Tác giả |
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 281 of 1146: Đă gửi: 19 June 2010 lúc 11:01pm | Đă lưu IP
|
|
|
TÂY PHƯƠNG HUYỀN BÍ
Linh Đông Đến Venise
Kiều Dung ngồi một ḿnh gần bên cửa sổ nh́n ra ngoài con Kinh Lớn. Những chiếc du thuyền lướt nhẹ trên ḍng nước ngang trước mặt ṭa lâu đài. Bỗng có một chiếc ngừng lại và từ từ cập vào bờ. Một người khách từ trong thuyền bước ra, đi lên những bậc than tam cấp và bước vào ṭa nhà lầu. Một gia nhân bước vào pḥng Kiều Dung và đưa cho nàng một tấm danh thiếp của Linh Đông. Kiều Dung rất mừng mà gặp lại người bạn cũ này để có thể nói chuyện với y về hạnh phúc của nàng, về Zanoni, và cho y xem đứa con kháu khỉnh của ḿnh!
Linh Đông bước vào. Nàng giật ḿnh kinh ngạc mà nh́n thấy h́nh dáng cố nhân hoàn toàn đổi khác, với cái trán sa sầm, nét mặt cương quyết, nhưng có những vết nhăn do sự nghĩ ngợi lo âu, khác hẳn với người nghệ sĩ duyên dáng và vô tư đă có lúc yêu nàng khi xưa. Nàng nói:
- Anh đây à, Linh Đông? Anh thay đổi nhiều quá!
Linh Đông ngồi xuống bên cạnh nàng và nói:
- Thay đổi nhiều! Và tôi phải cám ơn ai đây, nếu không phải những tay phù thủy, những loài quỷ sống đă can thiệp vào cuộc đời cô cũng như cuộc đời tôi? Kiều Dung, hăy nghe tôi nói đây! Cách đây vài tuần, tôi nghe tin cô đang ở Venise. Tôi bèn mạo hiểm vượt qua bao nhiêu nỗi chướng ngại hiểm nguy đi đến đây, để giải bày tâm sự nỗi niềm của tôi, và cũng để cứu cô. Cô nói tôi thay đổi ư! Đó là chỉ nói về h́nh dạng bên ngoài! Nó không thể so sánh với sự tàn phá bên trong nội tâm! Cô hăy nghe những lời khuyên của tôi trong khi c̣n kịp thời giờ!
Giọng nói vang những âm hưởng rùng rợn thâm trầm của Linh Đông c̣n làm cho Kiều Dung sợ hăi hơn là những lời nói của y. Với gương mặt ngơ ngác, tiều tụy và tái nhợt, y có vẻ giống như một người vừa chui lên từ dưới mồ hoang để làm cho nàng kinh sợ. Sau cùng, nàng nói như nghẹn ngào trong cổ họng:
- Sao! Anh nói chuyện ǵ vậy? Anh hăy...
- Cô hăy nghe đây! - Linh Đông vừa nói vừa đặt nhẹ bàn tay lên vài nàng, và nàng cảm thấy nó giá lạnh như bàn tay của một xác chết - Cô có bao giờ nghe nói về những người kết liên với ma quỷ để có được những sự hiểu biết phi phàm? Những chuyện đó không phải là huyền thoại. Quả thật có những người như vậy. Họ chỉ vui thích nhất khi nào họ lôi cuốn được những người khác cùng nhập bọn với họ. Nếu những người này thất bại trong cuộc thử thách, ma quỷ sẽ ám ảnh họ ngay trong cuộc sống hiện tại, cũng như chúng đă ám ảnh tôi. C̣n nếu họ thành công, th́ thật là một tai họa v́ một số phận c̣n rùng rợn khủng khiếp hơn đang chờ đó họ. Họ phải trải qua một kiếp sống mà không một phù phép nào có thể trừ tà trục quỷ, hay xoa dịu sự cực h́nh. Tôi đến đây từ một nơi mà máu tuôn như suối chảy, mà sự chết luôn luôn ŕnh rập một bên người lành cũng như kẻ dữ, mà uy quyền độc nhất vô nhị là cái máy chém. Nhưng tất cả những nguy cơ và hiểm họa đó đều không đáng kể so với sự khủng khiếp của gian pḥng này, là nơi ngự trị của Ma Vương!...
Kế đó, với một sự chính xác lạnh lùng, đầy đủ chi tiết và có mạch lạc đầu đuôi, Linh Đông thuật lại câu chuyện nhập môn của ḿnh. Y diễn tả h́nh dáng con [Ma Giữ Cửa] với đôi mắt nh́n rùng rợn làm cho người nghe phải nổi ốc rợn người và lạnh xương sống! Khi người ta đă nh́n thấy nó một lần, người ta không thể xua đuổi nó được nữa. Nó xuất hiện bất cứ lúc nào, gợi cho nạn nhân những ư nghĩ đen tối và sự cám dỗ lạ lùng! Nó chỉ biến mất trong những hoàn cảnh huyên náo ồn ào và kích động thần kinh. Trái lại, trong sự vắng vẻ cô đơn, sự yên lặng tâm hồn, trong sự cố gắng của linh hồn để hướng về đạo đức tâm linh và đạt tới sự bằng an nội tâm, th́ luôn luôn tà ma xuất hiện và phá phách.
Kiều Dung nghe nói mà rợn người: câu chuyện dị kỳ này khêu gợi lại nơi nàng những ấn tượng mơ màng mà trong t́nh yêu nồng thắm, nàng không bao giờ xem xét tỉ mỉ. Những ấn tượng đó làm cho nàng nghĩ rằng cuộc đời của Zanoni không giống như của mọi người thế gian. T́nh yêu của nàng cho đến nay vẫn luôn luôn gạt bỏ mọi sự hiềm nghi, và dập tắt mọi ư nghĩ mà nàng cho là bất hảo đối với chồng nàng. Nhưng hôm nay, câu chuyện tường thuật của Linh Đông lại có tác dụng gây cho nàng một cơn sợ sệt truyền nhiễm. Nàng bắt đầu run sợ, nhưng không phải sợ cho nàng. Đột nhiên nàng đưa tay ẵm lấy con và siết chặt nó trong ḷng ḿnh.
Linh Đông kêu lên trong cơn run rẩy:
- Thật là bất hạnh! Phải chăng cô đă sinh ra một nạn nhân mà cô không thể cứu giúp? Tốt hơn đừng cho nó ăn ǵ cả, cứ để cho nó chết đói! Trong nấm mồ, ít nhất c̣n có sự yên nghỉ và sự bằng an!
Chính khi đó, Kiều Dung mới nhớ lại những đêm mà Zanoni thức luôn không ngủ ở bên cạnh cái nôi, và những nỗi sợ sệt của nàng khi nàng nghe chàng thốt lên những câu với âm thanh lạ lùng bí hiểm có âm điệu nhịp nhàng gần như giọng hát.
Nhưng lần lần, những kỷ niệm êm đềm và tốt đẹp của dĩ văng, cũng đă xuất hiện trở lại trong trí của nàng. Nàng nh́n con, và thấy gương mặt nó phảng phất những nét mặt của cha nó. Giọng nói dường như xuất hiện trên đôi môi hồng thắm của nó và nhắn nhủ với nàng một cách buồn rầu:
- Anh nói qua miệng của con. Đáp lại t́nh thương của anh đối với mẹ con em, em lại há mất ḷng tin nơi anh v́ sự tố giác bừa băi của một thằng điên ư?
Nàng vươn ḿnh ngồi nhổm dậy, ngẩng mặt nh́n lên, đôi mắt chiếu một ánh sáng trong lành, thánh thiện. Nàng nói với Linh Đông:
- Thôi, anh hăy đi đi, hỡi nạn nhân những ảo giác của chính ḿnh. Tôi không tin cả những giác quan của chính ḿnh, nếu chúng tố giác người cha của đứa nhỏ này. Và anh biết ǵ về Zanoni? Kiềm Mâu và những h́nh ảnh ma quái của ông ta có liên hệ ǵ đến chồng tôi đâu mà anh muốn vơ đũa cả nắm?Linh Đông đáp với một giọng buồn thảm:
- Rồi cô sẽ được biết. Chính con Ma ám ảnh tôi đă nói cho tôi biết rằng nó cũng sẽ phá luôn cả gia đ́nh cô. Tôi không đ̣i hỏi cô phải trả lời ngay bây giờ. Trước khi tôi rời khỏi Venise, tôi c̣n trở lại gặp cô lần chót.Nói xong, y bèn kiếu từ và ra đi.
Cơn Khủng Hoảng Lương Tâm
Suốt ngày hôm ấy, Kiều Dung đầu óc rối bời như tơ ṿ. Bao nhiêu ư nghĩ dồn dập và bao nhiêu điều sợ hăi biến tan đi mất khi nàng tỉnh táo sáng suốt, để rồi trở lại quay cuồng trong trí nàng một cách tối tăm rùng rợn hơn. Nàng nhớ lại, điều này trước kia nàng đă nói với Linh Đông, rằng hồi thuở nhỏ nàng luôn luôn có những linh cảm lạ lùng báo trước cho nàng biết rằng nàng sẽ có một định mệnh lạ kỳ. Nàng cũng nhớ rằng khi nàng nói cho Linh Đông biết như thế, th́ y cũng nh́n nhận rằng chính y cũng linh cảm tương tự như vậy, và một sự giao cảm huyền bí dường nhữ đă nối liền định mệnh của hai người. Nàng nhớ nhất là khi đem đối chiếu những ư nghĩ rời rạc của họ với nhau, th́ linh cảm đó có một ư nghĩa rơ rệt hơn và gây cho họ cái ấn tượng rằng cái định mệnh lạ lùng của hai người đều có liên hệ trực tiếp với Zanoni.
Và hôm nay, khi Kiều Dung đă gặp lại Linh Đông, th́ những điều sợ hăi ám ảnh của thời niên thiếu lại càng thức động trở lại khi vừa được nhắc nhở đến. Những sợ hăi của Linh Đông gây cho nàng một ḷng ưu ái, cảm thông mà lư trí và t́nh yêu của nàng cũng không sao chống lại được. Tuy vậy, khi nàng nh́n con nàng thấy nó vẫn thức, đôi mắt nó nh́n nàng và đôi mắt mấp máy như muốn nói với nàng điều ǵ. Nó không chịu đi ngủ. Đôi mắt nó thức lao láo, có vẻ nghiêm trang, đượm nét u buồn dường như có vẻ trách móc và tố giác, làm cho nàng cảm thấy lạnh tận trong xương tủy.
Không thể nào chịu nổi sự đảo lộn tinh thần nó dày ṿ trong tâm hồn, nàng bèn cho mời vị linh mục mà nàng vẫn thường tiếp xúc và xưng tội ở Venise để thổ lộ tâm sự giữa những cơn khóc lóc thảm thiết và những dấu hiệu của một sự sợ hăi kinh hoàng tột độ. Vị linh mục là người ngoan đạo và sùng tín, những có kiến thức nông cạn và óc xét đoán chật hẹp. Cũng như nhữngngười Ư có văn hóa kém và dị đoan ngày nay, ông ta có cái nh́n lệch lạc, và thường coi một người có tư tưởng khác lạ như một nhà phù thủy. Bởi đó ông ta đă khép chặt mọi cánh cửa hy vọng đối với tâm hồn của Kiều Dung. Ông ta cũng đâm ra sợ hăi và thốt ra những lời nghiêm huấn vô cùng chặt chịa. Ông ta hiệp lực với Linh Đông để khuyên nàng bỏ nhà trốn đi, nếu nàng có một mảy may nghi ngờ rằng những hoạt động của chồng nàng giống như của những nhà bác học thời xưa mà Hội Thánh La Mă đă bắt đem thiêu sống trên giàn hỏa dưới tội danh là hành nghề phù thủy. Và một vài chi tiết rời rạc mơ hồ mà Kiều Dung có thể tiết lộ về vấn đề này, đă hiện ra trong tầm mắt của ông ta như những bằng chứng không thể chối căi của khoa Bàn Môn tả đạo. Thật vậy, linh mục Bartolomeo đă có nghe dư luận đồn đăi về Zanoni, và bởi đó ông ta sẵn sàng chấp nhận giả thuyết này. Có lẽ ông ta sẽ không ngần ngại mà thiêu sống vị kỹ sư Watt trên giàn hỏa nếu ông ta nghe ông Watt nói về máy chạy bằng hơi nước!
Nhưng Kiều Dung c̣n sợ hăi hơn nữa khi vị linh mục nói về những hiểm họa có thể xảy đến không phải cho bản thân nàng, mà cho con nàng. Ông ta nói:
- Những nhà phù thủy vẫn luôn luôn t́m cách dụ dỗ và quyền rũ những linh hồn trẻ, tức linh hồn của những trẻ thơ.
Kế đó, ông nêu ra một loạt dài những chuyện ngụ ngôn và huyền thoại mà ông ta bảo đảm như những chuyện có thật. Những điều này làm cho nàng, vốn sẵn có ít nhiều óc mê tín dị đoan của người ít học và kém văn hóa, lại càng sợ sệt hơn nữa. Và khi vị linh mục kiếu từ ra về, ông ta c̣n thốt lên những lời cảnh cáo và tố giác nghiêm trọng rằng nàng đă quên mất bổn phận của người mẹ hiền đối với đứa con thơ nếu nàng c̣n do dự không chịu từ bỏ ngôi nhà bị ô nhiễm bởi những mănh lực hắc ám và sự tiếp xúc với ma quỷ.
Đêm ấy, Kiều Dung trằn trọc thao thức đến khuya. Nàng nằm lăn lộn trên nệm giường, với bao nhiêu ư nghĩ triền miên trong trí nên không sao chợp mắt ngủ được. Lần lần nàng rơi vào trạng thái nửa tỉnh nửa mê, th́ th́nh ĺnh một tư tưởng vừa xuất hiện, dẹp tan cả những ư nghĩ khác! Đó là gian pḥng bí mật, mà Zanoni chỉ dành riêng cho chàng, và không ai được bước vào, kể cả Kiều Dung. Từ trước đến nay sống trong cảnh hạnh phúc gia đ́nh đầm ấm, nàng không bao giờ có ư nghĩ ṭ ṃ muốn bước vào. Nhưng giờ th́ gian pḥng ấy có sức lôi cuốn hấp dẫn rất mănh liệt. Nàng nghĩ rằng bước vào trong gian pḥng đó, chắc nàng sẽ có một bằng chứng hay tang vật ǵ giúp cho nàng t́m ra sự giải đáp cho bài toán bí hiểm, hoặc nó sẽ dẹp tan hay xác nhận những sự nghi nan của nàng bấy lâu. Ư nghĩ ấy càng tăng trưởng dần, và ngự trị trong tâm hồn nàng. Nàng dường như đă sẵn sàng vận dụng ư chí để thực hiện cái ư nghĩ đó.
Thế rồi, với một ư định cương quyết, và những bước chân b́nh tĩnh vững chắc, nàng đi xuyên qua các hành lang, và đi thẳng đến gian pḥng bí mật. Pḥng không có khóa, nàng chỉ đẩy cửa bước vào. Không có một phù phép trấn ếm, hay đạo bùa linh thiêng nào ngăn cản bước chân của nàng! Hỡi người con gái của trần gian đầy cát bụi, nàng đă một ḿnh giữa ban đêm lọt vào gian pḥng bí mật nơi đó vô số những Tinh Linh của cơi không gian vô tận đă từng xuất hiện theo lời kêu gọi của người Thuật Sĩ.
Nàng bước vào pḥng và nh́n chung quanh nhưng không thấy dấu hiệu ǵ chỉ rằng chủ nhân có thể là một nhà phù thủy của phái Bàn Môn. Không có những đồ khí dụng luyện kim như ḷ chảo, không có những pho sách Huyền Môn đóng b́a da, những dây nịt có khắc phù hiệu bí mật, không có đầu lâu, sọ người. Ánh trăng rọi vào gian pḥng trống trơn, chỉ thấy có vài nắm cỏ héo với vài lọ b́nh cổ bằng đồng, đặt một cách sơ sài trên một chiếc ghế dài bằng gỗ.
Nhưng trong sự vắng lặng của gian pḥng này, phải chăng vẫn c̣n phảng phất cái ảnh hưởng của bầu không khí linh thiêng mà chủ nhân của nó đă tạo ra do bởi sự tiếp xúc thường xuyên với các v́ khuất mặt và các thần linh trong cơi vô h́nh? Chắc hẳn là có như vậy, v́ sau một lúc, Kiều Dung nhận thấy một sự thay đổi bí mật đang diễn ra trong người nàng. Tim nàng đập mạnh hơn và máu chạy đều trong huyết quản gây cho nàng một cảm giác thoải mái dễ chịu. Nàng cảm thấy đi đứng nhẹ nhàng dường như lướt nhẹ trong không khí, và tầm mắt của nàng rộng mở thênh thang, nh́n thấu suốt mọi nơi không chướng ngại. Dường như nàng đang sống trong một bầu không khí tâm linh đặc biệt xuyên qua đó linh hồn nàng có thể thoát ra khỏi cái thể xác ngục tù bằng cát bụi và giao cảm với thần linh.
Nàng bước tới chiếc "băng" gỗ, trên đó có bày những chiếc b́nh cổ và những nắm dược thảo đă héo, và khi nàng nh́n xuống, nàng thấy trong một b́nh có để một lọ nhỏ bằng thủy tinh.
Nàng tḥ tay cầm lấy cái lọ một cách vô tâm th́ thấy chất dược thủy trong lọ chiếu hào quang sáng rực. Nàng mở nút ra, chất hơi trong lọ thủy tinh thoát ra ngoài chiếu lấp lánh trong không khí như muôn ngh́n mảnh hột kim cương tán nhuyễn, và tỏa khắp pḥng một mùi hương thơm tho ngào ngạt. Nàng đưa lọ thủy tinh lên mũi hít một hơi, lấy ngón tay thấm chất nước thơm tho thoa lên hai màn tang. Bỗng nhiên nàng cảm thấy một nguồn sinh lực dồi dào vận chuyển trong châu thân, làm cho nàng có một sức sống mănh liệt phi thường.
Do khiếu linh thị th́nh ĺnh khai mở dưới ảnh hưởng kích thích của chất Kim Đơn thần dược, nàng không c̣n thấy rơ ràng sự vật ở chung quanh.
Thế rồi, nàng từ từ đứng dậy, rời khỏi gian pḥng, đi qua hành lang và trở về pḥng ḿnh. Nàng bước lại gần cái nôi và nh́n con, đứa con đẹp đẽ ngây thơ với đôi mắt trong sáng, thông minh vẫn c̣n thức và mở thao láo. Nhưng gần bên cái nôi, nàng thấy một đen ng̣m, h́nh dáng mờ mờ nhân ảnh không thấy rơ ràng, dường như bao phủ dưới một bức màn đen. Nó lại càng có vẻ rùng rợn đáng sợ hơn v́ nó không phải là một vật có sắc tướng h́nh hài cụ thể mà dường như một cái bóng ma! Lúc ấy, những vách tường của gian pḥng dường như mở rộng ra như một cảnh trên sân khấu... Nàng thấy hiện ra trong cơn linh ảnh một nhà ngục tối tăm u ám, rồi một đám đông nghẹt những người chen chúc nhau trên các đường phố, nét mặt tái nhợt, và co quắp trong cơn thù hận, căm hờn, tràn đầy sát khí, coi như một đám quỷ sống hiện h́nh, một chốn pháp trường, một cái máy chém, một đống thây người vấy máu chồng chất cao như núi, trong đó có cả chính nàng, và con nàng,... tất cả những h́nh ảnh đó nối tiếp nhau diễn ra như một cuốn phim. Th́nh ĺnh nàng thấy trong đám đông có Zanoni, chàng có vẻ như nh́n thấy nàng và vội vă chạy về phía nàng. Nàng không chịu nổi nữa, bèn hét lên một tiếng thất thanh và chợt tỉnh. Bên cạnh nàng vẫn là cái nôi và đứa con nàng đă nằm ngủ yên. Tất cả những ǵ xuất hiện trong cơn linh thị vừa rồi đă biến mất, kể cả cái bóng Ma rùng rợn đen ng̣m! Nàng bất giác thốt lên:
- Con hỡi! Con của mẹ! Dầu sao mẹ cũng phải cứu con!
Thư Của Kiều Dung Gửi Zanoni
"Sự việc đă diễn biến cách nào mà, giữa đôi ta, chính em lại là người nói chuyện ra đi trước nhất. Chính em, mà chắc anh sẽ cho là không chung thủy, em xin gửi lời vĩnh biệt anh từ đây! Khi mà anh đọc những gịng chữ này, th́ đối với anh, em đă là người của dĩ văng. Hỡi anh yêu dấu, hỡi người chồng yêu quư của em! Nếu anh đă yêu em, và có thể c̣n thương hại em, th́ xin anh đừng t́m kiếm em làm ǵ. Nếu những phép thuật của anh có thể giúp anh t́m được em, xin anh hăy nương tay, tha cho em, và tha cho con của chúng ta! Hỡi Zanoni, em muốn nuôi dưỡng nó để cho nó có thể thương anh và gọi anh bằng cha. Đôi môi tươi trẻ của nó sẽ cầu nguyện cho anh! Hăy tha cho con em, v́ trẻ con là á thánh trên cơi trần gian này, và sự thỉnh nguyện của chúng có thể cảm thông tới trời.
Em có nên nói cho anh biết tại sao em ra đi chăng? Không. Anh vốn có đủ minh triết sáng suốt, anh có thể đoán biết những ǵ mà bàn tay em run rẩy không viết được nên lời. Và mặc dầu em rùng ḿnh e ngại trước quyền năng của anh, em vẫn c̣n được an tâm mà nghĩ rằng với quyền năng đó anh có thể thấu hiểu cơi ḷng em! Anh biết rằng em viết cho anh trong tư cách của một người mẹ hết ḷng v́ con, chứ không phải với tư cách một người vợ... Có lẽ, hỡi Zanoni, khoa pháp môn của anh có bị ô nhiễm v́ tội lỗi? Tội lỗi gây nên sự hối hận, và nếu chỉ có em với anh, th́ hỡi ôi! Thật là êm đẹp xiết bao nếu em có thể là nguồn an ủi của anh. Nhưng c̣n con, đứa con của chúng ta! Linh hồn trẻ đang núp bóng sau lưng em! Hỡi thuật sĩ, em xin mạn phép giành lấy nó trong tay anh! Em xin lỗi anh nếu những lời này có vẻ bất công đối với anh. Anh hăy xem, em xin quỳ gối để viết tiếp đoạn c̣n lại!
Tại sao em không bị sợ hăi sớm hơn về khoa pháp môn bí mật của anh? Tại sao cuộc đời ḱ dị của anh không làm em sợ sệt mà c̣n thích thú? Bởi v́, dầu cho anh là nhà phù thủy hay Bàn Môn tả đạo, mối nguy cơ cũng chỉ có ảnh hưởng đến một ḿnh em thôi. Nhưng bây giờ, th́ c̣n có một mối nguy cơ khác. Anh hăy xem tại sao nó lại nh́n em như vậy? Tại sao đôi mắt nó cứ luôn luôn mở thao láo, luôn luôn nghiêm nghị và đầy vẻ trách móc? Những phù phép trấn ếm của anh đă bao phủ chung quanh nó rồi chăng? Hỡi người thuật sĩ tàn ác, phải chăng anh đă lôi cuốn cho nó tham dự vào những điều rùng rợn của phép thuật hắc ám của anh? Thôi, anh đừng làm cho em phát điên lên đây! Xin anh hăy chấm dứt những phù phép đó ngay đi cho! Anh hăy nghe kia tiếng mái chèo ở ngoài sông... Đó là những mái chèo sẽ đưa em đi xa khỏi nhà anh! Em nh́n chung quanh, và dường như em c̣n nh́n thấy h́nh ảnh của anh ở khắp nơi trong nhà này. Bao nhiêu kỷ niệm êm đềm của cuộc sống hạnh phúc giữa đôi ta hăy c̣n đây. Nhưng em chỉ nhớ nhất là trong những giờ phút đau đớn khi lâm bồn, giọng nói dịu dàng ưu ái của anh trấn tĩnh tâm hồn em. Khi đó, xuyên qua bóng tối em nghe anh th́ thầm lần đầu tiên bên tai em: 'Hỡi Kiều Dung, em đă là mẹ!...' Là mẹ, phải đấy, em đă là mẹ một đứa con! À! Thuyền đă cập bến kia rồi, em đă quyết định... Xin vĩnh biệt, chào anh!"
Thế là Kiều Dung, người mà Zanoni đă yêu với một mối t́nh sâu xa nồng thắm, v́ nàng mà Zanoni đă chịu hy sinh bao nhiêu quyền năng và bản lĩnh, đă từ bỏ chàng. Nàng từ bỏ chàng một cách đột ngột, tàn nhẫn, do bởi một sự mê tín dị đoan mù quáng và lạc lơng, hoặc do bởi sự thúc đẩy của bổn phận làm mẹ. Sự từ bỏ hoàn toàn bất ngờ này chỉ là sự thực hiện cái định mệnh nó chờ đợi những người nào t́m cách nâng cao thần trí của ḿnh vượt lên khỏi mức độ trần gian, nhưng đồng thời lại vẫn c̣n bị trói buộc với thế gian bởi liên hệ t́nh cảm.
Sự thất học, dốt nát, vẫn sẽ luôn luôn thối lui trước sự hiểu biết và kiến thức sâu rộng! Nhưng chưa hề có t́nh yêu nào được biểu lộ với một tấm ḷng vô kỷ vị tha, và một tinh thần hy sinh cao quư, thuần khiết hơn là ở người đàn bà này. V́ nàng đă nói rất đúng: không phải là một người vợ phản bội, mà chính là người mẹ v́ bổn phận ḿnh mà phải tự tách rời ra khỏi tất cả những ǵ là hạnh phúc của nàng ở thế gian.
T́nh mẫu tử thiêng liêng đă làm cho nàng có cái quyết định đó, nàng bèn ôm chặt lấy đứa con vào ḷng và cảm thấy một niềm an ủi và an phận. Nhưng đồng thời nàng lại cũng bị dày ṿ bởi những nỗi hoài nghi và hối hận cay đắng về thái độ của ḿnh. Đó là lúc ở trạm nghỉ dọc đường trên đường đi Livourne, nàng nghe một người đàn bà cùng đi trên một chuyến tàu, cầu nguyện Thiêng Liêng phù hộ cho được gặp lại chồng bà và cho bà có đủ sức mạnh tinh thần để chia sẻ hoạn nạn với chồng bà trong cơn nguy hiểm. Thật là một sự trái ngược kinh khủng với sự bỏ phế gia đ́nh của nàng! Kiều Dung lại rơi vào trạng thái tối tăm u ám của cơi ḷng ḿnh, và kể từ lúc đó, không một tiếng nói lương tri nào có thể an ủi nàng được nữa.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 282 of 1146: Đă gửi: 19 June 2010 lúc 11:02pm | Đă lưu IP
|
|
|
TÂY PHƯƠNG HUYỀN BÍ
Chương Mười
Chủ Tịch Robert
Là năm 1794. Cuộc Cách Mạng Pháp đă kéo dài trên năm năm, và đang bước vào giai đoạn đẫm máu đến cực điểm. Người ta gọi giai đoạn đó là Thời Đại Khủng Bố mà người lănh đạo là một nhà Cách Mạng đa sát có cái tên là Robert (Robespierre), Chủ Tịch Ủy Ban Cách Mạng Trung Ương và Chủ Tịch Chánh Phủ Cộng Ḥa lâm thời.
Năm 1794 cũng là năm vừa chấm dứt cuộc tranh chấp quyền hành và xung đột ảnh hưởng giữa con trăn và con sư tử. Con trăn Robert đă thắng đoạt và giết chết con sư tử (Danton). Danton đă ngă gục giữa pháp trường cùng một lượt với Mậu Linh, một nhà cách mạng ái quốc chân chính, chủ trương ôn ḥa và ngă về phe Danton. Kể từ khi đó, những vụ tàn sát các nhà cách mạng đối lập đă làm lu mờ sự phán đoán sáng suốt của Robert.
Sau vụ thanh toán đẫm máu cuối cùng này, có lẽ là cần thiết cho sự an toàn của ông ta, nếu Robert chấm dứt ngay Triều Đại Khủng Bố, và áp dụng chánh sách rộng răi khoan dung như Danton vẫn hô hào đề xướng, th́ có lẽ y đă được suy tôn như một người anh hùng của dân tộc. Nhưng những đề lao và khám tối vẫn tiếp tục chứa thêm người cho đến đầy tràn, quân đao phủ và máy chém vẫn tiếp tục hoạt động ngày đêm. Robert không nhận thấy rằng dân chúng đă chán ngấy đến lợm giọng những vụ sát phạt lưu huyết và đang cần có sự tái lập lại cuộc sống b́nh thường.
Chủ Tịch Robert làm việc trong một văn pḥng đặt tai nhà của công dân Dupleix, người này vốn xuất thân làm nghề thợ mộc (Phủ Chủ Tịch đặt tai nhà riêng của một người thuộc giai cấp thợ thuyền là ngụ ư cải cách chế độ quan liêu phong kiến của nền quân chủ đă sụp đổ.
Robert ngồi trên một chiếc ghế bành, lưng thẳng, trước một cái bàn giấy rộng lớn chứa đầy những văn thư. Đầu chải bóng, tóc hơi quăn nhưng rất ngay hàng và chăm sóc rất kỹ, vị Chủ Tịch Cách Mạng Pháp mặc trang phục chải chuốt với một áo ngoài bằng nỉ xanh, một áo lót trắng tinh cổ lật bằng sa tanh màu hường. Cái trán hơi thấp nhưng rộng và thông minh, đôi môi mím chặt với một vẻ cương quyết, nhưng đôi khi hơi run. Đôi mắt sâu sắc, thần mắt dữ, cái nh́n như soi thấu tâm can người đối thoại, lại không phù hạp với một khổ người mảnh khảnh và một nước da tái nhợt nó biểu lộ một sự lo nghĩ và một sức khỏe kém.
Văn Pḥng Chủ Tịch đặt trên lầu của tiệm thợ mộc nói trên chính là nơi xuất phát ra những quyết nghị tiến binh để cho những đạo binh Cách Mạng ra quân nơi chiến trường. Đó cũng là nơi ra nghị định cho các nhà thầu xây cất một ống cống nhân tạo để dẫn những ḍng suối máu người từ những cái máy chém cho chảy thông ra sông và khỏi bị ứ đọng dưới những cống rănh trong thủ đô của một dân tộc hiếu sát nhất thế giới!
Trên đây là một vài nét phác họa sơ lược bản chất của một người có tâm trạng rất mâu thuẫn mà cuộc đời thực tế lại hoàn toàn trái ngược hẳn với những ư tưởng của ông ta lúc thiếu thời.
Tham vọng đầu tiên của ông ta là nắm giữ một chức vị thẩm phán trong ngành tư pháp, nhưng về sau ông ta đă từ chối kh6ng nhận lănh chức vị quan ṭa để khỏi phải hành động trái ngược với những lư tưởng từ ái, nhân đạo của ḿnh, nếu ông ta phải lên án xử tội tử h́nh một người đồng loại! Với cái lư tưởng nhân đạo đó khi c̣n trẻ, ông ta đă từng nhiệt liệt chủ trương hủy bỏ án tử h́nh, nhưng bây giờ th́ ác liệt thay, ông ta lại đang đóng vai tṛ một lănh tụ độc tài khát máu nhất thế giới! Ngoài ra điểm mâu thuẩn kể trên, th́ Chủ Tịch Robert là người rất mực thanh liêm, ngay chính, có tâm hồn khiết bạch, khắc khổ và khinh bỉ mọi sự thái quá, kể cả trong vấn đề t́nh ái cũng như rượu chè. Với những nết hạnh đó, nếu ông ta chỉ chết sớm hơn độ năm năm thôi, th́ ông ta đă có thể làm mẫu mực cho những người trong dân gian lấy đó làm gương hoặc chỉ dạy cho con em của họ noi theo.
Chủ Tịch Robert đang cầm lấy một quyển sách để trên bàn và chăm chú đọc, th́ một người cận vệ lực lưỡng tay cầm gậy lớn với hai khẩu súng ngắn giắt lưng vừa mở cửa bước vào báo tin có hai người khách đến viếng.
Người khách đầu tiên hăy c̣n trẻ, nhưng có vẻ mặt cương nghị và quyết đoán. Y bước vào và nh́n thấy quyển sách trong tay Robert, y nói:
- À! Héloise của Lư Thoa! Một truyện t́nh cảm!
- Hỡi đồng chí Bá Văn! Điều làm tôi thích thú không phải là truyện t́nh cảm, mà là phần triết lư trong sách này. Bao nhiêu là tư tưởng dồi dào phong phú, và một ḷng nhiệt thành đề cao đức hạnh! A! Nếu Lư Thoa có thể sống tới bây giờ để nh́n thấy có ngày hôm nay!
Trong khi nhà độc tài c̣n đang b́nh phẩm tác giả Lư Thoa, là vị triết gia mà ông ta thường bắt chước tư tưởng để soạn những bài diễn văn của ḿnh, th́người ta đưa vào người khách thứ nh́ ngồi trên một chiếc xe lăn. Người này trạc độ tứ tuần, và bị liệt cả hai chân. Tuy bị tàn phế hết nửa thân ḿnh, nhưng ông ta lại là một bàn tay đẫm máu, đă từng bày mưu thanh toán nhiều nhân vật quan trọng. Nhưng trên cặp môi ông ta lại xuất hiện một nụ cười êm ái dịu dàng nhất thế gian, và trên gương mặt ông ta phảng phất nhưng nét thanh tao mỹ lện như cái đẹp của Thiên Thần! Bằng một giọng nói êm ái, trong trẻo và du dương, đồng chí cố vấn Cửu Thông mở lời chào vị Chủ Tịch Robert:
- Đừng nói không phải t́nh yêu làm cho anh thích thú, đó chính là t́nh yêu! Nhưng đây không phải là thứ t́nh yêu nhục dục tầm thường, mà là t́nh yêu thương rộng răi bao la đối với nhân loại và tất cả chúng sinh muôn loài.
Cửu Thông vừa nói vừa vuốt ve con chó nhỏ lông xù mà y luôn luôn đem theo trên chiếc xe lăn, dẫu trong khi họp ở Quốc Hội. Chủ Tịch Robert nói với một giọng xúc cảm:
- Phải, t́nh yêu đối với tất cả muôn loài. Hỡi Cửu Thông! A! Loài người thật là hung dữ! Họ vu khống chúng ta! Họ tố giác chúng ta nhúng tay vào máu của những bạn đồng nghiệp! Đó mới là chuyện đau ḷng! Thanh toán những kẻ thù của quốc gia dân tộc, đó là một điều cao quư, nhưng khủng bố đàn áp những người tốt, những công dân yêu nước, những người mà ta mến yêu, đó là điều độc ác nhất trong những việc làm đen tối của con người, ít nhất đối với một quả tim chánh trực và nhạy cảm.
Cửu Thông nói:
- Đó là lời nói chí lư! Tôi thích nghe anh nói như vậy! Bá Văn có vẻ sốt ruột, nói:
- Thôi! Nói chi những chuyện dông dài. Chúng ta hăy bàn việc nước đi thôi!
Chủ Tịch Robert vừa phóng một tia sáng rùng rợn trong cặp mắt đỏ ngầu như máu, vừa nói:
- Phải đấy, ta hăy bàn việc nước.
Bá Văn nói:
- Nay đă đến lúc mà lẽ sống c̣n của nền Cộng Ḥa đ̣i hỏi một sự tập trung mọi quyền hành trong tay. Những tay bạo động trong Ủy Ban Cứu Quốc chỉ biết làm có một việc, là: phá hoại. Họ hoàn toàn bất lực khi nói đến vấn đề xây dựng. Họ đă thù ghét anh, hỡi đồng chí Chủ Tịch, kể từ khi mà anh muốn thay thế chế độ vô quân bằng những thể chế hiến định. Họ nhạo báng cả cuộc Lễ tuyên bố thừa nhận một Đấng Tối Cao! Họ không muốn có ai làm chủ, dẫu rằng ở trên trời! Với khối óc thông minh sáng suốt của anh, anh cũng hiểu rằng chế độ cũ đă sụp đổ, th́ ta cần phải xây dựng nên một chế độ mới. Bước đầu tiên đi đến xây dựng, phải là thủ tiêu những kẻ phá hoại. Trong khi chúng ta thảo luận, th́ kẻ thù của anh ra tay hành động. Tốt hơn ta nên hạ thủ ngay đêm nay để tóm trọn tiểu đội Cảnh Sát bảo vệ chúng, hơn là đợi đến ngày mai để phải đương đầu với những trung đoàn quân chánh quy mà chúng có thể huy động.
Robert không bằng ḷng đề nghị của Bá Văn, bèn đáp:
- Không! Tôi có một kế hoạch tốt và chắc chắn hơn. Hôm nay là mồng sáu, đến ngày mồng mười, toàn thể nhân viên Quốc Hội sẽ đến dự cuộc Đại Lễ thập niên. Ngày đó sẽ có một cuộc tập hợp quần chúng đông đảo: Những sinh viên trường Pháo Binh, quân đội Bảo An của tướng Hăng Ri, sinh viên sĩ quan bộ binh cũng sẽ trà trộn với dân chúng. Chừng đó, chúng ta sẽ thủ tiêu những kẻ âm mưu tạo loạn mà những nhân viên mật vụ đă được điềm chỉ cho biết trước. Ngày đó, Phúc Khuê và Duy Mật cũng sẽ không ngồi yên, và lưới luật pháp sẽ tóm luôn một số người t́nh nghi nữa để duy tŕ uy lực và niềm hứng khởi Cách Mạng. Ngày mồng mười sẽ là ngày đại nhật để chúng ta ra tay hành động. Bá Văn, anh đă lập xong bản danh sách những kẻ t́nh nghi chưa?
Bá Văn vừa đưa ra một tờ giấy vừa nói:
- Đây rồi!
Chủ Tịch Robert đưa mắt liếc nhanh qua một lượt:
- Đê Boa! Được! Ba Rê! Tốt lắm! Chính Ba Rê đă nói:'Ta hăy hạ thủ! Chỉ có những kẻ chết là không c̣n trở lại!" Vát Đê! Được! Tên Vát Đê này là tay lănh tụ miền núi. Nó dám gọi tôi là Mahomet, thằng xúc phạm, thằng báng bổ thần thánh!
Cửu Thông vừa vuốt ve con chó xù vừa nói:
- Th́ Mahomet sẽ đi lên miền núi.
- Nhưng này! Tôi không thấy có tên Tạ Liên! Tạ Liên đâu? Tôi không ưa người này. Trong cả Quốc Hội không có người nào làm cho tôi e ngại bằng tên Tạ Liên này. Anh Cửu Thông, anh nghĩ sao? Theo tôi th́ Tạ Liên c̣n nguy hiểm gấp ngàn lần Danton!
Bá Văn vốn là người khôn ngoan mềm dẻo trong mọi việc, thậm chí trong cả việc giết người, bèn nói:
- Tạ Liên là khối óc duy nhất chỉ huy nhóm đối lập hiện nay. Tốt hơn là hăy tạm thời nhân nhượng và mua chuộc y trong lúc này, để rồi sẽ thanh toán y dễ dàng hơn khi y đă bị cô lập. Như vậy có phải là hay hơn chăng? Có thể rằng Tạ Liên không ưa anh, nhưng có một vật mà y rất thích, đó là tiền!
- Không! - Robert vừa nói vừa viết tên Tạ Liên một cách chậm răi và rơ ràng từng nét trên bản danh sách - Các anh hăy cho tôi xin cái đầu này!Cửu Thông nói bằng một giọng rất êm ái:
- Tôi cũng có một bản danh sách nhỏ này đây, rất nhỏ thôi! Các anh lo toan về các lănh tụ miền núi, nhưng ta cũng phải làm một vài "cú" ờ miền đồng bằng chứ! Những thành phần ôn ḥa cũng giống như những cọng rơm, chúng hay ngă theo chiều gió. Mới hôm qua đây, chúng vừa chống lại chúng ta tại Quốc Hội. Một vài hành động khủng bố sẽ làm cho họ thay đổi lập trường. Tôi không thù ghét ǵ họ, nhưng phải đặt Tổ Quốc trên hết.
Cái nh́n rùng rợn của Robert lướt mau trên tờ giấy nhỏ xíu mà Cửu Thông vừa đưa ra.
- À! Khéo lựa chọn đây! Những thành phần không quá nổi bật để có thể gây sự hối tiếc và xúc động. Đó là chánh sách tốt nhất đối với những nạn nhân của đảng ta. Có cả vài người ngoại quốc nữa... Được! Những người này không có bà con ǵ ở Ba Lê. Chứ nếu có, th́ những phụ nữ và thân quyến của họ sẽ khiếu nại ầm lên! Những tiếng khóc than tru tréo của họ sẽ làm cho cái máy chém cũng phải xuống tinh thần!
Bá Văn nói:
- Cửu Thông có lư. Bản danh sách của tôi nêu tên những người mà ta sẽ thủ tiêu tập thể một cách chắc chắn hơn trong đám đông tề tựu đến dự cuộc Lễ. C̣n bản danh sách của y chọn lựa những người mà chúng ta có thể đưa ra pháp luật một cách an toàn không e ngại. Đồng chí không kư bản danh sách đó ngay bây giờ sao?
Chủ Tịch Robert vừa đặt cây bút lên giá một cách trịnh trọng vừa nói:
- Tôi đă kư rồi. Bây giờ chúng ta hăy xét qua những vấn đề quan trọng hơn. Những án tử h́nh này sẽ không gây một cơn xúc động nào, nhưng c̣n Đê Boa, Buốc Đông và Tạ Liên, họ là những lănh tụ các đảng phái. Đây là một vấn đề sống chết đối với chúng ta, cũng như đối với họ.
Bá Văn nói thấp giọng:
- Thủ cấp của những người này tức là những nấc thang để cho anh bước lên đài danh vọng. Không có một hiểm nguy nào xảy đến nếu chúng ta hành động mạnh bạo. Các vị quan ṭa và nhân chứng đều do phe ta chọn lựa. Một tay, anh nắm vững quân đội, tay kia, anh nắm luật pháp. Tiếng nói của anh vẫn c̣n đầy đủ uy lực trong dân chúng.
Chủ Tịch Robert c̣n đang suy gẫm, th́ Bá Văn đă nói tiếp:
- Và dẫu cho kế hoạch của ta trong buổi Lễ bị thất bại, ta cũng c̣n những lực lượng hùng hậu để bày kế khác. Đại tướng Hăng Ri, chỉ huy quân đoàn pḥng vệ thủ đô Ba Lê, sẽ cung cấp quân lính cho anh thi hành những vụ bắt bớ. Đảng Jacobins sẽ chuẩn bị dân chúng để hoan hô hành động của anh. Chánh Án Duy Mật sẽ chọn những vị thẩm phán không bao giờ biết dung thứ một tội nhân nào. Chúng ta chỉ cần hành động táo bạo!
- Phải hành động táo bạo! - Chủ Tịch Robert vừa nói lớn với một sự cảm hứng đột ngột, vừa nện quả đấm xuống bàn và đứng dậy, tóc dựng ngược, cũng như con rắn sắp sửa chụp lấy mồi. - Chúng ta không thể dung túng những kẻ tham lam và tội lỗi trong hàng ngũ của những người cách mạng chân chính. Quái gở thật! Họ muốn cùng nhau chia sẻ quốc gia như một chiến lợi phẩm! Chính những người ấy (y nắm chặt trong tay bản danh sách của Bá Văn) chính họ, chứ không phải chúng ta, đă vạch một đường chia rẽ cách biệt với những người thật sự thương yêu nước Pháp.
Bá Văn th́ thầm:
- Phải đó, chúng ta phải nắm trọn chính quyền. Nói cách khác, quốc gia cần có một ư chí duy nhất.Robert nói tiếp:
- Tôi sẽ đến dự Quốc Hội. Từ lâu nay tôi đă vắng mặt không đến họp v́ e người ta hiểu rằng tôi muốn khống chế cả Quốc Hội sau khi đă sáng lập nền Cộng Ḥa. Nay th́ không cần phải giữ ư như thế nữa, tôi muốn chuẩn bị quần chúng! Tôi muốn đập tan những kẻ phản bội!
Y nói với một giọng rắn rỏi của nhà hùng biện chưa hề biết thất bại, và với một quyết định tinh thần của người chiến sĩ xung trận sắp đánh chiếm một pháo đài. Ngay lúc đó, y ngừng lại, v́ người cận vệ đem vào một bức thơ. Y mở ra xem, gương mặt sa sầm và tứ chi run rẩy... Đó là một bức thơ nặc danh, lời lẽ hăm dọa như sau:"[Mi đă nhúng tay vào máu của những người bị hàm oan, hăy xem bản án của mi đây! Ta đợi đến ngày giờ mà dân chúng sẽ đưa mi ra trước ṭa án để cho mi đền tội. Nếu hy vọng ấy chưa được thực hiện nay, mà phải chờ đợi quá lâu, th́ đây, mi hăy đọc và nghe cho rơ:
Bàn tay này, mà mi đang t́m biết xem của ai, sẽ đâm thủng quả tim của mi. Ta nh́n thấy mi mỗi ngày, hằng ngày ta vẫn sống bên cạnh mi. Bất cứ giờ phút nào, tánh mạng mi cũng nằm trong tay ta. Đồ khốn kiếp! Mi hăy sống thêm ít lâu nữa, nhưng chỉ vài ngày ngắn ngủi nữa thôi. Mi sẽ phải nghĩ đến ta và lo sợ ngày đêm. Hăy cầu nguyện cho linh hồn mi trước khi đền tội."
Nhà độc tài nói với một giọng trống rỗng, bàn tay run rẩy làm rơi bức thơ xuống đất:
- Bản danh sách đó chưa đủ dài. Đưa đây tôi xem lại! Hăy t́m thêm những kẻ t́nh nghi nữa. Hăy kiếm thêm! Ba Rê nói có lư! Phải, y rất có lư! Ta hăy hạ thủ! Chỉ có những người chết mới không c̣n trở lại!
Sự Phản Bội
Trong khi Chủ Tịch Robert c̣n đang bận rộn với những kế hoạch và sự lo âu đó, th́ cái hiểm họa chung, sự thù hận chung của tất cả những phe phái cách mạng riêng rẽ đối với sự cai trị độc tài đẫm máu của y, đă làm cho họ kết hợp lại với nhau thành một khối. Thật vậy, một cuộc liên minh thật sự đă được tổ chức chống lại y, do âm mưu của những lănh tụ cách mạng khác cũng đa sát và đẫm máu như y vậy. Thiên Thời và Nhân Ḥa là hai yếu tố phá hoại ngày càng siết chặt gọng kềm thù nghịch chung quanh y. Xét về khía cạnh Thiên Thời, th́ y không c̣n thích hợp với thời cuộc nữa. Về khía cạnh thứ hai, y đă mất hẳn yếu tố Nhân Ḥa bởi y đă tỏ ra khinh miệt ḷng dân và gây thù chuốc oán khắp trong mọi giới cũng như trong các đảng phái đối lập. Đảng phái ghê gớm nhất trong cuộc Cách Mạng do lănh tụ Hê Be cầm đầu, nổi tiếng là tàn bạo và vô thần, cũng đă đồng loạt trở mũi súng chống lại y sau khi Hê Be bị hành quyết.
Trong số những người đă theo chủ thuyết vô thần của Hê Be và bây giờ đang lo sợ phải chịu cùng chung số phận với vị lănh tụ này, có nhà họa sĩ My Cốt. Bất b́nh và thất vọng v́ sự nghiệp cách mạng của y đă tan tành ra mây khói v́ cái chết của quan thầy y, và thấy rằng giữa hồi Cách Mạng đang thành công rực rỡ, với sự đóng góp bao nhiêu công lao khó nhọc của chính ḿnh, nay y lại phải sống ẩn núp trốn tránh trong những hầm rượu, nghèo túng, tối tăm và nheo nhóc khốn khổ hơn bao giờ hết, thậm chí cũng không dám công khai hành nghề của ḿnh, và ngày đêm lo sợ bị tóm cổ đem ra pháp trường xử trảm, nên dĩ nhiên là y đă trở thành một trong những kẻ thù bất cộng đái thiên với Chủ Tịch Robert và chánh phủ Cách Mạng.
Y thường có những cuộc hội họp kín với Đê Boa, người này cũng chia sẻ quan niệm với y, y đă viết hịch và truyền đơn đem phân phát các nơi, và đi tuyên truyền trong dân chúng để chuẩn bị cuộc nổi dậy chống nhà độc tài khát máu. Tuy nhiên, thế lực của Chủ Tịch Robert vẫn c̣n khá mạnh và vững chắc, và cuộc âm mưu chống đối vẫn c̣n e dè, do dự, đến nỗi My Cốt cũng như nhiều người khác, đă hy vọng nơi mũi dao găm của kẻ ám sát hơn là sự nổi dậy của quần chúng. Nhưng My Cốt, tuy không hẳn là một kẻ hèn nhát, lại không thích cái viễn ảnh của một sự hy sinh. Y cũng có đủ lư trí sáng suốt để hiểu rằng nếu tất cả các đảng phái đều sẵn sàng hoan hô vụ ám sát, th́ chắc họ cũng sẵn sàng đồng ư chặt đầu tên thích khách! Y không có đức hy sinh và can đảm cần thiết để trở nên một Brutus. Mục đích của y là gây nguồn cảm hứng cho một Brutus để làm công việc đó thế cho y, và giữa một quần chúng đang sôi sục nẩy lửa như dân Ba Lê thời ấy, th́ cái hy vọng đó không phải là không có căn cứ.
Trong số những người tỏ ra thù nghịch một cách công khai nhất và cương quyết nhất đối với chế độ sắt máu này, trong số những người tỏ ra thất vọng nhất, kinh ngạc nhất về những hành động tàn ác quá trớn của Cách Mạng Pháp, có một người Ăng Lê tên Linh Đông. Trước đó, Linh Đông đă có ủng hộ lập trường ôn ḥa và khoan dung của Mậu Linh, và sau khi nhà lănh tụ cách mạng này bị Robert đưa lên máy chém th́ Linh Đông sợ bị liên lụy đến ḿnh, bèn t́m cơ hội thoát thân. Nhưng ngoài ra bản thân y, Linh Đông c̣n phải lo cho hai mạng sống khác nữa, và chính v́ lo sợ cho hai người này mà y phải đặt kế hoạch đào tẩu ra khỏi xứ Pháp một cách an toàn. Tuy y không ưa những lập trường, chánh kiến và thói xấu của My Cốt, y vẫn giúp đỡ người họa sĩ này những phương tiện sinh sống trong cơn túng ngặt, và để đáp lại tấm thịnh t́nh đó, My Cốt bèn phác họa trong trí cái kế hoạch đưa Linh Đông lên cái vai tṛ thiêng liêng bất tử của một Brutus, vai tṛ mà y đă từ chối một cách khiêm tốn cho riêng ḿnh.
Đúng vào ngày giờ mà Chủ Tịch Robert thảo luận với các cố vấn của y như chúng ta đă thấy trước đây, th́ trong một gian pḥng nhỏ cạnh bên đường Thánh Honoré, có hai người đang nói chuyện với nhau: một người đàn ông đang ngồi nghe một cách nhẫn nại và an phận, với một người đàn bà trẻ đẹp một cách khác thường, nhưng gương mặt biểu lộ những nét mạnh bạo, cương quyết. Trong khi nàng nói chuyện th́ những nét mặt vô cùng linh động biểu lộ một tánh chất man dại hung hăng như sát khí của rừng thiêng. Nàng nói:
- Anh hăy coi chừng! Anh biết rằng trong cuộc trốn chạy hay trong cơn nguy hiểm, em sẽ đường đầu với tất cả mọi sự để có mặt ở một bên anh. Anh biết rơ chứ, vậy anh hăy nói đi!
- Hỡi Phi Lịch, anh có bao giờ nghi ngờ ḷng chung thủy của em đâu?
- Ḷng chung thủy của em, anh không thể nghi ngờ, nhưng anh có thể phản bội! Anh nói rằng trong khi chạy trốn, anh phải đem theo một người nữa ngoài ra em, và người đó là một người đàn bà. Cái đó không được đâu.
- Không được à?
- Không được!
Phi Lịch vừa lập lại câu đó một cách quyết liệt vừa khoanh hai tay trước ngực. Nhưng Linh Đông chưa kịp đáp, th́ có tiếng gơ cửa, và My Cốt tḥ tay rút then cửa rồi bước vào. Phi Lịch để rơi ḿnh ngồi phịch xuống ghế bành và hai tay ôm lấy đầu, nàng có vẻ thản nhiên với người mới đến và không chú ư ǵ đến câu chuyện giữa hai người.
My Cốt bước vào trong bộ y phục của người b́nh dân, một cái nón rách đội trên đầu, hai tay thọc vào túi và một bộ râu dê mọc đă tám ngày ở dước cằm:
- Tôi không thể chúc anh một ngày tốt, v́ ngày nào mà tên bạo chúa c̣n sống, th́ ngày đó chưa có thể tốt được!- Đúng, và sao nữa? Chúng ta đă gieo gió, bây giờ chúng ta phải gặt băo.
My Cốt nói với giọng độc thoại dường như y không nghe câu trả lời:
- Tuy vậy, thật là một điều lạ lùng mà nghĩ rằng tên đao phủ cũng có thể chết như những nạn nhân của y, rằng cuộc đời y chỉ như chỉ mành treo chuông, và giữa làn da mỏng với quả tim trong lồng ngực y, quăng cách không xa bao nhiêu. Nói tóm lại, chỉ cần một bàn tay quyết liệt với một mũi dao nhọn là có thể cứu nạn cho nước Pháp và toàn thể nhân loại.
Linh Đông nh́n y một cách ngạo nghễ và thản nhiên, không đáp. My Cốt nói tiếp:
- Đôi khi tôi cũng để ư t́m kiếm chung quanh tôi một người do Trời sinh ra để làm cái sứ mạng đó, và mỗi lần như vậy, những bước chân của tôi lại đưa tôi đến đây.
Linh Đông nói một cách mỉa mai:
- Những bước chân của anh sao không đưa anh đến ngay nhà của Chủ Tịch Robert, có phải là tiện hơn chăng?
My Cốt đáp một cách lạnh lùng:
- Không, bởi v́ tôi là một kẻ bị t́nh nghi. Tôi không thể trà trộn vào đám tùy viên, cận vệ của y được, tôi không thể nào đến gần y dưới một trăm bước mà không bị bắt giữ. C̣n anh, anh có một hồ sơ trong trắng, và anh không có ǵ phải sợ. Anh hăy nghe tôi nói: việc này bề ngoài xem dường như nguy hiểm, nhưng thật ra không có ǵ hết! Tôi vừa hội ư với Đê Boa và Va Ren, họ sẽ tuyên bố trắng án cho người nào dám ra tay hành động. Dân chúng sẽ ủng hộ anh, Quốc Hội sẽ hoan hô anh như một anh hùng giải phóng.
- Sao anh có thể nghĩ rằng tôi là một kẻ ám sát? Nếu phải nổi dậy và công khai tuyến chiến với tên bạo chúa, th́ tôi sẽ không phải là kẻ đi sau chót ra băi chiến trường. Những người theo lư tưởng tự do có bao giờ thừa nhận một kẻ phản bội là ân nhân của họ đâu!
Giọng nói và cử chỉ của Linh Đông làm cho My Cốt thất vọng. Y hiểu rằng y đă xét lầm con người này. Lúc ấy Phi Lịch ngẩng đầu lên và nói với My Cốt:
- Không! Bạn anh có một kế hoạch khôn ngoan hơn: y muốn rằng cứ để yên cho bọn hùm beo cấu xé lẫn nhau, y có lư, nhưng...
My Cốt kêu lên trong sự ngạc nhiên:
- Thế nghĩa là chạy...? Có thể được sao? Làm sao chạy? Chừng nào? Chạy bằng phương tiện ǵ mới được? Khắp cả nước Pháp đều có quân lính và mật vụ bao vây chặt chẽ, một con chuột cũng không qua lọt! Chạy sao cho thoát bây giờ?
- Nếu vậy anh cũng muốn chạy trốn cuộc Cách Mạng thần thánh của anh hay sao?
My Cốt vừa quỳ xuống đất và hai tay ôm lấy đầu gối Linh Đông vừa kêu lên: - Sao không muốn? Ôi! Anh hăy cho tôi đi với! Cuộc đời tôi là một cái cực h́nh, cái máy chém lúc nào cũng lởn vởn trước mắt tôi. Tôi biết rằng ngày giờ chết của tôi đă điểm, tên tôi sẽ có trong bản án tử h́nh. Tôi biết rằng Chánh Án Duy Mật, vị thẩm án không bao giờ tha tội cho ai, đă lên án tử h́nh tôi từ lâu. Ôi! Linh Đông, nhân danh t́nh bạn cố cựu giữa chúng ta, anh hăy cho tôi tháp tùng theo anh với nhé!
- Được rồi, nếu anh muốn.- Cám ơn anh. Suốt đời tôi sẽ nhớ ơn anh. Nhưng anh đă chuẩn bị đi bằng cách nào? Phương tiện di chuyển? Giấy thông hành? Và cách hóa trang, làm sao...?
- Tôi sẽ nói cho anh biết. Anh biết lăo Cai Da trong Quốc Hội chứ? Y rất có thế lực và y lại tham nhũng. Nếu người ta phiền trách y về cái tật tham nhũng này, th́ y nói rằng: "Ai có khinh tôi cũng không sao, miễn là tôi có ăn no bụng!"
- Thế rồi sao nữa?
- Với sự giúp đỡ của lăo trong đảng Cộng Ḥa, và cũng không thiếu ǵ bạn bè vây cánh trong Ủy Ban Cách Mạng, tôi đă có những phương tiện cần thiết để lên đường, lẽ tất nhiên là phải có đút lót cho lăo ít nhiều. Với một ít tiền, tôi cũng sẽ lo được một giấy thông hành cho anh.
- Anh định đem cả giấy bạc theo chăng?
- Không, tôi có đủ số vàng cần thiết cho cả bọn chúng ta.
Đến đây, Linh Đông bèn kéo My Cốt qua pḥng bên cạnh, nói vắn tắt cho y nghe kế hoạch đào tẩu và y phục hóa trang cần có, theo như đă ghi trong giấy thông hành rồi nói thêm:
- Để đáp lại ḷng tốt của tôi, anh hăy làm giúp tôi một việc mà tôi nghĩ rằng anh có thể làm được. Anh c̣n nhớ Kiều Dung chứ?
- Tôi c̣n nhớ rơ cô ta, luôn cả người t́nh đă đem cô ta đi mất.
- Người t́nh ấy cô ta cũng vừa mới từ bỏ để ra đi.
- Thật vậy sao?... Có chuyện ǵ? À! Tôi hiểu rồi, mẹ kiếp! Anh thật có số đào hoa kinh khủng, hỡi đồng nghiệp!
- Hăy im đi! Anh lúc nào cũng đề cao đức hạnh và t́nh huynh đệ, nhưng dường như không bao giờ tin một hành động vô kỷ, hay một tư tưởng vị tha.
My Cốt đáp:
- Việc đời thường hay đem đến cho ta nhiều kinh nghiệm rất phũ phàng! Nhưng thôi! Anh muốn nhờ tôi việc ǵ đó?
- Tôi chịu trách nhiệm đă đưa Kiều Dung đến đây là một thành phố đầy rẫy những cạm bẫy và vực thẳm. Tôi không thể bỏ nàng ở lại một ḿnh giữa nhiều sự hiểm nguy, bất trắc trong cơn dầu sôi lửa bỏng này. Nói tóm lại, Kiều Dung phải đi cùng với chúng ta ra nước ngoài.
- Có ǵ khó? Chắc anh đă lo giấy thông hành cho cô ta rồi?
- Rất khó, v́ có Phi Lịch! Tôi rất hối hận đă dính líu với nàng. Liên hệ t́nh cảm với một người con gái thô bạo, thất học, thiếu lễ nghi quy tắc, bắt đầu từ cơi thiên đàng để rồi kết thúc nơi chốn địa ngục! Nàng có máu ghen kinh khủng, và không muốn nghe nói đến chuyện có một người đàn bà cùng đi với chúng ta. Đó là nàng chưa nh́n thấy sắc đẹp của Kiều Dung, tôi chỉ nghĩ đến khi đó mà rùng ḿnh. Trong cơn ghen tức, nàng có thể làm bất cứ điều ǵ! Theo ư anh, ở địa vị tôi, anh sẽ làm sao?
- Hăy bỏ Phi Lịch ở lại.- Không được. Ai nỡ ḷng nào bỏ nàng lại trong chỗ hỗn loạn đầy sát khí, máu chảy đầu rơi như ở đây! Không. Tuy tôi từng có những lầm lỗi đối với nàng, nhưng dầu việc ǵ xảy ra, tôi cũng sẽ không bỏ rơi một cách hèn nhát một người con gái đă phó thác vận mệnh của nàng trong tay tôi.
- Anh đă bỏ nàng ở Mạc Xây một lần rồi.
- Phải, nhưng tôi để nàng trong hoàn cảnh tuyệt đối an toàn, và hồi đó tôi không nghĩ rằng t́nh yêu của nàng lại sâu đậm và trung kiên như vậy. Tôi đă để lại cho nàng một số vàng, và nghĩa rằng nàng sẽ t́m cách xoay sở và tự an ủi một cách dễ dàng. Nhưng kể từ khi đó, chúng tôi đă cùng nhau chia sẻ những cơn hoạn nạn. Và bây giờ, tôi lại bỏ nàng một ḿnh giữa cơn nguy hiểm mà nếu không v́ t́nh yêu chung thủy với tôi, nàng đă không bao giờ mạo hiểm đến đây. Không! Tôi không thể làm như vậy được! À! Tôi có một ư kiến. Anh có thể nào nói rằng anh có một người em gái, một người bà con, một nữ ân nhân hay một bạn gái mà anh muốn cứu giúp chăng? Có thể nào trong cuộc hành tŕnh cho đến khi rời khỏi nước Pháp, chúng ta làm cho Phi Lịch tưởng rằng Kiều Dung là người của anh, mà v́ t́nh bạn đối với anh, nên tôi bằng ḷng cho anh đem đi lánh nạn cùng với chúng ta?
- À! Anh có óc tưởng tượng khá lắm đấy.
- Tôi có thể giả vờ từ bỏ ư định riêng của tôi để làm vừa ḷng Phi Lịch. Trong khi đó, anh sẽ cầu khẩn Phi Lịch hăy nói giúp anh một lời, để cho tôi lo giấy tờ và phương tiện di chuyển cho...
- Một nữ ân nhân của tôi, đă từng cứu giúp tôi trong cơn quẫn bách (v́ nàng biết rằng tôi không có em gái). Phải đó, tôi sẽ sắp đặt việc ấy, anh đừng lo ǵ cả. À! C̣n Zanoni bây giờ ra sao?
- Anh đừng hỏi tôi việc ấy, tôi không biết.
- Y c̣n yêu Kiều Dung nữa không?
- Dường như c̣n, nàng đă là vợ y, và đă có một đứa con. Đứa con hiện đang ở cùng với nàng.
- A! Làm vợ! Làm mẹ! A! A! Tại sao?
- Anh đừng hỏi ǵ ngay bây giờ. Tôi sẽ báo tin cho Kiều Dung để sửa soạn lên đường. Trong khi chờ đợi, anh hăy qua nói chuyện với Phi Lịch.
- Nhưng c̣n địa chỉ của Kiều Dung? Tôi cần biết địa chỉ ấy pḥng khi Phi Lịch hỏi đến...
- Đường M.T... số nhà 27. Thôi, tôi đi!
Linh Đông bèn hối hả bước ra khỏi nhà. My Cốt c̣n ngồi lại một ḿnh và đắm ch́m một lúc trong cơn suy gẫm. Y nghĩ thầm:
- À! À! Ta có thể xoay trở câu chuyện này vào một tư thế có lợi cho ta chăng? Ta có thể nào, như ta đă nhiều lần thề nguyền, trả thù Zanoni bằng cách ám hại vợ con y chăng? Ta có thể tước đoạt của Linh Đông số vàng, những giấy thông hành và Phi Lịch chăng? Ta yêu Phi Lịch, nhưng số vàng của nó, ta yêu nhiều hơn!
Thế rồi, y bước qua pḥng bên cạnh. Phi Lịch vẫn c̣n ngồi đó, nét mặt sa sầm v́ những ư nghĩ đen tối ám ảnh, và đôi mắt nhung đen của nàng đẫm ướt long lanh. Khi cửa vừa mở, nàng ngẩng đầu lên một cách đột ngột, nhưng vừa nh́n thấy bộ mặt xấu xí của My Cốt, nàng quay mặt đi chỗ khác một cách thất vọng và sốt ruột. Chàng họa sĩ vừa kéo ghế xích lại gần bên Phi Lịch vừa nói:
- Hỡi người đẹp, Linh Đông có dặn tôi hăy qua nói chuyện với cô cho có bạn. Y không ghen với gă My Cốt xí trai đó chứ? Ha ha! Xưa kia My Cốt vẫn yêu cô, khi mà thời vận của y khả quan hơn bây giờ... Nhưng thôi, không nhắc làm ǵ những chuyện đă qua!
- Bạn anh đă đi vắng nhà rồi chứ? Anh ấy đi đâu vậy? À! Anh nh́n qua chỗ khác, anh do dự, lúng túng, anh không dám nh́n thẳng vào mắt tôi? Anh hăy nói đi, tôi yêu cầu anh hăy nói thật. Anh nói đi!
- Cô sợ ǵ vậy?
- Sợ à? Phải, tôi sợ, hỡi ôi!
Phi Lịch đáp và để rơi ḿnh xuống chiếc ghế bành. Sau một phút im lặng, th́nh ĺnh nàng ngồi nhổm dậy, lấy tay vén lại mái tóc rơi xỏa xuống trán che lấp đôi mắt nhung, rồi đứng dậy đi bách bộ qua lại trong gian pḥng. Sau cùng, nàng dừng chân trước mặt My Cốt, đặt một bàn tay trên vai y và kéo y lại gần một tủ đứng. Nàng vặn ch́a khóa xoay một ṿng, mở nắp một cái hộp gỗ, chỉ cho y thấy số vàng ṛng đựng trong đó và nói:
- Anh nghèo, chắc anh thích có tiền. Vàng đây anh muốn lấy bao nhiêu tùy ư, nhưng anh phải nói thật, không được dấu tôi! Người đàn bà mà bạn anh vừa đi thăm đó là ai vậy?
Nh́n thấy vàng, đôi mắt My Cốt sáng rực lên. Nhưng y gắng gượng chống lại sự cám dỗ và nói bằng một giọng thành thật giả tạo:
- Cô muốn lung lạc tôi sao? Nếu cô có thể lung lạc được tôi th́ không phải là bằng tiền của bạc vàng. Nhưng nếu Linh Đông yêu một người đàn bà khác? Nếu nó phản bội cô? Nếu v́ chán ngán sự ghen tuông của cô, nó âm mưu chạy trốn và bỏ cô ở lại? Cô có thật sung sướng hơn chăng mà muốn biết tất cả những điều đó?
Phi Lịch đáp:
- Có chứ! Có chứ! Thật là một điều sung sướng mà được thù ghét và có hành động trả thù. Ôi! Anh không biết rằng sự thù ghét thật là êm ái dịu dàng xiết bao đối với người đă từng yêu thật t́nh!
- Nếu tôi nói cho cô nghe những ǵ tôi biết, cô có thề rằng cô sẽ không phản bội tôi không? Cô có dám hứa chắc rằng cô sẽ không khóc than, kể lể, trách móc người đă phụ t́nh cô chăng, cũng như mọi người đàn bà khác?
- Khóc than hử? Trách móc hử? Sự trả thù phải được ẩn dấu kín nhẹm dưới một nụ cười!
My Cốt nói mà trong ḷng khen thầm:
- Cô thật là một người can đảm. Nhưng c̣n một điều kiện này nữa. Người t́nh của cô định trốn đi với một người yêu mới, và bỏ cô ở lại. Nếu tôi giúp cho cô phương tiện để trả thù kẻ t́nh địch, cô có chịu bằng ḷng ra đi với tôi không? Tôi yêu cô, và muốn cưới cô làm vợ.
Đôi mắt Phi Lịch phóng những tia lửa... bực tức! Nàng nh́n My Cốt với một vẻ khinh ngạo khôn tả và giữ im lặng không nói ǵ.
My Cốt hiểu rằng y đă đi quá trớn, bèn nói vớt vát:
- Xin lỗi cô, t́nh yêuđă làm cho tôi trở nên... tự phụ. Tuy nhiên, chính v́ t́nh yêu của tôi đối với cô là một người đẹp như thế mà bị phụ bạc, nên tôi phải nói cho biết hết sự thật, mặc dầu nói thế là bất lợi cho bạn tôi. Cô hăy thề nguyền với tôi là cô sẽ dấu diếm việc này không cho Linh Đông biết ǵ cả.
- Tôi xin thề bằng danh dự, bằng máu của tôi.
- Được lắm. Bây giờ cô hăy sửa soạn rồi đi theo tôi.
Trong khi Phi Lịch bước qua pḥng bên thay áo, My Cốt lại liếc nh́n số vàng, vàng nhiều lắm, nhiều hơn sự dự đoán của y. Khi y c̣n đang ước lượng tổng số vàng ṛng đựng trong cái hộp gỗ, và thuận tay mở luôn các hộc tủ khác, y nh́n thấy một bó văn thư với tuồng chữ quen thuộc của nhà Cách Mạng Mậu Linh. Y chụp lấy gói thơ mở ra xem, vừa đọc qua mấy gịng chữ đầu tiên đôi mắt y đă vụt sáng lên! Y nói thầm một ḿnh: "Với những tang chứng này, th́ năm chục cái đầu như Linh Đông cũng phải rụng!" Rồi y lén dấu trọn gói thơ ấy vào trong túi áo.
Thư Của Zanoni Gửi Kiều Mâu
"Hỡi đạo huynh, quyền năng của tôi đă mất gần hết. Để t́m tung tích Kiều Dung, tôi chỉ c̣n sử dụng được có những bản năng tầm thường của một kẻ thế nhân phàm tục. Tôi vẫn không hề thất vọng, và trong sự ḍ dẫm khó khăn, tôi có cái linh cảm rằng có ngày chúng tôi sẽ gặp lại nhau. Tất cả những bí thuật linh ứng nhất của khoa Huyền Môn mà tôi đă dùng đều tỏ ra vô hiệu và không làm sao giúp tôi t́m thấy được linh hồn nàng.
Tuy vậy, hai buổi sớm mai và chiều, hỡi người hiền giả cô đơn, bằng cách xuất thần, tôi có thể giao cảm tâm linh với đứa con tôi. Tôi không biết ǵ về nơi ăn chốn ở của nó, những linh ảnh của tôi không cho tôi thấy rơ nó đang ở tại xứ nào mà chỉ thấy có linh hồn c̣n non dại của nó trong không gian. V́ linh hồn trẻ con c̣n trong trắng hồn nhiên, vốn không có sự cách biệt ranh giới quốc gia hay ngôn ngữ, nên nó vẫn là công dân của tất cả mọi người và của tất cả mọi bầu thế giới. Trong không gian, linh hồn nó giao cảm được với linh hồn tôi, đứa con đă thông công được với cha nó!
Bằng cách nào tôi đă theo dơi mẹ con nó đến tại thành phố Ánh Sáng? Tôi được nghe tin người đệ tử của đạo huynh đă đến Venise. Tôi đă lạc hướng không nhận ra được người đệ tử sơ cơ son trẻ của đạo huynh, khi tôi nghe người ta diễn tả h́nh dáng của một nhân vật có cái vẻ mặt hốc hác bơ phờ đến t́m Kiều Dung trước khi nàng bỏ nhà ra đi. Nhưng khi tôi thử kêu gọi linh hồn y đến với tôi trong cơn xuất thần, th́ nó từ chối không chịu nghe lời tôi. Khi đó tôi mới kết luận rằng định mệnh của nó đă kết liên chặt chẽ với định mệnh của Kiều Dung. Bởi đó, tôi mới theo dơi nó đến tận chốn hiểm nguy đầy sắt máu này? Tôi vừa đến đây ngày hôm qua, nhưng chưa t́m thấy nó ở đâu.
Hởi Kiềm Mâu! Những sự t́m kiếm của tôi vẫn không có kết quả. Tôi đă đi lục lạo trong những phiên xử ở các Ṭa Án, tôi đă len lơi trong giới thẩm phán, quan ṭa, và những giới công an, mật vụ, nhưng vẫn không t́m thấy một chi tiết nào có thể giúp tôi theo dơi dấu vết của họ. Tôi biết rằng nàng đang ở đây, bản năng của tôi xác nhận như vậy: tôi cảm thấy hơi thở của con tôi dường như đă trở nên nồng ấm hơn và quen thuộc hơn..."
Kiều Dung Trong Cơn Hoạn Nạn
Những câu lạc bộ dân chúng trong thành phố vang rền những tiếng hoan hô nồng nhiệt. Tướng Hăng Ri chạy tới lui lăng xăng khắp nơi và th́ thầm với các binh sĩ trong các quân trại: "Chủ Tịch Robert, thần tượng của các anh em, đang lâm nguy!" Robert cố gắng che dấu sự lo ngại của y trong những điệu bộ b́nh tĩnh. Bản danh sách những nạn nhân của y mỗi lúc càng dài thêm. Tạ Liên, địch thủ đáng ngại của y, hô hào những đảng viên đối lập hăy can đảm và giữ vững tinh thần. Trên các đường phố, những chiếc tù xa đưa tội nhân ra pháp trường vẫn lăn bánh chạy một cách nặng nề chậm chạp. Những cửa tiệm đều đóng chặt, dân chúng đă chán ngấy mùi máu tanh đến lợm giọng.
Trong một gian pḥng ở trung tâm thành phố, Kiều Dung đang ngồi chơi với con. Đứa bé nằm dưới chân nàng, đang đưa tay định bắt lấy một tia nắng xuyên qua cửa sổ. Ánh nắng ấy làm cho nàng lại càng buồn thấm thía, nàng bèn day mặt qua một bên và thở dài năo nuột.
Kiều Dung đă thay đổi nhiều. Nàng có vẻ xanh xao héo hắt! Nàng ngồi đó nhưng trí óc nàng vơ vẩn đâu đâu, nàng để hai tay buông thơng, nụ cười tươi tắn thường xuất hiện trên môi trước kia, nay đă biến mất. Một sự chán nản tối tăm nặng nề dường như đè nặng lên tuổi trẻ hồn nhiên và làm cho ánh nắng vui tươi của tuổi ban mai cũng trở nên khó chịu đối với nàng. Cuộc đời đối với nàng dường như đă mất cả sinh khí. Nàng không cảm giác, hay nghe, thấy ǵ cả về cơn giông tố đang gầm thét bên ngoài. Chỉ khi nào nh́n thấy Linh Đông đến với nàng mỗi ngày, mặt mày tái nhợt, mệt mỏi và âm thầm lặng lẽ như một cái bóng ma, mà nàng mới hiểu rằng cái bầu tử khí bao bọc chung quanh nàng lúc ấy thật là nặng nề u ám đến mức độ nào. Đắm ch́m trong một tâm trạng vô ư thức, giữa một cuộc sống máy móc khô khan, nàng vẫn thản nhiên không hề biết sợ sệt, tuy rằng lúc ấy nàng ví như người đang ngồi trên bờ vực thẳm, với bao nhiêu những độc xà ác thú ŕnh rập trong bóng tối ở chung quanh. Cánh cửa đột nhiên mở, và Linh Đông bước vào với một vẻ băn khoăn lo nghĩ hơn ngày thường. Kiều Dung nói với một giọng dịu dàng, vô tư:
- Ủa! Anh đó sao? Anh đến trước giờ mà tôi định gặp anh.
Linh Đông nói với một nụ cười rùng rợn:
- Ai mà có thể tính toán giờ giấc được ở Ba Lê? Sự có mặt của tôi há chẳng phải là đủ lắm sao? Sự điềm nhiên vô tư của cô làm tôi phát sợ. Cô thản nhiên khi tôi đến cũng như khi tôi đi, cơ hồ như mỗi góc đường không có che dấu một tên gián điệp, hay mỗi ngày không có xảy ra một vụ ám sát!
- Xin lỗi anh, nhưng thế giới của tôi là ở đây, ở giữa bốn bức tường này. Tôi không tài nào chứng minh được ǵ cho những điều mà anh vừa kể. Ở đây, trừ ra con tôi, th́ tất cả đều như là cơi chết không có ǵ là sống động đến nỗi không ai màng để ư đến những việc ǵ xảy ra ở bên ngoài.
Linh Đông im lặng trong một lúc, y nh́n vào gương mặt và thân h́nh người đàn bà hăy c̣n tươi trẻ như thế mà đă trở thành một con người chán đời, với một quả tim cảm thấy sắp già.
Sau cùng, y nói với một giọng xúc động:
- Hỡi Kiều Dung, chỉ có ở đây, giữa những cơn bạo động, dầu sôi lửa bỏng này, mà Tà Ma mới không theo dơi tôi. Thậm chí tôi cũng quên cả sự chết, nó vẫn lén lút theo sát cạnh tôi và ám ảnh tôi như một cái bóng. Nhưng có lẽ chúng ta sẽ c̣n có những ngày tốt đẹp hơn. Hỡi Kiều Dung, tôi bắt đầu nhận thấy một cách mơ hồ bằng cách nào tôi có thể thắng đoạt con Ma nó ám ảnh cuộc đời tôi: đó là thách thức nó, và đương đầu với nó. Tôi có nói với cô rằng trong những khi tôi sống cuộc đời cẩu thả, trác táng, th́ nó không theo đuổi tôi. Nhưng bây giờ tôi đă hiểu lời cảnh cáo rùng rợn của Kiềm Mâu, rằng [con Ma chỉa đáng sợ nhất khi nào ta không nh́n thấy nó]. Trong những lúc tâm hồn b́nh tĩnh, hướng thượng, th́ nó xuất hiện. À! Tôi đă thấy nó rồi kia ḱa, với đôi mắt nhợt nhạt lạnh lùng của nó. (Trán y toát mồ hôi lạnh). Nhưng tôi không sờn ḷng mà vẫn giữ đúng quyết định của tôi: tôi nh́n thẳng vào mặt... và tôi thấy rằng nó đă từ từ rút lui vào bóng tối...
Y ngừng lại, đôi mắt y nh́n vào khoảng không gian chói rạng ánh sáng mặt trời, rồi với một tiếng thở dài nặng nề năo nuột, y nói thêm:
- Hỡi Kiều Dung, tôi đă có cách trốn đi. Chúng ta sẽ rời khỏi Ba Lê, chúng ta sẽ sống với nhau, nâng đỡ an ủi nhau ở nước ngoài và sẽ quên dĩ văng.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 283 of 1146: Đă gửi: 19 June 2010 lúc 11:04pm | Đă lưu IP
|
|
|
TÂY PHƯƠNG HUYỀN BÍ
Kiều Dung nói một cách b́nh thản:
- Không, tôi không c̣n đi đâu nữa cho đến khi người ta đem tôi đi đến chốn an nghỉ cuối cùng. Hỡi Linh Đông, đêm vừa qua tôi đă nằm mộng thấy chàng. Đây là lần đầu tiên mà tôi nằm mơ thấy chàng từ ngày cách biệt nhaụ Anh đừng nhạo báng tôi nhé, dường như chàng tha lỗi cho tôi và gọi tôi bằng: Hiền thê ơi! Giấc mộng đó đă thánh hóa gian pḥng này: có lẽ chàng sẽ c̣n đến thăm tôi trước khi tôi chết.
- Cô muốn ở lại hử? Tại saỏ Để bỏ mất bổn phận làm mẹ ư? Nếu cô gặp tai nạn ở đây, con cô sẽ ra saỏ Nó sẽ trở nên mồ côi, thật tội nghiệp. Cô có muốn chăng cho nó trở thành đứa con mồ côi ở một xứ đă báng bổ tôn giáo cô, ở một xứ mà ḷng từ ái của con người sẽ không c̣n nữả Phải! Cô hăy khóc đi và ôm nó vào ḷng! Nhưng nước mắt sẽ không đủ bảo vệ, che chở hay cứu mạng cho nó được đâu!
- Tôi xin nghe lời anh, tôi sẽ cùng anh lên đường!
- Cô hăy sẵn sàng vào lúc chiều maị Tôi sẽ đem đến cho cô những đồ y phục hóa trang cần thiết.
Kế đó, Linh Đông bèn kể sơ qua trong vài nét đại cương, sự sắp đặt cuộc hành tŕnh sắp tới, lộ tŕnh sẽ đi qua và những ǵ phải làm ở dọc đường. Kiều Dung nghe câu được câu chăng, như người tâm hồn bất định. Y nói xong, bèn siết lấy hai bàn tay nàng trong ḷng bàn tay ḿnh, rồi kiếu từ bước rạ
Sự Trả Thù Của Phi Lịch
Khi Linh Đông vội vă đi ra khỏi nhà, y không nh́n thấy có hai cái bóng đen ẩn núp ở một nơi góc tường ràọ Y nh́n thấy một cái bóng lướt nhẹ một bên y, nhưng y lại không nh́n thấy những cặp mắt ganh tị, nham hiểm và ghen tương đang ŕnh rập y lúc y bước ra cửạ My Cốt tiến đến gần nhà, Phi Lịch lặng lẽ bước theo saụ Người họa sĩ, vốn là một kẻ cùng đinh vô sản thâm niên, biết cách mở lời nói chuyện với người gác cổng. Y đưa tay ra hiệu cho người này đang ngồi trong cḥi canh:
- Thế này nghĩa là ǵ, hỡi công dân? Anh che giấu một kẻ t́nh nghi saỏ
- Hỡi công dân, anh làm tôi sợ hăi! Nếu quả thật như vậy, anh hăy nói tên y nghe coi!
- Đây không phải là một người đàn ông, mà là một người nữ di trú, một người đàn bà Ư ở tại đâỵ- Đúng, gian pḥng thứ ba trên lầu, cửa bên tráị Nhưng cô ấy có ǵ là t́nh nghỉ Nàng không thể là một người nguy hiểm, con bé thật hiền quá!
- Hăy coi chừng đó, hỡi công dân! Anh có dám đảm bảo cho cô ta không?
- Không, không! Tự nhiên là không, nhưng mà...
- Có ai đến viếng cô tả
- Không ai cả, trừ một người Anh.
- Phải rồi! Một người Anh, một người gián điệp của William Pitt và Cobourg!
- Lạy trời! Có thể như vậy được saỏ- Ủa! Này công dân! Anh dám nói lạy Trời ư? Vậy chắc anh phải là một người trong ḍng quư tộc?
- Không phải! Đó là một thói quen cố hữu, tôi chỉ thốt ra một cách vô tâm vậy thôi!
- Người Ăng Lê đó có thường đến không?
- Y đến đây hằng ngàỵ
Phi Lịch không đè nén nổi một tiếng kêu ngạc nhiên. Người gác cổng nói tiếp:
- Cô ấy không đi ra ngoài bao giờ. Cô ta chỉ lo bận rộn công việc và săn sóc đứa con mà thôị
- Đứa con!
Phi Lịch bất giác thốt lên và xông vào cư xá. My Cốt cố gắng giữ nàng lại nhưng vô hiệu, nàng bước lên lầu do cánh cửa hé mở mà người gác cổng đă chỉ lúc năỵ Phi Lịch bước tới gian pḥng thứ ba và dừng chân trước ngưỡng cửa khi nàng nh́n thấy gương mặt vẫn c̣n đẹp sắc sảo mặn mà của Kiều Dung. Cảnh tượng ấy làm nàng mất đi một tia hy vọng cuối cùng. Nàng không thốt lên được một tiếng kêu, cơn ghen tức đă nổi lên và gậm nhấm quả tim nàng. Lúc ấy Kiều Dung quay đầu nh́n ra cửa th́ thấy Phi Lịch. Sự xuất hiện đột ngột của người sơn nữ với vẻ mặt đầy sát khí, hằm hằm một khác vọng trả thù, một niềm thù hận không đội trời chung, làm cho Kiều Dung bất giác thốt lên một tiếng kêu và ôm chặt đứa con vào ḷng. Người sơn nữ phát lên một tiếng cười rùng rợn, chậm răi quay lưng đi ra, bước xuống thang lầu, trở lại cḥi canh của người gác cổng, và kéo tay My Cốt đi ra ngoàị Ra tới đường lộ, nàng ngừng lại đột ngột và nói:
- Anh hăy trả thù cho tôi, và cho tôi biết tôi phải đền đáp anh bằng cái giá nàỏ
- Bằng cái giá nào, hử cô bạn gái rừng xanh? Cái giá đó là... cô cho tôi được phép yêu cô! Cô sẽ cùng đi trốn với tôi vào lúc chiều maị Cô hăy giữ các giấy thông hành, và những bản lộ tŕnh.
- C̣n họ?
- Họ sẽ vào nghỉ mát trongkhám lớn trước giờ chúng ta khởi hành. Cái máy chém sẽ trả thù giúp cho cô.
Phi Lịch nói với một giọng quyết liệt:
- Anh cứ làm đị Được vậy tôi mới yên ḷng.
Hai người không nói với nhau một lời nào nữa cho đến khi họ về tới nhà. Nhưng Phi Lịch ngước mắt lên nh́n ngôi nhà, nàng nh́n thấy những khung cửa sổ gian pḥng ngủ ấm cúng mà sự tin tưởng vào t́nh yêu của Linh Đông trước kia đă làm cho nó trở thành một vườn địa đàng mến yêu với bao nhiêu kỷ niệm êm đềm, khi đó sư tử cái Hà Đông bỗng cảm thấy mềm ḷng, ḷng trắc ẩn của nữ giới làm cho nàng dịu dàng trở lại, và quên mất cái bản tính man dại cố hữu của ḿnh. Nàng bèn kéo tay My Cốt lại và nói:
- Không, không phải hắn! Anh chỉ tố giác con mụ kia thôi, nó phải chết, con mụ đó! C̣n hắn, th́ thôi, hăy tha cho!
My Cốt vừa phát lên một tiếng cười quỷ quái, vừa nói:
- Cô muốn sao cũng được, nhưng nó phải bị bắt giam tạm trong ít lâụ Nó sẽ được b́nh yên, v́ sẽ không có ai đứng ra tố giác. Nhưng c̣n con mụ kia, cô không tội nghiệp cho con mụ ấy saỏPhi Lịch quay lại nh́n thẳng vào mặt y: cái nh́n u ám rùng rợn ấy cũng đủ nói lên cái quyết định cứng rắn của nàng.
Ngoài Hành Lang Phủ Chủ Tịch
Khi Linh Đông về đến nhà, thái độ của Phi Lịch vẫn không có ǵ thay đổị Không một lời nói hay một cái nh́n khác lạ nào tỏ ra cho Linh Đông thấy sự thay đổi nghiêm trọng nó đă làm cho mối t́nh chung thủy của nàng từ nay đă trở thành mối hận thù. Vả lại, Linh Đông c̣n đang mắc lo toan về những kế hoạch sắp tớ và bận rộn với những ư nghĩ về cái định mệnh lạ lùng của chính ḿnh, nên y cũng không để ư đến việc ǵ xảy ra ở chung quanh. Y bèn nói cho Phi Lịch biết về những triển vọng tương lai đang chờ đón họ ở nước ngoài, một khi họ trốn ra khỏi nước Pháp một cách an toàn.
Phi Lịch hỏi:
- C̣n người đẹp mà anh định đem đi cùng với chúng tả My Cốt có nói với em là anh đă bỏ nàng ở lại, để cho một người bạn gái của My Cốt thay vào chỗ đó, có phải vậy không?
Linh Đông nói:
- Y đă nói cho em nghe rồi à? Em có hài ḷng về sự thay đổi đó không?
Phi Lịch nghĩ thầm:
- Đồ phản bội!
Rồi nàng đột nhiên đứng phắt dậy, bước đến sau lưng Linh Đông lấy tay vén lại mái tóc xỏa xuống mắt y, vừa ôm lấy đầu y vừa nói với một nụ cười nhạt:
- Cái đầu đẹp như thế này mà đút vào máy chém th́ cũng hơi uổng!
Nói xong, nàng quay mặt đi và làm ra vẻ sửa soạn đồ hành trang để lên đường.
Qua ngày hôm sau, lúc thức giấc, Linh Đông không thấy Phi Lịch, nàng vẫn c̣n vắng mặt khi y rời khỏi nhà. Y phải đến viếng lăo nghị viên Cai Da một lần cuối cùng trước khi lên đường, để thanh toán số tiền trà nước về việc lo giấy thông hành cho My Cốt, và cũng để thăm ḍ xem có việc ǵ bất trắc xảy ra có thể làm hỏng kế hoạch của y chăng.
Trong khi đó, My Cốt cũng đang quay cuồng trong trí những ước mơ, mộng tưởng về tương lai, và định bụng sẽ sử dụng một cách khôn ngoan số vàng của người bạn mà y sắp phản bội, y bèn đi đến phủ Chủ Tịch của Robert. Y không hề có ư muốn tha mạng sống cho Linh Đông để làm vừa ḷng Phi Lịch. Y cũng nghĩ như Ba Rê rằng chỉ có những người chết mới không c̣n trở lạị Và bây giờ trên đường đi đến phủ Chủ Tịch, y bắt đầu nghiền ngẫm trong trí một sự đảo lộn tất cả mọi kế hoạch mà y đă dự tính từ ngày hôm trước. Không phải là y do dự trong quyết định tố cáo Linh Đông, và do hành động này làm cho Kiều Dung phải bị liên lụy như một người bạn thân và đồng lơạ Về khoản ấy, y đă quyết định rồi, v́ y căm thù luôn cả hai ngườị Kiều Dung đă khinh rẻ y và không thèm chiếu cố đến cái mặt y, c̣n Linh Đông tuy có giúp đỡ y, nhưng y không thể chịu đựng nổi cái ư nghĩ phải chịu ơn, nó gần như là một sự sỉ nhục.
Vậy th́ bây giờ, y có cần ǵ phải rời khỏi nước Pháp? Y có thể chiếm đoạt số vàng của Linh Đông, và ép bức Phi Lịch phải chiều theo ư muốn của ỵ Những thư từ của Mậu Linh gửi cho Linh Đông mà y đă lén lấy trộm, vừa là những tang chứng độc hại để khép Linh Đông vào án tử h́nh, lại vừa là một dịp để cho y lập công lớn với Robert. Nhờ đó, y có thể làm cho Robert tha thứ cho y cái tội kết giao với lănh tụ Hê Be trước kia, và đồng thời thâu dụng y làm vây cánh trong đảng để thực thi chính sách khủng bố hiện tạị Những triển vọng về công danh, giàu sang, danh vọng, lại hé mở trước mắt ỵ Những thơ từ ấy gởi đi ít lâu trước khi Mậu Linh bị hành quyết, được viết ra một cách táo bạo và vô tâm là những đặc tính quen thuộc của nhà cách mạng nói trên, một đệ tử của Danton. Những văn thư ấy công khai nói về những âm mưu chống lại Robert, và nêu đích danh những người chủ mưu và đồng loă, mà nhà độc tài vẫn cho người ŕnh rập thường xuyên, chỉ chờ đợi có một bằng chứng cụ thể trong tay là đập tan cả bọn một cách hợp pháp trước dư luận quần chúng. Y có thể hiến dâng cho nhà độc tài món quà nào quư báo hơn nữả
Với những ư nghĩ đó lởn vởn trong trí óc, y đă bước đến phủ Chủ Tịch. Trước cửa, có một nhóm độ chừng một chục tên quân canh cao lớn lực lưỡng, ngày đêm canh pḥng và giữ ǵn an ninh cho Chủ Tịch Robert. Bên ngoài là một đám đông dân chúng, phần lớn gồm những người có việc cần gặp Chủ Tịch để xin xỏ đặc ân hoặc khiếu nại, kêu oan một việc ǵ đó, cũng có vài kẻ vô tích sự đứng xem để giết thời giờ. Th́nh ĺnh, đám đông rẽ ra hai bên để nhường chổ cho một người mảnh khảnh, với một khuôn mặt có vẻ dịu dàng, một nụ cười khả ái trên môi, ăn mặc giản dị nhưng sạch sẽ và có một cái nh́n khiêm tốn, e dè. Người ấy từ ngoài đi vào với một bước đi âm thầm lặng lẽ như một cái bóng, nhưng dường như có một mănh lực ǵ bí mật làm cho đám quân canh lực lưỡng với những thớt lưng nặng nề như những tấm phản phải hối hả vẹt ra để dọn đường và đè dẫm lên nhau một cách hỗn độn. Đi gần đến trước cửa, ngừơi ấy liếc nh́n My Cốt và người cận vệ với một cái nh́n thoáng qua nhanh như chớp, không nói một lời, hay hỏi một câu nào, người cận vệ cũng đứng thẳng người để nhường lối đị Thế là người khách lạ cứ đi thẳng lên lầu để vào văn pḥng Chủ Tịch.
Vào Hang Sói
Chủ Tịch Robert đang ngả lưng nghỉ trên chiếc ghế bành, gương mặt tái ngắt có vẻ mệt mỏi và đôi má lơm sâu hơn lúc b́nh thường. Thật vậy, y giống như một người mà cuộc đời sắp sửa xuống dốc và đặt sẵn một chân xuống mồ. Cách đó một quăng, Bá Văn và Cửu Thông ngồi chung nhau ở một bàn khác, đang loay hoay viết lách và thỉnh thoảng lại ngưng làm việc dể thăm ḍ nhau bằng những giọng nói th́ thầm.
Th́nh ĺnh, tên cận vệ Jacobin túc trực bên ngoài mở cửa pḥng và bước đến gần Robert rồi kề tai nói nhỏ: "Ghê Ranh". Nghe báo, Chủ Tịch Robert liền đứng dậy dường như cái tên ấy có mănh lực chuyền vào người y một nguồn sinh khí mớị Một lúc sau đó, con người mănh khảnh và khiêm tốn vừa rẽ đám đông từ bên ngoài lúc năy, đă bước vào pḥng và nghiêng ḿnh chào rất sâu trước mặt nhà độc tàị Thật vậy, Robert đang vui mừng đón tiếp một trong những cộng sự viên đắc lực nhất của y, một người mà y có thể tin cậy hơn cả các câu lạc bộ đảng viên Jacobins, hay tài hùng biện của những viên sứ giả ruột thịt, hay khí dũng hiên ngang của những đạo binh giải phóng. Đó là Ghê Ranh, tay trùm mật vụ của Ủy Ban Cách Mạng, một người có cặp mắt ḍ xét thấu suốt đến mọi nơi, và đem đến cho nhà độc tài những tin tức sốt dẻo, xác thực, không những về hành động mà c̣n về cả những tư tưởng của mọi ngườị
- Thế nào, hỡi công dân, có tin ǵ thêm về Tạ Liên không?
- Sáng nay, y đă ra đi thật sớm, vào lúc tám giờ hai phút.
- A! Sớm như vậy à! Hừm!
- Y đi theo đường Tứ Tự, đường Nhà Thờ, đường Thống Nhất, đường Băi Sậy, rồi đường Mác Tinh, nhưng không có ǵ lạ, trừ ra...
- Ǵ đó?
- Y dừng chân lại trước một quán sách và trả giá vài quyển.
- Mua sách? A! Thằng bịp láo! Nó muốn lập mẹo ǵ đây trong bộ lốt áo của nhà bác học đó hử? Được lắm.
- Sau đó, y đến đường Mông Mạc, th́ một người lạ mặt khoác áo tơi màu xanh bước đến cạnh ỵ Hai người cùng đi bách bộ với nhau vài phút trên đường lộ, th́ gặp Lữ Giang cùng nhập bọn.
- Lữ Giang à? Này Bá Văn, hăy lại đâỵ Anh có nghe ǵ chưả Lữ Giang?
- Khi đó tôi bèn nấp vào một tiệm trái cây, và bày mưu cho hai đứa con gái nhỏ giả vờ đánh banh ở gần bên họ để nghe lỏm xem họ nói với nhau những ǵ. Hai đứa bé gái ấy nghe Lữ Giang nói:"H́nh như quyền uy của y đă giảm sút." Và Tạ Liên đáp: "Đúng, và cả sức khỏe của y cũng vậỵ Tôi cho y sống nhiều lắm là ba tháng nữạ" Hỡi đồng chí Chủ Tịch, tôi không biết có phải là họ nói về anh không.
Robert đáp với một nụ cười lạnh như băng, tiếp theo với một vẻ mặt lo lắng băn khoăn: - Tôi cũng vậỵ
Rồi y lại thầm nhủ lấy một ḿnh:
- Nhưng không, ḿnh hăy c̣n trẻ, đang độ tuổi xuân, lại không trác táng hay vô tiết độ. Không, sức khỏe của ḿnh c̣n lành mạnh.
C̣n tin ǵ nữa không? - Có. Người yêu của Tạ Liên, là Tê Rê Xa de Fontenai, hiện đang bị giam, vẫn tiếp tục trao đổi thư tín với ỵ Nàng thúc giục y hăy t́m cách giết đồng chí để cứu nàng. Điều này, chính bọn nhân viên của tôi đă nghẹ Chính tên người nhà của y làm người liên lạc để thông tin tới Tê Rê Xạ
- Vậy saỏ Tên gia bộc đó anh phải chận bắt nó ở giữa đường cho tôị Thời đại khủng bố c̣n chưa chấm dứt. Nếu bắt được thơ tín ǵ trong ḿnh nó và có tang chứng rơ ràng, tôi sẽ trục xuất Tạ Liên ra khỏi Quốc Hộị
Robert đứng dậy, và sau khi vừa đi bách bộ vừa suy nghĩ một lúc trong gian pḥng, y mở cửa và gọi một người cận vệ. Y ra lệnh cho người này hăy theo dơi và chận bắt tên đầy tớ của Tạ Liên. Khi người cận vệ đă ra đi, Ghê Ranh hỏi thấp giọng:
- Có phải người này là công dân Ari đó không?
- Phải đó. Nó là một người trung tín. Chớ chi nó chịu khó tắm nhiều hơn và chửi thề ít hơn một chút th́ hay quá!
- Phải chăng đồng chí đă ra lịnh chặt đầu anh nó?
- Phải, chính Ari đă tố giác anh ruột nó!
- Tuy nhiên, đối với anh, những người như vậy có đáng tin cậy hay không?
- À nhỉ! Anh nói đúng!
Kế đó, Robert rút một quyển sách tay từ trong túi áo, viết trong đó vài hàng chữ, rồi đặt lại chỗ cũ và nói:
- C̣n ǵ nữa về Tạ Liên?
- Hết rồi! Lữ Giang và người lạ mặt đi đến công viên rồi chia tay từ giă. Tôi thấy Tạ Liên trở về nhà ỵ Nhưng tôi có những tin khác. Anh có dặn tôi t́m cho ra tác giả của những bức thơ nặc danh.
- À! Anh có t́m được chưả Hử, Ghê Ranh? Hăy nói đị
- Thưa đồng chí Chủ Tịch, tôi đă t́m ra được một ngườị Đồng chí hẳn biết rằng trong số những kẻ bất măn nhát, có một người tên My Cốt?
Robert vừa tra hồ sơ trong một quyển vở đóng b́a da màu đỏ, vừa nói:
- À!À! Hăy đợi một chút... My Cốt! Đây rồi: "Vô thần, bạn thân của Hê Bẹ" À! À! Chú thích: Chánh Á Duy Mật biết rơ lư lịch và tội ác của tên nàỵ"... Rồi ǵ nữả
- Tên My Cốt này bị t́nh nghi đă viết hịch và rải truyền đơn chống đồng chí Chủ Tịch và Ủy Ban Cách Mạng. Đêm qua, khi nó đi vắng nhà, người gác cổng cư xá đă để cho tôi vào nhà nó, ở đường Bô Rơ Pe: Với xâu ch́a khóa của tôi, tôi mở cửa pḥng và cửa tủ của nó. Tôi t́m thấy một bức hoạt họa vẽ đồng chí bị đút đầu vô máy chém với một gịng chữ này ở dưới: "[Hỡi đao phủ của dân tộc, mi hăy đọc bản án của mi!" Tôi so sánh hàng chữ đó với tuồng chữ trong các bức thư nặc danh mà anh đă đưa cho tôi, th́ thấy tất cả đều giống nhaụ Anh xem đây, tôi có cắt gịng chữ đó đây rồi!
Robert lấy xem và mỉm cườị Rồi dường như đă được thỏa măn, y lại ngă ngửa người trên lưng ghế bành và nói:
- Tốt lắm! Tôi tưởng rằng đó là một kẻ thù nào nguy hiểm hơn! Thằng này phải bị bắt giữ, và lên án tử h́nh!
- Nhưng nó đang đợi ở dưới, tôi có thấy nó khi tôi bước lên lầụ - Vậy saỏ Hăy kêu nó lên. À không, hăy đợi một chút. Ghê Ranh, anh hăy tạm lánh mặt sang pḥng bên, chờ đến khi nào tôi gọi lại anh. Bá Văn đâu, anh hăy cho người lục soát tên My Cốt trước khi đưa nó vào đâỵ
Bá Văn, bước ra cửa, trong khi đó, Robert đầu cúi xuống trước ngực, có vẻ ch́m đắm trong một cơn suy tư thâm trầm.
Sau một lúc, cánh cửa th́nh ĺnh mở, Bá Văn bước vào và nói nhỏ với nhà độc tài:
- Xong rồi! Đồng chí có thể tiếp nó được.
Robert ra lịnh cho người cận vệ đưa My Cốt vàọ Người họa sĩ bước vào với một vẻ mặt b́nh tĩnh và đứng thẳng người trước mặt vị Chủ Tịch.
Robert hỏi:
- Hỡi công dân, anh muốn nói chuyện với tôỉ Tôi biết công lao và ḷng ái quốc của anh đă từ lâu rồị Phải chăng anh muốn xin tôi một chức vụ, hay anh có điều ǵ muốn tŕnh bày, anh cứ nói thẳng.
- Thưa đồng chí Chủ Tịch, tôi đến đây không phải để cầu xin một ân huệ, mà để làm một việc phụng sự quốc giạ Tôi có nắm trong tay những tang chứng về một vụ âm mưu khuynh đảo chính quyền, mà nhiều kẻ chủ mưu vẫn c̣n sống phây phây ngoài ṿng pháp luật.
Nói xong, y đặt bó văn thư lên bàn. Robert cầm lấy, liếc nhanh qua một lượt, và tự nói thầm một ḿnh:
- À! À! Tốt quá, đây là tất cả những ǵ ta đang cần. Ba Rê! Lữ Giang! Ta đă nắm được bọn nàỵ Mậu Linh chỉ là nạn nhân bị chúng lừa bịp. Cám ơn anh, hỡi công dân My Cốt! Tôi thấy rằng những thơ từ này là gửi cho một người Anh. Có người Pháp nào mà không đề pḥng bọn chó săn Ăng Lê hóa trang làm trừu non nàỷ Nước Pháp không c̣n cần đến những công dân thế giới nữạ Cái tṛ hề đó đă chấm dứt với tên Cờ Lút. À! Xin lỗi anh, hỡi công dân My Cốt, h́nh như Cờ Lút và Hê Be đều là bạn thân của anh?
My Cốt đáp bằng một giọng dường như để tự bào chữa:
- Thưa đồng chí Chủ Tịch, tất cả mọi người đều có thể lầm lẫn. Tôi không c̣n chơi thân với họ nữa kể từ ngày mà đồng chí Chủ Tịch công khai tuyên bố chống lại họ, v́ tôi sẵn sàng từ bỏ những cảm t́nh riêng tư của tôi hơn là nền công lư và chánh nghĩa cách mạng! - Đúng vậy, tôi nắm vững công lư: đó chính là cái đức tính mà tôi hằng có! Anh có thể tin chắc rằng sự công bằng của tôi sẽ không c̣n nhắm mắt làm ngơ đối với những công lao của anh, hỡi công dân My Cốt. Anh biết tên Linh Đông này không?
- Tôi biết y lắm, và c̣n chơi thân nữa kiạ Y là bạn tôi trước kia, nhưng tôi sẵn ḷng tố cáo cả anh ruột tôi nếu y là một trong những kẻ đối lập ôn ḥạ Tôi cũng không hổ thẹn mà nh́n nhận rằng tôi có chịu ơn y ít nhiềụ
- À! À! Và phải chăng anh chủ trương một cách can đảm và thành thật rằng khi có kẻ nào hăm dọa đến tính mạng tôi, th́ tất cả những cảm t́nh cá nhân của anh đều phải được dẹp bỏ?
- Tất cả!
- Anh là một công dân gương mẫu, hỡi My Cốt. Anh hăy viết cho tôi cái địa chỉ của tên Linh Đông này nhé!
My Cốt cúi xuống bàn viết. Th́nh ĺnh, khi tay y cầm lấy cán bút, một tư tưởng vụt thoáng qua óc y, làm cho y khựng lại, lộ vẻ bối rối và lưỡng lự vô cùng.
- Anh hăy viết đi, My Cốt!
Người họa sĩ buộc ḷng phải tuân lệnh một cách miễn cưỡng.
- Tên Linh Đông này có giao thiệp với ai nữa không?
My Cốt đáp:
- Chính tôi muốn nói với đồng chí Chủ Tịch về điểm đó. Mỗi ngày, y đến viếng một người đàn bà, một nữ ngoại nhân biết rơ tất cả những điều bí mật của ỵ Mụ đàn bà ấy giả vờ nghèo và làm việc nuôi con. Nhưng mụ ấy là vợ của một người Ư rất giàu, và đă từng tiêu xài những khoản tiền khổng lồ để mua chuộc công dân ở xứ tạ Mụ ấy phải bị bắt giữ mới xong.
- Anh cũng viết tên mụ ấy luôn thể.
- Nhưng phải làm gấp mới được, v́ tôi biết rằng cả hai đều định rời khỏi Ba Lê nội trong đêm naỵ
- Anh đừng sợ ǵ cả, hỡi My Cốt! Chánh phủ ta hành động rất mau lẹ!
Robert cầm lấy tờ giấy mà My Cốt vừa viết xong, và nói với một nụ cười:
- Có phải chăng lúc này anh cũng viết như thế này, hử công dân? Dường như anh đă đổi tuồng chữ khác?
- Tôi không muốn cho họ biết rằng chính tôi đă tố cáo họ, thưa đồng chí Chủ Tịch!
- Tốt lắm! Tốt lắm! Công lao của anh sẽ được tưởng thưởng xứng đáng, anh hăy trông cậy nơi tôị Chào đoàn kết!
Robert vừa nói xong vừa đứng nhổm dậy nửa người, My Cốt cũng cúi chào và lui rạ
Nhà độc tài rung cái chuông nhỏ. Người cận vệ túc trực bên ngoài bước vào chờ lịnh.
- Anh hăy theo dơi người này, y tên là My Cốt. Khi y vừa ra khỏi cửa, hăy bắt giữ y lại và đưa ngay ra khám lớn. À! Đợi chút nữa! Đây là lịnh tống giam. Công tố viên sẽ được chỉ thị buộc tội sau!
Người cận vệ bước rạ Robert không có vẻ ǵ là mệt mỏi bơ phờ như lúc đầụ Y chồm dậy, và đứng dạng hai chân ngay giữa pḥng, hai tay khoanh trước ngực, nét mặt căng thẳng và kêu to:
- Ghê Ranh đâủ
Tay trùm mật vụ lại xuất hiện.
- Anh hăy cầm lấy những địa chỉ nàỵ Trong ṿng một giờ, hăy bắt giam người Ăng Lê và người đàn bà nàỵ Những lời khẩu cung của họ sẽ giúp tôi bắt giữ những kẻ thù quan trọng hơn. Họ sẽ bị án tử h́nh, và đưa lên máy chém cùng với những tội nhân khác vào ngày mồng mười, tức là c̣n ba ngày nữạ Và đây - y hối hả viết vài chữ trên một tờ giấy, - đây là lịnh tống giam.
Sau khi Ghê Ranh đă đi ra cửa, Robert nói:
- Và bây giờ, hỡi Bá Văn và Cửu Thông, chúng ta không tŕ hoăn ngày giờ với Tạ Liên và đồng bọn được nữạ Tôi vừa được báo cáo là toàn thể nghị viên sẽ không dự ngày đại lễ mồng mười tháng nàỵ Chúng ta phải dựa vào pháp luật mà thôị Tôi sẽ sắp đặt ư tứ cho có trật tự, và chuẩn bị bài diễn văn của tôị Ngày mai, tôi sẽ đăng đàn trở lại tại Quốc Hộị Ngày mai, Sanh Juưt sẽ khải hoàn với những đạo binh thắng trận và sẽ nhập cuộc với chúng tạ Ngày mai trên diễn đàn tôi sẽ đả kích những kẻ thù bí mật của nước Pháp. Ngày mai, trước quốc dân, tôi sẽ đ̣i thủ cấp của những kẻ phản bội.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 284 of 1146: Đă gửi: 19 June 2010 lúc 11:05pm | Đă lưu IP
|
|
|
TÂY PHƯƠNG HUYỀN BÍ
Chương Mười Một
Zanoni Trục Tà Giúp Linh Đông
Cuộc hội chiến lần chót với Cao Da, để thảo luận những chi tiết cuối cùng về việc đào thoát ra khỏi xứ, Linh Đông cảm thấy vững dạ và trở về nhà. Giữa những ư nghĩ lạc quan về triển vọng tốt đẹp của một cuộc sống an toàn ở nước ngoài, th́nh ĺnh y nghe một giọng nói rùng rợn mà y đă quen thuộc, như nói vào lỗ tai: "Sao? Mi muốn thách thức ta và muốn thoát khỏi tay ta ư? Mi muốn làm lại cuộc đời tốt lành và hạnh phúc ư? Vô ích, v́ đă quá trễ! Không! Không phải ta theo dơi mi đâu, mà những vết chân người, cũng rùng rợn không kém, nay đă ŕnh rập theo sát bên cạnh mi. C̣n ta, khi mà mi gặp lại ta, th́ là ở trong ngục tối, lúc nửa đêm, trước khi định mệnh của mi kết thúc. Ḱa! Hăy nh́n xem!"
Linh Đông quay đầu nh́n lại, th́ thấy sau lưng có một người lạ mặt, dáng điệu khả nghi, mà y đă từng nh́n thấy trước đây ở ngoài đường, nhưng không để ư. Người ấy dường như đă núp sẵn ở đâu đây và theo y bén gót khi y vừa từ nhà lăo Cai Da đi ra. Y hiểu ngay là ḿnh đang bị ŕnh rập và theo dơi. Tuy y là người gan góc, nhưng cũng cảm thấy chột dạ. Y biết quá rơ t́nh h́nh ở Ba Lê lúc ấy để nhận định mối nguy cơ mà y đang gặp phải.
Một viễn cảnh rùng rợn đă phô bày trước mắt y: bị theo dơi, bị bắt giữ, bị đem ra xử án và đưa lên máy chém. Đó là cách thức làm việc thông thường và mau lẹ của cái gọi là Luật Pháp dưới chế độ đương thời! Tim y đập mạnh, hơi thở dồn dập, y t́m cách lẩn tránh cái bóng đen đang ŕnh ṃ y trên quăng đường vắng.
Một lúc sau đó, Linh Đông đi vào một con đường nhỏ cong queo khúc khủy và lọt vào một khu đầy những ngỏ ngách chằng chịt như mê cung. Y nh́n lại phía sau th́ không thấy người theo dơi y đâu nữa, khi đó, do một con đường tắt, y đi rảo bước và nhắm hướng trở về nhà. Khi y vừa ra tới một con đường cái, th́ một người đi đường đầu đội nón sụp xuống tận mắt và khoác áo tơi che kín cổ, bước lại gần y và nói nhỏ:
- Linh Đông! Anh đang bị theo dơi! Hăy đi theo tôi!
Người ấy nói xong, bèn tiếp tục đi trước mặt y để dẫn đường. Kế đó, y thấy người kia đi tạt ngang qua lề đường và rẽ vào một ngôi nhà cửa đă hé mở sẵn ở một bên đường lộ. Người ấy mà y không nh́n thấy rơ mặt trong cái áo tơi rộng phủ kín đến mang tang, ra dấu cho y bước vào. Linh Đông bèn rón rén bước vào cửa và cánh cửa liền khép lại. Y nín hơi thở, vẫn không hỏi một câu nào, y đi theo người kia bước lên một cầu thang rộng răi, và đi xuyên qua những gian pḥng trống trơn. Sau cùng, khi hai người đi vào một gian pḥng nhỏ, người lạ mặt bèn bỏ mũ và áo tơi ra, th́ Linh Đông lấy làm ngạc nhiên vô cùng mà nhận ra người ấy là... Zanoni.
Zanoni mời Linh Đông ngồi xuống ghế và nói:
- Ở đây, anh được an toàn. Anh thật là có phước mà được tôi t́m thấy ở tại đây.
Linh Đông đáp:
- Riêng tôi, có lúc tôi đă nghĩ rằng tốt hơn chúng ta không nên gặp lại nhau! Tuy vậy, trong những giờ phút này, tôi cũng thấy vui gặp lại nhân vật kỳ bí và chẳng lành, đă từng đem đến cho tôi tất cả những nỗi đau khổ trong đời. Ở đây, ít nhất ông cũng phải nói thật cho tôi biết. Trước khi chúng ta chia tay, tại đây, ông hăy cho tôi biết điều bí ẩn lạ lùng của đời ông hoặc nếu không, th́ ít nhất cũng của đời tôi!
Zanoni nói với một giọng thương hại:
- Anh đă đau khổ ư? Hỡi người sơ cơ đáng tội nghiệp! Phải, tôi đă thấy điều đó trên gương mặt anh. Nhưng tại sao anh lại quy trách nhiệm cho tôi? Tôi há chẳng đă cảnh giác anh từ trước về những ngẫu hứng nhất thời của anh sao? Tôi há chẳng đă cho anh biết trước rằng cuộc thử thách thật là khủng khiếp và tai hại hay sao? Thậm chí, hỡi Linh Đông, tôi há chẳng hiến cho anh t́nh yêu của người con gái ấy hay sao? Một t́nh yêu khá mănh liệt để có thể làm cho tôi được sung sướng khi nàng thuộc về tôi? Phải chăng anh đă táo bạo mà quyết tâm chọn lựa con đường khó khăn để đương đầu với cuộc thử thách? Chính do ư muốn của anh mà anh đă tôn Kiềm Mâu làm thầy và chọn con đường Huyền Môn làm mục đích của cuộc đời.
- Nhưng do bởi ai mà tôi nảy sinh ra những ư muốn mănh liệt khó cưỡng lại được, để chọn khoa Pháp Môn lạ lùng và tai hại đó? Tôi không hề biết ǵ về việc ấy trước khi gặp ông, và chính ông đă lôi cuốn tôi vào trong bầu không khí mê hoặc của ông đấy thôi! Ông có chịu nh́n nhận rằng ông là một kẻ bịp đời chăng? Hoặc ông có dám nói cho tôi biết rằng ông đă tự bán ḿnh cho Ma Quỷ? Và thú nhận rằng ông chỉ là một tay phù thủy lợi hại, đă để cho tà ma ám ảnh tôi ngày đêm?
Zanoni nói:
- Có quan hệ ǵ mà biết tôi là ai? Điều quan hệ là hăy biết rằng tôi có thể giúp anh để trục xuất loài yêu nghiệt và đem anh trở về cuộc sống b́nh thường. Để đạt tới mục đích ấy, anh hăy biết rằng tôi không phải là một người phù thủy hay một kẻ thù. Tôi không thể cho anh những ǵ nó không phù hạp với khả năng của anh. Tôi không thể hoàn thành nơi anh những ǵ mà Kiềm Mâu đă không làm được. Nhưng tôi có thể đem lại cho anh một điều quư báu: đó là làm cho anh được an thuận với thế gian, trở về với cuộc sống b́nh thường của mọi người, và đem lại cho anh sự bằng an trong nội tâm.
- Ông hứa chắc không?
- Tôi hứa như vậy, nhân danh mạng sống của hai mẹ con nó!
Linh Đông nh́n chàng với sự tin tưởng trong ḷng. Y th́ thầm cho chàng biết địa chỉ của Kiều Dung, tại đó những cuộc viếng thăm của y đă đem đến tai họa bất ngờ.
Zanoni nói với một niềm hứng khởi trong ḷng:
- Cầu xin ân phước được ban xuống cho anh. Anh há không biết rằng ở ngưỡng cửa của các cơi trên, luôn luôn có những tà ma, ác quỷ canh gác và coi chừng? Anh đă dám phiêu lưu đột nhập vào vùng cấm địa, làm cho loài yêu ma đă xuất hiện trước mắt anh, và nó sẽ không dứt ám ảnh cho đến khi nào anh có thể vượt lên cơi không gian vô tận như các đấng Thiên Thần, hoặc là trở về cuộc sống b́nh thường một cách hồn nhiên như đứa trẻ con! Nhưng anh hăy trả lời cho tôi biết: mỗi khi anh có ḷng hướng thiện và quay về đạo đức, con Ma th́nh ĺnh xuất hiện một bên anh, làm cho anh thất vọng, sợ hăi, lại muốn đắm ch́m trong những cảnh ăn chơi trụy lạc và lăn lóc trong những chốn náo nhiệt phồn hoa. Trong khi đó nó nhường chỗ cho những kẻ thù c̣n độc ác hơn nó để làm cho sa đọa linh hồn anh, có khi nào anh đă can đảm chống cự lại nó và đương đầu với sự khủng khiếp mà nó gây cho anh chăng? Có khi nào anh tự nhủ rằng: "Dầu việc ǵ xảy ra, tôi cũng sẽ nắm vững lấy cuộc đời đạo hạnh chăng?"
Linh Đông đáp:
- Hỡi ôi! Chỉ có mới gần đây tôi mới dám làm như thế!
- Và anh cảm thấy rằng khi đó loài yêu ma trở nên lu mờ dần, và quyền lực của nó đă yếu bớt?
- Đúng vậy.
- Vậy anh nên mừng đi! Anh đă vượt qua được cái điều khủng khiếp thật sự và nắm cái bí quyết của cơn thử thách. "Muốn thắng" tức là đă đạt được sự thành công đầu tiên. Anh hăy vui đi, v́ sự trừ tà tróc quỷ sẽ có kết quả chắc chắn. Anh không phải là hạng người chối bỏ cái ư niệm về cuộc đời sau, và bởi đó trở thành nạn nhân của lực lượng hắc ám. Ôi! Bao giờ cho loài người hiểu được rằng nếu Tôn Giáo đề cao Đức Tin, ấy không phải chỉ v́ Đức Tin đưa đến cuộc đời sau mà thôi, và bởi v́ nếu không có Đức Tin, nếu không có một cái ǵ minh triết sáng suốt hơn, một cái ǵ thánh thiện và thiêng liêng hơn cuộc đời trần gian nặng trọc này, th́ con người không có lẽ sống vững bền chân thật. Người nghệ sĩ có lư tưởng, nhưng vị giáo sĩ có đức tin. Lư tưởng và đức tin đều có ư nghĩa riêng của nó, nhưng tựu trung cả hai đều ḥa hợp làm một.
Hỡi người lăng tử lạc loài cô đơn, hăy trở về với cuộc sống b́nh thường của thế gian. Hăy cố gắng t́m hiểu những ǵ là cao đẹp và thánh thiện trong đời sống hằng ngày. Và hỡi loài Yêu Nghiệt, hăy rút lui về bóng tối của Ngưỡng Cửa. Hăy thối lui cho mau, loài quỷ quái Vô Thường! Và hỡi đấng Cao Xanh vời vợi, xin Ngài hăy ban ân huệ tốt lành cho tâm hồn trẻ con nông nổi này, xin Ngài hăy soi sáng tâm linh y ngày cũng như đêm bằng ánh sáng của Hy Vọng.
Zanoni vừa nói vừa đặt nhẹ bàn tay lên hai màn tang nóng bỏng như lửa của Linh Đông. Y lấy làm ngạc nhiên và run lên v́ sung sướng. Khi đó y dường như rơi vào một cơn hôn mê, th́nh ĺnh y cảm thấy như đang sống tại cuộc đời thơ ấu trong ngôi nhà của cha mẹ y trước kia, với bao nhiêu kỷ niệm êm đềm của tuổi xanh ngây thơ vô tội. Những h́nh ảnh rùng rợn khủng khiếp đă từng theo dơi, ám ảnh, làm cho y đến muốn phát điên, nay đă biến tan đi đâu mất. Y cảm thấy dường như y đă quỳ gối và cầu nguyện. Kế đó, y tỉnh lại... y đă tỉnh giấc với những giọt lệ rơi trên hai má, đó là những giọt nước mắt sung sướng v́ y cảm thấy rằng loài yêu ma đă vĩnh viễn thối lui. Y nh́n chung quanh: Zanoni đă biến mất dạng. Trên bàn có một mảnh giấy với mấy gịng chữ, mực hăy c̣n ướt:
"Tôi sẽ vạch một lộ tŕnh và có những phương tiện chắc chắn để giúp anh trốn thoát. Tối nay, khi đồng hồ điểm chín giờ, một chiếc tàu sẽ đưa anh đến một nơi trú ẩn an toàn cho đến khi Triều Đại Khủng Bố, nay đă gần đến hồi kết thúc, đă hoàn toàn sụp đổ. Anh hăy từ bỏ cuộc đời bê tha trác táng nó đă làm cho anh đi lạc đường và suưt bỏ mạng. Hăy trở về xứ sở của anh để sống an toàn. Anh sẽ c̣n nhiều năm trước mắt để suy gẫm về cuộc đời đă qua và để cứu chuộc lại dĩ văng. C̣n về tương lai, hăy lấy lư tưởng làm đuốc soi đường, và lấy nước mắt làm nước thánh rửa tội!]"
Linh Đông tuân theo một cách chặt chẽ những lời dặn ḍ khuyên bảo, và nhận thấy rằng về sau tất cả đều hoàn toàn được thực hiện.
Quần Chúng Sôi Động
Thơ Zanoni gửi Kiềm Mâu:"Nàng đă bị bắt giam, theo lịnh của Robert! Theo sự t́m ṭi khám phá của tôi, th́ nguyên nhân là do Linh Đông. Đó là mối liên hệ rùng rợn nó nối liền định mệnh của họ với nhau mà tôi không thể nào gỡ được. Mối liên hệ đó trước đây vẫn bao phủ Linh Đông bằng một đám mây mù nó che ám nhỡn quang của tôi không cho tôi t́m thấy nàng. Bị bắt! Bị giam! Đó là cái cửa ngỏ đưa vào nhà mồ! Phiên xử án và thọ h́nh sẽ đến trong ba ngày tới đây. Tên bạo chúa đă định ngày chém tập thể vào mồng mười. Trong khi cái chết của những kẻ vô tội làm sôi động cả thành phố, th́ những bộ hạ của y sẽ tàn sát những kẻ thù. Chỉ c̣n lại một niềm hy vọng duy nhất, là Đấng Tối Cao sẽ xử tội tên bạo chúa, và sẽ dùng tôi làm cái khí cụ để hạ bệ nó. Nhưng tôi chỉ c̣n có hai ngày nữa thôi. Sau hai ngày đó, là âm u, cô quạnh, nhưng tôi c̣n có thể cứu nàng. Tên bạo chúa sẽ vong mạng trước ngày mà y đă định thi hành vụ hành quyết tập thể. Đây là lần đầu tiên mà tôi can thiệp vào những vụ âm mưu, sát phạt của loài người! Linh hồn tôi, trong cơn thất vọng năo nề, đă nhất định xông xáo hăm hở nhảy vào ṿng chiến."
Một cuộc tập hợp quần chúng đă diễn ra chung quanh đường Thánh Hô Nô Rê. Một người thanh niên vừa bị bắt theo của lịnh của Chủ Tịch Robert. Đó là người nhà của Tạ Liên, lănh tụ phe Đối Lập ở Quốc Hội, người mà cho đến nay, vị bạo chúa vẫn do dự chưa dám xuống tay. Vụ bắt bớ này chắc chắn sẽ gây một cơn sôi nổi dư luận c̣n trầm trọng hơn là một vụ bắt bớ thường, coi như một việc quá quen thuộc dưới Triều Đại Khủng Bố. Trong đam đông, có nhiều bạn bè thân hữu của Tạ Liên là những kẻ thù của bạo chúa, và nhiều công dân đă quá chán ngán mà thấy con cọp dữ giết hại quá nhiều người, từ nạn nhân này đến nạn nhân khác. Người ta nghe trong đám đông có những tiếng chửi rủa ồn ào báo hiệu những việc chẳng lành, những cái nh́n tức giận đương đầu với những nhân viên mật vụ đang tóm cổ nạn nhân. Tuy họ không dám công khai chống cự, những người ở phía sau xô đẩy những người ở trước ào tới và chận nghẽn con đường của kẻ tù nhân cùng đám nhân viên công lực đi qua. Người thanh niên thấy vậy bèn vùng vẫy để thoát thân, đám đông bèn mở đường cho y chạy thoát và khép chặt hàng ngũ lại chung quanh để bảo vệ cho y khi y chạy lủi vào đám rừng người. Nhưng th́nh ĺnh, tiếng vó ngựa của một đoàn quân kỵ mă vang rền dồn dập trên vệ đường lót đá: tướng Hăng Ri và đoàn kỵ binh của y xung phong đột kích vào đám đông. Dân chúng sợ hăi bèn chạy vẹt ra hai bên, và người tù nhân lại bị bắt trở lại. Trong khi đó, có người th́ thầm vào tận tai của người bị bắt:
- Cái thơ anh đang giữ trong ḿnh sẽ có hại cho anh nếu nó lọt vào tay người khác. Anh hăy đưa đây cho tôi! Tôi sẽ trao lại cho Tạ Liên!
Người tù nhân ngạc nhiên day đầu nh́n lại, và thấy trong đôi mắt của người lạ mặt vừa thốt ra câu ấy có một cái ǵ dường như khích lệ. Đoàn kỵ binh thúc ngựa xáp lại gần, tên cảnh binh vừa tóm cổ người thanh niên bèn tránh qua một bên. Thừa dịp thuận tiện người tù nhân bèn giúi bức thơ vào tay người lạ mặt, người này bèn mất dạng trong đám đông.
Những người thù nghịch với bạo chúa Robert đang tựu họp tại tư gia của Tạ Liên. Tất cả các chi phái đă tạm thời quên đi những sự bất đồng chia rẽ giữa họ với nhau để kết liên thành một khối chống lại nhà độc tài đă chà đạp lên tất cả mọi đảng phái đối lập và cai trị với một bàn tay sắt máu. Trong buổi hội họp ấy có Lê Công, kẻ thù công khai của bạo chúa, Ba Rê, anh hùng của những kẻ nhút nhát, c̣n mơ tưởng việc ḥa hợp tất cả những cực đoan, Ba Rát, con người b́nh tĩnh và nghiêm nghị, Đê Boa đầy sát khí và hận thù, và không thấy rằng những tội ác của Robert cũng không hơn những vụ tàn sát đẫm máu của y bao nhiêu!
Cuộc thảo luận có vẻ sôi nổi và lộn xộn. Chế Độ Khủng Bố, nó đă tạo nên sự thành công liên tục và làm nổi bật cái nghị lực phi thường của Robert, vẫn c̣n ảnh hưởng đến phần đông những người đến dự buổi họp. Tạ Liên, người mà bạo chúa e sợ hơn cả, là người duy nhất có thể đứng ra điều khiển bao nhiêu những ư tưởng tương phản đối nghịch nhau. Nhưng chính y cũng đă có những hành động tàn nhẫn và không thể không cảm thấy lúng túng, ngượng ngùng trong vai tṛ đối lập ôn ḥa. Sau khi Lê Công đă đọc một bài diễn văn hùng hồn, Tạ Liên nói:
- Tên soán nghịch thật sự đă hăm dọa tất cả chúng ta. Nhưng y vẫn c̣n được quần chúng mến yêu, y vẫn c̣n được các đảng viên Jacobins hậu thuẫn đắc lực, nên tốt hơn là hăy đ́nh chỉ mọi hành động công khai thù nghịch cho đến khi thời cơ thuận tiện hơn. Một âm mưu bị thất bại sẽ đưa chúng ta lên máy chém. Uy quyền của y càng ngày càng suy giảm, sự kéo dài thời gian chờ đợi là biện pháp tốt nhất của chúng ta.
Khi Tạ Liên đang cố gắng xoa dịu cử tọa, th́ có người vào báo tin có một người lạ mặt muốn vào gặp y về một việc khẩn cấp. Nhà diễn giả mất b́nh tĩnh, đáp:
- Tôi không có thời giờ để tiếp ai vào giờ này.
Nhưng người đưa tin đặt một mảnh giấy lên bàn. Tạ Liên mở ra xem thấy vài chữ viết bằng bút ch́:
"Có thơ của Tê Rê Sa viết trong nhà ngục."
Y bèn đứng dậy, đi mau ra hành lang, th́ thấy một người hoàn toàn xa lạ không hề quen biết. Người lạ mặt nói:
- Người gia bộc của ông đă bị bắt giữa đường. Tôi đă cứu mạng cho ông và cho người vợ tương lai của ông. Đây là bức thơ của bà Tê Rê Sa.
Tạ Liên mở bức thơ với một bàn tay run rẩy và đọc:
"Phải chăng tôi vẫn cứ khẩn cầu anh một cách vô ích? Một lần nữa, tôi cho anh biết: đừng để mất một giờ nào nếu anh muốn giữ mạng sống của anh và cả của tôi. Ngày xử án và hành quyết tôi đă định vào mồng mười, trong ba ngày tới đây. Anh hăy hành động ngay khi c̣n kịp thời giờ, hăy hạ bệ tên bạo chúa. Anh c̣n được những hai ngày nữa. Nếu anh do dự, nếu anh tŕ hoăn, th́ anh sẽ thấy tôi một lần cuối cùng trên chiếc xe cây đi qua cửa nhà anh để lên máy chém.
Người lạ mặt nói:
- Bản án này sẽ liên hệ tới ông. Cái chết của bà sẽ đưa đến cái chết của ông. Ông đừng sợ dư luận quần chúng. Quần chúng đă sẵn sàng giải thoát cho người gia nhân của ông. Ông đừng sợ Robert, y sẽ tự đến nạp ḿnh cho ông tấn công. Ngày mai y sẽ đến Quốc Hội, ngày mai, ông phải đánh một ván bài sống chết với cái đầu của ông và cái đầu của y.
- Ngày mai y đến dự Quốc Hội sao? Và ông là ai mà biết rơ cả những việc mà tôi không biết?
- Một người cũng như ông, muốn cứu người đàn bà mà ḿnh yêu.
Tạ Liên c̣n chưa hết ngạc nhiên và chưa kịp làm một cử chỉ để giữ người ấy lại, th́ người lạ mặt đă lui gót và mất dạng. Khi Tạ Liên trở lại pḥng khách, y đă đổi thái độ và nói:
- Tôi vừa có tin tức - các bạn không cần biết là tin ǵ - nó làm cho tôi phải sử đổi kế hoạch. Ngày mai Robert sẽ đến dự Quốc Hội. Chúng ta phải tấn công và đè bẹp y. Ngày mai, chúng ta sẽ trả thù cho Danton. Vergniaud và Condorcet. Ngày mai chúng ta sẽ hạ thủ.
Ba Rê bỗng trở nên táo bạo trước sự can đảm của người bạn đồng nghiệp, bèn kêu to:
- Phải hạ thủ! Chỉ có những người chết mới không c̣n trở lại!Người ta nhận thấy rằng trong ngày và đêm đó, có một người lạ mặt xuất hiện ở nhiều nơi trong thành phố: trong những hàng quán, những câu lạc bộ và những nơi hội họp tại trụ sở các đảng phái, và trước sự ngạc nhiên kinh sợ của những người chung quanh, y phát ngôn lớn tiếng về những tội ác của Robert và tiên đoán sự sụp đổ sắp đến của nhà độc tài.
Trong khi nói năng hùng biện, người ấy khích động ḷng người, làm tiêu tan sự sợ sệt của mọi người chung quanh, nhen nhúm trong ḷng họ ngọn lửa thù hận và gây cho họ một tinh thần dũng mănh phi thường. Nhưng điều làm cho người ta ngạc nhiên hơn hết là không ai phản đối lại cũng không có người nào bắt giữ y hay thốt lên câu: "Hăy bắt tên phản bội!" T́nh trạng đó rơ ràng là chứng tỏ rằng dân chúng đă chán và không c̣n ủng hộ nhà độc tài khát máu. Chỉ có một lần, một đảng viên Jacobins cao lớn vạm vỡ đang ngồi uống rượu trong quán, th́nh ĺnh xốc tới gần người lạ mặt đang diễn thuyết và nói:
- Nhân danh nền Cộng Ḥa, tôi bắt ông!
Người lạ mặt nói thấp giọng vừa đủ nghe:
- Hỡi công dân Ari! Anh trở về văn pḥng của Robert, y đă đi vắng. Trong túi áo ngoài mà y vừa cởi ra cách đây không đầy một giờ, anh sẽ thấy có một mảnh giấy. Khi anh đă đọc xong, anh hăy trở lại đây, và nếu anh c̣n muốn bắt tôi, tôi sẽ không chống cự. Bây giờ, anh hăy nh́n xem những bộ mặt hung tợn của những người đang đứng chung quanh đây: nếu anh đụng tới ḿnh tôi là anh sẽ chết không kịp ngáp!
Tên Jacobins buộc ḷng phải vâng lời một cách miễn cưỡng. Y vừa đi ra vừa lầm bầm, một lát sau, khi y trở lại th́ người lạ mặt vẫn c̣n ở chỗ đó. Y liền nói mau:
- Cám ơn ông! Mẹ kiếp! Thằng xỏ lá đă biên tên tôi trên bản danh sách những người bị đưa lên máy chém!
Nói xong, Ari bèn nhảy lên bàn, khoa chân múa tay và hét lớn: "Đả đảo tên bạo chúa!"
Sự Thất Bại Của Robe
Sáng ngày mồng tám, Chủ Tịch Robert đi dự Quốc Hội. Y đă chuẩn bị sẵn sàng bài diễn văn soạn rất công phu tỉ mỉ. Tất cả những nhân vật vây cánh trong đảng đă sẵn sàng tiếp đón y. Tay hung thần Sanh Juưt, vừa từ quân đội trở về để trợ giúp ḷng can đảm và tưới dầu vào lửa thù hận căm giận của y. Sự xuất hiện của y báo hiệu chẳng lành và sẽ Quốc Hội vào một con đường khủng hoảng bế tắc.
Y mở đầu bài diễn văn bằng việc đính chánh, phủ nhận những sự bất công, những lời vu khống và những tin đồn bất hảo chung quanh sự cai trị bằng bàn tay sắt máu của y. Y bác bỏ và lên án danh từ "bạo chúa" mà người ta gán cho y.
Giữa chừng, y ngừng lại. Cửu Thông lấy khăn chùi mắt. Sanh Juưt tỏ vẻ tán thành trong y phóng cái nh́n nghiêm khắc vào những hàng ghế của phe Đối Lập đang giữ thế thủ. Một cơn im lặng rùng rợn và giá lạnh như băng đè nặng lên hội trường. Lời kêu gọi của diễn giả không gây được một tiếng vang! Nhà độc tài nh́n chung quanh khắp một lượt. Y phải phá tan sự thờ ơ lănh đạm này. Y bèn tiếp tục, y không tự bào chữa, tự đề cao ḿnh nữa, cũng không than văn, trách móc nữa, y tố giác, y lên án. Nhưng con măng xà phun nọc độc, y lên án tất cả, nào là quốc gia, rồi ngoại bang, nền tài chánh, chiến tranh, và tất cả...
Trong suốt hai giờ đồng hồ, trước một cử tọa lạnh lùng, thù nghịch, giọng nói đanh thép của Chủ Tịch Robert thốt lên một bài diễn văn đầy sát khí. Bắt đầu trong sự im lặng, nó vẫn kết thúc trong im lặng. Những kẻ đối nghịch không dám bày tỏ sự căm hờn thù hận v́ họ chưa biết rơ cán cân lực lượng của các đảng phái nghiêng về bên nào. Một mặt khác, những bè phái vây cánh của Robert lại do dự không dám vỗ tay hoan hô, v́ họ không biết rơ người nào trong giới bạn bè thân quyến của họ sẽ bị tố giác! Họ th́ thầm riêng với nhau: "Hăy coi chừng, y đang hăm dọa anh đấy!"
Tuy vậy, mặc dầu cơn im lặng lạnh lùng, toàn thể cử tọa hầu như sắp bị thuyết phục. Từ con người lợi hại đó vẫn toát ra cái ảnh hưởng của một ư chí cang cường sắt thép. Dầu sao, những lời nói hùng hồn đanh thép đó vẫn c̣n hiệu lực, khi nó được thốt ra từ cửa miệng của một người mà, chỉ với một cử chỉ gật đầu hay vẫy tay ra hiệu, cũng đủ huy động các đạo binh của tướng Hăng Ri, và ảnh hưởng đến sự phán quyết của Chánh Án Duy Mật, vị Chủ Tịch rùng rợn của Ṭa Án Cách Mạng.
Từ hàng ghế Đối Lập, Tạ Liên lấy làm bất măn và tức giận, bèn đưa mắt nh́n lên hàng ghế dành cho các quan khách ngoại quốc được phép theo dơi cuộc bàn căi tại Quốc Hội. Th́nh ĺnh, y nh́n thấy đôi mắt của người lạ mặt đă đem thơ của Tê Rê Sa đến cho y hôm vừa qua. Đôi mắt đó dường như có một cái mănh lực nhiệm mầu, đem đến cho y một luồng sinh khí mới và tăng gia ḷng can đảm của y một cách bất ngờ. Tạ Liên bèn đứng dậy và nói th́ thầm với các bạn đồng chí vài lời. Sự can đảm của y có tác dụng truyền nhiễm. Những người mà Robert vừa tố giác và cảm thấy sắp bị lâm nguy như chỉ mành treo chuông, đồng thanh đứng dậy cùng một lượt. Tất cả đều đ̣i lên phát biểu ư kiến, ai cũng đ̣i lên diễn đàn tức khắc.
Vát Đê nói trước tiên, rồi kế đó là những người khác nói tiếp theo. Phe Đối Lập đă có dịp gầm thét như hỏa diệm sơn phun lửa. Từng người một, họ đăng đàn để chĩa mũi dùi tấn công vào Robert và tuôn ra những nỗi căm hờn uất hận bị đè nén dồn dập trong tâm can từ bấy lâu nay. Robert cảm thấy bối rối, do dự, t́m cách tự bào chữa, t́m lối thoát. Phe Đối Lập thấy thế lại càng tăng thêm ḷng hứng khởi và can đảm. Họ chận ngang lúc y c̣n đang nói giữa chừng, họ la hét để khỏa lấp tiếng nói của y. Giang pḥng Quốc Hội bỗng trở nên ồn ào, náo loạn ầm ĩ! Robert im lặng, nhưng vẫn tỏ thái độ kiêu hănh thách thức. Mặt tái nhợt, bị thua trận những vẫn chưa ngă quỵ, y vẫn hiên ngang đứng thẳng người, giống như một cây cổ thụ giữa một cơn giông băo!
Quốc Hội đă biểu quyết bác bỏ bài diễn văn của Robert. Trong sự thất bại này, mọi người đều nh́n thấy trước sự sụp đổ của nhà độc tài. Một tiếng kêu lẻ loi bỗng vang lên ở một góc pḥng. Nó được mọi người chuyền nhau lập lại khắp ṿng cung h́nh bán nguyệt của hội trường, và trở thành một khẩu hiệu chung của toàn thể Quốc Hội: "Đả đảo độc tài! Nền Cộng Ḥa muôn năm!"
Khi Robert vừa rời khỏi Quốc Hội, một cơn im lặng thâm trầm có tính cách báo điềm chẳng lành bào trùm cả đám đông dân chúng đứng đợi ở bên ngoài. Quần chúng, bất kỳ ở đâu và bất kỳ lúc nào cũng ngả về phía thắng lợi, và đàn chuột luôn luôn chạy trốn khỏi ṭa nhà lầu sắp sụp đổ. Nhưng Robert nếu có thiếu can đảm, lại không thiếu sự kiêu hănh, và cái này đôi khi cũng thay thế được cái kia. Vẻ mặt suy tư, vần trán bí hiểm, y rẽ lối đi qua đám đông, tay vịn lên vai của Sanh Juưt, có Bá Văn và người em cùng đi theo.
Khi cả bọn cùng đi đến chỗ công trường, Robert th́nh ĺnh phá tan sự im lặng:
- Có bao nhiêu cái đầu phải rụng vào ngày mồng mười?
Bá Văn đáp:
- Tám chục.
- A! Không nên để lâu như vậy. Một ngày có thể làm mất cả một đế quốc, chế độ khủng bố phải c̣n phục vụ cho chúng ta nữa.
Robert im lặng trong một lúc và nh́n dáo dác chung quanh với nét mặt băn khoăn. Th́nh ĺnh y nói:
- Sanh Juưt! Bọn chúng nó chưa t́m thấy thằng Ăng Lê, mà lời cung khai hoặc phiên xử án có thể giúp cho ta tài liệu để đập tan Tạ Liên và đồng bọn. Bọn mật vụ của chúng ta đă trở nên ngu ngốc và vô dụng. Nhưng chúng nó có bắt được một người đàn bà, chỉ có một mụ đàn bà ấy thôi.
Sanh Juưt nói:
- Chính bàn tay của đàn bà đă giết chết Marat.
Robert ngừng hẳn và thở một cách khó khăn, rồi nói:
- Sanh Juưt! Khi cơn sóng gió đă qua, chúng ta sẽ xây dựng một Thế Hệ Ḥa B́nh. Chúng ta sẽ xây cất những khu gia cư cho kẻ nghèo và những người già yếu. Họa sư David đă vẽ họa đồ thiết kế khu ấy. Những người đức hạnh sẽ được chọn lựa để giáo dục bọn thanh niên. Những tệ đoan xă hội sẽ không bị giết tận gốc, mà chỉ bị ngăn cấm thôi. Chúng ta chưa nên chết vô tội! Hậu thế không thể xét đoán chúng ta đă hoàn thành sứ mạng. Chúng ta đă tái lập Đấng Tối Cao: bây giờ chúng ta phải cải tạo lại cái xă hội mục nát. Tất cả sẽ là tự do, b́nh đẳng và bác ái. À này, Si Mông đâu? Sanh Juưt, anh đưa tôi cái bút ch́...
Robert viết vội vàng trên một mảnh giấy và nói:
- Si Mông, anh hăy đem tờ giấy này cho Chánh Án Duy Mật. Hăy chạy đi ngay. Tám chục cái đầu này phải rụng vào ngày mai. Ngày mai, nghe chưa, Si Mông? Duy Mật sẽ xử án sớm hơn một ngày. Tôi sẽ viết thư cho Biện Lư Phúc Khuê sau. Chúng ta sẽ hội họp chiều nay tại trụ sở Đảng Jacobins. Chúng ta sẽ lên án cả toàn thể Quốc Hội và quy tựu chung quanh ta là những người bạn cuối cùng của Tự Do và của nước Pháp.
Khi đó, cách một quăng ở phía sau lưng họ, vang lên một tiếng hoan hô:
- Nền Cộng Ḥa muôn năm!
Mắt nhà độc tài phóng ra một tia thù hận:
- Nền Cộng Ḥa! Ha ha! Không phải v́ cái... đồ vô lư đó mà chúng ta đă tiêu diệt cả một triều đại vững chắc tự muôn đời!
Thế là phiên xử và hành h́nh các nạn nhân đă được định đoạt sớm hơn một ngày! Được hướng dẫn bởi cái bản năng huyền bí từ trước đến nay vẫn thúc đẩy mọi hành động của chàng, Zanoni đă nhận thấy rằng chàng đă hoài công vô ích. Chàng biết rằng Kiều Dung sẽ được cứu thoát nếu nàng có thể sống sót lại sau tên bạo chúa được một giờ. Chàng biết rằng Robert đă sắp đến ngày tận số, và ngày mồng mười mà y đă định trước đây làm ngày hành quyết các nạn nhân cuối cùng của y cũng sẽ là ngày mà chính y sẽ bị đưa lên máy chém. Tất cả những cố gắng và kế hoạch của chàng đều nhắm vào việc hạ bệ nhà độc tài và tiêu diệt luôn chế độ cai trị của y. Nhưng kết quả ra sao? Chỉ một tiếng nói của vị bạo chúa đă phá hỏng tất cả, và làm cho kết quả ấy thành con số không. Sự thọ h́nh của Kiều Dung đă bị rút ngắn hơn một ngày. Hỡi người thuật sĩ quá tự phụ muốn trở nên cái khí cụ của Đấng Vô Cùng, những mối nguy cơ đang hăm dọa nhà độc tài lại càng hối thúc thời gian hành quyết các nạn nhân cho sớm hơn mà thôi! Ngày mai sẽ rơi tám chục cái đầu, trong số đó cóø cái đầu của người đẹp đă từng ấp ủ bên quả tim chàng! Ngày mai! Và tạm thời, trong khi chờ đợi, bạo chúa Robert vẫn b́nh yên như vại!
Andonai Xuất Hiện
Một lần nữa, trong cơn tuyệt vọng và đau khổ, Zanoni lại đắm ch́m trong sự cô đơn u tịch để kêu gọi sự trợ giúp của những vị thiên sứ trong không gian. Trong cơn khủng hoảng tinh thần đang dày ṿ tâm hồn chàng, c̣n có một quyền năng mà chàng chưa kêu gọi đến...
Lời kêu gọi của chàng đă được đáp ứng. Trong khoảnh khắc, một luồng ánh sáng trong như bạc tràn vào gian pḥng khi chàng c̣n đang cầu nguyện. Thiên Thần Adonai xuất hiện giữa một vầng hào quang sáng rỡ bao phủ chung quanh, và ban cho người thuật sĩ một cái nh́n tràn đầy một t́nh thường vô biên. Nụ cười ưu ái của người dường như cũng làm cho toàn cơi không gian trở nên tươi sáng. Cũng như cái hoa tỏa ra chung quanh nó một mùi hương thơm, sự hiện diện của Thiền Thần phát ra trong không gian một niềm an lạc tuyệt vời. Giọng nói êm ái du dương của Thiên Thần vọng đến tai người thuật sĩ:
- Ông đă hành động hợp lư. Sự can đảm của ông đă làm cho ông vớt vát được vài quyền năng đă mất. Một lần nữa, linh hồn ông đă thu hút được tôi đến với ông. Bây giờ, khi mà ông đă hiểu được [sự chết], ông đă trở nên minh triết hơn khi xưa, khi mà một tâm hồn thanh thản, ông chuyên lo học hỏi về những bí quyết của [sự sống]. Những rung cảm của t́nh người từ lâu nay vẫn trói buộc ông, bây giờ, trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời, mới đem đến cho ông cái di sản cao quư nhất của chủng tộc loài người, đó là: đời sống trường cửu bắt đầu ở nắm mồ!
Zanoni nói:
- Hỡi Thiên Thần! Con người vào lúc chết, thấy và hiểu được ư nghĩa của những điều bí hiểm từ trước vẫn khép chặt đối với y. Vào giờ này, khi mà sự hy sinh mạng sống của tôi cho một người khác, chấm dứt kiếp sống trường sinh của tôi trải qua nhiều thế hệ, tôi mới nhận thấy sự nhỏ nhen cạn hẹp của đời sống so với sự cao cả huy hoàng của cơi Chết! Nhưng, hỡi Thiên Thần cao cả, ngay lúc này, dẫu cho trước sự hiện diện của Ngài những liên hệ t́nh cảm của tôi vẫn c̣n làm cho tôi lo buồn. Để lại sau lưng tôi, trên cơi thế gian hung ác này, không người trợ giúp và không người bảo vệ, những người thân yêu v́ họ mà tôi chịu chết! Vợ tôi! Con tôi! Hỡi Adonai, hăy giúp can đảm cho tôi trong cơn thử thách đau đớn này!
Thiên Thần đáp với một giọng trách móc xen lẫn với một t́nh thương siêu nhiên thoát tục:
- Với tất cả sự minh triết huyền diệu của ông, với tất cả quyền năng quán thông dĩ văng và tiên liệu tương lai, ông vẫn c̣n thắc mắc về điều đó sao? Sức ông có là bao, đứng trước Đấng Thiêng Liêng điều khiển mọi sự và biết rơ tất cả? Có phải chăng ông nghĩ rằng sự có mặt của ông trên đời này có thể đem đến cho những người mà ông thương yêu, sự trú ẩn an toàn mà những kẻ nhỏ nhoi khiêm tốn nhất t́m thấy dưới cánh tay bảo vệ của Đấng Cha Lành ngự trên Trời? Ông đừng lo ngại ǵ cho tương lai của vợ con ông. Dù ông sống hay chết, cái tương lai của họ vẫn nằm trong tay của Đấng Tối Cao. Trong nhà ngục và trên máy chém, Thiên Nhăn của Ngài vẫn luôn luôn ḍm ngó, che chở, t́nh thương của Ngài c̣n sâu đậm hơn t́nh thương của ông, sự d́u dắt của Ngài c̣n sáng suốt hơn của ông, quyền năng cứu khổn pḥ nguy của Ngài c̣n hiệu lức hơn của ông!!!
Zanoni được thấm nhuần ân sủng thiêng liêng, bèn cúi đầu xuống trong im lặng, và khi chàng ngước mặt lên, th́ nỗi âu lo cuối cùng đă tiêu tan không c̣n nữa. Thiên Thần Adonai đă biến mất dạng, nhưng ảnh hưởng huyền diệu toát ra từ sự hiện diện của Người dường như vẫn c̣n phảng phất trong gian pḥng.
Trong một phút xuất thần, Zanoni thả hồn phiêu diêu trong không gian, chan ḥa cùng vạn vật và vũ trụ. Giữa những ṭa nhà cổ điêu tàn ở ngoại ô thành La Mă, chàng nh́n thấy từ đàng xa người đồng môn của ḿnh trên đường Đạo vẫn điềm nhiên lạnh lùng chăm chú vào những bài toán Thần Số và Kinh Kabala. Kiều Mâu đạo sư đang ngồi trong tịnh thất, bỗng cảm thấy rùng ḿnh, bèn ngẩng đầu lên và trong thâm tâm lúc ấy người mới nhận ra rằng tinh thần của Zanoni đang thức động đến tâm linh của ḿnh bằng đường lối thần giao cách cảm:
- Hỡi Kiềm Mâu, tôi vĩnh viễn từ giă đạo huynh trên cơi thế gian này! Người đồng môn cuối cùng của đạo huynh sẽ không c̣n nữa! Tôi sẽ tự do bước qua bên kia cửa Tử, c̣n đạo huynh vẫn c̣n sống măi với thời gian, và vào ngày Phát Xét cuối cùng, đạo huynh chắc vẫn c̣n sống để suy gẫm trên những nấm mồ của chúng tôi! Tôi bước vào cơi giới nơi đó linh hồn của những người thân yêu, v́ họ mà tôi hy sinh cái xác thể bằng đất sét này, sẽ cùng tôi sum họp trong niềm vui trường cửu.
Vào lúc sắp từ giă cuộc đời, tôi mới hiểu rằng bước Nhập Môn thật sự vào một đời sống thánh thiện và minh triết diệu hiền phải đi ngang qua những cửa của Thần Chết! Tôi đă nhận biết thế nào là cơn thử thách và chiến thắng thật sự... Hỡi Kiềm Mâu, hăy liệng quách đi cái bầu Kim Đơn của đạo huynh, hăy trút đi cái gánh nặng của bao nhiêu năm trường! Bất cứ nơi nào mà linh hồn đến trú ngụ, th́ nó vẫn được đặt dưới sự chăm nom che chở của Đấng Trường Cửu muôn đời, là Đại Hồn thiêng liêng của mọi vật.
Sự Hy Sinh Của Zanoni
Sau cuộc hội họp tại trụ sở Đảng Jacobins, ông Chánh Án Duy Mật, Chủ Tịch Ṭa Án Cách Mạng, bèn trở lại văn pḥng làm việc. Cùng đi với ông, có hai người nữa, là những người đại diện cho công lư vào bạo lực của Triều Đại Khủng Bố: đó là Biện Lư Phúc Khuê và tướng Hăng Ri, chỉ huy quân đoàn pḥng vệ thủ đôBa Lê. Bộ ba "Tam Đầu Chế" lợi hại này hội họp để bàn luận về những biện pháp sẽ áp dụng trong ngày hôm sau. Duy Mật nh́n xem bản danh sách những nạn nhân sẽ bị xử án vào sáng ngày mai và nói:
- Đây là một bản danh sách khá dài! Tám chục bản án trong một ngày! Và lịnh của Robert rất rơ ràng, không thể có sự hiểu lầm được. Tất cả đều phải xử và hành quyết nội trong ngày mai.
Biện Lư Phúc Khuê nói với một chuỗi cười ồn ào và thô bạo:
- Có ǵ khó! Chúng ta phải đem tất cả bọn ra xử tập thể. Tôi biết cách nói với Bồi Thẩm Đoàn:
"Hỡi các công dân, tôi chắc các đồng chí đều nhận rơ tội ác của các bị cáo chứ?" Ha ha! Bản danh sách càng dài, th́ công việc lại càng giản dị!
Chánh Án Duy Mật day lại nói với tướng Hăng Ri:
- Ngày mai, quần chúng sẽ đổ xô ra đường, tất cả các tầng lớp dân chúng đều nổi dậy. Rất có thể họ sẽ t́m cách ngăn chận các chuyến tù xa trên đường đi đến pháp trường. Đại tướng hăy cho lịnh báo động khẩn cấp, quân lính phải vơ trang đầy đủ và chuẩn bị sẵn sàng. Hăy tảo thanh mọi con đường, và tuốt gươm chém bất cứ người nào muốn chận nghẽn các đường phố.
Tướng Hăng Ri vỗ mạnh vào thanh gươm đeo bên hông làm cho Duy Mật giật ḿnh đánh thót một cái, và nói:
- Tôi hiểu lịnh của ông Chánh Án. Tôi sẽ không tha thứ kẻ nào vi phạm.
Nói xong, y đứng dậy chào từ giă, rồi quay lưng bước ra ngoài. Trong pḥng chỉ c̣n lại có hai người. Duy Mật nói với ông Biện Lư:
- Tôi thấy có một nữ ngoại nhân trong bản danh sách, một người đàn bà Ư. Nhưng không thấy cô ta bị tố giác v́ tội ǵ!
- Cần ǵ cái đó, phải chém luôn cho đủ số chẵn. Tám chục nghe gọn hơn là bảy mươi chín!
Khi đó một viên lục sự vào báo có khác đến viếng. Biện Lư Phúc Khuê có vẻ mệt mỏi, bèn cáo từ và rút lui. Chánh Án Duy Mật bèn cho mời người khách vào.
Người khách lạ bước vào ngồi trước mặt Duy Mật và nói:
- Thưa ông Chánh Án, mấy năm nay mắc bận rộn nhiều công việc đa đoan, không biết ông có nhớ chăng chúng ta đă từng gặp nhau xưa kia.
Vị thẩm phán nh́n kỹ gương mặt của người khách lạ, và đôi g̣ má tái nhợt của ông ta hơi có sắc trở lại.
- Có, hỡi công dân, tôi nhớ ra rồi.
- Chắc ông cũng nhớ cả những lời tôi nói khi đó? Hồi đó ông có bày tỏ ḷng bất măn về việc áp dụng án tử h́nh. Ông vui mừng mà tin tưởng rằng Cách Mạng sẽ chấm dứt mọi h́nh phạt đổ máu. Ông đề cao chánh trị gia Robert khi ông ta nói rằng: "Người đao phủ là một phát minh của những tay bạo chúa!" Tôi có cho biết khi ông nói như vậy, th́ tôi có cái linh cảm rằng chúng ta có ngày sẽ lại gặp nhau, và chừng đó th́ những quan điểm của ông về sự chết và triết lư cách mạng cũng sẽ thay đổi. Ông thấy tôi nói có đúng không, hỡi công dân Duy Mật, Chủ Tịch Ṭa Án Cách Mạng?
Duy Mật có vẻ hỡi lúng túng và nói:
- Ôi! Hồi đó tôi nói như người ta nói khi mà họ chưa bắt tay vào việc. Những cuộc Cách Mạng không phải được thực hiện bằng nước hoa hường! Nhưng thôi, hăy bỏ qua những chuyện nói chơi của thời quá khứ! Tôi cũng nhớ rằng hồi đó ông có cứu mạng cho một người bà con của tôi, và chắc ông sẽ vui ḷng mà được biết rằng tên thủ phạm vụ ám sát đó sẽ bị chém đầu vào ngày mai.
- Điều đó chỉ có liên hệ tới ông và việc làm của ông thôi. Xin ông cho phép tôi nhắc lại lời hứa của ông hồi đó rằng "nếu tôi có dịp nào cần đến ông, th́ ông sẽ ra công khuyển mă để đền đáp." Hỡi quan Ṭa nghiêm khắc, ông đừng tưởng rằng tôi đến để cầu xin một ân huệ nào có thể ảnh hưởng đến cá nhân ông. Tôi đến chỉ để xin dời phiên xử án lại một ngày sau cho một người khác.
- Không thể được, hỡi công dân! Tôi đă được lịnh của Chủ Tịch Robert rằng tất cả những người có tên trên danh sách của tôi, phải đem ra xử án vào ngày mai, không sót một người. C̣n bản án như thế nào, th́ c̣n tùy sự phán quyết của Bồi Thẩm Đoàn.
- Tôi không muốn xin ông giảm bớt số người trên bản danh sách. Xin ông hăy nghe tôi nói đây! Trên bản danh sách ấy có tên của một người đàn bà Ư, trẻ đẹp, vô tội, không những không có gây nên một tội lỗi ǵ, mà không c̣n ai có thể nghi ngờ hay tố giác một vi phạm nào cả. Chính ông, hỡi công dân Duy Mật, ông cũng không thể nào đọc bản án tử h́nh cô ta mà ḷng không run sợ. Thật là nguy hiểm nào nếu có ngày quần chúng nổi dậy và ngăn chận các chuyến tù xa đi ra pháp trường, rồi họ sẽ nh́n thấy bao nhiêu người trẻ, đẹp và vô tội bị đưa đi hành h́nh, và họ sẽ nghĩ thế nào?Duy Mật ngước mắt lên, và lại cúi mặt xuống dưới cái nh́n của người khách lạ. Y nói:
- Hỡi công dân, tôi không phủ nhận những điều ông vừa nói, nhưng lịnh trên phán xuống không thể đổi được.
- Không thể đổi số nạn nhân mà thôi. Bởi vậy tôi đề nghị thay thế một nạn nhân khác vào chỗ của người đàn bà mà tôi muốn cứu. Tôi xin thế vào đó cái đầu của một người biết rơ một vụ âm mưu hiện nay đang hăm dọa Chủ Tịch Robert và luôn cả ông. Và nếu ông biết rơ chuyện này, ông sẽ nhận thấy rằng dẫu thả hết tám chục người để đổi lấy cái đầu đó cũng c̣n có lợi rất nhiều.
Duy Mật sáng mắt lên và nói mau:
- A! Đây lại là một vấn đề khác! Nếu ông có thể làm được như vậy, tôi sẽ sử dụng quyền hạn và trách nhiệm của tôi để đ́nh chỉ phiên xử người đàn bà Ư lại một ngày. Bây giờ, ông hăy nói tên người kia đi!
- Người ấy đang đứng trước mặt ông!
Duy Mật kêu lên trong sự ngạc nhiên, với một vẻ sợ hăi lộ trên nét mặt:
- Ông sao? Ông? Và ông đến đây giữa lúc đêm khuya, để tự nạp ḿnh cho công lư? A! Đây là một cạm bẫy! Ông hăy run sợ đi! Hỡi con người điên rồ! Ông đang ở trong tay tôi, và tôi có thể quyết định số phận của cả hai người luôn thể!
Người khách lạ nói với một nụ cười b́nh tĩnh và ngạo nghễ:
- Ông có thể, nhưng mạng sống của tôi không có ích lợi ǵ cho ông nếu tôi không tiết lộ ra những điều bí mật. Ông hăy ngồi yên và nghe tôi nói: ông cứ bắt tôi giam vào khám lớn, và đem ra xử cùng một lượt với bảy mươi chín người kia vào ngày mai, dưới cái tên là Zanoni. Nếu những điều do tôi tiết lộ không làm ông thỏa măn, chừng đó ông vẫn có thể bắt giữ lại người đàn bà mà tôi muốn cứu bằng cái chết của tôi. Tôi chỉ xin đ́nh hoăn phiên xử cho cô ấy có một ngày thôi. Ngày mốt, tôi đă trở thành cát bụi và ông có thể trả thù đối với sinh mạng của người c̣n nằm trong tay ông.
Hỡi ông Chánh Án, bút và mực đây! Ông hăy viết trát lịnh cho người cai ngục rằng ông đ́nh chỉ phiên xử người đàn bà Ư lại một ngày, và tôi sẽ đích thân đem tờ trát ấy đến nhà giam của chính tôi. Để chứng thật những ǵ tôi có thể tiết lộ cho ông biết, ngày từ giờ phút này, tôi có thể nói rằng tên ông đă được ghi trên bản danh sách những kẻ phải "đền nợ máu" đối với nhân dân. Tôi có thể nói cho ông biết bàn tay nào đă viết ra bản danh sách đó, và những ai sẽ đứng ra lật đổ triều đại của Robert và những người cộng tác.
Duy Mật tái mặt, và đôi mắt y t́m cách lẩn tránh cái nh́n như điện chớp đang chế ngự và khuất phục y. Dường như chịu ảnh hưởng của một mănh lực vô h́nh mà y không chống lại được, y viết một cách vô tâm trong khi người lạ mặt đọc từng chữ cho y viết. Y vừa cười gượng vừa nói:
- Tôi đă hứa giúp ông, nay tôi phải giữ lời hứa. Để đáp lại, ông có thể nào tiết lộ cho tôi biết chăng những sự việc mà ông định để đến mai mới nói? Có thể rằng ông và cả người đàn bà ấy sẽ được hưởng, không những một sự triển hoăn, mà luôn cả sự trắng án.
- Tôi chỉ nói những điều ấy trước Ṭa mà thôi. Vả lại, hỡi ông Chánh Án, có lẽ những điều tối tiết lộ sẽ không có lợi cho ông, và chính vào lúc mà tôi vén đám mây mù, th́ có thể cơn giông băo cũng sẽ nổi dậy.
- Có phải ông là một nhà tiên tri chăng? Nếu vậy, ông hăy lo cho chính bản thân ông! Chúng tôi đă quá quen giỡn mặt với cái chết đến nỗi chúng tôi quên cả sự tôn kính đối với nó. V́ lẽ ông đă chịu cung hiến cái đầu ông, nên tôi chấp nhận. Ngày mai có lẽ ông sẽ hối tiếc, nhưng chừng đó th́ quá trễ.
- Phải, đă quá trễ, thưa ông Chánh Án! - người lạ mặt lập lại câu ấy như một tiếng vang.
- Nhưng ông hăy nhớ rằng đó không phải là một ân huệ phóng thích, mà chỉ là sự triễn hoăn một ngày, như tôi đă hứa, đối với người đàn bà ấy. Ngày mai, tùy theo việc ông có làm thỏa măn tôi hay không, mà bà ấy được sống hay phải chết. Tôi rất thành thật, hỡi công dân! Khi ông chết, linh hồn ông chớ có trở về khuấy phá tôi v́ tôi đă phản bội lời cam kết nhé!
- Tôi chỉ xin có một ngày. C̣n sau đó, tôi để cho công lư và Thiêng Liêng định đoạt. Thôi xin chào ông!
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 285 of 1146: Đă gửi: 19 June 2010 lúc 11:07pm | Đă lưu IP
|
|
|
TÂY PHƯƠNG HUYỀN BÍ
Kiều Dung bị giam trong nhà ngục chỉ dành riêng cho những người bị lên án trước khi đem ra xử. Nàng không hiểu tại sao nàng bị bắt. Nàng cũng không hiểu họ muốn ǵ khi những người bị giam chung một khám, ngạc nhiên về cái sắc đẹp phi thường của nàng, tựu họp quây quần chung quanh nàng để hỏi thăm và nói với nàng những lời an ủi khích lệ.
Từ trước đến nay, nàng vẫn quen có cái thành kiến không tốt đối với những người mà luật pháp lên án v́ những tội ác của họ, nhưng nay nàng lấy làm ngạc nhiên mà thấy những người đầy ḷng nhân ái, hiền từ, gương mặt sáng sủa tinh anh, lại là những người phạm tội mà luật pháp không dành cho một h́nh phạt nào khác hơn là cái chết.
Một vị giáo sĩ Gia Tô già, đầu bạc, trong đám tù nhân, hỏi nàng:
- Con hỡi! Tại sao con lại đem con vào đây?
- Chính con cũng đang tự hỏi như thế!
Một người trong nhóm nói:
- A! Nếu cô không biết bắt v́ tội ǵ, th́ thật là... đáng ngại lắm!
- C̣n con tôi? Số phận nó sẽ ra sao? (Nàng được phép đem con theo vào khám).
- Không sao, chắc họ sẽ để cho nó sống.
Kiều Dung tự trách ḿnh và thầm nhủ:
- Thế là ta đă làm cho con chàng thành một đứa mồ côi ở trong ngục tối! Hỡi Zanoni! Xin chàng đừng hỏi em, dẫu rằng chỉ bằng tư tưởng, rằng em đă làm ǵ đối với đứa con của chúng ta.
Đêm đến, mỗi người tù nhân đều tựu đến trước cửa khám có song sắt để nghe điểm danh. Tên nàng có trong bản danh sách của những người tử tội. Vị giáo sĩ già, sẵn ḷng chờ chết hơn, nhưng lại không có tên trong bản danh sách tử tù, bèn đặt hai bàn tay trên đầu Kiều Dung làm phép, vừa ban ân huệ cho nàng vừa rơi hai hàng lệ. Kiều Dung ngạc nhiên, nhưng không khóc. Đôi mắt nh́n xuống, hai tay khoanh trước ngực nàng cúi đầu an phận trước định mệnh. Kế đó, giọng người cai ngục kêu lớn một tên khác, và một người đàn ông vừa đẩy nàng một cách thô bạo vừa chen lấn tới trước để nh́n và nghe cho rơ, bèn rú lên một tiếng thất vọng và căm hờn. Nàng quay lại nh́n, và người kia cũng nh́n nàng. Qua những kư ức của dĩ văng, nàng nhận ra bộ mặt gớm ghiếc hồi thuở nọ. Nhưng nét mặt xấu xí của My Cốt liền đổi qua một nụ cười quỷ quái:
- Hỡi người đẹp! Ít nhất cái máy chém cũng giúp chúng ta được xum họp! Ha ha!
Nói xong, y phát lên một chuỗi cười ồn ào thô tục, vượt qua đám đông và trở về chỗ ngồi trong một góc khám. Trong khi chờ đợi ngày thọ h́nh, Kiều Dung bị nhốt riêng trong một xà lim tối. Người ta vẫn để cho nàng giữ đứa con bên nàng tới giờ phút chót.
Bỗng có tiếng kêu to: "Hăy dang ra! Hăy c̣n chỗ trống trong những xà lim đă chật người! Đây là một tù phạm mới sẽ ra pháp trường vào sáng ngày mai!"
Khi người cai ngục một tay cầm đèn, đưa người tù nhân mới vào, người này bèn nắm tay y và nói nhỏ th́ thầm tận tai. Người ấy vừa nói xong, liền rút một chiếc nhẫn đang đeo ở ngón tay, hột kim cương khá lớn chiếu sáng rực dưới ánh sáng lập ḷe của ngọn đèn dầu và nói:
- Hăy cứ đánh giá tám chục cái đầu sắp rụng này mỗi cái là một ngàn quan, th́ chiếc nhẫn này vẫn c̣n đáng giá gấp bội!
Người cai ngục hơi do dự, hột kim cương chiếu lấp lánh dưới cặp mắt trố nh́n thao láo của y. Với cái nghề tàn ác thô bạo này, y đă dập tắt tất cả những ǵ là nhân đạo người y: y không c̣n có ḷng trắc ẩn, t́nh thường, hay hối hận. Nhưng ḷng tham của y vẫn c̣n! Và thế là... người tù nhân lạ mặt kia đă thắng! Họ cùng như đi qua dăy hành lang đen tối, rồi đến trước cửa xà lim mà người cai ngục đă làm dấu sẵn nhưng bây giờ th́ y bèn xóa bỏ, v́ người nữ tù ở trong đó sẽ được đ́nh hoăn lại một ngày. Người cai ngục lấy ch́a khóa mở cửa, người lạ mặt cầm lấy cái đèn dầu, rồi bước vào.
Đứa Trẻ Mồ Côi
Kiều Dung đang cầu nguyện. Nàng không nghe tiếng cửa mở, cũng không nh́n thấy bóng người trên nền đá. Nàng quỳ gối trong một góc xà lim, và đứa bé tuy không hiểu ǵ, cũng bắt chước khoanh hai tay nhỏ xíu và cũng quỳ gối một bên mẹ nó.
Zanoni ngừng lại và nh́n hai mẹ con một cách tŕu mến. Chàng nghe giọng nói của vợ, tuy rằng nàng không hề thốt ra lời, đó là cái giọng nói xuất phát từ bên trong nội tâm nhưng khá mạnh mẽ thiết tha để cho Thượng Đế nghe được:
"Lạy Chúa, nếu có phải là con sẽ không bao giờ gặp lại chàng, xin Chúa có thể nào làm cho t́nh yêu của chúng con được vĩnh cửu dẫu rằng ở tận bên kia nắm mồ? Dẫu rằng số mệnh của chúng con ra sao, dẫu cho chúng con phải cách xa nhau đến mười thế kỷ, xin Chúa hăy giúp cho chúng con sẽ c̣n gặp lại nhau. C̣n con của chàng, nó cũng đang quỳ trước Chúa bên cạnh con, ngày mai đây, nó sẽ ngủ ở đâu? Bàn tay nào sẽ nuôi dưỡng nó? Ai sẽ là người bảo học và che chở cho nó trên cơi đời này?"
Đến đây, nàng ngừng lại, những tiếng khóc nức nở nghẹn ngào làm lấp mất giọng nói của nàng.
- Chính em, hỡi Kiều Dung! Người mà em đă bỏ rơi, nay đến cứu mẹ con em!
Nàng rùng ḿnh khi những lời này vang dội âm thanh bên tai nàng! Nàng bèn đứng phắt dậy. Chàng đang đứng đó, vẫn với phong độ trẻ đẹp phi thường như độ nào trong nhà ngục tối tăm rùng rợn, và vào giờ phút nguy khốn này! Với một tiếng kêu reo mừng sung sướng không tả, mà có lẽ những vách tường nhà ngục này chưa từng nghe bao giờ, nàng chạy lại và để rơi ḿnh thụp xuống đất dưới chân chàng.
Zanoni cúi xuống đỡ nàng dậy, nhưng nàng thoát ra khỏi ṿng tay của chàng và khóc nức nở.
- Ḱa, em! Anh đến đây để cứu em. Sao em lại ngảnh mặt đi? Em c̣n muốn trốn anh nữa sao?
- Em không trốn anh nữa đâu! Không phải v́ em mà em đă bỏ anh, v́...
Kế đó, nàng đột ngột đứng dậy, ẵm đứa bé lên và đặt nó lên ṿng tay của chàng. Đứa bé dường như đă nhận ra cha nó, bèn áp mặt vào ngực Zanoni, và nằm gọn trong ḷng chàng như chim nằm trong ổ rồi ngước mặt lên nh́n mẹ nó vừa mỉm cười.
Zanoni đến để cứu nàng. Nàng không hỏi cứu bằng cách nào, nàng tin lời chàng mà không thắc mắc hay do dự ǵ cả. Thế là sau cùng, họ sẽ được tái hợp với nhau, họ sẽ tránh xa những cảnh tượng sắt máu ở nơi này. Ḥn đảo xinh như mộng ngoài khơi xứ Hy Lạp sẽ đón nhận họ trở lại một lần nữa. Nàng vui cười một cách ngây thơ như trẻ con trước cái viễn ảnh thần tiên đó trong nhà ngục tối tăm... Nàng nói:
- Lúc năy em tưởng rằng em đă sẵn sàng chờ đón cái chết. Em chỉ nh́n thấy anh, sống gần kề bên anh thôi, là em lại thấy rằng cuộc đời êm đẹp tươi vui. Anh hăy nh́n qua song cửa sổ: các ngôi sao đă mờ dần, ngày mai đă sắp đến, ngày mai cửa nhà ngục sẽ mở để chúng ta được tự do! Anh đă nói rằng anh đến để cứu em, em không nghi ngờ ǵ cả! Ôi! Cái ngày mai đó đẹp làm sao! Ủa! Sao anh không mỉm cười với em? Hử anh? Ngày mai há chẳng phải là một ngày tốt đẹp của chúng ta sao? Anh ác thật! Hay anh vẫn c̣n muốn trừng phạt em, nên anh không cùng chia sẻ niềm vui của em?...
Zanoni đáp sau một cơn im lặng:
- Kiều Dung! Em c̣n nhớ chăng ngày nọ khi chúng ta ngồi trên băi cát gần bên động đá trên hải đảo, em có hỏi anh về đạo bùa anh đeo trên cổ. Đó là cái di vật cuối cùng của quê hương xứ sở anh, và mẹ anh lúc hấp hối đă đeo vào cổ anh. Khi đó anh có hứa là sẽ tặng cho em ngày nào mà cuộc đời chúng ta cùng chịu ảnh hưởng của những định luật giống như nhau.
-À! Em nhớ ra rồi!
- Ngày mai, nó sẽ thuộc về em.
- À! Cái ngày mai... đáng yêu của em!
Bên ngoài cửa sổ, ánh sáng lờ mờ của buổi b́nh minh đă bắt đầu hiện lên trên nền trời. Một ngày mới sắp đến. Ngày nay là ngày quyết định vận mệnh của nước Pháp. Trong sân các Ṭa Án, đă bắt đầu xuất hiện sự náo nhiệt ồn ào như mọi ngày. Dầu việc ǵ xảy ra, bất luận ai thắng ai bại trong cuộc tranh chấp quyền hành, ngày nay tám chục cái đầu sẽ rơi trên máy chém!
Quá mệt mỏi, Kiều Dung đă ngủ mê. Zanoni đứng bên cạnh nh́n xem nàng ngủ, mà ḷng chàng xúc động vô ngần! Giấc ngủ này, nàng sẽ không c̣n thấy chàng bên cạnh nữa khi nàng tỉnh giấc. Nàng không thể biết sự êm ái, an toàn của cái giấc ngủ đó đă được mua với cái giá đắt là dường nào! Cái ngày mai, mà nàng vẫn thấp thỏm chờ mong, nay đă hết. Nàng sẽ tiếp đón cái ngày mai đó như thế nào khi thấy rơ sự thật phũ phàng mà nó đem đến?
C̣n chàng? Zanoni quay lại, và nh́n thấy đứa con, thằng bé vẫn trố cặp mắt đen lánh và sáng rỡ nh́n cha nó. Zanoni cúi xuống hôn lên mặt con và tự nhủ thầm:
- Từ nay, con không bao giờ c̣n thấy cha nữa: từ nay cha cũng sẽ không c̣n bảo vệ che chở cho con. Số phận của con sẽ không thể được đào tạo như cha mong ước. Con sẽ phải chia sẻ cái số phận chung của chủng tộc loài người: con phải tranh đấu, thất bại, khổ đau... Nhưng cha ước mong sao cho cuộc thử thách của con sẽ được êm ái, và tinh thần con sẽ dũng mănh, để biết thương yêu và tin tưởng! Khi cha nh́n con một lần cuối cùng, ước ǵ t́nh yêu của cha đối với mẹ con được chuyển sang cho con, và mong sao mẹ con sẽ t́m thấy trong cái nh́n của đôi mắt con, và mong sao mẹ con sẽ t́m thấy trong cái nh́n của đôi mắt con, sự khích lệ và an ủi của cha! À! Họ đă đến kia rồi!... Phải... Thôi, cha sẽ đợi cả hai mẹ con ở bên kia nấm mồ!
Cánh cửa pḥng giam từ từ hé mở, người cai ngục xuất hiện và xuyên qua khe cửa mở, một tia nắng mặt trời dọi vào pḥng.
- Hỡi công dân, giờ của anh đă điểm!
- Chttt! Nàng c̣n ngủ! Đợi một chút! À... Xong rồi! Nhờ Trời, nàng vẫn c̣n ngủ mê!
Zanoni không dám hôn nàng lần cuối cùng, sợ nàng thức giấc. Chàng chỉ đeo vào cổ nàng đạo linh phù, nó sẽ thay thế cho những lời từ giă, và hứa hẹn sẽ tái ngộ ở thế giới bên kia.
Zanoni bước ra cửa, rồi quay đầu nh́n lại... một lần cuối cùng... Cánh cửa khép từ từ. Chàng đă vĩnh viễn ra đi không trở lại! Sau cùng Kiều Dung đă thức giấc, nh́n dáo dác chung quanh và kêu:
- Zanoni, trời sáng rồi!
Không một tiếng đáp lại. Lạ thật! Phải chăng đó chỉ là một giấc mơ? Nàng vén lại mái tóc xỏa trước trán làm che án tầm mắt của nàng, và nhận thấy sợi dây bùa đeo trên cổ. Không! Đó không phải là một giấc mơ!
"Trời hỡi! Chàng đă đi rồi!"
Nàng lao ḿnh ra chỗ song cửa, và kêu to, người cai ngục bước tới.
- Chồng tôi đâu? Cha của đứa bé?
- Hỡi nữ công dân, ông ta đă đi rồi.
- Đi đâu, hử?
- Đi ra pháp trường!
Cánh cửa lại khép chặt. Kiều Dung để rơi ḿnh xuống ghế, im lặng với nỗi khổ đau, thất vọng. Như trong một tia chớp, nhưng lời nói của Zanoni, vẻ u buồn, và sự hy sinh của chàng, đến khi đó mới trở nên rơ ràng ư nghĩa trong trí óc của nàng. Trong khi nàng vẫn ngồi đó, câm lặng, không thốt nên một lời và im như pho tượng đá, một linh ảnh lướt qua như một cái bóng trong tâm hồn nàng: cảnh tượng rùng rợn trong Ṭa án, vị quan ṭa, bồi thẩm đoàn, viên biện lư buộc tội và trong số những nạn nhân, có một người hiên ngang ra đứng trước vành móng ngựa.
- Anh biết rơ những mối nguy cơ đang hăm dọa nền Cộng Ḥa. Anh hăy nói những ǵ anh biết.
- Tôi biết, và tôi giữ đúng lời hứa. Hỡi quan ṭa, tôi xin tiết lộ cho ông biết định mệnh của ông. Tôi biết rằng cái t́nh trạng vô chính phủ, mà ông gọi là quốc gia, sẽ chậm dứt vào lúc chiều nay. Ông hăy nghe kia những tiếng chân người dồn dập, và những tiếng la hét ồn ào của dân chúng! Hỡi những người chết! Hăy chuẩn bị tiếp đón Robert và bọn đồng lơa ở dưới địa ngục!
Khi đó, những thư tín viên, những sứ giả mặt mày tái nhợt và hoang mang sợ hăi tràn vào pḥng: tất cả đểu là hỗn độn, kinh hoàng, khủng khiếp!
- Kẻ âm mưu tạo loạn sẽ phải đền tội!... Và ngày mai, người đàn bà mà anh muốn cứu sẽ phải chết.
- Ngày mai, thưa ông Chánh Án, chính ngọn đao trên máy chém sẽ rơi xuống đầu ông!
Chạy xuyên qua những đường phố đông nghẹt dân chúng, là những chiếc tù xa cuối cùng chở các nạn nhân ra pháp trường. A! Dân chúng rốt cuộc đă thức tỉnh! Những tội nhân may ra khỏi chết! Thần Chết đă bị hạ bệ! Chủ tịch Robert đă bị truất phế! Dân chúng chạy ra đường định giải thoát cho những tù nhân! Trên những chiếc xe cây, đứng cạnh Zanoni, một người khoa chân múa tay miệng kêu ríu rít, coi lại càng xấu xí dị dạng hơn lúc thường. Đó là người mà trong những giấc mơ tiên tri, Zanoni đă từng thấy đứng bên cạnh chàng vào lúc thọ h́nh.
My Cốt hét lên trong cơn tuyệt vọng:
- Bớ dân chúng, hăy tiến lên! Tiến lên và giải cứu cho chúng tôi!
Trong đám quần chúng, người ta thấy có một người đàn bà trẻ đẹp, tóc đen buông xơa rối bù, đang chen lấn để tiến đến gần đoàn tù xa. Nàng kêu to bằng một giọng miền Nam nước Ư:
- Linh Đông đâu rồi! Quân đao phủ, mi đă làm ǵ Linh Đông của ta?
Nàng vừa nói vừa trố mắt nh́n đám tù nhân trong xe nhưng không t́m thấy người mà nàng t́m kiếm.
- Cám ơn Trời! Tôi đă không nỡ hại chàng!
Dân chúng mỗi lúc càng tiến đến gần và sắp sửa bao vây đoàn tù xa, chỉ trong một lúc nữa là đám tù nhân đă được giải thoát khỏi tay đao phủ. Nhưng, ḱa Zanoni! Tại sao gương mặt chàng lại vẫn c̣n cái vẻ an phận và không biểu lộ một niềm hy vọng nào? Bỗng nhiên có tiếng vó ngựa dồn dập từ xa chạy tới mỗi lúc một gần. Tuân theo thượng lệnh, Tướng Hăng Ri chỉ huy toán kỵ binh Bảo An, xông xáo đẩy lui đám rừng người trên các đường phố. Đoàn kỵ binh tiến đến mau như cơn gió lốc, và giải tán đám đông chung quanh đoàn xe. Trong số những người toan cướp xe để giải thoát tù nhân, một số chạy tán loạn, một số bị ngựa đạp té ngă trên đường lộ. đoàn kỵ binh tuốt gươm trần chém loạn xạ vào đám người định cướp tù xa, nhiều người ngă gục trên vũng máu đào, trong số đó có người sơn nữ miền Nam nước Ư, với mái tóc đen huyền đẫm máu, trên môi co quắp dường như vẫn thoảng một nụ cười trong khi nàng th́ thầm một câu nói cuối cùng:
- Linh Đông hỡi! Em không có giết anh!
Đoàn tù xa đă đi đến pháp trường, trước mặt đă hiện rơ cái máy chém với luỡi dao sáng quắc khổng lồ, rùng rợn! Họ đi hàng một bước lên đài, từng người một, họ đút đầu vô máy chém: một người,... một người nữa... và một người nữa!...
Thế rồi,... đến lượt của chàng!
Từ trong ngục tối, nàng nh́n thấy cảnh tượng này trong giấc mơ, bèn kêu lên:
- Khoan đă, chàng đừng chết vội! Đừng bỏ em trong cô đơn! Hăy nghe em nói đây. Ủa! Lạ nhỉ! Sao anh c̣n có thể mỉm cười được?
Phải! Đôi môi tái nhợt của chàng c̣n mỉm cười! Và trong nụ cười đó, toàn thể không gian dường như chói rạng một ánh sáng trường cửu, vô cùng... Linh hồn nhà thuật sĩ đă vượt lên khỏi mặt đất, bay lượn trên không gian trước mặt nàng, không phải trong một h́nh thể vật chất nữa, mà như một niềm vui tươi, sáng lạn, để an ủi, xoa dịu tâm hồn nàng! Sau lưng chàng, cơi Trời đă mở rộng đến tận chốn vô biên! Hằng hà sa số những các cấp đẳng Thiên Thần đă xuất hiện và một ca khúc đón mừng chàng được đồng loạt ḥa xướng lên với những âm điệu thần tiên của cơi Trời: " Chúng ta đón mừng người đă được tinh luyện bằng đức hy sinh, người đă dùng cái chết để trở nên bất tử! Sự chết đó là thế đó!"
Hân hoan sung sướng giữa các hàng Thiên Thần, linh hồn nhà Thuật Sĩ day lại nói th́ thầm với người tri kỷ: "Hỡi người bạn đường của anh trên cơi vô cùng, sự Chết là như thế đó!"
"Ơ ḱa! Tại sao họ ra dấu cho chúng ta, những người đang đứng trên các nóc nhà kia? Tại sao quần chúng lại tràn ra khắp các nẻo đường? Tại sao có tiếng chuông nhà thờ đổ khắp nơi? Tại sao tiếng mơ reo vang? Hăy nghe kia! Tiếng đại bác gầm rung chuyển mặt đất! Tiếng va chạm lích kích của các ṇng súng và vơ khí! Hỡi các bạn tù nhân! Rốt cuộc có hy vọng ǵ đến với chúng ta không?"
Đó là những câu hỏi mà những tù nhân trong khám đưa ra cho nhau. Ngày đă hầu tàn, hoàng hôn đă đến, và những gương mặt tái nhợt vẫn cứ thập tḥ bên các chấn song, để mong nh́n thấy những dấu hiệu ǵ khác lạ ở bên ngoài. Từ những khung cửa sổ và trên những nóc nhà ở vùng lân cận, họ vẫn nh́n thấy những nụ cười thân hữu và những bàn tay ra dấu làm các ám hiệu. Sau cùng, một tin đồn được tung ra: " Robert đă bị hạ bệ, triều đại Khủng Bố đă chấm dứt!... Nhờ Trời, chúng ta sẽ được thoát chết!"
Trong căn pḥng của Phủ Chủ Tịch, nhà bạo chúa và các cố vấn đang lắng tai nghe những tiếng gầm thét rung chuyển từ bên ngoài. Th́nh ĺnh, Tướng Hăng Ri, mặt đỏ ngầu v́ say rượu và say máu, hăm hở xong vào pḥng với một bước đi loạng choạng, quăng xuống đất thanh gươm vẩn c̣n rỉ máu nhỏ giọt và nói:
- Thôi rồi! Hỏng bét hết cả!
- Đồ khốn kiếp! Chính v́ sự hèn nhát của mi mà làm cho chúng ta chết cả đám! Đồng chí Cổ Phi giận giữ vừa hét lớn vừa xông lại, hai tay nắm lấy Hăng Ri giở hổng lên và ném qua cửa sổ. Bị ném từ lầu trên xuống đất, Tướng Hăng Ri té vỡ sọ chết không kịp ngáp.
B́nh tĩnh trong cơn thất vọng, Sanh Juưt rời khỏi chỗ ngồi, đứng dậy nh́n ra cửa sổ xem đám rừng người tiến tới như nuớc vỡ bờ. Cửu Thông bỏ chiếc xe lăn, ḅ lết nửa thân ḿnh tàn phế tới núp dưới gầm bàn. Một tiếng súng nổ: Chủ Tịch Robert toan tự sát, nhưng bàn tay run rẩy quá mức nên bắn trúng chỗ nhược, viên đạn chỉ chạy sướt qua quai hàm!
Đồng hồ ṭa Đô Chính điểm ba giờ sáng. Do cánh cửa lớn bị phá vỡ tung, quần chúng tràn vào dinh, đi xuyên qua các hành lang tối om, và xông vào Văn Pḥng Chủ Tịch. Gương mặt hốc hác, tái xanh và vấy máu đỏ ḷm, không thốt nên được một lời, nhưng vẫn luôn tỉnh táo, Chủ Tịch Robert ngồi yên trên ghế bành, lưng thẳng và không một cử động, vẫn c̣n thách thức định mệnh. Quần chúng vây chung quanh, la hét và nguyền rủa y thậm tệ, khí giận bốc lên những cặp mắt đỏ ngầu và những gương mặt đầy sát khí biểu lộ ḷng uất hận căm hờn tột độ dưới ánh sáng lập ḷe của những ngọn đuốc.
Đám đông xông vào xốc Robert dậy, lôi y đi ra và đem y vào khám lớn. Thế là từ nay, bạo chúa Robert không c̣n được ai nhắc đến nữa! Thành phố Ba Lê được giải phóng tự do, hằng ngh́n hằng muôn người đổ xô ra đường hoan hô nồng nhiệt. Chiếc tù xa đang lăn bánh chạy về hướng Công Trường Cách Mạng có chở theo bạo chúa Robert, Sanh Juưt, Duy Mật, Bá Văn và Cửu Thông cùng đi ra pháp trường.
Người đao phủ giật mạnh cuộn vải băng trên cái xương hàm găy của Robert... Một tiếng kêu thất thanh... quần chúng phá lên cười.. và lưỡi đao lớn hạ phập xuống giữa những tràng hoan hô như giông băo của quần chúng đứng xem dưới đài. Thế là xong đời của một bạo chúa! Và đồng thời, triều đại Khủng Bố cũng chấm dứt.
Một ngày mới rọi ánh nắng b́nh minh vào các gian nhà ngục. Từ đề lao nọ đến xà lim kia, những tù nhân truyền tin tức cho nhau. Quần chúng đă lần lượt nối đuôi nhau kéo vào khám lớn. Các tù nhân mừng rỡ hân hoan tuôn tràn ra ngoài cùng với những người cai ngục để tiếp đón dân chúng vào giải thoát cho họ. Những cai ngục này trong ḷng sợ sệt, cũng giả vờ chia sẻ nỗi vui mừng của đám tù nhân. Mọi người đều đi ṿng quanh quan sát một lần cuối cùng những hành lang ngoắt ngoéo như mê cung trong khám lớn, trước khi họ rời khỏi nơi địa ngục trần gian hắc ám này! Họ bước vào một xà lim đă bị lăng quên từ sáng ngày hôm qua. Trong đó, họ trông thấy một người thiếu phụ đang quỳ gối trong tư thế cầu nguyện, mái tóc đen và dài buông xơa xuống hai vai tḥng xuống trước ngực, gương mặt ngước lên trời, hai mắt hé mở, trên môi nở một nụ cười đầy an lạc.
Họ lùi lại trong sự ngạc nhiên mặc dầu trong cơn vui nhộn ồn ào. Họ chưa từng thấy một người nào đẹp như thế bao giờ, và khi họ rón rén buớc lại gần, v́ họ tưởng rằng người thiếu phụ đang cầu nguyện, họ mới nh́n thấy đôi môi nàng không cử động và toàn thân nàng không c̣n hơi thở nhịp nhàng của người sống, rằng sự yên nghỉ đó là sự yên nghỉ cuối cùng, vĩnh viễn ngh́n thu, và sắc đẹp cùng cơn đại định của nàng có mang dấu vết của Thần Chết... Tất cả mọi người đều lẳng lặng đứng tựu họp chung quanh nàng. Và họ nh́n thấy dưới chân nàng, một đứa hài nhi vừa tỉnh giấc v́ tiếng động do những bước chân của họ gây nên. Đứa trẻ vừa chăm chú nh́n họ, vừa đưa cánh tay bé nhỏ ra mân mê vạt áo của mẹ nó... Một đứa trẻ mồ côi nằm trên nền nhà ngục!
Một người đàn bà trong đám đông cất tiếng nói:
- Tội nghiệp đứa bé! Ngưới ta nói rằng người cha vừa chết sáng hôm qua, và hôm nay lại đến phiên người mẹ! Côi cút một ḿnh, số phận nó rồi sẽ ra sao đây?
Đứa bé cười một cách hồn nhiên với đám đông trong khi người đàn bà ấy b́nh phẩm như trên. Vị giáo sĩ già đầu bạc cũng đứng trong nhóm ấy, nói bằng một giọng dịu dàng:
- Ḱa! Bà hăy nh́n xem! Đứa bé đang cười! Những trẻ mồ côi được sự che chở của Thượng Đế!
Dịch Giả: Nguyễn Hữu Kiệt
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 286 of 1146: Đă gửi: 20 June 2010 lúc 12:40pm | Đă lưu IP
|
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 287 of 1146: Đă gửi: 20 June 2010 lúc 12:48pm | Đă lưu IP
|
|
|
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
ĐIỂM ĐẠO
Thật may mắn cho tôi không những được chuẩn bị bởi sự dạy dỗ kiên tŕ của Katschenla mà c̣n được một người bạn là một vị lạt ma Mông Cổ biết Anh ngữ, đă giúp tôi học hỏi kinh sách Tây Tạng, bù lại tôi chỉ cho ông tiếng Pali và thêm Anh văn.
Ông đă học tập hai mươi năm trong một tu viện đại học gần Lhasa, đạt được học vị Géché và về sau cùng làm việc với nhà Đông phương học Stael-Holstein tại Bắc Kinh. Tên ông là Tubden Scherab, nhưng thường ông được gọi là “Géchéla”.
Nhờ ông làm thông dịch mà tôi không gặp khó khăn ǵ để hiểu giáo pháp của đạo sư và trao đổi riêng với ông, mặc dù tôi sớm biết vị đạo sư không cần đến thông dịch viên v́ ông đọc tư tưởng của tôi như đọc một cuốn sách đang mở.
V́ biết tôi đă dành phần lớn thời gian trưởng thành của ḿnh để nghiên cứu Phật giáo, ông không phí giờ mà giảng cho tôi những giáo lư tổng quát nữa mà đến ngay với đề tài của phép tu thiền định, điều đối với ông hệ trọng hơn mọi ư kiến thức lư thuyết. Đối với tôi, điều này từ xưa đến nay chính là khía cạnh chủ yếu của đạo Phật cũng như đời sống tôn giáo.
Tới nay th́ tôi dựa vào trực giác của riêng ḿnh và các khai thị trong hệ Pali về việc hành tŕ thiền định, nhất là kinh Tứ Niệm Xứ [13] thời đó được phổ biến không phải theo phương pháp mới mà theo cách đơn điệu của trường phái Mynamar. V́ thế mà tôi hết sức quan tâm được đưa vào các phương pháp truyền thống, từng bước đi sâu vào sự chứng thực thiền định.
Trong ngày mà Tomo Géché Rimpotsché chính thức nhận tôi làm đệ tử và quán đỉnh cho tôi bằng một buổi lễ điểm đạo, trong đó tôi nhận được thần chú đầu tiên của ḿnh, th́ một điều quan trọng trở nên rơ ràng, điều mà tôi chưa có trong cuộc đời tôn giáo của ḿnh.
Đó là một biến cố tâm linh, nó không cần bất cứ triết lư hay lư luận phải trái ǵ v́ nó không hề dựa trên sự hiểu biết lư thuyết mà là những sự thực xảy ra và sự chứng nghiệm trực tiếp và nhờ đó mà tôi chắc rằng, mục đích ḿnh theo đuổi không phải là một ư niệm trừu tượng do đầu óc hư cấu ra, mà là t́nh trạng ư thức có thể đạt tới thực, một thực tại có thể nắm bắt.
Thế nhưng biến cố đă cho thấy thực tại có thể nắm bắt này lại quá tinh tế, vượt qua mọi so sánh, nên sự mô tả quá tŕnh điểm đạo và những biến cố trong đó sẽ hết sức thiếu sót như ta t́m cách mô tả cảm thụ âm nhạc bằng ngôn từ.
Đúng là sự mô tả chi tiết kỹ thuật và những cái gọi là “khách quan” sẽ hủy hoại cái chủ yếu, tính chất xúc cảm và nội dung đích thực của sự cảm thụ, v́ sự “cảm xúc” trong nghĩa đích thực chính là cái làm tâm ta lay động, đào sâu, đánh thức nó, đưa lên một đời sống cao hơn, tới một khả năng nhận biết rộng hơn.
Biểu hiện cao nhất của điều này là sự giác ngộ, sự chứng thực tự tính ánh sáng của ta, đồng thời đưa tới sự vận động tự tại, vô ngại, thanh tịnh nhưng lại bất động của tâm là vô minh dù chúng ta do loại tư tưởng khái niệm, tham muốn hay bám giữ tạo ra.
Sự bất động lại không đồng nghĩa với cái dừng chết, không có nghĩa kiềm lại tư tưởng mà là ḍng tâm thức không bị cản trở bởi những khái niệm tự tạo và ước muốn ích kỷ hay ḍng chảy tự nhiên của nó bị chia cắt ra từng phần với hy vọng phân tích t́m hiểu nó.
Điều này không có nghĩa là ta phải từ bỏ mọi tư duy khái niệm đó là điều bất khả mà đừng lạc lối trong đó để trở thành nô lệ của nó.
Cũng như từng âm thanh của một tiết điệu tự nó không mang ư nghĩa ǵ, nó chỉ có nghĩa trong mối liên hệ với những âm trước nó và sau nó, chúng là thời khắc của một sự vận động đầy ư nghĩa sinh động, không bị ngăn chận, những âm thanh đó cũng như bản thân tiết điệu không bị phá hủy.
Cũng tương tự như thế mà ta không thể tách những khái niệm hay biến cố đơn lẻ ra khỏi khung cảnh hay ḍng chảy của tư tưởng hay cảm xúc được biến cố của lễ điểm đạo, t́m cách hiểu nó bằng khái niệm và suy luận th́ ta chỉ có những phần tử chết trong tay chứ không phải “sợi dây tâm thức”, cái làm cho chúng có sức sống.
“Sợi dây tâm thức’ này được người Tây Tạng gọi là dam-ts'hig. Đó là mối liên hệ nội tại giữa thầy với tṛ cũng như mối liên hệ giữa những cái thiêng liêng và con người dù nó xuất hiện dưới bất kỳ dạng nào, biểu thị sự vận động nội tại và chứng thực mà trên đó mối liên hệ được xây dựng.
Quá tŕnh của lễ điểm đạo không chứa đựng điều ǵ bí ẩn, nhưng nó không thể trao truyền v́ mỗi người phải tự nếm trải. Khi cố tŕnh bày những điều vượt quá ngôn từ, ta chỉ kéo những điều thiêng liêng hạ xuống mức tầm thường, đánh mất cái “sợi dây” đó và không lợi ǵ cho ai. Với lời nói, ta chỉ hủy phá cái nhiệm mầu, cái thanh tịnh và sự hồn nhiên của tâm tư nội tại ḿnh cũng như làm mất ḷng kính sợ vốn là ch́a khóa cổng đền cho sự mở hiện.
Như bí ẩn của t́nh yêu chỉ có thể nẩy nở khi vắng bóng đám đông cũng như những kẻ yêu nhau không ai thảo luận t́nh yêu với người ngoài cuộc; th́ cũng như thế, sự kỳ diệu của chuyển hóa nội tâm chỉ xảy ra khi những năng lực bí ẩn của nó nằm ngoài mắt nh́n tầm thường và phiếm luận vô bổ của thiên hạ.
Điều có thể trao truyền được chỉ là kinh nghiệm thuộc về lĩnh vực của ư thức thông thường; và ngoài ra là kết quả và kết luận của những kinh nghiệm đó hay là những giáo pháp tập hợp những chứng thực qua nhiều thế hệ hay qua các vị thầy.
Trong một tác phẩm trước đây [14] tôi đă cố gắng nói đến điều này và trong tập sách này tôi cũng sẽ nói đến về những ấn tượng cũng như những ǵ trải qua về các con người tạo ảnh hưởng quyết định lên đời sống tâm linh của ḿnh.
Trong những con người đó th́ Tomo Géché Rimpotsché là vĩ đại nhất. Mối dây liên hệ sinh ra trong lễ điểm đạo lần đầu và cũng là lần quan trọng nhất đối với tôi chính là nguồn suối của năng lực và sự cảm hứng.
Vị đạo sư này đă giúp tôi bằng sự hiện diện của ông, ngay cả sau khi ông mất; hồi đó tôi không biết rơ sự giúp đỡ này cũng như không biết rằng ông là một trong những vị đạo sư Tây Tạng vĩ đại và được trọng vọng nhất và đối với hàng triệu người, tên ông đồng nghĩa với sự thực chứng cao nhất của Phật đạo.
Trong chừng mức nhất định th́ cái không biết này lại thuận lợi cho tôi v́ nó cho phép tôi, thông qua kinh nghiệm củachính ḿnh mà quan sát tính cách phi thường của vị đạo sư một cách tự nhiên và không bị ư kiến của người khác chi phối; và tự ḿnh biết rằng ông có thần thông như các vị thánh nhân trong quá khứ thường có.
Lần nọ, hoàn toàn t́nh cờ tôi cùng với người bạn Mông Cổ ở bên ông và đang nói chuyện về một số khía cạnh của thiền định. những câu hỏi của chúng tôi xoay quanh về các vấn đề nảy sinh trong các phép tu hằng ngày. Trong câu chuyện, v́ người bạn tôi nói về các vấn đề riêng tư và v́ không tham gia câu chuyện, tôi nghĩ ngợi về các điều khác.
Lúc đó trong tâm nổi lên sự tiếc nuối là ngày ra đi của vị đạo sư không c̣n xa nữa, ông phải trở về tu viện chính, bên kia biên giới Tây Tạng và có thể nhiều năm sẽ trôi qua trước khi tôi có dịp ngồi lại dưới chân ông.
Như theo một sức mạnh vô h́nh, tâm tôi nói thầm: “Hăy cho con một dấu hiệu rơ rệt của sợi dây nối con với thầy, cho con cái ǵ vượt lên mọi lời, nhắc nhở con nhớ đến mục đích cao cả va đức hạnh của thầy: dù đó là một tượng Phật nhỏ được thầy ban phước hay bất cứ cái ǵ…”. Chưa nói thầm hết ư th́ vị đạo sư đă bất ngờ cắt câu chuyện, quay về phía tôi nói: “Trước khi chia tay, ta sẽ cho con một tượng Phật nhỏ làm kỷ niệm”.
Tôi choáng người, không dủ sức nói lời cảm ơn phần v́ vui mừng, phần v́ xấu hổ ḿnh đă ngắt câu chuyện của vị đạo sư chỉ v́ ư nghĩ khẩn cầu và hầu như có tính chất thử thách. Nếu biết ông có thể nghe tư tưởng của tôi như lời nói b́nh thường, tôi đă không bao giờ dám ngắt câu chuyện của thầy, không hề muốn dùng ư nói chuyện với ông.
Ngay cả lúc đang bận chuyện khác, ông vẫn phản ứng về tư tưởng của tôi, điều đó làm tôi nghĩ rằng không những ông học được ư tưởng người khác mà có cái khả năng mà kinh sách Phật giáo gọi là “thiên nhĩ”, tức là nghe tất cả những tư tưởng của người khác hướng về ḿnh.
Và ngoài ra, tôi nói thầm những lời đó không bằng tiếng Tây Tạng, tôi nghĩ bằng ngôn ngữ của tôi, thế nên không phải ngôn ngữ mà ư nghĩa của ngôn ngữ, đó là điều mà vị đạo sư nghe thấy.
Trong ngày chia tay, dĩ nhiên là tôi rất hồi hộp. Từ lần đó đến nay, nhiều tuần đă trôi qua mà đạo sư không nhắc nhở ǵ lại điều ḿnh hứa và tất nhiên tôi không dám hỏi ǵ về điều đó và tin rằng ông cũng nhớ đến như ḿnh. Có thể ông thử ḷng kiên nhẫn và tin tưởng của ḿnh chăng. Điều này làm tôi càng nín lặng.
Nhưng khi vị đạo sư bị vô số người cần đến trong những ngày cuối cùng của ông tại Yi-Gah-Tscho-Ling, những kẻ đi từ xa đến xin gặp để được ban phước th́ tôi không bỏ được lo ngại liệu lời xin của ḿnh đă bị quên lăng đi không, có ǵ làm trở ngại không.
V́ thế mà tôi ngạc nhiên và vui sướng xiết bao khi phút chia tay ông trao cho tôi, trước khi tôi kịp nói điều ǵ, một tượng Phật Thích-Ca Mâu-Ni nhỏ nạm vàng, trang trí đẹp, làm bằng đát và cho tôi hay rằng, ông đă giữ nó trong tay lúc thiền định hàng ngày.
Tới bây giờ tôi mới ư thức được sự cao quư của tặng vật đó và lư do tại sao bây giờ tôi mới biết; và khi nhận nó trong tay, tôi phải dằn ḷng lắm mới giữ được nước mắt. Không nói ǵ được tôi nghiêng ḿnh lặng thinh, tôi thấy tay ông nằm yên trong tay tôi, năng lực của ông tràn khắp người tôi và cho tôi ḷng tin chắc chắn không bao giờ xa ông, dù hàng ngàn dặm cách ly.
Kể từ ngày đó, tượng Phật trở thành bạn đồng hành thường xuyên của tôi, nó theo tôi suốt vô số lần trèo đèo tuyết phủ trên Himalaya và vùng nội địa Tây Tạng; nó cùng đi với tôi trên những cao nguyên cô độc vùng Tschang Thang và những b́nh nguyên mầu mỡ ở miền nam và trung Tây Tạng.
Nó đă cứu tôi trong những năm sau (1948) ra khỏi t́nh huống khó khăn tại miền tây Tây Tạng, triện son của nó là bằng cớ tôi là học tṛ của Tomo Géché Rimpotsché chứ không phải là điệp viên nước ngoài.
Và trong dịp khác, nó làm dịu các người Momade vũ trang dữ tợn, họ bao vây khách lữ hành chúng tôi và chỉ chịu tha cho khi thấy phước lành của đạo sư, sau đó lại quay lui cho thêm sữa và bơ với yêu cầu hăy ban phước cho vợ con và đàn thú của họ.
C̣n một điều nữa làm bức tượng nhỏ này thêm quí báu, đó là nó không phải do ai khác làm ra mà là từ bàn tay của Katschenla, người hết ḷng phụng sự vị đạo sư và là người nối kết tôi với ông.
Trong những năm trước ngày vị đạo sư trở lại Yi-Gah-Tscho-Ling th́ Katschenla không phải chỉ là người bạn mà c̣n là người đồng môn với tôi và cứ mỗi khi tôi trở về Yi-Gah-Tscho-Ling để trú ngụ tại tu viện hay gần nơi đó, tôi lại được ông tiếp đón và lo lắng như một người cha.
Điều này lại càng đặc biệt hơn khi vài năm sau, một vị tăng trẻ khác được giao nhiệm vụ giữ đền chính, c̣n Katschenla lo cho pḥng riêng của vị đạo sư và mỗi ngày cúng tế trong bàn thờ tại đó, c̣n tôi, như đạo sư muốn, được ở trong pḥng riêng thiêng liêng của ông, th́ lại được Katschenla tốt bụng chăm sóc, lại càng cho thêm cảm giác là đạo sư vẫn c̣n ở đây, như trong ngày đầu gặp gỡ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 288 of 1146: Đă gửi: 20 June 2010 lúc 12:49pm | Đă lưu IP
|
|
|
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
TRÊN ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
“Từ đỉnh tuyết phía đông,
mây trắng vụt lên trời.
Như đám mây đỉnh núi,
h́nh như đạo sư vươn dậy,
từ trái tim sâu xa.
Quán tưởng ḷng từ bi,
sinh niềm tin sâu lắng”
Trước khi định hẳn tại Ghoom, nơi tôi sống trong những năm sau trong một vườn tre gần tu viện, th́ mong ước được theo đạo sư ḿnh đến những nơi phủ đầy tuyết trắng, trong vùng cấm địa đằng sau chân trời nọ quá to lớn, nên tôi lên đường, theo đường của thương nhân mà đi, t́m đến quê hương của ông.
Mặc dù cũng khá gần cuối năm và biết ḿnh không đi được xa trong mùa này (đó là thu 1932) v́ người ta chỉ cho một thời gian lưu trú có hạn; và v́ vậy không thể trở lui kịp qua những ngọn đèo trong mùa đông, tôi cũng không từ chối dịp lên đường.
Mặc dù ngắn ngày, nhưng ấn tượng của tôi về Tây Tạng trong chuyến du hành thật có ư nghĩa lớn lao: nó như “một tiếng sét ái t́nh”. Từ phút đó trở đi, Tây Tạng là một vùng đất của sự ngưỡng mộ và dù tôi trở lại nơi đây lắm lần nhưng ấn tượng của lần đầu không bao giờ quên, là kỷ niệm đẹp nhất đời tôi.
Chuyến đi thật có nhiều điều kỳ lạ như trong mộng. Mưa, sương và mây đă biến rừng sâu, ghềnh núi, vực thẳm, núi đá thành một thế giới đầy những dạng h́nh hư ảo, kỳ bí. Những ngọn thác đổ nước từ những đỉnh cao vô h́nh xuống vực sâu không ḍ tới đáy.
Mây phủ trên cao lẫn dưới chân những đường ṃn ngoằn ngoèo, từ đáy sâu tăm tối vọt lên cao rồi lại ch́m sâu, nơi này nơi kia hiện lên những cảnh tượng kỳ vĩ đến choáng ngợp rồi lại biến mất ngay như không hề có thực.
Các cây cổ thụ với kích thước vĩ đại hiện ra như những người khổng lồ nhiều tay, râu dài xanh mướt, với cây dại mọc đầy xung quanh, với những tràng hoa xanh nhạt đu đưa giữa những cành cây. Trong những vùng thấp, có nhiều loại lan muôn sắc nở hoa từ thân cành, dưới chân là một vùng cỏ hoa che kín.
Mây, đá, cây và thác nước tạo nên một vùng đất hoang đường, nó như được vẽ từ ngọn bút thủy mạc của một họa sĩ Trung Hoa, trong đó đoàn người và ngựa di động như h́nh nhân tí hon của một bức tranh cuộn tṛn dài vô tận.
Rừng sâu rậm rạp, ẩm ướt, nóng hầm hập, đầy vắt và muỗi, trong đó cây dại mọc thành cổ thụ và rừng tre như nổ thành đám pháo hoa xanh mướt, lại rừng đó dần dần nhường chỗ cho miền rừng ôn đới dễ thương, trong đó các loại cây như lấy lại tính cách riêng biệt của ḿnh và hoa tranh nhau với những chùm cây dại trong rừng thưa, để cuối cùng hoa thắng thế, sáng lên một tấm thảm màu xanh vàng, cam hay tím dưới chân các loại thông giỏi chịu mưa gió.
Không bao lâu sau th́ cảnh vật này cũng ở lại đàng sau, chúng tôi đi vào một vùng chỉ c̣n các loại cây thông thấp bé, bên cạnh cỏ dại và rêu, đầy những núi đá khổng lồ, đỉnh phủ tuyết và những hồ xanh ngắt một màu, nằm giữa những đám mây thấp, thỉnh thoảng ánh sáng mặt trời lọt qua cho thấy một cảnh tượng đổi thay giữa ánh sáng và bóng tối.
Cảnh vật tưởng chừng trong một trạng thái đổi thay liên tục, hầu như cứ mỗi giây phút nó được tạo thành cảnh mới. Có những cái mà phút trước c̣n đó, phút sau biến mất và được cái khác thay chỗ.
Và rồi điều kỳ diệu xảy ra, điều này chiếm lấy tôi mỗi khi tôi qua biên giới Tây Tạng: trên đỉnh cao nhất của đèo, nơi mà mây đen cứ tụ hội th́ bầu trời lại mở ra như một cảnh ảo thuật, mây tan đi và thế giới hiện ra dưới một bầu trời xanh thẳm trước ánh mắt sửng sốt, trong lúc đó th́ mặt trời rực rỡ chiếu sáng sườn núi đầy tuyết làm mắt ta phải hoa lên.
Sau một quang cảnh đầy sương mù và mây đen của vùng Sikkim th́ hầu như sức người không đủ thu nhận quá nhiều màu sắc và ánh sáng như thế. Ngay cả bóng mát đậm nhất cũng có một cường độ màu sắc và vài đám mây trắng rải rác trên bầu trời xanh ngắt đang trôi về phía các đỉnh xa chỉ tăng cường thêm cảm giác vô tận và sâu xa của không gian và sức sáng của màu sắc.
Chính trong phút này đó là lần đầu thấy trọn vùng đất thiêng liêng Tây Tạng, tôi mới rơ kể từ đây ḿnh sẽ đi trên con đường mây trắng này của miền đất kỳ diệu của đạo sư ḿnh, để học thêm sự minh triết của thầy, t́m cảm khái trong sự an b́nh và vẻ đẹp của vùng này. Tôi biết, kể từ đây ḿnh sẽ luôn luôn được miền đất này của ánh sáng và màu sắc lôi cuốn và sẽ cống hiến đời ḿnh để t́m hiểu tài sản tâm linh của nó.
Như các vị hành hương tiền bối, tôi đi ṿng quanh các tháp đá thờ phượng, được trang trí bằng cờ cầu nguyện, được dựng lên tại điểm cao nhất của đèo và cũng là biên giới Tây Tạng, vừa đi vừa thầm đọc các câu thần chú của thầy trao cho, cho thêm một viên đá và đụn đá để tỏ ḷng biết ơn số phận đă đưa ḿnh đến đây.
Để hứa rằng sẽ tiếp tục đi trên con đường đă chọn, và cũng để chúc lành cho những ai sau ḿnh sẽ đến nơi đây. Sau đó tôi bỗng nhớ những ḍng chữ khắc họa Trung Hoa, được xem là của vị Phật tương lai Di Lặc, người đă từng là du sĩ đi khắp bốn phương trời: “Ngàn dặm ta đi khắp, T́m ra đường mây trắng”.
Trên đường xuống lại b́nh nguyên Tschumbi, ḷng tôi đầy niềm an lạc không tả xiết. Chẳng bao lâu th́ tuyết trên đèo đă nhường chỗ cho thảm hoa đầy màu và rừng thông vươn lên, trong đó bướm rừng dập d́u tren cánh hoa và chim reo hót tưng bừng.
Trong không khí rực sáng của núi rừng, tôi thấy ḿnh nhẹ như chim và không sao kiềm hăm niềm vui mặc dù tôi biết ḿnh sắp qua lại phía bên kia của đèo, sắp xuống đến rừng rậm hừng hực thở khói.
Thế nhưng tôi chắc rằng, không sớm th́ muộn ḿnh sẽ theo con đường của mây trắng vượt qua mọi chân trời, qua đỉnh nhọn thiêng liêng của ngọn Tschomolhari, trú xứ của nữ thần Dorje Phagmo hầu như đang réo gọi.
Và thật thế, vượt qua bao nhiêu khó khăn không thể tin được, mà khi nh́n lại tôi không thể tin ǵ khác hơn là tác động của một năng lực đo số mệnh an bài, đổi dời cho tôi, nó đă bày tỏ trong tôi cũng như trong những người khác giúp tôi giải trừ mọi trở ngại, tôi lại lên đường theo đoàn người ngựa để đến những vùng chưa hề biết bên kia rặng Himalaya.
Lần này th́ tôi nhắm hướng tây bắc Tây Tạng và đầu năm 1933, trong đoạn đầu của chuyến đi, tôi gia nhập đoàn người, đi từ Yarkand Sarai tại Sriunagar, thủ đô Kashmir để đi Kargil tại Baltistan.
Nhà thông thái Ấn Độ Rahula Sankriyayana và là người chuyên nghiên cứu Tây Tạng cùng đi với tôi đến Leh, thủ đô của Tiểu Tây Tạng, ngày xưa gọi là Ladakh, thuộc tiểu quốc Guge của tây bắc Tây Tạng.
Tại Leh, chúng tôi chia tay; tôi tiếp tục đi với sự hỗ trợ của hai người Tây Tạng khác mà ngựa của họ mang giúp tôi các hành lư nhỏ nhoi cũng như lương thực cho chuyến đi dài ngày.
Chuyến đi Leh kéo dài cả một tháng trời. Nó tạo cơ hội cho tôi làm quen với khí hậu và tập luyện thân thể bằng cách bắt chước Rahula, tôi ngủ đêm dưới bầu trời không cần che lều. Vật che mưa tuyết của tôi chỉ vỏn vẹn một cái mền dạ, tương đối ít thấm nước mà tôi chỉ cần trải trên loại giường xếp là xong.
Rahula (hồi ấy c̣n là tu sĩ Phật giáo và c̣n chiến đấu giữ lại một các vô vọng các điều luật không quan trọng lắm của giáo hội Sri-Lanka, cho đến một ngày ông thấy các trách nhiệm khác quan trọng hơn trong đời ḿnh) lúc đó c̣n xem cái giường xếp này là ít nhiều xa xỉ, cho đến khi chúng tôi phải vượt qua ngọn đèo đầu tiên của dăy Himalaya và rơi đúng vào một cơn băo, lúc đầu chỉ là mưa tuyết và tiếp theo là tuyết đổ mạnh.
Sáng hôm sau, khi tôi chui ra khỏi tấm dạ, nó đă nặng hẳn lên v́ một lớp tuyết dày, th́ không thấy bóng dáng người bạn đồng hành đâu cả; cho tới khi ông co ro, răng đánh lập cập, từ một đống tuyết ḅ ra. Đă thế, c̣n thêm từ trưa qua đến bây giờ theo qui định của giáo hội, ông không ăn uống ǵ cả, mặc dù tôi đă nhắc ông coi chừng rằng hôm nay sợ không có dịp ăn được ǵ, dù một miếng nhỏ.
Đúng, điều đó đă xảy ra v́ suốt hai ngày chúng tôi phải lội đường ngập tuyết. Kể từ đó, ông thừa nhận rằng những qui định này dành cho khí hậu ấm áp không thể giữ măi trong vùng lạnh lẽo hay trong những điều kiện sống khác, và ta, đúng theo tinh thần Phật giáo, không nên chấp vào qui luật và lễ nghi.
Chẳng phải chính Phật cũng đă giải phóng đệ tử ḿnh ra khỏi mọi g̣ bó của qui luật thứ yếu trước khi Người nhập diệt và để cho đệ tử ḿnh tự giữ lương tâm và tri kiến đó ư?
May thay thời tiết tại Himalaya phần lớn khô ráo và nhiều nắng; phải nói là mặt trời nơi đó c̣n gắt hơn cả mặt trời ở Ấn Độ, và v́ gió lạnh nên người ta ít thấy nóng, cho dù có kem chóng nắng, da vẫn bị lột, môi vẫn sưng và ăn không được, lúc ấy ta mới nhận ra.
Thế nhưng những khó khăn của tuần đầu tiên rồi cũng qua đi. Tôi đă quen với khí hậu và mang một lớp da mới, nâu đen, chịu mưa nắng khi tới Tschang-thang, đất của những hồ màu xanh, của núi màu đồng, của b́nh nguyên màu lục, của những nương rẫy trải dài mà người Nomade miền bắc sống với đàn trâu, đàn cừu trong những túp lều đen làm bằng lông trâu.
Sau khi nghỉ ngơi trong tu viện tại Ladakh tôi ham đi t́m hiểu những vùng nằm bên kia dăy núi tuyết, hồi đó chưa mấy ai khám phá, vùng nằm giữa núi Idus và Karakorum. Một ngọn đèo cao trên 6000 mét nằm trước mặt chúng tôi. Chúng tôi men theo một thung lủng rộng, đi lên cao dần.
Mặt trời từ những tuần này đốt cháy không thương tiếc cả một vùng nương rẫy, mà từ sáng nay nó đă núp sau những đám mây đen nặng nề và những giọt mưa nhẹ va lạnh quất vào mặt. Bỗng nhiên tất cả đều mang một bộ mặt bí ẩn tối tăm và thung lũng dẫn vào bóng tối của các đám mây mà hai bên là đá núi nhe răng, hiện ra với tôi như cổ họng của một con quái vật.
Đàn ngựa gơ vó đều đều như chấp nhận số phận, không ai nói một tiếng nào và tôi lo ngại cho đêm sắp tới, liệu sáng hôm sau có qua khỏi ngọn đèo đáng sợ này chăng. Trên cao thế này th́ một trận băo tuyết sẽ chấm dứt chuyến du hành.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 289 of 1146: Đă gửi: 20 June 2010 lúc 12:58pm | Đă lưu IP
|
|
|
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
TU VIỆN ĐÁ
Chiều tối, chúng tôi đến đầu một hẻm núi, nơi đây chính là chỗ phải bắt đầu leo lên đèo. Tại chân một nhóm đồi đá dựng đứng, đá xếp ngổn ngang, có một số lều nghèo nàn mà dạng vuông vuông của chúng không khác bao nhiêu so với những tảng đá đổ.
Ngược lại với cảnh đó là vô số những tháp sơn trắng, có gốc là những Tumlti hay Stupa Ấn Độ, đó là nơi giữ xá lợi của Phật hay các đệ tử của Ngài. Phần dưới của tháp h́nh khối vuông, giữa là h́nh ṿm tṛn hay có đạng b́nh hoa và bên trên là đỉnh nhọn h́nh nón, gồm mười ba đĩa tṛn chồng lên nhau làm bằng đất đỏ, chúng được che bằng dạng chiếc dù, mang biểu tượng mặt trời, mặt trăng và lửa.
Hàng triệu tháp như thế nằm rải khắp Tây Tạng. Nơi đâu có người ở hay đă từng ở là có nó và cũng ở những ngọn đèp hẻo lánh hoặc đường dẫn đến cầu treo thường nguy hiểm, hoặc nơi có những tảng đá h́nh thù kỳ dị trên đường khách lữ hành qua lại.
Số lớn những tháp hiện ra đối với chúng tôi nơi đây như có phép thần cắt ra từ đá, một phần xem như phố xá điêu tàn của những người tí hon, chúng làm ta đoán gần đây hẳn phải có tu viện hay thánh địa ǵ đó.
V́ đă từng nghe nói về một tu viện đá rất cổ nằm trong hẻm núi này, được xây từ thời Liên Hoa Sinh thế kỷ thứ 8 sau Công nguyên, nên tôi cứ theo tháp dẫn đường, qua ngơ ngách của những tảng đá to như những căn nhà hoặc giữa những vách tường dựng đứng mà đi.
Đường đi bắt đầu lên dốc nên chúng tôi đành bỏ ngựa lại. Nhưng cũng kể từ đây đă thấy có vách cổ và từ những vách đá mọc ra những nhóm nhà h́nh khối có ban công gỗ. Hầu như không phân biệt được đâu là đúi, đâu là người xây, v́ chúng thông với nhau, tựa do thiên nhiên làm ra.
Với hy vọng t́m chỗ ngủ đêm nay, tôi leo suốt ngơ ngách vách đá nhưng càng đi, hy vọng của tôi càng giảm. Không nơi nào có dấu vết sinh vật. Cả loài chó giữ nhà Tây Tạng đáng sợ cũng không, nó luôn luôn sủa người lạ từ xa đến làng, dù nhà, tu viện hay lều người Nomade, ở đâu cũng thấy chúng. Tuy vậy vẫn không nên vào trong các ṭa nhà xem ra đă hoang vắng này.
Cứ mỗi bên cạnh cổng vào tôi thấy một tháp đá, trên đỉnh có một đĩa đá phẳng, trong đó có một viên đá tṛn. Tôi vừa định hỏi người đi theo tôi, người kia ở lại phía dưới với ngựa, ư nghĩa của những tháp đá này th́ người đó đă cầm viên đá tṛn lên và thả xuống đĩa.
Một âm thanh cao như thủy tinh vỡ vang lên. Th́ ra đó là chuông gơ cửa! Một sáng tạo thiên tài! Lại một lần nữa tôi phải khâm phục tài năng tuyệt diệu của người Tây Tạng, họ đă làm được những dụng cụ từ những vật liệu đơn giản nhất.
Chúng tôi cho vang lên nhiều tiếng đá nữa nhưng vô ích! Thế nên chúng tôi leo lên tiếp lên cao và vào đến một cái sân nhỏ nằm bên cạnh một đường đi bằng gỗ có mái che, phía trước với mặt tiền của một đền thờ xây trên đá, c̣n phía kia là một ṭa nhà hai tầng với bao lơn mở.
Trên đó là h́nh thù kỳ dị của chóp đá, c̣n phía kia là một ṭa nhà hai tầng với bao lơn mở, trên đó là h́nh thù kỳ dị của chóp đá chĩa lên trời. Giữa sân có một cột cờ cao, sơn trắng. Th́ ra chúng tôi đang ở giữa sân một tu viện. Thế nhưng lại không có một bóng người.
Dù thế, tôi có cảm giác chắc chắn ḿnh đang ở đúng chỗ và ngồi xuống đường gỗ, để b́nh tâm xem mọi sự xảy ra thế nào và nếu cần sẽ ngủ đêm tại đây. Trần phía trên đầu tôi hơi hư hỏng, nhưng sàn tương đối khô và mưa sắp dứt.
Th́nh ĺnh có tiếng chó sủa từ phía chúng tôi đă vào. Bản năng làm tôi đưa mắt t́m kiếm một ngơ ra khác nhưng không có. Như thế là chúng tôi nằm trong rọ rồi! nhưng chúng tôi lại gặp may.
Con chó không phải loại nguy hiểm như tôi hay sợ, ai đă từng đi Tây Tạng dều biết rơ loại chó Mastif nguy hiểm hơn chó sói nhiều, và sau chân nó là một vị lạt ma già, ông kính cẩn chào tôi.
Tôi nói với ông ḿnh là kẻ hành hương từ phương xa, đi thăm các thánh địa Tây Tạng. Nh́n quần áo, ông biết tôi thuộc về một ḍng tu Tây Tạng, v́ vậy mà không chút chần chừ, ông mở cánh cửa nặng nề của đền và ra hiệu cho tôi đi theo.
Ông dẫn tôi qua những bậc cầu thang tối và dốc, lên một hang rộng và các vách tường phẳng h́nh như mang đầy những bức họa rất cổ. Trong ánh sáng lờ mờ của một ngọn đèn thờ hiện ra bàn thờ cao với dĩa cúng và b́nh nước, trên đó có tượng Liên Hoa Sinh, người tiên phong Phật giáo và nhà sáng lập ḍng tu cổ nhất Tây Tạng (Nyingmapa) mà tu viện này thuộc về đó.
Tả hữu hai bên là tượng hai vị Bồ-tát và dưới chân là các tượng nhỏ của các đại đệ tử của Liên Hoa Sinh, như công chúa Ấn Độ Mandarava và vị nữ thánh Tây Tạng Yésché Tshogyal, là người mà các tác giả phương Tây hay lầm gọi là vợ của Liên Hoa Sinh mặc dù trong tiểu sử của Ngài đă ghi rất rơ.
Sau khi chấm dứt nghi lễ chào hỏi, tôi được đưa lên một pḥng nằm cao hơn trong đền. Theo các tranh bích họa th́ đền này mới được sửa sang lại gần đây. pḥng này dùng để thờ Thích-Ca Mâu-Ni, vị Phật lịch sử.
Tượng của Ngài có hai vị đại đệ tử Xá-Lợi-Phất và Mục-Kiền-Liên theo hầu, bên cạnh đó là tượng của vị Phật của thời kiếp trước Nhiên Đăng, và của vị lai Di Lặc Phật.
Khi ra lại sân th́ đă có nhiều vị lạt ma tại đó và sau khi trả lời câu hỏi từ đâu đến, đi về đâu th́ người ta đưa tôi vào một pḥng lớn, hoàn toàn trống và cho hay chưa có ai từng ở trong này cả. Pḥng này nối với sân bằng một cầu thang dốc và có một cửa sổ nh́n xuống b́nh nguyên.
Vách tường đối diện với cửa sổ bị một mỏm đá lớn xuyên thủng, nó nhắc tôi nhớ đến tính chất lạ lùng nơi đây, nơi sinh ra từ sự giao ḥa giữa con người và thiên nhiên.
Trong lúc tôi nói chuyện với các vị lạt ma th́ người đồng hành theo tôi dă mang hành lư vào và khi bắt đầu mở cái giường xếp cũng như gắn bộ đồ bếp lại với nhau, các lạt ma ngồi một ṿng bán nguyệt quanh tôi nh́n tṛ chơi hiếm có này.
Và cửa pḥng bây giờ cũng đă đầy người, có lẽ họ chạy từ dưới làng lên tu tiện xem một vị lạt ma lạ mặt, người bất ngờ đến t́m nơi hẻo lánh của họ. V́ pḥng bây giờ đă hết chỗ, họ đành đứng bên ngoài xem bên trong có ǵ.
Chiếc giường xếp được dựng lên với sự thích thú theo dơi đến sững sờ của họ. thế nhưng khi b́nh nấu bếp được gắn lại và lửa sẽ cháy lên với một thứ nước kỳ lạ th́ sự căng thẳng của đám đông lên tới cao độ, họ nh́n từng cử động của tôi. Sự im lặng kính cẩn bao trùm tôi và tôi ư thức cái giây phút đầy hồi hộp này khi quẹt cây diêm châm vào chất lỏng để bùng lên một ngọn lửa trong xanh.
Một tiếng “ồ” của sự ngạc nhiên vang lên từ những người xem, họ lắc đầu ngạc nhiên, nửa tin nửa ngờ cái hiện tượng mà đời họ chưa bao giờ thấy. H́nh như họ cho rằng ngọn lửa xanh cháy với rượu cồn chỉ là ảo giác không có thật; v́ làm sao lửa có thể sinh ra từ “nước” được.
Vị lạt ma lạ mặt này hẳn là một nhà ảo thuật. Để họ tin đây là lửa thật, tôi nói họ cứ giơ tay lên lửa xem sao; và chỉ khi họ vội rút tay về phía trước tiếng cười ầm và nghe kể lại lửa nóng thế nào th́ mọi người mới chịu tin.
Thế nhưng tṛ ảo diệu này vẫn chưa hết, v́ khi cháy hết cồn rồi đột nhiên ngọn lửa tắt ngúm, thay vào đó là những đóm lửa li ti xanh lục kêu xèo xèo; sự ngạc nhiên của khán giả vẫn không dứt.
Nếu bây giờ mà tôi ngồi khoanh chân bay lên trời được th́ chấm dứt như thế mới xứng đáng và có lẽ lúc đó khán giả cũng không c̣n kinh ngạc ǵ lắm. Thế nhưng ở đây tôi b́nh thản lấy một cái nồi tầm thường để trên cái ḷ kỳ diệu này, mọi người thấy vậy mỉm cười bớt căng thẳng và xem ra hiểu chuyện.
Trong lúc tôi nấu nướng th́ mọi thức ăn gia vị đều được xem xét kỹ lưỡng và cả khi tôi ăn, mọi cặp mắt đều nh́n tôi. Theo lệ thường, tôi ăn cơm bằng đũa nên họ nghĩ rôi hẳn là người Trung Quốc và tôi biết rằng đối với họ thế giới ngoài châu Á không c̣n ǵ khác. Sau bữa ăn, xem ra vẫn không ai muốn đi, nên tôi leo lên giường xếp, quay mặt vào vách, giả ngủ.
Vài phút sau, mở mắt ra, chỉ c̣n ḿnh tôi.
Mặt trời chưa lặn, đi ngủ th́ quá sớm, mà tôi lại không chút buồn ngủ. V́ thế, thật dễ chịu sau một ngày dài được nằm duỗi chân nghỉ ngơi. Tôi nằm yên và nh́n kỹ vách tường đối diện mới đắp, mà bề mặt chỗ cao chỗ thấp của nó lại cho tôi một ấn tượng sinh động đặc biệt.
Tôi nhận ra rằng căn pḥng này tự nó có một cái ǵ dễ mến mặc dù tôi không coi rơ được là cái ǵ. Thật ra th́ thời tiết ảm đạm trong những ngày sau này khó có thể làm tôi vui vẻ lên. Thế nhưng kể từ khi bước vào pḥng này, tôi cảm nhận một sự an lạc và sáng sủa nội tâm.
Phải đây là không khí chung thoải mái của tu viện cổ kính này, được lớn lên từ hang động của một vị độc cư thánh thiện, đă chứng kiến nhiều đời tu sĩ chuyên phụng sự và quán tưởng? Hay đây chỉ là không khí đặc biệt của pḥng này mà dưới ảnh hưởng của nó, nội tâm tôi đang thay đổi? Tôi không biết và không giải thích được.
Tôi chỉ cảm thấy rằng có cái ǵ trên vách tường thu hứt sự chủ ư của ḿnh, lôi ḿnh theo như bị một phong cảnh kỳ lạ cuốn hút. Điều lạ là nó lại không gợi ǵ đến cảnh vật. Những h́nh dạng như t́nh cờ được nối kết với nhau một cách bí ẩn và càng chú ư đến chúng, chúng càng rơ nét và càng liên hệ lẫn nhau.
Chúng kết với nhau thành dạng h́nh rơ rệt và hiện rơ lên trên mặt vách. Nó giống như sự kết tinh hay sự lớn dậy của một thể sống; và biến h́nh của bức vách đối với tôi tự nhiên và có thật hầu như đang xem một nhà điêu khắc vô h́nh đang tạo tác một bức tranh nổi sống động. Điều khác biệt duy nhất là người nghệ sĩ không phải làm việc từ bên ngoài mà xuất phát từ bên trong bức họa và càng lúc trong mọi chỗ của nó.
Cảnh vật ch́m đắm trong ánh sáng mờ nhạt cuối ngày. Trên thảm cỏ xanh dưới b́nh nguyên, vươn lên những đỉnh núi đá màu đỏ hay màu đồn thau sáng loáng, đằng sau lấp lánh màu tuyết trắng, sáng rực lên nền tím đen của những khối mây, thỉnh thoảng c̣n vài tia chớp. Có tiếng sấm động xa xa cho thấy bên kia của núi Vajrapani hẳn c̣n vung kim cương chử, chiến đấu chống lực lượng của sự đen tối.
Dưới xa thung lũng, tôi thấy ngựa của ḿnh đang gặm cỏ, trông nhỏ như món đồ chơi, gần đó có khói xanh bốc lên, hẳn người quen của tôi đang nấu cơm chiều.
Từ ngôi đền trên cao này cứ cách nhịp lại vang lên một thứ tiếng rung rất trầm của tiếng đập, nghe như tiếng của tự ḷng đất, tiếng gọi của chiều sâu vươn đến ánh sáng thứ ánh sáng đă xóa tan tất cả sợ hăi và đen tối của vực thẳm.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 290 of 1146: Đă gửi: 20 June 2010 lúc 12:58pm | Đă lưu IP
|
|
|
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
TỈNH GIẤC NH̀N TƯƠNG LAI
Sáng hôm sau tôi dậy trong ánh mặt trời rực rỡ. Tối hôm trước tôi đă thu xếp hành lư để có thể lên đường ngay. Trong ánh dương hôm nay hầu như mọi sự đă biến đổi. Tôi định gặp và cám ơn vị lạt ma già đă cho tôi lưu trú và xin chào ông, nhưng xung quanh không có một bóng người.
Tôi định đợi một lúc và dùng th́ giờ để vẽ một bức tranh của sân và các ṭa nhà trong tu viện. Thế nhưng vẽ xong rồi vẫn chưa thấy ai. Hầu như tu viện nằm trong ảo thuật là không hề thay đổi ǵ qua ngàn năm, mọi cái sống đều ngưng bặt, c̣n thiên nhiên xung quanh lại theo con đường đi của ḿnh, nó để cho đá mọc ra những h́nh thù kỳ dị, xuyên thủng qua những ǵ con người đă gầy dựng.
Phải chăng tôi đang ở một nơi kỳ bí, nơi mà quá khứ đă ch́m sâu thỉnh thoảng lại vươn lên, nơi mà kẻ du hành cô đơn nghe thấy những điều, mà điều đó lại biến mất như một ảo giác? “Dù sao? tôi nghĩ “tu viện” vẫn c̣n đó và nếu nó đột nhiên biến mất ta vẫn c̣n bản vẽ đây”.
Chầm chậm đi xuống theo lối hẹp giữa đá và vách, tôi ngẫm lại những ǵ ḿnh đă nghe thấy nơi đây. Người nài ngựa đă tới để đỡ hành lư, nh́n khuôn mặt suy tư của tôi và nói:
- Vị Kuscho Rimtposché không vui ḷng với chỗ ngủ à ?
- Có chứ.
Tôi nói:
- không có chỗ nào hơn chỗ này.
- Đâu có ǵ lạ.
Anh nói:
- Nếu được ở trong pḥng đă được ban phép.
- Anh nói ǵ thế ?
Tôi hỏi và nghĩ ḿnh nghe sai.
- Ông không nhớ sao, Kuschog, vị lạt ma dẫn ông vào pḥng đă nói pḥng nầy chưa có ai ở.
- Nhớ chứ tất nhiên rồi.
- Xin nói ông biết. Lúc ông ở trong đền th́ các vị lạt ma bàn với nhau có nên để ông ở trong đó không, trong pḥng đă được cúng hiến cho Tschamba, cho Phật Di Lặc.
Đột nhiên tôi có ư nghĩ kỳ lạ.
- Sao họ lại có ư nghĩ vị Phật Di Lặc mà phải xây cả một căn pḥng riêng.
Tôi hỏi.
- Ông không biết là cả Tây Tạng, nhiều bảo tháp được xây dựng để thờ vị Phật tương lai, nhờ uy lực của một vị đại uy lực của một vị đại lạt ma miền nam sao ?
- Anh biết tên vị lạt ma đó không ?
Tôi hỏi cố giấu sự hồi hộp.
- Tôi không biết tên Ngài nhưng mọi người gọi là Tomo Géché.
- Đó là thầy tôi mà.
Tôi kêu lên.
- Tôi chưa nói với anh về Ngài hay sao ?
Và tôi sực nhớ anh có lần đă hỏi ai là “Tsawai-Lama” của ḿnh, tôi trả lời mà không coi trọng lắm câu hỏi quá thường này tại Tây Tạng
- Thầy tôi sống cách đây ngàn dặm, chắc anh không biết tên Ngài đâu.
Thế nhưng bây giờ th́ cảnh tượng đêm hôm qua đă có một ư nghĩa mới, và đột nhiên vấn đề rơ ra với tôi: đó chính là lần quán đỉnh thứ hai của ḿnh.
Liệu đó là ảnh hưởng trực tiếp của thầy tôi, như trường hợp tại Tschorten Nyima, hay các lần tương tự mà về sau tôi mới biết, hay là kết quả của chủng tử được thầy gieo đă chính trong tôi, tôi không chắc nhưng điều chắc chắn là những ǵ tôi trông thấy không phải là sự ngẫu nhiên.
Hơn bao giờ hết, tôi thấy ḿnh gần đạo sư và tự thấy nội tâm ḿnh được nâng lên, đến nỗi nhờ sự cố gắng leo lên đỉnh đèo nọ lần nỗi lo sợ ngày hôm qua mà bây giờ nó trở thành chuyện tầm thường. Tâm tư tôi trôi chảy triền miên và hầu như có một lời nội tâm ngỏ với tôi, dần dần hé cho thấy những giải pháp của nhiều vấn đề đă từng làm tôi phân vân.
Giờ tôi đă hiểu điều mà tôi chỉ thấy lờ mờ trong thời gian tại Yigah Tscholing, là những h́nh tượng xung quanh tôi hồi đó không phải chỉ là những tác phẩm trang trí nghệ thuật.
Đó là sự tŕnh bày của một thực tại cao hơn, sinh ra từ sự quán sát nội tâm. Ngôn ngữ của những h́nh ảnh này chính xác như một tấm bản đồ hay một công thức khoa học, đồng thời tác động của nó lại tự nhiên và trực tiếp, như vẻ đẹp của một cánh hoa hay cảnh mặt trời lặn.
Phải chăng ngôn ngữ của h́nh ảnh này, chính nó mở cánh cửa vào chốn ẩn mật của tâm thức, và những năng lực tiềm ẩn của con người, là thứ ngôn ngữ mà ai cũng hiểu được, cho tất cả những ai thành tâm gơ lên cánh cửa sâu kín nhất, miễn là họ được chút hướng dẫn ?
Phải chăng v́ vị chân sư đă mở mắt cho tôi thấy sự huyền bí này, mà tôi không nên cho người khác hay biết những ǵ ḿnh đă cảm nhận ?
Thật thế, bây giờ tôi thấy rơ thông điệp mà qua những linh ảnh đạo sư nhắn nhủ ḿnh. Và cũng từ mong ước được trao truyền những ǵ ḿnh đă chứng nghiệm cho người khác, một ư niệm chín dần trong tôi, theo gương vị lạt ma nọ trong quá khứ, để lại cho đời một cách trung thực bằng màu sắc và khôn tượng, bằng chữ nghĩa và h́nh vẽ, như chúng đă được giữ lại trong tu viện và nguyện đường của Tây Tạng.
Cũng từ chuyến đi này mà tôi đem về được những nét vẽ đơn giản khắc họa trên đá của Tám mươi bốn vị Tất địa (15) của thời Trung cổ Phật giáo. Những bức tranh này về sau được giữ ở bảo tàng viện của Allahabad trong một gian pḥng đặc biệt.
Và như được một bàn tay vô h́nh hướng dẫn để đạt thành tựu ước mong đó, trong chuyến du hành, tôi gặp được một ngôi đền do vị Rintschen-Sangpo ngày xưa gây dựng nên; trong đó lần đầu tiên, tôi được thấy những bức bích họa vô song của thế kỷ thứ mười một.
Tôi xúc động được một bàn tay vô h́nh hướng dẫn để đạt thành tựu ước mong đó, trong chuyến du hành, tôi được gặp được một ngôi đền do vị Rintschen-Sangpo là một trong những nhà tiên phong lớn nhất của Phật giáo Tây Tạng: vừa là nhà học giả lớn, vừa là người sáng lập nhiều tu viện đền đài, vừa là ngệ nhân và thánh nhân.
Một phần đáng kể của kinh sách Tây Tạng là do ông cùng với các học giả Ấn Độ dịch từ văn hệ Sanskrit ra, một công tŕnh đă tôn ông lên hàng Lotsasa (nhà dịch thuật). Song song với việc truyền bá Pháp Phật bằng kinh sách, ông cho xây dựng đền đài, tu viện bảo tháp và trang hoàng bằng những tác phẩm chọn lọc nhất về h́nh tượng và khắc họa mà về sau không có thời kỳ nào vượt ngang được.
Vùng hoạt động chủ yếu của ông là ở Tholing và Tsaparang. Thonling là tu viện quan trọng nhất và là trung tâm của đời sống tâm linh ở tây Tây Tạng. Ngược lại Tsaparang th́ đă hoang tàn cả trăm năm trước đây.
Những điều này kích thích sự quan tâm của tôi v́ với một thời tiết như ở Tây Tạng, tôi nghĩ có thể t́m lại được một phần quan trọng của nghệ thuật cổ xưa bị chôn vùi, và chính sự hẻo lánh và cô độc của vùng này làm tôi tin có thể nghiên cứu và hơn thế nữa.
Có khả năng giữ lại cho hậu thế vài nét hoằng kim của quá khứ. Thế nên trong tôi nẩy sinh ư định đi Tsaparang, mặc dù phải nhiều năm sau tôi mới thực hiện được ước mơ này.
CHÚ THÍCH.
[1] Padmasambhava, đại sư Ấn Độ, sống khoảng thế kỷ thứ 8 sau Công nguyên. Sư là người đưa Phật giáo vào Tây Tạng và sáng lập tông phái Nyigmapa. Sư thường sử dụng thần thông, nhiếp phục ma quái, được xem là vị Phật thứ hai sau Thích-Ca Mâu-Ni.
[2] Suragama Sutra.
[3] Bài thơ trích từ Madala, Meditations gedichte und Betrachtungen của Lama Anagarika Govinda. Những ḍng thơ này sinh ra từ một buổi thiền định, được viết lúc tác giả chưa biết đoạn kinh Lăng Nghiêm ở trên.
[4] Điều này làm ta nhớ đến phép lạ Madonna Fatima xảy ra gần đây, được một số lớn người ghi nhận, trong đó có sự xuất hiện của ánh sáng kỳ diệu tương tự.
[5] Đây là một đoạn hay được ghi lại trong kinh sách của văn hệ Pali, đặc trưng của tinh thần hỉ lạc trong Phật giáo, từ chối mọi dạng ép buộc.
[6] Mantra.
[7] Đó là điều dễ xảy ra v́ các tờ không đóng lại thành tập và v́ những trang theo nhau của một tờ được in hay viết ngược lại, nên qua mỗi trang, người ta phải quay ngược tờ giấy.
[8] Một hiện tượng không lư giải được cũng như bản chất của điện, hầu như không phải chỉ là một hiện tượng vật lư mà đường như một năng lực sống động, đóng một vai tṛ quan trọng trong các thể hữu cơ và vận hành của trí nào.
[9] Tiếng Hindu có nghĩa là đáng kính. Từ đây Guru được dịch là đạo sư.
[10] Archetypische Lautelemente.
[11] Khi rời tu viện đi nơi khác thường ông chỉ mang theo một số thật ít đồ dùng. Đối với ông, hang động cũng tốt như lâu đài, lâu đài cũng như hang động. Giàu sang và tiện nghi vô nghĩa đối với ông, thế nhưng nếu cần ông cũng không ngại sử dụng. Ông không bám giữ vào tiện nghi lẫn đời sống khổ hạnh v́ biết rơ, danh hiệu của khổ hạnh cũng chướng ngại như danh hiệu của của cải. Khi nhận được tặng phẩm của nhiều người, thường ông tặng lại kẻ cần thiết hay dùng để sửa đền thờ, tu viện, thư viện.
[12] Bohicaryavatara, tác phẩm của Tịch Thiên (Santideva), người sống khoảng thế kỷ thứ 7, 8 sau Công nguyên. Tác phẩm này rất phổ biến trong Phật giáo Tây Tạng.
[13] Satipatthana-Sutra.
[14] Govida, Grundlagen tibetischer Mystik (Cơ sở đạo học Tây Tạng), Rascher Zurich 1966.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 291 of 1146: Đă gửi: 20 June 2010 lúc 12:59pm | Đă lưu IP
|
|
|
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
(PHẦN HAI)
CUỘC ĐỜI HÀNH HƯƠNG TRÊN CAO NGUYÊN
Chúng tôi đă vượt qua ngọn đèo đáng sợ cao sáu ngàn mét, dưới một bầu trời không mây một cách dễ dàng. Lúc leo lên vách phía nam của đèo, mặt trời nóng tới mức mà tôi phải cởi hết áo quần ấm, cất vào hành lư.
Thế nhưng vừa qua vách bắc của đèo, nằm trong bóng râm th́ trời bỗng lạnh như băng, làm tôi phải tiếc v́ đă không cầm sẵn áo ấm trong tay. Trời lạnh tới mức mà ai cũng phải vận động liên tục để giữ hơi ấm. V́ vậy mà tôi không dám bảo đoàn người dừng lại để mở hành lư lấy áo ấm ra.
Tây Tạng là xứ sở mà người ta phải luôn tính đến chuyện gặp những cảnh bất ngờ. Ngay cả quy luật tự nhiên tưởng như quen thuộc cũng hầu như mất giá trị. Nhiệt độ sôi của nước thấp đến nỗi nếu vô ư nhúng tay vào nước sôi, người ta cũng hầu như không hay và không bị thương tích ǵ.
V́ thế mà trên độ cao này không thể nấu cơm được v́ thời gian nấu chín quá lâu đến nỗi cơm biến thành nước cháo hay hạt c̣n cứng bên trong. Thế nhưng cái khác biệt giữa bên mặt trời chiếu và bên bóng râm th́ to lớn tới mức mà nếu ta đứng giữa hai bên, th́ thân bên ánh sáng sẽ bị phỏng v́ nắng và bên kia phải pḥng lên v́ khí lạnh như băng.
Không khí quá loăng không hấp thụ nhiệt độ được để truyền nhiệt cho phía bóng râm cũng như không thể che chở cái nóng và các tia cực tím của mặt trời. Sự chênh lệch nhiệt độ giữa ánh nắng và bóng râm, như nhiều quan sát viên ghi nhận, có thể lên tới 100 độ Fahrenheit (38 độ C).
Tôi không hề nghi ngờ điều đó v́ khi cỡi ngựa th́ chân tôi tuy mang ủng, nhưng giá lạnh tới mức không c̣n cảm giác, c̣n tay cầm cương ngựa th́ bị phồng lên v́ nóng. Tưởng như bị phỏng nước sôi. Tệ hại nhất là da mặt của tôi bóc ra từng mảng trước khi quen được với khí hậu này.
Mặc dù có bôi kem nhưng môi tôi sưng phồng lên, ăn uống rất khó chịu. May thay chỉ sau khoảng ba bốn tuần th́ da tôi đă quen chịu đựng và sau đó trong chuyến hành tŕnh không c̣n gặp trở ngại ǵ nữa.
Ngay cả người Tây Tạng, trừ những người liên tục sống ngoài trời như người chăn thú, nông dân hay thương nhân, cũng luôn luôn che mặt khi đi xa để tránh nắng mặt trời và gió lạnh thường thổi trên cao nguyên trong các mùa nhất định. Loại gió nầy mang theo cát, châm chích và chui lọt vào cả áo dày.
Rồi khi gặp một đoàn người bịt mặt và vũ trang trong cảnh hoang vu không ai ở lại, là một nỗi lo sợ không biết sau mặt nạ che đó là người dân b́nh thường hay kẻ cướp. Kẻ cướp cũng nhiều, nhất là trong thời kỳ bất ổn chính trị hay chiến tranh, khiến những vùng mà thương nhân hay qua lại thêm nguy hiểm.
Nhưng tôi cũng không quá sợ, mặc dù hồi đó đă biết vùng Turkentan đă có dân nổi loạn, v́ sau khi rời biên giới Ladakh, tôi bỏ tuyến thương nhân đến “chỗ không người”, nằm giữa vùng đại hồi Panggong và Yak-Tso đến cao nguyên Aksai-Tschin. Biên giới giữa Ladakh và miền Tây Tạng do Lhasa cai quản hồi đố chưa rơ ràng, v́ không ai quan tâm đến chỗ không người này.
Trên thế giới, nó thuộc về những nơi ít ỏi mà con người và thiên nhiên cứ bị để mặc, không bộ máy hành chính nào ngó ngàng tới. V́ thế ḷng tôi đầy một niềm sung sướng kỳ lạ và sự tôn quí, cảm thấy ḿnh hoàn toàn thuộc về ḿnh, đứng một ḿnh giữa thiên nhiên vô tận, giữa trời đất bao la, như ngày mà con người chưa được dựng.
Hai người Ladakh trung thành và người ngựa là những sinh vật duy nhất c̣n liên hệ với tôi; và trong cảnh bao la của thiên nhiên này, tôi thấy họ gần gũi và thân thuộc với ḿnh xiết bao. Không nhiều th́ ít, chính những con ngựa quyết định chúng tôi phải dừng chân chỗ nào, v́ chỉ nghỉ ngơi nơi nào có cỏ và nước cho chúng.
Dù cảm giác nhỏ nhoi trước cảnh hùng vĩ của vùng núi non, dù biết cái giới hạn và sự phụ thuộc của con người trước nắng mưa, với nước cỏ, với thức ăn, chất đốt và các điều kiện vật chất khác, thế nhưng tôi chưa từng có một cảm giác về tự do và độc lập lớn hơn thế này. Chưa bao giờ tôi rơ cái mà ta gọi là đời sống văn minh lại chật hẹp và hạn chế như thế và để có một đời sống an toàn, ta phải trả một giá cao thế nào về tự do và độc lập thật sự trong tư tưởng và hành động.
Một khi mỗi chi tiết đời sống đă được tính toán và qui định, mỗi khoảnh thời gian ngắn nhất đă được định trước phải làm ǵ, th́ những dấu vết cuối cùng của tự tính vốn phi thời gian và vô tận của ta cũng biến mất; mà từ tự tính đó tự do được sinh ra.
Tự do không phải là muốn làm ǵ th́ làm, nó không phải là tự tùy tiện, bỏ mặc, chẳng phải là sự phiêu lưu, mà tự do là khả năng có thể chấp nhận được cái bất ngờ, thu liễm và chuyển hóa nó; tức là nới tâm mở rộng đối diện với mọi t́nh huống bất ngờ của đời sống tốt cũng như xấu.
Đó là khả năng có thể phù hợp được với muôn h́nh vạn trạng của điều kiện sống, mà không đánh mất niềm tin nơi các mối liên hệ sâu xa giữa thế giới bên trong và bên ngoài. Đó là niềm xác tín, không bị thời gian lẫn không gian hạn chế, khả năng chứng thực cả hai mà không chấp trước vào một khía cạnh nào, không t́m cách chiếm đoạt chúng bằng cách chia chẻ chúng ra từng mảnh.
Thời gian bị chia chẻ một cách cơ giới và giả tạo của con người hiện đại, đă không làm con người thành chủ của nó mà ngược lại là nô lệ; càng muốn tranh thủ thời gian, ta lại càng mất nó. Điều đó giống như ta bắt ḍng sông ép vào trong một cái chậu mà quên rằng chính sự trôi chảy, chính sự tương tục của vận động mới làm ra ḍng sông.
Điều này cũng đúng cho thời gian: chỉ ai chấp nhận nó trong toàn bộ kích thước, trong nhịp điệu vô tận và sáng tạo đời sống, cái làm nên tính tương tục của nó, th́ kẻ đó mới làm chủ được nó, biến nó thành của ḿnh được.
Khi ta chấp nhận thời gian như thế, sẵn sàng thu liễm vào trong ta mà không ngăn chận ḍng chảy của nó th́ nó sẽ mất uy lực đối với ta. Chúng ta sẽ như được nó chuyên chở trên đỉnh cao, không bị nuốt trọn, không bị kéo xuống vực và nhờ thế mà không mất tầm nh́n về những cái phi thời gian.
Không nơi nào mà tôi cảm nhận được điều này sâu xa hơn bằng giữa bầu trời Tây Tạng, trong sự trầm lắng sâu thẳm, sự trong suốt của bầu không khí, cái rực rỡ của màu sắc và cái thanh tịnh hầu như trừu tượng của dáng núi.
Cuộc sống hữu cơ đă thu lại thật nhỏ nơi đây, không có vai tṛ ǵ trong cảnh quang chung, bản thân cảnh quang lại là biểu trưng của sự sống, của những sức mạnh uyên nguyên từ trời đất.
Núi đá vắng cây cho thấy một cách trọn vẹn qui luật của trọng trường có đôi chút thay đôỉ th́ cũng chỉ v́ tác động của mưa gió và của cấu trúc địa chất và tính cách của đất đá, biểu hiện bằng màu sắc và h́nh dáng.
Trời và đất đă đổi vai cho nhau. Nếu bầu trời thường sáng hơn cảnh vật dưới chân ḿnh th́ ở đây bầu trời thường tối và sâu; trong lúc đó, cảnh vật nổi bật trên bầu trời bằng sắc màu rực rỡ, hầu như chúng là nguồn sáng. Sắc đỏ và vàng bập bùng như lửa cháy trước bức màn xanh đen của trời.
Thế nhưng khi chiều buông th́ màn đêm ập đến, cho một cái nh́n vào chiều sâu của vũ trụ. Ngàn sao sáng rực và gần gũi hầu như chúng là một phần của cảnh vật. Ta thấy chúng như từ trên cao sa xuống chân trời lóe lên một cái rồi biến mất, như một người cầm đèn biến mất sau cánh cửa.
Vũ trụ không c̣n chỉ là một cái ǵ trừu tượng mơ hồ mà một thực tại có thể thấy rơ và v́ thế ở đây không ai nghĩ về “thời gian” mà không nhớ đến mặt trời, mặt trăng và những v́ sao, các thiên thể chế ngự nhịp điệu của đời sống; nhờ thế mà thời gian mất khía cạnh tiêu cực của nó, nó trở thành một kinh nghiệm cụ thể của một sự vận hành miên viễn, qui hoàn sáng tạo, là tự tính của muôn vật.
V́ bầu trời hầu như không bao giờ bị mây che phủ hoàn toàn, con người luôn luôn thấy được tiếp xúc với các thiên thể và chiều sâu xa của không gian. Cả ban đêm cũng không bao giờ tối hoàn toàn. một thứ ánh sáng lờ mờ kỳ lạ chiếu cảnh vật trong những đêm không trăng, một thứ ánh sáng tỏa ra từ các v́ sao. Trong thứ ánh sáng đó mọi vật và cảnh quang hiện ra tương đối rơ nét không màu không bóng.
Mực nước trong sông suối cũng dâng hạ với nhịp vận hành của thiên thể, v́ trong mười hai giờ của ngày hè th́ tuyết trên núi bắt đầu tan khi mặt trời rọi, tối đến th́ đông cứng lại. Thế rồi nước lại cần khoảng mười hai giờ để chảy từ núi xuống suối, nên khoảng chiều tối nước suối dâng cao và sáng hôm sau lại hạ xuống.
Các ḍng suối nhỏ thường khô kiệt trong các giờ ban ngày, ban đêm lại trở thành ḍng thác chảy xiết. V́ thế nếu ai cắm lều bên cạnh một ḍng suối tưởng khô ráo có thể ban đêm bị nước cuốn, điều này đă xảy ra cho tôi, nhưng rất may giờ cuối đă cứu được cả người lẫn hành lư.
Nhịp điệu lớn lao của thiên nhiên xuyên suốt mọi thứ và con người đan kết với nó về vật chất lẫn tinh thần. Ngay cả trí tưởng tượng hay sự cảm xúc cũng ít tùy thuộc vào lĩnh vực của cá thể mà nó tùy thuộc vào cảnh vật.
Trong đó nhịp điệu của vũ trụ tinh đọng thành một tiết điệu với sức thu hút không cưỡng lại được. Nơi đây trí tưởng tượng chính là biểu hiện của thực tại trên b́nh diện ư thức con người và ư thức này dường như nối mọi cá thể với nhau và cho cả vùng một không khí tâm linh.
Dưới ảnh hưởng của miền đất lạ lùng này, trong đó lũng c̣n cao hơn những đỉnh núi tại châu Âu, và núi non vươn đến những không gian siêu nhân thế; nơi đây đă xảy ra một sự du hành tâm linh kỳ lạ. Điều này dường như một tảng đá nặng đă được xuất hiện tự nhiên và nhẹ nhàng, nhưng không mất đi mối liên hệ và phương hướng của chúng.
Một sự chú tâm và sáng sủa cao độ được đạt đến, không chút cố gắng và một niềm vui cao cả giữ tâm trong trạng thái sẵn sàng sáng tạo. Tâm thức như được nâng lên bậc cao hơn, nơi đó các chướng ngại quấy nhiễu của đời sống b́nh thường không c̣n hiện diện hay chỉ hiện ra như những kư ức lờ mờ, không c̣n quan trọng hay thu hút ǵ nữa.
Đồng thời người ta ư thức về những dạng mới của thực tại, thấy nhạy cảm, mở rộng hơn với nó. Khả năng trực giác được đánh thức và kích thích: nói ngắn gọn, đă h́nh thành tất cả các điều kiện để chứng được đại định (dhyana) cũng như các dạng thiền quán cao hơn
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 292 of 1146: Đă gửi: 20 June 2010 lúc 1:00pm | Đă lưu IP
|
|
|
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
NGÔN NGỮ SỐNG ĐỘNG CỦA MÀU SẮC
Sự chuyển hóa ư thức mà tôi thấy ở đây cũng như những lần trở lại Tây Tạng, có một sự tương tự nhất định với sự chuyển hóa mà tôi đă có ở Yi-Gah Tscholing khi đến đó lần đầu.
Mặc dù lần này có qui mô lớn hơn v́ nơi đây tất cả mối liên hệ với thế giới quen thuộc đă bị cắt đứt và ảnh hưởng của các hang động, của không khí loăng, của thời tiết và của điều kiện sống đều tham gia vào sự biến đổi tâm lư đó.
Mặt khác, sự chuyển hóa tâm linh không v́ những yếu tố vật lư đó mà giảm ư nghĩa. Cả những phép tu du già cũng là một sự phối hợp các yếu tố vật lư, tâm thức và tinh thần, thí dụ tác động của phép làm chủ hơi thở (pranayama) và thái độ của thân cùng với sự tỉnh giác, quán chiếu của tâm, ḥa trong sự an tĩnh của cảm xúc nội tại.
Không khí cực loăng có một tác dụng như một số phép luyện hơi thở v́ nó buộc ta phải điều chỉnh hơi thở một cách nhất định, nhất là khi phải leo cao hay đi đường xa. V́ thiếu dưỡng khí, nên ta phải hít một khối lượng không khí gấp hai ba lần so với độ cao mặt biển và trái tim cũng phải làm việc nhiều hơn hẳn.
Mặt khác, trọng lượng của thân thể giảm đi nên cơ bắp hầu như có thể nhấc bổng nó và khi leo cao ta có cảm giác như chắp cánh. Thế nhưng đây chính là chỗ nguy hiểm v́ ta không trực tiếp thấy được tim và phổi đang chịu thiệt. Chỉ khi thấy ḿnh hụt hơi và tim đập loạn xạ, ta mới sực nhớ tự nhủ phải kiểm soát từng cử động của ḿnh.
Người Tây Tạng thường đi những bước dài chậm răi và lồng hơi thở của ḿnh trong bước đi. Thế nên việc đi bộ cũng trở thành phép kiểm soát hơi thở, tương tự như phép tu Hatha-Yoga của Ấn Độ, và đều này càng rơ hơn khi mỗi bước đi lồng hơi thở c̣n kèm theo việc đọc thần chú một cách nhịp nhàng, như người Tây Tạng thường làm. Xuất phát từ kinh nghiệm chính ḿnh, tôi có thể khẳng định rằng điều này mang lại an b́nh và có tác dụng tăng năng lực rất nhiều.
Kể từ đó, điều làm tôi rơ hơn hẳn là ảnh hưởng to lớn của màu sắc lên tâm thức con người. Không kể sự thưởng ngoạn nghệ thuật về cái đẹp mà màu sắc, tạo nên cho ta điều làm tôi thích họa là để cố giữ lại cái đẹp, cũng như trao truyền cho người khác tôi c̣n nhận ra một cái ǵ sâu xa và tinh tế do màu sắc tạo nên, có lẽ nhiều hơn bất cứ yếu tố nào khác trong các chứng thực thiền quán Tây Tạng.
Màu sắc là ngôn ngữ sống động của ánh sáng, của sự bày tỏ một thực tại có ư thức. Ư nghĩa tâm linh của màu sắc xem như biểu tượng và thuộc tính của thực tại cao cấp được nhận biết bằng cách chứng những màu sắc với mức độ khác nhau. Chúng hiện ra thành những màu rực rỡ, thuần khiết và có điều thú vị là một nhà tư tưởng hiện đại và nghiêm túc như Aldous Huxley đă kết luận là màu sắc là “bằng cớ của thực tại”.
Theo tôi th́ những sự trừu tượng hóa đầy đủ khái niệm, những biểu hiện và h́nh dung do suy luận mà thành, tất cả những cái đó đều vô sắc, trong lúc thực tại, dù nó thuộc dạng ấn tượng cảm quan của thế giới ngoại cảnh hay thuộc biểu tượng uyên nguyên của nội tâm trực tiếp th́ nó cũng đầy màu sắc.
Hơn thế nữa, cái thứ hai (ấn tượng nội tâm) nói như Huxley, “có màu sắc đậm đà hơn hẳn h́nh ảnh ngoại giới. Thế nhưng ta cứ t́m cách trừu tượng hóa sự vật theo cách dễ hiểu cho ta. Làm như thế, ta chỉ đánh mất tự tính của sự vật. Với kia của tâm th́ ít nhiều ta không c̣n cần đến ngôn ngữ và nó nằm ngoài hệ thống của suy luận khái niệm.
Thế th́ những cảm thọ h́nh ảnh của ta mang đầy sự tươi trẻ và cái sung sức trần trụi của ấn tượng, chúng không cần diễn đạt bằng ngôn từ, không cần sự trừu tượng khô cứng. Màu sắc của chúng (đặc trưng của sự vật) tỏa rực bằng một thứ ánh sáng, đối với ta là siêu nhiên.
Nhưng kỳ thực là hoàn toàn tự nhiên trong nghĩa chúng không bị tri thức hóa qua ngôn ngữ hay qua những h́nh dung khoa học, triết lư hay thực dụng; mà v́ những h́nh dung đó mà ta cho chúng xuất hiện lại trong thế giới này bằng những h́nh ảnh mù mờ của nhân thế chúng ta”(16)
Cảnh vật Tây Tạng có rất nhiều cái “sung sức trần trụi” này của h́nh dạng và màu sắc, nối liền ta với một linh ảnh siêu nhiên hay một giấc mơ tiên tri, giấc mơ này thường ở chỗ sự sáng láng và sinh động của màu sắc.
Trong một giấc mơ loại đó, lần đầu tiên tôi thấy màu sắc rực rỡ và thuần tịnh như thế, trong dạng một đỉnh núi trồi lên từ dưới biển xanh ngắt. Ḷng tôi tràn ngập niềm vui sướng và tự nghĩ: đây phải chăng là quần đảo thiên đường Nam Hải, nơi tôi đă nghe nhiều. Thế nhưng về sau khi đến những đảo phủ đầy dừa của miền biển nhiệt đới, tôi không c̣n thấy những màu sắc đă làm ḿnh vui thích đó nữa.
Thế mà tôi lại thấy những màu sắc này tại Tây Tạng và niềm vui sướng khi nh́n thấy màu sắc trở lại với tôi như trong giấc mơ đó. Nhưng tại sao tôi laị thấy đỉnh núi nọ trồi lên từ nước biển xanh ngắt?
Câu hỏi này nằm hoài trong trí tôi đến một ngày nọ chúng tôi đến một hẻm núi hẹp và nóng, xung quanh là đá màu vàng vây đầy, qua đó không những ánh sáng c̣n thêm chói chang mà hơi nóng cũng tăng lên tới mức người ta trong ḿnh ở vùng Sahara chứ không phải ở độ cao 4500 m của miền Trung Á.
Nóng tới mức mà khi nghỉ trưa tại một con suối nhỏ, tôi đă không cưỡng lại được, cởi áo xuống tắm và bơi một đoạn trước sự ngạc nhiên của các người Ladakh. Tôi thấy ḿnh hết sức sảng khoái, nhưng không tắm được lâu v́ hẻm núi càng lúc càng nóng.
Và con suối cũng cạn dần do nó đổ vào một cái hồ cạn màu vàng; nó tỏa ra một màu xanh cực mạnh như được chiếu từ bên trong. Thật là một cảnh quang bất ngờ, trực tiếp, khác hẳn với những ǵ đă xảy ra từ trước đến giờ. Tôi kinh ngạc không biết giải thích ra sao. Sợ rằng ḿnh có ảo giác, tôi gọi các người cùng đi:
- Xem ḱa cái ǵ thế ?
- Tso! Tso! Panggong Tso.
Họ đồng thanh gọi và ném mũ lên trời vui mừng, hầu như vừa qua được một đỉnh đèo. Thật ra chúng tôi mới tới một Lhasa-tse (tháp đá), đỉnh đèo nào cũng có nhưng đây là chốn quí báu, nơi mà đại hồ Panggong có thể thấy được đầu tiên. Và chúng tôi cũng lấy đá ném vào chỗ đó, ḷng thầm biết ơn có ai đă giúp ḿnh thoát được hẻm núi. Thế nhưng tôi vẫn không tin nơi mắt ḿnh. Không thể được! Nó như một loại nước nào tự sáng, không có trên trần gian.
Không bao lâu sau chúng tôi thoát khỏi hẻm núi đầy sức nóng và trước mắt chúng tôi, hồ trải dài như mặt của loại đá qúi Lapislazuli sắc xanh đă tan chảy; nh́n xa xa thấy như màu xanh đậm nước biển và gần bờ có màu cobalt xanh sáng. Tại các bờ cát trắng sáng, nước lấp lánh màu lục.
Những ngọn núi nằm sau làm nền cho cảnh tượng màu sắc khó tin này là một bản ḥa ca của những màu vàng óng, đất cháy và đỏ tươi với bóng ngă sắc tím. Đúng đây là cảnh vật sáng rực của giấc mơ xưa, cảnh vật vươn từ một ḍng nước xanh đầy ánh nắng lên bầu trời sâu thẳm không gợn mây.
Núi bên trái có h́nh dạng sắc sảo, phía đối diện lại thoai thoải một dăy, quanh năm tuyết phủ. Chúng chạy song song với các hồ Panggong-Tso và Nyak-Tso, hay hồ này tạo nên một vùng nước gần như liên tục dài hơn 160 km. Ngày xưa hai hồ là một thung lũng dài ngập nước. Về sau v́ núi lở, chúng bị chia đôi ra làm hai hồ riêng biệt.
Khi đến trạm dừng dưới chân dăy núi tuyết, cao hơn bờ hồ đôi chút, tôi đă bị mê hoặc bởi màu sắc của hồ và núi và của một nhịp điệu kinh khủng đang lan tỏa nơi đây; đến nỗi quên cả đói và mệt, tôi trở lại ngay chỗ cũ, nơi mà lần đầu tôi chiêm ngưỡng hồ và núi tuyết.
Thế nên tôi lại đi với giá vẽ, giấy, màu và vài miếng Kulchas (17) đỡ ḷng, qua vài cây số để trở lại chỗ tôi đă lưu ư nhưng không dám ngừng lâu v́ lúc đó không biế bao lâu mới đến chỗ nghỉ. Tôi làm việc với ḷng hứng thú, nên chỉ sau thời gian ngắn mà vẽ được hai ba tấm h́nh. Mặt khác tôi vẫn nhớ là trễ lắm lúc mặt trời lặn ḿnh phải có mặt tại trại.
Dù thế, chuyến đi ngắn của tôi suưt bị nguy; v́ bận về th́nh ĺnh tôi gặp một ḍng nước chảy xiết mà bận đi không có. Khi đi, v́ nóng ruột muốn đến, tôi quên không để ư đến nhiều ḍng suối cạn nước. Nước tan trên núi đă chảy xuống muốn cắt đường đi của tôi.
V́ biết không c̣n nhiều thời giờ, tôi đành phải lội nước lạnh ngắt và sau khi lội qua hai ba ḍng suối mới về tới nơi, gần lả người. Dù bao mệt nhọc, ngày hôm đó tôi rất vui sướng đă tận hưởng được vẻ đẹp và sự trực nhận không thể nào quên về cái hồ này.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 293 of 1146: Đă gửi: 20 June 2010 lúc 1:03pm | Đă lưu IP
|
|
|
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
NHỮNG GIẤC MƠ VÀ KƯ ỨC BÊN HỒ XANH
Trong những ngày sau chúng tôi đi theo bờ hồ dưới chân núi tuyết, mà triền núi chạy thoai thoải ra xa biến thành đất bằng, thành một vùng đất cao nằm trên hồ, thỉnh thoảng lơm xuống từng ḍng. Thế nhưng những ḍng này ít khi có nước nên đồng cỏ cũng hiếm.
Thành thử tuy gần hồ nhưng ban ngày hầu như người ta thiếu nước. Thứ nhất, là bờ hồ rất khó xuống v́ cao nguyên nằm cạnh hồ gần như có vách dựng đứng, chỉ trừ những nơi bị trũng mới có nước chảy xuống. Dọc theo các ḍng này là đến những đoạn có cát sỏi. Thứ hai, vùng này thiếu nước uống v́ một lư do bất ngờ: nếu có tới bờ hồ th́ nước cũng chẳng uống được v́ trong nước chứa quá nhiều chất magnesium.
Đó là lư do sinh ra độ trong và màu sắc nhưng nó làm cho nước không thể chứa sinh vật, dù thực vật hay động vật rất nhỏ cũng không. Thế nên nước trong vắt, trong những ngày lặng gió không sóng, đứng sát bờ, ta không phân biệt được đâu là nước đâu là bờ.
Tôi vẫn nhớ rơ cái hoảng sợ trong ngày ḿnh đến gần bờ và chân đạp vào nước lạnh ngắt lúc nào không hay. Những viên sỏi nọ với màu sắc đáng yêu, không khác ǵ những viên nằm trên bờ, vậy mà chúng lại nằm trong nước. Nước trong không màu hệt như không khí. Chỉ nơi nào khá sâu th́ nó mới mang một màu xanh lục, sâu hơn th́ chỉ c̣n một màu xanh ngắt, chính màu xanh biến hồ thành một sự kỳ diệu.
Màu của hồ và vùng xung quanh nó không ngưng cuốn hút tôi. Buổi tối, khi nước do tuyết tan chảy vào hồ, chúng làm thành một dải sáng bạc trên màu xanh đậm của hồ; trong lúc xung quanh các đỉnh núi rực màu cam, đỏ và tím, và bầu trời chuyển dần với sắc màu của một cầu vồng.
Thời tiết bỗng nhiên trở nên dễ chịu, như Điạ Trung Hải gặp gió ấm và ngày nọ chúng tôi đi qua một vùng cát trắng thỉnh hoảng xen lẫn vài đám sỏi, nóng bỏng, trải dài cả cây số giữa các triền núi tuyết và hồ.
Mặc dù ngay giữa tháng bảy tôi cũng không ngờ trên cao nguyên Tây Tạng lộng gió mà có cái nóng thế này. Nhưng như đă nói, Tây Tạng là một vùng đất của bất ngờ và đối nghịch: trong một ngày người ta có thể chết cóng và qua ngày hôm sau bị phơi nắng hay phải đương đầu với băo cát.
Không bao lâu sau khi vượt qua sa mạc cháy bỏng, chúng tôi đến một vùng dễ chịu với nhiều bụi hoa và đồng cỏ, được một ḍng sông con tưới nước. Đây là một vùng bằng phẳng nằm giữa hồ và núi đă rút lui.
Những cánh hoa ở đây khá giống với loài hoa đồng nội về màu sắc và h́nh dáng, nhưng thân của chúng lại khỏe nên giúp chúng tôi không có gỗ, thay vào đó là phân trâu mà chúng tôi nhặt nhạnh mỗi ngày, cũng có khi là rễ cây hay bụi gai t́m thấy bên cạnh bờ suối hay ḷng sông đă cạn.
Kể từ ngày rời lối ṃn của lữ hành th́ phân trâu cũng hiếm. Ngay trên đường đi của họ th́ phân trâu hay phân ngựa cũng đáng quí, không ai đi ngang mà không nhặt lên cho vào túi trước bụng để dành khi đêm đến đốt lửa. Trong không khí cực khô của vùng này th́ phân trâu ngựa nơi đây đều cứng như gỗ và cũng không có mùi hôi.
Ai chưa ở Tây Tạng hay những vùng không có gỗ ở Trung Á th́ khó có thể h́nh dung về giá trị của phân trâu. Nó là chất đốt quan trọng nhất của cả nước, nó cháy với một ngọn lửa hầu như không khói, nóng và đều. V́ chỉ có dầu trong trường hợp thật cần thiết, như trong đền đá lần đó tại Tschang-La.
Kể từ ngày đó, chúng tôi không bao giờ ở trong nhà, ngay cả những lúc có nhiều người tại Tankse, chúng tôi thích cắm lều ngoài trời hơn. Sau Tankse th́ với vài ngoại lệ xuất hiện vài túp lều ở chân dăy Panggong gần nơi có canh tác lúa ḿ, chúng tôi không c̣n thấy làng mạc nào nữa.
V́ thế, chất đốt và vấn đề chính và quan trọng như nước cho người hay cỏ cho ngựa. Cũng thế, thật đáng vui khi chỗ không người ở này lại có tất cả những ǵ cần cho sự sống c̣n. Chúng tôi hạ lều thoải mái nơi kín gió cạnh bờ suối. Thật là một chỗ nên thơ, một phía th́ được ngắm nh́n núi tuyết, phía bên kia là hồ.
Tôi cảm thấy sung sướng và vô tư tới mức quyết định cắm trại ở lại đây vài ba ngày để t́m hiểu các nơi xung quanh, dùng thời giờ để vẽ và thiền định. Trong sự thanh tịnh của thiên nhiên hoang sơ, xa lánh mọi mưu toan thế gian, dưới bầu trời cao rộng, bao bọc bởi một phong cảnh chỉ có trong mơ mà màu sắc như núi bằng đá quư của một thiên đường huyền hoặc, tôi thấy ḿnh thật an tịnh với chính ḿnh và thế giới.
Điều lạ là tôi không có cảm giác “cô đơn” trong sự yên tĩnh vĩ đại của thiên nhiên và cũng không thấy có nhu cầu phải trao đổi với ai. Hầu như ư thức của tôi đă rộng mở để bao gồm luôn thế giới ngoại cảnh phong cảnh, bầu trời và con người những cái liên hệ với tôi, hiện tại cũng như quá khứ.
Hơn thế nữa, quá khứ hầu như choàng lên hiện tại xuyên qua hiện tại. Tôi đă thấy hiện tượng này rồi trong những dịp khác, đặc biệt ở những nơi có độ ẩm cao, hay lúc mây kéo đầy bầu trời hoặc lúc không khí hầm hập nặng nề.
Ngay cả trước đây tôi đă thấy lúc nào có dấu hiệu thay đổi thời tiết th́ giấc mơ của tôi cũng bị ảnh hưởng theo; cho nên hồi đó tôi đă có thể tiên đoán lúc nào thời tiết sẽ thay đổi bất ngờ. Tôi nhớ người ta nói lúc nào mơ thấy người chết là trời sắp mưa.
V́ không thấy mối liên hệ giữa việc mơ thấy người chết và mưa nên tôi cho đó là nhảm nhí. Nhưng gần đây tôi thấy, bất cứ lúc nào nằm mơ thấy người thân lúc ḿnh c̣n nhỏ và chết đă lâu rồi th́ trong vùng vài ngày sẽ có mưa to, có khi dông hay băo tuyết.
Thường th́ những cơn mơ đó xảy ra khi không có một đám mây nào trong bầu trời, chẳng có dấu hiệu nhỏ nào trời sắp chuyển như nóng bức hay độ ẩm cao. V́ cao nguyên Tây Tạng ít mưa nên tôi dễ nhận ra hiện tượng này và từ đó xem nó như kinh nghiệm. Trong những chuyến du hành sau đi Tây Tạng tôi đều lưu ư giấc mơ của ḿnh và dựa trên đó mà vạch kế hoạch.
Cách giải thích của tôi về hiện tượng đó là, ư thức của ta phản ứng lại với sự thay đổi khí tượng, và với áp suất lớn th́ tiềm thức nơi lưu giữ kỷ niệm của thời quá khứ lan động đến ư thức. Áp suất càng lớn th́ ta càng dễ nhớ về quá khứ và điều này biểu hiện qua giấc mơ, trong đó những người liên hệ gần gũi với ta thời xa xưa hiện về, những người đó phần lớn đă không c̣n nữa.
Trong những vùng cao của Tây Tạng th́ ta không những nhạy cảm thêm với điều đó mà c̣n nhớ rơ hơn các giấc mơ đă bị chúng gây ấn tượng. Bản thân người Tây Tạng càng tin vào ư thức trong các giấc mộng và ít khi sai lầm khi suy đoán ư nghĩa của chúng.
Ngoài việc suy đoán giấc mộng, họ c̣n nhiều cách để tiếp xúc với vô thức: Thiền định, xuất thần, đồng cốt và những dấu hiệu tự nhiên lẫn siêu nhiên. Tất cả những điều này khắp nơi trên thế giới đều có, cả trong các nền văn hóa khác nhau; và kết quả của chúng dường như đủ để làm con người tin theo.
Người Tây Tạng sẽ ngạc nhiên nếu ta nghi ngờ những điều này, đối với họ tất cả đều là kinh nghiệm cụ thể, không liên quan ǵ đến ḷng tin hay lư thuyết. Đối với họ th́ những thí nghiệm của nền tâm lư hiện đại, dùng khoa học để “chứng minh” các hiện tượng thuộc tâm như thần giao cách cảm, chúng thật là ngớ ngẩn buồn cười, như ta “chứng minh” các hiện tượng thuộc tâm như thần giao cách cảm, chúng thật là ngớ ngẩn và buồn cười, như ta chứng minh sự hiện diện của ánh sáng vốn ai cũng thấy chỉ trừ người khiếm thị.
Chính những cách làm phiền toái của các thí nghiệm dó mới là trở ngại lớn nhất cho thành công của chúng. Khi đi t́m cái “khách quan”, họ đă loại bỏ sứ mạng then chốt của sự cảm xúc và tính tâm linh của con người, không có chúng th́ không có cách nào đi sâu hay tập trung được. Thái độ nghi ngờ, cách làm cơ giới và phương pháp thống kê (chỉ t́m số lượng và bỏ qua chất lượng) và khung cảnh sơ sài của các thí nghiệm, tất cả những cái đó đă đóng lại cánh cửa của “cảm thọ tâm lư”.
Tại Tây Tạng, khả năng tập trung và tự quán sát, nhất là sự nhạy cảm tâm linh được nhân lên hàng trăm lần nhờ cái to rộng, sự an tĩnh và đơn độc của thiên nhiên, nó có tác dụng như một tấm gương lơm, không những chỉ phóng lớn những cảm xúc rung động riêng tư nhất của ta lên mà c̣n tụ hội chúng trong một tiêu điểm: tại ư thức của chính chúng ta.
Nơi đây không c̣n ǵ làm tâm ta tán loạn, cả cái vĩ đại của thiên nhiên cũng không; v́ thiên nhiên không bao giờ gây phiền nhiễu mà ngược lại, nó kích thích ta tăng cường hoạt động tâm linh. Tâm thức và thiên nhiên là hai yếu tố đồng minh không phải đối thủ.
Tính vĩ đại và cao rộng của thiên nhiên và tiết điệu phi thời gian của nó phản ánh đúng ánh sáng đúng tính chất của các tầng tâm thức sâu kín của ta. Nh́n chung th́ hoạt động tâm linh của những người khác có tác động gây nhiễu ư thức và cắt đứt hay làm lạc ḍng chảy yên lành của nội tâm, tư tưởng và cảm xúc, sự chú tâm tự do mở rộng, không bị ngăn ngại.
Sự nhạy cảm của nó không c̣n bị tâm thức lạ liên tục tác động nữa hoặc để cho phiếm luận vô bổ và tiếng ồn vô nghĩa của đời sống văn minh làm cùn nhụt; và nhờ thế nó có thể tiếp cận với vô thức của chính ḿnh và với tất cả những người có cùng mức độ, họ được kết nối với nhau bằng t́nh cảm hay bằng chứng nghiệm giống nhau.
Điều này giải thích các hiện tượng thần giao cách cảm thường thấy tại dân Tây Tạng và không chỉ ở những người có tŕnh độ tâm linh cao mà cả với người dân dă, người chăn thú hay nhà nông, thương nhân hay thợ thuyền, người Nomade hay lữ khách, những người phải đi trong vùng hẻo lánh từ năm này qua năm khác.
Sven Hedin kể lại trong kư sự của ḿnh một trường hợp điển h́nh: Trên đường đi nội Tây Tạng, ông đồng hành với một đoàn vào một nơi hẻo lánh, hoàn toàn không có một người ở. Khi ông dự định đi sâu t́m hiểu vùng này th́ gặp một đoàn người Nomade, họ đưa một đàn thú từ vùng đó lại mà không biết rất rơ nơi đó.
Cố gắng lắm, ông mới thuyết phục được một người trong đó làm hướng đạo cho đoàn. Đó là một người c̣n trẻ, rất nhút nhát, anh thú thật là không quen sống ở chỗ đông người và chỉ chấp nhận hướng đạo cho đoàn nếu để anh ta đi trước một ḿnh, nếu không, anh không thể nhận biết dấu hiệu và phương hướng đường đi.
Sven Hedin chấp nhận yêu cầu đó và đoàn cứ đi theo sau anh một quăng xa, cho tới một ngày nọ anh bị bệnh và chết. Sven Hendin không c̣n cách nào khác hơn là cùng với đoàn đi lui lại, cứ theo đường cũ mà đi.
Nhưng khi đoàn c̣n cách chỗ đến vài ngày đường th́ người em của anh đó đang đi ngược chiều và trong đoàn chưa ai kịp giải thích về chuyện đă qua th́ người em ngay lập tức khóc lóc than văn về cái chết của anh ḿnh. Trước câu hỏi ngạc nhiên của nhiều người, người em kể ra nơi chốn và nguyên do cái chết của anh ḿnh một cách chính xác. Anh ta đă nh́n thấy bằng con mắt tâm linh.
Sự đơn độc xem ra có một tác dụng tương tự như vài phép thiền quán hay phép tu du già. Nó tự động loại bỏ sự lung lạc do các yếu tố bên ngoài và nhờ đó mà tạo ra một trạng thái an tĩnh nội tâm, một trạng thái chú tâm tự nhiên. Đối tượng nào của tư tưởng xuất hiện trong tâm cũng có một mức độ thực tại lớn hơn, rơ nét hơn và nhờ đó mà giữ được lâu hơn.
Được quán sát chăm chú hơn. Cái đă qua đọng lại thành cái hiện tại và cái hiện tại hiện ra không c̣n là đường cách ly giữa cái đă qua với tương lai, mà là một khía cạnh nhất thể của thân thể đang tồn tại song song và liên tục trong một sự chứng nghiệm bốn chiều.
Nhờ hạnh xả bỏ xảy ra trong sự đơn độc mà tôi thấy rơ rằng, đời sống chúng ta phụ thuộc rất ít vào những quyết định do đầu óc đạo diễn và lại dựa rất nhiều trên những biến cố, ấn tượng tưởng chứng như không quan trọng; chúng đột nhiên hé mở cho thấy phương hướng chủ yếu của tự tính đích thực của chúng ta.
Chúng ta cho những biến cố hay ấn tượng này là t́nh cờ v́ đường như chúng xảy ra mà không có nguyên nhân ǵ nơi ta, nhưng ta quên rằng sở dĩ có ư nghĩa v́ chúng ta cho phép những năng lực được bộc phát, thứ năng lực vốn nằm sẵn trong ta nhưng ta không biết đến chúng, chỉ v́ những kế hoạch do đầu óc ta nghĩ ra đă che lấp ḍng chảy liên tục của đời sống nột tâm và sức mạnh tâm linh của ḿnh.
Những giấc mơ thời thơ ấu của tôi đan quyện với những đỉnh núi tuyết Andes và sự cô đơn độc kiêu kỳ của vùng cao nguyên Bolivia, nơi sinh của mẹ tôi và cũng là nơi diễn ra nhiều chuyến đi phiêu lưu làm bà tôi rất vui ḷng, chúng cũng đưa tôi vào một thế giới hoang dă xa lạ, trong đó những đoàn lừa ngựa kéo nhau đi trong núi rừng hoang vắng.
Đồng thời các câu chuyện những người trong nhà vây bọc lấy tôi, họ nói về các mỏ bismut(18) trong núi Quechila, những chuyện thời xưa của ông tôi tại Cochabamba hay những chiến tích của ông cố tôi mà ngày xưa đă từng là một tướng lănh trong cuộc chiến tranh giải phóng và là đồng chí của Bolivar, ông đă mang lại một chiến thắng quyết định và nhận được vinh dự của quân hàm cao nhất của tổng tư lệnh tại Montenegro.
Điều gây ấn tượng cho tôi hơn cả là cái vĩ đại của những ngọn núi trọc, rơ nét của cao nguyên Bolivia và những bí ẩn nằm sâu trong đó; một thế giới toàn vàng bạc được chôn giấu, Bismut và các thứ kim loại khác. Tôi đă từng thấy những kim loại quí này và bị vẻ đẹp của nó thu hút hơn trị giá, hồi đó tôi cũng chẳng biết ǵ về trị giá của nó.
Nhất là loại bismut, đó là một dạng kết tinh nh́n như những lâu đài bằng vàng, gây nơi tôi một sự mê hoặc khó tả. Để t́m hiểu thế giới bí ẩn này trong ḷng đất và để được sống vĩnh viễn trong ánh sáng mặt trời và được nh́n hoài chân trời của miền cao nguyên hùng vĩ này, tôi quyết sẽ đi theo nghề làm mỏ núi, tiếp tục truyền thống của gia đ́nh.
Thế nhưng khi lớn lên, nhận ra ḿnh không ham thích chiều sâu của trái đất bằng chiều sâu của tâm thức và v́ thế tôi bỏ khoa học tự nhiên để đến với nghiên cứu triết học. Và v́ triết học đối với tôi là việc đi t́m sự thực nên tôi không mấy ham các hệ thống triết học, đó là những định nghĩa có tính hàn lâm các tư tưởng triết học, mà hướng về những dạng phát biểu có tính tôn giáo của thực tại và cách thực chứng được nó.
Tôi bị gây ấn tượng sâu xa bởi các bài đối thoại của Plato (19), chúng hấp dẫn tôi nhờ vẻ đẹp văn chương và tính tôn giáo. Trong các triết gia cận đại th́ Schopenhauer (20) gây ảnh hưởng mạnh lên tôi, và sự nghiên cứu tác phẩm của ông dẫn tôi đến các nhà thần học Thiên Chúa giáo cũng như đến Áo Nghĩa thư(21) và Phật giáo.
Khoảng năm mười tám tuổi th́ tôi bắt đầu viết một công tŕnh so sánh ba tôn giáo lớn của thế giới là Thiên Chúa giáo, Hồi giáo và Phật giáo để bản thân tôi được rơ và để quyết định luôn tôn giáo mà ḿnh theo là tôn giáo nào; v́ thôi thấy vô nghĩa nếu chỉ chấp nhận một tôn giáo nào chỉ v́ cha mẹ ḿnh theo nó, nếu chỉ v́ xă hội ḿnh đang sống chấp nhận nó.
Đối với tôi, tôn giáo là một chuyện có tính chất thuyết phục, dứt khoát chứ không phải chỉ là sự tin trong đơn thuần hay qui ước chung chung; và muốn được thuyết phục, tôi phải biết rơ. Để t́m sự thực nơi ba tôn giáo này, tôn giáo nào thuyết phục ḿnh nhất, tôi bắt đầu đi sâu học hỏi.
Chẳng bao lâu sau tôi thấy Hồi giáo không chứa đựng ư niệm nào mới so với truyền thống chung của Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo nên nó sớm bị loại, chỉ c̣n Thiên Chúa giáo và Phật giáo. Lúc đầu học hỏi, tôi thấy Thiên Chúa giáo ít nhiều thuyết phục tôi hơn (dù nhà thờ không làm tôi tin tưởng).
Thế nhưng càng đi sâu, tôi càng thấy ḿnh có nhiều tương đồng với Phật giáo và cuối cùng tôi rơ, Phật giáo là tôn giáo duy nhất thuyết phục tôi trọn vẹn. Thế nên cuốn sách chỉ dành cho giáo lư Đức Phật và bản thân tôi là người đầu tiên được chính cuốn này đưa về với Phật giáo.
Mặc dù các chương sách này c̣n non nớt nhưng nó cũng được phổ biến tại Đức, tại Nhật mà về sau khi đến Sri-Lanka, tôi khám phá ra nó, tám năm sau khi nó ra đời.
Điều làm tôi đi Sri-Lanka là nghĩ rằng ḿnh t́m nơi đó truyền thống thuần túy nhất của Phật giáo và nhất là cơ hội để chứng nghiệm thiền định và tiếp tục học ngôn ngữ mà tôi đă học tại Capri (22) và đại học Napoli. Đại học này có một bộ kinh viết bằng văn hệ Pali do vua Chulalongkorn của Thái Lan tặng.
Về điểm này th́ ở Sri-Lanka thật nhiều thành quả và dưới sự hướng dẫn của Nyanatiloka Mahathera, nhà sáng lập và viện trưởng của tu viện trên đảo Pogasduwa, một trong những nhà thông thái Pali bấy giờ, tôi có nhiều cơ hội học tập và thu thập kinh nghiệm, trong đời sống tu sĩ cũng như trong giáo lư của Thượng tọa bộ của Nam tông Phật giáo.
Ḷng thân ái của dân tộc Sri-Lanka cũng như tính kỷ luật và tŕnh độ giáo lư của các sư đă gây ấn tượng mạnh mẽ lên tôi. Nhưng tôi thấy thiếu cái ǵ nơi đây - điều ǵ th́ về sau tôi mới khám phá ra, lúc ngụ lại tại Yi-Gah-Tscho-Ling-Gah Tscholing, nơi đă đột nhiên mở ra chân trời mới của chứng nghiệm tôn giáo và khi vị đạo sư xuất hiện trong đời tôi.
Bây giờ tôi mới thấy cuộc đời quanh co và những gốc rễ sâu kín của ḿnh. Tôi nghiệm ra rằng, chuyến hành hương về chốn bất định lại chính là chuyến trở về nơi tôi đă mộng thấy và các giấc mơ lại chứa nhiều thực tại hơn các kế hoạch của đầu óc, miễn là những giấc mơ đó phản ảnh niềm tha thiết sâu xa nhất của tâm hồn chứ không phải là những ước muốn, tham vọng nông cạn nằm sau những tính toán thiệt hơn. Thật đúng thay những lời của Santayana (23)
Minh triết đâu phải là,
chỉ biết khôn ngoan thôi,
nhắm mắt không chịu thấy,
ảnh trong tâm xuất hiện.
Minh triết đích thực là,
biết tin nghe trái tim.
Nơi đây bây giờ, tôi ngồi trong vùng đất của “hồ xanh núi đỏ” dưới những bụi cây nở hoa của một ốc đảo xa cách thế gian, cùng với hai người đàn ông lạ hoắc, ngoài tôi ra th́ họ là con người duy nhất trong cái vô tận của vùng đất không người ở này, bên cạnh đống lửa, trong lúc ngựa gặm cỏ và tiếng chuông quen thuộc của chúng vang lên trong đêm.
Khi trăng lên, tôi rời đống lửa, rút về giữa hai bụi cây, đủ xa để bớt tiếng động và sự chú ư. Tôi để bàn thờ nhỏ với tượng Phật của Tomo Géché mà tôi luôn luôn mang theo lên một chỗ hơi cao và ngồi ch́m sâu trong cuộc trao đổi với thầy ḿnh.
Nếu trong những ngày qua tư tưởng của tôi luôn ch́m trong quá khứ th́ bây giờ nó hướng hoàn toàn vào con đường nội tâm đang nằm trước mặt tôi, mà chính Tomo Géché, người đă chỉ cho tôi con đường đó. Tôi không rơ ḿnh đă ở bao lâu trong trạng thái hạnh phúc của quán tưởng và đối thoại không lời đó.
Bỗng nhiên mây kéo trên dăy tuyết và tôi quay về lửa trại. Ngày hôm sau, một đám mưa nhẹ rơi trên đầu chúng tôi. Bầu trời đă gửi cho chúng tôi phước lành.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 294 of 1146: Đă gửi: 20 June 2010 lúc 1:04pm | Đă lưu IP
|
|
|
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
SƯỜN NÚI TRƠN VÀ BÍ MẬT CỦA NHỮNG CHIẾC MÓNG NGỰA
Sau một ngày nghỉ thỏa thích bên lửa trại, nhờ lửa mà dù trời mưa chúng tôi vẫn khô ráo và ấm áp, mặt trời hiện lớn ra gần như gấp đôi nên tôi quyết định hôm nay sẽ đi về phía đông của hồ, càng xa càng tốt. Sau một ngày vắng bóng, hôm nay mặt trời nóng rực và bầu trời không mây mang màu sắc xanh như chưa hề có một ngày tuyệt diệu để vẽ.
Chỉ mặc áo nhẹ và không mang ǵ hơn ngoài bộ đồ vẽ, tôi lên đường. Tôi cố ăn sáng đầy đủ để khỏi cần mang theo lương thực và v́ đôi ủng Tây Tạng đă rách và đang được bạn đồng hành vá nên tôi chỉ mang xăng-đan, chẳng có vớ.
Thật là một cảm giác tuyệt vời được thơ thới đi trong cảnh đẹp và đầy nắng và khí trời dịu mát, trong vùng hoàn toàn không có người ở, với những màu sắc tưởng như không hề có trên trái đất này đang trải rộng trước mắt; đối với người họa sĩ thật là một ngày hội.
Sự kỳ diệu của cái hồ vẫn thôi miên tôi như ngày đầu màu xanh đậm rực rỡ mà nh́n mấy tôi cũng không biết chán v́ thế tôi càng muốn đi dọc theo bờ hồ để có cái nh́n toàn thể lên hồ và thấy được các ngọn núi tuyết phía nam mà những ngày qua chúng tôi đă đi dọc theo chân của nó.
Khi đến đầu một ngọn đồi nhô ra phía hồ th́ tôi gặp một đàn Kyang, một loại ngựa hoang chúng rất sợ người, không sao tới gần được chúng chạy chung một đàn nai. Đây là lần đầu tiên tôi được thấy chúng.
Chúng hơi giống ngựa vằn ở độ lớn và h́nh dáng, nhưng khác màu. Đầu của chúng to hơn đầu ngựa thường, lông màu nâu sáng như hươu nai nhưng bụng trắng. Chúng là con đẻ của môi trường hoang dă, nếu bị giam hăm chúng sẽ không chịu ăn uống và sẽ chết v́ không chịu nổi tù đày.
V́ lư do này mà không ai t́m cách bắt hay thuần hóa chúng, cũng không ai săn bắn ăn thịt v́ giết hại thú vật là đi ngược lại chủ trương của đạo Phật.
Tại Tây Tạng, săn bắn không phải là môn thể thao mà là một tội ác và ngay cả khi cần giết thú vật để ăn thịt v́ thiếu thức ăn trong mùa đông th́ người nuôi thú cũng cầu xin thú vật tha thứ cho ḿnh và cầu cho chúng được tái sinh trong hoàn cảnh hạnh phúc hơn.
Việc giết hại những sinh vật vô nghĩa nhất cũng được xem là xấu và nên tránh, dù điều kiện sống khó khăn tại Tây Tạng, nơi mà trái cây rau quả hầu như không có, nó chỉ sống được trong những vùng thấp có tưới tiêu, v́ thế mà Tsampa (bột lúa ḿ rang) thành thực phẩm chính.
Đánh cá và bẫy chim càng bị lên án hơn v́ phải cần giết hại nhiều sinh linh loại này mới đủ cho một bữa ăn. V́ thế cho nên chim thỏ và các loài vật khác rất dạn dĩ với người. Tôi nhớ tới một con thỏ nằm yên trong hang cho tới khi tôi rờ tới. Chim vào lều tôi rất thường và loại chột đồng thường chui từ hang ra để ṭ ṃ xem chúng tôi làm ǵ trong lănh địa của chúng.
C̣n loại ngựa hoang th́ luôn luôn giữ khoảng cách xa với loài người, không phải chỉ v́ chúng nhát mà có lẽ chỉ riêng việc thấy người cưỡi người đă làm chúng sợ. V́ thế tôi khá bất ngờ khi được thấy chúng và núp sau một tảng đá, quan sát một lúc rồi mới lên đường.
Trong đồng cỏ quanh hồ Manasarrovar và vùng thảo nguyên Tschang-Thang, ta có thể gặp từng đàn hàng trăm con. Thật thú vị khi nh́n thấy chúng phi trên những cánh đồng uốn lượn của vùng cao nguyên này.
Sau khi đi ṿng qua ngọn đồi, tôi xuống đến một vùng đất bằng phẳng, vùng này được phủ bởi một lớp magnesium kết tinh trắng xóa, dưới đó là đầm lầy. Vùng đất này làm tôi nhớ đến những hồ muối nguy hiểm của sa mạc Sahara, trên đó ta có thể đi lại, rồi khi gần đến mặt nước th́ bỗng nhiên mặt hồ muối bổng nứt ra và nuốt trọn con người, đây là chỗ đă làm nhiều người mất mạng.
V́ thế tôi né bằng cách đi ṿng quanh đầm và leo qua vài ngọn đồi nhở để đến bờ hồ. Bờ dựng đứng từ hồ lên và tận trên cao mới có một bờ đá hẹp, rồi trên bờ đá này là núi đá dựng. Các tảng đá xếp sát với nhau tới mức không thể đi ṿng, phải nhảy từ tảng này qua tảng khác, nếu không sẽ bị kẹp ở giữa. Nhưng tôi c̣n khỏe, c̣n ham thích, nên không bao lâu sau tôi đă đi được xa và càng tới gần, cảnh quang càng tuyệt diệu.
Cuối cùng th́ đá tảng cũng hết, nhường chỗ cho một dốc khoảng 45 độ, nằm sát với vách dựng đứng. Hy vọng sẽ vượt qua được đoạn khó nhất, tôi xuống dốc nhưng chỉ vừa đặt chân xuống th́ cả con dốc đă chuyển động và kéo tôi xuống bờ.
Th́ ra cát sỏi trộn rời rạc với nhau, một khi có ai đụng tới là nó tràn xuống vực. Tôi không c̣n thời gian để suy nghĩ. Nếu rơi vào nước lạnh giá hẳn tôi sẽ chết cóng trước khi bơi được vào bờ, đó là chưa kể bờ là vách đá làm sao bám vào được.
Tôi không có cách nào khác hơn là cứ nhảy chồm về phía trước để tránh khối cát sỏi bắt đầu lăn. Như một con quỉ rừng theo sát chân tôi. Khối cát lăn ào xuống vực. Tôi nhảy chéo, hơi hướng lên cao và cuối cùng giữ được độ cao, tới được chỗ đất cứng.
Bây giờ dưới chân là đá tảng đủ thứ h́nh thù, nó là cái thay đổi đáng mừng cho tôi. Nơi đây tôi có thể đi lại không nguy hiểm, không tất bật và với tâm trạng an toàn, tôi ngồi nghỉ chốc lát. Ngồi trên một tảng đá, khi nh́n quanh, tôi khám phá ra một điều kỳ lạ: xung quanh là vô số móng ngựa, nằm giữa những tảng đá hay lẫn với sỏi cát, trong số đó không có một móng nào nằm ngược.
Nh́n chúng, ta tưởng như một đàn ngựa bị gió thổi lên trời và để lại những móng. Nhưng làm sao lại như thế được? Hay một cơn tuyết lở đă sinh ra? Nhưng không, nơi đây chẳng phải là sườn núi tuyết, chẳng có dốc núi nào đủ dựng để tuyết có thể lở v́ vùng này là vùng tuyết của Tây Tạng cũng như ít mưa trong trong các mùa khác.
Dù cho một cơn băo tuyết khủng khiếp có thể giết chết một đàn ngựa và thổi dạt xác chúng đi th́ ít nhất cũng c̣n thấy xương của chúng trong nước hồ trong, mà ở xa vẫn c̣n thấy những hạt sỏi dưới đáy.
Thế nhưng không hề thấy một miếng xương nào, trong nước cũng như giữa các tảng đá. Dù cho chó sói hay chim ưng ăn xác th́ chắc chắn cũng c̣n dấu vết để lại, ít nhất sọ hay răng ngựa cũng phải c̣n.
Và tại sao mà mọi móng ngựa lại đứng ngay và bị găy ngay đốt xương dường như đàn ngựa sợ hăi điều ǵ đứng sựng lại và chết? Sức mạnh đáng sợ nào đă có thể tiêu diệt đàn ngựa nhanh chân một cách bí ẩn như thế?
Dù nguyên nhân ǵ chăng nữa th́ tôi cũng không c̣n thời gian mà suy nghĩ về nó. Tôi đi t́m một chỗ thích hợp, từ đó có thể ngắm nh́n hồ với dăy núi tuyết đằng sau. Với mục đích này tôi đi tiếp, gặp một vịnh nhỏ dễ thương gần như h́nh tṛn, xung quanh là cát trắng tinh mà nước nơi đó mang một màu xanh lục rực rỡ.
Đối diện với vịnh này là một mỏm đá nhô ra mặt hồ, đó phải là chỗ tôi cần để ngắm cảnh. Nhưng như nhiều lần tại Tây Tạng, tôi lại nhắm sai khoảng cách, v́ không khí quá trong và màu sắc quá sáng, cho nên mặc dù đi nhanh trên bờ cát, tôi vẫn phải mất nhiều thời giờ mới đến được bờ bên kia. Lúc tôi c̣n mê vẽ th́ những bóng mây đen đă kéo lên trên đỉnh núi tuyết phía nam. Nhưng v́ ham công việc quá nên tôi chẳng để ư ǵ cả, chỉ biết đây là cơ hội quí giá cho sáng tác.
Tới lúc bức tranh vẽ xong th́ mặt trời bị mây đen che kín và cảnh vật ngày càng tối không phải chỉ v́ bị mây che mà v́ mặt trời cũng sắp lặn. Tôi vội lên đường đi về; nhưng khi tới bờ bên kia th́ trời kịp tối và các tia chớp làm sáng bầu trời, sấm rền ngay trên đầu tôi. Không khí bỗng lạnh như băng.
Tôi bỗng nhớ đá núi chập chùng và đàn ngựa chết một cách bí hiểm gần đó và biết ḿnh đang lâm nguy. Chắc chúng đang phi th́ bị đá đổ ngăn chận lại, hay đêm đến ngăn đường về và bị chết cóng. Hay nơi đây có những mối hiểm nguy, chúng đáng sợ hơn cái lạnh và băo táp mà tôi không biết.
Bộ xương và sọ ngựa đều biến mất không thể giải thích được bằng sự hiện diện của thú dữ, v́ ngay cả chó sói cũng không nuốt hết mọi thứ chúng cũng không cần v́ đây là thịt của một đàn ngựa.
Vùng đất khó đi này cũng đă cho tôi thấy, trước khi núi đổ th́ đây cũng không thể là đường đi của khách lữ hành. Ngoài ra có rất nhiều những móng ngựa nhỏ, điều đó cho thấy không thể là do đoàn lữ hành nào v́ không ai mang theo ngựa con nhiều như thế cả.
Tôi không sao giải thích được và bây giờ cũng không c̣n thời giờ để nghĩ tới. Mỗi phút giây đều quí báu! Tôi phải vượt qua triền núi trơn trước khi trời tối hẳn.
May thay các đám mây đen bỗng tan đi, đột ngột như lúc chúng kéo đến. Bầu trời vẫn c̣n mây nhưng không mưa và thảm mây mỏng loăng dần đi. Với chút ánh sáng cuối cùng trong ngày, tôi nhớ lại chỗ bị ngă và mặc dù không c̣n thấy rơ bao nhiêu, gắng hết sức, tôi qua được sườn núi đá lở.
Thở hổn hển, tôi đến được bờ bên kia, ngồi xuống nghỉ lấy sức; thế nhưng h́nh ảnh chó sói và các mối hiểm nguy khác không cho tôi yên, mà mối nguy ngủ gục và chết cóng là đáng sợ nhất. Khi hơi lạnh đă thấm vào cơ thể th́ khó mà lấy lại hơi ấm, nhất là tôi không có khăn choàng lẫn áo ấm và chỉ nhờ vận động mà giữ được hơi nóng. Thế nên tôi lại đứng dậy, biết mạng sống của ḿnh đang bị đe dọa.
Từ sáng đến giờ tôi không ăn, không có giọt nước nào từ lúc rời trại và bây giờ th́ cái đói khát đang bắt đầu lên tiếng, nhất là khát. Số phận mỉa mai thay, dưới chân tôi là nước trong vắt từ dặm này qua dặm kia mà tôi không có giọt nước nào cho đỡ khát.
Tôi nghĩ hay ḿnh tạm trú chân trong một hang động trên đường về, nhưng lại sợ chó sói ŕnh rập đâu đó, và v́ không có diêm hay bật lửa mang theo nên tôi bỏ ngay ư định. Nhưng cái thèm nhất vẫn là được ngồi xuống nghỉ ngơi. Tôi biết ḿnh đă ngồi th́ sẽ không đứng dậy nổi, v́ thế tôi quyết định đi tiếp cho tới lúc nào quị th́ thôi.
Bây giờ th́ trời đă tối hẳn, không c̣n phân biệt được đâu là những tảng đá lót đường. Nhưng tôi ngạc nhiên thấy ḿnh vững bước nhảy từ tảng này qua tảng đá kia, không hụt chân hay mất thăng bằng lần nào cả mặc dù chỉ mang đôi dép có ṿng da cột nơi ngón cái.
Đột nhiên tôi biết ḿnh đang mang theo một năng lực kỳ lạ, có một ư thức không do mắt hay năo ḿnh chỉ huy, mà do một “thức” mà tôi chưa biết tới. Tay chân tôi cử động như trong t́nh trạng xuất thần, hầu như chúng liên hệ với một cái biết nằm trong tôi, nhưng độc lập với tôi.
Tôi quan sát mọi sự này tựa hồ trong mộng. Thân ḿnh thấy như xa xa, không thuộc hẳn về ḿnh, tách rời với đầu óc ḿnh. Tôi có cảm giác ḿnh như một mũi tên chạy theo một đường bay đă có. Đồng thời tôi tin rằng ḿnh không được phép ngăn bắt cái năng lực đă chiếm lấy ḿnh.
Về sau tôi mới biết điều ǵ đă xảy ra. Trong điều kiện lúc đó và bên cạnh một mối nguy hiểm, tôi đă rơi vào t́nh trạng của một Lung-Gompa, người chạy xuất thần, mà không hể biết, là kẻ chỉ biết chạy tới đích và bỏ qua mọi chướng ngại một cách vô thức, chân như không chạm đất, đối với một người đứng ngoài th́ thấy như bay trong không, lơ lửng sát mặt đất.
Nếu chỉ nhảy sai hay trượt chân khỏi đá là đủ găy chân, nhưng tôi không trượt lần nào. Tôi đi vững chắc như người mộng du nhưng lại không hề ngủ. Tôi không biết ḿnh đă chạy bao nhiêu dặm trong vùng đất sát hồ khó đi này; chỉ biết cuối cùng ḿnh đă tới đỉnh của ngọn đồi tháp và trước mắt vùng đầm lầy với chất magnesiim.
Căn cứ duy nhất cả tôi là một v́ sao nằm về hướng núi tuyết, giúp tôi nhắm hướng. Tôi không dám tách lạc hướng và v́ c̣n ở trong trạng thái xuất thần nên tôi đi luôn trên đầm trắng bạc, nhưng lại không hề bị lún lần nào.
Nhưng trại ở đây? Chắc không c̣n xa và cách hai dặm phải thấy được trại rồi. Tôi lên một ngọn đồi có cây và nh́n quanh nhưng khắp nơi không có chỗ nào có ánh lửa. Chắc chắn họ không bao giờ rời trại, để tôi chết trong hoang vu, không thực phẩm, không áo ấm, dù không có ai xét xử họ c̣n tôi th́ chỉ rời trại có một ngày mà chưa về.
Tôi xấu hổ v́ đă có ư nghĩ này, nhưng trong t́nh trạng gần như kiệt sức, tôi không sao chế ngự nổi sợ. Có lẽ tôi lầm hướng rồi chăng và tốt nhất là tiếp tục đi, cho đến bờ sông rồi đi ngược ḍng th́ phải tới trại.
May thay được đi thật ra đúng hướng và khi tôi bắt đầu bỏ hy vọng t́m lại trại th́ đột nhiên thấy ánh lửa trong một khoảng đất thấp. Tôi cố gọi nhưng cổ đă khô, không ai nghe thấy tiếng của tôi ở khoảng cách này.
Nhưng ḷng tin đủ mạnh cho tôi thêm sức, rồi vài phút sau tôi đă đến trại và quỵ xuống bên đống lửa; trong lúc bạn đồng hành vui mừng thấy tôi không hề hấn ǵ, họ cho tôi ăn uống. Tôi thấy ḿnh như kẻ lạc loài trở về chưa bao giờ mà lửa trại và ṿng tay con người lại mang đến niềm vui lớn như buổi tối khó quên đó.
Tới hôm nay tôi vẫn chưa giải thích được sự bí ẩn của những chiếc móng ngựa, mặc dù đă thảo luận với nhiều người với hy vọng có câu trả lời thích đáng. Nhưng những điều khác liên quan trực tiếp đến tôi trong ngày hôm đó th́ đă được lư giải đầy đủ về t́nh trạng xuất thần mà tôi đă nhập vào, khi biết thêm về hiện tượng tâm lư của lugn-gom.
Trong một cuốn sách của Alexadra David-Neel (24) lần đầu tôi đọc, có mô tả chuyện này và nhiều năm sau tôi được thấy tận mắt trong tu viện nổi tiếng Nyang-to Kyi-phug, ở một lũng của sông Nyang-Tschu, không xa Schigatse, một trong những trung tâm giáo huấn du già nổi tiếng, vào năm 1947 lúc cùng đi với Li Gotami.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 295 of 1146: Đă gửi: 20 June 2010 lúc 1:05pm | Đă lưu IP
|
|
|
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
PHI HÀNH XUẤT THẦN VÀ PHÉP LUNG-GOM
Ghi chép của chứng nhân đầu tiên về phép phi hành xuất thần mà phương Tây được biết, cũng là mô tả ấn tượng nhất, là bà Alexandra David-Neel trong tác phẩm nổi tiếng Mystiques et magiciens du Tibet (Đạo học và các nhà huyễn thuật Tây Tạng).
Một ngày nọ, lúc du hành trên cao nguyên Tây Tạng, bà thấy từ xa xa một bóng đen chuyển động làm bà chú ư. Vùng bà đi bấy giờ là một vùng hoàn toàn không người ở, suốt hai tuần bà không gặp người nào. Qua ống nḥm bà thấy đó là một người, “đi một cách kỳ lạ và với một tốc độ phi thường”.
Khi người đó tới gần, bà thấy “rơ ràng khuôn mặt hoàn toàn an tĩnh, xa vắng và hai mắt mở to, h́nh như một cái ǵ xa xôi, vô h́nh, ở trên cao. Người đó gần như có cái đàn hồi của một trái banh cao su và cứ mỗi lần đụng đất lại dội lên. Những bước của người đó có cái đều đặn của một quả lắc”.
Vài năm sau biến cố xảy ra đă mô tả trong chương trước, khi đọc những ḍng này tôi liền nhớ lại chuyện bên bờ hồ Panggong. Sự mô tả này đúng hoàn toàn với kinh nghiệm của tôi. Những người tập phép lung-gom thường được khuyên là không những chỉ nên tập trung tâm thức ḿnh về một linh ảnh, mà ban đêm c̣n nên hướng mắt nh́n một v́ sao nhất định, v́ thế có lúc sinh ra một tác dụng như bị thôi miên.
Về khía cạnh này, tôi cũng làm đúng như vậy mà không biết và đă tới với một t́nh trạng như không c̣n trọng lực và đôi chân dường như có một ư thức hay bản năng riêng; chúng tự tránh mọi chướng ngại, tự t́m chỗ dựa cho ḿnh mà trong đêm tối với tốc độ đó chỉ có nhà tiên tri mới thấy được được.
Bà Alexandra David-Neel cho rằng phải có một sự gây mê nào đó mới làm người ta khỏi đau khi đụng phải đá hay chướng ngại vật. Tôi thấy điều này không phải, v́ nếu thế th́ người phi thân này phải bị sưng chân hay bị thương tích, điều này bản thân tôi không bị.
Tôi cũng thấy không đúng khi cho rằng việc tránh chướng ngại vật là nhờ phần c̣n lại của thức thông thường. Ngược lại, chính nhờ thức thông thường không can thiệp mà kẻ mộng du không bị hề hấn ǵ mà lại có sự an toàn nhờ bản năng.
Đối với kẻ mộng du th́ không có ǵ đáng sợ hơn nếu thức thông thường đột nhiên thức dậy. Đó là lư do mà người đi xuất thần phải tránh nói năng hay nh́n ngó v́ chỉ một chút phân tâm là đủ để cắt đứt trạng thái xuất thần thậm chí mất hẳn.
Ư nghĩa sâu xa của lung-gom là, vật chất có thể bị tinh thần chế ngự. Điều này được chỉ rơ trong các phép tập luyện phần lớn có tính chất tâm linh. Các phép tu tập đó thường được thực hành hết sức cẩn mật và nhằm tập trung lên một số năng lực cơ bản nhất định cũng như các biểu tượng thiêng liêng của chúng, song song với tŕ niệm mật chú, nhờ đó mà các trung khu tâm lực (cakra) của thân thể được đánh thức và vận hành, biến thành sức mạnh siêu nhiên.
Cũng như trong phép tum-mo phép sinh nội hỏa, hành giả tập trung lên yếu tố lửa qua một trung khu nhất định, đồng thời ư thức mọi hiện tượng và bản chất liên hệ với lửa; hành giả lung-gom phải ư thức mọi hiện tượng, khía cạnh và chức năng của năng lực gió, hướng tâm về đó.
Gom vừa có nghĩa thiền định, tập trung, quán tưởng tất cả năng lực tâm thức lên một đối tượng nhất định, đồng thời nó con mang ư nghĩa dần dần từ bỏ sự phân biệt chủ thể khách thể, đến mức chủ và khách thể trở thành đồng nhất với nhau.
Lung là yếu tố “gió”, nó ám chỉ sức sống tinh tế và năng lực tâm lư. Cũng như từ Hy Lạp pneuma vừa là không khí vừa là tinh thần, th́ về mặt thể chất lung là khí, đó là mặt vật chất của nguyên lư sống của chúng ta, thí dụ bộ phận hô hấp và khả năng di động và mặt kia là những luồng năng lực tâm lư mà qua đó những trạng thái ư thức được sinh ra hay biến mất.
Với gom th́ từ lung chỉ có nghĩa prana (khí) trong du già Ấn Độ, nó liên hệ với các phép tu nhằm điều khiển khí lực của thân người thông qua năng lực tinh tế của tâm thức. Nói cách khác: Lung-Gompa không phải là người có khả năng bay trong không (do có nhiều người hiểu sai từ lung) mà là người biết cách chế ngự khí lực của ḿnh bằng phép du già pranayanma.
Phép này bắt đầu bằng cách kiểm soát hơi thở và dùng nó làm khởi điểm của một sự chứng thực tâm linh, nó chuyển biến toàn bộ cơ chế tâm vật lư và toàn bộ tính cách của con người hành giả. Năng lực và sức mạnh nằm sẵn trong mỗi con người sẽ được tập hợp, tăng cường và đưa vào đúng hướng.
V́ thế mà lung-gom có thể được đinh nghĩa chính xác là “tập trung lên nguyên lư động”. Nó chứa tính cách động của cơ chế vật lư và tất cả hoạt động của thân, nhưng không gói gọn trong nghĩa nội tại mà là tác động hỗ tương của nhiều tiến tŕnh và nhất là phụ thuộc vào những sức mạnh uyên nguyên và tính chất bao trùm của tâm thức.
Thế nên nó có thể có ảnh hưởng trực tiếp lên các bộ phận của thân và chức năng để tạo thành một sự ḥa nhịp tâm vật lư: một sự song hành giữa tư tưởng và cử động, một sự ḥa nhịp mà tất cả năng lực của hành giả tham gia vào.
Khi ta đến điểm đó rồi, khi mà một lực hay một dạng vật chất có thể chuyển hóa qua một dạng khác th́ có nhiều điều tưởng chừng như siêu nhiên có thể thực hiện được, ví dụ dùng ư chí mà vận động khối lượng (một sự kỳ diệu mà thật ra chúng ta thường làm trong phạm vi nhỏ mà không hề hay biết) hay sự chuyển hóa vật chất thành năng lượng, làm giảm thiểu sức nặng hầu như loại bỏ được cả lực trọng lượng.
Trong các kinh sách cổ của phép thiền định đạo Phật th́ việc đạt các thần thông được xem là sản phẩm phụ, chúng gây nên hiểm nguy chứ không ích lợi ǵ trong sự giác ngộ. Việc biểu diễn thần thông là đáng chê trách từ thời xa xưa.
Thế nhưng trong một số trường hợp, v́ những điều kiện đặc biệt của Tây Tạng, cần thiết phải sử dụng thần thông này, nhất là khi phải vượt qua những chướng ngại tự nhiên, nếu chúng có lợi cho việc chứng thực tâm linh và phục vụ con người.
Thế nên tum-mo là phương tiện tiến bộ tâm linh và là cách chống lại cái lạnh của mùa đông Tây Tạng mà các tu sĩ du già phải chịu trong hang đá hay khi nhập thất, thất này nằm cao trong dăy núi, v́ các vị đó không mấy người kiếm được củi lửa.
Thế nhưng cần tránh cách suy nghĩ ngây thơ là tum-mo có mục đích sinh nhiệt; mà đó là chính là phép tu ḥa nhập tâm linh, dẫn đến giác ngộ và chứng thực.
Tương tự, lung-gom chỉ là một trong nhiều cách đưa đến giải thoát, trong nhiều trường hợp nó giúp hành giả di chuyển với tốc độ cao mà trong một xứ với phương tiện đi lại và truyền thông sơ khai, đó là điều quan trọng.
Cũng có thể óc nhiều người mới đầu chỉ có tham vọng muốn có năng lực siêu nhiên đặc biệt. Thế nhưng sự khổ công để đạt được điều đó lại cũng rất lớn, nên những kẻ dám tu tập phép đó cũng chính là những người có tính cách mạnh mẽ và phẩm chất tinh thần cao.
Và những ai chịu khó tuân thủ các phép tu tập này một cách nghiêm túc th́ đó lại là người sớm bỏ cái tự hào hay tham vọng ban đầu, v́ toàn bộ phép tu là một sự tự chiến thắng không hề làm tăng trưởng cái ngă, nguồn gốc của sự tự phụ.
Điều này được minh họa bằng nhiều truyện nhân gian, như truyện Tám mươi bốn vị Thánh tựu giả(Siddhas), sống trong khoảng thế kỷ thứ 7 đến 10 của kỷ nguyên chúng ta. Nhiều người trong số đó bắt đầu với mục đích đạt những thần thông siêu nhiên v́ lợi ích của riêng ḿnh.
Trong lúc họ hướng tới mục đích đó và nhất là sau khi đă đạt được th́ họ lại đánh mất mọi quan tâm về thế gian, v́ trong quá tŕnh tu tập họ đă vượt lên cái tự ngă, nguyên nhân của mục đích vị kỷ ban đầu.
Ta có thể kể thí dụ của vị Khadgapa. Ban đầu ông ta là một tên cướp, ông gặp một vị du già sư và hỏi làm thế nào để trở thành nhà vô địch. Vị du già sư đáp: “Có một bảo tháp không xa thành Benares. Hăy đến đó và đi ṿng quanh thánh thất ba tuần, nơi đó có một tượng Quán Thế Âm, vừa đi vừa niệm chú và thiền định theo phép ta dạy ngươi.
Nếu ngươi thành khẩn và liên tục tập trung, không để tâm tán loạn th́ cuối tuần thứ ba sẽ có một con rắn độc sắc đen từ tháp ḅ ra. Ngươi phải chụp đầu rắn ngay, nếu không nó sẽ cắn ngươi. Nếu ngươi thực hành đúng phép thiền định th́ con rắn không làm ǵ được ngươi và sẽ đạt được sức mạnh của nhà vô địch”.
Tên cướp cám ơn vị du già sư và làm theo lời dạy. Ông hết ḷng hết dạ làm điều căn dặn và khi con rắn ḅ ra khỏi tháp, ông chụp nó ngay và nh́n lại th́ chính là lưỡi kiếm tuệ giác vô địch.
Ông không cần dùng đến năng lực siêu nhiên này nữa v́ ông đă trở thành một thánh. Từ ngày đó ông được gọi là Thành tựu giả Khadgapa, “bậc thánh với lưỡi kiếm”.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 296 of 1146: Đă gửi: 20 June 2010 lúc 1:06pm | Đă lưu IP
|
|
|
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
NYANG-TO KYI-PHUG TU VIỆN CỦA NGƯỜI NHẬP THẤT
Tất cả những ǵ mà tôi nghe thấy ở trung tâm tu phép Lung-gom tại Nyang-to Kyi-phug (hang động phước lại tại Nyang) xác định ḷng tin của tôi là, mục đích của lung-gom, như phép thần túc thông hay bay bổng lên không, vượt xa tham vọng đạt thần thông, và trung tâm này không phải là nơi tụ họp của những kẻ tham vọng hay ích kỷ, v́ cái đầu tiên đ̣i hỏi một người học phép lung-gom là hoàn toàn ẩn danh.
Khi nhập thất th́ người đó đă chết đối với thế gian: không ai được biết tên tuổi, quyến thuộc hay quê hương người đó. Người đó đă bỏ luôn cái quá khứ của ḿnh và sau nhiều năm khi ra khỏi động th́ không c̣n ǵ của ngày xưa tồn tại với ḿnh nữa, không ai biết người đó là ai.
Đó là một người như mới sinh ra kẻ không những quá khứ đă chết, mà là người đă chủ động đi qua cánh cửa của thần chết và tái sinh lại, sống cuộc đời xả bỏ mọi tham chấp riêng tư. Con người mới đó sẵn ḷng v́ lợi ích của sự giác ngộ của mọi người mà c̣n giúp họ thoát ṿng vô minh.
Điều này c̣n được ḷng tin của quần chúng xác nhận rằng gốc của lung-gom là mong ước của một vị thánh nhân, muốn vượt lên cái chết bằng cách từ bỏ chính tự ngă ḿnh. Vị này là nhà sử học danh tiếng Buston, sinh năm 1289 gần Schigaste và là tu viện trưởng của Schalu.
Nơi đó là trung tâm khổ luyện phép lung-gom. Cách đó không xa có một nhà đại huyễn thuật tên Yung-ton Dorje Pal, trong một buổi lễ đặc biệt đă khẩn cầu thần chết, đừng bắt ai phải chết trong một thời gian mười hai năm.
Thần chết đồng ư nhưng với điều kiện là phải có ai hy sinh thân ḿnh để đổi mạng (ư này dễ chấp nhận v́ một cái chết để cúng dường có giá trị bằng hàng ngàn mạng người chết v́ phải chết). Trong buổi lễ đó không ai dám chịu cả chỉ trừ Buston.
Cũng v́ thế mà nhà huyễn thuật phải thừa nhận vị thánh nhân này là người duy nhất có thể cử hành buổi lễ, nên thay v́ nhận sự hy sinh của Buston, ông trao cho Buston các đệ tử trách nhiệm cứ mười hai năm cử hành buổi lễ một lần.
Trong buổi lễ v́ phải mời các vị phẫn nộ thần của các chính điện tại trung tâm Tây Tạng và chỉ có sứ giả không biết sợ và có tài đi nhanh đến các thánh thất đó trong ṿng hai mươi bốn tiếng mới thực hiện được sứ mạng, nên người ta thiết lập trung tâm đào tạo Lung-Gom tại Samding và Nyang-to Kyi-phug, từ đó mà các sứ giả được gửi đi, cứ mười hai năm thay đổi lẫn nhau.
Câu chuyện này tôi được nghe tại Kyi-phug cũng được Alexandra David-Neel kể lại trong cuốn sách của bà. Tôi không có dịp thăm Samding nhưng cách đây vài năm tôi đọc một bài của Sven Hedin, trong đó ông nói về một cái hang “nằm cao hơn Linga và Pesu”, trong hang đó có một vị lạt ma nhập thất bít kín cửa.
Ông thăm chỗ này vào một ngày mùa đông. Hang động này nằm dưới chân một vách đá cao, mang tên Samde-phug. Hang động có cửa sổ, cửa lớn; nhưng có một nguồn suối phun nước từ trong ra, dưới vách tường bít kín cửa ra vào.
“Khi vị lạt ma Rimpotsché bí ẩn này đến liga cách đâyba năm, ông nguyện với các sư trong viện sẽ sống vĩnh viễn trong bóng tối. Qua nghiên cứu kinh sách, người ta xác định ngày tốt sẽ bít cửa. Đến ngày đó th́ tất cả các sư tề tựu đông đủ để tiễn ông vào mồ.
Câm lặng và chậm răi như trong một đám tang, các sư từ b́nh nguyên tụ về cao nguyên, đi từng bước, gần như muốn kéo dài phút giây cuối cùng để cho vị này c̣n được thấy mặt trời, ánh sáng và màu sắc. Ông biết rằng ḿnh sẽ rời thế gian này vĩnh viễn, không bao giờ được thấy các ngọn núi đứng canh mồ ḿnh. Ông biết ḿnh sẽ chết trong hang, không c̣n ai nhớ tới.
Sau khi hang được bịt kín, ánh sáng sẽ tắt măi măi với ông. Ông sẽ cô đơn, không bao giờ nghe được tiếng người, chỉ c̣n vang vọng giọng nói của chính ḿnh. khi ông cầu nguyện không c̣n ai nghe thấy ông, khi ông gọi không c̣n ai thưa đáp. Đối với bạn đồng môn đă chôn sống ông th́ ông đă chết. Họ im lặng xuống tu viện và làm công việc hàng ngày của ḿnh.
Mối dây duy nhất giữa họ và người trong động chi là trách nhiệm mỗi ngày phải mang cơm nước cho ông. Một chén nhỏ gồm có tsampa, trà và bơ được chuồi vào khe nhỏ dưới vách, nhưng khe này nhỏ tới mức mà tiếng động, ánh sáng khó vào được với ông.
Cách duy nhất để biết ông c̣n sống hay không là xem ông có ăn uống không. Khi thức ăn suốt sáu ngày liền không được đụng đến th́ người ta phá cửa. Nhiều nhà sư kể lại đă có nhiều trường hợp xảy ra: “Cách đây ba năm có vị lạt ma chết sau khi ở trong thất mười hai năm, trước đây mười lăm năm có vị chết, vị này vào thất lúc hai mươi tuổi và sống trong bóng tối bốn mươi năm”.
Sven Hedin cố tưởng tượng những năm tháng vô tận mà kẻ nhập thất phải chịu đựng trong bóng tối: “Người đó không thể đếm ngày nhưng cứ tới mùa hè th́ biết một năm đă trôi qua. Về sau chắc người đó không c̣n nhớ ḿnh đă ở bao nhiêu năm. Cái duy nhất mà người đó đếm được là những hạt của tràng hạt và các lời cầu nguyện…
Cuối cùng, sau những năm dài đằng đẵng có ai gơ cửa hang, người đó duỗi tay để đón bạn. Đó là cái chết đă đến ngưỡng cửa. Người tu hành đui mù này suốt chục năm ch́m trong bóng tối, đột nhiên thấy ánh sáng rực rỡ… Người đó đă thoát khỏi cảnh luân hồi và đi vào ánh sáng của ân phước vĩnh viễn”.
Câu chuyện xúc động này theo đuổi bên tôi măi, làm tôi thán phục liệu có ai và làm sao được, suốt một đời sống trong bóng tối, không có khí trời trong lành, thiếu vận động mà chịu nổi đó là chưa nói tới sự cùn lụt tâm trí bắt buộc không có khi không tiếp xúc với người.
Có thể tin được chăng, khi loại bỏ ánh sáng mặt trời người ta t́m được ánh sáng tự thân hay thậm chí sự giác ngộ? Không phải chính Đức Phật cũng lên án cách tu hành khổ hạnh ép xác cũng như sự hưởng thụ dục lạc thế gian?
Sự tự hủy diệt tâm lư không bao giờ được đạo Phật xem là phương tiện thay đức hạnh. Và người Tây Tạng, dù họ tin nơi sức mạnh siêu nhiên và năng lực chuyển hóa, nhưng từ xưa đến nay trong cuộc sống thường ngày cũng như trong phương pháp tu hành, luôn luôn là người có đầu óc tỉnh táo. Tính chất của họ là thực tiễn và quan niệm tôn giáo của họ không hề hắc ám hay tách rời cuộc sống.
Điều này th́ khi đến tại Nyang-to Kyi-phug, tôi hoàn toàn rơ, dù nơi đây có lỷ luật cao độ và tu hành nghiêm túc, tất cả những ǵ hiện diện nơi đó đều ngược lại với ư niệm cho rằng lung-gom phải tu trong bóng tối (điều mà bà David-Neel h́nh như cũng tin) và trong điều kiện thiếu vệ sinh không xứng hợp với con người.
Ngược lại! Tôi vui mừng thấy các thất thiền định nằm trên dốc núi cao hơn các tu viện hay đền đài, được chăm sóc kỹ lưỡng, chúng được xây dựng hết sức thích hợp để bảo toàn cho sức khỏe vật lư cũng như tâm lư của hành giả, tạo cho họ một sự an tĩnh tuyệt đối, không bị quấy rầy. Nơi đây đúng là”tinh thần minh mẫn trong thân tráng kiện”.
Mỗi một thất đều xây sao cho không khí, nước và mặt trời đều vào được và người ở trong đó phải được vận động. Dù cách ly với thế giới bên ngoài, hành giả vẫn liên hệ được với không gian rộng lớn và có thể theo dơi vận động của trời mây và thiên thể cũng như quang cảnh của bốn mùa.
Thất không phải là nơi hành xác hay hay chịu tội mà là chốn của an vui và đi sâu vào quán tưởng. Hoàn toàn không phải là một nấm mồ, thất đưa con người đến tâm an lạc, cũng như gọi tên của Kyi-phug (hang động an lạc). Ấn tượng chung đó làm tôi cũng ước muốn một ngày kia sẽ thiền định và quán tưởng không bị quấy rầy trong một cái thất như thế, trong một thời gian dài.
Kẻ nhập thất có thể mang theo sách vở, h́nh tượng, tranh thanka, tùy theo phép tu của họ, cũng như vật dụng để cử hành nghi lễ hàng ngày như kim cơnưg chử, chuông, đèn, b́nh đựng, kể cả tschoktse một loại bàn thấp để bày biện các thứ.
Từ những điều đó ta biết rơ, thời giờ của hành giả được chia rất cẩn thận, gồm học hỏi kinh sách, lễ nghi cầu nguyện và thiền địnhh, chỉ bị gián đoạn bởi sự tập luyện thân thể và các công việc cần thiết như nấu nướng, giữ ǵn thân thể và áo quần sạch sẽ, lau chùi các vật dụng tế tự.
Với tŕnh độ ngày càng cao th́ những hành động đó cũng trở thành các bước thiền quán, rồi cuối cùng toàn bộ cuộc sống của hành giả chỉ là hoạt động đơn thuần của thiền định.
Các thất này thường có một bếp nhỏ với vài cái nồi chảo để nấu trà bơ, đó là phần không thể thiếu được trong thực phẩm Tây Tạng (v́ hầu như không thể nuốt tsampa khô rốc xuống họng được) và các món đơn giản khác. Các cứ sĩ đến thăm tu viện thường chỉ cúng dường các thứ chưa nấu và một ít thực phẩm khác, chuồi dưới khe bên cạnh cửa đă niêm phong. Bên cạnh bếp thường có một khoảng nhỏ, dưới dó là một con lạch tách từ một ḍng suối chảy qua, dùng cho mọi nhu cầu quan trọng, kể cả vệ sinh cá nhân.
Chỗ thiền định thật sự th́ rộng và thoáng nhờ một khoảng trần trống h́nh vuông nên thành một cái sân nhỏ, xung quanh có mái. Mái che xung quanh một bên rộng, ba bên kia hẹp. Dưới mái rộng là chỗ ở chính của hành giả. Nơi đó gồm có một cái bệ hơi cao bằng đá và đất, dùng làm chỗ ngồi và nằm, trải trên đó là một tấm chiếu mỏng.
Đối diện với chỗ ngồi là bàn thờ với tranh tượng, đèn, chén nước và các vật dụng khác. Vách tường đối diện, dưới mái che hẹp là nơi dùng để chứa chất đốt, vật dụng quan trọng trong thời tiết lạnh lẽo của Tây Tạng mà trà nóng hầu như là phương tiện duy nhất để giữ ấm. Tại Tây Tạng chất đốt quá quí, không ai dùng để sưởi pḥng, mà trong trường hợp này lại càng không thể, v́ trần mở phía trên.
Chất đốt sử dụng trong các thất không phải là phân trâu thông thường v́ trong đó hay có sâu bọ v́ thế không phù hợp cho kẻ tu hành có ḷng từ bi thương mọi chúng sinh mà thường là tro trấu hay một loại thảo có h́nh nấm, có xơ gỗ, giống như một loại rêu cứng mọc trên các triền núi. Người ta cho rằng trong chất đốt này không có loại động vật nào cả.
Từ sân nhỏ có thang lên mái xung quanh và mỗi ngày hành giả có thể lên đó mà không ai thấy; nhờ có vách tường cao che kín có thể lên đó mà không ai thấy; nhờ có vách tường cao che kín nên có thể thiền hành mà không bị quấy rầy. Nhờ thế, hành giả có thể đi cả dặm mỗi ngày tùy thích mà không phải rời thất.
Cách đi này được gọi là “kinh hành” của thời Phật giáo nguyên thủy, ngày nay c̣n được thực hành trong các nước theo Thượng tọa bộ. Khi đi kinh hành các vị sư nhẩm đọc kinh sách. C̣n các hành giả lung-gom th́ đi trên mái nhằm giữ sức khỏe thân thể, v́ đối với người nhập thất suốt cả tháng cả năm th́ đó là cách duy nhất được vận động trong khí trời và ánh sáng.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 297 of 1146: Đă gửi: 20 June 2010 lúc 1:10pm | Đă lưu IP
|
|
|
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
TU LUYỆN THÂN THỂ
Có những phép tu luyện lung-gom, chủ yếu là nhảy từ thế ngồi hai chân tréo, nhưng không dùng tay. Trước khi nhảy, hành giả lung-gompa hít không khí đầy ngực. Cứ áp dụng phương pháp này hàng ngày th́ hành giả nhảy được ngày càng cao và thân thể ngày càng nhẹ dần.
Quan trọng nhất là hít thở thật sâu, phối hợp với kỷ luật thuộc thân. Tôi chưa tập phép này bao giờ và cũng không nhớ có ai nhắc đến nó tại Nyang-to Kyi-phug hay không. Thế nhưng theo bà Alexandra David-Neel th́ phép này được xem là một cách thử nghiệm cho lung-gom.
“Người ta đào một cái hố, chiều sâu khoảng bằng chiều cao của thí sinh. Trên hố có một cái ṿm với chiều cao cũng khoảng như thế. Trên đỉnh ṿm có một cái lỗ. Như thế khoảng cách giữa đáy hố và đỉnh ṿm khoảng chừng gấp đôi chiều cao cơ thể của thí sinh.
Thí sinh phải ngồi xếp bàn tṛn, nhảy dựng lên và lọt qua lỗ trên đỉnh ṿm. Tôi được nghe người Khampa kể trong xứ họ phải đạt được như thế, nhưng chưa bao giờ thấy tận mắt.
Như đă nói, tôi không nghe tại Nyang-to Kyi-phug xác nhận điều này, lạ một điều là có sự trùng hợp với mô tả của John Blofeld về nhà huyễn thuật Meng Goong tại làng Miao ở bắc Thái Lan.
Nhà huyễn thuật này ngồi trước bàn thờ tổ tiên “… trên cái ghế cao khoảng một mét, tay đập trống và giọng của ông khỏe mạnh nhưng đáng sợ, nghe không phải tiếng người, vang lên trong buổi lễ. Thỉnh thoảng xảy ra những điều phi thường, có thực và khiếp đảm.
Với một tiếng rống ghê gớm ông bắn ḿnh lên cao một mét hay mét rưỡi và rơi thịch xuống băng ghế làm nó rung rinh muốn găy. Vận động này của một người, hai chân vẫn khoanh tṛn không hề duỗi ra, đối với tôi đáng sợ đến mức toát mồ hôi lạnh.
Sự mô tả của một tác giả tiếng tăm và đáng tin cậy chứng minh hai điều: thứ nhất, phép tu của người Tây Tạng không phải là hoang tưởng nhưng nhiều độc giả có thể nghĩ; thứ hai, không phải chỉ có sức mạnh cơ bắp trong chuyện này.
Nơi đây người Tây Tạng thấy có sự hiện diện của phép bay bổng (28) dù ngắn ngủi nhưng được sinh ra bởi cái nhẹ nhàng phi thường và sức mạnh tâm linh của một nhà Lung-gompa.
Dù ǵ đi nữa, những thuật tương tự như thế được thực hành ở đông Tây Tạng và bắc Thái Lan đă xác nhận cảm giác đầu tiên của tôi là tại Tây Tạng, phép nhảy đó không phải của riêng mà cũng chẳng là điều chủ yếu, nó được một truyền thống khác bổ túc vào.
Gốc gác đích thực là phép Long-gum, như đă nói, là phép niệm hơi thở pranayana của Ấn Độ cổ(cũng là phần chủ yếu của phép tu du già của Ấn Độ giáo và Phật giáo), trong đó phép luyện thân thể không hề có vai tṛ ǵ. thế nên ta cũng không thể nói kẻ luyện lung-gom là những người chịu “chôn sống” hay nguyện “vĩnh viễn sống trong bóng tối”.
Trong thế gian không có ǵ mà không chịu sự biến đổi hay chuyển hóa; ư muốn và ước vọng, tư tưởng và cảm xúc con người lại càng không. ngay cả thệ nguyện sống đời tu sĩ cũng không hề “vĩnh viễn” hay không được xét lại.
Những ai tự thấy đời tu sĩ không hợp với ḿnh hay không mang lại tiến bộ tâm linh đều có quyền quay trở lại cuộc sống b́nh thường. Đời sống trong tu viện, trong cảnh độc cư hay nhập thất cách ly hoàn toàn chỉ là phương tiện đưa đến mục đích, tự nó không phải là cứu cánh.
Thời gian mà một những nhập thất phải sống cách ly tùy thuộc phép tu và tŕnh độ tu luyện. Người đó không bao giờ bị ép phải tiếp tục tu luyện nếu sức khỏe hay năng lực giảm sút. Tại Nyang-to Kyiu-phug th́ các thời kỳ nhập thất được tính toán kỹ lưỡng và hiển nhiên là không ai tu tập mà không được thầy của ḿnh chuẩn bị chu đáo.
Thời gian ngắn nhất kéo dài khoảng một tới ba tháng, thời gian trung b́nh từ một tới ba năm và thời gian dài nhất là chín năm. Thời gian dài nhất đó xem như để hoàn tất phép lung-gom, hành giả có thể tăng lên mười hai năm như truyền thống để lại.
Để tránh chuyện khai dối thời gian tu luyện, thường th́ uy tín của hành giả lung-gom dựa trên thời gian đó, cửa vào thất được niêm phong bởi các cơ quan tôn giáo hay thế tục, thí dụ của tu viện trưởng hay chức sắc Nhà nước, v́ Tây Tạng là một xứ sở của tăng lữ, các công việc thế tục và tinh thần không tách rời hẳn.
Bảng niêm phong nếu không được phép của các vị chức sắc th́ không được mở ra. V́ chỉ có sức mạnh ư chí và ḷng thiết tha cao độ mới chịu nổi sự cách ly tuyệt đối trong một thời gian dài mà không bị nguy hại, nên thời gian đó được coi trọng. Nó được xem là thử nghiệm của sự kiên tŕ và tính chất mạnh mẽ của hành giả.
Trong thời gian tôi nghiên cứu tại đó th́ có sáu người nhập thất ở Nyang-to Kyi-phug. Một trong số đó đă ba năm tịnh khẩu và thiền định, và người ta đoán là ông sẽ không ra khỏi thất trước sáu năm tới đây.
Không ai được phép nói chuyện với một hành giả Lung-gom, cũng như không được nh́n thấy thân thể, dù chỉ chút ít. Quy luật đó là để bồ đề tính chất vô ngă ẩn danh.
V́ lư do mà tay của hàng giả được vải che kín khi ông tḥ ra lấy thức ăn nơi khe cửa, không cho thấy h́nh dạng đặc biệt của tay ḿnh, như có vết sẹo hay xăm tay, cho nên không ai biết được người đó là ai. Khe hở đó, tôi đo là 22,5x25cm, cũng chính là nơi mà hành giả lung-gom chui qua sau chín năm tu luyện.
Người ta nói rằng, sau thời gian đó th́ thân hành giả nhẹ và mềm dẽo tới mức có thể chui lọt lỗ đó, lỗ không to hơn bao nhiều một bàn tay của một người b́nh thường và hành giả có thể chạy nhanh như ngựa phi nước đại, chân hầu như không đụng đất. Nhờ khả năng đó mà hành giả có thể đến các thánh thất tại trung Tây Tạng (U-Tsang) trong một thời gian không thể tin được.
Và người Tây Tạng cũng tin rằng sau khi thực hiện xong sứ mạng trên th́ hành giả lung-gom t́m một chỗ độc cư theo ư thích, trong một hang động hay một thất tự ḿnh xây hay tín đồ xây tặng; trong đó ông ta sẽ thiền định và giáo hóa chúng sinh cho đến cuối đời bằng cách thực hành những trách nhiệm tinh thần, phù hợp với phép tu của ḿnh, tùy theo yêu cầu của tha nhân và đệ tử.
Đối với những ai t́m tới ḿnh, ông sẽ chia sẻ ân phước, cứu chữa kẻ ốm đau, giúp người hoạn nạn. Thời gian tu kuyện đă cho ông những sức mạnh tâm linh để chữa bệnh, có khi chỉ cần rờ tay đến hay qua những nghi lễ đặc biệt như sử dụng dược thảo hoặc thuốc men đă được ban phép.
Các thứ này đóng một vai tṛ quan trọng trong Phật giáo Tây Tạng. Các năng lực thiêng liêng này đều nhờ những hoạt động tâm linh mà có, người Tây Tạng tin rằng ai càng đi xa trên con đường đạo th́ càng có nhiều năng lực cứu giúp cho kẻ khác, càng có thể ấn chứng vật thể bằng năng lực mang lại phước lành của ḿnh.
KHẢ NĂNG CHỮA BỆNH
Ḷng tin nơi khả năng chữa bệnh của những người đă thành thánh nhân nhờ suốt đời đă theo hạnh xả bỏ và tu luyện tinh thần, ḷng tin đó không phải chỉ ở Tây Tạng mới có, mà nó là một kinh nghiệm chung.
Mối liên hệ giữa niềm tin và sức chữa bệnh có tác dụng qua lại. Niềm tin là khả năng tự mở ḷng ḿnh, khả năng tiếp nhận; c̣n sức mạnh tâm linh, thể hiện trong sức chữa lành bệnh, là khả năng đối thoại, tỏa sáng, sự tuôn trào cái giàu có nội tại của ḿnh cho bên ngoài và là sự đơm hoa kết trái của một tâm hồn già dặn trong an tĩnh muốn được chia sẻ với người khác.
Khả năng chữa bệnh và ḷng tin v́ thế mà như hai cực âm dương của một sức mạnh duy nhất, và ở đây có cái trước th́ ở đó có cái sau. Thế nhưng, cũng có chiều ngược lại: Ḷng tin cũng có thể thành sức mạnh, trong đó ḷng tin như một thứ chân không hút hết các lực nằm xung quanh và chiếu lại như vật thể hay con người nó hướng tới.
Các vị lănh đạo tôn giáo thường tùy thuộc nơi ḷng tin của đệ tử, cũng như đệ tử lại cần niềm xác tín toát ra từ vị thầy. Một khi quá tŕnh này bắt đầu rố th́ nó mau chóng lớn mạnh.
Ḷng tin khi đă tập trung lên một vị lănh đạo tinh thần hay một đạo sư, vị trí này thường được quyết định bởi phẩm hạnh cá nhân của người đó, nó sẽ biến người này thành một trung tâm gồm những năng lực, chúng vượt xa hơn hẳn bản thân người đó, và làm người đó có những năng lực phi thường.
Thế nhưng khi những người đó bị mất đi môi trường tự nhiên của ḿnh cũng như hậu thuẫn tinh thần và truyền thống, như trường hợp các vị lạt ma Tây Tạng sống trong một thế giới hoàn toàn xa lạ, trong một t́nh trạng hư vô về tinh thần th́ người ta không thể chờ đợi các vị đó có những năng lực siêu nhân nữa.
Khi chưa hiểu mối liên hệ hỗ tương giữa ḷng tin và sức mạnh tinh thần, th́ khả năng chữa bệnh của một thánh nhân hay một con người đă tu tập, người đă t́m ra một cái trung tâm nội tại của ḿnh, sẽ bị xem như một pháp thuật hoặc một sự nhảm nhí.
Điều mà đối với ta, phép thuật chẳng qua chỉ là sự thu ngắn của nhiều năng lực tự nhiên, tức là sự tác động trực tiếp của tâm lên tâm, không thông qua giác quan hoặc các bộ phận cơ thể vật lư. Ḷng tin sinh ra một cái như chất xúc tác hay cây thang nối tâm với nhau.
Cũng như điện luôn luôn có đó nhưng phải cần dây dẫn điện mới tác động được, th́ năng lực tinh thần phải cần ḷng tin và sự tham gia tự nguyện mới phát huy được.
Thế nhưng khi ta tin rằng, tâm thức không phải chỉ là sản phẩm của các chức năng vật lư hay phản ứng hoá học, mà là yếu tố cơ bản xây dựng nên đời sống, là người sáng tạo và tŕnh bày ra cơ thể, chứ không phải kể nô lệ cho nó th́ chúng ta không thể có kết luận nào khác hơn rằng.
Có sức khoẻ là nhờ có một tâm thức thăng bằng, ḥa hợp; và bệnh tật hẳn phải đi từ một tâm thức rối loạn, mất cân đối. Ngay các kinh sách nguyên thủy của Phật giáo đă xem thức là yếu tố đi trước mọi thứ và là điều kiện tiên quyết của mọi tồn tại.
Người Tây Tạng, thay v́ chống lại các hiện tượng thể chất, họ t́m cách giải quyết tận gốc rễ bằng cách chữa cho tâm thức. Điều này có thể xảy ra bằng ảnh hưởng trực tiếp của một vị thánh nhân hay nhờ niềm tin tưởng tha thiết không qua vật dụng cúng dường, biểu tượng, lễ nghi… chúng có thể uốn nắn lại tâm.
Dù ta có tin hay không nơi khả năng tâm lư của vật chất, tức là khả năng tác động của nó về mặt tâm lư khi chủ động tập trung lên nó, th́ sự thật là luôn luôn có một mối hỗ tương giữa tâm và vật, thậm chí giữa các dạng vật chất với nhau; v́ cuối cùng chúng cũng chỉ là tác trạng thái năng lượng đă ổn định, đă tụ hội.
V́ thế ư niệm chuyển hoá chất liệu không phải chỉ Nhà thờ Cơ Đốc giáo mới có, mà của tất cả mọi nghi lễ đều có, trong đó một số chất liệu chịu sự điều động của năng lực do sự tập trung sinh ra, khi th́ do những hành động huyền bí, khi th́ nhờ thiền định tịnh khẩu của nhiều năm mà người Tây Tạng theo phép tu lung-gom thực hành.
Tất cả những điều này trở nên dễ hiểu khi Tomo Gésché Rimpotsché, sau mười hai năm dài thiền định, tịnh khẩu, ông đă trở lại với thế gian. Ông có một sức chữa bệnh tới mức mà các hạt tễ do ông bào chế qua lễ nghi và phát rộng cho mọi người đến xin phước lành nơi ông, chúng được quư trọng khắp mọi nơi tại Tây Tạng, quí hơn cả những hạt trai quư nhất.
Khi tôi nhận được ba hạt này sau lễ điểm đạo th́ bạn Géché Tubden Scherab, người có mặt trong buổi lễ, xin tôi hăy chia sẻ cho ông. Ông kể tôi nghe chúng cứu ông như thế nào trong những lúc đau nặng hết thuốc chữa, chúng có một sức chữa lành ngay tức khắc.
V́ hồi đó chưa hiểu hết ư nghĩa sâu xa quà tặng của vị đạo sư và xem đó chỉ là thuốc men thông thường mà ḿnh không mấy khi dùng đó là không kể tôi tin thuốc tây hơn tôi tặng hai viên cho người bạn đó. Tiếc thay về sau tôi cũng không nhớ để xin thầy cho thêm, cho nên ngày hôm nay tôi chỉ c̣n một viên duy nhất. Chỉ nhiều năm sau tôi mới biết giá trị của nó.
Câu chuyện sau đây có thể làm sáng tỏ ư nghĩa của viên thuốc. Vào năm 1949, lúc tôi cùng Li Gotami trên đường về từ tây Tây Tạng, chúng tôi thấy tại Rampur thủ phủ của bang Baschar do một vương tước theo Ấn Độ giáo trị v́, một đền thờ Tây Tạng với đầy đủ các thứ, gồm tam tạng kinh điển, các thứ pháp khí và một bánh xe cầu nguyện khổng lồ, v́ dân chúng Rampur hoàn toàn theo Ấn Độ giáo.
Chúng tôi lấy làm lạ tự hỏi ai đă xây thánh thất này, vai giữ ǵn quét tước và sau đó khám phá ra đó là nhờ vị tiểu vương tại Rampur, vị này chính là người cho xây và coi sóc ngôi đền này.
Nguyên vị tiểu vương suốt bao năm không có con và v́ vậy không có ai nối ngôi. Mặc dù vị này đă nhờ các vị Bà-la-môn cố vấn và tổ chức nhiều giới đàn cầu tự, nhưng mong ước của ông không thành. Ngày nọ có một vị lạt ma tôn quí cùng đoàn tùy tùng đi ngang qua Rampur, trên đường đi thăm thánh địa Ngân Sơn; và v́ tên tuổi của ông quá lớn nên hàng ngàn người, nhất là những người thuộc vùng phía bắc, t́m đến lễ bái và xin ông ban phước.
Vị tiểu vương không bở lỡ cơ hội, mời lạt ma vào cung điện và than thở số phận của ḿnh. Vị tiểu vương hứa với lạt ma sẽ cho xây một đền thờ Phật giáo với đầy đủ kinh điển, nếu lạt ma ban phước cho ông sinh được người kế vị.
Vị lạt ma hứa giúp nhưng đ̣i nhà vua phải cho ông một chỗ không ai quấy rầy để thiền quán và để thực hành nghi lễ, nơi ông sẽ bào chế thuốc cho vua và hoàng hậu uống. Vị tiểu vương liền cho xây một toà nhà đặc biệt ngay trên nền cung điện và cấm không cho ai lại gần có thể làm phiền lạt ma.
Thế nhưng có một tôi tớ của nhà vua không kiềm chế được sự ṭ ṃ, lợi dụng đêm tối lẻn vào toà nhà xem vị lạt ma làm v́. Chắc hẳn anh ta đă nghe về bí mật của các viên thuốc và t́m biết cách bào chế, v́ nghe đâu cần nhiều chất liệu khó kiếm, người thường không thể có được.
Khi anh ta nh́n được vào bên trong th́ thấy vị lạt ma, xung quanh là một số nhân trạng kỳ dị, thiên nhân có, ma quỉ có, anh sợ quá ngất xỉu. Ngày hôm sau người ta thấy anh nằm trước bậc cầu thang vào nhà. Khi tỉnh dậy anh ta nói như người bị lên cơn sảng về những ǵ ḿnh đă thấy một cách đầy sợ hăi. Vài giờ sau anh ta chết.
Sau câu chuyện này không ai dám lai văng đến đó nữa, c̣n vị lạt ma th́ ch́m sâu trong thiền định. Người ta chỉ nghe tiếng chuông trống, lần với tiếng tụng niệm rù ŕ của vị lạt ma.
Tới ngày đă định, vị lạt ma rời nhà, ban phước cho vị tiểu vương và hoàng hậu và chỉ đưa cho họ các viên thuốc và chưa đầy một năm sau th́ một hoàng nam ra chào đời. Để cảm tạ vị lạt ma này, nhà vua giữ lời nguyện và cho xây đền. Ông gửi một phái đoàn đến Tây Tạng để in lại kinh sách được cất giữ tại Narthang và thỉnh các pháp khí cần thiết cho một ngôi đền.
Sau khi chiêm bái đền xong, chúng tôi đến cung điện để xin xem toà nhà mà vị lạt ma đă ở. Trong dịp này chúng tôi hỏi người giữ nhà tên của vị lạt ma. Câu trả lời là: "Tomo Géché Rimpotsche".
Khắp nơi trên đường từ Tây Tạng đi Rampur chúng tôi đều nghe những câu chuyện kỳ diệu về chuyến hành hương của Tomo Géché Rimpotsché, đó là một biến cố đă cho hàng ngàn người niềm tin và hy vọng mới mẻ.
Bất cứ chỗ nào dừng lại, ông đều giảng pháp Phật, chữa bệnh cho kẻ ốm đau, nâng đỡ người hoạn nạn đă t́m đến với ông. Tại làng Poo, biên giới Tây Tạng, người ta khiêng một bé gái gần chết lại cho ông. Bé đă ốm từ lâu và t́nh trạng vô vọng đến nỗi thân nhân ngại đem lại cho ông v́ sợ đi giữa đường cô bé sẽ chết.
Thế nhưng người trong làng tin vào sức mạnh kỳ diệu của Tomo Géché Rimpotsché, nên họ thuyết phục cha mẹ bé hăy liều đi. Khi bé đến nơi ở của vị lạt ma, hầu như cả làng đều có mặt. Trước sự chứng kiến của đám đông. Tomo Géché ra lệnh cho cố bé hăy vươn người đứng dậy. Mọi người kinh ngạc thấy bé mở mắt ra đứng dậy, và sau khi nhận phước lành của lạt ma, bé đi ra khỏi nhà, như chưa hề bao giờ đau ốm.
Lúc chúng tôi đến Poo th́ cô bé này c̣n sống và nhiều người chứng kiến bảo đăm đây là sự thực. Chúng tôi không có lư do ǵ nghi ngờ điều này cho dù Tomo Géché không phải là thầy của chúng tôi cũng thế, v́ hầu như không có nơi nào ông đi qua mà mọi người không nhắc ông bởi cặp mắt ngời sáng và ḷng tôn kính sâu xa, dù nhiều năm đă trôi qua và bậc đạo sư đă rủ bỏ tấm thân ḿnh rồi.
Mặc dù sức tưởng tượng của nhân gian đă khoác một tấm màn huyền thoại lên những chuyện thực nhưng vẫn rơ ra một điều là Tomo Géché Rimpotsché phải có năng lực chữa bệnh phi thường và nhân cách của ông đẫ để lại nơi người gặp một ấn tượng không thể xoá mờ.
Điều này qua nhiều câu chuyện đă chứng thực. Sinh tiền, cuộc đời của ông đă là một huyền thoại. Tất cả những ai biết đến ông đều rơ là huyền thoại bao quanh một thánh nhân thường chứa đựng nhiều sự thực, chứ không như đầu óc hay nghi ngờ của trí thức phán đoán và ngay trong thời đại khô cằn này của chúng ta vẫn có thánh nhân xuất hiện trên trái đất như trong những ngày của Phật Thích-Ca hay Chúa Jesus, của Mohammed hay vị thánh Franz von Assisi.
H́nh ảnh của Tomo Géché Rimpotsché cho thấy một cách thuyết phục, là ngay những kẻ đă tu phép du già nghiêm khắc và sống nhiều năm trong t́nh trạng hoàn toàn độc cư, vẫn không mất mối liên hệ nội tại với người đời, mà càng sẵn sàng phụng sự cao độ cho xă hội loài người.
Trong đời sống tâm linh của người Tây Tạng, lạt ma đóng một vai tṛ lớn hơn, có ảnh hưởng sâu sắc hơn trong dân chúng so với các nhà thông thái chỉ biết lo dạy học hay nghiên cứu kinh điển.
Chức năng của một vị thầy tâm linh, tức là một đạo sư, theo quan điểm Tây Tạng không nhằm việc đưa ra một đạo lư ǵ đặc biệt hay giảng giải những nguyên lư cơ bản của đạo Phật truyền thống, mà là một sự bày tỏ họ đă chứng thực được mục đích cao nhất và con đường họ đi là thể thực hành được.
Ngay một hành giả giữ tịnh khẩu, như một ngọn đèn, cũng có thể phát ra được những tia sáng tri kiến soi màn vô minh và ảo giác. Chỉ cần sự có mặt của họ, chỉ cần họ hiện hữu trong ánh sáng của giác ngộ là đủ để cho người lạc lối trong bóng tối lấy lại được niềm tin và tinh tấn.
Đối với người b́nh thường th́ tù biệt giam là h́nh phạt nặng nhất. Một tâm thức chưa tập luyện sẽ tan vỡ dưới sức ép của sự cách ly mọi tiếp xúc của con người. Những ai đă qua khỏi thử thách đó mà không thiệt hại ǵ, chứng tỏ rằng họ có một tiềm năng phi thường.
Thế nhưng năng lực đó không phải là vấn đề của sức mạnh thể chất hay tâm lư, mà là tính tự tại và tri túc của tâm, nó đ̣i hỏi một nội tâm giàu có, một tư duy độc lập và kỷ luật ư chí, mà những thứ đó chỉ đạt được thông qua một phép tu học lâu dài và chu đáo.
Thế nên người Tây Tạng có lư khi họ kính trọng và tin tưởng ở đạo sư, người có sức mạnh đạo đức và tâm linh đă đạt được trong sự cô độc thiền định và tu tập, hơn xa những kẻ nói năng lưu loát, có đầu óc khôn khéo.
Chỉ những ai đă đến với báu vật của thế giới nội tại, kẻ đó mới bỏ được của cải thế giới bên ngoài. Muốn làm được như thế, họ phải có ch́a khoá mở được kho tàng bên trong. Ch́a khóa không khác ǵ hơn là các phép tu (nghi quĩ) mà hành giả phải tu học đưới sự hướng dẫn của một vị thầy.
Thông qua thần chú của thầy cho mà hành giả liên hệ được với thầy và các bạn đồng môn tâm linh đi trước ḿnh. Nhờ vào nghi quĩ mà hành giả liên hệ được với thế giới nội tại.
Và dần dần, thế giới này sẽ phát huy và sẽ trở nên thực tại ngày càng lớn, cho đến lúc nó phủ kín hành giả như một man-đa-la thánh thiện mà tại trung tâm của nó, hành giả cảm nhận một niềm an lạc, vượt xa mọi vui thú thế gian mà họ đă bỏ lại bên ngoài cái thất của ḿnh.
Hành giả sẽ không c̣n chút thời gian nhàn rỗi. Ngày tháng của họ sẽ tràn ngập việc làm họ sẽ không thụ động ngồi chờ cái chết hay bất cứ linh ảnh ǵ, mà dùng sự sáng tạo để xây dựng nên một thế giới mới, thâm nhập vào nó, làm nó vững chắc, đó là thế giới dựng nên từ những yếu tố cơ sở luôn luôn hiện hữu của một thực tại sâu xa và bao trùm.
Trong quá tŕnh sáng tạo này, hành giả tự giải thoát ra khỏi những dấu vết cuối cùng của sự tham chấp hay vướng mắc nơi bất cứ sắc thể ǵ, v́ bây giờ toàn bộ dàn nhạc của sự sáng tạo đă thuộc về người đó.
Và như một nhạc trưởng lớn không bao giờ vướng mắc nơi nhịp sáng tạo của chính ḿnh v́ bây giờ họ đă là chủ và bất cứ lúc nào cũng dùng ư chí cho chúng sống lại cả họ tự thấy ḿnh tự tại và làm chủ tất cả mọi sắc thể, và đồng thời thấy ḿnh là trung tâm thầm lặng của vũ trụ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 298 of 1146: Đă gửi: 20 June 2010 lúc 1:12pm | Đă lưu IP
|
|
|
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
VỊ ẨN TU TẠI LATSCHEN
Từ những điều đă thấy, tôi nghĩ rằng suối nguồn của mọi cảm hứng không phải là những tu viện to lớn, khối tăng lữ đồ sộ hay đại học tôn giáo, như Sera, Drepung và Ganden, các cơ sở tri thức lớn nhất của Tây Tạng.
Mà những cuộc sống độc cư thầm lặng, trong khe thác hay rẻo sâu vào các dăy núi đầy uy lực hay trong thung lũng xa vắng, hoặc đỉnh cao không mấy người lui tới như đỉnh chim ưng trên mỏm đá, hay trên các cao nguyên vắng người bên cạnh bờ hồ yên tĩnh, xa hẳn đường đi các đoàn lữ hành, xa chợ búa đầy tiếng ồn ào mua bán.
Từ những chốn độc cư và những nhóm nhỏ người tập hợp chung quanh một vị đạo sư để tu tập thiền quán mà sinh ra những thánh nhân và những nhà minh triết Tây Tạng, trong các vị đó người ta t́m thấy niềm cảm hứng và những nơi chốn thầm lặng này chính là nơi mà ai muốn t́m sự minh triết và giải thoát cần luôn luôn quay lại.
V́ lư do này mà các đại tu viện cũng có một số những thất thiền định, cũng như nhiều chỗ độc cư nằm cao hơn hơn hẳn, trong những dăy núi gần đó. Người độc cư vĩ đại nhất Tây Tạng là một nhà thơ, thánh nhân và du già sư Milarepa 1052-1135 sau Công Nguyên.
Người sống gần hết đời ḿnh trong hang động và trong các dăy núi không leo tới được. Theo gương ông, đệ tử của phái kargyutpa đến ngày hôm nay vẫn coi trọng việc tịnh khẩu và thiền quán hơn kiến thức sách vở và các cuộc thảo luận hàn lâm.
Đời của ông phải là mẫu mực về ảnh hưởng của một con người lên thế gian, dù người đó có sống cách ly bao nhiêu. Đóng góp của ông cho nền văn hóa và đời sống tâm linh Tây Tạng mang tính cách trực tiếp và độc đáo, thật là vô song trong cái đẹp nên thơ và ḷng thiết tha quên ḿnh.
Một thí dụ đáng chú ư của một tu sĩ trong thế kỷ này của chúng ta là sư trưởng tại Latschen, người ẩn tu tại Latschen và thất độc cư của ông nằm tại biên giới của bắc Sikkim và Tây Tạng. Hầu tước Roinldshay về sau là Marquis of Zetland, ngày trước là thống đốc Bengal, viết những ḍng sau đây về ông:
"Suốt hai mươi sáu năm, thói quen của ông là thỉnh thoảng rút lui khỏi thế gian, để sống một cuộc sống thiền định thầm lặng trong một hang đá hẻo lánh nằm trên một núi đá cao khó tới, trên những dăy núi như phi thực, cao hơn hẳn trên đường ṃn đi Thangu. Một trong những thời gian rút lui đó kéo dài đến năm năm, lúc này ông không gặp một bóng người nào và giữ cho thân tâm tồn tại bằng thực phẩm tối thiểu".
Hầu tước Ronaldshay viết những ḍng này cách đây ba mươi năm trong tác phẩm Lands of the Thunderbolt (Xứ sở của sấm sét), trong đó ông kể lại những câu chuyện với các tu sĩ mà ông có cảm giác rằng các vị này đă thực chứng t́nh trạng giải thoát.
Ông nói thêm: "Điều chắc chắn là lư do làm các vị đó xa lánh người đời và bất cần thể xác yếu đuối để sống hàng năm trong sự cô quạnh hoàn toàn, lư do đó phải mạnh mẽ phi thường. Hiển nhiên là một cuộc sống như thế đáng được khâm phục và tôn trọng".
Ta có thể tự hỏi, liệu một sự nỗ lực và thành quả như thế phải chăng có ích cho thế gian hơn, nếu người độc cư đó trở về với xă hội để mang lại lợi ích cho con người bằng sự minh triết đạt được. Điều này cũng phù hợp với cách làm của các vị chuyển pháp khác. Thế nhưng vị sư trưởng ẩn cư chọn một con đường khác.
Một ngày nọ có một phụ nữ châu âu t́m đến động của ông và xin làm học tṛ. Vị tu sĩ chỉ vào một cái động, không xa động của ḿnh bao nhiều và trả lời: "Nếu bà chịu ở trong đó ba năm, không đ̣i về". Người phụ nữ chấp nhận điều kiện và ở lại ba năm thực, bà kiên tŕ sự cách ly hoàn toàn và cái lạnh của ba mùa thu đông Himalaya với nhiệt độ bắc cực.
Người phụ nữ đó, về sau trở thành đệ tử của vị tu sĩ, không ai khác hơn là nhà nghiên cứu nổi tiếng người Pháp và nhà Đông phương học Alexandra David-Neel, mà sách của bà được sự quan tâm lạ thường của người đọc nên được dịch ra tất cả các thứ tiếng.
Kiến thức sâu xa toát ra từ những sách do đă cho phương Tây lần đầu tiên có một cái nh́n khách quan về các phép tu tâm linh lâu nay mà người ta chưa biết tới và trạng thái tâm thức của các bậc thầy thiền định Tây Tạng cũng như học tṛ của họ.
Kiến thức đó chính là kết quả của ba năm học tập và thiền định dưới sự hướng dẫn của tu sĩ vĩ đại tại Latschen, người không hề rời thất của ḿnh giữa đỉnh núi tuyết Himalaya mà t́m được một cách chắc chắn phương tiện thích hợp nhằm để lại cho thế giới gia sản tâm linh của ḿnh.
Với từ "gia sản", tôi không nói về sự nhắn gửi có tính chất riêng tư hay việc truyền bá một giáo pháp, mà là thông điệp để mở ra cho thế giới thấy kho tàng cất giấu nền văn hóa tâm linh của Tây Tạng và kinh nghiệm tôn giáo của ḿnh.
Nếu trong những điều đạt được của những năm cô quạnh đó được bà kể lại với những lời nhiều ư nghĩa: "Tâm thức và cảm quan tinh tế vượt hẳn qua một cuộc sống chỉ chuyên quán tưởng, gồm quán sát và phản ánh liên tục. Nếu không trở thành một bậc thấu thị th́ ít nhất người ta cũng biết rằng bấy lâu nay ḿnh là kẻ mù".
Đó là đích thực là hạt nhân của vấn đề: vị tu sĩ chuyên quán tưởng không hề nhắm mắt và quay lưng với thế gian mà mở mắt ra và trở nên tỉnh giác cao độ; thay v́ làm cùn lụt giác quan th́ nơi họ phát sinh ra một khả năng cảm nhận cao hơn và tri kiến sâu hơn về tự tính đích thực của thế giới và chính ḿnh.
Và điều này cho họ thấy, cũng điên rồ như nhau, những ai muốn bỏ trốn thế giới hay chạy theo nó: cả hai thái cực này đều có chung một gốc rễ, đó là ảo giác cho rằng thế giới là một cái ǵ tách hẳn khỏi chúng ta. Đây là ảo một giáo lư mà tu sĩ Tây Tạng thường dạy học tṛ, một giáo lư đặt nền tảng trên triết lư đạo Phật về tính Không, đó là cái Không bao trùm mọi vật, kể cả tư tưởng.
Đó là giáo lư mà vị ẩn cư chỉ cho tôi thấy một cách đầy ấn tượng khi tôi viếng ông trong thất trên vùng Thangu, trên một độ cao khoảng 4000 mét. Vị tiểu vương Sikkim mà tôi là khách của ông năm 1937, khi nghe tôi sẽ viếng, người tu sĩ ở Thangu đă sẵn ḷng cho tôi người và ngựa, lương thực cũng như giấy phép trên đường đi, tôi muốn ở đâu th́ ở, trong nhà khách hay tu viện.
Từ lâu tôi đă có ư muốn thăm vị tu sĩ này và v́ ông dă trên bảy mươi, đây hẳn là dịp duy nhất và cuối cùng để được gặp tận mặt người này, người đă có một ảnh hưởng sâu xa lên đời sống tâm linh trong xứ sở của ông. V́ thế tôi vui ḷng làm một chuyến du hành hai tuần trên lưng ngựa qua những ngọn núi cao nhất thế giới, Sikkim có nhiều núi cao hơn 7000 mét, nhiều hơn bất cứ nước nào khác có cùng diện tích.
Thậm chí chấp nhận cả khả năng thoái thoát của ông đóng cửa, không tiếp khách khi phải thiền định dài ngày cũng chẳng làm tôi ngại. Một điều đáng lạ khác mà tôi phải chịu là mùa đông sắp tới và quả nhiên hầu như chúng tôi phải kẹt trong tuyết, đúng vào ngày của chặng đường cuối chuyến đi th́ tuyết đă đóng đầy đường.
Người ta đă khuyên chúng tôi hăy đợi người đưa trâu đến dọn tuyết, chứ ngựa không đi qua nổi. Thế nhưng tôi không đợi được nữa v́ nghĩ bây giờ mà không xong th́ sẽ không bao giờ và ai dám nói là ngày hôm sau tuyết không đổ dày hơn? V́ thế mà tôi không để ai ngăn và cuối cùng mặc dù gặp trở ngại, tôi vẫn tới được Thangu.
Tôi t́m được một nhà nghỉ lạnh ngắt, nằm chơ vơ trên vùng cao nguyên. Thất của vị tu sĩ nằm cao hơn trên triền núi sau nhà nghỉ. V́ quá lạnh và đă trễ để làm được cái ǵ, tôi đi ngủ sớm, hy vọng hôm sau thăm được vị ẩn cư.
Trước khi di vào giấc ngủ, một chuyện lạ xảy ra cho tôi: Tôi có cảm giác có ai đó nắm giữ ư thức của ḿnh và không những chỉ ư thức mà cả thân thể lẫn ư định. tôi không điều khiển được tư tưởng của ḿnh nữa, hầu như ai nghĩ ngợi giùm tôi, như có ai quyết định thay tôi, nên dần dần tôi như mất cái riêng tư của chính ḿnh, khuất phục trước một uy lực khác lạ.
Năng lực này, như chút ư thức cuối cùng của tôi mách bảo, không ai khác hơn là vị tu sĩ, người đang hướng sự chú ư về tôi có lẽ hoàn toàn không cố ư và chiếm lấy thân tôi, nhờ sự tập trung cao độ của ông cũng như sự tự nguyện của tôi trong t́nh trạng nửa ngủ nửa thức.
Tôi cảm nhận sự hiện diện này của vị tu sĩ không có ǵ là thù nghịch hay là ác ư mà ngược lại nó cho tôi một cảm giác yên ḷng và kỳ diệu để ḿnh cứ giữ yên trong sự thu hút của năng lực càng lúc càng mạnh này.
Tôi thấy ḿnh như một mảnh tinh cầu bị hút vào trong quĩ dạo của một thiên thể cho tới lúc tôi phải buông, phải "rơi", để chịu sự tan vỡ hoàn toàn. Đột nhiên tôi đâm ra sợ hăi không sao nói được, ḿnh sẽ đánh mất tự tính của ḿnh thôi, ḿnh sẽ bị tống cổ ra khỏi thân thể và rơi vào một cơi hư vô không tên tuổi, không có đường trở lui.
Với sức mạnh cuối cùng và sự liều lĩnh trong tuyệt vọng, tôi nhảy bật ra khỏi giường, t́m cách chống lại thế lực này, nó xem ra cũng t́m cách giữ tôi lại. Tôi thắp một ngọn nến, lấy giá vẽ và một miếng than (những thứ tôi luôn luôn mang theo).
Nhằm chắc chắn ḿnh c̣n là ḿnh, tôi hối hả tự vẽ chân dung ḿnh, nhờ vào miếng gương cạo râu. Cùng với công việc đó th́ uy lực nọ cũng rời bỏ tôi và khi bức ảnh xong th́ tôi lấy lại được sự kiểm soát chính ḿnh.
Sau khi ăn sáng, tôi leo lên thất và được vị ẩn tu chào đón rất thân thiện. Sau khi nói vài lời xă giao và uống trà nóng, trà mà vị ẩn tu rót từ cái b́nh rất cũ, để trên một ḷ đất có than hồng vào chén gỗ của tôi (ở Tây Tạng người ta luôn luôn mang theo chén gỗ này), tôi bày tỏ ḷng mến mộ của ḿnh đối với các tác phẩm của bà David-Neel và ḷng khâm phục làm sao bà có thể chịu nổi đời sống độc cư qua nhiều năm như thế.
Toát ra một niềm vui khi nghe nhắc đến tên bà, ông lôi ra từ trong một thùng để bên cạnh ghế một mẩu báo cũ với ảnh của bà Alexandra David-Neel. Trong lúc đó tôi nh́n h́nh đó th́ ông nhắc lại thời gian bà học đạo với ông và khen sự kiên tŕ và cá tính mạnh mẽ của bà.
Ông hỏi thầy tôi là ai và sau khi biết là Tomo Géché Rimpotsché (lúc đó đă mất) th́ ông lấy từ tay tôi tượng Phật được thầy cho và từ đó luôn mang theo ḿnh, để lên đỉnh đầu một cách kính trọng. "Ngài là một vị đại lạt ma" ông vừa nói vừa nh́n tượng, "một vị lạt ma vĩ đại".
Khi nghe tôi kể thời gian tu học tại Sri-Lanka, ông cười và chỉ cái bím tóc của ḿnh và hỏi Phật tử ở đó nghĩ ǵ khi biết đến ông, kẻ không bao giờ cạo đầu và lại là người có vợ con. Vợ ông đă chết từ nhiều năm trước.
Tôi nói, đồng t́nh với nụ cười của ông, "Bản thân Phật cũng có vợ có con trong đời này. Nhưng phần lớn người đời lại phụ thuộc nơi bề ngoài. Họ không biết rằng không phải chiếc áo hay đầu không tóc làm nên vị thánh nhân, mà là sự chiến thắng những ham muốn và ưa thích vị kỷ".
"Và tri kiến là cái sinh ra từ sự chứng thực của thực tại cao nhất trong thiền quán", nhà ẩn tu nói thêm. "Đạo lư và thiện mỹ đơn thuần mà không có trí huệ cũng vô ích, như sự hiểu biết mà vắng mặt ḷng tốt".
Điều này dẫn dắt chúng tôi qua đề tài thiền quán và cá phương pháp khác nhau cũng như kinh nghiệm về nó; và tôi kể lại chuyện đêm qua. Thế nhưng v́ hỗ thẹn không dám thú nhận đă sợ hăi như thế nào khi đứng trước cái Không vô đáy, tôi để dịp này đi qua và thay vào đó xin nhà ẩn tu hăy viết vài chữ trong cuốn sổ thiền định của tôi để kỷ niệm lần gặp gỡ và động viên cho những lần thiền định về sau.
Lúc đầu ông ta chần chừ và nói tuổi già sợ tay không viết không c̣n trơn tru được nữa, thế nhưng bỗng nhiên ông cầm bút tre chấm vào muội đèn và viết một trang vào cuốn sổ tay của tôi bằng chữ Tây Tạng.
"Đây", ông nói, "đây là đề tài thiền quán cho anh: Mười tám dạng của tính Không!"
Th́ ra ông đă biết điều ǵ xảy ra cho tôi tối hôm qua và tôi đă t́m cách giấu giếm. Tôi xúc động tột độ. Khi chia tay và khi hai tay của vị ẩn tu để trên đầu ban phước lành, tôi biết ḿnh đă gặp ông không phải bằng da bằng thịt mà trong tâm thức một cách đă cho thấy uy lực của sự tập trung và ḷng nhân hậu của ông.
Tôi không bao giờ gặp ông nữa v́ sau đó không lâu ông theo chân thầy tôi. Thế nhưng cứ mỗi lần thấy bức h́nh tự họa khó quên trong đêm nọ, tôi biết, bức h́nh không những chi diễn tả chính ḿnh mà cả vị ẩn tu vĩ đại đó mặc dù nó chứa đựng nét mặt của tôi, nhưng tôi đă nh́n ḿnh bằng cặp mắt của một người đă thực chứng tính Không to lớn.
Nhờ thế mà chuyến đi không phải vô bổ và tôi trở về với đầy sự biết ơn trong tim biết ơn vị ẩn tu cũng như vị tiểu vương đă giúp tôi thực hiện được chuyến du hành, qua đó mà ông cũng có dịp bày tỏ ḷng hâm mộ và kính trọng đối với vị tu sĩ.
Tôi sẽ không bao giờ quên cái an tịnh của không khí ẩn cư giữa dăy núi tuyết cũng như lời giáo hóa của ông cho tôi; đó là chúng ta sẽ không thể đối diện với cái Không to lớn một khi ta chưa đủ sức mạnh và kích thước để làm đầy nó với chính tự tính của ḿnh.
V́ tính Không phải là sự phủ nhận về cá thể hạn chế chúng ta, mà là cái bao trùm toàn thể, không thể dùng giác quan để nắm bắt, nó như bà mẹ vô tận của không gian, người sinh ra mọi sắc h́nh, nuôi dưỡng và bao bọc lại trong ḿnh, trong đó ánh sáng vĩnh viễn tuôn trào không bao giờ tắt.
SỰ GIẢI CỨU HUYỀN DIỆU
Trước khi trở về Gangtok, tôi đến thăm lại đền của vị tiểu vương ở Podang. Vị sư trưởng, người có một khuôn mặt đặc biệt đẹp và trí tuệ, nhắc đến tên bà Alexandra David-Neel lúc bà mới đến đây. Tôi ở ngay trong pḥng ngày xưa bà đă ở, trong đó th́ thầm một giọng nói đáng sợ của chàng tiểu vương trẻ tuổi (tiền bối của vị tiểu vương ngày nay Taschi Namgial mà tôi là khách) cảnh cáo sự chết sắp tới và sự thất bại của công cuộc cải cách tôn giáo của ḿnh.
Như những chàng thanh niên với đầu óc Âu tây, chàng tiểu vương nọ thấy ḿnh phải giải thoát nước ḿnh ra khỏi cái nhà mà chàng cho là ḷng tin nhảm nhí: chàng không biết rằng làm như thế chỉ mang lại sự sụp đổ mọi giá trị truyền thống.
Thế nhưng chúng ta vẫn c̣n sinh động, mặc dù có thể bị chôn vùi dưới cỏ dại của sự hiểu lầm nhân gian và lễ nghi (điều quá tự nhiên trong một đất nước chỉ toàn bộ lạc hoang sơ), điều đó hiện rơ với tôi khi tiếp xúc với nhà trí thức Bermiak Rimpotsché, anh của vị thư kư riêng cho nhà vua. Kasi Bermiak.
Vị Rimpotsché, cũng như người em (bạn của tôi nhiều năm) cho thấy rơ rằng, nếu một sự cải cách tôn giáo trong nước này có cần thiết chăng nữa th́ nó chỉ có thể sinh ra từ sự đánh giá lại những giá trị văn hóa truyền thống mà trên đó nền Phật giáo Tây Tạng được xây đắp, chứ không bao giờ có sự du nhập các cách tư duy xa lạ, dù cho cách tư duy có gần gũi với các nguồn gốc lịch sử của Phật giáo.
Những bằng cớ lịch sử hay lư luận không bao giờ đóng vai tṛ quyết định trong đời sống tôn giáo, v́ đời sống này chỉ tùy thuộc sự chứng thực và h́nh dung sáng tạo của tín đồ, chứ không tùy thuộc ǵ vào các "sự thực" trừu tượng và kết luận logic.
H́nh ảnh của Đức Phật xuất hiện trong tâm của nhà thơ và tín đồ, thậm chí h́nh vẽ của Ngài trong tranh tượng được hàng bao thế hệ nghệ nhân tạo nên từ thiền quán sâu xa, có ảnh hưởng lớn hơn hẳn trong sự phát triển, so với mọi lư thuyết triết học, chúng chỉ cố tŕnh bày kinh nghiệm trong ngôn ngữ của lư luận và trong dạng của qui luật và hệ thống.
Những tŕnh bày đó hiển nhiên không phải là giá trị; ngược lại chúng cũng là sự cần thiết của tâm, chức năng của chúng ta để tiếp thu và xếp đặt những ǵ đă chứng nghiệm.
Trên đường Podang, chuyến đi của tôi suưt bị hiểm nguy. Khi leo ngược lên tu viện, xuyên qua rừng già, tôi phải xuống ngựa, đó là một con bạch mă không chút bợn màu, mà anh giữ ngựa cho hay nó chính là con ngựa của vị tiểu vương. Tôi cho con bạch mă đi sau tôi, cùng với con ngựa kia của người giúp việc (người này vừa lo nấu ăn vừa làm đủ các chuyện khác), anh cũng nghe lời mà đi bộ.
Đường bị hẹp và dọc theo các hố sâu và khe núi. Bởi thế tôi nhắc anh nài ngựa rằng phải nối đuôi nhau mà đi, đừng đi song song, v́ ngựa có thói hích lẫn nhau khi đường chật hẹp. Tất cả đều tốt được một đoạn, tôi tha hồ ngắm cảnh rừng núi hoang vu toàn đá và rừng già. Thế nhưng khi đường quẹo lên một dốc đá ngược và tôi vừa định nhắc nhở th́ đă thấy hai con ngựa đi song song; và tôi chưa kịp mở miệng th́ con bạch mă đă trượt chân rơi xuống hố sâu.
Tôi lặng người v́ sợ và tiếng kêu của anh nài ngựa xác nhận nỗi lo của tôi: con ngựa đă bị rơi mất rồi. Tôi chạy lui chỗ ngựa rơi và lạnh người khi nghĩ đến thân thể tan tành nếu rơi xuống đáy vực. Vị tiểu vương sẽ nói ǵ đây và số phận của người nài ngựa sẽ thế nào mà v́ sự sơ sẩy của anh để cho chuyện này xảy ra?
Vừa khóc vừa kêu, anh ta đă ḅ một đoạn xuống vực, c̣n tôi vội ḅ theo. Cuối cùng th́ chúng tôi thấy thân con ngựa trắng dính trên một bụi tre trên đáy hố. Thân con ngựa không nhúc nhích. Nó c̣n có biết ǵ chăng, một chút động đậy đă xô nó xuống vực hay nó đă chết, chân cẳng găy rời?
Chúng tôi như bị hành hạ bởi nỗi lo cho đến lúc ḅ gần đến bụi tre và vui mừng khôn xiết khi thấy con ngựa vẫn sống, không hề hấn ǵ. Chúng tôi thấy có một phép lạ đă xảy ra nhưng cũng thêm phép lạ khác là chúng tôi đă đưa nó ra khỏi t́nh trạng nguy hiểm này, mà chỉ với một động tác sai là đủ để nó rơi vào cơi chết.
Trong lúc đó bản thân chúng tôi như không có một chỗ đứng chắc chắn dưới chân. Con ngựa dường như có giác quan thứ sáu và làm theo việc cứu giúp của chúng tôi, nó như hiểu tư tưởng và ư định của người, thậm chí làm trước.
Cuối cùng khi đứng được bốn vó, nó leo lên dốc một cách khéo léo, tới được đường đi. Ḷng thầm cám ơn sức mạnh nào đă giúp thoát nạn, chúng tôi lên đường đi tiếp Podang. Khi các tu sĩ tại đó nghe qua điều đă xảy ra, họ thán phục những hộ sĩ vô h́nh đă giúp chúng tôi thoát hiểm.
Trong lần trở lại Gangtok, tôi có dịp nghiên cứu các chi tiết quư giá của nghệ thuật và pháp khí Tây Tạng trong ngôi đền xinh đẹp gần điện của vị tiểu vương cũng như in lại một số kinh sách viết tay và ấn bản gỗ của đền Entsche Gompa để dùng về sau.
Các vị tu sĩ của cả hai ngôi đền đều rất thân thiện và sẵn ḷng giúp đỡ, nhất là không phải chỉ v́ nhờ vị tiểu vương gởi gấm mà chủ yếu nhờ Kasi, một người Sikkim rất đáng quí mà đền Entsche Gompa thuộc về gia sản của gia đ́nh ông.
Năm 1932 khi đến Gantok lần đầu để đi Tây Tạng, tôi là khách của nhà Entsche Kasi. Ông cũng như phu nhân tiếp tôi rất thân t́nh, xem như người trong nhà. Trong dịp này tôi mới được biết là lạt ma Yongden cũng từng ở trong nhà này lúc c̣n thiếu niên, xin giúp việc để kiếm tiền ăn học, v́ ông xuất thân từ gia đ́nh nghèo khó.
Hai ông bà Enstche Kasi hết sức ngạc nhiên nghe tôi kể Yongden về sau trở thành lạt ma, đi truyền giảng đạo pháp và tiếng tăm của ông khi viết sách cùng với Alexandra David-Neel. Ngay tại nhà này, họ đă làm quen với ông từ nhỏ và nhận làm con nuôi.
Quyết định đó đă mang lại kết quả lớn lao, nó đă thay đổi hẳn cuộc đời Yongden cũng như của hai ông bà và đă giúp cho hàng triệu độc giả trên thế giới biết thêm về Tây Tạng. Sau đó những biến cố chứng minh thêm, ngôi nhà của Entsche Kasi là nơi xảy ra nhiều điều trọng đại.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 299 of 1146: Đă gửi: 20 June 2010 lúc 1:16pm | Đă lưu IP
|
|
|
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
(PHẦN BA)
TỬ VONG VÀ TÁI SINH. ĐẠO SƯ TỪ TRẦN
Sau khi từ Gantok về, tôi rút lui sống trong pḥng riêng của Tomo Géché tại Ya-Gah Tscho-Ling một thời gian. Thời gian như ngưng lại trong căn pḥng nhỏ này. Kể từ ngày tôi được gặp vị thầy đến bây giờ, không có ǵ thay đổi.
Chỗ ngồi của ông, trên đó chiếc áo choàng dài được xếp cẩn thận, nh́n như ông vừa mới bước chân đi và trên bàn nhỏ trước chỗ ngồi là một b́nh trà bằng ngọc xanh nhật được để trên một đĩa bạc và bên cạnh là các pháp khí quen thuộc như kim cương chử, chuông và b́nh bát.
Chiếc đèn dầu bạc nằm trước bàn thờ có khắc hoa văn với tượng vàng Dolma cháy với một ngọn lửa đều đặn mà Katschenla, dù tuổi đă cao, vẫn chăm chút lo lắng với sự tươi vui không thay đổi.
Đối với ông th́ bậc dạo sư luôn luôn hiện diện và mỗi ngày ông sửa chỗ ngồi, phủi bụi chiếc áo choàng tế lễ và xếp lại đúng chỗ, rót trà trước khi uống chén trà của ḿnh, lau chùi và châm thêm cho chén nước, b́nh dầu, thắp nhang, tụng niệm kinh tán thán và qui y rồi ngồi thiền định yên lặng trước bàn thờ với tranh tượng khác nhau.
Ông làm như thế đúng theo trách nhiệm của một đời sống tôn giáo và của một đệ tử hết ḷng v́ thầy. Được phụng sự thầy, đối với ông là dạng cao nhất của “phụng sự thượng đế”, v́ điều này đồng nghĩa với phụng sự Phật.
Không một hạt bụi nào bán trên bàn thờ đă được trang trí khắc họa và dát vàng. Sàn nhà bóng như một tấm gương và các bức họa thanka cũng như khung tranh quí giá không hề mất một chút màu.
Các tấm thảm dệt bằng tay trên kệ hoặc treo tường, chiếc khăn nâu đậm căng dưới trần pḥng và bức tranh lụa vẽ bầu trời trên chỗ ngồi của bậc đạo sư và bàn thờ chính cho một cảm giác tôi đang ở trong lều của một bậc trưởng lăo người Nomade hay chúa tể xa xưa ở vùng Trung Á chứ không phải trong thế giới và thời đại ngày nay.
Căn pḥng này mang hơi thở truyền thống của hàng ngàn năm, tăng cường thêm bằng nhân cách của một người với sự hiện diện sinh động của người đó.
Tôi có một cảm giác tương tự như lúc gặp ông lần cuối tại Sarnath, khi vườn xoài của trú xứ thiêng liêng này biến thành khu vực cắm lều của người Tây Tạng và vô số đèn dầu sáng trong đêm dưới các tàng cây để cúng dường Tomo Géché Rimpotsché và đoàn đệ tử.
Ông ở trong một căn lều lớn ở giữa vườn xoài, dưới ánh sáng mờ nhạt của đèn dầu và lửa trại mà đám khói như tấm màng mỏng lơ lửng giữa cây cối và lều, lúc đó th́ khu vườn đối với tôi đă trở thành một ốc đảo nằm xa giữa ḷng châu Á, trong đó đoàn người ngựa hành hương sau một chuyến du hành nhọc nhằn có được chỗ nghỉ ngơi.
Thực tế th́ đó là một chặng cuối của chuyến du hành đời giác ngộ của vị đạo sư sự từ giă những thánh địa đánh dấu chuyến du hành trên trái đất này của Đức Phật.
Đó là chuyến hành hương cuối cùng của Tomo Géché Rimpotsché đi Ấn Độ trong mùa đông 1935-1936 với nhiều học tṛ theo. Khắp nơi, ông được đón tiếp nồng hậu, mặc dù ông xa lánh mọi sự tôn sùng cá nhân và các buổi tổ chức công cộng.
Trên đường ông về tại Yi-Gah-Tscho-Ling và Tây Tạng, qua Calcutta, báo chí tại đó đưa tin: “Một vị lạt ma nổi tiếng, được xem như đứng hàng thứ tư sau Đại lai lạt ma, hiện đang ở Calcutta.
Vị Géché Rimpotsché cao quí hiện trên đường về Tây Tạng, sau khi đă chấm dứt chuyến hành hương đến các thánh địa Phật giáo tại Bắc Ấn. Người ta cho rằng Ngài có nhiều thần thông. Phần lớn thời gian của Ngài dành để học tập kinh điển, giáo hóa học tṛ và thiền định.
Ngài tránh đám đông, không bao giờ ra khỏi pḥng và không bao giờ ngủ. Ngài được một đoàn gồm bốn mươi vị lạt ma hộ tống. Các vị đó thăm Sarnath, Gaya và Rajgir. Tại Sarnath các vị sống trong lều”.
Thông tin cho rằng Tomo Géché không bao giờ ngủ dựa trên thực tế là ông như đă nói không bao giờ nằm ngủ, mà luôn giữ thế ngồi thiền định suốt đêm, thế nên dù có ngủ ông cũng không mất sự điều khiển thân ḿnh.
V́ vậy ngay cả giấc ngủ, theo phép tu thiền định cao nhất, cũng chỉ là sự tiếp tục của một diệu pháp, nhưng ở trong một b́nh diện ư thức khác. Hiển nhiên là không ai nghi ngờ Tomo Géché có tŕnh độ tâm thức vượt hẳn so với người thường không tu tập, nhưng chắc ông sẽ không nhận từ “thần thông” và nhất là chống lại cách phổ biến như thế trong quần chúng.
Khi giới kư giả v́ ṭ ṃ đă t́m cách hỏi ông về các năng lực siêu nhiên và các lễ nghi huyền bí của Phật giáo Tây Tạng, ông chấm dứt câu chuyện và nói thêm những điều đó không có lợi ích ǵ cho việc hiểu giáo lư căn bản của Đức Phật.
Thế nên giới kư giả đành ghi chép những chuyện xảy ra bên lề của chuyến hành hương. Họ biết thêm rằng Sardar Bahadur Ladenla là trưởng đoàn. Ông là người phục vụ cho Đại lai lạt ma thứ 13 với nhiều cương vị khác nhau và được Ngài trao tặng hàm của một tướng lănh.
Họ c̣n viết thêm là Tomo Géché và Ladenla đă nạm vàng cho bức tượng Phật ở Sarnath và vị tiểu vương xứ Bhutan đă gửi theo tặng một tấm vải bạc cho bức tượng.
Tôi t́m thấy các mẫu báo này trong nhật kư và bá tước Veltheim-Ostrau, người được diện kiến Tomo Géché Rimpotsché tại Calcutta ngày 2.2.1936. V́ quá nhiều người đến viếng, ông không nói chuyện được với vị lạt ma.
“Giữa đám đông người đến rồi đi, lạt ma như cái trục của sự tĩnh lặng. Ông ngồi trên một tấm thảm, mỉm cười yên lặng. Vị này gây nên một ấn tượng vô cùng cao quí, già dặn tri thức, như người đă đạt đến t́nh trạng giải thoát”.
Và thực là như vậy; v́ đây là giai đoạn cuối cùng của đời Tomo Géché và nhất là sự chủ động bước qua một cuộc sống mới đă xảy ra trong năm sau, điều đó nói lên ư nghĩa chữ “giải thoát” ở trên, đó là sự chiến thắng thần chết.
Katschenla kể cho tôi nghe điều ǵ đă xảy ra trong những ngày cuối đời của vị đạo sư; và về sau trong một chuyến thăm tại Dungkar, tu viện của Tomo Géché tại thung lũng Tomo miền Nam Tây Tạng, tôi nghe thêm chi tiết về cái chết của ông từ chính các tu sĩ có mặt lúc đó.
Vị thầy biết đến lúc đă phải rời bỏ tấm thân nay đă trở thành gánh nặng. “Nhưng”, ông nói, “không có lư do để buồn phiền. Ta không rời các con, chẳng bỏ làm chuyện đạo pháp. Nhưng thay v́ kéo lê tấm thân già này, ta sẽ trở về thân mới. Ta hứa với các con sẽ trở lại. khoảng ba bốn năm nữa các con có thể t́m thấy ta”.
Không bao lâu sau khi nói những lời này ông rút vào pḥng thiền quán và không cho ai được quấy rầy, mặc dù vẫn ở trong pḥng thường ngày của ḿnh. Ông đi vào t́nh trạng nhập định sâu xa liên tục mấy ngày liền.
Sau mười ngày trôi qua và thấy ông vẫn bất động trên bồ đoàn, các tu sĩ chuyên lo lắng cho ông bắt đầu thấy ấy náy. Một vị cầm một tấm gương đưa trước mặt ông. Khi thấy gương không bị mờ, người ta biết hơi thở ông đă dứt. Vị đạo sư đă từ bỏ thân ḿnh ra đi trong lúc thiền định và chủ động bước qua ngưỡng cửa sinh tử hay đúng hơn: ngưỡng cửa của đời này và đời sau.
HÓA THÂN
Sự tạo dựng một h́nh ảnh sáng tạo, chứa mầm mống của ư niệm cao đẹp nhất, đó là ư nghĩa đích thực của từ “Magie”, đó chính là lực tạo tác, nó có thể sinh thành hay chuyển hóa sắc thể.
V́ thế một ư niệm chỉ có tác dụng khi nó phải được xuất hiện bằng một biểu tượng, biểu tượng đó không chỉ là một dấu hiệu thông thường ẩn dụ văn thơ, mà là một biểu tượng có giá trị nhất định, sinh động, cơ bản, đủ khả năng gây cảm thọ trực kiến nội tâm và chứng nghiệm.
Đó là lư do tại sao Phật giáo Tây Tạng lại quan tâm nhiều đến linh ảnh và trực kiến về các biểu tượng của Phật quả các biểu tượng đó cũng nhiều như các tính chất của một vị giác ngộ và sự quán chiếu các h́nh tượng thờ cúng, man-da-la (linh phù), thần chú và các thứ tương tự.
Tất cả những thứ này không phải là ngoại vật để họ tôn thờ mà chủ yếu là phương tiện để quán chiếu, qua đó mà hành giả trở thành đồng nhất với ư niệm của ḿnh, bằng cách tự chuyển hóa ḿnh trở thành chính niệm, biến ḿnh thành hiện thân của ư niệm.
Tại Tây Tạng, người ta biết đến một phép tu dành cho những người biết giáo lư Bardo Thodol (nói về thân trung ấm, tức là dạng ư thức giữa sống và chết hay giữa chết và sự tái sinh).
Mục đích của phép này là đi thẳng và trung tâm của tự tính chúng ta, đó là chỗ mà ư thức rút về khi cái chết của thân thể trờ tới, nơi ư thức chứng nghiệm sự chuyển đổi từ đời nay qua đời sau. Nơi đây không phải chỗ để soi xét lại quá khứ hay nh́n trước tương lai mà là nhận thức và tri kiến trọn vẹn những mầm mống đang hiện tiền của các khả năng sắp xảy ra.
Ai nhận tức được tự tính đích thực của chúng, người đó sẽ làm chủ những năng lượng tàng ẩn trong chúng và trong phút giây của sự chết có thể lèo lái chúng, để khi chúng được giải thoát ra khỏi sự ràng buộc của thân cũ, chủ dộng tiếp nối sức mạnh của chúng để đưa vào một thân mới.
Quá tŕnh này được Tây Tạng gọi là “chuyển thức” (hphoba). Đó là một hành động di chuyển ư thức, nó có thể xảy ra giữa hai cá nhân đă phát triển toàn vẹn hay sự chiếu rọi ư thức của một người lên một mầm sống vừa tượng h́nh trong ḷng mẹ.
Một sự tác động trực tiếp của ư thức lên ư thức hay sự tập hợp tinh lực tâm linh dồn lên một sinh cơ nhạy cảm, sẵn sàng cảm nhận mà bản thân nó chưa biết hoạt động chỉ thụ động nằm chờ; ngày nay dựa trên kiến thức của kỹ thuật radio, mối liên hệ giữa máy phát và máy nhận ta có thể hiểu được.
Nếu người b́nh thường hay chịu cái chết bất chợt và bị nó áp đảo th́ những kẻ đă kiểm soát được thân tâm đủ khả năng tự rút ra khỏi thân thể ḿnh, không phải chịu cái đau đớn vật vă chống lại cái chết và ngay lúc đó cũng vẫn không mất sự làm chủ về thân ḿnh.
Điều này được chứng tỏ trong cái chết của Tomo Géché với bằng cớ là thân ông vẫn bất động trong thế ngồi thiền định sau khi chết lâu cũng thế. Không ai biết rơ cái chết đến từ lúc nào. Có thể nhiều ngày đă trôi qua khi người ta đưa tấm gương trước mặt ông.
Cả tuần sau thân ông vẫn yên thế, như H.E. Richardson, vị đặc mệnh người Anh tại Tây Tạng dă xác nhận. Vài tuần sau khi nghe Tomo Géché chết, ông đi qua lũng, nơi có tu viện Dungkar Gompa. Và v́ đă quen vị Rimpotsché lúc c̣n sống, ông dừng chân, đi ngựa lên tu viện nằm trên một đỉnh đá cheo leo giữa thung lũng ph́ nhiêu.
Vị sư trưởng chào ông trân trọng và Richardson chưa kịp nói lời chia buồn th́ vị ấy nói Rimpotsché vui mừng được tiếp ông. Hoàn toàn ngạc nhiên và nghĩ ḿnh nghe tin sai, khách liền theo chủ vào pḥng Rimpotsché. Ông ngạc nhiên xiết bao khi vào pḥng thấy Tomo Géché ngồi yên trên chỗ thường lệ. Nhưng ông biết ngay đây chỉ là cái xác ngồi trước mặt ḿnh.
Vị sư trưởng th́ hầu như nghĩ khác, v́ ông hành động y như vị Rimpotsché c̣n hiện tiền. Ông giới thiệu khách vào và mời ngồi. Rồi ông nói hầu như như lặp lại tiếng nói của Rimpotsché “Vị Ripotsché chào mừng ông và hỏi ông đi đường ra sao, có khỏe mạnh không?”
Với cách này mà câu chuyện diễn ra thực sự giữa Rimpotsché và Richardson, trong lúc đó th́ trà vẫn được dâng lên và tất cả mọi sự đều b́nh thường, đến nỗi người khách không tin vào giác quan của ḿnh nữa.
Thật là một chuyện kỳ lạ và nếu Li Gotami và tôi nghe chính Richardson nói, mà sau đó vài năm chúng tôi gặp lại ông tại Gyantse th́ chúng tôi ắt hẳn phải nghi ngờ.
Dĩ nhiên không phải vị sư trưởng cố ư đóng kịch làm trung gian để tiếp xúc với thần thức Tomo Géché, ông làm trong niềm tin tưởng rằng vị đạo sư đang hiện tiền. Bao lâu mà tấm thân thiêng liêng đă từng chứa thần thức của ông duy tŕ th́ bấy lâu vị sư trưởng c̣n đối xử một cách đầy kính trọng như thời vị đạo sư c̣n sống.
Đối với người phương Tây, thật khó mà hiểu tâm tư của một người Tây Tạng ngoan đạo và lại càng khó hiểu thái độ của những kẻ mà cái sống và chết không phải là hai thái cực mà chỉ là hai mặt của một thực tại độc nhất.
Từ thế đứng này, ta có thể hiểu được người Tây Tạng ít sợ chết hơn phần lớn người khác. Khía cạnh cúng tế thần chết của tôn giáo thời tiền sử cũng như di hưởng của nó trong truyền thống và lễ nghi của Phật giáo Tây Tạng trong đó biểu tượng của cái chết như sọ người, bộ xương, thây ma và mọi dạng của nát rữa, sự hoại diệt… được ư thức không phải phương tiện để xa lánh và quay lưng với cuộc sống mà là cách để chế ngự các thế lực đen tối chúng diễn tả mặt trái của đời sống.
Thân của lạt ma nổi tiếng (như Đại lai lạt ma và Ban thiền lạt ma) không được thiêu đốt hay hủy diệt mà được thờ như xá lợi, trong các đàn thờ dát vàng bạc mà ta gọi là Tschorten, được giữ lại cho hậu thế.
Một đàn thờ như thế được dành cho Tomo Géché và sự trang hoàng tuyệt đẹp của đàn không phải chỉ là biểu tượng của sự chứng thực cao tột của ông mà c̣n nói lên t́nh yêu thương và sự tôn quí của người Tây Tạng dành cho ông. Khi nghe ông mất, hàng ngàn người xa gần đều đến Dungkar Gompa để tỏ ḷng tôn kính lần cuối và mang theo phẩm vật như vàng bạc và đá quư để xây đàn.
Ngay cả những người nghèo khổ cũng nhất định góp phần ḿnh vào đó: nhiều người dâng tặng bông tai có gắn đá xanh, nhẫn hay ṿng đeo tay, kẻ khác dâng vật trang sức bằng san hô hay vật dụng bằng bạc. Họ không tiếc ǵ công của để xây dựng một cái đàn xứng đáng, để đời sau c̣n nhắc nhở đến vị đạo sư vĩ đại, để con cháu được hưởng sự hiện diện tâm linh của ông.
Ḷng thiết tha và dâng cúng của tín đồ thật không sao kể xiết. V́ tặng phẩm quá nhiều, ở dạng bảo vật, tiền bạc và đồ trang hoàng nên người ta phải làm một cái đàn bằng bạc cao hai tầng, khắc họa mọi h́nh tướng, dát vàng bạc, và đầy những thứ đá quư, san hô. Các thợ bạc khéo nhất được triệu đến để hoàn thành một công tŕnh mỹ thuật và hoàn hảo.
Phần dưới của đàn đủ lớn để tạo ra một không gian, nơi đó đặt xác ướp của Géché cùng với mọi pháp khí để trên bàn thờ trước thân ông, như lúc c̣n sống. C̣n đàn th́ được để trong một ṭa nhà lớn xây lên chỉ dành cho ông mà các vách tường xung quanh đều được tô vẽ bằng h́nh tượng Phật, Bồ-tát và các vị hộ pháp đầy uy lực cũng như một số thánh nhân khác, trong số đó có h́nh tượng của tám mươi bốn vị thành tựu giả (Siddha)
Trước khi thân ông được chính thức đưa vào an nghỉ trong đàn th́ một bức tượng gần bằng người thật với thân người và nét mặt giống ông được hoàn thành bởi các nghệ nhân truyền thống.
Trong mỗi đền do Tomo Géché dựng lên và cai quản đều nhận được một bức tượng đúc lại từ đó và thờ bên cạnh tượng Di Lặc.
Tượng Tomo Géché được tŕnh bày với ấn giáo hóa, tay mặt đưa lên cao bàn tay ngửa ra ngoài, như ấn vô úy của Phật Bất Không Thành Tựu, nhưng khác ở chỗ là ngón tay cái và tay trỏ chạm nhau làm thành ṿng tṛn, ám chỉ sự giáo hóa của pháp phi thời gian, từ đó mà sinh ra tri kiến vô úy.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 300 of 1146: Đă gửi: 20 June 2010 lúc 1:19pm | Đă lưu IP
|
|
|
CON ĐƯỜNG MÂY TRẮNG
SỰ TÁI SINH
Tomo Géché Rimpotsché hứa sẽ trở lại với tu viện và học tṛ, trong ṿng thời gian đă định, và ông giữ lời hứa.
Thế nhưng không bao giờ tôi ngờ sự tái sinh của ông rơi vào đúng ngôi nhà mà tôi là khách khi lần đầu đến Tây Tạng, đúng ngôi nhà mà tôi lại đến khi đi thăm vị ẩn tu ở Latschen: nhà của Entsche Kasi.
Từ chính miệng của Entsche Kasi tôi được nghe chi tiết về sự tái sinh của Tomo Géché Rimpotsché cũng như sự t́m kiếm và thừa nhận, với sự hỗ trợ qua cuộc đại vấn linh tại Netschung gần Lhasa.
Đối với tôi, Entsche Kasi là một người thành thật và sùng đạo sâu sắc, nên tôi có thể bảo đảm cho những ǵ ông kể lại, với sự có mặt của Li Gotami. Mặc dù rất hănh diện là cha của một vị tái sinh, nhưng những ǵ ông kể đầy sự đau buồn v́ sau khi sinh không bao lâu th́ vợ ông mất; và vài năm sau, sau khi rơ rằng đứa bé này không ai khác hơn là Tomo Géché th́ ông phải đưa đứa con trai độc nhất này cho người khác.
Chỉ v́ bằng cớ lớn lao của việc này và cũng v́ không muốn ngăn trở tương lai của đứa bé, chỉ muốn “trở lại tu viện”, ông dành phải nhượng bộ và cho phép trẻ về tại Dungkar cùng đi với các tu sĩ từ đó gửi đến.
Vị tiểu vương Sikkim cũng khuyên ông không nên can thiệp vào tương lai cậu bé mà dă được cuộc đại vấn linh tại Netschung thừa nhận và được chính những ǵ cậu nói cũng như toàn bộ hành động đă cho thấy.
Chính cậu nói ḿnh không phải là người Sakkim mà là người Tây Tạng và khi cha cậu gọi tên là “pu-tschung” (bé con) th́ cậu phản đối nói tên ḿnh là jigme (vô úy). Đây đúng thật là tên mà cuộc vấn linh đă nhắc đến. Tomo Géché sẽ tái sinh.
Việc một cuộc đại vấn linh chính thức được triệu tập chứng tỏ tầm quan trọng phải t́m ra hóa thân của Tomo Géché. Xem ra một cuộc vấn linh nhỏ tại Dungkar không đủ sức cho câu trả lời; v́ thế nên tăng lữ tại Lhasa thấy khỏi hỏi thêm tại Netschung.
Cuộc vấn linh tại đây không những chỉ cho thấy phương hướng phải t́m trẻ nơi đâu mà c̣n mô tả khá rơ trẻ sinh ở thành phố nào và cảnh vật gần đó ra sao. Nhờ những chi tiết đó mà không có nơi nào khác ngoài Gangtok là đúng.
Các thông tin khác cho biết thêm đứa trẻ sinh năm nào, tuổi tác của cha mẹ; thậm chí mô tả ngôi nhà họ sống cũng như cây cối mọc trong vườn. Hai cây ăn trái mọc trước nhà được nhắc tới như một dấu hiệu đặc biệt.
Một phái đoàn gồm các tu sĩ già dặn đáng tin cậy được cử đến Gangtok và nhờ những thông tin đó mà họ t́m ra đứa trẻ lúc đó đă lên bốn. Khi các tu sĩ vừa bước vào vườn, tới gần nhà th́ cậu bé đă gọi lớn “Ba ơi, người của con đă tới t́m con rồi, để đưa về tu viện”.
Và cậu chạy lại đoàn người, nhảy nhót vui mừng mà người cha th́ đau khổ không muốn mất con. Thế nhưng cậu bé van nài cha xin đi và khi các tu sĩ đưa ra các pháp khí khác nhau như hạt, kim cương chử, tách trà, b́nh bát gỗ để ăn uống, trống nhỏ và các vật dụng khác nhau của tu sĩ th́ cậu không chút chần chừ lựa ra những thứ của cậu trong đời trước.
Cũng như cương quyết từ chối các vật khác không phải của ḿnh mà người ta cố ư trộn lại với nhau để kiểm chứng cậu. Mặc dù nhiều thứ “giả” đẹp hơn nhiều nhưng cậu không để nhầm lẫn.
Người cha đă thấy tất cả mọi minh chứng này và nhớ lại nhiều dấu hiệu của sự thông minh khác thường cũng như những điều khó hiểu của con ḿnh, cuối cùng đă chấp thuận, mắc dù đau xót, cho cậu trở về tu viện Tây Tạng, cùng với đoàn tu sĩ.
Trên đường về Dungkar Gompa, đoàn gặp Amtschi, người thầy thuốc Tây Tạng dă chăm sóc Tomo Géché trong những năm cuối cùng của ông. Cậu bé nhận ra ông và gọi: Ô, Amtschi, ông không nhận ra tôi sao? Ông không nhớ đă săn sóc tôi khi tôi bị bệnh trong thân trước sao?”.
Tại Dungkar, cậu cũng nhận ra vài vị sư già và điều rất đặc biệt con chó nhỏ ngày trước cứ theo chân ông trong những năm cuối đă nhận ra cậu ngay và hết sức vui mừng được gặp chủ.
Như vậy là Tomo Géché đă giữ lời hứa và mọi người xa gần lại đổ về Dungkar Gompa để bày tỏ niềm kính trọng với vị đạo sư và xin phước lành. Ai gặp cậu bé cũng bị ấn tượng bởi thái độ vững vàng và cao quư của cậu, lúc cậu ngồi trên ṭa trong chính điện, hướng dẫn lễ nghi và tụng niệm trong các dịp cũng như tiếp khách hành hương và ban phép cho họ.
Trong lúc ở mọi phương diện khác th́ cậu cũng hồn nhiên như mọi đứa trẻ cùng tuổi khác. Thế nhưng trong hành động lễ nghi tôn giáo th́ cậu có khuôn mặt của một người đàn ông đầy minh triết già dặn, xuyên qua những nét trong sáng ngây thơ của trẻ con.
Và không bao lâu sau người ta rơ cậu không hề quên những kiến thức của ḿnh tập hợp trong đời trước. Sự giáo dục chỉ là ôn lại, đưa những ǵ đă biết vào trong trí nhớ. Cậu học nhanh đến nỗi mà các thầy giáo không biết dạy thêm ǵ nữa. V́ lư do này mà lúc lên bảy cậu được đưa về Sera, một trong những đại học tôn giáo gần Lhasa để học công tŕnh cao cấp và lấy bằng tiến sĩ (Géché).
Tất cả những điều này đối với đầu óc phê phán của phương Tây hẳn khó tin và tôi cũng phải thừa nhận rằng khó tin ngay đối với tôi nếu chưa từng gặp nhiều trường hợp tương tự đă làm tôi thấy rằng, ư niệm tái sinh không phải chỉ là một lư thuyết hay ḷng tin vô căn cứ.
Những trường hợp đó cũng là bằng cớ cho thấy ta có thể nhớ lại nhiều chi tiết và thành tựu trong đời quá khứ. Nhà khoa học, người chỉ tin nơi thuyết di truyền, xem ra không bao giờ hỏi, thực tế di truyền là cái ǵ. Đó chính là nguyên lư của sự bảo toàn và liên tục của những tính chất, nguyên lư do đúc kết lại trong khả năng nhớ và chủ động bày tỏ ư muốn và quyết định hướng đi của ḿnh, dưới sự chỉ đạo của ư thức và kinh nghiệm.
V́ thế, di truyền chỉ là một tên khác của kư cơ sở, đó là nguyên lư giữ được tính bảo toàn, sự thăng bằng, nó là lực chống lại sự hoại diệt, cái bấp bênh. Liệu ta gọi tên “kư ức” là một tính chất của tâm, của vật hay là một nguyên lư sinh vật, điều đó không quan trọng ǵ, v́ “vật chất”, hay “sinh vật” hay “tâm thức” chỉ là những tầng mức khác nhau mà nơi đó cái lực duy nhất này tác dụng và biểu hiện.
Điều quan trọng là nó cũng là lực sinh ra và giữ một h́nh tướng, nó là khâu nối kết giữa quá khứ và tương lai, nó hiện ra ngoài thông qua cách chứng nghiệm cái hiện tại và ư thức về sự hữu hiện của ḿnh.
Tính đồng thời giữa bảo toàn và sáng tạo được bảo đảm bừng một quá tŕnh của sự chuyển hóa liên tục, trong đó những yếu tố chủ yếu hay nguyên lư về sắc thể cũng được bảo toàn, nó như một hạt nhân, từ đó mà các dạng h́nh mới mẻ cứ hiển hiện, vừa tuân thủ qui luật nội tại của ḿnh, vừa chịu ảnh hưởng của bên ngoài.
Ngay cả khi ta xét tính di truyền sinh học, v́ cha mẹ cho con cái “chất liệu” để thành thân mới, th́ thân này cũng không có khả năng cản năng lực của ư thức nọ. Điều này càng được thấy rơ hơn khi năng lực ư thức đó cần phải ăn khớp với tính chất di truyền của cha mẹ và trong nhiều trường hợp đặc biệt nó tổng ḥa với nhau để sinh ra một đơn vị mới (như trong phút giây tượng h́nh).
Ư thức là một ḍng chảy sinh động, không chịu để ḿnh ép ḿnh trong b́nh chứa chật hẹp của một cái ngă, v́ tự tính của nó là vận động, là tuôn chảy; và sự tuôn chảy đồng nghĩa với sự liên tục và sự quy định, đó là mói liên hệ giữa hai trạng thái hay hai cực.
Không có tính đối cực này th́ không thể có đời sống, cảm thọ và không có sự liên tục th́ cũng chẳng có mối liên hệ. Hai cực này càng xa nhau, càng rộng mở th́ ḍng chảy càng mạnh mẽ cũng như sức tạo nên ḍng. Ư thức cao tột là sản phẩm của những kinh nghiệm rất khác nhau, của biên độ dao động rất lớn giữa tính vũ trụ và tính cá thể.
Thế nhưng ư thức thông thường hay chỉ được hạn chế trong ṿng vây nhỏ bé của ước mơ và mục đích có tính thời gian, thế nên ḍng chảy to lớn kia bị kiềm hăm, bị chuyển hướng và năng lượng của nó bị phí phạm với hậu quả là ánh sáng nhận thức toát ra từ đó bị mờ đục.
Thế nên khi cá thể đánh mất mói liên hệ đầy ư thức với trung tâm vạn năng của nó và lấy tính cách giới hạn của ḿnh làm trung tâm, bằng cách bám chặt sự hiện hữu nhất thời này, th́ điều đó sẽ sinh ra một ảo giác về một tự ngă độc lập, không thay đổi, cái đó sẽ đi ngược ḍng của đời sống và ư thức to lớn hơn và dẫn đến sự tŕ trệ tâm linh.
Phương thuốc chữa căn bệnh này không phải là sự đè nén cái cá thể (nếu thế là qua thái cực kia) mà là tri kiến nhận biết rằng, cái cá thể không phải là cái ngă (nói theo nghĩa trên) và rằng sự biến đổi là một điều kiện tự nhiên và cần thiết của mọi cuộc sống, nó không hề tùy tiện hay vô nghĩa, mà dựa trên một qui luật nội tại và có tính bao trùm, chính qui luật đó bồ đề sự liên tục và tính ổn định nội tại của vận động.
Cá thể không những là phần cần thiết và bổ túc của cái toàn thể mà chính là tiêu điểm, nơi đó cái toàn thể được chứng thực. Sự tiêu diệt cá thể, tức là phủ nhận giá trị của nó, một cách triết học hay đạo lư, chỉ dẫn đến một t́nh trạng vô phân biệt và hủy diệt, t́nh trạng tuy có thể giải thoát được cái khổ, nhưng chỉ là sự tự phủ nhận v́ nó tước đoạt khả năng phát triển cá thể sắp tới:
Đó là sự chứng nghiệm của giác ngộ hoàn toàn, của sự trở về nhất thể, của Phật quả mà trong đó cái toàn thể trong tự tính của ta sẽ được chứng nghiệm.
Khi nói “trở về với cái toàn thể, như giọt nước trong biển cả” mà không chứng thực cái toàn thể, th́ chẳng khác ǵ cách nói văn vẻ về sự hoại diệt hoàn toàn và tránh nế vấn đề của tính cá thể đặt cho ta.
Tại sao cái toàn thể lại sinh ra đời sống và ư thức cá thể, nếu những điều này không tương thích với tự tính sâu kín của cái toàn thể hay không chứa cái “thức tự nhiên”?
Cũng vẫn câu hỏi đó nếu ta nh́n vũ trụ bằng con mắt của nhà khoa học, xem nó như đối tượng khách quan toàn những năng lực vật lư, hay với con mắt của người theo đạo Phật, xem nó là hiện thân hay sự chiếu rọi của năng lực tâm thức, nó phải được chứng nghiệm một cách chủ quan là a-lại-da thức.
Chỉ riêng sự hiện hữu cá thể của chúng ta, đủ cho thấy nó phải có chỗ đứng đầy ư nghĩa trong vũ trụ chứ không phải là một t́nh cờ đáng tiếc hay một sự nhầm lẫn, một ảo giác cần phải bỏ qua một bên nếu nói thế người ta sẽ hỏi ảo giác của “ai”?
U KHANTI: NHÀ TIÊN TRI TRÊN NÚI MANDALAY
Lúc hành hương tại Myanmar năm 1929, tôi lưu lại một thời gian nơi Mandaya cùng với Thượng tọa Nyanatiloka Mahathera, vị trưởng môn của tu viện Polagsduwa ở Dodanduwa tại Sri-Lanka, nơi tôi nhập môn tu hành.
Sau khi tôi đến Rangoon khoảng hai tuần th́ Nyanatiloka Thera cũng đến, để cúng thầy của ông là U Kumara Mahathera, người vừa mất một thời gian ngắn trước đó trong một tu viện nhỏ tại Kyundaw Kyaung.
Nyanatiloka Thera là người trở thành tỉ kheo cách đó 26 năm trong chính tu viện này. Thân của thầy ông được đặt trong một quan tài bằng gỗ tếch, được bảo vệ bởi h́nh long vương chạm gỗ tinh vi.
Quan tài chứa đầy mật để giữ cho thân người chết được lâu cho đến lúc cử hành tang lễ thiêu xác. Theo truyền thống của Myanmar th́ thời gian chuẩn bị này có thể kéo dài hơn một năm, và v́ chúng tôi không thể đợi lâu như thế nên Nyanmar.
Sau hai tuần trên một thương thuyền (như một khu bán hàng trên biển) đi về phía Bắc và giữa đường có ghé thăm vùng Pagan cổ với hàng ngày đền thờ và chùa chiền, chúng tôi dừng chân ở Mandalay, từ đó đi thăm các thánh tích tôn giáo và lịch sử.
Thánh tích lớn nhất tại Mandalay là một ngọn núi đá, núi vọt lên cao từ b́nh nguyên gần đô thị. Núi này đầy những đền đài, chùa tháp, đàn tế và các ṭa nhà khác, chúng được nối với nhau bằng lối đi, bậc thang có mái che, kéo dài từ chân đến ngọn.
Khi ta đến gần chân núi, nổi bật nhất là hai cụm gồm hàng trăm ngôi chùa bé (kể chung khoảng một ngh́n rưỡi ngôi chùa), nằm quanh một ngôi chùa trung tâm.
Nguồn gốc của công tŕnh kiến tạo to lớn này là thời gian vua Mindon Min, trị v́ Myanmar từ 1835 đến 1878. Cảm kích từ một giấc mơ, ông bỏ kinh đô cũ Amarapura, xây dựng Mandalay với những cung điện xinh đẹp và các công tŕnh tôn giáo.
Là một Phật tử thuần thành, ông muốn đi theo con đường của vị vua trước, người cho khắc giáo pháp của Phật lên bảng vàng được cất giữ trong một ngôi đền đồ sộ. Thế nhưng điều này sinh ḷng ham muốn nơi người Trung Hoa, họ xâm chiếm xứ này và lấy theo các bảng đó.
V́ thế vua Mindon Min mới cho khắc họa kinh sách lên bảng đá, chúng không khêu gợi ḷng tham của ai, của quân lính ngoại xâm lẫn kẻ cướp thông thường, nhờ thế mà giữ được giáo pháp của Phật cho các đời sau.
Kinh sách đó cũng phải đến được với tất cả mọi người, không những chỉ cho học giả hay tu sĩ. V́ thế mỗi bảng đá được dựng trong một khám thờ riêng biệt, mở cửa, với dạng một chùa bé, trong đó tín đồ có thể đọc từng phần của kinh sách, không những bằng tiếng Pali mà cả bản dịch ra tiếng Myanmar.
Thế nên nhà vua cho xây chùa Kuthodawu với 799 ngôi chùa bé xung quanh, mỗi ngôi được kiến trúc hết sức tỉ mĩ, trong đó có một bia đá hai mặt, ghi lại các bài kinh thiêng liêng của đại tạng.
Lẽ ra phải có thêm một cụm toàn những chùa như thế được xây lên để ghi lại các bộ luận, nhưng nhà vua đă từ trần trước khi bắt tay vào việc. Người kế vị là vua Thibaw chỉ quan tâm đến một cuộc sống vương giả và hầu cận với nam nữ.
Cuối cùng ông bị người Anh loại bỏ, họ chiếm nước ông làm thuộc địa sau một cuộc chiến ngắn. Công tŕnh của vua Mindon Min bị rơi vào quên lăng và các đền tháp thiêng liêng cũng trở thành hoang phế. Chỉ một số ít người hành hương mới dám đến đây một nơi không c̣n an toàn v́ giặc cướp.
Nhưng một ngày nọ, có một người hành hương cô độc lên núi, mang đầy đạo tâm. Ông lấy làm tiếc trước cảnh hoang tàn của các thánh địa mà theo ḷng tin của người Myanmar th́ Đức Phật đă từng đến đây và quyết tâm lấy đời ḿnh ra để phụng sự núi này và sẽ không rời núi trước khi núi lấy lại danh tiếng như cũ.
Mặc dù người hành hương này không có ǵ hơn ngoài b́nh bát và chiếc áo đỏ đậm của một nhà tu khổ hạnh, ông có một niềm tin vô hạn nơi sức mạnh của tâm linh và không chút lo lắng rằng lấy đâu phương tiện để thực hiện mục đích của ḿnh.
Ông kiếm một chỗ ngồi trên đỉnh núi, dưới một thánh thất đổ nát và bắt đầu thiền định, không cần biết đến sự an toàn hay ăn ngủ của ḿnh. Không ai cướp bóc được ǵ của ông v́ ông không có ǵ để lấy. Ngược lại những người hành hương khác, khi thấy ông thiền định, họ lại chu cấp thực phẩm cho ông.
Khi không ai đến (thực tế là ít người dám đến) th́ ông nhịn đói; khi có thức ăn th́ ông ăn. Thế mà dần dần càng có nhiều người thêm can đảm leo lên núi, khi họ nghe có một vị độc cư sống trên núi, trong một đền thờ hoang phế.
Sự hiện diện của ông hầu như làm cho chốn hoang tàn này thiêng liêng trở lại và không bao lâu sau người ta bắt đầu sửa các đàn cũ, dựng đàn mới, kể cả các nơi lưu trú cho khách hành hương được thiền định và nghỉ ngơi. V́ thế qua thời gian, các đền đài, chùa chiền, tượng tháp, nhà cửa và các lối đi có mái che được xây dựng.
Công tŕnh càng ph́ nhiêu th́ phương tiện vào các tu sĩ độc cư càng lớn, họ thấy vật đó không phải là của ḿnh, thế nhưng hầu như tất cả của cải thế gian đă tụ lại cho ông. Sau khi lấy lại danh tiếng cho thánh địa của núi Mandalay, ông cũng chưa hài ḷng mà bắt đầu một công tŕnh lớn hơn nhiều, đó là công tŕnh dang dỡ của vua Mindon Min, ông muốn ghi lại các bộ luận lên đá trong một cụm chùa thứ hai lớn hơn nữa.
Sau khi U Khanti, người ẩn tu tại núi Mandalay, mà bây giờ trở thành Maha-Hathi, nhà đại tiên tri (rishi), đă thành tựu công tŕnh đó, ông tự nhủ như thế cũng chưa đủ khi khắc họa kinh sách trên tảng đá để trường tồn với thời gian và dành cho những ai đến viếng chùa đều được đọc, mà c̣n cần phải phổ biến kinh sách của Phật ra cho cả thế giới, bằng cách in lại toàn bộ đại tạng và các bộ luận quan trọng.
Đây là một công tŕnh đồ sộ mà không nhà in nào, nhà xuất bản nào đám chịu phí tổn và thi hành. Thế nhưng điều này cũng không làm nhà đại tiên tri ngán sợ. Sức mạnh của ông hầu như vô tận. Trong ṿng một thời gian ngắn đáng ngạc nhiên, ông xây nên một cơ sở in ấn ngay dưới chân núi với phương tiện hiện đại và t́m được một nhóm người hợp tác.
Lúc này Nyântiloka Thera và tôi tới núi Mandalay th́ phần lớn kinh sách đă được in xong và phổ biến rộng răi dưới dạng sách đóng gáy chắc chắn, đàng hoàng. Ngay tại Sri-Lanka là nơi sản xuất kinh sách khá tốt, nhiều bản kinh Pali quan trọng, nhất là các bản của A-t́ đạt-ma (Abhidhamma-Thắng luận) cũng không có được.
Khi nghe đến công tŕnh tốt đẹp của Ukhanti, chúng tôi không khỏi mong được làm quen với ông và một sáng nọ, chúng tôi t́m đường đến thăm ông tại núi Mandalay. V́ ở ngoài thành và khá xa ngọn núi thiêng đó, chúng tôi buộc phải đi xe ngựa.
Khi chúng tôi đến nơi, người ta báo sáng sớm nay ông đă rời núi, đến một nơi cách đó khoảng 20, 25 dặm để hướng dẫn công cuộc trùng tu một di tích cổ Phật giáo.
Chúng tôi hết sức thất vọng, không biết bao giờ mới được trở lại đây v́ có một chương tŕnh làm việc đầy ngập, mỗi ngày đầy những thăm viếng, thảo luận, diễn giảng, tiếp khách. Chúng tôi chần chừ lên xe và lúc xe chưa kịp quay đầu th́ một chiếc ô tô chạy lại, ngược chiều với chúng tôi và đậu trước hành lang để mái che dẫn lên núi.
Một dáng người cao lớn, mặc áo choàng đỏ bước ra khỏi xe. Nơi người đó toát ra một ấn tượng sâu đậm với một trong dáng đi ung dung quí phái, với phẩm cách tự nhiên của một nhà vua. Chúng tôi biết ngay người này phải là nhà đại tiên tri.
Chúng tôi liền dừng xe ngựa, nhảy xuống đi đến cửa và được nồng hậu cho hay rằng U Khanti đă bất ngờ trở lui và chúng tôi được dịp gặp ông. Chúng tôi được đưa vào một đại sảnh và được nhà tiên tri tiếp đón với một số tỷ kheo và cộng sự của ông.
Một lần nữa chúng tôi lại thấy nhân cách của ông vượt hẳn những người xung quanh, và mặc dù ông là thành viên của tăng già (Thượng tọa bộ) nhưng được các vị đó kính trọng, các người được xem là giữ ǵn ngôn từ của Đức Phật, ông được các vị đó xem tôn quí hơn trong hàng ngũ giáo hội.
Ông cười thân thiện thăm hỏi và cuối đầu lễ độ trước Nyanatiloka, vị thượng tọa của giáo hội và mời chúng tôi ngồi, cho mang trà và bánh vào. Có lúc ông phải trả lời vài câu hỏi của thư kư, họ mang các giấy tờ cho ông hoặc nghe các chỉ thị của ông.
Những điều này xảy ra một cách nhẹ nhàng thoải mái nên ông vẫn quan tâm đến chúng tôi, v́ thế câu chuyện cũng không bị đứt đoạn. Ông tỏ vẻ đặc biệt quan tâm về việc Tổng hội Phật giáo thế giới vừa được thành lập mà Chủ tịch chính là Nyanatiloka, c̣n tôi làm tổng thư kư.
Khi nói về kế hoạch của chúng tôi, biến “di tích Dodan-duwa” thành một trong tâm quốc tế cho văn hóa Phật giáo và sự cần thiết phải đưa kinh sách Phật giáo tới với con người th́ tôi định nhắc tới quan tâm đặc biệt của ḿnh về bộ luận A-t́-đạt-ma và cũng khó t́m ra kinh sách đó.
Người đó biến đi trong một căn nhà bên cạnh mà sau tôi biết đó là nhà in và đóng sách. Chỉ vài phút sau ông trở lại với một chồng sách trên tay. “Đây là quà cho các vị”, nhà tiên tri cười nói với chúng tôi và cho người hầu đặt sách trước mặt.
Làm sao chúng tôi mô tả được sự kinh ngạc của ḿnh? Đó chính là các cuốn mà chúng tôi thiếu trong tủ sách: một bộ luận hoàn chỉnh của A-t́ đạt-ma. Chúng tôi hết sức ngỡ ngàng và không nói nên lời về khả năng của ông đọc được ư nghĩ thầm kín của ḿnh và về ḷng tốt của ông khi tặng món quà quư báu này.
Khi thấy niềm vui này, ông sẵn sàng tặng thêm các bộ sách khác có trong nhà in, với gáy da, chữ mạ vàng. Thế nhưng số lượng sách quá lớn đến nỗi chúng tôi không chất lên xe ngựa nổi nên ngày hôm sau phải chất lên một chiếc xe khác.
Dựa trên báo chí nói về hoàn toàn của chúng tôi tại Mandalay th́ trị giá những sách mà chúng tôi nhận được từ vị đại tiên tri này lên đến 700 ru-pi mà ngày nay trị giá của chúng không dưới 3000 ru-pi Ấn Độ. Thật là một món quà vương giả, không làm sao chúng tôi nói hết sự xúc động của ḿnh.
Sau khi từ biệt ông, chúng tôi được một vài tỉ kheo hộ tống qua vô số đàn trường và đền thờ của ngọn núi thiêng này để có một ư niệm về cái vĩ đại của công tŕnh mới đây và nó cũng chỉ mới là một phần nhỏ công sức của con người lạ lùng này.
Trong câu chuyện với các tỉ kheo th́ một vị mới cho hay là sáng nay thật ra vị ẩn tu đă rời núi để đến xem xét một công tŕnh đang tu sửa. Thế nhưng đang kiểm tra công việc th́ ông bỗng dưng nói phải về lại ngay Mandalay v́ có khách phương xa đến thăm.
Và không chút chần chừ ông nhảy lên xe, bảo tài xế chạy về càng nhanh càng tốt. Và hầu như thấy hết trước mọi việc, ông đến chân núi Mandalay, th́ chúng tôi vừa định quay về.
Bây giờ chúng tôi rơ cuộc gặp gỡ này không hề là sự t́nh cờ và khi nghe chúng tôi thú thật ḿnh ngạc nhiên xiết bao khi vị tiên tri đọc được ư nghĩ của ḿnh về các tập sách th́ vị tỉ kheo nọ mới nói với giọng run run: “Các vị không biết ngài là ai sao? Ngài là tái sinh của vua Mindon Min”.
Tôi phải thú nhận là không có chút nghi nghờ ǵ về sự thật của câu nói này, v́ nó chỉ xác nhận lại cảm giác của ḿnh khi thấy điệu sang trọng của nhà tiên tri khi gặp ông lần đầu. Cách xuất hiện của ông có một cái ǵ vương tước, làm nảy sinh ḷng kính trọng.
Thái độ, hoạt động và nhân cách của ông đối với tôi là minh chứng lớn nhất cho một mối liên hệ chủ động với một tiền kiếp đáng kính, hơn mọi chứng minh có tính chất “bằng cớ” khác. Cuộc đời và hoạt động của ông cho thấy rơ rệt rằng ông có một năng lực phi thường về tâm linh.
Sự nhớ lại tiền kiếp và mục đích của đời sống cũ đă làm cho ông một sức mạnh, sức mạnh này đă làm cho đời sống mới thêm ư nghĩa. Sự hiểu biết quá khứ của ḿnh đối với ông không là gánh nặng vô bổ mà là động cơ mạnh mẽ để hành động, nó răng cường thêm tinh thần trách nhiệm về một công tŕnh dang dở của đời sống cũ để lại.
Đó như sự hoàn thành ư nguyện của một vị Bồ-tát, người giữ được sự liên tục của ư thức siêu việt lên sống chết, dựa trên một mục đích dài hơn đời một con người (35). Mục đích cao cả của ta là tinh tấn vươn lên tự thắng ḿnh và đạt đích tối thượng là sự giác ngộ hoàn toàn.
Đó là điều làm ta bất tử chứ không phải là đời sống của một linh hồn đơn lẻ bất biến, mà cái đơn điệu của nó loại ta ra khỏi sự sống và tăng trưởng, không cho tâm hồn tham dự vào cuộc sống phiêu lưu bất tận, giam giữ ta trong tù ngục của giới hạn chính ḿnh.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|