Tác giả |
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 261 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:58pm | Đă lưu IP
|
|
|
CÂY CHƯỚNG NGÀN NĂM XIN QUY Y
Thực vật cũng muốn quy y vào cửa Phật ? Trong Chùa Phổ Tế núi Phổ Đà tỉnh Chiết Giang Trung Quốc có một cây cổ thụ tên Chướng đă 1989 tuổi, đă nhờ qua trung gian một người có thần thông, thỉnh cầu xin quy y với Hoà Thượng Tuyên Hoá ở Mỹ. Cây Chướng đă quy y vào ngày 23-10-1994 tại Chùa Trường Đê Long Beach, Los Angeles.
Chùa Trường Đê đối diện với thái b́nh dương, phong cảnh rất đẹp. Ngôi Chùa nầy do Hoà Thượng Tuyên Hoá sáng lập sau Chùa Kim Luân ở Los Angeles. Vào ngày 23 tháng 10 thời tiết ở đây mát mẻ ấm áp dễ chịu. Vào khoảng 8 giờ sáng, có khoảng 300 phật tử.
Trong đó có 21 vị muốn xuống tóc xuất gia làm đệ tử Phật, cùng nhau tham gia lễ xuống tóc. 21 vị phát tâm xuất gia, trong đó có 4 người nam, 17 người nữ, đến từ Phần Lan bắc âu, Gia Nă Đại, Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan, Hương Cảng, Tân Gia Ba, Mă lai và Việt Nam. Tuổi tác từ 6 tuổi đến 72 tuổi.
Bà giáo sư họ Ngô dạy trường trung học Nhất Nữ nổi tiếng bên Đài Loan, lái xe từ Nữu Ước về Cali mất hết bốn ngày để xin xuất gia với Hoà Thượng. C̣n có một cậu bé và cô em gái cũng xin xuất gia vào ngày đó. Cô bé mới được 6 tuổi đă nói với ba mẹ của cô từ lúc cô mới tập biết nói, cô nói rằng :"Tương lai con muốn trở thành Ni Cô". C̣n cậu bé anh của cô bé ba năm trước đă phát nguyện :"Con muốn trở thành một Tu Sĩ".
Cha mẹ của cô cậu vừa nói ở trên là gốc người Đài Loan, là kỷ sư về máy điện toán và giáo sư trung học. Họ mong muốn cho con của họ có thể sớm thành Phật đạo, phổ độ chúng sinh.
Ngoài ra c̣n có một cô bé gái người Việt theo dấu chân của bà ngoại và ông anh ruột 12 tuổi xin ghi danh xuất gia đă nửa năm qua. Cô ta đă măn nguyện vào ngày 23 tháng 10 vừa qua. Khi hỏi cô ta tại sao c̣n quá nhỏ mà muốn xuất gia ? Cô ta nói tiếng Anh rất lưu loát, đầy tự tin nói :"V́ tôi muốn vào tù để nói Phật pháp cho những tù nhân".
Trong khoá lễ xuống tóc. Hoà Thượng cổ lệ những người mới vào cửa Phật :"Tu đạo là 'Thầy chỉ có trách nhiệm dẫn tới cửa, tu hành tại mỗi người '. Nếu các con không chuyên tâm tu hành, chẳng dụng công th́ dù các con có lạy Đức Phật Thích Ca làm thầy cũng chẳng có ích ǵ.
Các con hăy tự ḿnh nghĩ :'Xuất gia là v́ muốn chấm dứt sinh tử, là v́ muốn khai ngộ, nếu vẫn giải đăi, không cố gắng tinh tấn tu hành th́ xuất gia chẳng có ích ǵ'. Hôm nay các con xuất gia, tức là bước đầu tiên hướng đến thành Phật, đều phải sớm thành Phật đạo".
Sau khi khoá lễ xuất gia kết thúc, buổi chiều sẽ cử hàh lễ quy y và thọ ngũ giới, thập giới, Thức Xoa Ma Na giới. Trong lúc khoá lễ th́ một vị cư sĩ họ Dương (Cô nầy đă khai mở ngũ nhăn. Không những cô ta đă khai mở ngũ nhăn mà cha của cô cũng khai mở ngũ nhăn), đệ tử của Hoà Thượng, đặc biệt từ Trung Quốc gọi điện thoại sang nói :
"Tôi và cha của tôi đến núi Phổ Đà để lễ Phật th́ gặp một cây cổ thụ (cây Chướng) rất lớn khoảng mấy người ôm. Cây đó nói với tôi rằng :
Nó muốn quy y với Hoà Thượng Tuyên Hoá. Tôi cảm thấy rất kỳ quái, mới hỏi nó : Ông ở tại Chùa nầy đă lâu năm, chẳng lẽ không gặp một người nào là người chân chánh tu hành để quy y chăng ? C̣n nhất định muốn quy y với Hoà Thượng Tuyên Hoá ?"
Cây Chướng nói : Nó chưa gặp một vị chân chánh tu hành để quy y trước kia v́ nhân duyên không thành thục, bây giờ muốn quy y với Hoà Thượng. Tôi nói :
"Vậy th́ tốt ! Nhưng đợi để tôi hỏi Hoà Thượng rồi hăy trả lời cho ông hay".
Sau đó tôi về nhà nghỉ ngơi, v́ mệt quá nên đă ngủ say, khi tỉnh dậy th́ quên mất việc đó, chẳng nói với Hoà Thượng để thỉnh ư Hoà Thượng. Buổi chiều, tôi nghĩ muốn đi Chùa, song le khi xuống lầu, tôi muốn quay đầu nói chuyện với ba tôi th́ tự nhiên cái cổ cứng đờ, may là nó không găy, trong tâm tôi lập tức nghĩ :
"Ḿnh có làm việc ǵ sai chăng ?"
Đang suy nghĩ, quay qua thấy cây Chướng ở trong Chùa, liền biết ngay là ḿnh quên thực hiện lời hứa với cây Chướng. Lúc đó cây Chướng nói với tôi :
"Sao cô lại sơ ư ? quên mất việc tôi nhờ cô !"
Tôi nói :
"Xin lỗi, xin lỗi ! V́ trí nhớ của tôi kém quá, ông đừng giận tôi nhé, bây giờ tôi sẽ hỏi Hoà Thượng cho ông".
Tôi bèn thỉnh ư Hoà Thượng. Hoà Thượng nói :
"Làm hay không làm đệ tử của tôi chẳng quan trọng, chỉ cần làm được 'siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si th́ tốt rồi".
Tôi chuyển lời đến cây Chướng và thêm :
"Chỉ cần ông giữ được sáu đại tông chỉ của Vạn Phật Thành : Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tư lợi, không nói dối th́ dù ông không có duyên gặp Hoà Thượng, ông cũng là đệ tử của Hoà Thượng".
Ông ta trả lời là làm được những điều đó, c̣n phát thệ đại nguyện lực giống như Bồ Tát Quán Thế Âm, tương lai cũng muốn phổ độ chúng sinh. Lúc đó, tôi nh́n thấy ông ta đă thành h́nh tượng một tiểu Sa Môn, quỳ xuống đất chắp tay lại, và lúc đó Bồ Tát Quán Thế Âm xuất hiện ở phía trên ông ta, dùng nước cam lồ trong tịnh b́nh quán đảnh cho ông ta, tôi nh́n rồi rất cảm động.
Sau khi về nhà tôi thuật lại từng chi tiết cho Hoà Thượng hay. Ông ta tên là Nhân Năng. Tôi hỏi ông ta tu hành th́ nương tựa vào đâu mà tu hành ? Ông ta nói ông ta cứ niệm "Tâm Kinh", để nghiên cứu đạo lư trong "Tâm Kinh"; nhưng c̣n thiếu "minh sư" chỉ điểm, nên không thể hoàn toàn hiểu hết.
Từ khi cư sĩ họ Dương là Phật tử kiền thành lại có thần thông để nói chuyện và hiểu các loài chúng sinh khác, do vậy mà cây Chướng bèn nhờ cô ta, xin Hoà Thượng quy y. Từ đây có minh nhăn thiện tri thức chỉ điểm. Cư sĩ họ Dương đặc biệc hỏi cây Chướng đó là làm thế nào mà ông biết được Hoà Thượng ? Tại sao nhất định muốn quy y với Hoà Thượng ? Cây Chướng nói :
Thật đơn giản ! V́ hết thảy tất cả chúng sinh, trên thật tế đều nghe được Hoà Thượng thuyết pháp. V́ lúc Hoà Thượng thuyết pháp th́ tận hư không biến pháp giới tất cả chúng sinh đều nghe được, thấy được ; chỉ có những người bị tài, sắc, danh, lợi trói buộc cho nên nghe mà chẳng nghe, nh́n mà chẳng thấy.
C̣n các chúng sinh khác đều nghe được pháp của Hoà Thượng giảng trong sự yên lặng và tu hành trong sự yên lặng, tài bồi hạt giống bồ đề. Cho nên, ông ta đă nghe Hoà Thượng thuyết pháp từ lâu rồi.
Trước khi kết thúc khoá lễ quy y. Đặc biệt Hoà Thượng khai thị xiển minh quan trọng của sự tu đạo :
"Bất cứ bạn là ǵ , bạn có tư tưởng chân thật, tơ hào chẳng cẩu thả, đừng làm điều mà người đời làm, mà phải đi ngược lại với người thế tục th́ bạn sẽ đắc được lợi ích của Phật giáo.
Cho nên, các vị xuất gia, tại gia đều phải làm Phật giáo đồ chân chánh, khác với một số người, đừng giống như một số người :Tranh, tham, cầu, ích kỷ, tư lợi, suốt ngày đến tối chẳng lúc nào mà không nói dối.
Đây là điều quan trọng thiết yếu ! Sáu đại tông chỉ nầy là bước thứ nhất học Phật, bước thứ nhất thành Phật, chúng ta đừng quên nó ! Đừng coi thường nó ! Cũng phải học nhiều về sự thiệt tḥi, đừng chiếm tiện nghi".
Trần Tâm B́nh
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 262 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:59pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHÚ LĂNG NGHIÊM HÀNG PHỤC MA
Khi tôi (H.T Tuyên Hoá) c̣n ở tại quê hương đông bắc Trung Quốc, thường có một nhóm người đệ tử quy y, theo tôi đi khắp nơi hoằng dương Phật pháp, giáo hoá người có duyên. Trong những đệ tử đó, có người lúc nào cũng xuất thần nhập hoá, không bị giới hạn.
Chẳng giống như người tu hành Đạo Giáo, trước hết phải ngồi ở đó, rồi mới có thể xuất thần nhập hoá. Trong nhóm đệ tử, có người đệ tử rất trẻ tuổi ham chơi. Cậu ta có thể hoá thân bay lên trời, đi vào đất.
Một lần nọ, gặp thiên ma ở trên trời, thiên ma rủ cậu ta lên thiên cung ma dạo chơi xem cho biết. Cậu ta bị tâm háo kỳ sai khiến, bèn theo thiên ma đi, ai ngờ bị thiên mà trói nhốt lại, cậu ta chẳng làm ǵ được.
Lúc đó cậu ta sinh tâm sợ hăi, bèn đến nói với tôi :
"Sư phụ ơi ! Con bị thiên ma trói nhốt lại ở trong cung điện của chúng, không cho con trở về".
Tôi nói với cậu ta :
"Con có muốn ở lại đó chăng ?"
Cậu ta nól:
"Con không muốn ở lại đây".
Tôi nói :
"Nếu con không muốn, th́ ta sẽ đưa con trở về đây".
Lúc đó, tôi bèn dùng Chú Lăng Nghiêm phá lưới ma la, hàng phục được pháp thuật của ma, đập tan cung điện của ma, đưa cậu ta b́nh an trở về.
Lần đó dạy dỗ rồi, cậu ta không dám đi lên trời chơi nữa, từ đó giữ ǵn quy cụ tu đạo. Do đó có thể thấy, nếu người tu đạo không cẩn thận, lập tức gặp sự nguy hiểm.
Tại sao thiên ma nhốt cậu ta lại ở trong cung điện ma ? V́ cậu đệ tử này có thần thông, thiên ma muốn cậu ta biến thành quyến thuộc của ma vương, có thể tăng thêm thế lực của chúng.
Ma vương quỷ kế đa đoan, dùng trăm phương ngàn kế, muốn bắt người tu đạo, để làm quyến thuộc của chúng. Cho nên người tu hành phải cẩn thận, tu hành chân chánh th́ mới phá được pháp thuật của ma.
HT Tuyên Hóa
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 263 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 5:59pm | Đă lưu IP
|
|
|
SÁM HỐI GIẢI NGHIỆP
Theo lời dạy của Lăo Ḥa Thượng Thường Nhân, Ngài trở về Chùa Tam Duyên giúp đỡ tăng chúng xây cất Tự viện. Tất cả vật liệu như cây cối, ngói gạch đều phải chuyên chở bằng xe, nhưng nhằm vào mùa thu hoạch, nên Chùa không thể mướn xe được. Ngài (H.T Tuyên Hoá) đích thân lặn lội t́m đến nhà ông Trưởng khu Lưu Trung Cần mượn xe, tiếc thay ông Lưu từ chối rằng:
- Bạch Thầy đây là việc thiện con muốn làm lắm, nhưng ngặt v́ lúc này đúng vào mùa gặt lúa, nên con không có cách chi giúp Thầy!
Khi ấy người em dâu của ông từ trong pḥng bước ra thấy Ngài, bà liền cầu Ngài cứu vớt con bà, thằng bé đang bệnh nặng sắp chết.
Sau một hồi quán sát Ngài nói:
- Bà có biết v́ sao con bà sắp bị chết không?
- Dạ con không biết.
- V́ bà không hiếu thảo với cha mẹ chồng, nếu bà tin lời tôi mà đến trước cha mẹ chồng quỳ lạy sám hối tội lỗi, th́ mới mong cứu văn tánh mạng đứa nhỏ.
V́ thương con nên bà đă làm y theo lời dạy, nhưng bệnh t́nh con bà vẫn không thuyên giảm. Ngài bảo rằng hăy đem đứa bé đến, khi bà mang con đến, Ngài vỗ trên đầu đứa bé ba lần và đứa bé bắt đầu khóc.
Bệnh của bé cũng tự nhiên phục hồi. Ông Lưu chính mắt thấy rơ sự t́nh ḷng rất thán phục nên chủ động chiêu tập tất cả xe cộ lớn nhỏ trong toàn khu để chở vật liệu xây cất cho Chùa luôn mấy ngày liền.
Sau đó bất luận Ngài đi đâu cũng có người tranh nhau cho mượn xe chở. Chỉ trong ṿng một tháng người ta đă cho mượn đến tám trăm chiếc xe.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 264 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 6:00pm | Đă lưu IP
|
|
|
TIỀN CĂN
Cùng Thôn Dương Gia Điềm có em Vương Thân mười hai tuổi bị bệnh lao đă ho ra máu và c̣n bị đau bụng. Cha mẹ em t́m đến Ngài (H.T Tuyên Hoá) xin cứu sống con ḿnh.
Sau khi xem đứa bé, Ngài bèn hỏi ông Vương một câu hỏi lạ lùng:
- Ông có muốn cho con ông sống không? Tôi không thể cứu con ông được, chính ông phải cứu nó.
- Tôi muốn nó sống nhưng làm cách nào mà tôi có thể cứu nó? Tôi không biết phải làm sao đây?
- Đây là phương pháp: nếu ông muốn con ông sống th́ ông phải cho nó xuất gia, quy y cửa Phật. Nếu nó xuất gia, nó sẽ sống bằng không nó sẽ chết. Hai đường phải lựa một và chẳng có cách nào khác.
Cha mẹ em liền đồng ư. Chẳng bao lâu sau, em hết bệnh hẳn. Thấy con ḿnh mạnh khỏe trở lại, hai vợ chồng hối tiếc và không cho em đi tu, mặc dầu Ngài viết thơ ba lần khuyên họ phải giữ lời hứa.
Trong lá thơ cuối cùng Ngài cảnh tỉnh họ: Nếu ông bà không tức khắc cho con ḿnh xuất gia tu đạo th́ e rằng bệnh t́nh của em sẽ bộc phát trở lại, khi ấy khó mà trị được. Cha mẹ em vẫn không quan tâm đến lời nhắc nhở trong thơ.
Qua hơn một năm sau bệnh của em bỗng tái phát, cha mẹ em lo lắng, chạy chữa biết bao bác sĩ, thuốc men nhưng đều vô phương cứu chữa, mấy ngày sau em qua đời.
Dù hai ông bà có khóc lóc thảm thiết thế nào đi nữa, đứa bé cũng không sống lại. Cả hai người lại khẩn cầu Ngài cứu sống cho đứa con họ một lần nữa, nhưng Ngài nói:
- Cái phương pháp làm cho nó sống là của ông bà. Tôi đă cho ông bà cái phương pháp ấy. Chính ông bà đă không dùng, tôi không không thể làm ǵ khác hơn.
Cha mẹ em Vương Thân thật tâm hối hận v́ trước kia đă không tin lời của Ngài.
Tại sao Ngài dạy đứa trẻ xuất gia? V́ nó có cái đức tướng của một người xuất gia, và trong các kiếp trước, nó đă phát nguyện sẽ xuất gia trong mỗi kiếp sống
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 265 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 6:02pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐÁ TUÔN NƯỚC CAM LỒ
Năm 1951 Ngài (H.T Tuyên Hoá) từ Thái Lan trở về Hương Cảng, và được tín đồ Phật giáo nơi đây rất sùng kính nên thỉnh Ngài đến Đàn Thông Thiện giảng Kinh Địa Tạng.
Ngài đă giảng thuyết suốt hơn bốn mươi ngày. Mỗi ngày đều không dưới một trăm người đến tham dự. Thượng tuần tháng chạp, khi khóa giảng kinh Địa Tạng kết thúc, có nhiều vị cư sĩ bàn thảo với nhau về việc t́m mua một khoảng đất cúng dường để Ngài cất Tịnh xá.
Chẳng bao lâu họ đă mua được một mảnh đất hoang trên vùng đất cao, thuộc làng Mă Sơn, Tây Loan Hà, Hương Cảng. Tuy vùng đồi núi khá cao đường xá lại quá xa xôi. Nhưng mỗi tấc đất ở Hương Cảng như một tấc vàng, v́ vậy việc t́m được mảnh đất này không phải là chuyện dễ.
Duy chỉ có một việc không may là trên triền núi này lại không có mạch nước nào, nên việc dùng nước ở đây là cả một vấn đề nan giải. Dân cư vùng phụ cận phải dùng đường ṃn xuống núi, rồi tiếp đi trên đường lộ đến khu phố chợ để lấy nước, nguồn nước này do thành phố Hương Cảng tiếp tế.
Lấy nước xong họ phải gánh trở lên núi và phải leo lên cả ba trăm bậc tam cấp mới đến nơi. Nhiều người dùng nước mà chỉ có một nơi cung cấp, nên họ phải sắp thành những hàng rất dài để chờ đến phiên. Thảo nào dân chúng ở đó khi nghe bàn về vấn đề “nước” là họ sợ thất sắc.
Lúc khởi công xây cất Chùa, các vị cư sĩ đă tŕnh lên Ngài vấn đề hiếm nước nhưng Ngài chẳng chút màng lo mà chỉ để tâm vào việc kiến dựng tu viện. Ngài đă không loan tin quảng cáo xin cúng dường, không phan duyên với các cư sĩ giàu có, và cũng không đến từng nhà để quyên góp; v́ làm như vậy coi như lợi dụng sự hưng thịnh của dân Hương Cảng là đi ngược lại với những Tông chỉ mà Ngài đă từng dạy cho các đệ tử:
Dù chết v́ rét, không phan duyên
Dù chết v́ đói, không xin xỏ
Dù chết v́ nghèo, không cầu cạnh
Tùy duyên nhưng không đổi ḷng
Không đổi ḷng nhưng vẫn tùy duyên
Ba tông chỉ ấy, ta phải giữ ǵn
Xả thân v́ Phật sự
Tạo mạng v́ bổn sự
Chánh mạng v́ Tăng sự
Gặp sự, rơ lư
Rơ lư, hiển sự
Lưu hành mạch phái Tổ sư đă truyền.
Tất cả công tŕnh xây cất đều do ḷng Tự nguyện phát tâm của tín chúng, chủ yếu là nhờ đạo lực quyết tâm dơng mănh của Ngài, luôn muốn cho Đạo tràng này sớm được đơm hoa kết trái.
Ngài đă trang trí khuôn viên Chùa với những cây thông non nho nhỏ, những hàng đu đủ sai trái và những rặng trúc xinh xinh. Một đạo tràng thanh tịnh đă được hoàn thành vào cuối năm 1951, Ngài đặt tên là “Tây Lạc Viên”. Năm sau đó, lễ khánh thành Chùa Tây Lạc Viên cùng Lễ An vị Tây Phương Tam Thánh đă được tổ chức đúng vào ngày Phật Đản mồng 8 tháng 4.
Sau khi dọn về Chùa mới, Ngài phát giác ra một tảng đá có khe nứt ở phía sau Chùa. Ngài bèn cắm vào đó một nhành dương rồi cầu nguyện chư Phật, Bồ Tát gia hộ ban cho một mạch nước nơi khe đá này.
Thế rồi mỗi ngày ở bên tảng đá bể, Ngài chân thành khẩn thiết tŕ chú Đại-bi. Chẳng bao lâu mặt đất nơi ấy trở nên ẩm ướt và sau đó một mạch nước từ khe nứt của tảng đá phun ra, nước chảy ra vừa ngọt vừa sạch thành ao nước đầy. Ngài liền nhờ người xây hồ chứa nước ngay nơi đó. Từ đó nạn khan hiếm nước đă được chư Phật, Bồ Tát từ bi giải quyết.
Khi nghe nói ở Chùa có một hồ nước nhiệm mầu, mọi người trong vùng thảy đều kinh ngạc. Họ đă không tưởng tượng ra được là làm sao mà nước lại có thể chảy ra từ trong một tảng đá khô cằn tại một ḥn núi hoang dă này? Họ vốn không tin Phật pháp, nhưng khi thấy rơ sự việc này, họ mới bắt đầu thâm tín ngôi Tam Bảo.
Vào dịp Lễ Quán Thế Âm thành đạo ngày 19 tháng 6 năm 1959, Ngài tổ chức Pháp hội trong bảy ngày tại chùa Tây Lạc Viên, có đến vài trăm người đến tham gia. Khi ấy trời hè nóng bức, chánh phủ Hương Cảng ra lệnh tiết kiệm việc dùng nước.
Mỗi ngày chỉ mở nước công cộng ba giờ nên nhân dân Hương Cảng đều than van khổ. Vậy mà hồ nước tại Chùa Tây Lạc Viên vẫn đầy tràn với mạch nước chảy ra không dứt, đủ sức cung cấp nước cho cả trăm người dùng. Đây là một kỳ tích thật không thể nghĩ bàn.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 266 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 6:02pm | Đă lưu IP
|
|
|
MA ĐẾN CẦU GIỚI
Hồng Kông trong vài năm gần kề thường bị chấn động không an, phần v́ thiên tai, phần v́ nhân họa đă không ngừng phát khởi. Truy nghiệm điều này cho chúng ta biết đây cũng chính do nghiệp báo của chúng sanh chiêu cảm mà thành.
V́ muốn cứu văn vận kiếp này, Ngài (H.T Tuyên Hoá) đă mượn đạo lực của đại chúng nguyện cầu cho chúng sanh thoát khỏi ách nàn. Thế nên nhân ngày Phật Di Đà Đản Sanh, 17 tháng 11 năm 1952, Ngài cử hành pháp hội niệm Phật bảy ngày, mỗi ngày từ 8 giờ sáng đến 7 giờ chiều. V́ Chùa nằm trên núi nên người ta phải vất vả và tốn nhiều thời giờ mới đến nơi, tuy vậy họ vẫn tới tham dự đông đảo.
Đến chiều tối ngày thứ năm của khóa Phật thất, lúc thời hương thứ sáu vừa tàn, bỗng nhiên có một con quỷ nhập vào bà Trương Quả Vũ rồi bà quỳ xuống cầu khẩn Ngài truyền Tam quy, Ngũ-giới. Ngài chấp nhận lời thỉnh cầu, lúc truyền giới vừa xong th́ bà Trương cũng vừa tỉnh lại. Những người tham gia pháp hội nức nở khen: Quỷ cũng biết cầu giới, chẳng lẽ con người không biết tu hành sao?
HT.Tuyên Hóa
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 267 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 6:03pm | Đă lưu IP
|
|
|
BỘ RĂNG VÀNG
Ông cụ già ngót tám mươi tuổi đầu ấy đă hứa với chúng cái chết của ḿnh ba tháng nay rồi, mà ba tháng nay, ông cụ cứ nằm lỳ giữa giường để rên đấy, ăn đấy, và thi hành mọi việc cần dùng ở đấy...
Cụ thật là người keo kiệt, đến lúc hấp hối rồi mà vẫn c̣n đo lọ nước mắm đếm củ dưa hành, hau háu ra chi li từng đồng xu nhỏ một, chẳng chịu rời chùm th́a khoá, mở tủ, lấy văn tự địa đồ chia của cho con.
Đến bây giờ th́ ông cụ quả thật chết rồi, nhẹ nợ!...
Ông cụ chết rồi, th́ thằng cả, thằng hai với vợ chúng xúm nhau vào vồ lấy chùm th́a khoá, tính việc chia gia tài.
Chúng hăy để mặc cái thây ma nằm đấy. Cả hai ngày hôm ấy chúng bận bù đầu vào trăm công ngh́n việc. Thằng hai nhường cho anh bộ đồ thờ với yến thư bàn độc, th́ kỳ kèo ép anh phải bỏ tiền ra lo cho bố, thết đăi hàng xă, hàng tổng th́ phải lấy lại hai con lợn nái của ḿnh.
Tối hôm sau cái chết của ông cụ, họ hàng cũng không một ai biết, v́ chúng... tính toán chưa xong.
Đến độ nửa đêm mọi việc đă thương lượng được với nhau đâu vào đấy cả. Lên giường nằm nghỉ, thằng cả mơ màng đến những cảnh phóng túng chơi bời cũng như thằng hai, sướng bằng mở cờ trong bụng định những việc mưu danh, cầu tước, mua lấy một chân chức sắc trong làng.
Bốn vợ chồng chúng x́ xào to nhỏ với nhau, khúc khích với nhau, duy chỉ một ḿnh ông cụ, một cái thây ma phủ dưới một cái chăn đơn, nằm đờ với ngọn đèn dầu to không bằng hạt đỗ. V́ không có chúc thư để lại, cái chết kia là cái chết bất th́nh ĺnh, chúng dă dấu kín ngày giờ với họ hàng, làng nước th́ chúng kêu gào khóc lóc làm chi?
Vợ chồng thằng cả muốn như ngủ rồi, th́ vợ chồng thằng hai rón rén đẩy cửa lôi nhau ra ngoài chuyện kín.
Thằng hai, óc lư tài sáng suốt hơn thằng cả, nhớ rơ ngay rằng trong lúc sinh thời, ông bố muốn thay vào hàm răng bằng cái c̣n cái găy, đă lên tỉnh, vào nhà giồng răng vàng.
Chúng cứ x́ xào căi lẫn với nhau: con vợ nhất định giăy giụa không nghe, kêu rằng trong nhà có kẻ qua đời, người sống muốn cho kẻ chết được thiêng liêng phù hộ cho ḿnh, thường c̣n lắm khi bỏ vàng vào miệng. Nên khi thấy chồng bàn lấy bộ răng trong mồm bố để bán, nó chẳng bằng ḷng...
Thằng chồng phát gắt mà rằng:
- Cái đời đàn bà chúng mày sao ngu thế? Chết rồi, th́ việc cúng giỗ chẳng qua là việc lừa dối thiên hạ, bộ răng vàng ấy đem bán đi không được chục bạc hay sao? Mày không nghe ông mặc kệ mày, miễn sao mày đừng để cho vợ chồng anh cả biết. Ông làm ǵ th́ mặc xác ông!
Rồi nó nguây nguẩy quay vào, để cho vợ một ḿnh đứng đấy.
Trong nhà có người chết, ngoài sân lại thêm đom đóm bay liệng lập ḷe, cây cau, cây chuối cọ lá sột sạt vào nhau, con vện thỉnh thoảng cắn bóng một cách tức bực buồn rầu, nghe sợ đến rủn người đi được.
Chị vợ bỗng giật ḿnh hoảng sợ, hấp tấp chạy vào những toan ngăn chồng không cho làm thế, nhưng khi đến cửa buồng, nh́n vào thây ma trơ trơ nằm đấy th́ chị ta lại sợ, không dám bước vào.
Nó biết vợ nó phải lánh mặt đi rồi th́ nó cứ việc tự do hành động. Nó nh́n sau nh́n trước, lắng tai nghe kỹ, thấy vợ chồng anh ḿnh đă ngáy mới yên trí, rón rén đến bên giường bố chết, lật cái chăn ra.
Để một tay giữ trên đôi mắt người đă qua đời, c̣n một tay nó bóp lấy hàm, cố vành cho được. Thấy hơi răn rắn, nó liền dùng hết sức, cố vành mồm kẻ chết móc ra được bộ răng vàng. Như người sốt rét phải chậu nước lạnh dội vào ḿnh, nó bỗng run lên lật bật. Bộ răng vàng rơi lăn xuống đất nó cũng không kịp nhặt, v́ khi nh́n lại đôi mắt của kẻ qua đời đă bị bàn tay phũ phàng kia làm cho lật hẳn mi lên. Mà cái mồm, một cái mồm không răng trông sâu hoăm hoẳm mà tối om om, sau khi đă bị vành th́ thôi, nhất định không thèm ngậm lại. Người chết h́nh như trợn mắt, há mồm, nguyền rủa thằng con bất hiếu, trông đáng sợ vô cùng.
Nó đứng ngây ra đấy kinh khủng mà nh́n, không chớp mắt một hồi, rồi sau khi rú lên một tiếng, bưng mặt đẩy cửa chạy đi.
Nghe thấy tiếng kêu ghê gớm lạ lùng hai vợ chồng anh đều ngồi nhổm dậy. Chúng không hiểu nguyên do sao cả, chỉ nh́n nhau một cách kinh ngạc rồi rón rén xuống đất, bước đến cửa pḥng người chết, đứng đấy nh́n vào. Cái thây ma trợn mắt há mồm như đang chửi rủa.
Hai vợ chồng sợ quá đứng sát nách nhau mà run lập cập, trống ngực đánh th́nh ĺnh. Giữa cái lúc bối rối tâm thần, mơ màng đến những chuyện "quỷ nhập tràng" của bộ Liêu trai, không biết nên đứng ỳ ra đấy hay cuống cẳng bỏ chạy đi đâu, th́ thằng anh nh́n thấy cái bộ răng vàng nằm dưới gậm giường nhờ ánh sáng đèn chiếu ra lóng lánh.
Cái việc thằng em vào đây, rú lên rồi ôm đầu bỏ chạy, nó hiểu rơ ra ngay.
Nh́n ra sau lưng, thấy vợ chồng thằng em đă đứng tái mặt đấy rồi, th́ nó lên giọng đàn anh, mắng trùm: "Chúng mày thực là bất hiếu!".
Người đàn bà kia cố căi cho ra lẽ, kêu rằng đă hết lời ngăn cản mà chồng chẳng chịu nghe nào. Rồi chị ta xin lỗi cho chồng, những mong được lượng ông giữ kín những chuyện nhơ nhuốc trong nhà, cứ việc lắp lại hàm răng vào mồm cho bố.
Nhưng thằng anh lại không làm thế, sau khi không có cách nào vuốt mắt, đậy mồm cho người đă mất th́ nó chỉ đành trùm chăn lên trên một cách gọn gàng. Rồi nó quay lại mắng đứa em dâu:
- Chú thím đă định lừa tôi như thế, th́ bộ răng này, sau khi tôi bán được, mong rằng chú thím đừng nhớ đến chuyện chia...
Sau cùng, th́ một cách tự nhiên, nhanh nhẹn nhất đời, nó cúi xuống nhặt bộ răng vàng, bỏ túi.
Vũ Trọng Phụng
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 268 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 6:04pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÓNG MA MỘT BINH SĨ XUẤT HIỆN TRONG BỨC H̀NH
Một hồn ma bóng quế, được cho là của một binh sĩ đă chết từ thời nội chiến Anh, xuất hiện trên một tấm ảnh của một nhóm người thích khám phá những hiện tượng huyền bí.
Nhóm những người thích khám phá hiện tượng huyền bí Northampton đă chụp được tấm h́nh trên bằng máy ảnh khi họ đến thăm chiến trường Battle of Naseby nằm giữa hai ngôi làng Clipston và Naseby thuộc Northamptonshire hồi tháng trước.
Chuyến viếng thăm này của họ trùng với ngày kỷ niệm lần thứ 363 trận đánh Naseby, một trong những trận đánh nổi tiếng thời nội chiến nước Anh.
Các thành viên trong nhóm này đều khẳng định họ có nghe thấy những âm thanh rất kỳ lạ, giống như tiếng súng Cannon nổ ầm ầm khi đến thăm địa danh này. Cho đến khi ngắm những bức ảnh chụp, họ không khỏi ngạc nhiên khi trong một trong số những bức ảnh đó, xuất hiện một h́nh bóng bí ẩn bước ra từ bóng tối, trên tay cầm một vật ǵ đó giống thanh gươm.
Emma Whiteman, trưởng nhóm khám phá hiện tượng huyền bí Northampton nói:
“Bức ảnh này chúng tôi chụp sau khoảng một giờ, kể từ lúc nghe thấy những âm thanh kỳ lạ. Nhưng vào thời điểm đó, chẳng ai trong số chúng tôi nh́n thấy có điều ǵ khác lạ cả. Tất cả chúng tôi đều cho rằng h́nh bóng này là một chiến binh đă khuất”.
Trận đánh Naseby xảy ra vào năm 1645 là chiến thắng quyết định đối với những người theo phái nghị trường nhằm lật đổ những người bảo hoàng. Trận chiến kết thúc với sự tham gia của hơn 21.000 quân đoàn.
Telegraph
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 269 of 1439: Đă gửi: 27 May 2010 lúc 6:05pm | Đă lưu IP
|
|
|
HUYỀN THOẠI "NAM HẢI ĐẠI TƯỚNG QUÂN"
Cứu người giữa biển khơi
Vào những ngày trung tuần tháng tư âm lịch, ngư dân ở nhiều vùng biển bắt đầu vào mùa lễ hội Nghinh Ông. Đây cũng là dịp để người ta nhắc chuyện cá voi cứu người với vẻ tôn kính, hàm ơn loài cá hiền ḥa này.
Biển cả có lúc hiền ḥa, đem lại cho ngư dân những mùa màng bội thu, tạo nên cuộc sống trù phú cho nhiều người. Song cũng nhiều lúc đại dương nổi giận. Không biết từ bao giờ, ngư dân đi biển mỗi khi gặp cảnh nguy nan ngấp nghé bên bờ cơi chết, ai cũng khấn niệm và trông chờ “ông Nam Hải” đến cứu giúp.
Mùa Nghinh Ông này ở Phú Yên, chúng tôi gặp ông Nguyễn Phê 73 tuổi, ngụ làng Phú Câu, phường 6, Thành Phố Tuy Ḥa, được cả vùng biết đến nhờ từng được “ông” (cách gọi thành kính của ngư dân đối với cá voi) cứu vớt. Nhiều ngư dân Tuy Ḥa bảo:
“Ông Phê là nhân chứng sống cho huyền thoại “ông Nam Hải”, làm cho chúng tôi càng có niềm tin mănh liệt vào ông, nhất là mỗi khi ra biển”.
Dù tuổi cao sức yếu nhưng ông Phê vẫn nhớ như in ngày được cá voi cứu cách nay hơn 20 năm. Ông kể:
“Tháng 3 -1984, trong một chuyến đi câu ngoài khơi, khi vừa bủa câu xong, một cơn lốc đi qua nhấn ch́m tàu chúng tôi. Toàn bộ thợ thuyền đều là thanh niên trai tráng nhưng không ai thoát chết. Năm đó tôi xấp xỉ 50 tuổi, tuy là dân đi biển nhưng bơi rất yếu, tưởng đâu cũng xong đời rồi. Vật lộn với sóng biển một lát, tôi đuối sức, miệng không ngớt khấn vái ông đến giúp.
Đến lúc gần như bất tỉnh, chỉ chực ch́m lỉm xuống đáy biển, tôi chợt thấy ḿnh được nâng lên mặt nước, người nhẹ tênh. Dù mơ mơ màng màng nhưng tôi vẫn có cảm giác rất rơ như ḿnh đang được nằm trên một tấm ván trơn nhớt, rất êm ái từ từ trôi đi. Cứ như vậy vài ngày đêm, đói quá tôi ngất lịm lúc nào không biết. Khi tỉnh dậy tôi mới biết ḿnh được một tàu đánh cá vớt lên. Những ngư dân tàu này khẳng định tôi được “ông” cứu, bởi họ thấy dáng “ông” ở xa xa đang đưa tôi đến gần tàu”.
Dừng lại một lát như tưởng nhớ đến ơn cứu mạng của “ông Nam Hải”, ông Phê tâm sự:
“Nhiều người bảo rằng nhờ tôi luôn luôn tôn kính và có duyên với “ông” nên khi lâm nguy mới được “ông” cứu có lẽ vậy”.
Ở làng Phú Câu có hơn 20 người từng được cá voi cứu về từ cơi chết như các ông Lê Mau, Lê Dậu, bà Chài... C̣n ở làng Đông Tác, phường Phú Đông Thành Phố Tuy Ḥa cách đó không xa, cũng có hơn 50 người được cá voi “hộ”.
Chúng tôi t́m gặp bà Lương Thị Trả 70 tuổi, ở làng Đông Tác. Bà Trả bồi hồi nhớ lại:
“Cách nay chừng gần 20 năm, trong một lần đi vớt củi lụt trên sông Đà Rằng, xuồng bị lật mẹ con tôi bị cuốn trôi tuốt ra biển. Con trai tôi 18 tuổi khỏe mạnh, bơi giỏi nhưng không thoát chết. Trong khi đó tôi không biết bơi, yếu đuối nhưng thoát nạn nhờ “ông” hộ”.
Lúc người đang lơ mơ chỉ muốn ngất lịm, tôi thấy “ông” đến đưa cái lưng trơn lạnh nâng d́u tôi giữa mưa gió, sóng nước mù mịt lạnh buốt. Chừng 10 giờ sau tôi được “ông” đưa đến tận bờ trước khi ngất lịm đi”.
Ngược ra ngoài vùng biển B́nh Định, chúng tôi được ngư dân chỉ đến gặp bà Nguyễn Thị Sơn, ở thôn Kim Giao, xă Hoài Hải, huyện Hoài Nhơn, trường hợp điển h́nh gặp cá voi cứu thoát nạn. Nhớ lại chuyện xưa, bà Sơn vẫn chưa hết bàng hoàng:
“Năm 1966, tôi đi trên một chuyến tàu chở 63 người từ Sa Huỳnh tới cửa An Vũ. Gặp sóng lớn đánh tàu ch́m, 62 người kia đều chết đuối. Riêng tôi, tuy không biết bơi, nhưng khi uống nước biển kiệt sức tưởng đâu bỏ xác ngoài khơi th́ được “ông” đến “hộ” đưa vào bờ”.
Cơng tàu vượt nạn.
Những ngày vào mùa Nghinh Ông này, đi đến đâu chúng tôi cũng nghe rất nhiều chuyện cứu người của “ông Nam Hải”. Nhiều chiếc tàu hàng chục tấn, chở vài chục người bị nạn ngoài khơi đă được cá voi đưa vào bờ an toàn.
Về vùng biển Rạch Giá Kiên Giang, chúng tôi gặp ông Nguyễn Văn Hùng 37 tuổi, ngụ 370 An Ḥa Rạch Giá, chủ tàu KG 9116 TS. Nghe chúng tôi nhắc chuyện được cá voi cứu, ông Hùng khẳng định ngay:
“Hôm đó đúng là ngày đáng nhớ nhất trong đời ngư phủ của tôi”. Ông kể:
Vào tháng 4-1996, khi đang đánh bắt cá tại vùng biển Ḥn Chuối Kiên Giang, tàu ông gặp băo bị phá nước, các thủy thủ cùng nhau bơm, tát liên tục cũng không kịp. Ông Hùng lập tức quay mũi về hướng sóng, thả neo cầm cự và tiếp tục bơm tát nước ra. Song, sóng to gió lớn khiến neo bị đứt, tàu quay ngang nước vô lênh láng.
Ông Hùng hồi tưởng:
“Lúc tàu sắp ch́m, tôi chỉ biết khấn vái nhờ “ông” phù hộ, nếu c̣n sống được về đất liền th́ sẽ cạo đầu, ăn chay. Lời khấn cầu của tôi như linh nghiệm. Chẳng bao lâu sau, tàu từ từ nổi lên như không có tải trọng, nhẹ tênh. Các thủy thủ không hiểu chuyện ǵ nhưng vẫn h́ hục tát nước và tôi cho quay mũi tàu vào bờ chạy hết tốc độ.
Cảm giác lúc đó rất lạ, tàu như đang cưỡi trên một tấm đệm. Sau 4 giờ khi vô tới gần ḥn Đá Bạc, tàu bị chuyển mạnh một cái từ dưới mạn. Tôi đưa mắt quan sát th́ thấy một khối h́nh cầu đen bóng khổng lồ có bề ngang chừng 3 mét nổi lên và đi ra xa. Lúc này tôi mới biết tàu ḿnh được “ông” áp tải vô bờ. Khi tất cả thủy thủ lên được trên ḥn Đá Bạc, tàu liền va vào đá rồi vỡ tan ch́m dần”.
Ở vùng biển Nha Trang, chúng tôi gặp ông Nguyễn Sơn và được nghe ông kể về chuyện được cá voi cứu cách nay hơn 20 năm.
“Năm 1982 khoảng 40 người chúng tôi đang đi trên một chiếc tàu th́ bị phá nước đắm dần, tưởng chắc đều phải bỏ xác giữa biển khơi. Giữa lúc hỗn loạn, ai đó chợt hét bảo người lớn tuổi nhất trên tàu đứng ra khấn vái “ông”. Lúc tàu sắp ch́m hẳn, bỗng chúng tôi thấy xuất hiện hai khối h́nh cầu đen bóng kè hai bên mạn, nâng d́u tàu đi. Được một đoạn, chúng tôi gặp một tàu đánh cá và được họ cứu thoát”. Ông Sơn nhớ lại.
Được phong tước “Nam Hải đại tướng quân”
Theo các lăo ngư, cá voi được ngư dân sùng kính gọi là “ông Nam Hải”- từng được vua Gia Long sắc phong tước “Nam Hải đại tướng quân”. Cũng có thuyết cho rằng vua Gia Long phong tước Càn khôn Quốc gia Nam Hải Cự tộc Ngọc Lân Trung đẳng thần cho cá voi.
Tương truyền vào khoảng năm 1799, Nguyễn Ánh trong lúc trốn chạy quân Tây Sơn định vượt biển sang Xiêm La th́ gặp băo lớn. Sau lưng quân Tây Sơn đuổi theo, trước mặt th́ dông gió băo bùng, Nguyễn Ánh nh́n trời khấn nguyện:
“Nếu trời c̣n tựa Nguyễn Ánh này th́ xin pḥ hộ thoát qua cơn thập tử nhất sinh”.
Ngay sau đó, từ dưới nước bỗng nổi lên cặp cá voi kẹp hai bên mạn thuyền đưa lưng đỡ d́u thuyền Nguyễn Ánh vào đất liền b́nh an. Đến năm 1802, sau khi lên ngôi, Gia Long có chỉ sắc phong cho cá voi là “Nam Hải đại tướng quân”.
Xung quanh những điều kỳ bí
Chuyện về “Nam Hải đại tướng quân”, nhất là việc cứu người trong cơn nguy nan giữa trùng khơi, dù ngẫu nhiên, dù khoa học đă hoặc chưa thể giải thích, ngư dân vẫn truyền miệng nhau những điều kỳ bí. Tuy nhiên, sáng tạo ra vị cứu tinh trên biển như “ông Nam Hải” là biểu hiện của trí tuệ dân gian nhằm củng cố ḷng quả cảm trước hiểm nguy khó lường giữa đại dương
Đi đến bất cứ vùng biển nào, chúng tôi cũng được nghe ngư dân truyền tụng nhiều câu chuyện đầy huyền thoại của cá voi “ông Nam Hải” của họ.
Cầu ǵ được nấy
Ở làng biển Đông Tác, phường Phú Đông Tuy Ḥa Phú Yên, chúng tôi được nghe câu chuyện “ông” cứu người đầy vẻ bí ẩn. Con cháu ông Nguyễn Quảng Nam (đă mất), ngụ tại làng này, cho biết ông Nam không hề biết bơi. Cách nay trên 10 năm, ông đi theo một tàu đánh cá gồm 6 người th́ gặp sóng đánh ch́m. Năm người kia thiệt mạng, chỉ có ông Nam sống sót nhờ được “ông” cứu.
Người nhà ông Nam kể với chúng tôi câu chuyện thoát nạn: Khi rơi xuống biển, ông Nam liên tục khấn vái cầu cứu “ông” đến “hộ”. Khi gần lịm người v́ đuối sức, một sinh vật khổng lồ h́nh cầu, da trơn nhớt đen bóng đến nâng d́u ông Nam đến tận băi Đá Đăng, cách bờ hàng chục cây số. Đến băi Đá Đăng, ông Nam không thể leo lên được do đuối sức, phần v́ do vách đá thẳng đứng không chỗ vịn.
Ông tiếp tục khấn nguyện:
“Có thương th́ thương cho trót, xin ông đưa con đến chân cầu Ba Chân”.
Tuy cầu Ba Chân cách băi Đá Đăng cả trăm cây số, song trong lúc mơ màng, ông Nam vẫn nhớ rơ ḿnh được “ông” tiếp tục nâng d́u đến tận đây.
Người nhà ông Nam c̣n cho biết, ông rất khoái ăn thịt chó nhưng từ khi được “ông” cứu liền từ bỏ ngay sở thích này. Bởi ngư dân nào cũng tin rằng đă thờ cúng, tin tưởng “ông Nam Hải” th́ phải nhất thiết không bao giờ được ăn thịt chó, nếu không sẽ có tai nạn xảy ra.
Thế nhưng, nhiều năm sau khi được “ông” cứu, ông Nam chợt muốn thử lại cảm giác khoái khẩu khi dùng thịt chó, và ngay sau bữa ăn đă lăn đùng ra chết! Tuy nhiên, không ít người dân trong làng khẳng định với chúng tôi, ông Nam bị trúng gió không cứu chữa kịp nên thiệt mạng.
Xôn xao khi “ông lụy”
Nhiều ngư dân từng chứng kiến cảnh “ông lụy” (cá voi chết) cũng kể lại cho chúng tôi rất nhiều điều kỳ bí. Ông Nguyễn Văn Út 70 tuổi, ở Tuy Ḥa Phú Yên, nhớ lại những lần chứng kiến cảnh “ông lụy” trong đời ḿnh:
“Lúc sắp lụy, ông sẽ t́m cách vào bờ. Lúc này biển dậy sóng dữ dội, xung quanh ông có vô số “binh tôm tướng cá” pḥ ông vào”.
Hầu hết các ngư dân đều tin rằng không phải vùng đất nào cũng được “Nam Hải đại tướng quân” chọn để vào bờ “lụy”. Vùng “ông” chọn để gửi xác những năm sau đó trù phú khác thường. “Đặc biệt trong năm “ông lụy”, ngư dân vùng biển đó sẽ được mùa cá bội thu”. Ông Vơ Mưa 73 tuổi, ngụ thôn Kim Giao, xă Hoài Hải, huyện Hoài Nhơn B́nh Định, bảo.
Ông cho biết:
“Năm 1957, lúc tôi 11 tuổi, làng phát hiện một ông sắp lụy đâm vào bờ. Cả làng đưa về miếu chuẩn bị các thủ tục chôn cất nhưng đợi hoài ông vẫn không đi, mắt vẫn mở và đuôi vẫn ngo ngoe. Phải đến ngày thứ ba, khi các bô lăo khấn hứa sẽ nhang khói thờ phụng đàng hoàng, ông mới vẫy đuôi rồi nhắm mắt lụy. Đó là điều cả đời tôi chưa từng thấy v́ không sinh vật biển nào sống lâu trên cạn như vậy”.
Ông Hồ Ngợi 58 tuổi, làng Phú Câu, phường 6 Tuy Ḥa Phú Yên, đoan chắc với chúng tôi rằng đă chứng kiến một chuyện khó tin khi “ông lụy”:
“Cách nay 15 năm, làng Phú Câu phát hiện ông tấp vào bờ sắp lụy, liền huy động hàng trăm người dân, trong đó có tôi, khiêng “ông” về để lo hậu sự. Thế nhưng, hàng trăm ngư dân to khỏe không thể nào nhấc nổi “ông”. Khi vị trưởng lạch đứng ra cúng vái hồi lâu, chúng tôi liền khiêng “ông” đi một cách nhẹ nhàng”.
Sáng tạo đấng cứu tinh
Nhiều ngư dân đă thêu dệt chuyện “ông Nam Hải” trước khi cứu người, cứu tàu sẽ phun nước bọt trấn áp sóng to gió lớn khiến biển lặng trời yên. Song, điều này đă được giải thích: Khi gặp thời tiết xấu, nhất là khi có gió băo khiến đại dương dậy sóng dữ, cá voi tự vệ bằng cách phun ra nhiều đờm. Chất đờm này có tác dụng như vệt dầu loang trên mặt nước biển, sẽ khiến sóng chỉ lềnh dưới mặt nước chứ không mạnh lên được.
Vùng an toàn mặt biển do cá voi phun đờm có diện tích đủ rộng để những chiếc tàu trọng tải hàng chục tấn trở lên có cảm giác biển yên gió lặng... Việc cá voi xuất hiện bên mạn tàu để nâng d́u mỗi khi gặp băo to, sóng lớn cũng được giải thích chính là cách để chúng tự cứu, t́m nơi né tránh cơn giận dữ của thiên nhiên.
Song vẫn c̣n rất nhiều chuyện đầy bí ẩn về “Nam Hải đại tướng quân” được ngư dân tin tưởng, truyền tụng. Ở Phú Yên, ngư dân tin rằng những phụ nữ lớn tuổi song chưa lấy được chồng, chỉ cần chui qua bộ hài cốt của “ông” sẽ được toại nguyện, t́m được tấm chồng như ư. Ở B́nh Định, Phú Yên, Ninh Thuận..., ngư dân c̣n cho rằng bột xương “ông Nam Hải” trị được nhiều chứng bệnh ở người, như hen suyễn, lao phổi...
Niềm tin vào sự trợ giúp của “Nam Hải đại tướng quân” xuất phát từ rất nhiều sự tích tương truyền về khả năng mầu nhiệm của cá voi đối với ngư dân làm nghề khai thác đánh bắt trên biển, dù sao cũng là một giá trị tâm linh đáng trân trọng. Có điều, không nên v́ quá tôn sùng, tin tưởng vào “ông Nam Hải” mà ngư dân lơ là việc trang bị kiến thức cũng như phương tiện kỹ thuật pḥng chống thiên tai khi ra khơi.
Vào thời đại văn minh hôm nay, con người vẫn c̣n tiếp tục bị vùi dập bởi những cơn băo dữ giữa biển khơi. Chuyện về “Nam Hải đại tướng quân”, nhất là việc cứu người trong cơn nguy nan giữa trùng khơi, dù ngẫu nhiên, dù khoa học đă hoặc chưa thể giải thích, ngư dân vẫn truyền miệng nhau những điều kỳ bí. Tuy nhiên, sáng tạo ra vị cứu tinh trên biển như “ông Nam Hải” là biểu hiện của trí tuệ dân gian nhằm củng cố ḷng quả cảm trước hiểm nguy khó lường giữa đại dương.
Trần Hoàng Nhân
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 270 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 12:53am | Đă lưu IP
|
|
|
SỰ PHÂN LY CỦA LINH HỒN VÀ THỂ XÁC
Chúng ta nhờ thông qua Trung Ấm , Chuyển Thức Thành Tựu trong Lục Thành Tựu Pháp của Mật Tông Tây Tạng , mà biết và có được một cái bản ngả khác ; Nhưng chúng ta cũng biết được trong giáo lư của Hiến Giáo và Mật Tông thường chủ trương Vô Ngă Luận , do đó cái Bản Ngả kia chỉ là biểu hiện của Tâm , nhưng Tâm th́ không thể thấy và sờ mó được , v́ nó vô h́nh vô tướng.
Nhưng Hiển và Mật Tông lại nhận rằng Tâm và Bản Ngả là đồng nguyên , Tâm ngă nhất thể . Như vậy cái Bản Ngă nầy là được nhận định trong cảnh giới nào ? Nó có phải là Tinh Thần được tồn tại trong nhục thể ; hay là Đệ Bát Thức hay chỉ là một thể Linh Hồn như mọi người thường gọi .
Tín đồ Phật giáo cho Linh Hồn là Thức thứ tám của con người . Sự quan hệ của ba lớp thân vi tế của con người là Tâm tối vi tế và Phong tối vi tế là ǵ ? C̣n Minh Điểm nữa , Mật Tông xem bản chất của Minh Điểm c̣n cao hơn A Lại Da Thức là thức thứ tám của con người nữa , v́ khi Thần Thức của con người khi xuất ra khỏi thân xác th́ cần lấy Minh Điểm làm Thân để có thể xuất ra ngoài .
Đồng thời với pháp tu Du Già ngày xưa của Ấn Độ , trong thuật tu luyện nội đan của Trung Hoa cũng có phương pháp Dương Thần Xuất Thể , so sánh với phương pháp Linh Hồn Giải thoát của thuật Du Già Ấn Độ cũng có những điểm tương đồng .
Dương Thần Xuất Thể của thuật luyện nội đan Đạo Gia Trung Hoa , c̣n gọi là Dương Thần Thoát Xác , ngày xưa gọi là Siêu Thoát . Phương pháp tu tập cụ thể là Dương Thần được hành giả dưởng dục nuôi nấng tại đơn điền , sau đó đưa dương thần theo các đường kinh mạch đi lên thượng đan điền ở nảo bộ , tại đây dương thần được dưởng dục trong ba năm , sau cùng hành giả có thể xuất nhập dương thần ra vào thể xác.
khi xuất ra tựa như cảnh giới siêu thoát của thái hư , khi thu vào thượng đan điền như nơi trú ngụ để tồn dưởng . Những lần đầu xuất dương thần cần từ tốn chậm chạp , không được gấp rút , không được xuất thần đi xa , mau thu trở về , sau khi xuất thần đă thuần thục th́ mới có thể đi xa ngao du tam thiên đại thiên thế giới.
Lúc đầu v́ định lực không vững , nếu xuất dương thần đi xa , mà không thu trở về được , th́ sanh mạng của nhục thân sẻ bị kết liểu ; tương truyền đạo gia Trương Bá Dương cùng một Thiền Sư cùng trổ tài xuất Hồn đi đến một vườn Hoa ở Dương Châu cách xa ngàn dặm . Khi trở về th́ trên tay của Trương Bá Dương có cầm một cành hoa đă hái được trong vườn hoa ở Dương Châu , nhưng Thiền Sư th́ đi về tay không.
Điều nầy đă nói lên sự xuất hồn của đạo gia là sự xuất Dương Thần nên có thể mang đồ vật về , c̣n sự xuất hồn của vị Thiền Sư kia là sự xuất Âm Hồn , nên không thể mang về vật ǵ được . V́ khi xuất dương thần th́ người khác có thể thấy được hành trông giống như thể xác của họ , c̣n nếu xuất âm thần th́ vô h́nh , người khác không thể trông thấy được , v́ lúc đó hành giả chỉ xuất ư thức thể ra ngoài mà thôi ,v́ ư thức thể nầy không được bao bọc năng lượng của thể phách và thể vía .
Nên sự xuất dương thần của đạo gia cần tu luyện công phu và dài thời gian hơn , v́ đạo gia cần phải luyện tinh hóa khí , luyện khí để h́nh thành đệ nhị xác thân , sau đó dùng thần và khí để nuôi dưởng đệ nhị xác thân nầy cho đến khi có đầy đủ chân tay mạnh mẻ trưởng thành , th́ lúc đó mới có thể nhập chân thần vào đệ nhị xác thân nầy , mà xuất hồn Dương Thần đi ra ngoài thể xác được .
Theo như sự thể nghiệm của Lạt Ma Tây Phương Lobsang Rampa , cư ngụ tại Gia Nả Đại khi xưa , ông nầy có thể xuất hồn , gọi là Linh Thể , hay c̣n gọi là Tinh Quang Thể , Thông Thiên Học gọi nôm na là Thể Vía , để đi bất cứ nơi nào trong vũ trụ hay có thể xuyên núi , xuống biển hay đi vào ḷng đất cũng được .
V́ Tinh Quang Thể nầy không cần hơi thở và ăn uống , Tinh Quang Thể nầy nối liền với Nhục Thân bằng một sợi chỉ Bạc , nên ông có thể tự ư thu hồi Tinh Quang Thể nầy lúc nào cũng được , hay trong lúc xuất Tinh Quang Thể , mà nhục thân bị ai chạm đến th́ Tinh Quang Thể sẻ bay trở về nhập vào nhục thân ngay lập tức .
Tinh Quang Thể nầy có h́nh dạng giống nhục thân của nó , nhưng rất nhẹ nhàng , nhưng khi nó bay ra th́ người thường không trông thấy nó được, v́ nó là một dạng của âm thần . Những vị Lạt ma cao cấp của Tây Tạng thường dùng phương pháp nầy để có thể ngồi ở nhà mà có thể biết được chuyện của thiên hạ vậy .
Chúng ta biết được qua kinh nghiệm của những hành giả tu luyện thuật Du Già , tuy khí mạch của thân thể nhiều như lá cây của thân cây Bồ đề , nhưng chỉ có luân xa tim , lại có đến 101 đường kinh mạch tủa khắp ra , trong đó có một đường kinh mạch quan trọng chạy thông lên nảo bộ , con đường nầy được mệnh danh là Vỉnh Sanh Chi Lộ . V́ hành giả có thể xuyên qua con đường nầy mà xuất hồn ra ngoài để được siêu thoát sinh tử .
Thuật Du Già YoGa có sự tương quan với Mật Tông Tây Tạng , hai phái nầy đă nối thông Phạn Huyệt của Tâm Tạng và Phạn Huyệt của Đỉnh đầu bằng một thông hào đứng thẳng trong trung mạch , trong đó có sự lưu thông của Minh Điểm là trung tâm cảm thụ trong pháp tu của Mật Tông .
Trong pháp tu Đại Bi Quán Âm Phowa Pháp có nói rằng : Từ tim lên đỉnh đầu có một ống trung mạch , ống nầy ngoài màu trắng , bên trong th́ màu đỏ , ống nầy trên th́ thô , ở dưới th́ nhỏ , có h́nh dạng như phần cuối của thân cây kèn loa Trumpet ; mạch ống nối khởi lên từ giữa tim có tỏa ra bốn cánh hoa màu trắng , trên đó có một nguyệt luân màu trắng , trên nguyệt luân đó có một hạt Minh Điểm to bằng hạt đậu màu trắng đang chói sáng.
Đây là thể tập hợp tự thân bản thức của hành giả Khi hành giả tu tập được thành tựu phương pháp Phowa , hành giả cần tu thêm pháp Phật Trường Thọ Pháp , nếu không hành giả sẻ bị chết yểu đoản mạng ; nếu Minh Điểm xông ra đỉnh đầu mà hợp nhất với tâm của Bổn Tôn trên đỉnh đầu , th́ sanh mạng nhục thân của hành giả sẻ bị kết liểu và lúc đó chỉ có linh hồn của hành giả được vảng sanh nơi Tịnh Thổ , không ai biết ....
Hiện nay, có nhiều người tu tập theo Tịnh Độ Tông , mọi người đều niệm A Di Đà Phật , nhưng họ không biết ǵ ? Chỉ một ḷng niệm hồng danh Phật ; nhưng khi đọc xong và biết được sự chuyển thức và cảnh giới trung ấm trong các pháp tu của Mật Tông , th́ họ biết rằng cách tu của Mật Tông là một con đường dể đi và có hiệu quả nhất , để thoát ly sanh tử , thoát ly biển khổ để trực chỉ Bồ Đề , mà được văng sanh Tịnh Thổ vậy .
Phương Pháp Chuyển thức Phowa có cả thảy mười mấy loại , nhưng nguyên lư cùng cơ bản tu tập đều đại đồng tiểu dị . Từ trên cho ta thấy , như vậy bản nguyên của Tinh Thần có thể độc lập tồn tại và phân ly với nhục thể.
Và trong nhục thân nầy thực sự có sự tồn tại của Linh Hồn và Linh Hồn nầy , trước hay sau khi nhục thân chết nó vẩn tồn tại ( Thông qua sự ấn chứng của hành giả tu tập Trung Ấm Thành Tựu Pháp trong là một trong sáu pháp môn Du Già của Naropa ) và linh hồn nầy cũng có đầy đủ hoạt động của một người thường trong cảnh giới của nó .
Có một phương pháp Phowa khác , là Bạch Không Hành Mẩu Thiên Thức Pháp , phương pháp nầy , tương tự như phương pháp song tu của nam nữ ; là trong khi tu tập Bổn Tôn của hành giả là Bạch Không Hành Nữ đang bay ở trên đỉnh đầu của hành giả.
Lúc nầy Bạch Không Hành Nữ hai tay nâng hai chân lên , Liên Hoa của Bạch Không Hành Nữ hạ xuống đâm vào phần trên trung mạch ở đỉnh đầu của hành giả , lúc nầy Minh Điểm trong trung mạch của hành giả tuôn chảy vào Liên Hoa Cung của Bổn Tôn .
Như vậy sự thu hút của dị tính , không chỉ là hiện tượng của vật lư và sinh lư , mà trên lảnh vực tinh thần nó cũng có một sự tương hấp dị tính , có một nội dung hàm dưởng rất là sâu xa vi diệu .....
Ngày nay , sự tu tập thành đạt được Ảo Thân trong Mật Tông Tây Tạng , được xem là một thành tựu cao nhất , mà khoa học Thần Kinh , Tâm Lư Học , Triết Học ngày nay khó có thể giải thích nổi ...
Chúng ta nên biết đặc tính của Ảo Thân là có đủ đầu ḿnh cùng chân tay , nhưng nó không có thực thể và các khí quan nội tạng , có máu huyết , xương thịt như người thường , nó được tạo ra từ thân thể máu thịt , nhưng lại là một xác thân khác với nhục thân , và nó có thể nhập làm một với nhục thân , nó được xem như là một “Nhục Thân” mới vậy .
Ảo Thân là do năm loại căn bản khí tạo thành , chủ yếu nhất là Tính Mạng Khí , nó không phải là ảo tưởng , nó là h́nh dáng sanh khởi của Bổn Tôn , do Phong Tâm Vi tế ( Trí Tuệ Khí ) hiển phát mà tạo thành .
Phương pháp Phowa là một phương pháp thẳng tắt , không thông qua quá tŕnh trung gian , mà đem tối phong tâm vi tế là tâm khí từ nhục thể phân ly ra và xông lên đỉnh đầu , ảo thân chứng được các ánh sáng màu sắc của tám cảnh khác nhau , khi Khí đi qua các giai đoạn Khí Nhập Trụ Viên Dung vào trung mạch Do đó , thân ánh sáng là do ngũ sắc quang tạo thành . Bản chất của ảo thân như h́nh trong gương , trăng trong nước , cầu ṿng trên trời là hư không nhưng thanh thoát vậy .
H́nh tượng Phật của Hiển Tông có 32 tướng tốt , 80 tùy hảo ; nhưng những tướng nầy từ đâu ra ? Hay là do con người tô vẻ thêm , tạo ra vẻ mỹ lệ trang nghiêm .
Nhưng khi hành giả tu hành Mật Pháp và đă chứng đắc được Ảo Thân , th́ lúc đó hành giả , mới biết được Ảo Thân có 32 tướng tốt và 80 tùy hảo, ngoài ra nó c̣n có thể biến hóa vô số , để làm lợi ích cho chúng sanh ; do đó , Ảo thân thực sự là Sắc Thân của Phật vậy .
Như vậy , làm sao ta biết được sự tồn tại của Ảo Thân ? Vấn đề nầy thuộc phạm vi của nhận thức siêu cảm , chỉ có một ḿnh hành giả khi chứng đắc được ảo thân nầy mới có thể biết và cảm thọ được sự tồn tại của ảo thân nầy mà thôi .
Khi Ảo thân được tu tập tăng tiến thêm , th́ nó lại được chia ra làm Trọc Ảo Thân và Tịnh Ảo Thân ; Trọc Ảo Thân là tiền thân của Tịnh Ảo Thân . Trọc Ảo Thân xuất hiện khi đại lạc sản sinh , khi hành giả chỉ mới đạt đến sơ bộ cứu cánhcủa sự thể ngộ Thể Không .
Chỉ khi nào hành giả đạt đến tám cảnh báo trước của các loại ánh sáng cận tử , mà loại ánh sáng cuối cùng là Du Quang Minh biến thành Chân Chánh Cứu Cánh Quang Minh , tức là Nghĩa Quang Minh , lúc nầy Trọc Ảo Thân sẻ giống như một cầu ṿng bảy màu bay lên tan biến trong không gian , để từ đó có thể hiện khởi ra Tịnh Ảo Thân vậy .
Như vậy , khi hành giả từ trong đại lạc của thiền định , trực tiếp thể ngộ Không Tính , đả đạt được Tịnh Ảo Thân , lúc nầy hành giả đă tiêu trừ tất cả những chấp trước , giải thoát và tiêu trừ tất cả những chướng ngại trên đường tu ; như thế , khi chứng đắc được Ảo Thân , hành giả đả có thể từ trong hiện kiếp mà có thể đạt đến quả vị Phật vậy .
Chúng ta làm thế nào để biết được hành giả tu Mật pháp nào đă đạt được Ảo Thân ?
Không có được phương pháp nào để biết được hành giả nào đả đạt được ảo thân , v́ người nào đă đạt được ảo thân th́ thân thể của họ cũng trông giống như người b́nh thường , ta không thể nh́n biết được , bởi v́ Tịnh Ảo Thân là một Thân Trí Tuệ tiềm ẩn bên trong tâm của người đó , nó là Chân thân của người đó , nó có sức thần thông biến hóa vô cùng , và chỉ có họ biết được mà thôi .
Như cổ nhân có nói Đại Ẩn , Ẩn Triều Thị ; Tiểu Ẩn Ẩn Sơn Lâm , tức những người thật sự có tài và cao nhân th́ thường ẩn thân ḿnh ở nơi chợ búa thành thị náo nhiệt và chỉ để lộ ra ngoài là một người tầm thường không ra ǵ , như Tế Điên Ḥa Thượng hay những Gián Điệp , Đặc Công , Khủng Bố ngày nay vậy , không ai biết được họ , v́ họ cũng giống như người thường.
Có khi người nầy dùng những hành vi hạ tiện , thô bỉ hay dơ dáy để mọi người tránh xa không chú ư , để che mắt thiên hạ , hay họ dùng bộ mặt nhân từ đạo đức vô hại để làm nhàm chán mọi người , rồi để qua đó họ mới có thể hành động theo mục đích riêng cứu đời hay hại đời của họ vậy .
Vậy Ảo Thân là vật chất hay là phi vật chất ? Theo như Phật giáo thường nói , không rơi vào hai cực đoan hửu và vô , đó mới là trung đạo ; như vậy cảnh giới của minh tâm kiến tánh không ai có thể dùng lời nói mà nói ra cho được rỏ ràng .
Trong thoại đầu của Thiền Tông có nói “Thấy núi và nước là núi và nước , sau đó lại thấy núi và nước không phải là núi và nước , cuối cùng lại thấy núi và nước thật sự là Núi và Nước vậy ” Loại tam đoạn luận nầy của Thiền Tông , ta cần phải tự thân đi thân chứng , tự giác ngộ , nếu không th́ ta cũng không biết được ǵ nhiều hơn là trên mặt chữ trong kinh sách đă nói ra vậy .
Ánh Sáng–T2
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 271 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 12:54am | Đă lưu IP
|
|
|
HUYỀN THOẠI VỀ ÔNG MƯỜI TƯ BÙA LỖ BAN
Tôi chưa bao giờ hân hạnh được hầu tiếp ông Mười Tư. Nhưng đi tới đâu tôi cũng nghe người ta nói về ông Mười Tư, lính trung đoàn ba thời kháng chiến đủ thứ chuyện hư thực không biết. Thôi, th́ cứ cho là huyền thoại về Mười Tư bùa Lỗ Ban đi vậy.
DÙNG BÙA LỖ BAN BẮT RẮN, TRỊ RẮN
Thời chiến tranh, do tính chất ác liệt của đạn bom, ruộng vườn bị bỏ hoang nhiều, nên rắn mẹ, rắn con ê hề khắp xứ. Người giỏi bắt rắn, trị rắn cắn, lúc bấy giờ rất được coi trọng. Để bắt rắn, người ta phải dùng chỉa, dùng lưới. Riêng ông Mười Tư th́ chỉ dùng tay mà bắt.
Tới đâu đóng quân, ông chỉ cần đi dạo một ṿng các bờ đất, bờ đ́a, bờ ruộng… là thể nào cũng biết ở đâu có rắn, rắn ǵ, lớn hay nhỏ. Khi muốn bắt, ông chỉ cần ngồi xuống kế miệng hang, búng búng ngón tay một hồi là con rắn ở trỏng từ từ chun ra, chịu nằm yên cho ông tḥ tay chụp lấy từng con mà đem về. Hỏi v́ sao làm được như vậy, ông chỉ cười chớ không nói.
Khi có người chẳng may bị rắn độc cắn, người nhà đưa tới nhờ ông làm thuốc, ông thường xem qua chỗ vết cắn một cái, rồi nói:
- Để đó đi, tui uống xong ly cà phê rồi tính.
Nói xong, dù người nhà cuống quưt lo lắng, bao giờ ông cũng thủng thẳng ngồi khề khà uống nước, vấn thuốc hút; xong xuôi đâu vào đó rồi mới trị thuốc. Ông trị bá phát. Chưa có trường hợp rắn độc nào cắn người mà ông trị không được. Theo ông, phải tỉnh trí để định thần, coi xem vết cắn và triệu chứng co giật của người trúng thương, thuộc loại rắn ǵ cắn, mới bốc đúng thuốc mà trị.
Người ta nói, sở dĩ ông làm được tất cả các điều đó là nhờ ông biết bùa Lỗ Ban.
DÙNG BÙA LỖ BAN DẠY CHO KẺ XẤU BÀI HỌC
Một dạo ở Càng long có hai tay lái heo chuyên cân non, ép giá heo hơi của bà con. Heo bà con nặng cả tạ mà họ chỉ định giá chừng tám chục kư. Do hoàn cảnh chiến tranh, không bán cho họ th́ c̣n biết bán cho ai. Ông Mười biết chuyện đó nên quyết ra tay dạy cho họ một bài học nhớ đời mà chừa đi thói xấu.
Bữa đó, thấy hai tay lái heo đang ép giá hai con heo của một bà góa, ông Mười mới vỗ vai họ mà nói:
- Bả không chịu giá th́ thôi. Qua tui, tui bán cho sáu con lận.
Hai gả lái heo được ông dẫn qua nhà một người hàng xóm. Trong chuồng ụt ịt sáu con heo ú nu. Con nào con nấy nh́n bằng mắt cũng biết ngay bóc là đều ngoài trăm kư. Vậy mà hai gả mánh mung ép giá mỗi con chỉ trên dưới tám chục kư.
Cân kẹo xong xuôi, hai gả lái heo hồ hởi trói heo, khiêng xuống ghe, giựt máy đuôi tôm chở đi. Họ đi rồi, ông Mười túc tắc qua quán cà phê xéo xéo bên kia đường, ngồi nhâm nhi cà phê đen với thuốc lá Cotab, vui vẻ chuyện tṛ với mọi người.
Được một lúc chừng ăn dập bả trầu th́ thấy hai gả lái heo chạy ghe đáo trở lại. Gả nào gả nấy mặt mày xanh lét. Té ra họ cân heo thịt, trói heo thịt ràng ràng, vậy mà chở đi chưa tới cây số đă thấy cả sáu con heo biến thành sáu khúc củi xoài, củi trâm bầu.
Cả hai đứng cúi mặt, chắp tay xá ông Mười:
- Bác làm ơn làm phước tha cho tụi con. Tụi con chỉ là người đi mua heo cho chủ, tranh thủ ghé vô chút đỉnh kiếm miếng cháo.
Ông Mười nói thủng thẳng:
- Ép giá người ta mỗi con cả hai chục kư mà kiếm cháo cái con mẹ họ ǵ. Thôi, biết điều th́ qua xin lỗi người ta, trả đúng giá cho người ta. Từ rày trở đi, nhớ đừng có mà manh tâm làm bậy. Tiền đây, đem qua bển mà mua cho đàng hoàng.
Nghe nói, từ độ gặp ông Mười, hai gả lái heo không c̣n thói mua gian bán lận nữa. Đó cũng là nhờ ông Mười dùng bùa Lỗ Ban trị bịnh cho chúng.
ĐỪNG TRÊU MẸ MƯỚP MÀ XƠ CÓ NGÀY
Trên đường đi công tác, ông Mười và anh em bắt được một con rắn ri voi nặng chừng gần hai kư. Đă gần trưa, trời lại mưa mù mịt tầm tả, bởi vậy anh em quyết định ghé vô nhà dân nghỉ chân, nấu cơm ăn rồi mới đi tiếp.
Chủ nhà là một bà xồn xồn, tính t́nh rất khó chịu.
Nghe anh em xin nghỉ nhờ nấu cơm trưa, bà ta nói:
- Soong nồi th́ có sẵn đó, c̣n củi nả th́ mấy chú chia nhau đi quơ về mà chụm. Nhà tui củi phải mua từng cây, mấy chú thông cảm.
Anh đội trưởng nghe vậy, mới lên tiếng:
- Mưa dầm dề mấy hổm rày, biết quơ đâu ra củi khô. Hay là thím làm ơn chia cho tụi tui một mớ.
Bà chủ nhà nhún vai:
- Phải trời nắng th́ nói làm chi. Mưa gió vầy đây, làm sao tui dám chia cho mấy chú. Mấy chú nhắm không kiếm đâu ra củi th́ chặt chưn ra mà nấu.
Ông Mười nghe vậy, mượn ngay cái búa bửa củi, ngồi xuống bực thềm trước cửa, vung tay đẻo ống chân nghe phực phực. Cứ mỗi nhát búa vung lên, một lát thịt lại văng ra, máu phun vọt vọt. Bà chủ nhà sợ hết vía, nhưng không thể nào cản được. Lạ một điều là những lát thịt ấy đem bỏ vô ḷ chụm, lửa cháy phừng phừng thành ngọn.
Buổi chiều, khi anh em đă ra đi cả tiếng đồng hồ, người đàn bà khó tính mới tá hoả nhận ra mấy cây cột nơi hàng ba, cây nào cũng bị lưỡi búa vạt đi từng miếng. Tiếc của hùi hụi, nhưng lỡ ăn cơm với thịt rắn nấu cà ri của người ta rồi, há miệng mắc quai, biết kêu ai bây giờ.
Thiệt là: Biết tay ăn mặn th́ chừa.
Đừng trêu mẹ mướp mà xơ có ngày.
CHƠI ĐÙA GÁNH SƠN ĐÔNG CHO VUI
Gánh Sơn Đông măi vơ cặm sào lên bờ bán thuốc tể.
Một tay lực lưỡng đi bài xà quyền mềm như rắn; hai bàn tay chụm lại, mổ mổ như thế rắn hổ vờn mồi, mổ con mồi. Dứt bài quyền, y tuyên bố sẽ bắt từ trong ống tre ra một con hổ mang bành. Đây là bài tủ của gả, biểu diễn đă rất nhiều lần, rất được bà con hồ hởi hưởng ứng.
Bài của gả là cầm cái ống tre đă thông bộng trống lổng, đi ṿng ṿng cho bà con nh́n tận mắt bên trong không có bất cứ một thứ ǵ. Sau đó y bay người, hét lên một tiếng, tḥ tay vô ống tre lôi ra ràng ràng một con rắn hổ to cỡ cầm tay người lớn.
Bá tánh phục tài, vừa vỗ tay rốp rốp tán thưởng, vừa ới ới mua thuốc tể rần rần. Ấy vậy mà lần này đă ba lần bay lên, ba lần cất tiếng hét rợn người, gả vẫn không tài nào lôi ra được con rắn. Không chỉ ḿnh ên gả, mà cả ông bầu cũng đổ mồ hôi hột giọt giọt.
Đang lúc túng cùng, gả măi vơ Sơn Đông nhác thấy ông Mười đang đứng khoanh tay, nhịp nhịp bàn gị, cười tủm tỉm. Biết gặp phải sư tổ, gả này qùy dưới chân ông bái lạy:
- Sư phụ buông tha cho đệ hành nghề. Đệ tử đội ơn sư phụ muôn muôn!
Ông Mười khẻ gật đầu một cái. Gả nọ bay lên, lôi phắt ngay từ trong ống tre ra con hổ mang bành. Cả xóm vỗ tay rân trời. Thuốc tể lại bán chạy rần rần.
Những huyền thoại đại loại như vậy về ông Mười Tư nhiều vô kể. Mới đây, anh Giành, nguyên là vệ binh của tỉnh ủy trong chiến tranh, c̣n chém tay vô không khí mà thề với tôi: “Chuyện Mười Tư là có thiệt chớ bộ! Chú Mười Rạng c̣n sống làm chứng cho tui. Hồi đó, ông Mười Tư nhờ biết bùa Lỗ Ban, vô ra đồn bốt điều nghiên giữa ban ngày chớ hổng thèm lựa lúc tối trời, vậy mà lính đồn hổng ai nh́n thấy. Nhờ ổng, đàng ḿnh lấy biết bao đồn bốt của chúng một cách dễ ợt!”.
Không gặp được ông Mười Tư, tôi đành phải gật đầu với anh Giành chớ biết sao bây giờ.
Hồ Tĩnh Tâm
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 272 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 12:55am | Đă lưu IP
|
|
|
CHỬA BỆNH BẰNG TÂM LINH
Làm cho người điếc nghe lại, người câm nói được, hoặc chữa bệnh ung thư: “chiến trường” siêu tâm lư học ở nga không có giới hạn. phóng viên tạp chí le figago magazine Pháp, đă trực tiếp đến gặp ba bác sĩ điều trị bằng ngọai cảm và kể lại trên các số báo ra ngày 20-06-1992.
Ở vùng nông thôn cách Moskva 100km về phía tây có một ngôi làng với khoảng 30 căn nhà gỗ dành cho cán bộ về hưu Alexander Petrovich đại tá cục t́nh báo trung ương Liên xô cũ, nổi tiếng là một nhà ngoại cảm, một chuyên gia chữa bệnh bằng thôi miên.
Mỗi tháng hơn 800 người đến khám bệnh trong căn pḥng nhỏ của ông ở thị trấn gần đó. Một con số đáng ngạc nhiên! Mặc dù ông chỉ làm việc vào ngày cuối tuần mà thôi, nhưng vào mùa hè bệnh nhân sẵn sàng cấm lều trại trên các cánh đồng lân cận; xe hơi xe buưt nối đuôi nhau dài hàng trăm mét.
Ngoài cấp bậc trong quân đội Petrovich c̣n là “tiến sĩ khoa học” về tâm lư. Thực ra tài năng ngoại cảm của ông không biểu hiện qua bằng cấp. Từ lúc c̣n bé ông đă trị được bệnh bằng tay không và thôi miên.
Cha và ông nội ông cũng biết trị bệnh như thế. Trong quân đội ông tham gia vào kế họach chuẩn bị tâm lư cho binh sĩ, phục hồi tâm lư cho những người thoát chết sau cuộc chiến ở Afghanistan cũng như nạn nhân vụ nổ ḷ nguyên tử Chernobyl.
Bạn hăy tiếp tục đọc và có thể tưởng rằng hai trường hợp sau đây khác biệt nhau. Nhưng cả hai đều tương đồng ở chỗ: mọi vấn đề liên quan đến cột sống, dù đó là ca chấn thương đơn thuần hay ca nhiễm bức xạ.
Aliocha là một bệnh nhân râu tóc xồm xàm, mặc áo quần vá víu. Đầu tiên Alexander t́m cách làm cho ông ta ngủ, nhưng không phải thôi miên bằng mắt, hay bằng mệnh lệnh mà bằng tay.
Alexander đứng sau lưng Aliocha, không hề chạm vào thân mà chỉ đưa tay gần sau đỉnh đầu. Vài giây sau, Aliocha rơi vào giấc ngủ. Alexander di chuyển tay từ từ về phía sau, thân h́nh Aliocha cũng dần nằm ngữa ra, chân không chút động đậy.
Thân người nghiêng dần 20 độ. Sau vài phút tay vẫn không chạm vào thân h́nh bệnh nhân, Alexander từ từ dựng đứng thân h́nh Aliocha lại, khi Alexander búng tay, Aliocha sẽ choàng tỉnh dậy.
Không một lời trao đổi nhau trong suốt ca chữa bệnh! Alexander cho biết: “Aliocha c̣n phải trở lại lần nữa. Từ khi được tôi chữa bệnh, ông ta đă phục hồi được 40% thị lực”.
Bệnh nhân Nicolai cũng được điều trị theo phương pháp ấy. Đầu năm 1992 Nicolai bị xe lửa cán phải và anh ta không thể đi lại được nữa.
Khi Nicolai đến cho đại tá Alexander khám bệnh, Alexander lướt tay phía trên đường cột sống của anh ta, rồi th́nh ĺnh bấm một phát. Tay kia nắm một mớ con lăng bằng đồng (nhỏ cỡ 50g lớn đến 15kg) cán mạnh dọc xương sống Nicolai. Cuối cùng ông ta chập hai tay vào nhau và với tất cả sức lực hơn (100kg) chà lên cột sống lần chót.
Alexander nói: “Tôi là bác sĩ y học dân tộc. Không bao giờ lấy tiền tôi phục vụ cho những ai cần đến thiên tư ngoại cảm của tôi”.
Vài giờ sau đó Nicolai một lần nữa lại ch́m trong giấc ngủ. Alexander đặt Nicolai nằm ngang, đầu và chân tựa lên hai chiếc ghế dựa, c̣n thân h́nh lơ lửng trong khoảng không. Sau đó với thân h́nh nặng hàng tạ của ḿnh, ông leo lên ngồi mà lại ngồi theo kiểu cưỡi ngựa nữa chứ! Không có vẻ ǵ để chữa bệnh cả.
Vâng ông ta làm vậy chỉ để chúng tôi xem, để chứng tỏ là ông không gian lận, không có mánh khóe ǵ cả. Nhưng tại sao cả Aliocha và Nicolai đều im lặng như thế? Họ thông đồng với nhau chăng?
Tôi yêu cầu hăy thôi miên cho tôi ngủ. Ông ta cười và bước ra sau lưng tôi. Tôi không thấy các bàn tay của ông ta nhưng tôi cảm thấy sức nóng rần rần chạy lên người tôi. Tôi chỉ biết tất cả những ǵ xảy ra sau giấc ngủ theo lời kể của người chụp ảnh đi theo tôi.
Không có vấn đề ǵ cả: Tôi ở tư thế nghiêng 20 độ! Tôi không c̣n nhớ ǵ cả ngọai trừ tiếng búng tay quen thuộc của Alexander.
Hơn 20 năm nay các bác sỹ ở Pháp chẩn đoán một chân tôi ngắn hơn chân kia 3 cm. “ nào vậy là b́nh phục trong một hay hai ngày tới anh sẽ thấy rêm khắp người” ông nói.
Lần này tôi có thể kiểm chứng lại được: trong hai tháng nữa nếu các gót giày mới của tôi cùng độ ṃn như nhau, điều này mới là là!
Trước khi chia tay Alexander đưa chúng tôi đến một công trường gần đó, nơi mà ông đang lập kế họach xây dựng một trung tâm nghiên cứu các hiện tượng bí ẩn. Các hạng mục chính đă hoàn tất. Công tŕnh xây dựng trung tâm này có thể hoàn thành trong 6 tháng nữa với chi phí 200.000 đôla.
Bệnh nhân khắp thế giới sẽ đến tại đây chữa bệnh, có thể thuê pḥng ăn uống tại nhà hàng. Chúng tôi chia tay với nhà ngọai cảm Alexander Pertrovích. Cuối tuần ông c̣n chữa bệnh cho 200 bệnh nhân không lấy tiền công.
Thành phố Joukovsky nằm cách Moskva 40km về hướng bắc. Đây là thành phố khoa học của Nga, lá phổi của thủ đô cách đó vài km là trung tâm thử nghiệm máy bay duy nhất trên thế giới với hầm quạt gió đặc biệt của nó.
Ngay cả đến hăng Airbus phải đưa máy bay đến thử nghiệm ở đây. Tiến sỹ triết học và tâm lư học Alexander Spirkin, viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia được xem là bậc thầy trong lĩnh vực siêu tâm lư học của Nga.
các bài viết của ông đă được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Ông bước vào nghiên cứu môn siêu tâm lư học sau chiến tranh thế giới lần hai, khi làm việc chung với giáo sư Messing. Ẩn sau khuôn mặt già nua hôm nay là hai con người, một Spirkin một nhà hiền triết hấp thu học thuyết vũ trụ Hy lạp cổ đại, và một Spirkin nhà khoa học với những kinh nghiệm hiểu biết đáng kinh ngạc.
Alexander Spirkin quan niệm môn siêu tâm lư học của ông như sau: “để biết được những vùng đất tốt, đă có các con muỗi, c̣n hiệu nghiệm hơn cả siêu âm. Nơi nào có chúng nơi đó đất tốt. Vả lại ḅ cái không nằm bất cứ đâu trên cánh đồng. Những truyền thống tập tục dân gian thường có nền tảng thật sự”.
Vào năm 1976 Alexander Spirkin trực tiếp lănh đạo một pḥng thí nghiệm. Chính ông kiểm tra tuyển chọn nhân viên người nào sẽ là người có khả năng ngọai cảm. Ưng cử viên phải hội đủ ba tiêu chuẩn: hồ sơ, sức hút của đôi tay (vấn đề quan trọng đối với thí nghiệm sinh là từ trường và năng lượng sinh học tỏa ra) và cuối cùng là ṿng cung viền quanh đồng tử mắt.
Năm loại ṿng xếp theo độ dày của nó. Chỉ có loại thứ năm dầy nhất mới có đủ quyền lực về ngọai cảm. Cho đến nay không một phi công lái máy bay chiến đấu nào của Liên xô (cũ), ngay cả những nhà du hành vũ trụ vượt qua đựơc tiêu chuẩn tuyển chọn này “trên một chiếc thuyền đánh cá, chỉ với hai que kim loại nhà khoa học ngoại cảm có thể phát hiện được tàu ngầm trong phạm vi đến tận chân trời”
Ở Moskva gần thành phố Arbat, được ví như đại lộ champs Elysées của Paris, mọc lên một khu nhà rất tráng lệ. Lối ra vào của khu nhà này trang bị hệ thống mă số, cửa bộc thép dày. Bên trong có khỏang sáu, bảy người làm việc tất bật, căn pḥng được trang bị đầy đủ camera, truyền h́nh, đầu máy video… đây là nơi làm việc của nữ chuyên gia ngọai cảm Djouna.
Djouna không chỉ là nhà ngọai cảm không thôi, cô c̣n biết vẽ, làm thơ, ca hát phát minh ra những dụng cụ y khoa được cấp bằng sáng chế của nhiều nước trên thế giới. Những bằng phát minh này không c̣n là cái ǵ đó đối với cô, các bằng tốt nghiệp của cô nhiều đến độ chồng chất lên nhau.
Đủ lọai bằng cấp của Úc, Hoa kỳ, châu á, châu phi, Israel….. chưa kể đến chức giám đốc viện hàn lâm quốc gia Djouna về các ngành khoa học năng lượng sinh học. Djouna tên thật là Eugenia Davitachvili là người Georgie (Tbilissi) do số mệnh đưa đẩy cô đến Moskva và may mắn gặp Alexander Spirkin.
Alexander từ chối nói về cô, thực ra chính ông ta ngầm công nhận tŕnh độ ngoại cảm cho cô. Cô luôn luôn là khách mời của điện Kremlin.
Không đủ thời gian tiếp chúng tôi ở pḥng thí nghiệm để chứng minh tài năng của ḿnh, v́ ngày hôm sau cô khởi hành đi khắp thế giới trong ṿng vài tháng, cô chuyển cho chúng tôi một cuốn băng ghi lại buổi phát h́nh dài gần 2 tiếng đồng hồ của đài truyền h́nh về rất nhiều thí nghiệm của cô dưới sự giám sát của các chuyên gia y học. Thật đáng kinh sợ !
Chúng tôi xem một cuốn băng cảnh cô Djouna chữa bệnh cho một người điếc nghe lại được, một cậu con trai câm nói được tiếng “mẹ” đầu tiên.
Ca chữa bệnh lư thú được hơn 5.000 người chứng kiến không biết là dưới từ trường hay năng lượng sinh học tỏa ra từ ḷng bàn tay mà một trái tim không có động mạch, đă được cắt ra trước đó một thời gian lâu, bắt đầu đập trở lại.
Ngoài thời gian hoạt động khoa học nhà ngoại cảm Djouna c̣n vẽ được gần 200 bức tranh và đă từng tặng bức đẹp nhất cho Đức giáo hoàng Jean Paul II….
Kiến Thức Ngày Nay
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 273 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 12:56am | Đă lưu IP
|
|
|
TINH THẦN SỨC MẠNH CỦA BÙA CHÚ
Tuy bị coi là mê tín dị đoan nhưng bùa chú vẫn tồn tại từ xưa đến nay trong văn hóa các dân tộc. Tại sao vậy? câu hỏi chỉ một, c̣n cầu trả lời th́ không bao giờ hết.
Nhiều dân tộc có bùa chú.
Nói chung, bùa chú là dấu hiệu đặc biệt được con người sử dụng cho một mục đích cụ thể cho bản thân hay cho đối tượng có liên hệ với ḿnh.Thực tế, trong sinh hoạt hàng ngày của nhiều dân tộc trên thế giới, kể cả các dân tộc Việt Nam, đều tồn tại bùa chú.
Bùa là một hiện vật cụ thể, chú là một hay vài câu nói có nội dung nhất định được lặp đi lặp lại khi người ta dùng bùa. Dùng bùa chú có hai mục đích: tốt và xấu, tốt cho ḿnh và cho đối tượng của ḿnh, c̣n xấu chỉ riêng cho đối tượng của ḿnh.
Người Việt thường có các loại bùa gần như h́nh xăm trên người, vẽ trên khăn, trên vải để mang và mặc, làm bằng sáp thơm đặt trong hộp gỗ, tượng phật bằng các chất liệu khác nhau để trong hộp hay đeo trên cổ.
Vẽ trên miếng ch́ mỏng, đeo theo người, làm bằng vàng bạc gắn trong người, hy vọng vết thương sẽ được chữa khỏi, viết trên giấy đeo theo người hoặc treo trên tường, khấc trên gỗ đeo trên tường, vẽ vào không khí bằng khói hương…
Thông thường, bùa chú dân gian được làm ra đều nhằm mục đích ǵn giữ hạnh phúc con người: giữ ǵn sức khoẻ, băo vệ người thân và gia đ́nh khỏi những tai ương, lôi kéo đối tượng theo ư muốn của ḿnh: được yêu, được trả thù...
Sức mạnh của bùa chú.
Bùa chú dân gian như để cập ở phần trên chỉ là một dấu hiệu có tác dụng nhắc nhở người sử dụng vững tin vào một điều tốt lành lưôn sẽ đến với ḿnh: tin có Phật phù trợ, tin không bị trúng gió, tin ḿnh lôi kéo được người yêu, tin ḿnh được yêu bay bị yêu, tin lực lượng xấu đă bị ngăn chặn không làm hại được ḿnh…
Mà niềm tin th́ vô tận và trên thực tế niềm tin giúp nhiều người vượt qua được chính ḿnh, vượt qua bệnh tật, khó khăn, đạt được mực đích của cuộc sống.
Một thí dụ của niềm tin này là bùa chú của người Simba. Các chiến binh Simba ở Châu Phi nổi tiếng dũng cảm nhờ bùa chú. Bùa chú của họ là những vạch sơn có thoa nước bùa linh thiêng vẽ khắp người.
Những chiến binh này tin họ được phù phép không sợ đau, không bị gươm giáo đậm nên chiến đấu rất dũng cảm. Trên thực tế, mỗi tiểu đội Simba đều có một "bác sĩ” riêng chuyển cho họ uống nước cần sa. Đây chính là mấu chốt "sức mạnh bùa chú Simba" để họ chiến đấu lăn xả như những chú sư tử châu Phi không sợ chết.
Nhiều bài viết và nhiều lư giải của căn nhà khoa học thậm chí của các pháp sư người làm ra những bùa chú mang tính ma thuật, đều nói rằng bản thân bùa chú không có sức mạnh siêu nhiên nào cả, sức mạnh thực sự của bùa chú chính là yểu tố tinh thần của người mang bùa và người bị bỏ bùa hay bị yểm bùa.
Trên thực tế niềm tin của con người nhiều khi bị lừa dối. Những kẻ dùng bùa chú lừa bịp, gây hại tới người khắp là những kẻ bị lên án. Với tôi, bùa chú là một hộ phận của văn hoá tinh thần, nằm trong văn hoá dân gian của mỗi dân tộc. V́ vậy khi dân tộc c̣n tồn tại th́ bộ phận này, bùa chú vẫn cứ c̣n.
Bùa chú mang tính thần bí, với dụng ư xấu sẽ dần bị thải loại cùng với nhận thức ngày càng cao của con người. Bùa chú mang tính văn hoá dân gian, niềm tin tươi sáng sẽ luôn đồng hành cùng văn hoá dân tộc.
Mường là dân tộc giỏi nhất về bùa chú.
Người Việt Mường rất giỏi làm bùa chú. Từ thời mới bước chân vào nghề khảo cổ tôi được cử công tác ở khu vực có nhiều người Mường sinh sống, tôi có may mắn được một người Mường dạy cho bùa chú.
Người thầy dạy có nói một câu mà tôi c̣n nhớ măi. Đó là, chỉ được dùng bùa chú làm điều thiện, không làm điều ác. Nếu làm điều ác th́ giỏi lắm chỉ làm được cho hai trường hợp sau đó th́ bản thân sẽ chết.
Suốt những năm 1968-1969 tôi đă thâm nhập rất sâu vào đời sống của bà con 8 xă Mường như Tân Lạc, Nhân Nghĩa, Quư Hoà, Thành Đạo và học được rất nhiều bùa. Người Mường có nhiều bùa như bùa yêu, bùa chài ếm, bùa chữa bệnh...
Bên cạnh đó người Thái, Chàm, Tây Nguyên, Bana, Êđê cũng có rất nhiều cách yểm bùa. Đặc biệt người Êđê có rất nhiều bùa thuốc.
Các loại bùa phần lớn được làm từ lá cây tự nhiên như đinh hương, hương nhu, quế chi, các loại vỏ cây trên rừng cũng chỉ ngũ sắc, sau đó dùng những lời chú để chú vào đó.
Bùa cũng có thể làm bằng giấy dán lên tường, thường là bùa phép Phật để linh hồn quấy phá trông vào thấy sợ.
Khoa học và Đời sống
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 274 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 12:59am | Đă lưu IP
|
|
|
THẾ GIỚI BÊN KIA
PHẦN MỘT
Tác giả: Ruth montgomery Coward, Mc Cann & Geoghegan Inc, 200 Madison Ave NewYork N.Y. 10016
Tác giả thuật lại lời của một người từ thế giới bên kia nói lên bằng phương pháp đánh máy tự động. Người ấy tên là Arthur Ford, đă chết ngày 14-1-1971, thọ trên 70 tuổi. Phần lớn đời sống của ông dành cho việc khảo cứu về thế giới vô h́nh. Ông là một con đồng (medium) nghĩa là người có khả năng để cho những linh hồn có thể tiếp xúc với người trần qua trung gian của ông. Có rất nhiều người đă biết tiếng ông.
Ông học rộng, đọc nhiều, sáng suốt, nghĩa là có thể nhận biết ngoài giác quan vật chất, có khả-năng nh́n đồ vật mà đoán được sở hữu chủ. Ngay trong khi thức tỉnh, ông có thể nghe người chết nói với ông. Không như nhiều con đồng cần nơi hoàn toàn đen tối, ông có thể lên đồng bất cứ lúc nào, ban ngày hay đèn sáng, chỉ buộc một chiếc khăn thẫm màu bịt ngay mắt, linh hồn người chết sẽ nói qua miệng ông.
Khi c̣n trẻ, ông là mục sư Tin Lành, ông đă có khả năng nh́n thấy được ngoài tầm con mắt, như một buổi sáng trong trại lính. Trước khi thức giậy, ông "trông thấy" tên những người mới chết đêm vừa qua, ông kể cho các bạn hay, họ ra xem bản danh sách thấy đúng, không những đúng tên mà đúng cả thứ tự. Trong nhiều năm sau ông nghiên cứu về Huyền-Bí- Học.
Tác giả cũng có khả năng nhưng không muốn trở thành con đồng, mà chỉ dùng vào việc đánh máy tự động. Phương pháp nầy cũng như cầu cơ, phụ bút tại Việt Nam, nhưng diễn tả được nhiều hơn, và rơ-ràng nhanh chóng hơn.
Những phiên đánh máy tự độ ng để viết ra cuốn nầy, bắt đầu ít ngàysau khi việc hỏa táng thi hài ông Ford hoàn tất, và tro được răi xuống Đại Tây Dương gần Miami. Những lời trong cuốn nầy là lời của ông Ford mà tác giả thuật lại. Cuốn sách được xuất bản năm 1971 là năm ông Ford chết.
Đại khái những điểm quan trọng như sau:
- Mỗi người là một thực thể tồn tại măi măi trong cơi vô cùng, không đầu, không cuối vô thủy vô chung.
- Mỗi người trong chúng ta là một phần của Thượng Đế, tất cả chúng ta hợp lại là Thượng Đế.
- Mỗi chúng ta đều thiếu sót nếu không có toàn thể nhân loại, cả người sống và người chết. Tất cả chúng ta hợp lại thành Tâm linh Vũ trụ, mà ta quen gọi là Thượng Đế.
- Trong cơi vô h́nh không có thời gian, chúng ta có thể xóa bỏ thời gian và không gian, v́ có thể đến bất cứ nơi nào bất cứ lúc nào theo ư ta muốn, và chúng ta có thể nh́n xa trong cái mà thế gian gọi là tương lai, v́ mọi sự đều định trước cả.
Nếu người nhân thế hiểu rằng mọi sự được định trước đến mức nào, th́ họ sẽ không phải phấn đấu mảnh liệt để tránh tai ương, v́ khi đă là tiền định th́ khổ tâm có ích ǵ! Hăy chấp nhận mọi việc xẩy đến, duy phải nhớ cố gắng có một đời sống hữu ích.
Chẳng nên sợ hăi, v́ đó là ư muốn của Thượng Đế, hoặc là phận sự mà ta đă lựa chọn khi trở lại đời sống vật chất. Giữ tâm thoải mái làm hết sức ḿnh.
- Đi vào cơi chết chẳng khác ǵ bước qua một cửa mở chào đón, bước ấy nhanh chóng hầu như không cảm thấy. Người th́ vui mừng, kẻ th́ miển cưỡng, nhưng phải đều nghe theo tiếng gọi của Vũ Trụ đến nơi yên tỉnh.
- Có nhiều việc làm, nhưng chỉ là những việc có mục đích cần thiết và thích nghi, nhưng muốn làm hay không tùy ư, không ai bắt buộc phải làm ǵ cả, tự ḿnh chọn lấy việc làm nếu muốn tiến.
- Ư nghĩ cũng là hành động. Với ư nghĩ chúng ta tạo nên không những khuôn khổ cho đời sống tương lai, mà c̣n cả Thiên đường hay Địa ngục cho chính ḿnh.
- Tham thiền rất là quan trọng, cần tiếp tục luôn luôn trong cơi hữu h́nh, v́ đó là sợi dây liên lạc với tâm của Thượng Đế. Như người đi học, mỗi ngày bài học khó hơn hôm trước.
Cũng thế, mỗi ngày bỏ qua không tham thiền là một ngày uổng phí, mà thời giờ trôi đi rất nhanh chóng. Có ở bên vô h́nh mới thấy rơ là bên hữu h́nh một đời người không lâu hơn một tia chớp là bao, và thời gian từ đời sống nầy sang đời sống khác, có khi trải hàng bao nhiêu thế kỷ hay hàng triệu năm, cũng chỉ như là những lúcchờ đợi hơi lâu mà thôi.
- Thời gian trong cơi vô h́nh không có nghĩa ǵ cả. Không ai có tuổi, v́ ai cũng có từ lúc sơ khai và không bao giờ là tận cùng, không có thời giờ, không có ǵ chết, không có sự chết. Mọi vật đều có từ đầu, không có việc ǵ tiêu diệt, chỉ là thay đổi trạng thái, như con sâu hóa bướm, rồi tan ră và hồn nó lại sang một thân h́nh khác.
Ông Ford kể lại cảm giác của ông: Sau khi thoát xác, tôi cảm thấy nhẹ-nhàng, tự do, sung sướng, không c̣n vướng-víu xác thân nặng nề, không c̣n bệnh hoạn đau đớn, cảm giác khoan-khoái không sao tả được. Rồi gặp các bạn bè thân thuộc xưa kia đến chào đón vui mừng.
Đời sống hai bên không khác ǵ nhau, chúng tôi vẫn ở đây, duy không có cái thể xác bị nhiều luật vật chất ràng buộc. Chúng tôi tự do như gió muốn đi đâu và lúc nào cũng được, có thể đi xuyên qua các vật hữu h́nh. Nhưng không phải là đi lang thang, v́ ai cũng có mục đích.
Mục đích ở đây cũng như ở bên hữu h́nh, là làm theo ư muốn của Thượng Đế. Chúng tôi không ai giống ai, mỗi người một việc khác nhau. Chúng tôi thực sự không được trông thấy Thượng Đế, nhưng lúc nào cũng cảm thấy Thượng Đế ở gần kề, v́ chúng ta là Thượng Đế, Thượng Đế là chúng ta, không có cách biệt. Chúng ta cũng ví như những ngón tay, tuy rằng riêng biệt nhưng vẫn thuộc vào một khối chung.
Thượng Đế là một sức mạnh trường tồn, nó hợp nhất tất cả mọi vật trong vũ-trụ. Sức mạnh ấy là Chân-lư vũ-trụ, là toàn thiện vũ-trụ. Người mới sinh ra cũng toàn thiện, nhưng sau càng đông th́ càng cạnh tranh nhau về vật chất nên mất ḥa đồng, mất ḥa đồng là căn-bản sinh ra tội ác, cho nên phải chịu luân hồi.
Nhưng chúng ta sẽ luôn luôn t́m đến toàn thiện, t́m đến t́nh thương của Thượng Đế, t́nh thương là chất keo gắn liền chúng ta với sức mạnh trung-ương. Hăy yêu thương lẫn nhau, yêu thương Thượng Đế, yêu thương chính ḿnh, hăy tự ḿnh ḥa điệu với sức mạnh vô cùng ấy.
V́ chúng ta c̣n thiếu sót chưa toàn thiện, nên c̣n phải trở lại trái đất nhiều lần, để mài dũa những khía cạnh lởm chởm của chúng ta cho được hoàn toàn tṛn trặn để ḥa đồng với đại khối.
Thượng-Đế cũng là sự hiểu biết hoàn toàn, biết cả những điều cầu nguyện chưa phát ra lời. Ngài là ánh sáng, là sự thật, là t́nh thương. Ngài là đức Sáng Tạo ra ta, là cha chúng ta, yêu thương mỗi người trong chúng ta.
Ngài sẵn sàng ban cho ta tất cả những ǵ lợi ích nhất cho ta mà không thiệt hại đến ai khác. Tất cả những điều cầu nguyện do ḷng tin và t́nh thương đều được ban cho. Ngài hàn gắn vết đau, Ngài yêu thương, Ngài an ủi, Ngài coi sóc ngày đêm và năm tháng. Thượng Đế là tất cả.
Ông Ford nói đến vài trường hợp khác nhau của những người đă bước qua cửa tử.
Người mới qua đời với cái chết tự nhiên, bỏ lại xác thân mệt mỏi bệnh hoạn, th́ hồn ĺa ra dễ dàng không cảm thấy ǵ.
Vừa mới lúc trước c̣n mang mớ xương thịt đau đớn, mà ngay sau đó đă thấy ḿnh ở trong cảnh đẹp tươi trong sáng. Có người ở trên một cánh đồng cỏ có cây có suối. Bỗng nhớ nhà muốn về nhà, tức th́ về ngay, thấy nhà đông người mà không ai để ư đến ḿnh cả. Thấy vợ mặt áo tang ngồi khóc, y lại gần vỗ về vợ, nhưng vợ không trả lời.
Rồi thấy sửa soạn đám tang, y đến gần xem th́ rất hoảng sợ, v́ đây là lần đầu y trông thấy thân h́nh y nằm đó và người ta sắp đem chôn. Y cố kêu gọi mọi người rằng y vẫn c̣n khỏe mạnh đây, nhưng vô ích. Rồi y thấy nhiều người thân củ đă chết từ lâu vây quanh chào đón và nói cho y biết rằng y đă sang cơi vô h́nh.
Một ông già râu bạc gọi y đến trường học, trong lớp có nhiều người khác, ông già cho biết y nay đă thoát xác rồi, gia đ́nh bè bạn không thể trông thấy và nói chuyện với y được nữa. Y phải chấp nhận và tập cho quen với đời sống tâm linh, có nhiều khả năng hơn trước. Bấy giờ y nhớ lại cuộc đời đă qua và cả những đời trước nữa.
Y rất đau khổ đă không hoàn tất được công việc mà y đă quyết định làm khi y nhận lănh cái thân xác thịt vừa qua. Nay y nhớ lại cái mục tiêu mà y tự đặt ra khi đó, và giận cho y đă quên mất vài phần khi ở trong đời vật chất. Tại sao tiềm thức y nhớ, mà tâm thức y lại quên?
Do đó y đă uổng phí một phần đời y, khiến cho y chậm tiến. Y cũng nhận thấy rằng đây là một thế giới hoạt động, người lười biếng tự làm hại ḿnh v́ không a i bắt buộc phải làm ǵ cả, không làm ǵ th́ cứ ở măi trong t́nh trạng thấp kém mà không tiến cao lên được.
Hành động tốt nhất để tiến là ban bố t́nh thương. Một ư nghĩ không tốt, nhất là một ác ư đối với ngướ khác, có thể làm chậm bước tiến đến độ phải cần cả một đời tương lai hoặc hơn nữa để gạt bỏ vết đen ghi trong cuốn sổ tiềm thức.
Chớ nói ác, chớ nghĩ ác. Không có điều ác nếu tự ta không tạo ra nó. Chính chúng ta là ma quỷ của chúng ta.Trong đời sống xác thịt, ta có thể vượt qua được các chướng ngại của thân vật chất, nếu những sự ham muốn, thù hận, được gạt bỏ ra ngoài. Đời sống thế gian là một đời sống đầy cám dỗ.
Sự thách đố vượt qua cám dỗ là con đường nhanh chóng nhất để tiến lên tŕnh độ cao hơn. Đối với vô cùng, th́ cái thân vật chất chỉ được một khoảnh-khắc ngắn ngủi đă bị hủy diệt rồi, thế th́ tại sao không cố vượt qua cám dỗ vật chất nó chỉ tồn tại trong một chớp mắt, để cho sự tiến hóa của ta bị tŕ hoăn.
Nên luôn luôn lưu tâm vào điểm nầy để thắng lực lượng ma quỷ nó vây quanh ta và thúc đẩy ta xa Đấng Tạo Hóa, chỉ v́ khoái lạc nhất thời.
Ma quỷ không phải là một người, hay nói đúng hơn là một hồn người, nhưng là một lực lượng mà mỗi hành động sai lầm càng làm cho nó mạnh hơn. Nguyên thủy chỉ có một danh từ, là danh từ Thiện tức là Thượng Đế.
Cha chúng ta không đặt ra điều ác, nhưng những linh hồn ở trong thể xác th́ ham muốn, tranh đấu, cải cọ với nhau, muốn cho ḿnh được hơn kẻ khác, nên tạo ra một lực lượng ác, dần dần kết thành khối mà người ta quen gọi là quỷ Satan. Không phải Thượng Đế mà chính là người đă sinh ra quỷ Satan, nó không phải là một linh hồn ác, nhưng là sự h́nh thành của tội ác, nuôi dưỡng bằng mỗi ư nghĩ và hành động ác.
Muốn phá Satan, người cần thức tỉnh rằng ư nghĩ cũng là hành động, và mỗi khi một ư nghĩ ác hoặc hành động ác được thay bằng một ư nghĩ hoặc hành động với t́nh thương, là mỗi lần con quỷ sẽ bị thu nhỏ lại một phần.
Đến khi nào thiện hay ác không c̣n trong trái tim mọi người trên trái đất, không những trong thể xác mà cả trong tâm linh, th́ chúng ta sẽ đạt tới Chân Thiện Mỹ.
Người ốm nặng mong chết để thoát khổ, là người mà hồn ĺa xác nhẹ nhàng hơn cả, v́ sung sướng trút bỏ được cái thân bệnh hoạn. Người có tâm đầy t́nh thương, sẵn sàng giúp đỡ những linh hồn khác, như những trẻ thơ ngay không có mẹ và những hồn mới c̣n gặp khó khăn.
Những người chết đột ngột mà không phải là lỗi của họ, như bị tai nạn, bị sát hại hay v́ chiến tranh, bị xúc động mạnh khi thấy ḿnh ở trong cơi vô h́nh không c̣n làm được những việc quen làm trước kia. Những linh hồn khác hết ḷng giúp họ để họ thích nghi với hoàn cảnh mới.
Những người đi lính miễn cưỡng bị tử trận, rất tức giận đă mất cái thân xác trẻ trung hăng hái. Sự tức giận đó đă không thể giải quyết được ǵ, c̣n cản trở bước tiến của tâm linh rất nhiều.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 275 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 1:00am | Đă lưu IP
|
|
|
THẾ GIỚI BÊN KIA
PHẦN HAI
Chúng ta dang tay chào đón người mới đến với tất cả t́nh thương. Lúc đầu họ thường ngạc nhiên, nếu trước kia họ không học hỏi và tham thiền. Họ đói họ khác th́ chúng tôi cho ăn cho uống tuy đó chỉ là tưởng tượng nhưng họ coi là thật v́ vẫn tưởng là c̣n xác thân. Dần dần quen rồi, họ mới thấy rằng không cần ăn uống nữa. Chúng tôi để mặc họ muốn làm ǵ tùy ư, nhưng sẵn sàng giúp họ.
Người tự sát tưởng rằng hủy thân đi là hết, không biết rằng hồn vẫn c̣n, và như thế vấn đề vẫn c̣n, lại thêm khó khăn hơn nữa. Trong cơi vô h́nh không giải quyết được vấn đề trần gian, phải đợi sang đời sau, biết đến bao giờ? Linh hồn rất đau khổ, tức giận cho ḿnh đă phí mất một đời, khiến cho đời sau càng thêm nặng nợ và c̣n mang cái tội là đă hủy diệt sự sống mà Thượng Đế đă ban cho, không ai được quyền lấy đi.
Kẻ sát nhân cũng rất đau khổ, không những đau khổ v́ không thể trả lại đời sống cho nạn nhân của y nay cùng ở với y, mà c̣n đau khổ v́ đă cản trở nạn nhân trả nghiệp quả riêng của họ. Hai hạng người nầy tự ḿnh bị dày ṿ cực khổ vô cùng tro ng thời gian rất lâu chờ đợi để được sang đời khác đền bù tội lỗi.
Những người tuy không có tội nặng nhưng rất khó thích nghi, là những người không tin rằng có đời sống vô h́nh. Người vô tín-ngưỡng từ trước vẫn nghĩ rằng chết rồi là hết, nên không sẵn sàng để đón nhận hoàn cảnh bất ngờ, nay rất ngạc nhiên, tưởng rằng những người và cảnh vật trông thấy quanh y chỉ là ảo ảnh, do y tưởng tượng.
Trong lúc sống không tử tế với ai, tự nghĩ không có bổn phận giúp đở ai. Nay y phải ở chung với đám người cũng ích kỷ như y, nhưng thô-lỗ cục-cằn mà y coi là hạ cấp, muốn thoát ra khỏi mà không được, rất là khổ sở.
Người c̣n tha thiết đến đời vật chất, đến những người thân, đến tiền của công việc c̣n bỏ lại, th́ tâm trí loạn động nhiều, cần một thời gian dài và nhờ những linh hồn khác giúp đỡ, mới dần dần bỏ được sợi dây ràng buộc y với đời sống trên trần. Rồi y phải kiểm điểm những lầm lỗi trước và t́m cơ hội tái sinh để chuộc lại.
Trước khi lựa chọn nơi tái sinh, tâm linh phải tự kiểm điểm xem những món nợ nào cần trả trước và cần có những đức tính nào để tiến. Rồi phải t́m xem hoàn cảnh nào thích hợp với điều kiện của ḿnh. Nếu y muốn học yêu thương, th́ phải chọn nơi nào đức tính ấy không có nhiều.
Thường y chọn cha mẹ ở những người xưa kia y đă biết hoặc có sự liên lạc về nhân quả. Rồi y chọn phái nam hay nữ để có thể tiến được nhiều hơn. Nếu nhiều linh hồn tŕnh độ ngang nhau muốn đầu thai và cùng một nơi, th́ hồn nào thích hợp hơn cả sẽ được lựa chọn, sự lựa chọn nầy có thể ví như máy tính thiên tạo tự động ghi nhận và ấn định tư cách của mỗi linh hồn.
Linh hồn được trúng tuyển bay lơ-lững gần cha mẹ, và khi ngày giờ đă đến, nhập vào bào thai hoặc đúng lúc hoặc ngay trước hay ngay sau khi lâm sản. Những linh hồn bị loại đi t́m nơi khác thích hợp với ḿnh.
Trường hợp đứa trẻ mới sinh ra đă bị tật nguyền, là ǵ linh hồn đă chọn thân h́nh bất toàn ấy, thay v́ một thân h́nh đầy đủ, để trả nợ mau chóng hơn. Những chướng ngại trong đời vật chất càng nhiều, th́ linh hồn tiến hóa càng nhanh, nhanh hơn là những người có đủ tiện nghi trên đời. Càng tiến nhanh trên phương diện tâm linh, th́ càng ít phải trở lại thân xác thịt.
Thường thường linh hồn trước kia thuộc phái nào, nam hay nữ th́ lại thác sinh vào phái ấy. Nhưng cũng có khi lựa chọn phái khác để học hỏi, như một người tính vũ phu muốn sinh ra phái nữ để học tính dịu-dàng, một phụ nữ nhút nhát sinh ra phái nam để học can đảm.
Trường hợp một bà bị tê liệt nửa người và run rẩy, chúng tôi nhận thấy rằng trong một tiến thân, người ấy ở thành La-Mă là một tên lính dữ tợn ưa làm cho kẻ khác run sợ; Y đă thả thú dữ ra để cho nạn nhân sợ hăi trước khi bị cắn xé. Nay để đền tội, y phải sinh ra làm một người đàn bà yếu ớt và run rẩy.
Những linh hồn đă tiến hóa đến một tŕnh độ tương đối cao, đều họp nhau để học hỏi. Không có lể nghi như ở trần gian họp ngày chúa nhật tán dương Thượng Đế. Những linh hồn nầy trong đời vật chất đă tiến hóa, đă tham thiền để ḥa đồng với Vũ Trụ.
Họ đă không uổng phí thời giờ trên mặt đất, nay họ có thể tiến hóa nhanh chóng hơn. Nhờ bước tiến nhanh, những lần phải luân hồi sau nầy sẽ giảm bớt đi. Có ở tŕnh độ nầy mới biết cái cảm giác thích thú và thỏa măn được tiếp tục học hỏi về tâm linh khi bước sang cơi nầy. Những người không tin và nhạo báng rất đáng thương, họ không bao giờ biết cảm giác khoái lạc ấy.
Những linh hồn đă tiến hóa luôn luôn hoạt động. Một số trong chúng tôi học hỏi để tiếp tục tiến hóa, một số dạy những linh hồn mới đến, một số nữa tham thiền và cầu nguyện mong chuộc tội lỗi đă qua.
Đừng có điên rồ tưởng rằng chúng tôi ĺa bỏ xác phàm bước sang thế giới tâm linh là chúng tôi gần thiên đường hơn và tự nhiên được hợp nhất với Thượng Đế. Muốn đạt tới sự hợp nhất ấy, phải trải qua nhiều triệu triệu năm cố gắng đặc biệt theo luật Thượng Đế và giúp đở người khác trên đường thăng tiến.
Mỗi việc lành ta làm cho người khác mà không cầu báo là một lần làm thêm sáng tỏ và rút ngắn bớt con đường ấy.
Tâm bố thí không giới hạn, không mong báo đáp, là bật thang lên thành quả tâm linh. Đừng cho tay trái biết việc làm của tay phải. Hăy bố thí trong thầm lặng, đừng nói cho ai biết, nên t́m cái vui thú trong việc làm hơn là trong lời nói.
Nếu người đời đă khen, đă ca tụng rồi, th́ c̣n mong ǵ Thượng Đế khen thưởng nữa. Ta không mong ai ca ngợi khi ta tự giúp ta, tại sao ta lại mong ca ngợi khi ta giúp người khác, khi người ấy cũng là một phần chúng ta, một phần của Thượng Đế!
Bên trong mỗi chúng ta đều có trí sáng suốt hiểu rơ chân lư. Chúng ta đều có khả năng tiến tới cái gọi là Thượng Chủng, nghĩa là giống thượng đẳng (super race). Xưa kia chúng ta là một phần của Thượng Chủng, nhưng về sau ḷng tham lam, ích kỷ, thù hận và nhiều ư nghĩ tồi tệ khác dần dần thâm nhập vào những người mang thân xác thịt.
Tiềm thức chúng ta chứa chất tất cả mọi điều hiểu biết mà chúng ta thu thập từ khi bắt đầu được cấu tạo. Nó là cái kho tài liệu vĩ đại nhất chưa bao giờ thấy, nhưng trong khi c̣n mang thân xác thịt th́ không thể mở kho ấy bằng cách thường.
Qua những giấc mơ và lúc tham thiền, hoặc nhờ thôi miên đúng phép, ta cũng chỉ có thể mở được một phần mà thôi. Nhưng ở đây, trong cơi vô h́nh, tất cả kho ấy trong đời quá khứ luôn luôn bày ra trước mắt, và nếu tâm linh ta có khả năng hơn, ta có thể thấy được các đời trước nữa.
Có rất nhiều trường dạy tiến hóa tùy theo tŕnh độ của linh hồn. Chúng ta được tạo nên do một phần của Thượng Đế, có đủ tính chất của Thượng Đế, vậy muốn hoàn tất cuộc hành tŕnh của chúng ta và trở về với Thượng Đế, th́ phải được thấm nhuần triết lư của Vũ Trụ và hiểu biết luật lệ của Vũ-trụ để được ḥa đồng với Tạo Hóa là cha chúng ta.
Ông Ford nói đến hai phần tự tin là ḿnh hoàn toàn, đă đạt tới đức hạnh bực Thánh.
Một người cho rằng ḿnh đă sẵn-sàng để được vào hàng Thánh, và mong được Thánh Gabried dẫn đến ngay vàng của Thượng Đế ngay khi bước sang cơi vô h́nh. Y khoe với mọi người rằng y không hề làm ǵ lầm lỗi, không bao giờ tà dâm, trộm cắp, lừa dối.
Y làm việc trong nhà thờ và dự vào nhiều việc từ thiện, y chắc rằng đời sống nầy là đời cuối cùng trước khi về với Thượng Đế ở trên trời. Tâm y nhẹ nhàng khi bước qua bên nầy, và tỉnh dậy thấy quanh ḿnh phong cảnh ngoạn mục.
Y thấy một đám người áo trắng đi đến tưởng rằng họ đến đón y, nhưng họ đi thẳng. Lại thấy lũ trẻ chơi đùa, y gọi chúng hỏi thánh Gabried ở đâu, chúng nói chúng chẳng gặp thánh thần nào cả. Y t́m đến một ông già râu bạc ngồi trong lều, y hỏi đường đi t́m thánh Gabried, Ông già nói: "con đường nằm ở bên trong"
Y nghĩ là một đường hầm, nhưng t́m không thấy, y lại hỏi: "tại sao không ai chỉ đường cho tôi đến Thượng Đế? Tôi có việc cần gặp Thượng Đế, Thượng Đế ở đâu?".
Ông già lại nói: "hăy nh́n vào bên trong"
Y nh́n quanh trong lều chẳng thấy ǵ, bực ḿnh nói: "đừng có đùa bỡn, tôi cần đến Thiên đ́nh."
Ông già nói rơ: "Tôi biết , nên tôi đă bảo anh hăy nh́n vào bên trong anh. Ai nấy đều phải tự xét đoán ḿnh trước khi gặp Đức Sáng Tạo.
- Nhưng tôi không làm ǵ lầm lỗi cả, đời tôi trong sạch nay tôi sẵn sàng gặp Thượng Đế.
- C̣n tánh tự phụ của anh th́ sao? anh lấy làm chắc rằng anh không lầm lỗi?
- Tôi chắc, v́ cả đời tôi không làm ǵ trái cả. Tôi đă cố gắng làm phận sự, và nay tôi chờ được khen thưởng trên trời.
Bấy giờ ông già nắm tay y nói: "con chưa thấy sao con? Con đă nghĩ đến linh hồn con nhiều quá, mà không nghĩ đến làm bớt đau khổ cho những người không bằng con. Con đă bao giờ hy sinh miếng bánh của con cho kẻ ăn mày đói ngồi ở đầu đường chưa?
Con có lúc nào bớt th́ giờ để nghe những nỗi khó khăn của người dưới quyền con không? Con có bao giờ nghĩ đến làm cho tâm hồn vợ con được thoải mái không? Nay vợ con được sung sướng hơn khi con c̣n sống, v́ không phải bị con bắt phải kính trọng con như một ông thánh. Hăy nh́n xem vợ con đang làm ǵ."
Lúc ấy y nh́n thấy nhà y ở California. Một người đàn ông ngồi ruỗi dài trên ghế của y. Vợ y trông khỏe mạnh vui vẻ. Người kia nói: "Chúng ta sẽ được hoàn toàn hạnh phúc.
- Phải sau khi măn tang.
- Sau lâu thế.
- Sợ người ta chê cười. C̣n John th́ chắc y chẳng để ư ǵ đến dưới nầy nữa, chắc y đương ở trên trời và t́m đến Thượng Đế. Thật là khó kinh khủng mà sống với một người tự cho ḿnh là ông thánh."
Bấy giờ y mới nh́n vào nội tâm y và nhận thấy rằng y đă lo tạo cho y trở thành ông thánh nhiều hơn là phụng sự Thượng Đế và những người chung quanh. Tệ hại hơn nữa là y đă được nhiều lời khen ngợi ở thế gian về việc làm của y, nên không c̣n ǵ để đem theo tâm linh nữa.
Nay y hiểu rằng chỉ có bố thí và giúp đỡ trong sự yên lặng vô danh mới được thưởng công trên trời, y đau khổ giận cho y rằng đời gương mẫu của y đă không giúp ích cho linh hồn y như đă giúp cho đời vật chất của y. Chi mà không có t́nh thương, t́nh thương không vị kỹ, th́ những việc làm của y trong xă hội được khen ngợi nhiều, chỉ là những ngày trống rỗng.
Nay y đă hiểu bí mật của sự cứu rỗi là bố thí không vị kỷ, đặt quyền lợi người khác trước quyền lợi của ḿnh, yêu thương v à giúp đở lẫn nhau.
Một người đàn bà cũng tin rằng ḿnh có đủ đức tính của một vị thánh và mong đợi được đưa thẳng đến gặp Thượng Đế. Thị thức giậy ở bên nầy và nh́n quanh t́m cửa bằng ngọc để đi vào t́m thánh Peter.
Thị đến một cửa, không đẹp như thị tưởng, đi vào thấy vườn hoa đẹp nhưng không để ư, chỉ chăm chăm đi gặp Thượng Đế. Trên đường thấy có nhiều người cùng đi, thị vượt lên trước họ đến một nơi cao, chắc rằng trên đó Thượng Đế đương ngồi chờ thị.
Thấy một người cũng leo lên gần thị, nhận ra bà lăo ăn mày trước kia vẫn gặp ở đầu đường, thị tỏ ư khinh bỉ, chỗ nầy đâu phải là nơi lăo được đến! Thấy một người trẻ tuổi mặt sáng, chắc là một vị thiên thần, thị xin được đưa đến trước Thượng Đế. Vị nầy nói:
"Nhưng thưa bà, tất cả chúng ta là Thượng Đế" Thị bực ḿnh, v́ nói như thế là gồm cả lăo ăn mày bên cạnh thị. Thị nói: "Đừng có đùa cợt, ông hăy dẫn tôi đến gặp Thượng Đế".
Bấy giờ đám đông mà thị đă vượt lên trước đă đến nơi vây quanh thị, thị bực rằng sẽ không được đứng hàng đầu nữa. Người trẻ tuổi nói với tất cả đám đông:
"Quư vị hăy nghe đây, Thượng Đế ở khắp nơi. Thượng Đế là t́nh thương, quư vị thương yêu nhau và giúp đở nhau là có Thượng Đế trong đó".
Thị bực lắm, hỏi rằng: "Thiên Đ́nh ở đâu?
- Thiên Đ́nh ở ngay nơi bà đứng."
Nhưng thị nh́n quanh, chẳng thấy Thiên Đ́nh đâu cả. Dần dần thị mới hiểu ư, Thiên Đ́nh ở ngay nơi thị, quan ṭa là thị. Bấy giờ thị nh́n vào nội tâm, mới thấy rơ sự thật kinh khủng.
Trong khi cố gắng một đời sống trong sạch không tội lỗi, thị chỉ nghĩ đến riêng ḿnh, không bao giờ có một lời an ủi cho người kém ḿnh, mà lại c̣n muốn tránh xa sợ họ làm nhơ bẩn cái áo trắng trong của thị. Đâu là t́nh thương người khác? Thượng Đế không cần nói, thị cảm thấy câu trả lời trong tâm thị, thị biết cái tâm của thị hơn ai hết, chính thị là quan ṭa của thị.
Những người đă chết không phải là bay lơ lửng trên không trung. Họ ở ngay trên mặt đất, không ở đâu khác, v́ chỉ có một Vũ Trụ duy nhất. Họ không ngủ trên giường ta, không ngồi trên ghế ta, nhưng họ hoạt động ngay giữa chúng ta.
Họ cũng đi cùng đường nhưng không bị cản trở về vật chất, không phải đi ṿng quanh những chướng ngại như nhà cửa hay tảng đá. Tuy họ cùng ở với ta, nhưng ta không thấy họ mà họ vẫn thấy ta và biết được cả ư nghĩ của ta.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 276 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 1:01am | Đă lưu IP
|
|
|
THẾ GIỚI BÊN KIA
PHẦN BA
Khi chúng ta tham thiền là chúng ta được gần Thượng Đế, chúng ta gặp Thượng Đế ở trong chúng ta. Càng thiền được nhiều trong cơi hữu h́nh, th́ càng tiến nhanh trong cơi vô h́nh. Nên nhớ là khi tham thiền, bắt đầu phải thở cho sâu, để tống r a những hơi độc tích tụ trong thân h́nh.
Đọc một câu chú, rồi nghĩ rằng ḿnh ḥa đồng với Vũ Trụ. Hăy tự coi ḿnh là một phần của tạo Vật, của tinh hoa Thượng Đế, hăy quên cá tính ḿnh đi, tưởng tượng như ḿnh với Vũ Trụ chỉ là một. Sau một thời gian, sẽ cảm thấy ḿnh nhẹ bỗng, tựa hồ như một tâm linh bay vơ vẫn trong một bầu trời xa lạ.
Hăy thí nghiệm, luôn luôn giữ ư nghĩ hợp nhất hoàn toàn, chẳng bao lâu sẽ cảm thấy ḥa đồng với Tạo Vật. Rồi tiến sâu hơn, hăy để cho tâm linh Thượng Đế tràn ngập vào tâm khảm ḿnh. Hăy dành ra ít nhất 15 hay 20 phút mỗi ngày giữ yên lặng như thế. Hăy đón nhận lời của Thượng Đế.
Cầu nguyện khác hẳn với tham thiền. Cầu nguyện là tác động, không phải thụ động như tham thiền, mong cảm đến trái tim của Thượng Đế. Nghĩ điều thiện th́ Thượng Đế ở kề bên. Hăy cầu nguyện cho một mục tiêu tốt đẹp, không phải cho lợi riêng ḿnh. Nên nhớ rằng cầu nguyện để hại người khác, thắng địch thủ, hơn bạn bè là vô ích.
Khi một linh hồn mong đợi gần Tâm của Thượng Đế, nó sẽ nâng cao ư nghĩ đến độ cảm thấy ḿnh như bay bổng và đầy khoái lạc. Cảm giác mạnh đến nổi quên cả ḿnh trong thế giới tâm linh, bấy giờ thấy rằng khoái lạc xác thịt không c̣n có nghĩa ǵ nữa.
Rồi từ đó sẽ tiến lên, không phải trở lại đời vật chất nữa. Trên tầng cao hơn, ta chỉ c̣n là tâm thức, không c̣n nghĩ đến cá tính nữa. Tầng nầy chưa phải là tầng cao nhất, chỉ là một nấc thang trên đường tiến hóa. Chúng ta đi trong ánh sáng, ánh sá ng của Chân Lư Vũ Trụ. Cũng không ở luôn măi đó, mà tiến măi đến toàn thiện.
Ông Ford nói đến một người, lúc sống đă học hỏi, hiểu biết và tham thiền linh hồn thoát xác được sáng suốt ngay. Sau khi chào hỏi bạn bè thân thuộc y tham thiền trong khi rung động của Vũ Trụ tràn ngập y với cảm giác sung sướng lạ lùng. Y t́m ngay những hồn mới đến, lạc lơng hoặc mê man để giúp đỡ.
Y không mất một giây phút thương tiếc cho cái thân xác đă mất, y biết rằng sẽ gặp lại người thân trong cơi-vô-h́nh, y đă để lại mọi việc tốt đẹp trên đời, nay y tiếp tục tiến hóa.
Có nhiều người được như thế, không phải ai nấy đều biết rơ những ǵ chờ đón họ, nhưng họ sẵn sàng chấp nhận mọi điều Thượng Đế ban cho, và rất vui mừng rằng vẫn được tiếp tục hoạt động với nhiều việc để làm.
Người nầy sẽ tiến rất nhanh, sẽ sớm có dịp trở lại thân h́nh khác, hoặc tiến lên tầng cao hơn. Nếu muốn tiến lên, th́ phải học các thầy tiến hóa. Các thầy sẽ dạy cách thay đổi tần số rung động để dần dần ḥa nhịp với với rung động ở tầng trên.
Khi tần số rung động của họ đă cao và lên được tầng trên, th́ chúng tôi sẽ không thấy họ nữa, mặc dù họ vẫn ở đây, họ vẫn thấy chúng tôi, đại khái cũng như người trần không thấy chúng tôi mà chúng tôi vẫn thấy người trần.
Nhưng nếu họ muốn th́ họ vẫn có thể hạ thấp rung động để cho chúng tôi thấy. Trong đoạn sau, ông Ford sẽ nói đến những tầng trên rơ ràng hơn.
Ông Ford trước kia đă được lên tầng trên, nhưng tự ư muốn trở lại thế gian để thực hành những điều đă học hỏi. V́ thế khi ông là mục sư ở trong trại lính, ông đă trông thấy danh sách những người chết đêm trước khi ông mới ngủ dậy c̣n ở trong pḥng v́ đă có khả năng nhận tin tức từ khắp nơi.
Trái lại, một người không tin, lúc sống cho rằng chết là hết không c̣n ǵ nữa, khi mở mắt ra thấy có nhiều người quanh ḿnh khuyên nhủ và giúp đở, lại cho là ảo-ảnh, là tưởng tượng, không phải thực, nên nhắm mắt lại.
Khi mở mắt ra th́ không thấy ai nữa, mà thấy ḿnh rơi vào vực thẩm đen tối, ở trong t́nh trạng rất sợ hăi. T́nh trạng nầy thường kéo dài rất lâu, đến khi nào ḷng tin trở lại, cầu Thượng Đế cứu, bấy giờ lại được thấy nhiều người đến giúp đở.
Những linh hồn nầy khi tỉnh ngộ rồi th́ cố gắng học hỏi, giúp đỡ những hồn khác và sẽ tiến hóa nhanh. C̣n những hồn cố chấp không tỉnh ngộ th́ cứ ở trong cảnh đen tối hàng ngàn năm.
Kẻ sát nhân cố t́nh giết hại người khác để thỏa măn ác ư của ḿnh, th́ ở trong t́nh trạng như chết một thời gian lâu, đến khi tỉnh dậy thấy ḿnh ở trong địa ngục mà chính ḿnh đă tạo nên.
Không phải là trông thấy quỷ sứ, nhưng thấy chính mặt y bị biến dạng v́ thù hằn, tham lam, ác độc. Y sợ rúm lại tưởng ḿnh bị quỷ nhập. Y thất đảm khi nhận ra rằng không những y đă bỏ phí một đời không tiến, mà c̣n thụt lùi trở lại nhiều đời nữa mới có thể chuộc được tội y.
Bấy giờ y nhớ lại ư muốn của y là vượt qua mọi sự cám dỗ khi y bước vào cuộc đời, khốn nỗi y đă làm trái ngược với ư muốn ấy.
Linh hồn nầy bị đau khổ trong thời gian rất dài. Đến khi thất vọng cùng cực, y rên xiết cầu Thượng-Đế cứu. Nếu y thực tâm hối hận, những linh hồn khác sẽ đến giúp y, và dần dần y sẽ tiến lên rất chậm, rất chậm, cho đến khi hiểu biết cái h́nh phạt v́ đă lấy đi một mạng sống do Thượng Đế ban cho.
Như Lee Oswald đă bắn John Kennedy, và Jirhan đă bắn Bobby Kennedy, sẽ c̣n phải đau khổ lâu lắm trong sự hối hận. Đến như Hitler th́ chẳng khác nào y bị trơ-trọi trên một cù lao đen tối không nhà cửa , và sẽ không bao giờ rữa sạch được tội ác của y.
Người tự sát trong một giây phút thất vọng, đă lầm tưởng rằng chết là giải quyết được vấn đề, không biết rằng đâu có dễ dàng giải quyết như thế, và chúng ta không có quyền dập tắt ngọn lửa sống mà Thượng Đế đă thắp sáng lên.
Được mang cái thân xác thịt là đặc-ân Thượng Đế ban cho để trả nợ nghiệp chướng. Nhiều hồn khác c̣n phải chờ đợi để được trở lại làm người, nay ta đă được rồi lại hủy bỏ cái đặc-ân ấy, th́ nghiệp chướng sẽ tăng lên gấp mười, và phải chờ đợi rất lâu mới lại được đầu thai.
Những nạn nhân bị sát hại không mang mối hận thù kẻ đă hại ḿnh. Ở trong cơi vô h́nh mà c̣n hận thù th́ sẽ bị thoái hóa rất nhiều, có khi hàng vạn năm. Họ hiểu rằng như thế là họ đă trả được nghiệp chướng, trả được tội lỗi quá khứ, và sẵn sàng tha thứ.
Ông Ford nhắc lại rằng không có ṭa án xử tội, ngoại trừ chính lương tâm chúng ta, lương tâm ấy lại chính là Thượng Đế. Khi tấm màng che mắt ta không c̣n nữa, th́ ta thấy rơ đâu là trái đâu là phải.
Ta rất vui mừng khi nhận thấy rằng những việc giúp đở nhỏ mọn, một lá thơ hay một nụ cười an ủi, những việc mà ta đă quên, lại giúp ích cho ta tiến hóa nhiều hơn. Trái lại những hành động mà ta tin rằng có lợi cho ta lại làm cho ta chậm tiến, v́ ta đă làm một cách rầm rộ, khoa trương, để được hănh diện, được khen ngợi.
Hăy giúp người chỉ v́ người ta cần giúp, tùy theo khả năng của ḿnh, xong rồi quên đi đừng mong cảm ơn và báo đáp, cũng không cần ai biết cả. Hăy coi ḿnh như một cái giếng, lúc nào cũng tràn đầy t́nh thương.
Chỉ có thể chữa bỏ những thói hư tật xấu ở trong đời hữu h́nh. Ở cơi vô h́nh không làm ǵ được cả v́ không có những cám dỗ. Trường học gian khổ là đời vật chất, có nhiều cám dỗ mà ta phải vượt qua.
Có người lấy làm lạ tại sao có những linh hồn tiến hóa cao luôn luôn giúp đỡ người khác, lại có những linh hồn cục-cằn không hơn thú vật. Sự đó có thật. Lúc mới đầu chúng ta đều như nhau, là những tàn lửa của Thượng Đế, nhưng trải qua những đời sống trên trái đất, mỗi linh hồn phản ứng với hoàn cảnh một cách khác nhau.
Chớ nên mắc vào thói hư tật xấu, luôn luôn giúp đở người khác, nhớ mục tiêu là trở về với Thượng Đế.
Đừng mong tiến hóa lấy riêng ḿnh, không thể nào có chuyện ấy. Nếu muốn chạy đua vượt lên trước người khác, th́ không bao giờ đến được thượng đỉnh. Bỏ lại người khác là cách tốt nhất để thục lùi, rồi phải bắt đầu trở lại. Cần phải thương yêu lẫn nhau, giúp đở người khác cùng tiến với ḿnh.
Tự ta ghi chép lấy vào cuốn sổ của ta. Không có ṭa án, không có quan ṭa râu bạc nào, ngoài lương tâm của chính ta, không thể che đậy ǵ được, không thể trốn chạy đâu được.
Những tầng cao hơn có nghĩa là những tŕnh độ thức-giác cao hơn, chứ không phải là ở tầng lớp cao hơn, v́ các giới cùng ở một nơi. Muốn được tiến lên tầng cao, cần nhiều công phu học hỏi, những người ở tầng trên mà muốn xuống tầng dưới th́ rất dễ dàng.
Người ở tầng dưới không thấy được người ở tầng trên, nhưng người trên thấy rơ người dưới, đại khái cũng như chúng tôi đối với người ở cơi trần. Không thể lấy lời nói của trần gian để tả tŕnh độ sáng suốt ở mỗi tầng.
Ví như một quả bóng thổi pḥng bằng khinh khí, khi c̣n ở dưới đất là c̣n trông thấy và sờ mó được, nhưng khi đă cắt dây th́ quả bóng bay lên, cũng như sợi dây bạc nối hồn với xác, khi chết dây đứt th́ hồn ĺa khỏi xác.
Quả bóng lên cao trên thượng tầng không khí, người dưới đất không trông thấy nữa, nhưng ở trên cao vẫn trông thấy ở dưới. Đó là thí dụ rất thô sơ, nhưng khó nói rơ hơn, v́ tâm chí người ta bị hạn chế, không thể hiểu xa hơn được.
Chúng tôi hiện nay ở cơi trung giới, c̣n có liên lạc với đời vật chất, những người ở tầng trên đă đoạn tuyệt với trần gian.
Chúng tôi học hỏi ở đây, có thể lựa chọn hoặc trở lại luân hồi, hoặc tiến lên tầng trên. Tầng trên ví như tầng không khí loăng, trong một thời gian không c̣n liên lạc với những hồn khác và với cơi trần.
Chúng tôi như là bay bổng trong một bầu khí quyển mà tần số rung động rất cao. Tạm giải thích như vậy, thật ra không có lời nào tả được. Ở đấy không khí rất mạnh, hay đúng ra là không có không khí, không có ǵ che đỡ những tia sáng chói lọi. Chúng tôi phải cố gắng chịu đựng ở đó, rồi lại học hỏi để tiến xa hơn nữa.
Rồi sau chúng tôi đi qua từ tinh cầu nầy sang tinh cầu khác. Chúng tôi đi trên mặt tinh cầu như người trần đi trên mặt trái đất, chỉ khác là không c̣n thân xác thịt nặng nề. Chúng tôi chỉ c̣n như là ư nghĩ (theo kinh Phật th́ có lẽ đây là Hữu tưởng giới). Lên trên nữa th́ chúng tôi chỉ c̣n là ánh sáng, tuy nhiên chúng tôi vẫn là chúng tôi, cái ta vẫn c̣n.
Những tầng trên có thể gọi là tầng thứ ba và tầng thứ bốn, những tầng chỉ khác nhau về tần số rung động. Chúng tôi phải học hỏi để có thể thích hợp được với những làn sóng ánh sáng và tiếng động nó mạnh đến độ có thể làm mù hoặc điếc những người ở cơi trần.
Chúng tôi bấy giờ ở trong t́nh trạng như một chất dịch thể, tuy nhiên không phải là một chất lỏng. Chúng tôi được đổ vào cái khuôn Vũ Trụ "nói thế cho dễ hiểu" và gần như hợp nhất với Vũ Trụ.
Đó là tầng thứ ba. Tầng thứ bốn là lên ở những tinh cầu khác như Hỏa tinh, Thủy tinh, Mộc tinh, Kim tinh, Thổ tinh.. nhưng không phải là thân vật chất, mà là tŕnh độ giác thức cao hơn.
Trên những tinh cầu đó cũng có h́nh thể sinh vật, nhưng khác hẳn với h́nh thể trên trái đất, tŕnh độ tiến hóa các sinh vật ấy cũng khác nhau.
Nếu một linh hồn tội lỗi nhiều kinh khủng đến độ cần phải tới ngàn triệu đời sống mới chuộc được, th́ linh hồn ấy sẽ ở trong t́nh trạng tuyệt vọng nơi trái đất nầy (thí dụ như Hitler). Linh hồn ấy có khi phải nhận lấy một thân h́nh hoàn toàn khác mà chúng ta ở trái đất không gọi là người, ở trên một tinh cầu khắc khổ bội phần, để có thể đền bù tội lỗi nhanh chóng hơn.
Những tâm linh ở trái đất muốn tiến hóa lên những tầng cao, phải mất nhiều công phu học hỏi nâng cao tần số rung động của ḿnh, để không những lên cao mà c̣n phóng ḿnh sang tinh cầu khác.
Cuộc viễn du nầy khiến họ học hỏi được nhiều về nhữ ng định luật của Vũ Trụ. Và khi lên đến tầng thứ bốn và thứ năm, th́ có thể ở trên nhiều tinh cầu cùng một lúc, v́ khi đó với thức-giác cao, hồn có thể phân thân ra nhiều nơi.
Cao hơn hết là tầng thứ sáu, linh hồn đă đạt tới toàn thiện, có thể hợp nhất với Thượng Đế. Tất nhiên chúng tôi c̣n xa quá chưa thể biết được, nhưng được dạy cho biết rằng khi một linh hồn gần đến mức toàn thiện, phải kiểm điểm lại tất cả bao nhiêu đời đă qua, từ đời trước nhất, không c̣n ǵ vướng mắc nữa.
Chúng tôi chỉ được nghe nói thế thôi, những linh hồn đó không bao giờ quay ngược bánh xe vận mệnh ṿng trở lại nữa. Sáu tầng trên đây có lẽ cũng là những giới nói trong kinh Phật.
Tầng thứ nhất là cơi Dương thế mà chúng ta đương sống, có thân h́nh vật chất, có dục tính, thường gọi là hạ giới, kinh Phật gọi là Dục giới.
Tầng thứ hai là cơi âm, cơi của những linh hồn mới bước qua bên kia, gọi là trung giới, kinh Phật gọi là Sắc giới.
Tầng thứ ba linh hồn không c̣n sắc chất, là Vô Sắc giới.
Tầng thứ tư chỉ c̣n ư nghĩ, là Hữu Tưởng giới.
Tầng thứ năm chỉ c̣n ánh sáng, là Vô Tưởng giới.
Tầng thứ sáu linh hồn đạt tới toàn thiện, là Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Giới, có lẽ là giới của các vị Giáo chủ: Phật, Chúa ....
Trên hết là Thượng Đế, có thể gọi là tầng thứ bảy.
Đó là lấy trí nhỏ mọn của tôi đoán phỏng như thế.
Sau hết, ông Ford nhắc lại rằng trong cơi trung giới mà ông đương ở, không có thời gian: Chúng tôi nhận thấy rằng chúng tôi tồn tại luôn luôn, vô thủy vô chung.
Chúng tôi có thể thấy một khoảng thời gian dài hơn người đời thấy rất nhiều, nhưng vẫn không thể biết được đâu là khởi đầu đâu là tận cùng.
Chúng tôi chỉ hiểu biết rộng hơn người trần gian về mục tiêu của Thượng Đế, nhưng chúng tôi chưa phải là hoàn toàn sáng suốt.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 277 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 1:03am | Đă lưu IP
|
|
|
CHUYỆN HUYỀN LINH
Từ bấy lâu nay song hành với cuộc sống đời thường, xă hội luôn có một thế giới riêng của một số người dị biệt, đó là những pháp sư. Không những dị biệt về nhân sinh quan với mọi người xung quanh, mà họ c̣n dị biệt cả về thế giới quan.
Họ luôn sống với một thế giới trong cơi “âm”, tức là lực lượng vô h́nh của các âm hồn. Họ tin rằng với những điều kiện nào đó, họ có thể gián tiếp điều hành thế giới âm binh, thế giới vô h́nh để tác động trực tiếp đến đời sống xă hội của người sống.
PHÁP SƯ LÀ AI?
Trong căn nhà nhỏ nấp trong con hẻm thuộc quận B́nh Thạnh, thầy Th. tiếp đón tôi thật trịnh trọng nhờ một lá thư của “sư huynh” Bảy Tiến. Bảy Tiến là đồ đệ của Thầy Ba Cao Lănh. Thầy Ba Cao Lănh là em ruột của bà ngoại tôi, đă qua đời hơn mười năm nay ở cái tuổi gần trăm.
Thầy Ba Cao Lănh là đồ đệ duy nhất của Thợ Đức Sa Đéc. Một thầy pháp nỗi tiếng như cồn khắp vùng miền Tây Nam bộ, vào đầu thế kỷ trước thuở Pháp thuộc. Cho đến tận bây giờ những bậc cao niên sống ven hai bờ sông Hậu, sông Tiền vẫn c̣n nhắc nhiều đến Thợ Đức bằng nhiều huyền thoại.
Thợ Đức Sa Đéc lại là một trong những đại đệ tử của Cử Đa. Cử Đa là một nhân vật được người đời nhắc đến như một vị phật sống của vùng Thất Sơn mười đỉnh ở An Giang.
Hiện nay, tại Tịnh Biên vẫn c̣n một ngôi chùa được cho là nơi Cử Đa luyện phép, tu tiên. Cử Đa là đại đệ tử của Đức Phật Thầy Tây An. Người sáng lập tôn giáo Bửu Sơn Kỳ Hương, một hệ phái Phật Giáo Việt Nam rất thịnh hành ở ĐSCL giữa và cuối thế kỷ mười chín.
Tôi nhắc như vậy để cho thấy rằng, cái gốc pháp sư của Bảy Tiến có “phả hệ tổ tông” hẳn ḥi. Ông Ba tôi tức Thầy Ba Cao Lănh chỉ có duy nhất hai đệ tử.
Một là Bảy Tiến hai là tôi. Năm nay Bảy Tiến đă hơn bảy mươi tuổi, sinh trước tôi một thế hệ. Nếu tính theo môn quy th́ Bảy Tiến phải gọi tôi là “sư huynh” mới đúng, v́ tôi được truyền nghề trước.
C̣n tính theo gia tộc th́ tôi gọi Bảy Tiến bằng anh họ xa. V́ thuở sinh tiền Thầy Ba Cao Lănh muốn “tuyệt gốc” cái nghề pháp sư ,nhưng khi đến gần cuối đời ông suy ngẫm và “ngộ” ra điều ǵ đó, nên truyền hết những hiểu biết của ḿnh cho tôi.
Ông biết tôi là người không thuộc về thế giới tâm linh. Ông thường mắng tôi là “đồ vô thần chỉ biết sống kiếp này”. V́ xem tôi là “kẻ vô thần” nên ông mới truyền hết kiến thức “huyền linh học” cho tôi.
Nói cho đúng hơn là ông bắt tôi ghi chép lại tất cả những kiến thức về huyền linh của ông, theo đúng nghĩa: Lưu lại để không mất. Ông không hề bắt tôi làm lễ bái sư. Lúc đó tôi chỉ là một chú nhóc c̣n cắp sách đến trường, nên chưa hiểu hết những điều ông tôi làm.
Sau khi hoàn tất việc “truyền” cho tôi, Thầy Ba Cao Lănh hất bàn thờ tổ xuống sông, thề “bế nghiệp”. Ngay sau đó ông bị “tổ hành”. Ông ṿ đầu bức tai, nhảy lên mái nhà la hét, lăn lộn rồi nhảy xuống đất húc đầu vô mấy gốc xoài. Chuyện đó xảy ra vào năm 1981.
Chính quyền địa phương nghe tin ông “gây mất an ninh trật tự” đă xuống hiện trường lập biên bản và áp giải ông về trụ sở. Một số người cho rằng ông giả vờ. Tuy nhiên không ai giải thích được v́ sao sức lực của ông già bay mươi tuổi ốm gầy trơ xương mà cả chục thanh niên khỏe mạnh không trói được ông.
Tuy trán ông nổi mấy cục u như trái ổi nhưng mấy gốc xoài cũng bị rách bươm v́ những cú húc đầu. Do trước đó, ông bị “công khai hóa” trước tập thể nhân dân ấp và đi cải tạo tập trung mấy lần v́ hành nghề mê tín dị đoan, nên nhiều người đoán già đoán non là căm tức nên “bế nghiệp”.
Khi được thả về, ông lặng lẽ ra sông lặn vớt bàn thờ tổ lên rồi gọi Bảy Tiến tới. Bảy Tiến theo ông tôi hơn hai chục năm để phụ giúp các công việc vặt khi đăng đàn, nhưng vẫn chưa được cho phép bái sư. Bây giờ được sư phụ gọi tới cho bái sư, Bảy Tiến mừng như chết đi sống lại.
Tôi c̣n nhớ Bảy tiến đă lại ông tôi h́ hụi như thế nào. Từ đó suốt ngày ông và Bảy Tiến đóng cửa trong nhà h́ hụi luyện phép, không cho ai chứng kiến đến khi ông qua đời. Suốt thời gian đó hầu như ông tôi không bước chân ra khỏi nhà.
Sau này khi ông tôi qua đời Bảy Tiến gặp tôi than:
- Ổng dạy tôi chưa hết. Ổng giấu nghề. Ổng dạy tôi mà lại cấm tôi hành nghề, là sao?
Qua lời kể của bảy Tiến tôi biết sư phụ không giấu nghề, chỉ tại cái tŕnh độ văn hóa vừa đủ biết đọc nhưng chưa biết viết của Bảy Tiến không hiểu hết “thánh ư”.
Mới đây khi gặp lại Bảy Tiến, biết tôi muốn nghiên cứu lại chuyện huyền linh, đă than:
- Thầy dạy không thật tâm nên luyện cả chục năm nay, chỉ có vài món trị bệnh lặt vặt là công hiệu. C̣n những món lớn, luyện hoài có thấy công hiệu ǵ đâu.
Trong suốt thời gian luyện, Bảy Tiến c̣n lang thang đi t́m thêm vài pháp sư để trao đổi học pháp. Bảy Tiến giới thiệu tôi bằng một miếng giấy ngoằn ngoèo chữ “bùa” để tôi t́m gặp thầy Th. ở B́nh Thạnh.
Theo lời Bảy Tiến thầy Th. vẫn c̣n nuôi một số ngăi.
Vừa bước vào ngôi nhà nhỏ của thầy Th. tôi nhận ra ngay “ấn pháp” của môn phái được dán kín đáo trên bàn thờ treo tuốt trên cao.
Thầy Th. ốm nhách. Nét đặc trưng của dân luyện bùa. Thầy Th. than:
- Tôi thỉnh ngăi của sư phụ ở núi Cấm từ năm 1973, nuôi đến năm 1980 tự dưng chúng chết sạch.
Ông dắt tôi ra cái vườn nhỏ phía sau nhà. Nơi đó vẫn c̣n một ô xi măng thấp lè tè, trong đó có vài khúc chân gà và đầy chân nhang. Tuy ngăi đă chết từ lâu nhưng ông Th. vẫn cúng chân gà hang tuần và làm đám giỗ cho ngăi hàng năm. Ông Th. không c̣n làm nghề từ cái dạo ngăi chết nhưng hàng ngày vẫn luyện.
Qua trao đổi “nghiệp vụ” tôi nhận ra thầy Th. cũng thuộc phái Lỗ Ban nhưng có pha lẫn chút Pa Li đạo pháp. Thầy Th. thật ḷng:
- Pháp học mênh mông quá! Học hoài luyện hoài vẫn chưa đên đích cuối cùng. Nói thiệt anh em nghe, những món lặt vặt th́ hiệu nghiệm, những món cao pháp cứ rớt lên rớt xuống hoài. Chắc sư phụ tôi giấu nghề.
Hầu như gặp ai trong giới huyền linh, tôi cũng nghe cái điệp khúc “sư phụ giấu nghề”. Họ có biết đâu, cái bí quyết cuối cùng trong nghề mà ông tôi đă “ngộ” ra và khiến ông hất bàn thờ tổ xuống sông, chính là nguyên nhân thôi thúc tôi viết một quyền sách về huyền linh, sẽ xuất bản trong thời gian gần đây.
Một số người thường nhầm lẫn pháp sư, tức thầy pháp với thầy bói, thầy địa lư, thầy toán số tử vi hoặc đạo sỹ, thầy tu mặc dù tất cả họ đều tin rằng khi con người vào cơi chết, đều bắt đầu sự sống ở thế giới khác với thế giới con người đang sống.
Điểm khác biệt quan trọng nhất ở chổ: Các đạo sỹ, thầy tu, thầy toán số, thầy địa lư và thầy bói là lực lượng “chánh phái, c̣n thầy pháp thuộc lực lượng “tà phái”.
Diễn giải cho dễ hiểu là: Chánh phái làm những việc giúp đỡ, hoặc không làm hại người sống lẫn người chết. C̣n tà phái th́ sử dụng huyền năng, khả năng huyền bí để bắt linh hồn người chết làm nô lệ cho ḿnh, và nếu cần họ sẵn sàng dùng huyền năng hăm hại người sống, mặc dù họ vẫn trị bệnh cứu người.
Điều này trong giáo lư Phật giáo có lư giải. Thật khập khễnh nếu so sánh thầy pháp với phù thủy của các nước phương tây. Phù thủy cỡi chổi chà mới bay nỗi. Phù thủy sử dụng hóa chất để đầu độc con người. Phù thủy phải dùng quả cầu thủy tinh mới thấy quá khứ vị lai.
C̣n thầy pháp chỉ cẩn ba thứ bảo bối căn bản là: Bùa, thần chú, ấn quyết và ngăi là có thể đi mây về gió, sái đậu thành binh, trị bệnh hoặc làm cho ai đó bị bệnh.
Có thể nói phù thủy của phương tây có chung mục đích, tôn chỉ hoạt động với thầy pháp khu vực Châu Á nhưng là hai lực lượng khác nhau.
Có người cho rằng thầy pháp Việt Nam bắt nguồn từ đạo Phật. Điều đó chỉ đúng một phần. Bởi thầy mo. Một dạng thầy pháp của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam hoàn toàn không có khái niệm ǵ về Phật giáo vẫn có hẳn một “trường phái” riêng.
Tuy khác biệt văn hóa tâm linh nhưng lực lượng thầy mo cũng có cùng tôn chỉ, mục đích hoạt động với lực lượng thầy pháp. V́ vậy, có thể nói thầy mo của dân tộc thiểu số cùng “chủng” với thầy pháp của người kinh.
Một số tài liệu khảo cứu cho thấy, dù có bản sắc riêng nhưng môn huyền linh, tức học pháp của pháp sư Việt Nam vẫn chịu một phần ảnh hưởng của Phật giáo từ nhiều hướng. Từ thuở xa xưa người Việt đă sử dụng một vài yếu tố huyền linh để trị bệnh. Ngày nay một số vùng ở khu vực phía Nam người dân vẫn dùng.
Ví dụ như để trị mục lẹo ở mắt trái, người ta dùng chỉ đỏ buộc ngón chân cái rồi ném tay không xuống giếng, miệng hô:
- Cắt vụt.
Khi bị mụn cóc người ta dùng nhang vẽ h́nh chữ thập ngoài không khí cách chỗ mụn khoảng một cm, rồi dùng hơi trong miệng thổi nhè nhè cho hơi nóng của nhang phả vào mụn cóc. Thổi ba hơi xong miệng hô:
- Cóc nhảy.
Ấy vậy mà lại hiệu nghiệm 50%. Nhiều người làm thử và hết thật nhưng cũng có người không hết. Có thể một số người may mắn gặp yếu tố trùng hợp dẫn đến hết bệnh, nhưng khoa học chưa chứng minh được, tất người ta tin rằng phép thuật có thật.
Do sự du nhập và giao thoa văn hóa giữa các sắc tộc thưở xưa, giới huyền linh Việt chịu ảnh hưởng rất nhiều hệ phái. Phía Bắc chịu ảnh hưởng của giới huyền linh Trung Quốc. Phía Trung chịu ảnh hưởng của giới huyền linh Xiêm, Chăm Pa. Phía Nam chịu ảnh hưởng của giới huyền linh Campuchia.
Và hầu hết những luồng ảnh hưởng đó lại chịu ảnh hưởng nặng từ giới huyền linh Tây Tạng và Phật Giáo. Có thể nói, “pháp” của giới giáo sỹ Tây Tạng và “thuyết” của Phật Giáo đă tạo nên một luồng “học thuyết huyền linh” lan tỏa đi khắp khu vực Châu Á.
Đến nước nào “học thuyết huyền linh Tây Tạng” giao thoa và tạo thành một trường phái của nước đó. Do chịu ảnh hưởng từ nhiều hướng nên giới huyền linh Việt Nam đa dạng, phong phú về trường phái:
Lỗ Ban (ảnh hưởng tử Trung Quốc); Bùa Năm Ông (thuần Việt); Pa Li ( ảnh hưởng từ Malaixia qua Xiêm, tức Thái Lan); Trà Kha (Miên); Chà và (Chăm pa); Bùa ông Nặc, bùa Tà (Miên); Lăo Đam (Gốc Việt ảnh hưởng Phật Giáo Trung Quốc); Thất Sơn (Gốc Việt ảnh hưởng Phật Giáo Pa Li)….
Cho dù ảnh hưởng nền văn hóa nào, các tôn giáo vẫn xem pháp sư là Bàng Môn Tả đạo. Theo cách giải thích của những pháp sư Việt, th́ lư do bị gọi là tả đạo v́ các pháp sư đă làm đảo lộn quy luật của trời đất, biến người “tới số chết” thành người “cải số” để sống. Dám dùng phép thuật “sai khiến” các bậc Thánh Tiên Phật làm chuyện “vặt”. Chuyên dùng bùa chú ngăi trù yểm người…
Cũng theo các thầy pháp Việt, muốn trở thành một pháp sư thực thụ, người đời phải học và khổ luyện ít nhất mười năm. Nhưng không phải ai cũng học được.
Người có “duyên” mới được sư phụ chấp nhận cho bái sư. Và khi đă “nhập môn bái tổ” th́ suốt cuộc đời không thể “chạy trốn” được, mà phải luôn trung thành với sư phụ và tổ nghiệp. Nếu phản bội “tổ hành” măi, sống không yên lành chết cũng không được, suốt đời chịu cảnh trừng phạt như té sông, xe đụng, cây đổ khiến què cụt, đui mù khùng điên….
Sau khi nhập môn bái tổ, tân môn sinh bắt đầu học từ thấp đến cao bốn món căn bản gồm: Phù phép, thần chú, ấn quyết, đồ ngăi. Giải nghĩa nôm na như sau: Phù là chữ viết, chú là ngôn ngữ, ấn là dấu hiệu mật bằng tay, đồ là vũ khí bảo bối bí ẩn do luyện mà có.
Mỗi môn phái có “chữ viết” và “ngôn ngữ” khác nhau như đa số đều dùng tiếng Phạn (xuất xứ từ Tây tạng) hoặc tiếng Pali (xuất xứ từ đă Pa Li của Malaixia). Những môn phái ḥa nhập từ phía Bắc Trung Quốc th́ dùng tiếng Phạn.
Những môn phái ḥa nhập từ phía Nam th́ dùng tiếng Pa Li. Có nhiều câu chú cùng nghĩa nhưng phái Pa Li đọc khác phái Lỗ ban. Ví dụ như để trừ ma, Lỗ Ban có câu: Án ma ni bát rị hồng, c̣n phái pali có câu khan khàn sắc sắc ngũ lang, phái bùa Chàm lại đọc Ế tế bế sô pha ca qua. Có thể tạm dịch chưa sát nghĩa là: Ê ma quỷ, xem oai lực của ta này!
Ấn là “ngôn ngữ ám hiệu”. Miệng đọc thần chú chưa đủ sức trấn áp cường quỷ th́ vẽ thêm lá bùa. Nếu chưa đủ “đô” làm cho cường quỷ sợ th́ tay kia bắt ấn quyết để trợ lực. Nếu vẫn chưa “xi nhê” th́ dùng “đồ”. Đồ là một món bảo bối do chính pháp sư luyện như: Thiên linh cái, ngăi…
ĐẲNG CẤP
Mỗi môn phái có một cách luyện level khác nhau, v́ vậy việc phân đẳng cấp cũng khác nhau nhưng hầu hết đều chia làm bốn đẳng cấp: Nhập môn, tiểu sư, trung sư và đại sư.
Các tân môn sinh mới nhập học đều phải trải qua bài học vỡ ḷng là bài tổ. Đó là bài “xưng danh” môn phái hoặc “xưng danh” tổ phái. Ví dụ như tân môn sinh của phái Lỗ Ban ḍng Thất Sơn phải học bài đầu tiên là bài chú Thỉnh Tổ Hội và bùa Sắc lệnh.
Bài chủ Thỉnh Tổ Hội được Hán nghĩa như sau:
- Nam mô thập phương chư Phật, chư vị đại thần đại Thánh đại hải, chư vị Bồ tát…thập bát la hán, bát quái Tổ sư…Án Lỗ ban tiên sư phù, Lỗ Ban đại sát, dụng hưng yên bất dụng hương đăng hoa quả vật thực chơn h́nh trợ kỳ đệ tử thần tự…hội Tà Lơn Thất Sơn, năm non, bảy núi, rừng rú, tổ lục, tổ lèo, tổ xiêm, tổ mọi, tổ chà đồng lai đáo hạ hộ giá quang minh, chấp kinh tŕ chú cứu thế trợ dân cấp cấp như luật lịnh sắc.
Sau khi học thuộc ḷng bài thỉnh tổ và thuộc mặt chữ sắc tổ, môn sinh mới bắt đầu vào học “chính khóa” và cúng tổ, vào ngày hai mươi tháng chạp âm lịch hàng năm.
Sau đó sẽ học bài đầu tiên sẽ là Lục Tự Đài minh Chú và bùa thần để hộ thân. Sáu chữ niệm chú là :
- Om Ma Ni Patme Hum, dịch Hán âm là Án Ma Ni Bát Di Hồng. Với sáu chữ chú này, các thầy Pháp tập sự có thể tự bảo vệ ḿnh khỏi sự ăn hiếp của tà ma, quỷ dữ. Khi gặp chuyện môn sinh chỉ việc đọc câu chú đó để trấn an ḿnh, tai sẽ qua nạn sẽ khỏi.
Một chi phái khác của Lổ Ban xuất xứ từ Trung Quốc lại có bài tổ khác:
- Nam mô a di đà Phật. Nam mô hách hách dương dương, nhựt xuất đông phương, vạn sự thấn pháp kiết tường độ thần đệ tử thủ chấp phần hương họa linh phù tiên sư, tổ sư chứng giám, thiên linh linh, địa linh linh, ngă linh thần phù lai ứng hiện, án thiên viên, địa phương thập nhị công chương, thần phù đáo thử trừ tà ma, quỉ mị bất đáo văng lai, trừ bá bệnh, trừ tai ương… cấp cấp như lực lịnh.
Ngoài ra môn sinh c̣n phải luyện bùa thần nhập môn. Sư phụ bắt đệ tử vẽ thành thuộc một chữ Thần bằng Hán tự rồi dán lên bức vách phía trước mặt. Đệ tử ngồi xếp bằng tṛn, miệng niệm chú, mắt nh́n chăm chăm vào lá bùa theo kiểu ám thị cho đến khi h́nh ảnh lá bùa xoay tṛn.
Thông thường phải bỏ ra ít nhất ba tháng, đệ tử mới làm cho lá bùa xoay tṛn trên tường. Khi lá bùa chịu xoay tṛn trên tường, người học bắt đầu “dời” h́nh bùa lên không trung. Luyện đến khi gặp chuyện, chỉ cần định thần là thấy lá bùa quay tít trong mặt kẻ đối diện ngay, tức là thành công.
Với lá bùa thần và bài chú thỉnh tổ, người học được xem là bước chân vào ngưỡng tiểu sư, có thể vác túi đi trị một số bệnh ma nhập cho thiên hạ.
Vượt qua ngưỡng tiểu sư, người học mới được sư phụ truyền thụ tiếp các kiến thức luyện phép, luyện bùa và ấn quyết của bậc trung sư. Ở cấp này người luyện Lỗ Ban nh́n đèn cầy, nhang, mặt trời, mặt trăng và sấm chớp để định thần và học trạch cát, bát sát, nhâm độn để làm… thợ mộc, đoán quẻ.
Để vẽ một lá bùa trấn yểm, người Lỗ Ban phải nín thở đọc chú khai chỉ, khai bút. Khi vẽ nín thở đọc thần chú. Vẽ xong nín thở ngậm nước xoay lá bùa về hướng đông phun bụi nước. Ở cấp này học tṛ c̣n học các bài thư yểm, giải bệnh, hộ mạng, trừ tà, hội tổ, cầu tài, thuận nhĩ.
Học xong cấp này, học tṛ được quyền mang túi văi đỏ đi làm phép cho thiên hạ và bước vào ngưỡng học làm đại sư.
Ở đẳng cấp đại sư, học tṛ xem như đă học hết các món của thầy truyền dạy và bắt đầu luyện những “đồ pháp” như thiên linh cái, linh ngăi, đồng thời luyện phép đằng vân giá vũ, để thành …tiên.
Theo lư thuyết cấp đại sư có thể ngồi tịnh thiền một nơi, và dự họp với các bậc đại sư khác ở một nẻo. Cũng theo khuyến cáo của sư phụ, học tṛ phải chứng tỏ được bản lĩnh thần thông những món của cấp trung sư, mới được luyện các món của bậc đại sư.
Nếu không theo tŕnh tự ấy, người luyện sẽ bị tẩu hỏa nhập ma, khùng điên bại liệt. Thế nhưng đó chỉ là lư thuyết, trên đời này chưa ai hoàn tất được giai đoạn trung sư.
Tuy mỗi môn phái có một kiểu luyện khác nhau, ngôn ngữ khác nhau nhưng dịch nghĩa ra đều có dính đến Phật tổ Tây Tạng. Ví dụ như phái Trà Kha có xuất xứ từ Tây Tạng, truyền xuống phía Nam, vào Thái Lan, qua Campuchia nên nét bùa ảnh hưởng chữ viết của Thái, Miên nên uốn lượn như rắn.
Trà Kha có những bài Tam Giáo quy nguyên, thỉnh tổ, hội phép, chú âm binh… giống như của Lỗ Ban nhưng khác câu thần chú. Nếu dịch nghĩa các câu thần chú ra Hán âm th́ trùng hợp với nhiều bài chú của Lỗ Ban.
Hóa ra tất cả các loại bùa chú đều có “bà con” với nhau và đều xuất nguồn từ Tây Tạng. Chỉ có điều, trong quá tŕnh di chuyển, do giao thao văn hóa bản địa, nên các môn phái dần biến thể mất gốc.
CHUYỆN BÁ LÁP
Khoan nói về tính hiệu nghiệm của bùa chú. Hầu như tất cả những thầy pháp vác túi đi hành nghề, luôn cho rằng ḿnh đă tu luyện thành công, và sư phụ cho xuất sơn khai pháp.
Nếu ở phái Nam th́ các thầy khẳng định ḿnh luyện bùa ở Tà Lơn hoặc núi Cấm Thất Sơn. Nếu ở miền Trung th́ các thầy khoe ḿnh luyện phép ở Ngũ Hành Sơn hoặc bên Lào, c̣n ở phía Bắc th́ như rằng các thầy luyện phép ở Trung Quốc. Hóa ra các nơi ấy trở thành “thương hiệu” có uy tín trong làng huyền thuật.
Tôi đă từng gặp một thầy pháp tên B. hoạt động rất ăn khách ở vùng Đức Ḥa, Long An vào những năm 1992. Thầy Bách chỉ hơn bốn mươi tuổi khoe đă luyện xong bậc đại sư ở Tà Lơn. Thế nhưng tôi hỏi núi Tà Lơn nằm ở đâu, thầy Bách lại bảo núi Tà Lơn là một ngọn của Thất Sơn ở An Giang.
Thậm chí bài chú bùa thần thầy cũng đọc sai. Tuy nhiên cách trị bệnh của thầy cũng khá bài bản, chứng tỏ thầy cũng đă từng khăn gói theo sư phụ nhưng chưa được truyền thụ.
Theo pháp quy, người luyện bùa kiêng kỵ rất nhiều thứ như không được ăn thịt chó, thịt trâu, tỏi; Không được chui dưới sào phơi đồ v́ các vị tổ luôn bay lượn trên đầu; Không được đứng gần phụ nữ có thai…v…v…
Thế mà có người lấy thịt chó bảo là thịt nai mời ăn, thầy cũng xơi. Do bị mất mối làm ăn, một thầy pháp địa phương ở cấp trung sư thách thầy Bách đấu bùa. Hai ông ra sân quần thảo như đóng kịch cho đến khi bị công an mời mới thôi.
Do mang tính huyền linh nên những khi bị đệ tử truy vấn những chuyện khó giải thích, các sư phụ luôn sử dụng câu chú rất đời là: “Thiên cơ bất khả lậu”. Có lần tôi hỏi một pháp sư là chánh tế của một ngôi đ́nh.
- Đại sư đă luyện pháp rất lâu, để chứng tỏ khả năng huyền diệu của pháp, đại sư thử làm một cái ǵ đó ngay tại chỗ để chứng minh.
Tất nhiên là pháp sư t́m cách lẫn tránh. Một đạo sỹ đang tu luyện trên đỉnh núi Sam đă hơn chín mươi tuổi, cũng không thể thực hiện một phép căn bản nhất, đơn giản nhất là làm cho ly nước trà đổi thành màu đen.
Mặc dù vị đạo sỹ thuộc bậc đại sư này nói thông làu tất cả các phép luyện Lỗ Ban lẫn Năm Ông. Nhiều bậc trưởng lăo trong hàng pháp sư được người địa phương ca ngợi về tài trị bệnh bằng nước lă, trừ tà ma, thư ếm cũng không thể làm được điều tôi đề nghị. Tất cả họ đều được học luyện rất bài bản.
Một thầy nước lă ở Kiên Giang bị bắt v́ “truyền bá mê tín dị đoan”. Một cô gái bị bệnh tâm thần, người nhà trói lại mang đến cho ông ta trục tà. Ông ta xông khói, đánh đập bệnh nhân te tua, xuưt chết nhưng vẫn không làm cô nọ hết tà ám.
Chính quyền địa phương tổ chức đưa ra quần chúng phê phán hành vi mê tín của ông ta và quản lư giáo dục. Tôi gặp ông ta trong thời gian đó. Ông ta thú thật:
- Tôi học và luyện rất bài bản từ một sư phụ ở Thất Sơn. Học sao làm vậy chứ tôi có phịa ra đâu.
Thế nhưng ông ta không thể làm được điều tôi yêu cầu. Sau khi nghe tôi đề nghị ông ta găi đầu:
- Tôi chưa luyện xong phần nhập môn nhưng tôi nói với thầy là đă luyện xong để thầy dạy tiếp cấp cao hơn.
Điều đó cho thấy, hầu hết những pháp sư điều tự lừa dối ḿnh. Không ai dám tự nhận ḿnh u mê tăm tối luyện măi không thành bài sơ học. Theo lư thuyết của huyền môn, bốn món phù, chú, ấn, pháp không có tác dụng nếu không có một đấng tối thượng phù trợ.
Nói chính xác hơn là, phù, chú, ấn, pháp chỉ là công cụ kêu gọi các bậc tối thượng, các thế lực cơi âm xuất hiện trợ giúp. Để trấn áp một con ma nhập vào người, thấy pháp dùng bùa và chú gọi… Tề thiên Đại thánh xuất hiện. Nếu con ma vẫn ngoan cố chưa chịu bỏ chạy th́ “gọi” thêm các vị tổ sư khác trợ lực, trong đó có cả Phật Tổ, Quan Âm, Quan Công cho đến Đức Trần Hưng Đạo, Lư Thường Kiệt (Bài thỉnh tổ hội)…
Có người c̣n cho rằng ḿnh có thể gọi được cả sư đoàn âm binh, đầy đủ khí giới trợ lực. Trong phái Trà Kha và một số phái khác có món “thư”. Một bà bị chồng bỏ theo vợ bé đến nhờ thầy pháp cho bùa “chuộc” chồng về, đồng thời “thư” cho kẻ cướp chồng một phát.
Tức là thầy pháp dùng quyền năng của ḿnh “gởi” một cây đinh vào bụng kẻ cướp chồng khiến bụng sinh trướng lên. Người bị thư phải nhờ một thầy pháp khác “trục thư” hay c̣n gọi là “trục tà” ra khỏi bụng, nếu không sẽ chết. Người “trục thư” phải cao tay ấn hơn người “thư” nếu không chính người “trục thư” sẽ phải “dính bùa” hộc máu mồm mà chết.
Đa phần các vụ trục thư thường diễn ra theo hai chiều hướng. Thứ nhất một người mang cái bụng to chướng đến do bị bệnh sơ gan, thầy pháp sẽ than người thư ếm cao tay ấn quá thầy bó tay. Thứ hai: Một người hay bị chóng mặt đến, thầy “ếm x́ bùa” rồi rút từ từ trong bụng nạn nhân một cây đinh bảo rằng đây là vật thư ếm. Người có máu cả tin sẽ tin thầy đến sái cổ mà không quan tâm đên các chi tiết vô lư khác.
Ở mức độ thấp, các bậc trung sư chưa đáng lo ngại bằng các bậc đại sư. V́ ở cấp này ai cũng mong luyện được nhiều món pháp thần, c̣n gọi là “đồ”. Trong đó có món thiên linh cái. Thiên Linh Cái là thai nhi c̣n trong bụng mẹ. Người luyện Thiên Linh Cái “cấy giống” vào một người phụ nữ rồi mổ bụng lấy thai nhi luyện Thiên Linh Cái.
Một vụ án gây xôn xao dư luận ở Đồng Tháp là một bằng chứng cho thấy mức độ nguy hiểm đối với xă hội của các pháp sư tà giáo. Một món “đồ” khác cũng không kém phần nguy hiểm, đó là bạch cốt pháp. Người luyện dùng đầu lâu của người mới chết luyện phép để linh hồn người quá cố luôn đi theo nghe lời sai khiến của thấy pháp.
Ở San Jose (Mỹ), một bà thầy pháp quốc tịch Mỹ gốc Việt tự xưng tên là Kha Lay May mở Công ty bùa được cấp giấy phép. Tại cửa hàng bà chưng bày một cái tủ có ghi chữ Việt: Bùa thương yêu, bùa chuộc chồng, bùa bán nhà, bùa trục tà, bùa hộ mạng… Không hiểu mức độ linh nghiệm của bà cỡ nào mà một tờ báo tiếng Việt hết lời ca tụng. Về Việt Nam mấy lần nhưng bà không dám ho he chuyện bùa chú để báo chí quê nhà có dịp thăm hỏi.
Có một loại bùa “ếm” trị chứng đau bụng mà thầy pháp chân truyền nào cũng thực hiện thành công khiến người đời khâm phục tin tưởng.
Những đại sư xưa thường nuôi hai loại ngăi: Ngăi ăn thịt và ngăi độc. Ngăi ăn thịt là một loài thực vật chỉ ăn thịt sống hoặc tưới bằng máu tươi. Ngăi độc được tưới b́nh thường, hoa h́nh b́nh vôi có mùi thơm rất quyến rũ. Thầy pháp dùng nhựa của hoa này nấu cô đặc, luyện thành một thứ mực màu đen dùng để họa chữ bùa lên giấy đỏ..
Người đau bụng dữ dội v́ tất cả các chứng bao tử, đường ruột hay trúng gió được thầy đốt lá bùa lấy tro ḥa vô nước lă uống là hết đau ngay tắp lự. Nhiều học tṛ đă phải cất công cả năm trời luyện bài chú và họa bùa, sư phụ mới cho áp dụng thử, tuy nhiên, người “phàm” không cần luyện, dùng thứ mực ấy vẽ ngoằn ngoèo lên giấy thường, đốt uống cũng hết đau. Bởi cây ngăi độc chính là cây … thuốc phiện.
Nếu hiểu đúng huyền linh cũng là một thứ văn hóa dân gian phi vật thể mà thuở khai sơn lập địa, ông cha ta đă dùng để tạo niềm tin đối đầu với sơn lam chướng khí vùng đất mới khai phá. Thuở ấy khi khoa học chưa phát triễn, con người phải tựa vào chính niềm tin của ḿnh đề tồn tại.
Ngày nay nếu loại bỏ tính chất di đoan, môn huyền linh pháp thuật cũng đáng để nghiên cứu lưu giữ như một nét văn hóa dân gian. Vả lại nạn mê tín dị đoan là do chính con người tạo nên. Muốn dẹp bỏ phải biết cội nguồn của nó.
PSVN
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 278 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 1:05am | Đă lưu IP
|
|
|
HUYỀN THOẠI NHỮNG NGÔI MIẾU VEN ĐƯỜNG
Trước khi đọc bài này bạn phải cân nhắc kỹ. V́ muốn chuyển tải những thông điệp cảnh báo về tai nạn giao thông có hiệu quả, tác giả buộc ḷng phải kể những chi tiết tương đối nhạy cảm. Mặc dù có gia giảm mức độ mang tính kinh dị nhưng sẽ ảnh hưởng đối với những người dễ xúc động.
XUẤT XỨ RÙNG RỢN
Hầu như dọc các tuyến đường bộ, đường trên khắp đất nước, nơi nào cũng có những ngôi miếu nhỏ. B́nh thường ít ai chú ư đến những ngôi miếu nhỏ xíu, cất đơn sơ nằm khiêm tốn bên vệ đường hoặc bờ sông mép rạch. Thế nhưng thử hỏi thăm lai lịch những ngôi miếu ấy, khi nghe kể xong chắc chắc ai cũng phải rùng ḿnh.
Ngoại trừ một số tín đồ tôn giáo xây miếu trước cửa nhà đề thờ thổ thần, c̣n lại hầu hết những nơi khác, người ta cất miếu để nhang khói cho những người chết oan, chết thảm khốc giữa đường. V́ vậy những ngôi miếu ấy được gọi lả "miếu oan hồn", "miếu cô hồn" hoặc "miếu vong hồn".
Những cái chết rùng rợn, chết oan giữa đường chiếm số ít là do ngă bệnh đột quị, số đông c̣n lại thuộc về tai nạn giao thông. Mà đă chết tại chỗ do tai nạn giao thông th́ hiếm có cái chết "hiền". Chuyện nạn nhân bị phanh thây, tay một nơi đầu một nẻo đă ám ảnh tâm trí những cư dân sống ven quốc lộ thường xuyên. Có lẽ do chứng kiến và bị ám ảnh những cái chết thảm khốc ấy, người ta thường thấy ma quỉ.
Và khi có người bị ma nhát quỉ ghẹo, những nơi ấy người ta lập ngay miếu thờ. Về mặt tâm linh người ta cho rằng những ngôi miếu ấy sẽ giúp vong hồn người chết sẽ được siêu thoát, không quấy rầy người sống. Về mặt xă hội những cái miếu ấy xem như "biển báo" cho những người điều khiển xe trên đường biết rằng, "nơi đây thường xảy ra tai nạn chết người rùng rợn".
Tại cây số thứ 25 Bàu Cỏ xă Tân Hung, huyện Tân Châu,Tây Ninh có một ngôi miếu nhỏ. Theo lời người dân nơi đây kể lại, cái chết đầu tiên xảy ra nơi đây vào năm 75 là một cô gái. Thời điểm đó con đường này chưa tráng nhựa nhà cửa thưa thớt. Đó là con đường của cánh xe "be" tải gỗ đại thụ, nặng hàng chục tấn từ rừng già Campuchia về. Hàng đêm từng đoàn xe "be" chạy rung rinh mặt đất cho đến sáng. Để trốn thuế kiểm lâm đặt chốt tại Tân Trung, mỗi đoàn xe chỉ mở đèn chiếc đầu tiên và chiếc cuối cùng. Những chiếc chạy giữa chỉ mở đèn gầm.
Một buổi sáng sớm, người dân địa phương rúng động khi phát hiện xác chết của một cô gái nát bấy nằm giữa đường. Có lẽ tai nạn xảy ra từ lúc nửa đêm và từng chiếc xe nặng hàng chục tấn cứ liên tiếp nghiền xác cô gái cho đến khi phát hiện. Người dân địa phương phải nhặt từng mẩu xương và chút thịt vương văi lẫn với đất cát để mai táng. Không hiểu v́ sao cái đầu cô gái c̣n nguyên vẹn, nằm lăn lốc trong một vạt cỏ hôi cao quá đầu người.
Bẳng một thời gian đêm nọ, bà Hai là người mẹ chiến sỹ đă từng bám trụ vùng đất cách mạng từ thuở kháng chiến đến lúc đất nước thống nhất, có chuyện cần phải đi ngang qua nơi xảy ra tai nạn vào ban đêm. Bỗng nhiên bà trông thấy một mái tóc đen, dài xơa xuống từ ngọn cây xay xuống đến mặt đường. Bà không thuộc loại yếu bóng vía nên b́nh tĩnh bước đến gần để xem đó là chuyện ǵ.
Qua ánh sáng nhập nhoạng của ánh trăng non bà trông thấy một cái đầu không có thân h́nh. Cái đầu mang gương mặt đầy máu đang lơ lửng trên cành cây xay đang nhe răng cười. Bà quét lia ánh đèn b́nh ac quy soi vào thẳng gương mặt kia. Ngay lập tức gương mặt biến mất. Không tin dị đoan bà quay trở về nhà báo với Chính quyền rồi xách súng AR15 huy động mấy đứa con đang là du kích xă ra bao vây khu vực đó.
Bà nghĩ một phần tử nào đó đang mượn chuyện ma quỉ nhát bà với mục đích quấy rối trị an. Thế nhưng lùng sục suốt đêm vẫn chẳng thấy dấu vết ǵ. Ngày hôm sau, chính anh con trai út của bà đi ngang chổ cây xay lại bị "ai đó" nắm tóc giật. Anh ngước nh́n lên và trông thấy những ǵ hôm qua mẹ anh trông thấy.
Một tháng sau, người con rể thứ năm của bà Hai sử dụng chiếc xe hon da 67 đi công việc. Khoảng 12 giờ trưa, anh về đến ngỏ nhưng không quẹo vào mà đâm thẳng vào gốc cây xay chấn thương sọ. Khi người nhà chạy ra sơ cứu, mặc cho mồm khóe mắt lẫn lỗ tai ứa máu, anh vẫn cố thều thào nói đứt quăng: "Nó ở trên cây xay…". Chỉ nói có vậy anh tắt thở.
Sau này rất nhiều người dân đi ngang qua đó vào ban đêm hoặc trưa vắng, thỉnh thoảng lại thấy cái đầu có mái tóc dài lơ lửng trên ngọn cây xay. Sự việc được báo cáo về Công an huyện. Lúc đó ông Sáu M. là trưởng Công an huyện đă ghi nhận sự việc vào sổ tay để đặc biệt quan tâm theo dơi hiện tượng nhưng không có kết luận.
Người dân đă tự nguyện đem cây, lá đến gốc cây xay lẳng lặng cất ngôi miểu nhỏ đốt nhang khấn vái, cầu xin cô gái đừng quấy phá để họ yên tâm đi thăm đồng khuya sớm. Từ đó cái đầu không c̣n thấy xuất hiện nữa. Cho đến tận bây giờ, khi con đường đă được tráng nhựa khang trang rộng răi thoáng đăng, nhưng thỉnh thoảng nơi đó vẫn xảy ra tai nạn giao thông.
Ven quốc lộ I A đoạn B́nh Thuận có ngôi miếu được người dân cho là thờ Hồng Hài Nhi. Cánh tài xế Bắc Nam truyền miệng nhau rằng, đó là ngôi miếu linh thiêng nhất tuyến đường vạn lư này. Và bất cứ tài xế nào đi ngang qua đều phải nhấn c̣i chào "cậu". Họ kể rằng cách nay khoảng 20 năm, mẹ con người ăn xin đi bộ dọc từ miền Trung hướng về Sài G̣n, khi đến đoạn đường này th́ quá nửa đêm. Hai mẹ con chui vào sau một tảng đá ngủ chờ sáng đi tiếp.
Gần sáng khi mẹ c̣n ngủ, đứa bé chỉ mới 5 tuổi đi ra đường và bị một chiếc xe tải cán chết. Sáng dậy, bà mẹ vùi tạm xác đứa con sau tảng đá rồi tiếp tục hành tŕnh. Từ đó cánh tài xế đi đêm ngang đoạn đường này thường trông thấy bất ngờ, một đứa bé đứng giữa đường ngay trước mũi xe. Phăn xạ tự nhiên họ thắng thật gấp thế là xe lật nghiêng.
Hầu hết những vụ tai nạn giao thông xảy ra nơi đây, khi tài xế thoát chết đều khẳng định đă lâm vào t́nh huống y như vậy. Ông Chiêu cư ngụ ở xă Khánh Hậu Long An, có thâm niên 40 năm lái xe nay đă giải nghệ kể, chính ông đă từng "vướng tay lái" một lần tại đoạn miếu "cậu Hồng Hài Nhi". Lần đó ông chở trái cây từ Tiền Giang ra cửa khẩu Móng Cái. Trên xe ngoài ông c̣n một lái phụ và bà chủ hàng. Xe đang ngon trớn với tốc độ khoảng 80 km/giờ. Chợt lái phụ hét: "Có đứa con nít nhà ai đứng đón xe ḱa".
Ông nh́n theo ánh đèn pha dài ra phía trước nhưng chẳng thấy ǵ cả. Đột nhiên ngay trước đầu xe khoảng 5 mét, ông chợt thấy một đứa bé trần truồng đứng giữa đường. Bà chủ hàng thét hoảng: "Coi chừng con nít!". Ông đạp thắng sát sàn xe. Chiếc xe bị thắng đột ngột quay ngang rồi lộn hai ṿng.
Giây phút kinh hoàng trôi qua, ông chui ra khỏi chiếc xe bẹp dúm để quan sát xem đứa bé có bị chiếc xe cán trúng không. Không có đứa bé nào cả. Bà chủ lẫn anh phụ xế cũng thoát chết nhưng bị xây xát, máu me đầy người đă cùng ông dùng đèn pin rọi nát mặt đất, vẫn không thấy đứa bé nào cả.
Qua cánh tài xế dừng xe chia buồn, ông mới hay đoạn đường này có ngôi miếu của "cậu". Đến sáng bà chủ hàng kinh sợ bỏ tiền, nhờ người xây sửa ngôi miếu bằng cây đă mục thành ngôi miếu xi măng. Từ đó ông bắt chước cánh tài xế khác, cứ đến đoạn đường này là bóp c̣i "chào". Những chuyến hàng đi ngang miếu "cậu" nhằm ngày mùng 1 hoặc 15 âm lịch, ông đều dừng xe đốt nén nhang van vái "cậu" độ tŕ tay lái.
Đoạn đường kinh hoàng thứ hai đối với cánh tài xế Nam Bắc là cung đường cũ qua đèo Hải Vân. Cung đường dài 25 km này có hơn 42 ngôi miếu. Theo anh Dũng cư dân địa phương cho biết: "Con số 42 là bề nỗi. Nếu tính luôn những ngôi miếu đă mục nát tự hủy th́ có hơn 60 cái. Một số miếu không c̣n tồn tại nhưng người ta vẫn cứ thắp nhang dưới các gốc cây ven đường".
Mỗi ngôi miếu ở đây đều gắn liền đến "sự tích" của ít nhất 10 vụ tai nạn giao thông thảm khốc. Ngôi miếu ở cung đường cuối trước đi lên đỉnh đèo, là nơi xảy ra vụ đổ xe vận tải hành khách, làm chết 50 người vào năm 1998. Chiếc xe chở hành khách từ thành phố đi Hà Nội đang rặn ga ḅ chậm răi lên đỉnh đèo. Bất ngờ từ phía ngược chiều nơi đầu khúc cua, một chiếc xe tải xuất hiện lao nhanh xuống. Chiếc xe tải đă mất thắng.
Ông Hải tài xế xe khách, cư ngụ ở phường I. quận 8. thành phố, chỉ c̣n biết nép xe ven mép thung lũng sâu hun hút, nhắm mắt chờ đợi thảm họa. Bị chiếc xe tải lao thẳng vào, chiếc xe khách văng ra khỏi thanh chắn bảo vệ và lao vụt xuống thung lũng. Không ai c̣n sống, chỉ mỗi người tài xế vướng người vào một nhánh cây nhô ra lưng chừng thung lũng.
Người tài xế ôm nhánh cây chịu trận suốt một ngày mới được những người cứu hộ t́m thấy. Người tài xế bị khủng hoảnh tinh thần, suốt ngày lơ ngơ như người đă mất hồn. Hơn mười năm sau ông mới quên được thảm họa, và trở lại b́nh thường nhưng vẫn chưa đủ can đảm đặt tay vào vô lăng.
Vụ tai nạn giao thông thảm khốc của đoàn từ thiện một phường thuộc quận Phú Nhuận, đi cứu trợ Nha Trang đă tạo cú sốc đối với dư luận cả nước vài tháng sau đó. Những người chứng kiến vụ tai nạn vẫn cứ bị ám ảnh măi. Sau này đoạn đường đó cứ liên tiếp xảy ra những vụ tai nạn chết người. Một số thân nhân của đoàn từ thiện bị tử vong, đă thuê thầy cúng đến hiện trường "trục hồn" người chết về thành phố, cho con cháu đốt nhang.
Chị N.Th. A. có mặt trong nhóm cúng trục hồn kể, khi đang cúng, một bà đi cùng đột nhiên ngă lăn ra đất, sùi bọt mép mắt trợn ngược. Sau đó bà ta ngồi dậy quơ chân múa tay, cho biết bà là một trong những vong hồn của đoàn từ thiện, bị chết oan đang nhập xác. Thầy cúng đọc kinh, chú liên tục để "mời" vong hồn theo lá phướn về thành phố. gần gũi gia đ́nh để được nhang khói. Vong hồn trong xác bà cốt trả lời: "Không về ở lại đây.. xô xe vui hơn".
Một số tài xế đường dài c̣n truyền miệng nhau nhiều chuyện ly kỳ, huyền bí xảy ra ở cung đường đó. Bây giờ ngay nơi xảy ra tai nạn, một ngôi miếu nhỏ mọc lên nhưng thỉnh thoảng vẫn xảy ra tai nạn giao đến nỗi địa phương phải cắm một biển báo: "Nơi đây thường xảy ra tai nạn giao thông".
Ven đường xuyên Á, từ cầu vượt An Sương đến Củ Chi có 25 cái miếu mọc ven đường. Từ B́nh Chánh đến thị xă Tân An Long An có 16 cái miếu. Miếu ven đường nhiều nhất có lẽ thuộc đoạn đường từ Ngă ba Trung Lương đến Vĩnh Long. Cứ vài km là có một ngôi miếu. Khi giải tỏa mở rộng đường một số ngôi miếu đă bị phá bỏ dẹp đi, nhưng sau đó xảy ra liên tiếp những vụ tai nạn giao thông, thế là người ta lại xây mới.
Thông thường một ngôi miếu oan hồn "cất" theo kiểu nhà ngói ba gian, có diện tích khoảng 160 cm vuông. Nhưng tại Bến Lức có một ngôi miếu lớn hơn gấp 10 lần ngôi miếu thông thường. Một người dân sống lâu năm gần đó nhẩm tính theo trí nhớ cho biết, từ khoảng năm 75 trở lại đây có hơn 100 vụ tai nạn giao thông xảy tại nơi đây, trong đó có ít nhất 30 người tử vong.
Đặc biệt có vụ tai nạn xảy ra rất thảm khốc. Một người phụ nữ dắt ḅ đi trên đường. Do con ḅ thấy xe thường nhảy hoảng, bà ngoáy dây mũi ḅ vào bàn tay để tránh tuột tay khi ḅ nhảy. Bất ngờ một chiếc xe tải chạy ngang qua bóp kèn. Con ḅ hoảng hốt lồng lên chạy băng qua đường. Sợi dây mũi xiết chặt bàn tay người phụ nữ, kéo bà ngă xoăi xuống đất rồi lê ra giữa đường vào ngay đầu xe tải.
Tài xế bị bất ngờ đă đạp xiết thắng. Bánh xe bị thắng bắt dừng quay, nhưng quán tính đẩy toàn thân chiếc xe lao tới. V́ vậy thân h́nh người phụ nữ bị bánh xe nghiến dài dưới mặt đường hơn 10 mét. Từ đó cứ đến đoạn đường này, những tài xế hành nghề lâu năm đều giảm tốc độ, chạy xe hết sức thận trọng và không quên bóp ba tiếng c̣i "xin" oan hồn đừng xô tay lái. Tuy vậy thỉnh thoảng một vài chiếc xe gắn máy vẫn cứ đâm vào nhau.
Ngôi miếu này được xem là một trong những ngôi miếu xảy ra nhiều chuyện kỳ bí. V́ vậy rất nhiều người đến đây cúng vái, cầu xin mua may bán đắt lẫn xin…số đề. Nhiều người ở nhiều tín ngưỡng khác nhau đến cúng vái, riết rồi ngôi miếu trở thành nơi thờ đủ loại thần như Quan Công, Bà Chúa Ngũ hành, Thổ địa, Thần tài…chứ không c̣n thờ oan hồn như lúc ban đầu. Dần dà ngôi miếu này sắp được "nâng cấp" lên thành miểu.
CHUYỆN KỂ DỰNG TÓC GÁY
Nếu đề cập đến những ngôi miếu oan hồn, mà không đề cập đến những câu chuyện huyền hoặc gắn liền với ngôi miếu, xem như chưa biết ǵ về miếu. Bởi không có những mẫu chuyện mang tính tâm linh, th́ chẳng ai cất công xây miếu.
Bà Đặng Thị Mười 70 tuổi, cư ngụ ấp Long Ḥa, phường Thới Long, quận Ô Môn thành phố Cần Thơ kể: "Quốc lộ 91B, đoạn gần Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long thuộc quận Ô Môn, có một cái miếu oan hồn. Nhiều người đă từng bị những oan hồn này trêu ghẹo. Tôi cũng bị một lần". Rất nhiều ông lăo sống tại nơi đây, đều xác nhận những câu chuyện kể của bà Mười.
Họ cho biết cách nay khoảng 50 năm, một chiếc xe lam ba bánh chở khách đi chợ khuya, bị vướng trái nổ khiến 14 người trên xe đầu chết tan xác. Trong đó có hai người phụ nữ mang thai. Một tuần lễ sau những người đi bộ ra chợ khuya, ngang qua chỗ ấy thường bị ai đó xô té ngă trặc chân. Chính bà Mười trông thấy tận mắt hai lần, một người phụ nữ mặc đồ trắng tóc xơa dài, tay bế một đứa trẻ bay là là trên ngọn gió theo hướng gió thổi.
Bà Mười không sợ ma nên đứng quan sát rất lâu, cho đến khi bóng ma khuất sau ngọn cây. Bà Thế cùng chứng kiến vụ việc với bà Mười đă xác nhận: "Tôi vừa trông thấy đă hoảng hốt bỏ chạy thục mạng về nhà. Riêng bà Mười vẫn đứng lại xem".
Người ta đă hùn tiền cất cho 14 oan hồn người lớn và hai oan hồn sơ sinh, một ngôi miếu ven đường sơ sài để hồn ma không quấy nhiễu nữa. Bẵng một thời gian dài, cách nay ba năm một cô gái trẻ chạy xe đạp đến nơi đó bị một chiếc xe tải cán… đứt đầu. Gia đ́nh cô gái nhờ người lên đồng nhập xác. Cô gái nhập xác bà đồng cho biết, có lần cô và đám bạn gái đi ngang miếu, bảo với nhau rằng, chuyện ngôi miếu linh thiêng là chuyện tầm phơ tầm phào.
V́ vậy ma "mẹ bồng con" cư ngụ ngôi miếu, bắt cô phải thế chỗ. Cô phải bắt đủ chín người cà nam lẫn nữ mới được siêu thoát. Không biết chuyện lên đồng là có thật hay mê tín dị đoan, mà vài tháng sau một cô gái trẻ khác chạy xe đạp đến nơi đó, lại bị xe tải cán đứt hai người.
Liên tục trong 5 năm, tại nơi này xảy ra hàng chục vụ tai nạn, làm cả chục người bị thương và đă có tám người tử vong thảm khốc. Ông Lê Th. C. cư ngụ gần ngôi miếu khẳng định: "C̣n một mạng người nữa mới đủ số chín. Tôi luôn dặn ḍ con cháu, khi đi đến đoạn đường đó phải thận trọng hết mức. Nhiều người cho là chuyện dị đoan, mê tín nhưng hầu hết những người sống quanh khu vực này đều tin chuyện đó có thật".
Ông kể thêm rằng, mẹ cô gái bị đứt người làm hai khẳng định, đêm trước tai nạn cô gái có kể cho bà biết rằng, cô nằm mơ gặp cô gái đứt đầu rủ đi xô xe chơi. Nghe xong giấc mơ bà mẹ rầy con gái rằng, đó là chuyện nhảm nhí. V́ vậy ngay sau khi cô con gái bị tai nạn, bà đă thuê ngay thầy cùng "trục" vong linh nhưng thất bại.
Bà Cẩm H. 42 tuổi cư ngụ gần ngôi miếu khẳng định: "Tôi chạy xe trước con nhỏ bị cán đứt hai. Trước khi xảy ra tai nạn vài giây, tôi nghe thoảng trong gió tiếng một người phụ nữ hét: Xô nó té đi! Tôi ngoănh lại để xem ai nói, nhờ vậy tôi chứng kiến trọn vẹn cảnh tai nạn. Ngay khi đó tôi mất hồn mất vía phải xuống xe, ngồi xuống vạt cỏ một hồi lâu mới tỉnh hồn".
Ở ngay cung đường này, đă từng xảy ra một vụ tai nạn làm chết tại chỗ ba học sinh cấp 3, nhưng cách ngôi miếu khoảng một km, nên người dân không tính tai nạn đó là do các oan hồn ngôi miếu xô đấy. Ba cô cậu học sinh đi học ngoại khóa môn thể dục. Tan học cả ba gồm hai cậu một cô, chất nhau lên một chiếc xe dream chạy thật nhanh.
Họ vừa chạy vừa cười giỡn. Họ đâm thẳng vào bánh trái chiếc xe vận tải hành khách, chạy ngược chiều từ hướng Cần Thơ về Ngă ba Lộ Tẻ. Chiếc xe dream bị cuốn vào bánh xe vận tải hành khách. Cả ba cô cậu đập mặt vào ca pô xe khách, rồi cũng bị cuốn vào bánh xe. Mỗi thi thể bị ném văng xa cách nhau hơn mười mét. Tất cả đều biến dạng trông rất gớm ghiếc.
Các cơ quan chức năng điều tra đều nhận định chung về các vụ tai nạn xảy ra tại cung đường này: Đường hẹp do mép lề ven sông bị sạt lở, các nạn nhân hoặc người gây tai nạn phóng nhanh vượt ẩu, vi phạm luật giao thông. Để hạn chế tai nạn một biển báo "đoạn đường thường xảy ra tai nạn", được UB an toàn giao thông địa phương cắm ven đường. Tuy vậy thỉnh thoảng một vài người tham gia giao thông, vẫn cứ tạo điều kiện cho ngôi miếu oan hồn có thêm… "uy tín".
Chuyện hồn xô đẩy dẫn đến tai nạn giao thông chết người, có thể là chuyện hoang đường do một số người chứng kiến tai nạn bị ám ảnh. Tuy nhiên nếu tham gia giao thông đến đoạn đường có cất miếu oan hồn ven đường, bạn cần tin rằng nơi ấy đă từng xảy ra những vụ tai nạn giao thông thảm khốc.
Nếu không tin vào những chuyện huyền bí hoang đường, bạn cũng nên tin rằng đoạn đường ấy có vấn đề về độ an toàn như: Tán cây che khuất tầm nh́n, mặt đường có ổ gà, chiều ngang đường bị hẹp, mặt đường trơn… Đó là môi trường tạo nên những vụ tai nạn giao thông chết người. Hăy cẩn thận tay lái và giảm tốc độ khi trông thấy miếu oan hồn.
Một vài UB an toàn giao thông của vài địa phương, đă từng đặt những tấm bảng in h́nh ảnh, những thi thể kinh dị biến dạng v́ tai nạn giao thông, để nhắc nhở mọi người cẩn thận khi tham gia giao thông, ở những cung đường nguy hiểm thường xày ra tai nạn.
Tuy nhiên vẫn không hiệu quả bằng những ngôi miếu ven đường. Điều này tất cả những tay lái loại xe tải đường dài đều thuộc nằm ḷng.
Hồ Xuân Dung
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 279 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 1:10am | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG BÍ ẨN SAU CỎI CHẾT
Vấn đề giải thích về sự xuất hiện của hồn ma.
Cho đến nay vấn đề giải thích về ma vẫn chưa được rơ ràng, mặc dầu các nhà khoa học đă mạnh dạn bước vào lănh vực nghiên cứu những hiện tượng ma quỷ và coi đó cũng là một trong vô số các hiện tượng tự nhiên mà từ lâu con người chưa khám phá t́m hiểu tường tận.
Điều kỳ lạ là tuy mới bắt tay vào việc nghiên cứu hồn ma, nhưng các nhà khoa học với cách làm việc có phương pháp theo tinh thần khoa học thực nghiệm, họ đă thu thập vô số các sự kiện liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu và cho đến nay, chỉ riêng một nhóm nhà khoa học nghiên cứu tại Oregan, mà Trưởng nhóm là Bác sĩ Pretice không thôi ,cũng đă có hàng ngàn dữ kiện lạ lùng về hiện tượng hồn ma.
Mới đây bác sĩ thần kinh học ở Đại Học Berkeley California, Hoa Kỳ đă tuyên bố: "Chúng tôi có thể mạnh dạn nói rằng: Tất cả chúng ta, mọi người đều mang những hồn ma theo ḿnh. Từ lâu, máy ḍ t́m EGG tác động vào việc ḍ tách các sóng năo thường cho thấy có sự biến đổi mạnh mẽ và giới khoa học thực sự chưa biết nguyên nhân.
Nhưng giờ đây, khi nghiên cứu kỹ về vấn đề hồn ma, chúng tôi tin chắc rằng những biến đổi theo các cấp độ khác nhau của sóng năo là do sự hiện diện, ảnh hưởng của linh hồn những người đă chết".
Dĩ nhiên v́ là nhà khoa học, các nhà nghiên cứu này đă làm việc với tinh thần vô tư, trung thực, không chấp nhận những quan điểm mơ hồ vô lư đôi khi khôi hài. Họ xử dụng luôn các dụng cụ máy móc để hỗ trợ cho việc nghiên cứu.
Tuy nhiên họ cũng không quá bảo thủ theo tinh thần của khoa học thực nghiệm mà đôi khi rất cởi mở với nhiều sự kiện miễn rằng có liên hệ đến vấn đề siêu linh huyền bí mà họ đang t́m hiểu bằng cách từ lập luận đó mà phân tích, tổng hợp suy diễn để từ đó t́m được hướng đi tới cho vấn đề.
Dù sao thật sự cho đến bây giờ, rơ ràng các nhà nghiên cứu vẫn đang c̣n trên đường t́m hiểu, thăm ḍ, thu thập tài liệu, nghiên cứu về vấn đề hồn ma. Kết luận sau cùng vẫn chưa dứt khoát. Câu hỏi Ma Là Ǵ vẫn c̣n có lắm câu trả lời và sự giải thích cũng c̣n có nhiều khác biệt.
Nhà nghiên cứu Robert Jackson năm 1992 đă viết một cuốn sách hoàn toàn về ma quỷ nhan đề "Great Mysteries Ghosts". Trước đó cũng đă có rất nhiều sách viết về đề tài này. Hầu hết các tài liệu đều được các tác giả đánh giá và nhận định kỹ càng.
Riêng về việc xác nhận có hồn ma hay không th́ hơn 90 phần trăm tác giả đều cho rằng hồn ma là một vấn đề không nên hiểu như là một sự tưởng tượng của con người. Hồn ma là một thực thể trong một thế giới vô h́nh và thế giới ấy ở kề cận chúng ta.
Theo Robert Jackson th́ hồn ma đôi khi hiện rơ có thể thấy được bằng mắt trần, đôi khi thoạt hiện thoạt biến. Dạng thế thường như lớp sương mờ và thường xuất hiện đơn độc hơn là quy tụ thành nhóm.
Hồn ma xuyên qua vách tường, vật rắn đặc một cách tự nhiên và mặc dầu hồn ma thương xuất hiện bất ngờ, đôi khi t́nh cờ, may mắn, có người đă chụp ảnh được hồn ma.
Từ lâu, các nhà vật lư học đă nghĩ đến việc đo nhiệt độ của hồn ma. Thật ra, sau khi bác sĩ Mac Douglas thực hiện việc cân đo trọng lượng hồn người chết, vấn đề đo lường phân tích nhiệt độ nơi hồn ma xuất hiện được lưu tâm hơn.
Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng: Hầu hết các căn nhà nhất là các căn pḥng của những ngôi nhà có ma thường có nhiệt độ giảm thiểu. Sự sụt giảm nhiệt độ sẽ rất nhanh khi có hồn ma xuất hiện. Một nguyên nhân gây ra có thể là do hồn ma thuộc về âm hơn là dương tính.
Một số nhà tâm lư học và sinh lư học cho rằng đôi khi t́nh trạng thần kinh, sức khỏe của mỗi người thường có thay đổi lệch lạc. V́ thế sự nhận định về h́nh ảnh, hiện tượng xảy ra ở bên ngoài không được toàn hảo, nhất là trong t́nh trạng nửa thức nửa ngủ, nửa mê nửa tỉnh (semi-conscious state), hoặc những h́nh ảnh có từ trước do tưởng tượng có thể được ghi vào tiềm thức rồi có dịp biểu lộ ra và gọi đó là hồn ma.
Thật ra những luận cứ ấy không hẳn là vững chắc hoàn toàn v́ có những hiện tượng xảy ra được nhiều người chứng kiến th́ không thể bảo rằng do kư ức. Do đó thuyết cho rằng ma là do sự tưởng tượng, ấn nhập h́nh ảnh vào trí óc có vẻ hữu lư phần nào nhưng chưa hẳn là vậy và chúng ta biết rằng hiện tượng điện (electric) và từ (magnetic) là cơ bản trong những định luật vật lư.
Hai phần này hỗ tương tác động lẫn nhau để tạo nên một điện từ trường (electromagnetic field) và trong điện từ trường ấy có phần chính yếu là hạt photon. Điện từ trường phát sinh sự phát xạ, bức xạ (radiation) sóng năng lượng (waves of energy).
Các nhà lư luận đă dựa vào lư luận này để giải thích hiện tượng, h́nh ảnh hồn ma bóng quế. Mặc dầu vậy, lư luận trên không thể dùng cho trường hợp của những ǵ thuộc về âm thanh kỳ lạ mà nhiều người gọi là âm thanh do ma quái tạo ra. Cũng như mùi vị, sự chuyển động của đồ vật, hoặc hiện tượng đóng hay mở cửa do một lực vô h́nh nào đó tác động vào.
Một giả thiếtt khác khá hấp dẫn cho rằng, những hồn ma là sự biểu lộ rơ nét h́nh ảnh trung gian giữa đời sống này và đời sống khác, hay nói theo nghĩa luân hồi là giữa kiếp này và kiếp khác.
Những nhà điều tra nghiên cứu về những sự kiện liên hệ đến hồn ma, đă lưu tâm phỏng vấn những người đă có lần chết đi sống lại, có những người khẳng định rằng họ đă nhớ lại rơ ràng lúc "tạm bỏ thân xác" ấy, họ đă có dịp đến một nơi hoàn toàn xa lạ có thể gọi là nơi thế giới khác và họ đă thấy nhiều sự kiện và h́nh ảnh lạ lùng.
Điều mà cho đến nay nhiều người vẫn c̣n thắc mắc là tại sao hồn ma luôn luôn xuất hiện cùng với bộ áo quần đang mặc thuộc về quá khứ mà không phải là bộ đồ của tương lai hay bộ đồ mới nào khác?
Có nghĩa rằng hồn ma thường xuất hiện với bộ đồ họ mặc lúc họ qua đời chớ không phải là bộ đồ khác. Nhiều hồn ma hiện ra trong thời đại ngày nay và trên ḿnh vẫn mặc bộ áo quần của thời đại quá văng như trường hợp ở Manor Castle, một người chủ của quán trọ Strines Inn cho biết, chính ông và anh trai ông đă thấy một hồn ma xuất hiện trên tầng căn gác thứ nhất.
Hồn ma này mặc bộ đồ lính của thời Trung Cổ. Điều này đă khiến cho nhiều nhà nghiên cứu có những lập luận như sau: Nếu giả thiết rằng có sự luân hồi chuyển kiếp th́ rơ ràng hồn ma này chưa được đầu thai hay có thể chính linh hồn này chưa chịu đầu thai.
H́nh ảnh hồn ma xuất hiện luôn luôn mặc nguyên bộ áo quần thời xưa của lúc bị chết chứng tỏ hồn ma c̣n ở t́nh trạng mượn lấy phần dạng thể của thân xác cũ chớ chưa nhập vào một thân xác khác. Do đó không lạ ǵ nhiều người đă quan niệm rằng đă gọi là hồn ma th́ chắc chắn đó là một linh hồn chưa được siêu thoát.
Để có thể trung thực hơn khi nhận định, nghiên cứu vấn đề hồn ma, và lập luận theo đường hướng khoa học tự nhiên th́ thật sự chẳng có cái ǵ gọi là chết hoàn toàn mà chỉ là sự thay đổi đơn thuần của sự vật mà thôi. Cơ thể con người sẽ bị hủy hoại khi chết nhưng rồi những nguyên tử cấu thành cơ thể ấy lại trở thành một phần của những vật chung quanh dưới tác dụng của đất, nước, gió, lửa.
Trong cái sức mạnh về điện từ được hiểu như là phần linh hồn chuyển đến một nơi nào đó. Riêng đối với con người, có phải chúng ta quá tưởng tượng và phóng đại quá mức khi tin tưởng rằng năng lực của cuộc sống hay của linh hồn là một phần của cái mà chúng ta có thể cho là tinh thần, ư thức hay sức mạnh của vũ trụ?
Cái sức mạnh đó, cái tinh thần, ư thức đó của vũ trụ đang được chính các nhà khoa học cố gắng ra sức t́m kiếm và hy vọng lời giải đáp chung cuộc, về những vấn đề của thế giới siêu linh, của linh hồn, hồn ma sẽ không c̣n quá xa.
Màu sắc, ánh sáng, âm thanh ở những
cơi giới khác nhau.
Ánh sáng và màu sắc:
Sách viết về sự chết của người Tây Tạng gọi là Tử Thư có nhắc đến màu sắc và ánh sáng ở cơi chết. Khi con người chết đi linh hồn họ sẽ đi vào một cảnh giới chan ḥa màu sắc, ánh sáng và âm thanh.
Trước tiên lànhững vùng tối đen rồi dần dần xuất hiện những đốm sáng trắng như bông g̣n hoặc mây trời và sau đó là vầng sáng chói ḷa và những âm thanh huyền diệu.
Những h́nh ảnh này trùng hợp một cách lạ lùng với những nhận xét mà các nhà khoa học, các bác sĩ, các nhà nghiên cứu về những ǵ liên quan đến sự chết nêu ra khi họ phỏng vấn những người đă có lầnchết đi sống lại hay đă gần gũi với cái chết.
Những người này đă mô tả lại những ǵ họ đă trải qua trong những giờ phút thập tử nhất sinh. Họ thấy ḿnh đi vào một đường hầm tối tăm rồi dần dần tỏa rạng bởi những làn hơi trắng, những tia sáng lung linh, những màu sắc rực rỡ cùng với những âm thanh kỳ lạ.
Theo Tử Thư th́ màu sắc hiện ra c̣n tùy vào tâm thức của linh hồn lúc đó. Hoặc tối tăm ảm đạm như màu sương khói, hoặc rùng rợn mơ hồ huyền bí hay chói chang sống động như ánh hào quang.
Màu sắc, ánh sáng, âm thanh ở cơi giới khác thật sự rất khác xa với cơi thế gian mà con người đang sống. Theo Tiến sĩ Hamound th́ "Thế giới mà con người đang sống thật sự chỉ là một thế giới hư ảo mà thôi. Kinh Phật Giáo thường viết 8 chữ Sắc Tức Thị Không, Không Tức Thị Sắc để nói lên cái vật chất là hư vô, có không, không có..."
Trong sách truyền đạo (Thánh Kinh) có một câu: "người truyền đạo nói: Hư không của sự hư không, hư không của sự hư không, thảy đều hư không..." Tuy nhiên, đối với con người, v́ tin tưởng và xử dụng các giác quan phàm tục của ḿnh nên đă coi thế giới này là thực.
Họ thấy rơ mọi vật hiện ra trước mắt, ánh sáng, màu sắc, âm thanh là thật đối với họ. Trái lại đối với những thế giới khác, những cơi giới khác với cơi giới họ đang sống th́ v́ họ không đến được, không thấy được, không nghe được bằng giác quan ḿnh nên họ cho là không có.
Ánh sáng và màu sắc
ở cơi giới khác
Trên quả đất, loài người thấy được ánh sáng. Ánh sáng ấy phát sinh từ mặt trời, hay từ mặt trăng hoặc phát sinh từ những khám phá phát minh của loài người như lửa, than, đèn dầu, đèn điện v.v...
Từ thuở con người c̣n ăn lông ở lỗ, ánh sáng mặt trời quả là huyền diệu kỳ bí. Thần mặt trời (thần RẢ) được người Ai Cập tôn thờ. Người Hy Lạp cổ đại cũng đề cao thần mặt trời, thần chiến thắng. Người Incas cũng tôn thờ mặt trời, người Nhật tự hào ḿnh là con cái của Thái Dương Thần Nữ v.v...
Tượng thần Sphinx có ḿnh sư tử đầu người là biểu tượng cao quư linh thiêng của người Ai Cập cổ đại tôn thờ vinh danh ánh sáng. Nhưng nếu so với cơi giới khác th́ ánh sáng trên cơi giới này kể cả ánh sáng mặt trời cũng chỉ là ánh sáng của cơi giới sơ cấp mà thôi.
Thứ ánh sáng trên thế gian này không phải là thứ ánh sáng siêu đẳng, ánh sáng ấy chỉ là do sự tập hợp của các giai tầng màu sắc đỏ, cam, vàng, xanh, lam, chàm, tím và các màu sắc cũng chỉ là do sự phản chiếu, hấp thụ, khuếch tán các màu đơn sắc (con người có thể thấy rơ từ ác cầu ṿng) mà thôi.
Các vị Lạt Ma Tây Tạng thường gọi những ánh sáng và màu sắc ấy là thứ ánh sáng sơ đẳng ở cơi phàm trần, là thứ ánh sáng sơ lậu. Trái lại, ánh sáng ở những cơi giới khác thường rất khác xa cái ánh sáng mà con người có được trên quả đất.
Có thể nói phần lớn là loại ánh sáng siêu đẳng lạ lùng, loại ánh sáng siêu nhiên. Ánh sáng này nếu ở cấp cao th́ con người không c̣n thấy được nữa v́ không c̣n biểu lộ ra ngoài như cái ánh sáng thường thấy ở thế gian.
Cần lưu ư rằng từ cơi giới loài người đang sống chuyển đến các cơi giới tuyệt cùng phải trải qua nhiều cơi giới có cường độ ánh sáng khác nhau, do đó vẫn c̣n nhiều cảnh giới mà con người sẽ thấy được thứ ánh sáng ở đó. Chính những ánh sáng, màu sắc, âm thanh cảm nhận được ấy sẽ đưa linh hồn từng bước đến cơi giới khác.
Khi trí tuệ con người được khai mở, được giác ngộ th́ họ sẽ thấy được luôn cả cái ánh sáng cao cấp. Ấy là lúc con người không c̣n bị ràng buộc bởi cái "bản ngă", cái ta; không c̣n bị ch́m đắm trong mê mờ nữa.
Trong Tăng Chi Bộ Kinh có ghi lại lời của Phật nói về ánh sáng như sau: Xét về ánh sáng có 4 thứ ánh sáng chính; đó là ánh sáng do mặt trời phát ra; ánh sáng do mặt trăng phát ra; ánh sáng do lửa phát ra; ánh sáng do Trí Tuệ phát ra. Trong 4 thứ ánh sáng ấy th́ chỉ có ánh sáng Trí Tuệ là vi diệu hơn cả. Đó là ánh sáng tối thượng.
Những ǵ mà những người chết đi sống lại hay đă có lần gần gũi với cái chết mô tả về con đường hun hút cùng với ánh sáng lạ lùng mà họ đă xuyên qua th́ thứ ánh sáng ấy thật sự cũng chỉ là ánh sáng ở cấp độ nhỏ mà thôi mặc dù so với ánh sáng ở cơi thế gian này th́ vẫn cao hơn.
Điều đáng lưu tâm là theo kinh điển của các tôn giáo như Ki-Tô Giáo, Phật Giáo, Ấn Độ Giáo... đều thường đề cập đến hiện tượng những người được khai ngộ, giải thoát, cứu rỗi để đến với Phật, với Chúa, với Đấng Tối Cao, với Thượng Đế... đều thấy được thứ ánh sáng này.
Đây là thứ ánh sáng chan ḥa, tuyệt đối, rực rỡ và rất chói chang. Cường độ ánh sáng này vô cùng mănh liệt, không có ở quả đất và nếu có th́ mắt người hay loài vật sẽ không thể chịu nổi. Chỉ khi nào trí tuệ con người đă được khai mở rồi th́ cái ánh sáng vi diệu mạnh mẽ này sẽ không c̣n là thứ ánh sáng đáng sợ đối với họ nữa.
Cũng giống như âm thanh, ánh sáng cũng có những đẳng cấp khác nhau tùy vào những cảnh giới. Như vậy, mỗi cảnh giới sẽ có những ánh sáng, màu sắc, âm thanh khác nhau.
Đặc biệt ánh sáng ở cảnh giới cao nhất mà các tôn giáo gọi là ánh sáng ở cảnh giới Thiên Đàng, Niết Bàn, Cơi Trời, Thượng Giới... sẽ không có bóng h́nh. Có nghĩa rằng nơi đây, mọi vật sẽ không có bóng chiếu màu đen in lên vật thể khác giống như bóng đen in lên vách do mặt trời, mặt trăng hay ánh đèn tạo nên ánh sáng chiếu lên vật chất.
Phật giáo gọi đó là Phật Quang và khi nói Phật Quang vô ám là cố để giải thích ư nghĩa tương tự trên, nhưng thật ra ư nghĩa rất thâm sâu.
Theo các vị Lạt Ma Tây Tạng th́ khi chết, linh hồn thoát khỏi thể xác, sau khi vượt qua một đoạn đường tối tăm, linh hồn sẽ được ánh sáng ở cơi giới phân ranh giữa cơi sống và cơi chết dẫn dắt.
Tuy nhiên, v́ ánh sáng mạnh mẽ chói ḷa nên dễ làm linh hồn khiếp sợ, đôi khi t́m cách lánh xa. Đó chính là điều tai hại, lầm lạc v́ chính luồng sáng đó giống như người dẫn đạo chỉ đường cho linh hồn tới được cảnh giới tốt hơn. Nếu v́ sợ hăi mà tránh đi th́ dễ dàng phiêu lạc vào cảnh giới u ám tối tăm bất lợi.
Vấn đề giải thích về sự
xuất hiện của hồn ma
Theo Phật Giáo Tây Tạng th́ sở dĩ con người ở nơi trần thế, sống và hoạt được chính là do một thể đặc biệt, thể này coi như nguồn sinh lực, như là điện năng làm cho máy chạy. Thể này là thể khí; có thể gọi là Sinh Khí mà tên gọi là PRANA.
Nhờ thể Prana hay sinh khí mà mọi tế bào trong cơ thể con người hoạt động được điều ḥa máu huyết được lưu thông, hệ thần kinh bền vững. Chính ánh sáng mặt trời rung động đă làm phát sinh thể Prana.
V́ thế đă là con người sống trên quả đất, tốt nhất là nên sống ở nơi có ánh sáng mặt trời. Đó là điều quan trọng và cần thiết. Nhờ ánh sáng này mà các thể Prana tăng cường điện năng cho cơ thể giúp cơ thể có đủ năng lượng để hoạt động được điều ḥa.
Theo Ki-Tô Giáo, ánh sáng trên thế gian rất quan trọng đối với đời sống con người. Ánh sáng góp phần xây dựng và nuôi dưỡng con người trên quả đất. Moise đă viết: " và Thượng Đế phán: Ánh sáng hăy xuất hiện! và ánh sáng mới có".
Theo Thánh Kinh, trong sự tạo thiên lập địa, ánh sáng được Thượng Đế đặc ân ban cho loài người. Nếu không có ánh sáng, mọi vật thảy đều tối tăm, không thể phát sinh phát triển tồn tại được. C̣n cái ánh sáng và cái bóng tối bên kia cơi chết cũng được nhắc đến trong thánh kinh.
Một số người đă trải qua giai đoạn chạm trán với tử thần đă so sánh vùng tối đen hay đường hầm hun hút mà họ đă qua là "thung lũng của bóng tối tử thần" một h́nh ảnh cũng được mô tả trong kinh thánh.
Nhiều người khi cảm thấy ḿnh trôi qua đường hầm tối đen rồi tới cuối đường hầm là vầng sáng chói ḷa, họ nghĩ rằng họ đă đến với Thượng Đế, với Chúa, v́ họ đă t́m thấy trong thánh kinh trước đó lời Chúa Jésus đă phán: "Ta là ánh sáng của thế gian".
Raymond A. Moondy trong cuốn Đời Tiếp Nối Đời có ghi lại lời nói sau đây của một người đă tiếp cận với ánh sáng huyền diệu sau cơi chết:
"Mặc dầu tôi không hề thấy ai trong cái ánh sáng ấy, nhưng với tôi th́ ánh sáng chính là Tâm Thức của Chúa... là Chúa Kitô...".
Meister Eckhart, một nhà tư tưởng nổi danh và cũng là một đại diện của Huyền học Thiên Chúa giáo đă viết rằng:
"Thời gian sinh ra từ sự vận hành của các cơi trời và ngày bắt đầu với sự vận hành đầu tiên. C̣n ngày của Linh Hồn có thêm ánh sáng tự nhiên mà từ đó ta thấy mọi sự mọi vật..."
Đối với Phật Giáo, ánh sáng đó là Phật Quang, đó cũng là Phật tánh. Đó là thứ ánh sáng vi diệu mà trí huệ nào cũng có và từ ánh sáng ấy phát sinh tất cả. Khi thấy được ánh sáng này tức là thấy được Phật (Phật Quang) nghĩa là được khai ngộ, giải thoát là đến được cảnh giới Như Lai.
Tuy nhiên cần lưu ư điều này: Không phải khi một người tu hành thấy được nguồn ánh sáng lạ khác với ánh sáng ở cơi thế gian tức là họ được thấy Phật, thấy Thượng Đế và được giác ngộ, giải thoát.
Sự thật, trong vũ trụ có nhiều cơi giới, mỗi cơi giới có những ánh sáng và màu sắc khác nhau. V́ thế khi thấy ánh sáng, có thể ánh sáng ấy thuộc về một cơi giới nào đó có cấp độ có thể lớn hơn cấp độ ở quả đất mà thôi chớ không phải ở cấp độ siêu đẳng.
Khả năng về thị giác của con người rất giới hạn họ chỉ thấy được một khoảng cách nào đó cũng như một kích thước nào đó thôi. Ngay trên cơi trần gian này con người muốn nh́n được xa, họ phải dùng đến ống nḥm, muốn thấy được các sinh vật, phải dùng đến kính lúp hay kính hiển vi. V́ thế trong vũ trụ có nhiều cảnh giới lạ kỳ đẹp đẽ nhưng con người không thể nào thấy được.
Những vị chân tu đắc đạo có khả năng để cái phần cốt lơi vi diệu nhất của ḿnh tức là linh hồn rời khỏi các lớp nhục thể bao quanh để đi đến cơi giới cao hơn và sẽ nh́n được ánh sáng ở cơi giới ấy.
Theo Phật Giáo th́ khi chết, phần rời khỏi thể xác trong khoảng thời gian 49 ngày được gọi là Thân Trung Ấm (đó là khoảng thời gian trung b́nh giữa sự chết và sự chưa được tái sinh). Thân trung ấm lúc bấy giờ vừa thoát khỏi thân xác chẳng khác nào một người bấy lâu ẩn trong nhà kín nay mở cửa bước ra thấy biết bao sự lạ của môi trường bên ngoài nên sẽ vô cùng lo sợ, ngơ ngác, phân vân và lại vô cùng lạnh lẽo cô đơn.
Vừa lúc đó bỗng có thêm những luồng sáng lạ xuất hiện lại càng làm linh hồn bàng hoàng thêm. Lúc đó Linh Hồn sẽ bị lệ thuộc vào nghiệp lực rất nhiều và phần lớn trong giây phút này sẽ bị nghiệp lực chi phối. Nếu nghiệp lực cảm ứng với cảnh giới nào th́ sẽ có ánh sáng tương ứng sáng rực lên.
Có 6 cảnh giới hay 6 đường lục đạo, mỗi đường có một loại ánh sáng tương ứng. Ánh sáng của cơi trời màu trắng; ánh sáng của cơi người màu vàng; ánh sáng của cơi A-Tu-La màu xanh lục (green); ánh sáng địa ngục màu xám đen; ánh sáng ở ma quỷ màu đỏ; ánh sáng của súc sinh có màu xanh.
Đồng thời lúc ấy, ở cơi Phật (năm phương) sẽ tỏa ra các hào quang rực rỡ chói ḷa. Thân trung ấm lúc bấy giờ đang trong t́nh trạng hoang mang lo sợ phân vân nên khi thấy ánh sáng mănh liệt, mạnh mẽ ấy chiếu th́ càng lo lắng sợ hăi nên vội vă tránh xa để rồi t́m tới những luồng sáng yếu hơn, thích hợp hơn.
Đó là ánh sáng của Lục Đạo nên sự lầm lạc ấy đă đưa họ đi vào con đường đầu thai của lục đạo. Khi con người đạt đến khả năng thấy được, nhận biết được ánh sáng của Phật đó là lúc đă khai ngộ. Do đó Phật Giáo gọi là "Hoa Khai Kiến Phật".
Chính v́ theo quan niệm ấy mà phần lớn người Trung Hoa, Tây Tạng, Việt Nam v.v. mỗi khi có thân nhân ĺa đời, người thân trong gia đ́nh phải tụng kinh cầu nguyện để giúp vào việc cứu độ và dẫn đường cho người chết trong ṿng thời gian 49 ngày.
Họ hy vọng rằng, nhờ đó mà thân trung ấm sẽ thức tỉnh, sáng suốt chọn lấy con đường có ánh sáng tốt lành và sớm được giải thoát vào nơi tươi sáng thanh cao.
Tác giả Nguyên Phong trong bản dịch cuốn Hành Tŕnh Về Phương Đông theo nguyên tác của Spalding cũng có nhắc đến những giai tầng ánh sáng khác nhau ở bảy cơi giới theo quan niệm của Tiến sĩ Ai Cập Hamoud El Sariw. Theo Tiến sĩ Hamoud th́:
- Cơi âm chính là cảnh giới thứ 7, nơi đây hầu như không có ánh sáng, mọi vật tối tăm ghê rợn.
- Cảnh giới 6 giống cơi thế giới nhưng ánh sáng vẫn c̣n mờ đục như sương khói.
- Cảnh giới 5 khá phát triển về ánh sáng. Đặc biệt ánh sáng ở đây chan ḥa màu sắc cùng với âm thanh đầy vẻ lung linh, hoạt động.
- Cảnh giới thứ 4 có ánh sáng rơ ràng tươi mát.
- Cảnh giới thứ 3 ánh sáng tỏa rạng.
- Cảnh giới thứ hai và thứ nhất tràn đầy ánh sáng tỏa chiếu như ánh hào quang chói lọi mà mắt trần sẽ bị chói chang khó chịu. V́ đây là cơi giới của những linh hồn đă thoát khỏi các bản ngă xấu xa tầm thường mê muội.
Đối với các nhà khoa học, các y bác sĩ, các nhà tâm sinh lư học khi nghiên cứu về những ǵ đàng sau sự chết họ đă ghi nhận những nguồn sáng đặc biệt lạ lùng tương tự những thứ ánh sáng mà một số tôn giáo đă mô tả.
Trở lại trường hợp viên cố vấn pháp luật tại Pháp là Gérard Chouraqui trong một ca được các bác sĩ giải phẫu v́ một căn bệnh vô cùng nguy hiểm ông đă cảm thấy như ḿnh thoát ra khỏi cơ thể, đang nằm bất động và trôi vào một đường hầm hun hút. Cuối đường hầm là ánh sáng chói ḷa như ánh hào quang muôn màu bao phủ lấy ông.
Sự mô tả này rất trùng với những ǵ mà các tôn giáo đă nhắc đến. Trường hợp của Kimberley Clark Sharp th́ mô tả như sau "Tôi cảm thấy ḿnh như xuyên sâu vào một vùng sâu thẳm rồi tôi cảm thấy ḿnh như phủ ngập trong ánh sáng chói lọi, tôi như rơi vào khoảng trung tâm bao la đầy ánh sáng và chợt nghĩ rằng ḿnh đă trở về với Đấng Tạo Hóa...".
Nhà nghiên cứu Klinkenborg đă phỏng đoán những người đă có lần "đi vào cơi chết" và phần lớn đều bắt gặp sự mô tả về ánh sáng chói lọi. Sau đây là lời mô tả của một thiếu phụ: "... Lúc bấy giờ tôi cảm thấy nỗi kinh dị lạ lùng đến cùng với những vầng sáng, những tia sáng rực rỡ và tôi ḥa vào trong những ánh sáng ấy...".
Ngày nay giới khoa học đang cố gắng nghiên cứu thứ ánh sáng lạ ngoài những ánh sáng mà con người đă biết. Theo các nhà nghiên cứu thuộc ngành Vật lư Quang học th́ chắc chắn trong không gian vũ trụ có rất nhiều loại ánh sáng khác nhau và có những loại ánh sáng lạ lùng hơn ánh sáng mà chúng ta đă thấy và đă biết rất nhiều.
Các nhà khoa học hy vọng rằng, rồi ra con người sẽ biết được ít ra là một đôi phần về những nguồn ánh sáng mà theo sự mô tả của những người đă có lần tiếp cận với cái chết và đă ḥa nhập vào ánh sáng đó là rất kỳ diệu lạ lùng...
Trong khoảng hai mươi năm qua, nhiều nhà khoa học đă biết được rằng: Ngoài năng lượng phát sinh bởi các chất hóa học mà ta gọi là hóa năng, năng lượng phát sinh do nhiệt gọi là nhiệt năng, năng lượng phát sinh do điện gọi là điện năng, năng lượng phát sinh do nguyên tử gọi là nguyên tử năng c̣n có thêm năng lượng phát sinh do chính bộ năo, tư duy gọi là năng lượng tinh thần.
Điều này đă giúp các nhà khoa học lư giải phần nào những ǵ về các vầng hào quang xuất hiện trên đầu của những vị giáo chủ, các thiên thần v.v... trong các tranh vẽ tôn giáo.
Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương khi viết cuốn "Con Người và Trường Sinh Học" đă có nhắc đến một đoạn về hào quang phát ra quanh cơ thể con người như sau:
Một chiếc lá đặt trong máy Kirlian hiện ra như cả một thế giới điểm sáng. Xung quanh chiếc lá, người ta thấy những tia lửa nhỏ màu ngọc lam, màu da cam, phát ra từ trung tâm và đi ra theo những kênh xác định.
Một ngón tay hiện ra như cả một bức tranh, một bản đồ chi tiết gồm điểm, đường, các hố ánh sáng, các hố lửa. Một số bộ phận của ngón tay phát ra những ánh sáng như những đèn Nhật Bản, nuôi bởi một nguồn bên trong nào đó.
Tất nhiên vấn đề sẽ thú vị hơn nếu chúng ta thu được không phải chỉ một bức tranh bất động mà cả một quá tŕnh biến đổi của sự sống. Kirlian và vợ ông đă đề ra một phương án tối tân hơn nhằm mục đích đó và Kirlian đă đưa bàn tay ḿnh vào trong cái máy tối tân vừa sáng chế xong. Một thế giới kỳ lạ hiện ra trước mắt ông và Valentina, vợ ông.
Người ta tưởng tượng rằng đó là một giải ngân hà, giữa bầu trời đầy sao. Bên trong bàn tay, một ngọn lửa bừng ra trên một phông màu thanh thiên và màu vàng, và nhiều bó tia sáng đủ các màu tỏa ra giữa các ngọn lửa đó.
Một số ánh sáng trông đều đều như vệt sáng các nến. C̣n một số ánh sáng khác th́ bùng lên, chói ḷa và sạm dần đi... Nhiều tia sáng di chuyển lang thang như những thiên thạch. C̣n nhiều tia khác th́ giống như những đám khí xam xám, lơ lửng.
Tất nhiên về mặt logic, một cái lá mới ngắt chắc sẽ có những hào quang như bàn tay sống của Kirlian. Và quả thật Kirlian, người ta tưởng chừng đây là một thành phố tối tăm, một thành phố đă tắt đèn, mọi người đă đi ngủ.
C̣n đối với một cái lá đang chết dần? Không c̣n một ngọn lửa sống nào cả. Cái tia sáng và các đám khí đều trở nên bất động. Và cuối cùng với một chiếc lá đă chết hẳn th́ hào quang không c̣n nữa.
Với con người chết th́ cũng thế, hào quang sẽ biến mất. Trong trường hợp đặc biệt chết bất th́nh ĺnh do tai nạn, th́ hào quang chỉ biến mất sau một thời gian ngắn vài tiếng đồng hồ..
Đoàn Văn Thông
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 280 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 1:11am | Đă lưu IP
|
|
|
MA TRONG ĐẠO PHẬT
Cổ đức đă bảo: "Thấy ma không ma, ma liền tự họai. Thấy quái không quái, quái liền tự bại". Câu này có nghĩa là: Nếu thấy ma quái mà ḷng không xao động sợ hải, giữ chánh niệm được vững vàng hoặc chí tâm niệm Phật, th́ loài ma quái ấy kkhông làm ǵ được tự đông sẻ bỏ đi.
Các loại ma:
Ma tiếng Phạn gọi là Ma La người Trung Hoa dịch là Sát, bởi v́ nó hay cướp của công đức giết hại mạng sống và trí huệ của người tu. Ma cũng là những ǵ phá hoại làm cho tâm ta cuồng loạn, mất đi chánh niệm sanh ra tà kiến, làm điều ác rồi kết cuộc bị sa đoạ
Người tu hành càng lâu, đạo hạnh càng cao mới thấy rỏ việc ma hung hiểm càng nhiều. Ma tuy nhiều nhưng chung quy chỉ có ba loại:
Phiền nảo ma. Ngoại ma và Thiên ma.
Phiền nảo ma
Chỉ các phiền nảo như giận hờn, si mê, khinh mạn nghi ngờ ác kiến, v́ do ḷng mê muội sinh ra nên phải dùng tâm chân chánh và sáng suốt giải trừ.
Mỗi người chúng ta đều mang trong ḿnh những nghiệp riêng, cộng lại với những nghiệp sống chung trong hoàn cảnh xung quanh, mà phần nhiều tánh t́nh lừa lọc gạt gẩm bon chen, gây nên những phiền toái trong đời sống dể sinh phiền nảo, dể bị lôi cuốn của ngủ trần nên sa ngă.
Có người v́ nghịch cảnh khiến bi thương sầu nảo chí cầu tiến tiêu tan. Phiền nảo ma hay nội ma nếu không biết khống chế, tất sẽ chiêu căm đến ngoại ma bên ngoài đến phá.
Lời xưa có nói:
"Trong cửa có tiểu nhân ngoài cửa có tiểu nhân đến. Trong cửa có quân tử ngoài cửa có quân tử đến"
Ngoại ma
Là những loài quỷ thần yêu mị bên ngoài. Loại này có thể chia làm ba hạng:
1. Bố ma: loại ma làm người ta kinh sợ qua h́nh hài cọp, sói, rắn hoặc các loài thú dử, nó làm người ta kinh hải mất chánh niệm. Gặp cảnh này nên tŕ danh niệm Phật, nghỉ đến các tướng hiện ra đó chỉ là giả dối, th́ tự động nó không quấy rối được sẽ tự động rút lui.
2. Ái ma: là loại ma kích động ḷng tham ái, chúng dùng ma lực để khiến người ta bị tà trí mê hoặc sa vào ṿng tục lụy.
3. Năo ma: là loại ma chuyên phá rối người tu dể phạm tam quy ngũ giới, bởi v́ chúng là loài ma đă phạm giới.
4. Thiên ma: là loại ma cỏi tha hóa tự tại thuộc tầng thứ sáu của trời Lục dục, loại ma này có nhiều thần thông chúng hiện ra nhựng cảnh sắc hấp dẩn, ŕnh rập lúc tâm ta mất chánh niệm, chúng đột nhập vào để xúi dục làm những điều trái đạo đức. Sức tu của người đời nay thường bị phiền nảo ma đến phá hoại, chưa đủ để Thiên ma đến, v́ nếu loại ma này đến, người thường chúng ta không tránh khỏi sức ma lực của nó.
Người tu niệm Phật nhờ có ánh sáng nhiếp hộ của Phật A Di Đà mà không c̣n bị nạn ma hoành hành, nếu có cũng chỉ phần ít phải cố gắng niệm Phật nhiều hơn nữa.
Niệm Phật phải chí thành hoặc có lúc trong tâm khởi bi thảm, đó là tướng căn lành phát hiện, nhưng phải đề pḥng đừng để thường xuyên xẩy ra như thế, v́ sẽ bị loài ma bi thương nhập vào.
Hoặc vui mừng quá độ tất cũng sẽ bị ma hoan hỷ nhập vào, làm cho cười măi đến điên cuồng. Phàm việc ǵ cũng đừng thái quá đừng phô bày ra nhiều quá dể sanh ma chướng.
Thích Hồng Đạo
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|