Tác giả |
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1121 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 7:22pm | Đă lưu IP
|
|
|
NỖI NIỀM "XÁC ÔNG BỔN"
Trước năm 1954, chùa Ông Bổn theo chân người Tiều (Triều Châu, Quảng Đông, Trung Hoa) mọc khá nhiều nơi trên đất miền Tây. Và tại một số chùa ở Tân Châu tỉnh An Giang, Trà Ôn tỉnh Vĩnh Long, Trà Cú tỉnh Trà Vinh, Cái Răng tỉnh Cần Thơ, Vĩnh Châu tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu, đều có hiện tượng Ông Bổn “lên” vào các ngày lễ lớn của chùa.
Ông Bổn “lên” là Ông nhập vào một người trần mắt thịt gọi là “xác” và thể hiện sức mạnh siêu phàm của ḿnh bằng nhiều cách rùng rợn, nguy hiểm, rất hấp dẫn. Về sau, việc Ông Bổn “lên” dần tàn lụi ở các địa phương trên, chỉ duy nhất vẫn tồn tại ở huyện Cầu Kè tỉnh Trà Vinh.
Theo sách vở, chùa Ông Bổn là nơi thờ Bổn Đầu Công, tức là Trịnh Ḥa, làm quan Thái giám đời vua Vĩnh Lạc 1403-1424 ở Trung Hoa. Ông được vua cử đi điều tra, t́m hiểu Hoa kiều hải ngoại ở các nước Đông Nam Á. Đi tới đâu, ông cũng tận t́nh giúp đỡ đồng bào, nên sau khi ông mất, Hoa kiều nhớ ơn thờ ông làm phúc thần, và ông được nhà vua phong là “Bổn Đầu Công”.
Nhưng Ông Bổn ở huyện Cầu Kè lại thờ bốn anh em kết nghĩa, khi qua đời thành thần, ở bốn chùa: Minh Đức Cung, chùa Giồng Lớn, xă Ḥa Ân thờ ông Nhứt. Vạn Ứng Phong Cung, chùa Giữa, xă Ḥa Ân thờ ông Nh́. Vạn Niên Phong Cung chùa Chợ, thị trấn Cầu Kè thờ ông Ba và Niên Phong Cung chùa Cây Sanh, xă Tam Ngăi thờ ông Tư.
Mỗi chùa đều có một xác Ông Bổn để khi cần th́ Ông “nhập”, “lên” báo cho dân chúng biết một vài việc cần kíp nào đó. “Xác” Ông Bổn là người địa phương, đạo đức tốt, được Ông tuyển chọn để bổ sung cho một xác khác đă về hưu hoặc qua đời.
Sau thời gian thử thách ngắn hoặc dài, tùy “xác”, “xác” này mới chính thức được Ông “nhập” dưới sự chứng kiến của ba Ông Bổn của ba chùa khác, bằng lễ tắm dầu nhằm tẩy sạch sự ô uế của xác.
Dầu phộng nấu trong chảo đặt trong chính điện, ba Ông Bổn mỗi Ông cầm một bó lá tre chặt bằng ngọn, nhúng vô chảo dầu đang sôi sùng sục rồi quất lên khắp ḿnh mẩy. Sau đó Ông Bổn mới sẽ được một ông Bổn dạy nói tiếng Tiều cùng huấn luyện cách rạch lưỡi, đánh trái chông...
Từ xưa đến giờ, ở Cầu Kè lúc nào cũng có bốn “xác” Ông Bổn. Từ năm 1954 tới nay là ông Hữu, ông Bắc, ông Mười Hai, ông Mỏn, một nhà sư tu chùa Vạn Ḥa tại thị trấn và một ông thợ hớt tóc, tất cả đều là người Việt.
Ông Hữu làm ruộng ở Cây Sanh, ông Bắc chạy taxi ở Sài G̣n, ông Mỏn làm mướn... Điểm chung, các “xác” Ông Bổn và gia đ́nh họ đều có cuộc sống nghèo. Mỗi khi Ông “nhập”, dù đang làm việc ǵ cũng phải ngưng lại, về đúng lúc để hoàn thành công việc “cơi trên” giao. Ông Hữu và ông Bắc đă qua đời từ nhiều năm nay.
Riêng ông Uối là ḍng dơi người Tiều, con một chủ tiệm tạp hóa có tiếng tại thị trấn Cầu Kè. Ông được Ông Bổn “nhập” khoảng năm ông hai mươi tuổi. Từ đó đến khi về hưu vào năm 2008, cuộc sống của ông và gia đ́nh ông chật vật.
Nói về việc này, ông Uối tâm sự:
- Biết sao được, ḿnh là người phàm, thần thánh biểu sao chịu vậy!
Nhà ông Uối ở bên bờ một con rạch nhỏ ngoại vi thị trấn Cầu Kè. Căn nhà tuềnh toàng mái lá, vách vừa tôn vừa lá, nền đất. Bà vợ ông buôn bán lặt vặt. Mấy đứa con ông quanh quẩn với việc ai mướn ǵ làm nấy.
- Từ khi Ông nhập tới giờ, cha mẹ anh khá giả sao chẳng giúp ǵ? tôi hỏi.
Ông cười buồn, ngậm ngùi nói:
- Cũng có chút đỉnh. Là con một gia đ́nh chuyên buôn bán vậy mà tôi chẳng bán buôn ǵ được hết. Đă vậy tôi, và các đồng nghiệp, c̣n bị một căn bịnh quái dị, lúc nào trong người cũng ớn lạnh. Chính cái cảm giác này đă khiến tôi không thể làm việc ǵ được lâu để kiếm tiền nuôi vợ nuôi con!
Ông Mỏn tiết lộ:
- Ai bị Ông Bổn "nhập" cũng đều có nước da xanh mét. Ai cũng nghèo, h́nh như Ông muốn vậy để họ không có điều kiện ăn chơi trác táng. Hồi mới bị Ông nhập, bữa nào vui với anh em, nhậu thịt chó, thịt trâu hoặc làm bậy bạ nhứt định sẽ bị Ông hành tới chết đi sống lại. Một lần tởn tới già!.
Ở Cầu Kè, Vu Lan Thắng Hội diễn ra tại các chùa ông Bổn, rải rác trong suốt Tháng Bảy Âm lịch, cụ thể như sau: Vạn Ứng Phong Cung trong 3 ngày 8, 9 và 10; Niên Phong Cung trong 2 ngày 15 và 16, Minh Đức Cung trong 3 ngày 18, 19 và 20, nhưng vui nhất và thu hút hàng chục ngàn người khắp nơi đến tham dự là Vạn Niên Phong Cung trong bốn ngày từ 25 đến 28. Tại các chùa đều có Ông Bổn “lên”, từ một tới bốn.
Trong tiếng trống, kèn, chiêng, chập chả rộn ră của dàn “Tùa lầu cấu”, các Ông mặc đồ đỏ, bịt khăn đỏ, tay cầm gươm bén múa may, nói tiếng Tiều như gió, dù là người Việt rặt b́nh thường không biết một tiếng Tiều nào.
Có ông cầm trái chông tua tủa những mũi thép dài sáu phân, sắc nhọn, sáng giới quất mạnh vào ngực vào lưng ḿnh. Có ông dùng dao nhỏ thật bén rạch lưỡi, dùng bút lông thấm máu lưỡi vẽ ngoằn ngoèo lên tờ giấy h́nh chữ nhật dài màu vàng nhạt. Đó là bùa. Người ta thỉnh bùa về dán trong nhà để được b́nh an, mua may bán đắt.
Số người thỉnh bùa ngày càng nhiều, máu trong người các ông không đủ để vẽ bùa; để đáp ứng, các xác phải vô nước biển mấy ngày trước khi “lên”. Sau khi “thăng”, lưng và ngực các “xác” chỉ có những đốm đỏ, dấu vết của mũi nhọn trái chông quất mạnh vào; mặt lưỡi chỉ có lờ mờ những lằn dao bén rạch, ăn uống ngay một cách b́nh thường.
B́nh thường là vậy nhưng khi nghĩ đến, ông Uối lắc đầu ngán ngẩm:
- Nh́n cảnh ông Bổn rạch lưỡi, tắm dầu, đánh trái chông tôi và các xác khác đều ớn lắm. Ai cũng mang tâm trạng nếu lúc đó ổng “xuất” bất tử chắc lưỡi và lưng ngực bị thương, nhất là lúc tắm dầu dứt khoát bị phỏng.
- Ngày nay, ông Bổn "lên" chỉ làm mấy việc vừa kể, trước kia c̣n cảnh ông Bổn đi chưn không trên lớp than đước dài hàng chục thước, cháy đỏ rực nhờ sức quạt của hai hàng người ngồi hai bên. Đang đi mà Ông ‘thăng’ th́ chẳng biết làm sao”. Ông Mười Một nhắc, kể và e sợ.
Các ông sợ th́ sợ, nhưng hàng trăm năm nay chưa xảy ra “tai nạn” nào, v́ Ông Bổn luôn “thăng” khi đă hoàn thành công việc thiêng liêng của ḿnh, nhất là luôn bảo toàn các “xác”.
Cát Tường
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1122 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 7:23pm | Đă lưu IP
|
|
|
V̀ SAO CON NGƯỜI TIN VÀO HỒN MA?
Các cuộc điều tra dư luận trên khắp thế giới đều cho một kết quả: con số những người tin vào ma quỷ, gọi hồn đang có xu hướng gia tăng. Gần một nửa cư dân của hành tinh chúng ta tin vào chuyện đó.
Cứ mười người dân châu Âu th́ có một người nói rằng họ đă ít nhất một lần trong đời gặp ma hoặc nghe nói đến ma. Tại Ba Lan, theo kết quả điều tra năm 1997, có tới 24% người dân nước này tin vào khả năng liên hệ giữa người sống với người chết, c̣n 12% khẳng định đă gặp ma ít nhất một lần trong đời.
Cứ hai người đàn ông và ba người phụ nữ th́ có một người thừa nhận ḿnh sợ ma. Kỷ lục về số người tin vào những chuyện lẽ ra không nên tin thuộc về nước Mỹ. Các cuộc điều tra dư luận tiến hành cách đây hai năm ở Mỹ cho thấy: Hơn 65% dân chúng thú nhận ḿnh quan tâm đến các vấn đề như đầu thai trở lại, gọi hồn, năng lượng bí hiểm, sức mạnh siêu nhiên, cận tâm lư học.
Giải thích nguồn gốc hiện tượng này, nhà xă hội học Ba Lan, ông Andrzej Samson nói:
- Đây là kết quả cách giáo dục của các tôn giáo và sự khủng hoảng niềm tin với khoa học. Hầu như tất cả các tín ngưỡng đều t́m cách nhồi vào đầu con người, từ khi c̣n bé, rằng nhất định có sự sống sau cái chết, rằng sự tồn tại "thế giới bên kia" là tất nhiên.
Lư do thứ hai là sự khủng hoảng thế giới quan trọng thời hiện đại. Khoa học tỏ ra bất lực với vai tṛ đem lại hạnh phúc cho con người, cũng như trong việc giải quyết đến cùng các vấn đề xă hội như nạn đói, bệnh tật, tăng dân số, ngăn chặn bạo lực, chiến tranh...
Thời điểm kết thúc thế kỷ XX được đánh dấu bằng hiện tượng một số người quay lưng lại với khoa học, để t́m những cách giải quyết tiêu cực, mà một trong những biểu hiện là lư thuyết về các thế giới song song tồn tại, do chính các nhà vật lư nêu ra, hay là lư luận về những năng lượng bí ẩn, không thể giải thích được.
Yếu tố thứ ba có nguồn gốc từ việc con người khi mới sinh ra, đă không ít th́ nhiều được nghe, được đọc về điều kỳ diệu, bí ẩn mang tính cổ tích, huyền thoại, cho nên cả quăng đời sau đó luôn mơ ước "nếu như"...
V́ vậy chúng ta sẵn sàng tin vào sự tồn tại của ma quỷ, của sức mạnh bí ẩn, tin vào những người biết cách nói chuyện với ma, thậm chí sai khiến ma phục vụ cho công việc của ḿnh, từ chữa các bệnh đến tác động để cây cối sinh trưởng nhanh hơn.
Nhà tâm lư học Jacek Santorski cũng giải thích tương tự:
- Chúng ta, với tư cách con người, có thể rất chín chắn, trưởng thành về khoa học công nghệ, nhưng thật khó nói là chúng ta đă trưởng thành về mặt t́nh cảm. Trong chúng ta luôn tồn tại nhu cầu muốn dựa vào điều kỳ diệu nào đó, nhất là khi bất lực trước số phận, trước bệnh tật và cái chết.
Nh́n từ góc độ tâm lư học, có thể công nhận niềm tin vào những hiện tượng siêu nhiên, trong đó có tin vào ma quỷ, là cơ chế tự nhiên để tự vệ của con người, tức là tin vào tất cả những ǵ cho phép con người có được cảm giác yên tâm.
Bên cạnh quan điểm chủ đạo cho rằng thế giới chúng ta đang sống, tức là cái thế giới con người cảm nhận được qua các giác quan và trí tuệ, là thế giới duy nhất, nhiều nhà khoa học vẫn muốn tin theo hướng siêu h́nh.
Mà cũng không chỉ có các nhà vật lư học hiện đại. Các nhà thiên tài khoa học như Anbert Einstein, Maria Curie, Klodowska, Isaak Newton cũng đă quan tâm một cách nghiêm túc tới sự tồn tại "thế giới bên kia" hay thần linh ma quỷ.
Newton thậm chí c̣n là hội viên Hội thần linh của Hoàng gia Anh, thừa nhận sự tồn tại sức mạnh siêu nhiên và ông tin rằng một khi đem đốt sừng của con hươu một sừng, lấy than rắc thành ṿng tṛn, cho con nhện vào, th́ con nhện đó sẽ bị một sức mạnh bí hiểm, giữ chặt lại trong cái ṿng than mỏng manh ấy.
Các nhà vật lư thời hiện đại cũng có quan điểm không dứt khoát về siêu h́nh học.
- Càng đi sâu vào tự nhiên của vật chất, mọi cái càng trở nên bí hiểm.
Như lời bộc bạch của ông Tomasz Jaworski, Viện Vật lư thuộc Viện hàn lâm khoa học Ba Lan. Nhiều nhà vật lư cũng khẳng định rằng, việc t́m kiếm cái gọi là lư thuyết chung, có khả năng thống nhất mọi hiện tượng vật lư, và t́m cách giải thích chúng sao cho thuyết phục, hay nói cách khác là t́m ch́a khóa vàng để mở tung tất cả những bí mật của thế giới, nói chung cũng giống như đi t́m Thượng đế.
Theo kết quả điều tra xă hội học, giữa tŕnh độ văn hóa và niềm tin vào "thế giới bên kia" không phải lúc nào cũng liên quan với nhau một cách rơ ràng. Tất nhiên ở những người có vốn kiến thức hàn lâm về các lĩnh vực như xă hội học, tâm lư học hay y học, mức độ tin vào những điều không có cơ sở để tin, chắc chắn hạn chế phần nào.
Tuy vậy, cảm giác bất hạnh, thất vọng, mất phương hướng, bất lực trước những "bản án" của số phận là những yếu tố khiến con người càng ngày dễ tin vào những điều bị coi là nhảm nhí. Khi một người bị nỗi lo đè nặng trong ḷng, mong muốn bám lấy một cái ǵ đó, bất kể đây là ông Trời, thầy lang hay những điều phi lư khác, là việc làm dễ hiểu.
Những người thừa nhận ḿnh tin vào hồn ma, là những người thường tin rằng "hồn ma" là linh hồn những người đă chết, nhưng vẫn có khả năng liên hệ với thế giới những người đang sống. Quan điểm của các tín ngưỡng khác nhau, cũng như các nhà nghiên cứu hiện tượng bất thường này c̣n rất khác nhau, nhất là về khả năng tồn tại mối liên hệ đó.
Nhà thờ Thiên chúa giáo coi linh hồn là phần phi vật chất của con người, là nguồn gốc ư thức, trí tuệ và ư chí tự do, đồng thời cũng là cái bất tử, khi con người chết đi, hồn ĺa khỏi xác và chờ dịp trở lại sau sự phục sinh.
Các nhà thần học không mấy lạc quan về khả năng tồn tại mối liên hệ, giữa thế giới những người đă chết với dương gian, song họ thừa nhận sự tồn tại hữu h́nh của ma quỷ, nhất là linh hồn của những người đă sống không trong sạch.
Những người thừa nhận sự tồn tại của hồn ma, coi chúng là yếu tố cốt lơi mang tính cá nhân, bị nhốt trong thân xác và chỉ được tự do sau khi con người ĺa đời. Từ bao đời nay con người luôn tin vào sự tồn tại của hồn sau cái chết, bất kể nó được nhập vào cơ thể khác, hay tồn tại tự do ở thế giới bên kia.
C̣n có một niềm tin rất cổ cho rằng, liên hệ với hồn người chết là con đường để nhận ra thế giới bên ngoài ngôi mộ. Có điều lư thú là các cuộc thăm viếng của những "vị khách" từ âm phủ lên, thường được miêu tả khá giống nhau, trong những câu chuyện kể của các tác giả khác nhau về thời đại và vị trí địa lư.
Nhà văn La Mă có tên là Suria đă viết rằng cứ vào ban đêm, tại ngôi nhà ông đang ở, lại xuất hiện một bóng ma có h́nh dáng giống như một cụ già gầy yếu, tiều tụy do thiếu ăn, bộ râu dài buông thơng, tóc dựng đứng. Ông già bị xích cả chân lẫn tay, khi di chuyển, dây xích kêu loảng xoảng. Những người xung quanh vừa buồn vừa sợ, đêm này qua đêm khác không sao chợp mắt được.
Bóng ma đấy làm dân chúng hoang mang, cho đến khi chính nó mách bảo mọi người về nơi chôn cất người đàn ông bị xích chân tay. Sau khi đào bộ xương lên và đem táng nơi khác, ngôi nhà của Pliniusz lập tức hết ma.
Những câu chuyện kể của các nhân chứng về cuộc gặp gỡ giữa người và ma nói chung có nội dung tương tự như nhau: Ma luôn thông báo sự có mặt của ḿnh bằng cách dịch đồ đạc trong nhà, bật đèn, gây tiếng động, huưt sáo, xuất hiện mờ mờ, ảo ảo, không phải ai cũng nh́n rơ, nhưng mục đích chủ yếu của ma là biểu diễn sự tồn tại của ḿnh luôn đạt được.
Theo các "chuyên gia" thông thạo trong lĩnh vực này, hồn thường hiện về một cách tự nguyện, song đôi khi cũng có thể gọi chúng đến. Chuyện gọi hồn cũng đă được nói đến trong Kinh thánh. Phương pháp để dẫn các vị khách từ âm phủ về đă được biết đến từ khá lâu.
Quan trọng nhất là phải có một người thiên phú cho khả năng đặc biệt, thường gọi là medium, làm trung gian cho hai "thế giới". Từ những năm bảy mươi của thế kỷ XIX, các buổi lên đồng gọi hồn đă diễn ra, thu hút sự chú ư của các nhà khoa học, các chuyên gia của ngành khoa học tự nhiên.
Hàng loạt "biên bản" ghi lại các buổi lên đồng như vậy, có chữ kư của các nhà khoa học, vẫn c̣n lưu lại, được giữ cẩn thận. Trường hợp Marthe Beraud tên thật là Eva Carriere 1880, xuất hiện dưới tên Eva C., đă gây sự chú ư đến các nhà khoa học nghiên cứu và được miêu tả tỉ mỉ. Tài năng của bà được nhiều nhân chứng xác nhận.
Khi lên đồng, từ các huyệt trên cơ thể Eva C. Bốc lên những dải như sương, và trong làn sương lờ mờ đó, những người tham dự nh́n thấy hiện lên những khuôn mặt, những dáng h́nh, mỗi lúc một rơ hơn.
Hiện tượng Eva C. thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học, đến nỗi trước mỗi cuộc lên đồng họ tiến hành khám xét, kiểm tra quần áo mặc trên người rất kỹ, với hy vọng sẽ loại bỏ những thủ thuật lừa đảo.
Sau một thời gian dài nghiên cứu, giáo sư Charles Rochet đă kết luận, trên cơ sơ khoa học, nguồn gốc "làn sương" bốc lên từ cơ thể Eva C., miêu tả tỉ mỉ cấu tạo và cơ chế hoạt động của nó. Tuy vậy kết luận này không làm giảm bớt sự quan tâm của mọi người đối với các buổi lên đồng.
Nhà thờ Thiên chúa giáo không có phát biểu chính thức về sự xuất hiện h́nh ảnh người chết trong các buổi lên đồng, song hết sức nghiêm cấm con chiên tham dự. Những người theo thuyết ma quỷ th́ coi hồn ma là phần hồn của những người đă chết.
Các nhà cận tâm lư học cho rằng, sự xuất hiện hồn ma trong các buổi lên đồng là chuyện dễ hiểu, nhưng lại giải thích rằng, nguồn gốc của chúng là khả năng đặc biệt của các medium.
Họ không nói đến hồn ma mà nói đến ư thức và năng lượng tâm lư, với tư cách những h́nh thức thống nhất năng lượng ở tŕnh độ phát triển cao. Song quen thuộc nhất vẫn là giả thiết có tên là ideoplastia, cho rằng một số người có khả năng hiện thực hóa sự tưởng tượng, thành những nhân vật phù hợp với trạng thái tinh thần, và những tác động năng lượng có thể biến thành h́nh thức vật chất, nghĩa là biến thành hồn ma.
Họ thường đạt tới tŕnh độ này khi năng lượng tâm lư lên tới đỉnh điểm của sự tập trung. Nhiều người cho rằng những h́nh ảnh có thể nh́n thấy được trong các buổi lên đồng, là một ảo giác mất tập trung h́nh thành, do có sự liên hệ giữa người lên đồng với những người đang bị khủng hoảng về tâm lư.
Từ rất xa xưa con người đă tin vào chuyện hồn ma thăm lại người sống, ít nhất là vài lần trong năm. Người ta cũng tin rằng hồn ma có ảnh hưởng lớn đến số phận những người đang sống.
Có nhiều cách để "lấy ḷng" ma. Chẳng hạn như tổ chức lễ hội dành riêng cho những người đă chết. Hy Lạp và La Mă cổ đại có các h́nh thức tế lễ phong phú, mấy lần trong một năm và không thiếu thủ tục đốt lửa.
Các nhà nghiên cứu văn hóa cũng như các nhà xă hội học đều khẳng định rằng, sức sống của những niềm tin vào hồn ma bóng quỷ, vào thế giới bên kia xuất phát từ sự khủng hoảng mỗi ngày trầm trọng, vào niềm tin vào các nhân tố vốn được thần tượng và vào khoa học.
Cùng với sự mở rộng hiểu biết của chúng ta, về thế giới chúng ta đang sống trong thời đại thông tin toàn cầu hóa, khu vực về những điều chưa biết về thế giới ấy, cũng không hề bị thu hẹp lại.
Đó là cách giải thích của giáo sư Roch Suliman, nhà nghiên cứu văn hóa nổi tiếng. Con người luôn mong muốn có một cảm giác về điều bí ẩn. Nếu có lúc nào đó chúng ta khẳng định rằng, chúng ta biết tất cả mọi điều, chúng ta sẽ cảm thấy ḿnh như những người mù.
Thế giới được nh́n nhận từ góc độ kinh nghiệm hàng ngày bao giờ cũng có mặt thứ hai của nó, tức là có thế giới bên này và thế giới bên kia. Đă một thời, sự tiếp xúc với thế giới bên kia, đúng hơn là với các sứ giả của nó, lại trở thành nhu cầu của văn hóa quần chúng.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1123 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 7:24pm | Đă lưu IP
|
|
|
LẠ KỲ NHỮNG BÀN THỜ TRÊN CÂY
Chuyện người dân thường hay thắp hương hoa ở những gốc cây to cũng không phải là điều lạ. Nhưng ở Thủ đô, những nó lại biến thành những chiếc bàn thờ…treo lên cao. Hà Nội có rất nhiều chiếc bàn thờ kiểu như vậy! Cũng có những chiếc bàn thờ có gốc tích người được thờ rơ ràng, nhưng phần lớn đều là do ai đó tự lập, và xung quanh nó tồn tại vô số những câu chuyện ly kỳ được thêu dệt.
Phố Đê La Thành có lẽ là đoạn có nhiều bàn thờ trên cây nhất, với bốn bàn thờ được chia đều từ đầu tới cuối phố. Nếu như hai chiếc đầu tiên ở phía đầu đường, đoạn từ đường Cầu Giấy đâm sang nằm quay mặt ngược với đường, th́ hai chiếc ở phía gần cuối đường từ phố Nguyên Hồng đi lên, rẽ phải, lại được đặt nh́n ra phía ngoài đường.
Một điểm đáng chú ư nữa là bốn bàn thờ này được chia đều trên hai thân cây đa và bồ đề, tức hai bàn trên một cây, có tuổi đời ngót nghét cũng đă trăm năm. Tán lá của cây bồ đề phía đầu đường La Thành dù đă bị chặt, tỉa ít nhiều song cành lá vẫn xum xuê, tỏa bóng mát cho cả một đoạn đường dài.
Song hoành tráng hơn vẫn là cây đa án ngữ trên đoạn đường này, nằm ráp gianh giữa hai căn nhà số 373-375 La Thành. Chiều rộng của thân cây phải đến hai người ôm. Dáng cây lùn, nhưng cành lá chi chít, vươn ra măi tận bên kia đường. Nhiều chỗ cành lá vướng cả vào dây điện.
Theo như lời chị Hoa người đă tới đây thuê căn nhà số 375 làm nơi kinh doanh th́:
- Từ khi hai vợ chồng tới đây đến giờ cũng đă mười bốn năm trời, cây đa này đă to hơn trước đây nhiều. Tuy vậy, do lớp đất cho rễ cây bám vào quá ít v́ phía dưới mặt đường, là một đường ống bê tông thoát nước khá to, nên nó c̣n chưa bung hết sức đó. Không th́ bây giờ to phải biết.
Khi được hỏi về sự tích của chiếc bàn thờ này, bà Nguyễn Thị Quyên năm nay trên bảy mươi tuổi, số nhà 476 trên phố La Thành đối diện cây có bàn thờ cho biết:
- Từ nhỏ tôi đă thấy bàn thờ ở đấy, nghe các cụ kể lại là ngày xưa có nhiều binh lính Việt Nam bị chết dưới gốc đa cổ thụ, nên người dân lập bàn thờ ở đây để thờ vong hồn các chiến sỹ.
Cũng giống như kết cấu của bốn bàn thờ này, các bàn thờ trên đường Sơn Tây, Kim Mă, đoạn dẫn vào khu di tích đ́nh và đền Hào Nam, có thêm phần che phía trên pḥng khi trời mưa, đều có kết cấu khá đơn giản: được buộc bằng dây thép hoặc được cố định bằng những thanh thép, gỗ chắc chắn.
Trên bàn là một bát cắm hương, lọ để hoa với mấy chiếc chén để nước hay rót rượu. Bàn thờ gắn trên cây đa ở đường Kim Mă, do một chị bán nước lập nên có thêm một cốc nước chè nóng. Khá lạ mắt khi trong lư hương có khá nhiều đầu mẩu thuốc lá được cắm vào, chủ yếu do khách qua đường, v́ tấm ḷng thành kính muốn cắm hương, nhưng chị không có sẵn nên họ cắm điếu thuốc lá vào thay.
Chị Trần Thu Hà bốn mươi hai tuổi, người hiện đang lo chuyện nhang khói ở đây cho biết:
- Trước đây, bàn thờ do một người khác bán nước chỗ này trông coi. Măi cho tới khi người ấy rời đi nơi khác, ḿnh chuyển tới chỗ này, thấy bàn thờ hơi cũ nên tiến hành làm mới.
Đơn giản hơn nữa, chiếc bàn thờ do người chủ quán có tiệm hàn tiện trên phố Phủ Doăn, chỉ cần sắm một chiếc ống nhựa, treo lủng lẳng trên thân bàng già mà nhang khói mỗi ngày. Thậm chí, không cần cả ống cắm hương, lọ để hoa, chị Linh nhà số 1128A Đê La Thành cho biết:
- Ḿnh thắp hương cốt ở cái tâm thành kính, chứ nhiều khi cũng không cần câu nệ ban bệ ǵ nhiều đâu.
Hơn bốn mươi tuổi, từ khi sinh ra, lớn lên rồi lấy chồng, sinh con chị chỉ có quẩn quanh với cái quán nước nhỏ bé đầu con ngơ 136 Sơn Tây này.
- Nói chú không tin chứ chuyện này đúng là các cụ ta nói cấm có sai câu nào.
Câu nói của chị càng khiến người nghe phải ṭ ṃ.
- Là câu nào và có chuyện ǵ hả chị? Tôi hỏi.
- Th́ câu thần cây đa ma cây gạo, cú cáo cây đề ấy.
Chị trầm giọng. Rồi vẫn cái giọng lúc lên lúc xuống, khi thủ thỉ tâm, chị kể tôi nghe chuyện xoay quanh cái cây đa, chiếc bàn thờ và câu chuyện người chủ đă lập nên bàn thờ kia:
- Ngày trước có bà người dân tộc ǵ đó về Hà Nội chơi, ngang qua đây bà mới dừng lại ngồi uống nước. Bà dáng người thấp đậm, giọng nói chậm mà chắc lắm. Bà ít nói nhưng khi nói đều nh́n thẳng vào mắt người khác, nhiều khi phát sợ.
Chẳng hiểu hôm đó thế nào nhà bà H. này cũng ra ngồi đây. Mới nh́n qua khuôn mặt bà H., bà kia đă phán một câu xanh rờn rằng đúng ngày này, giờ này ngày mai nhà ấy có người chết.
Ngừng lát, rót chén trà nóng cho khách, rồi chị lại tiếp:
- Ai cũng tưởng bà đùa. Nhưng sao lại có kiểu đùa như mạt sát nhau thế. Vừa sợ vừa tức, bà H. mới nói lại bà kia mấy câu. Rồi bà người dân tộc nói phải đi có việc, ngày hôm sau bà hứa sẽ quay lại, v́ chính bà cũng muốn kiểm chứng điều này.
Hôm sau thằng con nhà bà H. chết thật. Cậu này nghe đâu bảo nghiện ngập hay bài bạc ǵ đó bị công an bắt. Trên đường giải về nơi giam giữ, chắc là do bản tính liều lĩnh lại thêm ngồi phía sau thùng xe ô tô, nên dù tay bị c̣ng vẫn cứ liều lao ra ngoài ḥng chạy thoát. Có ngờ đâu đâm phải đúng đầu một chiếc xe ô tô chạy cùng chiều.
Quá sợ, nhà bà H. nháo nhào cho người đi t́m, vời bà kia về. Hỏi v́ sao bà lại đoán được chuyện sắp xảy ra, bà kia mới chỉ lên cây đa trước nhà này mà rằng, trên đó có vơng nằm của "thần", đúng là cây đa này phía trên một một cành cây cong, tạo h́nh rất giống chiếc vơng. Bà ấy nói v́ gia đ́nh bà H. ăn ở không phải, trước mấy cậu con trai hay ra đó mà... tè bậy nên bị phạt. Rồi nữa, v́ tướng mặt nhà bà không có phúc.
Rồi mọi người trong nhà bà H. như rụng rời chân tay khi bà "chốt hạ" câu cuối trước khi ra về rằng, rồi đây mấy anh em trong nhà này cũng không tránh khỏi "kiếp nạn" của người xấu số vừa qua. Cuối cùng th́ năm trong sáu người con trai nhà này đă chết. Một người c̣n sống th́ như người điên, lang thang khắp nơi.
Có bữa anh ta như bị nhập, mấy nhà quanh đây toàn mái ngói cổ, ọp ẹp, chả biết thế nào mà anh ta leo lên đó, chạy phăng phăng mà gạch ngói vẫn chẳng hề ǵ. Lại có bận, anh ta cầm dao rượt ḿnh chạy về tận nhà. Đóng cửa vào một lúc th́ có tiếng gơ cửa, hỏi ai th́ anh lại nhẹ nhàng bảo có việc ǵ sao hốt hoảng chạy về nhà thế.
Nh́n vào con ngơ nhỏ tối om phía sau lưng, chị Hà thở dài:
- Chẳng biết nguồn cơn thế nào, nhưng sự thật nó là như thế. Bây giờ th́ ngôi nhà này đă được bán cho một người khác, bà H th́ không c̣n. Ngày ngày bà con quanh đây vẫn thỉnh thoảng qua lại nhang khói, cầu siêu cho người đă khuất, mong họ phù hộ cho gia đ́nh ḿnh.
Chỉ lên cây đa chị Hà cho biết:
- Từ lâu lắm rồi, cây đa này đă có ai bên điện lực hay cây xanh cắt tỉa cành v́ vướng vào dây điện đâu! Tán nó xum xuê, rợp bóng cả một đoạn phố rồi đó.
Ông Cao Quốc Việt tổ trưởng tổ 55 phường Kim Mă, nơi có bàn thờ tại ngơ 136 Sơn Tây cho biết:
- Tôi ở đây đă 55 năm, đă chứng kiến biết bao thăng trầm trên con ngơ này. Đúng là có chuyện gia đ́nh bà H. có sáu người con trai, năm đă chết, c̣n người con c̣n lại th́ tính t́nh lẩn thẩn, suốt ngày lang thang ngoài đường. Bây giờ không biết anh c̣n sống hay đă chết.
Tuy nhiên, chuyện có bà này bà nọ đến bói toán hay nói ǵ ǵ đó th́ chúng tôi không nắm rơ. C̣n về tâm linh, người dân ḿnh vẫn tin là "thần cây đa, ma cây đề" nên việc lập bàn thờ cũng là dễ hiểu.
Câu chuyện về chiếc bàn thờ trên cây đa, tại số nhà 375 Đê La Thành cũng ly kỳ chẳng kém. Chị Hoa chủ nhà cho biết:
- Đây là bàn thờ của cả dăy phố này đấy. Ngày rằm, mùng một người tới đây thắp hương đông lắm. C̣n hỏi lập từ cách đây bao nhiêu năm rồi th́ tôi chịu. Hai vợ chồng tôi về đây làm ăn đă mười bốn năm đă thấy có bàn thờ. Chắc có lẽ nó tồn đại đă vài chục năm rồi. Hỏi mấy nhà xung quanh th́ toàn dân buôn bán, nay đi chỗ này, mai thuê chỗ khác, chẳng ai nắm rơ "tuổi" của cái bàn thờ này cả.
Cùng tiếp chuyện, chồng chị Hoa cho biết thêm:
- Hiện, ngày rằm, lễ, Tết con cháu cụ Nguyễn Phúc Lai, người có công đánh đuổi giặc Pháp bị chết tại đây vẫn ra đây hương khói.
Nghe tới đây, chị Hoa lại tiếp lời chồng:
- V́ nhà ở đây nên ai tới thắp hương tôi đều biết người lạ, người quen. Hồi năm 2008, vào ngày 17 tháng Giêng có đôi vợ chồng chẳng biết từ đâu đến đây, sắm sửa đồ lễ lớn lắm. Ṭ ṃ, tôi mới hỏi th́ chị vợ thở than:
- Chả là chồng em hôm giao thừa đi qua đây, thấy cây đa to, lại thấp nên trèo lên xin lộc các cụ. Chả ngờ lại bẻ cành rơ to. Anh ấy bảo lúc lên dễ thế mà khi hái được lộc không tài nào xuống được, cứ như là có người giữ lại ấy.
Loay hoay gần ba tiếng mới t́m được lối xuống. Mấy ngày sau th́ bao nhiêu chuyện chẳng lành tự dưng ập tới. Hai vợ chồng đi nhờ thầy xem giúp mới hay ḿnh đă "phạm", nên phải sắm đồ tạ lễ, chị ạ.
Nghe những chuyện trên tôi mới thắc mắc ḍ hỏi:
- Vợ chồng chị không sợ sao khi sống cạnh cây đa với chiếc bàn thờ này?
Chị Hoa chỉ cười x̣a:
- Lúc đầu mới chuyển tới đây làm ăn, nhiều người cũng nói nơi này khuất, lại vướng ngay cái cây to che mất th́ làm ăn ǵ. Thế nhưng mười bốn năm rồi ḿnh ở đây vẫn làm ăn b́nh thường. Ḿnh cứ sống tốt th́ chẳng ai làm ǵ hại ḿnh.
Theo t́m hiểu của chúng tôi, hiện nay nhiều con phố của Hà Nội xuất hiện những chiếc bàn thờ như vậy. Có khi là do những người buôn bán trên vỉa hè lập nên, có khi là những người dân xung quanh làm để thờ cúng một ai đó chẳng may chết tại chỗ đó... Lâu dần người ta có thêu dệt thêm những câu chuyện cho thêm phần ly kỳ từ những câu chuyện trùng hợp ngẫu nhiên.
Một ḍng đời sống tâm linh dân gian vẫn hàng ngày hiện hữu bên cạnh những con đường ồn ào của phố xá.
Văn Bang
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1124 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 7:24pm | Đă lưu IP
|
|
|
CÂU CHUYỆN MA CỦA DƯỢNG TÔI
Tôi có một ông dượng, trước đây dượng tôi không bao giờ tin có ma trên đời này. Nhưng thời gian hai, ba năm trở lại đây, dượng tôi rất sợ ma, đặc biệt là vào ban đêm không bao giờ bước chân ra khỏi nhà, cho dù là có bạn bè rủ nhau nhậu nhẹt, hay uống cà phê cũng tuyệt đối không đi, chỉ khi nào cơ nhỡ lắm mới ra ngoài vào ban đêm thôi, chẳng hạn như trong nhà có người ốm phải đi cấp cứu chẳng hạn.
Cách đây hai năm, dượng có về thăm gia đ́nh tôi. Trong những lúc trà dư tửu hậu với ba tôi th́ dượng mới tiết lộ, là bây giờ tôi mới thực sự tin là trên đời này có ma, rồi lần lượt kể cho mọi người trong nhà tôi nghe về "sự tích" mà tại sao bây giờ dượng tôi lại sợ ma đến nỗi như thế này.
Số là đêm đó bà chị của dượng tôi bị trúng gió, mà lúc đó trời cũng khuya rồi, khoảng mười hay mười một giờ đêm ǵ đó, trong nhà có nhiều người, người pha nước chanh, người nhóm bếp hơ lửa, người thoa dầu lên người của bệnh nhân, nhưng tuyệt đối trong nhà lúc đó không ai biết lễ gió cả, như các bạn cũng đă biết, trúng gió th́ phải lễ mới hết bệnh được.
V́ vậy mà phải t́m cho được thầy lễ về để lễ gió cho bà chị của dượng tôi, ngặt một nỗi trời đă quá khuya, mà trên đường từ nhà đến nhà ông thầy lễ đó, phải đi mất một đoạn cũng khá xa và phải đi ngang qua một cây me cổ thụ, đă có từ lâu đời mọc bên ven đường, mà cây me này nổi tiếng là nhiều ma.
V́ vậy mà không ai trong nhà lúc đó dám đi cả, nh́n cái cảnh đó, dượng tôi mới bực ḿnh quát tháo:
- Lũ bây toàn là một lũ nhát gan, ma với cỏ cái quái ǵ, để tao đi gọi thầy Sáu cho, tụi bây lo ở nhà liệu mà chăm sóc cho cô chúng bay đó.
Nói với đám con của dượng xong, thế là bắt đầu bước chân ra đường. Lúc này trời đă về khuya, sương xuống nên hơi lạnh, dượng tôi khoanh tay rồi thong dong bước đi. Đi được một đoạn gần tới chỗ cây me, dượng tôi nhủ thầm:
- Ma cỏ là cái quỷ ǵ, làm ǵ mà có ba cái chuyện bá láp như vậy trên đời chứ, đúng là bọn con nít bây giờ, đọc truyện đọc sách, rồi xem phim ảnh cho lắm vào để bây giờ cứ tưởng tượng viển vông, thật là ... hừm.
Đi được vài bước nữa, dượng tôi thấy thấp thoáng trước mặt h́nh như có hai con heo con, mà quái lạ heo qué ǵ giờ này mà c̣n chạy rông ở đây, mà lạ kỳ thật hai con heo cứ đứng sừng sững trước mặt như muốn cản đường dượng tôi.
Bước thêm vài bước nữa, vẫn thấy hai con heo cứ đứng sừng sững trơ trơ ra đấy như muốn thách thức, xua đuổi bao nhiêu cũng không đi. Bực ḿnh, dượng tôi vơ lấy đám ḿ ở kế bên, nhổ được vài ba cây ǵ đó thế là tiến sát đến hai con heo con, cứ thế mà quất tới tấp vào chúng.
Quất được một hồi, hai con heo con không thấy đâu nữa, mà thay vào đó là hai con heo to bằng con trâu sừng sững trước mặt, miệng há hốc mồm như muốn ăn tươi nuốt sống dượng tôi, nh́n thấy cảnh đó dượng tôi không thể nào lấy nổi b́nh tĩnh nữa, thế là quay đầu chạy một mạch đến nhà, thở hổn hển.
Những người trong gia đ́nh thấy vậy mới chạy tới hỏi là đă xảy ra chuyện ǵ, dượng tôi vừa thở, vừa nói:
- Rót cho tao ly nước cái đă, kẻo không tao chết khát bây giờ.
Sau khi uống nước xong, dượng tôi bắt đầu kể về chuyện đă gặp ma như thế nào, và một hai nhất quyết là không đi gọi thầy Sáu nữa, thế là mấy anh em con của dượng tôi mới tụm năm, tụm bảy lại và quyết định cử ba người đi, chứ không một ai dám đi một ḿnh để gọi thầy Sáu cả.
Nhưng đến lượt ba người đi th́ không thấy heo qué đâu, mà chỉ có cái cảm giác lành lạnh ở sống lưng khi đi ngang qua cây me cổ thụ đó mà thôi…
Từ đó, dượng tôi cũng không dám ra ngoài vào ban đêm nữa, chỉ khi nào có công việc gấp gáp lắm mới đi thôi, mà nếu có đi th́ cũng rủ thêm vài người chứ không dám đi một ḿnh.
khuyetdanh
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1125 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 7:25pm | Đă lưu IP
|
|
|
KHÂM PHỤC BA TÔI NẶNG VÍA KHỦNG KHIẾP
Tôi rất là khâm phục ba tôi, trong khi tôi là một người cực kỳ yếu bóng vía, nhà tôi có hai chị em mà đứa nào cũng sợ ma, bị ba chửi hoài là sao con ba mà không giống ba. Ba tôi có nhiều chuyện để kể lắm, trong topic này tôi sẽ từ từ kể cho các bạn nghe.
khi ba tôi c̣n nhỏ, hồi đó bà cố nghèo lắm, ông nội tôi th́ lấy vợ nhỏ, nên bà nội tôi ở vậy một ḿnh nuôi bốn đứa con, ba tôi là đứa lớn nhất và có ḿnh ba là nam. Từ nhỏ các cô tôi và ba đă phải đi kiếm tiền rồi.
Cô ba th́ đi lấy rau muống, cô bốn th́ đi lấy kem bỏ sỉ bán, chỉ có cô út là sướng ăn học đàng hoàng và không phải đi làm. C̣n ba tôi làm đủ nghề, cái ǵ làm được là làm, làm đủ thứ nghề tối lại c̣n nhận thêm nghề canh nghĩa địa nữa.
Tối nào cũng ra đó ngủ, mà lúc đó khoảng mười tuổi chứ mấy, ra đó ngủ rồi người ta trả hai hay ba ngàn ǵ đó về đưa bà cố. Bà cố la hoài không cho đi vậy mà đêm nào cũng đi. Ba tôi kể ra đó thấy ma trơi ổng khoái quá trời.
Bà cố sợ không cho ra nên kêu cô bốn cột ba vào giường, tối ngủ mà cứ như có ai kêu dậy ra đó chơi chung, thế là ba tôi kêu cô bốn cởi trói chạy ra đó ngủ, chứ không ngủ ở nhà. Chuyện này tôi nghi là ra đó chơi hoài, nên vong nó mến nó rủ đi chơi.
Khi tuổi thiếu niên lớn hơn chút xíu, lúc đó cũng chiến tranh mà, nên người ta chết nhiều lắm, bên hông nhà ngày xưa là nghĩa địa, tụi trong xóm hay ra đó móc túi mấy người chết lấy tiền đi mua đồ, ba tôi thấy cũng ham mà bà cố chửi té tát nên mới không đi.
Rồi ba không những ra ngủ canh mồ mả cho người ta, mà c̣n kiêm thêm canh nhà xác bệnh viện...Ba kể tỉnh rụi là ngủ đó đă lắm, tại hồi đó đâu có máy lạnh đâu, chui vô trỏng ngủ mát thấy mồ. Ba c̣n kể ở trỏng ba thấy người ta may xác hoài, tại hồi xưa bom ḿn làm lủng bụng, đứt đầu đủ thứ...Ba coi người ta làm thấy khoái.
Một hôm có bà kia bị đứt ...cái ǵ quên rồi, ba nói ông đó cho ba may thử. Rồi ba khấn trong đầu "tui may bà lại là làm phước cho bà chết cho nó đẹp đẽ thôi, bà đừng có về mà phá tui nha", thế là ba may, mà c̣n được khen là may đẹp nữa mới ghê chứ.
Rồi quay lại việc ở nghĩa địa, ba tôi cùng hai thằng trong xóm, hai thằng đó chắc cũng thuộc loại cứng vía mới ra nghĩa địa chơi chung với ba chơi cầu cơ. Mà không phải lấy cái cơ b́nh thường như mọi người. Ba tôi hồi đó khéo tay lắm, ǵ cũng làm được, ba lấy cái mảnh xương đỉnh đầu của hộp sọ mài ra h́nh trái tim để làm cơ.
Chắc cái thằng bị mài sọ nó tức điên ghê lắm...ba nói hai thằng kia để tay sao nó lên chạy quá trời, tới lượt ba nó nằm im re luôn, không nhúc nhích, thế là ba bị hai thằng kia chửi là mày nặng quá nó không lên nổi, mất vui..
Hồi chiến tranh, xác người nằm chỏng chơ ngoài nghĩa địa rất nhiều. Một hôm trời mưa gió băo bùng, người ta đi bắt ếch ngoài nghĩa địa, trời rất lạnh, ba tôi cùng hai thằng kia dựng một cái xác nào nằm đó lên, cột dựa vào cột, lấy điếu thuốc nhét vào tay, cho nó ra dáng đang hút thuốc.
Trời lạnh quá, mấy người đi bắt ếch lại xin:
- Anh ơi cho em xin điếu thuốc, lạnh quá...
Không thấy trả lời, nh́n kỹ th́ tá hoả, không chạy nổi mà ḅ luôn, ba tôi cười quá trời. Ba mới học lớp chín đă bị bắt đi lính, ba phải đóng quân ở nhiều nơi, tôi nhớ nhất là ba kể ở B́nh Thuận.
Người ta có câu "cọp Khánh Hoà, ma B́nh Thuận" mà. Tức là cọp chỉ có ở Khánh Hoà là dữ nhất, c̣n ma phải ở B́nh Thuận là nhiều nhất. Ở đó ba nghe dân làng kể, là ngay giếng nước gần chỗ ba đóng quân, có một con nhỏ kia tự tử, nghe nói là tối nào nó cũng về ngồi trên thành giếng soi gương.
Ba tôi khoái lắm, thế là hôm đó tranh với thằng lính kia để gác khu đó, xem coi con ma nó có ra không. Trời chập tối, ba đă vác súng ra giếng ngồi, ngồi một tí trời tối thui. Ngồi tí nữa, ba nghĩ là ngồi đây choán chỗ nó ngồi, nên mới gác súng đi ṿng ṿng, vừa đi vừa canh cái giếng, tới sáng luôn không có ma nào hiện ra hết.
C̣n thằng chung đơn vị nó cũng gác ở đó, sáng hôm sau thấy nó tái mét, nó kể thấy con nhỏ đó đứng soi gương...nó quíu quá muốn xỉu luôn. Rồi hôm khác và hôm khác nữa, nhiều thằng bị lắm, thế là ba tôi nổi tiếng luôn là đi gác về mà khoẻ re.
Đây là hồi ba tôi cùng người chú đi làm ăn xa ở Đà Lạt th́ phải...Hôm đó ba tôi cùng với chú lên đó để buôn bán xe, nên hai người thuê nhà trọ ở. Thế là ngủ trong pḥng đó, thấy nó cũng hơi u ám nhưng ai cũng lăn ra ngủ ngon lành không có để ư ǵ xung quanh pḥng hết.
Tối hôm đó chú tôi mơ thấy có một bà kia về ngồi kế bên giường cười với chú, rồi kéo chân chú th́ phải, sợ quá hôm sau chú nói với ba tôi, th́ hai người cùng ra hỏi bà chủ nhà. Bà chủ nhà kể là có người đàn bà tự tử trong pḥng đó, nên có treo h́nh bả để thờ trong pḥng.
Về pḥng nh́n quanh th́ thấy có h́nh bà đó thật, chú tôi bảo:
- Trời ơi là bà này nè anh hai.
Thế là ba tôi hỏi bà chủ:
- Sao không bỏ tấm h́nh ra.
Bà chủ nói:
- Nếu treo h́nh th́ chỉ có pḥng đó là bị quậy thôi, không treo là quậy nguyên nhà luôn đó.
Nghe thế, chú tôi sợ quá thu xếp về Sài G̣n ngay, c̣n ba tôi vẫn ở lại v́ công chuyện chưa xong mà. Trước khi ngủ ba tôi nh́n tấm h́nh phơ phất trong đêm tối, hồi đó đâu có đèn điện neon đâu, đèn tṛn màu vàng ệch nên ánh sáng leo lét lắm.
Ba tôi nh́n thấy tấm h́nh buồn mà h́nh như bả nhoẻn miệng cười....rồi sau đó ba dậy, ra xin bà chủ nhà mấy cây nhang rồi khấn vái:
- Tôi đi làm ăn xa, ở đây tôi cũng không quậy ǵ bà, thôi bà thương tôi đừng phá, để tôi ngủ lấy sức làm ăn.
Rồi cứ thế ba ngủ tới sáng, ở đó mấy ngày luôn cũng không hề hấn ǵ. Tôi nhận ra một điều từ những chuyện của ba tôi, tôi thấy ba tôi hay tôn trọng người chết nên hay khấn vái, mà phải thành tâm mới được yên thân.
Minh Huệ
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1126 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 7:26pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN QUANH NHỮNG SỌ NGƯỜI PHA LÊ
Có rất nhiều bí ẩn siêu nhiên tồn tại quanh chiếc hộp sọ pha lê, đă được ghi chép lại qua nhiều thế hệ như: Siêu năng lực, sự thay đổi màu sắc, sự lan toả của một loại hương vị khác thường, cũng như sự hiện diện của tất cả những ǵ có tính chất ma thuật, vẫn chưa được lư giải nổi.
Một trong số các hiện vật c̣n tồn tại đến ngày nay, ẩn chứa nhiều bí ẩn nhất, chắc chắn là chiếc sọ pha lê. Nguồn gốc của chúng từ đâu? Kỹ thuật nào để làm ra chúng một cách hoàn hảo? Chúng được làm ra với mục đích ǵ? Và một loạt các bí ẩn khác vẫn c̣n tồn tại cho tới ngày nay, thực sự là một câu đố lớn đối với những nhà khoa học hàng đầu thế giới.
Chiếc hộp sọ đầu tiên được phát hiện mang tên "hộp sọ số phận". Có một giả thiết lịch sử cho rằng "hộp sọ số phận" được phát hiện vào năm 1927 bởi cha con nhà thám hiểm người Anh Frederick A. Mitchell Hedges, trong các phế tích của ngôi đền Maya tại Lubaantun, nay là Belize, nhưng măi tới những năm 1970 chúng mới được ra mắt công chúng.
Nhưng trong một phiên bản khác lại cho rằng, thực chất Hedges đă mua chiếc đầu lâu này, tại một cuộc đấu giá Sotheby’s ở London năm 1943. Bởi vậy, họ vẫn c̣n hoài nghi giả thiết thứ nhất nói rằng, nguồn gốc của chiếc sọ pha lê là do người Maya sáng tạo ra.
Trên thực tế, chiếc hộp sọ là một tác phẩm nghệ thuật vô giá, v́ nó được chạm khắc rất tinh tế và hoàn hảo. Chiếc "hộp sọ số phận" về mặt kỹ thuật là không thể lư giải được. Sự hoàn hảo của nó đạt tới mức dùng công nghệ hiện đại, cũng khó mà có thể tạo ra được. Với trọng lượng năm kg, nó là bản sao chính xác của một hộp sọ nữ.
Bề mặt hộp sọ này được đánh bóng không t́ vết, dù soi dưới kính hiển vi. Hàm tách biệt với phần c̣n lại của cấu trúc, và được đính kèm theo bằng bản lề có thể cử động được. Hộp sọ được làm từ một mảnh đá thạch anh duy nhất, có độ cứng ở mức bảy trên bậc thang Mohs, thang độ cứng khoáng sản được tính từ 0-10, mức độ chỉ kim cương mới có thể cắt được.
Trong các nghiên cứu được tiến hành trong những năm 1970, của Công ty Mỹ Hewlett-Packard cho thấy, để đạt tới sự hoàn hảo như vậy, con người sẽ phải mất ba trăm năm lao động miệt mài. Nhưng nó được tạo từ một khối tinh thể hoàn chỉnh, nghĩa là mọi nỗ lực đẽo gọt viên đá đều có thể làm nó vỡ ra.
Các kỹ sư và kỹ thuật viên cảm thấy vô cùng lư thú, khi nghiên cứu chiếc hộp sọ bí ẩn này. Ẩn sâu bên trong một số sọ pha lê, là sự sắp đặt rất khéo léo các ống kính, lăng kính và các rănh. Khi thắp nến bên dưới hộp sọ, chiếc hộp sọ sẽ phát pha rất nhiều tia sáng mỏng lấp lánh, và những hiệu ứng quang học kỳ lạ.
Họ cũng đưa ra kết luận rằng, không có một công nghệ hiện đại nào được biết đến, có khả năng tạo ra bản sao chính xác của chiếc hộp sọ người, làm từ đá thạch anh này. Món tiền thưởng nửa triệu đô la cho người có khả năng thực hiện được điều đó, vẫn c̣n nguyên vẹn cho đến ngày nay.
Nhưng cũng có rất nhiều bí ẩn siêu nhiên tồn tại quanh chiếc hộp sọ, đă được ghi chép lại qua nhiều thế hệ như: Siêu năng lực, sự thay đổi màu sắc, sự lan toả của một loại hương vị khác thường cũng như sự hiện diện của tất cả những ǵ có tính chất ma thuật vẫn chưa được lư giải nổi.
Trong cuốn sách Sự nguy hiểm, người bạn của tôi, xuất bản năm 1954 của Mitchell Hedges có viết, hộp sọ pha lê phải đă tồn tại ít nhất là ba ngàn sáu trăm năm. Huyền thoại được thắp sáng bởi các linh mục người Maya, trong các nghi thức bí truyền. Truyền thuyết kể rằng, khi họ muốn ai đó phải chết, chỉ cần cho người đó nh́n vào hộp sọ, một cái chết không thể tránh khỏi sẽ đến nhanh chóng.
C̣n có một truyền thuyết đáng lưu ư khác, kể về khả năng truyền tải bộ nhớ của những sinh vật sống. Phiên bản giả thiết mới nhất cho rằng, hộp sọ có khả năng lưu giữ, hay truyền những kiến thức bất tử của các linh mục cũ, cho người tiếp tục sứ mạng của họ.
Trong một nghi thức long trọng, vị linh mục già và người kế nhiệm của ông, cùng nhau đặt tay lên chiếc hộp sọ pha lê, và tất cả các thông tin được lưu giữ trong bộ năo của người thầy, sẽ được truyền sang cho người kế nhiệm mới của họ.
Và “hộp sọ số phận” không phải là duy nhất. Một số chiếc tương tự khác, cũng đă được t́m thấy ở nhiều địa điểm khác nhau trên Trái đất, và chúng được tạo ra từ những tộc người khác nhau, với những chất liệu khác nhau.
Trong số đó có một bộ xương được t́m thấy ở Mông Cổ làm từ loại đá xanh, có niên đại từ 3.500–2.200 năm trước Công nguyên, kích cỡ nhỏ hơn kích cỡ thật của con người hiện đại.
Trong đầu thế kỷ mười tám, một chiếc hộp sọ hoàn hảo làm bằng thạch anh hồng, có trọng lượng 7,5 kg cũng đă được phát hiện trong ngôi mộ cổ, của một nhà sư Nga tại thành phố cổ Luv, Ukraine vào năm 1710.
Một hộp sọ bí ẩn nữa được biết tới vào năm 1993, trong bộ sưu tập của nhà bán đấu giá nổi tiếng của Đức Hans Van Daiten. C̣n trong truyền thuyết cổ xưa của người da đỏ, có nói sơ lược về những chiếc hộp sọ pha lê cho hay, hộp sọ pha lê nguyên bản gồm có ba mươi chiếc, chúng là quà tặng của các vị thần cho loài người, và trở thành biểu tượng của sức mạnh lẫn cái chết đối với người da đỏ.
Pravda
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1127 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 7:26pm | Đă lưu IP
|
|
|
ẢNH MA TỪ TU VIỆN COOMBE
Tu viện Coombe được xây dựng vào năm 1150 trên miền trung du Warwickshire, là nơi lui tới riêng tư của các đời vua chúa nước Anh trong hàng chục thế kỷ. Măi cho đến khi Coombe khôi phục lại thành khách sạn đón tiếp công chúng, người ta bắt đầu phát hiện lâu đài này cũng có những hồn ma bóng quế.
Mùa hè năm 2003, trong chuyến tham quan Tu viện Coombe, Ross Corby chụp cho vợ một tấm h́nh trong tiền sảnh của Nhà hàng Cloisters. Vô t́nh đó cũng là nơi xuất hiện nhiều nhất, trong những câu chuyện ma ám đồn thổi về lâu đài.
Khi hai vợ chồng trở về pḥng và tải ảnh từ máy chụp kỹ thuật số ra máy tính, họ bất ngờ phát hiện những đám mây khói bí ẩn trùm lên khắp khung cảnh trong tấm h́nh.
Thật kỳ là, vào thời điểm chụp ảnh, cả Ross Corby và vợ đều không mảy may thấy một sợi khói nào như thế. Cũng chẳng phải là khói thuốc x́ gà, bởi lúc đó chung quanh không hề có ai. Phải chăng đây là một bằng chứng hiển hiện rằng lâu đài thực sự có ma?
Cùng với thời gian, hàng trăm câu chuyện ma ám đă được thêu dệt trong khắp các ngơ ngách Tu viện Coombe.
Chính tại nơi đây vào năm 1345, ngài tu viện trưởng Abbot Geoffrey đă bị một trong những môn đệ của ông giết chết. Kể từ đó vào các đêm trăng sáng, theo lời đồn đại, người ta vẫn thấy một bóng h́nh khoác áo thầy tu, lướt êm ru qua các dăy nhà, rồi hất tung mọi đồ đạc lỉnh kỉnh trong nhà bếp. Dân t́nh nói với nhau rằng qua hàng trăm năm, linh hồn oan khuất của vị tu sĩ vẫn chưa thể siêu thoát.
Tiếp nữa là câu chuyện về nàng Matilda, cô gái có đôi mắt yêu tinh màu xanh lá ba trăm năm trước, bị một vị trưởng môn của Coombe bội t́nh. Lời nguyền nàng để lại đă khiến đứa con trai đầu ḷng của vị tu sĩ này chết trẻ, và đến tận ngày nay thỉnh thoảng vẫn nghe bước chân nàng thơ thẩn trên con đường rải đá cuội phía sau khu nhà thờ.
Vẫn c̣n hàng loạt những lờn đồn thổi kỳ bí khác, ví dụ như bóng ma của một kỵ binh hàng đêm cưỡi ngựa quanh túp lều của người gác cửa, hay người phụ nữ lạ mặt trong trang phục triều đại Victoria vẫn đạp xe đều đều qua con phố bên ngoài Tu viện…
Hư thực về những bóng ma chưa dám khẳng định, chỉ biết rằng khách đến nghỉ ở khách sạn Coombe ngày nay, đă quá quen thuộc với những tiếng đóng sầm cửa bất ngờ, mà không có ai là thủ phạm. Đôi lúc nhiều người yếu tim nửa đêm lại nhảy bổ ra khỏi pḥng v́ bị “ai đó” ghẹo đùa.
Mysterious
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1128 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 7:31pm | Đă lưu IP
|
|
|
XÉ RỪNG ĐỂ NGHE CHUYỆN MA MỊ VỀ "HỎA VƯƠNG"
Theo thông tin mà chúng tôi có được, làng "vua Lửa" nằm tại xă Chư A Thai, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai.
Ở Tây Nguyên hiện vẫn c̣n một ngôi làng "vua Lửa", đă được công nhận là di tích văn hóa cấp quốc gia. Tại đây vẫn c̣n một vị Hỏa Vương, cho dù vị "vương quân" này hiện chỉ giống như một người nông dân b́nh thường. Xung quanh nhân vật này có rất nhiều huyền thoại, c̣n ẩn chứa sau những màn sương mờ.
Phóng viên vừa có cuộc gặp gỡ vị "vua Lửa" hiện tại, đồng thời biết được tập tục cúng cầu mưa, một việc quan trọng mà chỉ có vị "vua Lửa" mới được làm...
Tây Nguyên tháng 11-2009. Nắng vẫn gắt như bao đời vẫn thế, trời vẫn xanh tự thuở hồng hoang và mây trắng vẫn bay như ngàn năm cổ tích.
Chúng tôi t́m tới làng Plei Ơi, huyện Phú Thiện, Gia Lai, trong một niềm bâng khuâng xen lẫn hồi hộp. Trước khi đi, một số phóng viên Báo Gia Lai đă túm tôi lại và dặn ḍ rất cẩn thận.
Rằng, muốn vào làng của "vua Lửa" th́ cần phải gặp cán bộ xă, làm việc với người đứng đầu xă rồi nhờ họ cho người đưa đường. Cách đây mấy năm đă có một anh phóng viên ngoài Hà Nội vào, tự tiện xông vào làng phỏng vấn, chụp ảnh búa xua đă bị dân làng trói lại, giải lên xă.
Theo thông tin mà chúng tôi có được, làng "vua Lửa" nằm tại xă Chư A Thai, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Thế nhưng khi làm việc với đồng chí Phó chủ tịch xă Chư A Thai, đồng chí cho biết ít năm trước xă này đă tách ra thành ba xă, là Chư A Thai, Ayun Hạ và Ia Ke. Hiện làng của"vua Lửa" nằm tại xă Ayun Hạ.
Dưới sự dẫn đường của ông Phạm Tiến Luận, Trưởng công an xă Ayun hạ, chúng tôi có mặt tại làng Plei Ơi vào một buổi chiều tà. Làng nằm ở phía tây bắc thung lũng Cheo Reo màu mỡ, sát quốc lộ hai mươi lăm từ Plei Ku Gia Lai, đi Tuy Ḥa Phú Yên.
Ngôi làng có diện tích trên mười ha và có chừng hơn ba mươi nóc nhà sàn lập theo hướng Bắc, Nam với chừng vài trăm nhân khẩu. Mỗi ngôi nhà sàn ở đây là nơi cư trú của một gia đ́nh mẫu hệ.
Thoạt nh́n ngôi làng "vua Lửa" trông rất b́nh dị, như bao nhiêu ngôi làng khác ở Tây Nguyên. Vừa trải qua vụ gặt, những ngôi nhà sàn nằm lúp xúp xen lẫn những đám ruộng chỉ c̣n trơ gốc rạ. Con đường đất dẫn vào nhà "vua Lửa" nứt nẻ chân chim v́ thiếu nước, bụi mù trời mỗi lần có chiếc xe chạy qua.
Theo anh Luận, "vua Lửa" hiện tại tên là Rơ Lan Hieo, là "vị vua" đời thứ mười lăm. Nhà của "vua Lửa" nằm trên một miếng đất rộng vài trăm mét vuông, lẫn trong nhiều nhà dân khác. Nếu không có người dẫn đường, có lẽ khó mà t́m được căn nhà của "bậc đế vương" này.
Cũng b́nh thường như bao ngôi nhà khác trong làng, ngôi nhà của "vua Lửa" Rơ Lan Hieo được ghép từ những miếng ván gỗ. Ngôi nhà sàn dài gần chục mét, rộng sáu, bảy mét, cao 1,5m so với mặt đất. Có lẽ nó được xây dựng khá lâu rồi, nên gỗ đă lên nước màu thâm xỉn.
Nh́n cửa đóng then cài, anh Luận than thở:
- Chắc vua Lửa đi... làm nương mất rồi. Nương cách nhà tới hơn chục kilômét đi bộ. Thế nên chắc từ giờ đến tối ông ấy không về đâu. Lần trước có mấy anh chị nhà báo cũng phải chờ mất ba ngày mới gặp được "vua Lửa"đấy".
Sáng hôm sau, tôi giục anh Luận ăn cơm rồi lên đường sớm. Anh cười bảo, từ đây đến đó chỉ hết mười phút, mà giờ này th́ "vua Lửa" vẫn chưa về đâu. Sau bị tôi giục quá, anh đành dẫn tôi đến nhà Trưởng thôn Plei Ơi kiêm Công an viên của xă là anh Kpă Hoàng.
Cũng rất may, tại đây chúng tôi gặp được ông Rmah Ên, là người bà con của "vua Lửa" tiền nhiệm đồng thời có chân trong Hội đồng nhân dân xă, lại tương đối thạo tiếng Kinh. Ông này đă dẫn chúng tôi tới nhà "vua Lửa" đồng thời làm thông dịch viên.
- Năm ấy trời nắng to thật là to, mọi con sông con suối đều khô hạn. Người, loài vật cùng cây cối đều khát cháy...
Rmah Ên cất giọng đều đều kể những huyền thoại về "vua Lửa" cho tôi nghe, trong khi chờ ông ta về.
- Hạn hán kéo dài, sông Pa, sông Ayun và các nguồn nước hoàn toàn cạn kiệt, cây rừng không mọc nổi. Người Gia Rai phải đào giếng lấy nước ăn. Các loại thú rừng cùng kéo đến giếng uống nước... Không c̣n ǵ để ăn, người ta phải lấy cây mục chấm mật ong ăn qua ngày, lấy hạt cây cùng họ với tre, trúc nấu thành cơm ăn thay gạo.
Nghe tiếng của "vua Lửa" đă lâu người dân khắp các vùng bị hạn hán, cứ hai người một khiêng nào heo, nào gà, nào rượu... kéo về Plei Ơi để cầu xin "vua Lửa" ra tay cứu giúp. Ngày ấy, khi c̣n là cậu bé đang học trường làng. Luận thấy đoàn người rồng rắn gánh heo, rượu đi qua nhà để vào làng Plei Ơi th́ chỉ biết chạy theo xem.
Trên một miếng đất rộng đă được quét tước sạch sẽ, những lăo làng Gia Rai trong trang phục lễ nghi truyền thống, trải bức chiếu trên vạt cỏ bên cồn đất để "vua Lửa" ngồi làm chủ lễ với mâm bát, b́nh ché bày kề bên. Các lăo làng cùng trai trẻ thay nhau gióng lên chiêng trống. Những người khác lo nhóm bếp nhen lửa.
Theo truyền thống th́ lễ cầu mưa phải gồm có đủ các thành phần như một ghè rượu, sáp ong se thành cây nến, một tô gạo, một đĩa thịt được cắt ra bày sẵn. Sau hồi khấn vái cùng nghi thức rẩy và xoa nước vào bụng các già làng, để cầu khỏe cầu phúc từ bàn tay của chính "vua Lửa", ông ta sẽ ngồi hướng về phía bàn lễ vật, lạy ba lạy chào thần linh rồi tự rót nước vào ché rượu bằng tay phải.
Tiếng chiêng trống, lời văn tế ngân nga, vẻ trang nghiêm, trịnh trọng của "vua Lửa", ngọn lửa bếp phần phật giữa cánh đồng rộng như thông dẫn tới quyền lực siêu nhiên, huyền bí. Vừa khấn, ông ta vừa lấy gạo trong tô văi ra chiếu cùng để mời: thần Núi, thần Sông, thần Gỗ, thần Đá... cùng về dự lễ.
Thế rồi "vua Lửa" lấy thịt ném ba lần ra phía trước. Mỗi lần ném thịt "vua Lửa" cũng không quên cầm cây gươm thần, chỉ hướng từ đông sang tây, vừa luôn miệng cầu khấn. Và thật diệu kỳ, vừa dứt lời tế mây đen từ đâu vần vũ kéo tới, sấm rền vang, chớp giật đùng đùng và mưa như trút nước. Cư dân khắp nơi chỉ biết hướng về làng Plei Ơi mà vái lạy.
ANTG
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1129 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 7:34pm | Đă lưu IP
|
|
|
ÂM HỒN XE LỬA
Đêm hôm đó v́ công việc phải đi vào ban khuya. Khoảng hai giờ rưỡi, anh Tư Ngọ cỡi “con ngựa sắt già 78” cho chạy theo con lộ từ cầu móng TC đi Phú Quư. Trời mưa lất phất, con đường tối đen như mực không một bóng người.
Ngoài ánh đèn pha mờ mờ chiếu xa chừng hơn mười thước được phát ra từ “con ngựa già mệt mỏi”chỉ đủ để cho anh có thể tránh những ổ gà ổ voi, c̣n phía trước th́ tối tăm mù mịt như trong một đường hầm hun hút.
Dưới ánh sáng tù mù hắt ra từ chiếc xe, những bụi cây lúp xúp hai bên vệ đường trông như những sinh vật có h́nh thù kỳ quái đang đứng, đang ngồi, hoặc như đang chồm ra, giơ những cánh tay xương xẩu chực chờ vồ lấy người nào đi ngang qua chúng.
Một ḿnh trong đêm vắng,trời mưa,với lại hay nghe nói trên đoạn đường này có nhiều ma lắm nhất là ma Chàm,tuy không phải là một người nhát gan,không hay tin những chuyện ma quái,song anh cũng thấy có cái cảm giác lành lạnh,rờn rợn xâm chiếm tâm hồn.
Cho xe chạy cà rịch cà tang, ḷng suy nghĩ vẩn vơ. Bỗng lúc đó anh chợt thấy ở phía cuối ngoài tầm ánh đèn xe, xuất hiện mấy cái bóng người mặc đồ trắng đang di chuyển nhanh về phía trước. Tự nhiên có một luồng khí lạnh từ bụng dưới lan toả khắp châu thân, làm anh phải rùng ḿnh nổi da gà.
Sau một giây định thần, anh cho xe chạy chậm lại rồi quan sát kỹ. Anh thấy bốn người đang ghé vai vào bốn góc một chiếc cán trắng, phía bên trên có mui che phủ màu trắng, nằm dọc theo chiếc cán là một khúc trắng lợp tựa như một xác người quấn vải, theo sau nữa là mấy bóng người. Dường như tất cả đều vội vă đi về phía trước.
Theo kinh nghiệm, anh biết đó là một đám ma của người Chàm đang đưa xác chết đi chôn, v́ anh thường gặp đám chết người Chàm. Nhưng có đám chết nào mà chôn vào giờ này? Lại không có đèn lửa ǵ hết? Hay là ma Chàm? Vừa nghĩ tới đó anh thấy lạnh cứng cả châu thân, không dám chạy tiếp nữa, mà cũng chẳng dám quay đầu trở lại.
Đánh liều, anh dừng xe lại rồi rồ ga thật to, mong tiếng xe nổ lớn để phá tan cái cảnh tượng ma quái trước mặt anh và cũng là để trấn an tinh thần. Tiếng xe gầm rú làm kinh động đêm trường tĩnh mịch, ánh đèn chiếu sáng thêm xua bóng đêm ra xa hơn.
Tuy thế mà mấy cái bóng trắng kia không biến mất hay đi xa hơn, cứ vẫn chờn vờn phía trước. Trong lúc quưnh quáng không biết xoay trở ra sao, th́ một cơn gió lốc lạnh buốt không biết từ đâu tới nghe cái “ào…” Khi cơn gió đi qua rồi th́ mấy cái bóng trắng kia cũng không c̣n thấy đâu nữa.
Có lẽ gió đă cuốn đi rồi! Chưa kịp hoàn hồn th́ một cảnh tượng c̣n rùng rợn hơn: ở phía trước toàn đá cuội đường kính cũng cở cái chén ăn cơm hay to hơn đang kéo nhau lăn lụp cụp về phía anh. Trời ơi, lúc này hồn vía như lên mây, anh không c̣n biết ǵ nữa ngoài việc nhắm mắt lại mà rồ ga, như để kêu cứu c̣n mặc sự thể ra sao th́ ra!
Mặc dầu vây, song anh cũng c̣n ư thức được:có những ḥn đá va chạm vào xe, c̣n các ḥn khác trúng vào chân đau điếng. Cũng vừa lúc ấy, một hồi c̣i dài vang lên rồi tiếp là tiếng x́nh xịch mỗi lúc càng gần. Biết là có tàu đi qua, mừng quá như thể là được cứu tinh xuất hiện đúng lúc vây.
Anh mở mắt ra th́ thấy từ nơi anh đứng cho tới cả trăm mét về phía trước, ánh đèn tàu chiếu sáng rực rỡ. Song trong ánh đèn anh chẳng thấy ḥn đá cuội nào cả! Không biết chúng lăn đi đâu mất rồi. Chắc chắn đó là ma Chàm nhát anh rồi, anh nghĩ thế! May mà có đoàn tàu đi qua đúng lúc; c̣n không th́ cũng chẳng biết làm sao!
Thôi bây giờ c̣n không biết “tẩu vi thượng sách” nữa hay sao mà c̣n đứng đây! Anh tự nói với ḿnh như thế. Rồi rồ ga chạy cùng với đoàn tàu. Nhưng xe anh th́ làm sao chạy nhanh bằng tàu! Chạy được một quăng th́ đầu tàu cũng vượt qua rồi dần dần đổi hướng, v́ đường sắt lúc này không c̣n song song với đường bộ nữa mà rẽ về hướng khác.
Và đoàn tàu đă trả lại cái không gian tối mịt phía trước cho anh. Vừa tiếp tục cho xe chạy vừa nh́n đoàn tàu một cách luyến tiếc. Trông những toa tàu đang vùn vụt lướt qua, hành khách trong toa ngủ gà ngủ gật, thỉnh thoảng có vài người c̣n thức nh́n ra cửa sổ ngắm bầu trời đêm.
Vừa lúc đó qua ánh sáng hắt ra từ cửa sổ một toa tàu kế tiếp, anh chợt thấy bóng một người đàn bà tóc xoă mặc bộ đồ trắng lợp, hai tay đang chống lên thành cửa sổ toa tàu, một nửa thân trên đă chồm vào bên trong, nửa kia thẳng đuổng c̣n ló ngang bên ngoài. Không biết anh chàng đang ngồi bên khung cửa sổ đó có thấy người đàn bà kia hay không?
Vừa mới qua một cơn kinh hoàng như ác mộng chưa kịp hoàn hồn, rồi tiếp cái cảnh tượng ghê hồn này nữa hồn phi phách tán luôn! Cũng may là cái bóng người kỳ quái đó theo đoàn tàu nhanh chóng bỏ anh lại phía sau, nên anh chỉ rùng ḿnh mấy cái mà thôi.
Anh nói giả như lúc ấy người đàn bà bất ngờ không bám theo tàu nữa, mà bay về phía anh với cái mặt trắng bệch trét sáp, không có mắt mũi miệng ǵ hết th́ có lẽ anh đă tắt thở rồi!
C̣n lại một ḿnh trên con đường tưởng như vạn lư, giờ này anh mới thấm thía cái nỗi sợ hăi khi cô đơn một ḿnh ở nơi ma quái! Rồi anh cũng chợt nhớ ra trên đoạn đường anh thấy người đàn bà ban năy, cũng là chỗ vợ thầy ba Xoài đă bị xe lửa tung chết. “Hay đó là hồn ma bà ấy?” Anh mơ hồ nghĩ vẫn vơ.
Chạy được một quăng chừng hơn cây số, anh thấy một lũ trẻ nhỏ độ chừng mươi đứa, đang đùa giỡn với nhau giữa đường ngay trước đầu xe của anh, dường như chúng chẳng quan tâm ǵ sự có mặt của anh cả. Chúng chẳng những không tránh đường cho anh mà cứ xô đẩy nhau về phía anh.
Qua ánh đèn, anh thấy lũ trẻ trông đứa nào, đứa nấy đen đúa lem luốc lắm, ḿnh trần mặc độc chiếc quần tà lỏn. Có một đứa ngước lên nh́n anh, rồi kéo một đứa khác lại nói ǵ đó anh không nghe rơ. Thấy đứa kia gật đầu tỏ vẻ đắc ư lắm.
“Quái lạ, con nít nào lại chơi giỡn vào canh khuya thế này? Thôi chết, gặp rồi!”. Vừa nghĩ tới đó da gà bắt đầu nổi lên, anh thấy run tay chân dường như muốn cứng lại. Song anh cũng đánh liều lách qua đám con nít, chớ hết đường rồi! Khi xe mới vừa lọt qua được, anh chưa kịp rồ ga lấy đà… vọt thẳng th́ anh nghe có tiếng: “Tụi mày ơi quá giang xe về nhà đi!”.
Anh thấy chiếc xe chao đảo mạnh, anh phải giữ chặt tay lái lắm chiếc xe mới không bị ngă. Anh nghĩ chắc tụi nó leo lên xe hết rồi, v́ cảm thấy chiếc xe như đang chở nặng lắm, chạy không muốn nổi, nhưng anh cũng không dám nh́n ra đằng sau.
Bây giờ chỉ c̣n cách duy nhất là ráng rồ hết ga mà chạy thôi! Trông cho mau tới chỗ, vái trời cho “con ngựa già” đừng trở chứng! Rồi Xe cũng từ từ bắt được trớn chạy nhanh dần, nhanh dần. Rồi anh thấy ḿnh cứ chạy măi, chạy măi...
Anh nghe văng vẳng bên tai: “Ông này uống rượu say rồi chạy lủi vô đây nằm ngủ. Gan thiệt! Đúng là điếc chẳng sợ súng!”. “Hay ổng bị té chấn thương sọ năo chết rồi?” Lúc đó anh giật ḿnh tỉnh lại, ngơ ngác nh́n quanh quất mới biết là anh đang nằm kề chiếc xe của ḿnh, trên một láng đất rộng, chớ đâu có đang lái xe!
Anh muốn trả lời cho mấy người đang nh́n anh, nhưng anh không tài nào nói được, chỉ ú ớ được vài tiếng. Thấy anh tỉnh dậy, mọi người mới dám lại gần đỡ anh dựng xe dậy. Có người giúp anh lấy từ trong họng ra nào là giẻ rách, hoa, cỏ.. đủ thứ.
Rồi cố gắng lắm anh mới nói được b́nh thường trở lại. Anh kể lại toàn bộ sự việc xảy ra với anh hồi đêm. Người ta nói là anh đă gặp ma Chàm và chúng đă dẫn anh vào nghĩa địa của đàng chúng, để làm mồi cho cặp rắn thần giữ mộ. May mà phước phận của anh c̣n lớn lắm, nên mới không bị cặp rắn đen to bằng bắp vế nơi đây làm hại.
Người ta c̣n cho biết thêm: ở nghĩa địa này đă có nhiều người bị cặp rắn này cắn chết xác họ bầm đen. Nghe nói thế lúc đó một lần nữa anh suưt té xỉu lại. Anh lấm lét đảo mắt nh́n quanh và nhận ra đây chính là khu nghĩa địa của người Chàm, những nấm đất lúp lúp, hai đầu mỗi nấm có hai viên đá cuội tṛn tṛn, thứ đá mà anh thấy lăn hồi hôm. Ôi kinh quá!
Không biết có phải v́ sợ quá hay sao mà khi về nhà, anh Tư Ngọ ốm liệt giường hơn cả tháng, thuốc thang đủ thứ mà vẫn không khỏi, bệnh t́nh mỗi lúc càng nặng thêm. Hàng đêm anh ngủ thường mơ thấy anh lạc tới một nơi nào đó âm u, hoang vắng lắm.
Bỗng nhiên một cặp rắn có mồng trên đầu, toàn thân đen x́ to và dài lao tới trước mặt anh ngóc đầu lên thật cao, lắc lư qua lại dường như muốn nhào tới cắn anh. Khi đó anh sợ quá hét to lên rồi giật ḿnh tỉnh giấc.
Có người nói anh đă bị vướng ở nghĩa địa Chàm. Cho nên hàng đêm anh mơ thấy cặp rắn, có nghĩa là hồn anh đă trở lại khu nghĩa địa. Thấy hồn anh tới cặp rắn giữ nghĩa địa mới ra để doạ anh. Cặp rắn này chẳng phải là rắn thường. Mà cặp rắn này là rắn thần do các thầy Chàm cao tay ấn luyện phép mà thành Do đó bệnh anh chỉ c̣n cách mời thầy Chàm làm phép hoá giải may ra mới khỏi được.
Thanh Hoài
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1130 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 7:38pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG ÂM HỒN XE LỬA (2)
Cái thời cách đây chừng hơn hai mươi năm trở về trước, phương tiện đi lại c̣n khó khăn lắm. Chẳng hạn như từ Phan Rang muốn đi xe đ̣ vào Sài G̣n, th́ đợi cả tháng chưa chắc ǵ có được một vé xe. V́ xe lúc đó được phép chạy ít lắm, vé xe chỉ dành ưu tiên cho cán bộ đi công tác, nếu thừa th́ đem ra ngoài bán chợ đen.
Vé chợ đen cao hơn giá quy định gấp nhiều lần. Tuy rằng người dân cũng rán bấm bụng chịu cái giá cắt cổ như thế, nhưng ai mà không giỏi giành giật, liên kết với mấy tay đầu gấu bến xe th́ chưa chắc có vé để mua. Đó là nói về xe đ̣, c̣n xe lửa cũng chẳng kém ǵ có khi c̣n tệ hơn nữa là cái chắc.
Cũng khó khăn lắm, mất ăn mất ngủ, phải tốn tiền cho bọn đầu gấu mới được có được cái vé chợ đen, để được đi tàu một cách đường đường chính chính! Mà cũng đừng tưởng là có được cái vé trên tay là được yên thân, đi tới nơi về tới chốn! Không dễ dàng như thế đâu! Ở trên tàu c̣n phải gồng ḿnh chịu trận một đống xà bần bát nháo, ăn cướp, ăn giật, móc túi, giành giật chỗ ngồi…ôi đủ thứ!
Nhưng trong hoàn cảnh không c̣n có sự chọn lựa nào khác, th́ cũng đành nhắm mắt chấp nhận mà thôi! Tuy nhiên, phải sống trong cảnh muốn đi đâu đó mà không dễ dàng ǵ, có được một chiếc vé xe hay tàu như vậy, người ta thấy ở tàu lửa có một lợi điểm hơn: Đi chui! Vâng, đúng vậy! Chỉ có đi chui th́ mới có thể giải quyết được cho số người cần đi mà không thể mua được vé tàu!
Chỉ cần chờ tàu dừng ở ga th́ leo lên kiếm chỗ ghế c̣n trống nào đó mà ngồi là xong! Khi tàu chạy gặp kiểm soát viên soát vé th́ chung một số tiền bằng một phần ba, hay một phần hai của giá vé là được, c̣n hôm nào gặp thanh tra th́ lo kiếm đường mà trốn, bằng cách giả vờ vào pḥng vệ sinh rồi ngồi luôn trong đó, hay là lẻn ra núp ở ngoài đầu tambong, c̣n bọn thanh niên trai tráng th́ trèo lên tuốt trên mui…Ngộ biến phải tùng quyền chớ biết làm sao!
Chính v́ sự trốn chui, trốn lủi như vậy mới xảy ra những vụ tai nạn rất thương tâm. Việc đứng ngoài tambong ngủ gục rớt xuống ḷng đường bị tàu cán qua, hay tai nạn do ngồi trên mui, khi tàu qua những cây cầu móng bị các thanh giăng gạt rớt xuống tàu, là những vụ tai nạn xảy ra hầu như thường ngày. Ở những nơi khác th́ tôi cũng không được rơ lắm, c̣n nơi tôi ở những vụ tai nạn kiểu này xảy ra không biết bao nhiêu mà kể. Nhiều, nhiều lắm!
Quê tôi có tuyến đường sắt đi qua hai cây cầu Móng. Một cây cầu dài năm nhịp, cây kia ngắn hơn chỉ có hai nhịp. Cây cầu được làm bằng sắt từ thời Pháp. Ở mỗi nhịp hai thành cầu, hai bên được uốn cong lên thành h́nh ṿng cung, trông như cái móng trời mưa nên người ta gọi là cầu Móng. Trên đỉnh hai móng của mỗi nhịp, được nối với nhau bằng những thanh sắt, có h́nh đường diềm để giữ hai móng cho chắc, người ta quen gọi là “ván nhện”.
Khi xe lửa chạy qua cầu, mui toa tàu chỉ cách mấy thanh “ván nhện” này chừng bốn, năm mươi phân mà thôi. Nếu có người đang nằm trên mui, chỉ cần ngóc đầu lên là bị thanh giăng ngang này tán một cái, là lật nắp hộp sọ và rớt xuống sông liền.
Hồi c̣n chiến tranh, cây cầu bị đặt bom làm sập xuống một nhịp giữa. Nhưng rồi sau đó liền được phục hồi theo nguyên trạng. Và cũng từ đó, có một điều khó hiểu là tất cả tai nạn xảy ra trên cầu, đều ở tại cái nhịp giữa này. Như: một hôm nọ có người đàn bà đang tới giữa cầu, th́ gặp xe của bọn kiêu binh Đại Hàn chạy tới.
Thấy có xe lớn, người ấy đứng lại và nép sát vào dải phân cách chờ cho xe chúng chạy qua. Hồi đó trên cầu có dựng một dải phân cách bằng sắt, cao chừng một mét dài dọc theo cầu, để phân ranh giữa đường xe lửa và xe hơi. Ấy thế mà bọn kiêu binh gian ác cho xe chạy tới ép kẹt người đàn bà vào dải phân cách, làm thân xác người đàn bà tội nghiệp bị bẹp dúm.
Đây là tai nạn đầu tiên xảy ra tại nhịp cầu này, kể từ sau khi nó bị sập. Nghe nói sau cái vụ tai nạn đó, đă xảy ra một trận hỗn chiến giữa lính người Việt với bọn Đại Hàn, người chết la liệt! Sau giải phóng cũng vậy, cầu sử dụng lâu quá mà không được duy tu sửa chữa, đà cầu găy làm đôi làm ba, rớt xuống sông lỉnh nghỉnh.
Ai đi qua phải ḍ từ bước một, hễ sơ ư một tí là rớt xuống sông, thậm chí chết người do phải va đầu vào đá. Cũng ngay tại cái nhịp này nhiều vụ lọt cầu đă xảy ra. Cũng may là chỉ bị thương thôi chứ chưa chết ai. Rồi bao nhiêu vụ gạt cầu cũng xảy ra tại đây.
Tôi cũng đă chứng kiến nhiều vụ gạt cầu kinh hăi lắm! Có người rớt xuống cái bịch là chết ngay v́ một nửa hộp sọ bị lật ngược ra sau. C̣n người hơi nhẹ hơn một chút th́ chưa chết liền, c̣n nằm lăn qua trở lại rên ư ử một hồi rồi mới chết. Phần đông số người bị tai nạn gạt cầu này, qua giấy tờ tuỳ thân được biết là người miền Bắc.
Một hôm nọ có thêm một vụ gạt cầu nữa xảy ra, mà nạn nhân là một chàng trai c̣n rất trẻ, ngoài nạn nhân c̣n có mấy người bạn nữa. Qua t́m hiểu, được biết anh chàng này mới vừa thi đỗ tốt nghiệp cấp ba, nên xin phép cha mẹ đi chơi. Do không có vé tàu nên mới lên mui để trốn kiểm soát viên. Khi tàu sắp qua cầu bọn họ đều nằm xuống.
Do úp mặt xuống nên không biết tàu qua khỏi cầu hay chưa. Đang lúc đó th́ có tiếng gọi: “Tàu đă qua khỏi cầu rồi tụi mày ơi, ngồi dậy đi”. Chưa kịp ngồi dậy th́ nghe “bực”, “Á”, rồi một cái “bịch” khiếp quá họ nằm yên luôn không dám nhúc nhích, cục kịch ǵ hết. Cho đến lúc biết tàu dừng hẳn họ mới leo xuống. Phải chờ từ sáng hôm đó cho tới chiều hôm sau, mới có cha mẹ đến nhận xác về. Bà con thấy thương t́nh cho cơm nước, củi đuốc thắp sáng cả đêm.
H́nh như sau vụ tai nạn đó, nhiều hiện tượng kinh dị lạ lùng đă xảy ra làm bà con không khỏi hoang mang lo lắng. Nhiều nhà ở sát theo hành lang an toàn của đường ray, họ xầm x́ bàn tán với nhau là: hàng đêm khi thiu thiu ngủ, họ thường thấy có mấy người đàn ông đầu mặt băng bó, tới nhà xin cơm ăn.
Họ nói, họ là những người bị chết v́ gạt cầu, hiện đang lang thang vất vưởng ở dưới sông. Họ muốn về nhà lắm mà không được, bởi không ai xin rước hồn họ về! Nay họ đói khát muốn xin cơm. Nếu gia chủ có ḷng bố thí, th́ mỗi bữa cơm chiều nhín lại một ít cho vào cái bát mang ra ngoài sân rồi nói: “Tôi để phần cơm này cho các vong linh bị tai nạn gạt cầu”.
Tuy nhiên những chuyện mộng mị thiếu cơ sở đó có người tin. Có người hảo tâm và hay tin những điều huyền bí, mỗi bữa cơm chiều nhín lại một ít mang để bên ngoài theo lời dặn, th́ không có chuyện ǵ xảy ra. C̣n gia đ́nh nào không làm như thế, th́ cả đêm xoong nồi chén bát như bị xáo trộn kêu loảng xoảng, cùng với tiếng la hét ồn ào làm náo động cả nhà, không thể nào ngủ được.
Sáng dậy, cơm trong nồi như có ai đó nhúng tay vào vọc phá, hôi ê. Chuyện không chỉ có thế, mà người ta c̣n kể rằng nhiều đêm, từ xa xa họ c̣n thấy ở dưới gầm cầu có mấy người ngồi quanh đóm lửa lập loè, chỗ anh học tṛ bị gạt cầu mấy hôm trước, nhưng khi đến gần th́ chẳng thấy ǵ hết.
Thuở ấy các vụ tai nạn gạt cầu đối với chúng tôi dù cũng c̣n thấy rùng rợn, ghê gớm thật, song cũng không c̣n ǵ lạ lùng đến nỗi kinh hăi như lúc đầu! Là v́ bọn chúng tôi đă từng chứng kiến không ít vụ thấy rùng rợn lắm. Ấy thế mà có một đêm sau khi gặp phải một vụ nữa, bọn tôi phải bỏ ḅ lê ḅ càn khóc la ỏm tỏi. Chuyện là thế này:
Mặc dù nghe người lớn nói bến sông xóm tôi có nhiều ma lắm, nào là ma da, ma bật cành tre, ma đuốc, ma gạt cầu…đủ thứ ma hết. Nhưng v́ băi cát rộng rải, mát mẻ đă lôi cuốn chúng tôi, nhứt là vào những đêm hè nóng nực lại bị cúp điện.
Lần đầu mới rủ nhau xuống chơi tuy cũng hơi sợ sợ, nhưng chẳng thấy có ma quỷ hay lửa củi ǵ hết, nên dần dần không c̣n sợ nữa. Chơi riết thành quen, thành ghiền. Hễ đến tối sau khi xong bài vở là bọn tôi rủ nhau xuống sông chơi. Trên băi cát sạch sẽ trải dài từ chân cầu về phía dưới vài trăm mét, chúng tôi tha hồ bày đủ tṛ chơi.
Chơi xong chúng tôi nằm dài trên cát kể chuyện tào lao bá xàm, bá láp, biết ǵ kể nấy. Tôi thường hay kể cho chúng nó nghe những chuyện ma, mà tôi thường ngồi nghe lóm mấy bà già hàng xóm kể, khi mỗi tối tối mấy bà tới chơi với má tôi. Thằng nào nghe cũng sợ cứ đ̣i chen vào giữa mà nằm.
Kể hết chuyện rồi chúng tôi nằm ngắm sao trời. Thỉnh thoảng có ngọn gió mang hơi nước thổi tới mát rượi làm chúng tôi thiu thiu. Có nhiều lúc cả bọn nằm ngủ quên đến khuya lơ khuya lắc, mới giật ḿnh dậy kéo nhau về. Bữa ấy như thường lệ, chúng tôi chơi xong rồi nằm xoài ra đó cách chân cầu chừng hơn hai mươi mét, kể chuyện vẩn vơ.
Áng chừng, lúc đó, khoảng gần mười giờ khuya, trên cầu vắng tanh hầu như chẳng có ai qua lại. Chúng tôi nằm chừng một chập, th́ nghe có đoàn tàu ầm ỉ chạy qua cầu. Cái âm thanh chuyển động của đoàn tàu khi qua cầu trong đêm vắng nghe cũng dễ sợ lắm, cứ tưởng như là cầu sắp sập tới nơi!
Khi đoàn tàu chưa kịp qua hết cầu th́ trong âm thanh chuyển động ầm ầm của đoàn tàu, bọn tôi vẫn nghe rơ như có cái ǵ từ trên cầu rớt xuống cầu một cái “bịch”. Lúc đó một đứa trong bọn nói: “H́nh như có cái ǵ trên tàu rớt xuống”.
Mặc dù biết vậy, nhưng chúng tôi chưa dám chạy tới xem là cái ǵ, v́ chúng tôi sợ đà cầu găy rơi trúng. Chờ cho đoàn tàu qua hết cầu, chúng tôi mới dám lần tới. Khi tới hơi gần gần tôi nghe có tiếng rên ư ử. Tôi ra hiệu cho cả bọn đứng lại và nói: “Chết rồi tụi mày ơi, có gạt cầu”.
Lúc này thằng nào trong bọn tôi cũng thấy điếng hồn. Dừng một lát chúng tôi lấy lại can đảm nắm lấy tay nhau bước lần tới. Có hai thằng nhát gan không dám đi theo nữa mà bỏ chạy về. Đúng như tôi đoán, trước
mắt chúng tôi là cái xác người đàn ông đang rên ư ử, uốn ḿnh trở qua trở lại.
Dưới ánh sáng mờ mờ của hai bóng đèn sáu tấc hắt qua từ đầu cầu phía bên kia sông, tôi thấy cái mặt của anh ta từ trán cho đến dưới mũi bị bầm dập và bẹp dúm vào bằng phẳng, không c̣n chỗ lồi lơm giữa trán hốc mắt và sống mũi, như thể có ai đó dùng một tấm ván đè lên mặt, rồi lấy một chiếc búa vỗ một cái thật mạnh xuống vậy, làm cho cái khuôn mặt của anh ta biến dạng, trông giống như chiếc đĩa bàn.
Tuy cũng thấy sợ thật, nhưng chúng tôi cố đứng đó nh́n anh ta oằn oại mà tội nghiệp chớ đâu biết làm ǵ hơn, cho đến khi anh ta rên thêm mấy tiếng ư ử rồi uốn éo thêm mấy cái nữa th́ mới chịu nằm yên. Lúc đó làm ǵ có chuyện gọi cấp cứu như bây giờ!. Nghĩ anh ta đă chết rồi, bọn tôi mới trở về báo cho người lớn biết.
Mới vừa bước đi độ chừng chục bước, bọn tôi nghe ở đằng sau lưng có tiếng cười: “hả...hả...hả…”. Hoảng hồn bọn tôi quay nh́n lại….th́ trời ơi, trước mắt bọn tôi là cái xác kia, không biết nó bật dậy hồi nào mà nó đứng dựa vô cái hột xoài cầu, ch́nh ́nh một đống quay về phía bọn tôi.
Nhưng mà, hồi năy nó nằm th́ tôi không thấy hai con mắt của nó, c̣n bây giờ trên cái bản mặt dĩa bàn của nó chỗ hai con mắt, là hai cái hốc đen thui thùi lùi như nó đang nh́n lũ tụi tôi, rồi tiếp tục cười hô hố!
Trời, lúc này hồn vía đứa nào đứa nấy đều lên mây, tay chân run lẩy bẩy, h́nh như những căp gị của bọn tôi bị chôn chặt dưới cát rút lên không nổi, làm cả bọn phải ḅ lê ḅ càn, ôm nhau mà la mà khóc. Có thằng cố gượng lên được sắp co gị chạy, th́ thằng khác níu lấy chân kêu: “chờ tao với”.
C̣n cái thằng xác chết đó chắc thấy lũ tôi sợ quá, như được nước nó làm tới cười càng to hơn nữa, tiếng cười nghe tưởng ở ngay sau lưng, làm cho bọn tôi cảm giác như nó đang sắp theo gần tới rồi. Cả bọn chúng tôi đứng lên lại khuỵu xuống, cố bước tới vài bước lại ngă xuống, cứ thế không biết bao nhiêu lần mà kể.
Ấy vậy mà, cuối cùng th́ bọn tôi cũng lần được tới bờ dốc, chỗ lên xuống bến sông. Vừa ḅ lên hết dốc, bọn tôi cũng vừa gặp hai thằng hồi năy và mấy người lớn đang đi xuống. Bọn tôi nhào tới ôm chặt họ lại thở hào hển. Họ hỏi ǵ chúng tôi cũng chỉ lắc đầu, rồi đưa tay chỉ về hướng cầu chớ nói chẳng ra hơi!
Chắc tưởng bọn tôi thấy người bị cầu gạt nên sợ quá bỏ chạy. Họ vừa gở tay chúng tôi ra, họ vừa nói: “Tụi mày nhát gan quá, có ǵ đâu mà sợ! Tụi mày, đứa nào cũng thấy gạt cầu hoài chờ không đâu”. Bỏ tụi tôi lại đó, họ tiếp tục đi theo hai thằng kia. Tới nơi họ chẳng thấy có xác chết nào cả, ngoài cái băi đá lổm chổm.
Có người nóng tánh nói hai thằng kia xí gạt họ. Làm hai thằng ú ớ chẳng biết giải thích ra sao! Song cũng có người cẩn thận hơn nh́n hai thằng nó với ánh mắt thông cảm và h́nh như họ cũng đă chợt hiểu ra điều ǵ!
Kể từ đêm đó cho đến hai ba năm về sau, chúng tôi không c̣n dám xuống sông chơi vào ban đêm nữa. Rồi chuyện bọn tôi thấy ma cũng được đồn lan ra, làm cho cả người lớn cũng sợ không dám xuống sông một ḿnh, chỉ trừ có bác Tư Đờn. Mà thật vậy, cho dù ai có sợ ǵ th́ sợ, chớ c̣n đối với bác Tư Đờn th́ vô tư chẳng sợ ǵ cả.
Đều đặn mỗi tuần ba đêm, bác vác chài lội nát cả khúc sông cho đến hai ba giờ sáng mới về. Sở dĩ bác có cái biệt danh Tư Đờn là v́ bác có ngón đờn bầu hay lắm. Có nhiều người “cau trầu” đến xin bác dạy ngón đờn, nhưng bác không nhận lời ai cả. Bác nói, không phải bác hiểm mà là bác không biết ǵ để dạy. V́ bác có được học ở một ông thầy nào đâu!
Mà thầy của bác là ma. Bác chỉ cách cho mấy người muốn học đờn là: Phải kiếm cho được mấy miếng ván ḥm bốc mộ làm một cây đờn. Rồi chuẩn bị một bàn hương án. Chờ đến đêm khuya, tắm rửa sạch sẽ, trang nghiêm thiết bàn hương án ở giữa sân, đặt cây đờn lên đó mà ngồi khảy, khảy sao cũng được.
Đêm khuya thanh vắng nghe có tiếng đờn là có ma tới nghe. Dĩ nhiên trong số đó sẽ có những hồn ma lúc c̣n sống là những bậc thầy về đờn. Khi đến nghe, thấy ta đờn tầm bậy th́ họ sẽ dạy cho ta. Ngày xưa bác Tư Đờn cũng đă học như thế. C̣n chuyện bác không sợ ma là v́ nghe nói bác đă quá quen với chuyện thấy ma quỷ.
Bác đă từng luyện vơ với ma! Cho nên bây giờ hễ có con ma hay thằng ma nào xấc láo với bác, bác nện cho một cú “thôi sơn” là ú mắt hết thấy đường luôn, chớ đừng có ở đó mà nói tới chuyện lào cào! Người ta nói, bác Tư có một thuật bí truyền là có thể kêu ma về dạy chiêu hay luyện vơ với bác.
Cho nên vơ nghệ bác Tư giỏi lắm. Có người được xem bác Tư luyện vơ với ma kể lại, hễ khi nào muốn luyện th́ canh khuya, bác ra ngoài nghĩa địa đọc chú gọi hồn ma lên luyện với bác. Lúc bác luyện mọi người muốn
xem phải t́m lùm bụi nào đó mà núp vào, chỉ c̣n một ḿnh bác bên ngoài thôi; c̣n không th́ ma họ không lên.
Người xem ở trong bụi nh́n ra th́ chỉ thấy một ḿnh bác múa may đánh hự hự vào không khí, chớ chẳng thấy có đối phương nào hết. Đến lúc không muốn luyện nữa th́ bác niệm chú “Xả” để các hồn ma trở về. Nhiều lúc sau khi bác luyện như thế, người ta thấy mặt mũi bác bầm tím, nhưng bác nói là không thấy đau.
Một hôm nọ, như thường lệ bác Tư đi quăng chài. Khi lội tới mé nước gần cái chỗ mà bọn tôi thấy hồn ma mặt bẹp trước kia, bác Tư thấy có mấy bóng người ngồi xung quanh một cục lửa lập loè như ánh đuốc ma trơi. Bác nghĩ, chắc đó là mấy tụi lưu manh, ăn cắp ăn trộm ngồi tụm lại bàn tính phi vụ “ăn hàng” nhà nào.
Bác giả vờ không quan tâm, chỉ lo chăm chú quăng chài. Nhưng thực ra bác chú ư đến từng hành vi, cử chỉ của bọn chúng đến chẳng bỏ sót một chi tiết nhỏ nào. Khi bác Tư lội nước nhẹ nhẹ đến hơi gần bọn nó (bọn nó ngồi trên bờ, bác Tư quăng chài dưới nước) th́ bác nghe một thằng đồng bọn nói: “Tụi ḿnh ngồi chờ tàu qua, rồi nhảy lên kéo con nhỏ ngồi ở đầu tambong xuống đây chơi cho vui”.
Giật ḿnh khi nghe bọn nó bàn tính tới cái chuyện hung dữ ghê gớm như vậy, bác Tư thấy rợn cả gai óc. Song bác Tư cũng kịp lấy b́nh tỉnh trở lại. Bác nói thầm trong bụng: “Tụi mày, mấy thằng ma quỷ mà hồi năy tôi tưởng là người. Tụi mày đă chết rồi mà chưa chịu yên thân, c̣n bàn tính làm những chuyện hung ác. Coi ông nội mày cho tụi mày biết tay, đừng láu cá nghe con”.
Đoạn bác Tư lập tức ngưng tay vác chài đi trở lên. Tới bờ bác Tư nhè nhẹ bước tới gần về phía tụi nó. H́nh như tụi nó không hay có bác Tư đến nên vẫn ngồi đó. Độ đúng vị trí thích hợp để xuất chiêu, bác cung tay xoay người một cái thật điệu nghệ, chiếc chài trên vai bác bung ra như chiếc lồng bàn tổ bố chụp xuống đầu mấy thằng ma quỷ đó.
Tưởng đâu cả bọn nằm trọn trong chiếc “lồng bàn” giăy dụa tùm lum, chờ bác Tư đến cho mỗi thằng một cú thôi sơn trời giáng cho biết mặt. Ai dè bác Tư nh́n lại chiếc “lồng bàn’’ của ḿnh th́ chẳng thấy có thằng nào và lửa củi ở đâu hết, tất cả chỉ toàn là đá với đá!
Đánh hụt mất một mẻ lưới ngon, bác Tư tức anh ách!Nghĩ là bọn nó đă biến lên cầu chờ “con hàng”, vậy bác Tư phải nhanh tay hơn bọn chúng mới được. Bác lập tức quàng các thứ lên vai, ba chân bốn cẳng đi thẳng lên đầu cầu, rồi cứ theo đường xe lửa mà cắm đầu cắm cổ chạy miết.
Ra tới ga, bác tư thấy đoàn tàu Bắc, Nam đang tạm dừng chờ đến giờ chuyển bánh. Bác Tư chạy ngược về phía đoàn tàu, vừa chạy vừa nh́n vào chỗ mấy đầu tambong, th́ bác cũng vừa kịp thấy ở một đầu tambong nọ có một cô gái đang ngồi cúi đầu khoanh tay bó gối ngủ gục.
Bác vội vă nhảy lên tàu, song cũng không quên mang theo tay chài và giỏ cá. Bác chen với hành khách đang lên xuống tàu, làm cho mấy người khách khó tính phải kêu lên: “Ông già này đi đâu mà chen lấn vậy trời. Bộ
ở sông hết cá hay sao mà lên đây đánh cá, cá mắm ǵ ở trên đây vậy cha nội?”
Chẳng thèm quan tâm đến ai nói ǵ. Bác xâm xâm đến chỗ cô gái, nắm tay lôi xềnh xệch vào bên trong. Đang ngủ mơ mơ màng màng, mà bị kéo bất th́nh như vậy làm cô gái giật ḿnh, không kịp phản ứng ǵ chỉ la oái, oái. Những hành khách thấy vậy cứ ngỡ là cô gái là con bác Tư bỏ nhà trốn đi rồi bị ông bắt lại. Nhưng sau khi nghe cô gái vừa la vừa nói: “Tôi ngồi đâu kệ tôi, mắc mớ ǵ ông lôi kéo tôi vậy lăo già mắc dịch?” lúc đó họ mới biết ông không phải là ba của cô gái.
Thả tay cô gái ra, chờ mọi người yên lặng rồi bác Tư mới ôn tồn giải thích đầu đuôi sự việc. Nghe như vậy, cô gái mới xanh mặt, chấp tay lạy bác Tư như cần cối đạp. Bác Tư nghĩ cô gái này đă hạp với bọn chúng rồi th́ không được bằng cách này, th́ bằng cách khác bọn chúng cũng giục cô ta chết với chúng.
Đoạn bác Tư dặn cô gái sau này đừng nên đi tàu lửa nữa, nói rồi bác gỡ miếng ch́ của tay chài đưa cho cô gái giữ làm vật hộ thân. Lúc này đoàn tàu cũng vừa tới chỗ gần cầu Móng. Cũng may tài xế cho tàu chạy chậm lại để người ta đưa thuốc lá lậu lên, nên bác Tư mới có cơ hội nhảy xuống tàu mà về nhà, c̣n không chắc bác Tư cũng phải vô tới Sài G̣n luôn. Đến lúc đó th́ chắc cũng khổ cho đời bác Tư.
Sáng hôm sau, tin bác Tư Đờn có ḷng tốt cứu người được lan ra rất nhanh. Mọi người ai cũng thầm mến phục bác Tư. Rồi sau đó v́ tuổi già sức yếu, bác Tư không c̣n đi quăng chài nữa. Bác thường đến nhà chơi với ba tôi. Bác cũng mến tôi lắm. Lúc vui tôi cũng hỏi tới chuyện này và tôi đă được chính bác Tư kể lại chi tiết.
Nay bác Tư đă mất lâu rồi mà mỗi khi tôi nghe lại bản nhạc “Những đóm mắt hoả châu” là tôi nhớ tới bác Tư nhiều lắm. Bởi không biết ở đâu bác Tư có được một trái hoả châu c̣n mới tinh. Tết năm ấy bác mang cho tôi và hướng dẫn tôi cách bắn rất bài bản. Tối giao thừa tôi bắn trái hoả châu của bác Tư lên. Một cục lửa sáng loà treo lơ lững giữa không trung soi sáng “một vùng tâm tư”. Tôi thấy nó “đă” quá trời luôn!
Thanh Hoài
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1131 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 7:41pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN NHỮNG XÁC ƯỚP VIỆT
BÍ ẨN NGÔI MỘ CỔ VÂN CÁT
KỲ MỘT
Bí ẩn những xác ướp kèm những huyền thoại và thông điệp từ một quá khứ thẳm sâu nào đó, luôn tạo nên thách thức cho hậu thế trong những cuộc kiếm t́m, giải mă. Lần này Phóng Viên mời bạn đọc trở lại những dấu ấn trong hành tŕnh khám phá bí ẩn, của các trường hợp xác ướp tại Việt Nam.
Hàng trăm năm qua, tấm thân những dân thường, công hầu, vua chúa... với sự bảo quản t́nh cờ hay chủ ư của tiền nhân, đă tồn tại yên b́nh và nguyên vẹn trong giấc ngủ ngàn thu. Chính giấc ngủ của họ đă thành trang sử đặc biệt, để hậu thế có thể minh định rơ những ẩn khuất của dân tộc, trải qua bao cuộc dâu bể thăng trầm...
Hà Nội. Một chiều rét. Giáo Sư Đỗ Văn Ninh sống lại kư ức ngôi mộ cổ đặc biệt từng khai quật. Ngược thời gian bốn mươi hai năm trước, đó là g̣ đất ở thôn Vân Cát, xă Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Hà giờ là Nam Định.
Phủ Vân, đền thờ chúa Liễu Hạnh, gần đó quanh năm thu hút người dân hương khói, nên g̣ đất hoang này trông càng đ́u hiu, cô quạnh hơn. Rồi một ngày dân địa phương đào g̣ lấy đất đắp đường. Và ngôi mộ cổ bí ẩn phát lộ.
Cuộc Đào Mộ Trong Đêm
Được tin địa phương báo lên, Giáo Sư Đỗ Văn Ninh cùng đồng nghiệp, háo hức chuẩn bị ngay việc khai quật. Ông nhớ cảm giác hồi hộp khi biết mộ nằm trên vùng đất cổ, khởi phát nền văn minh sông Hồng đă trải qua bao biến động lịch sử.
Giải mă những bí ẩn mộ cổ này sẽ góp phần làm rơ thêm trầm tích lịch sử, văn hóa nước Việt. Cuộc khai quật bắt đầu từ ngày 4 đến 8-11-1968. Họ thắp đèn làm đêm, đặc biệt là phần khai lộ quan tài để tránh sự hủy hoại của nắng trời và người dân ṭ ṃ.
Suốt ngày đêm địa phương phải cử dân quân bảo vệ hiện trường. Tuy nhiên, chính việc làm đêm hôm lại khiến người dân ṭ ṃ hơn. Họ theo dơi sát sao xem xác ướp và báu vật dưới mộ cổ. Nhưng cũng có những người xem người đă mất là tổ tiên và muốn rơ sự thật về tiền nhân.
Phần ngoài mộ cổ này được bảo vệ một cách chắc chắn và bí mật, như các ngôi mộ Hán cổ t́m thấy ở nước Việt. Khi xây xong mộ, đất được đắp trùm lên thật nhiều để hậu thế nhầm tưởng là g̣ đồi tự nhiên. Người nằm dưới có thể yên giấc ngàn thu mà tránh được ḷng tham của kẻ trộm mộ, cũng như sự đào phá của người thù.
Sau này, người ta lần ra được đầu mối bằng cách t́m kiếm ao vũng gần đó. Nếu cạnh g̣ đất mà có ao vũng cũng xa xưa như vậy, th́ có thể đó là g̣ mộ. Người xưa muốn đắp điếm che giấu mộ th́ phải đào đất. Điều này thường thấy ở các mộ Hán cổ.
Trong trí nhớ chính xác của giáo sư Ninh, mộ cổ Vân Cát nằm trong g̣ đất vuông cạnh khoảng 11m và cao hơn mặt ruộng 1,5m. Người già địa phương kể ngày xưa g̣ đất này lớn hơn nhưng đă bị người dân đào lấy dần.
Mộ chính xây bằng hợp chất vôi, cát nằm giữa g̣ đất, đầu quay về hướng nam chếch tây khoảng hai mươi độ. Lớp đất ngoài được đào tung, nhưng vẫn không t́m thấy bia đá ghi danh tánh người mất như các mộ cổ khác thường khắc trên bia đá tự nhiên bền bỉ với thời gian. Bí ẩn ngôi mộ cổ càng thêm bí ẩn!
Qua lớp đất, nhóm khảo cổ tiếp tục khai mở phần quách. Việc này khó khăn và mất nhiều công sức nhất v́ nó được làm bằng hợp chất rất dày, cứng chắc hơn cả bêtông. Chưa có ximăng, người xưa dùng vôi, cát, mật để xây dựng. Thậm chí người ta c̣n nung vôi từ các vỏ ṣ giă nhuyễn. Hợp chất làm quách thay cho bêtông ngày nay không chỉ rất cứng, bền, mà c̣n mịn dẻo để chống sự nứt nẻ, bở mục theo thời gian.
Hầu hết xác ướp phát hiện ở Việt Nam đều được loại quách đặc biệt này bao quanh. Chính nó góp phần quan trọng ǵn giữ thi hài bên trong. Nhóm khảo cổ Vân Cát khó khăn lắm, mới phá vỡ được vỏ quách dày gần 0,3m bao quanh quan tài và được đổ kiên cố bằng mười ba mẻ hợp chất. Sau hàng trăm năm, dấu vết mười mẻ đổ quách vẫn c̣n lại với các lớp nối tiếp sậm, nhạt không đồng màu.
Giấc Ngủ Hàng Thế Kỷ
Đêm khai quật cuối, đàn hương nghi ngút khói để chuẩn bị mở nắp quan tài. Người dân im phăng phắc trong cảm giác sờ sợ lẫn ṭ ṃ. C̣n các nhà khảo cổ th́ hồi hộp, xúc động. Bí ẩn của tiền nhân và lịch sử xă hội hàng trăm năm trước, đang nằm sau tấm gỗ sắp lộ thiên. Quan tài lớn, dày gần mười cm, gồm hai loại gỗ ghép lại với nhau mà bên ngoài là gỗ hiếm ngọc am hay c̣n gọi san mộc, mặt trong bằng gỗ lim.
Nhà khảo cổ Đỗ Đ́nh Truật, cộng sự của Giáo Sư Ninh, nhớ như in khoảnh khắc bốn mươi hai năm trước:
- Chúng tôi từng khai quật nhiều xác ướp, nhưng vẫn sửng sốt khi nh́n bà như người bệnh đang say ngủ trong ḷng quan tài, bốc mùi thơm thảo mộc thoang thoảng. Gương mặt bà vẫn mịn màng, thanh thoát nét đài các, dịu dàng.
Ông kể nếu thay quan tài là giường, mọi người sẽ nghĩ bà đang mê man giấc ngủ b́nh yên. Đó là người phụ nữ khoảng sáu mươi tuổi, tóc dài chớm hoa râm. Lúc mới lộ thiên, làn da toàn thân bà vẫn trắng mịn, mềm mại. Các khớp chân, tay có thể co duỗi dễ dàng. Mô ngực vẫn c̣n h́nh hài mà chưa xẹp xuống hoàn toàn. Đặc biệt, hốc mắt vẫn c̣n rơ ḷng đen, trắng. Hai hàm răng nhuộm đen cũng chưa rụng chiếc nào...
Ông Truật kể lúc đó ḿnh c̣n trẻ, đă vô tư nhờ một phụ nữ địa phương trạc tuổi người đă mất, đến gần thi hài người chết, để so sánh "ai đẹp hơn ai". Trong quan tài, người phụ nữ được đặt nằm trên tấm thất tinh, phía dưới là lớp gạo rang dày hai mươi cm rồi mới đến đáy quan tài.
Tấm thất tinh là miếng gỗ đục thủng bảy lỗ theo h́nh chùm sao đại hùng tinh Bắc đẩu, được người xưa tin là thuật phép đạo Lăo. Nó "quản lư" vong hồn người chết và bảo vệ họ khỏi tà ma, yêu quỷ phá phách. Thực tế tấm thất tinh này c̣n có tác dụng thoát nước xuống lớp gạo rang bên dưới, để bảo quản thi hài.
Cùng hàng trăm vật táng tạm xác định khoảng đầu thế kỷ mười tám, các nhà khảo cổ trăn trở măi với tấm minh tinh trên quan tài có ḍng chữ Hán:
"Đặng thượng phụ y phu nhân Phạm Thị Nguyên Chân, giáo hùng tuệ đức tôn linh...". Đó là đầu mối giúp họ đi t́m thân phận xác ướp để giải mă bao điều c̣n ẩn khuất trong lịch sử tiền nhân.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1132 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 7:42pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN NHỮNG XÁC ƯỚP VIỆT
GIẢI MĂ XÁC ƯỚP
KỲ HAI
Từng khai quật và nghiên cứu nhiều xác ướp, nhưng Giáo Sư khảo cổ học Đỗ Văn Ninh cùng đồng nghiệp, vẫn ngạc nhiên trước những bí ẩn của xác ướp, trong mộ cổ Vân Cát.
Nằm đ́u hiu dưới g̣ đống hoang tàn, nhưng xác ướp này có lẽ không phải là dân thường, với táng thức trong mộ hợp chất và quan tài bằng gỗ ngọc am, công phu và tốn kém. Tiền nhân đă chủ ư bảo quản thi hài này không về với cát bụi. Đặc biệt, hàng trăm đồ vật táng theo cũng chứng tỏ danh phận bà không đơn giản. Nhưng bà là ai?
Đằng Sau Trang Đại Tạng Kinh
Trong chiếc quan tài gỗ ngọc am c̣n rất tốt, các nhà khảo cổ đă phát hiện xác ướp được mặc đến ba mươi lăm chiếc áo thụng bằng gấm, lụa, có cái được thêu cả kim tuyến cầu kỳ. Để về với thế giới bên kia, bà c̣n được mặc mười tám chiếc váy vải, lụa.
Ngoài hàng chục chiếc gối chèn lớn nhỏ, bà mang theo những thứ thiết thân trong cuộc sống phụ nữ bấy giờ như quạt nan giấy mười tám nan gỗ, túi trầu bằng gấm thêu với mười miếng trầu đă têm và mười miếng cau tươi, cùng túi gấm đựng thuốc lào, khăn lau miệng bằng lụa, mũ lụa.
Trong miệng xác ướp ngậm một đồng tiền Khang Hi thông bảo và hai đồng Hồng Hóa thông bảo để "trả tiền đ̣ qua sông âm phủ"...
Hầu như tất cả đều c̣n trong t́nh trạng nguyên vẹn, chưa bị hư hỏng. Bước đầu những táng vật này đă nói lên được người đàn bà đó giàu có, ít nhất trong giai đoạn cuối đời.
Đặc biệt cùng với chuỗi hạt nhà Phật, được kết từ một trăm hạt gỗ đen, trên ngực xác ướp c̣n được đặt trang trọng một túi gấm đựng hai quyển Đại tạng kinh và Tu tinh thổ tiệp kinh. Từ những quyển kinh này, Giáo Sư Ninh đă tạm xác định danh phận người đàn bà không chỉ giàu sang, mà có thể c̣n thuộc gia đ́nh quan quyền.
Ngày xưa, nhiều vua quan nước Việt và thân nhân đă chọn đường tu cuối đời. Xác định được niên đại an táng khoảng đầu thế kỷ mười tám và xác ướp là người quyền quư, tu hành, các nhà khảo cổ tiếp tục lần giở sử sách nhà Hậu Lê để trả lại tên tuổi cho người đă khuất.
Chẳng có ai vô danh trên cơi đời này. Hàng trăm năm sau, xác ướp vẫn c̣n đó, chẳng lẽ lại không t́m được danh phận bà?
Giáo Sư Ninh cùng đồng nghiệp đă bám sát đầu mối là những chữ "Đặng thượng phụ y phu nhân Phạm Thị Nguyên Chân..." trên tấm minh tinh. Đă chắc người này là vợ người chức sắc hoặc vai tṛ lớn với triều đ́nh, nhưng họ vẫn phân vân. Có người nghĩ đó là vị quan họ Đặng làm chức thượng thư triều Hậu Lê. Nhưng cũng có diễn giải khác rằng chữ "thượng phụ" không nhất thiết nghĩa thượng thư.
Sử Trung Quốc, Văn Vương nhà Tây Chu đầu thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, đă mời Khương Tử Nha (Lă Vọng) về làm thượng phụ. Đó không phải chức quan mà là danh tặng người có vai tṛ quan trọng, cố vấn vua, và ở hàng tuổi tác ngang cha vua.
Thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, từ "thượng phụ" cũng xuất hiện khi vua Cao Tôn, nhà Ân mời người đẩy xe đất về làm thượng phụ, cố vấn ḿnh.
Từ đó, nhà khảo cổ biết thêm chi tiết quan trọng vị thượng phụ họ Đặng, phu quân xác ướp, có tuổi ít nhất cũng tương đương cha đẻ vua chúa cùng thời. Sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú ghi rơ có một ḍng họ Đặng, hơn hai trăm năm vinh hoa phú quư, hơn cả họ các công thần khởi đầu từ Nghĩa quận công Đặng Huấn.
Giáo Sư Ninh kể ông cùng đồng nghiệp đă lần truy gia phả họ này và phát hiện đây thật sự là một ḍng họ lẫy lừng. Khởi đầu là Nghĩa quận công Đặng Huấn mất năm 1583 đến Hà quận công Đặng Tiến Vinh, rồi con cháu nhiều đời cũng đều làm quận công hoặc hiền trung hầu, thống lĩnh.
Khoanh trấn Sơn Nam, địa danh cũ nơi chôn xác ướp và loại suy những người họ Đặng khác thời, nhà khảo cổ lần ra được mấy người cùng làm quận công vùng này là Đặng Đ́nh Tướng, Đặng Đ́nh Giám, Đặng Đ́nh Lân.
Trong họ, Đặng Đ́nh Tướng tham dự sâu triều chính, đối tượng gần nhất với chữ "thượng phụ". Ông sinh năm 1649, tên nguyên Đặng Thụy, hiệu Trúc Trai, đỗ đồng tiến sĩ năm 1670, được sung chức phó sứ sang nhà Thanh năm 1697.
Cuộc đời ông đă trải nhiều chức vụ, vai tṛ quan trọng trong triều đ́nh như vơ đô đốc, ứng quận công, thái phó, quốc lăo, đại tư mă...Ông mất lúc tám mươi bảy tuổi, năm 1735, được phong phúc thần.
Như vậy, các diễn giải lịch sử và chứng cứ khảo cổ đă tạm giải mă được bí ẩn danh phận của xác ướp. Phạm Thị Nguyên Chân có thể chính là phu nhân thượng phụ Đặng Đ́nh Tướng.
Nhưng một bất ngờ nữa lại hé lộ ...
Lời Giải Từ Xác Ướp Thứ Hai
...Ba năm sau, mùa hè1971, bom Mỹ làm bật tung một bia đá mộ cổ ở g̣ Lăng Dứa, xă Thượng Lâm, huyện Mỹ Đức, Hà Tây. Mặt trước bia khắc chữ Hán: "Đặng công quận phu nhân Bùi Thị chi mộ". Mặt sau có hàng chữ "Vĩnh Thịnh thập niên mạnh xuân thượng nhật lập".
Bí ẩn xác ướp Vân Cát có thể được trả lời chính xác từ mộ cổ thứ hai này ở cách hàng chục kilômet.
Khi khai quật, mọi người ồ lên khi thấy tấm minh tinh có ghi rơ rằng bà là Bùi Thị Khang, chính thất ứng quận công họ Đặng, và năm lập mộ chí là "Vĩnh Thịnh thập niên", 1714, triều vua Lê Dụ Tông.
Như vậy, dù hai xác ướp phụ nữ khác biệt thời gian táng, nhưng đều có thể là vợ Đặng Đ́nh Tướng.
Các nhà khảo cổ đă về làng Lương Xá, huyện Chương Mỹ, Hà Tây, t́m đọc Đặng phả và ngỡ ngàng thấy mười ba đời Đặng quận công đều được chép tỉ mỉ trong Đặng thế gia phả kư.
Ứng quận công Đặng Đ́nh Tướng là đời thứ chín, lập bà Bùi Thị Khang làm chính thất. Sau đó, ông lập tiếp Phạm Thị Đằng, cháu bà Khang, làm thứ thất. Là con gái út Uyên thái hầu, bà Đằng gọi bà Khang là cô.
Từ đây, bí ẩn mộ cổ ở Vân Cát đă trở nên rơ ràng bằng lời giải từ xác ướp Bùi Thị Khang. Xác ướp Phạm Thị Nguyên Chân ở Vân Cát chính là bà Phạm Thị Đằng (Nguyên Chân là tên thụy lúc chết, c̣n tên húy là Đằng).
Cùng táng thức bằng quách hợp chất bao bọc quan tài gỗ quư ngọc am, nhưng thi hài bà Bùi Thị Khang không c̣n tốt như thi hài bà Phạm Thị Đằng. Khảo cổ học đă t́m hiểu kỹ và xác định nguyên nhân do nấm mộ của bà Khang bị bom đạn làm nứt vỏ quách.
Những đồ vật táng theo bà Khang cũng ít hơn bà Đằng chứng tỏ bà mất lúc Đặng Đ́nh Tướng chưa làm quan lớn. C̣n bà Đằng mất sau, vào lúc phu quân đă công thành danh toại lẫy lừng cuối đời nên đồ vật gửi cho vợ sang thế giới bên kia cũng dày dặn, sang trọng hơn.
Hồi tưởng chuyện xưa, nhà khảo cổ già Đỗ Văn Ninh mỉm cười thanh thản:
- Giải mă bí ẩn xác ướp đâu chỉ là kỹ thuật chôn cất, mà c̣n góp phần làm sáng tỏ nhân t́nh thế thái xă hội đương thời, để con cháu nước Việt đời sau không quên tổ tiên ḿnh.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1133 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 7:43pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN NHỮNG XÁC ƯỚP VIỆT
SỰ TRỞ LẠI CỦA ĐỨC VUA
KỲ BA
Một sáng xuân năm mươi hai năm trước, trên ngọn đồi rậm rạp cây cỏ, nấm mộ vua Lê Dụ Tông bất ngờ được người làm vườn thôn Bái Trạch, xă Xuân Giang, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa phát hiện.
Tuy nhiên, hoàn cảnh lúc đó chưa cho phép đánh thức giấc ngủ trong ḷng đất hàng trăm năm của nhà vua. Và bí ẩn ngôi mộ cổ chôn cất thi hài vua Lê Dụ Tông vẫn tiếp tục là bí ẩn nằm sâu dưới nắp quan tài...
Lời Đồn Và Sự Thật
Chính điều này đă dấy lên dư luận ngoài luồng nghi ngờ có phải mộ vua Lê Dụ Tông thật, hay chỉ là mộ giả để tránh sự xâm hại khi triều đại hưng vong, thời cuộc biến động. Thậm chí nhiều người xác quyết mộ thật đang ẩn sâu đâu đó trong Lam Kinh cùng với tiên tổ.
Dù gần ngôi mộ ở Bái Trạch có bia đá tạc rơ "Lê triều Dụ Tông hoàng đế lăng. Minh Mạng nhị thập thất niên, tứ nguyệt nhị thập ngũ sắc kiến" (lăng hoàng đế Dụ Tông nhà Lê. Vua sai dựng ngày 25 tháng 4 năm thứ 21 niên hiệu Minh Mạng).
C̣n trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục th́ ghi vua Lê Dụ Tông được táng ở Đông Sơn, Thanh Hóa, sau đó dời về lăng Kim Thạch, Lôi Dương là vùng đất ngày nay thuộc hai huyện Thọ Xuân và Thường Xuân.
Trong lúc đó, kẻ gian cũng ḍm ngó ngôi mộ cổ đặc biệt này. Năm 1958, người dân Bái Trạch khi phát hiện quách mộ đă làm vỡ một mảng để lộ góc quan tài gỗ quư sơn son. Tin t́m thấy mộ vua được rỉ tai.
Kẻ xấu suy diễn chắc nhà vua đă về thế giới bên kia với rất nhiều vật quư của triều đ́nh. Ngoài ra, việc gia tăng canh nông ở địa phương cũng có thể ảnh hưởng đến mộ. Trước t́nh trạng này, mùa xuân năm 1964 lệnh khai quật ngôi mộ đă được kư.
Các nhà khảo cổ về Bái Trạch quan sát ngôi mộ đặc biệt này có nhiều nét tương đồng với các ngôi mộ hợp chất đă được phát hiện ở khu vực. Tuy nhiên, phần quách ngoài lớn hơn các ngôi mộ khác với chiều dài 3m, rộng 2,92m và cao 1,41m.
Mộ hướng bắc nam, hơi chếch tây bắc, hướng "ưu tiên" của các vua ngày xưa. Khi quách hợp chất vôi, mật, cát bị những nhát cuốc vô t́nh làm vỡ một góc, quan tài bên trong thoảng bốc mùi thơm dịu. Và họ đă dùng ximăng để hàn tạm lớp quách bị vỡ.
Tuy nhiên, vật liệu ximăng hiện đại không kết dính tuyệt đối với vỏ quách của người xưa nên nước dần thấm vào. Rồi việc phát đồi làm vườn cùng mưa nắng thời gian đă làm mộ cổ ngày càng lộ dần lên mặt đất và có dấu hiệu xuống cấp...
Khi nhóm khảo cổ bắt tay khai quật, nhiều người dân địa phương đă ṭ ṃ theo dơi, mong tận mắt chứng kiến sự thật trong ḷng ngôi mộ nhà vua đă được thêu dệt bởi bao tin đồn. Tuy nhiên họ đành thất vọng. Sau khi phá quách, quan tài bằng gỗ quư sơn son được đưa lên mặt đất đă chuyển ngay về Hà Nội để nghiên cứu và đảm bảo điều kiện bảo tồn.
Khi nắp quan tài được bật ra trước sự chứng kiến mọi người, đă có thể xác quyết ngôi mộ thật và thi hài là vua Lê Dụ Tông. Chính những chiếc áo hoàng bào, long bào ông mặc có thêu nhiều h́nh rồng năm móng, khăn gấm che mặt cũng thêu h́nh rồng, rồi tấm bia đá khắc chữ Lê triều Dụ Tông hoàng đế đă khẳng định đó là nhà vua.
Những tin đồn lan truyền về ngôi mộ giả để bảo vệ cho mộ thật ở đâu đó là hoàn toàn hư ảo. Sự trở về từ ḷng đất của đức vua Lê Dụ Tông là một phát hiện chấn động trong ngành khảo cổ và sử học VN đương thời.
Nhà Vua Trở Về
Tuy nhiên, điều làm nhà khảo cổ học ngạc nhiên nhất chính là sự bảo quản độc đáo thi hài vua. Cố giáo sư Đỗ Xuân Hợp là người trực tiếp tham gia khai quật và nghiên cứu thi hài vua Lê Dụ Tông.
Trong một tài liệu ông kể tỉ mỉ:
- Xác là một người đàn ông cao 1,49m. Thân h́nh bị đét lại nhưng h́nh dạng bên ngoài vẫn c̣n nguyên. Khi mới mở áo quan, trông như một người gầy ốm mới chết, bụng dưới hơi phồng, lấy tay ấn vào bụng thấy có hơi và ít nước chảy ra, khác với những xác khác bụng lép. Không có một vết rạch hay châm chích ǵ trên cơ thể.
Lúc quan tài mới bật nắp, gương mặt nhà vua có màu xám nhạt hơi khác với màu da cơ thể, nhưng sau đó toàn thân chuyển thành màu xám đen. Kỳ lạ nhất là các khớp xương của nhà vua vẫn c̣n có thể co duỗi mềm mại và nhiều vùng da thịt vẫn c̣n đàn hồi.
Cố Giáo ưS Đỗ Xuân Hợp khẳng định trước năm 1958, t́nh trạng thi hài vua Lê Dụ Tông có thể c̣n tốt hơn nhiều khi chưa bị phát hiện. Chính những nhát cuốc, thuổng vô t́nh của người dân đă làm vỡ vỏ quách, ảnh hưởng đến quan tài gỗ bên trong làm không khí và nước lọt vào suốt sáu năm đến ngày khai quật.
Cho nên lúc mở nắp quan tài, các nhà khảo cổ không c̣n ngửi thấy mùi thơm thảo mộc như thường thấy ở nhiều quan tài xác ướp khác. Và thi hài cũng ít nhiều bị ảnh hưởng như mắt, mũi lơm xuống, miệng co lại, môi teo mỏng đi.
Một phát hiện nữa làm mọi người tin chắc đă t́m đúng đức vua là thi hài khoảng năm mươi tuổi, trạc tuổi vua Lê Dụ Tông lúc băng hà. Đặc biệt, tóc vua râm bạc, cắt ngắn theo kiểu nhà tu và đội chiếc mũ ni. Tấm gấm phủ mặt nhà vua cũng có bốn chữ vạn của nhà Phật ở các góc.
Những chi tiết này góp phần quan trọng xóa tan các nghi ngờ về mộ giả, xác giả. Sử cũ ghi chép rơ cuối đời vua Lê Dụ Tông đă tu hành ở cung Kiền Thọ rồi mới băng hà. Cho nên việc an táng nhà vua lúc đó đủ cả nghi thức hoàng gia lẫn nhà tu.
Theo Giáo Sư Đỗ Văn Ninh, cuộc đời vị vua này có cả niềm vui lẫn nỗi buồn thịnh suy. Lê Dụ Tông là con vua Lê Hy Tông, sinh năm 1679. Tháng 4 năm Ất Dậu 1705, ông được cha truyền ngôi, lấy niên hiệu Vĩnh Thịnh, sau đổi thành Bảo Thái. Đất nước thời này tương đối thái b́nh, người dân hưởng cuộc sống an ổn.
Tuy nhiên, năm Kỷ Dậu 1729, An đô vương Trịnh Cương đă ép vua Lê Dụ Tông nhường ngôi cho thái tử Lê Duy Phường. Ông phải ra cung Kiền Thọ làm Thuận Thiên thừa vận hoàng thượng với nỗi niềm nặng nề và sống đời tu hành lặng lẽ cho đến khi băng hà năm 1731.
- Chính sự suy quyền và cuộc sống tu hành cuối đời nên vua Lê Dụ Tông đă nhẹ nhàng ra đi. Dưới nấm mộ lặng lẽ trên ngọn đồi hiu quạnh, ông ngủ giấc ngàn thu mà không mang nặng hành trang châu báu ǵ ngoài vài bộ quần áo và giấy bút, trầu cau.
Giáo Sư Ninh tâm sự lẽ đời của một vị vua suy cho cùng cũng chẳng khác mấy thường dân. Và bốn mươi sáu năm, sau ngày trở về cho hậu thế diện kiến, vua Lê Dụ Tông lại được hoàn táng vào đầu năm 2010 để tiếp tục an giấc muôn đời với tiên tổ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1134 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 7:44pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN NHỮNG XÁC ƯỚP VIỆT
THÁCH THỨC CÁT BỤI
KỲ BỐN
Một bí ẩn kỳ lạ nhất của xác ướp Việt Nam là đă được bảo quản rất tốt, dù không phải giải phẫu lấy nội tạng như nghệ thuật ướp xác ở Ai Cập cổ đại, hay xây lăng tẩm nguy nga.
Ngay thi hài vua Lê Dụ Tông ở Bái Trạch, Thanh Hóa cũng chỉ yên giấc ngàn thu trong cỗ quan tài và quách mộ, mà bề ngoài chẳng có ǵ đặc biệt so với táng thức đương thời.
Mùi Hương Kỳ Lạ
- Nhiều người nghĩ xác ướp sẽ nặng mùi, nhưng kỳ lạ là lại bốc mùi thân mộc thơm thoang thoảng. Đặc biệt có một vài xác ướp hơi bị nặng mùi do bom đạn hay đào bới xâm phạm làm vỡ quách, hư áo quan để không khí và nước lọt vào trong lâu ngày.
Nhà khảo cổ học Đỗ Đ́nh Truật tâm sự về cảm giác đầu tiên, khi đánh thức giấc ngủ ngàn thu của xác ướp. Thậm chí, ông Truật từng nhắm mắt, nếm chất nước đọng dưới đáy quan tài, để thử phân tích bằng chính giác quan ḿnh. Và ông khẳng định nó không hôi tanh khó chịu mà lại thơm như nhựa thông.
Nhiều xác ướp c̣n nằm yên nghỉ ngập trong dầu thông. Một số xác ướp dầu ít hơn nhưng vẫn giữ lại mùi hàng trăm năm sau. Nhiều ư kiến cho rằng loại dầu này chính là tinh chất gỗ ngọc am mà người Trung Quốc gọi là san mộc.
Theo cố giáo sư Đỗ Xuân Hợp, người xưa biết kết hợp nhiều yếu tố để giữ xác ướp không bị thối rữa thành cát bụi như thường t́nh. Nghiên cứu thi hài vua Lê Dụ Tông, giáo sư Hợp ghi chép:
"Dầu thông đă được đổ nhiều vào trong quan tài, nên khi mở ra thấy chăn bông, vải liệm, áo mặc, giấy bản đẫm dầu và mỡ. Chất thơm ngấm vào da, và qua da vào các tạng nên sực mùi thơm..."
Ngay thi hài vua cũng nhớp nháp dầu thông. Chính loại dầu thân mộc này là một yếu tố quan trọng góp phần bảo quản được xác tiền nhân. Thậm chí những miếng trầu, cau chôn theo hàng trăm năm c̣n xanh tươi như vẫn có thể dùng được.
Đặc biệt, thi hài vua sau đó được đặt ở tầng hầm Bảo tàng Lịch sử Việt Nam suốt bón mươi sáu năm vẫn không hư hỏng. Khí hậu miền Bắc khắc nghiệt chỉ làm thi hài nhà vua co lại, chứ không thối rữa theo thời gian...
Giáo sư Hợp từng nghiên cứu nhiều xác ướp c̣n rất tốt khác cũng đậm dấu vết dầu thông. Đó là mộ bà phi ḍng họ Trịnh (bia mộ đề thời gian chôn cất thuộc niên hiệu Vĩnh Trị 1676-1680) ở Thanh Hóa đă bị lộ thiên cả tháng trước khi các nhà khảo cổ và bác sĩ về nghiên cứu năm 1957.
Trước đó, người ta t́nh cờ đào lên thấy xác của bà vẫn c̣n nguyên vẹn trong chiếc quan tài bằng gỗ ngọc am. Hành trang về suối vàng của bà không biết có bị lấy trộm ǵ không, nhưng các nhà khảo cổ về vẫn thấy sáu chiếc áo gấm thêu kim tuyến, xiêm y c̣n rất tốt dù đă bị người đào phá rách.
Ấn tượng nhất là xác ướp của bà tuy đă bị đưa ra khỏi quan tài, vùi lấp tạm bợ trên cánh đồng ba ngày, rồi chôn lại trong quan tài ngập nước gần một tháng mà vẫn c̣n nguyên và bốc mùi thơm nhựa thông. Thậm chí sau đó bà được tắm lại bằng năm lần nước sạch vẫn không hết mùi thơm.
Và dấu vết bảo quản xác của dầu thông c̣n lan ra ngoài, khi vùng đất quanh mộ cũng nhiễm mùi thơm.
Giáo Sư Đỗ Văn Ninh cho rằng việc xử lư thi hài rất quan trọng để giữ xác. Người xưa thường quàn xác rất lâu thậm chí tới hàng năm, trước khi chôn nên chú trọng việc chống thối rữa.
Ngoài dầu thông thường được đổ vào quan tài, người sắp qua đời thường được uống thuốc "hồi dương" có quế nóng giúp tăng tuần hoàn máu để nấn ná sự sống, chờ đợi con cháu. Sau đó lại dùng rượu quế (có thể rượu trắng) tắm rửa cho người mất cũng làm sạch được phần nào trong và ngoài thi hài để giảm sự phân hủy do vi khuẩn.
Đặc biệt, khi nhập liệm người xưa thường chèn nhiều chăn, gối, quần áo, giấy bản, bông vào quan tài có rải gạo rang, chè khô bên dưới. Ngoài ư nghĩa tùy táng mang về thế giới bên kia, các thứ này c̣n hút ẩm và đẩy không khí ra ngoài để hạn chế môi trường vi khuẩn hại xác.
Thậm chí trước khi nhập liệm, người ta c̣n đốt nến trong quan tài như là một lễ thức, nhưng cũng góp phần tạo môi trường chân không và sát khuẩn.
Bảo Vệ Giấc Ngủ Ngàn Thu
T́m kỹ thuật bảo quản xác tiền nhân, nhà khảo cổ cũng phát hiện xác ướp vua Lê Dụ Tông, Phạm Thị Nguyên Chân, Bùi Thị Khang, Trịnh Phi, Trịnh Dung quận chúa, Trịnh Quư Thị, Đinh Văn Tả... đều yên nghỉ trong quan tài gỗ quư hiếm ngọc am.
Hàng trăm năm trong ḷng đất, quan tài gỗ này vẫn không hư và thoang thoảng mùi thơm thân mộc khi khai quật. Những thi hài dù không được ướp dầu thông thơm cũng không thể ám mùi hôi vào gỗ quan.
Các nhà nghiên cứu khảo sát thi hài Trịnh Dung quận chúa ở Hoằng Đức, Thanh Hóa, thấy quan tài gỗ ngọc am vẫn thơm, trong khi tấm thất tinh đục bảy lỗ h́nh cḥm sao đại hùng tinh, lại nặng mùi thối v́ không phải gỗ ngọc am. Thậm chí tấm thất tinh này sau được ngâm trong vũng nước mưa nhiều ngày vẫn nặng mùi. C̣n quan tài ngọc am phơi mưa nắng lại giữ được mùi thơm.
Theo Giáo Sư Ninh, ngọc am cũng có tên hoàng đàn rủ, loại cây gỗ trong bộ thông, thuộc họ hoàng đàn, sống trên vùng núi đá vôi ở Hà Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng. Người Trung Quốc gọi nó là san mộc và hay sang Việt Nam mua về làm quan tài. Gỗ quư này bền thơm và có tính sát khuẩn cao nên góp phần bảo quản thi hài.
Đặc biệt, người xưa c̣n biết làm quan tài rất kín chắc với các mộng ghép chặt chẽ và trét kín bằng sơn sống, có trộn mạt cưa hoặc nhựa thông nhào hồ nếp. Thậm chí có quan tài được đóng hai lớp gỗ dày cả mười cm mà nhiều người khiêng không nổi.
Chính những yếu tố này đă ngăn chặn không khí và nước thấm vào để góp phần quan trọng bảo quản thi hài. Kể chuyện bí quyết ướp xác người xưa, nhà khảo cổ Đỗ Đ́nh Truật x̣e bàn tay chai sần trong quá tŕnh đục phá quách mộ.
Ngoài kỹ thuật xử lư xác và gỗ quan tài th́ phần quách bảo vệ rất quan trọng để giữ xác. Hầu như tất cả xác ướp phát hiện đều được bảo vệ bằng loại quách hợp chất kiên cố làm từ vôi, cát, mật, thậm chí c̣n gia cường độ bền của hợp chất này bằng keo vỏ cây dó, giấy bản và vỏ ṣ nung nóng rồi giă nhuyễn.
Quách bao kín các mặt quan tài, kể cả đáy với độ dày có khi lên đến nửa mét để bảo vệ quan tài và xác ướp bên trong khỏi bị tác hại của nước và không khí lọt vào.
- Ở băi biển Thụy Xuân, Thái B́nh có mộ hợp chất mà lâu ngày sóng biển làm nhẵn thín như đá. Dân không biết cứ lên đó ngồi chơi cho đến khi phát hiện, khai quật được xác ướp một cô gái vẫn c̣n nguyên h́nh hài.
Nhà khảo cổ già lộ rơ sự thán phục bí quyết ướp xác tiền nhân.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1135 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 7:45pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN NHỮNG XÁC ƯỚP VIỆT
BÍ MẬT XÁC ƯỚP HOÀNG THÂN VUA GIA LONG
KỲ NĂM
Bí mật xác ướp này được bắt đầu giải mă từ năm 1994. Nhà khảo cổ học Đỗ Đ́nh Truật lúc đó đang thực địa vùng Cù Lao Phố, Đồng Nai th́ được gọi về chuẩn bị khai quật mộ cổ ở khu vực Xóm Cải, quận năm, Thành Phố ***.
Ông Truật nhớ cảm giác hồi hộp, xúc động khi được tận tay làm việc này. Cả đời nghiên cứu sử nước nhà và khảo cổ, ông Truật hiểu đất Sài G̣n-Gia Định trải ba trăm năm, đang chứa đựng biết bao ẩn khuất từ thời cha ông đi mở cơi, mà chính sử chưa thể minh định đầy đủ.
Bí ẩn dưới những ngôi mộ cổ có thể sẽ góp phần soi rọi, bao trầm tích lịch sử vùng đất mới đầy tiềm năng và biến động này của nước Việt. Khảo sát kỹ thực địa, ông Truật và đồng nghiệp rất ngỡ ngàng khi thấy khu vực Xóm Cải, đang chuẩn bị xây dựng nhà ở này có cả một băi tha ma cổ.
Trong đó riêng phần mộ của bà Nguyễn Thị Hiệu được xây dựng kiên cố, rất lớn chẳng thua kém mấy lăng tẩm của các vị tiên đế ở miền Trung, miền Bắc. Khu mộ được xây như một nhà mồ có cổng ra vào bằng trụ đá và tường rào bao quanh.
Đặc biệt, trong phần mộ này c̣n có hai nấm mộ song táng giống y nhau. Tuy nhiên, các cụ già địa phương đă truyền miệng lời đồn đại từ xa xưa chỉ có một mộ thật, c̣n lại là mộ giả để bảo vệ thi hài của một nhân vật đặc biệt nào đó trong vương triều nhà Nguyễn.
Ông Truật đục thử khảo sát quách hợp chất bên ngoài và thấy c̣n cứng hơn cả nhiều quách hợp chất ở miền Bắc. Chưa rơ danh phận người nằm dưới ḷng đất, nhưng ông biết tiền nhân đă chủ ư bảo vệ kiên cố ngôi mộ này, bằng cách nung vỏ ṣ biển thay vôi, dùng mật ong để thay mật đường mía và thêm than gỗ tốt trong hợp chất vôi, cát, mật xây quách.
Mười lăm thanh niên lực lưỡng đă được thuê dùng đục sắt tay để phá vỡ lớp quách này. Những chiếc đục phải thay liên tục v́ bị cùn, mẻ hết. Tay họ bị rộp rồi toạc da, chảy máu vẫn chưa đục đến được quan tài.
Càng cố đục, họ càng thấy quách mộ như hun hút sâu thêm dưới ḷng đất. Chính điều này làm các nhà khảo cổ thêm ṭ ṃ. Chủ nhân mộ cổ là ai mà lại chôn quá sâu và được lớp quách kiên cố như tường thành bảo vệ?
Ṛng ră bốn mươi ngày, mười lăm thanh niên mới đục đến được đáy quách sâu gần tám mét. Các nhà khảo cổ lập bàn hương tế người nằm dưới, để chuẩn bị phạm đến quan tài.
Mọi người sững sờ nh́n chiếc quan tài gỗ quư như c̣n mới nguyên, với lớp sơn ta màu đen sậm bên ngoài. Nó có kích thước lớn hơn b́nh thường với chiều dài 2,2m cao khoảng 0,8m được ghép bằng hai lớp gỗ dày khoảng 0,8cm vẫn c̣n rất chắc chắn để nước không thể thấm làm hư hỏng bên trong.
Hồi tưởng buổi sáng đặc biệt cách đây mười sáu năm, nhà khảo cổ già Đỗ Đ́nh Truật kể, thật kỳ lạ là dưới nắp quan tài người ta lại đắp hai lớp chiếu cói thường. Phải chăng đây là một táng thức của cư dân vùng đất mới, hay là lớp "ngụy trang" cuối cùng để kẻ trộm mộ có xâm phạm th́ cũng nghĩ dưới manh chiếu cói này là thường dân nghèo nàn.
Nhưng ở kỹ thuật ướp xác, cói khô có tác dụng hút ẩm khá tốt để bảo vệ thi hài người nằm dưới. Ngoài ra, ngay dưới chiếu c̣n tiếp tục được phủ nhiều lớp giấy bản hút ẩm mà độ dày lên đến hơn năm cm.
Bóc gỡ dần, ông Truật xúc động t́m thấy phướn minh tinh bằng lụa có ghi ḍng chữ "Hoàng gia..." và một số chữ đă mờ. Một góc bức màn bí ẩn của vương triều đang hé lộ. Đặc biệt, ông c̣n t́m thấy một tấm pháp danh nhà Phật trong một túi áo thi hài ghi rơ ḍng chữ "Minh Trường, chùa Lâm Tế, đời thứ hai mươi ba" với hai ấn son.
Nó chứng tỏ người nằm trong mộ đă quy y nhà Phật. Mở tiếp chín lớp áo vải, lụa, gấm quư, nhà khảo cổ bắt đầu chạm tay vào xác ướp. Bà nằm trong một lớp nước màu đỏ, bốc mùi nồng thơm như dầu thông.
- Nhiều người đă ṭ ṃ cố nh́n xem người yên nghỉ trong quan tài, nhưng khi tôi mở lớp che mặt th́ họ lại sợ hăi, lùi ra ngoài...
Ông Truật nhớ măi chính ḿnh cũng bàng hoàng khi lần đầu nh́n thấy gương mặt như đang yên giấc ngủ của bà Nguyễn Thị Hiệu. Đó là một phụ nữ trạc sáu mươi tuổi với nét mặt thanh thoát, tóc cắt ngắn chớm vai chưa có mấy sợi bạc. Da bà vẫn c̣n mịn màng và hơi có màu đỏ sạm do đă nằm ngâm hàng trăm năm trong dầu thông.
Ông Truật cùng bác sĩ Phan Bảo Khánh cẩn thận kiểm tra kỹ lưỡng thi hài. Họ rất ngạc nhiên khi thấy các khớp xương vẫn c̣n co duỗi rất tốt, da thịt mềm mại, chưa bộ phận nào có dấu hiệu bị phân hủy rơ rệt ngoài cơ teo chút ít do tuổi già và đă ngâm lâu trong dầu thông.
- Nh́n bàn tay, bàn chân nhỏ nhắn, mềm mại của xác ướp, tôi biết lúc sinh thời bà sống cảnh quyền quư, an nhàn, chứ không phải người lao động.
Nhà khảo cổ Đỗ Đ́nh Truật kể ông đă chắp nối các vật tùy táng, giấy tờ, mà đặc biệt là tấm phướn minh tinh có ḍng chữ "Hoàng gia..." và nhiều chữ phai mờ khác để t́m thân phận bà. Rồi lần giở lại sử triều Nguyễn, ông Truật phát hiện "bà có thể chính là một nhân vật thuộc hoàng thân quốc thích vua Gia Long".
Qua đời cách đây hàng trăm năm, giai đoạn vị vua từng trải hưng vong này đă giành lại vương triều, nên bà được hoàng gia trang trọng tiễn về với tiên tổ. Theo ông Truật, đây chính là xác ướp hiếm hoi ở Việt Nam có chôn theo nhiều đồ vàng bạc, kể cả đôi giày cũng bằng vàng.
Trường hợp này khác hẳn với hầu hết xác ướp khác, thậm chí cả vua Lê Dụ Tông, thường chỉ về thế giới bên kia với đồ tùy táng quần áo, vật dụng thông thường. Có lẽ đó chính là một trong những lư do để tiền nhân bảo vệ giấc ngàn thu cho bà, bằng một khu mộ hợp chất đặc biệt kiên cố.
Khai quật xong, xác ướp bà Nguyễn Thị Hiệu được đưa về Đại học Y dược Thành Phố *** để nghiên cứu. Dung dịch màu đỏ nâu ướp xác bà trong quan tài được đem phân tích ở pḥng thí nghiệm của giáo sư Chu Phạm Ngọc Sơn. Kết quả tạm cho biết có chất nhựa thông trong đó. Về sau, bà yên nghỉ ở Bảo tàng Lịch sử Thành Phố *** cho hậu thế chiêm ngưỡng tiền nhân.
Cứ khoảng ba tháng một lần, chuyên gia Đại học Y dược lại sang kiểm tra t́nh trạng và lau thuốc chống nấm mốc, bảo vệ mô xác ướp. Pḥng bà nằm cũng được gắn máy hút ẩm, máy thông gió hoạt động liên tục để ǵn giữ xác ướp.
Tâm sự chuyện xưa, bác sĩ Phan Bảo Khánh, người từng nghiên cứu nhiều xác ướp ở miền Trung và niềm Nam, rất thán phục nghệ thuật bảo quản thi hài tiền nhân.
- Đó là cách ướp xác rất nhân văn, không cần dao kéo xâm hại đến thi thể để lấy đi năo, nội tạng.
Bác sĩ Khánh tiếc nuối có lẽ nghệ thuật bảo quản ướp xác độc đáo của tiền nhân đă thất truyền. Thời nay, người ta có thể bỏ ra hàng tỉ đồng xây lăng mộ, nhưng chẳng c̣n mấy ai biết áp dụng nghệ thuật ǵn giữ giấc ngủ ngàn thu xưa.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1136 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 7:47pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN NHỮNG XÁC ƯỚP VIỆT
NHỮNG KẺ TRỘM MỘ
KỲ SÁU
Hàng chục năm trước, giới săn đồ cổ phía Bắc đă rỉ tai lời đồn cái chết bí ẩn của một tay trộm mộ đất Nam Hà. Họ kể gă này đào trộm phải mộ Hán cổ và lấy được nhiều đồ tùy táng bằng vàng bạc.
Trên đường lên Hà Nội để bán đồ đặc biệt này th́ gă bất ngờ bị tai nạn chết. Người con tiếc của thay cha đem đi bán lại chết trẻ. Em trai theo bước anh cũng không kịp sống để phá tiếp ngôi mộ nào nữa. Gia đ́nh hoảng sợ t́m thầy giải.
Thầy bảo phải dẫn đến ngôi mộ đă trộm rồi phán:
- Mộ này đă bị chính người chết tự trấn yểm trước khi qua đời. Gia chủ lỡ phạm lấy ǵ th́ trả lại hết. Không tin cứ đào gần ngôi mộ này sẽ thấy bộ xương một đứa trẻ đă bị trấn yểm âm binh bảo vệ mộ Hán.
Bao tiết thanh minh đă trôi qua, không thể rơ chuyện đồn đại kinh khủng này thực hư thế nào, nhưng các nhà khảo cổ đều rất ngán ngẩm trước thực trạng phá phách mộ cổ. Thậm chí một thời gian dài trước nó c̣n rộ lên thành phong trào.
Những kẻ trộm mộ ở cùng địa phương tập trung đi thành nhóm và trang bị cả máy rà bom ḿn, để phát hiện đồ kim loại quư, cùng người xưa về thế giới bên kia. Nhiều khi họ đào phải xác ướp, không biết có lấy được ǵ đáng giá, nhưng thi hài người đă mất th́ vất vưởng mưa nắng trên đồng.
- Có một lần tôi rời băi khai quật mộ cổ, ra quán đầu làng uống nước và suưt chết sặc v́ buồn cười với lời đồn đại của bà chủ quán về xác ướp. Mặc dù chẳng đủ gan hé tí mắt nh́n vào quan tài, nhưng bà ta vẫn huyên thuyên xác ướp là một nàng công chúa c̣n xinh đẹp như đang sống. Hoàng gia đă tiếc thương chôn nàng cùng vô số châu báu, vàng bạc trong quan tài mà đến giờ nhiều thanh niên lực lưỡng cũng không khiêng nổi...
Giáo Sư Đỗ Văn Ninh kể lại kỷ niệm đời khảo cổ. Chuyện tán như thật. Nhưng chính nó đă trở thành ma lực kích thích những tên trộm mộ xâm hại người chết
Theo Giáo Sư Ninh, mục đích ban đầu của kẻ trộm mộ thường là những thứ thực dụng chôn theo người đă mất như vàng nén, ṿng vàng đeo tay, đeo cổ. Đặc biệt, nhiều người c̣n tin xác ướp thường được bảo quản bằng cách cho ngậm các viên ngọc quư để chống thối rữa.
Tuy nhiên, hầu hết xác ướp mà các nhà khảo cổ khai quật được đều nhẹ nhàng về với tiên tổ, mà hành trang chẳng có châu báu ǵ. Có lẽ một phần do ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng đề cao lối sống thanh đạm của nhà Nho, Phật giáo thời ấy nên người ra đi không mang nặng ǵ, dù đó là đức vua Lê Dụ Tông hay công hầu, quận chúa như bà Phạm Thị Nguyên Chân, Trịnh Dung...
Sau này cuộc sống phát triển, đồ cổ cuốn hút được nhiều người vào cuộc chơi. Những kẻ trộm mộ chuyển sang săn lùng đồ cổ tùy táng. Giáo Sư Ninh kể ông và đồng nghiệp nhiều lần đă phải làm "người đến sau" bọn trộm mộ để cố t́m xem c̣n nhặt nhạnh, nghiên cứu được ǵ. Năm 1969, họ đă háo hức khai quật một ngôi mộ cổ khá lớn ở Mạch Tràng, di chỉ thành Cổ Loa, Hà Nội. Ngôi mộ nằm đối diện g̣ Cột Cờ, ṿng thành ngoài Cổ Loa.
Đào bới đến độ sâu bốn mét và rộng hàng chục mét, họ buồn bă phát hiện mộ cổ đă bị trộm hớt tay trên từ hồi nào. Táng vật bị lấy trộm rất nhiều. Vương văi dưới ḷng đất chỉ c̣n ít mảnh vỡ ṿ, hũ, ŕu đá...
An ủi lớn nhất của nhà khảo cổ là c̣n một số viên gạch có chữ Hán "Vĩnh Nguyên thập nhất niên trị" niên hiệu Vĩnh Nguyên năm thứ mười một, đó là vua Hán Ḥa Đế năm chín mươi chín sau Công nguyên. Bí ẩn c̣n sót lại dưới ḷng đất đă giúp họ tạm xác định mộ Hán này rất cổ.
Theo Giáo Sư Ninh, thị trường đồ cổ có nhiều món là đồ tùy táng theo người chết như trống đồng, tiền cổ, binh khí, lưỡi cày cuốc, tượng h́nh, đồ trang sức, nậm ṿ... Một số đă trở thành "hàng độc" đang được giới buôn bán đồ cổ săn lùng với giá hàng ngàn, thậm chí hàng trăm ngàn USD.
Từng có tin đồn chỉ một thanh kiếm cổ chôn theo thi hài viên thái thú Nam Hán được rao bán một trăm ngàn USD. Trong ṿng quay ma lực của đồng tiền, đồ tùy táng được sang tay. Và mấy người sở hữu sau biết chúng từng an nghỉ hàng trăm, hàng ngàn năm dưới ḷng đất với bao nỗi niềm của người chết.
Sự thính nhạy của những kẻ trộm mộ, đôi khi làm nhà khảo cổ phải ngạc nhiên. Cuối năm 2009, họ vừa khai quật hai mộ cổ thuộc thời đại đồ đồng tại huyện Hoài Đức,Hà Nội.
Tin các nhà khảo cổ t́m thấy nhiều cổ vật quư như ŕu đá, tên đồng, đồ gốm cùng với hai bộ hài cốt của thời kỳ văn hóa Đồng Đậu và Đông Sơn vừa lan truyền th́ xuất hiện ngay những kẻ trộm mộ lén lút.
Họ đi thành nhóm, có cả máy rà kim loại quần đảo từng centimet vuông trên các hố đào cũ lẫn mới. Hai người đă bị tạm giữ với tang vật trộm mộ được giấu trong bụi cây là một số đồ đá, ŕu đồng, mũi tên đồng niên đại từ hàng ngàn năm trước. Chúng đều có giá trị trên thị trường đồ cổ.
Nhiều năm bôn ba Bắc Nam nghiên cứu xác ướp, nhà khảo cổ già Đỗ Đ́nh Truật gặp rất nhiều vụ trộm mộ và cũng thú vị phát hiện đôi mắt nh́n xa của tiền nhân. Nhiều người trước khi qua đời đă dặn ḍ con cháu nghệ thuật ướp xác ḿnh, cũng như cách chống sự xâm hại của kẻ trộm mộ hay người oán thù.
Ngoài lư do tín ngưỡng Phật giáo hay lối sống thanh bần của nho sĩ, sự đề pḥng ḷng tham hậu thế cũng là lư do để nhẹ hành trang về thế giới bên kia. Cho nên kẻ trộm mộ hiếm khi đào được những thứ thực dụng thèm khát như vàng bạc.
Đặc biệt, tiền nhân chủ ư xây dựng quách bằng hợp chất vững chắc cũng rất hiệu quả, chống lại kẻ đào mộ. Nếu quách đủ độ cứng dày, một vài người lén lút đào phá ban đêm rất khó có thể xuyên qua nổi, mà không bị dân cư gần đó phát hiện v́ tiếng ồn.
- Không chỉ kẻ giàu sang, mà quyền lực như vương tướng cũng phải lo nghĩ về nơi yên nghỉ cuối cùng của ḿnh. Âu đó cũng là lẽ trời đất, lịch sử đă chứng minh triều đại nào dù có hưng thịnh đến đâu cũng phải đến hồi suy vong, và lúc đó tránh sao cho khỏi sự báo oán của người thù hay ḷng tham hậu thế.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1137 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 7:48pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG NGƯỜI PHÁ GIẢI LỜI NGUYỀN
KỲ CUỐI
Một chiều sau ngày khai quật xác ướp bà Nguyễn Thị Hiệu, nhà khảo cổ Đỗ Đ́nh Truật lên ngồi đọc sách trên ban công nhà, bất ngờ té nhào xuống đất. Thanh sắt nối lan can với ban công đă bị ai đó làm bật từ lúc nào mà ông không biết.
Bị găy chân và bất tỉnh, ông phải nằm Bệnh viện Thống Nhất suốt hai tháng. Sau đó nhiều người biết chuyện khuyên ông nên cẩn thận. Lần đào mộ bà Hiệu, ông Truật cũng đào phải mộ giả kế bên, mà nhiều người tin nó đă được trấn yểm để bảo vệ mộ thật.
Không chỉ ông Đỗ Đ́nh Truật mà nhiều nhà khảo cổ mộ táng khác. cũng hay nhận được lời khuyên này. Có người như Giáo Sư Đỗ Văn Ninh th́ tuyệt đối bác bỏ. Ông khẳng định:
- Con người sinh ra từ cát bụi sẽ trở về với cát bụi theo đúng nghĩa đen của nó. Những thân xác c̣n giữ lại được chỉ nhờ nghệ thuật bảo quản xác. Nếu có linh ứng, báo oán ǵ đó, những người chuyên quật mồ như chúng tôi phải lănh nhận đầu tiên.
Một số người khác như ông Truật cũng suy tư về những hiện tượng kỳ lạ, mà đến nay khả năng con người chưa lư giải được. Tuy nhiên, có một điều mà các nhà khảo cổ đều giống nhau, là chưa ai rụt tay với công việc của ḿnh.
Trở lại chuyện ngôi mộ giả, nhà khảo cổ Đỗ Đ́nh Truật cho rằng một số người tin nó đă bị trấn yểm, nhưng cũng có suy nghĩ đơn giản đó chỉ là nghi binh để bảo vệ mộ thật. Bề ngoài nấm mộ giả này giống như đúc mộ thật của bà Hiệu. Cũng kiểu xây dựng trong quan ngoài quách với kiểu cách như nhau. Tuy nhiên khi quật lên quan tài lại trống rỗng. Ông mày ṃ măi chỉ t́m thấy một miếng trầu và búi tóc gọn lỏn nằm dưới đáy quan tài.
Các thợ đào tỏ vẻ lo lắng trước vật táng kỳ lạ được cho là đồ trấn yểm này. Ông Truật vẫn mỉm cười b́nh tĩnh:
- Ḿnh chỉ làm khoa học. Đâu xúc phạm đến ai!
Một lần khai quật mộ cổ ở đường Hoàng Văn Thụ, quận Phú Nhuận, ông bị ngất xỉu ngay khi mở nắp quan tài. Công nhân sợ hăi. Nhưng khi tỉnh lại, ông khẳng định đó chỉ là yếm khí trong quan tài. Thi hài bên trong là người bệnh đậu mùa. Người xưa khi nhập liệm đă đổ vào nhiều chất sát trùng. Nó bị tích tụ lâu ngày trong quách kín nên sinh khí độc.
Ngược thời gian trở lại mùa Vu lan năm 1968 ở thôn Tam Đường, xă Hoàng Đức, huyện Hưng Nhân, Thái B́nh, một đơn vị bộ đội trong lúc đào công sự pháo cao xạ đă đụng một phiến gỗ kỳ lạ trông như nắp quan tài. Sự việc được báo lên trên.
Các nhà khảo cổ về phát hiện đó là ngôi mộ rất cổ có thể từ thời nhà Trần. Nó nằm trên khu vực Bảy G̣ (thất tinh) mà người già địa phương tin là có long mạch, đầu chếch hướng đông nam, cách bờ sông Hồng khoảng một ngàn mét.
Bí ẩn kỳ lạ là các nhà khảo cổ phát hiện quan tài này, chỉ có nắp thiên bằng gỗ tốt, được cưa bào tinh xảo nhưng lại thiếu phần đáy. T́m kiếm kỹ từng mẩu đất bên dưới, họ cũng không thấy thi hài hay chút dấu vết cốt người.
Duy nhất chỉ có bốn chiếc đinh đồng chụm vào nhau như được chủ ư sắp đặt. Người già nghi ngờ đó là vật trấn yểm. C̣n các nhà khảo cổ cố gắng t́m xem có phải mộ chôn thi hài hoả táng nên không c̣n xương, nhưng không thấy tro cốt hay hũ sành đựng tro cốt.
Cuối cùng, không thể lần t́m được dấu vết tiền nhân nằm dưới, nhiều người đành tin đây là mộ yểm. Nhưng các nhà khảo cổ đặt nặng giả thiết mộ giả để bảo vệ mộ thật đâu đó. Đây là vùng đất được các thầy địa lư xem ẩn long mạch h́nh hoa sen.
Dân gian bao đời trong vùng đă thuộc ḷng mấy câu thơ Ngũ mă đồng quân. H́nh nhân bái tướng ... (Năm ngựa cùng một bầy. H́nh người phong tướng). C̣n Đại Việt sử kư toàn thư cũng ghi đây là nơi (phủ Long Hưng xưa) có mộ các vị vua Trần. Chắc các bậc đế vương xưa phải có biện pháp bảo vệ giấc ngàn thu của ḿnh.
Sự thật chưa thể xác quyết bằng khảo cổ, nhưng huyền thoại mộ giả trấn yểm hại người làm phát lộ vẫn chỉ là huyền thoại. Các nhà khảo cổ vẫn b́nh an tiếp tục công việc "quật mồ". Đáp lại lời khuyên cẩn thận, những nhà khảo cổ già như ông Đỗ Đ́nh Truật chỉ trả lời:
- Tin hay không tin không quan trọng. Vấn đề là ḿnh đă thành tâm làm việc ư nghĩa mà thôi...". Phải chăng đó cũng là cách hoá giải lời nguyền?
Giáo Sư Đỗ Văn Ninh kể đă từng "mắc nỗi oan" cười ra nước mắt ở thành Cổ Loa. Lần đó ông và đồng nghiệp khai quật một ngôi mộ Hán, được đắp đất như quả đồi nhỏ. Trên g̣ đó lại có nấm đất nhỏ, mà một ḍng họ địa phương thường hương khói và cho đó là mộ tổ của ḍng tộc.
V́ cùng g̣ đất nên các nhà khảo cổ phải đào qua nấm đất nhỏ, mới xuống được g̣ đất lớn bên dưới. Họ cẩn thận làm nhưng không thấy dấu vết hài cốt nào. Đến khi đào sâu xuống g̣ đất lớn, th́ phát hiện mộ Hán niên đại từ những năm đầu Công nguyên. Lúc này bất ngờ các cụ già của ḍng họ đó xuất hiện, nhận mộ tổ ḿnh là một đại khoa làm quan triều đ́nh.
Đoàn khảo cổ thuyết phục, chỉ rơ đặc trưng mộ quân phương Bắc đă xâm lược nước ta từ hai ngàn năm trước, nhưng các cụ vẫn khăng khăng nhận mộ tổ. Cuối cùng, họ phải trưng ra các viên gạch nung chữ Hán ghi niên đại mười tám thế kỷ trước. Các cụ xiêu ḷng ra về.
Họ tưởng yên, tiếp tục khai quật. Bất ngờ sáng sau các cụ lại xuất hiện, nhưng lần này đông hơn với vài chục trai làng lực lưỡng bao quanh. Các cụ đanh giọng tuyên bố:
- Chính xác đây là mộ tổ ḍng họ chúng tôi. Không tranh căi ǵ nữa. Yêu cầu lấp trả lại nguyên hiện trạng.
T́nh h́nh căng thẳng này th́ nhà khảo cổ đành thua! Họ ấm ức lấp lại mộ với nỗi oan khó tỏ. Nhưng có lẽ thi hài người Hán nào đó nằm dưới c̣n nặng "nỗi oan ngàn đời" hơn, khi gần hai ngàn năm sau, tự dưng lại có hậu thế nước Việt nhận ḿnh là ông tổ!
Nhà khảo cổ Đỗ Đ́nh Truật kể lần đào xác ướp bà Nguyễn Thị Hiệu, dầu thông trong quan tài lộ thiên vón cục đỏ sậm. Dân tại chỗ rỉ tai nhau "hổ phách quư hiếm được chôn theo bảo quản xác ướp". Trong lúc nhà khảo cổ chưa kịp giải thích th́ họ nhanh tay lấy mất. Không biết về sau số "hổ phách" đó thế nào, nhưng chắc bà Hiệu nơi chín suối tủi buồn v́ tự dưng lại mang tiếng "chết rồi mà c̣n mang theo nhiều châu báu!".
Tuy nhiên, kể chuyện đời nghề đặc biệt này, nhà khảo cổ nào cũng mỉm cười thanh thản. Họ tâm sự âu đó cũng là duyên nghiệp của nghề quật mồ, t́m xác. Thời gian trôi qua, thế cuộc biến động có làm bao thứ trên mặt đất đổi thay, nhưng các bậc tiền nhân an nghỉ dưới ḷng đất đă trở thành trang sử đặc biệt để giúp hậu thế minh định thêm cội nguồn.
QUỐC VIỆT
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1138 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 7:49pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ MẬT NGÔI CHÙA DÁT HÀNG VẠN LÁ VÀNG
Không quá khi người ta nói Myanmar là “Đất nước của những ngọn tháp vàng” và nổi bật trong số đó, là ngôi Chùa Vàng Shwedagon tại trung tâm Yangon.
Theo truyền thuyết, hai anh em thương gia người Miến Điện là Taphussa và Bhallika, sang Ấn Độ buôn bán và được giác ngộ đạo Phật. Khi trở về quê hương, họ mang theo bảo vật là tám sợi tóc của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Với sự giúp đỡ của vị vua thời bấy giờ của Myanmar là Okkalapa, hai anh em đă xây ngôi chùa Shwedagon để lưu giữ những sợi tóc đó của Đức Phật. Tính đến nay, ngôi chùa Shwedagon đă có tới trên 2500 năm tuổi, xứng đáng là một trong những ngôi chùa cổ kính nhất và lộng lẫy nhất thế giới.
Chùa Vàng Shwedagon là biểu tượng của Myanmar, và ngọn tháp vàng trung tâm chùa cao tới chín mươi chín mét, lại chính là tâm điểm của ngôi chùa. Thời kỳ đầu, ngọn tháp được xây bằng gạch, và chỉ cao khoảng hơn hai mươi mét.
Sau đó, ngọn tháp liên tục được xây bổ sung và tới thế kỷ thứ mười lăm, nó đă đạt tới độ cao chín mươi tám mét dưới thời vua Dhammazedi. Đến thế kỷ thứ mưới sáu, chùa Shwedagon đă trở thành một trong những ngôi chùa linh thiêng và hoành tráng nhất tại Miến Điện.
Rất nhiều công tŕnh tại chùa Shwedagon được dát vàng thật. Người dân khắp đất nước Myanmar, từ tăng lữ tới nông dân, vẫn thường xuyên biếu tặng vàng để bảo toàn vẻ ngoài cho chùa. Tập tục này bắt đầu từ thế kỷ thứ mười lăm, dưới thời nữ hoàng người Shin Sawbu, và tiếp tục kéo dài tới tận ngày nay.
Ngọn tháp vàng được chia ra làm ba phần chính: đáy tháp, thân tháp và đỉnh tháp. Tất cả đều được dát một lớp vàng ṛng ở bên ngoài, mỗi lá vàng có kích thước khoảng 20x20cm, được gắn vào thân tháp bằng đinh tán.
Theo thống kê, nửa dưới của ngọn tháp được dát 8.688 lá vàng, c̣n nửa trên là 13.153 lá. Đỉnh tháp có h́nh vương miện, được nạm 5.448 viên kim cương, 2.317 viên ruby, sapphire và các loại đá quư khác, cùng 1.065 chiếc chuông bằng vàng luôn ngân nga trong gió. Trên lá cờ ở đỉnh tháp, có một viên kim cương nặng tới 76 carat.
Dù là ban ngày dưới ánh nắng mặt trời hay khi đêm xuống, dưới ánh đèn rực sáng toàn bộ khuôn viên chùa và đặc biệt là ngọn Tháp Vàng, luôn bật lên một thứ ánh sáng uy nghi, rực rỡ.
Nhưng thời điểm chiêm ngưỡng Shwedagon tuyệt nhất, có lẽ là vào lúc chiều tà, khi ấy cả ngọn tháp vàng rực nổi bật trên nên trời xanh thẫm, phản chiếu những tia nắng hoàng hôn cuối cùng của một ngày yên b́nh.
Kim Thạch
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1139 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 7:51pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ MẬT MƯỜI DI VẬT TÔN GIÁO NỔI TIẾNG NHẤT THẾ GIỚI
Có hàng triệu khách du lịch đă đến để chiêm ngưỡng một tấm vải niệm ở Turin, được cho rằng có thể đă dùng để bọc thi thể Chúa sau khi Người bị đóng đinh vào cây thập tự.
Thời báo Time đă tiến hành một nghiên cứu về các truyền thuyết và liệt kê những di tích của các tôn giáo nổi tiếng trên thế giới.
Tấm Vải Liệm Ở Turin
Có thể là thật hoặc chỉ là giả mạo, nhưng tấm vải liệm đă ố vàng ở Turin dài 4,3m được tin là dùng để bọc thân thể Chúa khi Người qua đời, đă thu hút hàng triệu khách du lịch đến Italia.
Trong khi Tấm vải liệm có những dấu tích về h́nh ảnh những vết thương, của một người đàn ông bị đóng đinh trên cây thập tự, trùng với những vết thương trên thân thể Chúa Jesus, th́ những cuộc kiểm tra carbon nào năm 1988, đă chỉ ra rằng tấm vải này được sản xuất từ giữa những năm 1260 đến những năm 1390 và do đó không thể được sử dụng để bọc thân thể Chúa.
Tuy nhiên, kết quả của cuộc kiểm tra vẫn không ngăn được từng đoàn người hành hương dành từ ba đến năm phút để chiêm ngưỡng nó. Nhiều người nói những cuộc kiểm tra có thể không chính xác và nên tiến hành lại.
Máu Của San Gennaro
Mỗi năm, những người dân của thành phố Naples, Italy lại cùng nhau kỷ niệm Ngày tử v́ đạo của vị Thánh bảo trợ, San Gennaro và cùng chiêm ngưỡng một điều kỳ diệu, đó là máu khô của vị thánh này sẽ hóa thành chất lỏng.
Điều kỳ diệu này diễn ra đều đặn vào ngày 19-9 từ mười tám năm qua. Rất nhiều người tin rằng chút máu này có khả năng bảo vệ thành phố khỏi những nguy hiểm (như là từ ngọn núi Vesuvius gần đó).
Niềm tin đó càng được chứng minh khi trong những năm máu khô không biến thành chất lỏng, nhiều điều tồi tệ đă xảy ra như: bệnh dịch hạch lan tràn năm 1527, động đất năm 1980 và thậm chí là trận thua của đội bóng thành phố Napoli.
Râu Của Nhà Tiên Tri Muhammad
Tương truyền rằng, chúng được cạo ra từ gương mặt của Nhà tiên tri Muhammad, bởi người thợ cắt tóc được Người yêu quư, trong quá tŕnh khám nghiệm tử thi.
Râu của Nhà tiên tri này hiện nay đang được trưng bày tại Bảo tàng Lâu đài Topkapi, Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Mặc dù, thánh tích này không được Đạo Hồi chính thức công nhận, nhưng hàng năm vẫn có nhiều người đến thăm bảo tàng và làm dày thêm các câu chuyện, như về các dấu chân của Nhà Tiên Tri, hay nhiều chi tiết khác liên quan đến Người.
Dây Lưng Của Đức Mẹ Maria
Chiếc dây lưng này được cho là đă được Đức Mẹ Maria dệt bằng tay từ lông lạc đà, để tặng cho Thánh Tông Đồ Thomas trước khi Đức Mẹ lên thiên đường. Khi chiếc thắt lưng được t́m thấy trên đường tới Prato, Italy vào thế kỷ mười bốn, một nhà thờ nhỏ đă được xây dựng để cất giữ nó.
Ngày nay, chiếc thắt lưng hay c̣n được gọi là Sacra Cintola, được tôn thờ như thánh tích của Đức Mẹ Đồng Trinh và được đưa ra trưng bày năm lần trong một năm. Ngày Giáng Sinh, Lễ Phục Sinh, ngày 1-5, ngày 15–8 và ngày sinh nhật Đức Mẹ Maria 8–9).
Đầu Của Thánh John, Người Thuộc Giáo Phái Baptist
Có nhiều giai thoại khác nhau về nơi yên nghỉ cuối cùng của Thánh John, giáo phái Baptist tùy vào sự giải thích của các tôn giáo khác nhau. Những người theo đạo Hồi tin rằng đầu ông nằm trong Thánh đường Hồi Giáo Umayyad ở Damascus, Syria.
Trong khi những người theo đạo Thiên Chúa tin rằng, đầu ông đang được trưng bày trong nhà thờ San Silvestro ở Roma. C̣n rất nhiều người khác tin rằng nó được chôn ở Thổ Nhĩ Kỳ hoặc thậm chí là ở miền nam nước Pháp.
Răng Của Đức Phật
Theo truyền thuyết Sri Lanka, một chiếc răng vẫn c̣n lại sau khi Đức Phật được hỏa táng. Chiếc răng nanh bên trái của Đức Phật đă trở thành một tài sản rất quư giá, bởi mọi người cho rằng bất cứ ai sở hữu được nó đều có thể trở thành thần thánh.
Và không hề ngạc nhiên khi chiếc răng bị săn t́m trong nhiều thế kỷ, nhưng ngày nay nó đă được cất giấu an toàn tại một đền thờ ở Kandy, Srilanka.
Áo Của Đức Mẹ Đồng Trinh
Nhà thờ Chartres của Pháp là một trong những ví dụ điển h́nh nhất cho lối kiến trúc Gothic, nhưng đó không phải là lư do duy nhất để những người hành hương về đây hàng năm.
Nhà thờ này cũng là nơi cất giữ một chiếc áo được cho là đă được Đức Mẹ Đồng Trinh mặc khi sinh ra Chúa. Chiếc áo c̣n được gọi là Sancta Camisia, được đưa vào nhà thờ năm 876.
Năm 1194, một trận hỏa hoạn lớn đă xảy ra tại nhà thờ nhưng thật kỳ diệu, ba ngày sau đó, người ta phát hiện ra là nó không hề bị phá hủy.
Đức Giám mục đă tuyên bố là đó là một dấu hiệu được Đức mẹ Maria truyền lại. Sau đó, nhà thờ được xây dựng lại để trưng bày nó.
Cây Nho Có H́nh Thánh Giá
Truyền thuyết kể rằng, tại nhà thờ Thánh Nino, một người phụ nữ Cappadoc, đi truyền đạo Thiên Chúa tại Georgia vào thế kỷ thứ tư, đă được Đức Mẹ Maria tặng một cây nho có h́nh Thánh giá, một cây với hai cành kỳ lạ tỏa sang hai bên.
Cây thánh giá, bây giờ đă trở thành một biểu tượng của nhà thờ chính thống của người Georgia, đă được đưa qua nhiều nước, trước khi được t́m thấy tại nhà thờ Sioni tại Tbilisi, Georgia, nơi hiện nay nó được trưng bày.
Dấu Chân Của Nhà Tiên Tri Muhammad
Một số người theo Đạo Hồi tin rằng, bất cứ nơi nào Nhà tiên tri Muhammad đi qua, dấu chân của Người để lại sẽ tạo thành một dấu vết tồn tại măi măi.
Có rất nhiều dấu chân đă được khôi phục từ những địa điểm tôn giáo ở Trung Đông, và bây giờ được trưng bày tại những thánh đường Hồi Giáo, viện Bảo Tàng và một số di tích lịch sử khác.
Một dấu chân hiện nay được t́m thấy tại Bảo tàng Lâu đài Topkapi ở Istanbul và đă được trưng bày ở đây từ đó đến nay.
Những Sợi Dây Xích Của Thánh Peter
Thánh Tông Đồ Peter đă bị tống giam tại Jerusalem, bị trói bởi một sợi dây xích v́ đă truyền bá về Chúa Jesus. Vào đêm trước khi Người bị xử, Thánh Peter được cho rằng là đă được giải thoát khỏi cùm xích bởi một thiên thần và Người đă thoát ra khỏi nhà tù.
Ngày nay, sợi xích đang được cất trong một ḥm chứa thánh tích, đặt dưới bệ thờ trong nhà thờ San Pietro tại Vincoli, Roma.
Truyền thuyết kể rằng, khi Nữ Hoàng Eudoxia ban sợi xích cho giáo hoàng Leo I, ông đă đặt chúng cạnh sợi xích được dùng để trói Thánh Peter, trong lần đầu tiên Người bị tù tại nhà tù Mamertime, Roma và hai sợi xích là những thánh tích kỳ diệu vẫn luôn được để cạnh nhau từ đó đến nay.
Hải Bằng
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1140 of 1439: Đă gửi: 31 May 2010 lúc 7:53pm | Đă lưu IP
|
|
|
BỬA TIỆC THỊNH SOẠN
Sau những ngày hành quân dài và gian khổ tại vùng địa đầu giới tuyến Quảng Trị, chúng tôi được đơn vị trưởng cho nghỉ phép đặc biệt xả hơi bốn ngày. ....
Quân, Đại úy đại đội trưởng, Thành đại úy trong ban ba trung đoàn, Toàn, trung úy đại đội phó và tôi, Thiếu tá tiểu đoàn trưởng leo lên chiếc xe Jeep lùn của đơn vị trực chỉ trên quốc lộ một hướng về thành phố Huế.
Chúng tôi trước khi được gọi động viên nhập ngũ sĩ quan là những bạn học cùng trường đại học Huế và chơi thân với nhau, nên nay được phục vụ cùng một đơn vị dù cấp bậc, chức vụ có khác nhau nhưng vẫn thân mật "tutoyer" (mày, tao) ngoài giờ quân vụ và thường rủ nhau cùng đi chơi với nhau khi có dịp.
Ngồi trên xe, Quân nói với chúng tôi:
- Moa đề nghị với các toa kỳ này chúng ḿnh đi chơi hơi xa... một chút.... các toa có đồng ư không? Ừ, đi chơi xa, moa rất đồng ư. Chứ cứ về Huế hoài như nhiều lần trước th́ chán quá. Hết café Lạc Sơn, rồi cơm Âm Phủ, Bánh Bèo Vĩ Dạ, Chè Ga hay Café Cô Dung hoặc lên trên cầu Trường Tiền những ngày mưa to, gió lớn nh́n cóc nổi của mấy nữ sinh đạp xe đạp từ trường Đồng Khánh về... cũng nhàm chán!
Toàn, người nhỏ lon và trẻ tuổi nhất trong bọn góp ư Quân.
- Toa nói xa... xa cỡ ...vào thành phố Đà Nẵng?
Thành đang có bạn gái là một nữ sinh tại trường Sao Mai ở Đất Hàn hỏi bạn. Để cho các bạn nói trước, bây giờ tôi mới chen vào ư kiến, ư c̣:
- Đà nẵng cũng chưa xa.. Quảng Trị đến Huế chừng sáu mươi km, Huế vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng chừng một trăm lẻ bốn km nữa. Các "cụ" nghe Quân nói hơi xa.. theo moa đoán ṃ..chúng ta phải ngồi xe jeep chạy thêm ba mươi hai km nữa. Nơi mà bạn Quân muốn tới phải là Hội An, nơi thăm viếng và tặng quà trước Tết...là nhà vị hôn thê của Quân, phải không "cụ" Quan Ba" Quân?"
Quân cười x̣a:
- Đúng, Ngài "Commandant" (Quan Tư) đă tốt nghiệp khóa tham mưu cao cấp rồi nên tớ chịu lời bàn Mao Tôn Cương của "Cụ" quá! Các bạn thông cảm cho ḿnh, sắp đến ngày Tết đầu tiên ḿnh mới đi hỏi vợ, Tết nhà binh chỉ ở đơn vị trực chiến, nên nay có dịp may nên ḿnh ghé thăm và biếu chút quà Tết đến bố mẹ nàng. Chắc gia đ́nh Nàng ngạc nhiên và vui lắm!
Những ngày cuối tháng chạp âm lịch, vùng B́nh Trị Thiên gió thổi lạnh, khi xe chạy đến gần cầu Bạch Hổ th́ một trận mưa đổ xuống như trút nước. Đă từng sống ở Huế nhiều năm, mưa dầm xứ này cứ hứng nước từ trời đổ xuống từ sáng đến chiều tối, ngày này sang ngày khác không dứt.
Trông buồn thối ruột nhất là lúc đó mà nhạc sĩ Ngô Ganh, trưởng Đài Phát Thanh Huế đang cho phát một điệu Ḥ mái đẩy hay khúc Nam Ai, Nam B́nh nữa th́ phải "Bonjour Tristesse!" như Francoise Sagan thôi.
Chúng tôi vượt cầu Trường Tiền, qua An Cựu, ngang Phú Bài để tiến vào hướng đi Quảng Nam như ư mong muốn của Quân. Đến Lăng Cô xe từ từ ḅ lên đèo Hải Vân. Đến đỉnh đèo, chúng tôi dừng xe để máy xe nguội bớt.
Chúng tôi đói bụng nên các bạn đề nghị vào quán t́m chút ǵ bỏ vào bụng. Các quán ăn trên đỉnh đèo Hải Vân lúc nào cũng đông khách v́ ở trên độ cao, du khách hít thở không khí hơi se lạnh, nh́n những đám mây trắng lững lờ bay ngay dưới chân ḿnh, nên cảm thấy thèm cái ǵ âm ấm bỏ vào dạ dày.
Xe đổ đèo đến Liên Chiểu qua vùng đồng bằng, chiếc xe jeep tăng tốc độ trên đường thiên lư vắng vẻ, hai bên đường là những băi cát trắng phau. Đến Ngă Ba Huế, xe không chạy thẳng để ghé thành phố Đà Nẵng, mà rẽ phải để vào hướng đi Hội An.
Đến thị trấn Vĩnh Điện, xe đến ngă ba, rẽ trái xuống Hội An. Trên con đường trải nhựa gồ ghề và ḷng đường chật hẹp, xe chạy chậm dần rồi ngừng hẳn. Quân nh́n đồng hồ báo nhiên liệu thốt lên:
- Hết xăng rồi các Cụ ơi! tuy chỉ c̣n hai, ba cây số nữa là đến Hội An.
Hết xăng giữa miền nhà quê, đồng trống. Trời sập tối, không c̣n xe cộ ǵ chạy qua lại. Vùng này thuộc loại vùng xôi đậu, kém an ninh về ban đêm. Nên chúng tôi bàn với nhau, đẩy xe jeep vào chỗ khuất bên đường có nhiều bụi cây thấp để ngụy trang.
Mỗi người thủ một vũ khí cá nhân đă mang theo cùng một số lựu đạn M 26. Chúng tôi lom khom đi sau các lùm cây t́m một căn nhà để trú qua đêm. Sương khuya đổ xuống càng lúc càng thấm lạnh hơn.
Bỗng Thành đạp vào chân tôi và khẻ bảo:
- Toa có thấy ánh đèn sáng đàng xa kia, cách đường lộ cũng cả hơn trăm mét, chúng ta từng người..khoảng cách..từ từ đi đến nơi ấy...để ư...địch phát hiện ta nghe.
Quân thấy ngôi nhà gạch, đèn sáng nên bảo các bạn dừng lại, chờ trong chỗ tối để Quân vào trước xem thử thế nào đă. Quân ra hiệu, cả bọn tiến vào nhà. Nhà đèn sáng và đông người đang ngồi quanh hai bàn dài đang ăn và tṛ chuyện vui vẻ.
Tôi nh́n vào bàn tiệc, có thể là bữa cổ.. có mấy quân nhân mặc quân phục và sắc phục cảnh sát tham dự. Như vậy, thuộc phe Ta rồi, nên chúng tôi bớt lo. Chủ nhà, một bác cao tuổi khi thấy chúng tôi vào nhà, đứng dậy nói:
- Kính mời quư khách vào nhà và cùng dự tiệc với chúng tôi. Hôm nay ngày kỵ Cụ Tổ của chúng tôi, nên con cháu ở gần đây đă về dự đông đủ, mới ngồi vào bàn vậy mời quư vị khách quư cùng ngồi vào.
Chúng tôi cùng chào Cụ và khách khứa rồi ngồi vào bàn. Cầm đũa và ăn. Đồ ăn đặt trên bàn nhiều món. Ngon miệng nên chúng tôi ăn và uống bia cũng hơi nhiều. Tiệc xong, chủ nhà đưa chúng tôi vào ngủ tạm trong một pḥng có đủ chăn màn. V́ đi đường xa mệt và có chút men rượu trong máu, nên chúng tôi ngủ say ngay.
Nghe tiếng gà gáy sáng, chúng tôi tỉnh giấc thức dậy. Chúng tôi ai nấy đều ngạc nhiên v́ nơi đang nằm là một nghĩa trang của một gia đ́nh giàu có tại địa phương này. Ngôi nhà tối hôm qua biến mất. Nh́n xa xa chúng tôi thấy cổng tam quan của Chùa Long Tuyền.
Chúng tôi t́m lối đi ra đường cái. Đến chỗ đă giấu xe đêm qua, đẩy xe ra quốc lộ. Mấy chiếc xe đ̣ chuyên chở khách đến gần. Thấy xe jeep chúng tôi nằm đường. Anh tài xế hỏi:
- Xe quư vị bị banh, có cần chúng tôi giúp ǵ không?
Tôi trả lời:
- Xe bị hết xăng. Bạn giúp chúng tôi được không?
Anh tài xế gật đầu hiểu, bảo chú tài phụ lấy can xăng xơ cua đem đổ một ít vào b́nh xăng xe chúng tôi. Tôi trả tiền nhưng anh không nhận. Anh c̣n nói thêm:
- Sở dĩ chúng tôi c̣n chạy xe, c̣n làm ăn được là nhờ các anh quân nhân hàng ngày hành quân, giữ an ninh trục lộ, cầu cống an toàn, nên giúp nhau một chút có sao đâu mà quư vị phải quan tâm.
Chúng tôi cám ơn anh ta và lên xe lái xuống thị xă Hội An cách nơi này hơn hai kilômét.
Thế là chúng tôi đă dự một bữa tiệc thịnh soạn do Ma thết đăi, tại một nghĩa trang ở khu Thanh Hà trong đêm Hai Mươi Ba tháng Chạp, khi Táo Quân sửa soạn lên chầu Thượng Hoàng Ngọc Đế năm Quư Sửu 1973.
Bữa tiệc này chúng tôi nhớ đời, v́ buổi sáng hôm ấy móc miệng ra thấy toàn cây cỏ bông hoa mọc trên những nấm mộ cổ, c̣n rượu bia mà chúng tôi nhậu rất đă, rất ngon là loại.. chất lỏng ǵ?
Phương Duy
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|