Tác giả |
|
hiendde Hội Viên


Đã tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1181 of 1439: Đã gửi: 22 June 2010 lúc 11:09am | Đã lưu IP
|
|
|
LÀM SÁNG TỎ CON ĐƯỜNG BÙA NGÃI
khi nói đến bùa ngãi ai cũng tò mò, khiến cho rơi vào tà đạo mà không hay, hoặc vì ham mê bùa chú mà phải khuất phục một đạo giáo, tôi vì tất cả sẽ lần lượt phơi bày từng bùa và pháp thuật bề trái của từng môn phái, trước tiên tôi nói về lỗ ban.
Lỗ ban có hai loại để hành, thứ nhất là ếm, lỗ ban cũng có thể ếm như ngãi, có thể trấn, có thể trị bịnh, có thể đánh tà binh, mỗi chữ lỗ ban có một tác dụng, lỗ ban sai binh như ngãi, nên ngãi và lỗ ban na ná giống nhau, chỉ khác là ngãi chỉ sai được binh ma thôi, còn lỗ ban có thể đánh được binh ma.
Còn ngãi cũng có hai loại, một dùng để ếm một dùng trị bệnh, nhưng nói chung ngãi không thông dụng như lỗ ban. Bây giờ tôi nói đến ngãi, tại sao một loại cây bình thường mà biến thành ngãi, để sai khiến đi làm một việc gì thì, tôi sẽ phơi bày cho mọi người thấy và sẽ giúp cách giải ngãi luôn.
Ngãi gồm: ngãi miên, ngãi nói, ngãi ếm, ngãi thái, ngãi chà già, ngãi dân tộc, ngãi yêu, ngãi campuchia, tất cả ngãi giống nhau là từ các loại cây khác nhau mà luyện, có loại phải để chổ cao và khuất mà luyện, có loại trồng như rừng, có loại trồng chậu nhảy củ nhỏ, có loại đeo bám trên thân cây trong rừng, đặc biệt mỗi vị thầy có câu thần chú riêng để sai khiến ngãi, tại sao sai được như vậy?
Ở bên nước ngoài họ chứng minh bằng cách, trồng cây cà chua trong hai chậu, một bên họ cho nghe nhạc, còn chậu kia cho để xa không nghe nhạc, cuối cùng, bên chậu cho nghe nhạc cho ra trái sai.
Tôi cũng chứng minh được, những cây ăn trái ở gần nhà nghe kinh thì cho ra trái nhiều, mà phát triển cây con dưới gốc, cây hơi xa nhà thì ít trái, thầy tôi nhìn cây và nói binh về rất nhiều, nhưng tôi không sử dụng ngãi sao binh cũng về?
Tại sao ngãi có binh, binh là gì? thường thấy lính đông người ta nói một đội binh, binh có nghĩa là lính, chỉ một số đông bị sai theo một khẩu lệnh, trong ngãi mỗi gốc là một binh, khi gốc nhảy bao nhiêu thì bấy nhiêu binh, hồn binh đó sẽ tuân thủ lệnh của chủ và câu thần chú đó.
Khi đem ngãi về người chủ đặt tên và ban thần chú để điều khiển ngãi. Vì ngãi có linh hồn nên người chủ phải thắp nhang và mỗi đêm phải đọc thần chú cho ngãi nghe quen, cũng là phương pháp làm quen ngãi. Ngãi phải sạch và kỷ nếu không hồn bay thì ngãi trở lại bình thường.
Khi người bị ngãi, thấy lần sần dật dựa như say, khi tiếp xúc, nói chuyện với người chơi ngãi, thì phải giải như sau:
Lấy củ tỏi, năm lá trầu và xã hai củ, nấu xông vài lần là được, nước xông có thể uống và tắm luôn, chừng một tuần thì qua khỏi, uống thêm đậu xanh, bỏ tỏi trong người cũng ngừa được ngãi nữa, nếu bị ngãi nhập thì phải tụng lăng nghiêm, trì chú sẽ thêm công hiệu.
Có người hỏi chơi ngãi có ảnh hưởng không và có nhân quả ra sao? việc này tôi trình bày sau, bây giờ tôi sẽ đến chữ bùa, chữ bùa của tiền nhân để lại là một ấn tự, ví dụ lỗ ban có đặc điểm dù xoay mấy vòng hay phương cách nào, thì chữ có từ ba đến tám móc khóa.
Bùa năm ông là bùa năm vị thần, đã gọi là thần thì rất nghiêm minh ai làm sai sẽ phạt, mà phạt cực kỳ dữ và chữ bùa đến mười móc khóa, chữ bùa của Phật cũng là ấn tự, mỗi vị đều để lại cho chúng sanh một ấn tự, và nguyện ai đọc đúng câu thần chú do mình để lại, mình sẽ vì người đó thực hiện theo mong cầu.
Vì vậy đọc đúng câu thần chú thần, thì thần hiện, đọc đúng câu của tiên thì tiên hiện, đọc đúng câu binh thì binh hiện...đọc câu của Phật thì Phật sai sứ giã hiện, từ bậc Bồ tát trở lên là có sứ giã, vì vậy cúng Bồ tát trở lên ta thấy phải cúng ba chung nước, vì ngài đi thì sẽ đi đến ba vị, vậy thần chú ra sao và ấn tự như thế nào? còn binh thì có mặt những đâu tôi sẽ trình bày sau.
Các đạo hữu chú ý thấy sau một bài kinh của Phật thường có câu chú kèm, như phổ môn thì: án đa rị, đa rị đốt đa rị đốt đốt đa rị ta bà ha, còn chú đại bi thì câu cuối là: án tất điện đô mạn đa ra phạt xà da ta bà ha, hoặc Chuẩn đề: án chiếc lệ chủ lệ Chuẩn đề ta bà ha, hay Quan Âm án ma ni bát di hồng.
Của mật tông là: um pé me hum, om ma ni bát di hồng, hoặc của tiên gia như nam mô vô lượng Phật, thiên binh hạ cấp lệnh mau mau nhập lệnh, hoặc chú Thổ địa: nam mô tam mãn đa một đà nẫm, án độ rô độ rô, địa vĩ ta bà ha. Tôi chỉ nêu một số ít thôi, vậy thần chú có tác dụng gì, thì như bài trên tôi đã trình bày rồi, vậy tôi nói tiếp binh ở đâu, chắc các đạo hữu thắc mắc lắm, tôi xin nói ngoài binh ở ngãi, thì binh có mặt khắp nơi, tại sao?
Những người tu tại gia, binh cũng tới đó gọi là binh gia, ở miếu am có binh của bà Mẹ sanh Mẹ độ, những người chơi lỗ ban cũng có binh gia, bên thánh, tiên cũng có binh, binh đi đầy ngoài đường gọi là âm binh, khi đi đâu ai biết đọc thần chú binh là gọi được binh.
Như vậy các đạo hữu biết binh ở đâu rồi chứ, tôi sẽ nói về nhân quả của ngãi ở bài sau, những bậc thầy chơi ngãi hoặc bùa lỗ ban, hoặc thầy pháp, thiên linh cái, nói chung loại sai binh ếm phá...các vị này ít ai dám lập gia đình, vì sao? tại họ sợ lục dục sẽ gây ảnh hưỡng về quá trình tu tập, hoặc phân tâm không đạt.
Đương nhiên nhân quả thì ác có ác báo, còn ảnh hưởng thì đạo hữu đặt ra cho mình câu hỏi? sau khi mình lâm chung thì ngãi này sẽ ra sao? binh gia sẽ đi về đâu? con mình có nối tiếp để làm như mình không? tự các đạo hữu sẽ trả lời câu hỏi này và tự biết nếu ngãi không có mình thì sẽ ra sao? Bây giờ tôi giải thích vấn đề phản ngãi là sao? có một thí chủ khóc và cầu đạo hữu ếm giùm cho, vì người này làm...tôi bực mình không chấp nhận, thì đạo hữu nghe nói liền nổi tức ếm ngay người thí chủ yêu cầu.
Khi người này bị ếm họ chạy tới tôi và khóc kể, tôi cũng không cam lòng khi thấy người đau đớn, gỡ ngãi hay gỡ bùa thì sao? như vậy binh của tôi và binh của đạo hữu đánh nhau. Người chơi ngãi là thủ lĩnh cầm binh, khi binh đánh nhau bên nào mạnh thì bên ấy thắng, binh đang thắng thì sao? đạo hữu thừa biết sự đau của kẻ chiến bại, tôi chỉ ví dụ thôi nghe chứ tôi không chơi ngãi nha.
Như vậy phản ngãi có nghĩa bị binh đối phương tấn công nên họ bị điên, vậy đạo hữu biết nhân quả biết tác hại của người thủ lỉnh cầm binh rồi. Còn một điều quan trọng là người có tài phép cao họ rất khiêm tốn không khoe khoang, ai mà càng phô trương tài phép kẻ đó không có gì, đừng tin những người như vậy, mong sao các đạo hữu đừng bị mê hoặc bởi những người ham làm thầy mà rơi vào cạm bẩy. Nam Mô A Di Đà Phật.
dieudinh
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đã tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1182 of 1439: Đã gửi: 24 June 2010 lúc 6:53am | Đã lưu IP
|
|
|
CHUYỆN HUYỀN BÍ MIỀN BẮC "THẦN GIỮ CỦA"
Ngoài Bắc có hai chuyện thực kỳ lạ, mà có lẽ đồng bào Trung Nam ít được thấy được nghe, truyện lạ lùng như các con thú lại chỉ ban đêm mới đi kiếm ăn..Hồi xưa nước Việt chúng ta bị quan Tàu sang vơ vét vàng bạc, nhưng lại không được phép mang về nước họ, cũng có lẽ vì đướng sá quá xa xôi nguy hiểm, nhiều cướp trộm dọc đường nên phải tìm cách chôn dấu ờ An Nam Quốc, rồi phong thần giữ của đó cho con cháu chúng sẽ tìm lấy về sau.
Tôi đã được nghe các bậc trưởng thượng trong tỉnh Hải Dương nói rằng: có người gặp một đàn lợn mấy chục con kéo nhau đi ăn đêm gần chùa Ông Đống phố Đông Thị, Hải Dương. Người này cố đuổi bắt cho được con lợn to đầu đàn, mà không thèm bắt con lợn què đang lê lết đàng sau. Quá chùa một đọan, đàn lợn biến mất. Như vậy là gần chùa có hầm để của rồi.
Lại có người đã gặp ngựa ăn cỏ sau nhà thương Hải Dương hồi quá nửa đên. Lại gần toan bắt thì bị nó đá chết. Cách đây hơn chục năm, một tờ báo ở Saigon có đăng một chuyện “vịt ăn đêm”. Hai vợ chồng nhà nông kia đi làm đồng thực sớm, gặp đàn vịt mấy chục con ăn ở ruộng gần đó, bèn lùa cả về nhà. Sáng ngày ra thấy chuồng gà, vịt toàn bằng vàng, nhờ vậy mà trở nên giàu có.
Tiếng đồn ầm lên được của, nhưng rồi mấy năm sau thì bị hại vì của trời ơi này, không phải đồng bào Việt ghen ăn mà chính do người Tàu, con cháu của quan lại Trung Quốc hồi xưa đã để của lại cho họ. Chúng có gia phả và chìa khóa để mở các cửa kho vàng đó. Nay biết là số vàng của họ bị mất đi một phần, nên họ tìm cách ám hại vợ chồng nộng dân kia để đọat lại. Rất tiếc tôi không còn nhớ chúng đã dùng thủ đọan gì để cướp lại số vàng đó.
Các bậc tôn trưởng kể rằng: Khi phong thần, người có của đã hẹn cho thần giữ của một thời hạn là bao nhiêu năm nhất định, sẽ có người lấy vàng và sẽ trả tự do cho thần. Quá hạn đó thần có toàn quyền chọn cho ai của đó thì cho.
Một nhà nông đi làm về khuya gặp một cô con gái thực đẹp, bảo đem cho cô ta một dĩa bánh đúc mắm tôm và hai mươi mốt ngưới đàn bà có mang, thì cô ta sẽ cho một con lợn bằng vàng. Người nhà nông nhanh trí nghĩ ngay ra, đem đủ bánh đúc mắm tôm và hai mươi mốt cái “dòng đòng” (cây lúa đang có bầu). Thì cô gái nhận và mở cửa kho ra, cho thấy cơ man nào là vàng đỏ ối, nhưng chỉ cho một con lợn đúng như lời đã hứa.
Cô gái kia chính là thần giữ cửa các kho đó, nhưng khi đã quá ngày hẹn, thần bị đói nên được toàn quyền xử dụng kho vàng, đổi lợn lấy thức ăn. Và các súc vật đi ăn đêm chính là những con vật bằng vàng trong hầm, lâu ngày đã thành thần vậy.
Một gia đình có con gái thứ vừa tuần cập kê, được quan Tàu địa phương đến cầu hôn. Còn gì bằng nữa! Một bước lên bà quan nên gia đình cô gái nhận lời. Những ngày đầu, gia đình nhà gái cũng được đến chơi vài ba lần. Rể cũng nhã nhặn đón tiếp. Một hôm cô gái rỉ tai mẹ đẻ: "Từ hôm về đây đến giờ, chồng con vẫn để con ngủ một mình thôi mẹ ạ!
Bà mẹ cũng không vừa, chất vấn rể luôn thì được trả lời: "Tục lệ Thiên triều khác với nước Đại Cồ Việt của cá nhà bà, còn phải chọn ngày thực tốt mới được". Vốn đã được nghe ít nhiều về chuyện “phong thần”, bà mẹ cô gái bàn với gia đình tìm phương giải cứu con, nếu vạn nhất con gái bà bị “phong thần” như đã có lời đồn đại. Bà mẹ ngầm dúi cho con gái một gói đựng hạt vừng (mè) thực mẩy, dặn rằng:
“Nếu có phải đi đâu ban đêm thì hết sức cẩn thận, rắc vừng xuống đất, theo dọc đường và đến chổ nào xuống kiệu, còn bao nhiêu rắc vung vải ra chung quanh cho kỳ hết mà chớ có để lộ cho ai biết mảy may”.
Thế rồi việc phải đến đã đến. Quá nửa đêm một hôm thực tối, không trăng sao, cô gái được đưa lên kiệu và rước đi. Theo đúng lời mẹ dặn, cô gái đã rắc vừng suốt dọc đường và đến chổ kiệu đỗ, còn bao nhiêu vung vãi ra hết.
Cô gái được đưa xuống hầm sâu rồi lên ngai vàng chân tay bị buộc chặt vào ngai. Miệng được ngậm một củ sâm, hai hai môi bị gắn chặt lại với nhau bằng nhựa trám. Với củ sâm đó, cô gái sống được một trăm ngày mới chết.
Sau khi hô thần và làm đủ phù phép, bọn Tàu phù ra khỏi hầm, xây kính miệng hầm lại, san bằng chổ đất, trồng lại cỏ như củ khiêng không một ai có thể ngờ việc gì được. Khi bà mẹ cô gái đến thăm còn lần cuối, thì được nhà trai cho biết là đôi tân hôn đã dời đến nhà dành riêng ờ mãi xa không thể đi được.
Chỉ cần nửa tháng sau, gia đình cô gái đã tìm ra dấu vết con mình, nhờ cây vừng đã mọc đều. Cuối cùng đã cứu được cô gái. Kho vàng đỏ ối, họ đúc đủ thứ: vàng nén, vàng lá, chén, bát, đĩa, cau, trầu đều toàn vàng ròng.
Gia đình cô gái có đoạt được kho vàng đó không? Không thấy nói mà chỉ biết sau khi cứu thoát được con gái, gia đình đó đã phải trốn đi phương khác, e khi việc bị bại lộ thì hết đường sống với Tàu phù.
Nếu quá một trăm ngày, cô gái chết rồi thành “thần giữ của” cái kho này, thì dù là bố hay mẹ cô ta có biết mà vào kho đó, cũng sẽ bị thần chém chết luôn, trừ khi biết được câu thần chú “hô” để gọi mở cửa kho thì không kể. Nhưng bọn để của đâu có lộ thần chú ấy cho ai mà biết được.
Trọng Mạc
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đã tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1183 of 1439: Đã gửi: 24 June 2010 lúc 7:30am | Đã lưu IP
|
|
|
MA TRONG QUÁN CAFE
Mới tối hôm kia thứ tư, ngày 31-3-2010, tôi được một phen hú vía. Hôm đó đi uống cafe với bạn, trong quán dưới ánh đèn vàng le lói, có từng ô có ghế đôi cho các bạn bè ngồi, xung quanh hoàn toàn im ắng, chỉ có tiếng nhạc riu riu, tiếng bụi tre kêu cót két, tiếng lá cây lào xào và tiếng rúc rích của côn trùng.
Lúc đó khoảng chập choạng hơn sáu giờ tối, chỗ đó chỉ mới có hai ô khách là tôi và ô kế bên. Đang đợi bạn đến thì tôi nghe tiếng cô gái la hoảng lên:
- Áa.. aaa..aaa.....
Nghe thấy mà ghê. Tôi chạy qua xem thế nào thì thấy cô ấy đang ngồi một mình, mặt mày thất thần tái mét, run lập cập không nói nên lời. Chắc là vừa thấy cái gì rùng rợn lắm đây.
Mấy người chủ quán cũng chạy ra xem, và họ đưa cô gái sang ngồi ở chỗ khác sáng sủa hơn. Từ từ bình tĩnh lại một chút, cô đó chỉ tay về cái ô lúc nãy cô ấy ngồi rồi kể:
- Vừa nãy tôi đang ngồi đợi bạn, tự nhiên có một thanh niên trạc hai mươi tuổi, mặc áo đỏ trèo lên vách tường, bất thình lình hắn trờ người, hai tay chống thành tường, miệng nó cười, nó giương mắt ra nhìn tôi, rồi nó chồm ào tới chổ tôi ngồi rồi mất tiêu.
Tôi đến xem xét cái ô cô này ngồi, nó sát mép ngoài khuôn viên đất, cái tường chỉ cao khoảng một mét rưở, nếu đứng phía bên trong quán, khoảng hơn ba mét nếu đứng từ phía ngoài.
Chung quanh đó là khuôn đất rộng, nhưng được bao bọc lại và lọt thõm sâu xuống thành cái hố khổng lồ, đã bị bỏ hoang từ lâu. Bên dưới hố là cây cối um tùm hoang dại, rác rến, đất đá lởm chởm thì không có khả năng người nào có thể leo vào hố này.
Càng không thể áp sát cái tường đó mà trờ người vào. Ngay đó có mớ dây leo chằng chịt, vẫn còn nằm nguyên đó khi tôi xem xét, nếu có ai đó áp sát như vậy thì đám dây leo đó đã phải bị móp méo bầm dập, nhưng mà hiện trường không hề có dấu hiệu gì của người đột nhập hết, chỉ có khả năng, cô đó bị ma nhát.
Cô ta nói rằng lần đầu trong đời gặp chuyện như vậy, một buổi sau vẫn còn chưa hết sợ. Chuyện này người của quán họ giữ kín chứ không có nói ra ngoài vì sợ mất khách. Do có quan hệ quen biết nên tôi cũng được biết là cô chủ quán này rất khá giả, lại rất thường đi chùa cúng kiến, có khi dâng y cho các thầy để cầu xin làm ăn.
Ngày hôm đó cô chủ cũng vừa đi cúng chùa ở Đà Lạt về. Tôi nghĩ việc đi cúng chùa xin làm ăn có lẽ bị phản tác dụng rồi, vì khách đến quán bị ma nhát như vậy thì còn ai dám đến nửa! Tôi nghe kể thôi cũng cảm thấy lạnh mình.
thanhkhang
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đã tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1184 of 1439: Đã gửi: 25 June 2010 lúc 1:04am | Đã lưu IP
|
|
|
ĐỘNG MỘ
Phụ thân tôi hốt nhiên bị “thiên đầu thống” đau nữa đầu đằng sau rất dữ dội, thuốc ta, tầu, tây đã nhiều nhưng chẳng đỡ chút nào. Nhờ “bói ra khoa thấy”, ông thầy bảo phải xem lại ngôi mộ tứ đại dòng họ, tức phụ thân tôi gọi là ông nội. Ngôi mộ này nằm ở Đống Hàng Đồng Hải Dương.
Xưa kia Đống Hàng Đồng chơ vơ nhưng rồi cụ Chánh Sỹ, có con trai lớn là anh Quế cùng học một lớp với tôi, đến lập ấp gần đó, trồng tre làm hàng rào sát cạnh Đống ấy.
Lúc bới đất lên, rễ tre đã phủ kín cả tiểu sành và chui vào trong qua khe nắp đậy.
Chúng tôi phải rỡ đến xương ra, rửa lại bằng nước ngũ vị hương sau đó mới chôn lại. Rồi còn phải khơi một rãnh thực sâu giữa bờ tre và Đống Hàng Đồng, thường thường phải lên thăm nom chặt hết rể tre không cho vượt qua rãnh nữa mới được yên, phụ thân tôi mới khỏi đau.
Cũng một người ở làng Hàn chúng tôi đã chừng năm mươi tuổi bị đau ngang ngực như có gì đè lên trên. Thầy bói bảo rằng “động mộ”, mộ tức là mả tròn, ta thường nói: mồ tròn mà dài. Và lạ quá, lúc bới hết đất lên thì thấy cái nắp tiểu sành đã vỡ, những mảnh sành nằm nghiêng chọc xuống xương. Lau rửa xương cốt lại, thay tiểu khác. Quả nhiên gia chủ hết đau.
Hung táng
Và đây là một trường hợp về hung táng, tức là chưa hốt cốt. Ông Lý Cựu ở cạnh nhà tôi, trước cổng nhà thương Hải Dương, cứ bị như dùi đâm vào đầu và các khớp xương.
Lần này không phải thầy pháp, cũng không phải “bói ra khoa thấy” mà do thầy địa lý ở Cổng Chông xem hộ. Thầy ra mả, nhổ mấy cây cỏ xem rễ rồi đóan là mả động. Xin nói thêm điều này, người lớn kể rằng các thầy địa lý thực tài giỏi, có thể xem rễ cây mọc trên mồ mả mà biết được mồ mả đó kết hay không. Nghe vậy mà thuật lại như vậ.
Mở mả ra, nước đầy ăm ắp, phải lấy thau múc nước đổ vào rổ để lọc xương nhỏ. Nước cạn, thò tay xuống bới xương thì thấy nhung nhúc những cá trê và không rỏ làm thế nào chúng chui cả vào trong sọ, rồi không ra được, mà con nào con nấy đỏ như máu cả thực là ghê khiếp.
Những cái túi bằng “đũi” bọc hai bàn chân và hai bàn tay cũng bị cá trê chui vào nằm đầy trong đó. Phải vét cho kỳ hết, lọc trên rổ mới lấy được trọn vẹn cả bộ xương để cát táng. Mả đó là mả bố ông Lý Cựu. Sau khi đã tắm rửa sạch sẽ cho Cụ Cố bằng nước ngũ vị hương và chôn trên gò cao, ông Lý Cựu khỏi hẳn bệnh buốt óc và những đốt xương.
Thần Trùng
Anh Vệ Tạo làng tôi có bà mẹ chết chưa được bao lâu thì anh bị đau nặng phải vào nằm nhà thương Hải Dương. Một đêm đã khuya, thanh vắng tứ bề, anh còn thức mà rõ ràng nghe tiếng từ ngòai cửa phòng gọi vào:
- Tạo.. Tạo..
Đúng tiếng bà mẹ anh rồi, sai sao được nhưng mẹ anh đâu còn sống mà gọi. Nhở đã được các bậc già nua dặn kỹ từ trước là nếu đêm hôm khuya khoắt, có ai gọi, dù gọi đích danh mình cũng chớ có trả lời kẻo ma nó bắt mất vía.
Ở Thượng Du, những người đi rừng cũng kiêng gọi tên nhau mà chỉ “hú” thôi để ma khỏi bắt mất vía. Tạo im lặng hoàn toàn để rồi mấy phút sau đó thôi không còn tiếng gọi nữa.
Hôm sau gia đình anh Tạo phải mời thầy pháp về cúng trừ Trùng. Thầy cho biết, nếu đêm qua Tạo lên tiếng thì Trùng “Thần Nanh Đỏ Mỏ” đã thu vía anh để đem đi khảo đả cho đến khi Tạo chết, rồi nó lại đã vong mẫu anh phải đưa về bắt người khác.
Thầy pháp chỉ cúng lễ và bùa phép trấn áp Thần Trùng một thời gian nào đó thôi chứ không thể không thể trừ diệt hẳn được nó. Gia đình anh Tạo còn phải đi thỉnh bùa ếm mả mới được yên.
Thầy pháp danh tiếng làm bùa yểm mả trừ mọi lọai Trùng, Trùng Tang, Trùng Khô Kháo, dữ dội nhất là Trùng Thần Nanh Đỏ Mỏ, hai con chim xanh mỏ đỏ như lửa cứ con bay lên, con bổ xuống trên mả người bị Trùng, và mỗi lần nó bổ xuống là tự lòng mả lại có tiếng rú lê,n như người bị kìm kẹp tra tấn.
Quán tại làng Giông, huyện Thanh Hà, bên kia cầu Phú Lương, tỉnh Hải Dương chừng vài chục cây số. Chính gia đình chúng tôi đã phải cầu cứu đến thầy một lần. Tất cả bùa chú đã được nhồi vào một ống tre bịt kín, phìa dưới đẽo nhọn như đầu cái đòn xóc. Lựa buổi sáng tinh sương, âm thầm đem bùa đó ra đóng trên mả thực sâu, lấp đất cho kỹ.
Theo lời các bậc già cả thì bùa đó có công năng phi thường, làm vong hồn bị mù đặc, không còn biết đường lối nào mà dẫn Thần Trùng về bắt con cháu nữa.
Trùng Khô Kháo
Đây là chuyện có thực mà chính tôi đã có mặt tại chỗ. Từ ngày bà ngọai vợ tôi mất đi, trong dòng họ Lê bị lục đục, đau ốm liên miên, gia súc chết, làm ăn hết sức lủng củng, như thế đã hơn ba năm. Nhờ “bói ra khoa thấy” nên phải rước thầy phù thủy về cúng lễ, trừ tai giải ách cho.
Thầy pháp cho biết là mả bà ngọai chúng tôi bị Trùng Khô Kháo, cần phải mở để yểm bùa trừ Trùng. Nhưng làm sao thầy biết được mà dám quyết đóan như thế?
Quá giờ Tý một đêm thanh vắng và yên lặng hoàn toàn, chúng tôi mới ra mả. Trước khi thầy pháp bắt tay vào việc, mỗi người chúng tôi được ngậm một bùa tết sẵn, và một đeo vào khuy áo trước ngực. Đâu đấy rồi thầy mới cho động thổ.
Tay thầy luôn luôn bắt ấn, miệng niệm thần chú. Lúc bắt đầy cậy nắp ván thiên, thầy hét lên một tiếng thực to. Chúng tôi đều thấy rõ xác chết vẫn còn y nguyên như lúc mới nhập quan, chưa tiêu đi được chút nào, mà lạ lùng hơn nữa là cũng không có mùi hôi thối.
Thầy pháp đã ngậm sẵn một đạo bùa miệng, cúi xuống sát tận mặt xác chết, lấy dao cậy răng nhả bùa đó vào trong miệng xác khô, rồi đó linh phù được yểm trên xác và chung quanh. Một đạo bùa được đặt từ ngực xuống đến chân sau đó mới đậy nắp và lấp đất.
- Nhả hết bùa ra, Trùng Khô Kháo đủ bị đánh bạt đi rồi không còn gì phải sợ nữa.
Thầy pháp bảo chúng tôi như vậy rồi mọi người ra về. Từ sau đó, ngành Trưởng họ Lê lại làm ăn yên ổn như cũ.
Mả kết
Khu Tịch Điền làng chúng tôi hồi 1916 được san bằng, để xây trường Nam tiểu học Pháp Việt, cả cái nghĩa địa rộng có mấy nghìn ngôi mộ cũng được dời đi. Người ta kể lại:
lúc hốt cốt, họ có gặp một ngôi mộ mở nắp tiểu sành ra, thấy xương vẫn đầy ăm ắp, mà tơ hồng phủ kín đầy tiểu, xương trong tiểu sành còn nguyên vên không hư hao thế là "được đất".
Tơ hồng trên nắm xương nói trên, nhờ chổ đất tốt mới có.
Nó là thử chỉ hồng từ xương mà sinh ra. Xương bị tơ hồng phủ đầy là mả táng đúng long mạch. Mả như thế mà bị phá đi thì tai họa đến ngay.
Đau khổ cho gia đình nào đó. Mả kết mà bị phá như thế con cháu, dòng họ nhà ấy sẽ bị lụn bại không tránh được.
Trên đây là một số những truyện phiền phức mà nắm xương trong lòng đất gây nên cho con cháu dòng họ cùng huyết thống, chứng minh thực tế rõ ràng sợi dây liên lạc vô hình thiêng liêng không thể chối cãi được giữa người sống và người chết.
Nếu tìm được đất tốt, được linh huyệt thì còn gì quý bằng. Nhưng việc đó đâu phải dễ dàng. Phải đầy âm đức lắm lắm mới được những đại huyệt, chẳng thế mà Cổ Đức đã răn dạy trước, Tiên tích đức, hậu tầm long.
Còn nếu trọn đời làm việc thất âm đức mà cố đấm ăn xôi, cũng học đòi tìm đất, thì đâu có được, Không khéo lại gặp thầy gà mờ huyệt chẳng ngắm, ngắm hang rắn, nó cắn cho lụn bại dòng ác đức hại nhân.
Lúc này đây, khoa địa lý gần như thất truyền và dù thánh sư Tả Ao tái sinh nữa, dám chắc cũng chẳng thể làm nên được truyện gì tốt như nghìn xưa. Đất cát hầu khắp Tổ Quốc Việt Nam bị bom đạn cày nát, dân chúng ly tán… còn ở thành thị thì lòng đất xẻ ngang dọc như màng nhện.
Tìm mua được huyệt cho người chết ở các nghĩa trang lúc này đã khó, thì còn chọn đất làm sao được theo ý mình chứ. Đất cát đã bị băm vằm tan nát thì thử hỏi long mạch nào mà không đứt.
Đã thế rồi việc tống táng, nào xe đòn, nào mua đất, nào xây mộ… còn bao nhiêu truyện lặt vặt nữa, tốn phí đến mức nào mà kể. Vậy chúng ta có nên theo tục hỏa táng giản dị sạch sẽ, ít tốn kém mà lại không có các truyện rắc rối như vừa nêu trên kia không?
Nhờ biến cố lịch sử 1945, tôi đã được thấy tận mắt lính Nhật ở miền Cực Bắc Việt Nam về Hà Nội, qua ngã Tuần Giao nơi tôi làm việc, nhiều người đeo ngang trước ngực một miếng gỗ có dây quàng ra sau cổ, trên để một hộp gắn kín với một nén hương đang cháy.
Hỏi ra thì được biết đó là tro cốt của các sĩ quan chết trận, được hỏa táng tại chổ, cốt được đựng vào hộp nắp kín, sẽ chuyển về Nhật để trao lại cho thân nhân người đã quá vãng.
Tôi rất kính phục lòng tri ân của người Nhật đối với các quan thầy cao cấp của họ. Hộp tro cốt được thờ trước ngực người lính suốt dọc đường cho đến khi về đến Nhật, chứ không cầm tay hay xếp vào thùng vào hòm.
Tôi đã dự nhiều đám hỏa táng của đồng bào miền núi và ngay tại Saigon đây. Cũng đã có được xem hỏa táng vào ba lần, thì thấy thực sạch sẽ, gọn gàng, bớt đi được rất nhiều chuyện bực mình về hung táng, địa táng.
Hỏa táng rồi tro được hốt vào bình kín thờ trên tháp cao như ở chùa Phú Lâm. Hoặc cũng có gia đình đem tro đó thả xuống biển cho vong linh người thân được mát mẻ. Tôi thấy tiện lợi lắm. Chẳng rõ ý kiến các bạn đọc ra sao?
Trọng Mạc
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đã tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1185 of 1439: Đã gửi: 25 June 2010 lúc 1:38am | Đã lưu IP
|
|
|
NÓI CHUYỆN VỚI NGƯỜI ÂM
Lời nói đầu
Tháng 10-2002 Liên hiệp Khoa học công nghệ và Tin học ứng dụng đã tổ chức thực nghiệm khoa học. "Nói chuyện với người âm", trong dân gian thường gọi là “Gọi hồn”. Đây là đè tài khoa học thực nghiệm của ba cơ quan: Liên hiệp UIA, Viện khoa học hình sự Bộ Công An, Trung tâm văn hóa kỹ thuật, truyền thống. Địa điểm thực nghiệm: 93B đường Trung Kính xã Trung Hòa.
Đặc điểm của cuộc giao tiếp là: Mọi người đều có thể yêu cầu được gặp người quá cố từ bốn đời (tứ đại) trở lại.
Nội dung thường hỏi: Đất đai nhà ở. Mồ mả. Bàn thờ, việc thờ cúng. Sức khỏe, việc làm ăn hiện tại..Và được người âm của gia đình mình trả lời. Khi gặp không cần hoa quả, hương đèn, lễ bái như các nơi khác. Khi gặp chỉ rõ họ tên của mình, địa chỉ và xin gặp ai (ông bà, bố mẹ, anh chị em, con..) thì lập tức được gặp ngay.
Tôi đã theo dõi những buổi “Nói chuyện với người âm” của hơn ba mươi gia đình. Tôi chỉ ghi chép những điều tôi quan tâm nghiên cứu về “cõi giới vô hình” như: Cơ cấu tổ chức. Sự lãnh đạo và chỉ huy ở cõi vô hình. Sống và hoạt động của các linh hồn chết. Những tục lệ thờ cúng, đi lễ của người âm với người còn sống trên cõi Trần.
Các hình thức, sự biểu hiện của các mối quan hệ đó? Trước đây tôi đã giới thiệu tài liệu “Nói chuyện với người chết” qua máy ghi âm điện tử ở Mỹ. Còn ở đây thì nói chuyện với người chết qua cỗ máy sinh học tinh vi là con người, vừa nhanh chóng, vừa thuận tiện, lại không tốn kém gì.
Bạn đọc và các nhà nghiên cứu khoa học tâm linh muốn nghiên cứu “cõi giới vô hình” xin mời đến nghe các buổi nói chuyện với người chết của các gia đình rồi cùng tôi hợp tác viết tiếp các phần sau của tài liệu này.
Tập Một
A. Về đất cát, nhà ở
Đất cát của ai, ở đâu kể cả cơ quan, xí nghiệp đều có người âm quản lý. Không hỏi phần âm, phạm sai lầm khó gỡ. Hỏi phần âm là hỏi những người trong gia đình mình đã chết.
Họ liên hệ với phần âm người chết từ bốn đời (tứ đại) đều được về với gia đình, ai về nhà nấy. Con cháu có tâm luôn luôn tưởng nhớ tổ tiên ông bà, cầu xin thì được các cụ tứ đại, ông bà về độ trì cho.
Ai không nghĩ đến thì ông bà không về, họ có công việc ở phần âm. Ai thích học nghề thanh sạch, được lên cõi cao là cõi Thiên, trong thời gian bốn đời sau thì đi đầu thai trở lại cõi Trần.
Việc đất đai, nhà ở của chủ gia đình nào thì thuộc Thổ công nhà ấy quản lý. Nếu phạm phần âm như có mồ mả, đất của miếu mạo, đền chùa chì phải nhờ phần âm của gia đình liên hệ hỏi Thổ công mới biết rõ nguyên nhân và cách hóa giải.
Khoa học như cảm xạ học, bói toán, thầy pháp, thầy cúng không giải quyết được. Vì chuyện người âm thì chỉ có người âm hiểu luật cõi âm mới giải quyết đúng. Người Trần giải quyết theo sách vở của người Trần đều sai lầm, không đúng luật ở cõi âm.
Luật của cõi âm cũng theo thời gian có thay đổi, giống như cõi Trần, theo như cũ cũng là không đúng. Khi người chủ gia đình chết thì Thổ công cũng thay đổi. Thổ công mới thay thế, điều đó có quan hệ đến số mệnh, đến tâm đức của người chủ gia đình.
Lâu nay người Trần hiểu Thổ công là quản lý đất đai tài sản khu vực đó một cách vĩnh viễn là không đúng. Thổ công khác Thần linh. Thần linh như công an khu vực của người Trần vậy.
Xây dựng nhà, mua đất đai phải chọn ngày giờ, xây dựng đúng hướng, cửa chính quan trọng lắm đấy, phải đúng kích thước. Phải hỏi người âm nhà mình hướng dẫn cho, dùng thước Lỗ Ban không chính xác đâu. Tuyệt đối không nhờ người khác động thổ.
Mượn họ thì họ là người chủ, tức người âm nhà họ làm chủ, mình và người âm nhà mình lại là người ở nhờ. Xảy ra trường hợp mượn người động thổ, thì người âm dòng họ bực tức lắm, mà con cháu ở cõi Trần không biết. Vì người âm nhà người đó đến tranh giành quyền nhà ở.
Đất, nhà ở có âm là vì có hài cốt ở dưới, hoặc khi đổ đất làm nền, tuy không có xương cốt nhưng là đất có phần máu thịt tan rữa, thì phần âm vẫn nhập vào quấy phá.
Đất, nhà ở mà động là do nhiễm mấy điều sau đây: Có xương cốt mồ mả, thịt máu của người âm. Mồ mả của dòng họ đào bới có sai phạm. Đất ở (cơ quan) là nền đất chùa, miếu mạo. Tâm đức của người nhà mình có sai phạm với người phần âm. Tâm đức của ông cha sai trái, nay con cháu gánh chịu.
Làm nhà không nệ Kim Lâu, năm Kim Lâu vẫn có ngày trực, tháng tốt, giờ tốt. Hỏi người âm nhà mình, sẽ chỉ ngày giờ tốt mà xây nhà.
Tuyệt đối không mời thầy pháp, thầy cúng yểm bùa chú ở nhà mình. Có gia đình mời thầy trừ ma, yểm bùa chú. Sau đó bị tai họa ngay. Một ông là con, nói với mẹ:
- Mẹ mời thầy về yểm bốn hướng nhà mà con vẫn về được đấy. Ma là các vong người trong gia đình bốn đời của nhà mình, chứ không phải ma là người khác mà vào được đâu. Theo luật cõi âm phải có Thổ công quản lý, không ma nào được ra vào nhà người khác cả.
Đất nhà ở của ba gia đình: Hưng Yên, mười người bệnh kinh giật. Thái Bình, sáu người chết trong thời gian ngắn), Quảng Trạch, Quảng Bình có sáu người điên, là bị phạm âm, đất đền chùa và ông cụ của họ xưa kia là tên đao phủ độc ác, con cháu phải trả nghiệp quả.
Họ đến trực tiếp gặp “Cô Thiên Đình” sẽ được cô giúp cách hóa giải. Nhà đất nào cũng có ma ở quấy phá, thì nhà ngoại cảm, thầy bùa, cảm xạ học không giải quyết được.
Ở cõi âm cũng có từ Xã đến Trung ương. Phải có người âm có quyền chức cao, mới gọi Thổ công và người âm ở đó hỏi nguyên nhân và có cách giải quyết đúng, thì mới hóa giải được. Nếu nhà nào bị bùa yểm, thì có gọi người âm nhà bị yểm hỏi và giải quyết là xong ngay.
Làm nhà có ba lần rất quan trọng: một là động thổ, hai là đổ mái, ba là ngày dọn về nhà ở. Nhà hoàn hảo, loại một là: con cái hòa thuận làm ăn đúng hướng, đúng khả năng và phát triển không ai tranh giành kiện cáo (trong nhà và người ngoài) Nội bộ đoàn kết. Ngược lại là nhà có vấn đề.
Một vong là con nói với bố:
- Cơ quan bố làm trên đất, xưa kia là đình cổ, là miếu, lại còn đập phá miếu làm nhà máy. Nên xảy ra tai nạn lao động. Muốn giải hạn, Giám đốc nhà máy phải xin gặp “Cô Thiên Đình” giải hạn thì mới yên ổn.
Một vong khác nói với mẹ về việc ông bác là anh mẹ và mẹ là con ruột, hai anh em tranh giành nhau về nhà đất. Vong người con nói:
- Bác tranh chấp với mẹ. Mẹ cứ giao nhà cho bác. Người Trần không tranh chấp được đâu. Con sẽ độ cho mẹ mua một nhà nhỏ khác mà ở. Con vẫn ở lại nhà cũ. Người âm với người âm sẽ giải quyết Gia đình bác về ở, không ở được đâu.
Bác tâm không tốt, xấu bụng, phạm âm. Hễ ngủ thì con dựng giường lên, đó là việc ma làm mà. Bác sợ, không ở được, sẽ trả lại cho mẹ thôi. Đất nào cũng có người âm cả. Chỉ có là nó đã vượt Thiên đi đầu thai hay chưa mà thôi. Phải hỏi người âm nhà mình mới biết.
Nhà mình mà cho thuê, cho người ta ở nhờ là phải chọn ngày. Nếu trúng ngày người thuê ở nhờ mà mệnh lớn, lấn át mình thì hậu quả rắc rối, gay go lắm. Nhà ở tốt thì người âm trong gia đình cũng thích ở.
Nếu bổ bán đi thì khác nào đuổi người âm nhà mình đi chỗ khác: “Ấm tổ mới đẻ trứng, đẻ con”. Nếu bổ bán nhà hiện đang ở, thì anh con đang học nước ngoài không thành tài, mà còn hư hỏng và bố làm ăn sẽ gặp lụi bại đấy.
PS: “Cô Thiên Đình” là thể ánh sáng, không phải là đàn ông đàn bà, gọi và xưng cô là để hợp với tâm lý người cõi Trần (lời cô giải thích).
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đã tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1186 of 1439: Đã gửi: 25 June 2010 lúc 2:00am | Đã lưu IP
|
|
|
NÓI CHUYỆN VỚI NGƯỜI ÂM
B. Về mồ mả
Mồ mả trong bốn đời phải chôn kín cố định. Chọn đất, hướng, nguyệt xây gạch, đặt áo quan rồi cất kín. Sau đó không xây, không ốp gì cả. Nếu xây, bới, động mộ sẽ gây tai họa đấy, vì làm xáo trộn vong linh người âm đang yên tĩnh tu luyện ở cõi âm để mau chóng vượt Thiên đi đầu thai kiếp khác.
Đến thăm mộ chỉ khấn xin phép Thổ địa, Thần linh. Không thắp hương ở mộ, không khấn gọi tên người chết ở tại mộ. Việc ấy chỉ làm tại nhà mình trước khi đi thăm mộ.
Nếu ra mộ khóc lóc, gọi họ, thì hồn họ ở cõi cao, đi xuống, nhập lại hài cốt thì tốc độ rung động của năng lượng linh hồn sẽ chậm chạp, nặng nề, phí công tu luyện những thời gian qua.
Họ phải tu luyện lại. Nguy hiểm lắm! Mặt khác, như vậy là làm xáo trộn quy luật cõi âm nên có liên quan tác động đến cõi Trần. Có gia đình không biết cất mộ xong, thì con cháu gia đình đau ốm, gặp tai nạn. Chọn ngày, địa điểm, chôn chặt một lần là bảo đảm.
Nếu chính quyền bắt dời mộ thì phải chấp hành theo pháp luật. Nhưng phải biết cách làm như sau: Khấn:
1. Khấn Thổ địa, Thần linh khu vực có mộ sắp di dời.
2. Bà cô Tổ dòng họ nhà mình cho dời mộ của..(tên họ).
3. Và chôn cất nơi nào (địa điểm).
4. Nếu có gì con cháu không biết xin bỏ qua, tha thứ.
5. Còn sai phạm điều gì về phần âm thì người ra lệnh phải chịu trách nhiệm.
Đến nơi mới cũng làm đủ thủ tục như khi chôn cất người chết.
Không nên mua đất làm mộ giả trước. Làm xong thì con cháu có người chết.
Nơi đào huyệt có Thổ địa, Thần linh, Con cháu, người nhà đi đào huyệt phải khấn như sau: Con tên là..ở..xin Thổ địa, Thần linh quản lý đất ở đây cho phép con gửi xác mẹ (ông, bà) tên là..ở nơi đây. Khi nhập áo quan cũng nhắc lại. Và nói thêm: Nếu người Trần trong gia đình có gì sai sót, xin Thổ địa, Thần linh, Thần hoàng ở đây tha thứ, bỏ qua cho.
Một vong nói với mẹ:
- Các bác quy tập mộ ông bà là động đấy, làm xáo trộn mồ mả là mang họa. Mẹ đứng ngoài, không góp tiền tham gia quy tập thì mẹ không liên đới mang họa. Tốt nhất là mẹ nên khuyên các bác không nên quy tập mộ các cụ nữa.
Người âm tồn tại bốn đời tu luyện rồi mới “vượt Thiên” đi đầu thai.
- Mồ mả, bia, phải dùng tiếng Việt, không dùng chữ Hán, chữ Nôm.
- Tối kỵ là yểm bùa trong quan tài.
- Mất mộ là mất phần xác không ảnh hưởng đến linh hồn, không cần tìm mộ. Không nên quy tập mộ về một chỗ. Ai có tâm nhớ ông bà, tổ tiên thì thờ trong Tâm.
Vong người con nói với bố:
- Nhà mình đón thày sửa mộ. Thầy yểm đầu chó, vì mệnh thầy nhỏ hơn người âm nhà mình. Sau ba tháng anh con chết. Đúng không? (Ông bố gật đầu, đúng). Gia đình mình xảy ra tai nạn; vợ xa chồng, con xa bố mẹ, có người thay đổi công tác đi nơi xa. Phải nghiêm cấm việc động mộ. Mời thầy đi coi bốc mộ nguy hiểm lắm.
Đào mộ, dời xương cốt đi; nhưng còn máu, da thịt ở đó. Người âm không đồng ý. Nên làm khó khăn cho con cháu. Đó làm phạm quy luật âm.
Cảm xạ học tìm mộ là không không phải là phúc đâu. Là phạm âm đấy. Phần linh hồn thoát ra về với con cháu rồi. Ai không biết mời họ về thì họ ở cõi âm, tu luyện, học tập. Trẻ thì ở Cô nhi viện. Từ khi bố dùng cảm xạ học, con lắc, trứng đũa tìm mộ người khác thì buôn bán làm ăn lung tung, vắng khách đi, có đúng không (ông bố: (Đúng).
Cách đây năm năm, nhà mình dời mộ ông, nhưng nhầm mộ người khác, vì trẻ con đã nghịch dời bia trên mộ sang mộ khác. Vậy là ma nhà người khác vào nhà mình đấy, gây trong nhà lạc đàn, nhiều khó khăn.
Mặt khác, khi cúng, nó hưởng, người âm nhà mình không về. Nó hưởng xong, nó về nhà có độ cho con cháu nhà nó. Có láo không chứ?! (xung quanh nghe cười). Tại người Trần hay đào mồ mả, mà bốc nhầm là tai hại lắm.
C. Bàn thờ, thờ cúng, đi lễ.
Bàn thờ để quay mặt ra hướng cửa chính. Cao thấp, to, bé, tùy nhà. Để bát hương sát bàn thờ, mọt bát hương, một lọ hoa, thế thôi.
Không nên mời Thầy đặt bát hương, bàn thờ. Tự mình làm lấy. Dùng hương thường, không dùng hương tẩm hóa chất, nguy hiểm lắm! Nhất là trẻ con hít phải. Mời thầy họ yểm vào bát hương, nguy hiểm.
Tổ tiên, ông bà yêu cầu con cháu có cái tâm. Tâm đây là tin vào tâm linh. Tâm linh là tâm trong sáng, tâm có đức tin, có tổ tiên ông bà. Con người có phần xác và phần hồn là linh hồn, có linh hồn là tâm linh.
Tổ tiên tồn tại bốn đời. Ở bên cạnh con cháu mà không biết đấy thôi! Lúc ăn thì mời như khi còn sống, đó là có cái tâm nhớ tổ tiên, ông bà. Không phải đến ngày giỗ tổ mới về. Khi cúng phải khấn xin Thổ công nhà mình cho vong linh người chủ nhà mình về thì mới được vào nhà.
Người chết già ở cõi Trần, chưa được tu luyện lâu, sự rung động năng lượng linh hồn còn gần cõi trần, nên họ còn hưởng mùi hương của hoa quả, thức ăn khi con cháu cúng giỗ.
Còn người chết trẻ, chưa có tội lỗi ở cõi Trần, thì thời gian siêu thoát để “vượt Thiên” rất ngắn, nên các vong chết trẻ rất thiêng, không cần cúng lễ, hương hoa làm gì cả vì các linh hồn này không có nhu cầu hưởng thụ. Họ chỉ cần cái Tâm, luôn nghĩ đến họ là họ có mặt độ trì cho người thân trong gia đình.
Sáu giờ rưỡi sáng 23 tháng Chạp hàng năm, cúng tiễn đưa Táo quân về Trời. Không nên đốt vàng mã: áo quần giấy, cá chép sống. Táo quân không dùng những thứ đó.
Cúng bằng tiền thật, Táo quân chứng cho cái Tâm của người cúng rồi báo cáo lại với Thiên đình cái Tâm thành đó. Ý nghĩa là vậy. Còn đổi tiền thật, lấy tiền giả, áo quần mũ giả, rồi đốt đi, thì Táo quân đâu có dùng, và cũng không có hình bóng để báo cáo.
Tiền thật, áo quần thật, cúng xong thì ta dùng, tiêu, mặc áo quần đó. Người Trần của dòng họ mình, nương theo bóng đồng tiền, áo quần đó mà độ cho con cháu làm ăn nhiều tiền, mặc áo đó sẽ được khỏe mạnh, bình an.
Sau đó đốt chân hương, lau dọn sạch sẽ. Chân hương đốt, gói tro ném xuống ao hồ. Bát hương, bàn thờ, thay mới, thì cái cũ cũng vứt xuống ao hồ. Cấm vứt vào sọt rác. Làm sai sẽ bị đau, nhức đầu.
Người âm chỉ cần cái Tâm của con cháu. Không cần có bàn thờ hay không. Cầu khấn ngay cả ở bàn uống nước, nơi làm việc, khi nằm, khi đi ngoài đường, khi ra khỏi nhà. Cầu khấn ai, xin gì, người đó sẽ độ trì cho mình.
Khi cúng phải có sáu bát, sáu đôi đũa: hai bát cho các cụ tứ đại, hai bát cho bố mẹ (nếu đã qua đời), hai bát cho họ hàng. Người già hưởng mùi hương, điều khiển, mùi hương thức ăn vào bát. Người chết trẻ không cần. Cúng khấn năm, mười phút thôi, không để lâu. Cúng xong là lộc nhà mình, con cháu hưởng, không mang cho người khác.
Phải cúng tiền thật, chia làm ba phần: một phần cho người được cúng, một phần cho Thổ địa, Thần linh và Táo quân (đủ ba vị) và một phần cho các cụ tứ đại, ông bà.
Cúng xong dùng tiền bình thường. Tiền dùng vào việc có ích thì được người âm độ. Nếu dùng vào việc phi nghĩa như buôn lậu, đánh bạc, rượu chè be bét.. thì người âm không chứng, họ khó chịu, bực mình và còn bị quở phạt nữa.
Bán vong cho Chùa hoặc bố mẹ chết đưa lên chùa để “ăn mày cửa Phật” là hiểu sai lầm. Chùa để người Trần tu hành, không thu nạp hồn người chết. Sau khi chết một thời gian, họ về với gia đình, sum họp với con cháu như khi còn sống, người Trần không biết mà thôi. Họ giúp đỡ con cháu để tu sửa cái Tâm, làm ăn lương thiện. Ai biết thì “âm phù dương trợ” con cháu sống làm ăn khá lên.
Đi đền, chùa, cũng phải đúng quy tắc người âm: trước khi đi, trình tiền đi lễ lên bàn thờ nhà mình, xin tổ tiên ông bà chứng cho lòng thành của con cháu lên chùa (đền, mẫu) lễ Phật, Thánh, Mẫu.
Khi đến chùa, đền phải đi ngay vào bàn thờ chính, đặt tiền khấn: tên con..lòng thành xin công đức nhà chùa (thánh, mẫu) số tiền là..xin Thánh, Thần, Phật, Mẫu chứng giám, người Trần có gì sai trái xin tha thứ.
Sau đó cầm tiền bỏ vào hòm công đức thì người âm mới chứng cho. Tức là người âm nhà mình gặp, nói với người âm quản lý cái chùa đó (tức Thổ công) chứ không phải Phật, Thánh, Mẫu luôn có mặt ở đó để minh chứng. Lâu nay người Trần hiểu sai làm sai. Đi cúng lễ cũng vô ích, có ai chứng cho đâu?
Các anh em ruột là con trai, ai soi trước, mời các cụ tứ đại về thì các vong về nhà người đó trước. Không phải cứ là con trai trưởng thờ cúng thì các cụ về đâu.
Người âm trong dòng họ, trọng người con trai đứng đầu dòng họ. Không phải là con trai trưởng mà là người con trai nào có tâm đức, thành tâm tưởng nhớ ông bà, cầu khấn thì họ về.
Khi về thì các vong ngự, đứng trên hoa tươi đang nở. Vậy dòng họ phải chọn người có tâm đức chứ không nhất thiết là con trai trưởng. Nhà không có con trai thì chọn con dâu, cũng chọn có tâm đức. Để lo việc thờ cúng tổ tiên, ông bà (đây là sự hướng dẫn của người âm cho các gia đình hỏi vấn đề này, khác với tục lệ lâu nay).
Bàn thờ đang đặt ở tầng ba, định đưa xuống tầng một là không được. Khi cúng đặt ở bàn riêng tầng một rồi khấn cầu thì được. Nếu chuyển ở nhà mới thì có thể xin đặt ở tầng một.
Một vong nói với bố chuẩn bị khi bà nội mất:
- Bố nên làm thế này, đặt tiền thật lên bàn thờ, khấn bà cô Tổ bốn đời nhà mình, xin gửi số tiền để bà cô Tổ lo phần âm cho bà nội khi chết. Rồi khấn: Trước nay bà nội có gì sai trái xin bà cô Tổ và dòng họ xóa bỏ cho.
Xin cho linh hồn ra khỏi xác. Sau đó năm, ba phút, cất tiền, rồi báo họ hàng biết có tang và tìm lễ tang. Khi hồn thoát khỏi xác thì khiêng áo quan thấy nhẹ. Khi hồn chưa ra khỏi xác thì khiêng áo quan thấy nặng.
Hồn đã thoát xác có hỏa táng cũng không cảm ứng nóng. Ngược lại, khi hồn chưa thoát xác mà đưa đi hỏa táng thì linh hồn bị đốt nóng. Vì vậy tất cả gia đình phải cầu khấn như trên để linh hồn được độ ra khỏi xác.
Không đặt bàn thờ Thổ địa, Thần tài dưới đất. Sai lầm! Đặt cúng bàn thờ tổ tiên. Chỉ một bát hương thôi. Cúng ai khấn người đó, có tâm thành thì được linh ứng, chứng giám.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đã tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1187 of 1439: Đã gửi: 25 June 2010 lúc 2:08am | Đã lưu IP
|
|
|
NÓI CHUYỆN VỚI NGƯỜI ÂM
D. Cái chết, chết già, chết trẻ
Khi mang thai dưới trăm ngày thì chỉ còn non yếu. Linh hồn đầu thai ở bên ngoài tác động vào cái thai bên trong như những đợt sóng năng lượng. Thai còn yếu nên dễ xẩy thai. Từ trên trăm ngày, linh hồn tác động với cường độ ngày càng mạnh hơn nên thai nhi ít bị xẩy. Nếu người mẹ bị ngã thì không có cảm giác đau vì linh hồn nâng đỡ.
Linh hồn chờ sẵn bên ngoài nên thường bị nhiễm tật xấu, lời nói, hành động xấu của bố mẹ và người trong gia đình. Khi đứa bé thoát khỏi bụng mẹ, linh hồn đầu thai liền nhập vào xác và đứa bé liền cất tiếng khóc. Vì bắt đầu từ đây, xác này phải trả hậu quả xấu của bố mẹ và người xung quanh đã tiêm nhiễm cho nó. Và cũng từ đây linh hồn đi đầu thai không còn nhớ tiền kiếp của mình nữa.
Chết là rời bỏ các xác vật chất để sống ở cõi phi vật chất, nên nó nhẹ nhàng, thanh sạch hơn. Vì vậy ai chết trẻ, chết sớm thì đâu có chuyện gì là vô phúc?
Chết trẻ là chết lúc hình hài được một tháng trở lên. Nó đã có duyên nợ với gia đình nên về với gia đình. Nhưng bố mẹ không biết, không tư tưởng nghĩ đến con, coi như không có con, không đặt tên, không tưởng nhớ ngày cúng bái. Vì vậy các vong trẻ mới kiện lên thiên đình. Nay Thiên Đình mở cửa cho các vong trẻ về với gia đình.
Chết càng trẻ thì càng không có sai lầm ở cõi Trần, nên thời gian ở cõi âm tu luyện rất ngắn, là “vượt Thiên” đi đầu thai. Có vong xin ở lại để hướng dẫn ông bà, bố mẹ chết sau tu luyện. Phải qua kiếp sau, vong trẻ mới đi đầu thai. Cho nên chỉ gọi hồn bốn kiếp không gọi kiếp trước nữa vì theo quy luật họ đi đầu thai cả rồi.
Ở cõi Trần ai đẻ trước là anh là chị. Khi về cõi âm thì cũng thế. Ai về trước là anh là chị. Ông bà, bố mẹ chết sau con cháu, khi về cõi âm, con cháu trở thành người huấn luyện để mau chóng “vượt Thiên” thì lại gọi con cháu là anh là đại ca (xung quanh cười).
Người chết già, sống cõi Trần bao nhiêu năm thì về cõi âm phải tu luyện bấy nhiêu năm để rửa hết tội lỗi, tật xấu, mới thanh thoát “vượt Thiên” đi đầu thai kiếp khác.
Những vong chết trẻ, siêu thoát sớm, được học nhiều, hiểu biết rộng có thể giúp gia đình cõi Trần nhiều việc, nhiều mặt. Còn người già, còn phải lo tu luyện, chỉ biết những việc trong gia đình, nhỏ hẹp thôi. Vì vậy xin gặp người chết trẻ thì được hướng dẫn cho nhiều điều.
Mỗi gia đình khi về cõi âm đều có bà cô Tổ của dòng họ mình. Xưa kia bà cô Tổ bốn đời đó chết trẻ. Bà cô Tổ sẽ độ trì cho con cháu trong dòng họ tu luyện ở cõi âm. Ở cõi Trần ai biết, đến đây xin gặp bà cô Tổ dòng họ mình, đều gặp được. Bà sẽ độ trì cho gia đình dòng họ trong cuộc sống hiện tại.
Người âm trong mỗi gia đình đều có người biết đủ các ngành nghề như cõi Trần. Con cháu cần giúp việc gì thì người âm có ngành nghề chuyên môn đó sẽ bày vẽ cách làm ăn. Không phải chỉ có một người âm phán bảo, hướng dẫn, mà nhiều người có khả năng nào thì sẽ giúp con cháu về khả năng đó.
Cách giúp của người âm cụ thể như sau: một vong nói với bố: Ví dụ ngày mai bố đi nằm viện. Bố cầu xin con hoặc mẹ theo giúp để bác sĩ chữa chóng khỏi và phục vụ tận tình. Con sẽ đến gặp người âm là người nhà đi theo bác sĩ, yêu cầu giúp đỡ. Người âm đó tác động vô hình để bác sĩ đó tận tình giúp đỡ. Đó là cách làm việc, quan hệ của người âm với nhau để giúp đỡ người Trần khi họ yêu cầu.
Chỉ có một bà cô Tổ tứ đại, còn ba đời về sau gọi Ông cậu, Bà cô (chết trẻ). Đất có Thổ công, sông có Hà bá. Thổ công quản lý, linh hồn chết ở hầm hố, trấn đất. Hà bá quản lý vong chết ở sông nước. Chết tai nạn giao thông là khổ lắm. Chết ở đâu, Thổ địa nhận xác ở đó. Sau trăm ngày linh hồn về với gia đình. Đến ở đâu, để tìm người âm nhà mình, thì phải khẩn cầu Thổ địa, Thần linh ở đó để giúp đỡ, cho gặp.
Tại sao có nhà trùng tang? Vì mời thầy cúng, thầy pháp đến yểm bùa chú, cúng trừ tà ma. Thầy thấy mệnh người chết lớn hơn Thầy, nên Thầy yểm, ảnh hưởng con cháu, chết trùng tang!
Trẻ chết non nhiều, không phải là vô phúc đâu, vì “chết trẻ, khỏe ma”. Những vong trẻ tu luyện hoàn thiện, chưa muốn đi đầu thai mà muốn về với gia đình, thì phải làm phép về gia đình như đăng ký hộ khẩu ở cõi Trần vậy.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đã tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1188 of 1439: Đã gửi: 25 June 2010 lúc 2:44am | Đã lưu IP
|
|
|
NÓI CHUYỆN VỚI NGƯỜI ÂM
E. Giáo dục tâm đức việc học hành của con cháu
Con cháu học chỉ mới lý thuyết thôi. Quan trọng là hành, là lao động. Bố mẹ không rèn lao động từ việc nhỏ trong gia đình như lau nhà, quét nhà, nấu cơm, rửa bát là không tốt, là tai họa đó.
Một vong nói với bố là người khai thác đá quý như sau: “Bố lợi dụng sơ hở của Nhà nước để khai thác, làm lợi cho cá nhân mình. Đó là tham nhũng. Làm như thế người âm nhà mình không độ cho bố đâu, làm ác không có kết quả. Chống tham nhũng là phải chống từ mỗi gia đình ngay từ lúc bé.
Ông bà, cha mẹ phải có tâm đức. Ngay từ bào thai, nó đã tiếp nhận các hành động và các suy nghĩ, tư tưởng tốt xấu của bố mẹ, ông bà, những người thân trong gia đình. Tham nhũng có nguồn gốc sâu xa từ gia đình, từ lúc còn là bào thai. Hiện nay có nhiều gia đình lo việc cho con ăn học, đi học nước ngoài, tốn mấy cũng lo.
Cha mẹ lo mọi việc trong gia đình, còn con thì không làm gì cả. Của ngon vật lạ cũng giành tất cả cho con. Vô tình tạo cho nó thói ăn tham từ bé, nó chẳng biết mời, biết nhường cho ông bà, bố mẹ. Lớn lên ra xã hội nó vẫn quen thói ăn tham, thói ỷ lại vào người khác. Tham nhũng bắt nguồn từ đó.”.
Gieo quả nào ăn quả đó. Bố mẹ làm thế nào con sẽ trả quả đó. Kiếp trước tốt, nay được hưởng. Nay làm điều xấu, kiếp sau sẽ khốn nạn. Nhìn cách sống thiện hay ác hôm nay sẽ đoán biết kiếp sau khốn nạn hay hạnh phúc. Vậy trước mắt, dù thế nào, đau khổ hay hạnh phúc cũng phải lo rèn cái tâm đức, lo làm điều thiện, thương người, giúp đỡ những người khó khăn, nhờ vả đến mình.
Vong người con nói với bố:
- Bố phá rừng khai thác đá quý mà bố ăn tất nên phải nạn. Tiền lãi bố phải chia ba phần: một phần cúng tổ tiên, ông bà, một phần cúng chúa Thượng ngàn, cúng đền chùa để tạ ơn thì mới tồn tại và phát triển.
Hoặc như khi Nhà nước trồng cây gây rừng nơi đã bị phá hủy thì bố phải ủng hộ tiền cho việc trồng đó. Nên nhớ “một lộc Thánh bằng một gánh lộc Trần”. Ai làm ăn kinh tế phải chú ý chia lãi ba phần như trên.
Rốt cuộc là ba phần tiền đó cũng là của mình tiêu dùng cả. Nhưng đó là biểu hiện cái Tâm nhớ ơn Thần linh, Tổ tiên ông bà đã độ cho mình. Đó là người Trần kết hợp với phần âm. Thực tế là như vậy. Không hiểu, con cháu không khá lên được.
Không nên mắng trẻ con hay nghịch. Con trai, con gái nghịch là tốt. Nghịch để phát triển sức khỏe và tư duy. Nhưng phải giáo dục, hướng nó biết lao động những việc nhỏ trong gia đình. Bố mẹ không bao biện, nuông chiều con, làm thay mọi thứ cho con.
Con trai, con gái bắt đầu yêu, mẹ phải sâu sát con gái, bố sâu sát con trai, tâm tình như bạn, không nên ngăn chặn. Yêu là học, học mà yêu. Hướng dẫn con cái biết yêu, có lý tưởng. Nếu ngăn cấm, nó sẽ yêu trộm, nói dối bố mẹ, rồi vụng trộm, làm việc xấu. Phải tạo cho chúng nó gặp nhau, trao đổi tâm tình công khai, chính đáng. Tại cha mẹ không biết cách giáo dục mà làm cho con hư!
Hằng ngày có quà bánh, món ăn ngon, nên dạy con: Phần này cho ông bà, phần này của bố mẹ, phần này của con. Phải giáo dục cụ thể như vậy mà rèn cái tâm, cái đức cho con cái.
Phải hiểu từ con cái: Con là đứa ngoan. Cái là đứa bất hiếu, ngỗ nghịch. Trong con có cái, trong cái có con. Con vừa có cái hư cái xấu, vừa có nhiều cái ngoan. Cha mẹ phải biết rõ mà giáo dục con.
(Nhân người âm giải thích từ con cái, tôi xin nói bổ sung về từ Con người. Con là thú vật, do bản năng sinh tồn mà ăn thịt lẫn nhau; tham ăn; ăn thịt nhau là bản năng thú vật. Người là động vật, đã tiến hóa, đi hai chân, có hai tay, lao động, có bộ óc phát triển mà con vật không có, có ngôn ngữ, biết dùng lửa.
Người là có trí tuệ, là tinh thần tập thể, biết yêu thương, có tâm thiện “nhân chi sơ, tánh bản thiện”. Trong ta, vừa có cái con, vừa có cái là người. Ai biết tu tâm thì bản chất người mạnh hơn, nhiều hơn. Ai không chịu tu tâm thì bản năng thú vật ngự trị trong anh ta nhiều hơn.
Phải dạy con cái khi ăn nhớ mời cả người chết người sống. Người chết bốn đời, nhất là người chết trẻ, đều về với gia đình. Ai nhớ đến họ, nhắc đến họ, cầu nguyện họ, thì họ độ cho. Người Trần dạy: “Uống nước nhớ nguồn” là phải làm từ việc nhỏ hàng ngày trong bữa ăn như thế đấy.
Một vong là con anh Bá, nhắc chị dâu có mặt ở đó như sau:
- Con dâu không được đem chuyện nhà chồng ra bàn tán, mách phía nhà mẹ đẻ mình, nhất là chuyện ấy không đúng sự thật. Thế là phạm Luật ở âm nhà chồng mình. Chị phạm khuyết điểm đó nên em phạt, nên chị đau bụng mãi mà không khỏi, có đúng không?
Người chị dâu nói:
- Đúng.
Bây giờ chị biết khuyết điểm thì sẽ khỏi. Chị xem đã khỏi chưa? Người chị dâu sờ bụng, nắn bụng một lúc rồi vui vẻ nói:
- Khỏi rồi!
Vong người em trai nói tiếp:
- Chị còn le te mách lẻo nữa thì sẽ đau bụng trở lại đấy.
Trước đây có luật ông bà, cha mẹ làm ác, khi còn sống, trả không hết nghiệp thì con cháu phải gánh chịu. Từ nay bắt đầu từ 2002, ai làm ác nấy chịu, con cháu không phải trả nghiệp quả nữa. Thời thế cõi âm thay đổi. Ai làm nấy chịu!.
Một vong chết trẻ nói với bố:
- Bố than phiền con trai đi học nước ngoài mà không có đủ tiền cho con, Bố đang làm Công ty đá quý. người lạ mang đá quý đến, hàng thật chứ không phải rởm đâu. Bố bán có tiền lo cho anh con đi học nước ngoài. Từ nay đến Tết bố cần xin bao nhiêu triệu?
Bố xin có độ 50-70 triệu. Con độ cho bố có lãi 80 triệu. Được chưa? Nếu không đúng như vậy, sau Tết, Bố không cần gặp con nữa.
Người Trần thường đi bà Chúa Kho, đi đền mẫu cầu xin đủ thứ. Hiểu sai rồi! Các vị Thánh cũng có nghĩa vụ với gia đình họ theo luật cõi âm. Không ai chứng cho mình và giúp cho mình đâu. Phúc lộc tại tâm. Phúc lộc tại gia. Không đi cầu xin bà Chúa Kho nào cả.
Không xin cành vàng lá ngọc nào cả. Chỉ có người âm trong gia đình mình, dòng họ mình mới độ cho gia đình mình thôi. Luật Thiên đình đấy! Tâm của mình đối với tổ tiên ông bà dòng họ nhà mình mà không có, không tưởng nghĩ đến, nhất là vong chết trẻ, thì đi tìm ở đâu mà linh ứng được? Mỗi gia đình đều có bà Cô tổ tứ đại. Vì chết trẻ, được tu luyện lâu nên nhiều quyền năng, thiêng lắm, nên tìm gặp Bà.
F. Bệnh tật, chữa bệnh bằng nhân điện, cảm xạ học
Đau ốm, bệnh tật có hai nguyên nhân sâu xa: một là do cơ thể suy yếu, môi trường xấu, thời tiết bất thường mà vi khuẩn, vi trùng làm điều ác, trộm cắp, vi phạm pháp luật hoặc vi phạm luật âm trong gia đình mà không biết, đã bị người âm phạt, cảnh cáo.
Phải chịu cầu khấn người âm tha thứ cho thì mới khỏi, như trường hợp cô dâu nhà anh Bá nói trên. Còn bệnh do vi trùng thì phải đi bệnh viện, phải có bác sĩ khám điều trị.
Chữa bệnh phải chuẩn đoán đúng nơi có bệnh. Nơi đó các tế bào bị hao hụt năng lượng; độc tố, tà khí ở đó mạnh, dương khí suy. Vậy trước hết phải rút tà khí ra sau đó mới tiếp năng lượng. Chữa bằng thuốc hay năng lượng cũng phải đúng quy tắc đó.
Chữa bệnh theo y học năng lượng rất tố (người âm trả lời câu hỏi của Giáo sư Lê Trọng Khánh). Làm sao để phát triển y học năng lượng? Năng lượng là vô hình. Năng lượng là linh hồn là Tâm linh. Y học năng lượng có người âm hướng dẫn thì mới tốt.
Cơ thể ví như xơ mướp, năng lượng có thể thâm nhập, xuyên qua. Thâm nhập đều khắp thì khỏe mạnh và tồn tại. Trong khi chữa bệnh bằng y học năng lượng, phải biết kết hợp các nhà ngoại cảm với nhau để hiểu nhà cửa, đất đai, mồ mả của bệnh nhân.
Vì nguyên nhân hậu quả là do vi trùng hoặc vi phạm phần âm. Hiểu rõ nguyên nhân rồi thì cần phải biết bệnh ở chỗ nào, cơ quan, tạng phủ nào, mức độ thì mới chữa tốt. Không phát khí, truyền khí lung tung. Đầu tiên là rút khí độc ở tế bào, cơ quan bị bệnh. Rút khí phải làm chính xác, nhanh, người khác dẫm phải là mắc bệnh.
Người ta thường nói: “Trời sinh, đất dưỡng”. Trời sinh bệnh thì trả lại bệnh cho không trung; tan hòa theo không khí. Sau đó mới tiếp năng lượng vào ổ bệnh. Có một số nhà ngoại cảm, chữa bệnh bằng năng lượng mà không hiểu rõ nguyên tắc này, đã làm không đúng, nên bệnh tạm thời khỏi, rồi đau trở lại, vì chưa trục hết tà khí ra.
Trong chữa bệnh y học năng lượng có hai loại nhà ngoại cảm:
I. Những người khổ luyện thành tài: Là người Trần tự học, tự tu luyện kiên trì, gian khổ thành tài. Loại này khi đạt kết quả thì thường xuất hiện cái Tôi, nảy sinh lòng ham muốn danh lợi. Vì vậy, tâm họ không kiên định, một thời gian thì khả năng suy kém hoặc vì thời gian tuổi tác.
II. Loại ngoại cảm Tâm linh: thì không có cái tôi, họ không học hành, không khổ luyện mà Trời cho cái thần nhãn, có nhĩ thông. Khi làm việc họ thư giãn, vô thức thì người âm giáng độ, giảng dạy, chữa bệnh … Cấp nào có cho Thầy cấp đó, cao thấp khác nhau, như thầy dạy cấp I, cấp II, cấp III vậy.
Các phương pháp dưỡng sinh ở Trần chỉ thích ứng một thời gian. Cái chính là rèn luyện cái tâm sáng, mới cân bằng trạng thái, mới khỏe mạnh.
Năng lượng là phần tối, phần sáng, có phần thô, có phần tinh, có phần thiện và phần ác. Phần xác vật chất thu nhận năng lượng bên ngoài vào. Còn linh hồn thì lọc cặn bã của năng lượng.
Khi Tâm ác, tâm bất chính, tâm suy thì linh hồn không lọc cặn bã của năng lượng bên ngoài vào cơ thể nên phát sinh bệnh về thần kinh, Stress bệnh thuộc về Tâm linh. Tâm không trong sáng thì linh hồn không thanh lọc trược khí, tà khí được.
Cách chữa bệnh Tâm linh: Trước hết là rèn cái Tâm, cái Đức (từ trong gia đình ra ngoài xã hội) để linh hồn lọc được các tà khí, đọc khí trong năng lượng bên ngoài lọt vào cơ thể. Sau đó cầu người âm nhà mình giúp tác động năng lượng vào chỗ đau thì khỏi.
Mỗi gia đình có bốn đời người âm theo dõi giúp đỡ trên các mặt kể cả chữa bệnh, mà ta không biết. Người Trần kết hợp với người âm thì làm gì cũng tốt, cũng thuận lợi. Luật cõi Trời là khi người âm giúp người Trần thì phải tôn trọng pháp luật người Trần. Còn khi người Trần nhờ người âm thì phải làm đúng luật cõi âm.
Đi tìm mộ bằng cảm xạ học, bằng trứng đũa … thì phải khấn người âm nhà có mọ làm đúng luật cõi âm.
Đứng trước mộ hỏi:
- Vong ở đây phải tên là..Tôi giúp gia đình ông (bà) đây. Xin độ cho con lắc.. (hoặc cho trứng đũa trả lời: phải, không, đúng, sai …).
Cách chữa viêm phế quản, hen suyễn (người nhà bác Hà), người âm trong gia đình hướng dẫn như sau:
“Hai lá bỏng. Sau đứng mặt quay hướng Đông, chiều đứng quay mặt hướng Tây mà hái. Khi hái khẩn người âm độ trì xin chữa hen, ho, viêm phế quản..cho người bệnh là..Hít hơi dài, nín hơi, hái lá, nam bảy lá, nữ chín lá. Rửa sạch, nhai nuốt. Nhai liền mấy hôm thì khỏi. Lâu, mau, tùy bệnh mới hay mãn tính.
Chữa đau dạ dày (người nhà anh Bá).
Hái một nắm lá chè xanh sạch (không phun thuốc hóa học) đặt vào đĩa để lên bàn thờ. Khấn xin người âm nhà mình độ để chữa bệnh dạ dày. Sau đó đem chè đun nước đủ một cốc, uống buổi sáng, uống nóng. Sau mười lăm phút mới ăn sáng. Uống liền một tháng, hai tháng thì khỏi.
G. Thông tin tâm linh cho người Trần
Vong người con nói với mẹ:
- Bướm bay vào nhà là con xua vào để mẹ vui, mẹ đỡ buồn mẹ có biết không?
- Bướm đen, không có chấm trắng đen, bay vào nhà, bay trước mặt mình là báo trước tai nạn sẽ xảy ra, trước một ngày. Hôm sau không nên đi đâu cả.
- Hễ bướm vào nhà là có vong về đấy.
- Đang khỏe mạnh mà gà hoặc chim sa lăn quay trước mặt là báo trước có tai nạn.
- Chó leo lên ghế ngủ là điềm báo trước có người lừa nhà mình.
- Xin độ cho làm việc gì thì tâm niệm khấn người âm nhà mình (bà cô Tổ, ông bà, con chết trẻ) độ giúp. Xin xong, thấy thoải mái thì làm; hễ đau đầu thì thôi.
- Thế kỷ XXI là thế kỷ Tâm linh, tức là người Trần đã biết người âm 1 đời về với gia đình, là thời kỳ người Trần kết hợp với người âm làm nhiều việc gọi là thần kỳ, như chữa Aid, Việt Nam giác ngộ về tâm linh Việt Nam làm nhiều thần kỳ, thế giới nể phục.
- Thế kỷ Tâm linh là thế kỷ chú trọng giáo dục cái tâm. Làm gì cũng phải có tâm đức là hàng đầu. Người Trần làm ăn gian dối, thất đức sẽ nhận hậu quả xấu.
- Từ năm 2000 thầy pháp dùng bùa chú không còn có tác dụng nữa. Không đốt vàng mã, không làm hương hóa học, không thờ cúng rườm rà, linh đình. Không mời thầy đặt bát hương bàn thờ.
Bàn thờ nên đặt theo hướng cửa chính của nhà ở, quay mặt ra cửa chính, đặt cao thấp là tự người nhà mình làm cho hợp với nhà (nhỏ, hẹp) và thuận tiện, đặt bàn thờ quá cao, ngã thì nguy lắm! Mọi việc đều do Tâm.
Khi không có Tâm, khi đã không nghĩ đến người đã chết thì mọi hình thức cúng bái, mâm cỗ đều vô ích vì có ai chứng, ai độ cho đâu.
Từ năm 2002, ai làm phúc nấy hưởng, ai gây ác thì nhận tai họa. Con cháu không phải trả nghiệp cho ông bà, bố mẹ như trước.
Ở cõi thiên có nhiều máy phát tâm linh có nhiều tần số khác nhau, người cõi Trần nhận kênh phát nào là tùy mức độ cái Tâm của người đó. Và người Trần thuộc bốn đời nhà mình cũng phát thông tin để độ cho con cháu.
Các nhà cảm xạ học dùng con lắc làm việc nên nhớ điều này, người nhờ mình giúp việc gì, như tìm mộ, chữa bệnh đều có người âm nhà họ đi theo, nếu phần âm phù trợ nhà cảm xạ học mà thấp hơn người kia thì họ gạt đi nên nói không đúng, con lắc chỉ, hoặc trả lời không chính xác.
Người Trần quan hệ, nói chuyện, làm việc với nhau đều có liên quan đến phần âm hai bên. Người Trần dấu với nhau được, nhưng không dấu được người âm. Mới nghĩ trong tâm (não) thì người âm đã nhận biết rồi. Có người tò mò muốn đến đây hỏi thử, cô biết cô không nói đâu! Có người phát khí công để thử, chỉ hao khí và người âm theo người đó bị cô quở phạt.
Người có Tâm linh, hiểu tâm linh là người giao tiếp với Tâm linh, chứ không phải đọc qua sách vở. Sách vở người Trần viết sai, không đúng về cõi giới Tâm linh. Mặt khác, qua nhiều thời gian ở cõi tâm linh cũng có những thay đổi như cõi Trần vậy. Nên ai đã nghe người âm nói trước đây thì bây giờ cũng khác rồi.
Chồng hay vợ đã chết trước, vẫn độ cho người kia đi bước nữa, chứ không khắt khe như người trần đã nói. Không đúng đâu!
Từ gia đình, cơ quan đến nhà nước nếu biết, cần đến người âm giúp chỉ dẫn trên mọi lĩnh vực thì sẽ có nhiều lợi ích.
Khi “cô Thiên đình” và người âm làm việc ở đây, thì môi trường xung quanh là năng lượng thanh sạch. Người ngồi nghe, tiếp nhận năng lượng, sạch sẽ thanh tâm, khỏe mạnh.
Cuộc đời người Trần nên phân chia ba giai đoạn sau: 25 năm đầu là cho học hành, thu hoạch kiến thức, rèn luyện chuyên môn. 25 năm thứ hai, xây dựng gia đình, làm việc cho xã hội, đất nước. 25 năm thứ ba, chú ý đến cái Tâm, rèn tâm đức, làm điều thiện, hoạt động các công tác, tổ chức từ thiện, thì tâm được thanh thản, vui vẻ, khỏe mạnh.
Từ bảy mươi lăm tuổi trở lên càng chú ý nhiều hơn việc làm từ thiện thì sẽ khỏe mạnh và chết an bình. Con cháu biết hỏi người âm nhà mình thì họ sẽ hướng dẫn, định hướng việc làm ăn, kinh tế khá hơn.
Nhà nào làm động mồ mả, thì cô hướng dẫn làm lễ tạ mộ trong năm phút là xong, là hóa giải được.
Trong một ngày, mỗi người có mười lăm phút gọi là “hâm hâm”. Đó là lúc người âm nhập mà người Trần không biết. Có hai lý do: một là độ, giúp một vấn đề gì đó. Hai là trừng phạt vì phạm âm hay phạm đạo đức. Xưa kia, tướng ra trận là chọn ngày để người âm nhập độ.
Việt Nam hiện nay có nhiều lĩnh vực làm ăn ra tiền mà không biết đầu tư vào. Có người âm hướng dẫn thì làm ăn được. “Âm phù, dương trợ” thì nên mà.
Người âm về nhà. Khi cả nhà đi ngủ, người âm, bay là là ở trên bố mẹ, con cháu; khi thời tiết xấu thì cản khí độc mà người Trần không biết đấy thôi.
Con cháu có chồng, theo gia đình bên chồng, phúc hay họa của nhà chồng, con dâu đều gánh chịu. Không nên đổ tội là do con dâu. Nếu sai, không đúng luật thiên đình. Đó là nói oan cho con dâu, sẽ bị tội khẩu nghiệp đấy.
Trong cuộc sống, không được nói dối, nói điều xấu chưa có đủ, để đánh lừa người khác, như “tôi bị ốm, không đi họp” hoặc “xe tôi hỏng” nên đến trễ, thực tế không có như vậy.
Hoặc bố mẹ mắng con: “Đồ ngu. Đồ điên. Đồ đần..” Người Trần tưởng đó là chuyện bình thường, nhưng đó là khẩu nghiệp, sẽ có ngày, có lúc, diễn ra đúng điều mình vô tình đã nói. Người xưa đã dạy: “Đó là nói gở”. Vậy không được nói gở!.
Khi chưa soi, tức là chưa mời hết người âm bốn đời nhà mình về, mà chỉ một mình con nói chuyện với gia đình, thì độ chính xác chỉ trong thời gian mười ngày thôi. Sau cần, thì đến gặp, nói lại.
Một vong con trai nói với bố: Khi bố làm hộ chiếu đi nước ngoài, con cũng đi theo làm “hộ chiếu” kiểu của người âm. Khi lên máy bay thì con đi nhanh hơn. Con đi bình thường một phút là 1752 km, chạy và bay thì càng nhanh hơn.
Bố phải nói bà con mình làm ăn ở nước ngoài phải gửi tiền về nước, ủng hộ các quỹ từ thiện, như Cô nhi viện, quỹ người khuyết tật, quỹ chống chất độc màu da cam thì người âm mới độ cho làm ăn phát đạt lâu dài.
Một vong nói với người anh:
- Tại sao anh thích đi học thể dục thể thao, về môn thể hình? Người anh lùn thấp thế kia, tập thể hình, eo ôi, buồn cười lắm (xung quanh cùng cười). Bây giờ anh nghe em, bố động viên anh đi bộ đội, nếu làm sĩ quan thì tốt, nếu không khi hoàn thành nhiệm vụ trở về, em sẽ độ cho anh đi học nghề thích hợp, có tương lai.
Rèn hai, ba năm trong quân ngũ là tuyệt vời đấy, sẽ chững chạc, suy nghĩ tốt hơn là anh bây giờ. Đi bộ đội là đã được người âm dòng họ nhà mình chứng kiến anh có công đi bảo vệ Tổ quốc. Phần âm quan tâm vấn đề này lắm mà người TRần không hiểu, không biết đâu. Phải cho con cháu nhà mình vào bộ đội, sau đó mới học nghề làm ăn thì tốt hơn.
Một vong là con, nói với bố mẹ:
- Tiền kiếp bố là bác sĩ. Hiện nay bố lại làm hành chính nghiệp vụ. Vì vậy bố phấn đấu mãi cũng không lên được. Bố đang phạm tội báo cáo láo. Chưa hoàn thành kế hoạch mà báo cáo đã hoàn thành và xin tiền thưởng. Còn mẹ làm bên giáo dục, mẹ nâng điểm cho đứa dốt được học. Ai cũng làm gian dối như thế làm sao đào tạo nhân tài cho đất nước.
Một vong khác là con nói với bố mẹ:
- Tại sao bố lấy sản phẩm làm ở nhà đem nhập vào sản phẩm của Xí nghiệp quốc phòng? Sản phẩm kém chất lượng làm mất uy tín của Xí nghiệp quốc phòng là bố có tội đấy. Bố có bốn tội, bố có biết không? Con kể bố nghe:
Một là uống rượu, hai là hút thuốc lá, ba là đi hát karaoke, bốn là lố bịch. Mẹ ốm nằm một mình ở nhà, bố không chăm sóc mẹ mà còn đi theo gái, hát karaoke. Bố nói “Bố nhận khuyết điểm, bố sẽ sửa chữa. Bố hỏi con tại sao mấy năm nay nhà mình làm ăn kém quá, con có thể giúp bố được không?
Vong người con nói:
- Nhà mình có xương cốt người chết. Khi lấy đổ nền có lẫn xương cốt nên trong nhà có tà ma từ ngoài đưa vào. Khi dọn về ở, con đã báo tin: Bố làm rơi vỡ cốc nước, bố có nhớ không (Bố: có).
Buổi chiều mẹ nấu cơm, tay gạt cái bát trên bếp, rơi mẻ một miếng, có đúng không? (Mẹ: đúng). Hôm sau, thanh giường bé để ở trên, lại để ở giữa, nên nằm bị sập, có đúng không? (bố mẹ: đúng). Con đã báo trước mà bố mẹ không biết.
Một vong khác nói với bố mẹ:
- Cách đây mười tám năm, 4 tháng, 12 ngày, người âm nhà mình nhập vào chị con, báo cho nên đặt bàn thờ ông bà; bố mẹ không nghe, cho chị bị tâm thần, đưa đi bệnh viện Bạch Mai. Uống thuốc Tây nhiều quá chị bệnh tâm thần thật; đến nay gần hai mươi năm vẫn chưa khỏi.
Bố mẹ hỏi:
- Bây giờ chữa cho chị con bằng cách nào?
- Phải lên Thái Nguyên, như cô làm việc, thì có thể chữa được.
Có người hỏi:
- Soi là làm như thế nào?
Được hướng dẫn như sau: cả gia đình gồm bố mẹ và các con đến gặp Cô Thiên đình, xin gặp được người âm trong gia đình mình từ bốn đời. Có cho mời về để con cháu cả nhà gặp nhau.
Rồi mời các cụ, ông bà về với gia đình. Bà Cô Tổ là người cao nhất trong dòng họ. Ta cầu xin gì, Bà sẽ cho người có khả năng công việc đó, độ trì cho con cháu. Không soi, chỉ gặp một hoặc hai, ba người thì việc giúp đỡ theo yêu cầu của con cháu có hạn chế.
Minh Chánh
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đã tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1189 of 1439: Đã gửi: 25 June 2010 lúc 2:10pm | Đã lưu IP
|
|
|
CHUYÊN MA CÓ THẬT 100%
Tôi xin kể câu chuyện của tôi mà các chi tiết 100% là thực, theo trí nhớ của tôi, vì lúc đó tôi chỉ mới bảy, tám tuổi. Câu chuyện này đã dẫn đường cho tôi nghiên cứu thế giới tâm linh sau này.
Khi còn bé có thời gian tôi hay ngủ chung với mẹ, tôi thường hay tiểu đêm, cứ nửa đêm mẹ tôi phải thức dậy dẫn tôi đi. Nhà tôi ở quê có năm gian, ban đêm thường thắp một cái đèn dầu ở giữa nhà cho sáng, đèn để sáng vậy suốt đêm. Phòng tôi ngủ ở gian cuối cùng.
Một khuya như thường lệ, mẹ tôi đưa tôi đi ra ngoài sân, con đường đi từ phòng ngũ ở gian cuối cùng, để đi ra ngoài phải đi qua một hành lang, thông năm gian với nhau. Xong lúc trở về, về tới hành lang tôi thấy ở gian đầu tiên phía bên kia, có một dáng người lờ mờ, nhỏ nhắn, mặt đồ trắng bước về phía tôi.
Tôi nắm tay mẹ đứng lại. Bóng người vẫn bước tới. Tôi chờ một lát, người kia vẫn bước mà sao khoảng cách từ chỗ bóng người đó đến chỗ tôi vẫn không thay đỗi. Ngạc nhiên tôi chỉ tay về phía đó, mẹ tôi hỏi cái gì vậy, tôi nói ai kìa mẹ.
Mẹ tôi nhìn thoáng một lúc, lúc đó tôi cũng không biết bà có thấy gì không, rồi bà dắt tay tôi bước vào phòng ngủ. Mấy đêm sau, sau khi đi tiểu đêm, lúc vừa nằm xuống giường được một lát, tôi vẫn còn mở mắt, tự nhiên tôi nhìn thấy một gương mặt người, tiến lại gần mặt đối mặt với tôi, tôi nằm dưới nhìn lên, gương mặt đó ở trên nhìn xuống.
Càng tiến gần mặt tôi, gương mặt đó càng hiện rõ, tôi thấy gương mặt khá sáng, tôi còn nhớ gương mặt đó hơi sần sùi, có vẽ là gương mặt của đàn ông. Tuy nhiên lúc đó tôi còn quá nhỏ để biết nhận xét, chỉ biết ghi lại trong trí nhớ. Sau một lát, gương mặt đó rút lên cao, mờ dần trả lại trước mắt tôi là bóng tối.
Hai hình ảnh mà tôi thấy khi còn bé luôn ám ảnh tôi khi tôi lớn lên. Và đến bây giờ, thỉnh thoảng tôi vẫn nghĩ về nó, một sự việc tôi đang cố công tìm hiểu.
TV
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đã tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1190 of 1439: Đã gửi: 25 June 2010 lúc 6:55pm | Đã lưu IP
|
|
|
THAY HỒN ĐỔI XÁC
PHẦN MỘT
Chuyện thay hồn đổi xác là một chuyện không thể nào lấy triệu chứng lâm sàng bên y khoa rồi đoán chứng bệnh hoặc là họ sẽ cho người này bị thể tâm thần phân liệt, một hiện tượng đa nhân cách! tất cả những gì đã nói trên đều không phải.
Câu chuyện bắt đầu xảy ra bên dòng sông Trẹm ở mãi cực Nam của đất nước ta vào khoảng thời gian năm 1936. Nơi đây khoảng bốn mươi năm về truớc rất hoang vắng chỉ có rắn rít, muổi mòng, đỉa và loài cá sấu hoa cà. Lúc bây giờ đa số dân nơi đây là những người tứ xứ, họ đến định cư nơi đây khoảng chừng vài chục nóc gia vào đầu thế kỷ XX.
Bên dải đất phù sa màu mỡ, rừng ngập nước toàn những loại cây đước và bần bạt ngàn, ngoài sông cái thì những bụi lùm ô rô dày đặc là chổ cư ngụ của loài cá sấu hoa cà khổng lồ thường tấn công những người dân đi chài, lưới.
Khi nhóm dân cư nơi đây khai phá dãi phù sa bên dòng sông ra thành ruộng trồng lúa một mùa, thời này con người sinh tụ nơi đây còn thưa thớt. Từ nơi đây ra chợ huyện Cái Nước Vàm hơn ba mươi cây số để mua sắm những vật dụng cần thiết như:
Vải, chỉ, cước để vá Chài, lưới, lưởi câu để đánh bắt thuỷ sản cải thiện cho đời sống trong gia đình, nhưng thường thuỷ sản sau khi đánh bắt sử dụng không hết, họ phơi khô để dành trao đổi buôn bán với các thương lái sông hồ.
Các thương lái đến nơi xa xôi này bằng chiếc xuồng Tam bản bày biện như gian hàng bách hóa và cũng là cái nhà chưa đầy mười lăm mét vuông.
Ở cuối thôn trong căn nhà lợp lá, có hai vợ chồng cùng một cô con gái khoảng mười tám tuổi đang ngồi ăn bửa cơm trưa, nghe tiêng chó sủa ngoài sân Ông Tư Bền biết có khách ông vội đứng lên lên nhà trước thấy hai người đứng trước sân nhà.
- Ủa cậu đi đâu qua đây vậy, hôm nay chắc rảnh rồi hén?
- Ờ cũng không rảnh lắm đâu, nhưng vì hứa với bà con xóm mình nên em dẫn ông thầy thuốc rắn tới đây để trị những con rắn độc ở vùng này. Khổ quá! Cứ mỗi lần dân mình đi ruộng mà bị rắn cắn thì coi như toi mạng, tình cờ do người quen giới thiệu, em qua tận tận núi Tà Lơn rước ông thầy thuốc rắn về đây để ổng giúp cho bà con mình.
- Chèn đét ơi! Quý quá vậy, hôm đó tôi nghĩ là cậu nói chơi nào ngờ làm thiệt, thôi tôi cũng thay mặt bà con xóm mình mà cảm ơn chú trước đa nghe!
Ông Tư Bền nói xong lăng xăng mời khách vào nhà, sai vợ con đi nấu mước pha trà đải khách. Bấy giờ ông quan sát người khách Cao Miên nước da ngâm đen, tuổi chừng ba mươi lăm, nói tiếng việt hơi lơ lớ. Ông tư hỏi thăm hoàn cảnh gia đình của vị thầy thuốc,
- Nếu thầy ở đây giúp bà con thì trả công như thể nào?
- Dớ, tui ở bên Tà Lơn làm thuốc để giúp cho dân thôi, không lấy tiền bạc chi hết, lấy tiền thì mấy Lụt Thum, tức là Sư Cả, phạt tôi chết dớ!
- Nếu không lấy tiền thì gia đình thầy sống làm sao?
- Dớ, cái chuyện mầng ăn thì cái con vớ tôi nó phải lo chứ, không cần lo, không cần lo hì hì!
Thầy thuốc rắn nói xong rồi cười thân thiện. Ông Tư xin phép khách đi tìm mua rượu để lai rai khi sơ ngộ, xem ông cũng quý thầy thuốc rắn này lắm!
Vân con gái ông Tư lúc này pha trà bưng lên mời cậu ba Hơn và ông khách người Cao Miên giải khát.
- Con mời câu Ba và Chú uống trà!
- Chà con vân lúc này lớn đại hén, chừng nào cho cậu Ba uống rượu mừng của cháu vậy?
- Trời đất ! Con còn nhỏ lắm cậu ơi, chuyện đó con không nghĩ đến đâu!
Cậu Ba và vị khách Miên cười nói với nhau to nhỏ gì đó, Vân mắc cở đỏ mặt bỏ chạy xuống nhà sau. Ông Tư Bền trở về tay cầm chai rượu nếp bước vào nhà miệng nói:
- Mấy thưở nhà này có khách quý, tui ra quán ở ngã ba Vàm mua được một lít rượu đế để chiêu đải. Vân à! con bắt con gà mái tơ làm thịt nấu cháo trộn gỏi cho tía đải khách quý nghe! Tiếng của Vân dạ nhỏ ở sau biếp.
- Anh Tư à ! tui thấy con Vân nay nó lớn đại trông càng ngày xinh đẹp ra, tôi nhớ tới con Nhàn nhà tôi mà buồn!
Nói xong Ba Hơn rơm rớm nước mắt. Bấy giờ vị khách người Miên mới hỏi.
- Dớ, con gái Anh Ba vì sao vậy?
Ba Hơn bắt đầu kể lại chuyện hôm Tây ngoài Tỉnh Cà Mau vô đây bằng tàu, bố ráp bắt người theo hội kín, dân làng hoảng hốt bỏ nhà chạy vô xẻo Rạch Rô trốn, dằm mình dưới nước hơn cả ngày, nhưng rồi một số người bị bắt, lính Tây nó điều tra dử lắ có bốn người phụ nữ trong làng bị chúng hại mạng.
Trong đó có con Nhàn nhà tui, vì đau khổ quá nó nhảy xuống sông tự tử, tui dìa mò xác nó không thấy, ba bốn ngày sau nghe có người báo xác của nó nổi lên gần ngả ba Vàm, nên tui vớt xác về đem chôn ở gần miểu Bà Thuỷ, nay hơm ba năm rồi!
- Thôi cậu Ba đừng buồn nửa chuyện ấy đã qua mấy năm rồi, không ai biết trước được chuyện đời người nạn tai sinh tử ai lường được đâu?
Ông Tư Bền góp lời:
- À nảy giờ không biết cao danh quý tánh của thầy đây, xin thầy cho tôi được tường có được không?
- Dớ! tui tên Song họ Thạch con út trong nhà, thôi bác kiu tui là thằng Út được rồi.
- Vậy sao? Thôi tui mạn phép kêu thầy bằng Thầy Út nghe!
Không khí bắt đầu vui vẻ khi cháo gà được Vân dọn lên, rượu được rót tràn ly, họ mời mọc khách sáo vói nhau lúc đầu sau đó tình cảm cởi mở ly anh, ly chú, cả ba người đều say nằm lăn ra trên bộ ngựa ngáy ầm ầm.
Đêm đã về khuya Vân đang an giấc bổng cảm thấy có vật gì đè nặng lên người, trong lúc mơ màng Vân còn cảm nhận được mùi nồng nặc của rượu. vốn được cha mình dạy cho chút nghề, phản ứng của Vân liền co chân đạp mạnh một cái nghe tiếng la thất thanh:
- Dớ, mèn ơi chết tui rồi..
Lúc nầy thì Vân tỉnh hẳn nhìn thấy Thầy Út đang ngả chổng kềnh ra đầu đập vào cối đá xay bột, máu chảy ra lênh láng, Hoảng hồn Vân kéo thấy Út lên thì nghe thều thào nói nhỏ:
- Dớ..tui đi kiếm chổ đi tiêu.. không ngờ bị lạc vào đây cái gì mà.. oánh tui một cái quá mạng vậy?
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đã tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1191 of 1439: Đã gửi: 25 June 2010 lúc 7:07pm | Đã lưu IP
|
|
|
THAY HỒN ĐỔI XÁC
PHẦN HAI
Vân càng hoảng hốt khi nghe Thầy Út rên rỉ nho nhỏ.
- Tía Má ơi! Cậu Ba ơi! thức dậy cứu Thầy Út, ổng bể đầu rồi nè!
Tiếng kêu la hoảng loạn của Vân làm cả nhà đều thức dậy chạy xuống nhà sau, thấy Thầy Út nằm thiêm thiếp trên đất máu chảy dầm dề, Ông bà Tư lấy thuốc xỉa đấp lên vết thương trên đầu Thầy Út để cầm máu, rồi cả bốn người khiêng Thầy Út đặt trên chiếc phản trước nhà, cầu khẩn Trời Phật ông bà hộ cho thầy Út tai qua nạn khỏi, Ông Tư quay lại hỏi Vân:
- Chuyện ra sao Vân kể cho Tía nghe coi?
Vân nói rằng mình không biết gì cả, chỉ thấy mơ màng trong giất ngủ thấy có gì đè nặng trên người, rồi cô co chân đạp mợt cái thì nghe tiếng la của Thầy Út, khi tỉnh dậy thì thấy Thầy Út bị như vầy.
Ông Tư Bền nói:
- Đây mà ra tới trạm Y Tế Huyện thì cũng phải mất bốn giờ nếu chèo giỏi, hơn nửa đi cũng bất tiện, tình cảnh giặc giả loạn lên, cũng không an toàn cho mình đưa Thẩy đến Huyện, tui thấy Thầy Út yếu sức quá không thể nào đưa đi xa, biết làm sao đây?
Nếu ổng mà toi mạng thì con Vân coi như đi tù rục xương! khổ quá oan nghiệt gì đây? Gia đình từ nào đến giờ ăn hiền ở lành, mà bây giờ gánh chịu hậu quả gì như vầy!
Thấy Ông Tư quá xúc động. Cậu Ba Hơn và Bà Tư Bền cũng khuyên ông bớt kích động tập trung đầu óc để cầu Trời Phật Cứu Giúp. Thế là cả nhà đốt hương trước bàn thờ Ông Bà cầu khẩn.
Bấy giờ gương mặt của Thầy Út càng ngày càng nhợt nhạt, tinh thần mê đi, hơi thở càng yếu dần gần như tắt thở.
Cả nhà sợ quá cứ đốt nhang cầu khẩn liên tục, cả ngày hôm ấy không ai buồn ăn uống gì cả, chỉ ngồi thừ ra mỗi người theo đuỗi mỗi tư tưởng, nhưng họ chỉ trông chờ một phép lạ của Thiêng Liêng ban bố!
Trời sụp tối nhanh tiếng chim quốc kêu, lủ ếch nhái hoà tấu bản nhạc về đêm sao hôm nay nghe buồn thảm quá! Vân vội xuống bếp nấu cơm rồi bưng lên mời Tía má của cô cùng Cậu Ba Hơn ăn.
Ông bà Tư Bền nói:
- Việc gì nó cũng lở rồi thôi thì chúng ta ăn cơm để còn có sức mà lo chuyện ngày mai nửa chứ! Vân à! con nấu một miếng cháo thật lỏng để đút cho Thầy Út coi ổng có ăn được không?
Vân đi nấu cháo trong lòng lại trách mình sao lại hồ đồ quá làm cho Thầy Út bị tán mạng thì mình không khỏi chuyện tù tội.
Bổng nghe nhà trước xôn xao tiếng của ba người lớn, Vân vội chạy lên nhà trước thì thấy gương mặt ba người như mừng rở... Nghe ông Tư nói:
- Hình như nghe thấy Thầy Út thở và ngón tay của ổng có cử động nhưng rồi nảy giờ không thấy gì nửa, không biết tối có hoa mắt không? Cậu Ba với Má nó có thấy không?
Bà Tu và Cậu Ba Hơn một lượt trả lời:
- Có thấy!
- Vậy mà tui tưởng tui hoa mắt, nhưng nảy giờ sao lại không thấy ổng cử động hay thở nửa, thật là kỳ lạ!
Nói rồi ông Tư đưa bàn tay rờ lên ngực của Thầy Út, Ông càng kinh ngạc hơn không có nhịp đập của quả tim của Thầy Út, nhưng thân thể làn da thì vẫn ấm, ông thở dài và nói
- Thôi thì cũng phó mặc cho Ông Bà, Trời Phật chứ mình không làm sao hơn!
Đêm đã về khuya ông bà Tư và Cô Vân thấy mệt mỏi xin đi nằm trước. Cậu Ba Hơn tình nguyện trông chừng cái xác của Thầy Út.
Đến ba giờ sáng Cậu Ba hơn thấy một cái bóng trắng, bước đến gần cúi sát mặt nhìn ông, trong lúc nửa tỉnh nửa mê, ông có linh cảm như người này rất gần gủi thân quen với mình, dáng dấp thì rỏ là quen nhưng không thấy rỏ gương mặt. Bất chợt ông nghe văng vẳng tiếng nói:
- Tía ơi con là Nhàn về thăm Tía đây!
Bổng dưng Ông xúc động nước mắt ràn rụa, đứng lên nắm lấy tay của bóng trắng, nhưng bóng trắng lùi lại phía sau nói:
- Lúc nào con cũng đi theo tía, nay con chết rồi âm dương xa cách để Tía một mình con khổ tâm lắm!
Cậu Ba hơn hỏi:
- Vậy từ bấy lâu nay con ở đâu sao không dìa thăm Tía.
- Khi con chết rồi thì hồn phách cứ theo con nước sông cái trôi lên, lúc trôi xuống, lạnh lẻo lắm Tía ơi! Đôi lúc con nhớ đến Tía nhưng không làm sao về thăm được!
- Sao hôm nay con biết Tía ở đây mà dìa thăm vậy?
- Con đã nói hồn con lúc nào cũng theo Tía, nhưng vía Phách của con còn trên sông cái, nên không hiệp được với hồn, thi sao con hiện ra thăm hỏi Tía. Nhưng cũng may có mấy Thầy chơn Tu đi ngang qua khúc sông giải oan cho con, để cho vong hồn con đi đầu thai.
Nhưng rồi Thần Hoàng tra sổ tử thì con chưa tới số nhưng vì bị chết oan, giúp con về lại dương gian phụng dưởng Tía cho trọn phận làm con.
Cậu Ba Hơn nảy giờ mê mê tỉnh tỉnh ông giật mình biết là mình đang nói chuyện với hồn ma con gái mình. Ông nhéo vào mặt mấy cái cho tỉnh ngủ, lúc này Hồn của Nhàn trắng toát như sương như khói, ông không nhìn rỏ mặt đứa con gái đáng thương của Ông, ông hỏi:
- Vậy con làm sao mà phụng dưởng Tía trong khi con là hồn ma bóng quế?
- Chuyện này con không thể nói được, tía chờ đi!
Nói xong Nhàn tan loảng từ từ trong không gian thì cậu Ba nghe tiếng gà gáy sáng. Cậu Ba vẫn còn bàng hoàng không biết mình nằm mơ hay là sự thật...
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đã tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1192 of 1439: Đã gửi: 25 June 2010 lúc 7:23pm | Đã lưu IP
|
|
|
THAY HỒN ĐỔI XÁC
PHẦN BA
Cậu Ba Hơn đứng lên đi rửa mặt vấn điếu thuốc rê đầu ngày, hít thật dài nghe thấy tinh thần trở nên thoải mái. Cậu nhớ lại hình ảnh của mợ Ba mẹ của Nhàn, lúc hai người gặp nhau rồi thành vợ chồng, mợ Ba vợ của Cậu là người chịu thương chịu khó hoàn cảnh của Chồng, làm công cấy mướn cho các chủ ruộng.
Cậu lúc ấy chăn trâu cho ông Hội đồng Thơm ở Bạc Liêu, hai vợ chồng buổi no, buổi đói. Nhằm những năm bắt đầu loạn lạc Cậu Ba bị người ta nghi ngờ liên lạc với hội kín ở Bạc Liêu nên Cậu Ba bị tên quan Tây bắt điều tra rồi nhốt ở nhà lao tỉnh Bạc Liêu.
Mợ ba một mình bụng mang dạ chửa vừa làm lụng vất vã để có tiền thăm nuôi chồng ở trong khám lớn, buồn rầu cho số phận hẩm hiu của hai vợ chồng, đến kỳ sinh nở mợ ba kiệt sức làm băng sau khi sinh ra Nhàn.
Mợ ba mất, bà con thương tình hoàn cảnh hai vợ chồng nên nuôi dùm bé. Trong tù Cậu Ba nghe tin vợ chết cậu đau khổ vô ngần, lại nghĩ đứa bé sẽ sống ra sau khi không có người thân bên cạnh!
Sau bốn năm tù hàm oan, Cậu Ba Hơn được quan toà của Tây tha về. Cậu vội đi tìm con gái của mình rồi hai tía con bỏ xứ đi lang bạt khắp nơi, sau cùng trụ lại nơi mảnh đất xa lạ bên dòng sông Trẹm.
Rồi bất hạnh một lần nửa lại xảy ra cho gia đình Cậu và Nhàn. tội nghiệp con bé, cả một thời thơ ấu lang bạt theo cha đi khắp nơi làm thuê kiếm cơm, trụ lại đây chưa được sung sướng thì Tây đi bố ráp gây thêm cảnh chia ly của gia đình của Cậu.
Mãi miên man với những ký ức đau buồn cậu nghe tiếng của Ông Tư Bền gọi cậu:
- Cậu Ba xuống đây ăn cơm cùng chúng tôi!
- Dạ!
Cậu xuống nhà sau, đi ngang chổ Thầy Út nằm, mắt thầy út nhắm nghiền mặt xanh tàu lá chuối, cậu ba biết Thầy Út đã chết rồi (Không lẻ chỉ đập đầu như thế mà chết, con người dể chết thế sao?) Cậu không muốn tin như thế, nhưng sự thật vẫn là sự thật, Cậu Ba thở dài đi xuống nhà sau.
Trong lúc ăn cơm không ai nói với ai lời nào, bầu không khí nặng nề, ăn xong ông Tư đứng lên đến khạp da bò múc nước uống, chợt nhớ ra điều gì ông bèn nói:
- Tui với cậu soạn bộ ngựa ra rồi đóng cho Thầy Út một chiếc áo quan cho tươm tất, dù gì ông cũng có công đến đây tuy chưa giúp mình được điều gì nhưng ổng có ý tốt!
Cậu Ba Hơn và Ông tư soạn đồ nghề Mộc bắt đầu đóng áo quan cho người chết (thời này ít có ai bán áo quan, bộ ngựa ở trong nhà để dùng đóng áo quan nếu như có người chết). hai người hì hục suốt cả buồi sáng mới hoàn tất chiếc áo quan.
Đến lúc tẩn liệm người chết thì trong nhà cả bốn người xúm lại lau rửa mặt mày người chết, không có áo quần ông tư dem ra một chiếc chiếu củ, mấy bộ đồ rách của mình để tẩn thấy Út.
Có một điều lạ cái xác ấy không lạnh mà cứ âm ấm như thế. Ông Tư nghĩ chắc có lẻ Thầy Út còn nuối vợ con của Thầy nên chưa đi hẳn.
- Câu Ba à! cậu có đến nhà của Thầy Út không vậy?
- Dạ có chứ, em gặp vợ con của Thẩy nửa!
- Thầy Út còn nuối vợ con thấy đó cậu!
Hai người hè nhau khiêng bỏ xác Thầy Út vào áo quan mới đóng, bỏ tất cả đồ tần liệm vào trong rồi định đóng nấp áo quan lại. thì cậu ba nói:
- Khoan đã anh Tư. Thầy Út là người Cao Miên mà theo em thấy tục lệ người ta là chết phải thiêu chứ không có chôn như người Việt của mình, thôi để ngày mai em đi cho vợ Thẩy hay tin, rồi mình thiêu hay chôn do quyết định của vợ Thầy Út, đây qua bển rồi trở dìa đây cũng ba ngày, thôi phải chịu vậy thôi!
Nói rồi hai người lo bày đèn nhang rồi đi thông báo cho dân trong làng xóm hay. Ngoài trời lúc này đã xế bóng từng đợt nắng cuối ngày thong thả nhỏ giọt, xuyên qua tán lá dừa xuống ao trước sân nhà, như những mảnh gương bị vở, ngọn gió hiển hoà lướt nhẹ trên dàn hoa mướp đong đưa, một không gian quê mùa bình yên, nhưng chứa đầy biến động đau thương.
Trong nhà bây giờ còn lại Bà Tư và Vân, bất chợt nghe tiếng gọi nho nhỏ từ trong chiếc áo quan, hai người nghe tiếng gọi nhìn quanh không có ai ngoài hai người, rồi tiếng động lọc cọc trong chiếc áo quan lại tiếp tục, bà Tư và Vân nhìn nhau như dó hỏi lo lắng.
- Má có nghe gì không?
- Con cũng nghe tiếng động đó không Vân?
Cả hai không ai nói với ai lời nào thét lên cắm đầu bỏ chạy ra ngoài sân, mặt mày cả hai tái xanh tay chân run rẩy.
Bấy giờ Ông Tư vá Cậu Ba Hơn đã trở về cùng tám thanh niên trong thôn xóm, thấy hai người với bộ dạng kỳ cục mới hỏi:
- Tại sau hai má con không ở trong nhà canh chừng xác, ngộ lở có con mèo nào nó phóng qua thì tai hại tới chừng nào không (ngày xưa họ vẫn tin: Nếu mèo phóng qua xác chế,t dương khí của mèo sẽ làm xác chết đứng dậy rồi chạy theo con mèo, gặp con người dương khí hấp dẫn thì nó sẽ theo người, nên trong nhà có xác chết họ đều nhốt mèo vì sợ mèo nhảy qua xác chết!)
Bà Tư lấp bắp:
- Tía nó ơi..kinh khủng lắm! Ma..đó..xác Thầy Út làm gì lọc cọc trong quan tài..lại rên rỉ nửa, ối tui không dám vô trỏng đâu..
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đã tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1193 of 1439: Đã gửi: 25 June 2010 lúc 7:35pm | Đã lưu IP
|
|
|
THAY HỒN ĐỔI XÁC
PHẦN BỐN
Cả nhóm đàn ông ùa vào trong nhà xem hư thực thể nào. Ông tư lẩm bẩm:
- Giờ này làm gì có ma cỏ mà dám hiện ra để hại người?
Trước mắt mọi người thấy Thầy Út ngồi dậy trong quan tài hai mắt còn nhắm nghiền mặt mày trắng bệch, nước ở đâu mà thấm ướt cả người Thầy Út, tất cả đồ liệm theo xác bị hất văng tung toé trên mặt đất. Cậu Ba Hơn và Ông Tư Bền thấy chuyện quái dị há hốc miệng không nói được lời nào.
Hai người không tin ở mắt mình, rỏ ràng Thầy Út đã tắt thở chết rồi, chính hai người đã khiêng bỏ vào quan tài sao bây giờ ngồi dậy hay là.. Ộng tư nhớ lại câu chuyện ngày xưa mà những người lớn tuổi dặn, khi có ai chết thì phải nhốt Mèo, kẻo nó nhảy qua xác chết thì cái xác làm cái xác như sống lại, chạy theo nguổn dương khí, đụng ai thì người ấy cũng chết theo.
Thật là kinh khủng nếu đúng sự thật như vậy thì.. Ông Tu cũng cảm thấy nổi da gà, Ông chận mọi người đứng lại cách xa cái xác Thầy Út khoảng ba mét.
Bấy giờ bà con trong xóm kéo đến nhà Ông bà Tư Bền đông như đi xem hát bội vậy, người bàn ra tán vào nào là Ma dậy hồn thư, Ma xó.. ý kiến họ đưa ra đủ loại ma mà chính họ cũng chưa từng biết qua!
Bổng Xác Thầy Út rên rỉ âm thanh tựa như tiếng đàn bà con gái, có một điều lạ là âm thanh thật rỏ ràng không như tiếng của Thầy Út khi còn sống:
- Ôi! Tía ơi, tía đâu rồi?
Bây giờ những người đàn bà và trẻ con bỏ chạy tán loạn ra ngoài, chỉ còn những người can đảm đứng vây quanh chiếc quan tài của Thầy Út. Ông Tư lớn tiếng quát nạt:
- Hồn ma kia ai là Tía của ngươi, mau xuất ra khỏi xác không thì ta cho một rựa kẻo hồn phi phách tán?
Xác Thầy Út trả lời:
- Dượng Tư ơi, con là Nhàn đây bộ dượng quên con Nhàn rồi sao?
Vừa nói xong xác Thầy Út đứng lên rồi leo ra khỏi chiếc áo quan, gọn gàng như người còn sống. Lại một phen hoảng kinh hồn vía mọi người bỏ chạy ra ngoài sân đứng nhìn vô trong nhà. Xác Thầy Út đưa tay ngoắt Cậu Ba Hơn:
- Tía Ôi, tia vô đây với con, họ làm gì xa lạ với con quá, mới đi có hơn ba năm mà như vậy sao?..Kìa Cô Tám Bông, cô còn nhớ con với cô đi cây ở bưng xẽo Quýt không? Hôm đó hai cô cháu mình đi cấy mướn mà có mỗi một mo cơm ăn với mắm sặt, sau đó cô chỉ ăn qua loa một miếng rồi nhường hết cho con ăn, cô còn nói:
- Mày sức thanh niên phải ăn nhiều mới có sức mà làm việc, cô già rồi ăn uồng ít lắm!
Nghe xác thầy Út kể chuyện năm xưa hôm đi cấy bên xẽo Quýt, Bà Tám Bông xúc động nước mắt ràn rụa mới hỏi:
- Mày đó sao Nhàn? Con có chết oan ức thì để Cô Tám cúng áo quần, tiền gạo để con có mà xài chứ đừng nhát cô tội nghiệp..
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đã tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1194 of 1439: Đã gửi: 25 June 2010 lúc 7:49pm | Đã lưu IP
|
|
|
THAY HỒN ĐỔI XÁC
PHẦN NĂM
Cậu Ba Hơn từ nảy giờ đã hiểu hết tự sự, đêm hôm qua chính vong hồn của Nhàn đã trực tiếp nói sẽ được hoàn dương, nhưng không ngờ sự thể hoàn dương trong thân thể của một người đàn ông xa lạ. Cậu bước đến trước mặt xác Thầy Út nòi rằng:
- Nếu hồn thật sự là con Nhàn thì hảy nói những việc lúc sinh thời của mình rồi vì sao lại chết, khi chết ở đâu và xác chôn nơi nào?
Cô Nhàn (Xác Thầy Út) nước mắt chảy dài trên đôi má nghẹn ngào kể chuyện từ giai đoạn hai Tía con phiêu bạt cho đến khi về sinh sống tại đất này, chuyện tàu Tây vô đây bố ráp lính Tây hại cô, rồi cô huỷ mình nơi đoạn sông cái gần ngả ba Vàm. Tất cả những chuyện kể rất đúng, mọi người có mặt tại đó đều biết chuyện này!
Cậu Ba Hơn rưng rưng nước mắt nhìn lại đứa con gái trong hoàn cảnh thật dị kỳ, nhưng dù sao đi nửa cái hồn ẩn trong cái xác ông Thầy thuốc rắn vẫn xa lạ, ông làm sao có cảm giác đó là con ruột của mình. Cậu Ba kể thêm cho mọi người nghe về chi tiết việc Cậu gặp hồn Ma của Nhàn vào đêm trước, xác nhận việc hoàn dương của Nhàn là do ý Thiêng Liêng.
Ông Tư Bền nảy giờ xúc động cảnh đoàn tụ của Ba Hơn, ông thắc mắc còn hồn Thầy Út đã đi đâu? ông bèn hỏi:
- Cháu Nhàn à! Vậy còn hồn của Thầy Út bây giờ ở đâu?
- Điều này con không biết, vài giờ trước đây vị Thần Hoàng đã giúp con trong việc hoàn dương.
Bà con trong thôn xóm thấy việc dị kỳ họ bàn ra tán vào không ai dám đến gần xác Thầy Út. Cô Nhàn kêu từng người quen biết, nhắc lại những kỷ niệm của họ khi giao tiếp với cô và họ xác nhận đúng từng chi tiết nhỏ, quả thật đây chính là cô Nhàn, từ đó mọi người bớt sợ xác Thầy Út hay nói đúng hơn là không phải là Quỷ Quái.
Thế rồi chuyện hoàn dương của cô Nhàn được đồn đại ra ngoài huyện CN, làm cho một số người dân hiếu kỳ đến xem và họ cầu xin cô giúp đở họ làm ăn, hoặc hỏi thăm chuyện tương lai của họ.
Nhàn từ khước mọi yêu vầu của họ, lý do Nhàn cũng không biết gì ngoài việc của Nhàn, lời đồn đại đi xa đến Tỉnh CM người ta kéo đến xem mỗi ngày ngày một đông, gia đình của Ông Tư Bền thấy phiền nhiểu mất sự yên tỉnh đời sống ba người trước kia, Ông bàn cùng cậu Ba Hơn:
- Cậu với nhà này thân như ruột thịt, Cậu và Nhàn (Xác Thầy Út) ở đây tui không nghĩ gì cả mà còn mong Tía con Cậu ở mãi cùng chúng tôi, nhưng càng ngày có nhiều người đến quấy rầy, tui nghĩ câu nên đưa Nhàn đi về nhà của Thầy Út ở một thời gian và kể cho vợ Thầy Út nghe sự việc này, để xem bả định liệu ra sao dù gì cái xác này của vợ chồng người ta.
-Anh Tư nói chí phải, để mai tôi đưa Nhàn đi cùng với tui qua Tà Lơn gặp vợ Thầy Út.
Hoàng hôn đến rất nhanh, ngoài trời tối đen mọi người hiếu kỳ đến xem vội vả xuống xuồng ra về. Sau một đêm trằn trọc không ngủ được, Cậu Ba Hơn đứng lên đi rửa mặt cậu nhìn quanh tìm Nhàn (trong xác Thầy Út) Cậu Ba Hơn vội kêu nho nhỏ:
- Nhàn ơi,con lo chuận bị đi sớm kẻo trể.
không nghe tiếng Nhàn trả lời cậu bước ra trước hàng ba trời vẫn còn tối mịt, thấy bóng người thấp thoáng ngoài bờ dậu Cậu ba gọi nhỏ:
- Nhàn dó hả con?
- Dạ thưa Tía con đây!
- Con làm gì thức dậy sớm mà ra ngoài nầy làm gì vậy?
- Dạ con không ngủ được nên ra đây.
Thực tâm của Nhàn suy nghĩ không biết trong thân thể này cô sẽ đối xử với vợ Thầy Út ra sao, khi về bên ấy trong vai một người chồng và một người cha, ngay cả việc sinh hoạt, như chuyện đi vệ sinh tắm rửa, theo nữ tinh cô đã thấy khó khăn trong thân xác đàn ông.
Ngay ngày thứ hai được hoàn dương cô mắc cở khi nhìn thấy thân thể mà cô mượn tạm ôi nhiêu khê không hiểu rằng mai mốt đây liệu mình còn có thay đổi gì nửa không? Rồi mình phải làm bổn phận đàn ông khi về với vợ Thầy Út hay là khước từ vai trò đó?
Bao nhiêu nổi lo lắng làm Nhàn thấy khó khăn việc ứng xử khi về bên Tà Lơn. Cậu Ba hơn hỏi:
- Con đang suy nghĩ gì mà làm thinh vậy?
- Dạ...Dạ con không biết phải cư xử làm sao với vợ Thầy Út đây hả Tía?
- Ờ, ờ..thì!
- Mà thôi chuyện gì cũng có thể giải quyết Nhàn à! Bận tâm làm gì cho mệt, con vô sửa soạn rồi Tía vô cám Cô Tư, Dượng Tư rồi hai Tía con mình lên đường cho sớm.
Nhàn vô nhà soạn lấy hành trang của hai tía con, vừa lúc ấy cả nhà ông Tư đã thức dậy, hai người đến từ biệt đi qua Tà Lơn. Ông Tư nói:
- Hai Tía con đi khoảng một thời gian ngắn rồi về hay ở luôn ở bển.
Cậu Ba Hơn cười buồn:
- Tới đâu tính đến đó anh Tư à, tui có quen sống ở xứ đó đâu? Vì sự việc có liên quan đến con Nhàn nhà tui nên phải quấy với vợ Thầy Út đó mà!
- Thôi cả nhà tui cầu chúc Cậu Ba với con Nhàn đi bình yên, nhân đây tui xin gởi cậu năm chục bạc để làm lộ phí, cậu không nhận tui buốn lắm đó nghen!
Cậu Ba không nhận cũng không được, vì Cậu tay trắng không còn tiền bạc, mà nhận thì thấy khó xử trong lòng.
- Cảm ơn Anh Chi Tư đã chiếu cố cho hai Tía con tui, có dịp tui sẽ đáp đền ơn nghĩa thâm trọng này.
- Ồ có gì đâu Cậu Ba, tui coi cậu như em ruột tui vậy mà, mình cùng một gia đình thì có gì áy náy, nhớ cậu với Nhàn về đây thăm tụi tui nghe.
Ba Hơn dạ nhỏ rồi cùng Nhàn bước ra bờ sông xuống xuồng bơi ra sống cái. Trời vừa tờ mờ sáng sương trắng bảng lảng trên sông.
Tiếng chim Bìm Bịp rúc dài một hồi trên sông nước báo hiệu nước lớn, xa xa những chiếc xuồng chở đầy nông sản chèo hối hả cho kịp buổi chợ mai, hai người ngoảnh lại nhìn làng thôn yên bình chìm khuất sau làn sương trắng đục.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đã tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1195 of 1439: Đã gửi: 25 June 2010 lúc 8:00pm | Đã lưu IP
|
|
|
THAY HỒN ĐỔI XÁC
PHẦN SÁU
Hai tía con Ngày đi đêm nghỉ đến rạng sáng ngày thứ hai đã đến Tà Lơn, con sông nhỏ hiền hòa nước trong xanh, xa xa vài ngọn núi vươn đỉnh lên trời khoe những rừng cây thưa thớt cháy xém vì dân địa phương đốt rừng làm rẩy, Con sông chảy ngang sóc người Miên là huyết mạch chính trong việc lưu thông vận chuyển hàng hóa.
Đến đầu cầu bến đò của sóc Miên, Cậu Ba Hơn cột xuồng rồi cùng Nhàn (tức xác Thầy Út)đi về hướng chùa trong sóc, thỉnh thoảng trên đường có những người quen biết Thầy Út chào hỏi thầy bằng tiếng Miên, Nhàn cũng chẳng hiểu mô tê gì cả, chỉ mĩm mỉm cười gật đầu chào lại họ mà thôi.
Vô gần đến cổng chùa Cậu ba dẫn Xác Thầy Út quẹo hướng tay trái độ khỏang năm mươi thước, thì đến một căn nhà nho nhỏ, phía trước nhà có trồng nhiều bụi "Kim Ngân Hoa" và một vài lọai cây thuốc chửa rắn độc cắn.
Cậu Ba Hơn bước lên thềm nhà bèn kêu lớn:
- Thím Út ơi..
Từ trong nhà chạy ra một người phụ nử khoảng ba mươi lăm tuổi nước da đen nhưng gương mặt trông thanh tú, Thím Út (vợ Thầy Út) miệng cười tươi khi thấy chồng và người bạn cùng về Thím chào khách vài nói tiếng việt lơ lớ:
- Mèn ơi! Tưởng hai người đi ít lắm cũng năm, bảy tháng mới trở dìa chứ, không ngờ dìa sớm vậy, thôi để tui đi mua một con cá lóc nấu cháo, và một xị rượu cho mấy người nhậu nghe.
Nói xong thím bỏ ra sau đứng bên cửa buồng đưa tay ngoắt Thầy Út (Bòn ôi..) Nhàn cũng không biết bà ta nói cái gì với mình, Nhàn chỉ biết cười mĩm cho qua chuyện và nói:
- Thôi... trong nhà có khách đó.
Cậu Ba hơn nảy giờ thấy hai người cậu cũng biết rồi, chuyện đối xử của Nhàn làm sao cho trọn vẹn..Thím Út xách giỏ bước nhanh khỏi nhà trong lòng chưa hết thắc mắc: Tại sao Chồng mình về nhà mà lạnh nhạt với mình quá vậy?
Khác hơn những lần đi xa trước kia, ảnh về vồn vả hỏi han đến con, đến vợ và những người thân, hay là có chuyện gì bất ổn làm ảnh buồn phiền? Vợ chồng lấy nhau nay hơn ba năm có một đứa con duy nhất mà không hỏi thăm tệ thật!
Thím Út nhớ có bận Thầy út đi xa về ôm con hôn tới tấp tặng cho Thím một sắp vải lụa nhuộm đen may chiếc "Xà Rông" thật đẹp, hảnh diện cùng bạn bè lối xóm. Miên man suy nghĩ không thể hiểu được hành vi của chồng mình. Thím Út thở dài tự nhủ "mặc kệ chuyện gì sắp sửa đến".
Thím Út vào chợ mua Cá và ít gia vị và một xị rượu, về đến nhà Thím vào bếp nấu nướng. Bửa ăn được dọn lên rượu được rót ra mời khách, Thím Út và Chồng cùng ngồi ăn,
Thím nói:
- Mình à! Tui gởi thằng Sol cho bà ngoại nó giử mấy hôm nay, để tụi cùng mình đi đón nó về mấy hôm nay nó nhớ mình lắm!
Thấy chồng làm thinh không nói lời nào trong lòng của Thím Út không vui, Cậu Ba hơn nảy giờ nghe thấy ái ngại trong lòng định nói thật mọi chuyện nhưng không tiện chút nào, Cậu Ba lấy chân khẻ đạp xác Thầy Út, Nhàn như hiểu ý của Tía:
- Thôi má thằng Sol cứ để nó bên ấy đi tui về thăm nhà rồi còn phải đi lo công việc nửa.
Tiếng nói của Thầy Út bây giờ nghe sao lạ hẳn trước kia, âm thanh cao vút lên như tiếng phụ nử, Thím Út càng thắc mắc trong lòng, rượu được rót ra chỉ có Thím cùng ông khách lớn tuổi uống, còn chồng của Thím không nhấp một chút nào lạ quá.
Thím nói:
- Mình uống một chút cho vui đi ba thằng Sol!
Thấy Thầy Út không trả lời Thím cũng im lặng, không khí nặng nề cả ba người đeo đuổi ba ý nghĩ khác nhau. Cậu ba Hơn nói lớn để phá tan bầu không khí nặng nề:
- Thím Út.. Tôi thành thật xin lổi..
Nhàn kéo tay của Tía ra hiệu đừng nói gì, làm Cậu Ba nín bặt. Ông bèn lái sang việc hỏi thăm đồng ruộng, trồng lúa mùa này gặt hái có đủ ăn không, những chuyện bâng quơ thời tiết, kinh tế ở đây thay cho ý định muốn nói sự thật câu chuyện "thay hồn đổi xác của Nhàn".
Nhờ vậy cả ba bắt đầu vui vẻ, Thím kể lại việc làm của Thím khi Thầy Út đi vắng nhà, mỗi câu chuyện Thím đều liếc mắt nhìn Thầy Út như vừa trách móc như vừa gởi tất cả tình yêu nồng nàn của mình cho chồng.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đã tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1196 of 1439: Đã gửi: 25 June 2010 lúc 8:25pm | Đã lưu IP
|
|
|
THAY HỒN ĐỔI XÁC
PHẦN BẢY
Cả ba đang đang nói chuyện bổng im bặt khi một vị sư già bước vào. Thím Út đứng lên chấp tay xá chào:
- Con chào "Lục Thum" (tức là vị sư cả).
- Chào Chú thím, à còn vị khách này ở đâu vậy?
Thím út chỉ vào Cậu Ba Hơn nói:
- Dạ ông này là bạn của chồng con ở bên Việt Nam mới hồi sáng này ảnh mới dẫn về đây chơi!
Vị sư cả gật đầu chào cậu Ba Hơn, rồi quay sang xác Thầy út nói một tràng tiếng bản xứ, nhưng không thấy xác Thầy Út đối đáp, ông lấy là ngạc nhiên về sự khác biệt cư xử của Thầy Út, nên ông nói tiếng Việt như muốn cho cả Cậu Ba Hơn nghe luôn:
- Thạch Song hôm nay sao lạ vậy, tui hỏi công việc làm ăn ở bên Việt Nam mà chú không trả lời tui vậy.
Nhàn trong xác Thầy Út bây giờ mới hiểu sự việc vội chống chế:
- Dạ nảy giờ con có nghe Lục cả hỏi, nhưng vì trong lòng đang bận suy nghỉ nên không trả lời! Con đi qua Việt Nam chổ làng của Anh Ba Hơn đây để cứu dân độ thế chứ đâu phải đi chơi, nay công việc cũng gần xong nên dìa đây thăm nhà, con chịu lổi với Lục cả!(Người Miên họ rất tôn trọng các vị Lục tu hành).
Lục cả nảy giờ quan sát Thầy Út từ trên xuống dưới ông nói:
- Lục cả thấy Chú Út lạ lắm đó, từ lối cư xử đến tiếng nói cũng thấy khác!
- Dạ tại vì con bị bịnh mấy hôm rồi nên nhờ anh Ba đưa về nhà dùm.
- Thôi được, chiều nay lên chùa Lục cả có thời cúng lễ Phật, Chú Út nên lạy Phật độ cho hết bịnh, thôi Lục Cả về!
Rồi ông quay sang Thím Út nói với Thím một tràng tiếng Miên hai người trao đổi với nhau, thỉnh thoảng Thím Út với ánh mắt ngạc nhiên nhìn về phía Thầy Út, Thím gật đầu lia lịa khi nghe vị Lục Cả căn dặn điều gì đó!
Vị sư già quay lại chào hai người rồi bước thằng ra đường.
Thím Út bấy giờ đăm chiêu nhìn xa xôi với gương mặt buồn bả, Thím hỏi Xác Thầy Út.
- Anh Song à! Vợ chồng ăn ở nay hơn năm năm rồi, anh cũng thương vợ con, nhưng chuyến đi vừa rồi có xảy ra điều gì anh nói thiệt cho em biết, nếu anh dấu em không yên tâm đâu, khi anh về nhà này đối xử với em như kẻ xa lạ hay anh có vợ nhỏ ở Viết Nam?
Nhàn (trong xác Thầy Út) nghe câu hỏi của người đàn bà này làm cô giật mình, nên vội nói trấn an Thím Út:
- Ồ không có chuyện như vậy đâu má thằng Sol, tui đi xa tui nhớ Má thằng Sol lắm chứ, tui đâu phải ham chim chuột mà bỏ bê má nó đâu!
Nói xong Nhàn cười mĩm với Thím Út. Bấy nhiêu lo âu hờn mát của Thím tức khắc tiêu tan đâu mất, cảm thấy xấu hổ bèn cười khoả lấp:
- Chỉ sợ anh quên bổn phận của mình thôi!
Nảy giờ Cậu Ba Hơn chứng kiến cảnh dối trá của Nhàn đối với người đàn bà đáng thương kia, trong tâm Cậu rất áy náy, cậu đứng dậy đi ra nhà sau tìm một chổ vắng vẻ suy nghỉ tìm một phương cách nào đó, cho Nhàn và Thím Út được vẹn toàn.
Hay là Cậu phải nhờ vị Lục Cả này giúp con của cậu và Thầy Út? nghỉ như vậy cậu có linh cảm nếu muốn cứu hai người, phải nhờ đến huyền lực của vị Lục cả này thì mới ổn!
Buổi chiều đến nhanh với làng quê thanh bình mộc mạc, Thím Út thúc hối Thấy Út đi sang Chùa của "Lục Thum" lễ Phật, từ nhà đến chùa chưa đầy trăm thước, hai người bước vào chùa các vị sư bước ra chào đón thân mật.
Từ xa, vị Lục Cả đứng trong chùa nhìn chãm chãm Xác Thầy Út từ ngoài bước vô như dò xét, bất chợt trực giác cho ông biết một điều gì đó, ông cố gắng xua đuổi những ý tửởng vừa đến với ông. Ông vội quay đi bước thẳng đến trước tượng Đức Phật Tổ, miệng niệm lâm râm những câu chú thần bí.
Vị Lục cả bảo hai vợ chồng quỳ xuống trước tượng Phật cầu nguyện, rồi ông lấy ba cây nhang và một chung nước trong miệng niệm thần chú liên hồi, bổng thấy xác Thầy Út chao đảo thần trí như bị mê man, giây lát sau vị Lục cả miệng quát to lên bằng tiếng Việt lõ lớ:
- Hồn ma sao không chịu xuất ra khỏi xác của Thầy Út?
Bấy giờ Nhàn trong thân thể Thầy Út thấy như ai lấy roi quất vào người đau điếng, Nhàn cất tiếng van xin vị Lục Cả đừng dùng linh phù đánh cô nửa!
- Trãm lạy ngàn lạy xin Lục Cả tha cho, Không phải tôi cướp xác của Thầy Út, thật ra tôi bị chết oan uổng nhưng chưa tới số, nên được Thần Hoàng Bổn Cảnh địa phương cho nhập xác của Thầy Út để đền đáp công ơn nuôi dưởng của cha tôi, một điều nửa là giử xác của Thầy Út đem về quê nhà, vì Thầy Út đã tới số rồi!
Vị Lục cả nghe qua lấy làm lạ ông hỏi:
- Vậy nây giờ thì Hồn Vía của Thầy Út Song ở đâu?
- Dạ! cái điều nầy con không biết.
Vị Lục Cả suy nghỉ hay làm pháp chiêu hồn của Thầy Út về để hiểu biết tự sự, sau đó ông kêu thêm tám vị Lục ngồi vây quanh xác Thầy Út, rồi bảo xác Thầy Út ngồi xuống chấp tay niệm Phật, tất cả đều đọc chú thỉnh chư thiên
và triệu hồn Thầy Út.
Bấy giờ Nhàn trong xác của Thầy Út cảm thấy một sức mạnh kinh khủng hất tung Cô lên không, rồi chới với trong khoảng không ấy mãi, cô nhìn xuống thấy xác Thầy Út nằm ngả sóng xoải trên nền chùa, Nhàn muốn quay trở lại với xác Thầy Út lắm, nhưng không biết có lực gì giử cô lại trên không.
Cô gào khóc thảm thương nhưng tất cả mọi người chung quanh đó không hề nghe tiếng của cô. Trước mắt cô bây giờ có ba bốn bóng người đi tới vùn vụt rất nhanh, họ đến vây quanh xác Thầy Út, rồi có một chiếc bóng nhỏ nhắn chui vào xác của Thầy Út, một vài phút sau xác Thầy Út từ từ ngồi dậy, ngơ ngác nhìn mọi người chung quanh.
Bây giờ Thầy Út thấy quanh mình những gương mặt quen ở quê nhà.
- Chà thấy quen quá không gặp ở đâu vậy?
Vị Lục Cả hỏi:
- Vậy Thầy có quen với tui không ?
- Chắc có nhưng tui quên mất rồi!
Quay sang bên người đàn bà đang quỳ kế bên Thầy Út nhìn một hồi lâu mới nói:
- Vậy bà này là ai hình như tui quen lắm đó? sao đầu óc của tôi như lạ như quen, lúc nhớ lúc không vậy kìa!
Vợ của Thầy Út thấy chồng như thế thì cô sợ qua hồn vía bay đi đâu mất, miệng ấp a ấp úng trả lời:
- Tui là vợ của anh đây!
- Mèn ui cái gì mà nó quây tui chóng mặt quá!
Thầy Út nói xong nằm lăn ra nền chùa, vị Lục Cả thấy vậy bèn hớp một ngụm nước phép phun vào mặt của Thầy Út rồi niệm chú, giây lát Thầy Út tỉnh dậy ngơ ngác hỏi han không còn biết chi nửa.
Ông thấy nếu không để hồn Cô Nhàn vào thì chắc hẳn xác này sẽ dại cuồng, nên ông làm phép bắt ấnddđẩy hồn của Nhàn vào xác Thầy Út.
Nhàn thấy mình bị một cơn trốt thật mạnh cuốn hút vào thân xác của Thầy Út rồi Nhàn mở mắt nhìn quanh. Đây là sự thật chứ không phải là nằm mơ.
Vị Lục Cả ra hiệu cho Nhàn (trong xác Thầy Út) đứng dậy rồi ông noi:
- Thôi từ nay Chú ráng mà ãn ở với mọi ngùời thân cho tốt!
Nói xong ông cùng các vị Lục khác bỏ vào hậu điện. Hai vợ chồng Thầy Út lạy Phật rồi ra về. dọc đừờng Thím Út hỏi Thầy Út:
- Hồi nảy thấy mình bất tỉnh nhân sự khi tỉnh dậy ãn nói gì kỳ quá vậy?
- Ờ thì tui thấy mình chóng mặt rồi không biết gì nửa, kế đó tỉnh lại lúc nhớ lúc quên..Ôi tui cũng không nhớ nửa!
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đã tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1197 of 1439: Đã gửi: 25 June 2010 lúc 8:53pm | Đã lưu IP
|
|
|
THAY HỒN ĐỔI XÁC
PHẦN TÁM
Bửa ăn tối cơm canh đạm bạc cả ba người ngồi vào ăn không nói với nhau một lời nào cả. Cậu Ba Hơn đưa mắt nhìn Thầy Út như ngầm dò hỏi: liệu rằng từ nay trở đi hai tía con có ổn không? Như hiểu ý của cha mình cô Nhàn nhìn ông khẻ mỉm cười nói:
- Thôi hơi đâu lo cho mệt việc gì cũng có số phận đã an bài.
Cậu Ba hơi yên tâm, cơm nước xong cậu đứng dậy đi ra trước nhà, tiếng côn trùng rỉ rả hoà tấu thành một bản nhạc đêm muôn thưở, ngước nhìn lên bầu trời đầy sao Cậu chợt nhớ về khoảng thời còn trai trẻ.
Những lúc gian truân lao nhọc chưa lúc nào cậu thấy khó xử như tình hình hiện tại, ông định sáng ngày mai lên chùa nhờ các vị Lục Cả giải thoát cho hai tía con ông.
Nằm trên chiếc vỏng trước hàng ba từng làn gió mát nhẹ nhàng đưa ông vào giấc ngủ với những ưu tư đấy bất trắc của thân phận con người...
Tiếng Vợ Thầy Út vang lên từ trong buồng ngủ:
- Mình sao không vô buồng ngủ, ngồi ở đó cho muổi cắn à?
- Má thắng Sol ngủ trước đi một chút tui mới ngủ!
Tiếng cằn nhằn của thím Út như một chuổi âm thanh lạ tai đối với Nhàn, Cô mãi suy nghĩ cách đối phó với tình trạng hiện tại.
Từ thời còn bé, đến khi chết đi có bao giờ cô đã nghĩ đến hoàn cảnh trớ trêu như hiện nay, Cô tự hỏi nếu như bị bắt buộc làm bổn phận một người chồng thì mình phải làm gì và biết có được suôn sẻ không, khi cá tính nữ luôn thể hiện bên trong của Nhàn?
Đêm đã về khuya bất chợt cơn mưa rào đổ ập đến, tiếng gió mưa lùa qua mái lá xạc xào như khêu gợi nổi cô đơn, thím Út còn trăn trở chưa ngủ được, thím ra ngoài nắm tay Thầy Út kéo vào trong buồng thì thầm:
- Lâu lắm rồi mình biết không, em chưa có ngủ với mình, nay mình dìa đây mà không vào ngủ thì làm sao em ngủ được?
-Ờ.. thì để..tui vô!
Vô đến buồng Thím Út đẩy Nhàn nằm xuống giường hai tay ôm chặc sợ Thầy Út tan biến mất, thím luôn miệng nói lên nổi thương, nổi nhớ của người đàn bà khao khát tình yêu của chồng, thím đưa tay cởi áo của chồng mân mê sờ nắn bộ ngực rám nắng tràn đầy sức sống, Nhàn hoảng hồn đẩy nhẹ bàn tay thìm Út ra nói:
- Mình à tôi mệt để tui yên!
- Không có mệt gì cả gần nửa năm rồi, hay là anh có con nào nên về đây hất hủi lạnh nhạt vơi tui?
Nhàn bây giờ muốn kêu trời để chứng minh mình là phận gái như thím Út, làm sao gợi tình chăn gối vợ chồng cho được! Thấy chồng không nói gì sao lạ vậy! Đâu khi nào chồng mình như thế, thím thở dài chán nản như để cho Thầy Út nghe!
Nhàn thấy thương hại cho người đàn bà còn trẻ này, Cô cảm thấy mình có lổi trong vấn đề oái oăm này, Nhàn nghĩ phải có một cách nào để giải quyết nếu không thì người đàn bà này khổ mà mình cũng chẳng yên thân, bao nhiêu đắn đo Nhàn kêu Thím Út ngồi dậy trân trọng nói từng lời thật rỏ ràng cho Thím nghe:
- Chị Út à! Tui xin nói thật với chị, khi nghe chuyện này chị đừng buồn và cũng đừng trách tui nghen?
Thím Út đang say ngũ bổng bị kêu thức dậy nghe chồng gọi mình bằng "chị" trong lòng kinh ngạc không ít, rồi nghe chống mình còn nói chuyện sự thật, mà chuyện sự thật là chuyện gì nửa đây? Hay là chuyện ảnh có vợ bé chắc!
Vừa kinh ngạc vừa giận chồng không thèm chăn gối với mình, thì ra bây giờ ảnh định thú thật chuyện vợ nhỏ cho mình nghe, thím nghe dòng máu nóng bốc lên mặt lớn tiếng quát tháo:
- Không, tui không nghe chuyện thật, chuyện dối gì nửa, anh có ngon thì cứ làm theo ý mình đi, bấy lâu nay tui tưởng anh thương Mẹ con tui bây giờ có người khác về đây chọc tức tui nửa hả?
Nhàn biết Thím Út hiểu lầm, kêu khổ trong lòng vội đính chánh câu chuyện:
-Không phải vậy đâu chị Út ơi! Chị cố gắng bình tâm nghe tui giải thích.
- Anh đi đâu thì đi khuất mắt tui, thân tui khổ quá chết phức cho rồi!
Nói xong thím Út oà khóc bước nhanh xuống giường đi ra phía sau nhà, Nhàn sợ thím làm chuyện bậy bạ vội chạy theo ôm thím lại, Nhàn đẩy thím Út vào buồng nằm xuống giường miệng năn nỉ:
- Thôi má thằng Sol cho tui xin đi, tui hỏng dám mèo chuột gì đâu chẳng qua muốn kể chuyện cho má nó nghe, không ngờ làm cho má nó buồn vậy tui xin lổi má nó nghen!
Thím Út bấy giờ như được hả cơn giận thấy chồng nói ngọt mình, thím Út cảm thấy cơn giận tan biến mất bây giờ chỉ còn sự yêu thương nồng cháy, thím Út lau vội nước mắt.
Nhàn vừa thẹn vừa thấy xấu hổ nhưng phải để cho thím muốn làm gì thì làm với thân thể của Thầy Út, dù sao đi nửa thân thể này là của chồng người ta. Nhàn đâu có quyền ngăn chận hạnh phúc của họ. Nhàn từ từ chìm vào giấc ngũ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đã tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1198 of 1439: Đã gửi: 25 June 2010 lúc 9:12pm | Đã lưu IP
|
|
|
THAY HỒN ĐỔI XÁC
PHẦN CHÍN
Trong mơ Nhàn vui vẻ hát hò đối đáp cùng nhóm trai tráng trong làng vào mùa gặt, có anh Hai Phát là người Nhàn chú ý nhiều nhất.
Phát siêng năng chăm chỉ vừa đẹp trai lại hiền hậu gia cảnh nhà chỉ còn một mẹ già, đôi khi rảnh việc cấy xong ngồi trên bờ ruộng hai Phát đi đến ngồi gần Nhàn đưa bầu nước uống hoặc chiếc bánh Ú Dừa cho Nhàn lót dạ.
Nhàn mắc cở vì những cử chỉ quan tâm của Hai Phát trước các bạn gái khác nên không nhận, anh nài nỉ mãi sau cùng Nhàn cũng nhận và hôm đó Nhàn thẹn đỏ mặt khi bị các bạn cười chọc ghẹo suốt cả buổi công cấy, đến mấy hôm sau khi gặp hai Phát chào hỏi Nhàn cũng né tránh, làm anh chàng si tình kia thêm đau khổ.
Một hôm hai Phát nói với Mẹ anh nhờ mai mối sang nhà để hỏi cưới Nhàn thì Cô trả lời:
- Tui còn nhỏ lắm, phải báo hiếu cho Tía, thôi anh Hai tìm mối khác đi!
Tuy nói từ chối như thế nhưng trong lòng cô không muốn chút nào, thì ra Nhàn cũng đã thương Hai Phát nhưng không dám nghĩ chuyện xây dựng gia đình cùng anh.
Hôm tàu Tây vô, chúng nó bố ráp bắt thanh niên trong làng, Hai phát vội chạy sang nhà cô dẫn cô chạy trốn, khi băng qua mấy rảnh mương trồng dừa bọn Tây phát hiện Hai phát và Nhàn, chúng ách lại nhưng hai người vì quá sợ cắm đầu chạy bất kể. Sau phát súng liên thanh nổ dòn hai Phát ôm ngực kêu lên:
- Chết tui rồi!
Anh ngã xuống bờ mương. Nhàn chạy đến ôm anh khóc không thành tiếng, còn Tía của Nhàn nửa, không biết ông có bị chúng giết không? bất giác hai hàng nước mắt chảy dài trên hai má, Nhàn khóc thảm thiết như cho cuộc đời mình, cho anh Hai Phát, cho Tía và cho cả dân làng này.
Nhàn lại khóc, bây giờ gia đình tan nát trong lòng Nhàn cũng không còn thiết sống. Nhàn như mê đi từ từ chìm vào dòng nước sâu vô tình của sông Trèm Trẹm...
- Tía thằng Sol, Tía nó làm gì mà la khóc dử vậy?
Thím Út vừa gọi vừa lay Chú Út, Nhàn (trong xác Thầy Út) chợt thức dậy, hai tay còn quơ qua lại như đang muốn nắm níu vật gì đó. Thím Út thấy trên mặt chồng còn đầy nước mắt, thím lấy làm lạ lùng hỏi Thầy Út:
- Mình à! tui có gì không phải thì mình tha thứ nghen, may mốt tui hỏng dám trách mình nửa đâu!
Bây giờ Nhàn đã tỉnh hẳn, Cô thấy quả thật là mình còn đang sống, giấc mơ ký ức vừa qua làm cho Cô khóc, chợt nghe Thím Út hỏi Nhàn không biết phải trả lời sao để Thím Út hiểu được "Nàng".
Trời lại trớ trêu thay, mà cũng hồng ân cho nàng trở lại trần gian gần cha già để báo hiếu.
- Ồ không có gì đâu má nó, tui nằm chiêm bao đó mà.
- Nằm chiêm bao gì mà la rồi lại khóc nửa?
Nhàn chỉ mỉm cười Nàng nghĩ; Thím Út làm sao biết được những bí ẩn của con người? Xảy nghe gà trong Sóc bắt đầu gáy rộ lên, Nhàn ngồi dậy bước xuống giường dáng đi nhún nhảy ra nhà sau rửa mặt.
Nàng cảm nhận không khí ẩm lạnh trên da thịt sau cơn mưa đầu mùa, nổi hạnh phúc giản đơn là Nàng còn sống còn gần được cha già. Thím Út đi theo sau nhìn dáng dấp chồng kỳ lạ rồi mỉm cười tỏ ý thông cảm.
Nhàn vào bếp nấu nước pha trà, ra trước nhà gọi Cậu Ba Hơn dậy uống nước trà do nàng pha sẳn, Cậu Ba uể oải đứng dậy bước xuống nhà sau vừa nói:
- Nhàn à! Con làm gì thức sớm vậy, trời còn tối thui hà.
- Hồi khuya con ngủ nằm chiêm bao thấy lúc con bị tụi tây đuổi bắt, chúng giết anh Hai Phát con sợ quá con kêu khóc, rồi kế đó Chị Út đánh thức con dậy, bây giờ không ngủ được nửa nên kêu tía dậy con kể chuyện này cho Tía nghe.
Tiếng ông Ba Hơn từ sau:
- Thôi mơ với mộng làm gì, bây giờ con hảy sống với thực tế đi.
- Dạ...
Thím Út hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, khi tối vợ chồng ngũ với ảnh cũng không hề âu yếm, mà khác tánh tình của ảnh trước đây, nhưng chuyện này không đáng trách, lại thêm một chuyện lạ nửa ảnh nói chuyện với ông bạn của ảnh, lại xưng hô Tía con rồi tên "Nhàn" gì nửa?
Nhàn là ai có liên quan gì đến chồng mình? Bao nhiêu mối hoài nghi trong đầu óc làm thím ghen tức muốn nổi nóng, nhưng thím dằn cơn giận để xem xét tìm hiểu bí ẩn của hai người đàn ông này.
Nhìn hai người ngồi uống trà thím Út làm bộ đi ngang đển nghe họ nói gì, Cậu Ba Hơn nảy giờ biết hết tâm sự của Thím Út nên ông gọi Thím lại và nói:
- Thím Út lại đây, để hai Tía con tui nói điều này cho thím nghe, nhưng với điều kiện là Thím phải tin rằng những gì tui nói đều là sự thật, cần nhất là thím phải bình tỉnh để cả ba giải quyết vấn đề này cho trọn vẹn, vậy thím có đồng ý không?
- Dạ nếu Anh Ba nói như vậy thì tui cũng nghe theo!
Cậu Ba Hơn thấy nhẹ nhỏm trong lòng cậu bắt đầu kể chuyện từ cuộc đời của cậu với Nhàn, và ngày Nhàn chết như thế nào, rồi cậu gặp Thầy Út thuốc Rắn như thế nào hôm ở nhà của Ông tư Bền, sự việc liên quan đến cái chết của Thầy Út rồi đến khi Thầy Út tỉnh lại thì hoàn toàn trở thành một người khác.
Không ai xa lạ đó chính vong hồn đứa con gái đáng thương của cậu, và sự kiện xảy ra kỳ lạ trong mấy hôm nay mà Thím đã thấy.
Thím Út ngồi nghe trong lòng của Thím vô cùng kinh ngạc cảm thấy có nhiều điều không thể nào tin, mà cũng không thể không tin thím Út hỏi Chồng.
- Vậy "Anh" còn nhớ tới Mẹ mình không?
Thầy Út lắc đầu:
- Ngay cả gương mặt của mẹ Thầy Út ra sao tôi còn không biết huống chi là nhớ!
- Vậy anh có nhớ lúc hai vợ chồng mình thành hôn mình tặng cho tui cái gì không?
- Chị Út à ! Tui là Nhàn cũng là phận gái như chị, không phải là Thầy Út đâu, tui làm sao biết được ảnh tặng gì cho chị!
- Ôi không đâu, chắc mấy người gạt tui thôi!
Thím Út cảm thấy mình bắt đầu đau khổ như mất mát điều gì to lớn, hai hàng nước mắt bắt đầu chảy dài trên gương mặt thanh tú, thím nói nghẹn ngào qua tiếng khóc:
- Nếu anh không còn thương tui nửa thì anh có quyền đi với ai thì đi đi, đừng giả bộ này nọ làm tui thêm khổ!
Thím Út đứng lên vừa khóc vừa đi vào trong buồng. Nhàn thấy mình khổ tâm hơn bao giờ hết, cô nhìn Tía ngầm nói thà không nói thì hơn. Câu Ba Hơn lắc đầu thở dài hai người không ai muốn nói với nhau đều gì nửa, họ cũng biết nếu nói nửa chỉ làm tổn thương cho người đàn bà bên trong kia. Cậu Ba nhất định nhờ vị Lục Cả trong chùa giúp đở...
Buổi bình minh kéo dài, những người dân trong sóc bắt đầu ra đồng, họ đi ngang qua nhà Chú Út đều chào hỏi chú, nhưng khổ cho Nhàn không biết họ là ai tên gì, chỉ mỉm cười xã giao với họ, ngay cả những câu thổ ngữ cô cũng chẳng biết họ nói với xác Thầy Út cái gì?
Cô mặc kệ bây giờ cô đã có thân xác, có cuộc sống mới trời cho cô thì phải sống, chứ nghĩ ngợi đối phó làm gì cho mệt.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đã tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1199 of 1439: Đã gửi: 25 June 2010 lúc 9:28pm | Đã lưu IP
|
|
|
THAY HỒN ĐỔI XÁC
PHẦN MƯỜI
Cậu Ba Hơn đứng lên bước sang chùa của các vị Lục Thum cách đó không xa, nhìn mái chùa cong vươn những đỉnh tháp nhọn uy nghi lên bầu trời trong xanh, không gợn một chút mây như một thế giới diệu mầu an lạc.
Tiếng chuông chùa khoan thai điểm từng âm thanh thánh thoát hòa lẫn với tiếng đọc kinh buổi sáng làm Cậu Ba thấy trong lòng như nhẹ hẳn những lo âu, nổi vất vả bất hạnh mà cậu đang gánh chịu.
Cậu Ba quỳ trước chánh điện tâm thành cầu nguyện đức Phật Tổ gia hộ cho Tía con của Cậu thoát mọi oan nghiệp, Cậu nguyện sẽ xuất gia tu hành để giải thoát nợ trần.
Một vị Lục già bước đến bên Cậu vái chào, cậu đáp lễ và chấp hai tay thưa cùng sư tất cả mọi sự thật của Nhàn (Thầy Út). Vị Lục Cả mời cậu vào khách đường phía sau hậu điện. Sau khi nhấp một ngụm nước trà Cậu Ba bắt đầu kể cho Vị Lục Cả nghe rồi ông kết luận:
- Thưa Lục, tuy rằng bây giờ con rất mừng vui khi có lại đứa con đã mất! Nhưng điều này làm cho con và Nhàn khó xử, vì nó đảo lộn tâm hồn ý thức giới tính của Nhàn trong thân xác của Thầy Út, chính chổ này làm khổ cho vợ Thầy Út, con thấy khó xử quá nhờ Lục giúp chúng con giải thoát mọi oan nghiệp này.
Vị Lục Cả lặng yên nghe câu chuyện ông đằng hắng giọng nói nhỏ nhẹ:
- Thí chủ hảy bình tâm, tui đã biết từ lúc hôm kia khi hai người về đến, đây là một chuyện hiếm thấy trong cõi trần tục này, nhưng không phải là không có, tui sẽ giúp cho các người, bây giờ ông về bên nhà gọi hai vợ chồng họ cùng qua đây.
Cậu Ba Hơn dạ nhỏ rồi đứng lên về bên nhà Thầy Út, gọi vợ chồng họ sang chùa gặp vị Lục Cả. Sau khi vái chào vị Lục Cả, họ được mời ngồi, bấy giờ Lục cả mới nói với hai vợ chồng Thầy Út:
- Tui mời hai vị qua đây để hỏi hai người muốn giải thoát oan nghiệp này không?
Thím Út ngơ ngác không hiểu gì còn Thầy Út nhanh miệng trả lời:
- Thưa Lục Thum con muốn lắm, e Chị Út không đồng tình lại hiểu lầm chỉ tự vận làm thiệt thân, thì con mang tội. Xin Lục Thum có cách nào hay giải quyết cho được vẹn toàn con xin đội ơn Lục Thum.
Vị sư già quay sang Thím Út ôn tồn nói:
- Thím Út có nghe những lời của Cô Nhàn nói không? Linh hồn ở bên trong thân xác của chồng Thím là một người đàn bà chứ không là Thầy Út đâu! Vong linh của Thầy đã tán vào hư không rồi, vì không còn đủ hồn vía nên khi nhập vào thân xác củ không được.
Khi hồn nhập vào thân xác của Thầy Út hôm qua không còn nhớ gì, cũng không trụ được lâu, nên bị gió âm giới cuốn hút đi, tui phải nhờ các vị Phật Hộ pháp nắm bắt lấy linh hồn của Thầy Út, mà giử ở ngọn đèn dưới bàn phật kia, để tụng kinh siêu độ cho Thầy Út.
Thím Út bây giờ đã hiểu dần câu chuyện dị kỳ "Thay hồn đổi xác" của hai người, hai giới tính khác biệt, thím nghĩ hèn gì Thầy Út không chịu nhìn vợ chồng cùng với Thím:
- Con cúi xin Lục cả rộng lòng từ bi gíup cho vợ chồng con xum họp, con xin đội ơn Lục Thum suốt đời?
- Thím út, không phải mình muốn mà được, nếu có thể được như thế, thì đâu cần tui phải nói với thím những lời giải thích, cốt ý cho thím biết những gì thuộc về thím và còn phần nào thuộc về tâm linh của Cô Nhàn.
Đừng bi quan, đừng quá vị kỷ làm thiệt thân mình mà hại người khác. Phật dạy:
- Làm người hảy mở rộng lòng mình thông cảm yêu thương với mọi người thì tất nhiên mình cũng sẽ có hạnh phúc.
Ông ngừng giây lát rồi nói tiếp:
- Tuy hiện tại Cô Nhàn trong thân xác Thầy Út, tuy một mà hai. Một là hồn người Nữ, hai là thân xác Thầy Út tuy sống như thế nhưng nếu không có hồn cô Nhàn, thì thân xác này bị điên dại không ý thức.
Hồn cô Nhàn không có xác của Thầy Út, thì chỉ làm cô hồn ngạ quỷ lang thang trong âm giới, chờ đến ngày hồn phách huỷ hoại. Nay ý trời đã cho Cô Nhàn thân xác của Thầy Út, vậy thì các người hảy vì chút tình lẫn nhau, cư xử cho tốt đẹp không nên phụ nhau.
nói xong vị Lục Cả đứng lên kêu Thầy Út ra trước dặn nhỏ vài lời, Sư đưa một dây Cà Tha choàng vào cổ Thầy Út dặn:
- Khoảng ba năm sau, đến một ngày nào đó, Cô thấy trong người quay cuồng muốn bay lên, thì vuốt vào dây Cà tha đọc câu chú như thế này..thế này..
Thầy Út hỏi:
- Thưa sư vì sao lại có trường hợp như vậy?
- Đó là vì sắp hết duyên nghiệp nên mới có hiện tượng thoát xác, sau khi đọc chú xong thì Cô dần dần sẽ bình yên trở lại, Cô có duyên nghiệp ba năm thôi! Phải lo mọi sự gia đình hoàn tất, rồi chờ ngày thoát xác, thôi tui có bấy nhiêu lời căn dặn Cô hảy đi đi.
Nói xong vị Lục Cã bỏ vào hậu liêu. Thầy Út dạ nhỏ rồi cùng Thím Út và Cậu Ba về nhà. Trên đường về ba người theo đuổi mỗi ý nghĩ khác nhau, Thầy Út lên tiếng hỏi Câu ba:
- Tía à ! Ba năm nửa thôi mọi chuyện sẽ chấm dứt, con cũng được gần Tía một thời gian này để báo hiếu rồi.
- Tía cũng không cần con báo hiếu, miễn con sống hạnh phúc là Tía vui lòng rồi, thôi con ở lại đây sống cho tốt Tía về bển thỉnh thoảng Tía qua ghé thăm hai người.
Về đến nhà Nhàn kéo thím Ut vào buồng nói nho nhỏ:
- Chị Út, Anh chị là ân nhân của Tía con tui, trước khi đi, tui xin chị tha thứ cho tui đi để tui về gần bên Tía chăm sóc báo hiếu ổng trong lúc tuổi già.
Thím Út buồn bả nghẹn ngào nói qua nước mắt:
-Hai người đi đi tui bây giờ khổ quá. Chồng thì còn sờ sờ đó mà xa lạ như chưa từng quen biết, lại phải chia ly, con tui còn nhỏ dại có cha mà như không, biểu tui ăn nói làm sao với họ hàng đây.
Cậu Ba từ nảy giờ ở ngoài buồng nghe lén hết câu chuyện của hai người, thì cậu lên tiếng lớn cố ý cho hai người nghe:
- Thầy Út không cần theo tui về bển, hay là các người không chê tui là người già cả, thì tui xin ở lại đây sống với con cháu cho vui.
Hai vợ chồng Thầy Út nghe nói thảy đều vui vẻ, hai người bước ra ngoài. Thím Út sụp lạy Cậu Ba gọi bằng Tía hai, giọt nước mắt mừng rở chảy dài trên má:
- Con xin Tía thương tụi con nếu không có ảnh thì con chắc chết mất.
- Thôi Thím...À con đứng lên, bây thiệt là trẻ con, hở một chút là khóc.
Thím Út nói:
- Mình với tui đi chợ hôm nay đải Tía một bửa ăn cho thịnh soạn.
Không đợi Thầy Út trả lời Thím nắm lấy tay Thầy kéo đi với nụ cười rạng rở trên môi như thời con gái mới lớn.
Ngoài kia vạt nắng ban mai trải vàng óng ả trên khúc sông êm đềm, cái yên bình của nó hàm chứa đựng mọi sự kiện của dân làng trong Sóc, là chứng nhân thời gian của những thế hệ nối tiếp nơi đây.
DAOKY
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đã tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1200 of 1439: Đã gửi: 26 June 2010 lúc 2:04am | Đã lưu IP
|
|
|
CHIẾC THUYỀN MA
Vào một buổi chiều trung tuần tháng giêng, chàng trai ấy lang thang trong những ngõ hẻm làng. Chàng đi không mục đích, hồn lặng thấm cái êm ả lắng tự vòm trời trắng hơi biêng biếc như dát bạc, cái em ả của cuối ngày thôn dã.
Chàng đi và nghĩ đến trăm điều vu vơ, nhưng ý nghĩ thaóng qua trong trí rồi vỗ cánh bay đi, như những con bướm đa tình vội hôn đóa hoa này để đến với hoa kia.
Chàng đi lơ dãng, đến nỗi sương tỏa xuống mù trời từ bao giờ mà chàng không biết.
Sương bạc đã tỏa rất nhanh, một cách bất ngờ. Thấy ẩm lạnh trên đầu và có hơi nước đọng trên mi, chàng mới ngơ ngác nhìn lên.
Cảnh vật, như dưới một đũa tiên màu nhiệm, đã tan biến trong giây phút, chỉ còn trơ lại quanh mình những nét thâm thâm của vài nhánh cây khẳng khiu và những vuông xám mờ của các túp lều tranh.
Những bụi xương rồng và giâm bụt chạy hai bên đường đẫm sương, óng ánh, xanh tươi lại. Vài mạng nhện mắc giữa hai cành yếu, trắng toát như dệt bằng những sợi tơ bạc li ti.
Trời không lạnh lắm, nhưng hơ sương ngấm ào mình, chàng trai lẳng lặng trong tâm hồn buồn, cái buồn tê tái và mang mang, cái buồn ôm trùm, như kết bằng những sầu thảm nào mơ hồ đã xa xôi lắm, tưởng tượng hay là thực, chàng cũng không biết nữa.
Những ẩm đọng trên mi, chàng tưởng chừng nước mắt rưng rưngChàng đi lang thang, mặc hồn lang thang... Sương bay từng luồn, hạt sương bám khẽ vào da mặt như một làn phấn bụi. Những tiếng người trao đổi trong sương, như gần như xa, lãng đãng.
Ngoài sông mờ, bóng một chiếc thuyền chài sửa soạn ra khơi. Chàng rẽ vào nhà một ông bạn già. Chàng thấy lão đang ngồi xổm đan lưới, hai chân co trước ngực, mình quàng trong một manh chiếu vuông buộc túm một đầu để khoanh lấy cổ, thứ áo tơi và áo rét của dân chài.
Chàng chào, và lão Nhiệm Bình với dáng điệu giản dị của những người chất phác, vỗ vai người bạn nhỏ, bảo ngồi trên phản. Chàng hỏi:
- Cố không đi biển à?
- Không, chú ạ. Già rồi, không năng đi được nữa.
- Cố kể chuyện đi biển nghe đi?
Chàng nói thế bằng cái giọng nũng nịu của đứa cháu vòi bà. Chàng thường đến đánh bạn với lão chài, và ông lão, đối với chàng trai mới lớn, có một tình yêu thương che chở, tốt quá mức đến cưng chiều, như tình thương yêu mà tất cả những người già đùm bọc trẻ con. Lão cười đáp:
- Còn chuyện gì mà kể nữa! Chú nghe hết cả chuyện tôi rồi.
- Không... Cố phải kể đi... À, cố kể chuyện ma đi. Cố đi chài có bao giờ gặp ma không?
Lão Nhiệm Bình có một nụ cười hồn hậu nhuốm vẻ độ lượng của kẻ không biết từ chối bao giờ:
- Chuyện ma à? Tôi cũng ít khi thấy ma lắm... Có vài lần neo thuyền ngoài khơi, tôi ngồi câu đêm, thấy giằng mạnh ở câu, vội kéo lên. Ái chà sao nặng khiếp. Mà lạ, chỉ thấy nặng thôi, như có tảng đá trì giữ lại, chứ không thấy giật giật vùng vẫy như con cá to.
Tôi nghĩ thầm: khéo lại cái “nố ta” rồi, hắn muốn trêu mình đây. Quả nhiên! Tôi vừa kéo câu lên khỏi mặt nước, thấy hắn xóa một cái, xanh lè cả nước biển, mình hết hồn. Nhìn lưỡi câu, con mực mồi vẫn còn nguyên vẹn. Ðó, tôi chỉ gặp vài lần như vậy thôi.
Ðêm khuya lạnh lẽo vắng vẻ, chắc cậu buồn tình, bày chuyện phá mình tí cho vui. Có người họ kể, đêm ở ngoài khơi, trời êm biển lặng, mọi người đang neo ngủ, thấy các chú bơi lù lù rồi trèo lên ngồi dăng dăng hai bên mạn thuyền.
Họ nói:
- Thôi mà, anh em mình cả, trêu nhau làm gì?
Thế là cả bọn nhảy ùm xuống bơi đi. Mồ ma ông cụ Bỉnh khi xưa, dạn khiếp. Nửa đêm ông ta đi lưới về, qua dưới cây đa trước miếu, một bầy hắn bíu lấy tay. Không thấy người đâu nhưng nghe tiếng hắn léo nhéo xin cá.
Ông ta đáp:
- Chào xin với xỏ, được mấy con cá về cho vợ con đây!
Thấy nhẹ trong rổ, sờ vô thì cá đã biến mất. Ông ta nạt:
- Ðồ quỷ, cứ nghịch thôi!
Thế là tiếng cười bật lên ríu rít, lát sau lại thấy nặng rổ.
Lão chài kể như vậy, giọng bình thường như nói chuyện người dương gian, tay vẫn thoăn thoắt đưa que đan qua đan mắt lưới. Chàng trai khẽ rùng mình thích thú. Chàng vốn không tin ma quỷ. Chắc chắn đó chỉ là điều huyễn tưởng, nảy sinh từ một khung cảnh, một tâm trạng nào đó; nhưng có thể nào không tin ở cái giọng kể từ tốn hiền hoà của ông lão!
Trong ý nghĩ lão chài, chàng đoán, âm dương không phân ranh giới rõ ràng, cõi sống, cõi chết nương nhau vấn vít. Mấy chú ma, hồn của những người dân chài đã bỏ mình trong bão tố, trở về ngồi lặng lẽ trên mạn thuyền, chắc hẳn chỉ để tìm lại chút hơi ấm cuộc đời, vì cảm thấy lòng biển quá mênh mông lạnh lẽo.
Tuy đã tìm thấy cái chết trong tai ương bi thảm dữ dội, không phải bao giờ hồn họ cũng giận dữ oán hờn; họ còn biết nghịch ngợm trêu đùa người sống. Và chàng trai tưởng nghe, vẳng từ sương mù dày đặc, tiếng cười dòn ríu rít của những cái bóng vô hình, cạnh cây đa già miếu cổ..
- Có bao giờ người ta thấy một cái thuyền ma, hay cả một đoàn thuyền ma không cố? Chàng trai hỏi.
- Thuyền ma à?.. À.. có một lần, đã lâu lắm, chính mắt tôi thấy. Hồi ấy tôi còn trẻ lắm, tôi còn đi trai dưới thuyền mồ ma ông Phó Nhụy... Ờ, cũng trời sương mù mịt như thế này, thuyền thì vừa tháo tố (tránh bão) xong, thoát nạn chết này lại đâm liền vô nạn chết khác.
Bữa đó thuyền ra lạch..Sáng hôm ấy, một buổi sáng trời quang mây tạnh. Bình minh chiếu những tia nắng vàng chói trên những dãi mây trắng bông thoáng nhẹ. Các bác chài tay đẩy chèo theo nhịp đều đặn, ngước nhìn trời, lòng không vướng bận ưu phiền, không lo lắng.
Nhưng khi thuyền đi ngang qua nha Thương chính, một chiếc xuồng do hai đứa con nít chèo bỗng lướt ngang trước mũi. Mọi người chưởi rủa chúng ầm ĩ, vì dân chài rất kiêng kỵ bị “ngáng đường” như thế, và ông lái hơi nhăn mặt.
Ra khỏi lạch, thuyền kéo buồm bắt cơn gió Tây Nam chạy thẳng ra khơi. Chiếc thuyền, dáng hơn nặng nề, lừ lừ tiến về phía trước. Khi một ngọn sóng kéo đến, nó chồm dậy rồi đâm chúi xuống, làm tung tóe một làn nước bạc trắng xóa.
Càng xa bờ, sóng càng bớt mạnh, chỉ còn là những cái dợn sóng nhỏ nhoi nhấp nhô trên mặt nước. Gió lên lồng lồng, thuyền chạy phăng phăng, để lại sau một vạch phẳng lì, vì nước đã bị khối nặng của thuyền dàn ra.
Nhưng chẳng bao lâu, những làn sóng lô nhô hai bên mép tiến vào và xóa sạch mất. Càng xa bờ, gió càng mạnh, như dậy từ bốn phương của khoảng không rộng mênh mông. Nắng vàng gay gắt thêm. Khi mặt trời đứng bóng, nước biển ngã sang màu lục.
Ông Phó Nhụy, nhà nghề và chạy lái, ra lệnh bỏ neo. Ðoạn người ta nới dây leo cho thuyền trôi tới gần chỗ đã thả bóng ngày hôm trước. Bóng là một cái lồng tròn lớn được đan thưa thớt, thả lưng chừng nước, ở bên trong lót lá tre làm chỗ êm mát rủ cá lội vào.
Cạnh bóng người ta còn cột vài ba cây gầy, một loại tre vầu. Cá tìm thấy ở đó có một nơi nghỉ ngơi, nên tới ẩn núp xung quanh, có khi từng đàn lớn. Hai bác chài, lặng lẽ và nhanh nhẹn, ngồi đầu mũi thả lưới, trong khi thuyền vẫn dướn mái chèo tiến tới.
Sau một lát chờ đợi, thuyền lùi lại, và hai bác có thêm người trợ lực kéo dần lưới lên. Những con cá mắc đầu vào lưới, cựa quậy đành đạch làm lóe những ánh bạc biên biếc. Và con cá nhỏ nhảy lanh tanh trong đám rong rêu lẫn những hạt tròn nhớt và trong mà người ta gọi là trứng nước.
Bình, hồi ấy còn là một chú trai quèn, túm từng manh lưới hất mạnh cho cá bật vào rổ rồi đổ dần cá xuống khoang. Từ khoang bốc lên một mùi tanh mặn và man mác mùi của biển cả. Những con cá trích, cá đốm cá thu, cá hồng mắt mở trân trân, há miệng một cách tuyệt vọng cố hớp không khí. Thuyền nặng dần, đè ép sức lắc nhồi của sóng.
Chú trai đã đi thổi cơm. Xế trưa, thuyền nghỉ để dùng bữa. Trên mâm cỗ chỉ vỏn vẹn hai bát cá đầy và một bát muối cạnh mâm, một rá cơm và một sanh canh cá. Cơm xới trong bát đầy có ngọn, các bác chài thường ăn rất nhanh như chèo đưa cho chóng xong bữa.
Chợt một bác kêu lên:
- Nhìn kìa!
Và chỉ ra phía bên trái, chỗ mặt nước lăn tăn báo cho đàn cá đi qua. Mọi người vội vàng bỏ đũa, kẻ chạy đến chèo, kẻ chạy đến lưới. Họ mải mê trong công việc, trong khi trời ngả về chiều. Mặt trời lúc nào cũng còn ba con sào, bỗng khuất sau đám mây. Bác Hoe Trăn nhìn lên mà kêu:
- Coi kìa! Trời đổ ráng ngoài!
Mọi người nhìn theo, lo ngại. Ông nhà nghề, hơi rụt đầu trong cổ quay ngó xung quanh, cũng kêu theo:
- Sắp có bão đến nơi.
Họ vừa nhận thấy điềm báo không thể nhầm lẫn. Trời đã đột ngột kéo mây đen ngòm cả bốn phía. Ông nhà nghề ra lệnh:
- Kéo lưới lên. Giương buồm!
Chân người chạy trên sạp rầm rập. Các bác chài co chân đu mình trên dây để kéo buồm, miệng “dô hò” lấy nhịp.. Gió từ bờ thổi ra, thuyền cố vát.
Sóng vùng lên, cuốn réo, đuổi dồn nhau, va vào nhau tung tóe bọt. Con thuyền trào lên ngụp xuống, buồm không ăn gió, xương buồm đánh cành cạch lên cột, có khi cọ vào gỗ rít nghe ghê tai, con thuyền cứ bị sóng đánh trôi lùi ra khơi.
Nhìn vào bờ để lấy hướng, ông Phó Nhụy kêu:
- Mưa đến rồi!
Phía bờ đã mờ mịt sau màn mưa trắng bệch, mặt sóng trong kia thâm sẫm lại. Mưa tiến ra khơi rất nhanh phát thành từng tiếng ào ào. Chưa đầy một giây sau, các bác chài đã ngồi co mành trong tơi chiếu và vuốt mặt không kịp.
Một bác trong đám bảo:
- Bỏ neo thôi, không lại bạt mãi ra ngoài khơi đông xích đế cho mà coi.
Neo buông xuống nước. Trong khi dây neo tụt xuống vùn vụt, thuyền trôi lùi về phía sau, đoạn dây nẩy mình, chúi hẳn mũi: dây đã tháo hết. Người ta hạ buồm. Nhưng từ đó, thuyền cứ hục hặc với dây neo như một con trâu dữ bị buộc.
Sóng đánh như tát vào con thuyền nhỏ cứ trồi lên rồi hụp xuống, nước bắn tung tóe ra tận đến sau lái. Nhưng rồi chiếc thuyền rất khỏe, lại hếch cái mũi ướt sướt mướt chờ mảng nước khác. Ông nhà nghề nhảy tới ngồi phục ở mũi thuyền, tay lăm lăm cầm con dao rựa. Những giọt nước lớn ném vào mặt ông như vốc đá cuội, khiến rát bỏng cả da.
Một lần, thuyền tì lại nặng quá. Nước thốc từng mảnh lớn, thuyền dốc đứng tưởng như thế sẽ đâm thẳng xuống đáy sâu như một cái dùi. Các bác chài, miệng há ngờm nhợp vì bị nước đánh đến tối tăm mặt mũi. Không trì hoãn được nữa! Một tay bám cọc chèo lấy thế, ông vội giơ cao con dao rựa, phăm phăm bổ xuống. Dây neo đứt phựt.
Con thuyền hết ràng buộc quay mình trôi phăng phăng. Các bác chài vội nhảy đến đầu mũi giúp sức ông nhà nghề hất xuống nước cái neo sắt còn lại, mà ông này vừa chặt cánh gỗ đi. Không còn cánh, mỏ neo không cắm, nằm bẹt trượt trên nền đáy biển như một hòn sắt nặng. Như thế thuyền không bị giằng lại, mà chỉ trôi từ từ, kéo cái neo sắt rê trên đáy cát.
Nhưng gió vun vút lên mãi, mưa bay ngang chích vào mặt dày đặc thêm, sóng giận dữ gầm réo, trồi lên như núi. Mặt người nào người nấy tái mét; tuy có tơi che, quần áo họ cũng ướt mèm dính vào da, và vải đã bở sẵn, khi thấm nước rách toạc nhiều nơi.
Chú trai, lúc nãy bị sóng đánh lăn xuống khoang, ở luôn dưới đó tát nước, tay lia lịa đưa cái mu sam. Hai bác chài tới giúp sức, chuyền cho nhau những thùng nước đầy để trút ra ngoài. Thuyền giằm ít nhồi nước nhưng sóng dễ tràn lên, nước trong khoang nhiều đến nỗi cá nổi lềnh bềnh.
Theo lệnh ông lái người ta xúc cá đổ bớt ra ngoài, cũng vì vậy mà thuyền nhẹ bớt, nhưng vì thế lại làm mồi cho gió, trôi phăng phăng. Người ta bèn xở buồm, buộc dây vào bốn góc, rồi thả xuống biển. Gặp nước, buồm mở tung như một chiếc diều mà đầu lèo đã cột vào mũi thuyền. Nước cản tấm buồm rộng căng, làm cho thuyền bớt trôi.
Ðoạn mọi người lại ngồi im lặng, co ro, cho mưa dội, sóng nhồi, gió táp. Màn mưa xám càng lúc càng sẫm thêm, rồi bóng tối ăn loang khắp không gian. Ông nhà nghề bảo:
- Anh em ai có đói, bốc nhúm gạo mà nhai.
Nhưng không ai trả lời. Họ ngồi thu mình, run run trong cái lạnh của nước ngấm vào da thịt. Chừng quá nửa đêm, họ chỉ đoán vậy, vì không còn một ý niệm nào về thời gian, sóng bớt gầm réo và bớt nhồi lắc, gió hạ dần nhưng mưa vẫn rơi liên miên.
Con thuyền mệt nhọc xàng đưa lừ đừ. Và khi một ánh trắng xám ló nơi chân trời, thì biển đã lặng hẳn. Các bác chài, tai còn đầy cái huyên náo hồi đêm, nghe trong đó ù ù như điếc. Họ không còn đủ sức để tỏ niềm vui mừng; một cảm giác mỏi mệt và co rút hầu như làm tê liệt các bắt thịt.
Màu trắng sữa liếm dần bóng tối của vòm trời, và mưa đã ngớt hẳn. Nhưng trên mặt biển, ùn ùn từ đâu đến, dân chài bảo từ Thủy thủ đùn lên, một đám sương mù dày đặc, mang vị mặn và hơi lạnh thấm thía. Người ta kéo neo sắt lên, đẽo cánh mới lắp vào rồi neo thuyền cho đứng yên.
Mỗi người góp một câu để đoán vị trí của thuyền. Họ chắc ở ngang Thanh Hóa, vì trong cơn bão gió chướng thổi từ phía tây nam. Nhưng còn cách bờ bao xa thì không ai đoán được. Một bác cài đo được hơn năm mươi sải nước và cho biết là đã bị quạt ra ngoài khơi xa lắm.
Ðột nhiên, không ai bảo ai, tất cả đều im lặng: họ vừa ngửi thấy một mùi kỳ dị, một mùi nhạt và ẩm ướt, tanh lợm như mùi rong rêu. Rồi một bóng đen hiện trong sương mù, phía trước mặt; một người đoán:
- Chết, mình trôi đến cồn đá.
Một người khác đáp:
- Nếu là cái cồn đá thì biết liền chú. Ðó là cái thuyền, nhìn kỹ mà coi.
Quả nhiên trong sương bóng đen rõ dần thành một chiếc thuyền, trên đó lố nhố những bóng người chèo. Họ chèo lặng lẽ dị thường, tưởng như thuyền đang lướt trên sóng. Một bác chài bắt loa miệng gọi hỏi:
- Ai đó?
Thuyền bên kia có tiếng đáp:
- Thuyền Xin Kính đây. Có phải thuyền ông Phó Nhụy đó không?
Ông Phó Nhụy hỏi bạn chài:
- Tiếng ai nhỉ? Nghe giọng lạ quá. Mà sao họ biết thuyền mình?
Nói xong, ông Phó Nhụy lại cất tiếng hỏi:
- Tôi Phó Nhụy đây. Thuyền bên ấy cũng vừa gặp bão phải không?
Thuyền bên kia đáp:
- Ngang Cương Gián. Giờ phải đi xế lên mà vô lạch.
Trên thuyền ông Phó Nhụy, người bàn cãi lao xao. Gió thổi từ phía nam, sao thuyền lại dạt xuống ngang Hà Tĩnh được? Ông Phó Nhụy lại hỏi to:
- Sao bên ấy biết?
Bên kia có một câu trả lời kỳ quặc và bí mật:
- Sao lại không biết. A kìa, gió vừa thổi đó, ta bắt ngọn gió này mau mà lên lạch.
Trong nháy mắt, đã thấy thuyền bên kia giương buồm, chẳng hiểu sao họ làm nhanh quá chừng và lại không nghe thấy một tiếng động nào. Ông Phó Nhụy trong bụng phân vân, sai kéo buồm chạy theo. Trong lúc tâm trạng đang bơ vơ và còn in dấu vết sự hãi hùng, người ta không muốn rời bỏ bạn đồng hành đã gặp tình cờ.
Gió quá nhẹ, buồm không ăn gió đập phần phật. Sương hạt từng luồng như một cơn mưa trắng. Thuyền đi trước cũng chỉ trông thấy dáng mờ mờ ảo ảo như trong giấc mơ. Chợt chú trai kêu:
- Có ai như người trôi kìa.
Một bác dùng sào khều cái vật trôi lềnh bềnh đen thui và nói:
- Ðúng thật là người rồi.
Họ cúi xuống vớt người kia lên. Tay anh ta co quắp còn cắp chặt trong nách một cái chèo ngắn; mặt anh ta tái nhợt, mắt nhắm nghiền, hai hàm răng cắn chặt. Một người bảo:
- Hà hơi, hà hơi, hô hấp đi, hình như còn thoi thóp.
Từ trên thuyền Xin Kính bên kia, có người hỏi:
- Vớt được ai đó.
Mọi người cúi xuống nhìn kỹ mặt người bị nạn, nhưng không nhận ra ai, mặt anh ta co rút nhăn nhúm đến nỗi đã méo lệch hẳn đi. Chú trai góp ý:
- Hình như giống anh Hoe Chước.
Ông Phó Nhụy nói to sang thuyền kia:
- Hoe Chước!
Nhưng ông lại chợt nhớ ra. Sao thế được nhỉ? Hoe Chước đi bạn trên thuyền ông Xin Kính kia mà? Ông hỏi to:
- Có Hoe Chước bên ấy không?
Thuyền bên kia im lặng một cách kỳ lạ. Chú trai, thính tai nhất trong đám, nghe như bên kia đang bàn cãi gì láo nháo. Chú bỗng kêu lên:
- Ơ kìa, đâu mất rồi.
Thuyền ông Xin Kính vừa biến mất như vụt chìm xuống đáy biển. Cả con thuyền lẫn buồm đều biến đâu mất chỉ để lại một khoảng trống không trắng toát, khoảng trắng ấy nhòa dần vào màn sương phơn phớt xám. Trên thuyền ông Phó Nhụy, mọi người đều câm lặng, tim bóp chặt trong một nỗi lo âu ghê rợn, mở to mắt nhìn trân trân.
Chú trai lúc đó lại kêu:
- Có tiếng gì om om lạ gớm?
Cùng một lúc, tất cả ai nấy đều nhận ra quả có tiếng sóng đánh phòm phọp âm âm như vỗ vào hang hốc. Ngay trước mặt, một khối to đen đồ sộ vụt xuất hiện, chỉ cách thuyền vài chục thước. Tức thời, ông lái nhảy bổ tới, túm lấy lèo, giằng riết.
Chiếc thuyền quạt mũi về bên trái, ngừng một chút rồi tiến theo ngã mới. Các bác chài vội vàng kéo đi tra chèo, ráng sức chèo tới. Cái khối đen mờ dần trong sương, rồi biến đi. Ông Phó Nhụy thở phào nhẹ nhõm: thuyền ông vừa suýt đâm phải núi đá.
Khi thuyền ông Phó Nhụy, sau một buổi chạy vờ vật ngoài khơi, lần về tới lạch, thì anh Hoe Chước hơi tỉnh. Anh kể lại rằng trong cơn bão, thuyền ông Xin Kính bị sóng đánh dạt vào núi đá vỡ tan tành, và có lẽ chỉ một mình anh là còn sống sót.
Anh đã vớ phải cây chèo rồi nhảy xuống biển trước khi thuyền đụng vào núi đá. Những người kia, sau đó, nếu có nhảy khỏi thuyền cũng đã muộn, vì bị sóng quật vào lên đá cũng rã xương. Vợ của những người trên thuyền ông Xin Kính nay vẫn sống trong cảnh góa bụa. Và cái hy vọng mong manh một ngày trở về của chồng mình nay cũng đã tắt trong họ từ lâu.
NKD
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|