Tác giả |
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 181 of 1146: Đă gửi: 17 June 2010 lúc 5:25pm | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG
TRÊN ĐƯỜNG THIÊN LƯ
Chương Bốn
Cuộc gặp gỡ Brahmananda và Sudeih Babu đă thay đổi tất cả. Cho đến lúc đó, phái đoàn mới công nhận rằng đằng sau khu rừng mê tín dị đoan, c̣n có những chân lư cao siêu đáng học hỏi và nghiên cứu.
Sự hiện diện của một vị Chân sư bí mật gửi thông điệp bằng tư tưởng cho Brahmananda và Sudeih Babu, làm phái đoàn phấn khởi, tin tưởng rằng cuộc khảo cứu sẽ c̣n vượt xa hơn điều họ dự tính.
Cuộc tiếp xúc với Sudeih Babu đă khiến mọi người bắt đầu cởi bỏ các thành kiến dị biệt, các quan niệm bảo thủ và ḷng tự hào của người Âu, để bắt đầu quan sát, học hỏi thêm về nền minh triết bí truyền của Á châu.
Phái đoàn bắt đầu cuộc hành tŕnh nhắm hướng Rishkesh trực chỉ. Lúc đầu, đường xá c̣n tốt nên sự di chuyển c̣n nhanh chóng, nhưng về sau có những đoạn đường bị ngắt quăng, phái đoàn phải dùng lừa, ngựa hoặc đôi khi phải đi bộ qua các eo núi. Sự kiện một nhóm người Âu, di chuyển trên những con đường độc đáo, hẻo lánh là một điều chưa hề xảy ra.
Các sĩ quan quân lực Hoàng Gia đă hết sức ngăn cản v́ lư do an ninh. Mặc dù Ấn độ là thuộc địa của Anh, nhưng nhiều địa phương vẫn không hợp tác với chính quyền. Việc di chuyển đ̣i hỏi sự hộ tống của lực lượng quân đội vơ trang đầy đủ.
Có nhiều vùng, ngay cả dân địa phương cũng ít dám qua lại, v́ có những đảng cướp hoạt động mạnh mẽ. Để đề pḥng, phái đoàn đă vơ trang cẩn thận, nhưng trong suốt thời gian di chuyển, không hề có một sự kiện đáng tiếc nào xảy ra. Toàn thể mọi người có cảm tưởng như được che chở bởi một quyền năng mạnh mẽ vô h́nh.
Trên đường, phái đoàn đi qua một đền thờ của đạo Jain. Căn bản của tôn giáo này xây dựng trên chủ trương mở rộng ḷng từ bi (Ahimsa). Tín đồ đạo Jain thực hành lư tưởng Ahimsa triệt để, đôi khi có vẻ quá khích. Đạo Jain được thành lập hơn 2000 năm, do đức Mahavira, một vị hoàng tử đă từ bỏ cung vàng, điện ngọc vào rừng tu hành và đắc đạo.
Ngay khi bước chân vào đền, người ta đă thấy ngay pho tượng đức Mahavira ngồi thiền, trên trán có gắn một viên kim cương lớn. Trước khi vào đây, du khách phải cởi thắt lưng, giày dép, những vật ǵ làm bằng da thú, sừng, ngà voi, v…v… Tất cả các vật do sự giết chóc mà ra.
Sở dĩ phải làm thế, v́ giáo lư Ahimsa dạy các tín đồ phái này không được sát sinh, ăn thịt cá, mà ngay trong nhà cũng không được chứa một thứ ǵ của sự giết chóc. Các giáo sĩ đạo Jain mặc toàn đồ trắng, trên mặt bịt một miếng vải thưa chỉ chừa đôi mắt.
Họ làm thế để tránh loài ruồi, muỗi khỏi bay lọt vào mũi, miệng. V́ ḷng từ bi (Ahimsa) bao trùm tất cả, lỡ có sâu bọ nào vô phúc bay lọt vào rồi nằm ĺ trong đó th́ phạm tội sát sinh. Không những thế, các giáo sĩ đạo Jain mỗi năm phải nhập thất một lần trong suốt ba tháng hè, v́ thời gian đó côn trùng sinh sản nhiều, nếu di chuyển sợ dẫm lên chúng.
Đối với người Âu, việc thực hành Ahimsa có vẻ quá khích, và vô lư, nhưng phần đông phái này thực hành giới luật rất nghiêm chỉnh. Họ tin rằng nếu các giới luật mà không giữ được th́ không hy vọng ǵ đi xa hơn trên đường tu học.
Một số giáo sĩ Jain c̣n “quá khích” hơn nữa. Sau một thời gian tu ở trong đền, họ phát nguyện vào rừng tu và sống loă thể. Họ chỉ uống nước suối, ăn trái cây, và dành trọn thời giờ thiền định. Họ quan niệm rằng khi c̣n ăn cơm gạo, mặc y phục là c̣n mang nợ xă hội.
C̣n hưởng những vật dâng cúng của tín đồ là c̣n mang nợ loài người. Khi tu là phải ly khai với đời, từ bỏ tất cả, không bận tâm đến bất cứ chuyện ǵ của thế gian, như của cải, vật chất, và ngay cả mảnh vải che thân. Đạo Jain cho rằng xuất gia phải tuyệt tất cả ư niệm sở hữu, v́ sở hữu bất cứ ǵ đều là ràng buộc, níu kéo đưa đến sự quyến luyến, gây chướng ngại cho việc tu hành giải thoát.
Ngay cả các đền thờ đẹp đẽ cũng phải từ bỏ để vào rừng lấy đất làm giường, lấy trời làm nhà, và thú rừng làm bạn. Họ dành tất cả thời giờ để thiền định về ư niệm mở rộng ḷng thương đến muôn loài. Nhiều tu sĩ ngồi thiền mà thú rừng kéo đến quấn quít chung quanh, không hề sợ hăi. Các học giả người Âu đă gọi tôn giáo này là phái loă thể, v́ quan niệm từ bỏ triệt để này.
Điều đáng tiếc là danh từ loă thể thường bị đồng hoá với các sự kiện xấu xa, mọi rợ, thiếu văn minh. Khi người Anh đến cai trị xứ này, rất nhiều tu sĩ đạo Jain đă bị bắt giam v́ tội xâm phạm thuần phong mỹ tục, mặc dù họ chỉ sống trong rừng không tiếp xúc với xă hội. Khi gác bỏ các thành kiến dị biệt, phong tục và tập quán, phái đoàn thấy đạo Jain chủ trương rất thực tế.
Giáo phái này tin tưởng rằng sức mạnh của t́nh thương có thể san bằng mọi khó khăn, trở ngại. Tuy nhiên, t́nh thương phải hết sức tuyệt đối. Mục đích của nó không giới hạn vào một hạng người nào riêng biệt, mà phải được ban rải đồng đều cho tất cả, không phân biệt giai cấp, chủng tộc hay tín ngưỡng.
Đây là một cải cách hết sức lớn lao v́ phong tục Ấn độ vốn rất thiên vị, và chủ trương dị biệt giai cấp. Tín đồ đạo Jain tin rằng, con người dù mạnh hay yếu, sang hay hèn, trung lưu hay hay hạ lưu, b́nh dân hay vua chúa, đều thụ hưởng ḷng thương như nhau. Ḷng thương chẳng những phải bao la, mà c̣n nồng nàn như t́nh mẹ con, không quản ngại khó khăn, nguy hiểm.
Ḷng thương phải chân thành, thâm thúy phát ra từ đáy ḷng, không thể giả dối , hay vị nể một hoàn cảnh nào. Sau khi ban răi t́nh thương khắp đồng loại, c̣n phải ban răi đến loài vật, từ con voi to lớn đến các côn trùng nhỏ nhen.
Do đó, họ tránh sát sinh đă đành mà c̣n không sử dụng bất cứ vật dụng ǵ do sự giết chóc mang lại. Đạo Jain cho rằng chiến thắng kẻ thù bằng sức mạnh là một thú tánh cần loại trừ, nhưng chinh phục bằng t́nh thương là đường lối duy nhất để giải quyết mọi việc.
Đạo Jain có khá đông tín đồ, phát triển mạnh tại miền bắc Ấn độ, nhưng không đi đến các nơi khác, v́ gặp phải sức chống đối của Ấn độ giáo và Hồi giáo. Lịch sử Ấn độ ghi nhận Hồi giáo đă tiêu diệt Phật giáo và đạo Jain một cách hết sức dă man.
Hơn nữa, quy luật khắc khe của tôn giáo này không mấy ai theo nổi, và các tu sĩ bịt mặt, loă thể dễ bị người đời ngộ nhận. Có lẽ thế, nên tôn giáo này chỉ bành trướng trong các vùng hẻo lánh miền sơn cước.
Ashmah là một làng nhỏ, nằm sát chân núi. Phái đoàn dừng chân ở đây một thời gian cho lừa, ngựa nghỉ ngơi. Một lư do nữa là gần đó có một di tích lịch sử quan trọng : Ngôi đền yên lặng.
Đó là một ngôi đền kiến trúc bằng đá trắng, xây cất hơn 4000 năm naỵ Trong đền không có h́nh tượng ǵ, mà chỉ là một căn pḥng to lớn, trang nghiêm. Bước vào ngôi đền yên tĩnh, tất cả mọi người đều thấy trong ḷng bỗng lắng xuống một cảm giác b́nh an khôn tả.
Tục truyền, hoàng đế Rapoor mang quân đi chinh phục các nước láng giềng, đă gặp một vị đạo sĩ nơi đây. Đạo sĩ khuyên vua nên bỏ ư định chinh phục bằng sức mạnh, mà chỉ nên lấy nhân nghĩa mà đối xử với người. Nhà vua nghe theo, ra lệnh băi binh, khuyến khích dân chúng sống theo đạo hạnh. Từ đó vương quốc Rapoor được hưởng một nền thái b́nh, thịnh trị.
Thời gian trôi qua, đến nay chẳng c̣n mấy ai biết đến thời đại của hoàng đế này, nhưng ngôi đền xây cất để kỷ niệm sự tỉnh ngộ của nhà vua vẫn c̣n tồn tại. Khi bước chân vào đ6y, không ai được nói một lời nào, mà phải tuyệt đối giữ yên lặng.
Lư do ngôi đền không có h́nh tượng ǵ là để nói lên cái chân lư tuyệt đối vốn vô h́nh, vô tướng. Vị đạo sĩ giữ đền đă giải thích cho phái đoàn.
- Đền yên lặng là nơi chỗ của quyền năng , v́ yên lặng đồng nghĩa với quyền năng. Khi con người đạt đến chỗ im lặng trong tư tưởng th́ họ đă đến chỗ mà tất cả đều là sự hợp nhất với quyền năng thiêng liêng. Con người có sức mạnh tư tưởng nhưng v́ vô ư thức, họ đă để cho nó hao tán.
Qưyền năng hao tán là Động, c̣n tập trung là Tĩnh. Khi tập trung mọi sức mạnh tư tưởng vào một trung tâm sinh lực duy nhất, con người tiếp xúc với thượng đế. Khi hợp nhất với đấng thiêng liêng, ta hợp nhất với mọi quyền năng và đó là di sản tâm linh tối hậu.
Phương pháp duy nhất để hoà hợp với đấng thiêng liêng, là tiếp xúc với ngài một cách ư thức, từ bỏ ngoại cảnh, để quay về với nội tâm, v́ đấng thiêng liêng ẩn tàng trong tâm con người. Khi con người từ bỏ ảo giác của kiêu mạn, bản ngă, nhận thức sự vô minh, hèn kém của ḿnh và sẵn sàng học hỏi, sửa đổi, đó là tu thân.
Người ta không thể dạy bảo điều ǵ cho những cá nhân kiêu căng, tự phụ, v́ chỉ có người khiêm tốn mới thấy được chân lư. Đấng thiêng liêng không nghe các lời cầu xin ồn ào, lập đi lập lại mà chỉ nghe những lời cầu nguyện chân thành của những kẻ đến với ngài bằng trái tim, sùng kính ngài bằng tâm hồn và sự im lặng.
Kẻ nào tiếp xúc với ngài trong ầm thầm sẽ nhận biết quyền năng của ngài do sự thực hiện các điều mong muốn của họ.
- Nhưng nếu không cầu nguyện theo mọi sách vở, thánh kinh làm sao tín đồ có thể hiểu biết về tôn giáo mà họ đang theo đuổi ?
- Minh triết phát sanh từ sự yên lặng. Thượng đế không cần ta phải tuyên dương ngài một cách ồn ào hay bằng một ngôn ngữ ǵ. Khi một tín đồ thànht âm trong tĩnh lặng, y sẽ hoà hợp tư tưởng với ảnh hưởng thiêng liêng; và ảnh hưởng này chỉ có thể nhận biết được khi ḷng ta vắng lặng.
Khi tâm hồn hoàn toàn an tĩnh, ta có thể tự phân tích ḿnh, trau dồi phẩm hạnh và đón nhận những mặc khải từ cơi trên. Chỉ trong sự vắng lặng, con người mới ư thức năng lực trong ḿnh, và chung quanh ḿnh. Chỉ trong yên lặng các quyền năng tiềm ẩn mới phát sinh và nẩy nở. Tâm có an th́ việc bên ngoài mới không vọng động, dục vọng mới chịu yên tĩnh.
Con người có giải thoát các ồn ào, náo nhiệt bên ngoài, th́ mới đón nhận được các hoà âm tuyệt diệu đến từ cơi vô biên. Con người cần khám phá rằng hạnh phúc ở trong tâm ḿnh. Hiện nay phần lớn đều t́m kiếm hạnh phúc bên ngoài, nhưng ngoại cảnh chỉ đem lại các giải trí trong chốc lát, thay v́ hạnh phúc vô biên.
Tất cả phương pháp t́m kiếm bên ngoài đều vô vọng. Con người phải biết quay về nội tâm v́ mọi h́nh tướng, nghi thức đều là sự áp chế.
- Nhưng làm sao t́m thấy điều ǵ khi ngồi yên lặng ?
- Con người sẽ dần dần ư thức được chính ḿnh. Dĩ nhiên, điều này đ̣i hỏi một thời gian. Họ sẽ t́m thấy ở ḿnh một thứ hạnh phúc không lệ thuộc ngoại vật, cũng không lệ thuộc tha nhân.
Một tâm trạng giải thoát không ai có thể cướp được, đó là tâm trạng “tôn giáo”, kết tinh bởi sự nẩy nở, thăng hoa các ư thức sâu kín trong nội tâm. Con người sẽ tự ḿnh t́m thấy câu giải đáp khi họ ư thức thực chất của chính ḿnh, và ảnh hưởng cao cả của thượng đế. Chỉ khi đó, mọi sự t́m kiếm ở ngoại cảnh sẽ chấm dứt.
- Những điều ông nói rất hay, nhưng nếu không có sách vở chỉ dẫn, làm sao con người biết đâu mà t́m để đạt đến trạng thái đó ?
- Đa số người Âu chỉ quen hoạt động và ỷ lại vào một phương pháp, giáo lư hướng dẫn cuộc đời. Do đó, họ dễ bị hướng dẫn sai lạc, lầm lẫn. Phải tự ḿnh suy gẫm và t́m lấy con đựong cho chính ḿnh mới là phương pháp đứng đắn.
Con đường giải thoát đ̣i hỏi can đảm và nổ lực cá nhân, v́ không đường nào giống đường nào. Lịch sử cho thấy có biết bao tôn giáo rao truyền chân lư cực kỳ tốt đẹp, nhưng có mấy tín đồ nghiên cứu tường tận ? Đa số đều ỷ lại vào các giáo sĩ chỉ dẫn. Chính các giáo sĩ c̣n chưa giải thoát chính ḿnh, th́ c̣n cứu độ cho ai nữa ?
Đó là lư do hoàng đế Rapoor xây dựng ngôi đền yên lặng và trong đó không có một pho tượng, một h́nh ảnh hay ngôn ngữ nào, để tránh đi vào con đường của các tông phái Ấn giáo. Thượng đế ở khắp mọi nơi và tuyệt đối, ngôn ngữ, h́nh ảnh không thể diễn tả được.
Chỉ trong sự im lặng hoàn toàn phá bỏ tất cả h́nh tướng, nghi thức, con người mới tự do sống b́nh an với nhau, hiểu sự liên quan giữa y và những người đồng loại. Con người thường suy tư về sự liên hệ giữa người với người, nhưng sự suy tư này ít nhiều đều thiên vị. Nó luôn luôn sai lạc nếu nó khảo sát sự vật xuyên qua bản ngă.
Tư tưởng con người chỉ chân chính khi họ giải thoát khỏi các thành kiến, điều kiện bao bọc bên ngoài. Tự do tư tưởng không phải chỉ là muốn nghĩ thế nào th́ nghĩ, mà c̣n là giải thoát ta ra khỏi các áp lực bắt ta phải suy nghĩ theo một lề lối riêng.
Đây là một chân lư chỉ t́m thấy trong sự yên lặng, trong sự cởi bỏ mọi nghi thức, h́nh tướng, ngôn từ, các thành kiến dị biệt, các cưỡng bách tư tưởng, các sợ hăi bắt nguồn từ vô minh. Chỉ khi nào hoàn toàn tự do, con người mới thực sự b́nh an và giải thoát.
Phái đoàn từ giă vị giáo sĩ coi đền. Cuộc viếng thăm tuy ngắn ngủi nhưng đă gây một ấn tượng tốt đẹp với mọi người. H́nh như có một luồng từ điện vô h́nh phảng phất quanh ngôi đền, khiến ai cũng thấy trong ḷng dào dạt một sự b́nh an khó tả. Lối tu trong yên lặng không c̣n là một vấn đề trừu tượng, vô ích như họ nghĩ. Quả thật xứ Ấn c̣n rất nhiều điều để cho người Âu học hỏi và suy nghĩ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 182 of 1146: Đă gửi: 17 June 2010 lúc 5:39pm | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG
THÀNH PHỐ THIÊNG LIÊNG
Chương Năm
Rishikesh! Một tên gọi linh thiêng, thành phố của các vị thánh. Từ lâu nay người ta đă coi thành phố này như một thánh địa mà tất cả những kẻ cầu đạo đều phải đến để đắm ḿnh trong bầu không khí thiêng liêng. Rishikesh nằm ở một vị trí đặc biệt và là cánh cửa vào rặng Hy Mă Lạp Sơn.
Từ đó đi lên hướng bắc là rặng núi hùng vĩ, chứa đựng những điều huyền bí. Phía nam là con sông Hằng, ḍng sông thiêng của Ấn giáo. Một người Ấn bất kể giai cấp, trí thức, đều ít nhất một lần trầm ḿnh trong ḍng nước này để đón nhận những ân phước mà ḍng sông mang lại.
Đúng như lời người Ấn bí mật thành Benares đă nói, khắp nơi đâu đâu cũng có các đạo sĩ và tín đồ hành hương. Có những đạo sĩ ḿnh hạc, xương mai vừa đi vừa tụng niệm các câu thần chú. Có các đạo sĩ khổ hạnh, chống gậy trầm tư bên ḍng nước sông Hằng.
Chen chúc bên các tín đồ huyên náo là các thuật sĩ , quần áo sặc sỡ biểu diễn những tṛ lạ lùng. Một đạo sĩ to lớn, lực lưỡng, quấn khố bằng da cọp, uốn ḿnh trong tư thế Yoga. Bên cạnh một thuật sĩ gầy g̣, nằm lăn trên đất, lâm râm cầu nguyện.
Có các vị tăng sang sảng đọc kinh bên cạnh những giáo sĩ vừa đánh trống vừa nhẩy nhót, ca hát tên các vị thần. Có những tu sĩ thiền định trong những hang đá đục sâu vào núi, không màng thế sự, bên cạnh những đạo sĩ râu tóc xồm xoàm, quấn ḿnh trong những mảnh vải rách như một xác ướp.
Có các tu sĩ nằm yên lặng, hơi thở thoi thóp như sắp chết, bên cạnh những thuật sĩ say sưa gọi tên thượng đế một cách ồn ào. Trong làn khói hương nghi ngút, các tín đồ hành hương chen vai thích cánh, trên mặt ai cũng một niềm thành kính rơ rệt. Phái đoàn cảm tưởng như đang lạc vào một thế giới lạ lùng, huyền ảo, với những nhân vật kỳ dị , khác thường.
Bác sĩ Kavir, giám đốc viện nghiên cứu Phạn ngữ (Sanskrit) của chính phủ là một học giả nổi tiếng, có một kiến thức rộng và đă sống ở Rishikesh nhiều năm. Theo ông ta th́ Rishikesh không c̣n là một thành phố của các bậc chân tu đạo hạnh như xưa, mà là một nơi quy tụ rất nhiều thành phần hỗn tạp.
Đa số là các đạo sĩ, tu sĩ nghèo nàn từ h́nh thức đến tinh thần. Họ góp nhặt vài phép tu, vài phương pháp dưỡng sinh, vài câu thần chú, rồi kiếm ăn qua sự mê tín của dân chúng. Phần lớn những tu sĩ này đều là những kẻ thất bại ngoài đời, lười biếng, không chịu làm việc. Đối với một quốc gia chậm tiến như Ấn độ, th́ h́nh thức dễ nhất để có cơm ăn, áo mặc, và một mái nhà, là trở nên một tu sĩ, sống trên ḷng sùng tín của dân chúng.
V́ không có một tiêu chuẩn kiểm soát nào, nên bất cứ ai cũng có thể trở thành tu sĩ; chỉ cần mặc áo tu sĩ, học thuộc vài câu kinh, vài h́nh thức lễ nghi, cúng tế là có thể tự xưng đạo sĩ, thánh nhân được rồi.
Chính các tu sĩ, đạo sĩ giả mạo này là những kẻ làm hoen ố danh dự tôn giáo, lợi dụng đức tin để làm chuyện xằng bậy, ích kỷ cá nhân. Đă thế, họ c̣n tụ tập phe nhóm, phong chức tước, ca tụng lẫn nhau và đả kích những tu sĩ không cùng phe nhóm.
Được tin có phái đoàn ngoại quốc đến nghiên cứu nền minh triết cổ truyền, rất đông đạo sĩ, giáo sĩ t́m đến để tiết lộ những pháp môn huyền bí, dĩ nhiên, là với một giá biểu. Khi bị từ chối, lập tức họ sụt giá như người mua bán.
Một đạo sĩ đ̣i bán một cuốn sách bí truyền với giá 50 đồng tiền vàng, sau nhiều lần sụt giá, y bằng ḷng để lại cuốn sách với giá một bữa ăn. Một nhóm tu sĩ danh xưng trọng vọng, chức tước đầy người đ̣i đến thảo luận triết lư với phái đoàn.
Khi nghe họ giới thiệu về thành tích và đạo quả đạt được, phái đoàn cực kỳ ngẩn ngơ, v́ toàn các bậc thần thánh ǵ đâu, chứ không phải người. Ai cũng tu cả trăm năm, đủ các phép thuật thần thông biến hoá. Tuy nhiên, khi một viên cảnh sát ở đâu bước vào th́ các bậc “thần tiên” mặt mày lơ láo, kéo nhau bỏ chạy hết.
Quanh các chợ , có rất nhiều tu sĩ khổ hạnh phô trương thân thể tàn phế bị huỷ hoại như một công tŕnh vĩ đại. Phái đoàn không hiểu họ có thể đạt đến điều ǵ, ngoài ít xu lẻ mà khách bộ hành ném chọ Một số các đạo sĩ sử dụng tà thuật công khai.
Với một giá biểu, họ sẵn sàng làm bùa chú, thư phù, nguyền rủa một kẻ thù của bạn, đem đến cho bạn một cô gái đẹp hoặc giúp bạn thành công trên thương trường. Đâu đâu cũng có đạo sĩ rao bán bùa ngăi hoặc xưng là đấng này, đấng nọ.
Một tu sĩ đến gặp phái đoàn xưng là hậu thân của đấng Krishna và đă từng là Phật Thích Ca trong một tiền kiếp. Bác sĩ Kavir nổi giận ra lệnh tống giam ngay tu sĩ này. Khi cảnh sát đến c̣ng tay, tu sĩ thú nhận, y chỉ là một học sinh thi rớt tiểu học, không sao kiếm được việc làm.
Y đă lười biếng c̣n thích làm thầy kẻ khác, nên làm ǵ một thời gian cũng gặp khó khăn. Sau cùng, y cạo đầu, mặc áo tu và tự xưng là Krishna giáng thế, một số dân quê tin những lời tuyên bố của y. Họ quyên góp, xây cho y một ngôi đền.
Y sống trên phẩm vật dâng cúng của tín đồ, một cách ung dung chẳng tu hành ǵ hết. Đă thế, y c̣n đ̣i hỏi này nọ, chê ngôi đền quá nhỏ bé không xứng với chức tước của ỵ Quen thói hống hách, lừa bịp, khi nghe tin có phái đoàn ngoại quốc đến thăm viếng, y dở tṛ bịp bợm để mong kiếm được món tiền nhỏ.
Lịch sử Ấn độ cho thấy khi xưa Rishikesh là một thánh địa thiêng liêng, một nơi các tu sĩ thánh thiện đến để tu học. Sau này, khách hành hương quá đông, một số hành khất kéo nhau đến đây hành nghề. Thấy làm đạo sĩ coi bộ dễ kiếm ăn hơn nên nhiều hành khất đă “chuyển nghề” trở thành các đạo sư, gíao sĩ chuyên làm tiền các tín đồ ngây thơ, nhẹ dạ.
Dĩ nhiên, Rishikesh vẫn c̣n các tu sĩ học thức, dành trọn đời cho việc đi t́m chân lư. Họ vẫn tu hành quanh đó không để ư đến sự kiện các tu sĩ giả lợi dụng sự có mặt của họ để mưu cầu lợi lộc. Đó cũng là một nét đặc thù của nền văn hoá xứ này.
Một người Âu Mỹ chắc chắn không thể chấp nhận sự kiện như thế, họ sẽ nhờ luật pháp can thiệp hoặc cảnh cáo những tu sĩ bất lương. Nhưng Ấn giáo không có một tổ chức chặt chẽ như Thiên chúa giáo. Các giáo sĩ quan niệm có nhiều đường tu khác nhau, ai tu nấy chịu và những kẻ mạo danh, lợi dụng sẽ phải chịu hậu quả ở một kiếp sau.
Giáo sư Kavir cho biết, theo thời gian, khi nền văn hoá suy đồi, cuộc sống trở nên khó khăn, các bậc tu sĩ thánh thiện mỗi ngày một hiếm, th́ các đạo sĩ, thuật sĩ giả mạo nổi lên mỗi ngày một nhiều. Hàng ngàn người dốt nát, vô học đi lang thang với các chức tước rất lớn như đạo sư, giáo sĩ, thánh nhân.
Họ chỉ chờ những ngày hội, ngày lễ là xuất hiện quanh các đền, chùa lên mặt này nọ để quyên tiền. Dĩ nhiên họ là gánh nặng của xă hội, v́ chỉ thụ hưởng mà không làm lợi ích ǵ. Đó cũng là lư do nhiều người Âu Mỹ đă coi thường gia tài văn hoá xứ Ấn. Xét cho cùng, một phần lỗi cũng là do sự tôn sùng tôn giáo quá mạnh của dân chúng.
Họ không phân biệt một đạo sư tu hành chân chính, ǵn giữ giới luật nghiêm minh, với những kẻ bịp đời. Ḷng sùng tín khiến họ trở nên ngây thơ, nhẹ dạ, sẵn sàng làm theo sự mách bảo của các bậc tu hành. Một lư do nữa là sự ỷ lại vào sức mạnh thần quyền. Đa số các tín đồ mải mê với sinh kế, không có th́ giờ lo việc tinh thần, nên họ uỷ thác cho các giáo sĩ cầu nguyện dùm, và đồng hoá việc giải thoát với việc trung thành vào một bậc giáo sĩ.
Đa số các giáo sĩ lợi dụng vấn đề này tối đa, hứa hẹn sẽ chăm lo tinh thần giáo dân bằng cách cầu nguyện cho họ. Các giáo sĩ này tự hào đă tu hành đắc đạo, đă có thể nói chuyện trực tiếp với thượng đế. Và là người trung gian giữa trời và người. Họ sống trong các đền đài đẹp đẽ, hưởng thụ vật dụng được cúng, và nhân danh thượng đế để đ̣i hỏi này nọ.
Người Á châu bản tính không thích hoài nghi, chấp nhận việc các tu sĩ nói ra ư muốn của thượng đế, và tuân hành triệt để. Cũng v́ thế, các tài liệu tôn giáo Ấn độ đă bị sửa đổi rất nhiều, không phân biệt được điều có thật với những sự kiện huyền hoặc. Các tu sĩ tha hồ trích dẫn những câu nói bí ẩn, và giảng ra theo ư nghĩa có lợi nhất cho họ.
Xứ Ấn độ phân biệt giai cấp rơ ràng, tu sĩ luôn đứng hàng đầu trên cả vua chúa, quư phái. Giai cấp tu sĩ không làm ǵ, chỉ hưởng thụ và các giai cấp khác có bổn phận phải cung cấp các nhu cầu đ̣i hỏi của tu sĩ. Cũng v́ không làm ǵ, quá nhàn hạ, họ đâm ra chống báng , đả kích lẫn nhau.
Mỗi người tự lập một giáo phái, xưng hùng, xưng bá, giảng kinh điển theo quan niệm của ḿnh từ cụ thể đến trừu tượng, như Thời gian luận, Phương hướng luận, Đa nguyên luận…Không ai chịu theo ai, và c̣n tranh luận lung tung khiến các tín đồ không c̣n biết đâu mà lần.
Cũng v́ xă hội nghèo đói, rối ren, tinh thần lại điên đảo bởi các tà thuyết, nên từ bao năm nay, Ấn độ không sao trở nên một quốc gia hùng cường, thịnh vượng như các xứ khác.
Tuy thế, với gia tài minh triết lớn lao tiềm ẩn, vẫn có các bậc chân tu đạo hạnh, sống kín đáo để giữ cho ngọn lửa tâm linh luôn cháy sáng và vẫn có những người tha thiết mong cầu chân lư, sẵn sàng từ bỏ tất cả để đi t́m chân lư.
Sự kiện từ bỏ tất cả để đi t́m đạo cũng là một nét rất đặc biệt của Á châu, v́ người Âu Mỹ khó có thể chấp nhận vấn đề từ bỏ của cải, vật chất, để chạy theo một viễn ảnh trừu tượng, viễn vông, không thiết thực. Người Âu cả quyết rằng sự t́m kiếm chân lư là vô ích, hạnh phúc là hưởng thụ tất cả những ǵ cuộc đời có thể mang lại v́ chết là hết!
Nếu như thế, th́ mục đích cuộc đời là ǵ ? Tại sao chúng ta lại sinh ra để chết ? Văn hoá Âu tây đă không giải thích được vấn đề này một cách rốt ráo. Biết bao nhà triết học nổi danh đă nhức óc về đề tài này, nhưng đa số đều chỉ nói một cách quanh co, không đi đến một kết luận nào chắc chắn.
Họ chỉ nói rằng có thể như thế này, hay cũng có thể như thế khác mà thôi. Cho đến khi người Âu thật sự giao tiếp với người Á châu, th́ họ bỗng bật ngửa, v́ tất cả những ǵ họ thắc mắc th́ người Á châu đă có những câu trả lời từ nhiều ngàn năm về trước.
Lịch sử đă ghi nhận có những người Âu đến viếng thăm Á châu và say mê nền minh triết xứ này, đến nổi quên cả mục đích chính của chuyến đi. Điển h́nh là đại đế Alexander xứ Hy Lạp, vị hoàng đế, bách chiến bách thắng đă chinh phục thế giới, dẹp tan Ai cập, quét sạch Ba tư , mở rộng bờ cỏi đến tận Ấn độ dương.
Khi đến Ấn độ, ông là một kẻ chinh phục, oai danh lừng lẫy nhưng khi trở về nước, ông đă trở nên một triết gia khiêm tốn, nhă nhặn. Hoàng đế Alexander, học tṛ của hiền triết Aristotle đă bị các bậc hiền giả xứ Ấn chinh phục. Khi dẹp tan các đạo binh của hoàng đế Ấn độ, Alexander cho mang tất cả những tướng chỉ huy xứ Ấn đến hạch hỏi.
Ông vua kiêu căng lớn tiếng, “Thua trận như vậy, các người đă chịu phục ta chưa ?”. Nếu là trường hợp các quốc gia khác, th́ vua chúa đều quỳ mọp xin tha tội, và xin thần phục trước sức mạnh của Hy Lạp. Nhà chỉ huy xứ Ấn đă dơng dạc trả lời, “Nhà ngươi chỉ là một kẻ vũ phu, tàn ác làm sao ta phục cho được.
Người có thể thắng bằng quân sự, nhưng cai trị thế nào nổi dân của tả” Alexander nổi giận, “Ta đă cai trị toàn thế giới, có nước nào không phục tài ta, nơi nào làm phản, ta giêt trọn cả nước. Ngươi không thấy các đại cường quốc như Ai cập, Ba tư c̣n xin thần phục huống chi Ấn độ yếu đuối ?”
Vị chỉ huy xứ Ấn bật cười, “Chinh phục bàng sức mạnh quân sự th́ dễ, chứ chinh phục nhân tâm c̣n khó gấp trăm ngàn lần. Một kẻ vũ phu như ngươi, làm sao có thể cai trị được Ấn độ ?” Câu nói bất ngờ làm đại đế Alexander giật ḿnh. Nên nhớ, ông là một hoàng đế văn vơ toàn tài, chứ không phải là một kẻ chỉ ỷ vào sức mạnh. Từ nhỏ, ông đă được giáo dục bởi các bậc hiền triết Hy Lạp và năm 14 tuổi, ông đă đem quân chinh phạt khắp Địa trung hải, tạo các chiến công hiển hách.
Ông theo học với triết gia Aristotle và lúc nào cũng có vài chục hiền giả chung quanh để thảo luận. Câu nói của vị tướng lănh chỉ huy xứ Ấn, làm ông suy nghĩ. Thay v́ ra lệnh giết ngay viên tướng này để làm gương, ông đă không giận dữ, lại c̣n mang ngay đề tài chinh phục nhân tâm ra thảo luận với ỵ Trong suốt lịch sử Âu châu, chỉ có Alexander là hoàng đế duy nhất đă tranh luận ôn tồn cho đến khi kẻ thù kính phục mới thôi.
Chi tiết cuộc thảo luận này ra sao, không thấy lịch sử ghi chép nhưng chỉ ít lâu sau, hoàng đế Alexander đă cho mời các bậc hiền triết xứ Ấn đến thảo luận với các học giả Hy Lạp vẫn tháp tùng theo đoàn viễn chinh. Chỉ một thời gian ngắn, Alexander nhận thấy các triết gia Hy Lạp không thể sánh kịp với các hiền giả Ấn độ.
Nhà vua bèn đổi thái độ, lấy lễ nghĩa đối xử với các vị này. Thay v́ cai trị bằng sức mạnh như vẫn làm với các quốc gia khác, ông ghi nhận những lời khuyên của các bậc hiền triết, tôn trọng quyền lợi dân chúng xứ này.
Đoàn quân viễn chinh ngừng lại, không đi sâu vào nội địa xứ Ấn, để ông có thời gian học hỏi, đàm đạo với các bậc thánh nhân, hiền triết. Các cuộc thảo luận nhiều khi kéo dài đến cả tuần lễ, có khi cả tháng.
Sau đó, ông đă ra lệnh rút binh trở về Hy Lạp, v́ giấc mộng bá vương không c̣n nữa. Ông dự định sẽ cải tổ lại guồng máy cai trị thế giới theo gương Ấn độ. Tiếc thay, nhà vua lại chết sớm khi chưa đầy 30 tuổi. Một sử gia đă than, “Nếu Alexander sống lâu thêm ít năm nữa, th́ biết đâu lịch sử Tây phương đă khác hẳn.
Trong các hiền triết nổi danh, Ramakrishna được coi là một vị thánh của Ấn giáo. Danh tiếng ông này vang sang tận Âu châu. Phái đoàn t́m đến đức Mahayasa, môn đệ của ông này đang tu ở một ngôi đền gần đó.
Ngang qua một khoảng sân nhỏ đến một căn pḥng kiến trúc kiểu xưa, cổ kính. Mọi người được mời ngồi xuống thảm. Khoảng vài phút sau, có tiếng chân người chậm răi bước lại, đó là một ông lăo khoẻ mạnh, râu dài trắng phếu, dung mạo nghiêm trang, và đôi mắt chói sáng toa? ra một cái ǵ thánh thiện, khiến mọi người có cảm giác rung động lạ thường.
Giáo sư Evans-Wentz lên tiếng bày tỏ mục địch của phái đoàn, Mahayasa mỉm cười :
- Ơn trên đă dẫn dắt các ông đến đây, các ông sẽ có dịp tiếp xúc nhiều với những bậc hiền triết xứ này. Ơn trên có một mục đích rơ ràng rồi các ông sẽ thấy.
- Chúng tôi nghe nói nhiều về đạo sư Ramakrishna, ông có thể cho chúng tôi biết thêm về ngài không ?
- Tôi rất thích nói về ngài. Ngài mất đă nửa thế kỷ rồi, nhưng vẫn c̣n lưu lại nhiều kỷ niệm linh động trong ḷng tôi. Tôi gặp ngài hồi 27 tuổi, và luôn luôn ở bên ngài, cho đến những ngày cuối cùng.
Nhờ ngài, tôi đă trở thành một con người mới, và quan niệm của tôi đối với cuộc đời cũng thay đổi hẳn. Ảnh hưởng của ngài thật sâu đậm, ai đến với ngài cũng được cảm hoá như vậy, kể cả những kẻ hoài nghi, chế nhạo…
- Nhưng nếu người ta không tin, làm sao người ta có thể được cảm hoá ?
Đức Mahayasa mỉm cười:
- Trước ảnh hưởng an lành toa? ra từ con người thánh thiện của đức Ramakrishna dù có hoài nghi thế nào, người ta cũng thấy thanh thoát.
Giáo sư Allen rụt rè :
- Chúng tôi được biết ngài rất ít học.
- Đúng thế, ngài là con người đơn giản, biết ít, học ít, nhưng ngay cả những bậc học rộng , tài cao của Ấn độ đều ngưỡng mộ ngài. Họ cúi đầu trước hào quang tâm linh của ngài. Ngài vẫn dạy rằng tiền bạc, chức tước, địa vị chẳng qua chỉ là phù vân, hư ảo trước các giá trị tâm linh…
- Nhưng người Âu không thể hiểu tại sao những vua chúa, học giả nổi tiếng lại có thể cúi đầu trưóoc một người không học hết bậc trung học.
Đức Mahayasa mỉm cười :
- Sở dĩ họ không hiểu được, v́ họ quan niệm đạo sư phải là người có bằng cấp, tốt nghiệp những đại học nổi tiếng, có tài ăn nói hấp dẫn. Quan niệm người Ấn không như vậy. Một đạo sư không nhất thiết phải tốt nghiệp trường học chuyên môn, viết những sách vở cao siêu, mà ở những điều ngài khêu gợi, thức tỉnh tâm thức được cho ḿnh.
Có gần ngài, mới hiểu thế nào là b́nh an. Những ngày bên ngài tốt đẹp biết bao. Ngài thường đắm ḿnh trong những cơn thiền định sâu xa, khiến chúng tôi có cảm tưởng như tiếp xúc với một vị thánh hơn một người phàm. Tôi xin kể cho các ông về cảm tưởng của tôi.
Tôi được giáo dục theo phương pháp Âu tây, tôi rất tự đắc được đọc nhiều biết rộng hơn những người chung quanh. Khi đó tôi là giáo sư dạy Anh ngữ cho trường trung học ở Calcuttạ Đức Ramakrishna tu ở đạo viện Dakshinewar cách đó không xa.
Một hôm, tôi theo các bạn đến nghe ngài thuyết giảng, thực ra tôi có ư muốn biện luận với một vị, được dân chúng coi là thánh nhân, hơn là muốn nghe giảng. Nhưng một sự lạ lùng đă xảy ra, khi vừa nghe những lời nói của ngài, tôi thấy trong ḷng rộn ră một cảm giác lạ lùng, yên tĩnh.
Ngài không nói bằng ngôn ngữ thông thường, sử dụng các danh từ bóng bẩy như tôi nghĩ, mà bằng tiếng nói của trái tim. Tôi say mê uống những lời giảng giản dị, chân thành như người khát nước lâu ngày, sau đó, tuần nào tôi cũng đến nghe giảng.
Một thời gian sau, tôi được ngài thu nhận làm đệ tử, chính ngài khuyên tôi, “Xem tướng, thầy biết con sẽ trở nên một tu sĩ (Yogi). Con hăy làm tṛn công việc hàng ngày của ḿnh với đời. Nhưng tâm hồn lúc nào cũng tưởng nhớ đến thượng đế.”
- Chúng tôi nghe nói về Ramakrishna ngay từ khi c̣n ở Âu châu, nhưng dư luận người Anh có lẽ không hiểu rơ về ngài, ngoại trừ việc ngài là một người không có học thức…
Mahayasa gật đầu mỉm cười :
- Theo sự hiểu biết của tôi, sở dĩ ngài không thích học v́ bản tính ngài thiên hẳn về vấn đề tâm linh. Một người như thế tất nhiên không để ư đến những từ chương , bằng cấp hay quyền quí, danh lợi. Năm ngài bắt đầu vào tuổi thanh niên, một sự lạ xảy ra. Tuổi 16,17 là lúc đứa trẻ thường bị khủng hoảng hoặc thay đổi tâm tính nhất là trên phương diện t́nh ái.
Đối với người cao thượng, đó là lúc mở màn cho một đời sống thật sự với sự phát triển các năng khiếu tâm linh siêu việt. Sự mở màn ấy bắt đầu vói sự hoảng hốt trước cái chết. Đa số con người ít nhiều cũng đă nghĩ đến sự chết nhưng họ chỉ nghĩ một lát rồi quên ngay, ít ai chịu t́m hiểu sâu xa.
Các bậc hiền triết th́ khác, họ tận lực t́m hiểu thế nào là sự chết, đức Ramakrishna cũng phản ứng như vậy, ngài suy ngẫm, “cái ǵ là chết? Thể xác này chết nhưng c̣n tôi, tôi có chết không ? Nếu tôi là thể xác này, tôi chết nhưng tôi có phải là thể xác này không ? Nếu tôi không là thể xác này, tôi sẽ không chết, nhưng làm sao t́m ra điều này?
Chỉ có một cách là kinh nghiệm sự chết”. Sau đó, ngài quyết tâm tham thiền, suy gẫm về đề tài này. Ngài tưởng tượng thân thể ngài đă chết, không c̣n thở, không c̣n cảm xúc. Với một ư chí mănh liệt, ngài rút hết sinh lực ra khỏi thể xác và một ngày kia ngài thành công. Thân thể ngài cứng đơ, bất động như người chết, nhưng ngay lúc đó một quyền lực khôn tả phát ra từ đáy ḷng và tràn ngập tâm tư ngài.
Chuyện ǵ xảy ra sau đó, không thấy ngài nói đến nhưng chúng ta có thể đoán ra, xuyên qua lời dạy của ngài. Chúng ta có thể nghĩ rằng quyền lực ấy là cái mà ta gọi là Ân huệ, và khi được mặc khải đó th́ ta tiến sâu vào nguồn sống để hoà hợp với đấng vô cùng. Ngài đă hợp nhất với Chân Ngă.
Từ đó, ngài kinh nghiệm rằng Chân Ngă ngự sâu trong ḷng nhưng ngài chưa kinh nghiệm được một chân lư khác. Chân Ngă là sự thật duy nhất, ngoài sự thật đó không có ǵ nữa cả. Khi tiến sâu vào nội tâm, ngài thấy sự b́nh an nhưng khi ngài tỉnh dậy, ngài vẫn không thoa? măn v́ điều ngài mới đạt đến chỉ là sự b́nh an của các vị thánh.
Ngài ra tâm suy gẫm về cảm giác thiếu thốn này, thân thể ngài khi đó thường nóng hực kéo dài trong nhiều tháng. Dĩ nhiên ,những người chung quanh không hiểu, và cho rằng ngài mắc bệnh. Ngài đắm ḿnh trong trạng thái Vô Ngă rất lâu, không màng đến những việc chung quanh. Chú của ngài không hiểu, nên thường trách mắng ngài lười biếng, không chịu học hành.
Một hôm, ngài nghe nói đến ngôi đền Dakshiniwar, danh từ này có một sức hấp dẫn lạ lùng, thế là ngài quyết định đến đó. Đến nơi, ngài bước ngay đến trước tượng Shiva và nói, “Hỡi cha, cha đă gọi, nay con đến với chạ” Ngay lúc đó các cảm giác nóng hực, thiếu thốn hoàn toàn biến mất. Ngài chứng nghiệm được một chân lư mới, cha ta và ta là một.
Từ đó ngài không cần tĩnh tâm mới có cảm giác an lạc, mà lúc nào cũng ở trạng thái này. Ramakrishna bị rất nhiều thử thách. Bị trẻ con chọc phá và các tu sĩ khác dèm pha, gây hấn, nhưng ḷng ngài lúc nào cũng b́nh thản, lặng yên, không một chút vọng động. Kinh Gita dạy rằng một khi đă đạt đến trạng thái Vô Ngă, ḷng người không c̣n bị xao động bởi các sự kiện bên ngoài, dù khắc khe, đau khổ đến đâu.
Một sự an lạc tràn ngập thân ngài lôi cuốn những người chung quanh khiến họ khâm phục, kính mến và số người này mỗi ngày một đông. Một điều cần lưu ư là ngài không học hay đọc những sách vở ǵ về trạng thái Vô Ngă mà ngài đạt được lúc thanh xuân. Cũng không ai chỉ dẫn ngài về trạng thái siêu việt này.
Nhưng mỗi khi tín đồ nhờ ngài giảng giải một đoạn kinh sách ǵ, ngài mới đọc và thông hiểu nó một cách dễ dàng. Các sách vở đó rất ư khó hiểu, nhưng ngài chỉ đọc lướt qua đă quán triệt được ngay, v́ ngài đă chứng nghiệm được những điều nói trong sách đó.
Ngài dạy đạo bằng sự lặng thinh hơn là lời nói, nhiều người đến với ngài để chất vấn, nhưng khi vừa gặp ngài th́ mọi thắc mắc tự nhiên tiêu tan như đă được phúc đáp. Nếu một câu hỏi đặt ra, ngài thường trả lời một cách dịu dàng, vắn tắt, dễ hiểu.
Ngài không viết sách như những đạo sư khác, mà chỉ dạy đạo qua cử chỉ yên lặng hay vài câu nói giản dị. Môn đệ của ngài đến từ khắp xứ và tùy theo căn cơ lănh hội ít hay nhiều. Ư kiến của họ vê ngài tuy khác nhau, nhưng ai cũng nh́n nhận ngài là một đạo sư vào bậc nhất, và hết sức kính mến ngài.
V́ đă đạt trạng thái Vô Ngă, Ramakrishna không phân biệt giữa ngài và những người khác, giữa người giàu, kẻ nghèo, hay nam nữ, đối với ngài, tất cả đều b́nh đẳng tuyệt đối kể cả những loài cầm thú.
- V́ Ramakrishna không hề để lại sách vở, giáo lư, nên người Âu không hiểu tại sao ngài lại nổi tiếng như vậy? Ông có thể cho chúng tôi biết một chút về giáo lư của ngài không ?
Mahayasa mỉm cười :
- Sau khi ngài qua đời, nhiều đệ tử đă xuất gia để truyền bá giáo lư, riêng tôi vẫn c̣n là cư sĩ, hàng ngày tôi vẫn đi làm nhưng sống giữa cơi đời, mà tôi không c̣n tùy thuộc vào đời. Tôi c̣n nhớ rơ một lần ngài đă dạy như sau, “chúng ta xông pha trong cuộc đời với ư niệm cho rằng ta có thể t́m hạnh phúc trong cơi đời.
Cho đến lúc gần đất, xa trời, nhiều người cũng không buồn hỏi rằng ư niệm đó có đúng không ? Thật sự là chúng ta chả bao giờ chịu ngừng lại để suy nghĩ, lúc nào chúng ta cũng nghĩ rằng ḿnh gần đạt được những điều ḿnh mong mỏi. Chúng ta chỉ chịu dừng chân khi nào bị cuộc đời hắt hủi, giày ṿ. Ramakrishna cho rằng đó là việc dĩ nhiên, và giải thích bằng giấc mộng.
Trong giấc mộng, nếu ta chỉ gặp những điều thích thú, chúng ta vẫn mơ mộng măi và chỉ giật ḿnh tỉnh giấc khi gặp những chuyện đau buồn. Một cuộc đời êm đẹp không tiện cho sự suy tư về các vấn đề quan trọng, nhưng nếu là mộng th́ chắc chắn cũng phải có lúc tỉnh.
Trong nhiều năm ṛng ră, chúngta cố t́m hạnh phúc, và nhiều lần tưởng đă đạt được nó để hưởng một cách lâu bền. Nhưng lần nào ta cũng thất vọng. Sau đó, ta lại tiếp tục chạy theo ảo ảnh đó như trước. Nếu biết dừng chân suy nghĩ, ta sẽ thấy chúng ta đuổi theo hạnh phúc nhưng không hề biết đến bản chất thật sự của nó, và không biết phải dùng phương tiện nào để đạt nó.
Hăy thử t́m hiểu thế nào là hạnh phúc. Ai cũng biết đặc tính của hạnh phúc là “thường hằng”, nghĩa là nó ở măi với ta; suốt đời ta lúc nào cũng vui sướng, tươi tắn. Nhưng tất cả những ǵ cuộc đời mang lại cho ta đều là vô thường, chỉ có những khoái cảm nhất thời, chứ có ǵ lâu bền đâu.
V́ khoái cảm nhiều và đến với ta như ḍng nước chảy, chúng ta tưởng nó là hạnh phúc và kết luận rằng bao giờ ḍng khoái cảm đó c̣n tiếp tục đến với ta, chúng ta được hưởng hạnh phúc. Suy gẫm kỹ th́ khoái cảm chẳng qua chỉ là phản ứng của ḷng ta trước sự vật bên ngoài, nó lôi cuốn chúng tạ Các sự vật này khi th́ tạo vui, lúc th́ gây khổ.
Hơn nữa cùng một sự vật mà có thể tạo vui hay gây khổ tùy lúc, bởi thế ta phải nhận thức rằng “Hạnh phúc” không có ở sự vật bên ngoài. Nếu nó là sự vật bên ngoài, chúng ta phải càng có hạnh phúc khi càng có nhiều sự vật mới đúng chứ.
Thật sự, người giàu có, lắm sự vật, chưa chắc đă hạnh phúc hơn kẻ nghèo. Nói cách khác, kẻ nghèo ít của cải, chưa chắc thiếu hạnh phúc hơn người giàu. Tóm lại, chúng ta thấy rơ ràng ḿnh theo đuổi hạnh phúc nhưng không biết thế nào là hạnh phúc và cũng chả biết phải dùng cách nào để đạt hạnh phúc ?!!
Những người t́m hiểu một cách chân thành sớm muộn ǵ cũng thấy rằng hạnh phúc nằm ở ngay nội tâm tạ Các khoái cảm không có tính cách tư hữu, mà chỉ là một tia nhỏ của hạnh phúc chân thật thuộc bản tính tự nhiên của con người ,bị che lấp bởi vô minh. Một con chó gậm xương bị trầy miệng, chảy máu nó lại tưởng rằng máu phát xuất từ khúc xương.
Chúng ta cũng thế cứ tưởng sẽ được hạnh phúc khi chạy theo những vật ngoại giới. Có lẽ các ông khó chấp nhận quan niệm này, nhưng ít ra cũng tin rằng những nỗi vui hay buồn tùy ở chúng ta nhiều hơn là sự vật bên ngoài. Dù sao, sự chấp nhận này cũng chưa đủ đem lại cho ta hạnh phúc, v́ có hai nỗi đe doa: sự ham muốn và sợ hăi.
Chúng ta càng ham muốn th́ càng sợ hăi, và càng sợ hăi lại càng đau khổ. Thay v́ diệt trừ những đe doa. này, chúng ta lại quỳ luỵ chúng . Khi ham muốn lên tiếng, “hăy đạt được vật đó đi, rồi sẽ sung sướng”, th́ chúng ta tin tưởng và t́m mọi cách đạt kỳ được vật đó. Nếu chúng ta không đạt được, th́ chúng ta đau khổ, mà nếu đạt được th́ ham muốn lại thúc dục ta t́m đến một vật khác nữa.
Thế mà chúng ta vẫn không thấy ḿnh bị lừa gạt chút nào mới lạ, quả là ham muốn như lửa đỏ, càng cháy dữ khi càng đổ thêm dầu. Bao giờ chúng ta là nô lệ của dục vọng, chúng ta không sao đạt được hạnh phúc. Nếu đạt được lại sợ mất đi, càng có nhiều càng lo sợ nhiều, có đúng thế không ? Tóm lại, muốn có hạnh phúc thật sự, phải vượt lên khỏi sợ hăi và ham muốn.
Đức Mahayasa im lặng như đắm ch́m vào một quá khứ rồi tiếp tục :
- Đến đây chúng ta cần được một vị thầy hướng dẫn thêm. Người này phải hiểu rơ hạnh phúc ở đâu, phải theo đường lối nào. Người này phải thắng được các đe doa. như sợ hăi, ham muốn, và thật sự đă đạt được niềm hạnh phúc vô biên; như vậy mới có đủ kinh nghiệm d́u dắt chúng tạ Như con bệnh phải đi t́m danh y th́ kẻ cầu đạo cần một vị thầy.
Ramakrishna chính là vị thầy mà tôi gặp. Kinh sách xưa xác nhận sự minh triết có thể giúp con người thoát khỏi khổ đau, nhưng ta không thể t́m nó bằng lư luận hay trong sách vở. Trong quá khứ, đă có những bậc đạo sư như đức Phật, đấng Christ đă t́m được hạnh phúc và hướng dẫn những kẻ khác.
Sau khi các ngài tịch diệt, môn đệ có tŕnh bày giáo lư của các ngài trong kinh sách, nhưng dù sao đi nữa, kinh sách cũng có những khiếm khuyết, ngôn ngữ làm sao diễn tả hết được, làm sao bằng lời những vị đạo sư hăy c̣n sống bên cạnh chúng tạ Ramakrishna đă dạy rằng, nguyên nhân các đau khổ đều ở trong ta chứ không phải ở bên ngoài.
Có người hỏi thế giới chúng ta đang sống có điều ǵ xấu xa không? Th́ ngài đă trả lời rằng nó rất tốt đẹp, có xấu xa chăng là ḷng người, v́ con người đă hiểu sainó. Công việc của chúng ta hiện nay là phải đi ngược ḍng t́m cho ra sự sai lầm nguyên thuỷ để diệt trừ nó, th́ mọi việc sẽ tốt đẹp… Phát giác và trừ tuyệt cái sai lầm căn bản là phương thuốc chánh, tất cả phương tiện khác đều chỉ là tạm bợ.
Nhiều lắm là chúng giúp ta t́m ra phương thuốc nói trên. Đó là giá trị của các tôn giáo, các nghi lễ, tiếc thay tôn giáo hay gây sự chia rẽ, đôi khi c̣n làm cho tâm trí suy kém, cản trở bước tiến của tín đồ. Có người đă hỏi tại sao con người luôn luôn đau khổ, sợ hăi, th́ ngài trả lời rằng, sự kiện đó là do lầm lạc phát sinh, từ sự thiếu hiểu biết chính ḿnh.
Có nhiều người, họ biết ḿnh rất rơ ràng, hoặc lại cho rằng điều này không cần thiết, v́ trong đời sống hàng ngày đầy rẫy những phức tạp, điểu ta cần khai thác là làm ǵ cho có lợi, kiếm được thật nhiều tiền. Để khai thác, con người gán cho kiến thức một giá trị quá mức, như bắt mọi người phải đến trựong.
Từ xưa đến nay nhân loại thu thập biết bao kiến thức nào là sử kư, địa dư, thiên văn, vật lư, triết học và siêu h́nh học nữa… Nếu những kiến thức này là sự hiểu biết đứng đắn th́ nó phải đem lại hạnh phúc cho nhân loại chứ. Sự thật lại khác hẳn, chúng ta học cách chế ngự quyền lực thiên nhiên, đi ngược luật tạo hoá, khiến cho xă hội càng ngày càng đau khổ, bất măn thêm.
Sự chế ngự này, con đẻ của khoa học chỉ đem lại lợi ích cho một thiểu số thôi. Do đó, lắm kẻ giàu sang sung sướng nhưng vẫn không sao hạnh phúc được trước khổ đau của đa số. Tóm lại, khoa học đă tạo cho con người nhiều khó khăn hơn là giải quyết các điều kiện căn bản của cuộc sống.
Đức Mahayasa nh́n mọi người trong phái đoàn, rồi tiếp tục :
- Đă có một giáo sư đại học hỏi Ramakrishna về bức tường vô minh mà khoa học không sao vượt qua được. Họ biết các vật vi tế như nguyên tử, điện tử nhưng đó cũng chỉ qua sự ức đoán mà thôi, không phải biết một cách trực tiếp. Họ cũng biết các vật vĩ đại như các dăy thiên hà nhưng cũng chỉ ngưng ở đây thôi.
Ngài đă trả lời rằng, ngoại cảnh chỉ đưa con người tới chỗ vô minh mà thôi. Theo ngài, nếu nhân loại cố t́m ṭi những ǵ káhc hơn là bản chất con người th́ những kiến thức ấy không phải sự hiểu biết thật sự. Lời nói này có vẻ làm giảm giá trị của khoa học, nhưng nếu suy nghĩ kỹ ta thấy ngài rất có lư.
Sự hiểu biết về khoa học hiện nay c̣n nhiều điểm đáng nghị Các khoa học gia vẫn c̣n bất đồng ư kiến về một chuyện ǵ, th́ quần chúng đă lên tiếng ủng hộ, do đó những người bất đồng ư kiến cũng phải im, dù có thể họ rất có lư và số đông đă sai. Trong phạm vi khoa học, cũng như triết học và tôn giáo, ư kiến thựong sai biệt ít nhiều, tùy tâm trí nhà bác học.
Sự t́m hiểu chân lư bắt buộc một học giả phải có những đức tính cao quư v́ tâm trí học giả có một ảnh hưởng to lớn trong sự t́m hiểu và sự hiểu biết chỉ có thể xem như một chánh kiến, khi người t́m kiếm có đủ tư cách. V́ thế khoa học đă vấp nhiều lỗi lầm khó sửa.
Sự thất bại của khoa học phát sinh từ một lầm lỗi nguyên thuỷ là các bác học tưởng ḿnh đă biết, không cần sự tự biết ḿnh. Trong cả hai trường hợp, họ bắt đầu cuộc đi t́m với những thành kiến sai lầm về bản chất của họ.
Do đó, những điều họ t́m ra dù có giá trị vẫn bắt đầu từ những sai lầm căn bản, hậu quả là khoa học ngày nay đă đưa nhân loại đến những hố thẳm, thay v́ chân trời sáng lạng. Một hôm có tín đồ đến hỏi Ramakrishna về các thần tượng mà họ không thích. Họ muốn ngài chấp nhận ư kiến của họ là không nên thờ thượng đế dưới h́nh thức thần tượng.
Một người hỏi ngài :
- Thượng đế có sắc tướng không?.
Ngài đáp:
- “Ai nói rằng thượng đế có sắc tướng.
- “Nếu thượng đế không có sắc tướng th́ tại sao lại thờ ngài trong các h́nh tượng làm ǵ ?
- Chúng ta hăy để thượng đế sang một bên, và xin anh cho tôi biết anh có sắc tướng không ?
- Dĩ nhiên là có chứ, hăy nh́n thân thể này…
- Nhưng anh có phải cái xác thân đen xám, râu tóc xồm xoàm này không?
- Dĩ nhiên tôi là xác thân này chứ c̣n ǵ nữa.
- Trong lúc ngủ say, không mơ mộng, anh có phải là nó không?
- Có chứ, v́ khi thức dậy tôi thấy tôi đâu thay đổi ǵ.
- Và rồi khi anh chết.
- Th́ tôi cũng c̣n là nó.
- Vậy th́ tại sao khi người ta hỏa thiêu nó, nó không nói nó không chịu đi, và muốn ở lại nhà ?
Khi người này ư thức rằng ḿnh đă sai và đáp rằng :
- Tôi không phải là thể xác này, mà là sự sống trong nó.
- Anh hăy suy gẫm kỹ về điều này. Hồi năy anh nói rằng anh là thể xác này. Bây giờ anh lại nói rằng không phải. Cho ḿnh là xác thân này là một lỗi lầm nguyên thuỷ. Bao giờ sự sai lầm này c̣n, dù anh nói thượng đế có sắc tướng hay không cũng không ăn thua ǵ. Khi sự sai lầm này được đánh tan th́ mọi việc sẽ sáng tỏ.
Tóm lại, theo Ramakrishna th́ nguyên nhân của sợ hăi, dục vọng, ham muốn là do sai lầm đầu tiên, tự cho ḿnh là xác thân này, v́ sợ hăi hay ham muốn đều bắt đầu từ thể xác này. Dĩ nhiên, rất nhiều người cũng đồng ư như thế, và tin rằng con người không phải là thể xác mà là một sự sống trường cửu.
Sách vở cũng nói như thế rất nhiều. Nhưng trong đời sống thực tế, họ có làm ǵ khác đâu. Lúc đầu họ nghĩ rằng nhờ kiến thức thu thập, hiểu biết các chân lư cao siêu họ sẽ khác người thường. Nhưng tại sao họ vẫn hành động y như họ là thể xác này vậy? Nếu xác thân họ nhỏ bé, họ cho rằng ḿnh bé nhỏ. Nếu xác thân họ to lớn, đẹp đẽ, họ cho rằng ḿnh lớn đẹp.
Nếu xác thân họ Ốm đau, họ cho rang ḿnh bệnh hoạn. Nếu tư tưởng họ phong phú, họ cho rằng ḿnh thông minh….Tóm lại, sự sợ hăi và dục vọng vẫn y như xưa, có thể lại c̣n gia tăng hơn v́ họ hănh diện về sự hiểu biết của ḿnh hơn xưa.
Nói một cách khác, sở dĩ họ làm thế, v́ chưa chứng nghiệm được con người thật của ḿnh, sự sai lầm nguyên thuỷ vẫn c̣n tác động mạnh mẽ nơi họ. Kiến thức của họ chưa tạo được một sự biến chuyển thật sự….
Ramakrishna đă dạy rằng, kiến thức về tâm linh thu thập qua sách vở thường tai hại hơn là một người thất học, dốt nát. Những người kiến văn quảng bác, lịch thiệp, bằng cấp, danh vọng thường ích kỷ, lại c̣n ngạo mạn, họ cho rằng ḿnh biết nhiều, hiểu nhiều, và không chịu t́m hiểu, thực hành đào sâu vào thêm nữa.
Đó là sự hiểu biết hời hợt qua sách vở, chứ đâu phải là một chứng nghiệm nội tâm. Sách vở chỉ là la-bàn hướng dẫn, chứ đâu phải minh triết thật sự. Sự thu thập kiến thức kiểu này, tạo nên t́nh trạng hỗn độn trong triết lư và thần học.
Các triết gia và nhà thần học đă thảo luận không ngừng về những vấn đề khó khăn, như nguyên nhân đầu tiên, sự thật cuối cùng, bản chất thời gian, định mệnh con người, tự do, giải thoát, v..v… và chả đạt đến một kết quả nào.
Các bậc hiền triết đứng bên ngoài cuộc thảo luận đó, v́ họ có lối giải quyết riêng, trái với các giải pháp trí thức. Thay v́ thảo luận, họ cố khám phá lấy sự thật, và khi t́m ra sự thật, các vấn đề trên sẽ đương nhiên được giải quyết.
Nói đến đây, đức Mahayasa lặng yên ch́m đắm trong một không khí êm đềm nào đó.
Giáo sư Evans-Wentz cố gắng :
- Nhưng con người không thể sống bằng đức tin, mà c̣n phải thỏa măn lư trí nữa, đối với những người thiên về lư trí, không biết ngài nghĩ sao ?
Mahayasa mỉm cười :
- Nếu thầy tôi Ramakrishna c̣n sống có lẽ ngài sẽ khuyên ông nên cầu nguyện.
- Tại sao như vậy ?
- Cầu nguyện là phương tiện cuối cùng của con người. Khi nào lư luận tỏ ra bất lực th́ sự cầu nguyện sẽ bổ sung , phù tŕ, cứu độ…
- Nhưng nếu tôi không thể cầu nguyện th́ phải làm sao ?
Đức Mahayasa nh́n giáo sư Wentz, ánh mắt ngài long lanh một niềm ưu ái:
- Ông nên tiếp xúc với các bậc chân tu, các vị này sẽ hướng dẫn tâm hồn ông lên cơi thiêng liêng, và thức động các khả năng thiêng liêng nhất của ông. Có lẻ ông cần một vị thầy.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 183 of 1146: Đă gửi: 17 June 2010 lúc 5:54pm | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG
NHỮNG SỰ KIỆN HUYỀN BÍ
Chương Sáu
Bác sĩ Kavir cho biết nếu phái đoàn muốn nghiên cứu những sự kiện huyền bí, những phép thuật lạ lùng th́ phải đến gặp pháp sư Vishudha.
Vị pháp sư này có lệ không bao giờ tiếp khách, ngay cả những tín đồ thuần hành sùng kính nhất. Ông sống trong một căn nhà nhỏ với một vài đệ tử thân tín và rất ít khi nào ra ngoài. Các đệ tử cho biết thầy họ không bao giờ biểu diễn phép thuật dù ở nơi kín đáo, và không chịu cho phái đoàn vào.
Bác sĩ Kavir mang hết tài dẫn dụ ngoại giao cũng như quyền lực hăm doa. nhưng họ vẫn khăng khăng. Sự hiện diện của một nhóm người Âu, gây nhiều chú ư của dân chúng và tín đồ hành hương, nên chỉ một lúc, một đám đông đă vây kín phái đoàn. Có lẽ tiếng động ồn ào này tạo sự chú ư của vị pháp sư nên ông ra lệnh cho đệ tử mời bác sĩ Kavir vào nói chuyện.
Một lát sau, Kavir bước ra nét mặt hân hoan :
- Đạo sư Vishudha không tiếp khách lạ, nhưng ngài đặc biệt tiếp phái đoàn như một ngoại lệ đấy.
Đó là một ông lăo to lớn, tóc bạc trắng như cước ngồi trên tấm bồ đoàn kết bằng cỏ, nét mặt ông lạnh như băng , và đôi mắt như nh́n vào khoảng không, như không thèm chú ư ǵ đến phái đoàn. Một đệ tử lên tiếng :
- Các ông đến đây với mục đích ǵ ?
Giáo sư Allen lên tiếng :
- Chúng tôi được biết đạo sư có các quyền năng phi thường. Mục đích chuyến đi này của chúng tôi, là nghiên cứu những sự kiện huyền bí, ghi nhận một cách khoa học những điều tai nghe, mắt thấy…
- Nếu đạo sư vui ḷng…
Vishudha nghe thông ngôn xong, mỉm cười yêu cầu giáo sư Oliver cho mượn một cái khăn tay và một cái kính lúp. Ông ta dơ chiếc kính lên ánh sáng mặt trời cho nó chiếu lên chiếc khăn tay và tuyên bố:
- Tôi sẽ thu hút các mùi hương trong không khí, các ông thích mùi ǵ?
- Tôi thích mùa hoa lài.
Visudha mỉm cười trao trả chiếc khăn cho giáo sư Oliver. Một mùi hương phảng phất khắp pḥng và ai cũng biết đó là mùi hoa lài. Mọi người quan sát kỹ chiếc khăn, nó không hề ướt hay có dấu hiệu ǵ rằng người ta đă nhỏ vào đó một chút dầu thơm.
Như đoán được ư nghĩ mọi người, Vishudha yêu cầu giáo sư Mortimer đưa ra một chiếc khăn tay khác. Giáo sư Kavir thông dịch :
- Bây giờ các ông hăy chọn một mùi hoa ǵ đặc biệt của xứ các ông mà không hề có tại xứ Ấn độ.
- Được lắm, tôi muốn mùi hoa uất kim hương (tulip).
Visudha mỉm cười giơ chiếc kính lúp lên ánh sáng mặt trời cho nó chiếu vào chiếc khăn và lần này mùi hoa uất kim hương lại thơm nồng khắp pḥng. Phái đoàn vội vă yêu cầu những mùi hương lạ lùng và lần nào ông cũng làm họ hài ḷng.
Thậm chí đến cả những mùi thuốc hoá học, những mùi a xít trong pḥng thí nghiệm, ông cũng có thể làm được. Mọi người quan sát kỹ xem ông ta có dấu ǵ dưới lớp áo choàng không. Vishudha mỉm cười vén cao tay áo để chứng tó ông không hề làm tṛ ảo thuật hay cất dấu hương liệu ǵ đặc biệt trong người.
Giáo sư Mortimer buột miệng :
- Xin ông giải thích việc này ?
Mọi người giật ḿnh v́ phong tục xứ Ấn, chất vấn một đạo sư là điều bất kính. Vishudha quay sang giáo sư Kavir nói vài lời, ông này thông dịch :
- Đó chỉ là môn khoa học gọi là Thái dương học. Ánh sáng mặt trời chứa đựng một năng lực rất mạnh, nếu biết chọn lựa và cô lập nó ta có thể tạo mọi vật theo ư muốn.
Giáo sư Mortimer giật ḿnh :
- Thái dương học, phải chăng nó là môn khoa học của dân Atlantic ?
- Đó là môn khoa học đă một thời thịnh hành tại châu Atlantic, nhưng không phả riêng của giống dân này.
- Như thế châu Atlantic là có thật…châu này đă ch́m xuống biển từ lâu và chỉ có Plato ghi nhận lại trong tập sách của ông…Chuyện này ra sao ?
Vishudha trầm ngâm :
- Tin hay không là tùy các ông. Người Âu lúc nào cũng đ̣i hỏi bằng chứng này nọ, nếu các ông muốn gọi nó là truyền thuyết cũng chẳng sao…. Khoa học nơi đâu cũng có nguồn gốc, khi tiến đến một tŕnh độ cao xa th́ thời gian hay không gian, đâu có nghĩa lư ǵ nữa.
Khoa Thái dương học thật ra xuất xứ từ Tây Tạng ở một thời đại xa xôi, khi Ấn độ c̣n là một ḥn đảo và rặng Hy Mă Lạp Sơn c̣n là một bờ biển…nhưng điều này đâu có ích ǵ cho việc nghiên cứu của các ông ?
- Ông có thể làm ǵ với môn này ?
- Các ông c̣n muốn ǵ ? Như vậy chưa thoa? măn sao ?
Vishudha đứng dậy bước đến bên một chậu hoa gần đó. Mặc dầu chậu nở đầy hoa, nhưng trong đó cũng có một số hoa đă tàn. Vishudha dơ chiếc kính lúp chiếu lên các hoa này. Trước cặp mắt kinh ngạc của mọi người, những hoa khô héo bỗng trở nên tươi tốt, thơm thọ Mọi người nín thở, không ai nói nên lời.
Vishudha dơ chiếc kính lên chiếu vào ḷng bàn tay ông. Một chùm nho tươi tốt bỗng xuất hiện. Nên biết Ấn độ là xứ nhiệt đới, không trồng được nho, hơn nữa lúc đó đang vào mùa đông, các cây nho bên Âu châu đều khô héo. Có được chùm nho tươi tốt là một việc vô lư, lạ lùng. Vishudha đưa chùm nho cho giáo sư Allen xem và thản nhiên tuyên bố :
- Đây là giống nho Pajouti chỉ mọc ở miền nam nước Ư, không hề được xuất cảng. Mùi của nó thơm nhưng vị hơi chát.
Mọi người xúm lại xem chùm nhọ Có người ngắt vài quả bỏ vào miệng ăn như sợ rằng đó chỉ là một ảo tưởng. Chờ mọi người ăn xong, Vishudha trịnh trọng :
- Đây đâu phải lần đầu các ông thấy một sự lạ xuất hiện. Các ông đă nghe nói về chuyện này rồi đấy chứ. Các ông không nhớ chuyện đấng Christ hỏi thánh Phillip ở thành Galileo, “chúng ta sẽ mua bánh ḿ ở đâu?” Ngài biết rơ rằng bánh ḿ mà đám quần chúng đang cần dùng không phải mua ngoài chợ.
Ngài mượn dịp đó để chỉ cho các tín đồ rằng người ta có thể tạo ra bánh ḿ bằng sức mạnh của tinh thần. Thông thường mọi người chỉ nghĩ rằng ta có bao nhiêu bánh ḿ hay bao nhiêu tiền bạc và chỉ giới hạn trong một khuôn khổ nào đó thôi. Điều đức Jesus muốn nói là khi ta đă sống với tâm thức của Chân Ngă, th́ người ta không c̣n thiếu sót hay g̣ bó vào một giới hạn nào nữa.
Ngài nh́n về thượng đế là nguồn gốc sáng tạo ra muôn loài, và tạ Ơn thượng đế đă luôn đặt vào tay loài người cái quyền năng và chất liệu cần thiết để thoa? măn tất cả nhu cầu của họ. Đức Jesus đă bẻ bánh ḿ và bảo tông đồ hăy phân phát cho mọi người.
Khi tất cả ăn no rồi mà vẫn c̣n dư đến 10 rổ bánh. Cũng bằng cách đó mà Elisê đă làm cho người quả phụ thành Jerusalem có dầu ăn thừa thăi không bao giờ hết. Ngài không hỏi đến kẻ có dư thừa dầu trong nhà, v́ như thế số dầu chỉ giới hạn mà thôi.
Những câu chuyện trong Kinh thánh đă dạy ta điều ǵ ? Phải chăng các môn khoa học đời nay không thể giải thích vấn đề này? Phải chăng có kẻ cho đó chỉ là một chuyện thần thoại? Có lẽ các ông cho rằng những chuyện này được ghi chép từ lâu rồi nên có phần nào sai lạc đi ?
Mọi người trong phái đoàn giật ḿnh v́ câu hỏi bất ngờ. Kinh thánh đối với họ không phải quyển sách nào xa lạ. Phần lớn đều thuộc ḷng nhưng ít ai suy nghĩ căn kẽ về những sự kiện xảy ra trong đó. Vishudha mỉm cười nh́n từng người rồi tiếp tục :
- Đức Jesus đă dạy rằng trong thiên nhiên có chất liệu để làm đủ mọi vật, và người ta có thể t́m lương thực của ḿnh trong đó. Chúng ta chỉ cần rút các chất liệu này để tạo ra mọi thứ cần dùng. Nhưng con người hèn nhát và thiếu đức tin đă không nghĩ rằng họ có thể thực hiện được những việc này.
Nhu cầu phải chăng cũng là ư muốn sáng tạo ? Thay v́ vươn lên để thực hiện ư muốn, để sáng tạo th́ con người lại thu hẹp ḿnh lại. Nghĩ rằng ḿnh không thể làm được những việc đó. V́ thế con người càng ngày càng rời xa thượng đế. Đến nay con người tin rằng họ là một thực thể cách biệt với thượng đế.
Họ đă đi lệch hẳn con đường toàn vẹn, bỏ lỡ cái mục đích cao đẹp. Họ đă không để thượng đế biểu lộ xuyên qua họ như ngài muốn. Chính đức Jesus đă nói rằng, “những ǵ mà ta làm được th́ các ngươi cũng sẽ làm được, và các ngươi sẽ c̣n làm được những việc lớn lao hơn nữa.” Ngài muốn nói điều ǵ đây ? Phải chăng con người trong cương vị chân thật, chính là con của thượng đế?
Sứ mạng đức Jesus trên thế gian chính là chứng tỏ rằng trong cương vị nào đó, con người cũng có thể sáng tạo một cách hoàn toàn tốt đẹp như thượng đế. Khi ngài ra lệnh cho người mù hăy ra ao Siloe rửa mắt, phải chăng ngài đă chứng tỏ cho quần chúng biết rằng ngài được thượng đế gửi xuống để sáng tạo cũng như thượng đế vậy ?
Vishudha ngừng nói, đưa tay ra, một ổ bánh ḿ to lớn bỗng xuất hiện trên tay y từ hồi nào. Tất cả mọi người im lặng, nín thở không ai thốt nên lời. Sự kiện một đạo sư Ấn không nói ǵ về truyền thống, tôn giáo xứ này, mà lại nói về Kinh thánh như một vị mục sư làm mọi người kinh ngạc. Bỗng nhiên ổ bánh ḿ biến mất như bị thiêu huỷ. Vishudha mỉm cười thong thả :
- Các ông đă thấy, tôi đă lạm dụng các định luật huyền bí giúp tôi thực hiện ư muốn. Tôi vừa đốt cháy đồ vật mà tôi tạo nên. Làm như thế tôi đă lạm dụng một điều luật bất di bất dịch của thiên nhiên. Nếu tôi tiếp tục làm thế th́ không những món đồ bị đốt cháy, mà chính kẻ sáng tạo là tôi cũng chịu chung số phận.
Các ông đă ngửi mùi hương và việc tôi làm chậu hoa hồi sinh, cũng như chùm nho xuất hiện…. Tôi có thể sử dụng quyền năng này khi làm một việc có ích cho nhân loại , hoặc với một ḷng bác ái thanh cao v́ đó là hợp với luật vũ trụ, hợp với thiên ư.
Trái lại, chỉ với một ư định xấu xa như khoe trương bản ngă, tôi sẽ đi lệch đường và chịu trách nhiệm về việc làm của ḿnh nghĩa là sẽ gặp ngay sự phản tác dụng về hành động của ḿnh. Tôi đốt cháy một vật th́ tôi cũng có thể cháy thành than tức khắc.
Nếu con người phụng sự thượng đế, hành động đúng theo thiên ư, hợp luật trời th́ y đă bước chân vào cơi trời rộng mở c̣n ngược lại th́ y đang bước vào cánh cửa của địa ngục rồi đó…
Vishudha nh́n thẳng vào mặt mọi người :
- Này các ông, những nhà thông thái, thế đă thỏa măn các mong ước, hiếu kỳ của các ông chưa? Nếu các ông c̣n mê man trong các cuộc khảo cứu, ghi nhận các hiện tượng lạ lùng mà khoa học chưa giải thích được th́ khắp thành phố này, có hàng trăm đạo sĩ, pháp sư có thể làm những chuyện đó.
Điều đáng tiếc rằng rất ít người hiểu biết về cái hậu quả họ sẽ phải gánh chịu. Các ông muốn ghi nhận những phép thuật thần thông để làm ǵ ? Phải chăng các ông sẽ công bố cho mọi người Âu Mỹ biết hay sao? Như thế có ích lợi ǵ ? Liệu đă có mấy ai tin tưởng rằng những điều các ông nói không phải là một sự tưởng tượng ?
Có thể họ sẽ lên án các ông là đằng khác. Có bao giờ các ông nghĩ rằng ḿnh đang làm một chuyện vô ích hay không ? Có lẽ các ông sẽ làm những phúc tŕnh về các hiện tượng lạ lùng nhưng rồi sẽ đi đến đâu? Cuộc đời đâu phải chỉ quan sát ghi nhận rồi làm những thống kê, có phải không ?
Này các nhà thông thái, các ông đă khám phá thế nào là mục đích cuộc đời chưa ? Nếu các ông chưa tự hỏi mục đích cuộc đời ḿnh để làm ǵ th́ ghi nhận, nghiên cứu có ích lợi ǵ đâu ? Khi chưa t́m được giải đáp cho chính ḿnh th́ các phúc tŕnh, thống kể cũng vô ích thôi, có phải như thế không ?
Một sự im lặng bao trùm căn pḥng. Vishudha thong thả ngồi trên tấm bồ đoàn, không nói thêm điều ǵ nữa. Bác sĩ Kavir ra hiệu cho phái đoàn rút lui. Rời khỏi căn nhà đá, toàn thể mọi người đều xúc động, không ai nói lên một lời nào. Những sự kiện xảy ra đă làm đảo lộn mọi quan niệm thông thường về vật lư, hoá học… Đúng như nhà đạo sĩ đă nói, làm sao chứng minh một phép lạ đây ?
Làm sao có thể cho những người Âu đang bận rộn với mưu sinh tại New York hay London biết rằng ở phương Đông có những bí mật vô tận, những triết lư cao cả mà người Tây phương không thể hiểu. Tư tưởng Đông phương đă vượt xa, rất xa những tư tưởng tiến bộ nhất của Tây phương.
Có lẽ các nhà hiền triết xứ này đă mỉm cười trước những ngông cuồng, hỗn tạp của cái gọi là khoa học tiến bộ. Câu hỏi của Vishudha khiến mọi người suy nghĩ rất nhiều. Lúc đầu, ai cũng mong ghi nhận những điều lạ lùng để nghiên cứu nhưng trước những sự kiện mà khoa học không thể giải thích, toàn thể mọi người đâm ra bối rối không biết phải làm ǵ.
Giáo sư Spalding nhớ lại câu nói của người Ấn thành Benares, “nếu các ông chỉ muốn nghiên cứu các hiện tượng thần thông, các quyền năng lạ lùng th́ hăy đến Rishikesh, các ông sẽ không thất vọng. Nhưng nếu các ông muốn đi xa hơn để có thể gặp các bậc chân sư th́ các ông cần một thời gian nữa”.
Sự gặp gỡ các vị chân sư thánh triết có một sức hấp dẫn lạ lùng đối với phái đoàn, nhưng tại sao phải chờ đợi thêm một thời gian nữa ? H́nh như có một nguyên nhân sâu xa nào đó mà phái đoàn không thể giải thích, mọi người linh cảm như đă có những sự xếp đặt huyền bí cho việc du khảo tại phương Đông này.
Harishchandra là một đạo sĩ ḍng tu Swami, thường đi khắp nơi, ít khi nào ở một chỗ. Lần này ông ghé thăm bác sĩ Kavir ít hôm, nên phái đoàn có cơ hội gặp gỡ. Ông trạc 60, thân h́nh cao lớn, có đôi mắt sáng ngời. Sau vài câu xă giao ông cho phái đoàn biết tuổi thật của ông đă quá 100, và tin rằng ông sẽ c̣n sống ít ra vài chục năm nữa.
- Tại sao ông nghĩ ḿnh sẽ sống lâu như thế ?
- Tại v́ lúc này khả năng sáng tạo của tôi rất mạnh. Tôi tin rằng với bộ Óc c̣n linh hoạt như một thanh niên, tôi có thể sống khá lâu nữa.
Bác sĩ Kavir mỉm cười tiếp lời :
- Harishchandra không những là một đạo sư Yoga mà c̣n là một nghệ sĩ. Ông ta có thể sử dụng tất cả nhạc khí cổ điển cũng như tân tiến, ông c̣n vẽ tranh, nặn tượng, làm thơ… Tóm lại, chả có bộ môn nghệ thuật nào mà ông ta không biết.
Bác sĩ Mortimer ṭ ṃ :
- Ông theo học ở đâu và làm sao có thể biết nhiều thứ như vậy ?
Hashichandra cười lớn :
- Bác sĩ Kavir nói không đúng đâu. Tôi chỉ biết chút đỉnh về vài bộ môn nghệ thuật. Tôi không hề được đi học nhưng Yoga đă giúp tôi…
Bác sĩ Mortimer hấp tấp :
- Ông muốn nói đến phương pháp khí công hay các tư thế ?
Đạo sĩ bật cười lớn :
- Không phải thế, tôi ư thức được sự sáng tạo trong một buổi thiền định, và từ đó tôi có thể làm được nhiều thứ. Đa số con người đều coi nghệ thuật như một phương tiện giải trí, họ sử dụng nghệ thuật như một cái ǵ giúp họ trốn thoát hoàn cảnh con người của họ.
Nghe một bài ca, một câu hát họ quên đi các ưu phiền hiện tại… Đó không phải là sự thưỏong thức cái Chân, Thiện, Mỹ của nghệ thuật. Nghệ thuật mà tách khỏi cuộc sống th́ chỉ là một kỹ thuật phô diễn những cái ǵ hời hợt, các ước vọng nông cạn. Nguồn cảm hứng không phải mời gọi mà được, mà là một rung động tự nhiên. Tất cả cố gắng chiếm đoạt cảm hứng qua bất cứ một h́nh thức nào, chỉ là những ảo tưởng.
Tài năng, thiên tư chỉ giúp ta nhận thấy bản ngă, giúp ta thỏa măn các ước vọng thấp hèn, và làm thui chột sự sáng tạo. Một nghệ sĩ chân chính là người thực sự vượt qua các hư ảo của bản ngă, của danh vọng và ư thức cái đẹp của nghệ thuật như một thực tại.
Nh́n thấy mọi người có vẻ ngơ ngác. Harishchandra mỉm cười giải thích:
- Nội tâm con người là một băi chiến trường luôn luôn có xung đột giữa các quan niệm , h́nh thức, lư thuyết, thực hành. Sự tranh chấp này thường gây lầm lỗi. Khi ta nghe một bản nhạc, thưởng thức một bức tranh ta rung động theo cảm nhận của ta. Rung cảm này mỗi cá nhân một khác, v́ nó dựa theo các quan niệm, thành kiến sẵn có.
Nếu tôi thích nhạc Mozart, th́ tất cả các nhạc sĩ khác đều khó có thể so sánh với ông này. Dĩ nhiên người mê Beethoven không đồng ư như thế. Tóm lại, sự rung động của tôi đă có thành kiến, v́ như thế tôi mất đi nhạy cảm đối với sự sáng tạo.
Một người nghệ sĩ sẽ trở nên một cái máy nếu y chỉ biết phục vụ cho bản ngă, làm việc để phô trương cá nhân, để thoa? măn dục vọng thay v́ để sáng tạo. Y chỉ biết “tôi viết”, “tôi soạn nhạc”, “tôi vẽ”, “tôi sáng tác”, v…v… Từ phút đó, y mất đi khả năng sáng tạo tuyệt vời mà chỉ c̣n là cái xác không hồn.
Sự thành công, lời khen tặng, làm căng phồng bản ngă của y và làm lu mờ sự rung động với cái đẹp thật sự. Cái tinh thần ham lợi, háo danh đó không phải là tinh thần yêu cái đẹp, mà bắt nguồn từ sự khao khát dục vọng. Dục vọng đ̣i hỏi một sự bảo đảm an toàn, do đó người nghệ sĩ đâm ra sợ hăi.
Từ đó, y xây một bức rào ngăn cách với mọi sự vật khác. Y không c̣n chiêm ngưỡng những cái đẹp nữa. Dĩ nhiên, cái đẹp vẫn c̣n đó nhưng ḷng y đă khô héo v́ thành kiến, và xu hướng biệt lập. Thay v́ nh́n sự vật như một thực tại, y lại nh́n nó qua một h́nh thức sưu tập, chiếm hữu biến nó thành một đồ vật.
Người nghệ sĩ chân chính chỉ biết sáng tạo, chúng ta chỉ biết thưởng thức. Chúng ta đọc sách, nghe nhạc, ngắm các tác phẩm nghệ thuật nhưng chúng ta không hề có cái rung động sâu xa của người sáng tạo. Muốn ca hát ta cần có một bản nhạc, nhưng v́ không có bản nhạc tuyệt diệu, chúng ta đâm ra theo đuổi ca sĩ. Thiếu sự trung gian này, ta thấy mất mát.
Trước một vẻ đẹp, ta lại có ư so sánh nó với một bức tranh; trước một âm thanh thiên nhiên ta lại chỉ tưởng tượng đến một bản nhạc nào đó. Ta chỉ c̣n biêt rung động qua sự rung động của kẻ khác. Đó không phải là sáng tạo.
Giáo sư Mortimer lắc đầu :
- Muốn sáng tạo, ta cần một tài năng, thiên tư chứ đâu phải ai cũng có thể sáng tạo, đâu phải ai cũng có tài…
Harishchandra lắc đầu :
- Không phải thế, ai cũng có thể sáng tạo mà không cần tài năng đặc biệt, v́ sự sáng tạo là trạng thái tuyệt vời của nghệ thuật. Không bị ảnh hưởng của bản ngă. Sáng tạo không có nghĩa là soạn nhạc, làm thơ, vẽ tranh, nhưng là một trạng thái mà trong đó Sự Thật có thể biểu hiện. Sự Thật chỉ có thể biểu hiện khi tư tưởng ngưng đọng lại.
Và tư tưởng chỉ ngưng đọng lại khi bản ngă vắng mặt. Khi tâm hồn hoàn toàn tĩnh lặng, không bị thôi thúc bởi dục vọng, khả năng sáng tạo sẽ tự biểu lộ. Khi “cái ta” không c̣n nữa, th́ tất cả là một sự hợp nhất thiêng liêng. Cái đẹp có thể được diễn tả trong một bài thơ, bản nhạc, nụ cười hay trong sự im lặng.
Phần lớn con người không có khuynh hướng yên lặng. Chúng ta không có thời giờ quan sát đám mây trời, buổi hoàng hôn, một ngọn núi hùng vĩ, một bông hoa hé nở ,v́ đầu óc chúng ta quá bận rộn, quay cuồng. Mắt ta nh́n cảnh nhưng ḷng ta không rung động chút nào, v́ c̣n mải mê theo đuổi những ảo ảnh.
Đôi khi ta cũng có cảm giác rung động khi nghe một bản nhạc hay, nhưng nếu ta cứ nghe đi, nghe lại bản nhạc đó để t́m lại cảm giác ban đầu th́ ta đă vô t́nh giết chết sự sáng tạo. Người nghệ sĩ chân chính là người mở rộng tấm ḷng để cảm hứng đến một cách tự nhiên, là người nh́n thấy Chân, Thiện, Mỹ ở khắp tất cả mọi nơi, chứ không phải qua khả năng hồi tưởng hoặc qua một chất kích thích.
Người nghệ sĩ chân chính sáng tạo v́ ḷng yêu cái đẹp, chứ không phải v́ tác phẩm sẽ đem lại cho y tên tuổi, tiền bạc, địa vị. Làm thế là đồng hoá cá nhân ḿnh vào đối tượng. Bất cứ ai biết rung động trước cái đẹp đều là nghệ sĩ, đều là người sáng tạo v́ cái cảm giác chân thật, tuyệt vời đó chính là một sự “giác ngộ”, một sự hợp nhất. Cái cảm giác đó không thể tự tạo hay t́m được, mả nó đến và đi một cách tự nhiên…
- Phải chăng ông đă có kinh nghiệm đó ?
- Trong một buổi tham thiền, tôi ư thức được điều này, và từ đó tôi nh́n thấy cái đẹp ở bất cứ mọi nơi. Tôi sống trong tâm thức này và có thể sáng tạo mănh liệt qua bất cứ một phương diện hay h́nh thức nào… âm nhạc, hội hoạ, thơ phú, v…v….
- Ông có thể cho chúng tôi nghe một bài nhạc không ?
Harishchandra mỉm cười, rút trong áo ra một cây sáo trúc rất dài, y đưa sáo lên miệng nhưng rất lâu không một âm thanh nào phát ra. Giáo sư Mortimer sốt ruột :
- Chúng tôi không nghe thấy ǵ cả, ông có thổi sáo hay không đó ?
Đạo sĩ ung dung :
- Các ông chưa biết thưởng thức âm nhạc v́ ḷng các ông c̣n đầy thành kiến, hăy im lặng v́ âm thanh của tôi là sự b́nh an…
Giáo sư Mortimer toan căi, nhưng đạo sĩ đă đưa một ngón tay lên miệng làm hiệu để ông im lặng. Bất chợt giáo sư Mortimer rùng ḿnh, một âm thanh kỳ lạ Ở đâu bỗng phát ra.
Một cảm giác b́nh an từ từ thấm nhẹ trong cơ thể và ông thấy ḿnh đắm ch́m trong một niềm hoan lạc khó tả, trong một thế giới lạ lùng của âm thanh. Âm thanh thật chậm, thật êm, nhỏ như tiếng gió th́ thào qua các ngọn cây, như tiếng nước róc rách qua khe suối. Thời gian như ngưng đọng lại.
Khi giáo sư Mortimer giật ḿnh tỉnh lại, th́ âm thanh đă chấm dứt từ lâu. Đạo sĩ vẫn ngồi yên khẻ mỉm cười, cây sáo trúc đặt trước mặt. Toàn thể phái đoàn ngây ngô nh́n nhau không nói nên lời. Giáo sư Mortimer lắc đầu thắc mắc :
- Âm thanh ǵ kỳ vậy ? Liệu ông có thể giải thích được không ?
Đạo sĩ mỉm cười :
- Các ông nên biết, con người có nhiều thể bao quanh xác thân như thể phách, thể vía, thể trí…Các thể này được cấu tạo bằng những nguyên tử rất nhẹ, rất thanh gần như vô h́nh. Âm nhạc tự nó đă có các rung động cùng nhịp với sự rung động của các thể, nên ảnh hưởng rất nhiều đến con người.
Âm thanh vừa qua căn bản trên “phần tư âm” , có tác động lên thể trí các ông. Các loại âm thanh dựa trên “phần ba âm” tác động lên thể vía, và “phân nửa âm” tác động lên thể xác. Điều này cũng dễ hiểu thôi, v́ “phần tư âm” thanh hơn nên ảnh hưởng đến các thể nhẹ hơn. Con người chỉ biết tác động của âm nhạc ở cơi vật chất nhưng không hiểu ảnh hưởng của chúng ở các cơi trên.
Âm nhạc lưu một dấu vết trên thân thể con người, và trực tiếp ảnh hưởng đến tính t́nh, hành động. Điều này có thể ví như khi ta ném một ḥn đá xuống ao. Khi ḥn đá ch́m nhưng làn sóng vẫn gợn, và lan rộng ra.
Một cái lá nổi trên mặt nước chắc chắn sẽ chịu nhiều ảnh hưởng. Hậu quả của âm nhạc c̣n mạnh hơn như vậy. Do đó, việc chọn nhạc để nghe rất quan trọng. Kinh Veda đă nói, “vũ trụ tạo lập do sự phối hợp các âm thanh”. Thánh kinh cũng ghi nhận, “huyền âm xuất hiện trước nhất, và huyền âm ở với thượng đế, huyền âm là thượng đế.”
Phái đoàn nh́n nhau, một lần nữa tu sĩ Ấn giáo đă giải thích một đề tài mới lạ và trích dẫn Thánh kinh, quyển sách không xa lạ với người Âu.
Nhờ âm thanh mà các sinh vật thông cảm với nhau. Quyền năng này rất đơn giản ở loại thú cầm và dân dần trở nên phức tạp ở loài người. Từ ngôn ngữ đến tiếng hát thô sơ chỉ có vài bước và bước này tạo nên âm nhạc. Âm nhạc là một công thức tế nhị, kín đáo để truyền thông nhưng có một tác dụng cực mạnh, có thể làm thay đổi quốc gia, xă hội, truyền thống.
Nó c̣n mạnh mẽ hơn các giáo điều, triết lư v́ nó ảnh hưởng đến các thể vô h́nh. Con người chỉ hiểu rằng khi nghe nhạc buồn lâu ngày, ta sẽ trở nên u sầu. Khi nghe nhạc vui ḷng ta thấy phấn khởi. Thật sự ḷng ta chỉ phản ảnh một cách vô thức những đổi thay trong các thể.
Từ ngàn xưa, âm nhạc đă giữ một địa vị quan trọng và ảnh hưởng rất lớn từ vua chúa đến thứ dân. Các ông không thấy thời đại nào, âm nhạc càng thay đổi, biến chuyển nhiều th́ thuần phong, mỹ tục càng suy giảm, và xă hội càng đảo lộn hay sao ? Trái lại khi âm nhạc bị hạn chế th́ xă hội đâm ra bảo thủ.
Các ông cho rằng âm nhạc là sản phẩm văn hoá, tiêu biểu cho từng thời kỳ. Điều này không đúng lắm v́ lịch sử cho thấy mỗi khi âm nhạc thay đổi là chính trị, văn hoá thay đổi theo sau. Âm nhạc có tính cách xây dựng cũng như huỷ hoại, chỉ có các âm thanh tinh vi do sự sáng tạo chân thành của ḷng vô ngă mới đưa ta trở về quê hương của linh hồn.
Muốn sáng tạo các loại nhạc này con người cần phải để cho Chân Ngă sáng chói, cần trau dồi cho tâm hồn tĩnh lặng để hoà đồng với vũ trụ. V́ âm thanh của vũ trụ lúc nào cũng vang lừng cho những người thức tỉnh, người biết thưởng thúuc, biết yêu cái đẹp, biết nghe những huyền âm cao cả trong yên tĩnh vô biên.
Hăy yên lặng, các ông sẽ học hỏi nhiều điều mới lạ. Hăy cố gắng nh́n mọi vật như một thực tại, các ông sẽ sáng tạo và khi sống trong tâm thức sáng tạo, các ông đều là những nghệ sĩ, những người biết yêu cái đẹp, biết rung động với Chân, Thiện, Mỹ.
Bác sĩ Bandyo, cựu giám đốc bệnh viện Calcutta, một giáo sư đại học nổi tiếng về khoa giải phẩu. Ông là một bác học Ấn độ đă được đề nghị trao giải thưởng Nobel về y học. Sau một biến cố, ông từ chức, lui về ẩn cư tại một làng nhỏ gần Rishikesh để săn sóc sức khoẻ cho dân chúng tại đây. Ông là người mà thương gia Keysmakers ca tụng và hết sức giới thiệu, nên phái đoàn t́m đến gặp.
Sau vài câu chuyện xă giao, giáo sư Mortimer lên tiếng :
- Chúng tôi nghe nói ông đă từ chức trong trường hợp hết sức đặc biệt. Thương gia Keysmakers dặn chúng tôi nên hỏi ông về việc này. Xin ông vui ḷng cho biết lư do.
Bác sĩ Bandyo im lặng một lúc và trả lời :
- Đây là một câu chuyện đáng lư không bao giờ tôi nói cho ai biết, nhưng v́ có lời giới thiệu của Keysmakers, nên tôi sẵn sàng. Như các ông biết, tôi là một khoa học gia nổi tiếng, trọn đời hiến dâng cho khoa học.
Tôi không biết ǵ về Yoga cũng như không hề tin tưởng các sự kiện vô h́nh, huyền bí, mà chỉ tin những ǵ khoa học có thể chứng minh một cách rơ ràng thôi. Là một bác sĩ chuyên nghiên cứu bệnh tật miền nhiệt đới, tôi có thói quen là rất thích nghiên cứu các chứng bệnh lạ lùng, khó chữa. Tôi đă điều trị hơn 100 trường hợp lạ lùng mà bác sĩ khác đă bó tay.
Tôi ghi nhận rất kỹ triệu chứng bệnh lư cũng như phương pháp chữa trị và viết vài tài liệu y học để giảng dạy trong các trường y khoa thế giới . Tôi đă nhiều lần đi diễn thuyết về bệnh miền nhiệt đới, và được đề nghị trao giải thưởng Nobel. Dĩ nhiên đó là một vinh dự lớn cho cá nhân tôi và xứ Ấn độ.
Một hôm, người ta đưa vào bệnh viện một cô bé chừng mười ba, mười bốn tuổi ǵ đó. Cô bé mắc một chứng bệnh hết sức lạ lùng, chưa từng nghe nói đến. Tôi rất thích thú, dành trọn thời gian nghiên cứu căn bệnh này. Một hội đồng Y khoa gồm các bác sĩ danh tiếng nhất được thành lập để nghiên cứu, suốt mấy tháng liền, chúng tôi ra công chữa trị, nhưng bệnh nhân vẫn không thuyên giảm.
Cuối cùng th́ mọi người đành bótaỵ Tôi tuyệt vọng ngồi cạnh bệnh nhân, chờ em bé trút hơi thở cuối cùng. Chưa bao giờ tôi thấy ḿnh bất lực trước sự sống chết vô thường như vậy. Bất chợt trong giây phút đó, tôi bỗng ư thức một điều lạ lùng là sự hiện diện của một bầu không khí tươi mát và êm ái không thể tả.
Khắp pḥng bỗng rực rỡ một màu sắc chói sáng và tôi thấy một người đàn bà hiện ra ngay bên cạnh giường cô bé. Thân thể ngài sáng chói hào quang như ḍng nước lấp lánh dưới ánh mặt trời. Trong giây phút đó, tôi bỗng nhận thức ra ngài là đức Mẹ thế gian. Ngài mang nhiều danh hiệu khác nhau như đức mẹ Maria của Thiên chúa giáo, đức Quán Thế Âm Bồ Tát của Phật giáo, đức Avalokiteshvara của Ấn giáo.
Ngài thuộc ngôi hai của thượng đế và biểu hiệu cho ḷng Từ bi, bác ái, luôn luôn đáp lại những lời cầu sinh của chúng sanh. Trong giây phút, ḷng tôi bỗng hoàn toàn thay đổi. Tôi quỳ sụp xuống đất mặc dù suốt đời tôi chưa bao giờ biết cầu nguyện là ǵ. Tôi cầu xin với tất cả ḷng thành kính, xin Mẹ cứu chữa cho bệnh nhân. Tôi phát nguyện trọn đời tôn vinh hoạt động của Mẹ và theo ngài vĩnh viễn.
Bác sĩ Bandyo im lặng như ôn lại quá khứ. Giáo sư Mortimer sốt ruột :
- Rồi sao nữa, cô bé đó ra sao ?
- Các bạn mến, c̣n sao nữa, khi đức Mẹ hành động th́ có bệnh ǵ mà không khỏi. Ngày hôm sau, cả bệnh viện xôn xao v́ tôi đă chữa khỏi bệnh cho cô bé. Tất cả bạn hữu xúm vào trách tôi đă t́m ra cách chữa, nhưng dấu kỹ, chờ mọi người bó tay rồi mới trổ tài.
Trường Y khoa yêu cầu tôi công bố phương pháp chữa trị, và đ̣i đặt tên tôi vào căn bệnh đó. Họ tin rằng với phát minh này, chắc chắn giải Nobel sẽ về tay tôi. Các công ty thuốc cũng ồn ào đ̣i tôi công bố loại thần dược. Chẳng những công ty xứ Ấn, mà ngay các công ty ngoại quốc cũng nhất định đ̣i mua trọn bản quyền.
Dĩ nhiên tôi không thể trả lời và dù có nói cũng không ai tin. Hội đồng Y khoa cực kỳ giận dữ, tin rằng tôi dấu nghề, các bạn thân cũng nhất định chất vấn kỳ được phương pháp chữa trị, và kịch liệt công kích thái độ bất hợp tác của tôi. Bộ trưởng Y tế tiếp xúc với tôi, và cho biết có mười bác sĩ khắp thế giới được đề nghị lănh giải Nobel.
Nhưng chỉ một người trúng giải, nếu phát minh của tôi được công bố th́ chắc chắn tôi sẽ lănh giải này. Tôi trả lời rằng chính đức Mẹ hiện ra, và chữa cho bệnh nhân. Tất cả đều cho rằng tôi điên. Sau cùng, giải Nobel năm đó được trao tặng cho một bác sĩ quốc gia khác.
Hội đồng Y khoa Ấn độ vô cùng tức giận đ̣i trục xuất tôi. Các bạn đồng nghiệp cũng xa lánh và báo chí xúm vào chỉ trích tôi như một “thầy phù thuỷ”. Các ông thử tưởng tượng, đang là một bác sĩ danh giá nhất xứ, bỗng trở nên một “lang băm hạ cấp” ? Lúc đó tôi hiểu thế nào là vô thường.
Tôi không biết phải làm ǵ hơn là cầu nguyện đức Mẹ, giúp cho tôi đủ can đảm để chịu đựng sự bất hạnh này. Tất cả mọi người đều nguyền rủa, chế diễu, chỉ có một người duy nhất tin ở tôi , đó là thương gia Keysmakers. Ông này dùng thế lực bênh vực cho tôi, áp lực Hội đồng Y khoa phải phục hồi danh dự cho một bác sĩ bị vu cáo oan ức.
Nhờ ông tung tiền mua chuộc báo chí nên dư luận lắng dịu dần và rồi người ta không c̣n chú ư đến tôi nữa. Trong suốt thời gian khủng hoảng, tôi tin rằng sự kiện này ắt phải có lư do, nên hết ḷng cầu nguyện đức Mẹ. Trong một buổi cầu nguyện, câu trả lời đă đến với tôi qua một linh ảnh.
Trong một tiền kiếp xa xôi, tôi là một y sĩ rất có tài nhưng tôi đă phủ nhận các quyền năng huyền bí và chê bai những kẻ có đức tin hay cầu nguyện đức Mẹ, đó là hậu quả mà tôi phải trả ngày nay… Kể từ hôm nh́n thấy đức Mẹ, một sự thay đổi lớn đă diễn ra trong tâm hồn tôi. Từ nhỏ tôi không hề biết đến tôn giáo.
Tôi hấp thụ nền giáo dục Tây phương nên tin tưởng tuyệt đối ở khoa học. Sự chứng kiến phép lạ thay đổi tất cả, như người mù bỗng sáng mắt, tâm hồn tôi hoàn toàn khác trước, tôi thấy thanh thản vô cùng và đủ sức chịu đựng sự chế diễu của mọi người.
Tôi dành trọn thời giờ để cầu nguyện và phát nguyện đời đời, kiếp kiếp theo chân đức Mẹ, cứu giúp tất cả chúng sanh . Một hôm trong lúc cầu nguyện, ngài bỗng hiện ra mỉm cười, và từ đó tôi thấy ḿnh ngụp lặn trong một thế giới mới lạ.
Tôi ư thức được các điều mà từ trước không bao giờ nghĩ đến, tôi chứng kiến rơ ràng các cơi giới khác cũng như sự hoạt động, tiến hoá không ngừng của muôn loài. Nói một cách giản dị hơn, khả năng Thần nhăn của tôi bỗng khai mở. Từ đó, tôi quan sát, học hỏi các cơi giới của Thiên thần.
Diễn tả cơi giới vô h́nh bằng lời lẽ thông thường, không thêm bớt là điều rất khó v́ lời nói chỉ có thể diễn tả những ǵ hữu h́nh. Diễn tả những điều không thể diễn tả, dĩ nhiên rất vụng về, nhưng bác sĩ Bandyo đă lưu loát, hoạt bát diễn tả thế giới này như một sự kiện khoa học và hiển nhiên.
Bác sĩ Bandyo nh́n toàn thể mọi người, rồi thản nhiên :
- Có lẽ các bạn không tin tưởng lắm, điều này không quan trọng. Tin hay không là quyền của các bạn. Tôi chỉ muốn chia sẽ với các bạn kinh nghiệm tâm linh này thôi. Nhờ khai mở Thần nhăn, tôi biết chung quanh chúng ta có một thế giới vô h́nh, rộng lớn và có những sinh vật khác sinh sống.
Sở dĩ tôi gọi là vô h́nh v́ mắt thường không thể nh́n thấy được, nhưng một ngày nào đó, khoa học sẽ chứng minh được thế giới này. Các sinh vật vô h́nh thường được chúng ta gọi bằng danh từ như Ma, Quỷ, Tinh linh (entities), v…v… V́ không có một kiến thức rơ rệt về các sinh vật này, chúng ta đă gán ghép cho chúng nhiều điều không đúng.
Thật ra, các sinh vật này cũng có thứ xấu, thứ tốt, cũng như loài người vậy. Một trong các sinh vật này hợp tác chặt chẽ với đức Mẹ trong các công việc của ngài. Danh từ đứng đắn nhất có lẽ là Thiên thần (Deva). Có nhiều loại Thiên thần, mỗi loại phụ trách một công việc riêng. V́ lư do nghề nghiệp, tôi thường tiếp xúc với các Thiên thần chăm lo sức khoẻ.
Tôi xin thuật lại thế giới này cho các bạn… Các thiên thần lo về sức khoẻ thường liên lạc chặt chẽ với những người có trách nhiệm trong việc chăm sóc, chữa bệnh. Điển h́nh là các bác sĩ, ư tá. Một y sĩ có lương tâm chức nghiệp, làm việc để giúp đỡ người khác, luôn luôn được một vị thiên thần hộ mạng.
Vị này thường theo dơi, bao trùm chung quanh y sĩ bằng một hào quang sáng rơ và tác động vào trực giác ông này khi điều trị bệnh nhân. Vị thiên thần trấn tĩnh y sĩ và không ngớt phóng ra các hào quang mịn màng như tơ để chuyển sinh khí đến người bệnh.
Công việc của vị thiên thần h́nh như dung hoà, pha trộn các sinh lực vô h́nh trong cơi siêu nhiên và sử dụng tư tưởng biến nó thành các sợi tơ ánh sáng tuôn trào vào bệnh nhân. Một bác sĩ tận tâm sẽ có các rung động cộng hưởng với ảnh hưởng này một cách vô h́nh, tự nhiên thu hút các từ điện tinh vi này vào ḿnh, để nó toát ra ở mười đầu ngón tay, và có thể hàn gắn vết thương một cách dễ dàng, mầu nhiệm.
Người ta không thể giải thích tại sao một bác sĩ này lại giỏi hơn một bác sĩ kia, mặc dù họ cùng hấp thụ một nền giáo dục như nhau ? Và một bác sĩ giỏi, ta gọi là bác sĩ “mát tay”, nhưng thật ra đó là do tư tưởng vị y sĩ thanh cao, rung động với các luồng thần lực vũ trụ và trở thành một trung tâm vận hà các sinh lực này đến bệnh nhân.
Mặc dù y học tự hào đă chữa được nhiều thứ bệnh, nhưng thực ra trên địa hạt siêu h́nh c̣n nhiều vấn đề mà y học phải bó taỵ Một bác sĩ có thể ví như một công cụ của thượng đế cứu giúp chúng sinh; nhưng nếu viên y sĩ không ư thức điều này mà làm các hành động bất nhân th́ y sẽ chịu các hậu quả rất nặng.
Lẽ dĩ nhiên, ân phước dồi dào không thể đến với ông, và v́ thế các ảnh hưởng bất hảo sẽ kéo đến ảnh hưởng đến đời sống, chức nghiệp, khả năng của vị này. Nhờ có Thần nhăn, tôi thấy các bác sĩ chuyên phá thai chẳng hạn, lúc nào quanh ông ta cũng có các oan hồn bu kín. Một bác sĩ bất cẩn cũng thế, ông đă lạm dụng quyền năng thượng đế ban cho, làm thương tổn đến bệnh nhân th́ chắc chắn sẽ gặp những điều vô cùng bất hạnh.
Từ ngàn xưa, người ta đă biết điều này, nên mới đặt ra lời thề của Hippocrates, đến nay không mấy ai để ư đến chi tiết này. Họ hành nghề như tất cả những nghề nghiệp thông thường khác, không ư thức chức vụ thiêng liêng của ḿnh. Là một bác sĩ chuyên về giải phẩu, tôi có thể lấy kinh nghiệm của ḿnh ra nói : trong cuộc giải phẩu, mạng sống của bệnh nhân hoàn toàn nằm trong tay viên y sĩ, và các thiên thần hộ mạng.
Một sơ ư, bất cẩn cũng có thể gây những hậu quả đáng tiếc. Do đó, việc hành nghề y sĩ là một bổn phận, chức vụ thiêng liêng, đ̣i hỏi một lương tâm, một ḷng bác ái và hy sinh lớn lao chứ không thể coi như một nghề nghiệp kiếm sống thông thường.
- Xin ông nói thêm về thế giới thiên thần, ông đă thấy những ǵ ?
- V́ nghề nghiệp, tôi thường quan sát các hoạt động của thiên thần trong bệnh viện, thí dụ như pḥng hộ sinh, nơi các sản phụ chờ giây phút lâm bồn. Nơi đây có một không khí b́nh an, mát mẻ do các thiên thần tạo ra để chào đón linh hồn nhập thế. Đối với cơi vô h́nh, giờ phút này có tính cách vô cùng trang nghiêm, như một cuộc lễ.
Vị thiên thần bao trùm y sĩ, y tá trong hào quang và không ngớt di chuyển sinh khí đến người mẹ để giúp bà trong lúc đau đớn. Mọi nghi thức diễn ra thật chính xác, rơ ràng cho đến khi đứa bé lọt ḷng. Khi linh hồn tái sinh, nó có cảm giác bỡ ngỡ như người mê mới tỉnh, linh hồn thấy ngộp thở, tối tăm, nặng nề.
Nó cần được trấn an nên khi tiếng khóc chào đời vừa phát ra th́ trong cơi vô h́nh, một ảnh hưởng thanh thoát cũng rung động vào tâm thức đứa bé khiến nó b́nh tĩnh hơn. Vị thiên thần trông coi buổi lễ có một khuôn mặt uy nghi, tâm thức vị này luôn luôn liên kết chặt chẽ với trái tim đức Mẹ.
Một niềm ưu ái đối với sản phụ tỏa ra từ khuôn mặt của vị thiên thần, và chuyển cho sản phụ dưới h́nh thức một ân huệ để tán dương chức vụ sinh sản cao cả của bà. Lúc đó, tâm thức sản phụ được nâng lên cao hào với ân phước đức Mẹ …
Bác sĩ Bandyo ngưng nói một lúc, rồi thong thả tiếp :
- Các ông đều thuộc phái nam, nên không thể hiểu tâm trạng người mẹ lúc sinh con. Dù hoàn cảnh có khó khăn, đau đớn thế nào, khi vừa nghe con khóc, tất cả người mẹ nào cũng thấy sung sướng vô biên v́ khi đó tâm thức họ đang hoà hợp với ân phước đức Mẹ.
Trong tim họ đang phản chiếu sự hiện diện linh động của ngài, chói ngời ḷng bác ái, thương yêu vô tả. Vào giờ phút đó, chính vị thiên thần trông coi buổi lễ cũng nhận được một luồng hào quang. Trong ánh sáng đó, người ta thấy một cái ǵ vinh quang, tươi đẹp, một nguồn an lạc tuyệt vời, tuôn trào đến sản phụ và hài nhi.
Khi đó vị thiên thần hộ mạng bắt đầu làm công việc giúp đỡ đứa bé, giúp nó điều hoà sự sống đang bị xáo trộn. Ngài phát ra các từ điện bao quanh đứa nhỏ, giống như các bọt xà pḥng để bảo vệ nó chống lại sự ồn ào bên ngoài. Nhờ đó, đứa bé sẽ thiếp đi trong giây lát, lúc đó vị thiên thần chú tâm điều hoà tâm thức đứa nhỏ để nó thích hợp với hoàn cảnh mới.
Bác sĩ Bandyo im lặng như đắm ch́m vào một tư tưởng nào đó, sau cùng ông nói :
- Đối với một đứa bé vừa ra đời, khoa học chỉ lo cho chúng ăn uống, dinh dưỡng đầy đủ mà thôi, chứ không hiểu chúng cần một yếu tố vô cùng quan trọng đó là t́nh thương. Khi thể xác được chăm sóc thế nào th́ các thể khác cũng phải được chăm lo y như vậy; và món ăn cần thiết của các thể này là t́nh thương.
Thiếu t́nh thương, đứa trẻ khó ḷng sống sót v́ nhu cầu t́nh cảm đôi lúc c̣n quan trọng hơn các nhu cầu khác. T́nh thương là một yếu tố dinh dưỡng cần thiết để trẻ em nẩy nở tâm lư, tinh thần và chính v́ cha mẹ không lo đủ nhu cầu này, mà các đứa trẻ chậm lớn, thiếu phát triển.
Các bệnh tâm lư, thần kinh đều trực tiếp phát nguồn từ đây. Lư do này cũng giản dị thôi, đứa bé h́nh dung vũ trụ theo lối cư xử của cha mẹ đối với nó. Tùy theo nó được yêu hay ghét mà cuộc đời hiện ra đáng ghét hay đáng yêu. Từ lúc sơ sinh, nó nhận được tiềm lực yêu thương từ đức Mẹ, và nếu được yêu thương, năng lực này sẽ phát động mạnh mẽ và nó sẽ trở thành một trung tâm ban răi t́nh thương.
Trái lại, nếu nó bị hất hủi, nó sẽ trở nên hung hăn v́ mầm yêu thương đă bị dập tắt rồi. Bổn phận làm cha mẹ là một điều vô cùng thiêng liêng, một trách nhiệm vô cùng quan trọng hơn là việc chỉ lo cho nó đủ ăn, đủ mặc. T́nh thương là một năng lực sáng tạo khiến người thương và kẻ được thương trở nên phong phú.
Trên thế gian này, t́nh thương là một thứ mà ai cũng có thể cho mà không sợ phung phí. Một t́nh thương chân thật có giá trị giao hoà, không ǵ có thể thay thế được. Nó không bao giờ gây hư hại, mà chỉ tạo ảnh hưởng tốt lành. T́nh thương là một sinh lực có thể chữa trị tất cả mọi bệnh tật và đây là điều khoa học cần chú trọng đến.
Bác sĩ Bandyo dẫn chứng :
- Sách “Journal of Medecine” có đề cập đến cuộc nghiên cứu của bác sĩ René Spitz, thuộc đại học New York. Hai nhóm trẻ sơ sinh được nuôi dưỡng khác nhau. Nhóm thứ nhất được nuôi dưỡng bởi chính cha mẹ chúng; nhóm thứ hai được giao cho các cô y tá.
Tất cả đều được nuôi nấng, ăn uống như nhau chỉ khác ở sự yêu thương. Chỉ vài tháng, nhóm trẻ thứ nhất phát triển mạnh mẽ, lên cân, khoẻ mạnh, trong khi nhóm thứ hai chậm ăn, chậm lớn và đau ốm lung tung. Bác sĩ Spitz kết luận rằng trẻ con cần t́nh thương để có thể phát triển b́nh thường.
Khoa học thực nghiệm đă chứng minh như thế, nhưng bậc làm cha mẹ đâu mấy ai dành nhiều thời giờ cho các con ? Họ chỉ lo cho chúng ăn mặc đầy đủ là cảm thấy làm tṛn bổn phận rồi. Cũng v́ thế, xă hội Âu Mỹ tuy vật chất đầy đủ, nền giáo dục rất cao mà lại phát sinh đủ các hiện tượng tội ác, thần kinh, vi phạm luật pháp một cách kỳ dị khác các xứ chậm tiến.
Tại sao những nhà thông thái không đặt câu hỏi, phải chăng bậc cha mẹ đă không dành đủ thời giờ cho con trẻ để chúng phát triển b́nh thường? Phái đoàn im lặng. Họ thấy bác sĩ Bandyo quả rất có lư trong vấn đề này. Giáo sư Mortimer lên tiếng :
- Hăy trở lại vấn đề các thiên thần, họ c̣n ảnh hưởng ǵ đến đời sống con người nữa không ?
- Các thiên thần ít khi nào can thiệp vào đời sống con người. Thật ra, họ vô cùng bận rộn với các sinh hoạt riêng biệt. Thế giới của họ cấu tạo bằng các nguyên tử thanh, nhẹ, có sức rung động rất nhanh, nên họ không thích dính dáng vào thế giới hữu h́nh, vốn có những rung động thô kệch. Điều này có thể ví như các ông đang sống ở một nơi mát mẻ, sạch sẽ, không lư nào lại chui vào chỗ hôi hám, nóng bức làm ǵ.
Giáo sư Allen ṭ ṃ :
- Ông có thể sử dụng khả năng thần nhăn vào các việc khác như thế giới bên kia cửa tử được không ?
Bác sĩ Bandyo mỉm cười :
- Bạn mến, trước hết tôi xin xác định rằng chết không phải là hết, mà chỉ là một giai đoạn di chuyển từ kiếp sống này sang kiếp sống khác. Con người chỉ rời bỏ thể xác này thôi. Sự chết không có ǵ đáng sợ như người ta vẫn nghĩ.
- Như thế người chết có thấy chúng ta không ?
- Họ nh́n thấy chúng ta qua thể vía mà thôi. Do đó, họ biết được t́nh cảm hoặc ư nghĩ, cảm xúc của ta mặc dù họ không c̣n nghe được lời nói, âm thanh cơi trần nữa.
- Như vậy họ vẫn ở gần người sống ?
- Lúc mới từ trần, c̣n quyến luyến, họ vẫn ở nguyên chốn cũ, gần nhà cửa, gia đ́nh, những người thân. Theo thời gian, họ ư thức được cơi giới mới rồi siêu thoát, nghĩa là hoà nhập với cơi giới mới, không quanh quẩn ở cơi trần nữa. Sự quyến luyến rất có hại cho người chết, nhất là những người chết bất đắc kỳ tử. Họ c̣n nhiều dục vọng, ham muốn, nên cứ quanh quẩn ở cơi trần, không chịu đi đâu hết.
- Số phận trẻ em khi chết ra sao ?
- Chúng ít ham muốn, dục vọng, nên thảnh thơi, tự tại hơn. Lúc đầu chúng vẫn quanh quẩn, nô đùa quanh cha mẹ, và không ư thức sự chết của ḿnh. Chúng tái sinh rất mau lẹ và thường hay trở lại gia đ́nh cũ v́ các nhân duyên từ trước. Thí dụ như một bà mẹ xẩy thai do sự bất cẩn của bác sĩ chẳng hạn.
Đứa bé vẫn tiếp tục quanh quẩn bên mẹ chúng và sẽ đầu thai trở lại khi có dịp. Trong trường hợp phá thai lại khác, đứa bé không hiểu tại sao mẹ nó lại ghét chúng và làm hại nó như thế ? Nó quanh quẩn gần đó một cách đáng thương và t́m cách hỏi mẹ chúng nhưng dĩ nhiên không t́m được câu trả lời.
- Người Á châu thường tin rằng các vong linh thân nhân có thể giúp đỡ người sống và có các quyền năng đặc biệt, v́ vậy, có tục lệ thờ cúng tổ tiên. Theo ông th́ điều này ra sao ?
Bác sĩ Bandyo cười lớn :
- Theo sự hiểu biết của tôi, con người khi sống ra sao th́ chết cũng thế thôi. Không có ǵ thay đổi hết! Họ không thông minh hơn, hiểu biết hơn. Hơn nữa, âm dương cách trở, họ khó có thể giúp ǵ cho người cơi trần. Dĩ nhiên, họ rất muốn tiếp xúc với thân nhân c̣n sống, nhưng người sống đâu ư thức ǵ đến sự hiện diện của họ.
Đó cũng là lư do người chết rất đau khổ. Hơn nữa, người chết đọc được tư tưởng người sống qua thể vía và đôi lúc biết rơ sự thật c̣n làm họ đau khổ hơn nữa. Thử tưởng tượng cha mẹ đọc được tư tưởng đứa con mừng rỡ khi cha mẹ chết v́ được hưởng gia tài.
Người chồng mừng rỡ v́ vợ chết rồi, từ nay tha hồ tự do, muốn làm ǵ th́ làm. Người chồng thấy vợ mừng chồng chết v́ đă trút được gánh nặng. Các ông nên biết, người đau khổ nhiều, phần lớn là người chết, chứ không phải người sống. Do đó, họ cần được an ủi, chỉ dẫn.
- Nhưng làm sao an ủi họ được ? Ông vừa nói âm dương cách trở kia mà ?
Bác sĩ Bandyo mỉm cười :
- Có nhiều cách giúp đỡ người chết, một cách tiêu cực và một cách tích cực. Đối với thân nhân người chết, họ có thể làm một cách tích cực như giúp cho người chết thấy thoải mái, nhẹ nhàng để họ mau siêu thoát. Việc thứ nhất nên tránh than khóc, kêu gào, để người chết khỏi xúc động, thương tiếc, và quyến luyến, khó rời cơi trần được.
Việc thứ hai là tránh cỗ bàn, mổ gà, làm thịt v́ như thế chỉ kêu gọi các vong linh bất hảo, các cô hồn đói khát kéo đến đầy nhà gây ảnh hưởng xấu đến người chết. Nên cầu nguyện trong suốt 49 ngày liền, v́ đây là lúc người chết đang ở trong trạng thái quan trọng, sự cầu nguyện khiến đầu óc họ trở nên sáng suốt, hiểu biết dễ siêu thoát.
Nên thiêu xác thay v́ chôn cất, để người chết không thấy đau khổ khi nh́n thể xác ḿnh hư thúi, bị ḍi bọ đục khoét. Khi không c̣n lưu luyến thể xác, họ sẽ dễ siêu thoát hơn. Tại Ấn độ, tất cả người chết đều được hỏa táng, đó là phong tục rất tốt, v́ không c̣n các vong hồn quanh quẩn các nghĩa địa nữa. Việc tích cực giúp đỡ thường do các tu sĩ đảm trách.
Họ xuất vía sang cơi chết để an ủi, hướng dẫn vong linh. Tu sĩ đảm nhiệm việc này phải phát nguyện phụng sự hoàn toàn, phải trải qua một thời gian huấn luyện để giữ tâm trí luôn sáng suốt, v́ cơi chết có nhiều cảnh ghê rợn với các sinh vật lạ lùng, một người thiếu kiến thức, hiểu biết, có thể kinh hoàng ghê sợ.
Chỉ khi nào có thể tự chủ hoàn toàn, không bị ảnh hưởng bên ngoài làm giao động, tâm hồn luôn yên tĩnh không lo âu, sợ sệt và có một t́nh thương hoàn toàn rộng răi đến tất cả, không c̣n phân biệt, th́ sự giúp đỡ mới kín đáo, vô tư và có hiệu quả. Các ông nên nhớ, qua cơi này, sinh vật có thể đọc được tư tưởng lẫn nhau nên một lời nói không chân thật, tinh khiết có thể mang đến hậu quả không thể lường được.
- Tại sao ông biết rơ như thế ?
Bác sĩ Bandyo mỉm cười :
- Tại v́ tôi đang được huấn luyện để làm việc này. Sự khai mở thần nhăn giúp tôi thu thập kiến thức về cơi giới vô h́nh. Từ đó, tôi nhận thức sứ mạng đức Mẹ đă giao cho tôi. Tôi đă phát nguyện dành trọn đời để thực hiện thiên ư.
Đó là lư do tôi từ bỏ đời sống quay cuồng của đô thị để đến đây. Ban ngày, tôi là một bác sĩ chăm lo săn sóc những người bệnh. Thời giờ c̣n lại tôi phục vụ đức Mẹ qua các công việc ngài giao phó. Các bạn thân mến, trọn cuộc đời, chưa lúc nào tôi sống thật trọn vẹn như bây giờ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 184 of 1146: Đă gửi: 17 June 2010 lúc 6:02pm | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG
VỊ ĐẠO SĨ CÓ THỂ CHỮA MỌI THỨ BỆNH
Chương Bảy
Ram Gopal Mukundar là một đạo sĩ nổi tiếng có thể chữa trị mọi bệnh tật. Ông thành lập một đạo viện (Ashram) ở ngoại ô Rishikesh và có khá đông môn đệ.
Qua sự giới thiệu của bác sĩ Kavir, ông bằng ḷng tiếp xúc với phái đoàn. Ram Gopal có một thân thể cực kỳ tráng kiện trông như một lực sĩ, bước đi của ông vững chăi và uyển chuyển như một mănh hổ. Giọng nói của ông hùng tráng như một tiếng cồng.
Hàng ngày, ông dành riêng một thời gian để tiếp xúc với bệnh nhân. Ông yêu cầu phái đoàn ngồi đó xem ông trị bệnh. Bệnh nhân gồm đủ hạng người, từ các bậc thượng lưu, quư phái ngồi trên kiệu đến các loại b́nh dân nghèo đói, lê lết.
Họ mang đủ thứ bệnh từ các loại bất trị như ung thư, cùi hủi đến các chứng đau tim, phong thấp, tiểu đường, v..v.. Một bệnh nhân ăn mặc sang trọng, khuôn mặt tái nhợt cho biết y là một phú ông giàu có tại Madras, bị đau tim đă đến thời kỳ trầm trọng. Bác sĩ cho biết nếu lên cơn một lần nữa chắc chắn y không thể sống.
Ram Gopal yên lặng nghe bệnh nhân kể lể rồi cho biết :
- Hơi thở của ông bị đứt quăng nhiều, tôi nghĩ cơn đau tim sẽ tái phát trong một thời gian không lâu nữa.
Bệnh nhân xanh mặt quỳ mọp xin cứu mạng. Ram Gopal thong thả cho biết :
- Ông có thể sống thêm nhiều năm nữa nếu chịu khó điều trị. Chắc hẳn ông đă biết cách trị bệnh của tôi ?
Bệnh nhân im lặng suy nghĩ . Ram Gopal giải thích cho phái đoàn :
- Bệnh tật là kết quả của những ǵ trái với thiên nhiên. Sống thuận theo thiên nhiên không thể có bệnh. Con người bẩm sinh đều khoẻ mạnh, họ mắc bệnh v́ các thói quen, lối sống không hợp tự nhiên, rồi theo thời gian tiêm nhiễm vào cơ thể làm suy nhược.
Khi bệnh mới phát ra, con người ỷ lại vào thuốc men, các phát minh khoa học. Tiếc thay, lối này chỉ có thể tạm thời cầm giữ bệnh tật cho nó không phát lên chứ không trừ tuyệt căn. Y khoa Tây phương chỉ ngăn chận bệnh tật không làm nguy hại đến tính mạng trong một thời gian, rồi sau đó cũng bó tay.
Muốn trừ bệnh hoàn toàn, chỉ có một cách duy nhất là cương quyết trừ tuyệt gốc và người duy nhất có thể chữa được là “chính ḿnh” mà thôi, ngoài ra không có ai khác. Một khi bệnh nhân ư thức được điều này, nhất định theo đuổi cách trị đến cùng th́ hầu như bệnh ǵ cũng có thể chữa khỏi.
Giáo sư Mortimer lên tiếng :
- Xin ông giải thích rơ ràng hơn nữa.
- Cách chữa cũng rất giản dị, việc đầu tiên bệnh nhân phải làm là quyết định xem có theo phương pháp này được không ? Nếu nhất quyết th́ y lập tức từ bỏ tức khắc tất cả gia tài, sự nghiệp, hoàn cảnh gia đ́nh bên ngoài để gia nhập đạo viện cho đến khi hết bệnh.
- Ông muốn nói y phải trở nên một tu sĩ hay sao ?
Ram Gopal bật cười :
- Không phải thế, đây không phải là một đạo viện có tính cách tôn giáo. Tôi không bao giờ bắt buộc ai phải học giáo lư, tin tưởng một số giáo điều, nghi thức hay sùng kính một đấng vô h́nh nào hết. Đạo viện (Ashram) này chỉ có mục đích chữa bệnh. Điều tôi muốn thực hiện là để bệnh nhân phải rời bỏ cái nếp sống cũ, cái hoàn cảnh, nguyên nhân đă khiến y mắc bệnh.
Lo nghĩ, phiền năo, dinh dưỡng không đúng cách là nguyên nhân chính của hầu hết các thứ bệnh. Phải dẹp bỏ, dứt sạch tất cả cho tâm hồn thật thảnh thơi, thoải mái, rồi mới có thể chữa trị được. Đó là điều kiện quan trọng nhất của phương pháp này.
- Nhưng việc ǵ phải từ bỏ tất cả, đi dưỡng bệnh một nơi xa cũng có hiệu quả tương tự vậy.
Ram Gopal bật cười :
- Điều này không thể chữa tận gốc được, hoàn cảnh tuy có khác nhưng đầu óc bệnh nhân vẫn c̣n cố chấp, suy nghĩ, lo lắng th́ làm sao dứt được phiền năo? Chỉ có hoàn toàn dứt bỏ, để đầu óc không c̣n bận tâm chút ǵ nữa, để trở nên con người hoàn toàn mới th́ may ra mới có thể chữa hết bệnh được.
- Từ bỏ gia tài, nhà cửa, gia đ́nh đâu phải dễ dàng, mấy ai đă làm được như thế ? Nói th́ thật giản dị nhưng nó là cả vấn đề…
- Này ông bạn, nếu chết, ông có mang mấy thứ đó đi theo được không ? Ông cứ việc ôm chặt lấy những thứ giả tạo vật chất rồi để đau đớn dầy ṿ và cái chết quanh quẩn ám ảnh chăng ? Trước sau ǵ cũng mất nó, th́ thà bỏ quách đi có hơn không ? Cách chữa này có thể coi như ta đă chết rồi, đă mất tất cả rồi, và đi t́m cái sống trong cái chết.
Nguyên lư của bệnh như sau : con người ch́m đắm trong danh lợi, lo quanh, nghĩ quẩn, tích trữ tài sản mà quên sự vô thường ở đời. Họ chỉ thấy lợi nhỏ mà quên hại lớn. Lo làm giàu vật chất mà quên tu tâm dưỡng tinh thần, v́ thế thân thể suy nhược, tâm trí điên đảo, thần trí bất nhất, lại thêm tửu sắc quá độ, hỉ nộ bất thường, dinh dưỡng coi thường và bệnh tật do đấy mà sinh ra.
Khi bệnh c̣n nhẹ, ta không để ư chữa trị, đến khi nó phát ra đe doa. trực tiếp vào đời sống, ta mới hoảng hốt tin tưởng vào các phát minh khoa học chữa trị. Thuốc men chỉ tạm thời ngăn chận khiến cho bệnh chậm tái phát, kéo dài cuộc sống để ta tiếp tục đắm ch́m trong dục vọng, phiền toái một thời gian nữa. Đến khi thuốc men trở nên vô hiệu, bệnh tái phát thật mạnh, th́ khoa học bó tay, và con người chấp nhận sự phải đến sẽ đến, và coi như đó là số mạng.
Đây là một lầm lẫn rất lớn mà ít ai để ư. Nguyên nhân chính của bệnh là do sự bận rộn với đời sống hàng ngày, nếp sống càng tiện nghi th́ họ lại càng hết sức lao tâm, lao lực để đạt đến cái tiện nghi hơn nữa. Thêm vào ḷng tham muốn chiếm đoạt, tranh đua để thỏa măn dục vọng nhất thời, khiến cơ thể trở nên mất quân b́nh, phá hoại cơ quan thần kinh.
Cơ quan này là đầu mối của mọi thứ bệnh nên theo thời gian, bệnh từ từ ngấm vào tạng phủ khiến con người càng ngày càng lệch lạc, sống nghịch với thiên nhiên, mất đi sự an lạc sẵn có, nói một cách khác, họ mất đi chính ḿnh. Sự xả ly, dứt bỏ tất cả là bước đầu để trở lại cái tinh thần nguyên thuỷ, nó là điều kiện cần thiết để dứt căn bệnh trầm kha của loài người. Có thể đầu óc mới lấy lại sự thăng bằng để họ có thể điều trị…
- Nhưng bệnh tật có nhiều nguyên nhân chứ, ông nghĩ sao về các bệnh do vi trùng gây ra ?
Ram Gopal lắc đầu :
- Trong người khoẻ mạnh, vi trùng xâm nhập thế nào được ? Người sống theo thiên nhiên không thể có bệnh. Vi trùng th́ chỗ nào chả có, nhưng đâu phải ai cũng mắc bệnh như nhau. Nếu vi trùng là nguyên nhân chính th́ tại sao có kẻ mắc bệnh và có người lại không mắc bệnh ? Ngay cả những lúc có bệnh thời khí khiến hàng trăm, hàng ngàn người lăn ra chết; nhưng vẫn có những kẻ sống sót đấy chứ. Tóm lại, thân thể khoẻ mạnh có thể chống mọi thứ bệnh.
Ngay lúc đó bệnh nhân ngửng mặt nói vài câu. Ram Gopal lắc đầu và quay sang phái đoàn cho biết :
- Bệnh nhân này muốn trở về nhà thu xếp công việc khoảng vài tháng đến một năm, rồi sau đó mới đến đây chữa bệnh. Lúc này đang là mùa dệt sợi mà y lại là chủ nhân nhiều hăng dệt. Tôi cho y biết không chịu chữa trị khó ḷng sống qua một tháng nữa.
Giáo sư Allen kêu lên :
- Nhưng nếu bắt từ bỏ tất cả ngay th́ làm sao y có thể thu xếp kịp ?
- Chữa bệnh không phải việc đi chơi. Tôi quan sát thần sắc bệnh nhân rất kỹ và thấy y khó sống lắm rồi. Nếu y mê muội trở về lo thu xếp công việc, th́ đầu óc đă lệch lạc lại càng lo âu thêm, thế nào cũng lên cơn đau tim mà chết. Như các ông thấy điều kiện tiên quyết để chữa bệnh là trị tận gốc và đây là giây phút quyết định sự sống chết.
Chỉ có y mới tự chữa lấy cho ḿnh mà thôi. Con người phải hiểu biết để đoạn tuyệt với quá khứ, không thể có lối chữa trị lưng chừng kéo dài thời gian được. Thật ra khoa học đă làm việc này, kéo dài thêm thời gian rồi bó tay. Đây không phải là lối chữa của tôi.
Bệnh nhân đắn đo suy nghĩ một lúc, y ngập ngừng nói vài câu rồi đứng lên bước vội ra khỏi cửa, không dám nh́n ai. Giây phút quyết định đă trôi qua, Ram Gopal thở dài rồi gọi một bệnh nhân khác vào. Sau buổi khám bệnh, chỉ có một số chấp nhận theo lối chữa lạ lùng này, và được các đệ tử của đạo sĩ đưa vào đạo viện.
Ram Gopal cho phái đoàn biết bệnh nhân chỉ được mang theo một bộ quần áo và tuyệt đối không được tiếp xúc với ai trong thời gian điều trị. Dĩ nhiên, khi hoàn tất việc chữa trị, y có thể rời nơi này theo ư muốn. Một số người sau khi vào đây khong từ bỏ việc đời lại bỏ ra về và số này không phải ít.
Giáo sư Allen thắc mắc :
- Nhưng sau khi vào đây, họ sẽ phải làm ǵ ? Ông chữa trị ra sao ?
- Như các ông đă biết, yếu tố đầu tiên là cương quyết chữa bệnh cho đến khi tuyệt căn mới thôi. Yếu tố này đ̣i hỏi việc xả ly, dứt bỏ tất cả mọi sự. Yếu tố thứ hai là tự ḿnh chữa trị lấy cho ḿnh v́ không ai có thể chữa bệnh cho ai cả. Yếu tố này đ̣i hỏi việc làm chủ các cảm giác của ḿnh để chữa bệnh.
Tại đây, bệnh nhân ăn rất ít, thời gian đầu y chỉ uống nước suối và ăn cơm nhạt thôi. Phương pháp này nhắm việc tẩy uế các chất độc trong cơ thể. Một lư do quan trọng gây nên nhiều chứng bệnh là sự ăn uống bừa băi, không tiết độ. Để giúp cơ thể loại bỏ các độc tố đă nhiễm từ lâu. Bệnh nhân chỉ ăn thật nhạt nghĩa là không một chút gia vị, đường hay muối (ghi chú : người Ấn ăn rất nhiều gia vị và rất mặn).
Mỗi ngày, bệnh nhân chỉ ăn một lần trước buổi trưa và uống nước vài lần thôi. Uống ít nước giúp cho tim đập chậm lại v́ dung lượng nước qua tim sẽ ít đi. Tim và thận được nghỉ ngơi sẽ giúp cơ thể lấy lại quân b́nh mau chóng, đây là hai cơ quan thiết yếu giữ các vai tṛ quan trọng cho việc phục hồi sức khoẻ.
Ăn nhạt khiến gan và dạ dày thải bỏ các độc tố tích tụ trong đó, cứ thế trong khoảng hai tuần lễ là đa số độc tố đă bị khu trục cả. Nếu muốn các ông cứ thử ăn nhạt ít tuần lễ là thấy cơ thể đổi khác ngay. Ngoài việc dưỡng sinh đúng cách, bệnh nhân dành trọn thời giờ tập Yoga, để lấy lại quân b́nh cho cơ quan thần kinh, khối óc.
Tư thế đầu phải tập là cách ngồi cho ngay ngắn, lưng thật thẳng để luồng hỏa hầu di chuyển không gặp khó khăn. Hai tay buông thỏng trên đầu gối và thở thật tự nhiên, không cố gắng thái quá. Trong khi tập tư thế này, không để tâm xao động, lo nghĩ việc ǵ, phải “vô cầu, vô niệm” mới là đúng cách.
Không sử dụng thần chú hay xin xỏ một đấng thần linh nào, mà chỉ cần hết sức tự nhiên, theo thời gian bệnh sẽ từ từ thuyên giảm.
Giáo sư Mortimer thốt lên :
- Chỉ có thế thôi ư ? Như vậy giản dị quá có khó ǵ đâu ?
Ram Gopal thản nhiên :
- Dĩ nhiên, nhưng phải làm thật chuyên cần không gián đoạn trong suốt thời gian tại đây cho đến khi khỏi bệnh.
Mọi người nh́n nhau, họ nghĩ đạo sĩ này phải có một phương pháp ǵ ghê gớm lắm hoặc sử dụng thuốc men ǵ đó để chữa trị, chứ phương pháp ông nói thật tầm thường và có vẻ hoang đường khó tin.
Ram Gopal hiểu ư :
- Khi trở về với chính ḿnh, với con người nguyên thuỷ, hoà hợp với thiên nhiên th́ bệnh tật và sức khoẻ chỉ là những ǵ tương đối, không c̣n tranh chấp nữa. Con người thật của ta vốn sẵn có kia mà, việc ǵ phải g̣ bó, khó khăn mới t́m được. Khi dứt bỏ tất cả, ta trút được một gánh nặng ở tâm hồn.
Khi ăn uống đúng cách, ta loại bỏ yếu tố gây nên bệnh tật, và cách tập Yoga giúp ta lấy lại quân b́nh nguyên thuỷ, trở về với con người thật của ḿnh, như vậy là “tự ḿnh chữa cho ḿnh”, không ỷ lại vào một tha lực hay một yếu tố bên ngoài nào hết.
- Nhưng ngoài ra c̣n phải uống thuốc men ǵ nữa chứ ?
Ram Gopal lắc đầu :
- Phương pháp này không sử dụng thuốc men ǵ cả, đó là một phương pháp hết sức tự nhiên và khoa học. Dĩ nhiên, nếu ông chở đến một người bệnh sắp chết hay một kẻ gẫy chân, gẫy tay th́ tôi không thể chữa như thế được. Nói khác đi, nếu một kẻ mắc bệnh thời khí hay các bệnh thông thường th́ họ đă đi kiếm các bác sĩ chữa trị, chứ việc ǵ phải đến đây ?
Hầu hết các bệnh nhân đến tận rừng hoang núi thẳm này chỉ là những kẻ đă tuyệt vọng hoặc gặp các chứng nan y mà y sĩ đă bó taỵ Các ông nên biết, cơ thể con người có khả năng làm hồi phục rất nhiệm mầu. Sở dỉ cơ thể suy yếu, bệnh hoạn, v́ họ sống không tự nhiên, có thế thôi. Sống tự nhiên không những giúp thể xác khang kiện, mà c̣n mục đích tối hậu là dẹp bỏ cái “phàm ngă” trở về cái “chân ngă” của ḿnh.
Khi từ bỏ được bản ngă thấp hèn th́ ta ung dung, tự tại, thảnh thơi, tiêu diêu cùng trời đất, thiên nhiên, th́ c̣n lo lắng chi nữa ? Trên lư thuyết th́ thật dễ dàng nhưng thực hành lại là cả một vấn đề. Con người quen sống bừa băi, nô lệ dục vọng xác thân quá lâu, đến nổi sinh bệnh, rồi muốn cởi bỏ tất cả đâu có dễ.
Quen ăn ngon, mặc đẹp bây giờ ăn vài nắm cơm nhạt, uống vài gáo nước suối đâu phải ai cũng làm được ngay lập tức. Khốn nổi muốn trừ tận gốc phải uống thuốc đắng và thuốc đắng chính là lối sống tự nhiên này.
- Nhưng đă có bằng chứng ǵ về phương pháp này ? Làm sao biết được nhờ thực hành như trên mà bệnh nhân khỏi bệnh, kéo dài đời sống ?
Ram Gopal không tỏ vẻ giận dữ về câu nói bất kính :
- Tôi có hơn ba ngàn môn đệ, tất cả đều là người mắc bệnh nan y sống tại đây. Đa số đă bị các bệnh viện từ chối, v́ không chữa được nữa. Họ vẫn sống nhiều năm nay, hàng ngày cả trăm người đến xin gia nhập đạo viện, và chỉ có một thiểu số cương quyết mới được chấp nhận.
Đă thế, nhiều người không qua kỳ thử thách cũng bỏ đi rất nhiều, nhưng trong số những người ở lại, tất cả đều hết bệnh, tuyệt căn. Các ông nên nhớ tôi không nhận một thù lao hay đ̣i hỏi ân huệ ǵ, tôi cũng không tự xưng một danh vọng, chức tước nào hết.
Đời sống ở đây hoàn toàn tự túc, và kẻ khoẻ mạnh phải lo trồng tỉa, gặt hái thực phẩm. Quy luật đạo viện không nhận tặng vật dù bất cứ thứ ǵ, nhiều kẻ tỏ ư muốn dâng tài sản, sự nghiệp khi đến đây với hy vọng sẽ được đối xử đặc biệt.
Tôi yêu cầu một khi đă dứt bỏ tất cả, th́ hăy bố thí cho người nghèo, hoặc để lại cho con cháu, thân nhân, rồi đến đây với bộ quần áo trên người. Dù bệnh nhân là tiểu vương gia hay kẻ hành khất tôi cũng coi như nhau, mục đích của họ là chữa bệnh và chỉ có họ mới có thể chữa cho ḿnh.
Đạo viện được thành lập chỉ để thực hành việc chữa bệnh mà thôi, chứ không phải một nơi giam cầm hay có tính cách tôn giáo. Muốn gia nhập phải tuân theo các điều kiện, nhưng muốn rời đây th́ tùy ư, không hề có sự ngăn cản.
- Nhưng ông có dạy các phương pháp Yoga ?
- Đúng thế, nhưng Yoga là một khoa học, không phải tôn giáo như nhiều người đă hiểu lầm. Ngoài ra tôi chủ trương một lối tu thân cho những người muốn vào cửa đạo nhưng đây cũng không phải là một tôn giáo.
- Xin ông vui ḷng giải thích phương pháp tu này.
Ram Gopal mỉm cười :
- Như các ông thấy, phương pháp dưỡng sinh và tập Yoga có thể giúp con người vượt qua các bệnh tật. Cũng như thế, phương pháp tu thân sẽ giúp con người vượt qua các trở ngại để tiến vào cửa đạo. Có rất nhiều phương pháp tu hành tùy theo quan niệm cá nhân, hoàn cảnh xă hội chung quanh, tôn giáo…
Nhưng tất cả đều nhắm mục đích chung là giải thoát. Tôi không quan niệm một phương pháp nào mà để mỗi cá nhân tùy theo sở thích lựa chọn. Tôi chỉ khuyên họ nên sáng suốt kiểm soát cách thức tu hành để tránh các sai lầm thông thường. Như các ông thấy, trên các con tàu lướt sóng ngoài biển khơi bao la, cứ khoảng nửa giờ, vị thuyền trưởng phải nh́n vào bản đồ, xem địa bàn, đo phương hướng để xác định vị trí con tàu.
Biết ḿnh ở đâu và đi đến đâu là câu hỏi quan trọng của mọi người trên đường đạo . Công việc tu hành cũng thế, người tu lúc nào cũng phải luôn luôn tự hỏi vê ḿnh, để kịp thời sửa sai các lỗi lầm thông thường v́ sai một ly đi một dặm. Khi con tàu rời bến, một lỗi lầm nhỏ từ khởi điểm có thể làm con tàu đi xa mục tiêu vài chục hải lư.
Đường tu cũng thế, một ư niệm sai lầm có thể khiến ta đi vào tà đạo lúc nào không haỵ Phương pháp tại đạo viện không chú trọng đến h́nh thức, mà chỉ nhắm vào kiểm soát thường xuyên quan niệm của người tu đối với bản thân ḿnh, với mọi người chung quanh. Phải tự xét ḿnh, kiểm soát tư tưởng của ḿnh từng ngày, từng giờ, rồi suy ngẫm về bản ngă, chân ngă.
Kinh Veda đă dạy, “ta không phải là xác thân vật chất này mà là một linh hồn cao quư, trường tồn, một điểm linh quang của thượng đế.” Nói khác đi, con người là một linh hồn bất diệt c̣n thể xác chỉ là một dụng cụ thô sơ, tạm thời. Người hiểu đạo là người ân cần lo lắng cho linh hồn hơn là cái xác thân tạm bợ.
Chân lư này giúp cho người tu tránh các tội ác, các phiền năo, v́ đa số người đều lầm tưởng ḿnh là xác thân nên lo lắng, ch́u chuộng nó đủ điều. Để cho xác thân được sung sướng họ đă không ngần ngại giết nhau, làm hại nhau, lừa bịp lẫn nhau, tóm lại tất cả những ǵ xấu xa, tồi bại.
Nếu ư thức được chân lư này th́ ai lại c̣n vơ vét của cải, vật chất làm ǵ, v́ các thứ đó đâu có ích lợi ǵ cho linh hồn. Người hiểu biết đường đạo ư thức linh hồn là ta, là người làm chủ, c̣n xác thân chỉ là con ngựa để ta cưỡi đi trên đường.
Người chưa hiểu biết nhận ḿnh là con ngựa và cố gắng thoa? măn các nhu cầu của họ. Họ không ư thức ḿnh là tay kỵ mă kiêu hùng bất diệt mà cam chịu thân phận con vật yếu hèn chịu sự chi phối của thời gian và không gian. Căn bản đầu tiên của người đi trên đường đạo là ư thức ḿnh, duyệt xét đường đi của ḿnh để t́m một lối tu thân hợp lư.
Kinh Veda lại dạy rằng, “Ta và người tuy bề ngoài khác biệt nhưng thực sự bên trong lại như nhau, bởi tất cả đều cùng chung một nguồn gốc mà ra”. Chân lư này cho thấy chúng ta đều là hoa trái của một cái cây, cùng chung một gốc, bề ngoài tuy káhc, nhưng bề trong tất cả đều là con của thượng đế. Nếu ư thức được chân lư này th́ ai lại c̣n giận hờn, oán thù, ghen ghét nhau.
Có khi nào tay mặt lại cầm dao chém tay trái, có khi nào anh em lại thù nghịch hăm hại lẫn nhau. Sự khác biệt giữa con người là do mức tiến hoá khác nhau qua các kiếp sống. Có khi nào ta thù ghét một kẻ kém ta đâu ? Suy luận rằng, “vạn vật đồng nhất”, ta sẵn sàng tha thứ cho kẻ khác, v́ họ không hiểu biết, không ư thức hành động của ḿnh, vả lại họ và ta nào có khác nhau đâu.
Khi hiểu rằng “nhất bổn tám vạn thù”, ta nh́n vạn vật như chính ḿnh, từ loài người qua loài thú, thảo mộc, kim thạch, và ư thức rằng mọi vật đều có sự sống, đều có thượng đê ngự ở trong. Ta sẽ cởi bỏ thành kiến, mở rộng ḷng thương đến muôn loài.
Người tu là người sống thuận hoà với ḿnh và mọi người, sống an lạc với vạn vật trong vũ trụ, sống hoà hợp với thiên nhiên một cách ung dung tự tại. Đó là con đường tu đứng đắn nhất theo sự hiểu biết của tôi.
Ram Gopal nh́n mọi người, rồi mỉm cười :
- Nếu chúng ta tu một thời gian mà thấy ḷng không vui vẻ, phấn khởi, gương mặt không thoải mái, cử chỉ không dịu dàng, lời nói không ôn tồn, tâm hồn không thương mến th́ chắc là ta đă không sống thuận lẽ đạo.
Có lẽ ta đă đi vào tà đạo lúc nào mà không haỵ Khi tu hành mà tâm thần rối loạn, thần trí đảo điên, tham lam, sân hận, oán thù, th́ đó là triệu chứng đă đi lạc đường rồi. Nếu biết thế phải lập tức kiểm điểm lại phương pháp tu hành để sửa đổi, và quyết tâm trở lại khởi điểm để bắt đầu lại con đường đạo.
Nếu không làm như thế th́ vô phương cứu chữa, cũng như bệnh đă nhập tâm mà c̣n mê say luyến tiếc vật chất, không cương quyết dứt bỏ th́ làm sao c̣n chữa trị được. Này các bạn, giáo lư nào cũng dạy phải thương yêu, tha thứ và giúp đỡ đồng loại nhưng tại sao xă hội lại không như vậy? Tại sao giữa cái biết và hành xử lại có sự trái ngược ?
Phải chăng ḷng con người c̣n ham mê vật chất, tuy nghe điều hay lẽ thiệt nhưng ta vẫn để đó, tiếp tục làm các điều càn rỡ. Người bệnh cũng thế, khi mới mắc bệnh không lo chạy chữa mà chờ khi mạng sống bị đe doa. mới cuống lên, thuốc ǵ cũng uống, ai nói ǵ cũng làm, cố sao kéo dài đời sống.
Tại sao lại có các điểm tương đồng như thế ? Khoa học công nhận rằng ăn uống điều độ, có thể tránh bệnh tât, nhưng biết rồi để đó, chứ có mấy ai theo ? H́nh như chúng ta vẫn thèm miếng ngon, vật lạ dù biết nó là chất độc. Nếu chúng t chấp nhận tất cả đều là con của thượng đế, tại sao ta vẫn đâm chém, làm hại lẫn nhau ?
Nếu chúng ta chấp nhận các loài cầm thú là đàn em bé bỏng, th́ ta phải tránh sát sinh chứ. Tại sao ta vẫn giết hại “đàn em” qua các bữa ăn thịnh soạn ? Phải chăng miếng ăn, v́ béo đă làm ta quên hết rồi ? Vấn đề của cải cũng thế, ta biết chúng chỉ là vật tạm bợ, vô thường khi chết nào có mang theo được; nhưng thực tế, hễ đâu có của cải là nơi đó có tranh chấp lẫn nhau.
Hăy nh́n đàn gà trong sân, chúng đang vui vẻ nô đùa nhưng hễ có ném cho nắm thóc, là có xô xát ngaỵ Hăy nh́n bầy chó cùng cha, cùng mẹ âu yếm liếm nhau kia, nhưng chủ ném cho cục xương là cắn nhau tức th́. Loài người thông minh hơn loài vật nhưng của cải, danh vọng, vật chất đa làm họ bất hoà có khác chi loài thú ? Từ mấy ngàn năm nay, con người luôn được hướng dẫn bởi các chân lư cao đẹp.
Tôn giáo nào cũng dạy những điều thật tốt lành nhưng tại sao vẫn không thấy có sự tiến bộ? Phải chăng v́ chúng ta chỉ nói chân lư ở đầu môi, chót lưỡi ? Ta đến các thánh đường tôn nghiêm với y phục sang trọng nhất, các lễ vật đẹp đẽ nhất, đọc thuộc ḷng các lời răn chân chính nhất nhưng chúng ta vẫn làm các điều xấu xa, bỉ ổi nhất. Có bao giờ các ông nghĩ về những điều này không ?
Mọi người im lặng nh́n nhau không ai thốt lên lời nào. Ram Gopal mỉm cười :
- Hăy dở Thánh kinh mà xem, đức Jesus đă dạy, “các người đừng quá lo về y phục hay thức ăn. Đời sống không quư báu hơn thức ăn và thân thể, không quư báu hơn y phục hay sao ?
Hăy nh́n loài chim bay trên trời, chúng không hề gieo cũng không hề gặt, không chứa chấp thực phẩm trong bồ, nhưng cha của các ngươi trên trời vẫn lo cho chúng chu đáo. Các người không quư hơn chim muông hay sao ?”
Ḷi dạy thật rơ ràng, giản dị và chắc chắn, các ông đă nghe nói qua nhiều lần rồi, nhưng có lẽ không mấy người hoàn toàn tin tưởng nên thế giới mới có những cảnh chém giết v́ miếng ăn, manh áo.
Một lần nữa, phái đoàn lại ngạc nhiên v́ một tu sĩ Ấn độ sống nơi hoang vu, hẻo lánh dưới chân núi Tuyết Sơn lại trích dẫn Thánh kinh một cách rành mạch cho thính giả người Âu.
Ram Gopal im lặng như suy nghĩ một điều ǵ, sau cùng ông lên tiếng :
- V́ biết rằng của cải, vật chất là nguồn gốc của tội lỗi, cám dỗ nên tại đạo viện này mọi người chỉ được giữ một bộ quần áo trên ḿnh và phải đoạn tuyệt với vật chất hoàn toàn. C̣n lo giữ của tức là c̣n lo mất, quyến luyến vật chất như vậy th́ làm sao giải thoát được.
Giữ tiền bạc, của cải hay danh vọng có thể ví như đeo gông vào người, rồi nhẩy xuống sông, chắc chắn sẽ ch́m chứ làm sao bơi lội cho được, phải thế không các bạn ?
Giáo sư Mortimer lên tiếng :
- Ông nói cũng có lư nhưng không hẳn tôn giáo nào cũng lánh xa của cải, vật chất. Đôi lúc họ cần những thứ này để làm các công việc như mua thực phẩm, xây cất thánh đường, v..v.. Tiền bạc có công dụng riêng của nó.
Ram Gopal gật đầu :
- Sử dụng tiền bạc đúng cách là một vấn đề c̣n để nó cám dỗ lại là một vấn đề khác. Chính đức Jesus đă dạy, “kẻ giàu có tu hành chẳng khác con lạc đà chui qua lỗ kim. Một người không thể thờ hai vua, ngươi thờ Chúa hay thờ tiền bạc”.
Một người tu hành chân chính không thể nô lệ bạc tiền dưới bất cứ h́nh thức nào. Các ông chắc thắc mắc tại sao tôi cương quyết chủ trương tuyệt sở hữu, gặp nhau hôm nay cũng là một nhân duyên, tôi xin kể một câu chuyện để các ông hiểu tại sao con đường tu hành cho rằng tiền bạc, vật chất là trở lực lớn cho người tu.
Câu chuyện như sau : “Một đệ tử quyết tâm cầu đạo, xin học với một đạo sự Sau thời gian học hành chăm chỉ, một hôm sư phụ có việc phải đi xa nên dặn học tṛ ở lại chăm lo tu hành. Học tṛ nghe theo lời thầy, thiền định sớm hôm không hề bê trễ, V́ nếp sống tu hành thanh bần, tu sĩ chỉ có độc mỗi một miếng khố che thân. Nhưng chiếc khố cứ bị chuột cắn rách hoài nên tu sĩ cứ lâu lâu lại phải đi xin một mảnh vải che thân khác.
Dân làng thấy vậy, bèn biếu tu sĩ một con mèo để trừ lũ chuột. Tu sĩ đem con mèo về nuôi, từ đó chuột không dám lộng hành nữa, nhưng tu sĩ lại phải lo thêm một phần ăn. Ngoài thực phẩm chay tịnh, tu sĩ phải xin sữa để nuôi con mèo. Một tín đồ thấy vậy bèn t́nh nguyện dâng cúng tu sĩ một con ḅ cái để có sữa nuôi mèo.
Tu sĩ vui vẻ nhận con ḅ nhưng nuôi được mèo lại không có rơm cho ḅ ăn. Do đó, ngoài thức ăn khất thực, tu sĩ lại phải đi xin rơm về nuôi ḅ. Dân làng thấy vậy bèn biếu tu sĩ một mảnh đất và dụng cụ canh nông để tu sĩ trồng trọt, nuôi ḅ.
Tu sĩ ra công cầy cấy nên rau trổ thật nhiều, ḅ ăn không hết, phải mang bán ngoài chợ. Miếng đất thật mầu mỡ sinh hoa lợi quá nhiều, tu sĩ làm không xuể, phải gọi người đến làng giúp. Lạ thay, miếng đất cứ thế sinh sôi nẩy nở, trồng ǵ cũng tươi tốt và chả mấy chốc trở nên một đồn điền trù phú.
Tu sĩ có nhiều hoa lợi bèn xây một đền thờ to lớn, đẹp đẽ, thuê thợ khắc tượng, đúc chuông thật vĩ đại, nhưng thời gian tu hành không c̣n là bao v́ tu sĩ phải lo trông nom đồn điền, lo sổ sách giao dịch buôn bán, kiểm soát nhân công trồng tỉa, rồi có tiền bạc phải lo đầu tư, bỏ vốn mua thêm đất đai, khai khẩn thêm nữa.
Một hôm, sư phụ trở về không trông thấy túp lều đơn sơ nữa mà thay vào đó một ngôi đền tráng lệ, nô nức khách hành hương, trong đền ồn ào những tín đồ vừa cúng bái vừa buôn bán. Trông thấy sư phụ, tu sĩ mừng rỡ chạy ra chào. Sư phụ Ôn tồn hỏi tại sao lại có sự thay đổi như thế.
Tu sĩ trả lời, "thưa thầy, thật tâm con muốn tu hành nhưng tại lũ chuột cứ cắn rách áo hoài. Để bảo vệ cái áo con nuôi mèo. Để có sữa cho mèo ăn, con phải nuôi ḅ, và để có rau nuôi ḅ, con phải canh tác. Rồi th́ trúng mùa liên tiếp, sức con làm không xuể nên phải gọi thêm người làm giúp, rồi th́ buôn bán thành công, tiền bạc nhiều thêm, con phải đích thân trông nom mọi việc.
Sau đó con cho xây cất đền thờ to tát, đúc tượng thật vĩ đại, con c̣n mướn người lo việc cúng tế, nhang đèn cẩn thận". Sư phụ thở dài, "xây cất đền thờ thật to chỉ là trói buộc, nào phải giải thoát.
Tụ tập tín đồ cho đông, ồn ào phức tạp, chỉ gây trở ngại cho việc thanh tu. Chỉ v́ một cái khố rách mà con đă đi thật xa, xa hẳn con đường mà ta đă chỉ dạy nhằm việc giải thoát. Con chỉ lầm lẫn một chút mà đă đi lệch lúc nào không hay, trói buộc vào các thứ đó rồi làm sao có thể thoát được. ”
Ram Gopal yên lặng như đắm ch́m vào quá khứ, một lúc sau ông nói thật khẻ :
- Các ông thấy câu chuyện thật khôi hài phải không ? Nhưng đó là chuyện thật, v́ tôi chính là vị tu sĩ trẻ đó. Sau khi nghe thầy nói xong, tôi tỉnh ngộ, và hiểu con đường tu hành giải thoát chân chính là thế nào. Tôi lập tức rời bỏ tất cả để theo thầy lên núi Tuyết Sơn học đạo.
Suốt mấy chục năm tu hành tinh tấn, sư phụ mới sai tôi đến đây thành lập đạo viện này để chữa bệnh và chỉ dạy đệ tử phương pháp tu thân. V́ kinh nghiệm quá khứ, tôi cương quyết chủ trương kẻ đă tu hành phải tuyệt sở hữu và lúc nào cũng phải tự ḿnh kiểm thảo hàng giờ, hàng phút v́ sai một ly là đi một dặm.
Mọi người ngồi yên tưởng tượng ra cảnh một đạo sĩ trẻ tuổi trước sự cám dỗ của thành công vật chất. Giáo sư Mortimer lên tiếng :
- Theo ông th́ ngoài vấn đề vật chất, người tu c̣n gặp những khó khăn ǵ nữa ? Từ bỏ vật chất có đem lại giải thoát không ?
- Bất cứ một sự cởi bỏ nào cũng làm nhẹ gánh, vật chất là một nô bộc tốt nhưng là một chủ nhân rất xấu. Nhiều người tu vô t́nh quá chú trọng đến tiền bạc mà quên rằng đồng tiền có hai mặt. Nhiều người cho rằng sử dụng vật chất là để phát huy tôn giáo, giúp đỡ các tín đồ có nơi tu học.
Dĩ nhiên, mục đích rất tốt đẹp, nhưng nếu quá chú trọng vào h́nh thức sẽ đưa đến sự xao lăng vấn đề tinh thần. Một tu sĩ cần phải ư thức rằng ḿnh vẫn là kẻ đang đi trên đường, đang cố gắng t́m kiếm chân lư hầu được giải thoát, chứ chưa đi trọn con đường, th́ đừng đ̣i làm những việc to lớn.
Họ chỉ nên làm việc một cách nhiệt thành nhưng không nên làm nô lệ cho những công việc này. Một trở ngại lớn trên đường đạo là sự thiếu nhiệt thành, đa số chúng ta đều quen buông lung, do dự, không đủ cương quyết nên sẽ phải trải qua những kinh nghiệm chua cay, khổ sở để học hỏi các bài học quư giá này.
Tất cả chúng ta vẫn đồng ư rằng cuộc đời là ảo mộng, phù du, vô thường, gỉa tạo chỉ có con đường tu hành mới là giải thoát thế nhưng tại sao chúng ta vẫn chạy theo vật chất, chả chịu tu tâm dưỡng tánh ?
Giáo sư Mortimer phản đối :
- Người tu hành và kẻ thường khác nhau nhiều, chúng tôi c̣n phải lo sinh kế, kiếm ăn…
Ram Gopal mỉm cười :
- Một ngày có 24 giờ, có lư nào v́ sinh kế mà các ông phải dành trọn để lo việc kiếm ăn. Tại đạo viện này, mọi người chỉ bỏ ra một giờ để trồng trọt các thực phẩm th́ vẫn đủ kia mà. Ta dư ăn th́ lại muốn ăn ngon, đủ sống th́ lại muốn sống cho sang giàu, được giàu sang lại muốn giàu hơn nữa.
Rồi ta lại ngụy biện rằng phải lo kiếm ăn, sinh kế có phải thế không ? Người Âu Mỹ hoạt động không ngừng, coi sự làm việc là nguồn vui, do đó mới sinh lắm bệnh tật, phiền năo, thần kinh suy nhược, v́ nhu cầu tâm linh không thoa? măn. Tại sao ta không hoạt động như thế cho nhu cầu tâm linh?
- Người Âu không thể chấp nhận vấn đề làm việc cho một cái ǵ mơ hồ, cho một viễn ảnh tâm linh không thực tế.
Ram Gopal lắc đầu :
- Khi nào đời sống vật chất trở nên cực kỳ phức tạp, phiền năo th́ con người sẽ ư thức đến vấn đề tâm linh. Đă có nhiều vị tiểu vương, triệu phú từ bỏ tất cả tài sản để vào đây tu hành khi mạng sống của họ bị đe doa. bởi bệnh tật, v́ họ biết không thể ôm lấy tài sản rồi chết.
Sau khi từ bỏ tất cả, đầu óc thoải mái thanh thản, họ lại thấy việc trau dồi tâm linh là quư, thế là họ phát nguyện tu hành, sống một cuộc đời trong sạch, ung dung, tự tại. Nếu chỉ là miếng ăn th́ chỉ cần làm việc khoảng một giờ là đủ rồi, nhưng v́ không biết an phận nên mới có các trói buộc vào vật chất, không lối thoát.
Các ông cho rằng tu hành chỉ cần ăn mặc đẹp đẽ, đi đến các đền thờ dâng cúng phẩm vật, tiền bạc, đọc vài câu kinh là đă đủ hay sao ? Những cái đó chỉ là h́nh tướng bên ngoài, không có nghĩa chi hết. Ngay cả việc trở nên môt tu sĩ mà không chịu tu thân, trau dồi tâm linh cũng vô ích thôi v́ các phiền muộn đau khổ vẫn c̣n kia mà.
- Như thế th́ thế nào mới là tu hành thật sự ?
- Bước vào con đường đạo là tự sửa ḿnh, thấy ǵ ác không làm, thấy ǵ thiện th́ nhất định làm cho đến cùng. Luôn luôn tự giác, kiểm thảo lấy ḿnh và quan sát, học hỏi không ngừng. Nếu các ông buôn bán, thấy có lợi các ông có dồn sức ra buôn bán nữa không ?
Dĩ nhiên là có, th́ việc tu hành cũng thế, tại sao ta không lo cho nhu cầu tinh thần như ta đă lo cho vật chất? Tại sao ta lại cứ hứa hẹn nay mai sẽ sửa tánh, tu thần như người khất nợ vậy ? Tu hành không phải việc chơi mà làm một cách cẩu thả.
Đó là một quyết định quan trọng vô cùng. Đừng nghĩ bộ áo có thể làm nên nhà tu, đừng nghĩ ḿnh sẽ được một đấng nào giúp đỡ, đó là một sự hiểu lầm tai hại. Đa số các tín đồ đều mong chờ sự giúp đỡ của đấng ḿnh tôn thờ. Họ cho rằng thuộc ḷng các câu kinh, thi hành vài nghi lễ, dâng cúng các phẩm vật là đă làm tṛn bổn phận và sẽ được cứu rỗi.
Nếu điều này đúng th́ các bậc vua chúa đă lên thiên đàng hết cả v́ họ dâng cúng nhiều hơn mọi người kia mà. Tu hành đ̣i hỏi sự tận tâm, tận lực cải thiện con người của ḿnh để xứng đáng là con của thượng đế, chứ không phải dựa vào vài h́nh thức bên ngoài.
Đa số tín đồ coi việc tu như đi xe buưt, muốn đến đâu chỉ việc mua vé rồi leo lên xe ngồi, ngắm cảnh vật hai bên đường, ung dung cho tài xế lái, khi đến nơi, là họ xuống xe không chút mệt nhọc ǵ hết. Tu hành chân chính là tự ḿnh cất bước.
Thiên đàng không phải nơi mà ta có thể mua vé đến, cũng không thể mong dâng cúng vài thứ mà được các vị thần linh che chở. Giải thoát chỉ đến với sự tinh tấn riêng của từng người. Khi hiểu như thế ta cần lập tức lên đường không chậm trễ.
Hăy lấy niềm tin làm bạn đồng hành, tận dụng các cơ hội sẵn có để sửa ḿnh hầu giải thoát cho chính ḿnh. Con đường tu có trăm nẻo đi, không nẻo nào giống nẻo nào nhưng tất cả đều đưa đến mục đích. Sự chọn lựa con đường hoàn toàn do cá nhân nhưng họ cần suy gẫm cẩn thận để khỏi lầm đường, lạc nẻo.
Tu hành chân chính dựa trên căn bản “tự biết ḿnh”, v́ trên đường đạo không có vấn đề vinh hay nhục, mà chỉ có sự tiến bộ. Do đó, người tu phải dẹp bỏ tự ái, ngă mạn, mặc cảm, không hổ thẹn, ngă ḷng để tinh tấn tiến bước.
Nếu sa ngă lại đứng dậy và tiếp tục, lúc nào cũng định hướng không để cho lầm đường lạc lối. Những kẻ tự cao, tự đại không chịu tu thân sửa ḿnh, thật đáng thương v́ họ giống như người bệnh sắp chết, mà không chịu uống thuốc xả ly, dứt bỏ cho khỏi bệnh.
Ram Gopal ngừng nói, chiều xuống đă lâu chỉ c̣n vài tia nắng vương vấn trên thân thể cực kỳ lực lưỡng của vị đạo sĩ xứ Ấn. Phái đoàn yên lặng bái phục sự giải thích chân lư thật giản dị, khiêm tốn của người mà dân chúng coi là “vị đạo sĩ có thể chữa mọi thứ bệnh”.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 185 of 1146: Đă gửi: 17 June 2010 lúc 6:08pm | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG
ĐỜI SỐNG SIÊU NHÂN LOẠI
Chương Tám
Cuộc gặp gỡ những đạo sư đại diện cho nền minh triết cổ truyền xứ Ấn, đă làm cho phái đoàn phấn khởi, nhưng c̣n các bậc Chân Sư (Rishi), những vị này như thế nào ? Tại sao một vị chân sư bí mật gửi thông điệp cho các đạo sư yêu cầu giúp đỡ phái đoàn ? Đây là một dấu hỏi lớn mà mọi người hết sức thắc mắc.
Liệu chúng tôi có thể gặp các bậc chân sư không ? Những vị này ở đâu ? Giáo sư Mortimer đă hỏi giáo Kavir, và ông này cho biết có quen một đạo sĩ tu hành tên Akila Bakhtir vốn thường qua lại nhiều trong dăy Tuyết Sơn và có kiến thức rộng về những hiền triết ẩn tu nơi đây. Phái đoàn bèn t́m đến đạo sĩ này, đó là một ông lăo gầy như hạc, vẻ mặt lúc nào cũng tươi cười.
Giáo sư Mortimer nôn nóng :
- Theo lời truyền tụng th́ ông đă có dịp tiếp xúc với các đạo sĩ Tuyết Sơn ?
Đạo sĩ xác nhận :
- Đúng thế, tôi đă có dịp gặp gỡ các bậc thánh nhân đó.
- Ông tin rằng họ là những thánh nhân ?
- Dĩ nhiên, không những tôi tin mà c̣n biết rơ họ là những bậc hiền giả.
- Dựa vào tiêu chuẩn nào mà ông quả quyết như vậy ? Họ có biểu diễn quyền năng hay làm ǵ khác người không ? Liệu có thể có những bậc siêu nhân như vậy không ?
Đạo sĩ gật đầu :
- Sự có mặt trên thế gian của những bậc thánh nhân là điều hợp lư, nếu ta tin các luật : Luân hồi, Quả báo, Tiến hoá và Nhân quả. Nếu quan sát , ta sẽ thấy con người đều có các tŕnh độ khác nhau. Có người kém ta rất xa, có người lại hơn ta rơ rệt.
Nếu nhân loại tuần tự tiến hoá th́ trải qua nhiều kiếp sống, và thời gian, tất phải có những người đă tiến bộ rất xa chứ. Theo tôi biết, đă có những người tiến xa hơn hàng ngũ nhân loại hiện nay, đă khai mở một vài giác quan thượng đẳng, quyền năng siêu việt mà ta gọi là bậc Thánh Nhân. Sự thực, các quyền năng này đều tiềm tàng trong mọi người chúng ta, chờ đợi cơ hội khai mở.
Khi khai mở các quyền năng này, ta sẽ thấy rơ các nấc thang tiến hoá của nhân loại và nhận định rằng ở mỗi nấc thang đều đă có kẻ đạt đến. Lịch sử các quốc gia đều chứa đựng công tŕnh vĩ đại của các bậc vĩ nhân trên mọi lănh vực hoạt động. Những người này, trong phạm vi riêng biệt của họ đă vượt xa quần chúng và tầm hiểu biết của những người đương thời.
Thí dụ như các bác học, các nhà tư tưởng lớn. Sự tiến hoá chẳng qua chỉ là biểu lộ của sự sống thiêng liêng, con người càng ngày càng trở nên tốt đẹp, tế nhị v́ sự sống vô cùng cần được biểu lộ qua h́nh thể đó. Một bậc toàn thiện là việc tự nhiên, hợp lư do sự kết tinh đến mức tuyệt đỉnh của một con đường tiến hoá dài và liên tục. Tất cả kinh điển mọi tôn giáo đều chứng minh sự hiện diện của các bậc siêu nhân.
Mọi tôn giáo khi thành lập đều có các bậc thánh nhân xuất hiện. Người Ấn có các thần linh như : Brahman, Vishnu, Shiva hoặc các đấng cao cả như Krishna, Sancharacharya. Tín đồ Phật giáo th́ có đức Thích Ca, đức Quan Thế Âm. Tín đồ Thiên chúa giáo th́ có đấng Jesus, các nhà tiên tri, các bậc thánh; các bộ lạc man dă cũng có các thần linh riêng của họ.
- Xin ông giải thích rơ hơn về sự tiến hoá này ?
- Luật tiến hoá vũ trụ định rằng mọi vật đêu thay đổi theo thời gian để tiến trên những con đường định sẵn. Dĩ nhiên, đi nhanh hay chậm c̣n tùy cá nhân và hoàn cảnh chung quanh. Loài thảo mộc là kết tinh của loài kim thạch, loài cầm thú sau thảo mộc, và loài người tiếp theo loài cầm thú.
Cũng như thế, loài người có một cứu cánh nhất định, một giới hạn mà khi họ vượt qua th́ họ sẽ bước vào một giai đoạn mới. Nói một cách khác, trên loài người là đời sống Siêu Nhân Loại. Trong mỗi con người có ba phần chính : xác thân, linh hồn, và tinh thần. Tinh thần là điểm linh quang tiềm tàng trong mọi con người mà ta gọi bằng nhiều danh từ khác nhau như Phật tính, Chân Ngă, Thần tính, v…v..
- Bằng chứng vào đâu mà ông đưa ra thuyết này ?
- Đây không phải là một giả thuyết, trong sự tu luyện, tôi ư thức được điều này. Các tôn giáo lớn cũng nói như thế. Đức Phật đă nói, “Mọi chúng sinh đều có Phật tính.”
Thánh Paul định nghĩa con người gồm ba phần : xác, hồn, thần… Sự tiến hoá là sự trở về với thượng đế, trở về với con người thật của ḿnh, phát triển Phật tính của ḿnh trọn vẹn, để giác ngộ. Danh từ tuy khác nhưng nội dung đều giống nhau, tôi cố gắng giải thích theo quan niệm mà người Âu có thể hiểu được, sự hợp nhất với thượng đế nghĩa là trở về với ngài v́ chúng ta đều là một phần của ngài.
Theo sự hiểu biết của tôi về luật tiến hoá, th́ với con người, thể xác họ đă phát triển khá hoàn hảo, nhưng đa số vẫn chưa chủ trị được xác thân. Một người tiến cao là người đă chủ trị được xác thân, đặt nó dưới sự kiểm soát của lư trí và linh hồn. Một người kém tiến hoá là người c̣n nhiều thú tánh, chỉ lo nghĩ đến các đ̣i hỏi của thể xác như ăn uống, ngủ nghê, dục tính.
Chính v́ thế, họ sẽ gặp nhiều đau khổ để học lấy sự chủ trị xác thân. Thế gian là một trường học mà trong đó, có yếu tố đau khổ. Sau khi chủ trị được xác thân , là việc kiềm chế thể vía. Thể vía hay tư tưởng là điều rất khó kiểm soát, chinh phục.
Ta thấy nhiều người tuy đă kiểm soát hành động của xác thân, nhưng vẫn c̣n để tư tưởng chạy lung tung như ngựa bất kham, không theo một đường hướng nào nhất định. Sự định trí, bắt tư tưỏong phải theo một đường lối suy nghĩ sẽ đưa ta đến sự kiểm soát thể vía.
Sau đó là sự kiểm soát thể trí, nghĩa là sử dụng trí tuệ để suy nghĩ, phân biệt, phá tan các tà kiến, các màng che phủ của vô minh. Định trí suy nghĩ là một việc, nhưng suy nghĩ chân chính, đứng đắn lại là một việc khác. Chỉ khi nào cả ba thể : xác, hồn, trí hoàn toàn được kiểm soát th́ ta sẽ hoà hợp với Chân Ngă.
Từ đó, phàm nhân và Chân nhân hoà hợp làm một, con người sẽ tiến hoá đến một giai đoạn mới, trở nên một bậc chân tiên. Khi đó, con người bước vào một đời sống trường cửu của tinh thần, đời sống của đấng “Christ”. Đó là một đời sống huy hoàng, tốt đẹp, vượt ngoài tầm hiểu biết của chúng ta, và không thể diễn tả bằng ngôn ngữ.
- Ông tin rằng tất cả đều tiến tới đời sống đó ?
- Dĩ nhiên, tiến hoá là một định luật vũ trụ và rồi ai cũng sẽ phải đi trọn con đường đó. Ta có thể làm ác, ích kỷ, đi ngược ḍng tiến hoá, nhưng làm thế ta chỉ làm chậm trễ sự tiến bộ của ḿnh, nhưng không thể chận đứng được ḍng tiến hoá của nhân loại.
Vấn đề đặt ra là thời gian, con người có thể đi đến mục đích trong thời gian ngắn nhất hoặc dài nhất. Thí dụ như ta có thể bơi xuôi ḍng, ngược ḍng hay chơi vơi ở một chỗ, nhưng ḍng nước vẫn chảy và dù muốn hay không trước sau ǵ ta cũng trôi từ nguồn đến biển cả. S
ống thuận theo thiên ư là bơi xuôi ḍng, nghịch thiên ư là ngược ḍng. Đa số con người thường chơi vơi, không nhất quyết, lúc ch́m đắm, khi nổi trôi, có lúc ngược ḍng, có khi lại xuôi ḍng v́ chưa ư thức sáng suốt để nhận định con đường phải theo.
- Nhưng làm sao biết đường nào là đường phải theo ?
- Chính v́ con người bơ vơ, lạc lối nên mới có các bậc Thánh nhân chỉ bảo hướng dẫn. Sự hiện diện của các bậc như đức Phật, Chúa, Krishna…và các vị giáo chủ khác là để hướng dẫn cho nhân loại. Tiếc thay, con người chỉ thích ai nói thuận ư ḿnh, đúng với điều ḿnh mong ước, chứ không thích những điều “đúng sự thật”, không thích bị đánh thức..
- Làm sao ḿnh có thể biết được đâu là “đúng sự thật”?
- Con người có trí khôn, có óc phân biệt để làm ǵ ? Tại sao không chịu sử dụng chúng để lựa chọn một con đường tốt đẹp ?
- Ông muốn nói đến con đường đạo ? Làm sao ta có thể bước vào cửa đạo ?
Đạo sĩ vuốt bộ râu mỉm cười :
- Có bốn nhân duyên đưa ta đến cửa đạo. Nhân duyên thứ nhất là gần gủi, tiếp xúc, thân cận với những bậc thiện tri thức, những người đang đi trên đường đạo. Thí dụ như trong một tiền kiếp ta có dịp tiếp xúc với một vị đạo sư, giám mục, một người bề trên có kinh nghiệm tâm linh sâu xa.
Chúng ta hết sức khâm phục và thiết tha mong rằng ta sẽ có các kinh nghiệm như vậy. Một hoài băo như thế chắc chắn sẽ giúp ta gặp đạo trong kiếp sau. Nhân duyên thứ hai là nghiên cứu sách vở, nghe giảng giải về đạo lư. Càng ham nghiên cứu ta càng muốn t́m hiểu và đi sâu vào đạo nhiều hơn, và dĩ nhiên khi hiểu biết, ta sẽ thay đổi đời sống để cho nó có ư nghĩa hơn và đó là bước chân vào đường đạo.
Nhân duyên thứ ba là sự mở mang trí tuệ, v́ một lư do nào đó, ta nhận thức những việc xảy ra rồi phân vân, đặt câu hỏi tại sao nó lại xảy ra như vậy? Từ sự hoài nghi ta suy gẫm, quan sát, học hỏi bằng sức mạnh của tư tưởng và có thể khám phá ra ch́a khoá mầu nhiệm, các nguyên tắc đạo lư.
Đây là con đường tu Thiền Định mà các ông đă nghe nói đến. Nhân duyên thứ tư là sự trau dồi hạnh kiểm, tu thân, làm các việc thiện, mở rộng ḷng bác ái, quên ḿnh để giúp đỡ mọi người và dần dần ánh sáng tâm linh sẽ soi sáng hồn ta.
- Xin ông cho biết thêm về các bậc siêu nhân mà ông đă từng tiếp xúc.
Bakhir mỉm cười, vuốt nhẹ chùm râu bạc :
- Tôi đă gặp nhiều đạo sư có quyền năng siêu việt, có vị đă sống nhiều thế kỷ và đạt quả vị rất cao. Điều đặc biệt là các ngài xét mọi sự vật với một quan niệm khác hẳn chúng ta v́ trong tư tưởng các ngài không c̣n một chút ích kỷ như đa số chúng ta.
Các ngài đă loại trừ bản ngă thấp hèn, không c̣n sống cho ḿnh mà cho tất cả. Ngoài đặc tính đó, các ngài c̣n phát triển hoàn toàn về mọi phương diện. Đa số chúng ta đều bất toàn, không mấy ai đạt đến tŕnh độ cao tột. Ngay cả các nhà thông thái, bác học cũng chỉ đạt đến tŕnh độ cao tột trên một phương diện nào đó thôi, và c̣n nhiều khía cạnh khác chưa được hoàn hảo.
Chúng ta đều có mầm mống của mọi đặc tính, nhưng chỉ một vài phần thức động và phát triển không đồng đều. Các bậc siêu nhân là người đă phát triển toàn vẹn mọi đặc tính trên phương diện ngoài tầm hiểu biết của chúng ta.
Phần lớn các vị siêu nhân đều có h́nh dáng bề ngoài tốt đẹp. Xác thân các ngài đều hoàn toàn về mọi phương diện và ít chịu ảnh hưởng của thời gian, có vị đă sống nhiều thế kỷ mà trông vẫn khoẻ mạnh như một người ngũ tuần.
Tôi đă gặp một vị đạo sư sống hơn 2000 năm nay, ngài cai quản một viện cổ tàng trong ḷng núi. Viện cổ tàng này chứa đựng rất nhiều tài liệu dồi dào, phong phú dường như để ghi lại dấu tích toàn thể lịch sử tiến hoá của nhân loại.
Trong đó có chứa đựng các h́nh thể của nhiều giống người đă sống trên mặt địa cầu, từ giống dân Lemurian đến các loài người khổng lồ từ thời xa xưa. Có các mô h́nh diễn tả sự biến đổi của lớp vỏ địa cầu sau các thiên tai, cũng như sự di chuyển của các giống dân trên các lục địa.
Có các bản thảo bút tự rất cổ của các bậc đạo sư, giáo chủ, như có một bản viết của chính đức Phật khi ngài c̣n là thái tử Siđhartạ Có các ngăn tủ bằng gỗ lim kiên cố chứa các tài liệu giáo lư nhiệm mầu, có thứ viết bằng các văn tự lạ lùng của những nền văn minh đă biến mất từ lâu.
Ngoài ra c̣n có các bản đồ, mô h́nh các thành phố cổ xưa của quá khứ cũng như các di tích động vật rất cổ xưa….
Giáo sư Mortimer lên tiếng :
- Ông có nhớ chỗ đó không ? Làm sao có thể đến nơi đó được ?
Đạo sĩ nghiêm nghị :
- Dăy Hy Mă Lạp Sơn không phải nơi ai muốn đi, muốn đến dễ dàng được v́ nó chứa đựng nhiều bí mật huyền bí và có các tinh linh canh giữ, phải có một nhân duyên lớn mới có thể đến các thánh địa đó được.
- Nhưng tại sao các bậc siêu nhân lại cứ ẩn lánh, không ra mặt giúp đỡ nhân loại, không công bố các tài liệu mầu nhiệm đó cho mọi người ? Cất dấu như thế có lợi ǵ đâu ?
- Các ngài lúc nào cũng giúp đỡ nhân loại bằng cách ban rải các luồng thần lực xuống trần gian để muôn loài có thể hưởng thụ chả khác nào ánh sáng mặt trời đối với cây cỏ. Sự giúp đỡ của các ngài hết sức rộng lớn, ngoài sự tưởng tượng và tầm hiểu biết của con người. Việc công bố hay cất dấu các tài liệu đều có lư do mà ta không thể nghĩ bàn được…
- Theo thuyết tiến hoá ông vừa tŕnh bày, th́ trên con người c̣n có một đời sống siêu nhân, và như thế hẳn c̣n các bậc cao cấp nữa ?
Bakhir bật cười một hồi rồi mới trả lời :
- Các ông vẫn c̣n quan niệm cấp bậc, hơn kém, chức tước….Một khi đă giải thoát khỏi luân hồi, sinh tử trở nên một bậc chân tiên (Asekha) th́ thánh đạo chia ra làm bảy con đựong cho các ngài chọn lựa. Dĩ nhiên, sự hiểu biết của tôi c̣n nông cạn và thiếu sót nên tôi chỉ có thể cắt nghĩa một cách sơ lược.
Các ngài có thể bước vào những cảnh giới vượt xa tầm hiểu biết của chúng ta, các cảnh giới này có tên gọi như: Niết bàn, thượng thiên, phi tưởng phi phi tưởng xứ. Sau khi bước vào các cơi này, một ngày nào đó các ngài sẽ chuyển kiếp xuống trần trong bầu thế giới tương lai như một bậc giáo chủ.
Đây là con đường Dharmakaya. Các ngài có thể bước vào trạng thái tâm linh với một ư nghĩa huyền bí mà tôi không biết rơ, đây là con đường Sambhogakya. Các ngài có thể hoà hợp với kho thần lực vũ trụ để làm các công việc hợp với định luật vũ trụ, đây là con đường Nirmanakya. Các ngài có thể ở lại thế gian, giúp đỡ nhân loại, dưới h́nh thức một vị Bồ tát đây là con đường Bồ Tát Đạo (Boshivartakya).
Ngoài những con đường khác ra sao tôi không được biết rơ. Theo sự hiểu biết của tôi th́ số người giải thoát đă ít mà số người ở lại để giúp đỡ thế gian c̣n ít hơn. Hiện nay, tất cả đang chuẩn bị cho một vận hội mới, đó là sự lâm phàm của một đức chưởng giáo tương lai mà danh từ chính xác nhất gọi là Di Lặc Bồ Tát.
Bakhir im lặng một hồi rồi tuyên bố :
- Một ngày nào đó các ông sẽ hiểu biết rơ hơn điều tôi muốn nói. Thật ra các điều này đă được tiên đoán từ lâu và lưu trữ trong một viện cổ tàng ngầm dưới ḷng núi xứ Tây Tạng. Các tài liệu này được các đức Lạt Ma giữ ǵn rất cẩn thận.
- Làm sao chúng tôi có thể xem các tài liệu vô giá đó. Xứ Tây Tạng vẫn c̣n chính sách bế môn toa? cảng, không giao tiếp với bên ngoài, nhất là với người da trắng.
Bakhir mỉm cười bí mật :
- Này các ông bạn, tôi chỉ có thể nói như thế này thôi. Sự hiện diện của các ông tại xứ Ấn độ không phải một việc ngẫu nhiên. Các ông tốn suốt mấy năm đi sưu tầm chân lư mà có thấy ǵ đâu, có đúng không ? Đó chẳng qua chỉ là một thử thách mà thôi.
Các ông không thấy chỉ một thời gian ngắn mà các ông đă tiếp xúc với các đạo sư minh triết nổi tiếng nhất Ấn độ và được tiết lộ những điều chưa từng công bố cho một người Âu nào? Nếu không có thông điệp của một vị Chân Sư th́ làm sao các ông gặp được những người, mà ngay cả tín đồ thuần thành nhất xứ Ấn cũng không dễ ǵ gặp được.
Trong một xă hội đầy dị đoan, mê tín, h́nh bóng chân lư gần như phai mờ, người dân xứ này muốn c̣n phải mất công, thế mà các ông được chỉ dẫn những điều vô giá một cách dễ dàng. Có bao giờ các ông tự hỏi tại sao không ?
Một người Âu chả bao giờ chịu ngồi chung chiếu với người Ấn, v́ hệ thống dị biệt, nhưng các ông đă gác bỏ thành kiến đó, dẹp bỏ tự hào dân tộc để ngồi cạnh những đạo sư rách rưới, đó là một cố gắng không nhỏ. Các ông đă vạch qua rừng người mê tín, các đạo sĩ giả mạo, bịp bợm, các tu sĩ không chân chính để t́m gặp những người đáng gặp gỡ và chăm chú nghe dạy bảo.
Đó không phải là việc dễ dàng, có thể các ông không biết, nhưng các ông đă vượt qua những thử thách phi thường. Tây tạng không bao giờ đón nhận một du khách bên ngoài, nhưng với các ông sẽ là một ngoại lệ, v́ các ông được che chở bởi một vị chân sư.
Các ông sẽ lănh một sứ mạng lớn là kêu gọi thế giới bên ngoài hăy quay về phương đông, với quê hương tinh thần của họ. Quay về không phải để t́m kiếm một chân lư mới, một tôn giáo mới hay một kiến thức ǵ mới lạ. Nhưng để hiểu biết rằng chân lư luôn luôn ẩn tàng khắp nơi, tôn giáo chỉ là những con đựong khác nhau đưa đến chân lư.
Toàn thể phái đoàn yên lặng nh́n nhau, quả thế chỉ một thời gian ngắn họ đă gặp biết bao đạo sư, được chỉ dạy những chân lư quư báu. Đó không phải một may mắn t́nh cờ mà như có sự sắp đặt trước.
- Ông biết ràng có một vị chân sư muốn giúp đỡ chúng tôi ?
- Đúng thế! Tôi biết rơ chuyện này nên các ông mới có thể gặp tôi hôm naỵ Tôi biết các ông đang khao khát sự hiểu biết, thật ra một số trong các ông đă từng học đạo từ tiền kiếp, nay trở lại Ấn độ dưới bộ da người ngoại quốc.
Tuy nhiên, các ông không nhớ những điều đă học. Nhưng khi nhân duyên đến, các ông sẽ phục hồi kư ức. Định mạng đă dẫn dắt các ông trở lại Á châu để hoàn tất một sứ mạng cao cả….
Toàn thể mọi người ngạc nhiên và xúc động vô cùng. Ḷng ao ước gặp vị chân sư bí mật gia tăng. Giáo sư Mortimer cố gắng thốt lên vài câu :
- Nhưng đến bao giờ chúng tôi mới có thể gặp ngài ?
- Thời gian không c̣n lâu nữa, đến khi đó các ông sẽ biết. Tôi chỉ có thể nói đến đây thôi.
Phái đoàn im lặng hồi lâu, sau cùng giáo sư Wentz lên tiếng :
- Chúng tôi nghe nói ông biết thuật khinh công ?
Đạo sĩ bật cười :
- Điều này đâu có ǵ lạ. Chỉ là một phương tiện di chuyển tầm thường, nhỏ mọn mà thôi.
- Nhưng điều này phản khoa học, làm sao có thể chứng minh được ?
Bakhir mỉm cười gơ nhẹ lên chiếc gậy trúc, bất ngờ thân h́nh ông ta nhấc bổng lên không trung như có một sợi dây vô h́nh kéo lên. Ông ta vẫn ngồi yên trong tư thế liên hoa không cử động.
Toàn thể mọi người sửng sốt, tuy họ đă chứng kiến nhiều phép lạ nhưng sự kiện bay bổng lên không trung là một điều lạ lùng, ngoài sự tưởng tượng. Đạo sĩ bỗng xoay ḿnh, thân thể ông bỗng như một cơn lốc bay vọt ra xa với một tốc độ rất nhanh, chỉ trong chớp mắt ông đă xa cách phái đoàn đến mấy chục thước.
Đạo sĩ nói vọng lại :
- Này các ông, tại sao con người lại phải ḅ lết trên mặt đất? Nếu loài người có quyền năng hơn loài thú th́ y phải bay cao hơn chim, lội nhanh hơn cá chứ ? Tại sao y không làm được như vậy? Phải chăng đó là quan niệm duy vật về bản chất của ḿnh ?
Tư tưởng y chỉ nghĩ rằng ḿnh chỉ có thể đi được mà thôi. Tùy cảm nghĩ mà con người bị giới hạn hay không giới hạn, tự do hay nô lệ. Nếu biết rơ ḿnh và phát triển khả năng của ḿnh một cách đứng đắn, họ có thể làm hầu như mọi chuyện.
Đạo sĩ lao ḿnh vùn vụt trên con đường đất ngoằn ngoèo, chỉ mấy phút ông đă mất hút chỉ để lại phía sau một đám bụi mờ. Tất cả mọi người xúc động, không ai nói nên lời, giáo sư Mortimer cầm máy ảnh nhưng không sao chụp được.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 186 of 1146: Đă gửi: 17 June 2010 lúc 6:43pm | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG
CƠI GIỚI VÔ H̀NH
Chương Chín
Hamud là một pháp sư có kiến thức rất rộng về cơi vô h́nh. Khác với những đạo sĩ phái đoàn đă gặp, ông này không phải người Ấn mà là một người Ai cập. Ông ta sống một ḿnh trong căn nhà nhỏ, xây dựa vào vách núi.
Hamud không hề tiếp khách, nhưng trước sự giới thiệu của bác sĩ Kavir, ông bằng ḷng tiếp phái đoàn trong một thời gian ngắn. Vị pháp sư có khuôn mặt gầy g̣, khắc khổ và một thân h́nh mảnh khảnh. Ông ta khoác áo choàng rộng và quấn khăn theo kiểu Ai cập.
Giáo sư Evans-Wentz vào đề :
- Chúng tôi được biết ông chuyên nghiên cứu các hiện tượng huyền bí…
Pháp sư thản nhiên :
- Đúng thế, tôi chuyên nghiên cứu về cơi vô h́nh.
- Như thế ông tin rằng có ma…
Vị pháp sư nói bằng một giọng chắc chắn, quả quyết :
- Đó là một sự thật không những ma quỷ hiện hữu mà chúng c̣n là đối tượng nghiên cứu của tôi.
- Bằng cớ nào ông tin rằng ma quỷ có thật ?
- Khắp nơi trên thế giới đều có các giai thoại về ma, v́ con người thường sợ hăi cái ǵ mà họ không thể nhận thức bằng các giác quan thông thường nên họ đă phủ nhận nó. Sự phủ nhận này mang đến niềm sợ hăi.
Từ đó họ thêu dệt các giai thoại rùng rợn, ly kỳ, không đúng sự thật. Nếu chúng ta chấp nhận ma quỷ hiện hữu như một con voi hay con ngựa th́ có lẽ ta sẽ không c̣n sợ hăi. Các ông đ̣i hỏi một chứng minh cụ thể chăng ?
- Dĩ nhiên, chúng tôi cần một bằng chứng hiển nhiên.
- Được lắm, các ông hăy nh́n đây.
Vị pháp sư mở ngăn kéo lấy ra một cặp que đan áo, một bó len và mang ra góc pḥng để xuống đất. Ông ta thong thả:
- Chúng ta tiếp tục nói chuyện, rồi các ông sẽ thấy.
Mọi người ngơ ngác, không hiểu ông muốn nói ǵ, giáo sư Mortimer nóng nảy :
- Nếu ông nghiên cứu về cơi vô h́nh, xin ông giải thích về quan niệm thiên đàng, địa ngục cũng như đời sống sau khi chết ra sao ?
Vị pháp sư nghiêm giọng :
- Đó là một quan niệm không đúng, sự chết chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp chứ không phải là hết. Vũ trụ có rất nhiều cơi giới, chứ không phải chỉ có một cơi này.
- Khi chết ta bước qua cơi trung giới và cơi này gồm có bảy cảnh khác nhau. Mỗi cảnh được cấu tạo bằng những nguyên tử rất thanh mà ta gọi là “dĩ thái”. Tùy theo sự rung động khác nhau mà mỗi cảnh giới một khác. Tùy theo vía con người có sự rung động thanh cao hay chậm đặc, mà mỗi người thích hợp với một cảnh giới, đây là hiện tượng “đồng thanh tương ứng” mà thôi.
Khi vừa chết, thể chất cấu tạo cái vía được sắp xếp lại, lớp thanh nhẹ nằm trong và lớp nặng trọc bọc phía ngoài, điều này cũng giống như một người mặc nhiều áo khác nhau vào mùa lạnh, áo lót mặc ở trong, áo choàng dầy khoác ngoài. V́ lớp vỏ bọc bên ngoài cấu tạo bằng nguyên tử rung động chậm và nặng nề, nó thích hợp với các cảnh giới tương ứng ở cơi âm, và con người sẽ đến với cảnh giới này.
Sau khi ở đây một thời gian, lớp vỏ bao bọc bên ngoài dần dần tan ră giống như con người trút bỏ áo khoác bên ngoài ra, tùy theo các lớp nguyên tử bên trong mà họ thích ứng với một cảnh giới khác. Cứ như thế, theo thời gian, khi các áp lực vật chất tan ră hết th́ con người tuần tự tiến lên những cảnh giới cao hơn.
Điều này cũng giống như một quả bóng bay bị cột vào đó những bao cát; mỗi lần cởi bỏ được một bao th́ quả bóng lại bay cao hơn một chút cho đến khi không c̣n bao cát nào, th́ nó sẽ tự do bay bổng.
Trong bảy cảnh giới của cơi âm, th́ cảnh thứ bảy có rung động nặng nề, âm u nhất, nó là nơi chứa các vong linh bất hảo, những kẻ sát nhân, người mổ sẻ súc vật, những cặn bả xă hội, những kẻ tư tưởng xấu xa, c̣n đầy thú tánh.
V́ ở cơi âm, không có thể xác, h́nh dáng thường biến đổi theo tư tưởng nên những kẻ thú tánh mạnh mẽ thường mang các h́nh dáng rất ghê rợn, nửa người, nửa thú. Những người thiếu kiến thức rơ rệt về cơi này cho rằng đó là những quỷ sứ. Điều này cũng không sai sự thật bao nhiêu v́ đa số những vong linh này luôn oán hận, ham muốn, thù hằng và thường t́m cách trở về cơi trần.
Tùy theo dục vọng riêng tư mà chúng tụ tập quanh các nơi thích ứng, dĩ nhiên người cơi trần không nh́n thấy chúng được. Những loài ma đói khát quanh quẩn bên các chốn trà đ́nh tửu quán, các nơi mổ xẻ thú vật để t́m những rung động theo những khoái lạc vật chất tại đây.
Khi một người ăn uống ngon lành họ có các rung động, khoái lạc và loài mà t́m cách hưởng thụ theo tư tưởng này. Đôi khi chúng cũng t́m cách ảnh hưởng, xúi dục con người nếu họ có tinh thần yếu đuối, non nớt. Những loài ma dục t́nh th́ quanh quẩn nơi buôn hương bán phấn, rung động theo những khoái lạc của người chốn đó, và t́m cách ảnh hưởng họ.
Nếu người sống sử dụng rượu, các chất kích thích th́ ngay trong giây phút mà họ không c̣n tự chủ được nữa, các loài ma t́m cách nhập vào trong thoáng giây để hưởng một chút khoái lạc vật chất dư thừa. V́ không được thoa? măn nên theo thời gian các dục vọng cũng giảm dần, các nguyên tử nặng trọc cũng tan theo, vong linh sẽ có các rung động thích hợp với một cảnh giới cao hơn và y sẽ thăng lên cơi giới tương ứng.
Dĩ nhiên, một người có đời sống trong sạch, tinh khiết sẽ không lưu ở cơi này, mà thức tỉnh ở một cơi giới tương ứng khác. Tùy theo lối sống, tư tưởng khi ta c̣n ở cơi trần mà khi chết ta sẽ đến những cảnh giới tương đồng, đây chính là định luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.
Toàn thể phái đoàn im lặng nh́n nhau, vị pháp sư Ai cập đă diễn tả bằng những danh từ hết sức khoa học, chính xác, chứ không mơ hồ, viễn vông. Dù sao đây vẫn là một lư thuyết rất hay, nhưng chưa chứng minh được. Có thể đó là một giả thuyết của những dân tộc nhiều tưởng tượng như người Á châu chăng ?
Hamud mỉm cười như đọc được tư tưởng mọi người :
- Nếu các ông biết rằng tôi cũng là một tiến sĩ vật lư học tốt nghiệp đại học Oxford…
Giáo sư Harding giật ḿnh kêu lên :
- Oxford ư ? Ông đă từng du học bên xứ chúng tôi sao ?
- Chính thế, tôi tốt nghiệp năm 1864, và là người Ai cập đầu tiên tốt nghiệp về ngành này.
(Ghi chú của giáo sư Spalding : Phái đoàn đă phối kiểm chi tiết này và hồ sơ đại học Oxford ghi nhận có một tiến sĩ người Ai cập tên là Hamud El Sarim nhập học năm 1856 và tốt nghiệp năm 1864 với bằng Tiến sĩ Vật lư).
- Nhưng làm sao ông biết rơ được cơi giới này ? Ông đă đọc sách vở hay dựa trên những bằng chứng ở đâu ?
- Tôi đă khai mở các giác quan thể vía, nhờ công phu tu hành trong nhiều năm. Ngay khi c̣n là sinh viên tôi đă say mê môn Vật lư siêu h́nh (metaphysics). Tôi dành nhiều thời giờ nghiên cứu sách vở khoa học, nhưng đến một lúc th́ khoa học phải bó taỵ Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi đến với Khoa Huyền Bí học.
Tôi học hỏi rất kỹ về môn này, khi trở về Ai cập tôi may mắn gặp được các vị đạo sư uyên b ác, nên sự nghiên cứu càng ngày càng tiến bộ. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi sang Ấn độ, và Tây Tạng. Tại đây tôi gặp một Lạt Ma chuyên nghiên cứu về cơi âm, tôi đă học hỏi rất nhiều với vị này. Sau đó, tôi tu nhập thất trong 10 năm liền, và khai mở được một vài giác quan đặc biệt.
Từ đó, tôi tha hồ nghiên cứu cơi âm v́ tôi có thể sang tận đây học hỏi và cơi này trở nên quen thuộc, tôi kết bạn với rất nhiều sinh vật siêu h́nh, chúng giúp đỡ tôi rất nhiều.
Giáo sư Evans- Wentz ngập ngừng :
- Ông muốn nói rằng ông kết bạn với ma ?
- Dĩ nhiên, v́ tôi dành trọn thời giờ hoạt động bên cơi này, nên tôi có rất đông bạn bè, phần lón là vong linh người quá cố nhưng cũng có một vài sinh vật có đường tiến hoá riêng, khác với loài người, có loài khôn hơn người và có loại không thông minh hơn loài vật là bao…
- Giao thiệp với chúng có lợi ích ǵ không ?
- Các ông nên biết cơi âm là một thế giới lạ lùng, phức tạp với những luật thiên nhiên khác hẳn cơi trần. Sự đi lại giao thiệp giúp ta thêm kiến thức rơ ràng…..
- Như thế có nguy hiểm không?
- Dĩ nhiên, có nhiều sinh vật hay vong linh hung ác, dữ tợn…Một số thầy phù thuỷ, thường liên lạc với nhóm này để mưu cầu lợi lộc, chữa bệnh hoặc thư phù, nguyền rủa….
- Ông có thể làm như vậy không ?
Vị pháp sư nghiêm mặt :
- Tất cả những việc ǵ có tính cách phản thiên nhiên, ngược luật tạo hoá đều mang lại hậu quả không tốt. Mưu cầu lợi lộc cho cá nhân là điều tối kỵ của ai đi trên đường đạo.
Tôi không giao thiệp với những loại vong linh này, v́ chúng rất nguy hiểm, hay phản phúc và thường giết chết kẻ lợi dụng chúng bất cứ lúc nào. Các ông nên nhớ tôi là một khoa học gia chứ không phải một thầy pháp hạ cấp hay một phù thuỷ chữa bệnh.
- Xin ông nói rơ hơn về những cảnh giới cơi âm.
- Các ông nên biết dù ở cơi nào, tất cả cũng không ra ngoài các định luật khoa học. Thí dụ như vật chất có ba thể : thể lỏng, thể đặc và thể hơi, th́ bên cơi này cũng có những thể tương tự. Luật thiên nhiên cho thấy vật nặng sẽ ch́m xuống dưới và vật nhẹ nổi lên trên th́ cơi vô h́nh cũng thế.
Nguyên tử cơi âm rung động với một nhịp độ khác với cơi trần, các nguyên tử rung động thật nhanh dĩ nhiên phải nhẹ hơn các nguyên tử nặng trược. Tóm lại, tùy theo nhịp độ rung động mà tạo ra những cảnh giới khác nhau, có bảy loại rung động nên có bảy cơi giới. Các nguyên tử rung động chậm chạp phải ch́m xuống dưới v́ nếu ta mang nó lên cao, sức ép sẽ làm nó tan vỡ ngay.
Thí dụ ta đặt một quả bóng xuống nước nếu đến một độ sâu nào đó sức ép của nước sẽ làm nó vỡ tan. Loài cá cũng thế, có loại sống gần mặt nước, có loại sống tận đáy đại dương. Nếu loại sống gần mặt biển bị mang xuống đáy nó sẽ bị sức ép mà chết, ngược lại nếu loài sống ở dưới đáycũng không thể lên sát mặt nước v́ đă quen với sức ép khác nhau.
Cảnh giới thứ bảy lúc nào cũng tối tăm, nặng nề với các vong linh h́nh dáng ghê rợn, nhưng hoàn toàn không có vụ quỷ sứ tra tấn tội nhân. Bị lưu đày ở đây đă là khổ sở lắm rồi, các ông hăy tưởng tượng bị dụcvọng hành hạ mà không thể thoa? măn th́ c̣n khổ gấp trăm lần bị tra tấn. Vong linh thèm muốn nhưng không sao thỏa măn được, như đói mà không thể ăn, khát không thể uống.
Do đó, theo thời gian y sẽ học bài học chịu đựng, nhẫn nhục cho đến khi dục vọng giảm bớt và tan ra th́ y sẽ thăng lên cảnh giới thứ sáu. Cơi giới thứ sáu, có sự rung động rất giống như cơi trần, tại đây các vong linh ít c̣n thèm muốn vật chất như ăn uống, dục t́nh, nhưng bận tâm với những nhỏ nhen của cuộc sống như thỏa măn bản ngă, ích kỷ, ghen tuông, hờn giận, v…v…
Đa số có h́nh dáng giống như người cơi trần, nhưng lờ mờ không rơ. V́ sự rung động của nguyên tử gần giống như cơi trần nên họ hay trở về cơi này, họ thường nhập vào đồng cốt, các buổi cầu cơ, cầu hồn để chỉ dẫn bậy bạ, nói chuyện vu vơ nhằm thỏa măn tự ái, bản ngă cá nhân.
V́ đa số vong linh khi c̣n sống rất ham mê danh vọng, chức tước, uy quyền nên khi họ nhập vào đồng cốt, họ thường tự xưng là các đấng này, đấng nọ. Theo thời gian, các rung động ham muốn, các cố chấp về bản ngă, danh vọng cũng tan biến nên họ thăng lên cảnh giới thứ năm.
Cơi thứ năm có sự rung động thanh nhẹ hơn cơi trần nên vong linh có thể biến đổi sắc tướng rất nhanh chóng. Đây là một thế giới với những âm thanh màu sắc lạ lùng dễ bị mê hoặc. Các vong linh ở đây đă bớt ham muốn về cá nhân, nhưng c̣n ham muốn về tư tưởng, kiến thức. Đây là nơi cư ngụ của những kẻ đạo đức giả, những kẻ bảo thủ nhiều thành kiến, những người trí thức tự phụ…
Đây cũng là cơi có những sinh hoạt của loài Tinh linh. Loài Tinh linh là những sinh vật vô h́nh có h́nh dáng hao hao giống như người mà ta thường gọi là Thiên tinh (sylphs), Thổ địa (gnome), Phong tinh (elves)… Một số bị thu phục bởi các phù thuỷ, pháp sư để làm ảo thuật hay luyện phép. Cơi này c̣n có sự hiện diện của những “h́nh tư tưởng”.
Các ông nên biết, khi một tư tưởng hay dục vọng phát sinh th́ chúng sử dụng tinh chất cơi này tạo nên một h́nh tư tưởng thích hợp. Đời sống của chúng tùy theo sức mạnh của tư tưởng mạnh hay yếu. V́ đa số tư tưởng con người c̣n mơ hồ nên h́nh tư tưởng chỉ tạo ra ít lâu là tan ră ngay.
Một người tập trung tư tưởng có thể tạo ra một h́nh tư tưởng sống lâu trong vài giờ hay vài ngày. Một pháp sư cao tay có thể tạo ra các h́nh tư tưởng sống đến cả năm hay cả thế kỷ, không những thế h́nh tư tưởng này c̣n chịu sự sai khiến của ông ta. Các phù thuỷ luyện thần thông đều dựa trên nguyên tắc cấu tạo một sinh vật vô h́nh để sai khiến.
H́nh tư tưởng không chỉ phát sinh từ một cá nhân mà c̣n từ một nhóm người hay một quốc gia, dân tộc. Khi một đoàn thể, dân tộc cùng một ư nghĩ, họ sẽ tạo ra một h́nh tư tưởng của đoàn thể, quốc gia đó. H́nh tư tưởng này sẽ tạo một ảnh hưởng vô cùng rộng lớn đối với t́nh cảm,phong tục, thành kiến của quốc gia, dân tộc.
Ta có thể gọi đó là “Hồn thiêng sông núi” hay “dân tộc tính”. Khi sinh ra tại một quốc gia, ta ít nhiều chịu ảnh hưởng của h́nh tư tưởng này, dĩ nhiên chúng chỉ ảnh hưởng lên thể vía, nghĩa là t́nh cảm của dân tộc đó, chứ không ảnh hưởng đến lư trí. Một người sống nhiều bằng lư trí sẽ ít chịu ảnh hưởng như người b́nh thường.
Điều này giải thích tại sao một dân tộc có tâm hồn mơ mộng như thi sĩ khi dân tộc khác lại có đầu óc thực tế mặc dù trên phương diện địa lư, họ không ở cách xa nhau mấy và ít nhiều chia sẻ một số quan niệm về tôn giáo, phong tục, tập quán. Cảnh giới cơi thứ tư sáng sủa hơn và dĩ nhiên nguyên tử cơi này rung động rất nhanh.
Phần lớn những vong linh tiến hoá, thánh thiện, những nhà trí thức trầm mặc nhưng c̣n quyến luyến một ít dục vọng khi chết đều thức tỉnh ở cảnh giới này. Đa số đều ư thức ít nhiều, nên họ bắt đầu cởi bỏ những ham muốn, quyến luyến. Đây cũng là chỗ họ học hỏi và ảnh hưởng lẫn nhau, và đôi khi kêt những liên hệ để cùng nhau tái sinh trong một gia đ́nh hay quốc gia.
Cơi giới thứ ba chói sáng, có những rung động nhẹ nhàng. Tại đâu có những linh hồn từ tâm nhưng vụng về, những tu sĩ thành tâm nhưng thiếu trí tuệ, những nhà lănh đạo anh minh nhưng thành kiến. Đây cũng là một cảnh giới của một số thần linh (devas) như Cảm đục thiên thần (Kamadeva), Hữu sắc thiên thần (Rupadeva), và Vô sắc thiên thần (Arupadeva).
Các thần linh này có đời sống và tiến hoá cao hơn tŕnh độ của nhân loại. Cơi giới thứ hai và thứ nhất cấu tạo bằng những nguyên tử hết sức thanh thoát, rung động rất nhanh và tràn đầy ánh sáng. Đây là cơi giới mà những người tiến hoá rất cao, rất tệ nhị không c̣n dục vọng, ham muốn, lưu lại để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, phát triển các đức tính riêng trước khi siêu thoát len cảnh giới cao hơn.
- Như thế người chết thường lưu lại ở cơi Trung giới bao nhiêu lâu ?
- Thời gian lưu lại đây hoàn toàn tùy thuộc vào dục vọng con người, có người chỉ ghé lại đây vài giờ, lập tức đầu thai trở lại. Có kẻ ở đây hàng năm và có kẻ lưu lại đây hàng thế kỷ… Để siêu thoát, thể vía phải hoàn toàn tan ră hết th́ mới lên đến cơi Thượng thiên hay siêu thoát.
Tóm lại danh từ như thiên đàng hay địa ngục chỉ là những biểu tượng của những cảnh ở cơi Trung giới (Kamaloka). Tùy theo sự sắp xếp của thể vía khi chết, mà ta thức tỉnh ở một cảnh giới tương ứng.
Mọi người yên lặng nh́n nhau, những điều Hamud giải thích hoàn toàn hợp lư và hết sức khoa học, không hoang đường chút nào. Nhưng làm sao chứng minh những điều mà khoa học thực nghiệm không thể nh́n thấy được ? Dù sao Hamud cũng là một Tiến sĩ Vật lư tốt nghiệp đại học nổi tiếng nhất Âu châu chứ không phải một phù thuỷ vô học chốn hoang vu.
Ít nhiều ông ta cũng có một tinh thần khách quan vô tư của một khoa học gia chứ không mê tín dễ chấp nhận một lư thuyết vu vơ, không kiểm chứng. Nhưng làm sao có thể thuyết phục những người Âu Mỹ vốn rất tự hào, nhiều thành kiến và tin tưởng tuyệt đối ở khoa học.
Hamud mỉm cười tiếp tục :
- Sự hiểu biết về cơi vô h́nh rất quan trọng, v́ khi hiểu rơ những điều xảy ra sau khi chết, ta sẽ không sợ chết nữa. Nếu có chết chỉ là h́nh hài, xác thân chứ không phải sự sống, và h́nh hài có chết đi, th́ sự sống mới tiếp tục tiến hoá ở một thể khác tinh vi hơn.
Đây là một vấn đề hết sức hợp lư và khoa học cho ta thấy rơ sự công b́nh của vũ trụ. Khi c̣n sống, con người có dục vọng này nọ, khi dục vọng được thỏa măn, nó sẽ gia tăng mạnh mẽ, đồng thời các chất thô kệch, các rung động nặng nề sẽ bị thu hút vào thể vía.
Sau khi chết, dục vọng này trở nên mạnh mẽ v́ không c̣n lư trí kiểm soát nữa, chính thế nó sẽ đốt cháy con người của ta. Sự nung đốt của dục vọng chẳng phải địa ngục là ǵ ? Giống như đức tính, phẩm hạnh khi c̣n trẻ, quyết định điều kiện sinh sống lúc tuổi già, đời sống cơi trần quyết định đời sống bên kia cửa tử.
Luật này hết sức hợp lư và dễ chứng minh. Khi c̣n trẻ ta tập thể thao, giữ thân thể khoẻ mạnh, th́ khi về già ta sẽ ít bệnh tật, khi c̣n trẻ ta chịu khó học hỏi, có một nghề nghiệp vững chắc th́ khi về già đời sống được bảo đảm hơn, có đúng thế không ? Những người nào chế ngự được dục vọng thấp hèn, làm chủ được đ̣i hỏi thể xác, th́ các dục vọng này không thể hành hạ khi ta chết.
Luật thiên nhiên định rằng khi về già thể xác yếu dần, đau ốm, khiến cho ta bớt đi các ham muốn và nhờ thế, dục vọng cũng giảm bớt rất nhiều nên thể vía cũng thanh lọc bớt các chất nặng nề, ô trượt để khi chết, sẽ thức tỉnh ở cảnh giới cao thượng hơn. Trái lại những người c̣n trẻ, ḷng ham muốn c̣n mạnh mẽ, nếu chết bất đắc kỳ tử thường đau khổ rất nhiều và phải lưu lại cơi Trung giới lâu hơn.
Nếu hiểu biết như thế, ta cần phải duyệt xét lại đời sống của ḿnh ở cơi trần để khỏi lưu lại những cảnh giới thấp thỏi, nặng nề bên cơi âm. Những người lớn tuổi cần chuẩn bị để dứt bỏ các quyến luyến, ràng buộc, các lo lắng ưu phiền, các tranh chấp, giận hờn, phải biết xả ly, dứt bỏ mọi phiền năo để mau chóng siêu thoát.
Một sự chuẩn bị Ở cơi trần sẽ rút ngắn thời gian bên cơi âm và chóng thúc đẩy thời gian lên cơi giới cao hơn.
- Nhưng c̣n các ma quỷ th́ sao ?
- Các ông cứ cho rằng ma quỷ là một thực thể thế nào đó, khác hẳn loài người. Thật ra phần lớn chúng là những vong linh sống ở cảnh giới thứ bảy, thứ sáu mà thôi. Chúng c̣n lưu luyến cơi trần, c̣n say mê dục vọng không sao thoát ra khỏi cảnh giới này…
Luật thiên nhiên không cho phép chúng trở lại cơi trần, nhưng cũng có những trường hợp đặc biệt, khiến người cơi trần trong một thoáng giây có thể nh́n thấy chúng. Khoan đă, các ông hăy xem ḱa, người bạn của tôi đă làm xong việc.
Hamud chỉ vào góc pḥng nơi ông ta để bó len và cây kim đan áo. Mọi người bước đến gần và thấy một chiếc áo len đan bằng tay đă thành h́nh từ lúc nào không ai rơ. Chiếc áo đan tay rất vụng, không khéo léo nhưng trên ngực có thêu tên giáo sư Mortimer. Vị pháp sư giải thích :
- Con ma này rất nghịch, và thường quanh quẩn ở đây. Tôi yêu cầu hắn đan chiếc áo len cho các ông để làm bằng chứng. Để tránh việc các ông cho rằng tôi làm tṛ ảo thuật, tráo vào đó một chiếc áo len khác, tôi yêu cầu hắn thêu tên người nào trong phái đoàn có nhiều nghi ngờ nhất. Các ông đều biết rằng từ khi gặp gỡ tôi không hề hỏi tên các ông, và nếu chiếc áo này không đan riêng cho các ông th́ c̣n ai nữa ?
Quả thế, vị pháp sư gầy g̣ không thể mặc chiếc áo đan to tướng, rất vừa vặn cho giáo sư Mortimer, một người Âu mà kích thước đă rất ư quá khổ, so với những người Âu khác, đó là chưa kể ṿng bụng khổng lồ, rất hiếm có của ông này.
Hơn nữa, áo này cũng không thể may sẵn để bán v́ đường kim mũi chỉ rất ư vụng về, nếu có bán, cũng chẳng ai mua. Tại nơi hoang vu, không có ai ngoài vị pháp sư và phái đoàn, sự kiện này quả thật rất lạ lùng.
Giáo sư Evans-Wentz thắc mắc :
- Như vậy ông có thể sai khiến ma quỷ hay sao?
- Tôi không phải là một phù thủy, lợi dụng quyền năng cho tư lợi; mà chỉ là một người có rất nhiều bạn hữu vô h́nh bên cơi âm. Tôi hiểu rơ các luật thiên nhiên như Luân hồi, Nhân quả, và hậu quả việc thờ cúng ma quỷ để mưu cầu một cái ǵ.
Tôi chỉ là một khoa học gia nghiên cứu cơi vô h́nh một cách đứng đắn. Sự nghiên cứu những hiện tượng siêu h́nh là một khoa học hết sức đứng đắn, chứ không phải mê tín dị đoạn. Nhiều người thường tỏ ư chê cười khi nói đến vấn đề ma quỷ, nên những ai có gặp ma, cũng chả dám nói v́ sợ bị chê cười hay cho là loạn trí.
Nếu người nào không tin hăy nghiên cứu và chứng minh một cách khoa học rằng ma quỷ chỉ là những giả thuyết tưởng tượng, c̣n như phủ nhận không dám chứng minh chỉ là một cái cớ che dấu sự sợ hăi. Điều khoa học chưa chứng minh được không có nghĩa là điều này không có thật, v́ một ngày nào đó, khoa học sẽ tiến đến mức mà họ có thể chứng minh tất cả.
Những phương pháp thông thường như cầu cơ, đồng cốt, thường gặp sai lầm v́ như tôi đă tŕnh bày, các vong linh nhập vào phần lớn cũng có kiến thức giới hạn ở cảnh giới nào đó. Đôi khi họ cũng trích dẫn vài câu trong “Thánh kinh”, hoặc sách vở, kinh điển để nâng cao giá trị lời nói, điều này có khác nào những nhà chính trị khi diễn thuyết.
Phương pháp khoa học chính xác nhất là phải tự ḿnh qua hẳn thế giới đó nghiên cứu. Các ông nên biết thân thể chúng ta không phải môi trường duy nhất của linh hồn và giác quan của nó cũng không phải phương tiện duy nhất để nghiên cứu ngoại cảnh. Nếu ta chấp nhận rằng vũ trụ có nhiều cơi giới khác nhau và mỗi thể con người tương ứng với một cơi, th́ ta thấy ngay rằng thể xác cấu tạo bằng nguyên tử cơi trần nên chỉ giới hạn trong cơi này được thôi.
Các thể khác cũng có giác quan riêng của nó và khi giác quan thể vía được khai mở, ta có thể quan sát các cơi giới vô h́nh dễ dàng. Khi từ trần, thể xác tiêu hao, các giác quan không c̣n sử dụng được nữa th́ linh hồn sẽ tập phát triển các giác quan thể vía ngay. Nếu biết cách khai mở các giác quan này khi c̣n sống, ta có thể nh́n thấy cơi âm một cách dễ dàng.
Giáo sư Allen ngập ngừng :
- Nhưng có một quan niệm lại cho rằng, sau khi chết linh hồn sẽ lên thiên đàng hay xuống địa ngục vĩnh viễn, điều này ra sao ?
Hamud lắc đầu :
- Đó là một quan niệm không hợp lư, v́ điều này cho rằng khi chết linh hồn sẽ đổi thay toàn diện. Sau khi chết, linh hồn sẽ mất hết tính xấu để trở nên toàn thiện, trở nên một vị thiên thần vào cơi thiên đàng hoặc là linh hồn có thể mất hết các tính tốt để trở nên xấu xa, trở nên một thứ ma quỷ bị đẩy vào địa ngục.
Điều này vô lư v́ sự tiến hoá phải từ từ, chứ không thể đột ngột được. Trên thế gian này, không ai toàn thiện hay toàn ác. Trong mỗi chúng ta đều có các chủng tử xấu, tốt do các duyên, nghiệp từ tiền kiếp để lại; tùy theo điều kiện bên ngoài mà những chủng tử này nẩy mầm, phát triển hay thui chột, không thể phát triển.
Một người tu thân là một người biết ḿnh, lo vun xới tinh thần để các nhân tốt phát triển, giống như người làm vườn lo trồng hoa và nhổ cỏ dại. Thực ra, khi sống và chết, con người không thay đổi bao nhiêu. Nếu khi sống họ ăn tham th́ khi chết, họ vẫn tham ăn, chỉ có khác ở chỗ, điều này sẽ không c̣n được thỏa măn v́ thể xác đă hư thối, tan ră mất rồi.
Sau khi chết, t́m về nhà thấy con cháu ăn uống linh đ́nh mà họ th́ không sao ăn được, ḷng ham muốn gia tăng cực độ như lửa đốt gan, đốt ruột, đau khổ không sao tả được.
- Như ông đă nói, loài ma đói thường rung động theo không khí quanh đó, như thế họ có thỏa măn không ?
- Khi người sống ăn ngon có các tư tưởng khoái lạc th́ loài ma đói xúm quanh cũng t́m cách rung động theo tư tưởng đó, nhưng không làm sao thỏa măn cho được. Điều này ví như khi đói, nghĩ đến món ăn ngon ta thấy khoan khoái, ứa nước bọt nhưng điều này đâu có thỏa măn nhu cầu bao tử đâu.
Các loại ma hung dữ, khát máu thường tụ tập nơi mổ xẻ súc vật, ḷ sát sinh để rung động theo những không khí thô bạo ở đó. Những người giết súc vật trong nhà vô t́nh mời gọi các vong linh này đến, sự có mặt của họ có thể gây nhiều ảnh hưởng xấu, nhất là cho nhũng người dễ thụ cảm.
- Đa số mọi người đều cho rằng ma quỷ thường xuất hiện ở nghĩa địa, điều này ra sao ?
- Sự hiện h́nh ở nghĩa địa chỉ là h́nh ảnh của thể phách đang tan ră, chứ không phải ma quỷ, vong linh. Khi ta chết, thể xác hư thối th́ thể phách vốn là thể trung gian giữa thể xác và thể vía cũng tan ră theo. Thể phách được cấu tạo bằng những nguyên tử tương đồng với nguyên tử cơi trần.
Nhưng trong đó có nhiều nguyên tử dĩ tháí, nên nhẹ hơn, nó thu thập các sinh lực c̣n rơi rớt trong thể xác, để cố gắng kéo dài sự sống thêm một thời gian nữa. V́ đang tan ră nên thể phách không hoàn toàn, do đó, đôi khi ta thấy trên nghĩa địa có những h́nh ảnh người cụt đầu, cụt chân, bay là là trên các nấm mồ, người không hiểu th́ gọi đó là ma.
Theo sự hiểu biết của tôi, th́ việc thiêu xác tốt đẹp hơn việc chôn cất, v́ để thể xác tan ră từ từ làm cho linh hồn đau khổ không ít và thường ở trong một giai đoạn hôn mê, bất động một thời gian rất lâu. Thiêu xác khiến vong linh thấy ḿnh không c̣n ǵ quyến luyến nữa nên siêu thoát nhanh hơn nhiều.
- Ma quỷ thường thuộc thành phần nào trong xă hội ?
- Chúng thuộc đủ mọi thành phần, tùy theo dục vọng khi c̣n sống. Người chết bất đắc kỳ tử thường lưu lại cơi âm lâu hơn người chết già v́ c̣n nhiều ham muốn hơn. Những kẻ sát nhân bị hành quyết vẫn sống trong cảnh tù tội, giận hờn và có ư định trả thù.
Một người tự tử để trốn nợ đời cũng thế, y sẽ hôn mê trong trạng thái khổ sở lúc tự tử rất lâu. Định luật cơi âm xác nhận rằng, “Chính cái dục vọng của ta quyết định cảnh giới ta sẽ đến và lưu lại ở đó lâu hay mau.”
- Số phận của những người quân nhân tử trận th́ ra sao ?
- Họ cũng không ra ngoài luật lệ đó, tùy theo dục vọng từng cá nhân. Tuy nhiên, người hy sinh tính mạng cho một lư tưởng có một tương lai tốt đẹp hơn, v́ cái chết cao đẹp là một bậc thang lớn trong cuộc tiến hoá.
Họ đă quên ḿnh để chết và sống cho lư tưởng th́ cái chết đó có khác nào những vị thánh tử đạo. Dĩ nhiên không phải quân nhân nào cũng sống cho lư tưởng và những kẻ giết chóc v́ oán thù và chết trong oán thù lại khác hẳn.
- Như ông nói th́ người chết vẫn thấy người sống ?
- Thật ra phải nói như thế này. Khi chết các giác quan thể xác đều không sử dụng được nữa, nhưng người chết vẫn theo dơi mọi sự dễ dàng v́ các giác quan thể vía. Không những thế họ c̣n biết rất rơ tư tưởng, t́nh cảm liên hệ; mặc dù họ không c̣n nghe thấy như chúng ta. Nhờ đọc được tư tưởng, họ vẫn hiểu điều chúng ta muốn diễn tả.
- Như vậy th́ họ ở gần hay ở xa chúng ta ?
- Khi mới từ trần, người chết luôn quanh quẩn bên gia đ́nh, bên những người thân nhưng theo thời gian, khi ư thức hoàn cảnh mới, họ sẽ tách rời các ràng buộc gia đ́nh để sống hẳn ở cơi giới của họ.
- Như thế có cách nào người sống tiếp xúc được với thân nhân quá cố không ?
- Điều này không có ǵ khó. Hăy nghĩ đến họ trong giấc ngủ. Thật ra nếu hiểu biết th́ ta không nên quấy rầy, v́ làm thế chỉ gây trở ngại cho sự siêu thoát. Sự chết là bước vào một đời sống mới, các sinh lực từ trước vẫn hướng ra ngoài, th́ nay quay vào trong, linh hồn từ từ rút khỏi thể xác bằng một bí huyệt trên đỉnh đầu.
Do đó, hai chân từ từ lạnh dần rồi đến tay và sau cùng là trái tim. Lúc này người chết thấy rất an tĩnh, nhẹ nhàng không c̣n bị ảnh hưởng vật chất. Khi linh hồn rút lên óc, nó sẽ khơi động các kư ức, cả cuộc đời sẽ diễn lại như cuốn phim. Hiện tượng này gọi là “hồi quang phản chiếu” (Memory projection).
Đây là một giây phút hết sức quan trọng v́ nó ảnh hưởng rất lớn đến đời sống cơi bên kia. Sợi dây từ điện liên hệ giữa thể xác và thể phách sẽ đứt hẳn. Đây là lúc người chết hoàn toàn hôn mê, vô ư thức để linh hồn rút khỏi thể phách và thể vía bắt đầu lo bảo vệ sự sống của nó bằng cách xếp lại từng lớp nguyên tử, lớp nặng bọc ngoài và lớp thanh nhẹ Ở trong. Sự thu xếp này ấn định cơi giới nào vong linh sẽ đến.
- Ông du hành sang cơi âm thế nào ?
- Nói như thế không đúng lắm, v́ ám chỉ một sự di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Các cơi thật ra ở cùng một nơi chỉ khác nhau ở chiều không gian và thời gian. Sang cơi âm là sự chuyển tâm thức, sử dụng giác quan thể vía để nhận thức chứ không phải đi đến một nơi nào hết.
Sở dĩ cơi trần không thấy cơi âm v́ nguyên tử cấu tạo nó quá nặng nề, rung động quá chậm không thể đáp ứng với sự rung động nhanh của cơi âm. Quan niệm về không gian cũng khác v́ đây là cơi tư tưởng, nghĩ đến đâu là ta đến đó liền, muốn gặp ai chỉ cần giữ h́nh ảnh người đó trong tư tưởng ta sẽ gặp người đó ngay. Khi di chuyển ta có cảm giác như lướt trôi, bay bỗng v́ không c̣n đi bằng hai chân như thể xác.
- Những người chết nhận thức về đời sống mới ra sao ?
- Trừ những kẻ cực kỳ hung dữ, ghê gớm, đa số mọi người thức tỉnh trong cảnh giới thứ năm hoặc thứ sáu, vốn có rung động không khác cơi trần là bao. Lúc đầu họ c̣n bỡ ngỡ, hoang mang nhưng sau sẽ quen đi. Tùy theo t́nh cảm, dục vọng mà họ hành động.
Tôi đă gặp vong linh của một thương gia giàu có, ông này cứ quanh quẩn trong ngôi nhà cũ nhiều năm, ông cho tôi biết rằng ông rất cô đơn và đau khổ. Ông không có bạn và cũng chả cần ai. Ông trở về căn nhà để sống với kỷ niệm xưa nhưng ông buồn v́ vợ con ông vẫn c̣n đó nhưng chả ai để ư đến ông.
Họ tin rằng ông đă lên thiên đàng, v́ họ đă bỏ ra những số tiền, tổ chức các nghi lễ tôn giáo rất lớn, một tu sĩ đă xác nhận thế nào ông cũng được lên thiên đàng. Tôi khuyên ông ta nên cởi bỏ các quyến luyến để siêu thoát nhưng ông ta từ chối.
Một vài người thân đă qua đời cũng đến t́m gặp, nhưng ông cũng không nghe họ. Có lẽ ông ta sẽ c̣n ở đó một thời gian lâu cho đến khi các lưu luyến phai nhạt hết. Tôi đă gặp những vong linh quanh quẩn bên cạnh cơ sở mà họ gầy dựng nên, họ vô cùng đau khổ và tức giận v́ không c̣n ảnh hưởng được ǵ, họ rất khổ sở khi người nối nghiệp, con cháu có quyết định sai lầm, tiêu phá cơ nghiệp.
Tôi đă gặp những người chôn cất của cải, phập phồng lo sợ có kẻ t́m ra, họ vẫn quanh quẩn gần đó và đôi khi t́m cách hiện về dọa nạt những người bén mảng đến gần nơi chốn dấu. Vong linh ghen tuông c̣n khổ sở hơn nữa; họ không muốn người họ yêu mến chia sẻ t́nh yêu với kẻ khác.
Đôi khi họ điên lên khi chứng kiến sự âu yếm của người họ yêu mến và người khác. Dĩ nhiên họ không thể làm ǵ được nên vô cùng khổ sở. Những nhà lănh đạo, những vua chúa, những người hống hách quyền uy th́ cảm thấy bất lực khi không c̣n ảnh hưởng ǵ được nữa, nên họ hết sức đau khổ. Hăy lấy trường hợp một vong linh chết đuối, v́ y không tin ḿnh đă chết, nên cứ ở trong t́nh trạng lúc chết, nghĩa là ngộp nước.
V́ đầu óc hôn mê, nên y không nh́n thấy cơi âm, mà vẫn giữ nguyên h́nh ảnh cơi trần, dĩ nhiên nó chỉ nằm trong tư tưởng của y mà thôi. Nói một cách khác, thời gian như ngừng lại, y cứ thế hôn mê trong nhiều năm. Tôi đă cố gắng thuyết phục nhưng nói ǵ y cũng không nghe, tôi bèn yêu cầu y trở về nhà, đầu óc y hôn mê quá rồi, nên cũng không sao trở về được.
Nhờ các bạn bè cơi vô h́nh, tôi t́m được tên tuổi, và địa chỉ thân nhân vong linh. Tôi tiếp xúc với họ và yêu cầu lập một nghi lễ cầu siêu để cảnh tỉnh vong linh. Nhờ sức chú nguyện mănh lực của buổi cầu siêu, tôi thấy vong linh từ từ tỉnh táo ra, nghe được lời kinh. Y trở về nhà và chứng kiến buổi cầu siêu của con cháu gần 60 năm sau khi y qua đời. Sau đó y chấp nhận việc ḿnh đă chết và siêu thoát…
- Ông cho rằng sự cầu nguyện có lợi ích đến thế sau ?
- Cầu siêu cho vong linh là một điều hết sức quan trọng và ích lợi, v́ nó chứa đựng một sức mạnh tư tưởng vô cùng mănh liệt. Oai lực lời kinh và âm hưởng của nó thật là vô cùng ở cơi âm nếu người ta tụng niệm chú tâm, sử dụng hết cả tinh thần.
Tiếc thay, người đời chỉ coi tụng niệm như một h́nh thức. Họ chỉ biết đọc các câu kinh trên đầu môi, chót lưỡi chứ không biết tập trung tinh thần, nên mất đi phần nào hiệu nghiệm. Sự cầu nguyện có một sức mạnh kinh khủng, có thể dời núi lấp sông, đó là bí huyết khoa “Mật tông Tây Tạng”.
- Như ông nói th́ tôn giáo Tây Tạng có hiệu nghiệm nhiều hay sao ?
- Vấn đề cầu nguyện cho người chết không phân biệt tôn giáo và cũng không cần theo một nghi thức, nghi lễ nào nhất định, mà chỉ cần tập trung tư tưởng, hết sức chú tâm cầu nguyện. Theo sự hiểu biết của tôi th́ tôn giáo nào cũng có những nghi lễ riêng và nghi lễ nào cũng tốt nếu người thực hành thành tâm.
- Như vậy nghi lễ rửa tội trước khi chết có ích lợi ǵ không ?
- Một số người tin rằng, hạnh phúc vĩnh cữu của con người tùy thuộc tâm trạng y lúc từ trần. Nếu lúc đó y tin rằng ḿnh được cứu rỗi th́ như được một vé phi cơ lên thiên đàng, c̣n không y sẽ xuống địa ngục. Điều này gây nhiều sợ hăi, lo âu vô ích.
Nếu một người chết th́nh ĺnh th́ sao? Phải chăng họ sẽ xuống địa ngục ? Nếu một tín đồ hết sức ngoan đạo nhưng chết ngoài trận mạc th́ sao ? Họ đâu được hưởng nghi lễ rửa tội ? Sự chuẩn bị hữu hiệu nhất là có một đời sống thanh cao, nếu ta đă có một đời sống cao đẹp, th́ tâm trạng khi chết không quan trọng.
Trái lại, ta không thể ao ước một tương lai tốt đẹp dù tang lễ được cử hành bằng các nghi lễ to lớn, linh đ́nh nhất. Dù sao, tư tưởng chót trước khi ĺa đời cũng rất hữu ích cho cuộc sống mới bên kia cửa tử. Nó giúp vong linh tỉnh táo, dễ thích hợp với hoàn cảnh mới hơn.
Một cái chết thoải mái, ung dung phải hơn một cái chết quằn quại, chết không nhắm mắt được. Theo tôi th́ sự hiểu biết về cơi vô h́nh, sự chuẩn bị cho cái chết là điều hết sức quan trọng, cần được phổ biến rộng răi, nhưng tiếc là ít ai chú ư đến việc này.
- Vậy theo ông, chúng ta cần có thái độ ǵ ?
- Đối với người Âu tây, đời sống bắt đầu khi lọt ḷng mẹ, và chấm dứt lúc chết, đó là một quan niệm cần thay đổi. Đời sống cơi trần chỉ là một phần nhỏ của chu kỳ kiếp sống. Chu kỳ này được biểu hiện bằng một ṿng tṛn mà sự sống và chết là những nhịp cầu chuyển tiếp giữa hai cơi âm, dương, giữa thế giới hữu h́nh và vô h́nh.
Trên con đường tiến hoá, c̣n hằng ha sa số các chu kư, các kiếp sống cho mỗi cá nhân. Linh hồn từ cơi thượng giới cũng phải qua cơi trung giới. Phần ở cơi trần chỉ là một phẩn nhỏ của một kiếp sống mà thôi. Trong chu kỳ này, phần quan trọng ở chỗ ṿng tṛn tiến sâu vào cơi trần và bắt đầu chuyển ngược trở lên, đó là lúc linh hồn hết tha thiết với vật chất, mà có ư hướng về tâm linh.
Các cổ thư đă vạch ra một đời sống ở cơi trần như sau : 25 năm đầu để học hỏi, 25 năm sau để lo cho gia đ́nh, đây là giai đoạn tiến sâu vào trần thế, 25 năm sau nữa phải từ bỏ việc đời để lo cho tâm linh, đó là thời điểm quan trọng để đi ngược lên, hướng về tâm linh, và 25 năm sau chót phải từ bỏ tất cả, chỉ tham thiền, quán tưởng ở nơi rừng sâu, núi thẳm.
Đối với người Á châu th́ 50 tuổi là lúc từ bỏ vật chất để hướng về tâm linh, nhưng người Âu châu lại khác, họ ham mê làm việc đến độ mù quáng, cho đến già vẫn tranh đấu hết sức vất vả, cho dục vọng, cho bản ngă, cho sự sống c̣n, cho sự thụ hưởng. Do đó, đa số mất quân b́nh và khi chết hay gặp các nghịch cảnh không tốt.
Theo ư tôi, chính v́ sự thiếu hiểu biết về cơi âm nên con người gây nhiều tai hại ở cơi trần. Chính v́ không nh́n rơ mọi sự một cách tổng quát, nên họ mới gây lầm lỗi, chứ nếu biết tỷ lệ đời sống cơi trần đối với toàn kiếp người, th́ không ai dồn sức để chỉ lo cho 1/3 kiếp sống, mà sao lăng các cơi trên.
Nếu con người hiểu rằng quăng đời ở cơi trần rất ngắn ngủi, đối với trọn kiếp người và đời sống các cơi khác c̣n gần với chân lư, sự thật hơn th́ có thể họ đă hành động khác đi chăng ? Có lẽ v́ quá tin tưởng vào giác quan phàm tục, nên đa số coi thế giới hư ảo này là thật và cơi khác là không có…
- Nhưng nếu ông cho rằng các cơi kia c̣n gần với sự thật hơn, th́ tại sao ta lại kéo lê kiếp sống thừa ở cơi trần làm ǵ ? Tại sao không rũ nhau đi sang cơi khác có tốt hơn không ?
Hamud mỉm cười :
- Tuy cơi trần hư ảo, nhưng nó có những lợi ích của nó, v́ con người chỉ có thể t́m hiểu, và phát triển xuyên qua các rung động thô thiển này thôi. Cơi trần có các bài học mà ta không t́m thấy ở đâu khác.
Chính các bậc chân tiên, bồ tát trước khi đắc quả vị đều phải chuyển kiếp xuống trần, làm các công việc vĩ đại như một thử thách cuối cùng. Muốn khai mở quyền năng, con người phải tiếp nhận các bài học ở cơi trần, nhờ học hỏi những bài học này, họ mới trở nên nhạy cảm với các rung động ở cơi trên.
- Ông muốn nói sự nhạy cảm như thế nào ?
- Sự mở mang trí tuệ giống như một máy thu thanh, và các rung động ví như các tầng sóng. Một người không hiểu biết, ví như máy thu thanh không bắt trúng đài, không thay đổi băng tầng. Họ sinh ra sao th́ chết cũng vậy, chả học được điều ǵ, v́ như máy không bắt trúng đài chỉ kêu rè rè.
Một người hiểu biết là người biết thay đổi con người của ḿnh để bắt trúng những tầng sóng. Dĩ nhiên có nhiều làn sóng, băng tầng khác nhau và con người sẽ bị tràn ngập bởi các làn sóng này cho đến khi họ điều hoà, phân biệt điều hay, lẻ dở, để chọn những bằng tầng thích hợp hơn.
Khi đó, họ bắt trúng những đài phát thanh, nghe được điệu nhạc họ muốn. Huyền âm của thượng đế lúc nào cũng vang lừng trong vũ trụ cho những ai muốn nghe, biết chuyển tâm thức để nghe, biết thay đổi tâm hồn để bắt được làn sóng thanh cao, tế nhị đó.
Mọi người gật đầu thán phục vị pháp sư Ai cập đă dùng những thí dụ cụ thể để giải thích một điều phức tạp. Giáo sư Mortimer thắc mắc :
- Ngoài việc khai mở giác quan để nghiên cứu cơi âm, ông c̣n làm ǵ nữa ?
- Việc nghiên cứu sẽ không có ư nghĩa ǵ, nếu ta chỉ quan sát như một khách bàng quang, đứng ngoài nh́n ngắm. Con người cần học hỏi những điều ǵ xảy ra khi họ từ trần, để thay đổi thích hợp với cuộc sống mới, không những cho họ mà c̣n cho những người thân. Càng hiểu biết bên kia cửa tử, họ càng dễ dàng hướng dẫn các vong linh khác.
- Nói một cách khác, ông hay giúp đỡ những vong linh vừa từ trần ?
- Chính thế, đó là công việc của tôi. Phần lớn người chết thường xúc động và không chấp nhận rằng họ đă chết, họ muốn bám víu lấy cơi trần, và trở nên các loài ma vất vưởng. Công việc của tôi là trấn an họ, giải thích cho họ rằng ở cơi âm nếu muốn siêu thoát cần thay đổi trọn vẹn lối sống.
Việc này dĩ nhiên rất khó v́ các vong linh không chịu nghe, hơn nữa nhiều người luyến tiếc cơi trần, v́ họ có những việc chưa giải quyết xong, tâm hồn họ chưa được an để siêu thoát. V́ thế sự hiện diện của một người c̣n sống như tôi rất hữu ích, tôi có thể giúp họ hoàn tất các tâm nguyện để họ siêu thoát…
- Công việc này có kết quả ǵ không ?
- Đây là một việc hết sức khó khăn, nên tôi phải kết thân với một số bạn bè bên cơi âm. Nếu vong linh u mê nhất định không nghe, th́ tôi phải nhờ những bạn bè, người thân của họ thuyết phục, giúp đỡ. Thí dụ như một vong linh bị chết trong một trận hỏa hoạn tại Luân đôn. Y bị kẹt trong toà nhà ba tầng, không sao thoát được, nên chết ngộp bởi khói.
Y không tin ḿnh đă chết, nên thần thức vẫn vùng vẫy, t́m chỗ thoát thân. Tôi khuyên bảo nhưng y quá lo sợ chết cháy, nên không chịu tin lời tôi. Sau tôi phải nhờ mẹ y đă từ trần từ nhiều năm trước đến khuyên bảo th́ y mới chấp nhận và siêu thoát.
- Ông muốn nói rằng thân quyến có thể làm việc đó, dù họ chết đă lâu ?
- Dĩ nhiên, sự liên hệ giữa con người với nhau đâu phải t́nh cờ mà do nhiều duyên nghiệp từ trước. Nếu sợi dây thân ái vẫn c̣n, th́ dù qua đời họ vẫn để ư lưu tâm đến những người họ yêu mến. Dù đă siêu thoát lên cảnh giới riêng, nhưng họ vẫn sẵn sàng trở lại khuyên bảo, giúp đỡ con cháu của họ.
- Như vậy sau khi chết ta có thể gặp lại cha mẹ, ông bà, họ hàng thân thích hay sao ?
- Dĩ nhiên, như tôi vẫn nói con người khi sống ra sao th́ chết vẫn vậy, đâu có đổi thay ǵ. Nếu t́nh cảm vẫn c̣n th́ họ vẫn t́m đến gặp nhau. Thật ra nếu ta xem sự chết như đi du lịch qua một thế giới mới, quang đăng, sáng sủa hơn th́ chúng ta sẽ không có cảm tưởng xa người quá cố.
Sự thật là không có điều ǵ chia cách linh hồn cả, khi ta yêu mến ai bằng những rung động chân thành, ta yêu mến họ qua linh hồn của họ chứ đâu phải chỉ xác thân. Xác tuy hư hoại nhưng hồn họ vẫn ở quanh ta, tuy ta không thấy họ nhưng họ vẫn cảm nhận được t́nh thương của ta. Họ c̣n biết các đau buồn, cảm giác của ta, v́ họ đọc được tư tưởng.
Dĩ nhiên, nếu họ vẫn theo dơi th́ khi ta chết đi, họ sẽ đón tiếp để trấn an ta. Đây là một vấn đề cần được lănh hội cẩn thận, v́ khi hiểu biết ta sẽ không c̣n sợ hăi, ta chấp nhận sự chết như một việc hiển nhiên. Bên kia cửa tử cũng như cơi trần, luật thiên nhiên luôn luôn biểu hiện và hết sức công bằng.
- Làm sao chúng tôi có thể biết chắc rằng khi chết ta sẽ gặp người thân ?
- Như tôi đă tŕnh bày, có bảy cảnh ở cơi trung giới và sự thức tỉnh ở cảnh nào hoàn toàn tùy theo tâm thức con người rung động cùng với nhịp rung của cảnh đó. Con người chỉ có thể tiếp xúc với vong linh ở cảnh đó hoặc cảnh thấp hơn mà thôi.
Đa số những người qua đời đă lâu, thể vía đă được thanh lọc nên thường sống ở cảnh giới cao hơn, do đó họ có thể tiếp xúc với những người ở cảnh giới thấp hơn nếu họ muốn. Ngược lại những kẻ thức tỉnh ở cảnh thứ bảy hay thứ sáu chỉ muốn t́m về cơi trần mà thôi, ít khi ư thức cảnh giới khác.
Có nhiều vong linh sau khi đă lên đến cảnh giới cao lại t́m về những cảnh thấp hơn, không phải họ ham mê ǵ cơi này, nhưng v́ ḷng thương người, họ muốn giúp đỡ những người cùng cảnh ngộ, những kẻ lạc lơng, bơ vơ không ư thức.
Hamud im lặng một lúc rồi thong thả :
- Cứu trợ, giúp đỡ các vong linh bên kia cửa tử là một điều hết sức cần thiết v́ người chết th́ nhiều, mà người hiểu biết lại chẳng có bao nhiêu….
- Nhưng đâu phải ai cũng làm được việc này, phải có các quang năng đặc biệt như ông, hay đợi lúc chết mới giúp đỡ được chứ…
Hamud lắc đầu :
- Không phải khi từ trần mới làm được việc này. Khi c̣n sống ta vẫn có thể làm được mà cũng không cần khai mở quang năng nào cả. Bất cứ ai biết suy nghĩ đều có thể làm được.
Các ông nên hiểu rằng khi ngủ, thể vía của ta được tự do có thể hoạt động bên cơi âm. Nếu ta tập trung tư tưởng trước khi ngủ vào một sự giúp đỡ, an ủi nhắm mục đích hướng dẫn, cứu trợ tất cả mọi người không phân biệt th́ điều này sẽ được thực hiện.
- Chỉ thế thôi ư ? Như vậy th́ ai làm chẳng được ?
- Dĩ nhiên, điều này không nguy hiểm ǵ hết v́ tư tưởng có một sức mạnh thần giao đặc biệt và có một mănh lực phi thường ở cơi âm. Nếu ta tập làm những việc này khi c̣n sống, ta sẽ không bỡ ngỡ, ngạc nhiên khi qua cơi bên kia v́ ta đă quen thuộc với nó rồi.
Ta c̣n gặp những người nhờ tư tưởng của ta mà được giúp đỡ, dĩ nhiên là họ sẽ đón tiếp ta nồng hậu và từ đó sẽ tiếp tục làm những công việc này…
- Làm sao có thể dễ dàng như thế được ?
Hamud mỉm cười :
- Nghe th́ dễ thật nhưng nó đ̣i hỏi một sự quyết tâm. Thứ nhất việc làm của ta phải bất vụ lợi, vị tha, vô tư v́ cơi âm là cơi tư tưởng . Nếu ta có ư định mưu đồ việc ǵ, những người khác biết ngay và hậu quả lại chưa biết thế nào mà lường được.
Thứ hai, đa số vong linh đều u mê, ngoan cố, rất khó thuyết phục, v́ các nghiệp quả trói buộc hoặc lưu luyến cơi trần v́ con cháu khóc than, thương tiếc quá làm họ đâm ra xúc động khó siêu thoát. Do đó, công việc này đ̣i hỏi sự tế nhị, khéo léo và một tâm hồn an tĩnh, không bối rối, xúc động.
Nhưng khi ta đă phát tâm th́ tư tưởng này sẽ là một khí cụ rất tốt giúp đỡ ta rất nhiều. Theo ư kiến của tôi, th́ việc có một kiến thức rộng răi về cơi âm là căn bản đầu tiên.
Giáo sư Allen lắc đầu :
- Nếu nói rằng khi ngủ, ta qua cơi âm. Tại sao tôi không ư thức một tí ǵ cả ? Phải có một bằng chứng nào rơ rệt mới tin như vậy được.
- Các ông hiểu thế nào về sự cấu tạo của con người. Trong lúc tỉnh, thể vía là cây cầu cho tâm thức. Mọi sự va chạm, rung động, cảm xúc bên ngoài do hệ thần kinh giao cảm, được thể vía chuyển vào tâm thức, sau đó mới ghi nhận ở khối óc. Bằng chứng là ta suy nghĩ trước khi ta hành động có phải không ?
Nguyên nhân giấc ngủ là sự mệt mỏi của thể xác. Nó cần phục hồi sức khoẻ nên nằm yên, nhưng thể vía lại khác. Nó vẫn hoạt động v́ bằng chứng là đôi khi ngủ say nhưng ta vẫn ư thức mọi việc xảy ra chung quanh, có đúng thế không ? Thể vía luôn rung động để đáp ứng với hoàn cảnh chung quanh, v́ tính chất này nó rất mẫn cảm với các rung động của bản năng, ham muốn, dục vọng.
Các tính xấu như giận hờn, oán ghét chẳng qua là sự cô đọng của tư tưởng mà thôi. Sự cô đọng này tạo thành một lớp vỏ bao trùm lên thể vía, và ảnh hưởng của nó. Do đó, tính t́nh con người chỉ là một thói quen của tư tưởng. Như tôi đă tŕnh bày, tư tưởng thanh cao cũng như hèn hạ đều bị thu hút vào thể vía và trực tiếp ảnh hưởng đến t́nh cảm con người.
Bằng chứng là một người có tâm hồn thanh khiết không thể hợp với những nơi ồn ào náo nhiệt, ngược lại kẻ có tâm hồn náo động không thể chịu nơi vắng vẻ, êm đềm. Có người tự hỏi, tại sao họ không thể ngồi yên một chỗ, không thể tu tập các pháp môn thiền quán ? Ấy v́ thể vía họ lao chao, giao động.
Họ cần biết cách chủ trị t́nh cảm, thanh lọc thể vía. Các món đồ ăn nặng trọc như thịt cá, rượu, các chất kích thích cũng đem vào thể vía những phần nặng trọc. Người tu phải triệt để từ bỏ các món ăn này, v́ nó rất có hại cho việc tham thiền, quán tưởng. Thể xác và thể vía liên lạc với nhau qua bảy trung tâm giao điểm sinh lực gọi là Luân xa.
Tại đây, có một tấm màn cấu tạo bằng nguyên tử cơi trần để ngăn chận ảnh hưởng cơi âm. V́ thế, kư ức và sinh hoạt lúc ngủ không chuyển sang khối óc vật chất. Tuy nhiên, đôi khi ngủ dậy ta vẫn mường tượng có một cái ǵ mà không sao nhớ được.
Đối với một người b́nh thường th́ luân xa không thức động nên tấm màn này khép chặt nhưng rượu, thịt, các chất kích thích có thể phá hoại tấm màn này khiến nó bị rách và ảnh hưỏong cơi âm có thể chuyển qua cơi trần khiến y bị điên khùng hay rối loạn hệ thần kinh. Có khi cá nhân mất tự chủ, bị các loài ma quỷ nhập vào sai khiến.
Giáo sư Allen lên tiếng :
- Những điều ông tŕnh bày rất lạ lùng, nhưng cũng có lư. Tuy nhiên, theo sự hiểu biết của chúng tôi th́ khoa học không thể chứng minh điều này. Liệu có cách nào khiến chúng tôi cũng khai mở các quan năng để nghiên cứu cơi giới vô h́nh như ông không ?
Hamud gật đầu :
- Sự khai mở quyền năng thuộc phạm vi tâm thức, trước khi mở tâm phải tinh luyện các thể đă. Nếu chưa thanh lọc được các thể th́ đừng nói đến khai mở bất cứ một giác quan nào.
- Vậy ta phải luyện các thể bằng cách nào ?
- Tinh luyện thể trí bằng sự suy tư chân chính. Trí tưởng tượng con người là một công cụ sáng tạo hữu hiệu. Khi ta suy tư, tưởng tượng, ta vô t́nh xây dựng thể trí. Nếu ta chỉ suy tư những điều tốt lành, cao thượng th́ ta đă luyện trí rồi. Sau thể trí là thể vía, thể này chỉ luyện bằng cách ham muốn chân chính. Hăy ham mê các điều cao thượng th́ tự khắc thể vía sẽ phát triển.
- Ông nói nghe thật dễ dàng. Tư tưởng cao thượng và ham muốn chân chính là những điều trừu tượng, làm sao có thể làm được…
- Đa số mọi người quan niệm như thế nên chả khi nào tiến bộ được. Con người muốn quyền năng, giải thoát nhưng chỉ chờ đợi một phép lạ, một tha lực ngoại giới, chứ không tự tin rằng ḿnh có khả năng làm những việc đó.
- Dù tôi muốn thanh lọc các thể th́ cũng phải có một phương pháp, một sự hướng dẫn, một kỹ thuật nào đó, chứ nói một cách trừu tượng th́ ai nói chẳng được.
- Theo sự hiểu biết của tôi th́ tôn giáo nào cũng dạy những điều cao đẹp và áp dụng những lời dạy này. Đây cũng là một phương pháp, kỹ thuật thanh lọc các thể.
- Như vậy, ông theo phương pháp nào ? Hăy nói về kinh nghiệm của ông đă…
Hamud trầm ngâm rồi gật đầu :
- Được lắm, tôi được truyền thụ phương pháp này tại một tu viện ở Tây Tạng, nên chịu ảnh hưởng Phật giáo rất nhiều. Thứ nhất là luyện thể xác, phải biết cách kiểm soát, kiềm chế thể xác hoàn toàn, quy định mọi hoạt động như ăn, uống, ngủ cho thật đúng. Thức ăn được phân làm ba loại : tỉnh, động và điều hoà.
Người tập phải tránh đồ ăn “tỉnh” v́ nó làm thể xác hôn mê, lười biếng, bất động. Các thức ăn có đặc tính “tỉnh” là các món đang lên men, các thứ đồ khô, các loại rượu. Các món ăn có đặc tính “động”, như thịt, cá, thường đem lại các kích thích hăng hái nhất thời, xác chết thú vật gồm nhiều nguyên tử nặng nề bởi các thú tính thấp hèn không thích hợp cho việc tu hàn, thanh lọc.
Chỉ có các món ăn “điều hoà” là thứ có khả năng tăng trưởng, chứa nhiều sụ sống như ngũ cốc, v́ nó đâm mầm, nẩy lộc, các loại trái cây vốn tràn đầy nhựa sống, các loại rau cỏ vốn hấp thụ khí thái dương cần thiết cho một thể xác cường tráng, nhạy cảm. Sau việc ăn uống, c̣n phải thở hít, hô hấp cho đúng cách.
Khoa học chứng minh con người sống được là nhờ hơi thở nhưng thật ra đó nhờ sinh khí (prana). Chính các sinh khí này thấm nhuần khắp cơ thể, mang sự sống đến khắp tế bào. Prana xuất phát từ ánh sáng mặt trời, nó rung động và pha trộn trong không khí.
Bằng cách hô hấp thật sâu, thong thả. Prana sẽ thấm vào thần kinh hệ và lưu thông khắp châu thân, mang sự sống khắp xác thể. Chính các Prana tích tụ trong hệ thần kinh tạo ra luồng “nhân điện”, một yếu tố quan trọng của sự sống.
Tóm lại, dinh dưỡng đúng cách bằng các món ăn có đặc tính “điều hoà”, tập thở hít đúng cách là phương pháp tinh luyện thể xác vô cùng quan trọng. Như các ông thấy, phương pháp này không có ǵ trái với khoa học hiện tại.
Cách thực hành có thể khác nhau tùy cá nhân, người gọi là thể dục, kẻ gọi là thiền định, điều này không quan trọng v́ căn bản chính chỉ nhằm đem lại một thể xác lành mạnh, cường tráng. Người luyện thể xác cần sống nơi thoáng khí, nhiều ánh sáng mặt trời để đón nhận các sinh lực prana, nhằm bổ túc luồng nhân điện.
Các món ăn như thịt cá mang lại các rung động thô bạo, khiến luồng nhân điện này chạy loạn lên khó kiểm soát, gây nên các bệnh tật hoặc phá hoại hệ thần kinh. Các món ăn “tỉnh” như rượu làm tê liệt bộ thần kinh khiến luồng nhân điện bị ngắt quăng không đều, ngăn trở các sinh khí prana lưu thông mang sinh lực nuôi thể xác, gây nên nhiều hậu quả không tốt.
Sau khi thanh lọc thể xác, ta bắt đầu luyện đến thể vía. Thể vía là trung tâm của t́nh cảm, một khi t́nh cảm trong sạch, vị tha, bác ái, đương nhiên các chất thanh nhẹ sẽ được hấp thụ vào và các chất nặng trọc, xấu xa sẽ bị đào thải ra ngoài, theo một nguyên lư giống như sự thấm lọc (osmose).
Khi thể vía thanh cao, nó sẽ rung động với các tư tưởng cao thượng mang tâm thức lên một b́nh diện cao hơn. Khi sự rung động đến một chu kỳ nào đó, các giác quan thể vía bắt đầu khai mở tự nhiên, con người sẽ bắt đầu có quyền năng đặc biệt. Nói một cách khoa học hơn, các giác quan thể vía chỉ hoạt động ở một chu kỳ và chỉ khi nào thể vía rung động đúng chu kỳ này nó mới được đánh thức để hoạt động.
Thể vía chỉ có thể rung động ở chu kỳ này v́ nó được cấu tạo bằng những nguyên tử thật thanh, nhẹ, khi những nguyên tử nặng trọc bị khu trục hết. Điều này chỉ xảy ra khi con người chỉ có các t́nh cảm cao thượng, ḷng bác ái tốt lành bao trùm mọi vật. Đó là bí quyết cách luyện thể vía.
Khi bảy giác quan của thể vía hoạt động, nó sẽ khai mở một số bí huyệt để luồng hỏa hầu Kundalini thức giấc. Khi luồng hỏa hầu này chạy dọc theo xương sống lên đỉnh đầu, nó sẽ thúc đẩy, khai mở thể trí khiến nó khai triển để hợp nhất với chân thần.
Khi thể trí khai triển, mở lớn ra nó sẽ khởi sự tiêu diệt cái phàm ngă ích kỷ của con người để hướng đến các điều thánh thiện. Đây là một giai đoạn vô cùng khó khăn, rất ít ai vượt qua nổi. Danh từ Phật giáo gọi là Phật tánh biểu lộ, danh từ Thiên chúa giáo gọi là quên ḿnh để hoà nhập với đấng cứu thế, danh từ Ấn giáo gọi là sự hợp nhất với Chân Ngă.
Nói một cách giản dị th́ đây là lúc trí tuệ quy kết các tư tưởng và hoạt động về t́nh huynh đệ, bác ái nhu thuận, từ bi, trí tuệ, vị tha, hỷ xả để kết tinh thành chân ngă. Khi phàm ngă hoàn toàn bị huỷ diệt, các thể cũng hoàn toàn được thanh lọc th́ không c̣n sự phân biệt giữa ta và tha nhân, giữa chủ thể và đối tượng mà tất cả đều là một.
Thể trí không c̣n tính cách cá nhân mà đă thành “đại trí”, hay trí tuệ “bát nhă”. Tâm thức cũng không c̣n là tâm cá nhân mà thành tâm thức “bồ đề”, hoà hợp hoàn toàn với tâm thức vũ trụ. Cả tâm lẫn trí mở rộng đón nhận ánh sáng chân lư mà không c̣n phải học hỏi, lư luận ǵ nữa.
Đây chính là giai đoạn giác ngộ của người tu. Họ trở nên một đấng siêu nhân, một vị Tổ, một vị Thánh…
Giáo sư Evan-Wentz thắc mắc :
- Căn cứ vào đâu ta biết được như vậy ? Phải có bằng chứng ǵ chứ ?
Hamud lắc đầu :
- Các kinh nghiệm quư báu, thiêng liêng đó chỉ có các bậc giác ngộ rồi mới hiểu được. Không một vị thánh nào vỗ ngực tự xưng đă đạt quả vị này hay quyền năng nọ. Khi đă giác ngộ th́ chức tước, danh vọng, địa vị đâu có nghĩa lư ǵ nữa, v́ họ đâu c̣n bản ngă thấp hèn như chúng ta để phân biệt.
Chỉ có các “bậc lừa bịp”, các tu sĩ giả mạo mới thích danh vọng, chức tước, v́ bản ngă họ c̣n to lớn và cần các danh xưng, địa vị để lừa bịp tín đồ nhẹ dạ.
- Trên nguyên tắc th́ như vậy, nhưng c̣n phương pháp, kỹ thuật th́ sao ?
- Phương pháp, kỹ thuật th́ rất nhiều, con đường đến chân lư cũng thế, tùy theo nhân duyên, căn cơ cá nhân không thể áp dụng một kỹ thuật nào cứng nhắc được. Phương pháp, kỹ thuật có thể khác nhau, nhưng nguyên tắc chỉ có một. Sự thật là chân lư luôn luôn được truyền dạy dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác, tùy theo điều kiện, hoàn cảnh và phương tiện.
Phương pháp tuy khác nhưng chân lư vẫn là một giống như nước suối hay nước sông vẫn là nước mà thôi. (Tùy duyên bất biến). Chân lư có thể được truyền dạy bởi những thầy phù thuỷ trong các bộ lạc man dă hoặc các bậc giáo chủ trong kinh điển tôn giáo. Kinh điển hay tôn giáo có thể khác nhau về h́nh thức nhưng vẫn có điểm tương đồng mà ta phải chấp nhận.
- Chấp nhận phải chăng là một h́nh thức của tin tưởng ?
- Con đường đạo đ̣i hỏi một đức tin, nhưng không phải nhắm mắt tin tưởng bừa băi. Đức tin chỉ đến sau khi người t́m đạo tự ḿnh nhận thức rơ ràng, sau khi hiểu biết chứng nghiệm nó một cách rốt ráo. Các ông là những khoa học gia, không đời nào các ông tin tưởng một sự kiện ǵ nếu không kiểm chứng rơ ràng.
Sự nghi ngờ là một điều cần thiết, nhưng nếu có những sự kiện mà khoa học không thể chứng minh hay chưa thể chứng minh được, các ông sẽ phải làm ǵ ? Phủ nhận chăng ? Nếu phủ nhận, các ông đă bỏ qua một cơ hội t́m hiểu nghiên cứu. Nếu chấp nhận mà không kiểm chứng th́ các ông đă mù quáng tin tưởng bừa băi.
Tôi không mong các ông phải tin tưởng những điều tôi tŕnh bày, nhưng mong các ông hăy suy gẫm, nghiên cứu nó. Nếu chưa thể sử dụng các dụng cụ khoa học thực nghiệm để chứng minh th́ hăy sử dụng lư trí, trực giác, v́ sự nghiên cứu cơi âm là một khoa học, chứ không phải một sự tin tưởng bừa băi.
Kiến thức về cơi giới này sẽ giúp đỡ nhiều người, tôi tin rằng trong một ngày không xa sẽ có nhiều cuộc nghiên cứu về đối tượng này.
- Tại sao ông không công bố những khám phá của ḿnh cho mọi người ? Tại sao ông lại ẩn thân một nơi hoang vu như thế này ? Nếu ông muốn, kiến thức của cơi giới này được nghiên cứu rộng răi th́ ông phải là người khởi xướng nó lên để mọi người được biết, và biết đâu sau đó lại chẳng có những cuộc nghiên cứu ?
Hamud mỉm cười :
- Khi tŕnh độ con người chưa đến lúc, th́ có những điều chưa thể công bố được. Các bậc giáo chủ ngày trước đă giảng dạy chân lư làm thành hai phần, Công truyền và Bí truyền. Tại sao các ngài lại dạy riêng cho một thiểu số môn đồ giáo lư Bí truyền ?
Phải chăng các ngài biết chỉ một thiểu số người mới có thể lănh hội được những điều ngài giảng dạy. Khoa học nghiên cứu về cơi âm cũng có những sự nguy hiểm riêng của nó, không thể truyền dạy bừa băi cho tất cả mọi người.
- Xin ông giải thích rơ hơn về việc này, tại sao lại nguy hiểm ?
- Tôi vừa tŕnh bày cho các ông một phương pháp tinh luyện các thể như tôi đă được truyền dạy. Dĩ nhiên, c̣n có nhiều phương pháp khác cũng mang lại các kết quả tương tự nhưng cứu cánh lại khác hẳn.
Có hàng trăm phương pháp phát triển năng khiếu thần thông, nhưng người tu phải hiểu rằng quyền năng chỉ là những phương tiện thấp thỏi, giúp ta mở rộng kiến thức. Quyền năng không bao giờ là một cứu cánh, một mục đích. Sự tham luyến, vọng tưởng sẽ đưa người có quyền năng vào ma đạo.
Người tu hành cần ư thức rơ rệt rằng chỉ khi nào phàm ngă hoàn toàn bị tiêu diệt th́ con người mới thoát khỏi ảo ảnh của màn vô minh và thực sự chứng nghiệm chân lư. Quyền năng càng cao ta càng phải lập hạnh, nghiêm khắc giữ ǵn đề cao cảnh giác các ảo ảnh của vô minh….
- Ông nói đến vô minh như một cái ǵ trừu tượng, liệu ông có thể lấy một thí dụ dễ hiểu hơn không v́ danh từ này c̣n xa lạ với chúng tôi ?
- Hăy lấy thí dụ một người tu hành công phu khổ luyện đă bắt đầu khai mở vài quyền năng thô thiển như Thần Nhăn chẳng hạn. V́ số người có quyền năng này ở cơi trần rất ít, người đó tưỏong ḿnh tiến bộ vượt bực, đă trở nên một đấng này, đấng nọ.
Ḷng kiêu căng phát triển xúi dục họ nghĩ rằng ḿnh đă đắc quả vị lớn lao, đă được giao phó các sứ mạng cao cả. Họ tự phong cho ḿnh những chức tước, danh vọng hoặc đôi khi tín đồ xưng tụng cho họ là đấng này, đấng nọ, th́ họ cũng chấp nhận tuốt.
Họ nghĩ ḿnh đă sáng suốt, cao cả th́ c̣n lầm lạc thế nào được nữa… Họ đâu hiểu rằng trong cơi âm có rất nhiều vong linh bất hảo hay t́m cách hướng dẫn sai lạc những người non nớt vừa bắt đầu khai mở quyền năng.
Dĩ nhiên với trí tuệ nông cạn, họ không có một tiêu chuẩn nào để xét đoán, hiểu biết những hiện tượng, những điều họ nh́n thấy và trắc nghiệm xem điều đó có hợp với chân lư hay không ? Bởi thế họ dễ bị lung lạc để trở nên một tay sai đắc lực của các vong linh, ma quỷ, các sinh vật vô h́nh.
Như các ông đă thấy những pháp sư, thầy phù thuỷ, các tu sĩ thiếu sáng suốt, thiếu công phu tu hành, thiếu tŕ giới, đều rơi vào cạm bẫy của vô minh cả. Họ có một vài quyền năng thật nhưng không sử dụng nó vào mục đích giúp dời mà sử dụng vào các việc ích kỷ hại nhân…
- Nhưng làm sao tránh được các điều này ? Làm sao một người mới bắt đầu có quyền năng biết được những điều ḿnh nh́n thấy không phải là ảo ảnh của vô minh, những điều ḿnh chứng nghiệm không phải sự truyền dạy vu vơ của loài sinh vật vô h́nh ?
Hamud nghiêm trang tuyên bố :
- Người nào sống một đời tinh khiết về tư tưởng và hành động, không bị ô nhiễm bởi ích kỷ th́ sẽ được che chở. Với các rung động thanh cao, các ảnh hưởng xấu không thể xâm nhập, các vong linh bất hảo thấy người đó không có ǵ để chúng lợi dụng được.
Trái lại, một người c̣n nhiều tham vọng, thiếu công phu tŕ giới th́ chính sự rung động bất thiện phát xuất từ nội tâm người đó, sẽ hấp dẫn các vong linh, ma quái đến quanh. Trong họ c̣n đầy đủ các khí cụ như Tham, Sân, Si, ích kỷ, mê muội th́ quá dễ dàng để các vong linh lợi dụng.
Một tu sĩ bất cứ tôn giáo nào cũng đều phải giữ giới, tuân các điều răn v́ các bậc giáo chủ sáng lập tôn giáo đă đi qua con đựong đó, đă biết các hiểm nguy và đặt ra cấm điều để cho người theo sau biết đường mà tránh.
- Nhưng các lối tu luyện thần thông vào mục đích nhất định như chữa bệnh th́ sao ?
- Điều này tùy tâm thức người luyện, nhưng theo sự hiểu biết của tôi th́ bất cứ lối tập luyện nào thiếu sự đứng đắn đều đưa vào con đường nguy hiểm. Các ông nên biết một khi có quyền năng, dù là một quyền năng hạ cấp rất thô thiển, kẻ sự dụng nó đều có thể làm nhiều việc mà người b́nh thường cho là “phi thường”, v́ đa số nhân loại chưa có khả năng đó.
Điều này khiến kẻ luyện dễ trở nên kiêu căng và nếu không có tâm trong sạch, y có thể sử dụng quyền năng này vào các điều tà vạy.
Giáo sư Allen lắc đầu :
- Ông nói điều xấu, điều tốt như có một tiêu chuẩn rơ ràng vậy. Tại sao ông không nghĩ xấu hay tốt chỉ là những điều tương đối. Một điều người Âu cho là vô lư có thể người Á châu lại chấp nhận như một sự kiện hữu lư.
Hamud gật đầu :
- Đúng thế, quan niệm xấu tốt, thiện ác ít nhiều chịu ảnh hưởng xă hội, nhưng vượt lên cao hơn nữa, chúng ta vẫn có luật vũ trụ kia mà. Theo sự hiểu biết của tôi, th́ có hai con đường: Chánh đạo và Tà đạo. Con người làm chuyện tà đạo là khi y dùng quyền năng tiềm tàng của ḿnh để mưu lợi riêng cho sự phát triển cá nhân, và sẵn sàng hy sinh hạnh phúc của kẻ khác.
Phát triển cá nhân ở đây có nghĩa là sự bành trướng về giác quan, cảm xúc hay tri thức của cá nhân, mà không kể ǵ đến sự thiệt hại cho kẻ khác. Một người lợi dụng sự ngu dốt, yếu đuối của kẻ khác để thu lấy ít lợi lộc về tiền bạc hay thỏa măn tham vọng cá nhân tức là đang đi trên con đường tà đạo.
Nếu y có chút quyền năng, y sẽ trở nên ghê gớm như thế nào ? Chánh đạo cũng là việc sử dụng những quyền năng của ḿnh, nhưng để phụng sự nhân loại. Trong khi phụng sự, con người sẵn sàng hy sinh mọi tiện nghi, tham vọng cá nhân ḿnh để làm việc hữu ích cho kẻ khác.
Kẻ phụng sự dứt tuyệt các thú vui về giác quan, từ bỏ mọi tôn kính chính đáng mà y có quyền hưởng thụ, dẹp bỏ cái phàm ngă cá nhân, chỉ nên chú trọng đến mục đích đạt đến sự toàn thiện. Tà đạo sử dụng quyền năng qua các h́nh thức lễ nghi, cúng bái trợ lực để tạo nên các đoàn thể h́nh thức.
Các h́nh thức này có thể là vật chất hay một tổ chức mà công cụ của nó không phải lo cho đời sống hay một lư tưởng cao thượng mà chỉ là một h́nh thức phát biểu cho quan niệm riêng của ḿnh. Chánh đạolà sử dụng các quyền năng cố hữu của bản chất con người để vượt qua mọi hạn định của h́nh thức.
Để giải thoát tâm hồn khỏi các trói buộc của cảm giác, của sự tưởng tượng hay xu hướng nhất thời. Để tránh các cám dỗ, lừa gạt của vô minh, để phục vụ cái phần tử thiêng liêng của bản thể vũ trụ. Một người nghiên cứu huyền môn có thể đi trên đường chánh cũng như tà. Họ có thể t́m cách phát triển cá nhân qua sự tự chủ gắt gao để khai mở các quyền năng, thu thập kiến thức.
Họ cũng có thể ao ước cơi thiên đàng mở rộng trong ḷng mọi người, và chính trong họ, qua các hành động bác ái, vị thạ Trong hai trường hợp, hạng đầu cầu mong kiến thức, quyền năng; hạng sau muốn trở nên người hữu dụng. Càng đi xa th́ sự tiến bộ càng khác biệt.
Người sử dụng kiến thức, quyền năng để phụng sự, sẽ trở nên một bậc “Bồ Tát” (Bodhisattva), và chỉ có trái tim Bồ Tát mới là ánh sáng soi đựng, chỉ lối giúp họ đi trọn vẹn con đường đạo. Người cầu trí thức cho ḿnh chỉ quanh quẩn trong phạm trù cá nhân một lúc, thiếu từ bi, trí tuệ, y rất dễ bị sa ngă vào ma đạo lúc nào không hay.
Không có trí tuệ bát nhă soi đường, y dễ trở thành nạn nhân của vô minh. Điều này cũng như một người đi biển mà không có bản đồ, la bàn định hướng, mà đi bừa băi th́ làm sao đến nơi được. Đường đạo cũng thế, một tu sĩ phải tŕ giới nghiêm minh để tu thân, nhưng vẫn chưa đủ, mà c̣n phải lập những hạnh nguyện, xác định mục đích rơ ràng để hành động.
Có tu th́ phải có hành, phải biết đem kiến thức của ḿnh ra để giúp ích cho những người khác. Trí tuệ phải đi đôi với Từ Bị Có “Trí” mà thiếu “Tâm” chỉ là mớ kiến thức vô dụng, một cái xác không hồn. Có “Tâm” mà thiếu “Trí” cũng không được v́ sẽ dễ sa ngă, đi lầm vào tà đạo. Đó là điều đă xảy ra trong quá khứ, các tu sĩ thiếu kiến thức, trí tuệ, đă bị vô minh che phủ.
Họ coi thượng đế như một đấng thần linh để thờ phụng, tách ngài ra khỏi tín đồ và dạy bảo rằng thượng đế cao siêu quá, không thể nói chuyện với những người tầm thường được, mà phải qua trung gian của giới tăng lữ. Họ đặt đủ các ngôn từ hoa mỹ, thêu gấm dệt hoa vào giáo điều để tín đồ quay cuồng trong ngôn ngữ, mà xa lánh chân lư thực tế.
Dần dần các chân lư cao đẹp bị bao phủ bằng các h́nh thức mê tín dị đoan, các điều xằng bậy, và đưa đến chỗ suy tàn…. Đó là điều đă xảy ra cho tôn giáo Ai Cập.
Giáo sư Evan-Wentz ngắt lời :
- Xin ông nói rơ hơn về sự suy tàn của nền văn minh Ai cập. Lịch sử vẫn chưa hiểu tại sao nền văn minh này lại suy tàn nhanh chóng như vậy ?
Hamud ngồi im lặng như hồi tưởng một kư ức xa xôi nào đó, một lúc sao y gật đầu :
- Có nhiều giả thuyết về sự suy tàn của nền văn minh Ai cập. Đa số đỗ lỗi cho chiến tranh, bệnh dịch, thiên tai, nhưng ít ai biết rơ nguyên nhân sâu xạ Tôi không có ư muốn tiết lộ những điều này, v́ mục đích buổi tiếp xúc hôm nay là nói chuyện, tham khảo về cơi giới vô h́nh.
Tuy nhiên, tôi sẵn sàng tiết lộ những điều thầm kín như một nhân duyên đặc biệt với các ông. Điều này không phải tự ư tôi, nhưng do một thông điệp tư tưởng của một vị chân sư chuyển giao. Tôi muốn tiết lộ những điều này như một cảnh cáo đối với thế giới ngày nay, để họ không đi vào vết xe của quá khứ…
Một lần nữa, sự hiện diện của một vị chân sư bí mật lại được nhắc đến khiến mọi người vô cùng cảm kích. Vị pháp sư Ai cập ngửa mặt nh́n lên trời như ôn lại dĩ văng :
- Trong thời buổi vàng son, nền văn minh Ai cập đă đến lúc cực thịnh. Các đạo viện với những minh sư truyền dạy khoa học huyền môn, đưa dân trí đến một mức tiến bộ vượt xa thời buổi hiện nay. Tuy nhiên, theo thời gian, nhiều tu sĩ đă không giữ ǵn giới luật khắt khe, hoặc không thấu hiểu các giáo điều cao siêu.
Họ bèn t́m một lối đi ngắn hơn và dễ hơn, chú trọng về phương pháp kỹ thuật để đạt đến quyền năng. Thần thông trở nên mục đích chứ không phải phương tiện nữa. Để đạt mục đích, họ không ngần ngại hy sinh quyền lợi tôn giáo, quốc gia… Thiếu sáng suốt nên họ đi vào ma đạo, và chịu sự sai khiến của các động lực bất hảo.
Các tăng lữ này lập thành phe nhóm, liên kết lẫn nhau, để tạo một ảnh hưởng cực mạnh, đến nỗi các vua Pharaoh hách dịch cũng phải kiêng dè. Họ lạm dụng danh từ tôn giáo, thần linh, truyền bá các tà thuật, phù phép, thần chú hắc ám để lôi cuốn tín đồ. Dĩ nhiên với các tà thuật, họ có thể làm mọi thứ mà một người b́nh thường vô phương chống lại.
Chỉ một thời gian ngắn, dân chúng đều trở thành nạn nhân của một thứ tà giáo. Các vị pháp sư trở nên sứ giả của cơi âm, một thứ quỷ sống đội lốt người. Họ c̣n kêu gọi những âm binh hung ác nhất đến giúp họ đạt các mục đích ám muội. Trong đền thờ, khoa phù thuỷ thay thế sinh hoạt tâm linh và các tu sĩ chân chính bị loại trừ, đào thải nhanh chóng.
Cũng v́ thế, khoa huyền môn chân chính trở nên thất truyền v́ không người tu học, nghiên cứu. Các tu sĩ chân chính phải trốn tránh, từ bỏ các giáo đường uy nghiêm. Nền văn minh đặt căn bản trên kiến thức huyền môn cũng tàn lụi, khi cánh cửa huyền môn chân chính khép chặt.
Các ông nên biết, trong thời cổ, hầu hết các khoa học gia, y sĩ, các nhà toán học kiến trúc đều xuất thân từ giới tu sĩ hoặc học hỏi trong các tu viện; v́ thời đó, không có trường học hay nền giáo dục như bây giờ. Khi bùa chú, phép thuật mê hoặc nhân tâm, thúc đẩy con người từ bỏ thượng đế để tôn thờ các loài ma quái th́ các thứ như chiêm tinh, toán học, kiến trúc, không c̣n lư do để tồn tại.
Thời gian trôi qua, nền văn minh Ai cập huy hoàng đă xuống dốc cực kỳ thảm hại. Chính các tu sĩ lầm lạc, ích kỷ đầy tham vọng là nguyên nhân gây nên hoàn cảnh trên. Họ lợi dụng danh nghĩa tôn giáo, một thứ tôn giáo ma quái để đưa Ai cập vào con đường thoái hoá. Thay v́ lo giải thoát cho chính ḿnh khỏi mê lầm, th́ họ lại hướng dẫn quần chúng vào ma đạo.
Thay v́ tuân theo các giới luật th́ họ lại phá giới, nguỵ biện bằng các danh từ hoa mỹ, tốt đẹp. Thay v́ kiểm thảo nội tâm, họ lập phe nhóm bênh vực lẫn nhau để che dấu các hành vi tà muội. Khoa nghi thức hành lễ mất hết các tính cách thiêng liêng, mà chỉ c̣n h́nh thức bề ngoài, kêu gọi một năng lực ngoại giới đến trợ giúp quyền uy giáo sĩ.
Sự hiến dâng biến thành hối lộ, tu sĩ lựa chọn các thứ ḿnh thích nhất như món ăn, thiếu nữ xinh đẹp để tế thần. Sau đó đem chia chác cho nhau cùng hưởng thụ; thượng đế nhân từ bác ái bỗng biến thành một thần linh toàn lực, toàn uy, trọn quyển thưởng phạt mà giới giáo sĩ là trung gian.
Để lung lạc nhân tâm, khoa bùa chú, thôi miên được sử dụng tối đa như một phương tiện cần thiết để thỏa măn tham vọng cá nhân. Để tránh các tinh túy huyền môn không lọt vào tay giới bàng môn tà đạo, các tu sĩ chân chánh đă sử dụng khoa Ám Tự (chữ tượng h́nh cổ Ai cập).
Đây là một văn tự huyền bí ẩn dấu nhiều ư nghĩa tâm linh mà chỉ các tu sĩ chân chính sau khi vượt qua thử thách mới được tiết lộ. Sự sử dụng ư nghĩa biểu tượng hoặc tỷ dụ được dùng tối đa, chính Moses về sau đă sử dụng ngôn ngữ này trong các cuốn sách của Do thái. Sự bành trướng của nhóm tà đạo quá mạnh, các tu sĩ chân chính phải rút vào rừng sâu núi thẳm và cuối cùng th́ khoa huyền môn chân chính cũng thất truyền.
Một số giáo sĩ, khoa học gia, các nhà toán học, kiến trúc, trốn sang Hy Lạp và truyền dạy các khoa này tại đây, mở đầu cho một nền văn minh mới. Trong khi đó, để lôi cuốn phe đảng, vấn đề truyền giáo được đặt ra và giới tăng lữ buộc các vua Pharaoh phải gây chiến tranh để truyền bá tôn giáo. Các cuộc “thánh chiến” này đă đem lại một giai cấp mới Nô lệ.
Giáo sư Mortimer ngạc nhiên :
- Như thế lúc trước không có nô lệ hay sao ?
Hamud lắc đầu :
- Nền văn minh cổ đặt căn bản trên sự bác ái hoàn hảo của từng cá nhân, làm ǵ có vấn đề nô lệ. Hiện tượng nô lệ chỉ bắt đầu khi văn hoá suy đồi, giới tu sĩ lộng hành và sau các cuộc chiến tranh.
Lúc đầu họ là tù binh chiến tranh, về sau họ trở thành nô lệ. Sau đó các giáo sĩ đặt ra luật những ai không cùng tôn giáo đều bị coi là nô lệ. Dân Do thái v́ khác tôn giáo
nên trở thành nạn nhân đầu tiên. T́nh trạng nô lệ thay đổi xă hội rất nhiều, các giáo sĩ không cần sử dụng bùa chú, thôi miên để thỏa măn dục vọng, các nô lệ đương nhiên phải làm tất cả những ǵ chủ nhân muốn. Theo thời gian, pháp môn phù thuỷ, bùa chú cũng thất truyền v́ giới tu sĩ không cần đến nó nữa.
Khi các phép thuật biến mất th́ uy tín các giáo sĩ cũng giảm theo, và các vua Pharaoh bắt đầu hạn chế quyền lực các giáo sĩ. Khi nền văn minh xuống dốc, các chân lư tốt đẹp biến mất, đời sống hưởng thụ của tiện nghi vật chất khiến các vua chúa trở nên ích kỷ, chỉ muốn kéo dài đời sống, nên phong tục xây cất nhà mồ, ướp xác trở nên thịnh hành, v́ nó hứa hẹn một đời sống vĩnh cữu.
Công cuộc xây cất những ngôi mộ vĩ đại đă làm khánh kiệt tài sản quốc gia, đưa xă hội Ai cập vào một t́nh trạng suy thoái… Do đó, Ai cập trở nên một miếng mồi ngon cho Ba Tư và Hy Lạp.. Lịch sử đă ghi chép khá rơ ràng từ lúc này, tôi chắc các ông đă biết rơ….
Phái đoàn im lặng nh́n nhau, sự suy yếu của Ai cập sau khi bị Ba Tư, Hy Lạp cai trị không phải là một điều ǵ xa lạ, nhưng tại sao một nền văn minh như Ai cập đă xây cất những Kim tự tháp hùng vĩ, đă sản xuất bao nhân tài, ảnh hưởng sâu rộng đến toàn cơi Trung đông, lại suy sụp mau chóng vẫn c̣n là một câu hỏi lịch sử. Lời giải thích của Hamud là một ch́a khoá vô giá về lịch sử này.
Nhà pháp sư Ai cập mỉm cười nh́n tất cả mọi người :
- Lịch sử nhân loại luôn luôn biến đổi theo chu kỳ, nhiều việc xảy ra trong quá khứ sẽ tiếp diễn lại. Có sống trong thời buổi đen tối, hỗn loạn, đầy đau khổ hoang mang, nhân loại mới ao ước cơi tâm linh cao thượng.
Nhu cầu này sẽ được đáp ứng, và một đấng thánh nhân sẽ chuyển kiếp xuống trần, mở rộng cánh cửa tâm linh, hướng dẫn nhân loại dưới một h́nh thức, phương tiện thích hợp với hoàn cảnh thời gian và không gian khi đó. Điều này đă xảy ra nhiều lần tại các nơi khác nhau trên thế giới, từ Trung hoa qua Ấn độ, đến Trung đông.
Các bậc thánh nhân đều rao truyền những chân lư cao siêu, đẹp đẽ, nhưng v́ nhân loại cứ u mê, thiếu hiểu biết, nên chỉ ít lâu sau tất cả lại quay cuồng vào vết xe cũ. Các chân lư cao đẹp bị xuyên tạc, sửa đổi, giảng giải sai lạc bởi các giáo sĩ mê tín, thành kiến, đầy cuồng tín.
Dù sao đi nữa bánh xe tiến hoá vẫn quay đều và trong mọi hoàn cảnh, thời đại nào cũng có các cá nhân cố gắng vượt mức để tự giải thoát ra khỏi ảo ảnh của màn vô minh để nhận định chân lư…
Hamud im lặng một lúc rồi thong thả :
- Tôi muốn các ông ghi nhận một điều này, các ông có thể coi đó như một lời tiên đoán hay cảnh cáo trước cũng được. Thời gian sắp đến sẽ là một giai đoạn cực kỳ tiến bộ về tri thức, nhưng thoái bộ về tâm linh. Mọi sự hiểu biết chỉ nhắm vào hiện tượng thay v́ nguyên nhân bản chất.
Do đó, nền khoa học tương lai không thể chuyển biến được ḷng người hoặc giúp cho con người có cái nh́n sáng suốt, có được một tâm hồn b́nh an. Nền “khoa học hiện tượng” chỉ kích thích giác quan, cảm xúc hướng ngoại sẽ khiến cho con người cực kỳ bất măn, lo âu và trở nên hoang mang phiêu bạt.
Thêm vào đó, sự khai quật các ngôi cổ mộ Ai cập sẽ tháo củi xổ lồng cho vô số âm binh, các động lực cực kỳ hung dữ. Như tôi vừa kể với các ông, thời kỳ chót của nền văn minh Ai cập, các giáo sĩ đă thực hành tà thuật tối đa, mà khoa ướp xác là một bí thuật mang sự liên lạc của cơi vô h́nh vào cơi trần.
Tất cả các ngôi mộ cổ đều là nơi giam giữ các động lực vô h́nh để canh giữ, duy tŕ ảnh hưởng tà môn. Khi được tháo củi xổ lồng, chúng sẽ mang nền tà giáo cổ Ai cập trở lại thế kỷ này. Dĩ nhiên, dưới một h́nh thức nào nó hợp thời hơn.
Một số pháp sư vốn là sứ giả cơi âm sẽ đầu thai trở lại, hoặc nhập xác để tác oai, tác quái, tái tạo một xă hội tối tăm, sa đoạ, đi ngược trào lưu tiến hoá của thượng đế.
Thế giới sẽ trở thành nạn nhân của thứ tôn giáo ma quái này.. Chiến tranh, đau khổ, bất an cùng các kích thích của cảm giác mới lạ do nền “khoa học hiện tượng” mang lại, sẽ thúc đẩy con người vào các cùng cực của cuộc sống.
Trong thời buổi này, khối óc ly trí không giúp được ǵ mà chỉ có sự hiểu biết và ư thức bản chất thầm lặng của nội tâm mới đáp ứng được. Đó là lối thoát duy nhất mà thôi.
Giáo sư Allen ngắt lời :
- Nhưng đă có bằng chứng ǵ về sự hiện diện của các động lực vô h́nh này. Làm sao có thể cảnh cáo mọi người về sự trở lại của pháp sư thời cổ ? Người Âu Mỹ sẽ chẳng bao giờ chấp nhận một điều hoang đường, vô lư nếu không có bằng chứng rơ rệt.
Hamud mỉm cười bí mật :
- Cơi âm là đối tượng nghiên cứu của tôi, nên tôi có thể tŕnh bày một vài dữ kiện để các ông suy nghiệm, như một bằng chứng. Chuyện xảy ra đă bắt đầu xảy ra, theo thời gian các ông sẽ thấy. Dù các pháp sư tà đạo thời cổ này có khéo léo dẫn dụ con người bằng những danh từ hoa mỹ, những chủ thuyết đẹp đẽ thế mấy đi nữa, th́ họ vẫn chỉ có thể sống như một con người.
Dù thế nào họ cũng không thể bỏ qua các thói quen cũ của quá khứ, họ sẽ đội lốt tôn giáo, họ sẽ kêu gọi sự hợp tác của thần quyền, họ sẽ đặt ra các giáo điều mới, thay thế các chân lư cao đẹp để lôi kéo con người từ bỏ thượng đế.
Họ sẽ sử dụng danh từ, ngôn ngữ để đánh lạc hướng mọi người, tuy nhiên trước sau ǵ họ cũng phải chết và trước khi chết, họ sẽ di chúc yêu cầu ướp xác họ và xây dựng những nhà mồ vĩ đại bằng đá như họ đă từng làm trong quá khứ…
Giáo sư Allen bật cười :
- Như vậy th́ nhận diện họ quá dễ, nhưng tôi không tin thời buổi này c̣n ai ướp xác, xây cất nhà mồ như vậy, ông nên nhớ chúng ta đă bắt đầu vào thế kỷ 20, không phải tám ngàn năm trước?
Hamud mỉm cười :
- Rồi các ông sẽ thấy, tôi mong các ông ghi chép những điều này cẩn thận rồi đúng hay sai thời gian sẽ trả lời.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 187 of 1146: Đă gửi: 17 June 2010 lúc 7:10pm | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG
Chương Mười
“Yêu cầu chấm dứt cuộc du khảo. Mọi tài trợ cắt đứt. Trở về Luân đôn ngay”
Bức điện tính đến bất ngờ, làm phái đoàn hết sức sửng sốt. Bác sĩ Kavir cho biết một tờ báo ở Luân đôn đă ghi nhận rằng phái đoàn khoa học ưu tú nhất Anh quốc, đă quỳ mọp bên cạnh những đạo sĩ “trần truồng” xứ Ấn để nghe dạy bảo.
Dư luận quần chúng hết sức phẩn nộ, đ̣i đại học Oxford phải ngưng ngay các cuộc du khảo và triệu hồi phái đoàn trở về để giải thích. Phái đoàn lập tức lấy xe lửa trở về Bomby.
(Ghi chú : Khi đó Ấn độ đang là thuộc địa của Anh, và vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp c̣n rất mạnh) Nhật kư của giáo sư Spalding :
“Thật là bất ngờ khi chúng tôi nhận được bức điện tín, kèm theo đó là một bức thư của Lănh sự quán Bombay cùng những mẫu báo nói về những giáo sư đại học của Hoàng gia đă “quỳ mọp” bên cạnh những phù thuỷ Ấn man rợ để nghe dạy bảo. Lời tường thuật đầy ác ư của một kư giả thiếu sáng suốt, đă phá hoại công tŕnh sưu tầm nghiên cứu đang diễn ra tốt đẹp.
Làm sao có thể giải thích cho quần chúng hiểu rằng ngoài các phong tục, tôn giáo hỗn độn, phức tạp, hoang đường, mê tín dị đoan c̣n ẩn dấu các chân lư cao đẹp mà người Âu cần nghiên cứu. Đành rằng Ấn độ đă ngủ say trong bao thế kỷ nay, nhưng trong sự suy đồi vật chất vẫn tiềm tàng một sinh lực tâm linh mănh liệt đang chờ đợi được đánh thức.
Chúng tôi đă học hỏi nhiều trong cuộc du khảo này, bài học đầu tiên do một người Anh, thương gia Keymakers đă dạy :
- Để nghiên cứu một cách vô tư và khoa học, người Âu cần gạt bỏ ḷng tự kiêu, thành kiến văn hoá, chỉ giữ ǵn một đầu óc khoa học, phê b́nh chặt chẽ để có thể xuyên qua rừng người mê tín t́m đến sự thật.
Như một viên ngọc quư cần phải được mài dũa, cuộc đi t́m chân lư cũng thế, chúng tôi đă mất mấy năm trời t́m ṭi, gạn lọc mới gặp được các vị đạo sư tiêu biểu cho đời sống tâm linh thực sự của xứ Ấn. Nhờ những may mắn t́nh cờ, chúng tôi đă gặp các sinh hoạt tâm linh cao thượng mà ít người Âu nào có diễm phúc khám phá.
Tất cả những chân lư từ trước đến nay chỉ được truyền bá một cách hết sức bí mật, thận trọng, đă được tiết lộ cho chúng tôi. Là một phái đoàn khoa học, chúng tôi đă phân tách kỹ lưỡng, kiểm soát cẩn thận, phê b́nh chặt chẽ và đặt câu hỏi cho đến khi thật rơ ràng.
Mỗi người chúng tôi đều ghi chép vào sổ tay cá nhân riêng những sự kiện quan sát, sau đó chúng tôi cùng nhau kiểm điểm, bàn luận và kiểm chứng lại tài liệu này cho đến khi tất cả đồng ư là chính xác, mới ghi vào hồ sơ chính. Nhờ phương thức này, chúng tôi quả quyết rằng tài liệu ghi nhận hoàn toàn đặt căn bản trên nền tảng khoa học chứ không phải sự tin tưởng hay hiểu biết của một cá nhân.
Chúng tôi hy vọng khi công bố, các kết quả này sẽ là một nhịp cầu thông cảm giữa hai văn hoá và thúc đẩy những cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn. Sự kiện vừa qua đă thay đổi tất cả và làm sụp đổ mọi kỳ vọng khiêm tốn nhất.
Giáo sư Allen tin rằng nếu chúng tôi trở lại Luân đôn tuyên bố những điều khám phá và giải thích lư do một cách rơ ràng có thể quần chúng sẽ có thiện cảm hơn chăng ? Tôi không nghĩ như thế, hiện tại c̣n quá sớm để thay đổi một dư luận bắt nguồn từ những quan niệm hẹp ḥi, những thành kiến và sự tự hào mù quáng.
Người Âu chỉ nh́n Ấn độ như một xứ chậm tiến, một thuộc địa dốt nát, mê tín đầy những kẻ thất học, chứ nào thấy được những giá trị tinh vi, những khoa học tiến bộ được che dấu cẩn thận dưới ánh nắng thiêu đốt miền nhiệt đới.
Giáo sư Mortimer và nhóm khoa học gia Hoa kỳ có ư muốn tách riêng và tiếp tục cuộc nghiên cứu v́ xứ Hoa kỳ dù sao cũng ít thành kiến hơn.
Đại học Yale và Harvard sẵn sàng bảo trợ cuộc du khảo, nhất là khi nó đă có kết quả. Với tư cách trưởng phái đoàn, tôi không muốn thấy công tŕnh tốt đẹp bị gián đoạn nhưng cũng không muốn đại học Hoa kỳ hưởng hết kết quả, dù sao tôi cũng là một người Anh, với mọi tự hào về truyền thống Oxford đă đào tạo ra chúng tôi, và chúng tôi muốn tên tuổi nó trong cuộc khảo cứu tiền phong này.
Viên lănh sự lạnh nhạt tiếp đăi phái đoàn trong căn pḥng nhỏ. Y chỉ mẫu báo nói về cuộc nghiên cứu đang trở nên một đề tài hấp dẫn, được báo chí khai thác triệt để.
- Các ông nên biết điều một chút, dù sao các ông cũng là những khoa học gia, giáo sư đại học lừng lẫy, có chân trong hội Khoa học Hoàng gia. Các ông là đại diện cho thành phần danh dự, ưu tú nhất nước Anh… Các ông đă làm mất uy tín Hoàng gia, tại sao các ông không chịu ngồi yên ở Oxford ? Cái xứ nóng bực này có ǵ đâu để khảo cứu….
Giáo sư Oliver nổi nóng :
- Đó là việc riêng của chúng tôi, anh biết ǵ mà nói.
Viên lănh sự nhếch miệng cười nhạt :
- Đó không phải việc riêng của các ông nữa, nó liên quan đến danh dự Hoàng gia, danh dự Oxford. Các ông nên biết tôi cũng xuất thân từ Oxford….
Giáo sư Oliver buột miệng :
- Nếu anh xuất thân từ Oxford th́ anh phải biết cuộc khảo cứu này sẽ làm rạng danh đại học của chúng tạ Một ngày nào đó, người ta sẽ nói rằng chính Oxford đă tiên phong trong việc khảo cứu các hiện tượng huyền bí, các môn Yoga….
- Yoga ? Yoga là cái ǵ ? Ông muốn nói đến một loài thú nào chăng ?
Giáo sư Oliver há hốc miệng, không nói thêm lời nào. Một sự ngờ nghệch như vậy có thể tha thứ được đối với một công dân tầm thường, vô học, chỉ quanh quẩn nơi xó nhà, chưa hề ra khỏi tầm chuông nhà thờ Westminster…
Đằng này y là một lănh sự, đại diện cho Hoàng gia, xuất thân từ Oxford và đă sống ở Ấn độ hơn 6 năm nay. Viên lănh sự xem xét thông hành và cho biết phái đoàn phải rời Ấn độ ngay trong tuần lễ sau.
Nhật kư của giáo sư Spalding :
Trong khi mọi người trở về khách sạn, chờ đợi ngày lên tàu trở về Luân đôn. Tôi vẫn linh cảm sẽ có một chuyện ǵ xảy ra. Tôi lang thang trong khu phố Bombay đông đúc, đầu óc mơ hồ, không biết phải làm ǵ. Tôi cố ôn lại những việc xảy ra trong ṿng nửa năm qua.
Quả thế, từ hôm thất vọng đi lang thang như thế này trong thành Benares. Tôi đă gặp một người Ấn cao lớn, khác thường đă chuyển giao thông điệp của một Chân Sự Từ đó khắp mọi nơi, phái đoàn luôn luôn được che chở và may mắn gặp gỡ những người dành trọn đời cho việc đi t́m chân lư, những người đă thắng đoạt thiên nhiên, đă chinh phục được các sức mạnh vô h́nh trong trời đất, đă có quyền năng phi thường…
Đúng như lời người đó nói, sự nghiên cứu đă vén mở được những điều phái đoàn muốn t́m kiếm, nhưng mọi người vẫn chưa hài ḷng. Chúng tôi ao ước được gặp vị Chân Sư bí mật, một người mà tôi có cảm giác đă quen, đă biết từ một tiềm thức xa xôi nào. Trong giây phút đó, tôi bỗng có một ư tưởng lạ lùng, bằng tất cả sức mạnh tư tưởng tôi ao ước vị Chân Sư bí mật này hăy giúp đỡ chúng tôi, hăy cho chúng tôi gặp mặt.
Đang đắm ch́m trong ḍng tư tưởng triền miên bỗng tôi giật ḿnh, một cảm giác lạ lùng như một luồng điện chạy dọc theo xương sống, khiến tôi mở choàng mắt ra. Dưới chân một cây cổ thụ cao lớn, cành lá xum xuê, một người Ấn với khuôn mặt phương phi, quai hàm rộng, trán cao, cặp mắt tinh anh có khả năng thu hút người khác.
C̣n ai vào đây nữa, chính người Ấn lúc đầu mà tôi đă gặp tại thành Benares. Chính người này đă mang thông điệp đầu tiên cho phái đoàn. Tôi vội vă chạy đến mừng như gặp bạn cố trị Người Ấn mỉm cười :
- Thế nào ? Việc nghiên cứu của các ông tốt đẹp chứ ? Tôi hy vọng Brahmananda, Sudeih Babu, Mahasaya, Harishinanda, Hamud El Sari… không làm các ông thất vọng.
Tôi há hốc miệng, không nói được câu nào. Tại sao người này dường như biết tất cả ?
Người Ấn mỉm cười :
- Bạn mến, cách đây nửa năm, bạn có hỏi tôi rằng, các bậc Chân Sư có thật hay không ? Nếu có thật tại sao các ngài không xuất hiện dạy dỗ quần chúng ? Sự ẩn dật đâu có lợi ích ǵ ? Lúc đó, trong ḷng bạn thật sự không lấy ǵ tin tưởng về sự hiện hữu của những cá nhân đă tiến xa trên con đường đạo.
Tôi đă trả lời rằng, v́ không biết rơ các ngài nên quan niệm thông thường không thể xét đoán các ngài một cách đứng đắn. Thực ra các bậc toàn thiện luôn luôn xuất hiện để giúp đỡ thế gian một cách lặng lẽ, âm thầm. Đa số mọi người tin rằng các ngài phải hiện ra trong hào quang rực rỡ, với các phép thần thông biến cơi trần đau khổ này thành một cơi thiên đàng.
Điều này sẽ không bao giờ xảy ra…. Khi đó bạn không hoàn toàn đồng ư, là một người Thiên chúa giáo, bạn vẫn nghĩ rằng, đấng Christ đă hứa sẽ trở lại cứu rỗi tất cả… Thực ra đấng Christ có bao giờ rời bỏ chúng ta đâu. Lúc nào ngài chả luôn bên cạnh ta, giúp đỡ chúng tạ Sự tin tưởng rằng ngài sẽ trở lại trong một vầng hào quang sáng chói là một điều không đúng.
Chúng ta chỉ quen t́m kiếm thượng đế bên ngoài như một đấng toàn năng có thể giúp ta thỏa măn những điều mong ước, chứ không chịu t́m kiếm ở nội tâm, nơi ngài luôn ngự trị. Tôi hy vọng sự tiếp xúc với các đạo sĩ trong thời gian qua sẽ giúp bạn một căn bản vững chắc, một niềm tin mănh liệt để có thể tiếp tục việc nghiên cứu.
Tôi kinh ngạc đến sững người, không những người Ấn này biết rơ tất cả mà dường như c̣n đọc được tư tưởng người khác. Người Ấn mỉm cười hiểu ư :
- Các bạn đă được chỉ dẫn về khoa Yoga, các phương pháp dưỡng sinh, cơi giới vô h́nh, môn chiêm tinh bí truyền, các luật vũ trụ, quan niệm về Phàm Ngă và Chân Ngă…. Các bạn đă tỏ ra say mê, thích thú v́ đó là điều khao khát bấy lâu nay, đúng không ?
- Tại sao….tại sao ông lại biết rơ như vậy ?
Người Ấn dịu dàng :
- V́ tôi là người được chỉ thị phải giúp đỡ các bạn. Chính tôi đă theo dơi tư tưởng các bạn từ khi phái đoàn vừa đặt chân đến xứ này. Tôi hết sức thông cảm sự bất măn, buồn phiền, chán nản suốt hai năm đầu, khi các bạn đến thăm các đền đài nguy nga, tiếp xúc với các đạo sĩ nổi tiếng nhưng không học hỏi được điều ǵ mới lạ.
Thay v́ gặp các bậc hiền triết, các bạn gặp toàn những kẻ bịp đời, những người giữ chức tước, địa vị thật cao mà công phu tu hành, tŕ giới lại rất thấp. Thay v́ gặp những đạo sư có kinh nghiệm tâm linh, các bạn gặp những tu sĩ miệng nói thao thao như nước chảy mà chả biết ḿnh đang nói ǵ, h́nh như chân lư cao siêu mà y trích dẫn từ kinh điển không dính dáng ǵ đến đời sống an nhà, sung sướng trong các đền thờ đồ sộ của y cả.
Tất cả đều là những thử thách cho sự nghiên cứu của các bạn. Một chân lư có giá trị thực sự phải chịu nổi các thử thách của thời gian. Cuộc đi t́m chân lư cũng thế, nó đ̣i hỏi một sự cố gắng và một tinh thần khoa học, suy xét để gạt bỏ các điều mê tín, các thành kiến.
Các bạn đă xứng đáng được truyền dạy những chân lư cao đẹp đó, tôi mới đến gặp bạn tại Benares và chuyển giao thông điệp của một vị Chân Sự Nhờ thế các bạn mới thực sự gặp được những người tiêu biểu cho nền minh triết của Á châu. Tuy nhiên, như tôi đă nói nếu bạn muốn đi xa hơn để gặp các bậc chân sư th́ lại khác….
- Ông tin rằng chúng tôi có thể gặp các ngài ?
- Dĩ nhiên, nếu các bạn chọn con đường này, nó sẽ là một cuộc hành tŕnh khác hẳn cuộc hành tŕnh vừa quạ Các bạn sẽ không thể đứng bên ngoài mà nh́n vào, để nghiên cứu, ghi nhận như một khách bàng quang. Cuộc hành tŕnh này phải là một kinh nghiệm cá nhân. Một sự hiểu biết mà không do ḿnh t́m ra.
Kinh nghiệm thật ra chỉ là một hiểu biết hời hợt, nông cạn. Sự hiểu biết do người khác mang lại, dù bằng bất cứ phương tiện nào, cũng chỉ là kinh nghiệm của người đó. Ta không thể trông đợi một chân lư đến từ bên ngoài, mà phải biết thế nào là đủ để dừng lại, để trở về. Đi xa tức là trở về, đó mới là con đường đứng đắn.
Cuộc hành tŕnh này không như lần trước “đi ra ngoài”, tiếp xúc với các đạo sư, ghi nhận những tinh hoa, soạn thảo tài liệu, mà phải là một cuộc hành tŕnh “trở về”, một cuộc hành tŕnh về phương đông. Các bạn không thể nhân danh phái đoàn đi quan sát, ghi nhận nữa, mà phải là một nhóm người đi t́m chân lư và sống với chân lư đă học được.
Trong cuộc hành tŕnh này, các bạn sẽ không được công nhận bởi các đại học, dư luận quần chúng. Danh vọng của bạn có thể bị xuyên tạc, điều bạn học hỏi có thể bị chế nhạo, nghi ngờ. Các bạn sẽ hết sức cô đơn, nản ḷng, thối chí, có lúc bạn sẽ sợ hăi và đâm ra nghi ngờ những điều đă xảy ra.
Tóm lại, các bạn cần suy nghĩ cho kỹ trước khi quyết định. Nếu trở về Luân đôn một thời gian, đợi dư luận lắng dịu, các bạn có thể công bố những điều ghi nhận, nhưng mọi người có tin hay không lại là chuyện khác. Nếu muốn tiếp tục, các bạn phải rời bỏ tất cả để làm một cuộc hành tŕnh lên Tuyết Sơn . Đây là giây phút quyết định.
- Nếu chúng tôi muốn tiếp túc cuộc hành tŕnh th́ phải làm thế nào ?
Người Ấn mỉm cười :
- Tại sao bạn lại cứ hỏi tôi, phải làm ǵ ? Tôi phải làm thế nào ? Nếu muốn các bạn chỉ việc lên đường, có thế thôi.
Định mệnh con người luôn luôn có những thay đổi lớn, mặc dù không thấy rơ nhưng chúng ta vẫn vô t́nh tiến đến mục tiêu đă vạch sẵn. Không đầy hai tuần lễ sau, chúng tôi đă đứng trong làng Potar, ngay sát chân dăy Hy Mă Lạp Sơn hùng vĩ.
Chúng tôi đă bỏ lại tất cả, danh vọng, địa vị, đoạn tuyệt với thành kiến, tự ái cố hữu của người Tây phương. Cuộc hành tŕnh về phương Đông của chúng tôi bắt đầu.
Tác Giả: Blair T.Spalding
Dịch Giả: Nguyên Phong
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 188 of 1146: Đă gửi: 17 June 2010 lúc 10:07pm | Đă lưu IP
|
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 189 of 1146: Đă gửi: 17 June 2010 lúc 10:21pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÊN KIA CỬA TỬ
Một trong những bộ sách đặc biệt của Tây Tạng là bộ Tử Thư (Tibetian Book of the Death) viết về đời sống sau khi chết.
Cuốn sách này đă được nhiều người nghiên cứu và phiên dịch nhưng v́ nó quá hàm súc, khó hiểu nên một số học giả đă rút tỉa vài đoạn trong đó, khai triển rộng ra để an ủi những người đang đau khổ v́ cảnh tử biệt.
Phần dưới đây trích trong cuốn "To Those Who Mourn" của Giám mục Charles Leadbeater, một nhà thần học nổi tiếng của thế kỷ 20.
Bạn thân mến,
Tử thần vừa cướp mất của bạn một người mà bạn yêu quư nhất đời. Đối với bạn hiện nay đời sống bổng trở nên trống rỗng vô vị, và có lẽ không c̣n lư do ǵ để sống nữa. Cuộc đời từ nay chỉ c̣n là những chuỗi ngày dài đăng đẳng, đầy tẻ nhạt chán chường.
Hạnh phúc đă mất sẽ không bao giờ trở lại, những cử chỉ âu yếm, những câu nói yêu đương dường như đă ch́m lặn trong màn sương ngăn cách hai thế giới. Có lẽ bạn đang nghĩ về bạn, về sự mất mát không thể văn hồi vừa xảy ra, nhưng có thể bạn c̣n đang nghĩ không biết người bạn thương yêu đang lâm vào t́nh trạng nào?
Tuy bạn biết người đó đă đi xa rồi, đi mất rồi nhưng bạn không biết là đi đâu, số phận người đó như thế nào? Bạn cầu mong người đó sẽ gặp được những sự b́nh an, tốt đẹp nhưng rồi bạn lại thấy vẫn c̣n một cái ǵ không ổn v́ không ai có thể giải thích cho bạn một cách thỏa đáng về ư nghĩa của đời sống cũng như cái chết.
Giáp mặt trước sự kiện này, bạn đâm ra hoảng hốt, và đời sống đối với bạn bỗng trở nên một gánh nặng không thể gánh vác một ḿnh được nữa.
Này bạn, tâm trạng của bạn là một tâm trạng tự nhiên và thành thật. Tôi ước mong có thể chia sẻ với bạn về sự mất mát lớn lao này bằng sự giúp đỡ chân thành của tôi. Dĩ nhiên bạn nghĩ rằng: Làm sao tôi có thể an ủi bạn được! Làm sao một người như tôi có thể hiểu được nỗi đau khổ vô vàn của bạn kia chứ!
Nhưng bạn hỡi, sự buồn rầu đau khổ của bạn đă xây dựng trên một hiểu lầm. Thưa vâng, một hiểu lầm tai hại và tôi mong khi hiểu rơ được điều này th́ có lẽ bạn sẽ bớt đau khổ hơn. Tôi muốn tŕnh bày cho bạn một quan điểm khác với quan niệm thông thường như sau.
Này bạn, sự đau khổ của bạn chỉ là một ảo giác rất lớn do sự thiếu hiểu biết về những định luật thiên nhiên, hay nói một cách khác, là đời sống bên kia cửa tử. Nếu bạn có một sự hiểu biết đúng đắn về sự kiện này th́ có lẽ bạn sẽ không c̣n đau khổ nữa. Người phương Đông, nhất là người Tây Tạng, đă nghiên cứu về nó qua nhiều thế kỷ và ngày nay khoa học cũng bắt đầu chứng minh được rằng "có một đời sống sau khi chết".
Cửa tử không là một sự bí mật nữa v́ cái thế giới bên kia, cái thế giới đầy bí mật đó đă không c̣n bí mật nữa. Cái thế giới đó thật sự hiện hữu, là một thế tương tự như thế giới hiện nay của chúng ta và dĩ nhiên cũng chịu sự chi phối của những định luật trong vũ trụ, tương tự như những định luật mà chúng ta đă biết.
Tôi sẽ giải thích rơ rệt một vài nguyên tắc căn bản mà dĩ nhiên bạn có thể khảo sát thêm, nếu bạn muốn. Trước hết, tôi mong bạn hăy ngưng than khóc v́ sự đau thương của bạn chỉ làm hại cho người mà bạn thương mến chứ không giúp được ǵ cho người đó đâu! Một khi bạn hiểu rơ điều mà tôi sắp tŕnh bày th́ có lẽ bạn cũng sẽ đống ư như vậy.
Có thể bạn cho rằng điều tôi sắp tŕnh bày chỉ là những lời an ủi hay những dự đoán mơ hồ mà thôi. Nhưng tôi muốn hỏi bạn, sự đau khổ và suy nghĩ của bạn hiện nay đă được xây dựng trên nền tảng nào? Phải chăng bạn tin tưởng như vậy v́ một vài người trong giáo hội của chúng ta đă dạy như thế, hoặc căn cứ trên một vài quyển sách, hoặc là sự tin tưởng của đa số người trong thời đại này rằng chết là hết, là thiên thu cách biệt, là vĩnh viễn chia tay?
Nếu bạn suy nghĩ thật kỹ mà không bị các thành kiến chi phối, th́ bạn sẽ thấy rằng quan niệm đó cũng chỉ là một dự đoán mơ hồ mà thôi.
Nếu đọc kỹ Thánh Kinh, bạn sẽ thấy một sự thật rằng, theo thời gian, đă có nhiều cách giải thích Kinh Thánh khác nhau. Cái quan niệm rằng chết là hết, là chấm dứt vĩnh viễn đă căn cứ trên sự hiểu biết nào? Được xây dựng từ thời đại nào? Quan niệm Thiên Đàng và Địa Ngục có từ lúc nào? Phải chăng đó cũng chỉ là những quan niệm như trăm ngàn quan niệm khác?
Phải chăng v́ đă được nhiều người tin tưởng nên người ta đ ành chấp nhận mà không đ̣i hỏi một sự giải thích nào? Nhưng sống và chết là một vấn đề trọng đại, liên quan mật thiết đến đời sống hiện nay. V́ lẽ đó, chúng ta không thể chấp nhận nó một cách dễ dăi được.
Đây là một vấn đề lớn, đ̣i hỏi một sự nghiên cứu hết sức đích đáng và phân tích thật cẩn thận. Tôi không đ̣i hỏi bạn tin tưởng một cách mù quáng đâu. Tôi chỉ muốn tŕnh bày những ǵ mà chính tôi biết là có thật, dựa theo kinh nghiệm của tôi và của những bậc thầy phương Đông mà tôi đă có cơ hội gặp gỡ và học hỏi. Tôi mời bạn cùng quan sát nó.
Trước hết chúng ta hăy t́m hiểu về sự cấu tạo con người. Khoa học đă cho chúng ta biết khá rơ về thể chất con người cũng như các hoạt động sinh lư, tâm lư nhưng vẫn c̣n một yếu tố khác mà khoa học chưa thể chứng minh, đó là cái mà người ta gọi là linh hồn.
Đây là một danh từ không chính xác lắm nhưng tôi không muốn đi vào những định nghĩa. Đă từ lâu, các tôn giáo lớn đều đă đề cập một cách mơ hồ rằng con người có một cái ǵ trường tồn gọi là linh hồn và cái này vẫn hiện hữu sau khi thể xác chết đi.
Tôi thấy không cần thiết phải dẫn chứng bằng kinh sách hay lư thuyết về sự hiện hữu của linh hồn, cũng như không cần phải dài ḍng về các hiện tượng như đầu thai, thần đồng, người chết sống lại kể về thế giới bên kia, v́ đă có nhiều sách vở đề cập đến nó rồi.
Tôi chỉ mong bạn vững tin rắng linh hồn vốn có thật và đó là một chân lư đúng đắn. Con người là một linh hồn và có thể xác. Thể xác không phải là con người. Nó chỉ là y phục của con người mà thôi. Điều mà chúng ta gọi là sự chết chỉ là sự cởi đi một chiếc áo cũ, đó không phải là một sự chấm dứt.
Khi bạn thay đổi y phục, bạn đâu hề thấy ḿnh, bạn chỉ bỏ đi cái áo mà bạn đang mặc đó thôi. Cái áo có thể được cất vào tủ, mang đi giặt ủi hoặc vứt bỏ, nhưng người mặt nó chắc chắn vẫn c̣n. Do đó phải chăng khi thương yêu người ấy chứ đâu phải thương yên chiếc áo của người ấy?
Trước khi bạn có thể hiểu được t́nh trạng của người mà bạn thương yêu, bạn cần phải hiểu rơ t́nh trạng của chính bạn đă. Bạn là một linh hồn bất tử, bất tử v́ tinh hoa của bạn vốn có tính chất thiêng liêng, bởi v́ bạn là một phần của một đại thể cao cả hơn nhiều. Bạn đă từng sống trong nhiều thế kỷ.
Trườc khi mặc bộ quần áo này, bộ quần áo mà hiện nay bạn gọi là xác thân, th́ bạn đă từng mặc những bộ quần áo khác, và bạn sẽ c̣n mặc nhiều bộ quần áo khác nữa trong tương lai, khi bộ quần áo hiên tại đă tan thành tro bụi. Kinh thánh đă nói: "Thượng Đế sinh ra con người từ h́nh ảnh bất diệt của ngài".
Đây không phải là một giả thuyết hay một sự tin tưởng nào mà có bằng chứng hẳn hoi. Điều bạn cho là một đời thật ra chỉ là một ngày nhỏ trong một kiếp sống kéo dài vĩnh viễn thiên thu và điều này cũng xảy ra cho người bạn yêu. Tóm lại, người bạn yêu thương không hề chết, không hề mất đi, mà chỉ cởi bỏ bộ áo của họ mà thôi.
Bạn đừng tưởng người chết chỉ như một luồng hơi, không có h́nh dáng chi cả hoặc thua kém lúc c̣n sống về một điểm nào đó. Cách đây nhiều thế kỷ, Thánh Paul đă nói: "Có một cái thể vật chất và có một cái thể tinh thần".
Nhiều người đă hiểu lầm mà cho rằng những thể đó nối tiếp nhau chứ không hiểu rằng chúng ta đều có cả hai thể đó trong cùng một lúc. Thưa vâng, cái thể vật chất đó chính là cái xác thân mà bạn đang thấy, và cái thể tinh thần kia chính là cái mà bạn không thấy và thường được gọi bằng danh từ "linh hồn". Khi bạn bỏ xác th́ bạn giữ lại cái thể tinh thần kia.
Nếu bạn đồng ư, hay tạm thời đồng ư về quan niệm này th́ chúng ta có thể đi xa hơn. Nếu bạn biết rằng chẳng phải khi chết bạn mới cởi bỏ "bộ áo" đó mà ngay khi ngủ bạn cũng tạm thời cởi bỏ nó và đi vẩn vơ trong một cởi giới khác trong cái thế tinh thần của bạn.
Dĩ nhiên khi tỉnh dậy th́ bạn lại mặc vào bộ áo thể xác đó trong khi người chết th́ không c̣n mặc lại bộ áo đó được nữa. V́ sự cấu tạo và rung động nguyên tử của hai cơi vốn khác nhau nên cơi nào chỉ có thể nh́n được cơi đó mà thôi.
Đôi khi tỉnh dậy, bạn mơ hồ như ḿnh có thấy một cái ǵ đó, dĩ nhiên nó đă bị thay đổi rất nhiều bởi sự sắp xếp lại qua kư ức và bạn gọi điều này là chiêm bao.
Hiện nay có nhiều quan niệm về đời sống sau khi chết. Một số dựa trên những tin tưởng có từ thời Trung Cổ, như sự trừng phạt đời đời kiếp kiếp trong cảnh địa ngục chẳn hạn. Dĩ nhiên ngày nay không mấy ai c̣n tin như vậy nữa, nhưng trước đây vài thế kỷ, nó là cả một sự đe dọa khủng khiếp.
Những điều này đă được một số giáo sĩ lúc đó lợi dụng triệt để. V́ quyền lợi riêng, họ đă biến cải những giáo lư đầy nhân từ bác ái của đức Jesus thành một thứ "pháp luật" khắt khe tàn ác để đe dọa những người hiền lành dốt nát. Theo đà tiến bộ của thế giới, người ta hiểu rằng cái quan niệm đó không những vô lư, xúc phạm đến danh dự của giáo hội, đến giáo lư cáo đẹp của đấng Cứu Thế, mà c̣n buồn cười nữa.
Nếu bạn hiểu rằng một số tu sĩ chỉ v́ nóng lóng muốn củng cố quyền lợi cũng như quyền lực đă cố t́nh giảng giải một cách sai lạc khiến các chân kư giản dị cao đẹp trở nên phức tạp, khó hiểu. Họ đă dựa vào những tín điều phi lư, vô căn cứ mà nói rằng thế giới này được cai trị bởi một đấng thần linh không muốn ai làm trái ư ḿnh.
Họ đă du nhập những điều này từ nền tảng của đạo Do Thái thượng cổ, trong khi đáng lẽ ra họ phải biết rơ về sự dạy bảo đầy minh triết của đức Chúa là "Thượng Đế là một đức Cha giàu long thương mến".
Người nào hiểu được sự thực căn bản là "Thượng Đế vốn nhân từ vá bác ái, vũ trụ của ngài được điều khiển bởi những định luật thiên nhiên, công b́nh và bất biến" th́ ắt phải hiểu rằng thế giới bên kia cửa tử cũng phải tuân theo những định luật như vậy chứ không thể khác được.
Đáng tiếc là một điều hiển nhiên và rơ ráng như vậy mà đến nay vẫn dường như mơ hồ. Vẫn có những người tiếp tục nói với chúng ta về một thiên quốc rất xa, về những ngày phán xét rất ghê gớm, về những sự trừng phạt đời đời kiếp kiếp, c̣n chuyện xảy ra hiện nay th́ ít khi đề cập đến.
Một số tu sĩ tránh né không đề cập ǵ đến kinh nghiệm thật sự của họ, đến sự tin tưởng của họ, mà chỉ nói đi nói lại điều mà họ nghe người khác nói, những tin tưởng mơ hồ, vô lư xuất phát từ thời Trung Cổ. Dĩ nhiên tôi tin rằng chúng ta không thể thỏa măn với những quan niệm lỗi thời đó được.
Tôi tin rằng thời kỳ tin tưởng một cách mù quáng đó đă qua rồi. Chúng ta đang sống ở thời kỳ khoa học và không chấp nhận những ư tưởng vu vơ, hoàn toàn trái với lư thuyết khoa học cũng như trái ngược với những lời dạy bảo đầy bác ái, nhân từ và sáng suốt của đấng Cứu Thế.
Chúng ta là những linh hồn đang sống trong cơi vật chất và chỉ biết đến những sự kiện liên quan đến cơi vật chất này mà thôi. Tất cà mọi sự hiểu biết của chúng ta đều dựa trên những giác quan của thể xác. Nhưng các giác quan này th́ bất toàn.
Thí dụ như chúng ta có thể thấy được những vật thuộc thể lỏng hay thể rắn nhưng lại không thể thấy được thể hơi mặc dù chúng ta biết rằng thể hơi hiện hữu. Hiển nhiên nếu có những thể khác thanh nhẹ hơn thể hơi th́ làm sao chúng ta có thể thấy được?
Tóm lại, v́ giác quan của chúng ta bất toàn mà chúng ta không thấy được một số dữ kiện, tuy nhiên chúng ta không thể kết luận v́ không thấy được mà chúng không hiện hữu. Người phương Đông đă ư thức được điều này từ lâu qua các công phu tu luyện đặc biệt mà nhiều người cho là phi thường.
Thật ra nguyên lư của nó rất giản dị. Người nào biết rèn luyện tinh thần, biết cách phát triển những khả năng tinh thần, biết cách phát triển những khả năng tinh thần, phát triển các "giác quan" của tinh thần th́ họ sẽ có các quyền năng về tinh thần.
Nếu bạn biết rằng thể tinh thần cũng giống như thể vật chất (thể xác), đều có những giác quan riêng biệt th́ bạn sẽ hiểu điều tôi nói. Nếu thể xác có thị giác th́ thể tinh thần cũng có một thị giác tương tự, nhưng đây là một thứ thị giác đặc biệt, có thể nh́n thấy những cái mà nhăn quan của thể xác không nh́n thấy được.
Người Tây Tạng gọi quyền năng này là Thần nhăn hay con mắt thứ ba (Third eyes). Sách vở huyền môn Tây Tạng nói rơ rằng, thể tin thần có những giác quan tương ứng với những giác quan của thể xác nhưng bao trùm một giới hạn bao la, rộng răi hơn nhiều.
Các danh sư Tây Tạng gọi đó là các năng khiếu mà con người có thể sử dụng được nếu họ biết cách chủ trị tinh thần, khai triển các giác quan này. Dĩ nhiên những người đă khai mở những quyền năng đó có thể ư thức được nhiều điều mà người ta không thể biết được.
Chính nhờ khai mở được các giác quan đặc biệt này mà các danh sư Tây Tạng đă nghiên cứu về đời sống ở cơi giới bên kia, cơi giới mà chúng ta thường gọi là "cơi chết" hay "bên kia cửa tử".
Họ xác định rằng chết không phải là sự chấm dứt của kiếp sống mà chỉ là một bước, đi từ giai đoạn sống này qua giai đoạn sống khác. Xác phục vụ tinh thần và là một phương tiện liên lạc (communicate) với cơi trần.
Nếu không có xác thân th́ phần tinh thần không thể liên lạc với cơi trần được và dĩ nhiên không thể ảnh hưởng hoặc thọ lănh ảnh hưởng của nó. Cơi trần là một trường học hết sức quan trọng để linh hồn học hỏi, kinh nghiệm, và những điều học hỏi đều được lưu trữ trong kư ức tâm linh, một thứ kư ức vô giới hạn.
Chỉ riêng ở cơi trần người ta mới có thể thực sự học hỏi và áp dụng hay thực hành những điều đă học. Ở những cơi giới khác, v́ sự cấu tạo của nguyên tử quá thanh, quá nhẹ nên việc học hỏi chỉ có tính cách lư thuyết chứ không thể thực hành được.
Điều chúng ta cần biết là những người mà ta cho rằng đă chết thực ra không hề chết, không hề xa ĺa chúng ta. V́ một lư do mơ hồ mà người ta tin rằng chết là chấm dứt, là chia ly, sau đó linh hồn hoặc được lên thiên đàng hặoc xuống địa ngục rồi ở đó vĩnh viễn.
Tác động của Thượng Đế chắc chắn vô cùng huyền diệu, nhiều khi chúng ta không thể hiểu được nhưng không bao giờ trái ngược với các định luật thiên nhiên. Khi một người cởi bộ áo choàng ra th́ họ vẫn đứng ở chỗ cũ chứ nào có thể biến mất được.
H́nh dáng của họ thay đổi phần nào nhưng chắc chắn họ không thể phúc chốc biến ra người khác được. V́ thể xác đă bỏ lại nên bạn không c̣n thấy người đó nữa mà chỉ thấy cái thể xác bất động nằm đó thôi. Nhưng điều này không có nghĩa là người bạn yêu thương đă đi xa rồi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 190 of 1146: Đă gửi: 17 June 2010 lúc 10:28pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÊN KIA CỬA TỬ
CHƯƠNG MỘT
Khoa học đă chứng minh rằng mắt của chúng ta chỉ đáp ứng được với một số rung động tối thiểu trong vũ trụ. Nếu sử dụng các dụng cụ tinh vi hơn, người ta có thể nh́n thấy như tia hồng ngoại, tia tử ngoại..
Nếu bạn tin rằng các giác quan của thể xác đă giúp bạn cảm nhận được những vật chất cấu tạo bằng nguyên tử của cơi hồng thần th́ các giác quan của thể tin thần cũng sẽ giúp bạn cảm xúc được các nguyên tử cấu tạo bởi cơi đó. Nhờ xúc giác, chúng ta có thể sờ mó các vật chất của cơi trần th́ một thứ xúc giác đặc biệt của thể tinh thần cũng giúp chúng ta sờ mó được các vật chất cấu tạo bởi nguyên tử cơi này.
Bạn đừng nghĩ rằng cơi tinh thần đó nằm ở đâu xa xôi, thực ra nó và cơi trần này ở cùng một chỗ, chiếm cùng một vị trí trong không gian và thời gian, nhưng v́ cấu tạo bởi các nguyên tử khác nhau nên người ta không cảm thấy nhận được nó đó thôi.
Quy tắc của điều mà khoa học gọi là "chiều không gian" (dimension) hiển nhiên đă vén lên một phần của sự bí mật này. Dĩ nhiên ngoài cơi tinh thần c̣n nhiều cơi giới khác nữa nhưng điều đó không quan hệ đến chúng ta hiện nay.
Tóm lại, người mà bạn tưởng đă đi xa rồi thật ra vẫn ở bên cạnh bạn và có thể đứng sát kề vai với bạn nữa kia. Dĩ nhiên bạn c̣n mặc một tấm áo choàng dầy, c̣n người kia th́ đă cởi bỏ chiếc áo đó rồi, do đó bạn không c̣n nh́n thấy người ấy nữa nhưng người ấy vẫn nh́n thấy bạn v́ sự rung động của các nguyên tử của cơi kia thanh nhẹ hơn nên có thể nh́n thấy được nhiều hơn.
Trong khi ngủ, khi bạn tạm thời cởi bỏ bộ áo vật chất này ra th́ bạn và người đó có thể tiếp xúc với nhau dễ dàng. V́ đa số mọi người thiếu sự chuẩn bị và công phu hàm dưỡng tinh thần nên vẫn luôn luôn có một khoảng cách giữa tri thức của thể xác và thể tinh thần, do đó họ không thể nhớ lại được việc làm của thể tinh thần trong giấc ngủ.
Hiển nhiên nếu chúng ta có thể nhớ trọn vẹn th́ sự chết đâu c̣n nữa. Một số đạo sư phương Đông đă tập luyện được công phu ǵn giữ cái trí nhớ liên tục này mà giao tiếp với cơi tinh thần trong giấc ngủ hoặc khi hành thiền. Dĩ nhiên đôi lúc cũng có người nhớ lại vài chi tiết trong lúc ngủ nhưng họ thường kết luận đó là chuyện chiêm bao vô giá trị. Một người biết đoán điềm giải mộng có thể nói cho họ biết nhiều điều lư thú mà họ không ngờ.
Đối với những người có thân quyến vừa ĺa đời, nếu họ ngủ được một giấc thoải mái th́ khi tỉnh dậy họ đều có cảm giác an tĩnh, phúc lạc như vừa được gần người thương yêu. Điều này không lạ v́ hiển nhiên họ đă tiếp xúc được với người thân trong giấc ngủ. Nếu bạn biết rằng cơi trần của chúng ta là cơi thấp, và cơi bên kia cửa tử vốn cao hơn th́ hiển nhiên cơi cao bao trùm cơi thấp theo định luật thiên nhiên.
Ở cơi tinh thần người ta có thể nhớ lại rất rơ ràng các chuyện đă xảy ra trong cơi trần. Cũng như thế, khi ngủ người ta có thể hồi tưởng được nhiều chuyện đă quên từ lâu rồi, v́ không c̣n bị cản trở bởi các chướng ngại thuộc thể xác. Khi thức giấc, con người khoác lấy bộ áo vật chất, kư ức bị chi phối bởi các ảnh hưởng thể xác, nó che khuất các linh năng cao hơn nên ít ai nhớ được điều ǵ rơ ràng.
Các danh sư Tây Tạng chỉ dẫn rằng, nếu muốn chuyển đạt tin tức cho người quá cố, bạn có thể giữ trong tư tưởng điều bạn muốn nói th́ chuyện đó sẽ xảy ra. Tuy nhiên bạn nên biết rằng ở cơi tinh thần, người ta có thể đọc được tư tưởng của người sống.
Nếu người quá cố vẫn c̣n luẩn quẩn gần đó th́ họ có thể đọc được tư tưởng của bạn dễ dàng. Ở cơi tinh thần, người ta không rảnh rỗi ngồi không đâu mà có những việc khác để thi hành, do đó nếu có thể, bạn không nên làm rộn đến họ.
Thánh Kinh đă ghi rơ: "Linh hồn co người nằm trong tay Thượng Đế và nơi đây không có sự đau khổ nào có thể chạm đến họ được". Nếu đă tin tưởng như thế th́ tại sao người ta không lo sợ? Phải chăng chúng ta thắc mắc v́ quan niệm thiên đ àng và địa ngục vẫn chi phối sự tin tưởng của chúng ta?
Nếu bạn hiểu biết định luật thiên nhiên như vật lư th́ làm sao một người bất th́nh ĺnh nhảy vọt một cái lên đến tận trời hoặc rơi tuốt xuống đại ngục được! Thật ra một Thượng Đế bác ái và nhân từ không thể tạo ra một địa ngục với những ư nghĩ ghê tởm của nó được.
Dù hiểu theo quan niệm nào th́ cũng không thể có một địa ngục, trừ ra chính nó là cái địa ngục mà con người đă tạo ra cho con người ở cơi trần thế này.
Tôi mong bạn hiểu rằng sự chết không đem lại một thay đổi ǵ cho con người thật sự cả. Không thể nào một người vừa chết đă trở nên một vị thánh, hay một đấng thiên thần. Người chết cũng không thể trở thành một bặc vĩ nhân hiểu biết tất cả mọi sự được, mà chỉ là một người giống như trước khi chết một ngày hay một vài giờ mà thôi.
Hiển nhiên người đó cũng có t́nh cảm, kiến thức, sự hiểu biết, chỉ khác ở chỗ họ đă cởi bỏ bộ áo mặc trên người ra, cởi bỏ cái gánh nặng trên vai (bệnh tật, mệt nhọc của xác thân) và có cảm giác thảnh thơi tự tại. Khi c̣n sống, ai ai cũng phải làm việc để giải quyết những nhu cầu vật chất như thực phẩm, nơi chốn cư ngụ, quần áo che thân.
Tại cơi tinh thần, những thứ này trở nên vô dụng. Thể tinh thần không cần thực phẩm hay nơi chốn cư ngụ, do đó người ta dường như thoát được cái áp lực lớn lao về sự sinh sống. Đây là cả một sự cởi bỏ gánh nặng rất lớn nên người ta thường thấy nhẹ nhàng thoải mái.
Theo các danh sư Tây Tạng, trong cơi tinh thần, không gian không c̣n là một trở ngại nữa. Người ta tự do di chuyển đó đây theo ư muốn. Nếu thích phong cảnh trời biển, họ tha hồ ngao du những chỗ nào đẹp đẽ nhất. Nếu thích mỹ thuật, họ có thể chiêm ngưỡng những tác phẩm nghệ thuật của các nghệ sỹ tài ba mà không phải chờ đợi xếp hàng hay mua vé vào cửa.
Nếu thích âm nhạc, họ có thể di chuyển từ hí viện này đến hí viện khác để thường thức các khúc nhạc tuyệt diệu. Bất cứ thích điều ǵ, họ có thể thưởng thức điều đó hết sức dễ dàng, miễn là những cái đó thuộc về phạm vi tinh thần hay xuất phát từ các t́nh cảm cao thượng. Tại sao? V́ những thứ này không cần phải sử dụng đến một thể xác vật chất.
Dĩ nhiên nếu điều họ thích là một thú vui dựa trên các cảm xúc của thể xác th́ vấn đề hoàn toàn khác hẳn v́ họ sẽ không thể thỏa măn được. Một người nghiện rượu sẽ không uống được rượu v́ làm ǵ c̣n xác thân. Cũng như thế, một kẻ thèm ăn sẽ khổ sở, luôn luôn có cảm giác đói khát v́ c̣n thể xác đâu nữa để ăn!
Một kẻ tham lam, bỏn xẻn tiền bạc sẽ khổ sở v́ không c̣n ǵ để chất chứa. Kẻ ham nhục dục sẽ điên cuồng ǵ thèm khát mà không được thỏa măn. Người ghen tuông sẽ bị t́nh cảm dày ṿ, nhất là khi họ không c̣n xen vào công việc của người mà họ ghen tức được nữa.
Tóm lại, sự khổ sở chỉ bắt nguồn từ những đam mê xây dựng trên căn bản xác thịt, trên thể vật chất. Nếu biết kiềm chế những cảm giác này th́ họ bớt đau khổ hơn v́ nguyên nhân của đau khổ bắt nguồn từ ham muốn. Khi hết ham muốn th́ đau khổ cũng chấm dứt ngay.
Bạn nên biết rằng đây không phải là một "sự trừng phạt" mà thật ra chỉ là kết quả tự nhiên của một nguyên nhân do chính tác nhận đă hành động. Đó chính là cái "quả" bắt nguồn từ cái "nhân" là sự ham muốn. Một khi mănh lực của cái "nhân" không c̣n th́ "quả" chấm dứt ngay. Nó là định luật "tác động và phản xạ" của vật lư chứ không có ǵ lạ.
Hiển nhiên có những người không nhiều tật xấu. Khi c̣n sinh tiền họ sống b́nh thường, không xa hoa phù phiếm ǵ nhưng ít nhiều cũng bị ảnh hưởng xă hội cùng những tập tục của nó. Dĩ nhiên họ không đau khổ điên cuồng như những người đam mê về xác thịt nhưng v́ thiếu một đời sống tinh thần mà họ cảm thấy cô quạnh v́ thời gian sao kéo dài quá.
Khi xưa họ thích tụ thập bạn bè nói chuyện trên trời dưới biển th́ nay những điều này không có ư nghĩa ǵ nữa. Tại cơi tinh thần, ai nấy đều có thể đọc được tư tưởng của nhau, những điều khoác lác, phóng đại để mua vui không c̣n hấp dẫn được ai nữa. Tại đây không có khoe khoang địa vị, y phục, danh giá hay sự quan trọng cá nhân v́ những cái hời hợt đó không có ư nghĩa ǵ ở cơi này.
Tôi đă sử dụng danh từ "cơi này", "cơi nọ" làm như nó ở xa lắm! Thật ra nó vẫn ở gần, rất gần với cơi trần của chúng ta chứ không hề đi đâu xa. Nếu có khác th́ chỉ khác ở một chiều không gian mà thôi.
Cơi giới bên kia cửa tử được cấu tạo bởi các nguyên tử hết sức nhanh và nhẹ nên hợp với những người sống về tâm linh. Những người này sẽ cảm thấy thoải mái hơn ở cơi trần v́ ở cơi bên đây có các rung động thanh cao, thuận lợi cho việc trao dồi kiến thức, phát triển khả năng tinh thần.
Nếu các nhà trí thức, nghệ sỹ, những người có tâm hồn hướng thượng đều cảm thấy thoải mái, ung dung tự tại, th́ người giàu ḷng bác ái không mưu cầu hạnh phúc cá nhân mà chú tâm đến hạnh phúc của người khác, c̣n sung sướng hơn nữa, v́ họ có thể làm việc một cách đắc lực.
Tuy cơi này không có ai nghèo khổ, lạnh lẽo nhưng vẫn có những tâm hồn buồn rầu, đầy hoang mang sợ hăi, cần được giúp đỡ an ủi. Do đó các danh sư Tây Tạng thường chú tâm nghiên cứu cơi vô h́nh để hướng dẫn và giúp đỡ cho những kẻ này.
V́ đa số mọi người không biết ǵ về thế giới bên kia cửa tử nên họ đều thiếu chuẩn bị. Chính v́ thiếu chuẩn bị mà nhiều người chịu đau khổ, mê muội, cứ lang thang sợ hăi trong một cảnh giới kỳ lạ, mơ mơ màng màng, hư hư thực thực, không siêu thoát được.
Thượng Đế thường hành động một cách bí mật, không mầy ai có thể hiểu. Có khi nào bạn tự hỏi tại sao phần lớn con người khi già yếu, các cơ quan thể xác dần dần thoái hoá, các ham muốn như ăn uống, thèm khát cảm xúc xác thịt cũng theo đó mà giảm bớt đi.
Khi bệnh tật đau ốm, người ta chỉ mong sao chóng khỏe thôi chứ ai đâu c̣n ham muốn ǵ khác. Phải chăng đó là một cách gián tiếp giúp con người kiềm chế bớt các thú vui xác thịt, các ham muôn vật chất để tránh khỏi phải đau khổ khi từ giả cơi đời, khi ham muốn mà không thể thỏa măn được nữa?
Hiển nhiên nếu biết vậy, người ta cần phải chuẩn bị, phải tập làm chủ các giác quan, kiềm chế các ham muốn vật chất, phát triển đời sống tinh thần ngay từ lúc này, để tránh không bị kổ sở khi bước vào thế giới bên kia.
Thật đáng tiếc khi đa số người ta cứ mải mê lo lắng cho đời sống phù du, giả tạo, ngắn ngủi ở cơi này mà không biết ǵ đến những đời sống khác. Họ có thể bỏ ra cả tuần hoạch định chương tŕnh cho một chuyến du lịch trong khi không hề chú ư ǵ đến một nơi mà trước sau ai cũng phải đến.
Có lẽ bạn tự hỏi người chết trẻ khi ḷng ham muốn vật chất c̣n mănh liệt th́ sẽ ra sao? Dĩ nhiên họ gặp nhiều khó khăn hơn người chết già hay chết bệnh. Họ dễ bị lôi kéo, thu hút vào những cảnh giới thấp thỏi, ngột ngạt, bị ch́m đắm trong các rung động xấu xa, sống trong t́nh trạng hoang mang đau khổ, đầy thèm khát cho đến khi biết kiềm chế ḷng ham muốn th́ mới siêu thoát được.
V́ đă mấy ai biết trước giờ chết, tử thần có bao giờ báo trước nên con người cần chuẩn bị một đời sống thanh khiết, hướng thượng ngay từ bây giờ. Điều chính yếu là nên giảm bớt các ham muốn vật chất để tránh khỏi lâm vào t́nh trạng như đói không được ăn, khát không được uống, thèm muốn không được thỏa măn, toàn thân nóng rực như than hồng v́ ham muốn hành hạ.
Này bạn, điều này không phải là sự trừng phạt v́ không hề có chủ thể hay đối tượng, không hề có quỷ sứ hành hạ. Diêm vương xét xử mà chỉ là kết quả của định luật thiên nhiên. Một cái "nhân" sẽ tạo một cái "quả" ḷng ham muốn không được thỏa măn sẽ tạo đau khổ.
Dù được thỏa măn, nó sẽ tạo nên những ham muốn khác nữa cho đến khi không thể thỏa măn. Sự đau khổ luôn luôn gia tăng theo đ à ham muốn, càng ham muốn nhiều th́ khổ đau càng lớn. Hiển nhiên t́nh trạng này không kéo dài mà sẽ chấm dứt ngay khi sự ham muốn không c̣n nữa.
Nếu người chết có đủ nghị lực, không ngoan để chế ngự những cảm giác khát khao về cơi trần th́ họ sẽ không bị ràng buộc hay bị hành hạ bởi ḷng ham muốn. Tiếc thay, v́ không được giải thích một cách rơ ràng như vậy nên phần đông nhân loại cứ nhởn nhơ vui chơi.
T́m khoái lạc qua các cảm xúc của thể xác mà không ư thức rằng thể xác vốn vô thường, nay c̣n may mất, trước có sau không, những vui thú ngắn ngủi phù du của một kiếp người trong chốc lát đă dọn đường cho sự đau khổ triền miên ở cơi bên kia.
Thời gian ở cơi trần bị giời hạn bởi các điều kiện vật chất v́ thể xác được cấu tạo bởi các nguyên tử trọng trược, không thể kéo dài quá lâu. Trong khi thời gian ở cơi bên kia hoàn toàn tùy thuộc vào sự rung động của các nguyên tử cấu tạo nên tinh thần. Nếu ḷng ham muốn c̣n mănh liệt, sự rung động c̣n thô thiển nặng trọc, th́ thể tinh thần không thể siêu thoát lên cơi trên mà lưu lại nơi đây rất lâu.
Này bạn, tôi muốn nhân dịp này đề cập đến tâm trạng của những người vừa cởi bỏ áo vật chất v́ đây là một điều hết sức quan trọng. Dĩ nhiên khi vừa qua đời, ai cũng hoang mang, hốt hoảng v́ sự thay đổi đột ngột bất ngờ. Tuy nhiên nếu khóc than thảm thiết th́ bạn chỉ làm cho người đó thêm bối rối, đau khổ, quyến luyến mà thôi.
Khi từ bỏ bộ áo vật chất, các giác quan thể xác đă hư hoại, người bạn yêu không thể sử dụng ngũ quan như nh́n, nghe, ngửi, nói hay sờ mó được nữa và không thể biết được những sự kiện xảy ra trên cơi trần. Tuy nhiên các giác quan của thể tinh thần từ lâu vẫn bất động (inactive) bỗng được kích động và dần dần trở nên linh hoạt.
Chỉ một lúc sau họ bắt đầu nhận thức ít nhiều về các sự kiện xảy ra chung quanh. Tùy tâm trạng lúc chết b́nh tỉnh hay hoảng hốt, đau khổ hay thoải mái mà các giác quan của thể tinh thần sẽ hoạt động nhanh hay chậm. Có khi v́ quá xúc động mà các giác quan này bị tê liệt không hoạt động được nữa, hiển nhiên người chết sẽ không ư thức được ǵ mà cứ mơ mơ màng màng như người say ngủ.
Cũng có trường hợp các giác quan này hoạt động ngay khiến người chết có thể đọc được tư tưởng của người thân, biết họ sung sướng hay đau khổ ngay khi ĺa bỏ bộ áo vật chất.
Sự khóc than van có thể làm người chết hoảng hốt, lo lắng, luyến tiếc, đúng vào lúc mà họ cần phải b́nh tĩnh hơn bao giờ hết để thích hợp với hoàn cảnh mới. Tâm trạng người chết khi đó ở giữa hai cảm giác kỳ lạ: Cảm giác trước sự kiện vật chất đang dần dần tan biến, và cảm giác trước các sự kiện mới lạ đang bắt đầu thành h́nh v́ các giác quan mới bắt đầu hoạt động.
Khi linh hồn rút khỏi thể xác, nó tạo ra một thay đổi trong bộ óc, khơi động "cuốn phim kư ức" vẫn chứa đựng trong tiềm thức. Tất cả mọi chuyện buồn hay vui, thành công hay thất bại, danh vọng, giàu sang hay nghèo đói, khổ sở, các hậu quả mà họ nhận lănh, nguyên nhân mà họ gây ra:
Nổi đau khổ, sự đam mê, hành vi tội lỗi cũng như ḷng quả cảm hy sinh... đều lẩn lượt hiện ra trong tâm thức họ một cách rơ rệt. Đây là giai đoạn hết sức quan trọng v́ nó quyết định số phận người chết trên đường tiến hóa tâm linh.
Nếu b́nh tĩnh, biết chấp nhận mọi sự, không luyến tiếc th́ họ dễ dàng thích hợp với hoàn cảnh mới hơn. Nhờ các giác quan thể tinh thần được khơi động mà họ ư thức được thế giới bên kia và có những quyết định sáng suốt. Đa số thường có cảm giác như đang trôi nổi, vật vờ trong một luồng sáng êm dịu và dần dần hiểu biết mọi sự.
Tâm trạng của họ khi đó ảnh hưởng đến sự rung động của các nguyên tử cấu tạo thể tinh thần. Nếu hoảng hốt, sợ hăi hay luyến tiếc hối hận một điều ǵ th́ các rung động của thể tinh thần sẽ bị rối loạn khiến họ bi thu hút vào những rung động tương tự theo định luật "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu".
Họ sẽ bị lôi cuốn ngay vào bầu ánh sáng lờ mờ, nhầy nhụa như bùn của các cảnh giới nặng trọc, xấu xa. Nếu thoải mái, b́nh tĩnh, họ sẽ thấy nhẹ nhơm, an vui tự tại, người họ lơ lững trong bầu ánh sáng chói lọi, trong suốt như pha lê. Họ thấy khỏe khoắn và có thể sử dụng các giác quan mới để theo dơi sự việc xảy ra quanh đó.
Dĩ nhiên họ có thể hoảng hốt, mất b́nh tĩnh nếu thấy người thân kêu la, khóc lóc. Cái cảm giác ung dung tự tại lúc ban đầu có thể thay đổi ngay, và hậu quả không thể lường được.
Trong thế giới tinh thần, tư tưởng chiếm vai tṛ hết sức quan trọng v́ nó chủ động tất cả mọi việc. Thử tưởng tượng, tự nhiên bạn bị bịt mắt dẫn ra khỏi nhà, đến một nơi xa lạ với tiếng người la hét, than khóc cùng các tiếng động ồn ào phức tạp mà bạn không thể hiểu th́ tâm trạng của bạn sẽ ra sao?
Phải chăng bạn không thể b́nh tĩnh được? Cũng như thế, sự b́nh tĩnh, sáng suốt là điều hết sức quan trọng khi trong nhà có người từ trần. Theo các danh sư Tây Tạng, không có ǵ tốt đẹp hơn sự chân thành cầu nguyện của những người thân quyến.
Các rung động âm thanh của lời kinh có một oai lực rất lớn, ảnh hưởng rất mạnh đến cơi giới bên kia. Một sự tha thiết chí tâm chí thành cầu nguyện, hay việc được một vị tu sĩ đạo hạnh cao dầy chú tâm hành lễ là một bảo vật không có ǵ có thể sánh bằng.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 191 of 1146: Đă gửi: 17 June 2010 lúc 10:32pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÊN KIA CỬA TỬ
CHƯƠNG HAI
Một lần nữa, v́ sự kiện hết sức quan trọng này mà tôi mong bạn hăy ngưng việc khóc than vố ích, hăy lắng ḷng, b́nh tĩnh cầu nguyện cho người ở thế giới bên kia. Họ có thể nhận được ḷng thương yêu chân thành của bạn ngay khi bạn vừa phát tâm v́ ở thế giới bên kia, tư tưởng có sức mạnh rất lớn và mầu nhiệm.
Này bạn, người thân của bạn không hề đi xa mà vẫn ở gần bên bạn. Người đó không nh́n được thể xác vật chất của bạn như vẫn thấy được thể tinh thần của bạn. Dĩ nhiên họ cũng cố gắng liên lạc với bạn mà nào bạn có biết. V́ bạn không để ư đến họ nữa nên họ tưởng như bạn đă quên họ rồi.
Nếu thấy một người c̣n sống đang ngủ say, bạn biết người đó đang ngũ nhưng người say ngủ đau hề biết ǵ về bạn. Cũng thế, đối với người đă qua đời th́ bạn cũng như người đang ngủ say, họ thấy bạn nhưng không thể nói chuyện với bạn được nữa.
Tôi mong bạn hăy suy gẵm cho kỹ về điều này, phải chăng nó hợp lư và không có ǵ quá đáng? Này bạn, sự thật đâu phải điều ǵ to tát, phức tạp, vượt ngoài sự hiểu biết của con người. Chính v́ thiếu sự hiểu biết nên con người đă vẽ vời ra những cảnh tượng ghê gớm đấy chứ.
Nếu bạn chấp nhận phần nào về cảnh giới bên kia cửa tử như tôi đă tŕnh bày th́ chúng ta có thể đi xa hơn.
Trong vũ trụ c̣n có nhiểu cảnh giới khác nữa chứ không phải chỉ có thế giới này thôi. Tùy theo các rung động của thể tinh thần mà con người thích ứng với một cảnh giới.
Khi mọi ham muốn thấp hèn, ích kỷ đă hoàn toàn tan ră th́ con người sẽ siêu thoát lên các cảnh giới cao hơn. Khi tư tưởng trở nên thanh khiết, nhẹ nhàng, họ sẽ ư thức được những luồng tư tưởng thanh cao tế nhị hơn. Lúc đó họ sẽ mê man trước các luồng sóng rung động trí thức, các bầu tư tưởng sạch tốt lành.
Đây là giai đoạn mà con người thấy rộn ràng một niềm phúc lạc vô biên, không bút nào có thể tả được. Đó là khi họ bắt đầu ư thức được các diễn biến thực sự của vũ trụ, của các định luật bất biến, của ánh sáng chân lư. Đây không phải phần thưởng của ai hết mà chỉ là kết quả tự nhiên của tánh linh đă tiến hóa đến giai đoạn này.
Phải chăng bạn tự hỏi cái gia đoạn này có kéo dài măi không? Câu trả lời là "không", v́ không có một cái nhân hạn định nào có thể tạo ra một cái quả vô hạn định được. Định luật vũ trụ đă định rằng tia sáng phát xuất từ Đại Thể sẽ phải trở về nguồn gốc.
Dĩ nhiên trong cuộc hành tŕnh trở về nguồn gốc, chúng ta c̣n phải tiến hóa rất nhiều để trở nên trong sạch, toàn diện. Hiện nay chúng ta c̣n bất toàn và rất xa với Đại Thể toàn thiện, uyên nguyên đó nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ trở về, và đó là một sự thật không thể chối căi.
V́ định luật vũ trụ "bất cứ một lực ǵ phát ra cũng đều có một phản lực ngược chiều tương tự", chúng ta phát xuất từ điểm linh quang toàn thiện, uyên nguyên kia, càng ngày càng đi xa dần, thâm nhập vào các cơi giới vật chất khác nhau rồi bị ô nhiễm, chính sự ô nhiễm này đă khiến chúng ta lạc lối, sa đọa và càng ngày càng đi xa măi trong cơi vô minh.
Tuy nhiên chắc chắn có lúc chúng ta sẽ trở về khi ư thức được ḿnh là ai. Cởi bỏ các ô nhiễm vật chất, thanh lọc bàn thân để phát triển cái "mầm nhiệm", cái "chân như, Phật tánh", cái "thánh linh" sẵn có trong ta th́ dĩ nhiên chúng ta có thể "xoay chiều" cái lực đẩy chúng ta đi xa mà quay trở về.
Tất cả mọi sự sống đều đang trên đường tiến hoá, có thể nhanh hay chậm tùy hoàn cảnh và định luật cá nhân nhưng chắc chắn đều nổi trội trong chu kỳ tiến hóa chung. Nếu con người mỗi sáng thức vậy, mặc quần áo, làm công việc thường ngày, th́ đến tối, cởi bỏ y phục ra để nghỉ ngơi. Cũng như thế, khi xuống trần, người ta khoát lấy bộ áo vật chất.
Khi việc học hỏi đă hoàn tất, người ta cởi bỏ bộ áo đó bước vào một trạng thái yên tĩnh để nghỉ ngơi. Sau khhi ngơi nghỉ, ôn lại bài vở đă học th́ họ lại khoát chiếc áo khác, khởi sự học một bài học mới (hoặc tiếp tục học bài học mà họ đă không học được khi trước). Điều người ta gọi là "đời người" thật ra chỉ là một ngày trong đời sống thật sự, trong một cuộc tiến hoá, một hành tŕnh để trở về nguồn.
Này bạn, điều này có thể mới mẻ đối với bạn, có thể bạn coi nó là kỳ dị, phi lư, hoang đường, không thể tin. Hiển nhiên trong bài viết ngắn, tôi không thể tả hết những điều trọng đại mà tôi đă nghiên cứu trong ṿng mấy chục năm qua, những sự kiện mà các danh sư Tây Tạng đă học suốt trong mấy chục thế kỷ qua, những chân lư mà các bậc tổ Mật Tông đă để lại trong tài liệu, trong các cuốn cổ thư hay kinh sách mật truyền.
Tuy nhiên tôi sẽ cố gắng giải thích thêm những ǵ tôi biết. Phải chăng bạn đang thắc mắc về số phận của người thân vừa qua đời? Hiển nhiên họ cũng rất quan tâm đến người sống nhưng sự lo lắng này có thể làm cản trở việc siêu thoát và mức tiến hóa của họ. Vấn đề quan trọng cần đặt ra là làm sao tránh cho họ không bị những quyến luyến ám ảnh.
Làm sao để người chết hoàn toàn giải thoát ra khỏi nỗi lo lắng ưu tư của cơi giới mà họ vừa từ giả, để có thể sống thoải mái, trọn vẹn trong cuộc sống mới mà họ vừa bước vào. Việc giúp đỡ con trẻ của người chết để lại là một hành vi cao quư đặc biệt. Nhờ thế mà cha mẹ đă từ trần bớt gánh nặng lo âu phần nào và có thể nhẹ bước tiến lên cơi trên.
Nếu khi c̣n sống họ đă làm điều sai quấy th́ lúc từ trần dĩ nhiên họ sẽ lo lắng về số mạng sắp tới của họ. May mắn thay trong cơi tinh thần vẫn luôn luôn có những người đi trước, những người giàu long bác ái, sẵn sáng đảm nhận trách nhiệm hướng dẫn, d́u dắt, giải thích cho họ hiểu những định luật thiên nhiên.
Dĩ nhiên đă tạo ra nhân th́ chắc chắn sẽ gặt lấy quả, không thể khác được. Nếu hiểu biết, chấp nhận sự thật và vui vẻ thọ lănh hậu quả vẫn tốt hơn là u mê, không ư thức được ǵ hết.
Một trong những sự kiện đặc biệt là trường hợp các đứa bé qua đời. V́ đa số các đứa trẻ đều ngây thơ, ít ràng buộc, ham muốn vật chất nên chúng dễ thích hợp với cơi giới bên này hơn. Lúc đầu trẻ con thướng quanh quẩn gần cha mẹ của chúng nhưng họ đâu biết được sự hiện diện của con nên đứa bé có cảm tưởng bị bỏ rơi.
Ít lâu sau nó tụ tập với những linh hồn c̣n trẻ khác mà chơi đùa với nhau. Trong cơi tinh thần, tư tưởng thường hiện ra rất rơ rệt. Khi đứa bé tưởng tượng thế giới nào th́ nó thấy như vậy. Nếu nó nghĩ rằng nó là một vị anh hùng th́ nó liền khoát lấy h́nh ảnh người hùng đó: Nếu nó muốn cung điện lâu đài th́ một lâu đ ài được dựng ra lên tức th́.
Đối với đứa bé có tâm hồn hướng thượng muốn t́m gặp các thần thánh th́ những vị này sẽ xuất hiện ngay v́ ở cơi tư tưởng người ta rất dễ t́m gặp nhau theo định luật "đồng thanh tương ứng". Có những đứa bé muốn gặp Thượng Đế. Một Thượng Đế trong h́nh thể vật chất như nó nghĩ và hiển nhiên nó sẽ không thất vọng v́ tất cả h́nh dáng của Thượng Đế, bởi v́ ngài ở khắp mọi nơi, kẻ nào muốn phụng sự và giúp đỡ, dù giúp đỡ nhưng sinh linh thấp kém nhất, th́ cũng đang phụng sự ngài một cách thực sự vậy.
Dĩ nhiên trong thời gian đầu, trẻ con dễ ham thích được hữu dụng. Chúng ưa giúp đỡ, an ủi người khác nên sau một thời gian chời đ ùa thỏa chí, chúng thường t́m đến những người thiếu hiểu biết, những người c̣n lo lắng, hoang mang để chuyện tṛ, an ủi họ.
Trong cơi vô h́nh, những đứa bé như thế di chuyển khắp nơi, làm những việc giúp đỡ đầy vị tha, bác ái. Chính sự giúp đỡ, quen biết này đă tạo ra những sợi dây thân ái giữa chúng và các linh hồn khác. Phải chăng bạn đang thắc mắc về số phận của những đứa trẻ quá nhỏ, chưa biết chơi đùa?
Trong cơi tinh thần có nhiều bà mẹ nồng nàn chờ đợi để ôm chúng vào ḷng, tiếp đón chúng, yêu thương chúng như con ruột của ḿnh. Tuy nhiên thường thường những đứa bé đó chỉ nghĩ ngơi trên cơi tinh thần một thời gian rất ngắn rồi lại trở xuống trần. Nhiều khi chúng t́m đến cha mẹ cũ của chúng v́ những liên lạc thân ái hay tùy duyên nghiệp có sẵn từ trước.
Các tu sĩ thời trung cổ thường bịa đặt ra các điều độc ác, gớm ghê như việc trẻ nhỏ chết mà không rửa tội th́ sẽ xa cách cha mẹ chúng và bị đ ày xuống địa ngục vĩnh viễn. Đây là một tin tưởng ngu xuẩn, hoàn toàn vô lư, cần phải loại bỏ.
Rửa tội là một bí tích thật sự, có những hữu ích đặc biệt và có ư nghĩa quan trọng chứ không phải một h́nh thức bên ngoài mà nếu thiếu sót sẽ đem lại hậu quả tai hại, ảnh hưởng cả đến những định luật vũ trụ. Thượng Đế vốn bác ái, nhân từ, đâu chấp nhận những h́nh thức bên ngoài như một hung thần độc đoán như vậy.
Cho đến nay, tôi chỉ đề cập đến việc tiếp xúc với người chết bằng cách vào thế giới bên kia trong giấc ngủ v́ đó là đường lối tự nhiên thônng thường. Dĩ nhiên có những đường lối khác thường và không tự nhiên. Dĩ nhiên vẫn có những đường lối khác thường và không tự nhiên.
Có người chết tạm thời mượn lấy một h́nh thể khác trong chốc lát (trường hợp lên đồng, nhập cốt) hoặc sử dụng một h́nh nộm, một cái bóng, tạo ra bởi các nguyên tử vật chất, để tiếp xúc với người cơi trần. Đây là những điều không đứng đắn, mơ hồ, khó kiểm chứng, dễ bị lợi dụng, có thể đưa đến sự bịp bợm, phỉnh gạt của một số thầy pháp, thực hành tà thuật.
Do đó, theo sự nghiên cứu và hiểu biết của tôi, đây là điều nên thận trọng v́ việc vong linh cố gắng liên lạc với cơi trần bằng cách này thường bắt nguồn từ những nguyên nhân đặc biệt. Có thể v́ họ có điều oan ức cần biện bạch, hoặc các đau khổ lo âu cần được giúp đỡ. Trong trường hợp này, tốt nhất là ráng t́m hiểu xem họ muốn ǵ rồi giúp họ giải quyết những việc đó sớm chừng nào tốt chừng nấy để tâm hồn họ được an tĩnh.
Này bạn, tôi đă tŕnh bày những hiểu biết của tôi về thế giới bên kia. Tôi mong bạn hăy bớt buồn rầu v́ sự chia ly tạm thời này. Có chi phải lo lắng buồn phiền khi người bạn yêu thương đă bước vào một đời sống rộng răi, thoải mái với những ư nghĩ đặc biệt của nó? Nếu buồn rầu về sự chia ly tưởng tượng đó th́ trước nết điều bạn lo âu chỉ là một ảo tưởng, v́ người đó đâu hề xa cách bạn.
Phải chăng sự thật là bạn suy nghĩ nhiều về sự mất mát của chính bạn hơn là sự thoải mái của người vừa qua đời? Bạn phải bỏ lóng ích kỷ đó đi nếu bạn thật sự yêu thương người đó. Tất cả t́nh thương chân thật đều phải vị tha. Bạn cần nghĩ đến người bạn thương chứ không phải đến bản thân bạn.
Bạn nên biết rằng ḷng yêu thương chân thành của bạn với người đă qua đời vẫn c̣n măi chứ không thể mất đi được. Tại sao cơi bên kia, nó c̣n gia tăng thêm mănh lực v́ tại đây nó không c̣n bị trở ngại hay giới hạn bởi thể xác.
Ở cơi tư tưởng, người ta không thể dối trá được, các h́nh thức nên ngoài như khóc than, bi lụy không xuất phát từ bên trong chỉ là những h́nh thức giả dối và người ở cơi bên kia biết rơ điều này hơn ai hết, v́ họ đọc rơ tư tưởng của bạn. Dù thành thật, nhưng nếu than khóc, buồn rầu th́ bạn đă phóng ra những tư tưởng có ư "kềm chân, núi giữ" người kia lại th́ làm sao họ có thể ung dung tự tại mà siêu thoát được?
Bạn nên nhớ mọi tư tưởng, t́nh cảm của bạn đều ảnh hưởng trực tiếp đến người ở cơi bên kia, do đó bạn cần thận trọng, đừng để một tư tưởng giận hờn, lo lắng nào ảnh hưởng đến sự thoải mái của họ. Nếu biết người đă qua đời vẫn c̣n lo lắng cho bạn th́ bạn cần an đảm, vui vẻ hơn v́ như thế họ sẽ an tâm hơn, bớt đi các ưu tư lo lắng về bạn.
Nếu khi c̣n sống, họ không được chỉ dẫn một cách cẩn thận, đứng đắn về đời sống bên kia cửa tử, th́ bạn hăy t́m cách học hỏi những điều này và giải thích cho họ hiểu vào những khi ngủ. Bạn hăy tâm niệm những điều bạn muốn tŕnh bày trước khi ngủ rồi bạn sẽ ư thức được điều tôi muốn nói.
Này bạn, khi vừa qua đời, t́nh cảm quyến luyến giữa hai bên vẫn c̣n bền chặt, do đó tư tưởng của bạn có thể ảnh hưởng rất nhiều đến người kia. Bạn hăy nhân cơ hội này chuyển trao cho họ những tư tưởng cao thượng tốt lành, khiến tâm thức của họ chóng khai mở, có những rung động tốt đẹp và giúp họ t́m được sự an lạc ở cơi bên kia.
Bạn hăy cầu nguyện, âm thanh của lời kinh có oai lực rất lớn, có thể giúp họ chóng tỉnh thức rơ rệt mọi sự đang xảy ra. Bạn hăy t́m hiểu sự duy nhất của vạn vật, của đấng Thiên Liêng. Nếu bạn hiểu được t́nh thương của ngài đối với bạn cũng như với muôn loài th́ làm sao bạn có thể buồn rầu, bi lụy được?
Bạn biết rằng tất cả đều là con của ngài, làm sao một đấng Cha Lành như ngài lại không săn sóc chăm lo cho các đứa con của ngài được? Thái độ bi lụy là thái độ thiếu tinh tưởng, thụ động và thiếu hiểu biết. Bạn cần học hỏi thêm các ẩn nghĩa trong lời dạy bảo của ngài xuyên qua đấng cứu thế, v́ càng học hỏi hiểu biết nhiều chừng nào th́ đức tin của bạn càng mạnh mẽ chừng đó.
Bạn sẽ nhận thức rằng tất cả mọi sự đều nằm trong tay đấng Cha Lành, một quyền năng đầy sáng suốt, bác ái, minh triết hoàn toàn. Và chính cái t́nh thương cao cả này điều khiển tất cả mọi sự.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 192 of 1146: Đă gửi: 17 June 2010 lúc 10:44pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÊN KIA CỬA TỬ
CHƯƠNG BA
Những người chết sống lại Một vài trường hợp đặt biệt
Lời dịch giả:
Sau cuốn "Em braced by the Light" dẫn đầu về số bán, lại có các cuốn "Saved by the Light", "Closer to the Light" "Into the Light", "Liht after Light", "Reflection on the after", "Life at Death", Retum from Death".
Cuốn nào cũng bán rất chạy, phá kỷ lục trong các lọai sách tâm linh và lôi kéo theo nhiều cuộc tranh luận hết sức sôi nổi. Chi tiết các cuốn sách trên không khác nhau bao nhiêu, ai cũng kể rằng sau khi chết họ thấy ḿnh được bao trùm trong một luồn ánh sáng êm dịu, tinh khiết và được hướng dẫn về tinh thần.
Tất cả đều kết luận rằng chết không phải là điều ghê gớm đáng sợ như mọi người vẫn nghĩ mà chỉ là một sự "chuyển tiếp" giữa các kiếp sống, một kinh nhgiệm tâm linh mà những ai trải qua sẽ không thể quên được. Mặc dù những cuốn sách trên ghi nhận hàng trăm những trường hợp người chết sống lại, chúng tôi chỉ lựa chọn một vài trường hợp đặt biệt để cống hiến quư vị độc giả.
Cuối tháng 4 năm 1987, người ta chở bà Hary Houghton, 68 tuổi vào bệnh viện Boston v́ chứng đau tim. Bệnh nhân ngưng thở lúc 6 giờ tối, mọi cứu chữa đều vô hiệu và bác sĩ tuyên bố bệnh nhân đă chết. Xác bà được tạm đặt trong một căn pḥng riêng chờ thân nhân đến làm giấy tờ tẩm liệm.
Khoảng 11 giờ đêm, bà Houghton tỉnh lại bấm chuông gọi y tá. Bác sĩ trực đến khám và xác nhận bà lăo đă hồi sinh. Trường hợp bệnh nhân đă tắt thở vài giờ sau lại sống dậy không có ǵ lạ lùng với y giới nhưng bà Houghton đă nhớ lại những diễn tiến sau khi chết và kể lại như sau:
"Tôi đang ngồi ở nhà đọc báo th́ thấy choáng váng, xây xẩm mặt mày và tự nhiên hôn mê.
Khi tỉnh dậy tôi cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thoát, chung quanh tôi là một lớp sương khói dày đặc khiến tôi bỡ ngỡ không biết ḿnh đang ở đâu. Tôi lên tiếng gọi nhưng vô hiệu. Tôi ṃ mẫm đi trong lớp sương mù đó được một lúc th́ nhận thức rằng có lẽ ḿnh đă chết.
Tôi biết ḿnh mắc chứng đau tim đă lâu, bác sĩ nói rằng tôi chẳng c̣n sống được bao lâu nữa nên tôi không lấy thế làm buồn. Điều bất ngờ là khi vừa chấp nhận điều này th́ tôi thấy ḿnh đang đứng ngay bên cạnh giường quan sát thân thể của tôi nằm bất động trên đó. Sau một lúc xúc động tôi cố gắng trấn tĩnh và tự chủ rằng ḿnh sống như thế cũng là đủ rồi.
Trong khi xúc động th́ luồng ánh sáng bao quanh tôi trở nên đen tối, khó chịu, tôi có cảm giác như bị lôi kéo vào một vũng bùn nhầy nhụa, hôi hám. Tôi bèn lên tiếng cầu nguyện th́ thấy trong ḿnh dễ chịu lạ thường, lớp ánh sáng bao quanh dần dần trở nên quang đăng hơn.
Một lúc sau tôi thấy thân thể nhẹ hẫng như có thể bay bỗng lên được. Tôi bèn để cho nó tự nhiên và thấy ḿnh lơ lửng trên không nh́n xuống phía dưới. Lúc ở trên cao nh́n xuống, tôi thấy có một chùm ch́a khoá màu đỏ của ai để trên nóc tủ thuốc. Tôi thầm nghĩ ai lại để ch́a khoá ở đó làm chi?
Đang suy nghĩ vẫn vơ th́ tôi thấy ḿnh đă đi xuyên qua trần nhà để lên lầu trên và thấy hai người y tá đang xem một trận đấu bóng rỗ trên ti-vi, trận đấu vừa kết thúc khi đội Los Angeles Lakers thắng Boston Celtics, và một người y tá đánh cuộc thua phải trả cho bạn đồng nghiệp 20 mỹ kim.
Tôi thong thả đi dọc theo hành lang bệnh viện và gặp rất nhiều người như tôi cũng đang lướt đi, không ai nói với ai lời nào. Đa số có vẻ vội vă, có người hoảng hốt là đàng khác.
Tôi thấy một thanh niên đang đứng cạnh xác ḿnh một cách đau khổ, tôi lên tiếng an ủi nhưng có lẽ anh không nghe được lời khuyên bảo của tôi. V́ một lư do ǵ không rơ, tôi hiểu ngay sự bận tâm của anh ta v́ đă không hoàn tất được một số việc. Anh ta cố sức chui lại vào cái xác đă lạnh cứng nhưng vô hiệu.
Anh ta cố sức chui lại vào cái xác đă lạnh cứng nhưng vô hiệu. Anh đâm ra hoảng hốt khiến tôi cũng mất b́nh tĩnh theo nên tôi đành bỏ anh ta ở đó mà đi chỗ khác. Tôi nghĩ đến các con của tôi và lập tức thấy ḿnh đang đứng trước mặt đứa con gái lớn. Con gái tôi đang khóc. Tôi muốn ôm lấy nó nhưng tiếng khóc của nó làm tôi thấy khó chịu.
Mỗi khi trong người khó chịu th́ lớp ánh sáng bao quanh tôi lại chuyển sang một màu đen tối, nhầy nhụa khiến tôi sợ hăi. Tôi cố gắng trấn tĩnh tâm hồn và nghĩ đến hai đứa con trai th́ thấy ḿnh đang đứng ngay bên cạnh chúng. Hai đứa đang bàn việc chôn cất cho tôi. Thằng Michael phàn này về việc tôi đă không chịu mua bảo hiểm nhân thọ. Cả hai chỉ nghĩ đến số tiền mà chúng sẽ phải chi ra hơn là nhớ thương đến mẹ của chúng.
Tôi không hiểu tại sao tôi lại có thể đọc rơ tư tưởng của các con tôi như vậy. Càng đứng đó tôi càng bực bội v́ hai đứa cứ căi nhau măi về việc chôn cất và việc phân chia gia tài nên tôi lại bỏ đi. Tôi không biết sẽ đi đâu. Tôi chẳng có thân nhân hay bạn bè nào cả. Đến lúc đó tôi mới bắt đầu nghĩ lại cuộc đời của ḿnh.
H́nh như tôi đă sống một cách ích kỹ, không giao thiệp với ai và cũng không có ai là bạn thân thiết. Cả một quá khứ bỗng hiện ra trước mắt tôi như người đang xem phim chiếu bóng. Tôi thấy rất rơ những quyết định của ḿnh, những lỗi lầm mà tôi đă tạo ra.
Những việc mà tôi nghĩ là tầm thường, không đáng kể đều hiện ra rơ rệt và phản ảnh tâm trạng của tôi khi đó; v́ sao tôi đă hành động như vậy; tại sao tôi lại làm việc đó... Hơn bao giờ hết tôi thấy mọi sự việc một cách khách quan vô tư chứ không chủ quan như trước. Tôi không hiểu tại sao ḿnh lại có thể b́nh tĩnh nhận xét như thế được.
Tôi bắt đầu cầu nguyện và tự nhiên thấy lớp ánh sáng bao quanh bỗng sáng chói một cách lạ lùng. Tôi thầm nghĩ phải chăng tôi có thể hành động khác khi xưa khi biết rơ những nguyên nhân, hậu quả việc làm của ḿnh. Tất cả có thể quy về một điều duy nhất: Tôi là một người quá tự hào về ḿnh, quá hănh diện về những giá trị viển vông, tạm bợ mà không hề biết rằng những điều đó hoàn toàn vô giá trị khi người ta từ bỏ cơi sống này. Chính v́ tự hào mà tôi đă khoác lên ḿnh những mặc cảm tự tôn, coi thường người khác, bất chấp dư luận và nghĩ rằng tôi luôn luôn có lư trong mọi công việc.
Hậu quả là tôi có một đời sống khô khan, không bạn bè thân thiết, ai ai cũng muốn xa lánh tôi, ngay cả những đứa con của tôi nữa. Phải chăng tôi có thể chuộc lại những điều đă làm? Chưa bao giờ tôi lại có ư nghĩ lạ lùng như vậy. Lần đầu tiên tôi hối hận một cách chân thành và tự nhiên tôi lên tiếng cầu nguyện.
Tự nhiên tai tôi bỗng ù đi, luồng ánh sáng bao quanh tôi trở nên sáng chói một cách lạ lùng, tôi thấy b́nh tĩnh như có một sự an ủi lớn lao nào đó vừa đến với tôi, và tôi cương quyết rằng tôi sẽ chuộc lại những lỗi lầm khi xưa.
Tôi chắp tay cầu nguyện Thượng Đế hăy cho tôi một cơ hội nữa và luồng ánh sáng chung quanh tôi tự nhiên sáng chói một cách mănh liệt khiến tôi phải nhắm mắt lại và bất chợt tôi nghe được các âm thanh quen thuộc. Tôi thấy ḿnh đang nằm trên giường bệnh viện..Tôi đă tỉnh lại".
Lời khai của bà Houghton đă được bác sĩ Elizabeth Kubler Ross kiểm chứng rất kỹ. Hai nhân viên trực trong bệnh viện xác nhận họ có đánh cuộc với nhau về trận bóng rỗ, kết quả trận banh xảy ra đúng như lời bà Houghton đă thuật lại.
Hai đứa con trai của bà Houghton cũng xác nhận họ đă căi nhau về việc bảo hiểm và tiền chôn cất. Điều bất ngờ là một bác sĩ trực đánh mất chùm ch́a khoá xe hơi màu đỏ từ mấy tuần trước, nhờ lời khai của bà Houghton mà ông nhớ rằng trong lúc vội vă, ông đă ném đại nó lên nóc tủ thuốc.
Chiếc tủ này rất cao, gần chạm đến trần nhà, một người đúng dưới đất không thể nh́n thấy nó được nên mặc dù t́m kiếm măi mà vẫn không ai thấy... trừ khi họ đứng trên trần nhà nh́n xuống.
Nhiều người khi chết rồi sống lại đều xác nhận một trạng thái nhẹ nhàng, thanh thản trong một bầu ánh sáng trong suốt như pha lê. Tuy nhiên thế giới bên kia không phải chỉ là những bầu ánh sáng rực rỡ mà c̣n có sự tiếp xúc với những vong linh khác như trường hợp của Steve Buckley sau đây:
Steve Buckley là một tân binh vừa nhập ngũ. Anh được huấn luyện tại một căn cứ quân sự tại tiểu bang Carolinạ Trong buổi thực tập cách gài ḿn, gỡ ḿn th́ một quả ḿn đă nổ ngay gần chỗ anh đứng. Tuy thân thể không bị thương nhưng anh bị sức chấn động làm ngất đi và trút hơi thở cuối cùng trên đường đến bệnh viện.
Mọi phương pháp làm hồi sinh đều vô hiệu. Khi đến bệnh viện, một y sĩ khám nghiệm xác nhận anh đă chết. Xác anh được quàn tạm trong nhà xác chờ thông báo cho thân nhân. Khoảng vài giờ sau đó, anh tỉnh dậy trước sự ngạc nhiên của mọi người. Sau đó anh đă thuật lại câu chuyện như sau:
"Tôi không hề ư thức ǵ về quả ḿn nổ, tôi chỉ biết rằng bỗng dưng tất cả đều im lặng, một thứ im lặng tuyệt đối. Tôi lên tiếng gọi lớn nhưng không nghe ai đáp lại, cả sân tập bỗng trở nên vắng hoe, bao nhiêu bạn đồng ngũ bỗng biến đâu mất hết.
Tôi đang phân vân chưa biết phải làm ǵ th́ thấy có một người mặc đồng phục, tay cầm một cây dù đang đứng giữa băi ḿn. Tôi tự hỏi tại sao giữa quân trường lại có một thường dân đứng khơi khơi như vậy? Lúc đó trời quang đăng mà tại sao người này cầm dù? Người lạ nh́n tôi mỉm cười và rảo bước đến tôi.
Tôi bèn la lớn để cảnh cáo rằng ông ta đang đi trên một băi ḿn nhưng chưa kịp nói th́ ông ta đă đến sát bên cạnh. Ông ta lên tiếng bằng một giọng thân mật:
- Có phải cháu Steve đó không? Tôi là cậu Jules đây.
Rồi ông ta thân mật hỏi thăm về mọi người trong gia đ́nh tôi như một người thân thuộc. Không nhữa ông ta biết rơ gia đ́nh tôi mà c̣n biết đến cả con chó Bassette mà mẹ tôi rất cưng nữa. Linh tính báo cho tôi biết một sự chẳng lành. Tôi nhớ mang máng rằng mẹ tôi có một người em ruột đă chết từ lâu rồi kia mà. Ông Jules thong thả nói:
- Này cháu Steve, mẹ cháu nhớ cháu lắm đó. Hôm nay bà làm món lassagna, một món mà cháu rất thích ăn.
Tôi đâm ra bối rối:
- Làm sao ông biết được chứ?
Ông Jules mỉm cười một cách bí mật.
- Thế cháu có muốn về thăm nhà không?
Tôi ấp úng đáp:
- Làm sao có thể về được? Nhà tôi ở tận New York kia mà... Hơn nữa tôi đang thực tập quân sự, phải sáu tháng nữa mới được về phép.
Ông Jules mỉm cười nắm lấy tay tôi xiết chặt:
- Không sao đâu, cháu chỉ cần nghĩ đến mẹ cháu là được.
Tôi luống cuống không biết phải làm ǵ th́ vừa vặn thấy thượng sĩ York đang đi gần đó, tôi bèn lên tiếng gọi nhưng ông này không nghe, cứ cắm cúi đi thẳng. Tôi vội chạy đến chặn đầu thượng sĩ York nhưng dường như ông ta không trông thấy tôi mà cứ tiếp tục đi. Đến lúc đó ông
Jules bước lại, ôn tồn khuyên:
- Ông ta không nh́n thấy cháu đâu. Cháu có muốn về thăm nhà không?
Sau một hồi thuyết phục, tôi bằng ḷng và nghĩ đến mẹ tôi. Tự nhiên cảnh vật chung quanh đều thay đổi, tai tôi vẫn nghe giọng ông Jules ôn tồn:
- Cháu cứ b́nh tĩnh và tập trung tư tưởng để nghĩ đến mẹ cháu là được rồi.
Tôi thấy ḿnh đang đứng trong nhà trước mặt mẹ tôi. Bà đang làm món lassagna thơm phức. Các em tôi đang ngồi xem ti-vi, chúng nói chuyện ồn ào và không chú ư ǵ đến sự hiện diện của tôi cả. Trong lúc xúc động tôi chạy đến ôm chầm lấy mẹ tôi nhưng bà vẫn thản nhiên nấu nướng, không hề biết ǵ.
Đến lúc đó tự nhiên tôi thấy lạnh ḿnh. Lúc năy thượng sĩ York cũng không hề thấy tôi. Phải chăng tôi đă chết? Tôi vừa hoảng hốt th́ chung quanh bỗng như tối sầm lại, dường như có một sức mạnh kỳ lạ nào đó lôi kéo tôi vào một lớp sương khói màu xám đục...
Tôi chưa biết phải phản ứn như thế nào th́ ông Jules đă đến bên cạnh. Khi đó tôi mới thấy h́nh như đứng cạnh ông, tôi thấy ḿnh b́nh tĩnh hơn.
- Chuyện ǵ đă xảy ra cho tôi vậy? Tôi đă ra sao?
Ông Jules nắm lấy tay tôi trấn an và ôn tồn:
- Cháu đă về nhà rồi, có đúng không? Phải chăng là điều cháu vẫn ao ước trong suốt thời gian học tập quân sự? Tôi thắc mắc:
- Nhưng tại sao mọi người không ai nh́n thấy tôi hết? Tại sao tôi không thể nói chuyện với ai được?
Ông Jules thong thả giải thích:
- Cháu phải hiểu rằng cháu đă về nhà nhưng không bằng thể xác mà bằng một thể khác... Chính cái tư tưởng mong muốn trở về nhà trong suốt thời gian cháu học tập quân sự đă khiến cậu t́m đến gặp cháu để giúp cháu hoàn tất tâm nguyện trên.
Tôi thút thít khóc:
- Như vậy là cháu đă chết rồi phải không?
Ông Jules thong thả:
- Rồi cháu sẽ hiểu. Hiện nay cậu chỉ có thể cho cháu biết rằng cháu khôgn c̣n ở cái thế giới quen thuộc của cháu nữa... Nhưng cháu không nên phí th́ giờ vô ích, cháu chẳng mong trở về thăm nhà hay sao? Tôi định thần nh́n quanh, cả nhà đă bắt đầu ngồi vào bàn ăn.
Cha tôi vừa rót một ly rượu chát lớn, thong thả thưởng thức mùi vị trước khi ăn. Các em tôi đang cười đùa bàn tán về chương tŕnh ti-vi mà chúng vừa xem. Mẹ tôi vừa cắt đĩa lassagna vừa lẩm bẩm:"Phải chi có thằng Steve ở đây, nó vẫn thích món này lắm!". V́ một lư do thầm kín nào đó, tôi đọc rơ tư tưởng của mẹ tôi và xúc động mạnh. Ông Jules giả thích:
- Ở cơi trần, người ta có thể nhận thức mọi vật bằng năm giác quan thông thường như nghe, nh́n, ngửi, nếm và sờ mó nhưng ở cơi này, các giác quan trên không c̣n sử dụng được nữa mà chỉ có tư tưởng mà thôi. Nếu cháu muốn tiếp xúc với mẹ cháu, cháu hăy tập trung tư tưởng gửi đến mẹ cháu những niềm yêu thương tốt đẹp nhất th́ mẹ cháu sẽ nhận được.
Ông Jules mỉm cười nói:
- Cháu thấy không, những người quá cố đâu có đi xa, họ vẫn hiện diện chung quanh những người thân đấy chứ. Họ hiểu biết mọi sự việv xảy ra trong gia đ́nh và có thể giúp đỡ người nhà một cách giáp tiếp mặc dù không thể liên lạc, nói chuyện hay báo tin cho người nhà biết sự hiện hiện của họ được.
Tôi thân mật hỏi cậu Jules:
- Phải chăng cậu vẫn đến thăm gia đ́nh cháu luôn?
Ông Jules khẽ lắc đầu cười:
- Đối với cậu th́ tất cả mọi người đều là gia đ́nh cả, một thời gian nữa cháu sẽ hiễu rơ hơn. Có những liên hệ cá nhân mà qua luật thiên nhiên, họ trở thành thân thiết như cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè nhưng c̣n biết bao liên hệ trước đó nữa chứ, kiếp sống này chỉ là một giai đoạn ngắn trong một đời sống kéo dài bao la vô tận....
Tôi thắc mắc ngắt lời:
- Như vậy cậu t́m đến cháu làm ǵ?
Ông Jules thân mật :
- Cháu đă có nhiều liên hệ với cậu từ lâu, hiện nay cháu chưa nhớ đâu, nhưng một thời gian sau cháu sẽ hiểu. Chúng ta đă từng là bạn bè, đă làm việc chung với nhau trong nhiều kiếp sống....
Tôi ngạc nhiên :
- Như vậy cháu đă làm ǵ?
Ông Jules mỉm cười:
- Rồi cháu sẽ biết nhưng hiện nay có một người nữa mà cháu muốn gặp.
Ông giơ tay chỉ phía sau và tôi thấy một bầu ánh sáng chói lọi trong không trung khiến tôi phải nhắm mắt lại cho khỏi lóa. Tôi nghe một giọng nói êm dịu:
- Này anh Steve, anh c̣n nhớ em không???
Tự nhiên tôi nhận ra ngay giọng nói của Marjorie, một người bạn gái ngày trước nhưng cô ta đă chết v́ một tai nạn khi c̣n ở Trung Học kia mà. Tôi mở mắt ra và thấy Marjorie đang đứng trước mặt tôi, toàn thân bao phủ trong một lớp ánh sáng chói lọi. Cô bật cười:
- Anh đừng ngạc nhiên, em vẫn như xưa chứ đâu có khác ǵ...Ơ ḱa! Tại sao anh lại nghĩ rằng em là một thiên thần?
Tôi bối rối:
- Nhưng ...nhưng tại sao cô lại biết như vậy?
Marjorie bật cười liến thắng:
- Em biết chứ! Em đọc được tư tưởng của anh...anh ngạc nhiên v́ màu sắc hào quang ư? Anh cũng có hào quang đấy chứ, anh không thấy sao?
Chứa lúc nào tôi lại bối rối như lúc này. Sự có mặt của ông Jules và bây giờ là Marjorie, một người bạn gái đă qua đời từ nhiều năm, khiến tôi mệt mỏi muốn ngồi xuống đất. Tuy nhiên Marjorie không để tôi yên, cô vẩn liến thắng như hồi nào:
- Này anh Steve, anh không hề mệt đâu, anh chỉ mệt v́ anh tưởng anh mệt đó thôi. Lúc năy anh đâu có mệt, anh vui vẻ, khỏe khắn kia mà. Anh nghĩ nhiều quá...Chuyện đă qua rồi anh nghĩ làm chi!
Quả thật tôi đă nghĩ đến cái chết của Marjorie năm xưa, chính tôi đă đứa đám tang nàng và ngồi bên cạnh mộ nàng rất lâu. Marjorie dường như cảm động, mắt cô chớp chớp một lúc rồi vui vẻ hồn nhiên trở lại:
- Anh Steve thân yêu, em biết điều đó. Hồi đó em biết hết, thấy hết và nghe hết những điều anh nói bên mộ em. sau đám tang, em thấy anh đi thơ thẩn ngoài nghĩa địa một ḿnh, em thấy anh khóc nhiều. Anh c̣n đi theo con đườnh dẩn đến trường mà trước kia chúng ta thường dạo mát. Lúc đó em vẫn đi cạnh anh mà anh đâu có biết.
Tôi kêu lên thất thanh:
- Thật sao, em vẩn ở bên anh hay sao?
Marjorie thản nhiên gật đầu:
- Đúng thế. Em thấy anh buồn quá nên quàng lấy vai anh để an ủi nhưng anh nào có hay. Em biết ḿnh đă chết nên không thể nào tiếp xúc với anh được nữa, nhưng thật ra danh từ " chết " không đúng đâu. Sự thật th́ chúng ta không bao giờ chết cả. Đúng vậy, em và anh cũng như mọi người khác chẳng bao gờ chết.
Anh thấy không, hiện giờ chúng ta vẩn linh động, thoải mái, sống mạnh mẽ hơn khi nào hết kia mà! Chúng ta đang tiến về nguồn, nguồn sống yêu thươngt ràn đầy ân phước của Đấng Tối Cao. Dĩ nhiên lúc này anh c̣n đang bán tín, bán nghi nhưng em mong anh tin em. Nhiều người không tin em mặc dù em cố gắng thuyết phục họ, nhưng anh th́ khác chứ.
Anh biết không, em đă gặp rất nhiều người bị tai nạn xe cộ như em vậy. Họ than khóc quá nhiều, kẻ th́ oán hận người đă gây ra tai nạn, người th́ tiếc đă không làm được những việc khi c̣n sống. Em đă đến bên họ, khuyên can họ không hề chấm dứt như họ nghĩ mà là một sự chuển tiếp. Trong giai đoạn này họ được sống trong t́nh thương yêu tuyệt vời nhưng chẳng mấy người chịu nghe.
Càng nói bầu ánh sáng bao quanh Marjorie càng sáng chói, bao phủ quanh thân nàng khiến nàng trông càng đẹp, một vẻ đẹp thanh cao, đáng kính khiến tôi phải lùi lại. Marjorie nheo mắt nh́n tôi và thong thả:
- Đó là công việc mới của em, một công việc quan trọng. trước khi giao việc này cho em, ngài đă căn dặn em pjhải suy nghĩ kỹ. Em đă đắn đo rất cẩn thận trước khi nhận lời. Công việc thật nặng nhọc nhưng em rất sung sướng đă an ủi, giúp đở cho những người vừa từ trần. Em ở kề cận bên họ, nhắc nhở cho họ rằng đời sống thật sự chỉ có sự yêu thương chứ không có sự hối tiếc, giận hờn.
Tôi ngạc nhiên:
- Em nói Ngài đă giao việc cho em, vậy Ngài là ai?
Marjorie chỉ về phía sau tôi:
- Chính cậu Jules đă đứa em đến gặp Ngài. Ngài là Thượng Đế chứ c̣n ai nữa!
Quä thật tôi bối rối. Tôi đưa mắt nh́n ông Jules và Marjorie không bi‰t phải nói như thế nào nữa. Phải chăng tôi đang mê ngủ? Phải chăng đây chỉ là một giấc chiêm bao? Ông Jules âu yếm:
- Cháu không chiêm bao đâu. Hiện nay cháu đang ở một cỏi
giới khác với cỏi trần. Ở đây thời gian và không gian không c̣n chi phối nữa, cũng không có các ràng buộc vật chất. Khi muốn dến đâu người ta có thể đến đó ngay , lúc này cháu đă chẳng trở về nhà đó sao? Bây giờ cháu hăy đi theo cậu, chúng ta có việc phải làm, sau này cháu sẽ có dịp gặp Marjorie sau.
Tôi ngạc nhiên:
- Nhưng cậu muốn đưa cháu đi đâu?
Ông Jules từ tốn trả lời:
- Có lẽ cháu đă quen rất ít nhiều với đời sống bên này rồi nên cậu sẽ giải thích cho cháu về những việc đă xảy ra. Trước hết nhân lọai đang trải qua một cuộc chiến tranh lớn. tại sao lại có cuộc chiến tranh này và trong cuộc chiến tranh cháu sẽ được giao phó nhië65m vụ ǵ. Cuộc chiến hiện tại là một điều không thể tránh được mặc dù nó có vẻ phi lư và dă man.
Con người không thể tránh được hiểm họa chiến tranh v́ đă có nguyên nhân th́ phải có hậu quả.Mặt dù những người gây chiến tranh phải chịu trách nhiệm về việc họ đă làm nhưng mọi người, v́ những nguyên nhân sâu xa trong quá khứ, cũng đều chia phần trách nhiệm và phải học lại bài học mà họ cần phải học.
Đời sống là một trường học mà trong đó chiến tranh là một bài học quan trọng. Trong hoàn cảnh đau khổ, tang tóc, nhiều người nghĩ rằng thế giới đă đến lúc suy tàn, sức mạnh của bạo lực sẽ đàn áp tất cả, điều ác sẽ thắng điều thiện, kẻ áp chế sẽ đạt điều họ muốn. Điều này hoàn toàn không đúng.
Một khi Thượng Đế đă điều khiển th́ trước sau mọi sự sẽ đều tiến đến chỗ tốt đẹp, toàn thiện. Một côn trùng nhỏ bé chết ngài cũng biết, và cũng do ư Ngài, th́ cuộc chiến dù tàn khốc đến đâu th́ cũng không xảy ra ngoài ư muốn của Ngài được. Tuy nhiên dù sao chăng nữa, những kẻ góp phần gây ra cuộc chiến vẫn phải chịu trách nhiệm về hành động của họ.
Vẻ mặt của ông Jules bỗng trở nên dịu dàng, đôi mắt ông như đắm ch́m trong một cơi giới nào đó, h́nh như ông đang ôn lại những kinh nghiệm tranh đấu , đau khổ mà rồi nhân loại sẽ phải trải qua trước khi nhận thức về hành động của họ và thay đổi để trở nên thánh thiện, hiền lành. Ông mỉm cười bảo tôi:
- Bây giờ chúng ta sẽ ra mặt trận v́ một người bạn cũ của cháu sắp từ giă cơi trần, cháu hăy t́m cách an ủi và giải thích cho anh hiểu các sự kiện diễn ra ở cơi giới bên này, như vậy cháu sẽ quen với công việc mà cháu sẽ đảm nhiệm từ nay.
Tôi theo ông Jules đến một khu rừng rậm, có tiếng súng nổ khắp nơi, tôi biết ḿnh đă ra đến mặt trận. Tôi nh́n thấy các chiến sĩ ấn núp dưới giao thông hào, có một số đang chuẩn bị cho một cuộc xong phong. Có tiếng đạn rít bên tai khiến tôi hoảng sợ, bảo ông Jules nên t́m chổ ẩn tránh đạn th́ ông mỉm cười lắc đầu:
- Cháu không phải lo, bom đạn không làm ǵ được cháu đâu. Hiện nay cháu đâu c̣n thể xác nữa mà sợ!
Ông Jules chỉ cho tôi thấy một binh sĩ đang ḅ dưới đất. Anh này định ṿng ra phía sau một mô đất lớn để đánh tập hậu nhóm lính Đức đang trấn giữ ổ súng liên thanh gần đó.
Điều anh không ngờ là vị trí x của anh đă phát giác, một người lính Đức giơ súng lên nhắm anh bóp c̣. Tôi chưa kịp la lên th́ anh đă bật ngửa ra sau, đầu bị một viên đạn bắn trúng. Ngay lúc đó tôi nhận ra anh là Andrew từ từ thoát ra khỏi thể xác và vẩn tiếp tục ḅ mà không hề biết rằng anh ta đă trúng đạn, bỏ lại cái xác nằm sóng sượt phía sau. Ông Jules thúc nhẹ vào hông tôi như ra dấu, tôi vội bước về phía Andrew. Anh này ngạc nhiên la lớn:
- Ủa Steve đấy ư? Anh làm ǵ ở đây vậy?
Tôi chưa kịp trả lời th́ Andrew đă kéo tôi nằm sát xuống đất:
- Cẩn thận kẻo bọn lính Đức nh́n thấy!
Nhưng không kịp nữa, ba người lính Đức đă ở sau g̣ đất xông ra. Andrew hoảng hốt giơ súng lên nhưng đến lúc đó anh nhận ra anh không hề cầm súng. Trông điệu bộ luống cuống của anh tôi bật cười:
- Này Andrew, anh đă chết rồi c̣n đâu!
Nhưng Andrew không nghe câu tôi vừa nói, anh bận nh́n sững ba tên lính Đức đang khám xét cái xác của anh. Một người lục túi áo của anh lấy ra bao thuốc lá trong khi hai người kia tháo súng và bao đạn trên vai anh. Andrew nổi giận xông đến đấm đá túi bụi nhưng ba người lính kia vẩn thản nhiên như không có chuyện ǵ xảy ra.
Andrew giận dữ kêu la om x̣m cho đến lúc ba người lính thu thập xong chiến lợi phẩm, rút vào sau g̣ đất th́ anh mới xúc động ôm lấy xác ḿnh khóc ̣a. Tôi lúng túng nh́n anh không biết phải an ủi thế nào cho đến khi anh ngửng lên nh́n tôi:
- Này bạn Steve, anh cũng chết rồi sao?
Tôi gật đầu. Andrew im lặng như suy nghĩ, bất chợt anh thốt lên:
- Thôi thế là hết. Bạn chết trước tôi vậy bạn có thấy thiên đàng đâu không?
Từ trước đến nay tôi chứ hề suy nghĩ về điều này nên thoạt nghe cũng hỏang hốt, tôi nh́n quanh nhưng không thấy cảnh vật có ǵ khác lạ, Andreww cũng lên tiếng:
- Thôi chẳng thấy có ǵ khác lạ hết, ở đây giống hệt như cơi trần chỉ khác ở chỡ tôi nói mấy tên lính kia cũng không nghe, tôi đánh chúng cũng không được. bây giờ chúng ta phải làm sao đây? nếu lính Đức đến, ḿnh có đánh nữa không?
Tôi lắc đầu:
- Anh quên rằng chúng ta đă chết rồi sao?Andrew gật đâu đồng ư, rồi theo thói quen anh móc thuốc lá ra hút nhưng dĩ nhiên không thể hút được. Anh lẩm bẩm chửi một hồi rồi than:
- Trời ơi, tôi không hút thuốc được nữa, có ǵ khổ bằng không được hút thuốc được nữa, như vậy là chết tôi rồi...
Tôi đập nhẹ lên vai anh nhắc nhở:
- Nhưng chúng ta đều đă chết rồi kia mà...
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 193 of 1146: Đă gửi: 17 June 2010 lúc 11:01pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÊN KIA CỬA TỬ
CHƯƠNG BỐN
Andrew giật ḿnh sờ tay lên trán và la lớn:
- Trời ơi, làm sao đầu tôi lại lủng một lỗ lớn như thế này ! Có ai băng bó giùm cho tôi lam ơn gọi y tá cho tôi .Thôi chết rồi, lủng lỗ to như thế này th́ mất hết máu rồi c̣n ǵ..
Ngay lúc đó ông Jules bước đến bên Andrew. Ông vừa băng bó vừa thoa thuốc:
- Thuốc này thần diệu lắm, chỉ thoa vào là khỏi ngay, bảo đảm không có thẹo....Anh nh́n xem, vết thương lành rồi đó.
Andrew sờ tay lên trán. Vết thương đă hoàn toàn biến mất. Anh bật cười sung sướng:
- Hay thật ! Hay thật! Làm sao lại có thứ thuốc kỳ diệu như vậy. Này bác sĩ, thuốc này chế tạo ở đâu vậy?
Ông Jules mỉm cười từ tốn:
- Này anh bạn, không phải thuốc này công hiệu đâu, tôi chỉ bày tṛ ra vậy thôi. Chính anh đă chữa lành cho anh đó. Bên này cơi của tư tưởng và do sức mạnh của tư tưởng mà anh thấy ḿnh b́nh phục. Dù có mất cả tay chân nhưng khi nghi rằng ḿnh lành lặn th́ tứ khắc sẽ lành lặn ngay. Điều đáng tiếc là nhiều người không biết vậy.
Họ cứ nghĩ ḿnh đang đau đớn, khổ sỡ v́ cụt tay, cụt chân, cụt đầu và sống măi trong t́nh trạng khgủng hoảng như vậy rất lâu. Chính cái tâm trạng đau khổ kéo dài đó sẽ tạo ra những nổi ám ảnh trong tiềm thức, ảnh hưởng vào những kiếp sống mai sau.
Cũng như thế, một người chết v́ nước, v́ lửa thường bị ám ảnh bởi những yếu tố này và sau đó thường sợ lửa hay nước . Điều anh cần biết là chíng cái tâm trạng khi chết sẽ ảnh hưởng rất lớn đến đời sống ở kiếp sau, làm sao có thể chết một cách thoải mái, an lành, chấp nhận sự chết mà không chống lại nó.
Nghệ thuật chết là làm sao không mong cầu kéo dài thêm đời sống, không hối tiếc về những điều có thể làm nhưng đă không làm, không giận hờn oán ghéy bất cứ ai mà thanh thản bước qua cơi tư tưởng này một cách ung dung tự tại. bây giờ anh đă biết cách chữa lành bệnh rồi, tôi nghĩ anh có thể giúp đỡ cho các bạn bè anh cũng vừa từ trần, họ rất đông và đang đau đớn, khổ sở cần được giúp đỡ.
Các anh cần biết rằng, ở cơi này không có chiến tranh nữa, chúng ta có thể giúp đỡ nhau , d́u dắt nhau mà không sợ bị ngộ nhận hay hiểu lầm v́ các giá trị ở cơi trần qua đến bên này không c̣n nghĩa lư ǵ nữa. tất cả mọi thứ như tiến bạc, địa vị, danh vọng, quyền lực đều có thể trở nên vô giá trị vĩnh cửu mà thôi.
Andrew rụt rè đặt câu hỏi:
- Thưa ông, vậy gặp lính Đức th́ tôi phải làm sao? Ông Jules mỉm cười:
- Quân Đức cũng là bạn của anh và anh nên giúp đỡ họ.
Andrew nhăn mặt tỏ vẻ không đồng ư nhưng anh cũng cố gắng:
- Nhưng họ đâu biết tôi là bạn, nếu tôi gặp họ xông lại đánh th́ sao? Tôi cũng cần phải tự vệ chứ.
Ông Jules lắc đầu:
- Anh nên tránh đi. Ở cơi trần anh phải tự vệ chứ ở bên này th́ họ không thế làm ǵ được anh đâu. Dù họ có bao vây hay bắn anh cũng vô ích thôi. Anh vừa qua đây chưa hiểu hết mọi việc, anh nên nghe theo lời khuyên cũa tôi. Hiện nay chúng ta đang ở cơi tư tưởng, tất cả mọi hiện tượng vật chất hay đều không thể làm hại chúng ta được, v́ chúng ta đâu c̣n thân xác nữa.
Này các bạn những người vừa từ trần chưa biết điều đó. Họ đang đau khổ cân được an ủi, và anh hăy coi họ như một con người đang cần được giúp đở. Đừng nghĩ rằng họ là người Đức, người Mỹ hay người Pháp, sự phân biệt đó không có ư nghĩa ǵ ở cơi bên này cả. Cũng đừng nghĩ rằng họ là thù hay là bạn và các danh từ đó hoàn toàn vô giá trị mà chỉ nên nghĩ rằng có những người đang đau khổ cần được cứu giúp.
khi anh hành động với cái tâm trong sạch, đầy bác ái, thương yêu th́ không một mănh lực ǵ có thể hại anh được. Nếu anh không oán ghét, giận hờn mà chỉ một ḷng thương xót, giúp đỡ người khác th́ luồn hào quang bao quanh anh sẽ trở nên sáng chói, kẻ hung ác sẻ không không dám nh́n anh chứ đừng nói ám hại anh. Dù anh ở bất cứ nơi đâu, anh cũng sẽ được Thượng Đế che chở v́ anh đang làm việc đúng với thiên ư
Andrew vội vă đứng thẳng ngưởi lên theo thói quen của một quân nhân và nghiêm giọng:
- Xin tuân lệnh ngài
Ông Jules mỉm cười quay về phía tôi :
- C̣n cháu Steve, công việc của cháu khác với Andrew. Thời gian cháu ở bên cơi này không c̣n lâu nữa, vậy cháu hây cố gắng quan sát, học hỏi những ǵ cháu có thể học được. Cháu sẽ trở lại cơi trần
Tôi ngạc nhiên kêu lớn:
- Cậu nói sao? Cháu sẽ trở lại cơi trần?
Ông Jules gật đầu:
- Đúng thế. Cháu chứa chết. Lúc trái ḿn nổ, cháu bị sức ép dồn ngay ngực nên tắt thở, cháu đă hôm mê mấy giờ liền nhưng t́nh trạng này sắp chấm dứt. Nhiệm vụ của cháu quan trọng hơn của Andrew, cháu sẽ tiết lộ cho nhân loại biết về những điều cháu đă học hỏi được ở cơi này.
Tôi bối rối một lúc rồi tụt rè:
- Thưa cậu Jules, nếu cháu không chết, phải chăng đây chỉ là một giác mộng? Làm sao cháu có thể giải thích cho mọi người biết rằng cháu không chiêm bao? Làm sao cháu không bị mọi người lên án là bịp bợm hay điên loạn?
Ông Jules ḿm cười gật đầu:
- Khôngg đâu! Đây không phải là một giấc mộng. Sự trở về của cháu rất quan trọng và hữu ích cho nhân loại, nhất là trong giai đoạn này. Cháu cứ làm hết sức ḿnh và nên nhớ c̣n có ơn trên hù hộ cho cháu nữa. Không bao lâu nữa cháu sẽ tỉnh lại và cậu sẽ giúp cháu nhớ lại những điều ở cơi này.
Tôi ngạc nhiên:
- Nếu cậu không giúp th́ khi tỉnh lại cháu sẽ quên hết sao?
Ông Jules gật đầu:
- Thông thường th́ người ta không nhớ được nhiều những chuyện xảy ra trong giấc ngủ. Trí óc con người sẽ thu xếp những dữ kiện này một cách lộn xộn vô trật tự và đầu óc phán đoán của con người sẽ không chấp nhận nó nên đa số đếu loại bỏ những kư ức này.
Cháu nên biết ngoài thể xác, c̣n có những thể khác nữa, mỗi thể đều có những giác quan riêng của chúng. Nếu không biết kiểm soát các thể này, các dữ kiện ở cơi tư tưởng sẽ bị ghi nhận một cách sai lạc, méo mó và trở nên mơ hồ lộn xộn, vô lư ..
Do đó con người ta sẽ không thể nào suy luận nó một cách hữu hiệu. Một lúc khác cậu sẽ giảng cho cháu nghe sau, bây giờ chúng ta hăy lên đường v́ thời gian không c̣n nhiều lắm đâu.
Tôi đi theo ông Jules đến một căn nhà nhỏ, trong nhà có một người đàn bà và hai đứa con nhỏ. hai đứa bé đang đùa nghịch một cách vô tư nhưng người đàn bà th́ đang đau khổ. Bà vừa khóc hết nước mắt v́ nhận được giấy báo chồng bà vừa tử trận. Ngay lúc đó một quân nhân quần áo dính đầy máu bước vào. Ông nói với vợ:
- Này Emma, anh đă về đây.
Dĩ nhiên người đàn bà không nghe thấy ǵ vẫn ngồi khóc, nhưng hai đứa bé ngừng chơi kêu lên:
- Cha ! Cha đă về!
Ông Jules nói với tôi:
- Cháu thấy không, hai đứa bé c̣n nhỏ, đầu óc vô tư và nhạy cảm nên chúng nhận ra ngay được sự hiện diện của cha Chúng mặc dù mắt không nh́n thấy Ông quay ra nói với người quân nhân:
- Này anh bạn, chị nhà không thấy anh đâu nhưng anh hăy đợi một lúc nữa khi v chị ngủ, khi tâm hồn của chị thoải mái, không bận bịu hay bị chi phối bởi các tư tưởng tiêu cực th́ chị có thể tiếp xúc được với anh.
Dĩ nhiên khi thức dậy chị sẽ không nhớ ǵ hết nhưng nếu anh khéo léo khuyên bảo th́ chị sẽ thấy được an ủi rất nhiều. Anh đă hiểu và chấp nhận số phận nên anh không c̣n đau khổ bao nhiêu nhưng anh có thể giúp cho chị bớt đau khổ ...
Người quân nhân cung kính nghiêng ḿnh trước ông Jules:
- Xin cảm ơn Ngài, Ngài đă giúp đỡ tôi và các anh em trong binh chủng của chúng tôi rất nhiều. Thay mặt các anh em, tôi cin cảm tạ Ngài.
Ông Jules chỉ tay về phía tôi:
- Đây là thanh niên mà tôi đă nói với anh trước đây.
Người quân nhân bắt tay tôi một cách nồng nàn:
- Nhờ anh nói giùm với nhà tôi rằng "Bông hồng dù ở đâu cũng là bông hồng và lúc nào cũng đẹp hết" . Anh cứ nói như vậy là nhà tôi hiểu. sau đây là địa chỉ của nhà tôi...
Cậu Jules chờ tôi nói chuyện với người quân nhân kia xong rồi mới ra hiệu cho tôi đi theo. Lần này đă quen nên tôi lướt đi một cách nhẹ nhàng, hai chân tôi không hề đụng đất và chỉ thoáng giây chúng tôi đă đến căn nhà khác. trong nhà có hai người già đang ngồi than khóc dưới ngọn đèn leo lét.
Họ vừa nhận được điện tín báo tin người con trai của họ đă tử trận. Tuy nhiên họ không hề biết rằng anh này cũng đang có mặt trong nhà, dĩ nhiên dưới một dạng thể khác. Anh mặc đồ quân phục dính đầy máu, cố gắng tiếp xúc với cha mẹ nhưng không được nên rất đau khổ. Anh kêu lên:
- Trời ơi, mẹ tôi không nghe thấy tôi. Mẹ tôi tưởng tôi đă chết nhưng tôi vẫn c̣n sống kia mà. Làm sao tôi có thể nói cho mẹ tôi hiểu được đây!
Cậu Jules vỗ vai người quân nhân, an ủi:
- Anh hăy b́nh tỉnh. Tôi sẽ giúp anh nhưng trước hết anh hăy nghe tôi nói đă. Anh hăy nh́n bức h́nh chụp khi anh vừa tốt nghiệp trừong vơ bị treo trên tường kia, khi đó anh mặc bộ quân phục mới và sạch sẽ, người không bị một vết thương nào, anh hoàn toàn khỏe mạnh, vui vẻ. Bây giờ anh hăy tưởng tượng rằng hiện nay anh cũng y hệt như thế.
Người quân nhân làm theo lời ông Jules. Lạ thay chỉ trong thoáng giây sau anh đă mặc một bộ quân phục mới tinh. Gương mặt anh hết đau khổ, nhăn nhó mà trở nên sáng sủa, tươi tắn. Các vết thương trên thân thể anh hoàn toàn biến mất.
Chính người quân nhân cũng ngạc nhiên về sự kiện này nên anh sững người một lúc rất lâu trước khi quay nh́n về phía cha mẹ. Cậu Jules nói tiếp:
- Anh hăy nghĩ đến tâm trạng của anh trong ngày tốt nghiệp đó. Anh đă hảnh diện và sung sướng biết bao, phải không? Bây giờ anh hăy hồi tưởng hoàn cảnh tốt đẹp đó rồi đến bên cạnh cha mẹ anh, chia sẻ sự sung sướng đó với họ, t́nh thương có một sức mạnh an ủi phi thường, anh hăy làm như tôi nói đi...
Người quân nhân làm y theo như lời khuyên, và tôi thấy thật rơ một luồng hào quang từ thân thể anh ta lan tỏa ra, lan rộng khắp pḥng, bao bọc cả hai người già đang ngồi đó. Tự nhiên bà mẹ bớt khóc và trở nên b́nh tỉnh hơn. Bà nói với chồng:
- Henri, tôi có cảm giác rằng con ḿnh không đến nỗi nào, chắc nó được ơn trên phù hộ.. Tôi chắc nó thế nào cũng được ơn trên phù hộ.
Ông già cũng ngưng khóc. Ông nh́n vợ một lúc rồi nhẹ nhàng:
- Có lẽ bà nói đúng. Chúng ta hăy cầu nguyện Thượng Đế.
Cả hai bước đến bên thánh giá treo trên tường và quỳ xuống cầu nguyện. Người quân nhân cũng bước đến quỳ bên cha mẹ. Tự nhiên căn pḥng bỗng bừng sáng lên một thứ ánh sáng chói lọi, tinh khiết khiến tôi cũng cảm thấy sung sướng, thoải mái lây. cậu Jules nói với tôi:
- Cháu thấy không? Sự đau khổ của người chết có thể ảnh hưởng đến người sống và ngược lại, nếu người sống đau khổ, than khóc th́ họ cũng ảnh hưởng rất nhiều đến người chết. Điều quan trọng lúc này là phải làm sa o để giúp cho họ b́nh tỉnh trở lại, sáng suốt ư thức về sự việc đang diễn ra.
Một phương pháp rất hữu hiệu là gợi lại cho họ những kỷ niệm đẹp nhất, những cảm giác sung sướng nhất, để giúp họ thoát khỏi t́nh trạng hoảng hốt kia. Chỉ khi nào họ thoải mái an lạc và sáng suốt th́ cháu mới có thể giúp đở họ được. Người quân nhân này là sĩ quan trường vơ bị, từ nhỏ đă say mê binh nghiệp, ngày tốt nghiệp là ngày anh sung sướng nhất v́ đă thỏa măn được niềm mong ước từ trước.
Biết cách nhắc nhở anh ta hồi tưởng lại kỷ niệm đó để anh b́nh tỉnh trở lại, thoát khỏi ảnh hưởng đau khổ của cái chết, giảm bớt sự giằng co quyến luyến với gia đ́nh th́ anh mới có thể siêu thoát được.
- Nhưng siêu thoát là thế nào?
Ông jules ḿm cười:
- Con người là một thực thể phức tạp gồm có nhiều thể khác nhau chứ không phải chỉ có thể xác mà thôi. Điều này khoa học không thể giải thích rơ rệt v́ đối tượng của khoa học chỉ xây dựng trên căn bản của các giác quan thuộc về thể xác, vốn hết sức giới hạn.
Khi xác thân không c̣n xử dụng được nữa, các thể khác cần được giải phóng ra khỏi xác thân càng sớm chừng nào hay chừng đó, đó là sự siêu thoát. Cháu nên biết rằng tâm trạng con người khi từ trần hết sức quan trọng v́ nếu có sự quyến luyến th́ sự giải phóng này sẽ bị tŕ hoăn lại rất lâu, gieo các ấn tượng đau khổ lên các thể kia, và ảnh hưởng đến các kiếp sống mai sau.
Đó cũng là lư do nhười ta cần tránh than khóc, kêu gọi kể lể trong các đám tang mà phải b́nh tỉnh đặt hết tâm hồn vào sự cầu nguyện cho người quá cố được siêu thoát. Cháu nên biết rằng tâm trạng con người khi từ trần hết sức kinh khủng đối với những ai tin rằng chết là mất hết tất cả.
Đa số đều bám vào sự sống một cách tuyệt vọng. Có người cho rằng có một thế giới khác, một cảnh âm ty địa ngục ghê sợ, đang chờ đón họ nên họ nhất định không chịu từ bỏ cơi trần. Do đó có một sự phấn đấu mạnh mẽ giữa phần thân xác sắp tan ră và phần tâm linh cố gắng giữ nó lại.
Đó cũng là lư do nhiều người cứ hấp hối măi mà không chết được,họ ở t́nh trạng không sống mà cũng không chết (comatose). Sau khi chết, nhiều người cứ quanh quẩn bên cái xác thân của ḿnh, dù thấy xác thân đó đă rữa ra, bị gịi bọ đục khoét cho đến khi xác thân hoàn toàn tan ră th́ mới siêu thoát được.
T́nh trạnng này có thể kéo dài nhiều năm, gieo vào tâm thức người đó những ấn tượng hết sức ghê gớm, đau khổ và sự ám ảnh này sẽ ảnh hưởng nhiều đến cá tính của người đó trong kiếp sau.
sau khi cầu nguyện xong, người quân nhân bước đến cạnh cậu Jules:
- Cảm ơn Ngài đă giúp cho tôi và cha mẹ tôi. bây giờ thôi phải làm ǵ ?
- Anh hăy đợi khi cha mẹ anh ngủ say, khi các giác quan thể xác của cha mẹ anh tạm thời an nghĩ th́ anh có thể tiếp xúc được với hai ông bà ở một b́nh diện khác. Điều cần nhất là chính anh phải có sự thỏai mái, b́nh an đă rồi anh mới có thể an ủi được cha mẹ anh, giúp họ bớt đau khổ.
Người quân nhân gật đầu như hiểu lời khuyên bảo:
- Xin cảm ơn Ngài. Nếu cha mẹ tôi bớt đau khổ th́ tôi có thể yên tâm được rồi.
- Anh cứ an tâm. Tôi biết cha mẹ anh sẽ được thoải mái. Ông bà đă biết chấp nhận và đặt tất cả vào bàn tay Thượng Đế. Một khi đă để cho Thượng Đế hành động th́ mọi sự sẽ tốt đẹp. C̣n về phần anh, chút nữa có một thiếu nữ tên là Marjorie sẽ đến gặp anh. Cô ta sẽ giúp đỡ và hướng dẩn anh. Anh nên nghe theo lời khuyên của cô ấy.
Cậu Jules giới thiệu tôi với quân nhân kia và nói rơ về trường hợp đặc biệt của tôi. Người quân nhân mừng rỡ xiết chặt tay tôi:
- Nếu anh có thể ghé thăm cha mẹ tôi và nói với ông bà rằng "Robbie vẩn khỏe mạnh như thường". tên tôi là Robert, bạn bè thường gọi là Rob nhưng cha mẹ tôi lại thích gọi tôi là Robbie, đây là một tên riêng chỉ cha mẹ tôi biết mà thôi. Đây là địa chỉ của cha mẹ tôi...
Sau khi giă từ người quân nhân đó, ông Jules và tôi tiếp tục đi nữa.Vừa ra đến đường chính, tôi nh́n thấy một xe chở lính Đức đi ngang. Tôi giựt ḿnh kêu lớn:
- Cậu ơi! Lính Đức ḱa!
Cậu Jules mỉm cười:
- Phải rồi chúng ta đang ở tại nước Đức, nhưng cháu đừng lo, họ không trông thấy chúng ta đâu. Cháu quên rằng chúng ta đâu c̣n thể xác nữa.
Chúng tôi thấy một ông già gầy g̣, quần áo nhàu nát, đầu đội nón nỉ, vẻ mặt đau khổ đang đứng trước một căn nhà. Cậu Jules nói:
- Đó là Lebowitz, một thương gia giàu có đă qua đời từ mấy năm nay nhưng không siêu thoát v́ c̣n quyến luyến tài sản, sự nghiệp. Ông già ngước mắt lờ đờ nh́n cậu Jules rồi nói một cách buồn bă:
- Thưa ông, căn nhà này do chính tôi xây cất, chính tôi đă lựa chọn từng ḥn gạch, từng khúc gỗ. Hăy nh́n cái cử bằng gỗ sồi kia, chính tay tôi đă chọn từ bên Đan Mạch, c̣n chiếc cửa sổ bằng kính màu nữa, nó đă được hoàn tất bởi những thợ giỏi nhất miền Florence... Căn nhà này của tôi và tôi không thể bỏ nó được.
Cậu Jules nh́n ông già bằng cặp mắt thương hại rồi nói với tôi:
- Năm trước, chính quyền Đức ra lệnh cho người Do Thái phải rời bỏ khu này để tập trung vào một khu biệt lập. Ông Lebowitz không chịu nên bị đánh trọng thương. Tuy mang thương tích trầm trọng nhưng ông nhất định không vào bệnh viện điều trị mà cứ bám riết căn nhà nên vài hôm sau bị nhóm SS giết chết. Từ đó ông cứ quanh quẩn bên căn nhà này.
Tôi bèn hỏi:
- Như vậy ông ấy sẽ ở đây đến bao giờ?
Cậu Jules nói với ông già :
- Này ông bạn, ông bạn đă chết rồi, đă rời bỏ thế giới này rồi th́ c̣n quyến luyến căn nhà đó làm chi nữa! Hiện nay căn nhà đó đă thuộc về người khác rồi...
Ông lăo khăng khăng lắc đầu:
- Không... Không ... đây là nhà của tôi, sống tôi ở với nó, chết tôi cũng ở với nó. Không ai có thể buộc tôi rời bỏ nó được.
Ngay lúc đó có một nhóm người từ đâu bước tới mở cửa bước vào nhà. Ông Lebowitz xông ra cản lại nhưng không được. Ông vừa xô đẩy họ, vừa quát lớn:
- Quân ăn cướp! Đồ sát nhân! Bọn ngươi hăy cút khỏi nhà của ta!
Dĩ nhiên là những người đó đâu hay biết, họ vẩn thản nhiên bước vào mặc cho ông già hét om ṣm. Cậu Jules thở dài :
- Một ngày nào đó ông ta sẽ hiểu và sẽ hối tiếc cho sự điên rồ này.
- Phải chăng nhười chết nào cũng thế?
Cậu Jules lắc đầu:
- Không hẳn như thế. Sau khi chết, người ta bước vào một giai đoạn chuyển tiếp (transition period) khi các điều kiện vật chất mà họ thường bám víu vào đang từ từ tan ră và một thế giới lạ bắt đầu hiện rơ dần. Cái thế giới của ánh sáng, nhiều người gọi đây là "cơi sáng" cũng không sai.
Đây không phải là thứ ánh sáng như là ánh ssáng mặt trei, mà là một thứ ánh sáng rọi khắp cùng mọi nơi, không một cái ǵ có thể che khuất được nó. Một người có tâm trạng xấu xa, hèn kém th́ không dám nh́n thứ ánh sáng này và thường tránh neé nó, nhưng một người hiền lành thánh thiện th́ thoải mái hơn v́ họ biết chấp nhận sự thật.
Dù sao chăng nữa, khi từ giă xác thân, ai cũng thấy bầu ánh sáng này và nó soi rơ tâm thức họ, cho họ thấy rơ các diễn tiến vừa xảy ra trong cuộc đời vừa qua. Họ sẽ thấy ḿnh thành công chỗ nào, đă học hỏi những ǵ. Họ sẽ thấy lại những cảnh đổ máu do chính họ gây nên hay những đau khổ mà họ đă gây cho người khác.
Họ cũng ư thức được cách hành vi nhân đức, hy sinh , quả cảm của ḿnh và rút tỉa kinh nghiệm học hỏi. Dần sần họ ư thức rằng các hành động trong quá khứ đă đưa đẩy họ đến hoàn cảnh trong cuộc sống của họ trong kiếp này và hành động của họ trong kiếp này sẽ quyết định số kiếp tương lai của họ.
Sau khi đă duyệt xét lại tất cả mọi hành động của ḿnh, họ sẽ có những quyết định riêng, dù đó là quyết định ǵ chăng nữa đó cũng là bước đầu quan trọng của sự tự biết ḿnh. Chính sự tự biết ḿnh này là khởi điểm cần thiết cho sự tiến hóa của con người.
Một người hiền lành, nhân ái, biết sống thuận theo ư thiên ư, khi qua đời sẽ thấy một biển ánh sáng bao bọc quanh họ. Lớp ánh sáng này thâm nhập vào người họ khiến họ cảm thấy lâng lâng sung sướng, dường như được gia tăng thêm sức mạnh.
Thật ra khi đó các nguyên tử nặng trược trong thể vía của họ đang tan ră nên họ thấy trẻ trung hơn, thoải mái hơn, b́nh an hơn và không c̣n sợ sệt lo lắng nữa. Chính sự không sợ hăi lo lắng này giúp họ tiến dần vào nguồn ánh sáng, hoà được với các tư tưỡng thanh cao tốt lành và đem nguồn tư tưởng an lành đó gieo rắc cho những người thân đang than khóc, đau buồn để an ủi họ.
Tuy nhiên, người chết như vậy ít khi nào lưu lại cơi trần lâu, v́ một khi nhăn quan của họ đă mở rộng, đă thấy một một thế giới khác tốt đẹp hơn, huy hoàng hơn, an lành thoải mái hơn th́ đâu c̣n ai muốn trở về cái thế giới đầy phiền muộn, lo lắng ngày trước làm ǵ.
Tùy theo sự tiến hóa và khả năng phát triển mà họ được dẩn dắt, học hỏi chân lư một cách rơ ràng. Họ sẽ không c̣n ngờ vực điều ǵ nữa, những giác quan mới của họ được thức động và một giai đoạn sống mới sẽ bắt đầu. Một người b́nh thường, đời sống không có ǵ đặc biệt, không làm ǵ điều ǵ quá xấu hay điều thiện đáng kể th́ từ khi từ trần sẽ không được như thế.
Mặc dù cũng nh́n thấy ánh sáng huy hoàng của Thượng Đế nhưng đa số lại do dự, rụt rè, không ư thức rằng họ có thể ḥa nhập vào đó để tiến lên cơi trên mà cứ quanh quẩn ở trong các cảnh giới quen thuộc với họ. Một người khi c̣n sống không biết chăm lo phát triển về tinh thần mà chỉ lo những chuyện vẩn vơ tầm thường, sống không có mục đích rơ rệt, th́ sẽ thấy thời gian bên này trôi qua rất chậm,
ngày giờ dài đăng đẳng, bởi v́ những chuyện giải trí bằng vật chất xa hoa kia không thể thực hiện được nữa. Họ sẽ t́m cách quanh quẩn bên những môi trường quen thuộc nhưng rất đau khổ v́ không thể tiếp xúc với người thân hay thỏa măn các dục vọng được nữa. Họ sống vất vưởng trong một bầu không khí ảm đạm, buồn chán không
thể siêu thoát được và luôn luôn bị ám ảnh bởi cái chết hay tâm trạng lúc chết.
Nếu được một người nào đó giúp đở hướng dẩn th́ họ có thể từ bỏ sự lưlu luyến này để tiến lên cơi trên, nếu không họ có thể sống một cách bất động trong hoàn cảnh này rất lâu.
- Như vậy người ta sống tại đây lâu mau như thế nào?
- Thời gian lưu tại đây tùy theo các nguyên tử vật chất tích tụ trong thể vía của họ? Nếu các nguyên tử vật chất tiêu biểu bằng sự ham muốn, đam mê, cảm xúc và tập quán của xác thân thu hút những nguyên tử của vật chất tương ứng. tâm thức của con người chẳng qua th́ là những rung động của khít khao, rất khó tan ră, do dàó họ sẽ phải trăi qua thời gian rất lâu tại những cảnh giới ô trược, xấu xa.
Trái lại, một người đă chủ trị được dục vọng, ít ham muốn th́ thể vía trong sạch, thanh nhẹ, không cần phải tinh luyện ǵ nữa, phần nặng trược sẽ mau tan ră và họ có thể tiến bước lên những cơi giới cao hơn.
cậu Jules đặt tay lên vai tôi một cách thân ái:
- Cháu Steve, cậu đă chỉ cho cháu thấy một vài khía cạnh của đời sống bên kia của tử. Một số người tuưởng rằng chết là hết, là sự vĩnh viễn chia ĺa và bây giờ cháu thấy rơ đó là một sự sai lầm rất lớn. Chúng ta là con của Thượng Đế, được tạo ra từ Ngài nên dĩ nhiên là không bao giờ chúng ta có thể chết được.
Kiếp sống của chúng ta trên thế gian này thật ra chỉ là một phần nhỏ của một đời sống lớn lao, cao cả hơn. Xuyên qua những kiếp sống, chúng ta học hỏi và tiến hóa để trở về với nguồn gốc, với Thượng Đế. Mục đích của đời người là hướng thượng và mỗi kiếp sống phải là một bước tiến trở về nguồn.
Nếu con người có thể hiểu được các định luật bất biến của vũ trụ hay luật trời th́ họ sẽ biết rằng chẳng có một hung thần hay ác quỷ nào tạo ra các nỗi khổ đau cả mà chính là con người thiếu hiểu biết đă vi phạm các định luật này.
Hiểu được luật trời, biết tuân theo luật trời, biết thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau th́ con người có thể tránh được bao nhiêu đau khổ, bao nhiêu phiền năo. Trong lúc ông nói, vấng hào quang bao phủ quanh ông phát ra những tia sáng chói lọi, lấp lóe như kim cương. Cậu Jules ḿm cười:
- Sắp đến lúc cháu trở về cơi trần và Marjorie cũng muốn nói với cháu vài lời từ biệt nên cậu chỉ vắn tắt thôi. Cháu nên nhớ những điều cháu được chứng kiến và học hỏi nơi đây không phải là một giấc mộng hăo huyền mà là sự thật.
Điều cháu học hỏi không phải là một đặc ân nào đâu nhưng chính nhờ đức hạnh của cháu. Cháu và cậu đă làm việc với nhau từ lâu, từ nhiều kiếp sống trong quá khứ, hiện nay cháu không nhớ được bao nhiêu nhưng sẽ có lúc cháu biết được những điều cháu đă làm cũng như những hạnh nguyên của cháu.
Ư thức được điều này, nhiệm vụ của cháu sẽ c̣n quan trọng hơn trước rất nhiều. Chúng ta tạm thời chia tay ở đây, trong trong một thời gian không lâu nữa chúng ta sẽ gặp lại nhau và sẽ làm việc chung với nhau.
Cậu Jules vừa dứt lời th́ tôi đă thấy Marjorie từ xa đi đến. Cô lướt đi nhẹ nhàng như một người khiêu vũ. Quanh cô có một bầu ánh sáng chói lọi khiến tôi không khỏi ngây ngất. Marjorie liến thoắng:
- Này anh Steve, anh hiểu điều cậu Jules nói rồi chứ?
- Đại khái anh cũng hiểu được đôi ba điều nhưng cậu Jules nói là anh sắp phải trở về...Như vậy làm sao anh có thể gặp lại cậu Jules hay em đây?
- Anh đừng lo. Em sẽ đến gặp anh mỗi khi anh ngủ. Nếu cần anh cứ tập trung tư tưởng trước khi anh ngủ để nghĩ đến em th́ em sẽ đến gặp anh ngay. Thôi, đă đến lúc anh phải trở về rồi.
Tự nhiên tôi thấy mệt mỏi một cách lạ lùng, ngực tôi đau nhói và hơi thở trở nên khó khăn khiến tôi đưa tay ôm lấy ngực. Tai tôi c̣n nghe văng vẳng tiếng Marjorie:
- Tạm biệt anh Steve, chúng ta sẽ gặp lại nhau...
Khi tỉh dậy, tôi biết ḿnh đă hôn mê gần một ngày. Cô y tá trực kể rằng tưởng tôi đă chết, người ta đă đem tôi xuống nhà xác để tẩm liệm nhưng may thay tôi tỉnh dậy kêu la om ṣm. Bác sĩ khám nghiệm, xác nhận tôi c̣n sống và cho chuyển lên pḥng hồi sinh.
Cô y tá kể lại rằng tại sao tôi không có hào quang. Tưởng tôi c̣n mê sảng nên cô nhẹ nhàng hỏi tôi muốn nói hào quang nào. Tôi trả lời rằng tại sao cô ta không toát ra hào quang giống như Marjorie. Nghĩ rằng tôi muốn t́m một người tên Marjorie nên cô trả lời rằng cô là Louise Clayton, và ở đây không có ai tên là Marjorie hết, phải chăng tôi muốn t́m một người tên là Marjorie.
Tuy nhiên tôi lại nói rằng Marjorie đă chết từ lâu rồi nhưng tôi đă gặp lại cô ta, quanh người cô ta toát ra hào quang và lúc nào lướt đi như khiêu vũ vậy. Cô y tá cho rằng tôi đă nói mê nhưng tôi nhấn mạnh tôi không mê sảng chút nào cả.
Tôi gặp cậu Jules và Marjorie mặc dù cả hai đă chếy từ lâu. Tôi c̣n thấy hạ Sĩ Andrew Shaw bị trúng đạn ở trán trên chiến trường Âu Châu, gặp Thượng sĩ Lawrence Sorgen và Trung Úy Robert Stevenson, cả hai đều tử trận hôm đó. Thấy vậy người y sĩ trực ra lệnh cho cô y tá chích cho tôi một liều thuốc ngủ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 194 of 1146: Đă gửi: 17 June 2010 lúc 11:15pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÊN KIA CỬA TỬ
CHƯƠNG NĂM
Hai hôm sau, khi tôi hoàn toàn tỉnh táo th́ Louise Clayton bước vào:
- Hôm trước trong lúc mê sảng ông nói rằng, ông thấy Andrex Shaw, Lawrence Sorgen và Robert Stevenson bị trúng đạn và tử trận ở Châu Âu ...
- Đúng thế.
Louise Clayton im lặng nh́n tôi và đưa một bản báo cáo mới nhất của bộ Quốc Pḥng thông báo tên những quân nhân tử trận và dĩ nhiên có cả ba ngưồi này. Việc một người bị hôm mê bất tỉnh tại North Carolina biết được những sự kiện xảy ra trên chiến trường Châu Âu quả là một việc kỳ lạ. Tôi bèn kể lại những diễn tiến một cách chi tiết từ khi tôi bị ngất đi cho Louise nghe.
Mặc dù cô y tá này không lấy ǵ làm tin tưởng cho lắm nhưng cvô cũng không thể giải thích v́ sao tôi lại biết tên ba người quân nhân đă từ trần kia. Thật ra lúc đó trong thâm tâm tôi cũng không lấy ǵ làm chắc chắn, phải chăng tôi đă tưởng tượng hay mê ngủ? Không hiểu v́ sao tự nhiên tôi lại nảy ra một ư nghĩ lạ lùng:
- Này cô Clayton, xin cô hăy đợi đến sáng ngày mai rồi tôi sẽ nói chuyện với cô rơ hơn về việc này. Tôi biết cô không tin và tôi cũng không chắc là tôi đă nói đúng nhưng tôi nghĩ nếu tôi không tưởng tượng ra việc này thó ngày mai chúng ta có thể nh́n nó dưới một khía cạnh khác.
Ngày hôm sau tôi rủ Louise ra ngồi ở chiếc ghế bên ngoài sân bệnh viện. Tôi nói:
- Này cô Louise, hôm đó khi vừa tỉnh dậy tôi có nói với cô về hào quang chi đó. Dĩ nhiên cô nghĩ rằng tôi đă nói mê sảng nhưng khi lên pḥng bà y tá trưởng để phúc tŕnh về bệnh t́nh của tôi, cô kể lại chuyện này cho bà đó nghe. Lúc đó v́ đang xem một hồ sơ bệnh lư nên bà y tá trưởng không hề ngước mắt lên nh́n cô mà chỉ nói:
"Chắc ông đó c̣n mê sảng chứ làm ǵ có ai có hào quang".
Sau đó cô rời pḥng trở về, trên hành lang cô gặp một quân nhân ngă trẹo chân ở sân tập nên cô phụ giúp việc băng bó cho anh ta. Liệu tôi nói có đúng không?
- Ông Buckley, tại sao ông biết được chuyện đó? khi ấy tôi đă chích cho ông một liều thuốc ngủ và ông đă ngủ li b́ kia mà.
- Đúng thế, tôi không biết ǵ về chuyện đó cả, nhưng hôm qua khi chúng ta đang nói chuyện với nhau th́ cô tỏ ra không tin. Phần tôi cũng thế, tôi đă suy nghĩ rất nhiều về chuyện này và không biết rằng tôi đă mê hay tỉnh đây. Tôi nhớ lại lời dặn của Marjorie nên đêm qua trước khi đi ngủ tôi đă tập trung khi nghĩ đến cô này.
Tôi nghĩ rằng điều tôi đă kinh nghiệm thật mơ hồ, không có bằng chứng và chắc nói ra cũng không có ai tin, không chừng người ta c̣n cho tôi là loạn trí. Tuy nhiên sáng nay th́ tôi chắc rằng tôi không mê nữa, tôi đă gặp lại Marjorie trong giấc ngủ và cô ta đă dặn tôi kể lại điều này cho cô nghe.
Louise Clayton im lặng một lúc rồi nói:
- Marjorie c̣n nói ǵ nữa?
- Marjorie nói rằng được cô chăm sóc là một việc rất quư. Đây không phải là một việc ngẩu nhiên đâu mà có sự thu xếp để cô săn sóc tôi. Cô là một người có ḷng từ ái, làm việc thoải mái, chân thành và có những rung động thanh cao, rất tốt cho việc phục hồi sức khỏe của các bệnh nhân.
Từ nhỏ cô thích âm nhạc và muốn trở nên một nhạc sĩ dương cầm, nhưng lúc chiến tranh xảy ra cô t́nh nguyện trở nên một y tá để góp phần vào việc chăm sóc, an ủi các thương bệnh binh....Marjorie nói rằng cô sẽ giúp tôi rất nhiều nếu cô tin rằng điều tôi kể không phải là do tưởng tượng.
Louise Clayton giựt ḿnh. Cô suy nghĩ một lúc rồi hỏi:
- Theo như ông nói th́ Marjorie có một nhiệm vụ ở cơi bên kia?
- Đúng thế, Marjorie được giao phó nhiệm vụ giúp đỡ những người vừa từ trần c̣n đang hoang mang, hốt hoảng. Cô ấy giúp họ b́nh tỉnh, thoải mái để chấp nhận sự thật là họ đă bước qua thế giới khác, rồi khuyên họ hăy xả bỏ những ràng buộc với cơi này để siêu thoát.
- Thế c̣n nhiệm vụ của ông?
- Cậu Jules nói rằng nhiệm vụ của tôi là giúp đỡ những người sống v́ những người đă chết không giúp được người sống, chỉ những người sống mới có thể khuyên bảo được người sống mà thôi.
- Như vậy ông sẽ làm ǵ?
- Tôi sẽ giúp những người sống hiểu biết về thế giới bên kia, biết rằng chết không phải là hết như mọi người thường nghĩ. Kiếp sống của chúng ta thật ra chỉ là một giai đoạn ngắn ngủi của một tiến tŕnh rất dài. Mục đích của cuộc đời không phải là tranh giành, chém giết để đoạt lấy một địa vị, tài sản nhưng để học hỏi về thương yêu.
Chúng ta được tạo ra trong t́nh thương của Đấng sáng tạo và bản chất thật sự của chúng ta là thương yêu nhưng v́ không ư thức được điều này nên càng ngày chúng ta càng hành động trái với mục đích được tạo ra từ ban đầu. Cũng v́ thế cuộc đời thường có những biến động để nhắc nhở chúng ta rằng cái mà chúng ta tưởng là những giá trị lớn lao thật ra chỉ là những bọt nước hời hợt, chóng thành chóng hoại.
Sự chết là giai đoạn cần thiết trong tiến tŕnh của sự sống để con người duyệt xét lại những việc làm của ḿnh, rút kinh nghiệm để học hỏi, rồi chuẩn bị cho sự tái sanh. Sở dĩ chúng ta không thấy được cơi chết v́ giác quan thể xác của chúng ta rất giới hạn, nếu biết nâng cao tâm thức, khai mở được những giác quan của thể vía, v́ chúng ta có thể tiếp xúc được với cái thế bên kia cửa tử này.
Thật ra các giác quan thể vía vẫn hoạt động âm thầm nhưng v́ chúng ta đă quen sử dụng các giác quan của thể xác nên chúng ta ít chú ư đến các giác quan kia. Tuy nhiên khi giác quan của thể xác tạm thời yên nghỉ, như lúc chúng ta ngủ chẳng hạn, th́ các giác quan cuả thể vía sẽ hoạt động mạnh mă hơn.
Nó có thể đi khắp đó đây, giao thiệp, tiếp xúc và học hỏi trong thế giới riêng của nó. Dĩ nhiên khi thức dậy người ta không nhớ ǵ hết và cây cầu tâm thức nối giữa thể vía và thể xác chưa được khai mở nên ta chỉ có các ấn tượng mè hồ, không rơ rệt.
Nhờ cậu Jules nhắc nhở, tôi được biết trong tiền kiếp tôi đă từng tập luyện và khai mở được cây cầu tâm thức này, nhưng v́ tôi đă không ư thức ǵ đến nó cho đến khi quả ḿn nổ, gây chấn động đến những trung tâm huyền bí trong cơ thể tôi và thức động khả năng này.
Qua sự chỉ bảo và hướng dẩn của cậu Jules, tôi có thể tiếp xúc với cơi giới vô h́nh trong giấc ngủ và khi tỉnh dậy vẫn nhớ được mọi sự một cách rơ rệt v́ cây cầu tâm thức đă được khai mở.
- Nhưng làm sao người ta có thể tin được điều này khi họ không thể nh́n thấy hay tiếp xúc được với cơi giới bên kia?
- Sở dĩ mọi người không thấy được ở giới này v́ họ chỉ quen sử dụng các giác quan thông thường của thể xác, vốn cấu tạo bằng nguyên tử của cơi vật chất, không đồng chất với cơi giới bên kia.
Tuy nhiên chúng ta không nh́n được, sờ được, nghe được, ngửi được hay nếm được th́ không hiện hữu. Biết bao nhiêu thứ vẫn hiện hữu mà các giác quan này đâu có thấy đâu. Chúng ta đâu có nh́n thấy không khí mà không khí vẫn hiện hữu.
Khoa học đă chứng minh có những sinh vật rất nhỏ bé như vi trùng nhưng nếu không có kính hiển vi th́ đâu ai nh́n thấy chúng. Tóm lại, nếu nhập nhận rằng sự hiểu biết dựa trên ngũ quan của chúng ta c̣n thiếu xót th́ con người sẽ khiêm tốn hơn và có thể học hỏi được nhiều điều mới lạ
- Anh đă học hỏi được những ǵ?
- Sự học hỏi của tôi c̣n nhiều thiếu xót nhưng đại khái thoạt đầu tôi thấy cơi giới bên kia nhưng không có ǵ khác biệt so với cơi mà chúng ta đang sống. Theo lời Jules th́ đây cũng là cảnh giới đối phần (mirror image ) của cơi trần, do đó người chết vẩn có thể thấy rơ tất cả mọi sự xảy ra chung quanh họ như nhà cửa, đường xá, bạn bè, thân quyến.
Tuy nhiên tất cả những thứ này đếu là ảo ảnh, v́ cái mà họ thấy chỉ là h́nh ảnh chứ không phải là thực, do đó tuy có thể cảm thấy mọi sự vật nhưng vẫn không thể liên lạc hay tiếp xúc được với những người thân.
Dĩ nhiên họ vô cùng khổ sở hay đau đớn trong một thời gian, tùy theo t́nh cảm nhiều hay ít, nhưng dần dần họ sẽ dứt bỏ được các ràng buộc này để biết rơ hơn về sự liên hệ giữa họ và những người thân đó. Một khi đă hiểu được nguyên nhân sâu xa của những liên hệ này th́ họ sẽ ư thức rơ rệt hơn các định luật bất biến của vũ trụ, từ đó sự học hỏi bắt đầu...
- Nhưng ....nhưng c̣n địa ngục? Như vậy những kẻ hung ác không phải xuống địa ngục hay sao?
- Các thuyết về sự hiện hữu của một nơi gọi là địa ngục đă gây nhiều tai hại v́ khi nói đến địa ngục, người ta thường nghĩ rằng đó là một thế giới ở giữa ḷng trái đất với một nhóm các quỷ sứ hết sức dữ dằn, chuyên trừng trị những kẻ phạm tội.
Thật ra chẳng có ai trừng phạt ai hết v́ địa ngục hay thiên đàng chỉ là một trạng thái của tâm phúc. Nếu biết sống một cách thoải mái, yêu thương th́ thế giới này vốn là thiên đàng rồi, c̣n ngược lại nếu cơi sống với những khổ đau, oán hận th́ nơi đây có khác chi là địa ngục!
Từ đó Louise Clayton thường hay đến gặp tôi để nghe về những kinh nghiệm học hỏi của tôi ở cơi bên kia. T́nh thân ái giữa chúng tôi bắt đầu nẩy nở. Tuy không nói ra nhưng chúng tôi đều hiểu được t́nh cảm của nhau cho đến khi thời gian điều trị chấm dứt, tôi trở lại quân trường và được đưa ra mặt trận Âu Châu.
Vào lúc đó trận chiến đă tàn, quân đội Đồng Minh đă giải phóng được nhiều nước Âu Châu và đang trên đường tiến về Bá Linh. Đơn vị của tôi trú đóng tại nước Pháp, giữ nhiệm vụ tiếp tế cho đơn vị khác. Tuy công việc hàng ngày rất bận rộn nhưng tôi vẫn áp dụng phương pháp của cậu Jules đi an ủi những người vừa từ trần. Hôm đó chúng tôi đi ngang qua một quán rượu, cậu Jules, chỉ một đám người đang chen chúc quanh đó:
- Cháu thấy không, đó là vong linh những kẻ nghiện ngập rượu. Khi c̣n sống họ nghiện rượu nên khi chết dục vọng đó vẩn tiếp tục chi phối khiến họ vô cùng đau khổ. Khi c̣n thể xác, uống rượu nhiều quá cơ thể không chịu nổi sẽ lăn ra ngủ, dục vọng tạm thời ngưng hoạt động.
khi chết, dục vọng được tự do biểu lộ, không c̣n thể xác kềm chế nữa, nó nung nấu tâm cang kẻ nghiện khiến lúc nào y cũng thèm khát đến phát điên, phát cuồng. Do đó những vong linh này thường lân la quanh các trà đ́nh, tửu quán để thưởng thức mùi rựơu, nhưng v́ không c̣n thể xác để thỏa măn sự ham muốn đó nên dục vọng càng ngày càng gia tăng dữ dội khiến vong linh hết sức khổ sở.
Tôi thấy một số binh sĩ đang uống rượu trong quán, có người uống nhiều quá, nôn mửa đầy xuống đất. Các vong linh nghiện rượu xô đẩy nhay chạy đến cúi sát xuống mặt đất để được hít những chất rượu thối tha này. Họ say mê hít hơi rượu một cách đắm đuối mà trên thế gian chưa thấy ai thưởng thức mùi vị rượu như thế.
Thực ra họ không thể ngửi thấy mùi vị ,v́ đâu c̣n các giác quan thể xác nữa, nhưng cái ư nghĩ được thưởng thức rượu quá mạnh, đă xúi khiến họ hành động như thế. Chỉ nh́n hành động điên cuồngđó mà tôi đă thấy rợn cả người. Cậu Jules chỉ cho tôi thấy một số vong linh khác đang cố gắng nhập vào xác những người say rượu để thưởng một vài dư vị của khoái xác thân.
Những người say rượu hay dùng ma túy thường dễ bị các vong linh nhập vào. Sự nhập xác này tuy chỉ có tánh cách tạm thời trong chốc lát nhưng nó cũng gây nhiều hậu quả tai hại cho người bị nhập. Càng bị nhập xác, những người này càng dễ bị mất tự chủ, và càng mất tự chủ họ càng dể bị xui khiến làm điều xằng bậy.
Theo sự hiểu biết của tôi, khi sự sống th́nh ĺnh chấm dứt như trường hợp chết bất đắc kỳ tử th́ người chết khó có thể siêu thoát được v́ dục vọng và sinh lực cỏn quá mạnh mẽ. Một cái chết bất ngờ luôn luôn tạo ra những chấn động, tán loạn tâm thần khiến cho người chết hết sức hoang mang và đau khổ.
Đôi khi họ trở nên thù hằn, oán hận và chính tâm trạng lúc chết này sẽ khiến nên họ trở nên một động lực hết sức nguy hiểm, có thể xúi giục người sống làm những việc hết sức ghê gớm như giết người, hành hạ, hiếp đáp người khác..
Đa số những vụ sát nhân thường xảy ra khi hung thủ mất tự chủ v́ rượu, ma túy hoặc v́ quá giận dữ. Những kẻ nghiện rượu, ma túy, tính khí nóng giận bất thường dễ trở nên nạn nhân của những động lực bất hảo này.
Đôi khi các vong linh cũng t́m cách xâm chiếm thể xác của những kẻ yếu bóng vía, những người nhạy cảm, hay những trẻ em yếu ớt nhưng trường hợp này chỉ có tánh cách nhất thời v́ bản ngă con người thường rất mạnh, không dễ ǵ có thể đuổi nó đi để cướp lấy thể xác được.
Thường th́ các vong linh lúc quá thèm muốn, bị dục vọng nung nấu, t́m cách chiếm cứ xác thân của một con thú nào đó v́ bản năng con thú thường yếu hơn sự đ̣i hỏi điên cuồng của một vong linh. Các ḷai thú kém tiến hóa như heo, cừu, dê, trâu, ḅ dể trở thành nạn nhân hơn là các ḷai thú khôn ngoan hơn như chó, mèo, khỉ, ngựa vốn có ư chí kháng cự mạnh mẻ.
Sự xâm nhập xác thú này có thể trọn vẹn hoặc có khi chỉ trong giây lát, nhưng nhờ cơ thể con thú làm trung gian mà vong linh gần gũi được với cơi trần, cảm nhận được mọi sự qua giác quan của con thú và thỏa măn được một ít dục vọng như ăn uống, đ̣i hỏi xác thịt th́ vong linh cũng cảm thấy đau đớn, khổ sở v́ khi con thú bị mổ thịt th́ vong linh sẽ hoảng hốt, đau đớn, tuyệt vọng và trạng thái này sẽ ảnh hưởng rất mạnh đến đời sống sau này của vong linh.
Ngoài ra th́ nhập xác thú sẽ tiêm nhiễm vào thể vía của vong linh, nên sau này dù có đầu thai lại thành người, nó cũng có khuôn mặt, h́nh dạng của con thú đó, hoặc tính t́nh hung bạo, tàn ác hay ngu si đần độn như một con thú kia. Trong trường hợp tuyệt đối hơn, vong linh liên kết chặt chẻ với cái vía của con thú đó đă nhập, hể con thú đi đâu th́ vong linh đi theo đó, giống như một tù nhân của xác thú.
Điều này có thể giải thích được trường hợp của những kẻ hung dữ, nhiều dục vọng sẽ đầu thai trở lại thành vật.
V́ tâm trạng khi chết có thể ảnh hưởng rất mạnh đến đời sống về sau, nên cậu Jules và Marjorie phải làm việc rất nhiều để giúp đở, cảnh tỉnh và an ủi các vong linh.
Phần tôi được giao trọng trách giúp đở thân nhân của người chết hoàn tất một tâm nguyện nào đó mà họ chưa làm xong, nhờ thế họ có thể cởi bỏ các ràng buộc với cơi trần để siêu thóat. Dĩ nhiên sự hoạt động của tôi chỉ giới hạn trong lúc ngủ nên việc làm này không hiệu quả nhiều so với công việc của cậu Jules và Marjorie, nhưng tôi rất thích công việc này.
Khi muốn đi đâu hay gặp ai, tôi chỉ cần tập trung tư tưởng trước khi ngủ th́ sẽ đến gặp người đó ngay, nhưng tôi không dám sử dụng năng khiếu này để gặp Clayton v́ như thế là lạm dụng quyền năng tâm linh. Cậu Jules đă dặn tôi rất kỷ rằng một người hiểu biết các định luật thiên nhiên không bao giờ làm một việc ǵ đó có tánh cách ích kỷ hay riêng tư cho cá nhân ḿnh.
V́ biết thế, chúng tôi chỉ tiếp xúc với nhau qua thư từ hoặc thỉnh thoảng bằng điện thoại. Sau mấy tháng liên lạc, cảm t́nh của tôi dành cho Louise ngày càng sâu đậm hơn nên một hôm tôi đă ngỏ lời cầu hôn và cô nhận lời. Chúng tôi dự định sau khi giải ngũ sẽ làm đám cưới.
Thời gian từng tự trôi qua, cuộc chiến chấm dứt, quân đội Đồng Minh giải phóng được toàn cơi Châu Âu nhưng chúng tôi vẫn chưa được giải ngũ v́ c̣n những khó khăn, rất cần sự hiện diện của một lực lượng quân đội tại đây.
Tuy công việc bận rộn nhưng tôi vẫn liên lạc với cậu Jules để học hỏi thêm. Tôi thấy ḿnh thật may mắn v́ đă được giao phó một nhiệm vụ cao đẹp và được d́u dắt để học hỏi thêm những kiến thức mới mẻ.
Chính nhờ những kiến thức mới mẻ này mà đời sống của tôi được nâng lên một b́nh diện rộng lớn hơn, cao cả, tốt đẹp và từ đó tôi thấy rơ sự tiến hóa trong chương tŕnh vĩ đại mà Thượng Đế đă sắp đặt.
Nếu quan sát một cách kỹ lưỡng và có ư thức người ta sẽ thấy tất cả mọi sinh vật đều có một mối tương quan đặc biệt, điều này có thể coi như một thứ t́nh huynh đệ đại đồng v́ vạn vật đều có cùng một nguồn gốc mà ra. Đây không phải là một thứ lư thuyết suông mà là một nguyên lư hiện diện khắp nơi trong vũ trụ.
Nên hiểu rằng vũ trụ là một toàn thể mà trong đó tất cả mọi thành phần đều liên quan mật thiết đến nổi khi một phần tử trong đó biến đổi th́ toàn thể vũ trụ cũng biến đổi theo. Giống như một cái kính vạn hoa (Kaleisdoscope) thay đổi khi một phần tử thay đổi th́ vũ trụ cũng thế, nó luôn luôn thay đổi để giữ một trạng thái quân b́nh tuyệt đối.
Dĩ nhiên trong một thế giới như thế, sự cô lập hay chia rẽ không thể hiện hữu v́ không một cá nhân nào hay một thực thể nào có thể tránh thoát được sự hợp nhất của ṭan thể. Sự hợp nhất này vượt lên mọi sự khác biệt v́ nó được xây dựng trên căn bản ḥa hợp để giữ sự quân b́nh mà trong đó mọi loài đều tiến hóa dựa theo các định luật bất biến.
Trong vạn vật, có một thực tại duy nhất chuyển sinh lực giúp tất cả mọi loài tăng trưởng, nẩy nở, phát triển và sinh sản, đó là sự sống duy nhất sinh hóa muôn loài . Xuyên qua tiến tŕnh sống này, cái duy nhất có phân tán thành vô số tinh chất và h́nh thể khác nhau, và do sự liên quan vô số này, các phần tử kết hợp lại với nhau để tạo thành vô số tinh chất và h́nh thể khác nhau, và do sự liên quan vô số này, các phần tử kết hợp lại với nhau để tạo thành vô số các đơn vị điều ḥa và quân b́nh.
Các nguyên tử (căn bản vật chất) được cấu tạo theo nguyên lư đó và rồi phân tử, các tế bào, các cơ quan, và các cơ thể cũng được tổ chức tương tự. Khắp vũ trụ, mọi thành phần đều có khuynh hướng kết hợp để tạo thành các phần tử tốt đẹp quân b́nh và yếu tố chính để bảo tồn sự quân b́nh này là t́nh thương.
Luật vũ trụ không chấp nhận sự chống đối hay đi ngược lại các mănh lực kết hợp đó v́ nó làm mất đi sự quân b́nh , gây ra các xáo trộn. Để tạo lập lại sự quân b́nh đó, một phản lực phải được tạo ra để tái lập, đó là căn bản của luật nhân quả. Sự chống đối giữa ngừơi và người hay giữa người và các sinh vật khác đều là sự đi ngược luật vũ trụ và dĩ nhiên phải chịu hậu quả tùy theo nguyên nhân đă gây ra nó.
Tại sao con người chống đối, thù hằn nhau? Phải chăng v́ có sự khác biệt giữa màu da, chính kiến, tư tưởng hay tín ngưỡng? Nhưng nếu dự sống là duy nhất th́ tại sao con người lại khác nhau, kẻ thông minh, người ngu dại, người hiền lành kẻ hung dữ, hay có những người sinh ra mang màu da khác nhau?
Nếu ta có thể hiểu rằng bản chất thực sự của con người vốn không khác nhau nhưng v́ khoác lấy một cái vỏ vật chất để kinh nghiệm thế giới hiện tượng nên sự khác biệt mới có. Chính sự khác biệt này tạo ra môi trường để sự học hỏi có thể xảy ra, thúc đẩy sự tiến hóa và nhờ thế vũ trụ mới mang sắc thái "động" thay v́ "tỉnh".
V́ tất cả đều phát xuất từ một nguồn sống duy nhấtvà cáinguồn sống này luôn luôn hiện diện khắp nơi, khắp các cơi giới dù h́nh thể đời sống mỗi loài có khác nhau, tất cả vẩn đều liên quang chặc chẻ với nhau trong một tiến tŕnh đời sống.
Trong tiến tŕnh đời sống này, các sinh vật phải luân hồi trong nhiều kiếp, khi sinh ra ở nơi này, lúc ở nơi khác, có khi mang thể xác phái nam, khi lại mang thân phái nữ, lúc có màu da này khi mang màu da khá nhưng tất cả sự khác biệt đó điều là những môi trường để học hỏi và kinh nghiệm sự yêu thương.
Nói cách khác, toàn thể nhân loại kẻ trước người sau, đang dần bước trong một cuộc hành tŕnh rất dài. V́ sự hiểu biết và học hỏi khác nhau nên họ có những tin tưởng, thành kiến và suy luận khác nhau, nhưng đây chỉ là yếu tố phụ và ở bên trong họ đều là một.
Đó là sự sống duy nhất đang tiến dần đến t́nh trạng thái toàn diện, một trạng thái yêu thương bao la vô bờ bến. Cho nên khi đạt đến tạng thái này cuộc hành tŕnh của thực thể cá nhân sex chấm dứt v́ khi đó họ đă ḥa hợp vào cái nguồn sáng bao la, thiêng liêng bất tận. Đó chính là sự trở về nhà mà các kinh sách tôn giáo thường diển tả.
Một hôm, tôi có việc phải đi công tác xa hơn một tuần lễ, khi trở về căn cứ tôi nhận được một bức thư ngắn của Louise Clayton có nội dung như sau:
-"Anh Steve, em đă t́m được việc làm ở một nơi xa, xin anh đừng viết thư cho em về North Carolina nữa. Em đă suy nghĩ nhiều về cuộc hôn nhân của chúng ta và thấy rằng chúng ta quyết định một cách hấp tấp. Chúng ta chẳng có th́ giờ t́m kiểu nhau nhiều, vậy em nghĩ chúng ta nên dừng lại tại đây th́ hơn. Kính chúc anh mọi sự may mắn"
Đọc xong bức thư ngắn này tôi thấy thế giới dường như sụp đổ mộng đẹp xây dựng bấy lâu bỗng chốc chốc tiêu tan. Tại sao Louise lại thay đổi ư kiến đột ngột như vậy? Phải chăng cô đă gặp một người nào học thức hơn hay có tương lai hơn?
Louise không thể như thế được, cô là người mẫu mực, dịu dàng và có lư tưởng nên không thể quên lời hức một cách dễ dàng như vậy được. Phài chăng có chuyện ǵ bất thường xảy ra? Phong thư không đề địa chỉ hồi âm nên tôi không thể nào liên lạc với Louise.
Suốt ngày hôm đó tôi như người mất trí. Tôi đă điện thoại vể North Carolina nhưng người ta cho biết Louise Clayton đă dọn đi và không để lại đia chỉ. Đêm hôm đó tôi cố gắng lắm mới không nghĩ đến Louise. Tôi biết ḿnh có thể tiếp xúc với Louise nhưng tôi cũng biết làm như thế là lạm dụng quyền năng tâm linh.
Một người phụng sự không được phép dùng quyền năng của ḿnh vào những công việc riêng, nghĩa là vào những mục đích ích kỷ. Sau cùng tôi nghĩ đến Marjorie và quyết định t́m cô này. Chúng tôi vẫn thường gặp nhau nên chỉ cần tập trung tư btưởng một lúc là tôi thấy Marjorie xuất hiện trong một vùng ánh sáng chói lọi. Cô vui vẻ nói:
- Này anh Steve, thật là sung sướng biết bao v́ em có nhiều chuyện kể cho anh nghe. Anh phải mừng cho em v́ em vừa được giao phó nhiệm vụ mới, việc này khó khăn hơn. Từ nay em nhận lănh trách nhiệm an ủi những trẻ em vừa từ trần. Ôi chúng dể thương làm sao! Lúc đầu chúng bơ vơ lạc lơng và rất sợ hăi, nhưng được em hết sức dỗ dành, chúng hết sợ c̣n gọi em bằng mẹ nữa..
Marjorie liến thoắng nói như không thèm chú ư đến tâm trạng ngổn ngang lo âu, thất vọng của tôi. Cô tiếp tục:
- Anh phải đến gặp mấy đứa bé này, chúng dể thương lắm. Nh́n chung cứ nh́n thấy bông hoa hé nở dưới nắng mai vậy...Ô hay! Anh lo lắng ǵ mà có vẻ khó chịu vậy?
Tôi đau khổ hỏi:
- Dạo này em có gặp Louise Clayton không?
- Không. Em chỉ gặp cô ấy khi săn sóc anh ở bệnh viện thôi. Công việc của em ở bên này rất bận rộn, nên em không trở lại cơi trần làm ǵ. Anh và Louise cùng ở cơi trần, gặp nhau dể dàng, sao anh không đến thăm cô ấy?
Marjorie lặng nh́n tôi một lúc và chợt hiểu. Cô quàng tay vào tay tôi:
- Anh Steve, em hiểu sự đau khổ của anh nhưng đáng lẽ ra anh không nên hỏi em như vậy. Chúng ta gặp nhau để làm việc chung chứ không phải để nói chuyện có tính cách cá nhân. Nếu anh hỏi cậu Jules như vậy th́ cậu ấy sẽ nghĩ sao về anh?
- Marjorie nói bằng một giọng nghiêm trang khiến tôi giật ḿnh như tỉnh mộng. Phải tôi đă nghĩ về ḿnh nhiều quá. Các nỗi lo lắng nhỏ nhặt, ích kỷ đă làm tôi suưt quên đi trách nhiệm được giao phó. Thật là xấu hổ khi Marjorie hoàn toàn quên ḿnh để giúp đở những đứa trẻ vừa từ trần trong khi tôi chỉ bận tâm đến việc mất người yêu.
Tôi tập trung tư tưởng để tự trấn tĩnh rồi nói:
- Này Marjorie, anh sẽ đến thăm mấy đứa bé mà em săn sóc. Anh cũng thích chơi với trẻ con và nếu em cho phép anh cũng sẽ hướng dẩn cho chúng..
Khi tỉnh dậy, tôi ư thức rơ khả năng tự chủ của tôi chưa được vững cho lắm. Một việc bất ngờ đă làm cho tôi bối rối như vậy th́ làm sao tôi có thể kham được những việc lớn lao hơn.
May thay Marjorie đă nhắc nhở cho tôi biết, từ đó tôi chuyên tâm vào việc phụng sự những người vừa từ trần, giúp họ hoàn tất các việc chưa xong hoặc an ủi thân nhân họ.
Ba tháng sau tôi được giài ngũ trở về Hoa Kỳ. Tôi có đến North Carolina t́m Louise nhưng không gặp, những người trong bệnh viện cũng không biết cô dọn cô dọn đi đâu. Vào lúc chiến tranh vừa chấm dứt, số người giải ngũ di chuyển khắp nơi rất nhiều, việc t́m kiếm một người như Louise rất khó nếu không nói là gần như không có hy vọng.
Tôi trở về New York sống với gia đ́nh và t́m được việc làm trong một hăng buôn. Ngoài công việc sinh kế hằng ngày, tôi để hết tâm trí vào việc phụng sự những người vừa từ trần trong lúc ngủ. Hôm đó tôi gặp một vong linh là Buster, ông này nói:
- Nhờ ông giúp cho tôi. Cách đây mấy năm tôi có ngoại t́nh và có một đứa con rơi. Chúng tôi quyết định giấu nhẹm chuyện này nên gữi nó vào một viện mồ côi ở Montana. Đó là viện mồ côi dành cho trẻ em khiếm thị, v́ đức bé bị mù bẩm sinh.
Mẹ đứa bé đă dọn đi xa và lập gia đ́nh nên cũng không muốn nh́n nhận nó nữa. Phần tôi sống trong ăn năn, hối hận măi cho đến lúc chết. Trước khi từ trần tôi có viết một bức thư và kể lại chuyện này để xin lỗi nhà tôi v́ khi c̣n sống, tôi không có cam đảm thú nhận. Điều bất ngờ là không những nhà tôi đă tha thứ cho tôi mà c̣n muốn mang đứa bé về nuôi nữa.
Tiếc thay v́ tôi không để lại chi tiết nên nhà tôi không biết đâu mà t́m. Phiền ông liên lạc với nhà tôi để mang cháu về giùm, hồ sơ tại cô nhi viện có ghi rơ chi tiếc và có lưu lại một bức thư riêng của tôi tại đó.
- Bà Buster quả là một phụ nữ không những giàu sang mà c̣n giàu ḷng trắc ẩn. Sau khi nghe tôi tŕnh bày, bà yêu cầu tôi cùng đi với bà và vị luật sư riêng đến Montana t́m đức nhỏ. Tất cả mọi chi tiết đều xảy ra đúng như lời ông Buster kể. Chúng tôi t́m được cháu Cheryl dễ dàng. Vị luật sư xem xét giấy tờ và xác nhận Cheryl chính là con ông Buster.
Thật ra điều này cũng bằng thừa v́ cháu trông giống ông Buster như đúc. Vừa nh́n thấy Cheryl, bà Buster đă cảm động ôm chầm lấy nó, và có lẽ linh tính sao đó, nó cũng quyến luyến bà Buster không rời. Thủ tục nhận lănh đức nhỏ tại cô nhi viện diễn ra một cách tốt đẹp và nhanh chóng.
Trong khi chờ đợi ṭa án tiểu bang chấp thuận, đứa nhỏ được phép vbề sống chung với bà Buster. Cô bé Cheryl thu tập quần áo theo mẹ nuôi nhưng cô chợt kêu lên:
- Trước khi đi con phải vào từ giă cô giáo dạy nhạc của con đă.
Chúng tôi theo cô bé bước vào lớp học. Một nhóm trẻ đang quay quần chung quanh cây dương cầm để tập hát. Tự nhiên mắt tôi hoa lên. Cô giáo dạy âm nhạc kia đâu ai xa lạ mà chính là Louise Clayton, người mà tôi vẫn cố ư định t́m kiếm bấy lâu nay.
Tại sao Louise Clayton lại làm việc tại đây? Th́ ra trong thời gian phục vụ tại bệnh viện, cô mắc bệnh ở mắt, thị giác dần dần suy kém và theo thời gian sẽ bị mù. Biết thế và không muốn cho tôi có một gánh nặng là cưới một cô gái mù, Louise viết thư từ hôn rồi dọn đến tận tiểu bang Montana, nơi mà Louise tin rằng không bao giờ tôi có thể t́m thấy được.
Cô xin được việc làm tại viện mồ côi dành cho các trẻ em khiếm thị. Biết được lư do này, tôi càng thấy yêu Louise hơn, mọi sự phiền muộn tan theo mây khói. Tôi lặp lại lời câu hôn một lần nữa và lần này Louise chấp nhận một cách hoan hỉ.
Câu chuyện chấm dứt khi Steve và Louise kết hôn. Tác giả, ông Tucker đă kết luận:
- Câu chuyện của Steve là một câu chuyện t́nh hay là một câu chuyện về thế giới bên kia cửa tử? Có lẽ cả hai v́ người ta không thể phân chia nó được bởi t́nh thương bắt nguồn từ Thượng Đế và Thượng Đế chính là t́nh thương. Đối với những ai biết sống thuận theo thiên ư th́ vũ trụ này chỉ có một điều quan trọng mà thôi:
Đó là t́nh thương. Phục sự người khác là ǵ, nếu không phải là ḷng thương yêu, một thứ t́nh cảm êm dịu, vị tha, cao cả và mầu nhiệm. tất cả những ai đă bước qua cơi sáng ắt phải nhận biết đó là một cơi của t́nh thương rực rỡ, huy hoàng.
Điều đáng tiếc là tâm trạng con người khi chết thường quá sợ hăi, đầy quyến luyến và chỉ muốn bám víu vào các quan niệm sai lầm chứ không biết xả đi mọi ham muốn, dục lạc để thực sự kinh nghiệm những ân phước tràn đầy nơi cơi đó.
Chính nơi cơi trần đầy xác trộn, bất an của chúng ta quá hiện nay cũng tràn đầy những tia sáng của t́nh thương nhưng tiếc thay chúng ta quá bận rộn với những ích kỷ nhỏ nhặt của cuộc sống hằng ngày mà quên đi sự mầu nhiệm tuyệt vời của cuộc sống. Phải chăng những sữ đau khổ mà người ta mới phát triển t́nh thương hay học yêu thương?
Trong trang cuối, tác giả đă kể lại cuộc gặp gỡ giữa ông và với vợ chồng Steve Buckley, v́ lư do ǵ mà ông xin phép được kể lại những điều ông nghe kể. Ông kết luận:
- Rồi một ngày kia, t́nh thương yêu sẽ tràn ngập vũ trụ khi nhân loại ư thức được t́nh thương của Đấng sáng tạo và biết rằng t́nh thương đó không phải là một điều xa xôi diệu vợi, phải nhọc công tốn sức mới có.
Thật ra nó vẫn có trong mọi người chúng ta, v́ chúng ta được tạo ra trong t́nh thương và bản chất của chúng ta chính là t́nh thương.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 195 of 1146: Đă gửi: 17 June 2010 lúc 11:22pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÊN KIA CỬA TỬ
CHƯƠNG SÁU
ÁP LỤC VẬT CHẤT ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI VỪA TỪ TRẦN
Trong những lần trước, chúng ta đă t́m hiểu về đời sống bên kia cửa tử qua lời kể của những người đă chết rồi hồi sinh (Near death experience). Trong phần này chúng ta sẽ t́m hiểu về những áp lực vật chất đối với những người vừa từ trần.
Theo kinh Địa Tạng, những người tạo ác nghiệp khi chết sẽ trở thành ma quỷ hay súc sanh. Ngạ quỷ là quỷ đói, bụng to bằng cái trống nhưng cái họng chỉ bé bằng cái kim nên ăn uống măi mà cũng không no. Có lẽ điều này ám chỉ những vong linh c̣n nhiều dục vọng, vẫn thèm khát cái thú vui vật chất nhưng v́ không c̣n thể xác để thỏa măn nên bị dục vọng hành hạ biến thành một loài quỷ đói.
Theo các sách vở viết về thế giới bên kia th́ đây là một cơi được cấu tạo bằng những chất liệu rất thanh và nhẹ so với nguyên tử cơi trần nên muốn song một cách thảnh thơi, các vong linh khi qua đây phải biết loại bỏ đi những phần tử nặng trước tích tụ trong kiếp song ở cơi trần như dục vọng, sự quyến luyến, ḷng ham ăn uống hay đ̣i hỏi xác thịt.
V́ trước sau ǵ ai cũng đến đó nên sự hiểu biết về cơi giới này là một điều rất cần thiết. Nếu khi du lịch qua xứ lạnh, người ta chuẩn bị y phục ấm để khỏi bị lạnh th́ sự chuẩn bị để qua cơi này cũng đ̣i hỏi một một sự chuẩn bị cẩn thận.
Dĩ nhiên sự giải thoát khỏi các áp lực vật chất không phải dể v́ trong mấy chục năm sống ở cơi trần, người ta đă trầm ḿnh trong dục lạc, muốn cởi bỏ đâu phải trong một thời gian ngắn như vài ngày hay vài tháng mà được. Thông thường vào lúc tuổi già bóng xế, các thú vui vật chất sẽ giảm bớt đi nhiều.
Khi răng long ruột yếu th́ tự nhiên con người không ham thích ăn uống nhiều như khi c̣n trẻ nữa.Cũng như thế, khi sức khỏe suy yếu, bệnh tật, con người sẽ không c̣n thèn muốn các thú vui vật chất như trước và sự suy giảm tự nhiên này sẽ giúp người ta giải thoát lần lần khỏi các áp lực vật chất.
Tuy nhiên chết là điều không ai có thể biết trước được nên người ta không thể chờ đợi đến khi già mới bắt đầu lo mà phải biết chuẩn bị ngay từ bây giờ . Cuốn tử thư tây tạng đă n ghi nhận: "Đời sống ở cơi trần và cảnh giới bên kia cửa tử có thể so sánh với cuộc sống của con tằm trong vỏ kén tối tăm và con bướm trong không gian rộng răi. Muốn sống thảnh thơi tự do, con bướm phải biết vất bỏ cái kén để bay lên không trung.
Cũng như thế, muốn được thảnh thơi ở cảnh giới bên kia cử tử, vong linh phải biết xả bỏ các dục vọng vật chất, các khoái cảm xác thân. C̣n giữ những gánh nặng này th́ có khác ǵ con bướm khi thoát xác tằm, nhưng vẫn mang vỏ kén trên lưng, làm sao có thể bay bổng cho được".
Theo cuốn sách này, những người chết quá trẻ, nhất là những người chết bất đắc kỳ tử, thường đau khổ rất nhiều. Sở dĩ họ khổ v́ chưa già, chưa bệnh tật, nên các dục vọng vẫn c̣n mạnh , tạo áp lực khiến họ không thể siêu thoát. Nói một cách khác, họ chưa hề chuẩn bị để giải thoát ra khỏi các áp lực vật chất nên cứ quanh quẩn ở cơi trần, sống trong trạng thái u mê đau khổ.
Bị ám ảnh bởi cái chết và tâm trạng lúc từ trần nên thần trí họ không thể sáng suốt để vượt ra khỏi các áp lực này. Sự thèm khát mà không được thỏa măn, đói mà không thể ăn, khát mà không thể uống, bị dục vọng hành hạ khổ sở, có khác ǵ một cảnh âm ti địa ngục đâu! Chỉ khi nào các áp lực vật chất này tiêu tan hết th́ vong linh mới có thể siêu thoát được.
Tóm lại hạnh phúc của con người ở thế giới bên kia cửa tử tùy thuộc rất nhiều về sự giải thoát ra khỏi các áp lực vật chất này. Cuốn Revelations của nhóm Les Amis de Chamfleury đă ghi nhận rất nhiều trường hợp về những áp lực vật chất mà danh từ Phật Giáo gọi là "Cận tử nghiệp", chúng tôi xin trích dịch một trường hợp tiêu biểu như sau:
Bác sĩ Otto Kunz làm việc tại bệnh viện thành phố Annecy (Thụy Sĩ). Ông bà Kunz có một người con trai duy nhất tên là Jo đang theo học đại học Genève năm thứ hai. Vào tháng 4 năm 1952, cô thư kư của bác sĩ Kunz nhận được thư của một người tên là Bernard Piquet viết cho bác sĩ nhưng v́ bất cẩn cô xếp lầm bức thư này vào một chồng hồ sơ bệnh lư dày cợm trên bàn thư bị thất lạc.
Hai tuần sau đó, cậu con trai của bác sĩ đi bơi và chết đuối trong hồ Genève. Đến cuối tháng sau,khi dở hồ sơ bệnh lư, bác sĩ Kunz t́m thấy bức thư thất lạc, nội dung báo trước cái chết của cậu con trai Jo và yêu cầu bác sĩ tiếp xúc với người viết thư. Đại khái bức thư như sau:
- "Thưa bác sĩ, tôi được giao phó một công việc rất khó khăn mà tôi không biết phải xử trí ra sao. Việc này đă gây cho tôi nhiều bối rối nên tôi mạo muội viết thư này cho bác sĩ mặc dù chúng ta chưa hề quen biết. Tôi thấy trước tại nghĩa địa thành phố Annecy, một ngôi mộ mới của một cậu con trai tên là Jo Kunz, con của bác sĩ.
Cậu vừa thi xong kỳ thi năm thứ hai đại học rồi đi tắm và bị chết đuối. Đây không phải là lần thứ nhất tôi biết trước được những việc xảy ra nhưng tôi không bao giờ can thiệp vào những việc này. Tuy nhiên lần này tôi nhận được lời yêu cầu phải thông báo tin này cho bác sĩ trước khi sự việc xảy ra nên tôi rất ngần ngại v́ sợ bác sĩ cho rầng tôi đang toan tính việc ǵ chăng!
Tôi suy nghĩ rất kỹ và sau cùng quyết định viết thư này
để xin bác sĩ liên lạc với tôi qua địa chỉ và số điện thoại sau.."
Là người hoàn toàn tin tưởng vào khoa học, bác sĩ Kunz rất ngạc nhiên v́ lá thư đến trước khi chuyện xảy ra nên ông vội điện thoại cho ông Bernard Piquet. Trong cuộc tiếp xúc, bác sĩ Kunz được biết ông Bernard Piquet không những là một người có địa vị trong xă hội mà c̣n là một nhà thần linh học chuyên nghiên cứu về cơi giới bên kia cử tử.
Ông Piquet cho biết có rất nhiều vong linh sống vất vưởng, không nơi nương tựa, không người giúp đở v́ c̣n quá nhiều quyến luyến với cơi trần nên không
thể siêu thoát. Nhiệm vụ của ông là liên lạc, giúp đở và hướng dẫn những vong linh này để họ có thể thích hợp với đời sống ở cơi bên kia.
Bác sĩ Kunz không tin tưởng ở những điều mơ hồ viển vông mà ông Piquet nói nhưng nể ông này là người có địc vị trong xă hội nên chỉ nói vỏn vẹn:
- Thứ ông Piquet, những điều ông nói hay lắm, nhưng ông có thể giúp đỡ tôi điều ǵ? Ông muốn xin chúng tôi điều ǵ chăng?
- Bác sĩ đừng hiểu lầm. Tôi không muốn xin xỏ một điều ǵ cả, nhưng cậu Jo, con của bác sĩ đang cần sự giúp đỡ của bác sĩ, v́ cậu đang đang vô cùng đau khổ.
Nghĩ ông Piquet có ư xấu, bác sĩ nỗi giận:
- Ông muốn ǵ thỉ cứ nói thẳng ra, con tôi đă chết rồi, xin đừng gợi lại những điều đau đớn đó nữa. Làm sao tôi có thể giúp đỡ con tôi được?
Ông Piquet b́nh tỉnh trả lời:
- Thưa bác sĩ, tuy đă chết nhưng cậu Jo không siêu thoát v́ đang bị ám ảnh bởi tâm trạng khủng hoảng lúc chết, do đó cậu rất đau khổ. Tôi cố sức giúp đỡ cậu nhưng vô hiệu. Có lẽ chỉ bác sĩ mới có thể giúp đỡ được cậu Jo mà thôi v́ ngày thường cậu rất phục bác sĩ.
- Tại sao ông biết điều đó?
- Đó là việc của tôi. Tôi vẫn thường liên lạc với thế giới bên kia cửa tử....
- Ông liên lạc bằng cách nào?
- Chúng tôi có nhiều phương tiện không thể kể hết được, nhưng cách giản dị nhất là qua trung gian của một đồng tử (Medium)
Bác sĩ Kunz rất khó chịu v́ ông không tin những tṛ cầu hồn, cầu cơ hay tiếp xúc qua đồng tử nên ông lạnh lùng nói thêm vài câu rồi chấm dứt buổi nói chuyện. Chiều hôm đó ông kể cho vợ nghe. Bà Kunz vô cùng xúc động nên thúc dục ông phải tiếp xúc lại với ông Piquet:
- Chuyện này lạ lắm. Làm sao một người như ông Piquet lại biết trước cái chết của Jo được? Nếu cô thư kư Gina không xếp lầm bức thư vào bồ sơ bệnh lư và nếu anh không mở hồ sơ ra coi lại th́ chuyện này sẽ ra sao? Biết đâu ông Piquet chẳng nói thật, ḿnh cứ tiếp xúc xem ông ta muốn ǵ và nếu ông ta bày tṛ bịp bợm th́ ta cứ b việc gọi cảnh sát.
Lúc đầu bác sĩ Kunz không nghe, nhưng v́ bà vợ thúc giục măi nên ông đành nhờ ông Piquet t́m cách cho ông liên lạc với Jo. Ông Piquet đề nghị một buổi cầu hồn qua trung gian của một đồng tử.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 196 of 1146: Đă gửi: 17 June 2010 lúc 11:37pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÊN KIA CỬA TỬ
CHƯƠNG BẢY
Bác sĩ Kunz rất khó chịu v́ ông không tin những tṛ cầu hồn, cầu cơ hay tiếp xúc qua đồng tử nên ông lạnh lùng nói thêm vài câu rồi chấm dứt buổi nói chuyện. Chiều hôm đó ông kể cho vợ nghe. Bà Kunz vô cùng xúc động nên thúc dục ông phải tiếp xúc lại với ông Piquet:
- Chuyện này lạ lắm. Làm sao một người như ông Piquet lại biết trước cái chết của Jo được? Nếu cô thư kư Gina không xếp lầm bức thư vào hồ sơ bệnh lư và nếu anh không mở hồ sơ ra coi lại th́ chuyện này sẽ ra sao? Biết đâu ông Piquet chẳng nói thật, ḿnh cứ tiếp xúc xem ông ta muốn ǵ và nếu ông ta bày tṛ bịp bợm th́ ta cứ việc gọi cảnh sát.
Lúc đầu bác sĩ Kunz không nghe, nhưng v́ bà vợ thúc giục măi nên ông đành nhờ ông Piquet t́m cách cho ông liên lạc với Jo. Ông Piquet đề nghị một buổi cầu hồn qua trung gian của một đồng tử.
Lúc đầu bác sĩ Kunz không nghe, nhưng v́ bà vợ thúc giục măi nên ông đành nhờ ông Piquett́m cách cho ông liên lạc với Jo. Ông Piquet đề nghị một buổi cầu hồn qua trung gian của một đồng tử. Bác sĩ Kunz chấp thuận với điều kiện buổi tiếp xúc phải được tổ chức tại trường đại học y khoa Genève, dưới sự chứng kiến của một nhóm bác sĩ bạn thân của ông.
Không những thế, buổi tiếp xúc c̣n được thu vào băng để làm tài liệu kiểm chứng. Ông Piquet nhận lời và buổi cầu hồn được tổ chức vào cuối tuần lễ đó. Một người đồng tử (Medium) được đưa đến và ông Piquet hướng dẫn buổi tiếp xúc dưới sự kiểm soát gắt gao của một hội đồng bác sĩ y khoa.
Lần thứ nhất cậu Jo nhập vào đồng tử, cô này ú ớ không sao nói được, cứ khua tay khua chân lia lịa một lúc rồi thôi. Ông Piquet cho biết cậu Jo không tỉnh táo và đang xúc động mạnh, nên không nói được ǵ. Ông đề nghị mọi người hăy cằu nguyện để sự rung động này có thể ảnh hưởng đến thần trí cậu Jo khiến cậu tỉnh táo hơn.
Sau khi chờ cho lúc mọi người cầu nguyện xong, ông Piquet yêu cầu cậu Jo trở lại. Lần này cô đồng ú ớ một lúc như người bị sặc nước, cứ lấy tay chỉ vào cổ họng như muốn nói mà không sao nói được. Tay chân cứ giẫy giụa như người đang bị chết đuối một lúc rồi thôi.
Bác sĩ Kunz bán tính bán nghi không biết có nên tin hay không. Xem cử chỉ của cô đồng, ông thấy có cái ǵ quen thuộc mà không sao tả được. Ông Piquet giải tán buổi cầu hồn và hẹn sẽ tiếp tục ở một hôm khác. Trong khi chờ đợi, ông yêu cầu ông Kunz tổ chức một buổi cầu nguyện cho cậu Jo tại thánh đường địa phương.
Buổi cầu nguyện diễn ra rất long trọng và trang nghiêm dưới sự chủ lễ của vị giám mục và có tất đông bạn bè của Jo. Vài hôm sau, một buổi cầu hồn được tổ chức tại đại học Genève. Lần này cậu Jo nhập vào đồng tử nhưng cũng như lần trước, cô này ú ớ không nói được mà cứ lấy tay chỉ vào cổ họng. Ông Piquet bèn chắp tay nói lớn:
- Xin Thượng Đế toàn năng hăy giúp chúng con nghe được tiếng nói của Jo. Đó là điều an ủi lớn đối với chúng con. Chúng con yếu đuối thấp hèn, không thể làm ǵ hơn được mà chỉ biết quỳ mọp dưới chân Ngài để cầu xin. Gia đ́nh bác sĩ đă mất cậu Jo yêu quư, xin Ngài cho phép họ tiếp xúc được với Jo trong chốc lát.
Cầu xin Ngài làm thế nào cho nổi đau khổ của chúng con đưa chúng con đến gần Ngài. Chúng con không phiền muộn hay trách móc v́ biết đó là ư Ngài. Chúng con chỉ xin Ngài hăy chăm lo cho linh hồn của Jo. Chúng con hy vọng và tin tưởng ở ḷng thương yêu cao cả của Ngài. Xin Ngài hăy d́u dắt và hướng dẫn chúng con..
Ông quay ra phía những người quan sát gần đó:
- Này các bạn, các bạn phải cầu nguyện một cách chân thành. Cậu Jo cần nhận được những rung động thanh cao, dồi dào của t́nh thương phát xuất từ trái tim của quư vị. Chỉ có t́nh thương mới có thể đưa linh hồn cậu thoát khỏi các áp lực vật chất mà thôi.
Những người ngồi quan sát bàn tán không biết có nên tin những lời ông Piquet hay không. Chỉ riêng bà Kunz nước mắt đầm đ́a khóc lớn:
- Này Jo, nếu quả thật là con th́ hăy cho mẹ biết mẹ sẽ giúp con.
Tự nhiên cô đồng ngồi yên một lúc rồi thốt lên một câu ngắn:
- Khổ quá, khổ quá..
Cả hai ông bà Kunz đều giật ḿnh v́ giọng cô đồng nói y hệt như giọng cậu Jo. Bà Kunz xúc động khóc ầm lên nhưng ông Piquet cản lại:
- Xin quư vị hăy b́nh tĩnh, đừng làm cậu Jo thêm đau khổ. Quư vị hăy cầu nguyện chân thành, v́ chỉ có sự chân thành mới có thể giúp được Jo trong lúc này mà thôi. Xin qúy vị hăy tự xét ḷng ḿnh xem có thanh khiết hay không, v́ chỉ có sự thanh khiết mới có thể rung động mà ảnh hưởng đến thần trí đang đau khổ của Jo.
Chúng ta nên yên lặng và nghĩ đến Thượng Đế v́ chỉ có Ngài mới có thể giúp được chúng ta trong lúc này. Tuy một vài người trong quư vị có ḷng thương Jo nhưng vẫn chứ đủ, mà cần có sự ḥa hợp của nhiều người để tạo ra được một mănh lực vươn lên cơi trên cảnh tỉnh Jo. Quư vị đừng nghĩ rằng Jo đă chết.
Cậu không hề chết như quư vị nghĩ đâu, mà chỉ đi qua một cơi giới khác mà thôi. Qúy vị có thể chuyển đến Jo những tư tưởng thân ái, những t́nh cảm chân thành v́ chỉ những thứ này mới làm cho Jo thoát được t́nh trạng u mê hiện nay. Càng than khóc qúy vị càng làm Jo thêm đau khổ và càng đau khổ, thần trí Jo càng u mê, quyến luyến, hoảng hốt, không ích lợi ǵ cả.
Mọi người cố gắng cầu nguyện nhưng cô đồng ngồi im mà không trả lời. Sau cùng ông Piquet giải tán buổi cầu hồn. Ngay sau đó hội đồng bác sĩ họp nhau bàn tán, đa số cho rằng ông Piquet đă lừa gạt họ v́ họ chưa thấy có một bằng chứng nào là cậu Jo đă trở lại.
Bác sĩ Kunz tỏ ra siêu ḷng trước lập luận của bạn bè nhưng bà Kunz quả quyết rằng giọng của cô đồng đúng là giọng của Jo và bà muốn tiếp tục thêm một lần nữa. Bác sĩ Kunz cho ông Piquet biết ư định. Ông này trả lời:
- Tôi không thể giúp thêm ǵ v́ người duy nhất có thể làm việc này chính là bác sĩ. Tôi đề nghị bác sĩ hăy chủ tọa buổi hướng dẫn kỳ tới.
Hai tuần lễ sau, buổi cầu hồn lại được tổ chức. lần này chính bác sĩ Kunz hướng dẫn và cậu Jo trở về nhập xác đồng tử. Cô đồng cứ nấc lên như người bị sặc nước. Bác sĩ Kunz lên tiếng:
- Hăy cố gắng lên Jo. Ba biết con bị sặc nước nhưng hiện nay xác thân con không c̣n nữa. Cái xác hiện con đang xử dụng chỉ là cái xác của một người khác cho con mượn. Cái xác này không hề hấn ǵ và con có thể nói năng dễ dàng. Quanh đây đều là những người thân yêu, ai cũng thương con và ai cũng muốn nghe con nói lên vài lời..
Tự nhiên đồng tử ngưng lại, cố gắng thốt lên một câu:
- Nhưng con không nói được.
Ông Kunz vội lên tiếng:
- Con hăy cam đảm lên, nói cho ba biết có vật ǵ đang ở trong cổ họng của con?
Cậu Jo cố gắng cử động cái lưỡi liên tiếp như muốn nhả một vật ǵ ra.
Ông Kunz tiếp tục:
- Con thân yêu, hiện nay con không bị ngộp nước nữa đâu. Cái thể xác trước kia của con đă bị hư hại và được đem chôn cất rồi. Con hăy quan sát kỹ xem, bây giờ con không ở thể xác cũ nữa mà ở một thế giới mới, tốt đẹp và hoàn hảo hơn. Con hăy thoát ra sự chi phối của thể xác cũ.
Con hăy cầu nguyện, hăy quên đi tai nạn thương tâm vừa qua, cha mẹ và người quanh đây sẽ giúp con. Con hăy thở đều cho thoải mái. Con đă ra khỏi hồ nước, con thấy không? Chung quanh con toàn là ánh sáng đẹp đẽ, con thấy thân thể nhẹ nhàng không? Con hăy cam đảm lên..
Cậu Jo vẫn khua tay múa chân như người đang bơi. Ông Kunz nói tiếp:
- Con không c̣n ở dưới nước nữa mà đang ở trong trường đại học. Con hăy thở một hơi thật dài. tất cả những thứ trong cổ họng con đă thoát ra ngoài cả rồi, cứ b́nh tĩnh thở đều, không có ǵ ngăn cản con hết..
Cậu Jo đưa tay sờ ngực và cố gắng nói nhưng vẫn chưa nói được, sau cùng cậu khóc tấm tức. ÔngKunz tiếp tục:
- Con cứ khóc đi, không sao hết. Khóc cho trút hết nỗi đau khổ rồi con sẽ thấy thỏai mái hơn.
Cậu Jo khóc một lúc rồi đưa tay ôm cổ. Ông Kunz vội hướng dẫn:
- Này Jo, hiện nay con không c̣n ở dưới nước nữa. Con đang ngồi gần cha mẹ và con hăy b́nh tĩnh. con đă được vượt lên khỏi hồ nước rồi..
Cậu Jo bật lên một câu:
- Cha mẹ ơi rong rêu bám đầy vào miệng con ghê quá!
- Con cứ b́nh tĩnh, mọi việc đă qua rồi. Hiện nay con đang ở bên cha mẹ, không có ǵ có thể làm hại con nữa đâu. Này Jo, ngày trước con hát hay lắm, con hăy hát một bài cho cha mẹ nghe đi.
Cậu Jo bật cười thành tiếng, hát một bản nhạc thịnh hành rồi thăng. Lúc đó ông Piquet mới lên tiếng giải thích:
- Cháu Jo từ trần quá sớm, cháu c̣n quyến luyến cha mẹ, tiếc cuộc đời c̣n đẹp nên không muốn từ bỏ cơi trần. Do đó cháu cứ bám víu vào thể xác nên thần trí bị u mê. Cái áp lực vật chất này rất kinh khủng cho những ai muốn bám víu vào cơi trần nên người chết cứ bị ám ảnh bởi hoàn cảnh khi chết.
Dĩ nhiên họ rất đau khổ, vấn đề là phải biết hướng dẫn cho cháu biết chấp nhận sự chết để được siêu thoát. Muốn như thế cháu cần phải hiểu biết về đời sống ở cơi bên kia, lọai bỏ những quyến luyến th́ mới có thể tiêu diêu tự tại được.
Các ông bà nên biết có rất nhiều người chết vẫn ở trong trạng thái lúc chết từ năm này qua năm nọ mà không siêu thoát. Họ không sống ở cơi trần, không sống ở cơi chết mà cứ ở giữa hai cơi. Chính cái hoàn cảnh không sống
mà cũng không chết này làm họ u mê đau khổ.
Muốn giúp họ chỉ có một cách là cầu nguyện thật chân thành để sự thương yêu của qúy vị tạo ra một mănh lực soi sáng tâm tư đang hồ đồ của người vừa mới chết. Các sự than khóc, kêu gọi ồn ào chỉ làm tâm tư người chết đă bối rối lại c̣n hoang mang thêm, không ích lợi ǵ hết.
Do đó một đám tang phải được cử hành trong sự chân thành cùng cầu nguyện. Quư vị nên biết cơi giới bên kia cửa tử không phải là một cảnh thiên đàng hay địa ngục như người ta thường diễn tả, mà là một cảnh giới rất sáng, một thứ ánh sáng tràn đầy yêu thương của đấng sáng tạo.
Tại đây người ta có dịp hồi quang phản chiếu, ư thức thực của ḿnh để quyết định cho đời sống ở kiếp sau. Đời sống bên này rất yên lành, thỏai mái v́ chỉ có các tư tưởng rung động thanh cao, không hề bị ô nhiễm bởi các dục vọng vật chất.
Muốn thích hợp với đời sống, con người cần biết loại bỏ các ràng buộc vật chất như ḷng tham lam, ích kỷ. Cháu Jo hiện nay vẫn c̣n bị ám ảnh nhiều bởi tâm trạng lúc chết nhưng tôi tin cháu sẽ hiểu biết và siêu thoát.
Sau buổi tiếp xúc, các bác sĩ trong hội đồng y khoa đă hợp nhau bàn thảo về trường hợp này. Đa số tỏ ra nghi ngờ v́ họ chưa thấy một bằng chứng rơ rệt nào rằng người nhập xác đồng chính là cậu Jo. Bác sĩ Kunz cũng bối rối không biết có nên tiếp tục nữa không, nhưng bà Kunz th́ hoàn toàn tin tưởng, bà nói:
- Nghe tiếng nói tôi biết chính là Jo, không ai có lối nói như vậy ngoài Jo. Hơn nữa, bài hát đó vẫn là bài Jo thường hát, người ngoài không thể biết được. Các ông nghi ngờ ông Piquet dă đánh lừa chúng ta, nhưng ông ta làm thế để làm ǵ? Cho đến nay, ông Piquet chưa hề đ̣i hỏi hay lợi dụng chúng ta một điều ǵ.
Sau một hồi bàn tán sôi động nhưng không hề đi đến một kết luận nào, hội đồng bác sĩ quyết định cho tiếp tục buổi cầu hồn để thu thập thêm dữ kiện. Bác sĩ bèn thông báo cho ông Piquet. Ông này yêu cầu mọi người hăy chân thành cầu nguyện cho Jo trong hai tuần lễ trước khi tiếp tục.
Hai tuần sau, buổi cầu hồn được tổ chức tại trường đại học Genève. Cũng như lần trước, bác sĩ Kunz hướng dẫn và Jo trở lại, vẫn ú ớ không nói được và khua tay múa chân liên hồi. Ông Kunz lên tiếng:
- Này Jo, con hăy ngồi yên đừng lắc lư nữa. Làm thế chỉ mệt thêm mà thôi. Con đă ra khỏi các xác thân cũ, cái xác đó hư rồi không dùng được nữa, hiệh nay con đă có một xác thân khác. Con hăy tỉnh táo và nghe lời cha mẹ nói đây. Chúng ta hăy cùng nhau cầu nguyện . Con c̣n nhớ những câu mà chúng ta thường cầu nguyện trước bữa ăn gia đ́nh không?
Cậu Jo gật đầu và lên tiếng cầu nguyện cùng với mọi người nhưng sau đó cậu lại chỉ tay vào cổ như bị sặc nước. Ông Piquet bèn chắp tay nói lớn:
- Hỡi Thượng Đế kính yêu, hỡi Đấng Đại Từ Phụ toàn năng, chúng con xin quỳ mọp dưới chân Ngài để xin Ngài giúp cho cháu Jo thoát khỏi các áp lực vật chất. Chúng con xin thành tâm phụng sự Ngài, xin Ngài tha thứ cho chúng con những tội lỗi mà chúng con đă phạm, xin Ngài chỉ bảo cho chúng con một con đường sáng.
Này Jo, cậu đọc cùng tôi lời cầu nguyện sau đây: " Xin Đức Cha tha thứ cho tội lỗi của chúng con, xin đức Cha chỉ bảo cho con một con đường sáng, xin đức Cha giúp con tiến đến gần Ngài, con nguyện cương quyết rời bỏ thể xác vật chất này để tiến lên cơi sáng của Đức Cha. Con nguyện sẽ phụng sự Ngài và tiến lên đời sống tâm linh tốt đẹp, con quyết tiến lên cơi sáng"..
Khi ông Piquet thốt lên lời cầu nguyện th́ cậu Jo lắng tai nghe một cách chăm chú, không c̣n ú ớ như trước rồi bỗng nhiên cậu cất tiếng đọc theo một cách chân thành. Khi vừa đọc đến câu cuối:"Con quyết tiến lên cơi sáng" th́ cậu bất ngờ reo lên:
- Ô nh́n ḱa! Ánh sáng! Ánh sáng đẹp quá..cha mẹ ơi, ánh sáng đẹp quá...con đă ra khỏi đường hầm tối tăm rồi, trước mắt con toàn là ánh sáng..
Mọi người nín thở theo dơi. Bà Kunz cảm động khóc thút thít. Cậu Jo reo lớn mừng rỡ:
- Cha mẹ ơi, ánh sáng ở đây đẹp tuyệt vời!Con thấy nhẹ nhơm làm sao.. Con có thể bay bổng lên được. Thích quá! Thích quá! Phải rồi, con không c̣n ở dưới nữa mà đă bước vào cơi sáng..Ở đây ánh sáng đẹp tuyệt vời. Cha mẹ ơi, con sung sướng quá, con đă được giải thoát rồi..
Ông Kunz mùng rỡ kêu lớn:
- Phải, Jo con ơi, con đă bước vào cơi sáng rồi. Suốt mấy tháng nay con không thể nói được nhưng bây giờ con đă nói được rơ ràng rồi.
Ông Piquet ra hiệu cho mọi người cùng quỳ xuống chấp tay cầu nguyện:
- Hỡi đấng Đại Từ Phụ, chúng con cám ơn Ngài đă giúp cho cháu Jo. Chúng con yếu đuối không thể làm ǵ hơn là xin quỳ mọp dưới chân Ngài và xin Ngài chăm nom cho phần hồn của cháu Jo. Chúng con tin tưởng nơi ḷng bác ái cao cả của Ngài..
Cậu Jo nói lớn:
- Cha mẹ ơi, con đă bước vào cơi sáng rồi, tại đây con rất thoải mái an lành, xin cha mẹ đừng lo lắng ǵ nhiều về con.
Nói xong, Jo cười rồi thăng. Mặc dù buổi cầu có kết quả tốt đẹp nhưng đa số mọi người vẫn không tin tưởng cho lắm. Một số bác sĩ đă nghi ngờ rằng đó chỉ là một màn kịch được đạo diễn bởi ông Piquet mặc dù họ không biết ông này làm thế với mục đích ǵ.
Cuộc bàn căi trở nên sôi nổi hơn khi bác sĩ Kunz có ư nghiêng về phía ông Piquet và tỏ ư chê trách các bạn đồng nghiệp đă quá khắt khe với những dữ kiện thu thập được. Sau cùng mọi người đồng ư sẽ tổ chức buổi nói chuyện với Jo thêm một lần nữa.
Hai tuần lễ sau Jo trở lại, lần này cậu tỉnh táo hơn, và đă nói nhu sau:
- Cha mẹ ơi, khi xưa con chỉ biết nghĩ đến đời sống vật chất. Con nghĩ đến tương lai huy hoàng sau khi tốt nghiệp đại học. Con nghĩ đến những tiện nghi của đời sống như có một chiếc xe hơi, một căn nhà riêng, và có một t́nh yêu thật đẹp. Chính v́ thế mà con không muốn rời bỏ trần gian nên sống trong trạng thái bị ngộp nước suốt mấy tháng.
Đó là do lỗi của con quá thiết tha với cái vỏ vật chất mà con không muốn từ bỏ. Bây giờ bước qua cơi sáng, con nh́n lại và thấy ḿnh quá ngu dại, lầm lẫn. Từ chỗ của con ở mà nh́n lại cơi trần, con thấy nó âm u, ảm đạm làm sao, khác hẳn với sự tươi sáng của cơi này. Đời sống của con bây giờ đẹp lắm, đẹp không thể tả được. Phải chi con vừa chết con biết được như vậy.
Bất chợt quay qua một bác sĩ ngồi gần đó:
- Cháu kính chào bác Morris. Cháu biết bác không tin tưởng ǵ ở những điều cháu nói. Cháu biết bác nghĩ cha cháu đă quá dễ dăi với những dữ kiện mơ hồ, không thể kiểm chứng này, nhưng bác ơi, cha cháu không lầm lẩn đâu.
Làm sao cháu có thể nói cho bác biết được những điều cháu đă thấy hay đă kinh nghiệm được nơi cơi này cũng như những điều mà cháu thấy nơi cơi trần. Cháu không biết có nên nói tiếp nữa không.. Thôi cháu cứ tŕnh bày và để bác tự quyết định.
Cháu biết bác là người rất quư trọng thời giờ. Bác tin rằng thời giờ là tiền bạc nhưng này bác Morris, ở cơi bên này tiền bạc không c̣n quư báu nữa và cũng không có một giá trị ǵ. Thay v́ lo kiếm tiền, bác dành thời giờ để lo cho Yvonne, con gái của bác th́ hơn. Yvonne rất thương bác nhưng hiện nay cô ta đang đau khổ v́ nghĩ rằng không ai hiểu được sự cô đơn của cô ấy.
Này bác Morris, Yvonne đâu cần những số tiền khổng lồ mà bác cất giữ trong ngân hàng, cô cũng đâu cần những trương mục đầu tư của bác dành riêng cho cô ấy. Điều cô ấy cần là sự cảm thông và hiểu biết của bác ḱa. Cách đây mấy hôm, Yvonne đến gặp bác trong pḥng làm việc để khoe bức tranh cô ấy vừa vẽ xong, nhưng bác chẳng những không để ư, c̣n nghiêm trọng bảo cô ấy đi ra chổ khác để bác làm việc.
Bác c̣n nhẫn tâm nói rằng: Đừng làm phí phạm th́ giờ quư như vàng của bác. Bác có biết Yvonne đau khổ như thế nào không? Cô ấy đă xé nát bức tranh và c̣n ư nghĩ điên rồ là nhảy từ trên lầu xuống đất. May thay sau một lúc khóc lóc, cô ấy nguôi ngoai nhiều nên đă bỏ cái ư định dại dột ấy đi.
Cháu thiết nghĩ bác nên suy nghĩ lại. Điều Yvonne thèm khát nhất trong lúc này chỉ là một câu nói thương chân thành và dịu dàng của bác, mà điều này đâu có khó phải không bác.
Bác sĩ Morris ngồi chết sững. Mỗi câu nói của Jo là một mũi kim xuyên vào tim ông. Làm sao Jo biết được điều này? Những sự kiện riêng tư này làm sao một người ngoài có thể biết được, trừ khi họ quan sát nó từ cơi giới nào đó? Liệu ông có nên tin những câu nói mơ hồ phát ra từ miệng một đồng tử như vậy không?
Là một khoa học gia, ông không thể chấp nhận những điều "phản khoa học" như thế này được, nhưng ông cũng không thể phủ nhận những dữ kiện có tính cách cá nhân mà ông không ngờ nhất. Mặt ông dúm dó lại như đau đớn lắm. Sau cùng ông run rẩy nói:
- Cám ơn.. cám ơn Jo. Bác đâu ngờ sự t́nh lại xảy ra như vậy..
Cậu Jo quay qua một người khác:
- C̣n bác Franz nữa. Có phải bác đang nghĩ rằng cơi giới bên kia cửa tử là một nơi nào xa lắm, xa như một tinh tú trên bầu rời mà người ta không thể đến được không?
Bác sĩ Franz giật nảy ḿnh, ấp úng:
- Phải...phải đấy..nhưng làm sao cậu lại biết? Jo cười lớn:
- Cháu có thể đọc được tư tưởng của bác. Ở cơi bên này người ta có thể đọc rơ tư tưởng của những người bên cơi trần một cách dể dàng. Này bác Franz, điều bác nghĩ không đúng đâu! Cơi giới bên này rất gần với cơi trần và chỉ trong chớp mắt là người ta có thể qua đến bên này.
Để cháu lấy một thí dụ cho dể hiểu: Khi bác mặc áo choàng là lúc bác ở cơi trần, và khi cởi bỏ áo choàng ra là bác đă qua cơi bên kia rồi. Con người của bác khi khoác chiếc áo choàng và khi cởi bỏ nó nào có khác ǵ đâu, vẩn y nguyên như trước đấy chứ.
Bác không hề thay đổi ǵ, cũng như đi làm Bác mặc áo choàng rồi về nhà cởi bỏ áo ra, bác đâu th́nh ĺnh bay bổng lên một hành tinh nào đâu, bác vẫn đứng nguyên ở chỗ cũ đấy chứ. Nói một cách khác, khi từ trần, người ta vẫn ở nguyên chỗ cũ, chỉ có khác là các giác quan thuộc về xác thân đă hư hại không c̣n xử dụng được nữa nhưng các giác quan mới lại bắt đầu làm việc.
Sau một giây phút thay đổi như người đang đi ở chỗ tối bước ra chổ sáng, bị lóa mắt một lúc rồi mới có thể nh́n được mọi vật một cách rơ ràng th́ cũng như thế, nhờ các giác quan mới hoạt động mà người ta có thể có thể ư thức được cơi giới bên này một cách rơ rệt hơn.
Điều đáng nói ở đây là sự quyến luyến với cơi vật chất, giống như người từ chỗ tối bước ra chỗ sáng lại cứ nhắm mắt, không muốn nh́n ǵ nữa. Tuy họ không c̣n ở chỗ tối nữa nhưng họ cũng chưa thể thấy ǵ ở cơi sáng v́ nhắm mắt, không muốn nh́n ǵ nữa.
Tuy họ không c̣n ở chỗ tối nữa nhưng họ cũng chưa hề thấy ǵ ở cơi sáng v́ họ nhắm mắt chặt. Đó là cái áp lực vật chất, cái cảm giác u mê, đau khổ đè nặng lên tâm thức con người khiến cho họ trở nên tê liệt không sáng suốt, không ư thức và cũng hiểu biết ǵ.
Ôi, cái tâm trạng sống không ra sống mà chết không ra chết, cứ vất vưởng trong trạng thái lúc từ trần, ở giữa hai cơi giới này thật vô cùng ghê gớm, không thể tưởng tượng được.
Cậu Jo im lặng một lúc rồi nói tiếp:
- Con muốn nói để cha mẹ và mọi người hiểu thêm về thế giới bên này. Có rất nhiều vong linh sau khi từ trần vẫn không chịu rời bỏ những ràng buộc vật chất. Số này rất đông, họ sống vất vưởng, lang thang, đói khổ, không nơi nuơng tựa, không biết phải làm ǵ và cũng không chịu nghe ai.
Phần con th́ thoải mái, muốn làm ǵ cũng được. Con có thể chạy lên chạy xuống nhẹ nhàng, nhưng con thích ở bên cơi sáng này hơn v́ mỗi lần đi trở lại cái đường âm u, tăm tối kia con thấy buồn lắm. Buồn v́ thấy c̣n có những người cứ u mê, than khóc, buồn v́ cứ nghe những câu trách móc, than vang, những lời nguyền rủa, những sự oán hận, đau đớn không thể kể xiết.
mấy tháng trước con cũng như thế nhưng nhờ cha mẹ và mọi người cầu nguyện mà con tỉnh thức, thoát khỏi cái t́nh trạng kinh khủng kia. bây giờ con đă hiểu rồi nên cố gắng giúp đỡ những người c̣n đang u mê để họ có rhể tỉnh thức..Con làm việc ngày đêm không biết mệt và cũng không cần phải cung ứng nữa..
Bà Kunz giật ḿnh kêu lớn;
- Sao, con không ăn uống ǵ ư?
Cậu Jo cười lớn:
- Ở bên này đâu ai cần phải ăn uống! Người ta sống bằng tâm thức chứ đâu bằng thân xác vật chất nữa. Này mẹ, mẹ hay làm nhiều đồ ăn quá, mẹ nên hạn chế bớt việc nấu nướng đi. Hiện nay sức khỏe của cha mẹ không c̣n như xưa, mẹ không nên quá cực nhọc trong việc nấu nướng, ăn uống.
Phần con th́ không nghĩ ǵ đến việc ăn uống, thế mà sức khỏe của con lại hơn xưa nhiều, v́ ở bên này thức ăn cần thiết là t́nh thương chứ không phải thứ ǵ khác. Cha mẹ ơi, lạ lùng lắm! Con nghiệm được rằng t́nh thương là sự cho ra chứ không phải nhận vào.
Càng cho ra bao nhiêu con càng cảm thấy thoải mái, sung sướng, mạnh khỏe bấy nhiêu. Đó cũng là đặc điểm của cơi sáng bên này: Càng yêu thương bao nhiêu, người ta càng nhẹ nhỏm, sung sướng, thoải mái, b́nh an bấy nhiêu.
Hiện nay con đang cố gắng giúp đỡ những vong linh vừa từ trần đang đau khổ. Con tự nhủ : Thế nào họ cũng trải qua tâm trạng đau khổ, oằn oại, thao thức như con đă trải qua, và họ sẽ sống trong đau khổ như thế cho đến lúc tỉnh thức.
So sánh với hoàn cảnh của con th́ nhiều người c̣n khổ hơn nhiều, có người đă đau khổ như vậy đă mấy trăm năm rồi, không thể nào cảnh tỉnh họ được. Con có cảm giác rằng tâm thức họ bị đè nặng bởi những áp lực rất lớn, những áp lực kinh khủng mà sức con không thể giúp họ được.
Chắc hẳn họ đă phạm những lỗi lầm ghê gớm lắm. Theo con biết, họ là những nguười khi sống không hề biết yêu thương, không hề biết xúc động, trái tim của họ đă khô kiệt, ch́ c̣n những sự thù hận, oán hờn, ích kỷ nên họ phải trong những nổi đau khổ cùng cực cho đến khi nào những động năng thù oán đó tiêu tan bớt đi.
Phần con rất may mắn là chỉ đau khổ trong ṿng mấy tháng thôi, v́ mê muội không chịu chấp nhận sự thật rằng ḿnh đă chết, cứ u mê thiết tha với những vọng tưởng về vật chất mà không biết đời sống ở đâu cũng có cái hay, cái đẹp của nó.
Nếu biết như vậy con đâu để ḿnh bị ngộp nước lâu đến thế. Những điều con nói đây là sự thật mà con đă nghiệm được, cha mẹ nên tŕnh bày cho mọi người biết để họ tránh cái hoàn cảnh đau khổ mà con đă trải qua.
Bác sĩ Kunz lên tiếng:
- Này Jo, con có thể cho cha mẹ biết tai nạn đó xảy ra như thế nào không?
- Cha muốn con trở lại t́nh trạng khổ sở đó sao?
- Không phải vậy, nhưng bây giờ con đă siêu thoát rồi. Cha tưởng con có thể cho cha mẹ biết sự việc một cách rơ ràng và khách quan hơn.
- Cha mẹ biết rằng con rất thích bơi lội. Hôm đó sau khi thi xong, thấy làm bài trôi chảy, con bèn tự thưởng cho ḿnh bằng cách ra hồ vùng vẫy cho thoải mái. Con nhào lộn một hồi mà quên rằng ḿnh đă mệt v́ thức khuya học thi suốt mấy ngày liền.
Con vừa bơi được một lúc th́ đuối sức nên bị ch́m xuống đáy hồ, mắc vào những cọng rong rêu. B́nh thường con có thể đạp chân để trồi lên được, nhưng hôm đó mệt quá nên con hoảng hốt và bị sặc nước. Thật ra dù có trồi lên được th́ con cũng chết thôi v́ phần số của con đă đến lúc rồi.
Việc ra đi cũng nhẹ nhàng chỉ như người ta lật một trang giấy thôi, nhưng con nlại không muốn chết v́ con muốn bám víu vào cai thể xác vật chất. Con thấy ḿnh c̣n quá trẻ mà cuộc đời lại quá tươi đẹp nên không muốn chết, chỉ muốn trở lại với thể xác nên cứ mơ màng trong cái trạng bị sặc nước, cho đến khi được ơn trên phù hộ giup con tỉnh thức và hiểu biết.
Trong lúc u mê, con không biết ǵ và cũng không hiểu ǵ cả nhưng con cảm nhận được tư tưởng yêu thèơng chân thành và nghe được lời cầu nguyện của mọi nguười. Chính sự cầu nguyện đă giúp con tỉnh táo nhiều.
Bác sĩ Franz lên tiếng:
- Này Jo, cháu có thể cho bác biết thêm về cơi giới bên đó không?
- Được chứ. Cơi bên này không phải là nơi mà người ta đi qua sẽ không bao giờ trở lại, hoặc là nơi tối tăm, ghê rợn hễ ai rơi vào đó là mất hút, mà trái lại, đó là một cơi sáng rất linh hoạt.
Có lẽ nó c̣n linh hoạt hơn cả những đô thị sống động nhất của cơi trần, nhưng sự linh hoạt ở đây, không phải là sự ồn ào, náo nhiệt mà là một sự linh hoạt rất nhẹ nhàng, b́nh an thoải mái để người ta có thể cảm nhận được một t́nh yêu thương tuyệt đối, một ân phước dồi dào không bút mực nào có thể tả xiết.
Trong sự b́nh an này, người ta bắt đầu hồi tưởng nhiều việc đă xảy ra để rút tỉa kinh nghiệm và học hỏi để chuẩn bị cho một đời sống mai sau.
- Cháu nói sao? C̣n có một đời sống nữa hay sao?
- Đúng thế. C̣n có nhiều cơi giới nữa chứ không phải chỉ có một cơi bên này mà thôi. Hiện nay việc học hỏi của cháu c̣n giới hạng nên cháu không biết rơ những cảnh giới khác ra sao, nhưng cháu được biết sẽ có lúc cháu sẽ trở về trấn, dĩ nhiên dưới một h́nh thức nào đó.
Theo sự biết của cháu th́ việc học hỏi ở bên này có tính cách lư thuyết c̣n phải mang ra thực hành, và nhờ kinh nghiệm thực hành mà người ta mới thực sự học hỏi. V́ người ta có thểkinh nghiệm được qua đời sống ở cơi trần mà thôi nên trước sau ǵ các vong linh cũng đều tái sinh trở lại.
Cậu Jo quay qua cha mẹ:
- Thưa cha mẹ, con đă nói tất că những ǵ con biết về cơi bên này. Con xin cha mạ cứ yên chí, đừng quá lo lắng ǵ nhhiều cho con và cũng đừng gọi con trở lại nữa....sự liên lạc này không cần thiết, gây quyến luyến và làm trở ngại việc học hỏi của con. Công việc của con hiện nay rất bận rộn.
Con xin cảm ơb cha mẹ và mọi người đă cầu nguyện cho con, chính nhờ việc này mà thần trí con sáng suốt và được thức tỉnh. Việc cầu nguyện chân thành cho người chết có thể giúp đở cho họ rất nhiều, đây là một điều hết sức quan trọng mà mọi người cần nên biết.
Khi từ giă cơi trần, người ta không thể mang theo tiền tài, sự nghiệp, danh vọng mà chỉ có thể mang được ḷng yêu thương và sự hiểu biết mà thôi. Chính ḷng yêu thương là mănh lực duy nhất có thể vượt qua không gian, thời gian và tồn tại với người đó măi măi, nó cũng là yếu tố quan trọng nhất giúp người ta tiến hóa phát triển ở cơi giới bên này.
Người ta có thể chuẩn bị cho cuộc hành tŕnh với hành trang quư báu và độc nhất là sự yêu thương mà thôi. Những điều con nói ra hôm nay cần được tŕnh bày cho mọi người biết rơ, đó cũng là lư do ông Piquet viết thư riêng cho cha để báo trước.
Dĩ nhiên tin hay không là vấn đề riêng của mỗi người, điều này không quan trọng, nhưng sự hiểu biết về cơi sáng và các áp kực vật chất sẽ là một hạt giống tốt gieo vào tâm thức người đó, và rồi trong giờ phút khổ sở lúc ĺa đời, người ta sẽ nhớ lại. Con xin kính chào tất cả, chúc cha mẹ và mọi người luôn luôn được b́nh an, hạnh phúc.
Trường hợp của Jo Kunz là một trong hàng trăm tài liệu đă ghi nhận và soạn thảo thành hồ sơ một cách chi tiết. Một số khoa học gia cho rằng đây là tài liệu rất quư giá về cơi giới bên kia cửa tử cần phải được nghiên cứu rộng răi hơn.
Một số khác chứ chịu chấp nhận các hiện tượng này v́ tính cách "mơ hồ khó có thể phối kiếm qua các định luật khoa học thực nghiệm". Do đó các nhà khoa học vẫn c̣n bàn căi sôi nổi, chứ ai chịu nhường ai nhưng đó là việc của họ. C̣n về phần chúng ta?
Phải chăng chúng ta vẫn chờ đợi cho đến khi những khoa học gia hay giới chức có thẩm quyền chấp nhận th́ mới chịu tin?
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 197 of 1146: Đă gửi: 17 June 2010 lúc 11:47pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÊN KIA CỬA TỬ
CHƯƠNG TÁM
Theo những tài liệu viết về cơi giới bên kia cửa tử như cuốn Tử Thư Ai Cập và Tử Thư Tây Tạng th́ những người chết trẻ, chết bất đắc kỳ tử, nghĩa là chết trong lúc bất cập, chưa chuẩn bị, thường bị những áp lực rất nặng của vật chấtnên khó siêu thoát.
Người chết trẻ giống như quả non chín héo. Trong một quả non chín héo, người ta có thể tách rời cái hột ra khỏi cái trái. Ở một người chết trẻ, vong linh cũng khó có thể thoát ra khỏi áp lực của vật chất, của các dục vọng, thèm khát của xác thịt. Các vong linh này không muốn ĺa bỏ cơi trần, không muốn rời bỏ thể xác đang tan ră, nên đau khổ rất nhiều.
Hầu hết các tôn giáo đều dạy rằng khi có người saắp tử trần cần phải tụng kinh cầu nguyện. Sau khi họ qua đời cũng cần cầu nguyện tiếp tục trong một thời gian. Mặc dù đây là việc nên làm, cần làm và thường được làm nhưng nếu chờ đợi đến khi chết rồi mới lo cầu nguyện th́ có lẽ đă quá trể chăng?
Cuốn Tử Thư Tây Tạng khuyên người ta cần chuẩn bị càng sớm càng tốt, nếu có những ham muốn vật chất th́ phải biết hạng chế lần hồi các dục vọngnày bằng cách thay thế nó với những thú vui trí thức, nghệ thuật có tính cách hướng thượng. Chương thứ sáu của cuốn Tử Thư đă ghi rơ:
- "Muốn được hữu dụng ở cơi trần và thoải mái ở bên kia cửa tử, ngay bây giờ phải biết làm chủ các dục vọng vật chất, nghĩa là tránh các thú vui tửu sắc, tránh sự tha thiết với tài sản, sự nghiệp, không nên chạy theo tiền tài, danh vọng v́ đó là những vật vô thường, nay c̣n mai mất.
Khi nhắm mắt từ bỏ cơi trần, người ta không thể mang nó theo được mà c̣n bị nó tạo những áp lực khiến cho thần trí hoang mang, u mê không sáng suốt, dễ bị đọa lạc vào cảnh giới ma quỷ hay súc sanh".
Hơn lúc nào hết, sự hiểu biết về cơi giới bên kia cửa tử là một đề tài cần được nghiên cứu rộng răi để chuẩn bị cho mọi người v́ trước sau ai cũng qua bên đó. Tại sao trước khi đi du lịch một nơi nào, người ta đă thu xếp hành lư cẩn thận, nhưng lại cố t́nh phủ nhận không chịu chuẩn bị, bỏ qua một nơi chốn mà trước sau ai cũng phải đến?
Theo tài liệu của viện nghiên cứu Gallup th́ với sự tiến bộ của nền y khoa hiện đại, một số người đă chết nhưng được hồi sinh (Near death experience) mỗi ngày một nhiều. Chỉ riêng tại Hoa Kỳ, cơ quan Gallup đă ghi nhận hơn 8 triệu trường hợp xảy ra.
Cũng theo cơ quan này, đa số dân chúng Hoa Kỳ (68%) đều tin rằng có một đời sống bên kia cửa tử. Kết quả cuộc nghiên cứu Gallup cho thấy, mặc dù kinh nghiệm cá nhân có phần khác nhau ít nhiều nhưng nói chung đa số đều cho biết họ thấy "nhẹ nhơm, thỏai mái, không đau đớn ǵ khi ĺa bỏ thân xác".
Phần lớn kể rằng họ đă thấy cái thể xác nằm bất động của ḿnh( out of body experience) và sau đó bị lôi cuốn đi trong một đường hầm đen tối sâu hun hút trước khi đến biển sáng dịu dàng, thoải mái. Có người kể rằng họ gặp lại các thân nhân đă từ trần trước đó, có người tin rằng họ đă gặp Thượng Đế hay gặp Chúa Jesus và được Ngài chỉ dạy.
Một số khoa học gia đă phủ nhận sự kiện này và cho rằng đó chỉ là sự tưởng tượng trong lúc mê sảng. Họ cho rằng khi sắp chết, cơ thể của con người đă tiếtra những hóa chất đặc biệt, có công dụng gây ảo giác như một thứ ma túy, mặc dù họ chưa chứng minh được những hóa chất này như thế nào.
Một số người khàc tin rằng lúc chết, cơ thể con người bị xáo trộn mạnh mẽ, bộ óc không c̣n kiểm soát được mọi sự nữa nên hệ thần kinh đă hoạt động rất b́nh thường. Giống như một b́nh điện bị chạm, xẹt lửa lung tung, bộ óc con người lúc tan ră cũng có những rối loạn khiến người ta có cảm tưởng như đang ở trong một thế giới với muôn ngàn tia sáng lắp lánh.
Tuy nhiên họ không thể giải thích nếu bộ óc đă tan ră (xẹt lữa) như vậy th́ tại sao khi hồi sinh nó lại hoạt động b́nh thường như không hề có chuyện ǵ xảy ra. Các nhà tâm lư học cho rằng h́nh ảnh về thế giới bên kia chỉ là những sự tin tưởng tôn giáo, nằm sâu trong tiềm thức con người.
Khi đầu óc bị chấn động lúc chết nó đă phát động như một "phương tiện tự vể để giúp con người tránh sự xúc động. Tuy nhiên theo dữ kiện của viện nghiên cứu Gallup, th́ phần lớn số người hồi sinh nói về "đời sống ở cơi bên kia" không phải những người có nhiều đức tính về tôn giáo hay những người không đáng tin cậy.
Một số lớn là những người có địa vị hay tŕnh độ học thức rất cao trong xă hội, một số khác là các trẻ em c̣n ngây thơ, chưa biết thêu dệt hay thêm thắt những điều bịa đặt.
Trong cuốn Learning from Children s Near Death Experience, bác sĩ Melvin Morse viết:
- "Tôi tin rằng chúng ta đang bước vào một lĩnh vực mới, có thể nối liền khoa học với tôn giáo. Hiểu biết được sự việc này, chúng ta có thể thay đổi quan niệm sống một cách toàn diện và nền y khoa cũng sẽ bước vào một giai đoạn khác hẳn khi xưa".
Bác sĩ Morse đă ghi nhận hơn 1000 trường hợp trẻ em bị tai nạn, tưởng đă chết nhưng lại được hồi sinh. Các em này kể lại hoạt vẽ lên giấy những h́nh ảnh mà các em đă thấy, cũng như những người mà các em đă tiếp xúc ở cơi giới bên kia.
Đa số các em đều nói về một nơi chốn rất sáng, có các thiên thần toàn thân sáng chói d́u dắt, an ủi và ôm các em vào ḷng. Nhiều em kể lại đă gặp thân nhân; họ hàng đă qua đời, hoặc bạn bè giúp đỡ trong lúc các em bị xúc động.
Bác sĩ Elizabeth Kubler Ross, người tiền phong trong lănh vực nghiên cứu về hiện tượng hồi sinh cho biết:
- "Con người sợ chết như con nít sợ ma, họ đă nh́n cái chết một cách sợ hăi, ghê tởm và cố gắng phủ nhận nó v́ làm gián đoạn sự liên tục của cuộc sống. Nhưng nếu họ biết chấp nhận sự chết một cách b́nh thản, giản dị th́ họ sẽ thấy chết là một sự kiện tự nhiên cũng như lúc sinh ra vậy.
Bất kỳ lúc nào chung quanh chúng ta, sống và chết cũng luôn luôn tiếp diễn, lá cây rụng để nhường chỗ những mầm non xuất hiện, hết mùa Đông lại có mùa Xuân. Một hiện tượng tự nhiên và cần thiết như thế không lẽ lại chẳng bao hàm một ư nghĩa thâm sâu nào đó?
Phải chăng chính v́ có sự chết mà sự sống hiện hữu, có sự xây dựng th́ cũng phải có sự hủy diệt, đâu có ǵ tồn tại vĩnh viễn. Người ta không thể hiểu được ư nghĩa đích thực của sự sống nếu họ không chịu chấp nhận sự chết, và đă đến lúc người ta phải nghiên cứu cặn kẽ các sự kiện này chứ không thể chấp nhận những lư thuyết mơ hồ nào đó được".
Phần lớn các tài liệu nói về người chết hồi sinh chỉ ngưng lại ở một cảnh giới có ánh sáng chói lọi, ít khi đi xa hơn nhưng đă có những tài liệu khác của những người đă chết t́m cách liên lạc với cơi trần, kể rơ về cảnh giới bên kia cửa tử. Chúng tôi trích lại một tài liệu từ cuốn La Revue Spirite.
- Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ư đến những điều mà những nhà khoa học chưa giăi thích được. Ông không tin rằng có một linh hồn tồn tại sau khi chết v́ thể xác chỉ là sự kết hợp của các vật chất hữu cơ và trí thông minh chẵng qua là sản phẩm của các tế bào thần kinh.
Khi thể xác đă hư hoại th́ trí thông minh cũng không thể tồn tại. Một hôm khi bàn chuyện với các con về đề tài đời sống sau khi chết, ông hứa sẽ liên lạc với các con nếu quả thật có một đời sống bên kia cửa tử. Cậu con trai Pierre Desrives, cũng là một y sĩ, đă nói;
- "Nếu đă chết làm sao cha có thể liên lạc với con được".
Vài năm sau, bác sĩ Desrives từ trần, các con ông v́ bận việc nên cũng không để ư ǵ buổi bàn luận đó nữa. Khoảng hai năm sau, một nhóm nhân viên làm việc trong bệnh viện lập bàn cơ chơi, bất ngờ cơ bút đă viết:
- Xin cho gọi bác sĩ Pierre Desrives đến v́ tôi là cha cậu đó và tôi có mấy lời muốn nhắn nhủ với các con tôi ".
Được thông báo, Bác sĩ Pierre Desrives không tin tưởng mấy nhưng nhớ lại lời dặn của cha, ông bèn kêu các em lại dự buổi cơ bút này, một người cầm giữ đầu một sợi dây, đầu kia cột vào một cây bút ch́ và chỉ một lát sau cây bút đă tự động chạy trên các trang giấy thành một bức thư như sau:
- Các con thân mến,
Cha rất hài ḷng đă gặp đủ mặt các con nơi đây. Gần một năm nay, cha có ư trong đợi để kể cho các con nghe về những điều ở cơi bên này mà cha đă chứng kiến nhưng không có cơ hội. Như các con đă biết, hôm đó sau khi ở bệnh viện về, cha thấy trong người mệt mỏi lạ thường, cha bèn lên giường nằm và dần dần lịm đi luôn, không hay biết ǵ nữa.
Một lúc sau cha thấy ḿnh đang lơ lửng trong một bầu ánh sáng trong suốt như thủy tinh. Thật khó có thể tả rơ cảm tưởng của cha khi đó, nhưng không hiểu sao cha lại thấy trong ḿnh dể chịu, linh hoạt, thoải mái chứ không bị g̣ bó, ràng buộc như trước.
Các con biết lúc đó cha đang bị phong thấp nên đi đứng khó khăn, vậy mà lúc đó cha thấy ḿnh có thể đi đứng, bay nhảy như hồi trai tráng. Cha có thể giơ tay giơ chân một cách thỏai mái, không đau đớn ǵ. Đang vẩy vùng trong biển ánh sáng đóth́ bất chợt cha nh́n thấy cái thân thể của cha của cha đang nằm bất động trên giường.
Cha thấy rơ mẹ và các con đang quây quần chung quanh đó và phía trên thân thể của cha có một h́nh thể lờ mờ trông như một lùm cây màu xám đang lơ lửng. Cả gia đ́nh đang xúc động và không thể hiểu sao cha cứ thấy trong ḿnh buồn bực, khó chịu.
Cha lên tiếng gọi nhưng không ai trả lời , cha buớc đến nắm lấy tay mẹ con nhưng mẹ con không hề hay biết và tự nhiên cha có ư thức rằng ḿnh đă chết. Cha bị xúc động mạnh, nhưng may thay lúc đó mẹ con và các con đều lên tiếng cầu nguyện, tự nhiên cha thấy ḿnh b́nh tĩnh hẳn lại như được an ủi.
Cái cảm giác được đắm ch́m trong những lời cầu nguyện này thật vô cùng thoải mái dể chịu không thể tả xiết. Lớp ánh sáng bao quanh cha tự nhiên trở nên sáng chói và cả một cuộc đời của cha từ lúc thơ ấu đến khi trưởng thành bỗng hiện ra rơ rệt như trên màn ảnh. Từ việc gần đến việc xa, ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất cũng đều hiện ra rơ rệt trong tâm trí của cha.
Hơn bao giờ hết, cha ư thức tường tận các hành vi của ḿnh, các điều tốt lành, hữu ích mà cha đă làm cũng như các điều xấu xa, vô ích mà cha không tránh được. Tự nhiên cha thấy sung sướng về những điều thiện đă làm và hối tiếc về những điều mà lẽ ra cha không nên làm.
Cả một cuốn phim đời hiện ra một cách rơ rệt cho đến khi cha thấy mệt mỏi và thiếp đi như người buồn ngủ. Cha ở trong t́nh trạng vật vờ, nữa ngủ nữa thức này một lúc khá lâu cho đến khi tỉnh dậy th́ thấy ḿnh vẫn lơ lửng trong một bầu ánh sáng có màu sắt rất lạ không giống như bầu ánh sáng lần trước.
Cha thấy ḿnh có thể di chuyển một cách nhanh chóng, có lẽ v́ không c̣n xác thân nữa. Cha thấy cũng có những người đang di chuyển gần đó nhưng mỗi lần muốn đến gần họ thé cha lại có cảm giác khó chịu làm sao. Một lúc sau cha đi đến một nơi có đông người tụ họp.
Những người này có rung động dễ chịu nên cha có thể bước lại hỏi thăm họ một cách dễ dàng. Một người cho biềt tùy theo các rung động thích hợp mà cha có thể tiếp xúc được với những người ở cơi bên này. Sở dĩ cha không tiếp xúc được với một số người v́ họ có sự rung động khác với "tần số rung động" (frequency) của cha.
Sự giải thích có tính cách khoa học này làm cha tạm hài ḷng. Người nọ cho biết thêm rằng ở cơi bên này tầng số rung động rất quan trọng, và tùy theo nó mà người ta sẽ lựa chọn nơi chốn mà họ sống.
Cũng như loài cá ở ngoài biển, có loài sống gần mặt nước, có loài sống ở lưng chừng và có loài sống dưới đáy sâu tùy theo sức ép của nước th́ ở cơi bên này, tùy theo tần số rung động mà người ta có thể t́m đến các cảnh giới khác nhau.
Sự kiện này làm cha vô cùng cảm thấy vô cùng thích thú v́ như vậy quả có một cơi giới bên kia cửa tử và cơi này lại có nhiều cảnh giới khác nhau nữa. Zz Khi xưa cha không tin những quan niệm như thiên đ àng địa ngục nhưng hiện nay cha cảm thấy quan niệm này có thể được giải thích một cách khoa học qua việc các tần số rung động.
Những tần số rung động này như thế nào? Tại sao cha lại có tần số rung động hợp với một số người? Người nọ giải thích rằng tùy theo t́nh cảm của con người mà họ có những sự rung động khác nhau, người có t́nh thương cao cả khác với những người tính t́nh nhỏ mọn, ích kỷ hay nhữnng người hung ác, không hề biết thương yêu.
Đây là một điều lạ lùng mà trước nay cha không hề nghĩ đến. Cha bèn đặt cậu hỏi về khả năng trí thức, phải chăng những khoa học gia như cha có những tần số rung động đặc biệt nào đó, th́ người nọ trả lời rằng, khả năng trí thức hoàn toàn không có một giá trị nào ở cơi bên này cả.
Điều này làm cho cha ít nhiều thất vọng. Người nọ cho biết rằng cái kiến thức chuyên môn mà cha tưởng là to tác chẳng qua chỉ là những mảnh vụn của một kho tàng kiến thức rất lớn mà bên này ai cũng có thể học hỏi được. Người nọ nhấn mạnh rằng, điều quan trọng là con người biết làm ǵ với những kiến thức đó.
Sử dụng nó để phục vụ hay tiêu diệt nhân loại? Sử dụng nó vào mục đích vị tha hay ích kỷ? Sử dụng nó để đem lại niềm vui hay để gây đau khổ cho người khác? Thấy cha có vẻ thất vọng, người này bèn đưa cha đến một thư viện lớn, tại đây có lưu trữ hàng triệu cuốn sách mà cha có thể tham cứu, học hỏi.
Chưa bao giờ cha lại xúc động như vậy. Có những cuốn sách rất cổ viết từ những thời đại xa xưa và có những cuốn sách ghi nhận những điều mà từ trước đến nay cha chưa hề nghe nói đến.
Sau một thời gian nghiên cứu, cha thấy cái kiến thức mà ḿnh vẫn hănh diện thật ra chẳng đáng kể ǵ só với kho tàng kiến thức nơi đây. Đến khi đó cha mới thấm thía điều người ta nói về khả năng trí thức của con người và bắt đầu ư thức về tần số rung động của ḿnh.
Nơi cha đang sống có rất đông người, đa số vẫn giữ nguyên tính nết cũ như khi c̣n sống ở thế gian. Có người hiền từ vui vẻ, có người tinh nghịch ưa chọc phá người khác, có người điềm đạm, có kẻ lại nóng nảy. Quang cảnh nơi đay cũng không khác cơi trần bao nhiêu, cũng có những dinh thự đồ sộ, to lớn, có những vườn hoa mỹ lệ với đủ các loại hoa nhiều màu sắc, có những ngọn núi rất cao hay sông hồ rất rộng.
Lúc đầu cha ngạc nhiên khi thấy những cảnh vật này dường như luôn luôn thay đổi nhưng về sau cha mới biết cảnh đó hiện hữu là do sức mạnh tư tưởng của những người sống tại đây. Thay v́ xây cất nhà cửa bằng chất liệu vật chất như gạch đá th́ họ lại tạo ra những thứ này bằng tư tưởng.
Điều này có thể giải thích giống như sự tưởng tượng ở cơi trần. Các con có thể tưởng tượng ra nhà cửa dinh thự trong đầu óc ḿnh, nhưngn ở cơi trần, sức mạnh tư tưởng này rất yếu, chỉ hiện lên trong trí óc một lúc rồi thôi. Ở bên này v́ có những rung động đặc biệt nào đó phù hợp với sự rung động của tư tưởng làm gia tăng thêm sức mạnh khiến cho những h́nh ảnh này có thể được thự hiện một cách rơ ràng, chính xác và lâu bền hơn.
Các con đừng nghĩ rằng những người bên này suốt ngày rong chơi, tạo ra các h́nh ảnh theo ư muốn của họ, mà thật ra tất cả đều bận rộn theo đuổi các công việc riêng để chuẩn bị cho sự tái sinh, v́ mọi tư tưởng bên này đều tạo ra các h́nh ảnh nên đây là môi trướng rất thích hợp để người ta có thể kiểm soát, ư thức rơ rệt hơn về tư tưởng của ḿnh.
V́ đời sống bên này không cần ăn uống, làm lụng nên người ta có nhiều thời gian theo đuổi những công hay sở thích riêng. Có người mở trường dạy học, kẻ theo đuổi các ngành chuyên môn như hội họa, âm nhạc, kiến trúc, văn chương, thơ phú.v.v.. Tóm lại, đây là môi trường để học hỏi, trau dồi các khả năng để chuẩn bị cho một đời sống mai sau.
Phần cha đang học hỏi trong một pḥng th́ nghiệm khoa học để sau này có thể giúp ích cho nhân loại. Càng học hỏi cha càng thấy cái kiến thức khi xưa của cha không có ǵ đáng kể và nền y khoa mà hiện nay các con đang theo đuổi thật ra không lấy ǵ làm tân tiến lắm nếu không nói rằng rất ấu trĩ so với điều cha được biết nơi đây.
Hiển nhiên khoa học phát triển tùy theo khả năng trí thức của con người, mỗi thời đại lại có những sự phát triển hay tiến bộ khác nhau nên những giá trị cũng ǵ thế mà thay đổi. Có những giá trị mà thời trước là "khuôn vàng thước ngọc" th́ đời sau lại bị coi là "cổ hủ lỗi thời" và như cha đă biết th́ những điều mà ngày nay đang được người đời coi trọng, ít lâu nữa cũng sẽ bị đào thải.
Tuy nhiên cái t́nh thương, cái ư tưởng phụng sự mọi người, mọi sinh vật th́ bất kỳ thời đại nào cũng không hề thay đổi, và đó mới là căn bản quan trọng mà con người cần phải biết. Càng học hỏi cha càng thấy chỉ có những ǵ có thể tổn tại được với thời gian mà không thay đổi th́ mới đáng gọi là chân lư.
Cha mong các con hăy suy gẫm về vấn đề này, xem đâu là những giá trị có tính cách trường tồn, bất biến để sống theo đó, thay v́ theo đuổi những giá trị chỉ có tính cách tạm bợ, hời hợt.
C
ha biết rằng mọi ư nghĩ, tư tưởng, hành động đều có những rung động riêng và được lưu trữ lại trong ta nhu một cuốn sổ. Dĩ nhiên khi sống ở cơi trần, con người quá bận rộn với sinh kế, những ưu phiền của kiếp nhân sinh, không ư thức ǵ đến nó nên nó khép kín lại, nhưng khi bước qua cơi bên này th́ nó từ từ mở ra như những trang giấy phô bầy rơ rệt trước mắt.
Nhờ thế mà cha biết rơ rằng hạnh phúc hay khổ đau cũng đều do chính ta tạo ra và lưu trữ trong ḿnh. Cuốn sổ lưu trữ này là bằng chứng cụ thể của những đời sống đă qua và chíng nó kiểm soát tần số rung động của mỗi cá nhân. Tùy theo sự rung động mà mỗi cá nhân thích hợp với nhựng cảnh giới riêng và sẽ sống tại đó khi bước qua cơi giới bên này.
Do đó, muốn được thoải mái ở cơi bên này, các con phải biết chuẩn bị. Cha mong các con hăy bắt tay vào việc này ngay. Các con hăy ráng làm những việc lành, từ bỏ những hành vi bất thiện. Khi làm bất cứ việc ǵ, các con hăy suy gẫm xem hậu quả việc đó như thế nào, liệu có gây đau khổ hay tổn thương cho ai không?
Đừng quá bận rộn suy tính những điều hơn lẽ thiệt mà hăy tập quên ḿnh. Đời người rất ngắn, các con không có nhiều thời giờ đâu. Khi c̣n sống, đă có lúc cha dạy các con phải biết đầu tư thương mại để dành tiền bạc vào những trương mục tiết kiệm, những bất động sản, những chứng khoán...nhưng bây giờ cha biết rằng ḿnh đă lầm.
Một khi qua đến bên đây, các con không thể mang những thứ đó theo được. Danh vọng, địa vị, tài sản vật chất chỉ là những thứ có tính cách tạm bợ, bèo bọt, đến hay đi như mây trôi, gió thổi, trước có sau không. Chỉ có t́nh thương mới là hành trang duy nhất mà các con có thể mang theo ḿnh qua cơi giới bên này một cách thoải mái, không sợ hư hao mất mát.
T́nh thương giống như miếng đá nam châm, nó thu hút những người thương nhau thật sự, để họ tiến lại gần nhau, kết hợp với nhau. Nó là một mănh lựv bất diệt, mạnh mẽ, trường tồn và chính nhờ ḷng thương này mà người ta có thể t́m gặp lại nhau trải qua không gian hay thời gian.
Chắc hẳn các con nghĩ rằng người cha nghiêm nghị đầy uy quyền khi trước đă trở nên mềm yếu chăng? Này các con, chỉ khi nào buông xuôi tay bước qua thế giới bên này, các con mới thực sự kinh nghiệm được trạng huống của ḿnh, tốt hay xấu, hạnh phúc hay đau khổ, thích hợp với cảnh giới thang cao tốt lành hay những nơi chốn thấp thỏi xấu xa.
Hơn bao giờ hết, cha xác định rằng điều cha học hỏi nơi đây là một định luật khoa học thật đơn giản mà cũng thật huyền diệu. Nó chính là cái nguyên lư trật tự và điều ḥa hằng hiện hữu trong vũ trụ. Sự lựa chọn để sống trong cảnh giới mỹ lệ đẹp đẽ hay tăm tối u minh đều do những tần số rung động của ḿnh mà ra cả và chính ḿnh phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của ḿnh hay lựa chọn những nơi mà ḿnh sẽ đến.
Khi c̣n sống cha tin rằng chết là hết, con người chỉ là sự cấu tạo của các chất hữu cơ hợp lại, nhưng hiện nay cha biết ḿnh đă lầm. Cha không phân biệt phần xác thân và phần tâm linh. Sự chết chỉ đến phần thân xác trong khi phần tâm linh vẫn hoạt động như thế từ thuở nào rồi và sẽ c̣n tiếp tục măi măi.
Hiển nhiên cá nhân của cha không phải là cái thể xác đă bị hủy hoại kia mà là phần tâm linh vẫn tiếp tục hoạt động này, dó đó cha mới cố gắng liên lạc với các con để hoàn tất điều mà cha đă hứa với các con khi xưa. Cha nghiệm được rằng sự sống giống như một gịng nước tuôn chảy không ngừng từ nơi này qua nơi khác, từ h́nh thức này qua h́nh thức khác.
Khi trôi chảy qua những môi trường khác nhau nó sẽ bị ảnh hưởng những điều kiện khác nhau, và tùy theo sự học hỏi, kinh nghiệm mà nó ư thức được bản chất thiêng liêng thực sự của nó. Cũng như sóng biển có đợt cao, đợt thấp th́ đời người cũng có những lúc thăng trầm, khi vinh quang tột đỉnh, lúc khốn cùng tủi nhục, nhưng nếu biết nh́n lại toàn vẹn tiến tŕnh của sự sống th́ kiếp người có khác chi những làn sóng nhấp nhô, lăng xăng trên mặt biển đâu!
Chỉ khi nào biết nhân thức về bản chất thật sự của ḿnh vốn là nước chứ không phải là sóng th́ các con sẽ ư thức được tính cách trường cửu của sự sống. Từ đó các con sẽ có quan niệm rơ rệt rằng chết chỉ là một diễn tiến tất nhiên, một sự kiện cần thiết có tính cách giai đoạn chứ không phải một cái ǵ ghê gớm như người ta thường sợ hăi.
Điều cần thiết không phải là trốn tránh sự chết hay ghê tởm nó, nhưng là sự chuẩn bị cho một sự kiện tất nhiên phải đến một cách thoải mái, ung dung v́ nếu khi c̣n sống các con đă đem hết khả năng và phương tiện của ḿnh để giúp đời, để yêu thương mọi loài th́ lúc lâm chung, các con chẳng có ǵ phải luyến tiếc hay hổ thẹn với lương tâm cả.
Trước khi từ biệt các con, ba muốn nói thêm rằng hiện nay ba đang sống một cách thoải mái, vui vẻ va an lạc chứ không hề khổ sở.
Charles Leadbeater
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 198 of 1146: Đă gửi: 17 June 2010 lúc 11:52pm | Đă lưu IP
|
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 199 of 1146: Đă gửi: 18 June 2010 lúc 11:02am | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỜI SỐNG BÊN KIA CỬA TỬ
TÁC GIẢ: NGUYỄN THỊ HAI
LỜI TỰA
Cửa Tử là cửa mà mọi người đều phải bước qua ! V́ sự bí mật cùa nó mà lắm người nơm nớp, lo âu và sợ hăi ! Họ sợ không biết ḿnh sẽ đi về đâu, sẽ đến đâu và sẽ làm ǵ ?
Họ sợ ḿnh đă phạm lỗi ít nhiều, nay ḿnh chết rồi, ḿnh phải chịu sự h́nh phạt nào cho xứng đáng ? Ḿnh có bị ngồi bàn chông, Ḿnh có bị cắt tai, cắt lưỡi không ? Ôi ! nghĩ tới bao nhiêu th́ sợ hăi bấy nhiêu !
Nhưng quí bạn chớ quá kinh hoàng và buồn bực ! Biết rằng: Có tội phải trừng: nhưng trước ḷng bác ái và minh triết của Đức Từ Phụ, tội nhơn phải đi vào qui luật tùy theo tội của ḿnh nặng, nhẹ.
Chính cái luật thiêng liêng đó d́u dắt ḿnh bước qua các “ải”, rồi cũng chính cái luật thiêng liêng đó đưa ḿnh từ từ đến cơi Bồng Lai Tiên Cảnh !
Các cửa “ải” nầy cũng như những viên đá nam châm thu hút tội nhơn. Hễ tội nhỏ th́ cái “ải” nhỏ; tội lớn th́ cái “ải” lớn. Mấy cái “ải” nầy tượng trưng bảy cảnh của cơi Trung giới, thanh, trược khác nhau.
Cảnh thứ bảy thấp nhất sánh với cái ải lớn. Nó có một thứ từ điển xấu xa, và những vong linh thô tục; nó thu hút những người ô trược, say sưa, trộm cướp…
C̣n cảnh thứ nhất th́ thanh bai, tốt đẹp, nhẹ nhàng, siêu việt. Nó thu hút những linh hồn trong sạch, hiền ḥa, đạo đức. Chỉ có thể thôi ! Chớ thật ra, Đức Thượng Đế không có phạt ai cả ! Không có cưa ai cả !
V́ lẽ thứ nhất, người chết đâu c̣n có xác mà cưa ? V́ lẽ thứ nh́ : Đức Từ Phụ của chúng ta giàu ḷng bác ái đâu nỡ cưa con, nấu dầu con, mà Ngài để cho con tự sửa ḿnh.
Nếu con không sửa ḿnh cứ làm sái, th́ con sẽ bị rút vào cảnh thấp, chung sống với đồng bọn thấp hèn; đợi bao giờ cho tánh xấu sẽ tiêu ṃn và sẽ trở thành tiêu cực trong mấy ngàn năm dài đăng đẳng: v́ không được bồi bổ, tỷ như thèm ăn, thèm uống rượu, thèm tham ái mà không được thỏa măn, bấy giờ linh hồn mới nhẹ nhàng mà thăng lên cảnh cao hơn.
Sự đền tội xem dường quá nhẹ, nhưng nó kéo dài như vô tận, có khi cả chục ngàn năm trong cảnh bất măn: v́ các tánh xấu không có dịp hoành hành, mà phải trở thành tiêu cực. Thời gian dài ấy rất cần kíp cho tội lỗi tiêu ṃn !
Nhưng trong khi đền tội đó, nếu có được một vị cứu tinh nào đến chỉ dạy cách thức tu hành để tự cải sửa, th́ tội sẽ tiêu ṃn mau lẹ. Nhơn đó, sự cầu nguyện cho người chết có được các vị Thiên Thần giúp đỡ, chỉ dạy, là điều cần kíp !
Hỡi quí bạn đang buồn rầu kia ! Hăy vui lên và tràn trề hy vọng được cứu rỗi, nếu quí bạn sẵn sàng quên ḿnh, độ chúng, đem t́nh thương xóa bỏ mọi lỗi lầm của kẻ khác và dang tay ôm vào ḷng ḿnh tất cả mọi người dưới thế gian.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 200 of 1146: Đă gửi: 18 June 2010 lúc 11:02am | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỜI SỐNG BÊN KIA CỬA TỬ
(PHẦN MỘT)
1. DẪN KHỞI
Đề tài “Đời sống bên kia cửa tử” liên hệ đến mỗi người chúng ta: v́ lẽ một ngày kia tất cả chúng ta đều phải từ bỏ cơi trần để qua thế giới khác. Vả lại hiện nay, trong chúng ta không ai mà không mất một người thân yêu, và không khỏi đôi lần bị khóc.
Chúng ta đau khổ trước cảnh lâm chung của người quí mến. Chúng ta chẳng c̣n biết chi là sự vui vẻ ở đời nữa ! Chúng ta không c̣n ước vọng ǵ gặp lại người quá văng nữa ! Chúng ta tưởng chừng như người ấy hóa ra mây khói, rồi tiêu tan đi mất ! Tưởng tới chừng nào, ḷng dạ chúng ta như nung, như nấu:
V́ chúng ta không hiểu được người mất đó ra thể nào ? Và nếu người ấy không tiêu mất, th́ ở tại đâu ? T́nh trạng của y ra sao ? Đó là những câu hỏi mà chúng tôi rán tŕnh bày cho quí vị hôm nay, dưới ánh sáng Thông Thiên Học.
Chúng tôi mong sao những chân lư về “Đời sống bên kia cửa tử” sẽ mang đến cho quí vị một niềm an ủi sâu xa và giải đặng nỗi ḷng sầu muộn của quí vị.
Vậy xin quí vị hăy b́nh tâm một lát để suy gẫm những lời của các huynh trưởng trong Hội Thông Thiên Học như bà Blavatsky, ông Olcott, bà Annie Besant và ông C.W.Leadbeater ... mà chúng tôi đă ra công góp nhặt. Trước khi đi sâu vào vấn đề, chúng tôi xin lược giải về sự chết.
2. SỰ CHẾT
Con người là một sinh linh gồm có hai phần :
a. Phần thể xác hữu hoại.
b. Phần linh hồn trường tồn.
Con người không phải là xác thịt; nó vốn là y phục của con người mặc. Khi y phục cũ, rách, dùng không được nữa, th́ con người vứt nó đi để may cái mới. Sự chết là sự cởi cái áo rách đó.
Con người quả thật là linh hồn, là một điểm linh quang của Đức Thượng Đế. Linh hồn đă sống biết mấy vạn kiếp rồi, trước khi nó mặc bộ áo quần nầy, mà ta gọi là xác thịt.
Và khi xác thịt đó tan ra tro bụi, th́ linh hồn vẫn sống đời đời kiếp kiếp. Cái kiếp sống dưới thế gian nầy chẳng qua là một ngày của đời sống linh hồn. Bởi vậy người từ trần đâu có mất. Y chỉ bỏ xác thịt mà thôi. Nhưng nơi đây, chúng tôi xin nói thêm một chút nữa.
Chẳng phải đợi đến lúc lâm chung, con người mới bỏ bộ y phục bằng nhục thể đó đâu. Mỗi đêm trong lúc ngủ, con người phải ĺa nó một ít lâu, rồi dùng cái Vía (là một cái thể thanh hơn xác thịt) để ngao du.
Mắt phàm thấy không đặng cái Vía, trừ những người sống trong cái Vía (như những vong linh hay người ngủ) mới thấy đặng nó mà thôi, bởi v́ những vật nào đồng tánh chất mới thấy nhau đặng.
Vậy ngủ cũng giống như chết. Nhưng có khác nhau một chút là: sau giấc ngủ, hồn c̣n trở vô nhập xác, chớ khi thác rồi, th́ hồn bỏ xác luôn, không trở lại nữa.
Chết tỷ như cởi áo choàng ngoài. Mà hễ cởi cái áo choàng ngoài ra, th́ con người c̣n cái áo trong. Cái áo trong đó ví như cái Vía. Cái Vía làm bằng chất khí thanh hơn xác thịt. Nhờ xác thịt linh hồn mới thông đồng với cơi trần đặng.
Cái Vía cũng hữu ích như xác thịt vậy. Nhờ nó, linh hồn thông đồng với cơi Trung giới đặng. Nếu không có cái Vía, linh hồn làm sao tiến hóa trong cơi ấy ? Nhưng chớ tưởng rằng: cơi Trung giới là mơ hồ và ở xa xăm lắm mà người ta không thể lên tới được.
Không, cơi Trung giới cũng ở xung quanh ta đây, nó thấu nhập cơi trần và ló ra khỏi cơi ấy; để tạo thành cơi Trung giới với 7 lớp khí khác nhau. Ngoài cơi Trung giới, c̣n nhiều cơi khác cao xa hơn; song linh hồn người mới chết lên đó chưa được.
Ta đă nói ở trước rằng: khi ta mặc áo choàng là ta ở cơi trần; và khi ta cởi áo choàng ra là ta ở cơi Trung giới. Con người của ta vẫn cứ y nguyên như trước. Ta không thay đổi ǵ cả.
Cũng như ta đi đâu về, khi tới nhà, ta cởi áo choàng ra, hỏi ta có thấy ḿnh th́nh ĺnh bay bổng lên chót núi cao chăng ? Ta cũng vẫn đứng ở chỗ cũ mà thôi.
Bởi vậy, lúc người bỏ xác thịt rồi, cũng vẫn c̣n ở trong nhà; chỉ có khác một chút là y thấy được cơi Trung giới, chớ không thấy được cơi trần. Y thấy cái Vía đồ vật trần gian, chớ không phải đồ vật thực sự.
Vậy, người khuất mặt không có xa ta đâu. Họ vẫn ở bên cạnh ta, mà ta không thấy đặng: là v́ họ ở trong cái Vía, làm bằng chất Thanh khí, khác biệt với chất hồng trần của xác thịt; nó chẳng kích thích được nhăn quang của ta nên ta thấy không đặng.
Nếu ta tin ở ḷng bác ái của Đức Từ Phụ, th́ sẽ yên ḷng mà giao phó đời ta trong tay Ngài. Trong lúc ta sống, Ngài ưu đăi ta (nếu đời ta cao thượng) th́ không có lư do ǵ, khi ta chết, Ngài lại cất lộc ta, và làm cho ta phải bị đau khổ sao ?
Nếu ta có được đức tin nầy, th́ ta không c̣n sợ chết nữa. Sự chết chỉ là một giai đoạn cần yếu cho sự tiến hóa của ta. Nó không phải là kẻ nghịch của ta, mà là một người bạn tốt; và cơi chết không phải một nơi kẻ du hành đi không bao giờ trở lại…
Nó cũng không phải là nơi tăm tối, u minh, đưa người đến khoảng trống không, ghê rợn; và hễ ai bị rơi vào đó, th́ phải mất tiêu !
Thông Thiên Học có sứ mạng giải đáp những điều trên đây. Nó tuyên bố rằng: cơi tử chẳng phải là một vực thẳm, mà là một thế giới ánh sáng và linh hoạt hơn cái đô thị mà ta sinh sống đây.
Nếu ta chịu sưu tầm học hỏi về cơi Trung giới, th́ những đám mây mù bao phủ ta sẽ tan mất, và ta sẽ thấy Tử Thần không có vẻ hung ác, với lưỡi hái sáng ngời như đang sắp chặt đầu ai.
Mà là một vị Thiên Thần xinh tươi, đẹp đẽ, cầm chiếc ch́a khóa vàng để mở cửa cho ta thấy một thế giới vĩ đại hơn và linh hoạt hơn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|