Tác giả |
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 221 of 1146: Đă gửi: 18 June 2010 lúc 8:11pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG BÍ ẨN CỦA CUỘC ĐỜI
QUẢ BÁO TÂM LƯ
Chương Mười Một
Chúng ta đă thấy bằng cách nào tánh kiêu căng một thói xấu trên địa hạt tinh thần có thể gây nên quả báo cụ thể trên địa hạt vật chất dưới dạng những bịnh tật khốn khó. Những tập hồ sơ Cayce cũng chứa đựng nhiều trường hợp mà những tội lỗi trên địa hạt tinh thần gây nên quả báo thuộc về tâm lư.
Trong số đó có hai trường hợp đáng kể về quả báo lạc loài cô đơn, mà nguyên nhân là tội bất khoan dung.
Trường hợp thứ nhất là của một vị nữ tu trong một tu viện Pháp hồi thời vua Louis mười bốn. Vị nữ tu này rất nghiêm khắc, lạnh lùng và thiếu đức bao dung đối với những sự lầm lạc yếu đuối của người đời, hiểu Thánh Kinh một cách quá chặt chịa, g̣ bó từng chữ từng câu, và khinh bỉ những người nào vi phạm những lời răn dạy trong Thánh Kinh.
Hậu quả của thái độ khắc nghiệt đó biểu lộ trước hết trong kiếp này bằng một chứng bịnh đau hạch, dây dưa không dứt, làm cho bịnh nhân bị hoại huyết quá nhiều trong lúc có kinh nguyệt. Chứng bịnh này làm cho cô không thể đi học đều đặn, mỗi tháng nằm liệt giường hết hai tuần lễ, làm cho cô trở nên nhút nhát, thích sống cô đơn, và tránh xa các bạn bè đồng lứa tuổi. Những điều này có ảnh hưởng đến cá tính của cô về mọi mặt.
Về sau những chứng bịnh kể trên đă lần lần giảm bớt. Nhờ có một thân h́nh đẹp đẽ, cân đối, cô làm nghề kiểu mẫu ở New York và lập gia đ́nh. Tuy nhiên, cuộc t́nh duyên của cô không có hạnh phúc. Vợ chồng không hợp ư tâm đầu: Người chồng th́ lạnh lùng và khắc khổ, c̣n cô th́ lại khao khát sự yêu đương.
Trận Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, người chồng phải vượt biển tùng chinh. Từ đó, cô bắt đầu sống một thời kỳ độc thân, làm cho cô buồn không thể chịu nổi cảnh đơn chiếc, nên phải dọn vào ở trong một trại nghỉ mát. Tại đây, cô bắt đầu uống rượu và sống một cuộc đời bê thạ Lúc đầu cô cảm thấy rằng uống một hai ly rượu giúp cô thoát khỏi sự ám ảnh nặng nề của cơn sầu khổ.
Nhưng một khi đă bước vào con đường ấy rồi, cô không thể ngưng lại đượ nữa; càng ngày càng uống rượu nhiều thêm. Có khi cô uống luôn ngày đêm không dứt, trong ba tuần liên tiếp như vậy, và ngủ với bất cứ người nào, lính thủy, lính tập hay phi công, tùy theo lúc cao hứng. Khi cô say rượu th́ mất cả mọi sự dè dặt trong cử chỉ, và bất chấp cả áo quần.
Cô đi tiểu tiện và đại tiện ngay ở giữa sân nhà chỉ khoác một cái áo choàng để hở, và nếu người ta không ngăn cản th́ cô cứ điềm nhiên khỏa thân đi thẳng vào pḥng khách lữ quán đang ở trọ. Sau cùng, sức khỏe của cô bắt đầu suy sụp dưới ảnh hưởng chất men rượu nồng. Hai bàn tay bắt đầu run đến một mực mà cô không thể cầm viết kư tên vào những ngân phiếu để lănh tiền của chồng gởi về.
Trong những lúc tỉnh táo và đầy đủ trí khôn,cô quyết định rời khỏi trại nghỉ mát trung tâm quy tựu hằng nửa chục những căn cứ hải quân và đồn trại ở gần bên. Những bức thư cuối cùng cho biết rằng nay cô làm thơ kư với ít nhiều trách nhiệm; nhưng về sau cô vẫn tiếp tục chè chén bê tha, và sau cùng đă ly dị chồng.
Dường như sự trụy lạc của cô trước hết là do bởi thần kinh quá căng thẳng, mà điều này lại phát sinh từ chứng bịnh đau hạch mà ra. (Ông Cayce hay nhấn mạnh rằng các bộ phận hạch tủy trong thân người thường là những phương tiện biểu lộ của luật quả báo). Chứng bịnh này lại là cái hậu quả trực tiếp của những hành vi kết án khắc nghiệt của cô đối với kẻ khác và sự thiếu ḷng nhân từ của cô ở kiếp trước.
Những sự lầm lạc yếu đuối của kẻ khác, mà trước kia cô lên án một cách khắt khe, nghiệt ngă, ngày nay đă trở nên những sự lầm lạc yếu đuối của chính ḿnh. Bằng cách trả quả báo như thế, cô mới hiểu được rằng sự lầm lạc tội lỗi của người đời là đáng thương, và họ là những người mà ta phải thông cảm và giúp đỡ thay v́ lên án và chê bai. Cũng như những kẻ chế nhạo, những người chỉ trích chê bai kẻ khác phải chịu nhận lănh cái số phận của những kẻ mà họ đă lên án.
Trường hợp thứ nh́ là của một người đàn bà có thói kiêu căng và thành kiến trong hai kiếp trước. Trong một kiếp vào thời kỳ của đấng Christ tại Palestine, cô là vợ của một vị giáo sĩ Do Thái. Với địa vị xă hội này, cô đă tỏ ra khắc nghiệt và khinh bỉ những người thanh niên phóng đăng, tự do, vô tôn giáo.
Thời gian trôi qua cũng không làm phai mờ và giảm bớt ḷng kiêu căng và tự phụ của cộ Trong kiếp thứ nh́, cô tái sinh ở Salem, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ, nhưng vẫn không chừa thói khắc nghiệt và lên án kẻ khác, mà dường như cô càng trở nên khó khăn nghiệt ngă hơn! Cuộc soi kiếp cho biết rằng:
Linh hồn này đă gặp phải những người rất khó tính trong kiếp hiện tại, những người khắc khe, soi mói và saün sàng lên án kẻ khác. Trước kia linh hồn này đă gây nhiều đau khổ cho kẻ khác. Khi người ta nhận ch́m một vài người xuống nước trong vụ xử án những người phù thủy, cô chứng kiến việc ấy và vỗ tay hoan nghinh.
Khi những người khác bị đánh bằng roi vọt, cô cũng biểu đồng t́nh. Bởi vậy, linh hồn này thường nhớ lại những sự hành phạt đau khổ của những thời kỳ đó trong những khi cô bị loạn trí. Hiện thời cô bị chứng nội thương trong mạch máu và tủy xương sống, do bởi thiếu sự điều hành giữa bộ thần kinh giao cảm và bộ Óc, chứng bịnh này là cho cô có những thời kỳ "Phản ứng thể xác."
Sự phản ứng thể xác này là một chứng bịnh thần kinh mà đương sự bị đau từ năm 39 tuổi, và những cơn khủng hoảng thường tái phát trải qua 14 năm kế đó. Cô không có gia đ́nh; nhà ở khu sang trọng tại New York, và sự kiện rằng cô không có làm nghề nghiệp ǵ dường như chứng tỏ rằng cô có phương tiện và tài sản.
Người ta có thể cho rằng sự Ở không, vô sự có thể là một yếu tố quan trọng gây nên những cơn khủng hoảng tinh thần. Nhưng đó chỉ là một nguyên nhân tạm bợ bên ngoài, có tính cách nhất thời mà thôi, chứ không phải nguyên nhân sâu xạ Trong tận thâm tâm của người đàn bà này, có một ḷng khắt khe nghiệt ngă đối với nhân loại, một sự thản nhiên lạnh lùng trước những điều nguyện vọng và đau khổ của người đời.
Sự khắc nghiệt, bất khoan dung của cô đă làm cho nhiều người thất vọng đau khổ trong những kiếp trước: Bởi vậy, thật là công b́nh mà thấy cô trải qua kinh nghiệm thất vọng đau đớn trong kiếp này.
Người ta có thể tự hỏi rằng tại sao người đàn bà này không bị trả quả báo về sự khắc nghiệt của cô hồi thời ở xứ Palestine, trong kiếp đầu thai ở Salem. Câu hỏi này có thể giải đáp bằng hai cách khác nhau. Trước hết, kiếp đầu thai ở Salem có lẽ có một mục đích khác hơn là sửa chữa tánh khắc nghiệt của cô.
Bởi đó, tánh khó khăn này đă bành trướng thêm trong khi cô theo đuổi một công việc quan trọng khác ở kiếp nói trên. Lẽ thứ hai là thái độ khắc nghiệt của cô ở Palestine có thể chưa rơ rệt lắm, và chưa biểu lộ bằng những hành động gây tổn thương cho kẻ khác. Đó chỉ là tánh bất khoan dung lúc mới đầu, chưa đủ mạnh để có thể gây nên một nghiệp quả lớn lao.
Ngoài ra, mọi việc xảy ra trong đời cô là một sự thử thách. Trong kiếp sống ở Salem, cô có thể là một người khoan dung hay khắc nghiệt, tùy ư cô chọn lựa con đường tâm tính của ḿnh. Nhưng cô đă thất bại trước sự thử thách đó; cô càng tăng cường thêm tánh khắc nghiệt đă có ở Palestine thay v́ sửa chữa lại, và bởi đó cô tạo nên quả báo mà cô phải trả trong kiếp này.
Trong những thói xấu đồng một loại với tánh bất khoan dung và nghiệt ngă, có tánh hay chỉ trích. Trường hợp sau đây là một thí dụ lư thú về quả báo gây nên bởi tánh hay chỉ trích. Đó là một người thanh niên 27 tuổi, làm thiếu úy trong quân đội, có tánh tự ti mặc cảm, và luôn luôn nghĩ rằng ḿnh bất lực, không làm nên tṛ trống ǵ.
Chúng tôi không được biết những lư do nào làm trở ngại sự phát triển cá tính của y thuở thiếu thời. Có thể rằng y đă có một người cha hay người mẹ có thói hay công kích một cách vô lư; hoặc y có một thân h́nh dị dạng, làm cho bè bạn trong lớp chế diễu nhạo báng.
Chúng tôi đưa ra những sự phỏng đoán trên đây là v́ căn cứ vào cái quả báo hiện thời của đương sự, v́ trong cuộc soi kiếp, ông Cayce nói: "Ai giống nào sẽ gặt giống nấy. V́ anh đă chỉ trích kẻ khác, nên ngày nay anh phải bị chỉ trích lại."
Cuộc soi kiếp cho biết rằng người thanh niên ấy trong kiếp trước là một nhà phê b́nh nghệ thuật, thường có thói quen chỉ trích một cách gắt gao, cay đắng, nghiệt ngă, mọi nghệ phẩm mà y không vừa ḷng. V́ trong quá khứ y đă gieo sự ngờ vực trong ḷng kẻ khác, làm cho họ mất tin tưởng về khả năng của chính ḿnh, th́ ngày nay đến lượt y phải bị cái quả báo tương đương là thói tự ti mặc cảm.
Chúng ta thấy ở đây một khía cạnh mới của Luật Nhân Quả vô cùng phức tạp, một khía cạnh rất quan trọng về mặt tinh thần, đáng để cho ta suy gẫm. Tự nhiên những nhà phê b́nh chuyên môn chỉ gồm một số rất ít, nhưng trên Trái Đất hiện nay người ta đếm có gần hai tỷ rưỡi những nhà phê b́nh tài tử, tay ngang, nghĩa là không chuyên nghiệp.
Có lẽ không một nghề nghiệp nào trên thế gian có nhiều tay hành nghề tài tử như nghề này, họ phê b́nh và chỉ trích thiên hạ một cách say mê thỏa thích, kể từ ngày họ mới tập nói cho đến ngày mà Thần Chết khóa miệng họ lại dưới nấm mồ! Nghề này không cần bỏ vốn, và dễ làm hơn ăn cơm!
Ngoài ra, nó c̣n khác hẳn với mọi thứ tiêu khiển của người đời, đó là một tṛ chơi mà người ta có thể thực hành ở ngoài đường hoặc trong nhà, suốt cả năm này qua tháng nọ, mà chỉ cần dùng một khí cụ duy nhất, là một cặp lưỡi sắc bén! Chỉ cần có hai hay ba người tụ họp lại, là cái tṛ chơi phê b́nh, chỉ trích này bắt đầu!
Tuy nhiên, mặc dầu sự chỉ trích là môt tṛ tiêu khiển không tốn kém, nhưng nó có thể bắt buộc ta trả một cái giá rất đắt một ngày về sau. Nguồn tài liệu (đó là danh từ mà ông Cayce dùng để ám chỉ cái quyền năng của ông) thấy rơ sự hành động của luật Nhân Quả trải qua gịng thời gian vô tận.
Thường đưa ra những lời cảnh cáo nghiêm khắc và rơ ràng cho những người nào có cái tật này. Thí dụ sau đây, trong hằng trăm những thí dụ khác, là một bằng chứng hiển nhiên để cho ta dùng làm tài liệu suy gẫm:
"Chúng tôi thấy linh hồn này thường tỏ ra quá nghiêm khắc trong sự chỉ trích kẻ đồng loại. Phải tốp bớt lại, v́ những ǵ mà ta chỉ trích ở kẻ khác, sẽ đến với ta dưới một h́nh thức nào đó."
Đó là một lời tuyên bố rơ ràng về luật quả báo, theo đó một nguyên nhân gây ra trên địa hạt tâm lư sẽ mang đến một hậu quả tâm lư tương đương. Điều này nhắc nhở cho chúng ta nhớ lại những lời răn dạy trong Kinh Thánh Gia Tộ Đức Jesus có dạy rằng:
"Ta nói cho các ngươi biết, mỗi lời nói vô ích mà mỗi người thốt ra, họ sẽ phải trả lời trong ngày Phán Xét cuối cùng," và kế đó là những lời răn: "Không phải những ǵ chui vào lỗ miệng của một người, nó làm cho y bị Ô nhiễm, nhơ bợn, mà là những ǵ từ trong lỗ miệng của y chui ra!"
"Ngươi chớ lên án nếu ngươi không muốn bị kẻ khác lên án. V́ ngươi lên án kẻ khác như thế nào, th́ đến phiên ngươi sẽ bị lên án cũng y như thế đó!"
Lời răn trên đây, đối chiếu với luật quả báo mà chúng ta phải thấy, có một ư nghĩa hùng hồn, mạnh mẽ và hợp lư trên phương diện thực tế mà người ta chớ khá coi thường. Về những trường hợp kể trên, chúng ta nên nhớ rằng chính cái nguyên động lực, và mục đích của mỗi hành động mới là cái sức chuyển vận luật Nhân Quả.
Không phải nghề phê b́nh văn nghệ nó làm cho người thanh niên kia bị sa đọa trong kiếp trước, mà chính là cái thái độ bên trong của y và sự ngờ vực mà y đă gieo trong ḷng kể khác về tài năng của họ, trong khi y hành nghề một cách cẩu thả.
Người ta thấy một t́nh trạng tương tự khi người lính La Mă ngược đăi những tín đồ đạo Gia Tô, như đă kể ở Phần 5. Nghiệp của y gây ra không phải là v́ y thừa hành chức vụ của người lính gác, mà do bởi hành động tàn ác của y đối với những người không sức tự vệ đặt dưới quyền sinh sát của ỵ Ở đây cũng như mọi trường hợp, chính cái tinh thần bên trong mỗi hành động mới là cái nguyên động lực tạo nên nghiệp quả.
Trước đây, chúng ta thấy rằng những khuynh hướng độc tài chuyên chế nguyên nhân là do những kinh nghiệm chỉ huy ở kiếp trước. Khả năng lănh đạo là một đức tính tốt, nhưng nó thường biến chứng thành thói chuyên chế độc tài.
Trong lịch sử, người ta thấy những người có chức vụ cao, nắm quyền thế trong tay, thường lạm dụng quyền hành để thỏa măn ḷng tham vọng riêng của ḿnh. Những trường hợp lạm dụng quyền thế một cách trắng trợn và những quả báo gây ra do những hành động đó, đều được thuật lại rất nhiều trong những tập hồ sơ Caycẹ Thí dụ, đây là trường hợp của một người có quyền thế trong thời kỳ các vụ án phù thủy ở Salem.
Y là một trong những viên chức có trách nhiệm trừng trị khủng bố những người đàn bà bị tố giác là hành nghề phù thủy. Tuy nhiên, trong khi thừa hành chức vụ đàn áp khủng bố những người theo tà đạo để bảo vệ thuần phong mỹ tục và bảo vệ tín ngưỡng Gia Tô, con người mô phạm và đạo đức giả này lại lạm dụng quyền hành của ḿnh để thỏa măn điều sắc dục:
Những người phụ nữ bị giam cầm đều bị cưỡng bách phải thất tiết với y! Những tập hồ sơ cho biết nhà đạo đức giả ấy đă đầu thai trở lại kiếp này. Hiện nay y là một thiếu niên 11 tuổi, con của một người đàn bà nghèo khổ, bị chồng bỏ rơi.
Y thường bị chứng động kinh rất dữ dội; trong lúc soi kiếp cho y, y đă liệt bại hết nửa thân ḿnh bên trái, và câm không nói được nữa. Y không thể tự ḿnh mặc hay cởi áo quần, hoặc ăn uống hay đi lại, tiểu tiện mà không có người d́u dắt.
Hai vai của y đă c̣ng, và sau một cơn động kinh kéo dài suốt nhiều ngày, trong khi đó ông bị chứng phong giựt, mỗi ngày cách khoảng độ nửa giờ, y không thể nào giữ vững đầu trên cổ được nữa, và không thể ngồi dậy được nếu không có người nâng đỡ.
Theo ông Cayce, bịnh động kinh thường là quả báo của sự hoang dâm vô độ. Dầu sao, sự lạm dụng quyền hành trong trường hợp này là một yếu tố quan trọng. Sự nghèo khổ và địa vị thấp kém của người mẹ y dường như là một sự đảo lộn địa vị giàu sang quyền thế của y trong kiếp trước. Chứng động kinh là cái hậu quả của sự cưỡng hiếp, dâm dục khi y lạm dụng quyền hành để thỏa măn thú tính.
Trường hợp sau đây là một thí dụ lạm dụng quyền thế trong thời kỳ khủng bố đạo Gia Tô ở La Mă. Có một người tên Romus, làm quân nhân trong đạo binh La Mă. Ngoài ra số tiền lương tháng, với cấp bậc khá cao của y, y đă dùng thế lực để kiếm những món tiền khổng lồ.
Cuộc soi kiếp không nói rơ y dùng phương pháp nào, không biết là y biển thủ công quỹ hay dọa nạt để làm tiền; nhưng y đă dùng phương tiện bất chính để mưu lợi, thâu được rất nhiều của cải vật chất, nhưng lại mất mát nhiều về phương diện tâm linh.
Trong kiếp hiện tại, Romus bị nhiều đau khổ: Sự nghèo đói, lầm than, không nhà cửa, luôn luôn theo dơi y suốt đời. Nghề thợ may của y không đủ sinh lợi để nuôi một vợ và năm con. Chỉ nhờ sự giúp đỡ của cha mẹ y mà vợ chồng và gia đ́nh y mới có thể sinh nhai một cách tạm bợ và bấp bênh ở một khu phố nghèo nàn tại Luân Đôn.
Trong trường hợp này cũng vậy, kẻ lạm dụng quyền hành đă phải chịu những quả báo tương đương với hành động quả báo của y gây ra. T́nh h́nh tài chánh tuyệt vọng của y phản ảnh những nỗi lầm than khốn khổ mà y gây ra cho kẻ khác trong kiếp trước.
Dưới đây là một trường hợp khác về sự lạm dụng quyền hành, cũng đáng được cho chúng ta ghi nhớ: Một người đàn bà nọ thuộc giai cấp trưởng giả hồi thời Cách Mạng Pháp, đă tham gia cuộc nổi loạn chống giai cấp quư tộc. Với tấm ḷng thành thật tranh đấu cho một lư tưởng, bà đă thực hiện một sự tiến bộ lớn về đường tâm linh.
Nhưng sau cuộc Cách Mạng, khi dịp may đưa đến bà đạt tới một địa vị quan trọng trong chánh phủ, bèn trở nên độc tài và lạm dụng quyền thế chẳng thua ǵ những người mà bà đă tranh đấu chống lại trước kia. Cuộc soi kiếp nói: "Hậu quả đưa đến, là trong kiếp hiện tại, linh hồn này phải chịu dưới quyền sai khiến của kẻ khác, để đè nén bớt những khuynh hướng độc tài và hách dịch của y trước kia" .
Hiện thời, người đàn bà này sống một cuộc đời rất khó khăn, lúc soi kiếp, bà đă 40 tuổi, góa chồng đă mười năm và có một đứa con gái nhỏ. Bà phải chiến đấu với nghịch cảnh để tư mưu sinh và nuôi con. Bà đă t́m được việc làm trong một cơ sở cứu trợ nạn nhân thất nghiệp của chánh phủ trong một thời gian nhưng t́nh trạng của bà vẫn bấp bênh. Sự cô đơn và thiếu nguồn vui sống đă làm cho bà tuyệt vọng và chán nản.
T́nh trạng này không phải là do sự ngẫu nhiên t́nh cờ: đó là cái phản ảnh đúng đắn của những sự đè nén áp bức mà bà đă gây ra cho kẻ khác, khi lạm dụng quyền hành trong taỵ Xét qua bề ngoài, th́ bà là nạn nhân của một t́nh trạng kinh tế khủng hoảng và một số mạng hẩm hiu; nhưng xét về luật quả báo, th́ bà chỉ là nạn nhân của chính ḿnh.
Những trường hợp kể trên có thể giúp cho ta một cái tiêu chuẩn quan trọng để t́m hiểu những nỗi khó khăn trắc trở của người đời cùng những nỗi khổ đau của họ, và t́m ra những nguyên nhân xa gần, căn cứ vào quả báo trong hiện tại.
Khi nhà hiền triết Eschyle cách đây hai ngàn năm ở Hy Lạp nói rằng: "Số mạng, tức là hạnh kiểm" ông ta đă thốt ra một câu châm ngôn mà nếu ta nói ngược lại cũng vẫn đúng. V́ những trường hợp đă xét qua như trên dường như chỉ rằng số mạng con người ngày nay, tức là phản ảnh cái hạnh kiểm của y trong quá khứ.
Đến đây, một vấn đề quan trọng được nêu ra, một vấn đề mà bất cứ người nào học hỏi nghiên cứu và suy gẫm chính chắn về thuyết Luân Hồi, cũng không khỏi nêu ra để tự vấn lấy ḿnh. Nếu như sự nghèo khổ là những quả báo cần thiết để giáo dục sửa đổi những kẻ hung dữ, độc ác, bất công theo định luật Nhân Quả, th́ tại sao người ta cần phải cố gắng hoạt động trong những công việc cứu tế xă hội để làm ǵ.
Phải chăng những cố gắng của ta để trợ giúp kẻ khác bần hàn khốn khó, sẽ làm ngăn trở sự hành động của luật Nhân Quả? Chúng ta nên hiểu rằng thuyết Luân Hồi không phải chủ trương một thái độ nhắm mắt buông xuôi đối với những nhu cầu cấp bách của xă hội.
Những linh hồn cần phải học bài học nghèo nàn khốn khó, sẽ sinh ra trong một thời kỳ lịch sử và trong một hoàn cảnh địa phương mà sự bất công của xă hội có thể tạo nên cái quả báo nghèo khổ khốn cùng cần thiết cho bài học kinh nghiệm của họ.
Nhưng đồng thời, những người nào không cố gắng làm việc để cải thiện đời sống của kẻ đồng loại, tức là họ phạm vào tội "Thờ ơ, chểnh mảng" (omission); c̣n những kẻ lợi dụng và khai thác kẻ đồng loại v́ mục đích ích kỷ, là những kẻ tích cực phạm tội (commision); hai thứ tội lỗi này, có ngày họ sẽ phải trả quả.
Thuyết Luân Hồi, nếu hiểu một cách đúng đắn, sẽ không thể dùng làm một thuyết để bào chữa cho những hành vi của kẻ bất lương. Giáo lư mà thuyết ấy cho ta trước hết thuộc về địa hạt tâm lư, bởi v́ nó nhắm vào mục đích cải tiến linh hồn người cho tới mức Toàn Thiện.
Nhưng giáo lư ấy cũng nằm trong địa hạt xă hội, bởi v́ mục đích tối cao của nó là t́nh thương; và t́nh thương chính là cái mănh lực mầu nhiệm làm tiêu tan mọi điều nghiệp chướng và quả báo xấu xa, theo định luật Nhân Quả cai quản sự tiến hóa của con người.
Những Đạo gia quả quyết rằng hành động của con người không thể nào sửa đổi được định luật của Vũ Trụ. Định luật Nhân Quả Công Bằng cũng ví như nước, luôn luôn giữ mực bằng phẳng, quân b́nh.
Dầu cho con người gặp hoàn cảnh nào và dưới thời kỳ nào, điều đó không quan hệ, đó chỉ là cái khung cảnh bên ngoài làm nền tảng và bối cảnh cho linh hồn đầu thai để học hỏi kinh nghiệm ở cơi trần.
Đối với một linh hồn đă chọn lựa nhũng hoàn cảnh đó, th́ luôn luôn có những phương tiện thích nghi để giúp cho họ sửa chữa những khuyết điểm và lầm lạc bên trong của họ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 222 of 1146: Đă gửi: 18 June 2010 lúc 8:16pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG BÍ ẨN CỦA CUỘC ĐỜI
NGUYÊN NHÂN CỦA QUÁI TRẠNG TÂM LƯ
Chương Mười Hai
Ngày nay, nhiều người đă quen thuộc với cái tên của bác sĩ Freud và danh từ tiềm thức. Tuy nhiên, nhiều người không biết rằng bác sĩ Freud đă khám phá ra tiềm thức trong khi ông theo đuổi những cuộc sưu tầm về giấc ngủ thôi miên.
V́ những người ngủ mê trong giấc thôi miên có thể nhớ lại những sự viếc xảy ra từ thuở nhỏ mà họ đă hoàn toàn quên hẳn trong lúc b́nh thường, nên ông Freud mới đưa ra giả thuyết rằng trạng thái tiềm thức là một kho kư ức giữ ǵn những tài liệu cũ mà người ta không thể nhớ lại bằng cách nào khác.
Về sau, ông Freud bỏ không dùng khoa thôi miên như một kỹ thuật chữa bịnh nữa, v́ trong nhiều trường hợp, nó không được hoàn mỹ, và ông tiếp tục thí nghiệm những phương pháp khác để thám hiểm những vực sâu thẳm của tiềm thức. Tuy thế, người ta cũng đă coi khoa thôi miên như là nguồn gốc của khoa phân tâm học (psychanalyse).
Tron lĩnh vực tâm lư theo thuyết Luân Hồi, khoa thôi miên có thể có một vai tṛ tương tự. Thần Nhăn của ông Cayce dường như chỉ rằng một người trong giấc thôi miên có thể khám phá những kiếp trước của những người khác. Một sự kiện quan trọng hơn nữa là dường như một người trong giấc thôi miên cũng có thể nh́n thấy và sống lại những tiền kiếp của chính ḿnh.
Những kinh nghiệm thụt lùi về quá khứ trong giấc thôi miên chỉ rằng trong tiềm thức của một người, được giữ ǵn kư ức của tất cả mọi việc đă xảy ra từ khi y mới sinh. Một người trong giấc thôi miên, thụt lùi về dĩ văng đến năm y lên mười tuổi, khi người ta truyền lệnh cho y viết tên của y, th́ y viết với tuồng chữ của tuổi thơ ấu hồi y lên mười.
Khi y thụt lùi về năm lên sáu tuổi y viết với tuồng chữ c̣n non nớt hơn nữa; khi y thụt lùi lại năm lên ba, y cầm viết ch́ vẽ nguệch ngoạc vài nét không có ư nghĩa ǵ cá HIện tượng thụt lùi về quá khứ trong giấc thôi miên kể trên thường được thí nghiệm trong những lớp giảng về khoa tâm lư ở trường Đại Học, và những sinh viên tâm lư học đă quen thuộc với hiện tượng ấy.
Nhà bác học Pháp De Rochas hồi thế kỷ mười chín tuyên bố rằng với những kỹ thuật thụt lùi về dĩ văng như đă kể trên, ông có thể nhớ lại những kỷ niệm đă qua trong quá khứ. Quyển sách của ông nhan đề "Những Kiếp Sống Liên Tục" (Les Vies Successives) không được coi như một quyển sách khoa học, nhưng có lẽ một ngày kia nó sẽ được hoan nghênh như một công tŕnh tiền phong trên địa hạt tâm lư về thuyết Luân Hồi.
Những quái trạng tâm lư được xem xét bằng hiện tượng Thần Nhăn của ông Cayce, giải thích tánh chất của trí nhớ và tiềm thức, và có vẻ xác nhận rằng tiềm thức con người thật ra c̣n thâm sâu hơn là những điều mà các nhà phân tâm học có thể hiểu. Một trong những quái trạng tâm lư lạ lùng nhất là sự sợ hăi. Những nhà phân tâm học định nghĩa điều này như là sự sợ hăi quá độ, mà nguồn gốc là do bởi nhiều t́nh trạng phức tạp gây nên.
Sự sợ hăi dị thường này làm cho con người sinh ḷng thù nghịch, gây hấn, hoặc cảm thấy ḿnh có tội lỗi rất nặng nề. Những xúc cảm ẩn tàng này về sau biểu lộ dưới h́nh thức một sự sợ hăi vô lư và bất thường đối với một vài sự vật ở ngoại cảnh, thí dụ như sợ giông mưa, sấm sét, sợ dao, sợ nước...
Có nhiều trường hợp; những kinh sợ đó được truy nguyên từ một việc xảy ra trong một kiếp trước, làm cho y bị đau khổ hay thiệt mạng.
Một thí dụ lư thú là trường hợp của một người đàn bà từ thuở thiếu thời đă sợ những gian pḥng kín. Ngồi trong rạp hát, cô phải chọn một chỗ ngồi gần chỗ cửa đi ra. Ngồi trên xe buưt, nếu xe chật chỗ và quá đông người, cô bước xuống đợi chuyến xe khác.
Trong những khi đi nghỉ hè, đi chơi ở miền núi, cô rất sợ chui vào những hang, động, hầm hố hay bất cứ chỗ nào bốn bể kín mít, không có ngơ ra. Người trong gia đ́nh không ai hiểu lư do của thái độ lạ lùng này, v́ không ai có thể nhớ lại hồi thuở nhỏ đă xảy ra việc ǵ làm cho cô có sự sợ sệt như vậy.
Cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng trong một kiếp trước, cô chui vào một cái hang, th́nh ĺnh hang sụp lở, bị đè bẹp dưới đống đá, sỏi, cát vụn, và chết ngộp. Kư ức về cái chết rùng rợn này ngày nay vẫn c̣n in sâu trong tiềm thức của cô.
Một thí dụ khác là trường hợp của một người đàn bà nọ có hai điều kinh sợ: Sợ dao bén và sợ những loài thú có lông, nhứt là những loài thú nhà. Cô nổi cơn hoảng loạn mỗi khi có một vật bén nhọn ở gần bên ḿnh hay khi thấy ai xử dụng gươm dao...
Cuộc soi kiếp cho biết trong một kiếp trước ở Ba Tư, người đàn bà này bị giết v́ một lưỡi gươm trong lúc chạy loạn. C̣n việc sợ thú có lông th́ khó hiểu hơn, v́ trong gia đ́nh, người nào cũng có nuôi chó hay nuôi mèo, người anh của cô lại thích nuôi thú.
Nhưng mỗi khi cô nh́n thấy con chó hay con mèo th́ giựt ḿnh kinh sợ như người gặp phải rắn độc. Hơn nữa, cô không khi nào mặc áo choàng bằng da thú, hoặc cổ áo may bằng lông thú. Những nhà tâm lư học có thể t́m căn nguyên sự sợ sệt của cô trong những sự giao tế với người trong gia đ́nh, thí dụ như ḷng ganh ghét đố kỵ đối với người anh ưa nuôi thú chẳng hạn, và giải đáp vấn đề ấy như là sự biểu lộ ḷng căm thù nghịch của cô.
Tuy nhiên, những cuộc soi kiếp truy nguyên sự sợ sệt này từ một kiếp trước ở châu Atlantide, khi đó cô đă trải qua một kinh nghiệm khủng khiếp về những loài vật có h́nh thù ghê rợn. Cuộc soi kiếp cũng đă giải thích nhiều quái tượng sợ hăi khác và truy nguyên ra từ những kiếp trước. Sự sợ hăi bóng tối của một người nọ được giải thích rằng trong kiếp trước, y là một chánh trị phạm dưới thời Louis 16 và bị giam cầm trong một đài cao ở Pháp cho đến khi chết bỏ xác trong ngục tối.
Một người nữa sợ dao bén. Một người nữa sợ dao bén; đến lúc truy nguyên ra th́ được biết rằng kiếp trước y đă trải qua một kinh nghiệm rùng rợn trong một pḥng tra tấn ở Pháp, và đă bị tra khảo bằng những thứ h́nh cụ khủng khiếp, gồm cả sự tra tấn bằng h́nh cụ bánh xe (rouet).
Một người nọ có những cơn hoảng sợ bất thần, dường như y cảm thấy rằng ngày tận thế sắp đến! Cuộc soi kiếp truy nguyên sự sợ sệt này ở một kiếp trước, vào thời kỳ một phần châu Atlantide bị sụp lở ch́m xuống đáy biển. Trong khi đó y đang ngồi một ḿnh trên một ngọn đồi cao để xem sách, th́nh ĺnh cơn động đất làm rung chuyển trọn cả vùng chung quanh như trời long đất lở và y nh́n thấy nước biển dâng lên bốn phía chung quanh ngọn đồi của y.
Một người đàn bà kia sợ thú dữ một cách lạ thường. Kiếp trước ở La Mă, người chồng bị tội và bị bắt buộc phải đấu sức với loài thú dữ trong vơ trường.
Hai người kia sợ nước một cách rất vô lư. Truy nguyên ra th́ được biết rằng kiếp trước họ đi tắm sông, bị gịng nước xoáy cuốn đi và bị chết đuối. Một người nữa cũng sợ nước, được biết rằng quái trạng này là do bởi trong tiền kiếp hồi thời đế quốc La Mă, y đă bị đắm tàu chết đuối trong một cơn băo nổi lên ở giữa biển.
Khi chúng ta xét kỹ những trường hợp này theo quan điểm tâm lư thông thường, chúng ta có thể tự hỏi rằng phải chăng tất cả những thí dụ trên đây cũng có thể được giải thích một cách thỏa đáng bằng cách t́m ra một nguyên nhân trong kiếp hiện tại.
Thí dụ, người đàn bà sợ ngồi trong pḥng kín, có thể đă bị nhốt trong một pḥng tối lúc lên bốn tuổi, nhưng ngày nay cô đă quên mất việc đó. Do sự khêu gợi trong giấc thôi miên, người ta có thể đào xới việc ấy trong kư ức đă lăng quên từ lâu và nhà tâm lư học có thể căn cứ trên tài liệu đó mà hiểu những vấn đề xúc động thường gây nên các chứng bịnh loạn thần kinh.
Nhiều người đă có kinh nghiệm cùng một loại giống như trên, nhưng lại không có sự sợ hăi một các vô lư. Như vậy tại sao có người lại có sự thụ cảm đặc biệt đó?
Nếu tất cả những người đă trải qua những cơn xúc động t́nh cảm đều đâm ra sợ ngồi trong pḥng kín, th́ trên thế gian, người thuộc về hạng này sẽ nhiều đến nỗi người ta phải đóng cửa tất cả pḥng điện thoại, buồng ngủ, những gian pḥng độc chiếc, và vài loại hộp đêm, như là những nơi hăm dọa sự thăng bằng của tâm hồn, trí năo và sức khỏe công cộng.
Trong tập hồ sơ Cayce, vấn đề này được giải đáp như sau: Sự kiện rằng một đứa trẻ tỏ ra thụ cảm hơn một đứa trẻ khác trong một t́nh trạng xúc động tâm lư nhất định, có thể là do kinh nghiệm ở một kiếp trước. Hoàn cảnh tạo ra trong kiếp này là cái phương tiện làm thức động trở lại cái ấn tượng kinh khủng đă bị vùi lấp trong kư ức.
Theo thuyết Luân Hồi, chúng ta thấy rằng tiềm thức cũng ví như một cái hộp có hai đáy, nó vốn thâm sâu hơn là người ta tưởng trong lúc b́nh thường. Vài nhà tâm lư học, nhứt là Carl Jung, cảm thấy rằng những lớp sâu thẳm trong tiềm thức cần được nêu ra để giải thích những quái trạng về tâm lư mà người ta không thể giải thích được bằng cách nào khác.
Theo quan điểm của ông Cayce, mỗi người đều có những kư ức tiềm tàng đột khởi từ một quá khứ xa xăm, do những kinh nghiệm của y đă trải qua trong những tiền kiếp. Tất cả những sự sợ hăi, thù ghét, thương yêu và những t́nh cảm vô ư thức của y đều là thành phần của một cái sản nghiệp tinh thần mà y tự để lại cho ḿnh.
Chẳng khác nào như người ta tích trữ của cải ngày hôm nay để dùng lại cho một ngày về sau. Con người văn minh tân tiến ngày hôm nay đă từng là một người dă man mọi rợ trải qua nhiều kiếp trong dĩ văng, và bởi đó, thật là một điều tự nhiên nếu y vẫn c̣n một vài thú tính mà y chưa tinh luyện và loại trừ.
Trong cái dĩ văng xa xăm đó, chính y đă từng trải qua những điều sợ hăi khủng khiếp trong rừng rậm, và những sự tàn nhẫn độc ác của loài người. Vậy th́ thật là một điều tự nhiên nếu ngày nay, thỉnh thoảng y vẫn cảm thấy những cơn sợ hăi bất thường, vô lư, và những nỗi lo âu phiền muộn vô căn cứ.
Chính y đă từng thương yêu, ghét bỏ hay đố kỵ nhiều người khác mà y tiếp xúc trong dĩ văng: Vậy th́ là lẽ tự nhiên nếu ngày nay y cũng lại cảm thấy đối với chính những người đó, đă cùng đầu thai lại trong kiếp này những mối thiện cảm, thương yêu hay thù hận, ghét bỏ một cách vô lư và không thể giải thích được lư do.
Những kư ức thuộc về kiếp trước có thể biểu lộ trong kiếp này bằng những phương tiện khác hơn là những sự sợ hăi hay những quái trạng tâm lư. Ông Cayce đă căn cứ trên thuyết Luân Hồi để giải thích hiện tượng về những giấc mộng tái diễn trở lại nhiều lần.
Một thí dụ lạ lùng về vấn đề này là của một người đàn bà đưa ra câu hỏi sau đây: "Tại sao hồi thuở nhỏ tôi thường năm mộng thấy cảnh tận thế, với những luồng mây đen bao phủ và tiêu diệt cơi thế gian?"
Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce trả lời rằng trong một kiếp trước ở châu Atlantide, người đàn bà ấy đă làm nghề giáo sĩ và y sĩ, và đă chứng kiến một trong những vụ thiên tai kinh khủng làm sụp đổ châu này dưới ḷng biển sâu. Cái ấn tượng rùng rợn đó vẫn c̣n in sâu trong tâm hồn cô đến nỗi nó thường xuất hiện trở lại trong giấc ngủ trong kiếp này.
Một trường hợp lư thú khác là của một em gái nhỏ bốn tuổi, thường làm cho mẹ nó lo âu v́ mỗi đêm nó đều giựt ḿnh tỉnh giấc, khóc la bài hăi một cách vô cùng sợ sệt. Em nhỏ này đầy đủ sức khỏa và không có bịnh tật chị Mẹ nó bèn viết thơ cho ông Cayce để xin ông giải thích về quái trạng của đứa bé.
Cuộc soi kiếp cho biết kiếp trước em chết bất đắc kỳ tử trong trong trận Thế Chiến Thứ Hai ở Pháp. Nhưng chỉ trong chín tháng sau, em đă đầu thai trở lại trong một gia đ́nh ở Bắc Mỹ. Trong khoảng trung gian ngắn ngủi giữa hai kiếp sống, những kỷ niệm rùng rợn về chiến tranh binh lửa vẫn chưa xóa mờ trong kư ức của em và thường xuất hiện trong giấc ngủ.
Những trường hợp kể trên không khỏi làm cho chúng ta lại nêu ra câu hỏi về vấn đề trí nhớ. Nhiều người phản đối thuyết Luân Hồi thường đưa ra lập luận này, là nếu có Luân Hồi th́ tại sao chúng ta không nhớ lại những kiếp trước?
Điều này mới nghe qua th́ dường như lạ lùng, nhưng thật ra nó không lạ ǵ lắm nhưng thật ra nó không lạ ǵ lắm nếu chúng ta cũng không nhớ được hết những việc ǵ đă xảy ra trong đời chúng ta lúc c̣n thơ ấu hay trong thuở thiếu thời.
Trí nhớ của con người là một cái ǵ rất mỏng manh, tế nhị, và những sự việc trôi qua trong đời chúng ta chẳng khác nào như nước chảy giữa ḍng, cho nên khi nói rằng ta không nhớ một việc ǵ, không có nghĩa là việc ấy không có xảy ra.
Nếu chúng ta hỏi một người bạn câu này: "Anh đă làm ǵ vào đúng 10 giờ 26 phút buổi sớm mai ngày 19 tháng 4 năm 1939?" Chúng ta có thể đem hết cả gia tài để đánh cuộc rằng y không thể nhớ từng chi tiết rơ ràng như y đă làm ǵ vào ngày hôm đó, y mặc y phục như thế nào, nói những chuyện ǵ, với ai...
Việc y không nhớ rơ các việc đă xảy ra trong một ngày giờ nhất định trong đời của y, không có nghĩa là y đă không trải qua những giờ phút đó.
Bởi đó, sự phản đối thuyết Luân Hồi bằng những lập luận nói trên không thể đứng vững. Trước hết sự lăng quên là một hiện tượng rất thông thường và rất tự nhiên của con người. Sau nữa, trí nhớ có một tính chất rất đặc biệt là rất chóng quên phần chi tiết, mà chỉ giữ lại cái nguyên tắc đại cương.
Thí dụ: Mỗi người có học thức đều có thể nói rằng 7 lần 7 là 49, và 12 lần 12 là 144. Y không nhớ rằng y đă trải qua những giờ mệt nhọc vất vả trong lớp học hồi thuở thiếu thời để làm những bài toán đó, nhưng khả năng suy tính và sự thông hiểu toán pháp hăy c̣n tồn tại trong trí óc của y.
Những sự hiểu biết khác của con người cũng được giải thích bằng cách đó, chẳng hạn như sự cẩn thận đề pḥng khi ta đứng gần lửa, sự dè dặt và sợ chó khi bước vào nhà người lạ; khả năng về âm nhạc, khiêu vũ, hay sự thông hiểu, khéo léo của ta về bất cứ một ngành nào.
Việc chúng ta biết đi biết đứng chứng tỏ rằng có một thời kỳ chúng ta đă tập đứng, tập đi, nhưng trong một vạn người, không có đến một người nhớ rơ những sự cố gắng vất vả khó khăn mà y đă làm từ thuở ấu thơ để có thể đi đứng tự nhiên được như bây giờ.
Như vậy, sự lăng quên về phần chi tiết vẫn không làm mất đi trí nhớ về phần nguyên tắc, và tất cả những khả năng và đức tính của con người trên phương diện luân lư, trí tuệ, đạo đức tâm linh, đều là sự tổng hợp tất cả những kinh nghiệm mà y đă trải qua trong những tiền kiếp, mà ngày nay đă quên mất những chi tiết.
Lư luận thứ hai mà người ta dùng để phản đối thuyết Luân Hồi lại càng tế nhị hơn. Họ cho rằng tật không phải lẽ mà bắt buộc một cá nhân phải chịu trách nhiệm về những hành động mà một cá nhân khác đă làm. Họ cho rằng quả báo và sự trừng phạt chỉ có một ư nghĩa là khi nào kẻ phạm tội có ư thức được và nh́n nhận tội lỗi của ỵ Sự trả lời của Đao. gia về lập luận này căn cứ trên điều mà họ gọi sự liên quan giữa cá tính và linh hồn.
Linh hồn bất diệt ví như một tài tử ở ngoài ṿng sân khấu, có thể nhớ rơ quá khứ, nhưng khi chuyển kiếp làm người, chẳng khác nào như người tài tử đóng một vai tṛ nhất định, th́ sự mầu nhiệm của luật Thiên Nhiê khiến cho y không nhớ điều ǵ cả ngoài ra phần nguyên tắc đại cương của những kinh nghiệm mà y đă thâu thập được trong các kiếp trước.
Ví như anh tài tử khi ngồi tại nhà có thể nhớ rơ tất cả những lớp lang của vở kịch Phụng Nghi Đ́nh mà y đă đóng, nhưng trên sân khấu, khi y đóng một vai tṛ nhất định, chẳng hạn như vai Lữ Bố, th́ y chỉ biết có một vai tṛ đó mà thôi chứ y không thể nghĩ đến vai tṛ khác. Cũng y như thế, linh hồn người chứa đựng kư ức của tất cả mọi sự đă xảy đến cho y trong những vai tṛ của các nhân vật mà y đă từng đóng ở các tiền kiếp.
Lúc b́nh thường th́ cá tính riêng biệt của y không nhớ được những kỷ niệm đó ngoại trừ khi nào y dùng những phương pháp đặc biệt và bất thường để rút lấy những kỷ niệm đó trong cái kho kư ức vô tận của linh hồn.
Lập luận chống thuyết Luân Hồi kể trên cho rằng thật là không phải lẽ và trái với luân lư nếu một người bị trả quả và đau khổ v́ những hành động mà có lẽ y đă làm trong kiếp trước, nhưng ngày nay y đă quên mất, không c̣n nhớ ǵ nữa.
Lập luận này không thể đứng vững, cũng chẳng khác nào như lư luận cho rằng việc một người lớn bị đau khổ v́ những sự xung đột vô ư thức của y từ thuở ấu thơ, cũng không hạp với luân lư.
Sự lăng quên, nó che khuất dĩ văng và chỉ cho chúng ta thấy có một phần hiện tại ngắn ngủi, là một điều cần thiết và che chở đối với chúng tạ Ngoài ra những thí dụ về việc sợ hăi vô lư và những giấc mộng tái diễn nhiều lần, người ta c̣n thấy trong những tập hồ sơ Cayce những quái trạng tâm lư khác nữa.
Thí dụ như những ảo ảnh ẩn hiện chập chờn, trong nhiều trường hợp thường được truy nguyên từ những kư ức bất thường thuộc về kiếp trước. Có một trường hợp, cuộc soi kiếp cho biết rằng những trung tâm bí yếu trong thân người, tiếng Phạn gọi là Chakra (Luân Xa), t́nh cờ khai mở, làm cho luồng Xà hỏa (Kundalini) đi xuyên qua những Luân Xa và gây nên những ảo ảnh hay ảo giác.
(Luồng xà hỏa Kundalini là một mănh lực thần bí trong cơ thể con người nằm trong đốt cuối cùng của bộ xương sống và có liên quan trực tiếp đến bộ phận sinh dục và năng lực sáng tạo trong châu thân.)
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết trong nhiều trường hợp, một sự rối loạn thần kinh có nhiều nguyên nhân hoàn toàn thuộc về thể chất, và đă được chữa khỏi một cách mầu nhiệm bằng các phương tiện sinh lư. Chúng ta đă thấy trong Chương 2, trường hợp của cô thiếu nữ được chữa khỏi bịnh loạn trí nhờ nhổ một cái răng cấm mọc ngược.
Một thí dụ hiển nhiên khác là trường hợp của một người thư kư bưu điện bỗng nhiên đổi tánh một cách lạ thường và th́nh ĺnh trở nên gây gỗ, buồn bực và hung bạo. Gia đ́nh khuyên y đi khán bịnh và vào nằm bịnh viện để điều trị. Các bác sĩ tuyên bố rằng y bị chứng khủng hoảng thần kinh, và người ta bèn để y nằm riêng buồng kín.
Vợ y yêu cầu ông Cayce dành cho y một cuộc khán nghiệm bằng Thần Nhăn. Cuộc khán nghiệm cho biết y đă bị té ngă nặng từ nhiều năm về trước, chạm mạnh vào xương hông làm đau tủy xương sống, và điều này đă phản ứng toàn bộ Thần Kinh Hệ. Ông Cayce khuyên y hăy điều trị bằng phương pháp nắn xương và trị bằng điện.
Gia đ́nh y nghe theo lời. Trong sáu tuần lễ, bịnh nhân đă b́nh phục trở lại như thường, và người ta để cho y tự do trở về nhà. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp loạn trí, cuộc khám nghiệm cho biết rằng bịnh nhân bị tà ma nhập xác ám ảnh.
Xưa nay người ta vẫn tin rằng một vài chứng bịnh loạn thần kinh nguyên nhân là v́ ma nhập. Những người đọc bộ Thánh Kinh đều biết rơ chuyện đấng Christ đă đuổi tà ma ra khỏi xác của một người điên, và những người Gia Tô giáo đều quen thuộc với vấn đề các vị Cố đạo Gia Tô vẫn tiếp tục thực hành những phép đuổi tà (exorcisme). V
ấn đề này tự nhiên là hoàn toàn xa lạ đối với khoa Tâm lư học hiện đại, và những nhà chữa bịnh thần kinh ngày nay coi nó như một điều dị đoan đă lỗi thời. Tuy nhiên, nếu người ta chấp nhận rằng linh hồn người vẫn c̣n tồn tai. sau khi chết, th́ không có lư do ǵ mà cho rằng những linh hồn bất hảo, lưu manh hồi c̣n sống ở thế gian, sau khi chết lại không ám ảnh, khuấy phá hay nhập vào xác một người khác.
Để chữa bịnh tà, ông Cayce thường dùng phép điều trị bằng điện, và khuyên bịnh nhân nên cầu nguyện, và tham thiền quán tưởng.
Trong một trường hợp, người bịnh được chữa khỏi trong vài tháng, chấm dứt sự ám ảnh của những giọng nói th́ thầm bên lỗ tai y, làm cho y sợ hăi đến phát bịnh. Trường hợp này là do quả báo gây nên: Trong kiếp trước bịnh nhân đă dùng tà thuật để ám hại kẻ khác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 223 of 1146: Đă gửi: 18 June 2010 lúc 8:24pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG BÍ ẨN CỦA CUỘC ĐỜI
QUẢ BÁO ĐỐI VỚI HÔN NHÂN
Chương Mười Ba
Vấn đề hôn nhân là một vấn đề phức tạp và khó khăn nhất trong đời người. Hôn nhân là một nguồn hạnh phúc vô tận nếu nó được thành tựu một cách mỹ măn, nhưng nếu thất bại, th́ đó là một nguồn đau khổ rất lớn.
Hôn nhân đem đến cho ta những cái cực đoan về vinh nhục, sướng khổ của đời người, và giữa hai cái cực đoan đóm có cả một loạt những trạng thái trung gian, vừa khổ vừa sướng, vừa vinh vừa nhục.
Nói về phương diện pháp lư, hôn nhân là một hợp đồng sống chung giữa hai người nam, nữ. Về phương diện nhân sinh, đó là một sự phối hợp của nam và nữ tính, bản năng thúc đẩy của những nhu cầu sinh lư và t́nh cảm. Hội Thánh Gia Tô coi hôn nhân như một nghi thức thiêng liêng. Khoa tâm lư coi nó như một vấn đề xử thế và sinh hoạt. Kẻ ngông coi hôn nhân như một cái bẫy chuột mà chỉ có những thằng ngốc mới chui vào.
Theo một sự định nghĩa rộng răi hơn căn cứ trên thuyết Luân Hồi, th́ những quan điểm kể trên đều đúng, nhưng chỉ đúng có một phần. Nhà tâm lư học Linhk định nghĩa hôn nhân là khiếm khuyết và bất toàn cùng góp sức với nhau để tranh đấu cho hạnh phúc.
Định nghĩa này sẽ gần sát hơn với quan điểm của nền Minh Triết cổ truyền, nếu tranh đấu cho hạnh phúc cũng là cố gắng để tự cải tiến lấy bản thân ḿnh. Theo quan điểm rộng răi này, th́ hôn nhân là một cơ hội cho hai linh hồn bất toàn bổ khuyết và giúp đỡ lẫn nhau để thanh toán những món nợ nhân quả, rèn luyện những đức tính mới của linh hồn và tiến hóa trên đường tâm linh.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đă nhiều lần xác nhận rằng không có một sự liên hệ quan trọng nào trong đời người mà lại do sự ngẫu nhiên t́nh cờ. Vấn đề hôn nhân càng chứng minh cho điều này một cách triệt để. Không có một cuộc hôn nhân nào bắt đầu từ con số không: đó là sự nối tiếp của một câu chuyện đă bắt đầu từ lâu.
Các cuộc soi kiếp cho biết rằng bằng cách này hay cách khác, những người kết hôn thành vợ chồng đă có nhân duyên với nhau trong kiếp trước. Đó là một điều lư thú. Trong những cuộc soi kiếp, ông Cayce coi vấn đề hôn nhân như một điều tự nhiên của con người, và ông thường nói: "Ừ! Hôn nhân là một việc tốt. Đối với một linh hồn sống trên thế gian, đó là một cách sinh hoạt tự nhiên."
Có người hỏi: "Tôi có nên kết hôn trong lúc này hay không?" Ông Cayce đáp: "Lúc nào cũng nên, nếu anh chọn được người bạn trăm năm thích hợp. Điều đó tùy theo mục đích mà anh theo đuổi khi anh muốn kết hợp với người ấy."
Một gia đ́nh ấm cúng, đó là h́nh ảnh của trạng thái điều ḥa hạnh phúc mà tất cả mọi người đều mong muốn. Về điều này, ông Cayce tuyên bố như sau với một người mà ông soi kiếp cho: "Sự thành công của anh phải là cái tổ ấm, v́ trên đời không có sự thành công nào lớn hơn nữa. Ít người được thành công về cả hai khía cạnh nghề nghiệp và hạnh phúc gia đ́nh.
Nhưng hạnh phúc gia đ́nh mới là sự thành công lớn nhất, và người nào coi thường điều ấy sẽ tự tạo nên những trách nhiệm nặng nề về sau. V́ gia đ́nh, tức là cái biểu tượgn gần nhứt đối với điều nguyện vọng rốt ráo của linh hồn trong tương lai: đó là một đời sống hạnh phúc trên Thiên Đàng. Bởi vậy, anh hăy làm sao cho gia đ́nh anh là cái h́nh bóng của cơi Thiên Đàng hạnh phúc!"
V́ gia đ́nh là nơi người ta cùng theo đuổi một mục đích chung với một mối t́nh thân hữu, nó là một cơ cấu thể hiện nhũng mối liên quan giữa con người với Tạo Hóa. Đó là bởi gia đ́nh có một mục đích sáng tạo, khi mà những đơn vị gồm trong đó đều hợp nhứt với nhau trong một lẽ sống và một lư tưởng chung.
Những quan niệm trên đây không phải là mới lạ ǵ. Tuy nhiên, những cuộc soi kiếp tŕnh bày một quan điểm vừa tự do vừa tân tiến đối với vai tṛ và định mệnh của phụ nữ. Có điều lư thú là vấn đề nam nữ b́nh quyền, và quyền tự do của phụ nữ trong việc sắp xếp cuộc đời của ḿnh, được coi như vấn đề đương nhiên.
Ư niệm về sự đương nhiên này biểu hiện rơ hơn trong những cuộc soi kiếp về những trường hợp mà đương sự phải chọn lựa một trong hai điều: Nghề nghiệp và hôn nhân. Thần nhăn của ông Cayce không chấp nhận quan niệm Phát xít và độc tài đặt để vai tṛ của phụ nữ là ở trong gia đ́nh, thờ chồng và nuôi con.
Cũng như trong những cuộc khám bịnh, mà phương pháp điều trị không tùy nơi một đường lối duy nhứt, th́ ở đây cũng thế. Không hề có một phép xử thế nhứt định cho tất cả mọi trường hợp về vấn đề hôn nhân. Những nguyên tắc tâm lư và đạo đức bao giờ cũng vẫn giống như thế nhưng sự diễn đạt bằng hành động cử chỉ có thể khác biệt nhau tùy trường hợp.
Đối với vài phụ nữ, ông Cayce khuyên nên lập gia đ́nh; nhưng đối với những người phụ nữ khác, ông lại khuyên họ nên theo đuổi một nghề nghiệp. Có vài người, ông khuyên họ nên hành nghề trước đă, rồi sau sẽ lo lập gia đ́nh. Có người th́ ông khuyên họ vừa lấy chồng vừa theo đuổi một nghề nghiệp. Đối với những người khác nữa, ông khuyên hăy chọn một trong hai điều; v́ họ không thể phụng sự hai chủ cùng một lúc.
Một thiếu nữ 18 tuổi, có tánh e lệ rụt rè và bất măn về cuộc đời, muốn biết xem cô có thể làm ǵ trong tương lai. Cuộc soi kiếp nhấn mạnh rằng trước khi nghĩ đến hôn nhân, cô nên làm một công việc có tánh cách săn sóc giúp đỡ các trẻ em. Cuộc soi kiếp cho biết:
"Nếu linh hồn này t́m cách tiến hóa cho con đường hôn nhân, th́ cô sẽ bị thất vọng đau đớn, trừ phi trước khi lấy chồng, cô đă có làm những công tác trợ giúp xă hội và săn sóc trẻ em." Cuộc soi kiếp nói thêm rằng cô có thể giúp các em gái nhỏ trong trại mẫu giáo hay một tổ chức tương tự.
Một nhà tâm lư học sẽ nh́n nhận rằng lời khuyên đó rất lành mạnh, theo quan điểm thuần tâm lư. Dạy dỗ các thiếu niên nhi đồng là những linh hồn kém kinh nghiệm hơn ḿnh và làm việc chung với họ, là một phương tiện rất tốt để cởi mở và phát triển tâm tính.
Sự chỉ huy và lănh đạo kẻ khác giúp cho y mở đức tự tin, nếu không th́ đức tính ấy không bao giờ có cơ hội phát triển. Hôn nhân có thể hoàn toàn thất bại nếu cô ấy chọn một người bạn trăm năm không xứng đôi vừa lứa, trong cơn tuyệt vọng của một tâm hồn khép chặt và cô đơn.
Dầu cho cô được một người chồng xứng đôi, sự thất bại cũng vẫn có thể xảy đến nếu một trong hai người không có đủ sự ḥa hợp cần thiết để đương đầu với những vấn đề thích ứng với hoàn cảnh và những sự căng thẳng mà hôn nhân tạo nên. Bởi vậy trong trường hợp này, phương pháp tốt nhất là hăy làm một công tác xă hội và theo đuổi một nghề nghiệp trước khi lập gia đ́nh.
Trong một trường hợp khác, một thiếu nữ có khả năng được khuyên nên lập gia đ́nh và đồng thời nên theo đuổi một nghề nghiệp; nhưng cô chỉ nên kết hôn với một người nào mà hoàn toàn thích hợp với cô mà thôi. Trong những kiếp trước, cô đă làm nhiều công việc khác nhau, và có khả năng về các ngành điêu khắc, làm đồ gốm, ngành dệt vải, cùng với khả năng âm nhạc và khiêu vũ,...
Với cái di sản tài năng dồi dào đó, cô có đủ điều kiện trở nên một nhà lănh đạo, và sau khi đă nêu rơ các điều kể trên, cuộc soi kiếp cho biết thêm: "Chúng tôi thấy rằng linh hồn này nên lập gia đ́nh và đồng thời nên theo đuổi một nghề nghiệp, với điều kiện là nghề nghiệp đó phải giải thích ứng với người chồng mà y chọn lựa.
Bởi v́ nếu người chồng đó không phải là một người hoàn toàn thích hợp với y và góp phần xây dựng vào công việc mà y sẽ làm, th́sẽ có những sự bất đồng ư kiến và những sự thất vọng chua cay đến nỗi nó sẽ in sâu vào tâm hồn y những vết thương nguy hiểm."
Trái lại, dưới đây là trường hợp lư thú của một nữ tài tử trẻ đẹp vài tài hoa, cô ấy yêu một người, và muốn biết xem cô có thể vừa thành hôn vừa tiếp tục hành nghề tài tử của cô được không? Cuộc soi kiếp trả lời không úp mở rằng: "Không được! Linh hồn này có đủ những đức tính cần thiết để thành công hoặc trên sâu khấu hoặc trong gia đ́nh; nhưng cô không thể thành công trong hai việc cùng một lúc. Vậy cô hăy tự chọn lựa lấy!"
Xem xét tỉ mỉ những cuộc soi kiếp bề trên, th́ người ta thấy rằng những lời khuyên luôn luôn nhắm mục đích d́u dắt đương sự hướng về việc phát triển tâm linh. Nếu một phụ nữ muốn theo đuổi một nghề nghiệp với những lư do ích kỷ như là muốn có nhiều tiền, quần áo đẹp, địa vị cao sang, quyền hành chỉ huy, danh vọng cá nhân...
Th́ nguồn tài liệu biết rơ cái tâm địa ấy và khuyên y nên hướng về việc lập gia đ́nh. Lời khuyên này được đưa ra không phải v́ lư do t́nh cảm hay theo tục lệ truyền thống về tánh cách thiêng liêng của gia đ́nh và vai tṛ của phụ nữ. Nó được căn cứ trên quan niệm rằng cái nguyên động lực và mục đích là những tiêu chuẩn để xét đoán mọi hành động của con người.
Rằng một hành vi ích kỷ bao giờ cũng không bằng một hành động vị tha, và những trách nhiệm mà người ta phải gánh vác trong sự kết hôn và lập gia đ́nh, dễ đưa con người ta t́m kiếm để thụ hưởng riêng một ḿnh trong một vài loại nghề nghiệp.
Bởi vậy, ông Cayce thường khuyên nhiều phụ nữ, dầu rằng có tài năng, hăy nên tạo lập gia đ́nh và nuôi con; v́ đó là cái kỷ luật tốt nhất để giúp đỡ ch họ khai mở những đức tánh tâm linh mà họ c̣n thiếu sót, để thắng bớt ḷng ích kỷ có ư thức hay vô ư thức trong kh họ theo đuổi một sự nghiệp. Một mặc khác, một vài phụ nữ tài năng có thể thành thật muốn đem khả năng của ḿnh để phụng sự nhân loại.
Đối với một phụ nữ thuộc về loại này th́ một tổ ấm, một người chồng, một gia đ́nh có thể là những chướng ngại cho sự phát triển đầy đủ những khả năng của họ. Bởi vậy ông Cayce thường khuyên họ hăy tŕ hưỡn việc lập gia đ́nh một thời gian hoặc nên phối hợp việc hôn nhân với việc hành nghề cùng một lúc.
Mục đích tối hậu, đối với những người độc thân cũng như đối với những có gia đ́nh, là sự phát triển tâm linh; và dầu là đàn ông hay đàn bà họ đều là những linh hồn bất tử và có quyền chọn lựa một t́nh trạng gia đ́nh thích hợp nhứt, có thể giúp họ theo đuổi sự phát triển tâm linh.
Ông Cayce coi cái quyền tự do sắp đặt cuộc đời của ḿnh khôngnhững là một quyền hạn trên địa hạt xă hội mà c̣n là một cái quyền trên địa hạt vũ trụ. Nói theo danh từ triết học, th́ cái quyền đó gọi là quyền tự do ư chí (libre arbitre), nó đă từng là một đầu đề tranh luận gay go sôi nổi trải qua nhiều thế kỷ.
Một trong những điểm quan trọng nhất của thuyết Luân Hồi là nó nhấn mạnh về sự hiện hữu của quyền tự do ư chí. Một điều lầm lạc rất thông thường của những người tin tưởng ở thuyết Luân Hồi và Nhân Quả, là họ cho rằng số mạng con người đă được định sẳn từ trước.
Một sự tin tưởng sai lầm như thế có những hậu quả rất tai hại về mặt tâm lư và đạo đức tâm linh, v́ nó làm xuống tinh thần và làm tê liệt ư chí tiến thủ của con người. Thái độ buông xuôi, thụ động của người Ấn Độ, là một dân tộc phần đông tin tưởng ở thuyết Tiền Định, đă chứng minh cho điều tai hại của sự lầm lạc kể trên.
Chúng ta nên biết rằng mỗi cái hắt hơi, mỗi vết muỗi cắn, hoặc mỗi lần dự tiệc, không phải là đă tiền định hằng bao nhiêu thế về trước. Phần nhiều những chi tiết về cuộc đời chúng ta đều hoàn toàn do chúng ta định đoạt bằng tư tưởng và ư chí ngay trong lúc hiện tại.
Thật ra, tất cả những sự việc xảy ra trong đời chúng ta, từ việc quan trọng như việc hôn nhân đến việc nhỏ mọn như việc ăn một cái kem chẳng hạn, đều do chúng ta định đoạt. Những sự khó khăn trắc trở nó đè nặng lên vai chúng ta bây giờ đều là kết quả của những lỗi lầm mà chúng ta đă gây nên trong quá khứ do sự định đoạt của chính ḿnh.
Những sự khó khăn đó dường như đến với chúng ta từ bên ngoài, bởi v́ chúng ta đă quên những hành động của ta trong dĩ văng và tầm nhỡn quang của chúng ta quá ngắn ngủi nên chúng ta không thể nh́n thấy sự liên quan giữa những hành động đă qua với cuộc đời chúng ta trong lúc hiện tại.
Như thế nếu chúng ta hiểu rơ định luật Luân Hồi, th́ sự tranh luận giữa hai vấn đề tự do ư chí và định mệnh đă được giải quyết. Chúng ta sở hữu quyền tự do ư chí chẳng khác nào như một con chó bị buộc dây nơi cổ; nói một cách khác, con chó được hoàn toàn tự do đi đứng, chạy nhảy tùy theo ư muốn trong cái tầm của sợi dây dài hay ngắn.
Cũng y như thế, luật Nhân Quả định đoạt cái tầm sợi dây dài hay ngắn của mỗi người trong chúng ta; chúng ta được hoàn toàn tự do trong cái tầm giới hạn đó. Vấn đề tự do ư chí này kêu gọi sự chú ư của những người khảo cứu các tập hồ sơ soi kiếp của ông Cayce về vấn đề hôn nhân và nhất là những cuộc soi kiếp cho những người đưa ra những câu hỏi về bạn trăm năm của ḿnh sau này.
Các cuộc soi kiếp luôn luôn cho biết rằng việc hôn phối giữa hai vợ chồng là do những sợi dây duyên nghiệp tạo nên; tức là những cặp uyên ương sắp sửa đi đến hôn nhân đều là những người quen nhau từ kiếp trước, nhưng họ đă quên và ngày nay họ gặp nhau trở lại để cùng thanh toán những món duyên nghiệp nợ nần chung giữa hai người.
Tuy nhiên, trong vấn đề hôn nhân cũng như trong tất cả mọi vấn đề khác, luôn luôn vẫn có quyền tự do ư chí và tự do chọn lựa. Dầu cho giữa hai người có một sợi dây duyên nghiệp nó biểu lộ bằng một sự hấp dẫn mănh liệt, sự phối hợp của họ trong lúc hiện tại không phải luôn luôn là cần thiết hoặc nên khuyến khích. Dưới đây là hai cuộc vấn đáp ngắn để diễn tả sự việc kể trên:
1. - Hỏi: Tôi có nên kết hôn với anh chàng trai trẻ đang tỏ t́nh với tôi lúc này chăng?
Đáp: Hai người vốn có duyên nghiệp với nhau từ trước. Nhưng tốt hơn cô đừng nên làm hôn phối với y.
2.- Hỏi: Cuộc hôn nhân của tôi với F.S. Có thể giúp cho sự phát triển chung của chúng tôi chăng?
Đáp: Có thể được, nhưng chúng tôi thấy rằng có nhiều người khác mà cô có thể phối hợp để cùng nhau phát triển một cách điều ḥa và phát triển hơn nữa. Đó là những người mà kiếp trước cô đă có tạo nghiệp duyên từ hồi thời kỳ văn minh cổ Ai Cập.
Dầu sao, sự chọn lựa phải là ở tự nơi cộ Thật ra, cô có một món nợ nghiệp duyên với F.S. Mà cô cần phải trả cho dứt, nhưng phương tiện dở nhứt là kết hôn với y!
Khi mà ông Cayce ngăn cản một cuộc hôn nhân, dầu cho trong những trường hợp hai người có dây duyên nghiệp với nhau, người ta có thể giải thích bằng nhiều cách. Trước hết, có thể rằng trong kiếp này những người ấy cần phải học những bài học kinh nghiệm khác, quan trọng hơn là sự liên hệ giữa vợ chồng.
Cũng có thể rằng một người, hoặc cả hai, đều chưa đủ chuẩn bị sẳn sàng để đối phó với vấn đề hôn nhân. Hoặc cũng có thể rằng cuộc hôn nhân trù liệu là một hành phạt quá nặng nề đối với sự lỗi lầm trước kia của đương sự. Và sau cùng, cũng có thể rằng hai người trong cảnh xa nhau, sẽ học bài tâm linh đó một cách hữu hiệu hơn là trong sự sum họp vợ chồng.
Những cuộc soi kiếp thường không nói rơ lư do v́ sao trong mỗi trường hợp, đương sự nên đi đến hôn nhân hay là không nên. Dẫu cho trong những trường hợp mà hôn nhân được coi như một giải pháp tốt đẹp, ông Cayce cũng để cho đương sự hăy tự quyết định lấy.
Ông ít khi nào đưa ra một quyết định thế cho người trong cuộc. Thái độ căn bản đó đă hiện rơ ràng trong trường hợp dưới đây của một cặp uyên ương đến hỏi ư kiến ông về việc họ có nên kết hôn với nhau chăng?
Cuộc soi kiếp cho biết rằng họ đă cùng nhau trải qua hai lần kinh nghiệm về việc vợ chồng, một lần ở Ba Tư và một lần ở Ai Cập. Đó là cái lư do của sự hấp dẫn mănh liệt nó thu hút hai người lại với nhau trong kiếp này.
Về cuộc hôn nhân của họ, cuộc soi kiếp không nói dứt khoát, mà cho biết rằng: "Nếu giữa hai người có một sự ḥa hợp về lư tưởng và mục đích, th́ hôn nhân có thể là một kinh nghiệm tốt đẹp."
Người thiếu nữ hỏi ông câu này: "Mỗi người trong chúng tôi có thể kết hôn với một người nào khác mà lại có hạnh phúc nhiều hơn là nếu hai chúng tôi kết hôn với nhau chăng?" Ông Cayce đáp: "Nếu cô hỏi như thế, tôi có thể trả lời bằng cách đưa ra cho cô danh sách của hai mươi lăm hay ba mươi người khác. C̣n đi đến hôn nhân hay không, th́ đó là vấn đề mà cô hăy tự giải quyết lấy."
Trong vài trường hợp, lời khuyên được đưa ra một cách dứt khoát như sau:
Hỏi: Tôi có nên lập gia đ́nh với người đàn ông đă làm lễ đính hôn với tôi chăng?
Đáp: Không nên!
Tuy nhiên, trong phần nhiều trường hợp, cuộc soi kiếp vẫn để cho đương sự được hoàn toàn tự do lựa chọn. Nhưng đồng thời, ông Cayce cũng đưa ra những tiêu chuẩn để d́u dắt đương sự trong việc chọn lựa đó. Một người đàn ông hỏi: "Cô M.L. Có thể là người vợ hiền và xứng đôi với tôi chăng?"
Ông Cayce đáp: "Điều đó phải tự Ông quyết định, chớ không phải tôi! Ngoài ra sự thích hợp với nhau về phần trí năo và thể chất, giữa hai người có sự ḥa hợp về khía cạnh tâm linh hay không? Hai người có cùng chung một lư tưởng một mục đích hay không? Nếu không, th́ này ông bạn hỡi... Hăy coi chừng?"
Trong thí dụ sau đây, một người đàn bà hỏi rằng trong bốn người đàn ông muốn thành hôn với cô, cô nên chọn lựa người nào? Cuộc soi kiếp cho biết: "Điều đó tùy ở nơi lư tưởng mà cô theo đuổi. Mỗi người trong số bốn người đă có liên hệ với cô trong quá khứ, có người th́ giúp đỡ nhưng có người lại làm chướng ngại cho bà.
Nếu tôi khuyên cô nên tránh người nọ, hoặc nên chọn người kia, th́ tức là đặt cô ở vào một vị trí sai lầm, và cũng đặt luôn cả những người kia ở cái vị trí đó nữa. Chính cô phải lựa chọn lấy, và cái tiêu chuẩn phải là hướng về một cuộc đời phụng sự. Cô hăy nhớ rằng tất cả mọi người đều tự do."
Căn cứ vào những tài liệu kể trên, người ta có thể suy diễn ra cái nguyên tắc chọn lựa người bạn trăm năm của ḿnh. Người ta có thể nói rằng phần nhiều những cuộc hôn nhân đều căn cứ trên sắc đẹp và sự hấp dẫn của thể xác. Theo quan điểm những cuộc soi của ông Cayce, th́ sự hấp dẫn về phần trí tuệ và sự ḥa hợp tinh thần.
Một cuộc hôn nhân có hạnh phúc phải căn cứ trên cái nền tảng tam giác đó, cũng như trên ba cái chân vạc vững chắc. Nếu một trong ba khía cạnh đó bị thiếu sót, th́ cuộc hôn nhân ấy bị què hết một chân!
Lư tưởng của một người phải tương xứng, hoặc ít nhất là xấp xỉ bằng nhau với cái lư tưởng của người bạn trăm năm, trên mỗi phần của ba phương diện nói trên; nếu không th́ ngy cơ sụp đổ và thất bại chua cay đang ŕnh rập hầu kề một bên.
Kết hôn một cách vội vàng cẩu thả, không suy nghĩ chín chắn về những điều quan trọng kể trên, tức là tự chuốc lấy điều tai họa, khó khăn trắc trở vậy.
Khi chúng ta cảm thấy một sự hấp dẫn mănh liệt đối với một người khác phái, chúng ta hăy cẩn thận đề pḥng. Cẩn thận tức là phải nh́n thấy xa để khỏi tưởng lầm rằng một sự hấp dẫn thể chất và dục t́nh sẽ trở nên một cuộc hôn nhân hạnh phúc, và coi chừng kẻo lại vô t́nh mà châm lửa vào cái ng̣i thuốc súng của một t́nh trạng quả báo sắp sửa nổ bùng!
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 224 of 1146: Đă gửi: 18 June 2010 lúc 8:29pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG BÍ ẨN CỦA CUỘC ĐỜI
NHỮNG THIẾU PHỤ CÔ ĐƠN
Chương Mười Bốn
Khi người ta xét vấn đề hôn nhân theo quan điểm Luân Hồi với những nhân quả, nghiệp duyên từ những kiếp quá khứ xa xôi, người ta không khỏi tự hỏi rằng tại sao có những người lại sống cô đơn mà không lập gia đ́nh?
Có nhiều phụ nữ, mặc dầu họ có một dung nhan khá đẹp và những tính nết b́nh thường, nhưng cơ hội kết hôn không bao giờ đến với họ. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đă giải thích vấn đề này như thế nào?
Có một câu tục ngữ Pháp nói về vấn đề hôn nhân như sau: "Hôn nhân cũng ví như một thành tŕ bị bao vây: Những người ở ngoài th́ muốn sấn vào, c̣n những người ở trong th́ muốn chạy ra!" Câu này tuy có vẻ trắng trợn, nhưng lại rất đúng.
Hôn nhân đă làm cho nhiều người đau khổ, đến nỗi người ta phải ngạc nhiên mà thấy rằng vẫn c̣n có rất nhiều những kẻ muốn lọt vào ḷng, không màng nghĩ đến những điều hăm dọa của nó đối với sự yên tĩnh của tâm hồn, và chỉ nh́n thấy những điều vui sướng mà nó hứa hẹn!
Mặc dầu người ta đă biết rằng hôn nhân có những sự khó khăn đau khổ như thế, nhưng những người độc thân nói chung thường cảm thấy rằng họ thiếu mất một cái ǵ quư báu, và cảm thấy đời sống khô khan, vô vị: Họ đă bỏ lỡ một cuộc đời!
Tự nhiên là trong t́nh trạng đó, yếu tố t́nh dục đóng một vai tṛ quan trọng. Sống độc thân, ít nhất ở những xứ gọi là "Văn minh" có nghĩa là hoàn toàn tiết dục, hay tiết dục một cách tương đối với người đàn ông.
Ở xă hội Tây Phương ngày nay, sống độc thân, nhất là đối với người đàn bà, là một sự "Lỗi thời" và là một điều "Bất hạnh". Những trường hợp kể ra dưới đây đều là những trường hợp của phụ nữ, v́ trong các tập hồ sơ Cayce, phụ nữ tỏ ra băn khoăn thắc mắc về vấn đề này nhiều hơn đàn ông, và những trường hợp đau khổ của họ cũng rơ rệt hơn.
Cô đơn! Có một cái ǵ tẻ lạnh ở trong danh từ này, một cái ǵ buồn thảm không thể nói ra cho xiết. Cũng như câu "Hội ngộ lần cuối cùng" có lẽ là câu nói buồn nhất trong ngôn ngữ của những kẻ yêu đương, th́ câu "Tôi sống độc thân" có lẽ là câu nói buồn nhất mà một người thốt ra về cái hoàn cảnh của ḿnh.
Nếu không có một sự soi sáng tâm linh để giải pháp cho vấn đề này, th́ sự độc thân có lẽ là một trong những vấn đề khó khăn, tẻ lạnh nhất của đời người.
Dưới đây là trường hợp của một người đàn bà luôn luôn cảm thấy khổ sở v́ phải sống một cuộc đời quạnh hiu, đơn chiếc. Cô là một người đàn bà Na Uy rất đẹp và duyên dáng, và làm thơ kư ở New York.
Cô đă trải qua hai đời chồng, người chồng trước qua đời sau khi thành hôn qua một thời gian rất ngắn; sau đó tái giá một người khác lớn tuổi hơn nhiều, những cuộc hôn nhân này lại không có hạnh phúc, và cuộc ly dị đă đến rất mau.
Cô không có con, tất cả những người thân trong gia đ́nh đă qua đời, và chỉ c̣n trơ trọi có một ḿnh. Nghề làm thư kư giúp cho cô có cơ tiếp xúc với nhiều người, nhưng đó chỉ là những sự xă giao bề ngoài. Cô ước mong tái giá lần nữa, nhưng dịp may không thấy đến và nay chỉ sống cô đơn.
Khi yêu cầu ông Cayce soi kiếp, những câu hỏi của cô biểu lộ một tâm sự buồn thảm và đau thương: "Tại sao tôi lại bị cô đơn tẻ lạnh như vầy? Có một lư do đặc biệt nào khiến cho tôi không thể t́m thấy một tấm ḷng bầu bạn tri kỷ trong hôn nhân? Tại sao tôi lại bị thất bại như vầy?" Cuộc soi kiếp cho biết rằng t́nh trạng cô độc này có một nguyên nhân sâu xa.
Hai kiếp về trước ở Na Uy, cô đă làm một việc lầm lạc tai hại nó gây nên cái t́nh trạng bi đát hiện nay: Cô đă tự tử trong một cơn thất chí! Trong kiếp trước đó, cô là mẹ của hai đứa trẻ nhỏ và chồng cô v́ một lư do nào đó, bị trục xuất ra khỏi làng. Sau khi sinh con thứ hai, cô quá thất vọng và nhảy xuống vực sâu tự tử. Cuộc soi kiếp nói: "Bởi đó trong kiếp này, cô thường có những lúc hiu quạnh, sầu thảm, hầu như không thể chịu nổi!"
Quả báo trong trường hợp này thật là rơ rệt. Trong một lúc thất vọng, người đàn bà này đă tự tử, làm cho chồng con bị thiếu mất đi cái t́nh tŕu mến săn sóc mà họ cần nơi người vợ và người mẹ. Cô đă không đếm xỉa đến bổn phận gia đ́nh, tinh thần danh dự và trách nhiệm đối với chồng con, và bởi đó cô tạo nên cái hoàn cảnh bơ vơ lạc loài trong kiếp này.
Chỉ khi nào người ta bị thiếu thốn t́nh cảm, th́ người ta mới biết cái giá trị của nó. Đó là một trường hợp đáng cho ta suy gẫm. Nó không những xác nhận sự minh triết của Hội Thánh Gia Tô về việc cấm đoán tự tử như một tội nặng, mà c̣n biểu dương sự thật này là chúng ta phải trả lời về mọi hành vi của ḿnh, mọi cử chỉ lănh đạm, thản nhiên, bơ thờ, khinh bạc, mọi sự lạm dụng và hành vi trái đạo của ḿnh trong đời sống hằng ngày.
Trường hợp cô đơn dưới đây cũng gần giống như trường hợp trên, tuy rằng với những chi tiết khác hẳn. Đó là một người đàn bà Anh, dạy học ở một trường mẫu giáo và rất mong muốn lập gia đ́nh.
Cha mẹ đă qua đời từ khi cô c̣n nhỏ; cô được các bà d́ nuôi nấng, nhưng trong một bầu không khí lănh đạm khô khan và nghiêm khắc, mà kết quả là làm cho cô không thể hài ḥa với những người cùng đồng một lứa tuổi. Suốt đời cô cảm thấy cô độc đơn chiếc, cách biệt với mọi người, và những khuynh hướng của một tâm hồn khép chặt đă biểu lộ nơi cô.
Cô đă trải qua một cuộc t́nh duyên, nhưng đó chỉ là một sự hấp dẫn về thể chất, và mối t́nh này đă chấm dứt khi sự khác biệt nhau về tâm tính với người yêu càng ngày càng biểu lộ rơ rệt.
Từ đó trở đi, cô cảm thấy cuộc đời dường như trống rỗng và vô vị. Cô làm việc sốt sắng và thành công về phương diện nghề nghiệp; thông minh lanh lợi và biết giúp đỡ người khác. Tuy nhiên, thỉnh thoảng có những lúc cô đắm ch́m trong một cơn thất vọng sầu thảm, kéo dài nhiều tuần và khó nguôi.
Trong những cơn khủng hoảng đó, cô thường nghĩ đến sự tự vẫn. Người ta không thể tưởng tượng rằng một người đàn bà vừa có nhan sắc vừa khôn ngoan lại có thể bị những cơn thất chí buồn bực sâu xa như thế.
Cuộc soi kiếp cho biết rằng bốn kiếp trước, cô sống ở Ba Tư và đă tự tử kh những bộ lạc Ả Rập tấn công xứ này. Trong kiếp đó, cô là con gái của một người tù trưởng trong xứ, và bị bắt làm tù binh của vị vương quốc Ả Rập, cùng một lượt với những người khác.
Sau đó, cô bị đem gả làm hầu thiếp cho một viên phó tướng Ả Rập, sinh hạ một đứa con gái, và sau đó ít lâu bị mất trí nên tự vẫn. Đứa con gái nhỏ sống vất vưởng không người nuôi dưỡng giữa bọn tướng giặc, cho đến một khi có một vị giáo sĩ đi hành hương thấy vậy bèn động ḷng trắc ẩn đem em bé ấy về nuôi cho đến khi lành mạnh.
Cuộc soi kiếp cho biết rằng người mẹ đă tự tử chỉ v́ không thể chịu khuất phục theo ư muốn của người khác; và "Linh hồn này đă thất bại trong sự thử thách đó, cô tự tử chỉ v́ muốn thỏa măn ḷng tự kiêu của ḿnh, chứ không phải v́ lư do tự vệ để bảo tồn trinh tiết, hay giữ ǵn lư tưởng."
Cuộc soi kiếp không cho biết rằng người đàn bà có tâm địa kiếu căng, ngă mạn, tự tôn và thà rằng cô tự hủy ḿnh chớ không chịu bị đè nén khuất phục, mặc dầu y c̣n có một trách nhiệm với đứa con gái nhỏ mới sinh ra.
Xét về tâm tính của cô trong kiếp này, nó biểu lộ dưới những cử chỉ tự do và hiên ngang như đàn ông, người ta sẽ hiểu rằng có lẽ cái thói tự kiêu của cô trong kiếp sống ở Ba Tư, chính là điều chướng ngại ngăn cách cô với phái đàn ông trong kiếp hiện tại. Chính sự thiếu mềm dẻo, tế nhị, sự cứng cỏi ương ngạnh của cô làm cho bọn đàn ông tránh xa và không muốn làm thân.
Điều lạ lùng là trong kiếp này, cô luôn luôn mong muốn có con. Nếu các bà d́ của cô không ngăn cản, th́ có lẽ cô đă nuôi một đứa con nuôi từ lâu. Có một điều cô mang theo từ kiếp trước, là cô thường nghĩ đến sự tự vẫn.
Từ khi có cuộc soi kiếp đưa đến sự giải thích hợp lư về t́nh trạng của cô, cô không c̣n coi sự tự vẫn như một lối thoát nữa, v́ hiểu rằng những ǵ mà cô muốn trốn tránh trong lúc hiện tại, sẽ trở lại với cô trong một tương lai về sau.
Tuy thế, trong một cuộc soi kiếp nữa, cô được biết rằng cô c̣n có thể hy vọng một cuộc hôn nhân trong kiếp này, nhưng vào lúc quá tuổi xuân; và trong khi chờ đợi, cô nên giúp đỡ bằng mọi cách những người mà cô tiếp xúc trong đời sống hằng ngày. Khi hỏi rằng c̣n bao lâu nữa cô mới có được cái hạnh phúc đó, th́ được trả lời rằng: "Khi nào cô tỏ ra xứng đáng th́ điều đó sẽ đến."
Có những lúc khác, cô được biết rằng hiện nay cô đang ở trong một thời kỳ thử thách. Khi cô hỏi: "Tại sao trong khoảng năm năm vừa qua, cô không hề gặp được một người đàn ông nào?" th́ câu trả lời đó là: "Đó là để thử thách cái mục đích chính của cô trong kiếp hiện tại."
Trên đây là hai trường hợp mà sự tự tử và bỏ con cái bơ vơtrong kiếp trước đă gây nên cái quả báo cô đơn tẻ lạnh, và thất vọng trong sự mơ ước thành lập gia đ́nh trong kiếp này.
Trong những tập hồ sơ Cayce, c̣n có một trường hợp thứ ba; đó là của một nữ giáo sư âm nhạc ở tiểu bang Texas, Hoa Kỳ; bà này cũng ở trong một t́nh trạng tương tự với những lư do giống nhau: Cô đă tự tử trong kiếp trước dưới thời kỳ quân chủ ở nước Pháp.
Tuy nhiên người ta không thể căn cứ vào ba trường hợp để đi đến một kết luận chung về quả báo của những người bị sống trong cảnh cô đơn, độc chiếc, mà sự tự tử có lẽ là nguyên nhân gây ra trong kiếp trước.
Ông Manly Hall, tác giả quyển "Luân Hồi: Một lẽ Tuần Hoàn Cần Thiết Của Đời Người," nói rằng quả báo của sự tự vẫn là trong kiếp sau, đương sự sẽ bị chết vào lúc mà y ham muốn sống và yêu đời nhất. Trong các hồ sơ Cayce, không thấy có trường hợp nào xác nhận điều đó, nhưng xét ra th́ nó rất hợp lư.
Tuy nhiên, sự cô đơn và không chồng trong kiếp hiện tại có thể có nhiều nguyên nhân khác. Thí dụ như trường hợp dưới đây cho ta thấy có một lư do khác hẳn. Xét về trường hợp này, người ta nghĩ đến câu nói của ông Oscar Wilde: "Trong đời chỉ có hai điều khổ: điều thứ nhất là muốn mà không được; điều thứ hai là: được như ư muốn!"
Câu nói mâu thuẫn lạ kỳ này căn cứ trên sự kiện rằng con người v́ bởi vô minh nên thường xét đoán sai lầm giá trị của cuộc đời. Những chuyện đời xưa kể chuyện một bà tiên cho một người kia được đưa ra ba điều ước nguyện rồi y sẽ được như ư muốn.
Câu chuyện ấy chỉ cho chúng ta thấy rằng con người thường có những ước vọng dại dột điên rồ, và phải gánh chịu lấy hậu quả tai hại của sự dại dột ấy. Câu chuyện ấy có một ư nghĩa tượng trưng rất thâm trầm về hai sự kiện này: Một là phần đông người đời không biết rơ họ muốn ǵ; và hai là sự đau khổ của con người là phần nhiều do bởi những sự ước vọng sai lầm, v́ thiển kiến, vô minh, và thiếu óc sáng suốt.
Trường hợp sau đây đă xảy ra hồi thời kỳ ở châu Atlantide, và đương sự hăy c̣n chịu sự quả báo ở kiếp này. Đó là một người đàn bà độ 40 tuổi, có một thân h́nh nặng nề và thô kệch, nhưng điều này một phần lớn là do bởi sự thiếu thể dục và sinh hoạt cẩu thả. Bà không bao giờ dùng đồ trang sức; quần áo mặc cũng rất xuề x̣a, không theo thời trang.
Bà chọn y phục theo tiêu chuẩn tiết kiệm và ích lợi hơn là để chưng diện và làm đẹp. Bà có những nét mặt đều dặn và nếu được săn sóc ở mỹ viện th́ bà có thể trở thành một phụ nữ rất đẹp. Ngoài ra bà cũng có những cử chỉ duyên dáng, mặn mà, dễ thương.
Tŕnh độ văn hóa chỉ đến mức tiểu học; bà làm việc trong các nhà máy và làm việc thủ công để nuôi thân. Trong một cuộc trắc nghiệm tâm lư, bà có điểm cao nhất về mặt giao tế xă hội và tôn giáo, v́ những thích thú lớn nhất của đời bà là đọc các sách Thánh Kinh tôn giáo, và làm việc cứu tế xă hội dưới một h́nh thức nào đó.
Tuy vậy, bà vẫn sống một cuộc đời cô độc, đơn chiếc. Những người trong gia đ́nh không ai cùng chia sẻ những quan niệm của bà về tôn giáo; trong đời bà, bà không hề biết có ǵ gọi là hương vị ái t́nh, hay t́nh yêu lăng mạn.
Nói về quan điểm tâm lư, người đàn bà này thuộc về một trường hợp rơ rệt của sự "Phản ứng nam tính" (Protestation masculine), nghĩa là từ chối hay phủ nhận vai tṛ nữ tính của ḿnh. Sự phản ứng này biểu lộ rơ rệt trong cái thái độ hiếu chiến và chống đối những ǵ thuộc về nữ tính của bà; thí dụ như việc không chịu trang điểm hay làm đẹp để hấp dẫn bọn đàn ông.
Khoa tâm lư học có thể đưa ra một giải thích về thái độ đó, nhưng sự giải thích này vẫn c̣n hăy rất thiếu sót. Cuộc soi kiếp bằng Thần Nhăn của ông Cayce đă đưa ra sự giải đáp cho vấn đề này.
Trong kiếp cuối cùng của bà vừa rồi, bà là một thân nhân của Thánh Jean Bastiste, và nhờ đó bà sinh trưởng trong một bầu không khí đạo đức thâm nghiêm. Điều đó cũng là cái nguyên nhân làm cho bà có khuynh hướng tín ngưỡng tôn giáo trong kiếp này.
Trong tiền kiếp kế đó, bà sinh làm đàn ông ở xứ Palestine thời cổ, tại đây y làm nghề thợ mộc và thợ đồng; điều này dường như đă để lại cho bà những quan niệm thực tế và những khả năng về máy móc trong kiếp hiện tại. Trong kiếp trước nữa, bà là một người đàn bà có địa vị cao ở châu Atlantide, tại đây, một mối t́nh dang dở trong đời đă đem đến cho bà một sự xáo trộn tinh thần và nhiều đau khổ.
Kết quả là "Inh hồn này quyết định từ nay về sau sẽ không bao giờ yêu một người nào có thể làm cho bà bị thất vọng và gây cho bà những vết thương ḷng." Và đó là cái nguyên nhân làm cho bà quyết định sống tự do ngoài ṿng trói buộc và đau khổ của t́nh trường. Bởi đó, t́nh trạng độc thân và đơn chiếc của bà trong kiếp này không phải là do quả báo gây ra.
Trong trường hợp này không có sự liên hệ về nhân quả như trong những trường hợp tự tử đă kể trên, mà chỉ có sự hành động của nguyên tắc liên tục, nó tùy nơi sức mănh liệt của sự ham muốn. Ngày xưa, bà đă quyết định thái độ là sẽ không bao giờ yêu ai, nhất là không để cho t́nh cảm lôi cuốn bà đến bọn đàn ông.
Bà có quyết định này, không phải do một điều ước nguyện tâm linh hay do ḷng bác ái; mà là do ư muốn của bản ngă, quyết không bao giờ để cho bị hạ thấp nhân cách của ḿnh v́ ban rải t́nh yêu cho kẻ khác. Trong giai đoạn trung gian, bà không bao giờ t́m thấy có lư do nào để thay đổi thái độ.
Và ngày nay, bà phải chịu những hậu quả hợp lư cua cái quyết định đó, cho đến khi nào bà có thể thay đổi ư định và thái độ xử thế về vấn đề này.
Cuộc soi kiếp không cho biết rơ rằng bà có hy vọng thành hôn hay không trong kiếp này. Nhưng ít nhất, bà đă cố gắng để có thể đem sự săn sóc và t́nh thương cho kẻ khác. V́ thiếu t́nh yêu, bà mới nhận thấy cái giá trị của nó. Trong sự cô đơn, bà đă thấy sự chai ḷng, sắt đá của ḿnh xưa kia là một điều tội lỗi cần phải được sửa đổi.
Nhà tâm lư học Carl Jung nói rằng mỗi người đều có đủ hai phần nam tính và nữ tính trong bản chất của ḿnh, nhưng cái nọ có phần trội hơn cái kia, tùy theo trường hợp riêng của mỗi người. Linh hồn người hàm xúc những khả năng tiềm tàng chưa khai mở thuộc về phái đối tượng.
Sự kiện tâm lư này, mà ông Carl Jung đă khám phá sau nhiều năm khảo cứu t́m ṭi, hoàn toàn phù hợp với quan niệm trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce về nguồn gốc và sự tiến hóa của con người. Nam và Nữ đều có những đặc tính riêng; đại khái như uy lực, cương cường, tranh đấu, hung bạo, thuộc về nam tính; sự hiền từ, dịu dàng, mềm mỏng, thụ động, thuộc về nữ tính.
Người thuần Nam tính là một người rất thiếu sót và bất toàn. Bởi đó y cần được bổ khuyết bằng những đức tính thuộc về phái Nữ. Trong hôn nhân, hai tính nam và nữ đều bổ trợ cho nhau đến một mực độ nào đó, do sự hội hiệp của những đức tính tương phản nhau. Trong một cặp vợ chồng, mỗi người đều dung ḥa, bổ khuyết, sửa đổi lẫn cho nhau.
Nhưng sự sửa đổi này vẫn hăy c̣n bất toàn. Trong một kiếp sống ở thế gian, một người trội hơn về phần Nam tính không đủ dung ḥa bằng những đặc điểm nữ tính của người vợ y, và trái ngược lại. Nhưng nhiều kiếp sống liên tục làm đàn ông và đàn bà giúp cho con người có những kinh nghiệ bổ trợ dung ḥa lẫn nhau.
Một lần nữa, thuyết Luân Hồi đưa đến cho ta một giải đáp về các vấn đề khó khăn: Chính do nhiều kiếp luân hồi sinh tử mà con người mới có thể phát triển tâm linh một cách hoàn toàn.
Bất luận rằng những nguyên nhân của sự cô đơn hiu quạnh là như thế nào, dầu cho đó là sự tự vẫn, sự quyết định không yêu ai, hay một lư do nào khác, người ta phải nh́n nhận rằng t́nh trạng độc thân là một cơ hội để tu tiến về phần nội tâm và về phương diện tiến hóa tâm linh.
Muốn có bạn, ta phải tỏ ra sự thiện chí và t́nh thân hữu; muốn được yêu, ta phải ban rải t́nh thương. Bằng cách trau dồi t́nh thương và ḷng bác ái để cho xứng đáng với nguyện vọng ḿnh, những kẻ cô đơn hiu quạnh có ngày cũng sẽ đạt được hạnh phúc của t́nh yêu.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 225 of 1146: Đă gửi: 18 June 2010 lúc 8:36pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG BÍ ẨN CỦA CUỘC ĐỜI
THẮC MẮC VỀ VẤN ĐỀ HÔN NHÂN
Chương Mười Lăm
Khi hai người quyết định làm bạn trăm năm với nhau, họ tạo nên một sự phối hợp về nhân quả, và ùng chịu một sự tác động về tâu lư. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce về vấn đề hôn nhân đưa ta những ư niệm tổng quan về việc chọn lựa bạn trăm năm, cùng những sự liên hệ của hôn nhân trong dĩ văng và tương lai.
Chúng ta có thể nói rằng trong vấn đề hôn nhân, cũng như mọi vấn đề khác, mỗi người đều dùng ư chí tự do của ḿnh trong việc lựa chọn bạn trăm năm. Sự lựa chọn này chẳng khác nào như người ta lên xe ô tô buưt, một khi đă lên xe, người ta phải noi theo một lộ tŕnh nhứt định, một chiều hướng đă định saün, khác hẳn với lộ tŕnh và chiều hướng của một chiếc xe khác.
Ngoài ra, những hoàn cảnh và tiện nghi trên xe có thể không hoàn toàn đúng với sở thích của chúng tạ Người tài xế có thể là một người cộc cằn thô tục, không khí trong xe nóng nực bực bội, những cánh cửa sổ rất khó mở, hoặc người ngồi bên cạnh nói nhiều quá! Nhiều sự việc bất ngờ có thể xảy ra trên chiếc xe số 92 mà không xảy ra trên chiếc xe số 41.
Nhưng thái độ và cách cư xử của chúng ta trong chuyến đi đều tùy ở nơi ḿnh, và dầu cho hoàn cảnh xung quanh diễn ra như thế nào, rốt cuộc chúng ta đều chịu trách nhiệm về cái thái độ và cách xử thế của ḿnh. Có nhiều trường hợp về hôn nhân mà những cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng do nghiệp quả gây nên.
Trong trường hợp lạ lùng sau đây, thật không có một bi kịch nào đau thương cho bằng, và bàn tay sắp đặt của định mệnh thật rất công b́nh và vô cùng mầu nhiệm. Đó là trường hợp của một thiếu phụ rất đẹp, thành hôn vào năm 23 tuổi. Nàng có đôi mắt xanh đẹp, một mái tóc vàng dợn sóng xơa xuống tận vai, một vóc người tầm thước, và một dung nhan mỹ lệ của một nữ tài tử điện ảnh.
Dầu cho vào năm 40 tuổi là lúc nàng được ông Cayce soi kiếp, nàng vẫn có một vẻ đẹp tuyệt trần làm cho mọi người phải quay đầu nh́n và trầm trồ khen ngợi mỗi khi nàng bước vào chỗ đông người. Những người bạn trai giàu có sang trọng có lẽ phải lấy làm ngạc nhiên nếu họ biết được cuộc đời tư của nàng.
Trong 18 năm kết t́nh chồng vợ với một nhà kinh doanh thương măi rất có danh thế và tiếng tăm, nàng đă trải qua một kinh nghiệm rất khó khăn và thất vọng về phương diện t́nh ái. Chồng của nàng bị chứng bịnh bất lực. Người ta thấy ở đời thường có những người đàn bà không hề cảm thấy dục t́nh, và không bao giờ ham muốn những sự luyến ái trong khuê pḥng; đối với những người ấy th́ t́nh trạng bất lực của người chồng không phải là một điều chướng ngại quan trọng lắm.
Nhưng đối với người thiếu phụ kể trên, đẹp đẽ, duyên dáng, lăng mạn đa t́nh và tràn đầy nhựa sống, th́ đó là một cái thảm trạng thật sự! Thảm trạng này có thể giải quyết bằng một cuộc ly dị và sẽ chấm dứt dễ dàng, nhưng người thiếu phụ này lại không thể dùng cái biện pháp dứt khoát đó. Nàng vẫn yêu chồng và không muốn làm cho chồng đau khổ.
Trong những năm đầu tiên, có một thời kỳ nàng đâm ra dang díu với những người đàn ông khác, không phải v́ muốn phản bội chồng, nhưng chỉ là để thỏa măn sự nhu cầu về sinh lư và t́nh cảm. Nhưng lần lần, nàng chế ngự được dục t́nh, môt phần lớn là nhờ sự học hỏi đạo lư và tập quan thiền quán tưởng.
Và cuộc đời nàng cứ trôi qua một cách b́nh thản như thế từ 18 năm nay, trước khi cơn khủng hoảng xảy đến. Một trong những người yêu cũ của nàng trước kia lại xuất hiện trên bước đường đời của nàng. Trong bức thơ gởi ông Cayce, nàng kể chuyện như sau:
"Khi chúng tôi gặp nhau, ngọn lửa t́nh lại nhen nhúm mănh liệt trong ḷng y, và tôi cũng đáp lại mối t́nh đó. Nhưng sức khỏe của tôi lại giảm sút trở lại như hồi trước khi tôi bắt đầu học hỏi đạo lư. Có lẽ tôi sẽ không ngần ngại mà tư t́nh với y nếu y không có gia đ́nh.
Tôi không muốn bỏ chồng v́ những lư do mà ông có thể hiểu, và cũng v́ chồng tôi đă tiến bộ rất nhiều về sự cải tao tánh t́nh... Có thể rằng những cảm t́nh của tôi đối với người đàn ông kia không phải là ái t́nh, mà là do t́nh trạng đặc biệt của gia đ́nh tôi gây nên. Dầu sao y cũng là người có tính nết khá.
Y yêu tôi từ hồi tôi c̣n nhỏ, nhưng tôi không hay biết ǵ cả và chỉ nghe mẹ tôi nói lại. Y không tỏ t́nh với tôi v́ y tự thấy c̣n chưa đủ sức lập gia đ́nh.Nhưng về sau th́ đă quá trễ, v́ tôi đă đính hôn với chồng tôi. Tất cả những hoàn cảnh cho tôi thấy sự hành động của luật Nhân Quả, dường như có thể truy nguyên từ ba kiếp về trước của chúng tôi.
Thỉnh thoảng tôi đă cùng chung chăn gối với y, một lẽ là v́ y quá yêu đương và có thể thất vọng đến hủy ḿnh. Sau nữa, tôi hy vọng rằng làm như vậy, y sẽ được thỏa măn dục t́nh, để cho y thoát khỏi sự cuồng vọng của yêu đương...
Sau cùng tôi đă đoạn tuyệt với y v́ tôi không muốn đóng tṛ giả dối với vợ y và gieo sự rối rắm trong gia đ́nh ỵ Tôi quen biết và cũng có cảm t́nh với vợ ỵ Xă hội sẽ lên án những mối t́nh vụng trộm như thế. Tôi không muốn làm khổ một người nào.
Y cũng không có sự ác cảm với vợ y, mặc dầu vợ y thường dày ṿ đay nghiến y suốt nhiều tuần không dứt. Vợ y có thể làm sôi nổi thành to chuyện nếu vợ y biết được câu chuyện ngoại t́nh này. Chồng tôi biết rằng tôi thỉnh cầu sự giúp đỡ của ông, nhưng y không biết chi cả về chuyện này."
Đó là bức thơ của người thiếu phụ để giải bày tâm sự thắc mắc trong cuộc đời của cộ Câu chuyện cũng khá bi ai; nhưng cuộc soi kiếp c̣n tiết lộ nhiều điều bí ẩn trong cuộc đời quá khứ của người thiếu phụ, nó tạo nên t́nh trạng hiện nay, và chỉ cho ta thấy hành động của Luật Quả Báo thật là vô cùng đúng đắn và mầu nhiệm.
Trong hai kiếp về trước ở Pháp, hồi thời kỳ xảy ra cuộc Thánh Chiến (Croisades), người thiếu phụ này tên là Suzanne Merceilieu, cũng là vợ của người chồng cô bây giờ. Ông Merceilieu, chồng cô trong kiếp đó, là một trong những người có óc phiêu lưu, và cuộc Thánh Chiến ở vùng Cận Đông xa xôi càng nung nấu chí giang hồ của ông.
Và cũng như nhiều người khác có ḷng tín ngưỡng nhiệt thành, cuộc đời tư của ông lại hoàn toàn tách biệt với những nguyên tắc đạo đức mà ông tin tưởng và đề cao! Theo quan niệm của ông, th́ Thánh Địa Jérusalem, nơi an nghỉ cuối cùng của Đấng Cứu Thế, phải được giải phóng khỏi sự xâm lăng của những người "Ngoại đạo."
Nhưng c̣n vấn đề áp dụng t́nh bác ái mà đấng Cứu Thế đă dạy đối với vợ Ông, th́ dường như ông không bao giờ nghĩ đến! Bởi đó, khi ông sửa soạn lên đường tham gia cuộc Thánh Chiến để bảo vệ tôn giáo Gia Tô chống những kẻ "Ngoại đạo," th́ đồng thời ông cũng muốn bảo vệ một chuyện khác: đó là sự mất trinh tiết của vợ Ông.
E rằng ḷng tín ngưỡng tôn giáo của vợ Ông không đủ nhiệt thành để giúp cho bà ấy có một ḷng hy sinh tuyệt đối, cũng như ḷng hy sinh của chính ông, và thay v́ sự an ủi bằng cách nương ḿnh trong hai cánh tay khỏe mạnh của một gă đàn ông khác, ông ta bèn dùng những biện pháp cần thiết để làm cho một sự "An ủi" như thể không thể thực hiện được.
Hồi thế kỷ thứ 12 ở Âu Châu, có một thứ khí cụ rất xảo diệu gọi là cái đai trinh tiết mà về sau người ta cũng được biết ở Pháp vào năm 1935 và ở New York năm 1931, ở tại đây đă xảy ra hai vụ án về việc có những người đàn bà bị chồng bắt buộc đeo cái đai trinh tiết này.
Cái đai này gồm có những mảnh sắt và da kết lại, bao bọc phần dưới thân ḿnh của người đàn bà, và được khóa lại bằng một ống khóa với một ch́a khóa riêng, để cho người đàn bà không thể ngoại t́nh với người đàn ông nào khác. Chính bằng cách đó mà ông Merceilieu muốn bảo đảm cho vợ Ông khỏi ngoại t́nh trong khi ông đi vắng.
Cuộc soi kiếp của ông Cayce nói về vấn đề này như sau: "Linh hồn này thuộc về hạng người chồng nghi kỵ và bị bắt buộc phải đeo một khí cụ chướng ngại làm cho đương sự rất khổ sở bực bội."
Danh từ "Bắt buộc" chỉ rằng bà Merceilieu không thỏa thuận về việc này từ lúc đầu. Câu sau đó chỉ rằng về sau bà ấy c̣n đau khổ hơn nhiều và "Quyết định sẽ trả thù khi có dịp thuận tiện. Sự cưỡng ép phải giữ ǵn trinh tiết làm cho bà ta có những quyết định tai hại; và chính những quyết định này đă gây ra cho bà ta cái t́nh trạng hiện nay theo sự hành động của luật Nhân Quả."
Bây giờ chúng ta hăy phân tách để t́m hiểu sự thưởng phạt công b́nh của luật nhân quả trong trường hợp này. Người đàn ông trong kiếp trước đă dùng loại khí cụ máy móc để gây sự chướng ngại khó khăn về t́nh dục cho vợ y, bị trả quả bằng cách chính y bị bịnh bất lực trong kiếp này.
Thật không có quả báo nào đích đáng hơn nữa. Mới xem qua th́ h́nh như có sự bất công mà thấy rằng một người đàn bà bị áp chế một cách tàn nhẫn như thế, lại phải chịu thiệt tḥi về phương diện sinh lư đến hai lần. Nhưng sự bất công đó chỉ là ở bề ngoài, v́ tội lỗi con người gây ra không phải chỉ là do những hành động bên ngoài mà thôi, nó c̣n do những ư tưởng, âm mưu, ác ư, và trạng thái trong tâm hồn.
Người đàn bà này đă bị chồng cưỡng ép một cách bất công. Phản ứng của nàng đối với sự nghi kị và cách đối xử tàn nhẫn đó, là một ḷng căm hờn và ư nghĩ trả thù. Theo chỗ chúng ta thấy, th́ ḷng căm thù đó không biểu lộ ra ngoài bằng cử chỉ, nhưng quyết định trả thù vẫn có. Trong một trường hợp trước đây, chúng ta đă thấy rằng một quyết định có thể tồn tại suốt nhiều thế kỷ.
Quyết định trả thù của một người sẽ tạo ra một cơ hội thuận tiện cho nàng thi hành ư định ấy. Trong kiếp này, người thiếu phụ ấy có một sắc đẹp lộng lẫy, yêu kiều, và vô cùng hấp dẫn.
Nàng kết hôn với một người đă làm khổ ḿnh trong một kiếp trước, và lần này có đủ mọi yếu tố cần thiết để làm cho chồng phải phát điên lên v́ ghen tuông, để hạ nhục chồng trước những bạn bè thân thuộc, hoặc gây sự đau khổ cho chồng bằng một cuộc ly dị. Nàng c̣n muốn ǵ hơn nữa? C̣n cơ hội nào thuận tiện hơn nữa để trả thù một cách hoàn toàn, đích đáng, và vẻ vang?
Nhưng, trong thời kỳ trung gian, nàng đă tiến triển về phương diện tâm linh. Từ nay nàng không thể nào có ác cảm đối với bất cứ một người nào. Những bức thư của nàng từ đầu đến cuối đều tiết lộ sự đa cảm. Nàng có thể ngoại t́nh dang díu với người t́nh nhân cũ, một sự ngoại t́nh mà nàng có thể dấu chồng một cách dễ dàng.
Nhưng nàng không thể chịu nổi cái ư tưởng làm khổ người vợ kia, khi người này biết được câu chuyện t́nh vụng trộm ấy. Bởi đó, nàng cố giữ ḿnh. Sức khỏe về thể chất và t́nh cảm của nàng cần có sự thỏa măn sinh lư nhưng vẫn yêu chồng và không đ̣i ly dị. Nàng hy sinh sự đ̣i hỏi của dục t́nh, sắc đẹp và nhựa sống của thời son trẻ để giữ một ḷng son sắc và trung thành.
Theo lời lẽ bí hiểm nhưng tất có ư nghĩa trong cuộc soi kiếp, "Nàng đă gặp lại chính ḿnh." Trong cái t́nh trạng hiện tại, nàng đă gặp lại sự quyết định cũ hồi thuở xưa, và đă chuộc lấy lỗi cũ. Nàng đă thành công trong sự thử thách tự đặt cho ḿnh từ sáu thế kỷ về trước.
Thánh kinh có nhắc câu Chúa nói như sau: "Sự báo thù là ở trong tay Ta: Ta sẽ trả đủ. V́ mọi sự vay trả đều phải được thanh toán ṣng phẳng, và tai họa sẽ đến với kẻ nào chưa thanh toán xong những món nợ cũ!" Hai câu Thánh Kinh trên đây ám chỉ rằng người ta có thể tin cậy vào luật nhân quả để trừng phạt kẻ tội lỗi; rằng người ta không cần phải băn khoăn về sự kẻ đồng loại bằng chính bàn tay của ḿnh.
(Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là xă hội không có quyền tự bảo vệ chống lại kẻ sát nhân. Sự lên án kẻ vi phạm luật pháp là một hành động hợp lư của xă hội để duy tŕ nền an ninh công cộng và hạnh phúc của số đông người. Đó chỉ là sự áp dụng một cách vô tư; hành động lên án không phải là một cử chỉ báo thù.)
Trong tập hồ sơ Cayce c̣n có một trường hợp khác về thảm kịch gia đ́nh cho việc dùng đai trinh tiết trong một kiếp của đôi vợ chồng nọ hồi thời kỳ Thánh Chiến. Trong trường hợp này, luật quả báo hành động có hơi khác một chút. Theo lời tường thuật của người vợ, th́ chồng nàng là một người rất kiên nhẫn, dịu hiền và thông cảm.
Tuy nhiên, sau tám năm chung sống gia đ́nh, người đàn bà ấy vừa được 32 tuổi, vẫn luôn luôn sợ hăi sự chung chăn gối với chồng. Người ta có thể hiểu rằng chỉ một sự kiện ấy cũng đủ làm cho t́nh trạng trở nên khó khăn; nhưng nó c̣n phức tạp hơn v́ người vợ lại thầm yêu trộm nhớ và say mê một anh chàng ca sĩ sân khấu người Ư, bạn của gia đ́nh nàng.
Cuộc soi kiếp giải thích lư do sự sợ hăi chung chạ với chồng là do bởi kiếp trước người đàn bà này bị chồng cưỡng ép dùng đai trinh tiết trong hồi thời kỳ người chồng phải đi tùng chinh trong trận Thánh Chiến. Luật quả báo hành động thật đúng đắn v́ người đàn ông này phải chịu hậu quả của hành động kể trên bằng cách có một người vợ kém cỏi về đường t́nh dục và rất sợ không muốn ngủ chung với y!
Sự kiện rằng người vợ chịu khổ sở v́ những rối rắm trong gia đ́nh gây nên bởi sự khủng hoảng t́nh dục kể trên cũng là một quả báo của ỵ Đối với việc bị cưỡng ép mang đai trinh tiết hồi kiếp trước, th́ phản ứng của nàng là ḷng căm thù. Và ḷng căm thù tạo nên dây oan nghiệt. Cuộc soi kiếp cho biết: "Những sự nghi nan và sợ sệt trong kiếp này là do bởi ḷng thù hận nung nấu tiềm tàng ở kiếp trước.
Cái nhân xấu đó phải được tiêu trừ bằng sự thông cảm và ḷng ưu ái ở kiếp này. V́ bà phải biết tha thứ, nếu bà muốn được tha thứ. "Sự say mê anh chàng ca sĩ nguyên nhân là do bởi một kinh nghiệm khác: Người ca sĩ này là t́nh nhân của nàng trong một kiếp trước ở Đông Phương. Đáp lại câu hỏi "Bây giờ tôi phải làm ǵ?" Cuộc soi kiếp nói: "Bà hăy làm công việc ǵ phù hạp với cái lư tưởng mà bà đă lựa chọn."
Một lần khác, người ta lại thấy có yếu tố sợ hăi trong một trường hợp với một nguyên nhân khác hẳn. Xét về sự đau khổ do quả báo đưa đến th́ câu chuyện này thật là bi đát; nhưng theo quan điểm phân tách tâm lư, th́ trường hợp sau đây tŕnh bày những tài liệu rất hay để giúp cho ta nghiên cứu sự tương quan của luật Nhân Quả, sự di truyền và ảnh hưởng của hoàn cảnh.
Hồi đó vào năm 1926, người đàn bà viết như sau:
"Tôi quá đau khổ đến nỗi tôi sắp sửa phát điên và tự tử. Tôi là người đàn bà vô phước nhất đời, và để làm dịu bớt đau khổ, tôi phải dùng chất ma túy. Mẹ tôi là người đă chịu đau đớn vô ngần v́ đẻ khó hết sáu lần. Suốt đời tôi đă từng nghe mẹ tôi nói về sự đau đớn khi sinh đẻ.
V́ vậy khi tôi có chồng cách 18 năm nay đến giờ, tôi sợ mang thai đến nỗi tôi phải xa chồng yêu quư của tôi v́ tôi không thể chung chạ được với ỵ Tôi đă cầu nguyện; tôi đă áp dụng thử khoa tâm lư, khoa chữa bịnh thần kinh, thậm chí đến khoa học Công giáo...
Nhưng không kết quả. Ông hăy xem tôi c̣n hy vọng nào chăng? Tôi muốn có con và tôi vẫn yêu chồng, nhưng sự chung chăn gối làm cho tôi sợ hăi, và bây giờ th́ tệ hơn bao giờ hết, v́ như tôi đă nói, tôi saün sàng tự tử. Tôi vừa muốn tự vẫn trong tuần này, th́ nghe nói về công việc của ông làm... "
Cuộc soi kiếp truy nguyên tấn thảm kịch của người đàn bà này ở hai kiếp trước. Trong kiếp đó nàng sống một cách ích kỷ, xa hoa và say mê thú vui vật chất dưới thời hoàng triều nước Pháp. Đó là một cuộc đời nhộn nhịp vui tươi, nhưng nàng đă gieo hột giống cho tấn thảm kịch nối liền theo sau: Cùng với những nhà khai thác thuộc địa đầu tiên đến Bắc Mỹ Châu, nàng sinh hạ được sáu đứa con và về sau nh́n thấy tất cả sáu đứa con bị thiêu sống.
Cuộc soi kiếp: "Linh hồn này không dứt sợ sệt suốt đời nàng kể từ khi đó. Nàng đă mất tin tưởng nơi đấng Thiêng Liêng và nuôi ḷng oán hận Chúa Trời v́ không che chở cho nàng và cho các đứa con. Bởi đó trong kiếp này nàng sợ có con, và chịu mọi hậu quả của sự sợ sệt đó." Tấn thảm kịch xảy ra hồi thời kỳ khai thác thuộc địa ở Bắc Mỹ có thể hiểu được.
V́ chúng ta biết rằng chỉ có sự thất bại về vật chất, người ta mới quay trở về những vấn đề tâm linh. Nhưng trong khi nàng đang phải trả quả báo cũ, th́ vô t́nh lại gây thêm nghiệp quả mới. Dầu cho đối với một người đàn bà ích kỷ, việc phải nh́n thấy sáu đứa con chết thiêu là một sự đau khổ rất lớn.
Nhưng nàng không vượt qua nổi cơn thử thách đau khổ này. Y phải chọn một trong hai điều phản ứng: Một sự đành cam số phận với một ḷng thương nảy nở dồi dào; hoặc một sự sợ hăi với một tấm ḷng đầu oán hận; nàng đă chọn lựa cái phản ứng sau này.
Trong số những ư nghĩ mà người ta có thể có đối với tai họa xảy đến, chẳng hạn như: "Tai học này đến với ta là do ư muốn của Thượng Đế. Ư muốn đó tuy khó lường, nhưng chắc hẳn là rất công b́nh."
hoặc là: "Tai họa này đến với ta là do sự bất công của một đấng Thượng Đế tàn nhẫn và độc ác."
hoặc là: "Do sự t́nh cờ may rủi của một cái vũ trụ khô khan không mục đích và không có Thượng Đế." th́ người đàn bà ấy đă lựa chọn cái ư nghĩ thứ ba và cuối cùng.
Và như thế, nàng c̣n có một bài học cần thiết phải học thuộc là: "Một t́nh thương bác ái bao la sẽ đánh đuổi sự sợ sệt." Nàng phải dứt bỏ cái quan niệm ích kỷ và duy vật đối với cuộc đời; phải tập mở ḷng thương rộng lớn bao la để thương yêu người chồng.
Để thương yêu những linh hồn sẽ đầu thai và chọn nàng làm mẹ; để kính yêu cái quyền năng sáng tạo, thiêng liêng mà trời phú cho người đàn bà làm vợ và làm mẹ. Nói tóm lại, để thương yêu tất cả với tấm ḷng bác ái vô biên đến nỗi những sự sợ hăi về sự đau đớn của thể xác không thể nào biểu lộ được nữa.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 226 of 1146: Đă gửi: 18 June 2010 lúc 8:39pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG BÍ ẨN CỦA CUỘC ĐỜI
NGOẠI T̀NH VÀ LY DỊ
Chương Mười Sáu
Trong tất cả những xứ theo chế độ một vợ một chồng, th́ sự ngoại t́nh là một việc vẫn thường xảy ra. Sự giải thích căn bản của hiện tượng này có lẽ là v́ lư do sinh lư, theo như câu ngạn ngữ dưới đây của một tác gia vô danh đă biểu lộ t́nh trạng ấy: Higamus, pigamus (Nam đa thê) Hogamus, pogamus (Nữ nhất phu).
Trong những nguyên nhân của vấn đề ngoại t́nh, ngoài ra yếu tố sinh lư lẽ tất nhiên c̣n có những yếu tố xă hội và tâm lư khác nữa. Những nếu muốn người ta áp dụng thuyết Luân Hồi, th́ thật là một điều lư thú mà t́m hiểu xem sự ngoại t́nh có thể là do vấn đề nhân quả hay không? Những tập hồ sơ của Cayce có ghi chép ba trường hợp đáng kể mà sự ngoại t́nh dường như do nhân quả gây nên.
Trường hợp thứ nhất là của một thiếu phụ có hai con, mà người chồng đi ngoại t́nh với một người đàn bà khác trong tám năm. Người vợ chỉ biết được việc ấy trong hai năm sau cùng. Trong cuộc soi kiếp, nàn hỏi tại sao phải chịu một sự phụ bạc đau đớn như thế? Câu trả lời là: "Đó là trong kiếp trước bà đă ngoại t́nh với một người đàn ông khác."
Trường hợp thứ hai là của một phụ nữ phản bội chồng một cách trắng trợn trong kiếp trước, dưới thời Hoàng Triều trong nước Pháp. Hiện nay nàng đă sống lại những hành vi tương tự với người chồng nàng bây giờ, người này chính là t́nh nhân của nàng trong kiếp trước.
Trường hợp thứ ba là của một người đàn bà mà người chồng trong năm đầu tiên sau khi thành hôn, bắt đầu chè chén say sưa và chơi bời đàn điếm. Có nhiều lần, y lại đem người đàn bà khác về nhà. Người vợ vẫn trung thành và sống chung với chồng, khi chồng nàng không đem t́nh nhân về nhà; rốt cuộc nàng lại mắc phải bịnh phong t́nh do người chồng sang quạ Cuộc soi kiếp truy nguyêncái thảm trạng của người đàn bà này ở kiếp trước.
Trong kiếp trước, nàng là đứa con hoang của một người thủy thủ Mỹ và một người đàn bà Nhật. Có lẽ sự kiện này gây cho nàng cái ư niệm rằng nàng là một kẻ ngoài ṿng pháp luật. Khi lớn lên, nàng tự thả trôi theo một cuộc đời chơi bời trụy lạc. Không bao lâu, nàng đă gieo rắc bịnh phong t́nh cho nhiều người đàn ông khác. Cuộc soi kiếp nói: "Bởi những nghiệp xấu gây ra đă đem lại quả báo cho đương sự trong kiếp này."
Nói tóm lại, những trường hợp kể trên dường như chỉ rằng sự phản bội của một người chồng hay vợ là do nhân quả gây nên. Những thí dụ đó không phải để chứng minh rằng tất cả mọi trường hợp ngoại t́nh đều là do quả báo. Việc Dũng phản bội Tuyết có thể do nơi quả báo mà Tuyết phải chịu v́ Tuyết đă phản bội Sơn trong một kiếp trước; nhưng dầu sao sự ngoại t́nh của Dũng cũng có thể do những khuyết điểm trong tâm tính của Tuyết bây giờ.
Sự ngoại t́nh rất có thể chỉ là một phản ứng nhất thời đối với một t́nh trạng hiện tại. Muốn biết xem một trường hợp ngoại t́nh có phải là do nhân quả hay không, nếu chúng ta không có Thần Nhăn để xem quá khứ, th́ ta cần phải xét cả những yếu tố lỗi lầm hay khuyết điểm của người vợ hay người chồng lúc hiện tại, nó làm cho đương sự đi t́m nguồn an ủi ở một người t́nh nhân khác.
Theo luật nhân quả, nếu một người đă ngoại t́nh trong quá khứ, th́ phải chịu quả báo tương đương trong hiện tại. Chỉ bằng cách đó mà người ta có thể phát triển những đức tánh trung thành và t́nh thương đối với kẻ khác. Chính v́ bởi cái lư do cần thiết đó trong sự giáo dục và đào luyện tâm tính, mà những cuộc soi kiếp của ông Cayce nhiều khi khuyên không nên ly dị.
Nếu một người phải học một bài học tâm linh trong một cuộc hôn nhân đau khổ, th́ nàng không có lợi ǵ mà đoạn tuyệt và trốn tránh, v́ sớm hay muộn ǵ, người ấy cũng phải tự tạo lấy một sức mạnh tinh thần cần thiết để đối phó với nghịch cảnh đó.
Tuy nhiên, những cuộc soi kiếp không hề ngăn cấm sự ly dị một cách tuyệt đối, mà có nhiều trường hợp lại tán thành sự ly dị. Những tiêu chuẩn để xét đoán xem một trường hợp ly dị là nên hay không nên, dường như có hai loại: Bổn phận đối với những đứa con và bổn phận giữa hai vợ chồng lẫn nhau.
Những trường hợp mà ông Cayce khuyên nên ly dị một cách rơ rệt thường là những trường hợp mà hai vợ chồng không có con. Hoặc nếu có con, th́ đó là những trường hợp mà sự ly dị sẽ có lợi cho những đứa con; những trường hợp mà bài học nhân quả đă được thấm nhuần; hay là những trường hợp mà một trong hai vợ chồng không đối phó nổi với hoàn cảnh và lôi cuốn cả hai người kia xuống vực sâu.
Một trường hợp điển h́nh là của một người đàn bà ở tiểu bang New Jersey, 49 tuổi, không có con, và trong hôn nhân không có hạnh phúc. Cuộc soi kiếp khuyên nàng nên bỏ chồng và nên dùng khả năng của ḿnhd để đi dạy học. Cuộc soi kiếp nói: "Hôn nhân là một việc tốt, đó là một đời sống tự nhiên cho một linh hồn ở trên thế gian.
Nhưng khi nào đời sống giữa vợ chồng thiếu sự điều ḥa đến nỗi làm ngăn trở sự thực hiện những mục đích căn bản của cuộc đời, nó là cái lẽ sống của một linh hồn ở cơi trần, và nếu sự mất điều ḥa ấy quá rơ rệt, không thể sửa đổi được nữa, th́ tốt hơn là hai người nên phân ly nhau.
Hăy nên biết tự trong thâm tâm rằng bà nên thực hiện công việc mà bà có bổn phận phải làm ở cơi trần. Tuy rằng bà bắt đầu hơi trễ, nhưng bà c̣n có thời giờ làm được nhiều việc bằng cách dạy dỗ những em gái trẻ thơ..
Một thí dụ trái ngược hẳn với thí dụ trên, là trường hợp của một người đàn bà lớn hơn chồng đến hai mươi tuổi. Giữa hai người có một sự bất ḥa rất lớn; người chồng say sưa chè chén quá độ, đánh đập vợ con và có một cách cư xử rất thô bỉ. Cuộc soi kiếp không có nói đến vấn đề quả báo trong trường hợp này, nhưng không khuyên hai người ly dị.
Cuộc soi kiếp nói: "Giữa hai người đă xảy ra những xung đột và bất đồng ư kiến. Hai người đừng t́m cách tránh xa nhau, mà hăy có một thái độ thản nhiên, ḥa hươn với nhau. Đừng để ư quá nhiều đến những sự khinh rẻ hay trách móc, giận hờn; mà hăy biết rằng thật ra bà chỉ gặt hái những ǵ bà đă gieo. Vậy bà hăy cố gắng săn sóc giúp đỡ chồng trong mọi trường hợp và làm cho người chồng tất cả những ǵ mà bà muốn chồng bà sẽ làm cho bà... "
Người ta có thể nghĩ rằng trong trường hợp này, đương sự có một bài học nhân quả cần phải học, hay là một món nợ quả báo cần phải trả. V́ không có đủ bằng chứng soi xét bằng Thần Nhăn về những sự việc xảy ra trong các kiếp trước, người ta nh́n nhận rằng thật không dễ ǵ mà biết được lúc nào là lúc nên đoạn tuyệt và ly dị.
Có một định luật quân b́nh trong vũ trụ nó hành động một cách thường xuyên, va dầu cho ta có những hành động ích kỷ như thế nào, không có cái ḷ lửa nào để đốt tan sự ích kỷ đó một cách hữu hiệu hơn là cái ḷ hôn nhân. Bởi đó, chúng ta hăy chấp nhận những khó khăn, trắc trở trong đời sống vợ chồng với một tinh thần hy sinh và nên biết rằng cái phàm ngă của ta phải chịu những đắng cay, thử thách, để cho cái Chơn Ngă của ta có thể biểu lộ và phát triển.
Xét v́ người bạn trăm năm đến với ta do bởi dây nhân duyên đă có từ trước; xét v́ không phải do sự ngẫu nhiên t́nh cờ, mà do ư muốn của Chơn Ngă nó d́u dắt ta đến gặp gỡ và sống trong một hoàn cảnh nhất định nào đó, dầu cho đó là một hoàn cảnh khó khăn trắc trở; xét v́ giữa sự bất ḥa có một cơ hội cho ta tiến hóa bằng sự quên ḿnh và hành động vị tha, nên chúng ta coi sự ly dị hầu như một điều thiếu sót.
Trái lại nếu chúng ta nh́n nhận rằng không có một chế độ nào có quyền cưỡng ép bất cứ một người nào sống trong sự giam hăm trói buộc, nó là nguồn gốc của mọi sự xung đột, bất ḥa và trái hẳn với tâm t́nh tánh chất của y; rằng những viên ngọc quư của một mối t́nh vị tha không nên đem quăng cho những con lợn ích kỷ, th́ chúng ta sẽ hoan nghinh sự ly dị như một biện pháp hợp lư và lành mạnh, cũng như chúng ta hủy bỏ một bản hợp đồng hay khế ước không hợp pháp chẳng hạn.
Như thế chúng ta đă trở về với sự quân b́nh, sự Ôn ḥa, và theo cái luật lệ vàng của con người trung đạo.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 227 of 1146: Đă gửi: 18 June 2010 lúc 8:45pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG BÍ ẨN CỦA CUỘC ĐỜI
NGHIỆP QUẢ GIỮA CHA MẸ VÀ CON CÁI
Chương Mười Bảy
Trong nhiều thế kỷ, gia đ́nh là một tổ chức riêng biệt mà người gia trưởng là người cha, hay người mẹ, theo phong tục ở một vài xứ. Những tổ chức gia đ́nh ấy vẫn luôn luôn tồn tại ở khắp nơi. Theo một quan niệm duy vật, người ta coi những trẻ con như là một sở hữu của cha mẹ của chúng:
Chúng sinh ra do bởi sự mang nặng đẻ đau và hy sinh của người mẹ; chúng được nuôi dưỡng do bởi sự làm lụng khó khăn vất vả của cha mẹ. Nói về phương diện vật chất, những người làm cha mẹ có một thể chất khỏe mạnh hơn, già dặn hơn thông minh hơn những đứa con; v́ lẽ đó, họ có quyền ngự trị trong gia đ́nh.
Nhưng nói về phương diện tâm linh, th́ không hề có vấn đề cha mẹ là tuyệt đối cao cả hơn con cái. Tất cả sinh linh trong Trời Đất đều là những đơn vị b́nh đẳng của toàn thể một cơ cấu rộng lớn. Trên b́nh diện tâm linh, cha mẹ không có sở hữu con cái, thậm chí cũng không phải là những người sáng tạo ra con cái.
Họ chỉ là những phương tiện cho những linh hồn của những đứa con mượn chỗ đầu thai ở cơi thế gian. Một sự vận hành mầu nhiệm trong cơ thể họ khiến cho họ giao hợp với nhau trong một lúc và làm vận chuyển một cơ cấu cũng không kém mầu nhiệm, mà kết quả là sự cấu tạo và sinh sản ra một thể xác hài nhi. Cái thể xác đó trở nên chỗ nương ngụ của một linh hồn khác cũng tiến hóa như chúng ta.
Linh hồn ấy nhất thời bị yếu kém và không biết nói, trách niệm và bổn phận của chúng ta trong sự nuôi dưỡng cho nó lớn lên, đều là những kinh nghiệm rất quư báu cho tạ Đó là những kinh nghiệm giúp ta khai mở đức hy sinh và bác ái, với một tấm ḷng thương cảm và tŕu mến sâu xa thâm trầm.
Những sự việc tốt lành kể trên chỉ xảy ra khi người làm cha mẹ không có ḷng chiếm hữu và áp chế con cái dưới một h́nh thức nào đó. Trong quyển "The Prophet", ông Khalil Gibran viết như sau:
"Con cái của anh sinh ra, không phải là của anh.
Chúng nó chỉ là con cái của "Sự sống bất diệt trường tồn"
Chúng nó do bởi anh sinh ra, chớ không phải là của anh.
Và tuy chúng sống chung với anh trong một nhà,
nhưng chúng không thuộc quyền sở hữu của anh.
Anh chỉ là những cái cung nhờ đó những đứa con anh lấy đà vùng vẫy,
chẳng khác nào như mũi tên bắn ra tận bốn phương trời.
Người Cung Thủ kéo sợi dây cung là nhằm mục đích ḥa vui, và trong khi Người yeếu cái mũi tên bay, Người cũng yêu cái cung c̣n ở lại."
Đối với con cái, những bậc phụ huynh không nên có một thái độ áp chế của kẻ bề trên, hoặc một thái độ ganh ghét ruồng bỏ. Một thái độ b́nh thản ôn ḥa là thái độ thích nghi nhất của người cha mẹ đối với con cái mà họ có bổn phận nuôi dưỡng chăm nom.
Họ chỉ có được thái độ ấy khi nào họ hiểu biết điều chân lư căn bản này, là tất cả chúng sinh, tất cả mọi sinh linh đều b́nh đẳng với nhau. Nói theo danh từ thường dùng trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce, những người làm cha mẹ là những con "Kinh vận hà" để cho nguồn sinh hoạt đi xuyên qua, và nhờ đó những linh hồn có phương tiện để đầu thai ở cơi trần.
Bởi vậy những cặp nam nữ sắp sửa thành hôn được khuyên nhủ và dặn ḍ về tánh cách thiêng liêng của sự giao hợp giữa vợ chồng. Quan điểm này đúng với quan điểm triết học Ấn Độ cho rằng vấn đề t́nh dục và sinh lư giữa nam nữ có một ư nghĩa thiêng liêng và cao quư. Nhưng bất hạnh thay, khoa Thần học cổ truyền của đạo Gia Tô lại coi mọi vấn đề liên quan đến sự sinh dục như là dấu vết của tội lỗi.
Do một sự hiểu lầm đáng tiếc về biểu tượng diễn tả trong Chương La Genèse của bộ Thánh Kinh, toàn thể nhân loại bị coi như là kết quả của "Tội lỗi nguyên thủy" gây ra bởi ông Adam và bà Evẹ Tuy rằng lễ hôn phối hợp pháp hóa sự giao hợp giữa vợ chồng, người ta vẫn nghĩa rằng con cái được sinh sản ra trong ṿng tội lỗi.
Đó là những quan niệm sai lầm về vấn đề sinh lư tự nhiên của cơ thể con người theo như ư muốn của Thượng Đế. Quan niệm sai lầm ấy có những hậu quả tâm lư rất tai hại, gây nên những sự dồn ép sinh lư, ư niệm tội lỗi và những xung đột tâm lư thuộc về loại trầm trọng và tê liệt nhứt.
Tuy nhiên, giải pháp đối tượng của vấn đề này không phải là tự do luyến ái, hay tự do thỏa măn dục t́nh. Giải pháp thích nghi là sự thông hiểu một cách tường tận rằng cơ năng sinh sản sáng tạo của con người là một quyền năng thiêng liêng. Một cuộc soi kiếp nói: "Ái t́nh và sự kết hợp với một thể xác tinh khiết là cái kinh nghiệm thiêng liêng cao quư nhất một linh hồn có thể thâu thập trong một kiếp sống ở cơi trần."
Quan điểm này được nhấn mạnh trong nhiều cuộc soi kiếp, và người ta nhận thấy nó trong những trường hợp mà một người phụ nữ muốn biết xem nàng có thể nào có con được không? Trong những trường hợp đó đương sự thường yêu cầu một cuộc khám bịnh rằng Thần Nhăn để xem nàng có thể tự chuẩn bị bằng cách nào để thụ thai và sinh sản.
Trong những cuộc khám bịnh đó, những phép điều trị về cơ thể nêu ra rất nhiều, nhưng không có ǵ khác thường. Có khác chăng là sự soi xét bằng Thần Nhăn giúp cho ông Cayce biết rơ nhu cầu của mỗi cơ thể riêng biệt của mỗi người tùy theo trường hợp.
Tuy nhiên, những cuộc soi kiếp cũng nhấn mạnh về tánh cách quan trọng của sự chuẩn bị tư tưởng và tâm linh, v́ thái độ tinh thần của người mẹ sẽ hấp dẫn những linh hồn cùng có một tâm trạng tương tự, theo luật "Đồng thinh tương ứng; đồng khí tương cầu."
Cuộc soi kiếp nói: Linh hồn này hăy nên biết rằng sự chuẩn bị tư tưởng và tâm linh là một việc có tính cách sáng tạo, cũng cần thiết như sự chuẩn bị về thể chất, có lẽ c̣n cần thiết hơn.
Đối với một người đàn bà ba mươi sáu tuổi hỏi ông rằng bà ấy c̣n hy vọng có con hay không, cuộc soi kiếp nói: "Bà hăy tự luyện ḿnh thành một khí cụ tốt lành hơn về mọi mặt thể chất, trí năo, và tâm linh. Người đời thường có thói quen chỉ xem sự thụ thai như một việc làm thuộc về thể chất mà thôi."
Một cuộc soi kiếp khác nói: "Do sự kết hợp, con người có dịp tạo nên một đường vận hà để cho đấng Tạo Hóa có thể hành động xuyên qua nàng bằng quyền năng Sáng Tạo của Ngài. Vậy đương sự hăy cẩn thận coi chừgn thái độ của ḿnh và của người bạn trăm năm của ḿnh khi các người tạo nên các cơ hội đó, v́ linh hồn đầu thai vào làm con các người sẽ có một tánh t́nh tùy thuộc một phần nào ở thái độ của cha mẹ."
Những cuộc soi kiếp cho biết rằng những mối liên hệ giữa cha mẹ và con cái không phải do sự ngẫu nhiên t́nh cờ. Những sợi dây liên lạc thường đă có saün từ những kiếp trước giữa người con với người mẹ hay người chạ Trong những trường hợp rất hiếm mà sợi dây liên lạc đó không có, th́ t́nh trạng gia đ́nh tạo nên cái hoàn cảnh thích ứng với nhu cầu tâm lư của đứa trẻ.
Những hồ sơ Cayce cho biết rằng vài đứa trẻ có một sợi dây duyên nghiệp với người cha mà không có với người mẹ, hoặc đảo ngược lại, có duyên nghiệp với người mẹ mà không có người chạ Trong những trường hợp đó, thường có một trạng thái dửng dưng giữa đứa con với người cha hay người mẹ mà nó mới quen biết lần đầu tiên trong kiếp này. Những trường hợp dưới đây chỉ cho ta thấy một cách đặc biệt nhiều mối liên hệ khác nhau giữa cha mẹ và con cái.
Hai mẹ con người kia có một t́nh mẫu tử rất khắn khít: Họ đă là hai mẹ con trong kiếp trước. Hai cha con người kia cũng có một t́nh phụ tử nồng nàn: Trong một kiếp trước họ đă là hai anh em trong một gia đ́nh. Một người mẹ không hạp với con gái của bà: Họ chưa từng có sự liên hệ ǵ với nhau ở trong kiếp trước.
Giữa một người con gái kia với người mẹ của cô ấy, chỉ có một sự dửng dưng lạnh nhạt; cuộc soi kiếp cho biết kiếp trước hai người là hai chị em ruột nhưng lại có một mối bất ḥa trầm trọng: Hai người thường xung đột căi vả lẫn nhau, và vẫn chưa ḥa thuận trở lại. Hai cha con người kia kiếp trước là hai vợ chồng.
Một người mẹ và con gái thường xugn đột lẫn nhau: Trong kiếp trước, họ là hai bạn gái tranh dành nhau một người đàn ông vàtranh dành địa vị. Trong hai mẹ con người, người con trai hay lấn át người mẹ: Trong kiếp trước, họ là hai cha con, với sự liên hệ gia đ́nh trái ngược lại.
Những trường hợp đó chỉ rằng sự hấp dẫn của con cái đến với cha mẹ là do bởi sự hành động của nhiều nguyên tắc. Những nguyên tắc đó nhiều đều ẩn dấu đối với cặp mắt phàm của chúng tạ Những hồ sơ Cayce giúp cho ta có những tài liệu suy gẫm, nhưng không có đầy đủ chi tiết để cho ta có thể dịch ra thành một định luật nhất định.
Theo luật hấp dẫn, những người đồng thanh khí và giống nhau về tâm t́nh tánh chất thường rút lại gần nhau. Nhưng đồng thời, v́ những lư do nhân quả, những kẻ thù nghịch cạnh tranh nhau và tâm tính tánh chất đối chọi nhau thường cũng hay rút lại gần nhau. Một thí dụ điển h́nh là trường hợp một đứa trẻ được ông Cayce soi kiếp khi mới lên năm tuổi.
Cuộc soi kiếp cho biết những đặc tính của đứa trẻ là thói ích kỷ, sự thờ ơ lănh đạm và ngoan cố không chịu phục thiện khi y có lỗi. Y có những khả năng tiềm tàng của một nhà khảo cứu khoa học. Trong một kiếp trước, y là một nhà sưu tầm về tiềm lực của hơi nước như là một khí cụ sản xuất tinh lực.
Ở một kiếâp trước, y là một chuyên viên hóa học chế tạo cac loại chất nổ; trong kiếp trước nữa y là một chuyên viên ngành cơ khí; và đi lùi về dĩ văng một kiếp nữa; người ta thấy y là một kỹ sư điện khí ở châu Atlantidẹ Bốn kiếp dành cho sự hoạt động tích cực về ngành khoa học thực dụng đă làm ch đương sự hoạt động tích cực về ngành khoa học thực dụng.
Đă làm cho đương sự phát triển những khả năng đặc biệt, nhưng y lại quá thiên về giá trị của khoa học vật chất mà khinh rẻ giá trị của t́nh thương, đức tính mỹ lệ, và sự hợp nhất tâm linh của mọi loài vạn vật.
Bởi đó, y có một thái độ thản nhiên lạnh lùng đối với người chung quanh. Cuộc soi kiếp c̣n cho biết rằng đứa trẻ ấy sẽ thành công vẻ vang trong kiếp này nếu nó theo đuổi ngành kỹ thuật điện khí, hay cơ khí dùng sức mạnh của hơi nước, và gồm một công việc có dùng đến sự tính toán bằng phép đại số.
Lời tiên tri đă tỏ ra hoàn toàn đúng. Đứa trẻ ấy bây giời đă trở nên một viên kỹ sư điện khí và những điểm chính trong tánh t́nh của y đều giống y như cuộc soi kiếp đă tiết lộ, tuy rằng y đă có một sự thay đổi tánh t́nh nhờ ảnh hưỡng của hoàn cảnh gia đ́nh trong kiếp hiện tại.
Nếu nói rằng theo luật đồng khí tương cầu, những người giống nhau sẽ rút lại gần nhau, th́ trng trường hợp này có lẽ đứa trẻ đă sinh ra trong một gia đ́nh khoa học trí thức, mà người cha có lẽ là một kỹ sư và người mẹ là một giáo sư toán pháp ở một trường Đại Học chẳng hạn.
Nhưng trái lại, y lại sinh ra trong một gia đ́nh gồm những người nuôi lư tưởng vị tha, không có óc hoạt động thực tế. Người cha có óc tín ngưỡng tôn giáo và thích hoạt động xă hội; người mẹ tuy rằng bề xă giao hơi kém, nhưng có khuynh hướng hoạt động xă hội do ảnh hưởng của người chạ Người anh cả của đứa trẻ cũng là một người có lư tưởng vị tha, và sự hoạt động chính của y trong đời là giúp đỡ kẻ khác.
Xét về bề ngoài, th́ sự đầu thai của một đứa trẻ như thế trong gia đ́nh kể trên không thể nói là do nhân quả gây nên. Tuy nhiên, dường như có một nguyên tắc sửa đổi, chấn chỉnh những điều thiên lệch để đem lại sự thăng bằng trong tâm tính của một con người.
Có thể rằng linh hồn đứa trẻ đă nhận thấy sự khuyết điểm của ḿnh và đă chọn lựa đầu thai vào một gia đ́nh có lư tưởng vị tha giúp đời, để cho y có cơ hội phát triển khía cạnh vị tha bác ái trong tâm tính của y.
Trong kiếp hiện tại, đứa trẻ luôn luôn có dịp tiếp xúc với những người mà mục đích chính trong đời là phụng sự kẻ khác. Óc thực tế của y thường ảnh hưởng đến những người khác trong gia đ́nh một cách lành mạnh, trái lại, lư tưởng vị tha của họ hằng ngày đều nhắc nhở cho y biết rằng ngoài ra những giá trị thực tế và vật chất của cuộc đời, c̣n có những giá trị đạo đức tâm linh.
Tuy rằng kinh nghiệm đó không có đem đến một sự thay đổi hoàn toàn trong cái giá trị căn bản của cuộc đời y là khoa học thực dụng, nhưng nó đă ảnh hưởng đến con người của y bằng cách làm cho y trở nên bớt ích kỷ khô khan và trở nên cởi mở hồn nhiên hơn về mặt giao tế ngoài xă hội.
Như thế, việc chọn lựa hoàn cảnh để đầu thai dường như đă đạt được mục đích sửa đổi tâm tính và cuộc đới của y ít nhất là một phần nào. Những tài liệu hồ sơ Cayce chứng minh một cách đầy đủ rằng những linh hồn sắp sửa tái sinh trở lại cơi trần có ít nhiều tự do trong việc chọn lựa hoàn cảnh và gia đ́nh nào họ muốn đầu thai.
Có vài bằng chứng chỉ rằng đối với những linh hồn kém tiến hóa, th́ sự tự do chọn lựa ấy có giới hạn, nhưng nói chung th́ sự lựa chọn cha mẹ để đầu thai dường như là một cái đặc quyền của mỗi linh hồn. Người ta không dễ hiểu lư do tại sao một linh hồn lại cố t́nh chịu đầu thai vào một nhà ổ chuột tôi tăm trong ngơ hẻm, với những cha mẹ bần cùng khốn khó, một thể xác yếu đuối bệnh tật, và những hoàn cảnh bất lợi khác.
Xét qua bề ngoài th́ dường như một sự chọn lựa như thế có vẻ vô lư; nhưng nếu xét kỹ người ta thấy rằng điều ấy cũng có một lư do sâu xa: Có khi một linh hồn cố ư chọn lựa một hoàn cảnh xấu xa bất lợi để làm phương tiện lấy đà, hầu có nỗ lực cố gắng vượt qua mọi chướng ngại và chiến thắng nghịch cảnh.
Có một điều lạ là sự tự do chọn lựa ấy dường như là có một ảnh hưởng đến tỷ lệ chết yểu của trẻ con. Nói chung th́ khi sinh ra, một linh hồn có thể thoáng thấy một phần nào cái viễn ảnh cuộc đời tương lai của ḿnh ở thế gian, khi y chọn lựa cha mẹ của y và hoàn cảnh để đầu thai.
Nhưng v́ con người c̣n có quyền xử dụng ư chí, tự do nên luật Tự Nhiên khiến cho y không thể nào biết trước tất cả mọi việc xảy ra trong tương lai. Sau khi đă chọn lựa cha mẹ và sinh ra ở thế gian, một linh hồn có thể nhận thấy rằng những người làm cha mẹ của y không ứng đáp lại đúng y như nguyện vọng của y sở cầu.
Bởi đó, cái mục đích của y nhắm khi đầu thai vào làm con trong gia đ́nh ấy đă hỏng, v́ y đă gặp phải những hoàn cảnh khác hẳn, nên linh hồn bèn không muốn sống nữa và tự ư rút lui.
Dưới đây là một trường hợp một thiếu phụ mà cuộc soi kiếp cho biết rằng trong một kiếp trước, nàng đă bị chết yểu. Kiếp này nàng đầu thai trở lại một gia đ́nh nọ do bởi sự hấp dẫn của người mẹ, nhưng sau khi sinh ra nàng được ít lâu th́ người cha bắt đầu say sưa chè chén, trở nên thô lỗ cộc cằn và đánh đập vợ con.
Thất vọng v́ cảnh gia đ́nh ấy, linh hồn đứa trẻ bèn quyết định không sống nữa và sau một cơn đau ốm vặt thuộc về bịnh trẻ con, nàng bèn từ giả cơi trần để trở về chốn cũ! Cuộc soi kiếp cho biết rằng những sự "Rút lui" như thế là những hiện tượng rất thông thường.
Nếu như vậy, th́ sự chết yểu của trẻ con, ít nhất trong vài trường hợp, có thể ví dụ như sư rút lui âm thầm của một khán giả đi xem hát, bị thất vọng khi xem một màn đầu không được hấp dẫn, bèn lẳng lặng đứng dậy bỏ ra về.
Trong vài trường hợp như trường hợp kể trên, một sự rút lui như thế có thể là do sự lỗi lầm của những người làm cha mẹ; nhưng trong những trường hợp khác, nó chỉ là do sự xét đoán sai lầm của linh hồn đầu thai.
Đôi khi, sự chết yểu của một đứa con vừa sinh ra có thể được coi như một kinh nghiệm đau khổ cần thiết cho những người làm cha mẹ. Đứa con chỉ sinh ra có một lúc ngắn ngủi với một tinh thần hy sinh, để đem lại cho một bài học đau khổ mà họ cần dùng, và nhờ đó họ sẽ có cơ hội tiến hóa về tinh thần.
Một điểm lư thú khác đă được xác nhận rơ ràng và nhiều lần trong những tập hồ sơ của Cayce, là lúc thụ thai không phải là lúc linh hồn của đứa trẻ nhập vào trong bụng người mẹ. Những cuộc soi kiếp thường khuyên các bà mẹ có mang hăy giữ ǵn tư tưởng trong thời kỳ thai nghén, v́ những tư tưởng của người mẹ có thể ảnh hưởng đến cái bào thai, và quyết định một phần nào về loại linh hồn nào sẽ đầu thai vào làm cho con họ.
Dưới đây là một đoạn vấn đáp trong tập hồ sơ Cayce về vấn đề này:
Hỏi: "Tôi phải có một thái độ tinh thần như thế nào trong những tháng sắp tới?"
Đáp: "Điều ấy tùy nơi loại linh hồn mà bà mong muốn sẽ đầu thai làm con bà. Nếu bà muốn con là nghệ sĩ, nhạc sĩ, bà hăy nghĩ đến âm nhạc, nghệ thuật và mỹ lệ. Bà muốn có con giỏi về máy móc chăng?
Như vậy, bà hăy nghĩ đến cơ khí, hoặc làm lụng, hoạt động với các loại máy móc. Bà chớ tưởng rằng điều ấy không có ảnh hưởng ǵ! Đây là một điều mà các bà mẹ nên biết: Tâm trạng của một người mẹ trong khi thai nghén có ảnh hưởng rất nhiều đến tánh t́nh của đứa trẻ sẽ đầu thai vào làm con các bà."
Theo những tài liệu của ông Cayce th́ linh hồn có thể nhập vào bào thai khi c̣n nằm trong bụng mẹ trước khi sinh ra, hoặc ít lâu sau khi sinh ra, hoặc ngay vừa lúc mới sinh ra. Có thể sau khi sinh ra đến hai mươi bốn giờ đồng hồ, linh hồn mới nhập vào thể xác đứa trẻ; và trong vài trường hợp, cũng có sự thay đổi vào giờ chót về linh hồn nào sẽ nhập ào.
Điều này mới nghe qua th́ dường như không đúng với thuyết Luân Hồi nếu người ta tin rằng một thể xác có thể sống mà không có linh hồn ngự trị Ở bên trong; nhưng sự thật, điều ấy không phải là hoàn toàn vô lư. Những người Thông Thiên Học gọi thể xác là cái khí cụ của linh hồn.
Chúng ta hăy thử lấy thí dụ sau đây để giải thích vấn đề kể trên: Một chiếc xe hơi đă được chế tạo xong, giàn xe đă lắp xong xuôi, bộ đồ đèn lửa đă bắt cháy; chiếc xe đă bắt đầu quay máy và động cơ đă chạy, nhưng người lái xe vẫn chưa xuất hiện và chưa vào ngồi trong xe.
Dùng thí dụ đó để so sánh th́ ta có thể quan niệm rằng khi hài nhi vừa sinh ra, thể xác của nó đă được cấu tạo đầy đủ, những bộ phận trong cơ thể đă hoạt động, mặc dầu linh hồn của đứa trẻ vẫn chưa nhập vào thể xác.
Lẽ tự nhiên, sự lư luận bằng cách so sánh không phải là luôn luôn vững chắc và xác đáng, nêu chúng ta phải dùng cách lư luận đó là v́ trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce, chúng ta luôn luôn gặp phải những điều lạ lùng như đă kể trên; và bởi v́ sự hiểu biết của chúng ta về sự bí ẩn của đời người hăy c̣n thô thiển và thiếu sót để có thể giải thích một cách xác đáng theo phương pháp khoa học.
Có người đưa ra cho ông Cayce câu hỏi này: "Cái ǵ làm cho thể xác đứa trẻ sống lại được, trước khi linh hồn nhập vào?" Câu trả lời có vẻ bí hiểm, nếu không nói là mơ màng và khó hiểu: "Đó là cái tinh thần. V́ tinh thần là nguồn gốc của vật chất, vàđó chính là Thượng Đế vậy."
Về điểm này và nhiều điểm khác nữa, người ta cần có những cuộc sưu tầm bằng khả năng khiếu Thần Nhăn. Sự sinh sản không phải là một sự t́nh cờ, và việc một đứa trẻ lọt ḷng mẹ để chào đời không phải là một điều giản dị như người ta có thể tưởng.
Về vấn đề này cũng như bao nhiêu vấn đề khác trên địa hạt nhân sinh, những cuộc soi kiếp của ông Cayce đă tỏ ra vô cùng lư thú và hữu ích v́ nó hé mở những chân trời mới lạ để d́u dắt những cuộc sưu tầm khảo cứu của người đời nay.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 228 of 1146: Đă gửi: 18 June 2010 lúc 8:55pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG BÍ ẨN CỦA CUỘC ĐỜI
VÀI NGHIỆP QUẢ GIA Đ̀NH
Chương Mười Tám
Một trong những điều buồn thảm nhất của con người là sinh ra một đứa con tàn tật. Về phương diện vật chất, điều này là một gánh nặng về sự phí tổn tiền bạc và công lao săn sóc cho đứa trẻ.
Về phương diện kinh tế, đó là một cái gánh nặng của xă hội phải nuôi dưỡng một phế nân có thụ hưởng mà không sản xuất. Về phương diện tâm linh, điều ấy gây cho con người một sự hoài nghi về ḷng nhân từ của Thượng Đế, và một sự băn khoăn lo ngại cho hạnh phúc của đứa trẻ.
Đối với những cha mẹ đau khổ đó, định luật Luân Hồi có thể đem đến cho họ ḷng can đảm và đức tin. Trước hết, theo định luật ấy th́ tất cả mọi sự tai ương, tật ách, đau khổ của con người đều là do quả báo gây nên. Trong những tập hồ sơ của Cayce có vài trường hợp những đứa trẻ bị tật nguyền từ khi mới sinh ra, nhưng lại được coi như không phải v́ lư do quả báo.
Nhưng nói chung th́ những phế tật đều là dấu hiệu rơ ràng của sự vi phạm hoặc lỗi lầm trong quá khứ. Kế đó, sự liên hệ giữa cha mẹ và đứa con bị phế tật cũng là do quả báo sinh ra. Những cuộc soi kiếp cho những đứa trẻ bị chứng sưng đầu, câm điếc, chương óc và những tật ách khác, đều luôn luôn nói rằng: "Đó là quả báo, vừa là của cha mẹ, vừa là của đứa trẻ."
Một trong những thí dụ xác đáng về loại quả báo này là trường hợp của một cô gái nhỏ người Do Thái mới mười hai tuổi, bị chứng động kinh từ thuở sơ sinh. Chứng bịnh này không những là phiền phức khi cô bị lên cơn, mà c̣n là một trở ngại rất lớn cho sự phát triển cá tính của cộ Theo cuộc soi kiếp th́ người cha, người mẹ và cô gái, ba người đă từng xum họp với nhau trong kiếp trước trong một gia đ́nh ở Bắc Mỹ hồi thời kỳ khởi nghĩa giành độc lập.
Trong kiếp đó, cha mẹ cô gái nhận thấy rằng theo chế độ cũ của người Anh có lợi về tiền bạc vật chất hơn là theo phe khởi nghĩa giành độc lập. Trong kiếp đó, nên họ hoạt động để cung cấp tài liệu tin tức cho chế độ Hoàng Gia. Cô gái là một thiếu nữ đẹp và thông minh, nhưng điều này lại là những yếu tố cần thiết có thể giúp ích cho những mưu toan của cha mẹ cô.
Thay v́ giữ cô trong nhà, cha mẹ cô lại khuyến khích cô dùng những lợi khí sắc bén và quyến rũ kia vào những mục đích chính trị có lợi cho gia đ́nh. Mặc dầu cuộc soi kiếp không nói cho biết kết quả tấn tuồng ám muội kia, nhưng nó đă vạch rơ những hậu quả của hành động ấy trong kiếp hiện tại. Xem xét những hậu quả này, chúng ta mới thấy rằng luật Nhân Quả hành động một cách mầu nhiệm và đúng đắn vô cùng, không hề suy chuyển.
Cuộc soi kiếp cho cô gái bắt đầu như sau: "Những người cha mẹ của linh hồn này nên so sánh những kinh nghiệm đă qua của họ bằng một cuộc soi kiếp cho chính họ, để nh́n thấy những bổn phận và triển vọng của họ đối với linh hồn này. Bất cứ người nào nh́n thấy sự đau khổ hiện tại của linh hồn này đều phải nhận thức sự kiện "Nhân nào quả nấy," và không ai có thể kiêu ngạo Chúa Trời, v́ ai gieo giống nào sẽ gặp giống nấy.
Sự bành trướng bản ngă và phóng đăng trụy lạc của linh hồn này trong kiếp trước đă in dấu vết trong cơ thể của cô trong lúc hiện tại, v́ ai gieo gió ắt sẽ gặp băo. Những người làm cha mẹ phải chịu trách nhiệm một phần lớn về cuộc đời ô trược đó, nhằm mục đích thực hiện những lợi lộc vật chất. Bởi đó, chính họ phải chịu gánh lấy hậu quả trong kiếp này."
Nói tóm lại, người con gái ấy bị chứng động kinh trầm trọng trong lúc hiện tại là để trả quả báo về sự chơi bời dâm đăng trong kiếp trước. Thât là một điều công b́nh mà thấy cha mẹ cô có trách nhiệm phải nuôi dưỡng săn sóc một người con mà sự sa đọa phần lớn là do sự lỗi lầm của họ gây ra.
Một trường hợp lư thú khác là của một thiếu nữ ở New York, bị mù mắt từ khi lọt ḷng mẹ. Nh́n qua các tấm ảnh của cô ta th́ cũng khá đẹp. Người mẹ yêu cầu ông Cayce khán bịnh cho cô ấy, nhưng v́ không có một cuộc soi kiếp nên không rơ tật ách mù ḷa này nguyên nhân từ đâu. Dầu sao, người mẹ cô yêu cầu một cuộc soi kiếp cho chính bà ấy, và nhờ đó người ta mới thấy rơ mối liên hệ về nhân quả giữa hai mẹ con bà ấy.
Trong một kiếp trước, người mẹ đă từng làm một giáo sự dạy học. Cuộc soi kiếp nói: "Linh hồn này đă lợi dụng một cơ hội để làm tiền và gieo sự rối rắm vào cuộc đời của một người đàn bà khác. Kiếp này hai vợ chồng y phải trả quả báo, v́ thuở xưa hai người hành động theo những mục đích ích kỷ mà không kể đến luật Trời."
Người ta chỉ có thể phỏng đoán về tánh chất thật sự của tấn bi kịch này, trong đó h́nh như người cha cũng đóng một vai tṛ. Tất cả những ǵ xảy ra, ấy là một vị giáo chức đă khai thác một người đàn bà nọ v́ lợi riêng, làm cho người kia buồn rầu và đau khổ.
Chính người đàn bà bị khai thác đó, trong một kiếp trước cũng có một nghiệp ác cần phải trả, mà quả báo là tật mù mắt. Trong kiếp này cô bèn đầu thai vào làm con gái của vị giáo chức kia, nhờ đó mẹ cô đă có cơ hội để trả quả báo cũ.
Trường hợp thứ ba là một trường hợp rất lư thú về tật khật khùng của người con v́ tội lỗi của một người mẹ. Trong một kiếp trước ở Palestine, người đàn bà kia đă chế nhạo những kẻ tàn tật, bởi đó cô gây ra những nghiệp ác làm cho cô sinh ra một đứa con thiếu trí khôn và khật khùng trong kiếp này.
Trong một trường hợp khác, đương sự là một thiếu nữ bị chứng to đầu v́ trong óc có nước, một chứng bịnh rất kỳ lạ và ít có. Người mẹ đă chết vài ngày sau khi sinh sản, và người cha đă gởi đứa con trong một nhà từ thiện Công giáo. Khi đứa con lên bốn tuổi, người cha đến xin ông Cayce soi kiếp cho nó.
Cuộc soi kiếp nói: "Em này rất thông minh, hiểu biết mọi chuyện, biết gọi tên từng người và có thể theo dơi cuộc nói chuyện lư thú. Em ấy không thể đi đứng ǵ được, v́ đầu em quá nặng và lớn quá, và em phải chú ư giữ ǵn luôn luôn cho đầu khỏi nghiêng."
V́ không có một cuộc soi kiếp nào cho em gái này nên người ta không biết rơ lư do của căn bịnh ấy. Tuy thế ông Cayce đă soi kiếp cho người cha, v́ người này muốn biết sự liên hệ giữa ông với đứa con gái trong kiếp trước là như thế nào. Câu trả lời rất vắn tắt và khô khan: "Trong kiếp trước ông có phương tiện giúp đỡ kẻ khác, nhưng ông làm ngơ không chịu giúp ai cả!
Vậy ông nên tập lấy tánh biết thương người trong kiếp này." Cuộc soi kiếp không có nói đầy đủ chi tiết để cho ta biết rơ tánh ích kỷ của ông là như thế nào. Chỉ nghe nói rằng kiếp trước, ông là một người lái buôn ở Fort Dearborn, và "Thâu thập được rất nhiều của cải vật chất, nhưng lại rất kém cỏi về phương diện tâm linh."
Xét về trường hợp kể trên, người ta thấy rằng nếu chúng ta thản nhiên và làm ngơ trước sự đau khổ của kẻ khác, chính chúng ta sẽ bị định mệnh đem đến cho ta những đau khổ đó. Một người kia có thể không quá độc ác để tích cực gây thương tổn cho kẻ khác, nhưng ông có thể không chịu làm lành cũng như ông không làm ác.
Một thái độ thản nhiên bất động như thế trước sự đau khổ của nhân loại có lẽ không phải là một tội ác lớn để gây nên một nghiệp quả tàn tật vào xác thân. Nhưng dầu sao người ta cũng phải học bài học thiện chí và thông cảm. Bằng cách này hay cách khác, người ta phải chú trọng đến những sự lầm than khốn khổ của người đời; nói tóm lại, người ta phải có ḷng nhân từ và biết thương xót kẻ khác.
Và v́ lẽ người ta không bị quả báo tật nguyền vào chính bản thân ḿnh, th́ c̣n có phương tiện nào tốt lành hơn là lănh lấy cái kinh nghiệm đau thương của người cha sinh ra một đứa con tàn phế? Do sự đau khổ nh́n thấy đứa con bị phế tật, mà người ta mới có dịp thông cảm sự đau khổ của những người làm cha mẹ Ở vào một trường hợp tương tự, và mới hiểu rơ ư nghĩa thế nào là sự đau khổ của người thế gian.
Những trường hợp vừa kể trên chỉ cho chúng ta thấy rằng giữa cha mẹ và con cái có những nhân duyên và nghiệp quả ràng buộc lẫn nhau. Ngoài ra cũng có những sợi dây duyên nghiệp giữa những anh em trong một gia đ́nh.
Trong những hồ sơ Cayce, có một trường hợp lạ lùng về sự thù nghịch giữa hai chị em nhà kia đă dẫn chứng cho điều nầy. Kể từ khi họ c̣n thơ ấu, giữa hai chị em nói trên đă có sự ganh ghét, đố kỵ và thù hằn lẫn nhau. Giữa hai chị em, luôn luôn xảy ra những xung đột căi vă, thường khi chỉ v́ những duyên cớ nhỏ nhặt không đâu. Sự thù nghịch đó không có xảy ra giữa những người anh em khác trong gia đ́nh.
Xét theo quan điểm tâm lư của Freud, th́ sự thù nghịch giữa hai chị em nhà này có thể truy nguyên ra bởi sự tranh giành t́nh thương của người chạ Nhưng theo sự quan sát bằng Thần Nhăn của ông Cayce th́ giữa hai người có một sự ghen tuông sâu xa về t́nh: Trong một kiếp trước, người chị có chồng và giữa hai chị em đă xảy ra một sự hiểu lầm về sự giao thiệp giữa người em vợ với người anh rể.
Để cho những nhân vật của tấn bi kịch này hiển hiện rơ ràng, chúng ta hăy gọi tên cô em là Loan, gọi tên cô chị là Thúy, và B́nh là chồng của Loan. Trong cuộc soi kiếp cho cô em (Loan), cô này hỏi về những mối liên hệ trong kiếp trước giữa cô với người chồng và người chị của cô ta thế nào, th́ cô nghe thuật lại câu chuyện dưới đây:
Ba người đă từng gặp nhau trong kiếp trước, trong kiếp đó, B́nh là chồng của Thúy tức là chị của Loan bây giờ. Một khi kia B́nh đau nặng, và v́ một lư do nào đó không rơ, lúc ấy B́nh lại ở cách xa với vợ ỵ Loan làm nghề nữ y tá, và nhờ sự săn sóc của cô nên B́nh chóng khỏi bịnh và phục hồi lại sức khỏe.
Sự săn sóc của Loan đối với B́nh chẳng qua chỉ là bổn phận của một cô điều dưỡng, nhưng sự chăm nom tận tụy của cô đă tạo nên giữa hai người một sự thông cảm, nó làm cho người chị là Thúy phải lấy làm cay đắng khi cô khám phá ra câu chuyện.
Sự ghen tuông vô căn cứ ấy không bao lâu đă trở nên ḷng thù hận, và sự căm hờn uất hận đă ảnh hưởng sâu xa trong tâm hồn của người đàn bà khó tính ấy đến nỗi sau nhiều thế kỷ, nó vẫn c̣n biểu lộ nơi tánh của cô trong kiếp này.
Dưới đây là một trường hợp thứ hai về nghiệp quả ràng buộc giữa một người anh trai và một người em gái, hai anh em cùng sinh tại Anh quốc. Trong cuộc Thế Chiến Thứ Hai, họ được giao cho một người đàn bà Mỹ săn sóc, người này hồi đó làm giám đốc của một trường học ở tiểu bang New England.
Người anh lên mười tuổn, c̣n cô em mới năm tuổi. Bà mẹ nuôi của hai em biết rơ tâm lư trẻ con bởi sự học về phần lư thuyết và cũng do sự thực nghiệm của một đời làm nghề dạy học. Bà ấy bắt đầu nhận thấy sự thù nghịch rơ rệt giữa hai anh em. Trong hai người th́ người anh có vẻ "Ăn hiếp" và dữ nhất.
Bà ấy yêu cầu ông Cayce soi kiếp cho cả hai đứa. Cuộc soi kiếp tiết lộ cho biết một sự kiện rất lư thú: Hai đứa trẻ trong kiếp trước là những người thuộc hai bộ lạc đối lập ở xứ Ecosse, hai bộ lạc này đă từng chia rẽ và thù nghịch nhau v́ một sự tranh chấp từ lâu đời và đă từng đánh với nhau những trận giao phong ác liệt.
Sự thù nghịch ấy tồn tại qua nhiều thế kỷ, và biểu lộ trong kiếp này qua sự thù hằn giữ hai đứa trẻ nhỏ!
Hai thí dụ trên đây cũng đủ chứng minh cho thuyết Luân Hồi quả báo và đem lại sự giải đáp cho bài toán bí hiểm về sự thù nghịch vô căn cứ giữa những anh em trong một nhà, làm cho họ bị dày ṿ khổ sở mà không hiểu lư do v́ đâu.
Mọi gia đ́nh đều có lư do xung đột căn cứ trên những đụng chạm nhất thời. Tuy nhiên những sự đụng chạm nhất thời đó có thể truy nguyên từ nhiều thế kỷ trước.
Việc t́m ra nguyên nhân ở một kiếp trước về sự thù nghịch giữa hai người, không đủ để làm tiêu tan sự thù nghịch ấy. Nếu hai người ấy không muốn kéo dài sự thù nghịch kia từ kiếp này sang kiếp khác, th́ trong kiếp này họ phải cố gắng nhẫn nại thay thế sự căm thù ấy bằng t́nh thương, và thay đổi sự đố kỵ chia rẽ kia trở thành một ḷng ưu ái và thiện cảm.
Lời khuyên trên đây không những áp dụng cho những anh em trong một nhà mà thôi, nó c̣n áp dụng cho mọi giao tế ngoài xă hội, cùng mọi sợi dây liên hệ ràng buộc chúng ta với tất cả mọi người trần gian.
Xét cho cùng, những sự thay đổi ngôi thường xuyên của chúng ta trong gia đ́nh trải qua nhiều kiếp luân hồi sinh tử, chỉ rằng thật ra chúng ta không phải là những người của một gia đ́nh riêng biệt nào cả.
Chúng ta là những phần tử của đại gia đ́nh nhân loại, và trong sự sinh hoạt hằng ngày chúng ta phải luôn luôn sống một cách có ư thức với điều Chân Lư tối trọng đó.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 229 of 1146: Đă gửi: 18 June 2010 lúc 8:58pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG BÍ ẨN CỦA CUỘC ĐỜI
NHÂN QUẢ ĐỐI VỚI CHỨC NGHIỆP
Chương Mười Chín
Tất cả mọi người trong chúng ta đều có mang trên vai một gánh nặng gồm đủ thứ sở trường và sở đoản, cùng những đức tính tốt và thói hư tật xấu, những cái hay và cái dở, ưu điểm và khuyết điểm dồn dập tích tụ từ lâu đời.
Điều này hiển hiện rơ ràng trong những cuộc soi kiếp đặc biệt của ông Cayce, nhằm mục đích giúp đỡ trong vấn đề hướng nghiệp cho một số người. Trước đây, ta đă thấy sự hành động của "Nguyên tắc liên tục" trong việc đào tạo khả năng, và v́ thế, nguyên tắc ấy đă trở nên một yếu tố quan trọng trong đời người.
Một thí dụ điển h́nh là trường hợp của một thiếu phụ làm nghề sửa sắc đẹp ở New York. Nhà cô là một mỹ viện hạng sanh, chuyên sửa sắc đẹp phụ nữ, uốn tóc, chải đầu, cùng sửa cách ăn nói, điệu bộ. Chính chủ nhân cũng là một người có sắc đẹp và cốt cách yểu điệu.
Cuộc soi kiếp cho cô tiết lộ ba kiếp trở về trước, mà dường như là chỉ có hai kiếp là có ảnh hưởng trực tiếp đến khuynh hướng nghề nghiệp của cô bây giờ. Một kiếp đó diễn ra dưới triều đại Pháp hoàng Louis 15, hồi đó cô có một ảnh hưởng lớn đối với nhà vua và hoàng triều. Trong kiếp đó, cô tập sự về nhành giao tế, lễ nghi cùng phép xă giao lịch sự, nghệ thuật trang sức và những bí quyết chưng diện sắc đẹp.
Trong kiếp trước nữa, cô sống dưới thời Đế quốc La Mă, và là một trong những người đầu tiên trong hàng quư tộc đă theo đạo Gia Tộ Thụt lùi về dĩ văng, cô đă sống ở xứ cổ Ai Cập vào khoảng 13.000 năm trước Tây Lịch kỷ nguyên, và đă từng làm việc công quả trong một ngôi đền.
Trong một kiếp dưới thời hoàng triều nước Pháp, cô đă thâu thập được những kinh nghiệm về đời sống lộng lẫy xa hoa; cô đă phát triển những khả năng đặc biệt về phép giao tế và phép lịch sự trong đời sống xă hội. Những kinh nghiệm mà cô đă thâu thập được trong một ngôi đền thời cổ Ai Cập cần được giải thích rơ ràng hơn.
Dường như thời kỳ đó ở Ai Cập có hai ngôi đền lớn, gọi là Đền Mỹ Lệ và Đền Hy Sinh. Người ta thấy rải rác trong vài chục cuộc soi kiếp những sự mô tả hai ngôi đền này, và do sự góp nhặt những tài liệu đó, người ta có một ư niệm khá đúng về những ǵ đă xảy ra ở đó.
Ngôi đền Mỹ Lệ là một loại học đường hay trường Đại học, nhưng nó không phải lo về mặt trí dục mà thôi, mà c̣n nhằm đào tạo nhân cách trên một phương diện đồng đều, toàn diện. Tất cả những nghệ thuật và khoa học đều được xử dụng để đào tạo nên một linh hồn cao thượng và một thể xác kiện toàn cho các học viên để chuẩn bị cho họ trở nên những người công dân có khả năng, hầu có tích cực hoạt động cho xứ sở.
Ngôi đền này c̣n là trường huấn luyện về mặt tôn giáo và đạo đức tâm linh. Ngôi đền này có bảy trung tâm đào tạo có kỷ luật, theo quy mô của bảy Luân Xa hay bí huyệt trong trong cơ thể con người. Điều này cho ta thấy rằng chương tŕnh học tập và kiến trúc của ngôi Đền được quan niệm trên sự hiểu biết sâu xa về khoa Huyền Môn.
Một trong những ngành hoạt động của ngôi đền Mỹ Lệ là vấn đề hướng nghiệp căn cứ trên nền tảng tâm linh. Nhiều người trong kiếp này chú trọng đến vấn đề hướng thiện, phát triển nhân cách, hoặc đào tạo nhân phẩm bằng nghệ thuật và tôn giáo, khi truy nguyên ra th́ được biết rằng trong kiếp trước, họ là những giáo sư hay sinh viên đă từng theo học ở ngôi đền Mỹ Lệ hồi thời cổ Ai Cập.
C̣n Đền Hy Sinh th́ có vẻ giống như một bệnh viện, trong đó người ta áp dụng những kỹ thuật điện khí nhằm mục đích giải phẫu và chữa bịnh (có lẽ do người Atlante truyền lại). Phép chữa bịnh này theo một nguyên tắc chính là kiện toà thể xác và cải tiến giống ṇi, v́ người ta gọi trung tâm này là Đền, có ngụ ư một sự hướng dẫn tâm linh.
Dưới đây là trường hợp của một y sĩ chuyên môn chữa bịnh đau khớp xương. Cuộc soi kiếp cho biết rơ bốn tiền kiếp của ông, mà ba kiếp có ảnh hưởng đến phương diện nghề nghiệp của ông trong kiếp này. Ông đă từng làm y sĩ ở Mỹ Châu lúc ban sơ và có giao thiệp với người thổ dân xứ ấy, nhờ đó mà y học được phép chữa bịnh theo lối tự nhiên và bằng chất thảo mộc.
Trong các cuộc soi kiếp, nếu người nào trước kia đă từng có tiếp xúc chặt chẽ với người thổ dân châu Mỹ, hoặc chính họ là những người thổ dân da đỏ trong kiếp trước, đều tỏ ra có khuynh hướng sống một đời sống tự nhiên nơi chốn rừng bụi, ưa thích cảnh thiên nhiên, thích làm những công việc bằng tay chân, và dùng cách chữa bịnh theo phương pháp tự nhiên.
Trong kiếp thứ hai, vị y sĩ trông coi các nhà tắm công cộng và chuyên về phép thoa bóp ở La Mă dưới thời kỳ bắt đầu kỷ nguyên Gia Tộ Trong kiếp thứ ba, y sống ở Ba Tư và trong kiếp thứ tư, đi thụt lùi về dĩ văng, ông làm nghề ướp xác bằng dầu thơm ở xứ cổ Ai Cập, độ 13.000 năm trước Tây lịch kỷ nguyên.
Có lẽ kinh nghiệm của ông trong kiếp đó đă giúp cho ông có sự hiểu biết về những bộ phận bên trong cơ thể con người cùng ảnh hưởng của chất liệu và cỏ thơm đối với da thịt con người.
Trường hợp sau đây là của một nhà mỹ nghệ Ở Hollywood, làm giám đốc chuyên môn về màu sắc trong một hăng phim điện ảnh. Cuộc soi kiếp cho biết ông đă từng sống về ngành mỹ thuật trong ba kiếp trước. Tất cả có bốn tiền kiếp đă được soi thấu:
Trong một kiếp, ông làm nhà trang hoàng nhà cửa vào cuối thời kỳ khai mở thuộc địa, ở Bắc Mỹ; trong kiếp kế đó, ông làm sĩ quan trong quân đội kỵ binh ở Nga; kế đó nữa ông làm nhà trang trí mỹ thuật cho một bà Hoàng ở xứ Đông Dương; và trong kiếp xa xưa nhất, ông làm người trang hoàng bên trong của Ngôi Đền Lớn ở xứ cổ Ai Cập.
Người ta có cảm tưởng rằng nhờ kinh nghiệm trong kiếp làm sĩ quan kỵ binh mà kiếp này ông phát triển những đức tánh linh hoạt, tỉ mỉ, cẩn thận và ham hoạt động, cùng với tánh thích chưng diện và ḷng háo thắng.
Như vậy, nhiều điểm trong tánh t́nh nó giúp cho công việc làm của ông ở kiếp này có thêm phần sinh khí và linh động, dường như được truy nguyên từ những kinh nghiệm ở kiếp làm sĩ quan kỵ binh, mà nghề quân nhân lại là một ngành không có liên quan ǵ đến mỹ thuật.
C̣n những kỹ thuật sắc xảo về phương diện nghề nghiệp của y th́ có thể truy nguyên từ ba kiếp dành cho sự hoạt động về nghệ thuật.
Một nhà soạn nhạc tiếng tăm ở New York cũng đă có trong quá khứ những kinh nghiệm về ngành này trong nhiều tiền kiếp. Trong một kiếp trước, hồi thời kỳ khai thác thuộc địa ở Bắc Mỹ, ông đảm nhiệm những lớp dạy âm nhạc và dạy hát trong các trường.
Một kiếp khác, ông là người Đức, làm nghề đẽo cây và chế tạo các loại đờn dây. Một kiếp thứ ba, ông làm hề tại triều vua Nabuchodonosor ở xứ Chaldeẹ Kiếp cuối cùng lui về quá khứ, ông là một người dân Atlante đến xứ Ai Cập và lănh vai tṛ coi sóc phần âm nhạc trong những cuộc tế lễ ở các đền thờ.
Sự thích thú của ông về âm nhạc trong kiếp này dường như là do bỏi kinh nghiệm của ông trong kiếp làm nghề chế tạo đờn. Tánh hài hước và trí óc linh hoạt của ông được truy nguyên ra từ kiếp trước làm hề; và những khả năng về âm nhạc của ông được truyền lại từ hai kiếp làm nhạc sĩ.
Đôi khi những thú vui tiêu khiển ngoài ṿng hoạt động nghề nghiệp của một người cũng được truy nguyên ra từ những tiền kiếp. Thí dụ như trường hợp của một viên giám đốc ngân hàng, từ thuở nhỏ đă tỏ ra ham thích chơi các môn thể thao, nhứt là chơi môn quần vợt.
Khi vị mục sư nhà thờ Baptiste, mà ông là một tín đồ, tỏ ư chống lại việc chơi môn đánh banh vào ngày chúa nhật, th́ vị giám đốc ngân hàng liền tức khắc rời khỏi giáo hội! Ngân hàng đă trở nên ngành hoạt động nghề nghiệp của ông và nhờ đó ông đă thâu hoạch được một sản nghiệp lớn. Nhưng ông thường dùng thời giờ rảnh để tham gia một câu lạc bộ đánh quần vợt.
Chúng ta hăy thử xét những nghề nghiệp của ông trong các tiền kiếp: Trước hết, ông là một trong những người khai thác thuộc địa đầu tiên, làm nghề xuất nhập cảng ở Bắc Mỹ. Trong kiếp kế đó, ông là người La Mă, đảm nhiệm việc tổ chức các tṛ du hí công cộng tại các vũ trường. Một kiếp nữa, ông là người tù trưởng của một bộ lạc lưu động ở Ba Tư, chuyên môn tổ chức những trung tâm trao đổi hàng hóa.
Trong kiếp thứ tư, ông là quan Thủ Kho ở triều đ́nh xứ Ai Cập thời cổ. Người ta cuộc du hí ở La Mă, đă giúp cho ông có khả năng lănh đạo, nhờ đó có thể tiến lên địa vị Giám đốc ngân hàng. Đồng thời, kinh nghiệm ở kiếp đó cũng là nguyên nhân sự thích thú của y về các môn điền kinh, thể dục ở kiếp này.
Trong các cuộc soi kiếp cề vấn đề hướng nghiệp, ông Cayce thường xuyên một số người nên theo đuổi môn học chữa bịnh bằng điện lực, hóa học hay thủy lực học và âm nhạc. Môn chữa bịnh bằng điện ngày nay đă thịnh hành rất nhiều, những lời khuyên của ông Cayce đối với số người nói trên vốn căn cứ trên những kinh nghiệm trong những tiền kiếp của họ Ở Ai Cập hay ở châu Atlantide.
Dường như vào khoảng 10.000 năm trước Tây lịch, hồi thời kỳ tai biến cuối cùng trong ba cơn thiên tai lớn đă tiêu diệt châu Atlantide tị nạn đă di cư sang Ai Cập họ đă đem theo những kiến thức và tiến bộ của họ về nghệ thuật và khoa học. Tuy rằng họ không thể xây dựng trở lại nền văn minh hùng cường và cao của họ nữa, những ǵ c̣n sót lại về khoa học và kiến thức của họ đă hỗn hợp với nền văn minh Ai Cập.
Trong tất cả những trường hợp mà ông Cayce khuyên đương sự nên theo đuổi ngành chữa bịnh bằng điện lực, đều có một điểm lư thú chung: Tuy rằng ngành này là một ngành hoạt động khá mới mẻ đối với thế giới hiện nay, nhưng nó là một ngành học thuật rất cổ mà ngày xưa cổ nhân đă từng biết rơ.
Trong nhiều trường hợp mà các đương sự tỏ ra thích thú say mê ngành hàng không, điện tử, vô tuyến điện ảnh, khoa thôi miên, nguyên tử lực... Sự thích thú này đều được truy nguyên từ những kinh nghiệm của đương sự trong một kiếp trước ở châu Atlantide.
Bởi đó người ta có thể kết luận rằng khi nào một người có khuynh hướng hoặc tài năng rơ rệt về một môn khoa học hay một ngành hoạt động nào, th́ chắc chắn rằng trong một hay nhiều kiếp trước, người ấy đă từng theo đuổi và thực hành môn ấy, hoặc là một ngành hoạt động tương tự.
Nhiều trường hợp khác đưa đến một kết luận rằng sự thay đổi nghề nghiệp cũng không phải là một sự thất bại, nếu sự thích thú về nghề mới chọn có căn cứ chắc chắn trong dĩ văng, và khả năng về nghề nghiệp này đă được phát triển trong kiếp trước.
Thí dụ, dưới đây là trường hợp của một người 31 tuổi, mặc dầu đă có gia đ́nh nhưng ông lại quyết định theo đuổi việc học Y khoa. V́ những lư do nào đó, ông không thể theo ngành Y học từ thuở c̣n niên thiếu, mặc dầu cha ông là một bác sĩ, và ông có hoàn cảnh thuận tiện để học về ngành này. Ông yêu cầu ông Cayce dành cho một cuộc soi kiếp.
Ông muốn biết xem quyết định của y có thể thực hiện được không, và sau cùng ông sẽ thành công hay không về nghề y khoa. Cuộc soi kiếp hoàn toàn xác nhận là được, và cho biết rằng sự thích thú của ông về ngành này truy nguyên ra từ hồi thời kỳ khởi nghĩa ở Mỹ quốc. Kiếp đó, y là một người línhh hầu, làm tùy phái đưa thư tín trong quân đội.
Dường như nhờ ḷng từ thiện chí và khả năng thông cảm nên ông được cấp trên giao cho công tác đi phủ dụ và nân đỡ tinh thần binh sĩ. Chín trong lúc đó, ông nảy sinh ra ư muốn trở nên một y sĩ. Cảnh tượng đau khổ của những thương binh ngoài mặt trận làm cho ông muốn có sự hiểu biết về phương tiện nghề nghiệp của một y sĩ để làm xoa dịu những đau khổ đó.
Điều lư thú mà ta nên nhận xét là đương sự đă chọn người cha làm y sĩ để đầu thai vào làm con trong gia đ́nh trong kiếp này. Điều này hẳn là mộ hoàn cảnh thuận tiện để cho ông bước vào nghề y khoa.
Tuy rằng người ta không biết rơ lư do v́ sao ông quyết định hơi trễ để theo học về ngành này, nhưng có lẽ đó là v́ y lập gia đ́nh sớm.
Có thể rằng giữa hai vợ chồng y, có một sự hấp dẫn mănh liệt do duyên nghiệp tạo nên từ kiếp trước, và cuộc hôn nhân đó đă làm cho ông tạm gác lại các mục đích khác, nhưng điều quan trọng là cuộc soi kiếp tiên đoán trước sự thành công của ông trong một ngành mà ông mới theo đuổi lần đầu tiên.
Nói tóm lại, việc truy nguyên các khả năng nghề nghiệp của một người chỉ rằng các khả năng đó dường như đă được khai mở từ một hay nhiều tiền kiếp, trong khi đó đương sự đă từng làm nghề nghiệp đó rồi, hay là một nghề tương tự.
Một sự thích thú say mê về một ngành hoạt động phụ thuộc chỉ rằng trong kiếp trước, ngành hoạt động đó là nghề nghiệp chính của đương sự.
Nhiều nghề nghiệp mới xuất hiện trên thế giới hiện nay thật ra là sự biến thiên của những nghệ thuật và khoa học của người Atlante và Ai Cập thời cổ. Có vài người dường như mới bước vào một ngành hoạt động mới lần đầu tiên trong lịch tŕnh tiến hóa của họ.
Nếu trong dĩ văng, họ đă từng thích thú và phát triển những khả năng về một nghề nghiệp nào, th́ sự thành công trong nghề nghiệp đó ở kiếp này sẽ là một điều chắc chắn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 230 of 1146: Đă gửi: 18 June 2010 lúc 9:07pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG BÍ ẨN CỦA CUỘC ĐỜI
PHƯƠNG CHÂM TRONG VIỆC CHỌN NGHỀ
Chương Hai Mươi
Những câu chuyện thuật lại về khuynh hướng nghề nghiệp trong các tập hồ sơ của Cayce có thể làm cho người sưu tầm khảo cứu phải nêu ra nhiều câu hỏi. Trước hết, có vấn đề bắt đầu làm một nghề nghiệp, một vấn đề nó làm cho các Triết gia phải lấy làm thắc mắc khi họ cố gắng truy nguyên đến tận gốc, khi linh hồn con người mới xuất hiện lần đầu tiên trên cơi trần gian.
Việc ǵ thúc đẩy một ngành hoạt động này, và một linh hồn khác bước vào một ngành hoạt động khác? Nếu tất cả mọi linh hồn đều do Thượng Đế phát sinh từ lúc nguyên thủy, nghĩa là b́nh đẳng và không cách biệt, th́ tại sao có người lại hướng về nông nghiệp, có người chọn thương mại, người thứ ba chọn nghề dệt cửi, người thứ tư hướng về âm nhạc, và người thứ năm chọn ngành toán học?
Phải chăng trong mỗi người đều có một cái động lực tế nhị thuộc về cá tính riêng từng người, nó thúc đẩy họ vươn lên chọn lựa những ngành hoạt động khác nhau? Nếu như thế, th́ cái cá tính đó đă biểu lộ bằng cách nào?
Trong những hồ sơ của Cayce, không có sự giải đáp rơ ràng những câu hổi nêu trên, nhưng lại có những tài liệu khá mỹ măn về một điểu khác: Việc ǵ làm cho một linh hồn thay đổi một nghề nghiệp này qua một nghề nghiệp khác?
Người ta thấy trong các hồ sơ của Cayce có nhiều trường hợp thay đổi nghiệp như vậy, và sự phân tách các tài liệu chỉ rằng sự thay đổi đó căn cứ trên hai yếu tố căn bản: Hoặc do ḷng ham muốn, hoặc do luật nhân quả.
Trong nhiều trường hợp đă kể trên, chúng ta thấy rằng ḷng ham muốn cũng có mănh lực tương đương với việc gây nhân tạo quả. Một linh hồn có thể bắt đầu nảy sinh ra ư muốn có một khả năng hay một đức tính mới, khi họ chung đụng tiếp xúc vởi một người có cái khả năng hay đức tính đó.
Theo ông Cayce, nhiều người mục kích tận mắt những công việc cứu độ thế gian của đức Jesus khi Ngài đi thuyết pháp giảng đạo và cứu chữa người đau ốn, tật nguyền, bỗng nhiên họ có sự cảm hứng, chẳng khác như một sự truyền nhiễm, và muốn làm y như Ngài!
Cái mănh lực của ư muốn đó thúc đẩy họ cố gắng trải qua nhiều kiếp để phát triển khả năng giáo dục và chữa bịnh. Đôi khi, ḷng ham muốn không phải do nơi ảnh hưởng của một người nào, mà do bởi đương sự cảm thấy bất lực trước một t́nh trạng nguy cấp mà thiếu khả năng cần thiết, nên y không thể giải cứu hay làm ǵ được.
Dầu rằng lư do như thế nào, ḷng ham muốn là một yếu tố quan trọng của vận mạng con người. Ḷng ham muốn đó tăng trưởng lên lần lần và nhắm những mục đích càng ngày càng rơ rệt cho đến khi về sau, bởi sự chọn lựa cha mẹ và một hoàn cảnh thích nghi, một linh hồn bắt đầu phát triển một khía cạnh mới trong tánh t́nh của y cho đến mực hoàn toàn.
Có lẽ phải cần đến nhiều kiếp luân hồi sanh tử, cũng như trong các trường hợp tâm tính "Khép chặt" và "Cởi mở", con người mới có thể hoàn toàn thực hiện sự thay đổi một nghề này qua nghề khác dưới mănh lực của ư muốn. Nếu điều này là đúng, th́ đó là một sự khuyến khích quư báu cho những người nào tự thấy kém cỏi trong sự hoạt động nghề nghiệp của ḿnh.
Có thể rằng lư do sự kém cỏi của họ, so với tài năng của người khác, là bởi v́ họ chỉ mới bắt đầu ngành hoạt động ấy không bao lâu, và chưa đủ thời giờ để phát triển hết mọi tài năng của ḿnh.
Ngoài ḷng ham muốn, nghiệp quả cũng là một yếu tố quan trọng trong việc quyết định thay đổi nghề nghiệp.
Thí dụ: Một quả báo tàn tật về thể xác, khi đến lúc chính mùi và phải trả, có thể làm gián đoạn cuộc đời nghệ sĩ tài ba đang lên của một nhà khiêu vũ, một sự nghiệp mà ông đă dày công luyện tập và cải tiến đến mức tuyệt luân trải qua nhiều tiền kiếp.
Một quả báo làm gián đoạn nữa chừng một sự nghiệp như thế, tự nhiên là đưa đến sự thay đổi qua một nghề nghiệp khác, và có thể làm thức động một khả năng tiềm tàng đă bị chôn vùi và quên lăng từ lâu.
Đó là trường hợp của một thiếu nữ bị bịnh lao xương háng, như đă kể trong Chương năm. Sau khi mắc phải chứng bịnh này một thời gian rất lâu, thiếu nữ ấy yêu cầu ông Cayce soi kiếp và cho biết xem cô có thể làm nghề ǵ trở nên hữu ích cho xă hội.
Ông Cayce khuyên cô nên học đàn, và cho biết thêm rằng cô có thiên tư về âm nhạc, v́ trong một kiếp trước ở xứ cổ Ai Cập, cô đă từng chuyên môn về loại đờn dây. Người thiếu nữ nghe theo và nhận thấy rằng quả có một khả năng vững chắc về đờn dây, mặc dầu trước kia cô chưa hề học đàn bao giờ.
Sau một thời gian, cô đă có thể biểu diễn môn đờn dây trước công chúng, và mặc dầu tài nghệ của cô chưa đủ để làm cho cô được nổi tiếng, nhưng ít nhất cô đă làm một nghề hữu ích để t́m thấy lẽ sống cùng hạnh phúc trong cuộc đời của một phế nhân.
Trong những kiếp trước gần đây, cô đă làm những nghề nghiệp khác. Như vậy, trong trường hợp này, một quả báo xác thân đă xuất hiện th́nh ĺnh để làm gián đoạn một sự nghiệp, và làm sống lại một tài năng đă quên lăng và bỏ phế từ lâu.
Một vấn đề khác được nêu ra: Một linh hồn phải có kinh nghiệm về bao nhiêu nghề nghiệp khác nhau trước khi sự tiến hóa của y được coi như là tṛn vẹn? Để đi đến mức tuyệt đỉnh của cuộc tiến hóa, mỗi linh hồn phải trải qua rất nhiều kinh nghiệm khác nhau.
Trong Thái Dương hệ, không có một linh hồn nào được coi như đă phát triển hoàn toàn về nghệ thuật chẳng hạn, nếu đồng thời y lại hoàn toàn dốt về ngành cơ khí, y học, hay xă hội học. Người ta có thể quan niệm rằng mỗi linh hồn phải trải qua ít nhiều hiểu biết và kinh nghiệm về tất cả mọi ngành học thuật và hoạt động trong hoàn vũ.
Trong rất nhiều trường hợp, có một sự liên hệ chặt chẽ giữa vấn đề nghề nghiệp và vấn đề tâm linh. Nói một cách khác, trong nhiều trường hợp, một sự khó khăn về nghề nghiệp dường như là có nguyên nhân ở một sự khuyết điểm về tánh t́nh, cần phải được sửa chữa. Đó là trường hợp của một người đàn ông độc thân, bốn mươi tám tuổi, là nhân viên địa ốc, v́ tánh t́nh khó khăn, nên càng ngày ông càng bị lúng túng trong việc hành nghề của ông.
Ông yêu cầu ông Cayce soi kiếp để biết xem y có nên đổi nghề khác hay chăng, và nghề nào sẽ thích hợp với ỷ Ông Cayce cho biết rằng trong một kiếp trước ông đă làm nghề dạy học, nhưng ông có một tánh chất hung bạo, cộc cằn, và độc đoán. Ông đă mang theo cái mầm mống của tánh cách cứng rắn và bạo tàn đó qua kiếp này, nó làm cho ông khó ḥa ḿnh trong sự giao tiếp ngoài xă hội.
Ông Cayce khuyên không nên đổi nghề mặc dầu ông đang bị nhiều nỗi khó khăn trong nghề nghiệp. Cuộc soi kiếp nói: "Mặc dầu điều đó không phải dễ làm, nhưng anh đang học một bài học cần thiết."
Có nhiều trường hợp tương tự như thế trong tập hồ sơ Cayce, làm cho người ta nhớ lại một tư tưởng của Tolstol. Nhà văn hào này nói rằng những hoàn cảnh trong đời người giống như những giàn tre dùng để cất nhà.
Những giàn tre này được dựng lên để làm cái sườn chung quanh, nhờ đó một ngôi nhà lầu được xây dựng lên ở phía trong. Nhưng cái sườn tre bên ngoài vốn không có một giá trị tuyệt đối và trường cửu.
Khi ngôi nhà lầu đă dựng lên xong, th́ người ta dẹp bỏ cái giàn tre ở phía ngoài. Có lẽ những nghề nghiệp làm ăn của con người cũng có thể được quan niệm bằng cách đó, giống như những cái sườn hay cái khuôn để nung đúc nên những điều kiện cần thiết cho sự tiến hóa tâm linh.
Một mặt khác, những khuynh hướng nghề nghiệp không phải luôn luôn đều có mục đích phát triển đức tính. Nó có thể là cần thiết cũng như bao nhiêu những ngành khác thuộc về cơi giới vật chất, mà con người phải chinh phục bằng tinh thần.
Có lẽ nhờ đó mà con người phải chinh phục bằng tinh thần. Có lẽ nờn đó mà con người sẽ tập chế ngự vật chất, hiểu những nguyên tắc và định luật của đời sống và hợp tác với Thiên Cơ.
Những tập hồ sơ Cayce chứa đựng nhiều tài liệu về cuộc đời một số người, mà những khả năng đă bị quên lăng từ lâu và chôn vùi trong những chỗ thâm sâu kín đáo của tiềm thức. Cuộc soi kiếp nhắc nhở cho đương sự chú ư đến những khả năng tiềm tàng đó, và trong rất nhiều trường hợp, những khả năng một khi đă thức tỉnh, liền có thể nảy nở mau chóng để trở thành một thiên tư đặc biệt về nghề nghiệp.
Người ta có thể truy nguyên khả năng đặc biệt này ở những kinh nghiệm mà đương sự đă thâu nhập được trong những tiền kiếp. Biết được điều này, tức là biết rằng mọi người trong chúng ta có dự trữ trong tiềm thức một số vốn kiến thức hay khả năng chưa được dùng đến, cũng ví dụ th́nh ĺnh chúng ta được biết rằng trong một thành phố mà chúng ta ở từ thuở nhỏ, chúng ta có một số tiền dự trữ trong ngân hàng, nhưng đă quên hẳng từ lâu.
Những sự say mê thích thú của chúng ta về một ngành nào đều có thể truy nguyên từ những hoạt động của ta trong những kiếp trước về ngành ấy. Có người chỉ thích thú đặc biệt về những sự vật của xứ Tây Ban Nha; hoặc có người chỉ ưa thích những sự vật của xứ Trung Hoa, hay Nhật Bổn chẳng hạ; đó chắc là họ đă từng sống kiếp trước ở những xứ ấy.
Nếu những người ấy biết trau dồi, khuynh hướng của họ bằng cách học sinh ngữ Tây Ban Nha, hoặc khảo cứu về lịch sử và văn hóa Trung Hoa hay Nhật Bản, hoặc khảo cứu về lịch sử và văn hóa Trung Hoa hay Nhật Bản, họ có thể làm thức động những kư ức sâuxa trong tiềm thức và những khả năng đă thâu nhập được trong kiếp trước ở xứ ấy.
Nhờ đó, họ cũng có thể tiếp xúc với những người trong những kiếp trước đó. Sự gặp gỡ với những người mà ta đă công nhận duyên cũ từ kiếp trước có thể hoàn toàn làm thay đổi cuộc đời của chúng ta bằng cách mở cửa chúng ta bước vào những địa hạt hoạt động mà chúng ta không hề nghĩ đến. Việc làm đầu tiên trong vấn đề hướng nghiệp là kiểm điểm lại những khả năng của ḿnh chọn lấy khả năng trội nhất của đương sự.
Nhưng trong những trường hợp khả nghi không quyết đoán, hoặc cần đưa ra cho đương sự những cảnh cáo đặc biệt nào đó, th́ ông Cayce thường đưa ra những nguyên tắc đại cương) của họ. Những nguyên tắc đó thường được lặp lại, nhiều lần, đến nỗi ngựi ta có thể coi đó như những giáo điều căn bản cho việc chọn nghề nghiệp.
Nguyên tắc thứ nhất là: Hăy nêu cao một lư tưởng, định rơ mục đích sâu xa của cuộc đời ḿnh, và t́m cách thực hiện lư tưởng đó. Sự nêu cao lư tưởng và một điều quan trọng trong vấn đề hướng nghiệp.
Những cuộc soi kiếp đều nhấn mạnh rằng ta nên biết minh bạch rơ ràng về cái lư tưởng của một người thường là phức tạp nhưng chúng ta chỉ có thể đi đúng con đường của ḿnh muốn đi tới. Sự lựa chọn nghề nghiệp phải căn cứ trên vấn đề cao lư tưởng trước nhất.
Nguyên tắc hai là: Hăy cố gắng giúp đỡ và phụng sự kẻ khác. Bằng cách nào ta có thể phụng sự nhân loại cho được hiệu quả nhất? Đó là phương châm tối hậu để làm tiêu chuẩn cho việc chọn lựa nghề nghiệp của mỗi người. Ta nên coi ḿnh như những phần tử của nhân loại.
"Phụng sự kẻ khác, tức là phụng sự Thượng Đế một cách cao cả nhất." đó là một câu thường được lập đi lập lại trong các cuộc soi kiếp. Một câu khác nữa cũng thường được nhắc lại nhiều lần:
"Kẻ nào muốn trở nên cao cả nhứt trong các ngươi, là kẻ chịu làm tôi tớ phụng sự cho tất cả." "Chỉ có một lư tưởng duy nhất, là làm cho mọi lư tưởng của ta đều hỗn hợp với sức mạnh Sáng Tạo của Vũ Trụ; làm cho thể xác, trí tuệ, tâm linh của chúng ta trở nên mănh lực tích cực hoạt động để bồi đắp, trợ giúp cái sức Sáng Tạo nói trên và cho nhân loại."
Đi kèm với phương châm này, ông Cayce c̣n nói rằng vấn đề tiền bạc, danh vọng ở đời phải đi sau ư muốn phụng sự, và chỉ là những vấn đề phụ thuộc mà thôi. Một đứa trẻ mười ba tuổi có nhiều khả năng và chưa biết nên theo học về ngành nào, đặt câu hỏi:
"Tôi phải phát triển khả năng nào để khi đến lúc trưởng thành tôi có thể thành công về phương diện tiền bạc?" Câu trả lời là: "Em hăy quên vấn đề tiền bạc, mà chỉ nên nghĩ rằng em có thể trợ giúp bằng cách nào để làm cho cơi thế gian trở nên một cơi giới tốt lành hơn. Đừng khi nào lăng phí công lao cố gắng chỉ v́ vấn đề tiền bạc. Tiền bạc sẽ đến với ta khi ta dùng khả năng của ḿnh để phụng sự nhân loại."
Một người khác hỏi: "Tôi nên theo đuổi ngành hoạt động nào để có thể kiếm được nhiều tiền nhất?" Câu trả lời cho ông là: "Anh hăy gác lại vấn đề tiền bạc. Vấn đề tiền phải là cái hậu quả của sự thành thật cố gắng muốn sống cách nào để giúp cho kẻ khác cùng đi trên con đường tiến hóa với ḿnh.
Sự thịnh vượng về vật chất phải đi sau lư tưởng phụng sự. Chỉ có Thượng Đế mới cho ta sự phú quư thịnh vượng, nếu ta xứng đáng."
Một nhà xuất nhập cảng được lời khuyên sau đây: "Phương cah6m của ông phải là: Tôi muốn phụng sự đồng loại của tôi, để cho họ có thể dùng tôi làm cái đà tiến bước.
Tiền tài danh vọng sẽ đến với tôi như những kết quả của một đời tốt lành và phụng sự; chứ ta không nên coi nó như những miếng mồi thơm v́ nó mà ta phải hành động trái với lương tâm để chiếm đoạt cho được."
Nguyên tắc thứ ba là: "Hăy xử dụng những ǵ ḿnh đang có trong tay. Hăy bắt đầu từ chỗ vị trí hiện tại của ḿnh bây giờ." Câu này dường như thừa, v́ đó là lẽ hiển nhiên. Tuy vậy, cũng như những sự thật hiển nhiên khác, nó cần được lập lại, v́ người ta vốn hay khinh thường những điều giản dị và gần với ḿnh, để đi t́m những chuyện xa vời, khó khăn.
Có nhiều người muốn phụng sự nhân loại, nhưng lại có một lư tưởng quá viễn vông, không thiết thực, hoặc không phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Tron khi họ nh́n thấy cái mục đích cao cả, đáng cho họ theo đuổi, th́ họ lại bị mắc kẹt trong một cuộc đời phức tạp mà họ không thể nào thoát ra khỏi. Những trách nhiệm gia đ́nh, hay những trở lực về tài chánh, làm ngăn trở sự thực hiện lư tưởng của họ.
Đối với những người này, những cuộc soi kiếp thường khuyên rằng: "Người ta chỉ có thể xử dụng những ǵ người ta có trong lúc này." Cuộc hành tŕnh dài muôn dặm đường chỉ bắt đầu bằng một bước chân. Bước chân đầu tiên đó, người ta phải làm ngay bây giờ ở chỗ vị trí hiện tại.
Một người đàn bà 49 tuổi hỏi ông Cayce: "Tôi phải làm công việc ǵ trong đời tôi?" Câu trả lời là: "Bà hăy giúp đỡ những kẻ yếu đuối và những kẻ vấp ngă; giúp thêm sức mạnh và can đảm cho những kẻ thất bại." Bà ấyhỏi: "Bằng cách nào tôi có thể làm công việc đó?"
Bà hăy bắt đầu với những cơ hội hiện tại. Hăy sử dụng những ǵ bà đang có và bắt đầu ngay ở chỗ bà đang ở. Bà hăy tin tưởng ở nơi Thượng Đế. Bà đừng nói rằng bà muốn làm công việc ǵ và ở tại nơi nào, mà hăy nói rằng: Tôi tự hiến dâng cho Ngài. Ngài hăy dùng tôi vào bất cứ công việc ǵ, và bất cứ nơi nào Ngài muốn."
Một người đàn bà khác cũng có sự thắc mắc giống như thế. Bà ấy đă 61 tuổi, vợ của một vị lănh sự nọ Ở một xứ Bắc Âu. Bà ta đă đi du lịch nhiều nơi ở miền Trung Đông và có nhiều kiến thức sâu rộng. Bà ấy hỏi: "Tôi phải làm ǵ để phụng sự nhân loại một cách hữu hiệu nhất?"
Câu trả lời cũng giống như trường hợp kể trên: "Bà hăy làm bất cứ việc ǵ đến với bà hằng ngày. Không phải những kẻ làm nên những kỳ công hiển hách, tiếng tăm vang dội lẫy lừng như sóng cồn đại hải, mới là những kẻ làm được nhiều việc nhất; mà chính là những người biết đón nhận những cơ hội phụng sự xảy đến hằng ngày.
Khi những cơ hội ấy được tận dụng triệt để, th́ những dịp tốt lành hơn sẽ xuất hiện, và những công việc phụng sự lớn lao sẽ đến với họ. Đó là bởi v́ khi ta dùng những phương tiện đang có trong hiện tại để phụng sự kẻ khác, th́ những phương tiện ấy sẽ không bao giờ mất, mà tự nó sẽ đến với ta một cách dồi dào hơn trước."
Một người khác cũng nhận được lời khuyên: "Anh hăy bắt đầu ở chỗ vị trí hiện tại của anh. Và khi anh đă làm xong bổn phận. Ơn Trên sẽ khiến cho anh gặp gỡ những cơ hội tốt lành và lớn lao hơn!"
Lời khuyên có vẻ triết lư này không những áp dụng cho những người th́nh ĺnh giác ngộ và có ư muốn phụng sự nhân loại, mà cũng áp dụng cho cả những người muốn làm những việc to tát, vang dội tiếng tăm, bất cứ trên lĩnh vực hoạt động nào.
Dường như sự lập đi lập lại trong các cuộc soi kiếp về việc "Người ta cần phải sử dụng những ǵ ḿnh đang có trong tay và nên bắt đầu từ chỗ vị trí hiện tại của ḿnh," là để chống lại hai khuynh hướng thường t́nh của người đời; đó là: Sự tê liệt, không hoạt động v́ kiến thức hẹp ḥi nông cạn; và sự tê liệt v́ một tầm nhăn quang quá bao quát rộng lớn.
Có nhiều người biết mục đích mà họ muốn thực hiện trên các địa hạt nghệ thuật, văn hóa, khoa học hay chính trị. Nhưng v́ một sự tính toán sai lầm, họ bỏ dở giữa chừng và không làm ǵ cả: Mục đích của họ dường như không thể thực hiện được.
V́ họ không biết rơ về tính cách liên tục của mọi cố gắng và mọi sinh hoạt trong đời sống con người, nên họ không nhận thức rằng thời gian không có quan hệ ǵ cả, và những ǵ đă bắt đầu trong một kiếp sẽ đem lại kết quả trong kiếp sau. Họ lầm tưởng rằng v́ thời gian ngắn ngủi, nên họ không thể thực hiện được mục đích, thí dụ như trở nên một nhạc sĩ tài hoa trong kiếp này.
Họ bị tê liệt cả ư chí tiến thủ, bỏ dở việc học âm nhạc: Bởi đó họ đứng một chỗ không tiến thêm nữa, và trong những kiếp sau họ lại khởi sự học lại từ chỗ bắt đầu!
Nhưng nếu họ biết áp dụng lời khuyên đầy minh triết của ông Cayce là hăy bắt đầu từ chỗ vị trí hiện tại và xử dụng những ǵ ḿnh đang nắm trong tay, th́ sự tê liệt kia sẽ không c̣n, và họ sẽ dùng nghị lực của họ để hoạt động theo đúng đường lối, với nhiều triển vọng tốt đẹp và tin tưởng nơi sự thành công trong tương lai.
Ngoài ra, có những người nhờ thuyết Luân Hồi đă hé mở cho họ nh́n thấy cái viễn ảnh của một tương lai sáng lạn huy hoàng, nhưng họ lại không diễn đạt cái đức tin đó ra bằng những hành động xử thế hằng ngày.
Nhiều nhà triết học và nhân chủng học măi đắm ch́m trong việc học hỏi khảo cứu các định luật thiên nhiên trong Vũ trụ, nó cai quản sự tiến hóa tâm linh của nhân loại, đến nỗi họ quên rằng sự tiến bộ của con người không phải chỉ được thực hiện bằng sự học hỏi suông mà thôi.
Họ chẳng khác nào như người du khách măi lo nghiên cứu lộ tŕnh trên tấm bản đồ một cách chăm chú và say sưa đến nỗi họ không bao giờ cất bước ra đi! Họ mảng lo nhồi sọ với những vấn đề trừu tượng siêu h́nh đến nỗi khi cần phải thực hiện một sự thay đổi tâm tính hay làm một việc hữu ích để giúp đỡ nhân loại, th́ lại thờ ơ chểnh mảng và hoàn toàn vô dụng.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce luôn luôn nhắc nhở cho chúng ta biết rằng dầu cho chúng ta sống trong hoàn cảnh nào, những hoàn cảnh đó đều hoàn toàn thích hợp với t́nh trạng tiến hóa tâm linh của chúng ta trong lúc hiện tại.
Dầu cho chúng ta gặp phải những hoàn cảnh khó khăn trái ngược, chúng ta cũng nên coi đó như là những cái phương tiện để giúp chúng ta lấy đà tiến bước, chớ không nên coi đó như là những chướng ngại.
Khi ta biết vượt qua những khó khăn trở ngại đó, th́ chúng ta mới được coi như là xứng đáng nhận lănh những hoàn cảnh tốt lành và thuận tiện hơn. Trong một cuộc soi kiếp có lời khuyên như sau:
"Anh hăy nhớ rằng dầu anh sống trong hoàn cảnh nào, điều đó cũng là cần thiết cho sự tiếp xúc hằng ngày với mọi người, và chính là nhờ sự cải thiện từng ngày, từng giờ, từng phút đó mà anh thực hiện cuộc tiến hóa dài hạn của anh trong tương lai.
Chính nhờ xây từng viên gạch nhỏ, mà người ta mới dựng nên một ngôi nhà lầu nhiều tầng. Khi một linh hồn đă chuẩn bị sẵn sàng để phụng sự, nhờ sự công phu cố gắng cải tiến không ngừng từng giờ từng phút, mà những điều kiện cần thiết cho sự tiến hóa của y sẽ xuất hiện để giúp cho y có thể tiến hóa mau hơn, và gặp những hoàn cảnh cùng cơ hội thuận tiện hơn.
"Vậy anh hăy xây dựng tương lai của anh cũng như một toà nhà lầu, với những ǵ anh có sẵn trong tay, và tuần tự xây thành những viên gạch nhỏ. Anh chớ nên nóng nảy vội vàng và băn khoăn lo lắng: Tất cả mọi sự xây dựng chẳng phải là công tŕnh sáng tạo thiêng liêng của Ngài".
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 231 of 1146: Đă gửi: 18 June 2010 lúc 9:12pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG BÍ ẨN CỦA CUỘC ĐỜI
BÍ QUYẾT ĐÀO TẠO KHẢ NĂNG
Chương Hai Mươi Mốt
Những điều tiết lộ của ông Cayce về những khả năng của con người và sự phát triển khả năng một cách liên tục từ kiếp này qua kiếp khác, có những ảnh hưởng rất sâu sắc về phương diện thực tế. Trước hết, nó tŕnh bày cho ta thấy những triển vọng vô giới hạn về sự tiến hóa của con người, và điều này tùy ở sự cố gắng của từng cá nhân.
Nói về những khả năng tiềm tàng được tích tụ từ lâu trải qua thời gian, th́ người ta có thể xử dụng lần hồi chẳng khác nào như một số vốn cất trong ngân hàng. Lẽ tự nhiên, những nguồn tài nguyên tiềm tàng về khả năng và đức tánh của mỗi người hoàn toàn tùy thuộc nơi cố gắng mà y đă thực hiện trong dĩ văng, và đă tích tụ trong kho tàng tâm linh của y.
Điều này cũng áp dụng cho những khả năng của ta trong tương lai. Cũng như những khả năng của chúng ta bây giờ là do sự cố gắng tích lũy từ thuở quá khứ, th́ những khả năng mà ta sẽ có trong tương lai cũng là do bởi những cố gắng của ta đang làm ngay bây giờ.
Những số vốn nghị lực, thời giờ và công phu khó nhọc mà chúng ta dùng để thu thập một khả năng trong kiếp hiện tại sẽ không phải là mất, mà sẽ mang lại kết quả cho ta xử dụng trong những kiếp tương lai.
Trên thế gian có hàng ngh́n người âm thầm cố gắng theo đuổi một chí hướng nuôi từ thuở nhỏ mặc dầu họ biết chắc rằng họ không bao giờ thực hiện được. Xét theo lối thường t́nh, th́ đó thật là một việc đáng buồn; nhưng sự cố gắng và thích thú say mê của họ thật ra không phải là hoài công vô ích nế người ta xét lại vấn đề dưới ánh sáng của thuyết Nhân Quả Luân Hồi.
Một ông lăo cố gắng vun trồng những khóm hoa trong vườn nhà ông, có lẽ không mong ước chiếm giải quán quân về cuộc thi trồng hoa đẹp; hoặc được lời khen tặng và biểu dương trong những tạp chí nông nghiệp.
Tuy nhiên, trong lúc hiện tại, ông ta đang xây đắp mầm mống cho sự hiểu biết về ngành thảo mộc học, để rồi trong một kiếp tương lai, nó sẽ đâm chồi nẩy lộc thành những kiến thức sâu rộng về ngành này và làm ông ta trở thành một nhà trồng tỉa trứ danh hay một nhà thảo mộc học uyên bác.
Những cố gắng thô thiển và vụng về của một người đàn bà đứng tuổi đang tập vẽ tranh, không phải chỉ là một đầu đề chế giễu của bạn bè thân quyến trong gia đ́nh cô mà thôi; nó c̣n là những bước đầu cho một nghệ thuật già dặn và chắc chắn để làm cho cô có thể trở thành một họa sĩ tài danh trong một kiếp xa gần trong tương lai.
Ông giáo sư âm nhạc trải qua nhiều năm tận tụy với nghề dạy đờn dương cầm, vẫn cố gắng hành nghề một cách vô danh, không tên tuổi. Với thời gian trôi qua, năm tàn tháng lụn, ông không c̣n nuôi hy vọng trở thành một nhạc sĩ tài danh nữa, nhưng có lẽ ông ta sẽ tự an ủi nếu ông ta biết rằng chính ông ta đang lần bước đi trên con đường sự nghiệp vẻ vang trong những kiếp tương lai.
Những tiếng đàn du dương gieo vào tiềm thức của ông một ư niệm chắc chắn về nhịp độ; sự lập đi lập lại những bài đàn dạy học tṛ, trải qua thời gian đă gieo trong tâm hồn ông những vết kư ức sâu đậm không thể phai mờ về nhạc lư. Chỉ trong một, hai, hay ba kiếp nữa, ông sẽ trở thành một thiên tài về đàn dương cầm, làm cho người đương thời phải ngạc nhiên khâm phục về tài năng xuất chúng của ông.
Nói tóm lại, theo thuyết Luân Hồi, không có một cố gắng nào là mất đi. Nếu luật Nhân Quả hành động một cách chắc chắn và vô tư để đem lại cho ta sự trừng phạt về những hành vi bất chính của ḿnh, th́ nó cũng hành động một cách vô tư chắc chắn để đem lại cho ta phần thưởng về những cố gắng công phu có tính cách xây dựng.
Nếu chúng ta thật tin tưởng nơi điều quan trọng này, th́ chúng ta sẽ không bao giờ bị thất vọng trên đường đời. Mỗi giờ phút trôi qua, chúng ta đều tự tạo nên tương lai của ḿnh. Cái tương lai đó được tốt đẹp hay không, là tùy nơi trong lúc hiện tại chúng ta có những cố gắng tốt lành và xây dựng, hay là chúng ta lăng phí thời giờ vô ích để t́m những thú vui vật chất phù du giả tạm của cuộc đời trần thế.
Hiểu như thế, người ta sẽ không c̣n cho rằng giai đoạn cuối cùng của đời người, thường gọi là lúc "Tuổi già", là một giai đoạn bất lực và vô dụng, cần phải nghỉ ngơi, an phận, và không làm ǵ cả. "Tuổi già" hiểu như thế là một sự dị đoan.
Theo các cuộc soi kiếp của ông Cayce, ở xứ Ai Cập cách đây độ mười ngàn năm, đời sống trung b́nh của con người là trên một trăm tuổi. Sự ăn uống tiết độ, đúng phép vệ sinh, và bí quyết giữ cho tư tưởng được lành mạnh trong sạch, giúp cho con người sống rất lâu, và thậm chí đến lúc tuổi già, họ cũng không đến nỗi run rẩy lụm cụm.
Khoa học hiện đại cũng đă chứng minh điều này. Khoa Tâm bịnh học (Psychosomatiquie) cũng khám phá rằng sự già nua một phần lớn do bởi một bệnh trạng tâm lư của đương sự, theo đó ư nghĩa rằng y là một người vô ích, vô dụng trong xă hội, và đă đến lúc y cần phải được thay thế bởi những người trẻ.
Sở dĩ họ có thái độ đó bởi v́ họ có cái quan niệm theo "Chiều ngang" về cuộc đời, tức là một thói quen hay so sánh ḿnh với những kẻ khác trên b́nh diện "Ngang" trong thời gian và không gian. Nhưng theo thuyết Luân Hồi th́ quan niệm chân thật về cuộc đời phải là một quan niệm theo "Chiều dọc".
Tự so sánh ḿnh với những người trẻ tuổi hơn, không những là một điều chướng, mà c̣n là vô ích v́ chúng ta chỉ hoạt động để tự vươn ḿnh và tiến bộ lấy cho ḿnh, sự tiến bộ của chúng ta không phải là tương đối với kẻ khác, mà là tương đối với chính ḿnh và với Thượng Đế.
Hiểu như thế, ta sẽ không c̣n thắc mắc ganh tị với những người ở vào một hoàn cảnh tốt lành và thuận tiện hơn hoàn cảnh của ta trong hiện tại. Sự ganh tị chỉ là một ảo tưởng vật chất. Trên phương diện tâm linh, ta không đua tranh với ai cả, nếu không là với chính linh hồn ḿnh.
Dầu sao, một người đến lúc tuổi già không nên tự coi như một phế nhân, ở ngoài lề xă hội. Trái lại, trong sự tịch mịch âm thầm, y nên dành thời giờ c̣n lại để trau dồi một vài khả năng mới, và học hỏi thêm những ǵ mà trước kia v́ bận rộn công việc hoặc v́ bổn phận gia đ́nh, y không có thời giờ theo đuổi một cách tận tâm và trọn vẹn.
Làm như vậy, y sẽ xây đắp nền tảng cho sự tiến bộ tâm linh của y trong những kiếp sau. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce thường nói rằng chúng ta nên sống một cách xây dựng cho đến lúc cuối cùng trong đời tạ Dưới đây là một vài đoạn có ư nghĩa:
"Anh hăy có điều độ trong tất cả mọi chuyện; không nên làm điều ǵ thái quá. Được như vậy, anh sẽ sống đến trăm tuổi, với điều kiện là anh sẽ sống cách nào để xứng đáng với tuổi thọ của anh. Anh có ǵ để ban rải cho kẻ kkhác? Nếu anh không có ǵ để cho ra, th́ anh có quyền ǵ để sống cho chật đất?"
Hỏi: "Tôi phải làm sao để tự chuẩn bị cho lúc tuổi già?"
Đáp: "Cô hăy tự chuẩn bị cho lúc hiện tại. Tuổi già sẽ làm cho cô khôn ngoan già dặn thêm. Cô hăy dịu dàng, dễ thương và biết thương người, nếu cô muốn được trẻ trung măi măi... "
Hỏi: "Tôi phải làm ǵ để khỏi sự bị cô đơn khi tuổi già sắp đến?"
Đáp: "Anh hăy săn tay áo lên và bắt tay vào làm một việc ǵ để giúp đỡ một người nào đó. Anh hăy làm cho người khác vui vẻ hạnh phúc, và hăy tự quên ḿnh để giúp đỡ người chung quanh. Như thế, anh sẽ không c̣n sợ sệt lo âu về những ǵ có thể xảy đến cho ḿnh và sẽ không cảm thấy buồn chán, cô đơn."
Hỏi: "Tôi phải làm ǵ để được yên ổn trong ḷng và t́m thấy sự an tịnh?"
Đáp: "Anh hăy giúp đỡ kẻ khác. Anh hăy quyết định mỗi ngày làm một điều thiện, hoặc giúp một tay nâng đỡ một việc ǵ cho một người nào đó cần sự giúp đỡ. Thí dụ: Anh có thể đến viếng thăm một người bịnh, và tṛ chuyện an ủi họ. Như thế anh sẽ thấy trong ḷng yên ổn, không thắc mắc, nghĩ ngợi, lo âu."
Như vậy, tính cách liên tục của đời người trở nên một sự thật đầy ư nghĩa, xét về vấn đề phát triển khả năng và đức tánh trải qua nhiều kiếp luân hồi sinh tử. Hiểu được chân lư đó, người ta sẽ không c̣n có sự ganh tị đối với kẻ khac, v́ sự ganh tị là một điều vô ích.
Triết gia Emerson nói sẽ có lúc người ta nhận định rằng thói ganh tị là do sự vô minh mà ra. Điều ấy rất đúng, nhưng nó chỉ được hiểu rơ là khi nào người ta hiểu thuyết luân hồi.
Những kẻ ganhtị là những người không biết rơ sự kiện này, là bất cứ điều ǵ người khác làm được, ta cũng có thể làm được; tất cả những ǵ người khác có, như sắc đẹp, tài năng, danh vọng, giàu sang, đức hạnh... Ta cũng có thể có được, với điều kiện chúng ta chỉ cần thực hiện những cố gắng cần thiết mà thôi.
Một thái độ xử thế thích nghi về điểm này đă được diễn tả trong cuộc đời của nhạc sĩ trứ danh Paganinị Người ta thuật lại rằng nhạc sĩ này có lần bị hai năm tù v́ mắc nợ không trả được. Trong khi bị giam, hằng ngày ông vẫn chơi một cây đàn vĩ cầm cũ, chỉ có ba dây.
Sau khi được phóng thích, ông tŕnh diễn đàn vĩ cầm trước công chúng với một ngón đàn sắc xảo tuyệt diệu hơn trước, làm cho cử tọa phải ngạc nhiên về tài nghệ xuất chúng của ông. Ngón đàn đặc biệt của ông là mỗi khi đến những đoạn nhạc khó khăn nhất, th́ ông bèn cắn đứt sợi dây dưới của cây đàn vĩ cầm và tiếp tục kéo đàn chỉ có ba dây! Ngón đàn tuyệt luân này, ông đă học được trong thời gian hai năm ngồi tù.
Việc bị giam cầm trong khám là một điều chướng ngại khó khăn và là một nghịch cảnh, nhưng Paganini đă phản ứng một cách xây dựng, chứ không thối chí hay thất vọng. Ngày nay con người c̣n sống ở thế gian, th́ ông c̣n phải bị những cảnh do quả báo đưa đến.
Nhưng chúng ta không nên để ch nghịch cảnh đè bẹp hoặc làm cho ta bị điêu đứng khổ sở; mà trái lại, giữa cơn nghịch cảnh, chúng ta cũng vẫn có thể vui sống với một niều hy vọng.
Khi nghịch cảnh xảy đến không thể tránh khỏi, chúng ta có thể chấp nhận nó một cách kiên nhẫn, can đảm và vui vẻ; và như thế, chúng ta xây đắp nền tảng cho sự thành công vẻ vang trong tương lai.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 232 of 1146: Đă gửi: 18 June 2010 lúc 9:14pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG BÍ ẨN CỦA CUỘC ĐỜI
TIỀM NĂNG CỦA CON NGƯỜI
Chương Hai Mươi Hai
Từ những đoạn trên, chúng ta đă thấy rằng luật Nhân Quả gồm có hai khía cạnh: Khía cạnh liên tục và khía cạnh chấn chỉnh, hay sửa đổi. Nói về khía cạnh liên tục của luật Nhân Quả, th́ có nhiều khuynh hướng trái ngược từ thuở quá khứ có thể xuất hiện cùng một lượt trong kiếp này, và tạo nên một sự xung đột bên trong tâm hồn của một người.
Trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce, những khuynh hướng về khả năng hay tánh t́nh của một người có thể truy nguyên từ những kinh nghiệm của ông trong một kiếp trước. Thí dụ: Một người kia có những khuynh hướng về âm nhạc mà ông đă hấp thụ trong một kiếp trước, nhưng đồng thời ông cũng mang theo một khuynh hướng về ngành dạy học, từ một kiếp trước nữa.
Thề là ông có cả hai khuynh hướng về hai ngành học thuật khác nhau: Aâm nhạc và giáo dục. Những khuynh hướng trái ngược này gây ra một sự xung đột âm thầm trong tâm hồn ông, khi ông phải chọn lấy một nghề nhứt định.
Ông sẽ là một nhạc sĩ hay một giáo sử Trong nhiều năm, ông bị dày ṿ bởi một sự lưỡng lự phân vân, không biết chọn lấy nghề nào. Sau khi sự xung đột ngấm ngầm này phải được giải quyết bằng cách dung ḥa cả hai khuynh hướng, hay là bỏ một nghề mà chỉ chọn lấy một nghề, tùy theo lư tưởng của đương sự đối với cuộc đời, hay là do sự nhu cầu tài chánh.
Một sự xung đột c̣n khó khăn hơn nữa, là trường hợp mà đươngsự chưa diệt trừ xong một tật xấu cũ. Thí dụ: Một người có thói khinh ngạo, di sản từ một kiếp trước, trong kiếp đó ông lạm dụng quyền thế một cách độc tài đối với một dân tộc bị áp chế.
Trong một kiếp sau, ông đầu thai làm một đứa trẻ tàn tật sống trong một túp lều nghèo nàn. Thói khinh ngạo của ông đă bị chận đứng v́ luật quả báo, và ông đă bắt đầu tập lấy thái độ khoan dung, ôn hoà với mọi người. Nhưng thói khinh ngạo của ông vẫn chưa được diệt trừ tận gốc, và hăy c̣n biểu lộ một phần nào.
Bởi đó trong kiếp này, ông có hai khuynh hướng trái ngược lẫn nhau trong tâm tính, khi th́ ông có thái độ khinh ngạo, khi th́ có ḷng khoan dung. Chính đương sự cũng biết rơ điều này, và mỗi khi ông nghĩ đến t́nh bác ái đại hồng trong nhân loại, ông sẽ bắt đầu cố gắng diệt trừ thói kinh ngạo c̣n tiềm tàng trong người. Nhưng phần nhiều, người ta không ư thức được vấn đề này.
Các tập hồ sơ Cayce có chứa đựng rất nhiều trường hợp như trên, mà dưới đây là một trường hợp rơ rệt nhất:
Một người kia có hai khuynh hướng trái ngược: Khi th́ khép chặt, cách biệt, lạnh lùng; khi th́ lại hồn nhiên, cởi mở. Theo cuộc soi kiếp, điều này được truy nguyên từ hai loại kinh nghiệm khác hẳn nhau.
Trong một kiếp trước, ông là một tu sĩ trong một nhà tu kín bên Anh, chính kiếp này đă tạo cho ông một tâm hồn khép chặt và lánh đời. Trong một kiếp trước nữa, ông là một người t́nh nguyện tùng chinh trong cuộc Thánh Chiến hồi thời Trung Cổ;
kiếp đó đă giúp cho ông có tâm hồn cởi mở và yêu đời. Sự trái ngược đó làm cho mọi người đều xa lánh, v́ họ không dám chơi với một người tính khí bất thường, hôm qua vừa mới vui vẻ hồn nhiên, hôm nay đă lạnh lùng cách biệt!
Ông Aldous Huxley có thuật chuyện một tu sĩ Y Pha Nho hồi thế kỷ mười bảy tên là Pierre Claver, hy sinh tận tụy suốt một đời để phụng sự những người da đen nhập cảng từ Phi Châu thường bị ngược đăi và đối xử tàn nhẫn. Tu sĩ thường khuyên những mọi da đen này hăy ăn năn sám hối những tội lỗi của họ đă làm.
Ông Huxley nói: "Lời khuyên đó có vẻ dường như không đúng chỗ, nhưng biết đâu tu sĩ có lư là v́ dầu ở hoàn cảnh nào, con người cũng vẫn luôn luôn cần phải cứu chuộc lại những tội lỗi và sai lầm trong quá khứ mà họ phải chịu quả báo.
Những sự ngược đăi, hung ác, bất công của người đời biết đâu chẳng là những cơ hội để nhắc nhở cho chúng ta nhớ lại những hành động hung dữ, độc ác bất công mà chính chúng ta đă làm trong những kiếp trước?"
Ông Huxley c̣n nêu ra một vấn đề quan trọng: đó là điều ảo tưởng nó làm cho ta nghĩ rằng ḿnh là trong sạch và vô tội. Phần nhiều chúng ta khi lâm nghịch cảnh hay bị những nỗi đau khổ bất công, thường nghĩ rằng ḿnh là oan ức, vô tội mà phải bị thiệt tḥi, chớ không nghĩ rằng có lẽ ḿnh đă từng gây ra những nỗi bất công đau khổ cho kẻ khác.
Chúng ta luôn luôn tưởng rằng ḿnh tốt lành và vô tội. Có lẽ là do thói kiêu căng vốn tự nhiên trong mọi người, nhưng c̣n một lư do khác, đó là sự lăng quên: Một định luật thiên nhiên đầy nhân từ và bác ái khiến cho chúng ta quên đi một cái dĩ văng sai lầm và tội lỗi trong những kiếp quá khứ.
Một người đàn bà nọ phàn nàn: "Tôi luôn luôn đối xử tốt lành với tất cả mọi người; nhưng người ta đối xử tệ bạc với tôi như vậy. Con người thật là bạc bẽo và vô ơn!"
Chúng ta có thể đáp lại như vầy: "Phải, bà đă tốt lành và lương thiện trong kiếp này bởi v́ bà nhận thấy rằng về phần thể chất, bà không đẹp; và bà chỉ có thể thâu phục được ḷng người bằng những hành động tốt lành và vị thạ Nhưng đó chỉ là một đức tánh mà bà mới tập.
Bà hăy nh́nh lại kiếp trước: Bà rất đẹp, với một nhan sắc đẹp duyên dáng, sắc xảo, mặn mà, nhưng ḷng bà rất độc! Ngày nay, bà chỉ gặt hái lấy những ǵ bà đă gieo trong kiếp trước. Việc bà bị đối xử độc ác và bất công không phải là do bởi sự vô ơn tệ bạc của người đời; mà đó chỉ là những quả báo của những hành vi độc ác mà bà đă gây ra đối với kẻ khác.
Bà đă trồng hoa thơm cỏ ngọt suốt đời, nhưng bà chỉ lấy gai nhọn và trái đắng là những thứ mà bà đă gieo trong kiếp trước. Mùa gặt sau, sẽ đem lại cho bà những hoa thơm trái ngọt mà bà đă gieo trong kiếp này. Trong khi chờ đợi, bà hăy vui ḷng nhận lănh những quả đắng và gai nhọn, nhưng bà đừng thối chí và hăy tiếp tục vun trồng hoa thơm trái ngọt một cách can đảm và đầy tin tưởng..
Những sự đau khổ và nghịch cảnh trong đời đều có một mục đích giáo dục để đào tạo tánh t́nh, dầu cho đó là những tai nạn bên ngoài như chiến tranh, dịch lệ, động đất, băo lụt; hoặc đó là những mối xung đột ngấm ngầm trong tâm hồn.
Khi nào khoa Tâm Lư Học nh́n nhận rằng tất cả mọi sự đau khổ cay đắng, tai ương và nghịch cảnh của người đời đều có một ư nghĩa sâu xa thâm trầm để d́u dắt họ trên con đường tiến hóa, th́ chừng đó ngành học thuật ấy đă tiến được một bước khác lớn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 233 of 1146: Đă gửi: 18 June 2010 lúc 9:31pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG BÍ ẨN CỦA CUỘC ĐỜI
KHÍA CẠNH CỦA LUẬT NHÂN QUẢ
Chương Hai Mươi Ba
Trước đây, chúng ta đă thấy trường hợp của người nhạc sĩ mù, mà nguyên nhân là do bởi kiếp trước, trong một bộ lạc dă man ở Ba Tư, ông đă lấy dùi sắt nhọn nung đỏ chọc vào mắt những kẻ tù binh để hành tội những người này.
Trong trường hợp này, người ta sẽ đặt câu hỏi: "Tại sao ông lại chịu trách nhiệm về những phong tục bổn xứ hồi đương thời? Tại sao một người phải bị quả báo trong khi ông chỉ thừa hành chức vụ mà xă hội giao phó cho ông?"
Thí dụ, hồi xưa nước Pháp dùng những đao phủ quân để hành tội những phạm nhân trên đoạn đầu đài. Người đao phủ ấy chỉ là một công chức của Nhà Nước và làm việc ăn lương của chính phủ.
Có thể nào người ấy bị quả báo khi ông thừa hành chức vụ chém đầu tội nhân do luật pháp bắt buộc chăng? Nếu là không, th́ tại sao người đao phủ của bộ lạc dă man nước Ba Tư hồi thời cổ, lấy dùi sắt nung đỏ chọc vào mắt tù binh của một bộ lạc cừu địch, lại phải chịu quả báo?
Trước đây chúng ta đă thấy rằng không phải hành động gây nên nghiệp quả mà chính là cái nguyên nhân làm động lực bên trong cho hành động ấy, chính cái tinh thần bên trong làm chủ động cho mọi việc làm, mới là cái nguyên nhân tạo nên nghiệp quả.
Ngoài ra, c̣n có vấn đề trách nhiệm chung, hay nghiệp quả công cộng, nghĩa là nếu một xă hội có những tập quán xấu xa, độc ác gây nên đau khổ cho nhiều người thuộc về xă hội đó đều phải chia xẻ một phần nào trách nhiệm và quả báo của xă hội ấy gây nên.
Theo ư nghĩa của nền luân lư thông thường, nếu những hành vi tàn bạo như sát phạt, giết chóc, gây thương tích cho kẻ khác, tuyệt đối là những điều ác dữ, th́ tất cả những người nào thuộc về thành phần của xă hội tàn bạo đó đều phạm tội, nếu không trực tiếp th́ cũng gián tiếp.
Tội ác đó càng tăng nếu họ biết rằng phong tục tập quán đó là độc ác, mà họ vẫn tiếp tục tán thành và không làm ǵ để trừ bỏ những thói tàn bạo hung ác ấy. Và nếu họ trực tiếp nhúng tay vào những hành động hung dữ ấy, th́ tội ác của họ càng tăng hơn nhiều.
Lấy dùi sắt nhọn chọc thủng mắt những người khác chỉ v́ họ là tù binh của một bộ lạc cừu địch, dĩ nhiên là một hành động hung ác bạo tàn. Nếu người đao phủ tự trong ḷng ông chống đối việc làm hung bạo này, và chỉ thừa hành chức vụ v́ bắt buộc phải tuân lệnh thượng cấp, th́ có lẽ ông không gây nên nghiệp ác.
Nhưng nếu trong khi thừa hành chức vụ, tự trong ḷng ông tán thành việc làm hung ác này, nghĩa là ông cũng nuôi trong ḷng một sự hung ác tương đương với phong tục bổn xứ của ông, th́ chắc chắn là ông phải chịu quả báo.
Vấn đề này được giải đáp một cách mỹ măn trong kinh Bhagavad Gita của Ấn Độ: "Làm mà như không làm, tuy hữu vi mà vô vi, nghĩa là làm một cách vô tư, với một tinh thần giải thoát, không bám víu, không vụ lợi; đó tức là cái bí quyết của sự hành động cao thượng, siêu thoát, và không gây nên nghiệp quả... "
Thậm chí đến t́nh thương cũng phải là một t́nh thương vô tư, không tha thiết, không chiếm hữu, một t́nh thương siêu thoát, chứ nếu không, nó sẽ tạo nên những sợi dây trói buộc trong kiếp sau.
Nếu người đao phủ xứ Ba Tư kể trên chỉ thừa hành chức vụ với một tinh thần hy sinh theo như việc làm của những nhà hiền triết thời xưa, không thỏa măn dục vọng riêng, không có ḷng hung dữ bạo tàn và đàn áp kẻ khác, th́ ông sẽ không gây nên ác quả.
Theo lư luận đó, v́ lẽ người ấy đă bị quả báo mù mắt trong kiếp này, nên ta có thể kết luận rằng ông đă nuôi thói hung ác trong khi thừa hành chức vụ, theo phong tục bổn xứ của y.
Trong chương mười một, chúng ta đă thấy rằng sự hiểu biết về Luật Nhân Quả không khỏi làm cho người ta băn khoăn lưỡng lự trước một vài vấn đề xă hội, và không biết sẽ hành động như thế nào cho hợp lư. Chúng ta đă thấy rằng trong nhiều trường hợp, sự lạm dụng quyền năng trong những kiếp quá khứ đă đưa đến cảnh nghèo khổ, khó khăn trắc trỏ trong kiếp hiện đại.
Nếu phần nhiều sự đau khổ buồn rầu của con người đều do bởi những việc làm ác của họ gây nên trong quá khứ th́ ta phải đối xử thế nào với những kẻ hoạn nạn khốn cùng? Ta phải có thái độ như thế nào đối với hoàn cảnh khó khăn đau khổ của kẻ khác?
Ta có nên ngoảnh mặt làm ngơ và nói như thế này chăng: "Này ông bạn ơi, ông bạn đau khổ v́ quả báo của ông bạn tự gây ra, chứ không phải oan uổng ǵ đâu. Tôi không c̣n quyền can thiệp vào sự hành động của Luật Nhân Quả."
Ta có nên nghĩ rằng sự thiện cảm là một thái độ trái mùa, và ḷng nhân từ là một điều không phải chỗ của nó trước sự hành động vô tư của Luật Nhân Quả hay chăng? Có lẽ ta không nên giải đáp những câu hỏi đó một cách hấp tấp vội vàng, và với một sự cảm t́nh bồng bột.
Chúng ta biết rằng một kẻ sát nhân nguy hiểm sẽ không học được bài học của y, nếu v́ ḷng nhân hậu quá đáng, người ta để cho ông được tự do có điều kiện sau một thời gian giam cầm ngắn ngủi. Chúng ta biết rằng một người học tṛ dốt không thể học hết chương tŕnh lớp học của y, nếu ông giáo sư quá dễ dăi để cho y về sớm ba giờ mỗi ngày.
Chúng ta biết rằng một đứa trẻ không thể biết vâng lời, nếu người mẹ luôn luôn bênh vực con, không để cho nó chịu h́nh phạt nghiêm khắc và roi vọt của người chạ Chúng ta biết rằng những khó khăn trắc trở và đau khổ của người đời, dưới h́nh thức những tật nguyền, tại nạn, nghèo khổ...
Thật ra là sự biểu hiện ư muốn cải thiện và giáo dục của Thiêng Liêng. Như vậy, làm sao ta dám can thiệp vào sự hành động của Thiên Y, và phá luật lệ thiên nhiên?
Thí dụ, chúng ra thấy một người kia sống trong cảnh lầm than khốn khổ, nghèo nàn cơ cực, với một thân h́nh tàn phế, tật nguyền, chúng ta không khỏi động ḷng thương hại. Nhưng nếu chúng ta xét mọi sự theo khía cạnh Nhân Quả, chúng ta cũng có thể nh́n thấy con người bất hạnh ấy dưới một h́nh thức khác.
Chúng ta có thể nh́n về dĩ văng và tưởng tượng người ấy trong một vai tṛ khác, với một bộ y phục khác và sống trong một thời đại khác hơn bây giờ.
Chúng ta có thể tưởng tượng con người vô phước ấy dưới những nét của một vị lănh chúa nước Nga hồi thời Nga Hoàng; một vị lănh chúa có một thân h́nh cao lớn, lực lưỡng, khỏe mạnh, nhưng lại hung tợn, độc ác và vô nhân đạo.
Với những tài sản khổng lồ, giàu sang không kể xiết, ông đă tỏ ra lạnh nhạt dửng dưng trước sự đau khổ của những người nông dân đă làm việc cặm cụi suốt đời để làm giàu cho ỵ Với một thân h́nh tráng kiện, sức khỏe dồi dào, ông ra hiên ngang hống hách, khinh thường những kẻ yếu đuối, đối xử tàn nhẫn với đàn bà, trừng phạt thẳng tay không chút ḷng thương xót đối với những kẻ đă làm mất ḷng ông.
Đó là h́nh ảnh cho người của ông trong kiếp trước. Nh́n chung quanh ông, ta thấy những nạn nhân của ông đang sống vất vưỡng, dở chết dở sống trên những vùng hoang vu lạnh lẽo ở xứ Tây Bá Lợi Á, do bởi ông đă dùng quyền lực áp chế để đày ải họ sang xứ này.
Ta thấy những trẻ con xanh xao gầy c̣m, mặt mày ngơ ngác v́ đói lạnh, bởi cha mẹ chúng là những nông dân nô lệ, suốt đời phục dịch vị lănh chúa tàn bạo, nhưng vẫn không đủ cơm ăn áo mặc, vợ con phải chịu đói rách quanh năm.
Khi chúng ta nh́n thấy cảnh tượng kiếp trước của người ấy như thế, một cảnh tượng có thể diễn ra ở bất cứ nơi nào trên thế giới, trong những thời đại đă qua, th́ chúng ta biết rằng ông sẽ có lúc phải trả quả báo về những tội ác của ông đă làm.
Và ngày nay, chúng ta đă gặp lại ông trong bộ áo của một kẻ hành khất khốn khổ lầm than, thân h́nh tàn phế, chúng ta có thể nào c̣n thương hại ông được chăng?
Gặp cảnh này, chúng ta đă đứng trước một vấn đề tâm lư, luân lư và xă hội có một tầm quan trọng rất lớn, một vấn đề mà chúng ta cần phải hiểu rơ trong việc xử thế hằng ngày. Người ta đă t́m thấy một phương pháp giải quyết vấn đề này trong chế độ xă hội của một xứ trên thế giới là xứ Ấn Độ.
Vấn đề mà chúng ta nêu ra khi chúng ta vừa mới chấp nhận thuyết Luân Hồi, người Ấn Độ đă từng biết rơ từ bao nhiêu thế kỷ về trước. Người Ấn Độ đă giải quyết vấn đề này bằng cách không can thiệp vào sự hành động của luật nhân quả.
Điều này giải thích một phần lớn thái độ thản nhiên của họ đối với những kẻ đau khổ, hoạn nạn, khốn cùng, và cách đối xử đặc biệt mà họ dành cho những người thuộc gia cấp cùng đinh (paria)
Chế độ giai cấp ở Ấn Độ vốn căn cứ trên pháp luật của đức Manou, một luật gia và triết gia danh tiếng của Ấn Độ thời cổ. Cũng như Platon, Ngài tuyên bố rằng theo luật tự nhiên, xă hội loài người chia ra từng thành phần, tùy theo công việc hay chức nghiệp của mỗi người.
Điều huấn thị này về sau trở nên một tập quán xă hội, và tập quán đó dần dần kết tinh lại thành ra một trật tự về giai cấp. Truyền thống, phong tục và thói dị đoan của một dân tộc gồm đến chín mươi phần trăm những kẻ thất học, đă làm cho tập quán nói trên trở thành bất di dịch, không thể sửa đổi.
Giai cấp hạ tiện gồm thành phần những người làm những công việc ti tiện, thấp kém nhất trong xă hội. Giai cấp này về sau trở nên thành phần "Bất khả tiếp xúc" (intouchable), do sự lư luận rằng nếu họ đầu thai làm những người thuộc giai cấp hạ tiện đó, là để trả quả báo về những việc làm xấu xa và tội ác của họ trong một kiếp trước.
Bởi sự lư luận đó, người ta không can thiệp vào luật Trời khiến cho họ phải lầm than khổ sở, mà cứ dửng dưng trước sự hành động tự nhiên của Luật Quả Báo.
Nếu chúng ta chấp nhận lư lẽ thứ nhứt của người Ấn Độ, theo đó Luật Nhân Quả đặt để ta vào một hoàn cảnh hay thân phận thích nghi, tương xứng với nghiệp quả của ḿnh, và nếu chúng ta cũng chấp nhận luôn lư lẽ thứ hai của họ về đẳng cấp trong xă hội, th́ ta thấy rằng lập luận của họ rất vững chắc và rất có lư.
Lập luận ấy dầu rằng có cái lư lẽ vững chắc, nhưng nếu nó đưa chúng ta đi đến kết luận là phải dửng dưng trước sự đau khổ của kẻ khác, th́ đó thật là một điều đáng buồn!
Tuy thế, ta cũng thấy có những người luôn luôn cố gắng hoạt động trong các công tŕnh cứu tế để làm dịu bớt sự đau khổ của nhân loại. Đó là bởi v́ họ có ḷng nhân từ bác ái đến một mực độ rất cao.
Thấy vậy, ḷng bác ái tức là t́nh thương bao la phủ nhận lư luận của những kẻ thản nhiên, bất can thiệp, mặc dầu lư luận này bề ngoài dường như có lư. Chính đó là ư nghĩa lời răn dạy của đấng Christ, v́ Ngài đă dành trọn cuộc đời để đi truyền giáo và chữa bịnh cho người thế gian mê lầm và đau khổ.
Cuộc đời của đấng Christ đă chứng minh rằng dầu cho tội lỗi của con người nặng đến đâu, ta cũng phải luôn luôn đưa ra một cánh tay cứu giúp.
Cuộc đời của ông Edgar Cayce tuy không thể đem so sánh với đấng Christ, nhưng ông cũng là một người cái tinh thần cứu độ chúng sinh giống như đấng Christ, v́ trong bốn mươi năm, ông đă hoạt động với một tấm ḷng nhiệt thành và bác ái để cứu giúp những người đau khổ từ thể xác đến tinh thần.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đều xác nhận rơ ràng quan niệm này, là đời người bị chi phối và cai quản bởi một định luật rất khoa học, đó là Luật Nhân Quả mà phương Đông đă biết rơ từ lâu đời. Đồng thời, những cuộc soi kiếp đó cũng xác nhận định luật bác ái nhân từ và lư tưởng phụng sự, là những điểm cốt yếu trong giáo lư của mọi tôn giáo.
Không cần biết về tội lỗi của người khác ra sao trong những kiếp quá khứ, chúng ra nên cố gắng giúp đỡ họ, và đừng lầm tưởng rằng làm như thế, chúng ta có thể can thiệp vào sự hành động của Luật Nhân Quả.
Ngoài ra, chúng ta nên hiểu rằng dửng dưng nguội lạnh trước sự đau khổ của kẻ khác cũng là một tội ác mà chúng ta phải chịu quả báo về sau này. Một khía cạnh khác của vấn đề tế nhị này là con người có quyền tự do ư chí trong mọi hành động, và không phải tất cả mọi việc lớn nhỏ trong đời đều đă được định sẳn từng chi tiết theo một cái định mệnh bất di dịch.
Bởi đó, sự cố gắng của chúng ta để giúp đỡ một người đau khổ hoạn nạn, không phải chỉ là một kinh nghiệm bản thân cần thiết cho ta để tự cải thiện lấy ḿnh trong sự thực hành t́nh bác ái mà thôi, nó c̣n là một điều quư báu có thể làm thay đổi cả một thái độ tinh thần, và cả một cuộc đời của đương sự.
Xét cho cùng, ta nên hiểu rằng nghiệp quả là do tư tưởng tạo nên. Sự sinh hoạt trái đạo, cách xử thế sai lầm, nguyên nhân là do sự lầm lạc trong tư tưởng. Bởi đó, người ta chỉ có thể hoàn toàn thay đổi thái độ đối với cuộc đời bằng ách hoàn toàn cải tạo tư tưởng.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đă tuyên bố một cách rất đúng rằng tư tưởng chính là sức mạnh sáng tạo, và trừ phi có sự thay đổi tư tưởng ở tự nơi ḿnh, người ta không thể nào cứu chuộc và sửa đổi lại những nghiệp quả xấu đă gây từ trước.
Hiểu theo một ư nghĩa thần bí, các tôn giáo cho rằng Thượng đề sáng tạo ra con người; những theo ư nghĩa thiết thực th́ con người tự sáng tạo lấy ḿnh! Luật Nhân Quả là cái định luật theo đó con người tự tạo nên cái thân phận sang hèn, may rủi, tốt xấu, vui buồn của chính ḿnh.
Luật Nhân Quả đặt con người trong sự kiềm tỏa, trói buộc và đặt ông trong ṿng kỷ luật để cho ông tự tu tiến lấy bản thân, nhưng đồng thời nó cũng là kẻ giải phóng và là một người bạn tốt. Biết rơ điều này, người Phật tử luôn luôn giữ thái độ hồn nhiên, thanh thoát trước mọi nghịch cảnh, mọi nỗi thăng trầm ch́m nổi của cuộc đời và nói: "Phật Pháp là chỗ trú ẩn của ta."
Đối với những người thông hiểu mục đích tốt lành của mọi định luật thiên nhiên trong Trời Đất, th́ câu nói đó cũng có ư nghĩa đầy đủ với những tính cách an ủi và khích lệ như câu tương tự của người tín đồ Gia Tô Giáo: "Chúa Trời là niềm vui, là Ánh Sáng, và là đấng Che Chở của ta."
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 234 of 1146: Đă gửi: 18 June 2010 lúc 9:41pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG BÍ ẨN CỦA CUỘC ĐỜI
MỘT PHƯƠNG CHÂM XỬ THẾ
Chương Hai Mươi Bốn
Trong thời gian chữa bệnh giúp đời, ông Cayce đă nhận được nhiều thơ tín từ khắp nơi trên thế giới gửi đến. Đọc những bức thư đó, người ta không khỏi lấy làm buồn tủi, nghẹn ngào và động ḷng trắc ẩn trước bao nỗi đoạn trường, đau khổ, lầm than của nhân loại.
Ông Cayce đă không quản công lao khó nhọc, làm việc không tiếc thân, bất kể ngày đêm, để giúp đỡ tất cả mọi người bằng những cuộc soi tiền kiếp, giúp đỡ và bày vẽ phương pháp điều trị bịnh tật, cùng phương pháp giải quyết những nỗi khó khăn đau khổ trong cuộc đời của họ.
Có những bức thư tŕnh bày những nỗi thắc mắc, băn khoăn của đương sự, chẳng hạn như của một thiếu phụ viết như sau: "Tôi tự hỏi không biết ông có thể dành cho tôi một cuộc soi kiếp để giúp ư kiến về đời sống t́nh cảm của tôi chăng?
Tôi thật không c̣n biết tính sao? Tôi muốn tái giá và hy vọng có một gia đ́nh ấm cúng, hạnh phúc, nhưng tôi e ngại không biết có lấy được người chồng vừa ư hay không, hay là có lẽ tôi không nên nghĩ đến việc tái giá nữa? Và chắc có lẽ cũng không có ai thương yêu tôi?"
Một người đàn bà khác viết: "Làm sao cho chồng tôi thay đổi tính t́nh, để cho gia đ́nh tôi được sống trong bầu không khí yên vui và hạnh phúc?"
Những người viết thơ bày tỏ tâm sự, dầu là thông minh hay dốt nát, giàu hay nghèo, sang hay hèn, tất cả đều tiết lộ cho ta thấy sự thắc mắc băn khoăn của nhân loại. Dầu họ là những người nhút nhát, tánh t́nh khép chặt, cô đơn, bệnh tật, thất bại trên đường đời hoặc gia đ́nh rối rắm, họ đều có một nguyện vọng chung, là cải tiến t́nh trạng hiện tại để làm cho số phận của họ trở nên tốt đẹp hơn.
Trong hầu hết mọi trường hợp, họ đều được cho biết rằng nguyên nhân t́nh trạng đau khổ của họ là do chính họ tự gây ra. Đó là điểm đầu tiên mà đương sự phải nh́n nhận. Xét cho cùng, mỗi người tự tạo lấy những khó khăn đau khổ cho ḿnh, và bởi đó chính họ phải tự giải quyết những nỗi khó khăn đau khổ đó.
Bất luận sự khó khăn trắc trở đó như thế nào, như khổ về sự cô đơn; hoặc v́ người chồng tánh t́nh xung khắc, không thể cùng nhau ḥa hợp; v́ một đứa con hư hỏng; một hoàn cảnh chật hẹp tù tùng chẳng hạn; chúng ta chỉ có thể vượt qua được sự khó khăn bằng cách tự sửa đổi lấy tâm tính của ḿnh.
Điều cần phải sửa đổi, chính là cái thái độ tinh thần và cách xử thế hằng ngày của chúng ta vậy. Hăy dẹp bỏ tánh hay chỉ trích, chê bai, sẵn sàng lên án những người chung quanh, tánh thù vặt, kiêu căng, ngă mạn, dửng dưng, lạnh lùng.
Hăy trừ bỏ thói ích kỷ, khinh mạn, đố kỵ. Những khó khăn chướng ngại của ta chỉ có thể giải quyết được bằng cách tu sửa tánh t́nh, tập lấy những đức tính tốt lành, nhân đức, thuộc về địa hạt tâm linh.
Sự giáo dục tâm linh và thay đổi thái độ trong cách xử thế hằng ngày phải được đặt trong khuôn khổ một sự hiểu biết sâu xa về Vũ Trụ, cùng những mối liên quan về Vũ trụ và Con Người.
Quan niệm do biểu lộ rơ rệt trong các tập hồ sơ Cayce và những cuộc soi kiếp mà ông đă thực hiện cho hằng trăm người. Quan niệm ấy gồm có những đường lối đại cương như sau:
Có một Quyền Năng Sáng Tạo vô biên mà người ta gọi là Thượng Đế. Mỗi linh hồn là một phần tử của Thượng Đế. Đời người có một mục đích, và diễn ra một cách liên tục. Đời sống con người vẫn tiếp tục luôn luôn sau khi chết. Đời người được cai quản bởi những định luật Luân Hồi và Nhân Quả:
"Thực hiện ḷng bác ái tức là thuận theo Cơ Trời."
"Ư chí con người tạo nên định mệnh"
"Tư tưởng có một quyền năng sáng tạo."
"Sự giải đáp cho mọi vấn đề khó khăn là ở tự nơi linh hồn mỗi người... "
Căn cứ trên những điều ấy, là những điều răn dạy sau đây:
"Ta hăy bắt đầu t́m hiểu những mối tương quan giữa ḿnh và những Sức Mạnh Sáng Tạo của Vũ Trụ, hay Thượng Đế."
"Ta hăy đặt mục đích và lư tưởng trong đời ḿnh, và hăy cố gắng thực hiện những lư tưởng đó."
"Hăy hoạt động, kiên nhẫn, và vui vẻ luôn luôn."
"Đừng nghĩ đến kết quả của việc làm, hăy dâng mọi kết quả lên Thượng Đế."
"Đừng trốn tránh những khó khăn xảy đến cho ta."
"Hăy làm mọi việc lành để giúp đỡ kẻ khác."
Nhiều người phương Tây không chấp nhận quan niệm của những tôn giáo Phương Đông về Vũ trụ và nhân sinh, nhưng quan niệm này đă được những cuộc soi kiếp của ông Cayce xác nhận.
Tuy nhiên, mặc dầu họ không thể chấp nhận quan niệm đó v́ thiếu bằng chứng khoa học xác đáng, chặt chẽ hơn là những bằng chứng trong hồ sơ Cayce, họ cũng không thể phủ nhận một cách dễ dàng tánh cách đúng đắn, hợp lư và làm thỏa măn lư trí của thuyết Luân Hồi, cùng lập luận vững chắc và thỏa đáng của thuyết ấy trên các phương diện tâm lư, luân lư và khoa học.
Đối với người nào có thể chấp nhận thuyết Luân Hồi, th́ nó đem lại cho họ một lẽ sống mới, một kim chỉ nam để soi hướng và d́u dắt họ trên đường đời, và một sự quả quyết chắc chắn rằng họ sẽ không bị lạc bước trong chốn mê đồ gồm những sức mạnh tối tăm, cuồng loạn và không mục đích.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 235 of 1146: Đă gửi: 18 June 2010 lúc 9:43pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG BÍ ẨN CỦA CUỘC ĐỜI
KẾT LUẬN
Trong những trang vừa qua, chúng ta đă đi hết một quăng đường dài, bắt đầu từ một câu chuyện nhỏ xảy ra trong một pḥng khách sạn ở Dayton, Ohio, Hoa Kỳ, khi ông Edgar Cayce dùng Thần Nhăn trong lúc thôi miên, lần đầu tiên cho biết Luân Hồi là một điều có thật trong cơi Thiên Nhiên.
Câu chuyện ấy và những chuyện tương tự khác nối tiếp theo sau về vấn đề Luân Hồi có vẻ dường như một nền tảng chưa đủ vững chắc để xây dựng trên đó cả một ṭa lâu đài tâm lư và triết lư mà chúng ta đă thấy những nét đại cương trong quyển sách này.
Tuy nhiên, xét về lịch sử khoa học, người ta thấy rằng những sự phát minh lớn lao làm đảo lộn cả một thế hệ, dường như chỉ bắt đầu bằng những câu chuyện nhỏ nhặt vô lư. Một cái đùi ếch bị điện giựt và một mẩu bánh ḿ mốc meo dường như là những sự vật quá nhỏ mọn không đủ dùng để phát minh ra b́nh điện khí và thuốc trụ sinh (Penicilline) nhưng sự thật đó chính là những nguyên nhân đưa đến hai sự phát minh kỳ diệu trên.
Một ngọn đèn lồng đưa lủng lẳng trong một nhà thờ cổ ở một làng nhỏ bên Ư đă đưa ông Galilée đến việc phát minh ra một đồng hồ thiên văn. Một bồn nước tràn đă giúp cho ông Archimede t́m ra một định luật quan trọng về áp lực của chất nước.
Lịch sử đă đưa đến cho ta nhiều thí dụ tương tự. Chúng ta phải nh́n nhận sự thật có thể t́m ra được từ những chỗ rất giản dị tầm thường, và chúng ta cũng sẽ không ngạc nhiên mà thấy người học thức ít ỏi, không tài ba, thiếu văn hóa, nằm trong giấc ngủ thôi miên, lại có thể đưa ra những bằng chứng quan trọng để chứng minh cho một thuyết căn bản lạ lùng về đời sống con người.
Chúng ta hăy tóm tắt những ǵ đă chứng minh cho sự thật của những cuộc soi kiếp của ông Cayce, ngoài ra vô số những bằng chứng hiển nhiên khác về sự thật của hiện tượng Thần Nhăn. Có tất cả bảy điểm chính sau đây:
1. Sự phân tách tâm lư và diễn tả hoàn cảnh bên ngoài của những người hoàn toàn xa lạ Ở cách xa hàng trăm cây số; và trong hằng ngàn trường hợp, đă tỏ ra đúng ư như thật.
2. Sự tiên đoán về những thiên tư, khả năng và những điểm khác của đương sự, đă được chứng thực trong nhiều năm sau, không những cho người lớn, mà cũng cho trẻ sơ sinh.
3 .Những đặc điểm về tánh t́nh của đương sự được truy nguyên một cách hợp lư từ những kinh nghiệm thâu nhập ở các kiếp trước.
4. Những lời tiên đoán đều đúng và không hề trái ngược nhau, không những trên nguyên tắc đại cương mà thôi, mà cũng trong từng chi tiết nhỏ nhặt, trong hằng trăm các cuộc soi kiếp khác nhau, và ở những thời kư khác nhau.
5. Những tài liệu lịch sử lu mờ đă được kiểm điểm lại bằng cách tra cứu các văn khố; những tên tuổi của các nhân vật vô danh đă được t́m thấy tại những địa điểm mà các cuộc soi kiếp đă nêu ra.
6. Những cuộc soi kiếp cùng những lời khuyên mà đương sự đă chấp nhận và nghe theo, đă giúp cho nhiều người thay đổi cuộc đời của họ về các phương diện tâm lư, nghề nghiệp, và sức khỏe thể chất.
7. Những lời khuyên nhủ và răn dạy có tính cách triết lư và tâm lư trong các cuộc soi kiếp đều hạp với lẽ Đạo, đúng như nền Đạo lư cổ truyền đă từng đem giảng dạy ở Ấn Độ từ nhiều thế kỷ.
Nói tóm lại, đó là bảy điều quan trọng chứng minh cho những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhăn của ông Cayce, và xác nhận sự thật về thuyết Luân Hồi. Người ta có thể cho rằng đó chưa phải là những bằng chứng cụ thể và mười phần xác đáng, nhưng nó vẫn có giá trị không kém.
Dầu cho lập luận khoa học chứng minh rằng Trái Đất tṛn, th́ đó cũng chỉ là một sự phỏng đoán mà thôi, chứ chưa có ai đă thật sự thấy tận mắt h́nh tṛn của Trái Đất. Sự thật về hột nguyên tử cũng chỉ là một sự phỏng đoán, chứ chưa có người nào đă thấy tận mắt một hột nguyên tử.
Tuy vậy, căn cứ trên những sự ức đoán đó, người ta đă đi du lịch ṿng quanh Trái Đất, và đă chế tạo quả bom nguyên tử, mà ảnh hưởng tàn phá mănh liệt của nó, không ai có thể chối căi là không có!
Như vậy, thật không phải là một điều không tưởng quá đáng mà nói rằng người ta nên bắt đầu có những cuộc sưu tầm và thí nghiệm khoa học về thuyết Luân Hồi, căn cứ trên những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhăn của ông Cayce.
Những người chủ trương thuyết Luân Hồi chỉ có thể hy vọng rằng những ai muốn t́m sự giải đáp thỏa đáng cho những điều bí ẩn của đời người, hăy chấp nhận thuyết Luân Hồi như một nguyên tắc cốt yếu cho sự t́m ṭi của họ.
Họ hăy sống với thuyết ấy, hăy cư xử, hành động thuận chiều với nó trong một thời gian, họ hăy tự xét ḿnh, xét người chung quanh, và nh́n xem cuộc đời thế gian theo những nguyên tắc giản dị nhưng rất có ư nghĩa của thuyết Luân Hồi, rồi họ sẽ nhận thấy rằng đâu là Chân Lư.
Nếu quả thật thuyết Luân Hồi là một định luật của nhân sinh, do đó con người tiến hóa và trở nên Toàn Thiện; nếu quả thật đó là Chân Lư giản dị của cuộc đời, và là cái bí quyết then chốt của sự sống và của vấn đề đau khổ, th́ đây là một sự kiện mới, có thể làm đảo lộn trào lưu tư tưởng của thế hệ, và làm thay đổi được cuộc đời của một số rất đông người.
Sự hiểu biết về định luật Luân Hồi sẽ đem đến cho chúng ta một nguồn khích lệ và can đảm. Nó cũng đem đến cho ta một viễn ảnh mới mẻ, tốt đẹp và huy hoàng về Vũ Trụ Nhân Sinh; một sự hiểu biết sâu xa, tế nhị và thâm trầm về cuộc đời, để giúp chúng ra có thể chịu đựng một cách vui vẻ, b́nh tĩnh và hồn nhiên, tất cả mọi sự thử thách đắng cay và đau khổ của định mệnh.
Dale Carnegie
Dịch giả : Nguyễn Hữu Kiệt
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 236 of 1146: Đă gửi: 18 June 2010 lúc 11:54pm | Đă lưu IP
|
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 237 of 1146: Đă gửi: 19 June 2010 lúc 1:24pm | Đă lưu IP
|
|
|
TIỀN KIẾP VÀ LUÂN HỒI CÓ THẬT KHÔNG?
Tác Giả : Bác Sĩ Brian L. Weiss.
Dịch Giả: Thích Tâm Quang.
Câu Chuyện Thật Của Một Bác Sĩ Chuyên Khoa Tâm Thần, Một Bệnh Nhân Trẻ Của Ông, và Cách Chữa Trị Tiền Kiếp Đă Thay Đổi hẳn Đời Sống của Cả Hai.
Lời người dịch: Thời đại ngày nay là thời đại khoa học, nhưng có thể nói chính xác hơn là thời đại khoa học vật chất, c̣n khoa học tinh thần th́ có lẽ mới chỉ là những bước đi chập chững. Từ thượng cổ người ta đă suy nghĩ và t́m hiểu xem có tiền kiếp và luân hồi không, nhưng cho tới nay hầu như chưa có câu trả lời "khoa học".
Những ư niệm, khái niệm, ư tưởng về điều đó vẫn là một vấn đề nhức nhối gây bán tín bán nghị Th́ đây, tác phẩm này đích thực là một công tŕnh khoa học dưới dạng thức văn học về tiền kiếp và luân hồi, một vấn đề xuyên suốt quá tŕnh triết học, tôn giáo trong lịch sử loài người.
Đúng như tác giả, Bác Sĩ Brian L. Weiss viết "loài người đă chống lại những thay đổi và không chấp nhận những ư tưởng mới". Quả thật là như vậỵ V́ đây là những vấn đề hết sức khó chứng minh một cách khoa học nhưng lại thật đơn giản trong khoa học tôn giáo đích thực. Bạn đọc hoàn toàn có thể tự do so sánh đối chiếu để t́m ra chân lư.
Bạn có thể tin rằng có nhiều tiền kiếp và nhiều lần luân hồi hay không, điều đó cũng chẳng khác câu chuyện của Galileo xưa kia. Dù sao trái đất vẫn cứ quay. V́ đây là chuyện khoa học nên nó được viết rất chân thật, giản dị, trong sáng song rất hấp dẫn v́ xen lẫn hiện tại, quá khứ, những suy tư quí báu của tác giả.
Tin chắc rằng bạn đọc sẽ rút ra được những kết luận bổ ích cho cuộc sống, và biết đâu nó cũng thay đổi hẳn cuộc sống của ḿnh. Tự biết khả năng c̣n nhiều hạn chế, nhưng với tấm ḷng nhiệt thành chúng tôi cố gắng hoàn thành dịch phẩm này, mong mang được ít nhiều lợi lạc cho người đọc.
LỜI TỰA:
Tôi biết mọi chuyện đều có lư dọ Có lẽ vào lúc một sự việc nào đó xẩy ra chúng ta không thấu hiểu hay
biết nh́n xa trông rộng để nhận thức thấu đáo lư do đó, nhưng với thời gian và kiên nhẫn, nguyên nhân này sẽ được đưa ra ánh sáng.
Cũng như vậy với Catherine. Tôi gặp cô lần đầu vào năm 1980 khi cô hai mươi bẩy tuổi. Cô đến văn pḥng tôi để chữa bệnh trầm cảm, lên cơn sợ hăi, và ám ảnh sợ. Tuy cô đă có những triệu chứng này từ hồi c̣n thơ ấu, nhưng gần đây t́nh trạng càng ngày càng tồi tệ hơn. Hàng ngày cô cảm thấy tinh thần bị tê liệt và hoạt động kém. Cô sợ hăi và bị suy nhược.
Trái với sự chao đảo xẩy ra trong đời sống của cô vào lúc đó, đời sống của tôi trôi chẩy suôn sẻ. Tôi có gia đ́nh khá vững vàng, hai con nhỏ, và một sự nghiệp đang phát triển. Từ lúc đầu, đời sống của tôi dường như luôn luôn thăng tiến. Tôi lớn lên trong một gia đ́nh yêu thương. Thành công ở đại học đến với tôi dễ dàng, và ngay vào năm đại học.
Thứ hai tôi đă có quyết tâm trở thành một bác sĩ tâm thần học. Tôi được cấp bằng Phi Beta Kappa, Cấp II (Magna Cum Laude) tại Trường Đại Học Columbia ở Nữu Ước năm 1966. Rồi tôi vào Trường Đại Học Y Khoa Yale và nhận bằng Bác Sĩ Y khoa năm
1970.
Sau khi thực tập nội trú tại Trung Tâm Đại Học Y Khoa Nữu Ước Bellevue, tôi trở lại Đại Học Yale để hoàn tất chương tŕnh thực tập nội trú. Sau khi hoàn tất, tôi nhận một chức vụ của khoa tại Đại Học Pittsburg. Hai năm sau, tôi tham gia giảng dạy y khoa tại đại học Miami, trưởng ban dược lư trị liệu. Nơi đây tôi được nhà nước công nhận trong lănh
vực tâm thần sinh học và lạm dụng vật chất.
Sau bốn năm ở trường Đại học tôi được đề bạt làm Trợ Lư Giáo Sư ngành Tâm thần tại trường Y khoa, và được bổ nhiệm làm Trưởng Khoa Tâm Thần tại một bênh viện lớn đă sát nhập với Trường Đại Học Miami.
Vào lúc này tôi đă công bố ba mươi bẩy tham luận khoa học và sách đề tài trong lĩnh vực của tôi. Nhiều năm nghiên cứu khắt khe đă rèn luyện tâm trí tôi suy nghĩ với tư cách khoa học gia và thầy thuốc, hướng tôi đi theo con đường bảo thủ hẹp ḥi trong nghề nghiệp của tôi.
Tôi không tin vào cái ǵ nếu không thể chứng minh được bằng phương pháp khoa học truyền thống. Tôi có ư thức về một số nghiên cứu trong khoa cận tâm lư được thực hiện tại các đại học lớn trong nước, nhưng những nghiên cứu này cũng không làm cho tôi chú ư.
Tất cả điều đó dường như quá cường điệu đối với tôi.
Rồi tôi gặp Catherine. Trong mười tám tháng tôi đă sử dụng phương pháp trị liệu thông thường để giúp cô khắc phục những triệu chứng của cô. Khi thấy không có ǵ hiệu quả, tôi thử thôi miên.
Trong trạng thái mơ màng từng đợt, Catherine nhớ lại tiền kiếp chứng minh những nhân tố đă gây ra những triệu chứng cho cô. Cô cũng có thể hành động như
cáp thông tin từ " thực thể tinh thần" tiến hóa cao và qua họ, cô đă cho thấy nhiều bí mật về đời sống và cái chết. Chỉ vài tháng ngắn ngủi, những triệu chứng của cô biến mất, và cô đă tiếp tục cuộc sống, hạnh phúc và an lạc hơn trước nhiều.
Không có ǵ trong học vấn và kinh nghiệm của tôi đă sửa soạn cho tôi về việc này. Tôi tuyệt đối ngỡ ngàng khi những biến chuyển này bộc lộ. Tôi không có lời giải thích khoa học nào về điều đă xẩy ra.
Tâm trí con người có quá nhiều cái vượt khỏi tầm nhận thức của chúng ta. Có lẽ do thôi miên, Catherine đă có thể tập trung vào phần tiềm thức chứa những kư ức thực sự về tiền kiếp hay có thể cô đă kết nối vào cái mà nhà phân tâm học Carl Jung gọi là tập hợp vô thức, nguồn gốc của năng lượng bao quanh chúng ta và chứa đựng những kư ức về toàn thể loài người.
Các khoa học gia đang bắt đầu t́m kiếm câu trả lời ấỵ Chúng ta, là một xă hội, đạt được nhiều cái do khám phá ra những bí mật của tâm trí, linh hồn và sự tiếp tục sau khi chết, và ảnh hưởng của những kinh nghiệm của tiền kiếp đối với cách ứng xử hiện tại của chúng ta. Rơ ràng, những sự phân nhánh là vô hạn, đặc biệt trong lĩnh vực y học, tâm thần học , thần học, và triết học.
Tuy nhiên sự nghiên cứu khoa học mạnh mẽ trong lĩnh vực này chỉ ở trong trứng nước. Đă có những tiến bộ lớn trong việc khám phá ra kiến thức này, nhưng tiến tŕnh lại chậm và vấp phải sự phản kháng của các khoa học gia cũng như của dân chúng.
Suốt ḍng lịch sử, loài người luôn chống lại sự thay đổi và không chấp nhận những ư kiến mới. Toàn bộ hiểu biết và truyền thuyết lịch sử đầy những thí dụ. Khi Galileo khám phá ra những vệ tinh của Mộc Tinh, những nhà thiên văn học lúc đó đă từ chối, không chấp nhận và thâm chí không xem xét những vệ tinh này v́ sự hiện hữu của các vệ tinh này mâu thuẫn với niềm tin đă được chấp thuận của họ.
Vậy nên ngày nay các nhà tâm thần học và các bác sĩ chuyên khoa khác cũng từ chối xem xét và đánh giá chứng tích được thâu thập về sự sống sót sau khi thân xác chết và về những kư ức về tiền kiếp. Họ đă nhắm mắt.
Tác phẩm này là sự đóng góp nhỏ nhoi của tôi vào tiến tŕnh nghiên cứu trong lĩnh vực cận tâm lư, nhất là ngành nghiên cứu những kinh nghiệm trước khi sinh và sau khi chết. Mỗi lời nói mà bạn đọc là sự thật. Tôi không thêm ǵ cả, và tôi chỉ bỏ những phần lặp đi lặp lạị Tôi đă thay đổi chút ít nhận dạng của Catherine để bảo đảm sự bảo mật.
Tôi đă mất bốn năm để viết về cái đă xẩy ra, bốn năm để có can đảm liều lĩnh trong nghề nghiệp tiết lộ những tin tức không truyền thống này. Đột nhiên một đêm trong khi tôi đang tắm, tôi cảm thấy như bị ép buộc phải viết ra những ǵ đă kinh qua. Tôi có một
cảm giác mạnh là đă đến lúc tôi không nên giữ tin tức này lâu hơn nữa.
Những bài học mà tôi biết phải được chia sẻ với những người khác và không nên giữ riêng cho ḿnh. Kiến thức phát ra qua Catherine và nay phát qua tôị Tôi biết rằng không có hậu quả nào có thể xảy ra nếu tôi phải đương đầu có thể chứng tỏ là tàn phá bằng việc không chia sẻ kiến thức mà tôi có được về sự bất tử và ư nghĩa thực sự của cuộc sống.
Tôi vội vàng ra khỏi pḥng tắm, ngồi vào bàn với chồng băng thâu trong những buổi làm việc với Catherine. Vào lúc gần sáng, tôi nghĩ đến ông nội, người Hung ga ri của tôi đă chết khi tôi hăy c̣n là một thiếu niên. Bất cứ khi nào tôi nói với ông là tôi sợ liều lĩnh, ông cũng khuyến khích tôi một cách thương yêu bằng cách nhắc lại câu thành ngữ tiếng
Anh ưa thích của ông : "địa ngục ǵ mà sợ", ông sẽ nóị "địa ngục ǵ mà sợ".
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 238 of 1146: Đă gửi: 19 June 2010 lúc 1:25pm | Đă lưu IP
|
|
|
TIỀN KIẾP VÀ LUÂN HỒI CÓ THẬT KHÔNG?
CHƯƠNG MỘT
Lần đầu tôi gặp Catherine, cô mặc một bộ đồ đỏ tươi
và bồn chồn dở trang tạp chí để tại pḥng đợi của tôi. Rơ ràng là cô thở hỗn hển. Hai mươi phút trước đó, cô đi tới đi lui trong hành lang bên ngoài Khoa Tâm Thần, cố gắng thuyết phục ḿnh giữ đúng hẹn gặp tôi mà không bỏ đi.
Tôi ra pḥng đợi và chào cô, và chúng tôi bắt tay nhau. Tôi nhận thấy tay cô lạnh và ẩm ướt, xác nhận có sự lo âu. Thực ra sau hai tháng trời thu thập can đảm để làm hẹn gặp tôi mặc dù hai thầy thuốc tư vấn mà cô tin tưởng khuyên cô t́m sự giúp đỡ nơi tôi. Cuối cùng cô đă ở đây.
Catherine là một phụ nữ quyến rũ lạ thường, với mái tóc vàng hoe dài vừa phải và cặp mắt mầu nâu nhạt. Lúc đó, cô là một chuyên viên pḥng thí nghiệm tại bệnh viện mà tôi là Trưởng Khoa Tâm Thần, và cô kiếm thêm tiền bằng cách làm nghề mặc áo tắm.
Tôi bảo cô vào pḥng tôi, đi qua chiếc đi văng tới chiếc ghế da lớn. Chúng tôi ngồi đối diện nhau, cái bàn bán nguyệt của tôi ngăn cách chúng tôi. Catherine ngả lưng trên ghế, im lặng không biết bắt đầu từ đâu. Tôi chờ đợi, muốn để cho cô khởi đầu, nhưng sau vài phút, tôi bắt đầu hỏi về quá khứ
của cô.
Trong lần khám bệnh đầu, chúng tôi bắt đầu làm
sáng tỏ cô là ai và tại sao cô đến t́m gặp tôi. Trả lời câu hỏi của tôi, Catherine cho biết câu chuyện về
đời sống của cô. Cô là một đứa trẻ trung b́nh, sinh ra trong một gia đ́nh Cơ Đốc Giáo ôn ḥa tại một thành phố nhỏ ở Massachussetts. Người anh cô, sinh ra trước cô ba năm, rất khỏe mạnh, được hoàn toàn tự do mà cô th́ không được phép.
Em gái của cô là đứa con được cưng chiều nhất của
cả bố me.. Khi cô bắt đầu nói về những triệu chứng của cô, cô trở nên căng thẳng và giao động nhiềụ Cô nói thật nhanh và ngả người về phía trước, tựa khuỷu tay lên bàn. Đời cô luôn luôn bị đè nặng bởi sợ hăi. Cô sợ nước, sợ bị nghẹn đến mức không thể nuốt nổi viên thuốc, sợ máy bay, sợ bóng tối, và cô rất hăi hùng về cái chết.
Trong thời gian vừa qua, sự sợ hăi của cô bắt đầu trở nên tồi tệ hơn. Để cảm thấy an toàn, cô thường ở pḥng nhỏ có lối đi trong căn hộ của cô. Cô phải mất hai hay ba giờ mới ngủ được. Khi ngủ, cô ngủ chập chờn không ngon giấc, chốc chốc lại thức. Những cơn ác mộng và những t́nh tiết mộng du gây tệ hại cho cô lúc c̣n nhỏ bắt đầu trở lại.
Khi sợ hăi và những triệu chứng ngày càng làm cô tê liệt, cô càng trở nên phiền muộn. Trong khi Catherine nói chuyện, tôi có thể cảm thấy cô đau khổ sâu xa đến nhường nào. Nhiều năm qua tôi đă giúp nhiều
bệnh nhân như Catherine thoát khỏi những thống khổ của sợ hăi, và tôi cảm thấy tin tưởng cũng có thể giúp cô.
Chúng tôi quyết định đào sâu thời ấu thơ của cô t́m ra căn nguyên phát sinh các khó khăn của cô. Thường thường kiểu nh́n vào bên trong giúp làm nhẹ đi lo âu. Nếu cần thiết, và nếu cô có thể uống thuốc, tôi sẽ cho cô một số thuốc chống lo âu loại nhẹ để cô được thoải mái hơn.
Đó là cách chữa trị theo tiêu chuẩn sách vở cho các triệu chứng của Catherine, và tôi không bao giờ ngần ngại dùng thuốc an thần, hay thuốc chống suy nhược thần kinh, để chữa trị những chứng sợ hăi và lo âu nghiêm trọng và kinh niên. Bây giờ tôi ít khi dùng những thứ thuốc đó và chỉ dùng chúng tạm thời hay là không dùng nữa.
Không có thứ thuốc nào có thể trừ được tuyệt căn những triệu chứng ấy. Những kinh nghiệm của tôi với Catherine và với những người khác như cô đă chứng minh điều đó với tôi. Bây giờ tôi biết có thể có những phương thuốc không chỉ ngăn chặn hay bao trùm những triệu chứng.
Trong buổi chữa bệnh đầu tiên, tôi cố gắng đánh nhẹ vào thời thơ ấu của cô. V́ lạ lùng là Catherine chỉ nhớ được một số ít biến cố hồi thơ ấu, để tiến nhanh đến việc khắc phục sự ức chế này, tôi đă để tâm xem xét đến cách chữa trị bằng thôi miên.
Cô không thể nhớ tí ǵ đến những lần chấn thương đặc biệt nào trong lúc thơ ấu có thể giải thích được sự sợ hăi lan tràn trong đời cô. V́ cô gắng sức căng tâm trí ra để mà nhớ lại, những mảng kư ức riêng biệt đă xuất hiện.
Khi cô năm tuổi, cô đă kinh sợ khi một người nào đó đẩy cô từ cái cầu nhẩy xuống hồ bơi. Cô nói là ngay cả đến trước khi việc xẩy ra này, cô không bao giờ thấy thoải mái ở dưới nước. Khi Catherine mười một tuổi, mẹ cô bị suy nhược trầm trọng. Mẹ cô bỏ nhà một cách kỳ cục, đ̣i hỏi phải được khám bệnh
bởi một bác sĩ tâm thần với sự điều trị bằng sốc điện.
Cuộc điều trị này đă khiến cho mẹ cô rất khó nhớ
lại các sự việc. Kinh qua việc này với mẹ cô làm Catherine sợ hăi, nhưng, v́ mẹ cô đă đỡ nhiều và trở lại như xưa, Catherine nói, những nỗi sợ hăi của cô tiêu tan. Cha cô là một người rượu chè và đôi khi người anh Catherine phải t́m đến quán rượu địa phương để đưa ông về.
Cha cô càng ngày càng uống nhiều rượu dẫn đến đánh lộn thường xuyên. Mẹ cô, bà trở nên ủ rũ và thu ḿnh lại. Tuy nhiên Catherine thấy đó là mẫu h́nh gia đ́nh đă được chấp nhận. Mọi sự tốt hơn bên ngoài gia đ́nh. Cô có ḥ hẹn ở trường trung học và ḥa đồng dễ dàng với bạn bè, đa số bạn cô, cô biết họ đă nhiều năm. Tuy nhiên cô thấy thật khó mà tin người, nhất là những người ở ngoài nhóm bè bạn nhỏ nhoi của cô.
Tôn giáo của cô th́ b́nh dị và không có vấn đề ǵ. Cô
được nuôi dưỡng để tin vào hệ tư tưởng cách tu tập của Cơ Đốc Giáo truyền thống, và thực sự là chẳng bao giờ cô hoài nghi về tính đứng đắn và giá trị của Cơ Đốc Giáo. Cô tin rằng nếu bạn là một người Cơ Đốc ngoan đạo và sống đúng bằng cách tuân theo niềm tin và nghi thức, sẽ được lên thiên đàng, nếu không bạn sẽ phải chuộc tội hay địa ngục.
Thượng Đế Cha và Con Ngài ban ra những quyết
định cuối cùng. Sau này tôi được biết Catherine không tin luân hồi; thật ra cô biết rất ít về khái niệm này, tuy thỉnh thoảng cô có đọc về những người Ấn Giáo. Luân hồi là một ư niệm trái ngược với sự dạy dỗ và hiểu biết của cô. Cô không bao giờ đọc sách về siêu h́nh hay huyền bí, v́ chẳng bao giờ để ư đến chuyện ấy.
Cô vững tin vào tín ngưỡng của ḿnh. Sau trung học, cô hoàn tất hai năm kỹ thuật, trở thành một chuyên viên pḥng thí nghiệm. Có một nghề nghiệp và được khuyến khích bởi người anh, cô chuyển về Tampa, giành được chỗ làm ở Miami tại một bệnh viện huấn nghiệp lớn liên kết với Trường Đại Học Y Khoa Miami.
Cô dọn về Miami vào mùa xuân năm 1974 lúc 21 tuổi. Hóa ra là đời sống của Catherine ở Miami lại khó khăn hơn ở một thành phố nhỏ, tuy nhiên cô thấy sung sướng là đă thoát khỏi những vấn đề gia đ́nh.
Trong năm đầu tại Miami, Catherine gặp Stuart. Là người Do Thái hai con, Stuart khác hẳn với những người mà cô từng ḥ hẹn. Anh là một thầy thuốc thành công, mạnh mẽ và năng động. Có một quá tŕnh bí mật không cưỡng nổi giữa hai người, nhưng cuộc ngoại t́nh của họ không vững chắc và đầy băo tố. Một cái ǵ đó ở anh đă lôi cuốn t́nh cảm mạnh mẽ của cô và đă tỉnh thức cô, như thể cô bị anh mê hoặc.
Vào lúc Catherine bắt đầu chữa bệnh, cuộc t́nh với Stuart đă được sáu năm, vẫn c̣n rất mặn nồng nếu không phải là sâu đậm. Catherine không thể cưỡng lại nổi Stuart tuy anh đối xử với cô không đẹp, và cô tức giận về những dối trá, không giữ lời hứa và những mánh khóe của anh.
Một vài tháng trước khi gặp tôi để khám bệnh, Catherine cần phải giải phẫu dây thanh v́ một khối u lành. Cô đă rất lo lắng trước khi giải phẫu và hết sức kinh hoàng lúc tỉnh lại tại pḥng hồi sức. Phải mất nhiều giờ ban trợ y mới làm cho cô b́nh tĩnh lại được.
Sau khi b́nh phục ở bệnh viện, cô bèn t́m đến Bác Sĩ Edward Poolẹ Bác sĩ Edward là một bác sĩ nhi khoa rất tốt bụng mà Catherine đă gặp trong khi làm việc tại bệnh viện. Hai người đều cảm thấy có ngay
mối quan hệ và nảy nở t́nh bạn hữu thân thiết. Catherine bầy tỏ hết với Bác sĩ Edward, cho biết về những sợ hăi, quan hệ với Stuart, và cô cảm thấy mất tự chủ trong cuộc sống.
Bác Sĩ Edward khăng khăng bảo cô gặp tôi, chỉ tôi chứ không bác sĩ tâm thần đồng nghiệp nào khác để chữa bệnh. Khi Edward điện thoại cho tôi để giới thiệu, ông giải thích, v́ lư do nào đó, ông nghĩ rằng chỉ có tôi mới có thể hiểu tường tận Catherine, dù cho các bác sĩ tâm thần khác cũng rất có tín nhiệm và là những bác sĩ chuyên khoa lành nghề.
Tuy nhiên Catherine không gọi tôi. Tám tuần lễ trôi qua. Là Viện Trưởng Khoa tâm thần, tôi rất bận với công việc nên đă quên bẵng cuộc điện đàm với Bác sĩ Edward. Sợ hăi và ám ảnh sợ hăi của Catherine trở nên tồi tệ. Bác Sĩ Frank Acker, trưởng Khu phẫu thuật, t́nh cờ biết Catherine từ nhiều năm, thường đùa vui với Catherine khi ông đến thăm pḥng thí nghiệm nơi Catherine làm việc.
Ông cảm thấy cô không vui và bị căng thẳng. Mấy lần ông muốn nói với cô song lại lưỡng lự. Một buổi chiều, Frank lái xe trên một con đường nhỏ để ra khỏi bệnh viện để tới nơi thuyết tŕnh. Trên đường đi, ông thấy
Catherine lái xe về nhà ở gần bệnh viện, ông vội vẫy cô vào lề đường, rồi nói to với Catherine, " Tôi muốn Catherine gặp ngay Bác Sĩ Weiss", ông la lên qua kính xe "Không được chậm trễ".
Mặc dầu các bác sĩ giải phẫu thường thôi thúc hành động, nhưng ngay cả Frank cũng ngạc nhiên là làm sao ông đă nhấn mạnh đến nhường nào.
Những cơn sợ hăi và lo âu ngày càng hay xảy ra và kéo dài. Cô bắt đầu bị hai cơn ác mộng tái phát. Một ác mộng về một cây cầu sập khi cô đang lái xe qua cầu. Xe cô đâm xuống nước, cô bị mắc kẹt và chết đuối. Trong ác mộng thứ hai, cô bị kẹt ở trong căn pḥng quét hắc ín đen, trượt chân và vấp vào mọi thứ, không thể t́m thấy lối ra.
Cuối cùng cô đă đến gặp tôi. Lần chữa trị đầu tiên, tôi không h́nh dung là cuộc sống của tôi sắp đảo ngược mà người thiếu nữ sợ sệt bối rối ngồi bên kia bàn tôi, là chất xúc tác, và tôi không bao giờ c̣n như trước nữa.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 239 of 1146: Đă gửi: 19 June 2010 lúc 1:26pm | Đă lưu IP
|
|
|
TIỀN KIẾP VÀ LUÂN HỒI CÓ THẬT KHÔNG?
CHƯƠNG HAI
Mười tám tháng tâm lư liệu pháp trôi qua, Catherine đến gặp tôi một hay hai lần một tuần. Cô là một bệnh nhân tốt, bộc lộ, có khả năng hiểu thấu, và muốn hồi phục nhanh chóng.
Trong thời gian này, chúng tôi khảo sát tỉ mỉ cảm nghĩ, tư tưởng và những giấc mộng của cô. Công nhận kiểu ứng xử hay tái diễn giúp cô có sự sáng suốt và hiểu biết. Cô đă nhớ được nhiều chi tiết có ư nghĩa về quá khứ của cô, chẳng hạn như cha cô buôn bán đường biển thường vắng nhà và thỉnh thoảng rất hung tợn sau khi uống nhiều rượu.
Cô hiểu nhiều hơn về sự quan hệ của cô với Stuart, và cô bộc lộ cơn giận một cách thích đáng. Tôi cảm thấy lẽ ra cô khá hơn nhiều. Bệnh nhân hầu như thường khá hơn khi họ nhớ lại được những ảnh hưởng không mấy vui trong quá khứ, khi họ biết công nhận và sửa chữa kiểu ứng xử vụng dại và khi họ phát triển sự sáng suốt và xem những trở ngại của họ bằng cách nh́n rộng răi hơn và khách quan hơn.
Nhưng Catherine không mấy khá lên. Lo âu và kinh sợ vẫn hành hạ cô. Cơn ác mộng mạnh tái diễn
tiếp tục và cô vẫn sợ bóng tối, sợ nước, và sợ bị
vây. Giấc ngủ của cô vẫn chập chờn và không khoan khoái. Tim cô hồi hộp. Cô tiếp tục từ chối bất cứ thuốc ǵ, sợ bị nghẹn khi uống các viên thuốc.
Tôi cảm thấy như thể tôi tiến tới trước một bức tường, và dù tôi đă làm ǵ đi nữa, bức tường ấy vẫn quá cao và chẳng ai trong chúng tôi có thể vượt qua được bức tường ấy. Mặc dầu cảm nghĩ thất vọng, một cảm giác quyết tâm đến với tôi. Dù thế nào, tôi vẫn giúp Catherine.
Và rồi một sự việc lạ lùng xẩy ra. Mặc dù cô rất sợ
hăi phải đi máy bay và phải trấn an ḿnh bằng vài ly rượu trong khi đi máy bay, nhưng Catherine đă cùng Stuart đi dự một cuộc hội thảo y khoa vào mùa xuân năm 1982. Tại đây, cô thúc Stuart đi xem cuộc triển lăm Ai Cập tại viện bảo tàng nghệ thuật ở Chicago, nơi đây cô và Stuart đi theo một đoàn du khách.
Catherine luôn luôn quan tâm đến những đồ tạo tác cổ của Ai Cập và những phiên bản di vật ở thời kỳ đó. Cô không phải là một học giả và cũng chưa bao giờ nghiên cứu lịch sử thời kỳ ấy, nhưng không biết làm sao những vật ấy dường như rất quen thuộc với cô.
Khi người hướng dẫn miêu tả một số đồ tạo tác trong
cuộc triển lăm, cô thấy người này nói sai, và cô đă sửa lại cho đúng, và cô nói đúng ! Người hướng dẫn ngạc nhiên và Catherine cũng ngỡ ngàng. Làm sao cô đă biết những thứ như vậy. Tại sao cô cảm thấy ḿnh rất đúng, chắc chắn và đến nỗi sửa sai cho người hướng dẫn trước công chúng?
Có lẽ những kư ức bị lăng quên từ khi c̣n thơ ấu được nhớ lại. Vào lần khám bệnh kế tiếp, cô kể cho tôi nghe điều đă xẩy ra. Mấy tháng trước đây, tôi có đề nghị dùng thôi miên, nhưng Catherine sợ hăi và từ chối. V́ việc xảy ra tại cuộc triển lăm Ai Cập, bây giờ cô miễn cưỡng đồng ư.
Thôi miên là một công cụ tuyệt hảo để giúp bệnh nhân nhớ lại những việc xẩy ra đă bị quên lăng từ lâụ Không có ǵ là huyền bí cả về việc này. Đó chỉ là một trạng thái yhái tập trung. Theo chỉ dẫn của một nhà thôi miên thành thạo, cơ thể bệnh nhân thư giăn, làm cho kư ức nhậy bén.
Tôi đă thôi miên cả trăm bệnh nhân và thấy rằng thôi miên giúp giảm bớt lo âu, loại bỏ được chứng sợ hăi, thay đổi được thói quen xấu, và giúp nhớ được dữ kiện bị kiềm nén. Có dịp tôi đă thành công trong việc giúp bệnh nhân hồi nhớ lại thời kỳ thơ ấu, thậm chí lúc họ mới hai hay ba tuổi, do đó gợi lại được những kư ức về những chấn thương bị lăng quên từ lâu đă ngăn trở cuộc sống của họ.
Tôi tin thôi miên có thể giúp Catherine. Tôi bảo Catherine nằm trên giường khám bệnh, mắt nhắm hờ và đầu nằm trên một gối nhỏ. Đầu tiên chúng tôi tập
trung vào hơi thở của cô. Với mỗi lần thở ra cô giải thoát sự căng thẳng và lo âu chất chứa và mỗi lần hít thở cô thư giăn nhiều hơn nữa.
Sau ít phút như vậy tôi bảo cô hăy tưởng tượng là cơ bắp từ từ thư giăn, bắt đầu từ cơ bắp mặt và hàm, rồi đến cổ và vai, cánh tay, lưng, cơ bắp bụng, và sau cùng là chân. Cô cảm thấy toàn ngày càng ch́m
sâu vào giường khám bệnh.
Rồi tôi bảo cô hăy mường tượng một ánh sáng trắng chói lọi ở đỉnh đầu cô, trong thân thể cô. Sau đó khi tôi đem ánh sáng lan tỏa xuống cơ thễ cô, nó hoàn toàn làm giăn mọi cơ bắp, mọi dây thần kinh, mọi cơ quan tất cả thân thể, đưa cô vào một trạng thái thư giăn sâu xa và an b́nh.
Cô cảm thấy ngày càng buồn ngủ hơn, an ổn và b́nh tĩnh càng nhiều hơn. Cuối cùng theo chỉ dẫn của tôi, ánh sáng tràn ngập cơ thể cô cũng như bao quanh cô. Tôi đếm ngược chậm răi từ số mười đến số một. Với
mỗi số, cô tiến sâu vào mức độ thư giăn. Cô ch́m vào trạng thái hôn mê.
Cô có thể tập trung vào giọng nói của tôi và loại trừ tất cả những tiếng ồn ào chung quanh. Khi đếm
tới số một, cô đă ở t́nh trạng bị thôi miên trung b́nh. Toàn bộ tiến tŕnh mất khoảng hai mươi phút. Sau một lúc tôi bắt đầu hướng cô về quá khứ, yêu cầu
cô nhớ lại những kư ức về thời thơ ấu. Cô có thể nói
chuyện và trả lời câu hỏi của tôi trong khi duy tŕ ở mức độ thôi miên sâu.
Cô nhớ lại sự việc khó chịu tại pḥng nha sĩ khi cô sáu tuổi. Cô nhớ lại rơ ràng sự việc hăi hùng lúc 5 tuổi khị cô bị đẩy từ cầu nhẩy xuống hồ bơi. Cô bị tắc và nghẹn, bị uống nước, và trong khi nói chuyện về việc này, cô bắt đầu như nghẹn tại pḥng khám
của tôi.
Tôi nói với cô việc này đă qua rồi, và cô đă ra khỏi nước. Ngừng tắc nghẹn và cô thở lại b́nh thường. Cô vẫn ở trong trạng thái hôn mê sâu. Trong loạt sự việc khi phát hiện cô có kư ức bị kiềm chế sâu và đau đớn, tôi đă quên hẳn không xem xét đến việc cô có thể có liên quan tới kiến thức về đồ tạo tác Ai Cập.
Nhưng ít nhất cô đă hiểu thêm về quá khứ của ḿnh.
Cô đă nhớ được vài biến cố kinh hoàng, và tôi trông đợi một sự cải thiện đáng kể về những triệu chứng của cô. Bất chấp sự hiểu biết này, tuần lễ sau đó cô thông báo là, những triệu chứng vẫn như cũ và có phần nặng hơn. Tôi rất ngạc nhiên. Tôi không thể hiểu nổi có điều ǵ không đúng. Chúng tôi đă phát hiện quá đủ những lư do về sự sợ hăi bị nghẹn, sợ nước, sợ bóng tối, và sợ mắc bẫy, vậy mà sự sợ hăi nhức nhối và các triêu chứng, sự lo âu bất trị soát vẫn hoành hành lúc cô thức.
Những cơn ác mộng vẫn khủng khiếp như trước. Tôi quyết định đưa cô về quá khứ xa hơn nữa. Trong khi thôi miên, Catherine đă th́ thầm nói chậm và thong
thả. Do đó tôi đă có thể viết xuống từng lời cô và đă
trích dẫn trực tiếp những lời cô nói. Hiện tượng thiếu mạch lạc rơ ràng những lúc nghỉ trong câu nói, không phải là xóa bỏ hay là sự biên tập của tôị Tuy nhiên một số dữ kiện lặp đi lặp lại không được bao gồm ở đây.
Từ từ, tôi đưa Catherine quay về lúc hai tuổi, nhưng cô không nhớ được những kư ức có ư nghĩa. Tôi chỉ dẫn minh bạch và dứt khoát:" Hăy quay về lúc các triệu chứng phát sinh". Tôi hoàn toàn không chuẩn bị ǵ cho việc sắp xẩy ra.
"Tôi nh́n thấy những bậc thềm mầu trắng dẫn đến một ṭa nhà, một ṭa nhà trắng lớn với những cột nhà to, phía trước trống trảị Không có ô cửa nào. Tôi mặc y phục dài...cái áo choàng làm bằng vật liệu thô sơ. Tóc tôi bện lại, mớ tóc màu vàng hoe dài"
Tôi bối rối. Tôi không biết chắc điều đang xẩy ra. Tôi
hỏi cô, đó là năm nào và tên là ǵ.
"Aronda... tôi mười tám tuổi. Tôi thấy một cái chợ trước ṭa nhà. Có những cái thúng..họ mang những cái thúng trên vai. Chúng tôi sống ở một thung lũng Không có nước. Năm 1863 trước Công Nguyên. Vùng này trơ trụi, nóng và có cát. Có một cái giếng không có sông. Nước từ núi chảy vào thung lũng".
Sau khi kể lại nhiều chi tiết về địa h́nh, tôi bảo cô hăy đi tới một vài năm xa hơn và nói cho tôi biết cô thấy ǵ.
"Có cây cối và một con đường đá. Tôi thấy bếp lửa để
nấu nướng. Tóc tôi màu vàng hoe. Tôi đang mặc y phục dài màu nâu sồng và đi dép. Tôi 25 tuổi. Tôi có một đứa con gái, tên nó là Cleatra... Cleatra là Rachel (Rachel hiện là cháu của cô, cô và Rachel quan hệ với nhau rất mật thiết). Trời rất nóng."
Tôi giật ḿnh. Dạ dày tôi thắt lại, và căn pḥng lạnh lẽo. Những tưởng tượng và hồi tưởng của cô dường như quá rơ ràng. Cô không một chút do dự ǵ. Tên, ngày tháng, quần áo, cây cối, tất cả được thấy một cách sống động ! Cái ǵ đă diễn ra nơi đấy Làm sao một đứa con của cô có bây giờ lại là cháu cô?
Tôi bối rối hơn. Tôi đă khám nghiệm cả ngàn người bệnh tâm thần, rất nhiều người bằng thôi miên, nhưng chưa bao giờ gặp trường hợp như thế này ngay cả trong mơ. Tôi chỉ dẫn cho cô đi xa hơn lúc cô chết.
Tôi không biết chắc cách phỏng vấn người nào đó đang ở trong một hiện tượng kỳ quặc rơ ràng ( hay kư ức) , nhưng tôi đang t́m kiếm những biến cố gây chấn thương có thể nằm dưới những sợ hăi và triệu chứng hiện nay. Những biến cố lúc gần chết có thể đặc biệt gây chấn thương. H́nh như, lũ lụt hay sóng thủy triều đang tàn phá làng này.
"Có những cơn sóng lớn quật đổ cây cối. Không có chỗ nào mà chạy đến. Trời lạnh; nước lạnh. Tôi phải cứu con tôi, nhưng tôi không thể .. chỉ ôm con thật chặt. Tôi chết đuối. Nước làm tôi bị nghẹt. Tôi không thể thở được, không thể nuốt được... nước mặn. Con tôi bị giằng ra khỏi tay tôi".
Catherine hổn hển và khó thở. Đột nhiên cơ thể của cô thư giăn hoàn toàn, và hơi thở của cô trở nên sâu và điều ḥa.
"Tôi nh́n thấy những đám mây.. Con tôi nay với tôị Và những người khác trong làng tôi. Tôi thấy anh tôi"
Cô đang nghỉ ngơi; cuộc sống này đă chấm dứt. Cô vẫn ở trong hôn mê sâu. Tôi ngỡ ngàng! Những kiếp trước? Luân hồỉ. Năng lực trí lực trị liệu bảo tôi rằng cô không bịa đặt ra chuyện này, cô không dựng chuyện. Tư tưởng, cách tŕnh bày của cô, sự chú ư đến những chi tiết đặc biệt, tất cả đều khác với trạng thái có ư thức của cô.
Toàn bộ cung bậc khả năng chẩn bệnh tâm thần lóe lên trong tâm trí tôi, nhưng trạng thái tâm thần và cấu trúc cá tính của cô không giải thích nổi những khám phá này. Loạn tinh thần? Không, cô chưa bao giờ có chứng cớ nào bị rối loạn suy nghĩ hay nhận thức. Cô chưa bao giờ mắc chứng ảo giác về việc
nghe tiếng, về thị giác hay ảo ảnh khi thức, hay bất cứ loại nào khác trong các giai đoạn thần kinh.
Cô không ảo tưởng cũng chẳng xa rời thực tế. Cô không có nhiều cá tính hay chứng tâm thần phân lập. Chỉ có một Catherine, và tâm thức của cô hoàn toàn biết việc này. Cô không mỵ dân và không có
khuynh hướng xa lánh hay chống xă hội. Cô cũng không phải là một nữ tài tử. Cô không dùng ma túy và cũng không ăn các chất gây ảo giác. Cô rất ít uống rượu. Cô không có bệnh thần kinh hay tâm lư có thể giải thích kinh nghiệm trực tiếp rơ ràng này trong khi thôi miên.
Có những kư ức nào đó nhưng từ đâu. Phản ứng chính của tôi là tôi đă vấp phải cái ǵ đó mà tôi biết rất ít
luân hồi và những kư ức tiền kiếp. Tôi nhủ thầm không phải là tâm trí được đào tạo một cách khoa học của tôi chống lại việc đó. Nhưng ở đây nó đang xẩy ra ngay trước mắt tôi. Tôi không thể giải thích nổi, mà cũng không thể phủ nhận sự thật của nó.
Tôi nói, "tiếp tục", một chút nản ḷng nhưng bị quyến rũ về cái đang xẩy ra.
"Cô c̣n nhớ ǵ nữa không?"
Cô nhớ lại một vài phần của hai kiếp khác.
"Tôi mặc y phục dài có dải áo đen, có một dải đen trên đầu tôi. Mái tóc đen của tôi đă ngả muối tiêu. Đó là năm 1756 sau công nguyên. Tôi là người Tây Ban Nha. Tên tôi là Louisa và tôi 56 tuổi. Tôi đang khiêu vũ, và những người khác cũng đang khiêu vũ. (ngừng lại lâu) Tôi bị ốm. tôi bị sốt, cảm lạnh. Rất nhiều người bị bệnh; nhiều người đang bị chết.. Các bác sĩ không biết là do nước."
Tôi bảo cô nói về thời gian sau đó.
"Tôi b́nh phục, nhưng đầu tôi vẫn đau; mắt tôi và đầu tôi vẫn đau do sốt , do nước... Nhiều người chết.
V́ Catherine công nhận cháu gái của cô trong một tiền kiếp, tôi bốc đồng hỏi cô có bao giờ tôi hiện diện trong kiếp sống nào của cô không. Tôi ṭ ṃ về vai tṛ của tôi nếu có trong những kư ức của cô. Cô trả lời ngay, trái với sự chậm răi và thong thả trước đây.
"Ông là thầy giáo của tôi, ngồi trên bục giảng. Ông dạy chúng tôi từ những cuốn sách. Ông già và tóc muối tiêu. Ông mặc áo dài có viền vàng...Tên ông là Diogenes. Ông dạy chúng tôi kư hiệu, tam giác. Ông rất khôn ngoan, nhưng tôi không hiểu. Đó là năm 1568 trước Công nguyên. (Xấp xỉ một ngh́n hai trăm năm trước nhà triết học khuyến nho nổi tiếng Diogenes. Tên này không phải là một cái tên khác thường)
Buổi đầu tiên kết thúc. Những buổi lạ lùng hơn c̣n tiếp theo. Sau khi Catherine đi khỏi, và tiếp theo vài ngày sau đó, tôi cân nhắc những chi tiết về thôi miên lùi về dĩ văng. Cân nhắc là điều tự nhiên với tôi. Có ngay cả đến trong việc điều trị "b́nh thường" ít chi tiết xuất hiện thoát khỏi sự phân tích tinh thần ám ảnh của tôi, và buổi điều trị này hầu như không "b́nh thường".
Hơn nữa, tôi rất hoài nghi về đời sống sau khi chết, luân hồi, xuất hồn, và những hiện tượng liên quan. Tóm lại, phần lo gic của tôi suy gẫm đây có thể là sự tưởng tượng của cô tạ Thực tế là tôi không thể chứng minh bất cứ những khẳng định hay sự mường tượng của cô ta. Nhưng tôi cũng nhận thức một tư tưởng ít nhiều xúc động hơn và sâu xa hơn tuy không mấy rơ ràng.
Giữ tâm trí mở rộng, tư tưởng nói, khoa học thực
sự bắt đầu bằng khảo sát. "Những kư ức" của cô có thể không phải là quái dị hay tưởng tượng. Có thể là một thứ ǵ đó nhiều hơn được trông thấy hay bất cứ giác quan nào khác. Hăy giữ tâm mở rộng. Hăy t́m nhiều dữ kiện hơn.
Tôi có một tư tưởng dai dẳng khác. Có nên để Catherine bắt đầu lo âu và sợ hăi, bị quá kinh hoàng lại trải qua thôi miên nữa không? Tôi quyết định không gọi cô. Hăy để cho cô hiểu thấu kinh nghiệm này đi đă. Tôi sẽ đợi cô đến tuần lễ tới.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 240 of 1146: Đă gửi: 19 June 2010 lúc 1:26pm | Đă lưu IP
|
|
|
TIỀN KIẾP VÀ LUÂN HỒI CÓ THẬT KHÔNG?
CHƯƠNG BA
Một tuần lễ sau, Catherine nhún nhẩy đến pḥng mạch tôi cho buổi thôi miên kế tiếp. Mở đầu rất đẹp, cô trông rạng rỡ hơn bao giờ hết. Cô sung sướng báo rằng nỗi sợ suốt đời bị chết đuối đă biến mất. Nỗi sợ bị nghẹn cũng được giảm bớt một chút. Giấc ngủ của cô không c̣n bị gián đoạn bởi ác mộng về cầu gẫy.
Mặc dù cô nhớ những chi tiết về tiền kiếp, nhưng cô chưa thực sự thâm nhập vào thực chất.Quan niệm về tiền kiếp và luân hồi xa lạ với vũ trụ học của cô, và tuy những kư ức quá sống động, quang cảnh, âm
thanh và mùi vị quá rơ ràng, sự nhận biết rằng cô đă ở đấy quá mạnh và trực tiếp, cô cảm thấy hẳn là cô đă thực sự ở đấy. Cô không nghi ngờ ǵ cả; việc xẩy ra quá mạnh. Tuy cô quan tâm đến việc làm sao điều đó lại thích hợp với sự nuôi nấng và niềm tin của cô.
Trong tuần đó tôi có xem lại sách giáo khoa từ một khóa dạy về sự so sánh các tôn giáo trong năm đại học đầu tiên của tôi tại Columbia. Quả thật có nhắc đến luân hồi trong Cựu và Tân Ước. Vào năm 325 sau Công nguyên, Hoàng Đế La Mă Constantine Đại Đế, cùng với người mẹ, Hellena, đă hủy bỏ những trang đề cập đến luân hồi ghi trong Tân Ước.
Đại Hội Đồng Đệ Nhị tại Constantinople họp vào năm 553 sau Công nguyên, xác nhận việc làm này, và tuyên bố quan niệm luân hồi là một dị giáo. Hiển nhiên, họ nghĩ quan niệm này sẽ làm suy yếu sức mạnh đang lên của Giáo Hội bởi nó cho con người quá nhiều thời gian để t́m sự cứu rỗi. Tuy vậy những dẫn chứng gốc đă là điểm đó, các cha cố trong Giáo Hội cổ đă chấp nhận quan niệm về luân hồi.
Những người Ngộ Đạo thời cổ. Clement ở Alexandria, Origen, Saint Jerome, và nhiều khác nữa tin rằng họ đă sống trước đó và sẽ sống lại nữa.
Tuy nhiên, tôi không bao giờ tin vào luân hồi. Thực tế là tôi chưa bao giờ bỏ nhiều th́ giờ suy nghĩ về việc này. Mặc dù việc dạy dỗ về tôn giáo trước đây của tôi có dạy tôi một loại hiện hữu mập mờ nào đó về "linh hồn" sau khi chết, nhưng quan niệm ấy không thuyết phục được tôi.
Tôi là anh cả của bốn anh em, tất cả cách nhau ba tuổi. Chúng tôi là thành viên của Giáo đường bảo thủ Do Thái ở Red Bank, một thành phố nhỏ gần bờ biển ở New Jersey. Tôi là người ḥa giải và chính khách trong gia đ́nh. Cha chúng tôi dính líu vào tôn giáo nhiều hơn tất cả chúng tôi. Ông theo tôn giáo rất nghiêm túc, ông theo tôn giáo suốt cả đời. Thành tích học hành của các con là niềm vui lớn lao nhất trong đời ông.
Ông dễ bị bối rối trước sự bất ḥa trong gia đ́nh và rút lui để tôi ḥa giải. Mặc dầu hóa ra điều đó là sự rèn luyện tuyệt vời cho một sự nghiệp trong tâm thần học, nhưng hồi tưởng lại thời thơ ấu của tôi nặng nề hơn và trách nhiệm nhiều hơn tôi muốn. Tôi nổi bật từ đó là một thanh niên nghiêm nghị, là người quen chịu nhiều trách nhiệm.
Mẹ tôi luôn luôn biểu lộ ḷng thương yêu của bà. Không có giới hạn nào ngăn cản bà. Một người b́nh dị hơn cha tôi, bà lợi dụng tội lỗi, nỗi thống khổ, sự bối rối cùng cực, và sự đồng cảm chung với các con làm công cụ lôi kéo, hoàn toàn không đắn đo. Tuy nhiên bà ít khi buồn rầu, và lúc nào chúng tôi cũng có thể tin chắc vào t́nh yêu và sự hỗ trợ của bà.
Cha tôi có một công việc tốt, nhiếp ảnh công nghệ, và tuy chúng tôi luôn có nhiều thực phẩm, nhưng tiền bạc rất eo hẹp. Người em út của tôi, Peter, sinh ra năm tôi 9 tuổi. Sáu người gia đ́nh chúng tôi chia nhau trong hai căn pḥng ngủ nhỏ. Sinh hoạt trong căn pḥng nhỏ này thật là bề bộn và ồn ào, và tôi t́m nơi nương tựa ở sách vở.
Tôi không ngừng đọc sách khi không chơi bóng chày hay bóng rổ, những đam mê khác ở thời thơ ấu của tôi. Tôi biết học hành là con đường ra khỏi thành phổ nhỏ này, yên tâm với ư nghĩ đó, tôi luôn luôn đứng thứ nhất nh́ trong lớp học.
Vào lúc tôi được học bổng toàn phần của trường Đại Học Columbia, tôi là một thanh niên đứng đắn và chăm chỉ. Thành công đại học đến với tôi dễ dàng. Tôi theo ngành hóa học và tốt nghiệp với bằng danh dự. Tôi quyết định trở thành bác sĩ tâm thần v́ lĩnh vực này gồm cả sự quan tâm đến khoa học và thích thú của tôi với nhiều công việc về tâm con người.
Hơn nữa, nghề y khoa sẽ cho phép tôi bày tỏ sự quan tâm và ḷng trắc ẩn với người khác. Trong lúc đó tôi gặp Carole trong kỳ nghỉ hè tại khách sạn Catskill Mountain, nơi tôi đang là hầu bàn phụ và Carole là chiêu đăi viên. Chúng tôi thư từ, hẹn ḥ, yêu nhau, đính hôn vào năm tôi ở năm thứ hai trường Đại Học Columbia. Nàng vừa thông minh vừa đẹp. Mọi sự dường như rơi vào đúng chỗ.
Một số ít có người trẻ tuổi lo về đời sống và cái chết và đời sống sau cái chết, nhất là khi mọi thứ trôi chẩy êm đềm, và tôi cũng không phải là ngoại lệ. Tôi
đang trở thành một khoa học gia, và đang học cách suy nghĩ theo kiểu cách lô gic, vô tư, "chứng minh đúng".
Hơn nữa, trường y khoa và khu nội trú ở Đại Học Yale đă kết tinh phương pháp khoa học này. Luận án nghiên cứu của tôi là về năo bộ hóa chất và vai tṛ của thần kinh truyền tin là những thông tin hóa chất trong mô năo.
Tôi theo ngành mới về tâm sinh lư, ngành hợp nhất những lư thuyết và kỹ thuật tâm thần truyền thống mới về hóa chất bộ năo. Tôi viết nhiều bài về khoa học, thuyết giảng tại các hội nghị địa phương và toàn quốc, và trở thành một người năng động thành công trong lĩnh vực của tôi.
Tôi hơi bị ám ảnh, sôi nổi và cứng rắn, nhưng đó là những điểm hữu ích cho một thầy thuốc. Tôi cảm thấy hoàn toàn sẵn sàng để chữa trị cho bất cứ ai bước vào pḥng mạch tôi để chữa bệnh.
Rồi Catherine trở thành Aronda, một cô gái trẻ sống vào năm 1863 trước Công nguyên. Hay đó là một cách nào khác? Và nơi đây tôi chứng kiến cô lại vui vẻ hơn bao giờ hết. Tôi lại lo là Catherine sẽ tiếp tục sợ hăi. Tuy nhiên, cô nhiệt t́nh sửa soạn cho buổi thôi miên và đắm ch́m ngay.
"Tôi đang ném những ṿng hoa xuống nước. Đó là một nghi lễ. Tóc tôi vàng hoe và được tết lại. Tôi mặc một bộ nâu viền vàng, và mang dép. Một người nào đó chết, một người nào đó trong Hoàng gia...người mẹ. Tôi là một người hầu trong Hoàng Gia, và tôi giúp làm đồ ăn. Chúng tôi để thi hài vào trong nước muối ba mươi ngày. Người ta làm khô và các bộ phận được lấy đi. Tôi có thể ngửi thấy, mùi của các xác."
Tự nhiên cô quay về kiếp sống Aronda, nhưng ở một giai đoạn khác, vào lúc nhiệm vụ của Aronda là phải sửa soạn các xác sau khi họ chết. Catherine tiếp tục,
"trong một ṭa nhà riêng biệt, tôi có thể nh́n thấy những xác chết. Chúng tôi bọc những xác ấy lại. Linh hồn đi qua. Hăy mang theo đồ đạc và hăy sửa soạn cho kiếp tới, một kiếp vĩ đại hơn".
Cô đang bầy tỏ cái dường như giống quan niệm về cái chết và kiếp mới sau khi chết của một người Ai Cập, khác hẳn bất cứ niềm tin nào của chúng ta. Theo tôn giáo đó, bạn có thể mang theo đồ đạc. Cô rời bỏ kiếp sống này và yên nghỉ. Cô ngưng lại vài phút trước khi đi vào thời cổ đại.
"Tôi thấy đá đóng băng, lủng lẳng trong hầm ... vách đá.... " Cô mơ hồ miêu tả một chỗ tối tăm khổ sở, và trông cô lúc này rất khó chịu. Sau này cô đă miêu tả cô nh́n thấy chính cô.
"Tôi rất xấu xí, bẩn thỉu và hôi hám".
Cô rời bỏ đi vào một thời gian khác.
"Có một số ṭa nhà và một cái xe ngựa có bánh xe bằng đá. Tóc tôi nâu hoe với một cái nơ trên tóc. Xe ngựa chất đầy rơm. Tôi rất sung sướng. Cha tôi ở đấy.. Ông ôm hôn tôi. Đó là...đó là Edward (bác sĩ khoa nhi nài nỉ cô đến gặp tôi). Ông ấy là cha tôi. Chúng tôi sống trong một thung lũng có nhiều cây. Có những cây ô liu và cây vả trong sân.
Người ta viết trên giấy. Có những dấu vết buồn cười trên giấy, giống như chữ. Người ta viết cả ngày, làm thành một thư viện. Đó là năm 1536 trước Công nguyên. Đất đai cằn cỗi. Cha tôi tên là Perseus."
Năm không đúng lắm, nhưng tôi chắc chắn cô ở trong cùng một kiếp mà cô đă thuật lại trong buổi thôi miên tuần trước. Tôi bảo cô giữ kiếp này nhưng đi ngược thời gian.
"Cha tôi biết ông (nghĩa là tôi). Ông và cha tôi nói về mùa màng, luật lệ, và chính phủ. Cha tôi nói ông rất thông minh và tôi phải nghe lời ông".
Tôi đưa cô đi xa hơn nữa.
"Ông nằm trong một pḥng tối. Ông già và ốm đau. Trời lạnh .. Tôi cảm thấy trống rỗng ".
Cô tiếp tục đến lúc chết.
"Bây giờ tôi già và yếu đuối. Con gái tôi ở đấy, gần
giường tôi. Chồng tôi đă chết. Chồng con gái tôi cũng ở đấy cùng với các con của chúng. Có nhiều người chung quanh".
Lần này cái chết của cô an b́nh. Cô đang trôi nổi. Trôi nổi? Việc này khiến tôi nhớ đến những sự nghiên cứu
của Bác Sĩ Raymond Moody về kinh nghiệm của những người sắp chết. Những đối tượng của ông cũng nhớ đến sự trôi nổi, rồi lại nhập vào xác thân.
Trước đây mấy năm tôi đă có đọc cuốn sách của ông và bây giờ tôi quyết tâm sẽ đọc lại nữa. Tôi không biết Catherine có thể nhớ ǵ nữa sau khi chết, nhưng cô chỉ nói:
"Tôi đang bay lơ lửng"
Tôi đánh thức cô và chấm dứt buổi thôi miên. Với niềm mong muốn khát khao t́m bất cứ tài liệu khoa học nào đă được xuất bản về luân hồi, tôi bèn đi lùng tại những thư viện y khoa. Tôi đă nghiên cứu công tŕnh của Bác Sĩ Ian Stevenson, một vị giáo sư được kính nể về tâm thần học của Đại Học Virginia, người đă xuất bản nhiều tài liệu tâm thần học.
Bác Sĩ Ian Stevenson đă thu thập hơn hai ngàn trường hợp về trẻ em có những kư ức và kinh nghiệm kiểu luân hồi. Nhiều trường hợp biểu lộ ngoại ngữ, khả năng nói tiếng ngoại quốc mà chúng chưa bao giờ bộc lộ. Những báo cáo về các trường hợp của ông được hoàn tất rất cẩn thận, được nghiên cứu kỹ, và rất xuất sắc.
Tôi đă đọc bài cái nh́n khái quát khoa học tuyệt vời của Edhar Mitchell. Với sự quan tâm lớn lao, tôi khảo sát dữ kiện ESP (tri giác ngoại cảm) của Trường Đại Học Duke, và những bài viết của Giáo sư C.J. Ducasse tại Đại Học Brown, và tôi đă phân tích kỹ lưỡng những công tŕnh nghiên cứu của Bác Sĩ Martin Ebon, Bác sĩ Helen Wambach, Bác sĩ Gertrude Schmeidler, Bác sĩ Frederick Lenz, và Bác sĩ Edith Fiore. Càng đọc tôi càng muốn đọc thêm.
Tôi bắt đầu hiểu rằng dù cho tôi đă coi ḿnh là có học vấn về mọi phương diện của tâm trí, vốn học hành của tôi c̣n rất hạn chế. Nhiều thư viện tràn đầy những nghiên cứu t́m hiểu và tài liệu nhưng ít người biết đến nó. Nhiều các cuộc nghiên cứu đă được tiến hành, kiểm tra và tái tạo bởi những nhà trị liệu và khoa học tiếng tăm.
Liệu tất cả những người đó có bị lầm lẫn hay bị lừa gạt không? Bằng chứng dường như hỗ trợ quá mạnh, tuy tôi vẫn nghi ngờ. Quá mạnh hay không, tôi thấy rất khó tin.
Catherine và tôi cả hai, bằng những con đường riêng, đă bị ảnh hưởng sâu xa bởi thí nghiệm này. Catherine đang khá hơn về cảm tính, và tôi đang mở rộng tầm nhận thức của tôi. Catherine đă bị hành hạ nhiều năm bởi sợ hăi, và cuối cùng đang cảm thấy đỡ. Dù đó là những kư ức có thật hay những tưởng tượng sống động, tôi đă t́m ra được cách để giúp cô, và bây giờ tôi sẽ không ngưng lại.
Trong một lúc ngắn ngủi, tôi nghĩ về tất cả điều đó khi Catherine trôi dạt vào hôn mê lúc bắt đầu buổi thôi miên tiếp theo. Trước khi đi vào thôi miên, cô có nói đến một giấc mơ về một tṛ chơi trên những bậc thềm đá cổ, một tṛ chơi với một bàn cờ có lỗ. Giấc mơ dường như thật sống động nơi cô.
Bấy giờ tôi bảo cô hăy quay trở về vượt qua giới hạn không gian và thời gian và xem có phải giấc mơ có nguồn gốc ở một hiện thân trước không.
"Tôi nh́n thấy những bậc thềm dẫn đến một tháp canh .. trông ra núi và biển. Tôi là một đứa con trai ... Tóc tôi vàng hoe ... mái tóc lạ. Quần áo của tôi ngắn ngủn, màu nâu và trắng, làm bằng da thú. Một số người đứng trên đỉnh tháp, đang nh́n ra.. những lính gác. Họ rất bẩn thỉu. Họ chơi tṛ chơi giống như chơi cờ, nhưng không phải. Bàn cờ tṛn không phải vuông. Họ chơi bằng những con cờ giống như dao găm sắc cắm vào lỗ. Những con cờ này có đầu thú. Địa hạt Kirustan (đánh vần theo âm) Địa hạt? Từ Ḥa Lan, vào khoảng 1473.
Tôi hỏi tên chỗ cô ở và liệu cô có thể đến xem hay nghe một năm.
"Bây giờ tôi đang ở một hải cảng đất trải dài tới biển. Có một pháo đài .. và nước. Tôi thấy một cài cḥi .. mẹ tôi đang nấu ăn trong cái nồi bằng đất sét. Tên tôi là Johan".
Cô tiến tới cái chết của cô. Vào lúc này trong buổi thôi miên, tôi vẫn t́m kiếm một biến cố chấn thương mạnh có thể gây ra hay giải thích những triệu chứng trong đời sống hiện tại của cô. Dù cho những tưởng tượng rơ ràng là khác thường này, và tôi không chắc chắn về điều đó, cái mà cô tin hay nghĩ ngợi vẫn có thể nằm dưới những triệu chứng.
Tóm lại, tôi đă thấy nhiều người bị chấn thương
bởi những giấc mơ của họ. Một số người không thể nhớ được liệu một chấn thương hồi thơ ấu thực sự đă xẩy ra hay xuất hiện trong giấc mơ, tuy kư ức về chấn thương này vẫn ám ảnh đời sống họ lúc trưởng thành.
Điều mà tôi chưa hoàn toàn cảm nhận là những ảnh hưởng gây tác hại hoành hành ngày lại ngày, cũng như những lời công kích cay nghiệt của cha mẹ, có thể gây chấn thương tâm lư nhiều hơn chỉ một biến cố chấn thương. Những ảnh hưởng tai hại này là do chúng pha trộn vào bối cảnh sống hàng ngày của chúng ta, rất khó để nhớ lại và xua đuổi chúng.
Một đứa trẻ luôn luôn bị chỉ trích có thể mất nhiều ḷng tin tưởng và ḷng tự trọng như một người nhớ lại bị làm nhục vào một ngày đặc biệt hăi hùng nào đó. Một đứa trẻ ở trong một gia đ́nh nghèo khổ chỉ có ít thực phẩm cho mỗi ngày có thể bị cùng những vấn đề tâm lư như một đứa trẻ đă trải qua nhiều ngày gần bị chết đói.
Tôi hiểu ngay rằng những ảnh hưởng tiêu cực hoành hành ngày lại ngày phải được nh́n nhận và phải được giải quyết bằng nhiều lưu ư như đối với một biến cố chấn thương nặng. Catherine bắt đầu nói.
"Có những chiếc thuyền, giống như ca nô, sơn sáng chói. Vùng Providence. Chúng tôi có súng ống, giáo, ná bắn đá, cung và tên, nhưng lớn hơn. Có những mái chèo lớn lạ lùng trên những con thuyền...ai cũng phải chèo thuyền. Chúng tôi có thể bị lạc, trời tối. Không có đèn đuốc. Tôi sợ hăi. Có những con thuyền khác cũng như chúng tôi (h́nh như của phe tấn công). Tôi sợ những con thú. Chúng tôi ngủ trên bộ da thú bẩn thỉu. Chúng tôi đang đi thám sát.
Giầy của tôi trông thật ngộ nghĩnh, giống như bao tải.. buộc dây ở mắt cá ...bằng da thú. (ngừng lâu) Mặt tôi nóng lên v́ lửa. Người của tôi đang giết những người kia, nhưng tôi không. Tôi không muốn giết. Con dao ở trong tay tôi"
Đột nhiên cô bắt đầu nói ríu rít và thở hỗn hển. Cô
thuật lại là một kẻ địch đă chộp được cô từ phía sau
cô, nắm lấy cổ và cắt họng cô bằng con dao của nó. Cô nh́n thấy mặt kẻ thù trước khi chết. Đó là Stuart (Bác sĩ, người t́nh nhân Do Thái của cô). Trông nó khác nhưng cô biết là chính nó. Johan chết vào lúc 21 tuổi.
Tiếp đến cô thấy cô bay lơ lửng trên xác chết của ḿnh, quan sát quang cảnh phía dưới. Cô dạt lên tận mây, cảm thấy lúng túng và bối rối. Một lúc sau cô cảm thấy bị kéo vào một không gian "nhỏ bé ấm áp". Cô sắp sửa được sinh ra.
Tiếp đến cô thấy cô bay lơ lửng trên xác chết của ḿnh, quan sát quang cảnh phía dưới. Cô dạt lên tận mây, cảm thấy lúng túng và bối rối. Một lúc sau cô cảm thấy bị kéo vào một không gian "nhỏ bé ấm áp". Cô sắp sửa được sinh ra.
"Người nào đó đang ẵm tôi", cô th́ thầm nhè nhẹ và mơ màng, "người nào đó giúp tôi ra đời. Bà đang mặc bộ đồ xanh với một cái tạp dề trắng. Bà đội một cái mũ trắng, gấp lại ở các góc. Căn pḥng có những cửa sổ ngộ nghĩnh, nhiều ngăn. Ṭa nhà bằng đá. Mẹ tôi có mớ tóc đen dài. Bà muốn ẵm tôi. Bà mặc một cái áo ngủ vải thô thật nực cười... Áo đó sẽ bị hư khi chà sát lên nó. Thật dễ chịu ở dưới ánh mặt trời và lại được ấm áp ... Đúng là ... đúng là cùng người mẹ của tôi hiện nay!".
Trong những buổi thôi miên trước, tôi bảo cô quan sát kỹ những người đáng chú ư trong những kiếp sống ấy để xem liệu cô có thể nhận ra họ là những người đáng chú ư trong kiếp sống hiện nay của Catherine không. Theo đa số các tác giả, các nhóm linh hồn hay cùng nhau luân hồn lại nhiều lần, giải quyết nghiệp của họ (thiếu nợ người khác và của chính ḿnh, những bài học phải học) trên khoảng thời gian của nhiều kiếp sống.
Trong hoài băo muốn hiểu biết màn kịch ngoạn mục lạ lùng đang được trải ra chưa được biết đến đối với phần c̣n lại của thế giới, trong pḥng mạch lặng lẽ với ánh sáng lờ mờ, tôi muốn kiểm tra lại kiến thức này. Tôi cảm thấy cần phải áp dụng phương pháp khoa học mà tôi đă sử dụng mạnh mẽ trên 15 năm qua trong việc nghiên cứu của tôi để đánh giá thông tin hết sức bất thường này nảy sinh từ miệng Catherine.
Trong những buổi thôi miên chính Catherine càng ngày càng trở nên tâm linh. Cô có trực giác về con người và các sự kiện đă chứng minh là đúng. Trong lúc thôi miên, cô bắt đầu đoán trước được những câu hỏi của tôi trước khi tôi có dịp hỏi những câu hỏi. Nhiều giấc mơ của cô có xu hướng biết trước hay tiên đoán.
Có lần, khi cha mẹ cô đến thăm cô, cha của cô đă bầy tỏ sự nghi ngờ khủng khiếp về việc đang xẩy ra. Để chứng minh cho ông đó là sự thực, cô đưa ông đến trường đua ngựa. Ở đó ngay trước mắt ông, cô đă đoán trúng ngựa nào thắng trong mỗi cuộc đua. Ông hết sức ngỡ ngàng.
Một lần cô biết chắc là đă chứng minh được điểm đó, cô đă đem tất cả tiền thắng trong cuộc đua cho người vô gia cư khổ sở đầu tiên cô gặp trên đường lúc ra khỏi trường đua. Cô trực giác cảm thấy quyền năng mới mà cô vừa đạt được không nên dùng để kiếm tiền. Đối với cô, những quyền năng này có ư nghĩa cao cả hơn nhiều. Cô nói với tôi kinh nghiệm này làm cho cô hơi sợ hăi, nhưng cô rất vui với tiến bộ cô đạt được và cô mong muốn tiếp tục lùi về dĩ văng.
Tôi vừa bị choáng váng vừa bị cuốn hút trước khả năng tâm linh của cô, nhất là t́nh tiết ở trường đua ngựa. Đó là chứng cớ hiển nhiên. Cô đă có vé trúng ở mỗi cuộc đua. Không có sự trùng hợp ngẫu nhiên nào. Điều ǵ đó kỳ quặc đă xẩy ra trong mấy tuần lễ vừa qua, và tôi đă vật lộn để bảo vệ cách nh́n của tôi. Tôi không thể phủ nhận khả năng tâm linh của cô. Và nếu những khả năng này là thật và có thể đưa ra những chứng cớ hiển nhiên, th́ việc đọc lại những sự kiện ở tiền kiếp của cô cũng có thể là thật không?
Bây giờ cô trở lại về kiếp sống mà cô mới vừa sinh ra. Hóa thân này dường như gần đây hơn nhưng cô không nhận ra được năm nào. Tên cô là Elizabeth.
"Bây giờ tôi lớn hơn, có một anh và hai chị gái. Tôi nh́n thấy cái bàn ăn.. Cha tôi ở đấy...Ông là Edward (bác sĩ nhi khoa một lần nữa trở lại làm cha). Mẹ tôi và cha tôi lại đánh nhau. Thức ăn là khoai tây và đậu. Cha tôi giận dữ v́ đồ ăn nguội. Họ đánh nhau nhiều. Ông lúc nào cũng uống rượu... Ông đánh mẹ tôi (Giọng của Catherine sợ hăi và cô run lên rơ ràng). Ông đẩy những đứa con. Ông không giống ông như trước đây, không phải cùng một người. Tôi không thích ông. Tôi muốn ông đi đi" Cô nói như một đứa trẻ nói.
Câu hỏi của tôi trong buổi này khác hẳn câu mà tôi thường dùng trong việc trị liệu tâm lư thông thường. Tôi hành động như một hướng dẫn viên cho Catherine, cố gắng xem lại toàn bộ một kiếp sống trong một hay hai tiếng, t́m kiếm những sự kiện gây chấn thương và những loại có hại có thể giải thích những triệu chứng hiện tại của cô.
Trị liệu thông thường được tiến hành với nhịp độ thong thả và chi tiết hơn. Mỗi lời nói do bệnh nhân lựa chọn đều được phân tích về sắc thái và nghĩa bóng. Mỗi nét mặt, mỗi cử chỉ, mỗi biến đổi giọng nói đều được xem xét và đánh giá. Mỗi phản ứng của cảm xúc đều được xem xét tỷ mỷ.
Các kiểu ứng xử được cẩn thận lắp ráp vào với nhau. Tuy nhiên với Catherine, những năm tháng qua đi vù vù trong một phút. Các buổi thôi miên của Catherine giống như lái xe trong cuộc đua xe hơi Indy 500 dậm đạp hết ga...cố gắng nhận ra các bộ mặt trong đám đông khán giả.
Tôi chuyển sự chú ư tới Catherine và yêu cầu cô hăy tiến xa hơn nữa.
"Bây giờ tôi có chồng. Nhà tôi có một pḥng lớn. Chồng tôi có tóc vàng hoe. Tôi không biết anh (tức là chồng không xuất hiện trong hiện kiếp của Catherine). Chúng tôi chưa có con. Anh rất tử tế với tôi. Chúng tôi yêu nhau và rất hạnh phúc".
Hiển nhiên cô đă thoát khỏi sự áp chế ở nhà cha mẹ. Tôi hỏi liệu cô có thể nhận ra khu vực mà cô đă ở không.
"Brennington"
Catherine ngập ngừng th́ thầm.
" Tôi nh́n thấy những cuốn sách có những b́a cũ ngộ nghĩnh. Cuốn to nhất đóng lại bằng một cái dây. Đó là cuốn Kinh Thánh. Có những chữ to lạ lùng...tiếng Gaelic" (tiếng Xen tơ).
Cô nói ở đây một số tiếng cô không nhận ra được. Không biết có phải là tiếng Gaelic hay không, tôi không biết.
"Chúng tôi sống trong vùng nội địa không gần biển. Xứ đó...Brennington? Tôi thấy một nông trại có lợn và cừu. Đó là trại của chúng tôi".
Cuối cùng cô tiếp tục.
"Chúng tôi có hai con trai... Đứa lớn đă lấy vợ. Tôi có thể nh́n thấy gác chuông nhà thờ...một ṭa nhà bằng đá rất cổ."
Đột nhiên cô đau đầu, và Catherine trong cơn đau đớn, ôm lấy thái dương bên trái. Cô kể là bị ngă trên bậc thềm đá, nhưng đă b́nh phục. Cô chết lúc tuổi già trên giường ở nhà với gia đ́nh xung quanh.
Cô lại lơ lửng ra khỏi xác thân sau khi chết, nhưng lần nay cô không hoang mang hay bối rối.
"Tôi nhận thấy một ánh sáng chói lọi. Thật là tuyệt vời bạn có năng lượng từ ánh sáng ấy."
Cô đang nghỉ ngơi, sau khi chết giữa những kiếp sống. Ít phút trôi qua lặng lẽ. Đột nhiên cô nói, không phải nói th́ thầm chậm răi như thường lệ trước đó, bây giờ cô nói to và khàn, không chút ngập ngừng.
"Nhiệm vụ của chúng tôi là học để trở thành như thần thánh qua kiến thức. Chúng tôi biết quá ít. Ông ở đây làm thầy tôi. Tôi phải học nhiều. Bằng kiến thức chúng ta gần Thượng Đế, và rồi chúng ta có thể nghỉ ngơi. Rồi chúng ta trở lại dạy và giúp đỡ người khác".
Tôi không nói được lời nào. Đây là một bài học từ sau cái chết của cô, từ trạng thái nửa nọ nửa kia. Nguồn gốc của tài liệu này là ǵ? Nó không giống của Catherine chút nào. Cô không bao giờ nói như thế, dùng những lời như thế , câu cú như thế. Cả đến giọng nói của cô cũng hoàn toàn khác hẳn.
Vào lúc đó tôi không hiểu được rằng mặc dù Catherine thốt ra những lời như vậy, cô đă không tạo ra những suy nghĩ ấy. Cô đang truyền điều đang được nói với cô. Sau này cô nhận diện ra là các bậc Thầy, những linh hồn tiến hóa cao không hiện diện nơi thân thể, là nguồn gốc.
Họ có thể nói với tôi qua cô. Không chỉ Catherine có thể lùi về các tiền kiếp, mà bây giờ cô c̣n có thể truyền kiến thức từ thế giới bên kia. Kiến thức đẹp đẽ. Tôi phấn đấu để giữ tính cách khách quan.
Một phương chiều mới đă được mở ra. Catherine chưa bao giờ đọc những công tŕnh nghiên cứu của Bác Sĩ Elisabeth Kubler Ross hay Bác Sĩ Raymond Moody, cả hai bác sĩ này đă viết về những kinh nghiệm lúc cận tử.
Cô cũng chưa bao giờ nghe nói về cuốn sách của người Tây Tạng về Người Chết. Thế mà cô đang kể ra những kinh nghiệm tương tự với những kinh nghiệm được miêu tả trong những bài viết này. Âu cũng là là một bằng chứng.
Giá mà có nhiều sự việc hơn, nhiều chi tiết rơ ràng hơn, tôi có thể xác minh. Sự hoài nghi của tôi thay đổi bất thường tuy vẫn c̣n. Có thể là cô đă đọc chuyện nghiên cứu về cận tử trong một tạp chí hay đă xem một cuộc phỏng vấn trên chương tŕnh truyền h́nh.
Mặc dù cô phủ nhận bất cứ một kư ức nào về bài báo hay chương tŕnh truyền h́nh như thế, nhưng có lẽ cô đă giữ kư ức trong tiềm thức. Nhưng cô đă vượt qua những bài viết trước đây và truyền tin tức từ trạng thái nửa nọ nửa kia. Giá mà tôi có nhiều sự việc có thật hơn.
Sau khi tỉnh lại, Catherine nhớ những chi tiết về tiền kiếp, vẫn như thường lệ. Tuy nhiên cô không thể nhớ những ǵ xẩy ra sau khi chết lúc là Elizabeth. Trong tương lai cô sẽ không bao giờ nhớ được chi tiết nào trong trạng thái nửa nọ nửa kia. Cô chỉ nhớ được những kiếp sống.
"Bằng kiến thức, chúng ta gần Thượng Đế". Chúng ta đang ở trên con đường của chúng ta.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|