Tác giả |
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1201 of 1439: Đă gửi: 29 June 2010 lúc 6:26am | Đă lưu IP
|
|
|
NHÀ CÓ MA
Tôi thú thật đây là lần đầu tiên tôi sợ hăi và hồi hộp trong đời. Từ nhỏ đến lớn, tôi đi chùa, tụng kinh, tŕ chú, nhưng chưa bao giờ có cảm giác rằng những chuyện ma trong dân gian người ta kể có thật.
Hiện tại tôi và chồng tôi đang ở trong một căn nhà có quỷ. Cách đây bốn tháng, mẹ tôi v́ giận hai chị lớn của tôi căi nhau và không ở chung với nhau được, nhất định mua một căn nhà mới cho chị hai tôi, dọn ra và không ở với chị ba tôi nữa. Tôi cản hoài, mẹ tôi không chịu nghe.
Khi mẹ tôi mua rồi mới nói với tôi đến coi. V́ bận rộn làm ăn, tôi không có đến coi. Sau một tuần mẹ tôi lấy nhà, tôi đến coi và thấy có vẽ thích lầu hai của căn nhà, tại v́ nhà ở đường lớn cách văn pḥng luật pháp của vợ chồng tôi nửa block. Nhà lớn quá, mẹ tôi bảo chị hai tôi ở không đủ, bà ta muốn vợ chồng son tôi về ở giúp đở tiền mortgage cho má tôi.
Tôi thấy căn nhà ở lầu hai hơi cũ, nhưng rộng, đ̣i lấy làm văn pḥng, v́ cửa cái đi thẳng lên lầu. Nhân dịp vợ chồng tôi làm văn pḥng luật di trú khấm khá, năm ngoái giúp được nhiều người đoàn tụ gia đ́nh, mới mướn thêm nhân viên, cần nhiều pḥng ốc hơn để làm văn pḥng, và cũng đang kiếm chổ mới dời văn pḥng, tôi đồng ư với mẹ tôi dọn văn pḥng về nhà mới.
Hai tuần sau khi lấy nhà, tôi và chồng tôi cùng về quét dọn và sửa chửa lại nhà. Chồng tôi người tây trắng, anh ta rất thích tự ḿnh trang trí, quét vôi kiểu mới, làm sàn mới và treo tranh ảnh thật đẹp.
Trong lúc dọn dẹp, anh rễ tôi th́ dọn dẹp ở dưới, c̣n vợ chồng tôi th́ sửa sang ở trên lầu, chị tôi vô t́nh giận bâng quơ và quyết định không dọn vào nhà ở nữa. Chị hai tôi tự nhiên quay lại làm huề với chị ba tôi và đ̣i ở chung lại.
Tôi thật không hiểu tại sao như vậy và lấy làm lạ lắm. Mẹ tôi buồn lắm và than thở rằng, mua nhà chỉ để con ở mà bây giờ nhà trống, mẹ tôi không đủ tiền trả mortgage.
Vợ chồng tôi thấy mẹ tôi buồn, chồng tôi nhủ rằng thôi ḿnh mướn hết căn nhà đi, lầu hai làm văn pḥng và tầng trệt ở. V́ nhà tôi xa phố, nên tôi đồng ư v́ cứ đi xe gần hai tiếng đi làm cũng mệt. Mẹ tôi rất mừng. Sau gần một tháng sửa sang. Vợ chồng chúng tôi dọn vào nhà mới vào ngày 22 tháng bảy 2005.
Lầu hai dùng làm văn pḥng được trang trí rất đẹp và ấm cúng. Mấy người làm trong văn pḥng điều vui. Nhưng không hiểu tại sau, mặc dù chồng tôi là người rất thích trang trí, mà anh ta chưa hề đề cập đến ư tưởng trang trí tầng trệt, nơi chúng tôi ở.
Chúng tôi về không lâu th́ mẹ tôi cho một anh Ân Độ trẻ sinh viên, mướn cái basement dưới nhà. Anh ta rất vui vẻ và hay lên chơi với vợ chồng tôi.
Sau khi dọn về gần một tháng, th́ văn pḥng đâu vô đó. Chúng tôi ở tầng trệt dưới lầu. Lầu hai th́ ấm cúng bao nhiêu th́ tầng trệt kỳ cục bấy nhiêu.
Khi vừa bước vô nhà, cửa trước mở vào một hành lang xông thẳng lên lầu, giửa hành lang đó trước khi lên lầu, th́ có cửa hông mở vào pḥng khách ở dưới nhà.
Giửa pḥng khách và pḥng ăn (nhà bếp), th́ có cái bức tường kỳ quặc vô duyên chắn ngay đó, làm chắn lại ánh sáng cửa sổ từ pḥng khách không vô được. Sau pḥng ăn, th́ có hai pḥng ngủ. Kế pḥng ăn th́ có cái washroom đặt rất vô duyên giửa nhà bếp và pḥng khách.
Mặc dù nhà hướng về hướng đông, mỗi sáng pḥng khách rất sáng, nhưng nhà sau th́ tối u trệ, không có ánh sáng ở nhà bếp và pḥng ngủ thứ nhất sau nhà bếp. Mặc dù mỗi pḥng điều có cửa sổ lớn, nhưng trong nhà lại ngột ngạt lạ kỳ.
Sau hai tuần dọn vào nhà mới th́ vợ chồng tôi tự nhiên hay đâm ra căi vă về chuyện bâng quơ. Văn pḥng th́ làm ăn vẫn suôn sẽ, nhưng tối ngủ th́ chúng tôi cảm thấy nghẹt thở và không ngủ ngon.
Rồi th́ tôi liên tiếp nằm thấy ác mộng. Có một đêm tôi làm việc mệt quá, ngủ đi rồi lại thức dậy cải vă và mắng chửi chồng tôi thậm tệ, thậm chí đánh đấm và cắn anh ta.
Sáng hôm sau tôi thấy vai chồng tôi bị bầm tôi hỏi, th́ chồng tôi ngạc nghiên bảo rằng, tối qua tôi mới cắn anh ta mà? Vợ chồng tôi sống lâu với nhau, chưa từng có nói nặng với nhau, mà nay sinh ra thế này khiến tôi phát sợ.
Chồng tôi lâu nay rất hiền lành vui vẻ, bổng nhiên sinh ra buồn rầu và ủ rủ. Chúng tôi bổng sinh nghi là trong nhà có ma. Lâu lâu, chồng tôi lại ngửi thấy mùi lạ như củi đốt, mùi hương.. c̣n tôi th́ ngửi thấy mùi ẩm mốc thoáng xông ra.
Có một đêm cách đây hai tuần, tôi đánh thức chồng tôi nữa đêm, v́ nghe tiếng chân đi trong pḥng ăn và ai lật báo chí nghe sồn sột. Khi anh ta thức dậy cũng nghe mồn một và ra coi th́ không thấy ǵ hết.
Có một ngày chồng tôi đang ngồi cùng bạn ở pḥng ăn, th́ tự nhiên cánh cửa hành lang đập qua đập lại, như có ai xô mà không có gió trong pḥng.
Ở càng lâu trong nhà th́ chúng tôi càng sợ. Không khí trong nhà ngột ngạt khó thở, và chấn thủy ở ḷng ngực như bị ai đè xuống, có cảm giác ngột ngạt rất khó chịu.
Chưa đầy một tháng ở trong nhà, mà tôi hầu như đêm nào cũng mất ngủ và bị ác mộng. Tôi chịu không nổi nữa chạy ra ngoài phố tàu đi tiệm bán đồ cúng thỉnh ông Địa, ông Thần Tài về trấn thờ ở cửa cái.
Tôi nói mẹ tôi th́ bà ta lật đật sang nhà, mang theo h́nh Phật bổn sư thờ ở nhà, qua lập bàn thờ ở pḥng khách cho tôi. Nhưng hôm đó chồng tôi và tôi vẫn thấy bất an trong ḷng, v́ pḥng ăn là có không khí khó chịu nhất, mà không thể thờ Phật ở đó được.
Nữa đêm ngày 24 tháng tám 2005, tôi nhờ chồng tôi lái xe qua nhà chị ba tôi và thỉnh mời tượng Quan Công của anh rể tôi thờ về nhà. Khi chồng tôi vừa đặt tượng Quan Công ở pḥng ăn và thắp hương vái, th́ lập tức không khí u trệ từ từ biến mất, cảm giác bị đè nặng ở lồng ngực của vợ chồng tôi biến mất.
Tối hôm đó vợ chồng tôi dọn giường vào pḥng khách, ngủ nơi có thờ Phật và có được đêm ngủ ngon đầu tiên ở trong nhà từ khi dọn về.
Ngày hôm sau tôi gặp cậu sinh viên người Ấn Độ ở nhà dưới, tôi kể chuyện kỳ lạ trong nhà, th́ cậu ta bước vào nhà liền và ngồi nghe tôi kể. Cậu ta nói, từ khi dọn về ở dưới lầu, cậu ta cũng cứ nằm ác mộng.
Có đêm thấy có con nhện đen to ở trên đầu gường, cậu vớ cuốn sách để đập th́ nó biến mất. Cậu nằm mơ thấy toàn nhện đen đầy nhà và liên tiếp nằm ác mộng năm, bảy đêm.
Ba, bốn lần cậu vào pḥng tắm th́ thấy thoáng có bóng đen đi qua, hay đi ngang hành lang, thấy có bóng đen, quay lại th́ bóng biến mất. Trời vào thu lành lạnh mà cậu cảm thấy nực nội, mở hết cửa sổ ra vẫn không thấy mát.
Tôi thấy như vậy th́ lập tức mua hoa quả về nhà và kính bát quái về nhà, để trước bàn Phật tụng chú Phật Mẫu Chuẩn Đề vào chén nước và kính. Tôi đem treo kính bát quái, chiếu ra trên cửa ra vô của nhà, và đem bát nước dùng nhánh cây rẩy khắp nhà vừa rẩy vừa tụng chú.
Chồng tôi vẫn thấy không yên, chiều nay anh ta phá bức tường chắn giửa pḥng ăn và pḥng khách ra, khiến cho ánh sáng cửa sổ trước nhà dội vào nhà. Trong nhà tôi tự nhiên thấy yên tỉnh và yên thắm lạ thường.
Tối nay trong lúc quét dọn nhà bếp cùng chồng tôi, v́ bụi bặm bay, nên tôi mở cửa hông của nhà bếp ra driveway bên nhà, cửa xoay về hướng nam, tôi đang loay hoay đứng trên ghế cao dọn bàn thờ Quan Thánh, th́ khi tôi xoay sang phía sau, nh́n ra cửa ngoài nhà bếp, bỗng thấy bóng trắng của người đàn bà thoáng qua.
Biết là bóng ma, tôi nói gấp:
- Đóng cửa lại.
Th́ chồng tôi lập tức đóng cửa lại. Anh ta nói với tôi:
- Anh cũng cảm giác được nó. Em không nói anh cũng đóng cửa rồi.
Tôi không biết căn nhà này có quá khứ ǵ, nhưng vợ chồng tôi chỉ muốn ở yên thân. Mẹ tôi đă già, dành dụm bao nhiêu tiền đă đổ vào hết mua căn nhà này. V́ thương mẹ tôi, vợ chồng tôi đă bàn tính mua lại căn nhà cho bà đỡ lo.
V́ thương chị tôi nên mẹ tôi mua căn nhà khá mắc, bây giờ bán lại th́ mất giá, mất hết tiền già dành dụm. Vợ chồng tôi muốn mua lại dùng làm chổ làm ăn và giúp mẹ tôi. Nhưng bị như vầy mẹ tôi rất buồn. Bà bảo nếu vợ chồng tôi không ở được th́ bà sẽ bán.
Tôi muốn giúp mẹ tôi và ở tiếp, rồi mua lại căn nhà, nhưng không biết làm sao trừ khử bóng ma khỏi khuôn viên nhà. Căn nhà có vườn sau và driveway bên hông khá rộng. Tôi đuổi nó ra khỏi nhà th́ nó quanh quẩn trong khuôn viên, làm ớn lạnh tóc gáy.
Trong từ ngày tôi cúng kiếng đến giờ, th́ con ma khi không c̣n quấy phá gia đ́nh tôi nữa. Mặc dù chúng tôi c̣n hơi sợ, như âm khí trong nhà đă tan đi.
NN
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1202 of 1439: Đă gửi: 29 June 2010 lúc 6:27am | Đă lưu IP
|
|
|
CÂU CHUYỆN TÂM LINH Ở NGHĨA TRANG
Cách đây hơn chục năm, tôi có đọc bút kư Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn của nhà thơ Lê Đ́nh Cánh in trên báo Văn nghệ. Nhà thơ viết rằng ở đây có những buổi sớm anh em quản trang nghe được tiếng hô tập thể dục của các liệt sĩ. Thực hư thế nào tôi không rơ nhưng chi tiết ấy ám ảnh tôi đến bây giờ.
Tháng sáu năm ngoái tôi được tạp chí Văn nghệ quân đội cử đến đây t́m hiểu viết bài đă được anh Hồ Tất Ái, trưởng ban quản lư nghĩa trang kể cho nghe nhiều chuyện tâm linh về các liệt sĩ.
Anh mở đầu câu chuyện:
- Tôi vốn là lính trinh sát đặc công C20 B́nh Trị Thiên, đă có mười năm làm trưởng ban nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn nên chuyện đi đêm đi hôm tiếp xúc với cái chết là b́nh thường.
Trước đây, tôi không hề tin vào những chuyện có tính chất huyền bí. Tôi nghĩ chết là hết làm ǵ c̣n linh hồn này nọ. Nhưng sau mấy lần được chứng kiến một số sự việc lạ tại nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, tôi đă phải thay đổi tư duy cũ. Những câu chuyện tôi sẽ kể sau đây anh có tin hay không cũng được, nhưng đó là những sự việc tôi đă gặp hoặc tai nghe mắt thấy.
- Vâng, theo tôi, những ǵ thuộc về tâm linh, hiện nay ta chỉ mới cảm nhận, mà chưa thể lư giải ngọn ngành rành rẽ. Có những cái của thế giới này ta chưa giải thích được. Cái chết con người c̣n là sự bí ẩn, một khoảng trống của khoa học hiện thời.
Thế giới bên kia, cơi âm như ta vẫn thường gọi ai dám khẳng định là có hay không có, tồn tại hay không tồn tại. Có phải chết là hết hay chết là tiếp tục sống theo một kiểu khác? Tuy nhiên, điều chúng ta nên nhớ là không được bịa ra hoặc nói sai về các liệt sĩ. Tôi động viên anh.
Hồ Tất Ái khẳng định:
- Những ǵ tôi kể cho anh là đă được tai nghe mắt thấy. Vào đêm 14 tháng 11 âm lịch, năm 2002 theo lệ thường tôi lên tượng đài chính khu tưởng niệm thắp hương cho các liệt sĩ. Đi cùng tôi có anh Nguyễn Hồng Bằng, chủ tịch công đoàn cơ quan. Lúc ấy đang mùa đông, trời âm u nên trăng không sáng.
Dưới ánh trăng mờ, khi dưới cổng bước lên tôi và anh Bằng bỗng thấy một người ngồi xếp bằng ngay ngắn dưới đài Tổ Quốc ghi công. Tôi nghĩ thầm: chắc là có ai đó đi viếng liệt sĩ nhưng bị ốm đau mệt mỏi nên chưa về được.
Cách khoảng hai mươi lăm mét, tôi lên tiếng hỏi:
- Ai đó?
Nhưng không có tiếng trả lời. Rồi hai mươi mét, mười lăm mét, tôi hỏi tiếp người đó vẫn ngồi lặng im như tượng. Cho đến khi chỉ cách tượng đài chừng mười mét, tôi quát lớn:
- Ai?
Th́ người đó mới lên tiếng:
- Tôi là liệt sĩ ở nơi khác đến thăm liệt sĩ ở đây.
Tôi lạnh người. Anh Bằng th́ thầm vào tai tôi:
- Ta về thôi anh, tôi hăi lắm.
Chất lính trinh sát giúp tôi b́nh tĩnh trở lại. Tôi tiếp tục bước lên lễ đài thắp hương nhưng mắt vẫn không rời “người kia”.
Trong ánh trăng suông tôi thấy anh mặc áo bộ đội vải tô châu và vẫn điềm nhiên ngồi yên một chỗ. Nén hương trên tay tôi tự nhiên bùng cháy phừng phực th́ “anh bộ đội liệt sĩ” cũng tự nhiên biến mất. Chỗ anh vừa ngồi cách nơi tôi đứng một mét giờ đây chỉ là một khoảng trống.
Có một luồng khí lạnh buôn buốt chạy dọc sống lưng tôi. Chuyện kỳ lạ quá. Tôi hỏi Hồ Tất Ái:
- Thế có bao giờ anh nghĩ đó là ảo giác không?
- Không. Hoàn toàn không phải là ảo giác v́ lúc đó tôi rất tỉnh táo. Vả lại, đâu chỉ có ḿnh tôi, cả anh Bằng cũng thấy và nghe cơ mà!
- Hay là có ai đó bày ra chuyện này để dọa các anh? Tôi tiếp tục cật vấn.
- Không phải. Nếu người thật th́ làm sao anh ấy lại biến đi bất ngờ trước mắt tôi như thế. Tôi nhắc lại là tôi chỉ đứng cách anh ấy khoảng một mét thôi.
Tôi không giải thích được hiện tượng này, nhưng sự việc kỳ lạ ấy th́ cả tôi và anh Bằng đă chứng kiến. Mà không phải chỉ chuyện này thôi nhé, c̣n khá nhiều câu chuyện khác rất kỳ lạ ở nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, mà tôi sẽ kể tiếp cho anh nghe.
Câu chuyện huyền diệu về các liệt sĩ thực sự đă cuốn hút tôi. Anh Ái kể tiếp:
- Tại khu mộ ba, nơi yên nghỉ của liệt sĩ các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Thái B́nh, Bắc Giang, Bắc Ninh anh em quản trang chúng tôi khi đi thắp hương, đến gần hay nghe tiếng chào, tiếng cười lao xao vọng lại.
Nhưng khi tới nơi th́ không hề có bóng người nào. Tiến sĩ TVH đang công tác tại Trường đại học khoa học xă hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trước đây là bộ đội Trường Sơn trong một lần vào nghĩa trang, đă đến khu mộ này thắp hương cho đồng đội vào lúc 23 giờ 30 phút.
Một giờ sáng anh H. về khu nhà ban quản lư kể với chúng tôi và sau đó điện thoại cho vợ ở Thủ đô, thuật lại những ǵ anh gặp ở khu mộ ba.
Anh H. nói:
- Tôi đang thắp hương th́ từ đâu đó nghe tiếng vọng:
- Đồng hương ơi, hát cho chúng tôi nghe với nhé.
Dù rất bất ngờ và hơi sợ, nhưng tôi cũng đứng lại giữa hàng trăm nấm mộ hát liền sáu bài cho các đồng đội của tôi nghe…
Có một đoàn tăng ni Phật tử từ Hà Nội vào viếng các liệt sĩ. Rất không may là hôm ấy trời mưa khá to nên lễ viếng tổ chức khá nhanh và đoàn lên xe ra về. Sau đó, chúng tôi thật ngạc nhiên khi thấy các vị trở lại và dường như ai cũng có nét mặt đăm chiêu buồn bă.
Hỏi ra mới biết trong buổi lễ viếng hôm qua v́ trời mưa nên đoàn làm thủ tục vội vàng chưa chu đáo nên được các liệt sĩ báo mộng “nhắc nhở”. Không yên tâm ra về, đoàn đă quyết định trở lại nghĩa trang Trường Sơn và tổ chức lễ viếng liệt sĩ đúng nghi thức và rất chu đáo.
- C̣n đây là chuyện của chúng tôi. Giọng anh Hồ Tất Ái trầm hẳn
- Xảy ra vào năm 2003. Gần tới Tết cổ truyền, cơ quan họp bàn sẽ tổ chức làm lễ tất niên, thỉnh các liệt sĩ vào ngày 26 tháng Chạp âm lịch. Dịp này, khách đến viếng rất đông, nên chúng tôi không làm tất niên được đúng kế hoạch.
21 giờ 15 phút tối hôm đó, đang ngồi trong pḥng làm việc, tôi nghe ngoài cửa chính có tiếng nói của đôi ba người ǵ đó:
- Anh vào đi..
- Em vào trước đi..
Tôi nghe lành lạnh người, h́nh như có ai đang đứng trước mặt tôi và cất tiếng hỏi:
- Tại sao việc các anh đă hứa mà không làm? Cũng chẳng nghe các anh cáo lỗi ǵ cả.
Tôi kể lại việc này và bàn với anh em sẽ làm lễ cúng tất niên vào ngày 27 tháng Chạp. Oái ăm thay, ngày đó khách đến viếng cũng rất đông nên kế hoạch đành phải hoăn lại.
Tôi chưa kịp thắp hương cáo lỗi liệt sĩ th́ tối hôm đó sự việc lại lặp lại như hôm qua. Tôi quyết định bằng bất cứ giá nào cũng phải tổ chức lễ tất niên vào hôm sau là 28 tháng Chạp. Làm lễ xong chúng tôi thấy thanh thản nhẹ nhàng v́ không c̣n bị các anh chị liệt sĩ linh thiêng “nhắc nhở” nữa…
- Qua những câu chuyện có thể nói là vô cùng huyền diệu đó anh nghĩ ǵ? Tôi hỏi.
- Trước hết, tôi nghĩ: với các liệt sĩ ḿnh đă hứa điều ǵ th́ phải làm đúng như thế. Anh Ái xúc động nói.
- Phải thành tâm. Các anh, các chị đă hy sinh v́ Tổ Quốc th́ đâu cần phải mâm cao cỗ đầy mới thỏa măn. Các liệt sĩ chỉ cần cái Tâm trong sáng của người sống, cần sự ân nghĩa đầy đặn trung thực của chúng ta…
Những sự việc như anh Hồ Tất Ái kể, dù kỳ lạ đến mấy rồi sẽ có lúc người ta lư giải được dưới ánh sáng khoa học. Nhưng, theo tôi đây là vấn đề tâm linh, v́ vậy trước hết nó phải được soi sáng dưới góc độ văn hóa, truyền thống, đạo lư, tín ngưỡng, t́nh cảm của dân tộc.
Nguyễn Hữu Quư
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1203 of 1439: Đă gửi: 29 June 2010 lúc 6:29am | Đă lưu IP
|
|
|
TRUYỆN MA
Vĩnh là một thanh niên trên ba mươi, luôn luôn muốn tỏ ra là một người trí thức. Là một chuyên viên truyền h́nh, anh được hoăn dịch khi cuộc chiến chưa tới hồi khốc liệt. Tuy nhiên sau cuộc tấn công tết Mậu Thân, Vĩnh bị động viên và nhập ngũ với cấp bậc binh nh́.
Sau ba năm trời lăn lộn trên chiến trường, Vĩnh được biệt phái về đài truyền h́nh. H́nh như Vĩnh lập được nhiều thành tích đáng kể trong quân đội, nhưng anh không bao giờ thổ lộ với ai. Cuộc chiến quá tàn bạo đối với một thanh niên muốn tỏ ra là người trí thức.
Khoảng hai năm sau khi được biệt phái, Vĩnh tâm sự với Khải, một người bạn thân, về ư định viết một quyển tiểu thuyết trinh thám, v́ từ hồi nhỏ, Vĩnh vẫn say mê nhân vật thám tử Kỳ Phát của nhà văn Phạm Cao Củng.
Vĩnh nói rằng việc tạo ra các nhân vật, rồi đưa họ vào những hoàn cảnh do chính ḿnh tạo ra, với những chứng cớ giả tạo nhưng có vẻ hợp lư, có lẽ thú vị hơn là đọc chuyện của người khác và bị hướng dẫn bởi những chứng cớ giả tạo của họ.
Anh nói:
- Tôi muốn viết một câu chuyện hoàn toàn bí mật cho tới khi độc giả đọc tới gịng chữ cuối cùng.
Khải hỏi bạn:
- Thế ông đă có ư tưởng ǵ chưa?
- Có chứ! Trong câu chuyện của tôi, kẻ sát nhân thực ra lại không ra tay giết người.
Khải hơi nhíu mày:
- Ê ê, chỗ này coi bộ hơi lôi thôi rồi đấy! Tại sao đă gọi là kẻ sát nhân mà lại không giết người?
Vĩnh mỉm cười:
- Thế mới hay chứ! Kẻ sát nhân t́m thấy nạn nhân trong t́nh trạng nguy ngập mà nếu hắn không chịu giúp đỡ, nạn nhân sẽ chết. Hắn đâu có giết tuy hành động của hắn có nhiều yếu tố cấu thành tội phạm..
Tuy nhiên trước khi khởi sự, tôi muốn chế ra một loại mật mă rất tầm thường nhưng rất khó khám phá, loại mật mă mà mọi người thường thấy, nhưng không bao giờ nghĩ rằng chúng lại được xử dụng để truyền đạt tin tức.
Khải có vẻ suy nghĩ:
- Tin tức.. ngắn hay dài?
- Ngắn thôi! Loại tin tức mà bọn tội phạm dùng báo động, hẹn gặp.. đại khái như vậy.
Khải nh́n Vĩnh:
- Tôi sẽ suy nghĩ về việc này. Nếu t́m được cái ǵ, tôi sẽ cho ông hay.
Chỉ hai hôm sau, Khải vui vẻ bước vào apartment của Vĩnh:
- Tôi t́m ra được một loại mật mă cho ông rồ!
Vĩnh nh́n bạn với vẻ nghi ngờ:
- Ông thử viết vài kư hiệu xuống xem.
Khải lắc đầu, mỉm cười bí mật:
- Hay ở chỗ là loại mật mă này không cần kư hiệu. Chúng có thể được học thuộc ḷng trong vài phút, và sẽ không ai có thể khám phá được, ngoại trừ tay thám tử siêu nhân mà ông đẻ ra trong chuyện.
Rồi Khải nói đùa:
- Ông phải chia ba chục phần trăm tác quyền cho tôi đấy nhá!
Vĩnh gật gù:
- Để coi! Bây giờ ông thử nói xem mật mă của ông là cái ǵ mà ghê thế!
Khải chậm răi nói:
- Khi một tên gian muốn liên lạc với đồng bọn, hắn chỉ cần gởi cho tên kia một bộ bài. Hoặc có thể những quân bài của hai ba bộ, tùy theo tin tức dài hay ngắn. Dĩ nhiên những con bài c̣n lại phải có đủ, để tránh nghi ngờ trong trường hợp bị thất lạc.
Vĩnh chau mày:
- Tôi không hiểu ông muốn nói cái ǵ.
- Dễ quá mà! Chữ Việt ḿnh có 24 mẫu tự, nhưng ḿnh nên dùng mẫu tự Tây phương với 26 chữ trong trường hợp cần dùng những chữ j, w hoặc z. Ông cũng biết một bộ bài có 52 lá, điều này có nghĩa là mỗi mẫu tự được tượng trưng bằng hai lá bài.
- Ông có thể nói rơ hơn một chút được không?
- Thế này nhá, tính theo thứ tự cơ, rô, chuồn, bích th́ ách cơ sẽ là chữ a, già cơ sẽ là chữ b, đầm cơ chữ c.. theo thứ tự đó, hai rô sẽ là chữ z. Khi một tên gian trong chuyện của ông muốn báo một tin ǵ cho đồng bọn, hắn chỉ việc xếp những con bài theo thứ tự..
Vĩnh gật gù thán phục:
- Có lư quá!
Khải nói tiếp:
- Sau khi nhận tin, tên kia sẽ hủy bỏ ngay một cách rất tự nhiên và dễ dàng bằng cách xào bài là xong. Trong trường hợp bộ bài lọt vào tay phe địch hoặc cảnh sát, ngay khi những người này xem xét những quân bài để t́m dấu tích, th́ chính họ đă xóa bỏ những dấu tích đó rồi.
Vĩnh đập mạnh tay vào đùi:
- Hết xẩy!
- Ông nên nhớ một điều là một bộ bài thường không đủ, v́ trong một tin tức nào đó, dù thật ngắn cũng có thể có nhiều chữ trùng nhau, bởi thế, mỗi tên gian trong chuyện của ông sẽ có khoảng mười bộ bài, để có thể gởi những tin dài cho nhau.
Lỡ có ai nh́n thấy những bộ bài này, cùng lắm họ chỉ nghĩ rằng bọn chúng là những tay cờ gian bạc lận mà thôi.
Vĩnh có vẻ hứng khởi:
- Thật là một sự trùng hợp hiếm hoi. Hồi sáng này lăo Thân bên thuế vụ mới cho tôi một thùng bài tây, mà lăo tịch thu được. Để tôi lấy ra coi.
Vĩnh đứng dậy, bước tới cái tủ nhỏ ở góc pḥng, mở cửa lấy ra một bọc mười hai bộ bài c̣n bọc trong giấy bóng kính, đem lại đặt lên bàn:
- Bây giờ tôi thử rút vài quân ra xem theo mật mă của ông chúng sẽ thành chữ ǵ.
Vĩnh và Khải cùng xé giấy bóng kính ra, mở hộp, đổ mấy bộ bài lên mặt bàn. Vĩnh rút hai quân:
- Bảy chuồn, ách cơ..là chữ ǵ?
Khải nói ngay:
- Bảy chuồn là chữ h, c̣n ách cơ là chữ a. Ha.
Vĩnh rút thêm bốn lá nữa. Khải coi từng lá một theo thứ tự:
- Sáu cơ..là chữ i, chín rô..chữ s, ách chuồn..chữ o, ách rô..chữ n. Như vậy, sáu lá bài mà ông mới rút là chữ hai son, có thể là hai sơn hoặc hải sơn ǵ đó.
Mặt Vĩnh chợt tái xanh, hai tay run lẩy bẩy, những giọt mồ hôi không biết ở đâu đột nhiên ướt đầm trên trán.
Khải nh́n bạn ngạc nhiên:
- ủa, ông.. ông làm sao vậy?
Vĩnh lắc đầu:
- Không..không sao!
Khải nh́n bạn lo lắng:
- Ông có cảm thấy khó chịu hay là..cái ǵ không?
- Không, tại sao?
- À..th́..sau khi tôi đọc mấy lá bài là hai sơn hoặc hải sơn ǵ đó, ông có vẻ hốt hoảng thấy rơ, mồ hôi mồ kê chảy ṛng ṛng, làm như mấy chữ này có một ư nghĩa ǵ rất quan trọng đối với ông.
Vĩnh không đáp, chống hai tay lên bàn đứng dậy, lảo đảo đi tới mở tủ lạnh, lấy chai nước rót đầy ly, uống một hơi rồi nói với Khải:
- Tự nhiên tôi cảm thấy hơi mệt chứ không có ǵ hết.
Rồi anh cố lấy vẻ tự nhiên, bước tới ngồi xuống đối diện bạn:
- Mật mă của ông hết xẩy. Chắc chắn tôi sẽ xử dụng trong câu chuyện của tôi.
Sau buổi tối hôm đó, ngoài những lúc gặp nhau ở truyền h́nh, mỗi tuần Khải lại tới gặp Vĩnh vài lần xem câu chuyện trinh thám mà Vĩnh dự tính viết đă tới đâu rồi.
Tuy nhiên Vĩnh lại bị cái bệnh của các nhà văn mới, nghĩa là rất hăng say khi t́m được một ư tưởng, nhưng khi bắt tay vào việc th́ lại không biết mở đầu câu chuyện ra sao.
Vĩnh nói với Khải rằng anh không được khỏe và anh chưa muốn khởi sự cho tới khi cảm thấy đầy đủ phong độ. Khải cũng thấy Vĩnh có vẻ bệnh hoạn thật, và không hiểu tại sao, lúc sau này Vĩnh uống rượu nhiều quá.
Nói măi không được, Khải cảm thấy tội nghiệp cho bạn khi thấy Vĩnh có vẻ xuống tinh thần, mặt mày lúc nào cũng bơ phờ hốc hác. Khải nghĩ rằng có lẽ Vĩnh gặp điều ǵ rất bất thường, nên mới thay đổi một cách lạ lùng như vậy.
Anh quyết định t́m hiểu để may ra có thể giúp được ǵ cho bạn.
Khoảng một tháng sau, một buổi tối Khải tới cư xá Thanh Đa thăm Vĩnh. Bước hết những bực thang tối tăm, vừa lên tới lầu hai, Khải chợt thấy một bóng đen rời khỏi cửa apartment của Vĩnh bước về phía anh. Khải né sang một bên để người lạ mặt đi qua, nh́n theo ông ta bước thật êm xuống những bực thang.
Người lạ mặt có một cái ǵ bất thường khiến Khải cảm thấy xương sống lạnh buốt. Vừa suy nghĩ, Khải vừa bước tới gơ cửa căn apartment của Vĩnh.
Tiếng gơ cửa của Khải được đáp lại bằng một giọng đầy vẻ hoảng hốt của Vĩnh:
- Ai đó? Ai đó?
- À, Khải đây.
Vừa nói, Khải vừa đẩy cửa bước vào. Trong pḥng khách, Vĩnh đầu tóc bù rối, đôi mắt đỏ ngầu đang ngồi trước một núi quân bài trên bàn. Khải nói:
- Sao, ông đang làm quen với mấy lá bài để chuẩn bị viết phải không? Hi vọng là tôi không đuổi khách của ông, v́ khi tôi vừa lên tới lầu hai th́ ông ta đă ra khỏi cửa.
Khuôn mặt Vĩnh tự nhiên trắng bệch:
- Khách của tôi?
- Đúng! Một quân nhân.
Vĩnh hừ lớn:
- Quân nhân? Sao ông biết?
- Ông ta bận bộ quân phục tác chiến, dù trong tối tôi cũng thấy rơ. H́nh như quân phục Biệt Động th́ phải.
Vầng trán Vĩnh nhăn lại, giọng anh đầy vẻ hoang mang:
- Ông ta..coi ra sao?
- Cao lớn. Bộ quân phục có vẻ.. không được sạch sẽ lắm, dường như ông ta mới từ mặt trận trở về.
Vĩnh đưa hai tay lên ôm mặt:
- Hừ! Th́ ra đó là sự thật! Tôi không bị ảo giác. Tôi không điên v́ chính ông cũng thấy. Ông nói đúng, hắn ta vừa trở về từ mặt trận, nhưng đó là mặt trận dưới địa ngục.
Khải nh́n bạn không chớp mắt, trong bụng nghĩ thầm “Chà! Tên này coi bộ không khá rồi!”, tuy nhiên ngoài miệng cố nói một cách vui vẻ:
- Nếu tôi không lầm th́ ông đă có những ư tưởng mới cho câu chuyện. Ông đă khởi sự chưa? À, có lẽ chưa v́ ông c̣n đang dợt những mật mă mà tôi sáng chế, phải không? Dứt lời, Khải cất tiếng cười cho không khí bớt nặng nề. Nhưng Vĩnh lừ mắt, gằn giọng:
- Ông không sáng chế cái ǵ hết! Cái ư tưởng đó được nhét vào đầu óc ông và ra lệnh cho ông đem tới để hành hạ tôi. Tôi luôn luôn tránh né các thầy bói, những kẻ nghĩ rằng họ có thể liên lạc được với thế giới bên kia bằng cách..dùng những lá bài.
Tối hôm đó, chính ông đă bị thúc đẩy nói ra loại mật mă quái quỉ đó và buộc tôi phải rút mấy lá bài đó. Trước những lời nói không đâu của bạn, Khải bực bội cười khẩy:
- Ông đừng giả bộ điên nữa! Chính tôi đă nghĩ ra loại mật mă đó và chính ông đă tự tay rút ra mấy quân bài vô nghĩa đó.
Vĩnh nói gần như gào lên:
- Tôi không điên! Mấy quân bài đó không phải là vô nghĩa, v́ nó là tên của một người mà tôi vẫn cố tránh không nghĩ tới.
Khải sửng sốt nh́n bạn không nói. Vĩnh chợt thở dài:
- Tôi nghĩ rằng có lẽ tôi nên nói với ông tất cả. Bây giờ tôi không cảm thấy hổ thẹn ǵ nữa, v́ tôi đang ở trong t́nh trạng khủng hoảng cùng cực. Khi nào ông ở trong t́nh trạng khủng hoảng như tôi bây giờ, ông sẽ không c̣n cảm thấy hổ thẹn ǵ nữa. Để tôi nói hết cho ông nghe.
Có lẽ ông đă biết rơ về đời lính của tôi. Tôi chỉ nhập ngũ khi bị động viên. Sau thời gian huấn luyện, tôi bị đưa tới một đơn vị Biệt Động nổi tiếng, và bị đẩy vào một tiểu đội dưới quyền chỉ huy của Hai Sơn.
Hai Sơn là người từ binh nh́ lên tới trung sĩ và đă mấy lần bị thương. Không ai chối căi được rằng hắn ta là một quân nhân can trường, nhưng không ai ưa hắn. Có lẽ v́ hắn không biết sợ là ǵ và thường chế nhạo những kẻ mà hắn gọi là đồ chết nhát.
Không hiểu tại sao hắn lại đặc biệt lưu ư đến tôi. Có lẽ v́ vẻ trí thức của tôi. Cũng có thể v́ tôi sợ dơ, sợ khó, sợ khổ. Tôi không biết, mà chỉ biết một điều là hắn đ́ tôi tối đa. Hắn hành hạ tôi khi ở hậu cứ cũng như ngoài mặt trận.
ở hậu cứ, hắn bắt tôi làm những công việc nặng nhọc nhất, bẩn thỉu nhất. Ngoài chiến trường, hắn bắt tôi thi hành những nhiệm vụ nguy hiểm nhất. Những ngày quân ngũ của tôi là những ngày địa ngục! V́ hắn! Đáng lẽ tôi đă được biệt phái ngay từ năm đầu, nhưng tôi tin rằng chính hắn đă t́m cách ngăn chặn.
Bởi thế, tôi chỉ mong hắn chết, và tôi không phải là người duy nhất mong muốn điều này, có lẽ chỉ ngoại trừ các sĩ quan v́ hắn là người luôn luôn t́nh nguyện nhận lănh những nhiệm vụ nguy hiểm nhất. Mỗi lần như vậy, hắn luôn luôn bắt tôi đi cùng v́ hắn biết tôi rất ghét những việc đó.
Tôi biết hắn đang nghe những ǵ tôi nói với ông bây giờ, nhưng tôi cóc cần v́ tôi chỉ nói với ông một sự thật giữa hắn và tôi. Một đêm, hắn được lệnh dẫn tiểu đội đột nhập đất địch làm công việc trinh sát. Dĩ nhiên hắn bắt tôi đi cùng v́ hắn biết tôi rất sợ những công tác như vậy.
Xui xẻo cho chúng tôi là có lẽ chúng tôi đă bị địch phát hiện từ đầu, nhưng chúng chờ cho tới khi chúng tôi đi thật sâu vào đất của chúng, chúng mới nổ súng. Tiểu đội của tôi có tám mạng th́ sáu bị bắn gục tại chỗ. Chỉ có hắn và tôi chạy thoát.
Biết thế nào cũng bị chúng chặn hậu, trong đêm tối, tôi chạy thẳng vào vùng đất địch trước khi chạy về mé trái, hướng về một cánh rừng già, ngược chiều với hướng về đơn vị.
Trong đêm tối mịt mù tôi bị lạc. Sau khi đi lang thang trong bóng tối hàng tiếng đồng hồ, tôi té xuống một hố bom, đè lên một xác người. Hai Sơn! Nói là xác người th́ không đúng v́ hắn chưa chết, chỉ bị thương nặng và mất máu. Hắn dặn tôi nhớ kỹ địa thế nơi đó trước khi ra lệnh cho tôi lập tức trở về đơn vị, đưa người tới cứu hắn.
Sau khi được hắn chỉ đường, dù hai chân lết không muốn nổi, tôi cũng phải lập tức lên đường. Tôi không biết ông nghĩ sao về tôi v́ sau khi t́m về đơn vị, tôi không nói với ai về Hai Sơn. Lúc đó tôi tự bào chữa rằng việc đưa hai y tá tới cứu hắn quả là một việc làm quá nguy hiểm.
Có thể v́ máu ra quá nhiều hắn đă chết rồi. Tôi không thể để ba mạng người phải hi sinh v́ một xác chết. Tuy ngay hôm sau, một trung đội được lệnh tiến vào đất địch để giải cứu các đồng đội, thực tế là để lượm xác, nhưng không ai đi tới nơi tôi gặp Hai Sơn lần cuối. Mọi người cho rằng hắn đă bị bắt hoặc bị hạ sát.
Một thời gian khá lâu sau khi được biệt phái, tôi hiểu rằng linh hồn cuồng nộ của Hai Sơn vẫn đang t́m tôi, vẫn muốn cho tôi biết về sự hiện hữu của hắn. V́ lư do đó, tôi không bao giờ gặp gỡ những người có khả năng liên lạc với người chết.
Nhưng rồi chính ông đă đem hắn lại với tôi bằng những mật mă của ông. Khi tôi rút sáu lá bài và ông đọc thành chữ Hai Sơn, tôi biết rằng tôi không c̣n hi vọng trốn chạy linh hồn cuồng nộ của hắn nữa. Trong trường hợp đó, tôi muốn biết hắn muốn nói ǵ với tôi. Và kể từ đêm đó, không đêm nào tôi rời khỏi mấy bộ bài. Tôi liên lạc với hắn.
Vĩnh ngưng lại. Vẻ mặt thật khổ sở. Khải đập tay lên bàn nói lớn:
- Ồ, làm ǵ có chuyện đó. Ông chỉ bị ám ảnh thôi. Có thể ông suy nghĩ về việc đó nhiều quá.
Vĩnh cười khô khan:
- Nếu ông không tin, ông hăy xào bài đi. Tôi sẽ quay lưng lại, lượm mấy lá bài. Rồi ông dùng mật mă của ông đọc thử xem tôi nói có đúng hay không.
Khải biết rằng cách chữa bệnh ảo tưởng tốt nhất là chứng minh rằng đó chỉ là ảo tưởng. Anh đồng ư:
- Được!
Trong khi Vĩnh quay lưng, Khải vừa xào bài vừa hỏi:
- Ông ta thường nói ǵ với ông?
Vĩnh lên tiếng với vẻ khó khăn:
- Những ǵ ông có thể đoán được. Đe dọa, đắng cay, xỉ vả, hận thù.. đủ hết. Hắn không muốn ở đó một ḿnh mà muốn tôi cùng tới đó để hắn có người ăn hiếp và hành hạ như xưa. Xong chưa? Tôi sẽ nhắm mắt khi lượm bài và ông đọc từng chữ khi tôi lật ngửa chúng.
Vĩnh rút khá nhiều lá bài và Khải lấy bút ghi vào một tờ giấy những ǵ những lá bài này “nói” qua mật mă của anh. Viết xong, Khải liếc nh́n và la lên một tiếng hăi hùng v́ những chữ do chính tay anh viết là hàng chữ “Mày không chịu tới với tao th́ tao tới với mày”.
Mấy hôm sau, người ta thấy Vĩnh ngồi chết trên ghế. Trên mặt bàn ngay trước mặt anh là một núi lá bài. Có lẽ Vĩnh đă biết trước những ǵ xẩy ra cho anh, nên anh đă để lại mấy hàng chữ thật lớn trên bàn, yêu cầu không ai được đụng tới bất cứ vật ǵ cho tới sau khi Khải tới.
Buổi trưa, trước khi Khải bước vào apartment của Vĩnh, một người hàng xóm nói với anh:
- Có lẽ ông Vĩnh chết từ tối hôm qua v́ bác sĩ nói rằng người ông ấy đă lạnh. Người ta đă đưa ông ấy đi rồi tuy mọi thứ trong nhà vẫn đâu ở đó. H́nh như nửa đêm hôm qua có người tới gặp ông ấy th́ phải. Người đó chắc là quân nhân mới từ mặt trận trở về, v́ sáng nay tôi thấy mấy vết giầy sô dính đầy bùn trước cửa.
Khải bước vào, tim đập mạnh. Anh nh́n vào một hàng những lá bài lật ngửa. Qua mật mă của chính anh, Khải run lẩy bẩy sau khi đọc hàng chữ: “Mười hai giờ đêm nay. Hai Sơn”.
Nguyễn Khai Trí
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1204 of 1439: Đă gửi: 29 June 2010 lúc 6:33am | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG LINH HỒN LANG THANG TỪ ĐÂU RA?
Trên các đỉnh núi vừa tắt ánh vàng của hoàng hôn, là bóng tối đă trùm khắp thung lũng như đổ hắc ín vậy. Tôi vội vàng thúc ngựa. Bất ngờ, phía trước tôi xuất hiện một đốm lửa nhỏ.
"Cái ǵ vậy? Có thể, đó chỉ là cảm giác thế thôi. Nhưng không, có ai đó cầm chiếc đèn to đang đứng trong thung lũng và chiếu sáng đường cho tôi đi.
Nhà văn A. Vêlkanôp hồi tưởng lại một câu chuyện như sau:
- Chuyện ấy xảy ra đă lâu. Nội chiến vừa kết thúc. Khi đó tôi đang tại ngũ trong Hồng quân và đi cắt cỏ trên thảo nguyên Kastanxkaia, gần thành phố Gidăc cho đơn vị ḿnh.
Chỗ đó cách thành phố Xamarkan độ một trăm hay hai trăm km ǵ đó, về phía đông bên triền núi bắc của dăy Thiên sơn. Vào mùa đông, chúng tôi làm công việc của ḿnh thật yên ổn, nhưng đến mùa xuân th́ t́nh h́nh trở nên đáng lo ngại; đây đó chúng tôi thấy xác các cán bộ Xô Viết bị giết chết, thỉnh thoảng lại xảy ra các cuộc tiến công của bọn phỉ.
Một lần, vào buổi tối tôi phải đi ngựa một ḿnh về bản Kastan. Ở vùng núi tối đến rất nhanh. Trên các đỉnh núi vừa tắt ánh vàng của hoàng hôn, là bóng tối đă trùm khắp thung lũng như đổ hắc ín vậy.
Tôi vội vàng thúc ngựa. Bất ngờ, phía trước tôi xuất hiện một đốm lửa nhỏ. "Cái ǵ vậy? Có thể, đó chỉ là cảm giác thế thôi. Nhưng không, có ai đó cầm chiếc đèn to đang đứng trong thung lũng và chiếu sáng đường cho tôi đi. Căn cứ theo độ cao chỗ cây đèn th́ người cầm đèn đang đi ngựa.
Bỏ khẩu súng trường trên vai xuống, tôi tiến lên độ ba chục bước và quát to:
- Ai đấy? Ai?
Không một tiếng trả lời.
V́ sao người ấy lại im lặng? Nếu đấy là phỉ th́ hẳn đă bắn ngay, nếu không phải phỉ th́ tại sao người đó không đáp lại? Hay ma quỷ ǵ chăng?
Tôi thúc ngựa, nhưng rồi lại gh́m cương ngay: bên phải tôi lại xuất hiện thêm một chiếc đèn nữa. Phải thừa nhận là tôi đă chờn chợn. Đêm tối, lại ở giữa thảo nguyên hoang vắng.
Nhưng bỗng tôi nhớ đến con ngựa của ḿnh. Tôi sực nhớ ra và nổi cáu: làm sao tôi lại có thể quên được bộ máy phát hiện nguy hiểm rất đáng tin cậy, là đôi tai của người bạn bốn chân này cơ chứ!
Thị giác, thính giác và khứu giác của ngựa tinh xảo hơn ở người rất nhiều. Đôi tai cảnh giác của con vật là một điều nhắc nhở rất nghiêm chỉnh: gần đó có người. Tôi liếc nh́n con ngựa và thở dài nhẹ nhơm: ngựa đứng b́nh tĩnh.
- Tiến!
Thật lạ lùng! Những ánh lửa liền lao theo tôi và trôi trong không trung. Tôi đi nước kiệu, rồi chuyển sang phi nước đại, những ánh lửa cứ bám riết lấy tôi. Tới thung lũng gần đó, có thêm ngọn lửa thứ ba nhập vào nhập vào hai ngọn lửa trước, sau đó con số đó tăng lên năm. Thật là lư thú.
Dường như những ngọn lửa đùa rỡn với tôi, chúng vượt lên trước, cắt ngang đường, nhảy múa. Tôi gh́m ngựa lại th́ chúng cũng dừng lại! Tôi giật ngựa phi nhanh th́ chúng cũng lao vút đi. Đến chỗ rẽ vào bản Kastan, những ngọn lửa tắt đi như tan vào không khí.
Xưa kia, những người mê tín đă gắn hiện tượng bí ẩn mới thoạt nh́n này của tự nhiên, với những "linh hồn lang thang" của người chết. Như ta thấy, chiến sĩ hồng quân đó đâu phải là người nhát gan. Song những ngọn lửa đó có thể làm cho những ai tin vào "thế giới bên kia" phải kinh hoàng.
Khi tôi c̣n học phổ thông, tôi đă có dịp làm quen với những "linh hồn lang thang" đó. Cha tôi là một người rất say mê với các câu chuyện bí ẩn khác nhau. Tôi c̣n nhớ một buổi sáng mùa đông ông đă đọc cho tôi và lũ bạn tôi một câu chuyện. Nội dung câu chuyện như sau.
Vào mùa hè năm 1879 có một học sinh trung học sống ở tỉnh Tsernigôp. Nơi đó ẩm ướt và có nhiều đầm lầy. Cách không xa một trang viên, bên b́a khu rừng rậm là nghĩa địa làng.
Vào tiết xuân, con sông nhỏ chảy cạnh đó dâng nước lên làm ngập cả những ngôi mộ cũ. Một lần, sau cả ngày mưa dầm dề, trăng lên thật đẹp vào buổi đêm. Ngoài sân rất ẩm thấp v́ mưa. Ngồi trên thềm nhà, mọi người ngắm cảnh đêm trăng, rồi bắt đầu kể về những bóng ma trong ngôi nhà cũ xưa, bên trang viên làng xóm.
Về những người đă chết nay dường như đêm đêm chui ra khỏi mộ. Một số người ngây thơ tin ngay những điều bịa đặt ấy, số khác th́ cho là có sự ngộ nhận nào đó về tất cả những bóng ma và điều kỳ lạ ấy.
- Thế nào, anh bạn trẻ, ông chủ nhà quay sang nói với anh học sinh trung học,
- Anh có dám đi ra nghĩa địa không?
Chủ nhà cho rằng thể nào anh chàng học tṛ cũng từ chối ngay nhưng anh ta lại đồng ư đi.
Anh chàng học sinh ra cổng và đi theo hướng nghĩa địa. Anh ta đi đến rừng thật mau mắn và b́nh tĩnh, nhưng khi phải xắn quần lội qua đầm lầy, th́ chỉ thiếu chút nữa là anh ta quay trở lại.
Anh liều ḿnh lội qua những mô đất nhấp nhô đến nghĩa địa và đă muốn quay trở lại, nhưng bỗng dưng cách anh ta độ ba mét, hiện ra h́nh hài trong suốt của một sinh vật ǵ đó dài ngoẵng. H́nh hài đó dang rộng hai tay và đứng nguyên tại chỗ. Chàng thanh niên thấy ớn lạnh trong người.
Run rẩy v́ sợ hăi, anh ta cẩn thận đi men theo các mô đất mà không dám ngoảnh lại sau. "May ra, anh ta nghĩ thầm, nó sẽ biến đi: Ở giữa đám lầy có một ḥn đảo nhỏ trên mọc một cây bạch dương c̣n tươi non. Đến đấy, anh chàng học sinh không ḱm được nữa bèn ngoái lại.
Thật kinh hoàng khi anh thấy cách độ năm mét vẫn chính bóng ma ghê sợ ấy. Nó c̣n vẫy tay nữa chứ! Chàng thanh niên không c̣n tự chủ được nữa. Làn gió nhẹ thoảng qua, bóng ma run rẩy rồi lại lặng đi. Anh chàng học sinh đứng chôn chân tại chỗ. Đôi chân giờ đây không c̣n vững theo ư muốn của anh ta nữa…
Đi qua hết đầm lầy thế nào anh ta không nhớ nữa. Khi chạm chân lên nền đất cứng, anh chàng ngoái lại phía sau: bóng ma vẫn lẽo đẽo bám theo. Thế là anh chẳng c̣n hồn vía ǵ nữa, anh ta vùng chạy bán sống bán chết.
Cha tôi ngừng đọc, nh́n chúng tôi bằng đôi mắt tươi cười và hỏi:
- Thế nào, có sợ không? Sau đây các cháu c̣n dám đi đến nghĩa địa như thế nữa không?
Chúng tôi im lặng bối rối. Cha tôi cười rồi bảo:
- Ái chà! Các cháu tin rồi à?… Ồ, những nguyên nhân của hiện tượng ấy đơn giản lắm…
Rồi ông giải thích cho chúng tôi điều đó xảy ra như thế nào. Ai cũng biết, các vật thể khác nhau bốc cháy ở những nhiệt độ khác nhau. Và c̣n có những chất tự bốc cháy. Thuộc về số những chất đó là hợp chất hoá học phôtpho và hiđrô, tức là hiđrô phôtphorơ, một loại khí có mùi cá trơn. Khi thoát ra ngoài không khí, nó bùng cháy với ngọn lửa sáng.
Ở đầm lầy, cũng như ở nghĩa địa, nhưng nơi ẩm thấp, loại khí này được tạo ra trong quá tŕnh thối rữa thực vật và cơ thể động vật. Điều đó giải thích v́ sao có thể thấy hiện tượng đó ở những nơi như vậy: ngọn lửa nhỏ nhợt nhạt mà người mê tín gọi là tâm hồn "bất an" của những người chết lúc th́ tắt đi.
Lúc th́ bùng cháy ở những chỗ khác nhau, lúc run rẩy đung đưa. Hiđrô phôtphorơ thoát ra khỏi ḷng đất liền tự bốc cháy và sáng lên trong không khí. Hiện tượng bí ẩn của tự nhiên thật đơn giản và đương nhiên, một khi chúng ta đă biết được nguồn gốc của nó.
ST
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1205 of 1439: Đă gửi: 29 June 2010 lúc 6:35am | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG NGHI ÁN BÁN M̀NH CHO MA QUỶ NỔI TIẾNG
Có những truyền thuyết kể lại rằng, có những nhà văn, nhạc sĩ đă thỏa thuận bán linh hồn ḿnh cho quỷ sứ để đổi lấy sự thành công.
Không có sự khẳng định nào về những trường hợp này, nhưng trong lịch sử có năm nhân vật rất nổi tiếng với tin đồn này. Không ai có thể chứng minh những điều này là sự thật, nhưng cũng có những điều kỳ lạ mà không ai có thể giải thích được.
Niccolo Paganini.
Niccolo Paganini là nhạc sĩ nổi tiếng vào khoảng cuối những năm 1700. Ông được tiếp xúc với âm nhạc từ rất sớm, lên bảy tuổi ông đă học violin, đến năm mười một tuổi ông đă có những buổi biểu diễn solo và khi vừa tṛn mươi ba tuổi ông đă là một bậc thầy violin.
Mười chín tuổi ông bắt đầu sáng tác và học chơi guitar. Hai mươi ba tuổi, Paganini có những sáng tác nổi tiếng dành cho đàn vĩ cầm và đến năm hai mươi bảy tuổi những buổi biểu diễn của ông đă mê hoặc khán giả.
Nhưng sau đó đă có nhiều sự thay đổi, ông mất đi hàm răng dưới, da dẻ ngày càng nhợt nhạt và ông chỉ thích mặc quần áo màu đen. Dư luận lúc này đă rộ lên những tin đồn ông bán ḿnh cho quỷ dữ để đổi lấy danh tiếng.
Tin đồn này càng lan rộng khi có người hỏi ông về chuyện hiệp ước với ma quỷ, ông đă không phủ nhận mà chỉ hỏi lại rằng:
- Có cách nào để tôi chơi tốt hơn những ǵ tôi đang làm hay không?
Robert Johnson.
Robert Johnson là một nhạc sĩ theo ḍng nhạc blue, cuộc sống ngắn ngủi và ẩn chứa rất nhiều điều kỳ lạ. Âm nhạc của ông chịu ảnh hưởng từ phong cách nhạc của thập niên năm mươi, sáu mươi.
Những người quen biết kể lại rằng, ông ước muốn trở thành nhạc sĩ nổi tiếng cùa ḍng nhạc blue, khi ông c̣n sống trong một đồn điền.
Một đêm, có điều ǵ đó đă thôi thúc ông ôm cây guitar đến một ngă tư gần Dockery Plantation, khi ông đến th́ quỷ sứ đă đợi sẵn ở đó. Hắn cầm lấy cây guitar của Robert và bắt đầu đàn hát.
Sau khi hắn trả lại cây đàn cho Robert, th́ ông có thể đàn và sáng tác nhạc blue như những ǵ ḿnh mong muốn. Không lâu sau đó ông qua đời khi mới hai mươi bảy tuổi.
Johann Georg Faust.
Johann Georg Faust là một nhà giả kim của Đức. Ông có một bằng cấp chuyên ngành thần học. Sau khi tốt nghiệp thần học, ông tiếp tục học về ảo thuật tại trường đại học Krakow, cũng tại đây ông đă kết bạn với Martin Luther và Philip Melachton. Hai người này đă kể rằng họ đă chứng kiến ông thực hiện hiệp ước với ma quỷ.
Sau khi tốt nghiệp trường Krakow, ông dạy môn thần học đại học Ehrfut, ông thường thuyết giảng rất hùng hồn về những anh hùng bóng tối cho các sinh viên.
Ông đă bị nhà trường đề nghị từ chức về việc giảng dạy sai lệch của ḿnh. Một thời gian sau, ông thừa nhận rằng ḿnh đă có hiệp ước với ma quỷ. Đến cuối đời ông đă thổ lộ với tiến sĩ Klinge, một tu sĩ ḍng Phanxicô, rằng ông tin ma quỷ hơn cả Đức Chúa Trời.
Urbain Grandier.
Urbain Grandier là một linh mục Công giáo Pháp. Ông đă bị thiêu sống v́ nghi là phù thủy.
Grandier đă vi phạm lời thề của ḿnh và xâm hại đến phụ nữ. Năm 1603 ông bị một số nữ tu tố cáo bỏ bùa mê và lạm dụng họ. Theo những ǵ được kể lại th́ Grandier đă thỏa thuận từ bỏ đức tin của ḿnh và phục tùng ma quỷ. Đổi lại, Grandier sẽ có được t́nh yêu của phụ nữ và được thế gian tôn thờ.
Hiệp ước của Grandier với ma quỷ được viết ngược bằng tiếng La tinh và đến nay nó vẫn c̣n được trưng bày ở một bảo tàng của Pháp.
Jonathan Moulton.
Jonathan Moulton là đội trưởng dân quân ở New Hampshire, Mỹ. Năm 1749 ông kết hôn với Abigail Smith và có mười một người con.
Sau đó, ông mở một cửa hàng bán những sản phẩm nhập khẩu từ Châu và Ấn Độ. Đôi khi gia đ́nh ông cũng gặp những khó khăn về tài chính và ông từng tuyên bố với vợ ḿnh rằng, ông có thể đổi cả linh hồn ḿnh cho quỷ để được giàu có.
Những người hàng xóm kể lại rằng có một người lạ mặt thường ghé thăm gia đ́nh ông vào mỗi ngày đầu tháng, gia đ́nh ông bỗng trở nên giàu có bất thường sau những chuyến ghé thăm của vị khách lạ.
Từ đó trong vùng dậy lên tin đồn ông đă đổi chác với quỷ dữ để nhận được những đồng tiền vàng mỗi tháng. Ông này tham lam đến mức đào cả một lỗ lớn dưới sàn nhà để chứa tiền vàng.
Sau tháng thứ hai th́ ma quỷ nhận ra sự dối trá của Moulton và căn nhà của ông tự dưng bốc cháy mà không hiểu v́ sao.
Moulton đă dựng lại một căn nhà khác ngay trên phần đất của ngôi nhà cũ và nó vẫn c̣n tồn tại cho đến ngày nay với nhiều dấu tích kỳ lạ.
An B́nh
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1206 of 1439: Đă gửi: 29 June 2010 lúc 6:36am | Đă lưu IP
|
|
|
BÁC HOACAIO1 KỂ CHUYỆN TÂM LINH
HC xin kể một câu chuyện được gọi vào đài 1320 am tại Houston, tiểu bang Texas, chuơng tŕnh này kéo dài khoảng bốn năm nay, v́ vậy cả ngàn câu chuyện đă được thuật lại bởi những người trong cuộc, hay những người có người thân là người trong cuộc.
Khoảng trước 1975, tại Sài G̣n, Đại Úy Danh là người trong nhóm Thần Quyền Thất Sơn, cũng nghiên cứu thuật trị ma bắt quĩ. Ông quen một cô nhà ở Củ Chi nhưng vào Sài G̣n làm gái vũ trường.
Cô này khá đẹp, có duyên ăn nói, rất nhiều cây si say mê cho tiền boa cũng hậu hỉ. Bẳng đi thời gian vài ngày hay vài tuần, không thấy cô đi làm, nên ông Danh cùng đệ tử đến nhà tận quận Củ Chi t́m hỏi, th́ mới biết cô đang bị ma nhập hành hạ.
Danh cho rằng ḿnh có công năng chữa bệnh tà ma với roi, chú..nên chuẩn bị đồ nghề ra tay nghĩa hiệp, nào dè con ma ấy đối đáp tỉnh bơ:
- Mày giết tao không được đâu, chỉ làm cô này chết mà thôi.
Con ma đó c̣n cho biết nó ở đâu, quận mấy, đường nào tại Sài G̣n, có ngon th́ kiếm nó chính là người sống. Thiệt là hết ư!
Danh ṃ tới nơi, quả thật người trai trẻ Ấn Độ ra tiếp đón, mời ngồi nói chuyện, mới biết anh ta thi triển tà thuật khống chế cô này v́ quá yêu cô ấy, pháp đó từ nước Ấn mà ra.
Danh về nói lại gia đ́nh của cô gái đó, và mẹ của cô gái đồng ư cho tên Ấn Cà Ri Nị làm rễ, th́ nó mới buông tha cô này!
HC
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1207 of 1439: Đă gửi: 29 June 2010 lúc 6:38am | Đă lưu IP
|
|
|
MA Ở KHÁCH SẠN NGỌC HƯỜNG RẠCH GIÁ
Duyên làm việc cho một công ty Thailand ở Saigon. Trong một dịp đi công tác ở Rạch Giá, cô vào đặt pḥng nghỉ ở khách sạn Ngọc Hường ngay trên đường vào Thị xă Rạch Giá. Các cô tiếp tân tỏ vẻ ngần ngại một cách kỳ lạ:
- Tụi em chỉ c̣n một pḥng duy nhất là pḥng số 301 nhưng..lớn quá lại có tới hai pḥng, một ḿnh chị ngủ e trống trải quá!
V́ trời cũng đă tối và cảm thấy pḥng lớn hay nhỏ cũng không quan trọng nên cô quyết định lấy pḥng số 301. Trong khi làm thủ tục cho mướn pḥng các cô tiếp tân nh́n nhau mỉm cười, trong ánh mắt như trao đổi điều ǵ khó hiểu.
- Tụi em ngủ ở hành lang cùng lầu, gần cầu thang. Nếu có chuyện ǵ chị cứ kêu tụi em nhe!
Nói xong cô tiếp tân đưa ch́a khóa cho Duyên với ánh mắt ái ngại. Sau khi tắm rửa, Duyên lên giường bắt đầu đọc sách để dỗ giấc ngủ vốn khó khăn khi cô phải ngủ pḥng lạ mỗi lần đi công tác xa.
Vừa đọc được mấy hàng th́ bên ngoài trời bổng nổi gió đập ầm ầm vào cánh cửa sổ. Vào mùa này trời đâu có khi nào mưa bao giờ. Duyên mở cửa sổ nh́n ra xem có phải trời sắp mưa thực sự không.
Lạ thật, trời trong, trăng sáng soi rơ những ngọn dừa đứng yên bất động. Duyên đóng cửa sổ, lên giường nằm đọc sách tiếp. Lạ thay, nàng lại nghe tiếng gió rít bên ngoài và tiếng cửa sổ như bị gió đập mạnh mặc dù đă đóng kín.
Nàng thấy hơi lạ nhưng lại tập trung đọc sách. Nhưng rồi Duyên không tài nào tiếp tục tự che giấu cảm giác rùng rợn khi từng luồng ớn lạnh cứ chạy dài từ gáy dọc theo cột xương sống xuống dưới lưng.
Tiếng động kinh dị vẫn gầm rú như gào thét đáng kinh sợ. Duyên bật tung dậy chạy ra khỏi pḥng về phía cầu thang. Các cô nhân viên cũng vừa trải chiếu giăng mùng chuẩn bị ngủ. Thấy Duyên, họ không có vẻ ǵ ngạc nhiên mà c̣n như biết trước người khách nhỏ nhắn xa lạ này sẽ cần sự giúp đỡ.
Duyên nói khẩn khoản:
- Mấy em ơi, pḥng 301 chị thấy có cái ǵ đó không ổn. Có thể em nào vô ngủ chung với chị đêm nay được không? Chị sợ lắm!
Các cô nh́n nhau không nói lời nào, cũng không ai hỏi Duyên chuyện ǵ xày ra. Cuối cùng một cô t́nh nguyện vô ngủ với Duyên. Pḥng có hai giường. Cô nhân viên tên là Mai vừa giăng mùng lên là trùm mền kín bít nằm im thin thít.
Duyên không đọc sách nữa. Cô nằm im lắng nghe xem có tiếng gió đập cửa nữa hay không. Quả nhiên như sự mong đợi, bốn bề đều im lặng. Duyên cảm thấy nhẹ nhơm. Nàng không c̣n nghĩ vớ vẩn nữa mà bắt đầu nhớ nhà, nghĩ tới đứa con không biết giờ đă ngủ ngon chưa.
Bất th́nh ĺnh, nàng một bàn tay nào đó nắm lấy hai chân Duyên kéo mạnh một cái về phía cuối giường. Nàng giựt ḿnh, rồi mau trườn trở lại vị trí cũ. Cô c̣n chưa kịp hoàn hồn, chưa kịp giải thích chuyện ǵ xảy ra th́ lại bị kéo mạnh một cái nữa về cuối giường.
Lần này nàng tốc người dậy, phóng qua giường của Mai, chui vô mền trùm kín bít. Duyên vừa nằm yên bên giường Mai th́ nghe tiếng ngáy rất to phát ra từ đâu đó. Thoạt đầu, cô nghĩ có lẽ ai đó ngáy từ pḥng kế bên.
Nhưng sau khi lắng nghe thật kỹ th́ rơ ràng tiếng ngáy phát ra từ ngay chính chiếc giường mà cô nằm trước đó chưa đầy một phút. Duyên gọi Mai dậy th́ tiếng ngáy dứt ngaỵ. Cô vội vàng thay quần áo và thu dọn đồ rời khỏi nơi đó ngay lập tức, khi trời c̣n chưa sáng.
Chú thích:
Đó là chuyện có thật 100% TBM được nghe chính Duyên, em gái tôi, kể lại trong dịp về Việt Nam vừa rồi. Nếu bạn nào về Việt Nam có dịp ngủ lại Rạch Giá, hăy nhớ chọn pḥng số 301 xem thử có ǵ xảy ra không nhe!
TBM
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1208 of 1439: Đă gửi: 29 June 2010 lúc 7:05am | Đă lưu IP
|
|
|
R̉N RỢN CHUYỆN MỘ HAI CÔ Ở HÀ NỘI
- Hai cô gái chết trẻ lại đồng trinh nên thiêng lắm.
Lời bà lăo hàng nước làm cho chúng tôi rờn rợn khi t́m đến đây. Thời gian gần đây, nhiều người rỉ tai nhau về một ngôi miếu hoang thờ hai cô gái nằm ở ngay lối đi vào băi tắm tiên, ở băi giữa sông Hồng, Hà Nội.
Ngôi miếu này được cho là rất linh thiêng nên ai đến đây cầu xin điều ǵ đều được?. Vào các ngày rằm và mồng một hàng tháng, có rất nhiều người dân ở các nơi đến đây thắp hương, cúng vái, trong đó có không ít người là dân lô đề. Chúng tôi đă t́m hiểu sự thật về ngôi miếu này.
Theo chân một thành viên trong Đội bơi lội, thuộc Câu lạc bộ Những người yêu sông Hồng, chúng tôi đến băi giữa sông Hồng vào một chiều nắng gắt. Con đường dẫn vào ngôi miếu, cũng chính là con đường đi vào nơi cư ngụ của một số hộ gia đ́nh làng thuyền nổi ven sông Hồng.
Men theo lối ṃn nhỏ hẹp, vượt qua ruộng ngô xanh mướt chúng tôi đặt chân đến nơi có ngôi miếu hoang. Ngôi miếu nằm nép ḿnh dưới tán cây trứng cá xanh um tùm, miếu được che chắn bởi hàng chục loại cây dại khác nhau.
Ngôi miếu này khá đơn sơ với hai ngôi mộ đắp bằng đất h́nh chữ nhật, và một bàn thờ nhỏ, đầu hướng ra phía băi tắm tiên sông Hồng. Bàn thờ có mái che lợp ngói lưỡi ḅ sơn xi măng. Bên trong bàn thờ có hai bát hương cắm đầy chân hương, trên đầu một số chân hương vẫn c̣n khá nhiều đầu lọc thuốc lá.
Mỗi nơi thờ c̣n có ba chén nhỏ đựng nước, một đĩa nhỏ đựng hoa quả và một thiếp vàng nén vẫn c̣n tươi màu giấy. Bàn thờ không có bài vị, không có di ảnh mà chỉ có duy nhất một tấm bia màu đen chữ vàng ghi: “Miếu hai cô, Câu lạc bộ Những người yêu sông Hồng công đức 2009”.
Ngay phía bên phải, dưới chân miếu, cũng có một bàn thờ cao khoảng một mét rưởi mặt hướng ra sông Hồng. Trên bàn thờ này cũng chỉ có một bát nhang nhỏ và ba chén nước, một đĩa đựng trái cây.
Hỏi người dẫn đường, là một thành viên trong đội bơi lội thuộc Câu lạc bộ Những người yêu sông Hồng, về lai lịch của hai ngôi mộ nhưng ông cũng không biết rơ. Ông chỉ biết rằng, trước đây hai ngôi mộ này nằm tách rời nhau, lẩn khuất trong những đám cây dại ven bờ sông.
Sau nhiều năm qua lại đây bơi lội, anh em trong đội bơi đă quyết định quyên góp tiền để di dời hai ngôi mộ về đây và đặt tên cho miếu là miếu hai cô. Miếu mới được xây xong vào tháng 8-2009.
Đem điều này đi hỏi một số người dân đang làm ruộng ở một số nương ngô gần đó, cũng rất ít người biết về lai lịch của hai ngôi mộ, bởi họ cũng là dân ở các nơi khác đến thuê đất canh tác, chứ không phải dân bản địa.
Ṿng vèo một lúc, cuối cùng chúng tôi cũng gặp được ông Nguyễn Thụy bảy mươi hai tuổi, vốn là người làng Ngọc Thụy, Long Biên, đă canh tác ở đây hơn năm mươi năm cho biết: Ngôi miếu này chính là hai ngôi mộ của hai cô gái bị chết đuối.
Vào năm 2003, sau một trận lụt nhẹ, người ta phát hiện ra xác của một cô gái, trạc tầm hai mươi tuổi dạt vào bên bờ sông Hồng. Nhiều người dân lúc đó đă báo với chính quyền địa phương đến để xử lư.
Sau khi đội pháp y đến khám nghiệm tử thi và kết luận cô gái bị chết đuối, những người dân xung quanh cùng công an phường đă quyên góp tiền mua quan tài, rồi chôn cất cô gái ngay tại băi giữa, v́ họ không biết ǵ về nhân thân của cô.
C̣n một cô gái khác, trẻ hơn cô gái này khoảng bốn tuổi, cũng không biết quê hương gốc gác ở đâu.
- Cách đây độ hơn chục năm khi tôi đang làm ngoài vườn th́ thấy có người gọi ầm lên:
- Có xác chết, có người chết đuối.
Tôi vội vàng chạy ra th́ một số người đă vớt xác cô gái lên băi cát rồi. Sau khi Công an phường Ngọc Thụy, Long Biên, đến lập biên bản xong th́ v́ cô này cũng không có giấy tờ tùy thân, nên chúng tôi mỗi người đóng góp một ít mua áo quan để mai táng cho cô. Ông Thụy kể lại.
Ông Thụy c̣n cho biết thêm, hai cô gái v́ dạt vào hai vị trí khác nhau, nên được chôn cất ở hai vị trí khác nhau chứ không cùng chỗ như bây giờ. C̣n việc v́ sao Đội bơi lội sông Hồng lại xây cất hai ngôi mộ này thành một và đặt tên là miếu th́ ông không biết.
Chuyện chỉ có thế, nhưng qua lời kể, nó đă được thêm thắt, trở thành các giai thoại ly kỳ, hư hư, thực thực. Bà Trần Thị V, là một cư dân của xóm thuyền nổi ven sông Hồng, bán nước cách ngôi miếu này khoảng hai trăm mét quả quyết:
- Hai cô gái này v́ chết trẻ khi c̣n đồng trinh nên rất linh thiêng. Những lúc hai cô mới về đây, ngay cả người bạo gan nhất cũng không ai dám đi qua. Sau này, khi đă quen th́ người ta không c̣n sợ nữa. Thấy chúng tôi lắng nghe, bà V tiếp tục thêu dệt câu chuyện về ngôi miếu.
Thời kỳ đầu, khi mới có phong trào tắm tiên, nhiều người đến đây bơi lội, khi đi qua mộ các cô mà không đứng lại vái lạy và xin phép th́ xuống tắm kiểu ǵ cũng có chuyện.
- Tôi từng chứng kiến nhiều người đến đây bơi lội, có người là vận động viên bơi lội hẳn hoi, nhưng vẫn nhiều phen suưt chết với những lư do rất kỳ lạ. Một số người vừa mới xuống nước, chưa kịp sải tay bơi th́ bỗng như có ai nắm chân kéo xuống nước, càng lúc càng sâu làm người đó không kịp phản ứng.
Đến khi đồng đội xuống kéo lên th́ người cứng đờ ra như khúc chuối. Cũng có người khi đang bơi b́nh thường cùng mọi người trong đội bỗng dưng không bơi được nữa, cứ đứng nguyên một chỗ. C̣n chuyện đang bơi mà bị bẻ tay, bẻ chân là chuyện b́nh thường. Nhưng người nào thường vái lạy các cô đều đặn mỗi khi đi qua th́ lại không hề hấn ǵ. Bà V nói.
Cũng theo bà V th́ v́ gặp nhiều chuyện không hay đó, nên các thành viên trong Đội bơi lội sông Hồng đă bàn nhau quyên góp tiền, để cất bốc hai cô về lại một chỗ cho tiện bề hương khói quanh năm.
Từ ngày có miếu, vào các ngày rằm và mồng một hàng tháng, kể cả đội bơi lẫn cư dân xóm thuyền nổi đều đến đây thắp hương, làm lễ chu đáo. Thậm chí, thời gian gần đây, có một số người ở những nơi khác cũng kéo đến đây thắp hương.
- Nhiều người chăm cúng vái c̣n được hai cô cho.. trúng đề liên tục. Bà V th́ thầm như sợ ai nghe mất.
Tuy nhiên ông Trần Văn T một thành viên trong đội bơi th́ lại khẳng định, họ xây dựng miếu không hẳn v́ gặp nhiều chuyện không hay, mà v́ thấy có hai ngôi mộ hoang, quanh năm hương lạnh khói tàn, không người chăm sóc nên mới họp bàn với nhau để xây cất lại.
Sau khi xây cất xong, đội bơi c̣n mời nhà sư ở chùa Đông Tác về đây làm lễ cầu siêu cho các cô, việc này chủ yếu do cái tâm là chính. Ông T cũng thừa nhận, từng có nhiều người ở các vùng khác đến đây xin tài lộc.
Xung quanh ngôi miếu hoang này vẫn c̣n khá nhiều câu chuyện hoang đường, dễ khiến người nhẹ dạ cả tin tưởng thật. Hy vọng bài viết này sẽ cung cấp cho độc giả những thông tin xác thực nhất quanh chuyện miếu hai cô.
Gia Đ́nh
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1209 of 1439: Đă gửi: 30 June 2010 lúc 12:21am | Đă lưu IP
|
|
|
SỰ MẤT TÍCH BÍ HIỂM CỦA CẢ MỘT BỘ LẠC
Sự biến mất bí ẩn của cả một bộ lạc, khiến không ai dám đến vùng đất này nữa, bởi nó bao trùm một không khí u ám đầy bí hiểm đến ghê người.
Cách đây chỉ vài chục năm, vào những năm chiến tranh thế giới thứ nhất, cách đồn kỵ binh Canada ở Tikiujar khoảng 950km có một bộ lạc tên gọi là Eskimos. Đây là một bộ lạc ít người nhưng sống rất đoàn kết và hiếu khách.
Jo Laxiner là một người lính của kỵ binh Canada thường xuyên đến bộ lạc này và mỗi lần ông đến là một lần được người dân đón tiếp rất chu đáo.
Cũng như mọi lần, vào tháng 12-1931, Jo Laxiner lại đến bộ lạc này với tư cách là một vị khách đến thăm vùng đất có nhiều kỷ niệm của ḿnh. Tuy nhiên, Jo Laxiner đă sững lại trước vẻ tiêu điều hoang sơ của bộ lạc Eskimos.
Jo Laxiner không thể tin nổi khi thấy cả bộ lạc đều im phăng phắc, thậm chí sự im lặng c̣n khiến người ta “sởn da gà”. Jo Laxiner nghĩ lại những lần trước đến đây, khi ông mới xuất hiện là tiếng chó sủa vang vùng, những đứa trẻ từ khắp các ngôi nhà ùa ra…
Nhưng, lần này, cả bộ lạc không một bóng người, cũng không hề có một xác người chết nào. Tất cả đều lặng phắc như một vùng đất chết.
Jo Lxiner kể lại, ông đă tiến đến ngôi nhà mà ông hay đến nhất và gọi cửa nhưng chỉ có tiếng ông mà không hề có tiếng đáp trả. Trong phút chốc ông cảm thấy có điều ǵ đó kỳ dị đă xảy ra với bộ lạc này.
Là một người b́nh thường nên bất giác Jo Laxiner cảm thấy sợ hăi với quang cảnh khó hiểu đang bao trùm lấy ông. Giữ b́nh tĩnh, ông đă đi hẳn vào ngôi nhà và phát hiện không một bóng người nhưng lại có nồi cơm chưa kịp nấu đă bị đông cứng. Trong pḥng, rất nhiều quần áo trẻ em vứt la liệt. Nh́n ra ngoài, ông thấy trên bờ sông có những chiếc thuyền bỏ trống.
Jo Laxiner sợ hăi hơn nữa khi ông phát hiện ra những khẩu súng săn của người dân bộ lạc Eskimos vẫn c̣n ở nhà, bởi theo ông biết th́ người Eskimos hiếm khi không mang theo súng bên ḿnh, nhưng giờ đây, họ đều bỏ hết lại súng.
C̣n những chú chó được người Eskimos coi như người bạn thân trong nhà, như của quư, như người bạn không thể rời bước… th́ nay lại bị buộc vào gốc cây và tất cả đều đă chết đói.
Jo Laxiner hoảng sợ trở về và thông báo lại với những đồng đội của ḿnh. Tất cả sỹ quan, chiến sỹ đồn kỵ binh đổ đi t́m kiếm người dân của bộ lạc Eskimos, nhưng họ đều phải thất vọng bởi không có một dấu vết nào để lại định hướng. Tất cả trở thành một điều vô cùng bí hiểm.
Sau này, nhiều nhà khoa học cũng vào cuộc t́m kiếm và nghiên cứu nhưng họ vẫn không t́m ra câu trả lời. Rất nhiều người cho rằng, người dân bộ lạc Eskimos đă bỏ nhà cửa ra đi v́ vùng đất này quá lạnh.
Tuy nhiên, lời giải thích không được chấp nhận vởi người Eskimos đă sống như thế từ rất lâu. Hơn nữa, sau hàng mấy chục năm, người ta đă chờ nhưng không hề thấy một người Eskimos nào trở lại.
Tất cả đều chỉ có thể công nhận rằng, đây là một sự mất tích bí hiểm không có lời giải mà thôi. Chính v́ thế, vùng đất này cũng không ai dám đến nữa, bởi nó bao trùm một không khí u ám đầy bí hiểm khiến người ta sợ.
Bảo Phiến
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1210 of 1439: Đă gửi: 01 July 2010 lúc 10:37pm | Đă lưu IP
|
|
|
GIAI THOẠI TẢ AO
TẢ AO ÔNG TỔ PHONG THỦY
(KỲ MỘT)
TẢ AO người Việt Nam học được khoa địa lư chính thống ở Trung Quốc vào thế kỷ mười sáu, có nhiều tư liệu viết về điều này đều không nhất quán, có sách nói là vào thế kỷ mười bảy hay mười tám hay.
C̣n tên thật của ông là Nguyễn Đức Huyên, người làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tỉnh. Và Tả Ao sinh vào năm nào không ai rơ, chỉ được biết ông sinh vào thời vua Lê chúa Trịnh 1545–1788, qua các câu chuyện truyền khẩu.
Nhà Tả Ao nghèo, cha mất sớm c̣n mẹ bị bệnh ḷa mắt, v́ thế nên ông đến giúp việc cho một ông thầy thuốc người Tầu ở trong huyện, trước lấy tiền trị mắt cho mẹ sau học thêm được nghề bốc thuốc chữa bệnh. Chính v́ thế mà ông chữa được bệnh mắt ḷa cho mẹ.
Ông thầy Tầu thấy Tả Ao có chí lớn, nên khi về lại bên Trung Hoa đă dẫn ông theo để dạy thêm nghề thuốc. Trên đất khách, gần nhà ông thầy thuốc, có một thầy địa lư rất giỏi, cũng đang bị bệnh về mắt, Tả Ao liền được thầy phái sang chữa trị thay ông ta.
Thầy địa lư nói rằng, nếu Tả Ao chữa khỏi bệnh mắt cho ḿnh th́ ông sẽ thưởng 50 lượng vàng. Tả Ao nhờ kinh nghiệm chữa khỏi bệnh mắt cho mẹ, nên đă chữa khỏi bệnh cho thầy địa lư, nhưng ông không nhận vàng mà chỉ xin ông ta truyền cho nghề xem phong thủy.
V́ ơn nghĩa, nên thầy địa lư bằng ḷng, truyền dạy hết tinh hoa địa lư phong thủy cho Tả Ao, đến khi thành tài học và hành viên măn, ông xin cả hai ông thầy cho về nước.
Trước khi cho Tả Ao về Việt Nam, ông thầy địa lư muốn thử lần cuối sự hiểu biết của Tả Ao, ông ta làm ra 100 mô h́nh đất kết trên băi cát, dưới mỏi huyệt có yểm một đồng tiền, rồi đưa Tả Ao 100 cây kim ra đấy t́m huyệt để điểm.
Tả Ao điểm đúng 99 lổ của đồng tiền, c̣n một cây điểm ở mép, mà huyệt này lại là huyệt thứ một trăm. Đây là huyệt ảo, v́ mô h́nh tạo dáng rất huyền bí ẩn hiện dưới những mô đất nhấp nhô, những thầy địa lư giỏi cũng khó phát hiện ra đúng huyệt đạo. Cho nên thầy địa lư biết rằng người Việt Nam đă học hết bí kíp phong thủy của người Trung Hoa.
Khi Tả Ao về đến quê hương, ông chỉ lo hành nghề bốc thuốc, ít khi sử dụng đến khoa địa lư, chỉ khi nào cần thiết ông mới ra tay xem thế đất dùm mọi người, tuy vậy danh tiếng xem địa lư, phong thủy của Tả Ao lại nổi hơn nghề thầy thuốc.
Cũng chính v́ ông không hành nghề xem phong thủy cho ai, nên không có hậu bối. Khi Tả Ao mất người nhà chỉ t́m thấy hai bộ sách viết về địa lư phong thủy, là Địa đạo diễn ca và Dă đàm Tả Ao. Nhưng trong dân chúng có nhiều sách được in ra nói là sách do chính Tả Ao viết. C̣n các nhà địa lư phong thủy, khi đọc xong 2 quyển sách trên, đều cho đây là sách quư.
NHỮNG TRUYỀN THUYẾT VỀ TẢ AO
Tuy Tả Ao không hành nghề xem phong thủy, ông chỉ chuyên chữa bệnh cho người nghèo, nhưng trong dân gian có những truyền thuyết truyền khẩu nói về nghề xem phong thủy của ông.
Có lẽ v́ điều này mà ông được người đời xưng tụng “vua địa lư” của nước Việt chăng?!
Sau đây là một vài truyền thuyết về tài xem địa lư phong thủy của Tả Ao:
CỨU VUA NHỜ MỘ KẾT PHÁT
Một ngày nọ Tả Ao đi ngao du sơn thủy, tuổi tuy đă già nhưng dáng người vẫn quắc thước khoẻ mạnh, khi ông đi đến một làng quê nọ, trời nắng nóng nên ghé vào ngồi nghỉ mát dưới gốc cây đa bên làng, ông nh́n thấy một anh nông dân đang miệt mài cày ruộng, đến khi mặt trời đứng bóng mới chịu tháo cày cũng vào gốc đa ngồi mở cơm nắm ra ăn.
Thấy một ông lăo cùng ngồi ở đó nhưng không ăn uống ǵ cả, anh ta mới lên tiếng hỏi:
- Xế trưa rồi ông không dùng cơm sao, hay là ông không sẵn mang theo, thôi cùng nắm cơm này ăn với cháu cho vui.
Anh nông dân vừa giở cơm, vừa mau mắn mời ông lăo:
- Cháu mời ông dùng cơm…
Thấy thái độ anh nông dân dễ mến, Tả Ao không khách khí, bèn vui vẻ ngồi lại cùng ăn. Bốn năm ngày như vậy, anh nông dân vẫn một ḷng kính trọng Tả Ao, mời cơm và ông cũng không lần nào từ chối. Đến bữa cuối cùng, bỗng ông nói với anh nông dân :
- Chắc anh vẫn không biết ta là ai? Ta chẳng giấu ǵ anh, ta chính là thầy địa lư Tả Ao đây!
Anh nông dân nghe danh Tả Ao đă lâu, nay có dịp diện kiến nên vừa mừng vừa hốt hoảng, liền qú lạy xin ông tha lỗi. Tả Ao đỡ anh nông dân đứng dậy nói tiếp:
- Ta xem anh là người có đức nên có ư giúp anh đặt một ngôi mộ sau này sẽ phát phúc, phát tài, cho anh nở mặt với thiên hạ…
- Ông dạy quá lời, nhà cháu mấy đời nay đều là nông dân chân lấm tay bùn, bần hàn, đi cày thuê cuốc mướn kiếm cơm qua ngày, mong ǵ nở mày nở mặt với ai?
- Anh cứ yên tâm. Ta nói sẽ giúp anh được giàu sang phú quí trong ṿng một trăm ngày thôi. Nào anh hăy dẫn ta ra nơi mộ của cha mẹ của anh đi, ta xem thế nào sẽ sửa cho.
Anh nông dân mừng rỡ bèn nghe theo lời Tả Ao, dẫn ông đi ra mộ của cha anh ta. Tả Ao xem xong mới truyền :
- Mộ đặt nơi thế đất không tốt, suốt đời sẽ bần hàn cơ cực. Phải đào lên cải táng, di dời qua nơi đất khác mà thôi.
Nói rồi bảo anh nông dân đào mộ lên, xếp xương cốt vào một chiếc hủ đất đem đi chôn ở một huyệt đất mà Tả Ao đă chọn sẵn. Xong đâu đấy, Tả Ao căn dặn:
- Anh nhớ không cho ai biết chuyện này! Một trăm ngày nữa, vào ngày mùi tháng ngọ, đúng giờ tư anh phải có mặt ở kinh đô, đứng ở hướng Đông. Hễ gặp một người đàn ông mặc áo trắng, đi hài xanh, từ trong thành chạy ra với bộ mặt hốt hoảng, th́ anh cứ chạy lại bảo:
- Con xin cứu ngài!
Rồi cơng thẳng về giấu trong nhà, ngày ngày lo cơm nước cho tử tế. Anh cứ thế mà làm, đừng suy nghĩ ǵ hết!
Nói xong, Tả Ao từ biệt anh nông dân mà đi thẳng, về sau anh ta có đi t́m nhưng chẳng biết ông đi về đâu.
Đúng như lời dặn của Tả Ao, đúng ngày giờ anh nông dân ra kinh đô đứng đợi ở cửa Đông. Bỗng nghe có náo động từ trong thành vọng ra nào tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng quân reo ḥ, tiếng người gào thét, rồi lửa bốc cháy đỏ rực một góc trời.
Và quả nhiên, một người đàn ông dáng thư sinh mặc áo trắng, đi hài xanh, hớt hải một ḿnh chạy qua gần chỗ anh nông dân đang đứng. Anh ta chỉ đợi có thế bèn chạy đến bên nói to:
- Thưa ngài, con xin cứu ngài!
Nói đoạn ghé vai cơng người ấy chạy một mạch về giấu trong nhà. Người ấy dáng chừng sợ hăi, suốt ngày im lặng nghe ngóng động tĩnh. Anh nông dân cũng chẳng hỏi thân thế của người đàn ông ấy đang lo sợ đến quên ăn mất ngũ.
Vài ngày sau bỗng có loa truyền rằng, ai đang giữ vua ở đâu th́ báo cho quan quân kịp đưa vua về kinh. Lúc ấy ông khách mới nói cho anh nông dân biết ḿnh chính là vua, mấy ngày trước đây bị bọn gian thần định soán ngôi. Rồi nhà vua sai anh ta đi báo cho quan quân biết nơi vua đang ở ẩn. Khi quan quân đến rước vua, vua cho phép cả anh nông dân cùng đi theo ḿnh về kinh thành.
Tại kinh đô vua thiết triều, trấn an trăm họ và phong cho vị ân nhân là anh nông dân được làm quan đến chức nhị phẩm, cùng vàng bạc lụa là nhiều vô số kể.
Th́ ra ngôi mộ mà Tả Ao đặt cho người cha anh nông dân, kết phát y như lời ông nói khi trước, chỉ trong ṿng 100 ngày.
KHI TẢ AO THƯƠNG VÀ GIẬN
Khi thương…
Quanh năm Tả Ao thường đi đây đó khắp trong nước để t́m những ngôi đất quí. Một lần đi qua tỉnh nọ thấy có một ngôi đất rất đẹp, bèn buột miệng khen:
- Kiểu đất này mà đặt mộ th́ chắc chỉ sáu tháng là phát làm quan ! Nhà ai có phúc th́ được hưởng thôi?
Sau đó ông đi về hướng làng, gặp một người đàn ông trung niên đi tới. Nh́n thấy nét mặt ông ta tuy phúc đức nhưng tướng lại khắc khổ quá. Tả Ao mới hỏi:
- Ông có muốn ra làm quan không?
Người đàn ông đáp:
- Lạy ông, nhà tôi bất hạnh ba đời, học hành chỉ đủ đọc sách, muốn làm quan không xong, thi cử đợt nào cũng thi rớt, nên nay vẫn sống kham khổ làm ruộng kiếm sống thôi. Được làm quan th́ phúc ba đời để lại.
Tả Ao nghĩ bụng ông ta không nói sai. Rồi ngắm nh́n ông ta một lúc bèn nói:
- Thôi được, tôi sẽ giúp ông̣ đặt lại ngôi mộ tổ. Ông về lo sẵn ba trăm quan tiền.
Người đàn ông mừng lắm vội mời Tả Ao theo ḿnh về nhà, gọi người thân ra đào ngôi mộ tổ, bốc xương cốt cho vào cái tiểu sành đem đến chôn sâu xuống huyệt đất do Tả Ao vừa thấy ban sáng mà táng lại.
Xong việc, ông ta giữ lời, trao cho Tả Ao đủ ba trăm quan tiền, nhưng Tả Ao chỉ lấy có ba quan, c̣n lại bảo đem phát hết cho người nghèo khó trong làng.
Gần sáu tháng sau, vào một đêm không trăng, cả nhà ông ta đang quây quần dưới ngọn đèn bỗng có tiếng người gơ cửa. Người nhà ông ta ra mở cửa, thấy trước mặt là một ông tướng uy nghi lẫm liệt nhưng có vẻ đang thất cơ lỡ vận. Khách thật thà nói ḿnh đang lỡ độ đường, xin gia đ́nh cho ăn uống. Ông ta vốn hiếu khách vội sai người nhà nấu cơm đăi khách rất mực nồng hậu.
Cơm nước vừa xong, ông khách mới nói:
- Thưa ông̣, tôi là tội phạm đang bị nhà Chúa lùng bắt. Đằng nào tôi cũng không thoát khỏi. Xin ông̣ mang dây thừng trói tôi lại rồi đem nộp cho chúa Trịnh mà lĩnh thưởng. Như vậy dù tôi có bị hại, tôi cũng giúp ích được cho gia đ́nh ông̣, c̣n hơn là uổng thân vô ích.
Cả nhà kinh ngạc sững sờ trước những lời nói của người khách lạ. Không ai nỡ hành động, nhưng ông khách cứ giục măi, bất đắc dĩ họ phải làm theo.
Chúa Trịnh được ông ta giao nộp viên tướng thất thế, hết sức khen ngợi, bèn phong cho làm chức Tri huyện để trọng thưởng. Vị khách đó chính là Mạc Kính Đô, tướng nhà Mạc đang bị thất thế. V́ cảm tấm ḷng tốt của ông lăo mà Kính Đô đáp lại ông bằng một hành động lạ lùng có một không hai trong thiên hạ.
Đúng như lời tiên đoán của Tả Ao không sai. Chỉ trong sáu tháng là được làm quan.
… Và giận!
Một hôm Tả Ao đang đi đến vùng đất nọ. Thấy ngôi đ́nh làng ở đây đặt hướng bị thất cách, ông đứng ngắm măi rồi đến gần để xem cho rơ.
Giữa lúc trong đ́nh đang làm lễ kỳ yên. Các vị chức sắc trong làng đang chuẩn bị bữa tiệc chiều. Một người biết mặt Tả Ao liền chạy ra khẩn khoản mời ông vào trong đ́nh. Các vị chức sắc được gặp thầy địa lư trứ danh nên mừng lắm, ông tiên chỉ trong làng nói:
- Hôm nay là ngày tế kỳ yên trong làng, may được gặp thầy thật là phúc cho cả làng này lắm. Nhân thể nay mai làng cho sửa lại ngôi đ́nh, xin cụ coi cho cái hướng nào tốt, làm sao cho làng chúng tôi phát khoa bảng rầm rầm, nhằm đè đầu cưỡi cổ thiên hạ một phen cho họ biết tay! Lâu nay cả làng chưa ai thi đậu cả!
Một ông hăng hái nói thêm:
- Cụ tiên chỉ nói phải đấy thưa cụ ! Các làng bên, không làng nào không có tiến sĩ, cử nhân, xoàng th́ cũng phó bảng, chót chét cũng tú tài. Riêng làng này chắc các cụ trước đặt hướng đ́nh có nhầm nhỡ ǵ đây,nên bao nhiêu năm trời vẫn suôn cành, không hưởng được trái lộc nào. Cụ đă đến đây xin ra tay giúp chúng tôi được đè đầu cưỡi cổ thiên hạ một phen cho hả !
Tả Ao chỉ cười nói:
- Tưởng ǵ chứ nếu các cụ chỉ ước có vậy th́ tôi xin ra tay, không dám nề hà ǵ! Nhưng chỉ xin ba ngàn quan tiền để lấy công thôi.
Các vị chức sắc nghe nói đến tiền công đến ba ngàn quan, th́ lắc đầu le lưỡi, có người than thở:
- Làng này v́ không đỗ đạt, nên không “tơ hào” được ǵ nên c̣n nghèo túng, chỉ mong sau này đè đầu cưỡi cổ được thiên hạ, nói ǵ ba ngàn đến năn ngàn quan chúng tôi cũng lo cho cụ được, mong cụ xem lại mà bớt cho.
Tả Ao nghĩ thầm trong bụng, ta lấy tiền giúp người nghèo chứ có phải dùng riêng đâu. Bọn chúng mi thích đè đầu cưỡi cổ thiên hạ để kiếm tiền hưởng thụ, th́ ta sẽ chiều ư thôi. Nghĩ thế nên giận, Tả Ao lên tiếng:
- Nghe các vị nói như vậy, ta cũng cảm động lắm, thôi th́ các vị có bao nhiêu để trả công, xin cứ nói thấy được ta giúp cho.
Vị tiên chỉ nghe Tả Ao nói thế, liền đáp:
- Trong đ́nh chỉ c̣n vỏn vẹn 500 quan tiền, mong cụ lấy giúp.
Tả Ao lại giận trong ḷng, đ́nh làng nghèo mà cúng kỳ yên đến hai ḅ năm trâu mười lợn như thế này th́ thánh thần nào chứng. Nhưng để làm gương cho đám chức sắc, ông cũng hài hả đáp:
- Thôi được, mấy vị đă nói thế ta cũng giúp cho làng, sau này ai cũng đè đầu cưỡi cổ thiên hạ đều được cả.
Ngay sau đó, Tả Ao ra trước sân đ́nh đặt tróc long định hướng, rồi cắm hướng mới cho ngôi đ́nh. Xong ông cáo biệt đi thẳng.
Mấy tháng sau khi đ́nh đă được xoay ngôi đổi hướng, các vị chức sắc kỳ mục không nói cho dân làng nghe chuyện, mà chỉ dặn con cháu ra công đèn sách nay mai ứng thí.
Nhưng quái lạ, tất cả đám con trai, từ lớn đến bé hễ cầm quyển sách định học, nhưng học măi mà chữ nghĩa chẳng vào đầu! Các thầy đồ được mời đến dạy cũng thở dài ngao ngán.
Rồi thay v́ sách vở bút nghiên, càng ngày càng có nhiều anh con trai con các chức sắc kỳ mục rủ nhau đi sắm ḥm đồ nghề thợ cạo, xách đi khắp nơi hớt tóc dạo ! Trong lúc hành nghề, họ tha hồ mà “đè đầu đè cổ” thiên hạ để… cắt tóc, cạo mặt, ngoáy tai…
Các cụ chức sắc lúc ấy mới ngă ngửa hiểu ra cái thâm ư của thầy Tả Ao trước đây! Nhưng cũng hiểu rơ, tại họ quá tham lam, chỉ biết tư lợi cá nhân, nên mới bị Tả Ao chơi trác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1211 of 1439: Đă gửi: 01 July 2010 lúc 10:50pm | Đă lưu IP
|
|
|
GIAI THOẠI TẢ AO
TẢ AO ÔNG TỔ PHONG THỦY
(KỲ HAI)
Ở tỉnh Đoài có một gă trọc phú thích công danh, chỉ ước cho hai con ḿnh được đỗ đạt hầu vênh vang với thiên hạ.
Nhân dịp Tả Ao ghé qua tỉnh, nhà trọc phú bèn túm lấy năn nỉ ông, đặt giúp cho một ngôi mộ làm sao cho hai đứa con được đỗ bảng nhăn, thám hoa rồi được bổ làm quan.
Tả Ao nói:
- Nếu ông thực ḷng muốn thế th́ tôi sẽ giúp, nhưng tôi xin nói thật, để thỏa ḷng việc này cũng phải tốn kém lắm!
- Tốn kém như thế nào xin ông cứ cho biết, tôi sẽ cố gắng lo liệu. Gă trọc phú nói.
- Chí ít cũng phải năm trăm quan tiền. Ông biết đấy, đoạt được bảng nhăn, thám hoa, đâu phải chuyện chơi!
Gă trọc phú liền găi đầu:
- Thưa ông, những năm trăm quan một ngôi mộ… chẳng giấu ǵ ông, tôi đang gặp cơn đen vận túng, chi những năm trăm quan một lúc, cũng khá nặng. Xin ông nới tay cho th́ tôi cảm ơn lắm!
- Thế chí ít ông chi được bao nhiêu quan tiền?
- Chừng hai trăm quan có được không? Xin ông ra ơn làm phúc, sau này như ư tôi sẽ hậu tạ thêm!
- Hai trăm quan th́ sao đủ? Nào phải phân kim, xem hướng long mạch, định huyệt, rồi cúng tế cho ngũ phương, ngũ thổ long mạch thần linh, nào Trạch chúa, Sơn hà hải ngạn chi thần, nào đương niên đương canh mệnh vị thần quân, nào thành hoàng bản cảnh đại vương liệt vị! Những ngần ấy thứ sao đủ sắm lễ…
- Thôi được! Ông đă có ḷng giúp th́ tôi cũng vui ḷng dấn thêm, ta quyết với nhau ba trăm quan tiền nhé! Xin ông bắt tay vào việc ngay cho!
- Thôi được! Tôi nể lời ông lắm v́ muốn tạo phúc cho con cái.
Tả Ao sau khi nhận tiền xong, sai người đi mua một chiếc tiểu sành. C̣n bao nhiêu tiền đem cho những người nghèo khó hết.
Hôm sau, dưới sự chỉ dẫn của Tả Ao, gă trọc phú và đám gia nhân bốc ngôi mộ tứ đại chôn vào ngôi huyệt mới. Rồi Tả Ao giao cho gă trọc phú một ống tre, trong đựng một tờ “phép”, dặn phải đúng một năm sau mới được mở ra xem. Nếu táy máy mà giở ra đọc trước, ngôi mộ sẽ hỏng mất th́ đừng trách ông.
Chưa được một năm, bỗng nhà trọc phú gặp liên tiếp nhiều tai họa, gia sản bị cướp bóc, lại bị thưa kiện, rồi bệnh hoạn. Hai thằng con trai th́ đổ đốn bỏ học, đi chơi bời lêu lổng thêm tính nghiện hút. Gia đ́nh lâm vào cảnh cùng quẫn, cả nhà phải xoay ra làm nghề mổ heo đem ra chợ bán kiếm miếng ăn. Mấy cha con hóa thành đồ tể.
Đúng ngày Tả Ao dặn, gă trọc phú tán gia bại sản mới giở ống tre ra xem, th́ thấy có một mảnh giấy trong đó viết mấy câu sau:
Thiếu tiền ba quan
Bị giảm ba phần
Bút hóa ra cây xiên (thịt)
Nghiên hóa ra thớt
Bảng nhăn thám hoa
Hóa ra đồ tể!
Đọc xong tờ giấy, cả nhà mới ngă ngửa người ra. Th́ ra lúc giao tiền cho Tả Ao, gă trọc phú đă cố t́nh đếm thiếu ba quan ! Gă có ngờ đâu hành vi ấy đă làm Tả Ao giận và cả nhà phải lănh hậu quả quá thê thảm đến như thế!
***
Ở một làng có một anh chàng láu cá thượng hạng nhưng thông minh và hiếu học. Hoàn cảnh anh ta thật đáng thương, có người chị gái góa bụa có con thơ, vẫn phải đầu tắt mặt tối nuôi em ăn học. Hai chị em bữa đói bữa no.
Anh chàng cảm thấy vô cùng phẫn chí.
Bỗng một hôm anh ta nghe tiếng thầy Tả Ao đi qua làng, bèn liều ḿnh đến lạy ông thương xót hoàn cảnh của hai chị em mà gia ân làm phúc. Tả Ao thấy anh ta mặt mày khôi ngô, lại tỏ ra con người có chí tiến thủ, bèn nhận lời.
Sau khi làm bữa cơm đăi thầy, người chị sụt sùi kể:
- Bẩm cụ chẳng may cho hai chị em cháu, cha mẹ đều mất sớm. Em cháu đă cố theo nghiệp bút nghiên, mà không hiểu sao đi thi mấy lần đều trượt. Nay chị em cháu trông cậy vào cụ, xin cụ rộng ḷng thương!
Tả Ao mới hỏi:
- Thế mộ cụ thân sinh của chị đặt ở đâu?
Người chị nghe hỏi, càng nức nở khóc rằng:
- Thưa cụ, cha mẹ chúng cháu mất từ khi chúng cháu c̣n quá nhỏ, nên đến nay không c̣n biết mộ đặt ở chỗ nào nữa!
Tả Ao suy nghĩ rồi bảo:
- Thôi, cũng không can hệ ǵ!
Đoạn ông vừa uống rượu vừa chú ư nh́n ra ngoài sân. Chợt phát hiện có một luồng khí trắng từ dưới đất bốc lên, đích thị đó là khí long mạch.
Tả Ao liền nghĩ đến phép “táng sống”, một trong những phép vi diệu nhất của môn địa lư phong thủy.
Ông sai hai chị em đào một cái hố ở ngay địa điểm có luồng khí bốc lên, sâu hơn hai thước. Sau đó bảo chàng trai đứng xuống hố, và dặn hễ thấy nóng tới đâu th́ phải báo cho ông biết tới đấy.
Đoạn Tả Ao đứng ở một chỗ khác, dùng chân dậm lên long mạch, miệng khấn:
- Bản xứ thổ địa long mạch thần linh, phóng hậu khí vào anh học tṛ thi cử lận đận.
Quả nhiên anh học tṛ bắt đầu thấy nóng ran từ dưới bàn chân nóng lên đầu gối rồi lên đùi. Anh ta nghĩ rằng chắc càng nóng nhiều và càng lên cao trên ḿnh th́ càng tốt. V́ vậy anh ta cố sức chịu nóng. Tả Ao liền hỏi:
- Nóng đến đâu rồi?
Anh học tṛ thấy đă nóng tới đùi, nhưng nói dối rằng:
- Thưa cụ, tới bắp chân rồi ạ!
Lát sau Tả Ao lại hỏi:
- Nóng tới đâu rồi?
- Thưa, tới đùi rồi ạ!
Tả Ao dậm mạnh chân hơn rồi lại hỏi:
- Nóng tới đâu rồi?
Thực ra nóng đă tới vai, nhưng anh học tṛ láu cá lại bảo :
- Thưa, tới bụng rồi ạ!
Tả Ao lấy làm lạ, tại sao lần này hậu khí lại lên chậm như thế? Ông lập tức chạy đến chỗ chàng trai, sờ vào người th́ thấy nóng đă tới vai. Ông bực lắm quát:
- Tại sao đă nóng tới vai mà anh lại bảo mới nóng đến bụng? Anh nói dối thế này rồi sẽ gặp đại họa. Tôi bảo trước cho anh biết, sau này anh tuy được làm quan nhưng sẽ phải chết bất đắc kỳ tử.
Nói xong, Tả Ao vào khoác tay nải đi luôn một mạch. Vừa đi ông vừa hối hận, rằng đă già trên đầu hai thứ tóc c̣n bị một thằng con nít́ lừa. Giá ông không nhanh trí chạy lại sờ xem th́ chắc anh chàng láu cá sẽ chờ nóng đến đầu, ắt sẽ được làm vương.
Hiệu quả của sự “táng sống” này thật là mầu nhiệm. Từ hôm đó, anh chàng học một biết mười, chẳng bao lâu chiếm được bảng vàng rồi được bổ làm quan đến chức nhất phẩm. Nhưng về sau trong nước xảy ra loạn lạc, vua sai anh ta cầm quân đi đánh, và bị trúng tên chết liền tại trận.
***
Một hôm Tả Ao đang đi bị lỡ độ đường, ông phải vào một làng xin ngủ đỡ qua đêm.
Tả Ao đi đă nhiều nơi nhưng không thấy nơi đâu buồn tẻ như cái làng này. Tất cả đàn bà trong làng đều tất bật lam lũ, gồng gánh suốt từ mờ đất cho đến lúc gà lên chuồng vẫn chưa ngơi tay.
Họ phải làm hàng xáo (bán gạo thóc), nào đong gạo, phơi phóng, sàng sẩy, phân loại gạo nào ra thứ gạo ấy rồi gánh ra chợ đua tài buôn chín bán mười, lấy tiền nuôi chồng nuôi con.
Trong khi các ông chồng lại quanh năm không mó tay vào một công việc ǵ. Suốt ngày rủ nhau hết rượu chè hút xách, lại cờ bạc thâu đêm suốt sáng.
Tuy làng này đối với ông không có họ hàng ǵ, nhưng không hiểu sao Tả Ao vẫn không thể nào nhẫn tâm mà bước đi tiếp. Ông nghĩ phải t́m cách kiếm cho bọn đàn ông trong làng một nghề ngỗng ǵ đó cho họ làm.
Sáng hôm sau, ông ra quán nước đầu làng ngồi uống nước, gặp ngay vị tiên chỉ. Sau câu chào hỏi làm quen, Tả Ao nói:
- Bẩm cụ, tôi là thầy địa lư, hôm nay rảnh rỗi đi xem phong thủy vùng ta hung cát thế nào…
Ông tiên chỉ mừng rỡ kêu:
- Ối trời đất ơi! Th́ ra cụ là thánh địa Tả Ao đấy à!? Lạy thánh mớ bái, tôi thật là được văn kỳ thanh mà bất kiến kỳ h́nh! Thưa cụ, xin mời cụ vào trong đ́nh để các vị bản chức trong làng được yết kiến thánh nhan của cụ và xin cho mấy lời chỉ bảo, xem cái lẽ hung kiết của làng ra sao ? Sau nhờ bảo ban cho chúng tôi một lời.
Trước sự niềm nở của ông tiên chỉ, Tả Ao bằng ḷng theo ông ta vào trong đ́nh. Ông được các vị chức sắc trong làng thết đăi khá tươm tất. Sáng hôm sau tất cả hương chức cùng nhau dẫn thầy đi xem phong thủy. Nhân tiện, Tả Ao hỏi xem trong làng này có nghề ǵ phát đạt nhất ?
Cụ tiên chỉ đáp:
- Ấy thưa cụ, trong làng này độc nhất có nhà tôi làm nghề làm cối xay đă lâu. Cái nghề tuy kiếm được đồng tiền bát gạo, nhưng phải cái lao lực chứ không được nhàn hạ. V́ vậy mà bao nhiêu tráng đinh trong làng quen dài lưng chẳng ai chịu theo nghề! Tôi cũng rất lấy làm tiếc !
Tả Ao nghe xong vừa đi vừa nghĩ, rồi ông lẩm bẩm:
- Không chịu theo, lười lao động hả? Rồi ta cho phải theo, phải làm tất!
Chợt Tả Ao phát hiện ra một g̣ đất ở cuối làng, cho rằng có thể làm nên cơ sự ở cái g̣ đất này.
Ông bảo với vị tiên chỉ:
- Cái g̣ này án ngữ ở đây không lợi cho làng ta mấy. Nó cản trở cả phần đinh (sinh con sinh cháu) lẫn phần phú (tiền tài). Vậy phải được cải đổi đi một phần, tất sẽ có lợi.
Các hương chức đều nhất trí:
- Cụ dạy thế nào chúng tôi xin thi hành như thế. Được như lời cụ th́ thật phúc cho làng quá.
Ngay lập tức các tuần đinh được điều động mang cuốc xẻng ra bạt hai dẻo đất phía tả và phía hữu của g̣ đất, như thể cắt bớt cánh của con chim ưng. G̣ đất chỉ c̣n lại một ụ tṛn, hai bên có hai cái tai như tai cối xay gạo.
Thấy lạ một vị kỳ mục lên tiếng thắc mắc hỏi:
- Thưa cụ tôi xin hỏi, cứ như con mắt tôi nh́n th́ g̣ đất này bây giờ trông sao mà giống cái cối xay gạo đến thế ?
Tả Ao cười:
- Thưa cụ, sách địa lư đă dạy: “Địa lư bất ngoại địa h́nh” (địa lư không ngoài h́nh thể đất đai). Nên sau này về hậu sự, các cụ sẽ thấy sách dạy không sai.
Sau khi cải đổi h́nh thể g̣ đất xong, Tả Ao cáo bận xách túi đi ngay. Các hương chức biếu ông tiền, ông cũng nhất định từ chối.
Quả nhiên mấy tháng sau, t́nh h́nh trong làng khác hẳn. Các bà vợ đều mang thai hết một loạt. Rơ ràng làng đă phát về “đinh”, nhưng đồng thời v́ bận con mọn nên không ai đi bán hàng xáo nữa.
Các ông chồng hết c̣n cơ hội bám váy vợ để hưởng thụ an nhàn, nên cực chẳng đă phải tính cách đi kiếm sống. Ông tiên chỉ cho gọi họ sang mở ḷ đóng cối, không một ai chê bai ǵ nữa. T́nh trạng rượu chè cờ bạc của cánh đàn ông hầu như tuyệt hẳn.
Mà cái nghề làm cối xay này rơ ràng là kiếm ăn được, cối xay làm ra không kịp để bán. Các lái buôn từ các tỉnh tín nhiệm thứ cối gỗ mít thượng hạng của làng, đă ùn ùn kéo đến mua cối về bán.
Tất cả mọi người ngẫm lại lời của Tả Ao nói ngày trước mà bái phục. Rơ ràng “địa lư bất ngoại địa h́nh” là cuối làng có một g̣ đất có h́nh cối xay, và làng th́ lại phát ề nghề làm cối xay, nổi danh khắp thiên hạ!
CÁI CHẾT CỦA TẢ AO
Tục ngữ có câu “hàng săng chết bó chiếu” (người làm áo quan chết bó chiếu). Mang câu ấy luận vào Tả Ao thấy rất đúng.
Tất cả mọi người đều biết, suốt một đời Tả Ao đă t́m đất đặt mộ cho không biết bao nhiêu người, bao nhiêu làng xă. Và nhờ có tài siêu việt của bậc thánh nhân phong thủy nơi ông, mà những làng, những người, những ḍng họ đă phát đạt, thậm chí sau đó c̣n truyền tử di tôn cho đến mấy đời con cháu.
Cũng v́ quá mải mê giúp người, giúp đời, mà Tả Ao b́nh sinh lấy sự đi chu du giúp thiên hạ là chính, ít khi ở nhà. Chính v́ vậy mà cho đến lúc tuổi già, Tả Ao vẫn không rảnh rang được lúc nào để nghĩ tới việc “hậu sự” cho con cháu của ông.
Là thầy địa lư bậc nhất trong thiên hạ mà ông… quên việc chọn cho ḿnh một ngôi đất để sau này con cái táng ông vào đấy, được phát phúc về sau.
Măi đến khi nhận thấy ḿnh sắp sửa về chầu tiên tổ, ông mới gọi con cháu đến bảo, hăy khiêng ông đến ngay một nơi có miếng đất h́nh “nhất khuyển trục quần dương” (một con chó đang đuổi một đàn dê), mà ông chợt nhớ ra đă có lần để ư đến.
Thế nhưng con cháu khiêng ông mới đi được một đoạn đường th́ ông đă thở hắt ra. Biết không kịp đến chỗ đất kia, mà có dặn th́ con cháu cũng không biết đường mà lần, ông bèn bảo chúng dừng vơng lại bên đường, đoạn gượng quay nh́n một g̣ đất ngay cạnh đường, rồi chỉ tay mà nói :
- Chỗ kia là đất “huyết thực” bất đắc dĩ th́ cứ chôn ta vào đây cũng được !
Nói xong, Tả Ao liền tắt thở.
Con cháu y lời, táng ông vào miếng đất ấy, đó chính là một cái bờ ao. Cũng v́ sự việc này mà người ta gọi Tả Ao là Trạng Bờ Ao.
Cũng chính v́ vậy nghề địa lư phong thủy của Tả Ao bị thất truyền, v́ ông mải mê đi đó đây, đă không t́m ra một đệ tử để chân truyền môn địa lư ông học được từ bên Trung Hoa mang về.
Nhưng Tả Ao h́nh như đă tiên liệu được điều này, nên trong sách để lại cho con cháu có hai câu thơ:
“Đạo cao đức trọng chưng thân
Hổ long liên phục, quỹ thần liên kinh”
Có nghĩa, có đức trong cuộc sống th́ sẽ có phúc, người có phúc sẽ được đất kết, con cháu nhờ đức đó mà vinh hiển (được mọi người kính nể bởi tiếng tăm của cha mẹ để lại).
Khi diễn đạt hai câu thơ này, câu Đạo cao đức trọng chưng thân là người có đức có tài, th́ rồng cọp (Hổ Long) cũng phải phục (chưng thân, liên phục), quỷ thần cũng tránh xa (quỹ thần liên kinh).
Hiểu sâu sa hơn lời của Tả Ao, là làm người phải sống có đạo lư, kính trên nhường dưới, tôn trọng nhân lễ nghĩa trí tín, mọi sự sẽ được tốt lành.
Đức không phải từ Thiên Địa (Trời đất) ban, mà chính con người phải tạo ra mới có. Có đức ắt sẽ có đất kết, không cần phải tầm long, định hướng theo phong thủy.
Chúng tôi muốn mượn lời của Tả Ao, một thầy phong thủy nổi danh của nước ta, để kết thúc bài viết này.
Thiên Việt
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1212 of 1439: Đă gửi: 02 July 2010 lúc 5:40pm | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNG NGÀN DÂN VỀ BẾN CÁT XEM Ổ MỐI H̀NH PHẬT NGỒI
Ngày 30-6-2010, hàng ngàn người dân trong tỉnh B́nh Dương đă ùn ùn kéo về lô cao su, thuộc Công ty Cao su Bến Cát, xă An Tây, huyện Bến Cát để xem và chiêm bái ổ mối, đùn từ dưới đất lên được cho là giống h́nh dáng một tượng Phật.
Một người dân khẳng định, tượng Phật “ổ mối” ngày càng to ra và rất giống Phật ngồi thiền. Tai, mắt, mũi, tóc rất đầy đủ…
Việc ổ mối có h́nh dáng giống tượng Phật khiến người dân hiếu kỳ tụ tập về xă An Tây tăng đột ngột. Các lô cao su của Công ty cao su Bến Cát có thời điểm lên đến hàng ngàn người.
Công an An Tây và An Điền đă huy động lực lượng ǵn giữ an ninh trật tự. Thế nhưng, sự mê tín của người dân ngày càng gia tăng, nhiều người bắt đầu mua nhang đèn, hoa quả đến cúng bái, tụ tập lạy Phật, và chính quyền xă đành bất lực.
Chiều cùng ngày, lănh đạo Công an huyện Bến Cát đă họp khẩn và đưa ra phương án thực hiện di dời tượng Phật “ổ mối” về chùa Tổ Long Hưng.
Nhưng người dân không ngớt đổ dồn về đây, thậm chí có người ở Thành phố hay tin, đă có mặt tại chùa để thắp nhang cầu nguyện, tận tay sờ tượng Phật này gây nên cảnh tượng chen lấn tại chùa Tổ Long Hưng.
Theo anh Bùi Ngọc Ẩn, người dân xă Tân Định, huyện Bến Cát, việc ổ mối đùn từ dưới đất lên có h́nh thù nào đó là chuyện b́nh thường, nhưng không ngờ người dân hiếu kỳ và mê tín đến như vậy.
Trước t́nh h́nh đó, Thượng tọa Thích Thiện Long, chủ tŕ chùa Tổ Long Hưng cho biết, việc quyết định đưa “ổ mối” có h́nh dáng tượng Phật về chùa là quyết định đúng nhằm tôn trọng tín ngưỡng của nhân dân và để tuyên truyền cho người dân giảm bớt hiếu kỳ, mê tín.
Tuy nhiên, trước việc người dân kéo về chùa quá đông, ban trụ tŕ rất lo ngại mất an ninh trật tự. Chùa đề nghị chính quyền hỗ trợ giữ ǵn sự b́nh yên cho chùa và yêu cầu người dân đến viếng chùa, xem Phật “ ổ mối” th́ giữ ǵn an ninh chung.
Dương Chí Tưởng
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1213 of 1439: Đă gửi: 03 July 2010 lúc 6:52pm | Đă lưu IP
|
|
|
NGƯỜI CON GÁI TỈNH BẮC
Vũ đến trọ học ở hàng cơm bà cụ Đỗ đă ba tháng rồi. Nhà chật chội, mái lợp tôn, nên mùa hè rất nóng nực. Nhưng Vũ không muốn t́m chỗ trọ khác, bởi bà cụ Đỗ tính giá rẻ, phần v́ mọi việc trong nhà, cụ làm lấy, ít phải thuê mượn, phần v́ chính gian nhà ấy, cụ cũng không phải mất tiền thuê.
Bà cụ Đỗ hồi cư rất sớm, thấy gian nhà bị chiến tranh tàn phá, chỉ c̣n trơ lại hai bức tường và một gian gác xép đằng sau, nên dựng mái tạm trú. Măi, chủ nhà chưa thấy về, nên cụ yên chí ở, tưởng chừng như đất của ḿnh.
Gian gác xép ấy bỏ không. Có lẽ v́ thấy có nhiều chiếc rầm gỗ bị cháy xém, sắp rơi, trần lại nhiều chỗ nứt lở, nên chẳng ai dại ǵ hứng lấy tai nạn. Mùa hè đến, cùng với những kỳ thi. Vũ cần phải học nhiều lắm, nhưng không được như ư. Nhà chật chội quá. Khách ăn hàng lại thường đông, ăn uống bi bô rầm rĩ.
Hơn nữa, mái tôn càng làm nắng hè gay gắt. Bởi vậy, Vũ đă nghĩ nhiều đến gian gác xép bỏ hoang ấy. Một chiều chủ nhật, Vũ mượn được thang, dựng trèo lên xem. Gác tuy bỏ hoang nhưng không đến nỗi bẩn quá. Sàn vẫn c̣n nguyên vẹn, chỉ có nhiều bụi cát, cùng một ít vôi vữa long trên trần xuống.
Tường cũng c̣n khá sạch. Riêng các cánh cửa đều đă mất hết. Gió bên ngoài lùa vào mát rượi. Vũ suy tính nếu ḿnh quét dọn qua loa, mỗi buổi tối, trèo lên gác xép này, thắp nến mà học rồi trải chiếu ngủ th́ tốt quá. Vừa yên tĩnh, vừa mát mẻ.
Cẩn thận Vũ hỏi qua bà cụ th́ được ưng thuận ngay, bà chỉ dặn thêm rằng:
- Nhưng cậu phải coi chừng, nhà cửa ọp ẹp lắm, khéo mà “oan gia”.
Ngay buổi chiều, Vũ h́ hục quét dọn. Gió lùa vào mát rượi. Gian gác bỏ hoang đă được Vũ đặt cho cái tên văn vẻ: “Nghênh Phong Các". Mấy chồng sách, vừa để học, vừa để gối đầu, một ngọn nến, một manh chiếu, đó là tất cả đồ đạc trần thiết trong căn gác “đón gió” này.
Tối đến, Vũ sung sướng trèo lên gác của ḿnh. Lại rút luôn thang lên theo, v́ e ngại mấy ông Tổng, Xă rượu say rồi lên phá quấy. Thật là tĩnh mịch. Tiếng huyên náo trong hàng cơm vẳng xa hẳn; bên ngọn lửa nến lập ḷe Vũ yên chí học.
Nhưng chưa ôn bài được mấy lần, Vũ đă thiu thiu ngủ gục. Cho đến lúc tiếng chuông đồng hồ nhà thờ dóng dả, Vũ mới choàng mở mắt. Trời bạch nhật, có lẽ đă sáu giờ sáng. Cây nến cháy đến gốc c̣n lưu lại vũng nến đọng. Cuốn sách đêm trước vẫn c̣n mở ở trang học dở.
Vũ bực ḿnh quá, v́ thường rất tỉnh táo, có khuya, mệt th́ đi ngủ, chứ không bao giờ ngủ gục như vậy. Vũ cho đó là v́ gác mát mẻ quá lại yên tĩnh, nên dễ làm cho người ta chợp mắt.
Đêm hôm sau, Vũ đề pḥng cẩn thận. Ăn cơm xong, Vũ uống một cốc cà phê thật đặc. Lại mang lên theo một bao thuốc lá nữa. Gió lùa mát rượi. Tiếng cười nói văng vẳng xa...
Dưới ánh nến, chập chờn theo gió, Vũ ngồi chăm chú học, nhưng không hơn ǵ đêm trước chốc lát đă thiu thiu buồn ngủ. Sực nhớ, Vũ với tay cầm lấy bao thuốc lá. Nhưng lại nghĩ: Hăy cố dùng nghị lực chống chọi đă, cùng lắm hăy nhờ đến thuốc lá, dùng ngay e sẽ thành thói quen. Và Vũ không bóc bao thuốc vội, để bao lên chồng sách.
Nhưng chỉ một lát sau, Vũ đă ngủ gục, cho tới khi tỉnh dậy th́ đă thấy cây nến hao quá nửa. Vũ giận ḿnh vô cùng.
Vũ nhất định lấy thuốc lá để chống lại cơn buồn ngủ lạ lùng. Nhưng bao thuốc lúc năy để trên chồng sách đă không thấy nữa. Có lẽ khi ngả lưng xuống đă quơ tay làm rơi bao thuốc chăng. Vũ bèn nh́n quanh và quả nhiên thấy bao thuốc lá ở ngay sau lưng ḿnh. Nhưng lạ thay bao thuốc lá đă bị bóc ra tự bao giờ. Một điếu thuốc lại kéo lùi ra khỏi bao chút ít như sẵn sàng mời Vũ hút.
Vũ dụi con mắt, kinh ngạc! Chàng cố nhớ lại và đinh ninh quả quyết, lúc trước chàng chưa hề bóc bao thuốc mà chỉ để bao nguyên lên trên chồng sách. Vừa suy nghĩ Vũ vừa rút điếu thuốc ra ngậm lên môi. Ngay phía sau Vũ, bỗng một que diêm x̣e lên. Một bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại, đưa que lửa mời Vũ châm thuốc.
Vũ hoảng hốt nh́n lại. Và thấy đó là một nữ lang rất đẹp, tuổi khoảng mười sáu, mười bảy có vẻ như một nữ học sinh. Vũ liếc mắt nh́n cái thang tre, thấy vẫn c̣n để nằm yên chỗ chân tường.
Nữ lang mỉm cười và nhắc:
- Anh châm thuốc.
Tiếng nói nhẹ nhàng như gió thu. Vũ ngập ngừng măi mới thốt ra lời:
- Cô, cô đến đây? Đêm khuya...
Nữ lang ngắt lời:
- Nhà em ở gần đây. Nhân nh́n qua cửa sổ, thấy cây nến bị anh quờ tay đổ nghiêng, nên vào dựng lại. Vừa toan quay về, th́ anh chợt tỉnh.
Vũ nh́n lại, quả nhiên thấy trên mặt chiếu, có vết sáp nến loang. Nếu vậy, không có nữ lang, lửa nến có thể bén dần qua chống sách! Nhưng Vũ vẫn ṭ ṃ muốn biết:
- Xin cảm ơn cô. Nhưng cô là...
Nữ lang mỉm cười:
- Em tên là Ngọc Bách, nhà ở cạnh đây. Nhân đêm khuya, trằn trọc không ngủ được, thấy gian gác này trước bỏ không, nay có ánh lửa và bóng người, nên ṭ ṃ nh́n vào... anh tha lỗi cho em nhé!
Vũ hỏi tiếp:
- Nhưng cô làm cách nào mà vào đây được?
Nàng mỉm cười:
- Anh không nên hỏi nhiều. Em là phận gái, lại chưa hề quen anh bao giờ, nên đột ngột đến đây, thực quá ư trơ trẽn. Chính v́ vậy mà em không muốn nói rơ, anh biết nhiều để làm chi. Ngừng một lát, nàng lại tiếp:
- Chúng ta quả là t́nh cờ gặp gỡ, thời gian họp mặt chưa thể biết dài ngắn ra sao. Vậy tốt hơn hết là chúng ta cứ vui khi chúng nhau gần gũi.
Vừa nói xong, nàng đến ngồi xuống chiếu, sát bên cạnh Vũ. Vốn tính người đứng đắn, Vũ nghiêm sắc mặt nói:
- Trai gái gặp gỡ đêm khuya, là một sự chẳng hay. Hơn nữa, cô và tôi lại chưa hề quen biết bao giờ. Vă lại, tôi đang cần yên tĩnh để học v́ kỳ thi đă tới nơi. Nếu cô có ḷng mến, xin để trưa mai, tôi có th́ giờ rỗi răi, tôi sẽ tiếp chuyện với cô.
Nữ lang làm ra bộ hờn dỗi. Nàng đứng dậy, liếc nh́n chồng sách trên chiếu cười nhạt:
- Có lẽ anh tưởng chỉ có anh là học thôi ư? Và anh tưởng những “h́nh học không gian” những “phân tích hóa học” kia của anh là ghê gớm lắm rồi sao? Có lẽ v́ thế nên anh mới dám đem so sánh giữa Học với T́nh!
Vũ sốt ruột:
- Cô muốn tranh luận ǵ, xin cũng hăy để đến trưa mai!
Nữ lang không nói ǵ hơn nữa, quay ngoắt đi. Vũ xiết nỗi ngạc nhiên, khi thấy nàng không xuống lối cầu thang, mà lại vượt qua cửa sổ.
Gió đêm khuya càng thêm lạnh lẽo. Vũ bất chợt thấy rùng ḿnh nhưng được cái không buồn ngủ nữa. Đêm ấy chàng học được kỹ càng cho đến ba giờ sáng mới dọn dẹp đi ngủ.
Hôm sau, lúc đi học về, ngồi ăn cơm, Vũ lại lựa lời hỏi bà cụ Đỗ. Nhưng bà cụ cho biết hai bên hàng xóm không hề có một thiếu nữ nào. Và cả quanh đây không có cô con gái nào tên là Ngọc Bách giống như h́nh dáng của lời Vũ tả.
Vũ ngạc nhiên nhưng chưa nói rơ sự thực ư muốn đợi xem trưa nay, người con gái kỳ dị ấy có đến gặp ḿnh như lời đă yêu cầu không. Nhưng không thấy đến.
Buổi tới hôm ấy, Vũ lại lên căn gác của ḿnh ngồi học. Chàng lại thấy thiu thiu buồn ngủ, khi gió mát lùa vào. Tuy vậy, chàng đă biết trước việc xảy ra, nên ung dung lấy thuốc lá châm hút. Rồi ngồi đợi.
Quả nhiên, chốc lát thấy Ngọc Bách đến. Lần này, Vũ thấy rơ ràng nàng do lối cửa sổ mà bước vào, nhẹ nhàng như một cái bóng. Ra chiều thân mật, Ngọc Bách ngồi ngay xuống cạnh Vũ. Rồi lă lơi trách:
- Em hôm nay lại hơi muộn, anh có giận không?
Vũ lặng thinh không nói, chỉ lấy sách vở ra học. Nàng lại nh́n chăm chăm vào mặt Vũ rồi tiếp:
- Có lẽ không giận nhưng ư chừng cũng mong đợi lắm th́ phải?
Vũ thẳng lời cự:
- Hôm qua tôi đă nói với cô rằng tôi bận học thi không tiện tiếp chuyện. Tôi đă hẹn buổi trưa, muốn nói năng ǵ, sao cô không lại?
Ngọc Bách ra vẻ phụng phịu:
- Anh tưởng con gái muốn gặp đàn ông một cách tự nhiên lúc nào cũng được hay sao? Anh không sợ người ta trông thấy dị nghị ư? Về phần em th́ không ngại, nhưng lo cho anh bị người chế giễu.
Vũ lắc đầu:
- Tôi không sợ. Việc làm đàng hoàng, chẳng sợ ai cười hết, mặc cho có người ngờ vực, nhưng ḷng ḿnh thẳng thắn th́ dư luận sai lạc ấy tôi cũng chẳng quan tâm. Tôi ngại là ngại sự đêm hôm khuya khoắt cô lại đây, nguyên một sự gặp gỡ ấy cũng đă là bất chính rồi. Vậy mong từ sau, cô đừng đến đây nữa, muốn hỏi ǵ xin đợi ban ngày.
Ngọc Bách rưng rưng ngồi khóc. Một lát sau mới nói:
- Em biết khi người con gái tự t́m đến gặp người con trai, bao giờ cũng bị khinh rẻ. Nhưng em dám đường đột, chẳng qua là tưởng anh khoáng đạt, không chấp nê những nhỏ nhặt thường t́nh. Không ngờ anh cũng chẳng hơn ǵ người khác.
Vừa nói nàng vừa gục xuống gối Vũ mà khóc nức nở. Nhưng Vũ gạt ra, nghiêm giọng bảo:
- Những lời tôi nói đă đầy đủ. Cô nên hiểu biết và đừng quấy rầy thêm nữa!
Rồi quay sang phía khác mà ngồi học lớn tiếng làm như không có ai ở cạnh ḿnh. Ngọc Bích vùng đứng dậy. Nàng biến sắc, nói:
- Số anh sắp chết đến nơi, ta thương t́nh đến cứu. Lại không biết thân, c̣n làm ra bộ kiêu kỳ, vậy hăy coi chừng.
Nói rồi, bước ra cửa sổ biến mất. Vũ vừa ngạc nhiên vừa bâng khuâng. Chàng không hiểu người con gái ấy là ai, ma quái chăng, người thực chăng? Trước lời dọa nạt kia chàng không sợ. Những cảnh chinh chiến đă làm cho Vũ tin tưởng ở số mệnh. Sống, chết, chẳng phải là những thứ có thể t́m, hoặc tránh được dễ dàng.
Vũ vừa toan gác bỏ những ư nghĩ vẩn vơ ấy để chuyên tâm ngồi học, th́ chợt cơn gió mạnh từ đâu ào ào tới làm cho ngọn nến tắt phụt. Vũ định sờ lấy bao diêm châm, nhưng không thấy. Gió như lạnh hơn lúc trước, làm cho Vũ chợt rùng ḿnh. Ngoài trời không đến nỗi tối lắm. Những lùm cây rung động như những bóng đen h́nh dáng to lớn lạ kỳ...
Giữa khung cửa sổ, Vũ bỗng thấy hiện ra một bộ xương người trắng xóa, dập dờn đi lại.
Vũ biết lời dọa nạt của người con gái kỳ dị đă thực hiện. Đă suy nghĩ từ trước, nên Vũ không lấy làm kinh hoảng. Bộ xương ấy bước vào, tiến đến trước mặt Vũ. Cái đầu nhe bộ răng trắng nhởn nhơ cười một cách rùng rợn.
Vũ ráng b́nh tĩnh, vẫn cứ ngồi yên giả bộ học. Thoáng cái, bộ xương đă biến đâu mất. Vũ cười thầm:
- Mi dọa ai th́ được, chớ dọa ta sao nổi?
Chưa dứt lời, một thanh xương tay bỗng từ trên trần nhà rơi xuống, ngay trước mặt Vũ. Tiếp đó, là thanh xương mỗi chốc thêm nhiều, đến mấy chiếc xương sườn.. Thấy đống xương mỗi chốc thêm nhiều, lù lù trước mặt.. sẵn lọ mực trên bàn Vũ cầm luôn ném vào bộ xương. Mực đổ tung tóe, bộ xương vụt biến mất.
Vũ tưởng vậy là yên. Không ngờ Ngọc Bách lại hiện ra đứng cạnh chàng, nghiêm giọng trách:
- Anh thực là tệ! Lại là người đă hấp thụ văn minh Tây Âu, sao không biết quư người phái yếu?
Vũ thẳng lời, cự lại:
- Người ta chỉ có thể lịch sự đối với người lịch sự! Quấy rầy làm mất tự do của kẻ khác, đó có phải là cách cư xư của hạng người có giáo dục hay không?
Nữ lang không nói lại được, tần ngần đứng lặng người, chốc lát mới thở dài. Vũ thấy sắc mặt nàng vô cùng buồn thảm, cũng động ḷng, hỏi:
- Cô là ai, xin nói thật: Nếu c̣n giấu giếm ta không bao giờ muốn nói chuyện.
Ngọc Bách hỏi lại:
- Nói thiệt liệu anh có khỏi sợ hay không?
Vũ cười:
- Hỏi thế là thừa, nếu là kẻ nhút nhát th́ ngay từ đêm trước tôi đă không dám lên căn gác này ngồi mà học nữa.
Nữ lang gật đầu:
- Chính đó là một điều mà em lấy làm kính phục. Em không phải là người, chính là ma.
Vũ thản nhiên:
- Tôi cũng đă đoán biết ngay.
Rồi Vũ lại nói:
- Thường thường tôi nghe thấy nói đến oan hồn, song chưa tin là thực; hồn ma c̣n ẩn hiện lẩn quất nơi đây, ư hẳn cũng có điều oan khuất chứ chẳng không?
Ngọc Bách rươm rướm nước mắt, thưa:
- Sự đời man mác những nỗi oan khiên nhiều không kể xiết, nhất là trong thời chiến tranh ly loạn này, chẳng phải là trường hợp riêng em. Có điều kẻ chết đi, dù sao cũng mong nắm xương tàn được vùi sâu, chôn chặt, thế mà em th́ bộc lộ, gián nhấm, chuột gậm, thê thảm vô cùng.
Vũ thấy nàng từ năy giờ vẫn đứng trước mặt ḿnh, chớ không dám suồng să như trước, nên dịu dàng bảo:
- Dù sao nữa cũng xin mời cô ngồi xuống đây. Theo luân lư Khổng Mạnh, trai gái “bất tương thân”, nhưng thiển nghĩ: đă là âm dương cách biệt, th́ hai thế giới khác nhau, chúng ta là ngay thẳng nói chuyện, tất cũng không ai chê trách vào đâu được!
Nữ lang bùi ngùi nói:
- Nghe lời anh, em chợ nhớ đến ba em ngày xưa, tuy là người Tây học, mà vẫn giữ được nền nếp Đông Phương, quả thực cũng là hiếm có vậy. Càng nhớ lại trong mấy hôm nay, có biết bao nhiêu cử chỉ hành động suồng să, thẹn chết đi một lần nữa được.
Vũ gật gù, tán thưởng:
- Nghe lời, thấy rơ ràng là người có học thức. Mong rằng đừng giấu giếm, xin cô kể rành mạch câu chuyện từ đầu.
Ngọc Bách lau nước mắt thưa:
- Nguyên những lời vàng ngọc ấy cũng đủ an ủi em được ngàn phần. Em tên thật là Ngọc Bách, họ Nguyễn, vốn quê ở tỉnh Bắc, con của một ông Tham tá, đă từ trần từ lúc em mới lên mười lăm tuổi.
Mỉm cười chua chát, Ngọc Bách lại tiếp:
- Năm nay em mười tám tuổi! Nói như vậy, nghĩa là: khi chết th́ em mới mười tám tuổi, nhưng nếu tính theo người sống, qua mấy năm tao loạn th́ hiện nay em đă ngoài hai mươi... già mất rồi.
Vũ nghĩ thầm trong bụng:
- Khi đă là đàn bà, dù chết đi rồi, cũng vẫn c̣n lo lắng đến sắc đẹp tàn phai.
Nữ lang lại kể tiếp:
- Trong gia đ́nh, tuy em là lớn nhất, nhưng v́ em theo lời trối trăn của cha em dặn lại, nhất định cho em đi học đến nơi đến chốn. Bởi vậy, xưa khi đỗ bằng cơ thủy ở tỉnh Bắc, em được mẹ em cho về học bậc Trung học tại Hà Nội. Cẩn thận mẹ em cho em ăn trọ tại nhà bà Phán Tâm ở ngay liền vách nhà này.
Ngừng lại giây phút, Ngọc Bách lại kể:
- Nếu không có chiến tranh th́ không đâu đến nỗi... Khi được lệnh tản cư, bà Phán cùng những trẻ nhỏ đều về quê cả, chỉ c̣n lại một người con trai lớn, đi làm công sở và em cùng một người vú già ở lại.
Bỗng đô thành khói lửa mù trời, căn nhà bên cạnh này (tức là nhà em ở) bị sụp đổ. Người u già, cũng như con trai bà Phán, đều bị chết vùi trong đống gạch ngói. Riêng có em là may mắn núp dưới chân cầu thang được thoát chết.
Nghe tiếng bom đạn râm ran em sợ hăi vô cùng, ḅ lần sang hàng xóm tức là căn nhà này, lúc đó bỏ không v́ người trong nhà đều đă tản cư từ trước. Sợ hăi em t́m được chiếc thang, trèo ẩn lên trên trần căn gác này, v́ em cho đó là chỗ ẩn náu kín đáo nhất.
Thân gái trong thời binh lửa, may ra nhờ đó mà được an toàn chăng. Thường lệ, mỗi khi t́m kiếm thức ăn, nước uống đầy đủ rồi th́ em lại trèo lên trần nhà, và rút thang lên theo. Em có ngờ đâu, chính gian nhà này cũng bị sụp đổ, chiếc thang em vừa trèo lên bị rơi xuống.
Thế là bỗng dưng bị giam gọn trên trần gác, với một số lượng thức ăn đủ chừng ba ngày. Em chỉ c̣n một hy vọng có thấy bóng người nào th́ kêu cứu, không những trong lúc khói lửa tơi bời, ai cũng lo lẩn trốn nên em ngồi yên trên trần đă bốn ngày liền, mà cũng không hề thấy có một bóng người nào.
Vừa đói và khát, em đành phải chịu cực h́nh, giống hệt như người bị lạc lơng giữa nơi sa mạc. Cho đến khi sức một yếu dần em thở hơi cuối cùng, thiệt oan một đời xuân xanh đầy hứa hẹn.
Vũ nói tiếp:
- Rồi sao nữa, xin cô cứ kể tiếp cho nghe!
Ngọc Bách thở dài:
- Rồi ngày tháng trôi qua. Cảnh đô thành dần dần trở lại đông đúc, vui vẻ hơn xưa. Riêng có tấm oan hồn của em vẫn bị ngậm ngùi, đáng thương hại nhất là một nắm xương tàn rụi vẫn bị bộc lộ trên trần nhà này, làm mồi cho gián, chuột.
Vũ ngắt lời:
- Nhưng tại sao thấy tôi lên học trên đây, cô lại hiện h́nh bỡn cợt? Hồn oan đau tủi, há lại c̣n ưa thích những chuyện cợt đùa...
Ngọc Bách rưng rưng nước mắt:
- Anh quở trách như vậy em xin nhận lỗi, nhưng chỉ v́ em ngu muội, lóng nghe thấy bọn yêu quái thường bàn nhau rằng, nếu chúng t́m được người thế mạng, th́ sẽ được đầu thai thành kiếp khác!
Thoạt đầu thấy anh lên học trên căn gác trống này, em dùng tà khí làm cho tinh thần anh bị hôn quyện, rồi sau đó định hiện nguyên h́nh người con gái đẹp, để nhờ nhan sắc mà quyến rũ anh.. nhưng anh không hề v́ sắc đẹp mà động tâm.
Em lại định tác quái để cho anh sợ hăi.. nhưng kết cục cũng bị thất bại.. Em thực đă đắc tội với anh nhiều lắm.
Vũ ngắt lời hỏi:
- Bây giờ cô muốn ǵ?
Ngọc Bách gạt nước mắt, thưa:
- Em chỉ mong anh v́ thương người bạc phận, ra tay tế độ, chôn cất cho yên đẹp nắm xương tàn của em mà thôi. Như vậy, em không c̣n phải oán hận ǵ nữa.
Vũ nhận lời, Ngọc Bách sụp lại tạ ơn, nhưng Vũ giục nàng hăy ra đi, v́ âm dương cách biệt, lần lửa lâu lai, cũng e hại cho cả đôi bên.
Ngay sáng hôm sau, Vũ hỏi thăm những người ở gần đấy, họ đều nhận rằng có thực, tại nhà bà Phán Tâm khi xưa có cô con gái tỉnh Bắc trọ học, nhưng h́nh như đă thiệt mạng trong những ngày khói lửa đô thành.
Vũ lại t́m thang trèo lên trên trần nhà lục lạo khắp nơi, quả nhiên có một đống xương người, nhện giăng, bụi phủ, riêng lạ một điều là có mấy khúc xương rơ ràng có vấy mực. Sau khi t́m được xương cốt của cô gái, Vũ bèn nhờ người chôn cất, cho đúng lời hẹn với hồn ai!
Phạm Cao Cũng
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1214 of 1439: Đă gửi: 05 July 2010 lúc 3:04am | Đă lưu IP
|
|
|
DƯỚI MÁI CHÙA HOANG
Cạnh con đường ṃn, ven sườn núi tại Ngọc Nam, có một ngôi chùa nhỏ hoang vắng, nằm im ĺm giữa một nơi hẻo lánh và quạnh quẽ. Mùa xuân năm ấy giặc giă và trộm cướp nổi lên, dân chúng miền phụ cận đă chạy tản mác đi nơi khác, vị trụ tŕ trong chùa cũng bỏ trốn, chỉ để một ḿnh ông già “tứ cố vô thân”ở lại đèn hương sớm tối.
Hết xuân sang hạ khí trời trở nên mát mẻ, tối hôm ấy như thường lệ, ông già dọn dẹp các nơi xong, đang định vào căn pḥng nhỏ phía sau Phật điện nghỉ ngơi, bỗng nghe có tiếng gơ cửa nhè nhẹ vang lên ở phía ngoài, ông đi ra mở cửa th́ thấy một vị sư áo quần lam lũ râu ria xồm xàm, tay cầm chiếc thiền trượng (cái gậy), trên lưng đeo một cái đăy nhỏ đang đứng dưới thềm cửa trước chùa.
- Ngài cần việc ǵ? Ông già hỏi.
- Tôi đi vân du đến đây th́ trời tối, không có chỗ trọ, định vào quư tự xin tá túc một đêm.
- Chùa đây không phải chốn tùng lâm, không tiện tá túc. Vả lại, sư cụ trụ tŕ đi vắng, tôi chỉ là người trông nom đèn hương trong chùa, xin sư cụ từ mẫn cho. Ông già uyển chuyển đáp khéo.
- Tôi cũng biết chùa đây không phải chốn tùng lâm. Vị khách tăng nói. Song đến đây không c̣n thấy nơi nào có thể ngủ trọ được. Giờ trời đă tối xin lăo vui ḷng cho tôi nghỉ tạm một đêm.
Sau một lát ngần ngừ ông già nói:
- Trong chùa vẫn c̣n một căn pḥng nhỏ bỏ không, sư cụ có thể nghỉ tạm. Song chỉ hiềm là không có chiếu chăn ǵ cả, mà lương thực cũng eo hẹp lắm!
- Điều đó không ngại, tôi ngồi được rồi, không cần chiếu chăn. C̣n thức ăn th́ tôi đă có mang theo lương khô đây, không dám phiền bàn đến lăo.
- Vậy thỉnh cụ vào, nhưng xin cụ cho biết pháp danh và cụ ở đâu tới?
- Tôi là Vân Không từ Triết Giang đến.
Ông già đưa sư cụ Vân Không vào. Khi đi qua Phật điện, ông thắp ngọn đèn dầu trên bàn thờ lên, rồi dẫn sư cụ vào căn pḥng phía sau đối diện với pḥng của ông. Căn pḥng bỏ không, nhưng ở góc pḥng có một đống cỏ khô chất gần đến mái nhà, mùi cỏ khô tỏa ra khắp căn pḥng.
Ông già vừa nh́n sư cụ vừa nói:
- Xin cụ lượng thứ, thỉnh cụ hăy tạm nghỉ ở đây!
- Ồ, không sao! Tôi đă sống qua nhiều ngày thế này rồi, ở đây tương đối c̣n khá lắm!
Sư cụ để chiếc gậy và cái đăy vào góc pḥng, rồi nói với ông già:
- Thôi, mời lăo đi nghỉ. Để mặc tôi, tôi c̣n lên lễ Phật.
Ông già đi về pḥng riêng. Vừa mới ngồi xuống giường, đột nhiên lại thấy tiếng gơ cửa từ đằng trước vọng vào. Lần này, tiếng gơ cửa rất gấp và cứ th́nh th́nh. Ông thấy trong ḷng run sợ, c̣n đang phân vân không biết có nên ra mở cửa hay không th́ chợt thấy sư cụ Vân Không tiến đến cửa pḥng.
- Có người gọi cửa phía ngoài.
- Tôi nghĩ không nên mở. Ông già nói. Họ gơ chán, không thấy ḿnh ra tất họ phải đi.
- Tại sao không mở? Sư cụ ngạc nhiên hỏi.
- Bạch cụ, cụ không biết, chứ ở vùng này lộn xộn lắm, trộm cướp vô khối. Tiếng gơ cửa liên hồi như thế, tôi chắc bên ngoài phải có nhiều người. Chả biết họ đến làm ǵ, tôi không dám cho họ vào đâu!
- Ông với tôi th́ có ǵ đâu mà sợ họ cướp? Và chắc đâu đă phải là cướp? Cứ ra xem nào!
- Thảng hoặc họ là cướp thật và cái ǵ cũng muốn vơ vét. Tôi c̣n mấy chiếc quần áo và chút ít tiền, nếu họ lấy mất th́ sao?
- Ông đem giấu tiền đi, c̣n quần áo th́ họ sẽ không thấy đâu! Nếu thật là cướp th́ c̣n có tôi đây, lăo đừng sợ. Ví phỏng họ muốn ăn th́ cho họ ăn, tôi c̣n lương khô đây ăn hết sẽ hay!
Ông già do dự nói:
- Họ gơ cửa đă lâu mà măi bây giờ mới ra mở. Giả sử họ là cướp, chắc chắn khi vào họ sẽ cho tôi một trận nên thân chứ chẳng chơi!
- Tôi đi với lăo và để tôi mở cửa cho!
- Bạch cụ. Ông già nhíu mày nói. Nếu chỉ là một người khỏe mạnh, ḿnh đối phó được c̣n khó thay! Huống hồ lại nhiều người họ sẽ nuốt sống ḿnh mất.
- Một người khỏe mạnh cũng không sợ, mà có bao nhiêu người cũng không sao, đă có tôi ở đây!
Sư cụ Vân Không đến bên ông già và cầm tay kéo ông đi:
- Đây là một nơi hoang vắng, chắc có người lỡ đường muốn vào chùa xin nghỉ trọ, nên cho họ vào, nếu họ đói th́ cho họ ăn. Ở đời việc nên làm th́ làm, chứ đừng so đo cân nhắc nhiều quá!
Ông già bị sư cụ kéo đi đành cũng phải theo người. Khi họ ra tới cửa th́ tiếng gơ cũng vừa tắt. Sư cụ mở cửa ra, trời đă tối hẳn. Dưới ánh sáng lờ mờ của mấy v́ sao lấp lánh rọi xuống, sư cụ thấy một người đang nằm gục trên bậc cửa.
Ông già vội đến trước hỏi:
- Giờ này ông c̣n đến chùa làm ǵ?
- Tôi đi qua đây, không biết bị con ǵ cắn, xin cho tôi vào nghỉ nhờ một lát!
Nói xong, không đợi ông già đáp, người ấy tiến vào cửa, nhưng vừa khỏi cửa th́ lại ngồi quỵ xuống. Ông già vội đỡ dậy hỏi:
- Tại sao lại ngồi đây mời ông vào chùa nghỉ.
- Bắp chân tôi đau quá không đi được nữa!
- Tôi đỡ ông vào vậy! Ông già nói.
- Để tôi bế ông ấy vào!
Vừa nói, sư cụ Vân Không vừa gạt ông già ra, rồi đỡ người ấy dậy và cơng vào chùa.
Sư cụ nh́n chỗ người ấy bị cắn một lát, rồi nói vội:
- Chết chửa! Bị rắn độc cắn vết thương tuy nhỏ song nọc rắn độc lắm. Ở đây giờ không t́m được thuốc, làm thế nào?
Dứt lời sư cụ cúi ngay xuống, rồi để mồm vào chỗ bị rắn cắn và dùng hết sức để nún; cứ nún đến đâu lại nhổ ra đến đấy; một lúc lâu mới đứng dậy đi vào pḥng lấy ra một gói thuốc bột rắc vào chỗ vết thương.
- Xin đừng động đậy! Ông bị cắn lâu chưa?
- Cách đây độ một tiếng đồng hồ.
- Lâu quá như thế th́ phương thuốc này vẫn chưa đủ. Không những chỉ rắc thuốc ở ngoài mà c̣n phải uống thuốc nữa mới được, nhưng trong đăy của tôi lại không có thứ thuốc ấy!
Nói xong sư cụ Vân Không quay sang hỏi ông già:
- Có tiệm thuốc nào gần đây không?
- Măi trên khu chợ mới có, cách đây ba cây số. Ông già đáp.
- Tiệm thuốc e rằng cũng không có thứ thuốc ấy. Sư cụ nói. Vả lại, đường xa thế, đi về sợ lâu quá! Phàm chỗ nào có rắn th́ đều có thứ lá trị rắn độc, nhưng cần phải đi t́m mới được!
- Nhưng ai biết thứ lá đó? Ông già hỏi.
- Tôi biết. Sư cụ đáp.
Người bị rắn cắn đang nằm phục trên chiếc chiếu, cố ngẩng lên quay sang nói với sư cụ:
- Xin sư cụ cứu tôi! Ơn ấy tôi xin ghi ḷng tạc dạ.
- Ông cứ yên tâm tôi sẽ đi t́m thuốc cho ông!
- Xin sư cụ cho biết quư danh.
- Tôi là Vân Không.
- Tôi muốn biết tên tục của sư cụ.
Sư cụ cười và đi ra cửa:
- Tôi họ Trần ở cùng xóm với ông.
Rồi sư cụ ngoảnh lại nói với ông già:
- Bên ngoài tối quá xin lăo cho tôi một bó đuốc!
Ông già đi xuống bếp, một lát sau đưa lên một bó thanh nứa đă đốt sẵn, trao cho sư cụ rồi đưa sư cụ ra ngoài cửa, đoạn trở vào Phật điện nói chuyện với ông khách lạ.
- Xin ông cho biết quư danh.
- Tôi là Đoàn Quốc Hùng.
- Hiện giờ ông thấy trong người thế nào, có bớt đau không?
- Đau th́ không đau lắm chỉ buôn buốt, nhưng giờ đă đỡ nhiều rồi.
- Nếu không đau mà thấy buốt th́ đúng là rắn độc cắn. Sư cụ Vân Không coi bộ thạo về môn này lắm! Thế là ông đă gặp được vị cứu tinh, nhưng mong sao Ngài t́m ra thuốc mới được.
Đoàn Quốc Hùng nói:
- Thưa lăo, tôi đang băn khoăn suy nghĩ để biết xem sư cụ Vân Không đây trước khi xuất gia là người thế nào.
- Tôi cũng như ông, chẳng hiểu ǵ cả! Nhưng điều đó có ǵ quan hệ? Ông già lấy làm lạ, hỏi. Công việc trọng yếu của ông hiện giờ là phải điều trị nọc độc. Ông với sư cụ t́nh cờ gặp nhau như cánh bèo trên mặt nước. Sư cụ chữa khỏi vết thương cho ông rồi ngày mai lại trôi giạt mỗi người mỗi phương.
Nếu ông muốn đền đáp ơn người th́ cứ ghi nhớ tên người là Vân Không để sau này t́m cách báo đền. C̣n như trước khi xuất gia, người làm ǵ hoặc tên tuổi của người là ǵ th́ thiết tưởng điều đó ông không nên băn khoăn. Hay ông hoài nghi trước kia người không là thầy thuốc nên sẽ không dám uống thuốc của người?
- Đây không phải là vấn đề thuốc thang, tôi c̣n mang nặng một tâm tư khác. Tôi và vị sư ấy không phải t́nh cờ gặp nhau. Tuy đă nhiều năm không thấy nhau, hai chúng tôi đều đă già. Vả lại, người mặc tấm áo nâu và râu ria bờm xờm che kín mặt, song tôi vẫn hơi nhận ra người, nhất là khi sư cụ cho tôi biết sư cụ họ Trần và theo lối nói th́ h́nh như sư cụ cũng đă nhận ra tôi.
Đúng sư cụ là Trần Phán! Giữa tôi và sư cụ có một mối oan cừu mà mười năm qua không lúc nào tôi ăn ngon ngủ yên.
- Thế việc đó ra sao? Ông già hỏi.
- Sư cụ và tôi là người cùng xóm.
Trần Quốc Hùng hạ giọng nói. Lúc c̣n trẻ ông ở sát cạnh nhà tôi. Ông làm nghề đi bán các tṛ chơi. Ông nuôi nào khỉ, nào chuột, nào rắn và luyện tập chúng biểu diễn các tṛ. Nhất là rắn, lớn bé hơn mươi con, cứ thay đổi luôn luôn. Do đó người trong làng mới đặt cho ông tên là Trần Xà Nhân.
Trần Xà Nhân chỉ có một người con gái c̣n nhỏ tuổi, thường theo cha đi biểu diễn các tṛ. Bấy giờ tôi rất ghét ông ta ở cạnh nhà tôi, v́ những con vật ông ta nuôi, sau khi luyện tập thành thục ông ta cứ thả ra.
Có lúc những con khỉ chạy sang vườn phá phách hoa quả của tôi, c̣n rắn th́ lúc nào cũng nằm cuộn tṛn trên cành cây trước nhà ông ta, những cành cây vươn ra sát đầu tường hoa nhà tôi. Tuy rắn không ḅ qua tường bao giờ, nhưng ở bên nhà tôi trông rất rơ và rất đáng sợ.
Tôi đă từng cảnh cáo ông ta và cũng có khi ông ta bồi thường thiệt hại về hoa quả cho tôi, nhưng nghề nghiệp của ông ta bắt buộc phải làm bạn với khỉ và rắn, rốt cuộc là tôi không thể chịu đựng được nữa. Cuối cùng tôi bảo ông ta phải dọn nhà đi nơi khác.
Nhưng ông ta nói là nhà của ông bà để lại nên không dám bán, mà đi nơi khác mua cũng không dễ dàng ǵ! Bảo ông ta dọn nhà không có kết quả, tôi bèn thuê người đến sinh sự phá phách. Nhưng ông ta rất giỏi vơ, những người tôi thuê đều bị ông ta đánh bại và bị thương.
Tôi liền đi thưa quan huyện để vu khống ông ta là cố ư đả thương. Tôi là người giàu có và thuộc gịng dơi quư tộc rất có thế lực, nên quan huyện cũng nể và sai người về bắt Trần Xà Nhân giải lên huyện và bị tống giam. C̣n mỗi đứa con gái ở nhà không đi biểu diễn được và cũng không đủ sức trông nom những con vật, nên sau khi ông ta bị bắt mấy hôm th́ khỉ, rắn và chuột đều bỏ đi.
Đứa con gái vào nhà giam báo cho ông ta biết. Ông ta đành phải chịu dọn đi nơi khác. Khi về tới nhà, thấy súc vật đă đi hết và đứa con gái tiều tụy sau hai tháng trời sống lây lất, Trần Xà Nhân liền bỏ nhà dẫn con ra đi. Sau khi ông ta đi khỏi, tôi liền sang chiếm cứ nhà ông ta. Phía sau tôi cho người làm ở c̣n phía trước th́ làm chuồng trâu và chuồng ngựa. Như thế qua nửa năm bỗng một hôm, Trần Xà Nhân đưa con về. Ông ta thấy nhà ḿnh hoàn toàn đổi khác, trong nhà đầy người ở.
Sau khi biết tôi đă chiếm cứ, ông ta liền sang kêu van tôi trả lại nhà cho ông ta. Tôi không trả lời và bảo ông ta cứ đi thưa quan huyện. Ông ta đứng ngoài kêu nài măi, nhưng tôi vẫn tảng lờ như không nghe thấy. Đột nhiên, ông ta trợn mắt nh́n tôi một cách dữ tợn và lẩm bẩm nói:
- Món nợ này sau sẽ thanh toán.
Dứt lời ông ta nhảy một cái qua tường hoa để về nhà bên kia. Tôi kinh ngạc chạy vội ra cổng xem th́ thấy Trần Xà Nhân đang ung dung dắt con đi. Từ đó ông ta không trở về nữa.
Cũng từ đấy ḷng tôi bắt đầu thấy sợ hăi không yên, nhất là ánh mắt dữ tợn của ông ta nh́n tôi trước khi ra đi đă để lại một ấn tượng sâu đậm trong ḷng tôi. Bất cứ lúc nào tôi cũng thấy ánh mắt trừng trừng nh́n tôi và câu nói của ông ta trước khi ra đi lúc nào cũng văng vẳng bên tai tôi, nhất là trong đêm tối hoặc trong mộng mị, tôi vẫn cứ nghe câu nói ấy, giọng nặng nề và rùng rợn.
Có khi tôi thấy trong góc nhà và bốn chung quanh tường, những ánh mắt đang nh́n tôi. Đó là ánh mắt của Trần Xà Nhân nh́n tôi lúc ra đi, nhưng lúc này c̣n dữ tợn hơn nữa. Tôi sợ hăi như thế nên không lúc nào dám ngồi một ḿnh trong nhà, cũng không dám lên giường ngủ. Tôi cần nhiều người đứng xung quanh và bắt họ la thét vang lên để trấn áp những lời chú thuật và che ánh mắt dữ tợn của Trần Xà Nhân.
Tôi lại sợ Trần Xà Nhân nhảy qua tường hoa như hôm nào, nên sai người xây cao thêm lên. Song vô ích, v́ từ khi Trần Phán đi rồi th́ không ai c̣n thấy tung tích hay h́nh bóng ông ta đâu nữa! Ông ta không trở về để nhảy qua tường hoặc dùng bất cứ một phương pháp nào khác để vào nhà tôi.
Chỉ có ánh mắt và lời nguyền rủa của ông ta luôn luôn theo sát tôi khiến tôi không có chỗ trốn tránh. Bản tính tôi vốn sợ rắn. Khi Trần Xà Nhân đi rồi, tôi cứ nghĩ đến rắn là ḷng lại run lên. Nếu thấy con rắn nào th́ tôi lại tưởng đó là rắn của Trần Xà Nhân nuôi và sai về để cắn tôi.
Bởi thế, ngoài sự tưởng tượng đến ánh mắt và lời nguyền rủa của Trần Xà Nhân, tôi c̣n tưởng tượng cả rắn, đến nỗi thấy một vật ǵ dài, nhỏ và uốn khúc hoặc một cái bóng ngoằn ngoèo, tôi đều sợ hăi.
V́ khổ sở như thế, nên tôi chỉ thích đến những nơi huyên náo đông người, thậm chí cả nơi cờ bạc để mong những tiếng ồn ào ấy sẽ đàn áp sự sợ sệt của tôi. Nhưng khi tan canh ra về th́ lại ghê rợn vô cùng, tôi sợ gặp Trần Xà Nhân giữa đường hoặc gặp rắn của ông ta sai phục sẵn bên đường để chờ tôi.
Bởi thế bao nhiêu người đi theo hộ vệ tôi và la thét ầm ỉ. V́ thế tôi đă đam mê cờ bạc, gia cảnh cũng dần dần suy sụp, thanh danh giảm bớt. Người ta không c̣n kêu tôi là “thân sĩ “hoặc “trí thức “mà họ gọi tôi là “đồ cờ bạc ”. Sức khỏe mỗi ngày một kém, kết quả là mọi người đều cho tôi đă mắc chứng “bệnh thần kinh ”.
Để giải trừ nỗi oan cừu ấy, tôi đă đăng lời rao trên các báo chí t́m Trần Phán, nói rơ là xin bồi thường tất cả những sự tổn thất. Nhưng từ bấy đến nay vẫn không một hồi âm. Vô pháp khả thi tôi chỉ c̣n cách ra đi t́m kiếm, mong được gặp ông ta để tạ tội và xin bồi thường thiệt hại.
Tôi tưởng rằng ông ta vẫn làm nghề cũ, nên không một đám biểu diễn tṛ chơi nào mà tôi không vào xem, nhưng tuyệt không thấy Trần Xà Nhân hay con gái ông ta trong đó. Trên đường t́m kiếm hôm nay đến nơi hoang vắng quạnh quẽ này, không ngờ tôi lại bị rắn cắn!
Vị sư cụ vừa chữa vết thương cho tôi lúc năy, thoạt nh́n đôi mắt, tôi đă nhận ra đó là cặp mắt của Trần Xà Nhân. Bởi thế tôi mới hỏi tên tục của người, nhưng người chỉ cho tôi biết người họ Trần mà không nói tên.
Song nghe đến họ Trần, tôi đă tin chắc đó là Trần Xà Nhân, nhất là người lại bảo ở cùng xóm với tôi. Vậy không phải “ông ta “th́ c̣n là ai? Tôi cứ suy nghĩ măi tự năy đến giờ là nếu “ông ta “nhận ra tôi th́ tại sao “ông ta “lại chữa cho tôi? Tôi đang băn khoăn tự hỏi khi “ông ta”đưa thuốc về th́ tôi có nên uống hay không?
Nghe xong, ông già nói:
- Sư cụ này cũng mới vào đây xin tá túc trước khi ông đến chừng mấy phút thôi. Bởi thế, tôi cũng không hiểu biết ǵ về sư cụ hơn ông mấy! Nhưng nếu người t́m được thuốc thang về, làm sao ông có thể từ chối không uống? Không uống, tất không có hy vọng trừ hết nọc rắn độc.
Theo tôi, khi sư cụ để mồm vào vết thương hút nọc độc ra chắc không phải có ư giả dối đâu! Trên đời này, không có ai đối với kẻ thù của ḿnh bằng cử chỉ ấy. C̣n họ Trần th́ rất phổ thông, chắc trong số bạn bè của ông cũng có nhiều người mang họ Trần.
Ông hăy cứ tưởng tượng sư cụ là một người họ Trần khác đi, chứ nhất định không phải Trần Xà Nhân. Ông cũng coi như là người không nhận ra ông. Nếu thật người đă nhận ra ông là kẻ oan gia đối đầu với người, chắc người đă khoanh tay đứng nh́n, chứ đâu lại khổ công lo chữa cho ông? Người đă chịu cực hút nọc rắn độc để cứu ông th́ người đâu c̣n dùng thuốc độc để hại ông nữa!
Đoàn Quốc Hùng nghe ông già nói xong gật gật đầu, nhưng vẫn cứ phân vân. Đúng lúc ấy có tiếng gơ cửa bên ngoài, ông già liền đi ra mở cửa. Sư cụ Vân Không, một tay xách bó cỏ tay kia cầm cây đuốc đă cháy gần hết, đang đứng trên bậc cửa. Ông già vội đỡ lấy bó cỏ từ tay sư cụ, rồi hai người cùng tiến vào Phật điện. Đoàn Quốc Hùng thấy sư cụ đă vào cố gượng ngồi dậy, nhưng sư cụ cản lại:
- Ông đừng cử động! Người bị rắn cắn càng nằm yên càng tốt. Ông bị cắn lâu mới chữa, tuy tôi đă hút máu ra, song sợ chưa hút hết được nọc độc. Bởi thế ông cần phải uống thuốc trong và rịt thuốc ngoài. Thuốc ngoài tôi đă rịt rồi, bây giờ tôi sắc cho ông uống!
Đoàn Quốc Hùng lại nằm xuống và duỗi thẳng hai chân ra. Sư cụ Vân Không đi vào pḥng, cầm chiếc thuyền trượng ra, rồi để bên người; sau đó lấy một phần bó cỏ thuốc và rải ra mặt đất trên nền chùa.
Ông già đến trước hỏi:
- Bạch cụ, cụ định giă lá thuốc?
- Vâng, phải giă thật nát mới rịt được!
- Cụ để tôi giă đỡ!
Ông già đến cầm lấy chiếc thiền trượng đặt trên chốc chiếu, lúc đó mới biết chiếc thiyền trượng làm bằng sắt. Ông già nhấc một tay không nổi, liền dùng cả hai tay cũng vẫn không nhấc bổng lên được. Ông đành lắc đầu lè lưỡi.
- Ông đi sắc thuốc đi! Sư cụ Vân Không nói. C̣n việc giă thuốc để đấy tôi làm cho!
Ông già vâng theo, đứng dậy cầm lấy nửa bó cỏ rồi đi xuống bếp. Sư cụ Vân Không nhấc chiếc thiền trượng lên và nện xuống sàn chùa. Tiếng kêu côm côm vang lên trong Phật điện long cả tai. Đoàn Quốc Hùng nhắm nghiền mắt lại vùi đầu xuống chiếu. Sau khi giă nát thuốc, sư cụ lấy tay cầm đắp vào vết thương trên ống chân Đoàn Quốc Hùng, rồi xé một miếng áo của ḿnh để buộc vết thương lại. Đang buộc bỗng nhiên sư cụ hỏi:
- Ông thấy đau nhức hay sao mà run thế?
Đoàn Quốc Hùng ngóc đầu dậy, nh́n sư cụ Vân Không như muốn nói, nhưng hễ mở miệng ra lại thôi, lâu lắm mới hơi thốt lên những lời líu nhíu:
- Bạch cụ, tôi cảm ơn cụ lắm! Song thật cụ có nhận ra tôi là ai không?
- Tôi nhận ra. Sư cụ vừa nói vừa cười. Ông là Đoàn Quốc Hùng.
Đoàn Quốc Hùng ngồi nhỏm dậy, tỏ vẻ kinh hoảng và bi thương nh́n Vân Không:
- Thế ra sư cụ là Xà nhân Trần Phán?
- Đó là tên họ ngày xưa. Sư cụ mỉm cười.
- Bạch cụ. Đoàn Quốc Hùng lại nằm xuống và nước mắt trào ra. Trước đây mười năm sư cụ muốn thanh toán tôi. Tôi c̣n nhớ măi câu nói ấy! Bất cứ ở đâu và giờ phút nào, tôi cũng phảng phất như thấy ánh mắt sư cụ nh́n tôi trước khi bỏ đi.
Đă mười năm qua ánh mắt ấy cứ theo tôi như bóng với h́nh. Không một thời khắc nào mà tôi thấy ḷng được b́nh yên và thanh thản! Lúc nào tôi cũng sống trong hồi hộp và lo sợ. Tôi muốn sám hối tội ác tôi đă gây nên nhưng chưa gặp cơ hội, ngày đêm tôi mong sư cụ về để trả thù tôi nhưng vẫn bặt tin.
Tôi đă đăng tin trên các báo chí để t́m sư cụ, nói rơ là tôi đă ăn năn và đau đớn. Song không được hồi âm của sư cụ, cuối cùng tôi đành bỏ nhà ra đi t́m sư cụ. Dù có bị sư cụ thanh toán tôi cũng đỡ khổ. Hôm nay ta gặp nhau ở đây, chính là dịp để sư cụ trả cho xong mối oan cừu năm xưa.
Nhưng trái lại sư cụ vẫn cứu tôi. Tôi cứ tưởng sư cụ đă quên tất! Đă biết tôi là Đoàn Quốc Hùng, tại sao sư cụ lại nhọc công cứu tôi? Thật tôi không hiểu dụng ư của sư cụ, hay chữa khỏi rồi mới trả thù?
- Món nợ ấy tôi không c̣n tính nữa! Vân Không b́nh tĩnh nói. Lúc ông vừa vào cửa chùa tôi đă nhận ra ông. Nếu tôi c̣n nghĩ đến thù oán, tôi cứ đứng khoanh tay nh́n ông đau đớn đến chết, chứ vạ ǵ tôi phải chịu bẩn thỉu để cứu ông? Giờ đây tôi là Vân Không Ḥa thượng, chứ không phải Trần Xà Nhân. Xin ông cứ tin như thế!
Đúng lúc ấy ông già từ dưới bếp đang bưng lên một tô thuốc vừa sắc xong. Ông từ từ tiến vào Phật điện, trao bát thuốc cho Đoàn Quốc Hùng. Hùng đỡ lấy để xuống chiếu chờ cho thuốc nguội bớt. Một lúc sau Hùng bưng bát thuốc lên uống một hơi đoạn lại nằm xuống.
Sư cụ Vân Không nói:
- Lát nữa nọc độc trong người ông sẽ tiêu hết! Ông đi t́m tôi và đă gặp tôi ở đây, song người hiện đang ngồi trước mặt ông là Vân Không Ḥa thượng chứ không phải Trần Xà Nhân. Ngày mai ông cứ yên tâm trở về đừng đi lang thang nữa!
- Bạch cụ, như vậy là cụ đă tha thứ cho tôi?
- C̣n hơn cả tha thứ nữa! Sư cụ Vân Không nói. Ḷng tôi đối với tội ác không c̣n sầu hận, chỉ có thương xót mà thôi!
- Việc này phải nh́n theo hai khía cạnh để giải quyết.
Giọng Trần Quốc Hùng bi thảm. Tâm sư cụ tuy không c̣n cừu hận, song ḷng tôi vẫn ăn năn sợ hăi. Mười năm qua, tôi đă luôn luôn sống trong tâm trạng ấy. Nhiều khi tôi có một hy vọng kỳ quặc là hy vọng sư cụ về để thanh toán tôi cho hết mối cừu hận, cho ḷng tôi được yên ổn.
Nhưng tôi vẫn không thấy h́nh bóng của sư cụ xuất hiện. Bởi thế, tôi mới quyết định đi t́m sư cụ và sẵn sàng bồi thường thiệt hại cho sư cụ cả về vật chất lẫn tinh thần. Xin sư cụ về Thượng Hải với tôi có được không?
- Về Thượng Hải làm ǵ? Vân Không ngạc nhiên hỏi.
- Trước khi ra đi tôi đă sắp sẵn một số tiền để bồi thường cho sư cụ. Nhưng v́ đường xa đi một ḿnh nên tôi không dám mang theo, tôi phải gửi số tiền ấy ở ngân hàng tại Thượng Hải. Sư cụ đ̣i bao nhiêu tôi xin trả bấy nhiêu! Nhưng sư cụ không ở đâu nhất định, ngày mai chia tay rồi sẽ khó gặp lại sư cụ. Bởi thế, tôi muốn mời sư cụ về Thượng Hải để tôi trả cho xong món nợ đó!
- Ư ông muốn trả tiền tôi? Tôi lấy tiền làm ǵ? Tôi không cần tiền.
- Tôi cũng biết món nợ đó không phải hoàn toàn trả bằng tiền mà xong, nhưng vẫn c̣n nợ tinh thần nữa. Chẳng hạn tôi đă vu khống sư cụ đến nỗi sư cụ phải bị tù đày một cách oan uổng trong hai tháng trời.
- Ô, điều đó đối với tôi có một tác dụng luyện tập! Tôi không cho đó là “tai vạ tù đày”.
- Không những thế, sau khi sư cụ bị giam cầm, những rắn, khỉ và chuột của sư cụ đă bỏ đi hết!
- Khỉ, rắn và chuột đều bị tôi bắt buộc đi theo biểu diễn, chứ tự chúng không muốn. Khỉ luôn luôn nhớ rừng, rắn muốn trở về bụi rậm và chuột mong được về hang tổ của chúng. Sau khi tôi bị giam chúng đều được tự do và giải thoát. Như thế càng tốt chứ sao?
- C̣n con gái của sư cụ?
- Nó đă lập gia đ́nh cách đây năm năm, nghe nói đời sống cũng dễ chịu.
- V́ tôi ức hiếp mà sư cụ đi tu?
- Điều đó chính tôi phải cảm ơn ông! Sư cụ vừa cười vừa nói. Tôi bây giờ cũng tự do và giải thoát như những khỉ, rắn và chuột của tôi vậy!
- C̣n nhà của sư cụ mà tôi đă chiếm đoạt để làm chuồng trâu, chuồng ngựa?
- Nhà cửa đều là không. Giả sử ông trả nhà lại hay bồi thường cho tôi th́ đó chỉ là lụy cho tôi.
- Vậy th́ biết làm thế nào?
Giọng Đoàn Quốc Hùng khổ sở. Một người mang nợ muốn trả cho hết nợ mà chủ nợ lại không nhận ḿnh là chủ nợ, lại c̣n phủ nhận cả nửa cuộc đời trước của ḿnh. Tâm sư cụ lâng lâng và thanh thoát, nhưng ḷng tôi th́ một cái “nút” trói buộc suốt đời tôi.
- Nút ǵ? Trói buộc ở chỗ nào? Sư cụ hỏi
- Tội nghiệt là “nút “trói buộc tâm tôi!
- Ông đưa cái “nút “và cái “tâm” bị trói buộc ra đây cho tôi xem để tôi cởi trói cho ông.
- Tội nghiệt và tâm đều không phải thực chất, làm thế nào tôi có thể nắm lấy mà đưa ra được?
- Như thế là hết trói buộc rồi! Sư cụ Vân Không phá lên cười.
- Bạch cụ, cụ cho là hết trói buộc, chứ tôi vẫn thấy c̣n bị buộc.
- Tôi cũng biết thế! Sư cụ nói. Xin hỏi ông ngoài việc đó ra, ông c̣n thắc mắc điều ǵ không?
- Dĩ nhiên là c̣n và c̣n nhiều hơn nữa!
- Nếu b́nh sinh ông gây tội nghiệt cho tôi và coi đó là một món “nợ tinh thần ” một cái “nút ” ông t́m đến chủ nợ để thanh toán. Như thế là hết nợ rồi! Giả sử ông mắc nhiều nợ tinh thần mà chủ nợ không phải chỉ có một người, trường hợp đó th́ ông tính sao?
- Tôi sẽ lần lượt trả hết, nhưng phải t́m đến người chủ nợ thứ nhất cho xong đă.
- Ông t́m được tôi rồi, nhưng con người tôi đă đổi khác! Từ Trần Phán đổi thành Vân Không, cho đến cái tâm cũng đổi khác. Nhưng hăy cứ tưởng tượng rằng ông đi t́m mà không gặp chủ nợ th́ ông làm thế nào? Sư cụ hỏi. Nói thí dụ:
- Chủ nợ đă chết?
- Tôi t́m con cái của người ấy.
- Nếu họ không có con th́ ông t́m ai? Thí dụ ông mang nợ một con rắn mà con rắn đó đă chết, ông biết con rắn nào là con cái của nó để mà trả?
Đoàn Quốc Hùng khổ sở không biết nói sao!
- Ông nên biết! Sư cụ nói tiếp. Ông mang nợ oan nghiệt nhiều hay ít, xét đến ngọn nguồn th́ đó đều là việc của ông. Chủ nợ không nhất định sẽ đến đ̣i ông, mà cũng không cần chủ nợ phải đến đ̣i, chỉ cái “nợ “ấy trói buộc ông thôi!
Song cái nợ đó vốn không có thực chất, đúng như lúc năy ông nói “tội nghiệt “trói buộc cái tâm của ông không phải là một vật có thực chất, mà cái “tâm “bị trói buộc cũng không phải cái cục thịt trong người ông. Ông không thể nắm bắt được! Trong khi ông thấy rơ như thế th́ cũng như ông vừa tỉnh mộng, nợ cũng không c̣n là nợ nữa!
- Những lời đó cao siêu mầu nhiệm quá, tôi không hiểu nổi! Xin sư cụ giảng giải tường tận một chút nữa.
Sư cụ Vân Không cầm một sợi dây buộc bó cỏ thuốc lúc năy, thắt lại thành cái nút rồi giơ ra trước, hỏi Quốc Hùng:
- Đây là cái ǵ?
- Cái nút
- Nút là cái ǵ?
- Nút là nút chứ c̣n là cái ǵ bây giờ? Quốc Hùng cười.
- Ngoài sợi dây ra, c̣n có cái “nút “tồn tại không?
- Ngoài dây th́ dĩ nhiên không có “nút “tồn tại riêng biệt.
- Như vậy nút là cái ǵ? Vân Không hỏi dồn.
Đoàn Quốc Hùng chịu không đáp được. Sau đó, Vân Không chỉ vào cái nút, nói:
- Nút là do nhiều ṿng dây thắt lại mà thành, nhưng những ṿng dây không có thực thể, chỉ là giả tướng mà thôi! Nhiều ṿng dây tập hợp lại mà thành nút, lúc chưa thành th́ không có nút và khi cởi ra rồi th́ nút cũng không c̣n. Sư cụ vừa nói vừa cởi cái nút ra.
- Hiện giờ c̣n nút không?
Đoàn Quốc Hùng lắc đầu nói:
- Sư cụ nh́n sự vật như mộng ảo. Nếu tất cả đều là giả tướng th́ c̣n có ǵ gọi là nhân quả? Sư cụ định tạm dùng những lời huyền diệu ấy để mở rộng ḷng cho kẻ tội ác này chăng?
- Trong cái rỗng không có ǵ ngăn lại nhân quả? Vân Không đáp. Chẳng hạn cái nút này do nhiều ṿng dây thắt lại mà thành, nhưng ṿng dây không có tự tính, cho nên nút cũng không có tự tính. Bây giờ, cởi nút ra làm cho ṿng dây thẳng lại th́ cái thẳng đó cũng không có tự tính.
Nói đến rốt ráo th́ chính sợi dây này cũng không thật có, dây là do các thứ cỏ bện thành. Khi cỏ chưa sinh th́ không có cỏ và dĩ nhiên cũng không có dây, lúc cỏ chưa được bện lại th́ cũng không thành dây, nếu đem đốt dây đi th́ cuối cùng c̣n ǵ?
Song ông tưởng trong cái rỗng không ấy không có nhân quả? Nếu tôi đem sợi dây không có thực thể thắt chặt vào cổ hư giả của ông, ông sẽ thấy đau đớn khó chịu. Nhưng sự đau đớn ấy cũng chỉ là ảo giác, cũng như dây và cổ đều không có tự tính. Vậy cứ ǵ trong cái chân thật mới có nhân quả?
- Tuy sư cụ chỉ dạy cho như thế, nhưng tôi vẫn không thể lĩnh hội được, biết làm thế nào? Giọng Quốc Hùng bi ai.
- Tôi không trông mong ông lĩnh hội một cách triệt để. Đối với người c̣n trong mộng, không có cách nào làm cho họ hiểu được cảnh giới lúc thức; trong cảnh mộng tuy giả dối không thực nhưng không có ǵ ngăn trở người ta làm ác, chịu báo, sám hối hoặc làm thiện; nhưng khi người ta tỉnh dậy th́ mới biết tất cả việc làm lúc trước đều là chiêm bao; đă thoát ly được cảnh mộng, trở về cảnh giác th́ hết thảy đều rỗng rang và thanh tịnh; lúc đó th́ thiện c̣n chẳng làm, huống chi là ác!
Nghe đến đây, Đoàn Quốc Hùng phủ phục xuống lạy sư cụ. Ông già đứng bên cạnh, coi bộ cũng hiểu được phần nào. Đoàn Quốc Hùng nói với sư cụ Vân Không:
- Tôi không muốn trở về nữa, xin cho tôi theo sư cụ xuất gia.
- Nếu trong ḷng ông thật đă giác ngộ th́ hà tất cứ phải xuất gia như tôi! Bỏ mộng, trở về giác đều có nhân duyên. Không nên câu chấp h́nh thức!
Dứt lời, sư cụ Vân Không trở vào pḥng riêng. Đoàn Quốc Hùng không dám theo vào, nằm trên chiếc chiếu và trằn trọc măi quá nửa đêm cũng không thể ngủ được. Đến khi nghe tiếng gà gáy, trời đă sắp sáng, Hùng mới đứng dậy đi vào pḥng định bày tỏ thêm nỗi ḷng ḿnh với sư cụ, nhưng khi tới nơi th́ thấy căn pḥng vắng lạnh. Vân Không Ḥa thượng đă bỏ đi tự lúc nào mà không ai biết!
HT. Thích Quảng Độ
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1215 of 1439: Đă gửi: 05 July 2010 lúc 10:29pm | Đă lưu IP
|
|
|
TRUNG QUỐC CÔNG BỐ XÁ LỢI XƯƠNG SỌ ĐÚC PHẬT
Ngày 12-6-2010 qua truyền h́nh và internet, hàng triệu người ở Trung Quốc đă theo dơi các nhà lănh đạo Phật giáo và nhà khảo cổ, long trọng công bố xá lợi xương sọ Đức Phật Thích Ca được cung nghinh từ Ấn Độ trong triều đại nhà Tống 960-1279 AD.
Sau khi tham dự lễ cung nghinh và an vị xá lợi xương sọ Đức Phật được tổ chức tại chùa Qixia, thành phố Nam Kinh, thủ phủ tỉnh Giang Tô, miền Đông Trung Quốc, Ḥa thượng Chuan Yin, Chủ tịch Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc cho biết, bảo vật được lấy ra lần đầu tiên lúc chín giờ sáng, ngày 12-6 từ một quách nhỏ bằng vàng, nằm trong một kim quan bằng bạc, là xá lợi xương sọ Đức Phật.
Xá lợi xương sọ Đức Phật có mầu nâu không đồng đều và sáng, trông giống như một ḥn đá nhỏ.
- Xá lợi có rất nhiều khoang rất giống như một tổ ong.
Ông Hua Guorong, Phó Giám đốc Bảo tàng thành phố Nam Kinh tiết lộ.
- Việc phát hiện này của chúng tôi, phù hợp với những miêu tả về xá lợi xương sọ Đức Phật, đă được ghi chép trong sử kư.
Ḥa thượng Xue Cheng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc, phát biểu và nói thêm rằng:
- Xá lợi Phật là bảo vật cực kỳ thiêng liêng đối với Phật tử.
Bên cạnh xá lợi xương sọ Đức Phật, mười viên xá lợi Phật khác, cũng được t́m thấy trong kim quan nhỏ bằng vàng và bạc khác.
một trăm lẻ tám cao tăng đến từ Trung Quốc, Ma Cao và Đài Loan, đă cử hành lễ cung nghinh và an vị tất cả số xá lợi này tại chùa Qixia.
Phật tử sẽ có phúc duyên chiêm bái số xá lợi Phật ấy trong một tháng. Để đảm bảo an toàn cho các bảo vật vô giá này, cuộc lễ tiến hành hôm thứ bảy 12-6, được bảo vệ nghiêm ngặt và nhiệt độ bên trong chính điện, luôn giữ ổn định ở mức 20 độ C, và độ ẩm từ 55 đến 60%. Ông Hua cho biết.
Xá lợi xương sọ Đức Phật được tôn trí trong bảo tháp có tên là Tháp A-Dục Vương. Các nhà khảo cổ khai quật bảo tháp này cách đây hai năm, dưới nền chính điện của ngôi chùa cũ Changgan thuộc thành phố Nam Kinh.
Ngôi chùa này được xây dựng năm 1011. Chính điện được phát hiện khi các nhà khảo cổ khởi công khai quật phế tích chùa Đại Báo Ân, thuộc thành phố Nam Kinh. Chùa Đại Báo Ân được xây dựng trong triều đại nhà Minh 1368-1644 AD.
Tháng 7-2008, các nhà khảo cổ t́m thấy một bia đá ghi rằng, chính điện là nơi bảo quản một “bảo tháp bảy tầng của Vua A Dục”, bên trong tháp có các kim quan bằng vàng và bạc, tôn trí xá lợi xương sọ và các di vật khác của Đức Phật.
Một tháng sau, một ḥm sắt chứa bảo tháp được khai quật tại chính điện. Tháng 11-2008, các nhà khảo cổ đă đưa bảo tháp ra khỏi ḥm sắt và t́m thấy hai kim quan nhỏ.
Theo Lu Jianfu, một chức sắc của Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc, cách đây 2.500 năm, sau lễ trà tỳ Đức Phật, các đệ tử của Ngài đă nhặt được một xá lợi xương sọ, bốn xá lợi răng, hai xá lợi xương đ̣n và 84.000 viên xá lợi khác.
Vua A Dục (Asoka), hoàng đế Ấn Độ (273 BC-232 BC) đă tập hợp tất cả các phần c̣n lại của Đức Phật sau lễ trà tỳ, tôn trí vào trong các bảo tháp để gửi đến các nơi trên thế giới.
Bảo tháp ở Nam Kinh được coi là một trong hàng chục ngàn bảo tháp của Vua A Dục tôn trí xá lợi Phật. Bảo tháp bốn lớp, cao 1.21 mét, rộng 0.42 mét được cho là lớn nhất trong các bảo tháp đă t́m thấy ở Trung Quốc.
Theo tài liệu Phật giáo thời nhà Đường 618-907 AD, Trung Quốc có cả thảy mười chín bảo tháp, Vua A Dục tôn trí xá lợi Phật. Cho đến nay, người ta cho rằng chỉ mới bảy bảo tháp được phát hiện, tại các vùng miền khác nhau của Trung Quốc.
Thích Minh Trí
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1216 of 1439: Đă gửi: 06 July 2010 lúc 10:38am | Đă lưu IP
|
|
|
CÓ MA HAY KHÔNG?
Có Ma hay không có Ma? Ma là ǵ? Ma ở đâu? Ma có làm hại được ta hay không? Phải trừ Ma như thế nào? Đó là những câu hỏi có thể nêu lên cho ta, v́ trong số chúng ta đây, có thể có người chưa hề gặp Ma bao giờ, nên ṭ ṃ cũng muốn biết xem Ma ra thế nào, hoặc có người đă từng thấy Ma nên vẫn c̣n bị Ma ám ảnh, muốn biết xem cái thấy của ḿnh, hay là cái con Ma đó có thật hay không.
Vậy ta hăy xem quan điểm của Phật giáo về Ma như thế nào. Tôi xin tŕnh bày bài viết ngắn này thành hai phần. Một phần nặng về định nghĩa và lư thuyết dựa theo Kinh điển, một phần bàn rộng và tán rộng những ǵ đă ghi trong Kinh sách. Dù sao, đây cũng là một bài viết ngắn, dưới h́nh thức một bài báo, không có chủ đích giải quyết hết vấn đề và thật sự ra cũng khó rứt bỏ hay đuổi bỏ con Ma ra khỏi đầu chúng ta lắm.
1. Phần thứ nhất: Định nghĩa về Ma
Ma là ǵ? Chữ Ma do chữ Phạn Mâra mà ra. Tiếng Tây tạng là bDud, tiếng Nhật là Hajun, tiếng Hán là Mo, nhưng người Trung hoa thường âm từ tiếng Phạn và gọi là Ma la, vần không có trong tiếng Trung hoa nên người Trung hoa thường gọi là Ma la thay v́ là Ma ra. Kể dài ḍng ra như thế để thấy rằng không phải chỉ có người Việt Nam ta mới thấy Ma.
Kinh sách định nghĩa chữ Ma (Mâra) là Quỷ sứ cám dỗ, một thứ Quỷ tinh ranh tượng trưng cho những xu hướng tâm thần bấn loạn và lầm lẫn, cản trở con đường tu tập của một hành giả.
Trong Phổ diệu Kinh, bộ Kinh kể lại cuộc đời của Đức Phật, cho biết Ma đă từng dùng mọi xảo thuật ma quái để quấy nhiễu và cản trở không cho Vị Phật tương lai là Thích Ca Mâu Ni đạt được Giác ngộ. Trong đêm trước khi Ngài thành Phật, Ma dẫn ba con ma nữ đến quyến rũ Ngài, lại đưa ma quân đến để ném đá như mưa vào Đức Phật.
Ma đ̣i Phật phải nhường ngai lại cho hắn, v́ hắn nhất định bảo rằng không có ǵ chứng nhận Phật đă đạt được Giác ngộ. Phật liền dùng tay phải chạm xuống mặt đất, mặt đất liền bị chấn động và rung chuyển ầm ầm, chứng minh cho sự Giác ngộ đích thực của Ngài. Ma liền biến mất như bị phù phép vậy.
Như vừa kể trên đây, ta có ma nữ, ma quân…v́ thế ta cũng có Ma vương. Ma vương cũng là cách dịch khác của chữ Mâra. Ma vương là Vua các loài Thiên ma, ngụ ở cảnh trời gọi là Tha hoá Tự tại thiên, tức là cảnh trời thứ sáu trong cơi Dục giới, tức là cảnh giới thấp nhất trong Tam giới.
Ma vương có phép thần thông, chuyên dùng ma thuật để phá rối, ngăn cản sự tu tập của những vị Bồ tát. Ma vương c̣n có tên là Ma vương Ba tuần, tức là tên của Tha hoá Tự tại thiên vương.
Vậy theo Kinh sách, có bao nhiêu thứ Ma tất cả? Thật ra Ma nhiều lắm, nhưng tựu trung được phân loại ra làm bốn thứ Ma. Cách phân loại lại khác biệt nhau giữa Thừa Kinh điển và Kim cương thừa. V́ thế cộng lại có đến tám thứ Ma.
Theo Thừa Kinh điển bốn loại Ma là:
1. Ma của cấu hợp: đó là thứ ma quái làm cơ sở cho khổ đau và cái chết mà ta phải gánh chịu trong cơi luân hồi. Con ma đó gọi là con ma của cái chết. Kinh sách tiếng Hán gọi là Ấm ma, Uẩn ma, hay Ngũ chúng ma.
2. Ma của dục vọng: bao gồm những dục vọng, ham muốn, thèm khát, đẩy ta vào những hành vi tiêu cực, tạo ra nghiệp xấu, thu ngắn kiếp nhân sinh, đưa ta vào ṿng khổ đau của cơi luân hồi. Đó là con ma gây ra cái chết, kinh sách gốc Hán gọi là Phiền năo ma.
3. Ma của thần chết: đó là sự hủy hoại, cứu cánh tất nhiên của sự sinh, hậu quả của bản chất cấu hợp của mọi hiện tượng, tức là hiện tượng Vô thường. Con ma này có tên là con ma vô thường, kinh sách tiếng Hán gọi là Tử ma.
4. Ma của những con trời: bao gồm những thứ ma làm cho ta đăng trí, phân tâm, xúi dục ta bám níu vào ảo giác của những vật thể bên ngoài, cản trở sự tu học. Đó là con ma bấn loạn, kinh sách tiếng Hán gọi là Tha hoá Tự tại Thiên tử ma, gọi tắt là Thiên ma, tức thần thánh tay sai của Thiên-hóa Tự tại vương.
Theo Kim cương thừa, bốn thứ Ma lại được định nghĩa như sau:
1. Ma xiềng xích: con Ma này rất hung tợn và lộ liễu, gây ra phiền năo, binh tật và chướng ngại bên ngoài. Đây là con Ma của sự bám níu và ghét bỏ đối với những vật thể và hiện tượng chung quanh. Kinh sách tiếng Hán gọi là Phiền năo ma.
2. Ma thả lỏng: đó là ba thứ nọc độc chính và năm thứ nọc độc phụ, tức là những dục vọng chính yếu và thứ yếu, những tư tưởng hay tư duy bấn loạn chưa được khắc phục, xâm chiếm tâm thức ta và gây ra khổ đau. Kinh sách gốc tiếng Hán gọi là Tâm ma.
3. Ma khánh hỷ: đó là con ma đội lốt hân hoan, vui thích, con ma của sự tự măn, tự đại, thỏa mản với chính ḿnh, xem ḿnh là đặc biệt hơn cả mọi người, bám níu vào những kết quả và kinh nghiệm thiền định của ḿnh, cho đấy là đúng và trở nên hănh diện. Kinh gốc tiếng Hán gọi là Thiện căn ma.
4. Ma kiêu căng: đó là ma ngạo mạn, tự măn, tự kiêu. Đấy là bản chất căn bản của con ma mang tên là cái tôi, cái ngă. Kinh gốc tiếng Hán gọi là Tam muội ma.
Có sách c̣n phân chia ra làm mười thứ Ma, như vậy ngoài tám thứ ma đă kể trên c̣n có:
Thiện trí thức ma: tức là những kẻ thông hiểu được đạo lư, nhưng tham tiếc đạo lư ấy mà giữ nguyên cho ḿnh, chẳng chỉ dạy cho kẻ khác.
Bồ đề Pháp trí ma: là những kẻ tuy đă phát lộ được trí tuệ, nhưng vẫn c̣n chấp trước làm che lấp mất chính đạo.
Đă nói đến danh từ và định nghĩa th́ cũng mạn phép người đọc kể ra cho hết:
Ma cảnh: khung cảnh do ma quái tạo ra để phỉnh gạt và ngăn trở người tu hành.
Ma chướng: những chướng ngại, ngăn chận việc tu hành và sự thăng tiến của trí tuệ.
Ma duyên: c̣n gọi là ác duyên, tức là những xui khiến đưa đến nghịch cảnh, bất lợi hay độc hại.
Ma đàn: là sự bố thí của ma, không phải là của người. Đó là sự bố thí của những kẻ mang ḷng tà, ḷng tham, cầu danh, cầu lợi mà bố thí, sợ oai lực của ma quỷ mà bố thí, muốn tránh tại nạn mà bố thí.
Chữ này nghịch nghĩa với chữ Phật đàn, tức là bố thí mà không biết là đă bố thí, không biết bố thí cái ǵ và bố thí cho ai, bố thí chỉ v́ ḷng từ bi vô biên mà thôi. Bố thí như thế c̣n gọi là Bố thí Ba-la-mật.
Ma đạo: đường đi của ma, chốn lui tới của ma, c̣n gọi là ma giới, tức cảnh giới của ma.
Ma lực: sức mạnh tiêu cực, kích động những hành vị xấu hay hung ác.
Ma nghiệp: nghiệp ác.
Ma ngoại: là những kẻ phỉ báng, chê bai Đạo pháp.
Ma Phạm: tức là Ma vương ở cơi Phạm vương, gọi tắt là Ma Phạm. Chữ Ma vương đă được giải thích trên đây, đó là Thiên hoá Tự tại vương, c̣n Ma Phạm hay Phạm vương hay Phạm thiên vương là Chúa tể của cơi Ta bà này.
Quyền lực của Ma Phạm vượt lên đến chỗ cao nhất trong cơi Sắc giới, cai quản và điều hành cả thế giới này. Kinh điển c̣n gọi Ngài là Ngọc Hoàng Thượng đế.
Ma thiền: phép thiền định tà ma, sai lầm, liên hệ với ma quỷ, đi ngược với chánh đạo.
Ma thuật: nói chung là những hành vi mê tín, dị đoan, phản khoa học.
Ma sự: chữ này rắc rối lắm, đại cương là những sự việc, những hành vi sai lầm, ngăn cản sự tu học và con đường chánh Pháp. Kẻ thực thi ma sự, là những kẻ chạy theo lục trần: yêu sắc đẹp, thích tiếng êm tai, ưa thích mùi thơm, miếng ngon, thích đụng chạm và sờ mó những ǵ ưa thích, ước mong những cảnh huống thích nghi.
Ma sự cũng là việc làm của những người tu hành phá giới, chạy theo danh lợi, sắc dục. Ma sự cũng có thể dùng để chỉ người ngồi thiền mà ngủ gục, bám vào những cảnh hiện ra khi thiền, cảm thấy bấn loạn, thấy cảnh dữ mà bỏ thiền.
Người xuất gia mà thực thi ma sự tức là c̣n ham thích luận bàn thế sự, chiến tranh, t́nh yêu nam nữ, xu nịnh những hàng cư sĩ hay người lui tới chùa có của cải, cúng dường nhiều, hoặc vướng vào phép bói toán, đoán số mệnh, ếm ma, trừ quỷ…
2. Phần thứ hai: Bàn về Ma
Trên đây là những ǵ Kinh sách nói về Ma, định nghĩa và phân loại về Ma. Dựa trên đó ta thử phân tích, tổng kết, t́m hiểu thêm về Ma, xem Ma ra sao, Ma thật sự là cái ǵ ? Tiếp theo, ta rút tỉa từ những phân tích ấy, từ những hiểu biết ấy để ứng dụng vào cách cư xử và thái độ của ta đối với Ma.
Ma hay Mâra là một biểu tượng trong Phật giáo và cả Ấn độ giáo, dùng để chỉ một vị trời hay vị một thần đứng vào hàng đầu, cao siêu và mạnh hơn hết, giống như định nghĩa của chữ Ma Phạm vừa nói trên đây. Tên của Ma có nghĩa là thần chết.
Ma là chúa tể của mọi dục vọng, thèm khát, ham muốn, mọi thứ khoái lạc do thân xác. Đó là Chủ nhân ông của thế giới vật chất và hiện tượng. Trọng trách và bổn phận của người Chủ nhân ông này là phải điều khiển và canh chừng sự vận hành của thế giới đang diễn biến chung quanh ta.
Ma không những tượng trưng cho dục vọng hiển hiện như vừa kể mà c̣n tượng trương cho những thèm khát tiềm ẩn bên trong ta, không bộc lộ ra ngoài, chúng thuộc về bản năng, phát sinh từ những tâm thức có thể rất tinh khiết, từ những nghiệp sâu kín và những cấu hợp của thân xác. Con Ma này nằm trong thịt da của ta, trong tâm thức ta, trong sự vận hành của cơ thể ta.
Ma c̣n mang một cái tên nữa mà ít Kinh sách nói đến, đó là con ma Ái dục (Kâma, xin đừng lầm lộn với karma), đó là sự yêu mến, ḷng yêu thương, nôm na là t́nh yêu. Con ma Ái dục ấy là một thứ bản năng, tinh anh của sự sống, luôn luôn canh chừng và chăm lo cho ta.
Con Ma đó hiển hiện một cách tuyệt vời, thật đẹp, nó làm phát sinh ra mọi h́nh tướng. Con ma đó hiến dâng cho những h́nh tướng biến động do chính nó tạo ra, mọi thứ lạc thú và mọi cảnh giới tuyệt đẹp thuộc vào thế giới luân hồi, tạo ra mọi thứ hạnh phúc của thế tục.
Vấn đề mấu chốt và gay go là Ma không bao giờ chú ư đến hậu quả của những thứ mà nó đă tạo ra. Nó rất hào phóng, cho không tiếc tay, tham bao nhiêu nó cũng cho, yêu hay bám níu bao nhiêu nó cũng sẵn sàng tiếp tay. Nhưng hậu quả của những ảo giác ấy do nó đem tặng cho ta chỉ là khổ đau mà thôi.
Điều này Ma không cần biết. Ma cho ta lạc thú, nhưng đồng thời cũng tập cho ta thèm khát lạc thú. Điều này có nghĩa là Ngũ uẩn quen dần với với những lạc thú ấy, lệ thuộc vào những lạc thú ấy và bị kích động bởi những lạc thú ấy. Ma vừa là kẻ sáng tạo và đồng thời cũng là kẻ phá hoại là như thế đó.
Khi nh́n Ma dưới khía cạnh này, ta sẽ hiểu ngay là ma ở đâu. Ma ngự trị chính trong đầu của ta. Ma nằm sẵn trong tâm thức ta, trong da thịt ta, trong sự vận hành của thân xác và tâm trí ta. Nói cách khác Ma không nằm bên ngoài ta, không có ta th́ cũng không có Ma.
Ma quân hay những đạo binh ma chính là sự thèm khát nhục dục, chán nản, buồn bực, đói khát, bám níu, tham lam, chiếm giữ, lười biếng, đờ đẫn, sợ hăi, nghi ngờ, hận thù, tiện nghi, kiêu căng, tự kiêu, yêu thương một cách ích kỷ, tự măn với cái tôi của chính ḿnh..
Tất cả những thứ này được Kinh sách phân ra làm tám thứ hay mười thứ ma: Uẩn ma, Phiền năo ma, Tử ma, Thiên ma, Tâm ma, Thiện căn ma, Tam muội ma..như đă đề cập trong phần thứ nhất của bài viết.
Để tránh cách nói tổng quát, siêu h́nh của giới trí thức hay học giả, ta thử đưa ra một vài ví dụ thực tiễn hơn của những con người b́nh dị như chúng ta đây. Chẳng hạn khi ta bước vào một căn pḥng tối, ta thấy trong một góc pḥng có một con Ma, tóc xơa, mặt xanh mét, đang nhe răng trợn mắt… và cười với ta.
Nếu ta b́nh thản, từ tốn, không khiếp sợ, tiến thẳng đến con Ma, ta sẽ không thấy nó khi ta đến gần. V́ đấy chỉ là những ảo giác do ta tạo ra trong đầu, hay do bóng tối mờ ảo nuôi thêm trí tưởng tượng của ta. Nếu như ta vẫn không dám tiến đến gần, ta cứ bật đèn lên, th́ con Ma cũng biến mất.
Nhưng nếu ngược lại, ta hét lên một tiếng, vắt gị lên cổ mà chạy, th́ nhất định con Ma sẽ đuổi theo, và nhất định ta sẽ không thể nào chạy nhanh hơn nó được, v́ chính ta cơng nó mà chạy. Nó ở trong đầu của ta, trong thân xác đang nổi da gà của ta.
Tệ hơn nữa, có thể ta lại đem chuyện thấy ma ấy mà vừa thở hổn hển, vừa kể như thật với người khác, tức là ta giới thiệu con Ma mà ta thấy cho một người thứ hai. Người này có thể vừa thích thú vừa sợ sệt mà đón rước nó, đem cất giữ nó vào trong đầu. Người này lại kể cho người thứ ba, người thứ ba lại kể cho người thứ tư.
Mỗi lần như vậy th́ con ma mà ta thấy lại trở nên hung tợn hơn và khiếp đảm hơn một chút, mắt nó trợn to hơn, răng nó dài hơn, và nó cười rùng rợn hơn. Biết đâu sau một ṿng, người nghe sau cùng lại vô t́nh kể lại cho ta nghe về con ma này, có thể ta c̣n sợ nó hơn cả con ma ta từng thấy thật trước đây.
Phật có đưa ra một ví dụ dễ hiểu. Khi bước ngang ngưỡng cửa lúc nhá nhem tối, ta thấy một con rắn. Ta hoảng hốt và giật lùi lại. Nhưng nh́n kỹ th́ đấy chỉ là một cuộn dây thừng. Con rắn ở trong đầu ta. Con Ma cũng ở trong đầu ta là như vậy.
Khi ta ngủ mê, ta thường chiêm bao thấy ma. Ta hét lên hay la ú ớ..Giật ḿnh thức dậy, ta không thấy ma. Khi ngủ, ta nhắm mắt, nằm trên giường và trong gian pḥng tối om, làm ǵ ta có thế dùng mắt mà thấy được.
Cái thấy ấy là do tâm thức của ta thấy, h́nh ảnh con ma hiện lên từ tiềm thức ta, từ nơi a lại da thức của ta, sinh khởi từ những xúc cảm bấn loạn và tiềm ẩn trong ta, từ những nghiệp sâu kín của ta.
Tóm lại, và cũng xin lập lại, con Ma nằm trong tâm thức ta, trong tâm trí ta và trong tâm linh ta. Tại sao? V́ Ma được sinh ra từ những tư tưởng của ta. Nó chính là Chủ nhân ông của mọi tư tưởng. Chính nó, xuyên qua quá tŕnh vận hành của ngũ uẩn, đă làm phát sinh ra tư tưởng của chính ta.
Những tư tưởng đó gồm có dục vọng và thèm khát, lôi theo những hành vi nhắm vào mục đích làm thoả măn những thèm khát và dục vọng đó. Hậu quả đưa đến là khổ đau. Trong đầu ta, Ma luôn luôn nhắc nhở ta phải bảo vệ cái tôi, cái ngă của ta, và tùy theo từng người, nó dùng cách quát nạt, ra lệnh hay vỗ về bằng những tiếng êm ái hay hét lên the thé.. mục đích để in đậm trong tâm trí ta sự hiện diện của cái ngă.
Ma là cái ngă đang thống trị ta, làm cho ta tham lam, ích kỷ, xúi dục ta, nịnh hót ta, biến ta thành đốn mạt, nói dối và quỷ quyệt. Ma không phải chỉ biết doạ nạt suông mà thôi. Những hành vi của Ma làm phát sinh ra Thế giới luân hồi.
Thế giới luân hồi nằm trong sự kiềm tỏa của Ma, và Ma lại nằm trong tâm thức của ta. V́ thế có thể nói Ma chính là một h́nh thức của Vô minh hay một cách nói để so sánh với Vô minh. Chính Ma đă tung hoành trong tâm thức ta, tạo ra u mê, lầm lẫn và khổ đau. Chính Ma kích động để ta tạo nghiệp.
Chu kỳ của sự sống là cách vận hành của bánh xe luân hồi do Ma tạo ra, và đó cũng là sự vận chuyển của cái ngă. Tỉnh thức hay Giác ngộ tức là nhận thức được quá tŕnh đó, sự vận chuyển đó là không thật, chúng chỉ là ảo giác, chỉ là Ma, chỉ là Vô minh mà thôi.
Tóm lại và để kết luận, ta không thể đuổi con Ma ra khỏi pḥng, ta cũng không thể chạy trốn nó được, mà ta phải đuổi con Ma ra khỏi đầu ta. Ta không thể dùng bùa chú, phù phép hay nghi lễ để đuổi Ma.
Ta phải đuổi Ma bằng cách tu tập, bằng cách khắc phục Vô minh, đem đến cho ta một tâm linh minh mẫn, an b́nh, trong sáng và rạng rỡ, không c̣n bóng dáng một con Ma nào cả.
Hoàng Phong
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1217 of 1439: Đă gửi: 07 July 2010 lúc 11:38pm | Đă lưu IP
|
|
|
MỘT CHUYỆN RÙNG RỢN
Có lần tôi đă gây nên nỗi kinh hoàng trong một ngôi nhà, khi dẫn tới đây một người bạn của tôi tên là Gioócken. Thật ra, tôi không cho ḿnh, và có lẽ tôi cũng không cho anh ta là có lỗi.
Sự thể là một người bạn khác của tôi nói rằng, mấy đứa con của anh ta rất thích nghe những chuyện rùng rợn. Và tôi đă kể cho chúng nghe mấy câu chuyện hoang đường về sư tử và hổ, nhưng không làm chúng sợ tí nào.
Lúc ấy tôi chợt nhớ tới Gioócken là người đă từng sống nhiều năm trong các khu rừng ấn Độ và châu Phi để săn bắn thú dữ, và tôi tin rằng những hồi ức của chàng sẽ gây cho chúng một ấn tượng mạnh mẽ.
Do đó tôi mới bảo ba đứa con của bạn tôi rằng tôi quen một người thợ săn kỳ cựu vốn biết rất nhiều chuyện và hỏi chủ nhà xem tôi có thể dẫn anh ta đến uống trà vào một dịp nào đó được không.
Chính tôi cũng không thể h́nh dung là Gioócken sẽ kể một chuyện thực sự rùng rợn. Và tôi cũng không ngờ là lũ trẻ tuy không c̣n bé bỏng cho lắm, tuổi từ mười đến mười hai, lại khiếp sợ đến thế.
Tôi được phép dẫn Gioócken tới ngay lập tức, và bọn trẻ sau tuần trà đầu tiên đă yêu cầu chàng kể cho chúng nghe một câu chuyện rùng rợn, c̣n Gioócken th́ chẳng bắt chúng van nài đến lần thứ hai.
Bây giờ tất cả tội vạ được đổ lên đầu tôi. Tôi không hiểu tại sao. Tôi chỉ thực hiện nguyện vọng của chúng thôi mà.
Tất nhiên cần lưu ư một điều là trước đây chúng chưa bao giờ nh́n thấy Gioócken cả và chỉ biết chàng qua lời miêu tả của tôi, mà bọn trẻ đôi khi có thể rất cả tin. C̣n bây giờ hăy cho phép tôi được tŕnh bày câu chuyện của Gioócken.
Chàng kể nó, ngồi trong chiếc ghế bành thoải mái, trong khi đó th́ lũ trẻ, hai đứa con trai mười và mười một tuổi và một cô bé mười hai tuổi th́ đứng trước chàng, khao khát uống từng lời một.
Chàng kể chuyện về con hổ. Tôi chờ đợi được nghe đại loại những ǵ mà chàng thường kể cho người lớn, nhưng Gioócken đă thay đổi cốt truyện một cách đáng kể, có lẽ cho phù hợp với lứa tuổi người nghe. Có thể nói là chàng đă đi quá xa.
- Con hổ nh́n thấy chú..
Gioócken lên tiếng.
- Và thong thả đi theo sau, dường như nó không muốn chạy trong cái tiết trời nóng bức như thế này và có lẽ nó biết rằng chú cũng không chạy. Mong rằng câu chuyện này là một bài học cho các cháu trong tương lai: Khi lớn lên, đừng bao giờ lại gần những khu rừng ấn Độ mà không mang theo súng, thậm chí nếu các cháu muốn dạo chơi một lúc như chú đă từng làm trong cái buổi sáng rủi ro ấy.
Bởi v́ giữa đường chú gặp một con hổ. Nó lừng lững đi đằng sau chú, c̣n chú th́ muốn tránh xa, nhưng hổ đi nhanh hơn chú một chút xíu. Tất nhiên chú hiểu rằng cứ mỗi một trăm ácdơ (đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 91,44cm), nó chỉ nhích lại phía chú có năm, sáu phút (đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 30,05cm) nhưng khoảng cách giữa hổ và chú ngày càng thu hẹp lại. Và chú hiểu rằng cũng không nên chạy.
- Tại sao thế?
Lũ trẻ đồng thanh hỏi.
- Bởi v́ hổ có thể nghĩ rằng một cuộc chơi mới đă bắt đầu và nó sẽ tham gia vào đó. Chừng nào chú đi th́ cứ một trăm ácdơ nó tăng thêm được năm, sáu phút, c̣n nếu chú chạy th́ nó sẽ tranh thủ được năm mươi phút.
Và chú quyết định nên đi mặc dầu chú biết rằng cái kết cục sẽ như nhau và chú chỉ kéo dài cái điều không thể tránh khỏi mà thôi. Khốn nỗi là chú và con hổ không phải ở trong rừng mà ở giữa các mô đá, ở đó chẳng có cây cối nào mọc lên. Mà chú th́ càng ngày càng đi xa khỏi khu rừng.
- Tại sao thế?
- Bởi v́ con hổ đă xuất hiện giữa chú và rặng cây. Hổ thường ra khỏi rừng vào ban đêm và đến rạng sáng, khi lũ gà trống thức dậy và cất tiếng gáy, th́ quay trở lại.
Tất cả những điều đó cũng xảy ra vào buổi sáng, nhưng mặt trời đă lên khá cao và chú cho rằng tất cả những con hổ đă ở trong rừng từ đời tám hoánh rồi. Bởi vậy chú mới đi dạo chơi mà không mang theo súng và, té ra thật là tai hại!
- Thế tại sao chú lại đi chơi?
Cô bé hỏi.
- Các cháu đừng bao giờ hỏi một người nào đó rằng tại sao anh ta lại làm điều này hay điều khác để chuốc lấy tai họa. Nguyên cớ bao giờ cũng chỉ có một, mặc dù hiếm người thú nhận chuyện đó. Nó được gọi là sự ngu ngốc.
- Thế trong trường hợp của chú nó dẫn tới tai họa à?
Cô bé ṭ ṃ hỏi.
- Rồi các cháu sẽ được nghe kể hết.
Gioócken thản nhiên tiếp tục:
- Như chú đă kể cho các cháu là con hổ đang ở trên các mô đá. Con hổ mỗi lúc mỗi tiến gần lại. Và lúc ấy chú nh́n thấy một cái hang nằm giữa hai quả núi, ở gần ngay đỉnh quả núi nhỏ. Lẽ cố nhiên chui vào trong hang có nghĩa là cắt đứt con đường rút lui của ḿnh. Nhưng việc tiếp tục rút lui không thể dẫn tới một điều ǵ tốt đẹp cả, c̣n cái hang th́ tạo ra một cơ may thoát thân.
Nó có thể trở nên hẹp hơn, và hổ ta không thể chui lọt vào nơi chỉ đủ chỗ cho con người. Hoặc ḷng hang trở nên rộng hơn và có nhiều ngóc ngách nên chú có thể dọa nạt làm cho chú hổ sợ. C̣n chút hy vọng cuối cùng, chú bèn trèo lên núi và chui tọt vào hang.
Con hổ bám theo sát gót chú. Chú đă vượt được một khoảng cách nhất định trước khi ánh sáng bị che khuất: thân con hổ đă lấp kín lối vào hang. Ḷng hang quả thật hẹp dần lại, và chẳng mấy chốc chú phải ḅ lổm ngổm bằng tứ chi. C̣n con hổ th́ cứ nhẩn nha như trước. Nh́n kỹ th́ ḷng hang cũng khá rộng, đủ chỗ cho cả con hổ lẫn chú.
Lúc ấy chú sực nhớ tới bài báo ngắn nói về hai bộ xương của con chuột và con mèo được t́m thấy trong khi người ta xây dựng một thánh đường lớn. Con chuột rút sâu vào trong hang, con mèo th́ không thể với tới nó. Nhưng mèo chui đầu vào hang và mắc kẹt ở trong đó đến nỗi không thể rút đầu ra được.
Và thế là hai con vật vĩnh viễn nằm trong hang. Chú chỉ c̣n chút hy vọng là con hổ c̣n đủ trí khôn quay ra khi ngách hang trở nên quá hẹp, chừng nào mà nó không vội vă trườn về phía trước. Song nó càng ngày càng tiến gần lại. Chú đă ngửi thấy mùi cọp. Và lúc ấy một ư nghĩ thoáng hiện trong đầu: mùi cọp quá gắt.
Tuy vậy nó vẫn ở cách chú chừng ba mươi ácdơ. Chẳng lẽ chú lại đang ḅ trong hang thú? Nhưng chú cố xua đuổi cái ư nghĩ khủng khiếp đó khiến chú hồn vía rụng rời. Sau đó xuất hiện tia hy vọng là cái hang này xuyên qua núi, mặc dầu chú chẳng thấy điều đó có lợi ǵ cho ḿnh cả.
Bắt đầu ở phía bên kia quả núi có thể có những điều bất ngờ, thậm chí một chiếc cây mọc đơn độc. Nhưng chú không cảm thấy có luồng gió thổi qua chứng tỏ rằng cái hang này là ăn thông ra ngoài. Không khí đậm đặc mùi cọp, và chú hiểu rằng chú không c̣n được nh́n thấy mặt trời nữa rồi.
Tôi liếc nh́n lũ trẻ để xem Gioócken có thu hút được sự chú ư của chúng không. Chúng lắng nghe, nhưng tôi cảm thấy rằng chúng không bộc lộ sự hứng thú đặc biệt. Tôi có cảm tưởng rằng, mà cũng có thể là tôi lầm, cô bé lại có cảm t́nh với con hổ hơn.
Tôi xin nhắc lại là tôi có thể sai. Nhân tiện cũng nói thêm rằng câu chuyện này xảy ra vào mùa thu, người ta không thắp đèn trong căn pḥng tranh tối tranh sáng. Tôi không có lỗi trong việc này: tôi không lường được là sự cố ǵ diễn biến tiếp theo.
- Con hổ mỗi lúc một tiến gần lại.
Gioócken kể tiếp:
- Chú nhận thấy nền hang rất phẳng phiu, nó được mài nhẵn bởi những chiếc chân mềm mại của một con vật khổng lồ. Và đường hầm được bịt lại bằng một bức tường dày đặc, cũng nhẵn thín. Chú quay đầu lại trong bóng tối và chú ngửi thấy, hơn cả nh́n thấy, con hổ ở ngay trước mặt ḿnh.
- Rồi sao nữa hả chú?
Một thằng nhỏ hỏi.
- Nó đă ăn thịt chú.
Gioócken đáp.
- C̣n đang nói chuyện với các cháu ở đây là hồn ma đấy..
Lập tức trong căn pḥng tối om bắt đầu diễn ra sự náo động kinh hoàng, mà lỗi gây nên chuyện đó, mọi người đă đổ lên đầu tôi.
Lord Danseni
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1218 of 1439: Đă gửi: 08 July 2010 lúc 8:52pm | Đă lưu IP
|
|
|
CĂN NHÀ BỎ HOANG
- Anh thấy đấy. Nàng vui vẻ nói:
- Đi xem xét việc làm ăn mà đưa em theo cũng có lư. Em mang lại cái hên cho anh, từ lúc khởi hành đến giờ chưa hề bị một trục trặc ǵ.
Khởi từ Normandie nơi họ đă gặp nhiều người bán hàng trong vùng cho hăng, hai người dừng lại ở Chartres, ăn trưa ở Grand Monarque và bây giờ lái xe thẳng theo hướng nam, trực chỉ Châteaudun.
Nhưng câu nói lạc quan mà người vợ trẻ bảo chồng, h́nh như đă làm thay đổi hẳn diễn tiến công việc. Chiếc xe đang khó khăn leo lên cái dốc khá dài, lúc người vợ nhận xét vậy bỗng chạy chậm lại hẳn. Động cơ hực lên vài tiếng rồi dừng. Họ c̣n đi được thêm hai chục mét trước khi nép xe vào vệ đường.
- Này. Anh chồng nói:
- Từ rày về sau th́ coi chừng cái miệng mồm đấy.
Rồi anh nh́n vợ bằng vẻ mệt mỏi chán nản trông khôi hài đến nỗi cô vợ phá ra cười. Sự vui tươi của người vợ khiến anh chồng cũng phải cười theo. T́nh thế có vẻ khôi hài hơn là nghiêm trọng.
Dẫu sao anh cũng thử sửa chiếc xe thật nhanh bằng cách mở nắp máy lên. Sau khi rị mọ vài ba thứ anh kêu lên:
- Đề máy đi.
Người vợ làm theo nhưng không kết quả. Anh chồng lại bắt đầu rờ rẫm, lại kêu nổ máy để đi đến kết luận rằng, xăng không được bơm lên và anh chẳng thiết mở tung mớ đồ lạc xoong này, cần phải t́m thợ máy ở xa, phía dưới.
Người vợ đứng lên, nhẹ nhàng ngoái đầu lại phía sau, hướng người chồng đă chỉ, nhận ra ngôi làng cách khoảng bảy tám trăm mét mà họ vừa vượt qua không để ư.
Được thôi, nàng sẽ ở lại đây nhưng xin anh đừng để nàng đợi buồn nẫu ra hàng giờ. Nàng quay đầu lại lần nữa để nh́n người chồng đi xa dần. Đầu trần, anh đi giữa lộ những bước dài đăm chiêu, bằng cái dáng hay lắc lư vai quen thuộc làm nàng cảm động, chiếc áo khoác thể thao mở tung phập phồng. Nàng quyết định phải b́nh thản chờ đợi mọi sự diễn tiến.
Mui xe mở ra khiến nàng có thể quan sát được khung cảnh, khắp nơi là những cánh đồng vàng, v́ là người thành thị nên nàng không thể phân loại được đất này trồng ǵ, vả lại mùa xuân cũng chưa cho phép trồng trọt nhiều thứ được.
Tuy nhiên nàng cũng nh́n thấy từ xa một nhóm cây nhỏ phủ đầy hoa trắng hay hồng ǵ đó. Gần chiếc xe, bên vệ đường có một cái nhà tồi tàn, với vẻ ngoài không có ǵ đáng chú ư như bị bỏ hoang.
Người đàn bà trẻ tuổi duỗi chân ch́m sâu hơn vào trong ghế như muốn t́m thế nằm thuận lợi cho giấc ngủ. Nàng ngả đầu ra sau để tựa lên lưng ghế, nhưng chiếc mũ, một loại mũ bằng da để đi xa, sạch sẽ và không trang hoàng, lại làm nàng bị cấn.
Nhanh nhẹn lột mũ ra, nàng ném nó qua vai vào băng ghế sau. Thế là nàng có thể buông thả gáy ḿnh và cảm thấy qua mái tóc nắng đă đủ th́ giờ làm nệm ghế nóng lên. Mơ hồ, bất động, phơi hoàn toàn trong ánh sáng, nàng để mặc cho sức nóng lấn chiếm làn da, thâm nhập vào ḿnh như một thứ đồng cảm với thiên nhiên bao quanh, với khoảng trời bao la mắt nàng ngước nh́n đang âm ấm ve vuốt mặt đất.
Vậy là phải có một sự cố buồn nản mới ép nàng biết đến bầu trời. Chiều sâu khác thường của không trung được nhấn mạnh thêm, bởi những đám mây nhỏ hiếm hoi bay uể oải, giống như những cây táo hay lê ǵ đó sủi bọt tăm, cũng đang bồng bềnh trên vườn quả xa xa.
Người vợ nghe từ sau lưng tiếng động cơ. Một chiếc xe dáng vẻ đặc biệt vượt qua xe nàng và dừng lại một cách khó hiểu cách nàng vài mét. Khi thấy Georges và người thợ mặc đồ xanh bước xuống, nàng mới nhớ ra rằng hai vợ chồng đă bị hỏng xe và tự hỏi không biết ḿnh có ngủ thiếp đi không.
Giọng nói to của người chồng đưa nàng về thực tại trọn vẹn:
- Em thấy tụi này cũng đến nhanh đấy chứ!
Cùng lúc đó anh thợ máy mỉm cười với người đàn bà xinh đẹp, mà anh vừa đến để giúp qua khỏi cơn rắc rối. Nàng nhỏm dậy. Hai người đàn ông im lặng đắm ḿnh xem xét động cơ. Rồi họ nói chuyện máy móc, rút ra nhiều dụng cụ từ bộ quần áo thợ máy, đặt vào chỗ trũng vè bánh xe, như những vật chứng tích trước ṭa án và lần lượt thử từng cái, mà không đạt kết quả cụ thể nào.
- Có thể bộ phận bơm xăng đă bị hư, phải thay cái đĩa nhỏ.
Kết luận như vậy, người thợ máy muốn kéo xe về chỗ xưởng sửa chữa. Mở cuộn dây cáp bằng thép ra để cột vào phía trước chiếc xe hỏng, anh ta bảo người chồng rằng, chỉ cần thắng nhè nhẹ lúc xuống dốc một lúc, sau đó chiếc xe sẽ tự trôi một ḿnh.
Trong khi anh ta đang chuẩn bị, Georges nhảy qua hố lại gần căn nhà bỏ hoang, để đọc hàng chữ trên tấm bảng đá gắn vào tường. Khi trở lại ngồi vào tay lái, anh lơ đăng nói rằng trước kia ở đây đă từng có một trận đánh.
Một lát sau khi họ đă sửa soạn để trở lại làng và việc móc xe đă tiến hành trôi chảy, người chồng nói:
- Cái anh chàng này có vẻ không được sáng dạ lắm, không biết có sửa được không. Dẫu sao anh cũng có cảm tưởng rằng, chúng ḿnh sẽ phải kiên nhẫn dừng ở đây một lúc lâu trong cái làng vớ vẩn này.
- Miễn là cơn đau cổ họng của thằng Rico con ḿnh không trầm trọng lắm...
Nàng thầm th́, dù việc cơn đau chẳng liên quan ǵ đến vụ hỏng xe. Nàng cũng không phải loại người dễ mất hồn. Tuy nhiên khi có việc ǵ xảy ra trái với dự tính, nàng lại nghĩ ngay đến con cái.
Để xe vào gara rồi hai vợ chồng quyết định vào quán cà phê đợi. Những dăy nhà trải dài hai bên con lộ không hợp thành một làng. Trông giống như thị trấn nhỏ ở xa Chartres hơn, với những mái nhà thấp, rải rác đó đây một cửa kính nhợt nhạt không màu sắc, bán đồ tạp hóa vùng quê.
Hai đứa trẻ chạy đuổi bắt nhau. Có tiếng đập đều đặn trên kim loại trong xưởng kế cận. Hai người bước vào quán cà phê gần nhất. Lúc ấy đă là giờ nghỉ ngơi. Quán vắng tanh. Một con mèo đang ngủ trên quầy. Khắc sau ông chủ mới xuất hiện, lê bước chân như nỗi tiếc nuối. Hai người gọi bất cứ thức uống ǵ để lấy cớ cho sự hiện diện trong quán.
Trong khi ông chủ đưa nước ra, người vợ móc hộp phấn trong túi, loáng thoáng trang điểm lại. Hơi đau đớn, nàng tê dại người đi như có ai trùm lấy ḿnh trong lớp bông dày và những tiếng động chỉ vang vọng đến yếu ớt. Có thể là nỗi mệt mỏi v́ chuyến du hành.
Hay đúng hơn, sự dừng lại đột ngột giữa đường đă làm nảy sinh ra hai nàng Hélène, một bị bọc trong bông đến nỗi không đủ can đảm đến nếm ly nước trước mặt, và một nhẹ nhàng sống động, đủ nhẹ nhơm để nói những câu như:
- Tôi khỏe mạnh và có ba đứa con xinh xắn, một người chồng tốt bụng có địa vị vững chắc.. và đẩy sự giễu cợt đến độ lang thang đến đây trên con lộ chan ḥa ánh nắng.
Nhưng cả hai nàng Hélène đều ḥa tan và nhập làm một quá nhanh bởi giọng nói lớn của Georges, to đến nỗi nàng phải vặn bớt chiếc máy thu thanh ông chủ vặn lên từ lúc năy. Ông chủ thanh thản trả lời tất cả mọi câu hỏi, người chồng quan tâm đến đủ mọi thứ.
Không những anh chỉ muốn biết về dân số, nguồn lợi của khu vực, công việc làm ăn mà sự ṭ ṃ của anh c̣n lan đến cả cái lọc cà phê chứa được bao nhiêu.. Anh muốn kiểm chứng tất cả những điều bàn đến. Mối cảm t́nh với quán làm anh xoay quanh bàn bia, t́m kiếm những thứ đồ vật mới anh có thể rờ mó, thích thú hồi lâu với máy đánh bạc bằng những đồng xu.
Tuy vậy anh cũng không xao lăng vợ, đến bên nàng nhiều lần để hỏi sao có vẻ xa vắng thế, mệt không. Nàng bảo rằng bóng tối và mùi cà phê làm nàng khó chịu, muốn lên đường sớm. Anh quyết định đi xem chiếc xe đă sửa tới đâu rồi và nhanh chóng trở lại, mặt tươi tắn, thông báo sắp xong rồi và họ có thể đến gara. Người chồng lạc quan quá sớm bởi họ phải đợi thêm nửa giờ mới đi được.
- Anh chàng này tính tiền cũng đúng lắm không đắt đâu.
Anh nói khi rồ máy, chiếc xe vượt nhanh chóng những dăy nhà, tức thời đă lên dốc và nàng tưởng nó sẽ cũng chẳng khó khăn ǵ khi leo qua. Nhưng tới nửa chừng, ngay cái chỗ họ bị chết máy lần đầu trước căn nhà bỏ hoang, động cơ yếu rồi dừng lại.
Georges giận dữ. Cái gă thợ máy này là một tên đần độn anh đă nhận ra ngay từ cái nh́n đầu tiên, ngu xuẩn và không đủ khả năng. Hắn đă mất một tiếng để sửa cái bơm xăng để rồi kết quả lại về nguyên trạng. Trước hết hắn đă lầm. Không phải bộ phận bơm xăng. Bất cứ người thợ rành nghề nào cũng phải thấy ngay chuyện đó. Xe chết máy v́ chỗ khác, nhưng ở đâu? Anh chồng lại đi xuống dốc.
Sau khi trút cơn giận vào thợ máy, anh lại đổ bực bội lên chiếc xe anh đang cau có nh́n. Nó có cái ǵ ở trong bụng, cái của khỉ này? Cúi nh́n dưới nắp máy xe lần nữa anh cũng chẳng t́m được giải pháp nào thỏa đáng. Đây chỉ là chiếc xe bán phế thải, thế thôi, nó ẩn chứa cái tật nào đó khiến không thể lên dốc được, cứ như thế này lần nữa th́ chỉ cho nó một mồi lửa hay ném nó vào gốc cây.
Anh chồng đứng lên cạnh vợ và cô nàng tự hỏi không biết anh ta có t́m cách hướng nỗi bất b́nh về ḿnh không? Nhưng quả thật là một người chồng tốt bụng, bởi với chút giận dữ c̣n lại, anh chỉ tự trách ḿnh. Anh đă dại dột mua chiếc xe này trong khi mọi người đều ngăn cản.
Đúng là một kẻ điên rồ không thể chịu đựng nổi, khi anh cứng đầu nhất định đ̣i mua với lư do, đó là chiếc xe mui trần và màu lá cây làm anh ưng ư. Thật ngu si. Tới đây lời tự thú dừng lại hẳn, rối tinh lên và cũng không chắc làm được, anh đă thành công khi cho máy nổ.
- Phải trở lại chỗ sửa thôi.
Anh buồn bă nói. Người vợ mở cánh cửa xe.
- Em sẽ đi dạo đợi anh, lúc trở lại anh sẽ bốc em lên.
Anh chồng gật đầu và nổ máy khó khăn, để đổi hướng xe chạy sang đường đất nhỏ kế bên. Sau đó nh́n chồng rời xa, chiếc xe rung lên kỳ quặc với những tiếng nổ như pháo ngày càng to dưới dốc, nàng tự hỏi không biết anh có đi được đến tận làng hay không.
Vụ chết máy xe này cũng không làm nàng ngạc nhiên lắm, dù không thể giải thích tại sao. Chiếc xe đă mang theo cả cái túi và mũ của nàng. Cũng chẳng sao, nàng cũng chẳng cần thứ ǵ, cảm thấy thoải mái trên con lộ, mái tóc và đôi bàn tay hoàn toàn được tự do, chiếc khăn tay ở túi trên của áo ngoài, có mùi giống như hương của đồng nội kia.
Sau một lúc do dự trước không gian bao la, nàng bước vài bước và ngồi xuống triền dốc. Đáng lẽ nàng có thể đi xa hơn nữa, tận dụng kỳ xả hơi ngắn do vụ chết máy xe, để làm cuộc dạo chơi thực thụ và dấn sâu vào đồng quê. Rồi tưởng tượng bộ mặt của Georges khi không t́m thấy nàng ngay. Nhưng nàng không muốn làm anh buồn chút nào. Được ngồi lại trên triền dốc cũng là nghỉ ngơi vậy.
Nàng không cần sử dụng sức lực mới biết ḿnh đầy đủ sức khỏe. Cũng như mới đây khi nằm duỗi dài dưới nắng ở trong xe, nàng đă được ban phát nồng hậu một nỗi ngây dại hạnh phúc. Thật là một ngày tuyệt diệu, một trong những ngày đẹp nhất của nàng. Nền cỏ dưới chân hơi ẩm ướt và mơn trớn dễ chịu.
Nàng nhổ từ một túm cây mọc kề bên và giữ trong bàn tay những bông hoa trắng nàng không biết tên, tầm thường và vẫn đẹp như tất cả loài hoa. Tầm mắt c̣n mất hút trong bầu trời rồi thu lại đặt trên những đóa hoa, nàng nghĩ về ḿnh, về con người mà nàng biết rằng đẹp dù với ḷng khiêm cung cũng cao.
Chưa bao giờ nàng cảm thấy gần gũi như thế với cái thế giới bao la này, nơi những cánh đồng cho nàng nghe tiếng ŕ rào. Đó không phải là một thế giới bất trắc. Bằng sự uy nghi sang cả, thế giới ấy cho nàng hiểu sự nhỏ bé của ḿnh.
Nhưng nàng không phải là cái ǵ thừa thăi, nàng không làm xáo trộn một trật tự nào cả. Trái lại thật là may mắn khi sự t́nh cờ đă bắt họ dừng lại chốn này, nơi làm nàng ngỡ ngàng trong mối tương quan với bầu trời, b́nh nguyên và những đóa hoa đang cầm trên tay.
Tất cả những ǵ trong tầm nh́n dưới ánh nắng ve vuốt đều đă được tạo ra để gây niềm tin tưởng. Nàng ngồi bất động một hồi lâu với ư nghĩ mông lung nhẹ như những gợn mây trắng, như những chùm hoa táo xa xăm kia, và với nỗi bất an nghĩ đến con cái ở nhà.
Khi nghe tiếng xe leo dốc, nàng đứng dậy để nh́n thấy nó đi lên. Và nàng đến gần căn nhà bỏ hoang, đọc ḍng chữ khắc trên bảng đá: “Thiếu úy Robert Fontant đă hy sinh tại đây để giải phóng thị trấn Chartres”.
Bây giờ chiếc xe đă dừng lại trước mặt nàng, Georges ra dấu:
- Lần này anh tin là xong thôi.
Anh reo lên vui vẻ. Trước khi đến bên chồng, mặt ưu tư, nàng nh́n lại tấm bảng đá và ngó kỹ quang cảnh có cái tháp nhọn vươn thẳng từ xa trên bầu trời trong vắt. Câu nói thốt lên trên môi, làm nàng ngạc nhiên bởi giọng xa lạ của nó “Robert, nàng thầm th́ dịu dàng, tại sao anh lại giữ chúng tôi lại?"
Tất cả đều thanh tĩnh và chan ḥa trong nắng. Một cơn gió nhẹ ẩm ướt làm run khẽ mặt cỏ trên triền dốc, chỉ đủ để nâng niu những hạt nhỏ mang mầm sống bay đi.
- Em có định ở lại đây không đấy?
Georges đùa cợt hỏi, anh nhấn ga vài lần làm máy nổ ầm lên để kiểm tra xem tất cả đă hoàn thiện chưa. Nàng vội vă lên xe và chiếc xe vọt đi
- Cái dốc khỉ gió. Người chồng nói:
- Anh đă tưởng không bao giờ qua được. Phải dùng máy bơm hơi để thổi sạch ống dẫn xăng, có lẽ những vụn sắt bẩn đă chui vào. Đó là lư do tại sao máy chết hai lần cùng một chỗ, ở một độ nghiêng nào đó xăng không lên được nữa. Ḿnh cũng sắp đến Châteaudun thôi.
Nàng không có câu ǵ để trả lời. Khi hai người lên đến đỉnh dốc, nàng quay lại nhưng họ đă đổ nhanh sang triền dốc bên kia, trước khi nàng có thể nh́n lại căn nhà tồi tàn.
Im lặng một lúc lâu nàng nói:
- Anh có nhớ chàng trai mà em đă kể với anh lúc ḿnh mới bắt đầu quen nhau... Hồi ấy em tự hỏi không biết anh ấy đă ra sao rồi.
- Ai cơ?
Người chồng lơ đăng hỏi.
- Anh không nhớ à?
- Hồi đó anh đă ghen v́ vụ ấy. Dẫu sao cũng chỉ là một chuyện ngây thơ, mối t́nh đầu năm em mười sáu tuổi.
Để nói được câu cuối nàng phải hơi ép giọng gượng cười. Người chồng quay lại và thấy vợ cảm động.
- Anh nhớ lại rồi. Rồi sao nữa?
- Tấm bảng đá em mới xem chỗ đó là của anh ấy.
Jean Fougère
Nguyễn Thuyên dịch
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1219 of 1439: Đă gửi: 09 July 2010 lúc 11:45pm | Đă lưu IP
|
|
|
MA VÀ NGƯỜI
Hồi tôi sống với ngoại, lúc sáu, bảy tuổi ǵ đó, tôi bắt đầu biết sợ.. ma. Sợ v́ tin rằng có ma trên đời. Để ư th́ thấy, lần nào ngoại tôi vấp chân, bà cũng từ tốn nh́n quanh, giọng nửa trách móc, nửa tôn kính:
- Mô Phật, ai mà giỡn kỳ, đẩy bà già này làm chi?
Không ai trả lời, chỉ có gió rợn sau nhà. Đám giỗ, ngoại bày năm mâm cúng, lúc nâng ba cây nhang nghi ngút khói ngang trán, ngoại lâm râm vái có kinh có kệ, có ḍ có dọc như thể người nào đó đang ngồi ch́nh ́nh trước mặt.
Tàn nhang cong queo, ngoại mừng nói bữa nay có ông bà về. Nhưng ngoài tôi ra, trước sân chỉ rụng xuống một vài lá vú sữa rập rờn. Tôi tin có những người nào đó tồn tại quanh ḿnh, trong một thế giới vô h́nh, dù ngoại không hề dọa ma.
V́ vậy, suốt những năm sống với ngoại trong khu vườn gần đồn Chẹt, tôi chẳng bao giờ lẻn ra vườn, bởi ghê cái ao trước đây có ông say rượu té chết, một ḿnh không dám ra sông, v́ ngoại kể hồi chiến tranh sông trôi xơ xác những xác người. Cũng không leo trèo hái trái trên những cây me cổ thụ, loại cây mà ma khoái ở (th́ nghe nói vậy).
Nửa đêm thoi thóp nghe chim cú kêu bên hè, khốn khổ, v́ vườn xưa nhiều cây cao nên chim cú thích ở, đêm nào cũng kêu xa kêu gần. Quăng đó tôi sống tốt dễ sợ, đến nỗi không dám.. ăn vụng, v́ nghĩ ḿnh làm bất cứ chuyện xấu xa nào cũng có kẻ nh́n thấy, ớn muốn chết.
Ma đem lại cho tôi rất nhiều cảm xúc mănh liệt. Trong sợ hăi có một chút thích thú. Muốn quay đi nhưng cũng rất ṭ ṃ, hiếu kỳ. Sợ, nhưng thích xem phim kinh dị, tới đoạn rùng rợn lại che mặt.
Người sợ ma nhất luôn có bộ sưu tập nhiều chuyện ma nhất. Và trí tưởng tượng được sử dụng hết cỡ. Những cây tre cọ vào nhau trong đêm giông, tiếng cú kêu, tay chuối khô vật vờ bay trong đêm, vài con bướm lớn màu xám lặng lẽ đậu im ĺm trên vách, một góc nhà hơi tối và lạnh lẽo.. đều là mối dây liên hệ với.. ma.
Ngay cả chạy trên đường, tiếng bước chân ḿnh mà tưởng chân ma rượt, báo hại càng chạy càng thấy nó đuổi sát bên ḿnh. Buộc phải sợ, thế giới đó quá bí hiểm, chưa ai được mon men ra biên giới giữa hai cơi hỏi thăm, người đi về cơi đó cũng không trở lại để.. kể.
Phải sợ, v́ người ngoài sáng, ma trong tối. Ma lượn lờ quanh mà ḿnh chẳng thấy, đến lúc chợp mắt, ma lại hiện ra trong những giấc chiêm bao. Tôi, cũng như nhiều người chưa thấy ma bao giờ, nhưng nghe kể chuyện đă thấy ám ảnh, hăi hùng.
Người đời thêu dệt hàng ngàn câu chuyện ma khác nhau, nhưng đối tượng chính th́ giống hệt, thường là những người phụ nữ xinh đẹp mặc toàn đồ đen hay trắng, có lẽ thế giới đó không chuộng mốt, chưa nghe ma mặc áo chim c̣, áo yếm hoặc váy ngắn, tóc đen dài và khi muốn làm con người sợ hăi, ma khoe cái lưỡi dài đỏ.
Ma hay vật vờ than khóc trên những cây cổ thụ, hay mời người ăn bánh, nhưng khi tỉnh ra th́ thấy bánh là bùn. Rất nhiều truyện kể ma đứng bên đường quá giang xe những người đàn ông, rồi biến mất bằng nhiều cách, hoặc đi vào ngôi cổ miếu nào đó, hoặc lặng lẽ tan đi mặc cho anh nọ vẫn nói huyên thuyên đằng trước.
Những câu chuyện ma bắt đầu làm cho tôi thích thú, đơn giản v́ tôi hết sợ. Tôi không tin tuyệt đối vào sự huyền bí, nếu có th́ ma đâu sao không vặn cổ bọn người xấu đang nhởn nhơ giữa đời kia. Hiểu ra điều đó, tôi tiếc v́ mất đi một lư do để ḿnh sống.. tử tế. Nghịch lư, là khi tôi tỉnh táo, thấu đáo được một điều ǵ đó th́ đời bỗng buồn hơn.
Bỗng ngỡ ngàng thấy người đáng sợ hơn ma. Chẳng biết được ai là bạn, là thù, ai yêu ḿnh, ai ghét ḿnh, trong khi ma đă tách bạch ở một giới tuyến tối tăm khác. Nói tới ma, biết ngay là giặc. C̣n người th́ lẫn lộn trắng đen, khó nắm bắt. Ma muôn đời đơn điệu vài chiêu dọa người, người lại nghĩ trăm phương ngh́n cách hại nhau. Vậy mới sợ.
Phát hiện ra điều này, tôi buồn suốt một khúc thời gian, ganh tị với kẻ sợ ma rón rén trông buồn cười mà hạnh phúc. Tháng Giêng rồi, tôi đi H. chơi. Nghe nói nhà trọ xây trên nền nghĩa địa cũ, cả đêm hai đứa con gái cùng pḥng mở đèn sáng rực, nghe gió rít qua khe cửa sổ, trằn trọc chờ.. ma.
Báo hại tôi ngủ không được. Trăn trở nghe bụng cồn cào, tôi ṃ ra quầy bar, mua ly sữa nóng. Anh chàng trực quầy cao lớn đang ép nước trái cây. Lúc anh ngẩng lên, tôi giật ḿnh trước nét mặt đẹp, rất nam tính nhưng lạnh tanh, thật ngầu.
Lúc ấy tôi bị bội thực những nụ cười giao đăi nên thấy thích anh chàng này, đứng nấn ná nói một vài câu chuyện bâng quơ. Tôi kể ḿnh vừa thấy ma. Anh cười. Tôi nói em thấy ma thiệt. Anh lại cười. Tôi nói bạn em cũng thấy ma, nó đang sợ phát khóc trong pḥng.
Mắt anh ta nh́n tôi có vẻ tần ngần, cuối cùng anh hỏi, con ma ra làm sao. Tôi ngập ngừng, ra bộ vẫn c̣n hăi hùng lắm, nói chị đó mặc đồ nâu đen, tóc dài, cài nơ đen. Anh ta im lặng, nh́n chăm chăm vào cái máy xay đang kêu tè tè. Anh bỗng ngẩng lên:
- Em à, con nhỏ đó hiền lắm.
Tôi đứng day ly sữa trong tay, cảm động muốn chết. Chẳng ai nói về ma, về nỗi sợ hăi thường trực trong ḷng bằng cái giọng ấm áp, bao dung, b́nh thản, chân thành như vậy. Như thể anh đang nói về một đứa em nhỏ, một người bạn thân, một đồng loại..
Thật đơn giản, lâu nay người ta cứ nghĩ ai đó là kẻ thù, trong khi họ cũng có thể làm bạn. Tôi lại tin có ma ở trên đời, nhưng không phải để sợ hăi..
Nguyễn Ngọc Tư
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên


Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1220 of 1439: Đă gửi: 11 July 2010 lúc 5:23pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHIỀU CHUYỆN NÓI RA KHÓ TIN LẮM NHƯNG CÓ THẬT
MA ÁM
Đây là chuyện tôi được nghe hồi c̣n đi học Cây Cầu Dát cạnh nhà thương Hải Dương, nổi tiếng là dữ, lắm ma quỷ. Chúng đă hiện lên thành người để nhát dân chúng, đă d́m chết một học sinh lớp Nhất trường Pháp Việt gần đó.
Nhưng cụ Tráng Mọt làng tôi lại coi thường những ma quỷ. Đêm khuya cụ vẫn ngồi câu ở trong bụi sậy bờ sông gần chân cầu. Có một đêm thực khuya, cụ nghe rơ tiếng hai người đàn bà nói chuyện với nhau.
Một người chào từ biệt để đi nơi khác, người kia hỏi lại th́ được trả lời:
- Trưa mai, quá ngọ, sẽ có người đội nón sắt đến đây để chịu thay thế cho tôi.
Hôm sau, cụ Mọt ra ngồi câu ngay từ sáng ở đúng chổ đó. Quá trưa, một người đàn bà đội cái chảo gang trên đầu để tránh nắng, xăm xăm bước xuống bến rồi cứ thế lội thẳng ra măi, ra măi, nước ngập thắt lưng, ngập bụng, nước lên đến ngang ngực, th́ cụ Mọt vội nhảy xuống níu lại để kéo lên rất vất vả v́ người kia không chịu vào.
Đặt người kia dưới bóng cây, cụ Mọt lay gọi, phun nước lạnh vào mặt giựt tóc mai, hồi lâu người đó mới tỉnh.
- Ủa! Tại sao tôi lại nằm ở đây?
Rồi chi ta kể lại:
- Rơ ràng là khi bước xuống bến, tôi trông đúng là cầu ao nhà tôi, lũ con tôi ùa ra, đứa đ̣i quà, đứa dắt tay tôi vào nhà, tôi trông rơ nhà tôi không sai chút nào.
Đó là truyện “ma ám, ma dủi, không biết nói ra bà con cô bác có tin được không?
Dùng Sức Mạnh Cửa Tư Tưởng Tạo Nên Đứa Trẻ.
Truyện này tôi nghe ông Nguyễn Hũu Kiệt, thuyết tŕnh về đề tài “sức mạnh của tư tưởng” tại chi bộ Kiêm Ái Thông thiên học, 380 đường Phan Thanh Giản:
Một người đàn bà Âu Tây, nghe những truyện huyền bí bên Tây Tạng nhất định sang tận nơi để t́m hiểu, nghiên cứu học hỏi cho thật tường tận, cặn kẽ và rồi bà ta đă đắc pháp.
Bà bèn dùng sức mạnh tư tưởng của bà, để tạo nên một cô bé dùng vào việc sai bảo vặt. Đứa bé từ một điểm tư tưởng của bà, thành h́nh dần dần rồi lớn lên, sai bảo được việc.
Có điều là đứa trẻ đó thông minh quá, nó không chịu làm theo những việc ǵ, mà nó xét đoán là không công bằng là vô lư. Tính nết đó làm bà chủ tiệm bực ḿnh, lại định dùng sức mạnh của tư tưởng để làm tan biến nó đi.
Lúc đầu bà định làm nhanh làm gấp, nhưng gặp một sức phản ứng thực lạ lùng, có thể lật ngược thế cờ làm bà chết về tay con bé được. Thế là bắt buộc bà phải từ từ lại ngày này qua tháng khác, dùng sức mạnh tư tưởng, làm bé nó đi, dần dần đến tan biến hẳn.
Truyện khó tin nhưng có thật, có ghi rơ trong sách vở hẳn hoi. Nhưng vô lư không xin để quyền cho chư quư bạn đọc.
Cây Thành Thần.
Bạn tôi, anh Lê văn Thụ, nguyên Quận trưởng Hoàn Long. Hà Nội, vừa kể tôi nghe một chuyện thực rùng rơn:
Hồi anh ở Sơn Động, thuộc tỉnh Bắc Giang, giang sơn của đồng bào thuộc sắc tộc Cao Lan, dười quyền cai trị của Tri Châu Đèo Văn phủ và chánh tổng Vinh Khương.
Anh được ông này cho biết có một khu rừng toàn cây “lát” và bảo anh nên xin phép khai thác. Sau khi đă được kiểm lâm địa phương cấp giấy tờ, anh giao việc đó cho Chánh tổng. Dân chúng đều cản ngăn, nói rằng khu rừng đó thiêng lắm từ xưa không ai dám động đến.
V́ trong đó có một cây “lát chúa” đă thành thần, không biết bao nhiêu tuổi rồi, gốc to đến tám người ôm mới xuể. Nhưng chánh tổng bất chấp cứ cho hạ. Cây gỗ khổng lồ thế mà khi đỗ lại đổ rất chậm, từ từ phát ra những tiếng như rên la, như than khóc, chính tai anh Thụ nghe thấy đến phải rùng ḿnh, rợn tóc gáy..rơi lệ.
Linh tính báo trước một tai họa sẽ đến chẳng bao lâu ǵ, và quá thực đúng như thế. Chỉ nội một tuần sau, cả một vùng chung quanh cây “lát chúa”, dân chúng đều bị “lên đậu” mà những mụn đậu lại đen biếc như hột mồng tơi chín. Nguy rồi!
Lập tức chánh tổng bàn với anh mời thầy mo và Cô then Váy (váy tiếng cao lan có nghĩa là đẹp) cúng lể tạ tội với thần cây Lát chúa bằng thuốc phiện, ba con lợn và nhiều phẩm vật khác nữa. Dân chúng được thoát nạn “đậu” nhưng chính anh Thụ th́ bị hao tài: mười trong số hai mươi con trâu của anh tự nhiên đứng nhỏ răi, gục xuống chết.
Anh Thụ bèn bảo chánh tổng Vĩnh Khương gọi người đến bán cây “lát” đó đi. Người mua được gổ kéo ra suối cho xuôi về Chũ cách đó chừng bốn mươi cây số: đến một khúc suối nọ, cây Lát tự nhiên trôi ngang vào một vũng rộng tựa như cái đầm, rồi chỉ một đêm biến mất, không ai t́m ra dấu vết nữa.
Chuyện Con Vọng.
Chuyện cây cỏ có t́nh cảm đă khó tin rồi, mà chuyện “con Vọng” hơn cả sự thật, và sự thật chưa chắc đă thật bằng.
Con chim bồ các (cũng có tên là chim khách) hễ kêu trước nhà là y như có khách xa đến.
Chim lơn kêu eng éc là báo tin điềm không lành. Quạ đen, qua khoang, đă bị các cụ liệt vào ác điểu, hễ bén mảng đến gần nhà mà “qua, quạ” là liền được sơi gạch đá để các cụ bà phải b́nh an hóa tiếng kêu của chúng: Quạ quạ Thiên Hạ Thái b́nh Giờ sinh ra Quạ.
Rồi cú rúc, thế nào chổ nó đậu cũng có người đang bịnh và sẽ bịnh nặng thêm để về chầu tổ” “Cú nḥm nhà bệnh mà”. Tiếng kêu của các loại chim đó không ai là không biết, duy có tiếng kêu sương của “con Vọng” là rất it người nghe nói đến và chẳng hiểu nó là cái tiếng con vật ǵ?
Xin viện cái tuổi gần bảy mươi hai của tôi, để thưa cùng quư bạn đọc rằng: “con Vọng” có thực. Hồi c̣n nhỏ, tôi luôn luôn sát cạnh bà ngọai tôi đă gần bảy mươi tuổi. Đêm đêm cụ thường ngồi, ít ngủ. Có đêm tự nhiên cụ lẩm bẩm:
- Lại Vọng kêu rồi! chẳng biết ai đau ai chết đây?
Thế rồi sáng hôm sau mấy cụ bà quanh nhà tôi liền sang hỏi bà tôi:
- Đêm qua bà có nghe “Vọng” kêu không?
Như vậy rơ ràng chẳng những chỉ một ḿnh bà ngọai tôi mà vô khối các bà khác cũng nghe thấy con Vọng đêm hôm qua. Nhưng có điều rất khó nói là chỉ các cụ bà mới nghe thấy chứ các cụ ông dù già bảy mươi, tám mươi đi nữa cũng không hay biết ǵ cả.
Con Vọng là tiếng kêu sương giữa trời trong đêm khuya, tựa như tiếng sáo diều ngoài Bắc vẫn thả ban đêm, nhưng nghe lại nỉ non, rùng rợn như khóc như than đến nỗi da gà.
Truyền rằng người chết lúc đang thở hắt ra, có một đốm lửa xanh thoát ra khỏi xác, chui qua nóc nhà bay vọt lên trời rồi đó “con Vọng” nổi lên thế là nhất định vùng đó có người chết. Nhưng chỉ ban đêm thanh vắng mới nh́n thấy đốm lửa xanh và nghe tiếng “con Vọng” kêu.
Thực quả là giả truyện nhưng lại có thật, hễ bà ngọai tôi đă nghe thấy, là tất cả các cụ bà trong xóm cũng đều nghe thấy cả. Đó là chổ bí hiểm, khó nói khó bàn và khó tin.
Thảo Mộc Có T́nh Cảm Không?
Thần cây Đa, ma cây Gạo, người lớn vẫn bảo lũ học tṛ lớp tiểu học chúng tôi hồi xưa như thế, để đừng bén mảng đến các gốc cây ấy kẻo thần hành ma trêu.
Hồi đó tôi nghĩ rằng: Thần, Ma dùng các cây đó làm chổ ẩn náu, nhưng bây giờ qua những truyện sắp kể dưới đây, tôi nghĩ rằng không phải thế, mà cây Đa, cây Gạo sống lâu ngày sẽ thành thần, thành ma v́ cây cỏ cũng có cảm giác hay nói rơ hơn cũng có linh hồn. Dưới đây là những chuyện có thật trăm phần trăm.
Cây Để Tang
Hồi tôi chừng sáu tuổi, thấy ông ngọai tôi chăm nom chậu cây “Khế Tầu” quả bằng ngón tay rất mập, chín đỏ chứ không vàng nghệ như khế thường, ăn ngọt lắm và một cây mận thực sai quả. Hai cây này được ông tôi quư lắm, vun bón hàng ngày, mổi buổi chiều cụ bắc ghế cạnh hai cây đó để uống trà, đọc sách. Xin nói thêm là vườn nhà tôi nhiều cây lắm: mít, na, nhăn, vải, đào không thiếu ǵ.
Lúc ông ngọai tôi mất, cậu tôi đă cẩn thận cho tất cả vườn để tang, bằng cách lấy vôi quét một ṿng thân cây, rồi lại lấy vải ta xé làm khăn quấn cho chúng.
Thế mà một tháng sau, cây mận to và cây khế Tầu trong chậu vẫn nằm y nguyên chổ củ, vẫn được chăm nom như trước, cả hai đều tự nhiên héo lá dần rồi chết, chúng tôi tiếc ngơ tiếc ngẩn hai cây đó.
Tại sao những cây khác không chết mà chỉ hai cây này? truyện cây cỏ lại có t́nh cảm thực, là chuyện huyền hoặc giả truyện không có, đă có ai nói ra chưa mà tôi dám kể lại, liệu quư bạn đọc tin được không?
Tại Chùa Thiên Ấn Quảng Ngăi.
Ḥa Thượng Giác Tánh đang nhập định. Một vị “Thần cây Cọng” đến xin Ḥa Thượng quy y để được nương tựa trong chùa, ủng hộ cảnh Già Lam. Vị thần khẩn khoản Ḥa Thượng nhận lời, vỉ chỉ sáu ngày nữa cây Cọng sẽ chết.
Sáng hôm sau, Ḥa Thượng làm lễ quy y và viết lên phái điệp “Lănh sơn Mộc Cọng chi Thần Pháp Danh Ấn Chứng” trước mọi cặp mắt của tăng chúng. Quả nhiên sáu ngày sau một trận gió lớn làm đổ cây Cọng. Ḥa Thượng cho làm bài vị thờ trong Chùa thường gọi là Thần cây Cọng.
Trọng Mạc
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|