Tác giả |
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 501 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 3:11pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHUYỆN HUYỀN BÍ CÓ THẬT
CHUYỆN MA ĐỜI LÍNH
Nhắc đến Ma hay nhắc đến những chuyện huyền bí thuộc thế giới siêu h́nh th́ có lẽ không ai đă không một lần nghe nói tới hoặc đă được nghe kể lại. Nhưng nói đến việc trực tiếp gặp ma, đối diện với ma, chuyện tṛ hay giao hữu với ma, xa hơn chút nữa là sự cảm thông hoặc bị ma nhập hẳn vào một người nào đó, để chế ngự thân xác và tâm thức của họ, th́ không phải ai ai cũng đều có cơ duyên để chứng nghiệm.
Và đó chính là nguyên nhân càng khiến cho những định kiến của thế gian nghĩ về quỷ ma, nghĩ về thế giới siêu h́nh, đôi khi trở nên rẫy đầy những điều kỳ bí, và thường bị thêu dệt quá đáng theo một thiên kiến ghê gớm kinh dị, để cho những người chưa bao giờ gặp ma trở nên hăi hùng khiếp sợ.
Thật ra chúng ta đều nhận biết một cách rất rơ ràng rằng, những điều gớm ghê kinh dị không phải chỉ xảy đến từ những hoạt động của âm giới, mà ngay cả trong đời sống hiện thực của chúng ta hằng ngày, cũng đâu có thiếu ǵ những sự kiện c̣n kinh dị hơn gấp bội.
Những sự kiện đó c̣n đưa đến những hậu quả đầy kinh hoàng khác hơn thế nữa. Nhưng đối với điều đó, tác giả không có chủ đích để bàn luận trong câu chuyện huyền bí này, chúng tôi chỉ đề cập đến một cách phiến diện.
Trước khi kính mời quư vị cùng tham dự vào câu chuyện, một người lính chiến thuộc VNCH có đời sống rất b́nh thường, và anh đă chẳng bao giờ muốn mà vẫn cứ có nhiều cơ duyên, phải gặp gỡ những vong hồn đă khuất mày khuất mặt, ở bên kia thế giới trong suốt quăng đời binh nghiệp...
Người lính chiến có duyên cơ với ma, với những sinh hoạt thuộc âm giới đó tên của anh là Long, là một quân nhân vạm vỡ khỏe mạnh. Tánh t́nh Long hồn nhiên yêu đời và rất vui tính.
Lúc nào Long cũng có trên môi nụ cười cởi mở hiểu theo đúng nghĩa đen, tức là miệng cười của Long lúc anh hoan hỉ th́ ngoài tiếng cười ḍn như sấm nổ, hai vành môi của anh c̣n cởi và mở hẳn ra để lộ diện thật rơ ràng hai hàm răng vừa to quá khổ vừa trắng hếu, trông anh rất đỗi vô tư.
Và không ai có thể nh́n anh mà nín được cười. Đă vậy khi nói chuyện, Long c̣n có giọng nói sang sảng, đứng ở xa anh đến cả trăm thước, chúng tôi vẫn có thể nghe rơ mồn một tiếng Long nói cười. Anh cũng là người có bản chất mộc mạc, thích ḥa đồng và vui tính.
Vui tính và vô tâm đến nỗi có những lúc bạn bè gặp phải chuyện không vui, rất không cần đến sự vui tính của anh, Long cũng cứ tự nhiên xen vào làm cho bầu tâm sự, hoặc câu chuyện tâm t́nh của bạn bè bị anh phá đám một cách lăng nhách. Thỉnh thoảng có người trực tính, cự nự lại cái bản chất vô tư lự của Long th́ anh toét hẳn miệng ra cười đáp lại:
- Tao đâu có biết chúng mày đang có những chuyện quá nghiêm trọng đến như vậy. Sao không chịu nói trước ...
Nói là nói cho có lệ như vậy, chứ chẳng ai lấy thế làm phiền ḷng. Vă lại tánh t́nh của Long trẻ trung như vậy th́ bạn hữu, ai cũng đă biết, chẳng ai nỡ để tâm giận anh mà làm ǵ.
Ngay từ đêm đầu tiên mấy trăm quân nhân tập sự chúng tôi, vừa từ Sài G̣n được chiến hạm Hải Quân chuyển vận ra Nha Trang, thụ huấn quân sự ở quân trường thuộc vùng cát trắng này, cả khóa lính mới của chúng tôi đă có dịp biết đến tên tuổi của Long vào một dịp t́nh cờ.
Số là chiến hạm chuyên chở chúng tôi vừa mới cập bến trong lúc đêm đă về khuya, nhưng tất cả khóa sinh đều phải hoàn tất mọi thủ tục nhập trại, cho nên mọi người được cán bộ huấn luyện quân trường ra lệnh, phải tề tựu tập họp trước sân cờ để lănh quân trang quân dụng, để rồi sau đó mọi người được phân chia theo từng đại đội, trung đội rồi tiểu đội để tạm thời t́m chỗ ngủ qua đêm.
Và bởi v́ đêm đă quá khuya, tất cả khóa sinh tân binh chúng tôi được lệnh phải phân tán theo từng đơn vị vừa mới được gấp rút phân chia, để tự t́m lấy chỗ ngủ tạm qua đêm trong một dăy building, ṭa nhà bị trống trơn, dường như đă xây khá lâu năm nằm ngay sát hàng rào doanh trại, ngoài kia không xa lắm là bờ biển với tiếng sóng vỗ ŕ rào suốt đêm ngày.
Người khóa sinh tiểu đội trưởng tiểu đội của tôi chấp hành lệnh điểm danh quân số, báo cáo lên cán bộ huấn luyện, trước khi đến chỗ nằm đă được chỉ định. V́ là lính mới, chúng tôi chưa thuộc hết tên tuổi và mặt mũi của nhau.
V́ vậy người khóa sinh vừa được chỉ định làm tiểu đội trưởng, loay hoay điểm danh tới điểm danh lui, măi một lúc sau mà vẫn c̣n thấy vắng mất một người. Anh ta vội báo cáo lên vị sĩ quan cán bộ huấn luyện, về sự vắng mặt của anh tân binh kỳ lạ này.
Cán bộ huấn luyện gào rát cả cổ trong đêm thâu vừa vắng vẻ vừa bị lạnh cóng, bởi những cơn gió tạt mạnh từ bờ biển thổi vào, để réo gọi cái tên Nguyễn Trần Long, đến một hồi lâu mới có người lên tiếng từ một góc thật xa trong quân trường, khiến mọi người dồn tất cả mọi cặp mắt về hướng phát ra tiếng nói, mọi người tỏ ra có vẻ rất nhốn nháo:
- Có mặt!
Không một ai biết được anh tân binh này v́ cớ ǵ mà bỗng nhiên biến về phía xa đó. Lúc bấy giờ Nguyễn Trần Long mới từ hướng phát ra tiếng nói, vừa thắt lưng quần. Té ra anh ta bị trở dạ th́nh ĺnh t́m chỗ giải quyết cấp thời. Kết quả là toàn bộ tiểu đoàn khóa sinh chúng tôi, đă phải vác túi ba lô nặng trĩu vừa mới được nhận lănh, nối gót nhau chạy thục mạng để thanh toán cho đủ mười ṿng sân cờ.
Nguyễn Trần Long đă được mọi người biết đến tên anh từ lúc đó, với tất cả sự hậm hực oán trách của mọi người, vừa đói vừa lạnh vừa mệt đến bở hơi tai v́ h́nh phạt quân sự đầu tiên, mở màn cho cuộc đời binh nghiệp.
Về đến chỗ nằm chúng tôi chia nhau ra tản mạn mỗi người một góc, cố gắng thu vén chuẩn bị thật nhanh cho giấc ngủ sắp tới. Nguyễn Trần Long cũng đang tháo vát dọn lấy một chỗ nằm. V́ tất cả mọi người, không ai có giường để nằm, đành phải trải đại khăn trên nền xi măng lạnh ngắt.
Riêng Nguyễn Trần Long th́ quư phái hơn người, anh t́m được một góc chỗ nằm vắng khuất với một tấm gỗ phong dày, được anh tự động gỡ ra từ một cánh cửa, làm cho khung cửa biến thành một lỗ hổng lớn, không thể dấu được mắt nh́n của mọi người. Nh́n qua lỗ hổng của khung cửa, dường như thấy có điều ǵ bất thường, một sĩ quan cán bộ huấn luyện lớn tiếng cảnh cáo:
- Anh nào vừa mới tháo cánh cửa đó ra, hăy mau mau gắn trở lại. Tất cả mọi người, ai cũng phải nằm trên mặt xi măng mà thôi.
Long nghe cán bộ quân trường ra lệnh, anh lại phải lục đục gắn lại tấm cánh cửa vào chỗ cũ, nhưng trong thâm tâm, đợi cho viên cán bộ đă ra khỏi, anh lại vẫn nhất định lấy tấm gỗ đó để lót xuống chỗ nằm cho đêm đỡ lạnh. Chẳng bao lâu đó cả tiểu đoàn khóa sinh chúng tôi, ai cũng đă quá mệt mỏi sau chuyến hành tŕnh bằng đường biển, lại chịu thêm h́nh phạt chạy đủ mười ṿng sân cờ nên ai nấy đều đi vào giấc ngủ nhanh chóng.
Cho đến tảng sáng hôm sau, mọi người lại một phen nhốn nháo cả lên, v́ có tin khóa sinh Nguyễn Trần Long cùng với tấm ván cửa, đă bị ai bí mật khiêng anh ra nằm ngủ ở trên băi cát ngoài bờ biển trong đêm, cho đến khi người lính gác phát hiện và hô hoán lên.
Người ta phải đổ ra đánh thức anh dậy để đưa anh về bệnh xá của quân trường, và phải mất cả một buổi sáng tịnh dưỡng, Nguyễn Trần Long mới trở lại được trạng thái b́nh thường, sau một đêm anh nằm phơi ḿnh trong đêm sương gió lạnh ngoài bờ biển.
Về sau này v́ cùng chung một tiểu đội khóa sinh với nhau, chúng tôi có nhiều thời giờ để cật vấn Long về chuyện lạ lùng đă xảy ra, Long chỉ toét miệng cười:
- Tao cũng như chúng mày đâu có biết chuyện ǵ, cứ ngủ say như chết. Đến khi nghe tiếng người gọi, tao mới biết rằng ḿnh đang nằm ngủ ngay trên băi cát.
Đó mới chỉ là giai thoại lạ lùng đầu tiên xảy ra với Long. Cho măi đến lúc sau này, Long c̣n là người chạm mặt với ma trong nhiều trường hợp khác nữa, kể cả thời gian chúng tôi đă tốt nghiệp, ra trường, được điều động chung với Long về đơn vị, chúng tôi cũng nhờ vậy mà chứng kiến thêm rất nhiều sự huyển hoặc vô h́nh khác.
Trở lại những tháng ngày chúng tôi phải tập tành gian khổ cùng những kỷ luật sắt thép ở quân trường, đối với Nguyễn Trần Long, anh c̣n có nhiều dịp để và chạm với cơi vô h́nh khác nữa.
Những sự kiện này đối với bọn khóa sinh chúng tôi, lúc đầu c̣n kinh ngạc và khiếp hăi, nhưng sau khi đă chứng kiến thường xuyên hơn, lại thỉnh thoảng được cán bộ ṭng sự lâu năm ở quân trường, cho biết một cách xa xôi bóng gió rằng, ở chốn đ́u hiu hút gió này có rất nhiều h́nh thức ma quỷ hiện h́nh quấy phá các khóa sinh thụ huấn.
Lâu dần chúng tôi cũng đỡ được phần nào sợ hăị Nhưng đối với những đứa nhát gan, th́ ma quái hiện ra phá phách trong đêm, vẫn là điều làm cho mọi người phải khiếp sợ.
Nguyễn Trần Long th́ có lẽ bởi anh được lũ ma thiêng tinh nghịch ở quân trường này, nhắm vào để phá phách thường xuyên trong suốt khóa học, cho nên anh tỏ ra tức bực nhiều hơn là sợ sệt. Long thường nói đùa với chúng tôi:
- Thằng nào muốn gặp hay muốn trông thấy ma, chúng mày cứ đi theo tao sẽ gặp liền.
Có người trong bọn khóa sinh hỏi lại Long:
- Gặp ma hoài, mày có ngán không Long?
Long hồn nhiên trả lời:
- Không phải vào quân trường này tao mới có duyên bị ma hiện về phá rối, tao đă gặp ma nhiều rồi, ngay cả dạo trước c̣n ở ngoài dân sự, vào những đêm thức khuya gạo bài thi, ma cũng đến với tao hoài.
Lúc mới đầu th́ tao sợ thật. Nhưng gặp ma măi cũng nhàm. Bây giờ tao khỏi có sợ nữa. Chúng mày không tin tao làm thử cho coi. Cả bọn chúng tôi ngồi yên lặng nghe Long nói chuyện, cũng chẳng biết Long bảo chúng tôi không tin chuyện ǵ. Có người nhanh nhẩu đáp:
- Tin! Tụi tao tin mày chứ! Nhưng như mày vừa nói, mày sẽ làm ǵ với lũ ma vậy Long?
Long cười hềnh hệch:
- Tao chẳng làm ǵ cả, chỉ sẽ dẫn chúng mày đi gặp ma ngay trong quân trường này, để đừng có đứa nào nói rằng tao bịa chuyện. Đứa nào sợ th́ đừng tham dự kẻo lại trách tao.
Long cho mọi người biết rằng:
- Địa thế heo hút của quân trường này hiện có rất nhiều ma. Chúng nó thường xuất hiện nhiều nhất ở các phía nhà bếp, nhà vệ sinh và ngay cả trong khu bệnh xá của quân trường, và ở cả khu bỏ hoang ở sát hàng rào, chỗ bọn ḿnh phải ngủ tạm trong đêm đầu tiên đó, chúng mày c̣n nhớ không. Con ma đă khiêng tao ra ngoài mép biển mà mấy người lính gác đêm đâu có thấy ǵ.
Chúng tôi sẵn đà hỏi tới:
- Sao mày biết có ma ở những chỗ này. Mày đă gặp chúng ở những nơi đó hay sao mà rành quá vậy
Long gật gù:
- Có chỗ tao đă gặp, có chỗ chưa. Nhưng tự nhiên tao linh cảm thấy những chỗ đó thường là chỗ có ma và cũng tự nhiên, tao biết cảm giác của tao không có sai lầm. Thằng nào không tin tao cũng mặc kệ. Nhưng tao dặn trước, hễ nhát gan th́ đừng bao giờ đêm hôm khuya khoắt bén mảng đến những nơi này, không nghe tao bị ma nhát ráng chịu.
Măi về sau khi khóa thụ huấn đă gần xong, chúng tôi chuẩn bị cho ngày lễ măn khóa ra trường. Mối quan hệ giữa tiểu đoàn khóa sinh với các thành phần cán bộ huấn luyện của quân trường, không c̣n nhiều kỷ luật ngăn cách nữa, các cán bộ ở đây đă xác nhận là có rất nhiều ma trong quân trường này, cùng với những hiện tượng khác thường, mà chính Nguyễn Trần Long đă gặp và kể lại.
Khu vệ sinh của quân trường nằm về phía tây, là nơi tương đối rất vắng vẻ cả đêm cũng như ngày, chung quanh hai dăy nhà dài đó, dạo trước có những cḥm cây rừng lâu năm cao lớn và um tùm, nhưng đă được cưa đốn tận gốc rất quang đăng.
Về ban đêm đèn điện được thắp sáng trưng cả trong lẫn ngoài. Tuy nhiên đối với bọn khóa sinh tuy có ngang ngược, nhưng lại cũng rất nhát ma như chúng tôi, mỗi khi phải bắt buộc sử dụng chỗ này về đêm th́ cũng thấy ớn lạnh vô cùng. Cực chẳng đă, chúng tôi mới phải rủ rê đôi ba đứa, mới dám đến đó về đêm. Vậy mà trong khoảng thời gian thụ huấn lâu dài, chuyện ma quái lộng hành phải đến đă đến.
Có lần sau một cuối tuần, khóa sinh được cho giấy phép đi ra ngoài khu dân cư, để giải trí hoặc mua những thứ cần thiết cá nhân. Những lần đi phép cuối tuần này là những lần các khóa sinh quân sự chúng tôi, được tạm thời tự do muốn làm ǵ tùy ư trọn một ngày, cho nên người nào trong chúng tôi cũng đều sung sướng ra mặt.
Người nào cũng có chút ít tiền để mua sắm hoặc ăn uống phủ phê, để bù đắp lại những ngày tù túng và kham khổ trong quân trường. Được ra ngoài ăn uống lung tung mọi thứ, như một lũ đói khát đă lâu, lúc ban chiều trở về trại liền bị cái bao tử nó hành. Và đó chính là dịp để những đứa tham ăn ban ngày, cho dù bây giờ rất sợ, cho dù không muốn đến khu vệ sinh, cũng phải vác xác tới.
Có khi phải trở tới trở lui dến mấy lần vẫn chưa thể chấm dứt nổi những cơn đau bụng quặn thắt, nếu chỉ là một lần th́ may ra c̣n có bạn bè thương t́nh cùng đi, nhưng bị tháo dạ th́ đành phải ôm bụng đi một ḿnh chẳng có người nào cùng đi để bớt sợ. Một khóa sinh đă lâm vào trường hợp này và bị ma nhát đến nỗi phải nằm bệnh viện v́ anh ta sợ quá đến trở thành kinh hoàng mất hồn.
Vào một đêm khuya khoắt, tất cả các doanh trại đang im ĺm bỗng nghe có tiếng rú thất thanh của ai đó phát ra từ khu nhà vệ sinh rồi tắt ngắm. Toán khóa sinh trực tuần pḥng doanh trại ban đêm được lệnh ngay lập tức phải đến chỗ phát ra nơi có tiếng rú để t́m hiểu vấn đề, mới biết rằng có một người khóa sinh đă bị ngất xỉu ngay tại đó.
Anh ta được khiêng ngay về khu bệnh xá để y sĩ trực săn sóc. Vị y sĩ trực cho biết khóa sinh này v́ sợ hăi quá cho nên đă bị ngất xỉu. Phải mất đến gần một tuần lễ tịnh dưỡng, anh ta mới hoàn hồn thuật lại câu chuyện gặp ma như sau:
- Tôi bị bệnh tiêu chảy hoành hành liên tục, nên cực chẳng đă phải lui tới khu vệ sinh đă mấy bận. Lần cuối cùng khi tôi vừa ngẩn mặt lên, sửa soạn bước ra th́ tôi thấy rất rơ một bóng người đă đứng án ngay giữa khung cửa từ lúc nào. Tuy vậy tôi không thể nào nh́n thấy rơ mặt của người đang đứng đối diện, bèn lên tiếng:
- Làm ơn tránh chỗ để tôi đi ra.
Bóng đen không trả lời, nó vẫn thản nhiên đứng lù lù ngay ở trước mặt và tôi bỗng ngửi thấy một mùi xú uế xông ra đến lợm người. Tôi cho rằng đây là một khóa sinh nào đó cũng bị tiêu chảy c̣n nặng hơn cả tôi đến nỗi anh ta không nhịn nổi và đă bĩnh cả ra quần. Tôi nói với anh:
- C̣n thiếu ǵ pḥng sao không chịu đến chỗ khác mà cứ phải dành chỗ này.
Bóng người vẫn không lên tiếng. Nó vẫn đứng lững thững không hề nhúc nhích, khiến tôi vừa chịu hết nổi mùi quá hôi hám vừa bực ḿnh, nên nổi nóng đứng bật lên định đẩy hắn sang một bên để thoát ra ngoài. Nhưng khi tôi vừa đứng được thẳng người lên th́ bóng đen bỗng chiếu thẳng hai tṛng mắt đỏ ḷm nh́n tôi thật kinh dị.
Tôi cảm thấy sự việc khác thường trước hai con mắt đỏ au trên khuôn mặt đen thui, trong bóng tối nhạt nḥa mà tôi không thể nh́n ra được đường nét. Tôi dùng toàn năng lực vào hai cánh tay, định đẩy mạnh bóng người qua một bên.
Bỗng nhiên hai cánh tay và cả thân thể tôi bị chúi mạnh vào khoảng không phía trước mặt, xuyên hẳn qua bóng người, để rồi tôi bị ngă nằm sóng soài trên mặt đất, bên tai tôi c̣n nghe rơ tiếng con ma thở hồng hộc và nó c̣n rít lên những tiếng cười gằn. Tôi sợ quá ngất đi vào lúc đó.
Khóa sinh chúng tôi thường thường đứa nào cũng nghịch ngợm phá phách, hay làm cho các sĩ quan huấn luyện không ngớt ban hành các lệnh phạt hoặc răn đe gay gắt. Mặc dù đă có lệnh về đêm, sau giờ tắt đèn không ai được thức hoặc đi ra khỏi pḥng ngủ, nhưng lúc ban chiều trong giờ cơm, chúng tôi được đề cử thay trong nhà bếp, chúng tôi đă nh́n thấy những chảo cơm cháy ngon lành c̣n để lại.
Và chúng tôi đă có với nhau một quyết định là đêm nay, sau giờ tắt đèn sẽ kéo nhau xuống nhà bếp để cạo cơm cháy ăn chung với đường tán đă có sẵn sẽ ngon tuyệt vời.
Những ai đă từng có mặt ở quân trường vào những ngày cuối năm có đầy gió mùa lồng lộng với cái lạnh cắt da, mà được ăn cơm cháy với đường th́ tưởng không có ǵ thú vị cho bằng. Chính v́ vậy mà chúng tôi bất chấp nghiêm lệnh của quân trường, trong đêm khuya rủ nhau lén lút ḅ về khu nhà bếp để ăn vụng cơm cháy.
Khu nhà bếp cũng có leo lét ánh đèn vàng và lũ tham thực như chúng tôi, ai cũng nh́n rất rơ từng mảng cơm cháy thom tho ngon lành, thay phiên nhau cạy lên ăn lấy ăn để và quả thật, hương vị cơm cháy quân trường ngon đáo để.
Chúng tôi gồm sáu bảy người cứ vậy mà tọng cơm cháy vào miệng, nhai ngấu nghiến ra chiều thích thú vô cùng, ăn cho đến khi miệng nhai đă mỏi với cái bụng no chướng lên, mới lục đục kéo nhau trở về pḥng ngủ cho đến sáng ngày hôm sau, tất cả bị nằm liệt giường không một ai dậy nổi theo lệnh kèn tập thể dục, và sự bê trễ này bị phát giác ngay lập tức.
Cho đến khi cả sáu người chúng tôi được khiêng hết lên bệnh xá để được súc ruột, tẩy uế bao tử v́ cả sáu đứa chúng tôi, mồm miệng ai cũng c̣n dính đầy đất bùn, trong bao tử của mỗi người, các y tá trực cũng cho biết đang chứa toàn bùn đất, nếu không súc ruột kịp thời, hệ thống tiêu hóa của chúng tôi sẽ bị nghẽn và có thể đi đoong.
Đến lúc này chúng tôi mới xanh xám cả mặt mày, v́ biết rằng đă bị lũ ma đánh lừa cho ăn toàn bùn đất, thay v́ ăn đám cơm cháy dư thừa của nhà bếp. Sự kiện lạ lùng này, không ai có thể giải thích được khi mà chúng tôi rơ ràng đă nh́n, đă ăn, và đă thưởng thức tường tận mùi vị thơm ḍn đích thực của cơm cháy.
Sau ngày lễ măn khóa chúng tôi lưu lại quân trường trong một vài ngày, để chờ chiến hạm ra đón đưa về Sài G̣n đi phép măn khóa, trước khi mỗi người chúng tôi chia tay đáo nhậm đơn vị mới, chúng tôi mới được một vài sĩ quan cán bộ tiết lộ cho biết rơ hơn, về t́nh trạng ma cỏ hiện ra lộng hành thường xuyên, không phải chỉ diễn ra trong phạm vi trung tâm huấn luyện Hải Quân Cam Ranh này, mà ngay cả khu rừng góc núi lân cận, những hiện tượng vô h́nh này cũng không phải là họa hiếm.
Giống như có một lần tiểu đoàn khóa sinh chúng tôi, vào những ngày phải tản ra các khu rừng để thao dượt hành quân trên bộ. Vào một buổi chiều nhá nhem tối, chúng tôi ai cũng nh́n thấy giữa sườn núi chênh vênh trước mặt, có một con cọp mẹ cùng với một con cọp con. Cả hai đều có bộ lông màu vàng óng điểm những vằn đen chung quanh.
Cọp mẹ và cọp con thản nhiên ngồi trước một hốc núi không có chiều sâu, nh́n xuống chúng tôi bằng một thái độ b́nh thản vô cùng. Qua ngày hôm sau, chúng tôi được lệnh trở lại thực tập tại nơi này. Nhưng để đảm bảo cho sự an toàn trước những con thú rừng, nhất là trước h́nh ảnh hai mẹ con cọp mà tất cả chúng tôi đă đều nh́n thấy rơ hôm qua, bây giờ phải đi lùng sục để xua chúng đi chỗ khác, đề pḥng con cọp mẹ có thể ŕnh rập hăm hại khóa sinh.
Địa điểm hai con cọp xuất hiện chiều hôm qua được đánh dấu cẩn thận và chúng tôi cảnh giác, tỉ mỉ tiến dần về phía hốc núi đó. Vất vả hồi lâu chúng tôi mới đến được vị trí hai con cọp ngồi hôm qua, nhưng hốc núi th́ không thể nào t́m ra được, chỉ có những phiến đá lạnh ngắt với bề mặt xù x́.
Nhưng nh́n thật kỹ lại thấy có hiện lên những đường nét hài ḥa, ẩn hiện mơ hồ như những nét chữ Hán mà tất cả chúng tôi không ai có khả năng hán tự, để hiểu được những nét chữ cổ kính kỳ lạ này. Mấy ngày sau chúng tôi cũng nh́n lại nơi này, th́ h́nh dạng hốc núi đă đổi khác với những khóm cây xanh mọc phủ đầy, cũng không c̣n thấy dấu vết của hai mẹ con chú cọp xuất hiện như trước nữa.
Khi nhận được sự vụ lệnh thuyên chuyển về phục vụ ở đơn vị mới, một sự ngẫu nhiên đă xảy ra là tôi và Nguyễn Trần Long cùng một người bạn có nghành chuyên nghiệp trọng pháo, anh phải kề cận thường xuyên với những dàn súng lớn nhỏ. Long vào sanh ra tử nhưng tính chất của anh rất can trường, và lúc nào cũng giữ nguyên tánh nết cũ là đùa phá tinh nghịch.
Đơn vị là một giang đoàn biệt lập, tọa lạc tại một tiền giang đèo heo hút gió, ở giữa cánh đồng, xa hẳn làng mạc và những nơi có đông cư dân trú ngụ, do vậy mà cuộc đời lính chiến của chúng tôi không mấy khi tránh được những ngày đêm đơn điệu, buồn tẻ.
Tôi th́ có cây đàn những người khác với thú vui đánh cờ đọc sách. Riêng Long anh đem đến đây được một con mèo để làm bầu bạn. Con mèo với Long là đôi bạn chí thân, lúc nào cũng ở cạnh nhau, kể cả những lúc chiến đấu ở ổ trọng pháo dưới giao thông hào ...
Có một lần Long thoát chết trong đường tơ kẻ tóc cũng nhờ có con mèo, nếu không, chắc chắn mạng sống của Long đă tan tành như một chiếc pháp nổ. Lần đó điễm ra vào lúc chiều tàn. Trời chưa tối hẳn, bỗng nhiên những đạn pháo kích từ đâu bay tới ào ào vào đơn vị. Tiếng c̣i báo động rít lên như muốn xé tan không gian ruộng đồng đang yên lành tĩnh mịch.
Nghe tiếng c̣i báo động hụ lên inh ỏi vào lúc Long đang ngủ mơ mơ màng màng. Anh choàng tỉnh giấc, vơ vội lấy mảnh áo giáp khoác vội lên người định phóng ra thẳng lỗ giao thông hào chiến đấu, nhưng con mèo của Long đột nhiên gào rú lên rất lạ lùng, nó chạy tới chạy lui dưới chân Long, làm cho những bước chân của Long bị vướng vít đâm ra chệnh choạng suưt ngă. Anh bực bội la toáng lên với con mèo như nói với một người bạn:
- Kêu ca cái ǵ không biết nữa! Mày không nghe thấy tiếng pháo kích um sùm đó hay sao. Tránh chỗ mau để tao ra giao thông hào không thôi bị nhốt bây giờ.
Con mèo dường như không nghe Long nói ǵ cả, nó tiếp tục quẩn bước dưới chân anh, khiến cho Long loạng choạng suưt đạp lên lưng nó, con mèo vội vă nhảy tránh rồi phóng một cái ào lên cái kệ gỗ đóng ở trên cao, nơi Long để đủ hết mọi thứ lung tung xà bần, nào chén đũa gà mên, sách vở khiến cho tất cả những vật dụng đang để trên cái kệ bị hất tung cả xuống đất.
Trong khi Long chợt nhớ ra rằng, trên đầu của anh chưa có cái nón sắt dùng để bảo vệ an toàn trong lúc tác chiến. Long quày gót xoay người trở vào góc chiếc giường vải, vơ lấy cái nón chụp vội lên đầu rồi bất chấp con mèo đang làm bước chân anh trở nên vướng vít, Long phóng như bay ra cửa về phía ổ đại pháo ở dưới giao thông hào.
Bất th́nh ĺnh một tiếng rít xé gió từ xa tiến tới, theo sau là một tiếng nổ long trời. Viên đạn pháo kích vô t́nh rớt trúng ngay cỗ trọng pháo của Long ở dưới giao thông hào, bứng hổng cả bộ chân của ổ súng nặng nề tung thẳng lên cao. Nếu không nhờ có con mèo làm chướng ngại, chỉ cần sớm hơn chưa đầy vài chục giây đồng hồ, chắc chắn Long đă cùng chung số mạng với ổ trọng pháo vô tri.
Trận pháo kích chấm dứt, nh́n h́nh ảnh cỗ súng bị bứng nổ tung tận gốc, rồi liên tưởng đến mạng sống c̣n lại của ḿnh chỉ trong ṿng gang tấc, nhưng nhờ có linh cảm của con mèo, nó tạo ra những trở ngại để cho Long được thoát chết. Long bùi ngùi ôm chặt con mèo vào trong ḷng ngực của ḿnh, như đang ôm một đứa con yêu quư với tất cả ḷng tŕu mến biết ơn con vật linh thiêng...
Chuyện ma đời lính chiến cứ lần hồi xảy đến với Long như một thói quen rất lạ lùng. Vào một lần hành quân tảo thanh phối hợp với các đơn vị khác, Long đă chứng kiến thêm những hiện tượng huyền bí đến không thể nào giải thích được.
Một người thuộc hàng ngũ bên kia, sau khi bị quân ta truy quét đến đường cùng thất trận, anh ta bị trọng thương nặng nề, hơi thở chỉ c̣n thoi thóp, trong lúc toán hành quân chúng tôi cấp báo gọi trực thăng vận để đưa anh ta về điều trị tại Tổng Y Viện. Nhưng khi trực thăng đến nơi th́ người lính bên kia đă trút hơi thở cuối cùng.
Trước khi bàn giao xác chết của anh ta cho đội mai táng, chúng tôi và Long có lục soát tư trang của anh ta để may ra có thể t́m thêm được tài liệu ǵ khác nữa, chúng tôi không t́m thấy ǵ khác ngoài chút ít lương khô ăn dở dang với một cuốn sổ nhỏ và dày, anh ta đă viết đầy những trang chi chít chữ. Long cất cuốn sổ nhỏ đó trong bao công văn cá nhân, để về nộp lại cho ban an ninh khai thác. Ngay sau đó, trực thăng đă bốc cái xác cứng lạnh của anh ta đem về trung ương mai táng.
Buổi chiều đến đơn vị của chúng tôi có tổ chức một tiệc liên hoan nhỏ, để cho các chiến hữu có dịp tṛ chuyện hợp mặt. Chúng tôi đang quây quần bên nhau với chút men rượu đang ngà ngà say, th́ cả bọn đều nh́n thấy rơ ràng người lính bên kia đă bị chết ban chiều. Anh ta hiện ra ngay trong bữa nhậu và sừng sộ, chỉ thẳng vào mặt Long để đ̣i lại cuốn sổ nhật kư theo lời tiết lộ của anh ta. Anh ta nh́n cḥng chọc vào mắt Long và nói:
- Mấy người bắn chết con người ta rồi ngồi đó mà nhậu nhẹt b́nh thản như chẳng có chuyện ǵ th́ thật là vô tâm quá sức. Nhưng điều đó cũng chẳng hệ trọng ǵ v́ số phần của ta bắt buộc phải chết như vậy.
Nhưng ta xin các người hăy bỏ qua ranh giới ư thức hệ, giúp đỡ cho ta một điều, đó là hăy gởi trả lại cho người con gái mà ta từng yêu thương trong suốt những năm trường, nhưng ta chưa được trở về cưới nàng làm vợ th́ số phần ta đă măn.
Các người hăy cố gắng giúp ta. Cuốn sổ đó đang được cất giữ bởi người này. Hồn tên du kích đưa tay chỉ đúng vào mặt Long, khiến cho anh bủn rủn cả tay chân, trong khi nhiều người khác vẫn không hề hay biết rằng Long đang cất giữ cuốn sổ nhật kư t́nh yêu này.
Hồn ma lơ lửng một lúc th́ từ từ nhạt nḥa tan biến vào màn đêm, mất hút với những lời nói văng vẳng sau cùng:
- Chỉ một điều nhỏ nhặt đó mà thôi. Ta cám ơn các người...
Chúng tôi hết đưa mắt nh́n nhau đến nh́n về phía Long, như đợi chờ ở anh một điều xác định. Cuối cùng Long nói:
- Điều tất cả chúng ta vừa nghe là sự thật đó. Lúc chiều tôi có nhận lệnh lục soát tư trang của người lính này, và đă t́m thấy một cuốn sổ nhỏ, chưa kịp nộp lại cho ban an ninh, th́ hồn kẻ chết đă tức khắc trở về nhắc nhở và xin được giúp đỡ.
- Vừa nói Long vừa tḥ tay vào ba lô cá nhân lấy ra cuốn sổ nhỏ nhàu nát giơ lên cho mọi người cùng thấy. Long hỏi ư kiến mọi người:
- Ư của hồn ma muốn ḿnh gửi về cho người yêu của hắn. Nhưng chúng ta biết gửi về đâu bây giờ?
Long vô t́nh để cuốn sổ lên mặt bàn và chưa nói hết câu, th́ một cơn gió từ bên ngoài thổi vào lật tung từng trang giấy đến chỗ gần cuối th́ gió ngưng, cuốn sổ mở ra như cố t́nh để cho mọi người có thể nh́n thấy tên họ và ngay cả địa chỉ của người con gái, mà hồn thiêng anh ta muốn chúng tôi gửi đến:
“Lưu Thị Sang số nhà 198/11 đường Xóm Chùa. Ấp Ba. Xă An Phước. Huyện Cai Lậy”.
Ngày hôm sau, mọi chuyện xảy ra đă được Long tŕnh lên ông đơn vị trưởng và ban an ninh của đơn vị. Nhân viên hữu trách cũng không quên xem xét thật kỹ càng từng trang giấy với những hàng chữ viết tay nguệch ngoạc với những lời lẽ, tâm sự yêu thương rất chân thật và chí t́nh.
Cũng có những đoạn anh ta tự trách ḿnh không đủ can đảm rời xa hàng ngũ chiến đấu để trở về làng xưa xóm cũ sống đời b́nh thường bên cạnh mối t́nh mà anh ta ấp ủ tôn thờ. Anh ta chỉ hứa hẹn một ngày nào ḥa b́nh sẽ trở về hạnh ngộ bên người yêu. Nhưng mộng ước cuồng ngông đó đă chẳng kịp thành, người lính này đă hóa ra người thiên cổ.
Thời gian sau đó, chúng tôi có dịp nhắc lại chuyện này với một nhân viên an ninh phụ trách để gởi cuốn sổ, được người này cho biết như sau:
- Tên tuổi và địa chỉ của người con gái tên Lưu Thị Sang đều chính xác. Cô ta đă nhận được cuốn sổ của người chết và có vẻ rất đau khổ trước một mối t́nh bị đứt gánh giữa đàng.
Có một lần Nguyễn Trần Long bị đau bịnh trầm trọng. Anh ta được chuyển về bệnh xá quân y để chữa trị. Vào một đêm, anh ta lần ṃ xuống pḥng y tá trực để gọi điện thoại về nói với chúng tôi:
- Tao vừa nh́n thấy thằng Đắc hiện về với hai cánh tay của nó cụt hẳn v́ bị đạn cắt mất.
Lúc đó đơn vị của chúng tôi đang trong những ngày diễn tiến hành quân. Người lính trẻ tên Đắc vẫn c̣n đang chiến đấu bên các đồng đội và chưa trở về v́ cuộc hành quân chưa chấm dứt. Nghe Long báo tin dữ, chúng tôi vội nạt nộ anh ta:
- Đừng nói tầm bậy Long à! Ông xếp nghe được là mày lănh 10 ngày trọng cấm đó nghe em.
Nó gân cổ nói to trong máy:
- Tao thấy sao nói vậy, chứ nào biết được thực hư nên mới gọi về cho chúng mày để xem sự thể ra sao. Tao đâu có ư xấu ǵ mà đ̣i nhốt với chả nhốt.
Chúng tôi trấn an Long:
- Chắc mày thích cô em gái thằng Đắc nên lo lắng cho nó rồi thành tưởng tượng đó thôi! Hăy an tâm dưỡng bệnh, thằng Đắc trở về, chúng tao sẽ bảo nó gọi điện thoại thăm mày ngay!
Long miễn cưỡng cúp máy nhưng anh có vẻ c̣n hậm hực, không hoàn toàn bằng ḷng với sự trấn an của chúng tôi. Ngay trong đêm đó, pḥng hành quân đơn vị nhận được công điện báo cáo tổn thất, trong đó có tên Huỳnh Tất Đắc đă bị trúng đạn tử thương, cụt mất cả hai cánh tay. Xác anh đă được trực thăng chuyển thẳng về Tổng Y Viện để chờ đợi thân nhân đến nhận xác.
Một lần khác, chúng tôi cùng với Long đổ bộ truy lùng tông tích của kẻ địch, v́ quá hăng say t́m kiếm nên cánh quân chúng tôi bị mất phương hướng, lạc sâu trong một cánh đồng lầy, loanh quanh gần hết đêm mà vẫn không thể nào ṃ mẫm ra được đường về ...
Cả toán đang điên đầu họp bàn t́m ra phương hướng th́ Long dơng dạc đứng lên:
- Chúng mày khỏi phải t́m ṭi chi nữa, cứ đi theo hướng tao chỉ, bảo đảm sẽ về đến...nhà.
Lúc đầu chúng tôi c̣n ngần ngừ không chịu tin theo lời của Long nói, nhưng sau nhiều tiếng đồng hồ ngụp lặng b́ bơm trong những đám cỏ lau lách śnh lầy, đường ra vẫn không t́m thấy. Cuối cùng đành bảo nhau dấn bước theo hướng chỉ đạo của Long. Nhờ vậy, chỉ có chừng nửa tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đă bắt liên lạc truyền tin được với bộ chỉ huy và t́m ra được điểm hẹn để trở về.
Chúng tôi hỏi Long làm sao anh ta biết và chỉ đúng được phương hướng để trở về trong an toàn, và c̣n tránh được những bẫy ḿn chông của địch chôn dấu chằng chịt như mắc cửi. Long cho biết như sau:
- Tao chẳng có tài cán ǵ, cũng mù tịt như chúng mày vậy thôi. Nhưng lúc bấy giờ, bỗng nhiên trong đầu của tao cứ thoáng nh́n thấy khuôn mặt mờ nhạt với đôi mắt của người em gái của tao, đă mất cách nay ba bốn năm ǵ đó. Đôi mắt của em gái tao lúc đầu c̣n ẩn hiện lờ mờ, về sau càng lúc càng hiện ra thật rơ, thật lâu.
Tao thử nhắm mắt lại để xua đuổi ảo giác đó trong lúc cả bọn chúng ḿnh đang tứ bề lâm nguy, th́ đôi mắt của em gái tao lại cứ trừng trừng nh́n tao như muốn khiển trách, rồi lại nh́n về một phía như bảo tao bắt buộc phải đi theo.
Việc đó xảy ra khá lâu và có lúc tao đă chống lại, bước chân quay về hướng khác th́ ánh mắt trở nên dữ tợn và sáng quắc nh́n tao như một sự răn đe, tao xoay hướng bước theo th́ ánh mắt em tao ngay lập tức dịu lại b́nh thường. Giờ chúng ḿnh được yên ổn, tao mới nhận ra rằng vong linh người em gái chết yểu của tao linh thiêng vô cùng, đă bao nhiêu lần nó cứu tao thoát chết.
Đời lính chiến của chúng tôi sau đó bị ră ngũ tản hàng, cuộc di tản khổng lồ làm chúng tôi mỗi người phiêu bạt về mỗi nẻo, nhưng đều gặp nhau lại ở đảo Guame, tôi với Long cùng một lúc được bốc thẳng đến định cư tại Hoa kỳ.
Nguyên Hà
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 502 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 5:18pm | Đă lưu IP
|
|
|
GÁNH XIẾC ÔNG LÙN
Câu chuyện tôi sắp kể dưới đây xảy ra đă lâu, chính xác là khoảng giữa những năm bốn mươi. Chuyện có thật nhưng bị cắt vụn thành từng mẩu rời rạc, lại phân tán nhiều nơi nên tôi phải mất công đi tới nhiều nơi ở Nghệ An để thu lượm và chắp vá các mẩu rời rạc ấy thành chuyện. Chuyện về gánh xiếc ông Lùn.
Tên là Lùn, nhưng ông không lùn, chỉ hơi thấp, to ngang, cộng thêm điệu bộ chậm chạp và nghề nghiệp độc đáo nên mới bị người ta gọi thế.
Ông Lùn và gánh xiếc mang tên ông từng một thời rất nổi tiếng ở hai tỉnh Thanh, Nghệ. Ngày ấy ở nông thôn chất phác và lạc hậu, cái ǵ cũng có thể làm người ta ngạc nhiên... Dễ hiểu v́ sao các tiết mục xiếc, dù của một gánh xiếc rong, ngay lập tức được mọi người chú ư.
Lời đồn về ông Lùn và gánh xiếc của ông có nhiều và được truyền đi rất nhanh, rằng ông có tài ném dao phi thường, và bằng cái biệt tài ấy đă giết chết ba bà vợ, có người nói năm, rằng ông có ô tô riêng đi biểu diễn, có hàng tá người giúp việc, có con chó biết nói, cái hộp sắt biết hát và đặc biệt là kiếm được rất nhiều tiền, giàu có đến bạc triệu....
Những lời đồn ấy như phần lớn các lời đồn khác, trên thực tế đều không có thật, trừ việc ông có tài ném dao trăm phát trăm trúng, có con chó khá thông minh và chiếc máy hát quay tay ọc ạch với một chiếc đĩa duy nhất.
Ông Lùn xuất thân là nông dân, do gặp chuyện phẫn uất hoặc không kiếm nổi miếng ăn nên bỏ làng lên thành phố. Ông đă phải trải qua khá nhiều năm tháng gian khổ, thử đủ nghề trước khi học được nghề xiếc rong này. Người ta chỉ biết khi vào Nghệ rồi "định cư" hẳn ở đó, ông là chủ "Gánh xiếc ông Lùn", gồm ông, hai cậu con trai, chiếc xe kéo có khung bịt vải chở mấy thứ đồ nghề và xoong chảo.
Con chó và chiếc máy biết hát măi sau này mới xuất hiện. Chiếc xe được trang trí ḷe loẹt, bốn góc cắm bốn chùm hoa bằng lông gà nhuộm xanh đỏ. Đầu xe treo chiếc chuông, vừa đi vừa kêu leng keng. Cùng chiếc xe ấy, ông lang thang nơi này sang nơi khác, mưa th́ ngủ trên xe, nắng trải chiếu nằm dưới đất, hôm sau lại dậy lại đi tiếp.
Thường th́ ông Lùn kéo xe, thằng con lớn mười hai tuổi đẩy phía sau, thằng nhỏ bẩy tuổi được ngồi trên xe, nhưng phải vừa luôn tay đánh trống, vừa chốc chốc lại kêu to.
- Xiếc! Xiếc đây! Xiếc ông Lùn đây!
Khi con chó được nhập bọn th́ nó lẽo đẽo chạy theo sau.
Gánh xiếc của ông thường biểu diễn ở các băi chợ và sân làng, nếu được nhà chức trách cho phép sau khi nộp một số tiền mà bây giờ gọi là tiền thuê địa điểm.
Ông Lùn lôi từ xe ra tấm vải dày h́nh tṛn rộng bằng mấy chiếc nong, được chắp nối từ các mảnh vải có màu khác nhau. Nếu không gọi tiếng trống dồn dập là tiết mục, th́ tiết mục đầu tiên là chiếc máy hát. Nó có nhiệm vụ thu hút khách xem và nếu cần, lấp thời gian trống giữa các tiết mục.
Thằng lớn bê nó ra một cách long trọng, nhẹ nhàng và từ từ nhấc tấm vải phủ màu đỏ trước con mắt ṭ ṃ háo hức của mọi người. Rồi nó quay tay lên dây cót. Lát sau, cùng tiếng khùng khục lạo xạo là tiếng một bài hát vui nhộn bằng tiếng Pháp bay ra. Bao giờ cũng đúng những thủ tục ấy, cũng bài hát ấy.
Tiếp đến là phần của con chó. Con chó này chân và mơm đều ngắn, lông dài màu xám , người lại nhỏ nên trông như chó nhồi bông. Cổ nó đeo ruy-băng xanh, mỗi chân leng keng chiếc lục lạc bé tí.
Ngoài những tṛ thông thường như đi bằng hai chân, nhào lộn và nhảy ṿng, nó c̣n biết làm các phép tính đơn giản. Đến cái tṛ trí tuệ này th́ thằng lớn ra điều khiển chó thay em, v́ em nó chưa biết tính nhẩm.
Nó yêu cầu ai đó trong đám người xem ra đề bài, thí du hai cộng hai, năm trừ ba hay thậm chí mười sáu chia cho bốn là bao nhiêu. Nhẩm tính trong đầu xong, nó ra hiệu cho con chó lúc nào th́ sủa và lúc nào dừng lại.
Tất nhiên cũng có lúc sai. Người xem tưởng lỗi do con chó nên họ rộng lượng bỏ qua, v́ trong họ không phải ai cũng biết làm các phép tính phức tạp ấy.
Đến lượt thằng lớn trổ tài. Nó là diễn viên tổng hợp. Trên h́nh tṛn bằng vải sặc sỡ ấy, nó có thể làm rất nhiều tṛ, từ uốn dẻo tung hứng đến thăng bằng, nhào lộn, nhưng đặc sắc nhất vẫn là tṛ ảo thuật.
Trước con mắt ngạc nhiên của mọi người, nó ung dung hút thuốc rồi nhả khói qua hai lỗ tai, uống xăng phun ra lửa mà không sợ bỏng, hoặc để thằng em trói nó, trói thật chặt khắp người, nó chỉ rùng ḿnh một cái là các sợi dây sổ tung rơi xuống đất.
Cuối cùng đến phần đặc sắc nhất và cũng thường để kết thúc buổi diễn, tiết mục ném dao găm của ông Lùn.
Ông cho bê ra một chiếc bàn và dựng một chiếc bảng cao trên đó. Thằng nhỏ mang đến chiếc hộp đựng đầy dao găm, những chiếc dao nhỏ, ngắn chỉ độ nửa gang, mũi nhọn và rất sắc. Như hai cậu con trai ông Lùn mặc bộ quần áo nhà nghề áo sặc sở ông tự may, tương xứng với tài năng và túi tiền của ông.
Thằng lớn găm lên bảng một quả quưt. Ông Lùn đỡ lấy con dao thằng nhỏ đứng cạnh đưa cho, và ở khoảng cách mười mét, hầu như không ngắm, ông ném một nhát trúng đích, cắt nó làm đôi. Người xem chưa hết ngạc nhiên th́ thằng lớn đă lấy phấn gạch một đường chéo trên bảng. Ông lại ném.
Cứ thế năm lần liên tiếp. Khi thằng lớn nhổ con dao thứ năm lên th́ mọi người chỉ thấy trên bảng một lỗ cắm duy nhất. Tiếp đến ông mời người xem vẽ lên bảng một h́nh ǵ đấy. Cũng không ngắm, ông liên tiếp cắm hết mũi dao này đến mũi dao khác theo h́nh ấy. Không chệch phát nào.
Xong, ông ra hiệu thằng lớn cho chiếc máy hát hoạt động trở lại. Một lúc sau mọi người tản đi trong tiếng trống b́ bùm và tiếng bài hát Pháp vui vẻ.
Sự thật th́ ông Lùn và gánh xiếc của ông rất nghèo. Thời ấy moi được đồng xu của anh nông dân không dễ, phần v́ họ keo, phần chẳng có ǵ để moi. Bán vé thu tiền là điều không thể, v́ nếu thế sẽ chẳng ai đến xem, thành ra chỉ c̣n biết trông chờ vào ḷng tốt tự giác của người đời, nghĩa là cũng phải để chiếc mâm xin tiền như anh xẩm mù để mũ, dù đây là một gánh xiếc với những tiết mục hấp dẫn như vậy.
Thường th́ ngày nào họ chỉ kiếm đủ ăn ngày đó. Nhiều ngày trời mưa không diễn được, hoặc bị xua đuổi không cho diễn. Đấy là chưa kể những lúc ốm đau hay gặp sự cố.
Ở Đô Lương có người kể chính ông ta một hôm nh́n thấy thằng bé lẻn vào vườn moi trộm khoai lang, ông tóm được. Khi nhận ra nó là thằng nhỏ gánh xiếc ông Lùn, ông tha cho đi, thậm chí không giữ lại những củ khoai nó vừa moi được.
Thế th́ sao lại có lời đồn ông kiếm tiền dễ dàng và "giàu có đến bạc triệu?" Tôi đă thử t́m hiểu điều đó, cả việc v́ sao gánh xiếc thiếu vắng phụ nữ, vợ ông hay ai đó chẳng hạn. Tiếc là đến bây giờ tôi vẫn chưa t́m ra sự thật.
Có người quả quyết với tôi rằng trước đây ông Lùn luôn có vợ đi theo. Bà này thay cho các h́nh vẽ trên bảng, đứng dang tay để chồng ném dao găm theo h́nh người bà. Đó là tiết mục hết sức mạo hiểm và giật gân, nhờ thế thu hút được nhiều khách, và cùng với khách là tiền.
Tiếc rằng bà này một lần vô ư lắc đầu xua con ruồi trên môi, bị mũi dao đâm xuyên qua óc. Từ đó gánh xiếc bắt đầu sa sút. Có người lại nói người bị ông ném chết không phải vợ mà thằng con cả, anh của hai đứa hiện giờ. C̣n vợ ông, khi thấy con chết đă ôm đứa bé nhất, đứa thứ tư, bỏ ra Bắc.
Cũng có người nói ông Lùn không bao giờ ném người, v́ ông tốt bụng, sợ nhỡ người đứng mẫu không chịu nổi sẽ nhúc nhích hay ngất ngă. Tóm lại, ư kiến có nhiều và khác nhau không ít, nhưng tất cả đều thống nhất ở một điểm, rằng ông Lùn và gánh xiếc của ông trước đó từng làm ăn phát đạt hơn nhiều.
C̣n lúc này th́ nó đang gặp khó khăn. Các tiết mục có lạ mắt, hấp dẫn thật đấy, nhưng vẫn chưa đủ độc đáo để bắt được người nông dân bỏ công việc kéo nhau đến xem, và điều này mới quan trọng nhất, chịu móc túi lấy tiền, tất nhiên nếu trong túi có tiền.
Cứ thế mấy cha con ông Lùn kéo xe lang thang khắp nơi, hết huyện này đến huyện khác. Chương tŕnh biểu diễn của họ trở nên phong phú hơn. Hai thằng bé lớn lên học thêm được một số tṛ mới. Bản thân ông Lùn cũng kiêm luôn một số mục khác, như nằm ngửa để ḥn đá to lên bụng cho người khác cầm búa đập vỡ, hoặc bắn cung, tung tạ...
Chiếc máy hát th́ ọc ạch hơn trước, tuy vẫn phát ra được bài hát Pháp vui nhộn nọ. Chỉ có hai cái không thay đổi, là con chó thông minh và món tiền ít ỏi thu được sau mỗi buổi diễn.
Vào một năm mất mùa và gánh xiếc đang trong t́nh trạng tồi tệ nhất, một đêm nọ ở sân ga Vinh, khi bố con ông Lùn đang ngồi ăn phần cơm ít ỏi của ḿnh, th́ một người phụ nữ bước đến ch́a tay xin ăn. Người này chưa đến ba mươi, ăn mặc khá tươm tất, mặt dễ coi nhưng xanh gầy bởi đói ăn lâu ngày.
Cô ta đội chiếc nón tùm hụp, tay nải bên hông, ngượng ngập ch́a tay, miệng lí nhí câu ǵ không rơ. ở cô toát lên cái ǵ đấy dễ thương và tử tế, chứng tỏ trước đây không lâu c̣n thuộc con nhà tử tế.
Sau này cô cho biết rằng cô không may lấy phải người chồng giàu nhưng độc ác. Hắn muốn có con trai thừa tự, mà cô chỉ sinh toàn con gái. Sau khi sinh đứa con gái thứ ba, hắn thẳng tay đuổi cả bốn mẹ con ra khỏi nhà. Không nơi nương tựa, mẹ con cô bồng bế nhau đi ăn xin, khi gặp ông Lùn là vừa tṛn ba tháng.
V́ không muốn con chết đói, cô lần lượt t́m nơi tin cậy cho hết đứa này đến đứa khác. Đứa cuối cùng chưa đầy một tuổi, cô đem cho một bà hàng bún ở Bến Thủy cách đấy vài ngày.
Vốn thương người, ông Lùn mời cô ngồi xuống cùng ăn. Ngày ấy chia cái ăn cho người khác là việc dũng cảm. Lát sau ông quyết định một việc khác c̣n dũng cảm gấp bội là mời cô đi theo gánh xiếc.
Tên cô là Lư. Từ ngày có cô Lư, gánh xiếc ông đỡ vất vả hơn trong lo toan hàng ngày, c̣n ông th́ thấy đời cũng ấm áp thêm đôi chút. Nhưng cũng dễ h́nh dung rằng từ đấy, có thêm một miệng ăn, gánh xiếc của ông trở nên túng thiếu thế nào. Thu nhập ngày một ít; người xem bắt đầu chán những tiết mục diễn đi diễn lại nhiều lần. Họ muốn cái ǵ đấy mới, hấp dẫn và độc đáo.
Nhưng cái ǵ? Ông Lùn ngày càng ít nói. Hai thằng con thấy ít người xem, mất hứng, sao nhăng chuyện tập tành. C̣n cô Lư th́ vốn nhẫn nhục và hay mặc cảm, nay thấy ḿnh là gánh nặng cho người khác, nên rất khổ tâm. Cô tự cho cô là người duy nhất có lỗi. Cô cố gắng làm vừa ḷng mọi người một cách vụng về, nhiều khi định lén học một vài tṛ nhưng không được. May không ai trách cô. Ngược lại, cô được mọi người yêu mến, đặc biệt ông Lùn.
Thời gian lặng lẽ trôi qua, chiếc xe của gánh xiếc ông Lùn vẫn lọc cọc lăn trên những con đường quanh co của xứ Nghệ, chở theo nó vẫn những khó khăn và lo âu ấy.
Một hôm t́nh cờ cô Lư nghe ai đó nói nếu có người chịu đứng làm mẫu cho ông Lùn ném dao, người ta sẽ tới xem đông hơn. Suốt ngày cô nghĩ măi điều này. Phải chăng đây là khả năng duy nhất cô có thể giúp ân nhân ḿnh trong công việc? Cô chỉ việc nhắm mắt đứng yên, dang hai tay hai chân, c̣n tài ném dao của ông Lùn th́ cô không mảy may nghi ngờ.
Có điều tính nhút nhát, mới nh́n mũi dao đă bủn rủn chân tay, liệu cô có đứng vững được không? H́nh dung chuyện ấy, cô thấy ớn lạnh nơi sống lưng, trống ngực đập th́nh thịch. Thật kinh khủng, nhưng không c̣n cách nào khác...
Tối ấy cô nói ướm với ông Lùn, và như ta dễ đoán hiểu, ông cương quyết từ chối. Ông cũng nhất định không thay đổi ư kiến những lần sau, cả khi cô nói gánh xiếc sẽ kiếm được nhiều tiền và có thể giúp cô chuộc lại con.
Thế mà chưa đầy nửa tháng sau, ở chợ Vinh, thằng nhỏ đă oang oang quảng cáo "ném dao găm theo h́nh người thật, một tiết mục mạo hiểm rùng rợn nhưng vô cùng hấp dẫn mấy năm chỉ diễn một lần của Gánh xiếc ông Lùn"... Nghĩa là cuối cùng cái đói đă thắng tất cả, và bắt được một người tốt bụng, hiền lành như ông Lùn mạo hiểm với tính mạng của người ông quư mến.
Hôm ấy mọi việc diễn ra giống mọi ngày vẫn tŕnh tự các tiết mục ấy, vẫn con chó và chiếc máy hát ọc ạch ấy. Điều khác duy nhất là người xem, do được quảng cáo và kháo nhau từ trước, lần này kéo đến rất đông,.
Trước con mắt hồi hộp của mọi người, cô Lư đi ra, khẽ mỉm cười yếu ớt rồi bước lên bục, đứng dán người vào chiếc bảng lớn kê sát phía sau. Cô mặc bộ quần áo đen bó sát người, hai tay để thẳng ngang vai, chân choăi ra thành h́nh chữ V lật ngược. Mặt cô trắng nhợt, đôi mắt mở to không nhấp nháy.
Ông Lùn đứng trước cô ở cách mười mét, bề ngoài vẫn b́nh tĩnh như mọi ngày. Bên cạnh là thằng nhỏ, hai tay bê hộp dao. Ông với tay lấy một chiếc, hất đầu ra hiệu với cô Lư, rồi nhanh như tia chớp mũi dao lóe lên, cắm phập sát đỉnh đầu cô.
Cô cảm thấy như có ḍng điện vừa chạy khắp cơ thể. Chưa kịp định thần trở lại, một mũi khác đă chạm nhẹ bên tai trái. Mấy giây sau, mũi dao xuyên xuống cổ, bờ vai rồi chạy theo cánh tay đến đầu ngón, xuống nách, hông... Cô nhắm mắt. Nỗi sợ làm tê liệt các dây thần kinh cảm giác. Thậm chí cô không c̣n nghe tiếng những mũi dao liên tiếp cắm vào bảng gỗ sắc gọn, và chỉ chợt tỉnh lại khi ông Lùn ném xong mũi dao cuối cùng bên tai phải.
Sau những phút nín thở theo dơi, người xem bùng lên vỗ tay tán thưởng. Cô Lư loạng choạng bước xuống khỏi bục, để lại phía sau một h́nh người được cắm bằng những mũi dao tua tủa.
Sau đó, như một số người kể lại, cô Lư đă ngất trong cánh tay ông Lùn vừa kịp đến đỡ. Cũng có người nói cô ốm liệt giường mấy ngày liền. Nói chung người ta c̣n nhớ và kể lại nhiều chi tiết giật gân về buổi biểu diễn hiếm có ấy. Tất nhiên chính xác đến đâu là chuyện khác.
Tôi có bà cô già rất mê các tṛ múa hát. Cô tôi kể rằng hôm ấy, khi mọi người bỏ đi hết, có hai cô gái nông dân bẽn lẽn đến gặp ông Lùn. Sau một hồi đùn đẩy, hai cô xin ông từ nay đừng ném dao theo h́nh người thật, v́ ném thế sợ lắm, nguy hiểm lắm.
Ông Lùn nh́n hai cô mỉm cười hiền lành, cảm ơn và hứa sẽ làm theo. Hai cô gái không nói ǵ thêm, vội dúi vào tay ông mấy tờ giấy bạc cầm sẵn rồi xấu hỏ bỏ chạy. Chuyện này th́ tôi tin chắc có thật, v́ một trong hai người ấy là bà cô tôi. Cô tôi nói:
- Thế mà chỉ mấy tháng sau ông ta đă ném chết cô Lư. Con người trông bề ngoài hiền lành, thật thà, hóa ra...
Bà cô tôi nói đúng: Ba tháng sau, ở Phủ Diễn, nay là thị trấn Diễn Châu, cũng v́ cái đói bắt buộc, ông Lùn và cô Lư lại mạo hiểm lần nữa. Không may lần này, cô Lư ngất đúng khi ông Lùn ném mũi dao vào nách phải. Cô ngă người, và mũi dao đâm trúng trái tim cô lúc ấy đang đập mạnh v́ sợ...
Tôi yêu xiếc, nghệ thuật của cái đẹp và sự dũng cảm. Một phần v́ thế mà tôi bỏ công lần theo truyền thuyết về ông Lùn và gánh xiếc của ông. Để làm ǵ ư? Để ít ra cũng biết được con người của môn nghệ thuật tôi yêu ấy trước kia đă sống và phải trả giá cho nghề nghiệp của ḿnh như thế nào.
Tiếc là sau cái chết của cô Lư, tôi không biết ǵ thêm về ông Lùn, ngoài một điều chắc chắn rằng từ đấy ở quê tôi không ai c̣n thấy gánh xiếc của ông. Có người nói ông đem con trở về Bắc, chọn nghề khác kiếm sống. Cũng có tin đồn, rằng ông vào một tỉnh nào đấy phía trong, tiếp tục biểu diễn và c̣n làm chết thêm mấy bà vợ nữa; rằng ông tự tử chết theo cô Lư; rằng ông bị bắt v́ tội giết người...
Mới đây, một ông giáo ở Quỳnh Lưu nói với tôi là sau khi miền Bắc giải phóng, gánh xiếc ông Lùn đă nhập vào đoàn xiếc Trung ương, hiện giờ chắc hai con ông đang làm việc ở đó. Đây là giả thiết có vẻ tin được. Khi trở ra Hà Nội, tôi t́m đến đoàn xiếc ấy và cả trường xiếc ở Mai Dịch, nhưng không biết ǵ thêm.
Bây giờ, mỗi lần vào rạp xiếc thưởng thức những tiết mục hấp dẫn của các diễn viên trẻ đẹp, hạnh phúc, tôi không thể không bùi ngùi nghĩ tới ông Lùn và gánh xiếc của ông, một thời lọc cọc lăn trên những nẻo đường nông thôn xứ Nghệ.
Thái Bá Tân
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 503 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 5:20pm | Đă lưu IP
|
|
|
NGƯỜI RÁCH BÓNG
Dạo ấy tôi trẻ và c̣n hăng lắm. Chưa vấp váp, chưa khổ đau, cứ ngẩng cao đầu bước đi giữa phố. Những bước đi tự tin không biết sợ, và thường được nhấn thêm bằng đế đôi giày da bóng lộn.
Một hôm tôi chững chạc bước như thế trong công viên thành phố, c̣n thích thú di di gót giày sau mỗi bước đi. Lúc ấy là xế chiều một ngày đầu đông nắng đẹp. Công viên ít người, gió từ hồ Bẩy Mẫu thổi nhẹ, các luống hoa mới được tưới tươi rói, không tỏa mùi hương, mà mùi đất hăng nồng. Vâng, tôi bước đi như thế với cảm giác lâng lâng, yêu đời và yêu ḿnh.
- Ối!
Bỗng ai đó kêu lên đau đớn. Tôi giật ḿnh đứng lại. Trên ghế đá ngay bên cạnh có người đang ôm mặt nhăn nhó. Đó là một ông già khoảng sáu mươi lăm, bảy mươi tuổi, tóc bạc gần hết, đeo kính mắt tṛn gọng kim loại, mặc bộ vét màu lông chuột đă cũ nhưng khá tươm tất, tuy hơi rộng so với thân h́nh gầy yếu của ông.
Chiếc cà vạt rất ngay ngắn trên cổ nhưng hơi nhàu. Chiếc mũ phớt dạ bóp lơm phía trước đă sờn bóng ở các mép gờ. Chiếc ba-toong tựa bên ghế, hơi ngắn v́ dùng nhiều đă ṃn, tay cầm cong cong khảm bạc. Tóm lại, vẻ ngoài của ông toát ra cái ǵ đấy cổ kính một cách lạc lơng, một trí thức cũ không muốn hoặc không thể ḥa nhập với cuộc sống mới.
Tôi nh́n đôi mắt sáng ươn ướt chắc v́ đau của ông già:
- Thưa bác, có chuyện ǵ thế ạ?
Ông già ngước nh́n lên. Một khuôn mặt nhân hậu đầy nếp nhăn và những nốt đồi mồi.
- Anh đang dẫm lên bóng tôi, anh bạn trẻ ạ.
Ông nói bằng tiếng Pháp.
- Xin làm ơn bước sang bên!
Dẫm lên bóng? Tôi ngạc nhiên thầm nghĩ. Dẫm lên bóng mà lại đau, đến mức phải ôm mặt? Chỉ lúc ấy tôi mới để ư thấy chiếc bóng ông dưới chân ḿnh. Mặt trời đă ngả về tây, không bị mây che nên sáng rực, chiếc bóng v́ vậy khá dài, dù ông ngồi trên ghế. Tôi dẫm đúng vào vai chiếc bóng ấy.
- Vâng, xin làm ơn đứng xê ra hộ. Nhanh lên!
Tôi vội lùi lại. Thật kỳ lạ. Chiếc bóng của ông bị kéo rê theo gót giày tôi, như thể nó dính vào đấy. Trong khi đó, ông già cúi xuống, nhẹ nhàng làm động tác luồn hai tay nâng chiếc bóng lên, kéo về phía ḿnh.
Rồi ông nhỏm dậy bảo tôi giơ chân để ông gỡ một góc chiếc bóng khỏi đế giày. Th́ ra nó bị vướng một chiếc đinh. Thời đó, để gót giày không bị ṃn vẹt, người ta thường đóng một lớp cao su bên dưới. Lớp cao su của tôi bị sứt một góc, để lộ mấy chiếc đinh. Chắc v́ thế nó mới làm ông già đau.
- Anh xem này, nó bị thủng mấy chỗ!
Ông già nói rồi giơ ngón tay chỉ, nhưng tôi không thấy ǵ.
Tôi nh́n ông nâng niu đỡ chiếc bóng trên tay, ngạc nhiên đến mức không thốt nên lời. Trông nó như tấm vải phíp thật mịn, mỏng và nhẹ, màu xanh thẫm chứ không hoàn toàn đen như thoạt tưởng.
- Lần sau xin anh nhẹ chân và cẩn thận nh́n xuống lúc đi đường.
Ông già khẽ nói vẫn bằng tiếng Pháp, thứ tiếng Pháp của những năm bốn mươi thế kỷ trước. Ông thận trọng trải chiếc bóng xuống đất vào vị trí cũ.
Không phải không thoáng lo sợ, tôi ấp úng xin lỗi rồi vội bỏ đi, vẫn chưa hết bàng hoàng với những ǵ mới xẩy ra.
Nửa tháng sau tôi lại đi dạo trong công viên, lại thấy ông già ấy ngồi sưởi nắng trên chiếc ghế đá quen thuộc. Dưới chân ông là chiếc bóng đang lặng lẽ nằm yên. Tôi bước nhẹ chân, cố không dẫm lên nó.
- Cảm ơn.
Ông già nói khi nhận ra tôi, mỉm cựi yếu ớt.
Cảm ơn v́ tôi đă tránh không dẫm lên chiếc bóng! Thấy ông thân thiện, tôi nh́n xuống nửa ghế trống ra ư muốn ngồi cùng. Ông gật đầu. Thực ra tôi chẳng hào hứng ǵ khi tiếp xúc với một người kỳ dị như ông, nhưng sự ṭ ṃ không cho phép cưỡng lại.
Trông ông có vẻ ốm yếu hơn trước, như người đang bệnh, lưng hơi c̣ng, đôi mắt sáng có phần đờ đẫn.
- Không ngờ cú dẫm của anh hôm nọ làm tôi đau đến thế.
Ông nói.
- Nhưng tôi không trách, v́ anh chỉ vô t́nh. Người trẻ thường hay vô t́nh.
- Cháu xin lỗi,
Tôi đáp.
- Thế... Thế cái bóng của bác lành lại chưa ạ?
- Chưa. Tồi tệ hơn, vết thương c̣n lây sang chỗ khác. Nên tôi mới thế này .
Tôi do dự một chốc rồi rụt rè hỏi điều cứ làm tôi băn khoăn măi:
- Thú thật với bác, cháu không hiểu v́ sao ai đó có thể thấy đau khi bóng ḿnh bị người khác dẫm lên .
- Đơn giản v́ anh bạn c̣n trẻ. Khi người ta già, từng trải, nếm hết mọi cái vui, cái buồn của đời, người ta sẽ trở nên nhạy cảm hơn với nỗi đau của ḿnh và của người khác.
V́ trẻ anh chưa thấy đau, thậm chí chưa bao giờ nghĩ nghiêm túc rằng, cái bóng là một bộ phận không thể tách rời của anh. Tôi dám chắc nhiều khi anh chẳng chút băn khoăn để bóng anh rơi xuống chỗ bẩn?
Tôi gật đầu một cách thành thật.
Lần sau vào công viên, từ xa tôi thấy ông già đang ôm ngực, cúi người trên ghế đá. Chiếc bóng dưới chân không c̣n dài, màu cũng trở nên nhợt nhạt hơn. Nghĩa là bệnh ông nặng hơn.
Vết rách trên chiếc bóng chắc rộng lắm, có thể đă lan khắp nơi. Hoặc sưng tấy mà tôi không thấy. Tôi ái ngại nh́n ông, ḷng bứt rứt và không dám lại gần.
Lần sau nữa th́ chẳng thấy ông đâu. Có lẽ ông đă chết. Chết v́ vết thương tôi vô ư gây nên.
Từ ấy đến nay đă nhiều năm trôi qua, nhiều đến mức bản thân tôi cũng trở thành một ông già, thỉnh thoảng cũng ra công viên ngồi sưởi nắng. Tôi vẫn thường nghĩ tới ông già có chiếc bóng rách ấy với mặc cảm day dứt của người có lỗi.
Thỉnh thoảng cũng có người vô ư dẫm lên bóng tôi, nhưng tôi chưa bao giờ thấy đau. Việc này thú thật, có làm tôi hơi buồn. Chẳng cắt nghĩa nổi v́ sao nhưng cứ buồn.
Tôi không là người mê tín, không tin vào phép lạ và các chuyện ma quỉ. Đến bây giờ tôi vẫn không hoàn toàn tin chuyện đă xẩy ra với ông già kia, mà tôi có phần can dự. Nhưng cũng không hoàn toàn phủ nhận.
Chí ít th́ sau cái chết của ông, bao giờ tôi cũng nhắc ḿnh cẩn thận không để bóng rơi vào chỗ bẩn thỉu, không dẫm lên bóng người khác và cũng không để người khác dẫm lên bóng ḿnh.
Khuyết Danh
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 504 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 5:21pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHÂN QUẢ
Tôi có nghe Ḥa Thượng Thích Giác Hạnh kể về một câu chuyện, mà trong lúc đi tụng kinh trợ niệm và giúp giải nghiệp cho một phụ nữ ,và Thầy kể lại!
Hôm đó Thầy được gia đ́nh một người nữ bị bệnh ung thư, đă rất lâu nhưng không chết được, mời đến tụng kinh trợ niệm cho người nữ này, để giúp cho cô ta giải bớt nghiệp và ra đi sớm!
Khi Thầy đến, điều đầu tiên Thầy thấy đó là nơi vách tường người nữ này nằm, có những cục máu đỏ đă khô lại, mỗi cục máu bằng gần một trái trứng chim cút, những cục máu như thế đầy hết chổ gần người bệnh nằm.
Điều tiếp theo mà Thầy nh́n thấy, đó là một cái thớt có cắm một con dao lớn, để ở trên đầu của bệnh nhân! Sau đó Thầy có hỏi sơ về công việc lúc trước người bệnh này làm nghề ǵ? Th́ được người nhà cho hay, v́ hoàn cảnh quá nghèo cho nên cô này làm nghề giết heo thuê cho người ta...
Thầy biết ngay đây là nghiệp quả mà chính cô đă tạo ra, và bây giờ đang phải trả cái nghiệp quả sát sanh của ḿnh! Điều mà Thầy nói ghê nhất là cứ đúng vào ba, bốn sáng vào đúng giờ mà cô giết heo, th́ cô cũng la y như tiếng heo bị giết vậy!
Cứ nằm la và khạc ra máu như thế suốt gần hai năm, cho tới lúc Thầy tới trợ niệm và giúp cô giải bớt nghiệp chướng của ḿnh. Khi cô ra đi th́ cái đầu của cô nằm cong queo y như h́nh con heo lúc bị giết...
Thầy nói từ đó đến giờ, bao nhiêu cảnh mà Thầy đă từng gặp qua, trong thời gian đi tụng kinh trợ niệm, nhưng đây là một trường hợp khủng khiếp nhất về tội sát sanh mà Thầy gặp.
Thầy có nói những ai đang sát sanh cũng nên biết sám hối tội lỗi của ḿnh, v́ nếu có người nào được chứng kiến tận mắt cái chết đau khổ mà người nữ đó phải trăi qua, nó khủng khiếp như thế nào th́ mới thật sự biết sợ...
Nhân quả mà cô trả khi c̣n tại thế, th́ vẫn nhẹ hơn rất nhiều, so với nhân quả trong thế giới sau khi cô mất nó lớn gấp trăm vạn lần, chứ không phải chuyện đùa.
NGÀY NAY QUẢ BÁO MỘT GIÂY NHĂN TIỀN.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
Con nguyện cho tất cả mọi người biết sợ nhân quả mà sửa chữa lỗi lầm, và sống tốt hơn biết yêu thương và chia sẻ những khó khăn với tất cả mọi người, mọi loài! Biết kính tin Tam Bảo tu hành tinh tấn, và đặc biệt hăy cố tránh sát sanh, mà phải biết phóng sanh th́ sẽ giúp giải bớt nghiệp chướng của ḿnh...
Khang
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 505 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 5:50pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỪNG ĐÙA VỚI MA
- Bố thằng Tí ơi, dậy. Dậy, dậy đi nào. Có việc.
Người đàn bà tần ngần đứng bên giường. Chị ta trạc ba mươi tuổi, da nhợt nhạt, gầy đét với đôi mắt mở to vô cảm của người bị chai ĺ bởi cái đói và cái khổ.
Miền núi trời chóng tối. Những ngày mưa ở đây th́ thật buồn và khó chịu. Đang mùa đông, lại hun hút gió thổi lạnh. Chưa đến sáu giờ mà dường như cả cái thị trấn bé nhỏ này đă chui tọt vào nhà đóng chặt cửa. Trong nhà chẳng ấm hơn nhưng có ánh đèn, có người.
- Ǵ thế?
Vẫn nằm yên, đống chăn trên giường càu nhàu.
- Có việc.
- Kệ. Tôi mới đi về. Đêm qua thức trắng rồi. Buồn ngủ lắm. Có các vàng cũng chịu.
- Th́ tôi đă bảo thế nhưng người ta cứ một mực nhờ.
Người đàn bà im lặng một chốc rồi nói tiếp.
- Vả lại tiền công cao. Những một trăm ngh́n đồng. Đưa trước. Mà nhà ḿnh th́ ...
- Một trăm ngh́n? Đi đâu?
- Nghe nói gần đây thôi. Người ta đang chờ ngoài cổng. Bảo không vào.
Con số một trăm ngh́n đă lôi được bố thằng Tí ra khỏi giường. Đó là một gă đàn ông khốn khổ, mặt nhàu nát, da ngăm đen, thấp gầy nhưng có vẻ khỏe mạnh. Chiếc áo đại cán cáu bẩn, thủng một lỗ lớn ở khuỷu tay.
Thời bây giờ mà c̣n mặc áo rách đủ biết giàu nghèo thế nào. Toàn bộ con người hắn toát lên sự chán chường, mệt mỏi, v́ đói ăn, đói ngủ và đói việc. Nhất là đói việc. Hắn cầm khúc sắn luộc vợ đưa cho, vừa ăn vừa đẩy chiếc Minkhơ.
Chờ hắn ngoài đường là một người choàng tấm ni-lông (v́ lúc ấy vẫn mưa lất phất), đội mũ cối, trời lại tối nên không nh́n rơ mặt.
- Có biết bản Pa Cao ở Phú Nghĩa không?
Người choàng ni-lông hỏi.
- Có.
Hắn đáp. Hắn biết tất cả các bản ở cái huyện miền núi rộng lớn này, là vùng trước đây hắn từng nhiều năm lăn lộn kiếm sống. Pa Cao cách đây không xa, độ bốn chục cây số nhưng đường rừng khó đi, nhất là ban đêm, không khéo sẽ lăn xuống vực Phán Ĺn như chơi.
- Ông nói tiền công một trăm ngh́n?
- Ừ. một trăm.
- Ông cùng đi?
- Cùng đi.
- Ngay bây giờ?
- Bây giờ.
- Được.
Hắn lưỡng lự một chốc.
- Vợ tôi nói ông có thể đưa tiền trước? Chả là thằng con đang ốm, phải mua thuốc ngay bây giờ...
Gă kia không đáp, lẳng lặng rút hai tờ năm mươi ngh́n đưa cho hắn. Hắn gọi vợ ra lấy tiền rồi theo gă đi. Không ai nói thêm ǵ nữa.
Hắn thầm ngạc nhiên khi thấy không tới bệnh viện như mọi lần, nhưng vẫn im lặng. Cuối cùng họ bước vào một ngôi nhà nhỏ với ngọn đèn điện tù mù.
- Đây, anh giúp tôi đưa người này về Pa Cao.
Gă kia nói, tay chỉ một ông già nằm thẳng đơ trên sàn, tấm chăn chiên Trung Quốc che đến cổ.
- Người nhà của ông à?
- Không cần biết.
Lúc này có đèn, hắn mới thấy mặt gă. Một khuôn mặt choắt, độc ác và gian xảo như của loài cáo, trên to phía dưới nhọn dần, gần như h́nh tam giác. Cử chỉ và cách nói nhát gừng của gă cũng để lộ bản chất cáo gian xảo.
Kinh nghiệm xe ôm nhiều năm giúp hắn biết nhận xét người nhanh và chính xác. Hắn thoáng hối hận đă nhận lời, nhưng tiền lấy rồi, có muốn thôi cũng chẳng được. Hắn đành tự an ủi rằng khi liên quan đến một việc thế này, không ai nỡ có ḷng nào hoặc tâm trí nào làm hại hắn.
Gă kia kéo chăn. Ông già chết đă lâu, xác cứng đờ như cây củi, khiến gă phải đem hết sức bẻ gập người ông lại. Có tiếng răng rắc như xương găy. Rồi gă nhẹ nhàng bê xác người bị gập thành h́nh vuông ấy ra xe, đặt lên yên. Hắn nổ máy. Gă kia, bằng hai động tác nhanh và gọn, bẻ gập tay ông già cho ôm vào bụng hắn rồi cũng ngồi lên xe.
- Đi!
***
Có lẽ trên đời không nghề nào khốn khổ như nghề của hắn, nghề chở xác chết bằng xe ôm. Số là ở thị trấn hắn đang sống có một bệnh viện nhỏ. Bệnh nhân chủ yếu là người miền núi. Nhu cầu đẻ ra nghề, đúng thế.
Có bệnh viện là có người chết hoặc người bị trả về nhà chờ chết, trong khi đó lại không có đường ô tô về làng bản. Mà nếu có, chưa hẳn ai cũng đủ tiền thuê thứ phương tiện hiện đại và tiện lợi ấy. Vậy chỉ c̣n cáng cơng hoặc thuê xe ôm. Từ đó mà thành nghề.
Có thể nói hắn là ông tổ, khai sinh ra nghề này ở đây, với thâm niên hơn mười năm, tức là ngay từ ngày xe máy xuất hiện nhiều, dần dần thay thế xe đạp. Công bằng mà nói, nghề này kiếm tiền khá hơn nghề xe ôm chở người b́nh thường. Chỉ cái đáng sợ.
Hắn lại nhát gan, bản tính hiền lành, hay sợ ma và đủ các thứ sợ khác. V́ những lư do dễ hiểu, người ta thường yêu cầu hắn chở vào ban đêm. Sợ lắm. Suốt cả mười năm qua, lần nào hắn cũng sợ, nhưng c̣n có cái khác đáng sợ hơn, là thiếu tiền. Hắn luôn thiếu tiền. Để lo cái ăn và nhất là thuốc thang cho mấy đứa con oặt ẹo.
Thành ra không bao giờ hắn từ chối khi có việc. Cả những việc đáng sợ nhất và ít tiền nhất mà đồng nghiệp hắn từ chối. Nói chung th́ cái ǵ làm măi cũng quen, cái sợ nào sợ măi rồi cũng hết, nhưng với hắn, cái sợ khi phải chở xác chết một ḿnh giữa rừng trong đêm khuya, th́ lần nào cũng mới nguyên như lần đầu.
Cả lúc này hắn cũng đang rất sợ, sợ đến mức tay lái run run, và mặc dù trời lạnh, từ thắt lưng trở lên người hắn đẫm mồ hôi. Hai tay ông già ôm chặt bụng hắn. Các ngón tay bấm sâu vào da như những mũi ḱm. Cằm ông ta t́ lên vai hắn. Chiếc mũi chạm vào gáy nhồn nhột.
- Ông cụ mắc bệnh ǵ mà chết?
Hắn lên tiếng cho đỡ sợ.
- Đi đi!
Gă kia nói như ra lệnh.
- Chú ư nh́n xuống đường kẻo ngă chết cả nút bây giờ.
Hắn thấy sợ cả thằng này. Một thằng cha bí hiểm, kỳ cục. Hắn nghĩ thà đi một ḿnh với ông già c̣n hơn. Rồi hắn nhớ năm ngoái đêm khuya hắn chở một xác chết không người đi kèm lên Mèo Xị. Đó là một phụ nữ đang có bầu bị bệnh lao, xác cũng cứng queo, và hắn phải hồi lâu lúng túng cột ngang yên xe như khúc gỗ, dọc đường mấy lần tuột, phải xuống buộc lại.
Thế mà đi năm mươi cây số đến nơi, cả nhà người chết chạy vay hàng xóm măi mới được mười ngh́n đồng trả công. Hắn cám cảnh không lấy, chỉ tu một hơi hết nửa chai rượu ngô vừa nhạt vừa chua, thắp nén hương cho người chết rồi lại đang đêm phóng xe về nhà.
Lần khác, mới đây thôi, có anh con trai phải đưa bà mẹ hấp hối về cho kịp chết ở nhà. Bà cụ cũng ngồi giữa, ôm chặt hắn như ông già bây giờ. Anh con ngồi giữ phía sau. Giữa đường bà cụ chết lúc nào. Khi tới nơi th́ tay chân đă cứng, gỡ măi mới ra. May nhà có tiền trả hắn.
Những trường hợp như thế có nhiều, lần nào cũng đáng sợ, nhưng không hiểu sao lần này hắn thấy sợ hơn cả, thậm chí linh tính như có điều chẳng lành sắp xẩy ra. Có lẽ từ cái thằng c̣n sống đang ngồi lầm ĺ phía sau.
Không lẽ gă sẽ giết hắn để lấy chiếc Minkhơ cà tàng này? Giết người đang chở xác bố hoặc người thân hắn? Không thể thế được. Ai nỡ làm điều ấy? Hắn cảm thấy yên tâm hơn, nhưng hễ nhớ lại cái mặt cáo của gă, hắn lại thấy sợ. Vu vơ nhưng vẫn sợ.
Trời ngớt mưa, đỡ gió, đỡ lạnh hơn. Chẳng nghe ǵ, thấy ǵ xung quanh, ngoài tiếng xe nổ tành tạch và vệt đèn đỏ quạch trước mặt. Cuối cùng xe đến chân đèo Phán Ĺn. Con đèo ngắn nhưng dốc. Bên kia đă là Pa Cao, chừng dăm cây số nữa. Hắn cài số lùi cho xe từ từ leo lên, hơi cúi về phía trước.
Thật lạ, hắn có cảm giác cái xác khô cứng của ông già h́nh như cũng cúi gập theo hắn. Hơn thế, hắn c̣n nghe cả tiếng thở của ông phả vào gáy. Hay gă kia? Không. Gă ngồi tít phía sau. Hai cánh tay đang ôm bụng hắn mềm ra, các ngón mân mê lớp da bụng hắn. Một lần hắn nghe ông già khẽ ho, nhưng v́ tiếng xe nổ to nên không dám chắc điều này.
Hắn đánh bạo bỏ tay trái, sờ vào đùi ông già, thấy mềm như da thịt người sống. Chắc ông cụ sống lại? Hắn muốn hỏi mà không dám. Áo hắn bây giờ ướt đấm hoàn toàn. Ông già dán người vào hắn, tay ôm chặt hơn, hơi thở phả vào gáy hắn mạnh hơn, nóng hơn. Giờ th́ hắn tin ông thực sự đă sống lại. Tuy sợ nhưng hắn thầm mừng, v́ có thêm ông, một người có vẻ tử tế, nếu gă kia định làm điều ǵ xấu sẽ phải suy nghĩ lại...
- Dừng lại hút điếu thuốc đă!
Bất chợt gă lên tiếng khi lên đến đỉnh đèo.
Hắn thót tim, thầm lo sợ điều xấu nhất. Sát bên đường là bờ vực dựng đứng. Nó sẽ đánh ḿnh chết, xô xuống vực rồi cướp xe! Hắn định cứ đi tiếp, hy vọng tên kia không dám đánh khi hắn đang cầm lái, v́ có chuyện ǵ cả gă cũng chết. Tuy nhiên, như bị thôi miên, không hiểu sao hắn vẫn dừng xe.
Đúng đỉnh đèo, sát vực. Gă kia xuống trước, châm thuốc hút rồi đưa cho hắn một điếu. Có vẻ như gă muốn dừng lại chỉ để hút thuốc thật. Ông già vẫn ngồi trên yên, không hiểu v́ c̣n sống hay v́ hai chân cứng đờ kẹp chặt vào xe nên không ngă. Hắn không đủ b́nh tĩnh để kiểm tra.
Hai người im lặng đứng hút thuốc cạnh chiếc xe và ông già. Hắn vẫn luôn để mắt canh chừng. Khi hút xong, vừa nh́n theo mẩu thuốc bị vứt đang bay xuống vực, hắn chợt thấy gă rút trong ngực ra cái ǵ đó ngắn và to như chiếc búa. Hắn né người tránh, nhưng cũng đúng lúc ấy thấy gă kia lại ngă gục v́ cú đánh mạnh của chính chiếc búa gă vừa giơ lên.
V́ ngă ngay mép vực, gă quằn quại một lúc rồi từ từ lăn xuống rất sâu phía dưới. Hắn bàng hoàng không hiểu chuyện ǵ vừa xẩy ra. Dứt khoát thằng kia không thể tự đánh vào đầu ḿnh. Vậy chỉ có ông già. Ông vẫn ngồi bất động trên xe. Chiếc búa sắt nằm ngay dưới chân. Có thể ông kịp giật chiếc búa mà hắn không nh́n thấy. Nhưng ông đă chết. Hắn lại gần sờ lên vai, lên mặt. Quả ông chết thật, người cứng đơ.
Làm ǵ bây giờ? Hắn ngồi xuống vệ đường, ngơ ngác tự hỏi.
- Lại c̣n cái xác này nữa!
Mười lăm phút sau hắn đứng dậy, quyết định chở ông già về Pa Cao. Ở đấy chịu khó hỏi, chắc sẽ t́m được người thân của ông. Hắn vốn thương người, nghĩ không thể để ông nơi này một ḿnh, lại càng không thể vứt xuống vực. Biết đâu chính ông đă cứu sống hắn.
Hắn ngồi lên xe, nổ máy. Mưa bắt đầu nặng hạt trở lại. Đi được một quăng, hắn nghe có tiếng rơi đánh bộp sau lưng, ngoái lại th́ thấy ông già đang nằm dưới đường. Hắn lúi húi đặt cái xác lên xe, bẻ tay cho ôm chặt bụng ḿnh, rồi đi. Rồi lại rơi.
Cuối cùng hắn lấy dây cao su cột chặt ông vào người hắn và yên ổn đi tới tận Pa Cao, nơi hắn rẽ vào ngôi nhà đầu tiên có ánh lửa cách đường khoảng mươi mét. Ngẫu nhiên hắn vào đúng nhà ông thầy mo, chính xác hơn, trước đây là thầy mo.
- Thằng ấy tôi biết. Cứ để nó nằm dưới vực cho quạ rỉa. Đồ bất lương.
Ông thầy mo nói khi nghe hắn kể hết mọi chuyện. Ông ta sống một ḿnh, vẻ khắc khổ và cũng thuộc loại người khó đoán tuổi. Lúc ấy ông ta đang ngồi uống rượu một ḿnh với mấy củ sắn luộc bên bếp.
- Thế ông già này là ai và v́ sao lại chết?
Hắn hỏi, chỉ tay vào cái xác.
- Chuyện dài lắm. Anh chẳng cần biết làm ǵ. Thôi, uống rượu đi cho ấm bụng.
Hắn đỡ lấy chai rượu, tu một hơi hết sạch. Chủ nhà lấy thêm chai nữa. Hắn lại uống. Vốn không phải sâu rượu nhưng lúc này tự nhiên hắn muốn uống thật nhiều để quên đi những ǵ vừa trải qua. Ông kia quí cái tính thật thà và thương người của hắn. Hắn cũng thấy mến ông.
- Cháu ở dưới thị trấn, cạnh bệnh viện, cứ hỏi Tí xe ôm, ai cũng biết.
Hắn nói to, thậm chí c̣n cười. Lúc này rượu đă ngấm và hắn bắt đầu say.
- Tết này rỗi, mời hai bác xuống nhà cháu chơi.
Ông thầy mo nheo mắt cười, chỉ tay vào xác chết bên cạnh:
- Ở đây chỉ có tôi và ông này. Anh định mời cả ông ấy nữa à?
Hắn đớ người một lúc rồi cũng cười:
- Th́ mời cả ông ấy nữa! Ông ấy chẳng đă cứu cháu thoát chết đó sao.
- Được, thế th́ sớm muộn chúng tôi cũng tới thăm anh.
Ông kia đáp rồi quay sang xác chết.
- Có đúng thế không, ông A Lẩu?
Cái xác được gọi là A Lẩu không đáp, nhưng hắn thấy nó gật đầu. Hắn dụi mắt ngạc nhiên, đến sờ vào người ông, thấy vẫn cứng đờ. Chắc ḿnh nh́n nhầm, hắn nghĩ, và v́ đang say nên hắn chẳng nghĩ nhiều về điều đó.
Hai người c̣n ngồi uống rượu thêm hồi lâu, rồi hắn cùng ông thầy mo đem xác A Lẩu ra chôn trên mé đồi sau nhà. Khi xong việc th́ trời gần sáng. Mệt quá, hắn ngủ một giấc gần trưa mới lên xe về nhà.
***
Cuộc sống và công việc của hắn lại tiếp tục như cũ, với hai nỗi sợ thường trực là nghèo đói và những xác chết, mà hắn phải chở vào ban đêm, ở vùng miền núi hoang vu hẻo lánh này. Khó nói cái nào đáng sợ hơn. Cái đói thúc bách hàng ngày, đ̣i có tiền. Các xác chết kinh khủng thật, nhưng lại cho tiền, dù không phải hàng ngày.
Đội quân xe ôm gồm những người cũng nghèo như hắn, làm cùng nghề như hắn đang đông dần. Cũng tranh dành nhau như ở bến xe hay sân ga. Cũng có cả chuyện quỵt tiền công và bắt chẹt khách, những người đang hấp hối hoặc đă chết.
Tóm lại, nó gần như một nghề b́nh thường, và hắn tiếp tục sống bằng nghề ấy. Thậm chí cái đêm kinh khủng suưt bỏ mạng kia cuối cùng cũng trở thành một như rất nhiều các kỷ niệm khác.
Tối mồng hai Tết năm ấy nhà hắn có khách từ dưới xuôi lên. Dẫu nghèo, hắn cũng lo nổi một bữa tử tế đăi họ. Đang vui, hắn nghe có tiếng gơ cửa, vội đi ra. Vợ hắn bận ǵ dưới bếp.
- Tôi đến theo lời mời của anh. Quên nhau rồi à?
Hắn há hốc mồm, nh́n người đứng trước mặt. Đúng hơn không phải người mà là một xác chết đang thối rữa, lủng lẳng những miếng thịt trên tứ chi chưa kịp rứt khỏi xương. Nhưng khuôn mặt th́ c̣n nguyên. Hắn thấy quen quen.
- A Lẩu...
- Vâng, tôi là A Lẩu đây. Ông thầy mo hôm nay bận nên tôi đến một ḿnh. Hai chúng tôi quí anh lắm.
Cái xác cười, miệng đỏ ḷm.
- Sao, không mời khách vào nhà à? Cách đây ba tháng, ở Pa Cao anh chẳng mời chúng tôi Tết này đến nhà chơi đấy ư?
- Ờ, vâng... vâng...
Hắn ấp úng.
- Đừng lo. Không ai nh́n thấy tôi và ngửi thấy cái mùi nằng nặng đang bốc ra từ người tôi đâu.
Cái miệng đỏ lại cười khi thấy hắn chần chừ.
- Vâng, không ai ngoài anh. Mà anh với tôi là chỗ bạn bè, chuyện ấy có ǵ quan trọng.
Nói đoạn, A Lẩu cứ thế bước vào nhà. Hắn đành miễn cưỡng đi theo. Ông già thản nhiên ngồi xuống một chỗ c̣n trống trên chiếc chiếu để đầy thức ăn giữa nhà, thản nhiên rót rượu và dùng những ngón tay chỉ c̣n trơ xương trắng bốc thức ăn.
H́nh như mọi người không nh́n thấy ông, không ngửi thấy ǵ thật. Không ai rú lên, cũng không ai kêu thối. Hắn thấy một người chạm tay vào ông mà không vướng, không có cảm giác ǵ. Lạ thật.
- Anh vẫn phải làm cái nghề khốn khổ ấy à?
A Lẩu hỏi.
- Vâng, bác thấy đấy, c̣n biết làm ǵ khác nữa ở đây.
- Ừ, để kiếm sống, ai cũng phải làm một nghề nào đó. Nghề của anh c̣n lương thiện chán. Không như thằng thuê anh chở tôi về Pa Cao ngày nào...
- Có phải bác giết nó khi nó định đập búa vào đầu cháu không?
Hắn vội hỏi điều băn khoăn lâu nay.
- Không có bác, chắc cháu đă chết. Cháu xin cảm ơn.
- Ơi với huệ ǵ. Anh cũng không vứt tôi xuống vực. Coi như huề.
Ông già với tay lấy chiếc đùi gà ở góc chiếu đối diện, đúng lúc có người khách giơ bát gắp cái ǵ đấy. Một miếng thịt rữa rơi từ tay A Lẩu xuống đúng chiếc bát. Hắn nhắm mắt, suưt kêu lên. Mở ra, đă thấy người kia ăn hết một cách ngon lành mà không nhận thấy ǵ khác thường.
Cuối cùng ông già đứng dậy.
- Cảm ơn anh. Bữa ăn rất ngon. Năm mới, tôi cũng có chút quà.
Ông lấy đâu đó trong người ra chiếc bọc nhỏ bằng vải đỏ gấp vuông vức, đặt lên đầu giường.
- C̣n đây là thuốc chữa bệnh cho mấy đứa trẻ. Có giấy ghi cách sử dụng trong đó.
Ông đưa thêm chiếc lọ thuỷ tinh màu đen.
Tới cửa, lúc chia tay, A Lẩu nói thêm:
- Anh có nhă ư mời tôi th́ tôi cũng phải mời lại anh cho đúng phép. Mai giờ này tôi đến đây đón anh cùng đi.
Nói đoạn, ông từ từ biến mất trước con mắt ngỡ ngàng của hắn.
Không ai biết tối hôm sau hắn được đưa đi đâu, mời ăn những ǵ, chỉ thấy buổi sáng quay về hắn luôn mồm nôn ọe. Rồi ốm, nằm mê sảng đúng một tuần mới khỏi.
Cũng không ai biết có ǵ trong chiếc bọc vải đỏ ông già A Lẩu tặng hắn. Nhưng một điều ai cũng nhận thấy là từ đó gia đ́nh hắn trở nên khá hơn. Con cái khỏi bệnh, nhà có đồng ra đồng vào, thậm chí c̣n sắm được chiếc ti-vi Tàu. Tất nhiên hắn vẫn phải hàng ngày chầu chực dành nhau từng xác chết ngoài cổng bệnh viện.
Nhưng được thế cũng là đổi đời lắm rồi. Có thể nhờ A Lẩu mà số khách người chết của hắn nhiều hơn khách c̣n sống. Cũng có nghĩa là kiếm được nhiều tiền hơn, dù đôi khi phải rợn tóc gáy. Hắn vẫn chưa và có lẽ không bao giờ quen được với nỗi sợ ấy.
Cứ thế hắn làm ăn phát đạt, đến mức cuối cùng dám quyết định đưa cả nhà về sống ở một thành phố lớn. Vẫn làm nghề xe ôm, nhưng ở ga xe lửa. Mấy đứa con đă lớn. Cu Tí, đứa đầu học lớp năm, có một tập giấy khen Học sinh tiên tiến. Đứa sau, cũng con trai, học hơi dốt, phải đúp lớp hai, nhưng nhờ trời, luôn khỏe mạnh và thông minh trong mọi việc, trừ học.
Vợ hắn, người đàn bà ẻo oặt với đôi mắt vô hồn ấy, nay cũng bắt đầu có da có thịt, nhiều khi c̣n cười rất dễ coi, nhất là những hôm không ế mấy thứ hàng rau quả. Vậy là ổn. Hắn lấy làm hài ḷng, gần như thỏa măn. Hắn biết có được như ngày nay một phần nhờ A Lẩu.
Ông già vẫn đều đặn đến thăm hắn mỗi năm một lần đúng vào đêm mồng hai Tết. Và luôn có quà, vẫn chiếc bọc nhỏ vải đỏ gói vuông vức đựng cái ǵ bên trong không ai biết.
Bây giờ ông chỉ c̣n là bộ xương trắng hếu, không kèm theo mùi hôi thối, nhưng giọng nói, cách cư xử và nhất là t́nh cảm của ông đối với hắn th́ không thay đổi. Hắn chẳng c̣n sợ như trước, v́ biết lệ, không mời ai đến nhà vào tối ấy. Hắn đă có thể b́nh tĩnh ngồi uống rượu, chuyện tṛ với vị khách, bộ xương.
Cái hắn sợ là hôm sau phải làm khách của ông, v́ lần nào trở về, hắn cũng nôn ọe măi và ốm, mê sảng đúng một tuần như lần đầu. Cả cái sợ này hắn cũng không thể nào quen nổi, đến mức nhiều khi hối hận rằng ở Pa Cao do say rượu đă trót mời A Lẩu đến thăm nhà ḿnh. May mà mỗi năm chỉ một lần.
Ǵ th́ ǵ, cũng đừng nên bao giờ đùa với ma, hắn thở dài nghĩ bụng. Và nhẫn nhục chờ Tết năm tới.
Thái Bá Tân
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 506 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 5:52pm | Đă lưu IP
|
|
|
MA TRONG CH̉I GÁC
Câu chuyện này cậu tôi kể lại cho tôi nghe đă lâu, xin kể lại cho cả nhà cùng nghe. Cậu nhập ngũ sau khi nghe phong phanh có tên trong danh sách, cậu đă tự nguyện lên xin nhập ngũ để lấy tiếng, v́ đằng nào cũng phải đi, chứ không có hăng hái, hùng hổ và phấn khởi như tivi thường nói…
Được một năm th́ bị điều lên chiến khu phía bắc, thuộc tỉnh nào th́ ḿnh ko c̣n nhớ rơ nữa, chắc là tuyên quang hay thái nguyên ǵ đấy, đại khái là mấy tỉnh có nhiều rừng nhiều núi.
Đơn vị nơi cậu đóng quân có lối kiến trúc như kiểu nhà tập thể ở Việt Nam những năm chín mươi trở về trước, bao gồm một dăy nhà cấp bốn nối sát nhau, mỗi pḥng có khoảng bảy đến mười lính, ở đầu có pḥng gác, chỉ là pḥng b́nh thường chứ không phải cḥi gác trên cao như hay thấy trong phim, cả dăy nhà dựa lưng vào chân núi và nh́n ra là rừng.
Sau hai, ba ngày ổn định chỗ ở và bố trí công việc, th́ cậu được giao nhiệm vụ gác đêm. Là lính nhất là lính miền bắc vốn vẫn được ví như khỉ trường sơn, th́ gác đêm là chuyện b́nh thường, không có ǵ phải suy nghĩ. Nhất là vùng này đang không phải là điểm nóng, cho nên thực chất của việc gác chỉ là đến căn pḥng gác, rồi làm ǵ ở đó th́ làm cho đến sáng.
Ăn cơm xong cậu tôi xách súng không có đạn, bởi v́ vùng này nằm trong vùng an toàn, nên đạn dược được cấp rất ít, chỉ khi cần kíp th́ mới dùng đến vui vẻ đến pḥng gác.
Đó là một căn pḥng khá rộng, diện tích khoảng 20m2. Góc trong bên phải có một cái giường chiếc, có cả mùng màn, không phải mắc để cho lính gác ngủ, mà v́ vùng này là rừng núi, con muỗi to bằng con chuồn chuồn, và con vắt to bằng con lươn, nên lính thường chui vào trong màn cho đỡ bị muỗi đốt vắt cắn.
Đối diện với cửa ra vào là cửa sổ, được đóng kín bằng cót ép. Ở gần đầu giường có một chiếc bàn nhỏ và hai cái ghế, trên bàn có chiếc ấm sứt ṿi cùng vài chiếc chén nát, dưới chân bàn có cái phích cũ không c̣n nắp đậy, cái này là để hỗ trợ cho lính gác pha trà uống cho tỉnh táo, nhưng v́ không có tiền mua trà nên cũng coi như là trang trí thôi.
Cửa ra vào làm bằng cót ép hư hỏng nhiều chỗ rồi, nên dù có đóng lại th́ vẫn có thể nh́n rơ ràng cảnh rừng âm u ở bên ngoài.
Cậu tôi ngồi ở ghế một lúc th́ mang súng lên giường nằm, đặt ở đầu giường, khoanh hai tay lại đè lên súng và gối đầu lên tay. Khi c̣n sớm th́ c̣n có tiếng người qua lại nên cũng đỡ buồn, nhưng bây giờ đă khuya, mọi người đi ngủ hết, cậu mới thấy tĩnh mịch đáng sợ.
Ánh sáng từ cây đèn dầu leo lét trong pḥng hắt ra không soi được khoảng rừng tối om om trước mặt. Tiếng côn trùng kêu, dế gáy… h́nh như càng làm cho người ta có cái cảm giác lạnh lẽo hơn. Nằm được một lúc th́ cậu thiu thiu ngủ. Cậu cũng cố mở mắt ra nhưng mà không thể nào chiến thắng nổi cơn buồn ngủ, hai mắt nặng trịch không theo sự điều khiển của chủ nhân.
Tưởng ngon giấc rồi, ai ngờ lúc ấy trời bỗng trở gió, một luồng gió lạnh thốc vào pḥng khiến cậu rùng ḿnh tỉnh giấc. Và trong lúc nửa say nửa tỉnh, cậu thấy chiếc màn trên giường ḿnh bị tung lên theo gió, phấp phới và quệt cả vào mặt cậu.
Ngoài kia cánh cửa cót ép cũ kỹ đong đưa và phát ra những tiếng ken két đúng như cậu vẫn thường nghe trong những câu chuyện ma. Liên tưởng đến một số t́nh tiết rùng rợn trong những câu truyện ma truyền miệng do mọi người kể lại, cậu bỗng thấy rùng ḿnh, và gió lạnh khiến tóc gáy trong người cậu dựng ngược cả lên, gai ốc nổi đầy ḿnh.
Đang định ngồi dậy làm vài động tác thể dục trấn tĩnh lại, cậu chợt thấy có chuyển động ở khoảng rừng phía ngoài cửa. Chết điếng người v́ nghĩ là có kẻ gian đột nhập cậu nắm chắc súng và đang định đứng lên, th́ bất chợt bóng đen bên ngoài bước vào cửa.
Chưa bước vào khoảng ánh sáng thấy rơ của đèn, cậu đă nhận ra đấy là một người đàn bà mặc áo dài trắng, tóc dài quá vai, hai tay th́ dài quá đầu gối, tay áo trắng phủ đến sát các ngón tay. H́nh ảnh ấy làm cho cậu rụng rời, gai ốc lại nổi lên khắp người. Người đàn bà ấy đi thẳng vào pḥng, đến chân giường, rồi đầu giường. Bà ta cứ đi đi lại lại trong pḥng như vậy.
Các bạn có thể h́nh dung lúc đó cậu tôi sợ hăi đến mức nào không? Cậu muốn bật dậy thật nhanh và chạy sang pḥng khác, hoặc làm một cái ǵ đấy, như hét lên thật to cho mọi người biết, hay cho “con ma” một báng súng vào đầu chẳng hạn, nhưng mà chân tay cậu tê cứng như bị đóng băng, không thể nào nhúc nhích được.
Vẫn có ư nghĩ đây là kẻ gian, sợ nó cướp mất súng, nếu để mất súng sẽ bị kỷ luật khá nặng, cậu gh́ chặt hai tay vào khẩu súng và nằm bất động. Các bạn thử h́nh dung xem, trong căn pḥng màn bay phấp phới, cánh cửa mở ra đóng vào cứ kẽo kẹt, và một người đàn bà mặc đồ trắng cứ đi đi lại lại, đáng sợ biết chừng nào.
Trong suốt khoảng thời gian ấy, cậu tôi cố gắng nh́n cho rơ mặt người đàn bà, nhưng kỳ lạ là không làm sao nh́n rơ được. Không hề bị tóc che phủ, không hề đeo mặt nạ, nhưng vẫn không thể nào h́nh dung khuôn mặt ra sao!
Đi lại khoảng mười phút như vậy, th́ “con ma” bỏ ra ngoài. Cậu tôi nằm im như một xác chết, và sau khi thấy tất cả mọi vật im lặng trong năm phút, cậu tôi mới vùng dậy chạy như bay sang căn pḥng kế bên, là pḥng của viên chỉ huy. Cậu đập cửa như điên.
Viên chỉ huy dường như cũng vừa bị ma nhát, mặt xanh như tàu lá mở cửa cho cậu tôi, hỏi dồn:
- Có chuyện ǵ xảy ra à?
Cậu tôi trả lời giọng c̣n run lẩy bẩy:
- Tao vừa bị ma dọa.. thôi! mấy người muốn cho ai canh th́ canh.. thà chết cũng không dám vào pḥng đó nữa đâu...
Viên chỉ huy mặt càng xanh tái mét hỏi cậu tôi:
- Mày thấy ǵ hả...?
Ngồi một lúc cho hoàn hồn cậu tả lại câu chuyện. Ông ta cho cậu tôi biết, thực ra ở đây ai cũng gặp “nó” một lần rồi, cứ gác ở pḥng đó là kiểu ǵ cũng gặp, riêng ông ta th́ chưa gặp v́ là chỉ huy không phải gác.
Lâu nay đến phiên ai trực, người đó thường đợi mọi người đi ngủ rồi cũng trốn về pḥng ngủ luôn, đến gần sáng mới ra đó ngồi, chứ không ai dám ở đó nguyên đêm cả, v́ cậu tôi là người mới nên họ không cho biết.
Vậy là từ đó cậu tôi cũng như mọi người, không ai dám gác ở căn pḥng đó nữa, mà cũng không dám ngủ một ḿnh nữa, bị một lần khiến cho cậu tôi từ can đảm cũng thành nhát.
Sau này khi nhận nhiệm vụ ở một nơi khác, cậu tôi c̣n gặp một t́nh huống nữa cũng rất đáng để nghe. Khi nào có thời gian tôi sẽ kể cho các bạn.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 507 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 5:52pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT KÉO THEO
Như một sự chia sẽ đến với các bạn. Chuyện này xảy ra trong chính gia đ́nh người bác của tôi và tất nhiên 100%.
Anh của mẹ tôi lấy vợ, và câu chuyện này trong gia đ́nh bác gái của tôi, mới xảy ra vỏn vẹn chưa đầy hai năm. Anh của bác gái tôi có một người anh họ bị tai nạn qua đời mà một điều làm nhiều người hết sức ngạc nhiên, là ông ấy chết nhưng người vẫn ấm áp hồng hào, nhưng để nhiều ngày tim không đập nên mọi người khẳng định là đă chết và đem an táng.
Trong ṿng hai tháng sau, lần lượt hai người con trai của ông anh họ, của anh bác gái tôi qua đời, làm cho mọi người rất shock, và lại đặc biệt nữa người chết nhưng cơ thể vẫn hồng hào ấm áp không như những người chết khác là lạnh và cứng, ở đây lại ấm và mềm như người sống.
Mọi người cảm thấy lạ nhưng không hiểu tại sao. Vài tháng sau vợ của ông ta cũng qua đời tương tự. Và cốt truyện chính là ở đây, ít lâu sau anh của bác gái tôi cũng mất và tất nhiên là...... tương tự ấm và mềm.
Bác gái tôi cũng tham dự đám tang, ai cũng bỡ ngỡ về việc này, và đột nhiên có một người bạn quen với anh bác gái tôi nói rằng:
- Gia đ́nh cẩn thận chết kéo theo đó.
Ông này kể cho mọi người nghe về cái này, nhà có ai chết kiểu như thế, nếu không biết cách trị th́ người chết sẽ lần lượt đem người nhà đi theo hết, mọi người rất lo sợ, v́ nếu như vậy bác gái tôi sẽ là người sẽ "cất bước" ra đi tiếp theo.
Ông ấy dẫn một người tới, người nảy nói muốn cứu mọi người th́ phải kiếm cho ông ta một bộ bài trắng, giải thích là bộ bài chỉ có bên Phật dùng, mà phải là bài xài rồi.
Nhà tôi đạo Chúa nên không biết t́m đâu ra, mọi người trong nhà chạy nhau đi t́m, nhưng t́m hoài không ra cái bộ bài đó. May sao gọi điện lên Sài G̣n có một người biết nơi có, liền đến xin cấp tốc đem về.
Ông này cầm bộ bài xếp xung quanh người chết, rồi làm cái ǵ nữa tôi không rỏ, nhưng cuối cùng ông ta lấy bốn con tướng ra, kêu mọi người đem đốt đi.
Và đă hơn một năm mọi chuyện vẫn êm xuôi. Cam đoan tất cả là thật, sự thật 100% kể cho các bạn nghe để mọi người cùng biết, và nếu bị như thế th́ hăy cận thẩn, t́m cách gỡ đừng vội vàng mà chôn không th́ được chôn tập thể đấy.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 508 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 5:53pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG TRÁI TIM BỊ MẤT
Như tôi c̣n nhớ chắc chắn vào tháng chín năm 1811, một chiếc xe ngựa trạm đi đến trước cửa toà nhà Aswarby Hall ở trung tâm Lincolnshire. Một cậu bé, hành khách duy nhất trong xe, nhảy ngay ra ngoài khi xe dừng và nh́n quanh một cách ṭ ṃ trong khoảng thời gian ngắn ngủi giữa lúc bấm chuông và lúc cửa gian sảnh mở ra.
Cậu trông thấy một toà nhà gạch cao, vuông vắn, kiểu từ thời nữ hoàng Anne, một cái cổng có cột đá tôn thêm nét cổ kính của hồi 1790, các cửa sổ rất nhiều đều cao và hẹp với các ô kính nhỏ, khung là gỗ trắng dày.
Bên phải bên trái đều có nhà nối với nhau bằng những hành lang sáng lấp lánh một cách kỳ lạ, cũng đều có cột nâng, giữa là khối nhà chính. Hai bên cánh chỉ là chuồng ngựa cũng văn pḥng. Bên trên mỗi cánh nhô lên một cái ṿm trang trí với chiếc chong chóng gió thếp vàng.
Ánh đèn buổi tối chiếu ra từ toà nhà làm các ô kính cửa sổ long lanh như muôn vàn tia lửa. Phía trước gian sảnh là một công viên bằng phẳng, điểm đây đó những cây sồi, riềm là những cây sam. Chiếc đồng hồ trên tháp chuông bị che lấp bởi những cây cao ở bờ công viên, riêng có chiếc chong chóng chỉ chiều gió là lộ ra ánh sáng.
Đúng sáu giờ, tiếng chuông đồng hồ vang êm đềm trong gió. Toàn cảnh đem lại một cảm giác vui tươi, tuy đượm vẻ buồn của buổi chiều đầu thu, nhuốm vào tâm trạng cậu bé đang đứng ngoài cổng chờ người ta mở cửa cho ḿnh.
Chiếc xe trạm đưa cậu từ Warwickshire tới, nơi mà sáu tháng trước đây cậu trở thành cậu bé mồ côi. Giờ đây nhớ lời đề nghị hào hiệp của ông anh họ lớn tuổi, ông Abney, mà cậu tới ở Aswarby.
Lời đề nghị rất bất ngờ, bởi tất cả những người biết ông Abney đều coi ông là một người ở ẩn khá khắc nghiêt, một cậu bé tự nhiên đi vào cuộc sống ổn định của ông hẳn sẽ là một điều mới lạ, không thích hợp chút nào.
Sự thực là ít ai hiểu ông Abney theo đuổi cái ǵ và tính t́nh ông ra sao. Vị giáo sư tiếng Hy lạp ở Cambridge nghe nói đă từng tuyên bố không ai hiểu biết về tín ngưỡng của những người theo tà giáo nhiều hơn ông chủ của Aswarby này.
Quả thật thư viện của ông đầy những quyển sách hồi đó có thể t́m được, nói về các bí mật, các bài thơ bí hiểm, việc thờ phụng các thần Mithras, Một vị thần của tôn giáo Ấn độ hồi năm 1300 trước Công nguyên mà sự thờ phụng mang nhiều bí ẩn. Và những người theo học thuyết Platon: triết gia Hy lạp 427-347 trước Công nguyên mới.
Trong gian sảnh lát đá hoa cương người ta thấy một nhóm tượng các thần Mithras đang giết một con ḅ, mua khá đắt từ Levant đem về. Chủ nhân đă viết một bài mô tả nhóm tượng cho tờ Tạp chí Người Phong Lưu, và cũng viết một loạt bài báo đáng chú ư trong tờ Bảo tàng, về sự mê tín của những người La Mă đối với Đế chế Thấp. Đế chế La Mă thấp gồm các vùng Aulu-gettle, Ausone, Claudien, Macrobe, Végèce.
Một cách chính xác, mà ta được nh́n nhận như một người được bao bọc trong sách vở, thành thử láng giềng đều lấy làm lạ ngay từ việc ông ta có nghe nói tốt người em họ là Stephen Elliott chứ đừng nói tới việc ông ta đem cậu bé về ở cùng Aswarby Hall với ḿnh.
Dù cho hàng xóm có chờ đợi ǵ đi chăng nữa, điều chắc chắn là ông Abney người đàn ông cao gầy, nghiêm khắc có vẻ như đón chào người họ hàng nhỏ tuổi khá tử tế. Cửa gian sảnh vừa mở, ông đă từ pḥng học chạy ra vui vẻ xoa tay.
- Cậu bé khoẻ chứ Khoẻ không ? Bao nhiêu tuổi ấy nhỉ ? Hy vọng cậu không đến nỗi mệt lắm v́ đi đường. Ăn bữa tối nhé.
Ông ta nói.
- Dạ không xin cám ơn ông.
Cậu bé nói:
- Tôi khoẻ ạ.
- Ngoan quá. Thế cậu bao nhiêu tuổi ?
Ông ta hỏi. Kể cũng hơi lạ, mới gặp có hai phút mà ông ta có vẻ quá quan tâm đến việc này
- Đến sinh nhật này tôi mười hai ạ.
Stephen đáp.
- Sinh nhật là vào hôm nào ? Mười một tháng chín phải không? Hay lắm! Tốt. Gần một năm nữa đấy nhỉ ? Ha! Ha! Tôi phải ghi vào sổ mới được. chắc chắn là mười hai chứ ?
- Dạ vâng, chắc ạ.
- Tốt, tốt. Ông Parkes đưa cậu ta đến pḥng bà Bunch, để cậu dùng trà hay ăn tối, ǵ ǵ cũng được.
- Vâng ạ.
Ông Parkes điềm đạm đáp rồi đưa cậu bé xuống nhà dưới. Bà Bunch là người đàn bà dễ chịu nhất và gần gũi nhất mà Stephen gặp ở Aswarby. Bà làm cậu cảm thấy như ḿnh đang ở nhà, chỉ mười lăm phút sau hai người đă trở thành bạn và họ là những người bạn lớn của nhau măi măi.
Bà Bunch sinh trưởng ở vùng lân cận khoảng năm mươi năm, trước ngày cậu bé đến Aswarby và ở Aswarby Hall đă hai chục năm nay. V́ vậy bất kỳ ai từng ra vào toà nhà này, cũng như vùng này bà đều biết, và rất sẵn sàng phổ biến thông tin đó cho người khác.
Dĩ nhiên có biết bao điều mà Stephen muốn biết, kể từ toà nhà cho đến khu vườn v́ cậu có đầu óc phiêu lưu thích t́m hiểu.
"Ai xây ngôi đền ở cuối chặng đường liều chỗ kia ? Ai là ông già có ảnh treo ở cầu thang, đang ngồi bên bàn tay cầm một cái sọ người ?
Những điều như thế và giống như thế được trí nhớ khá vững của bà Bunch làm sáng tỏ, tuy nhiên vẫn c̣n một số điều giải thích chưa được rơ ràng.
Một buổi tối tháng Mười một, Stephen ngồi bên ngọn lửa trong pḥng bà coi nhà, ngẫm nghĩ về mọi thứ xung quanh, bỗng dưng cậu lên tiếng hỏi:
- Ông Abney có phải là người tốt không bà, và ông có được lên Thiên đường không ?
Đây là câu hỏi mà trẻ con thường có ḷng tin đặc biệt vào người lớn có khả năng trả lời, tính chất những câu hỏi này chỉ dành riêng cho toà án.
- Trời! Tội nghiệp cậu bé.
Bà Bunch nói:
- Ông chủ là loại người tốt tôi chưa thấy bao giờ. Thế tôi chưa kể cậu nghe ông đă từng nhặt một đứa bé ngoài đường về nuôi cách đây bảy năm. Lại c̣n cô gái nhỏ, hai năm sau ngày tôi đến đây làm.
- Chưa ạ. Bà chưa kể. Bà hăy nói cho tôi nghe ngay đi!
- Thế này nhé.
Bà Bunch kể.
- Cô gái nhỏ th́ tôi không nhớ rơ lắm. Chỉ nhớ một hôm ông đi dạo về đem theo cô bé và ra lệnh cho bà Ellis, lúc đó là người giữ nhà, trông nom thật chu đáo. Cô bé tội nghiệp không c̣n một người thân thích nào chính cô bé bảo tôi vậy và sống ở đây với ông chủ ba tuần th́ phải.
Sau đó cô ta gặp một người gypsy cùng ḍng máu với cô ta hay sao đấy, chỉ biết là một buổi sớm mai cô dậy sớm hơn tất cả chúng tôi rồi đi đâu mất, không ai nh́n thấy nữa. Ông chủ rất tuyệt vời, cho tát tất cả các ao, nhưng theo tôi th́ cô ta trốn đi theo bọn gypsy v́ đêm hôm cô ta bỏ đi, quanh nhà có tiếng hát cất lên độ một giờ đồng hồ.
Parkes nói là có nghe tiếng gọi từ trong rừng vẳng ra.
- Trời ơi! Cô bé mới lặng lẽ làm sao, cái cách cô ta bỏ đi như thế chẳng giống chút nào, với tính cách thuần thục của cô ta, tôi thật lấy làm lạ.
- Thế c̣n chú bé kia th́ sao?
Stephen hỏi.
- A! Cái chú bé tội nghiệp ấy!
bà Bunch thở dài.
- Chú bé là người ngoại quốc tên là Jevanny, vừa đi lên con đường vào nhà vừa quay một chiếc đàn quay vào một ngày mùa đông, ngay phút đó ông chủ đón chú ta ngay và hỏi cậu từ đâu tới, bao nhiêu tuổi, làm thế nào sinh nhai, họ hàng ở đâu…rất tử tế.
Nhưng cũng giống như cô bé kia, một hôm chú ta bỏ đi vào một buổi sáng, v́ sao bỏ đi, bỏ đi làm ǵ, hàng năm sau chúng tôi vẫn tự hỏi, bởi cây đàn quay vẫn c̣n để lại trên giá không mang theo.
Suốt thời gian c̣n lại của buổi tối, Stephen hỏi bà Bunch rất tỉ mỉ cố xem có gợi ra được một điệu nhạc nào từ chiếc đàn quay không. Đêm hôm đó cậu mơ một giấc mơ kỳ lạ.
Cuối hành lang lên tầng trên cùng của ngôi nhà, nơi có pḥng cậu ở, có một cái buồng tắm cũ nay không dùng, được khoá kỹ, tuy thế phần trên cửa ra vào vẫn nh́n qua được, v́ là kính mà màn cửa bằng vải tơ đă ră hết, thấy được cả ống dẫn nước bằng ch́ gắn vào trong tường mé bên phải, đầu ống nước quay về phía cửa sổ.
Đêm hôm mà tôi nói ở trên, Stephen tự nhiên nh́n qua kính cái cửa ra vào đó. Ánh trăng chiếu qua cửa sổ, cậu nh́n thấy một h́nh người nằm trong bồn tắm.
Mô tả của cậu làm tôi nhớ lại có lần chính mắt tôi đă nh́n thấy trong ṿm nhà thờ St. Michan nổi tiếng ở Dublin những xác người chết được lưu giữ sao cho không bị rữa từ nhiều thế kỷ. H́nh người cậu nh́n thấy gầy và thường không tưởng tượng được, màu xám như ch́, bọc trong tấm áo giống khăn liệm, đôi môi nở nụ cười nhợt nhạt dễ sợ, hai tay chắp lại để trên ngực nơi trái tim.
Cậu vừa nh́n vào th́ nghe có tiếng rên rỉ khe khẽ thốt ra từ đôi môi, và hai cánh tay thây người hơi cử động. Hoảng hồn cậu lùi lại, tỉnh lại cậu thấy ḿnh quả đang đứng trên sàn gỗ lạnh toát trong hành lang vằng vặc ánh trăng.
Với một ḷng can đảm phi thường, mà tôi cho rằng trẻ con ở tuổi ấy khó có thể có được, cậu bé tới cánh cửa pḥng tắm nh́n vào, xem có thực là trong bồn tắm có người nằm không. Không. Thế là cậu vào lại giường, đi ngủ.
Sáng hôm sau bà Bunch rất bị ấn tượng bởi câu chuyện cậu bé kể, và thay ngay tấm màn mới vào cửa kính buồng tắm. Ông Abney nghe cậu kể vậy vào bữa ăn sáng có vẻ quan tâm ghê lắm, và nói là phải ghi vào "quyển sách của ông ta"
Tiết xuân sắp đến. Cũng như mọi khi ông Abney nhắc người họ hàng trẻ rằng, thời tiết này các cụ ngày xưa coi là rất nguy hiểm cho người ít tuổi, Stephen phải lo giữ sức khoẻ, phải đóng cửa sổ khi đi ngủ, việc nhắc nhở đó c̣n kèm theo vài nhận xét khá giá trị, bởi thời kỳ này c̣n hai sự kiện nữa tác động đến tâm trí Stephen.
Sự kiện đầu tiên xảy ra sau một đêm cậu trằn trọc khó ngủ. mặc dù cậu không mơ thấy giấc mơ nào đặc biệt như hôm nọ. Tối hôm bà Bunch lo vá cho cậu tấm áo ngủ
- Trời ạ, cậu Stephen
Bà kêu lên có vẻ giận dữ.
- Sao cậu lại xé cái áo ngủ tan nát ra thành từng mảnh thế này ? Này, mời cậu nh́n xem, làm khổ đầy tớ phải vá víu như thế này đây. Thật đúng là một kiểu phá hoại tinh nghịch.
Cái áo bị xé từng rạch, phải tài t́nh lắm mới vá nổi. Đặc biệt bên ngực trái, những vết rạch dài khoảng mười lăm phân một, một số vết rạch không đứt hẳn lần vải. Stephen hoàn toàn không biết ǵ về chuyện này. Đêm qua chắc chắn không như thế.
- Nhưng bà Bunch ạ, chúng giống hệt những vết cào trên cánh cửa buồng ngủ của tôi, mà đảm bảo với bà là tôi không hề động chạm ǵ đến cánh cửa cả.
Bà Bunch nh́n vào Stephen, miệng há hốc, sau khi thắp cây nến, vội vă rời khỏi pḥng ḿnh, lên gác. Vài phút sau bà đi xuống.
- Phải đấy cậu Stephen ạ, kỳ lạ thật, những vết đó phải có ai đến tạo ra chứ chó hoặc mèo không với tới được, chuột càng không thể. Chúng cứ như móng tay người bán đồ sứ cào vào ấy.
Chú tôi là người buôn trà thường bảo chúng tôi như vậy khi chúng tôi c̣n nhỏ. Thôi tôi sẽ không bảo là cậu gây nên những tổn hại này nữa đâu, khi đi ngủ cậu nhớ khoá cửa buồng vào.
- Tối nào cầu kinh xong tôi cũng khóa đấy bà ạ.
- À, cậu bé này ngoan đây, đêm nào cũng cầu kinh, chẳng ai làm hại cậu được đâu.
Bà Bunch vừa nói một ḿnh vừa vá chiếc áo rách và suy nghĩ, cho đến lúc đi ngủ. Đó là một đêm thứ sáu tháng ba năm 1812.
Chiều tối hôm sau, buổi đàm thoại thường xuyên giữa bà Bunch và Stephen sôi nổi thêm v́ có ông Parkes, quản gia, vốn có xu hướng ở một ḿnh trong căn pḥng nhỏ phía sau của ḿnh. Thoạt vào, ông ta không nh́n thấy Stephen ở đó. Ông có vẻ xôn xao hơn và nói nhanh hơn.
- Ông chủ có muốn tự ḿnh đi lấy rượu th́ lấy, vào buổi tối ấy.
Đó là lời nhận xét đầu tiên của ông ta.
- Tôi chỉ đi lấy rượu ban ngày thôi. Không hiểu là cái ǵ, trong hầm rượu có chuột hay sao ấy, hay chỉ là gió cũng nên. Tôi đâu c̣n trẻ con như trước nữa, giờ tôi chịu không nổi những thứ ấy như trước kia.
- Ồ, ông Parkes, chuột th́ thích nhất là ở pḥng ăn lớn chứ.
- Tôi không chối căi điều đó bà Bunch ạ, và có điều chắc chắn là tôi đă nghe nhiều người ở xưởng đóng tàu, bảo chuột có thể nói được. Trước đây tôi không tin, nhưng đêm nay nếu tôi hạ ḿnh ghé tai vào cánh cửa của ngăn bên kia hầm rượu, dám chắc tôi nghe được lũ chuột nói ǵ.
- Ồ ông Parkes, tôi không chịu nổi những thứ ông tưởng tượng ra nữa. Ai đời chuột nói chuyện với nhau trong hầm rượu bao giờ.
- Bà Bunch tôi không lư sự với bà nữa, tôi chỉ muốn nói với bà có mỗi một điều thôi. Nếu như bà đi tới thùng rượu phía cuối, ghé tai vào cánh cửa, bà sẽ hiểu những điều tôi nói, chỉ trong vài phút thôi.
- Sao ông cứ nói những chuyện vớ vẩn thế nhỉ, đâu phải chuyện cho trẻ con nghe. Ông không sợ làm cậu Stephen đây hoảng lên sao ?
- Cậu Stephen ở đây ư ?
Đến lúc này ông Parkes mới nhận ra sự có mặt của Stephen.
- Cậu ấy phải hiểu là tôi chỉ nói đùa với bà thôi.
Thực tế Stephen biết quá rơ ông Parkes ngay từ đầu có định đùa hay không. Cậu không vui vẻ ǵ lắm, nên lưu tâm ngay đến t́nh h́nh này, tuy nhiên làm thế nào cũng không moi thêm được chi tiết nào nữa, từ ông quản gia về những ǵ xảy ra trong hầm rượu.
Chúng ta đă tới ngày 24 tháng ba năm 1812, một ngày mà Stephen chứng kiến nhiều chuyện lạ xảy ra. Ngày hôm đó náo động và nhiều gió, nó làm cho cả ngôi nhà lẫn khu vườn có một cảm giác không yên.
Stephen đứng bên hàng rào của ngôi nhà nh́n ra công viên. Cậu cảm thấy như thể có rất nhiều người vô h́nh cứ diễu qua trước mặt cậu trong làn gió, họ lướt qua vô mục đích, nhưng cũng không sao ngăn họ lại được, không sao nắm được một cái ǵ để làm họ đừng bay nữa, cho họ tiếp cận trở lại với thế giới sống mà họ từng là một phần trong đó.
Sau cơm trưa ông Abney bảo cậu:
- Stephen ạ, tối nay cậu thu xếp đến gặp tôi muộn một chút, lúc mười một giờ, trong pḥng học được không? Tôi bận suốt ngày, lúc đó mới rảnh.
Tôi sẽ cho cậu xem một thứ liên quan đến tương lai cậu mà cậu cần biết, v́ nó rất quan trọng. Cậu đừng nói việc này với bà Bunch hoặc bất cứ ai trong nhà nhé, cậu cứ về pḥng ngủ vào giờ thường lệ.
Lại thêm một kích thích nữa đối với cuộc sống. Stephen hăm hở nắm lấy ngay dịp được thức khuya đến mười một giờ đêm. Trên đường lên cầu thang cậu liếc nh́n vào cánh cửa thư viện.
Cậu thấy một cái ḷ than xưa nay vẫn để trong góc pḥng, nay được đưa ra cạnh ḷ sưởi, một cái cốc cổ viền bạc đặt trên bàn trong đựng đầy rượu vang đỏ, bên cạnh là mấy tờ giấy. Ông Abney đang rắc trầm hương vào ḷ, từ một chiếc hộp tṛn bằng bạc mà không để ư tới bước chân cậu.
Gió đă lặng. một đêm yên tĩnh. Trăng tṛn. Lúc mười giờ Stephen đứng bên cửa sổ nhin ra ngoài. Mặc dù đêm lặng lẽ êm đềm nhưng đoàn người bí ẩn trong những cánh rừng sáng trăng vẫn không ngủ yên.
Thỉnh thoảng vẫn có những tiếng kêu như của những kẻ lang thang lạc đường tuyệt vọng vẳng lên qua ao hồ. Chẳng lẽ lại là tiếng cú kêu, tiếng những con chim sống trên mặt nước ? không giống tiếng của chúng.
Liệu những tiếng kêu đó có tới gần không ? Lúc này nghe như chúng đă ở bên bờ ao bên này, chẳng mấy chốc nữa mà bay tới các bụi dâu. Rồi bỗng im.
Stephen đang định đóng cửa sổ, vào pḥng đọc nốt quyển sách Robinson Crusoe, th́ bỗng nh́n thấy trên nền đất rải sỏi chạy dọc theo phía vườn của ngôi nhà, có hai dáng h́nh người đang đứng.
Một cô con gái và một cậu con trai, họ đứng bên nhau, nh́n lên các cửa sổ. Cô gái gợi lại giấc mơ của cậu, đúng là h́nh người nằm trong bồn tắm. Cậu con trai khiến Stephen kinh hoàng hơn.
Trong khi cô gái đứng yên hơi mỉm cười, hai tay chắp trước chỗ trái tim, th́ cậu con trai rất gầy tóc đen, áo quần tơi tả, giơ cao cánh tay với vẻ dọa dẫm đồng thời lộ vẻ mong chờ. Ánh trăng chiếu vào hai bàn tay trong suốt của cậu bé, những móng tay dài cũng trong suốt, trăng chiếu qua được.
Đứng giơ tay như thế lộ ra một cánh tượng khủng khiếp, sườn trái cậu bé là một kẽ nứt đen ng̣m, và từ óc Stephen th́ đúng hơn là từ tai, cậu nghe thấy những tiếng kêu tuyệt vọng, mà lúc chập tối vẳng tới từ rừng Aswarby. Được một lúc th́ cả đôi di chuyển không tiếng động trên lớp sỏi, không c̣n nh́n thấy đâu nữa.
Sợ hăi khôn tả Stephen cầm cây nến xuống pḥng học của ông Abney, v́ cũng sắp đến giờ hẹn. Pḥng học hay thư viện một bên mở ra sẳn, và Stephen do quá sợ, tới chỗ đó rất nhanh. Nhưng không dễ vào.
Cửa không khoá, ch́a khoá vẫn cắm ngoài nhưng gơ măi không thấy tiếng trả lời. Ông Abney đang bận. Ông đang nói. Ủa! Sao ông lại kêu lên thế nhỉ ? Tiếng kêu như nghẹn trong cổ họng. Hay là ông cũng nh́n thấy hai đứa trẻ kia ? Thế rồi yên lặng. Stephen đẩy cửa vào không khó khăn ǵ.
Trên bàn ông Abney có một vài tờ giấy chỉ rơ cho Stephen hiểu được ngọn ngành câu chuyện. Có một số câu quan trọng như sau:
- "Cổ nhân đa số tin tưởng vững chắc, tôi đă thể nghiệm sự khôn ngoan của họ trong những vấn đề này, từ đó đưa tôi đến chỗ tin tưởng ở sự khẳng định của họ rằng, nhờ một vài quá tŕnh nào đó, những quá tŕnh mà người tân tiến chúng ta coi là man rợ, có thể đạt được ở con người một năng lực tinh thần rất đáng kể.
Thí dụ như nếu hấp thụ những cá tính của một số đồng loại, th́ một cá thể có thể vươn lên hoàn toàn khỏi cái trật tự, của các sinh vật có linh hồn vốn đang điều hành, những thế lực cơ bản của thế giới chúng ta.
Simon Magus có thể bay trên không, trở nên vô h́nh hoặc biến thành bất cứ h́nh thù nào mà ḿnh thích, nhờ lực của linh hồn một cậu bé mà ông ta "đă ám sát", từ này có tính cách bôi nhọ tác giả của Clementine recognittons dùng.
Hơn nữa tôi c̣n t́m thấy khá nhiều chi tiết trong các bài viết của Hermes Trismegistus, cho biết những kết quả tốt đẹp tương tự, có thể đạt được nếu người ta hấp thụ, ít nhất là ba trái tim của ba con người dưới hai mươi mốt tuổi.
Nhằm chứng minh sự thật này, tôi đă dành phần lớn thời gian của hai mươi năm cuối cùng, vào việc lựa chọn ra các corpora vilia (thân thể hèn hạ) cho việc thực nghiệm, tức là những người mà nếu có mất đi cũng không gây tổn thất ǵ cho xă hội.
Bước đầu tôi loại trừ một cô bé gypsy tên Phoebe Stanley ngày 24 tháng ba 1792.
Người thứ hai là một cậu bé con người Ư tên Gionvanni Paoli, đêm 29 tháng ba 1805.
Nạn nhân cuối cùng, từ này làm tôi kinh tởm hết sức, sẽ là em họ tôi Stephen Elliott, và vào ngày 24 tháng ba 1812.
Phương thức hấp thụ tốt nhất là lấy từ trái tim người sống ra, đốt thành tro, trộn vào một phần tư lít rượu vang đỏ, tốt nhất là rượu porto. Xác hai người đầu tiên rất dễ giấu. Vào một buồng tắm bỏ không dùng hoặc là hầm rượu, hai địa điểm thuận lợi cho việc giấu xác.
Cái bất tiện là ở cái phần hồn của họ mà dân gian thường gọi là ma. Nhưng đối với người có tính khí triết nhân, mà đối với họ chỉ thí nghiệm là quan trọng, th́ họ nề hà ǵ đến cố gắng yếu ớt của người chết lo trả thù họ.
Tôi rất thoả măn nh́n nhận cuộc đời được mở rộng và giải phóng của ḿnh, mà thí nghiệm này nếu thành công sẽ mang lại cho tôi, v́ nó không những khiến cho cái người ta gọi là công lư của con người, không tầm nă nổi tôi, mà c̣n có thể loại trừ cho tôi khỏi cái chết".
Ông Abney được t́m thấy trong ghế bành, tư thế ngồi, đầu ngửa ra, nét mặt mang đầy vẻ căm hờn, sợ sệt, đau đớn của cái chết. Bên trái là một vết thương mới bị rạch, để lộ ra trái tim.
Tay ông không máu, con dao để trên bàn vẫn sạch nguyên. Có lẽ một con mèo rừng đă gây nên vết thương này. Cửa sổ mở. Theo cảnh sát tư pháp, ông Abney chết do lực của một con thú hoang dă. Nhưng Stephen Elliott đă được đọc mấy tờ giấy trên kia, th́ lại đi đến kết luận khác hẳn.
Montague Rhodes James
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 509 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 5:54pm | Đă lưu IP
|
|
|
CÂY TẦN B̀
Ai đă từng đi qua miền đông nước Anh đều biết những ngôi nhà thôn quê nho nhỏ rải rác khắp nơi: những ngôi nhà khá ẩm thấp thường xây theo kiểu Ư, bao quanh là công viên độ tám mươi đến một trăm mẫu tây.
Đối với tôi bao giờ chúng cũng có sức hấp dẫn mạnh mẽ, cái hàng rào xám bằng những thanh gỗ sồi, các cây cao quư phái, ao hồ với thảm lau sậy, xa xa là cánh rừng. Tôi cũng thích cái cổng có cột chống, có lẽ dính liền vào một ngôi nhà gạch đỏ xây từ thời nữ hoàng Anne, mặt trước trát vữa, khiến nó sánh được với phong cách Hy Lạp cuối thế kỷ mười tám.
Bên trong là sảnh cao lên tận mái nhà có cái hành lang chạy quanh với một chiếc đàn organ nhỏ. Tôi cũng thích cả thư viện của nó trong có từ Thánh Kinh thế kỷ mười ba, đến tác phẩm của Shakespeare in giấy khổ bốn.
Dĩ nhiên tôi thích cả những bức tranh phần lớn h́nh dung cuộc sống trong những ngôi nhà ấy lúc mới xây, thời đă có ống dẫn nước, chủ đất đă khá giả, và ngay cả bây giờ, nhiều tiền nhiều thị hiếu khác nhau, cuộc sống nhiều thú vị. Bản thân tôi cũng muốn có một ngôi nhà như vậy ở thôn quê. Và đủ tiền bảo tŕ nó, thỉnh thoảng đưa bạn bè đến vui chơi một cách khiêm tốn.
Nhưng tôi lạc đề mất rồi. Tôi có nhiệm vụ phải kể các bạn nghe những chuyện xảy ra trong một ngôi thái ấp giống như thế. Đó là Castringham Hall ở vùng Suffolk.
Từ thời có câu chuyện kể của tôi đến nay, ngôi nhà đă được sửa chữa nhiều lần, nhưng những nét chính tôi mô tả trên kia th́ vẫn vậy, cổng kiểu Ư, bốn khối nhà màu trắng, trong nhà cổ hơn ở ngoài, công viên được bao quanh bởi một dải đất có nhiều cây to, và có cái ao.
Vẻ khác biệt với hàng tá ngôi nhà khác không c̣n. Nh́n từ phía công viên vào, bạn sẽ thấy một cây tần b́ cổ đại mọc cách tường độ sáu mét, cành lá gần như chạm vào nhà. Tôi cho là nó đă mọc ở đó kể từ thời ngôi nhà không c̣n là một pháo đài, hào chung quanh được lấp đi, nhà xâytheo kiểu thời nữ hoàng Elizabeth. Kiểu ǵ th́ nhà cũng gần bằng kích thước hồi năm 1690.
Trong cái năm kể trên, trong vùng ngôi nhà toạ lạc, có nhiều vụ xử án các mụ phù thuỷ. Chắc c̣n rất lâu ta mới có thể đánh giá đúng các lư do nếu có, nằm tận gốc rễ nỗi sợ phù thuỷ của toàn thế giới.
Cũng có thể những người bị kết tội thực sự cho rằng, họ có quyền lực bất thường, hoặc giả ít nhất không có quyền, th́ cũng có ư chí gây chuyện ác độc cho hàng xóm, hoặc giả nhiều lời thú tội bị những kẻ tàn ác đi săn lùng phù thủy bẻ quẹo đi. Tôi cho là có rất nhiều vấn đề chưa giải quyết được.
Chuyện kể sau đây làm tôi bối rối, không thể hoàn toàn cho là chuyện bịa đặt. Xin được để độc giả tự đánh giá.
Catringham đă cống hiến một nạn nhân cho việc bị kết tội hoả thiêu. Tên bà này là Mothersole, khác với các bà phù thuỷ trong các làng khác chỉ ở chỗ sống sung túc hơn, và có vị trí gây ảnh hưởng nhiều hơn.
Các trại chủ trong giáo khu t́m hết cách gỡ tội cho bà, cố hết sức chứng thực tính cách bà và khá lo lắng cho sự tuyên án của Toà. Nhưng tai hoạ chết người cho bà, lại do chứng cứ mà ông chủ Castringham Hall nêu ra, ông Mathew Fell.
Ông khai đă nhiều lần từ cửa sổ nh́n vào đêm trăng sáng, thấy bà "tỉa những cành con của cây tần b́ gần ngôi nhà". Bà trèo lên các cành cây, mặc mỗi chiếc áo sơ mi, cắt những cành nhỏ với một con dao cong rất đặc biệt, miệng lẩm bẩm cái ǵ đó.
Lần nào ngài Mathew cũng t́m cách bắt lấy bà ta nhưng chỉ một tiếng động nhỏ của ông, bà biết ngay vội vàng trèo xuống, chạy rất nhanh về phía làng.
Đêm thứ ba chạy theo không kịp, ông đến tận nhà bà Mothersole, đập cửa đến mười lăm phút mới thấy bà ta ra, rất giận dữ và có vẻ buồn ngủ như vừa mới ra khỏi giường, thành ra chẳng biết giải thích việc đến thăm của ḿnh như thế nào.
Chủ yếu dựa vào chứng cứ này, tuy các thành viên trong giáo khu c̣n đưa ra nhiều điều không đáng chú ư bằng, bà Mothersole đă bị kết tội chết. Toà xử được một tuần th́ bà bị treo cổ cùng sáu người không may nữa, ở Bury St Edmunds.
Ngài Mathew Fell lúc đó là phó Quận trưởng, chứng kiến cuộc hành h́nh. Hôm đó là một sáng tháng ba sương mù ẩm ướt, xe ḅ leo dốc lên ngọn đồi mọc cỏ dại ở bên ngoài Northgate nơi có giá treo cổ. Những nạn nhân khác trông hờ hững hoặc vô cùng đau khổ, riêng bà Mothersole, sống cũng như chết, lại trong tâm trạng khác hẳn.
"Nỗi giận dữ như thuốc độc của bà, theo một phóng viên nói lại, đă ảnh hưởng lớn đến những người đứng xem, ngay cả người phụ trách việc treo cổ, và về sau những người này cũng khẳng định bà thể hiện h́nh ảnh sống của một mụ điên.
Mặt không chống đối người thi hành pháp luật, bà nh́n những bàn tay chạm vào người bà với vẻ nham hiểm và ác độc đến mức, một trong số họ sau này bảo đảm với tôi rằng, c̣n sợ hăi trong người đến sáu tháng sau mỗi khi nhớ lại".
Tuy nhiên nghe nói là, bà ta đă nói những lời có vẻ vô nghĩa như sau:
"Khách sẽ tới thăm ngôi nhà"
Những lời này được khe khẽ nhắc đi nhắc lại mấy lần. Ngài Mathew Fell không phải là không cảm động trước thái độ của người đàn bà. Ông nói chuyện với cha xứ, sau đó cùng cha đi về nhà khi việc hành quyết đă xong.
Thực ra ông cũng chẳng tự nguyện ra làm chứng trước toà, ông chẳng thấy chứng mê săn lùng phù thuỷ là việc ḿnh bị nhiễm phải, về sau ông có nói đưa chứng cứ như vậy ông chẳng được tiếng tốt nào, biết đâu ông có thể nhầm về những ǵ ḿnh nh́n thấy.
Ông ghê tởm toàn bộ chuyện này, ông vốn thích có quan hệ vui vẻ với mọi người, sở dĩ ông làm như vậy chỉ bởi bốn phận. Có lẽ đó là lư do theo như t́nh cảm ông, khiến cho cha xứ tán thưởng cũng như những người có hiểu biết nghĩ vậy là phải.
Vài tuần sau đúng vào ngày trăng tṛn của tháng năm, cha xứ và nhà điền chủ nông thôn gặp nhau tại công viên và cùng đi vào thái ấp.
Phu nhân Fell đang ở nhà bà mẹ ốm nặng, ông Fell ở một ḿnh, v́ thế cha xứ, ông Crome và ông Fell dự định ăn bữa tối cùng nhau tại thái ấp.
Ông Mathew tối hôm ấy có vẻ không thích chuyện tṛ mấy, câu chuyện chủ yếu xoay quanh những gia đ́nh trong giáo khu, và cũng may, ông ngồi viết một bản ghi nhớ về các ư định muốn thực hiện trong lănh địa của ḿnh, sau này nó tỏ ra vô cùng ích lợi.
Khi ông Crome định ra về lúc chín giờ rưỡi, th́ ngài Mathew cùng ông đi dạo trên con đường rải sỏi sau ngôi nhà. Ông Crome bị sự kiện tác động mạnh: tới chỗ cây tần b́, mà tôi tả là mọc gần ngôi nhà, th́ ông Mathew dừng lại bảo:
- Có con ǵ cứ chạy lên chạy xuống trên cây như con sóc ấy nhỉ? Giờ này chúng phải về hang cả rồi chứ?
Cha xứ nh́n lên cây xem con vật đang di động đó như thế nào, nhưng không rơ màu sắc của nó dưới ánh trăng. Tuy nhiên vẫn nh́n rơ h́nh, óc ông c̣n nhớ lắm, ông thề rằng, tuy hơi điên, chẳng biết có phải con sóc hay không nhưng nó có nhiều hơn bốn chân…
Lúc đó nh́n th́ chỉ biết vậy, hai người đàn ông chia tay nhau, hàng hai chục năm sau mới gặp lại.
Sáng hôm sau sáu giờ vẫn chưa thấy ông Fell xuống dưới nhà như lệ thường, bảy giờ, tám giờ cũng không. Đầy tớ lên gơ cửa pḥng ngủ của ông, nghe ngóng rồi gơ măi, cuối cùng đành mở cửa ra, họ thấy ông chủ đă chết xám đen. Hẳn bạn cũng đoán được. Không có dấu vết của bạo lực. Cửa sổ mở toang.
Một người đầy tớ đi t́m cha xứ, nhờ chỉ đường đi t́m cảnh sát tư pháp. Ông Crome th́ lập tức tới thái ấp ngay và được đưa vào gian pḥng người chết nằm. Về sau ông này có để lại vài tờ giấy tỏ ḷng thực sự kính trọng và tiếc thương ông Mathew Fell, trong đó có đoạn sau đây soi sáng phần nào sự kiện xảy ra và suy nghĩ chung của mọi người:
"Không có dấu hiệu dùng vũ lực đột nhập vào gian pḥng, nhưng cửa sổ th́ mở như mùa này bạn tôi vẫn để ngỏ. Ông có uống không hết một phần tư lít rượu táo để trong chiếc cốc bằng bạc.
Ông Hodgkins, bác sĩ ở Bury đă khám nghiệm chỗ rượu c̣n lại, và tuyên thệ theo yêu cầu của cảnh sát tư pháp, trong đó không có chất độc. V́ dĩ nhiên quanh đó người ta nói đến độc tố v́ thấy xác ông đen và trương lên. Cơ thể nằm trên giường, chăn nệm lộn xộn, chứng tỏ đă quằn quại đau đớn nhiều trong lúc hấp hối.
Có điều tôi không lư giải được cho cuộc ám sát dă man khủng khiếp này, là hai người đàn bà được giao đem thây người chết ra lau rửa, hai người này vốn chuyên nghiệp về công việc nhà đ̣n đám ma, đến chỗ tôi, rất buồn phiền lộ vẻ đau đớn, giơ hai bàn tay chạm vào ngực xác chết, ra cho biết ḷng bàn tay họ và mặt trước cánh tay bị đau ghê gớm, nỗi đau c̣n kéo dài nhiều tuần lễ, phải bỏ việc, tuy trên da không sao.
Nghe vậy tôi bèn mời ông bác sĩ vẫn c̣n ở trong nhà ra. Chúng tôi dùng kính lúp soi trên da ở ngực tử thi, không thấy ǵ quan trọng nhưng có nhiều vết chấm, chúng tôi kết luận đây là nơi độc tố được đưa vào và nhớ lại chiếc nhẫn của Pope Borgia, là dụng cụ đưa độc tố vào của tay đầu độc người Ư thế kỷ trước, trong thứ nghệ thuật kinh hăi của ông ta.
Chỉ có vậy về mặt triệu chứng trên tử thi. Đây chỉ là kinh nghiệm riêng của tôi, thế hệ sau sẽ đánh giá xem có ǵ là giá trị hơn không. Trên bàn cạnh giường ngủ có một quyển Kinh Thánh nhỏ mà bạn tôi đều đặn dùng mỗi đêm, mỗi sáng sớm dậy ông cũng đọc một đoạn định sẵn.
Tôi cầm lên không khỏi nhỏ một giọt nước mắt thích đáng, thương cho cái bản phác hoạ đơn giản này nay đang bị chuyển sang sự chiêm ngưỡng, bản Kinh Thánh vĩ đại nguyên thủy. Chợt tôi có ư nghĩ, trong những giờ phút mà ta vô kế khả thi như thế này, ta có xu hướng dùng những tia le lói để t́m ra ánh sáng.
Do đó tôi đă dùng biện pháp được coi là duy tâm để thử một kiểu rút thăm: Như trong trường hợp Đức Vua Tử v́ Đạo, King Charles và chúa công Falkland người ta đă lấy làm ví dụ mà nay c̣n nhắc tới.
Tôi phải thừa nhận thử nghiệm này không giúp được ǵ cho tôi cả, tuy nhiên biết đâu sau đây có thể Nguyên nhân và Nguồn gốc của những sự kiện hăi hùng này sẽ được t́m ra. Tôi cứ đưa kết quả ra đây, biết đâu chúng chỉ ra hướng của tội ác một cách thông minh hơn tôi.
Tôi làm tất cả ba thử nghiệm, mở cuốn Kinh Thánh ra đặt ngón tay vào một số chữ nào đó, lấy ra những chữ đầu, ở chỗ Luke XII I7 chặt nó đi, lần hai Isaiah XIII 20, không ai được ở đấy nữa, lần ba Job XXVIII 30: con cái nó cũng bị hút hết máu. Đó là những lời trích dẫn từ giấy tờ ông Crome để lại.
Ông Mathew Fell được cho vào quan tài đem chôn, lời giảng kinh của cha Crome trong lễ an táng Chủ nhật sau đó được in dưới đầu đề "Một phương thức không thể t́m ra được, hoặc Nỗi nguy hiểm nước Anh và Những cách thức xảo quyệt của việc chống lại Chúa".
V́ theo quan điểm của cha xứ cũng như của hàng xóm láng giềng, vị quư tộc điền chủ nông thôn là nạn nhân của sự trở lại, của những âm mưu theo kiểu đầu độc Giáo hoàng.
Con trai ông Fell là Sir Matthew II thừa kế tước vị và lănh địa của cha. Đến chấm dứt phần đầu của tấm thảm kịch Castringham. Cũng nên nhắc tới việc ngài Nam tước mới không ở căn pḥng cũ của cha ḿnh nữa, vậy cũng phải thôi. Cũng chẳng ai ngủ trong đó trừ một vị khách vô t́nh đi qua ở lại.
Ông chủ ở thái ấp Sir Matthew II mất năm 1735, nơi này không xảy ra chuyện ǵ đối với ngoại trừ việc trâu ḅ lợn gà chết ngày một nhiều, sau c̣n có xu hướng tăng dần lên. Người nào lưu ư tới chi tiết chuyện này có thể đọc bảng thống kê số liệu súc vật nuôi, của ngài nam tước viết trong thư gửi tờ tạp chí Người Phong Lưu 1772.
Ông chấm dứt việc trâu ḅ chết nhiều bằng cách ban đêm dồn hết chúng vào chuồng khoá kỹ, cừu không thả tự do ngoài công viên nữa. V́ ông nhận xét ở trong chuồng không con vật nào bị tấn công. Sau đó chỉ các chim rừng và thú vật hoang dă bị hại, không ai biết ǵ về triệu chứng tử nạn của các con thú hoang này, cho người canh suốt đêm th́ lăng phí vô ích, tôi không muốn đi sâu thêm vào cái mà các trại chủ ở Suffolk gọi là "căn bệnh của Castringham".
Sir Matthew II mất năm 1735, được con trai là Sir Richard thừa kế. Sir Richard cho xây khu ghế ngồi riêng của gia đ́nh, ở bên ngoài nhà thờ giáo khu về mạn bắc, v́ khá rộng nên theo ư ông quư tộc điền chủ nông thôn này, cần dời đi một số ngôi mộ nằm trong khu của những kẻ vô đạo, trong đó có mộ của bà Mothersole, địa điểm ngôi mộ này sở dĩ biết được chính xác, là do trong số giấy tờ ông Crome để lại có bản đồ nhà thờ và sân nhà thờ.
Khi biết mộ bà phù thủy được khai quật, th́ trong làng một số người c̣n nhớ bà ta có bị kích động đôi chút. Và ai cũng lấy làm lạ lo lắng nữa, khi trong quan tài dù gỗ rất chắc chắn, không bị vỡ nứt, không hề thấy vết tích xác chết đâu, dù là xương hay bụi. Quả là hiện trường kỳ quặc, thời đem chôn bà chưa có chuyện người chết sống lại, mà h́nh dung việc xác chết bị lấy cắp đem cho viện giải phẫu để phẫu tích lại càng khó hơn.
Hiện tượng này gợi lại một thời gian có những câu chuyện về phiên toà xử phù thuỷ, về chiến công của các bà này mà người ta lâu nay đă quên lăng. Ông Richard cho đem đốt quan tài, dù nhiều người nghĩ là điên.
Rơ ràng ông Richard là một nhà sáng chế phát minh đến là khó chịu. Trước thời ông, ngôi nhà thái ấp bằng gạch đỏ là một khối nhà dễ thương nhất, nhưng v́ ông du lịch qua Ư bị nhiễm thị hiếu Ư, và v́ có nhiều tiền hơn cha và ông, ông biến ngôi nhà thôn quê Anh thành một lâu đài kiểu Ư.
Vữa và đá khối che lấp hết gạch, một vài tấm đá hoa cương Ư đứng thờ ơ nơi vào gian sảnh và ngoài vườn, một ngôi đền sao chép kiểu Sibyl ở Tivoli dựng ngay bên bờ ao. Castringham mang một vẻ hoàn toàn mới, tôi phải nói là nom nó không được duyên dáng như trước, nhưng được nhiều người trầm trồ thán phục và trở thành kiểu mẫu cho các quư tộc nông thôn bắt chước trong nhiêu năm về sau này.
Một buổi sáng vào năm 1754, ông Richard tỉnh dậy sau một đêm không thoải mái chút nào. Trời gió, ống khói ḷ sưởi phả khói liên tục, trời lạnh nên phải đốt ḷ sưởi trong nhà. Đă thế cái cửa sổ cứ kêu lạch cạch không để cho người ta yên.
Triển vọng chiều nay khách khứa sang trọng đến chơi đông đấy, nếu trong lúc tiến hành các tṛ chơi mà ông cứ liên tục có cảm giác khó ở thế này, sẽ ảnh hưởng đến danh tiếng của ông, vốn được coi là người chịu khó duy tŕ việc tổ chức các tṛ chơi.
Điều làm ông chán ngán nhất lại là chuyện khác cơ trong cái đêm mất ngủ. Ông không thể tiếp tục ngủ trong căn buồng này được. Trong bữa ăn sáng, ông cứ nghĩ măi về chuyện này, thành ra ăn sáng xong ông đi thăm một cách có hệ thống tất cả các pḥng, để xem pḥng nào theo ông là tốt nhất.
Măi mới t́m ra được một pḥng, có cửa sổ quay ra phía đông và cửa sổ quay ra phía Bắc, cửa phía Bắc này đầy tớ luôn qua lại nên không thích lắm. Ông muốn nó nh́n ra phía Tây để mặt trời khỏi đánh thức ông dậy sớm quá, và không bị quấy rối bởi các hoạt động buổi sáng ở trong nhà.
Người giữ nhà cho biết chỉ có một pḥng đạt được yêu cầu ấy.
- Là pḥng nào vậy?
Ông Richard hỏi.
- Pḥng của ngài Mathew trước đây vốn được gọi là Tây Pḥng.
- Thế th́ chuyển buồng ngủ của tôi sang đấy, tối nay tôi ngủ ở đấy.
Ông chủ nói.
- Đi lối nào nhỉ, à đây rồi.
Và ông vội vă đi.
- Nhưng thưa ngài Richard, đă bốn mươi năm nay không ai ngủ ở đấy cả. Từ ngày ngài Mathew qua đời không khí gian pḥng đă đổi khác.
Vừa nói bà ta vừa rượt theo chủ.
- Nào bà Chiddock, mở khoá ra ít nhất tôi muốn xem pḥng ra sao đă.
Thế là cánh cửa được mở ra, gian pḥng xông lên mùi không khí tù hăm ẩm mốc. Ông Richard tiến ra phía cửa sổ và nóng ḷng mở tung các cửa chớp cửa sổ. Nơi này, ở cuối ngôi nhà, sự sửa chữa bấy lâu nay không hề động chạm tới, lại bị cây tần b́ um tùm che khuất.
- Bà Chiddock, thông khí gian pḥng này cho tôi, mở cửa cả ngày vào, đưa đồ đạc pḥng ngủ của tôi sang đây. Pḥng cũ của tôi để cho linh mục Kilmore nằm.
Tự nhiên có tiếng nói ở đâu ngắt lời ông:
- Xin cho tôi hầu chuyện ngài một lát được không ạ?
Ông Richard quay người lại thấy một người mặc đồ đen, đứng ở ngưỡng cửa đang cúi chào ḿnh.
- Xin thứ lỗi cho tôi đă đột ngột vào đây, ngài không nhớ tôi đâu, tên tôi là William Crome, ông nội tôi là cha xứ cùng thời với ông nội của ngài.
- Phải. Cái tên Crome bao giờ cũng là tấm hộ chiếu để vào Castringham này. Tôi rất vui được nối lại quan hệ của hai thế hệ sau. Tôi giúp ǵ ông được đây? Ông có vẻ hơi vội và vào giờ này…
- Đúng vậy tôi đă phi ngựa suốt từ Norwich để tới Bury St Eđmunhs, chỉ dừng lại đây để trao cho ngài một số giấy tờ, ông nội tôi đă để lại khi qua đời, theo tôi có liên quan đến gia đ́nh ngài.
- Cám ơn ông quá.
Ông Richard nói:
- Xin mời ông ra pḥng khách uống chén rượu, ta cùng xem các giấy tờ đó với nhau được không. C̣n bà, bà Chiddock, thông khí gian pḥng này như tôi đă bảo…Phải đây là nơi ông nội mất. Phải cái cây có lẽ làm cho nơi này khá ẩm thấp. Không tôi không muốn nghe nữa, bà làm ǵ th́ làm đi. C̣n ông xin theo tôi.
Họ vào pḥng đọc. Ông Williams Crome, người trở thành một thành viên trong Ban lănh đạo của Clare Hall Cambridge, vừa cho xuất bản một quyển Polyaenus giá trị, đă mang theo một cái gói trong đó có các ghi chép của cha xứ ông nội liên quan đến cái chết của Sir Matthew Fell.
Vậy là lần đầu tiên Sir Richard đối mặt với việc bói Kinh Thánh mà ta đă biết ở trên, nó làm ông thích thú lắm.
- Vâng.
Ông Crome trẻ nói:
- Quyển Kinh Thánh của ông nội tôi đă cho một lời khuyên giá trị, chặt nó đi, tức là cái cây tần b́ đấy ạ, tôi không dám sao lăng lời khuyên này của cụ để cụ được yên nghỉ. Quả thật chưa từng thấy một cái ổ cho bệnh sổ mũi và bệnh sốt rét nào như cái cây này.
Trong pḥng khách có một số sách của gia đ́nh, không nhiều lắm, hiện nay c̣n chờ bộ sưu tập từ Ư của ông Richard đưa sang, một pḥng sách mới đang được xây để nhận số sách ấy.
Ông Richard nh́n từ tờ giấy lên giá sách và nói:
- Tôi tự hỏi không hiểu cái quyển Kinh Thánh tiên tri ấy nay c̣n không? Tôi có cảm giác đă từng nh́n thấy nó ở đâu đó.
Ông băng qua gian pḥng, lấy ra một quyển Kinh thánh lùn bè bè, trên trang đầu để trong có ḍng chữ sau đây:
"Tặng Matthew Fell, từ mẹ đỡ đầu yêu thương Anne Aldous, 2 tháng Chín 1659".
- Tôi lại thử nó lần nữa xem sao, ông Crome nhỉ. Chắc lại gặp phải mấy cái tên trong biên niên sử. Hừm, cái ǵ đây?
"Anh đến t́m tôi sáng mai nhưng tôi sẽ không ở đấy đâu".
- Phải! Phải! Ông nội ông đă đưa ra một điềm báo hiệu đây rồi! Thôi tiên tri như vậy là đủ. Toàn chuyện không đâu cả ấy mà. Thôi ông Crome, xin cám ơn cái gói của ông vô cùng. Tôi e rằng ông đang vội đi, xin hăy uống thêm một ly rượu nữa.
Với thái độ ông chủ nhà mến khách như thế, ông Richard nghĩ rất tốt về phong cách và cách nói năng của người đàn ông trẻ tuổi, hai người tạm biệt nhau.
Buổi chiều khách khứa đến, giám mục Kilmore, Phu nhân Mary Hervey, ông William Kentfield.. Ăn tối lúc năm giờ, uống rượu chơi bài ăn khuya, sau đó phân tán ai về pḥng nấy.
Sáng hôm sau ngài Richard không có ư định đi săn với những người kia, mà nói chuyện với giám mục Kilmore. Vị giám mục này khác với các giám mục Ireland thời ấy, đă tới thăm toà giám mục của ḿnh và cư trú ở đó một thời gian khá lâu. Sáng hôm ấy hai người đi dạo ở sân đang nói về những thay đổi và cải tiến của ngôi nhà, vị giám mục bảo, chỉ vào cửa sổ Tây Pḥng.
- Ngài Richard ạ, ngài mà cho dân Ireland của tôi ở những chỗ như thế này là không được đâu.
- Sao thế, chính là pḥng của tôi đấy.
- Người nông dân Ireland kỵ nhất ngủ bên cạnh chỗ có cây tần b́, mà cây tần b́ này mọc um tùm gần ngay cửa sổ pḥng, cách không đến hai mét. Có lẽ..
Ông giám mục mỉm cười nói tiếp:
- Chính v́ nó mọc tốt cao to như thế cho nên vẻ mặt ngài mới kém tươi như bạn bè ngài nh́n thấy đây.
- Quả như thế hay sao ấy, suốt từ mười hai giờ đêm đến bốn giờ sáng tôi không sao ngủ được. Nhưng mai tôi cho hạ cây rồi, khỏi phải nghe nói về nó nữa.
- Tôi hoan nghênh quyết định ấy của ngài đấy. Lá cây dày đặc thế kia th́ làm ngài thở sao nổi.
- Ngài nói đúng. Nhưng đêm qua tôi không mở cửa sổ. V́ có nhiều tiếng động quá, có lẽ các cành cây chà vào ô kính cửa sổ làm tôi chong mắt ra.
- Không thể được ngài Richard ạ, đây ngài xem, không cành cây nào vươn tới khung cửa sổ cả trừ khi có trận gió mạnh, mà đêm qua có gió đâu! Cành lá cách ô cửa sổ có đến ba chục phân kia mà.
- Không! Thế tại sao có vết cào để lại khắp trên lớp bụi ở ngưỡng cửa sổ?
Cuối cùng họ cho là có chuột từ đám dây thường xuân. Đức giám mục đưa ư đó ra, ngài Richard chộp lấy ngay. Cả ngày trôi qua êm đềm, đêm đến mọi người về pḥng đi ngủ, chúc ngài Richard ngủ ngon.
Giờ đây ông ta đang ở trong pḥng ḿnh, nằm trong giường tắt đèn. Pḥng này ở ngay trên nóc bếp, đêm lại ấm do đó cửa sổ để mở. Chỗ khung giường rất ít ánh sáng, nhưng người ta thấy động đậy tựa như ngài Richard trở đầu, từ bên này qua bên kia rất nhanh và gây tiếng động khe khẽ.
Ta có thể h́nh dung như là ông ta có rằng nhiều cái đầu màu nâu trong bóng tối mờ, chúng đưa ra trước rồi lại ra sau và cả lồng ngực cũng vậy. Ảo giác này thật đáng sợ.
C̣n ǵ nữa không? Có đấy! Một tiếng động của cái ǵ đó từ giừơng rơi xuống đánh bộp, đó là một thứ mập mạp trông như con mèo con, chạy vút ra khỏi cửa sổ như một ánh chớp, rồi một cái ǵ đó như thế nữa bốn tất cả sau đó yên lặng hoàn toàn.
"Anh đến t́m tôi sáng mai nhưng tôi sẽ không ở đấy nữa"
Giống như ngài Matthew, ngài Richard cũng chết trong giường, đen kịt lại! Một đám khách khứa lặng lẽ và đầy tớ đứng đầy dưới cửa sổ khi biết tin. Nào là ngộ độc kiểu Ư, nào là phái viên của Giáo hoàng đến ám hại, nào là ô nhiễm bởi không khí.
Khách khứa đưa ra nhiều giả thiết, riêng giám mục Kilmore nh́n vào cái cây, nơi chẽ ba thấp có một con mèo đen đang thu người lại nh́n vào cái hốc, từ lâu đă có ở thân cây. Nó có vẻ như đang nh́n vào một cái ǵ rất đáng chú ư trong đấy.
Bỗng dưng nó vươn cổ nḥm hẳn vào cái lỗ và v́ đứng chênh vênh, nó trượt tơm vào cái lỗ. Người ta nghe thấy tiếng nó rơi. Ta đều biết mèo có thể kêu nhưng ít ai nghe thấy nó thét, cái tiếng thét từ trong hốc cây vọng ra. Hai, ba tiếng thét!
Mấy người làm chứng không chắc lắm. Sau đến tiếng đông nghèn nghẹn, tiếng vật lộn. Phu nhân Mary Hervey ngất đi, bà quản gia bịt tai chạy thẳng lên đến sân thượng mới bỏ tay ra. Riêng giám mục Kilmore và ngài William Kentfield ở lại. Cho dù tiếng kêu đầy đe doạ, nhưng cũng chỉ là tiếng kêu của một con mèo, ngài William nuốt nước bọt mấy cái trước khi nói:
- Xin thưa là trong cái cây thể nào cũng có cái ǵ đó mà ta chưa biết. Tôi sẽ t́m hiểu ngay đây.
Mọi người nhất trí. Một cái thang được đem tới, một người làm vườn trèo lên nh́n vào trong hốc, chẳng thấy rơ ǵ cả trừ một cái ǵ đó lờ mờ đang động đậy ở bên dưới. Người ta lấy một cái đèn lồng buộc dây thừng thả xuống.
- Chúng ta phải xuống dưới đáy. Xin lấy cuộc sống của tôi ra mà thề, bí mật của những cái chết khủng khiếp này nhất định là nằm ở dưới đó.
Người làm vườn lại trèo lên thang tay cầm đèn, thận trọng thả đèn xuống cái hốc. Ông ta cúi xuống, mặt có ánh đèn chiếu vàng khè, sau đó th́ cái mặt đó nhăn nhúm lại như nh́n thấy một cái ǵ thực kinh khủng và ghê tởm, ông ta thét lên một tiếng hăi hùng, và ngă ngửa ra rơi từ trên thang xuống, may thay được hai người đàn ông ở gốc cây đỡ lấy, riêng cái đèn th́ rơi vào trong.
Ông ta ngất đi tưởng như đă chết, thành ra chưa ai moi được lời nào từ miệng của ông ta cả. Nhưng rồi lại có một thứ khác cho mọi người nh́n. V́ cái đèn rơi xuống, lửa bắt vào rác rưởi và lá cây khô ở trong thành ra vài phút sau từ trong hốc một làn khói dày đặc bốc lên, sau đến ngọn lửa, nói tóm lại cả cái cây đang bùng cháy.
Những người đứng xem quây thành một ṿng ở xa mấy mét, ngài William và đức giám mục cử người đi t́m vật khí hoặc bất cứ dụng cụ ǵ cũng được, bởi rất rơ ràng là con thú nào dùng hốc cây đó làm hang, thế nào cũng phải vọt ra do lửa hun.
Đúng thế. Thoạt tiên ngay chỗ chẽ cây là một thân h́nh tṛn xoe, như cái đầu người đang bốc lửa, đột ngột nhô lên sau đó xỉu ngay rơi xuống. Rồi đến sáu bảy lần như thế, cuối cùng một quả cầu lửa vọt lên không trung, tiếp đến nhào xuống băi cỏ nằm im.
Vị giám mục tới gần, nh́n thấy…những ǵ c̣n lại của một con nhện khổng lồ mắt đầy gân vỡ bung ra! Cái cây cháy thấp xuống th́ rằng nhiều con vật giống như thế từ trong thân cây bổ ra, chúng có lông lá xám xịt.
Cả ngày hôm ấy cây tần b́ cháy và người ta đứng quanh cho đến lúc nó rụi hẳn. Con nhện nào ra đến ngoài cũng bị diệt ngay. Cuối cùng một lúc lâu không thấy ǵ ḅ ra nữa họ xúm lại nh́n vào những rễ cây.
- Họ t́m thấy.
Giám mục Kilmore nói:
- Dưới cùng chỗ đất lơm sâu có vài ba xác con vật như thế chết v́ ngạt khói, và lạ thay bên cạnh cái hố đó, sát vào tường nhà, là một bộ xương người, bên trên c̣n lớp da khô, vài sợi tóc đen, những người đến xem bảo rơ ràng đây là, một bộ xương đàn bà chết cách đây khoảng năm mươi năm.
Montague Rhodes James
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 510 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 5:56pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỨA BÉ ĂN MÀY
Nó là thằng bé ăn mày tội nghiệp. Hơn thế, lại mù. Chiếc quần bẩn khó xác định màu rách bươm cả hai ống cho thấy không chỉ người mà lũ chó cũng chẳng thích nó. Hai ống tay áo đen bóng v́ luôn được dùng làm khăn lau mũi.
Đầu nó đội chiếc mũ cói méo mó hơi hất về phía sau, để lộ khuôn mặt đói ăn gầy đét, xạm nắng, và nhất là hai hố mắt trắng dă càng làm tăng thêm vẻ thảm hại đáng sợ.
Có thể nó chủ ư phô ra thế để người ta thương hại mà cho chút ǵ chăng? V́ mù, nó phải chống gậy, chiếc gậy trúc già bằng ngón tay cái, trơn nhẵn và cũng gầy đanh như nó.
Sau khi thận trọng gơ hai lần xuống đất, nó mới đi một bước. Nó lặng lẽ đi giữa trời nắng chang chang, chiếc bị, cũng bằng cói, đeo sát nách, và h́nh như c̣n lép kẹp hơn bụng nó.
Không ai biết nó từ đâu tới. Thứ nhất v́ đây là lần đầu tiên nó xuất hiện ở làng Thượng. Thứ hai, đơn giản v́ những loại như nó không đáng được người ta quan tâm.
Mà rồi lúc ấy đang giữa trưa nắng gắt chẳng có ai gần đấy ngoài một thằng bé khác trạc tuổi nó, cũng nhếch nhác, nhưng v́ không ăn mày nên to khỏe hơn và cũng lành lặn hơn.
Thằng này đang chổng đít cố búng viên bi thủy tinh vào một lỗ nhỏ trước mặt dưới bóng cây đa cụt đầu làng. Nó đang cáu v́ búng măi không vào đúng lỗ.
Đă thế, viên bi bị búng mạnh quá lăn đi đâu mất. Nó thất vọng định đứng dậy bỏ về nhà ăn trưa th́ bất chợt nh́n thấy thằng ăn mày khốn khổ.
Nó thấy có cái ǵ đấy vừa buồn cười vừa khó chịu ở vẻ ngoài và cách ḍ đường hai cộc một bước của thằng kia. Đôi mắt trắng dă làm nó, vốn bực ḿnh v́ mất viên bi, càng thêm khó chịu.
Cứ như viên bi của nó đă bay vào nằm gọn trong hố mắt thằng kia. Một ư nghĩ chợt lóe lên. Nhẹ và rón rén như con mèo săn chuột, nó bước lại gần thằng ăn mày, bất chợt giật lấy chiếc gậy trúc rồi chạy nhanh về phía gốc đa.
Thằng bé ăn mày kêu ới ới, hai cánh tay khẳng khiu bất lực huơ huơ phía trước.
- Ai trả lại chiếc gậy cho tôi đi! Trả lại đi, đừng đùa thế! Trả lại đi!...
Giọng nó yếu lắm, chắc v́ đói. Chờ măi không thấy ai trả lại gậy, nó đành ḍ dẫm đi tiếp, điệu bộ trông thật buồn cười, cứ như nó đang lấy thăng bằng đi trên dây thép trong rạp xiếc. Bây giờ thay cho gơ gậy, nó thận trọng uớm thử chân hai lần trước mỗi bước đi.
Bằng cách ấy nó có thể không vấp ngă, nhưng khốn nỗi điều quan trọng đối với nó là hướng đi chứ không phải đi như thế nào. Mà hướng nó đang đi tới hiện giờ là chiếc giếng hơi sâu rộng đầy nước của làng Thượng.
Ngồi dưới gốc đa, thằng chơi bi thích thú quan sát điều này.
Ở các làng khác, giếng nước ăn luôn có bờ gạch bao quanh, là điều dễ hiểu, thế mà bao đời nay giếng làng Thượng không hề có cái bờ gạch bao quanh ấy, lại sát đường đi, nên nhiều lần trẻ con và cả trâu ḅ rơi xuống đó, nhưng luôn vào lúc đông người nên được vớt lên kịp.
Khốn khổ thằng bé ăn mày. Nó cũng bị sẩy chân ngă xuống giếng và đă chết, v́ bờ giếng lát gạch trơn chẳng có ǵ để bấu víu, v́ nó quá yếu do đói ăn, v́ xung quanh không có ai để vớt nó lên. C̣n thằng bé chơi bi lếu láo kia th́ thấy vậy liền hoảng sợ bỏ chạy về nhà...
Chuyện này xảy ra đă mấy chục năm nay, nhưng dân làng Thượng vẫn nhớ. Mà không chỉ có nhớ.
Phải ba ngày sau xác thằng bé mới nổi lên. Người ta chôn nó ở nghĩa địa Đồng Chùa như chôn nhiều người vô gia cư chết đói trước đấy. Khác chăng, mộ của nó nhỏ hơn một chút, v́ nó là con nít.
Có điều đáng ngạc nhiên là không hiểu sao cái mộ bé nhỏ ấy của nó cứ mỗi ngày một lớn thêm, đến mức lấn át cả mộ cụ tổ họ Phạm thế lực nhất trong làng.
Thường người ta vui với những trường hợp như thế. Phát mả đồng nghĩa với phát tài, phát lộc, nhưng đây lại là mả một thằng bé ăn mày, vậy th́ phát ǵ? Phát nghề ăn mày à?
Các vị chức sắc trong làng không giấu nổi vẻ lo lắng mơ hồ về một tai hoạ nào đó đang treo lơ lửng trên đầu. Cuối cùng cái tai họa ấy đă đến.
Sau nhiều năm liền mất mùa v́ thiên tai, nhiều người làng Thượng xách bị đi ăn xin xứ người. Lúc đầu người ta không chú ư mấy đến hiện tượng này, v́ xưa nay ăn mày chẳng hiếm.
Nhưng khi số lượng gia tăng một cách đáng lo ngại, người ta bắt đầu nghĩ đến cái mả ăn mày phát kia. Sao các làng lân cận đói ăn chẳng kém mà chẳng mấy người làm cái nghề nhục nhă ấy? Vậy chắc đây là đ̣n báo oán của thằng bé nọ.
Để giảm bớt tai hoạ, người ta xây mộ xi măng cho nó, bây giờ đă được gọi là Ông. Mấy năm sau xây miếu hẳn hoi, có bàn thờ và được hương khói cẩn thận đúng dịp, đúng quy cách.
Dần dần, khi người ta thấy nghề ăn xin cũng không đến nỗi nào cả về thu nhập lẫn quan niệm xă hội, người làng Thượng bỏ nhà đi ăn xin có giấy chứng nhận đàng hoàng của xă, kèm theo chiếc dấu tṛn đỏ chói.
Tự lúc nào không biết, thằng bé ăn mày tội nghiệp nghiễm nhiên trở thành thành hoàng của làng Thượng, thay chỗ một vị tướng lừng danh thời Lê Mạc. Dần dần trong dân gian, tên làng cũng được gọi khác. Làng Ăn Mày!
- Chính tôi là thằng bé chơi bi láo lếu ấy đấy, ông ạ.
Ông M. thở dài nói. Ông M. là hàng xóm của tôi. Hàng xóm với nghĩa nhà cạnh nhau, chứ giữa nghề viết lách của tôi và nghề buôn sắt vụn phát đạt của ông chẳng có ǵ liên quan.
Ông quư tôi v́ tôi nhiều chữ. Tôi chơi với ông v́ ông nhiều tiền mà không hợm ḿnh, và cả v́ ông đồng ư để chúng tôi luân phiên nhau trả tiền bia ở quán Gió Mới bên cầu Long Biên.
Xưa nay ông nổi tiếng hảo tâm, một nhà từ thiện đích thực. Có lẽ ông đă cúng tới hàng chục, nếu không muốn nói hàng trăm triệu đồng cho mục đích cao cả ấy, mà đối tượng bao giờ cũng là những đứa trẻ mù. Trường Nguyễn Đ́nh Chiểu coi ông như ân nhân. Một số trường khiếm thị ở các địa phương khác cũng vậy.
- Tất nhiên lúc ấy tôi chẳng dám cho ai biết tôi đă làm thằng bé ăn mày phải chết.
Ông nói tiếp sau khi uống một hơi hết sạch vại bia.
- Tôi hối hận và sợ lắm. May mà tháng sau bố tôi, một cán bộ cỡ ở Tổng cục Thống kê, đưa cả nhà lên sống hẳn ở Hà Nội. Từ bấy đến nay tôi chẳng một lần dám trở lại làng Thượng. V́ sao th́ ông biết. Tuy vậy, tôi biết hết mọi chuyện xảy ra ở làng. Tôi hỏi thật nhé: Ông có mê tín không?
- Không.
Tôi đáp.
- Ông có tin vào báo ân, báo oán không?
- Tôi không tin. Sao ông hỏi vậy? Ông tin à?
Ông M. trầm ngâm một chốc rồi nói, vẻ bần thần:
- Cả có mà cả không. Nhưng tôi cứ thấy nó thế nào ấy, nhất là thời gian gần đây. Có lẽ tôi già rồi đâm lẩn thẩn. Nói ông đừng cười, đêm nào nằm ngủ tôi cũng nghe tiếng gơ chiếc gậy trúc của thằng bé kia và tiếng kêu yếu ớt:
- Ai đó trả lại gậy cho tôi, đừng đùa . T́nh h́nh có vẻ như ngày càng tồi tệ. Tôi chẳng biết phải tính sao đây. Ông khuyên tôi làm ǵ bây giờ?
Tôi ngồi im v́ chẳng biết trả lời thế nào.
- Hay ông đi khám bác sĩ thần kinh.
Cuối cùng tôi lên tiếng.
- Thời này khối người căng thẳng như ông. Tôi cũng chẳng hơn ǵ. C̣n chuyện thằng bé th́ chỉ do ông hay nghĩ đến nó mà tưởng tượng ra thôi.
Tôi an ủi, mặc dù tự biết ở đây có cái ǵ đó nghiêm trọng và đáng sợ hơn nhiều.
Mấy hôm sau, trước lời năn nỉ của ông M và cũng v́ ṭ ṃ, tôi nhận lời cùng đi với ông về làng Thượng, Làng Ăn Mày.
Ông M. thắp hương, lầm rầm khấn vái hồi lâu trước bàn thờ thành hoàng làng ḿnh. Trước đấy tôi cũng thắp một nén, gọi là tưởng nhớ vong linh thằng bé xấu số.
Tôi tế nhị bỏ ra ngoài để ông được tự nhiên sám hối, hi vọng sẽ thanh thản hơn đôi chút. Bằng đức tính nhân từ vốn có và những việc làm từ thiện xưa nay, ông xứng đáng được hưởng một tuổi già thanh thản.
Tối hôm ấy chúng tôi ngủ lại nhà một người bà con xa của ông M.. Nhà ngói hẳn hoi, có tivi, có đài, anh con trai chủ nhà c̣n có cả xe máy, xe Nhật chứ chẳng phải Tàu.
Từ lâu dân làng Thượng không c̣n xách bị đi ăn xin, nhưng người ta vẫn thành kính thờ cúng ông tổ ăn mày của làng.
Ngôi mộ của ông đă phát càng phát thêm, nay gần giống một cái g̣ nhỏ, trẻ con không dám cho trâu ḅ dẫm lên.
Nửa đêm, tôi đang ngủ say sau một ngày đi đường vất vả th́ bị ông M. túm tay áo giật mạnh. Ông hoảng hốt th́ thầm:
- Ông nh́n ḱa. Ngài đấy!
- Ngài nào?
Tôi ngạc nhiên hỏi v́ chẳng thấy ǵ.
- Thần hoàng làng Thượng! Đứa bé ăn mày...
Ông M. không nói hết câu, liền sụp xuống đất, vái lạy liên hồi:
- Con xin ngài tha tội. Dạ, con xin ngài tha tội. Con trót dại... Con chỉ đùa... Lúc ấy con c̣n nhỏ... Con xin ngài tha tội! Con xin ngài...
- Ông làm sao thế?
Tôi định đỡ ông dậy nhưng ông không chịu.
- Tôi có thấy ǵ đâu! Ông vái lạy ai đấy?
Quả tôi không thấy ǵ thật. Nhưng ông M. vẫn tiếp tục cầu khẩn van xin. Dẫu chẳng tin ma quỷ và không thuộc loại nhát gan, tôi vẫn thấy ớn lạnh khắp người.
Lát sau, ông M. im lặng ngồi rũ xuống sàn nhà, thở hổn hển:
- Ngài đi rồi. Đi mà chẳng nói ǵ cả. Nghĩa là ngài không tha thứ cho tôi. Trời ơi, tôi phải làm ǵ bây giờ?...
Lúc này tôi mới lọ mọ lại gần chiếc công tắc điện để bật đèn. Ông M. mặt cắt không c̣n hột máu. Ông ngồi yên trong tư thế ấy rất lâu, cuối cùng như để xác minh về sự hiện diện có thật của ngài, ông quay sang tôi, ch́a ra một viên bi thủy tinh bóng loáng dưới ánh đèn.
- Ngài để lại đấy!
Sau đó có việc tôi đi công tác xa ba tháng. Lúc về th́ được tin ông M. đă chết. Người ta kể rằng ông hóa điên, đi đâu cũng ngửa tay xin ăn như thằng ăn mày.
Bị con cháu nhốt trong nhà và cả ở bệnh viện tâm thần, gặp ai ông cũng xin. Có người cho ḥn đá, ông rối rít cảm ơn, xúc động đến rơi nước mắt.
Một hôm ông khôn khéo trốn khỏi bệnh viện. Đến tối th́ có người thấy ông nằm chết trong chiếc ao nhỏ cạnh Cầu Chui Gia Lâm. V́ ao hầu như không có nước chỉ toàn bùn, nên ông không ch́m. Ấy thế mà ông chết.
Một điều lạ nữa là lúc chết ông đeo chiếc bị cói sát nách, tay giữ chặt chiếc gậy trúc già trơn bóng, những thứ trước đấy chưa ai nh́n thấy bao giờ.
- Một người nhân đức nhường ấy mà phải chết thế th́ thật tội nghiệp.
Ông trưởng dân phố nơi ông M. sống bùi ngùi nói khi người ta liệm ông vào quan tài.
Thái bá Tân
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 511 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 6:03pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỨC PHẬT HIỆN H̀NH TRÊN NÚI TỔ SƠN
Cơn mưa lớn trút xuống huyện Cầm Hoàng Đảo, phía bắc tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc sáng hôm 1-7 đă để lại một chiếc cầu vồng rực rỡ trên đỉnh núi Tổ Sơn. Kỳ lạ thay ngay chính giữa vầng sáng, một bóng người hiện lên mờ ảo như thể Đức Phật giáng trần.
Theo nhân chứng kể lại, “Đức Phật” ở lại trên đỉnh núi hơn một tiếng đồng hồ sau đó mới “bay” đi.
Cảnh tượng kéo dài không lâu nhưng cũng đủ thu hút hàng trăm người hiếu kỳ đổ về chân núi Tổ Sơn để được tận mắt chiêm ngưỡng.
China Daily
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 512 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 6:05pm | Đă lưu IP
|
|
|
NEPAL: DÂN CHÚNG ĐỔ XÔ ĐẾN VIẾNG
"PHẬT TÁI THẾ" TÁI XUẤT HIỆN
Ram Bahadur Bamjan, được tin là Phật Thích Ca tái sinh, ngồi dưới gốc cây bồ đề với các nhà sư vây quanh, ở thành phố Nijgadh, cách thủ đô Katmandu của Nepal khoảng 160 km (100 dặm) về phía Nam, hôm Thứ Tư, 12 Tháng Mười Một, 2008. Bamjan, 18 tuổi, đă ra khỏi khu rừng ở miền nam Nepal hôm Thứ Hai, sau khi ở ẩn trong rừng hơn một năm.
KATHMANDU-Nepal. Một thiếu niên Nepal, được đông đảo dân chúng địa phương tôn kính như một vị Phật nhỏ, song cũng có người quả quyết chính là “Phật tái thế”, do có nhiều phép lạ khó giải thích được, đă xuất hiện trở lại tại miền Nam Nepal hôm 11 Tháng Mười Một, sau khi đă “biến mất” trong một khoảng thời gian khá lâu, từ Tháng Ba 2007.
Theo đặc phái viên của hăng thông tấn AP, th́ Ram Bahadur Bamjan, nay đă 18 tuổi, từng xuất hiện lần đầu tiên từ năm 2006, khi vị Tiểu Phật này ngồi thiền tại một gốc cây trong rừng và theo lời kể của nhiều người, th́ vị Tiểu Phật này đă không cần ăn uống trong nhiều tháng liền.
Khi xuất hiện trở lại, vị “Phật tái thế” này vẫn mặc một áo choàng dài mầu trắng, với mái tóc dài thường thấy, ngồi thiền và không nói một lời nào cả, dù vậy đă thu hút đông đảo các cơ quan truyền thông địa phương, cũng như quốc tế, khiến tin này đă được loan truyền mau lẹ trên thế giới.
Một cảnh sát trưởng Nepal cho biết chỉ sau hai ngày tái xuất hiện của vị “Phật tái thế” này, đă có đến hàng ngàn Phật tử đổ xô đến khu rừng Ratanpur, nơi “Phật tái thế” đang tọa thiền, cách thủ đô Kathmandu vào khoảng 100 miles (160 km) về phía Nam.
Một tăng sĩ Phật Giáo Nepal, Kamal Tamang, cho biết sau khi vị “Phật tái thế” này xuất hiện trở lại, đến ngồi tọa thiền trên một cái bục phủ vải mầu vàng, đặt dưới gốc một cây cổ thụ, nhiều Phật tử đă mang nhiều quà cáp, áo cà sa, trái cây đến dâng cúng, mặc dù vị “Phật tái thế” này trông vẫn khỏe mạnh và không có dấu hiệu nào là ốm yếu hay mất nước cả.
Tăng sĩ Tamang cho biết thêm là vị “Phật tái thế” này, sẽ có buổi nói chuyện với các Phật tử vào ngày 18 Tháng Mười Một tới đây, và sau đó có thể trở lại tu thiền trong rừng.
Mặc dù Đức Phật cũng từng ra chào đời tại vùng đất, mà giờ đây được gọi là phía Tây Nam Nepal cách đây khoảng 2,500 năm, nhưng một số học giả Phật Giáo tỏ ra nghi ngờ về vị “Phật tái thế” này, mặc dù cũng ra chào đời tại làng Ratanpur, Nam Nepal, và cho rằng thiếu niên Bamjan này, có thể giống như các vị tu sĩ khổ hạnh, có sức chịu đựng bền bỉ, chứ không phải là “ Phật tái thế”.
Trong một số cuộc tiếp xúc hiếm hoi với các Phật Tử, chính thiếu niên Bamjan cũng không bao giờ tự xưng ḿnh là ǵ cả.
L.T.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 513 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 6:10pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÙA TRẤN TRẠCH
Bùa chú luôn thuộc quyền sở hữu của các Pháp sư, Thầy cúng và Thiền sư. Không ai trong chúng ta có ư định giải thích về chúng, mà chỉ coi đó là một lĩnh vực không thể hiểu, là cánh cửa luôn đóng giữa đời và tâm linh.
Ngay cả những nguời sử dụng cũng chỉ hiểu chức năng của từng loại bùa chú, chứ không hẳn đă hiểu hết ư nghĩa và thần năng tiềm ẩn trong mỗi loại bùa.
Mặc dù khi hành lễ, lúc thăng hoa, nhập đồng họ có thể vẽ ra những lá bùa, để con nhang đệ tử xin về trấn trạch cầu b́nh an cho gia đ́nh.
Trong từ điển Hán-Việt gọi bùa là:“ Linh phù” nghĩa là bùa thiêng. Thực ra bùa trấn là sự lồng ghép giữa các h́nh ảnh mang tính ma thuật với các câu thần chú, càng làm cho nó mang đậm sự huyền bí và mê hoặc, buộc nguời ta phải chấp nhận nhiều hơn là thắc mắc.
Xét về thực chất, sự h́nh thành của bùa chú có lẽ đây là một sản phẩm văn hoá, khởi nguyên từ thời Nguyên Thuỷ.
Khi mà thiên nhiên là cái hùng vĩ, c̣n con nguời lúc đó luôn sợ hăi và trong tâm thức họ lại cảm thức rất rơ rệt sự tuơng quan của ḿnh đối với tự nhiên.
Suy cho cùng, nếu đánh giá qua lăng kính khoa học hiện đại, th́ bùa trấn trạch là sự phản ánh sự bất lực hoàn toàn của con nguời truớc cái chết, mà sự thuơng tiếc của người sống luôn muốn vời nguời chết trở về, cũng như sự sợ hăi rằng: nguời chết đi nếu không vui vẻ sẽ rủ theo những nguời sống khác.
Từ những quan niệm đó mà nẩy sinh các loại h́nh bùa trấn, nhằm trấn áp sự trở lại của một thế lực vô h́nh trong thế giới huyền hoặc:
Trấn tà ma, bệnh tật, trùng tang, rủi ro... để tạo ra một cảm giác có một sức mạnh huyền bí nào đó luôn ở cạnh, ở trên, ở với thế giới hiện hữu nhằm bảo vệ sự b́nh an cho con nguời.
Bùa trấn trạch thuờng cấu tạo bởi các nội dung sau:
H́nh nguời: Phật, Bồ Tát, Kim Cuơng, Tứ Trấn, Thần Độc Cước và các h́nh nhân cùng các h́nh biến dạng khác.
H́nh vật: Con vật tuợng trung cho bốn phuơng: Thanh Long, rồng trấn ở phuơng Đông. Bạch hổ, hổ trấn ở phuơng Tây. Chu Tuớc, chim trấn ở phuơng Nam. Huyền vũ, rùa trấn ở phuơng Bắc.
Kư tự: Chữ Phạn duới dạng thần chú, chữ trấn, chữ sát quỷ, và các biến h́nh tự, cùng nhiều chữ hán duới dạng thần chú và triện ấn.
H́nh hoa lá: Hoa sen, hoa dây, sóng nuớc.
H́nh tuợng trưng: Âm duơng, bát quái, các quẻ kinh dịch, các v́ sao Nhị thập bát tú…
Nội dung bùa trấn trạch gồm sáu đoạn, tính từ ngoài vào trong:
1. Hàng trên cùng là ḍng chữ:
- Nam mô thiên thủ thiên nhăn linh cảm Quán thế Âm.
- Cột bên phải là Nhị thập Bát tú: Giác, Cang, Đê, Pḥng, Tâm, Vỹ, Cơ, Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, Khuê, Lâu, Vi, Măo, Tất, Chủy, Sâm, Tỉnh, Quỷ, Liễu, tinh, Truơng, Dực, Chấn.
- Cột bên trái: Bẩy khuyên đầu là Âm đẩu thất tinh, duới là tên các v́ sao trong tử vi đẩu số: Tham lang, Cự môn, Lộc tồn, Văn khúc, Liêm trinh, Vũ khúc, Phá quân.
Tiếp đến là can chi và bốn đặc tính của quẻ Càn:
Nguyên, trinh, hạnh, lợi, duới là ngũ hành: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.
- Hàng duới cùng đề: bức tranh bùa chùa Vĩnh Khánh, Yên Ninh, Thanh Lâm, Hải Duơng.
2. Trung tâm là chữ “Sắc lệnh” viết biến h́nh đuợc vẽ trên đầu bùa trấn.
Sắc lệnh có nghĩa là ra chỉ thị, mệnh lệnh nào đó, mà thầy phù thủy coi ḿnh như nguời tiếp nhận một quyền năng siêu nhiên, lệnh dụ cho đám ma tà.
Hai chữ này đuợc vẽ gắn bó với nhau, trên chữ Sắc lệnh biến h́nh hai con rắn chầu vào trung tâm, đầu nét chữ sắc bọc ngoài là chữ thiên (trời), nhật, nguyệt và lôi hỏa.
Bốn góc bùa do bốn vị tuớng trấn giữ: Mă Uất Lâm trấn ở phương Đông, Đặng Cung Chấn trấn ở phương Bắc, Quách Nguyên Cảnh trấn ở phương Nam, Phuơng Trọng Cao trấn ở phương Tây.
3. H́nh ảnh đức Phật Quan Âm Bồ Tát ngồi tọa thiền trên đỉnh núi, bên phải là Pháp Thông Thiền sư, bên trái là Hồ Tinh Tôn Giả. Hai bên đề hai câu thơ:
Bảo ṭa thiền lâm thanh liễu diệp.
Kim đài thúy dẫn bạch liên hoa.
Tạm dịch: Liễu biếc rừng thiền ṭa báu.
Sen trắng thấu khiết đai vàng.
4. Là hai h́nh ảnh của: Lư Bạch Bá Duơng và Mậu Thần Tính Chu, điểm xen kẽ là bài thơ:
Ngàn thánh cùng nhau trừ quỷ dữ.
Ngọc Hoàng sắc lệnh trấn duơng gian.
Bùa thiêng tới chốn, yêu ma giảm.
Muôn thần cùng họp khử tà gian.
5. Là h́nh Tử Vi trấn trạch cỡi trên lưng Hổ Phù, Hổ Phù đuợc tạo bởi tinh khí của các cḥm sao trong Nhị thập bát tú.
Từ miệng Hổ Phù nhả ra một luồng khí chứa hai chữ “Sát Quỷ” với ba nét đao mác mạnh mẽ mang ư nghĩa:
Nét mác là trời đánh mày chết, nét \ là đất đánh mày chết, nét sổ I là tao đâm mày chết. Hai bên tả hữu là h́nh bùa Bạch xà, chính giữa là h́nh bát quái.
6. Là chữ “Trấn” có nghĩa là trấn áp, trấn yểm, nhằm ngăn cản một thế lực ma quái nào đó muốn xâm hại đời sống con nguời.
Tóm lại Bùa trấn trạch là một loại h́nh văn hóa dân gian phi vật thể, chứa đựng sự dung hợp nhiều yếu tố tôn giáo và tín nguỡng, cùng các học thuyết khác tiềm ẩn bên trong đạo bùa.
Được bố cục tuơng đối hài ḥa giữa h́nh và chữ, trong và ngoài, phụ và chính… Tạo nên nét đặc sắc về mặt nội dung và h́nh thức.
Tuy nhiên bùa có linh thiêng hay không, đều tùy thuộc vào sự tín tâm và công năng gia tŕ của tín đồ.
Vũ Đằng
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 514 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 6:12pm | Đă lưu IP
|
|
|
BỊ CHÔN SỐNG 40 NGÀY KHÔNG CHẾT
Theo một bài báo trên tờ London Telegraph năm 1880, một người đàn ông được chôn trong t́nh trạng đă chết suốt bốn mươi ngày nhưng vẫn sống sót. Không hề có dấu hiệu lừa bịp, vậy giáo sĩ này đă làm như thế nào?
Năm 1837 đích thân nhà vua Ranjeet Singh đă yêu cầu Haridas, một giáo sĩ Hồi giáo người Ấn Độ chứng minh khả năng trở về từ cơi chết sau một thời gian nằm dưới đất.
Trước sự chứng kiến của nhà vua và các quan lại trong triều, Haridas rơi vào trạng thái hôn mê chỉ trong một thời gian ngắn. Tướng Osborn, một nhân chứng lúc bấy giờ kể lại:
- Khi mọi dấu hiệu của sự sống đă tắt, người ta trói tay của Haridas và khóa lại, tiếp đến họ quấn một tấm vải lanh có dấu triện của nhà vua lên người ông ấy.
Sau đó thi thể được đặt vào trong một chiếc rương lớn, đưa ra ngoài thành phố và chôn trong ngôi vườn của một giáo sĩ.
Người ta xây tường quanh địa điểm chôn sau khi đă rắc lúa mạch xung quanh và cử lính canh gác suốt ngày đêm”.
Sau bốn mươi ngày ngôi mộ được đào lên. Dù hơi lạnh, nhưng cơ thể Haridas vẫn như trước đó bốn mươi ngày. Sir Claude Wade, một nhân chứng thứ hai cho biết:
- Chiếc vải lanh quấn trên người Haridas mốc meo như thể nó đă nằm dưới đất lâu lắm rồi. Chân tay ông ấy nhăn nhúm và cứng đờ, đầu nghiêng sang một bên vai y hệt một xác chết.
Tôi yêu cầu thầy thuốc bắt đầu làm công việc kiểm tra của ḿnh, ông ta cho biết không phát hiện thấy nhịp đập của tim hay mạch ở tay và chân, duy nhất khu vực năo là có hơi ấm.
Người hầu bắt đầu tắm cho Haridas bằng nước nóng, sau đó cho một chút bơ sữa trâu vào miệng ông ấy. Một vài phút sau đồng tử của Haridas giăn ra, Haridas ngồi dậy và nhận ra nhà vua đang ngồi cạnh ḿnh. Ông thốt lên:
- Giờ nhà vua đă tin tôi chưa?
Khỏi phải nói nhà vua khâm phục Haridas đến mức nào, ngài đă tặng Haridas rất nhiều quà trong đó có một chuỗi ngọc trai, ṿng vàng, gấm vóc những bổng lộc thường chỉ dành cho các quan lại được đặc biệt trọng vọng.
LÀM THẾ NÀO HADRIAS CÓ THỂ SỐNG SÓT SAU BỐN MƯƠI NGÀY?
Từ lâu người ta tin rằng các giáo sĩ Hồi giáo, pháp sư và những người luyện yoga có thể kiểm soát cơ thể mà chỉ cần dùng tâm lực.
Theo các ghi chép năm 1925 Tahra Bey, một người đàn ông Ai Cập có khả năng tăng nhịp đập của tim lên 140 nhịp một phút, và giảm xuống c̣n 40 nhịp một phút, đôi khi có thể làm cho tim ngừng đập hoàn toàn.
Năm 1974 một nhà ảo thuật đến từ Togo được chôn trong một quan tài, sau đó người ta xây mộ kiên cố bên trên.
Khi người xem bắt đầu sợ hăi và yêu cầu các nhà chức trách mở quan tài, nhà ảo thuật vẫn b́nh an vô sự. Người này cho biết bí mật của ḿnh là luyện ngồi thiền lâu trong ḷng đất.
Hadrias tiết lộ ông đă tiến hành thanh lọc hệ thống tiêu hóa và chỉ uống một chút ít sữa mỗi ngày trước khi thực hiện màn biểu diễn.
Vào ngày được chôn, ông nuốt một miếng vải lanh sau đó rút ra ngay lập tức để “lau sạch” bụng. Nhờ những bí quyết trên và khả năng ngồi thiền sâu đă giúp Hadrias sống sót sau bốn mươi ngày.
Một lần khác, Hadrias được chôn trong thời gian bốn tháng, nhưng lần này người ta cạo râu của ông trước khi chôn.
Đến khi đào lên, cằm vị tu sĩ vẫn nhẵn thín như ngày ông được chôn, điều này chứng tỏ khả năng ngừng sống của con người là có thể.
Environmentalgraffini
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 515 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 6:13pm | Đă lưu IP
|
|
|
HUYỀN THOẠI THẤT SƠN VÀ VỊ ĐẠO SĨ CUỐI CÙNG
Giết được con rắn hổ mây, ông Ba Lưới, vị đạo sĩ cuối cùng trên núi Thất Sơn, h́ hục đào một cái hố lớn và... chôn cất tử tế. Đây là con rắn lớn nhất mà ông từng được chạm mặt. Ông bảo cuộc đời tu luyện của ông trên đỉnh Núi Cấm này gặp hàng chục con rắn khổng lồ.
Thất Sơn vùng đất kỳ bí nhất của miền đồng bằng Nam Bộ, đă dệt nên vô số những câu chuyện truyền thuyết kỳ bí về những đạo sĩ, những nhân vật mai danh ẩn tích, luyện vơ, học đạo cứu giúp người nghèo khổ. Bây giờ trên dăy Thất Sơn chỉ c̣n lại vị đạo sĩ cuối cùng tuổi đă gần chín mươi, lặng lẽ với nghề bốc thuốc cứu người.
Thất Sơn có nghĩa là Bảy Núi, thuộc huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, người dân miền Tây cũng quen danh từ Bảy Núi. Núi Cấm là một trong bảy ngọn núi thuộc dăy Thất Sơn, v́ sao gọi là Núi Cấm th́ có rất nhiều giả thiết, có người kể lại rằng:
Nguyễn Ánh khi bị quân Tây Sơn truy nă có lúc phải vào núi này để chạy trốn, thao luyện binh mă, để tung tích không bị tiết lộ, các cận thần họ Nguyễn đă cấm dân chúng vào núi.
Người th́ kể rằng:
Có một đạo sĩ có tên Đơn Hùng Tín, thuở làm tướng cướp đă dùng nơi này làm sào huyệt, do đó, ông cấm người dân bén mảng tới.
Lại có người cho là Phật thầy Tây An, người khai sinh ra Bửu Sơn Kỳ Hương đạo, đă cấm các tín đồ của ḿnh lên núi cất nhà ở, Phật thầy sợ có người ăn ở sẽ làm ô uế núi non.
Theo học giả Nguyễn Văn Hầu, tác giả cuốn “Nửa tháng trong miền Thất Sơn”: Đơn Hùng Tín chính là người bắt đầu cho truyền thuyết đạo sĩ trên đỉnh Thiên Cấm Sơn.
Đơn Hùng Tín tên thật là Lê Văn Tín, gốc ở rạch Cái Sao, làng Nhị Mỹ, quận Cao Lănh. Cuộc đời giang hồ của Đơn Hùng Tín từng ngang dọc từ Xiêm Riệp tới Mỹ Tho, người đương thời không mấy ai không biết tiếng.
Hồi nhỏ Tín là tá canh cho một điền chủ, bất b́nh trước cảnh tá điền, điền chủ nên bỏ xứ ra đi. Thiếu thời Tín đă nuôi chí làm “anh hùng” để trừ các tay điền chủ khắc nghiệt.
Trên quăng đường phiêu bạt Tín học vơ thuật và đạo thuật, sau Tín chiêu nạp anh em cùng nhau đi cướp của người giàu chia cho người nghèo.
V́ tấm ḷng hiệp nghĩa đó người trong vùng thường gọi Tín là Luông Tín (Vua Tín). Năm 1926 có tin Đơn Hùng Tín bị mật thám Pháp bao vây và bắn chết tại Mỹ Tho, nhưng đệ tử của Tín nói rằng:
Đó không phải là Đơn Hùng Tín mà chỉ là một kẻ mạo danh. Đơn Hùng Tín nhận ra con đường ḿnh chọn là sai lầm, từ đó ông giải nghệ và đi tu. Người khai hoang đầu tiên trên Núi Cấm không phải là đạo sĩ Đơn Hùng Tín.
Vào những năm 1850 thầy Đoàn Minh Huyên, người đời sau c̣n gọi là Phật thầy Tây An đă cùng với rất nhiều môn đệ đặt những bước chân đầu tiên lên đỉnh Núi Cấm.
Phật thầy đă thực hiện giáo lư tự tu tự độ, hướng dẫn môn đệ khai hoang nhiều nơi ở miệt An Giang, Núi Cấm là một vùng trong số đó.
Ban ngày các tín đồ đi khai hoang đêm về th́ lễ bái, niệm Phật tham thiền. Theo tinh thần vô vi, nhập thế, tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương dù xuất gia cũng vẫn phục sức như người thường và tự làm lấy để sống mà tu.
Tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương nhiều người đă tuân theo thuyết nhập thế ấy, ḥa với chúng sinh để giúp đời.
Phật thầy Tây An có hai đại đệ tử là cụ Đ́nh Tây và cụ Tăng Chủ, hai cụ có đức lớn đạo pháp uyên thâm, vơ dũng phi thường.
Có một truyền thuyết về cụ Tăng Chủ thế này:
Cụ Tăng vơ nghệ rất giỏi, h́nh vóc cao lớn miệng rộng, tai dài tiếng nói sang sảng. Ông có tài áp phục thú dữ, có lần ông Tăng Chủ một ḿnh cầm mác rượt... cọp, khi đánh con cọp bất tỉnh, ông không giết mà lại thả cọp về rừng, từ đó, con cọp cũng “tu” và không dám bén mảng tới khu dân ở.
Năm 1911 người ta thấy xuất hiện tại sườn Núi Cấm một thảo am và một đạo sĩ lực lưỡng, khoác áo tràng đen, chân đất đầu búi tóc, ngày hai buổi ngồi thiền nhưng đêm đêm vẫn mài gươm luyện vơ, người này xưng danh là Bảy Do.
Lâu dần người người kéo về quy phục rất đông. Đạo sĩ Bảy Do cho dựng lên một ngôi chùa lớn, lấy tên là Nam Cực Đường. Chỉ trong một thời gian ngắn Nam Cực Đường thu phục hàng ngàn đệ tử.
Cụ Bảy Do vốn là người yêu nước và Nam Cực Đường đă trở thành tổng hành dinh của một tổ chức kháng chiến chống Pháp. Sau này Pháp gài mật thám giả làm bổn đạo.
Năm 1917 Pháp đem quân bao vây Nam Cực Đường, đạo sĩ Bảy Do bị bắt cùng với hơn chục môn đệ. Ông bị kết án và giam tại khám lớn Sài G̣n, rồi bị phát lăng tại Côn Lôn. Đạo sĩ Bảy Do đă cắn lưỡi tử tiết vào năm 1926 khi đó ông mới bốn mươi lăm tuổi.
Trên đỉnh Thiên Cấm Sơn có ngôi chùa Phật Lớn nổi tiếng linh thiêng, ngày thường phật tử khắp nơi về lễ lạt rất đông. Đường từ chân lên đỉnh Thiên Cấm Sơn có thể nói là con đường chông gai nhất miền Tây, đồi dốc không chỉ thoai thoải mà hầu hết là dựng đứng, không ít đá hộc chắn ngang đường.
Từ ngày xưa, khách hành hương lên chùa Phật Lớn phải đi mất hai ngày, ngày đi ngày về. Chỉ có người trong vùng mới dám chạy xe, người lạ không tài nào dám chạy xe lên xuống Núi Cấm.
Đường từ chân lên tới đỉnh Núi Cấm đi đường xe hết khoảng 10 cây số nhưng các bác tài “hét” giá 60 đến 70 ngh́n. Giá cả “đắt đỏ” như thế nhưng khách vẫn gọi xe đông nườm nượp. Một ngày mỗi bác tài chỉ cần một khách cũng kiếm được hơn 50 ngh́n.
Hỏi về các vị đạo sĩ, giới xe Núi Cấm có thể thao thao bất tuyệt hàng giờ. Anh xe tên Ba chở chúng tôi leo đỉnh Thiên Cấm Sơn quả quyết rằng:
Hiện giờ đạo sĩ trên đỉnh Cấm Sơn chỉ c̣n lại duy nhất một người: ông Ba Lưới, những người c̣n lại hầu hết là từ nơi khác đến, không th́ cũng chỉ là mạo danh đạo sĩ để làm những chuyện thương thiên hại lư. Anh khuyên chúng tôi nếu muốn biết tường tận về các đạo sĩ, phải gặp cho được đạo sĩ Ba Lưới.
Vị Đạo Sĩ Cuối Cùng Và Nỗi Buồn Nhân Thế.
Đạo sĩ Ba Lưới ngồi trước mặt chúng tôi trong căn nhà gỗ nhỏ chênh vênh bên suối, một cụ già râu tóc bạc phơ, mặc áo nâu sồng, đầu quấn khăn rằn, 88 tuổi nhưng đôi mắt vị đạo sĩ già này vẫn c̣n tinh anh lắm.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 516 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 6:14pm | Đă lưu IP
|
|
|
TÀU TITANIC BỊ BÙA CHÚ MÀ CH̀M
Tháng ba năm 1912 một công ty vận tải biển Anh quốc đầu tư đóng một con tàu khách to lớn nhất thế giới lúc bấy giờ, tàu Titanic.
Tàu này có trọng tải 46.328 tấn, là tàu khách duy nhất trên thế giới bấy giờ có tải trọng vượt quá bốn vạn tấn. Tàu dài 159m, chổ rộng nhất 28m. Phần lái tàu nặng trăm tấn, tất cả có ba chân vịt, cái giữa nặng nhất hai mươi hai tấn.
Trong tàu có lỗ buồng dự pḥng nước, được tạo bởi những pḥng kín. Những pḥng đó có thể dùng máy chạy điện hoặc sức người để giăm đến mức thấp nhất độ nguy hiểm khi bị ṛ nước. Nói cách khác trong
mười sáu buồng đó, nếu ngập nước vài pḥng th́ con tàu vẫn vô sự.
Tàu Titanic vượt xa tiêu chuẩn quốc tế về mức độ sang trọng của vũ trường, quầy bar... Các thiết bị đều thuộc loại xa xỉ nhất. Trong khoang hành khách có những đèn chùm sang trọng, sàn pḥng trải bằng thảm đó Apganistan dày, bằng len thật.
Ngay cả trần pḥng cũng khiến cho người ta không thể rời mắt v́ những bức trang trí thanh thoát, nhă đạm. Khách có thể ngồi bất cứ chỗ nào, ngẩng đầu lên, thời gian rất lâu cũng vẫn thoải mái trong tư thế đó. Tàu Titanic đúng là một cung điện ngọc trên biển.
Tàu chạy từ Anh sang New York, thời gian dự định là bảy ngày, trên tàu có tất cả 2208 hành khách lẫn thuyền viên.
Tàu xuất phát từ Anh đă sang ngày thứ năm, tức 14/4 tàu vẫn hành tŕnh với tốc độ cao, hai mươi ba hải lư một giờ. trên Đại Tây Dương, lúc 11h40' đêm, bỗng tàu bị va vào tảng băng trôi, phát ra một tiếng kêu ghê rợn, tiếp đó, toàn thân tàu lắc lư mạnh, nước trong xô chậu té ra sàn tàu.
Tiếng kính vỡ pha lẫn tiếng người kêu cứu thảm thiết, trên tàu bao trùm một nỗi kinh hoàng. Dọc hành lang, trên boong tàu, hành khách chen chúc nhau t́m đường tháo thân, trên tàu trở nên hỗn loạn.
0h15' đêm tàu phát tính hiệu SOS, đến 0h45', sau khi tín hiệu phát đi, xuồng cứu hộ được thả xuống. Hành khách phát điên tranh nhau xuồng cứu hộ.
Nhưng mật ít mà ruồi lại nhiều, chỉ có hai mươi chiếc tàu cứu sinh, thế là đàn ông quyết định nhường cho phụ nữ và trẻ em, c̣n họ th́ tự nguyện ở lại trên tàu.
Thuyền trưởng smith cũng ở trên tàu cùng những người đàn ông khác. 2h20' con tàu tự xưng là tàu không ch́m đă đem theo 1513 người chôn xuống đáy đại dương.
Lúc tàu ch́m, mặt biển cuộn thành ḍng xoáy lớn, nhưng chỉ một lát sau th́ biến mất như chưa từng xảy ra bất cứ việc ǵ.
Chỉ có 695 người được cứu sống, một con số chỉ chiếm 1/3 số người trên tàu. Trên thực tế, trước lúc tàu Titanic ch́m, đă có nhiều tiên đoán vụ ch́m tàu xảy ra.
Lúc đó một nhà buôn nổi tiếng của Anh, ngài John, v́ một thương vụ phải đi Mỹ, khó khăn lắm mới t́m mua được một vé tàu Titanic, đó là việc của ngày 23-3-1912. Khi đó chuyến khởi hành đầu tiên của tàu Titanic đă làm xao động trong xă hội, kiếm được một vé tàu thật không dễ chút nào.
Nhưng trước khi khởi hành mười ngày, John đă hai đêm liền gặp cùng một cơn ác mộng. Ông mơ thấy tàu Titanic bị ch́m xuống biển. Rất nhiều trẻ em và người lớn bị vứt ra biển. Ông bị giấc mơ ám ảnh riết, cảm thấy không yên tâm cuối cùng đă hủy bỏ chuyến đi.
Mục sư Morgan ở thành phố Viniper Canađa cũng mơ thấy ác mộng, một tàu lớn đang ch́m xuống biển.
Chiều hôm xảy ra tai nạn, mục sư Morgan đă suy nghĩ rất nhiều về nội dung buổi chiều tối, lúc quá mệt đă ngủ thiếp đi.
Ông mơ thấy một cảnh tượng đáng sợ, một chiếc tàu khổng lồ đang đi trên biển bỗng nhiên trời tối sập, sương mù dày đặc, trong sương mù chiếc tàu va vào núi băng. Trên boong tàu đầy những người gào thét kêu cứu. Cuối cùng chiếc tàu khổng lồ đó ngả nghiêng rồi ch́m xuống biển.
Sau khi tàu Titanic ch́m toàn thế giới xôn xao, đă đủ các lời tiên đoán được đưa ra. Trong đó nổi tiếng nhất là lời nguyền của xác ướp Ai Cập.
Vào trước sau năm 1900, các nhà khảo cổ khai quật một mộ cổ Ai Cập, phát hiện thấy một quan tài đá. Trên quan tài có khắc lời nguyền như sau: "Tất cả những người đụng phải quan tài này sẽ gặp nạn"
Nhưng những nhà khảo cổ nhiệt t́nh không để ư đến những lời nguyền đó, vẫn cứ mở nắp quan tài. Trong áo quan có xác ướp cổ ngàn năm tuổi vẫn nằm đó.
Lúc bấy giờ xác ướp và quan tài đều được chuyển sang Anh quốc được đưa vào viện bảo tàng cho dân chúng xem.
Nhưng chẳng bao lâu th́ nhà khảo cổ này chết một cách không rơ ràng. Về sau các nhà khảo cổ từng tham gia vụ đó đều lần lượt chết một cách mờ ám. Thế là bảo tàng quyết định dời quan tài và xác ướp đến chỗ dân chúng không nh́n thấy, để tránh những người tham quan ṭ ṃ muốn xem.
Sau mười năm, một nhà kinh doanh giàu có người Mỹ đă đề nghị viện bảo tàng bán cho ông cả quan tài đá và xác ướp. Ông đă được toại nguyện.
Khi vận chuyển chúng về Mỹ th́ vừa may gặp tàu Titanic chạy chuyến đầu tiên. thế là ông đưa xác ướp và quan tài đá lên tàu sau khi chạy vạy mua được tấm vé.
Nhưng lúc đó không ai chú ư tới, cuối cùng lời nguyền khắc trên quan tài đá, tất cả những người gặp phải quan tài đá đều gặp nạn, không ai ngờ nạn đó là bị nước biển nhấn ch́m.
nguyenhuynhduc
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 517 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 6:15pm | Đă lưu IP
|
|
|
CẢ THẾ GIỚI ĐEO BÙA
Một điều hết sức lạ lùng là Đông cũng như Tây, cổ cũng như kim, văn minh hay mông muội, da vàng hay da trắng, da đỏ hoặc da đen, đàn ông hoặc đàn bà…dân tộc nào trên thế giới cũng đều có…bùa.
Tôn thờ ở một đấng Thần linh, mà dường như sự phát triển của khoa học và sự nghiêm khắc của giáo dục vẫn không thể nào hạ gục được, người ta cho rằng nếu trong người có một vật ǵ để làm tin th́ sẽ được Thần linh phù hộ.
Vật làm tin ấy gọi là Bùa. Nhân loại làm bùa, không phải từ thời Trung cổ mà từ thời tiền sử, sống trong hang đá. Bởi vậy bùa...nhiều vô kể.
Chất liệu làm bùa phong phú vô cùng. Lúc đầu là những vỏ ṣ, vỏ hến có h́nh dạng đặc biệt, rồi bằng đất sét nung, bằng giấy, bằng vải, bằng kim loại, bằng đá quư kể cả kim cương, bằng răng báo, vuốt hổ, ngà voi..
H́nh dạng khác nhau, màu sắc khác nhau tuỳ thuộc vào tôn giáo hoặc nền văn hoá. Bùa các nước Trung Đông xưa có khắc những câu thần chú khó hiểu, như acabradacabra chẳng hạn..
Hoặc những câu trích từ thánh kinh, các h́nh vẽ kỳ quặc có tính chất biểu tượng, ví dụ con bọ hung tượng trưng cho sự tái sinh, con ếch tượng trưng cho lắm con nhiều cháu, chiếc móng ngựa tượng trưng sự may mắn.
Ở châu Phi bùa c̣n là những chiếc túi nhỏ bằng thổ cẩm, hoa văn đẹp trong đó đựng các cây thuốc, các lá thiêng.
Thật thú vị trường Đại học Freiburg Đức, có một bảo tàng bùa nho nhỏ, dành riêng cho một chuyên đề hẹp, trưng bày hàng ngh́n lá bùa Ai Cập, mà cổ nhất là những bùa bằng đất nung làm từ thế kỷ mười hai trước Công nguyên. Nhiều loại t́m thấy khi khai quật các Kim tự tháp.
Quyền lục của bùa là đại diện của Thần linh, bùa được gán cho biết bao nhiêu là tác dụng. Nó bảo vệ con người, tránh đủ mọi thứ rủi ro bất hạnh: tai nạn, bệnh tật, sự quấy nhiễu của ma quỷ và đôi khi c̣n có tác dụng chữa bệnh nữa.
Phổ biến nhất là xua đuổi tà ma. Trước đây nhà có tang, nhất thiết phải mời các thầy phù thuỷ cao tay về, vẽ những lá bùa phù phép vào, rồi đưa gia chủ treo trên khung cửa để “trấn”, không cho lũ ma vô h́nh có lối vào nhà.
Trẻ con được một lá bùa thầy cấp, đeo trên khuyết áo là yên tâm, không sợ bị ma quỷ nhập làm lẩn thẩn ốm đau. Đi trận tiền có bùa hộ mệnh trên ḿnh th́ “đạn tránh người chứ người không cần tránh đạn”.
Có lẽ hiện nay trong hoàn cảnh các lái xe lái bừa lái ẩu, đường chật người đông, có rất nhiều vị ngồi trên ô tô thủ sẵn một lá bùa kiểu này trong ví.
Không chỉ ta thôi đâu nhé báo chí đăng: Vận động viên nổi tiếng người Đức Michael Schumacher, nhà vô địch đua ô tô Công thức một của thế giới, cương quyết đeo bùa khi thi đấu, bất chấp lệnh cấm của Liên đoàn đua xe ô tô thế giới FIA.
Anh tâm sự: Đó là chiếc bùa mà anh được vợ là Corinna trao cho, sau khi bị găy chân trên đường đua Silvestone vào năm 1999. Kể từ đó anh liên tục đoạt chức vô địch. Chẳng phải là bùa mang cho anh may mắn đó sao?
Đến một số chùa cúng tiền vào ḥm công đức, bạn sẽ được các vị sư trụ tŕ tặng lại một lá bùa bằng hai ngón tay, ép plastic cẩn thận để bạn đặt trên túi áo ngực.
Họ bảo bạn sẽ luôn luôn có quư nhân phù trợ. Sang Lào và Thái văn cảnh chùa, bạn sẽ được hoà thượng đeo vào cổ tay một sợi dây, rảy nước và dặn cứ để vậy măi. Bùa đấy.
Song bùa không chỉ bảo vệ con người, mà c̣n bảo vệ tài sản và những con vật nuôi trong nhà. Người ta tin rằng dán bùa nơi chuồng gà vịt, chuồng trâu ḅ, chúng sẽ không bị bệnh.
Dán bùa trước cửa nhà (dân A-rập không dán mà chôn) chúng sẽ được bảo vệ khỏi cháy và ngập lụt. Bùa chống được Thần Dịch, Thần Lửa, Thần Nước, người ta tin thế.
Tuy nhiên ở đâu cũng vậy, bùa chỉ thiêng sau khi được phù phép, tức là được Thần linh thừa nhận. Nếu không, nó chỉ là một vật vô tri không có ư nghĩa ǵ. Đó là chưa kể có loại bùa c̣n phải luyện theo một quy tŕnh công nghệ bí truyền nào đó.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 518 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 6:16pm | Đă lưu IP
|
|
|
LINH CẢM KHẢ NĂNG ĐẶC BIỆT
Một câu chuyện có thật kể rằng Alech là một nhân viên thuộc một trong những trường Đại học tổng hợp bang Ogeron Mỹ. Một hôm anh ta ngồi ở nhà lau chùi thật kỹ khẩu súng ngắn với băng đạn chứa được sáu viên.
Khẩu súng của anh ta hoạt động như sau. Mỗi lần ấn c̣ súng một viên đạn được bắn đi, c̣n băng đạn sẽ tự quay và dịch chuyển viên tiếp theo lên ṇng súng để sẵn sàng nhả đạn.
Để cẩn thận và an toàn, Alech bao giờ cũng chỉ lắp năm viên đạn vào hộp đạn, và để kim hỏa hướng vào ô trống thứ sáu trong hộp đạn.
Vào ngày hôm đó khi lau súng, anh ta rút hết năm viên đạn để lên bàn. Sau khi lau súng xong, Alech lắp đạn trở lại vào hộp đạn như thường lệ. Nhưng khi đến viên thứ năm, anh ta bỗng cảm thấy một nỗi lo lắng bất chợt ập đến, và Alech linh cảm thấy một hiểm nguy nào đó liên quan đến viên đạn thứ năm này.
Alech liền để lại viên đạn thứ năm đó lên bàn và không lắp nó vào hộp đạn. C̣n kim hỏa vẫn hướng vào ô trống số sáu trong hộp đạn. Và lần này trong hộp đạn có hai ô trống: ô thứ sáu và ô thứ năm bên cạnh.
Hai tuần sau đó gia đ́nh Alech có một cuộc vui lớn với đông đủ quan khách, trong số đó có hôn thê chưa cưới của Alech. Cuộc vui đang tiến triển th́ bỗng nhiên có hai vị khách nốc quá nhiều rượu rồi tranh căi nhau kịch liệt.
Một trong hai người vớ lấy khẩu súng của chủ nhà treo trên tường và chĩa về phía đối thủ, nhưng ngay lúc đó vị hôn thê của Alech bỗng nhiên đi lại chắn ngang đường ngắm. Alech nhảy chồm tới dùng thân ḿnh che chắn cho cô.
Một phát bóp c̣ vang lên khô gọn nhưng không có đạn. Một cú bóp c̣ thứ hai tiếp theo, nhưng kim hỏa cũng chỉ nhằm vào ô trống mà hai tuần trước đó Alech đă không lắp đạn như thường lệ. Thế là mọi người kịp giằng lấy khẩu súng và Alech thoát nạn.
Những trường hợp linh cảm thấy mối nguy hiểm như vậy cách xa nhau về thời gian không phải là hiếm, và từ lâu đă được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Có nhiều cách giải thích hiện tượng này, nhưng xem ra có ba cách có cơ sở nhất.
Khi mối nguy hiểm được cảm thấy vài phút hoặc vài giây, có các tác nhân kích thích trong hệ thống nhận thức của con người liền phát tín hiệu báo động. Chúng ta không nhận thấy điều đó, nhưng bộ năo ghi nhận được và khiến chúng ta né tránh không có ư thức.
Phương án thứ hai: Những linh cảm tương tự xuất hiện trong chúng ta không hiếm, nhưng chúng ta chỉ nhận thấy khi sự việc đă bỗng nhiên nhớ lại những tín hiệu đă từng báo động cho ḿnh nhưng không để ư.
Tuy nhiên, nhà tâm lư học Raydin ở Anh cho rằng con người chúng ta thực sự có giác quan thứ sáu, nhiều khi cứu chúng ta thoát nạn. Ông đă tiến hành một loạt thí nghiệm chứng tỏ linh cảm là có thật.
Những người thí nghiệm được ngồi trước một màn h́nh trên đó chương tŕnh máy tính điều khiển để thể hiện ngẫu nhiên các bức ảnh khác nhau.
Một số bức có tính vô hại như cảnh vật tĩnh lặng, một số bức khác có tính rùng rợn gây cảm giác sợ hăi như cảnh các con rắn độc hoặc ḅ cạp độc.
Các bức ảnh hiện ra trong ṿng ba giây. Khoảng lặng giữa các bức ảnh là tám giây. Trong quá tŕnh thí nghiệm, các chuyên gia đo điện trở của da và áp lực của ḍng máu.
Thí nghiệm được tiến hành trong một căn buồng cách ly, không có mặt các chuyên gia ở đó. Kết quả thí nghiệm ban đầu thoạt nh́n th́ không có ǵ đáng ngạc nhiên.
Khi các bức ảnh rùng rợn xuất hiện th́ các đường cong phản ánh trạng thái sinh lư của cơ thể có đột biến.
C̣n khi xem các bức ảnh tĩnh lặng th́ các đường cong cũng điều ḥa. Nhưng nếu xem kỹ một chút th́ thấy ngay một hiện tượng rất thú vị.
Ngay trước khi xuất hiện các bức ảnh rùng rợn khoảng hai giây, các chỉ số trạng thái tâm lư bỗng tăng vọt. Nghĩa là cơ thể con người đă phản xạ từ trước đối với các sự kiện.
Thí dụ, điện trở của da tăng vọt, chứng tỏ cơ thể đă phản xạ sinh lư sớm trước hai giây so với thời điểm xuất hiện các bức ảnh có nội dung gây cảm xúc sợ hăi.
Theo nhận xét của Tiến sĩ Raydin, kết quả thí nghiệm chứng tỏ con người chúng ta đă cảm nhận được từ trước đối với các biến cố và mách bảo chúng ta ở mức độ tâm lư, xúc cảm, là một chuyên gia ngoại cảm đă từng tiến hành các thi nghiệm tương tự từ năm 1993.
Hồi đó ông đă nghiên cứu hiện tượng con người, cảm thấy ai đó đang ngắm nh́n ḿnh từ phía sau. Trong hai căn pḥng cách nhau tám thước và được nối với nhau bằng một hệ thống vô tuyến truyền h́nh, người ta bố trí người được thí nghiệm và chuyên gia thí nghiệm.
Thông qua Camera vô tuyến, chuyên gia thí nghiệm có thể trông thấy người được thí nghiệm ở pḥng bên kia, nhưng người đó không hề biết là đang có ai đó đang nh́n ḿnh.
Thế mà vào các thời điểm người đó "bị ngắm" th́ họ đều cảm thấy được "một cái ǵ đó" khác lạ. Nói chính xác hơn là anh ta không cảm thấy ǵ, nhưng điện trở của da anh ta bỗng nhiên thay đổi một khi chuyên gia thí nghiệm ngắm nh́n anh ta qua Camera vô tuyến.
Các chuyên gia đi đến câu hỏi rất quan trọng: Nếu như hai người cách xa nhau trong không gian có thể cảm nhận được nhau qua "giác quan thứ sáu”. Vậy th́ họ có thể cảm nhận được nhau qua khoảng cách thời gian được không?
Liệu con người có thể cảm nhận được các tín hiệu từ tương lai của chính ḿnh gửi đến, giống như Alech cảm nhận được mối nguy hiểm đang đe dọa tính mạng anh sau đó hai tuần?
Chính từ ư nghĩ đó mà Raydin đă tổ chức thí nghiệm với các bức ảnh. Các thí nghiệm tương tự cũng được các nhà khoa học ở Hà Lan và Đức tiến hành thành công với kết quả tương tự.
Bản thân Raydin chưa hoàn toàn khẳng định chắc chắn có linh cảm đối với các nguy cơ đe dọa con người trong tương lai. Theo ông các kết quả này cần được tiến hành lặp lại trên toàn thế giới, trong hàng trăm pḥng thí nghiệm. Lúc đó mới có thể đưa ra kết luận cuối cùng.
Các thí nghiệm ngoại cảm đầu tiên được tiến hành cách đây gần một trăm năm chục năm. Trong suốt thời gian đó đă có nhiều thí nghiệm chứng tỏ có ngoại cảm và khả năng thấu thị.
Nếu các thí nghiệm tiếp tục được tiến hành thành công th́ các kết luận có thể làm rung chuyển nền tảng của triết học và khoa học hiện đại, và cũng rất có ích lợi trong cuộc sống hàng ngày.
Từ trước tới nay ta vẫn quan niệm tương lai không thể tác động vào quá khứ, quy luật nhân quả không thể tác động ngược trở lại. Nhưng nếu như không phải như thế, th́ chúng ta buộc phải xem xét lại tất cả các tiền đề của khoa học.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 519 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 6:18pm | Đă lưu IP
|
|
|
SATAN NHẬP XÁC BÉ GÁI ĐỐT CHẾT
MỘT LINH MỤC TRONG KHI LÀM PHÉP TRỪ TÀ
Tiếng Nổ Long Trời Lở Đất... Cùng Một Lúc Với Tiếng Rú Kinh Hồn...
Cái Chết Của Vị Linh Mục Luis Ponce Chẳng Những Làm Xôn Xao Dư Luận Thế Giới Mà C̣n Khiến Cho Cả Ṭa Thánh Vatican Vô Cùng Sửng Sốt!
- Chúng tôi nghĩ rằng nhất định có một cuộc chiến khốc liệt giữa Linh Mục Luis Ponce với con quỉ Satan ấy và phần thắng chắc chắn sẽ về Linh Mục một cách dễ dàng...
Đó là lời tuyên bố của một viên chức có thẩm quyền tại Ṭa Thánh Vatican yêu cầu được giấu tên trước các hăng thông tấn quốc tế. Viên chức này c̣n nói tiếp:
- Chúng tôi cũng chẳng hiểu việc ǵ đă xảy đến cho vị Linh Mục đầy tài ba và phép tắc cao cường ấy? Chỉ có Chúa mới biết mà thôi.
Đó là câu chuyện ma quái mà nạn nhân là một cô bé mới lên chín tuổi đă bị quỉ Satan nhập xác. Cha mẹ của cô bé này liền đến nhờ cha Ponce làm phép giải trừ ma quỉ ra khỏi thân xác của đứa con ḿnh.
Cha mẹ của bé gái này quê ở Bercelona thuộc Tây Ban Nha, theo nguồn tin loan báo như vậy. Cũng theo viên chức của Ṭa Thánh Vatican, đứa bé được xác nhận là b́nh thường và sức khỏe của nó vẫn tốt đẹp...
Nhưng bỗng dưng ngày 21-3 vừa rồi, th́ có sự khác thường xảy đến cho nó. Đôi mắt nó đỏ rực lên như hai cục than hồng, mũi nhíu lại và hếch lên. Miệng há hốc ra để lộ hai hàm răng trắng chạch trông như có vẻ nhọn như răng của chó sói..
Thế rồi sau đó bất thần cô bé này rú lên một tiếng dài nghe đến kinh hồn, và nó bỏ chạy ngay vào nhà bếp lấy con dao nhọn bén lẹm, đến ngay pḥng cha mẹ nó đang có mặt tại đây và nhảy sổ lại tấn công...
Người cha hốt hoảng vùng dậy ôm gh́ chặt nó và lấy được con dao từ tay nó. Sau đó cha nó nhảy bổ đến định ôm chặt con v́ sợ nó phá phách hay xâm phạm đến mẹ nó đang ngồi cạnh đó. Nhưng vô ích, con bé chỉ xô nhẹ ra cũng đủ làm cho ông ngă lăn ngay dưới nền nhà.
Có điều làm cho vợ chồng ông sửng sốt là con bé mới chín tuổi đầu, này khi lên cơn nó một sức mạnh phi thường. Con bé có thể có thể lật đổ nhào một cái tủ cao được đóng bằng loại gỗ quí, cũng như có thể xê dịch một cách dễ dàng chiếc giường ngủ bằng gỗ quí như chú mèo con nhỏ kéo tờ giấy lê dưới mặt nền nhà.
Một hiện tượng khác nữa mặt mày con bé mỗi lần lên cơn trông như thể thâm tím lại, mặc dù chẳng có ai động đến.
Các sự kiện xảy ra đều được cha mẹ con bé thuật lại rơ ràng cho cha Ponce nghe, khi đến nhờ vị Linh Mục này làm phép giải tà cho nó. Cha Ponce liền chọn ba vị linh mục phụ tá cho ḿnh, cùng đến giúp cho gia đ́nh nạn nhân. Đó là này 26 tháng 3 lúc 10 giờ sáng.
Khi đứa bé gái nh́n thấy Linh Mục Ponce, bất thần nó nhảy đựng lên đoạn hú lên một tiếng dài, lảo đảo tiến sát đến chiếc bàn lớn, rồi dùng hai tay bé nhỏ của nó nâng cao lên quay một ṿng tṛn một cách nhẹ nhàng, đoạn phóng đến ngay vào người vị Linh Mục này.
Linh Mục Ponce vội nhảy sang nơi khác né tránh kịp thời, th́ cũng ngay khi đó con bé bị quỉ ám này lại nhấc bổng cái tủ kiếng khá lớn đang chưng bày ở ngay pḥng ăn tung về phía Linh Mục Ponce đang đứng tránh.
Cha Ponce lại thêm một lần hốt hoảng, tuy nhiên vị Linh Mục này cũng được b́nh an vô sự. Vị Linh Mục này vô cùng ngạc nhiên trước sức mạnh phi thường của con bé mới chín tuổi đầu mỗi lúc mỗi tăng lên...
Nó lại lao đến chiếc tủ lạnh to lớn bưng lên một cách dễ dàng, khiến mọi người bỏ chạy tán loạn ra bên ngoài, ngoại trừ cha Ponce đang đứng dùng mắt nh́n cḥng chọc nó.
Biết gặp một địch thủ có sức mạnh phi thường, Linh Mục Ponce đă vội lấy ngay nước thánh (Holy Water) đọc kinh và rảy vào người đứa bé.
Vừa rảy nước thánh xong con bé bỗng rú lên rồi lảo đảo ngă xuống. Mọi người đều chạy đến vây lại ôm vực lên giường để tiếp tục làm phép trục xuất quỉ Satan ra khỏi người nó.
Nhưng lạ lùng thay mọi người đang đứng vây quanh đó, bỗng cảm thấy có mùi khét từ thân thể con bé thoát ra y hệt như mùi cháy của da thịt, càng lúc càng nồng nặc khiến mọi ngưởi phải lợm giọng đến nôn nữa.
Vẫn theo lời của một viên chức ở ṭa thánh tiết lộ: Khi con bé bị nước thánh rảy vào vào thân thể nó, ngoài mùi khét xông lên, mặt mũi nó trở nên méo mó, miệng há hốc nhe ra hai hàm răng tua tủa.
(Đây là một diễn biến kỳ quái, khó tin nhưng lại là sự thật).
Những người đứng chúng quanh lúc bấy giờ chứng kiến cảnh tượng kỳ quái đó đều xác nhận là chính họ nghe cha Ponce thét lên:
- Hỡi quỉ Satan! mày phải ra ngay khỏi xác thân đứa bé... mày không được chần chờ dù chỉ trong giây phút... Hỡi quỉ Satan hăy nghe phán lệnh này... Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
Lạ thay! mọi người sửng sốt thấy có một luồng khói đen ng̣m cuồn cuộn thoát ra từ cửa miệng con bé. Đồng thời máu từ hai khóe mắt ṛng ṛng chảy ra, hai tay nó đưa lên ngực miệng há hốc ra... mắt trừng trừng nh́n về hướng cha Ponce đang đứng.
Một điều khác khiến cho tất cả những người đang chứng kiến này phải đứng tựa người vào nhau v́... luồng khói đen vừa thoát ra đó lại quay ngược trở lại chui cả lại vào miệng nó.
Đôi mắt nó lại càng hực lên như hai cục than hồng. Mặt nó bầm đen hơn trước. Cuối cùng nó thốt ra những lời nguyền rũa toàn những câu tục tỉu...
Con bé lại vùng ngồi dậy và cười lên the thé! Giọng cười của nó biến dần thành tiếng khóc lên the thé. Quả là giọng của ma hờn quỉ khốc. Hai hàm răng nó nghiến nhau nghe kêu lên ḱn kịt nghe đến lạnh người.
Cha Ponce đưa cây Thánh Giá lên cao ngay trước mặt con bé, Ngài đọc kinh và hét lên như ra lệnh:
- Satan, ra ngay khỏi xác đứa bé này !
Trong lúc đó con bé cũng đưa tay ra về phía trước, những người đang chứng kiến nhận thấy ngay là cha Ponce và con quỉ Satan đang mượn xác bé gái này, cả hai đều đang tận dụng cả nội lực ḿnh để chiến đấu quyết một mất một c̣n.
Mồ hôi chảy ra nhễ nhại trên mặt mày của Linh Mục Ponce... và con bé bị quỉ ám kia cũng chẳng khác ǵ, toàn thân nó bị ướt đẩm cả mồ hôi.
Cuộc đấu sức này kéo dài hơn một tiếng đồng hồ, con bé bị quỉ ám vẫn không hề suy suyển. Ba vị phụ tá cùng cha Ponce dốc toàn sức lực để cố triệt hạ quỉ Satan đang nhập trong người con bé, song nó vẫn không hề nao núng!
Bất th́nh ĺnh nó nhảy thót lên đánh đu trên chiếc đèn cánh quạt quát tháo lên ầm ĩ:
- Hăy xem đây bọn vô dụng kia...
Tức th́ sau đó một tiếng nổ kinh hồn làm rung chuyển cả căn pḥng mọi người đang đứng. Hai quả bóng lửa từ ḷng bàn tay nó phóng ra trúng ngay vào ngực cha Ponce! Ngọn lửa phụt lên biến toàn thể châu thân vị Linh Mục này trở thành cây đuốc sống!
Có lẽ cha Ponce biết ḿnh không thể nào c̣n sống được nên Ngài lao thẳng đến đứa bé ôm choàng lấy nó, quát lên như ra lệnh:
- Hỡi quỉ Satan! Mày phải ra ngay thân xác của đứa bé thơ vô tội...
- Được!
Tiếng của đứa bé đáp lại:
- Tao sẽ cùng mày đi, và tao sẽ cùng mày tiếp tục quần thảo cho đến khi nào... trong hai ta ai sẽ là người chiến thắng mới thôi!
Dứt lời con bé ngă ngay xuống. Hồn của quỉ Satan thoát khỏi người nó... Con bé tỉnh dậy trong an lành, song cha Ponce th́ không c̣n nữa... Người đă ra đi vào miền vĩnh cửu...
Một buổi lễ cầu hồn được tổ chức tại ngôi nhà thờ Bercelona thuộc Tây Ban Nha để tiễn đưa linh hồn Linh Mục Luis Ponce về Thiên Đàng hưởng phước đời đời bên dung nhan Chúa Cả...
Trần Liêm Khảo
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 520 of 1439: Đă gửi: 28 May 2010 lúc 6:20pm | Đă lưu IP
|
|
|
CON NGƯỜI CÓ TIỀN KIẾP
Danh tướng Mỹ patton người hùng của thế chiến thứ hai "đă có mặt" trên chiến địa La Mă cách đây 1900 năm!
Đạo Phật cho rằng người ta có kiếp luân hồi. Khi con người chết đi sẽ lại đầu thai lên dương thế sống kiếp khác. Trước nay, ở địa hạt khoa học không nh́n nhận như vậy. Các khoa học gia chỉ coi đó là một giả thuyết của siêu h́nh học.
Bây giờ, mối "hoài nghi" đó đang là mục tiêu thực sự ám ảnh nhiều bộ óc bác học. Từ không tin hoàn toàn nay đột nhiên được chuyển sang việc bắt tay nghiên cứu sâu rộng.
Tại các quốc gia Hoa Kỳ, Anh quốc và Pháp quốc đă có nhiều viện thí nghiệm được thiết lập, quy tụ nhiều nhà khoa học tên tuổi để theo đuổi công tŕnh khám phá đến nơi đến chốn.
Ở nước Anh, người được biết đến tên nhiều nhất là nhà phân tâm học Dennis Kelsey và bà John Grant cùng giáo sư bác sĩ Loe Scranton chuyên về thần kinh học.
Trên đất Mỹ th́ với các bác sĩ Morris Netherton, Edith Fiore, Ernie Pecci. Bác sĩ Ernie Pecci ở California thành lập một viện nghiên cứu về "Những kiếp trước nối tiếp những kiếp sau" đă đưa nhiều luận giải có hệ thống khoa học tinh vi.
Hoặc như giáo sư Gregory Paxson ở Chicago, một nhà kế hoạch hóa phân tâm học đă mật thiết cộng tác với nhóm khoa học đồng nghiệp của ông trong liền nhiều năm trời, vùi đầu vào các công tŕnh giải thích về sự kiện gọi là "những trạng thái biến hóa của tâm thức".
Có nghĩa là, đi sâu vào tiềm thức con người hiện sống giờ đây để gợi cho họ nhớ lại quá khứ xa xưa về tiền kiếp của họ.
Người được đặt vào công cuộc thí nghiệm cứ phải ở trong tư thế nằm hay ngồi thoải mái, thanh thản, và trong một khung cảnh hết sức yên tĩnh. Tuyệt đối tránh ngoại cảnh chi phối.
Họ thản nhiên như chuẩn bị đi vào một giấc ngủ êm đềm. Có thể nói, họ cứ như em bé nằm trong nôi, và nhà khoa học th́ như bà vú ru em ngủ. Cả hai đều áp tai vào một máy nghe và trước ngực đeo một máy truyền âm, trao đổi câu chuyện với nhau.
Khi hồn được buông thả về dĩ văng, lời đối thoại cùng những lời tự động nói lên những bí ẩn tiền kiếp của đương sự đều được ghi âm.
Vấn đề chứng minh "con người có tiền kiếp" khởi thủy được giới khoa học thực hiện vào năm 1960, bởi các nhà thần kinh học Abraham Maslow, Stanislas Grof, Roberto Assagioli và Charles Tart. Họ được thế giới y khoa, khoa học dành tất cả sự nể trọng.
Hơn 30 năm sau, từng lớp chuyên gia kể trên được kế tục, tiếp tay bởi rất nhiều khoa học gia trên khắp hoàn vũ cùng những phát minh máy móc tinh vi, khiến cho càng ngày càng chứng tỏ một cách hùng hồn về những luận giải có nguồn có gốc.
Gần đây nhất, một nhà nghiên cứu có tiếng nói thẩm quyền về bộ môn này là nhà vật lư người Pháp Patrick Drouot. Ông vốn là nhà khoa học không gian, song ông từ bỏ vị trí chuyên môn của ḿnh để dấn bước vào địa hạt tâm linh.
Không những ông đă hướng dẫn hàng ngàn người đi t́m đời sống tiền thân của họ mà chính ngay ông, ông cũng lại tự đem ḿnh trao vào tay giáo sư người Mỹ Gregory Paxson ở viện khảo cứu Chicago.
Hăy xem nhà vật lư Patrick Drouot kể ǵ về trường hợp của ông:
- Buổi thí nghiệm đầu tiên đến với tôi hôm ấy dẫn tôi trở về cốt h́nh hài của một tu sĩ vào thế kỷ XI, tức là Anh quốc bị đạo quân của danh tướng "Guillaume Le Conquérant", nguyên công tước thành Normandie kéo sang xâm lược.
Qua không biết bao t́nh tiết do hồn tôi thuật lại, th́ không cứ chỉ liên quan đến giáo xứ nơi tôi tu hành mà c̣n gồm vô số các t́nh tiết tỉ mỉ về cách điều quân khiển tướng của "Guillaume nhà chinh phục" từ bên kia bờ biển Manche nước Pháp.
Khi tôi hồi tỉnh lại, nghe bài tường thuật ghi âm của chính ḿnh, tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Quả thật, tôi đă đọc như đọc một tài liệu lịch sử. Mà nào trước nay tôi có biết ǵ đâu!
Tôi dành liền một tuần lễ vùi đầu vào thư viện, t́m đọc hầu hết các cuốn sách nói về Guillaume Le Conquérant. Thực là một điều không thể giải thích nổi, tất cả các điều tôi thuật ra trong buổi thí nghiệm (qua giấc mơ) đều hoàn toàn chính xác như lịch sử đă ghi chép.
Một câu hỏi được đặt ra trong tôi:
"Thế th́, phải chăng tôi đă đọc ở một tác phẩm nào đấy hay đă xem một bộ phim ảnh nói về vấn đề kia, tạo cho tôi có sẵn sự hiểu biết như vậy? Bằng không, những điều tôi thấy được đă do từ đâu mà có?"
Một thời gian dài sau, tôi đi vào những thí nghiệm khác. Năm 1984 nhân một chuyến đi chớp nhoáng sang Chicago, giáo sư Gregory Paxson lại giúp tôi t́m về tiền thân khác nữa của tôi.
Lần này trong cốt của một nữ tu sĩ từng sống 4 ngàn năm về trước. Tôi thuật lại bằng hết đời bà. Tên bà là Govenka, thuộc dân tộc cổ xưa Celte và bà đă sống như thế nào về thời đại ấy.
Có điều lần này thật không biết dựa vào đâu để kiểm chứng! Tôi đi gặp nhà tâm linh học PierreWeil th́ ông bảo thẳng tôi:
- Bạn không cần đào sâu thắc mắc. Những người biết về tiền kiếp của họ, trong nhiều trường hợp, không cần viện dẫn đến chứng tích. V́ có một sự thực rơ ràng hơn cả là, cá nhân họ biết chắc rằng tiền thân của họ quả là điều hiển nhiên có thực, không ǵ lay chuyển nổi.
Rồi giáo sư Pierre Weil dẫn chứng thêm:
- Như trường hợp của danh tướng Mỹ Patton. Ông là một chiến thuật gia lỗi lạc hàng đầu, và là người anh hùng trong cuộc hành quân đổ bộ vào đất địch.
Thời gian trận đệ nhị thế chiến buớc vào giai đoạn kết thúc, những ngày tàn của nhà độc tài quốc xă Hitler đă được đếm trên đầu ngón tay, v́ ở khắp mọi mặt trận, quân đội đồng minh phản công như vũ băo.
Tướng Patton được mời đến thăm một di tích "trận địa chiến ngày xửa ngày xưa" trên đất Ư, giữa quân La Mă và quân Carthage, bên bờ sông Metaure. Tháp tùng tướng Patton là cảm bộ tham mưu cao cấp, trong đó có một sĩ quan đại tá vốn là nhà sử gia ngoài đời, được cử đứng thuyết tŕnh về trận đánh khốc liệt nhất của thời cổ xưa.
Viên đại tá, chuyên viên lịch sử chiến tranh cổ kim, quả có một trí nhớ phi thường về tài liệu binh pháp. Ông tường thuật mạch lạc, thật tỉ mỉ về cuộc bày binh bố trận đôi bên:
- Này đây là địa h́nh địa vật thuộc đạo quân La Mă trú đóng. Và nơi kia là đàn voi dữ của tướng Hannibal. Gần đấy là đội kỵ mă Carthage thuộc quyền chỉ huy của Hasdrubal, người em ruột ông, vừa thần tốc kéo đến tăng cường cho đại quân của anh ḿnh...
Bỗng nhiên, toàn thể Bộ Tham Mưu có mặt thấy tướng Patton nhíu đôi chân mày lại, như có điều không bằng ḷng chút nào cả về lời dẫn giải của viên đại tá sử gia.
Năy giờ ông b́nh tĩnh theo dơi cuộc thuyết tŕnh bao nhiêu th́ bây giờ ông bất b́nh bấy nhiêu. Trong khoảnh khắc, tướng Patton nóng nẩy cắt ngang:
- Không phải thế đâu! Đoàn kỵ mă Hasdrubal đâu có dàn ở nơi đó. Họ tập trung ở phía đằng kia ḱa.
Vừa nói, ông vừa chỉ thẳng tay về hướng đối nghịch, cũng nằm trong trận địa.
Bằng một thái độ khiêm nhường và lễ độ, nhà sử gia chiến lược cố nhấn mạnh thêm một lần nữa về điều đă tŕnh bày. Nó không phải đến từ một tài liệu mà là cả rừng tài liệu, và tất cả đều cùng ghi rơ vị trí trấn đóng của đoàn kỵ binh Carthage.
Thế nhưng lần này tướng Patton giận dữ gằn giọng:
- Tôi bất chấp các tài liệu ông đưa ra. Tôi chỉ muốn nói để các ông biết rằng kỵ binh không ở chỗ này đâu. Họ dàn trận ở tận phía kia. Tôi đoan chắc như thế. Tôi quả quyết như thế. V́ chính tôi, tôi đă có mặt tại chỗ lúc bấy giờ!
Toàn bộ sĩ quan tham mưu cao cấp sững sờ, kinh ngạc. V́ lời tướng Patton vừa thốt ra không có vẻ ǵ là nói theo ư thích cá nhân ông!
Cho măi về sau này khi tiếng súng đại chiến ngừng bặt, người ta mới được nghe tướng Patton tiết lộ trong cuốn hồi kư về cuộc đời binh nghiệp của ông. Th́ ra ông đă có lúc sống lại với tiến kiếp của ḿnh. Một tiền thân cách nay 19 thế kỷ!
Câu chuyện về tướng Patton vừa được kể, đă được nhà phân tâm học Aldous Huxley dùng làm tài liệu chính yếu đem thuyết tŕnh trước đại hội quốc tế kỳ thứ 14 của các nhà khoa học chuyên nghiên cứu về thần kinh học.
Nhà vật lư Patrick Drouot đă giă từ địa hạt khoa học để bước hẳn vào bộ môn tâm linh. Ông đă dùng phương pháp "đưa hồn về quá khứ" để chữa bệnh cho hàng ngàn con bệnh t́m đến với ông. Đúng ra căn bệnh của họ thuộc về cơ thể nhưng các bác sĩ y khoa đă không t́m ra được nguyên nhân để chữa trị.
Trong tủ hồ sơ bệnh lư của giáo sư Patrick Druot số bệnh nhân có ngoài 1500 người. Giáo sư đưa ra một vài trường hợp dẫn chứng:
- Có một phụ nữ trẻ than phiền rằng suốt nhiều năm nay bà ăn uống thật khó khăn, luôn bị nghẹn, và nhất là mỗi lần đụng tới bánh trái có chất phó mát hay sữa tươi.
Giáo sư Druot đề nghị với bà ta thực hiện một buổi thí nghiệm dẫn hồn về dĩ văng. Tiền kiếp của bà là "một em bé trai" bị tai nạn chết trên núi sau lúc em vừa ăn ních bụng món phó mát và uống nhiều sữa!
Lại như trường hợp của nhà doanh nghiệp Georges, người Pháp ở tuổi 45, đứng điều khiển một công ty thương mại lớn. Một hôm ông tâm sự với giáo sư Druot là ông ăn uống không hề biết ngon miệng, nếu không muốn nói rằng từ thuở nhỏ đến giờ ông ăn rất ít đôi khi không cần ăn.
Và mỗi lần ăn chút ǵ qua quít xong, ông đều cảm thấy buồn nôn. Sau một buổi "thực nghiệm", ông Georges sống thật với hồn ḿnh, thổ lộ:
- Thuở xưa kia vào thế kỷ 18, tiền kiếp là một tay cướp biển. Một hôm chiếc thuyền buồm của bọn hải tặc lênh đênh trên biển Sargasses như cứ đứng dừng một chỗ v́ gió ngừng bặt.
Nhiều đêm ngày trôi qua lặng lẽ lương thực cạn dần. Bọn cướp phải hạn chế tối đa khẩu phần thực phẩm. Kho lương thực được khóa kỹ lưỡng và tên tướng cướp trao cho Georges nhiệm vụ canh giữ.
Có một buổi cơn đói nổi lên chịu đựng không nổi, anh ta lẻn vào kho ăn một bụng căng ph́nh. Tên tướng cướp bắt gặp giận dữ, đem ra xử, tuyên án ném Georges xuống biển làm mồi cho bầy cá mập lượn quanh thuyền.
Sau cuộc t́m lại hồn của tiền thân, ông Georges khỏi hẳn căn bệnh quái ác kia từng đeo đẳng ông vài chục năm liền. Ông bắt đầu "biết ăn", thèm ăn luôn miệng...
Giáo sư Druot kể tiếp mẩu chuyện về một kỹ sư tên tuổi hiện giờ ở Paris đang làm việc cho một hăng kỹ nghệ nổi tiếng, và tạm dấu tên ông ta.
Chỉ biết đây là một mẫu người trí thức, xuất thân từ các đại học Pháp lẫn Hoa Kỳ. Ông được coi là có khả năng xuất sắc, kiến thức rộng.
Nhưng thường có một thời gian dài, ông luôn t́m cách tránh né những chức vụ quan trọng được trao phó. Và mỗi lần như vậy viên kỹ sư ấy cảm thấy khổ tâm, cứ như một kẻ phạm tội mồ hôi đổ ra như tắm thất thần...
Một duyên may đă đưa đến cho ông gặp giáo sư Druot. Sau ba lần liên tiếp, nhà vật lư tâm linh Druot đă giúp viên kỹ sư t́m về kiếp trước.
Th́ ra hơn hai trăm năm trước, ông ra đời ở Anh quốc làm giám đốc một cơ xưởng. Một hôm nhà máy bị bốc cháy, thần lửa lan tràn mau chóng, ông ta hoảng hốt, mất hẳn sự b́nh tĩnh cần thiết để ra lệnh kịp thời di tản người và tải sản.
Để đến nỗi, chính bản thân ông ta không thoát ra khỏi biển lửa phải bỏ mạng. Từ lúc nguyên nhân kiếp trước được truy ra gốc, viên kỹ sư cảm thấy ḿnh khỏi bệnh, giải tỏa được cái mặc cảm dày ṿ ông nhiều năm qua...
Thế gian này có tùy thuộc vào bàn tay Thượng Đế hay không, là cả một vấn đề đang làm bận tâm các nhà khoa học tây phương.
Trong thành phần này, một số người không tin vào quyền năng tạo hóa nhưng đa số lắc đầu bó tay nh́n nhận đă có một đấng toàn năng ngự trị vô h́nh trên mặt địa cầu.
Giới người "chưa tin" bắt đầu từ những nhà bác học khởi thủy như Nicholas Copernic, Galileé, Laplace hay như nhà dị giáo người Ư Giordano Bruno, kế đến là Newton, Einstein...
Trong bọn họ nhà tu sĩ khoa học Giordano Bruno được coi như không đến nỗi quá khích, từng có lúc hồi tâm giaỉ thích hiện tượng vũ trụ rằng, trong khoảng bao la vô cùng tận đă có hằng hà sa số những hành tinh quy tụ nhiều sinh vật "sống" tuy không cùng một h́nh thể "người" như con người chúng ta trên mặt đất song tất cả đều...tôn thờ Thượng Đế.
Ở vào thế kỷ 16 quan niệm "tiến bộ" ấy, đủ để Giáo hội không mấy vừa ư, và kết án là... tà giáo, đưa Giordano Bruno lên giàn hỏa thiêu!
Sinh sau đẻ muộn nhà bác học Laplace ngang ngược hơn nhưng nhờ chậm chân ra đời, ông vẫn sống.
Lịch sử ghi chép lại rằng sau khi đọc tác phẩm "Bộ Máy Vũ Trụ", Hoàng đế Nă Phá Luân gợi ư hỏi tác giả Laplace sau không thấy nhắc đến bàn tay vạn năng của Thượng Đế.
Nhà bác học kiêu hănh trả lời:
- Thần không quan tâm đến giả thuyết này!
Thái độ của Laplace ngày xưa nay đang được các giới khoa học t́m cách chứng minh sâu xa về nguyên thủy: Bắt đầu từ đâu sinh ra vũ trụ?
Đa số bác học tây phương ở cuối thế kỷ 20 vừa qua đang t́m lời giải thích câu hỏi kỳ bí ấy. V́ như nhà bác học vật lư người Mỹ Weinberg đă vẫn thốt lên:
- Càng hiểu vũ trụ bao nhiêu chúng ta càng không biết ǵ về vũ trụ bấy nhiêu!
Và giả thiết vũ trụ nảy sinh từ một "trạng thái t́nh cờ" đă không c̣n lư do tồn tại, dù hiện có một số bác học từng khăng khăng cho là như vậy đấy.
Có lúc người ta phải tạm mượn lời nhà đại văn hào Voltaire để h́nh dung ra thiên thể vũ trụ:
- Một chiếc đồng hồ cứ chạy mà không cần có người thợ đồng hồ.
Tuy nhiên khác Voltaire nhẹ phần "hữu thần", ở địa bàn khoa học, các nhà bác học lại không mấy dễ dàng hiểu theo thế đâu. v́ tất cả đă nắm chắc bằng chứng và quy luật thực tế là:
- Chiếc đồng hồ máy đang chạy, tuy không thấy người thợ, song rơ ràng đă có người thợ tạo ra nó!
Vậy th́ vũ trụ xoay vần nhất thiết có Thượng đế sắp đặt.
Trên mặt báo này trong một số trước, chúng tôi vừa đưa tin về nhà bác học Stephen Hawking người Anh, chuẩn bị cống hiến một công tŕnh khám phá vĩ đại về "Vũ trụ" đang làm rung động thế giới khoa học. Ông được đánh giá sánh ngang Einstein, cha đẻ của "Thuyết Tương Đối" mở đường cho loài người sử dụng nguyên tử đặt chân lên không gian.
Nhà vật lư kư diệu Hawking c̣n tiến xa hôn Einstein một bước khác, là ông đă kết hợp "Thuyết Tương Đối" kia với "Lượng Tử Thuyết" (Théorie des Quanta) của chính ông để tạo thành một kiệt tác định lư: Đại Tổng Hợp Không Gian.
Cái điều phi phàm mà ngày trước Einstein đă phải bó tay thất bại. Chúng tôi đang đặc biệt theo dơi hy vọng sẽ có một ngày không bao xa được có dịp đem thuật lại. Bài báo hôm nay xin đề cập đến một nguồn tin khoa học khá đặc biệt, chứng tỏ nhân tài đất Việt hải ngoại không hề thiếu vắng, chẳng hề thiếu bóng bên cạnh giới khoa học gia Âu Mỹ.
Trong số bác học người Việt chúng ta, cũng đă có ngay nhà vật lư thượng thặng Trịnh Thuần. Đă từ nhiều năm trước, ông là giáo sư vật lư vũ trụ đại học Hoa Kỳ.
Nhà xuất bản uy tín Fayard đă đảm nhận in và phổ biến tác phẩm đặc sắc của ông mang tựa đề La Mélodie Secrète (Bản Ḥa Tấu Bí Mật) bàn về sự xuất hiện của "Giải Ngân Hà" và nhiều tạp chí tên tuổi ở cộng đồng Âu Châu đă t́m đến phỏng vấn ông ở địa hạt khoa học hiểm hóc nhất
Bản ḥa khúc kỳ bí trên theo lời tác giả Trịnh Thuần, chính là "Lời Truyền Đạt" đến từ chốn vũ trụ vô cùng tận, cách hành tinh loài người hàng tỉ tỉ năm ánh sáng, theo toán học, tốc độ của ánh sáng là 300.000 cây số một giờ. Vậy cứ đặt vào bàn tính siêu điện tử,người ta mới thật sự cảm nhận được thế nào là sự rùng ḿnh.
Nhà khoa học Việt Nam có vinh dự góp mặt vào công tŕnh khám phá vũ trụ lại nh́n nhận: Đă đến lúc loài người phải nghiêng ḿnh kết luận rằng, thế gian này, vạn vật này, vũ trụ này phải do bàn tay tạo lập bởi Thượng Đế toàn năng, toàn mỹ.
Người Luân Đôn
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|