơn các xác ướp Ai Cập để bảo vệ di thể không hư hoại, người Ai Cập phải mổ bụng, đưa hết lục phủ ngũ tạng óc ra ngoài.
Việc chụp phim X-quang pho tượng đă cho thấy nhiều điều hết sức mới mẻ: Sau khi bồi lớp thứ nhất, người xưa đă đặt một tấm đồng lớn trên lưng, chiều dài 65cm, rộng 15cm và một tấm đồng trên ngực rộng 22cm thiền sư, rồi mới bồi thêm lớp nữa. Ngang và dọc trên đầu, cổ và bắp tay là những dải băng bằng đồng có các kích thước khác nhau từ 4-21mm.
Các nhà khoa học tuyên bố đây là hiện tượng lần đầu tiên được phát hiện ở Việt Nam. Những tấm đồng này có khả năng giúp cho tư thế ngồi của thiền sư vươn thẳng, tránh bị cúi gập xuống ở phần cổ, lưng và có thể bảo vệ hộp sọ.
Từ các phát hiện trên, chứng tỏ phương thức táng tượng của Việt Nam rất độc đáo và đạt tŕnh độ rất cao. Phương thức táng này cũng đă được phát hiện ở Trung Quốc với tên gọi "giáp trữ tất". Công việc trùng tu sở dĩ kéo dài hơn dự kiến là v́ pho tượng hư hại quá nặng và tính chất táng có nhiều điểm mới mẻ.
Đầu tiên, các nhà khoa học tiến hành phải tiến hành diệt khuẩn, nấm mốc và côn trùng. Sau đó quy tŕnh được bảo đảm nghiêm ngặt: bọc vải, bó, hom, lót, thí.. với 13 lớp sơn và thếp bạc.
Tu bổ hoàn thành pho tượng nặng 34kg, chiều cao tư thế ngồi 78,5cm được đặt trong một khám sơn son thếp vàng, có hộp kính kín dày 10mm do nhà máy kính Đáp Cầu đúc, chứa đầy khí ni tơ để bảo vệ, đặt ở nhà Tổ chùa Tiêu Sơn.
Một phiên bản khác của tượng được làm bằng composite và 10 lớp sơn, vải, mạt cưa nặng 55,5kg đặt trong thân ngôi tháp cổ để du khách và phật tử chiêm bái.
Các bậc chân tu và công năng đặc dị
Theo nhà Phật, người chết mà để lại những phần không bị tiêu huỷ sau khi hỏa táng th́ gọi là xá lợi, như cái lưỡi của ngài Duy Ma Cật, một vị thuyết pháp thời Đức Phật, hay như quả tim của ngài Thích Quảng Đức tự thiêu. Theo truyền thuyết, Đức Phật sau khi tịch cũng để lại xá lợi là những viên ngọc ngũ sắc, ngay cả cho vào nhiệt độ rất cao cũng không thiêu huỷ được. C̣n như ngài Như Trí là toàn thân xá lợi.
Nếu là những bậc chân tu, sau khi luyện được tâm thanh tịnh th́ họ đạt được ngũ thông hoặc lục thông:
"Thiên nhĩ thông" tai có thể nghe được âm thanh nhỏ hoặc từ rất xa. "Thiên nhăn thông" mắt cũng nh́n được xa và vật cực nhỏ. Trong Kinh có ghi Đức Phật "thấy" được ngoài trái đất c̣n có hằng hà sa số tinh tú, "thấy" được trong nước có bát vạn tứ thiên trùng: vi trùng, vi khuẩn. "Tha tâm thông" đọc được tâm địa người khác. Nhiều sách nhà Phật cũng đă ghi lại khả năng thần thông của nhiều thiền sư, như Nguyện Minh Không, Từ Đạo Hạnh do tu luyện mà thành.
Nhưng cái gốc của Phật giáo không phải là để đạt được ngũ thông, lục thông mà là để chuyển hóa cái tham, sân, si trong con người ḿnh đến chỗ an nhiên thanh tịnh.
Với nhà Phật th́ việc tu hành là không có mục đích đạt đến và đối tượng đạt đến: dù mắt thấy sắc, mũi thấy mùi, tai nghe rơ... nhưng trong tâm không nảy sinh bất kỳ một ư niệm nào ưa thích hay ghét bỏ, phiền năo.
Nếu tu được đến mức độ như vậy th́ thời gian quá khứ, hiện tại sẽ không c̣n ngăn cách nữa, và nhà tu hành có thể lưu và dung được trí tuệ quá khứ cũng như đoán định được tương lai.
Ḥa thượng Thích Thanh Từ, đang ở tại thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt, cũng đă đi được hai phần ba chặng đường nhập thất ba năm để tĩnh tu. Mục đích của việc nhập thất là để nêu gương cho đệ tử tu hành và chuẩn bị cho ḿnh có thêm đạo lực, làm chủ được thân tâm trước khi ra đi, đồng thời cũng biết được ngày giờ ra đi.
Nhập thất là suốt ngày trở về sống với nội tâm thanh tịnh của ḿnh, không suy nghĩ và làm việc ǵ khác không xem báo, không đọc kinh, không nghe đài, coi ti vi... ăn uống có người đem đến, ăn xong có người đem đi..
Thiền sư Như Trí cũng đă thực hiện một dạng nhập thất nên ra đi hoàn toàn siêu thoát.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 250 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:34pm | Đă lưu IP
|
|
|
CĂN PH̉NG ĐỦ TIỆN NGHI
Một số người sống trong một quận gạch đỏ dưới phía đông của thành phố luôn luôn thiếu ổn định, măi trôi giạt lang thang. Tuy vô gia cư họ vẫn có hàng trăm chỗ ở. Họ nhảy từ pḥng cho thuê này qua pḥng khác, pḥng nào cũng đủ tiện nghi nội thất, luôn trong cảnh lông bông, lông bông về chỗ trú ngụ, lông bông về tâm hồn và tư tưởng.
Họ ca hát “Tổ ấm gia đ́nh” trong điệu dân ca Mỹ rộn ràng, họ mang đồ tế nhuyễn trong một cái thùng đáng lẽ chỉ để đựng đồ linh tinh, dây leo làm cảnh quấn quanh cái mũ rộng vành ta thường thấy trong các bức họa, một cái cây nhỏ là cây bóng mát.
V́ thế những ngôi nhà của quận này, với hàng ngh́n nhân khẩu, có hàng ngh́n câu chuyện để kể, đương nhiên phần lớn đều vô vị, nhưng sẽ là điều lạ lùng nếu ta không thể t́m ra một vài bóng ma trong đám dân cư lông bông này.
Một buổi tối một thanh niên lượn ṿng, bấm chuông những toà nhà màu đỏ đổ nát này. Đến toà nhà thứ mười hai, anh đặt túi hành lư lép kẹp trên bậc thềm, lau cái trán đă lấm đầy bụi. Cái chuông phát ra âm thanh khe khẽ và xa xôi trong những chiều sâu nào đấy hun hút trống rỗng.
Một người đàn bà đi ra cửa. Bà làm anh liên tưởng đến một con sâu bệnh hoạn, háo ăn háo uống đă đục khoét cả một cái quả chỉ chừa lại vỏ cứng và bây giờ đang lo kiếm khách trọ nào đấy có thể xơi được, để lấp đầy chỗ hổng. Anh hỏi bà có pḥng trống cho thuê hay không.
Bà trả lời, tiếng phát ra từ cổ họng, cổ họng dường như được lót lông thú:
- Mời vào. Tôi có tầng ba, phía sau, đă trống một tuần nay. Anh muốn xem không?
Người thanh niên theo bà đi lên cầu thang. Một luồng ánh sáng nhợt nhạt không rơ phát ra từ đâu lắp bớt những khoảng tối trong các hành lang. Họ bước không một tiếng động nào trên một tấm thảm mà cái khung cửi dệt của nó hẳn phải không dám nh́n nhận nó nữa.
Dường như tấm thảm đă trở nên một loài thực vật, trong bầu không khí nặng không hề có ánh mặt trời, nó đă bị thoái hoá thành một lớp địa y lùm xùm hay rêu lan tràn mọc từng mảng đến tận cầu thang, nó trơn nhớt dưới chân như là một chất hữu cơ.
Ở mỗi chỗ ngoặt của cầu thang là những hốc lơm trên tường. Có lẽ một loại cây cỏ nào đó đă từng mọc trong đấy. Nếu đúng thế, hẳn mấy cây cỏ đó đă tàn lụi trong bầu không khí hôi hám. Có thể có những bức tượng của các vị thánh đă được đặt ở đấy, nhưng ta có thể suy luận dễ dàng là, ma quỷ đă lôi họ qua bóng tối, xuống những vực sâu có trang bị đồ đạc trần tục ở phía dưới.
Bà chủ nói qua cổ họng được lót lông thú:
- Pḥng này đây. Pḥng này tốt lắm ít khi trống. Mùa hè vừa rồi có người đứng đắn thuê, không gây rắc rối ǵ cả, lại c̣n trả tiền trước. Nước ở cuối hành lang..
..Sprowls và Mooney đă thuê ở đây ba tháng. Họ diễn trên sân khấu văn nghệ tạp kỹ. Cô B’retta Sprowls chắc ông có nghe nói đến cô ấy. À mà đấy chỉ là tên sân khấu, trên tủ quần áo ngay đây là nơi họ treo giấy hôn thú có đóng khung đàng hoàng. Ṿi ga ở đây có nhiều tủ quần áo ông thấy đấy. Ai cũng thích pḥng này. Không mấy khi trống.
- Bà có nhiều nghệ sĩ sân khấu thuê pḥng ở đây không?
- Họ đến rồi đi. Giới sân khấu có thuê một số pḥng ở đây. Đúng thế ông ạ, nơi đây là quận sân khấu. Mấy diễn viên không bao giờ ở lâu một chỗ nào cả. Một số có thuê ở đây. Vâng họ đến rồi đi.
Anh thanh niên nhận thuê pḥng, trả trước một tuần. Anh bảo anh cảm thấy mệt và muốn nhận pḥng ngay. Anh đếm tiền. Bà chủ bảo pḥng đă sẵn sàng, ngay cả khăn lau và nước đều sẵn sàng. Khi bà chuẩn bị ra ngoài, anh thanh niên hỏi câu hỏi anh đă có trên đầu môi cả ngh́n lần:
- Có một cô gái trẻ. Cô Vashner, cô Eloise Vashner, bà có nhớ cô đă đến thuê ở đây không? Rất có thể cô hát trên sân khấu. Da trắng tầm vóc trung b́nh, với tóc vàng kim đo đỏ và một bớt sẫm gần lông mày bên trái.
- Không tôi không nhớ tên. Giới sân khấu thay đổi tên liên tục cũng như họ thay đổi pḥng. Họ đến rồi đi. Không tôi không nhớ tên này.
Không. Luôn luôn là không. 5 tháng điều tra liên tục rồi không tránh khỏi vô vọng. Bỏ rất nhiều th́ giờ ban ngày để hỏi han mấy ông bầu, nhân viên đại diện, trường kịch nghệ, ban hợp xướng. Ban đêm trà trộn trong số khán giả của các sân khấu từ những nhà hát đầy ngôi sao đến các pḥng ca nhạc hạ cấp. Anh, người thương cô nhất trần đời, đă cố công t́m kiếm cô. Anh chắc chắn là từ khi cô biến khỏi nhà, thành phố thênh thang bao quanh toàn là nước này chứa chấp cô ở đâu đấy, nhưng nó như là một vũng lầy khủng khiếp, luôn luôn xoáy động, không có nền chắc chắn, các vật thể nổi hôm nay bị ch́m lấp ngày mai trong bùn nhớt.
Căn pḥng đủ tiện nghi nội thất đón người khách mới nhất với tia sáng đầu tiên của ḷng hiếu khách giả tạo, một thái độ chào đón tất bật hốc hác, máy móc. Sự thoải mái hiện đại đến từ ánh sáng phản chiếu từ đồ nội thất ră mục, tấm nệm thêu xơ xác của cái phô-tơi và hai chiếc ghế, tấm gương soi toàn thân rẻ tiền đặt giữa hai cửa sổ và khung giường bằng đồng đặt ở góc pḥng. Người khách trọ ngồi ngả người trên ghế, bất động, trong khi căn pḥng, hoang mang trong ngôn từ như thể là một pḥng trọ trong Tháp Babel, cố gắng thuyết minh về chức năng cho thuê đa dạng của nó.
Cái tấm thảm với lắm mùi khác nhau, h́nh chữ nhật thêu hoa, giống như ḥn đảo vùng nhiệt đới bao quanh bởi một vùng biển là tấm lót sàn vấy bẩn, phồng lên chỗ này, tọp xuống chỗ nọ. Trên bức tường dán giấy màu tươi sáng là những tấm h́nh đi theo những người vô gia cư từ nhà này đến nhà nọ. Những góc cạnh đạo mạo một cách khắc khổ của cái bệ ḷ sưởi bị che phủ một cách tồi tệ trong cái màn cửa theo mốt thời trang, bị kéo xệch dúm dó về một bên cứ như là tấm vải choàng của vũ nữ ba lê vùng rừng già Amazon ở Nam Mỹ. Trên cái bệ là xác một con tầu chỏng chơ được mang vào bờ khi một cánh buồm may mắn mang chúng đến bến cảng tươi mát, một hai b́nh hoa vô duyên, ảnh của mấy diễn viên, một lọ thuốc, vài lá bài tây lạc lơng khỏi cỗ bài.
Khi bản mật mă trở nên rơ ràng từ chữ này qua chữ khác, những dấu hiệu nhỏ nhoi c̣n sót lại sau cuộc diễu hành của những người khách trọ trong căn pḥng đủ tiện nghi nội thất trở nên có ư nghĩa. Cái khoảnh tấm thảm xơ xác trước cái bàn phấn bảo rằng những người phụ nữ dễ thương đă đến hàng đoàn. Những dấu tay bé tí trên bức tường nói đến những tù nhân nhỏ tuổi cố lần ṃ t́m đường ra ánh nắng và không khí. Một vết bẩn vương văi, toả ra như cái bóng của một bom bùng nổ, là chứng tích của một cái cốc hay chai va vào, tung toé ra lên tường chất đựng bên trong. Trên mặt gương soi toàn thân là tên người “Marie” viết nguệch ngoạc bằng kim cương.
Dường như lần lượt những khách trọ trong căn pḥng đủ tiện nghi đă trút ra cơn giận dữ, có lẽ không thể chịu nổi vẻ lạnh lùng hào nhoáng rẻ tiền của nó và đem tất cả cuồng nhiệt ra phá phách. Bàn ghế tủ giường bị đẽo gọt và trầy trụa, cái ghế bành bị móp méo v́ mấy ḷ xo bung ra, trông như là con quái vật khủng khiếp đă bị sát tử trong cơn quằn quại loạn cuồng. Một cơn quấy động nào đấy lộ liễu hơn đă sớt cái bệ ḷ sưởi đi một lát lớn. Mỗi thanh gỗ sàn tạo một mảng riêng rẽ và kêu thét như là trong cơn đau đớn riêng biệt của từng cá thể. Có vẻ khó tin là những người có thời từng gọi căn pḥng này là “nhà” lại có ác ư gây ra bao đau thương như thế cho căn pḥng.
Và tuy nhiên, có thể là bản năng do ư niệm về “nhà” bị lừa gạt, vốn đă tồn tại một cách đui mù sau cơn giận dữ đầy bất b́nh đối với cơn phẫn nộ của những người ở trọ. Nếu ta là chủ một túp lều, ta vẫn quét dọn, trang hoàng và giữ ǵn nó.
Anh khách trẻ ở trọ, gọn người trong ghế, để những ư tưởng như thế lướt qua êm ái trong đầu anh, trong khi những âm thanh và những mùi hương, đều có đủ tiện nghi nội thất lan toả vào căn pḥng. Anh nghe trong một căn pḥng tiếng khúc khích và chuỗi cười vang buông thả không kiềm chế, trong những pḥng khác một giọng độc thoại trách mắng, tiếng xúc xắc lanh canh, tiếng ru con và một tiếng khóc sụt sùi, tầng trên là tiếng đàn banjo găy đầy nhiệt t́nh. Ở đâu đấy có những cánh cửa đóng sầm; cái thang máy kêu thét không ngừng, một con mèo rên rỉ thảm hại trên hàng rào sân sau. Và anh thở hơi thở của toà nhà hương vị ẩm lạnh, hơn là một mùi vị nồng nồng lạnh lẽo mốc meo như thể từ những hố ngầm dưới đất, pha trộn với hương sực nức của véc-ni và đồ gỗ mục nát đă lên nấm mốc.
Và th́nh ĺnh, khi anh ngả người như thế, mùi hoa mignonette ngọt dịu tràn ngập căn pḥng. Mùi hương dường như đến theo một cơn gió thoảng, với sự chắc chắn, thơm tho và khẳng định thành một hương vị khác có sự sống. Và như thể là có tiếng gọi anh rồi anh đứng bật dậy nh́n chung quanh. Mùi hương nồng nàn bám lấy anh và bao quanh lấy anh. Anh dang cả hai tay ra đón nó, mọi tri giác của anh trong nhất thời đều bị hoang mang trộn lẫn. Làm thế nào một mùi hương có thể gọi được anh? Chắc chắn đấy phải là một linh hồn. Nhưng mà có phải đấy là một âm thanh đă chạm đến anh đă ve vuốt anh?
“Nàng đă ngụ ở pḥng này” anh thốt lên và bật người ra để níu lấy một ít, v́ anh biết anh có thể nhận ra cái ǵ đấy dù nhỏ nhặt nhất thuộc về nàng hay cái ǵ đấy nàng đă chạm tay đến. Mùi hương mignonette này, mùi hương nàng vẫn yêu thích và biến thành mùi của riêng nàng đă từ đâu đến?
Căn pḥng đă được dọn dẹp một cách cẩu thả. Vương văi trên chiếc khăn mỏng dính đậy cái bàn phấn là khoảng nửa tá kim cài tóc, những người bạn thầm kín, khó phân biệt nhau của giới phụ nữ, thuộc phái yếu, với cảm hứng vô hạn và một thể ngôn ngữ không thể truyền thông được. Anh bỏ qua những món này, hiểu rơ chúng hoàn toàn thiếu khả năng chứng minh ai là ai. Khi lục lọi trong mấy ngăn kéo của cái bàn phấn, anh t́m thấy một khăn tay nhỏ bị vứt bỏ nhàu nát. Anh áp nó vào mặt ḿnh. Nó có mùi cây ṿi voi nồng nặc xấc xược, anh ném nó xuống sàn nhà.
Trong một ngăn kéo khác anh t́m ra vài cúc áo, một tờ chương tŕnh nhà hát, một thẻ cầm đồ, hai mẩu kẹo đường, một lô cuốn sách nói về cách đoán mộng. Trong ngăn kéo cuối cùng là một kẹp tóc bằng vải sa-tanh đen, khiến anh dừng tay, vội bốc lấy nó, giữa băng giá lạnh và lửa nóng cháy. Nhưng cái kẹp tóc cũng chỉ là loại trang sức của nữ giới, khiêm tốn, thông thường và vô nhân cách không nói lên được điều ǵ.
Và rồi anh lùng sục khắp pḥng như con chó săn đánh hơi con mồi, lướt qua bức tường ḅ trên hai chân và hai tay để xem xét từng góc kẹt của tấm trải sàn, phập phồng sục sạo cái bệ ḷ sưởi và mấy cái bàn, màn cửa, màn treo, cái tủ nhỏ ở góc pḥng, để t́m kiếm một dấu vết sinh động, dù anh không thể nhận ra là nàng đă ở bên anh, xung quanh anh, tựa vào anh ở trong anh, bên trên anh bám lấy anh gọi anh qua mọi cảm nhận tính tế hơn, đến nỗi ngay những giác quan đơn sơ nhất của anh cũng nhận được tiếng gọi. Ôi Chúa ơi! mùi hương ấy đến từ đâu và từ bao giờ mùi hương có tiếng nói để kêu gọi? Thế là anh lần ṃ xung quanh.
Anh vùi ḿnh trong các kẽ ngách và góc kẹt và t́m thấy nút chai và những điếu thuốc lá. Anh bóp chúng bẹp gí trong khinh rẻ. Nhưng có lúc anh t́m thấy trong một nếp gấp của tấm trải sàn nhà một điếu x́-gà đă hút dở và anh lấy chân chà nó với tiếng càu nhàu sắc lạnh. Anh sàng lọc cả căn pḥng từ đầu này sang đầu kia. Anh t́m thấy những chứng tích lặt vặt đáng chán và hạ cấp của nhiều khách trọ lăng tử, trong khi không thấy dấu vết nào của một người có thể đă thuê pḥng ở đây, người mà linh hồn dường như lảng vảng quanh đây.
Và rồi anh nghĩ đến bà chủ nhà. Anh chạy từ căn pḥng bị ma ám xuống mấy bậc thang, đến một cánh cửa có khe nứt toả sáng ra ngoài. Bà chủ nhà ra mở cửa. Anh cố gắng trấn áp nỗi xúc động. Anh van nài:
- Bà có thể cho tôi biết, ai đă thuê căn pḥng đó trước khi tôi đến?
- Vâng, thưa ông. Tôi có thể cho ông biết lần nữa. Đấy là Sprowls và Mooney, như tôi đă nói. Tôi nói cô B’retta Sprowls tŕnh diễn ở các nhà hát, nhưng thực ra là bà Mooney. Nhà của tôi nổi tiếng là đứng đắn. Giấy hôn thú, có đóng khung, treo vào cái đinh bên trên.
- Cô Sprowls là người như thế nào, ư tôi muốn nói về ngoại h́nh?
- Sao cơ? Tóc đen, thưa ông, thấp người, tṛn trĩnh, với khuôn mặt trông khôi hài. Họ đă đi ngày thứ ba tuần rồi.
- Và trước họ, ai đă ở đấy?
- Sao cơ? Đấy là một ông làm nghề khuân vác. Ông ta đi mà c̣n thiếu tiền thuê pḥng một tuần. Trước ông là cô Crowder và đứa con của cô ấy, họ ở bốn tháng. Trước nữa là ông Doyle, tiền pḥng do các đứa con trả. Ông thuê trong sáu tháng. Đấy là một năm nay, trước nữa th́ tôi không nhớ.
Anh cảm ơn bà và lủi thủi trở về pḥng. Căn pḥng đă chết. Hương thơm cho nó sự sống đă không c̣n nữa. Mùi hương hoa mignonette đă ra đi. Thay vào đấy là mùi cũ kỹ, nặng nề của đồ đạc lên mốc meo, của bầu không khí ngột ngạt như là trong kho hàng.
Hy vọng tàn rụi đă làm cạn kiệt mọi niềm tin của anh. Anh ngồi nh́n chăm chăm ngọn đèn ga vàng vọt. Rồi anh đi đến cái giường và xé tấm vải giường ra thành từng dải nhỏ. Dùng cái sóng của một con dao, anh nhét từng dải vào từng khe hở của các cửa sổ và cánh cửa chính. Khi mọi chỗ đă được lèn chặt, anh tắt ngọn lửa, mở ṿi ga hết mức, rồi lên nằm một cách thoải mái trên giường.
Đấy là đêm bà McCool cảm thấy thèm bia. Thế là bà đi lấy một lon đến ngồi bên bà Purdy, tại một góc cô tịch dưới tầng hầm nơi các bà chủ nhà tụ họp và nơi con sâu tham lam ít khi chết đói. Bà Purdy nói, qua một ṿng tṛn bọt bia li ti:
- Tối nay tôi đă cho thuê được căn pḥng trên tầng ba. Một anh thanh niên đến thuê. Anh ta đi ngủ cách đây hai giờ rồi.
Bà McCool nói với ḷng thán phục:
- Thật à, bà Purdy? Bà tài lắm mới có thể cho thuê loại pḥng như thế.
Và McCool th́ thầm đầy vẻ bí ẩn, thêm câu hỏi:
- Thế th́ bà có nói cho anh ta biết không?
Bà Purdy nói, cổ họng càng như được lót thêm lông thú dày nhất:
- Có pḥng là phải trang bị để cho thuê. Tôi không nói cho anh ấy biết bà McCool ạ.
- Bà nói đúng lắm, có cho thuê pḥng th́ những người như chúng ta mới sống được. Bà có đầu óc kinh doanh độc đáo lắm. Nhiều người có thể từ chối căn pḥng đó nếu họ biết là đă có khách tự tử và nằm chết trên cái giường trong đấy.
- Như bà nói, chúng ta phải lo kiếm sống.
- Thật vậy bà ạ. Đúng một tuần trước tôi đă giúp bà trải lại tấm lót sàn. Một cô gái xinh xắn mảnh dẻ tự tử bằng ga thắp đèn, cái cô có khuôn mặt nhỏ nhắn đấy, bà Purdy.
Bà Purdy đồng t́nh nói nhưng pha chê bai:
- Cô ấy có thể được xem là đẹp, như bà nói, nếu không có cái bớt trên lông mày bên trái. Dùng thêm bia đi bà McCool.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 251 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:35pm | Đă lưu IP
|
|
|
MỘT CÁI CHẾT
Bảy giờ tối. Hai chúng tôi cơm chiều xong, vừa định thắng bộ vào dạo chơi loanh quanh mấy phố th́ trời bỗng đổ cơn mưa như trút.
Phải bó cẳng ngồi nhà cặm cụi với mấy tờ báo, chúng tôi xem đă uể oải, mắt đă thấy mờ th́ cửa vẫn khép chặt, bỗng có người đẩy đánh xầm một cái tung ra.
Giật ḿnh, chúng tôi ngơ ngác nh́n lên th́ một ông lăo ăn mày vừa ḷa vừa cụt chân, người quắt như con mắm nướng, áo tơi, nón lá, chống nạng lê vào.
- Lạy ông, lạy bà... bố thí cho con đồng cơm bát cháo trong lúc khốn cùng...
- Không sẵn! Đi đi!!! Cửa nhà người ta khép thế mà cũng đẩy ra được...
Đă bực ḿnh sẵn, lại thấy ông lăo xông xáo quá đáng thế, tôi không chút thương mà gắt rầm lên. Bạn tôi vội xua tay ngăn lại, đứng dậy, ra ân cần để vào tay ông lăo một xu. Ông lăo cúi rạp xuống đất tạ ơn rồi lủi thủi bước ra, để lại chỗ đứng một vũng nước dây ở cái áo tơi trút xuống. Bạn tôi cài then cửa rồi vào:
- Không bao giờ tôi nỡ đuổi một người ăn mày như anh đă đuổi.
Tôi mỉm cười một cách nhạo báng. Bạn tôi xưa nay vẫn hay giảng đạo đức, thuyết luân lư.
- Anh đừng tưởng chuyện đùa. Những chuyện rất thường mà đối với người ngoài cuộc, lắm khi có ảnh hưởng lại rất sâu xa. Một người ăn mày đến kè nhè bên ngoài. Người trong nhà chạy ra mắng đuổi hắt đi rồi đóng cửa đánh xầm một tiếng. Tưởng chẳng có chuyện ǵ b́nh thường hơn thế nữa. Thế mà cũng chỉ v́ một chuyện đuổi ăn mày mà chính tôi đây, tôi đă được mục kích một tấn kịch rất đỗi bi thương.
Nói đến đó, bạn tôi ngồi xuống ghế, vớ lấy bao thuốc lá lấy ra một điếu đánh diêm châm, rồi tiếp.
Bên ngoài trời vẫn rả rích mưa to.
- Hồi ấy, cách đây sáu bảy năm trời, phải, sáu bảy năm trời rồi mà câu chuyện xảy ra tôi c̣n nhớ mồn một như mới hôm qua.
Năm mười sáu tuổi, học lớp nhất trường Hàng Vôi, tôi ở trọ phố Bờ Sông, nhà một thầy cai lấy thuế chợ. Con trai thầy mới lên mười một, học lớp dự bị, ngày ngày bốn buổi đi về có tôi dắt d́u. Tối đến dưới ngọn đèn dầu cũng tôi chỉ bảo.
Gia thế thầy cai tôi không được rơ. V́ có người quen mách giúp nên việc tôi đến trọ nhà thầy là việc ngẫu nhiên. Chỉ biết hôm tôi khuân ḥm đến th́, trên chỏm mũ trắng điểm vành băng đen, thằng Hợi con thầy đă ngót hai năm trở mẹ.
Thằng Hợi! Tôi nhắc đến tên th́ người, tôi cũng nhớ được ngay. .. Anh thử tưởng tượng xem, một thằng bé mới mười một tuổi đầu, mặt mũi sáng sủa, ăn nói lễ phép, đến trường học hành đă chăm chỉ, về nhà việc vặt lại hay làm. Thầy cai rất yêu quư con trai, sợ cảnh d́ ghẻ con chồng, chuyện lấy vợ kế thầy không hằng nghĩ đến.
Nhưng xem ư tôi biết, thằng Hợi không yêu bố nó chút nào. Chắc anh cũng chẳng lạ ǵ, một đứa trẻ, rất ngoan mà không ưa bố, một người bố cũng thương yêu con như trăm ngh́n người bố khác, chỉ v́ cái nghề mà đến con đẻ rứt ruột nó cũng không yêu.
Anh thử tính xem, cái nghề mà cửa miệng thiên hạ vẫn nói... nó đầy đoạ con người một thời xông pha mưa nắng, chỉ v́ bổn phận mà đối với người nghèo hèn, buôn thúng bán mẹt đă bị họ coi như kẻ tử thù.
Mỗi lần thầy cai đi thi hành công vụ qua cửa trường Hàng Vôi là lại một phen thằng Hợi khóc. Nó khóc v́ nó chẳng đang tâm trông thấy bố nó thẳng cánh đánh đập một bà lăo bán bún hay đá túi bụi một thằng bé con cho ḥm kẹo đổ xuống đất tung tành, nó khóc v́ bạn bè trong trường khinh bỉ nó vô cùng, thường rơ rẹo vào mặt nó mà rằng: "Chúng tao không chơi với mày! Bố mày làm cai lấy vé chợ"
Sau những trận đau ḷng ấy, chẳng biết trông cậy vào ai, thằng Hợi chỉ c̣n ôm đầu lủi thủi lại cầm tay tôi, ngước mắt nh́n lên tỏ ư kêu van, dưới ánh sáng mặt trời xiên qua bóng mấy cây bàng, tôi c̣n thoảng nhớ cái nét mặt ủ rũ của thằng Hợi, hai hàng nước mắt chạy quanh rơm rớm. Anh, nếu anh có đứng vào địa vị tôi bấy giờ, anh mới rơ được cái cảnh thương tâm ấy.
Thành thử nó coi tôi như một người anh, có lẽ hơn một người anh nữa, v́ càng khinh bỉ bố nó bao nhiêu, tôi lại càng ái ngại cho thằng Hợi bấy nhiêu. Nó cũng hiểu ḷng tôi thế lắm.
Nhưng có lẽ anh đă nóng ruột rồi, câu chuyện "đuổi ăn mày" anh để tâm, đây, tôi kể đến rồi đây.
Buổi tối hôm ấy, cũng vào độ bảy, tám giờ, cũng về cuối tháng giêng ta như hôm nay, chỉ khác là bây giờ thời tiết dễ chịu mà năm ấy th́ rét như cắt.
Cái nhà chênh vênh hứng gió, cửa trông thẳng ra bờ sông, chúng tôi ngồi trong, nghe bên ngoài tiếng gió ào ào, cột nhà chuyển lắc rắc mà những rùng ḿnh.
Phải, cái cảnh tượng đêm hôm ấy trí tôi chẳng quên mất một mảy may: cửa đóng kín im im, ngồi chùm đầu trong một cái chăn bông mà hai hàm răng tôi vẫn thấy chọi nhau lập cập. Thằng Hợi ngồi học cùng bàn với tôi nhưng không biết nó nghĩ vơ vẩn điều ǵ, mắt nó thường không nh́n đến sách. Thầy cai th́ ngồi chễm chệ giữa giường, bên đùi kê một hoả ḷ than đỏ rực, trên để mấy con mực khô đang sèo sèo, mùi mực nướng pha lẫn mùi rượu ngang thơm nức cả nhà, nghĩ đến mà thèm rỏ dăi.
Chợt có người khẽ gơ vào cửa mấy tiếng rồi đánh "huỵch" một cái như có vật ǵ rơi xuống đó. Vừa toan bỏ chăn, xỏ chân vào đôi guốc bước ra th́ thầy cai giơ tay ngăn lại, cầm khăn ung dung chùi mồm, vuốt lại bộ râu cong đâu đấy rồi mới cau đôi lông mày sâu róm lại, lên tiếng dơng dạc:
- Ai hỏi ǵ...?
Bên ngoài lại thấy mấy tiếng gơ vào cánh cửa.
Thầy cai lộn tiết, quát:
- Hỏi ǵ, nói lên!!!
Nhưng gió vẫn ào ào, bạt cả lời thầy muốn nói. Chúng tôi lắng tai nghe, bên ngoài đưa vào một cơn ho lụ khụ, rời rạc như của một người mắc bệnh kinh niên, rồi thấy giọng run run đưa qua hơi thở hổn ha hổn hển:
- Lạy ông lạy bà, ông bà cứu con, vừa đói vừa rét thế này con chết mất...
Chẳng cần nói tất anh cũng hiểu là một người ăn mày. Trong lúc đó túi tôi cũng có sẵn vài xu rúc rích, vừa toan mở cửa cho th́ con người vô lương tâm kia đă lên giọng quát tháo ầm ầm:
- Bước ngay! Đi nhà khác! Đây không sẵn...!
Anh tính, người ta đang đuổi thế mà ḿnh lại cho tiền chả hoá ra chửi mát người ta hay sao? Nghĩ thế, tôi đành khoanh tay ngồi nín lặng xem cái tấn kịch ấy nó diễn ra trong ba, bốn phút.
- ối trời ơi! Con lạy ông... ông... không thương, con chết mất!!!
- à... Quân này lại muốn ra gan... Muốn sống th́ xéo đi không lại vào bót sớm.
Bên ngoài, tiếng nói lẫn tiếng khóc:
- ối trời đất ơi! Con chết mất rồi đây, ông có cứu con không...?
Gớm! Đến cái con người tàn nhẫn ấy th́ không thể nào kể được. Tôi không ngờ lăo ta nỡ đứng phắt dậy, sẵn chậu thau nước lạnh để gần đấy, liền nhắc ngay lên nhằm khe cửa đổ hắt ra đánh "rào" một cái rồi khoanh tay đứng nh́n.
Mỗi phút một xa, mấy tiếng gậy lộc cộc chống vào hè lát gạch, theo sau một tiếng thở dài... trừ ngọn gió ào ào thổi mạnh, bốn bề lại im phăng phắc.
Nét mặt vẫn thản nhiên như không, thầy cai lại ngồi vào mâm, gật gù măi đến nửa đêm. Nằm trong chăn, thấy khác hẳn mọi khi, thằng Hợi hôm ấy vừa đặt ḿnh đă ngủ say như chết. Nhưng gần về sáng bỗng bàng hoàng tỉnh giấc, tôi thấy nó quay mặt vào tường mà khóc tỉ tê. Tôi nghĩ mà thương nhưng cũng không khuyên giải, biết rằng có nói cũng chỉ gợi thêm một mối thương tâm.
Hôm sau, nhằm ngày thứ năm, phải buổi chữ nho, thằng Hợi ở nhà, c̣n tôi đi học.
Đến trưa, cắp cặp về, đă thấy nó đứng cửa, mắt đỏ hoe:
- Anh ơi, hăy ra đây mà xem đă...
Rồi chẳng để tôi kịp hỏi, nó đă xốc lấy tay tôi. Đi thẳng ra băi, trèo qua dải đê, tôi thấy xa xa một đám đông, vừa trẻ con, người lớn. Đến gần lặng nghe họ bàn tán, tôi hiểu ngay tất có chuyện buồn:
- Thôi, thế cũng xong! Chết là may, chết là hết... Nhiều người muốn chết mà chẳng được cơ...!
Lời nói lạnh lùng của một ông lăo trên đầu hai thứ tóc, mắt kèm nhèm, quần áo rách như tổ đỉa. Một thằng bé độ sáu tuổi nhăn răng bảo thằng đứng bên cạnh:
- Mày ạ! Trông đầu ông ấy như một quả bóng sanh (cinq).
Rồi mấy người đàn bà cười ồ.
Chẳng để ư đến mấy người họ lấy khuỷu tay đẩy ḿnh, chúng tôi rẽ đám đông ấy, cố len lỏi vào cho được.
Anh ạ, tôi quyết không bao giờ quên được cái cảnh buồn tê buồn tái ấy nó hiện ra trước mắt tôi, lần ấy là lần đầu.
Trời vẫn rét, gió vẫn thổi ào ào.
Trong miệng cái cống tṛn bằng xi măng một cái xác ông lăo ăn mày nằm c̣ng queo, hai chân co lên bụng, c̣n hai tay vẫn như ôm lấy bị gậy. Cái nón lá rơi ra một bên, bộ tóc lơ thơ, mấy cḥm râu lốm đốm phất phơ bay theo ngọn gió, cái thân da bọc ngoài xương nằm đó cho ruồi bâu nhặng bám phải chăng là người hành khất đêm qua lê đến cửa nhà tôi mà đă bị một chậu nước lạnh đuổi đi...?
Nghĩ thế rồi chẳng nỡ nh́n lâu cảnh ấy, tôi dắt tay thằng Hợi kéo ra chỗ khác. Nào ngờ, nó cũng nghĩ như tôi, rầu rầu nét mặt mà rằng:
- Chính người ăn mày đêm qua rồi, anh ạ.
Lời nói của một đứa trẻ ngây thơ ấy theo sau một tiếng thở dài mới tha thiết làm sao... Một khối óc c̣n non mà đă thấy cái chân tướng cuộc đời, trong ḷng xúc cảm bao mối thương tâm mà chỉ biết phát lộ ra bằng một tiếng thở dài, một tiếng thở dài mà ngụ bao nỗi đắng cay, ư vị...
Tuy chúng tôi không đứng lại xem lúc xe "măng ca" đến xe cái xác ấy đi ra sao mà buổi chiều hôm ấy, như bị một sức mạnh vô h́nh xô đẩy, ḷng tôi bỗng thấy buồn tê tái, bài chẳng muốn học, cơm chẳng muốn ăn. Muốn giải trí, tôi rủ thằng Hợi đi xem chiếu bóng th́ nó cười, cái cười giả dối ấy, tôi c̣n nhớ măi. Rồi nó hỏi vay tôi năm hào, nói là để mua đền anh em quả bóng mà nó đă nhỡ chân đá vỡ cách đây mấy hôm. Tôi cho vay ngay, nào ngờ chỉ v́ chẳng nghĩ xa xôi mà một đời tôi, rồi đây tôi c̣n phải lắm phen ân hận.
Đi xem về, tôi vừa gặp thằng nhỏ c̣n xách thùng đi gánh nước. Bấy giờ thấy cai đang giờ "service" thành cũng vắng nhà. Mở cửa bước vào, tôi thấy thằng Hợi đă nằm kín mít trong chăn. Tưởng cũng như mọi khi, thấy rét th́ đi ngủ, tôi đến bên giường khẽ lật chăn ra, ư muốn kể lại câu chuyện vừa xem với nó. Anh ơi! Thật một đời tôi, chưa bao giờ tôi phải một phen lo sợ mà cảm động như lúc bấy giờ.
Đây này, anh...! Trái tim tôi đă thấy đập th́nh th́nh, chẳng khác ǵ lúc ấy, lật cái chăn ra, tôi thấy mặt nó xám ngắt, mắt nó nhắm nghiền mà tay nó th́ lạnh giá như đồng, một thứ lạnh của những xác chết khiến ta chỉ hơi chạm vào là đủ rùng ḿnh ghê sợ.
Tôi biết ngay là có chuyện, cố nén cái sợ, ôm lấy ngang lưng nó mà lay gọi một hồi, chẳng thấy ǵ, tôi đưa mắt nh́n ra bàn th́ bộ chén để úp đấy thấy lẻ bên ngoài một cái. Tôi vội cầm đến th́ c̣n thấy cặn...
Chao ôi! Cặn dấm thanh thuốc phiện mùi hăy c̣n sực nức đưa lên.
Không biết sao, lúc bấy giờ tôi đă toan chạy đâm bổ ra ngoài đường kêu cứu mà rồi tôi lại quay vào, ôm lấy cái xác mà kêu, mà gọi một hồi lâu nữa... Mặt mũi nó trắng trẻo, phương phi, trông mà thương, mà tiếc vô cùng, tôi tưởng chừng như ôm vào ḷng xác một đứa em.
Rồi không biết tôi nghĩ lẩn thẩn thế nào mà tôi nâng đầu nó dậy, in môi tôi vào trán nó mà hôn.. th́ mắt nó bỗng thấy mở hé ra, tôi c̣n nhớ măi đến giờ, hai con mắt ấy lờ đờ mà nh́n tôi như người ngái ngủ. Bỗng nó trợn mắt lên, há miệng như muốn nói, cố vùng tay giơ lên như muốn ôm lấy cổ tôi mà toan gọi: anh! anh!...
Thương thay! Thằng Hợi chửa kịp nói được điều ǵ th́, chừng như thuốc độc đă thấm đến ruột gan nó, nó nhắm mắt giăy mạnh một cái rồi buông xuôi hai tay mà ngoặt cổ xuống giường... bọt mép sùi ra...
Chuyện về sau thế nào, tưởng anh đoán lấy cũng hiểu.
Riêng tôi, tôi coi cái ngày hôm ấy như một ngày mà tôi phải để tang, nhân thấy anh đuổi một ông lăo ăn mày nên tôi kể chuyện lại anh nghe..
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 252 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:36pm | Đă lưu IP
|
|
|
NGƯỜI BẮT RẮN CUỐI CÙNG
Lần ấy tôi lên tỉnh cùng ông cháu thằng Tiên, bạn học của tôi. Đi chân mười lăm, mười sáu cây số nào có nghĩa lư ǵ, khi được dịp "lên tỉnh", lại chỉ đeo một cái bị cói trống trơn. Lúc về bị cói sẽ đựng những thang thuốc bắc, nhưng mùi mẽ ǵ mấy cái gói lá khô, rễ khô thơm thơm hăng hắc ấy. Bố tôi bệnh, tự kê đơn, viết mấy ḍng chữ Hán loằng ngoằng đưa tôi đến cửa hiệu thuốc "Con trâu vàng" của "chú Sếnh" ở phố tỉnh.
Thằng Tiên hớn hở bảo:
- Thế th́ đằng ấy đi với tớ. Ông tớ mai mang hàng đến cửa hiệu chú Sếnh đấy!
- Cậu có đi à?
- ừ! Giỏ nặng, tớ đeo giúp ông vài quăng chứ!
Nói vậy suốt chặng đường Tiên đeo giỏ để ông đi tay không. Đôi lúc thấy ngượng tôi bảo Tiên nhặt khúc tre vương ở rệ cỏ, xỏ vào quai giỏ, hai đứa cùng khiêng. Thế mà c̣n nặng lặc lè. Nặng th́ tôi không ngại, chỉ có ngán thứ đựng trong giỏ. V́ đó là giỏ đầy các loại rắn.
Ông thằng Tiên chuyên nghề bắn rắn: mật rắn, ông bán cho các hiệu thuốc bắc, c̣n thịt bán cho các hiệu "cao lâu". Nghề bắn rắn theo ư tôi là một nghề rùng rợn. Chụp được rắn bằng tay không, khi đó là một "gă" rắn độc, cắn chết người như bỡn, bạn bảo lư thú à?
- Ông tớ bắt rắn nuôi cả nhà đấy. Chứ bố tớ đi làm suốt, có gửi được đồng nào chớ kể.
Tôi biết hoàn cảnh gia đ́nh Tiên khá rơ. Đúng như vậy. Bà nó, mẹ nó, mấy anh chị em thằng Tiên quả là sống nhờ nghề bắt rắn của ông nó thật. Tuy nhiên, không phải ngày nào cũng có thể bắt được rắn hoặc ngày nào cũng nên bắt rắn đâu. Những ngày ông Tiên nghỉ, vẫn có bà và mẹ Tiên kiếm miếng ăn bằng công kia việc nọ thôi. Có điều là nhà nghèo, đồng tiền kiếm được cũng hiếm như nắng mưa đông vậy.
Ngồi trong sân hiệu thuốc bắc của chú Sếnh, tôi quên bẵng việc đi mua thuốc cho bố. Bấy giờ tôi chỉ c̣n mải mê nh́n ông thằng Tiên với cái giỏ rắn. Ông im lặng, mới khẽ phẩy tay, đă thấy Tiên kéo lui tôi ngồi tránh xa giỏ rắn. Tiên th́ thầm:
- Ngồi đây cũng rơ. Gần quá "nó" mổ hết chạy!
Nhưng Tiên lại đến phụ ông. Tiên đỡ cái đĩa men trắng bóng có h́nh vẽ rồng phượng xanh xanh chú Sếnh vừa đưa, đặt xuống nền gạch bông. Ông móc túi lấy cái hộp sắt tṛn, vốn dĩ là hộp đựng kẹo ho bạc hà, lúc này đựng thuốc lào đen thẫm, cho vào miệng nhai nhai rồi nhả ra ḷng bàn tay, xoa xoa suốt từ khuỷu tay đến mu bàn tay.
Mùi thuốc lào sực nức vừa đắng vừa ngái. Xoa tay xong ông khẽ mở nắp giỏ, luồn vừa lọt có bàn tay, và nhanh đến không kịp nhận ra như thế nào, ông đă lôi phụt một con rắn dài đến phát khiếp. Tôi kịp lùi bật ngửa, nghe rơ con hổ mang đang quằn đuôi, hai nhánh đầu lưỡi liến xáo le le, mắt như hai hột đỗ xanh tṛn thô lố.
Thoáng, đuôi con hổ mang đă bị bàn chân ông đè nghiến. Cả cái cổ rắn khá to nằm gọn trong bàn tay trái của ông, nói cho đúng chỉ có hai ngón trỏ và cái, đang xiết chặt cổ rắn làm cho miệng ngoác rộng đỏ ḷm, trông rơ hai bên nanh nhọn hoắt. Rồi, lại thoáng, đă thấy bàn tay phải của ông đưa ngọt một mũi dao lá lúa vào khoảng giữa bụng rắn.
Máu rắn chưa kịp ứa ra, ông đă luồn một bọng mật xanh thẫm trông như một cái kẹo bạc hà xanh chưa bóc giấy bóng. Ông đặt chiếc mật rắn vào miệng đĩa men và nh́n chú Sếnh đứng chứng kiến im lặng. Chỉ thấy chú Sếnh gật, c̣n ông thả con hổ mang quằn quại, trườn vào một cái giỏ không để ở đấy từ lúc nào.
- à! giỏ của ông tới gửi đợt rắn trước.
Tiên nói cho tôi đỡ thắc mắc. Chốc ông đổi giỏ, đem rắn đă bóc mật bán thịt cho "cao lâu". Đến lượt một con cạp nong, khoanh vàng, khoanh xanh, khoanh đen, bị lôi ra. Con này vùng vẫy kịch liệt, nhưng rồi cũng chịu lép. Ông đếm bảy đốt từ tay cầm, lách mũi dao vào, và chiếc bọng mật đă được lôi ra đặt bên cạnh chiếc thứ nhất.
Con thứ ba nhỏ hơn, xanh nâu, đầu thuôn, tôi nhận ngay ra "dân" rắn nước. Nhưng phải đủ "bộ ba" mật của ba loại rắn như vậy, chú Sếnh mới công nhận là đủ tiêu chuẩn cho một đơn vị thuốc "Tam xà đởm" gia truyền của hiệu chú.
- Người ta gọi "Tam xà đởm" là thứ thuốc ho có ba mật rắn.
Về nhà tôi được bố nói cho biết. Ba chiếc mật mà con nh́n thấy là một bộ. Bôi bộ mật và vỏ quưt phơi đă khô, sấy cong, tán ra, thành một thứ bột thuốc, trị bệnh ho. Đó là loại thuốc gia truyền của chú Sếnh đấy!
Có một điều tôi băn khoăn măi dù thằng Tiên đă nói rơ ông nó không có bùa phép ǵ cả, chỉ có một cái lọ con đựng thuốc trị nọc rắn nếu chẳng may "nó" bập phải th́ bôi vào ngay. Nhưng hiếm xảy chuyện ǵ với ông thằng Tiên.
- Ông tớ cứ nhắm đâu là trúng đó, tuy có lúc trong hang rắn lại chỉ có cua. Và ở lỗ cua lại ṭi ra một chàng rắn to tổ bố! Nhưng có rắn th́ đừng ḥng con nào thoát!
Những ngày giá rét rắn núp trong hang, ông đeo giỏ, giắt thêm ống điếu cày, ve vẩy một cái nùn rơm toả khói, men ruộng, t́m lỗ rắn. Rét căm căm, ông chỉ có một manh áo nâu, thắt phía ngoài áo một sợi dây chăo.
Trời nóng nực vẫn giỏ, vẫn ống điếu và nùn rơm âm ỉ lửa, quần cộc, không áo, ông đi...
Tiên cũng hay theo ông, cũng "tóm" được rắn, có khi "vớ" phải một con dài cả sải tay, có ông giúp sức mới bắt được.
- Không khiếp à?
- Sợ mất mật ấy chứ! Rồi quen tuốt!
Nó nói ngon như không. Nhưng hôm đó, cách một thửa ruộng chỗ ông thằng Tiên bắt rắn, có cái Sen đi ṃ cua. Mẹ cái Sen mệt, nói thật là sốt li b́, Sen phải đi bắt cua, kiếm tiền mua gạo nấu cháo. Nó nghỉ học mấy buổi rồi. Bọn tôi cũng định tới thăm mẹ cái Sen và giúp nó một việc ǵ đó như nhắc lại các bài học nó thiếu chẳng hạn. Ai ngờ bọn tôi không đến nhà Sen để làm mấy việc như vậy, mà chính là thăm nó bị ngă trẹo chân. Nhưng cũng phải thăm nó sau, chứ một việc khác xảy ra buồn thảm hơn lại do cái Sen gây nên chuyện.
Hôm đó cái Sen đang chọc lỗ cua, vừa tḥ tay vào toan nhón một con cua đồng th́ một con rắn hổ lửa ở chính cái lỗ cua đó vọt ra. Cái Sen kêu rú bỏ chạy thục mạng.
Ông thằng Tiên ở khoảnh ruộng ngay gần bên, nghe tiếng rú của cái Sen, quay phắt lại và nhảy bổ tới. Ông đă nh́n thấy con hổ lửa đang quăng theo cái Sen. Chỉ cần ba sải chân, ông đă đuổi kịp con rắn độc. Nhưng cũng chính lúc ấy cái Sen ngă sóng xoài. Con rắn uốn lên sắp sửa chúc đầu xuống th́ ông thằng Tiên chồm tới.
Ông chộp ngang cổ rắn, nhưng do quá vội vàng để cứu cái Sen ông vồ hụt. Con hổ lửa mổ trúng ngay bắp tay ông. Tuy bị rắn cắn ông vẫn nhoài người, chịt bằng được cổ rắn, bóp chặt. Và ông c̣n kêu:
- Chạy..đi..cháu!
Cái Sen trật khớp chân cố đứng lên lại bệt xuống. Nó lê ra xa hơn một chút thôi, và nh́n lại nước mắt đầm đ́a.
Ông thằng Tiên nằm sóng xoài trên đất ruộng, người tím tái, một tay vẫn giữ rịt cổ con rắn, cái đuôi rắn c̣n quật quật, ṿng vèo...
Tôi c̣n lên tỉnh mấy lần nữa để mua thuốc ở cửa hiệu chú Sếnh cho bố tôi. Nhưng chặng đường mười lăm, mười sáu cây số ấy dường như dài gấp bao nhiêu lần, chỉ xách có mấy thang thuốc bắc mà sao trĩu cả tay.
Suốt chặng đường đi và về, lúc nào h́nh ảnh ông thằng Tiên và giỏ rắn nặng lặc lè cứ hiện rơ trước mắt tôi. Bây giờ muốn khiêng giỏ rắn ấy cũng không được nữa. Thằng Tiên không thích nối nghề ông.
Sau cái chết v́ rắn cắn của ông, thằng Tiên biết chính ông nó là người bắt rắn cuối cùng ở cái xă miền trung du hẻo lánh.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 253 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:37pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÀNG SAU CÁI CHẾT
Đây là câu hỏi muôn đời của con người, không những ở những người già mà thôi mà cả người trẻ cũng thường nhiều lần trong đời thắc mắc điều đó nhất là khi có nhiều người chết lúc thanh xuân hay có khi mới lọt ḷng th́ đă chết...
Trên thế giới có biết bao câu chuyện có những người chết rồi bất thần sống lại. Mỗi người kể mỗi khác về những ǵ họ thấy được trong thời gian chết ấy. Cơi chết mà họ bước vào như thế nào? Phong cảnh, sự vật, màu sắc, âm thanh thế nào? Nơi ấy con người ra sao? Sinh vật nào hiện diện và sự sinh hoạt nơi ấy diễn ra có giống với thế giới mà ta gọi là dương thế hay dương gian hay không?
Tuy nhiên, cho đến nay, nhiều sự mô tả về cơi chết đă được nhiều người chết đi sống lại tường thuật nhưng ít ai chịu tin nhất là trong thời đại văn minh này. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là hiện nay vấn đề này lại nở rộ tại Pháp, ngay giữa kinh thành Paris, nơi quy tụ các nhà sinh lư, tâm lư và các nhà khoa học.
Những người này đang cố gắng gạt bỏ ra mọi ư nghĩ có tính cách mê tín dị đoan khi nghĩ về vấn đề của sự chết để có thể tự nhiên đón nhận và nghiên cứu các trường hợp liên quan về cơi chết. Qua hàng ngàn hồ sơ lưu trữ tại các viện nghiên cứu về Đằng Sau Sự Chết, các nhà nghiên cứu đă t́m hiểu, gom góp được một số sự kiện trên đoạn đường mà sau khi thở hơi cuối cùng, người chết đă đi qua.
Dĩ nhiên, những người này v́ lư do nào đó được sống lại và mô tả tỉ mỉ. Hiện nay, phân tâm học, thôi miên học góp phần đắc lực thên cho sự kiểm tra, nghiên cứu về vấn đề này.
Nữ bác sĩ tim mạch R. Mantain đă kể lại trường hợp của ḿnh có lần ngất đi gần 20 phút đồng hồn, bà thấy ḿnh đi quanh quẩn trong nhà như cố t́m lối thoát ra cửa và trong lúc đó bà thấy rơ ràng ḿnh nằm bất động trên gường, đầu nghiêng bên gối, c̣n người chồng cũng là bác sĩ hốt hoảng lăng xăng t́m cách giúp bà hồi tỉnh.
Sau đó, bà thấy thân ḿnh bà cử động, bà muốn giúp sức vào nhưng thật khó khăn và khi thân xác của bà nằm trên giường mở mắt chính là lúc bà trở lại vào người bà.
Ở đây bà R. Mantain chỉ thấy "hồn" ḿnh chưa thật sự đi vào thế giới bên kia. Một tài liệu khác cho biết ông Gerard Chouraqui, cố vấn pháp luật tại Paris đă trăi qua hai ngày ở giữa chặng đường biên giới giữa cơi sống và cơi chết. Theo lời thuật lại của chính ông sau khi được các bác sĩ giải phẩu cứu thoát căn bệnh hiểm nghèo th́ ông như trôi vào một lỗ đen tối yên lặng một cách dễ sợ.
Cái lỗ ấy giống như đường hầm hun hút và ông tự nhủ thầm với cái vía của ḿnh lúc ấy là: " Ḿnh đang rơi vào địa ngục". Một lúc sau, ở cuối lỗ đen ấy xuất hiện chút ánh sáng. Rồi ánh sáng tỏa ra sáng dần khiến mắt bị chói ḷa như ánh hào quang muôn sắc bao phủ.
Lúc này thân xác ông bị cuốn hút vào chỗ sáng ḷa ấy với vận tốc nhanh một cách lạ kỳ để đến một nơi yên tĩnh, êm đềm trắng xóa như tuyết nhưng không nóng không lạnh. Cơ thể và đầu óc bỗng như bị một năng lực siêu phàm nào đó làm quay đảo và trước mắt ông là quăng đời qua, nào vợ, nào con, nào nhà cử, họ hàng bè bạn...
Tất cả hiện ra rơ ràng như thật và bỗng nhiên niềm yêu thương cảm mến dâng tràn và ông có ư hướng muốn quay lại với các người thân. Thế rồi ông bừng tỉnh. Bác sĩ cho biết là ông đă trăi qua gần 20 giờ giải phẫu.
Hiện nay, qua hàng ngàn bằng chứng thu thập, các nhà nghiên cứu thấy không phải luôn luôn h́nh ảnh về bên kia thế giới của những người đă trăi qua một thời gian coi như "tạm rời bỏ chốn gian trần" v́ một nguyên nhân nào đó.
Tuy nhiên, cũng cần phải phân tích cân nhắc nghiên cứu kỹ về các h́nh ảnh mà những con người vừa đặt chân vào bên kia thế giới trở về kể lại. Trường hợp của những người bị đánh thuốc mê giải phẫu th́ phần lớn các h́nh ảnh họ thấy thường là khoảng không gian tối đen rồi xen lẫn những lóe sáng lạ lùng. Theo các nhà sinh tâm lư học th́ có sự tác động của bộ năo, nơi tầng sâu kín nhất tạo nên những h́nh ảnh kỳ lạ này.
Điều cần lưu ư là lúc gây mê nhịp tim vẫn c̣n đập, khác với những người được xem như chết hẳn. Tuy nhiên, nhiều bác sĩ nghiên cứu về vấn đề này vẫn cảm thấy có bất ổn trong việc nhận định như trên v́ có thể các h́nh ảnh về đường hầm tối đen kia chính là biên giới, là con đường vào cơi chết và khi ánh sáng lóe tỏa ra chính là lúc người chết bắt đầu bước vào ven b́a của cơi chết hay thế giới bên kia.
Nhưng sở dĩ người ấy chỉ thấy được chừng đó thôi là bởi nguyên nhân họ chưa thật sự chết hẳn. Bác sĩ chuyên về khoa tâm sinh lư học Patri Dewarin đă nghiên cứu rất nhiều trường hợp như đă kể trên và ông đă nêu ra một nghi vấn khá lạ lùng, lư thú đó là sự lập lại của chu kỳ của mỗi đời người.
Lúc đứa bé lọt ḷng mẹ, h́nh ảnh của nó là trôi qua một khoảng tối om, qua một đường hầm sâu thẳm để rồi khi hoàn toàn đă lọt ḷng mẹ, bé lại cảm thấy như rơi vào một đường hầm tối đen khác để rồi lại thấy ánh sáng chan ḥa, vậy có thể đây là một thế giới mới. Điều này đă khiến cho một số nhà nghiên cứu nghĩ đến vấn đề hậu kiếp, vấn đề đầu thai ở một kiếp khác v.v...
Vấn đề nghiên cứu về những ǵ hiện hữu ở đằng sau cái chết quả thật cho đến nay vẫn c̣n tiếp tục trong giai đoạn, tiến tŕnh nghiên cứu. Các nhà sưu tập dữ kiện qua các lời khai của nhân chứng đă đi đến một số khái quát về thống kê như sau:
Theo lời thuật lại của những người đă ít nhất một lần di vào cơi chết th́ cứ 120 người, có khoảng 23% cho thấy họ rơi vào một khoảng hun hút tối đen rồi thấy ánh sáng chan ḥa. 16% thấy thoải mái tâm hồn như đang vào cảnh yên b́nh diệu vợi. Khoảng 40% cảm thấy ḿnh như ĺa khỏi xác để lơ lửng nhẹ nhành vào quảng vô biên.
Ngoài ra theo các tài liệu thu thập có tính cách chính xác, các nhà nghiên cứu đă phân ra các trường hợp đáng quan tâm hơn, đó là sự miêu tả cảnh trí, người và vật ở bên kia thế giới. Nhà bác học Aoriani Rani có lần bị chấn thương sọ năo và ông đă được ghi nhận là "đă qua đời" nhưng lạ lùng thay, sau một ngày đêm ở pḥng lạnh ông tỉnh lại và đă kể rơ ràng rằng "tôi đi qua một cái cầu cất cao như lơ lửng trên bầu trời tối đen.
Tôi sợ sệt run rẩy không dám bước nhưng có tiếng nói xa vắng bên tai, như ra lệnh, như hối thúc tôi hăy đi mau, tiến về phía trước kia ḱa..."thế rồi như có một lực kỳ diệu đẩy tôi lướt về phía trước, nơi đó như le lói ánh đèn. Từ xa, tôi nghe như tiếng lao xao và vô số người chen chúc như chuẩn bị bước lên bờ của một cái hố đen ng̣m sâu thẳm ..."
Tiến sĩ Kenneth Ring ghi trong tài liệu sưu tập của ḿnh một vấn đề mà ông đánh dấu nhiều ngôi sao để tạo sự chú ư. Đó là lời kể của những người đi vào cơi chết, họ khẳng định là đă gặp những thân nhân hay bạn bè đă chết trước đó. Những người này có gương mặt thoáng hiện thoáng khuất và yên lặng.
Điều đáng quan tâm là chỉ gặp lại phần lớn những người mới chết c̣n những người đă chết quá lâu th́ hiếm gặp. Vậy câu hỏi được đặt ra là những người ấy đi đâu? Phải chăng nếu tin vào thuyết luân hồi th́ họ đă tái sinh vào nơi nào đó. C̣n những người mới gặp th́ đang chờ đợi đi vào kiếp lai sinh?
Trên thế giới, hiện vấn đề này xảy ra không riêng ǵ cho một quốc gia nào, nơi đâu cũng đều có những người chết sống lại, cho dù sự miêu tả của họ về những cơi chết có khác nhau nhưng ít nhất cũng cho thấy rằng họ đă thấy và thấy cái ǵ đó. Tại Việt Nam, trường hợp này không phải là hiếm.
Bà Lê Thị Duyên sống tại chợ Vườn Chuối năm 1972 bị trúng gió và qua đời. Người nhà khóc lóc lo việc tẩm liệm... nhưng hai ngày sau, bà vươn vai ngồi dậy khiến mọi người hoảng hồn. Bà nói như đang nói chuyện b́nh thường với người trong nhà.
- Người ta đuổi tôi lên, dưới đó tối tăm dễ sợ lắm, tôi có gặp ông chủ Cửu Hợi, ông nói đói lạnh lắm, cúng cho ông..."
Trong các báo cáo của các nhà nghiên cứu về cơi chết và linh hồn có rất nhiều vấn đề làm mọi người trong thời đại khoa học ngày nay ngạc nhiên và sửng sốt. Ngạc nhiên và sửng sốt không những v́ vấn đề được nêu ra mà c̣n v́ chính do các nhà khoa học nổi danh đă viết như Bác Sĩ B.ẸSchwarz, Ian Stevenson, Alexander Graham Bell, D. Danielle...họ cho biết như sau:
- Chết không phải là hết, cát bụi lại trở về cát bụi, chỉ là đối với thân xác, là phần giả tạm mà thôi, c̣n phần mà ta gọi là linh hồn đă thoát ra khỏi thể xác khi con người chết đi. Linh hồn ấy dật dờ trôi nổi, phiêu du.. và khi chết điều tiên khởi lúc bước vào cơi chết là cảm giác nhẹ nhàng, thanh thoát, linh hồn chuyển qua những đoạn đường dài hun hút tối tăm để rồi dần dần tới một nơi đầy sương khói và sau đó là một vùng chan ḥa muôn ngàn tia sáng với những âm thanh huyền diệu lạ lùng..
Theo bác sĩ Ian Stevenson th́ "chúng tôi chỉ mới nghiên cứu và phân tích đến chặng đường đó và có lẽ câu hỏi : "có ǵ đằng sau sự chết" vẫn chưa có lời giải đáp trong giai đoạn hiện nay nhưng hy vọng ở tương lai không xa, nhân loại sẽ biết rơ được điều mà từ cổ đại đến nay họ quan tâm thắc mắc.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 254 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:40pm | Đă lưu IP
|
|
|
CÔ GÁI BẰNG KIM LOẠI
Đây là một câu chuyện của sự khủng khiếp. Nó đă xảy ra nhiều năm về trước nhưng tôi vẫn c̣n nhớ rất rơ ràng. Tôi sẽ không bao giờ quên được nó, và vợ tôi cũng vậy. Sau đám cưới, vợ tôi, Amelia và tôi đă đến Đức.
Chúng tôi ở tại một thành phố cổ của Nurnberg.
Tại Nurnberg, chúng tôi đă gặp được người Mỹ. Cũng như chúng tôi anh ấy đang đi du lịch. Tên anh là Elias. Cả ba chúng tôi trở thành những người bạn tốt và đă cùng đi với nhau đến nhiều nơi. Mỗi ngày chúng tôi dạo khắp thành phố xem các loại kiến trúc, chúng rất cổ và rất đẹp.
Kiến trúc cổ nhất ở Nurnberg là ṭa lâu đài. Ṭa lâu đài trụ ở trên cao ngay trung tâm thành phố. Từ lâu đài, du khách có thể nh́n xuống và ngắm cảnh thành phố ở dưới nó. Dưới chân lâu đài có một con mương, trước đó đă từng chứa đầy nước dùng để ngăn cách những người ở trong lâu đài và kẻ thù của họ.
Nhưng bây giờ ở đây không c̣n nước nữa, nó đă khô cạn từ mấy trăm năm nay. Thay thế vào đó là các loại cây ăn trái và những vườn hoa tuyệt đẹp. Con đường dẫn đến ṭa lâu đài dài và dốc.
Một ngày nọ, Amelia, Elias và tôi đến xem lâu đài. Chúng tôi đi trên con đường dốc và nh́n xuống những khu vườn trong con mương ở dưới xa. Lúc đó đang hè và là một ngày nóng nực. Mọi người đang ngồi nói chuyện với nhau trong bóng râm. Đó là một cảnh thật đẹp.
Chúng tôi leo lên đèo và nh́n lại con mương. Dưới xa gần chân tường, có một con mèo. Đó là một con mèo đen lớn và nó đang chơi với con của nó. Mèo con đang vồ chụp, đùa giỡn với cái đuôi của mẹ nó và cả hai mẹ con đều vui vẻ. Chúng làm chúng tôi cũng vui theo.
- Trông chúng vui vẻ làm sao. Elias nói:
- Hăy cùng chơi với chúng.
Elias cúi xuống và nhặt một cục đá.
- Nh́n này, tôi sẽ thả cục đá xuống nó sẽ rơi gần mèo con, nó sẽ không biết là cục đá từ đâu lại có, việc đó sẽ đánh đố nó.
- Hăy cẩn thận.
Amelia nói, cô ấy có vẻ không vui và sợ hăi :
- Hăy cẩn thận, đừng làm đau con mèo con với cục đá đó.
- Tôi không làm đau mèo con. Elias trả lời:
- Tôi muốn chơi với chúng, tôi sẽ không làm chúng bị thương.
- Nhưng khoảng cách quá xa, Amelia nói:
- Nguy hiểm lắm.
- ồ ! Không đâu. Elias cười:
- Nh́n này, tôi sẽ thả cục đá xa mèo con và mẹ của nó.
Elias nhoài ra ngoài và thả cục đá dọc theo bức tường. Chúng tôi đều nh́n xuống. Cục đá trúng mèo con và nó chết ngay lập tức. Mèo mẹ nh́n lên, đôi mắt xanh lè của nó nh́n thẵng vào chúng tôi. Sau đó nó nh́n đứa con đă chết và liếm xác con.
Nó nh́n Elias một lần nữa, nó há miệng và nhe ra những cái răng bén nhọn, răng mèo mẹ nhuốm đỏ máu mèo con. Đột nhiên mèo mẹ cố sức leo vượt lên thành tường. Nó muốn đến chỗ chúng tôi. Nó chỉ lên được một đoạn ngắn rồi rơi trở lại, nó rơi trúng xác con nó, lông nó nhuốm máu con nó và nó vô cùng kinh hăi.
Amelia choáng váng, tôi đưa cô ấy vào ghế ngồi gần đó rồi trở lại bên cạnh Elias. Mèo mẹ đang cố gắng leo lên thành tường, nó muốn đến chổ chúng tôi, mỗi lần nó leo lên là bị rơi xuống, và càng lúc trong nó càng đáng ghê sợ hơn.
- Con mèo tội nghiệp đang điên lên. Elias nói:
- Đó chỉ là một tai nạn. Tôi tiếc là đă ném đá. Tôi chỉ muốn chơi với chúng. Tôi đâu muốn giết con mèo nhỏ xinh đẹp kia.
Amelia cảm thấy đỡ hơn sau giây lát. Cô ấy đến với chúng tôi và nh́n xuống. Mèo nh́n lên chúng tôi, nó nh́n Elias và cố leo lên lần nữa.
- Ôi con mèo tội nghiệp. Amelia la lên:
- Nó quá giận giữ, nó muốn đến gần anh, Elias và giết anh.
Elias cười to khi nghe Amelia nói.
- Anh là người dũng cảm. Anh không sợ con mèo. Con mèo không thể làm anh bị thương.
Con mèo nghe Elias cười. Ngay lập tức, nó không nh́n chúng tôi nữa và đến ngồi bên cạnh xác đứa con và liếm máu trên xác con nó. Chúng tôi rời khỏi nơi đó và tiếp tục đến ṭa lâu đài. Vừa đi chúng tôi vừa nh́n xuống, và cứ mỗi lần nh́n xuống, chúng tôi lại thấy con mèo nh́n chúng tôi.
Nó men theo chân tường. Lúc đầu nó ngậm xác con nó, sau đó nó đă giấu xác con ơ đâu đó rồi theo chúng tôi một ḿnh. Chúng tôi đi lên con đường và đến cổng lớn. Từ cổng đó con đường ṃn đẫn tới ṭa lâu đài. ở ngay tầng trệt của tầng lâu đài có một khu vực rất nổi tiếng. Khu này gọi là Tháp hành h́nh.
Tháp hành h́nh là nơi thư vị nhất tại Nurnberg.
Chúng tôi vào tháp, chúng tôi là những người du khách duy nhất ở đây. Có một người đàn ông đang đứng trước cửa, ông là người hướng đẫn. Việc của ông là đưa du khách đi tham quan quanh tháp.
Trong tháp rất tối, chỉ có những ánh sáng le lói xuyên qua cửa. Chúng tôi bắt đầu leo lên các bậc thang bằng gỗ và đầy bụi. Đầu cầu thang là một pḥng lớn.
Có một vài cửa sổ nhỏ trên bức tường của căn pḥng. Nhờ ánh sáng xuyên qua cửa sổ, chúng tôi có thể nh́n mọi vật trong pḥng rơ hơn. Trên tường treo những thanh gươm rất lớn, muốn cầm phải giữ bằng cả hai tay.
Trên sàn, có nhiều loại đồ gỗ nhuốm máu. Hàng trăm nắm tóc, đầu của rất nhiều người đă bị chặt trên mấy tấm gỗ này với mấy cái ŕu. Khắp nơi là những dụng cụ kinh khủng. Những dụng cụ này đă dùng để hành hạ con người hồi xưa kia. Vài cái ghế với gai nhọn trên đó, người ta sẽ bị thương khi ngồi lên đó; có những ṿng sắc bao cổ con người, có một thứ trong giống như cái giỏ sẽ chụp lên đầu con người và siết chặt dần dần.
Tất cả những thứ này đều vô củng khủng khiếp. Sắc mặt của Amalia trắng bệch và cô ấy giữ chặt tay tôi.
Trung tâm căn pḥng, có một vật đáng sợ nhất và khủng khiếp nhất. Nó được gọi là cô gái bằng kim loại. Nó được làm bằng kim loại và có h́nh dáng giống người đàn bà.
Nó bị phủ một lớp bụi dày và rất dơ, nó cũng đă cũ kỹ. Trước cơ thể bằng kim loại có một ṿng cũng làm bằng kim loại và trong ṿng có sợi dây thừng, đầu kia của sợi dây được cột vào cột gỗ trong pḥng.
Người hướng đẫn chỉ cho chúng tôi xem cô gái kim loại. Ông kéo sợi dây và phần trước của cơ thể cô gái mở ra, nó giống như một cánh cửa nặng. Chúng tôi nh́n vào bên trong, có một chỗ đủ để cho một người vào đứng thẳng. Cánh cửa rất nặng, khi người hướng dẫn buông dây, cánh cửa đóng nhanh và chặt.
Chúng tôi nh́n vào phía trong của cách cửa kỹ hơn. Thật kinh sợ ! Ở đấy có những gai kim loại dài và vô cùng sắc nhọn. Khi cửa đóng lại một số gai sẽ đâm vào mặt người đứng bên trong, những gai khác sẽ xuyên qua tim và dạ dày.
Amelia nh́n thấy những cái gai, cô ấy quá sợ hăi nên bất tỉnh. Tôi đưa cô ấy ra ngoài và cùng ngồi với cô, sau đó cô thấy đỡ hơn và chúng tôi trở vào t́m Elias, anh đang ngắm nghía cô gái bằng kim loại rất chăm chú.
- Tôi muốn vào trong đó. Elias nói:
- Tôi muốn biết cảm giác ấy như thế nào. Trước tiên, anh hăy trói chặt tay tôi lại với nhau và cả chân nữa.
Elias nói với vẻ vui thích cực độ.
- Chúng ta phải t́m vài sợi dây thừng. Elias nói với chúng tôi.
Elias nói với người hướng dẫn:
- Đem đến cho tôi vài sợi dây thừng. Người hướng dẫn không trả lời, ông không chịu đi ông lặng lẽ lắc đầu. Elias lấy ra một số tiền và đưa cho người hướng dẫn:
- Đây, cầm lấy số tiền này và đứng lo ngại ǵ cả.
Người hướng dẫn cầm tiền, lấy dây buộc hai tay Elias lại. Kế đó Elias nói:
- Chờ chút đă, đừng trói chân tôi ngay bây giờ, tôi có trọng lượng nặng do đó ông không thể khiêng tôi vào trong đó đườc, tôi sẽ tự vào rồi sau đó ông hăy buộc chân tôi khi tôi đă ở trong.
Khi Elias nói với chúng tôi anh vào trong cô gái bằng kim loại, nó chỉ vừa đủ chổ không c̣n khoảng trống nào nữa. Amelia có vẽ sợ hăi, nhưng cô ấy không nói ǵ cả. Người hướng dẫn buộc chân Elias. Bây giờ Elias không thể chuyển động được đă bị trói chặt. Elias rất vui sướng và anh cười với Amelia :
- Tốt thôi ! Bây giờ hăy từ từ đóng cửa lại.
- Ồ ! Không, không. Amelia hét lên:
- Tôi không thể xem anh được tôi không thể.
Elias nh́n Amelia rồi nh́n tôi
- Đưa Amelia ra ngoài, cô ấy sợ, đưa cô ấy đi dạo đi.
Amelia không đi. Cô nắm chặt tay tôi và run lên v́ sợ hăi. Chậm, rất chậm, người hướng dẫn thả sợi dây qua móc khóa. Cửa đóng từng chút một. Những gai nhọn từ từ lại gần mặt và cơ thể của Elias. Elias càng lúc càng vui thích khi gai đến càng lúc càng gần.
Sau vài phút, người hướng dẫn đă thả dây ra một đoạn ngắn. tôi quay sang Amelia. Môi cô ấy trắng bệch, cô ấy không nh́n Elias, cô ấy nh́n chằm chằm vào nền nhà gần chân của cô gái bằng kim loại. Tôi nh́n theo. Con mèo đen đang ngồi ở đó. Đôi mắt của con mèo lóe sáng, trên bộ lông của nó vẫn c̣n dính máu.
Tôi hét lên:
- Nh́n ḱa, con mèo !
Con mèo đứng dậy trông nó rất dữ tợn. Elias nh́n con mèo và cười lớn :
- Nó đă theo chúng ta đến đây à, nếu nó đến gần tôi, anh đá nó giùm tôi, tôi không thể cử động.
Ngay lúc đó Amelia ngất đi, tôi ṿng tay ôm lấy đôi vai Amelia lay cô ấy tỉnh lại. Củng lúc đó con mèo thét lên một tiếng lớn. Nó nhảy đến nhanh như cắt. Nó không nhảy đến chổ của Elias. Nó nhảy đến người hướng dẫn nó cào mặt ông ta với những móng vuốt dài và nhọn của ḿnh. Móng của nó đâm vào mắt ông ấy rồi dần dần xuống g̣ má. G̣ má của ông bị toét ra.
Người hướng dẫn gào thét. Ông nhảy lùi lại phía sau và thả dây ra. Sợi dây thừng chạy qua móc khóa. Elias nh́n thấy sợi dây chạy nhanh qua trước mặt. Trong giây phút, anh có vẻ rất kinh sợ. Mắt anh nh́n chằm chằm về phía trước, môi anh động đậy nhưng không một tiếng nào được thốt ra. Cánh cửa sập và đóng chặt lại.
Tôi kéo cánh cửa ra. Khi cửa mở những gai nhọn rút ra khỏi cơ thể của Elias và anh rơi xuống sàn nhà. Mặt anh trông vô cùng khủng khiếp. Tôi vội đến bên Amelia, tôi đưa cô ấy ra ngoài trời, tôi không muốn vợ ḿnh nh́n thấy xác của Elias. Nó rất khủng khiếp.
Sau đó tôi chạy trở lại căn pḥng. Con mèo đen đang ngồi cạnh đầu của Elias. Nó đang gào lên rất to và liếm máu trên mặt của Elias. Tôi bước nhanh đến bức tường và lấy xuống một thanh gươm lớn. Với tất cả sức lực của ḿnh, tôi giơ cao thanh kiếm lên đầu và thả nó rơi xuống đột ngột.
Tôi đă đúng khi giết con mèo. Tôi chắc chắn là thế, không ai có thể cho rằng tôi độc ác.
LTNT-AM dịch
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 255 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:44pm | Đă lưu IP
|
|
|
CON NGƯỜI CÓ HỒN VÀ THỂ
Hồn là điểm thiêng liêng linh diệu trong con người. Nó vốn bất tiêu bất diệt. Ấy là điểm linh quang do Chơn linh của Tạo hóa ban cho. Chơn linh ấy có ba Ngôi, th́ hồn cũng có ba bực:
1. Linh Hồn (Âme divine - Atma) cũng gọi Phật hồn, Chơn hồn, Chơn ngă, Chơn tâm, Ngươn thần.
2. Anh hồn (Âme spirituelle - Boddhi) cũng gọi Tiên hồn, Bồ đề, Bát nhă, Trí huệ.
3. Nhơn hồn (Âme humaine - Coprs mental supérieur) cũng gọi Giác hồn, Thần thức, A lại Da thức, Thượng trí thức, Tâm thức, Nghiệp thức.
Nhơn hồn đồng nguyên chất với cơi Tiên. Anh hồn đồng nguyên chất với cơi Thiên Tiên, cũng gọi cơi Bồ đề (Monde spirituel ou Boddhique). Linh hồn đồng nguyên chất với cơi Ngọc Tiên Thiên, cũng gọi là cơi Niết bàn (Nirvana).
Thể th́ có bốn thứ là:
Vật thể, Khí thể, Thần thể, Thánh thể.
1. Vật thể (Corps physique: Rupa) là xác thịt, thể thứ nhứt của con người. Nó do bốn nguyên tố lớn hiệp thành (Tứ đại giả hiệp). Bốn cái nguyên tố ấy là: đất, nước, lửa, gió. Vật thể bị bao bọc bởi một lớp tinh khí (éther), gọi là Khí thể (Double éthérique: linga-sharira), cũng gọi là cái Phách, kêu nôm là cái Vía, thuật âm phù gọi Tướng tinh.
2. Khí thể dùng rút sanh lực vào Vật thể đặng giữ cho Vật thể được sanh tồn. Nhờ có Khí thể chở che bao học, Vật thể mới không tan ră. Khí thể dính với Vật thể bởi một sợi từ khí (lienmagnétique). Khi nào Khí thể bứt sợi dây ấy mà ĺa khỏi Vật thể, th́ con người phải chết. Lúc bấy giờ, Vật thể mất sự che chở của Khí thể, nên lần lần tiêu ră.
Nhà âm phù thuật sĩ dùng phép thôi miên có thể làm cho Khí thể của người sống xuất khỏi Vật thể trong một lúc (nhưng không cho dang ra xa, sợ đứt sợi từ khí mà nguy cho tánh mạng). H́nh nó xuất ra mờ mờ như đám sương mù, người có thần (voyant), trông thấy được.
Lúc bấy giờ, xác phàm hết cử động, hết biết cảm giác, trơ trơ như một tử thi. Người hít thuốc mê không c̣n biết đau đớn là v́ thuốc mê đă làm cho một Khí thể ra khỏi xác thịt.
3. Thể thứ ba là Thần thể hay Chơn thần (Corps astal: Kama). Dính với Khí thể bởi một sợi từ khí, Chơn thần làm trung gian cho Vật thể và Hồn. Chơn thần là tạng chứa tham ái và t́nh cảm tức là nguồn gốc sự cảm giác. Hể nó vọng động, th́ mắt tham sắc, tai tham thanh, mũi tham hương, lưỡi tham vị và thân tham xúc. Nó là vai chủ động của lục căn. Tâm lư học gọi là ư thức.
Người ta có thể luyện phép xuất Thần ra khỏi xác mà vân du trên cơi Thần (Trung giới) là cơi thích hạp với Chơn thần v́ đồng một nguyên chất. Chơn thần của các vị tu đắc đạo vốn huyền diệu vô cùng tuy c̣n ở xác phàm mà tự do xuất nhập, trong nháy mắt dạo khắp ba ngàn thế giới, tiếp xúc với Thần Tiên. Người đồng tử (médium) nhờ xuất được Chơn thần ra khỏi Phách mà thông công với các Đấng Thiêng Liêng.
4. Thể thứ tư là Thánh thể (Corps mental inférieur: manas inférieur). Phật giáo gọi Mat nạ thức hay Truyền thống thức; Tâm lư học gọi Trí thức. Nó giao thông giữa Thần và Hồn. Hễ Chơn thần phân biệt cái ǵ là tốt, cái ǵ là xấu, hoặc điều ǵ là thiện, hoặc điều ǵ là ác nó cũng tùy theo mà phân biệt như vậy, rồi truyền sang cho Nhơn hồn hay biết.
Tóm lại, con người có bốn thể là: Vật thể, Khí thể, Thần thể, Thánh thể. Và ba hồn là: Nhơn hồn, Anh hồn và Linh hồn. Khi con người chết, bốn thể lần lần tiêu tan, duy có hồn là bất tiêu bất diệt, đi đầu thai kiếp nầy sang kiếp khác, cho tới khi được hoàn toàn giải thoát (đắc đạo).
Xương thịt thuộc đất, v́ tánh nó đặc và chắc. Huyết dịch thuộc nước v́ là chất lỏng. Ôn độ trong châu thân thuộc lửa, v́ tánh nó ấm. Khí chất trong châu thân thuộc gió v́ tánh nó động.
Khi con người chết, bốn cái nguyên tố trong châu thân lần lần tan ră, rồi hiệp thành một vật thể khác, để rồi tan nữa rồi hiệp nữa, thoạt có, thoạt không, thoạt c̣n, thoạt mất, thiệt rơ ràng một giả tướng.
NHƠN HỒN SAU KHI GIẢI THỂ
Người ta chết là khi sợi từ khí cột dính Vật thể và Khí thể bị bứt đi (*1), thế là Khí phách và Thần hồn ĺa xác thịt. Thiệt ra, cái chết chỉ là sự ly dị giữa Vật thể và Khí thể. Khí thể vốn là tạng chứa sanh lực, mà nếu nó ĺa khỏi Vật thể th́ Vật thể hết sanh lực, phải lần lần tan ră.
Vài ngày sau khi con người chết, Khí thể của người ấy ĺa khỏi Chơn thần. Nó không cử động mà cứ vơ vẩn gần tử thi. Ban đêm đi đến nơi thanh vắng, nhứt là nơi mồ mả, những người tánh nhát hay sợ sệt; sự sợ sệt ấy khích thích thần kinh hệ (système nerveux) làm cho họ thấy được h́nh dạng Khí thể vẩn vơ nơi đó. Họ cho là "gặp ma" (fantôme éthèrique).
Khí thể của người chết tiêu tan một lượt với tử thi. Tần nhơn (người Cao miên) có tục hỏa táng (Crémation), nghĩa là thiêu tử thi, rồi chôn tro, hoặc đựng trong hủ đem thờ nơi chùa. Dùng hỏa táng,th́ Khí thể tiêu liền theo xác thiêu.
Khi Hồn người chết cổi hết Vật thể và Khí thể, nó được nhẹ nhàng thong thả như trút được một gánh nặng. Lúc bấy giờ, nó lại linh hoạt hơn khi c̣n tù túng trong xác phàm. Nó vẫn sống như thường ở cơi vô h́nh; cái sống nầy mới là sống thiệt, có điều Nhơn hồn không cảm xúc theo phàm trần v́ nó không c̣n Vật thể.
Lúc nầy Nhơn hồn linh hoạt nhờ Chơn thần là cái vỏ bao bọc nó như Khí thể bao bọc xác thịt vậy. Chơn thần vốn đồng nguyên chất với Trung giới là cơi Thần (Monde astral). Cho nên, sau khi rời bỏ xác phàm và cái phách (Vật thể và Khí thể), Hồn nhờ Chơn Thần làm chiếc xe đưa vào cơi Thần là nguyên quán, là quê hương của Chơn thần vậy.
Vẫn biết Chơn thần là tạng chứa những hột giống thuộc về t́nh cảm. Con người, nếu lúc sanh tiền đă chú trọng vật chất, chỉ lo thỏa măn tham ái tất nhiên Chơn thần bị trọng trược bởi những hột giống xấu xa ấy, nên nó lâu tan ră. Chơn thần ấy chẳng khác nào cái khám có bốn vách kiên cố để nhốt Hồn người trong một thời gian rất lâu ở Trung giới.
Vậy nên chú trọng điều này: ở cơi phàm con người hành động thể nào, sự hành động ấy dầu lành dầu dữ, dầu thấp hèn hay cao thượng, cái ấn tượng của các hành vi ấy đều in gắn vào tinh chất (matière astrale) của cơi Thần.
. Đến khi Hồn trở về cơi Thần, th́ cái ấn tượng ấy hiện ra có thứ lớp rơ ràng; Hồn người trông thấy chẳng khác nào mục kích một phim chớp bóng (*2).
Lúc bấy giờ, Hồn người được sung sướng mà nhận thấy hành vi nhơn thiện và cao thượng của ḿnh khi c̣n ở thế, hoặc ăn năn và đau khổ mà xem lại những điều độc ác thấp hèn của ḿnh đă tạo. Sự sung sướng và sự đau khổ ấy, tức là phần thưởng phạt thiêng liêng cho hồn người tại Trung giới, tức là miền Âm cảnh mà người ta quen gọi là Địa ngục (Enfer), tiếng Phạn là Kama Loca.
Hồn những người tu mà giữ tṛn nhơn đạo và chuyên việc nhơn đức và hồn của chiến sĩ đă liều ḿnh v́ nước, khi về đến cơi Thần đều được hưởng các điều khoái lạc thiêng liêng là phần thưởng cho sự hành vi của ḿnh khi c̣n ở thế. Đó là đắc Thần vị (thành Thần).
Ở cơi Thần những Hồn đồng một tŕnh độ tấn hóa với nhau, đều liên hiệp từng đoàn thể để giúp đỡ nhau đặng tấn hóa thêm lên. Hưởng và chịu thưởng phạt thiêng liêng ở cơi Thần trong một thời gian lâu hay mau tùy theo căn nghiệp của ḿnh.
Nhơn hồn giải thoát được Chơn thần v́ Chơn thần đến ngày tiêu tán. Chơn thần tiêu tán, th́ bao nhiêu hột giống của nó tàng trữ bấy lâu, tức là những hột giống luân hồi (atomes permanents) đều rút vào cái thể thứ tư là Thánh thể, để làm nghiệp duyên cho kiếp tái sanh.
Chỉ c̣n cái Thánh thể bao bọc, Nhơn hồn bỏ cơi Thần mà vào từng cao nhứt của Trung giới, tức vào cơi Thánh (Monde mental inférieur). Nhơn hồn ở cơi nầy lâu hay mau cũng tùy theo kiếp sống của ḿnh tại thế.
Như lúc sanh tiền con người đă hành động cao thượng về tinh thần trí thức, nếu con người đă có những tư tưởng thanh cao và những t́nh cảm cao siêu của phàm tánh, nếu con người đă biết quên ḿnh để phụng sự một lư tưởng cao cả, hoặc một chủ nghĩa vị tha, th́ Nhơn hồn được hưởng bền lâu những hạnh phúc thiêng liêng nơi cơi Thánh tốt tươi vui vẻ, và được tiếp xúc với các v́ minh Thánh nơi đây. Đó là đắc Thánh vị (thành Thánh).
Nên biết rằng ở cơi Thánh, chẳng một việc ǵ là phát đoan (khởi đầu). Những công việc ở đây toàn là kiếp tục. Nói một cách dễ hiểu là: một hạnh phúc không thể bắt đầu tạo ra ở cơi nầy. Nó phải phát đoan từ cơi Phàm, rồi đến đây mới tiếp tục mà phát triển thêm.
Cho nên con người khi c̣n ở thế, cần phải sống một cuộc đời nhơn thiện và thanh cao về tinh thần trí thức và lư tưởng, chớ không phải đợi lên đến cơi thiêng liêng mới lo hành thiện, th́ muộn lắm rồi. Luật nhơn quả (Loi de Karma) vốn chí công: nhơn nào, quả nấy.
Khi c̣n ở thế, chúng ta tự tạo phẩm vị thiêng liêng của chúng ta là cái kết quả của những hành vi thuận hay nghịch với Thiên đạo (Loi divine). Khi c̣n ở thế, chúng ta vẫn có quyền tự do định đoạt cho ḿnh. Chớ nên quá hững hờ tự tạo lấy xiềng xích đặng sau rồi buộc trói lấy ta.
Khi Thánh thể tiêu tan, những hột giống luân hồi tàng trữ bấy lâu trong đó rút vào Nhơn hồn (Thần thức) để làm nghiệp nhơn cho kiếp tái sanh, như đă nói trước kia.
Nhơn hồn lúc bấy giờ hết bị thể phách ràng buộc, nó được thong thả trở về bổn nguyên là Tiên cảnh (Monde mental supérieur), nơi mà Thiên Chúa giáo gọi là Thiên đàng (Paradis), tiếng Phạn là "Devakan".
Điều cần yếu nên biết là tất cả Nhơn hồn sau khi rời bỏ bốn thể, đều trở về cơi Tiên trong một thời gian lâu hay mau tùy theo duyên nghiệp của ḿnh, nhưng đó chưa phải là đắc quả Tiên.
Đắc quả là những Nhơn hồn lúc ở thế biết tu hành theo chánh pháp mà được sáng suốt. Cho nên khi về cơi Tiên, th́ có linh cảm hiểu biết và hưởng được những điều khoái lạc thiêng liêng và những thanh phước của Tiên cảnh (*3) u nhàn xinh đẹp.
Nhơn hồn của những bực chơn tu đắc Tiên vị, khi ĺa cơi phàm, th́ cổi luôn tất cả bốn thể một lượt; vượt khỏi cơi Thần và cơi Thánh mà lên thẳng cơi Tiên. Nhưng sau khi hưởng hết quả vị, nói một cách khác, sau khi măn hạn (*4), Nhơn hồn c̣n phải luân hồi lại nữa.
Đến như Nhơn hồn, khi c̣n ở thế không biết tu hành, th́ lúc trở về Tiên cảnh, vẫn mờ mờ mịt mịt, không hiểu biết chi hết. Tại cơi thiêng liêng nầy, những Nhơn hồn ấy ở vào trạng thái vô vi vô giác (état inconscient). Có lẽ độc giả lấy làm lạ, sao lại Trung giới, Nhơn hồn ở vào trạng thái hữu giác (état conscient), mà khi đến Thượng giới nó lại vô tri vô giác.
Điều đó cũng không khó hiểu. Lẽ thường, hai cái thái cực vốn bằng nhau, nhứt là hai cái thái cực về quang độ (degré de lumière). Nếu ánh sáng lu lờ, người ta chỉ thấy mờ mịt, như ở vào cơi u minh. Nếu ánh sáng có cái quang độ trung b́nh, người ta được thấy tỏ rơ, như ở vào cơi Thần, cơi Thánh.
Đến như quang độ lên đến cực điểm, th́ ánh sáng chói ḷa, người ta bị chóa mắt như bị "nắng quáng đèn ḷa" mà không thấy chi hết, hoặc không thấy chi đặng rơ.
Ấy vậy Nhơn hồn mê muội không tu ở vào cơi Tiên là cơi sáng ḷa, th́ chỉ mờ mờ mịt mịt trong trạng thái vô vi vô giác đó thôi.
(*1) Có khi sợi từ khí khó bứt làm cho kẻ hấp hối phải nhiều đau đớn. Cho nêntôn giáo dùng kinh "độ hồn" đọc trong khi người bịnh sấp tắt hơi, là để giúp cho sợi từ khí nhờ sức rung động của những tiếng mầu nhiệm trong câu kinh mà được bứt ra dễ dàng. Người tu hành đầy đủ đạo đức th́ Khí thể của họ nhẹ nhàng trong sạch, sợi từ khí ấy lại được tinh vi, nên khi thoát xác phàm, sợi từ khí bứt ra rất dễ, nên liểu trần một cách êm ái.
(*2) Đó là "Nghiệt cảnh đài" (Psyché astrale) của nhà Phật.
(*3) Điều nầy sẽ giải trong bài luận "Chơn Ngă".
(*4) Nhơn hồn đắc Tiên vị hưởng quả mấy ngàn năm, hoặc mấy muôn năm, rồi phải luân hồi nữa, cho đến khi đắc Phật vị mới hoàn toàn giải thoát.
Nguyễn Trung Hậu
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 256 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:45pm | Đă lưu IP
|
|
|
CÚNG VONG, CÚNG LINH, VỚT VONG
Bài nói chuyện dưới đây giữa sư Tinh Tuệ và phóng viên Nguyễn Quang Minh, sẽ soi chiếu nhiều vấn đề tâm linh theo quan niệm của Phật Giáo, nhân có những quan niệm sai lệch về việc thực thi các nghi thức tín ngưỡng.
NQM: Thưa sư Tinh Tuệ, xin ông cho biết đôi chút về ḿnh, trước khi chúng ta đi sâu vào những khúc mắc về vấn đề tín ngưỡng, xoay quanh các h́nh thức cúng, tế, bái, v.v. theo quan niệm Phật giáo mà ông đă tu tập?
STT: Sư xuất thân là một nhà tu theo Phật Giáo Nguyên Thủy, hệ thống của Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan. Sư xuất gia với các ngài thiền sư Việt Nam theo hệ thống Phật Giáo Nguyên Thủy, là giữ giới, bố thí và hành thiền. Sư có duyên lành, đă gặp được các ngài thiền sư người Thái, người Miến Điện và tu tập trong hơn 15 năm qua.
NQM: Thưa sư Tinh Tuệ, nhân mùa Vu Lan, xóa tội vong nhân dịp rằm tháng 7 âm lịch, các nơi chùa chiền tổ chức cúng vong, cúng linh, vớt vong… Xin ông cho biết ư kiến của ông về các h́nh thức này, theo quan niệm Phật Giáo là thế nào?
STT: Theo tinh thần của đức Phật, người quá văng vừa mới ĺa đời, ngài xác nhận rằng, chính người đó đă đi tái sanh vào cảnh giới thích hợp với ḿnh. Tức là cảnh giới làm người, hoặc cảnh giới cao hơn gọi là Chư thiên, hoặc thấp hơn là cảnh giới súc sanh, a-tu-la c̣n gọi là ma, thấp hơn nữa là ngạ quỷ c̣n gọi là quỷ sứ, hoặc thấp hơn nữa là cơi địa ngục.
Đức Phật dạy rằng dưới cơi người, có bốn cảnh khổ: Cảnh địa ngục, cảnh ngạ quỷ, cảnh a-tu-la và cảnh thú. Cũng theo tinh phần của đức Phật, qua các cảnh giới nói trên, nếu trong thân nhân của chúng sanh phải sanh vào một trong bốn cảnh khổ nói trên, ngài dạy rằng, h́nh thức đúng đắn nhất mà chúng sanh nên làm, là ngay khi chết, phải thỉnh chư tăng tới, hoặc gia đ́nh thí chủ đó tới chùa để dâng cúng vật thực, hoặc tứ vật dụng.
Tứ vật dụng là: Chỗ ở, thuốc men, thực phẩm, quần áo… Rồi từ chỗ dâng cúng cho chư tăng, do công đức tu tập của họ, sự hồi hướng công đức mới tay người thân của thí chủ được. Sự hồi hướng này được chuyển tải qua các bài kinh, kệ để gởi tới người quá văng.
NQM: Như vậy, sự hồi hướng đó, qua chư tăng, người quá văng có nhận được đầy đủ không?
STT: Có thể nhận được, có thể không, tùy theo cảnh giới cho phép mà họ nhận được hay không. Ngay sau khi chết, Đức Phật dạy rằng người quá văng đó sẽ đi tái sanh ngay liền.
Thời gian mà chúng ta có thể h́nh dung cho việc tái sanh được đức Phật nói rằng, giống như con sâu đo, nó nhả đầu này, là nó bắt đầu kia… Con sâu sẽ kiếm hướng thích hợp cảnh giới mà nó sẽ đầu thai, giống như người vậy.
NQM: Như vậy, các h́nh thức cúng mở cửa mả, cúng 49 ngày, 100 ngày cho người mất, ông nghĩ sao?
STT: Theo như lời Phật dạy trong kinh điển, và sau này các bậc thầy tổ thánh tăng cũng nhắc lại rằng, đến năm nay là 2.549 năm, các h́nh thức anh vừa nêu… kể cả các h́nh thức cúng kiếng đốt nhà, đốt xe, vàng mă, v.v. cho người thân đó là sai lầm.
Làm như vậy chẳng khác nào muốn người thân của ḿnh ở cảnh địa ngục hay sao? Họ làm sao hưởng được những thứ cúng kiếng này. Biết đâu họ đang ở những cảnh giới cao hơn sung sướng hơn? Điều đó không hợp lư.
NQM: Như vậy, trong dân gian, một số vị sư, các nhà lănh đạo tôn giáo đă cố t́nh hướng dẫn chúng sanh đi vào con đường u minh, mê muội qua các h́nh thức cúng bái, nhằm mục đích trục lợi trên phương diện vật chất. Làm thế nào, chúng ta có thể nhận chân ra được người thân của ḿnh khi quá văng, ở cảnh giới nào để chúng ta hướng tâm niệm cầu xin cho chính xác, bỏ ra ngoài những tà kiến nói trên?
STT: Đức Phật thường nhắn nhủ rằng, khi người thân quá văng, không ai biết được người thân ḿnh sẽ đi vào cảnh giới nào, do đó, việc làm đúng đắn và cần thiết nhất, là chúng sanh cần dâng cúng tứ vật dụng như tôi đă tŕnh bày ở trên cho các chư vị sư tăng để xin họ hồi hướng cho thân nhân quá văng mà thôi.
Khi các vị sư tăng dùng công đức tu tập của ḿnh hồi hướng cho người quá văng, không riêng ǵ người quá văng, thân nhân của người muốn xin lễ nhận được, mà mọi chúng sanh, tùy theo cảnh giới nhận được th́ được, không th́ thôi.
Tuy nhiên, tôi vẫn thấy v́ thương tiếc người thân trong gia đ́nh, nên phần lớn chúng sanh chỉ muốn cầu xin, hồi hướng riêng cho người thân của ḿnh, trên thực tế, hồn người chết không nhận được đầy đủ như lời cầu đâu. Chúng sanh 3 giới, 4 loài đều nhận được các bài kinh kệ.
Một câu chuyện ngắn nói về chuyện hồi hướng vật phẩm này để quí vị thưởng lăm cho tỏ tường. Vào thời đức Phật, có một vị vua tên là B́nh Sa Vương, ngài là người đạo đức, một hôm thỉnh đức Phật và chư tăng tới hoàng cung để thiết lễ trai tăng, độ ngọ trước 12 giờ.
Vua được đức Phật hỏi rằng “Thưa ngài, xin ngài nh́n ra ngoài kinh thành, ngài thấy ǵ không?” Đức Phật hỏi 3 lần, vua B́nh Sa Vương đều trả lời là không thấy ǵ cả. Đức Phật hỏi tăng chúng, bảo họ nh́n ra ngoài kinh thành, xem có thấy ǵ không, chư tăng nh́n ra ngoài, quả nhiên, họ nói rằng thấy đông đảo người thân bằng quyến thuộc đang tụ tập bên ngoài, chờ chực cầu xin chư tăng tụng niệm kinh kệ, hồi hướng công đức để họ được hưởng…
Đức Phật muốn dạy vua B́nh Sa Vương bài học không thể áp đặt lên người khác, mà phải qua các vị chư tăng. Đêm hôm đó, vua nằm mơ, thấy các vị thân bằng quyến thuộc hiện về, cảm tạ ngài đă hồi hướng vật phẩm qua lời cầu xin của chư tăng.
Có vị nhận được, có vị không nhận được, có vị nhận được nhiều, có vị nhận được ít tùy theo cảnh giới của mỗi người. Có người được đầu thai nhờ đủ duyên đủ phước. Không ai giống nhau. Lời dạy của Phật gọi là Hoan hỉ chư phước.
NQM: Như vậy, tu sĩ, chư tăng đóng một vai tṛ “trung gian” khá quan trọng để hồi hướng công đức tới người quá văng. Làm thế nào để đánh giá vào sự đúng đắn của những vị chư tăng này, trong khi hiện nay, có quá nhiều người lạm dụng vai tṛ trung gian này?
STT: Theo tinh Phật, người tu hành, gọi là chư tăng… là người phải ăn ở theo Phật, giữ giới theo Phật, và hành tŕ theo lời dạy của Phật. Tức là phải xa lánh thế gian, ở nơi thanh vắng. Không được liên hệ nhiều với thế gian. Thế gian có nghiệp của thế gian. Đă gọi là người tu, đă khoác áo tu, làm con của Phật, phải giữ giới cho đứng đắn.
Không thể có những sinh hoạt nửa tu, nửa đời, không thể nào cứ thấy chỗ nào vui, chỗ nào đông là tới, đó không phải là người tu. Theo tinh thần đó, các vị thánh tăng nói rằng, người tu phải giữ giới, tu tập công đức.
Khi ra ngoài xă hội, nếu có nhân duyên với người thế gian trong các tiền kiếp, họ dâng cúng, hay xin lễ hồi hướng cho thân nhân quá văng, bằng các vật phẩm tứ vật dụng, mời chư tăng tới nhà v.v. bổn phận phải làm các công việc như sư nói ở trên.
C̣n nếu tham lam, định giá h́nh ảnh to nhỏ, kinh đọc nhiều lần, ít lần… Đặc biệt không nên bỏ tro cốt của người chết vào b́nh, vào hũ để trong chùa, sau đó nhận tiền của bá tánh, để dán tên ông bà cha mẹ của các chúng sanh, rồi ra giá tiền với hũ lớn nhỏ. Theo sư biết, có một số chư tăng đă ra giá tiền cho khung ảnh, lớn nhỏ giá nào, hũ tro cốt lớn th́ giá bao nhiêu… hoàn toàn sai với lời dạy của Phật.
Chư tăng nào nhận tiền của thí chủ, bá tánh để nuôi mạng ḿnh bằng các h́nh thức đó, xây cất chùa chiền bằng các sự thu nhận đó, đều là bất chánh. Đó là việc đi ngược lại lời dạy của Phật. Ngài nói “thà nhận ngậm thỏi sắt lửa đỏ, c̣n sướng hơn là những vật cúng sai quấy đó!” Không thể nào nhận được những vật bất chánh đó.
NQM: Nhân nói về vai tṛ trung gian, hiện nay, có một số chùa tại quận Cam, các vị sư đă ra giá tiền đóng góp để xây chùa, giá viên gạch, cửa sổ, cột kèo là bao nhiêu, và kêu gọi chúng sanh đóng góp, sư nghĩ sao?
STT: Đức Phật vẫn dạy trong kinh là, các chùa chiền là cần thiết, v́ có chùa mới có nơi chốn để chư tăng tu tập. Tuy nhiên, như anh vừa nêu, nếu đặt ra giá tiền, kích thước, rồi tranh nhau bán, mua… Chính đức Phật nói rằng, khi ḿnh vắt sữa ḅ, phải chừa sữa ḅ, chứ không thể vắt cạn tài sản của chúng sanh như vậy. Giá cả như vậy là sai, hoàn toàn là tà kiến.
NQM: Trở lại với việc các oan hồn uổng tử mất mà không đầu thai vào cảnh giới nào được, vất vưởng nơi bờ sông, bờ suối hay biển cả, các h́nh thức vớt vong, cúng vong có giúp ǵ cho họ không?
STT: Chúng sanh có nghiệp của chúng sanh. Mỗi người đều có nghiệp lực riêng. Ví dụ như một cha mẹ sinh ra 5 người con, nhưng không ai giống ai. Có thể giống về ngoại h́nh như nhau, nhưng tính t́nh khác nhau. Trong 5 người con, có người xuất chúng, ngoan hiền, cũng có kẻ ngu muội, gian ác… Không ai giống nhau.
Sắc pháp giống nhau, tâm tính khác nhau. Karma, nghiệp lực của từng người khác nhau. Trong các tiền kiếp, vật lực sẽ tạo nên các nghiệp lực khác nhau cho mỗi người. Nếu có cùng duyên, dù sinh vào cùng một gia đ́nh, nhưng quả báo khác nhau.
Do đó, khi ra đi, cũng theo những nghiệp lực khác nhau. Bổn phận của người c̣n sống duy nhất mà họ muốn làm, chỉ là việc thỉnh chư tăng đến nhà để cầu xin, tụng các bài kinh. Chỉ có vậy thôi.
NQM: Làm sao chúng sanh có thể tin tưởng là qua các vị chư tăng, các phẩm vật tứ vật dụng tới tay được người thân?
STT: Đức Phật ngài cũng dạy rằng, chư tăng cũng giống như 3 thửa ruộng: Ruộng tốt, ruộng thường, và ruộng xấu. Nếu công đức của vị sư tốt, th́ ứng với ruộng tốt, khi gieo phẩm vật xin hồi hướng, người quá văng nhận được nhiều hơn. Nếu vị chư tăng đó công đức thường, sự hồi hướng cũng yếu. C̣n nếu vị nào không có công đức, là ruộng xấu, sự hồi hướng coi như không có.
Vậy làm sao nhận diện vị sư nào đúng đắn? Phật dạy rằng, hăy nh́n vào y phục của nhà sư, tướng mạo, hành động, bước đi, cách hành tŕ của họ trong thế gian… Phải quan sát, chứng nghiệm, t́m hiểu xem vị tăng lữ đó đă cởi bỏ hết tham sân si hay chưa, sẽ biết ngay họ là thửa ruộng tốt hay xấu.
Theo tinh thần của Phật giáo nguyên thủy, những bộ y mà chư tăng mặc (như bộ đồ sư Tinh tuệ đang mặc) được kết lại bởi chính mẫu mă mà đức Phật đă chỉ dạy từ hơn 2.500 năm qua. Nếu kẻ nào mặc những lá y không đúng với mẫu vẽ của Phật, không phải là chư tăng đúng đắn chân chính.
NQM: Là một vị sư, chư tăng chân chính, theo sư, các vị đó có được tham gia vào các hoạt động xă hội, văn hóa, chính trị hay không?
STT: Theo tinh thần của đức Phật, ngài vẫn ca ngợi tinh thần phục vụ của các vị chư tăng, nếu những bài pháp, tác phẩm có tính cách phục vụ Phật pháp, tức là khuyên dạy người bỏ bớt sân hận, si mê th́ mới được.
C̣n các hoạt động khác, kể cả các h́nh thức của đức Phật để kinh doanh, mua bán, trục lợi cho ḿnh, cho chùa của ḿnh, hoặc tham gia đảng phái, các hoạt động xă hội, chính trị, giáo dục có tính cách đời thường, tạo ra nghiệp lực, ảnh hưởng đời sống tu tập đều là sai.
Ví dụ như c̣n đứng vào phe này, phe kia, tranh chấp thế này thế kia để làm lợi cho phe ḿnh, có tính chất chính trị, đều là sai theo tinh thần Phật giáo.
NQM: Trong đời sống của chúng ta, chúng sanh vẫn than văn là ḿnh khổ quá, hoặc sướng quá. Câu nói “địa ngục ở trần gian” hay “thiên đàng hạ giới”… phản ánh từng kiếp sống ngay tại trần thế. Xin sư cho biết tại sao có sự khác biệt, kẻ sướng người khổ một cách rơ ràng như vậy?
STT: Theo đức Phật thường nhắc nhở nhiều lần, khẳng định rằng, duyên lành làm người trong thế gian rất khó. Tuy nhiên, cũng có nhiều loại người trong thế gian. Có hạng thánh nhân trong xác phàm, có hạng người trong xác người, và cũng có loại súc sanh trong xác người.
Chúng ta có thể nh́n ra ngay những hạng người này trong xă hội, xung quanh ta. Do đó, trong cuộc sống, không có ǵ vui sướng, hạnh phúc cho bằng gặp hạng thánh nhân trong xác phàm, với họ chúng ta thấy b́nh an, hoan lạc, dễ chịu, sung sướng. Rồi chúng ta cũng gặp người trong xác người với hỉ, nộ, ái, ố, sân, si… như người.
Họ cần được an ủi. Và tệ nhất, là hạng súc sinh mang lốt người, toàn là hành động gian ác, bất nhân, bất nghĩa, có hành động ma quái, đê tiện, hèn hạ không thua ǵ loài cầm thú, ác điểu. Các loại, hạng người này, khi lâm chung, sẽ đi vào cơi, giới thích hợp với chúng.
Thánh nhân vào nơi cao đẹp, người vào cơi thường, thú vào địa ngục. Nói tóm lại, hành động sống ở đời ra sao, nó sẽ phù hợp với cảnh chết bấy nhiêu. Anh hỏi sư tại sao lại có người khổ kẻ sướng, đều do nghiệp lực của từng hạng người như sư tŕnh bày ở trên.
NQM: Hàng súc sanh th́ nhiều, thánh nhân tại sao ít thấy thế?
STT: Đức Phật dạy rằng, hàng thánh nhân ít ỏi như hai sừng ḅ. Sừng ḅ chỉ có hai. C̣n chúng sanh xuống 4 đường ác đạo nhiều như lông ḅ. Ngài khẳng định lông ḅ nhiều như người ác. Hiền nhân, thánh nhân khó kiếm, theo lời Phật dạy chính là hàng tăng lữ, chư tăng, tu sĩ.
V́ sao, v́ họ đă cố gắng tu tập, cởi bỏ sân si, để sống cho đúng với lời đức Phật dạy. Tuy nhiên, đó là những chư tăng chân chính. C̣n những kẻ đội lốt tu hành để làm ác, kiếp sau c̣n xuống tận cùng của địa ngục, ngạ quỷ, không bao giờ khá lên được.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 257 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:48pm | Đă lưu IP
|
|
|
MẮNG THẦN PHÁ MIỄU
Về đời Hồng Đức nhà Lê, ở làng Trung An huyện Vĩnh Lại Hải Dương, có nhà nho sĩ Văn Định kết duyên cùng con quan thượng Nhữ Văn Lan. Tiểu thư họ Nhữ nhan sắc tuyệt vời thông minh xuất chúng, giỏi văn chương, tinh tướng số, kén chồng đến ngoài hai mươi tuổi, thấy Văn Định có tướng sinh quư tử, mới nhận lời trao hôn.
Hai người lấy nhau sinh được một con trai mặt mũi tinh anh, đặt tên là Bỉnh Khiêm, chưa đầy tuổi đă biết nói. Được mẹ dạy bảo, mới lên bốn tuổi Bỉnh Khiêm đă thông kinh truyện, học đến đâu thuộc ḷng đến đó, nhớ đọc một lúc mấy chục bài thơ nôm.
Khi tóc c̣n để trái đào, một hôm Bỉnh Khiêm cùng bọn trẻ đi tắm bến Hàn, có kể thuật sĩ đi thuyền trông thấy nói rằng:
- Cậu bé này có tướng làm vua, tiếc là da thịt dày quá, chỉ làm đến Trạng nguyên, Tể tướng là cùng!
Mồ côi sớm Bỉnh Khiêm được một tay hiệp khách giang hồ tên là Lư Hưng Chi nhận làm con nuôi, rồi giao cho một người bạn trụ tŕ đem về dạy dỗ ở một ngôi chùa.
Lớn lên Bỉnh Khiêm theo học ông Bảng nhỡn Lương Đắc Bằng ở Thanh Hóa. Lương tiên sinh hồi sang sứ nhà Minh, gặp một người cùng họ ngụ cư bên Tàu là Lương Nhữ Hốt có tặng cho quyển Thái Ất thần kinh, đem về học tập rất tinh lư số, tiên tri.
Bỉnh Khiêm được thầy truyền lại phép thuật tinh vi, và khi sắp mất cụ Lương trao cho quyển kinh Thái Ất, tác phẩm của đạo sĩ Triệu Nga đời Tống, thế kỷ thứ X.
Bấy giờ trong nước đang biến loạn, Bỉnh Khiêm bèn đi ở ẩn, lấy việc ngao du sơn thủy làm thú ở đời. Ông lên chơi chùa Bội Sơn, gặp lại nhà sư đă dạy dỗ ḿnh thuở bé đang cầm đầu đảng cướp Hồng Nhật. Các tham quan ô lại cũng như các nhà giàu độc ác đều bị đảng cướp này trừ diệt, lấy của để giúp cho người nghèo khó.
Quan phủ Vương Liêu Thăng là kẻ sâu dân mọt nước bị Lư Hưng Chi ra tay hạ sát, triều đ́nh treo giải thưởng lớn cho ai lấy được đầu họ Lư.
Bị tập nă ráo riết, Lư Hưng Chi t́m đường trốn sang Tàu, đem theo Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng vài bộ hạ tâm phúc. Vượt núi băng rừng nhiều ngày, đến giáp giới Trung Quốc, Lư Hưng Chi ghé lại trại một người bạn cũ, giữa một vùng núi non với hai ngàn thủ hạ.
Chủ trại là Hoàng Mưu mất vợ sớm, có một người con gái đến tuổi lấy chồng, thấy Bỉnh Khiêm là người lỗi lạc, bèn ngỏ ư với Lư Hưng Chi muốn gả cho. Đính hôn sau, Lư Hưng Chi và Bỉnh Khiêm cùng đám tùy tùng nhờ Hoàng Mưu giúp vượt qua biên giới.
Tiến vào nội địa Trung Hoa, giữa đường họ gặp một toán cướp lớn chặn đánh, chỉ có Lư Hưng Chi thoát được, c̣n Bỉnh Khiêm cùng đám người đi theo đều bị bắt. Tướng cướp là Lư Lăng Tử tra hỏi, thấy Bỉnh Khiêm là người thông thái, giỏi lư số, tiên tri, bèn giữ lại tôn làm quân sư.
Trại ở trên một ngọn núi kỳ vĩ, chung quanh có nhiều dăy núi cao bao bọc như những thành lũy thiên nhiên. Bỉnh Khiêm miễn cưỡng phải ở lại đây, suốt ngày chỉ đọc sách ngâm thơ.
Một hôm có một ông già ăn mặc nâu sồng, đeo khăn gói đỏ, tay chống gậy trúc lần ṃ đến cổng trại. Bị quân canh đuổi đi, ông già trở đi, trở lại đến lần thứ ba, nằn ń đ̣i xin gặp chủ trại. Bỉnh Khiêm đang đi dạo, trông thấy ông già cốt cách khác thường, gọi hỏi chuyện th́ ông ta nói:
- Tôi là kẻ ngao du sơn thủy, đi đó đây khảo sát địa lư để t́m một nơi gửi nắm xương tàn, đến chốn này thấy có khí lạ, mới dừng bước lại.
Rồi ông già ngắm Bỉnh Khiêm mà bảo rằng:
- Tôi đoán ông không phải là người ở vùng này, mà chỉ là thượng khách của chủ trại. Nhưng chốn này sắp bị quân triều đ́nh đến đánh nay mai...
Hỏi thêm ông già không nói, chỉ bảo rằng có biết lư số, thiên văn và đă mấy năm trời nay đi t́m một quyển sách để thông suốt quá khứ vị lai mà chưa được gặp. Bỉnh Khiêm ṭ ṃ hỏi:
- Cụ bảo quyển sách ǵ mà thần diệu như thế ? Ông già đáp:
- Đó là một quyển sách thần, có đủ những phép tắc dạy cho biết rơ việc quá khứ, hiện tại và tương lai. Quyển sách này trước ở tay thầy dạy tôi, nay đă qua đời, tặng cho một người cùng ḍng họ làm sứ thần nước Việt, rồi nghe ông này trao lại cho một môn đệ.
Đó là quyển kinh lấy tên là Thái Ất. Nhưng tôi biết chắc rằng vị sứ thần cũng như môn đệ của ông ta không thể nào dùng được quyển sách ấy, v́ trong đó toàn là những câu kinh kỳ bí, mà họ không có lời giải. Tôi th́ có lời giải mà không có quyển kinh Thái Ất.
Bỉnh Khiêm hỏi tới:
- Sao thầy dạy cụ lại chỉ truyền cho cụ biết lời giải mà không cho cụ quyển sách ?
Ông già đáp:
- Theo lệ cổ truyền th́ không ai có thể giữ nổi cuốn kinh này lâu đời được. Sứ thần Việt được cuốn kinh, nhưng không có phần giải. Khi thầy dạy tôi sắp mất, có trao phần giải cho tôi mà không dặn rơ là tôi phải mất công hai năm mới t́m ra cuốn kinh. Tôi tính đến hôm nay vừa đúng là hai năm.
Bỉnh Khiêm vội đi lấy ở trong hành lư ra một cuốn sách bọc vải điều trao tận tay ông già. Vừa lật xem qua mấy trang, ông già không giấu được nỗi ngạc nhiên sung sướng, trang trọng đặt cuốn sách lên trước mặt rồi sụp lạy.
Cả hai người mặc dầu tuổi tác cao thấp chênh lệch, làm lễ đồng môn với nhau, rồi bắt đầu trao đổi nghiên cứu kinh Thái Ất. Trong ṿng bảy hôm, họ đă thuộc ḷng cả cuốn kinh cùng những lời giải đáp, rồi vội vă chia tay, sợ xúc phạm đến thiên cơ, v́ cả hai đều thành tiên tri, thấu suốt cả quá khứ, hiện tại và tương lai.
Ông già tức là Hoàng Thạch Lâm đi về phương bắc, Nguyễn Bỉnh Khiêm đi về phía nam. Trở về nước gặp lúc nhà Mạc đang ở ngôi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đi thi đỗ Trạng nguyên, được vua phong làm Đông các đại học sĩ.
Làm quan tám năm ông dâng sớ xin chém đầu mười tám tên nịnh thần, vua Mạc không nghe, ông bèn cáo bệnh từ quan. Khi ông về trí sĩ, dựng nhà chơi mát ở làng gọi là am Bạch Vân, lại làm một cái quán ở bên sông Tuyết Giang dựng bia kư sự ḿnh.
Lúc th́ bơi thuyền chơi ở bể Kim Hải và bể Úc Hải, lúc th́ cùng vài nhà sư dạo chơi núi An Tử, núi Ngọc Vân và núi Đồ Sơn. Đi đến đâu đều làm thơ ngâm vịnh, gặp chỗ nào phong cảnh đẹp th́ dừng lại, thường ngày không để ư ǵ đến việc đời, sống nhàn tản theo chủ trương của Lăo, Trang.
Triều Mạc vẫn quư trọng, lấy lễ sư phó đăi ông, hễ có việc ǵ th́ sai sứ t́m đến hỏi ư kiến hoặc mời về kinh để thương nghị các chính sự trọng yếu. Vua Mạc phong ông làm Thái phó Tŕnh Quốc công. Người đương thời gọi ông là Trạng Tŕnh.
Học tṛ của Trạng Tŕnh tác thành rất nhiều, nổi danh có Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ, Lương Hữu Khánh, Trương Thời Cử.
Lúc nhà Lê bắt đầu trung hưng, vua Mạc ngự giá đến nhà ông hỏi các kế công thủ, Trạng Tŕnh bảo rằng:
- Ngày sau nước có việc, đất Cao Bằng tuy nhỏ, cũng giữ được phúc đến vài đời.
Sau bảy năm, nhà Mạc mất, lui về giữ đất Cao Bằng, quả nhiên truyền được ba đời, bảy mươi năm mới tuyệt.
Khi vua Lê Trung Tông mất, không có con kế vị, bấy giờ Trịnh Kiểm đang cầm quyền, sai Phùng Khắc Khoan đến hỏi ư kiến ông, ông không nói ǵ, chỉ quay lại bảo người nhà rằng:
- Năm nay mất mùa, nên t́m giống cũ mà gieo mạ.
Phùng Khắc Khoan về nói lại, Trịnh Kiểm hiểu ư ông, t́m Lê Duy Bang là ḍng nhà Lê về, lập lên làm vua.
Một lần Trịnh Tùng có ư chiếm ngôi vua, sai sứ đến hỏi ông, ông cũng không nói ǵ, chỉ đưa đi chơi trong một cái chùa trên núi, bảo tiểu rằng:
- Giữ chùa thờ Phật th́ mới có oản ăn.
Sứ giả về nói lạị Trịnh Tùng biết ư ông khuyên phải giữ đạo làm tôi, th́ mới được hưởng phúc, nên mới thôi manh tâm bội nghịch.
Vào lúc Trịnh Kiểm có ư hại Nguyễn Hoàng, chúa Nguyễn lấy làm lo, mật sai người đi cầu ông bày cho kế lánh họa. Ông đang chống gậy chơi trong vườn cảnh, có mấy dăy đá xếp lại làm non bộ quanh co đến trước sân, có đàn kiến đương ḅ trên đá, ông đưa mắt nh́n theo đàn kiến mà nói rằng:
- Một dảy núi Hoành Sơn kia có thể nương thân đến muôn đời.
Người sứ về thưa lại, chúa Nguyễn mới quyết tâm xin vào trấn thủ trong xứ Thuận, Quảng miền Hoành Sơn, quả nhiên mỗi ngày một thịnh, dựng nên cơ nghiệp nhà Nguyễn lâu dài.
Trạng Tŕnh tinh về thuật số, đoán trước được nhiều việc đúng, c̣n để lại được một số sấm kư về sau, người ta truyền là rất ứng nghiệm.
Trước khi mất, ông có viết một tờ chúc thư gửi cho viên tri huyện ở vùng ông đời sau, có câu:
- Tôi cứu cho ông khỏi chết v́ sà nhà đổ, ông sẽ cứu cho cháu tôi đang nghèo khổ.
Ông trao cho cháu bức thư này dặn đến ngày tháng ấy, giờ ấy mang đến đưa cho quan huyện, và nhớ gọi ra khỏi công đường mà trao. Quả nhiên đúng ngày giờ nói trên, viên tri huyện nghe có cháu ông Trạng Tŕnh đến kiếm bước ra tiếp, vừa đi khỏi th́ cột sà ngang lớn bị mọt đục găy rơi ngay chỗ ghế ngồi.
Thoát chết, ông huyện nọ xem thư hết ḷng cảm phục, liền đưa cháu ông Trạng Tŕnh về nhà hết ḷng nuôi cho ăn học.
Trạng Tŕnh c̣n để lại cho đời mấy trăm bài thơ nôm gọi là Bạch Vân Am thi tập, sống đến 95 tuổi mới mất. Những sấm kư của ông truyền lại, người đời sau đem các việc xảy ra để đối chiếu, giải thích cho đến gần đây, c̣n được chứng nhận là đúng.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 258 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:49pm | Đă lưu IP
|
|
|
PHÁT HIỆN HÓA THẠCH CỦA RỒNG
Ai bảo rồng là loài vật hư cấu chỉ tồn tại trong truyền thuyết? Từ năm 1996, các nhà khảo cổ Trung Quốc đă t́m thấy bộ xương hóa thạch nguyên vẹn của một con rồng với hai sừng nhọn, lỗ mũi to và hếch y hệt mô tả trong truyện cổ dân gian.
Di vật quư giá này được t́m thấy ở huyện tự trị dân tộc Miêu Quan Lĩnh, thuộc thành phố An Thuận, tỉnh Quư Châu vào năm 1996, cho đến nay vẫn giữ được dáng h́nh nguyên vẹn với tổng cộng 7,6 mét chiều dài, trong đó đầu dài 76 cm, cổ dài 54 cm, thân dài 2,7 mét và rộng 68 cm, khúc đuôi c̣n lại chiếm 3,7 mét.
Đầu rồng gần giống h́nh trụ tam giác, riêng khóe miệng đă kéo dài đến 43 cm, phần rộng nhất có bề ngang 32 cm. Sừng nhọn nhô lên từ đỉnh đầu, mỗi chiếc dài 27 cm và rất cân xứng với nhau. Chúng hơi cong và hơi nghiêng, trông càng giống y chang những h́nh ảnh được mô tả trong truyền thuyết.
Rồng Trung Quốc được coi là loài ḅ sát sống vào kỷ Tri-át cách đây khoảng 200 triệu năm. Là động vật lưỡng cư, chúng sống chủ yếu dưới nước và thỉnh thoảng mới ngoi lên bờ. Thức ăn của chúng là cá và các loài ḅ sát nhỏ.
Đây là lần đầu tiên Trung Quốc t́m thấy rồng hóa thạch có bộ sừng. Phát hiện này là chứng cớ khoa học quan trọng giúp giới khảo cổ lần t́m nguồn gốc loài rồng, một loài vật tưởng chừng chỉ có trong những tác phẩm hư cấu.
Hiện những mẫu hóa thạch này vẫn đang được trưng bày tại Viện bảo tàng đời sống hóa thạch cổ đại ở thành phố An Thuận tỉnh Quư Châu.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 259 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:53pm | Đă lưu IP
|
|
|
DƯỚI MÁI CHÙA HOANG
Cạnh con đường ṃn, ven sườn núi tại Ngọc Nam, có một ngôi chùa nhỏ hoang vắng, nằm im ĺm giữa một nơi hẻo lánh và quạnh quẽ. Mùa xuân năm ấy giặc giă và trộm cướp nổi lên, dân chúng miền phụ cận đă chạy tản mác đi nơi khác, vị trụ tŕ trong chùa cũng bỏ trốn, chỉ để một ḿnh ông già “tứ cố vô thân”ở lại đèn hương sớm tối.
Hết xuân sang hạ khí trời trở nên mát mẻ, tối hôm ấy như thường lệ, ông già dọn dẹp các nơi xong, đang định vào căn pḥng nhỏ phía sau Phật điện nghỉ ngơi, bỗng nghe có tiếng gơ cửa nhè nhẹ vang lên ở phía ngoài, ông đi ra mở cửa th́ thấy một vị sư áo quần lam lũ râu ria xồm xàm, tay cầm chiếc thiền trượng (cái gậy), trên lưng đeo một cái đăy nhỏ đang đứng dưới thềm cửa trước chùa.
- Ngài cần việc ǵ? Ông già hỏi.
- Tôi đi vân du đến đây th́ trời tối, không có chỗ trọ, định vào quư tự xin tá túc một đêm.
- Chùa đây không phải chốn tùng lâm, không tiện tá túc. Vả lại, sư cụ trụ tŕ đi vắng, tôi chỉ là người trông nom đèn hương trong chùa, xin sư cụ từ mẫn cho. Ông già uyển chuyển đáp khéo.
- Tôi cũng biết chùa đây không phải chốn tùng lâm. Vị khách tăng nói. Song đến đây không c̣n thấy nơi nào có thể ngủ trọ được. Giờ trời đă tối xin lăo vui ḷng cho tôi nghỉ tạm một đêm.
Sau một lát ngần ngừ ông già nói:
- Trong chùa vẫn c̣n một căn pḥng nhỏ bỏ không, sư cụ có thể nghỉ tạm. Song chỉ hiềm là không có chiếu chăn ǵ cả, mà lương thực cũng eo hẹp lắm!
- Điều đó không ngại, tôi ngồi được rồi, không cần chiếu chăn. C̣n thức ăn th́ tôi đă có mang theo lương khô đây, không dám phiền bàn đến lăo.
- Vậy thỉnh cụ vào, nhưng xin cụ cho biết pháp danh và cụ ở đâu tới?
- Tôi là Vân Không từ Triết Giang đến.
Ông già đưa sư cụ Vân Không vào. Khi đi qua Phật điện, ông thắp ngọn đèn dầu trên bàn thờ lên, rồi dẫn sư cụ vào căn pḥng phía sau đối diện với pḥng của ông. Căn pḥng bỏ không, nhưng ở góc pḥng có một đống cỏ khô chất gần đến mái nhà, mùi cỏ khô tỏa ra khắp căn pḥng.
Ông già vừa nh́n sư cụ vừa nói:
- Xin cụ lượng thứ, thỉnh cụ hăy tạm nghỉ ở đây!
- Ồ, không sao! Tôi đă sống qua nhiều ngày thế này rồi, ở đây tương đối c̣n khá lắm!
Sư cụ để chiếc gậy và cái đăy vào góc pḥng, rồi nói với ông già:
- Thôi, mời lăo đi nghỉ. Để mặc tôi, tôi c̣n lên lễ Phật.
Ông già đi về pḥng riêng. Vừa mới ngồi xuống giường, đột nhiên lại thấy tiếng gơ cửa từ đằng trước vọng vào. Lần này, tiếng gơ cửa rất gấp và cứ th́nh th́nh. Ông thấy trong ḷng run sợ, c̣n đang phân vân không biết có nên ra mở cửa hay không th́ chợt thấy sư cụ Vân Không tiến đến cửa pḥng.
- Có người gọi cửa phía ngoài.
- Tôi nghĩ không nên mở. Ông già nói. Họ gơ chán, không thấy ḿnh ra tất họ phải đi.
- Tại sao không mở? Sư cụ ngạc nhiên hỏi.
- Bạch cụ, cụ không biết, chứ ở vùng này lộn xộn lắm, trộm cướp vô khối. Tiếng gơ cửa liên hồi như thế, tôi chắc bên ngoài phải có nhiều người. Chả biết họ đến làm ǵ, tôi không dám cho họ vào đâu!
- Ông với tôi th́ có ǵ đâu mà sợ họ cướp? Và chắc đâu đă phải là cướp? Cứ ra xem nào!
- Thảng hoặc họ là cướp thật và cái ǵ cũng muốn vơ vét. Tôi c̣n mấy chiếc quần áo và chút ít tiền, nếu họ lấy mất th́ sao?
- Ông đem giấu tiền đi, c̣n quần áo th́ họ sẽ không thấy đâu! Nếu thật là cướp th́ c̣n có tôi đây, lăo đừng sợ. Ví phỏng họ muốn ăn th́ cho họ ăn, tôi c̣n lương khô đây ăn hết sẽ hay!
Ông già do dự nói:
- Họ gơ cửa đă lâu mà măi bây giờ mới ra mở. Giả sử họ là cướp, chắc chắn khi vào họ sẽ cho tôi một trận nên thân chứ chẳng chơi!
- Tôi đi với lăo và để tôi mở cửa cho!
- Bạch cụ. Ông già nhíu mày nói. Nếu chỉ là một người khỏe mạnh, ḿnh đối phó được c̣n khó thay! Huống hồ lại nhiều người họ sẽ nuốt sống ḿnh mất.
- Một người khỏe mạnh cũng không sợ, mà có bao nhiêu người cũng không sao, đă có tôi ở đây!
Sư cụ Vân Không đến bên ông già và cầm tay kéo ông đi:
- Đây là một nơi hoang vắng, chắc có người lỡ đường muốn vào chùa xin nghỉ trọ, nên cho họ vào, nếu họ đói th́ cho họ ăn. Ở đời việc nên làm th́ làm, chứ đừng so đo cân nhắc nhiều quá!
Ông già bị sư cụ kéo đi đành cũng phải theo người. Khi họ ra tới cửa th́ tiếng gơ cũng vừa tắt. Sư cụ mở cửa ra, trời đă tối hẳn. Dưới ánh sáng lờ mờ của mấy v́ sao lấp lánh rọi xuống, sư cụ thấy một người đang nằm gục trên bậc cửa.
Ông già vội đến trước hỏi:
- Giờ này ông c̣n đến chùa làm ǵ?
- Tôi đi qua đây, không biết bị con ǵ cắn, xin cho tôi vào nghỉ nhờ một lát!
Nói xong, không đợi ông già đáp, người ấy tiến vào cửa, nhưng vừa khỏi cửa th́ lại ngồi quỵ xuống. Ông già vội đỡ dậy hỏi:
- Tại sao lại ngồi đây mời ông vào chùa nghỉ.
- Bắp chân tôi đau quá không đi được nữa!
- Tôi đỡ ông vào vậy! Ông già nói.
- Để tôi bế ông ấy vào!
Vừa nói, sư cụ Vân Không vừa gạt ông già ra, rồi đỡ người ấy dậy và cơng vào chùa.
Sư cụ nh́n chỗ người ấy bị cắn một lát, rồi nói vội:
- Chết chửa! Bị rắn độc cắn vết thương tuy nhỏ song nọc rắn độc lắm. Ở đây giờ không t́m được thuốc, làm thế nào?
Dứt lời sư cụ cúi ngay xuống, rồi để mồm vào chỗ bị rắn cắn và dùng hết sức để nún; cứ nún đến đâu lại nhổ ra đến đấy; một lúc lâu mới đứng dậy đi vào pḥng lấy ra một gói thuốc bột rắc vào chỗ vết thương.
- Xin đừng động đậy! Ông bị cắn lâu chưa?
- Cách đây độ một tiếng đồng hồ.
- Lâu quá như thế th́ phương thuốc này vẫn chưa đủ. Không những chỉ rắc thuốc ở ngoài mà c̣n phải uống thuốc nữa mới được, nhưng trong đăy của tôi lại không có thứ thuốc ấy!
Nói xong sư cụ Vân Không quay sang hỏi ông già:
- Có tiệm thuốc nào gần đây không?
- Măi trên khu chợ mới có, cách đây ba cây số. Ông già đáp.
- Tiệm thuốc e rằng cũng không có thứ thuốc ấy. Sư cụ nói. Vả lại, đường xa thế, đi về sợ lâu quá! Phàm chỗ nào có rắn th́ đều có thứ lá trị rắn độc, nhưng cần phải đi t́m mới được!
- Nhưng ai biết thứ lá đó? Ông già hỏi.
- Tôi biết. Sư cụ đáp.
Người bị rắn cắn đang nằm phục trên chiếc chiếu, cố ngẩng lên quay sang nói với sư cụ:
- Xin sư cụ cứu tôi! Ơn ấy tôi xin ghi ḷng tạc dạ.
- Ông cứ yên tâm tôi sẽ đi t́m thuốc cho ông!
- Xin sư cụ cho biết quư danh.
- Tôi là Vân Không.
- Tôi muốn biết tên tục của sư cụ.
Sư cụ cười và đi ra cửa:
- Tôi họ Trần ở cùng xóm với ông.
Rồi sư cụ ngoảnh lại nói với ông già:
- Bên ngoài tối quá xin lăo cho tôi một bó đuốc!
Ông già đi xuống bếp, một lát sau đưa lên một bó thanh nứa đă đốt sẵn, trao cho sư cụ rồi đưa sư cụ ra ngoài cửa, đoạn trở vào Phật điện nói chuyện với ông khách lạ.
- Xin ông cho biết quư danh.
- Tôi là Đoàn Quốc Hùng.
- Hiện giờ ông thấy trong người thế nào, có bớt đau không?
- Đau th́ không đau lắm chỉ buôn buốt, nhưng giờ đă đỡ nhiều rồi.
- Nếu không đau mà thấy buốt th́ đúng là rắn độc cắn. Sư cụ Vân Không coi bộ thạo về môn này lắm! Thế là ông đă gặp được vị cứu tinh, nhưng mong sao Ngài t́m ra thuốc mới được.
Đoàn Quốc Hùng nói:
- Thưa lăo, tôi đang băn khoăn suy nghĩ để biết xem sư cụ Vân Không đây trước khi xuất gia là người thế nào.
- Tôi cũng như ông, chẳng hiểu ǵ cả! Nhưng điều đó có ǵ quan hệ? Ông già lấy làm lạ, hỏi. Công việc trọng yếu của ông hiện giờ là phải điều trị nọc độc. Ông với sư cụ t́nh cờ gặp nhau như cánh bèo trên mặt nước. Sư cụ chữa khỏi vết thương cho ông rồi ngày mai lại trôi giạt mỗi người mỗi phương.
Nếu ông muốn đền đáp ơn người th́ cứ ghi nhớ tên người là Vân Không để sau này t́m cách báo đền. C̣n như trước khi xuất gia, người làm ǵ hoặc tên tuổi của người là ǵ th́ thiết tưởng điều đó ông không nên băn khoăn. Hay ông hoài nghi trước kia người không là thầy thuốc nên sẽ không dám uống thuốc của người?
- Đây không phải là vấn đề thuốc thang, tôi c̣n mang nặng một tâm tư khác. Tôi và vị sư ấy không phải t́nh cờ gặp nhau. Tuy đă nhiều năm không thấy nhau, hai chúng tôi đều đă già. Vả lại, người mặc tấm áo nâu và râu ria bờm xờm che kín mặt, song tôi vẫn hơi nhận ra người, nhất là khi sư cụ cho tôi biết sư cụ họ Trần và theo lối nói th́ h́nh như sư cụ cũng đă nhận ra tôi.
Đúng sư cụ là Trần Phán! Giữa tôi và sư cụ có một mối oan cừu mà mười năm qua không lúc nào tôi ăn ngon ngủ yên.
- Thế việc đó ra sao? Ông già hỏi.
- Sư cụ và tôi là người cùng xóm.
Trần Quốc Hùng hạ giọng nói. Lúc c̣n trẻ ông ở sát cạnh nhà tôi. Ông làm nghề đi bán các tṛ chơi. Ông nuôi nào khỉ, nào chuột, nào rắn và luyện tập chúng biểu diễn các tṛ. Nhất là rắn, lớn bé hơn mươi con, cứ thay đổi luôn luôn. Do đó người trong làng mới đặt cho ông tên là Trần Xà Nhân.
Trần Xà Nhân chỉ có một người con gái c̣n nhỏ tuổi, thường theo cha đi biểu diễn các tṛ. Bấy giờ tôi rất ghét ông ta ở cạnh nhà tôi, v́ những con vật ông ta nuôi, sau khi luyện tập thành thục ông ta cứ thả ra.
Có lúc những con khỉ chạy sang vườn phá phách hoa quả của tôi, c̣n rắn th́ lúc nào cũng nằm cuộn tṛn trên cành cây trước nhà ông ta, những cành cây vươn ra sát đầu tường hoa nhà tôi. Tuy rắn không ḅ qua tường bao giờ, nhưng ở bên nhà tôi trông rất rơ và rất đáng sợ.
Tôi đă từng cảnh cáo ông ta và cũng có khi ông ta bồi thường thiệt hại về hoa quả cho tôi, nhưng nghề nghiệp của ông ta bắt buộc phải làm bạn với khỉ và rắn, rốt cuộc là tôi không thể chịu đựng được nữa. Cuối cùng tôi bảo ông ta phải dọn nhà đi nơi khác.
Nhưng ông ta nói là nhà của ông bà để lại nên không dám bán, mà đi nơi khác mua cũng không dễ dàng ǵ! Bảo ông ta dọn nhà không có kết quả, tôi bèn thuê người đến sinh sự phá phách. Nhưng ông ta rất giỏi vơ, những người tôi thuê đều bị ông ta đánh bại và bị thương.
Tôi liền đi thưa quan huyện để vu khống ông ta là cố ư đả thương. Tôi là người giàu có và thuộc gịng dơi quư tộc rất có thế lực, nên quan huyện cũng nể và sai người về bắt Trần Xà Nhân giải lên huyện và bị tống giam. C̣n mỗi đứa con gái ở nhà không đi biểu diễn được và cũng không đủ sức trông nom những con vật, nên sau khi ông ta bị bắt mấy hôm th́ khỉ, rắn và chuột đều bỏ đi.
Đứa con gái vào nhà giam báo cho ông ta biết. Ông ta đành phải chịu dọn đi nơi khác. Khi về tới nhà, thấy súc vật đă đi hết và đứa con gái tiều tụy sau hai tháng trời sống lây lất, Trần Xà Nhân liền bỏ nhà dẫn con ra đi. Sau khi ông ta đi khỏi, tôi liền sang chiếm cứ nhà ông ta. Phía sau tôi cho người làm ở c̣n phía trước th́ làm chuồng trâu và chuồng ngựa. Như thế qua nửa năm bỗng một hôm, Trần Xà Nhân đưa con về. Ông ta thấy nhà ḿnh hoàn toàn đổi khác, trong nhà đầy người ở.
Sau khi biết tôi đă chiếm cứ, ông ta liền sang kêu van tôi trả lại nhà cho ông ta. Tôi không trả lời và bảo ông ta cứ đi thưa quan huyện. Ông ta đứng ngoài kêu nài măi, nhưng tôi vẫn tảng lờ như không nghe thấy. Đột nhiên, ông ta trợn mắt nh́n tôi một cách dữ tợn và lẩm bẩm nói:
- Món nợ này sau sẽ thanh toán.
Dứt lời ông ta nhảy một cái qua tường hoa để về nhà bên kia. Tôi kinh ngạc chạy vội ra cổng xem th́ thấy Trần Xà Nhân đang ung dung dắt con đi. Từ đó ông ta không trở về nữa.
Cũng từ đấy ḷng tôi bắt đầu thấy sợ hăi không yên, nhất là ánh mắt dữ tợn của ông ta nh́n tôi trước khi ra đi đă để lại một ấn tượng sâu đậm trong ḷng tôi. Bất cứ lúc nào tôi cũng thấy ánh mắt trừng trừng nh́n tôi và câu nói của ông ta trước khi ra đi lúc nào cũng văng vẳng bên tai tôi, nhất là trong đêm tối hoặc trong mộng mị, tôi vẫn cứ nghe câu nói ấy, giọng nặng nề và rùng rợn.
Có khi tôi thấy trong góc nhà và bốn chung quanh tường, những ánh mắt đang nh́n tôi. Đó là ánh mắt của Trần Xà Nhân nh́n tôi lúc ra đi, nhưng lúc này c̣n dữ tợn hơn nữa. Tôi sợ hăi như thế nên không lúc nào dám ngồi một ḿnh trong nhà, cũng không dám lên giường ngủ. Tôi cần nhiều người đứng xung quanh và bắt họ la thét vang lên để trấn áp những lời chú thuật và che ánh mắt dữ tợn của Trần Xà Nhân.
Tôi lại sợ Trần Xà Nhân nhảy qua tường hoa như hôm nào, nên sai người xây cao thêm lên. Song vô ích, v́ từ khi Trần Phán đi rồi th́ không ai c̣n thấy tung tích hay h́nh bóng ông ta đâu nữa! Ông ta không trở về để nhảy qua tường hoặc dùng bất cứ một phương pháp nào khác để vào nhà tôi.
Chỉ có ánh mắt và lời nguyền rủa của ông ta luôn luôn theo sát tôi khiến tôi không có chỗ trốn tránh. Bản tính tôi vốn sợ rắn. Khi Trần Xà Nhân đi rồi, tôi cứ nghĩ đến rắn là ḷng lại run lên. Nếu thấy con rắn nào th́ tôi lại tưởng đó là rắn của Trần Xà Nhân nuôi và sai về để cắn tôi.
Bởi thế, ngoài sự tưởng tượng đến ánh mắt và lời nguyền rủa của Trần Xà Nhân, tôi c̣n tưởng tượng cả rắn, đến nỗi thấy một vật ǵ dài, nhỏ và uốn khúc hoặc một cái bóng ngoằn ngoèo, tôi đều sợ hăi.
V́ khổ sở như thế, nên tôi chỉ thích đến những nơi huyên náo đông người, thậm chí cả nơi cờ bạc để mong những tiếng ồn ào ấy sẽ đàn áp sự sợ sệt của tôi. Nhưng khi tan canh ra về th́ lại ghê rợn vô cùng, tôi sợ gặp Trần Xà Nhân giữa đường hoặc gặp rắn của ông ta sai phục sẵn bên đường để chờ tôi.
Bởi thế bao nhiêu người đi theo hộ vệ tôi và la thét ầm ỉ. V́ thế tôi đă đam mê cờ bạc, gia cảnh cũng dần dần suy sụp, thanh danh giảm bớt. Người ta không c̣n kêu tôi là “thân sĩ “hoặc “trí thức “mà họ gọi tôi là “đồ cờ bạc ”. Sức khỏe mỗi ngày một kém, kết quả là mọi người đều cho tôi đă mắc chứng “bệnh thần kinh ”.
Để giải trừ nỗi oan cừu ấy, tôi đă đăng lời rao trên các báo chí t́m Trần Phán, nói rơ là xin bồi thường tất cả những sự tổn thất. Nhưng từ bấy đến nay vẫn không một hồi âm. Vô pháp khả thi tôi chỉ c̣n cách ra đi t́m kiếm, mong được gặp ông ta để tạ tội và xin bồi thường thiệt hại.
Tôi tưởng rằng ông ta vẫn làm nghề cũ, nên không một đám biểu diễn tṛ chơi nào mà tôi không vào xem, nhưng tuyệt không thấy Trần Xà Nhân hay con gái ông ta trong đó. Trên đường t́m kiếm hôm nay đến nơi hoang vắng quạnh quẽ này, không ngờ tôi lại bị rắn cắn!
Vị sư cụ vừa chữa vết thương cho tôi lúc năy, thoạt nh́n đôi mắt, tôi đă nhận ra đó là cặp mắt của Trần Xà Nhân. Bởi thế tôi mới hỏi tên tục của người, nhưng người chỉ cho tôi biết người họ Trần mà không nói tên.
Song nghe đến họ Trần, tôi đă tin chắc đó là Trần Xà Nhân, nhất là người lại bảo ở cùng xóm với tôi. Vậy không phải “ông ta “th́ c̣n là ai? Tôi cứ suy nghĩ măi tự năy đến giờ là nếu “ông ta “nhận ra tôi th́ tại sao “ông ta “lại chữa cho tôi? Tôi đang băn khoăn tự hỏi khi “ông ta”đưa thuốc về th́ tôi có nên uống hay không?
Nghe xong, ông già nói:
- Sư cụ này cũng mới vào đây xin tá túc trước khi ông đến chừng mấy phút thôi. Bởi thế, tôi cũng không hiểu biết ǵ về sư cụ hơn ông mấy! Nhưng nếu người t́m được thuốc thang về, làm sao ông có thể từ chối không uống? Không uống, tất không có hy vọng trừ hết nọc rắn độc.
Theo tôi, khi sư cụ để mồm vào vết thương hút nọc độc ra chắc không phải có ư giả dối đâu! Trên đời này, không có ai đối với kẻ thù của ḿnh bằng cử chỉ ấy. C̣n họ Trần th́ rất phổ thông, chắc trong số bạn bè của ông cũng có nhiều người mang họ Trần.
Ông hăy cứ tưởng tượng sư cụ là một người họ Trần khác đi, chứ nhất định không phải Trần Xà Nhân. Ông cũng coi như là người không nhận ra ông. Nếu thật người đă nhận ra ông là kẻ oan gia đối đầu với người, chắc người đă khoanh tay đứng nh́n, chứ đâu lại khổ công lo chữa cho ông? Người đă chịu cực hút nọc rắn độc để cứu ông th́ người đâu c̣n dùng thuốc độc để hại ông nữa!
Đoàn Quốc Hùng nghe ông già nói xong gật gật đầu, nhưng vẫn cứ phân vân. Đúng lúc ấy có tiếng gơ cửa bên ngoài, ông già liền đi ra mở cửa. Sư cụ Vân Không, một tay xách bó cỏ tay kia cầm cây đuốc đă cháy gần hết, đang đứng trên bậc cửa. Ông già vội đỡ lấy bó cỏ từ tay sư cụ, rồi hai người cùng tiến vào Phật điện. Đoàn Quốc Hùng thấy sư cụ đă vào cố gượng ngồi dậy, nhưng sư cụ cản lại:
- Ông đừng cử động! Người bị rắn cắn càng nằm yên càng tốt. Ông bị cắn lâu mới chữa, tuy tôi đă hút máu ra, song sợ chưa hút hết được nọc độc. Bởi thế ông cần phải uống thuốc trong và rịt thuốc ngoài. Thuốc ngoài tôi đă rịt rồi, bây giờ tôi sắc cho ông uống!
Đoàn Quốc Hùng lại nằm xuống và duỗi thẳng hai chân ra. Sư cụ Vân Không đi vào pḥng, cầm chiếc thuyền trượng ra, rồi để bên người; sau đó lấy một phần bó cỏ thuốc và rải ra mặt đất trên nền chùa.
Ông già đến trước hỏi:
- Bạch cụ, cụ định giă lá thuốc?
- Vâng, phải giă thật nát mới rịt được!
- Cụ để tôi giă đỡ!
Ông già đến cầm lấy chiếc thiền trượng đặt trên chốc chiếu, lúc đó mới biết chiếc thiyền trượng làm bằng sắt. Ông già nhấc một tay không nổi, liền dùng cả hai tay cũng vẫn không nhấc bổng lên được. Ông đành lắc đầu lè lưỡi.
- Ông đi sắc thuốc đi! Sư cụ Vân Không nói. C̣n việc giă thuốc để đấy tôi làm cho!
Ông già vâng theo, đứng dậy cầm lấy nửa bó cỏ rồi đi xuống bếp. Sư cụ Vân Không nhấc chiếc thiền trượng lên và nện xuống sàn chùa. Tiếng kêu côm côm vang lên trong Phật điện long cả tai. Đoàn Quốc Hùng nhắm nghiền mắt lại vùi đầu xuống chiếu. Sau khi giă nát thuốc, sư cụ lấy tay cầm đắp vào vết thương trên ống chân Đoàn Quốc Hùng, rồi xé một miếng áo của ḿnh để buộc vết thương lại. Đang buộc bỗng nhiên sư cụ hỏi:
- Ông thấy đau nhức hay sao mà run thế?
Đoàn Quốc Hùng ngóc đầu dậy, nh́n sư cụ Vân Không như muốn nói, nhưng hễ mở miệng ra lại thôi, lâu lắm mới hơi thốt lên những lời líu nhíu:
- Bạch cụ, tôi cảm ơn cụ lắm! Song thật cụ có nhận ra tôi là ai không?
- Tôi nhận ra. Sư cụ vừa nói vừa cười. Ông là Đoàn Quốc Hùng.
Đoàn Quốc Hùng ngồi nhỏm dậy, tỏ vẻ kinh hoảng và bi thương nh́n Vân Không:
- Thế ra sư cụ là Xà nhân Trần Phán?
- Đó là tên họ ngày xưa. Sư cụ mỉm cười.
- Bạch cụ. Đoàn Quốc Hùng lại nằm xuống và nước mắt trào ra. Trước đây mười năm sư cụ muốn thanh toán tôi. Tôi c̣n nhớ măi câu nói ấy! Bất cứ ở đâu và giờ phút nào, tôi cũng phảng phất như thấy ánh mắt sư cụ nh́n tôi trước khi bỏ đi.
Đă mười năm qua ánh mắt ấy cứ theo tôi như bóng với h́nh. Không một thời khắc nào mà tôi thấy ḷng được b́nh yên và thanh thản! Lúc nào tôi cũng sống trong hồi hộp và lo sợ. Tôi muốn sám hối tội ác tôi đă gây nên nhưng chưa gặp cơ hội, ngày đêm tôi mong sư cụ về để trả thù tôi nhưng vẫn bặt tin.
Tôi đă đăng tin trên các báo chí để t́m sư cụ, nói rơ là tôi đă ăn năn và đau đớn. Song không được hồi âm của sư cụ, cuối cùng tôi đành bỏ nhà ra đi t́m sư cụ. Dù có bị sư cụ thanh toán tôi cũng đỡ khổ. Hôm nay ta gặp nhau ở đây, chính là dịp để sư cụ trả cho xong mối oan cừu năm xưa.
Nhưng trái lại sư cụ vẫn cứu tôi. Tôi cứ tưởng sư cụ đă quên tất! Đă biết tôi là Đoàn Quốc Hùng, tại sao sư cụ lại nhọc công cứu tôi? Thật tôi không hiểu dụng ư của sư cụ, hay chữa khỏi rồi mới trả thù?
- Món nợ ấy tôi không c̣n tính nữa! Vân Không b́nh tĩnh nói. Lúc ông vừa vào cửa chùa tôi đă nhận ra ông. Nếu tôi c̣n nghĩ đến thù oán, tôi cứ đứng khoanh tay nh́n ông đau đớn đến chết, chứ vạ ǵ tôi phải chịu bẩn thỉu để cứu ông? Giờ đây tôi là Vân Không Ḥa thượng, chứ không phải Trần Xà Nhân. Xin ông cứ tin như thế!
Đúng lúc ấy ông già từ dưới bếp đang bưng lên một tô thuốc vừa sắc xong. Ông từ từ tiến vào Phật điện, trao bát thuốc cho Đoàn Quốc Hùng. Hùng đỡ lấy để xuống chiếu chờ cho thuốc nguội bớt. Một lúc sau Hùng bưng bát thuốc lên uống một hơi đoạn lại nằm xuống.
Sư cụ Vân Không nói:
- Lát nữa nọc độc trong người ông sẽ tiêu hết! Ông đi t́m tôi và đă gặp tôi ở đây, song người hiện đang ngồi trước mặt ông là Vân Không Ḥa thượng chứ không phải Trần Xà Nhân. Ngày mai ông cứ yên tâm trở về đừng đi lang thang nữa!
- Bạch cụ, như vậy là cụ đă tha thứ cho tôi?
- C̣n hơn cả tha thứ nữa! Sư cụ Vân Không nói. Ḷng tôi đối với tội ác không c̣n sầu hận, chỉ có thương xót mà thôi!
- Việc này phải nh́n theo hai khía cạnh để giải quyết.
Giọng Trần Quốc Hùng bi thảm. Tâm sư cụ tuy không c̣n cừu hận, song ḷng tôi vẫn ăn năn sợ hăi. Mười năm qua, tôi đă luôn luôn sống trong tâm trạng ấy. Nhiều khi tôi có một hy vọng kỳ quặc là hy vọng sư cụ về để thanh toán tôi cho hết mối cừu hận, cho ḷng tôi được yên ổn.
Nhưng tôi vẫn không thấy h́nh bóng của sư cụ xuất hiện. Bởi thế, tôi mới quyết định đi t́m sư cụ và sẵn sàng bồi thường thiệt hại cho sư cụ cả về vật chất lẫn tinh thần. Xin sư cụ về Thượng Hải với tôi có được không?
- Về Thượng Hải làm ǵ? Vân Không ngạc nhiên hỏi.
- Trước khi ra đi tôi đă sắp sẵn một số tiền để bồi thường cho sư cụ. Nhưng v́ đường xa đi một ḿnh nên tôi không dám mang theo, tôi phải gửi số tiền ấy ở ngân hàng tại Thượng Hải. Sư cụ đ̣i bao nhiêu tôi xin trả bấy nhiêu! Nhưng sư cụ không ở đâu nhất định, ngày mai chia tay rồi sẽ khó gặp lại sư cụ. Bởi thế, tôi muốn mời sư cụ về Thượng Hải để tôi trả cho xong món nợ đó!
- Ư ông muốn trả tiền tôi? Tôi lấy tiền làm ǵ? Tôi không cần tiền.
- Tôi cũng biết món nợ đó không phải hoàn toàn trả bằng tiền mà xong, nhưng vẫn c̣n nợ tinh thần nữa. Chẳng hạn tôi đă vu khống sư cụ đến nỗi sư cụ phải bị tù đày một cách oan uổng trong hai tháng trời.
- Ô, điều đó đối với tôi có một tác dụng luyện tập! Tôi không cho đó là “tai vạ tù đày”.
- Không những thế, sau khi sư cụ bị giam cầm, những rắn, khỉ và chuột của sư cụ đă bỏ đi hết!
- Khỉ, rắn và chuột đều bị tôi bắt buộc đi theo biểu diễn, chứ tự chúng không muốn. Khỉ luôn luôn nhớ rừng, rắn muốn trở về bụi rậm và chuột mong được về hang tổ của chúng. Sau khi tôi bị giam chúng đều được tự do và giải thoát. Như thế càng tốt chứ sao?
- C̣n con gái của sư cụ?
- Nó đă lập gia đ́nh cách đây năm năm, nghe nói đời sống cũng dễ chịu.
- V́ tôi ức hiếp mà sư cụ đi tu?
- Điều đó chính tôi phải cảm ơn ông! Sư cụ vừa cười vừa nói. Tôi bây giờ cũng tự do và giải thoát như những khỉ, rắn và chuột của tôi vậy!
- C̣n nhà của sư cụ mà tôi đă chiếm đoạt để làm chuồng trâu, chuồng ngựa?
- Nhà cửa đều là không. Giả sử ông trả nhà lại hay bồi thường cho tôi th́ đó chỉ là lụy cho tôi.
- Vậy th́ biết làm thế nào?
Giọng Đoàn Quốc Hùng khổ sở. Một người mang nợ muốn trả cho hết nợ mà chủ nợ lại không nhận ḿnh là chủ nợ, lại c̣n phủ nhận cả nửa cuộc đời trước của ḿnh. Tâm sư cụ lâng lâng và thanh thoát, nhưng ḷng tôi th́ một cái “nút” trói buộc suốt đời tôi.
- Nút ǵ? Trói buộc ở chỗ nào? Sư cụ hỏi
- Tội nghiệt là “nút “trói buộc tâm tôi!
- Ông đưa cái “nút “và cái “tâm” bị trói buộc ra đây cho tôi xem để tôi cởi trói cho ông.
- Tội nghiệt và tâm đều không phải thực chất, làm thế nào tôi có thể nắm lấy mà đưa ra được?
- Như thế là hết trói buộc rồi! Sư cụ Vân Không phá lên cười.
- Bạch cụ, cụ cho là hết trói buộc, chứ tôi vẫn thấy c̣n bị buộc.
- Tôi cũng biết thế! Sư cụ nói. Xin hỏi ông ngoài việc đó ra, ông c̣n thắc mắc điều ǵ không?
- Dĩ nhiên là c̣n và c̣n nhiều hơn nữa!
- Nếu b́nh sinh ông gây tội nghiệt cho tôi và coi đó là một món “nợ tinh thần ” một cái “nút ” ông t́m đến chủ nợ để thanh toán. Như thế là hết nợ rồi! Giả sử ông mắc nhiều nợ tinh thần mà chủ nợ không phải chỉ có một người, trường hợp đó th́ ông tính sao?
- Tôi sẽ lần lượt trả hết, nhưng phải t́m đến người chủ nợ thứ nhất cho xong đă.
- Ông t́m được tôi rồi, nhưng con người tôi đă đổi khác! Từ Trần Phán đổi thành Vân Không, cho đến cái tâm cũng đổi khác. Nhưng hăy cứ tưởng tượng rằng ông đi t́m mà không gặp chủ nợ th́ ông làm thế nào? Sư cụ hỏi. Nói thí dụ:
- Chủ nợ đă chết?
- Tôi t́m con cái của người ấy.
- Nếu họ không có con th́ ông t́m ai? Thí dụ ông mang nợ một con rắn mà con rắn đó đă chết, ông biết con rắn nào là con cái của nó để mà trả?
Đoàn Quốc Hùng khổ sở không biết nói sao!
- Ông nên biết! Sư cụ nói tiếp. Ông mang nợ oan nghiệt nhiều hay ít, xét đến ngọn nguồn th́ đó đều là việc của ông. Chủ nợ không nhất định sẽ đến đ̣i ông, mà cũng không cần chủ nợ phải đến đ̣i, chỉ cái “nợ “ấy trói buộc ông thôi!
Song cái nợ đó vốn không có thực chất, đúng như lúc năy ông nói “tội nghiệt “trói buộc cái tâm của ông không phải là một vật có thực chất, mà cái “tâm “bị trói buộc cũng không phải cái cục thịt trong người ông. Ông không thể nắm bắt được! Trong khi ông thấy rơ như thế th́ cũng như ông vừa tỉnh mộng, nợ cũng không c̣n là nợ nữa!
- Những lời đó cao siêu mầu nhiệm quá, tôi không hiểu nổi! Xin sư cụ giảng giải tường tận một chút nữa.
Sư cụ Vân Không cầm một sợi dây buộc bó cỏ thuốc lúc năy, thắt lại thành cái nút rồi giơ ra trước, hỏi Quốc Hùng:
- Đây là cái ǵ?
- Cái nút
- Nút là cái ǵ?
- Nút là nút chứ c̣n là cái ǵ bây giờ? Quốc Hùng cười.
- Ngoài sợi dây ra, c̣n có cái “nút “tồn tại không?
- Ngoài dây th́ dĩ nhiên không có “nút “tồn tại riêng biệt.
- Như vậy nút là cái ǵ? Vân Không hỏi dồn.
Đoàn Quốc Hùng chịu không đáp được. Sau đó, Vân Không chỉ vào cái nút, nói:
- Nút là do nhiều ṿng dây thắt lại mà thành, nhưng những ṿng dây không có thực thể, chỉ là giả tướng mà thôi! Nhiều ṿng dây tập hợp lại mà thành nút, lúc chưa thành th́ không có nút và khi cởi ra rồi th́ nút cũng không c̣n. Sư cụ vừa nói vừa cởi cái nút ra.
- Hiện giờ c̣n nút không?
Đoàn Quốc Hùng lắc đầu nói:
- Sư cụ nh́n sự vật như mộng ảo. Nếu tất cả đều là giả tướng th́ c̣n có ǵ gọi là nhân quả? Sư cụ định tạm dùng những lời huyền diệu ấy để mở rộng ḷng cho kẻ tội ác này chăng?
- Trong cái rỗng không có ǵ ngăn lại nhân quả? Vân Không đáp. Chẳng hạn cái nút này do nhiều ṿng dây thắt lại mà thành, nhưng ṿng dây không có tự tính, cho nên nút cũng không có tự tính. Bây giờ, cởi nút ra làm cho ṿng dây thẳng lại th́ cái thẳng đó cũng không có tự tính.
Nói đến rốt ráo th́ chính sợi dây này cũng không thật có, dây là do các thứ cỏ bện thành. Khi cỏ chưa sinh th́ không có cỏ và dĩ nhiên cũng không có dây, lúc cỏ chưa được bện lại th́ cũng không thành dây, nếu đem đốt dây đi th́ cuối cùng c̣n ǵ?
Song ông tưởng trong cái rỗng không ấy không có nhân quả? Nếu tôi đem sợi dây không có thực thể thắt chặt vào cổ hư giả của ông, ông sẽ thấy đau đớn khó chịu. Nhưng sự đau đớn ấy cũng chỉ là ảo giác, cũng như dây và cổ đều không có tự tính. Vậy cứ ǵ trong cái chân thật mới có nhân quả?
- Tuy sư cụ chỉ dạy cho như thế, nhưng tôi vẫn không thể lĩnh hội được, biết làm thế nào? Giọng Quốc Hùng bi ai.
- Tôi không trông mong ông lĩnh hội một cách triệt để. Đối với người c̣n trong mộng, không có cách nào làm cho họ hiểu được cảnh giới lúc thức; trong cảnh mộng tuy giả dối không thực nhưng không có ǵ ngăn trở người ta làm ác, chịu báo, sám hối hoặc làm thiện; nhưng khi người ta tỉnh dậy th́ mới biết tất cả việc làm lúc trước đều là chiêm bao; đă thoát ly được cảnh mộng, trở về cảnh giác th́ hết thảy đều rỗng rang và thanh tịnh; lúc đó th́ thiện c̣n chẳng làm, huống chi là ác!
Nghe đến đây, Đoàn Quốc Hùng phủ phục xuống lạy sư cụ. Ông già đứng bên cạnh, coi bộ cũng hiểu được phần nào. Đoàn Quốc Hùng nói với sư cụ Vân Không:
- Tôi không muốn trở về nữa, xin cho tôi theo sư cụ xuất gia.
- Nếu trong ḷng ông thật đă giác ngộ th́ hà tất cứ phải xuất gia như tôi! Bỏ mộng, trở về giác đều có nhân duyên. Không nên câu chấp h́nh thức!
Dứt lời, sư cụ Vân Không trở vào pḥng riêng. Đoàn Quốc Hùng không dám theo vào, nằm trên chiếc chiếu và trằn trọc măi quá nửa đêm cũng không thể ngủ được. Đến khi nghe tiếng gà gáy, trời đă sắp sáng, Hùng mới đứng dậy đi vào pḥng định bày tỏ thêm nỗi ḷng ḿnh với sư cụ, nhưng khi tới nơi th́ thấy căn pḥng vắng lạnh. Vân Không Ḥa thượng đă bỏ đi tự lúc nào mà không ai biết!
HT.Thích Quảng Độ
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 260 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:57pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHƯ Ư MA NỮ
Hôm nay tôi nhớ ra chuyện Như Ư Ma Nữ. Y là một con quỷ vào đời nhà Chu bị sét đánh và y lại tu thành một thứ ma thuật, sấm sét cũng chẳng cách chi đánh được y, cho nên y đi khắp nơi để tác quái, sau đó th́ gặp tôi, y phải quy y Tam Bảo, bây giờ y đă cải tà quy chánh, các bạn đừng sợ y, dù y có đến đây cũng chẳng hại người.
Cách đây khoảng 27 năm về trước, vào ngày 20 tháng 2 năm 1945, tôi ở tại Đông Bắc Trung Quốc (Manchuria), tại gia đ́nh ông Châu. Ở khu này có "Hội Đạo Đức". Hội Đạo Đức là nơi giảng về đạo đức vào mỗi ngày. Trong hội nầy có mấy đệ tử quy y với tôi, cho nên mỗi lần đi qua đó, tôi đều ở lại đó vài hôm.
Ở được vài ngày th́ gặp ông bói tướng "phê bát tự" mà tôi chẳng biết tên ông ta. Sao gọi là phê bát tự ? Tức là năm hai chữ, tháng hai chữ, ngày hai chữ và giờ hai chữ.
Ông ta dùng "phê bát tự" xem cho người linh vô cùng, ông ta xem cho tôi nói :
"Số của Thầy là làm quan, sao lại đi tu ? Nếu Thầy làm quan th́ sẽ làm quan lớn"
Tôi nói :
"Tôi không có ư định làm quan, cũng chẳng biết làm quan ra sao ? Sao lại có thể làm ? Tôi biết làm người xuất gia, cho nên hiện tại tôi là người xuất gia".
Ông ta nói thật đáng tiếc. Sau đó ông ta lại xem tay tôi, ông ta nói :
" Bàn tay của Thầy, ít nhất Thầy có thể đỗ đứng đầu trạng nguyên".
Tôi lại nói :
"Hiện tại tôi đứng chót cũng không có, làm ǵ có đứng đầu ?"
Sau đó ông ta nói :
"Năm nay Thầy gặp rất nhiều may mắn ! Sẽ gặp việc cát tường!"
Tôi nói :
"Có việc ǵ cát tường ?"
Ông ta nói :
"Qua ngày 10 tháng sau th́ Thầy sẽ khác với hiện tại".
Tôi nói :
"Khác nhau như thế nào ?"
Ông ta nói :
"Bây giờ nội trong một ngàn dặm, có rất nhiều người tin Thầy, qua khỏi ngày 10 tháng sau th́ mọi người ngoài mười ngàn dặm đều tin Thầy"
Tôi nói :
"Sao lại như thế ?"
Ông ta nói :
"Đến lúc đó Thầy sẽ hay !"
Qua hai ngày sau, lúc đó khoảng ngày 14 tháng 2 tôi đến làng Tương Bạch Kỳ Tứ Đồn, ở với đệ tử của tôi tên là Hạ Tôn Tường tuổi đă hơn sáu mươi. Trong nhà của ông ta có hơn ba mươi người, làm rất nhiều ruộng đất, có thể nói là tài chủ giàu nhất trong làng.
Nhưng ông ta chưa bao giờ tin Phật, cũng chẳng tin ǵ hết, song le khi ông ta thấy tôi đến th́ ông ta tin và quy y Tam Bảo. Không riêng ǵ ḿnh ông ta quy y mà toàn gia đ́nh đều muốn quy y, cho nên toàn gia đ́nh của ông ta đều quy y.
Về sau mỗi lần đi qua đây tôi đều đến ở nhà của ông ta. Nhà của ông ta hơn ba mươi người rất vui vẻ khi gặp tôi, tôi đă ở lại khoảng mười ngày th́ có khoảng bảy mươi hai người cũng đến quy y.
Vào ngày 25 tôi ngồi xe của Hạ Tôn Tường về huyện Song Thành, xa cách chừng hơn bảy mươi dặm đường, chúng tôi phải khởi hành lúc ba giờ sáng sớm. Thời tiết lúc đó gần mùa xuân, nhưng lạnh không thể tả.
Người lái xe và những người đi theo đều mặc quần áo bằng da và mang giầy da, c̣n tôi lúc đó quá nghèo, đồ mặc chỉ ba lớp vải thô, c̣n quần th́ chỉ hai lớp vải, giầy th́ mang giầy la hán ( kiểu giầy sandale) chẳng có tất mang, c̣n mũ th́ giống như hai bàn tay chắp lại, phủ chẳng tới tai, giống như kiểu mũ của Ngài Tế Công đội mà các bạn thấy.
Chúng tôi khởi hành từ ba giờ sáng cho đến bảy giờ mới tới. Đến thành rồi trời cũng đă sáng, tài xế và những người đi tháp tùng tưởng tôi đă chết v́ rét lạnh, bởi v́ tôi mặc đồ không đủ che lạnh.
Họ dừng xe lại để hoạt động, họ chạy bộ, v́ không chạy th́ bị tê cóng chịu không thấu, c̣n tôi vẫn ở trên xe từ khi bắt đầu khởi hành. Khi đến cửa đông của huyện Song Thành th́ xe ngừng lại, tôi xuống xe th́ anh tài xế nói :
" Chúng con tưởng Thầy đă chết v́ lạnh rồi".
Tôi ở với các bạn bè và các vị hộ pháp cư sĩ khoảng hơn mười ngày. Vào ngày 9 tháng 3 tôi trở về làng Tương Bạch Kỳ Tứ Đồn nhà của Hạ Tôn Tường. Khi tôi về tới th́ ông ta nói có đứa con gái của Hạ Văn Sơn vừa mới quy y với tôi bị bệnh, bệnh rất trầm trọng, sáu, bảy ngày rồi chẳng ăn uống ǵ, cũng chẳng nói năng ǵ, mà rất là giận dữ, hung hăng như muốn đánh người.
Mẹ của cô ta nói với tôi :
"Sư phụ ! Con gái của con đây vừa mới quy y chưa được mấy ngày th́ bị bệnh. Chứng bệnh rất là trầm trọng, cô ta chẳng ăn uống ǵ, cũng chẳng nói năng ǵ, suốt ngày đều trợn mắt, chổng đầu xuống giường, chẳng biết là bệnh ǵ ?"
Tôi nói với bà ta :
"Tôi cũng không thể chữa bệnh cho người, cô ta bệnh ǵ, hỏi tôi cũng vô dụng. Hiện tại có đứa đệ tử quy y với tôi tên là Hàn Cương Cát, anh ta là người đă khai mở ngũ nhăn, biết được chuyện quá khứ, vị lai của người. Bà có thể đi hỏi anh ta".
Hàn Cương Cát cũng quy y vào ngày 24 tháng 2. Trước khi anh ta quy y, tôi vốn không muốn thâu nhận anh ta. Tại sao ? V́ trước khi tôi xuất gia, tôi với anh ta là đôi bạn thân và cùng làm việc với nhau trong Hội Đạo Đức.
Sau khi xuất gia, Hàn Cương Cát khai mở ngũ nhăn, anh ta thấy :
"Nguyên lai Thầy đời đời kiếp kiếp là Thầy của con !"
cho nên anh ta muốn quy y với tôi. Tôi nói :
"Tôi không thể thu anh làm đệ tử, chúng ta vốn đều là bạn thân nhau, sao tôi lại thu nhận anh làm đệ tử ?"
Anh ta nói :
"Nếu Thầy không thu nhận con th́ đời này con sẽ đọa lạc".
Nói xong anh ta quỳ xuống, nhất định muốn quy y, tôi th́ nhất định không thu nhận anh ta. Trải qua khoảng hơn nửa giờ tôi hỏi anh ta :
"Ai quy y với tôi đều phải nghe theo sự giáo huấn, bây giờ anh có tài, vừa biết quá khứ, hiện tại và vị lai, có phải v́ vậy mà anh có tâm cống cao, không nghe lời dạy của tôi ?"
Anh ta nói :
"Sư phụ ! Con sẽ nghe lời ! Dù Sư phụ kêu con nhảy vào dầu sôi lửa bỏng con cũng vào, kêu con đi trên lửa, con cũng đi, dù có chết con cũng không từ !"
Tôi nói :
"Thật chăng ? Tương lai có việc có thể nào tôi kêu anh làm mà anh không làm ?"
Anh ta nói :
"Bất cứ chuyện ǵ Sư phụ kêu con đi làm th́ con nhất định đi làm, dù nguy hiểm con cũng không sợ".
Hàn Cương Cát là một trong bảy mươi hai người quy y vào ngày 24 tháng 2. Nghe đệ tử bị bệnh, tôi kêu anh ta nói :
"Con biết khám bệnh cho người, bây giờ vị đệ tử này bị bệnh, con lại xem thử đi !"
Anh ta ngồi thiền, quán tưởng xem bệnh t́nh ra sao, đột nhiên mặt của anh ta tái v́ sợ hăi, anh ta nói với tôi :
"Sư phụ ! Không xong rồi, việc này lo chẳng xong ! Bằng mọi cách con cũng lo không được !"
Tôi nói :
"Thế nào ?"
Anh ta nói :
"Đây là một con quỷ ! Con quỷ này rất là lợi hại, y biến hóa ra h́nh người ! Biến được h́nh người để hại người làm đảo loạn thế giới !"
Tôi nói :
"Sao mà lợi hại như thế, nói nghe coi".
Anh ta nói :
"Con quỷ này là một con quỷ vào đời nhà Chu. Vào thời nhà Chu, y là một con quỷ, v́ y không giữ quy cụ, bị một người có đạo hạnh, có thần thông dùng sấm sét bửa vụn ra, nhưng linh tính của y chưa tán ra hoàn toàn, cho nên về sau y lại tụ về với nhau, lại biến thành quỷ.
Con quỷ này bây giờ thần thông lớn vô cùng, biết phi hành biến hóa, lúc hiện có lúc hiện không. V́ bị sét đánh, cho nên sau này y tu luyện một thứ pháp thuật. Pháp thuật này chống lại sấm sét. Pháp thuật này luyện bằng cách nào ?
Tức là y dùng cái mũ đen được làm bằng lớp màng mỏng bao bọc đứa bé khi mới sinh ra. Lớp màng mỏng bao bọc đứa bé, y dùng nó làm thành cái mũ màu đen, khi đội mũ lên đầu th́ sấm sét không làm ǵ được y v́ sấm sét kỵ vật ô uế.
Người tây phương cho rằng sấm sét chẳng có ai cai quản. Sấm sét thường th́ chẳng ai cai quản, nhưng có thứ sấm sét đặc biệt th́ có khi dùng sấm sét để trừng phạt yêu ma quỷ quái ở thế gian.
Y đă luyện thành cái mũ đen tị lôi, sấm sét chẳng làm ǵ được y thị. Y lại luyện thành hai thứ pháp thuật tức là hai quả banh nhỏ tṛn tṛn. Y dùng cái mũ đội lên cho ai th́ linh hồn của người đó bị y nắm giữ, sẽ biến thành quyến thuộc của y. C̣n hai quả banh tṛn, nếu ném trúng ai th́ người đó sẽ chết tức khắc.
Cho nên Hàn Cương Cát thấy ma quỷ lợi hại như vậy th́ nói với tôi :
"Sư phụ ! Việc này không xong rồi !"
Tôi nói :
"Bệnh t́nh thế nào ?"
Anh ta nói :
"Bệnh này nhất định phải chết ! Chẳng có cách nào trị được !"
Tôi nói :
"Chết à ? Không thể được ! Nếu cô ta không quy y với tôi th́ đương nhiên tôi không lo. Cô ta vừa quy y với tôi vào ngày 24 tháng 2, chưa được bao lâu".
Lúc đó khi quy y, tôi bảo họ niệm "Chú Đại Bi", tôi nói :
"Các vị mỗi người nên học "Chú Đại Bi", tương lai sẽ hữu dụng. Khi gặp nguy hiểm ǵ th́ hăy niệm "Chú Đại Bi", th́ Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ bảo hộ các vị".
Do đó có rất nhiều người niệm "Chú Đại Bi". Tôi nói :
"Nếu cô ta không quy y với tôi th́ ma quỷ làm ǵ cô ta mặc kệ, nhưng cô ta đă quy y với tôi, th́ tôi không thể để cho ma quỷ cướp mạng của cô ta, tôi nhất định phải lo".
Anh ta nói :
"Sư phụ, nếu Thầy lo cho cô ta, th́ con chẳng đi ! Con không thể theo Thầy đi".
Tôi nói :
"Cái ǵ ? Khi con quy y th́ con nói :
"nhảy vào dầu sôi lửa bỏng cũng không từ", bây giờ đâu phải là dầu sôi lửa bỏng, tại sao con từ chối ?"
Anh ta không nói ǵ bèn suy nghĩ rồi nói :
"Sư phụ ! Thầy phải phái mấy vị hộ pháp bảo vệ con".
Tôi nói :
"Con đừng la lối ! Đi th́ đi c̣n la lối cái ǵ ?"
Anh ta nghe lời cũng không dám la lối bèn theo tôi đi, đến chỗ bệnh nhân th́ cô ta nằm ở trên giường, đầu ở trên gối c̣n đít th́ chổng lên trời, trông rất khó coi, song le rất hung hăng, mắt trợn lên lớn giống như mắt ḅ, nhất là khi nh́n thấy tôi th́ càng giận dữ.
Tôi hỏi người nhà của cô ta về nguyên nhân của chứng bệnh. Họ nói bảy, tám ngày trước đây có một thiếu phụ khoảng năm mươi tuổi ngồi kế ngôi mộ ở ngoài làng. Thiếu phụ mặc áo dài màu xanh đen, quần và giầy dép đều màu vàng và cô ta khóc lóc bên cạnh ngôi mộ.
Nghe tiếng khóc, có bà già họ là Hạ đến an ủi thiếu phụ, nhưng thiếu phụ cứ tiếp tục khóc nói :
"Ôi người của tôi, người của tôi...".
Một mặt th́ khóc, một mặt th́ nh́n "người" của cô ta. Bà già vẫn tiếp tục an ủi thiếu phụ, cuối cùng thiếu phụ hết khóc, và hai người đi về cổng làng. Cửa cổng có thần gác cho nên thiếu phụ không dám vào. Chung quanh làng đều có tường bao bọc ba bên bốn phía, mỗi phía đều có cửa ra vào. Bà già Hạ một ḿnh đi vào cổng c̣n thiếu phụ th́ ở bên ngoài khóc.
Lúc đó xe ngựa của Hạ Tôn Tường trở về làng. Khi đến cổng th́ ngựa thấy thiếu phụ bèn kinh hăi chạy xông vào, v́ ngựa thấy vật này th́ biết ngay ! C̣n con người th́ không nhận ra. Khi ngựa kinh hăi chạy xông vào th́ thiếu phụ cũng chạy theo vào. Có lẽ Thần giữ cổng cũng hoảng hốt khi thấy ngựa kinh hăi, cũng không giữ cổng để cho thiếu phụ chạy vào.
Thiếu phụ chạy vào nhà ông Vưu Trung Bảo và tiếp tục t́m "người" của bà ta. Bà ta nh́n ông Vưu rồi bỏ chạy ra khỏi nhà, có khoảng ba bốn chục người bu chung quanh bà ta hỏi :
"Bà tên ǵ ?"
Bà ta nói :
"Tôi chẳng có tên"
Lại hỏi :
"Họ của bà là ǵ ?"
Bà ta nói :
"Tôi chẳng có họ, tôi là người chết".
Họ bu nh́n bà ta giống như một quái vật. Bà ta lấy tay giữ cái mũ đen và bỏ đi, bà ta giống như người chẳng biết ǵ hết, đi đến bờ tường của nhà ông Hạ Văn Sơn, tường cao khoảng ba thước. Bà ta đến bên tường liệng cái mũ đen qua tường rồi nhảy vọt một cái qua bờ tường.
Tường cao như thế có lẽ chẳng có ai nhảy qua được, thế mà bà ta nhảy qua được. Đám đông la lên :
" Mụ điên có vơ thuật, có công phu !"
Do đó cả đám đông chạy qua xem bà ta. Con trai của Hạ Văn Sơn tên là Hạ Tôn Toàn cũng là đệ tử quy y với tôi vào ngày 24 vừa qua, từ cửa chạy vào nói :
"Mẹ ! Mẹ ! Mụ điên đến nhà ḿnh, mẹ đừng có sợ !"
Mẹ của y nh́n ra cửa sổ chẳng thấy ǵ lạ. Khi quay đầu lại th́ thấy thiếu phụ ḅ vào giường đá, đang nửa trên nửa dưới. Bà ta hỏi thiếu phụ :
"Bà t́m ai ? Bà t́m ai ?"
Thiếu phụ chẳng nói ǵ. Thấy cử chỉ của thiếu phụ rất kỳ quái, cho nên bà ta và cô con gái niệm Chú Đại Bi, vừa mới niệm câu đầu tiên "Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da" th́ thiếu phụ nằm dài xuống đất bất động, giống như người chết.
Thấy vậy không được, nếu chết trong nhà th́ không tốt. Cho nên đi báo cáo với ông xă trưởng. Xă trưởng thấy thiếu phụ nằm dài dưới đất giống như chết bèn dùng tay mang bà ta ra ngoài sân, hỏi bà ta :
"Bà từ đâu đến đây ? Và tại sao bà đến đây ?"
Bà ta đáp:
"Đừng hỏi tôi, tôi là xác chết, tôi chẳng có tên chẳng có họ, cũng chẳng có chỗ ở, tôi đến đâu th́ ở đó".
Ông xă trưởng nghe bà ta nói thế cũng kinh hăi, bèn đem bà ta đi ra khỏi làng khoảng năm mươi bộ, rồi trở về cổng làng th́ thấy bà ta đang ở sau lưng, bèn đem bà ta đi xa khoảng bảy mươi bộ, lần này bà ta cũng theo về.
Cuối cùng ông ta và ba nhân viên nữa mang bà ta đi xa khoảng một trăm năm mươi bộ và nói :
"Đi mau ! Nếu không ta bắn !"
Và họ bắn chỉ thiên hai lần. Bà ta ngă xuống đất v́ sợ hăi, tưởng tiếng súng là tiếng sấm sét đă giết bà ta trước kia. Lần này bà ta chẳng theo họ trở về làng.
Khi ông xă trưởng và mấy người nhân viên trở về th́ nghe tin con gái của ông Hạ Văn Sơn bị bệnh, chẳng nói, chẳng ăn uống, chẳng ngủ, chỉ nằm trên giường trừng mắt, đầu th́ trên gối, đít th́ chổng lên trời, đă bảy tám ngày không ăn uống ǵ cả.
Trước khi đến nhà ông Hạ Văn Sơn, tôi nói với Hàn Cương Cát :
"Con nói, nếu chúng ta dính vào việc này th́ sẽ chết. Thà ta chết chứ không để cho đệ tử quy y với ta chết. Thứ nhất, ta phải cứu những người quy y với ta, không thể thấy họ chết mà không lo. Thứ hai, ta phải cứu con ma này, con nói chẳng có ai quản được nó, nhưng nó đă phạm biết bao tội lỗi, nhất định sẽ có người hàng phục được nó.
Nó đă tu luyện nhiều năm, nếu tiêu diệt nó đi, thật là đáng tiếc. Nếu nó có bản lănh giết ta, ta cũng phải đi cứu cô ta. Thứ ba, ta phải cứu tất cả chúng sinh trên thế gian, nếu ta không hàng phục được nó th́ tương lai nó sẽ hại nhiều người nữa, v́ những lư do đó, ta nhất định phải đi".
Cho nên mới đến nhà của người bệnh. Lúc đó ông xă trưởng cũng đến, nghe chúng tôi đàm luận, thiếu phụ đó là con ma, ông ta nghĩ lại nói :
"Hèn chi hôm đó tôi dùng tay nhấc bà ta lên mà chẳng cần tí sức nào, giống như chẳng có vật ǵ, nếu không nói, tôi cũng nghĩ không ra, bây giờ mới biết đó là ma".
Chúng tôi phải t́m cách hàng phục nó. Làm sao để hàng phục ? Trong Chú Lăng Nghiêm có năm loại pháp. Trong năm loại pháp có :
"Tiêu tai pháp", tức là ai có tai nạn ǵ th́ có thể làm cho khỏi. Có "Cát tường pháp", có sự việc ǵ không được cát tường th́ có thể biến thành cát tường. Có "Câu triệu pháp", tức là bất cứ yêu ma quỷ quái xa bao nhiêu th́ có thể tùy thời bắt nó lại, lại có "Hàng phục pháp", tức là ma quỷ đến th́ bạn hàng phục được nó.
Có những loại pháp này, cho nên lúc đó tôi dùng "Chú Lăng Nghiêm" để kêu Như Ư Ma Nữ đến, khi gọi đến, bà ta vào cửa mang một mùi tanh không tưởng tượng nổi, ai mà ngửi mùi tanh đó th́ phải ói mửa.
Khi bà ta vào th́ dùng cái mũ mà bà ta đă luyện để chụp lên đầu tôi, nhưng chụp lên đầu tôi chẳng được, cái mũ của bà ta đă vô dụng, bà ta lại đem banh tṛn tṛn ném lên ḿnh tôi, song le cũng chẳng trúng thân của tôi.
Bà ta đă dùng hai thứ pháp thuật đều chẳng có công hiệu, vô dụng. Bà ta biết đă hết cách, muốn bỏ chạy ! Song le, đông tây nam bắc, tứ duy trên dưới chẳng có lối thoát.
V́ khi bà ta vào th́ tôi đă kiết giới, giống như đă bầy bố trận, cho nên bà ta chẳng có lối thoát; phía trên, phía dưới trước sau phải trái đều có hộ pháp thiên long bát bộ giữ bà ta lại, chạy không khỏi, hết cách bà ta bèn quỳ xuống khóc lên.
Tôi bèn thuyết pháp "Tứ Diệu Đế", "Mười Hai Nhân Duyên" và "Pháp Lục Độ" cho bà ta nghe. Bà ta hiểu được, muốn quy y Tam Bảo, phát bồ đề tâm. Tôi chấp nhận và quy y cho bà ta, cho bà ta tên là "Kim Cang Như Ư Nữ".
Quy y rồi, bà ta luôn luôn theo tôi đi các nơi độ người. Nhưng bản tánh của bà ta là ma tính, theo tôi đến nơi nào th́ nơi đó cũng đều có mùi tanh. Về sau thấy vậy, tôi kêu bà ta đến núi Lạc Pháp, "Động Vạn Thánh Linh Long" thuộc huyện Giao Hà tỉnh Cát Lâm để tu hành.
Tại sao nơi đó lại gọi là "Động Vạn Thánh Linh Long ?" Tôi có rất nhiều đệ tử kỳ quái quy y, tôi đều phái họ đến đó để tu hành. Nơi đó, tôi cũng đă từng đến. Về sau bà ta tu hành chẳng bao lâu th́ có chút thần thông, thường thường đi đến các nơi cứu người. Song le bà ta cứu người cũng không muốn cho người biết là bà ta cứu người như thế nào, do đó :
"Làm việc thiện mà muốn người thấy,
th́ chẳng phải là chân thiện ;
Làm việc ác mà sợ người biết,
th́ là đại ác".
Bạn làm việc tốt, muốn cho người biết th́ chẳng phải là việc chân thiện. Bạn làm việc ác mà sợ người biết th́ là việc rất ác. Cho nên "Như Ư Ma Nữ" này cuối cùng cũng biến thành quyến thuộc của Phật.
Cái động này sao lại gọi là "Động Vạn Thánh Linh Long ?" V́ một động có ba cửa động, ở bên này có thể nh́n qua bên kia, bên kia có thể nh́n qua bên này, thấu suốt với nhau cho nên gọi là linh long.
Giống như trong ly thủy tinh đựng ǵ th́ biết ngay, cho nên gọi là linh long. Chẳng phải nhất định nói về ly thủy tinh, tức là bên trong có thể nh́n thấy bên ngoài, bên ngoài có thể nh́n thấy bên trong. Động này có ba cửa động, ba cửa động này đều thông với nhau, ở trong đó có một cái miếu.
Vật dụng tạo miếu này đều dùng dê để chở, một lần vậy sức dê chở được hai miếng ngói hoặc một khúc gỗ, v́ núi đó quá cao. Trong động đó, bên ngoài cửa phía tây có động "Lăo Tử". Cửa động phía đông có động "Tích Thủy". Trong động tích thủy đó nước nhỏ từng giọt từng giọt đủ cho thiên nhân vạn mă uống.
Phía sau động là động "Kỉ Tổ", tức là Kỉ Hiểu Đường. Kỉ Hiểu Đường cũng là người quê của tôi ở Đông Bắc Trung Quốc, ông ta đă hàng phục được năm con quỷ, ở núi Lạc Pháp này và hàng phục được "Hắc Ngư Tinh".
Hắc Ngư Tinh này vào đời nhà Minh làm quan ở Bắc Kinh gọi là Hắc đại nhân. Ông ta họ Hắc, nhưng ông ta chẳng phải người, ông ta là cá. Kỉ Hiểu Đường biết được nên bắt tóm ông ta, biết trước ông ta có ngày sẽ đi qua núi này cho nên ở đó đợi ông ta. Khi ông ta đi qua, Kỉ Hiểu Đường dùng "Chưởng thủ lôi" đánh chết Hắc đại nhân tại đó.
Cho nên động ở trên núi đó, chẳng ai biết rơ có bao nhiêu cái động. Hôm nay bạn biết có bảy mươi hai cái, ngày mai th́ có bảy mươi ba cái, ngày mốt lại thêm nữa hoặc là có bảy mươi, không nhất định được.
Có một người đi lên núi, nh́n thấy hai ông lăo đang đánh cờ. Y nh́n lên đó bèn ho lên một tiếng th́ hai ông già râu dài nh́n nói với nhau :
"Sao y lại lên đây ?"
Cửa động bằng đá tự nhiên đóng lại ! Y bèn quỳ ở đó cầu pháp cho đến chết. Bây giờ mộ của y vẫn c̣n ở bên ngoài cửa động đá. Bạn thấy đó ! Người ta cầu đạo, cầu pháp, quỳ chết ở đó cũng không đứng dậy. Cho nên núi đó có rất nhiều thần tiên.
Tôi có gặp một người tên là Lư Minh Phước, y có vơ thuật, chạy rất nhanh như khỉ. Một ngày nọ tôi đến nơi đó, đi vào lúc sáng sớm khoảng hơn bốn giờ sáng th́ lên tới núi, thấy y đang lễ Phật. Đầu tóc phía sau của y bó lại nặng khoảng ba, bốn cân, trên đầu có cài cây trâm, y chưa bao giờ tắm rửa.
H́nh dáng của y rất nhỏ, mặt, mắt, mũi miệng, thân thể rất nhỏ, nhưng rất mạnh vô cùng. Y một ḿnh có thể cầm hai thanh sắt làm đường rầy (xe lửa), trong khi đó tám người thường chỉ khiêng được một thanh sắt. Chẳng ai biết y bao nhiêu tuổi, người ở đâu đến, vào thời nào ? Đó là một người kỳ quái mà tôi đă gặp qua ở đó.
Những ǵ mà tôi vừa kể với quư vị chẳng phải là sự tích, chẳng phải tự tạo, mà là sự thật, một sự việc chân thật ! Các bạn tin cũng tốt, không tin cũng tốt, tin hay không tùy bạn !
HT.Tuyên Hoá
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|