Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
  H́nh Ảnh Từ Thiện
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Thông Tin
  Thông Báo
  Báo Tin
  Liên Lạc Ban Điều Hành
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Nhờ Coi Quẻ
  Nhờ Coi Ngày
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Tử Vi
  Tử Bình
  Kinh Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Bói Bài
  Đoán Điềm Giải Mộng
  Khoa Học Huyền Bí
  Thái Ất - Độn Giáp
  Y Dược
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch và Phong Thủy 3
Kỹ Thuật
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
Thư Viện
  Tủ Sách
  Bài Viết Chọn Lọc
Linh Tinh
  Linh Tinh
  Giải Trí
  Vườn Thơ
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 311 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
chindonco (3250)
hiendde (2589)
HoaCai01 (2277)
vothienkhong (1807)
dinhvantan (934)
ryan88 (805)
Vovitu (713)
ruavang (691)
lancongtu (667)
TranNhatThanh (644)
Hội viên mới
redlee (0)
dautranhsinhton (0)
Chieu Tim1234 (1)
huyent.nguyen (0)
tamsuhocdao (0)
henytran2708 (0)
thuanhai_bgm (0)
Longthienson (0)
thuyenktc (0)
liemnhi (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Truyện ngắn huyền bí - hiendde Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 381 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 3:41am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



CHUYỆN RÙNG RỢN Ở AMITYVILLE (NEWYORK MỸ)


Ngôi nhà nhỏ tại Amityville, Newyork trở nên nổi tiếng trong suốt những năm 70 của thế kỷ trước khi cặp vợ chồng chủ nhà là George and Kathleen Lutz công bố với truyền thông hàng loạt những sự kiện kinh hoàng diễn ra tại ngôi nhà của ḿnh.

Bao gồm việc họ trông thấy những con lợn bay được với đôi mắt đỏ lừ, máu từ kẽ tường tự nhiên chảy ra, đám ruồi nổi điên tàn phá gác xép…

Căn nhà này trước đó được biết tới với câu chuyện khủng khiếp vào lúc ba giờ sáng ngày 13-11 năm 1974, một chàng trai tên Ronald DeFeo đă nổi điên và dùng súng bắn chết cha mẹ ḿnh, cùng bốn người anh em của cậu.

Có lẽ chính sự việc này đă làm ngôi nhà bị ám ảnh bởi những thế lực thần bí nào đó. Sau 28 ngày chuyển tới và sống tại đây, gia đ́nh Lutz đă phải bỏ đi bởi họ không thể tiếp tục chịu đựng nổi nữa.

Thực ra ban đầu họ đă được nghe kể về câu chuyện cũ, nhưng hai vợ chồng này cho rằng điều đó sẽ chẳng ảnh hưởng nhiều lắm. Quả thực thời gian đầu cuộc sống của họ diễn ra rất b́nh thường. Nhưng rồi một loạt chuyện kỳ lạ xảy ra:

a. George cứ thức dậy vào khoảng tầm 3 giờ 50 mỗi buổi sáng, sau này ông mới biết đây là thời gian xảy ra vụ án mạng.


b. Ngôi nhà bị đàn ruồi tấn công cho dù lúc đó đang là mùa đông lạnh giá.


c. Kathy thường xuyên mơ thấy những giấc mơ về vụ giết người. Cách thức và nơi nó diễn ra. Cô cũng cảm thấy có một thế lực vô h́nh ôm lấy ḿnh.


d. Họ t́m thấy một căn pḥng bí mật không có trong sơ đồ và gọi là căn pḥng đỏ do màu đỏ đặc trưng trên những bức tường của nó. Con chó Harry không hiểu sao luôn gầm gừ sủa khi tới gần căn pḥng.


e. Không khí quanh nhà luôn bốc lên một mùi lạnh lẽo và hôi thối dù chả có ǵ và cũng không có tí gió máy nào.


f. Cô con gái 5 tuổi của họ th́ bắt đầu tưởng tượng thấy một người bạn tên Jodie với h́nh dáng một con lợn có đôi mắt đỏ sọc.


g. George thường xuyên nghe thấy những âm thanh kỳ lạ, có lúc c̣n bị chúng đánh thức. Tuy nhiên, mỗi lần chạy tới nơi phát ra âm thanh th́ nó biến mất.


h. Một buổi tối George nh́n thấy trên cửa sổ pḥng cô con gái có hai đốm đỏ sáng rực. Khi chạy lên th́ không phát hiện ra ǵ. Cô bé nói đó là Jodie.


i. Cửa nẻo và khoá trong nhà bị phá hỏng và không rơ nguyên nhân?


j. Một thứ chất lỏng màu xanh rỉ ra từ các hốc tường và gác xép.


k. Cây thánh giá dài tới 12 inches trong pḥng nhưng cứ quay tṛn liên tục cho tới khi văng xuống đất. Từ nó bốc lên một mùi chua khó chịu…

Sau này những câu chuỵện trên đă được thu thập và viết. Một vài bộ phim cũng được mô phỏng theo. Khi được chuyển về tay chủ mới, những sự kiện tại Amityville cũng kết thúc.




ST







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 382 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 3:42am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



THE BELL WITCH-PHÙ THỦY BELL (TENNESSEE MỸ)


Đây là một câu chuyện ma xuất phát từ miền nam nước Mỹ, câu chuyện về phù thuỷ Bell, gắn liền với hàng loạt sự kiện lạ thường xảy đến với ḍng họ Bell, sống tại bang Tennessee.

Câu chuyện bắt đầu vào năm 1817 khi John Bell nh́n thấy có một con vật kỳ lạ trong ruộng của nhà ông ta. Nó có phần thân của loài chó những lại có đầu của thỏ. Khi John định bắn nó th́ lập tức con vật biến mất.

Sau đó là một loạt các tai hoạ ập xuống ḍng họ Bell. Bắt đầu từ cô con gái Besty Bell, đột nhiên Besty luôn miệng khẳng định ḿnh bị một thế lực vô h́nh tấn công. Rồi người cha John th́ dần dần không nói được.

Những chiếc chăn th́ tự động bay ra khỏi giường, các thành viên trong gia đ́nh bị xây xước, tóc bị giật không lư do. Gia đ́nh ông lúc đó đổ lỗi cho việc ông đă đụng phải phù thuỷ và phải chịu phạt.

Năm 1820 John Bell mất. Bên cạnh chỗ ông nằm người ta t́m thấy một lọ dung dịch màu đen, khi cho con mèo ăn thử th́ lập tức nó lăn ra chết. Sau này, người ta tin rằng linh hồn của những người ḍng họ Bell vẫn c̣n ở đó.

Năm 1936 có một người đă quyết định đến ngôi nhà của ḍng họ Bell và t́m hiểu. Ông ta nói rằng có những âm thanh yếu ớt của lũ trẻ đang chơi đùa, hay tiếng nói chuyện vẫn có thể được nghe thấy.

Một giả thiết nói rằng người đă hại ḍng họ Bell, chính là người hàng xóm Kate Batts, được coi như một mụ phù thuỷ.

Tại bang Tennessee vẫn có một cái hang được cho là của Kate. Người ta đồn rằng đây là nơi mụ dùng để qua lại giữa âm ty và trần gian. Đến nay chiếc hang vẫn thu hút hàng ngàn lượt khách thăm quan.




ST








Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 383 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 3:43am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



ĐÁM CƯỚI CỦA HAI HỒN MA


1. Một bé sơ sinh người Malaysia chết cách đây 50 năm và một thiếu niên chết v́ bệnh thận cách đây 30 năm, vừa kết hôn hồi cuối tuần qua...

... nhờ sự mai mối của một đền thờ, trong một buổi lễ tổ chức tại ḥn đảo du lịch nổi tiếng Penang.

Đám cưới ma diễn ra trong Lễ hội ma đói kéo dài hết tháng bảy âm lịch. Người ta tin rằng vào dịp này, vong linh của người đă khuất được giải thoát khỏi cơi âm và lên dương gian. Và khi đó, người thân của họ trên dương gian làm cỗ và chuẩn bị những thứ họ cần để cúng, cầu siêu độ tŕ cho linh hồn người đă khuất.

Trong một bài báo đăng trên trang nhất, tờ Star Daily của Malaysia cho hay, chú rể Chee Yu Quan đă kết hôn với cô dâu Cheah Beng Eng trong một tiệc trà truyền thống trong đó cô dâu và chú rể xuất hiện thông qua những h́nh nộm bằng giấy, xung quanh là các thành viên gia đ́nh. Mẹ của cô dâu, bà Ong Kim Luan, 74 tuổi cho hay Cheah đă bày tỏ mong muốn... lấy chồng trong lễ hội ma đói hồi năm ngoái.

- Ban đầu chúng tôi bị sốc và hơi nghi ngờ. Nhưng ngày hôm sau khi chúng tôi nhận được điện thoại từ đền thờ nói rằng "một chàng trai" muốn lấy con gái tôi thông qua bên môi giới, chúng tôi biết rằng lời thỉnh cầu đó là có thật", bà Ong nói.

Bà Ong cho hay bên môi giới nói rằng, cặp đôi đă gặp nhau ở cơi âm cách đây hai năm và mối quan hệ của họ đă đơm hoa kết trái.

Sau khi ngôi đền liên lạc với gia đ́nh Chee để thông báo với họ về ư định kết hôn của cậu, cả hai gia đ́nh đă gặp nhau để chuẩn bị cho đám cưới cho "đôi uyên ương".

2. Ở gần Thành Phố Quy Nhơn cách đây không lâu cũng xảy ra một vụ như vậy, một người Nam qua đời trong một vụ tai nạn cách đây bốn năm, báo mộng cho cha mẹ là muốn cưới một người và cho địa chỉ và số điện thoại.

Lúc đầu hai ông bà nhà chồng không tin, nhưng lần thứ ba báo mộng th́ người con trai đó nói :

- Hai ông bà mà không cưới cho tui, là tui níu chân hai ông bà xuống âm phủ luôn đó.

Thế là hai ông bà bên đàng trai liền gọi theo số điện thoại đó, th́ biết được là bên nhà gái cũng có một người con gái đă qua đời cách đây hai, ba năm ǵ đó, và bên nhà gái ba ngày nay cũng vừa gặp mộng, thấy người con gái của ḿnh cũng nói giống y như vậy. Thế là hai gia đ́nh phải tổ chức đám cưới cho hai hồn ma đó.



                                                                      ST







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 384 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 3:43am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HỒN MA NỮ TRONG KHU RỪNG BACHELOR CHICAGO MỸ)


Một nghĩa địa nhỏ, bị bỏ rơi và có lẽ đă ch́m vào quên lăng nếu như không có trên 100 báo cáo về những hiện tượng lạ xuất hiện ở đây.

Nơi này chưa đầy những điều huyền bí. Những bóng ma đi lại lang thang, những cây cột tự đu đưa cho tới khi bạn chạm tay vào chúng. Trên một cái ao, người ta đồn rằng đó là nơi xưa kia vứt xác những tên cướp bóc hay sát nhân vô lại, giờ chúng trở thành những linh hồn văng lai.

Rồi cả bóng ma một người nông dân trước kia bị chết đuối do ngă từ xe ngựa xuống. Nhưng thứ người ta hay kể với nhau nhất là câu chuyện về người phụ nữ mặc áo trắng, một h́nh tượng ma quỷ phổ biến nhất thế giới.

Người phụ nữ mặc áo trắng phải chịu đựng cuộc sống đau khổ chốn trần gian, hoặc sự phản bội cuả vị hôn thê ḿnh yêu. V́ lẽ đó mà bóng ma này xuất hiện trong những đêm trăng tṛn với bộ đồ trắng toát, trên tay bế theo một đứa trẻ đang khóc.

Năm 1981 tại Chicago người ta đă mở một cuộc t́m kiếm để kiểm tra tính thực hư của câu chuyên này. Hội nghiên cứu ma (GRS) đă đến và đi khắp nơi trong khu rừng để khám phá.

Và điều không tưởng đă đến, với những thiết bị thường trực trong tay, họ đă may mắn chụp được bức ảnh về người phụ nữ áo trắng. Bức ảnh rơ tới nỗi khi được công bố, nó đă làm nhiều người shock.

Trong ảnh một người phụ nữ với dáng vẻ buồn bă đang ngồi trên tảng đá. Năm 2004 một bức ảnh màu được công bố. Tuy không rơ như tấm ảnh trước nhưng nhiều người lại tin nó là thật hơn, bởi dù sao nó cũng mang chút ǵ đó huyền ảo. Người ta c̣n quay cả video về chuyến đi săn lùng bóng ma áo trắng.



                                                                        ST







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 385 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 3:45am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



KẺ BÁO TIN DỮ


Ít ai sống ở vùng Ngă Ba Ông Tạ vào khoảng thập niên sáu mươi mà không biết danh của Thầy Bảy. Thầy Bảy sống trong một căn nhà ba tầng khá khang trang. Thầy tuy đă trên năm mươi mà vẫn chưa có vợ con ǵ cả. Ai cũng cho là Thầy rất cô đơn một ḿnh trong căn nhà ba tầng to lớn này.

Ai có hỏi th́ Thầy chỉ cười nói là nghề của Thầy chưa cho phép Thầy lấy vợ. Nghe tên của Thầy ta cũng có thể đoán được Thầy làm nghề ǵ rồi. Thầy chuyên lo việc bói toán. Từ coi tướng chỉ tay, bói bài giải mộng và ngay cả chiêm tinh Thầy bao thầu hết. Thầy được tiếng nhờ Thầy đoán trúng nhiều hơn. Thí dụ có lần một người đến xin giải mộng, bà ta nằm mơ thấy heo kêu.

Thầy đoán là bà ta sắp được mời ăn tiệc. Quả đúng như vậy tuần đó bà được mời đi ăn đám giổ của một người bà con. Tuần sau bà ta lại tới xin giải mộng, nói là bà lại mơ nghe tiếng heo kêu. Lần này Thầy bảo là phải cẩn thận kẻo bị đánh. Bà nọ ra về. Quả đúng như lời Thầy cảnh cáo mấy hôm sau bà đi chợ ngang qua chổ hàng cá, hai bà bán cá chửi lộn rồi đánh nhau. Họ lấy đ̣n gánh phang nhau, nhè đâu trúng bà một cái lổ đầu phải đi nhà thương.

Tiếng Thầy coi hay đồn xa nên các bà ở các vùng khác đua nhau tới xin Thầy coi cho. Theo Thầy th́ khi lần đầu nghe heo kêu, tức là heo đang đói và chủ sẽ cho heo ăn. C̣n lần thứ hai vẫn nghe heo kêu th́ Thầy cho là heo đă ăn no mà c̣n kêu réo th́ sẽ bị chủ đánh đ̣n. Mà ngờ đâu các điều Thầy đoán đều trúng phóc.

Cũng nhờ đoán đúng nhiều vụ cho nên lúc đầu nhà Thầy cũng chỉ lụp xụp mà chỉ trong ṿng năm bảy năm Thầy đă xây được căn nhà ba tầng khang trang như hiện nay. Nhưng nếu chỉ có thế th́ cũng chẳng có ǵ đáng nói. Bất quá Thầy chỉ có danh hơn các ông Thầy khác thôi. Nhưng cái điều mà làm cho Thầy nổi danh, ở thập kỷ sáu mươi là cái danh hiệu "Kẻ báo tin dữ" Có một thời mà dân chúng tại Saigon và vùng phụ cận đều sợ hăi mỗi khi nhắc đến tên Thầy.

Mỗi khi nhấc điện thoại lên hỏi: "Xin lỗi ai ở đầu dây đó?" Và nếu người ở đầu dây kia trả lời "Tôi là Thầy Bảy đây. Xin cho nói chuyện với ông bà ...." là chủ nhà cảm thấy ḿnh đă mang vận mạt vào thân rồi từ chết tới bị thương thôi. Mà như có một ma lực nào đó khiến người được gọi có muốn cúp máy cũng không được. Cái ma lực đó làm cho người ta ṭ ṃ muốn nghe việc ǵ mà Thầy Bảy muốn báo cho ḿnh.

Dù đó toàn là việc xấu không thôi. Cảnh sát cũng nhận được những cú điện thoại từ văn pḥng Thầy, báo cho họ biết nơi xảy ra tai nạn của nạn nhân. Hoặc báo cho họ biết sự ǵ sẽ xảy ra cho các nạn nhân nếu nhà các người này không có điện thoại. Đặc biệt là những sự việc xấu này xảy ra như là các tai nạn. Không một dấu vết ǵ để lại để có thể t́m ra hung thủ hay quy về một người đáng nghi nào cả. Trong hầu hết các vụ án này, cảnh sát đều phải làm biên bản là do tai nạn, hoặc chờ bổ túc các chi tiết trong khi đợi điều tra thêm.

Cảnh sát đặt một nhóm đặc biệt để theo dơi chuyện này, và một toán khác chuyên theo dơi việc làm của Thầy Bảy từng bước một. Họ cũng mời Thầy về sở cảnh sát đô thành để hỏi cung mấy lần, nhưng lần nào Thầy cũng chỉ nói là có một thế lực vô h́nh nào đó chỉ cho Thầy biết số điện thoại, và cho Thầy thấy các điều sẽ xảy ra cho các nạn nhân. Thầy chỉ muốn kêu để giúp họ tránh cái thảm họa sắp xảy đến cho họ mà thôi nhưng h́nh như vô hiệu.

Cái thế lực vô h́nh đó h́nh như muốn Thầy kêu, và như để chứng tỏ là nó có mănh lực làm hại kẻ khác mà chính quyền không làm ǵ được nó cả. Cảnh sát làm việc dựa theo khoa học nên làm sao họ tin được các lời Thầy Bảy nói. Họ tin là Thầy có liên hệ ǵ đó với bọn giết người chuyên nghiệp kia. Có thể là Thầy mướn bọn đó làm ra các việc kia rồi làm bộ gọi báo, để mọi người cho là Thầy tinh thông mọi việc, ngỏ hầu làm mọi người tin vào tài Thầy mà kéo đến xem bói đông hơn và Thầy sẽ làm giàu v́ cái danh tiếng này.

Nhưng thật ra cái tin đồn Thầy là "Kẻ báo tin dữ" hại Thầy nhiều hơn là giúp. Các bà sợ không dám tới nhờ xem bói nữa. Họ sợ Thầy sẽ báo cho họ các tin dữ trong gia đ́nh họ. Công việc của Thầy càng ngày càng ế ẩm. Thầy chỉ c̣n việc ngồi chơi trước bàn làm việc, mắt nh́n chừng cứ sợ quyển điện thoại mấp mô tự mở trang và chỉ tên kẻ sắp bị tai nạn. Cái việc chờ đợi này nó làm căng thẳng thần kinh của Thầy hết mức. Hơi nghe một tiếng động dù mạnh hay nhẹ cũng đủ làm cho Thầy bị giật bắn người lên.

Một hôm kia, Thầy đang ngồi ở bàn làm việc th́ cuốn sổ điện thoại niên giám tự động lật từng tờ, rồi ngừng tại trang có quảng cáo của cửa hàng bán xe gắn máy và phụ tùng xe Honda. Cái số điện thoại trên trang ấy cứ nhấp nháy đập vào mắt thầy. Thầy thấy ông chủ hảng bị xe đụng chết ở trước cửa hàng đúng sáu giờ chiều. Thầy cố chống chọi với cái cám dỗ để khỏi cầm máy kêu người chủ tiệm như Thầy đă làm như các lần trước kia. Thầy biết là ḿnh đang bị cảnh sát theo dơi, và họ không tin vào các điều Thầy đă nói cho họ nghe.

Thầy đă chống cự lại cái thế lực vô h́nh cho đến gần năm giờ chiều. Tuy thế t́nh con người vẫn cao hơn sự sợ hăi. Thầy không muốn một người nữa chết mà không biết v́ sao ḿnh chết. Thầy nghĩ có lẽ ông ta sẽ tin ta hơn nếu ta đến tận nơi để khuyến cáo ông ta đừng ra khỏi nhà, vào lúc sáu giờ là xong chuyện. Thế là Thầy lấy xe Honda phóng về hướng cửa tiệm đó, c̣n cả tiếng đồng hồ nữa, dư sức để Thầy tới đó và nói cho ông chủ tiệm biết điều nguy hiểm đang chờ đón ông ta. Nhưng mới chạy được một đoạn đường th́ phía trước có tai nạn xe cộ, xe kẹt cứng đường.

Muốn tới hay lui ǵ cũng không được, khi đường đă được giải tỏa xong th́ chỉ c̣n có bảy phút là tới sáu giờ chiều. Thầy rồ ga phóng vội đi. Cứu người như cứu lửa mà. Khi Thầy vừa phóng tới trước cửa tiệm th́ thấy ông chủ tiệm đang đuổi theo một thanh niên miệng la:

- "Bắt nó.. bắt nó..nó ăn cắp đồ trong tiệm tôi"

Tên trộm phóng băng đại qua đường, ông chủ rượt theo cũng là vừa lúc Thầy chạy tới đó, và ông ta đă lao ngay vào đầu xe của Thầy. Ông ta bị hất văng và đập đầu xuống đất chết tươi. Chuông nhà thờ gần đó bắt đầu đổ cho lễ sáu giờ chiều. Cảnh sát đến bắt Thầy về đồn làm biên bản. Thầy bị nhốt mấy ngày nhưng cuối cùng được thả v́ nhân chứng cho biết là, ông chủ tiệm tiếc của đuổi theo tên trộm và lao đầu vào xe của Thầy. Thầy biết là thế lực vô h́nh muốn cảnh cáo Thầy về việc căi lại sự sai khiến của nó.

Riết rồi ai cũng sợ Thầy. Ngay cả việc tránh nh́n thấy Thầy. Họ sợ lỡ thấy và Thầy phán cho một câu là đi đời nhà ma. Trước kia ai gặp Thầy cũng chào hỏi, nay thấy Thầy xa xa là họ t́m cách lẩn đi rố. Thầy cảm thấy cô đơn thật sự và cảm thấy như bị tù ngay chính trong căn nhà ḿnh. Sự cô đơn cộng với nỗi lo sợ cho tương lai của ḿnh, khiến cho Thầy phải t́m cách trừ khử đi cái thế lực vô h́nh, đang bám theo ám ảnh Thầy.

Thầy xuống vùng Châu Đốc, lên tận núi Thất Sơn để nhờ các sư ông tu ở trên chùa cứu giúp. Các vị chân tu này đă nổi danh là trừ khử được các tà ma ám ảnh. Các vị sư bèn làm đàn cúng trừ tà cho Thầy. Sau cả buổi tụng kinh và làm phép, họ nói là đă thâu bắt được tà ma rồi. Từ nay yên tâm về sinh sống. Không ai theo khuấy phá nữa. Thầy mạn phép hỏi tà ma đó là ai mà theo ám ảnh Thầy và chọc tức nhà cầm quyền.

Vị sư chủ tŕ cho biết đây là hồn ma của một tên cướp khét tiếng ở Khánh Hội, đă bị cảnh sát vây bắt và bắn chết trong một vụ cướp ngân hàng. Hồn hắn vẫn c̣n thù hận và chưa siêu thoát được nên về để trả thù. Từ hôm đó trở đi, Thầy Bảy không c̣n gọi điện thoại để báo tin xấu nữa. Nhưng cái danh "Kẻ báo tin dữ" kia vẫn bám theo Thầy. Làm Thầy không thể làm ăn ǵ được nữa. Khách vẫn sợ không dám tới nhờ coi bói.

Thầy quyết định giải nghệ bán nhà và về Cần Thơ mua một mảnh vườn sống cho tới tuổi già. Từ đó dân vùng Saigon, Gia Định cũng dần quên đi tên Thầy Bảy. Cái tên mà một thời đă làm cho họ sợ hăi mỗi khi nhắc đến và không c̣n ai phải bị giật ḿnh mỗi khi nghe tiếng chuông điện thoại reo vang nữa.

PS: Tôi viết chuyện này dựa theo ư một phim Mỹ mà tôi đă coi! Xin tiết lộ một điều bí mật: Thầy Bảy là sư phụ của Thầy Bói Mù nhà ta đó! Trước khi đi vượt biên TBM đă tới ở tại nhà Thầy Bảy 2 năm để học nghề đó!! Hi hi hi!!




Lăo Làng

                                                                     











Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 386 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 3:46am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HIỆN TƯỢNG LẠ TRÊN BẦU TRỜI THÁI HÀ


Liên tiếp các ngày từ 29 đến ngày 31-08-2008, có hiện tượng lạ xẩy ra, khi giáo dân cầu nguyện ở linh đài Đức Bà ở Thái Hà.

Vào sáng ngày 30-8-2008. Một số người chứng kiến nói:

- Trên bầu trời, h́nh người nữ đầu đội vương miện bồng hài nhi bên tay trái hiện ra, đứng trên mặt trời vừa mọc, hai luồng sáng từ mặt trời tỏa vút lên. Sau hiện tượng đó là hiện tượng những h́nh tṛn trắng nhỏ, với viền màu đỏ xung quanh, bắn ra từ mặt trời mới mọc.

Có lúc mây đen ùa tới chung quanh mặt trời... Tiếp nữa, ngay tại tượng Đức Mẹ Ban Ơn được đặt trước linh đài, hiện tượng lạ cũng xảy ra.

Nhận xét của những người có mặt ở hiện trường cho biết:

- Trên đầu Đức Mẹ, những ṿng hào quang với đủ sắc màu cứ tỏa ra liên tục. Hiện tượng lạ diễn ra trong ṿng mười lăm phút. Các hiện tượng này lặp lại từ lúc chín giờ rưỡi đến mười giờ sáng.   

Vào sáng ngày Chúa Nhật 31-8 hôm nay, dân chúng dù mưa cũng đến cầu nguyện.



                                                                     Catholic New









Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 387 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 3:46am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



PHÁI ĐOÀN T̉A THÁNH THĂM LA VANG VÀ HÀO QUANG XUẤT HIỆN


Sáng ngày 13-06-2008, Phái đoàn Ṭa thánh Vatican do Đức Ông Piertro Parolin Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Ṭa Thánh dẫn đầu, đă đến viếng Đức Mẹ La Vang và dâng thánh lễ đồng tế tại Linh đài Đức Mẹ.

Nghe tin có Phái đoàn Ṭa Thánh đến thăm Thánh địa La Vang, nên rất đông giáo dân đă mau mắn về tham dự và họ đến từ nhiều vùng của ba miền đất nước. Lúc chín giờ rưỡi sáng, Đức Ông Pietro Parolin đă có bài nói chuyện thay bài giảng với cộng đoàn dân Chúa.

Đức Ông Parolin nói: “Chúng tôi cảm tạ hồng ân và sự quan pḥng của Thiên Chúa đă cho chúng tôi được đến thăm viếng Thánh địa La Vang, và dâng thánh lễ tại đây, trong bầu khí an lành và ấm cúng và đầy t́nh yêu thương.

Chúng tôi đến đây trong t́nh hiệp thông thân ái và xin gửi lời chào mừng của Đức Thánh Cha, đến tất cả anh chị em hiện diện nơi đây. Chúng tôi đă chứng kiến anh chị em đến từ nhiều giáo phận khác nhau, có cả người nước ngoài nhưng chúng ta cảm thấy như cùng trong một gia đ́nh duy nhất.

Sau mười lăm lần phái đoàn Ṭa Thánh đă đến viếng Đức Mẹ La Vang, nhưng đây là lần đầu tiên phái đoàn Ṭa Thánh chính thức đại diện cho Đức Thánh Cha đến viếng Linh địa này. Sự hiện diện của phái đoàn Ṭa Thánh hôm nay là sự hiện diện cho Đức Thánh Cha luôn quan tâm đến Thánh địa này.

Đức Thánh Cha đă gửi đến anh chị em lời thăm hỏi và chúc anh chị em luôn giữ vững đức tin mạnh mẽ. Ngài cũng hứa trong kỳ Đại hội La Vang lần thứ 28 này, ngài sẽ gửi thông điệp để ban phép lành cho tất cả anh chị em. Tôi xin trao tặng Hào quang Ḿnh Thánh Chúa của Đức Thánh Cha gửi cho Thánh địa La Vang. V́ tôi tin rằng Mẹ cũng đang hiện diện với chúng ta”.

Sau đó Đức Ông trao Hào quang cho Đức Cha Phụ tá Giáo phận Huế F.X Lê Văn Hồng.

Đúng lúc đó, cộng đoàn dân Chúa xôn xao và chỉ trỏ lên bầu trời trên Linh đài. Lúc này đúng chín giờ bốn mươi phút, một vầng hào quang sáng ngời tỏa xuống trên Linh đài Đức Mẹ La Vang, nhiều người đă không cầm được nước mắt và quỳ xuống khẩn cầu cùng Mẹ.

Đức Cha Phụ tá, phái đoàn Ṭa Thánh và các linh mục đồng tế, đă phải ngưng thánh lễ để cùng với cộng đoàn, chứng kiến và chiêm ngắm hiện tượng kỳ lạ xuất hiện trên bầu trời, ngang trên Linh đài Đức Mẹ sau câu nói của Đức Ông Parolin:

- Tôi tin rằng Mẹ đang hiện diện với chúng ta.

Đây rơ ràng là một sự Kỳ diệu mà không thể có lời giải thích tại sao. Sau thánh lễ hầu hết cộng đoàn dân Chúa đều bàn tán về hiện tượng kỳ lạ này.




                                                                           ST





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 388 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 3:50am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



THẦN HỘ MỆNH


Rất nhiều người không tin vào Thượng đế nhưng hầu như đều tin vào thần hộ mệnh của ḿnh "có người phù hộ". Ư nghĩ rằng có ai đó ở trên trời cao quan tâm riêng tới ḿnh, nằm sâu trong tiềm thức của mỗi người.

Phải, các thần hộ mệnh có tồn tại và con người tiếp xúc với họ hàng ngày. Chúng ta gọi đó là linh tính là tiếng nói trong. Biết bao lần tiếng nói trong bí ẩn ấy cứu giúp con người trong những t́nh huống khó khăn. Bất kể một quyết định nào dù lớn dù nhỏ, con người đều dựa trên giác quan thứ sáu, trực giác linh tính.

Trực giác linh tính tiếng nói trongđó, là việc thần hộ mệnh t́m cách giúp con người. Rất tiếc con người không phải lúc nào cũng nghe thấy hoặc rất hiếm khi nghe thấy, hoặc từ chối làm theo sự giúp đỡ ấy. Nhiều trường hợp thần hộ mệnh đă giúp con người thoát chết, nhờ những tiếng nói trong mách bảo kịp thời của ḿnh.

Nhiều khi thần hộ mệnh trong giấc mơ đă báo mộng cho con người, tương lai gần và những nguy hiểm đang tới. Nếu con người có thần hộ mệnh rất mạnh th́ nhiều trường hợp có thể xảy ra, những chuyện thần kỳ như người ngă từ tầng mười một xuống không hề bị găy xương ǵ, hoặc những viên đạn bay vào người cách chỗ hiểm chỉ vài milimet, hoặc người vẫn nguyên lành trong các vụ tai nạn ô tô.

Con người là một sinh linh rất mảnh mai, chỉ cần thần hộ mệnh nhăng ư là con người gặp tai nạn liền. Chiếc ghế vẫn ngồi hàng ngày hàng ngh́n lần bỗng một hôm lại ngồi chệch, rồi ngă lăn ra sàn đập đầu vào đâu đó, có khi đi tong. Tất cả mọi tai ương xảy ra với con người đều do một lư do:

Thần hộ mệnh không bảo vệ. Trước tiên đó là do bạn đă làm đ́ều ǵ đó không đúng và thần hộ mệnh đă cho bạn biết điều đó, nhưng bạn phẩy tay không nghe. V́ vậy cần chăm chú hơn đến mọi việc của bạn để hiểu rằng, việc nào bạn đă không đúng và những dấu hiệu nhỏ cảnh báo bạn từ ngay ban đầu, đừng để từ những khó chịu nhỏ ban đầu xảy ra tai họa lớn.

Có nhiều người hỏi rằng tại sao thần hộ mệnh đă để xảy ra những tai ương ấy. Đó là v́ thần hộ mệnh bảo vệ con người, nhưng không thể can thiệp vào số phận của chúng ta. Thượng đế yêu quư tất cả mọi người như nhau, và trao cho con người quyền lựa chọn con đường sống của ḿnh.

Thần linh chỉ có thể mách bảo con người những phương án tốt nhất của số phận, nhưng quyền lựa chọn là thuộc về người đó, không làm ǵ để chống lại ư chí của con người. Tai họa là ở chỗ phần lớn con người không biết họ cần ǵ ở cuộc đời. Nếu con người không muốn nghe theo thần hộ mệnh, th́ thần cũng sẽ bỏ mặc không bảo vệ họ trong bảy năm, sau đó sẽ quay lại.

Thần hộ mệnh có ở mỗi con người và có thể có hơn nhiều. Người càng có nhiều thần hộ mệnh, người đó càng dễ dàng đạt được nhiều thành công hơn. Ngược lại những người mà hay gặp thất bại trên mỗi bước đường, chỉ có mỗi một thần hộ mệnh và cả người này cũng rất có thể bỏ mặc người đó.

Nhưng có thể tăng số lượng thần hộ mệnh bằng những việc làm thiện của ḿnh. Mười lăm phần trăm dân số trái đất chỉ có một thần hộ mệnh, số đông sáu mươi lăm phần trăm có ba thần hộ mệnh. Mười phần trăm có hai hoặc bốn thần hộ mệnh. Và chỉ có mười phần trăm những người may mắn có từ năm thần hộ mệnh trở lên.

Có các nhân vật lỗi lạc "con số đó không nhiều" được hơn chín thần hộ mệnh bảo vệ. Đó là những người nằm dưới sự bảo vệ của trời, có những may mắn thành công phi thường.

Ví dụ : Diễn viên điện ảnh của Pháp Per Risar có 14 thần hộ mệnh, Alen Đêlông 12, Gian Pôn Benmônđô 10, Brizit Barđô 14, của Nga Alla Pugatrôva 13. Bin Klintơn có 11, Arnôn Svarsenheger14, cựu thủ tướng Anh Magret Tetrơ có 10, nhà ngoại cảm nổi tiếng người Bun ga ri : Van ga có 12 thần hộ mệnh. Vận động viên người Nga Valêri Kôbelép sống sót sau khi ngă từ độ cao 185 m có 9 thần hộ mệnh.

Người càng nổi tiếng được nhiều người để ư dơi theo càng có nhiều thần hộ mệnh bảo vệ. V́ rằng các thế lực đen tối trước hết chĩa vào chính các nhân vật lỗi lạc, và trời đă cho thêm thần hộ mệnh để bảo vệ những người đó. Khi thần linh muốn ban thưởng cho con người, th́ cái chính yếu không phải là tiền bạc quyền lực, mà là t́nh yêu t́nh thương và những t́nh cảm mạnh mẽ tốt đẹp khác.

Chính v́ vậy số lượng thần hộ mệnh nhiều hơn, không phải ở các triệu phú, quan chức cao cấp mà ở các ca sĩ nghệ sĩ điện ảnh, các thiền y "lang y có tu thiền"...Dân chúng cũng chân thành yêu quư những người đó, hơn các nhà chính khách và ''các tải tiền triệu phú''.

Số lượng thần hộ mệnh nhiều nhất từng có ở vị thánh được kính trọng nhất ở Nga Nhicôlai Ugốtnhíc 27. Hiện nay trong số những người sống trên Trái đất có ca sĩ nổi tiếng của Nga Valêri Lêônchep có 15 thần hộ mệnh.

Ở Pháp tại thành phố Mác xây đang có một cô bé 11 tuổi hiện giờ đă có 9 thần hộ mệnh. Vào năm 17 tuổi cô sẽ bị tai nạn giao thông làm găy hai chân. Cô sẽ trải qua cái chết lâm sàng, và sau đó sẽ khai mở khả năng ngoại cảm cao, và sẽ trở thành nhà thiền y và tiên tri nổi tiếng. Vào thời điểm đó cô sẽ có 18 thần hộ mệnh, sau này sau khi chết cô sẽ được coi như bậc thánh nhân.

Thần hộ mệnh có hai nhóm:

1. Thần linh

2. Là những người thân hoặc bạn bè đă mất của bạn. Không phải tất cả mà chỉ gồm những người đă yêu quư bạn chân thành lúc c̣n sống. Sau khi chết họ cũng vẫn tiếp tục yêu quư bạn như vậy. Tất nhiên nếu như bạn vẫn c̣n là người tốt như trước, và nếu như có thay đổi th́ về hướng tốt hơn.

Trong trường hợp đặc biệt thần hộ mệnh có thể được chỉ định, là người lúc sinh thời đă không yêu quư bạn, như là cơ hội để cho người đó chuộc lỗi, v́ điều đó sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của người đó trên thế giới bên kia "trên tầng trời". V́ thế bây giờ người đó "vô h́nh" sẽ chăm chú đến bạn hơn cả những thần hộ mệnh khác.

Thần linh có sức mạnh khác nhau. Đôi khi một vị thần mang đến lợi ích cho con người hơn hai, ba, thậm chí năm vị khác. Thượng đế chỉ định thần linh làm thần hộ mệnh chỉ cho những người được lựa chọn.

Đó là một phần thưởng lớn lao, v́ thần linh có sức mạnh hơn rất nhiều lần linh hồn của những người đă mất. Những người lỗi lạc trong lịch sử loài người đạt được những thành công to lớn, là nhờ có thần linh hộ mệnh bảo trợ.

Thượng đế đă sinh ra Hitler để dạy cho các nhà cầm quyền bớt hung hăng hiếu chiến, gây chiến tranh liên miên làm khổ dân lành và mọi người cần phải đoàn kết với nhau bỏ qua nhiều bất đồng để cùng nhau chống lại kẻ thù của loài người. Lần đầu tiên trong lịch sử châu Âu, từ sau thế chiến thứ hai đến giờ các nước châu Âu sống ḥa b́nh không gây chiến tranh với nhau.

Nói chung chúng ta không thể nh́n rơ mọi hành động của con người bằng thần linh. Có thể bây giờ người đó là người tốt nhưng ở kiếp trước lại là đại gian ác. Dù đă tu chí nhưng vẫn phải trả cho xong nợ tiền kiếp đă. Rất nhiều người có thể thấy là họ nhận quả báo từ ngay kiếp này, tất nhiên họ phải rất trung thực với chính ḿnh.

Ví dụ có người bán hàng kể lại là chị ta bây giờ sợ lấy tiền thừa của khách, v́ y rằng sau đó chị sẽ bị mất cái ǵ đó gía trị lớn hơn. Thần hộ mệnh chỉ bảo vệ nhắc nhở con đường đi đúng nhất, tất nhiên họ là thần thiện rồi, c̣n quyền lựa chọn vẫn là của con người. Không Thần linh nào bám chấp vào ta cả, ta tự ư ta thôi.

Đó là những Thần Trời làm vịêc theo luật Trời, không phải của các tôn giáo. Mọi người đa phần vẫn sống nhộn nhịp với đời thường, họ thường hành động đầu tiên là theo ư ḿnh, v́ mục đích của ḿnh, chứ cũng chẳng có nhiều ảo ảnh thần thánh hay ma quỷ đâu.

Những người hướng thiện th́ tránh làm điều ác, đó là phản xạ có điều điện của họ rồi. Nhưng c̣n nhiều người hành động v́ mưu lợi ích kỷ cá nhân, nên họ t́m cách đổ vấy cho thần linh can thiệp, chứ thực ra họ đă bắt tay với ma quỷ mà không cần biết hậu quả từ lâu. Chỉ có Trời mới nh́n thấy điểm yếu của những người đó, mà trừng trị cho thích đáng làm họ đau nhất. Không Thần linh nào bám chấp vào ta cả ta tự ư ta thôi.

Sách tâm linh hay có được, không phải là sự t́nh cờ. Đó là các thần hộ mệnh bằng trực giác đă xui khiến bạn có mặt đúng chỗ đúng lúc, để nhận được những bài học cần thiết. Nhưng người đọc cũng phải tu tập tâm linh không ít, để hiểu được rốt ráo mọi vấn đề mà thần hộ mệnh muốn nhắn nhủ, để giúp đỡ ḿnh tu tập tâm linh.

Bạn có nhớ hay có biết chúa Giê su, cũng đă từng sang tận Ấn độ và thành phố quê hương của Phật tổ, để học hỏi về triết học phương Đông và Phật pháp, vượt lên trên những khác biệt tôn giáo, để giác ngộ được những chân lư tối cao của thượng đế, thần linh.

Chúng ta tất nhiên bây giờ không thể sánh bằng các Thánh nhân, song các Thánh cũng đă từng là người thường tu tập hết sức khổ luyện bền bỉ dẻo dai, vững chí từ đời này sang đời khác mới có được như vậy.

Giao tiếp với các thần hộ mệnh như thế nào? Thượng đế tạo ra các thần hộ mệnh để giúp đỡ và phục vụ con người. Trả lời cho những lời cầu khấn của chúng ta là ư nghĩa sự tồn tại của họ.

Thế giới của chúng ta là vật chất. Thế giới của thần linh là tinh thần. Họ ''nh́n thấy'' tất cả ư nghĩ của chúng ta và theo đó xét đoán về con người. Các thần hộ mệnh vui khi thấy những ư nghĩ của chúng ta về ḥa b́nh và t́nh yêu. Và ngược lại họ lo lắng bởi những ư nghĩ độc ác của con người.

Để có mối giao tiếp với các thần hộ mệnh, hăy thầm kể cho họ những vấn đề của ḿnh, và sau đó hăy lắng nghe tiếng nói trong của ḿnh, và bạn sẽ nhận được câu trả lời. Bạn có thể dùng cuốn Kinh dịch'' hay từ Taro như một medium để giao tiếp với các thần hộ mệnh của ḿnh. Điều này cần được rèn luyện, với thời gian bạn sẽ trở nên nhạy cảm hơn, hiểu ư các thần hộ mệnh hơn, nhưng phải trung thực với chính bản thân ḿnh.

Có khi những điều bạn hỏi sẽ được trả lời bằng những vấn đề quan trọng hơn, mà thần hộ mệnh muốn nói cho bạn. Hăy ghi nhớ. Hăy cầu nguyện thành tiếng, tốt nhất là hàng ngày, các bài cầu nguyện theo tôn giáo mà bạn theo hay vẫn yêu kính, v́ đó đều là thể hiện t́nh yêu và niềm tin đối với Thượng đế, thần linh. Dần dần cuộc sống của bạn và những người thân của bạn sẽ thay đổi tốt đẹp hơn.

Khi nhắc lại những lời cầu nguyện th́ năng lượng của của những lời cầu nguyện đó sẽ tăng lên. Đầu tiên hăy h́nh dung rơ ràng chính xác nguyện vọng của ḿnh, và cầu khấn kết quả chung mà bạn mong muốn, c̣n các chi tiết cụ thể không cần. Các thần hộ mệnh biết làm điều ǵ sẽ tốt hơn cho bạn.

Việc thực hiện nguyện vọng phụ thuộc vào công đức của con người, ở đời này cũng như đời trước. Tăng cường cầu nguyện có thể thúc đẩy việc thực hiện các nguyện vọng. Kể cả mọi việc của bạn đều tốt, bạn nên tiếp tục cầu xin sự giúp đỡ của thần linh, nếu bạn tranh thủ được sự giúp đỡ đó, bạn sẽ trả nghiệp thuận lợi hơn và cuộc sống sẽ dễ chịu hơn.

Tuy nhiên đó là quyền của bạn. Các thần hộ mệnh tôn trọng ư chí tự do của bạn, nên hiếm khi can thiệp nếu không có nguyện vọng của bạn. Nếu như bạn ngừng cầu xin họ giúp đỡ, th́ họ sẽ đứng ngoài cuộc và công việc của bạn sẽ đi xuống. Tuy nhiên các thần hộ mệnh cũng phải tuân theo những luật lệ chung của Thượng đế, thần linh nên bạn cần nhớ:

- Họ không thể thay đổi những h́nh phạt mà bạn có từ những đời trước. Hiện nay trong năng lượng mới của Kỷ nguyên mới, Thiên sứ Kraion đă nói, có thể xin chất tẩy trung ḥa để giải phóng tinh thần trừ sạch nghiệp, nhưng cũng có nhiều điều kèm theo.

- Các thần hộ mệnh không thể làm hại bất kỳ ai theo ư các bạn. Không nên cầu xin họ trừng phạt kẻ thù của ḿnh, thậm chí cả những kẻ gây bạo lực và giết người. Họ biết làm thế nào cho tốt hơn.

- Bạn cần chọn thời gian thích hợp, đúng để cầu xin nguyện vọng của ḿnh. Nếu những nguyện vọng mà bạn cầu xin đến giờ chưa được, có nghĩa là chưa đến lúc đạt được điều đó. Hăy biết chờ đợi hăy xem lại bản thân ḿnh, và luôn yêu kính tin tưởng những người thầy tinh thần của ḿnh.

Trên thực tế trong cuộc sống có rất nhiều vấn đề lớn nhỏ, phải cân nhắc lựa chọn, mà không thể nào biết được qua xem "Sao", nhưng có thể tham khảo ư kiến thần hộ mệnh của ḿnh, nếu như bạn vẫn giao tiếp đều đặn với họ.

Các thần hộ mệnh là những vị cố vấn tuyệt vời nhất mà bạn không cần phải đi t́m đâu xa. Những h́nh thức mà các bạn quen gọi là bói thế này thế khác, thực chất là nhờ có sự bảo hộ "gia tŕ" của thần hộ mệnh của bạn, hay của người khác nếu bạn đi nhờ người khác xem giúp.

Thậm chí có khi xem "Sao" nói bạn năm nay có thể bị ''trúng thương'', nhưng thần hộ mệnh bảo không nguy hiểm đến tính mạng, th́ bạn vẫn có thể dũng cảm tiến hành công việc mà ḿnh muốn làm, đó cũng là trả nghiệp tốt.

Khi con người mới sinh ra th́ được ban cho các thần hộ mệnh để bảo vệ và gíúp đỡ người. Sau này lớn lên nếu người tu tập tâm linh, và phát triển tinh thần của ḿnh đến mức tốt, sẽ có sự thay đổi thần hộ mệnh hộ pháp để phù hợp với tŕnh độ tinh thần của người đó.

Vị thần hộ mệnh cao nhất cho mỗi chúng ta là Bổn tôn. Chính vị đó là vị thầy Tâm linh sâu sắc nhất của chúng ta. Vị đó sẽ quyết định khi nào chúng ta nên trả nghiệp ǵ và sẽ trả nghiệp như thế nào, cũng như làm thế nào để chúng ta trải nghiệm các bài học để giác ngộ vượt ra khỏi biển sinh tử.

Bạn không cần kêu cầu mà chỉ cần biết rằng: Ḿnh và Bổn tôn luôn có liên hệ trong từng phút giây, và mong mỏi sẽ được dẫn dắt ra khỏi biển sinh tử. Bổn tôn không bao giờ từ bỏ ta mà chỉ có ta từ bỏ người.



                                                                  ST











Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 389 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 3:51am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



LỜI NGUYỀN Ở CHÙA KHÔNG SƯ


Chuyện rằng khi Thiền sư Không Lộ dựng nên chùa, dân chúng nơi đây không mấy mặn mà với đạo phật và khói nhang tượng Phật. Thuở đó Đức Thánh tổ nổi giận trừng phạt dân gian. Trong một đêm mưa gió băo bùng, Đức Thánh đan không biết bao nhiêu rọ tre cho tất cả tượng Phật vào đó.

Rồi ngài ngả nón làm thuyền vượt sông Hồng sang đất Thái B́nh. Và tất cả tượng Phật, cái ǵ liên quan đến nhà Phật cũng xuôi theo ḍng nước theo ngài về nơi đất mới. Đến giữa sông ngài ngoảnh cổ lại và nói một lời nguyền rằng, sẽ không có vị sư nào đến ở ngôi chùa trên.

Cho đến tận bây giờ chẳng sư nào trụ lại được ở ngôi chùa này, làm cho tích chuyện thêm phần kỳ bí. Ngôi chùa bề thế đó có độ tuổi đến vài trăm năm, rêu phong và cổ kính nhất nh́ miền Bắc, thế nhưng lại không có bóng dáng của áo thâm, nón tu-lờ, chùa không có sư ở, có vẻ lạ ở trên đời ấy là chùa Keo Hành Thiện, thuộc huyện Xuân Trường Nam Định.


NGƯỜI GIỮ LỜI NGUYỀN


Chúng tôi đến thăm chùa không sư vào tờ mờ sáng, khi chưa có khách hành hương về đất Phật. Nh́n ngắm ngôi chùa trong sương sớm, lại ngược thời gian nghe huyền thoại chợt xao ḷng, thấy ngôi chùa thêm bao phần kỳ bí mà chưa ai rơ thực hư của vấn đề.

Ông Thủ từ Nguyễn Trường Lư từ trong xóm nhỏ đi ra, từ tốn mở cánh cửa lim nặng nề. Một không gian chùa qua bốn trăm năm đang được cách ly với bên ngoài bỗng vỡ ̣a trong chốc lát, tượng Phật, màu ngói rệu ră rêu phong như làm sửng sốt cho những người lạ chúng tôi.

Như đoán được suy nghĩ của khách ông kể rằng:

- Kể từ khi ngôi chùa này có mặt trên doi đất h́nh con cá chép này, th́ tổ tiên nhà ông là những Thủ từ truyền từ đời này qua đời khác, những khi có việc làng, trùng tu hay lễ hội th́ ông lại bàn giao cho làng sử dụng. Lúc hội làng sắp mở làng bắt đầu cắt cử đội bảo vệ chùa, chọn ông chủ lễ phải là người “đức cao vọng trọng”. Thường người được chọn là bậc cao niên, hai ông bà c̣n song toàn, phải thượng thọ được ăn yến lăo.

Khi hội làng vừa xong lại bàn giao ngôi chùa này cho ông Thủ từ. Nên mọi lịch sử biến đổi đều do Thủ từ ghi chép lại trong cuốn “Hành thiện xă chí”, Ông vừa làm nhiệm vụ khói nhang cho đức Phật. Ông Thủ từ cho biết:

- Bố tôi kế nghiệp của ông tôi, ông tôi kế nghiệp của cố, đă qua hai mươi đời nhà tôi làm nghề Thủ từ. Và đến đời tôi, cũng phải ghi chép đầy đủ mọi cái diễn ra, từ cái nhỏ, đến cả tên tuổi, ngày tháng năm sinh của các Thủ từ. Nên cũng từ đó, ngôi chùa có bao nhiêu bí mật đều nằm trong cuốn “Hành thiện xă chí” cả, nhưng số người được tiếp cận tính đến nay th́ rất hiếm.

Cuốn “Hành thiện xă chí” c̣n ghi cách đây mấy trăm năm, chùa đă từng có rất nhiều vị sư hành khất đến, ở được một thời gian, thấy trong người khó ở, lại khăn gói ra đi bởi nhiều điều không ngộ ra giáo lư của ngôi chùa, cũng bởi trong người có một cái ǵ đó rối rắm như tơ ṿ mà ra đi không giải thích lư do ǵ. Ông Thủ từ cho biết:

- Cách đây vài năm, có một vị sư khăn gói từ Thái B́nh lên, quyết tâm xin ở lại tu đạo và cũng là nghiên cứu, hóa giải lời nguyền nhưng rồi cũng phải ra đi. Lúc đó ông bảo tôi là bị nhức đầu, suy nhược thần kinh, không đủ khả năng để tịnh cái tâm, phải đi mới yên ổn.

Từ đó câu chuyện về chùa không sư lại tăng thêm phần kỳ bí, nhưng đến giờ chưa một nhà làm khoa học, học thuật hoặc nhà sư nào hóa giải nổi tính khí huyền thoại của ngôi chùa. C̣n ông Thủ từ kín đáo ấy, có bao nhiều bí mật về ngôi chùa lạ, ông măi giấu những điều bí mật thuộc về giới đạo chăng?


LỊCH SỬ CHÙA KHÔNG SƯ


Trong cuốn “Trùng san Thần Quang Tự Phật tổ bản hành thiền uyển ngữ lục yếu tập” có ghi, chùa Hành Thiện do thánh Không Lộ Thiền Sư 1016-1094 xây cất. Thiền Sư Không Lộ xuất thân trong một gia đ́nh họ Dương làm nghề ngư phủ, lớn lên ông xuất gia theo thiền sư Lôi Hà Trạch. Truyền thuyết c̣n kể lại rằng, khi viên tịch ông hóa thành khúc gỗ trầm hương, lấy áo đắp lên khúc gỗ trầm hương biến thành tượng.

Thánh tượng này c̣n được lưu giữ trong hậu cung, quanh năm khóa kín cửa, không cho ai được thấy dung nhan của ngài. Cứ phải qua mười hai năm, một chủ lễ và bốn viên chấp sự được cử để làm lễ trang hoàng tượng thánh. Nên rất nhiều du khách đến chùa muốn xem “mặt ngài” cũng phải đợi mười hai năm mới có dịp.

Nói thêm về phần chọn người tắm rửa, trang hoàng cho ngài cũng phải thuộc những người có nhân phẩm, ăn chay, mặc quần áo mới. Sau khi rước thánh ra từ cấm cung mới dùng nước dừa pha tinh bưởi, để tắm gội và tô son lại cho ngài. Nhưng họ buộc phải giữ bí mật cho đến khi chết mang đi, về những điều đă thấy khi trang hoàng cho ngài. Điều đó càng tạo nên lớp sương mù bí hiểm bao bọc lấy ngôi chùa nhiều huyền thoại này.

Nghiên cứu thêm về lịch sử của chùa: Chùa Hành Thiện mang dấu tích của chùa Keo ở làng Dũng Nhân, Giao Thủy, Nam Định. V́ năm 1061 Không Lộ Thiền sư dựng chùa Nghiêm Quang bên hữu ngạn sông Hồng, theo thời gian chùa bị nước làm cho xói ṃn. Đến 1611 một trận lũ lớn đă cuốn trôi tất cả các dấu tích của ngôi chùa.

Dân làng Keo phải rời bỏ quê cha đất tổ, một nửa vượt sông đến định cư ở phía đông bắc tả ngạn sông Hồng. Về sau dựng nên chùa Keo Thái B́nh. C̣n một phần xuống Xuân Trường, Nam Định dựng chùa Hành Thiện và tồn tại cho đến tận bây giờ.

Bao giờ giải được lời nguyền ? Chúng tôi đă cố gắng vén một chút về bức màn bí ẩn này, thế nhưng đến nay cũng chỉ biết được về lịch sử ngôi chùa: Chùa là một trong hai ngôi chùa gắn với tên tuổi của nhà sư Không Lộ. Ông có công truyền bá rộng răi đạo phật trong dân gian. Khởi nguồn về mô h́nh của Chùa Hành Thiện được tính từ hồi 1062 thời Tiền Lư, người ta di dân đến xây mô h́nh chùa ở làng Dũng Nhuệ, Giao Thủy.

Sau đó về đất Hành Thiện vào năm 1588, sang Thái B́nh năm 1611, về mặt quy mô chùa Keo Thái B́nh lớn hơn chùa Keo Hành Thiện, bề thế hơn nhưng cấu trúc lại sao chép như nguyên vẹn; Cả hai chùa đều dựng bằng gỗ Lim, kết với nhau bằng mộng tre, mộng vược và mang cấu trúc thời Tiền Lê, thời kỳ phật giáo phát triển thịnh vượng nhất ở nước ta.

Trải qua những thăng trầm của lịch sử, rồi đến thời kỳ kháng chiến chống pháp, chống Mỹ, chùa Hành Thiện vẫn uy nghi, nhiều phen bọn thực dân Pháp có ư đồ phá, mà do sự tích kỳ bí về chùa quá lớn đến nỗi họng súng của bọn giặc cũng không dám nḥm ngó tới. Ngày xưa Thái B́nh, Nam Định là những nơi nằm trong các dự án di dân dưới các triều đại phong kiến.

Dân hai bên sông Hồng chạy lũ, kéo theo đủ nét văn hóa phong tục, từ văn minh lúa nước đến tín ngưỡng đạo Phật, mà cụ thể là đem theo cấu trúc cũng như mô h́nh chùa chiền đến vùng đất mới. Đói kém, mất mùa, thiên nhiên bạc đăi, thú dữ… là những thế lực mà con người sợ. Thế nên người ta tôn sùng ngài Không Lộ Thiền sư, người đi đâu đem ngài theo đó để thờ cúng, như một biểu tượng của sự che chở tinh thần.

Nên khi chùa Hành Thiện được dựng lên, những cái ǵ thuộc về nguyên sơ mà người ta đem đến đều được tôn sùng, giấu kín để thờ phụng, th́ đến nay nhiều thứ c̣n lại thuộc về di sản đó đang là điều bí mật, không được công bố cho dư luận cũng là điều thường thấy ở các chùa chiền. Nhưng đó cũng là yếu tố để tạo nên những huyền thoại về thánh thần nơi cửa phật.

C̣n về vấn đề sao các sư không sống được ở chùa, trong một số sách, trong đó có cuốn “Hành Thiện xă chí” của gia tộc Thủ từ cũng có đề cập đến:

“Có thể do không quen với thổ nhưỡng chướng khí. Mà cụ thể là cơ địa con người, nhà sư đạo cao cũng là người, th́ không hợp chất đất nguồn nước... là phải. Th́ sinh ra ốm đau bệnh tật ở lâu có sư bị viên tịch ngoài ư muốn là phải”.

Như vậy mới có chuyện sinh ra các sư đến lưu trú, hành đạo tu đạo trong chùa sẽ bị ốm, bệnh, chết... rồi bỏ đi chăng? Về cơ sở lư thuyết này đến nay vẫn chưa có nhà khoa học tổ chức nào, nghiên cứu cụ thể sát với thực tế, vấn đề “lời nguyền” trong truyền thuyết làm cho câu chuyện về “chùa không sư” thêm phần huyền bí.

Dẫu chùa không sư, không văi, không tiếng mơ vang âm nhưng ngôi chùa vẫn tồn tại với thời gian. Du khách đến đây ngoài t́m lại bản chất con người nơi cửa chùa ra, c̣n t́m về huyền thoại, tín ngưỡng của cha ông ta, những điều chưa biết chăng?



                                                                      Công Luận













    
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 390 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 3:51am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



NGÀY TẬN THẾ


Từ năm 1947 đến nay, kim phút trên chiếc đồng hồ ẩn dụ báo Ngày Tận Thế lúc 12 giờ khuya của các nhà khoa học Mỹ đă qua 18 lần điều chỉnh. Gần đây nhất, vào ngày 18-01-2007, nó được nhích lên thêm hai vạch, và chỉ c̣n năm vạch nữa là đến... giờ định mệnh.

Như một khối đá khổng lồ xuất hiện trong vũ trụ trước đây 4,6 tỷ năm, nhờ được tắm ánh nắng Mặt Trời cùng một chút ân huệ của Tạo hóa, Trái Đất đă dần dà thay da đổi thịt, từ một nữ đồng trinh khô khốc hóa thân thành một nhan sắc tuyệt trần và cuối thành Người Mẹ của muôn loài.

Những tế bào sống eucaryotic bắt đầu xuất hiện dưới ánh nắng chói chang cách đây chừng 2 tỷ năm. Hàng tỷ năm sau, nước và ô xy nứt ra từ những kẽ đá ly ty ngày một nhiều, tạo nên khí quyển và đại dương, cây cối rồi đến các loài động vật lần lượt xuất hiện.

Trong cái thế giới hồng hoang đó, những chú vượn lom khom bỗng vươn vai thành những homo sapiens nhận lấy sứ mạng cai quản muôn loài, cách đây một trăm ngh́n năm. Tổ tiên loài người c̣n phải lang thang săn bắn hái lượm triền miên, chỉ mới rất gần đây mới biết định cư, phá rừng trồng trọt, thuần dưỡng cầm thú, đốt gỗ lấy than, rèn đúc khí cụ, chẳng những để mưu sinh mà c̣n chinh phục cả đồng loại.

Cọc mốc văn minh đầu tiên ấy chỉ mới xuất hiện trước đây mười ngh́n năm. 10.000 trên chiều dài 4.600.000.000, nghĩa là chưa được hai phần mười cái tích tắc, nếu toàn bộ lịch sử Trái Đất thu gọn lại thành một ngày 24 giờ cho dễ h́nh dung. Thánh kinh và các đấng tiên tri đă vội phán truyền về Ngày Tận Thế!

Nói cho cùng, họ không sai. Sinh tử là lẽ Trời, Trái Đất không thể là ngoại lệ. Rồi nó cũng sẽ lụi tàn, có điều là sau hàng tỷ năm nữa, khi Mặt Trời ngày càng già nua không đủ chói sáng như hiện nay. Mà lúc đó con người sẽ chế tác ra những mặt trời khác.

Cho nên cái "Ngày Tận Thế" vẫn măi là chuyện hoang đường, trừ phi con người quá khôn ngoan mà trở thành điên loạn và tự hủy diệt ḿnh. Tiếc thay, nguy cơ này là có thật!

Năm 1947, những đỉnh cao trí tuệ ở Mỹ, trong số này có nhiều người từng thai nghén ra hai quả bom hạt nhân đầu tiên như Einstein, Oppenheimer, Bethe, Szilard... đă chế tác ra chiếc đồng hồ ẩn dụ báo trước cái Ngày Tận Thế đó.

Chiếc kim phút càng gần vạch 12 giờ, mối hiểm họa hủy diệt thế giới càng lớn. Từ chỗ cách 7 vạch lần đầu tiên vào năm 1947, thỉnh thoảng nó lại được điều chỉnh, lúc tới lúc lui. Lúc gần nhất chỉ c̣n cách 2-3 vạch vào năm 1949-1953 khi Liên xô cho thử quả bom nguyên tử và khinh khí đầu tiên, khởi đầu cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân giữa Liên xô và Mỹ.

Hàng ngh́n đầu đạn hạt nhân nằm trên bệ phóng sẵn sàng chờ lệnh ấn nút. Hàng vạn quả khác chất đầy kho. Gần 500 quả đủ kích cỡ được cho thử nghiệm, gieo rắc chất phóng xạ khắp toàn cầu. Thấm mệt, cả hai phải ḥa hoăn. Hiệp định ngừng thử vũ khí hạt nhân trong khí quyển được kư kết vào năm 1963, kéo chiếc kim phút ra xa đến 12 vạch.

Nhưng phải tận ba mươi năm sau, các nhà khoa học mới được thở phào khi cuộc chiến tranh lạnh kết thúc vào năm 1991. Chiếc kim phút được kéo ra xa nhất, đến 17 vạch. Nhưng trái với mọi mong đợi, thế giới vẫn tiếp tục bất ổn, kim phút lại ngày càng nhích dần lên, và sau bốn lần điều chỉnh, ngày 18/1/2007 mới đây nó chỉ c̣n cách 5 vạch nữa là đến con số 12 định mệnh.

Chiếc đồng hồ báo Ngày Tận Thế là chế tác của những người thích đùa chăng? Không! Phải có trí tuệ siêu việt lắm mới đùa hay như thế! Vào những năm bảy mươi của thế kỷ trước, khi cuộc đối đầu giữa hai siêu cường lên đến cực điểm, Trái Đất đă từng tàng trữ bốn vạn đầu đạn hạt nhân với sức công phá tổng cộng trên 13 tỷ tấn TNT, ngót một triệu lần mạnh hơn quả bom rơi xuống Hiroshima (15 ngh́n tấn TNT).

Quả thật, lúc này trên thế giới có không ít người thích đùa. Đó là các chiến lược gia vẽ ra những kịch bản sử dụng kho vũ khí này. Sản phẩm của họ chất đầy các tủ hồ sơ tuyệt mật của hai bên. Họ không thèm đếm xỉa đến hậu quả của các kịch bản đó đối với số phận của loài người mà các khoa học gia cảnh báo: "Mùa Đông Hạt Nhân" sẽ là đoạn kết trong cái kịch bản Ngày TậnThế.

Loài người đă chứng kiến thảm họa Hiroshima, Nagasaki và sau này là Chernobyl. Nhưng chắc ít ai nghĩ đến chuyện ǵ sẽ xảy ra khi chỉ cần 5 trong số 13 tỷ tấn TNT được hai bên ấn nút nhằm vào 1000 thành phố trong dải vĩ độ 30-60o Bắc bán cầu.

Chưa kể đổ nát, chết chóc và bụi phóng xạ khủng khiếp, người và sinh vật có cơ may sống sót sau thảm họa đó sẽ chết dần trong mùa đông hạt nhân do 200 triệu tấn khói đen bao phủ bầu trời khiến cho nhiệt độ khí quyển giảm đi từ 10 đến 20oC và 50% tầng ozone bị thủng. Chảy măi theo ḍng xiết Tây-Đông, chất phóng xạ và khói đen được tung lên tầng b́nh lưu sẽ kéo dài mùa đông hạt nhân trong nhiều năm liền.

Tỉnh táo mà suy xét, hai vị Tổng thống ở ṭa Bạch ốc và điện Kremlin không muốn nh́n thấy Ngày Tận Thế đó bằng cách mó vào chiếc hộp mật mă để ấn nút các dàn phóng. Nhưng hiểm họa về một cuộc chiến tranh hạt nhân leo thang ở quy mô vùng dường như không nhỏ. Chỉ cần 50 quả bom loại Hiroshima nổ tung trong một cuộc chiến hạt nhân ở vùng Vịnh sẽ giết chết từ 3 đến 16 triệu người và để lại mùa đông trên một vùng rộng lớn ở hai lục địa Âu-Á.

Nhớ lại, trong cuộc chiến vùng Vịnh năm 1991, 526 giếng dầu ở Kuwait bị cháy trong nhiều ngày liền tung lên trời một lượng khói đen làm cho nhiệt độ ban ngày trong phạm vi bán kính 200 km giảm đi 10oC. Mà lúc đó chưa có vũ khí hạt nhân.

Không yếu bóng vía, nhưng những tuyên bố và tin đồn gần đây từ Iran, Israel và cả Wasinghton khiến nhiều người lo ngại nguy cơ xảy ra chiến tranh hạt nhân ở vùng Vịnh. Nhất là khi những toan tính lại được các tín điều dẫn dắt.

H. G. Well cho rằng ngày tận thế sẽ là Kỷ băng hà.




                                                                PhN 41;m Duy Hiển







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 391 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 3:52am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



SỨC MẠNH VÔ H̀NH VÀ SỰ BẤT LỰC CỦA KHOA HỌC


Những chiếc bàn bay lên khỏi mặt đất, bóng ma xuất hiện, dịch chuyển đồ vật từ xa...đầu thế kỷ XX, khả năng "kỳ diệu" c̣n được gọi là thuật thông linh này cuốn hút cả Châu Âu. Nhiều nhà bác học như Pierre Curie, Camille Flammarion và Édouard Branly đă nhập cuộc để t́m ra cơ sở khoa học của các khả năng này.


Cuối thế kỷ XIX, sự hâm mộ của người Mỹ đối với thuật thông linh đă lan sang Châu Âu. Tại Luân Đôn, Paris, nhiều nhiếp ảnh gia "thông linh" làm xuất hiện các h́nh ảnh ma quái. Người dân đổ xô đi xem, c̣n các nhà bác học bắt đầu bán tín bán nghi.

Nhà thiên văn học Camille Flammarion tin rằng "thuật thông linh không phải là một tôn giáo mà là một khoa học, khoa học mà chúng ta mới chỉ biết rất ít". C̣n Pierre Curie năm 1894 đă viết cho vợ ḿnh là Marie Curie như thế này: "Anh phải thú nhận rằng các hiện tượng này kích thích anh rất nhiều. Anh tin rằng trong đó có các vấn đề liên quan chặt chẽ đến vật lư. Có một tác nhân vô h́nh chưa biết trong các hiện tượng này".

Pierre Curie không phải là người duy nhất đặt ra câu hỏi. Năm 1905, ông tham gia Nhóm nghiên cứu các hiện tượng tâm thần, do Émile Duclaux, giám đốc Viện Pasteur, đứng đầu. Nhóm này tập hợp Arsène d'Arsonval và Étienne Jules Marey (các thành viên của Viện hàn lâm khoa học), triết gia Henri Bergson, và cả nhà vật lư học Édouard Branly.

Mục đích của nhóm nghiên cứu là "khám phá cái vùng nằm ở ŕa của tâm lư, sinh lư, vật lư, ở đó người ta đă tin là đă nhận thấy các biểu hiện sức mạnh c̣n chưa được xác định", trong khuôn khổ một "nghiên cứu hoàn toàn khoa học, không có định kiến khẳng định hay phủ định".

Các nhà khoa học Pháp đặc biệt quan tâm đến các hiện tượng vật lư của thuật thông linh: các đồ vật được nhấc bổng khỏi mặt đất và chuyển động, những ánh sáng lờ mờ và những bàn tay xuất hiện... Người ta có thể ngạc nhiên về sự quan tâm này. Trên thực tế, vào thời kỳ đó có rất nhiều hiện tượng vật lư mà khoa học chưa giải thích nổi.

Ống catot cho thấy một "vật chất bức xạ" không nhận dạng được. Một muối rađi bức xạ liên tục một ánh sáng mạnh mà không mất vật chất. Các tia X cho phép cái mà thời đó người ta gọi là "ảnh của vô h́nh" nhưng bản chất của chúng vẫn chưa được làm sáng tỏ... Các bức xạ này phá vỡ tất cả các nguyên tắc bất di bất dịch điều chỉnh vật chất và năng lượng.



LẬT TẨY CÁC TR̉ BỊP



Để có thể t́m ra cơ sở khoa học hoặc lật tẩy được các tṛ lừa bịp, nhà vật lư học người Anh Oliver Lodge đă nghĩ đến một loạt các dụng cụ đo đếm nhằm "vật hóa" các hiện tượng dùng ư chí để điều khiển đồ vật: cân, máy ghi, bàn có chân được kiểm soát bằng điện, máy chụp ảnh điều khiển từ xa, nguồn phát tia cực tím...

Việc sử dụng chúng được cụ thể hóa tại Pháp, trong khuôn khổ của Nhóm nghiên cứu các hiện tượng tâm lư. Các nhà tổ chức đă xây dựng một "kế hoạch nghiên cứu tổng quát" nhằm làm sáng tỏ các tác dụng cơ học, nhiệt học, điện hoặc từ tính... có khả năng được sinh ra.

Các công tắc điện, nằm dưới bàn, ngăn không cho người điều khiển dùng chân ḿnh đẩy vào chân bàn. Tất cả các hiệu ứng ánh sáng đều được máy ảnh ghi lại. Cuối cùng, bản thân người điều khiển đồ vật cũng được nghiên cứu trên góc độ tâm sinh lư: tuần hoàn máu và huyết áp, thế điện... tất cả đều được ghi lại cẩn thận.

Tuy nhiên, phương pháp khoa học này đă không được áp dụng đầy đủ. Bởi theo những người dùng ư chí điều khiển đồ vật, để điều khiển từ xa các vật bay lên và chuyển động, cần phải rất thận trọng: tuân thủ các điều kiện vật chất (như bóng tối) và tâm lư (sự thành tâm của những người quan sát).

Hơn nữa, các hiệu ứng không phải lúc nào cũng xảy ra, ngay cả khi các điều kiện là đồng nhất và thuận lợi. Cuối cùng, các hiệu ứng này có thể chỉ thoáng qua, cần phải bắt giữ chúng ngay khi chúng thoáng xuất hiện, và phải chấp nhận tính "đồng bóng" của chúng.

Theo nhà thiên văn học người Ư Giovanni Schiaparelli, không thể áp dụng phương pháp khoa học, v́ những người điều khiển nhất định khăng khăng với các điều kiện của ḿnh. "Cần phải sử dụng một phương pháp khác táo bạo hơn, giống như phương pháp điều tra của cảnh sát".

Đó là điều mà các nhà sử học hiện nay gọi là "phương pháp dấu hiệu". Phương pháp này dựa trên không phải một biến thiên các điều kiện của thực nghiệm mà dựa trên quan sát, phân tích các dấu hiệu và đối chiếu lời khai.

Vậy là Nhóm nghiên cứu lại áp dụng phương pháp mới đ̣i hỏi khả năng tốc kư chính xác và các kỹ thuật đo đếm hiện đại. Các nhà khoa học dần dần nhận thấy rằng họ phải có các dụng cụ mới. V́ thiếu thực nghiệm, họ phải chấp nhận quay trở lại quan sát, nhân chứng và lời khia, nền tảng của bằng chứng khoa học thế kỷ XVII.



KHÔNG THỂ NGHI NGỜ ĐƯỢC NỮA



Từ 1905-1907, Nhóm nghiên cứu các hiện tượng tâm lư tổ chức hơn bốn mươi cuộc nghiên cứu với Eusapia Palladino, một phụ nữ nổi tiếng sống ở miền Nam nước Ư. "Dù bị trói chặt trên một chiếc ghế hoặc bị những người tham dự giữ chặt, nhưng Eusapia vẫn hút được về phía ḿnh các đồ vật xung quanh, nhấc chúng lên và giữ chúng lơ lửng trên không".

Chứng kiến khả năng của Eusapia, nhà tâm thần học người Ư Cesare Lombroso, mặc dù ban đầu rất hoài nghi đă thừa nhận khả năng điều khiển đồ vật bằng ư chí.
Vài ngày trước khi đột ngột qua đời, Pierre Curie c̣n ghi trong cuốn sổ tay của ḿnh: "Kết quả, đó là các hiện tượng tồn tại thật và tôi giờ không thể nghi ngờ được nữa".

Trên thực tế, hầu hết những người tham gia vào các buổi thực nghiệm, dù họ có là nhà khoa học hay không, đều tin vào cái họ nh́n thấy. Tuy nhiên, báo cáo cuối cùng được công bố năm 1908 lại tỏ ra thận trọng hơn nhiều.

Báo cáo thừa nhận không thể giải thích một số hiện tượng và yêu cầu tiến hành các thực nghiệm mới. Sau đó v́ những lư do huyền bí như chính những hiện tượng này, các nghiên cứu đă rơi vào quên lăng và dần biến khỏi sân khấu khoa học.





Phước Vĩnh





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 392 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 3:54am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



CHUYỆN XƯA: TÂY NINH VỚI NẠN CỌP LOẠN RỪNG


Như chúng ta đă biết ngày xưa Tây Ninh toàn là rừng già, chưa được khai thác trống trải như ngày nay nên nó là giang sơn của cọp voi, mang mến...v..v.. Thời ấy, chúa sơn lâm hay bén mảng gần xóm đông dân cư, để ŕnh bắt heo ḅ và cơng người về rừng xé xác.

Chẳng rơ "cọp Khánh Ḥa, ma B́nh Thuận" dữ đến thế nào, chứ riêng nạn cọp Tây Ninh có lắm lúc bất trị, khiến dân chúng coi như là một đại họa hăi hùng. Cho đến khoảng cận đại, mặc dù đă có khoa học tiến bộ mà vùng Tây Ninh vẫn c̣n ghi dấu vết ghê rợn về nạn cọp hoành hành.

ngược ḍng lịch sử khoảng năm 1914, vào đêm 13 tháng 7, đồng bào Tây Ninh bắt đầu trải qua nạn cọp lẻn về xóm trường học và nhà thờ công giáo, trong phạm vi châu thành Tây Ninh. Chiều hôm ấy cọp rời rừng, vào xóm ŕnh bắt heo, ḅ và tiện bắt luôn cả người, nếu như chúa sơn lâm thấy tiện...

Mới hơn bốn giờ chiều mà cọp đă làm lộng lắm rồi. Bắt được ḅ, cọp lôi ngay vào một nơi khuất tịch ở gần đấy. Nơi này bốn bề phủ kín bởi các lùm cây ổi tây dày bịch, nên không ai hay biết và trông thấy để kịp thời truy hô cùng nhau đánh đuổi chúng.

Nhưng tạo hóa chí công. Những loài độc dữ đi đến đâu, thường loài khác biết được nên tránh xa. Cho nên lúc ấy tín đồ công giáo đến nhà thờ làm lể, bỗng ngửi thấy mùi khét và hôi. Xem lại th́ trời đang đứng gió, mà trong bụi ổi lại thấy cành lá xao động. Sinh nghi những người dạn dĩ hết sức cẩn thận ḍ xét.

Quả nhiên họ thấy ngay một con cọp đang ngấu nghiến con ḅ. Không chút chần chừ người ta liền báo ngay cho dân chúng để cùng nhau tiêu diệt con cọp gian ác kia. Người có súng dùng súng, có gậy gộc th́ dùng gậy gộc. Nhưng không kịp rồi. Cọp thấy động liền phản ứng nhanh chóng, xông ra vồ ngay ông đội Nhiều và một người nữa.

Nhanh trí và b́nh tĩnh, ông Đội Nhiều lấy nón phang vào mặt cọp để cọp phải né tránh, ông và người kia kịp thời lách ḿnh đối phó. Bị ném nón th́nh ĺnh, cọp đâm ra hoảng hốt chụp lấy nón xé nát. Không chút chậm trể , Đội Nhiều nhanh chân trèo lên cây me gần đấy thủ thế. C̣n người kia th́ chạy thoát ra đường, vào bưu điện cấp báo về tỉnh.

Trong khi ấy cọp vẫn ngạo nghễ phục nơi lùm cây, không thèm chạy đi đâu cả, dường như có ư thách loài người. Mà loài người th́ đâu chịu bó tay đầu hàng trước con vật hung ác. Trong lúc cọp ngạo mạn, người thủ thế bao vây, viện binh kéo tới. Ông tỉnh trưởng cùng với viên cận vệ, ông đội Lê Văn Lâm đến nơi.

Tức th́ súng nổ đạn bay. Quả là cây súng tài, ngay loạt đạn đầu tiên, vị tỉnh trưởng đă hạ được cọp. Mà cũng quả là tới số, nên cọp ở lại chờ chết để đền tội với dân chúng nơi đây. Có điều là sau khi kiểm soát lại, nhận thấy Đội Lâm hớ hênh lẻn ra phía sau định phục kích đường tháo lui của chúa sơn, chẳng may bị lạc đạn bị thương nơi mắt cá chân.

Khi Đạo Tam Kỳ khởi khai phá rừng để hoằng dương đạo pháp tại nơi Ṭa Thánh hiện nay, trong rằm tháng Giêng năm Đinh Măo 1927 một con cọp ra đầu đường quốc lộ 13, vồ một con ngựa đang bắt kế trong một xe thổ mộ, lôi vào mé rừng móc họng.

Khuya đêm ấy ông cụ thân sinh của giáo sư Trần văn Thử, nguyên hiệu trưởng trường Pétrus Kư, từ nhà ở xóm Phan đánh xe ḅ ra thăm con ở nhà đốc học Trần Văn Giảng đi học. Xe gần đến chổ cọp tác quái, trời c̣n nhá nhem chưa sáng, ông cụ thấy lờ mờ bên đường, một chiếc xe ngựa chổng đuôi tôm nhúc nhích.

Thấy lạ ông g̣ dây bó chậm lại để xem cho kỹ th́ một tiếng chúa sơn lâm hộc vang dậy xé không gian đêm tàn. Đôi ḅ đánh được hơi cọp liền nhảy sải hai nước lớn kéo xe chạy như bay bất chấp lỗ hang, một mạch tới châu thành Tây Ninh. Lương thực, bánh trái đem theo cho con văng xuống đường mất hết không c̣n vật ǵ ông cụ cũng không hay.

Từ ấy đến năm 1946 và trở về trước, mặc dù Tây Ninh là xứ núi rừng, đồng bào phần đông sinh hoạt về lâm sản, trăi bao năm vẫn không nghe ai bị cọp bắt voi chà. Nhưng đến năm 1947-1948, cọp lại loạn rừng.

Mỗi đêm khoảng tám giờ tối, quân Pháp ban hành lệnh giới nghiêm tới sáu giờ sáng. Ngoài đường trong vườn tược không một bóng người. Súc vật cũng nhốt trong chuồng hay trong nhà, v́ có ba lẽ : nhất là Pháp bắn bỏ hoặc bắt giam, muốn được trả tự do phải lo lót, hai là bị cướp bắt đi, ba là bị cọp bắt ăn thịt chết không toàn mạng. Tại xă Ninh Thạnh ấp Chánh, cọp đă ăn ba mạng, và mỗi đêm thường về ấp này bắt heo mang vô rừng ăn dần.

Một hôm vào lúc năm giờ sáng, đạo đồng chùa Long Sơn vừa dứt công phu, c̣n ngồi gióng chuông, ḍm qua kẹt cửa để xem trời sáng chưa, chợt thấy một con cọp cái đang nằm với cọp con cách đó một thước tây thôi. Những người trong chùa cửa đóng then cài, cọp ngoài sân nằm ngửa giởn với con.

Mặt chú đạo đồng tái mét cắt không c̣n chút máu, ḅ càn xuống hậu liêu, đánh thức chư tăng mà báo động :

- trời đất ơi! Cọp về ! Cọp

Chư tăng cố trấn tĩnh :

- Cọp về đâu?

- Cọp nằm trước cửa chùa. Cọp mẹ cọp con đang trửng giởn xem bắt lạnh ḿnh rởn óc. Quư Thầy ra xem th́ biết.

Mọi người nhẹ gót ḍm lén thảy đều hồn bất phụ thể. Không ai dám động tịnh ǵ, ở đâu ngồi yên đó chờ tới sáng cọp bỏ ra đi. Chừng xem xét lại th́ ra cọp đă nằm suốt đêm. Chư Tăng thở một hơi nhẹ nhàng tỉnh hồn tỉnh vía.

Trên đây chúng tôi ḍ tài liệu của ông cụ trụ tŕ chùa Long Sơn mà ghi chép lại một cách trung thực. Riêng chúng tôi có thân hành đến viếng chùa Long Sơn, được Ḥa Thượng trụ tŕ hướng dẩn đến xem nơi cọp vồ một người, rồi đem xuống bụi tre xé xác, đứa bé xấu số ấy là con của một lăo thầy pháp trong làng.

Ngày nay gợi lại câu chuyện cọp loạn rừng, ăn thịt người, vật ḅ, bắt ngựa khiến cho mọi người phải giựt ḿnh hăi sợ, cho đó là tai họa của thời chúa sơn lâm tung hoành, gieo tai ương cho người dân tỉnh Tây Ninh.



                                                                    Huỳnh Minh





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 393 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 3:56am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TRUYỀN THUYẾT VỀ RỒNG


Rồng với ư nghĩa đặc biệt, đă thâm nhập vào khắp lĩnh vực văn hoá cổ truyền của Trung Quốc, và đă trở thành biểu tượng tinh thần mạnh mẽ cho người Trung Quốc. Có thực sự là Rồng có tồn tại? Hay chúng chỉ đơn giản được tưởng tượng trong thế giới tinh thần, hay nó thực sự thiện hữu vật chất?

Nó vẫn là một điều huyền bí đối với chúng ta hôm nay. Tôi rất ngạc nhiên v́ có thể t́m thấy trong những cuốn sách lịch sử nhiều bản ghi chép chứng kiến về sự tồn tại của những con rồng, và điều đó đă thúc đẩy tôi nghiên cứu xem Rồng có thực sự tồn tại.



NGŨ LONG VÀ NHỮNG VỊ THẦN MÀU XANH



“Tạp Kư về Huyện Nghĩa ” từ Triều đại Nhà Thanh viết như sau: Vào năm 1503 sau Công Nguyên Triều Minh, năm thứ 16 đời Hồng Di, năm con rồng đă bay lượn trên không trung khoảng mười lư (ba dặm) phía bắc huyện Nghĩa, tỉnh Hà Nam. Sau một thời gian lâu ở trên cao, chúng hạ xuống mặt đất và không thể bay lên lại được nữa.

Mây kéo đến đầy trời và mặt biển bị khuấy tung lên. Một vị thần trong trang phục màu xanh từ trên trời đáp xuống và ngay lập tức được vây quanh bởi những con rồng đă rớt xuống. Một lúc sau mây tản hết và biển trở nên yên tĩnh.

Năm con rồng vẫn chưa thể bay lên. Bấy giờ một vị thần màu xanh khác xuất hiện, và những con rồng vây quanh ông ta. Đột nhiên bầu trời trở nên tối mịt. Những đám mây đen lớn xuất hiện. Cuối cùng khi bầu trời sáng trở lại, hai vị thần và năm con rồng đă bay đi.



NHỮNG CON RỒNG TRẮNG VÀ NHỮNG VỊ THẦN MÀU TÍA


“Kư sự về Thiên triều Gia Tĩnh, Phần Những Hiện tượng Kỳ lạ và Hiếm thấy” cũng có một câu chuyện tương tự về huyện Nghĩa. Vào tháng mười năm 1588 sau Công Nguyên, một con rồng trắng đă nổi lên trên Hồ B́nh thuộc huyện B́nh Hồ, tỉnh Triết Giang.

Nó đă bay lượn trên mặt hồ, chiếu sáng một nửa bầu trời với ánh sáng đỏ. Chứng kiến của Shen Maoxiao, một vị quan chép sử cho vương triều, đă nh́n thấy một vị thần với trang phục màu tía và một cái mũ bằng vàng, đứng trên cao chừng ba chục m, giữa những cái sừng của con rồng.

Vị thần này cầm một vật có h́nh cây kiếm. Ở đó xuất hiện một quả cầu ánh sáng lớn như một cái đấu (một dụng cụ đo lường h́nh thang ở Trung Quốc) ở bên dưới cái đầu của con rồng.



BẠCH LONG TRÊN SÔNG HOÀNG PHỐ



“Kư sự về Thiên triều Tống Giang, phần những hiện tượng kỳ lạ và hiếm thấy” đă ghi chép một chứng kiến xảy ra hai mươi năm sau sự kiện con rồng trắng được trông thấy ở huyện B́nh Hồ.

Vào tháng bảy năm 1608 sau Công Nguyên, một con rồng trắng tương tự như con rồng xuất hiện trên Hồ B́nh đă được nh́n thấy trên Sông Hoàng Phố ở huyện Tống Giang, Thượng Hải. Cũng có môt vị thần đứng trên đầu con rồng.



RỒNG Ở LÂU ĐÀI VĂN MINH


“Kư sự về Hậu Hán Triều, Phần Ngũ tố” trích dẫn sau này của ‘Kư sự về huyện Lạc Dương? Phần hiện tượng Kỳ lạ” đă chép rằng một con rồng trông thấy trên hoàng cung. Lưu Hồng, Hoàng đế của Vương Triều Đông hán, đă xây dựng thủ đô của ḿnh gần huyện Lạc Dương Tỉnh Hà Nam ngày nay. Cung điện Văn Minh có thể là nơi ông cư ngụ.

Vào ngày 1 tháng 7 năm 178 sau Công Nguyên, một vật đen khổng lồ rớt từ trời xuống vườn đông của cung điện Văn Minh. Vật thể có h́nh tṛn và giống như mái che của xe ngựa ngày xưa. Nó dài hai mươi m, và lướt đi nhanh chóng phát ra những ánh sáng màu sắc. vật thể có một cái đầu nhưng không có chân và đuôi, Nó trông giống một con rồng, nhưng có thể là không phải.

“Biên sử của Triều đại nhà Nguyên? Kư sự về Ngũ Tố” viết rằng có một con rồng xuất hiện gần Long Sơn ở huyện Lâm Tùng, Tỉnh Sơn Đông vào tháng tám năm 1190. Không may sự xuất hiện của nó đă không được ghi chép. Con rồng có thể mang một tảng đă lớn nặng 0,5 tấn bay lên không trung.

Vào năm thứ hai mươi bốn của Cát An thuộc triều Đông Hán, một con rồng vàng xuất hiện trên Sông Tŕ Thuỷ của huyện Vũ Dương, và nằm ở đó trong suốt chín ngày và cuối cùng th́ rời đi. Một đền thờ được xây dựng và một bia đá được dựng lên trong đền thờ để ghi danh sự xuất hiện của con rồng.

Vào tháng tư năm thứ nhất của Vĩnh Hà, Triều Đông Tấn 345 Sau Công Nguyên, hai con rồng, một con màu trắng và một con màu đen, xuất hiện ở Long Sơn. Mộ Dung, Hoàng đế nước Yên đem các quan trong triều đến một ngọn núi, và tổ chức một lễ tế cách xa chỗ hai con rồng hai trăm dặm.

Những cuốn sách lịch sử địa phương từ Triều Minh và Triều Thanh cũng có những dấu hiệu của những con rồng. Theo “Kư sự về Thiên triều Lâm An” năm thứ tư Chongzhen 1631 AD, một con rồng lớn đă được nh́n thấy trên Hồ Kỳ Long, đông nam huyện Shiping, tỉnh Yunan ghi chép đă viết:

“Râu, chân, và vảy của con rồng nổi trên mặt nước, và con rồng dài khoảng vài chục mét.” Rồng có thể đă xuất hiện nhiều hơn một lần ở Long Sơn (Núi Rồng) và Hồ Kỳ Long (Hồ Rồng kỳ lạ), điều này giải thích cho việc đặt tên cho những địa danh này.

“Kư sự Bổ sung của Triều đại Nhà Đường” đă ghi chép rằng một ngày trong năm cuối của Xiantong, một con rồng đen đă rơi xuống mặt đất trong vùng lănh thổ của tỉnh Tongcheng, và chết ở đó v́ một vết thương trên cổ.

Chiều dài đầy đủ của con rồng đo được là ba mươi m, trong đó mười lăm m là đuôi. Cái đuôi h́nh phẳng. Vảy của nó như vảy cá. Trên đầu có hai cái sừng. Râu của nó mọc bên cạnh miệng dài khoảng sáu m. Chân của nó mọc ra từ dưới bụng, có một cái vảy màu đỏ che phủ.

“Thất Kinh Thư” của Long Anh chép rằng một ngày trong năm cuối của Thành Hoá Minh Triều, một con rồng rơi xuống trên băi biển của Huyện Tân Thuỷ Tỉnh Giang Đông. Nó đă bị những người dân chài địa phương đánh tới chết. Con rồng cao như một người lớn và dài hàng chục mét. Nó trông rất giống con rồng trong những bức tranh cổ chỉ trừ cái bụng của nó màu đỏ.

Một con rồng đă chết được t́m thấy bên bờ Hồ Thái Bạch vào năm thứ ba mươi hai của Thiếu Hưng thuộc Triều đại Nam Tống, 1162 sau Công Nguyên. Nó có râu dài và những cái vảy rất lớn. Cái lưng màu đen và cái bụng màu trắng.

Tay của nó mọc ra từ lưng và hai cái sừng tḥ ra từ đầu. Nó có thể bốc mùi từ xa hàng dặm. Những người địa phương phát hiện ra nó với một mớ rối bù. Quan lại đă cho người đến làm lễ cúng tế bên cạnh nó. Tuy nhiên sau một đêm giông băo sấm sét, con rồng đă biến mất. Chỉ có một cái mương để lại nơi nó đă nằm.

“Biên sử về Thiên triều Vĩnh B́nh” chép rằng, vào mùa hè năm thứ mười chín của Đạo Quang, 1839 Sau Công Nguyên, một con rồng đă rớt từ trên trời xuống vùng hạ lưu con Sông Luân Hà, ở huyện Lao Đ́nh. Con rồng nằm mệt lử, ruồi bọ vây quanh. Người dân địa phương làm một cái mái che cho nó để bảo vệ nó khỏi nắng, và phun nước lên người nó. Ba ngày sau, sau một đêm trời dông băo con rồng đă bay đi.

Vào tháng tám năm 1994, hàng trăm người từ Làng Chenjiayuanzi, Huyện Phù Du phía bắc của con sông Tùng Hoà Giang, vây quanh một con rồng đen nàm bên cạnh con sông. Yen Dianyuan, Một người chứng kiến vẫn c̣n sống, đă kể rằng con rồng dài chừng bảy mét và trông giống một con thàn lằn khổng lồ.

Mặt của nó giống hệt như mặt của con rồng được vẽ trong các bức tranh cổ, với bảy hoặc tám cái râu dày và cứng. Thân trên có đường kính khoảng một bộ. Bốn cái chân của nó đi để dấu sâu trên cát. Lớp vảy như vảy cá sấu phủ đầy thân nó. Yen Dianyuan vẫn rất băn khoăn tại sao con vật khổng lồ ấy lại trông rất giống với con rồng được vẽ trong tranh.

Vào mùa hè năm 1953, một con vật chưa được nhận biết đă rớt từ trời xuống một nơi gần phía nam Tỉnh Hà Nam. Những người ṭ ṃ đă đi bộ một quăng dài để đến xem. Theo sự miêu tả của những người chứng kiến, con rồng trông giống một con cá mập khổng lồ. Mùi hôi của nó thu hút vô số ruồi nhặng. Nếu nó là một con cá mập, nó phải sống dưới vùng biển sâu. Tại sao nó lại rớt từ trời xuống? Trường hợp này có thể liên quan đến những con rồng được ghi chép trong lịch sử rớt xuống từ trời.


MỘT CON RỒNG XUẤT HIỆN VÀO NGÀY 31-8-2000


Các nhà khoa học đă dành vô số thời giờ và năng lượng để khám phá vũ trụ này to lớn và huyền bí đến mức nào, và họ đă đạt được không nhiều ngoại trừ những giả định và giả thiết.

Họ đă làm việc cả ngày cả đêm, vậy mà họ vẫn ḅ lết trong cái khung của những lư thuyết bị giới hạn của họ. Nhằm để giải thoát khỏi những điều mê tín huyền hoặc khi thảo luận về “sự thật của vũ trụ” tôi muốn giới thiệu với các bạn một hiện tượng vô h́nh và huyền bí, nhưng tồn tại khách quan và phản ánh trong không gian vật lư của chúng ta.

Thời tiết trên hầu hết các vùng của Trung Quốc năm nay rất nóng và khô với nhiệt độ lên đến 40 độ C (104 độ F), và đă dẫn đến cái chết của nhiều cây cối và đồng cỏ. Mùa màng không có màu xanh ở những nông trang rộng lớn. Chúng ta thường thấy những vụ mùa bội thu khi mùa thu đến.

Nhưng năm 2000 đă không như vậy. Nhiều gịng sông khô cạn, gây ra hậu quả thiếu nước uống và lan tràn dịch bệnh. Đó chính xác đúng như những ǵ mà Sư Phụ Lư Hồng Chí đă nói trong một bài thơ: “người vô đức thiên tai nhân hoạ, đất vô đức vạn vật điêu tàn”.

Người ta đă lo lắng rằng mùa hè sẽ thiếu mưa, và mùa thu sẽ thừa nước. Vào ngày bốn tháng tám, một trận mưa như trút nước xuống Ngôi làng Hắc Sơn Tử (Heishanzi), và ngôi làng được bao phủ bởi một lớp hơi nước nóng.

Đột nhiên những đám mây dày từ bầu trời đáp xuống và cuộn dọc theo trên mặt đất. Người dân trong làng vô cùng hoảng sợ, v́ họ chưa bao giờ thấy một loại thời tiết như vậy trước đó. Họ nằm im trong nhà và đóng cửa lại. Có một chàng trai trẻ dũng cảm đă bước ra ngoài xem chuyện ǵ đang xảy ra.

Anh ta đi xuyên qua và chẳng t́m thấy ǵ ngoài những đám mây dày đang cuồn cuộn. Anh ta tiếp tục đi, và chẳng mấy chốc anh ta đă ở ngoài ŕa làng. Đột nhiên anh ta sững sờ v́ nh́n thấy cảnh tượng hai con rồng, một con màu đen và một con màu trắng, nằm trên mặt đất trước mặt anh ta.

Anh ta sững sờ và không thể tin vào những ǵ ḿnh thấy. Anh ta dụi mắt ḿnh bằng lưng bàn tay và véo vào cánh tay ḿnh. Tay anh ta cảm thấy đau, vậy anh ta biết đó không phải là giấc mơ. Chàng trai trẻ tiến đến gần hơn để xem cho rơ hai con rồng.

Anh ta đă thấy rằng những cái sừng những cái vảy, những cái chân và đuôi của hai con rồng, giống hệt với những con rồng trong những bức tranh truyền thống, ngoại trừ những cái râu của nó ngắn hơn. Anh ta xoay ḿnh và chạy biến về làng, hết sức có thể và la lên:

- Đi xem rồng bà con ơi, đi xem những con rồng rơi từ trời xuống.

Cả làng đi ra ngoài để xem rồng. Tin tức lan rộng nhanh chóng khắp vùng. Cảnh sát, cán bộ chính quyền, chuyên gia, giáo sư đại học đều đến ngôi làng Hắc Sơn Tử. Nhiều người chụp được đám đông vây quanh hai con rồng.

Rồi các chuyên gia và giáo sư Đại học bắt đầu nói dông dài về các loại lư thuyết về hiện tượng, nhưng người ta không thể hiểu một từ nào về những ǵ họ nói. Sau đó cảnh sát bắt đầu giải tán đám đông, để lại một vài người bảo vệ hai con rồng.

Một trận gió mạnh cuốn những đám mây đen cuộn lên cuộn xuống. Khi nó đi qua con rồng màu trắng đă biến mất từ những đôi mắt chăm nhú nh́n của mấy người bảo vệ. Các quan chức không thể giải thích sự biến mất đó, và họ cũng thấy chán nản về con rồng màu đen vẫn nằm ở trên mặt đất.

Lúc đó một lăo nông già trên bảy mươi tuổi nói:

- Tôi đă nghe những điều tương tự thế này đă xẩy ra nhiều năm trước, và người ta tưới nước cho con rồng để cho nó về nhà.

Ông đă kêu một vài người trẻ tuổi trong làng lấy chiếu và dựng một mái che cho con rồng. Rồi họ chở nước bằng xe cút kit, rồi họ phun nước lên chiếu để nước có thể chảy xuống lưng con rồng. Kết quả là con rồng đă sống đến hôm nay.

Vũ Tống (Wusong) là một thành phố bên cạnh sườn Tây của dăy núi Trường Bạch, Đông Nam Tỉnh Cát Lâm được gọi là “thành phố của Nhân Sâm”. Vào sáu giờ chiều ngày 18 tháng 9 năm 2000, một con rồng đă xuất hiện trên bầu trời của thành phố và mọi người có thể nh́n thấy nó.

Vào ngày đó v́ trời trở nên tối vào buổi chiều, một chùm ánh sáng kỳ lạ đă phóng ra từ bầu trời phía đông bắc của thành phố, và nó trở nên sáng hơn và sặc sở sắc màu. Nhiều người đă nh́n thấy ánh sáng đó và nhiều người cảm thấy như phép màu sắp xảy ra.

Nó chắc chắn là một con rồng đă lộ ra. Vào lúc đầu, cái đầu được nh́n thấy nhưng chưa có đuôi. Cuối cùng, miệng, râu, chân, vảy đă được thấy rơ ràng. Con rồng phát ra ánh sáng chói và nó uốn ḿnh lên, rồi duỗi ḿnh ra rồi cuộn ḿnh lại, rồi uốn ḿnh về phía trước. Nó mở cái miệng ra rồi đóng lại.

Mọi người thất kinh và tắt tiếng trước cảnh tượng. Một vài người vẫn có thể lẩm bẩm “cuối cùng th́ cũng có rồng thực”. Con rồng hiện h́nh cho thấy khoảng hai mươi phút. Hầu hết mọi người trong thành phố đều thấy nó, một vài người chứng kiến sự việc từ đầu tới cuối.

Ánh sáng cuối cùng th́ mờ dần và đỏ thẫm và con rồng từ từ biến mất ? Khoảng tám giờ một người bạn của tôi ở Vũ Tống, đă gọi điện cho tôi và kể về chi tiết sự việc xuất hiện và biến mất của con rồng, và trên đây là những ǵ mà tôi đă chép xuống.

Có phải những người đó, những người cố ư chụp mũ người ta là mê tín, đang đi lượm lặt những chứng kiến về con rồng với một dụng ư khác ? Tôi không nghĩ vậy bởi v́ họ không dám. Hàng ngàn người đă ở đó và đă tận mắt thấy con rồng.

Họ có thể giảng thuyết tại sao những con khỉ không đuôi là tổ tiên của loài người, và làm cách nào mà những người Ai Cập đă xây dựng những kim tự tháp. Nhưng họ không dám diễn thuyết sự xuất hiện và biến mất của con rồng, bên ngoài ngôi làng Hắc Sơn Tử.

Hiển nhiên khoa học nhân loại không thể đưa ra giải thích ǵ thêm. Vũ trụ quá bao la và huyền bí và chỉ có Phật Pháp mới có thể vén mở sự thật về nó. Sư Phụ Lư Hồng Chí viết:

- Phật Pháp cho phép nhân loại thấu triệt thế giới vô lượng vô biên. Từ ngh́n xưa đến nay có thể đưa ra thuyết minh sáng tỏ đầy đủ về nhân loại, mỗi từng không gian vật chất tồn tại sinh mệnh, cho đến toàn vũ trụ th́ chỉ có Phật Pháp. Sự xuất hiện của những con rồng trên trái đất, đă gợi mở cho con người một cơ hội, để suy ngẫm về mục đích của cuộc sống. Chúng ta không nên dính mắc vào cuộc sống ở không gian này, và chúng ta nên mở rộng tầm nh́n để t́m kiếm sự thật.

Con rồng là một h́nh tượng có vị trí đặc biệt trong văn hóa tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam. Rồng là tượng trưng cho quyền uy tuyệt đối của các đấng thiên tử (bệ rồng, ḿnh rồng) là linh vật đứng vào hàng bậc nhất trong tứ linh long, lân, quy, phụng. Dân tộc ta có truyền thuyết về con Rồng từ rất sớm bởi nó gắn liền với mây mưa, với việc trồng lúa nước, với sự tích "con Rồng cháu tiên".

Mỗi người dân Việt Nam đều mang khái niệm từ thời mở nước cha rồng mẹ tiên, với huyền sử Hùng Vương con của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Hùng Vương đă dạy dân tục xâm ḿnh h́nh Rồng ở ngực, bụng và hai đùi (thái long) để không bị loài thuỷ quái xâm hại. Rồng tượng trưng cho thần linh, mây mưa sấm chớp. H́nh tượng Rồng c̣n xuất hiện trong văn hoá Đông Sơn, Âu Lạc với những h́nh trang trí chữ S và tục thờ tứ pháp.

Qua thời kỳ Bắc thuộc dài đằng đẵng, con rồng Việt Nam xuất hiện rơ nét dưới thời Lư. H́nh ảnh rồng bay lên. Thăng Long tượng trưng cho khí thế vươn lên của dân tộc, được đem đặt cho đất đế đô. Rồng thời Lư tượng trưng cho mơ ước của cư dân trồng lúa nước, nên luôn luôn được tạo trong khung cảnh của nước của mây cuộn.

Triều Lư dựng đô vua Thái Tông cho mở hàng quán chen chúc sát tới đền rất huyên náo. Vua thấy đền cổ bèn sửa sang lại làm nơi thờ thần. Đến đêm thần hiển linh nổi trận gió bắc rất to, các nhà bên đều đổ hết chỉ c̣n đền thờ. Vua mừng nói:

- Đó là thần Long Đỗ coi việc nhân gian.

H́nh Rồng thời Lư được trang trí ẩn hiện trong h́nh lá bồ đề, cánh sen giỡn sóng, ở bệ tượng Đức Phật A Di Đà, Bồ Tát Quan Âm. Rồng thời Lư có thân h́nh tṛn trặn uốn lượn nhiều khúc, dài và nhỏ dần về phía đuôi, có dáng dấp gần gũi với loài rắn nhưng đầu Rồng có tỷ lệ cân đối so với thân, chân nhỏ mảnh thường là ba ngón.

Rồng thời Lư nhẹ nhàng thanh thoát. Những khúc uốn h́nh chữ S gần như không thể thiếu. Rồng được trang trí trong chùa tháp, cung điện có đầu ngẩng cao mồm há rộng giỡn ngọc, mào h́nh ngọn lửa hướng về phía trước, tai bờm, râu rồng vút nhỏ dần chuyển động như bay lượn tạo nên bố cục chặt chẽ.

Nh́n tổng thể Rồng Lư tạo ra vẻ đẹp thẩm mỹ thuần khiết, cách điệu sống động như một tuyên ngôn độc lập có giá trị đến ngày nay, về mỹ thuật của Rồng Đại Việt.

Rồng thời Trần tuy có thừa kế những yếu tố cơ bản của thời Lư, nhưng đă có những biến đổi về chi tiết. Dạng tự chữ S dần dần mất đi hoặc biến dạng thành h́nh con, đồng thời xuất hiện thêm hai chi tiết là cặp sừng và đôi tay. Đầu rồng uy nghi và đường bệ với chiếc mào lửa ngắn hơn.

Thân rồng tṛn lẳn mập mạp nhỏ dần về phía đuôi, uốn khúc nhẹ lưng vơng h́nh yên ngựa. Đuôi rồng có nhiều dạng, khi th́ đuôi thẳng và nhọn khi th́ xoắn ốc. Các vảy cũng đa dạng. Có vẩy như những nửa h́nh hoa tṛn nhiều cánh đều đặn, có vẩy chỉ là những nét cong nhẹ nhàng.




                                                                    ST








Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 394 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 3:56am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



NGƯỜI HÓA CÁ


Thái, người trên bốn mươi, làm một chức sở trưởng sở tại Phủ đường Khiêm Chương ở Tứ Xuyên. Phủ quan là một người họ Chu, đồng liêu với ông ta là hai viên phụ tá Lê và Bạch. Mùa thu năm 758 Thái bị ốm kịch liệt. Chàng bị sốt rét kinh khủng, gia đ́nh chàng tốn công chạy thầy, chạy thuốc cũng đều vô ích.

Tới ngày thứ bảy chàng mê man bất tỉnh, nằm trở như vậy hàng bao nhiêu ngày. Bè bạn và gia đ́nh cầm chắc là chàng sẽ chết. Mới đầu chàng thấy khát và c̣n nói được đ̣i nước uống, về sau chàng mê man thiêm thiếp không ăn uống được ǵ cả. Chàng cứ ngủ li b́ cho tới ngày thứ hai mươi, th́ bổng nhiên chàng ngáp một cái và ngồi dậy.

Chàng hỏi vợ:

- Ta ngủ được bao lâu rồỉ ?

- Độ ba tuần.

- Phải, chắc là lâu như vậy. Nàng đi t́m các bạn đồng liêu của ta, bảo họ rằng ta đă khỏi bệnh rồi. Hỏi xem họ có ăn gỏi cá chép vào giờ khắc này không. Nếu có ăn bảo họ phải bỏ bữa ăn ngay. Ta có việc muốn bàn với họ. Gọi thằng hầu Chương tới phủ đường. Ta muốn gặp cả nó nữa.

Tên hầu được phái tới phủ đường. Nó thấy quả thật các quan chức đương dùng cơm trưa, và có một đĩa gỏi cá chép nóng hổi khói lên nghi ngút. Tên hầu đưa thư cho mấy ông đó và mọi người đồng ư đến nhà Thái, họ sung sướng nghe tin bạn đă khỏi bệnh.

Thái hỏi:

- Có phải các bác đă sai thằng hầu Chương mua cá không?

- Có, chúng tôi sai nó.

Thái ngoảnh lại nh́n Chương và hỏi nó:

- Có phải nhà người đă mua cá ở nhà lăo chài Triệu Cao, và có phải lăo ta từ chối không bán cho nhà ngươi con cá lớn không? Đừng ngắt lời ta Nhà ngươi thấy con cá chép lớn giấu trong cái thùng nhỏ có phủ bèo, rồi nhà ngươi mua con cá, nhưng nổi giận v́ lăo chài đă nói dối nên bắt lăo đi theo.

Khi nhà ngươi đi vào phủ đường, người viên chức thu thuế ngồi ở phía tây đương đánh cờ. Đúng vậy không? Rồi nhà ngươi đi lên sảnh đường, nhà ngươi trông thấy Chu Phủ quan và Lê Phụ tá đương đánh bài, c̣n Bạch th́ đương ngồi xem miệng bỏm bẻm nhai lê.

Nhà ngươi tŕnh với Bạch về lăo chài, rồi Bạch đá cho lăo ta một cái lăn chiêng xuống sân. Rồi th́ nhà ngươi mang cá xuống bếp, tên đầu bếp Hoàng Triết Lương mổ nó làm bữa trưa. Có phải đúng là sự việc xảy ra như vậy không?

Mọi người hỏi Chương và ai nấy hỏi lại lẫn nhau, và thấy rằng mọi chi tiết đều đúng vậy. Kinh ngạc quá họ hỏi Thái làm cách nào mà biết hết được như vậy, và đây là câu chuyện ông ta kể cho các bạn nghe:

- Khi tôi bị ốm tôi sốt nóng kinh khủng, như các bác biết. Không chịu được cơn nóng dữ dội, tôi mê man đi, nhưng cái cảm giác nóng sốt vẫn c̣n và tôi tự hỏi làm cách nào cho bớt nóng đi. Tôi nghĩ đến việc đi dạo chơi trên một bờ sông tuyệt đẹp, rồi cầm một cây trượng và ra đi.

Vừa ra khỏi thành là tôi đă thấy ngay không khí mát mẻ hơn lên, tôi cảm thấy dễ chịu ngay tức th́. Tôi thấy khí nóng từ các mái nhà bốc lên và tôi thấy khoan khoái đă bỏ xa chúng ở lại phía sau ḿnh. Tôi đi về phía chân đồi, nơi đó Đông Hồ nối liền với sông.

Tới bờ hồ nghỉ ngơi trên bờ dưới cây dương liễu. Non nước xanh lơ sao mà quyến rũ thế. Một cơn gió nam nhẹ nhàng thổi qua mặt nước làm cho nước gợn lên như vẩy cá, do đó tôi có thể theo dơi rơ ràng cử động và phương hướng của gió nam trên mặt hồ.

Cảnh vật đều im lặng và b́nh thản. Bổng tôi ao ước được tắm một cái. Tôi quen thói bơi lội như một đứa trẻ con, nhưng từ lâu lắm tôi không tắm ở trong hồ. Tôi bỏ y phục và nhào xuống nước, tôi có cảm giác mát rượi khi nước bao bọc thân ḿnh và chân tay tôi. Tôi ngụp lặn xuống nước nhiều lần thấy khoan khoái vô cùng.

Tôi chỉ c̣n nhớ là lúc đó tôi nghĩ rằng:

"Thương thay cho Bạch cho Lê và Chu và tất cả bè bạn, cả ngày chúi mũi trong công đường. Ước ǵ ta được hóa thành con cá một lát, để khỏi lôi thôi vướng víu trát với niêm, với công văn tài liệu. Ta sẽ khoan khoái chừng nào nếu mà ta hóa thành con cá bơi ngày, bơi đêm với nước, chung quanh ta chỉ thấy nước thôi".

Một con cá bơi tới chân ta lúc đó nói ngay rằng:

- Tôi tưởng điều đó dễ làm lắm. Ông có thể hóa cá suốt đời như tôi đây, nếu ông muốn vậy. Tôi có thể giúp ông việc đó được chăng?

- Nếu ngươi có ḷng tốt như vậy, ta lấy làm cảm kích vô cùng. Tên ta là Thái Vệ, hiện làm trưởng sở ở phủ lỵ. Bảo với đồng loại ngươi rằng ta rất lấy làm hân hạnh được đổi ngôi vị với bất cứ một người nào trong bọn họ. Chỉ cần cho ta được bơi lội và bơi lội măi thôi.

Con cá bỏ đi một lát rồi trở lại với một người đầu như đầu cá, người này cỡi trên một con Oa Oa, các bác biết đó, giống vật có bốn chân, sống dưới nước nhưng có thể trèo cây được, khi người ta bắt nó hay giết nó, nó kêu như tiếng trẻ con khóc vậy.

Người đầu cá này tới với một đoàn tùy tùng độ mười hai con cá cùng một loại, y đọc chiếu chỉ của vua Thủy Tề. Các bác hăy tin tôi đi, chiếu đă được thảo bằng lối văn xuôi diễm lệ, chiếu đó bắt đầu như sau:

"Con người, một sinh vật trên đất có những lề lối khác biệt với thủy tộc. Chừng nào con người c̣n giữ h́nh thể của ḿnh, y không thể tiến bộ mau lẹ ở dưới nước được. Trưởng sở Thái Vệ có một tâm hồn cao cả và sâu sắc, đă đi t́m sự thư thái và siêu thoát ở một đời sống. Tự do bất măn và buồn phiền v́ những công việc quan, y mơ tưởng đến lạch sông, đáy hồ nước trong xanh mát mẻ, mơ tưởng tới thú tự do và tháng ngày vô tận cùng các tṛ du hí ở thủy quốc chúng ta.

Ước vọng trở thành thần dân thủy tộc của y từ đây được chấp thuận. Y sẽ được làm một con cá chép nâu và được phái tới Đông Hồ làm nơi cư ngụ thường nhật. Than ôi! Đời sống của thủy tộc ở sông và biển có vô vàn sự cám dỗ và cạm bẩy. Có kẻ đă ngốc nghếch cản phá tàu bè, có kẻ v́ thiếu từng trải và không kiềm chế nổi ḷng ḿnh đă bị mắc bẩy, bị bắt bởi đủ các loại dụng cụ của loài người.

Không có ở đâu chân lư được rơ ràng bằng dưới nước rằng sự thận trọng là sự bảo đảm tốt nhất cho một đời sống lâu dài. Chúc cho ngươi cư xử khéo léo và đường hoàng, hợp với phong độ cao cả của loài thủy tộc mà ngươi được may mắn làm một thần dân mới. Ngươi hăy làm một con cá khôn ngoan!"

Vừa nghe chiếu chỉ tôi vừa thấy ḿnh biến đổi thành một con cá, ḿnh tôi được phủ một lớp vẩy đẹp óng ánh. Sung sướng với sự thay đổi đó, tôi bơi lội ung dung thoải mái, ngoi lên mặt nước rồi lặn xuống tùy theo ư thích với sự cử động nhẹ nhàng của những vây của tôi. Tôi ngoi ra sông, tôi thám hiểm tất cả những hang hốc ở bờ và mọi nguồn, mọi suối nhưng bao giờ tối đến tôi cũng trở về hồ.

Tuy vậy một ngày kia, tôi bị đói ghê gớm không thể kiếm được thức ǵ ăn. Tôi nh́n thấy Triệu Cao quăng cần câu xuống và đợi bắt tôi. Trông con mồi ngon lành cám dỗ quá, hai mang tôi cứ việc chảy răi ra. Tôi rơ ràng đó là một vật ghê gớm mà tôi rất sợ không dám đụng vào, nhưng tôi cảm thấy đó chính là thứ tôi cần, và tôi không thể tưởng tượng thứ ǵ khoái hơn nó được đối với miệng tôi. Rồi th́ tôi nghĩ tới những lời căn dặn cẩn trọng và tôi bỏ đi, với một sự kiềm chế lớn lao tôi bơi đi nơi khác.

Nhưng một cái đói kinh khủng ṿ xé ḷng tôi, và tôi không thể chịu đựng được nữa. Tôi tự nhủ ḷng:

"Ḿnh biết Triệu Cao và lăo ta cũng biết ḿnh. Chắc lăo không dám giết ḿnh đâu. Nếu bị bắt ḿnh sẽ bảo lăo mang ḿnh về phủ đường!"

Tôi quay trở lại đớp ngay lấy con mồi và tôi bị tóm cổ, tất nhiên vậy. Tôi chống cự và vùng vẫy nhưng Triệu Cao lôi tôi lên môi dưới tôi đẫm máu, thế là tôi đành chịu. Khi lăo ta sắp nâng tôi lên tôi kêu:

- Triệu Cao, Triệu Cao, nghe ta đây! Ta là Thái Vệ, trưởng sở đây! Nhà ngươi sẽ bị tội về việc này đó!

Triệu Cao không nghe thấy lời nói của tôi, lăo luồn một sợi dây gai vào mép tôi và quăng tôi vào một cái thùng có phủ bèo.

Tôi nằm đó chờ đợi. Một lát sau h́nh như để đáp lại lời cầu khẩn của tôi, Chương từ phủ đường của ta tới. Tôi nghe thấy câu chuyện trong đó Triệu Cao từ chối không bán cho Chương con cá lớn. Vậy mà y cũng nh́n thấy tôi, lôi tôi ra khỏi cái thùng, tôi bị xách ṭn ten bởi sợi dây thật là nguy hiểm.

- Chương, sao mi dám như vậy. Ta là chủ của mi đây. Ta là trưởng sở Thái đây, ta chỉ nhất thời đội lốt cá thôi. Lại đây bái yết ta đi!

Nhưng Chương không nghe lời tôi, hoặc là có nghe thấy mà cố lờ đi. Tôi gào to thất thanh lên, vùng vẫy lăn lộn măi nhưng tất cả đều vô hiệu quả.

Khi tôi vào cổng tôi thấy các viên chức đang đánh cờ gần cửa lớn, tôi kêu lớn lên gọi họ, nói cho họ biết tôi là ai. Tôi lại bị lờ đi. Một viên chức trong bọn họ reo lên:

- A ha! Đẹp đẽ biết bao! Nó phải cân tới ba cân rưỡi.

Các bạn hăy tưởng tượng xem tôi uất ức như thế nào!
Trong sảnh đường tôi nh́n thấy các bác, như tôi đă kể lại một khắc trước đây. Chương tŕnh với các bác về việc Triệu Cao giấu cá lớn, toan bán nguyên cá nhỏ thế nào, rồi Bạch cáu quá đá một cái thật mạnh vào lăo ta, các bác đều khoái trá v́ con cá lớn.

- Đem nó vào cho thằng bếp. Bảo nó làm một dĩa gỏi cá chép thật ngon, cho hành, cho nấm, và trộn chút rượu nhé!

Tôi tưởng như là Bạch nói câu đó. Tôi bảo với tất cả các bác:

- Các bạn đồng liêu ơi đợi một chút đă. Nghe lời tôi đây. Thật là cả một sự lầm lẫn. Tôi là Thái đây. Các bác phải biết tôi chứ. Các bác không thể giết tôi được. Sao các bác lại tàn ác như vậy được?

Tôi cứ phản đối hoài căi hoài.

Tôi thấy căi cũng vô ích v́ các bác đều điếc cả. Tôi nh́n các bác với cặp mắt van lơn cầu khẩn, miệng tôi há ra cầu xin tha thiết:

- Hành, nấm và một chút rượu trộn! Sao cái lũ quỷ quái vô lương tâm này nỡ đối xử với bạn của họ như vậy!

Tôi tự nghĩ thế nhưng tôi không thể làm ǵ được cả.

Rồi Chương xách tôi vào bếp. Thằng đầu bếp trợn to mắt ra mà nh́n tôi. Mặt nó tươi lên khi nó mài con dao và đặt tôi lên cái thớt.

- Hoàng Triết Lương! Mi là tên bếp của ta! Chớ có giết ta! Ta xin mi đó!

Hoàng Triết Lương nắm chặt lấy ḿnh tôi. Tôi thấy ánh dao sáng loáng sắp bổ xuống đầu tôi. Phập, lưỡi dao đă hạ xuống và vừa lúc đó tôi tỉnh dậy.

Nghe chuyện đó bạn bè của Thái rất xúc động và càng kinh dị hơn, v́ những điều mà chàng nói với họ đều đúng sự thật từng chi tiết một. Có người nói rằng họ nh́n thấy miệng con cá động đậy, nhưng không ai nghe thấy một lời nào cả.

Từ đó trở đi Thái hoàn toàn b́nh phục, và bạn bè của chàng măi cho tới già, không dám ăn thịt cá chép nữa




    Lâm Ngữ Đường      &nb sp;         &nb sp;









Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 395 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 3:57am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



THUẬT TÀNG H̀NH


Loài người luôn luôn phải tranh đấu chống chọi với thiên nhiên, muôn thú và ngay cả với đồng loại. Và muốn sống c̣n th́ phải chiến thắng. Muốn chiến thắng th́ ngoài sức mạnh của thể lực c̣n phải cần rất nhiều phương tiện, kỹ thuật.

Ngoài những binh pháp thường được áp dụng như "tiên hạ thủ vi cường"...một phương thức được nhiều chiến lược gia, binh pháp gia... luôn t́m kiếm và nếu có được, chắc chắn sẽ nắm được chiến thắng đó là binh pháp làm thế nào mà "ta biết địch mà địch không biết ta!" Nh́n lại trong quá khứ quân sử trên thế giới, bất cứ cuộc chiến nào nếu để phe bị địch biết đều mọi điều cơ mật, chiến thuật, chiến lược... th́ chắc chắn sẽ bị thất bại.

Muốn cho kẻ địch không biết th́ phương thức chính yếu nhất là "hoá phép biến thành tàng h́nh." Và thế giới điện thường là nơi để thực hiện những ước mơ suy nghĩ đầu tiên của nhiều người.

Ngay từ thuở phôi thai của ngành điện ảnh với trắng đen, không có âm thanh người ta đă thực hiện nhiều phim tàng h́nh, như phim "người ruồi gieo máu lửa" phim diễn tả một nhà bác học nghiên cứu để chế máy tàng h́nh.

H́nh ảnh cho thấy khi một người đi vào chiếc máy này th́ người này được phân hoá thành những phân tử nào đó và biến mất đi... để làm nhiều việc... sau đó nhà bác học cho gọi người tàng h́nh trở vào máy tái cấu trúc làm nối liền các phân tử.

Tuy nhiên trong lần thực nghiệm cuối cùng th́ một trục trặc kỹ thuật không may xảy ra, đó là trong khi phân hóa con người này thành vi phân tử, th́ cùng lúc đó có một con ruồi đột nhiên bay vào, nên người và ruồi đều bị phân hóa thành vi phân tử cùng lúc..

Và khi tái cấu trúc trở lại th́ người tàng h́nh không trở lại nguyên thể, mà trở thành người có nhiều cơ phận của ruồi và đă trở thành người ruồi gieo máu lửa... với nhiều nguyên nhân và triết lư riêng.

Trí tưởng tưởng có lúc hướng dẫn kỹ thuật phát triển, thường là gợi ư khuyến khích. Hiện nay tại nhiều quốc gia trên thế giới, ngân khoản nghiên cứu cho các chương tŕnh quân sự là thường là ngân khoản lớn nhất, nên phần lớn các phát minh hiện nay là từ các trung tâm nghiên cứu quân sự, sau một thời gian nghiên cứu được giải mật và cho dân sự ứng dụng như: phương pháp định vị GPS, đầu tiên được dùng cho phóng pháo cơ chiến lược để phóng hỏa tiễn; trên các tiềm thủy đỉnh để xác định vị trí...

Ngày nay được áp dụng rộng răi trong các lĩnh vực dân sự, hướng dẫn chỉ đường cho người lái phi cơ, thương thuyền hay người lái xe hơi... Cho đến nay trong lănh vực quân sự, các vũ khí tàng h́nh được biết đến là: máy bay tàng h́nh, tàu nổi trên biển tàng h́nh, tàu ngầm tàng h́nh... Ngoài ra thuộc về bí mật quốc pḥng, lính tàng h́nh có hay không th́ chưa ai biết được?

Phương thức "tàng h́nh" được nhiều khoa học gia chú ư đến là phương thức mà Romulans xử dụng trong "Star Trek" ở chương "Balance Of Terror" vào năm 1966, để cho kẻ thù không gian không thấy được phi thuyền bằng cách sơn lên phi thuyền một chất hóa học đặc biệt làm người hành tinh khác không thể thấy được.

Máy bay tàng h́nh, dùng phương pháp hủy diệt làn sóng phản hồi của radar. Như chúng ta đă biết, để phát hiện các đối vật từ xa, chuẩn bị phương thức đối phó, người ta dùng radar đối không canh chừng bầu trời; radar đối hải để pḥng thủ các bờ biển, sonar để ngăn ngừa tàu ngầm xâm nhập...

Phương thức trên dùng một làn sóng điện phát đi vào khoảng không phía canh chừng, nếu gặp đối vật ngăn cản th́ sóng phát bị di ngược trở lại; h́nh dạng đối vật hiện trên màn ảnh và từ đó người ta t́m phương đối phó, sonar dùng sóng âm thanh để ḍ t́m đối vật.

Trên một trang báo của nhật báo Nature, Andrea Lu và giáo sư Nader Engheta, thuộc viện đại học ở Pensyvania cho biết; giấc mơ tàng h́nh của loài người có thể sớm trở thành sự thật. Nếu chun vào chiếc áo đặc biệt th́ người khác sẽ không thấy, được xem như là tàng h́nh.

Theo Andrea Lu và giáo sư Engheta, là nếu một vật thể được sơn phủ lên đó một lớp "plasmon," vật thể này gần như "trong suốt đối với người nh́n nó." Vật thể được sơn phủ biến thể chừng như "ẩn ḿnh vào một lớp sương mù mây nào đó khiến người khác không thể nh́n thấy được từ mọi góc cạnh."

Điều này có thể được giải thích rằng, b́nh thường một vật thể được loài người nh́n thấy được là do ánh sáng đến vật thể đó và phản xạ trở vào mắt hiện lên điểm ảnh để cảm nhận h́nh ảnh đó. Nếu ngăn chận được sự phản xạ ánh sáng này hay hấp thụ ánh sáng tới th́, vật thể đó có thể được xem như vô h́nh dưới cái nh́n của con người.

Lớp plasmon biến tia sáng tới, khi chạm vào lớp sơn th́ chúng trở thành sóng electron đậm và sau đó tan biến đi.

Trên lư thuyết vật thể nếu không được nh́n thấy th́ dược xem như là "vô h́nh." Thực tế lớp plasmon làm tan biến một số ánh sáng từ không gian hay nhân tạo ngay cả với ánh sáng đỏ, tuy nhiên ánh sáng từ không gian chiếu vào thật là thiên ngàn vạn loại nên vẫn bị nh́n thấy dưới một số loại ánh sáng.

Khám phá nói trên thật sự chưa toàn hảo với một số loại ánh sáng hiếm thấy. Ngoài ra việc biến vật thành "tàng h́nh" chỉ với vật thể nhỏ trong pḥng thí nghiệm, chưa thực nghiệm với con người hay vật thể với kích thước lớn như phi cơ hay phi thuyền.

Tuy nhiên trên trang báo này cho biết thêm rằng, đây là một thành công vô cùng đáng chú ư. Với kỹ thuật này hy vọng không bao lâu nữa sẽ thành công trong việc hủy diệt nhiều loại sóng cảm nhận sensor; hay ánh sáng dài và nhiều loại ánh sáng khác để có thể thí nghiệm trên vật thể lớn hơn từ phi cơ đến phi thuyền...

Biến vật thành "tàng h́nh," không phải đây là phát minh, khám phá đầu tiên mà là một trong những tiến tŕnh nghiên cứu để khám phá của con người. Đây là khám phá được đặc biệt chú ư hơn so với các khám phá trước đây như "áo tàng h́nh" do một công ty Nhật Bản chế tạo cách đây không lâu, hay phương thức xóa bỏ ảnh ảo, khiến cho người ta không thấy được ảnh thật của một khoa học gia ở Hoa kỳ.

Tiếp tục phát minh mới này nhiều người tin rằng, không bao lâu nữa th́ người ta có thể làm cho người khác không thể thấy được, điều mà ḿnh không muốn hoặc không thích, để cho một đối tượng nào đó thấy những vật thể ḿnh muốn dấu đi!



                                                              Nam Du









Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 396 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 3:58am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



ĐÔNG Y SĨ NGUYỄN QUỐC CƯỜNG KỂ CHUYỆN MA


VW: Thưa Bác sĩ Nguyễn Đức Cường, là một nhà khoa học anh tin có ma không?

NĐC: Có chứ.

VW: Theo khoa học có một cách lư giải khác về… ma, anh nghĩ sao?

NĐC: Cách lư giải của khoa học cũng đi đến kết luận là có một thế giới khác. Khoa học cũng chẳng chứng minh được sự lư giải đó. Một điều rơ ràng là trong đời tôi, gặp ma một lần rồi, tôi chứng kiến mà cũng bị ma phá. Nhưng tôi không sợ. Bởi v́ tôi suy nghĩ là mai mốt ḿnh chết ḿnh cũng thành ma.

VW: Thế nào là một thế giới khác gọi là… ma?

NĐC: Thế giới đó và họ sẽ là bạn ḿnh, có ǵ phải sợ họ. Thường thường ḿnh sợ cái ǵ không thấy, nhưng khi nghĩ ra là ḿnh sẽ thành cái đó có ǵ đâu phải sợ. Nhưng nếu họ phá ḿnh xin họ đừng phá.

VW: Xin anh bắt đầu câu chuyện của ḿnh?

NĐC: Hồi đó tôi đóng quân ở đồn Phước Ḥa ở tiểu khu B́nh Dương, năm 1973-74 ǵ đó. Đồn này ngày xưa là của Pháp. Bọn Pháp ngày xưa chuyên hà hiếp dân lành giết người vô tội. Tương truyền vùng đó hồn ma oan cũng nhiều. Theo người trong vùng kể lại có những cô gái bị bắt vào đồn và bị giết. Sau đó các hồn ma bóng quế hiện lên.

Tôi nghe thôi thật sự chưa thấy bao giờ. Tôi là sĩ quan phải đi tuần c̣n lính chỉ gác theo giờ. Thí dụ lính gác từ một giờ tới ba giờ, từ ba giờ tới năm giờ. Một hôm tôi đi tuần về pḥng ngủ là ba giờ sáng. Hôm đó trong pḥng có ba sĩ quan ngủ. Tôi, một ông Đại úy với một ông Thiếu úy. Ba giường khác nhau.

Tự nhiên giường của tôi khi vô nằm nó rung dữ dội lắm. Giường bằng gỗ của ván thùng đạn đóng không chắc lắm, kiểu như cái sạp, giống như ḿnh vác thùng đạn ra ḿnh đập rồi ḿnh đóng lại thành giường, trải pông sô lên, rồi trải mền lên nằm cho êm vậy thôi.

Nếu dùng tay lắc, nó vẫn lắc, nhưng thật sự nó không thể nào lắc mạnh được tại nó cũng cứng. Khi tôi lên nằm, nó rung… rung ở biên độ khoảng một tấc, tức là nó đi tới đi lui khoảng một tấc! Mông ḿnh chạy tới chạy lui…

VW: Wow, coi chừng có người lắc th́ sao?

NĐC: Đúng. Ngay lúc đó tôi không nghĩ là ma. Tôi quay lại thấy ông Đại úy ngủ, ngáy. C̣n bạn Thiếu úy có thể chọc ḿnh. Tôi nói: “Ê Đào ngày mai tôi phải tỉnh, phái đoàn thanh tra tới đó, để tôi ngủ chớ, bây giờ là ba giờ rồi…”

Khi nói thế mà cái giường vẫn rung. Đến lúc đó tôi ngồi dậy, định lấy tay tính đánh qua chân nó, tôi thấy giường nó cách giường tôi hai tấc. Chân nó vẫn nằm trong mùng, làm sao nó đạp ḿnh được? Và cái giường… vẫn rung!

VW: Rồi sao?

NĐC: Lúc đó tôi lại nghĩ là đặc công VC, đôi khi họ xâm nhập vô được đồn núp trong pḥng, canh giết ḿnh. Phản ứng đầu tiên là chụp cây súng ở dưới gối, chỉa súng vô trong gầm giường liền. Tôi không thấy ǵ hết, lấy đèn pin rọi lúc đó tôi mới nói một câu:

“Thôi nhe, hồn ma nào mà đi ngang đây, muốn ǵ nói cho tôi biết, tôi cúng. Không nên làm như thế, tụi tôi cũng là những người lính thôi…”

VW: Sau khi anh nói, giường có rung nữa không?

NĐC: Lạ lùng, tôi vừa vái khấn xong, giường lập tức yên lặng hết rung. Sau đó ngủ êm tới sáng.

VW: Ghê quá. Ngoài chuyện rung giường ra có ai trong đồn bị nhát nữa không?

NĐC: Trước đó một ngày tức là đêm hôm trước, một người lính ngủ ở hành lang bên ngoài pḥng, tên là Hai kể lại… Người lính đó đang ngủ, nghe một người kêu Hai rất là lớn.

Ông ta tưởng là ông Đại úy ở trong pḥng của tôi gọi, ổng quay ra bị tát cái “bốp”. Cái tát rất là mạnh, sáng hôm sau c̣n thấy năm vết hằn đỏ ở trên má. Ổng nói là hôm qua bị ma nó đập.

VW: Anh có thấy dấu tay hay kể lại?

NĐC: Có dấu tay luôn mà. Nhưng tôi cũng hỏi đùa:

- Thấy dấu tay nhưng nhiều khi Linh bạn mầy nó đánh mầy làm sao?

Ỗng bảo:

- Không cái mùng em đâu có bị tung ra đâu, nếu mà tát em một cái th́ cái mùng phải tung ra, nếu mà người nào đánh cái mùng phải tung ra, em vẫn nằm trong mùng, cái mùng vẫn dắt đàng hoàng.

Đêm hôm sau nữa đó, ông Thiếu úy Huế ở pḥng bên cạnh đang ngủ vừa mới thức ngủ, nghe kêu Huế rất lớn. Ỗng giựt ḿnh ngồi dậy, ở cách cửa pḥng ổng, có một trạm gác, người lính đang ngồi ở đó, ổng mới tới hỏi, hồi nảy tới giờ thấy ai kêu không. Người lính đó nói là không.

VW: Đó là giọng nữ hay nam?

NĐC: Giọng một người đàn ông.

VW: Ngày hôm sau nữa giường của anh bị rung. Ba đêm liên tục hiện tượng ma xảy ra. Về phương diện khoa học anh có nghĩ rằng tại sao ma xảy ra cho người này mà không xảy ra cho người khác?

NĐC: Có thể gọi tạm là sự thích hợp hoặc đôi khi người đó có duyên ǵ đó. Có những người không bao giờ thấy, có những người thấy thường xuyên. Không phải là do sợ hay không sợ mà thấy đâu.

VW: Qua Mỹ anh có gặp ma không?

NĐC: Tôi có nghe một người bạn kể chuyện. Hai vợ chồng anh là Phật tử thuần thành, tối nào cũng tụng Kinh. Họ ở San José. Anh thuê căn nhà. Phone reng, anh nhấc phone lên nghe một tràng cười quái đản, tưởng bị phá cúp phone.

Ngày hôm sau lại cũng nghe tiếng phone, vợ anh nhấc lên lại cũng nghe một tràng cười quái đản giống như là ma quái, lại cúp phone. Sau cùng đêm hôm đó, phone reng mấy lần, họ rút power đi mà nó vẫn reng. Đó là một hiện tượng.

Buổi sáng đó tôi đi chợ về, anh bạn đi làm tôi khóa cửa lại, tôi xách cái giỏ tự nhiên đi vô cái giỏ bị níu lại, tôi nghĩ là quai giỏ vướng vào nắm cửa, tôi quay lại thấy giỏ đâu có vướng vào nắm cửa, vẫn bị níu lại, một lát sau mới để cho tôi đi được, cái giỏ bị đứng ở chỗ đó không có vướng vào cái ǵ cả, cái giỏ vẫn đeo ở tay, mà vẫn không đi được, đi như có cái ǵ níu lại cái giỏ.

VW: Anh nghĩ sao con đường Euclid, anh có nghĩ vùng đất có bị ma không?

NĐC: H́nh như là có, tôi chưa trực tiếp chứng kiến, nhưng mà nghe nhiều người nói, tôi nghĩ phải có người ta mới nói, chớ ai tưởng tượng chuyện đó làm ǵ.

VW: Đi ngang qua con đường đó, anh thấy có rờn rợn không?

NĐC: Tôi không có cảm giác đó, nhưng mà nếu ḿnh có rờn rợn tại v́ ḿnh nghĩ đến những câu chuyện người ta nói thôi, nghe cả mười năm nay rồi.

VW: Nếu cho anh ngủ một đêm ở căn nhà đó, anh dám ngủ không?

NĐC: Không (cười). Khi thách thức người sống và người chết cũng vậy, đều có thể gây một điều không tốt cho ḿnh, không nên, vậy thôi. Chớ không phải v́ sợ.



               
    Lê La









Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 397 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 4:00am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



SỰ KIỆN TƯỢNG ĐỨC MẸ THUỘC GIÁO XỨ BẠCH LÂM


Hạt Gia Kiệm. Giáo Phận Xuân Lộc.

Kể từ ngày thứ tư 9-7-2008


Tượng đài Đức Mẹ ngay bên hông nhà thờ Bạch Lâm, hằng ngày và đặc biệt là hằng đêm, đă tỏ hiện nhiều dấu lạ bất thường, kéo dài nhiều tuần lễ và đă có hàng chục ngàn người đứng chật như nêm tại khuôn viên nhà thờ được chứng kiến.

Trong khi chờ đợi ư kiến của giáo hội địa phương. Chúng con đă cố gắng thu thập những tin tức khả tín và xin được chia sẻ một số trong rất nhiều thông tin chi tiết có liên quan. Mục đích để tránh việc kẻ xấu phao thêm những tin tức không đúng, và cũng để tránh những điều bất cập hoặc thái quá trong dư luận thiếu khách quan từ nhiều hướng.

Chi tiết khởi sự được ghi nhận là do một số các trẻ em đi dự giờ kinh chiều, đă nh́n thấy Đức Mẹ vẫy gọi các em đến gần, sau đó Đức Mẹ đă trang nghiêm quay mặt hướng về nhà thờ, mà cụ thể là phía Nhà Tạm của nhà thờ.

Đia điểm đài Đức Mẹ ở phía đầu và song song với nhà thờ, dấu lạ này được ghi nhận là kéo dài khoảng mười lăm giây. Những ngày sau đó cũng có nhiều người nh́n thấy Đức Mẹ quay mặt về phía nhà thờ.

Từ đó đến nay liên tiếp mỗi đêm có hàng chục ngàn giáo dân xa gần đă tề tựu về đài Đức Mẹ để cầu nguyện và phần đông đều đă được nh́n xem tận mắt những dấu lạ như:

Cỗ tràng hạt trên tay Đức Mẹ đă phát sáng liên tục   trong suốt thời gian qua cả ngày lẫn đêm. Người ta nh́n thấy những hạt màu đỏ, xanh, vàng, trắng chói ḷa chiếu sáng lấp lánh, từ các hạt của chuỗi và cả Thánh giá, hiện tượng giống hệt có nguồn sáng phát ra từ bên trong.

Rất tiếc vào lúc sáu giờ sáng ngày 21-7-2008. Giáo quyền địa phương đă thu giữ chuỗi tràng hạt này. Tuy nhiên điều đáng chú ư là sau đó, giáo dân đă tự ư làm một chuỗi hoa tươi để trang điểm cho mẹ, thay cho chuỗi hạt đă bị lấy đi, và lạ lùng thay chuỗi hoa tươi này vẫn tiếp tục phát sáng.

Hiện tượng phát sáng c̣n xẩy ra tại vị trí Trái Tim Đức Mẹ, nhiều người c̣n hạnh phúc được nh́n thấy h́nh ảnh hai thiên thần chầu bên cạnh Trái Tim Đức Mẹ.

Khuôn mặt Đức Mẹ có những lúc biến đổi, người ta đă nhận ra chính khuôn mặt Đức Mẹ cũng được phát sáng một cách kỳ diệu, chẳng những là thay đổi màu sắc khuôn mặt, khăn trùm đầu, mà c̣n là toàn diện khuôn mặt sáng rực.

Thay đổi hoàn toàn so với tượng nguyên thủy rất xấu v́ tượng được làm đơn giản, và đă trên mười lăm năm phơi nắng phơi mưa bị sói ṃn. Biến đổi về sắc diện cũng như về nét mặt của tượng Đức Mẹ, trở nên giống như người thật hoặc trông như bức tượng khác vậy.

Thời gian xảy ra thường vào ban đêm, có khi một giờ đêm, hai giờ đêm, có khi là ba giờ sáng đôi khi cả ban ngày. Khuôn mặt của mẹ trở nên sống động và vô cùng xinh đẹp khó tả.

Có khi chớp mắt, có khi mở mắt rất to thấy rơ cả con ngươi long lanh như mắt người thật vậy, tượng nguyên thủy có mắt u sầu và chỉ có nửa con ngươi, có khi khóc nước mắt chảy xuống tới cổ, và nước mắt cũng sáng lóng lánh.

Ấn tượng và cảm động nhất có lẽ là trong đêm thứ tư ngày 23-7-2008. Đức Mẹ đă khóc chảy máu mắt. Có hàng ngàn người nh́n thấy giọt nước mắt rơi xuống và nhiều lần đồng thanh la lớn trong một khuôn viên khá rộng của nhà thờ Bạch Lâm giữa đêm khuya.

Khi xảy ra các dấu lạ, những ai may mắn hiện diện tại đây đều có thể nh́n thấy được tỏ tường. Nhiều người đă chụp h́nh và quay video.



ST










H́nh lúc biến đổi (chụp lúc ban đêm)



                                                                           Sư ;u Tầm















Quay trở về đầu    




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 398 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 4:03am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HÀNG NGÀN NGƯỜI SANG CAMPUCHIA XEM RỒNG NỔI


Mấy ngày qua tại biên giới Tây Nam nhiều người dân đồn thổi ở bên Campuchia có hiện tượng “rồng nổi” hết sức kỳ lạ. Hàng ngàn người đă ùn ùn kéo sang nước bạn để tận mắt chứng kiến sự việc được xem là có một không hai.

Qua biên giới, chúng tôi tiến về vùng núi Thâm Đưng và có mặt tại nhà ông Chau Nhum 56 tuổi ở phum Cà Na, xă Thâm Đưng, huyện Ki Ri Vông, tỉnh Tà Keo (Vương quốc Campuchia). Trong nhà của ông Nhum lúc này đă thấy nhiều người đứng xung quanh một khoanh đất có sống lươn chạy dài chừng 6,5 m được chia thành nhiều ngấn, bề mặt nổi lên, độn xuống trông giống h́nh một con rồng uốn lượn.

Theo quan sát, người dân địa phương do sống tại vùng sâu vùng xa, kiến thức c̣n hạn chế hoặc chưa có đủ thông tin nên dẫn đến việc đổ xô đi xem, hương nhang cúng bái những ngày qua.

Bà Nô Met vợ ông Chau Nhum, kể lại:

- “Khoảng gần mười hai giờ đêm ngày 12-8, tôi nằm mộng thấy một con Rồng chui vào nhà ḿnh. Tôi ra bắt nó rồi tôi la lên để kêu chồng cùng ra bắt tiếp”.

Ông Chau Nhum tiếp lời vợ:

- “Tôi nghe tiếng la nên thức giấc th́ bỗng dưng thấy toàn bộ căn nhà rung lên dữ dội rồi tự dưng xuất hiện nhiều g̣ cao, thấp ở trước cửa cho đến tận phía trong nhà. Lúc đó gia đ́nh tôi đâu biết chuyện ǵ nên rất sợ và phải chạy qua nhà hàng xóm ngủ”.

Cho đến sáng sớm hôm sau ngày 13-8, gia đ́nh tôi trở lại nhà th́ thấy những h́nh dáng hết sức kỳ quái trông giống như những vẩy cuộn của con rồng.

Bà Nô Met th́ cho rằng cũng trong đêm đó bà nằm mộng có người nói phải cúng vái, khấn nguyện nếu không trong ṿng bảy ngày th́ ông nhà sẽ bị rồng bắt.

Sau khi bà Nô Met nói th́ cả gia đ́nh hoảng lên, liền phá vách buồng, giăng rào chung quanh khu vực “rồng nổi”, dựng lên nhiều bàn thờ khấn nguyện trước cửa căn nhà của gia đ́nh ông.

Ngay hôm 13-8, th́ tin đồn có hiện tượng “rồng nổi” đă lan ra cả vùng núi Thâm Đưng và c̣n lan cả những vùng biên, trong đó có vùng biên giới Tây Nam Việt Nam. Nhiều người dân hiếu kỳ ở huyện Tịnh Biên và các huyện lân cận bắt đầu ùn ùn kéo sang nước bạn để xem hiện tượng này.

Chúng tôi có mặt tại cửa khẩu Tịnh Biên hôm 16-17 tháng tám, chứng kiến có rất nhiều người sang bên nước bạn. Dù lúc này chốt cửa khẩu đă đóng chặt cửa nhưng vẫn có nhiều người sang được bên kia biên giới tiến về vùng núi Thâm Đưng xem “rồng”.

Gặp một số người Việt Nam qua xem, chúng tôi hỏi th́ hầu hết đều nói là nghe tin th́ đi liền xem cho tận mắt việc kỳ lạ trên.

Một người dân ở xă An Nông, huyện Tịnh Biên cho biết là đă bỏ hết công việc để đi xem v́ tin này hấp dẫn và kỳ bí. Nhiều người khác th́ cho biết là từ trước tới giờ chưa thấy rồng nên quyết đi xem thử.

Theo ghi nhận của chúng tôi, không chỉ có nhà của ông Chau Nhum là có sự xuất hiện hiện tượng này. Trên địa bàn xă Thâm Đưng có đến ba nơi khác là: Cà Na, Ta Tưng và Tuôl Omrua có xuất hiện việc đồn lên hiện tượng “rồng nổi ”.

Mỗi nơi nổi lệch nhau một ngày, chỉ cách nhau vài trăm mét. Sự việc kỳ lạ này kéo theo nhiều dịch vụ khác ăn theo như nhang đèn, nước uống, chụp ảnh…với giá cũng rất trời ơi và c̣n có cả thùng đựng tiền cúng tế đặt cạnh đó.

Trao đổi với chúng tôi về vụ việc này, ông Ngô Hồng Yến Phó chủ tịch huyện Tịnh Biên, cho biết thời gian qua có nghe nhiều người nói đến vấn đề này, tuy nhiên việc xảy ra ở nước bạn nên rất khó cho chính quyền địa phương kiểm tra thực hư sự việc. Nhưng chúng tôi sẽ cử người xác minh làm rơ, sau đó sẽ tuyên truyền để bà con được rơ.



                                                                             Theo DT





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 399 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 4:05am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



BÍ MẬT CỦA MỘT CÂU KINH PHẬT


Vừa rồi, chúng tôi, những người bạn chí thân từ thời c̣n đi học ở Việt Nam trước bảy mươi lăm, rủ nhau qua Canada thăm mấy ông bạn khác. Chúng tôi đến thành phố Montreal vào mùa hè nên không lạnh lắm.

Ở Mỹ hay Canada, nhà cửa, cách sinh hoạt không khác nhau mấy. Và việc đi thăm bạn bè th́ cũng chẳng có ǵ đáng kể ra đây nếu không có một câu chuyện, mà nếu bạn nghe được, chắc cũng sẽ ngạc nhiên, đặt nhiều câu hỏi.

Chuyện hơi dài ḍng, xin bạn kiên nhẫn.

Chúng tôi gồm ba cặp vợ chồng, được gia đ́nh người bạn tiếp đón rất thân t́nh. Ông ta c̣n gọi các bạn khác ở gần đó, kéo đến, nên buổi họp mặt thật đông vui.

Khi bữa cơm gia đ́nh đă măn, các bà lo dọn dẹp chén bát để pha trà và các ông đang chuyện tṛ sôi nổi, th́ ông bạn chủ nhà đổi đề tài: "Có một chuyện thực, xảy ra ở Việt Nam, khoảng năm 1982.

Một chuyện kỳ lạ mà bà chị tôi vừa là người trong cuộc vừa là nhân chứng. Lúc c̣n ở Việt Nam, chị tôi dấu kín v́ sợ đến tai công an th́ sẽ bị tra hỏi, có thể bị tù cũng nên. Nay chị tôi đến xứ tự do, sẽ kể thoải mái. Trong câu chuyện, có ǵ thắc mắc, xin cứ hỏi chị tôi".

Người chị của chủ nhà, đang ngồi với các bà, được yêu cầu kể chuyện. Chị ta xin phép vài phút để lên lầu, lát sau đi xuống, tay cầm một phong b́ đặt trước mặt và bắt đầu kể. Mọi người yên lặng, lắng nghe.

- Gia đ́nh tôi, sau bảy lăm, chỉ c̣n đàn bà v́ đàn ông đều vô tù cải tạo hết cả. Khoảng năm tám mươi, chúng tôi được móc nối để vượt biên nhưng vẫn phải chờ ít nhất một người đàn ông đi tù cải tạo về mới quyết định được.

Năm đó, cậu em tôi được thả về, chúng tôi báo cho người tổ chức, họ bảo, có một chuyến, phải đi ngay.

Từ Sài G̣n chúng tôi đón xe về Cà Mau dự đám cưới. Đám cưới thật nhưng ăn cưới chỉ là cái cớ. Dân địa phương thấy người lạ từ Sài G̣n về ăn cưới th́ biết ngay, nhưng ŕnh bắt là công việc của công an.

Thế nên, ai cũng chờ đợi màn thứ hai là khuya nay, công an sẽ phục ở băi đáp để tóm gọn quí vị quan khách nầy.

Tṛ nầy xảy ra thường xuyên, nhưng họ không biết rằng vụ vượt biên nầy lại do chính công an địa phương đứng ra tổ chức, nên tối đó quí vị công an với các viên chức xă ấp có nhiệm vụ phải nốc rượu cho thật say, để sáng ra, ai cũng không biết ǵ cả!

Khuya đó, chúng tôi bị gọi dậy, cấp tốc lên đường. Từ nhà ra biển chỉ vài cây số. Trời quá tối. Chúng tôi âm thầm theo người trước mặt, đi ṿng vèo trên các con đường đất. Trong bóng đêm tối đen, thỉnh thoảng, bên đường lại có một toán chui ra nhập bọn, tôi đoán, cả đoàn chúng tôi, ít ra cũng hơn trăm người.

Mặc dù đă được dặn trước là khi xuống thuyền phải tuyệt đối yên lặng và trật tự, không được chen lấn căi cọ, nhưng khi thấy mấy chiếc tắc xi (thuyền nhỏ đưa ra thuyền lớn), người ta ùa nhau lội xuống nước, tranh nhau leo lên thuyền. Cậu em tôi đi trước, tay bồng hai đứa con, vợ nó níu lưng đi sau, tôi níu áo cô ta để khỏi lạc nhau.

Chỗ băi đó toàn śnh, ngập đến đầu gối khiến ai nấy b́ bơm măi mà chưa đến thuyền. Cậu em tôi phải kéo hai người đàn bà chúng tôi phía sau nên càng vướng víu, chậm chạp. Mọi người như những bóng ma âm thầm, chen nhau leo lên thuyền.

Khi cậu em tôi bỏ được hai đứa nhỏ lên thuyền, đẩy được vợ nó lên, đến lượt tôi th́ bỗng có tiếng súng, tiếng la hét:

- Tất cả đứng yên! Đưa hai tay lên. Ai bỏ chạy sẽ bị bắn bỏ.

Tôi thấy ánh đèn pin loang loáng cách chỗ chúng tôi vài trăm thước. Chủ thuyền vội đẩy thuyền ra. Cậu em tôi chỉ kịp níu lấy be thuyền, người vẫn c̣n ở dưới nước. Tôi và khoảng vài chục người đành đứng nh́n mấy chiếc thuyền lẫn vào bóng tối, mờ dần ngoài biển khơi.

Lúc đó tiếng súng và tiếng hô hoán "Đứng yên! Bỏ chạy bắn bỏ" càng như gần hơn khiến mọi người vội chạy ngược về phía bờ. Như đă dặn trước:

- Khi bị bể, phải chạy tránh xa ánh đèn của công an, trốn cho kỹ, chờ vài hôm, yên tĩnh mới t́m cách ra lộ đón xe về.

Vậy là mạnh ai nấy chạy. Tôi bương đại lên bờ, chạy ngược hướng tiếng súng. Vừa chạy vừa run, miệng niệm: "Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát".

Cứ nhắm mắt, nhắm mũi chạy đại, vấp mô đất hay gốc cây té xuống th́ vùng dậy chạy tiếp. Lúc đầu h́nh như có người cùng chạy với tôi, quay lại th́ không thấy ai cả!

Tôi chạy độ nửa tiếng, thấy đă xa, vừa hoàn hồn th́ hai chân ră rời, nhấc không lên. Tôi ngồi đại xuống đất, thở dốc. Lúc đó khoảng một giờ sáng.

Tôi nh́n quanh. Một bên là biển đen ś, ŕ rào tiếng sóng, một bên là bờ rừng, với hàng cây là những khối đen, cao hơn đầu người, trông như những con ác thú đang chờ mồi.

Tôi đoán, có lẽ công an ŕnh bắt một vụ vượt biên khác, cách chúng tôi vài ba trăm mét, chủ thuyền tưởng bị bể, nên bỏ chạy, v́ thế mọi người mới chạy thoát.

Từ lúc lên xe ở Sài G̣n đến khi về Cà Mau, tôi hoàn toàn không biết ḿnh đang ở đâu? Bây giờ ngồi bơ vơ giữa đồng không mông quạnh, chung quanh tối mù, tôi tự hỏi ḿnh sẽ làm ǵ, hay phải ngồi như thế nầy cho đến sáng? Lúc năy, chạy, người toát mồ hôi, bây giờ, gió biển thổi vào, tôi lạnh run cầm cập.

Tôi thầm ước cho công an đến bắt ḿnh, có người cùng bị bắt với nhau cũng yên tâm, rồi sau đó muốn ra sao th́ ra! Cái xách nhỏ trên vai tôi vẫn c̣n. Tôi t́m chai nước lạnh, uống mấy ngụm.

Trong xách chỉ có vài chai nước lạnh, mấy viên thuốc say sóng, mấy hộp sữa đặc, cái khăn nhỏ, một mớ đô la và vàng cùng quyển kinh Phật. Không hiểu sao, trong lúc hoảng loạn mà tôi c̣n giữ được cái xách?

Đang ngồi rầu rĩ, bỗng nhiên, tôi thấy từ xa, có ánh đèn thấp thoáng, có lẽ là đèn dầu hôi, loại thường thấy ở thôn quê, cách tôi hơn một cây số. Tôi mừng rỡ, quên cả mệt, đứng lên, nhắm ánh đèn mà đi.

Tôi đi như chạy, té lên, té xuống, mà không thấy đau, cứ nhắm ánh đèn bương tới, v́ sợ người ta tắt đèn th́ không biết làm sao t́m đến.

Độ nửa giờ sau, tôi đến nơi. Đó là một nhà lá, cửa mở, một cây đèn băo (loại đèn để đi trong gió mà không sợ tắt), đặt trên một chiếc ghế nhỏ, để ngay trước cửa, nhờ vậy mà từ hướng bên trái ngôi nhà, tôi vẫn thấy được.

Khi đến trước cửa, tôi kêu lên:

- Có ai trong nhà không? Cho tôi vào với.

Có tiếng đàn ông nói lớn:

- Vào đi! Đừng sợ!

Khi bước vô cửa tôi mới nhận ra là có một người đàn ông đang ngồi hút thuốc lào, cạnh một cái bàn để giữa nhà. Người đàn ông đứng lên, ra đem cây đèn băo và chiếc ghế vào.

Nghe giọng lơ lớ, với cách dùng chữ, tôi đoán ông ta là người Bắc giả giọng Nam. Tôi bước vào nhà. Nhà không rộng lắm nhưng đặt ba nơi ba chiếc giường rộng, có trải chiếu tươm tất. Ông ta chỉ chiếc ghế:

- Ngồi đấy đi!

Tôi nói cám ơn, v́ áo quần dính śnh, không dám ngồi, sợ dơ ghế. Ông ta bảo, giọng b́nh thản như việc nầy đă từng xảy ra nhiều lần:

- Thế th́ đi tắm đi! Tôi có sẵn áo quần của bà xă tôi, thay tạm. Áo quần bẩn th́ giặt đi, phơi ra ngoài gió, sáng mai khô ngay, thay trả lại cho tôi, rồi tôi sẽ đưa ra bến xe, đón xe về Sài G̣n.

Nghe nói sáng mai đón xe về Sài G̣n, tôi mừng quưnh, không ngờ ḿnh may mắn gặp được cứu tinh. Tôi thấy có cảm t́nh với người đàn ông tử tế đó, định nói lời cám ơn, nhưng nh́n thấy hai con mắt của ông ta, tôi rùng ḿnh khiếp sợ.

Ông ta khoảng năm mươi tuổi, dáng người tầm thước, mặt sạm nắng, hai g̣ má cao, tóc ngắn, chân tay gân guốc... nghĩa là ông ta đúng là một nông dân, chỉ đôi mắt là khủng khiếp.

Tuy đèn dầu tù mù nhưng đôi mắt vẫn ánh lên những tia sáng lạnh lẽo, vừa uy quyền, tàn nhẫn vừa như giễu cợt. Tôi sợ quá, cảm tưởng như ḿnh là con chuột đă bị con mèo chộp được trong móng vuốt nhưng vẫn giữ đấy chờ con mồi chết khiếp mới từ từ thưởng thức.

Thấy tôi đứng bất động v́ sợ, ông ta cười, giọng dịu dàng nhưng vẫn uy quyền, như ra lệnh:

- Tôi không hại cô đâu. Cô đừng sợ. Tôi nghe tiếng súng nổ là biết ngay vượt biên bị bể nên thắp đèn lên để ai chạy thoát th́ đến đây tá túc, sáng mai tôi lấy thuyền đưa ra bến xe về nhà.

Tôi đă cứu hàng mấy trăm người rồi. Ai cũng về nhà an toàn. Đừng sợ. Để tôi lấy áo quần cho cô thay tạm. Hôm nay vợ tôi ra chợ thăm đứa con gái, sáng mai, tôi đưa đi, nhân tiện đón vợ tôi về. Đói bụng th́ có cơm nguội trong nồi với con cá khô trong bếp, lấy ra mà ăn.

Ông ta nói nhỏ nhẹ, từ tốn nhưng tôi vẫn sợ, răm rắp theo lệnh. Ông ta vào buồng đem ra một bộ đồ đàn bà màu đen, trao cho tôi rồi thắp một cây đèn cầy, chỉ lối đi ra sau chái nhà:

- Có cái pḥng tắm sau kia. Sẵn nước với khăn lau. Tắm xong, mặc tạm, c̣n bộ đồ bẩn th́ giặt đi, phơi lên, sáng mai khô, mặc vào, trả lại bộ đồ cho vợ tôi.

Tôi riu ríu cầm áo quần và cây đèn cầy ra nhà sau. Tôi tắm qua loa. C̣n nửa thùng nước, tôi đổ ra cái thau nhỏ sẵn đó, ṿ bộ đồ dính śnh rồi treo lên một sợi dây kẽm trong pḥng tắm. Khi tôi lên nhà trên th́ ông ta chỉ cái giường, có giăng sẵn mùng:

- Cô ngủ trên giường nầy. Tôi ngủ trong pḥng. Ngủ đi cho khỏe, đừng sợ mà thao thức. Mai đi sớm.

Tôi nói:

- Dạ. Cám ơn! Rồi chui vô mùng. Ông ta tắt đèn, đi vào buồng.

Tôi nằm trên giường, mắt mở thao láo, không dám ngủ. Có chiếc mền mỏng, tôi lấy quấn chặt quanh người rồi nằm lắng nghe, không biết chuyện ǵ sẽ xảy ra? Tôi chỉ mong được ông ta tịch thu hết số đô la và vàng tôi mang theo rồi tha cho tôi về nhà.

Tôi cứ lẩm nhẩm niệm Quán Thế Âm, cầu Phật Bà cứu khổ cứu nạn. Trong đêm tối, tất cả im lặng, chỉ có tiếng sóng biển ŕ rầm nghe như tiếng xe chạy rất xa.

Bấy giờ tôi mới thấy người ră rời, vừa mỏi vừa đau ê ẩm khắp nơi, nhất là những chỗ bị mô đất hay gốc cây đập mạnh vào khi tôi chạy bị ngă. Suy nghĩ miên man, tôi ch́m vào giấc ngủ lúc nào không hay.

Khi tôi tỉnh dậy th́ trời đă sáng. Vừa xếp mùng, mền xong th́ ông ta từ trong buồng bước ra.

- Ngủ có được không?

- Dạ. Đi mệt quá nên ngủ say một giấc đến sáng.

Tôi nói mà không dám nh́n ông ta, sợ thấy đôi mắt kinh khiếp đó.

- Cô thay đồ rồi chúng ta đi ngay. Tôi chở cô ra bến xe ngoài chợ, họ sẽ đưa cô lên bến xe tỉnh, đón xe về Sài G̣n. Cô viết vào miếng giấy trên bàn kia, tên họ địa chỉ của cô. Tôi cần biết về cô để sau nầy dễ xác nhận.

Tôi ra sau nhà, thay đồ, đem bộ đồ của vợ ông ta để trên giường, đến chỗ cái bàn, viết tên họ, địa chỉ vào miếng giấy. Ông ta chỉ cái xách nhỏ của tôi "Đừng quên cái xách tay".

Tôi thấy quyển kinh của tôi để ra ngoài nhưng không dám lấy bỏ vào xách, mà làm như không thấy, chỉ vơ vội cái xách, cầm đi theo ông ta.

Ra ngoài sân, tôi mới biết, trước nhà là một con sông rất rộng, có lẽ là cửa sông, c̣n biển th́ nằm bên trái căn nhà, cách một cây số.

Nhà ông ta nằm giữa một vùng hoàn toàn hoang vắng, chung quanh là śnh lầy với cây đước, vẹt, sú ǵ đó mọc mênh mông, chạy đến mút mắt.

Tôi không hiểu v́ sao vợ chồng ông ta lại đem nhau ra ở chỗ nầy? Không ruộng vườn, không thuyền bè đánh cá, không có người chung quanh, ngay đến con chim cũng không thấy bay qua.

Có chăng là mấy con cua c̣ng ǵ đó nằm trên mặt śnh dương mắt nh́n tôi. Con đường từ nhà ra bến sông được đắp cao, có lẽ là lối duy nhất đưa ông ta ra chiếc thuyền, đến với xă hội loài người.

Ông ta xuống thuyền, tôi bước theo. Nhờ mấy miếng bê tông làm thành tam cấp nên tôi xuống thuyền không khó khăn lắm. Chiếc thuyền nhỏ, dài khoảng sáu, bảy mét, rộng hơn hai mét, gắn máy đuôi tôm. Ông ta tháo dây cột thuyền, giật máy, đưa thuyền ra giữa gịng sông.

Chiếc thuyền chạy giữa hai bờ rừng vắng vẻ, hoang vu. Một lúc thật lâu th́ xa xa thấp thoáng mấy mái nhà sau hàng dừa nước, rồi vài chiếc thuyền xuất hiện, chạy ngược chiều.

Thuyền ghé vào một bến đ̣, có nhà cửa, quán ăn, một chợ thôn quê nhỏ và một bến xe lam (xe Lambretta, ba bánh dùng chở khách).

Ông ta cột chuyền, ra dấu cho tôi cùng lên bờ. Mọi người thấy ông ta th́ cúi đầu chào vẻ kính cẩn và sợ hăi. Ông ta không thèm nh́n ai, đi thẳng đến chiếc xe lam, nói ǵ đấy với người chủ xe. Người chủ xe khúm núm gật đầu, miệng dạ nhịp, rồi đến nói với tôi:

- Mời cô lên xe. Xe chạy ngay bây giờ.

Ông ân nhân không để ư đến lời cám ơn của tôi, cũng không nói với ai tiếng nào, xuống thuyền, giật máy, quay thuyền ra giữa gịng. Khi ngồi trong xe lam, tôi thấy mọi người đang ṭ ṃ nh́n tôi với vẻ sợ hăi rồi th́ thầm với nhau ǵ đấy.

Ông xe lam nổ máy, chở một ḿnh tôi, ṿng vèo trên đường đất trong xóm rồi đưa xe ra đường lớn, chạy vào thành phố. Ông ta chạy thẳng đến bến xe khách, ngừng cạnh một xe đầy khách, mời tôi xuống, đưa tôi đến ông tài xế, th́ thầm với ông ta.

Ông tài xế mời tôi lên ngồi ghế trước. Tôi lục trong xách nhỏ, thấy gói đô la và vàng c̣n nguyên, lấy ra một mớ tiền Việt đưa trả cho hai người, nhưng ai cũng khoát tay.

- Anh Năm dặn rơ là ảnh sẽ trả tiền xe cho cô, chúng tôi đâu dám nhận.

Chiều hôm đó, tôi về đến nhà. Khoảng một tháng sau, người tổ chức đến gặp tôi, báo tin là mọi người đến đảo an toàn, thân nhân sẽ gửi thư sau.

Ông ta hỏi tôi rất tỉ mỉ về vụ những người không kịp lên thuyền, tôi kể lại sự việc. Ông ta bảo những người kẹt lại đă bị công an bắt, chỉ thiếu hai gia đ́nh, gồm bốn người, không có tin tức.

Hai gia đ́nh nầy th́ tôi biết, họ là thương gia xuất nhập cảng trước bảy lăm, rất giàu. Trước khi đi, họ đă bán nhà, v́ tin chắc sẽ đi lọt, như vậy, họ ôm của cải theo (vàng và đô la), phải nhiều lắm.

Chuyến vượt biển lần đó khiến tôi sợ quá, không dám nghĩ đến, ai rủ đi cũng lắc đầu. Khoảng một năm sau, tôi nhận được một lá thư, tên người gửi lạ hoắc. Tôi hoàn toàn không biết ai đă gửi đến.

Chị ta cầm lá thư đưa lên. Mấy năm sau, chồng tôi đi tù về. Chúng tôi qua Mỹ theo diện HO. Vợ chồng tôi qua Canada ở chơi với gia đ́nh cậu em. Gần mười năm mà tôi vẫn c̣n giữ lá thư nầy. Để tôi đọc cho quí vị nghe:

"Gửi bà H. (là tên tôi). Bà c̣n nhớ, lần vượt biển ở Cà Mau, bị bể và bà được tôi cho trọ qua đêm, hôm sau đưa ra bến xe, về thành phố. Tôi biết bà thắc mắc. Tôi là ai? Tại sao lại ở nơi vắng vẻ? Tôi sinh sống bằng cách nào?

Tôi cho bà rơ. Tôi là công an, có nhiệm vụ ở đó để đón lơng những người vượt biên bị bể chạy thoát được. Công an chúng tôi làm nhà cách nhau một vài cây số, dọc bờ biển, nơi thường có bến băi vượt biên, có thuyền con đón ra thuyền lớn. Như vậy, khi công an đến bắt vượt biên, người nào chạy thoát cũng chỉ quanh quẩn đâu đấy, thấy đèn là t́m đến, thế là nộp mạng cho chúng tôi.

Tôi bảo rằng có vợ ở chung nhưng thật ra, vợ con tôi đều ở ngoài Bắc, tôi vào đây công tác đă được bốn năm, khi nào ổn định sẽ đưa gia đ́nh vào thành phố, v́ chẳng ai có thể ở nơi hoang vắng nầy.

Mỗi công an chúng tôi đă chuẩn bị sẵn các tiện nghi, nước nôi, lương thực, giường chiếu để đón những người vượt biên t́m đến nhờ cứu giúp.

Tôi cho ăn uống, ngủ lại, sáng hôm sau, cho họ xuống thuyền, nói là chở ra bến xe để họ về nhà, nhưng kỳ thực, thuyền đi được nửa đường là bị công an chận bắt. Tôi cũng bị bắt để không ai nghi ngờ.

Thông thường, nếu nhiều người t́m đến th́ tôi bảo họ, có ǵ đem theo nên kê rơ, nhất là tiền bạc, quí kim, để tránh chuyện lấy cắp của nhau.

Nếu chỉ một người th́ tôi chờ lúc người đó đi tắm sẽ lục xách tay, kiểm tra những ǵ đem theo. Tôi c̣n ŕnh nh́n lúc họ đi tắm, cởi đồ ra, sẽ thấy những ǵ họ lận theo người?

Tôi không bao giờ lấy của ai bất cứ ǵ, nên khi giải giao họ (đưa lên thuyền để bị công an chận bắt), công an chấp pháp lấy lời khai, sẽ thấy rằng tôi rất trong sạch.

Tôi từng được công an tỉnh và trung ương biểu dương nhiều lần về thành tích chận bắt người vượt biên cũng như tinh thần chí công vô tư, không tơ hào đến của cải, vật chất của người bị bắt.

Nhưng không ai biết rằng, hễ người nào đem nhiều đô la, vàng ngọc, hột xoàn là tôi thủ tiêu, chôn xác trong rừng. Tôi đào sẵn những cái hố, muốn giết ai, khuya đó, tôi lận súng trong người, bảo họ đi theo tôi để tôi chỉ đường mà đi ra đường chính đón xe về.

Vào rừng, tôi bắn chết, đạp xuống hố, hôm sau ra lấp đất lại. Không người nào thoát khỏi tay tôi, v́ chung quanh toàn śnh lầy, có bỏ chạy một quăng là ngập người dưới śnh, tôi chỉ rọi đèn pin, đi t́m và bắn họ rất dễ dàng.

Tôi có nói bao nhiêu người bị tôi thủ tiêu với bà cũng chỉ làm bà kinh hoàng chứ chẳng ích lợi ǵ. Tất cả của cải cướp được, tôi đưa cho vợ tôi đem về quê chôn giấu.

Hột xoàn, đô la, vàng ngọc, châu báu... Nghĩa là vợ chồng tôi rất giàu. Vợ tôi bảo, có thể bỏ vốn lập những công ty, mua máy móc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu hoặc mua nhà cửa ở Hà Nội hay thành phố cũng không hết của.

Dĩ nhiên gia đ́nh tôi ngoài Bắc vẫn sống đạm bạc như bao nhiêu người khác, để tránh bị nghi ngờ.

Tôi dự định sẽ làm thêm vài năm, kiếm một số tiền vàng nữa rồi xin ra khỏi ngành. Tính ra, tôi ở đó đă được bốn năm, cho đến cái đêm bà t́m đến nạp mạng cho tôi.

Như mọi khi, chờ lúc bà đi tắm tôi lén kiểm tra xách tay của bà. Tôi thấy trong xách có nhiều vàng và đô la. Như vậy, số phận của bà đă được tôi quyết định. Bà sẽ bị tôi thủ tiêu. Trong lúc lục xét xách tay tôi thấy có một quyển kinh, khổ lớn hơn những quyển kinh khác, mà những người vượt biên khác thường đem theo. Quyển kinh lớn đó khiến tôi ṭ ṃ.

Theo thông lệ, tất cả kinh Phật của những người vượt biên, tôi giữ lại, khi nào lên tỉnh, tôi tặng cho người bạn đang trụ tŕ một ngôi chùa lớn, gần chợ.

Anh ta là công an, đi tu là công tác, vẫn lănh lương công an. Tôi tặng các quyển kinh Phật cho chùa để ai đến lễ chùa mà "thỉnh" những kinh đó th́ biết ngay, người đó sẽ vượt biên và chúng tôi theo dơi.

V́ ṭ ṃ và v́ nghiệp vụ, tôi mở quyển kinh của bà ra, để sát ngọn đèn cho dễ đọc. Tôi đọc một cách t́nh cờ, một câu kinh nằm ngay giữa trang kinh.

Chỉ một câu thôi. Câu duy nhất đó khiến tôi lạnh toát người v́ kinh sợ. Tôi sợ đến choáng váng, muốn té xỉu, đến độ ngồi chết lặng một lúc thật lâu. Tối đó, tôi không ngủ được .

Hiện nay tôi đă ra khỏi ngành công an. Tôi đă đi tu ở một vùng núi miền Tây Nguyên, rất hẻo lánh, xa hẳn phố phường, làng xóm. Ngôi chùa nhỏ được cất bên góc núi. Rất xa, dưới chân núi, cách nơi tôi ở, thấp thoáng những nhà sàn của những người thuộc sắc tộc thiểu số.

Mỗi buổi sáng, tôi lạy Phật, tụng kinh, rồi lên đồi cuốc đất, trồng khoai sắn, rau quả. Buổi tối tôi lại tụng kinh và suy ngẫm lời Phật dạy. Tôi bảo với vợ tôi là tôi làm nhiệm vụ trên giao, không nên gặp nhau nhiều, thỉnh thoảng lên tiếp tế lương thực mà thôi.

Của cải mà tôi kiếm được (vợ tôi đang giữ), tôi dặn, nên trích ra một phần, khi nào có thiên tai băo lụt th́ đem cứu giúp người hoạn nạn, giúp bà con, bạn bè khi họ cần, giúp các người già lăo, bịnh tật, không nơi nương tựa, giúp các trại mồ côi, các trại cùi hủi...

Tôi viết để bà rơ, nay tôi đă chọn con đường khác. Tôi chỉ muốn biến mất trên thế gian, nhưng c̣n các con tôi? Chúng là nguồn sống của tôi. Tôi lo sợ cho chúng...

Nếu bà là một Phật tử, xin bà đến chùa, cùng góp lời cầu xin Phật Tổ cho tôi sớm t́m được con đường giải thoát. Chúc bà sức khỏe".

Chị đàn bà giơ lá thư lên và nói:

- Thư chỉ viết thế thôi.

Chúng tôi hỏi:

- Chị có nhớ ḿnh mang theo quyển kinh Phật tên ǵ không?

- Đúng ra, lúc nào tôi cũng để sẵn quyển kinh "Quán Thế Âm Bồ Tát" trên bàn thờ, hễ hô "đi!" là tôi chỉ việc bỏ vô xách tay và lên đường.

Hôm đó, cô em dâu tôi đây, lại lấy quyển kinh đó trước, tôi vội quá, mở tủ kinh Phật của ba tôi để gần đó, vơ đại một quyển, nghĩ rằng "Phật nào cũng là Phật, vị nào cũng phù hộ, độ tŕ cho chúng sinh tai qua nạn khỏi". Ba tôi, khi c̣n sinh thời, tu tại gia, nghiên cứu kinh Phật.

Ngoài chữ Việt, ông cụ c̣n biết chữ Hán, chữ Nôm nên thỉnh rất nhiều kinh về nghiên cứu. Thế nên, đến bây giờ tôi cũng không biết ḿnh đă mang theo quyển kinh nào khi vượt biên.

Điều tôi tin chắc rằng. Chính quyển kinh đó đă cứu mạng tôi và câu kinh trong đó, như một lời phán của Đức Phật hoặc đấng Hộ Pháp, bảo thẳng với kẻ ác hăy ngừng tay lại. Lời phán đó phải có uy lực mạnh mẽ đến nỗi một kẻ giết người phải khiếp đảm".

Trong bọn chúng tôi, chẳng ai là đệ tử nhà Phật mặc dầu, thỉnh thoảng có đi chùa lạy Phật, tụng kinh trong những ngày lễ, tết. Chúng tôi hỏi nhau rồi phán đoán đủ thứ.

Câu "buông đao thành Phật" quá tầm thường, chẳng làm ai động tâm. Muốn biết bí mật của câu kinh đó, chỉ c̣n cách đi hỏi các nhà sư th́ họa may.

V́ bị câu chuyện trên ám ảnh, nên trên đường từ Canada về lại miền Đông Bắc nước Mỹ, chúng tôi quyết định, ghé vào một ngôi chùa của sư PT để thăm và hỏi cho ra lẽ.

Sư trạc tuổi chúng tôi, là chỗ quen biết nên rất thân t́nh. Sư PT xuất gia từ lúc mười một tuổi tại chùa Diệu Đế ở Huế. Vượt biên qua Mỹ, sư học và tốt nghiệp tiến sĩ Phật học. Tuy c̣n trẻ, nhưng sư PT thông hiểu Phật pháp và có một cuộc sống rất đạo hạnh.

Trưa hôm đó, chúng tôi được sư khoản đăi cơm chay. Trong lúc thọ trai, chúng tôi kể lại câu chuyện trên cho sư nghe và hỏi sư có biết câu kinh nào đă khiến một người vô thần phải buông đao giết người và đi tu không? Nhà sư suy nghĩ một lúc và nói:

- Ông ta chẳng thù hận ǵ những người vượt biên, nhưng giết họ để cướp của, ông ta làm thản nhiên như người đồ tể giết heo, giết ḅ. Mục đích là để có nhiều tiền của cho con cái được sung sướng.

Kinh Phật chỉ nói về cái nghiệp và cái quả. Ai làm nấy chịu. Nhưng người Việt ḿnh lại có câu "Đời cha ăn mặn, đời con khát nước". Cha mẹ thương con cháu th́ ăn ở nhân đức, để phước cho chúng. Con cháu, nhớ ơn đó mà thờ phụng các vị một cách thành tâm.

Đó là "Đạo Thờ Ông Bà". Ông công an nầy th́ làm ngược lại, nên ông ta bị ám ảnh bởi việc ác của ḿnh, "quả báo nhăn tiền", con cháu sẽ lănh đủ. Có thể, con cái ông ta bị đâm chém hay bị giết chóc sao đó, khiến ông ta nghĩ rằng:

"Ḿnh giết người ta th́ con ḿnh bị người ta giết" nên ông ta sợ. "Nhưng Phật đâu có dạy về chuyện quả báo cho đời con cháu mà ông ta, khi đọc một câu nào đó trong kinh Phật lại sợ hăi đến nỗi phải bỏ nghề, đi tu?"

"Đa số những người vượt biên đều đem theo người là kinh A Di Đà hoặc Bạch Y Thần Chú, coi như có Thần Phật hộ tŕ bên cạnh. Khi gặp chuyện hiểm nguy th́ niệm "Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát" chỉ đọc tới đọc lui câu đó thôi, coi như tiếng kêu cứu, các vị Bồ Tát sẽ ra tay tế độ, giúp cho tai qua nạn khỏi.

Những quyển kinh mà ông ta tịch thu, không nhất thiết đều giống nhau. Có thể người đàn bà kia đă mang một quyển kinh khác. Hơn nữa ở một nơi hoàn toàn vắng vẻ, không có ǵ giải trí ngoài việc đọc các quyển kinh Phật, quả thật, ông ta đang bước về hướng của giải thoát.

Chính cái ư niệm muốn giải thoát khiến ông ta bỏ nghề, và câu kinh Phật kia chỉ như vật xúc tác, như cái nút điện mà ông ta đang ṃ mẫm trong bóng tối, đă bật sáng, cho ông ta thấy được con đường phải đi.

Mỗi người là Phật chưa thành là vậy. Con người dù độc ác, mê muội đến đâu, cũng c̣n le lói một chút ánh sáng của lương tri. Đúng ra, phải gọi ông ta là "ông đạo" chứ không phải là "ông sư".

V́ ngoài việc nghiên cứu, tụng niệm kinh Phật, sư, săi phải có thầy giảng giải, hướng dẫn trên đường tu tập. "Giả dụ như ông công an đó đến xin thọ giáo với thầy. Thầy sẽ giảng những ǵ cho một người vô thần như ông ta hiểu về Phật pháp?".

Nhà sư cười:

- Thoát được "tham, sân, si" là tự giải thoát rồi.

Chính tôi phải học ông ta, làm cách nào đă bỏ được chữ "tham"? Chữ "tham" đơn giản, thường t́nh thôi, không cần phải triết lư xa vời. Tiền của vô tay dồi dào, dễ dàng như vậy mà lại bỏ hết, mấy ai làm được?

C̣n hai chữ "sân, si", bản thân tôi như đang nằm trong cái rọ, không biết bao giờ mới thoát ra! Ông ta là thầy tôi mới đúng.

- Thầy có thể đoán được câu kinh nào nằm trong quyển kinh nào, đă khiến ông ta phải sợ mà đi tu không?

Nhà sư lắc đầu:

- Chỉ riêng ông ta biết được mà thôi. Có thể chỉ một câu

t́nh cờ, b́nh thường nào đó ông ta đọc được nhưng giải thích đúng những băn khoăn, thắc mắc, sợ hăi bấy lâu của ông ta, nó đánh động lương tâm ông ta, hướng dẫn ông ta t́m con đường giải thoát.

Xưa kia, lục tổ Huệ năng chỉ nghe một câu trong kinh Kim Cang liền ngộ được đạo.

- Nhưng nhất định phải có một câu kinh nào đó. Thầy thử nhớ xem sao?

Nhà sư lắc đầu:

- Bị hỏi th́nh ĺnh, tôi không nhớ ra ngay. Hay là thế nầy. Bây giờ mời quí vị ra vườn sau chùa uống trà, ngắm hoa. Tôi xin được ít phút tập trung tư tưởng, họa may sẽ nhớ được điều ǵ chăng?

Mục đích không phải t́m hiểu mà chỉ như tṛ chuyện cho vui vậy thôi. Tôi không đủ tŕnh độ để giải thích câu chuyện kỳ lạ nầy.

Nhà sư lên chánh điện. Chúng tôi ra sau chùa, vừa chuyện tṛ vừa lang thang ngắm hoa cảnh.

Có tiếng chuông ngân vang từ chánh điện, rồi tất cả yên lặng. Có lẽ nhà sư đang lễ Phật và trầm tư...

Độ một giờ sau, nhà sư xuất hiện ở ngưỡng cửa với nụ cười. Sư tiến đến, ngồi xuống với chúng tôi ở một bàn nhỏ dưới gốc cây. Chúng tôi vội hỏi:

- T́m được câu kinh nào chưa thầy?

Sư lắc đầu và cười:

- Kinh Phật chẳng có câu nào hăm dọa người ta, bắt người ta phải đi tu cả! Để nói về cái nghiệp báo th́ kinh Thủy Sám Pháp có nói nhiều, nhưng tôi chỉ nhớ chính xác được vài câu ở các quyển kinh khác, chẳng hạn, trong kinh Đề Bà Đạt Ma (Devadata-suta) có câu:

"Những việc ác mà ngươi đă phạm, không phải là tại cha ngươi, không phải tại mẹ ngươi, không phải tại thầy, chủ ngươi. Chính một ḿnh ngươi đă phạm, và một ḿnh ngươi phải chịu quả báo".

Trong kinh Pháp Cú (Damma-pada) cũng có câu:

"Dẫu rằng ngươi chạy lên trời cao, ẩn dưới biển sâu, trốn trong núi thẳm, không có nơi nào mà ngươi tránh khỏi cái quả ghê gớm về tội ác của ngươi"...

Nói xong nhà sư lộ vẻ bối rối.

- Rất tiếc, v́ sự vô minh của tôi mà câu kinh đó vẫn c̣n là một bí ẩn. Xin lỗi đă làm quí vị thất vọng. Theo tôi nghĩ, sự thống hối của ông ta quá thành khẩn, đă cảm động đến đức Phật, và Ngài đă ra tay tế độ, đă khai ngộ cho ông ta.

Nhưng phải là người thật thành khẩn th́ đức Phật mới làm được việc đó.




Phạm Thành Châu














Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 400 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 4:09am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



VÀNG VÀ MÁU


Kể từ châu Kao Lâm ở phía đông và miền bản Slay ở phía tây mà đến, từ mạn bản Pắc đi xuống, và từ bản Hạ trở lên, cách non mười dặm chung quanh chỉ có quả núi đá Văn Dú là cao lớn nhất.

Sừng sững giữa trời, bao quát đồi cây g̣ đất, núi ấy trông đường bệ hách dịch như đứng làm chúa tể cho cả một vùng phong cảnh hoang vu. Dân Thổ ở các làng gần đó, ngày nào cũng trông thấy ngọn núi mù mù lam tím, nhô lên trên những hàng rừng xanh chi chít um tùm.

Những buổi hoàng hôn bóng chiều soi riêng một phía cũng như các ngày ủ dột âm u, Văn Dú lại hiện ra với một vẻ riêng oai linh và mầu nhiệm. Đối với ngọn núi lớn, người Thổ không chỉ có tấm ḷng kính cẩn phảng phất đối với mọi cảnh bát ngát cao cả, họ c̣n sợ hăi Văn Dú như một vật có tri giác, có quyền phép làm hại người.

Ở những miền quanh đó và trong thời bấy giờ, ai nói tới Văn Dú là một sự gở lạ. Họ chỉ gọi đến tên quả núi trong những khi tức giận nhau mà chửi rủa hay những khi thề bồi.

Một người say rượu lớn tiếng xúc phạm đến Văn Dú cũng đủ làm cho khắp cả một châu biết đến tên ḿnh; họ thuật lại những lời nói và cử chỉ của anh ta một cách e dè, nhưng đó là thứ chuyện họ ưa nghe ưa kể nhất.

Núi Văn Dú có một cái hang lớn. Đó là nơi chứa những tai hoạ ghê gớm cho giống người Thổ và là cái nguồn những sự khủng khiếp và những chuyện kinh hoàng. Người ta gọi hang là hang Thần, v́ đó là chỗ thần núi ở.

Thần núi Văn Dú linh thiêng lắm, lại rất độc ác và hay nghi ngờ. Người nào hoặc vô t́nh, hoặc cả gan đến gần thần núi là bị thần hang bắt vào giết đi. Cho nên từ Văn Dú trở ra chừng hai ba dặm chỉ toàn thấy rừng xác, đất hoang; người Thổ không dám đến khai phá để cày cấy.

Trong một năm có nhiều khi trời đất đang yên bỗng đùng đùng một cơn sấm sét. Trên không gió vù, chớp loáng như gươm thiêng vung tít; cây cối vật vă tan nát, người vật lo sợ mất hồn. Khắp mọi nhà đều khua gơ inh ỏi cùng với các bà then thầy pháp kêu khấn cho đến khi nguôi cơn. Nhưng thế mới đỡ tai hoạ.

Lại nhiều khi, sau một hồi giông tố dữ dội, mây đen biến hết, ánh nắng lại soi xuống; bấy giờ trên đỉnh núi chập chờn một tầng khói phủ dần dần bay đi. Trong đám hơi trắng mà người ta bảo là nộ khí của thần hang, có người nói rằng thường trông thấy những h́nh bóng kỳ dị.

Trong trí tưởng tượng của người Thổ th́ cửa hang Thần trông như mồm con yêu hay hổ quái gở. Cái mồm ấy phun ra những hơi độc làm thành dịch tễ, gió băo để phá huỷ các làng.

Trước cửa hang Thần, người th́ bảo có toàn đầu lâu, người th́ bảo có đủ các rắn rết. Lại có người khoe đă nằm mơ vào tận trong hang xem. Qua khỏi những chỗ nguy hiểm rồi th́ đến nơi ruộng nương tươi tốt, suối chảy thong dong, cây lá rườm rà, ḅ lợn từng đàn ăn trên những băi cỏ xanh non, lại có các nàng tiên nhởn nhơ chăn dắt.

Song cái tấm ảnh đào nguyên kia, người tả cũng cho là một cảnh mai mỉa không thể làm dịu được vẻ độc ác của núi Văn Dú gây nên bởi những truyện phao truyền từ trước đến giờ.

Những người già cả trong làng th́ cho rằng hang Thần hoá thiêng là v́ trong đó chôn cất không biết bao nhiêu thây của quân giặc Khách. Bọn giặc này sang tàn phá nước Nam khi trước bị quân ta đuổi riết, túng thế ẩn vào Văn Dú rồi bị hăm chết đói trong hang.

Đứa nào cũng mang theo rất nhiều vàng đă cướp của dân lành. Nay những của ấy hăy c̣n, nhưng chúng thành thần để giữ lấy.

Về đời ông cha họ th́ dân cư vẫn thường cấy cầy được ở gần hang Văn Dú; bấy giờ những tai hoạ chưa có mấy, nhưng mỗi khi sụt sùi mưa gió lại văng vẳng như có tiếng khóc thảm thiết lẫn với tiếng cười gằn; chốc chốc một cơn gió là là mặt đất chạy qua, cửa hang bỗng gầm rít lên một cách giận dữ.

Gần làng kia thuộc châu Kao Lâm có một cái suối chảy đến. Suốt phát nguyên từ Văn Dú và chạy ngang mặt đông bắc quả núi, là phía hang Thần trông ra.

Như thế là một sự nguy khốn cho làng ấy. Đă có một hồi, muốn pḥng những tai nạn, người ta đặt ra lệ tế thần Văn Dú hàng năm. Vật hy sinh là một người con gái đẹp. Tiếng oán khóc của các cha mẹ những người gái bị giết quăng xuống suối nghe bi thảm đầy trời đất, nhưng không hề cảm được ḷng những dân làng độc ác v́ ngu dại kia.

May sao được mấy năm sau, có một ông quan trấn người Kinh nghiêm cấm không cho giết người như thế nữa. Về sau họ thấy trong châu động dữ và đă mấy phen toan giữ lại lệ xưa nhưng đều không thành.

Song cái tục vô đạo này tuy mất đi, cái linh thiêng của tà thần Văn Dú mỗi ngày một lớn, ḷng mê muội và khiếp sợ của người miền ấy ngày một tăng thêm.
Một buổi chiều mùa đông, trời rét căm căm, mưa phùn bay mù mịt.

Từ miền bản Đông thuộc châu Kao Lâm đến mạn Văn Dú, có hai người đàn ông Thổ đang rảo bước đi. Hai người mặc quần áo vải chàm; áo cộc thắt lưng chẽn ngoài quần ngắn và chít ống.

Một người trạc ngoại bốn mươi, nét mặt già dặn, mắt sâu, miệng nhỏ, thở hơi ra như khói, cái quai nón mắc xuống cằm đè lấy bộ râu lưa thưa c̣n lấp lánh những giọt nước mưa. Thỉnh thoảng ông ta ngoảnh bảo người đi sau mấy lời.

Người này không nói ǵ cứ ra chân bước. Hắn c̣n trẻ; trông rắn rỏi và khoẻ mạnh không kém người trước; hai môi dẩu, trán nhô và cao; đầu quấn một cái khăn lớn. Một tay hắn thủ vào trong áo, c̣n tay kia th́ nắm một cái lao dài.

Hai người cứ trông thẳng phía núi đá mà tiến lên, lúc xéo lên những lối rậm rạp bên đồi, lúc giẫm gẫy những nấm rạ cụt ở ruộng lúa. Qua hết đồi này lại đến những g̣ khác; những bụi cây xanh mưa ám mỗi ngày một rậm, đồng ruộng ngày một thưa; ngọn núi đá mờ mờ trong đám sương mù cũng ngày một rơ.

Gió bấc thổi bên tai vù vù từng trận. Trước mấy rặng rừng hay trước những khóm cây nặng nề ướt át, những làn mưa bụi trắng từng lớp bay qua.

Chân tay mặt mũi hai người tái cứng đi. Giá cấu chắc không biết đau, có lẽ cũng không biết rét nữa. Quần áo phía trước, mưa hắt nhiều nên ướt đẫm. Từ đầu gối trở xuống toàn những đất đỏ với bùn; mỗi lúc qua một đám cây thấp nào th́ cành lá gột sạch gần hết.

Đi tới miền đồi núi và bụi cây chen chúc nhau, không c̣n dấu vết cày cấy nữa, hai người Thổ trông thấy quả núi Văn Dú đứng chắn trước mặt, h́nh vóc cao lớn như ngăn đôi phần đất, đỉnh núi như chạm bầu trời.

Họ dừng chân ở cạnh một cái suối ḷng sâu như vực. Nước suối xanh đặc như rêu thẫm, đang lừ lừ đi vào một cái hốc to dưới mấy cụm cây lá xoè ra và phủ xuống như cánh tàn. Họ cởi đôi hài xảo chùi xuống cỏ ướt rồi nhét vào trong nải.

Rồi họ đứng thẳng dậy, ngoảnh trông lại quăng đường họ vừa đi qua. Bấy giờ vào khoảng cuối giờ Thân (bốn giờ chiều), mưa đă gần tạnh. Bao nhiêu rừng núi đằng xa đều tan thành hơi trong đám sương dày đặc trắng đục. Chân trời một màu xám như bạc cũ, làm nổi bật những bụi rậm ở gần bên.

Trông sang mạn bờ suối bên kia, th́ Văn Dú như sát lại cạnh ḿnh. Quả núi lồng lộng đen ś làm át cả những đống g̣ nhỏ mọn. Một vài bụi cây xơ xác chen lách dưới những tảng đá lớn mốc rêu. Về phía trong cùng, một rặng rừng thấp và lưa thưa như không dám xanh tốt.

Hai người lẳng lặng t́m một chỗ đỡ trơn và hẹp nhất, lần lần bám víu lấy cành lá rễ cây mà xuống rồi lại chậm chạp khó nhọc như thế mà leo lên bờ suối bên kia. Từ bờ suối bên kia là địa phận của sự ghê gớm.
Sang tới nơi, họ lại xỏ chân vào đôi giày rơm, rồi cùng nhau đi đến chân núi.

Lần này, người tuổi trẻ phải cầm lao đi trước. Họ bước đi rón rén, cẩn thận, bốn mắt liếc đây liếc đó. Hơi có tiếng lạ cũng dừng lại bởi v́ họ yên trí rằng họ đă đi vào nơi hoang dă có lẽ chưa bao giờ có vết chân người.

Mưa đă tạnh hẳn rồi. Gió cũng đă ngớt. Chim chóc bắt đầu lên tiếng ở trên mấy ngọn cây cao hay trong ngách đá. Thỉnh thoảng một vài con quạ vừa bay ngang núi vừa kêu. Đường đất cũng không đến nỗi khó đi quá như họ tưởng. Nhưng họ cũng không dám bước bạo.

Đi khỏi một cái đồi, qua mấy tảng đá nằm nghiêng trên đám cỏ lau đến một tụm cây họp lại thành gần như một cái miếu. Thấp thoáng trong đám lá xanh um, thấy như có dấu vết một bức tường đổ nát. Hai người không đứng lại. Dấn lên mươi bước nữa, đi về phía chân núi, qua khỏi cái miếu nhỏ, th́ hang Thần hiện ra.

Hang Thần trông cũng không to: bề cao bằng nửa cây gạo già mọc trước cửa. Miệng hang loe ra như cái miệng hũ. Phía trên toác ra như cái môi rách, phía dưới có hai tảng đá dài và nhọn đâm lên ở hai bên mép như hai cái nanh.

Trông vào trong hang càng xa càng rộng, càng đen tối thêm thăm thẳm sâu vô cùng tận. Trên cửa hang chi chít các giống thảo mộc kỳ dị lấp lánh v́ nước mưa phùn mới rửa. Từ trong kẽ đá, ḅ ra những khúc cây tṛn và mốc, bám chặt vào miệng hang.

Những dây những rễ; những lá đỏ, lá xanh, lớn bé lẫn lộn, mọc đầy mép hang; những cụm trúc rất nhỏ với những đám cỏ xác xơ chen nhau ở bên những khóm si con và những vừng tóc tiên xanh tốt.

Tiếng hạt nước đọng trên cao vẫn rơi xuống lộp độp lẹt đẹt không dứt, nghe mạnh hơn tiếng chim kêu ríu rít ở những ngọn cây nào. Bỗng chốc cơn gió thổi qua, một loạt nước đổ ào xuống như muôn ngh́n quả chín rụng.

Hai người Thổ cùng nín tiếng, hai mắt mở lớn, người th́ đưa nh́n tả, người liếc hữu, rồi lại trông vào cái lỗ hang đen tối âm thầm. Họ đă chực lẳng lặng đi vào. Nhưng lại cùng nhau dấn bước qua, đi sang phía hữu hang Thần đến bên lớp dứa ông xúm quanh chân mấy cây dại h́nh thù kỳ quặc

Những cây này đang uốn éo sát chân núi; cây th́ chui ra khỏi một tảng đá vỡ, cây th́ để cho dây leo quấ chằng chịt, nhiều cây đă đổ, găy, bật hẳn rễ, mà vẫn c̣n sống như thường.

Đang tha thẩn nh́n, không có mục đích, hai người bỗng trông thấy một vật ǵ màu lam ở dưới một cụm dứa. Nh́n kỹ th́ h́nh như một bọc vải, một cái khăn gói màu lam, nằm trong đám lá dại với cỏ cao trên mặt đất.

Nhưng không ai dám nói ǵ hết: nhiều vật tương tự như nhau có thể làm cho ḿnh trông lầm được. Họ bèn bước lại gần để xem sao.

Th́ ra một cái khăn gói thực. Một cái khăn gói đă mở, ướt như mới lấy dưới nước lên bên cạnh cái khăn gói ấy c̣n thấy một con dao rừng và một cái gậy lớn.

Hai người Thổ cùng kinh ngạc như nhau, mỗi người toan kêu lên: "Có ai tới đây rồi!" nhưng không thể nào dám thốt ra miệng một điều quái lạ như thế.

Ông già ngập ngừng một chút, rồi cúi xuống giở cái bọc ra xem: một cái áo chàm vải thô, gói lấy hai nén bạc c̣n nguyên, với lại...

Bỗng một tiếng khiếp sợ rú lên ở bên cạnh. Ông già đứng phắt dậy, nh́n, th́ thấy người con trai mặt tái mét, hai mắt mở to lạ, vừa chỉ về cái miếu trước mặt vừa lớn tiếng nói:

-Ḳi ka! Ḳi ka! (Ḱa trông! Ḱa trông!)

Vang núi cũng đáp lại hai tiếng "Ḳi ka!" nghe như lời quát tháo.

Ông già trông theo ngón tay trỏ th́ thấy trong đám miếu nhỏ, một người chết treo dưới một cây bàng trụi lá, mọc bên một bức tường đổ nát và mốc rêu:

Người chết h́nh vóc to lớn, đầu có bím vắt ra sau lưng. Chiếc dây chăo thơng xuống thắt nút ở gáy và lằn vào cổ, làm cho cái mặt phị, xám hơn bộ quần áo chàm ướt, cúi gằm xuống mà nh́n người ta bằng con mắt không có tṛng đen. Hai bàn tay buông thơng, để cho nước mưa ở năm đầu ngón rỏ xuống như giọt tranh. Hai bàn chân đen ś kiễng trên không, như muốn với lấy đám lá sắc cỏ nhọn mọc ở mặt đất.

Các nhánh cây cao chung quanh thỉnh thoảng lại đưa đẩy. Một đàn quạ đen sợ người không dám xuống, gọi nhau bằng những tiếng thê thảm lạnh lùng.

Hai bác Thổ nắm chặt lấy tay nhau, không dám tiến, không dám lùi: quanh ḿnh chỗ nào cũng thấy toàn sự chết.

Họ liếc nh́n vào chỗ tường đổ, trên mặt những gạch c̣n lại rêu non và những lá nhỏ bám xanh lè. Ở quăng giữa những mảnh tường, tự do mọc lên những cây lá lạ kỳ, rậm rạp. Dây b́m nửa tươi nửa chết ḅ leo ra tới mấy cây ở gần và rủ xuống phất phơ bên cạnh đùi cái thây ma in lẳn trong hai ống quần đẫm nước.

Một trận gió lạnh buốt ào ào chạy đến làm rung động cả một phía rừng cây. Người Thổ già rùng ḿnh một cái, c̣n người con trai th́ bắt đầu run. Anh ta lẩm nhẩm trong mồm những câu ǵ mà người kia đứng bên cũng không nghe rơ. Dần dần ông già như đă định trí, bèn dắt người con trai quay lại, toan cùng đi tới cửa hang. Song anh chàng càng đi càng run thêm, phải níu lấy ông già, van đừng tiến lên nữa.

Người Thổ già đứng lại, ngẫm nghĩ một lát, rồi lẩm bẩm mấy tiếng, trong lúc ấy người con trai một tay nắm chặt lấy lao chống xuống đất, c̣n một tay nhất định không chịu buông ông già.

Yên lặng hồi lâu.

Trời đất h́nh như chỉ riêng u ám ở chỗ hoang dại ấy.
Mặt ông già không c̣n nét kinh hăi nữa. Ông ta đang cúi đầu nghĩ, bỗng ngẩng lên, rồi nói:

- Bây giờ đi vào trong hang.

Anh con trai mở mắt rơ to:

- Hử? Đi vào hang à?

- Chứ ǵ!

- Không! Tôi sợ lắm!

Ông già cau mặt:

- Sợ ǵ mà sợ! Đằng nào cũng phải vào trong ấy xem đă, rồi c̣n đi về nữa kia mà?

- Không! Không! Đi về thôi! Không vào! Vào th́ chết!

Ông già lấy trong ḿnh ra một mảnh giấy. Trên đó có mấy hàng chữ nhỏ mà ông ta không đọc, chỉ để mắt tới những h́nh vẽ ng̣ng ngoèo như h́nh sông núi của bức địa đồ. Ông ta ngẩng nh́n thân quả núi cao, trông vào cái hang cách độ mươi bước và lănh đạm nh́n cái xác treo lủng lẳng kia.

Rồi ông ta thản nhiên nói:

- Nào! Ta đi vào đi.

Người con trai lắc đầu không thôi:

- Không có vào! Vào th́ chết! Vào chết đấy!

Ông già cứ trông kia th́ biết. (Hắn vừa nói vừa chỉ vào thây người Khách). Người ta nói không sai đâu.

- Mày không vào th́ tao vào một ḿnh. Đừng có nói lôi thôi. Rồi về đừng kể công đấy... Đi vào không?

- Không... vào th́ chết thôi! Vào th́ chết!

Người Thổ già thấy vậy bực ḿnh để mặc người trẻ tuổi đấy, xăm xăm bước lại cửa hang.

Đến nơi, ông ta lấy trong bọc ra mấy thanh củi thông, một ít bùi nhùi với một ḥn đá lửa.

Lúc bó đuốc thông đă cháy, ông già một tay cầm bó đuốc giơ lên ngang trán, một tay cầm thanh đao to bản, quay lại mắng người con trai là nhát, rồi bước thẳng vào hang Thần. Người con trai cuống cuồng chạy vôi lại cửa hang, cất tiếng gọi.

Nhưng ông già đă lẩn vào trong bóng tối. Ngọn lửa đỏ ngùn ngụt cũng dần dần bé, rồi biến hẳn đi.

Ở ngoài này, anh ta lắng nghe c̣n thấy đằng hắng một vài lần và thỉnh thoảng có tiếng chân thong thả khua trong một vũng nước.

Anh con trai chợt nghĩ đến những chuyện ma quỷ ám ảnh người chết mà dẫn vào chỗ chết. Anh ta thốt nhiên hối hận rằng không nhẩy xổ vào mà kéo ông già lại. Chắc hẳn ông già này lại bị thần núi bắt vào hang. Anh chàng cố nín hơi nghe tiếng chân dần dần bước c̣n thấy đưa ra là ông già vẫn c̣n sống...

Gió bên ngoài thổi qua không buốt bằng hơi lạnh ở hang đá. Anh ta run cầm cập, hai hàm răng va nhau ngày một mạnh. Bước chân đă thấy im từ lâu.

Chốc chốc lại có tiếng kêu "chít chít" nhỏ, với tiếng th́ thầm lớn, tưởng như lời mỉa mai độc ác của yêu quái, ngồi xổm đang vừa ngáp vừa bàn nhau. Thỉnh thoảng h́nh như cả cái hang thở dài. Rồi, im lặng. Không thể nào đoán được những việc xảy ra trong cái miệng tối bí mật ấy.

Anh Thổ nghe thấy tiếng lạ th́ sợ. Anh ta thấy yên lặng lại càng sợ già.

Anh ta muốn hắng giọng lên, hay nói đùa một câu ǵ để phá cái tịch mịch nặng nề kia; nhưng không dám. Anh ta cũng không dám nh́n về phía cái xác chết; lại tưởng người thắt cổ sắp đứng xuống đất, sắp đi lại gần ḿnh. Anh ta rợn người lên, khẽ ngảnh đầu nh́n lại.

Những bụi cây rậm rịt chung quanh như vây chắn lấy ḿnh: chưa bao giờ anh ta thấy có cái cảm giác vắng vẻ biệt tịch bằng lúc ấy!

Thế mà có một người đi cùng, th́ lại vào trong hang mất, lại vào đấy sau khi gặp người thắt cổ! Chẳng hiểu bụng dạ ông thế nào. Mà sao măi không thấy ông ta ra? Măi không thấy tiếng ǵ hết! Hay lạc mất lối? Hay bị mê mẩn sợ hăi quá? Hay gặp ma quỷ? Chết rồi cũng không biết chừng!

Trong ḷng người con trai nôn nao như điên dại.

Anh ta nghĩ: hay là gọi thực to lên cho lăo già đáng giận kia nghe thấy. Nhưng anh ta lẳng lặng trông xuống dưới chân.

Bên những cái màng đeo những hạt sương sáng đẹp như thuỷ tinh, anh Thổ trông thấy những ḥn đá sỏi lăn dưới cỏ. Chợt nẩy ra một ư kiến. Anh ta nh́n vào trong đám tối: cúi xuống nhặt ba bốn ḥn to nhất, nghĩ ngợi một lát, rồi đánh liều vứt mạnh vào hang. Ḥn sỏi h́nh như bị rơi xuống chỗ có nước, v́ nghe đánh "bơm" một cái. Anh ta lại ném ḥn đá nữa, lần này ném thẳng không rụt rè.

Tức th́ trong hang có tiếng rên hừ hừ đưa ra. Anh này chưa hiểu sao, bỗng lại nghe thấy tiếng bịch bịch rất mạnh và rất nhanh, rồi như có muôn vàn đá sỏi đổ mưa xuống một cái vũng nước không trông thấy.

Ngay lúc đó, ông già ở trong đám tối hiện ra, nét mặt ông đổi hẳn đi; hai mắt kinh sợ mở đến rách kẽ; nón lật ra đằng sau, khăn buột xuống quanh vai, tóc xoă ra rũ rượi.

Người trai Thổ chưa kịp kêu hỏi th́ ông già đă loạng choạng bước vội đến bám lấy hắn, vừa rên, vừa thở hồng hộc, lưỡi líu lại không nói được nên lời nào. Anh chàng điên cuồng vội quăng cái lao đang cầm đi, rồi vực ông già ngồi xuống một bên, một cánh tay đỡ lấy sau vai, tay kia rờ lên trán ông già th́ thấy toát ra một thứ mồ hôi lạnh và dính nhơm nhớp.

Anh ta rối rít gọi ông già tiếng kêu vang động cả quả núi; nhưng ông ta đă rũ xuống, chỉ lắc đầu không thưa. Ngực ông ưỡn lên, hơi thở càng ngắn càng tức tối. Hai mắt ông trợn ngược nh́n về phía cửa hang là phía ông quay đầu vào. Mồm th́ há cứng đờ, thỉnh thoảng như muốn hớp lại.

Một ḍng máu từ mũi chảy ra, đen và loăng, lẫn vào bọt dăi ở hai bên mép, rồi cùng chảy xuống cái cổ xanh xám, đầu ngoặt ra đằng sau. Người trai thổ vừa run run kéo vạt áo lau cho ông già, bỗng trông thấy trong cái tay co quắp của ông ta một mẩu giấy nhỏ.
Ông già lúc ấy không thở được nữa.

Anh ta không thể nào biết được v́ sao mà ông ta đến thế, thấy mẩu giấy lạ, bèn cậy tay ông già ra xem: đó là một mảnh giấy khổ vuông, to bằng hai bàn tay màu hung hung vàng, dầy và dai lắm.

Trên mặt giấy, về phía tả, có vẽ một người quỳ, cầm một tờ giấy lớn giơ lên ngang mặt; ở phía hữu vẽ một bó đuốc đang cháy; nét vẽ rất ngây dại. ở hai h́nh vẽ có mấy hàng chữ Hán, nghĩa như sau:

Miệng có hai răng
Ba chân bốn tay
Mày vào trăm chân
Mày lên ba tay
Tên mày là đá
Đá sinh trứng đá
Trứng đá giữ của
Mày có sức mang
Mày giầu mày chết.

Về mạn tây nam, sau lưng Văn Dú, là châu Nga Lộc cách xa ḥn núi đá chừng ngót một phần tư ngày đường.

Nhà Quan Châu nằm trên một cái đồi, mái lợp tranh, tường đất lèn, thấp và vững chăi. Chung quanh cây tre bụi rậm vây kín. Dưới chân đồi là xóm làng. Quan Châu Nga Lộc năm ấy chừng ngoại bốn mươi tuổi; người khoẻ mạnh và tinh anh.

Trong nhà lên đèn đă lâu. Ông xếp gọn các đơn từ đă phê xong, lấy cái nghiên mực lớn chận lên, và gạt nhỏ ngọn đèn dầu lạc để trên một cái giá cao trên án sách. Ông tụt giầy, kéo cái chăn dệt ngũ sắc lên tận vai, đặt cái gối xếp lại cho chỉnh, rồi vừa ngả lưng lên bộ ván gỗ quư, vừa thở dài một cách khoan khoái nhẹ nhàng.

Rồi ông quay đầu về nhà bên, cất tiếng se sẽ gọi:

- Tô Nang à! Tô Nang à!

Tô Nang là người thiếp thứ năm của ông Châu Nga Lộc. Một lát tiếng chân ở ngoài đi tới; ông lim dim mắt nh́n lên đ́nh cái màn chưa buông, nằm vuốt râu có ư đợi. Cửa khẽ cọt kẹt mở, rồi tiếng một người đầy tớ vào thưa:

- Quan Châu à!

- Hả?

- Có một thằng trông mặt sợ hăi lắm, ở đâu hồng hộc chạy vào đây. Nó c̣n ở ngoài sân đấy.

- Nó vào làm ǵ?

- Không biết, nó không nói được, nó cuống quưt bám lấy Nọng, chỉ một tí nữa th́ bị chó cắn chết.

- Mà sao lại để cho nó vào mới được chứ? Đuổi nó ra.

Quan Châu càu nhàu quay lưng vào. Rồi lại gọi:

- Tô Nang à, đi đóng cửa nhé!

Một lát, cửa lại thấy mở hé:

- Quan Châu à!

Quan Châu ra dáng bực ḿnh:

- Cái ǵ?

- Cái người lúc năy...

- Mặc kệ người lúc năy! ầy... à!

Rồi ông ta lại gắt:

- Mà làm sao cho nó vào mới được chứ?

- Cổng sắp đóng, nó chạy nhanh quá, đâm bổ vào, không ai giữ được. Bây giờ nó không chịu ra nữa.

- Nhưng mà nó vào làm ǵ?

- Nó đă nói được rồi, nó bảo, nó cần thưa với quan Châu một chuyện ghê gớm lắm.

Ông Châu bực tức vô cùng. Ông chống tay chực dậy, nhưng c̣n mong bảo cái thằng Thổ quấy rầy kia một lần nữa rằng: Việc quan trọng đến thế nào cũng phải để đến mai.

Người đầy tới tŕnh:

- Nó bảo nó thấy một việc ghê gớm lắm: Một người thắt cổ, với một người chết. Mà nó ở hang Văn Dú ra.

- Ở đâu ra?

- Hang Văn Dú!

- Hang Văn Dú?

- Phải rồi.

Ông Châu ngồi hẳn dậy, bảo:

- Gọi nó vào đây.

Rồi ông tung chăn ra, khêu to ngọn đèn lên, sốt sắng muốn nghe câu chuyện lạ.

Một người trần gian dám vào hang Thần là một việc ghê gớm vô cùng. Song đối với Quan Châu th́ lại là một điều lạ thường hơn là quái gở. V́ ông là một người thổ vào hạng trí thức, đọc quá nhiều sách chữ Hán, biết rất nhiều chuyện cũ.

Những điều ly kỳ mà dân ông mê tín, như những việc bí hiểm trong hang Thần, ông vẫn ngờ là chuyện huyền hoặc cả. Ông cho rằng đó chỉ là điều phao truyền vô lư của những người bày chuyện, hoặc là những mưu kế của kẻ nào có vàng bạc giấu ở trong hang.

Nhiều lần ông muốn vào tận hang xem, ông lại hy vọng sẽ t́m thấy của cải trong ấy nữa. Song những điều dị đoan truyền lại lâu ngày vẫn có cái vẻ hiển nhiên rất vững chăi, thường khiến những người cứng cỏi nhất cũng sờn ḷng. Ông chắc hang Thần không làm hại được ḿnh. Thế mà biết bao lần ông hăm hở định vào thám hiểm trong hang, rồi lại thôi không dám quyết.

Người Thổ lúc năy đến tưới dầu vào ngọn lửa can đảm chỉ chực những tắt trong ḷng ông Châu. Hai người đày tớ dẫn anh ta vào, như dẫn một người tù. Ông Châu bảo họ lui ra và đóng cửa lại.

Người lạ mặt đứng trong bóng tối, cách Quan Châu chừng năm bước, vẫn yên lặng chưa nói ǵ. Ông Châu quắc mắt nh́n khắp người anh ta. Bộ mặt anh ta rơ rệt in h́nh ảnh sự kinh ngạc. Anh lấm lét vừa nh́n xung quanh, vừa thở, môi mấp máy không nói được lời nào.

Một lúc, ông Châu quát to:

- Mày vào đây làm ǵ?

Anh thổ choàng người lên, rồi nh́n thẳng vào mặt ông Châu, nuốt nước bọt nói:

- Tôi tŕnh quan Châu... rằng ở cửa hang Văn Dú... có một người thắt cổ.

Khi nói đến tiếng Văn Dú, anh ta tái mặt đi. Bỗng thấy ông Châu nh́n ra phía cửa gắt mắng ầm lên:

- Ai cho chúng mày nghe trộm? Có cút đi không chết cả bây giờ?

Người lạ mắt luống cuống.

Ông Châu bảo:

- Tao mắng người nhà, mày không việc ǵ.

Rồi ông lại hỏi:

- Nhưng mày đến Văn Dú hay sao mà biết?

-Tôi ở Văn Dú về đây... Tôi đi với một người tên là Nùng Khai...

- Nó đâu?

- Chết rồi!

- Nó chết rồi à?

- Phải!

- Chúng mày là người ở đâu? Đến đây làm ǵ? Đầu đuôi thế nào, kể ra.

Người con trai chưa kịp trả lời, ông Châu lại hỏi:

Mày không biết Văn Dú là chỗ ghê gớm sao?

- Có chứ!

- Thế sao c̣n đến, đến làm ǵ... nói mau?

Người con trai thưa:

- Tôi là người Châu Kao Lâm, làm bộ hạ cho Quan Châu tôi. Tôi với Nùng Khai đến Văn Dú v́ có việc riêng, Quan Châu tôi sai làm. Chúng tôi đến nơi thấy có mọt người thắt cổ treo trên cây, mà là một người Khách, nên không dám vào nữa, tôi chắc người Khách chết v́ hang Thần. Nùng Khai không thèm nghe, vào đấy một ḿnh nên quả nhiên cũng bị chết.

Người lạ mặt bèn thuật lại việc từ lúc ông già thổ đi vào trong hang tối, lúc anh ta đứng một ḿnh chờ đợi nghe ngóng măi, rồi ném ḥn đá sỏi thứ hai và nghe thấy tiếng chân ông già chạy ra, cho đến lúc ông già chết cứng trong tay ḿnh mà không nói được một lời nào hết.

Chốc chốc quan thổ lại chặn hỏi cặn kẽ, nhưng người này, ngoài những cái hắn trông thấy, chừng cũng chẳng biết ǵ hơn nữa. Câu trả lời của hắn, bởi thế, không được vừa ư ông Châu.

Nhưng khi hắn nói t́m thấy mảnh giấy rướm máu ở tay ông già, và đưa ra để ông Châu xem th́ ông ra chiều vừa ư lắm. Ông hăm hở cầm lấy, h́nh như đă nắm được đầu mối của sự dị thường này.

Trong lúc ông Châu giở tờ giấy ẩm ra xem th́ người thổ Kao Lâm nhớ lại bước nguy hiểm sợ hăi đă qua. Anh ta không ngờ một người yếu bóng vía như ḿnh lại thoát được khỏi tay thần Văn Dú.

Anh ta nhớ rằng chính lúc sợ hăi ở bên cái xác nằm cứng đờ của Nùng Khai th́ trong trí vẫn tỉnh. Bây giờ trời mỗi khắc một u ám, người anh ta thấy lạnh lẽo, tưởng chừng như bị cái tử khí ngấm dần vào.

Nghĩ đến người Khách chết treo, nghĩ đến cái hoảng hốt của người thổ già lúc chạy ra khỏi hang, nghĩ đến cái hang ḿnh ngồi trước cửa cùng với một người bị nó làm hại; lại nghĩ đến những điều nguy khốn độc ác nó sẽ lừ lừ vây quanh ḿnh như đêm tối ám mù cảnh vật; anh ta liền vùng dậy, buông cái xác ông già xuống đất, như thêm táo tợn v́ quá khiếp sợ, khoa thanh lao sáng lên trước mặt rồi hết sức nhanh chạy về đường Kao Lâm.

Đang chạy, sực nhớ ra trước mặt ḿnh có cái suối sâu khó ḷng qua được; anh ta vội rẽ sang tay phải; chạy được một độ, th́ lại gặp khúc suối nữa chắn ngang. Anh ta thét lên một tiếng to, rồi bán sống bán chết chạy về phía châu Nga Lộc.

Anh chàng thở không ra hơi mà vẫn cứ luôn mồm gọi tên các chư vị "sằn slin" đến cứu. Lúc nào sau lưng cũng ồn ào như có ai đuổi bắt; mà càng chạy càng thấy chậm, bước đuổi càng thấy mau. Những đồi núi rừng rậm như thêm nhiều măi ra. Đường lối gồ ghề, vừa dính vừa trơn làm cho anh ta cứ chúi vấp hoài, trượt ngă hoài; trăm lần tưởng chết!

Đến lúc trông thấy những nhà cửa dưới chân đồi và cái cổng lớn ở châu Nga Lộc th́ trời đă tối. Anh ta chạy vụt ngay vào cổng. Những tiếng ḥ hét của bọn tôi tớ lại khiến anh ta thêm hoảng, v́ anh tưởng đó là những tiếng ma quỷ ở trong chỗ nhà cửa biến hiện ra.

Nhưng anh ta đă qua một cái sân rộng và phẳng; đă ngửi thấy mùi thóc vựa và ngựa chuồng là những mùi quen thuộc, rồi lại nghe thấy những câu hỏi giận dữ của mấy người nắm ḿnh lại; lúc ấy anh ta mới dám chắc là ḿnh thực c̣n ở dương gian.

Các người nhà ông châu Nga Lộc xôn xao nháo nhác lên v́ nghe thấy anh ta bảo ở Văn Dú đến. Nhưng chính ông Châu th́ không tỏ vẻ sợ hăi ǵ. Bấy giờ người thổ Kao Lâm thấy ông ta t́ trán vào ḷng bàn tay, lẳng lặng không nói câu nào và ra chiều suy nghĩ một cách điềm tĩnh.

Cái vẻ ấm áp trong gian pḥng sáng bởi ngọn đèn cao này đă làm cho anh ta tỉnh hẳn người lại. Anh ta x́ mũi vắt xuống đất, liếm môi một cái rồi khẽ cất thứ giọng kín đáo của người hiến mưu kế mà nói với ông châu những thần những thánh, những thầy mo, bà then, đến những phương cầu cúng để cho thần Văn Dú nguôi cơn lôi đ́nh.

V́ hắn cho cái chết của người Khách và Nùng Khai là do sự tức giận của thần núi. Cái ḷng mê tín của dân thổ lại thấy biểu lộ ra một lần nữa. Ông Châu trí thức kia liệu có sờn ḷng v́ những điều mắt thấy của tên thổ này chăng?

Người thổ Kao Lâm cứ lải nhải hoài. Ông Châu th́ vẫn trầm ngâm nh́n xuống mảnh giấy dày đặt trên án. Có lẽ ông ta đang nghĩ ngợi đâu đâu chớ không để ư đến những lời anh Thổ nói: v́ bỗng nhiên ông ta đọc:
Miệng có hai răng

Mày vào trăm chân

Mày lên ba tay

Tên mày là đá...

Rồi ông hỏi:

- Mày có biết chữ đấy?

Anh ta chưng hửng một lát rồi thưa:

- Có biết.

Ông Châu cau mày, lại hỏi:

- Mà mày hiểu những câu này chứ?

- Hiểu à? Không!

Ông Châu thở dài:

- Thực mày không hiểu nghĩa ǵ à?

- Không, mà hiểu làm sao được.

- Mày lấy mảnh giấy này ở tay Nùng Khai à?

Người Thổ Kao Lâm thưa:

- Nó ở hang ra tôi mới thấy có. Tôi hỏi, nó không nói được, tôi bảo ra hiệu cho tôi hiểu ư, th́ nó chết mất rồi.

Ông Châu vừa nh́n vào tờ giấy, vừa hỏi:

- Nùng Khai là người như thế nào?

- Là người ông Châu Kao Lâm sai đi đến Văn Dú với tôi.

- Nó là người tin cẩn của ông Châu Kao Lâm phải không?

- Phải, cũng như tôi.

Ông Châu khẽ gật đầu. Ông đặt mảnh giấy xuống bàn ngẩng đầu lên nh́n người thổ Kao Lâm rồi dịu lời bảo hắn:

- Bây giờ, mày không được giấu tao một điều ǵ, th́ tao mới xét được rơ việc này. Người Khách kia chết, người Thổ Nùng Khai chết, mà mày không chết; mày cũng đến Văn Dú; mày biết rằng ai giết nó. Thế ngộ bảo mày giết th́ sao...?

Người trẻ tuổi vội nói:

- Không! Không phải! Không phải tôi...

Ông Châu liền chặn lại:

- Ừ, tao cũng biết. Nhưng người ta muốn buộc tội cho mày cũng được. Tao lại biết chúng mày định vào hang Văn Dú làm ǵ nữa kia... Lúc năy mày bảo quan châu Kao Lâm sai đi có việc riêng, tao đoán biết ngay. Đây là tao hỏi cho rơ thêm, mày không được giấu nữa...

Rồi ông Châu nh́n thẳng vào mặt người trai Thổ hỏi một cách dơng dạc:

- Tại sao quan châu Kao Lâm lại biết được trong hang Thần có của chôn?

Người thổ Kao Lâm giật nẩy ḿnh lên, không giấu được cái kinh ngạc. Trong lúc hốt hoảng, hắn đă trót nói với quan châu rằng: Nùng Khai và hắn đi tới Văn Dú theo lệnh ông quan châu Kao Lâm sai đi.

Sau hắn nghĩ lại, định bịa đặt ra một câu chuyện nào đó: như đi t́m người nhà lạc, hay đi qua Văn Dú tự dưng bị dủn dủi vào hang, hay là chuyện huyền hoặc nào khác đợi ông Châu hỏi th́ han sẽ đem ra mà trả lời.

Không ngờ câu hỏi của ông Châu đường đột quá, lại trúng ngay vào sự thực mà hắn muốn giữ kín. Hắn không dám nh́n đôi mắt soi mói của ông Châu Nga Lộc nữa, và đứng lặng thinh.

Ông Châu lại lấy lời nói thực dịu dàng bảo hắn:

- Mày đứng lại gần đây. Đừng sợ mà cũng đừng ngại ǵ hết. Mày phải nói rành mạch đầu đuôi công việc mày định làm cho tao nghe.

Người thổ Kao Lâm vẫn không thưa. Ông quan thổ nói tiếp:

- Tao có đủ quyền thế để bênh vực mày, cũng có đủ quyền buộc tội mày nữa, mà tao muốn cho mày ở đây hay đuổi mày ra khỏi châu cũng được, ở châu tao không nhà nào dám chứa một người ở hang Thần về.

Ông châu Nga Lộc trông thấy rơ cái sợ hăi trên mặt người trai Thổ: Hắn nh́n ông ta ra ư van lớn.

Ông ta lại dỗ:

- Thế nào? Mày nói đi. Nói thực mọi điều cho tao nghe. Mày đă vào đây, đă khỏi chết v́ ông thần Văn Dú rồi, th́ mày nói đi, giấu tao làm ǵ nữa? Mày giấu tao, rồi tao cũng biết được kia mà?

Anh chàng nuốt nước bọt, liếm môi hai ba lần; mặt nhăn nhó ra vẻ khổ sở, tuyệt vọng. Nhưng hắn biết lời của ông quan này chắc chắn như dây sắt ràng buộc, nên phải khai rằng:

- Cách đây ngót mười hôm, một người lư trưởng bản Đong thuộc châu Kao Lâm đến nhà quan châu tôi để đưa một bản địa đồ vẽ đường lối đi vào Văn Dú và biên mấy câu thần chú để khi vào được hang ấy mày đọc th́ t́m thấy vàng.

- Nhưng câu thần chú ấy chép trong mảnh giấy này phải không?

- Phải rồi. Nhưng mảnh giấy này lại khác. Chắc Nùng Khai lấy ở trong hang ra: chỉ thấy những chữ chớ không có địa đồ.

- Thế nghĩa là việc này có người khác biết chứ ǵ?... Có lẽ là thằng Khách?... mà sao nó lại chết, có người nào ở trong hang nữa không?

- Tôi không biết. Tôi biết thế nào được.

- Ừ, phải kể nốt đi.

Anh ta kể tiếp:

- Bản địa đồ ấy nguyên là của một ông già bản Đong tên là Hoàng An Lài, lúc gần chết trao lại cho người lư trưởng ở gần đấy, nói rằng đó là bản sao lại bức địa đồ của một người Tầu đời nhà Minh sang làm quan bên này; viên quan tàu có của để ở Văn Dú...

- Thế nào? Một người quan Tàu, đời nhà Minh?...

- Phải, bấy giờ là hồi quan nhà Minh sang cai trị...

Viên quan Tàu kia tích được rất nhiều của trong hang Văn Dú một cách rất kín, rất khéo, không ai biết được, định sau này sẽ mang dần về Tầu; không ngờ trong nước người Kinh nổi lên đánh đuổi quân Minh, viên quan kia phải chạy ẩn vào nhà ông tổ ba đời nhà An Lài, rồi v́ già yếu và lo nghĩ quá nên chết ở nhà ấy.

Lúc hấp hối, người ấy có để lại cho nhà họ Hoàng rất nhiều tiền bạc, và đưa ra một bức địa đồ chỉ nơi giấu của, nhờ đưa sang cho con cháu bên Tầu.

- Thế người quan Tầu không có bộ hạ sao?

- Nghe như có. Song người nhà họ Hoàng thông thuộc đường lối và trong khi loạn lạc, họ có cách trốn được ra ngoài. Người quan Tầu bắt nhà họ Hoàng thề nguyền rất độc, không bao giờ được lộ việc ấy ra cho ai biết, mà nhất là không được t́m cách vào hang Thần.

Viên quan ấy lại cho biết rằng y đă yểm vào các của giấu ở trong núi và nhờ thần núi giữ của trong ấy nữa, của cải chỉ có con cháu người quan Tầu mới dùng được, mà ai cả gan hay vô t́nh vào hang Văn Dú sẽ bị thần vật chết ngay.

Nhà họ Hoàng không tin. Người Tầu chết rồi, họ liền đem sao lại bức địa đồ và chép lấy những lời "thần chú" biên lên một mảnh giấy khác.

Ông châu Nga Lộc hỏi:

- Thế th́ có lẽ chính là mảnh giấy này.

- Tôi không biết chắc. Người nhà họ Hoàng đưa những giấy tờ của viên quan nhà Minh cùng với hai bản giấy kia sang Tầu, rồi không thấy ai trở lại cả. Để ư ḍ xét ba bốn mươi năm trời, sau lúc người Kinh đă b́nh định, và lúc mấy thầy địa lư Tầu đă qua lại được nước Nam, mà vẫn không thấy tăm hơi nhà họ Hoàng, cũng không thấy bóng người Tầu nào sang t́m của hết.

"Về sau con cháu họ Hoàng học thuộc chú và đánh liều đi kiếm của trong hang thần. Nhưng người nào đi cũng không thấy trở lại nữa. Có hai lần người ta đi t́m th́ thấy một đứa nằm chết ở gần suối Văn Dú, c̣n những đứa khác người ta chắc chết ở trong hang, nhưng không ai dám vào.

Việc ấy đồn ra và từ đấy bắt đầu có những chuyện ghê gớm gây nên bởi thần Văn Dú. Ở làng gần suối lớn đă phải lập ra tục tế thần núi bằng các người con gái đẹp mới được b́nh yên. Nhà họ Hoàng không bao giờ dám lộ chuyện kín về sự yểm của ra v́ sợ người ta đổ cho cái hoạ lớn kia gây nên tại nhà ḿnh...

Ông Châu chặn lại hỏi:

- Ừ, thế sao họ Hoàng không huỷ cái giấy kia đi?

- H́nh như họ muốn giữ lại để sau này con cháu người quan Tầu có ai sang t́m của, họ sẽ đem giấy ra làm chứng, mong người Tầu đền ơn. Song đến đời An Lài th́ ông ta vẫn giữ kín không cho các con biết, sợ chúng v́ tham mà mang hoạ... Hoàng có ư đưa cho lư trưởng bản Đong để hắn tŕnh cho quan châu Kao Lâm biết đến nguồn gốc những cái hoạ bí hiểm của hang Thần.

Quan châu Kao Lâm tôi lại không sợ những điều ghê gớm kia, bàn với tôi cái kế t́m vàng trong Văn Dú, và có ư sai tôi đi ḍ xét trước. Tôi mới nghe cũng đủ khiếp, nhưng Quan Châu tôi nhất định bắt tôi phải vâng theo.

Trong mấy ngày ông ấy giảng dụ các lẽ cho tôi nghe, cắt nghĩa cho tôi không sợ những chuyện người ta đồn về hang Thần, lại hứa cho tôi rất nhiều tiền, lại cho tôi được làm chánh tổng nữa... Nhà tôi mấy đời nhờ vả nhà Quan Châu tôi, mà bây giờ cũng nghèo. Tôi biết chắc nếu việc thành th́ sung sướng một đời nên mới vâng lệnh ông Châu tôi...

- Thế c̣n Nùng Khai?

- À, phải cũng tại Nùng Khai nữa, nên Quan Châu tôi càng muốn t́m cho được của trong Văn Dú, mà tôi được vững ḷng thêm. Nùng Khai là một tên cướp rất táo tợn, nó vẫn chửi rủa Văn Dú mà không việc ǵ. Nó lại bảo rằng nếu nó biết trước Văn Dú có vàng th́ nó lấy đă lâu rồi, không phải đi cướp đâu nữa.

- Sao Quan Châu Kao Lâm lại giao việc cho một tên cướp?

- V́ nó có họ với một người thiếp của Quan Châu tôi. Nó bị bắt đáng nhẽ bị chết chém, nhưng Quan Châu tôi lấy quyền thế giảm tội cho nó. Bởi thế, lúc cho gọi nó lên, nói đi t́m của th́ nó thề sống thề chết sẽ trung thành.

Nó quả quyết sẽ đi vào hang Thần, sẽ t́m cho được của trong hang Thần. Ông Châu tôi liền giao cho nó bản địa đồ kia, lại cho tôi đi theo, vừa để coi chừng, vừa để giúp đỡ nó. Tôi thấy nó nói mạnh bạo và khôn khéo lắm, nên quên cả sợ.

Nhưng đến lúc gần thấy hang núi, tôi đă lo ngại; lúc qua suối lớn, tôi đă ghê rợn; sau lại thấy thằng Khách thắt cổ... Rồi lại thấy Nùng Khai hốt hoảng ở trong hang chạy ra...

Ông châu vừa nghe người Thổ Kao Lâm vừa lấy que đẩy cho ngọn đèn dầu cháy to lên. Trên mặt ông hiện ra cái vẻ chăm chú của một người thu hết cả tâm trí vào một công việc: Lông mày nhíu lại, đôi mắt trong sáng lạnh lùng nh́n ngọn lửa mà hơi thở của ông làm cho run run.

Ông khẽ nói:

- Ai giết tên Khách kia? Trong hang c̣n có người nào không? Có vật ǵ không? Yêu quái ư? Sao Nùng Khai lại chết?

Mấy câu đó nói nhanh, nhưng chẳng bảo ai, như lời tự vấn; và người con trai Thổ cũng không biết đáp thế nào được nên ngậm tăm.

Ông quay lại nh́n hắn và hỏi to lên:

- Thế trong ḿnh Nùng Khai không thấy có vết tích ǵ chứ? Mày có thấy dấu máu nào không?

Người thổ Kao Lâm ngẫm nghĩ một hồi:

- Không thấy ǵ cả... Hay là không thấy vết thương nào nặng đến nỗi làm chết được người.

- Nhưng không có một tí dấu vết ǵ sao?

- À có! Mà nhỏ lắm: chỉ lấm tấm rớm máu như chỗ da kỳ mạnh hay bị xước mà thôi...

- Thế à? Ở chân phải không? Nó hẳn bị cái ǵ quấn chặt ở chân...

- Không! Ở tay, ở hai bàn tay, nhiều nhất là ở các ngón.

Ông Châu lẩm bẩm:

- Thế th́ quái lạ, quái lạ lắm!

Ông vừa nói vừa nh́n mảnh giấy vuông mà ông lật hết mặt nọ đến mặt kia.

- Vết máu trên tờ giấy này (lời người trai thổ) là ở tay Nùng Khai dính ra đấy. Nó nắm chặt quá, tôi gỡ măi mới lấy ra được.

Ông Châu tưởng chừng như không để ư đến câu vừa rồi, chỉ hỏi:

- Thế c̣n bản địa đồ kia?

- Bản địa đồ kia Nùng Khai giắt trong ḿnh nó, tôi không dám lấy. Bản địa đồ ấy chỉ vẽ lỗi đi Văn Dú chứ không vẽ đường lối trong hang.

Ông Châu gật gù:

- Ừ, được rồi, tao hiểu rồi. Bây giờ mày hăy lui xuống nhà nghỉ đi. Rồi ở đây với tao, tao sẽ liệu. Chúng nó có hỏi th́ không được kể điều ǵ về hang Văn Dú hết, nói rằng Quan Châu bắt phải im.

- Mà Quan Châu có bảo thầy mo...

- Được rồi. Có. Thôi xuống đi. Nọng à! Lên dẫn nó xuống cho nó thay quần áo, cho nó sưởi, rồi bảo nó ngủ đi.

Lúc theo tên Nọng xuống dưới nhà, người thổ Kao Lâm c̣n dặn với:

- Quan Châu bảo thầy mo nhé... Quan Châu à.

- Được, được!

Quan châu Nga Lộc chẳng bảo thầy mo nào hết. Cánh cửa vừa khép lại, ông ta liền thắp lên một ngọn đèn nữa, hăm hở kéo tờ giấy gần lại, suy tư nghĩ ngợi.

Mặt ông Châu hồng lên và lộ vẻ mừng rỡ. Ông ta bắt đầu xét lại mảnh giấy của người thổ Kao Lâm rất cẩn thận, v́ ông biết rằng hiểu được ư tứ của những câu chữ Hán viết trên đó, ấy là phá được cái tường bí mật của thần giữ của và cắt nghĩa rành mạch được các điều kỳ dị xảy ra.

Những h́nh vẽ ngây dại và mấy hàng chữ viết rất tốt, tuy bị nước thấm ố hoen, song vẫn rơ ràng lắm: Nét mực cũ đă ăn sâu xuống mặt tờ giấy ướt và dầy. H́nh bên trái vẽ một người áo cộc quỳ lên, hai tay cầm một tờ giấy giơ thẳng ngang mặt như người đọc sớ.

Ông Châu đoán có lẽ nó muốn chỉ bảo phải trân trọng giữ lấy và theo những lời mầu nhiệm của mấy hàng chữ Hán kia. Bó đuốc, vẽ ở bên trái, ngọn lửa cháy và bốc khói lên, chắc hẳn chỉ về sự tối tăm, hiểm hóc trong hàng thần; hoặc ư bảo phải t́m xét cho hiểu thấu những nghĩa ẩn trong mấy câu kia, mấy câu mà người thổ Kao Lâm gọi là những lời thần chú.

Ông đọc qua một lần mấy hàng chữ nho. Rồi ông đọc lại lần thứ hai và thứ ba; làm như cứ nhắc lại như thế th́ sẽ thấy cái nghĩa ẩn trong đó:

Miệng có hai răng;

Ba chân bốn tay;

Mày vào trăm chân;

Mày lên ba tay;

Tên mày là đá;

Đá sinh trứng đá;

Trứng đá giữ của;

Mày có sức mang;

Mày giàu, mày chết.

Những câu kỳ lạ đến nỗi làm cho ông ngờ là lời thần chú thực. Nhưng không có lẽ; nếu phải lời thần chú th́ tên Nùng Khai đă học thuộc tất nhiên không đến nỗi chết, ngay sau khi ở hang thần chạy ra... Quyết nhiên đó là những bí mật, có nghĩa hẳn hoi, nhưng cái nghĩa ấy phải dùng hết tâm lực và trí sáng suốt mà t́m th́ mới thấy được.

"Hừ! (ông lẩm bẩm nói để tiếp theo những ư tưởng vừa rồi). Bọn quan Tầu họ quỷ quyệt lắm! Cũng là một thứ lời di lại, mà một đằng th́ là những câu dặn ḍ để t́m ra của, c̣n một đằng th́ lừa cho người ta mắc phải những cái nạn gớm ghê...

Nhưng ta, ta không mắc lừa đâu. Ta không nông nổi, u mê như bọn con cháu nhà họ Hoàng, tưởng đây chỉ là những câu có quyền phép mầu nhiệm. Không. TA biết. Rồi ta sẽ t́m cho ra nghĩa kín, ta sẽ khám phá cho kỳ được".

Ông lại hơi mỉm cười và nghĩ đến cái độc kế mấy trăm năm nay sẽ bị ông huỷ đi mất, mà cái kho của kia tất sẽ về tay ông.

"Miệng có hai răng... ba chân bốn tay"... có lẽ đó là mô tả h́nh dáng thần giữ của chắc? Không phải. Ta không được tin đến thần giữ của cũng như không được tưởng những câu này là thần chú. V́ nếu thế th́ không bao giờ t́m được đầu mối.

"Miệng có hai răng... ba chân bốn tay..." Lạ! "Mày vào trăm chân, mày lên ba tay". Hừ! Quái! Ai vào? Ai lên? Sao lại trăm chân, sao lại ba tay? "Tên mày là đá, đá sinh trứng". Đá sinh trứng đá? Trứng đá giữ của. Có lẽ họ để của ở dưới hang đá chắc? mà sao lại gọi là trứng đá? Trứng đá giữ của. Mày có sức mang... mày giầu mày chết".

Ông càng đọc càng nghĩ càng thấy mờ ám thêm. Chợt có một ư kiến thoảng qua, ông bèn xoay tờ giấy vuông đủ bốn chiều đọc từ trên xuống dưới, rồi đọc từ dưới lên trên; lại đọc ngang từ phải qua trái và từ trái sang phải. Nhưng cũng vô ích. Mấy hàng chữ vẫn trơ trơ giữ cái bí mật cùng với hai cái h́nh vẽ lạ lùng.

Ông Châu thử ôn lại các bộ truyện cổ mà ông đă xem, nhớ lại những sự tích chép ở trong ấy; bao nhiêu án ly kỳ ra đời trước cùng với bao nhiêu phương pháp cổ nhân dùng để tra, ông đều đem ráp vào việc cắt nghĩa tờ giấy này. Ông thấy từ cổ chí kim không bao giờ có những cái khó hiểu hơn, mà đến những việc tương tự như thế cũng vậy.

Hai ngọn đèn dầu thi nhau sáng, cùng nhau như nín lặng để xem ông Châu nghĩ ngợi trầm ngâm.

Ông ta ngồi trên giường gỗ, trên án thư, khuỷu tay chống bên cạnh một cái đế đèn, nắm tay th́ ấn vào mồm, đăm đăm như đang t́m gỡ một nước cờ bí. Lông mày nhíu lại một cách dữ tợn, hai mắt nh́n muốn thủng tờ giấy để trên bàn.

Lúc ấy vào đầu trống canh hai. Nhưng có lẽ ông châu quên cả thời khắc. Trong cái pḥng ấy ngoài ông ra lại c̣n Tô Nang là cô thiếp yêu quư. Cô chưa hề thấy quan Châu chăm chỉ miệt mài với việc quan như thế bao giờ. Cô ngồi ghé một chỗ lặng thinh, nghe tiếng quan Châu lẩm bẩm rồi lại im, nghe các tiếng buồn tẻ trong lúc canh khuya rồi cô dựa vào vách mà thiu thiu ngủ. Chốc chốc, ngọn đèn lại nhô cao lên, rồi khẽ co thấp xuống và nhẩy chập chờn.

Ông quan thổ không nói qua một lời ǵ nhưng h́nh như ông nghe thấy tiếng suy nghĩ của ḿnh rơ rệt nói trong giữa khoảng tĩnh mịch sâu xa của đêm tối. Bỗng chốc đồng hồ trên tường gơ một tiếng lạnh lùng vào giữa thời gian, cùng một lúc móng tay ông châu vô t́nh cạo xuống cạnh án thư nghe như tiếng con mọt gặm.

Có lúc ông ngáp lên một cái, nói khẽ mấy câu nghĩ ngợi trong trí, rồi lại trầm ngâm đắm đuối t́m những nghĩa ẩn nó chưa chịu hiện h́nh.

Dưới chân tường, tiếng chuột rúc rích chạy qua làm vểnh tai con mèo yên lặng. Ngoài sân, mấy con ngựa buộc trong chuồng tối đập chân xuống đất xôn xao. Một trận gió làm cót két cành tre; văng vẳng sau thềm, tiếng lá reo và tiếng sâu dế ŕ ŕ trong bụi rậm.

... Mày tên là đá

Đá sinh trứng đá

Trứng đá giữ của...

Cái đầu mối, ông mong gỡ được, càng t́m càng thấy bối rối thêm. Đă hơn một trống canh rồi mà những chữ này cùng với thằng người quỳ và bó đuốc vẫn cứ nhảy nhót hoài trong tâm trí ông quan Thổ. Lúc ấy cô thiếp của ông ngồi dựa ở bên tường kia đang há mồm ra ngủ kỹ. Đầu vẫn chưa bỏ cái khăn vuông chàm, trên mặt hiện ra vẻ ngây ngô và b́nh tĩnh.

Trái lại trên mặt quan ông đầy vẻ lo nghĩ lẫn với vẻ bực ḿnh. Bao nhiêu tâm lực ông đem ra hết mà vẫn không t́m ra được mối manh ǵ. Ông đọc lại những câu kỳ dị:

Mồm có hai răng...

Ba chân bốn tay...

Mày giầu mày chết...

Không biết đến mấy trăm lần rồi. Nhưng cái trí sáng suốt của ông h́nh như không đủ lực trước cái đêm tối vô cùng của bí mật. Cái cằm vuông của ông nổi cả xương và gân lên, hai má và hai tai ông đỏ như bị nướng vào ngọn lửa đèn gần đó.

Lần này ông không đọc bằng mắt nữa; ông lẩm bẩm như người làm tính: "Đá sinh trứng đá, trứng đá giữ của, mày chết... mày chết mày giàu, mồm có hai răng... mồm có hai răng... mồm có hai...".

Tiếng ngáy bên tường cứ rờn rờn hoạ theo, cô vợ trẻ của ông quan già đang vẩn vơ trong giấc mộng... Bỗng một tiếng bẳn gắt theo một nắm tay đập mạnh lên bàn:

- Mệ thảu mư!

Ông Châu vứt giấy quay lại đằng sau, Tô Nang tỉnh dậy.

Ông Châu thấy cô ta th́ ngạc nhiên hỏi:

- Ô ḱa, thế ra Nang không đi nằm à?

Ông Châu lại bên án để tắt bớt đèn đi. Chợt thấy chén nước uống thừa đổ ướt cả tờ giấy. Ông vội cầm lên thấm vào tập hoá từ cho ráo rồi hơ lên ngọn đèn cho khô.

Hàng chữ Hán và hai h́nh vẽ bên càng nổi rơ ở trên ngọn lửa tạt đi tạt lại. Bỗng nhiên ông Châu kêu lên một tiếng, rồi giáp cả hai ngọn đèn lại mà hơ tờ giấy lên. Ở giữa mảnh giấy hồng hồng, ông thấy một khoảng tối hơn. Một tia sáng vừa soi qua trí ông, ông nghĩ ngay đến một câu chuyện cũ.

- Phải, phải! (ông lẩm bẩm nói). Cũng giống như truyện tờ di chúc trong bức tranh... Phải rồi!... Cầm giấy giơ trước mặt mà đọc... mà bó đuốc lửa cháy ở sau tờ giấy... nó bảo ḿnh đốt lửa mà soi... mà ḿnh cũng như anh huyện quan kia... Ḿnh ngốc thật!

Thế rồi ông không hỏi ǵ đến cô thiếp nữa. Cô ta chẳng hiểu ǵ cả, đứng giương mắt thực to mà nh́n.
Ông Châu ngồi xổm trên giường, hai tay vừa run vừa dấp nước trên bàn vào mảnh giấy, rồi cẩn thận bóc chẻ nó ra làm đôi.

Một miếng giấy vuông sắc trắng hơn, dán áp vào nửa giấy thứ hai và bong ra gần hết. Ông Châu cầm soi lên ngọn lửa th́ thấy chi chít những nét chữ nhỏ nằm hỗn độn. Ông xem kỹ th́ biết mảnh đó là một tờ giấy rộng gấp làm tư. Ông phải hết sức cẩn thận mới lấy móng tay bóc mở ra được, v́ tuy nó cũng dai, nhưng theo với hai mảnh ngoài bị nhầu và thủng rách lỗ chỗ.

Trong tờ giấy mới này viết chữ dầy gần hết. Nét chữ cũng tốt và rơ như ở tờ áp ngoài. Ông Châu đọc thấy những lời này:

Hang Văn Dú trông như cái mồm có hai răng. Ba thước nói là chân, bốn thước nói là tay. Mày đo từ cửa hang vào trăm chân, rồi mày đo trở lên ba tay, th́ sẽ thấy chữ tên của mày là Thạch. Đào từ chữ thạch xuống sẽ thấy một cái hang nữa mang những ḥn đá h́nh nhẵn như trứng. Đá này giữ kho của đó. Nhưng không được lấy sức mà mang v́ mày t́m thấy vàng nhưng mày chết.

Bên cạnh những ḍng chữ này, c̣n một đoạn chữ nhỏ hơn và viết đá thảo:

Phải dán giấy này như cũ, mang theo trong ḿnh cho đến khi vận hết của trong Văn Dú. Nếu trong hang không có dấu vết t́m đào th́ về sau t́m đến nhà con cháu họ Hoàng mà thưởng cho họ năm ngh́n vàng. Nếu thấy có người chết vào chỗ đá lở th́ phải cẩn thận mà hết sức tránh sự báo thù của họ Hoàng.

Sáng hôm sau ông Châu Nga Lộc xuống nhà sớm, người thổ Kao Lâm c̣n ngủ li b́ trên một chiếc cói.

Mấy đầy tớ thức dậy thưa rằng hắn cứ mê man nói đến những hang, những núi, những người chết, với những người thắt cổ suốt đêm, nên không ai ngủ được yên v́ ai cũng sợ.

Ông quan thổ gật đầu bảo cứ để cho hắn nằm đó, rồi quay lại dặn bốn năm người đàn ông ở ngoài sân đi vào:

- Chúng mày ăn cơm thực nhanh rồi sắp sửa đi theo tao có việc cần. Cầm đuốc, cầm dao, cầm dây, mang xẻng cuốc, với đóng sáu con ngựa.

Mọi người biết là có việc quan hệ lắm, v́ không mấy khi quan Châu dậy sớm như thế, mà lại ăn mặc gọn ghẽ hẳn hoi. Ḿnh ông vận áo bông chàm thắt ở ngang lưng, chân đi giầy, đôi bít tất xanh kéo lên bó lấy ống quần, ngoài cùng lại quấn thêm một lần nịt vải.

Bấy giờ ông đang chít lại cái khăn nhiễu lớn và đứng đợi xem người ta đóng ngựa.

Ngoài sân, mới lù mù sáng.

Mấy con vật thấy người vào chuồng th́ đập chân xuống đất và ph́ thở rất mạnh.

Ông Châu bảo họ hẵng lấy cỏ cho ngựa ăn.

Dưới bếp lửa cháy to, chiếu lên mặt sân một dải ánh sáng mập mờ và lay động. Ông Châu giục người dưới bếp thổi cơm mau lên, những người c̣n xùm xụp đắp chiếu ngủ trong xó hiên nghe tiếng ông nói to lục đục trỗi dậy. Rồi người th́ đi mở cổng, người th́ vào bếp, người th́ ra đằng sau. Làm náo động cả cái cảnh lạnh lùng buổi sáng.

Lúc ông quan thổ cơm nước đoạn, từ nhà trên lại đi xuống th́ thấy người bộ hạ cũng đă ăn uống xong và đứng nai nít ở bên sáu con ngựa yên cương cẩn thận.

Trong này kín gió mà c̣n thấy giá lạnh, th́ ở bên ngoài tất rét hơn nhiều. Ông Châu lấy một cái khăn vải chàm to bịt kín lấy hai tai và thắt xuống cằm. Ông đeo một thanh gươm lớn mà ông vẫn mang theo trong lúc đi xa và đội một cái nón đan to vành đă cũ.

Ông đứng trước khung cửa, giữa khoảng ánh sáng đo đỏ của ngọn đèn yếu đuối bên trong, và dặn người nhà phải giữ người thổ Kao Lâm lại cho đến lúc ông trở về. Rồi ông bước ra, lên yên ngựa từ trong sân để cho mấy người hầu dắt ngựa ra khỏi cổng.

Trời mới tang tảng sáng. Sương xuống dầy quá đến nỗi không thấy được nhà cửa ở dưới chân đồi. Người ta bị cái thứ không khí ẩm thấp, lạnh lùng bọc lấy, và thấy ḿnh cách biệt với người đi bên cạnh. Ông Châu quay lại bảo hai tên bộ hạ đi lên trước, c̣n ba tên kia đi sau. Sáu người cưỡi ngựa đi hàng một như ngồi trên mây, cứ thuộc ḷng lần qua con đường nhỏ hẹp mà ra khỏi Châu Nga Lộc.

Người đi đầu không biết nên rẽ lối nào, dừng lại hỏi.

Ông Châu bèn truyền ra một cách dơng dạc:

- Cứ thẳng mạn Văn Dú mà tiến lên!

Ông có ư định xem họ cử động ra sao. Nhưng mọi người đều im lặng, lại không ra dáng lấy làm kinh lạ. Cái lệnh ông Châu mới truyền xuống, nhưng họ đă đợi nghe từ lúc mới bước chân ra. Vả lại họ là những người can đảm và rất trung thành.

Tuy họ cũng tin và sợ những cái ghê gớm của hang thần, nhưng họ lại tin và sợ cái oai của quan Châu chẳng kém. Giá thử bị sai phái đi vào những nơi nguy hiểm như thế th́ họ c̣n sẵn ḷng ngần ngại, nhưng bây giờ lại có cả quan Châu cùng đi.

Không ai nói một câu nào. Sáu cái đầu cùng chăm chú cúi trông xuống khoảng đất phía trước vó ngựa. Chung quanh đều mờ mịt không trông rơ vật ǵ.

Đi khỏi những tầng ruộng rạ cụt gần xóm làng th́ những đồi đất chen nhau ở trong đám sương mù lần lượt hiện ra rồi lại lần lượt biến mất. Sáu người càng tiến th́ trời càng thêm sáng.

Sương đặc cũng dần dần loăng thêm. Đường lối trông đă rơ. Người thứ nhất ngoảnh lại đă thấy mặt người sau cùng. Họ bèn bảo nhau thúc ngựa chạy nhanh, cho chóng tới nơi và cho quên rét

Được già nửa đường th́ núi Văn Dú mới thấy hơi lờ mờ ở sau cái màn hơi trắng đục. Đường lối đi rất khó v́ họ chọn toàn nẻo tắt, phải đi qua hai ba rặng rừng cây thấp xơ xác, và lên xuống năm sáu dăy đồi đất liền nhau.

Bọn đầy tớ quan Châu chưa một lần nào dám hỏi ông ta xem đến Văn Dú làm ǵ. Nhưng ông ta cũng cắt nghĩa cho họ biết rằng đến Văn Dú trước hết để khám phá những chuyện bí mật, sau để tra xét án mạng xảy ra ở đấy. Nhưng cái cớ chính, mà ông không nói đến là đi t́m vàng.

Lúc bọn ông Châu đến chân núi Văn Dú th́ đă vào khoảng giờ th́n (tám giờ sáng), đỉnh núi vẫn như bị sương ăn, mà thân núi cả ngang, trông lù lù đen có vẻ hầm hầm tức giận.

Quan Châu ngửng lên trông, rồi đưa mắt từ bên phải qua bên trái, chú ư nh́n từng cái kẽ núi lá cây chen chúc, cho đến những gân trắng rất lớn vạch theo chiều thớ núi, nổi lên trên mặt đá màu xám xanh.

Ông quan thổ xuống yên cùng năm người bộ hạ dắt ngựa đi từ sau lưng ra trước mặt núi, rồi buộc dây cương vào bốn gốc cây mọc gần nhau. Đoạn ông tuốt gươm ra, cẩn thận từng bước đi lên, và bảo trước cho mấy người kia biết có người Khách chết treo, để họ khỏi sửng sốt.

Ông Châu trông thấy người thắt cổ trước nhất. Nó ẩn hiện trong cành lá nhỏ và thẫm ăn màu với bộ quần áo chàm. Đến gần xem th́ mặt và bàn chân, bàn tay của người Khách đă xám x́ lại nhợt nhạt, v́ bị mưa dầm sương đượm đă lâu. Đằng sau đám cây miếu với bức tường vỡ là cái hang Thần mà ta đă biết.

Ông Châu nh́n người thổ già nằm ở một phía nhưng không chú ư bằng nh́n hai ḥn đá cao mọc trước cửa hang, ông nhớ đến câu: "Cửa hang Văn Dú trông như cái mồm có hai răng" và nghĩ trước đến cách vào hang xem xét. Nhưng ông quay lại để khám người Khách đă.

Ông lấy gươm bảo mấy người đứng đằng sau ông tiến lên rẽ đám cây lá dưới đất. Rồi ông bước đến bên cây bàng trụi lá. Ông đă tưởng cái thây sẽ xông nặc lên những mùi ghê tởm, nhưng lúc ấy ông chỉ ngửi thấy mùi ẩm mục của muôn ngh́n cây lá cao ngất và xanh um.

Nh́n kỹ th́ phía mặt bên kia của người Khách cùng với phía sau gáy và vai bị rỉa be bét, màu thịt đỏ nhợt như ruột củ nâu non. Ông Châu đưa gươm lên cắt cái dây thừng, th́ một vài con quạ vùng lên bay mất. Lưỡi gươm sắc vừa mới cứa, cái thây nặng nề liền rơi trên mặt cỏ, hai gối gấp lại trước nhất rồi gục đầu xuống cạnh chân bức tường. ông Châu sai người lật ngửa cái thây ra; đất, cỏ úa và lá ướt dính vào má, vào mồm và đuôi một con mắt đă trắng dă.

Người chết trông mặt dầy, vào khoảng ba mươi lăm, bốn mươi tuổi. Cặp môi trên râu lún phún, miệng hé mở, hai hàm răng trắng cắn chặt lấy nhau.

Ông Châu xem ra th́ biết người ấy bị giết chứ không phải quyên sinh: cái dây thừng ở cổ chặt thít vào như có ai bám lấy chân người khách mà lôi xuống. Ở phía dưới cổ, gần xương đ̣n gánh, lại có vết đâm, rộng và sâu. Ông Châu toan bảo cởi hàng cúc áo của người Khách ra, nhưng sau lấy mũi gươm rạch xuôi xuống.

Ba bốn lượt áo đă phanh mở mà trông như vẫn c̣n áo trong: v́ bụng người ngực người Khách đă đen xám như chàm. ở hai bên sườn người này, bọn ông Châu lại t́m ra được vết bốn nhát dao đâm nữa. Những vết đâm ấy cũng như vết trên cổ, sâu và rộng bằng ba đốt tay: h́nh như người Khách bị giết bằng một thứ đoản kiếm.

Hơn một phút đồng hồ, ông Châu đứng lặng, cúi đầu trên cái thây ma ngẫm nghĩ, trước năm bộ mặt sợ hăi của người theo hầu.

Cái cảnh tượng kỳ quái đến nỗi khiến họ không nói được lời nào; và có lẽ trong bụng họ không kịp nghĩ và không kịp hiểu chi hết. Mấy người tự nhiên đứng sát vào nhau như cùng thấy cần phải đồng tâm hiệp lực. Họ nh́n ông quan thổ như có ư hỏi, nhưng ông ta lặng thinh.

Gió thổi rung cành cây làm rụng lác đác những giọt sương trên lá. Bỗng chốc lại thấy giọng thê thảm của mấy con quạ núi quen thuộc nơi hoang vắng bay ngang trời vừa kêu.

- Thôi! Để nó ở đây, bây giờ đến hang núi!

Tiếng ông Châu nói hơi run run và hơi khà. Ông hắng giọng một cái, rồi nói to hơn:

- Thôi! đi ra!

Tiếng vang ở quả núi đáp lại một cách rất dị thường và khiến cho cả người nói lẫn người nghe cùng có những cảm giác lạ. Ông Châu vừa bước ra vừa truyền:

- Thằng Nọng, thằng Lường theo tao đến Nùng Khai. C̣n ba đứa kia sắp sửa cuốc, dao, dây để vào Văn Dú.

Bọn năm người thấy quan Châu lúc bấy giờ oai nghiêm như cái gươm ông cầm trên tay. Một tiếng ông nói ra ở chốn này họ đều coi như lời thần thánh. Trong lúc ba người chia nhau mấy bó đuốc và mấy cuộn dây dài th́ ông Châu với hai người kia đi lại bên cái xác khô của ông già thổ.

Xác Nùng Khai nằm hơi nghiêng, đầu trở vào phía hang, cánh tay trái đè dưới ḿnh, cánh tay phải khuỳnh vào đưa lên trên không, cứng như que củi gẫy; ngón tay và chân đều rút quặp lại; chân trên duỗi thẳng; chân dưới hơi co lên. Bộ mặt xám nhăn nhó trông rất xấu; mi mắt nhắm không liền, miệng há cứng ra, lưỡi thụt vào trong họng.

Ông quan thổ xem kỹ hai tay hắn th́ quả như lời người thổ Kao Lâm thuật, khắp bàn tay rớm những vết máu rất nhỏ, bấy giờ đă hoá thâm. Ông sai người cởi áo người chết xem c̣n thương tích ǵ khác nữa không. Nhưng ngoài những vết sẹo to ở cánh tay và gần vú - sẹo của những vết thương khỏi đă lâu lắm - th́ không c̣n thấy ǵ.

Ông lần trong túi áo trong của Nùng Khai th́ lấy ra được mảnh giấy cũ và nhàu, trên giấy vẽ đường lối đi đến Văn Dú và biên những câu giống in như mấy câu ở mảnh giấy hôm trước. Hai cái h́nh vẽ phóng ở hai bên trông vụng dại hơn h́nh mẫu. Ông cầm lấy soi lên ánh sáng th́ không thấy ǵ lạ. Ông lẩm bẩm một ḿnh:

- Th́ ra chúng nó không ngờ ǵ... nên chúng nó tưởng rằng cứ chép lại những chữ trên mặt giấy kia là đủ... Chúng nó chết là phải lắm. Đến ta, là người trí thức, mà nếu không v́ sự ngẫu nhiên th́ đời nào hiểu cái mưu ghê gớm của người Tàu... Huống hồ, chúng nó lại chỉ học thuộc ḷng những chữ vô lư ấy mà dám xông pha vào đây...

Ông c̣n đang gật gù như nhận ra một lẽ ǵ mới nghĩ, th́ ba người bộ hạ đưa ông xem một bọc quần áo mà họ đoán là của người Khách chết treo, cùng với bức địa đồ đă gần nát. Ông cầm lấy xem, rũ những áo ướt trong bọc, rồi đứng lẳng lặng. Bọn người theo hầu trông thấy cái suy nghĩ sâu xa ở cả trên những răn trán, trong hai con mắt dưới lông mày, và cái miệng măm mắm của ông Châu. Rồi ông lại gật gù:

- Phải rồi! Ta đoán không sai. Người này quyết là con cháu của viên quan tầu. Nhưng sao bây giờ mới sang đây? Ta có thể ngờ là mảnh giấy "di chúc" kia khi đem sang Tàu th́ đă phải thất lạc nhiều lần, hoặc bị tay kẻ khác chiếm đoạt đến nay mới lại t́m thấy...

"Nhưng cái đó cũng không căn cứ vào đâu. Chỉ phải xét xem ai đến đây mà giết người kia? Mà kẻ giết người ấy sao lại giết hắn một cách lạ lùng như thế? Cái chết của người Khách với của Nùng Khai này cùng bí mật như nhau, nhưng mỗi người chết một cách ghê gớm khác.

Ta đọc tờ giấy hôm qua th́ có thể đồ rằng Nùng Khai chết v́ những ḥn đá giết người. Những ḥn đá này v́ đâu mà giết được người, ta cần ḍ xét cẩn thận mới biết được. Rồi ông móc túi lấy ra tờ giấy mỏng ông t́m được ở trong mảnh giấy vuông của người thổ Kao lâm. Ông không đọc một chữ nào v́ ông đă thuộc hết. Ông chỉ tự hỏi:

- Người Khách chết ở kia, vậy ai đem mảnh giấy vuông vào trong hang? Trong hang có những ai? Mà Nùng Khai làm thế nào lại lấy được ra rồi chết?

Ông quan thổ nói câu sau cùng to lên và mắt ông vô t́nh nh́n vào mắt một người trong bộ hạ. Họ không biết nói ǵ, chỉ giương mắt to nh́n nhau.

Ông Châu bèn đứng sững người lại, vứt cái áo của Nùng Khai lên cái xác nằm trơ đó. Rồi ông bảo đốt đuốc, và sắp dây, sắp xẻng cuốc để vào hang thần.

Trước khi bước chân lên, ông đứng sững lại một lát cố thả tầm mắt soi vào khoảng đen tối trong hang, mặt ông hơi có dáng lo ngại và nghi ngờ. Ông biết rằng ông sắp dấn thân vào trong những sự quái lạ phi thường. Nhưng ông cũng trấn tĩnh lại ngay được.

Sau bó đuốc đă cháy lên bùng bùng, ông cầm lấy một bó nh́n năm người bộ hạ, rồi truyền:

- Bây giờ đi vào hang!

Năm người này thực là những người có can đảm bằng thép, rèn bởi cái oai quyền và cái trí cương quyết của quan Châu.

Họ cầm đuốc giơ cao lên, hai người đi trước, ba người đi sau, b́nh tĩnh cùng với ông Châu bước vào hang Văn Dú. Bóng lửa khuất vào trong đám tối đen không cùng.

Ngoài cửa hang, cây cối lại vẫn giữ cái vẻ hoạt động vô t́nh và lạnh lẽo như hôm trước, như lúc hai người thổ Kao Lâm mới bước tới, duy có khác một điều là thây người Khách đă thôi lủng lẳng ở dưới cây bàng, và trước hang thần, thêm một người nằm chết.

Ánh lửa đuốc chiếu sáng được một khoảng dài khiến cho ông Châu trông thấy trước những chỗ rẽ sắp bước tới và làm cho bớt cái hơi lạnh trong hang.

Hang rộng chừng mười bộ, càng vào càng thấy cao thêm. Dưới chân, đường đá rắn và trơn, nhiều quăng phẳng dễ đi như đă sửa sang từ trước.

Lối hang khúc khuỷu, đi chưa được mấy, ngoảnh lại đă không thấy cửa hang đâu. Ông quan thổ kỹ lưỡng xem xét hai bên, thấy cái mỏm đá, hốc đá nào cũng chú ư đến. Trên mặt vách đá màu rêu mốc đủ các sắc, ông Châu mỗi chốc lại tưởng như sắp thấy những dấu hiệu dị thường.

Nhưng không, chẳng có ǵ là ghê gớm, ly kỳ; cũng không thấy có vẻ ǵ là giết người hết. Từ cửa hang trở vào, thỉnh thoảng lại có một vũng nước hoặc ở giữa, hoặc ở cạnh lối đi hợp với hai cái lạch chỗ nhỏ, chỗ to theo chân vách đá.

Nước ở lạch trong hơn nước suối, ánh lửa đỏ soi xuống tận đáy thấy một lớp sỏi nhỏ và trắng tinh. Nhiều lúc cả bọn cùng dừng chân, không ai nói một lời nào, th́ thấy trong hang yên lặng, chỉ nghe có tiếng giọt nước trên cao rỏ xuống, với những tiếng dơi bám vào trong khe tối bị mất giấc ngủ v́ có ánh lửa và có người vào.

Năm bộ hạ càng vững ḷng, th́ ông Châu càng lo ngại. Cái yên lặng và dáng tầm thường của hang đá này như có vẻ lừa dối nham hiểm. Ông nghĩ đến những câu trong tờ di chúc bí mật: những lời trong giấy này biết đâu chẳng là những câu gạt ḿnh để làm hại ḿnh ở đây?

Ông có ư hối hận v́ không thử y lời dặn trong giấy là đo từ cửa hang vào cho biết chừng đă sắp đến nơi chưa. Nhưng theo như ông ước đoán th́ đến chỗ đó chưa được nửa đường, vả ông c̣n muốn xem xét một lượt đă.

Ông không để cho bọn theo hầu trông thấy cái lo ngại của ḿnh. Mà họ cũng không đủ
sáng suốt để trông thấy được. Họ chỉ biết tôn trọng cái vẻ trầm ngâm của chủ họ trong lúc ấy và hết sức vâng theo lời ông.

Giữa nơi kín đáo như thế, trong ruột một quả núi chứa chất những điều bí hiểm, ông Châu thấy như cách biệt hẳn với thế giới. Ông lấy làm lạ rằng ḷng can đảm của ḿnh bị lay động quá đến thế. Ông tĩnh tâm lại để xem ḿnh nghĩ ǵ.

Ông ngờ rằng trong hang núi có một sức mạnh làm tâm trí ông mê mẩn. Ông nh́n thứ ánh sáng đỏ bập bùng của mấy bó đuốc chiếu vào bốn phía đá, rồi ông lại nh́n bọn đầy tớ, họ nh́n lại ông.

- Vô lư thực, ḿnh lại nạt ḿnh chứ có ai đâu.

Ông nghĩ bụng thế, rồi ông truyền cho họ tiến lên.

- Tắt bớt đuốc đi, khói xông lên nhiều quá; để bốn bó cũng đủ rồi.

Họ nghe theo lời ông và đi mươi bước nữa th́ đến một vũng nước lớn lan khắp bề ngang đường hang núi. Giơ đuốc lên soi th́ thấy đến chỗ rẽ mà vẫn chưa hết. Đá chỗ ấy trơn lắm. Nước trên những thạch nhũ sèo sẹt rỏ xuống mấy ngọn lửa và mau như giọt tranh sau trận mưa rào.

Ông Châu sai hai người cầm đuốc tiến lên:

- Hai thằng hăy đi xem chỗ nước này đến đâu th́ hết.
Hai người tức khắc vâng lệnh rồi nhanh chân giẫm lên lớp đă cuội trắng ở dưới đáy mà đi vào. Hai ngọn đuốc lảo đảo soi dần vào quăng đường tối đen rồi khuất hẳn.

Được một lát, tiếng chân khoa nước thấy dứt. Rồi hai người thổ nói vang lên, giọng vui mừng như lấy làm lạ:

- Quan Châu à! Chỗ này hết nước rồi! Mà đàng kia lại sáng lắm. có lẽ chỗ này ăn ra một cửa hang khác cũng không biết chừng!

Ông Châu liền tiến lên cùng ba người bộ hạ. Ông để cả giầy lội xuống nước nhưng vội lùi lại ngay; nước lạnh buốt như làm rụng mất chân. Ông chịu rét không quen nên bảo hai người cầm đuốc cho ông và cho một người bộ hạ thứ ba, để hắn cơng ông qua cái vũng nước ấy.

Tiếng hai người đi trước vẫn nói lớn, họ bàn nhau tắt đuốc để dành đến lúc ra.

Bọn sau đi được già nửa đường, sắp tối chỗ rẽ. Bỗng nhiên hai tiếng kinh ngạc cùng kêu lên một lúc.

Ông châu lớn tiếng hỏi. Hai người không đáp chỉ gọi:

- Quan Châu à! C̣n trong hang chứ?

Giọng họ run run và réo vội lên như người sợ quá ngắn hơi thở.

- Quan Châu à! Lạ lắm! Đi mau lên! Đi mau lên!

Ông Châu giục người cơng bước thực mau. Những lời nói vừa rồi vang ầm lên cùng với tiếng nước reo dưới những bước chân khua động.

Khỏi chỗ vũng nước th́ thấy ánh sáng mà hai người kia báo trước. Ông Châu ở trên lưng người cơng nhảy xuống, vội chạy đến sau hai người kia xem. Ông cũng sửng sốt như họ, đứng lặng không nói được ǵ. Ba người sau tới nơi cũng đứng đực người ra như thế.

Trước mặt họ, cách độ hai chục bước, trong một khoảng rộng và cao như một cái động nhỏ, hiện ra một cảnh tượng quái gở kinh hoàng:

Một bọn năm, sáu người đàn ông nằm ngồi hỗn độn bên những tảng đá cuội cực to, gần sát chân vách đá. Một thứ ánh sáng trắng và yên lặng như vun ở ban ngày lạnh lẽo bên ngoài mà dội xuống bởi một cái lỗ ăn thông lên đỉnh núi; nhưng đứng chỗ ấy, ông Châu chưa trông thấy trời.

Ông bảo bọn theo hầu tắt hết đuốc đi, chỉ để lại một bó nhỏ. Rồi một ḿnh ông tiến lên trước, thanh gươm sáng lăm lăm trong tay. Ông quay lại truyền:

- Năm đứa bước theo tao! Nhưng nếu tao không bảo th́ không được làm ǵ đấy. (Ông lại chỉ những ḥn đá cuội lớn). Mà phải cẩn thận, không đứa nào được chạm đến những tảng đá ấy. Nó nguy hiểm lắm đó: nó làm chết Nùng Khai và những thằng này.

Bọn theo hầu c̣n đang kinh khiếp sẽ th́ thào nói như chính ḿnh lại sợ tiếng ḿnh, th́ ông châu bỗng chú ư ngay đến một khoảng tối đen ở trên một phía vách đá, cách mặt đất độ năm sáu thước, và to gần bằng một cái nong. Nh́n kỹ th́ đó là cửa một cái hang con bị lấp đầy những ḥn đá cuội to cùng màu và h́nh như cùng hạng với những tảng đá lăn lóc dưới đất.

Ông Châu bước lại gần, ngẩng lên nh́n một hồi lâu rồi nghĩ thầm:

- Th́ ra chúng nó cũng biết đây là lối vào nơi để của và cũng đoán được cái câu: "Mày vào trăm chân, mày lên ba tay" ở trong bài di chúc vắn tắt. Mà có lẽ bọn con cháu họ Hoàng đă t́m thấy nghĩa câu ấy từ trước và bắt đầu phá cái hang nhỏ này rồi. Nhưng chúng đoán ra, đào ra để t́m thấy cái chết chứ không t́m thấy của.

Rồi ông lẩm bẩm trong mồm, nửa như nói một ḿnh, như bảo lũ bộ hạ:

- Hừ khôn khéo, khôn khéo mà ghê gớm lắm!

Mấy trăm năm trời nay, những ḥn đá kia giết đă bao nhiêu nhân mạng? Viên quan Tầu kia giữ của bằng cách gieo những cái khủng khiếp, chắc tưởng rằng phi con cháu nó th́ chả có ai là người lấy được của trong này ra; chớ có ngờ đâu đến lượt ta... ta quyết phá cho tuyệt cái kế thâm độc ấy!

Nói đoạn ông quay lại dặn bọn người nhà lần nữa:

- Không được đứa nào động đến những ḥn đá này đó. Hăy lôi xác những thằng này để ra một nơi cho tao xét xem.

Năm người kia vẫn đứng yên, chưa hiểu ra sao, ông châu lại quát:

- Mau lên chứ! Lôi chúng nó ra cả một bên!

Bọn chúng có sáu người, gần hết trông to béo lực lưỡng, họ ăn mặc đều một loại áo vải dầy màu chàm. Da mặt và tay họ đều xám đen như da Nùng Khai. Họ cùng đi một thứ giầy vải, ngoài quấn những dây nịt khiến cho lá cỏ cành lau giắt đầy chung quanh chân. Coi mặt mũi và y phục th́ biết họ là người Tầu, nhưng không thể đoán được là người ở bậc nào v́ tất nhiên họ phải thay đổi h́nh dạng.

Người thứ nhất bấy giờ đă lôi ra để một chỗ là người c̣n trẻ, mặt mũi nhăn nhó như người đau đớn gớm ghê. Người thứ hai và người thứ ba ngồi dựa lưng vào vách đá, một người ngửa cổ lên, c̣n một người ngả đầu xuống vai người nọ; lúc mấy tên bộ hạ thổ xốc nách kéo hai cái xác đi lùi lại, th́ đầu hai người chết vẫn ngửa; miệng th́ xếch lên như cười một cách đần độn.

Người thứ tư là một ông già, mặt xương xương, mép và quai hàm lởm chởm những râu, mắt to, mở trừng trừng, đang nằm nghiêng ôm lấy một ḥn đá cuội. Bọn người thổ phải khó nhọc mới kéo được ông già ấy khỏi chỗ cũ, v́ chân ông ta bị đè dưới bụng một người to béo người này đâm chúi đầu xuống, miệng hôn đất, tay quắp lại, mười ngón quào sâu vào đùi ông già.

C̣n người sau cùng mở mắt nhưng ḷng đen chạy lên mí trên, mồm cứng và hé mở, môi dưới trề ra; hắn ngồi g̣ ruột ở một bên, vai so lên, cằm sát ngực. Bằng ấy cái xác cứng đờ như tượng gỗ, họ đều kéo lại cho nằm kềnh càng ở một chỗ sáng nhất, trên mặt đất hang rắn và ẩm, ḿnh đè lên những cái côn sắt lớn và nhọn, những thanh gươm ngắn và trần, những bọc vải xanh đựng cơm và bánh khô với những bó đuốc đă tắt lửa.

Tuy có đông người trong hang và tuy đă hơi dạn với cái bí hiểm, ông quan thổ cũng phải gắng sức mới b́nh tĩnh được tâm thần. Trước cái cảnh tượng quái gở mà ông thấy đó, ông sẽ lắc đầu mà tưởng đến cái ghê sợ của một người vào đây một ḿnh. Ông tự nghĩ:

- Thế mà ta chực không cho đứa nào theo đấy!

Cũng may mà ta nghĩ lại... Nếu không th́ những lúc này liệu c̣n can đảm không?

Rồi ông nghĩ đến Nùng Khai và đến lúc hắn trông thấy bọn người chết. Ông chắc rằng khi Nùng Khai vào Văn Dú th́ đă thấy bọn Khách ở đây mà lúc ấy họ cũng đă chết rồi.

Nùng Khai có lẽ chết v́ khiếp sợ quá? (Ông nghĩ thế, nhưng lại lắc đầu). Khiếp sợ mà đă chết ghê gớm như thế này được ư? Mà Nùng Khai có khiếp sợ không? Không chắc, mắt tên cướp kia đă quen thấy máu đổ, quen thấy những cảnh tàn sát nhiều lần rồi; mà cái ḷng hung bạo ấy lại nhờ có sự ham chiếm được của làm cho táo tợn thêm... Vả nếu nó biết sợ đă không dám vào đây ngay từ lúc thấy xác người Khách thắt cổ.

Lúc ấy ông Châu từ từ đưa mắt nh́n khắp động từ trên xuống dưới, từ trái sang phải; nhưng không chú ư đến vật ǵ. Ông c̣n đang đoán tưởng lại những cử chỉ của tên thổ già từ lúc vào đây đến lúc chạy ra cửa hang mà chết, th́ bỗng trông thấy một con dao rừng với một bó đuốc bằng sam mộc nằm ở bên một tảng đá cuội.

Con dao ấy tất nhiên không phải của bọn Khách, v́ đó là thứ dao rừng chỉ riêng người thổ quen mang. Mà bó đuốc kia chắc cũng là của Nùng Khai, theo như người trai thổ Kao Lâm thuật lại.

- À thế th́ chắc Nùng Khai t́m thấy tờ di chúc kia ở chính chỗ này đây. Rồi tất nó phải chạm đến những tảng đá này mới chết được... Có lẽ nó tưởng trong đá cuội có vàng ngọc nên mới lấy tay vần xem...

Nhưng nó ngu ngốc đến đâu cũng phải nghi ngờ chứ... Bọn Khách kia chết cứng đờ ra đó, mà những ḥn đá này th́ lăn lóc ở bên...

Ông quan thổ cau đôi mày lại, nh́n trừng trừng xuống đất, một ngón tay chập chạp găi sau mang tai. Rồi ông ta se sẽ một tiếng thở dài.

- Hay là tờ giấy kia bị một ḥn đá đè lên? Nùng Khai muốn cầm giấy xem nên mới mang bỏ ḥn đá sang bên cạnh? Ừ có lẽ thực thế, v́ tờ giấy ta thấy thủng rách lỗ chỗ mà ở hai mặt giấy ta c̣n thấy màu đất bám và phảng phất màu rêu xanh. Nhưng dẫu sao, ta hẵng cứ biết rằng Nùng Khai cũng như bọn Khách kia, bị chết v́ đă phạm tới những ḥn đá cuội ấy.

Những tảng đá này trông nhẵn và cũng khá tṛn, tự cái lỗ đang đào dở lăn ra, và nhiều tảng lăn tản mát tận đằng xa và khuất trong đám tối.

Ông châu đến bên một tảng, cúi xuống xem xét một hồi rất lâu, nét mặt khó khăn, chăm chú và tỏ ra chiều rất cẩn trọng.

Ông lẩm bẩm nói:

- Cái thần giữ của của nó mới hiểm ác chứ! Có ai ngờ đâu những vật ghê gớm này lại là những tảng đá tầm thường.

Rồi ông đứng sững lên, lại gần mấy cái tử thi người tầu, khạc một cái nhổ xuống đất và gọi bảo lũ bộ hạ:

- Trên mặt bàn tay lũ này cũng như trên mặt bàn tay của Nùng Khai, có những vết máu lấm tấm đen, dấu vết của những ḥn đá giết người đó. Đứa nào phạm đến những vật ấy th́ cũng phải chết như những tên vô phúc kia. Chúng mày phải coi chừng đấy.

Lúc ấy, ông đang lom khom cúi xuống xem cái xác người Khách già nhất. Người này trông vẻ hung ác, hai mắt nh́n thẳng vào chân ông Châu.

Bên cạnh cái bao gươm to bản và ngắn đeo vào cái đai vải thắt ngang lưng hắn, ông c̣n thấy giắt một cái hộp thiếc mà ông không thấy ở thắt lưng bọn kia. Hộp này dài hơn hơn một gang, ngang bằng ba đốt tay và dầy hai đốt.

Ông châu liền cầm ngay lên, rút nắp lấy ra được hai tờ giấy cuộn tṛn lại. Tờ thứ nhất là một cái giấy thông hành của quan tổng đốc Quảng Đông cấp. Tên người mang giấy đó là Thạch Dụng, ba mươi tư tuổi, làm thầy địa lư, quán ở B́nh Giang. Cứ tuổi trong tờ giấy này th́ ông già kia không phải là Thạch Dụng, mà người mang nó có lẽ là người Khách bị giết ở gần cửa hang.

Ông Châu xem đến tờ thứ hai. Tờ giấy này dầy như b́a, mầu vàng bẩn. Ông quan thổ vừa thoạt giở ra đă thấy kinh lạ: chữ trong giấy viết bằng máu, nét găy cứng như vạch bằng que. Lời trong giấy như sau:

"Bọn dũng sĩ chúng ta là Đô Bá Kỳ, Tần Du, Điền Nhị Giang, Lư Thất và Lư Nhạc, năm mănh hổ ở vùng Mê Sơn, xông pha hiểm trở, theo vết chân Thạch Dụng đến đây để chiếm lấy kho vàng của y. Năm chúng ta cùng tra khảo y, cùng lấy được mảnh giấy chỉ cách đào lấy của, rồi cùng giết chết y.

Vậy chúng ta thề nguyền với nhau rằng, của cùng t́m được chia đều, và phải giữ việc này cho kín. Nếu trong bọn ta, có kẻ nào manh tâm muốn chiếm lấy phần lớn, hoặc t́m cách giữ cả cho riêng ḿnh, th́ kẻ ấy sẽ bị chết treo trên cây v́ tay chúng ta, bị năm nhát dao trên ḿnh, y như số mạng của Thạch Dụng.

Chúng ta lấy máu của y để viết tờ giấy này, lại cùng chích máu ḿnh biên tên và in dấu ngón tay vào đây kư kết".

Năm ngón tay cái in thành một hàng máu đỏ nhoè nhoẹt ở sau những câu ghê gớm ấy. Ông Châu lặng yên, không nói ǵ. Một lát ông quay lại nh́n bọn người tầu, thấy mặt mũi họ càng thêm vẻ độc ác. Nhưng bọn giết Thạch Dụng chỉ có năm đứa, vậy đứa thứ sáu là ai? Có lẽ là đứa trẻ nhất, và có lẽ là người đi theo Thạch Dụng đến đây làm chân trong cho chúng.

Một lát ông Châu lại nghĩ:

- Th́ ra quả nhiên tên Khách chết treo là con cháu người quan tầu thực. Nhưng tại sao măi bây giờ mới sang đây? Mà bọn cường bạo kia ḍ xét làm sao lại biết được y sang t́m của. Cái đó toàn là một thiên bí mật khó ḷng mà khám phá được ra.

Ta chỉ phục viên quan tầu thực là người sâu sắc! Câu dặn con cháu phải gắn lại tờ di chúc, ta tưởng là vô lư, nhưng đến nay mới rơ cái ư khôn ngoan.

Viên quan tầu có lẽ muốn pḥng hai điều, một là bảo con cháu giữ lại đừng huỷ tờ giấy đi, để sau có khi phải đem ra chứng nhận cái quyền được hưởng của trong hang Văn Dú; hai là hoặc trong khi đi t́m của, có kẻ theo mà tra khảo th́ tờ giấy kia với những câu kỳ dị viết trên đó sẽ lừa gạt kẻ chiếm được nó và báo thù cho con cháu ḿnh.

Viên quan tầu muốn cho của trong hang Văn Dú nếu không về tay ḍng dơi nhà y, th́ không về tay ai hết. Mà của cải với nơi chứa nó sẽ là tai hoạ ngh́n năm cho những kẻ muốn t́m ṭi... Ta cũng là kẻ t́m ṭi đây... Nhưng cái mưu kế lập ra từ mấy trăm năm kia đối với ta không có giá trị ǵ nữa!

Ông quan thổ gấp cả hai tờ giấy tra vào cái hộp thiếc như cũ và giắt vào thắt lưng ḿnh, rồi ông sai bọn theo hầu đem cuốc xẻng và dao trường đến phá nốt cái lỗ hang ở trong phía tối.

Họ vâng lời, tức khắc lấy xẻng và dao nậy những ḥn đá từ dưới trở lên. Cứ mỗi ḥn đá rơn ra họ phải nhẩy lùi lại. Cái khó trong việc đào phá chỉ là phải tránh những ḥn đá cuội đó. Ông Châu đứng một bên, trên một tảng đá xanh, cao và khá phẳng.

Ông vừa bảo ban vừa thôi thúc họ; trong động vang lên những tiếng cuốc xẻng, những tiếng ông Châu quát, với những tiếng đá cuội lăn ra. Lỗ hang, sau đó một hồi lâu đă thấy mở ra được non nửa về phía dưới. Lúc ông Châu toan bảo một người đốt đuốc lên, th́ ông chợt thất kinh kêu lên một câu dữ dội:

- Này chết! Lùi ra mau!

Vừa lúc bọn đầy tớ hốt hoảng nhẩy lại đằng sau, th́ rầm một cái như sét nổ trời, cả phần trên lớp đá cửa hang cùng lở xuống.Bọn thổ chạy tán loạn nhảy như lũ vượn, để tránh những ḥn đá tṛn đuổi theo. Đá cuội cứ lăn ra tứ tung và chiếm gần nửa chỗ trong động. Cũng may không ai việc ǵ. Nhưng họ mất sắc đi v́ khiếp sợ.

Lúc họ đă dám quay lại nh́n th́ cái cửa hang nhỏ đă rộng mở. Hang này cách đất độ bốn, năm thước, cửa hang to bằng một cái nong. Không thể biết hang nông hay sâu: trông vào th́ chỉ thấy mù mịt đen và phảng phất như có khói.

Ông Châu bảo họ lấy dây thừng và dây mây làm thành những thứ quang sơ sài để tải những ḥn đá kia ra một chỗ. Ông đến xem mấy ḥn đá gần nhất th́ thấy cũng là một thứ đá cuội như những ḥn lăn ra trước, nhưng nhỏ và nhẵn nhụi hơn.

Ông lại nh́n kỹ những ḥn phía gần cửa hang, là những ḥn đá rơn xuống trước tiên th́ lại thấy chung quanh đá bong ra những mảnh cát to hạt và sắc cạnh mà ông không dám động tới. Ông gật đầu mấy cái rồi nói:

- Chỉ có lượt đá ngoài cùng là nguy hiểm thôi.

Tuy thế song cũng bảo bọn kia phải cẩn thận mà khiêng từng ḥn một. Họ lẳng lặng theo lời ông như một bọn người máy.

Khi đá cuội ở bên những cái xác chết đă xếp thành một đống to và khi đă có lối đi tới cửa hang ông Châu mới bảo đầy tớ đem cái bó đuốc gần tàn lại để nối. Ông th́ cầm bó đuốc sam mộc của tên Nùng Khai. Thấy một tên bộ hạ không đi hài xảo, ông liền bắt hắn cởi giầy của một người chết để xỏ chân vào. Rồi ông nói:

- Bây giờ chúng mày đem những tảng đá kia chồng thành bậc để lên. Những đá rơi ra sau th́ không đáng sợ lắm.

Mấy ḥn đá xếp thành một thứ bậc thang cũng khá tiện. Ông châu đem đuốc lại nhóm, chỉ để lại hài bó dành đến lúc ra.

Rồi ông nh́n lại một lượt chung quanh ḿnh, cảnh tượng trong này thực kỳ dị. Đám người chết co quắp nằm nghẹo đầu giơ chân ở chỗ ánh sáng ban ngày soi xuống, cùng với những ḥn đá cuội chất đống, màu đất ẩm khác với màu xanh xám của vách hang.

Cách đó không xa, bọn người thổ xúm lại với nhau đứng trong bóng tối. Họ sửa giầy rơm, đai lưng, hay đốt thêm thuốc. Ánh lửa đỏ bập bùng chiếu một bên mặt tai tái của họ và chiếu lên mặt hang đá làm rơ rệt thêm cái lạnh lẽo của thứ ánh sáng ngoài trời soi xuống.

Bó đuốc của ông châu và ba bó đuốc của bọn đầy tớ đă cháy to, nổ lách tách. Hai người giụi tàn lửa lên đá rồi theo lời ông châu, chui vào cửa hang. Ông cùng lên với người thứ ba để cho hai người sau cầm đuốc đi tập hậu. Cái cửa hang nhỏ lúc ấy trông như miệng một cái hoả ḷ đang cháy, mỗi lúc một tối dần. Không bao lâu, cả lửa đuốc lẫn người cũng bị cái miệng đá ấy nuốt chửng.

Thoạt mới vào, đường đi rất khó. Họ phải lom khom cúi; trên đầu họ, trần đá thấp như muốn đè măi họ xuống, mà dưới chân có nhiều chỗ hơm hốc, lại thêm đá cuội bên ngoài lăn vào làm cho họ phải hết sức dè giữ mới dám bước lên. Họ không giơ được ngọn đuốc lên cao. Ánh lửa trước mặt làm cho chói quá, phải đưa cánh tay lên che ngang mắt mới trông được rơ lối đi.

Nhưng hang càng vào sâu càng rộng, và dễ đi hơn. Vào chừng hơn mười bộ th́ đuốc đă giơ lên được quá trán; trần đá cũng cao dần và đỡ thấy nặng nề. Họ càng vào sâu th́ khí lạnh càng thấm thía. Một thứ gió lan đi rất chậm, từ chỗ đen tối cùng cực đưa ra. Họ phảng phất ngửi thấy những mùi hôi tanh và ẩm mốc.

Đứng lại độ nửa phút, ông châu lẳng lặng nhổ bọt, rồi lại tiến lên. Lối đá rêu cũng khá rộng. Ông châu cho hai người đi quá ông một bước, c̣n ông đi giữa họ, hơi lùi về đằng sau. Bỗng nhiên ông châu dừng chân, nói một cách kỳ lạ:

- Ồ! Đứng lại, đứng lại xem đă! ồ!... Ḱa!

Họ trừng mắt trông lên.

Trong khoảng giữa tối om, thấy phảng phất h́nh một người trăng trắng. Ánh lửa cử động khi mờ khi chói, nên cái h́nh ảnh vừa rồi lúc biến lúc hiện rất mơ hồ.

- Cứ đi lên xem, chỗ ấy cách đây xa quá nên không rơ.

Họ tiến lên mới được mươi bước nữa th́ cái h́nh lúc này thành ra một bộ xương người. Bộ xương này ngồi ngoảnh mặt ra, ở trên một cái bệ gạch rất lớn.

Cái đầu lâu, hai mắt rỗng đen thao láo, ngả về phía trán ở giữa hai cánh tay giao nhau. Hai tay này để trên một cái cột, cao lên tới ngực. Hai ống cẳng đă rời, dựa vào cái bệ như hai thanh củi: phía trên bàn chân có những xích sắt con han gỉ, chằng buộc hai ba ṿng.

Màu xương th́ xanh đen, mốc rêu, cũng như màu cái cột đá. Hàng xương sống vẫn thấy liền khớp, vẫn thấy chống giữ bộ xương ngực. Trên bả vai, lúc soi đuốc lại gần, thấy một thứ mùn nát thành bụi lẫn lộn với một ṿng tóc xam xám và dài.

Ông Châu nghĩ ngay đến lối yểm vàng của bọn người tàu. Ông nghĩ đến cái nỗi tuyệt vọng của người mà họ dùng làm thần giữ của; nghĩ đến cái ḷng thâm độc của kẻ tin những điều vô lư mà hại người. Sau khi t́m được những ḥn đá cuội, ông không nhận là có thần thánh ǵ nữa.

Nhưng ông lại nghĩ:

- Viên quan tầu kia đă có những tảng đá để lấp cửa hang trong, hắn đă có phép giấu vàng kỳ bí hiểm rồi; hà tất phải nhờ đến thần thánh nào khác để giữ của cho hắn. Ta cần phải biết rơ điều ấy. V́ biết đâu rằng, sau bộ xương vô giác kia, không c̣n ẩn những mưu kế ǵ lừa gạt ḿnh nữa...

Ông đứng yên một lát, trí suy nghĩ, tay vân vê xoắn suưt bộ râu cằm. Sau, ông cứ gật gù hoài, miệng mím vào như muốn cười, mặt lộ ra vẻ khoan khoái:

- Phải, phải, chỉ có hai lẽ ấy; chứ viên quan tầu kia giết người vô ích làm ǵ? Một là người tầu nghĩ đến cách yểm vàng từ trước, từ khi mới để của ở đây... rồi dần dần mới tính ra, mới dùng cách xây dựng cửa hang bằng thứ đá cuội nguy hiểm.

Hai là bộ xương kia chẳng qua chỉ là xương của một kẻ bộ hạ theo vào giúp việc trong này. Mà người giúp việc ấy cũng như những kẻ tải gạch đá vào xây nên cái bệ này đă trông thấy của cải trong này, nên phải giết đi, để triệt những tấm ḷng tham và làm câm những cái miệng không kín đáo.

Thế rồi một ư kiến nảy ra, viên quan tầu đem người bị giết đặt lên bệ sau cái cột đá ấy để làm một thứ bù nh́n. Kẻ nào không phải là người có quyền lấy của, chẳng hạn như ta đây, mà ḷng mê tín vẫn c̣n th́ sẽ bị cái bù nh́n kia làm cho kinh hoàng, có khi c̣n ám ảnh suốt đời nữa.

Cái bệ mà có bộ xương người ngồi ở một bề thoại trông, ông Châu đă biết ngay là chỗ đựng của. Bệ này h́nh chữ nhật, rộng gần bằng dài, và xây bằng gạch, trông chắc chắn nhưng rất vụng về.

Ông quan thổ lây mắt ước lượng th́ mỗi bề ngang dọc vào khoảng bốn và năm thước và về cao th́ vừa bằng cái ống cẳng bộ xương. Mặt bệ cũng khá phẳng, gạch xây toàn là những phiến rất lớn và xem ra rất dầy. Mầu gạch một vài chỗ nâu sẫm như da sành, nhiều khoảng rêu cáu vừa xanh vừa đen, nhiều chỗ long lở như đất khô hay mốc bám.

Ở hai bên c̣n chừa ra hai lối nhỏ đi ra phía sau bệ, đến chỗ cùng hang. Ông Châu cầm đuốc bước vào. Trần đá càng ở xa càng thấp.

Ông đứng sau bệ ngoảnh vào, thả tầm mắt nh́n cái khoảng tối đen mà lửa đuốc không soi tới. Ông đi vào mấy bước th́ phải cúi thấp măi xuống. Ông thấy cái cảm giác như bị đè nén măi ở dưới cái trần đá nặng và dày. Ông thử nghĩ xem chỗ ông đang đứng ở phía nào trong ḥn núi đá. Nhưng không đoán ra.

Khi mắt đă quen tối, ông chợt thấy h́nh ba bốn bộ xương người nữa. Ông gọi đầy tớ lại và bảo cho chúng biết là họ bị hại bởi tay người tàu... Nhưng xét kỹ th́ h́nh như họ bị thuốc độc chứ không phải bị chém bất th́nh ĺnh như ông thoạt tưởng: bộ xương nào cũng c̣n nguyên, mà cổ vẫn liền với đầu.

- Vả lại, ông Châu nói tiếp viên quan tầu ngoài cách đầu độc họ th́ không dám giở ngón ǵ ra. V́ tất nhiên y vào đây có một ḿnh, với bọn kia... nếu họ hơi thấy viên quan có ư phản trắc tất họ không để cho y sống.

Nói đoạn ông quay trở lại, đưa bó đuốc cho một người đứng bên. Ông đứng sau cái bệ lớn, yên lặng một hồi lâu, tay cầm gươm, vô t́nh vạch lên mặt bệ những nét nhằng nhịt. Lần này là lần thứ năm, thứ sáu, ông ngẫm lại những cảm giác và những điều ông suy tính trong ḷng.

Lúc ấy ông thấy ḷng xôn xao. Ông dịu lời bảo đầy tớ nổi thêm đuốc lên, th́ thấy giọng nói của ḿnh hơi khác. Quả tim ông đập nhanh và mạnh lắm. Có lẽ đó là v́ mừng. V́ ông biết rằng trong cái bệ lớn kia, có một kho của lớn mà chính ông, ông sắp được hưởng...

Viên quan Châu nhỏ mọn, danh phận mờ tối ở trong bóng những rừng hoang, nay chỉ c̣n phải lật có một lần tường mỏng nữa là được trông thấy cái phú quư to nhất trong nước... Ông sẽ làm nên tiếng tăm, ông sẽ t́m cách cùng một đồng liêu người Kinh, làm quan trong bộ. Ông sẽ mở một con đường mới cho người cùng giống. Người ta có của là người ta có quyền.

Ông hắng giọng cho lời nói mạnh lên. Bọn theo hầu đă đốt thêm đuốc.

Ông sai giắt hai bó lên kẽ đá, bảo ba người khác cầm năm bó, c̣n ông và hai người mạnh khoẻ nhất th́ lấy xẻng, cuốc để bổ vỡ cái mặt bệ ra. Cuốc vừa mới giáng được một nhát, bộ xương người bỗng đổ rơi xuống, xếp lại thành một đống hỗn độn trên mặt bệ , cái đầu lăn ra một bên. Ông châu bắt họ không được ngừng tay. Họ đang ra sức bổ nữa th́ ông Châu ngăn họ lại.

Rồi một tay cầm lấy một con dao c̣n tay kia ông rờ vào chỗ kẽ vừa mới nứt ra ở một góc bệ. Ông lấy mũi dao cắm mạnh vào đó, bảo một người nữa cùng làm thế, rồi hai người lấy hết sức bẩy lên. Một phiến gạch dầy ước nửa gang tay, to bằng nửa cái án thư bật lên, để lộ ra một lớp gạch nữa mới hơn ở dưới một lần vữa mỏng. Lớp gạch phủ trên đá phá hết. Lớp gạch dưới mới nậy được ba viên.

Ông châu vội bảo họ ngừng tay: ông đă trông thấy những h́nh nén, h́nh thoi in nhấp nhô ở dưới một lần vải phủ trên. Mảnh vải ấy cách lần gạch độ ba đốt: ông quan thổ cầm lấy mép vải rồi nhanh tay lôi lên, mảnh vải mủn rách bung ra; ông châu mở mắt cực lớn.

Những thoi vàng dài, màu xanh xanh, nằm hỗn độn bên những xâu ṿng trắng muốt, đó là những vật ông trông thấy trước nhất, bọc trong những mảnh lụa hay giấy mỏng ḷi ra. C̣n ở dưới th́ toàn những bọc c̣n nguyên, có lẽ cũng là bọc vàng, ánh lửa soi vào làm hơi lấp lánh ở những chỗ rách.

Ông quan thổ, mười ngón tay run lẩy bẩy, đưa cả chực bốc; ngập ngừng một lát, rồi với lấy mấy cái bọc đưa lên tận mắt để xem.

- Chính phải rồi. Chính vàng! Vàng! Vàng với những ṿng ngọc. Vàng ngọc cao gần ngập bệ, lại c̣n khuất ở dưới những phiến gạch kia!

Bỗng nhiên ông nín lặng. Ông liếc mắt nh́n bọn tôi tớ. Chúng nó đứng mê đi như những pho tượng cầm đuốc, chống xẻng. Ông thấy cái ghê rợn chạy khắp người.

- Nhưng mà không! (Ông nghĩ thầm) không hề ǵ! chúng nó là người trung thành lắm. Ta phải b́nh tĩnh mới được... ừ không sợ ǵ!

Tuy thế ông vẫn đề ư đến cử chỉ của họ và nh́n lại cái gươm sáng của ông dựng ở một bên đùi. Ông kéo hai, ba gói nữa lên th́ thấy toàn là những chuỗi ngọc kim cương và bạch ngọc. Lúc ông để cả xuống th́ chú ư đến một tập giấy nhô ra ở trong bóng tối của phiến gạch dày. Ông cầm giở ra xem th́ đó là một quyển sổ mỏng.

Giở tờ thứ nhất, thấy mấy ḍng viết rất tốt;

"Thạch điền quang. Minh triều đại thần, xung Nam bang đô đốc chi bảo"

Trang thứ hai kê những đồ đĩa ngọc, chén ngọc b́nh vàng và bạc rồi đến trang kê các thứ ngọc: ngọc thạch, ngọc trai, kim cương... Trang thứ tư và thứ năm, các đồ bằng ngà voi, bằng san hô; ngà voi nguyên, sừng tê... Trang cuối cùng kê toàn là vàng, vàng thoi, vàng nén, vàng diệp các hạng.

Trừ những người bộ hạ của quan Châu nga Lộc th́ không ai biết đến chuyện ông t́m thấy của. Cả ông châu kao Lâm cũng vậy: ông quan này tưởng cả hai tên bộ hạ ông sai đi đều bỏ xác ở hang Thần.

Người thổ Kao Lâm từ khi gặp những điều kinh khủng trước cửa hang đá th́ ở lại châu Nga Lộc, mấy tháng ṛng ră không dám bước chân ra ngoài.

Rồi một ngày kia, người thổ ấy tự nhiên đi đâu măi không về nữa. Người ta đổ đi t́m các ngả cũng không thấy. Sau cùng, một người lách vào một bụi rậm gần đấy th́ thấy hắn chết treo ở dưới cây ổi lớn bên nhà ông Châu. Bọn bộ hạ theo ông Châu hồi xưa lấy làm kinh ngạc vô cùng.

Họ ngờ là ông ta lập mưu giết nó. Nhưng phần nhiều là đoán nó tự tử, v́ họ thấy nó bị cái hối hận và khiếp sợ cắt rứt ám ảnh không thôi. Và bọn người theo ông châu sau này vẫn được sung sướng, giàu sang một cách b́nh tĩnh. C̣n ông Châu th́ bận bịu về của cải nhiều lắm. Ông cưới thêm hai người thiếp nữa, và thôi tưởng đến sự làm quan trong Kinh.

Những tảng đá giết người trong hang thần th́ ngay sau khi vận hết của về nhà, ông châu đă sai đem bỏ vào một cái hang thứ hai là hang giấu của và sai xây thêm một lần đá bên ngoài lấp kín miệng hang ấy đi. Tuy vậy, ông vẫn giữ lại một tảng nhỏ nhất làm kỷ niệm.

Ông vẫn có ư giữ kín không nói ra v́ sao mà những tảng đá kia lại hại người một cách ghê gớm như thế. Nhưng một hôm, nhân chuyện với mấy tên người nhà tâm phúc, ông tưởg cũng không cần phải giấu măi sự thực làm ǵ.

Ông bèn cẩn trọng đem tảng đá ra, lấy dao cạo mạnh lên, th́ thấy lở xuống, nhỏ và mỏng, những mảng cát to hạt. Đó là một thứ cát sắc cạnh màu vàng trong lẫn màu nâu cháy, dính lại với nhau như luyện keo. Ông nói:

- Đây là cái oai quyền của "thần giữ của" đây, cái linh thiêng của Văn Dú cũng cả đây, thực là ghê gớm mà khôn khéo. Bao nhiêu tai họa, bao nhiêu nhân mạng, bao nhiêu điều khiếp sợ của người ta trong mấy trăm năm trời đều do những vật vô tri vô giác này gây nên.

Nhưng chẳng qua chỉ là cái kỳ mưu của viên quan tầu nhà Minh, chứ không có thần thánh ǵ hết. Chung quanh tảng đá này, có một sức mạnh giết người mau chóng hơn cả thần thánh nữa; đó là nhựa của một thứ cây độc tên là May Nôm, thứ cây mà bọn Mán đi săn với quân giặc ở những núi hiểm gọi là Công đia đèng.

Nhựa cây này, ngâm tên th́ tên hoa độc: bắn, không cứ phải chỗ hiểm, chỉ cần làm trầy da rướm máu cũng đủ làm cho kẻ bị thương chết không thể cứu được. Nhưng nếu chế luyện theo phép của một vài giống rợ bên Trung Quốc th́ giống bôi thuốc độc vào móng tay để cào cấu kẻ thù th́ nhựa cây đó trở nên rất mạnh và giết người một cách ghê gớm mau chóng hơn, Viên quan tầu kia hẳn biết cách chế luyện nó.

Rồi ông Châu gắp đưa cho mấy người bộ hạ xem những mảng cát bám trên tảng đá cuội. Ông bảo rằng đó là một thứ cát làm bằng những mảnh sứ hoặc thuỷ tinh băm nhỏ, luyện keo lại với thứ thuốc độc mà ông nói.

Thứ keo riêng ấy, đem trát lên các ḥn đá xây lấp cửa hang, là thành một thứ quân canh gác chắn chắn không ǵ bằng. Cho nên những kẻ đi t́m vàng trước ông Châu, như bọn con cháu họ Hoàng, bọn Cướp Khách với tên Nùng khai, đều v́ phạm đến vật nguy hiểm kia, bị thứ cát sắc cạnh phủ trên đá đâm vào da mà bỏ mạng.

Ông Châu tuy đem cái bí mật của hang thần mà giải nghĩa cho những người bộ hạ trung hậu đă theo ông đi lấy của khi xưa được biết, nhưng ông vẫn để cho dân trong Châu tin là ông có oai át được cả thần quyền. Văn Dú mất thiêng là v́ ông. Dân ông rất lấy làm cảm cái ơn trừ tai phá hoạ ấy.

Từ đó, dần dần họ đă dám khai khẩn và cày cấy ở gần quả núi đá. Lại có lần người ta rủ nhau vào tận hang xem. Núi Văn dú trông vẫn ngất ngưởng cao lớn nhưng người ta chỉ coi là một ngọn núi cao lớn thường.

Đến nỗi cái tên đă làm khiếp đảm mấy châu huyện ngót ba trăm năm trời, họ cũng quên dần đi. Bây giờ th́ không mấy ai biết đến nữa.




                                                                   Thế Lữ











Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 

<< Trước Trang of 72 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.4609 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO