Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
  H́nh Ảnh Từ Thiện
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Thông Tin
  Thông Báo
  Báo Tin
  Liên Lạc Ban Điều Hành
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Nhờ Coi Quẻ
  Nhờ Coi Ngày
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Tử Vi
  Tử Bình
  Kinh Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Bói Bài
  Đoán Điềm Giải Mộng
  Khoa Học Huyền Bí
  Thái Ất - Độn Giáp
  Y Dược
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch và Phong Thủy 3
Kỹ Thuật
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
Thư Viện
  Tủ Sách
  Bài Viết Chọn Lọc
Linh Tinh
  Linh Tinh
  Giải Trí
  Vườn Thơ
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 189 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
chindonco (3250)
hiendde (2589)
HoaCai01 (2277)
vothienkhong (1807)
dinhvantan (934)
ryan88 (805)
Vovitu (713)
ruavang (691)
lancongtu (667)
TranNhatThanh (644)
Hội viên mới
redlee (0)
dautranhsinhton (0)
Chieu Tim1234 (1)
huyent.nguyen (0)
tamsuhocdao (0)
henytran2708 (0)
thuanhai_bgm (0)
Longthienson (0)
thuyenktc (0)
liemnhi (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Truyện ngắn huyền bí - hiendde Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1021 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 11:14am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



NÚI GUỘC


Chiều thứ bảy. Trời đă nhá nhem tối, Phều mệt mỏi bước về phía gara của cơ quan, nơi đang đỗ chiếc Audi sáng bóng như đang đợi chủ. Lên xe chưa kịp nổ máy th́ đám bạn trong cơ quan cũng vừa ùa ra, trong bọn có tiếng gọi theo:

- Này! đi đâu mà vội thế.

- Về quê chứ đi đâu, tối thứ bảy nào tao chả phải về quê thăm hai cụ. Phều tḥ đầu ra đáp.

- Có xe xịn phải đi tán gái chứ, về quê thăm các cụ phí cả con xe, à tậu xe mới rồi thế định khi nào ''rửa xe'' đấy. Trong bọn lại có tiếng khích đểu.

Đi Tàu buôn bán tích góp ba năm, Phều về Việt Nam kiếm lại việc làm, sau khi đút lót một khoản kha khá cho mấy sếp, Phều được nhận vào biên chế trong một công ty nhà nước, c̣n lại ít tiền nó sắm một con xe để làm phương tiện đi lại làm ăn thêm.

Từ ngày vào làm công việc bận bù đầu, hết giờ hành chính lại phải t́m nhà để thuê, nó cũng định chọn một ngày đẹp trời, rồi mời tất cả anh em trong công ty một bữa, nhưng chưa kịp định ngày th́ hôm nay...

- Hôm nay anh em đông đủ cả, không đi th́ định th́ khi nào nữa? mày xem trong cái thị xă này có ôtô riêng như mày, chỉ đếm trên đầu ngón tay, chúc mày đă len lỏi vào hàng các đại gia rồi ha...

Đám đông cười rôm rả, Phều cố liếc nh́n xem thằng nào vừa ''mô kích'' nó. Nó lấy làm khó chịu, Phều đâu phải là loại hẹp ḥi hà tiện, để chúng nó phải gợi ư lộ liễu đến thế. Nhưng thôi, khao đồng nghiệp là luật bất thành văn của kẻ mới đến, với lại là v́ con audi cưng của nó nữa, máu sỹ diện đă nổi lên nó hét vang:

- Bia! ha ha, tất cả đi ra quán uống bia.

Cả hội ngót chục tên ùa vào quán bia hơi, có thể nói là nổi tiếng nhất thị xă, ăn uống tá lả, hàng chục két bia cứ nối tiếp ra đi. Phều giật ḿnh nh́n đồng hồ, thôi chết, đă hơn mười một giờ đêm, bố mẹ nó giờ này chắc đang chong đèn chờ thằng con út đang ế vợ về nhà đây, nghĩ vậy nó bật dậy xin phép anh em về trước và không quên thanh toán hết chi phí cuộc nhậu.

Nó loạng choạng bước về phía chiếc Audi đang ngoan ngoăn đợi bên hè. Đường về quê nó không xa, chỉ chạy hơn một giờ đồng hồ là tới, khá dễ đi và ít người qua lại, duy chỉ có một chỗ, là phải men theo con đèo ăn ra sông là hơi hiểm trở, những đoạn c̣n lại có thể vừa đi vừa ngủ.

Phều vốn không thích sống xa hai cụ, đă bao lần bàn với hai cụ lên thị xă sống với nó cho vui, tiện bề chăm sóc người khi đă về già. Đi Tàu làm hàng giày dép sang Châu Âu mấy năm, hắn đủ sức mua cho hai cụ căn nhà khang trang với vườn cây trên thị xă, nhưng khổ nỗi cứ mỗi lần định chuyển đi, hai cụ lại đổi ư đ̣i ở lại, chỉ v́ tiếc vườn chè và mấy gốc cau không ai chăm sóc.

Vậy đấy, thôi đành chiều ư hai cụ và đổi lại kế hoạch là Phều mua xe và chăm chỉ đi về. Đă gần nửa đêm con đường vắng tanh không có bóng người, nó lái xe đi vèo vèo trong đêm tối mờ sao. Gần đến núi Guộc xe chạy chậm lại, Phều phát hiện phía trước h́nh như cũng có một xe đi cùng chiều cái vệt sáng cứ rơ dần.

Lên đến đỉnh đèo gần chỗ hiểm, th́ xuất hiện một chiếc xe đă chết máy, đứng lù lù ven lề, trong xe đèn le lói sáng, mắt Phều ríu lại v́ men bia, từ xa nó bỗng thấy có một cánh tay trắng tḥ ra vẫy vẫy, như làm hiệu kêu cứu. Nhất định có sự cố rồi, Phều định bụng xuống giúp đỡ. Nó dừng sát xe cạnh chiếc xe nọ rồi mở cửa bước xuống.

Đèn trong xe mờ dần nhưng Phều không hề thấy bóng người trong đó, hai cửa sau vẫn đóng, duy chỉ có cánh cửa gần ghế lái là mở toang, Phều nghĩ chắc lái xe vừa bước ra và đang đứng đâu đó, có khi là đang ngồi sau bụi cây kia tiểu tiện cũng nên, Phều vừa nghĩ vừa buồn cười và tự nhiên nó thấy hơi vô duyên nếu cứ tiếp tục đi t́m họ.

Tiện thể Phều cũng t́m riêng cho nó một bụi cây rồi đi vào giải quyết, quả thực bia là thứ đồ uống không có lợi cho bất cứ một kẻ đi đường nào. Xong xuôi Phều từ bụi cây bước ra, chủ nhân của chiếc xe kia vẫn biệt tích, cánh cửa xe vẫn mở toang hoác như như lúc năy, sao lại lâu thế nhỉ, lúc này Phều thấy sờ sợ xen lẫn với chút lo âu, rơ ràng cách đây mấy phút nó thấy có người trong xe vẫn tay.

Nó trấn tĩnh lại nh́n kỹ trong xe rồi đi ṿng quanh, đảo qua mấy chỗ rậm rạp ven đường, nhưng không hề có dấu vết nào.

- Có ai không! Nó khẽ gọi.

Đêm tối thanh vắng âm thanh vang lên sang sảng, rồi dội vào vách núi phản lại về phía vực sông lan ra mênh mang nghe rờn rợn. Không hề có âm thanh trả lời, Phều rợn tóc gáy men bia trong người tan biến, cơn say vừa bay đi th́ nỗi sợ hăi lại ập đến, nó hốt hoảng chạy lên xe đóng rầm cửa và tháo chạy như điên về phía chân đèo.

Khi đă cách khá xa chiếc xe lạ nó mới dám ngoái lại, chiếc xe ấy vẫn nằm đấy một vệt sáng mờ chập chờn le lói đầy bí ẩn. Phều lái xe chạy qua cánh đồng hoang, rồi tiến vào xóm núi mờ mờ nơi cái làng nghèo c̣n xa lạ với ánh đèn ôtô, đàn chó trong làng thi nhau sủa nháo nhác, về đến dưới cổng nó xuống xe rồi chạy như có ai đuổi, lên ngôi nhà nằm cheo leo trên đồi, khuất trong lùm cây cổ thụ đang le lói ánh đèn dầu leo lét.

Vừa bước vào sân nó đóng sầm cánh cổng tre đă ọp ẹp, đánh rầm một cái tưởng như sắp đổ, mẹ nó mừng quưnh, c̣n đàn chó khôn ngoan cả gia quyến đến dăm bảy con, th́ thi nhau nhảy chồm lên liếm lem lép cái tay đầy mồ hôi của nó, cả nhà đă ngóng mỏi cổ từ chiều, đến khi nghe tiếng re re của ôtô từ ngoài đồng vọng về cả nhà mới hết lo.

- Ǵ mà chạy như ma đuổi thế hả con, mà sao giờ này mới về. Mẹ nó mừng nhưng không giấu nổi đang giận nó.

- Ma đâu mà ma, u cứ làm như con c̣n trẻ con không bằng ấy. Phều hổn hển đáp.

- Thay quần áo rồi đi ngủ đi, gần một giờ rồi, ôi, sao lại thở hồng hộc ra thế, mà áo quần ướt đẫm mồ hôi thế này? mẹ nó gặng hỏi khi sờ lên vai nó.

Nó cười qua quưt:

- À, chả là hôm nay thứ bảy, tan tầm công ty tổ chức đá bóng, ăn uống xong th́ đến khuya, mệt quá...

- Thứ bảy nào cũng bóng với ban, chả chịu yêu với đương ǵ mà anh cũng liệu chuẩn bị cho tôi bế cháu với đấy.

Người đàn bà ngót nghét tám mươi gầy rộc hóm hém trách khéo con rồi lùa đàn chó ra sân.

- Lần sau nhớ về sớm đấy nhé, nếu muộn quá th́ ở lại công ty cũng đuợc, sáng hôm sau lại về, đêm hôm khuya khoắt thế này đi đường ngộ nhỡ..

- Vâng ạ, nhất định là con không về khuya nữa.

Phều ngoan ngoăn vâng lời mẹ, thực ra lần sau có các tiền chắc nó cũng chẳng dám đi đêm về nữa. Phều cũng đă thay đồ rửa ráy qua loa rồi lên giường và không quên dặn mẹ:

- U cũng đi nghỉ đi, khuya rồi, à mà U nhớ chốt cửa cho thật cẩn thận … kẻo chó nó chui vào u nhé.

Lên giường một lúc th́ mẹ nó cũng tắt đèn đi ngủ, căn nhà tối om, nó trừng mắt lên trần nhà như chưa thực sự hoàn hồn, cái ''xe ma'' kia vẫn c̣n lởn vởn trong đầu với bao câu hỏi, đêm nay cầu mong không có ác mộng đến với nó.

Ngày chủ nhật ở nhà chơi với hai cụ, Phều cứ thẫn thờ như kẻ mất hồn. Tưởng con bị cảm nhưng không thấy sốt hay ho hen kêu ca ǵ, mẹ nó định hỏi hay là tương tư thương nhớ cô nào trên thị xă, nhưng sợ động vào vấn đề tế nhị và nỗi phiền muộn của con, cụ lại thôi.

Sáng hôm sau nó lại lên thị xă từ tinh mơ để đến cơ quan, khi trời đă nh́n rơ mặt người nó mới dám lái xe đi, mặc dù biết trước đến cơ quan sẽ chậm hơn nửa tiếng. Qua chỗ hiểm trên đèo, nó căng mắt để ư bên đường, chỗ chiếc xe lạ đứng tối nọ c̣n dấu vết ǵ không.

Con đường men theo sườn đèo dựng đứng, bên vực sông Lam sâu thẳm xanh ngắt, in h́nh ngon núi đá cheo leo hiểm trở, Mặt trời hồng đă ửng lên từ phía chân trời, cảnh đẹp b́nh minh của miền quê thân thương đă in sâu từ thời thơ ấu, đă làm cho nó ngây ngất và chợt quên đi nỗi ṭ ṃ trăn trở.

Lại chiều thứ bảy. Lại một tuần nữa trôi đi, chiều thứ bảy sau giờ làm việc, Phều định tạt qua trạm đăng kiểm, hoàn tất thủ tục kiểm định xe, v́ xe mới mua nên c̣n một số giấy tờ chưa giải quyết hết. xong việc nó sẽ về ngay trước khi trời tối, quyết không thể để chạm trán với bóng ma lần trước nữa.

Phều lên xe vừa nổ máy rồ ga định chạy về, th́ trước mặt xuất hiện một thanh niên như trên trời rơi xuống, hắn tiến về phía Phều rồi đứng sát cửa vẫy vẫy tay mỉm cười, Phều hạ kính nh́n ra th́ người thanh niên reo lên:

- Phều, không nhận ra tao nữa à? mày về nước khi nào mà không báo cho tao?

Phều tṛn mắt kinh ngạc rồi kịp nhận ra Thạch, thằng bạn thân nhất từ hồi học đại học Kiến trúc, đă ba năm không gặp nó gầy và trắng ra nhiều, chắc làm thiết kế vất vả, thiếu ăn và suốt ngày ở trong pḥng nên nó trắng bệch ra thế, tội nghiệp nó.

- Ôi, mày, Thạch à. Phều nhảy ra khỏi xe hai thằng ôm nhau cười ha hả.

- Tao vừa về hơn chục hôm, bận quá chưa kịp liên lạc với mày, may quá gặp mày ở đây rồi. Ê, mà mày đến đây làm ǵ vậy. Phều thanh minh rồi chợt hỏi bạn.

- Làm đăng kư xe như mày ấy thôi.

Thạch cười đáp rồi chỉ tay về phía con ''Mẹc'' mới toanh đang đỗ trước mặt. Phều ngớ người, hoá ra bạn nó không thiếu ăn như nó nghĩ, mà là dành dụm tiền mua xe, kể ra nó cũng kiếm được và cũng biết làm ăn đấy chứ, chả phải đi tây đi tàu ǵ mới có tiền, mà ở trong nước cũng kiếm ác, đúng là Thạch Thanh Hoa. Phều thầm thán phục.

- Khá, khá lắm, chúc mừng mày.

Phều mừng rỡ bắt tay Thạch, hai đứa lại rôm rả tán chuyện.

- Nào, lâu ngày không gặp, anh em ḿnh ra quán bia làm vài cốc cho mát, chuyện tṛ đă mà mày chưa kể với tao chuyện yêu đương dạo này thế nào đâu đấy.

Thạch chủ động mời Phều. Phều nh́n đồng hồ rồi ngước lên nh́n lên trời, khỉ thật, thời tiết này sao nhanh tối thế, mới đó c̣n nắng chang chang mà giờ đă im ngắt, ánh mặt trời đỏ chót tháng chạp, như đang vội vă lùi vào rặng núi xa xa.

Đợi cho ông mặt trời khẽ chạm vào cái đỉnh núi cao nhất kia, th́ nó sẽ về chắc cũng c̣n kịp chán, với lại gặp thằng bạn chí cốt, tự dưng bỏ về nghe không phải đạo lắm. Phều đắn đo một lát rồi nh́n thẳng Thạch dứt khoát:

- Ok, làm vài cốc đă, anh em ḿnh lên xe.

Hai đứa sà vào quán gọi mấy chai bia, nhâm nhi ôn lại chuyện thời sinh viên lúc trầm tư, lúc rôm rả. Qua hỏi thăm t́nh h́nh của nhau, Phều được biết Thạch sau khi ra trường không về quê công tác, cũng không ở lại Hà nội xin việc, hiện nay làm ǵ ở đâu th́ Không ai biết.

Phều có hỏi Thạch cũng chỉ cười rồi nh́n xa xăm như muốn giấu đi nỗi buồn phiền thầm kín, câu chuyện tưởng chừng như không thể dứt, bỗng Phều chợt nhớ nó phải về trước khi trời tối. Hắn nh́n đồng hồ rồi nh́n ra ngoài trời, ôi thôi, đă chín giờ đêm một màn đêm đặc bao trùm, như sắp nuốt lấy cái không gian nhỏ bé quanh nó.

Phều hạ cốc bia đang uống dở mặt thần ra đờ đẫn, vậy là không kịp về nữa rồi nó đă hứa với mẹ nó về, nay nhà chưa mắc điện thoại nên chẳng có cách nào báo được. Đêm nay người mẹ lại thức suốt đêm ngóng chờ con đây.

- Mày sợ hai cụ ngồi nhà chờ chứ ǵ?

Thạch nh́n bạn rồi bất ngờ hỏi như bắn đúng tim đen.

- Ừ, khỉ thật, mải ngồi quên phéng mất, hôm nay tao dặn bố mẹ tao chờ tao về ăn cơm.

Nói vậy cho bạn dễ hiểu nhưng thú thật, Phều có ăn cơm nhà bao giờ đâu, giờ đây tiến thoái lưỡng nan ở lại th́ sợ mẹ nó lo không ngủ được, mà về th́ sợ ma bắt, nói ra với Thạch điều đó th́ xấu hổ quá. Phều phân tâm đứng ngồi nhấp nhổm làm cuộc vui tự nhiên tắt ngấm.

- Ôi giời, mày cứ vô tư đi, uống thoải mái đi, xong xuôi tao cùng mày về tạ lỗi với hai cụ, mà phải hơn chục năm rồi tao chưa về nhà mày, ngày mai tao đi xa rồi lại không có cơ hội nữa.

Thạch giải bí cho bạn, Phều mừng quưnh trừng mắt lên nh́n Thạch, suưt nữa th́ nhảy xổ vào ôm lấy thằng bạn ruột. Đêm khuya lại có bạn đường th́ có ǵ để sợ nữa, với lại càng uống nó càng thấy tự tin, bia vào th́ bao sợ hăi bay đi, nó ngạc nhiên khi phát hiện dường như nồng độ c̣n trong cơ thể nó, tỉ lệ nghịch với nỗi sợ hăi triền miên, án ngự mấy ngày nay trong con người nó.

Vậy là hôm nay đă có thuốc chữa rồi ư, Phều lâng lâng nh́n hai cốc bia đang chập chờn lửng lơ trước mặt, tuyệt vời quá, cơ thể con người chứa đựng bao nhiêu điều tiềm ẩn và kỳ thú, hỡi những nhà khoa học vất vả lam lũ kia, lên tận cung trăng sao hoả làm ǵ, khi bao nhiêu bí ẩn kỳ bí trong chính con người họ lại không biết.

Nó nhếch mép như cười mỉa mai cho cái kiếp đời này, rồi quơ tay tóm lấy một cốc bia đang vởn vơ kia, dúi về phía trước cạch ly bạn rồi nốc ừng ực. Đă nửa đêm hai đứa mới nhổm dậy, bao nỗi sợ đă bay biến, sự tự tin đạt chỉ số kỷ lục.

Nó lấy hết vẻ vững chăi d́u bạn bước lên xe, nhưng để pḥng xa nhỡ đến núi Guộc men bia vơi, rồi nỗi sợ ập đến th́ làm sao đây, ư nghĩ chớp nhoáng đă có giải pháp, tức thời nó gọi thêm ba chai bia quẳng vào xe, nhỡ dến dốc núi men bia vơi, th́ nó sẽ nốc vào bổ sung, ḥng d́m chết cái nỗi sợ ma bẩm sinh, đang chầu chực trong người chờ cơ hội là ngoi lên.

Chiếc xe hơi sang trọng chệnh choạng trong đêm tối, nhằm về dăy núi xa ra về, Phều cầm vô lăng, Thạch ngồi hàng nghế sau ngơi nghỉ thỉnh thoảng gợi chuyện cho bạn đỡ buồn ngủ, hai đứa vừa đi vừa tiếp tục tṛ chuyện, nhưng rồi thưa dần thưa dần.

Được bạn hộ tống cộng với men bia yểm trợ từ bên trong, nhưng Phều vẫn cảm giác bất an, xe lăn bánh đều đều, khi đến gần núi guộc nó chằm chằm nh́n lên phía trước, cầu mong hôm nay sẽ không xuất hiện cái xe lạ ấy.

Lên đến đỉnh đèo và hắn đă thấy hơi yên tâm, khi không có dấu hiệu của chiếc xe lần trước, nhưng tốt hơn hết là về càng nhanh càng tốt, nó định nhấn ga cho xe lướt qua cái ''vùng chết'' nhưng Thạch ngồi sau khẽ gọi như có việc cấp bách:

- Phều à, dừng lại cho tao..giải quyết tư đă.

Đang định chạy nhanh lên th́ Thạch bảo dừng, lại đ̣i dừng đúng cái chỗ mà nó không muốn nhất, định bảo bạn nán cho đến chân đèo rồi dừng cho yên tâm nhưng Thạch lại giục:

- Dừng nhanh lên mày..chịu hết nổi rồi.

Không muốn để bạn khổ sở thêm, với lại không nhanh nó sẽ làm bẩn mất con audi sang trọng của nó, mà có ǵ để mà sợ chứ nhỉ? Phều tự vận động ḿnh rố nói:

- Ừ, đây rồi, dừng ngay, tao cũng thế, mẹ khỉ! hôm nay uống nhiều quá..Phều nói to cho thêm tự tin.

Hắn đỗ ngay đúng vệt xe mà lần trước chiếc xe lạ ấy đỗ, xe vừa dừng nó bật đèn xe rồi nói:

- Xuống đi, mở cửa bên trái, cẩn thận kẻo ngă...

Không thấy động tĩnh cứ tượng bạn say xỉn, Phều xuống trước rồi mở cửa sau định d́u bạn xuống, nhưng khi mở ra Phều giật ḿnh v́ hàng ghế sau trống rỗng, trong xe không bóng người, Thạch như thể đă biến mất.

Phều cố lấy hết sức b́nh tĩnh t́m bên ngoài xe, có thể bạn đă nhẹ nhàng nhảy xuống từ khi nào chăng, nhưng cũng vô lư, cửa xe vẫn đóng kín và không hề có tiếng động nào từ trước. nó căng hết cặp mắt ốc nhồi say xỉn, nh́n quanh nhưng chỉ thấy một màn đêm đen đặc.

Lúc này men bia đang tụt dần nhường lại cho sự tỉnh táo và tập trung. Nhưng càng tỉnh càng sợ, hắn định bỏ chạy, nhưng chả nhẽ bỏ lại bạn đường trong lúc hiểm nguy:

- Thạch ơi....

Hắn khẽ gọi lên, nhưng âm thanh bị cộng hưởng nhân lên, oang oang rùng rợn vang cả núi rừng, không có một âm thanh phản hồi, hắn rợn người sởn gai ốc, men bia trong người cạn ráo, nỗi sợ dâng lên tột đỉnh tay chân bủn rủn.

Hắn sợ bóng đêm, sợ thằng bạn ma quái kia và sợ chính cả con audi của hắn, đang mở toang cánh cửa và toả ra thứ ánh sáng nhờ đục huyền ảo, như hắn đă bắt gặp cái xe ma tuần trước.

Tất cả đă biến thành ma cả rồi sao?...hắn bất thần ào chạy bán sống bán chết về phía chân đèo, trời tối lờ mờ, con đèo ngoằn ngoèo và dốc đứng, làm hắn ngă dúi dụi rồi lại đứng lên chạy tiếp.

Khi đă đến chân đèo hắn lại cắm đầu về phía hướng có ánh đèn dầu le lói phía trước, lết đi hy vọng ở đó có người, hắn đă đuối sức thở hổn hển rồi vấp phải một tảng đá, ngă sóng soài mặt mũi sây sát áo quần be bét máu, hắn đă kiệt sức không thể rướn dậy được nữa, nó từ từ ngóc đầu lên nh́n về phía trước rồi gục xuống bất tỉnh.

Sáng hôm sau, Phều tỉnh lại, mặt trời hồng đă nhú lên từ phía chân trời, quang cảnh b́nh minh trong trẻo, trải dài trên triền sông xanh mơn mởn vô tận của ngô non, mặt nước sông phẳng lặng phủ lên một lớp sương ban mai mờ ảo.

Phều uể oải nhổm dậy, hắn ngửng lên hít một hơi dài cái không khí trong lành đến mát lạnh của miền quê thơ mộng, xung quanh nó là đám cỏ dại đă nhàu nát, hắn phủi đất cát và gỡ mấy cái gai sắc nhọn của đám gai gốc dính đầy áo, hắn đă có một giấc ngủ ngon lành với côn trùng và cỏ dại.

Bao sợ hăi đă tan biến vào quá khứ, chuyện hôm qua cứ như là một cơn ác mộng, một ngày mới tràn đầy niềm hưng phấn đă đến, nhưng việc đầu tiên là về nhà, chắc bố mẹ nó hôm qua một đêm mất ngủ v́ nó.

Định rảo bước chợt mặt hắn tái mét, rồi co cẳng chạy ngược về phía đỉnh dốc, c̣n xe hơi của nó, chiếc audi không biết giờ này đang ở đâu, liệu có c̣n chỗ hôm qua nữa không, ngót tỷ bạc chứ đâu có ít, hắn tá hoả chạy hồng hộc về phía dốc núi như dựng đứng, lên dốc mà hắn chạy nhanh và dũng mănh như con ḅ tót đang lao vào con mồi trước mặt.

Lên đến đỉnh dốc hẳn thở hổn hển nhớn nhác nh́n quanh, chiếc xe đă bốc hơi, cái vết đỗ hôm qua vẫn c̣n đó nhưng xe th́ đă biến mất, hắn ngó xuống cái vực sông lởm chởm đá, dựng đứng cao mấy chục thân người, dưới vực là ḍng nước đang xoay tít đầy hung dữ như đă nuốt chửng mọi thứ.

Thế là hết, con xe cưng, t́nh yêu, niềm tự hào, nguồn cảm hứng vô tận, tài sản duy nhất đă chấm hết, bầu trời thơ mộng trước mặt hắn chuyển thành màu đen, hắn lảo đảo rồi ngồi sụp xuống bên mép vực, gục đầu tuyệt vọng.

- Này, anh kia, t́m xe phải không?

Hắn giật ḿnh ngửng lên, bên kia đường sát vách núi có một cái quán lá nhỏ lụp xụp khuất sau bụi cây, một cụ già chống gậy mái tóc bạc phơ, ngó ra khỏi quán đang hướng về phía hắn, nghe nói đến xe hắn tỉnh hẳn, ngồi bật dậy miệng rối rít:

- Dạ, vâng ạ, xe..cái xe của con, cụ..cụ có thấy nó đâu không ạ?

- Vào đây đă, ngồi cheo leo kia nhỡ lại lộn cổ xuống đó th́ khổ.

Hắn mừng rỡ rồi bước thoăn thoắt về phía bà cụ. Đó là một quán nước ven đường được làm bằng tre và cỏ dại, bên ngoài kê cái bàn nhỏ và ba cái ghế tre đă cũ kỹ nhưng sạch sẽ, trên bàn đặt một ấm tích bé xíu và vài chén nước đă sờn mẻ, có một chén đă được rót đầy đang bốc hương chè thơm thoang thoảng, như đang chờ nó.

Hắn nh́n trước ngó sau rồi tự ngồi xuống, cụ già tay cầm cái chổi vừa vơ mấy cái lá khô trước cổng, vừa thủng thỉnh:

- B́nh tĩnh đi, uống chén chè cho sảng khoái, có khoai lang luộc đấy, ăn sáng xong rồi sang kia lấy xe.

- Dạ thôi, con ăn sáng rồi, xe con đâu hả cụ?

Hắn lại nhổm lên ngó quanh khi nghe nói đến xe, lại ngồi xuống nhấp ngụm chè, bà cụ là ai mà sao lại biết là hắn đi t́m xe nhỉ, cứ như cụ chứng kiến hết chuyện hôm qua của hắn, cụ là bà tiên chăng? hay là cụ là tác giả của mấy cái hiện tượng xe ma đáng sợ kia?

Giờ trời đang ban ngày nó chẳng hề thấy sợ, nhưng rơ ràng có những chuyện bí ẩn đằng sau bà lăo này, nhưng thôi khỏi phải suy nghỉ vẩn vơ, việc bây giờ là lấy cho được xe, rồi về nhà với thầy u cái đă.

Nhưng nh́n bà cụ chậm răi, đưa đôi tay gầy guộc xương xẩu ra đủng đỉnh quét lá, dọn dẹp như không hề quan tâm đến hắn lắm. Sốt ruột nhưng tỏ vẻ lễ độ Phều bĩnh tĩnh hỏi:

- Cụ ơi, cụ có thấy cái xe của con hôm qua ở đây không? sao giờ đâu rồi hả cụ?

- Sáng nay tôi ra th́ thấy cái xe của anh nằm chơ vơ giữa đường, lúc năy người ta kéo vào cái khoảng đất trống kia ḱa, anh có thể mang về được rồi đấy.

Phều nh́n theo phía chỉ tay bà cụ và thấy chiếc xe của nó đang núp dưới đám cỏ dại, có lẽ ai đó đă cẩn thận che nắng cho xe nó, vậy là đă yên tâm nhưng hắn lại không muốn vội về nữa, ṭ ṃ chuyện tối hôm qua hắn hỏi:

- À, thế cụ cũng ở gần đây ạ? cụ có biết thỉnh thoảng có những chiếc xe vô chủ đêm đêm nằm chơ vơ trên đèo này không hả cụ?

- Có chứ, con đèo này nằm chắn ngang con đường vốn đă quanh co khúc khuỷu, tôi không rơ con đèo này có từ khi nào, nhưng đă chứng kiến bao nhiêu điều rùng rợn, không đếm nổi đă có bao nhiêu cái chết thương tâm từ nơi này. Cụ già chậm răi.

Phều nh́n xuống vực thẳm, đúng là hiểm trở thật, ban ngày c̣n nguy hiểm huống hồ ban đêm, để thế này c̣n chết nữa, tự nhiên hắn thấy bực tức vô cớ:

- Tại sao xă không ra tay? lẽ ra phải làm một con hầm cao tốc xuyên qua con đèo này, hoặc chí ít cũng phải làm dăy cọc bê tông bao lấy chỗ hiểm, ở bên Tàu đường sá họ làm rộng như sân bay, đường hầm kiên cố xuyên núi hàng trăm dặm, cầu vượt th́ cao ngất hoành tráng, vậy mà ta th́..

- Anh nói tây tàu ǵ tôi không hiểu, ở đây chả ai đoái hoài ǵ đâu, ai chết mặc họ, có làm cũng chỉ qua quưt lấy lệ, đường vừa làm xong th́ lại sụt lở hư hỏng, ôi... buồn lắm...nếu như anh nói th́ đă không có chuyện, cũng chẳng có cái chết oan nghiệt kia à? cụ run run chỉ tay về phía bụi rậm ven đường.

Phều ṭ ṃ đứng lên rồi từ từ tiến về phía bụi rậm ven đường, như để t́m hiểu và cảm thông cho những linh hồn xấu số. Nó rón rén tiến sát mấy cái bụi rậm lụp xụp mép đường, sau bụi cây là vực thẳm cheo leo dốc đứng, ban ngày đi xe không cẩn thận là lộn cổ xuống vực, c̣n ban đêm th́ không rơi xuống mới là kỳ lạ.

Vậy mà nó đă hai lần qua đây vào lúc nửa đêm say rượu, thậm chí có lần c̣n rúc vào bụi cây này nữa chứ... vậy mà may mắn chưa làm sao, nó sờ lên trán như khẳng định là c̣n sống tỉnh táo, đúng là thần linh đă cứu nó.

Hắn tiến thêm mấy bước về phía dốc đèo nh́n xuống vực, đằng sau đám cỏ dại xuất hiện mấy phiến đá lởm chởm, rồi tiến về một phiến đá mới nhất, dường như ai đó vừa mới lấp xuống c̣n tươi vết đất, rồi cúi xuống đọc:

"Nguyễn khắc Thạch, sinh ngày...tháng...năm…tại Thanh Hoa...mất ngày..."

Phều choáng váng, chợt một làn gió lạnh lướt nhẹ ven triền sông, hắn rùng ḿnh bám vào tảng đá, có lẽ nào Thạch đă ... chết rồi ư? Đúng là Thạch rồi, ngày sinh...quê quán, không nhầm vào đâu được, vậy bạn hắn, kẻ đă ăn nhậu say khướt với hắn tối hôm qua chỉ là hồn ma ư?

Bao nhiêu năm tha phương nơi đất khách quê người làm ăn bươn chải v́ cuộc sống, bè bạn của hắn cứ ít dần, người thăng quan, kẻ vào tù, thậm chí có kẻ đă vĩnh viễn ra đi mà hắn đâu có biết. Ngồi lặng lẽ ôm lấy phiến đá mặt hắn cúi xuống, hai hàng lệ ứa ra như thể hối hận và khóc thương và cho người bạn xấu số. Hắn gượng dậy rồi từ từ tiến về phía bà cụ.

- H́nh như anh có điều ǵ không vui? bà cụ hỏi

- Cụ có biết người mới mất gần đây nhất là ai không?

- Lạ ǵ cái cậu Thạch kiến trúc sư điển trai ấy, khổ thân nó, vừa mua ôtô, đêm hôm đă say rượu lại phóng xe vượt ẩu, nên rơi xuống vực chết mất xác, người ta t́m ba ngày ba đêm mà chưa thấy đâu, thương t́nh bà con nơi đây đă lập cho cái mộ giả, coi như đă yên nghỉ đây vậy.

Anh xem, thanh niên bây giờ chỉ nhậu với nhẹt, ham vui, tuỳ tiện...chúng nó có biết những người mẹ tần tảo như lăo đây..

Bà cụ vừa nói vừa lấy cái vạt áo đă sờn rách nâng lên lau nước mắt, mặc cho cụ đang kể lể lan man, trên cái ghế tre già cỗi ọp ẹp, Phều ngồi đực như kẻ mất hồn, cặp mắt dại nh́n về phía xa xăm, như đang nhảy múa với những linh hồn oan nghiệt.

- Mà anh chưa lấy xe về à? lát nữa họ tưởng xe vô chủ lại kéo đi cầm tiền nhậu đấy, thú thật nếu không có cái xe anh hôm qua nằm đây, có lẽ lại vài kẻ lao xuống vực rồi.

Giọng cụ cất lên như đánh thức Phều tỉnh lại. Phều bật dậy, nh́n thẳng cụ già tṛn mắt hỏi giật giọng:

- Sao? cụ nói ǵ con chưa hiểu, sao lại nhờ cái xe con...nên không có người chết thêm...?

- Anh không hiểu à, v́ từ lúc nửa đêm xe anh đă nằm đây, ngay cái chỗ quẹo hiểm nhất này, đèn xe sáng nên hễ có ai phóng qua đây đều thấy rơ đường, mà toàn kẻ say rượu đi xe cả, vô t́nh xe anh đă làm cái biển báo cứu được khối kẻ đi đường đấy.

Phều càng đứng ra ngơ dại, miệng há hốc mắt đờ đẫn như kẻ mất trí, có lẽ hắn ngạc nhiên đến không ngờ, hay hắn đang nhớ lại cái giây phút kinh hoàng hôm qua, rồi lại cách đây một tuần về trước, giá như đêm đó không có cái xe ma sáng lờ nhờ kia, có lẽ nó đă lao thẳng xuống vực mất xác rồi c̣n đâu sống đến hôm nay.

Rồi hôm qua nữa nếu như không có Thạch gọi, chắc men bia đă lái xe hộ nó lao xuống sông rồi, hắn lại từ từ sờ tay lên trán lấm tấm mồ hôi, như kiểm chứng lại lần nữa đúng là nó vẫn c̣n sống thật.

- Anh cảm lạnh à? sao tái mét ra thế, mà không phải xe anh là duy nhất đâu, từ khi cậu Thạch đi, đă có mười ba kẻ bỏ xe lại rồi chạy như anh đấy, cậu Thạch vậy mà sống khôn chết thiêng.

Trời, mười ba lần, mười ba cái xe trơ ra trong đêm tối, nơi cái chốn đèo đêm hiểm ác để cứu người, cũng là mười ba lần, nhiều người vô t́nh đă tránh được cái chết thảm thương, mà hắn là một trong số họ đă được sống.

Phều dần dần trấn tĩnh lại, lẩn thẩn vào quán t́m một nén nhang, từ từ men theo sườn đèo tiến về triền sông, rồi kính cẩn dừng lại trước phiến đá trơ trọi kia thắp lên rồi cắm xuống. Những tia nắng đầu tiên đang toả sáng, ḍng sông vẫn lững lờ trôi.




Tuyền Châu








Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1022 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 11:14am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



ĐƯỜNG TẮT


Mọi người hỏi tôi tại sao tôi thay đổi. Họ nói rằng bây giờ tôi lặng lẽ quá, âm thầm quá, và sống thu ḿnh như một con ốc cố thu ḿnh vào trong vỏ. Một vài người c̣n cho rằng tôi có vẻ hơi bất thường.

Có lẽ họ nói đúng, tuy họ không biết tại sao. Riêng tôi th́ biết rằng ḿnh đă thay đổi từ đêm hè năm đó...

... Năm đó, thầy mẹ tôi cho phép tôi ra ở với một người chú nhân dịp nghỉ hè. Tạm rời bỏ Sài G̣n đầy xe cộ và bụi bậm, những ngày hè của tôi trong trang trại của chú thật thần tiên.

Hôm đó là một ngày hè lư tưởng của một mùa hè lư tưởng. Tôi vùng vẫy trong hồ tắm cách nhà chú tôi vài cây số, cùng mấy người bạn mới cư ngụ gần hồ. Sau một hồi bơi lội thỏa thích, chúng tôi mua bánh ḿ thịt, nước mía rồi kéo nhau ra công viên vừa ăn vừa nói chuyện trên trời dưới đất. Mấy người bạn mới say mê nghe tôi kể chuyện Sài G̣n, nơi đối với họ là một "quốc gia" văn minh xa xôi nào đó.

Câu chuyện kéo dài hầu như không dứt và th́ giờ trôi qua thật nhanh. Khi chúng tôi chia tay hẹn gặp lại vào ngày hôm sau, trời đă về chiều. Những người bạn mới của tôi đi bộ về nhà quanh khu hồ tắm, c̣n tôi th́ phải đạp xe về nhà chú ở bên kia hai ngọn đèo.

Tôi đạp xe lên một đỉnh đèo hướng về phía nhà chú tôi. Lên tới đỉnh, tôi thở hào hển và phải ngưng lại nghỉ ngơi v́ quá mỏi mệt. Lúc đó chỉ có ḿnh tôi đứng giữa đỉnh đèo trong bóng hoàng hôn. Tôi mệt quá nên không thể đạp tiếp được và cũng không thể làm việc ǵ khác hơn, ngoài việc đứng ngắm những tia nắng cuối cùng xuyên qua những cành cây kẽ lá.

Xung quanh tôi không một tiếng động, không cả tiếng lá ŕ rào. Giữa cảnh hoang vu đó, khi bóng đêm từ từ rủ xuống, tự nhiên tôi cảm thấy như có một luồng hơi lạnh chạy dọc theo xương sống và có cảm tưởng rằng ḿnh là kẻ duy nhất c̣n sống sót trên cơi đời này. Khu vực này xa xôi quá và hoàn toàn xa lạ đối với tôi.

Nh́n xuống phía chân đèo, tôi thấy con đường nhỏ chia làm hai nhánh. Đă nhiều lần hai chú cháu tôi chạy xuống đèo trên chiếc xe hơi cũ của chú. Chú tôi luôn luôn theo con đường bên phải về nhà, một con đường gồ ghề khúc khuỷu và khá xa.

Có lần tôi hỏi chú con đường bên trái dẫn về đâu, chú nói rằng đó là một con đường tắt. Rồi chú nói lầm thầm những ǵ mà tôi chỉ c̣n nhớ đại khái, là bây giờ không c̣n ai xử dụng con đường đó nữa. Thực ra tôi không nhớ chú nói cái ǵ.

Xung quanh tôi, trời bắt đầu tối hẳn và tôi biết tôi phải đạp về ngay, nếu không muốn bị lạc trong đêm tối. Tôi bèn nhảy lên xe để xe trôi xuống. Khi tới ngă ba, không hiểu bị mănh lực nào thúc đẩy, tôi quyết định chạy theo con đường bên trái, "đường tắt".

Cho tới bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao tôi lại có sự lựa chọn đó! Có thể v́ óc phiêu lưu mạo hiểm muốn đi thử con đường mới? Có thể v́ đă quá trễ nên tôi muốn về nhà mau hơn bằng con đường tắt? Hoặc v́ bị một sức mạnh huyền bí nào thúc đẩy? Tôi không biết!

Chiếc xe đạp của tôi lăn trên con đường đất lồi lơm, gồ ghề, bụi bay mù mịt. Trong bóng tối, đột nhiên tôi thấy con đường trước mặt biến mất và chiếc xe đạp của tôi lao thẳng vào một bức tường tăm tối khổng lồ. Tôi vội thắng giựt xe lại và ước thầm phải chi ḿnh cứ đi theo đường cũ.

Nhưng rồi tôi nhận thấy con đường vẫn đang xuống dốc và nếu muốn quay trở lại, tôi sẽ phải leo dốc! Tôi mệt quá rồi và cứ để chiếc xe trôi nhanh trên con đường vắng ngắt.

Khi xe chạy tới khoảng đất bằng, tôi phải đạp mạnh hơn để giữ nguyên tốc độ. Tuy hai chân mỏi nhừ nhưng tôi cố không để ư, mà chỉ ráng đạp nhanh trên con đường tối đen như mực, mà ánh sáng duy nhất là ánh trăng lưỡi liềm, vừa hiện ra sau những hàng cây, rọi xuống núi đồi một ánh sáng mờ mờ như sữa đục.

Thỉnh thoảng, khi vầng trăng non bị mây che phủ, tôi lại như mất dấu con đường trước mặt. Nhưng lần lần, mắt tôi làm quen với bóng tối và tôi thấy con đường phía trước, giống như một tấm vải trải dài mờ mờ trong đêm tối, hai bên tối đen như mực.

Đột nhiên bánh trước của tôi sụt xuống một cái ổ gà khá lớn. Tôi phải nắm chặt tay lái mới giữ được thăng bằng. Đúng lúc đó vầng trăng lưỡi liềm chui ra khỏi đám mây, rọi xuống một làn ánh sáng mờ nhạt, nhưng cũng đủ để tôi thấy ḿnh đang đạp về phía một... nghĩa trang!

Xa xa, giữa những tấm mộ bia trắng xóa ngả nghiêng như những bóng người đang nghiêng ngả, chờ tôi là bóng đen khổng lồ của một ngôi nhà mồ vĩ đại. Đột nhiên xương sống tôi lạnh buốt. Một ư tưởng vụt đến với tôi. Quay lại, quay lại ngay! Nhưng tôi vội gạt đi ngay. Không được, ḿnh đă đi xa quá rồi!

Tôi bèn cố gắng đạp nhanh hơn nữa và cố không nh́n về phía nghĩa trang. Nhưng khi vùng mộ địa mỗi lúc một gần, th́ chiếc xe cũ kỹ cọc cạnh của tôi lại có vẻ chậm chạp, nặng nề hơn. Rôi tôi chợt kinh hoàng khi nhận thấy bánh trước đang bị x́ hơi! Tiếng x́ nhè nhẹ như có vẻ giễu cợt những nỗ lực tuyệt vọng của tôi.

Rồi không biết tại sao chiếc xe chạy chậm hẳn trước khi ngưng lại ngay cổng nghĩa trang. Tôi liếc nh́n những tấm mộ bia trắng xoá, như những quân nhân xếp hàng nghiêng ngả dưới ánh trăng, đang lặng lẽ nh́n tôi bằng ánh mắt ma quái lạnh lùng.

Trong một giây, tôi đă toan quẳng xe bỏ chạy. Nhưng tôi cố gắng lấy lại b́nh tĩnh, cúi xuống kiểm soát bánh xe. Đúng như sự lo sợ của tôi, bánh trước xẹp lép! Khi tôi đang chuẩn bị bơm xe, th́ đột nhiên những tiếng lách cách quái gở như tiếng xương người chạm vào nhau. từ phía nghĩa trang vọng lại khiến tôi nổi da gà và một lần nữa toan vứt xe bỏ chạy.

Nhưng rồi tất cả lại yên lặng. Tôi cố nghĩ rằng có lẽ ḿnh chỉ tưởng tượng, hoặc đó chỉ là tiếng cành cây chạm vào nhau. Điều khó khăn nhất là tôi cố không liếc nh́n về hướng nghĩa trang.

Thu hết can đảm, tôi run run lấy cái bơm ở khung xe ra, cúi xuống mở nắp van, nhưng đôi tay run rẩy của tôi làm rớt cái bơm xuống đất, chạm vào vành xe vang lên một tiếng khiến tôi suưt giật ḿnh. Tuy vẫn run lẩy bẩy, tôi cố gắng bơm thật lẹ. Có thể nói trong đời tôi, chưa bao giờ tôi bơm lẹ như thế.

Tiếng hơi bơm vào x́ ra kḥ khè như tiếng người bị bóp cổ đang cố ngáp ngáp. Tôi cũng thở mỗi lúc một nhanh, nhưng đột nhiên tôi như nín thở. Âm thanh lách cách lạ lùng mà tôi nghe lúc trước, bây giờ dường như đang tiến lại phía sau tôi. Tôi quay phắt lại, nhưng trong bóng tối mịt mù tôi không thấy ǵ hết.

Tôi vội vă bơm lẹ hơn. Tiếng hơi bơm x́ x́ pha lẫn những tiếng thở ph́ pḥ mà tôi nghe thật rơ, những tiếng thở của chính tôi. Rồi những tiếng lách cách quái gở lại vang lên và dường như đang tiếp tục tiến tới sau lưng tôi mỗi lúc một gần.

Tôi bèn hát thật lớn như muốn át tiếng động quái gở đó, trong lúc vừa tiếp tục bơm hết tốc lực vừa tự nhủ phải lập tức bỏ chạy khỏi nơi này, bỏ chạy trước khi cái âm thanh lách cách ma quái tới sát sau lưng.

Ư nghĩ này khiến tôi không cần kiểm soát xem bánh xe đă đủ cứng hay chưa, giựt vội ṿi bơm ra, cài cái bơm sau lưng, vặn đầu van lại và leo lên xe. Khi một chân tôi vừa đặt lên bàn đạp, th́ đột nhiên tôi cảm thấy hăi hùng tới độ muốn ngất xỉu, khi cảm thấy như có năm móng tay nhọn hoắt đặt nhẹ lên đầu tôi trước khi từ từ ḅ xuống gáy.

Tuy sự kinh hoàng khiến tôi gần như tê liệt, nhưng cũng chính sự kinh hoàng cực độ đó, đă khiến chân tôi đạp mạnh trên bàn đạp và chiếc xe lao về phía trước... Hành động bất chợt này khiến những móng tay nhọn hoắt trên gáy tôi, hoặc bất cứ cái ǵ, biến mất, có lẽ bị rớt xuống mặt đường khi chiếc xe bất ngờ phóng tới.

Trong đêm tối, tôi cắm đầu cắm cổ đạp như bị ma đuổi, bỏ lại sau lưng những tấm mộ bia mỗi lúc một xa. Tuy đầu óc tôi như tê liệt, toàn thân tôi lạnh buốt, nhưng nhờ trời đôi chân tôi, như một cái máy, vẫn tiếp tục đạp không ngừng. Tôi đạp măi trong bóng tối tới khi bánh trước lọt vào một cái ổ gà, khiến tôi loạng choạng, cùng lúc những tiếng lách cách quái gở lại vang lên ngay ở sau lưng.

Không cần nh́n lại, không dám th́ đúng hơn, tôi biết là "cái ǵ" đó vẫn đuổi theo tôi sát nút. Có thể là một bộ xuơng, có thể là một cánh tay, một bàn tay, có thể là bất cứ cái ǵ nhưng điều chắc chắn "cái ǵ" đó phải thuộc về thế giới bên kia. Và tôi cắm đầu cắm cổ cố đạp thật nhanh dù đang leo dốc.

Gần tới đầu dốc tôi thở hồng hộc và cảm thấy đôi chân nặng như ch́. Nghĩ rằng có lẽ ḿnh đă được an toàn, tôi vừa lơi chân th́ những tiếng lách cách sau lưng lại vang lên thật rơ và tôi lại cắm đầu cắm cổ đạp điên cuồng.

Trên đoạn đường "thiên lư", thỉnh thoảng những tiếng lách cách lại vang lên ngay sát sau lưng tôi, như cảnh cáo rằng tôi không thể được an toàn. Tôi có ư nghĩ là "cái ǵ" đó cố t́nh chơi tṛ cân năo, khiến thần kinh tôi căng thẳng tới độ trở thành điên loạn.

Bây giờ chiếc xe của tôi đang đổ dốc, nhưng tôi không dám giảm tốc độ. "Cái ǵ" đó dường như cũng gia tăng tốc độ rượt theo gấp rút, v́ thỉnh thoảng tôi vẫn nghe những tiếng lách cách thật rơ sau lưng.

Cuối cùng dưới ánh trăng mờ nhạt, tôi nh́n thấy bóng dáng căn trại của chú tôi cùng những ánh đèn. Tôi mừng như kẻ chết đi sống lại, quẹo gấp vào con đường đất dẫn vào trại và tiếp tục đạp thật nhanh.

Rồi tôi thấy chú tôi đang đứng trước cổng trại, trên tay cầm một cái đèn băo, có lẽ đang nóng ruột chờ tôi. Nh́n thấy chú, tôi tự nhủ tất cả những ǵ tôi nh́n thấy và cảm thấy trước đó... ngă ba, khu mộ địa, những móng tay nhọn hoắt, những tiếng lách cách ma quái... chỉ là tưởng tượng.

Tôi đạp thẳng tới chỗ chú tôi đang đứng, thắng đánh két một cái, nhảy xuống xe đứng thở hổn hển không nói được một lời, giữa lúc hai buồng phổi như muốn nổ tung. Lúc đó tôi chỉ muốn buông xe ra nằm dài xuống đất, tuy nhiên tôi biết tôi phải trả lời những câu hỏi của chú tôi trước đă.

Nhưng tôi ngạc nhiên khi thấy chú không nói một lời. Tôi nh́n vào mắt chú và dưới ánh đèn băo, đôi mắt chú đầy vẻ hăi hùng. Chú không nh́n tôi mà nh́n trừng trừng vào cái yên xe.

Tôi nh́n theo tầm mắt chú và chân tay tôi run bắn lên, để chiếc xe đổ ầm xuống đất: Tôi thấy thật rơ năm móng tay nhọn hoắt ghim chặt vào sau yên xe, những móng nhọn của một cánh tay xương trắng hếu.



                                                                  NKCM









Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1023 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 11:15am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



NGÔI NHÀ BÚP BÊ BỊ MA ÁM


- Chắc ông hay vớ được loại mẫu vật như thế này lắm phải không?

Ông Dillet hỏi, chỉ cái gậy vào một vật mà đến lúc sẽ được tôi mô tả. Khi nói vậy ông biết ḿnh nói dối. Chưa một lần nào trong hai mươi năm ṛng, có lẽ trong cả một đời người là khác, ông Chittenden, người lùng sục những kho tàng bị lăng quên, trong hàng chục tỉnh thành như thế, mong có được cơ may nắm giữ một mẫu vật loại này.

Đối với một người sưu tầm th́ đây là một áp phe lớn, và ông Chittenden biết như vậy.

- Loại đồ vật như thế này ấy ạ, thưa ông Dillet! Đáng được đưa vào bảo tàng!

- Bảo tàng th́ thứ ǵ mà họ chẳng vơ!

Ông Chittenden nghĩ ngợi một chút rồi nói:

- Những năm về trước tôi đă nh́n thấy một vật như thế này nhưng không đẹp bằng. Nhưng không phải t́m được ở ngoài chợ đâu. Tôi nghe nói họ có vài mẫu vật khá đẹp của thời kỳ sông nước.

Không thưa ông, xin nói thực với ông, ông Dillet ạ, nếu ông muốn t́m một thứ ǵ tốt nhất, mà tôi có thể t́m được, ông biết tôi có phương tiện t́m đến những thứ ấy, và tôi cũng muốn giữ danh tiếng của ḿnh, th́ tôi chỉ việc dẫn thẳng ông đến cái thứ ấy mà nói rằng, Không thể nào t́m được cho ông thứ ǵ tốt hơn được nữa đâu.

- Nào, nào!

Ông Dillet dùng gậy gơ gơ trên sàn nhà, có ư khen mỉa:

- Thế ông biết cái tay mua hàng ngây thơ người Mỹ phải trả cái giá cắt cổ là bao nhiêu vậy?

- Ồ, tôi chẳng bao giờ cứng rắn với khách hàng, dù người Mỹ hay ai khác. Ông xem đấy, nó giá trị lắm, giá như tôi biết thêm được chút về nguồn gốc của nó.. Hoặc biết ít hơn...Ông Dillet đế vào.

- Ha! Ha! Ông cứ đùa! Không, nhưng như tôi đă nói đấy, nếu như tôi mà biết thêm chút ít về mẫu vật này, dù ai cũng hiểu nó là một món thiên tài, kể từng góc của nó ấy, và nếu như người trong cửa hiệu tôi không sờ vào nhiều như thế, từ khi nó được đưa về, th́ tôi hẳn đă đ̣i một giá khác.

- Bao nhiêu? Hai mươi lăm chăng?

- Ông nhân giá đó lên gấp ba cho, thưa ông. Bảy mươi lăm.

- Tôi chỉ trả năm mươi.

Dĩ nhiên điểm thoả thuận ở trung gian, không quan trọng chính xác là bao nhiêu, tôi nghĩ có lẽ sáu mươi ghinê, chỉ biết là nửa giờ sau, vật đó được gói lại, và một giờ sau đó, ông Dillet đă đưa nó vào xe để lái về nhà.

Ông Chittenden tay cầm tấm ngân phiêu, qua cánh cửa nh́n ông ta đi khỏi, mỉm cười rồi trở lại pḥng khách, vẫn c̣n mỉm cười với bà vợ đang pha trà. Ông ta dừng lại nơi ngưỡng cửa.

- Bán xong rồi. Ông ta nói.

- Thật là nhờ trời!

Bà Chitteden vừa nói vừa đặt b́nh trà xuống

- Ông Dillet mua chứ ǵ?

- Phải.

- Ông ấy chẳng mua th́ rồi cũng có người khác mua.

- Ồ tôi cũng không biết nữa, nhưng ḿnh ạ, ông ấy là người tốt.

- Biết đâu đấy, nhưng ư tôi ông ấy chắc, cũng chẳng v́ một chút xáo trộn ấy mà hoảng loạn.

- Th́ đó là ư ḿnh, nhưng theo tôi, số ông ấy là phải chứa nó. Tuy nhiên, chúng ta không c̣n nó nữa, thế là xong, một điều ta phải cám ơn là đúng rồi.

Hai ông bà Chittenden ngồi xuống uống trà. C̣n ông Dillet và vật mới mua được? Nó là cái ǵ vậy? Nó là cái đầu đề câu chuyện tôi kể bạn nghe đây. Trông nó ra sao, tôi xin chỉ rơ cho bạn thấy.

Xe vừa đủ đặt nó ở ghế sau, ông Dillet ngồi với tài xế ở ghế trước. Xe đi rất chậm, mặc dù các buồng của ngôi nhà búp bê được chèn kỹ bằng bông, vẫn cần tránh dằn xóc, bởi trong đó c̣n xúm xít bao nhiêu là vật nhỏ xíu nữa.

Thời gian chạy qua mười dặm làm ông rất lo lắng, cho dù đă yêu cầu bác tài xế lái xe cẩn thận. Cuối cùng đến cửa nhà, Collins, người quản gia, ra mở cửa.

- Này Collins, anh phải giúp tôi đem vật này ra, việc hết sức tinh tế đấy. Hăy để nó đứng thẳng. Ở trong đấy các thứ không được chuyển dịch chỗ đâu. Để xem ta sẽ đặt nó ở đâu nào? (sau một lát suy nghĩ) có lẽ để trong pḥng tôi, thế đă. Trên cái bàn to ấy.

Nó được đưa lên căn pḥng rộng của ông Dillet ở tầng hai, trông ra con đường đi lên cổng. Giấy bọc được gỡ ra, mặt trước ngôi nhà lộ ra, suốt một, hai giờ đồng hồ sau đó, ông Dillet chỉ lo gỡ hết các miếng đệm, đặt những thứ trong mỗi gian pḥng bé xíu vào trật tự.

Sau khi nhiệm vụ tương đắc này được hoàn thành, tôi phải nói là khó ḷng kiếm được một mẫu vật nào, hoàn hảo và hấp dẫn hơn ngôi nhà búp bê kiểu Gô tích, đứng trên ngọn đồi Strawberry Hill, trên cái bàn giấy rộng của ông Dillet, được chiếu sáng rực rỡ bởi ánh nắng chiều, xuyên nghiêng qua ba cửa sổ cao có khung kính trượt.

Toàn bộ chiều dài của nó là một mét tám, kể cả nhà thờ nhỏ áp vào sườn trái mặt trước nhà. Chuồng ngựa ở bên phải. Khối chính của toà nhà, như tôi đă nói, theo kiểu Gô tích. Các cửa sổ h́nh cánh cung trên có chóp nhọn, với những cái móc và h́nh chạm, giống như ta thường thấy ở ṿm các ngôi mộ, xây hẳn vào trong tường.

Các góc nhà đều có các tháp nhỏ, trên phủ những tấm ván ô cong. Nhà thờ nhỏ có các tháp nhọn và trụ ốp, trong tháp có cả chuông, cửa sổ kính màu. Mặt trước ngôi nhà mở ra, ta có thể thấy bốn pḥng lớn, pḥng ngủ, pḥng khách, pḥng ăn và bếp. Mỗi pḥng đều có đồ đạc riêng.

Chuồng ngựa bên phải, hai tầng, đủ cả ngựa xe, bồi ngựa, có đồng hồ gơ chuông và mái ṿm Gô tích cho chuông đồng hồ. Phải mất nhiều trang mới mô tả được trang bị của toà nhà, nào là xoong chảo trong bếp, ghế ngồi thếp vàng trong pḥng khách, nào là tranh ảnh, thảm trải sàn, đèn chùm, giường bốn cột, khăn trải bàn, cốc tách, bát đĩa…

Thôi để ta tưởng tượng ra vậy. Tôi chỉ muốn nói nền nhà hoặc chân tường, chân cột mà cái nhà đứng trên đó, v́ ở dưới có một chiều sâu, cho các bậc tam cấp đi lên cửa trước, một sân hiên và một phần lan can, có một loạt các ngăn kéo, trong đó xếp đủ loại rèm cửa, quần áo để những người trong nhà thay đổi.

Tóm lại đủ mọi vật dụng cho không biết bao nhiêu loạt thay h́nh đổi dạng và tái trang bị, đều đáng say mê thích thú hết.

- Đúng là tinh hoa của Horace Walpole. Nhà văn hẳn đă viết ǵ đó về cái nhà này.

Đó là lời ông Dillet quỳ trước toà nhà, lẩm bẩm với niềm say sưa khâm phục

- Tuyệt vời! Hôm nay đúng là ngày của ta và không có sai lầm nào. Năm trăm bảng có vào đây sáng nay ta cũng chẳng thiết, thế mà với một phần mười số tiền đó ta lại được một thứ đẹp nhất, dù có t́m trong cả thị trấn. Chà chà! Nó làm người ta đâm sợ có chuyện ǵ xảy ra chống lại nó. Dù sao th́ cũng cứ xem thử những người trong nhà ra sao.

Ông đem họ ra xếp thành hàng. Chỗ này có cơ hội kiểm kê các bộ quần áo. Tôi không làm nổi! Có một vị quư tộc với một phu nhân, ông ta mặc đồ sa tanh xanh, bà vận đồ thêu. Hai đứa trẻ một trai, một gái, một bà bếp, một cô giữ trẻ, một người hầu, bọn đầy tớ coi sóc chuồng ngựa, hai người dẫn ngựa trạm, một đánh xe, hai giữ ngựa.

- C̣n ai nữa không? Có thể lắm chứ!

Màn của chiếc giường bốn cọc trong pḥng được buông kín cả bốn phía chung quanh, ông lấy ngón tay khẽ tách màn và sờ vào trong giường. Ông vội giật ngón tay lại ngay, bởi v́ có một cái ǵ đó, không hẳn là cựa quậy, nhưng nhượng bộ, theo cái cách của người đang sống.

Rồi ông kéo màn lại, màn chạy êm ro trên dây căng, và lôi ra khỏi giường một cụ già quư tộc, tóc bạc phơ mặc áo ngủ dài bằng lanh, đầu trùm mũ ngủ sau đó đặt cụ bên cạnh mấy người kia. Thế là đủ mặt.

Sắp đến giờ cơm tối, thế là ông Dillet mất năm phút đặt bà phu nhân và hai đứa trẻ vào pḥng khách, ông quư tộc vào pḥng ăn, đầy tớ vào bếp và chuồng ngựa, cụ già vào lại giường. Bản thân ông th́ lui vào pḥng thay quần áo của ḿnh ngay bên cạnh, và đến mười một giờ đêm chúng ta mới thấy lại ông.

Ông có cái thói kỳ lạ là nằm ngủ với các bộ sưu tập quư nhất của ḿnh vây quanh. Pḥng lớn ta nh́n thấy ông lúc này chỉ có cái giường, c̣n bồn tắm, tủ quần áo, mọi vật dụng dùng cho việc đóng bộ, th́ ở pḥng bên rất thuận lợi.

Riêng cái giường, bốn cột nằm giữa pḥng ngủ, bản thân nó đă là cả một gia tài, pḥng này c̣n đôi khi dùng làm chỗ viết lách, ngồi chơi, thậm chí tiếp khách. Đêm nay ông lui về đó, tinh thần đặc biệt cao hứng.

Tại đây th́ không thể nghe thấy tiếng chuông đồng hồ nào trong tầm tai, cầu thang không có đồng hồ, chuồng ngựa cũng không, tháp chuông nhà thờ ở xa xa cũng không. Ấy thế mà ông Dillet đang ngủ ngon bỗng giật ḿnh tỉnh dậy khi nghe chuông đồng hồ điểm một giờ.

Ông sửng sốt đến nỗi không những mở chong mắt nín thở, mà c̣n ngồi thẳng dậy trên giường. Suốt cho đến sáng ông vẫn cứ tự hỏi, làm sao mà trong pḥng không có ánh sáng, ngôi nhà búp bê trên bàn vẫn cứ sáng trưng lên?

Nhưng đúng như vậy thật. Nó là do mặt trăng sáng vằng vặc, soi tỏ toà nhà bằng đá trắng có lẽ cách đó nửa dặm, mọi chi tiết đều in h́nh rơ nét. Các cây cao xung quanh. Sau ngôi nhà và sau nhà thờ nhỏ.

Rơ ràng ông cảm thấy hơi lạnh của tiết trời một đêm tháng Chín. Trong chuồng ngựa có tiếng leng keng, tiếng vó ngựa dậm chân. Thêm cú sốc nữa là bên trên ngôi nhà, không phải bức tường pḥng ông với những bức tranh treo ở đó, mà là một bầu trời đêm sâu thẳm và xanh ngăn ngắt.

Không phải một, mà nhiều cửa sổ có ánh đèn, ông nhận ra ngay đây không phải ngôi nhà búp bê bốn pḥng, với mặt trước nhấc ra được, mà là một nhà nhiều pḥng, một toà nhà thực sự, nhưng được nh́n thấy như qua một lăng kính.

- À, mi định cho ta xem một cái ǵ đây.

Ông lẩm bẩm và nh́n đăm đăm vào những cửa sổ sáng đèn. Ông nghĩ, nếu trong đời thực th́ cửa sổ lúc này phải đóng hết và che rèm chứ, tuy nhiên nhờ thế mà ông nh́n thấy rơ những ǵ diễn ra bên trong.

Hai gian pḥng có đèn sáng, một ở tầng trệt bên phải cửa ra vào, một trên gác bên trái, pḥng thứ nhất khá sáng, pḥng thứ hai th́ mờ mờ. Pḥng dưới nhà là pḥng ăn. Bàn đă được dọn sẵn, nhưng bữa ăn đă xong, chỉ c̣n ly tách và chai rượu.

C̣n mỗi người đàn ông mặc sa tanh xanh và người đàn bà mặc đồ thêu ngồi lại, sát vào nhau bên bàn và chuyện tṛ với nhau rất sôi nổi, khuỷu tay chống lên bàn, im lặng lắng nghe cái ǵ không biết.

Có một lúc ông ta đứng dậy, tiến đến mở cửa sổ, tḥ đầu ra ngoài lắng tai nghe ngóng. Một cây nến cháy trên giá nến bằng bạc đặt trên tủ buưt phê. Khi người đàn ông rời khỏi cửa sổ, cũng là lúc ông ta rời khỏi gian pḥng.

Bà phu nhân cầm giá nến, đứng im nghe ngóng, trên mặt như lộ vẻ sợ sệt hăi hùng phải cố kiềm chế và kiềm chế được. Đó cũng là một bộ mặt đáng ghét, to bẹt và đầy vẻ quỷ quyệt giả nhân giả nghĩa. Khi người đàn ông trở lại, bà ta cầm lấy một thứ ǵ nho nhỏ từ tay chồng rồi vội vă ra khỏi pḥng.

Ông kia cũng biến mất nhưng chỉ ít phút sau lại xuất hiện. Cửa trước mở ra, ông bước ra đứng trên bậc trên cùng cửa toà nhà, nh́n trước nh́n sau nghe ngóng, cuối cùng nh́n lên cửa sổ pḥng trên dứ dứ nắm đấm.

Giờ nh́n lên pḥng trên. Có chiếc giường bốn cột. Một y tá hoặc đầy tớ ngồi trong cái ghế bành ngủ say sưa; trên giường th́ một cụ già đang nằm, tỉnh táo, có vẻ lo lắng th́ đúng hơn, v́ cứ cựa quậy và động đậy các ngón tay, tựa như gơ nhịp trên khăn trải giường.

Cạnh giường, một cánh cửa mở ra, đèn trần sáng, cho thấy bà phu nhân đi vào. Bà ta đặt giá nến trên bàn, đến gần ḷ sưởi đánh thức y tá dậy. Tay bà ta cầm một b́nh rượu kiểu cổ đă mở nút. Y tá đón lấy, rót một ít vào cái xoong bằng bạc, cho thêm tí đường và ít gia vị từ cái b́nh con trên mặt ḷ sưởi, rồi đưa vào lửa hâm nóng.

Cụ già yếu ớt vẫy bà phu nhân. Bà ta tiến lại, mỉm cười, nắm lấy cổ tay ông cụ như bắt mạch, môi mím lại có vẻ kinh ngạc. Cụ nh́n bà ta lo ngại, chỉ ra cửa sổ nói cái ǵ đó, bà ta gật đầu và làm giống như người đàn ông dưới nhà, tức là mở khung cửa ra và lắng tai nghe ngóng hết sức chú tâm, sau đó rụt đầu vào và lắc đầu nh́n cụ già, cụ h́nh như thở dài.

Dung dịch sữa đường đă bốc hơi, y tá rót một ít ra cái bát bằng bạc có hai tay cầm, bưng đến bên giường. Cụ già không muốn uống, vẫy tay xua đi nhưng hai người kia cứ cúi xuống ép, dựng cụ ngồi dậy, đưa cái bát vào tận miệng, cụ đành phải uống, uống gần hết bát sữa, bằng nhiều hớp.

Họ đỡ cụ nằm xuống. Bà phu nhân mỉm cười chúc cụ ngủ ngon rồi ra khỏi pḥng, mang theo cái bát, chai rượu cả cái xoong. Y tá trở lại ghế bành, tiếp theo là một đoạn im lặng hoàn toàn.

Bỗng nhiên cụ già ngồi dậy, h́nh như kêu lên, y tá tỉnh dậy bước đến bên giường. Trông cụ thật khủng khiếp, mặt đỏ bừng bừng, sau đó tím đen lại, hai mắt trắng dă, hai tay ôm chặt lấy ngực sùi bọt mép.

Trong một lúc y tá chạy ra khỏi pḥng, mở toang cửa và có lẽ gào to cấp cứu, rồi lại chạy tới giường vuốt ngực cho cụ, đặt cụ nằm. Bà phu nhân, ông chồng và nhiều đầy tớ nữa hốt hoảng chạy bổ vào pḥng, cụ già xỉu đi trong tay y tá rồi nằm xuống, mặt mũi co quắp đầy vẻ tức giận trong cơn hấp hối, cuối cùng toàn thân duỗi thẳng cẳng.

Chỉ ít phút sau, đuốc sáng bên trái ngôi nhà. Một xe ngựa tới cửa. Một người đàn ông đội bộ tóc giả màu trắng, áo quần màu đen, lặng lẽ chạy lên bậc tam cấp mang theo chiếc cặp da, đến cửa th́ gặp hai vợ chồng nhà kia, bà vợ tay nắm chặt chiếc khăn tay, ông chồng mặt mày bi thảm cố tự chủ để trấn tĩnh.

Họ đưa người mới tới vào pḥng ăn, ông này mở các giấy tờ ra, quay về phía hai vợ chồng, sửng sốt nghe họ tŕnh bày. Ông ta gật gật đầu, vung nhẹ hai bàn tay có ư từ chối ở lại đêm, vài phút sau chậm răi bước xuống bậc tam cấp, chui vào xe ngựa, xe quay trở lại con đường vừa đi tới.

Người đàn ông đứng trên bậc thềm nh́n theo, thoáng hiện nụ cười phấn khởi trên khuôn mặt bị thịt. Đêm tối rơi xuống toàn cảnh trên, khi ánh đèn trên xe ngựa mất hút.

Nhưng ông Dillet ngồi sừng sững trên giường. Ông ta đă đoán ra đoạn tiếp theo. Toà nhà c̣n sáng lung linh một lúc lâu. Rồi t́nh h́nh trở nên khác trước. Đèn sáng lên trên nhiều cửa sổ khác nữa, trong đó có một cửa sổ tầng trên cùng và một cửa sổ nào đó, chiếu sáng lớp kính màu của dăy cửa sổ nhà thờ nhỏ.

Làm sao ông Dillet trông xuyên được qua cửa sổ nhà thờ, chính ông cũng không hiểu. Chỉ biết là bên trong trang trí đẹp như hết thảy các pḥng trong toà nhà.

Những cái đệm đỏ nhỏ xíu trên bàn giấy kính, các ghế ngồi hát kinh có ṿm che kiểu Gô tích, hành lang phía Tây nhà thờ, cùng chiếc đàn organ có tháp nhọn với các ống bằng vàng.

Ở chính giữa mặt sàn lát đen và trắng, là một chiếc kiệu khiêng quan tài. Bốn góc thắp bốn ngọn nến. Trên kiệu khiêng là một chiếc quan tài phủ vải nhung màu đen. Đang nh́n th́ ông thấy những nếp gấp của tấm nhung lay động, hầu như một đầu bị dựng lên rồi cứ thế truợt xuống, lộ chiếc quan tài màu đen có tay nắm bằng bạc và phiến kim loại ghi tên người chết.

Một giá nến chao đảo rơi xuống đất. Ông Dillet vội quay đi nh́n lên cửa sổ tầng trên cùng, toà nhà nơi hai đứa trẻ con ngủ trong một chiếc giường đẩy, ngoài ra c̣n một cái giường bốn cọc cho vú em nằm.

Không thấy bà vú đâu, chỉ thấy cha và mẹ chúng, họ mặc đồ tang, nhưng tác phong th́ chẳng có vẻ ǵ là tang tóc, họ nói cười náo nhiệt với nhau hoặc với một trong hai đứa trẻ, chúng trả lời th́ họ cười rộ.

Rồi người cha rón rén đi ra mang theo một tấm áo trắng treo trên mắc cạnh cánh cửa. Ông ta đóng cửa lại sau lưng. Một hai phút sau, cửa từ từ mở ra, một cái đầu trùm kín tḥ vào, h́nh dạng kỳ quái, bước tới hai chiếc giường đẩy, vung tay lên lộ ra người cha đang cười ầm ĩ.

Trẻ con sợ quá, thằng con trai lấy khăn giường trùm kín đầu, đứa con gái lao ra khỏi giường vào tay mẹ nó. Thế là cả cha và mẹ dỗ dành các con, đặt chúng ngồi trên ḷng, vuốt ve chúng, vứt tấm áo trắng đi cho chúng thấy là không có ǵ đáng sợ, cuối cùng đặt chúng lại vào giường, vẫy tay từ biệt chúng. Họ ra khỏi th́ bà vú đi vào, đèn tắt.

Ông Dillet vẫn ngồi im phăng phắc theo dơi. Tự nhiên có một thứ ánh sáng nhợt nhạt ghê ghê, không phải đèn, không phải nến, hiện ra ở cánh cửa cuối pḥng.

Cửa mở. Người xem chỉ biết là có một cái ǵ đó vào pḥng, trông th́ giống con ếch nhưng to bằng người thật, đầu có tóc trắng lơ thơ. Vật đó bận rộn làm cái ǵ ở chỗ hai cái giường đẩy không biết, nhưng không lâu. Có tiếng kêu sau đó lịm đi ngay như ở tận đâu đâu, tuy thế nghe cũng khiếp vía lên được, vẳng đến tai ông Dillet.

Toàn thể toà nhà lúc này nhốn nháo cả lên. Ánh đèn đi tới đi lui, cửa hết mở lại đóng, h́nh người qua lại phía sau cửa sổ, đồng hồ trên tháp chuông chuồng ngựa gơ một tưởng. Rồi tất cả lại im lặng.

Một lần nữa bóng tối lại được xua tan, lộ ra mặt trước toà nhà. Từ chân bậc tam cấp những dáng h́nh đen xếp thành hai hàng, tay cầm đuốc. Nhiều bóng h́nh đen nữa đang bước xuống bậc tam cấp, khiêng một quan tài lớn rồi đến quan tài nhỏ. Những hàng người mang đuốc, cùng hai chiếc quan tài lặng lẽ đi về phía bên trái.

Giờ khắc đêm khuya trôi dần, chưa bao giờ chậm chạp đến thế, ông Dillet nghĩ. Dần dần từ chỗ ngồi thẳng trên giường, ông nằm xuống, tuy nhiên không sao chợp mắt được. Sáng hôm sau ông cho mời bác sĩ.

Bác sĩ thấy ông trong t́nh trạng thần kinh bị xáo động mạnh, khuyên ông đi nghỉ ở miền biển. Ông lên xe đi về bờ biển phía Đông tĩnh lặng, êm ả. Một trong những người đầu tiên ông gặp ở nơi đây là ông Chittenden.

Có vẻ như cũng được người ta khuyên đưa vợ ra biển nghỉ ít ngày để thay đổi không khí. Ông này nh́n ông Dillet một cách ngờ vực. Tất nhiên không có lư do.

- Ông Dillet, tôi không ngạc nhiên thấy ông có vẻ tâm thần bất an. Cái ǵ? Vâng, ồ, nói đúng hơn là tinh thần hoảng loạn, chắc chắn rồi, v́ nh́n thấy những ǵ xảy ra, nhà tôi cũng đă tận mắt nh́n thấy.

Nhưng xin hỏi ông. Một là tôi phải đập đi một mẫu vật đáng yêu như thế, hơn là nói với khách hàng "Tôi sắp bán cho ông một vở kịch bằng h́nh ảnh, của một toà lâu đài thời cổ, nó đều đặn cứ một giờ sáng là diễn.

Nếu là ông, ông bảo làm thế nào? Lại c̣n nữa, hai thẩm phán trị an ở sau nhà, nh́n ông bà Chitenden trên xe đến nhà an dưỡng của quận, cũng như dân chúng trên đường phố đang bảo: Xem ḱa! Tôi đă bảo lăo sẽ ra nông nỗi ấy! Lăo đó nghiền rượu lắm mà!

Mà tôi, ở cạnh đó, chỉ ḿnh tôi, là người không uống rượu bao giờ! Đó, hoàn cảnh tôi nó như thế. Làm sao bây giờ? Đem cái đồ đó trả về cửa hiệu chăng? Ông nghĩ vậy chăng? Không! Nhưng tôi nói với ông tôi sẽ làm ǵ. Tôi sẽ trả lại tiền cho ông, trừ đi mười bảng tôi đă bỏ ra để mua, rồi ông muốn làm ǵ nó th́ làm."

Chiều muộn ngày hôm ấy, trong pḥng hút thuốc của một khách sạn, hai người đàn ông rầm rĩ chuyện tṛ với nhau như thế.

- Ông thực sự biết ǵ về cái nhà búp bê đó? Nó từ đâu ra?

- Ông Dillet ạ, thú thực là tôi không biết ǵ về ngôi nhà đó cả. Dĩ nhiên nó từ một căn nhà thôn quê, chứa chất đủ mọi thứ linh tinh, ai cũng đoán ra được.

Nhưng tôi tin nó không ở cách đây quá một trăm dặm đâu. Về hướng nào th́ tôi không biết. Tôi chỉ đoán thôi. Người cầm tấm ngân phiếu của tôi trả, là một người quen bán đồ cho tôi, nay tôi không nh́n thấy đâu nữa, nhưng tôi nghĩ vùng này là vùng làm ăn của hắn.

Đó, tôi đă nói tất cả với ông. Nhưng ông Dillet ạ, có một thứ mà đối với tôi nó như liều thuốc. Cái người đàn ông hẳn ông nh́n thấy đi xe đến cổng toà nhà, là thầy thuốc chứ ǵ? Vợ tôi nghĩ vậy, nhưng tôi cho rằng đó là luật sư, v́ hắn có mang theo các giấy tờ, rồi giở ra mà.

- Tôi cũng cho là vậy. Ông Dillet đáp:

- Càng nghĩ càng thấy đó là di chúc của ông cụ, chuẩn bị để kư.

- Tôi cũng nghĩ thế. Ông Chitteden nói.

- Di chúc không để lại tài sản cho hai vợ chồng, đúng không? Thật là một bài học cho tôi, tôi chẳng bao giờ đi mua những ngôi nhà búp bê nữa, tranh cũng không, lại c̣n vụ đầu độc ông già ngoại ấy, phải, tôi mà biết, đời nào tôi chơi và mọi người đều có quyền sống, châm ngôn suốt đời tôi là vậy, câu này đúng lắm.

Ḷng tràn ngập những t́nh cảm cao cả ấy, ông Chittenden lui về pḥng ḿnh. Ông Dillet th́ sáng hôm sau tới viện nghiên cứu của địa phương, hy vọng t́m được manh mối cho những uẩn khúc, làm bận tâm trí ông.

Ông thất vọng nh́n vào tràng giang đại hải những ấn phẩm của Canterbury và York Society, về các quyển sổ ghi chép lại những việc trong giáo khu của vùng này. Chẳng có ngôi nhà nào giống như trong cơn ác mộng.

Cuối cùng quá chán nản, ông vào căn pḥng của những vật vô thừa nhận, nh́n vào một mô h́nh nhà thờ ở trong một hộp kính: Mô h́nh nhà thờ St Stephen, Coxham. Do ông J.Merewether tặng, phác thảo Ilbridge House. Công tŕnh của tổ tiên ông James Merewether, chết năm 1786.

Mô h́nh phảng phất có nét ǵ đó liên quan đến nỗi hoảng loạn của ông. Ông tới chỗ bản đồ treo tường: Ilbridge House ở giáo khu Coxham. Coxham là một trong những giáo khu có tài liệu trong đống sổ ngoài kia, thế là ông t́m ra được ghi chép việc chôn cụ Roger Milford, bảy mươi sáu tuổi, ngày mười một tháng Chín năm 1757.

Roger và Elizabeth Merewether, chín tuổi và bảy tuổi, vào ngày mười một cùng tháng. Manh mối này đáng theo đuổi tuy rất mong manh. Buổi chiều ông phóng xe đến Coxham.

Phía Đông của cánh Bắc nhà thờ, là nhà thờ nhỏ của gia đ́nh Milford. Trên mặt tường phía Bắc, có bảng ghi ba người trên: Roger, người cao tuổi nhất, xem ra xứng đáng với tên gọi, Người cha, thẩm phán, đấng nam nhi.

Bia kỷ niệm dựng bởi con gái yêu Elizabeth, người chỉ c̣n sống không lâu, sau cái chết của vị thân quyến, chỉ lo âu cho phúc lợi của con gái ḿnh và cái chết của hai đứa con thân yêu.

Câu cuối này rơ ràng là được thêm vào mấy ḍng nguyên thủy kể trên. Một phiến đá cuối cùng là bia của James Merewether, chồng Elizabeth. Người mà thời trẻ thực thi rất giỏi, thứ nghệ thuật mà những người đánh giá tài năng phải tặng cho ông ta cái tên Vitruvius của nước Anh.

Nhưng tiếc thay mất người bạn đời tŕu mến cùng con cái đầy triển vọng, thành ra đến tuổi trung niên và tuổi già đă lui vào ẩn dật. Cháu trai thừa kế của ông do biết ơn ông, đă đau thương dựng mấy chữ này nói lên những ưu việt của ông. Hai đứa trẻ th́ chỉ đơn giản có bia tưởng niệm, cả hai chết vào đêm mười hai tháng Chín.

Ông Dillet tin chắc toà nhà Ilbridge House đă chứng kiến vở bi kịch. Trong một quyển tranh phác thảo cổ, ông t́m được bằng cớ cho thấy ông nói đúng. Nhưng Ilbridgw House giờ đây không c̣n là thứ mà ông t́m kiếm nữa.

Nó là một toà nhà kiểu Elizabeth những năm bốn mươi, bằng gạch đỏ, gốc xây đá, mọi trang trí cũng vậy. Cách đó một phần tư dặm, trong một nơi đất trũng của công viên, có những cây cao leo dầy dây thường xuân và các bụi cây rậm rịt vẫn c̣n vết tích của nền nhà nay mọc toàn cỏ dại.

Vài mảnh lan can đá c̣n rải rác đây đó, vài đống đá phủ dây thường xuân, những viên đá chạm thô sơ có móc nhọn theo ông Dillet, đó là di tích của một ngôi nhà cổ xưa.

Lái xe rời khỏi làng, đồng hồ toà nhà điểm bốn ǵờ chiều. Ông Dillet giật ḿnh để tay lên vành tai nghe cho rơ. Đây không phải lần đầu ông nghe thấy tiếng chuông đồng hồ này.

Ngôi nhà búp bê chờ người hẹn mua từ bên kia Đại Tây dương, đang được gói kín nằm trong một ngăn chuồng ngựa nhà ông Dillet, đâu như Collins gửi nó đi vào hôm ông Dillet khởi hành đi bờ biển phía đông.




Montague Rhodes James

                              







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1024 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 11:18am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



BÍ MẬT SÁU MƯƠI NĂM VỀ NHỤC THÂN THIỀN SƯ NHƯ TRÍ


Qua khe hở do viên gạch rơi ra, ni sư Đàm Chính ghé mắt nh́n vào và giật ḿnh suưt ngă, khi thấy rơ ràng một người đang ngồi kiết già trong tháp.

Cách Hà Nội hơn 20 km, trên đường đi Bắc Ninh, có tấm biển lớn chỉ đường về chùa Tiêu, thuộc xă Tương Giang, Từ Sơn, Bắc Ninh.

Giữa cánh đồng mênh mông trồi lên một ngọn núi, đứng từ xa trông rơ tượng thiền sư Vạn Hạnh khổng lồ nh́n về Thăng Long. Xưa kia, nơi đây phong cảnh sơn thủy hữu t́nh. Ḍng Tương giang uốn lượn dưới chân núi Tiêu nay đă rời xa, biến thành bờ xôi ruộng mật, xóm làng trù phú.

Những ngày cuối năm, du khách viếng thăm Tiêu Sơn rất đông, nhang khói tỏa hương ngát cửa thiền. Tôi ṿng ra sau chùa, đi dưới những hàng cây, trèo lên đỉnh núi ngắm những am tháp rêu phong, cổ kính. Thật đúng là:

“Chim sáo cây rừng kêu ẩn sớm. Chùa Tiêu bóng tháp khểnh nằm trưa” (Tiêu Sơn hoài cổ thi).

Ngôi chùa này vốn có tên Thiên Tâm, dựng từ thời Tiền Lê, là nơi thiền sư Vạn Hạnh tu thiền, giảng đạo và dạy dỗ vị vua đầy huyền thoại Lư Công Uẩn. Trong gian nhà Tổ, dưới chân pho tượng chứa nhục thân bất hoại của thiền sư Như Trí, ni sư Đàm Chính ngồi trầm mặc, một tay lần tràng hạt, một tay đều đều gơ mơ lốc cốc.

Du khách lặng lẽ đứng sau ni sư chắp tay khấn vái pho tượng nhục thân thiền sư Như Trí, với ḷng thành kính sâu sắc. Thiền sư Như Trí choàng tấm áo vàng, đôi mắt khép hờ, khuôn mặt phúc hậu, ngồi kiết già trong tủ kính.

Ni sư Đàm Chính đă ngoài tám mươi tuổi và đă có gần bảy mươi năm gắn bó với chùa Tiêu. Ni sư Đàm Chính kể:

- Ngày xưa, khắp ngọn núi Tiêu cây cỏ rậm rạp, rắn rết ḅ lổm ngổm đầy núi, nên chẳng ai dám vào khu vực có mộ tháp, nơi đặt xương cốt của các ḥa thượng. Khu mộ tháp gần như bị bỏ quên

Như duyên trời, một ngày cách nay sáu mươi năm, khi nhà chùa dọn cỏ ở tháp Viên Tuệ, th́ một viên gạch rơi ra. Nhà chùa cầm viên gạch ghép lại chỗ cũ, th́ phát hiện thấy ḍng chữ in trên viên gạch: Ḥa thượng Như Trí, viên tịch năm 1723. Bảo Thái năm thứ tư triều Lê Dục Tông.

Sau này, t́m hiểu các tài liệu, thấy tên sư Như Trí đứng thứ mười lăm, trong danh sách các vị ḥa thượng đă trụ tŕ chùa Tiêu, vẫn được chùa cúng thỉnh.

Qua khe hở do viên gạch rơi ra, ni sư Đàm Chính ghé mắt nh́n vào và giật ḿnh suưt ngă, khi thấy rơ ràng một người đang ngồi kiết già trong tháp. Hoảng quá, ni sư Đàm Chính cầm viên gạch bịt kín lại và chôn chặt chuyện này trong ḷng, không kể với bất kỳ ai.

Theo các tài liệu c̣n lưu lại ở chùa, thiền sư Như Trí là đệ tử nối pháp của thiền sư Chân Nguyên. Thiền sư Như Trí đă từng khắc in lại bộ Thiền Uyển Tập Anh, là bộ sách có giá trị đặc biệt, không những về lịch sử Phật giáo, mà c̣n là một tác phẩm truyền kỳ có giá trị về văn học, triết học và văn hóa dân gian.

Thiền sư Như Trí cùng người thầy Chân Nguyên của ḿnh, tiếp nối tinh thần phục hưng ḍng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Theo các tài liệu của thiền phái Trúc Lâm, sau khi măn duyên độ sinh, ngài an nhiên trước sinh tử, nhập thất kiết già và để lại nhục thân bất hoại.

Theo ni sư Đàm Chính, nếu không có sự kiện một người chăn trâu ṃ lên tháp t́m của quư, chọc thủng pho tượng thiền sư Như Trí, th́ ni sư quyết đem bí mật về pho tượng kia xuống suối vàng.

Năm ấy, một người đàn ông trong làng, khi thả trâu trên núi Tiêu, đă ṃ lên tháp Viên Tuệ với ư định t́m… vàng bạc.

Gỡ mấy viên gạch ra, ông này nh́n thấy một pho tượng giống hệt một người c̣m nhom đang ngồi trong tháp. Do ṭ ṃ, ông ta đă kiếm một cây gậy chọc thử vào pho tượng. Kết quả, ông ta chọc thủng mặt vị thiền sư đă an tọa gần ba trăm năm, trong tháp gạch rêu phong.

Sau này người chăn trâu này bị bệnh trọng, thế là lời đồn thổi về một nhà sư, chết ngồi trong tháp rất linh thiêng, lan truyền khắp xóm thôn. Biết không thể giấu kín chuyện này măi, ni sư Đàm Chính đă báo cáo với Ḥa thượng Thích Thanh Từ, Trụ tŕ Thiền viện Trúc Lâm ở Đà Lạt.

TS Nguyễn Lân Cường kể, hồi đang tu bổ nhục thân Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường ở chùa Đậu, một tỳ kheo của Thiền viện Trúc Lâm đă đến xem và có ư yêu cầu ông tu bổ giúp một nhục thân nữa, tuy nhiên, gặng hỏi măi mà vị tỳ kheo kia nhất quyết không nói, đó là nhục thân nào, ở chùa nào.

Đến tận năm 2004, sau khi viết xong dự án “Tu bổ và bảo quản thiền sư Như Trí ở chùa Tiêu Sơn” và được phê duyệt, TS. Nguyễn Lân Cường mới có điều kiện tiếp cận với nhục thể vị thiền sư kỳ lạ này.

Hầu hết thông tin từ pho tượng nhục thân của thiền sư Như Trí cung cấp cho TS. Nguyễn Lân Cường, cũng giống như nhục thân hai vị thiền sư chùa Đậu. Thiền sư Như Trí cũng tịch trong tư thế ngồi thiền và được các đệ tử phết bên ngoài bằng một lớp bồi gồm đất tổ mối, sơn ta, mùn cưa…

Điều khác biệt là trong lớp bồi không có thếp vàng, thếp bạc. Nhưng trong lớp bồi lại có những miếng đồng mỏng, có tác dụng đỡ cho nhục thân ngài qua nhiều năm không bị gục xuống.

Điều vô cùng ngạc nhiên với TS. Nguyễn Lân Cường khi tu bổ pho tượng táng này, đó là ông đă phát hiện ra một khối hợp chất bằng quả bưởi, nằm trong bụng thiền sư Như Trí.

Ông Cường khẳng định:

- Tượng được phủ kín bằng lớp bồi, phía dưới lại có đáy gốm h́nh ṭa sen, do đó, khối vật chất này không thể lọt vào ổ bụng được.

Tin chắc khối vật chất này chính là nội tạng của thiền sư Như Trí, song ông Cường và các nhà khoa học vẫn lấy mẫu chuyển đến Viện Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia để phân tích.

Đúng như dự đoán, kết quả phân tích hóa học cho thấy, hợp chất lấy từ bụng thiền sư Như Trí chính là các chất c̣n lại của phần phủ tạng.

Từ kết quả này, TS. Nguyễn Lân Cường suy luận rằng, trong bụng hai vị thiền sư chùa Đậu cũng có khối hợp chất c̣n lại của nội tạng, mà máy chụp X-quang không phát hiện được. Theo lời TS. Nguyễn Lân Cường, khi mở am tháp, ông đau ḷng vô cùng khi chứng kiến thiền sư Như Trí, ngồi thiền trong môi trường ẩm mốc.

Với sự xâm hại nghiêm trọng của thời tiết, vi khuẩn, côn trùng hàng mấy trăm năm, lẽ ra toàn thể nhục thân của ngài đă phải về với cát bụi, thế nhưng, v́ sao ngài vẫn c̣n nguyên vẹn, thậm chí cả khối vật chất của phủ tạng cũng vẫn c̣n nguyên vẹn? Câu hỏi này chưa có lời giải đáp.

Việc tu bổ pho tượng táng nhục thân thiền sư Như Trí đă hoàn thành từ năm 2004. Thiền sư đă trở lại dáng vẻ gần như ban đầu và tiếp tục "ngồi kiết già" trong nhà thờ Tổ với sự bảo quản vô cùng kỹ lưỡng của khoa học hiện đại.


                              

Phạm Ngọc Dương







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1025 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 11:19am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



BÍ MẬT TU HÀNH CỦA THIỀN SƯ CHUYẾT CHUYẾT


Đă ngót bốn trăm năm trôi qua kể từ ngày vị thiền sư người Trung Quốc viên tịch, trong một ngôi chùa cổ ở Việt Nam, cuộc đời cũng như những bí mật tu hành của ngài vẫn c̣n vô vàn ẩn số.

Đứng trên núi Tiêu Sơn, nơi có ngôi chùa Tiêu và nhục thân thiền sư Như Trí, phóng tầm mắt qua những làng mạc, thấy núi Tiên, c̣n gọi là núi Lạn Kha, núi Phật Tích, như một tảng đá của thiên đàng đánh rơi.

Xung quanh ngọn núi thuộc huyện Tiên Du, Bắc Ninh này, có rất nhiều huyền thoại liên quan đến tiên giới, trong đó có chuyện Từ Thức gặp tiên, rồi chuyện chàng tiều phu Vương Chất, vào rừng đốn củi gặp hai ông tiên chơi cờ trên núi. Chùa Phật Tích trên núi Tiên xây dựng vào thời Lư, năm Thái B́nh thứ tư 1057 với rất nhiều ṭa ngang, dăy dọc.

Tôi chợt rùng ḿnh bởi vẻ đẹp huyền ảo đầy chất thiền của bức tượng Phật A-Di-Đà khổng lồ được tạc bằng đá màu xanh ngọc nguyên khối. Theo sử liệu, năm 1066, vua Lư Thánh Tông đă cho xây dựng một ngôi tháp cao đến nỗi đứng ở kinh thành Thăng Long vẫn nh́n thấy.

Đến đời Trần, tháp đổ, lộ ra pho tượng tuyệt đẹp này. Khi ấy, toàn bộ pho tượng được dát vàng óng ánh. Du khách đứng lại dưới những tán cây rợp bóng, ngắm mười pho tượng thú gồm sư tử, voi, tê giác, trâu, ngựa mỗi loại hai con. Những pho tượng đều được tạc bằng đá xanh nguyên khối.

Đứng trên đỉnh non Tiên, nh́n ra tứ phía, chỉ biết mượn mấy câu thơ của tác gia Nguyễn Trăi khi ông về thăm và vịnh cảnh chùa:

“Bóng xế thuyền con buộc. Vội lên lễ Phật đài. Mây về giường săi lạnh. Hoa rụng suối hương trôi. Chiều tối vượn kêu rộn. Núi quang trúc bóng dài. Ở trong dường có ư. Muốn nói bỗng quên rồi”.

Lạc giữa rừng tháp đá và gạch nung gồm ba mươi hai ngôi, phần lớn được dựng từ thế kỷ mười bảy, nơi cất giữ xá lợi của các nhà sư từng trụ tŕ chùa, tôi chợt như nghe đâu đây, tiếng mơ kêu lốc cốc đều đặn vang ra từ các am tháp.

Chỉ có những am tháp, những linh vật bằng đá khổng lồ, pho tượng Phật nặng nhiều tấn cùng một số cổ vật khác, đào được từ ḷng đất trong những lần khai quật, là những ǵ ít ỏi c̣n lại của một thời vàng son. Toàn bộ ngôi chùa đă bị ngọn lửa thiêu rụi vào năm 1947.

Đại đức Thích Đức Thiện là người trụ tŕ ngôi chùa này, sau nửa thế kỷ vắng tiếng kinh kệ. Đại đức về trụ tŕ từ năm 2002, sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Phật học tại Ấn Độ. Sinh ra tại Bắc Ninh, cái nôi của văn hóa Phật giáo, lại dành cả đời nghiên cứu Phật giáo, nên mọi thông tin về ngôi chùa cổ này Đại đức đều nắm rất rơ.

Lạc giữa “rừng mộ tháp” nghe chuyện thiền sư Chuyết Chuyết, mà thấy vẻ đẹp giản dị song vô cùng bí ẩn và huyền diệu của Phật pháp. Thiền sư Chuyết Chuyết sinh năm 1590, tại Tiệm Sơn, huyện Hải Trừng, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, nay thuộc thành phố Dương Châu. Sư mang họ Lư, tên Thiên Tộ. Truyền rằng, Thiên Tộ nằm trong bụng mẹ quá chín tháng mười ngày rất lâu mới ra đời.

Tuổi thơ của Lư Thiên Tộ cực kỳ đau khổ. Bố mẹ mất sớm, Thiên Tộ phải ở với chú. Dù c̣n nhỏ đă mất cả cha và mẹ cuộc sống nghèo khổ, song Thiên Tộ thông minh xuất chúng, học thông cả ngũ kinh tứ thư. Tuy nhiên, người chú không nuôi nổi, nên năm Thiên Tộ mười lăm tuổi, ông gửi vào chùa Tiệm Sơn. Khi được chú dắt đến chùa, trưởng lăo Tiệm Sơn hỏi:

- Ngươi định tạo sự nghiệp ǵ mà t́m về cửa Phật?

Thiên Tộ thưa:

- Giúp vua cứu dân.

Sau khi luận về công danh, trưởng lăo Tiệm Sơn thấy cậu bé c̣n ham danh lợi, song rất thông minh, nên đồng ư cho Thiên Tộ xuất gia, rồi giữ lại chùa để truyền dạy cho tỉnh ngộ. Thiên Tộ có pháp danh Viên Văn.

Biết kiến thức Phật giáo của ḿnh không đủ để dạy Viên Văn, ḥa thượng chùa Tiệm Sơn đă gửi sư cho ḥa thượng Tăng Đà Đà ở Nam Sơn. Sau khi luận về Phật pháp, ḥa thượng Đà Đà nói với tăng ni trong chùa:

- Ngày khác ta sẽ nhường chỗ cho kẻ này, y sẽ bước khỏi đầu sào trăm trượng.

Biết rằng sư Viên Văn là một người xuất chúng, nên truyền hết yếu chỉ tâm tông cho sư. Chỉ một thời gian ngắn theo ḥa thượng Đà Đà, sư Viên Văn đă đắc pháp, đi giáo hóa mười phương. Danh tiếng của ngài vang danh khắp thiên hạ, khiến học giả đương thời đều kính trọng.

Năm mười tám tuổi, sư Viên Văn sang Campuchia hoằng pháp ṛng ră mười sáu năm, được quốc vương xứ này quan tâm đặc biệt. Năm 1623 ngài sang vùng Quảng Nam thuyết pháp, nhận thiền thư Minh Hành làm đệ tử.

Đến năm 1633, ngài cùng đệ tử đến kinh thành Thăng Long. Sau khi yết kiến vua Lê và chúa Trịnh, ngài được mời về trụ tŕ chùa Khán Sơn ở Thăng Long để giảng dạy Phật pháp. Từ đó, ngài được gọi là Chuyết Công hoặc Chuyết Chuyết.

Sau đó khoảng một năm, ḥa thượng Chuyết Chuyết đi về chùa Phật Tích, trụ tŕ tại ngôi chùa cổ này. Tuy nhiên sau đó chúa Trịnh Tráng cho trùng tu chùa Bút Tháp, nên lại mời sư về trụ tŕ giảng đạo ở ngôi chùa này cho đến khi viên tịch.

Điều kỳ lạ là khi thiền sư mất cả tháng trời khắp chùa có mùi hương thơm rất lạ. Gần như cả cuộc đời ḥa thượng Chuyết Chuyết dành cho việc hoằng pháp tứ phương. Cũng như những thiền sư đă tu thành chính quả, biết ḿnh sắp rời xa nhân thế thiền sư Chuyết Chuyết gọi đệ tử đến bên dặn ḍ bằng mấy lời kệ:

“Tre gầy thông vót nước rơi thơm. Gió thoảng trăng non mát rờn rờn. Nguyên Tây ai ở người nào biết. Mỗi chiều chuông nổi đuổi hoàng hôn.

Lời kệ này được chép trong sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quư Đôn. Đọc xong lời kệ các đệ tử thút thít khóc, thiền sư liền bảo:

- Nếu ai động tâm khóc lóc th́ không phải đệ tử của ta.

Nghe lời các đệ tử nín thinh ngồi gơ mơ tụng kinh. Tiếng kinh kệ vang lên đều đều. Thiền sư Chuyết Chuyết lặng lẽ bước vào tháp Báo Nghiêm, đệ tử bịt cửa tháp lại. Không gian yên lặng đến kỳ lạ, con chim không hót con khỉ chẳng thấy kêu.

Ngày rằm tháng bảy năm Giáp Thân 1644 tiếng mơ ngừng vang từ tháp. Thiền sư Chuyết Chuyết viên tịch khi tṛn năm mươi bốn tuổi. Điều kỳ lạ là khi thiền sư mất, cả tháng trời khắp chùa có mùi hương thơm rất lạ.

Đệ tử chân truyền là thiền sư Minh Hành, đă dùng kỹ thuật tượng táng phổ biến thời bấy giờ để bó cốt thầy, rồi đặt ngài vào tháp Báo Nghiêm.

Một thời gian sau, thiền sư Minh Hành đưa nhục thân thiền sư Chuyết Công, vào một ngôi chùa tận trong Thanh Hóa, để tránh chiến tranh, binh đao. Rồi không rơ nguyên nhân ǵ, các đệ tử lại đưa về nhà thờ tổ của chùa Phật Tích, sau đó đưa vào tháp Báo Nghiêm. Lịch sử của Phật giáo ghi rơ thông tin về cuộc đời tu hành và nhục thân của thiền sư Chuyết Chuyết.

Ngày đặc biệt đáng nhớ với TS Nguyễn Lân Cường và nhóm phục dựng. Hàng ngàn người đă đổ về chùa Phật Tích, chen nhau chiêm ngưỡng nhục thân vị thiền sư đầy huyền thoại này.


                                                                                                                       

ST

                                                                                                  





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1026 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 11:20am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



KINH HOÀNG CHUYỆN SỐNG TRÊN ĐẦU NGƯỜI CHẾT


Bước lên hiên nhà, tôi chợt rùng ḿnh khi thấy ngay trên hiên nhà láng xi măng, có một cái hố h́nh vuông. Dưới hố cắm vài bông hoa hồng và những cọng hương đă cháy hết. Theo lời những người dân sống quanh nghĩa địa, cặp vợ chồng này đă xây nhà trùm lên rất nhiều ngôi mộ và sống chung với… người chết.

Giữa buổi trưa, khi những cư dân ở xóm nghĩa địa đi làm chưa về, hoặc đang kín cổng cao tường say giấc nồng, ông Trần Văn Hán dẫn tôi trèo qua cổng vào một ngôi nhà nằm giữa nghĩa địa. Ghé mắt qua khe cửa sổ, tôi nh́n thấy mấy ngôi mộ nằm trong một căn pḥng rộng vài chục mét vuông.

Phía ngoài cùng của dăy nhà cấp bốn là một căn pḥng chứa đồ của anh Q. Phía trong căn pḥng đó có tới năm ngôi mộ của gia đ́nh cụ Hán và năm ngôi mộ tổ của họ Trần. Nếu tính cả những ngôi mộ bỏ hoang, th́ trong căn pḥng chứa đồ này có đến cả chục ngôi mộ.

Ông Hán bảo, chỉ đến những ngày lễ, tết, khi các gia đ́nh đi tảo mộ, th́ chủ nhà mới mở cửa cho vào thắp hương. Thắp hương xong, vừa ra về, họ liền nhổ hương vứt đi, v́ sợ khói hương mù mịt nhà cửa của họ. Những ngày thường, họ đóng cửa đi làm hết. Muốn vào nhà hương khói cho phần mộ tổ tiên cũng không được.

Nh́n những ngôi nhà mọc lên giữa nghĩa địa, chứa đầy mồ mả trong pḥng, tôi thực sự rùng ḿnh. Chả lẽ trên đời lại có những người bạo gan dám ăn, ngủ và sinh hoạt trên những nấm mộ chứa hài cốt bên trong?

Ít ai biết rằng, ở phường Tứ Liên, giữa thủ đô Hà Nội, có một khu dân cư, mà nhiều hộ dân làm nhà, sinh hoạt, ăn uống, ngủ nghỉ trên những nấm mộ. Giáp ranh giữa phường Quảng An và Tứ Liên có một khu nghĩa địa cổ tên là Ngọc Xuyên, nằm lọt thỏm giữa khu dân cư.

Những ngôi mộ sin sít nhau, có chỗ chỉ cách nhà dân chừng vài gang tay, thậm chí, nhà cửa đè cả lên mồ mả. Hỏi những người dân sống quanh nghĩa địa Ngọc Xuyên, không ai biết nghĩa địa này có từ bao giờ, chỉ biết rất lâu rồi, hàng trăm năm.

Cụ Nguyễn Thị Thuận, đă trăm tuổi, nhà ở cụm ba, phường Tứ Liên kể rằng, nghĩa trang Ngọc Xuyên có từ thế kỷ mười chín. Tổ tiên, ông bà, cha mẹ của cụ đều được chôn cất trong khu nghĩa địa này.

Vài chục năm nay, khu nghĩa địa không c̣n chỗ chôn nữa, th́ phường quy hoạch nghĩa trang mới phía bờ sông. Nghĩa trang Ngọc Xuyên trở nên cổ kính, rêu phong với những nấm mồ cũ kỹ, nhỏ gọn. Phần lớn những ngôi mộ đă có tuổi trên trăm năm, con cháu đă nhiều đời nên ít hương khói. Nhiều gia đ́nh chuyển đi nơi khác làm ăn, ra nước ngoài, th́ những nấm mồ đă bị bỏ quên.

Chục năm trước, nghĩa địa này vẫn c̣n ch́m trong lau lách rậm rạp của đất băi, thế nhưng, giờ đây nó đang sắp biến mất bởi những ngôi nhà cứ mỗi ngày mọc thêm, chen lấn, thậm chí đè lên cả khu nghĩa địa. Phần lớn những nấm mồ hoang lạnh, nhỏ bé đă biến mất dưới ḷng đất do người dân lấp đất lập vườn, dựng nhà. Thậm chí, nhiều ngôi mộ c̣n “chui” vào hiên nhà, lọt cả vào trong pḥng của những ngôi nhà lấn chiếm đất nghĩa địa.

Thật khó có thể t́m thấy ở nơi nào mà người sống và người chết lại gần nhau đến vậy. Giữa trưa, những ngôi nhà quanh nghĩa địa đều cửa kín then cài. Tôi luồn lách qua khu nghĩa địa với mồ mả sin sít nhau, cỏ dại rậm rạp lút gối mà cảm giác rờn rợn chạy dọc sống lưng.

Đang hư hoáy chụp ảnh những ngôi mộ cổ có văn bia chữ Hán, th́ thấy một ông cụ xách thùng nước ra vườn tưới quất. Đó là ông Nguyễn Hữu Khoan, năm nay tám mươi mốt tuổi. Người dân phường Tứ Liên thường gọi ông Khoan và ông Tại (anh trai ông Khoan) là ông Khoan “nghĩa địa” và ông Tại “nghĩa địa”.

V́ hai anh em ông sinh ra, lớn lên ngay trên nghĩa địa Ngọc Xuyên. Cha ông Khoan là cụ Nguyễn Văn Hoành. Cụ Hoành được xă Tứ Liên giao cho một sào đất cạnh nghĩa địa Ngọc Xuyên để ở và trông nom khu nghĩa địa. Giờ con đàn, cháu đống của ông Khoan và ông Tại cũng xây nhà, dựng cửa và sống giữa khu nghĩa địa này.

Tôi hỏi ông Khoan:

- Mọi người sống ở nghĩa địa thế này mà không sợ sao?

Ông Khoan bảo:

- Tôi đă 81 tuổi và có 81 năm sống giữa nghĩa địa, song quả thực chưa bao giờ gặp ma. Vợ con, các cháu tôi cũng chẳng thấy ai kể nh́n thấy ma bao giờ. Người đời cứ đồn đại chuyện ma quỷ, chứ tôi, một người sống ngót trăm năm ở nghĩa địa, xin khẳng định chả có ma quỷ ǵ hết.

Theo lời ông Khoan, ngày bé, đêm nào anh em ông Khoan cũng đi qua khu nghĩa địa ra bờ sông soi cá, soi ếch. Đêm hè nóng nực trèo lên cây muỗm, cây sung ở giữa nghĩa địa hóng mát, thậm chí ngủ quên trên những nấm mồ.

Giờ con cháu ông Khoan cũng vậy, sinh ra và lớn lên bên mồ mả, nên chẳng sợ ǵ người chết. Đêm hôm mấy đứa cháu của ông vẫn chơi đùa trên những ngôi mộ. Nói rồi, ông Khoan dẫn tôi đi xem những ngôi mộ nằm sát nhà dân, thậm chí trong hẳn những ngôi nhà, để chứng minh rằng, trên đời không có cái gọi là ma quỷ và cũng không cần thiết phải sợ ma quỷ.

Tôi lạnh sống lưng khi tận mắt trước mặt một ngôi nhà cửa khóa im ỉm là ngôi mộ cổ trồi lên khỏi mặt đất. Ngôi mộ xây h́nh tṛn, như miệng cái chum. Ngôi mộ này nằm trước ngôi nhà cấp bốn, đầu lối đi vào nhà. Muốn vào ngôi nhà này, phải bước qua ngôi mộ để lên hành lang.

Cạnh ngôi nhà cấp bốn này là một ngôi nhà khác, cũng cửa khóa im ỉm. Chủ nhân là một cặp vợ chồng trẻ. Họ đi làm từ sáng sớm đến chiều tối mới về. Ngôi nhà của họ nằm giữa nghĩa địa, bao quanh là những nấm mồ hoang lạnh.




                                                             PND



Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1027 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 11:21am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TỰ THÔI MIÊN M̀NH QUA GƯƠNG


Một nhà thôi miên mới học nghề gặp tai nạn nghề nghiệp, khi rơi vào trạng thái mộng du suốt năm tiếng, v́ thực hành qua gương.

Helmut Kichmeier hai mươi bảy tuổi, được vợ phát hiện đang nh́n vô hồn vào không trung trong nhà riêng của họ ở London, trước khi chuẩn bị cho một tour diễn. Helmut với nghệ danh là Hannibal Helmurto, học kỹ năng thôi miên giúp anh nuốt được nhiều thanh gươm trên sân khấu.

Anh được nhà thôi miên Ray Roberts truyền dạy khả năng này, để biểu diễn trong chương tŕnh Xiếc kinh dị. Tuy nhiên, khi anh thực hành kỹ năng này trước gương vào lúc mười giờ, anh đă tự khiến ḿnh mộng du cho đến mười lăm giờ. Vợ Helmut kể rằng, chồng cô trông giống một con ma lúc cô bước vào pḥng và nh́n thấy anh. Cô không thể đánh thức được chồng và phải cầu cứu giáo sư Roberts.

Cô kể:

- Anh ấy tự nh́n chính ḿnh chằm chằm qua gương. Con ngươi của anh rất nhỏ khiến tôi biết đó là dấu hiệu của một người đang bị mộng du. Tôi cố gắng gọi nhưng anh không phản ứng ǵ, và sau đó tôi thấy trên ghế có quyển sách mang tên Phương pháp thôi miên trí năo.

Tôi mở trang bốn mươi lăm và có một chương mang tên Trạng thái mất cảm giác của thôi miên. Bên cạnh quyển sách là bức thư của thầy anh ấy, giáo sư Roberts, nên tôi quyết định gọi cho ông.

Cô nhanh chóng gọi điện và sau đó vị bác sĩ nói với Helmut chậm răi, để giúp anh thoát khỏi cơn mộng du. Một người bị thôi miên chỉ có thể hồi tỉnh, khi nghe giọng của người quyền uy và v́ bác sĩ Roberts đă dạy anh kỹ năng này, nên ông có thể giải thoát anh.

Theo Telegraph, đây không phải lần đầu Helmut mắc sai sót. Trong lần biểu diễn đầu tiên, anh đă phải nhập viện khẩn cấp v́ làm ḿnh bị thương trên sân khấu.





ST







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1028 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 11:23am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



CHUYỆN TƯỚNG DẠ XOA


Kẻ kỳ sĩ ở hạt Quốc Oai, họ Văn tên là Dĩ Thành, tính t́nh hào hiệp, không chịu để ma quỷ mê hoặc. Phàm những hoa yêu nguyệt quái, lệ quỷ không được liệt vào tự điển, chàng đều coi thường không sợ hăi ǵ.

Cuối đời Trùng Quang nhà Trần, người chết chóc nhiều, những oan hồn không chỗ tựa nương, thường họp lại thành từng đàn lũ, hoặc gơ cửa hàng cơm để kiếm miếng ăn, ai va chạm th́ bệnh nguy khốn, ai cầu cúng th́ thấy hết phép hay, hoành hành ở đồng nội không biết kiêng sợ ǵ cả.

Dĩ Thành nhân lúc say rượu, cưỡi ngựa đi đến, bọn ma quỷ sợ hăi, đều tan chạy cả. Chàng kịp gọi bảo rằng:

- Các ngươi đều là những kẻ tráng sĩ, không may mắc nạn. Ta nay đến thăm, muốn đem điều lợi hại nói chuyện, xin đừng lảng tránh như vậy.

Ma quỷ lại dần dần họp lại, mời chàng lên ngồi phía trên. Dĩ Thành hiểu bảo rằng:

- Lũ người cứ thích làm cho người ta phải tai nạn, làm cho người ta phải chết chóc, chẳng hay cốt để làm ǵ?

Chúng nói:

- Chúng tôi muốn để thêm quân.

Dĩ Thành nói:

- Các người muốn cho thêm quân nhưng tổn hại người sống th́ sao! Quân thêm th́ ăn uống phải thiếu, người bớt th́ cung cấp phải thưa, lợi ǵ cho các người mà cứ thích làm như vậy? Ḷng dục thả ra th́ khe ng̣i không đủ lấp, thói ác giở ra th́ hùm sói chưa là dữ.

Hễ lợi ḿnh được, dù tấm áo mảnh giấy cũng không từ, hễ no ḷng được, dù ống giập chậu vỡ cũng không thẹn. H́ hục đi t́m chai lọ, hăm hở đi kiếm cháo cơm. Gieo tai rắc vạ, trộm quyền của Hóa công, rối ḷng của dân chúng.

Lũ người lấy thế làm thích nhưng mà ta lấy thế làm thẹn. Huống chi trời dùng đức chứ không dùng uy, người ưa sinh chứ không ưa giết. Vậy mà lũ người tự làm họa phúc, quá thả kiêu dâm. Thượng đế không dung, h́nh phạt tất đến, lũ người định trốn đi đàng nào để khỏi tru lục.

Chúng quỷ bùi ngùi nói:

- Đó là chúng tôi bất đắc dĩ chứ không phải là muốn như thế. Sống chẳng gặp thời, chết không phải số. Đói không có thứ ǵ cấp dưỡng, lui không có chốn nào tựa nương. Trong g̣ xương trắng, rầu rĩ cỏ rêu, trên đống cát vàng, lạnh lùng sương gió.

Bởi vậy không khỏi rủ rê bè bạn, xoay xở miếng ăn. Phương chi vận sắp đến lúc đổi thay, nhà người sẽ đến cơ tan tác. Bởi vậy minh ty không cấm đoán, lũ tôi đă có lời xin. E rằng sang năm lại c̣n tệ hơn năm nay nữa.

Rồi đó nhà bếp dọn cỗ lên, mâm bàn la liệt. Hỏi đến nguồn gốc th́ thịt là con trâu bắt ở thôn nọ, rượu là thúng bỗng lấy ở làng kia. Sinh ăn uống rất lanh, như mưa như gió. Chúng quỷ mừng rỡ bảo nhau rằng:

- Thật đúng là chủ soái của ta.

Rồi chúng nói với Sinh:

- Chúng tôi là một đám ô hợp mỗi người đều tự hùng trưởng, đă không có người đứng thống xuất, thế tất không thể lâu bền. Nay Sứ quân rủ ḷng yêu mà đến đây, đó là trời đem Sứ quân cho lũ chúng tôi đấy.

Dĩ Thành nói:

- Ta văn vơ kiêm toàn, dù hèn cũng làm tướng được. Những u minh cách trở, c̣n bà mẹ già th́ sao?

Chúng quỷ nói:

- Không, chỉ xin Sứ quân giữ sự uy nghiêm, ban cho hiệu lệnh. Chúng tôi ban ngày th́ chia khu ở tản, đến đêm th́ sai viên bẩm tŕnh. Không dám phiền ngài phải trở về chín suối.

Dĩ Thành nói:

- Nếu bất đắc dĩ dùng đến ta, ta có sáu điều làm việc, các người phải thề mà tuân theo mới được.

Chúng đều vâng dạ, nhân xin đến đêm thứ ba tới chỗ đó lập đàn. Đến kỳ, chúng quỷ đều lại họp. Có một tên quỷ già đến sau, Sinh sai đem chém, ai nấy đều run sợ. Sinh bèn ra lệnh rằng:

- Các ngươi không được coi khinh mệnh lệnh, không được quen thói dâm ô, không quấy quắc để làm hại mạng của dân, không cướp bóc và phải cứu nạn cho dân, ban ngày không được giả h́nh, ban đêm không được kết đảng. Nghe mệnh ta th́ ta làm tướng các ngươi, trái lệnh ta th́ ta trị tội các ngươi. Nghe rơ lời ta, đừng để hậu hối.

Đó rồi bèn chia bọn chúng ra từng bộ, từng tốt bảo phàm có điều ǵ hay dở, phải đến bẩm tŕnh. Như vậy được hơn một tháng, một hôm đương lúc ngồi nhàn, Dĩ Thành thấy một người tự xưng là sứ giả của Minh ty, đến xin mời chàng đi. Dĩ Thành toan lảng tránh, th́ người ấy nói:

- Đó là mệnh lệnh của đức Diêm Vương. V́ ngài thấy ông là người cương nghị, định đem phẩm trật tặng cho, chứ không làm ǵ phiền ông đâu, đừng nên từ chối. Có điều là xin để cho ông được rộng kỳ hạn, ông sẽ tự đến, tôi đợi ông ở dọc đường.

Nói xong không thấy đâu nữa. Sinh đ̣i chúng quỷ lại để hỏi, chúng đều nói:

- Bẩm, quả có việc ấy thật, chúng tôi chưa kịp thưa với Sứ quân. Nhân hôm nọ Diêm Vương thấy buổi đời gặp lúc không yên, có đặt ra bốn bộ Dạ Xoa, mỗi bộ cử một viên tướng, giao cho cái quyền hành sát phạt, ủy cho những tính mệnh sinh linh, trách nhiệm lớn lao, không như mọi quan chức khác. Sứ quân oai vọng lẫy lừng, ngài đă biết tiếng, lại nhân chúng tôi hết sức tiến cử, nên ngài định cử Sứ quân vào chức lớn ấy.

Dĩ Thành nói:

- Như lời các ngươi nói th́ đó là cái phúc hay là cái họa cho ta?

- Dưới Diêm La tuyển người không khác ǵ tuyển Phật, không thể đút lót mà được hay cầu may mà nên. Giữ ḿnh cương chính, tuy hèn mọn cũng được cất lên, ở nết gian tà, tuy hiển vinh cũng không kể đến.

Cái nhiệm vụ huấn luyện quản đốc, chẳng thuộc về Sứ quân th́ c̣n về ai. Nếu Sứ quân c̣n ham luyến vợ con, dùng dằng ngày tháng, th́ chức ăn sẽ lọt về tay người khác, chúng tôi cũng sẽ phải buồn rầu.

Dĩ Thành tắc lưỡi nói:

- Chết tuy đáng ghét, danh cũng khôn mua. Phương chi ngọn bút v́ nhọn mà chóng cùn, cây thông v́ cành mà bị đẵn, chim trĩ không v́ lông đẹp, can chi rước vạ, con voi không v́ ngà trắng, đâu phải đốt ḿnh, chim hồng, chim nhạn bị giết há bởi không kêu, cây hu cây lịch sống lâu chỉ v́ vô dụng.

Tu văn dưới đất Nhan Hồi tuổi mới ba mươi hai. Viết kư lầu trời, Trương Cát trạc chừng hai mươi bảy, trượng phu sinh ở đời, không làm nên được lưng đeo vàng, chân bước ngọc, th́ cũng phải sao cho lưu danh muôn thuở, tội ǵ cứ cúi đầu ở trong cơi đời vẩn đục, so kè cái tuổi sống lâu với chết non làm ǵ! Bèn trang xếp việc nhà rồi chết.

Bấy giờ có người làng là Lê Ngộ, cùng Dĩ Thành vốn chỗ chơi thân, phiêu bạt ở vùng Quế Dương, ngụ trong một nhà trọ. Một hôm chừng quá canh một, Lê Ngộ thấy một người cưỡi ngựa thanh song, kẻ hầu đầy tớ rộn rịp, đến xin vào yết kiến.

Chủ trọ vén mành ra đón. Lê Ngộ rất lấy làm lạ là tiếng nói của khách giống tiếng Dĩ Thành, nhưng trông mặt th́ hơi giống, Lê Ngộ toan ra cửa để tránh th́ khách nói:

- Cố nhân biết ông, ông lại không biết cố nhân là làm sao?

Nhân kể quê quán họ tên và nói ḿnh đă lĩnh chức quan to ở dưới âm phủ, v́ có t́nh cũ với Lê Ngộ nên t́m đến thăm.
Bèn cởi chiếc áo cừu, cố cho nhà hàng lấy rượu để uống làm vui. Rượu uống mấy tuần, Lê nhân đó nói:

- Tôi xưa nay ở đời, vẫn để ư tu lấy âm công, không mưu sự ích lợi riêng ḿnh, không gieo sự nguy bách cho mọi người, dạy học th́ tùy tài dụ dịch, tự học th́ cực lực dùi mài, không ước sự vẩn vơ, không làm điều quá đáng.

Vậy mà sao lại phải bốn phương kiếm miếng, chiếc bóng nhờ người, con khóc lóc đói ḷng, vợ than rét cật, về th́ thiếu túp lều chắn gió, đi th́ không chiếc nón che mưa, hết đông rồi tây, long đong chạy măi. Thế mà bè bạn th́ nhiều người đi làm quan cả, so bề tài nghệ cũng chỉ như nhau mà thân danh khác xa nhau lắm; kẻ sướng người khổ như thế là cớ làm sao?

Dĩ Thành nói:

- Phú quư không thể cầu, nghèo cùng do tự số cho nên núi đồng mà chết đói họ Đặng, thằng Xe mà làm khố chàng Chu; có duyên gió thổi núi Mă Đương, không phận sét đánh bia Tiến Phúc. Nếu không như vậy th́ đức hạnh như Nhan như Mẫn, hẳn là lên đến mây xanh, từ chương như Lạc như Lư sao lại chỉ là chân trắng.

Bởi cái ǵ không làm mà nên là do trời, không vời mà đến là do mệnh. Cái đáng quư ở kẻ sĩ chỉ là nghèo mà không xiểm nịnh, cùng mà vẫn vững bền, làm việc theo địa vị của ḿnh và thuận với cảnh ngộ mà thôi, c̣n sự cùng thông sắc nhụt th́ ta có thể làm ǵ cưỡng với chúng nó được.

Rượu đă uống cạn, lại khêu đèn cùng nhau tṛ chuyện, kéo dài măi vẫn không biết chán. Ngày hôm sau trong lúc tương biệt, Dĩ Thành đuổi hết mọi người ra rồi nói:

- Tôi mới vâng lệnh của Thượng đế, kiêm coi cả bọn quân ôn dịch, chia đi làm việc ở các quận huyện, lại thêm những nạn đói khát, binh cách, số dân sinh sẽ phải điêu hao, mười phần chỉ c̣n được bốn năm. Người nào nếu không phải nguồn phúc sâu xa, e sẽ đến ngọc đá đều nát chung cả. Nhà bác phúc mỏng, tựa như không thể tránh khỏi được, nên sớm về quê quán, đừng lần nữa măi ở đất khách quê người.

Lê nói:

- Tôi tưởng rất có thể trông nhờ ở bác che chở cho chứ?

Dĩ Thành nói:

- Không phải trong địa hạt của tôi, tôi không có thể vượt qua được. Trường Giang trở về phía bắc do tôi chủ trương, c̣n Trường Giang trở về phía tây, do viên tướng họ Đinh trông coi. Nhưng tôi quản lĩnh quân áo đen, chúng nó c̣n có từ tâm, chứ họ Đinh quản lĩnh quân áo trắng, phần nhiều là những tên ác quỷ, bác không nên không lo liệu trước.

Lê hỏi:

- Vậy th́ làm thế nào?

Dĩ Thành nói:

- Mỗi một soái bộ đêm sai hàng hơn một ngh́n tên quân, chia đi làm ôn dịch các nơi. Bác nên sắm nhiều cỗ bàn bày sẵn ở sân. Bọn chúng từ xa đến tất là đói khát, thấy cỗ liền ăn mà không suy nghĩ ǵ. Bác núp ở một chỗ tối, đợi khi thấy ăn uống gần xong, bấy giờ mới ra sụp lạy, nhưng cũng đừng kêu nài ǵ cả. Như thế họa may có cứu văn được phần nào chăng.

Đoạn rồi ứa nước mắt cùng nhau từ biệt. Lê Ngộ về quê nhà, th́ bệnh dịch đương nổi rất dữ, vợ con đều mắc rất nặng, hầu không thể nhận được nhau nữa. Bèn theo lời Dĩ Thành, đêm hôm ấy làm cỗ rất hậu bầy ra sân. Quả thấy có đám đông quỷ sứ từ trên không bay đến nh́n nhau mà nói:

- Chúng ta đều đói cả, sẵn cỗ đây không ăn th́ c̣n đi đâu. Chả lẽ v́ uống mấy chén rượu mà đă đến phải tội được.

Chúng bèn cùng quây lại đánh chén. Một người mặc áo tía chễm chệ ngồi chính giữa, c̣n những người khác đều đứng chầu chung quanh, kẻ cầm dao búa, người cầm sổ sách. Thấy họ ăn uống gần xong, Lê Ngộ ra lạy măi, lạy măi.

Người áo tía nói:

- Ta đương đánh chén, gă kia đến đây làm ǵ?

Chúng quỷ nói:

- Chắc là người chủ bày những mâm cỗ này, nhà hắn có người ốm nặng, kêu xin châm chước.

Người áo tía tức giận, cầm quyển sổ ném xuống đất mà nói:

- Lẽ đâu v́ cho mâm cỗ sơ sài mà đánh đổi được năm mạng người hay sao!

Chúng quỷ nói:

- Nhưng đă ăn của nhà nó, chả lẽ nỡ làm ngơ không cứu. Thôi th́ dù có v́ cứu nó mà phải tội, dẫu chết ta cũng bằng ḷng.

Người áo tía ngẫm nghĩ một lúc lâu, bèn lấy bút son xóa bỏ hơn mười chữ rồi đi. Sau vài ngày, nhà họ Lê ai nấy đều khỏi cả. Lê cảm ân đức của Dĩ Thành, bèn lập miếu ở nhà để thờ. Người làng đến khấn vái kêu cầu cũng thường ứng nghiệm.



                                                            Nguyễn Dữ









Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1029 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 11:25am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



HAI BÓNG MA TRONG NGHĨA ĐỊA AUSTRALIA


Trong lúc tham quan nghĩa địa của một thị trấn tại Australia, một phụ nữ vô t́nh chụp được những bức ảnh, có bóng hai đứa trẻ và cho rằng đó là hồn ma.

Telegraph cho biết, Renee English một phụ nữ sống tại thành phố Port Macquarie, bang New South Wales, Australia, đă tới thị trấn Picton trong cùng bang để du lịch vào đầu tháng một.

Picton được mệnh danh là thành phố có nhiều ma ở Australia. Thậm chí ở đây c̣n có hẳn tour du lịch ngắm ma và gia đ́nh English đă tham gia tour đó. Khi tới thăm nghĩa địa St Mark, English chụp vài bức ảnh.

- Tôi đứng tại bờ đất để nh́n vào nghĩa trang và chụp vài bức ảnh. Khi đó tôi c̣n nói vài câu bông đùa. Tôi biết chắc chẳng có ai trong nghĩa địa khi tôi bấm máy. Khoảng mười phút sau, tôi nh́n thấy một gia đ́nh gồm bốn người đi vào nghĩa địa, song những đứa trẻ không hề rời khỏi bố mẹ chúng. English kể.

Khi English đưa những bức ảnh lên mạng, bà nh́n thấy những đứa trẻ. Người phụ nữ cảm thấy tất cả sợi lông trên cánh tay dựng đứng lên, sau đó toàn thân bà lạnh toát.

- Tối hôm đó tôi không thể ngủ được. Từ đó tôi chẳng bao giờ xem bất kỳ bộ phim kinh dị nào nữa. Trước kia tôi không tin ma tồn tại, nhưng giờ đây tôi đă dao động. Bà tâm sự.

Theo một câu chuyện được truyền miệng rộng răi tại thành phố Picton, hai bóng ma có tên David Shaw và Blanche Moon. Họ qua đời cách nhau tới sáu mươi năm.

Năm 1886, Blanche Moon và một số đứa trẻ đang chơi trên một đống tà vẹt đường sắt, th́ các thanh gỗ trượt xuống và đè chết cô bé. David Shaw, con của một bộ trưởng, tử vong v́ bệnh đậu mùa vào năm 1946.

Liz Vincent, một sử gia địa phương, là người tổ chức các chuyến du lịch ngắm ma ở Picton. Nhưng bà đă qua đời vào năm ngoái. Kể từ đó chồng bà và cô con gái tiếp quản công việc này.

- Picton thực sự bị ma ám. Chúng tôi nhận thấy những người tới đây thích xem các bức ảnh, mà họ chụp v́ phần lớn những thứ trong ảnh không hiện ra trước mắt thường. Jenny Davies, con gái của Liz Vincent nói.

Theo Telegraph, một trong những "bóng ma" nổi tiếng nhất trong tour du lịch ngắm ma, tại Picton là Emily Bollard. Người phụ nữ này bị tàu hỏa đâm chết khi bà chạy qua đường hầm Redbank Range, để tới nhà người em trai.

- Emily thích len lỏi giữa những người tham gia chuyến đi. Bà ấy cũng thích chạm vào tóc và cơ thể của khách, đặc biệt là cánh tay và chân. Những người tham gia chuyến đi cũng nói rằng, họ cảm thấy có một luồng gió lạnh thổi qua đường hầm. Davies kể.




Onlyvip



Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1030 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 11:27am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



CHIẾC PHỄU BẰNG DA


Người bạn của tôi là Lionel Dacre cư ngụ ở đại lộ Wagram, thủ đô Paris, trong một căn nhà nhỏ có hàng rào lưới sắt và một thảm có khiêm nhường, nằm trên hè phố bên trái khi ta đi từ Khải hoàn môn xuống. Tôi cho là căn nhà này đă có từ lâu trước khi đại lộ được kiến thiết, v́ đă có rêu mọc trên các ḥn ngói màu xám và những bức tường mốc meo phai màu.

Từ ngoài phố nh́n vào, nó có vẻ nhỏ bé: năm cửa sổ ở mặt tiền, nếu tôi nhớ đúng; nhưng tại nó kéo dài ra phía sau bằng một căn pḥng dài, tại đó Dacre đă xếp đặt bộ sưu tập các sách về khoa học của anh và thu thập những món đồ vặt vănh, hay những vật kỳ dị vốn là sở thích của anh và là những thứ làm khuây khỏa các bạn hữu của anh.

Là một người giàu có, tao nhă, cổ quái, anh đă giành một phần đời của anh và tài sản của anh, để quy tụ một bộ sưu tập riêng độc nhất vô nhị các tác phẩm, nói về Do Thái Pháp điển và về ma thuật, trong đó có nhiều vật hiếm có và rất đắt.

Các sở thích của anh đă làm cho anh thiên về phía những sự kỳ diệu và quái đản, người ta đoan chắc với tôi rằng, các kinh nghiệm của anh hướng tới thế giới xa xăm, vượt qua mọi ranh giới của nền văn minh và các nghi thức.

Với những bè bạn người Anh, anh không hề thốt ra một tiếng về công việc đó, nhưng một người Pháp, người có cùng sở thích với anh xác nhận với tôi rằng, những sự thái quá tệ hại của những buổi lễ quỷ quái, đă từng được thực hiện trong văn pḥng lớn này, có bày biện sách vở và các tủ kính.

Khía cạnh thể chất của Dacre đă bộc lộ tính chất sự chú tâm, mà anh giành cho các vấn đề tâm linh, trước hết là phương diện trí tuệ. Bộ mặt nặng nề của anh không có một chút ǵ của con người khổ hạnh cả, nhưng cái hiếm hoi của anh, như là một chỏm núi bên trên một khu rừng thông, đă làm cho ta thấy một sức mạnh đáng kể về tinh thần.

Các kiến thức của anh nhiều hơn sự khôn ngoan của anh một cách rơ rệt, những con mắt nhỏ, sáng của anh nằm sâu trong bộ mặt nung núc thịt, lóng lánh vẻ thông minh và một sự ṭ ṃ không bao giờ thỏa măn, nhưng đó là những con mắt của một kẻ đầy nhục cảm và tự kỷ trung tâm.

Nói về anh ta như vậy là khá đủ rồi, v́ ngày nay anh đă chết rồi, cái con quỷ xấu số đó: chết ngay đúng vào lúc mà anh tin rằng, cuối cùng anh đă khám phá ra nước thuốc trường sinh, ngoài ra tôi không có ư định nói với các bạn về tính t́nh phức tạp của anh; tôi muốn kể lại với các bạn một sự việc không thể giải thích được, đă xảy ra trong một lần tôi đến thăm anh hồi đầu xuân năm 1882.

Tôi biết Dacre ở Anh quốc, v́ tôi đă bắt đầu các việc sưu tầm của tôi trong căn pḥng về Assyrie, tại viện bảo tàng Anh quốc, vào thời kỳ mà anh đang cố gắng gán một ư nghĩa thần kỳ và bí truyền, cho các biển của Babylon và sự cùng chung quan tâm này, đă đưa chúng tôi lại gần nhau, những ư kiến ngẫu nhiên đă đưa tới những cuộc tranh luận hàng ngày và rút lại chúng tôi đă kết bạn với nhau.

Tôi hứa với anh rằng tôi sẽ tới thăm anh trong chuyến qua Paris sắp tới của tôi, ngay cả khi tôi sắp thực hiện lời hứa, tôi cũng ở trọ tại Fontainebleau, v́ thường không có các chuyến xe lửa buổi chiều, nên anh mời tôi ngủ lại đêm ở nhà anh.

- Tôi chỉ có cái giường này để mời anh.

Anh nói với tôi trong khi chỉ một cái đi-văng lớn trong căn pḥng rộng của anh.

- Tôi hy vọng rằng dù sao anh cũng sẽ có thể ngủ một cách thoải mái ở đó.

Thật là một căn pḥng đặc biệt để người ta nằm ngủ, căn pḥng với những bức tường cao, được che phủ khắp nơi bằng những cuốn sách màu nâu! Nhưng với một người ham mê sách cũ như tôi, lối trang trí này rất thích thú và tôi quư trọng cái mùi thanh thoát, bốc ra từ một cuốn sách cũ.

Tôi trả lời anh rằng tôi không ước muốn một căn pḥng nào vui mắt hơn thế này, cũng không mong ước một khung cảnh nào có nhiều cảm t́nh hơn thế này.

- Nếu sự thiết trí này cũng kém vẻ thực tế như kém tính chất ước lệ. Ít nhất nó cũng bắt tôi phải trả một cái giá đắt.

Anh nói với tôi trong khi đảo mắt nh́n một ṿng trên các ô tủ của anh.

- Tôi đă tiêu tốn tới một phần tư triệu, để có được tất cả những thứ ở chung quanh anh. Những quyển sách, những khí giới, những viên đă quư và những bức điêu khắc, những tấm thảm, những bức họa… mỗi vật đều có lịch sử riêng của nó và thường là một lịch sử thú vị.

Anh ngồi ở một bên ḷ sưởi và tôi ngồi một bên khác cái bàn, mà anh dùng làm mắt giấy th́ ở về mạn tay phải của anh, trên bàn là một ngọn đèn rất mạnh tỏa ra một ṿng ánh sáng vàng óng, một tấm da mới trải ra một nửa nằm ở giữa bàn, vây quanh bởi những thứ linh tinh chỉ đáng làm đồ lạc soong.

Trong đám những đồ này nọ có một cái phễu, như là thứ phễu mà ta thường dùng để đổ rượu vang vào đầy các thùng, nó có vẻ như bằng gỗ đen và nó được đánh đai chung quanh, bằng một khoen trên bằng đồng đă phai màu.

Tôi nói với anh:

- Đây là một vật kỳ dị. Lịch sử của nó ra thế nào?

- A! đó chính là câu hỏi mà tôi đă nêu lên nhiều lần, xin anh hăy cầm lấy nó trong bàn tay và xem xét nó.

Tôi làm theo những ǵ anh bảo và tôi thấy rằng cái phễu không phải bằng gỗ mà bằng da, nhưng bị thời gian làm cho khô đi tới một mức độ quá thái. Nó khá lớn; khi đổ đầy nó phải chứa được một lít chất lỏng. Chiếc khoen đồng bao quanh cái phần lớn nhất, nhưng phía dưới cổ phễu cũng có một ṿng kim loại.

- Anh nghĩ sao về cái phễu này? Dacre hỏi tôi.

- Tôi cho là nó thuộc về một anh hàng rượu, hoặc một anh làm kẹo mạch nha thời trung cổ, ở Anh quốc, tôi đă nh́n thấy những cái chai ph́nh bụng rất lớn bằng da, có từ thế kỷ thứ mười bảy, người ta gọi chúng là những cái “roi bọc da”, những cái vồ đập chết trâu, chúng cũng cùng một màu và cùng một sức to bền như cái phễu này.

- Tôi nghĩ rằng cái phễu này chắc cũng có vào khoảng cùng một thời kỳ đó, người chủ của cái phễu trả lời tôi và chắc chắn là nó được dùng để đổ đầy một cái lọ. Nhưng trừ khi có sự lầm lẫn về phần tôi, đây là một nhà buôn rất đặc biệt, đă dùng cái phễu này để đổ đầy một cái thùng, cũng không kém phần đặc biệt. Anh không nhận thấy ǵ khác thường ở phía dưới cổ phễu à?

Tôi nh́n cái phễu dưới ánh sáng của cây đèn và lúc đó tôi nhận thấy, ở một chỗ phía trên cái khoen đồng nhỏ độ mười phân, cổ phễu bị sây sát, có rạch, như đă bị một người nào cắt khía với một con dao cùn, chỉ có tại chỗ đó cái bề mặt đen mới mất vẻ xù x́

- Một người nào đó định cắt cái cổ phễu?

- Cắt nó, anh nghĩ vậy à?

- H́nh như nó bị xé rách ra. Bất kể người ta dùng một khí cụ nào, phải có sức mạnh mới gây được các vết tích này lên một vật cứng như vậy! Nhưng về phần anh, ư kiến anh ra sao? Tôi tin rằng anh đă biết nhiều hơn là điều mà anh đă nói.

Decre mỉm cười và cặp mắt nhỏ ranh mănh của anh ta đă tiết lộ cho tôi thấy là tôi không lầm. Anh hỏi tôi:

- Trong các cuộc nghiên cứu về triết học của anh, anh có quan tâm tới môn tâm lư học về các giấc mơ không?

- Tôi không biết là đă có một khoa tâm lư học về loại này.

- Quan ngài quư mến của tôi, anh có trông thấy cái ngăn ở phía trên tủ kính đựng các đá quư không? Nó chứa đầy ắp các sách từ thời Albert le Grand (một nhà thần học và triết gia ở thế kỷ thứ mười ba) nói về chủ đề này, môn tâm lư học về các giấc mơ, là một khoa học giống như các môn khoa học khác.

- Một khoa học của các tay phương sĩ ảo thuật!

- Nhà phương sĩ bao giờ cũng là người tiền đạo. Từ nhà chiêm tinh đă nảy sinh ra nhà thiên văn học, từ nhà luyện đan, nảy sinh ra nhà hóa học, từ nhà chữa bệnh bằng khoa thôi miên nhân điện, nảy sinh ra nhà tâm lư học kinh nghiệm, nhà phương sĩ ảo thuật ngày hôm qua là giáo sư của ngày mai.

Sẽ có một ngày mà cả những điều tế vi không thể sờ mó được, mà chúng ta gọi là những giấc mộng sẽ được xếp loại, chia ra từng bộ, hệ thống hóa. Tới ngày đó, những sự sưu tầm của những người bạn của chúng ta, đang nằm choán tất cả cái ngăn này, sẽ không c̣n là một đề tài mua vui cho người thích chuyện thần bí, mà sẽ là nền tảng cho một môn khoa học.

- Cho rằng sự việc là như vậy đi, th́ khoa học về các giấc mơ, có dính líu tới một cái phễu lớn bằng da, có đánh đai đồng?

- Tôi sẽ nói với anh về chuyện đó. Anh biết rằng tôi đă trả lương cho một nhân viên, người này lúc nào cũng theo dơi những đồ hiếm có và kỳ lạ, giành cho bộ sưu tập của tôi, cách đây vài ngày ông ta được biết tin, một lái buôn ở các bến tàu mới mua được một số cổ vật, các cổ vật này được t́m thấy trong tủ tách chén, căn nhà cổ tọa lạc chỗ tận cùng một phố của Khu phố La tinh.

Pḥng ăn của căn nhà đă được trang hoàng một tấm biển huy chương với các huy hiệu: những h́nh chữ V và gạch đỏ trên nền bạc, một cuộc sưu tra nhanh chóng chứng tỏ rằng đó là huy chương của Nicolas de la Reynie, một trong những quan chức cao cấp của vua Louis thứ XIV.

Không ai được phép nghi ngờ điều ǵ nữa: những cổ vật khác trong tủ tách chén, đă có từ lúc khởi đầu triều đại Đức vua Mặt trời. Do đó, tôi suy đoán rằng tất cả các cổ vật này đều thuộc về ông Nicolas de la Reynie đó, ông là sĩ quan cảnh sát trưởng, do đó phụ trách sự áp dụng và đôn đốc việc thi hành các luật lệ khắc nghiệt của thời đó.

- Và sao nữa?

- Bây giờ xin anh hăy cầm lấy cái phễu và xem kỹ cái khoen đồng ở phía trên. Anh không nh́n thấy một cái ǵ giống như một chữ à?

- Chắc chắn là đă có những vết trầy trên cái khoen bằng đồng, thời gian đă gần như xóa nḥa chúng. Đúng, có thể thật sự đă có những chữ, chữ cuối cùng có vẻ phảng phất giống chữ B.

- Anh có phân biệt rơ một chữ B không?

- Có.

- Tôi cũng vậy, ngoài ra tôi tin chắc đó là một chữ B.

- Nhưng quư nhân mà anh nói tới đă có một cái tên bắt đầu bằng chữ R?

- Đúng thế! Đó là chỗ ly kỳ của câu chuyện. Ông ấy sở hữu vật kỳ lạ này, vậy mà vật đó lại mang những chữ bắt đầu bằng tên của một người nào khác, tại sao?

- Tôi không biết chút ǵ về việc này cả. C̣n anh?

- Chúng ta hăy cố đoán xem, ở xa hơn một chút trên cái khoen đồng, anh không nh́n thấy một thứ h́nh vẽ à?

- Có một cái mũ phải không?

- Đó là một cái mũ, không chối căi được, nhưng nếu anh nh́n nó lúc ban ngày, anh sẽ thấy đó không phải là một cái mũ thường. Đó là một cái mũ có huy hiệu, biểu trưng cho một địa vị xă hội, nó được cấu tạo bằng sự xen kẽ của bốn viên ngọc trai và những lá dâu, đó là mũ của một vị hầu tước. Do đó, chúng ta có thể suy luận ra rằng, người mà chữ tắt cuối cùng là một chữ B, đă có quyền đặt cái mũ nhỏ này.

- Vậy là cái phễu da vô tích sự này đă thuộc về một vị hầu tước à?

Decre mỉm cười.

- Hay thuộc về một người trong gia đ́nh một hầu tước, chúng ta đă suy diễn tất cả mọi việc đó, từ chiếc khoen được chạm trổ này.

- Nhưng một lần nữa, có liên quan ǵ với những giấc mơ?

Liệu tôi có nên gán một cảm giác đột ngột của sự ghê tởm sự kinh hăi vô lư, đang xâm chiếm người tôi lúc đó cho một cái nh́n, mà tôi tưởng là tôi đă phát hiện ra ở Decre, hoặc cho một cái ǵ mà tôi không biết rơ, đă ngấm ngầm trong thái độ của anh.

- Đă hơn một lần, tôi nhận được những thông tin rất quan trọng qua một giấc mơ.

Anh bạn trả lời tôi với cái giọng thầy giáo mà anh ưa thích.

- Bây giờ tôi đă đặt thành quy luật là mỗi khi tôi ngần ngại về một chi tiết vật chất, th́ tôi đặt cái vật đó bên cạnh tôi trong khi tôi ngủ, và nhất quyết hy vọng một sự thiên khải. Đối với tôi, phương pháp này không có vẻ tối tăm lắm, mặc dù nó không được sự tán thưởng của khoa học chính thức vào thời buổi này.

Theo giả thiết của tôi, bất kể vật nào có liên hệ mật thiết, với bất kỳ một sự xúc động cao độ nào đó của con người, dù vui vẻ hay đau khổ đều lưu giữ được một không khí, hay một sự thấm nhiễm có thể truyền thông, cho một tâm hồn bén nhạy và dễ cảm thụ.

Với những tâm hồn bén nhạy, tôi tuyệt nhiên không có ư định nói tới một tâm hồn b́nh thường, tôi chỉ nói tới một tâm hồn có rèn luyện và có học vấn, như anh hay tôi là những người đă có một tâm hồn như vậy.

- Thí dụ ư anh muốn nói là nếu tôi nằm ngủ bên cạnh thanh gươm cổ treo ở trên tường này, th́ tôi có thể nằm mộng thấy một vụ đổ máu, mà thanh gươm đă tham dự vào à?

- Anh đă rất khéo chọn ví dụ của anh! Quả thật tôi đă dùng phương pháp mà tôi vừa nói với anh đối với thanh gươm này, và trong một cơn mộng tôi đă chứng kiến cái chết của người chủ của nó; ông ta đă chết trong một cuộc giao tranh nhỏ, mà tôi không thể biểt rơ rệt là ở nơi nào, nhưng nó đă xảy ra vào thời chiến tranh “Bắn nhau bằng các ḥn đá”.

Nếu muốn suy ngẫm kỹ càng, một vài tín ngưỡng trong dân gian đă chứng tỏ rằng, tổ tiên chúng ta cũng đă nh́n nhận sự thật này, mà với sự khôn ngoan của chúng ta, nay chúng ta đă liệt vào loại các dị đoan.

- Thí dụ?

- Chẳng hạn khi người ta đặt chiếc bánh hôn lễ bên dưới gối, để cho người ngủ có được những giấc mơ vui thích. Anh sẽ t́m thấy nhiều trường hợp tương tự khác, trong một tập sách nhỏ mà tôi đang viết.

Nhưng xin quay về với vấn đề lớn của chúng ta, một đêm tôi đă nằm ngủ với cái phễu này ở bên cạnh ḿnh, và tôi đă có một cơn mộng, chiếu một ánh sáng kỳ lạ vào nguồn gốc và công dụng của nó.

- Anh đă nằm mộng thấy ǵ?

- Tôi đă mộng thấy...

Anh ngừng lại và anh đột nhiên có vẻ rất chú tâm.

- Lạy Chúa, đây là một ư kiến mà tôi tin là tốt, anh nói tiếp, thật sự đây là một cuộc thí nghiệm rất bổ ích. Anh là một người thiên về tâm linh, anh có những dây thần kinh phản ứng cấp kỳ được với bất cứ một cảm giác nào.

- Tôi chưa bao giờ thực hiện những cuộc thử nghiệm kể trên.

- Được, chúng ta sẽ thử nghiệm anh tối hôm nay! Liệu tôi có thể yêu cầu anh, coi như anh giúp tôi một việc lớn, v́ anh sẽ ngủ ở đây tối hôm nay, nằm ngủ với chiếc phễu cũ kỹ này để bên cạnh gối của anh không?

Đối với tôi, lời thỉnh cầu có vẻ vô lư, buồn cười, nhưng một trong những mặc cảm của tôi, là sự khao khát vô biên về tất cả những ǵ liên quan tới sự kinh dị và kỳ lạ. Tôi không tin ở thuyết của Decre tí nào, và tôi không nghĩ ǵ tới sự thành công trong cuộc thí nghiệm của anh.

Tuy nhiên không có ǵ làm tôi bực bội, khi đem làm thử cuộc thí nghiệm này. Với vẻ nghiêm trọng, Decre đem tới đầu đi-văng của tôi một cái ghế đẩu, trên đó được đặt cái phễu. Chúng tôi c̣n truyện tṛ ba hoa một lúc, rồi anh chúc tôi ngủ ngon và để tôi một ḿnh.

Tôi c̣n ngồi lại một lát bên bếp lửa để hút một điếu thuốc lá và tôi suy ngẫm tới cuộc nói chuyện của chúng tôi. Tôi thấy ḿnh hoài nghi quá, đă có một cái ǵ lúng túng trong sự vững ḷng của Decre; tôi cảm thấy xúc động v́ khung cảnh hơi khác thường mà tôi đang sống, v́ căn pḥng rộng mênh mông chứa các đồ vật rất lạ lùng, và đôi khi quái gở này.

Sau cùng tôi tắt đèn và nằm xuống. Sau nhiều lần trằn trọc trở ḿnh, tôi ngủ thiếp đi. Xin các bạn cho phép tôi cố sức mô tả với một sự chính xác nhất, khả dĩ có được về giấc mộng mà tôi đă thấy; những t́nh tiết của nó tồn tại trong kư ức của tôi, rơ ràng hơn bất cứ một cảnh trí nào mà tôi thực sự tham dự.

Về khung cảnh th́ nó là một căn pḥng ṿm cong. Ở những góc, bốn cổng tường leo tới một cái mái có cạnh sắc. Lối kiến trúc thô kệch nhưng vững chắc, là căn pḥng này thuộc về một ṭa nhà đồ sộ.

Ba người đàn ông mặc đồ đen, đội những cái mũ nhung đen có vẻ nặng nề, ngồi xếp hàng trên một cái bục có trải thảm đỏ. Họ có vẻ rất nghiêm trang, rất buồn bă. Phía bên trái, hai người đàn ông mặc áo dài, mỗi người cầm một cái ví nom như nhét đầy giấy tờ.

Phía bên phải, một người con gái bé nhỏ tóc nâu với cặp mắt kỳ dị màu xanh trong sáng, những con mắt của trẻ con đang nh́n về phía tôi. Cô không c̣n trong tuổi hoa niên nữa, nhưng cô vẫn c̣n trẻ, người mập, tṛn trĩnh, cô có một phong cách kiêu hănh vững vàng, khuôn mặt tái xanh nhưng tinh khiết.

Khuôn mặt kỳ dị, dễ thương với một cái ǵ có vẻ giả dối, như một đôi chút tàn độc trên cái miệng mỏng và thẳng và cái cằm đầy thịt. Cô quấn ḿnh trong một thứ áo dài rộng và trắng. Bên cạnh cô một tu sĩ gầy guộc đầy nhiệt t́nh, đang nói nhỏ vào tai cô, cô quay đầu đi và nh́n một cách chăm chú, ngoài tầm cây thánh giá, ba người đàn ông mặc đồ đen mà tôi cảm thấy hẳn là các vị quan ṭa xử cô.

Ba người đàn ông đứng dậy và nói một vài tiếng mà tôi không nghe rơ, đó là người đàn ông ngồi giữa nói. Rồi họ đi ra khỏi căn pḥng, hai người đàn ông mang ví đi theo họ. Ngay cùng lúc đó nhiều người mặc quần áo chẽn đi vào trong pḥng, cuốn tấm thảm đỏ rồi tới những tấm ván làm thành cái bục, nhanh chóng thu dọn gọn gàng.

Khi màn cảnh đó biến mất rồi, tôi nhận thấy sự hiện diện của những đồ vật kỳ dị; một thứ nom giống như một cái giường với những bánh xe nhỏ bằng gỗ ở hai đầu, và một cái cân quây tay để điều chỉnh chiều dài, một thứ khác là một con ngựa gỗ, cũng có cả những dây thừng treo lủng lẳng bên trên các bánh xe lăn, người ta có thể nói đó là một pḥng tập thể dục tối tân.

Khi căn pḥng được chuẩn bị sẵn sàng, một nhân vật mới xuất hiện trong khung cảnh đó. Đó là một người đàn ông lớn và gầy g̣, mặc toàn màu đen. Khuôn mặt xương xẩu và khắc khổ của ông ta làm tôi phát run lên. Quần áo của ông lóng lánh chất mỡ và đầy những vết bẩn. Ông đi đứng với một vẻ đường bệ, mực thước, oai nghiêm, như thể từ lúc bước vào căn pḥng, ông đă nắm quyền điều khiển mọi công việc.

Bất kể tới cái dáng điệu thô vụng và những y phục bẩn thỉu của ông, lúc này là phần vụ của ông, căn pḥng này là của ông và chính ông là người ra mệnh lệnh. Cánh tay trái của ông mang một cuộn dây thừng nhỏ, người đàn bà nh́n ông với một cái nh́n ḍ xét, nhưng sắc diện của cô ta không hề thay đổi chút nào, chỉ có đôi chút thách thức phụ thêm vào vẻ tự tin vững vàng.

Về phần vị tu sĩ th́ mặt ông tái đi, tôi nh́n thấy mồ hôi nhỏ giọt trên vầng trán cao và gồ của ông. Ông chắp tay cầu nguyện, ông luôn luôn cúi xuống người đàn bà để th́ thầm với cô ta những lời khích lệ.

Người đàn ông mặc đồ đen tiến lên, cầm một trong những sợi dây thừng nhỏ và buộc hai bàn tay người đàn bà lại với nhau. Cô ta dịu dàng ch́a hai tay cho ông. Rồi ông nắm lấy vai cô ta một cách hung bạo, và ông đưa cô ta tới trước con ngựa gỗ, con ngựa gỗ cao hơn thân ḿnh cô một chút.

Ông nhấc bổng cô lên trên, đặt cô nằm dài lên lưng con ngựa, cô nh́n lên trần nhà. Vị tu sĩ tứ chi run rẩy chạy ù ra khỏi pḥng, cặp môi của người đàn bà mấp máy một cách mau lẹ; tôi không nghe thấy ǵ cả nhưng tôi biết cô đang cầu nguyện, hai chân cô bỏ thơng ở hai bên ḿnh con ngựa, tôi trông thấy những tên phụ việc mặc quần áo chẽn, đă cột các cổ chân cô và buộc đầy dây thừng vào những cái khoen sắt gắn ở ván lót nền pḥng.

Tim tôi se lại trước những sự chuẩn bị hiểm ác này. Tuy nhiên bị đờ đẫn ra v́ sự kinh hoàng, tôi không thể quay mắt đi khỏi hoạt cảnh này, một người đàn ông đi vào, mỗi tay xách một thùng nước. Đến lượt người thứ nh́ đi vào với một thùng nước thứ ba. Họ đặt những cái thùng bên cạnh con ngựa gỗ, người đàn ông thứ nh́ cũng mang một cái chậu nhỏ bằng gỗ có cái cán thẳng.

Y đưa cái chậu gỗ nhỏ này cho người đàn ông mặc đồ đen. Cùng trong lúc đó, một trong những tên đầy tớ tiến lại gần, hắn cầm một vật sẫm màu mà vừa nh́n thấy, dù là trong giấc mơ của tôi, nó đă nhắc tôi nhớ tới một cái ǵ. Đó là một cái phễu bằng da. Với một sức mạnh đầy tội lỗi, hắn cắm sâu cái phễu...

Nhưng tôi không thể chịu đựng cảnh này nhiều hơn nữa. Tóc tôi dựng đứng lên v́ kinh hăi. Tôi co quắp người lại, tôi giăy giụa, tôi làm đứt đoạn giấc ngủ của tôi và tôi tỉnh dậy kêu lên một tiếng lớn...

Tôi tỉnh lại kinh hoàng trong cái thư viện rộng lớn, mặt trăng trải ánh sáng xanh xao qua cửa sổ và chiếu ra những lằn màu đen và màu bạc trên bức tường đối diện. Ôi, thật là khoan khoái biết bao, khi cảm thấy được trở lại thể kỷ XIX, khi nhận ra tôi đă rời bỏ căn pḥng của thời trung cổ đó, để trở về một thế giới mà những cư dân đă có một trái tim, khả dĩ gợi ra cho họ những t́nh cảm của con người!

Tôi ngồi trên đi-văng, người vẫn c̣n run rẩy, tâm thần pha trộn giữa sự tri ân và nỗi kinh hoàng. Nghĩ ngợi tới những việc như vậy đă được thực hiện, đă có thể thực hiện được mà đấng thượng đế không trừng phạt những kẻ vô lại, đă thi hành các việc đó! Phải chăng, đó là một truyện giả tưởng nảy sinh ra bởi trí tưởng tượng của tôi, hay đó là một sự việc đă thật sự xảy ra trong những ngày u ám độc ác của lịch sử thế giới.

Tôi gục đầu vào hai bàn tay run rẩy của tôi. Và rồi bỗng nhiên tim tôi ngừng đập và ngay cả tôi không thể cất tiếng kêu lên được khi mà tôi kinh khiếp quá. Qua bóng tối của thư viện, có một người nào đó đang tiến lại chỗ tôi.

Sự kinh hoàng được chồng chất thêm làm tiêu hủy lư trí con người. Không c̣n đủ sức để suy luận, để cầu nguyện, tôi chú mục nh́n cái bóng người đen sẫm đang bước tới gần. Cái bóng đen đó vừa đi qua một tia ánh trăng; lúc đó tôi lấy lại được hơi thở. Đó là Decre, trên mặt anh tôi thấy rằng anh cũng kinh hăi như tôi.

- Có phải anh đấy không? Nhân danh thượng đế, việc ǵ xảy ra thế? Anh nói với tôi với một giọng nói hốt hoảng.

- Ồ, anh Decre! Tôi sung sướng được thấy anh! Tôi mới xuống địa ngục, thật là khủng khiếp!

- Vậy chính anh mới kêu lên đó àh?

- Tôi nghĩ là vậy.

- Tiếng kêu vang dội khắp căn nhà. Bọn đầy tớ bị kinh hoàng.

Anh bật một que diêm và đốt đèn lên.

- Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể nhóm lại lửa.

Anh quăng một vài khúc củi lên đống than hăy c̣n đỏ hồng.

- Trời ơi, anh có vẻ xanh xao quá này, anh bạn quư. Người ta sẽ nghĩ là anh vừa mới nh́n thấy ma.

- Tôi đă nh́n thấy ma... nhiều ma!

- Vậy là cái phễu da đă đóng vai tṛ của nó?

- Dù cho tôi tất cả vàng trên thế giới, tôi cũng không muốn ngủ một lần bên cạnh vật quỷ quái này.

Decre bật ra một tiếng cười nhỏ. Anh nói với tôi:

- Tôi đă trù liệu rằng anh sẽ có một đêm nơi náo động, nhưng anh đă trả thù rồi v́ tiếng la hét của anh không phải là rất êm ái, để mọi người nghe vào lúc hai giờ sáng, theo lời anh nói, tôi tưởng tượng là anh đă nh́n thấy tất cả sự việc khủng khiếp đó phải không?

- Sự việc khủng khiếp ǵ?

- Sự hành tội bằng nước. “vấn đề dị thường” như người ta đă nói dưới thời Vua Mặt trời. Anh có chịu đựng được cho tới cùng không?

- Không, lạy chúa tôi! Tôi đă thức dậy trước khi việc đó khởi sự.

- À, càng hay cho anh, tôi th́ tôi đă cầm cự tới thùng nước thứ ba. Dẫu sao th́ đó cũng là câu chuyện từ cổ xưa, những vị anh hùng giờ đây đă bị chôn vùi dưới đất rồi! Chắc chắn là anh không có một chút ư kiến ǵ, về cái quang cảnh mà anh đă chứng kiến phải không?

- Việc hành tội môt nữ phạm nhân nào đó. Hẳn cô ta đă phạm những trọng tội ghê gớm, nên mới phải chịu một h́nh phạt như vậy!

- Việc đáng kể là chúng ta đă có được sự an ủi nhỏ nhoi này.

Decre trả lời tôi, trong khi cuộn ḿnh trong chiếc áo ngủ và bước lại gần ḷ sưởi.

- Những tội ác của cô ta tương xứng với h́nh phạt của cô ta. Ít nhất nếu tôi không lầm về lư lịch của người đàn bà này.

- Làm thế nào mà anh có thể khám phá ra lư lịch của cô ấy.

Thay cho câu trả lời, Decre lấy từ kệ tủ ra một cuốn sách cổ.

- Hăy nghe điều này! Anh bảo tôi.

- Anh sẽ tự ḿnh phán đoán xem, có phải tôi đă t́m ra lời giải đoán của việc bí ẩn. Người nữ tù nhân bị đem ra xét xử trước Đại Pháp Viện của Tối Cao Pháp Viện, họp tại ṭa án với tội danh là đă ám sát ông Dreux d’Anbray, thân sinh ra cô và hai anh trai cô, các ông d’Anbray, một người là tài phán dân sự và người kia là Ủy viên Tối Cao Pháp Viện.

H́nh như khó mà tin rằng cô là thủ phạm của những tội ác quái gở như vậy, v́ cô có vẻ dịu hiền, cô người nhỏ nhắn, cô có một màu da nâu và những con mắt màu xanh. Tuy nhiên ṭa án đă phán quyết cô là thủ phạm.

Buộc cô phải chịu sự thẩm vấn thường và sự thẩm vấn đặc biệt, ngơ hầu bắt cô phải khai tên tuổi những kẻ đồng lơa, rồi bị dẫn giải bằng xe ḅ tới công trường Genève, ở đó cô sẽ bị chém đầu, xác cô sẽ bị thiêu và tro tàn bị trải tung cho gió cuốn. Ngày tháng của sổ đăng lục này là ngày mười sáu, tháng bảy, năm 1676.

- Thú vị đó! Tôi trả lời. Nhưng không đủ sức thuyết phục. Làm thế nào anh chứng minh được rằng, là đó là cùng một người đàn bà này?

- Tôi chứng minh được, câu chuyện kể lại thái độ của người đàn bà trong cuộc thẩm vấn: Khi kẻ hành tội đến gần cô, cô nhận ra hắn ta v́ những dây thừng nhỏ mà hắn ta cầm trong tay, và ngay tức th́ cô ch́a những bàn tay cô cho hắn, trong khi mắt nh́n hắn từ đầu tới chân mà không thốt ra một câu nào. Có đúng vậy không?

- Đúng.

- Cô thản nhiên nh́n con ngựa gỗ và những khoen, là những thứ đă vặn găy rất nhiều tay chân và những tiếng kêu đau đớn. Khi mắt cô nh́n tới ba thùng nước đă được chuẩn bị sẵn, cô mỉm cười nói:

- "Tất cả số nước này được mang tới đây với dụng ư làm tôi chết ch́m, thưa ông. Tôi cho rằng ông không nghĩ tới việc bắt một người nhỏ bé như tôi phải nuốt hết chỗ nước này chứ?".

- Tôi có cần đọc cho anh nghe những chi tiết của sự hành tội không?

- Không, v́ ḷng lành của Thượng đế!

- Đây là một câu chứng tỏ cho anh thấy rằng, những ǵ được kể trong quyển sách này, đúng là cái cảnh mà anh đă chứng kiến hôm nay: “Đạo sư Piror hiền hậu không thể đứng nh́n những sự đau khổ, mà người đàn bà bị hành tội sắp phải chịu đựng, đă bước vội ra khỏi căn pḥng”. Điều này có thuyết phục anh không?

- Hoàn toàn thuyết phục. Không c̣n nghi ngờ ǵ, đây đúng là cùng một việc, nhưng như vậy th́ cái người đàn bà rất duyên dáng này là ai, mà phải chịu một kết cục quá khủng khiếp như thế?

Decre bước lại gần tôi và anh đặt cây đèn nhỏ trên cái bàn ở đầu giường, cầm nâng cái phễu chết tiệt lên, anh quay cái khoen bằng đồng lại để cho ánh sáng soi rơ nó. Khi nh́n như vậy tôi thấy những h́nh chạm rơ hơn là vào buổi tối.

- Chúng ta đă nhận xét rằng, đây là biểu trưng của một vị hầu tước hay là một nữ hầu tước, chúng ta đă xác định rằng chữ cuối cùng là một chữ B.

- Đúng, không thể chối căi được.

- Bây giờ tôi chưa đưa ra một ư kiến, những chữ khác từ trái qua phải, không phải là một chữ M, một chữ M nữa và một chữ d nhỏ, một chữ A, một chữ d nhỏ rồi một chữ B tận cùng hay sao?

- Đúng, tôi nghĩ rằng anh nói có lư. Tôi nhận ra hai chữ d nhỏ một cách hoàn toàn rơ ràng.

- Những ǵ mà tôi vừa đọc cho anh nghe, Decre tuyên bố, là sự ghi chép chính thức về vụ án Marie Madeleine d’Anbray, nữ hầu tước đất Brinvillien, một trong những người đàn bà can tội đầu độc trứ danh nhất của mọi thời đại.

Tôi đứng yên không nói được lời nào. Tôi bị choáng váng v́ tính chất kỳ dị của sự việc, và v́ tính cách h́nh thức của bằng chứng mà Decre đă cung cấp cho tôi. Tôi nhớ lại một cách mơ hồ, một vài chi tiết về sự nghiệp của người đàn bà này, sự buông thả của cô ta, những sự hành hạ có tính toán và cố ư, mà cô đă bắt ông bố ốm đau của cô phải chịu; việc ám sát hai người anh trai của cô v́ những lư do quyền lợi trong nhà.

Tôi cũng nhớ tới sự dũng cảm mà cô đă biểu lộ vào những giờ phút cuối cùng của cô, và sự dũng cảm mà cô đă chuộc lại một phần những tội ác của cô, cũng như mối cảm t́nh mà tất cả thành phố Paris đă bày tỏ với cô lúc cô bị hành h́nh; một vài ngày sau khi chửi rủa cô là kẻ đầu độc, những người dân thành phố Paris lại thực sự tôn sùng cô như là một vị thánh tử v́ đạo.

Có một điều phản đối và một điều thôi đă nói lên trong đầu tôi:

- Làm thế nào mà các chữ viết tắt của tên cô và huy hiệu của cô, lại có thể được khắc trên cái phễu? Tôi nghĩ rằng người ta không đưa sự sùng kính thời trung cổ, đối với các bậc quư phái tới mức, phải đi trang hoàng các dụng cụ để hành tội họ, với các danh vị của họ, phải vậy không?

- Điều này đă làm tôi suy nghĩ.

Decre công nhận, nhưng nó chỉ có thể có một sự giải thích. Thời đó, vụ này đă gây ra một mối quan tâm đáng kể, không có điều ǵ tự nhiên hơn là cái việc ông La Raynie, vị phán quan về cảnh sát đó, đă giữ lại cái phễu làm kỷ niệm.

Việc một nữ hầu tước của nước Pháp phải chịu cuộc thẩm vấn đặc biệt, đâu phải là chuyện thường xảy ra. Chắc chắn ông đă sai khắc lên trên những chữ bắt đầu của từ Brinvillien, để thỏa măn những kẻ ṭ ṃ; hẳn là ông ta có thói quen làm những thể thức đó.

- Và c̣n cái này? Tôi hỏi và chỉ vào những dấu vết trên cổ cái phễu.

- Cô La Brinvillien là một con cọp cái hung ác, Decre vừa trả lời tôi vừa bỏ đi ra. Tôi nghĩ rằng cũng như những con cọp cái khác, cô ta có những cái răng nhọn và cứng.




                                                            SIR ARTHUR CONAN DOYLE












Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1031 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 11:28am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



CHUYỆN MA CÓ THẬT


Câu chuyện có thật xảy ra trong tháng 9-07. Tôi không có khiếu kể chuyện chỉ tường thuật lại cho các bạn đọc thôi nha!

Chị Dung cùng chồng là anh Thọ, sống ở Phường Trảng Dài, Biên Ḥa, Đồng Nai đă lâu. Anh chị có chú ư đến một miếng đất họ để bảng bán, cách đó khoảng mười lăm cây số, gần trường CĐDL Nguyễn Khuyến. Sau khi tính toán, anh chị quyết định mua và xây trên nền đất đó một ngôi nhà khang trang.

Ngày đầu tiên dọn về nhà mới, khuya hôm đó anh Thọ dậy đi vệ sinh ở nhà sau, khi quay trở lên pḥng khách, anh bỗng thấy một người phụ nữ có thai, khoảng bốn mươi lăm tuổi, tay ôm cái gối cứ đi ḷng ṿng quanh nhà, anh hoảng hốt bỏ chạy ra sau nhà. Anh đứng một lúc rồi lấy lại b́nh tĩnh và quyết định quay trở lên nhà trên, để gặp người phụ nữ đó.

Khi anh lên th́ người phụ nữ đó vẫn c̣n, cô ta nh́n anh mà miệng lải nhải ǵ đó, anh liều ḿnh hỏi cô ta muốn ǵ, cần ǵ? Nhưng chỉ thấy miệng cô ấy lẩm bẩm mà anh không nghe được ǵ. Anh quyết định đọc kinh (anh theo đạo Thiên Chúa) và quay trở về pḥng ngủ..mặc kệ cô ta.

Khi sáng tỉnh dậy anh tính nói chuyện với vợ, nhưng v́ sợ chị Dung sẽ hoảng sợ nên anh không nói và..nín luôn. Ngày hôm sau, v́ lư do công việc nên anh phải trực khuya, đến sáng lúc anh về nhà th́ thấy chị Dung đang nằm bệt trên sàn nhà, mặt mày nhợt nhạt, nói năng không hiểu ǵ.

Anh liền đỡ chị Dung dậy đưa vào giường, sau đó chị Dung kể lại là từ sáng đến giờ, có một người phụ nữ có thai, cử đi ḷng ṿng quanh nhà, trên tay ôm cái gối, chị hỏi ǵ cũng không nói, chị xông tới để đuổi đi th́ chẳng thấy bóng người phụ nữ ấy đâu cả.

Một lúc sau khi chị đi chợ về th́ lại thấy người đàn bà đó trong nhà, nh́n rơ như người c̣n sống, chị đă khoá cửa cẩn thận trước khi đi, th́ người đàn bà này vào ngơ nào? Chị bực ḿnh liền lên tiếng quát người đàn bà đó, th́ tự nhiên cảm thấy mặt mày xây xẩm và té xuống đất.

Hai vợ chồng chị cùng nhau bàn bạc và tin chắc rằng nhà này có ma, cả hai quyết định đi đến gặp cha xứ thuộc tỉnh lâm Đồng (tôi xin được dấu tên). Khi đến gặp cha, th́ cha bảo vợ chồng chị vẽ lại sơ đồ miếng đất nơi chị mới cất nhà, và vẽ ra từng pḥng cho cha.

Sau khi cha xem xong, cha khoanh tṛn một chỗ, sát mé tường của pḥng khách và nói:

- Người đàn bà đó ở đây.

Hai vợ chồng chị liền về nhà, đóng cửa, đập một phần tưởng ra, đào sâu xuống đất khoảng sáu, bảy mét th́ gặp một lớp đất bùn đen, chỉ c̣n sót mấy miếng vải. V́ trời tối nên vợ chồng chị không đào nữa để đó, đi nghỉ ngơi và quyết định đêm nay, sẽ thức xem người đàn bà đó muốn ǵ.

Tối đó, người đàn bà đó lại xuất hiện, thật lạ lùng người đàn bà đó tiến đến thẳng chỗ chị Dung, cố gắng làm một tín hiệu ǵ đó, chị Dung không hiểu và chỉ nói lại:

- Tôi sẽ chôn cất chị đàng hoàng, chị yên tâm.

Sáng hôm sau, chị gọi điện cho cha xứ ở Lâm Đồng và cha nói chị hăy đến gặp Nữ tu trưởng ḍng Đa Minh thuộc giáo xứ Tân Mai và nhờ bà giúp, vợ chồng chị đến gặp Nữ Tu và kể lại đầu đuôi sự việc cho bà nghe, bà hứa sẽ giúp.

Đến chiều hôm sau, bà sơ đến nhà vợ chồng chị và làm phép, sau đó đọc kinh cầu nguyện, chỉ một lát sau th́ người đàn bà đó lại hiện lên, bà sơ liền nói:

- Chị ở đâu đến, có oan ức ǵ cần chúng tôi giúp đỡ không?

Người phụ nữ liền lẩm bẩm trong miệng, xin phép được nhập vào chị Dung, bà sơ liền hỏi ư kiến của chị Dung, chị đồng ư và bỗng nhiên, chị Dung nói bằng một giọng nữ rất lạ, tiếng người miền Trung trong khi vợ chồng chị là người Bắc.

Người nữ chỉ nói:

- Tôi chết ở đây từ năm 1980, chết trong khi đang mang bầu, nhờ anh chị mang tôi ra nghĩa trang Thành Phố Biên Hoà, chôn cạnh chồng tôi, tôi sẽ dẫn đường...

Bà sơ và chồng chị Dung đồng ư, chồng chị gọi thêm hai người em, rồi họ hốt tất cả chỗ bùn đó cho vào một cái kim tĩnh nhỏ, chị Dung đi lơ ngơ như người mất hồn, chị ngồi lên xe mà sao chị chỉ đường rành quá, cả bà sơ cùng đi.

Đến nghĩa trang, chị Dung liền đi một mạch đến một ngôi mộ nhỏ vô chủ, chẳng có tên tuổi, chẳng có ai xây, chỉ là g̣ đất. Người đàn bà lúc đó liền nói:

- Đào lên đi, chồng tôi ở trong đó...

Anh Thọ và hai người em cùng nhau đào lên, th́ thấy ở bên dưới là xương của một người đàn ông chết trong tư thế ngồi, hai tay bó gối, đầu tựa trên chiếc mền cũ nát.

Anh bỏ chiếc kim tĩnh xuống là lấp đất lại, th́ bỗng nhiên chị Dung rung lên một lúc rồi ngă xuống đất, chị tỉnh dậy nhưng hơi mệt. Sau khi lấp đất xong mọi người đọc kinh cầu nguyện và trở về nhà, lúc đó là ngày 15-9-2007.

Từ đó đến nay nhà chị Dung đă trở lại b́nh thường, người đàn bà đó không c̣n xuất hiện nữa.



                                                                                                 
ST





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1032 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 11:28am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TRUYỆN KHÔNG KỂ TRONG TRUYỀN KỲ


Ông huyện ấy chỉ mê những chuyện ma quỷ, thần tiên, quái dị… mà chẳng thiết ǵ đến việc quan. V́ thế công việc bê trễ, chồng chất lâu ngày không ai giải quyết. Có người quở th́ ông bảo:

- Nhà nước ví như cái lồng. Lồng lớn th́ nhốt được chim công, chim phượng. Lồng bé th́ chỉ nhốt những chích choè, chim sẻ mà thôi. Rốt cuộc phượng hoàng vẫn bay lượn nơi hoang dă mà không ai biết có chúng trên đời.

Câu nói ấy đến tai nhà vua, vua phán:

- Gă này muốn ví ḿnh với phượng hoàng đây. Lại có ư chê cái “lồng“ của ta hẹp. Đă thế cho gă đi mà bay lượn nơi hoang dă, không cần đến làm ǵ.

Rồi xuống chiếu băi chức ông. Chiếu chưa đến nơi th́ ông đă treo mũ áo ở công đường mà bỏ đi rồi. Ông đi đâu? Cố nhiên là về quê thu xếp việc nhà rồi lang thang đây đó. Một bữa đi qua cánh đồng nọ, ngồi nghỉ dưới bóng mát của một cây gạo cổ thụ giữa cánh đồng, thấy mấy đứa trẻ chăn trâu đang chuẩn bị chơi bi. Một đứa bảo:

- Đêm qua chỉ có bốn “cậu“ chơi ở đây. C̣n một “cậu“ nữa đi đâu mất rồi?

Đứa khác bảo:

- Chắc là được đầu thai. Trong làng đêm qua có người mới sinh. Một đứa khác lại bảo:

- Chiều nay có mưa lớn, lại có giông. Nhớ báo cho mọi người biết…

Ông nghe thấy lạ quá bèn sán lại hỏi:

- Các cháu nói ǵ thế, “cậu“ là những ai vậy?

Lũ trẻ tranh nhau trả lời:

- Là những con ma trẻ con. Chỗ gốc cây này ban ngày là của chúng cháu, ban đêm là của ma. Ban ngày chúng cháu chơi tṛ ǵ, ban đêm ma cũng chơi tṛ ấy. Chúng cháu để lại đây năm ḥn bi, hôm nay chỉ c̣n bốn, mất một ḥn màu trắng, v́ thế mà chúng cháu biết.

Ông nghe càng thấy lạ. Lại hỏi tiếp:

- Thế sao các cháu biết chiều nay có trận mưa giông?

- À!

Một đứa buột miệng trả lời:

- Đó là các “cậu“ báo…

Nó nói chưa dứt câu th́ mấy đứa trẻ kia vội suỵt! suỵt!, rồi đưa một ngón tay trỏ lên mồm, mắt nháy nhau ra ư bảo đứa kia chớ nói cho ông biết. Đứa trẻ vừa chợt thấy ḿnh bị lỡ lời mặt hơi tái đi, nó cúi đầu lẩm bẩm những câu khó hiểu:

- Tại sao phải như thế nhỉ? Cho dù có là một trận mưa giông, th́ mỗi năm cũng biết bao nhiêu lần như thế…

Ông hiểu là không thể khai thác ǵ thêm ở chúng, bèn nh́n xuống, thấy mấy viên bi xanh, đỏ, tím, vàng được sắp xếp một cách cố ư trên mặt đất. Ông đoán chắc là mấy đứa trẻ này căn cứ vào đó mà biết trời mưa hay nắng đây. Song tất cả câu chuyện từ đầu, có vẻ cứ như hoang đường, làm ông bán tin bán nghi. Ông quyết định phải vào làng điều tra cho rơ mọi điều.

Quả là trong làng đêm qua có một người đàn bà mới trở dạ sinh. Hỏi thăm đến cổng nhà người đàn bà ấy rồi, ông cứ nấn ná không biết có nên vào hay không, sợ tục lệ ở đây kiêng vía người lạ. May quá có một bà già từ trong bước ra. Ông vội túm lấy hỏi thăm:

- Xin hỏi bà người mới sinh đêm qua có ǵ lạ không?

Bà lăo có vẻ mừng rỡ khi thấy ông hỏi như thế. Bèn trả lời ngay:

- Thế ra ông là thầy hay sao mà biết. Phải rồi, nửa đêm qua con dâu nhà tôi sinh cháu trai, trong tay nắm một viên ngọc màu trắng. Tôi đang định mời thầy đến xem đó là điềm ǵ. Nhân gặp được ông đây, trăm sự nhờ ông xem cho cháu.

Ông nghe nói mà không khỏi kinh ngạc. Té ra câu chuyện của lũ trẻ ở gốc cây gạo kia là có thật. Có điều đó chỉ là một viên bi đất chứ ngọc ǵ. Thôi th́ cứ để cho bà lăo tưởng nhầm có khi lại hay. Ông bảo:

- Đó là điềm tốt, không sao cả. Cứ việc cất viên ngọc vào đâu cũng được, đừng để nó rơi xuống nước là được rồi.

Nói xong ông vội vă quay người bước đi, sợ bà ta hỏi thêm câu nữa th́ không biết lấy ǵ mà trả lời. Dù sao ông cũng muốn chứng kiến trận mưa giông buổi chiều, nếu quả thực nó xảy ra, th́ việc lũ trẻ với mấy con ma trẻ con kia, là điều không c̣n hồ nghi ǵ nữa.

Ông bèn t́m đến đ́nh làng, thu xếp một chỗ ngồi ở hiên nhà giải vũ, kiên nhẫn chờ đợi. Chiều hôm đó, trời đang nắng bỗng tối sầm, mây đen ngùn ngụt kéo tới. Rồi xuất hiện một trận cuồng phong cuốn tung bụi đất, cát lở đá bay, cây cối vặn ḿnh răng rắc. Sấm sét gầm rú trên ṿm trời lúc này, như đă sa xuống gần mặt đất. Lát sau là một trận mưa như trút nước.

Đúng là không c̣n hồ nghi ǵ nữa. Có điều tại sao lũ trẻ chăn trâu kia lại “giải mă“ được những thông tin của ma quỷ? Tại sao những người lớn, người có học, thông thái như ông lại có mắt cũng như mù? Có lẽ tại đầu óc chúng c̣n trong sáng, hồn nhiên như những trang giấy trắng, chưa hề vương vấn nợ đời chăng?.

Đợi cho tạnh hẳn cơn mưa, bầu trời đă trong xanh trở lại, ông rời khỏi mái đ́nh, thong thả tiến ra phía cánh đồng. Bỗng ông giật ḿnh nghe tiếng trẻ con kêu khóc. Nh́n về phía làng, ông nhận ra thằng bé đă nói với ông câu cuối cùng lúc ở gốc gạo kia đang chạy.

Đầu tóc rũ rượi, áo quần tả tơi, nó vừa chạy vừa gào khóc như bị… ma đuổi. Theo sau nó, những người lớn không hiểu nguyên do, cũng chạy theo cố túm nó lại. Song nó cứ giằng ra mà chạy, mà kêu khóc… tiếng nó cứ khản dần, khản dần rồi lịm đi. Nó đă chết.

Ông kinh ngạc, đờ người ra v́ đau xót như chính ḿnh vừa mất người thân. Hai mắt bất chợt nḥa đi, ông chỉ c̣n biết quay lưng, bước vội đi như một kẻ trốn chạy. Bỗng một h́nh ảnh quái gở khác đập vào mắt ông.

Cây gạo cổ thụ xum xuê, chốn nương náu của những linh hồn bé bỏng ấy đă bị sét đánh chẻ làm đôi, mỗi nửa đổ vật về một hướng. Như một kẻ bị tâm thần, ông quay mặt đi, vừa bước thấp, bước cao, vừa buột mồm lẩm bẩm:

- Thiên cơ, ôi! Thiên cơ...

H́nh ảnh đứa trẻ vừa chạy vừa gào khóc đến khản cổ mà chết và cây gạo bị sét đánh ấy cứ ám ảnh ông măi. Lại có cảm giác rằng, tại ḿnh mà xảy ra những chuyện đau ḷng đó. Bất chợt, một điều ǵ vừa vỡ oà ra trong tâm khảm.

Ông quyết định trở về nhà, đóng cửa viết sách, lôi tuốt những chuyện ma quỷ kỳ dị ra, cả những ǵ gọi là thiên cơ, địa lậu… mà ông từng được biết hoặc được nghe… tất cả phơi bày ra trên giấy. Bộ sách ấy gọi là truyền kỳ mạn lục. Sách viết ra làm kinh động cả quỷ thần.

Mới hay trong cái trường thiên cơ, địa lậu mịt mù, kiếp người bỗng mong manh như kiếp ma. Chuyện tṛ chỉ dám như oanh vàng thỏ thẻ, viếng thăm chỉ mong có bướm héo vật vờ. Có điều lạ là chính câu chuyện trên lại không thấy ông chép trong đó. Sách được khắc in, lập tức được lưu truyền rộng răi trong đời.

Sau đó ít lâu, vào một đêm mơ màng, bỗng thấy một đứa trẻ con đang mờ mịt đứng bên cạnh giường, ông chợt nhận ra chính là thằng bé bị ma đuổi ngày trước. Nó khoanh tay chào ông và bảo:

- Cháu đến chào ông để đi đầu thai. Nhờ có sách của ông, mà từ thiên cơ đến địa lậu, bây giờ không c̣n là việc riêng của trời đất nữa. Điều cháu nói với ông ngày trước, từ nay không c̣n phải tội nữa rồi.

Nói xong, nó bé dần, bé dần rồi vụt biến đi đâu mất. Ông cũng giật ḿnh tỉnh giấc, không biết ḿnh vừa mơ hay tỉnh. Về sau, bộ truyền kỳ mạn lục ấy tiếp tục được lưu truyền hết đời nọ đến đời kia, được coi là một thiên cổ kỳ bút cho tới tận bây giờ.





Phạm Lưu Vũ







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1033 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 11:29am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



ĐĂ NHẬP ÁO QUAN ĐỘT NHIÊN SỐNG DẬY


Vào ngày 18-1, tại Khu tự trị Miêu tộc, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc, một phụ nữ ngoài lục tuần đă đột nhiên bước ra từ quan tài “trở về từ cơi chết” sau mười sáu giờ liệm. Hiện nay bà đi lại, sinh hoạt b́nh thường.

Theo lời kể lại của người nhà bà Hầu. Vào ngày 8-1 bà Hầu đă đột ngột lâm bệnh, người nhà đă đưa bà đến bệnh viện điều trị và bốn ngày sau th́ xuất viện. Đêm ngày 13-1, nhiều bà con thân thích đến thăm hỏi và bà vẫn b́nh thường.

Vào bốn giờ sáng ngày 14-1, bà Hầu đột nhiên bất tỉnh nhân sự, khi được người nhà phát hiện, th́ cơ thể bà đă lạnh cứng và tim ngừng đập, nên họ đă mặc áo quan cho bà. Khoảng sáu giờ chiều cùng ngày th́ liệm, nhiều bà con họ hàng cũng đến giúp người nhà bà tiến hành tang lễ.

Điều kỳ lạ đă xảy ra, vào tám giờ tối ngày 14-1, bà con, hàng xóm đă đến nhà họ Hầu chia buồn. Khi con trai, con dâu, bà con hàng xóm đứng gần quan tài bà, th́ đột nhiên nghe từ trong quan tài bà phát ra âm thanh: bịch.. bịch...

Mọi người trong buổi tang lúc bấy giờ đều sợ hăi chạy ra khỏi nhà, người con trai lớn của bà lập tức mở nắp quan tài xem nguyên nhân, th́ thấy hai mắt của bà Hầu mở to, hai tay đưa lên phía trước.

Con trai con gái bà đồng thanh gọi: “mẹ”, bà Hầu lập tức trả lời lại. Lúc bấy giờ, mọi nguời mới tin bà vẫn c̣n sống, vội vàng đưa bà lên giường nằm và người nhà bà lập tức đi mời bác sĩ .

Ngày 18-1, các bác sĩ của Trung tâm cấp cứu tỉnh Hồ Bắc sau khi tiến hành kiểm tra kỹ, đă xác định t́nh trạng sức khỏe của bà là b́nh thường. Theo các bác sĩ th́ hiện tượng bà Hầu không phải là đă chết thật, chỉ là hiện tượng “chết giả”, nên mới có thể chết đi sống lại.

Hiện tuợng chết giả là sự tuần hoàn trong hơi thở và sự ức chế ở mức độ cao của đại năo, điều này biểu hiện t́nh trạng suy nhược cơ thể của con người. Bác sĩ c̣n cho biết, nếu như không phải do bà Hầu tỉnh dậy sớm th́ hậu quả khó mà lường được.

Tính mạng con người rất quan trọng, để xác định một người là thật sự chết hay chỉ là hiện tượng chết giả, th́ cần phải có bác sĩ giám định, không thể chỉ dựa vào biểu hiện bên ngoài mà xác định, nếu không sẽ nguy hại đến nhân mạng.

Hiện nay t́nh h́nh sức khỏe của bà Hầu khá tốt, bà có thể nói chuyện, đi lại và sinh hoạt b́nh thường.





ST







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1034 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 11:30am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



THỨC DẬY TRONG QUAN TÀI


Một người nuôi ong bất tỉnh sau khi bị ong châm. Tại bệnh viện, bác sĩ cho rằng, ông đă chết.

Vị bác sĩ tin rằng Jozef Guzy, bảy mươi hai tuổi ở Katowice, Hà Lan đă lên cơn đau tim sau khi bị ong châm. Họ thông báo với người nhà Guzy rằng ông đă qua đời.

Ludmila, vợ ông, chia sẻ:

- Tôi không thể tin được khi họ nói rằng ông ấy đă chết và bác sĩ phủ tấm khăn trắng lên người ông. Ba tiếng sau đó, người làm dịch vụ tang lễ địa phương đặt ông ấy vào quan tài và đậy nắp.

Quan tài được chở vào một căn pḥng. Tại đây, Guzy bất ngờ tỉnh lại và bắt đầu la hét kêu cứu. Darius Charon, người làm dịch vụ tang lễ, kể lại:

- Ông ấy hét và đập mạnh vào quan tài.

Theo Ananova, Guzy được đưa tới bệnh viện và hồi phục sau vài ngày. Bác sĩ chẩn đoán nhầm ông chết đă phải đưa ra lời xin lỗi. Người suưt bị chôn sống tâm sự:

- Nhân viên làm tang lễ đă cứu sống tôi. Điều đầu tiên tôi nghĩ sau khi rời khỏi bệnh viện, là sẽ mang biếu ông ấy một b́nh mật ong.

                                         

                                                                ST











                              
Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1035 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 11:31am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



T̀M NHÀ MÁY


Trời đă xẩm tối, chiếc xe dừng lại ven đường, giọng bác lái cụt lủn:

- Làng J́nh xuống đi.

Tôi nghe không rơ hỏi lại:

- Đến làng j́nh rồi hả bác?

- Đă bảo xuống đi mà lị. Ông ta lại gắt.

Tôi nhảy phắt xuống, chiếc xe đ̣ đă rách nát lại rú lên tiến về phía truớc, để lại dải khói đen phun ra hoà quện vào đám bụi đường.

Đến làng J́nh rồi tôi c̣n phải đi tiếp về thôn Đổng Xếch, nghe đâu c̣n một giờ chạy ôtô nữa. Sếp tôi bảo thôn ấy làm giày dép rẻ như bèo, chất lượng thuộc dạng xoàng nhưng mua về cũng bán được, mà tương lai chủ yếu là nhằm vào đối tượng khách hàng, có thu nhập thấp và nghèo khổ.

Thế là tôi được biệt phái vào đó nghe ngóng xem sao. Sau mấy lần tŕ hoăn do thời tiết, hôm nay tôi nhất quyết đến đó bằng được, tôi t́m một quán nước ngồi nghỉ trước khi đổi xe đi tiếp, tôi gọi cốc trà nóng rồi hỏi bà cụ:

- Cụ ơi, vào thôn Đổng Xếch c̣n xa nữa không cụ?

- Ồ! thế cậu muốn về đó à? sao không nói sớm có xe vừa chạy qua đấy. Cụ già tiếc nuối.

- Dạ con không biết, c̣n chuyến nào nữa không cụ? tôi hỏi lại.

- Vậy th́ taxi thôi, hoặc xe ôm, ba mươi tệ là đến nơi, mà cậu h́nh như không phải dân ở đây, tôi nghe giọng hơi là lạ? Cụ già thắc mắc.

Taxi đối với tôi là quá xa xỉ, xe ôm tuy có rẻ hơn nhưng nguy hiểm và hay bị lừa, tôi chủ yếu đi xe buưt vừa rẻ vừa an toàn, tuy phải chờ lâu nhưng tôi chờ được, tiền ít nhưng thời gian tôi có thừa.

Tuy nhiên nếu nơi cần đến không có xe buưt, th́ tôi giải quyết bằng cách đi bộ chứ nhất định không đi ǵ khác, cũng chính v́ vậy mà khả năng đi bộ của tôi đi, thuộc dạng nhanh khó ai mà sánh kịp.

- Thế hết xe buưt thật rồi hả cụ. Tôi buồn bă hỏi.

- Cũng tuỳ, có khi có khi không, tuỳ theo mùa, dạo này ít người về đêm nên có lẽ họ không chạy. Cụ đáp

Tôi lo lắng, vậy phen này phải nghiến răng nghiến cổ đi taxi rồi, tôi buồn rầu mắt nh́n về phía đầu đường chờ ngóng.

Chợt có bàn tay vỗ nhẹ lên vai, tôi giật ḿnh quay lại. Trước mắt tôi là một cô gái trẻ trạc hai mươi bảy tuổi, dáng buồn thảm như đưa đám, nhưng khuôn mặt thoáng nét duyên dáng dịu dàng.

- Anh ơi... tôi nhỡ xe về quê, tiền hết, cho tôi xin vài tệ đi đường.

Cô gái khổ sở giăi bày, tôi loay hoay móc ví lấy ra một tờ năm tệ rồi đưa cho cô ta, cô gái nhẹ nhàng cảm ơn rồi bỏ đi. Tôi nh́n theo như bị hút hồn với bao câu hỏi.

- Ḱa taxi đến rồi ḱa, nhanh lên kẻo chạy mất.

Cụ bán nước gọi giật tôi, tôi vẫy tay, ánh đèn pha sáng loè trong đêm dừng lại, tôi cảm ơn bà cụ, vừa lên xe lại nhẹ nhàng lao đi vun vút

- Đi đâu? lái xe quay sang.

- Dạ, về Đổng Xếch. Tôi đáp.

- Tôi không đi đâu, anh làm ơn xuống xe.

- Sao? bấm đồng hồ đi, hết bao nhiêu trả bấy nhiêu, cùng lắm bao nhiêu tôi tôi cũng trả?

- Thôi, không phải vấn đề đó.

Lái xe dứt khoát, chiếc taxi dừng lại, tôi tức tối mở cửa bước xuống, gă lái xe nói với theo:

- Về đấy tôi không dám chạy đâu, anh đi buưt vậy, trước mặt là bến bus đấy, nói xong gă cười bí hiểm rồi vụt biến mất.

Câu nói khó hiểu của hắn làm tôi hơi ngài ngại, trời tối như mực, làn gió rít nhẹ bên tai, h́nh như đây là một cánh đồng rộng mênh mông, tôi tiến về phía trước và quả thực có một bến xe buưt thật, nhưng trống huơ trống hoắc, trơ trọi chả có dấu hiệu của sự sống nào.

Chả c̣n cách nào khác tôi đành một ḿnh thu lu đứng chờ, hy vọng vẫn c̣n xe buưt, bỗng có tiếng động cơ rồi có ánh đèn pha sáng loà đáp lại chỗ tôi rồi tắt ngấm:

- Ê, về đâu? xe ôm không?

Một giọng thanh niên lí nhí, dưới ánh sao lờ mờ một khuôn mặt nhợt nhạt, có vết sẹo dài trên má, tôi thấy rờn rợn rồi mau miệng đáp:

- Dạ không, tôi không đi.

Lạ thay chiếc xe nổ máy và vút đi, người thanh niên kia không hề c̣ kè chèo kéo ǵ thêm, như các bác xe ôm vẫn làm để kéo khách. Tôi thở phào nhẹ nhơm, thà đi bộ hoặc không đi, chứ không đời nào tôi đi xe ôm, hơn nữa lại một gă đáng sợ thế kia.

Tôi lại tiếp tục chờ đợi, lại có tiếng re re kèm ánh đèn sáng loà xuất hiện, tôi căng mắt rồi thất vọng, lại một chiếc xe máy nữa lao đến.

- Ê, về đâu? xe ôm không?

Tôi kinh hăi khi phát hiện gă đi xe máy y hệt gă lúc năy, vẫn khuôn mặt bệch bạc với vết sẹo dài, nh́n chằm chằm vào tôi cất lên lời mời lư nhí. Tôi cụp mắt quay đi không nói, như biết tôi sợ chiếc xe máy lại rú ga, rồi mất hút vào bóng đêm.

Tôi bắt đầu hoang mang, trời càng về khuya càng lạnh, đêm khuya giữa chốn hoang vắng tôi chả biết đi đâu, thôi đành thu lu ngồi thụp xuống.

Bỗng một lát sau lại có tiếng động cơ ào ào lướt tới, ánh đèn sáng loè quét sáng trưng, tôi hoảng hốt t́m một bụi cây núp vội xuống, chiếc đèn pha quét vào mặt tôi chói loà, tôi vội phát hiện là một chiếc xe buưt kếch sù, chứ không phải là gă xe máy như tôi tưởng.

Mừng quưnh tôi nhảy vọt ra chỗ nấp rồi lao lên xe, trong xe đèn sáng trưng, tôi thấy bác lái xe phúc hậu mỉm cười với tôi làm tôi càng yên tâm. Vậy cuối cũng trời cũng đă phù hộ tôi.

Xe rỗng tuếch có hai tầng, tầng trên dành cho Vip, tầng dưới là ghế b́nh dân?! tôi nhẹ nhàng ngồi xuống ghế ở tầng một, trên xe chẳng có ai ngoại trừ một phụ nữ đang ngủ gật ở tầng trên, chiếc xe lại rùng lên chuyển động, lao đi trong màn đêm dày đặc.

Lang thang chán chê, thấy chiếc ghế đá trắng phau, tôi ngồi xuống ngắm nghía khóm hoa hồng đang toả hương, đâu đó mấy chú bướm chập chờn khe khẽ đậu vào rồi bay đi, đang mải mê tôi nhảy bắn người lên, khi có tiếng gọi giật lên từ sau lưng:

- Ê, về đâu anh ơi?

Tôi bừng tỉnh, hoá ra bác lái xe buưt gọi tôi, xe đă đến nơi và dừng lại từ lâu, đường xa lắc lư tôi đă ngủ thiếp từ khi nào.

- Ôi, đến Đổng... Đổng Xếch rồi hả bác. Tôi hỏi

- Ừ, đêm hôm này anh đi một ḿnh à? bác ôn tồn

- Dạ vâng, ở đây có nhà trọ nào rẻ tiền không bác? tôi e dè hỏi

- Tôi chịu, tôi không phải dân ở đây, anh hỏi cô gái sau xe ấy.

Tôi ngước lên phía tầng trên xe, cô gái đang loay hoay lấy đồ rồi từ từ bước xuống từ hang ghế "Vip". Tôi căng mắt ra nh́n và hết sức kinh ngạc khi nhận ra, đúng là cô gái xin tiền tôi lúc xẩm tối, tôi ríu lưỡi chưa kịp xưng hô ra sao, th́ cô gái đă mỉm cười, như lâu ngày gặp lại người quen:

- Chào anh! hoá ra chúng ta lại có duyên với nhau nhỉ.

Tôi chưa hết ngỡ ngàng, theo phản xạ tôi cũng đáp lại:

- Ồ tôi..tôi, à mà cô là người ở đây à?

- Vâng, nhà tôi ở đây, anh đến đây có việc ǵ mà vất vả thế, anh không phải người vùng này đúng không? nh́n điệu bộ anh ngơ ngơ ngác ngác từ chiều là tôi đă đoán ra...

Cô gái nói xong cười khúc khích hết sức tự nhiên, khác hẳn ư nghĩ ban đầu của tôi, là cô ta phải ngượng nghịu mới phải.

- Tôi có việc nên đến đây, ai ngờ lại xa xôi và muộn màng thế này, cô có biết ở đây có nhà trọ nào không? mà b́nh dân th́ càng tốt. Tôi chủ động đi thẳng vấn đề.

- Đây làm ǵ có nhà nghỉ nhà trọ hả ông anh, thôi đă thế này nếu anh không chê th́ vào nhà tôi nghỉ tạm, sáng mai tính sau, đêm hôm lang thang thế này bất ổn lắm.

Tôi theo cô gái đi quanh co qua con phố lụp xụp tăm tối và ẩm thấp, đến một băi đất mấp mô nằm ngoài ŕa khu phố.

- Anh đi cẩn thận kẻo ngă, nhà tôi kia rồi, trước đây là khu nghĩa trang thành phố không ai quản, xung quanh đây là các nhà mày giày dép rẻ tiền mọc lên như nấm, nếu anh muốn t́m nhà máy th́ đến đúng chỗ rồi đấy, tôi dựng tạm cái lều để kiếm chỗ che chắn lúc đêm hôm mưa gió.

Tôi rờn rợn bước theo cô gái vào nhà, căn nhà nhỏ dựng tạm đă xiêu vẹo, nhưng bên trong kín đáo và khá ấm áp, ánh đèn dầu lờ mờ bật lên, trước mắt tôi h́nh ảnh cô gái giả dạng xin tiền lúc nào đă bay biến, mà là một thiếu nữ trẻ trung đầy đặn và quyến rũ, nước da trắng hồng với cặp mắt đen lánh chốc chốc lại liếc nh́n tôi.

- Anh ngồi xuống đây nghỉ ngơi chờ tôi thay quần áo, rồi nấu cháo ăn tạm cho đỡ đói, nhà chỉ ḿnh tôi thôi nên hơi bề bộn mong anh thông cảm.

- Ồ không sao, thế này là quá ổn rồi, ủa... mà cô sống ở đây một ḿnh thật...thật sao?

Tôi cố giấu niềm vui bất ngờ rồi hỏi lại cho chắc ăn, lập tức cô gái lặng thinh mắt nh́n ra ngoài màn đêm, tưởng ḿnh đă làm ǵ để nàng mất vui, tôi nhẹ nhàng lên tiếng:

- Tôi xin lỗi, tôi hỏi có ǵ không phải mong cô bỏ qua...

- Không sao anh ạ, thực ra gia đ́nh tôi có hai người, nhưng một tai nạn bất ngờ đă cướp đi anh ấy cách đây đă lâu, một ḿnh tôi chán nản thất vọng không biết làm ǵ, cha mẹ người thân cũng chẳng c̣n ai, nếu không tôi cũng chẳng phải làm cái nghề chờ bố thí của thiên hạ như anh đă chứng kiến... may mà trên đời vẫn có người thương lấy tôi..

Cô gái sụt sùi nấc lên. Tôi đứng dậy lóng ngóng như người có lỗi, rồi d́u cô ấy ngồi xuống ghế, t́nh huống khó xử này tôi chưa kinh qua bao giờ nên khó xử.

- Thôi, cái ǵ đă qua th́ nên để nó qua. Tôi an ủi:

- Trong cuộc đời ai chả gặp lúc rủi ro bất hạnh, cái chính là c̣n tương lai, phải biết mọi cách mà hướng tới cô ạ.

Một lúc sau cô gái lau nước mắt rồi ngượng ngùng đỏ mặt, kéo cánh tay tôi ra và đứng dậy.

- Mà thôi, tôi quên...để tôi đi thay áo rồi nấu cháo, giờ này chắc anh đói mềm ra rồi đấy, anh cũng cất đồ và thay quần áo đi, nhà có nước nóng đấy, nói xong cô gái vội đi xuống bếp.

An ủi cô gái xong ḷng tôi mừng râm ran như vừa lập được một chiến công, tôi phấn chấn đứng dậy cất chiếc cặp lên bàn, cởi chiếc áo khoác bám đầy bụi rồi vắt lên móc treo trên tường, tôi đưa mắt khắp gian pḥng nhỏ một ṿng, rồi nh́n lên chiếc bàn thờ nằm trơ trọi góc nhà.

Sau mấy cành hương đă tàn, một chiếc ảnh chân dung khổ rộng hiện ra, tôi nh́n chằm chằm và thất kinh khi người trên bức ảnh, là một thanh niên khuôn mặt trắng bệch, chiếc sẹo dài trên má, đang chằm chằm như đang nh́n tôi mời gọi.

Mắt tôi chợt loà lên rồi tối om, tôi lảo đảo ôm lấy mặt hét lên, rồi ngă vật xuống nền nhà ngất xỉu.





Tuyền Châu



Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1036 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 11:32am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



NGƯỜI CHẾT SỐNG LẠI LÀ CHUYỆN CÓ THẬT


Ở Việt Nam cũng như nhiều nước khác, có cả kho tàng chuyện kể về người chết sống lại rất ly kỳ, khó tin, nhiều khi đượm màu sắc thần bí. Tuy nhiên, đây lại là chuyện có thật!

Vào thế kỷ mười chín, ở khắp châu Âu rộ lên những chuyện về người chết sống lại và quỷ nhập tràng. Ở Hungary và các nước Trung Âu thời ấy, người ta thường đồn đại là thấy người chết sống lại. Có nhiều cách giải thích hiện tượng này.

Một trong các cách giải thích là thời ấy do chiến tranh và dịch bệnh, có quá nhiều người chết nên việc chôn cất được làm một cách hấp tấp, qua loa. Đă có những trường hợp chưa chết hẳn cũng bị chôn. Khi tỉnh lại, họ lật mồ sống dậy, thân ḿnh dính đầy bùn đất đi lang thang làm mọi người sợ hăi. Từ đó mà sinh ra những huyền thoại về quỷ nhập tràng.

Vào các thế kỷ trước, khoa học chưa thể xác định một cách thật chính xác khi nào con người thật sự chết. Chính Herbert Mayo, một phẫu thuật gia có tên tuổi của thế kỷ mười chín cũng đă cho rằng, trung b́nh cứ hai trăm người được đem đi chôn có một bị chôn sống.

Trước đây, người ta cũng ghi lại trường hợp ông Beđa Doxtotrenui, một tu sĩ nước Anh bị bệnh và chết vào lúc nửa đêm. Xác chết đă được cho vào quan tài, người nhà túc trực xung quanh khóc than thảm thiết. Nhưng sáng sớm hôm sau, ông ta bỗng nhỏm dậy làm mọi người hăi hùng bỏ chạy, cho là quỷ nhập tràng.

Măi đến thế kỷ hai mươi, những chuyện tương tự vẫn xảy ra. Đáng chú ư nhất là chuyện xảy ra vào năm 1906 ở bang Kansas Mỹ. Một thanh niên tên là Havey hai mươi tuổi, con một gia đ́nh giàu có chẳng may mắc bệnh qua đời.

Người vợ chưa cưới của anh ta tin rằng anh chưa chết, mà chỉ ngủ thiếp đi trong cơn bệnh nặng. Cô không cho chôn và đề nghị mang quan tài về để trong nhà. Chuyện lạ lùng đă xảy ra. Sau đó, quả nhiên chàng thanh niên sống lại và hai người đă tổ chức lễ cưới.

Từ sự kiện này, dư luận ở Mỹ xôn xao cho rằng có nhiều người bị chôn oan do bác sĩ xác định nhầm là đă chết. Quả thật vào thời ấy, kỹ thuật y học chưa cao nên chưa thể phân biệt được thật chắc chắn một người đă chết hẳn hay chưa. Cũng v́ vậy, các nhà lănh đạo y tế đương thời, đă đề ra yêu cầu, phải để xác chết một tuần lễ sau mới được chôn, và nhiều thành phố đă lập ra nhà cất giữ thi hài, để trông coi những xác chết này trong một tuần, đề pḥng họ sống lại.

Cũng từ sự kiện Havey, người ta đă phát minh ra những chiếc “áo quan an toàn” có thiết bị thông gió, báo động và thoát ra khỏi quan tài nếu người chết sống lại. Có nhiều kiểu áo quan an toàn, đáng chú ư hơn cả là chiếc quan tài do một bá tước người Nga tên là Kraxcaniki phát minh, được dư luận ngày đó đánh giá là chiếc áo quan thiết kế tinh vi, an toàn nhất, nếu người chết sống lại sẽ dễ dàng được cứu thoát

Những chiếc áo quan an toàn này, thịnh hành ở phương Tây cho đến Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Chiến tranh thế giới xảy ra, số người chết quá nhiều nên người ta không c̣n quan tâm đến chuyện người chết sống lại nữa. Mặt khác, do y học phát triển, có thể xác định được chính xác một người đă chết thực sự hay chưa, nên chuyện chôn lầm người c̣n sống cũng khó xảy ra.

Người chết sống lại tuy hiếm nhưng là chuyện có thật, có người sống lại khỏe mạnh lâu dài như trường hợp của Havey, nhưng cũng có những trường hợp chỉ tạm sống lại một thời gian rồi chết thực sự. Hiện tượng trên ở nước nào cũng có.

Ở Việt Nam trước đây cũng có những trường hợp tương tự, và người ta cho rằng do ma quỷ nhập vào xác chết, nên gọi là quỷ nhập tràng, một điều rất gở đối với gia đ́nh người chết.

Về cái chết, hiện nay y học chia làm hai thời kỳ: chết lâm sàng và chết sinh vật. Trong chết lâm sàng, phổi và tim người bệnh đều đă ngừng hoạt động, nhưng năo bệnh nhân vẫn chưa chết và thần kinh gốc của bộ năo vẫn hoạt động.

Ở giai đoạn này, tuy mọi dấu hiệu của sự sống, kể cả nhịp tim và hơi thở đều không c̣n nữa, nhưng với những kỹ thuật hồi sinh cấp cứu hiện đại ngày nay, người ta vẫn có thể phục hồi được hô hấp và tuần hoàn, người bệnh vẫn có thể được cứu sống.

Chỉ khi bộ năo của bệnh nhân đă chết, người bệnh chuyển sang giai đoạn chết sinh vật, mọi khả năng cứu chữa mới hết. Như vậy, chúng ta có thể hiểu, những người chết sống lại là những trường hợp mới chết lâm sàng.

Người chết đă hết thở, tim ngừng đập, thầy thuốc đă khám xác nhận và cho vào áo quan. Nhưng do bản năng của sự sống đấu tranh với cái chết, họ đă tự phục hồi lại được và tỉnh lại, không tiến sang giai đoạn chết sinh vật.

Do đó, muốn xác định một người chết, không thể chỉ thấy ngừng thở, ngừng tim là đủ, mà phải thăm khám thật kỹ lưỡng, khi biết chắc chắn người bệnh đă chết sinh vật rồi mới được xác nhận là chết, và việc chôn cất cũng chỉ được làm sau đó hai mươi bốn giờ.



                                                              Hương Liên













Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1037 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 11:35am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde


CHỮA BỆNH TỪ NĂNG LƯỢNG KỲ DIỆU


Vẫn là những câu chuyện chữa bệnh từ tôn giáo hết sức kỳ bí, mà cho tới nay vẫn không nhà khoa học này t́m ra lời giải thích thuyết phục.

Tắm Bùn Thần Và Uống Nước Thánh.

Sử dụng phương pháp tắm bùn tai khu vực Santuario, thuộc New Mexico, Mỹ và hứng nguồn nước khoáng từ Luther, Pháp có thể mang đến sức khỏe phi thường cho người sử dụng.

Những tín đồ thiên chúa giáo cho rằng, đây là phương thức chữa bệnh hiệu quả nhất, khi đức Thánh Mẫu Maria từng hiện về tại địa danh này năm 1858, ngay trước một phụ nữ nông thôn.

Phiến Đá Quyền Lực.

Tại thị trấn Lac, một cậu bé đang được người thân hướng dẫn áp mặt, dùng tay sờ lên phiến đá thần thánh, có thể xua tan bệnh tật.

Năng lượng diệu kỳ từ phiến đá này, gắn liền với một vị anh hùng, một thánh nhân từng ghé chân tại địa danh này, và để lại những thắng lợi lẫy lừng trong lịch sử.

Nhập Hồn.

Tại khu vực Shaman, nằm ở địa phận Siberia xa xôi Tuva, theo lời đồn của người dân bản địa, th́ vị thần thánh có khả năng nh́n xuyên thấu tương lai, giao tiếp với dân chúng bằng năng lực siêu nhiên.

Vẫn thường "nhập hồn" vào các bậc đạo sĩ, tại trung tâm khám chữa bệnh, và giúp những trường hợp hiểm nghèo thoát nạn.

Dùng Ngôn Ngữ Chữa Bệnh.

"Đặc sứ" của thần thánh, là vị mục sư người Nigeria Sunday Adelaja, từ mười hai năm trước, đă gây dựng giáo phái mới với năng lượng siêu nhiên, được thần thánh truyền bá.

Những người theo đuổi giáo phái này cho rằng, một bộ phận tín đồ trung thành, sẽ được lựa chọn đón nhận "ư chỉ" của thánh nhân, được ban cho khả năng dùng ngôn ngữ, hành động chữa trị bệnh hiểm nghèo cho mọi người.

H́nh ảnh trên là một nữ giáo đồ, đang thực hiện tiến tŕnh, dẫn dắt thành viên của giáo phái trị bệnh.





ST       




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1038 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 11:36am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



NHỊN ĂN ĐỂ LO ĐỒ CHO.. NGƯỜI MẤT


Những năm gần đây ở Quảng Trị, cứ vào cuối năm hay khi gia đ́nh có chuyện không vui, là mọi người lại đổ xô đi t́m thầy “ngó” (bói), rồi mua sắp lễ vật cúng bái.

Nhiều lái buôn cho biết, làng Phú Hải, xă Hải Ba, huyện Hải Lăng được mệnh danh là làng hàng mă “độc" ở Quảng Trị. Làng có gần sáu mươi hộ dân, th́ tất cả đều làm hàng mă.

Ông Hồ Ngọc Vinh tám mươi tuổi, thôn Phú Hải, kể, làng h́nh thành cách đây hàng trăm năm và nghề này có từ khi khai sinh làng. Cuối năm, người mua hàng mă từ khắp nơi, như: Huế, Quảng B́nh… đổ về Phú Hải, trong số đó, có người mua cho gia đ́nh, số khác mang về bán lại.

Ông Vinh cho biết, đốt đồ mă tuỳ theo lễ cúng, chẳng hạn lễ tạ mộ, có đến mười hai bộ áo mũ, c̣n ngày giỗ cho người đă mất, cũng phải một bộ quần áo kèm theo giày dép, vàng bạc.

Theo ông Vinh, sắm đồ mă tùy hoàn cảnh kinh tế mỗi gia đ́nh, nhưng thường ngày Tết, người nghèo đến mấy cũng có trên bàn thờ vài chồng vàng, bạc, quần áo mă, với giá thấp nhất không dưới hai trăm ngàn đồng.

Tính sơ bộ, trong những ngày giáp Tết này, gần sáu mươi hộ dân Phú Hải, thu nhập từ nguồn hàng mă hơn năm trăm triệu đồng, hơn đứt một năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời.      

Nắm bắt được nhu cầu hàng mă gia tăng, hiện ở Quảng Trị không chỉ có người Phú Hải làm hàng mă, mà mỗi năm c̣n có hàng chục thanh niên ở các nơi trong tỉnh t́m đến đây học nghề.

Người Phú Hải cho hay, học làm hàng mă lắm công phu, đ̣i hỏi người học có tính kiên tŕ và sáng tạo, bởi không chỉ làm hàng theo kiểu của người xưa như áo đại triều, áo tràng, phẩm phục, bao tử, mũ xung thiên.. mà c̣n làm hợp với mốt thời nay, như áo vest, quần tây, quần jean, xe máy, ô tô...

Ông Nguyễn Hoàng Long ở huyện Gio Linh, một trong những khách hàng “ruột” ở Phú Hải, nói:

- Mần răng (làm sao) th́ mần, ngày Tết phải có vài bộ quần áo mới, đồ dùng cho kẻ khuất mặt khuất mày. Bằng không đạo nghĩa ở đời coi như chưa làm trọn, đó là chưa nói đến chuyện người âm quở trách.

C̣n bà Hoàng Thị Hồng, nhà ở Khe Sanh, tâm sự:

- Năm nay mùa màng thất bát, chăn nuôi cũng mất mùa do mưa băo vừa qua gây ra. Nhà tui c̣n được năm con gà, nhưng để tưởng nhớ người đă khuất chắc tới đây phải đem ra chợ bán mua giấy áo... thắp hương gọi là.

Một người làng này kể, cách nay mấy hôm có ông Hùng ở biển băi ngang Gio Linh, đi xem bói thầy "phán" về đặt một chiếc “Wave” mă, giá năm triệu đồng. Chiếc xe to quá, ông này phải thuê một xe công nông chở về.

Nhưng khi vừa về đến sân, đứa cháu ngoại thấy đẹp liền chồm lên xe, chiếc xe bẹp dúm. Tiếc của, tức người, ông Hùng nhịn ăn cả tuần, cứ lẩm ba lẩm bẩm xin ông bà tha cho cháu. Nó c̣n nhỏ quá lỡ dại.

Trong nhà ông Trần Công, một hộ làm hàng mă trong làng, c̣n để chiếc xe máy giữa sân. Ông Công cho biết, chiếc xe “mă” này có giá 1,5 triệu đồng, do một người khách ở Quảng B́nh đặt, ông làm mười lăm ngày mới xong.




Nguyên Anh









Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1039 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 11:37am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



CƯỚI VỢ MA CHO CON TRAI ĐĂ MẤT


Tục “âm hôn” ngày càng phổ biến ở các vùng nông thôn Trung Quốc. Khi một người đàn ông độc thân qua đời, người nhà sẽ sắp đặt cho anh một cô vợ, cho “cuộc sống” ở thế giới bên kia.

Tức là xác một phụ nữ không có chồng. Để cưới vợ cho cậu con trai xấu số trong một vụ tai nạn ô tô, người cha đă phải trả khoảng năm ngàn đô la, để thuê người đào thi hài của một cô gái trẻ về làm dâu. Cô dâu đă tự tử bằng thuốc độc sau khi thi trượt vào năm ngoái.

Hôm đó, gia đ́nh của “chú rể” tổ chức một buổi lễ thật long trọng đúng theo tập tục của làng. Ảnh và bài vị được đặt lên bàn thờ tổ tiên, sau đó hai họ mở tiệc, cha mẹ họ hàng cùng ăn uống trong ngôi nhà được trang hoàng toàn màu đỏ, màu của hôn nhân, và chữ song hỉ.

Nhưng người thật sẽ là các h́nh nộm giấy, và xác của cô dâu, chú rể đă qua đời sẽ được chôn cùng nhau. Một ông công nhân về hưu cho biết:

- Ở đây chỉ có những người đàn ông của các gia đ́nh nghèo được chôn một ḿnh.

Nhưng không dễ ǵ t́m được nửa kia cho người đă chết. Khi một thiếu nữ hay phụ nữ độc thân chết đi, và có nhiều chàng rể đăng kư, gia đ́nh sẽ tổ chức đấu giá. Có thể rao giá đến vài chục ngàn Nhân dân tệ.

Đó là cả một gia tài, ở một tỉnh mà thu nhập hằng năm của nông dân chỉ khoảng 2.216 Nhân dân tệ. Tập tục vốn đă bị cấm từ lâu này, vẫn c̣n tồn tại đến bây giờ.

Năm ngoái, một băng nhóm chuyên buôn bán xác phụ nữ và trẻ em ở phía Nam Trung Quốc đă bị bắt. Tuy nhiên, vẫn c̣n vô số các băng nhóm đang hoành hành ở các vùng nông thôn.




                                                                  NMH   







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1040 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 11:38am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



SƯ NHẬT ĐỌC RAP KINH PHẬT


Vẫn trong trang phục áo cà-sa, nhà sư Kansho Tagai của ngôi chùa Kyoouji bốn trăm năm tuổi của Nhật Bản, đang lắc lư cái đầu, nhún nhảy theo điệu hip hop và hát rap với phần lời chính là... kinh Phật.

Nhà sư Kansho Tagai nhấn mạnh:

- Đạo Phật không thay đổi, mà tôi chỉ muốn thay đổi cách thức truyền bá, giáo dục.

Nhiều người ở Nhật cho rằng giáo lư đạo Phật quá khó hiểu. Tuy nhiên, sư Tagai khẳng định nếu nó được diễn giải bằng những cách hiện đại như hát nhạc rap, nhiều thanh niên sẽ sẵn sàng đón nhận.

- Lôi kéo thanh niên là bí quyết giúp đạo Phật tồn tại. Nhà sư Tagai chia sẻ.

Bằng việc làm này, ông đă lôi kéo được rất nhiều nam nữ thanh niên trẻ tuổi đến chùa, nơi hầu như vốn chỉ có các ông già bà cả tới thăm nom.

Không chỉ hát rap, các nhà sư ở Nhật c̣n thực hiện ư tưởng mở “Quán bar nhà sư” để vừa phục vụ rượu và giảng giáo lư nhà Phật. Ở đây, thanh niên có thể thoải mái giăi bày tâm sự.

Ư tưởng này vấp phải sự phản đối kịch liệt của nhiều nhà sư có quan điểm truyền thống. Trong khi đó, bộ phận người hưởng ứng sáng kiến này ngày càng tăng. Họ cho rằng, giáo lư đạo Phật quá khó hiểu và cần được diễn giải bằng ngôn ngữ hiện đại, gần gũi với quần chúng hơn. Theo sư Tagai, nhiều nhà sư khác thậm chí gọi điện xin lời khuyên từ ông.

Hiện nay, tại Nhật Bản có khoảng 75.000 chùa, đền. Tuy nhiên, con số này đang ngày càng có xu hướng sụt giảm nghiêm trọng. Từ năm 2000 tới nay, có tới hàng trăm chùa, đền ở Nhật phải đóng cửa mỗi năm.

Khắp Nhật Bản, t́nh h́nh không kiếm ra người kế nhiệm làm trụ tŕ đang áp lực lên các ngôi chùa. Trong thế hệ sắp tới, nhiều ngôi chùa ở miền quê có nguy cơ phải đóng cửa, mang theo nhiều thế kỷ lịch sử vào quá khứ.




Trà My

                                                                                 











Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 

<< Trước Trang of 72 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.4219 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO