Tác giả |
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 601 of 1439: Đă gửi: 29 May 2010 lúc 1:31am | Đă lưu IP
|
|
|
CHA TÔI VÀ NHỮNG CHUYỆN TÂM LINH
Cha tôi là một sĩ quan trong chế độ Sài G̣n. Ông có thói quen là thích đọc sách và tin vào Đạo Phật, không thích uống rượu như những người xông pha trận mạc ngày xưa.
Khi tôi c̣n nhỏ, thường nhớ mỗi khi hành quân, ông thường đeo một cuốn kinh Thủ Lăng Nghiêm loại xếp gọn nhỏ bằng ba ngón tay trước ngực, và một sợi dây chuyền có tượng Quán Thế Âm Bồ Tát.
Chính ông đă kể lại cho tôi nghe hai chuyện liên quan đến Đức Quán Thế Âm Bồ Tát như sau:
1. Trong trận đánh ở Ban Mê Thuột vào năm 1968, căn cứ của ông bị tràn ngập. Lúc đó ông và viên sĩ quan chỉ huy cùng núp trong hai cái hầm kế nhau. Ở bên đây, ông rất sợ và cầm sợi dây chuyền có Quán Thế Âm lên niệm liên tục, xin Ngài cứu giúp.
Trong lúc đó, vị chỉ huy bên kia bị phá hầm và bắn chết tại chổ. Nhưng không hiểu sao, khi đến hầm của ông th́ không có ai thấy, hoặc do bên kia gấp rút ǵ đó mà ông chỉ nghe tiếng loáng thoáng:
- Thôi đi nhanh đi...
Rồi êm luôn. Ông núp ở đó, tay cầm chặt sợi dây chuyền Phật Bà mà muốn xỉu. Phải đến gần chiều tối mới có đoàn Tank của Hoa Kỳ kéo vô giải tỏa căn cứ và ông đuợc cứu.
2. Sau năm 1975 khi ở Trại Bù Gia Mập, Phước Long, ông cho biết trong một đêm buồn tủi và thương cho những đồng đội không c̣n do vượt trại, do bệnh tật.. ông lén đứng dưới gốc cây và khóc thầm, miệng th́ niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lời ông kể lại, ngay lúc đó có một mùi hương thơm ngào ngạt từ đâu đó ở trên không tỏa xuống, làm tâm hồn ông cảm thấy an lạc, b́nh tỉnh trở lại.
3. Sau ngày trở về gia đ́nh, trong một đêm cầu cơ do cô của tôi tổ chức. Cơ này do một em gái bà con của tôi lúc đó chỉ mới khoảng mười tuổi cầm cơ.
C̣n tôi và nhiều người khác đứng xung quanh. Riêng Chị của tôi th́ cầm một cuốn tập và cây viết để ghi lại khi cơ chạy. Phải nói thật là có nhiều chuyện huyền bí xung quanh bàn cơ này, mà kư ức của tôi c̣n ghi lại.
Đầu tiên cha tôi bỉu môi cái tṛ này:
- Tụi bây đi cầu mấy cái vong tầm bậy tầm bạ.
Nhưng được một lúc sau, có một vong nhập cơ và xin nói chuyện với ông. Cơ chạy bằng tiếng Anh thật nhanh, chị tôi ghi lại mà không hiểu ǵ.
Cha tôi lúc đó mới giật ḿnh và hỏi đáp với cơ bằng tiếng Anh, v́ xuất thân từ hội Việt Mỹ và năm 1970 có đi du học ở Hoa Kỳ hai năm.
Cả hai "nói chuyện" gần nữa tiếng, và ông cho biết được gặp trực tiếp một người bạn là Phi công đă tử trận (qua cỏ).
Sau vụ này cha tôi đăm chiêu ghê lắm, v́ chắc đă cảm nhận được ǵ từ thế giới Vô H́nh. Cuốn sổ ghi chép đó gia đ́nh tôi vẫn c̣n giữ để làm kỷ niệm cho đến sau này.
Sau thời gian dài qua định cư tại California Hoa Kỳ, cha tôi trở lại Việt Nam và việc đầu tiên là đến thăm Sư Ông ở chùa Pháp Tựu tại Quận tám Sài G̣n. Đây cũng là ngôi chùa mà khi tôi mới được thôi nôi, th́ bà Nội của tôi đă ẳm lên chùa để quy y và xin pháp danh.
Vừa mới gặp, Sư Ông đă nh́n cha tôi và nói một câu:
- Lúc này con tu dữ lắm hay sao mà trí huệ tăng nhanh quá?
Tôi ngồi gần đó, ngạc nhiên v́ cha của ḿnh có tu cái ǵ mà sao không nghe kể, nhưng Sư Ông trụ tŕ đă nh́n là biết?
Khi về nhà, ông lại kêu vợ tôi đến gần và chỉ cách niệm Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Vợ tôi định Tâm và niệm theo ông một lúc th́ thấy Phật hiện ngay ở giữa chân mày, măi sau này tôi mới biết chuyện này.
Lúc đó tôi mới biết ông đă tu tại gia ở Hoa Kỳ và biết là ông theo Mật Tông, nhưng không biết có phải là Mật Tông của Thầy Già hay không?
V́ cha tôi tụng những bài chú bằng tiếng Phạn hàng tràng dài, không có tụng bằng tiếng Hán Việt. Đồng thời ông cũng kể cho tôi nghe kinh nghiệm xuất hồn của ḿnh. Lúc đó tôi thấy ông lạ lắm. Măi đến sau này tôi mới biết đó là Mật Tông vậy.
Thời gian thấm thoát thoi đưa, giờ đây tôi mới được tập tểnh bước vào con đường Mật Tông của Thầy Già. Sư tỷ Tami có nói một câu:
- Duyên Cha đă đưa đẩy để người con tu tập cùng một con đường.
Bốn mươi mấy năm làm người, một thời ngă mạn v́ chỉ biết đến kinh điển Đại thừa, một vài lư thuyết Thông Thiên Học..giờ đây tôi mới biết Trời Cao ở đâu? Đất Dày ở đâu?..khi đến với Mật Tông của Thầy Già.
Một vài kỷ niệm về cha tôi mà tôi nhớ măi, để bây giờ thật hối hận trong ḷng, là sao không được ông chỉ điểm sớm để tu tập theo Mật Tông từ muời năm trước.
Để giờ đây, nhờ Duyên mới gặp được chư Huynh Đệ, Sư tỷ trong hệ thống của Thầy Già chỉ điểm từng bước đường tu. Tôi không dám mong cầu nhưng ước ǵ ai có thể giúp tôi gặp được ông, và biết ông đang ở cỏi giới nào chỉ để nói một câu:
- Dù lúc đó cha không chỉ con đường đi đến chân lư cho con, nhưng con đă bước chân vào Mật Tông như cha vậy.
vothuongdao
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 602 of 1439: Đă gửi: 29 May 2010 lúc 1:32am | Đă lưu IP
|
|
|
NGÀI GESHE-LA VÀ CÁC CẦU VỒNG
HÀO QUANG KHI NGÀI RA ĐI
Một vị đại sư Tây Tạng, người có nhiều nhân duyên với Phật Tử Việt Nam, đă viên tịch tại Long Beach hôm 13-2-2009, và đă để nhiều biểu hiện cát tường dị thường.
Làm nhiều người ở các khu phố Long Beach rủ nhau ra xem cầu vồng sáng rực giữa ban ngày, khi trời lúc đó vẫn quang tạnh, không hề có mưa ǵ hết.
Đại sư Geshe Tsultim Gyeltsen, thường được các Phật Tử gọi thân mật là Geshe-la, đă viên tịch tại tu viện Thubten Dhargye Ling Buddhist Chenter, ở Long Beach hôm 13-2-2009 lúc 12:23 PM, sau cơn bệnh nhẹ.
Ngài ra đi trong khi chư Tăng trong tự viện và cả nhiều ngàn vị từ khắp thế giới thuộc truyền thống Gaden Shartse Monastery hộ niệm, và cầu nguyện cho ngài sớm tái sanh để làm lợï ích cho chúng sanh.
Ngài nguyên là bạn thân của cố Ḥa Thượng Thích Thiên Ân, vị sư Việt Nam đầu tiên hoằng pháp ở Hoa Kỳ và là vị sư từ trứơc 1975 đă giảng dạy ở các Đại Học Hoa Kỳ vùng Nam Cali.
Khi ngài Geshe-la viên tịch hôm Thứ Sáu, lúc đó được lệnh từ Đức Đạt Lai Lạt Ma từ Ấn Độ gọi sang rằng, lúc đó ngài Geshe-la bắt đầu vào thiền định tịnh quang, cần phải chờ ngài xuất định và sẽ có dấu hiệu cát tường cho biết.
Trong suốt ba ngày và ba giờ đồng hồ nằm trong thiền định, cơ thể ngài Geshe-la vẫn ấm và mềm dịu, trong khi chư tăng ngồi chung quanh thiền định.
Ngay khi có một dấu hiệu cát tường xuất hiện trên khuôn mặt ngài Geshe-la, căn pḥng tự nhiên rực sáng với hào quang.
Lúc đó là chiều Thứ Hai 16-2-2009, hơn ba ngày sau noí chính xác, bản tin từ một viên chức ngôi chùa nói là, ngài thiền định tịnh quang hậu viên tịch là ba ngày và ba giờ đồng hồ.
Cùng lúc nhiều người từ ngoài chạy vào cho biết, hào quang bao phủ ngôi chùa, thành hai h́nh cầu vồng nhiều màu sắc.
Các h́nh ảnh này được nhiều người chụp và quay phim, đang đăng nơi trang web của thiền viện Ngài Geshe-la, từng được Đức Đạt Lai Lạt Ma trao nhiệm vụ hoằng pháp ở Anh và rồi Hoa Kỳ, và rồi ở nhiều nước Tây Phương.
Ngài cũng chính là vị sư Tây Tạng được báo Los Angeles Times và báo O.C. Register nhiều lần tường thuật, đặc biệt là về chuyện ngài đón nhận cậu bé Don Phạm ở Nam California, để rồi chuyển vị tu sĩ thiếu niên này sang cho các tu viện của ngài Đạt Lai Lạt Ma ở Ấn Độ hướng dẫn.
Bây giờ năm 2009, vị tu sĩ thiếu niên Việt Nam đó đă trở thành Đại Đức Konchok Woser hai mươi ba tuổi, hiện đang tu học ở Institute of Buddhist Dialectics ở Dharamsala.
Ngài Geshe-la sinh năm 1924 tại Kham, một tỉnh Tây Tạng, là một trong vài vị lạt ma từng tu học ở Tây Tạng và mang văn bằng Lharampa Geshe, tương đương Tiến Sĩ Triết Học ở Phật Giáo Tây Tạng.
Ngài Geshe-la xuất gia từ năm bảy tuổi, tới năm mười sáu tuổi ngài đi chuyến t́m học mất ba mươi ngày, vượt hai mươi mốt ngọn đèo trên núi, để xin vào một trong ba đại học Phật Giáo lớn của Tây Tạng. Nơi đó có tên Gaden Shartse Monastery, nơi ngài ở đây học tới hai mươi năm.
Vào năm 1959 khi Trung Quốc đưa quân vào chiếm Tây Tạng, ngài Geshe-la rời bỏ quê nhà, để cùng với Đức Đạt Lai Lạt Ma và hơn một trăm ngàn người Tây Tạng khác lưu vong.
Sau khi làm việc bảy năm với cương vị thầy giáo cho trẻ em Tây Tạng tị nạn ở Anh, ngài Geshe-la tới Los Angeles năm 1976, và từng giữ các công việc tại các đại học USC, UC Santa Barbara, và UCLA.
Nơi ngài Geshe-la dạy thiền định và tiếng Tây Tạng.
Theo thỉnh nguyện của học tṛ, ngài Geshe-la thành lập Thubten Dhargye Ling, trung tâm nghiên cứu Phật Giáo và văn hóa Tây Tạng từ năm 1978, và ngài là giáo sư và giám đốc tinh thần nơi này, trong hơn ba mươi năm.
Ngài Geshe Gyeltsen là tác giả các tác phẩm Compassion: The Key to Great Awakening (Từ Bi: Ch́a Khóa Đại Ngộ) một sách chú giải về các pháp môn.
Tám Điểm Luyện Tâm và Ba Mươi Bảy Pháp Thực Tập của Bồ Tát, và cuốn Mirror of Wisdom (Tấm Gương của Tâm)
Tập sách b́nh giảng về giáo lư nhà Phật về sự thật tối hậu. Ngài Geshe-la mở nhiều trung tâm tu học khác ở Hoa Kỳ, Mexico và Châu Âu.
tdling
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 603 of 1439: Đă gửi: 29 May 2010 lúc 1:34am | Đă lưu IP
|
|
|
SỰ KHỦNG KHIẾP GIỮA TRỜI CAO
Tất cả những ai đă biết vụ án này đều không chịu tin rằng, câu chuyện kỳ lạ mà người ta gọi là "Một mảnh của Joyce-Amstrong" là một sự huyền hoặc thêu dệt bởi một kẻ lạ mặt.
Một anh chàng hề cô hồn nhất và lém lỉnh nhất, chắc cũng phải nh́n vào sự vật này hai lăo lần, trước khi dồn cả cái đầu óc tưởng tượng đầy bệnh hoạn của anh, vào những việc không thể chối căi được một cách bi đát, đă dựng nên câu chuyện này.
Mặc dù câu chuyện này đầy rẫy những lời xác quyết rùng rợn và có khi quái đản nữa, nó vẫn không thiếu tính chất đáng tin và nó khiến chúng ta phải xét lại một quan niệm mà ngày nay đă có vẻ lỗi thời.
Chỉ có một lằn ranh an toàn mỏng manh, để che chở cho con người chống lại một sự nguy hiểm bất ngờ. Trước khi thuật lại câu chuyện nguyên thủy, trong cái h́nh thức không toàn vẹn một cách khốn khổ của nó, tôi xin tŕnh lên các độc giả, cả mọi sự việc mà người ta được biết vào ngày hôm đó.
Trước hết tôi xin nói với các bạn có tính đa nghi đă ngờ vực câu chuyện của Joyce-Armstrong rằng, các sự việc có dính líu tới đại uư Myrthe trong Hải quân Hoàng gia, và ông Hay Connor đă được phối kiểm: Đúng là họ đă chết như người thuật truyện đă mô tả.
”Một mảnh của Joyce–Armstrong” đă được t́m thấy tại một cánh đồng được gọi tên là Hay*** Ha, ở khoảng một cây số rưỡi về phía Tây làng Withyham trên ranh quận Kent và quận Sussex.
Ngày 15 tháng chín vừa qua, một anh nông dân là Jamé Flynn, làm công cho trại chủ Mathew Dodd, thuộc Nông Trại Chauntry ở Withyham, trông thấy một cái vố làm bằng rể cây Bruyen, ở cạnh con đường chạy dọc theo hàng rào của Hay***Ha.
Cách xa hơn một vài thước nữa, anh ta t́m thấy cặp mắt kính đeo mắt bị bể. Sau rốt trong những cây gai ở cái hố, anh ta phát hiện ra một quyển sách mỏng gáy vải: Đó là một quyển sổ tay, một vài tờ bị long ra và bay tung toé chỗ chân hàng rào.
Anh ta nhặt nhạnh tất cả: Ba tờ giấy trong đó có hai tờ đầu, đă không thể nào kiếm thấy được. Anh nông dân mang chiến lợi phẩm này về cho ông chủ của anh, rồi ông này đưa cho bác sĩ Atherton ở Hartfield xem.
Vị quư nhân này thấy ngay rằng cần có một sự giám định chuyên môn. Vậy là bản thảo được đưa tới câu lạc bộ Hàng không ở London, nơi mà nó vẫn c̣n tới bây giờ. Hai trang đầu của bản thảo bị mất. Một trang khác cũng bị rơi mất ở đoạn kết thúc câu chuyện, nhưng sự mạnh lạc của toàn thể không hề hấn ǵ.
Người ta cho rằng đoạn khởi đầu phác họa lại dấu tưởng lục của ông Joyce–Armstrong, bằng tưởng lục mà người ta có thể tạo lại một cách dễ dàng, và nó vẫn là thứ độc nhất vô nhị trong ngành hàng không Anh quốc.
Trong nhiều năm trời Joyce–Armstrong vẫn được coi như một trong những nhân viên phi hành, táo bạo nhất và uyên bác nhất. Sự kết hợp các tài năng này đă cho phép ông phát minh và thí nghiệm nhiều phương pháp, mà tên tuổi ông vẫn c̣n được gắn liền.
Tất cả bản thảo của ông được viết bằng mực một cách đằng tả, trừ những ḍng cuối cùng viết nguệch ngoạc bằng bút ch́, gần như không thể đọc được, người ta đoán rằng chúng được viết một cách rất vội vă trên ghế một phi cơ đang bay.
Ta cần nói thêm rằng có những vết bẩn làm lem luốc trang cuối cùng và tờ b́a, các giám định chuyên môn của Bộ Nội vụ tuyên bố rằng đó là những vết máu, có thể là máu người, nhưng chắc chắn là máu của động vật.
Sự kiện là việc phân tích chất máu này đă phát hiện, một vật ǵ rất giống con vi khuẩn bệnh sốt rét rừng (Joyce–Armstrong thường bị những cơn sốt rét) là một thí dụ đáng kể về những vũ khí mới, mà khoa học hiện đại đă đặt vào tay các thám tử của chúng ta.
Bây giờ hăy nói qua tới nhân cách của tác giả, một tài liệu sẽ mở ra một kỷ nguyên mới. Nếu ta tin được qua lời một vài người bạn đă biết nhiều về ông, th́ Joyce–Armstrong là một người hay mơ mộng và là một thi sĩ, cũng như là một nhà phát minh và một kỹ thuật gia của ngành cơ giới.
Ông đă tiêu phần lớn tài sản đáng kể để thoả măn sở thích về hàng không, trong các xưởng của ông ở gần Devizes. Ông có bốn phi cơ riêng. Và trong năm ngoái, ông đă bay không dưới một trăm bảy mươi lần.
Tính nết của ông thường ảm đạm. Trong những dịp này ông tự cách ly và tránh mặt mọi sự tiếp xúc với xă hội. Đại uư Dangerfield, một người bạn đường thân nhất của ông công nhận rằng, trong một vài trường hợp tính cổ quái của ông gần đi tới chỗ điên khùng, ông chẳng thường có thói quen mang theo lên phi cơ một khẩu súng săn đó ư?
Hơn nữa vụ tai nạn xảy ra với Trung Úy Myrtle, đă khiến ông xúc động một cách hai hại. Trong khi định phá kỷ lục về độ cao, Myrtle đă bị rơi từ một độ cao chừng mười ngàn mét, một sự việc khủng khiếp! Cái đầu ông ta hoàn toàn biến mất, tuy nhiên chân tay và tất cả phần c̣n lại của thân thể, ông vẫn c̣n giữ được h́nh thể nguyên thủy.
Mỗi khi các phi công họp mặt với nhau, Joyce-Armstrong lại hỏi với một nụ cười bí hiểm:
- Các bạn đă t́m thấy cái đầu của Myrtle chưa?
Một buổi tối sau bữa ăn tại câu lạc bộ của trường huấn luyện phi công tại Salisbury, ông đă gây ra một cuộc tranh luận về đề luận sau đây:
- Trong các sự hiểm nguy đối với các phi hành gia, th́ cái nào là lớn nhất và thường xảy ra nhất?
Sau khi đă nghe các ư kiến được phát biểu về các lỗ hỗng trong không khí, các khiếm khuyết trong việc chế tạo, các trận bảo tố, ông nhún vai từ chối không đưa ra ư kiến riêng của ông. Nhưng ông cho thấy rằng nó hoàn toàn khác với những ǵ mà ông vừa được nghe.
Thiết tưởng không phải là vô ích để nói rằng, một ngày sau khi ông mất tích, người ta phát giác ra rằng ông đă thu xếp các công việc của ông đâu vào đó, với một sự tỉ mỉ cho phép ta tin rằng, ông đă linh cảm được sự cáo chung đang chờ đợi ông.
Những sự chỉ dẫn tiên khởi này rất cần thiết. Bây giờ tôi xin chuyển dịch một cách thật đúng câu chuyện, như nó đă được ghi bắt đầu từ trang ba của quyển sổ tay bị dính máu.
"...Tuy nhiên, khi tôi ăn bữa tối ở Reions với Cosetli và Gustave Roymond, tôi phải nhận thấy rằng không có người nào ư thức được, sự hiện hữu của một mối nguy hiểm đặc biệt, trên những tầng cao của khí quyển.
Tôi không nói rơ hết với họ những điều tôi suy nghĩ trong đầu óc tôi, nhưng tôi dùng cách nói bóng gió và nếu họ có những ư nghĩ tương đồng với ư nghĩ của tôi, th́ hẳn họ đă phát biểu chúng ra.
Hỡi ôi, hai anh chàng kiêu căng ngu xuẩn này không nghĩ tới điều ǵ khác hơn, là thấy tên họ được in trên báo. Tôi đă chú tâm ghi nhận rằng, cả hai anh chàng đó không người nào đă bay lên cao quá bảy ngàn, bảy ngàn năm trăm mét.
Chắc chắn là phải ở trên độ cao đó, th́ phi cơ mới đi vào vùng nguy hiểm (luôn luôn giả thiết rằng những giả thuyết của tôi là đúng)? Đă hơn hai mươi năm trời con người bay trên phi cơ? Nếu có ai hỏi tôi rằng tại sao măi cho tới ngày nay hiểm họa này mới tự phát hiện, câu trả lời sẽ thật đơn giản.
Vào thời những động cơ khiêm nhường khi người ta ước tính rằng động cơ một trăm mă lực Gnome hay Green là đủ để đáp ứng tất cả mọi nhu cầu, các phi cơ đă không thể vượt quá những giới hạn nào đó.
Bây giờ, các động cơ ba trăm mă lực đă là quy luật chớ không phải là ngoài lệ nữa, và những chuyến bay trên những tầng cao của khí quyển, đă trở nên dễ dàng hơn thông thường hơn.
Một vài người trong bạn chúng ta nhớ lại rằng, khi chúng ta c̣n trẻ trung Garros đă lừng danh khắp thế giới, khi đạt tới độ cao sáu ngàn mét, và việc bay bên trên núi Alpes được coi là một thành tích hết sức ghê gớm.
Từ đó mức trung b́nh của chúng ta đă căi tiến một cách đáng kể, và đă có hai mươi chuyến bay lên tới độ cao mà xưa kia chỉ có một chuyến. Thật thế, phần lớn các chuyến bay đă được thực hiện với sự an toàn tuyệt hảo, và những độ cao mười ngàn mét đă được đạt tới nhiều lần, mà không gặp những trở ngại nào khác ngoài cái lạnh và sự nghẹt thở.
Nhưng sự kiện này đă chứng tỏ điều ǵ? Một người khách lạ sẽ có thể xuống hành tinh chúng ta hàng ngàn lần, mà không bao giờ nh́n thấy một con cọp. Tuy nhiên, những con cọp vẫn hiện hữu và nếu v́ rủi ro vị khách của chúng ta hạ chân xuống trong rừng già, ông có thể bị nhai ngấu nghiến.
Ở trên thượng tầng không khí cũng có những rừng già, nơi cư ngụ của những loài c̣n khủng khiếp hơn là cọp. Tôi tin rằng sẽ có lúc những rừng già này sẽ được thông báo một cách chính xác trên những bản đồ.
Cho tới bây giờ có thể định vị được hai khu rừng già đó, một khu ở bên trên vùng Pau-Biarritz nước Pháp. Một vùng khác ở bên trên đầu tôi, trong khi tôi đang viết tại pḥng tôi trên chiếc Wiltshire. Tôi tin một cách đầy đủ là có một khu rừng thứ ba ở vùng Wiesbaden.
Chính một vài vụ án mất tích của các phi hành gia, đă tạo cho tôi ư nghĩ về các khu rừng già này, chắc chắn là người ta thường nói rằng họ bị rớt xuống biển, nhưng sự giải thích này không làm tôi thỏa măn chút nào.
Trước hết đă có Verrier ở Pháp, phi cơ của ông đă được t́m thấy ở gần Bayonne, nhưng không bao giờ người ta phát hiện ra xác ông. Cũng c̣n có trường hợp của Baxten người đă mất tích, mặc dù động cơ của ông và một vài mảnh sắt vụn, đă được nhận dạng trong một cánh rừng ở Laicesternhire.
Bác sĩ Middleton ở Ameabury, người đă theo dơi chuyến bay với kính đeo mắt, đă khai rằng ngay trước khi những đám mây làm tối mù mục trường của ông, ông nh́n thấy phi cơ ở một độ cao khá lớn, bỗng nhiên lồng lên theo chiều thẳng trong một loạt rung lắc, với một sức mạnh cuồng bạo không thể tưởng tượng được.
Đó là h́nh ảnh cuối cùng được ghi nhận về phi cơ của Baxte. Sau đó c̣n nhiều trường hợp tương tự khác, rồi tới cái chết của Hay Connor. Đă có bao nhiêu lời nói dông dài vô ích về sự bí ẩn không được làm sáng tỏ này.
Đă có bao nhiêu cột trong các báo cáo nhưng người ta đă cố tránh không đi sâu vào các sự việc. Ông ta đă xuống bằng lối bay là là từ độ cao không ai biết rỏ. Ông ta đă không thoát khỏi phi cơ, ông ta đă chết trên ghế ngồi.
Ông ta chết v́ cái ǵ mới được chứ? ”Đau tim” các y sĩ trả lời như vậy. Vô lư! Tim của Connor cũng mạnh khoẻ như tim của tôi. Venables đă khai báo thế nào? Venables là người duy nhất ở cạnh ông ta khi ông ta chết.
Ông xác nhận rằng Hay Connor bị lắc lư v́ những cơn run rẩy và ông ta có vẻ kinh hoàng ”chết v́ sợ hăi”. Venables nói vậy mà không thể tưởng tượng nổi cái ǵ đă làm ông ấy sợ hăi.
Connor chỉ nói th́ thào với Venables có một tiếng. Một tiếng giống như "quái dị” trong cuộc điều tra không ai có thể hiểu rơ cái chữ "quái dị”này chỉ định vào cái ǵ. Tôi, tôi có thể sẽ hiểu được nó chỉ định vào cái ǵ!
Những con quái vật! Đó là tiếng nói cuối cùng của Harry Hay Connor xấu số! Và thực t́nh ông đă chết v́ sợ hăi. Venables nói đúng.
Rồi th́ lại cái đầu của Myrtle. Bạn có thực sự tin rằng (Có người nào đó thực sự tin) một cái đầu người ta lại có thể hoàn toàn thụt vào sâu cái ḿnh, sau khi bị rơi từ trên cao xuống không?
Tôi, dù thế nào đi nữa, không bao giờ tôi tin vào lời giải thích cho vụ Myrtle. Và vết mỡ trên quần áo ông ấy ”quần áo dính dầu mỡ”, một người nào đó đă khai trong cuộc điều tra, thật lạ lùng không có ai chịu suy nghĩ về chuyện này!
Tôi th́ tôi đă suy nghĩ quả thực tôi đă suy nghĩ từ lâu rồi. Tôi đă làm thử ba lần (Và Dagerfield trêu chọc tôi v́ tôi đă mang theo súng săn!) nhưng tôi không lên đủ độ cao. Bây giờ, với chiếc Paul Wroner mới, nhẹ và động cơ Rubur một trăm bảy mươi lăm mă lực của nó. Ngày mai tôi sẽ phải đạt một cách dễ dàng tới độ cao mười ngàn mét.
Tôi sẽ làm thử kỷ lục. Có thể là tôi cũng sẽ làm thử với tử thần!...Tôi không phủ phận nguy hiểm, nhưng nếu một người muốn tránh hiểm nguy th́ ông ta chỉ có việc thôi đừng bay nữa và sống suốt đời với lối đi giày vải và mặc đồ ngủ thôi.
Ngày mai tôi sẽ thám hiểm khu rừng già trên không gian. Nếu có chuyện ǵ trong đó th́ tôi sẽ biết. Nếu tôi trở về được tôi sẽ trở thành một nhân vật lừng danh, một ngôi sao sáng.
Nếu tôi không trờ về được, cuốn sổ tay này sẽ chứng nhận những ǵ tôi định làm, và tôi đă chết như thế nào trong khi thử làm việc đó. Nhưng cầu ơn trên ban phước lành, không có chuyện lẩm cẩm về một ”tai nạn” hay một sự ”bí ẩn”.
Tôi đă chọn chiếc phi cơ một tầng cánh Paul Veroner để dùng trong công việc nhỏ mọn này. Chỉ cần chiếc phi cơ một tầng cánh này như thế, khi người ta thực sự muốn thành công trong một việc ǵ.
Ông Beaumont đă nhận ra việc này ngay từ lúc đầu. Chẳng hạn sự ẩm ướt không ảnh hưởng ǵ tới nó, mà thời gian hiện tại cho ta thấy trước rằng, ta sẽ luôn luôn bay trong những đám mây.
Đây là một loại phi cơ nhỏ, xinh xắn dễ điều khiển như một con ngựa non dưới tay tôi. Động cơ của nó là máy Rubur mười si lanh sức mạnh một trăm bảy mươi lăm mă lực. Phi cơ được trang bị những dụng cụ tân tiến nhất của kỷ thuật.
Thân máy bọc thép, các bánh xe để hạ cánh có ṿng cong cao bộ thắng mạnh, những bộ phận ổn định hồi chuyển, ba tốc độ các b́nh diện theo nguyên tắc những tấm sáo có lá sách di động. Tôi có mang theo một khẩu súng săn và hơn một chục viên đạn ch́ lớn.
Chắc các bạn đă thấy cái đầu của Perkins, anh thợ máy già của tôi, khi tôi nhờ anh ấy để súng đạn vào trong phi cơ. Tôi mặc quần áo theo kiểu nhà thám hiểm Bắc Cực, với hai áo len dài tay có cổ cao bên trong bộ đồ bay của tôi. Những đôi tất dầy bên trong đôi ủng lót lông, một mũ kết có vành và cặp mắt kính bằng mi ca.
Ra bên ngoài, gần những xưởng phi cơ, tôi bị nghẹt thở nhưng tôi muốn bay lên vượt khỏi độ cao của đỉnh Hy Mă Lạp Sơn, nhất định là tôi phải mặc y phục thích hợp, Perkins có vẻ nghi ngại một điều ǵ và anh năn nỉ tôi cho anh ta theo.
Nếu tôi sử dụng phi cơ hai tầng cánh, có thể tôi đă phải ưng thuận lời yêu cầu của anh, nhưng với phi cơ một tầng cánh mà ta muốn có tốc độ tối đa để vọt lên cao, th́ chỉ là công việc của một người thôi.
Dĩ nhiên là tôi mang theo một bong bóng dưởng khí, một phi hành gia muốn thử lập một kỷ lục bay cao mà không mang theo dưởng khí th́ sẽ chết cóng hay chết ngộp, hoặc bị cả hai sự tệ hại chồng chất lên.
Trước khi vào chỗ ngồi tôi đă kiểm soát các hành tŕnh. Khi đă hài ḷng với sự kiểm tra của tôi, tôi mở máy và cho chạy một cách êm đềm, tôi cất cánh ở số một, tôi bay hai ṿng quanh băi đậu để làm cho động cơ nóng lên đôi chút.
Sau khi vẫy tay tôi chào tạm biệt Perkins và những người khác. Tôi vọt đi và xả hết sức máy. Phi cơ trườn đi trong gió như một con nhạn trong khoảng độ mười lăm cây số. Tôi hướng mũi nó lên cao và bắt đầu leo lên, vạch thành một ṿng tṛn xoáy trôn ốc lớn hướng vào những đám mây dầy đặc.
Điều tối quan trọng là phải lên cao một cách thong thả để thích ứng với áp lực của không khí. Thời tiết nặng nề và oi nóng đối với một ngày tháng chín nước Anh. Trời có vẻ muốn mưa. Từng cơn gió một từ phía tây nam thổi tới; một trong những cơn gió này đă ập tới lúc tôi không đề pḥng, và đă đẫy tôi bay trệch đường một cách phủ phàng.
Tôi nhớ lại lúc mà những cơn gió và những lỗ hỗng không khí, đă trở thành những nguy hiểm nghiêm trọng, v́ các động cơ của chúng ta không đủ sức mạnh. Ngay lúc tôi bay tới các tầng mây th́ trời bắt đầu mưa; đồng hồ đo độ cao của tôi chỉ một ngàn mét.
Trời ơi! Trận mưa lớn lắm sao! Mưa đập lốp bốp vào cánh phi cơ, tát vào mặt tôi gần như roi quất làm mờ kính mắt của tôi, tôi gần như không c̣n thấy ǵ nữa, mưa làm cản trở tốc độ trung b́nh của tôi, nhưng biết làm thế nào?
Trong lúc tôi vọt lên cao, nó trở thành mưa đá và tôi phải t́m cách đi ṿng qua nó, một trong các si lanh của tôi không hoạt động được nữa; chắc chắn là một bu gi đă bị đóng cặn, tuy nhiên tôi vẫn có thể tiếp tục leo lên không mất một chút sức mạnh nào.
Chỉ ít lâu sau đó, sự bực bội về máy móc của tôi đă chấm dứt và tôi lại nghe thấy tiếng nổ đều đặn, ṛn ră của mười si lanh cùng chạy lên trong một tiếng hài hoà tuyệt diệu. Đây là công việc của phép lạ của máy hăm thanh hiện đại của chúng ta, rút cục ta đă có thể kiểm soát được các động cơ của chúng ta bằng tai.
Khi chúng không quay một cách đều đặn, làm như chúng thét lên, chúng cự nự chúng thổn thức! Thời xưa tất cả những tiếng kêu cứu đó đều mất đi, bị ch́m ngập vào tiếng ồn ào dữ dội của động cơ.
À, giá mà những bậc tiên phong của ngành hàng không có thể sống lại, để nh́n thấy sự hoàn hảo về cơ giới là thứ đă được mua bằng giá mạng sống của họ.
Khoảng chín giờ rưỡi tôi tới sát gần những đám mây. Bên dưới chân tôi chỗ nào cũng mịt mù trong mưa. Cánh đồng Salibuy chạy dài bao la: năm sáu chiếc phi cơ chậm răi bay ở độ cao ba hay bốn trăm mét, người ta có thể nói đó là những con chim sẽ.
Tôi có cảm tưởng rằng họ đă tự hỏi tôi đang làm ǵ trong những đám mây. Đột nhiên một tấm màn xám được giăng ra bên dưới, tôi buồn bă nhưng tôi đă thắng được trận mưa đá, và thế là đă thắng nhiều rồi.
Mây cũng u ám và dày đặc như sương mù ở London. V́ mong muốn ra khỏi mây mà tôi kéo cần tốc độ cho tới khi chuông báo nguy tự reo lên. Tôi bắt đầu thấy giật lùi, những cánh đồng ướt sũng làm cho tôi nặng thêm hơn là tôi đă nghĩ, nhưng rồi tôi cũng tới được một vùng mây đỡ dày đặc hơn.
Rồi tôi lên được một lớp mây thứ hai màu trắng đục, lổng phổng như bông đang chờ tôi ở độ cao bên trên đầu tôi, nó làm thành một cái sàn màu đen nhẵn thín được trăi dài ra, giữa hai cái trần và sàn chiếc phi cơ một tầng hai cánh của tôi đang bay tới giữa trời.
Trong khoảng cách không gian bao la này, người ta cảm thấy một đàn thủy điểu bay thẳng hàng về hướng Tây, tôi thú thực rằng sự hiện diện của chúng làm tôi vui thích, tôi nghĩ rằng đó là những con mồng két, nhưng tôi là một nhà động vật học hạng tồi.
Bây giờ con người đă hóa thành những con chim, ta phải học để nhận ra những người anh em của chúng ta ngay khi vừa nh́n thấy. Bên dưới chân tôi, gió khuấy động cái cánh đồng mây rộng lớn.
Vào một lúc nào đó, nó gây ra một sự xáo trộn dữ dội, khơi ra một cái hố sâu và qua lỗ hổng cái ống khói của nó. Tôi nh́n thấy mặt đất, một chiếc phi cơ lớn màu trắng đang bay rất thấp, chắc chắn đó là chuyến bay thường xuyên buổi sáng Bristol–London.
Rồi cơn lốc lại bắt đầu xoay sang hướng khác và tôi lại cảm thấy sự cô quạnh của tôi. Sau lúc mười giờ ít lâu, tôi tiếp cận với cái vành phía dưới của tầng mây bên trên, những lớp mây này là hơi nước nhẹ, trông lờ mờ đang thong thả trôi về hướng đông.
Sức gió tăng lên một cách đều đặn, nhiệt độ đă rất lạnh, mặc dù cao độ kế của tôi mới chỉ có ba ngàn mét. Động cơ quẫy đều đặn một cách đáng khen, mây đă dày đặc nhiều hơn là điều tôi ước tính, nhưng cuối cùng cũng mỏng manh đi thành một đám sương màu vàng, và tôi được tiếp đón bởi một bầu trời hoàn toàn trong trẻo và một vầng mặt trời rực rỡ.
Bên trên đầu tôi, chỉ toàn là màu xanh và vàng, ở phía dưới toàn là bạc lóng lánh. Đă mười giờ mười lăm phút, cây kim của khí áp biểu chỉ bốn ngàn hai trăm mét, tôi tiếp tục cuộc lên cao, hai tai lắng nghe tiếng nổ đều đều của động cơ, hai mắt luôn luôn nh́n vào đồng hồ, kim chỉ ṿng quay, mức độ ét xăng, bộ phận bơm nhớt.
Không có ǵ đáng ngạc nhiên khi các phi hành gia được coi là những người không sợ hăi điều ǵ, họ phải nghĩ tới quá nhiều việc khiến họ không có th́ giờ để nghĩ tới chính ḿnh, chính vào lúc đó mà tôi nhận thấy rằng, một cái địa bàn ít đáng tin, vậy khi người ta vượt qua một độ cao nào đó bên trên mặt đất, may mắn thay, mặt trời và gió đă cho tôi những toạ độ chính xác.
Tôi hy vọng t́m thấy một sự yên tĩnh vĩnh hằng trong khi cứ bay trên cao măi, nhưng càng lên cao th́ băo tố càng tăng thêm một cách cuồng bạo. Chiếc phi cơ một tầng cánh của tôi rên rỉ, run lên tới tận mọi con ốc của nó, chao đảo như một tờ giấy khi tôi muốn chuyển hướng.
Nó lướt nhanh hơn trong gió, có lẽ không có một con người nào đă từng bay nhanh như vậy. Tôi phải luôn luôn giữ phi cơ cho thẳng và bay với ngọn gió, v́ tôi không chỉ có tham vọng riêng về kỷ lục độ cao.
Theo cách tính toán của tôi khu rừng già trên không trung, toạ lạc ngay bên trên khu tiểu Wiltshire, nếu tôi chinh phục các tầng cao của khí quyển ở những nơi khác, tôi sẽ mất hết kết quả cố gắng của tôi.
Vào khoảng giữa trưa tôi đạt tới sáu ngàn mét. Gió quá bạo cuồng khiến tôi phải lo lắng nh́n vào những sợi dây ở cánh phi cơ của tôi. Lúc nào tôi cũng tưởng là sẽ thấy chúng dăn ra hay đứt hẳn.
Tôi đă tháo cái dù ở đằng sau và móc nó vào cái khoen ở đây lưng tôi, ngơ hầu đề pḥng điều tồi tệ nhất! Chính vào những lúc như thế này mà một việc làm vội vă, cẩu thả của một anh thợ máy có thể làm mất mạng một phi công!
Nhưng phi cơ đă chống chỏi một cách dũng cảm, những dây và những bộ phận chống đỡ của nó kêu o o và run lên như là những sợi dản vậy. Tuy nhiên, tôi cũng kinh ngạc là bất chấp những sự va đập và lay động của gió, đánh vào nó làm thế nào mà nó vẫn theo đuổi được sứ mạng chinh phục bầu trời của nó.
Phải có một cái ǵ thần thánh trong con người, để anh ta lên tới cao như thế này, bên trên những giới hạn mà h́nh như tạo hoá đă ấn định cho con người. Và để cho con người lên cao nhờ vào sự kế tục vô tư lợi, dũng cảm này mà sự chinh phục không gian đă chứng tỏ.
Với những ư nghĩ đó, trong đầu tôi cứ luôn luôn thúc đẩy phi cơ của tôi lên cao hơn nữa, những cơn gió lúc th́ quất vào mặt lúc th́ rít lên sau tai tôi. Dải b́nh nguyên những đám mây phía dưới tôi đă lùi xa, những chỗ nhấp nhô, phập phồng màu bạc của nó đă rộn lên lộn vào một mặt bằng phẳng sáng rực rỡ, chắc chắn là tôi đă là nạn nhân của một sự thăng trầm chưa bao giờ có.
Chắc chắn là tôi đă biết người ta bị nguy hiểm thế nào, khi ở trong t́nh trạng mà các ông bạn láng giềng ở phía bên kia biển Manche gọi là một cơn lốc, nhưng tới một mức độ như thế nào th́ tôi chưa từng thấy bao giờ.
Cái luồng gió khủng khiếp này có thể quét sạch tất cả. Mà h́nh như ngay trong ḷng nó c̣n có những sự xao động cũng khủng khiếp như chính nó nữa. Không có một điềm báo trước nào, tôi bị cuốn một cách tàn bạo vào một trong hai sức mạnh đó, trong một hay hai phút tôi đă quay tṛn với một tốc độ, làm tôi xuưt nữa ngất đi.
Rồi tôi bị rơi vào xuống, cạnh bên trái xuống trước, cái lỗ hỗng của ống khói chính khoảng chân không mà tôi rơi xuống, mà không bị thứ ǵ cản trở cả, như một ḥn đá, trong gần ba trăm mét, tôi c̣n ngồi được trên ghế là chỉ nhờ vào cái dây lưng của tôi thôi.
Sự rung chuyển làm tôi nghẹt thở và xỉu đi nửa tỉnh, nửa mê trên thành của thân phi cơ, nhưng (và đây chính là đức tính của một phi hành gia trong tôi) bao giờ cũng đủ triển khai những nỗ lực siêu phàm.
Tôi nhận thấy rằng tốc độ rơi xuống của tôi là một ống khói viên h́nh trụ. Và tôi tiến gần tới đỉnh cao của h́nh chóp này, phải chịu đựng một sức xoắn vặn ghê gớm. Bằng cách dồn tất cả trọng lực của tôi vào một bên, tôi lấy thăng bằng lại cho đôi cánh và giành lại sự điều khiển phi cơ để bay ra khỏi chỗ xáo trộn.
Bị te tua nhưng đắc thắng, tôi lại kéo cần lái và lại bắt đầu leo lên cao. Lúc một giờ chiều, tôi đă ở bảy ngàn mét bên trên mức mặt biển, tôi hết sức măn nguyện là tôi đă tới chỗ bên trên cơn băo tố, tôi càng lên cao th́ không gian càng yên tĩnh.
Ngược lại, trời rất lạnh và tôi bắt đầu thấy cảm, thấy nôn mửa đặc biệt thường đi kèm với sự loăng không khí của tôi và trong những khoảng cách đều đặn. Tôi hít chất hơi thần diệu này, tôi cảm thấy khoan khoái gần như say sưa. Tôi kêu lên, tôi ca hát trong khi vạch ra những quỹ đạo của tôi trong bầu trời băng giá.
Tôi tin chắc rằng sự thất bại mà Glaisher và ở một mức độ thấp hơn, Coxwell đă là nạn nhân khi vào năm 1892 họ dùng khinh khí cầu, lên tới độ cao mười ngàn mét bị gây ra bởi sự mau lẹ quá sức, mà sự vọt thẳng lên cao bằng khinh khí cầu đă thực hiện.
Khi ta lên cao theo một giao độ vừa phải và ta tập làm quen dần với sự suy giảm của áp suất không khí, th́ ta sẽ tránh được loại khó khăn đó. Về phần tôi ở một độ cao tương đương, tôi nhận thấy rằng ngay dù không có b́nh dưỡng khí, tôi cũng vẫn có thể thở mà không có sự khó khăn quá quắt.
Tuy nhiên cái lạnh trở nên dữ dội, nhiệt kế của tôi chỉ mười tám độ âm. Lúc một giờ rưỡi chiều tôi ở khoảng gần mười một ngàn mét bên trên địa cầu và tôi cứ tiếp tục leo lên một cách đều đặn.
Tuy nhiên không khí lỏng loăng nâng đỡ cặp cánh của tôi không được như trước, và giao độ cao của tôi bị sút giảm một cách đáng kể. Tôi biết rằng ngay với một phi cơ nhẹ như thế này, và một động cơ cực mạnh tôi cũng sẽ sắp sửa đạt tới tột đỉnh của tôi. Lại có sự rủi ro: một bugi dở chứng, động cơ của tôi bắt đầu trục trặc.
Trong lúc tôi đang lo sợ một sự thất bại, th́ một việc hoàn toàn kỳ dị diễn ra. Một vật bay vượt qua tôi, tiếng kêu ù ù và nhả khói ra ở phía sau, rồi nổi lên trong một tiếng rít lớn ở giữa một đám mây hơi nước.
Tôi bị sững sờ trong một lúc. Rồi tôi nhớ lại rằng trái bất đă bị bắn phá một cách liên tục bởi những vân thạch này, không hoá thành hơi nước khi chúng chạm tới những tầng cao của khí quyển.
Đây là một hiểm hoạ mới cho những tay tài tử của không gian, v́ có hai vân thạch khác bay gần tôi khi tôi tới độ cao mười hai ngàn mét. Ở chỗ ranh giới vỏ bọc trái đất, hiểm hoạ chắc phải rất lớn và rất thực tại.
Kim áp kế của tôi chỉ mười hai ngàn ba trăm mét, khi tôi biết rằng sẽ không thể bay lên cao hơn nữa. Về thế lực tôi sẽ có thể chịu đựng được một cố gắng nữa, nhưng phi cơ của tôi đă đạt tới giới hạn của nó rồi.
Không khí lỏng loăng không c̣n nâng đỡ một cách đầy đủ cặp cánh của tôi: Khi hơi nghiêng đi một chút phi cơ đă chúc cánh xuống và không chịu theo sự điều khiển nữa. Có lẽ nếu động cơ không lộn xộn th́ tôi đă lên thêm được ba bốn trăm mét nữa.
Nhưng những tiếng nổ x́ hơi mỗi lúc một nhiều thêm và tôi thấy h́nh như trong mười si lanh th́ hai cái đă bị liệt. Nếu tôi chưa ở khu vực mà tôi t́m kiếm, th́ nhất định lúc này tôi không thể nào bay lên tới nơi được!
Nhưng tôi đă chẳng lọt vào khu vực đó rồi sao? Vạch ra những ṿng tṛn và bay lượn như một ḿnh và với cặp ống nḥm tôi quan sát một cách cẩn thận vùng chung quanh. Bầu trời quang đăng một cách tuyệt mỹ. Không có ǵ để cho ta dự đoán sự hiện hữu của những hiểm nguy mà tôi e ngại.
Tôi đă nói rằng tôi bay lượn trong khi vạch ra những ṿng tṛn. Tôi nghĩ rằng tôi đă đạt kết quả mỹ măn hơn nhiều khi thăm ḍ một vùng rộng lớn hơn, một người thợ săn vào một trong những rừng già trên trái đất mà lại không đi xuyên từ đầu này tới đầu nọ của khu rừng đó với hy vọng phát hiện ra con mồi hay sao?
Mà theo sự suy đoán của tôi, khu rừng già trong không gian mà tôi nhắm tới chắc chẳng phải toạ lạc nơi nào đó bên trên trái đất Wiltshire, nghĩa là phía Tây Nam của tôi.
Tôi thực hiện một sự chồm lên theo sau mặt trời, v́ địa bàn đă hỏng và tôi không c̣n phân biệt được trái đất nữa. Tôi lao về hướng đă chọn. Bay thật thẳng, v́ tôi đă tính rằng chỉ c̣n đủ ít xăng cho một giờ nữa thôi.
Nhưng tôi muốn chơi ngông là chạy cho tới cạn giọt xăng cuối cùng. V́ một lối bay lượn là là tuyệt diệu sẽ đưa tôi trở lại mặt đất không khó khăn ǵ.
Bỗng nhiên tôi cảm thấy một cái ǵ mới lạ. Trước mặt tôi, không khí đă mất sự trong sáng của pha lê, nó chứa đựng những h́nh thù dài xoắn xoe của một chất ǵ, mà tôi chỉ có thể so sánh với luồng khói rất mỏng của thuốc lá, những tràng những ṿng của chúng, lăn đi một cách chậm chạp trong ánh sáng mặt trời.
Khi chiếc phi cơ một tầng cánh xuyên qua cái chết lạ hoắc đó. Tôi thấy trên môi có một vị mơ hồ của dầu nhớt và cái sả của phi cơ phủ đầy một thứ bọt của chất mỡ. Một chất mỡ hữu cơ vô cùng vi tế h́nh như đang lơ lững trong khí quyển.
Có phải đó là đời sống không? Cái chất mỏng manh, thô sơ này kéo dài ra hàng nhiều mẫu tây rồi bươm tua vào khoảng hư không, đó không phải là thuộc về đời sống! Nhưng có thể là những dấu vết của đời sống, món ăn của một đời sống cổ quái? Chất mỡ đơn sơ của đại dương chính là món ăn của con cá voi dũng mănh.
Tôi c̣n đang nghĩ ngợi việc đó th́ khi nh́n lên tôi rất thích thú thấy một điều hoàn toàn độc đáo. Liệu tôi có hy vọng thuật lại với các bạn đúng như nó đă xuất hiện trước tôi hôm thứ ba trước không? Các bạn hăy tưởng tượng một con sứa như ta từng thấy tại các biển vùng nhiệt đới, có h́nh thù cái chuông nhưng tầm vóc cực lớn!
Theo tôi thấy th́ lớn hơn ṿm nhà thờ Saint Paul, nó có màu hồng đạm với những vân xanh nhạt, nó có một khí chất rất vi tế khiến nó có vẻ chỉ như một h́nh thù huyền ảo trên nền trời màu xanh rủ xuống ḷng tḥng, lúng liếng một cách chậm chạp từ phía sau và từ phía sau ra phía trước, làm trọn vẹn h́nh thể của nó.
Cái ảo ảnh huy hoàng này diễn ra trên đầu tôi, với một vẻ uy nghi thầm lặng nhẹ nhàng và mong manh như một cái bọt xà bông. Nó tiếp tục một cách đường bệ con đường của nó.
Tôi đổi hướng phi cơ để nh́n nó rơ hơn, nhưng bổng chốc tôi phát hiện ra rằng tôi đang bị bám quanh bởi toàn những sinh vật như vậy, với những tầm vóc một trái banh cỡ trung b́nh.
Cách cấu tạo xinh đẹp và màu sắc của chúng làm tôi nhớ tới hàng thủy tinh của Venise. Màu hồng và màu xanh lá cây nhạt là những màu chủ yếu, nhưng chúng trở thành lóng lánh đủ màu khi mặt trời nở rộ với những h́nh thù mảnh mai của chúng.
Hàng trăm con đă lướt qua gần tôi như vậy. H́nh thù và thể chất của chúng đă hoà hợp một cách quá hoàn hảo với sự tinh khiết của những độ cao này, khiến ta không thể nào h́nh dung được một thứ ǵ đẹp đẽ hơn.
Nhưng rồi sự chú tâm của tôi lại bị thu hút bởi một hiện tượng khác: những con rắn của ngoại tầng không gian, các bạn hăy tưởng tượng ra những cái ống dài, mỏng manh, kỳ ảo bằng một chất ǵ nom giống như hơi nước.
Chúng quay lộn vặn vẹo ḿnh với một tốc độ không thể ngờ được, mắt ta khó có thể theo kịp sự biến hoá của chúng, một vài con trong những con vật ma quái này có thể dài tới tám hay mười mét, nhưng thật là bực bội khi muốn ước lượng đường kính của chúng như sương mù và h́nh như tan loăng trong không khí.
Những con rắn không gian này có một màu xám rất sáng, ở phía trong có rạch những đường sậm hơn khiến ta có cảm tưởng rằng chúng là những sinh vật thực tại. Một con trong bọn chúng vờn qua mặt tôi.
Tôi cảm thấy chạm phải một vật ǵ lạnh và ẩm ướt, chúng không có vẻ ǵ là vật thể cả, khiến tôi tuyệt nhiên không nghĩ tới một nguy hiểm nào về thể chất có thể xẩy ra khi quan sát chúng gần như vậy. H́nh thù của chúng cũng thiếu sự vững chắc như đám bọt của một ngọn sóng khi tan vỡ.
Một kinh nghiệm khủng khiếp hơn được dành cho tôi. Từ trên một độ rất cao lao xuống, một vệt hơi nước màu tía lúc đầu tôi tưởng là nhỏ, nhưng nó lớn rất mau khi tới gần tôi. Mặc dù được cấu tạo bởi một thứ chất liệu trong vắt nom giống như băng, nó vẫn có một h́nh thù rất rơ rệt và một sự đông đặc chắc hơn những thứ mà tôi đă nh́n thấy.
Cho tới lúc này, tôi cũng nhận ra những dấu vết rơ hơn một thứ sinh vật có thể chất. Đặc biệt là hai tấm h́nh tṛn khá rộng, có đóng rợp ở mỗi bên, có thể là những con mắt và giữa hai tấm đó có một vật ǵ màu trắng, rất vững chăi nhô hẳn ra ngoài và cũng cong lại nữa, có vẽ cũng hung dữ như cái mỏ của một con diều hâu.
Toàn thể dáng dấp của con quái vật này thật ghê gớm, đáng sợ. Nó luôn luôn thay đổi màu sắc, chuyển từ màu tím nhạt sáng sủa sang màu đỏ tối sẫm ghê người. Tôi không thể phủ nhận khối thể chất của nó v́ nó đă dội ra một cái bóng khi nó len vào giữa mặt trời và phi cơ.
Ở khoảng cong phía trên của ḿnh nó có ba cái bướu lớn, mà tôi không biết mô tả thế nào hơn là so sánh chúng với những chỗ da phồng cực lớn. Tôi nghĩ rằng chúng chứa đựng một thứ hơi cực nhẹ, dùng để chống đỡ cái khối lượng không h́nh thù ǵ, và nữa đặc loăng này trong bầu không khí loăng lỏng.
Di chuyển một cách nhanh nhẹn, con quái vật đi theo tốc lực chiếc phi cơ một tầng của tôi không cần sự cố gắng nào, trong khoảng độ ba chục cây số bay là là bên trên tôi, giống như con chim săn mồi đang sửa soạn nhào xuống nạn nhân của nó.
Muốn tiến lên, cách thức của nó là tung ra phía trước một vật ǵ như một cái ống dài loăng xoăng, bầy nhầy, để rồi h́nh như cái ống này lôi kéo phần c̣n lại của thân ḿnh. Nó rất chun dăn, có rất nhiều chất dính nên không bao giờ nó giữ nguyên một h́nh dáng trong hai phút liền, nhưng mỗi sự biến đổi h́nh dạng lại làm cho nó càng đáng sợ hơn, càng khủng khiếp hơn.
Tôi biết nó là kẻ thù của tôi, mỗi bộ phận đỏ ửng của thân ḿnh nó đều nói lên sự thù hận của nó, những con mắt lớn, không rơ ràng của nó không rời khỏi tôi. Nom chúng lạnh lẽo, tàn độc, bị xao động bởi một hận thù xuất tự tâm can.
Tôi hạ thấp mũi phi cơ của tôi như một nhát roi. Khi va chạm phải động cơ nóng bỏng, tôi nghe thấy một tiếng rít sắc nhọn và cái ṿi vọt trở lại như là do sự đau đớn bất thần. Tôi muốn nhào thẳng xuống, nhưng một cái ṿi lại đâm xuống phi cơ.
Cánh quạt đă cắt nó với một sự dễ dàng như cắt một cuộn khói vậy. Một cái ống dài dính vào một cái bể mặt nhẵn ĺ như nhựa, xé rách nó và tôi được giải thoát nạn trong một lát; nhưng ngay tức khắc một cái ống khác lại quấn vào chân tôi với một sự hung hăn phía sau.
Trước sự tấn công này, tôi nhả đạn cả hai ṇng súng của tôi. Đúng là tôi cũng giống như một người đi săn và tấn công con mồi ḿnh bằng chiếc ống ś đồng (ống thổi bắn các viên tṛn bất để giết loài chim nhỏ) nhỏ bé.
Làm sao tôi có thể hy vọng rằng một thứ vũ khí của con người, mà làm tê liệt được một tiếng nổ vang một trong những viên đạn ch́ của tôi. Tôi đă đoán đúng: các bướu này căng phồng lên hơn v́ khí hơi.
Thật sự kẻ thù của tôi đă lăn trên phía bên, vặn vẹo một cách tuyệt vọng để lấy lại thăng bằng cho nó, cái mỏ trắng há ra và gơ lộp bộp v́ điên dại, nhưng tôi đă thực hiện một lối nhào thẳng xuống liều lĩnh nhất mà tôi có thể làm thả hết ga.
Nói một cách khác, tôi đă rơi xuống theo đúng nghĩa đen của từ, như một cục vân thạch. Từ phía xa đằng sau tôi một vệt đỏ từ từ thu nhỏ lại một cách nhanh chóng, rồi tan lẫn vào màu xanh của nền trời. A! Tôi đă hoàn toàn vô sự thoát khỏi khu rừng già khủng khiếp này của ngoại tầng không gian.
Một khi đă ở ngoài tầm nguy hiểm, tôi đóng ga lại, v́ không có ǵ làm hư hỏng một động cơ tệ hơn là bổ nhào xuống với tất cả sức mạnh của nó. Từ độ cao xấp xỉ mười hai ngàn mét tôi thực hiện việc lượn là theo h́nh xoáy trôn ốc.
Thoạt đầu cho tới lớp mây màu bạc, rồi tới những đám mây đầy băo tố ở phía dưới, và sau hết qua một đám mây mưa dồn dập, cho tới mặt đất.
Khi trồi ra khỏi những đám mây, tôi nh́n thấy biển Manche bên dưới tôi, v́ tôi c̣n lại được đôi chút ít xăng, tôi vượt đi bộ ba chục cây số trong nội địa và tôi đáp xuống một cánh đồng, cách làng Ashcombe nửa cây số.
Ở đó, tôi đi mua ba b́nh ét xăng. Lúc sáu giờ mười phút buổi chiều tôi đậu xuống băi Davizé của tôi, sau một chuyến du hành mà không một người nào trước tôi trên trái đất đă đến.
Sir Arthur Conan Doyle
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 604 of 1439: Đă gửi: 29 May 2010 lúc 1:36am | Đă lưu IP
|
|
|
THẦN LINH HỌC
Thần Linh Học (Spiritisme) c̣n được gọi là Thông Linh Thuyết, Thông Thần Học, Chiêu Hồn Thuật, Giáng Thần Thuật, là môn khoa học nghiên cứu về cách thông công giữa con người đang sống nơi thế giới hữu h́nh, với các Đấng Thần Thánh Tiên Phật ở trong thế giới vô h́nh.
Để chứng minh rằng: Có sự hiện hữu của thế giới vô h́nh, có sự hiện hữu của Đấng Thượng Đế và các Đấng Thần Thánh Tiên Phật, và có sự hiện hữu của Linh hồn của con người.
Con người khi thể xác chết đi, không phải là mất hết, mà c̣n có linh hồn tồn tại. Linh hồn xuất ra khỏi xác để chuyển sống trong thế giới vô h́nh. Chính thế giới vô h́nh nầy điều khiển thế giới hữu h́nh.
Phong trào Thần Linh Học thế giới khởi đầu xuất hiện tại Hoa Kỳ vào năm 1847, tiểu bang New York, nơi nhà của Ông Veekman trong một nông trại tại Hydesville.
Hằng đêm, Ông Veekman nghe có tiếng đập cửa hay tiếng gơ vào vách, nhưng khi mở cửa ra xem th́ không thấy ai cả, làm cho gia đ́nh Ông hoảng sợ, cho là có hồn ma phá khuấy, nên không dám ở đó nữa, phải trả nhà dọn đi nơi khác ở.
Sau đó có gia đ́nh Ông thợ may nghèo tên là John Fox đến mướn ở. Mấy tháng đầu, Ông Fox chẳng thấy chi lạ cả, nhưng thời gian sau th́ hiện tượng gơ cửa hay đập vách lại xảy ra, và đặc biệt ban đêm, đồ đạc trong nhà tự nhiên xê dịch chỗ này qua chỗ khác.
Ban đầu, Ông bà Fox cũng hoảng sợ, nhưng thấy các hiện tượng lạ này không có phương hại chi đến gia đ́nh nên ông bà bỏ qua không để ư đến nữa, dần dần rồi cũng quen với các hiện tượng kỳ bí đó. Ông bà Fox có hai đứa con gái, đứa lớn tên Margaret mười lăm tuổi và đứa nhỏ tên Kate mười hai tuổi.
Một hôm, Ông bà Fox định đi ngủ sớm, nên không để ư đến tiếng đập vách. Khi vào pḥng ngủ th́ Kate c̣n thức và vỗ tay chơi. Liền sau đó, bà Fox nghe có tiếng gơ vách lại. Cô bé vỗ tay ba tiếng th́ có ba tiếng gơ vách đáp lại
Bà Fox nói thử: Hăy gơ mười tiếng coi.
Liền đó có mười tiếng gơ vách đáp lại.
Bà Fox kinh ngạc nói tiếp: Nếu linh hiển hăy gơ đúng tuổi của Kate.
Liền đó tiếng gơ đáp lại đếm đúng mười hai tiếng.
Bà Fox lại nói: Nếu là người thật th́ gơ một tiếng trả lời.
Hoàn toàn yên lặng.
Chờ một chút. Bà Fox nói tiếp: Nếu là linh hồn th́ gơ hai tiếng trả lời.
Tức th́ có hai tiếng gơ đáp lại.
Hiện tượng lạ lùng này ngày hôm sau được lan truyền ra khắp nơi rất nhanh, khiến nhiều người hiếu kỳ tấp nập đến xem. Giới tu sĩ, giới khoa học, đều t́m đến tận nơi để quan sát, thử nghiệm, nghiên cứu.
Kết quả họ rất ngạc nhiên lẫn kinh sợ, xác nhận hiện tượng kỳ bí có xảy ra thực, nhưng không thể giải thích được sự kỳ bí này.
Sau đó có một nhà nghiên cứu tên là Issa’s Post đến xem, nảy ra sáng kiến là bảo hồn linh gơ theo thứ tự các mẫu tự A. B. C...
Gơ một tiếng là chữ A, gơ hai tiếng là chữ B, gơ ba tiếng là chữ C..v..v..để sau đó ráp lại thành câu văn mà nói chuyện với nhau. Vong linh liền gơ hai tiếng để tỏ sự đồng ư .
Thế là nhờ phương cách này, tuy mất nhiều thời giờ, nhưng Ông Issa’s Post có thể nói chuyện được với hồn linh. Ông được hồn linh trả lời nhiều điều mà trước đây, không ai có thể biết được về thế giới vô h́nh.
Nhờ phương pháp này, Ông Fox nói chuyện được với hồn linh. Hồn linh cho biết khi c̣n sống tên là Charles Haynes, góa vợ có năm con, làm phu khuân vác đă bị chủ nhà trước giết chết, xác được chôn trong hầm của nông trại. Hồn linh cũng cho biết tên của ông ta, là người đă ở kế căn nhà này hai năm về trước.
Ông Fox đào thử trong hầm của nông trại th́ t́m thấy được: một mớ vôi, một mớ than, nhiều mảnh chén bể, một nắm tóc, vài khúc xương, một miếng giống như óc. Ông Fox rất ngạc nhiên và hoảng sợ. Lối xóm đồn ầm lên là gia đ́nh Ông Fox nói chuyện được với hồn ma.
Báo chí hay tin liền cử người đến quan sát, rồi đăng tin lên báo, khắp nước Mỹ đều hay biết. Giới tu sĩ và giới trí thức rất chú ư hiện tượng bí ẩn nầy.
Hậu quả của việc thông linh nầy là gia đ́nh Ông Fox không làm ăn ǵ được cả, nên phải dọn nhà đi nơi khác ở. Giáo hội Méthodiste (Église Méthodiste) thuộc đạo Tin Lành trục xuất ông bà Fox ra khỏi Giáo hội.
Ông Fox đưa gia đ́nh đến ở Rochester, là nơi đông đúc dân cư, tránh khỏi khu vực đó, nhưng hồn ma Charles Haynes cũng theo gia đ́nh Ông Fox đến Rochester.
Hai chị em Margaret và Kate phải làm trung gian để những người sống, muốn nói chuyện với linh hồn ông Haynes.
Rất nhiều người trước đây không biết ǵ về hồn ma và cũng không tin có ma, nay chứng nghiệm được hiện tượng hiển nhiên như vậy, th́ họ rất tin tưởng và cũng trở thành Đồng tử, giống như hai cô gái Margaret và Kate.
Nhiều cuộc tŕnh diễn được tổ chức trước công chúng, kết quả rất tốt đẹp, khiến nhiều người phải xác nhận có linh hồn, người chết th́ thể xác tiêu tan, nhưng linh hồn vẫn tồn tại nơi thế giới vô h́nh.
Tiếng tăm của gia đ́nh Ông Fox nổi bật giữa quần chúng nước Mỹ. Báo chí Mỹ không ngớt tường thuật tỉ mỉ các buổi thông linh này.
Hội Đồng Thành phố Rochester thành lập Ban điều tra đặc biệt nầy về hiện tượng thông linh này. Sau mấy năm nghiên cứu, ba lần họp, có đến hàng trăm diễn giả thuyết tŕnh, tranh luận sôi nổi, nhưng chưa đạt được một kết luận dứt khoát nào.
Sau gia đ́nh Ông Fox, hiện tượng thông linh “gơ cửa hay gơ vách” vẫn tiếp tục xuất hiện ở nhiều nơi trên đất nước Mỹ.
Luật Sư J. Edmonds, Giáo Sư E. Mapes thuộc Hàn Lâm Viện Hoa Kỳ, Giáo Sư Robert Hare tại Đại Học đường Pensylvania, sau nhiều năm nghiên cứu, thông công được với nhiều người trong thế giới vô h́nh, đă có những kết luận rất xác đáng, nên tổ chức các buổi thuyết tŕnh, viết ra nhiều sách để phổ biến, xác nhận sự hiện hữu của linh hồn và của thế giới vô h́nh.
Năm 1852, một Hội Nghị Thần Linh Học (Congrès Spirite) đầu tiên được tổ chức tại Cleveland nước Mỹ.
Năm 1854, số người theo Thần Linh Học ở Hoa Kỳ lên đến con số 3 triệu người, trong đó có hơn mười ngàn Đồng tử. (la naissance du spiritisme)
Nhàn cư đạo sĩ
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 605 of 1439: Đă gửi: 29 May 2010 lúc 1:37am | Đă lưu IP
|
|
|
TÊN TRỘM VÔ H̀NH
Nam là một sinh viên năm thứ tư ngành hóa học của đại học kỷ thuật Phú Thọ Saigon. Chàng rất giỏi về việc nghiên cứu và điều chế các hợp chất hóa học.
Một buổi tối trong khi pha chế các chất hóa học theo một công thức mà do tự chàng t́m ra, một chất kết tủa màu vàng óng ánh hiện ra dưới đáy của ống nghiệm. Trời đă về khuya và cũng không biết đó là chất ǵ chàng cất cái lọ vào tủ và ra về.
Bù đầu trong các việc nghiên cứu khác, chàng quên bẳng cái lọ đó đi! Một buổi tối, chàng ở lại để làm thí nghiệm trên con chuột bạch. Nam t́m kiếm các vật dụng trong tủ th́ vô t́nh thấy cái lọ chứa chất màu vàng kia! Tiện tay chàng lắc lắc rồi đặt vào trong cái khung chuồng có con chuột và tiếp tục t́m kiếm vật cần dùng.
Khi quay lại chổ làm việc th́ cái lọ đă bị đổ, chất hóa học vàng kia văng văi trong khung và bóng con chuột th́ biến mất dạng, t́m quanh quẩn cũng chẳng thấy nó đâu cả.
Buồn rầu Nam dọn dẹp chuồng cho sạch để đi về, bổng chàng nghe có tiếng chuột kêu chút chít ngay trong khung! Nhưng bóng h́nh chuột th́ vẫn bặt tăm! Có lẽ ta nghe lầm...
Nam tự nhủ rồi ra về! Tối hôm sau trở lại pḥng thí nghiệm th́ lạ thay con chuột đang chạy loanh quanh trong khung chuồng, Nam rất ngạc nhiên, nhưng là một người theo khoa học chàng luôn suy luận sự kiện một cách khoa học!
Nam suy rằng có thể v́ lư do ǵ đó mà con chuột đă trở nên vô h́nh chăng!? Chợt nhớ tới lọ có chất kết tủa màu vàng bị đổ văng văi ra chuồng hôm qua! Có thể đây là đầu mối chăng.
Nghĩ là làm, Nam bèn lấy một ít chất đó cho con chuột ăn thử. Kỳ diệu thay con chuột từ từ biến mất ngay dưới mắt chàng. Quá mừng rỡ v́ vô t́nh chàng đă chế ra được thuốc tàng h́nh! Nam ngồi đợi chừng một giờ sau, con chuột lại từ từ hiện ra lại nguyên h́nh.
Nắm được bí quyết của loại chất siêu việt này, Nam nghiên cứu liều lượng một cách kỹ lưỡng và thí nghiệm trên con chuột bạch trong suốt hai tuần liền! Cuối cùng chàng nắm vững được liều lượng thuốc để có thể tàng h́nh trong một thời gian như ư chàng muốn!
Nam tuy rất giỏi nhưng cũng giống như các thanh niên trẻ khác. Có tính hiếu danh. Tuy đă chế được thuốc rồi nhưng Nam không cho một ai biết về việc này hết! V́ tính háo danh muốn được nổi tiếng và làm những việc cho thiên hạ rối đầu, nên Nam quyết định dùng thuốc ấy trên chính bản thân ḿnh.
Anh cẩn thận uống một liều thuốc nhỏ để thử nghiệm, xong rồi đứng trước gương để xem kết quả. Chỉ một phút sau bóng anh trong gương đă biến mất, Nam đi tới đi lui trong pḥng và th́nh ĺnh nhà bị cúp điện. Nam ṃ mẫn t́m đường trong bóng đêm, khi điện sáng trở lại, Nam thấy ḿnh đang đứng ở ngoài sân.
Sao lại lạ thế này, Nam nghĩ thầm rỏ ràng ḿnh đang ở trong nhà mà! Nam nhắm mắt quay ngược lại ṃ mẫm cố nhớ lại lối mà ḿnh đă đi! Mở mắt ra chàng đă ở trong nhà.
- Chúa ơi! Tôi có thể tàng h́nh và đi xuyên qua được cả tường gạch nữa! Nam mừng rở thốt lên.
Ngay tuần sau Nam thực hiện ngay ư định làm cho mọi người. Nhất là cảnh sát rối đầu chơi. Đêm về, Nam dùng thuốc tàng h́nh rồi đi xuyên qua tường các tiệm bán kim cương, lấy những hột to nhất rồi trở ra mà không một ai biết.
Dù là tiệm nào cũng có gắn máy thu h́nh và hệ thống báo động! Hôm sau tin trộm viếng các tiệm hột xoàn được đăng trên trang đầu. Cảnh sát và các thanh tra không sao t́m ra dấu vết của tên trộm.
Cứ thế Nam trộm tiệm này qua tiệm khác, rồi tỉnh này qua tỉnh khác ! Chính phủ đă phải huy động một lực lượng lớn của ngành cảnh sát để lo điều tra vụ này. Nhưng cũng không đi đến đâu!
Tivi, đài phát thanh và báo chí tặng cho Nam cái biệt danh "tên trộm vô h́nh!" Nam thích thú lắm, nhưng cái tính háo danh vẫn rất mạnh trong người, chàng nghĩ họ gọi ta là "tên trộm vô h́nh" nhưng họ có biết ta là ai đâu.
Thế là hôm sau Nam dùng điện thoại công cộng gọi đến các văn pḥng nhà báo, đài truyền thanh, truyền h́nh tự xưng ḿnh là "tên trộm vô h́nh!" Điều mà Nam nhận được chỉ là những cái cười chế giễu từ các nhân viên làm việc mà thôi.
Giận lắm, Nam gọi tới sở cảnh sát đô thành Saigon cho biết là mười một giờ khuya đêm nay, chàng sẽ vào trộm "Tín Nghĩa Ngân Hàng" và thách các nhân viên chức trách về việc ngăn chận vụ trộm tối nay.
Tuy không biết thật hư ra sao, nhà chức trách cũng
phái một lực lượng hùng hậu cảnh sát, quân cảnh và có cả quân khuyển (K9 unit) tới canh giữ chung quanh và bên trong Tín Nghĩa Ngân Hàng.
Giữ đúng lời hứa, Nam uống thuốc rồi tới địa điểm. Không một ai phát giác ra chàng. Các con chó ngửi ngửi hít hít chạy trước các vị cảnh sát. Trông ai nấy đều có vẻ căng thẳng lắm, Nam b́nh thản đi xuyên qua tường vào trong và nhẹ nhàng tḥ tay xuyên qua tủ sắt, lấy ra những cọc tiền giấy năm trăm.
Xong xuôi chàng nhẹ nhàng xuyên qua tường mà về nhà. Nam cảm thấy thoải mái lắm v́ cả trăm cảnh sát và hàng tá chó bẹt-giê cũng chẳng ngăn cản được chàng, ngày hôm sau, tin "tên trộm vô h́nh" chơi cảnh sát một vố đau điếng, được đăng tải trên toàn trang nhất của tất cả các báo trong nước, đài truyền thanh
truyền h́nh loan tin từng giờ. Nam hảnh diện lắm nhưng cơn háo thắng trong ḷng Nam vẫn chưa nguôi. Phải làm sao cho họ biết "tên trộm vô h́nh" chính là ta đây "Nguyễn Hoàng Nam". Nam gửi ảnh và tiểu sử của ḿnh về các nhà báo lớn yêu cầu họ loan báo cho mọi người biết.
Chính anh đă sáng chế ra thuốc vô h́nh, có thể đi xuyên qua tường, sẽ vào hốt hột xoàn tại tiệm hột xoàn "Thủ Đô!" Nói là làm, tối đó anh hốt một số lớn hột xoàn trong tiệm đó mà không ai bắt được anh cả.
Báo chí liền đăng h́nh và tiểu sử của Nam lên trang nhất, các đài b́nh luận về các khám phá của anh trong ngành hóa học. Nhưng than ôi cũng v́ ngựa non háo thắng, nên cảnh sát bây giờ nắm đầy đủ hồ sơ lư lịch của Nam. Họ phái người lùng kiếm anh khắp nơi, chổ công cộng nào cũng có treo h́nh anh với một số tiền thưởng khổng lồ.
Đi đâu Nam cũng phải hóa trang, đeo kính đen, tóc giả, và thay đổi chổ ở liên miên, nhiều khi anh phải dùng thuốc tàng h́nh, để ra ngoài không ai thấy anh.
Sống chui sống nhủi như vậy một thời gian, Nam quyết định làm một mẻ lớn rồi dông ra ngoại quốc sống hưởng nhàn. Hôm đó anh đi uống rượu hơi quá độ lại dầm ngoài mưa lâu, nên khi về đến nhà Nam cảm thấy mệt mỏi lắm, h́nh như bị cảm mưa th́ phải.
Nhưng v́ lỡ hẹn với bọn dẫn đường vượt biên giới là ngày mai sẽ lên đường. Nam uống một liều thuốc rồi đi về phía "Ngân Hàng Quốc Gia" và xuyên qua bức tường bê tông dầy cộm, bề ngang dầy một thước.
Lần vào Nam đă cảm thấy hơi khó khăn khi xuyên qua bức tường, nhưng không sao miễn vào trong là được rồi. Nam tḥ tay vào tủ sắt chứa bạc Đô La Mỹ, móc ra mấy trăm xấp giấy một trăm. Nam lần trở ra và khó khăn lắm chàng mới xuyên vào được bức tường!
Nhưng khi vào trong tường rồi th́ Nam kiệt sức, cố vùng vẫy để chui ra ngoài đường. Nhưng hởi ôi sức người có hạn, Nam không sao thoát ra khỏi bức tường dầy oan nghiệt đó. Nam cùng túi tiền bị sức ép của các viên gạch tiêu biến thành bụi đỏ trong tường.
Hôm sau các báo đăng tin "tên trộm vô h́nh" đă làm một mẻ rất lớn tại Ngân Hàng Quốc Gia, số tiền mất lên đến mười triệu Mỹ Kim. Nhưng từ đó về sau không ai thấy tăm hơi của "tên trộm vô h́nh" nữa . Dần dần "tên trộm vô h́nh" cũng đi vào quên lăng, như thân xác Nam đă ḥa biến trong bức tường kia!
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 606 of 1439: Đă gửi: 29 May 2010 lúc 1:38am | Đă lưu IP
|
|
|
MẢNH ĐẤT BỊ NGUYỀN RỦA
Ngoại ô vùng Houston Texas, nước Mỹ có một khu vực đầy rẫy những ngôi nhà bị bỏ hoang. Hàng loạt tai họa liên tiếp giáng xuống khiến người ta không tài nào hiểu nổi, chuyện ǵ đă xảy trên khu đất này.
Vào đầu những năm 1980, hai vợ chồng Sam và Judith Haney đă đến định cư tại đây. Mr.Sam kể lại quăng thời gian đó:
- Khi tôi nh́n thấy ngôi nhà ở Newport, tôi nhận ra nó chính là ngôi nhà mà chúng tôi đang t́m kiếm. Khi có được nó, chúng tôi đă dự định là sẽ ở lại đó trong một thời gian dài.
Lúc đó đôi vợ chồng không nghĩ rằng, ngôi nhà hoàn hảo của họ lại ẩn chứa một bí ẩn đáng sợ, thứ mà sau này đă khiến hai vợ chồng nhà Haney, phải sống trong những cơn ác mộng, hết đêm này đến đêm khác.
Sam nói rằng mọi chuyện bắt đầu, khi một người đàn ông xuất hiện bên cửa sổ ngôi nhà, và đưa ra lời cảnh báo.
- Người đàn ông có tuổi đó nói với chúng tôi rằng, sau sân nhà chúng tôi có một số vấn đề mà vợ chồng chúng tôi cần phải biết. Tôi đi theo người đàn ông. Ông ta dắt tôi ṿng quanh sân sau và dừng lại tại một khu đất.
Ông ta nói rằng từng có một nghĩa địa nằm ở ngay chỗ đó. Ông ta c̣n đánh dấu giúp tôi vị trí của nó. Lúc đó tất nhiên tôi cũng không để ư lắm đến câu chuyện của ông lăo. Tôi cứ nghĩ chắc ông này đang đùa.
Để kiểm chứng lời nói của ông lăo, Sam quyết định dùng một cái cuốc để kiểm tra. Chỉ sau vài nhát xới, ông đă chạm phải vật ǵ đó.
- Tôi dừng việc đào xới lại, cúi xuống và dùng tay ḿnh bới chỗ đất ra. Tôi và ông lăo t́m thấy một tấm bảng mục nát. Khi nhấc nó lên, chúng tôi nh́n thấy cài ǵ đó giống như một bộ xương người. Và trực giác đă đúng, đó chính là một bộ hài cốt của người chết.
Sam ngay lập tức gọi quận trưởng và điều tra viên để kiểm tra chuyện này. Phần lớn số xương ở trong mộ đă hóa thành bột. Có hai mươi lăm mảnh xương được t́m thấy, chúng ḍn tan và vỡ ngay khi bị chạm vào.
Ngay gần chỗ t́m thấy ngôi mộ đầu tiên, Sam t́m thấy một ngôi mộ thứ hai. Ngôi mộ này c̣n khá nguyên vẹn. Bên trong mộ, Sam t́m thấy hai chiếc nhẫn cưới được đeo trên ngón tay của một bộ xương. Bà Judith Haney, vợ ông Sam nói:
- Thật đáng sợ với ư nghĩ rằng ḿnh đă xâm phạm tới nơi yên nghỉ của một người nào đó.
Vợ chồng nhà Haney quyết định t́m hiểu xem ai là người đang nằm trong khu mộ, hay nói cách khác là ngay sau nhà ḿnh. Cuộc điều tra dẫn họ tới gặp một người, đó là Jasper Norton, một người dân địa phương đă ở vùng này từ rất lâu.
Ông Norton đă từng đào mấy cái một ở khu vực này. Norton cũng kể cho hai vợ chồng Haney biết rằng nhà của họ, và nhiều nhà khác ở đây đều được xây dựng trên một nghĩa trang dành cho người Mỹ gốc Phi, có từ rất lâu về trước.
Lễ an táng cuối cùng của nghĩa trang diễn ra vào năm 1939, lúc đó đă có khoảng sáu mươi người được đưa xuống mồ. Hai người nằm sau sân nhà Haney là Betty và Charlie Thomas. Họ chết trong những năm ba mươi và mộ của họ thậm chí đă bị bỏ quên.
Judith và Sam Haney sau khi nghe thấy câu chuyện trên, đă đưa ra một quyết định táo bạo. Họ đem chôn lại hai bộ xương xuống dưới sân nhà ḿnh, cầu nguyện mong hai người quá cố kia yên nghỉ. Nhưng xem ra mọi chuyện không đơn giản như vậy. Bà Judith kể:
- Có cái ǵ đó gơ của pḥng ngủ của tôi hàng đêm. Có lần nó lóe lên thành một thứ ánh sáng xanh ma quái.
Một đêm khác, khi ông Sam phải đi làm đêm và để lại Judith ở nhà một ḿnh:
- Tôi nghe có tiếng mở cửa và nghe thấy giọng nói cất lên, tôi tưởng đó là Sam hỏi:
- Judith đang làm ǵ thế?
Rồi bỗng chỗng mọi thứ im ắng. Tôi ra kiểm tra và thấy cửa vẫn khóa. Không thể diễn tả lúc đó tôi sợ đến thế nào. Nhưng mọi thứ chưa kết thúc ở đó. Sáng hôm sau, khi tôi ngủ dậy, tôi phát hiện đôi giày đỏ ḿnh vẫn hay đi đă biến mất. Không có lời giải thích nào cho chuyện này.
Sam nối tiếp câu chuyện của vợ:
- Tôi quyết định đi t́m đôi giày giúp cô ấy. Tôi đi khắp nơi trong nhà, lục lọi mọi vị trí, những nơi cô ấy hay để quên đồ. Nhưng rồi khi tôi đi ra sân, tại vị trí hai ngôi mộ, tôi nh́n thấy đôi giày đang nằm ở đó. Có ai đó đă đặt chúng ở đó, ngay ngắn cạnh nhau, ngay trên hai ngôi mộ.
Sau vụ việc đó, hai vợ chồng nhà Haney vô cùng hoảng sợ. Nhưng họ vẫn cố gắng trấn tĩnh và nghĩ rằng có thể đây chỉ là chuyện trùng hợp. Tuy nhiên, sau khi t́m hiểu, Sam mới biết rằng cái ngày mà vợ ḿnh mất giày, chính là ngày sinh nhật của bà Betty Thomas.
- Khỏi phải nói tôi cảm thấy thế nào. Như thể là ông Charlie mang nó ra làm quà cho vợ ḿnh vậy.
Sam kể. Judith tiếp tục:
- Tôi nhận ra có điều không ổn. Chắc chắn việc động chạm vào mồ mả của hai người đă gây nên chuyện này. Tôi đă nghe thấy những tiếng kêu than ai oán của hai vợ chồng họ:
- Thế này thật không công bằng...
Cùng thời điểm đó, một loạt các ngôi nhà ở cùng khu với nhà Haney, cũng ghi nhận việc các thiết bị điện trong nhà cứ tự động bật sáng rồi tắt, sáng rồi tắt, những âm thanh không rơ nguồn gốc, và những h́nh bóng ám ảnh ma quái.
Hàng loạt bí ẩn này dẫn chúng ta đến với bi kịch của gia đ́nh thứ hai...
Cũng như vợ chồng Haneys, vợ chồng Ben và Jean Williams cứ ngỡ rằng, họ đă t́m được thiên đường thực sự của ḿnh, khi chuyển nhà tới đây. Nhưng họ đă nhầm.
- Mọi thứ thật kỳ lạ. Khi tôi đi mua về mấy cái cây nhỏ và trồng, chúng không tài nào sống được, dù cho tôi làm đủ mọi cách. Không hiểu sao tôi lúc nào cũng có cảm giác nơm nớp lo sợ. Tôi cảm giác thấy có cái ǵ đó vô cùng tồi tệ sắp xảy đến... Bà Jean nhớ lại.
Gia đ́nh Williams đă cảm nhận đúng. Hai vợ chồng họ đă há hốc mồm khi nh́n thấy những luống hoa của ḿnh tự nhiên mọc thành h́nh…cỗ quan tài. Người chồng thử phá bỏ luống hoa đó xem thế nào. Vài ngày sau, chỗ hoa lại mọc lại theo đúng vị trí như thế, vẫn h́nh một cỗ quan tài.
Cùng thời gian, người cháu gái có tên Carli quyết định tới sống cùng họ. Trong mùa hè nóng nực đó, Carli kể rằng cô bé ngă vào một bọc ǵ đó, tỏa ra khí rất, rất lạnh.
- Nó rất lạnh, cháu cảm thấy có cái ǵ đó rờn rợn, hay đại loại như thế. Dù là bất cứ ở nơi đâu trong ngôi nhà, cháu cũng có cảm giác ai đó bám theo ḿnh. Thật đáng sợ nếu phải ở trong nhà một ḿnh. Lúc xả nước, cháu có thể nghe thấy trong nó có tiếng người đang nói chuyện.
Jean Williams hiểu ra ngay vấn đề đến từ những ngôi mộ kia. Nhưng rồi hai vợ chồng căi nhau trong việc có hay không nên ra đi. Một mặt họ không muốn ở lại ngôi nhà ma ám, mặt khác họ lại không có đủ tiền mua nhà mới.
- Tôi quay về nhà sau giờ làm việc. Tôi đi thẳng vào pḥng ăn, mở tủ lạnh và giật bắn ḿnh khi những ǵ tôi trông thấy là hai…bóng ma.
Chúng lập tức lao ra, xông về phía pḥng làm việc của tôi. Rồi chúng lao về phía vợ tôi. Chúng không làm ǵ cô ấy. Nhưng cái cảm giác lạnh giá khi tiếp xúc với chúng th́ đến giờ tôi vẫn c̣n nhớ. Ông Ben Williams kể.
Trở lại với hai vợ chồng Haney, gia đ́nh nhà Haney đă quyết định đi kiện người xây dựng ngôi nhà. Nhưng tiền đền bù chả được bao nhiêu, mà chi phí kiện th́ rất cao. Cuối cùng, họ đành ngậm ngùi chấp nhận “vừa mất nhà vừa mất tiền.”
Gia đ́nh Williams cũng chả khá khẩm ǵ hơn. Họ không đưa ra được bằng chứng thuyết phục. Mọi việc đâu lại hoàn đó. Để chứng minh rằng có một nghĩa địa dưới nhà ḿnh, Jean quyết định tự tay đào bới.
Nhưng ngay sau khi đào xới khu mộ, Jean bị ốm. Người con gái của Jean cũng giúp mẹ hôm đó cũng ốm.
Cô con gái của Jean bị nặng nhất. Cô bé bị mất kiểm soát. Đôi mắt trở nên dữ tợn, miệng liên tục la hét. Rồi điều kinh khủng nhất đă xảy ra. Cô con gái của bà Jean qua đời sau một cơn đau tim.
Sau tất cả những chuyện xảy ra, gia đ́nh Wiliams, Haney hay bao gia đ́nh khác đều chọn phương án ra đi. Họ không quan tâm xem ḿnh mất những ǵ, miễn là t́m lại được cuộc sống hạnh phúc xưa kia.
Và khu đất bị bỏ trống với rất nhiều ngôi nhà hoang. Đến nay vẫn chưa một ai đưa ra được lời giải thích cho những câu chuyện kỳ lạ.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 607 of 1439: Đă gửi: 29 May 2010 lúc 1:38am | Đă lưu IP
|
|
|
VIẾNG THĂM ĐỊA GIỚI
Vào một chuyến đi công tác cách đây nhiều năm, tôi cùng Toni là người hướng dẫn đạo cho tôi, và T. Thông ở một khu Du lịch tại Bờ Biển Ninh Chữ, Phan Rang. Tại nơi này chư vị dẫn tôi đi viếng thăm địa giới, để tôi làm quen và sau này làm việc với các linh hồn ở âm phần vào ba tháng sau.
Tôi được chư vị dạy rất nhiều qua linh ảnh, thấy cơi giới siêu h́nh bằng mắt thứ ba vào ban ngày, ban đêm th́ lại thấy trong giấc mơ để rèn cho tôi ḷng dũng cảm, can đảm khi tiếp xúc với vô h́nh, v́ bản thân tôi lúc đó rất nhát gan và sợ ma.
Vào cái ngày thứ tư, khoảng bốn giờ chiều hôm đó, tôi đang nằm ngủ trong khách sạn. Trong giấc ngủ say, chợt từ trên đầu giường xuất hiện một vầng ánh sáng chói loà. Tai tôi nghe một tiếng nổ rất lớn làm tôi giật ḿnh thức dậy.
Tôi nh́n thấy hai Chư vị đi lên từ ḷng đất và qua một cái miệng hang đến trước mặt tôi, hai vị xưng tên là Chư vị Song Vương. Họ mặc quần áo màu đen theo kiểu Trung Quốc cổ xưa. Tóc búi lên. Hai vị có gương mặt rất sáng và hiền lành. Chư vị gọi tôi chuẩn bị đi âm giới.
Tôi gọi Toni và T. Thông tỉnh dậy và nói lại linh ảnh vừa rồi. Sau đó, chúng tôi ba người đi đến ngồi trong một cái cḥi ở băi biển. Chư vị Song Vương xuất hiện và bên Toni, cũng có các chư vị qua Toni, đưa cho tôi hai tấm thẻ bài siêu h́nh, để sử dụng trong chuyến đi.
Tôi ngồi nhắm mắt, xếp bằng, miệng niệm liên tục Ngũ Bộ Chú. Rồi từ từ, tôi thấy linh hồn của ḿnh bắt đầu rời khỏi thể xác, đứng dậy đi theo Chư vị Song Vương ra băi biển và lên một chiếc canô.
Hữu h́nh của tôi lúc này tuy tay chân cứng đơ không cử động được, nhưng miệng vẫn nói chuyện để diễn tả lại cho Toni và T. Thông quang cảnh trong lúc đi.
Một trong hai vi Song Vương lái canô phóng thẳng ra biển.
Chư vị nói là mượn đường Thủy cung để đi cho nhanh, và cho canô rẽ sóng chạy thẳng xuống dưới ḷng biển. Một lát sau cano dừng lại trước một cái cổng sắt rất lớn. Nh́n giống như cổng thành cổ ngày xưa. Trước cổng có hai vị lính canh mặc áo giáp của thủy cung, trên tay cầm một cây thương.
Vị Song Vương bước xuống canô và nói với tôi đưa một tấm thẻ bài cho vị. Rồi vị đưa tấm thẻ bài đó cho hai vị lính canh. Họ xem qua thẻ bài th́ mở cổng cho chúng tôi mượn đường thủy cung ở địa phận họ mà đi tiếp.
Một lần nữa chiếc ca nô rẽ sóng phăng phăng lướt đi rất nhanh, tôi không kịp nh́n thấy bất kỳ vật ǵ ngoài một màu đen nghịt ở xung quanh. Không bao lâu xuất hiện một cổng thành bằng sắt to lớn trước mắt.
Nơi đây là địa phận âm giới, đập vào mắt tôi cũng là một cái cổng thành bằng sắt rất lớn. Không gian xung quanh rộng mênh mông không cây cối, không có ánh nắng. Mặt đất là một màu nâu.
Chư vị Song vương bước đến gơ vào cổng thành. Có hai vị bước ra chào hỏi. Chư vị Song vương kêu tôi đưa thẻ bài cho hai vị ở đó xem và bàn giao tôi lại cho hai vị đó, chứ không đi theo tôi. Chư vị Song vương nói sẽ đợi tôi ở cổng địa giới.
Tôi theo hai vị vào trong và đi qua một cổng thành nhỏ khác. Nơi đây hai bên tả hửu có một vị ngồi ở một bàn làm việc và được biết đây là cổng thứ nhất của địa phần. Sau khi tŕnh thẻ bài th́ hai vị ở đây tỏ ra nhiệt t́nh đón tiếp, và đưa chúng tôi đi vào cổng số một bằng con đường đá núi.
Hai bên đường có vô số những âm linh tóc tai rũ rượi, mặt mày nhem nhuốc, hôi hám nằm la liệt ḅ và bốc lượm những thức ăn dưới đất. Hai vị cai ngục số một đưa cho tôi một cái thúng có đựng thức ăn, và nói với tôi hăy cùng họ vừa đi vừa rải những thức ăn này xuống đất cho những âm linh, họ tranh nhau những mảnh thức ăn đó.
V́ sao họ đói khát như vậy? tôi được nghe chư vị giải thích nhưng không được nói lại. Chư vị căn dặn tôi chỉ được nh́n và quan sát cho biết, không được động tâm, và những cảnh h́nh ngục tôi cũng không được tiết lộ, chỉ là để tôi biết một chút về h́nh luật ở địa giới mà thôi.
Đi hết cổng này, hai Chư vị đưa tôi đi đến cổng khác, lần lượt đi qua hai mươi ba cổng, mổi cổng đều tŕnh thẻ bài cho vị cai ngục ở đó. Những chỗ giử phạm nhân tội nhẹ th́ ở dưới, nặng th́ ở trên cao. Tôi được đi từ trên cao để nh́n xuống khu này chứ không nh́n đối mặt.
Khi đến một cổng có một phụ nử nhào lên ôm và gh́ chặt chân tôi xin tôi cứu giúp. Hai Chư vị đứng yên nh́n phản ứng của tôi. Thật bối rối, nhưng nhớ lời dặn của Chư vị, tôi liền nói với người phụ nữ đó: Cô hăy khiến cho người nhà t́m đến tôi, tôi sẽ làm lễ điểm đạo cho cô.
Ở trước mỗi cánh cổng địa phần đều có treo một cái bảng ghi những thông tin và tội danh của phạm nhân. Cổng địa ngục thứ mười tám là nơi giam giử những linh hồn nghiệp thức nặng nề. Đường đi đến đó giống như đi trong hang động vách đá núi.
Tôi cảm thấy rất sợ hăi với cái không khí ở đây th́ ngay lúc đó Quan Thế Âm Bồ Tát xuất hiện trong bộ quần áo màu trắng tinh. Có hai vị cai ngục đi theo Ngài. Tôi đảnh lể Ngài và sau đó mạnh dạn bước đi theo. Tôi được biết Ngài xuất hiện nơi này là để hóa độ những âm linh ở đây, hướng về con đường đạo pháp.
Đến cuối đường tôi thấy Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát. Ngài khoác áo cà sa choàng màu đỏ, tay cầm thanh trượng, đứng trên một ṭa sen. Tôi đảnh lễ Ngài Địa tạng và Quan Thế Âm Bồ Tát bước đến chào hỏi ngài.
Ngài Địa Tạng thường xuyên thuyết giảng đạo pháp ở địa ngục thứ mười tám này, để cứu độ cho những âm linh tội lỗi và nặng nghiệp thức kia, và chuyển hóa cho họ hướng thiện.
Trong hai mươi ba cổng địa ngục tôi đă đi qua, từ cổng địa ngục số một đến cổng số mười tám là nơi giam giử và luận tội. Bốn cổng địa ngục c̣n lại là nơi cho những âm linh, sinh sống giống như đời sống trần gian sau khi họ chịu phạt.
Qua khỏi cổng địa ngục thứ mười tám, hai Chư vị để cho tôi đi một ḿnh trong năm cổng c̣n lại bằng thần lực gia tŕ của tôi.
Ở cổng thứ hai mươi mốt, quang cảnh nơi này chỉ một màu vàng úa bao trùm không gian rộng lớn, không có ánh mặt trời nên âm u như buổi chiều tối.
Những người ở nơi này họ sinh sống và làm việc bằng nghề nông. Ấy thế mà tôi lại không nh́n thấy sinh khí của màu xanh mà cây cỏ chỉ toàn một màu vàng úa mà thôi.
Nh́n xa xa mới thấy một vài con người đang mặc quần áo màu nâu sậm gánh một gánh lúa cũng màu vàng úa. Tôi tiếp tục đi tới trước và cảm thấy khát nước. Nh́n từ xa thấy có một ngôi nhà tranh ven đường. Tôi ghé vào đó và xin một ly nước uống. họ cho tôi một cốc nước trắng, uống vào thật đă khát và dịu cả người và tôi lại đi tiếp.
Một lúc sau trời chuyển mưa. Mưa rất lớn và lạnh buốt. Tôi ngửa mặt lên hư không và gọi lớn tiếng báo với Toni là tôi đang gặp khó khăn v́ trời mưa. Tức th́ từ trên hư không có một chiếc dù bay xuống bên tôi, và chiếc dù đó cứ lơ lửng bay theo che mưa gió cho tôi. Mừng quá!
Qua khỏi cổng thứ hai mươi mốt, tôi đi vào cổng địa phần thứ hai mươi hai. Ở nơi này, có nhiều sinh khí hơn những cổng khác. Những âm linh sinh sống, họat động ở cổng này như người trần gian. Mọi thứ đều từ từ, không tất bật, hối hả, không chen lấn, tranh giành. Họ cũng có nhà cửa, phương tiện tương tự như trần gian nhưng không hiện đại bằng.
Ở cổng Địa phần thứ hai mươi ba, là những âm linh được vào lớp để học đạo lư, trước khi họ chuyển kiếp đầu thai. Khi bước ra khỏi cổng số hai mươi ba, tôi nh́n thấy Chư vị Song vương đă đứng đợi sẵn để đưa tôi trở về lại bằng canô.
Tôi đă đi qua hai mươi ba cổng địa giới trong ṿng ba tiếng đồng hồ. Khi Chư vị đưa tôi quay trở về lại, hồn tôi muốn nhập trở vào xác nhưng lại gặp trục trặc không thể vào được.
Tôi cố bước vào xác của ḿnh nhưng nó cứ không ăn khớp, không nhập chung lại với nhau được, bước vào rồi lại ra. Tôi kêu Toni nói tôi không thể trở vào xác th́ Chư vị bên Toni giúp tôi, đưa cho tôi một thẻ bài nửa. Thành công rồi.
Nếu không chắc giờ này tôi vẫn c̣n chu du ở cơi nào đó, chứ không thể ngồi viết lại bài này cho các bạn. Cả chuyến đi và chuyến về của tôi đều thật là khó quên!
Tami
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 608 of 1439: Đă gửi: 29 May 2010 lúc 1:39am | Đă lưu IP
|
|
|
NGŨ BỘ CHÚ
Ngũ Bộ Chú Đă Giúp Tôi Gieo Mạ Trồng Lúa Thành Công.
Tôi là một người con của một xă đảo nghèo nàn thuộc Thành Phố Cát Trắng Qui Nhơn. Ở đây họ sinh sống bằng nghề nuôi trồng Thủy Sản, làm nghề nông hoặc đánh bắt cá biển. Có những năm, người dân ở đây nổi lên giàu có và sung túc nhờ vào cái nghề nuôi tôm.
Ấy thế mà cũng chính cái nghề nuôi tôm đó, đă lấy đi hết tài sản của họ trong những năm mất mùa. Và giờ đây mọi ngành kinh tế ở đây đều tê liệt. Ngành nuôi tôm th́ dịch bệnh hoành hành, cộng thêm thời tiết khó đoán xảy ra mất mùa liên miên. Những nhà đầu tư ở đây hầu như đều mất trắng.
Những năm gần đây, nghề đánh cá biển cũng rất thất bát. Tôm cá ngoài biển dường như chạy trốn đi đâu mất tiêu. Người dân vùng biển nơi này cũng rất khổ sở và có nhiều người c̣n thâm nợ.
Tôi là một thợ may. Donna là người Thầy dạy nghề may cho tôi và cũng là người đă điểm đạo và hướng dẫn tôi trong con đường đạo, tu hành theo giáo Pháp của Thầy già. Cuộc sống của tôi là may vá lẹt xẹt qua ngày và làm nông trồng lúa. Thu thập chẳng được bao nhiêu chỉ đủ chi tiêu qua ngày.
Ngày tôi nhận được lễ điểm đạo, tôi đă nhận được phép lạ thị hiện cho ḿnh. Người tôi có thần lực làm cho tôi di chuyển không kiểm soát được ḿnh, mặt tôi nóng bừng bừng. Mắt tôi nh́n thấy vầng ánh sáng chói lóa cứ lan toả rộng ra.
Thật là một điều kỳ diệu v́ bản thân tôi từ trước đến nay chưa tu theo một pháp môn nào, và cũng không ư niệm về tôn giáo. Thế mà chỉ bằng một phép điểm đạo quá ư là đơn giản niệm ba lần danh hiệu của Quan Thế Âm Bồ Tát, đă giúp tôi chứng nghiệm được sự linh hiển và cảm nhận được sự hiện diện của Thánh Thần.
Từ thời gian tôi nhận được lễ điểm đạo đến nay chỉ hơn một tháng. Trong suốt quảng thời gian đó, tôi luôn hành tŕ nghiêm túc Ngũ bộ chú và nhận được nhiều báo điềm của Thánh Thần hổ trợ cho đời sống của ḿnh rất chính xác.
Cách đây một tuần lễ, để chuẩn bị cho mùa lúa Đông Xuân. Tôi tiến hành công việc gieo giống. Những hạt giống do tôi mua về không được tốt do bị trẩm, khả năng phát triển kém. Thông thường khi gieo giống trong thời gian ba ngày, th́ hạt giống sẽ bắn mầm lên.
Ba ngày trôi qua, không một dấu hiệu màu xanh của sự phát triển hạt giống. Nh́n vào thửa ruộng chỉ toàn đất không là đất. Thật buồn bă và lo lắng. V́ nếu gieo giống không thành công, tôi phải bỏ tiền ra để mua lại hạt giống khác. Số tiền đó đối với tôi mà nói không phải là số nhỏ, trong khi đời sống kinh tế đang gặp nhiều khó khăn.
Chiều hôm đó, tôi trở ra ruộng lần nữa. Tôi chấp tay khấn xin các Chư vị bề trên giúp đỡ cho những hạt giống có sinh khí và mọc lên khoẻ mạnh, chứ đừng nằm chết ở đó. Sau khi khấn xong, tôi vừa tŕ "Ngũ Bộ Chú" và lấy tay tát nước từ mương vào ruộng với mong cầu có sự thay đổi khác.
Hai hôm sau đó tôi trở lại ra ruộng. Một sự ngạc nhiên không phải riêng ḿnh tôi, mà cho cả những người làm ruộng xung quanh. Những hạt giống trên thửa ruộng của tôi mọc lên xanh um tươi tốt.
Trong khi những thửa ruộng khác, có hạt giống tốt hơn của tôi và gieo trước tôi ba bốn ngày lại không phát triển. Và trước đó họ đă gieo giống ba bốn lần đều không thành công, do sự tác động của thời tiết.
Việc này đối với tôi là một phép lạ mầu nhiệm. Thật kỳ diệu.
Nguyễn Thị Thức
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 609 of 1439: Đă gửi: 29 May 2010 lúc 1:40am | Đă lưu IP
|
|
|
NHÀ SƯ "KHẮC" DẤU CHÂN TRÊN VÁN SÀN ĐỀN THỜ
Những dấu chân đă in trên ván sàn đền thờ, khi một nhà sư Trung Quốc cầu nguyện tại đúng một vị trí đó trong suốt nhiều năm qua.
Nhà sư Hua Chi, người được tin là khoảng bảy mươi tuổi, cho hay ông đă quỳ lạy tại đúng một vị trí, suốt nhiều năm qua, khiến dấu chân của ông được in trên sàn gỗ.
Ông Hua Chi và người dân địa phương tin rằng đó là dấu chân của chính ông, do cầu nguyện nhiều năm mà thành.
Nhà sư Chi Hua, cũng là một bác sĩ đông y, đă cầu nguyện tại đây suốt gần hai chục năm qua. Hàng ngày trước khi mặt trời mọc, ông Hua tới ngôi đền, đặt chân vào dấu chân trên sàn và quỳ lạy hàng ngh́n lần.
Ông nói:
- Trong những năm đầu, tôi quỳ lạy từ hai ngàn đến ba ngàn lần một ngày. Nhưng giờ th́ tôi già rồi, và chỉ lạy khoảng một ngàn lần mỗi ngày thôi.
Vào mùa đông, có khi ông Hua chỉ quỳ lạy năm trăm lần một ngày. Bức ảnh được chụp cách đây ba tuần, cho thấy những dấu chân in trên sàn gỗ.
Ông Hua Chi và người dân địa phương tin rằng, đó là dấu chân của ông do nhiều năm cầu nguyện mà thành.
Telegr aph
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 610 of 1439: Đă gửi: 29 May 2010 lúc 1:41am | Đă lưu IP
|
|
|
KHI NGÀI QUAN CÔNG NỔI GIẬN
Câu chuyện này tôi nghe được từ chị Dung, chuyện xảy ra trong nhà của chị ở Việt Nam. Chiều hôm đó ông cậu tôi uống rượu say về nhà, say là chuyện b́nh thường của ông cậu, ông đi tới bàn thờ, trên đó có cái tượng của Ngài Quan Công.
Ông tới đó lấy cái tượng xuống và đi lấy con dao phay mang ra ngoài sân. Ông để cái tượng lên cái miệng giếng, rồi dùng con dao chặt vào cái tượng mấy nhát, vừa chặt ông vừa lớn tiếng nói:
- Sao thờ ông bao lâu nay mà ông không độ cái ǵ hết, cúng cho ông bao nhiêu rồi mà ông không chịu giúp! Từ nay không thèm thờ ông nửa.
Cả nhà nh́n thấy ông như vậy th́ lo sợ, đang định ra khuyên ông, th́ bỗng dưng thấy ông buông dao xuống, rồi nhảy một cái lên trên bờ giếng, mặt ông đỏ rần lên và ông cứ nhảy lên nhảy xuống rất là mạnh mẽ.
Miệng ông th́ la không ngừng:
- Xin Ngài tha tội, xin Ngài tha tội...
Cả nhà hồn vía lên mây sợ ông nhảy té xuống giếng, nên đều quỳ xuống đất để xin Ngài tha cho ông. Được một lát th́ ông té xuống, nằm lăn ra đất. Người nhà phải vực ông dậy và khiêng ông vào trong nhà.
Chị c̣n kể thêm chuyện này:
- Ở bên Mỹ tôi sống một ḿnh, không có bao giờ có bạn hay người thân nào đến nhà chơi hết. Có lần đi làm về nhà, thấy một mớ quần áo mà tôi mắc trên giá áo đều nằm ở dưới đất và được xếp lại gọn gàng.
Tôi nghĩ không ra việc này v́ tánh tôi cẩn thận không có chuyện xếp áo để dưới đất. Tôi lượm lên mấy cái áo và móc lên giá lại. Nhưng ngày hôm sau, đi làm về th́ thấy mấy cái áo đó nằm ở dưới đất giống như hôm trước. Sợ quá nên tôi dọn nhà. Từ đó không có chuyện ǵ xảy ra nửa.
Dianic hi
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 611 of 1439: Đă gửi: 29 May 2010 lúc 1:57am | Đă lưu IP
|
|
|
HÀO QUANG XUẤT HIỆN LẦN BA TẠI
THÁP CHUÔNG CHÙA LINH PHƯỚC
Sáng ngày 16-02-2009 (nhằm ngày 22-01 Kỷ Sửu) một lần nữa, vầng hào quang ngũ sắc lại xuất hiện quanh đỉnh tháp chuông chùa Linh Phước, phường 11 Thành Phố Đà Lạt thời gian từ khoảng 9 giờ 25 đến 12 giờ 15 phút, trước sự chứng kiến của hàng trăm du khách hành hương trong và ngoài tỉnh, cùng với người dân địa phương.
Theo Thượng Tọa Thích Tâm Vị trụ tŕ chùa Linh Phước cho biết:
- Cách đây ba ngày (sáng 13-02-2009 nhằm ngày 19-01 Kỷ Sửu) vầng hào quang ngũ sắc này cũng đă xuất hiện quanh tháp chuông của chùa, từ lúc 8 giờ 30 sáng đến 11 giờ 45 phút, với đường kính lan toả rộng từ 10 đến 50 mét.
Được biết nếu tính từ ngày thành lập chùa (năm 1949) cho đến nay (2009) chùa Linh Phước vừa tṛn sáu mươi tuổi và đă qua năm đời trú tŕ, nhưng đây là lần đầu tiên vầng mây hào quang ngũ sắc xuất hiện quanh khu vực chùa như thế này.
Nhiều ống kính của các loại phương tiện như: Camera, máy h́nh, điện thoại di động đă ghi lại h́nh ảnh đẹp này.
Đại Đức Thích Minh Nguyên TX Ngọc Thanh quận hai Thành Phố Sài G̣n cho biết:
- Đoàn hành hương của chúng tôi gồm có sáu mươi người, khi đến đây tận mắt chứng kiến hào quang ngũ sắc toả quanh tháp chuông chùa Linh Phước, đây là một duyên lành hy hữu cho đoàn.
C̣n chị Nguyễn Thị Duyên Pháp Danh Diệu Hoa th́ hoan hỷ:
- Chính mắt con trông thấy và chụp được hào quang ngũ sắc đẹp lắm, sư cô trong đoàn cũng chụp được một đoá sen màu hồng ẩn trong ṿng hào quang này, con sung sướng chảy cả nước mắt đây thầy ạ.
Anh Phan Văn Thanh ở thôn Tuư Sơn, xă Xuân Thọ cũng đưa cho chúng tôi xem h́nh anh chụp được qua máy điện thoại di động của ḿnh, h́nh một đoá hoa sen màu hồng lẫn trong vầng hào
quang rất đẹp.
Anh Thanh Nhàn hành nghề nhiếp ảnh tại địa phương cho biết:
- Nghe du khách la lên tháp chuông toả hào quang, lúc đó con đang ngồi trong quán cà phê gần đó, vội chạy ra và chụp liền mấy chục tấm h́nh, sau đó đem lên Minilab Shanghai một hiệu rửa ảnh có tiếng ở khu Hoà B́nh Đà Lạt rửa, con đảm bảo h́nh nguyên mẫu không chỉnh sửa ǵ cả (xem ảnh).
Trao đổi với chúng tôi về những tấm h́nh của anh Nhàn được rửa tại đây, chị Thu nhân viên cửa hàng Minilab Shanghai cho biết:
- Cửa hàng rửa theo bản phim của thợ mang đến, chúng tôi không chỉnh sửa ǵ cả, tuy nhiên muốn cho hào quang được rơ hơn th́ nên cho h́nh tháp chuông tối lại một chút …
Chị c̣n nhiệt t́nh đưa chúng tôi vào tận trong pḥng kỷ thuật, để kiểm tra lại h́nh vầng mây toả hào quang quanh tháp chuông chùa linh phước, sáng ngày 19-01 Kỷ Sửu hiện đang c̣n được lưu giữ trong máy vi tính của cửa hàng theo yêu cầu của anh Nhàn.
Hào Quang Xuất Hiện Lần Ba
Đă có hàng trăm người hiếu kỳ bỏ dở buổi tham dự lễ huư nhật của Cố Thượng Tọa Thích Viên Tịnh, tại chùa Trúc Lâm phường chín Đà Lạt, để về chùa Linh Phước phường 11 xem vầng sáng hào quang ngũ sắc, tiếp tục xuất hiện quanh tháp chuông của chùa, từ 10 giờ 15 đến 11 giờ 45 phút, sáng ngày hôm qua 23-01 Kỷ Sửu (tức ngày 17-02-2009).
Nhiều người dân địa phương ở đây mấy ngày qua tận mắt chứng kiến hiện tượng này cho biết:
- Đây là lần thứ ba vầng sáng hào quang ngũ sắc xuất hiện quanh tháp chuông của chùa. Lần xuất hiện thứ nhất vào sáng ngày 19 tháng Giêng Kỷ Sửu từ 8 giờ 30 đến 11 giờ 45, lần thứ hai vào lúc 10 giờ đến khoảng tầm 12 giờ trưa ngày 22 tháng Giêng Kỷ Sửu.
So với hai lần trước th́ hào quang ngũ sắc xuất hiện lần thứ ba này thời gian ít hơn, sự lan toả chu vi bán kính hẹp hơn, nhưng ṿng hào quang ngũ sắc th́ lại rất là đẹp và rơ hơn.
Có mặt tại chùa Linh Phước lúc này, chúng tôi ghi nhận sự có mặt của đông đảo bà con du khách thập phương trong và ngoài tỉnh, trong đó có cả người nước ngoài cũng đến xem rất đông.
Thượng Tọa Thích Tâm Vị trụ tŕ chùa, đang hướng dẫn cho Phật tử đi kinh hành và niệm Phật quanh tầng hai của tháp, c̣n phía bên ngoài tháp chuông vẫn tôn trí một bàn hương án với đầy đủ trầm hương nghi ngút, để bà con đến lễ bái chiêm ngưỡng vầng
sáng của hào quang đang chiếu quanh tháp.
Đại Đức Thích Hạnh Bảo tri sự chùa cho biết:
- Buổi tối Phật tử đến rất đông và thời khoá Tịnh Độ hằng đêm trong chùa, bây giờ được chuyển qua tầng trệt của Bảo Tháp để tụng kinh “Kim Quang Minh” và tŕ chú “Đại Bảo Quảng Bác Lâu Cát Thiện Trụ Bí Mật Đà La Ni”. Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dơi sự kiện này và sẽ thông tin đến bạn đọc ở những bản tin sau.
Được biết tháp chuông chùa Linh Phước được khảm bằng miểng sành với các hoạ tiết hoa văn rất đẹp, bảo tháp cao 37,5 mét gồm bảy tầng:
- Tầng trệt tôn trí hai tượng Hộ Pháp bằng xi măng , mỗi tượng cao 3,5 mét và nặng bốn tấn.
- Tầng hai an trí pháp bảo Đại Hồng Chung nặng 8.500 kg.
- Tầng ba tôn trí tượng Đức Phật Bổn Sư Mâu Ni bằng ngọc nặng 1.500 kg do hội Phật Giáo Miến Điện tặng.
- Tầng bốn tôn trí tượng Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật , bằng gỗ liêm cao 2 mét 8.
- Tầng năm tôn trí tượng Đức Quán Thế Âm Bố Tát bằng gỗ liêm cao 2 mét 5.
- Tầng sáu tôn trí tượng Đức Phật A Di Đà bằng gỗ liêm.
- Tầng bảy tôn trí tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni bằng xi măng cốt thép cao 1 mét 4, nặng 300 kg. Tượng phật này được đúc từ năm 1949 lúc chùa mới khai sơn.
Và bảo tháp vừa được Trung tâm Việt King sách Kỷ Lục Việt Nam, xác lập kỷ lục năm 2008
Linh Toàn
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 612 of 1439: Đă gửi: 29 May 2010 lúc 2:01am | Đă lưu IP
|
|
|
NGƯỜI ĐÀN ÔNG XUẤT HIỆN KHẢ
NĂNG TIÊN TRI THẦN BÍ
Vào ngày 17-9-1975 tại Aiken, Nam Carolina, Dannion Brinkley, hai mươi lăm tuổi, lúc đó đang nói chuyện điện thoại với người bạn Tom Hall. Ngoài trời mưa băo rất lớn. Rồi một tia sét mạnh 180.000 volts đánh trúng Dannion...
Dannion thú nhận rằng hồi c̣n trẻ, anh hơi tự cao tự đại, tự cho ḿnh là trung tâm. Anh cũng rất nóng tính và hay bắt nạt người khác. Trong những phút giây nằm giữa biên giới của sự sống và cái chết, anh lại nh́n thấy tất cả những người từng bị ḿnh bắt nạt. Danion phải đối mặt với tất cả bọn họ.
- Tôi cảm nhận được sự tức giận, đau đớn và nỗi phẫn uất của những người từng bị tôi bắt nạt. Tôi phải tự chất vấn lương tâm của ḿnh. Anh kể.
Dannion được chuyển tới bệnh viện. Trong pḥng cấp cứu, nhịp thở của anh yếu dần, rồi ngừng hẳn. Tom Hall được thông báo rằng bạn của anh đă chết. Nhưng sau đó, chính mắt Tom nh́n thấy xác bạn anh cử động.
- Đang từ một linh hồn, tôi bỗng chốc lại quay về với thể xác. Tôi không thể cử động, không thể nói, không thể làm ǵ.
Điều kỳ diệu đă xảy ra, Dannion Brinkley đă sống lại sau hai mươi tám phút được cho là đă chết hoàn toàn. Sau một tuần ở bệnh viện, Dannion được về nhà. Nhưng anh không thể đi lại hay nói chuyện.
Mắt của Dannion cũng rất nhạy cảm với ánh sáng nên anh phải đeo kính để bảo vệ. Nhưng cũng chính lúc này, anh bắt đầu có khả năng nh́n thấy tương lai. (?)
- Tôi bị liệt bảy tháng. Nhưng những h́nh ảnh về cái cảm giác cận kề cái chết lúc đó th́ theo tôi suốt cả cuộc đời.
Dannion khẳng định ḿnh đă nh́n thấy trước 117 sự kiện. Trong đó, có những sự kiện đáng chú ư như cuộc tranh cử của tổng thống Ronald Reagan, chiến tranh vùng vịnh năm 1991.
Dannion đă kể cho những người bạn của ḿnh về những tiên đoán. Họ xác nhận rằng những lời tiên tri của anh đă đến trước khi các sự kiện xảy ra. Dannion tin rằng chính cái ngày cận kề cái chết năm đó, đă mang lại khả năng đặc biệt này cho anh.
- Tôi thật sự bối rối. Tôi chưa bao giờ biết tới những điều này. Tôi ước ǵ có ai đó có thể giải thích cho tôi biết tại sao tôi lại có khả năng đặc biệt đó. Tại sao hôm đó tôi không chết, mà lại trải nghiệm một cảm giác cận kề cái chết đáng sợ như vậy.
Giáo sư Raymond Moody, một trong những chuyên gia về “trải nghiệm cận kề cái chết” cho biết, những lời kể của anh Dannion rất giống với những lời kể của một số bệnh nhân khác sống lại sau cơn nguy kịch.
Với nỗ lực lư giải khả năng đặc biệt của Dannion, giáo sư William Roll đă thực hiện một loạt các bài kiểm tra. Dannion phải đưa ra lời tiên tri về tám người mà anh chưa từng gặp trước đó.
Theo lời giáo sư Roll, Dannion đă đọc được những chi tiết vô cùng bí mật về đời sống cá nhân và bản thân của tám người trong cuộc kiểm tra. Ông Roll nhận thấy Dannion là người có sức mạnh nhất trong những bệnh nhân mà ông từng gặp.
Nhưng kết quả kiểm tra trên chưa thực sự thuyết phục. Dannion được yêu cầu đưa ra lời dự đoán về một tên sát nhân.
Ngày 12 tháng 8 năm 1993, tại Big Fork Montana, John và Nancy Bosco đă bị bắn chết trong khi đang ngủ. Mọi điều tra của cảnh sát đều không có kết quả. hai tháng sau, mẹ của John đến gặp anh Dannion.
Dannion miêu tả tên sát nhân là một người đàn ông mảnh khảnh, trẻ tuổi với mái tóc đen và có quen biết với nạn nhân John, cùng những thành viên trong gia đ́nh.
Dannion cũng cho biết người đàn ông này đang ở một trường đại học nào đó ở miền Tây. Tuy nhiên, anh ta sẽ nhanh chóng bị bắt vào tháng mười hai.
Không ai có thể tin rằng Dannion đă phán đoán chính xác. Hung thủ chính là một gă trai mười tám tuổi có tên Joseph “Shadow” Clark. Tên này bị bắt đúng tháng mười hai và bị kết tội sau đó.
Clark mang tất cả các đặc điểm ngoại h́nh theo đúng miêu tả của Dannion. Dannion đă đoán đúng cả chi tiết tên này sắp sửa vào đại học ở miền Tây. Vụ án đi đến hồi kết đúng như những lời Dannion tiên đoán.
- Tôi thấy những thứ mà tôi không muốn thấy. Chỉ cần có người lướt qua tôi, tôi lại cảm nhận được. Tôi vừa cố gắng t́m cách để ngưng khả năng của ḿnh đi, vừa t́m cách để phát triển nó. Thật mâu thuẫn.
Dannion Brinkley hiện đang dành phần lớn thời gian tham gia các hoạt động từ thiện. Chính những trải nghiệm cận kề cái chết khiến anh có cách nh́n mới về cuộc sống.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 613 of 1439: Đă gửi: 29 May 2010 lúc 2:03am | Đă lưu IP
|
|
|
NINA NỮ PHÙ THỦY MẠNH NHẤT BÍ ẨN NHẤT
Từ năm 1960 tới 1990, nữ “phù thủy” người Soviet Nina Kulagina đă có hàng loạt buổi biểu diễn chứng minh siêu năng lực có một không hai trong lịch sử: dùng tâm trí di chuyển đồ vật.
Khả năng này đă được các nhà khoa học thời đó kiểm tra bằng vô số các phép thử, ngày càng khó khăn hơn đối với Nina, nhân vật được thử. Kết luận cuối cùng: đây là một khả năng đặc biệt có một không hai trong lịch sử hiện đại.
Tuy nhiên, một số người vẫn tranh căi xung quanh khả năng của nữ phù thủy này. Người ta cho rằng tất cả những phép thuật tâm linh của Nina chỉ là tṛ lừa lọc trắng trợn.
Khi quân Nazis bắt đầu vây hăm Leningrad, Nina chỉ là một cô bé mười bốn tuổi. Như bao đứa trẻ Leningrad khác, cô bé phải nhập ngũ cùng cha, anh và chị gái. Cô tham gia Hồng Quân và được gửi tới mặt trận ác liệt nhất.
Chín trăm ngày chiến đầu dưới cái lạnh âm bốn mươi độ và nguồn lương thực thiếu thốn, nước khan hiếm, điện bị cắt và thành phố th́ đổ nát sau những trận bom của quân Đức, Nina và những đứa trẻ cùng lứa phải trải qua những tháng ngày đen tối nhất trong lịch sử nhân loại.
Quá bé nhỏ trước những hỏa lực của quân phát xít, Nina nhanh chóng bị thương nặng trong khi chiến đấu. Thật may mắn, Nina sống sót sau cuộc chiến thảm khốc và hồi phục. Cô lấy chồng và có con.
Sức Mạnh Tâm Trí
Chính Nina khẳng định rằng cô có một khả năng siêu nhiên. Có những câu chuyện kể lại rằng cô có khả năng nh́n xuyên thấu vào những chiếc túi của mọi người.
Khi gặp người ốm cô có thể biết họ mắc bệnh ǵ. Có một lần khi Nina mở một ngăn tủ trong pḥng, chiếc ngăn tủ bị hỏng rồi văng ra khiến mọi thứ văi ra tung tóe. Nina tỏ ra vô cùng bực tức.
Cùng lúc đó, những ngọn đèn trong pḥng Nina cứ bật rồi tắt, bật rồi tắt liên tục, những đồ vật rơi dưới đất bỗng “nhảy múa”, nói chính xác th́ chúng gắn chặt lấy Nina. Nina phát hiện ra một sự thật kỳ diệu, cô có khả năng điều khiển mọi vật.
Năm 1964, trong khi nằm viện để phục hồi sau một trấn thương tâm lư, Nina may vá giết thời gian. Các bác sĩ đă há hốc mồm khi thấy Nina tḥ tay vào túi khâu, lấy ra cuộn chỉ màu ḿnh muốn mà không cần nh́n. Sau này, những kiểm tra khách quan đă kiểm chứng khả năng đoán màu kỳ lạ của Nina.
Nina cũng được phát hiện có khả năng chữa lành vết thương. Nói một cách chính xác, cô dùng tay làm vết thương liền lại. Các nhà khoa học Soviet đă kiểm chứng khả năng này của cô. Tuy nhiên, v́ những lư do tuyệt mật thời đó, kết quả không bao giờ được công bố.
Quay lại khả năng di chuyển đồ vật của Nina, người ta ghi nhận việc cô phù thủy này, đă dùng tay ḿnh di chuyển những đồ vật cỡ nhỏ trên bà, mà không cần chạm vào chúng. Nhưng việc chuẩn bị rất tốn thời gian, có khi mất hàng giờ đồng hồ.
Nói cách khác Nina nói rằng cô phải xóa hết các ư nghĩ khác khỏi đầu ḿnh, th́ mới phát huy khả năng được. Ngoài ra mỗi lần như vậy cô phải chịu những cơn đau nhức dọc xương sống, mắt cũng mờ đi.
Nhà sinh vật học Edward Naumov đă làm bài kiểm tra với Nina. Ông đổ một hộp diêm ra giữa bàn rồi bảo cô dùng khả năng của ḿnh. Nina dùng tay điều khiển từ xa, tất cả các quy diêm chụm lại với nhau rồi cùng di chuyển về một góc bàn và rơi từng cái một, lần lượt xuống đất.
Người ta bắt Nina phải cho quay phim khả năng bí ẩn của ḿnh. Nina đồng ư, hàng loạt các nhà nghiên cứu và chuyên viên từ các nước kiểm tra khả năng của cô, không ai lư giải nổi sức mạnh ǵ đă đẩy những đồ vật đi, nếu đó không phải là sức mạnh của Nina.
Trong một lần kiểm tra tại Moscow, các nhà khoa học đă đưa một số vật nhỏ vào trong một cái hộp và bảo Nina phát huy khả năng.
Ngay lập tức, những đồ vật trong hộp nhảy từ bên này qua bên kia, không hiểu tại sao. Có lần Nina c̣n khiến một quả bóng bàn bay lơ lửng được trong vài giây.
Theo rất nhiều tài liệu, bác sĩ Leonid L. Vasiliev, một nhà tâm lư tại đại học Leningrad, là người đầu tiên có cuộc kiểm tra chính thức với Nina, và liên tục kiểm tra cho tới khi ông chết 1966.
Những nhà khoa học Soviet khác như Genady Sergeyev, cũng có những nghiên cứu phát hiện “điện” trong năo của người phụ nữ này.
Các nhà khoa học cho một tấm film chưa từng được biết tới, vào một phong b́ đen và bảo Nina hăy lôi vật bên trong ra. Thật kỳ diệu, Nina đă dùng khả năng bí ẩn khiến tấm film phải tự đi ra ngoài.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 614 of 1439: Đă gửi: 29 May 2010 lúc 2:04am | Đă lưu IP
|
|
|
NINA NỮ PHÙ THỦY MẠNH NHẤT BÍ ẨN NHẤT (TIẾP THEO)
Sau hàng loạt những thí nghiệm cỡ nhỏ, các nhà khoa học đă quyết định làm một bài kiểm tra khó hơn với Nina. Nina được yêu cầu... làm tim của một người sống phải ngừng đập. Liệu Nina có chứng minh được khả năng của ḿnh?
Một trong những kiểm tra ấn tượng nhất về Nina có lẽ là bài kiểm tra “tách trứng” của cô. Trong bài kiểm tra, người ta đập một quả trứng rồi thả phần ḷng trứng lên bề mặt một chất lỏng ḥa đầy muối, để giữ cho ḷng trứng nổi.
Phần ḷng trứng này vẫn c̣n nguyên vẹn cả ḷng đỏ ḷng trắng. Từ khoảng cách hai mét, Nina đă điều khiển cho phần ḷng đỏ tách bật ra khỏi ḷng trắng quả trứng trước sự kinh ngạc của mọi người. Sau đó Nina tiếp tục tập trung tinh thần, kéo hai phần ḷng trứng hợp lại với nhau như ban đầu.
Một cuộc kiểm tra kinh điển khác diễn ra tại Leningrad ngày 10-3 năm 1970. Đă chán việc cho Nina di chuyển đồ vật, các nhà khoa học thử Nina với tế bào, mô và các bộ phận sống.
Sergeyev là nhà khoa học đă bảo Nina làm tim một con ếch ngừng đập. Nina tập trung tinh thần và cố thử. Kết quả thật đáng kinh ngạc, Nina có thể điều khiển nhịp tim của con ếch. Cô làm tim con ếch đập nhanh dần, rồi chậm dần, rồi ngừng hẳn khi cô muốn.
Người ta đem một người sống khỏe mạnh ra bắt Nina thử. Năng lực của Nina đă điều khiển được nhịp tim của người này. Thật may mắn là bác sĩ kịp thời ngăn cản Nina. Nếu không có thể bà đă cướp đi sinh mạng của người tham gia thí nghiệm.
Tất nhiên cũng có không ít người không tin vào khả năng của Nina. Nhiều tờ báo nói rằng tṛ “siêu nhiên” của Nina chỉ là tṛ lừa đảo, bà đă giấu thứ ǵ đó trong người nhằm phát từ để điều khiển mọi vật.
Nhưng những bằng chứng thời đó cho thấy các nhà khoa học đă kiểm tra rất kỹ rồi mới cho Nina làm. Người ta c̣n chụp X-quang để chắc chắn rằng Nina không có ǵ bên trong người.
Hơn nữa không thể điều khiền một vật chính xác đến như vậy, nếu dùng một dụng cụ nhét trong người. Nina không đ̣i hỏi ǵ cả. Bà làm với bất cứ đồ vật nào mà các nhà khoa học đưa cho.
Hơn nữa nhiều nhà khoa học đă xác nhận rằng, Nina không hề dùng mánh khóe. Những bài kiểm tra của cô rất khó, nếu không có khả năng thực th́ không thể vượt qua được
Ngoài vấn đề khả năng, Nina c̣n phải đối chọi với những tác dụng phụ, mà năng lực thần bí của ḿnh mang lại. Mỗi lần kiểm tra xong là bà tái mét, mắt lờ đờ, thậm chí không đi nổi v́ kiệt sức.
Có lần kiểm tra xong, người ta cho Nina cân thử th́ thấy trọng lượng của bà sút mất hơn 1,6 kg chỉ trong một giờ. Khi dùng năng lực quá nhiều, Nina mất luôn vị giác, chịu những cơn đau hành hạ và thậm chí quỵ ngă.
Theo một số ghi nhận, có vẻ chính năng lực này đă gây tổn thương của tim của bà Nina. Bác sĩ khuyên bà hăy bớt dùng năng lượng này đi. Nhưng v́ một số lư do, thời đó, bà bị cuốn vào hàng loạt các cuộc kiểm tra và thử nghiệm.
Nina mất năm 1990. Nhiều người lên án chính những cuộc kiểm tra phục vụ mục đích của chính phủ đă khiến Nina kiệt sức mà chết. Trong lễ tang của Nina, chính quyền Soviet phong tặng bà danh hiệu “Anh hùng Leningrad”.
Ngoài ra Nina cũng được ghi nhận là có đóng góp cho đất nước, khi cho các nhà khoa học thực hiện một loạt các kiểm tra như vậy.
Đă mười chín năm kể từ ngày Nina qua đời, có lẽ những bí ẩn về Nina sẽ chỉ dừng lại, ở những tư liệu của chính quyền cũ nơi bà sinh sống. Có thật Nina có sức mạnh không? Từ đâu ra? Đây là những câu hỏi chưa có câu trả lời.
Hết
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 615 of 1439: Đă gửi: 29 May 2010 lúc 2:05am | Đă lưu IP
|
|
|
CON BÚP BÊ BỊ NGUYỀN RỦA NỔI TIẾNG MỌI THỜI ĐẠI
Nó là con búp bê thuộc quyền sở hữu của họa sỹ Robert Eugene Otto (thường được gọi là Robert Eugene Gene). Và nó được coi là nguồn gốc của mọi tai họa giáng xuống những người trong gia đ́nh ông...
Robert là tên của một con búp bê cao hơn 91cm, thuộc quyền sở hữu của họa sĩ Robert Eugene Otto
Chuyện xảy ra vào đầu những năm 1900, khi đó vị bác sĩ giàu có Thomas Osgood Otto, đang sống tại Key West cùng vợ ḿnh, bà Minnie Elizabeth và ba đứa con.
Cậu bé Robert con trai ông (chính là họa sỹ Robert Eugene Otto nói trên) tỏ ra đặc biệt hứng thú với búp bê. Cậu thậm chí c̣n lấy tên ḿnh (Robert) đặt cho búp bê c̣n bắt mọi người gọi ḿnh là Eugene.
Eugene không bao giờ rời ra Robert. Cậu yêu con búp bê đến nỗi mặc cho nó bộ quần áo giống hệt của ḿnh, dành thời gian chơi với nó cả ngày trong pḥng.
Như bao đứa trẻ khác, Eugene cũng nói chuyện với búp bê, rồi tự tưởng tượng ra việc Robert trả lời ḿnh. Người ta thường nghe thấy Eugene hỏi chuyện Robert, rồi tự trả lời bằng một giọng nói khác.
Mọi chuyện tưởng chừng như không có ǵ. Nhưng chỉ một tháng sau ngày Robert xuất hiện, những chuyện kỳ lạ cũng ập tới. Những vật dụng trong nhà tự động bị vỡ hoặc biến mất.
Eugene bỗng nhiên yếu dần đi. Cậu bé trở nên kỳ lạ. Cứ mỗi tối, cậu bé lại lẻn qua cửa sổ và đi lang thang trong đêm. Khi bố mẹ cậu bắt đầu để ư và phàn nàn cũng là lúc họ nhận thấy có chuyện không ổn. Eugene cứ luôn miệng nói:
- Robert làm đấy.
Người ta bắt đầu bàn tán việc chính con búp bê đă gây ra những chuyện này.
XUẤT XỨ CỦA CON BÚP BÊ
Trở lại xuất xứ của con búp bê, có nhiều điểm đáng lưu ư. Eugene là cậu con trai út nên rất được cha mẹ quan tâm. Ông bà Otto đă thuê hẳn một cô y tá người Jamaica để chăm sóc cho cậu.
Người ta kể lại rằng trong khi ông bà Otto bận rộn với công việc th́ chính cô y tá kia là người đă dành hàng giờ chơi với Eugene. Tuy nhiên, cô y tá này không được ḷng bà Otto. Mối quan hệ của họ vô cùng tồi tệ. Bà Otto đă đuổi cô y tá ra khỏi nhà ḿnh.
Trước khi ra đi, cô y tá kia đă tặng cho Eugene một con búp bê tự may mà cậu bé rất thích. Đó chính là Robert.
Về việc Eugene và Robert nói chuyện với nhau. Người ta kể rằng mọi người chưa bao giờ để ư liệu có thực là Eugene tự nói và tự trả lời không. Bởi thực sự hai giọng nói phát ra trong pḥng rất, rất khác nhau.
Ban đầu người lớn tưởng rằng đó chỉ là sự sáng tạo đáng yêu của đứa trẻ. Có lần, khi bà Otto bước vào pḥng, bà thấy con trai ḿnh co rúm người chui vào một góc v́ sợ hăi. C̣n con búp bê Robert ngồi trên một chiếc ghế cao, nh́n xuống cậu bé. Không hiểu sao nhưng vẻ mặt của nó rất dữ tợn, dù cho nó chỉ là con búp bê.
Những đồ thủy tinh và vàng bạc trong pḥng ăn tự rơi vỡ. Quần áo tự bị xé rách. Những bộ chăn đệm tự động co rúm lại, nhàu nát. (?)
Đêm đến, những món đồ chơi yêu thích khác của cậu bé (ngoại trừ Robert) không hiểu sao bị phá hỏng hoặc xé toạc ra. Người ta cứ nghe thấy văng vẳng tiếng cười lạnh lẽo trong những đêm như thế.
Ông bà Otto phạt Eugene v́ cho rằng chỉ cậu bé mới làm như thế. Nhưng câu trả lời vẫn như mọi khi:
- Robert làm đấy.
Tất nhiên hai ông bà Otto chả bao giờ tin cả. Nhưng theo lời khuyên của người cô, họ vẫn lấy con Robert khỏi tay Eugene và vứt lên gác xép. Nhưng rồi tai họa lại ập đến.
Ngay đêm hôm sau, người ta phát hiện ra người cô của Eugene đă chết trong pḥng. Nguyên nhân của cái chết là một cú đánh. Không bao giờ người ta biết ai là thủ phạm.
Nhưng có một điều khiến tất cả đều sợ hăi tột độ. Ngay sau khi người cô chết, con Robert tự động lại tự động quay về vị trí cũ, ngay bên cạnh Eugene...
Cuộc sống của họa sỹ Eugene lúc nhỏ sẽ tiếp tục như thế nào? Tại sao ở cái tuổi trưởng thành mà ông vẫn đem theo búp bê bên người? Cái chết bí ẩn của người vợ liệu có phải do Robert gây ra?
Sau này khi ông bà (bác sỹ) Otto mất đi, Eugene ra sống một ḿnh. Không giống bao chàng trai ở cái tuổi trưởng thành, Eugene vẫn giữ khư khư con búp bê đồ chơi bên ḿnh. Nhưng theo những người bạn của cậu kể lại, không phải là cậu muốn như thế, mà là con Robert không bao giờ cho phép cậu bỏ nó.
Eugene sống trong một căn nhà có tên “Ngôi nhà nghệ sĩ” cùng Robert.
“Ngôi nhà nghệ sĩ" là một địa điểm “ma quái”. Những nhân viên làm việc ở đây đều nói như vậy. Từng có một cặp vợ chồng đến làm thuê cho Eugene nhưng chỉ được một ngày là họ bỏ đi v́ sợ hăi. Có cái ǵ đó đe dọa họ.
Một ngày kia Eugene cưới vợ. Và rồi những chuyện kỳ lạ lại xảy ra. Ngay từ khi cưới nhau, Eugene đă thỏa thuận với vợ là phải luôn cho Robert theo cùng hai vợ chồng.
Cho dù là ngồi ăn, cũng phải để nó ngồi cùng. Nhưng cho dù là thế th́ tai họa vẫn ập tới. Robert chỉ muốn giữ Eugene cho riêng nó. Sau khi cưới, vợ Eugene hóa dại và chết không rơ nguyên nhân. Người ta đồn rằng linh hồn bà đến tận bây giờ vẫn ám ảnh “ngôi nhà nghệ sĩ."
Khi họa sỹ Eugene (tức cậu bé Eugene ngày trước) qua đời, Robert được chuyển tới tay người chủ mới. Người chủ này quyết định cho Robert vào một cái hộp. Nhưng thật khủng khiếp!
Mỗi đêm, ông ta bị ám ảnh cực độ. Đi đến đâu trong nhà ông ta cũng thấy con búp bê Robert. Đến khi người chủ này nh́n thấy con búp bê cười khanh khách, cầm con dao đứng dưới giường của ḿnh, th́ ông ta tin rằng lời nguyền và những câu chuyện là có thực.
Người chủ mới nhanh chóng bỏ đi, c̣n Robert được trao lại cho viện bảo tàng East Martello tại Key West.
Được biết ở “ngôi nhà nghệ sĩ”, dù cho búp bê Robert đă không c̣n ở đó, người ta vẫn thường nghe thấy những tiếng cười lạnh lẽo đáng sợ. Nhiều khách tham quan đều nói như vậ.
Tại viện bảo tàng trông giữ con búp bê, t́nh h́nh cũng chả sáng sủa hơn là mấy. Người ta từng ghi nhận chuyện một nữ khách tham quan thốt lên:
- Ban đầu nó cau mày, rồi sau đấy nó cười, tiếp đến lại chuyển sang một nét mặt hoang dại.(?)
Có những người chụp ảnh con Robert c̣n không hiểu sao ảnh hiện lên chỉ toàn màu đen. Căn pḥng trưng bày Robert lúc nào cũng mang một cái ǵ đó u ám, dù cho người ta khẳng định rằng hệ thống ánh sáng ở đây rất được quan tâm.
Ngày nay, những người làm việc ở viện bảo tàng này vẫn sợ Robert. Chả ai muốn là người cuối cùng ra về vào buổi đêm cả.
Tháng mười hàng năm, người ta hay để Robert vào trong một lồng kính để khách du lịch được chiêm ngưỡng. Người ta c̣n khuyên khi đứng trước Robert th́ tốt nhất hăy giới thiệu bạn là ai.
Một vài người không làm điều này, trong đó có một người phụ nữ sống tại Orlando và bà ta đă phải chịu "hậu quả". Bà kể lại câu chuyện về việc Robert, hoặc cái ǵ đó đại loại thế, đă theo bà ta về tận nhà.
Người phụ nữ này nh́n thấy Robert qua cửa kính pḥng tắm. Rồi căn pḥng ngủ bỗng dưng mất điện cục bộ trong khi những căn pḥng khác có điện b́nh thường.
Robert trở thành con búp bê bị ám nổi tiếng nhất mọi thời đại. Thậm chí có người c̣n làm những phiên bản của nó rồi đem đi bán. Nhưng hầu hết mọi người không khuyến khích chuyện này.
Nếu bạn là người thích khám phá những bí ẩn khó giải thích (ví dụ như chuyện búp bê Robert này) và có cơ hội đến Mỹ, bạn có thể đi tham quan viện bảo tàng nơi Robert đang được trưng bày, để ngắm tận mắt con búp bê lừng danh nhé!
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 616 of 1439: Đă gửi: 29 May 2010 lúc 2:06am | Đă lưu IP
|
|
|
TRỞ THÀNH THẦY THUỐC SAU KHI BỊ SÉT ĐÁNH
Cho đến tháng trước, Mohammad Ponari vẫn chỉ là một cậu bé b́nh thường sống tại ngôi làng Balongsari phía tây đảo Java. Vào cái ngày định mệnh ấy, cậu đang chơi trước sân nhà th́ bất thần bị một tia sét đánh trúng.
Ponari, chín tuổi lăn ra bất tỉnh. Trước sự kinh hăi của bạn bè, một lúc sau cậu ngồi dậy và vẫn b́nh an vô sự. Theo lời kể của trưởng thôn và gia đ́nh, điều đáng kinh ngạc là khi tỉnh lại, Ponari sờ thấy một viên đá cỡ bằng quả trứng nằm trên đầu ḿnh và nói với mọi người rằng cậu có khả năng chữa bệnh.
Cậu bé hàng xóm đang bị sốt cao trở thành bệnh nhân đầu tiên của Ponari. Ponari cho viên đá vào cốc nước và đưa cốc cho bé trai ấy uống. Uống xong cơn sốt biến mất.
Một người hàng xóm khác t́m đến cậu. Người phụ nữ ba mươi tuổi này đă mắc bệnh trầm cảm trong suốt mười lăm năm. Rồi cô cũng khỏi bệnh. Bà trưởng thôn Nila Retno cho biết:
- Tay tôi bị bong gân. Người ta đưa cho tôi thứ nước mà họ đă nhúng viên đá vào để bôi vào tay. Tôi bôi thế là khỏi.
Sutikno, trưởng công an huyện, đồng thời là một tín đồ đạo Hồi kể về những điều anh tận mắt chứng kiến:
- Tôi đang nói chuyện với Ponaro và gia đ́nh cậu ấy. Trong nhà c̣n có một đứa trẻ khác bằng tuổi Ponaro nhưng đă không nói được trong suốt 5 năm qua.
Ponari lay thằng bé. Nó phản ứng và xông vào túm tóc đánh Ponari. Vài giây sau, thằng bé thốt lên bằng tiếng Java:
- Mày làm sao sợ quá!
Thế là từ đó nó lại nói b́nh thường.
Câu chuyện kỳ lạ cứ thế lan ra. Chỉ trong ṿng một tuần kể từ khi Ponara bị sét đánh, hàng trăm dân làng rủ nhau kéo đến nhà cậu.
Tuần tiếp theo tin tức này sang đến tận Malaysia, mỗi ngày có tới hàng ngh́n người xếp hàng vài km, mang theo túi nước với mong muốn Ponara sẽ dùng viên đá “thần” để biến nó thành thuốc chữa bách bệnh.
Những cảnh giẫm đạp lên nhau thường xảy ra. Cho đến nay đă có ba người chết và hàng chục người bị thương. Khung cảnh hỗn loạn tại Balongsari cho thấy nhiều người Indonesia vẫn rất mê tín, đặc biệt là người Java.
Về phần Ponari, cậu đă phải ngừng “chữa bệnh” tuần này sau khi chữa cho mười ngh́n người. Ngôi nhà của cậu trở lên hỗn loạn khi hàng ngh́n người kéo đến buộc cảnh sát phải đưa Ponari tới một nơi bí mật.
Cho đến nay trong ḥm công đức đặt trước cửa gia đ́nh Ponari đă có một tỉ rupiah (gần 77.000 USD) tiền đóng góp từ những người bệnh. Số tiền quá lớn này đă khiến nhiều người hoài nghi bởi gia đ́nh Ponari không được phép thu lợi từ viên đá “thần kỳ” này.
Theo trưởng thôn Retno, chính cậu bé Ponari cũng đă bị viên đá “quở trách” v́ nhận tiền từ người khác.
- Thằng bé nói nó bị đau ê ẩm khắp người như bị ai đó quất bằng roi da. Nó đổ bệnh, bị sốt và nôn ói.
Liệu đây có phải là dấu hiệu thể hiện sự bất b́nh của đấng thần linh?
Reuters
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 617 of 1439: Đă gửi: 29 May 2010 lúc 2:07am | Đă lưu IP
|
|
|
MỘT CÔ BÉ VIỆT NAM LÀM KINH NGẠC
Một cô bé người Việt nam đă làm mọi người kinh ngạc, v́ bắt đầu nói bằng thứ ngôn ngữ khác lạ, vào một buổi sáng sau khi thức giấc. Cô không c̣n hiểu được tiếng Việt, không nhận ra cha mẹ và luôn tỏ ra sợ sệt.
Các chuyên gia vào cuộc và xác định, cô bé hoàn toàn khỏe mạnh và thứ ngôn ngữ lạ mà cô sử dụng chính là tiếng Ư chuẩn. Bằng thứ tiếng này, cô cũng khẳng định ḿnh là người Ư, rằng tại thành phố milan, trong một ngôi nhà trên đường phố, người hàng xóm v́ ghen tị đă dùng dao đâm cô.
Cảnh sát Việt Nam đă kiểm tra lại câu chuyện này; tất cả đều trùng hợp. Đúng là có một cô gái hai mươi hai tuổi từng sống ở milan, chính trong ngôi nhà và đường phố mà cô bé ở Việt nam đă nói đến.
Một hôm người ta t́m thấy cô bị giết chết. Cha mẹ cô đă già và tới nay vẫn c̣n than khóc v́ thương nhớ con. Khi hỏi đến người hàng xóm nay cũng đă già, người này thú nhận tội ác của ḿnh.
Báo chí thế giới đăng tải câu chuyện trên khiến nhiều người kinh ngạc. Nhưng các nhà khoa học th́ không ngạc nhiên v́ đối với họ, hiện tượng đó không phải là mới.
Vào những năm 1970 Thanh Trúc, cô gái Việt Nam hai mươi tuổi ở Cần Thơ bị thương nặng. Khi tỉnh lại cô bắt đầu nói tiếng Pháp rất chuẩn, thứ tiếng mà trước đó một chữ cắn đôi cô cũng không hề biết.
Cô khẳng định tên ḿnh là Rozetta Liani, sinh ở Pháp năm 1887 và đă... chết ở đó năm 1917. Khi được đưa tới địa chỉ "quê cũ" tại Pháp, Thanh Trúc gặp một bà già, vốn là con gái của người phụ nữ có tên Rozetta đă quá cố. Không do dự cô gái hai mươi tuổi Thanh Trúc chỉ vào bà già và nói:
- Đây là con gái tôi.. Fransa.
Tạp chí Tiếng vọng hành tinh của Nga cũng đă có lần kể về cậu bé Antony người Anh:
- Cậu bỗng nhiên nói rằng tên ḿnh là Mạnh Duy, chủ một cửa hiệu tiệm vàng ở Tiền Giang Sài g̣n, có vợ là Mai Linh và hai đứa con.
Cha mẹ cậu hoảng sợ liền đi Tiền Giang t́m hiểu và được biết: Đúng là có một thương gia tên Mạnh Duy từng sống ở đó và đă chết v́ bị bắn vào đầu.
Khi gặp góa phụ và hai đứa con, Antony nhận ra cả ba người. Một điều thú vị là trên đầu Antony có dấu vết bẩm sinh đúng vào chỗ vết thương của ông Mạnh Duy trước đây.
Theo nhà siêu tâm lư Banglopp, những người bị chết bất đắc kỳ tử thường nhớ rơ về thời gian và những ǵ đă xảy ra ở kiếp trước, khi họ bước vào một cuộc đời mới.
Có lẽ cái chết bất ngờ của tiền kiếp, chết không theo đúng quy luật của tự nhiên (sinh, lăo, bệnh, tử) đă khiến linh hồn thoát khỏi thể xác một cách bất ngờ, khi vào thân xác mới, vẫn giữ được sự liên quan mật thiết với những ǵ của thời quá văng.
C̣n một hiện tượng khác ít gây chú ư cho công chúng nhưng lại khiến các nhà nghiên cứu quan tâm, đó là thần đồng. Nó củng cố giả thiết về "cuộc sống kiếp trước".
Có những thi sĩ, nhạc sĩ mới mười tuổi, những sinh viên ở tuổi thiếu niên... Làm sao họ có ngay được nguồn vốn kiến thức và trí tuệ phức tạp đến như vậy? Câu trả lời của một số nhà khoa học là:
Phần "phách" của nhiều thần đồng từng là của các nhạc sĩ, thi sĩ... Vào một thể xác mới, phần "phách" ấy nhớ lại niềm say mê cũ và làm cho thể xác mới, có được những kỹ năng, kiến thức đă tích lũy từ kiếp trước.
Cho đến nay, các hiện tượng trên vẫn đang là câu hỏi lớn đối với giới khoa học. Sự nhớ lại kia là trí nhớ gene hay là sự "chuyển chỗ" của phách? Có giả thiết cho rằng, kư ức kiếp trước là một tập hợp thông tin, được lưu giữ theo cách nào đó trong vũ trụ, mà chỉ một số người có khả năng thu nhận.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 618 of 1439: Đă gửi: 29 May 2010 lúc 2:07am | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG NGƯỜI "LỘT XÁC" SAU KHI BỊ ĐỘT QUỴ
Sau khi thoát chết v́ vỡ mạch máu năo, ông Tommy năm mươi tám tuổi, bỗng dưng biết làm thơ và vẽ tranh, dù trước đó ông chẳng bao giờ quan tâm tới hội họa hay văn thơ.
Tommy McHugh năm mươi tám tuổi và sống tại Liverpool Anh, từng là công nhân xây dựng trước khi bị vỡ mạch máu năo vào năm 2001. Sau khi thoát khỏi lưỡi hái của tử thần, Tommy đột nhiên có khả năng vẽ, mặc dù ông chưa bao giờ cầm cọ và quan tâm tới hội họa.
- Khi c̣n nhỏ, tôi chỉ thích đánh nhau và bỏ học từ năm mười lăm tuổi. Tôi chưa bao giờ quan tâm tới nghệ thuật hay văn thơ, nhưng lần xuất huyết năo ấy đă thay đổi tất cả.
Giờ đây tôi trở nên nghiện vẽ. Những ư tưởng mới xuất hiện liên tục trong tâm trí, khiến tôi phải cố gắng lắm mới ngủ được. Tôi thường vẽ tới hai hoặc ba giờ sáng, sau đó thức giấc vào sáu giờ và tiếp tục cầm cọ. Tôi chưa bao giờ tưởng tượng đời tôi lại rẽ sang một hướng như vậy. Tommy tâm sự.
Sau khi trải qua một ca phẫu thuật, Tommy được cứu sống, nhưng ông cảm thấy như lạc vào thế giới khác. Ông không nhớ được các anh em ruột, vợ và hai đứa con. Thậm chí khi nh́n vào gương ông cũng không nhận ra khuôn mặt trong đó là ai.
Một tháng sau, Tommy cảm thấy có một động lực nào đó từ bên trong thôi thúc ông làm thơ. Có ngày ông viết kín năm quyển vở học sinh. Hai tháng sau th́ niềm đam mê hội họa bùng cháy mănh liệt. Sáu tháng sau, bà vợ xin ly dị v́ hoảng sợ trước sự thay đổi của chồng, đặc biệt là các bức vẽ.
Richard Murrayba mươi hai tuổi, một nhà quản lư tài chính ở thành phố Hereford Anh, bị đột quỵ cách đây ba năm. Cơn đột quỵ ấy biến anh trở thành một người nói giọng Pháp.
Tai họa xảy ra sau khi Richard cùng vợ trở về nhà từ kỳ nghỉ. Đột nhiên anh cảm thấy một cơn đau nhức óc và tê liệt nửa thân bên phải. Anh hoàn toàn tỉnh táo, nhưng bị cấm khẩu.
Tại bệnh viện, các bác sĩ tiến hành chụp cắt lớp năo của Richard. Kết quả cho thấy có một khối máu đông mắc kẹt ở bán cầu năo trái, trong vùng điều khiển phát âm.
Sau khi dùng thuốc để làm phân tán khối máu đông, các bác sĩ cảnh báo rằng có thể Richard sẽ mất khả năng nói. Quả thực, anh không thể nhớ cách phát âm các từ nữa. Mỗi khi muốn truyền đạt một điều ǵ đó, Richard phải viết nó ra giấy.
Tám ngày sau khi rời bệnh viện, Richard có thể cử động chân tay, nhưng vẫn không thể mở miệng. Một người bạn vốn là chuyên gia về trị liệu phát âm đồng ư gặp anh mỗi tuần một lần.
Richard phải học nói từ con số không và vợ anh phải dạy anh nói hàng ngày. Trong hai tuần đầu anh chỉ học được 4 từ cơ bản: hi (chào), bye (tạm biệt), yes (có) và no (không).
Dần dần số lượng từ mà Richard có thể phát âm tăng dần lên, nhưng giọng của anh hệt như người Italy rồi chuyển dần sang giọng Pháp. Khi anh gặp bạn bè, họ nghĩ anh đang nhại giọng ai đó để đùa cợt.
Giờ đây Richard có thể nói năng trôi chảy, nhưng chất giọng của anh vẫn hệt như người Pháp. Các bác sĩ không dám chắc liệu chất giọng Anh của nhà quản lư tài chính này có quay trở lại không.
Tuy nhiên, Richard chẳng quan tâm tới điều đó, bởi đối với anh việc phục hồi khả năng nói, đă là phần thưởng vô giá.
Năo là cơ quan phức tạp nhất trong cơ thể người. Nó chứa khoảng hai mươi tỷ tế bào, chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của cơ thể, từ giấc mơ cho tới xử lư mùi vị.
Chất xám chiếm tỷ lệ lớn trong năo. Đó là những tế bào thần kinh hay neuron có nhiệm vụ xử lư thông tin. Tuy nhiên, năo cũng có chất trắng, những dây thần kinh có nhiệm vụ gửi các thông điệp bằng hóa chất, và truyền thông tin giữa các tế bào thần kinh.
Trên thực tế, số lượng dây thần kinh trong năo nhiều hơn số dây cáp, trong tất cả hệ thống viễn thông quốc tế trên toàn cầu.
Đôi khi hoạt động của những "dây cáp" của năo, có thể trục trặc do tổn thương, bệnh tật hoặc khiếm khuyết gene.
Các nhà khoa học cho rằng một chấn thương ở năo, có thể gây nên tổn hại lâu dài, đối với các chức năng của nó, nhưng trong một vài trường hợp, điều đó không đúng.
Theo tiến sĩ Keith Muir, giáo sư bộ môn thần kinh tại Đại học Glasgow Anh, khi một vùng năo bị tổn thương, các chức năng của vùng đó sẽ được "phân phối" sang các vùng khác.
Trong năo có nhiều hệ thống và chúng phối hợp với nhau theo nhờ một cơ chế liên kết nào đó. Khi năo bị tổn thương, các hệ thống thay đổi cách thức liên kết, để phục hồi các chức năng thần kinh đă mất và trong nhiều trường hợp, sự thay đổi này tạo nên điều kỳ diệu.
Daily Mail
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 619 of 1439: Đă gửi: 29 May 2010 lúc 2:10am | Đă lưu IP
|
|
|
TẠI SAO THIÊN HẠ THÍCH XEM PHIM KINH DỊ
Với những cảnh kinh hoàng rùng rợn, các bộ phim kinh dị và những ngôi nhà ma ám luôn hấp dẫn mọi người. Đó là bởi họ biết rằng thực sự chẳng có mối nguy nào xảy ra.
Khi mọi người hoảng sợ, cơ thể tự động tạo nên phản ứng như nhịp tim tăng lên, hơi thở gấp gáp, cơ bắp căng cứng, đầu óc tập trung cao độ cho những mối nguy hiểm.
- Đó là một cách tự nhiên để tự vệ.
Nhà tâm lư học David Rudd tại Đại học Texas Tech nói.
Nếu bộ năo biết rằng thực sự không có có mối nguy nào, nó sẽ biến sự dâng trào các hoóc môn này thành một niềm vui thú. Mấu chốt trong việc hưởng thụ những nguy hiểm ŕnh rập, chính là ở việc đánh giá đúng mức mối nguy có thể xảy ra.
- Trẻ em thường phóng đại mối nguy hiểm và trải qua cảm giác lo sợ thực sự. Khi bạn thấy một đứa trẻ ôm chặt lấy bố mẹ và khóc ầm lên, khả năng bị hại là có thật.
C̣n với người lớn, họ hét ầm lên rồi sau đó là phá lên cười, là bởi họ biết rằng thực sự chẳng có nguy hiểm ǵ.
Hiện tượng này cũng lư giải v́ sao mọi người thích nhảy bungee, nhảy dù rơi tự do và các môn thể thao nguy hiểm khác.
- Trong những trường hợp này, mọi người biết rằng mối nguy hiểm sẽ bị hạ thấp xuống nhờ tập luyện và sự cẩn trọng, cho phép họ hưởng thụ cảm giác. Rudd nói.
Khả năng cảm nhận nỗi sợ cũng có vai tṛ tiến hoá.
- Chúng ta được thúc đẩy đi t́m kiếm những cảm giác kích động, để khám phá những khả năng mới, t́m kiếm nguồn thức ăn mới, nơi ở tốt hơn và đồng bọn tốt hơn.
Nhà tâm lư học môi trường Frank McAndrew tại Đại học Knox nói.
Nếu tiếp xúc thường xuyên với một tác nhân kích thích nỗi sợ, bộ năo sẽ được làm quen và không c̣n coi đó là điều đáng sợ nữa.
Đó chính là ch́a khoá cho liệu pháp điều trị sự rối loạn chức năng lo lắng. Biện pháp điều trị như vậy kết hợp với dược phẩm, sẽ có tỷ lệ thành công là 80%.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 620 of 1439: Đă gửi: 29 May 2010 lúc 2:12am | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN MỘ BAO CÔNG
Bao Công là một vị quan đứng đầu Phủ Khai Phong,
xét án rất công minh chính trực, nổi tiếng với các vụ "Tra án Quách Ḥe", "Ngựa Bạch Long", "Giấc mộng hoàng kim"... thường được gọi là "Bao Công kỳ án".
Người đă phanh phui những vụ án động trời, đụng chạm đến cả triều đ́nh nhà Tống, Bao Công bị nhiều người thù ghét, nên khi mất thọ sau mươi bốn tuổi, đă phải bí mật đem chôn. Mộ Bao Công ở đâu, xem ra c̣n là một điều bí ẩn.
Theo các tài liệu trong sử Trung Hoa th́ ở phía tây nam, huyện Củng, tỉnh Hà Nam có chín ngôi mộ của các hoàng đế nhà Tống, được gọi là "Tống lăng ở Củng huyện", là một di tích nổi tiếng.
Gần lăng Vĩnh Định của Tống Chân Tông, có một ngôi mộ tṛn được mọi người kháo nhau đó chính là mộ Bao Công. Do được ân sủng nên mộ được xây cao tới năm mét.
Trong một bức ảnh về "Đệ tử chùa Thiếu Lâm", người ta ghi lại việc hai chị em Hồng Gia Ban bị bọn ác bá truy bức chạy đến gần nơi mộ của Bao Công, trên mộ c̣n ghi rơ ḍng chữ: "Mộ Thừa tướng Hiếu Túc Bao Công".
Dẫu là những chứng cứ lịch sử, nhưng e rằng c̣n sai lầm!
Theo các nhà khảo cổ, mộ Bao Công và vợ là Đổng Thi, mộ con trai trưởng của ông là Bao Ư và vợ, con trai thứ là Bao Thụ và vợ, mộ của cháu ông là Bao Vĩnh. Mười năm trước đây đă được khai quật ở xóm Song Vu, làng Đại Hưng, ngoại ô thị trấn Hợp Ph́, tỉnh An Huy.
Theo bài minh được đào lên bên bờ sông Ph́ Thủy nói rơ thêm thân thế của Bao Công thuở sinh thời, đă bổ sung và sửa những điều sai trái... Vụ khai quật c̣n lưu được nhiều cổ vật rất quư, từ đó có thể t́m hiểu về sinh hoạt văn hóa, chính trị, kinh tế các triều đại Tống.
Vậy mộ Bao Công thực là ở đâu?
Theo sử Trung Quốc, Bao Công là nhà chính trị kiệt xuất họ Bao tên Chửng, chữ là Hi Nhân, quê gốc ở Lư Châu, Hợp Ph́, đậu tiến sĩ năm Thiên Thánh thứ năm, đời Tống Nhân Tông.
Ông sống trong thời nhà Tống bắt đầu yếu kém, tộc Khiết Đan luôn uy hiếp phía bắc, thù trong giặc ngoài luôn là những mối nguy lớn. Vai tṛ Bao Công ở giai đoạn này trong chính sử và dă sử coi như một tấm gương có một không hai.
Đến kẻ thù cũng phải nể sợ... Cái tên Bao Công được người đời tôn xưng, cũng v́ những đức tính cao quư và những tài năng xử án của ông.
Mộ thực của Bao Công ở ngoại ô thị trấn Hợp Ph́, đă xác định, không những được giới khảo cổ khai quật xác minh, mà c̣n được những tài liệu cũ khi trùng tu bia của ông, những năm Khánh Nguyên đời Tống, do Lâm Chí ở Hoài Nam Tây Lộ soạn.
Mộ Bao Công ở "Lăng các vua nhà Tống", mộ lớn, bia cao, tất nhiên chỉ là "mộ giả, bia giả". Tuy nhiên, sự việc không hề đơn giản.
V́ trước ngày khai quật mộ Bao Công ở Hợp Ph́, ai cũng cho mộ Bao Công ở Tống Lăng (huyện Củng) là "thực", không những v́ vị thế khá được đề cao và đẹp, mà các sử liệu địa phương thời Gia Tịnh năm thứ ba mươi bốn, ghi trong Trùng tu mộ Hiếu Túc Bao Công...
Năm Thuận Trị triều Thanh và những năm sau này trong "Hà Nam thông chí" đều chép như thế, lưu truyền dai dẳng hàng năm, sáu trăm năm. Hiện nay nhiều người c̣n nghi vấn:
"Việc tu sửa mộ Bao Công ở Củng huyện vào lúc nào? Tại sao lại xây mộ Bao Công ở đây? Trong đó chôn cất ǵ? Ngôi mộ ở Củng huyện và mộ ở Hợp Ph́ có quan hệ ra sao?". Những điều này c̣n chưa được giải đáp.
Bao Công có hai mộ đang c̣n là chuyện "sai, đúng ngh́n năm". Nhưng mộ Bao Công cao và to ở huyện Củng (Tống lăng); mộ Bao Công ở Hợp Ph́ giả, thực là ngôi nào xem ra vẫn c̣n là điều bí ẩn.
Thiên cổ chi mê
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|