Tác giả |
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 361 of 1146: Đă gửi: 23 June 2010 lúc 7:39pm | Đă lưu IP
|
|
|
QUÀ TẶNG CUỘC ĐỜI
Chương Mười
Con Đường Của Riêng Tôi
Như một hồ nước sâu
Yên tĩnh, và trong veo
Người trí cũơng thanh tịnh như thế
Khi đă đưọc nghe Pháp.
Kinh Pháp Cú 82
Từ đền của ngài Ramana Maharshi, chúng tôi tiếp tục lái đến thành phố Pondicherry, là một thuộc địa cũ của Pháp. Đây là nơi có ngôi đền của ngài Sri Aurobindo.
Chúng tôi đă đưọc nghe ngài Sri Aurobindo, là một nhà thông thái đă từng sống ở đó. Lúc chúng tôi đến đó, ông cũng đă tịch. Một phụ nữ người Pháp đang coi sóc ngôi đền, bà là người thân của ngài Sri Aurobindo, và đưọc mọi người gọi là "Mẹ".
Đền Sri Aurobindo rộng mênh mông, to gần bằng một thành phố. Khắp nơi đều có những ngôi nhà trong đó mọi hoạt động đều là để phổ biến giáo lư của ngài Sri Aurobindo. Chúng tôi mướn một căn pḥng ở trong đền.
Người Ấn Độ coi Mẹ là một thánh nữ, điều mà ở Aán Độ người ta rất dể dàng đưọc tôn xưng. Dân chúng ở đây có nhu cầu thần thánh hoá mọi chuyện. Tuy nhiên, người Mẹ nầy tỏ ra là một người rất đặc biệt.
Cậu bé Jeffrey và Mẹ kết thân nhau nhanh chóng. Mổi ngày cậu bé đều t́m đến với Mẹ. Quả là một điều lạ. Mẹ sống khép kín. Ai đến cũng phải báo trước mới đưọc vào.
Vậy mà cậu bé mổi ngày đều trèo lên nơi ở của Mẹ để chuyện tṛ với bà. Có lẻ bà Mẹ cũng không phiền, v́ bà cũng có con. Một trong những người con của bà là một kiến trúc sư, người đă thiết kế một trong những ṭa nhà ở tại đền.
Giáo lư của ngài Sri Aurobindo đối với tôi có vẻ phức tạp quá. Trong khi, những ǵ bà Mẹ truyền dạy cho chúng tôi rất đơn giản, thẳng vào vấn đề. Tôi cảm thấy những điều bà dạy gần gủi với ḿnh hơn. Ngoài ra bà cũng dạy tu thiền.
Ở đây có một trường học rất đặc biệt, đến nỗi chúng tôi dự định gửi Jeffrey đến học. Ở trường đó, người ta dạy cả những vấn đề thuộc về tâm linh. Nhưng Jeffrey không muốn đi học, v́ cậu bé không muốn phải xa cha mẹ.
Sân trường rộng mênh mông. Ban đêm chúng tôi thường tụ hợp ở đây dưới bầu trời đầy sao. Ban ngày, trời oi bức không chịu nổi. Chúng tôi đang ở vào tháng tư, tháng nóng nhất ở Ấn Độ. Nhưng ban đêm th́ rất dể chịu không khí mát mẻ, trời trong đầy sao.
Mẹ hướng dẩn chúng tôi tọa thiền qua máy phóng thanh. Tôi tập làm theo, và cảm thấy ngay lập tức, cách tu nầy rất thích hợp cho tôi. Những lời chỉ dẩn của bà Mẹ gần giống như trong Phật giáo.
Từ lúc đó, tôi bắt đầu tọa thiền. Đến nay là ba mươi bốn năm. Ngay lập tức tôi biết đây là con đường ḿnh đă đi t́m kiếm. Từ giờ tôi có thể áp dụng phương pháp tu thiền để soi rọi lại ḿnh. Mẹ cũng ban cho chúng tôi những lời giáo huấn thực tế, rơ ràng, cởi mở giúp chúng tôi sống ḥa hợp với nhau hơn.
Sau nầy bà Mẹ đă thành lập ra một ngôi làng quốc tế, Aurovillie, cho mọi người trên thế giới, muốn hướng đến một cuộc sống tâm linh đều có thể tụ họp lại đây. Nhớ đến Bà, ḷng tôi tràn đầy sự biết ơn. Chúng tôi đă sống với bà đưọc vài tháng. Đối với tôi, Bà là cánh cửa dẩn đến con đường đạo của tôi. Những lời chỉ dẩn rơ ràng, đơn giản của bà đă giúp cho tôi biết phải làm ǵ.
Không có nghĩa là những lời của ngài Sri Aurobindo không rơ ràng. (Thực ra, ông chưa hề viết ǵ, những lời ông nói sau nầy đưọc người ta viết lại). Nhưng ông ở một tŕnh độ gần giác ngộ, một bước quá xa tôi, một con số quá to lớn đối với tôi. Ngược lại, bà Mẹ nói về những chuyện xảy ra cho chúng tôi hằng ngày.
Sau những ngày ở lại đền Sri Aurobindo, chúng tôi lại tiếp tục lái xe ṿng quanh Aán độ.Qua đó, có hai kỷ niệm vẫn c̣n ghi dấu ấn trong tâm trí tôi.
Lúc đó chúng tôi đang ở Calcutta. Chúng tôi đậu xe van trong sân của Câu Lạc bộ Xe để ngủ qua đêm. Có một người đàn ông thường ngồi bán cam ở góc đường. Tôi bảo Jeff: "Đây con lấy năm rubi ra mua một bịt cam". Cậu bé đi, và không thấy trở lại.
Càng lúc càng lâu. Cả tôi và Gerd đều chạy đi t́m cậu bé. Có lẻ Jeff đă hiểu lầm tôi mà chạy ra chợ. Trời bắt đầu tối. Lại một cơn ác mộng giống như ở Iquitos.
Nhưng ở Calcutta, chúng tôi càng thêm lo, v́ ở đây trẻ con thường bị bắt cóc bị làm cho tàn tật rồi đưọc huấn luyện để đi ăn xin, sống trong những gia đ́nh chuyên ăn xin. Đó là những lời đồn đại, tôi không biết có đúng không. Dầu ǵ, chúng tôi cũng rất đổi lo lắng.
Khi không thể t́m ra cậu bé, chúng tôi trở lại Câu lạc bộ Xe Hơi báo cho họ biết đứa trẻ đă bị thất lạc. Câu lạc bộ lập tức kêu gọi tất cả những người lái xe gắn máy để chạy đi t́m khắp mọi ngơ ngách. Giữa lúc họ sắp khởi hành, th́ Jeff lững thững đi về với một bịch cam trong tay.
Chúng tôi tra vấn cậu bé: "Trời đất, con đi đâu vậy?" Jeff tră lời bằng cách kể cho chúng tôi nghe câu chuyện dưới đây. Sau khi mua cam xong, Jeff thấy một người đàn ông dẩn ḅ đi ngang qua. Ông vắt sữa ḅ ngay giữa phố, rồi gỏ cửa từng nhà, bán cho các bà nội trợ sữa tươi nguyên trong b́nh.
Thế là Jeff đi theo người đàn ông để coi. Sau hồi lâu, cậu bé xin phép đưọc giúp ông vắt sữa ḅ. Tốt lắm, đưọc ngay, người đàn ông tră lời.
Thế là Jeff đi với người đàn ông và con ḅ từ nhà nầy qua nhà khác. Ban đầu nó được phép kiềm giữ con ḅ. Sau, nó đưọc phép vắt sữa. Rồi đưọc phép mang sữa đến từng nhà. Rốt cuộc đă bốn tiếng đồng hồ qua đi, mà cậu bé cũng không hay.
Qua chuyện nầy, tôi quyết định phải dứt bỏ ḷng lo lắng cho con, lúc nào cũng nghĩ về con trong đầu tôi. V́ những việc nầy làm tôi không c̣n an tâm để vui sống với con. Người mẹ nào, dầu con c̣n nhỏ hay đă trưởng thành, đều hiểu điều nầy. Lúc nào bạn cũng sống trong sự lo lắng.
Tôi muốn dứt bỏ những phiền năo nầy. Tọa thiền, theo tôi, là cách để thực hiện điều đó. Dầu không phải ngay lập tức, nhưng tôi hy vọng một ngày nào đó tôi có thể thực hiện đưọc. V́ thế mong rằng người đọc không hiểu lầm rằng tôi không yêu thương con cái tôi.
Tôi thương chúng hết ḷng, cho đến tận ngày hôm nay. Tuy nhiên, tôi hiểu là sự bám víu, ḷng sợ hăi chỉ đem lại những ảnh hưởng tiêu cực cho t́nh thương của tôi. Các con tôi không thuộc về sở hữu của tôi, chúng tự làm chủ ḿnh. Tôi không phải là người canh giữ chúng, cũng như ngược lại. Chúng tôi có liên hệ với nhau, chứ không phải bị cột chặt vào nhau, đó là sự khác biệt.
Những kinh nghiệm tôi thâu lượm đưọc trong suốt cuộc hành tŕnh dài đăng đẳng nầy đă trang bị cho tôi rất nhiều trong cuộc hành tŕnh về tâm linh. Nếu không có chuyến đi với Gerd và Jeff, hẳn là tôi sẽ khó thể hiểu đưọc chính ḿnh.
Có lẽ tôi sẽ măi chui rúc trong căn nhà nhỏ bé xinh xắn của tôi ở San Diego, sẽ làm tṛn bổn phận hằng ngày của tôi, và có lẻ dù ba mươi lăm tuổi hay bảy mươi, tôi cũng sẽ chẳng thay đổi nhiều. Tôi sẽ chẳng bao giờ biết đưọc những giới hạn của ḿnh, để có thể vượt qua.
Kỷ niệm đáng nhớ thứ hai đối với Aân độ là ở một công viên nơi chúng tôi dừng chân nghĩ qua đêm. Lúc đó tôi đang ngồi trước xe, ngó mông lung, bổng tôi thầy một người mặc đồ trắng, ra vẻ là một tu sĩ người Ấn độ. Phía sau là một cái đuôi tóc đen bện vào nhau.
Tôi nh́n ông, rồi bảo với Gerd: "Anh nh́n ḱa. Đó là một người Tây phương!" Cách người tây phương đi hoàn toàn khác với người Ấn độ, và vóc dáng của họ cũng khác. Tôi bảo: "Hăy mời ông ta đến dùng trà". Gerd chạy theo người ấy và mời ông về nhà.
Đó là một tu sĩ người Uùc, pháp danh là Narikutti. Ông rất vui đưọc mời đến xe. Chúng tôi có cái bếp nhỏ để nấu trà đăi khách. Narikutti đi quá giang xe chúng tôi một đoạn đường. Ông giảng cho chúng tôi về thấn bí học của Ấn độ, dựa vào những h́nh ảnh của các vị thần đưọc vẽ hay đưọc tạc tượng ở những ngôi đền chúng tôi đă viếng thăm.
Nam Ấn độ có rất nhiều những ngôi đền hoành tráng, mà phần lớn đều có h́nh voi. Chúng tôi đưọc biết tên và truyền thuyết về những vị thần như Shiva, Ganesha và Hanuman, nhưng phải thú thật là tôi không phải loại người thích thờ các thần thánh. Tôi chỉ thấy các câu chuyện thú vị, và chúng giúp cho tôi phần nào hiểu về tư duy của người Ấn độ, chỉ thế thôi.
Narikutti cùng với chúng tôi đến Sri Lanka. Sau đó ông trở về lại Ấn độ, và sống suốt đời trong một hang đá, trên sườn núi Arunachala, kế bên đền của ngài Ramana Maharshi. Ông đă mất lâu rồi, dù ông chỉ lớn hơn tôi đôi, ba tuổi.
Sau lần gặp gở đó, chúng tôi vẫn liên lạc thư từ với ông. Tôi coi ông là một trong những người thầy của chúng tôi. Có ba người chúng tôi cảm thấy mang ơn rất nhiều, v́ họ đă dẩn dắt chúng tôi đến con đường đạo: Ramana Maharshi, bà Mẹ và Narikutti.
Chúng tôi ở Ấn độ khoảng một năm. Vào khỏang thời gian đó, khỏang những năm sáu mươi, có rất ít người du lịch nước ngoài, nên ai gặp chúng tôi cũng dể dàng kết bạn. Hơn nữa, chúng tôi luôn có thể giúp đở họ một cách thiết thực, v́ chúng tôi có rất nhiếu thuốc men.
Từ Ấn độ, chúng tôi lấy phà qua Sri Lanka, rồi du lịch khắp nơi. Đúng là một thiên đường. Ở đâu cũng yên tĩnh, ở đâu người dân cũng tươi cười tiếp đón chúng tôi, tặng cho chúng tôi dừa, chuối; chúng tôi có thể đi tắm biển, xem đủ loại cá với những màu sắc rực rỡ. Sau nầy, tôi thành lập một ni viện ở Sri Lanka, nhưng đó là chuyện măi sau nầy.
Từ đó, chúng tôi đi thuyền qua Thái Lan ngẫm nghĩ lại, đúng là càng ngày tôi càng đến gần với Phật giáo hơn.
Tất cả những ǵ chúng tôi thấy ở Bangkok cũng như các thành phố khác ở Thái Lan, đều là những kỳ quan, đáng ngưỡng mộ. Những pho tượng Phật trang nghiêm, các đồ trang trí bằng vàng, tượng Đức Phật đưọc khắc từ một tảng đá qúy tất cả mọi thứ đều quá sức tưởng tượng.
Và biết bao nhiêu ngôi lộng lẫy khiến người ta không thể không ngằm nh́n. Chúng tôi quen đưọc một vài vị sư người Thái nói đưọc tiếng Anh, để hỏi họ về Phật giáo. Những điều họ giải thích cho tôi, tựu trung lại cũng chỉ là những h́nh thức lễ bái, mà không phải là những vấn đề tôi quan tâm. Đơn giản là sống như thế nào.
Từ Thái Lan, chúng tôi qua Campuchia. Ở đó chúng tôi mượn xe đạp để đi thám hiểm Angkor Wat, nơi có những ngôi chùa lộng lẫy đă đưọc người Khmer xây dựng rất lâu đời, và đă đưọc các nhà khảo cổ t́nh cờ khám phá ra.
Các ngôi chùa hoang vắng, gần như không có ai ngoài chúng tôi ra. Sự tĩnh lặng, thần bí của nơi nầy, các tượng Phật, các h́nh đá chạm khắc những thánh nữ nhảy múa, gây ấn tượng mạnh đối với chúng tôi.
Trước khi đưọc khám phá, các ngôi tháp, những h́nh tượng đều bị rừng rậm che khuất. Các dây leo cắm sâu rể vào những vết nứt. Ở một số chổ, các ngôi tháp vẫn đưọc giữ nguyên trong rừng rậm. Dưới những tàn cây, những dây leo đan chằng chịt rể, người ta t́m thấy các pho tượng cổ, và trên hết tất cả là sự tĩnh lặng mênh mông.
Ở thủ đô Pnom Penh, chúng tôi lại có thêm một kỷ niệm đáng nhớ. Ở đó có một chợ chim, chim đưọc bán trong các lồng, mà người mua lập tức thả chúng ra để đưọc có thiện nghiệp. Ngay sau đó, các tay bán chim, lại bắt chúng lại, bỏ vào lồng bán tiếp. Chúng tôi thấy điều đó quá lạ lùng, đến nổi Jeff không cầm đưọc nước mắt.
Địa danh kế tiếp là Việt Nam. Mới nh́n vào, Saigon vẫn đầy quyển rủ, như không hề có dấu vết của cuộc chiến tranh đă trở nên khốc liệt ở miền Nam. Nhưng sự có mặt của nhiều phóng viên ngoại quốc ngồi quanh quẩn trong các khách sạn, lại gợi nhớ đến điều đó.
Saigon đă không c̣n là một nơi hoàn toàn yên b́nh cho du khách. Do đó chúng tôi quyết định lên tàu, nhắm đến Singapore. Ở Singapore, chúng tôi bán chiếc xe van Land Rover, đáp tàu về Freemantle, Úc.
Đó là một chiếc tàu của người Ḥa Lan, trên đó chỉ có đủ pḥng cho mười hai khách. Nhưng Jeff đưọc phép xuống tàu, làm người khách thứ mười ba. Cậu bé đưọc ở riêng một cabin, làm cậu rất thích. Chúng tôi đưọc ở cabin của chủ tàu, có đủ cả pḥng khách, pḥng ngủ và pḥng tắm.
Người đầu bếp c̣n nấu cả các món chay cho chúng tôi trong khi đó là một chuyến tàu buôn chở thịt đông lạnh. Dọc đường chúng tôi ghé vào rất nhiều nơi, kể cả Indonesia và Timor. Chúng tôi đưọc lên bờ, ngắm nh́n các bến cảng, và những khu vực quanh đó. Chúng tôi dừng chân một tuần lể ở Darwin, hải cảng ở cực bắc của nước Úc. Đó là một cuộc hành tŕnh dể chịu, khoan khóai, nhàn nhă.
Cuối cùng chúng tôi cũng đến Freemantle, hải cảng của thành phố Perth. Chúng tôi xuống tàu. Đó là vào tháng tám, là muà đông ở Úc. V́ không chuẩn bị, chúng tôi đành đứng trong cái lạnh cóng người.
Từ Perth, chúng tôi lại đi đến Sydney, t́m lại đưọc tất cả hành lư kư gửi trước đó, và cả chiếc xe Jeep. Sau đó chúng tôi lái xe Jeep về Queensland ở miền đông, nơi chúng tôi thích nhất năm năm về trước.
Chúng tôi mua đuwọc một nông trại ở gần Brisbane, thủ đô của Queensland. Khí hậu ở đó rất dể chịu. Nông trại có diện tích độ khoảng bảy mươi hai hecta. Quang cảnh chung quanh có núi đồi, thung lũng, cánh đồng và một khu rừng nhiệt đới nguyên thủy, trong đó đầy những hoa lan dại, các loại cây leo và cây cọ. Nông trại c̣n có một hồ nhỏ, có thể bơi lội hay ra đó hóng mát.
Trên nông trại có một ngôi nhà, với điện, điện thoại, một garage bỏ hoang và một chuồng. Khi người chủ nhà nầy tự nhiên bỏ đi đâu mất, mọi thứ trở thành sở hữu của ngân hàng. Chủ nhà đă khánh tận. Ngân hàng đ̣i ba ngàn bảng Anh. Chúng tôi trả hai ngàn, họ cũng vui vẻ nhận ngay. Tính ra tất cả hai trăm công đất và nhà chỉ có độ khoảng $2,700 đô, tính theo tỷ gía ngày nay.
Đó là một nơi thật lư tưởng. Chúng tôi không phải lo lắng ǵ. Chủ các nông trại lân cận cũng rất tử tế, đă giúp đở chúng tôi rất nhiều trong những ngày đầu v́ hai chúng tôi đều là dân thành phố, có biết ǵ về nông nghiệp đâu.
Phần lớn các nông trại chung quanh đều nuôi ḅ sữa. Chúng tôi suy nghĩ t́m cách xử dụng các cánh đồng của ḿnh vào chuyện khác. Cách nào, cỏ cũng dùng để nuôi gia súc.
Nhưng chúng tôi không muốn nuôi, để rồi phải giết chúng. V́ thế chúng tôi quyết định nuôi ngựa giống Shetland, đâu có ai giết ngựa Shetland. Chúng tôi dự định sau nầy sẽ bán lại cho các gia đ́nh có con thích cưỡi ngựa.
"Tôi có một nông trại ở châu Phi". Đó là câu mở đầu trong quyển tiểu thuyết rất nổi tiếng của nhà văn Isak Dinesen. Tôi và Gerd th́ có một nông trại ở Úc. Nông trại của chúng tôi là một trong những nông trại thiên nhiên đầu tiên trong khu vực. Chúng tôi trồng các thực vật thiên nhiên, hoàn toàn không dùng thuốc trừ sâu hay bất cứ thuốc ǵ.
Điều đó đ̣i hỏi bao công sức. Chúng tôi thu hoạch được rất nhiều, đủ để dùng, nên mổi năm chỉ tốn khoảng một trăm đô la cho thực phẩm. Chúng tôi chỉ phải mua gạo, nho khô và đường cát vàng. Nhưng thường chúng tôi trao đổi hoa mầu thặng dư để lấy những thứ ḿnh cần.
Dần dần nông trại thiên nhiên của chúng tôi đưọc nhiều người biết đến, v́ Gerd cũng có viết một số bài về nơi nầy. Nhiều thanh niên nam nữ kéo đến thăm viếng trại.
Gerd là người rất năng động (cho đến ngày nay vẫn thế). Trên mănh đất của chúng tôi, anh đă trồng đến năm trăm loại cây trái khác nhau; ngoài ra anh c̣n trồng cây vân sam (để làm giấy) và cây xương rồng. Tất cả có hơn hai mươi ngàn loại cây con, có thể mang đến nguồn lợi tức cho chúng tôi trong tương lai.
Các chú ngựa Shetland rất dể thương. Không có ǵ đáng yêu hơn một chú ngựa con vừa lọt ḷng mẹ, trông như một con chó xù to. Ngoài ra chúng tôi c̣n nuôi ngựa để cưỡi. Jeffrey có một con ngựa cái rất ngoan, tên là Flicka, chú bé thường ngồi trên ḿnh Flicka đi dạo quanh trại. Flicka đưọc huấn luyện rất thuần, đến nổi h́nh như bạn có thể biểu nó làm ǵ nó cũng làm.
Nhưng có lần nó bị hết hồn v́ một cái lá rơi ngay trước mặt hay ǵ đó, mà nó bất th́nh ĺnh ngừng lại giữa lúc đang săi chân, làm Jeff té xuống đất. Tôi đang đứng ở cửa số nh́n xuống. Cậu bé ngă ngữa, không ngồi dậy đưọc. Lúc đó tôi nghĩ rằng: có lẻ nó đă chết.
Ngay lúc đó tôi cảm thấy h́nh như tôi chấp nhận cái chết hay bất cứ điều ǵ xảy ra cho con tôi. Khoảng một phút sau, nó tỉnh lại, và bắt đầu la khóc; lúc đó tôi biết là nó chưa chết. Nó chỉ bị té bật ngữa, và bất tỉnh giây lát.
Đối với tôi, đó là dấu hiệu đầu tiên của việc ly ái đối với con cái tôi. Lần đầu tiên tôi có thể coi Jeffrey và Irene (con gái tôi, vẫn đang sinh sống ở San Diego) là những người tôi thương yêu, nhưng không phải là một bộ phận không thể tách rời khỏi tôi.
Nói thế, không có nghĩa đó là dấu hiệu tôi không c̣n thương yêu chúng, trái lại là khác. Tôi vẫn thương yêu chúng, nhưng không phải bằng t́nh thương sợ sệt, âu lo, mà tự trong trái tim tôi, một t́nh thương yêu vô điều kiện, không đ̣i hỏi ǵ ở chúng.
T́nh thương của tôi dành cho chúng, không chỉ lúc chúng c̣n sống, không chỉ v́ chúng phải sống theo cách tôi muốn; chúng phải tùy thuộc vào tôi, chúng phải mang ơn tôi hay phải cư xử thế nầy, thế nọ. Tất cả đều không thành vấn đề nữa.
Đức Phật có một người con trai tên Rahula (La Hầu La), có nghĩa là "sự ràng buộc". V́ Đức Phật biết đứa con là một sự ràng buộc trong tâm ta, nên đă đặt tên đó cho con.
Tôi đă hai lần kinh nghiệm tương tự như thế ở Iquitos và Calcutta. Ngoài ra việc tôi để Irene lại nhà, v́ cô bé không muốn cùng đi với chúng tôi, cũng không phải là một yếu tố nhỏ. Tất cả đều không phải là việc dể xử cho tôi. Tôi luôn bị dằn vật v́ không đưọc ở gần con gái.
Phải trăi qua một thời gian dài trước khi tôi có thể nói: Chúng hiện hữu, chúng là con tôi, tôi yêu chúng vô hạn, nhưng tôi cũng phải chấp nhận cái chết của chúng. Không có thái độ buông xả nầy, ta khó thể có t́nh yêu thương thanh thản.
T́nh thương của ta sẽ đầy lo âu, sợ hăi mất mát. Không dể ǵ đoạn diệt đưọc ḷng sợ hăi, nhưng vào cái ngày khi Jeff bị té ngựa, tôi đă làm đưọc điều đó.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 362 of 1146: Đă gửi: 23 June 2010 lúc 8:03pm | Đă lưu IP
|
|
|
QUÀ TẶNG CUỘC ĐỜI
Chương Mười Một
Bắt Đầu Cuộc Sống Nơi Tu Viện
Sức khỏe là gia sản to lớn nhất
Biết đủ là kho tàng quí báu nhất
Thành tín là bạn chí thân
Niết bàn là hạnh phúc vô biên.
Kinh Pháp Cú 204
Trên trang trại chúng tôi có một ngôi nhà nhỏ. Nằm dưới những tàng cây to nên bên trong nhà không khí rất thoáng mát. Các gia đ́nh trong vùng thường chứa sữa ḅ vắt trong những căn nhà như thế nầy, cho đến khi thuận tiện họ mới đến lấy đi. Lúc đó, chưa có tủ lạnh. Căn nhà chứa sữa của chúng tôi để trống v́ chúng tôi không có nuôi ḅ sữa.
Sau nhiều suy nghĩ, chúng tôi biến nơi đó thành một ngôi nhà thờ nhỏ, một ngôi nhà thờ cho mọi tôn giáo, v́ cho tới lúc đó, chúng tôi cũng chưa biết phải theo tôn giáo nào.
Các món quà lưu niệm từ những đất nước chúng tôi đă đặt chân đến giờ đưọc trưng bày trong ngôi nhà thờ nầy. Từ các vị thần của Ấn độ giáo đến các tượng Phật, hay các tượng thờ của các dân tộc thiểu số. Từ các đồ cổ vật cho đến các đồ dùng trong các buổi lể của người Do thái, các loại đèn, chân đèn cầy cũng đưọc trưng bày ra.
Trang trại của chúng tôi đưọc gọi là Shalom, tiếng Do thái có nghĩa là "Ḥa B́nh". Nơi đây đúng là một nơi yên tĩnh. Chúng tôi vẫn ngồi thiền hằng ngày trong ngôi đền nhỏ đó.
Ở trang trại có rất nhiều việc phải làm. Tôi luôn bận rộn vỡ đất, nhỏ cỏ, khiêng đá v́ tôi thường lo sợ cho sự an toàn của chúng tôi. Ở Shalom đă bị nạn cháy rừng, một lần tràn xuống đồi vào thung lũng của chúng tôi. Chỉ có những ai đă từng chữa cháy bằng các xô nước mới hiểu đưọc sự cực nhọc và nổi lo sợ của con người trong những trường hợp như thế.
Có cả trăm người hàng xóm đến giúp, chúng tôi mới không bị cháy nhà, cháy cây và gia súc. Chúng tôi nhốt tất cả dê, ngựa vào nhà, và nhờ pḥng chữa cháy trông hộ. Trong khi cây trái và cả cánh đồng cỏ th́ hoàn toàn nhờ vào những xẻng, xô, bao tải của láng giềng và trí thông minh của người nông dân.
Phụ nữ th́ mang bánh ḿ, thức uống, trèo lên các đồi cao mang đến cho cánh đàn ông. Sau sáu giờ sống trong sợ hăi, lo lắng, mệt mỏi, khói cay, sức nóng ngột ngạt, chúng tôi đă đẩy lùi đưọc hiểm nguy. Nhưng sau đó chúng tôi phải luân phiên canh chừng cháy trong hai ngày, v́ mùa hè ở đây rất dể sinh ra cháy rừng.
Ở Úc, khí hậu rất cay nghiệt. Người gọi mưa là băo. V́ mổi cơn mưa đều nhanh chóng trở thành băo. Mổi năm ít nhất một lần đều có băo lũ ở Queensland, cuốn trôi các mái nhà. Mái nhà của tôi chưa bị thổi mất, nhưng tôi đă từng chứng kiến những thân cây to bị nước cuốn phăng qua các đồi nứi, dội xuống cánh vườn nhà chúng tôi.
Ban đầu, các cơn băo nầy đều làm tôi sợ. Nhưng dần dần tôi cũng quen đi, không c̣n cảm thấy hoàn toàn bất lực như lúc đầu. Trang trại của chúng tôi ở chổ hơi hẻo lánh. Người láng giềng gần nhất cũng cách hơn kílô mét. Lớn lên ở thành thị, tôi không hề biết đến những tai hoạ nầy. Chúng đă làm khổ tôi.
Ngoài ra ở Úc cũng có nhiều loại rắn độc khiến tôi không yên tâm chút nào. Phải măi về sau, tôi mới chấp nhận đưọc chúng cũng là một phần của đời sống thiên nhiên trên trang trại.
Đôi khi tôi cũng hồi tưởng về ngôi nhà ở San Diego, về những ngày sống như một người nội trợ, trong một cuộc sống b́nh thường. Dầu tôi không bao giờ mơ ước trở lại cuộc sống đó, nhưng cuộc sống rày đây mai đó, cuộc sống gần với những bất trắc, hiểm nguy, xa lạ, cũng đ̣i hỏi ở tôi rất nhiều sự thích ứng.
Giờ, nh́n lại, tôi có thể nói rằng trong những lúc hiểm nguy, sợ hăi, người ta chỉ có thể chống trả lại sự sợ hăi bằng cách t́m nguyên nhân tạo tác ra nó. Nếu không thể làm thế, ta sẽ không bao giờ biết đưọc sức mạnh của ḿnh, mà trên phương diện tinh thần th́ sức mạnh đó vô bờ bến.
Tôi đă rèn luyện đưọc ḷng tự tin mănh liệt. Tôi đă biết con người dầu ở nơi đây, ngôn ngữ là ǵ, cũng đều giống nhau. Ai cũng muốn được hạnh phúc, nhưng không mấy ai t́m đưọc hạnh phúc. Điều đó là sự thật không chối căi đưọc.
Cuộc đời là một quá tŕnh của xả ly. Đó là những điều tôi nhận thức đưọc ở thời điểm đó. Tôi không tin rằng, tôi có thể hoàn thành quá tŕnh đó nều không có những chuyến đi mở rộng tầm mắt của tôi. Tôi không tin rằng tôi có thể trụ lại ở trang trại nầy dài lâu, nếu tôi đi từ San Diego thẳng đến đây.
Ở Shalom, chúng tôi nuôi gà, một đôi công, bảy con dê, hai con ngựa cưỡi, chó mèo và hai mươi lăm con ngựa Shetland. Về ăn uống, chúng tôi theo đúng cách hướng dẩn trong các sách về sức khoẻ. Do đó, chúng tôi không uống cà phê, trà đậm chỉ uống nước nấu từ các dược thảo, do chính chúng tôi phơi khô, và dùng rất ít đường.
Thay vào đó, chúng tôi dùng mật ong nuôi trong vườn. Dùng sữa và bơ làm từ sữa dê, ăn rau quả do chính chúng tôi trồng, chuối cũng từ vườn nhà, ngũ cốc cũng hoàn toàn không bị phun thuốc trừ sâu hay bất cứ thứ thuốc độc hại nào.
Dầu vậy, tôi vẫn bị bịnh thiếu máu. Lúc đầu, tôi hoàn toàn không biết ḿnh bị bịnh ǵ. Tôi chỉ cảm thấy mệt mỏi, nặng nề, không c̣n sức lực để trèo lên các cầu thang nhà. Bác sĩ xem bịnh, nói ngay rằng tôi quá xanh. Ông bảo là tôi bị bịnh thiếu máu măn tính, giải thích rằng căn bịnh đó không thể chữa khỏi. Người ta cứ phải chích vitamin B12 suốt đời.
Tôi không hài ḷng lắm v́ lời chẩn đoán nầy. Tôi hăy c̣n trẻ, và không bao giờ tưởng tượng ḿnh có thể mắc những căn bịnh măn tính. Tôi tự chữa trị ḿnh bằng cách bắt đầu ba tháng tuyệt thực, chỉ uống ṛng nước nho. Có nghĩa là cơ thể của tôi không chứa ǵ hơn là nước trái cây, hoặc vài trái nho đen. Tôi đă biết về cách chữa trị nầy qua một quyền sách tôi đă đọc.
Cách chữa trị nầy thật hiệu nghiệm. Sau một thời gian, độ máu của tôi đă trở lại b́nh thường, và giữ đưọc măi như thế cho đến ngày nay. Sau lần giải phẩu ung thư ba năm trước đây, độ máu tôi có hơi bất thường, nhưng sau đó, tôi lại làm nó trở lại b́nh thường. Giờ tôi sống cũng như tôi đă sống, hết sức giản dị, tự nhiên, tránh ăn thịt, là điều quá dể dàng cho tôi.
Một ngày kia, có một tu sĩ Phật giáo đến viếng trang trại của chúng tôi. Ông là người Anh, có tên là Phra Khantipalo. Ông không có nhà cửa, nên chúng tôi mời ông đến tá túc với chúng tôi.
Chúng tôi để ông ở tạm trong pḥng dành cho khách quen, trong lúc Gerd và ông dựng một cái cḥi gổ, gọi là kuti, cho ông ở giữa rừng trên phần đất của chúng tôi. Được ở cạnh bên oong, chúng tôi đă học đưọc rất nhiều điều.
Khi Phra Khantipalo giảng cho chúng tôi về những giáo lư của Đức Phật, tôi bỗng nhận ra: những điều đó tôi có thể hiểu và thực hành đưọc. Thí dụ về năm giới. Không được sát sanh;
Không trộm cắp; Không nói dồi hay nói lời dữ; Không uống rượu hay xử dụng ma túy; Không tà dâm. Người ta có thể thực hành những điều ngược lại: thương yêu, độ lượng, tín cẩn và trung thành; chánh ngữ và chánh niệm.
Đây là lần đầu tiên tôi đưọc nghe những điều mà tôi có thể nói là rất gần gủi, tôi có thể hiểu đưọc ngay, không cần phải suy nghĩ ǵ. Tôi biết đó là chân lư, biết tôi phải làm ǵ để thực hiện chúng.
Đây là con đường tâm linh thực sự chỉ cho ta biết phải thay đổi như thế nào để đạt đưọc sự thanh tịnh nội tâm. Tôi tổ chức những buổi học để vị tu sĩ nầy có thể giảng cho tất cả những ai muốn nghe. Ngoài ra tôi cũng mới nhiều vị thầy khác tham dự nữa.
Hai chúng tôi tiếp tục lănh hội nhiều điều tự ngài Phra Khantipalo. Đối với tôi, đây là một dịp may lớn, giúp tôi t́m ra hướng đi cho ḿnh. Tôi luôn suy tư về điều đó. Tôi thấy rất rơ rằng dù cho cuộc sống của chúng tôi lành mạnh, trong sạch, hữu ích, nó cũng không mang lại cho tôi niềm hạnh phúc, sự b́nh an mà tôi luôn kiếm t́m.
Jeffrey đă đưọc mười tám tuổi, đă dọn về thủ đô Brisbane để theo học trường đại học ở đó. Con trai tôi cũng muốn trở thành một kỹ sư điện giống như Gerd, nhưng sau hai năm, nó đă chuyển qua học vi tính. V́ Jeffrey học rất giỏi, nên chính phú đài thọ tất cả tiền chi phí ăn học của cậu.
Một ngày kia, tôi quyết định bay qua Mỹ, viếng thăm thiền viện San Francisco. Rồi từ đó tôi đến Tassajara, một nơi rất đẹp trong thung lũng ở phía bên kia dăy núi Carmel, dọc theo băi biển California. Nơi đó có các suối nước nóng và một cái hồ trên núi lớn. Tôi đă ở đó khỏang ba tháng để học hỏi về thiền Phật giáo.
Thật là một khoảng thời gian tuyệt vời. Tôi không phải trả một chi phí nào, v́ tôi làm việc ở đó. Công việc của tôi là giữ cho các buồng tắm đưọc sạch sẻ. Do đó tôi có thể tắm suối nước nóng tùy thích, lúc nào cũng được. Chỉ có điều ở đây tôi không đưọc nghe Phra Khantipalo giảng về Phật pháp.
Thiền Phật giáo dựa vào những giáo lư đưọc truyền từ các vị Thiền sư qua bao nhiêu thế kỷ. Thiền đưọc truyền đến Trung Hoa vào thế kỷ thứ sáu, sau đó, vào thế kỷ thứ mười hai, thiền có mặt ở Nhật bản. Và ở đâu thiền cũng đưọc phát triển mà vẫn hoà hợp với văn hóa của Trung quốc cũng như Nhật bản. Điều đó cũng đă xảy ra với Phật giáo Tây tạng, Phật giáo vẫn phát triển theo văn hóa của Tây tạng.
Tôi theo Phật giáo nguyên thủy, tuân theo những lời dạy của Đức Phật từ hơn 2500 trước đây. Chúng tôi rất mong là Phật giáo sẽ đưọc phát triển ở Tây phương để nó trở thành tự nhiên, b́nh thường. Phật giáo có thể đóng góp vào việc làm giàu thêm đời sống tôn giáo ở châu Âu, mà vần không đàn áp những tôn giáo hiện hành.
Khi trở về Úc, tôi có cảm tưởng rằng Gerd không bằng ḷng việc tôi đi vắng quá lâu. Dầu ǵ chúng tôi cũng lại xum họp, và tôi có bao điều để tâm sự với anh. Suy cho cũng, anh cũng rất thích Phật giáo. Tôi chắc rằng anh cũng mong ước tôi đă t́m đưọc con đường đi đúng.
Nhưng lúc đó tôi không hề biết rằng anh không có nỗi say mê t́m hiểu về Phật giáo sâu xa, quyết liệt như tôi. Sau nầy, tôi mới hiểu sự vắng mặt của tôi khiến anh hiểu lầm là tôi không ủng hộ mô h́nh nông nghiệp thiên nhiên của anh. Nhưng lúc đầu, tôi không hề để ư đến những vấn đề nầy.
Trang trại của chúng tôi, ngôi đền nhỏ và cái kuti (thất) trong rừng đă lôi cuốn nhiều vị thầy khác. Họ đến, nói pháp và dạy chúng tôi nhiều phương pháp tọa thiền.
Tôi lại bay sang Burma. Vào những ngày đó, du khách chỉ đưọc phép ở đó bảy ngày. Sau đó bạn phải ra khỏi xứ, và trở lại với một thông hành mới. Tôi đă phải làm như thế đến ba lần. Ba lần bảy ngày tôi tham thiền ở một trung tâm thiền dưới sự hướng dẩn của các đệ tử của ngài U Bha Khin, là một cư sĩ U Bha Khin là bộ trưởng tài chánh của chính phủ Burma.
Ông có chính sách là chỉ những ai đă qua một khóa tu thiền với ông, mới đưọc phép làm việc với ông. Theo chổ tôi biết, nhờ chính sách nầy, mà bộ tài chánh đă làm rất tốt nhiệm vụ của ḿnh.
Từ Burma, tôi quay trở về nhà. Nhưng từ đó trở đi, tôi càng vắng nhà thường hơn. Khi th́ tôi tham dự các khóa thiền lúc lại tự ḿnh tổ chức. Đến một lúc, các vị thầy của tôi bảo rằng chính tôi cũng có thể dạy thiền cho nhiều người khác trên trang trại. Chúng tôi nới rộng nhà để xe ra để nhiều người có thể tham dự hơn.
Tôi dự định đến tháng tư, Gerd và tôi sẽ dạy chung một khóa. Gerd đă gửi giấy mời. Anh đă có ư định sẽ dạy yoga cho những người tham dự.
Nhưng bốn tuần trước ngày khai mạc, tôi lại đi về phía nam nước Úc để tổ chức một khóa thiền khác. Khi tôi trở về, Jeffrey đứng đợi tôi ở nhà ga xe lửa. Tôi hỏi: "Ba con đâu?" Nó tră lời: "Có lá thư đây".
Tôi không tin những điều xảy ra trước mắt là sự thực. Trong thư, Gerd bảo là anh phải ra đi. Anh tin rằng tôi sẽ tiến xa hơn trong thế giới tâm linh, nếu như không có anh ở bên cạnh.
Ngày nay, tôi thấy rằng anh đă nói đúng. Tôi luôn nghĩ là chúng tôi có thể cùng đi trên một con đường với nhau, và đúng, chúng tôi cũng đă đi với nhau một đoạn đường khá dài. Nhưng anh không thể dâng hiến tất cả cho con đường đạo như tôi.
Lúc đó, tôi chỉ biết sợ hăi và giận dữ. V́ tôi phải làm ǵ đây với một trang trại mênh mông, hai mươi lăm con ngựa, máy móc tất cả những của cải, tài sản của chúng tôi. Gerd không mang theo một thứ ǵ. Anh chỉ ra đi với chiếc balô trên lưng.
Có thể cuộc sống ở thôn quê quá nhàn rỗi đối với anh. Chúng tôi đă xây dựng nên cơ ngơi ở đây, đă đổ bao mồ hôi để tất cả đưọc như ngày nay. Tất cả đă vào nền nếp, không cần phải thay đổi ǵ, không cần phải làm ǵ thêm nữa.
Có lẻ đó là lư do đă khiến Gerd không c̣n t́m thấy hứng thú ở lại nơi đây. Anh đă từng và vẫn c̣n đến ngày nay, mang tinh thần của người khai hoang. Chúng tôi đă sống trên trang trại nầy tổng cộng đưọc mười bốn năm.
Đứng ở sân ga, với lá thư trong tay, ngay trong những giây phút đó tôi đă thấy rơ ràng tôi không thể tự ḿnh điều khiển trang trại. Và thực tế điều đó đă nhanh chóng đưọc chứng minh. Bắt đầu là, tôi không biết xử dụng các máy móc. Thí dụ, tôi không biết sửa máy bơm nước để bơm nước từ ngoài suối vào nhà.
Jeffrey th́ đi học ở Brisbane. Cuối tuần con tôi cũng về để giúp tôi, nhưng nó không quen với công việc ở trang trại, nên rất khó nhọc cho nó. Tôi quyết định bán trang trại. Nhưng cũng không phải là việc dể làm ở thời điểm đó. Người ta không mua bất động sản v́ kinh tế đang gặp khó khăn. Không ai có tiền nhiều.
Tôi bèn bán trước đàn ngựa. Cũng may là có người mua ngay. Nhưng bạn cũng phải biết cách chuyên chở ngựa đi. Tôi chỉ biết cách làm trên lư thuyết, c̣n thực tế Gerd là người luôn đảm trách những việc nầy. Kết quả là đă bị ngựa đá. Đúng là khó chuyên chở ngựa trên những chiếc xe kéo.
Sau đó tôi bán những thứ tài sản giá trị khác với giá rẻ, để có thể thanh toán mọi thứ nhanh chóng. Những ǵ không bán đưọc, tôi vứt đi. Trong lúc hỗn độn đó, tôi đă vứt đi những giấy tờ mà sau nầy tôi rất cần.
Cuối cùng có một nhóm người thích đời sống thiên nhiên, đă tụ lại thành câu lạc bộ. Câu lạc bộ nầy muốn mua lại trang trại của tôi với một số tiền đặt cọc. Tôi phải làm hợp đồng coi như tôi cũng là một thành viên trong tổ chức, chỉ như thế công việc mua bán mới tạm yên.
Tôi vào ở một tu viện Phật giáo ở Sydney, nơi thầy Phra Khantipalo đang tu. Ở đó có nhà cho các cư sĩ ở. Mổi hai tuần, tôi phải trở lại trang trại để thu xếp một số công việc ở đó. Đó là điều không thể tránh khỏi, v́ các thành viên câu lạc bộ không biết điều hành công việc ở trang trại.
Tuy họ thích trở về sống với thiên nhiên, nhưng họ không muốn phải bỏ công chăm sóc thiên nhiên. V́ thế nhiều cây trái vườn tược bị hư hỏng, kể cả vườn hồng tuyệt đẹp của chúng tôi.
Thầy Phra khantipalo nhờ tôi giúp trong việc thuyết pháp. Lần đầu tiên tôi giảng pháp một ḿnh ở trang trại trong căn nhà để xe mà tôi và Gerd đă sửa rộng ra. Có khoảng mười người đến dự, tôi hướng dẩn họ cách tọa thiền. Tôi rất vui mừng v́ đă có thể đem lại lợi ích cho người khác.
Gerd có viết thư cho Jeff, báo tin anh đang ở Do Thái. Nhưng anh không dừng chân lại đó lâu. Sau đó, anh đi khá nhiều nơi. Giờ anh làm chủ bốn mẫu đất ở Nepal, có hàng trăm cây trồng.
Trong khỏang nữa năm đó, tôi phải đương đầu với nhiều vấn đề, khiến tôi cảm thấy phiền năo, khổ đau. Một buổi sáng kia, sau khi thức dậy, mọi việc bỗng vỡ oà ra, như thể trước đây có tấm màn chắn che trước mắt tôi. Thật kỳ quặc, tôi nhận ra chính tôi là người tự làm khổ ḿnh.
Tôi chỉ cần nói (hay nghĩ): tất cả mọi việc hiện hữu như chúng phải hiện hữu, nên dù chúng có thế nào cũng được.
Ngay lúc đó, tôi bỏ qua đưọc hết tất cả bao nhiêu chuyện chất chứa trong ḷng khiến tôi đau khổ, chán nản. Nói cách khác, tôi đă vượt ra khỏi những t́nh cảm tiêu cực của ḿnh. Từ đó đến nay, tôi chưa bao giờ tự làm khổ ḿnh như thế nữa.
Và tôi đă có thể, cho đến ngày nay, có khả năng giải thích cho người khác hiểu được phương pháp thực hành nầy. Nhưng c̣n việc họ có thực hành đưọc không, c̣n tùy thuộc vào sức mạnh tinh thần của họ.
Cuối cùng tôi cũng bán đưọc trang trại Shalom của ḿnh. Chúng tôi câu lạc bộ và tôi cũng đưọc ít tiền. Chí ít thôi, v́ chúng tôi bán không đưọc giá. Dầu ǵ, bao nhiêu lo âu của tôi đều đă qua đi.
Như thế là tôi phải dọn đến Sydney. Thầy Phra Khantipalo muốn xây dựng một tu viện ở trong rừng. Tôi có ít tiền do bán đưọc trang trại, cộng với gia tài của mẹ tôi, đă mất năm ngoái, để lại. Tôi bỏ hết cả tiền vào việc lập tu viện, Wat Buddha Dhamma.
Thầy Phra Khantipalo và tôi, sau nhiều tháng kiếm t́m, đă chọn đưọc một nơi thích hợp ở giữa một công viên quốc gia -bảy mươi hecta, gần bằng diện tích trang trại Shalom.
Thầy Phra Khantipalo làm trụ tŕ. Tôi coi quản lư, sắp xếp công việc. Và cả hai chúng tôi đều làm nhiệm vụ giảng dạy. Dần dần nhiều dăy nhà đưọc xây lên, trong đó có một thiền đường. Một cái thất kuti dể thương đưọc xây cho tôi trên triền núi. Lần lần có nhiều kuti khác cũng đưọc cất lên cho những người thích theo đuổi cuộc sống tâm linh, để t́m đưọc sự an b́nh cho tâm hồn.
Có khá nhiều người đến ủng hộ để Wat Buddha Dhamma có thể đưọc duy tŕ. Tất cả mọi người đều đóng góp vào kinh phí xây dựng. Đến nay, tu viện nầy đă có mặt hơn hai mươi năm rồi. Lúc đầu chỉ có Phra Khantipalo và tôi là thành viên trong hội đồng quản trị. Ngày nay chúng tôi có cả thảy là bốn thành viên. Một trong các đệ tử của tôi, đại diện cho tôi.
Từ đó trở đi, giáo lư của Đức Phật dẫn dắt cuộc đời tôi. Theo giáo lư nầy, ta cần phải thực hiện bốn điểm chính, như sau:
- Không cho phép những tư tưởng ác xấu chưa dấy khởi đưọc dấy khởi, nói cách khác là tránh xa chúng.
- Không duy tŕ những tư tưởng ác xấu, mọi khi chúng đă dấy khởi, nói cách khác là làm chủ chúng.
- Hăy phát khởi những ư nghĩ thiện chưa dấy khởi, nói cách khác là t́m cách phát khởi các thiện ư.
- Hăy làm lớn mạnh hơn nữa những tư tuởng thiện đă đưọc dấy khởi, nói cách khác là duy tŕ, phát triển chúng.
Tránh xa, làm chủ, phát khởi, duy tŕ: đây là cửa ngỏ đưa đến cuộc sống tâm linh. Điều đó có nghĩa là ta phải luôn kiểm soát và làm chủ tư tưởng của ta. Nếu chúng là các tư tưởng xấu ác, tiêu cực, sân hận, bực tức, ta cần phải biết là chúng chỉ mang đến cho ta đau khổ, phiền năo.
Bằng phương pháp tọa thiền, ta dần thay thế chúng bằng những tư tưởng t́ch cực, thương yêu, giúp đở. Nhưng điều nầy không phải có thể dể dàng thực hiện ngay. Không đơn giản như thế. Ta cần phải tu học phương pháp thực hiện điều nầy.
Trong quá tŕnh chuyển đổi, ta cần phải đi từng bước. Phải dần bỏ các tư tưởng tiêu cực, và thay thế chúng bằng những tư tưởng tốt đẹp: Hăy nghĩ đến một cánh đồng đầy bông hoa, một mảng âm nhạc ru hồn. Hay bạn có thể nghĩ đến những người bạn thương yêu. Như thế, bạn có thể hướng tâm ḿnh đến những điều có thể đem lại niềm vui cho tâm bạn, t́nh cảm bạn.
Khi đă thực hiện đưọc những điều nầy, bạn có thể trở lại với tư tưởng ban đầu và cố gắng chuyển đổi chúng. Nếu bạn thấy bực tức với ai. Hăy nghĩ đến những tánh tốt khác của họ.
Muốn thấu hiểu đưọc những giáo lư của Đức Phật, cũng như trong quá tŕnh phát triển tâm linh, ta cần phải thực hiện đưọc những điều trên. Ngay từ lúc chưa có đưọc sự hiểu biết thấu đáo về Phật pháp, tôi vẫn nhận thức đưọc điều đó. Tôi tự biết rằng việc ḿnh tự làm khổ ḿnh là một hành động điên rồ, nhưng h́nh như ai cũng dể dàng mắc phải.
Trong những ngày c̣n sống ở Thượng Hải, ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, tôi đă tranh đấu với chính tôi, để tận trong thâm tâm, tôi không c̣n ḷng thù hận họ, mà có thể hàn gắn với đất nước Đức, người Đức. Tôi đă nghĩ rằng những tư tưởng hận thù không có lợi ích ǵ hơn là những đám mây đen che phủ cuộc đời tôi.
Sau nầy tôi t́m thấy những điều tôi đă mơ hồ nghĩ đến đưọc giải thích rơ ràng trong các kinh điển của Đức Phật.
Bốn yếu tố quan trọng trên (Tứ Chánh Cần) nằm trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo đưa ta đến Giác Ngộ giải thoát. Không có khóa tu nào, bài giảng nào, mà tôi không lồng vào đó những lời dạy chí thiết nầy.
Một khi bạn đă thực hành nhuần nhuyễn, chúng trở thành thói quen khiến ta không bao giờ để các tư tưởng xấu ác có thể dấy khởi. Ta xa lánh chúng. Không có nghĩa là ta đè nén chúng.
Hiện nay nhiều người lập luận rằng: Ta không nên đè nén ǵ cả, ta cần phải để mọi thứ trong ta tuôn tràn. Đó là lối suy nghĩ của nhiều người. Nhưng ở đây không phải là vấn đề của đè nén, mà là xa lánh, tránh xa.
Trong mổi con người đều có cái tốt, cái xấu. Nếu ta chỉ vun trồng cho cái tốt, th́ một ngày kia cái xấu sẽ biến mất.
Một khía cạnh quan trọng nữa trong giáo lư của Đức Phật là thái độ xả ly. Con đường đưa đến việc thực hành xả ly nằm trong năm điều sau. Mổi ngày ta cần suy gẫm về chúng:
- Tôi cũng sẽ bị hư hoại, không thể trốn tránh điều đó.
- Tôi cũng sẽ bị bịnh hoạn, không thể trốn tránh điều đó.
- Tôi cũng sẽ chết đi, không thể trốn tránh điều đó.
- Tất cả mọi thứ tôi sở hữu, thương yêu, đều sẽ đổi thay, hoại diệt.
- Tôi làm chủ nghiệp của ḿnh, là kẻ thừa hưởng nghiệp do ḿnh tạo ra, dù là tốt hay xấu.
"Tất cả mọi thứ tôi sở hữu, thương yêu đều thay đổi" rất đúng khi áp dụng vào các mối liên hệ cha mẹ, con cái hay vợ chồng. Con cái từ lúc ta sinh chúng ra, chúng đă không ngừng thay đổi. Rồi chúng có thể biến khỏi đời ta bất cứ lúc nào. Các liên hệ giữa những người yêu nhau cũng thế.
Rơ ràng không có ai trong chúng ta nghĩ là con cái hay người ta thương thuộc sỡ hửu của ta. Tuy nhiên t́nh cảm ta th́ nghĩ như thế về họ, và luôn muốn ràng buộc họ. V́ thế đă có nhiều vấn đề về t́nh cảm xảy ra trong các gia đ́nh.
Chúng ta muốn điều khiển người thân của ḿnh. Chúng ta nghĩ là ḿnh có thể quyết định việc phát triển của con cái, có thể quyết định những ǵ con cái ḿnh phải làm hay không nên làm.
Chúng ta không những muốn sở hữu con cái hay người thương, mà c̣n muốn họ phải sống theo ư ta muốn, làm theo những điều ta đ̣i hỏi, mong đợi ở họ. Nhưng tất cả đều là hoài công.
Chúng ta phải thực tập xả ly nếu ta muốn đưọc sống và thương yêu trong sự tự do. Đức Phật đă nói, thân nầy không thuộc ta, th́ làm sao người khác có thể là ta? Mổi người tự tạo nghiệp cho ḿnh.
Ở đây tôi muốn giải thích thêm về một phần trong giáo lư của Đức Phật, có liên quan trực tiếp đến tôi và như tôi biết qua kinh nghiệm cũng liên quan đến rất nhiều người khác.
T́nh yêu cao thượng không đ̣i hỏi sự sở hữu, mà chỉ có ban phát rộng răi. Qua thời gian, tôi càng thấm thía với những điều nầy sâu xa hơn.
Vào năm 1979 tôi quyết định xuất gia. Cho đến thời điểm đó, tôi đă khá từng trăi, để nhận thấy rằng tất cả mọi thứ trên cơi nầy đều không thể mang đến hạnh phúc cho ta.
Trong các cuộc hành tŕnh, tôi đă hiểu rằng sự tĩnh lặng, an b́nh không phải do những thắng cảnh tuyệt vời trên trái đất mang đến cho ta. Chúng chỉ có thể đưọc t́m thấy trong trái tim ta. Giờ tôi đă sẳn sàng để dâng hiến cuộc đời ḿnh cho lư tưởng cao đẹp nhất.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 363 of 1146: Đă gửi: 23 June 2010 lúc 8:36pm | Đă lưu IP
|
|
|
QUÀ TẶNG CUỘC ĐỜI
Chương Mười Hai
Ilse Trở Thành Ayya Khema
Được sinh làm người là khó,
Được sống càng khó hơn;
Được nghe Chánh pháp là khó,
Được gặp Phật ra đời càng khó hơn.
Kinh Pháp Cú 182
Tôi đă quay trở lại quăng đời quá khứ để tả cho độc giả những đoạn đường khúc khuỷu tôi đă đi qua, trước khi t́m đưọc con đường đạo.
Trước khi biết đến Phật giáo, tôi đă đi t́m con đường trong chính tôn giáo của ḿnh. Tôi đă sinh ra là người Do Thái, nên dù không đưọc giáo huấn trong ư nghĩa của một tôn giáo chính thống, tôi vẫn có những mối liên hệ với Do Thái, với tín ngưỡng Do Thái.
Khi bạn sinh ra làm người Do Thái, bạn không thể chối bỏ nguồn gốc Do Thái của ḿnh. Tôi nghĩ điều đó không liên quan ǵ đến tín ngưỡng. Đó chỉ là một cảm giác về chủng tộc. Theo bản năng, khi tiếp chuyện với ai, tôi có thể đoán biết người đó có phải là người Do Thái không. Có một cung cách tiêu biểu nào đó khiến người ta dể nhận biết nhau.
Năm Jeff đưọc mười ba tuổi, tôi đem con đến gặp thầy rabbi (thầy trong đạo Do Thái). Ở tuổi đó, con trai làm lể Bar Mitzvah, để bước vào tuổi trưởng thành. Gerd, chồng tôi đă lớn lên trong truyền thống Do Thái, tự giới thiệu ḿnh bằng tên trong đạo Do Thái. Tôi hoàn toàn không biết ḿnh có tên Do Thái hay không. Thầy Rabbi nh́n tôi rất lâu, hỏi: "Vậy cô không phải là người Do Thái sao?"
Gerd tră lời: "Dĩ nhiên cô ấy là người Do Thái rồi. Chỉ có điều cô ấy không đưọc giáo dục về điều đó". Rồi họ nhanh chóng t́m cho tôi một cái tên. Tôi hoàn toàn không có hiểu biết ǵ về vấn đề nầy.
Sau đó tôi bỏ một khỏang thời gian t́m ṭi, học hỏi về những kiến thức tôi đă thiếu sót. Tôi đă đọc rất nhiều sách, thí dụ như Zohar và những sách khác về Kabbalah. Nhưng tôi không hiểu ǵ nhiều. H́nh như họ ở một cung bậc mà tôi không với tới.
Rồi khi chúng tôi về sống ở Shalom, tôi đưọc biết về một tổ chức quốc tế, có tên là Chabad dạy về Thần Bí (Hasidism) trong đạo Do Thái. Trụ sở của họ đưọc đặt ở Sydney, Úc. Tôi đă đến t́m vị thầy phụ trách ở đó. Ông là một giáo sư toán ở đại học Sydney, có vợ và sáu con. Mổi tối ông đều giảng kinh sách tại nhà riêng.
Tôi đă đến nghe ông, và hiểu rằng để có thể bước vào những giáo lư huyền bí nầy, trước hết người ta cần phải biết tiếng Hebrew. Tôi thuộc ḷng một số bài kinh chủ yếu, nhưng không biết nói tiếng Hebrew, nói ǵ đến việc đọc. Bên cạnh đó, tôi c̣n phải chấp nhận lối sống theo đạo chính thống.
Có nghĩa là nếp sống trong gia đ́nh phải theo các điều luật kosher, mà tôi không biết đến những điều căn bản, cho nên điều đó là không tưởng. Và điều thứ ba đ̣i hỏi tôi phải là nam giới. Coi như trong trường hợp của tôi, không thể xảy ra rồi. Nói rơ lại, là nữ giới, tôi chỉ đưọc phép lắng nghe, chứ không thể tham dự vào.
Tôi cũng có viết thư cho Gershom Scholem, người đưọc coi là tiếng nói của Kabbalah, mà tôi có đọc qua sách của ông. Gershom từng là giáo sư ở Đại học Hebrew ở Jerusalem, nhưng ông đă nghĩ hưu, hiện sống tại Thụy điển. Tôi nhờ ông làm nhịp cầu để tôi có thể hiểu đưọc Kabbalah và Zohar.
Ông lập tức hồi âm cho tôi biết là gần ba mươi năm về trước đă có những trường dạy về những giáo lư nầy ở ngoài Jerusalem. Trường có tên là Beth El (Nhà của Chúa), nhưng trường nầy bị đóng cửa v́ thiếu thầy, thiếu tṛ. Đó là lúc tôi bỏ không theo đuổi con đường nầy nữa.
Gần đây, tôi t́nh cờ đọc đưọc một cuốn sách rất thú vị, tựa là Người Do Thái trong Cánh Hoa Sen (The Jew in the Lotus). Cuốn sách kể lại một cuộc gặp gở ở Dharamsala, là nơi trú ngụ của Đức Đạt lai Lạt Ma trong lúc lưu vong.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đă mời một phái đoàn người Do Thái gồm các thầy Rabbi và các nhà lănh đạo của những đoàn thể tôn giáo Do Thái đến thăm hỏi.
Ngài muốn t́m hiểu tại sao người Do Thái có thể duy tŕ đưọc dân tộc tính và tôn giáo qua hai ngàn năm lưu vong. Đó là câu hỏi người Tây tạng rất muốn đưọc tră lời.
Điều làm tôi cảm động nhất là phần diển tả buổi gặp gỡ giữa những người tham dự hội thảo và khoảng chục người Do Thái đă xuất gia làm tăng ni theo truyền thống Tây tạng. Các vị tăng ni nầy hiện đang tu học, và sinh sống tại Dharamsala.
Tất cả đều có cùng câu chuyện để kể như tôi đă kể. Nghĩa là họ đă t́m hiểu, đào sâu vào những khía cạnh thần bí của chính tôn giáo họ, nhưng không t́m đưọc sự đồng cảm, do đó họ đă t́m đến với Phật giáo, với tất cả ḷng tin của họ.
Quyết định xuất gia tu theo Phật giáo không phải là điều dể dàng đối với tôi. Trước khi dứt khoát hẳn, tôi đă tham dự một khóa an cư ba tháng trong một tu viện ở Thái Lan. Trong những tháng tám, chín và mười, trời mưa liên miên ở Ấn Độ. Và ở Thái Lan, mưa rất lớn. Khóa an cư bao giờ cũng bắt đầu vào một ngày rằm, do đó ngày theo dương lịch mổi năm lại nhích thêm một chút.
Đức Phật ngày xưa dành những tháng nầy cho các tăng ni đưọc ở lại trong chùa, chuyên tâm tu học, tham thiền. Đồ vật thực sẽ đưọc mang đến cúng dường cho họ tại chùa. Lư do rất thực tiễn và đáng ngưỡng mộ. V́ thời đó, Đức Thế Tôn có rất nhiều đệ tử, hằng ngày bằng qua những cánh đồng để đi khất thực ở từng nhà.
Vào mùa mưa, những người nông dân đến thưa cùng Phật rằng các vị tăng ni khi đi qua các ruộng đồng đă dẫm lên các gốc mạ non, ẩn ḿnh dưới nước, nên khó thấy. Và cuộc sống của họ tùy thuộc vào sự lớn mạnh của cây lúa.
Đức Phật quyết định không để việc nầy tiếp tục xảy ra. Cách tốt nhất là giữ họ ở lại trong các tu viện. Từ đó sinh ra tục an cư vào mùa mưa, kéo dài cho đến ngày nay. Ở Tây phương, chúng ta thay đổi thời điểm an cư cho phù hợp với khí hậu ở xứ sở ḿnh. Chúng ta thường an cư vào mùa đông, khi có tuyết đá rơi phủ, đó cũng là lúc ta nên ở trong nhà hơn đi ra ngoài.
Thế là tôi đă đến Thái Lan trong ba tháng, ở trong một tu viện nằm giữa rừng cây rất đẹp. Ở đó có một vị pháp sư đưọc nhiều người biết đến qua tên Tan Ajahn Singtong.
Mẹ của Sư đă hơn tám mươi tuổi sống cùng với các sư cô ở khu vực dành cho ni giới. Mổi ngày Sư đều đến viếng thăm mẹ và giảng pháp, có người dịch lại những bài giảng đó cho tôi.
Tôi cố học tiếng Thái, nhưng tôi không thể nào quen đưọc với các âm ngữ như tiếng nhạc của họ, nên đành bó tay. Đó là một ngôn ngữ bằng thanh âm. Cùng một chữ nhưng có thể có năm dấu nhấn khác nhau, tạo nên năm nghĩa khác nhau. Tôi hoàn toàn không thể phân biệt đưọc chúng. Đối với nhiều người, th́ việc đó không khó khăn ǵ.
Tôi c̣n nhớ vài kỷ niệm về chuyến tu học nầy. Trước hết là ngồi kiết già trên sàn gỗ để tọa thiền, không có gối thiền. Những thứ nầy phải tập mới quen, nên tôi cũng phải mất một thời gian mới làm đưọc.
Một việc nữa, đă gây ấn tượng lạ trong tôi, là được thấy các Phật tử trong vùng, hằng ngày mang rất nhiều thức ăn đến tu viện cúng dường, để tỏ ḷng thành kính với Đức Phật và tăng chúng. Đó là một trong những phong tục, tôi không chấp nhận ở những tu viện do tôi thành lập sau nầy.
Đức Phật đă tuyên bố Người không muốn tạo ra một tôn giáo thực phẩm, hẳn là phải có lư do. Ngoài ra tôi cũng không chấp nhận đưọc một số phong tục khác ở Thái.
Nhưng tôi cũng phải làm kẻ bàng quang, đứng nh́n các ni ở Thái Lan chỉ giữ những vị trí phụ cần. Họ không đưọc gọi là sư cô, mà là "những phụ nữ áo trắng". Tôi không cảm thấy hào hứng lắm về những chuyện nầy.
Nửa khóa an cư c̣n lại, tôi đến ở một tu viện khác trong rừng, nơi trưởng lăo Tan Ajahn Mahabova sinh sống, tôi đưọc nghe nói, Ngài là người đă đưọc Giác Ngộ.
Cả hai vị Tan Ajahn Singtong và Tan Ajahn Mahabova đều là những vị thầy đáng kính. Tôi mang ơn họ rất nhiều. Có câu chuyện đưọc kể về họ như sau. Khi nhà vua Bhumipol của Thái Lan làm lễ mừng thọ sáu mươi tuổi, nhà vua mời những vị tăng nổi tiếng trong nước đến dự, trong đó có hai thầy.
Trưởng lăo Tan Ajahn Mahabova tră lời, "Nếu nhà vua muốn gặp tôi, th́ mời ngài đến đây". Trong khi thầy Tan Ajahn Singtong nhận lời mời, cùng với chín vị tăng khác, lên máy bay do nhà vua gửi đến chở họ. Máy bay rớt, tất cả hành khách đều tử nạn. Chuyện đó xảy ra mười năm sau khi tôi đến Thái Lan.
Thời gian tu tập ở hai tu viện đă để lại cho tôi nhiều kỷ niệm sâu xa. Ở cả hai nơi, tôi đều đưọc nghe Pháp bằng những bài dịch khá tốt. Nhưng sự khó khăn về ngôn ngữ và vai tṛ phụ thuộc của ni giới, khiến tôi chẳng thiết muốn đưọc trở thành một sư cô ở đó.
Tôi đă từng thấy nhiều vị ni phải bỏ cả buổi sáng để lo cơm nước cho các tăng mổi ngày! Tôi đă phải nấu ăn cho gia đ́nh tôi hơn ba mươi năm rồi, v́ thế đó chẳng phải là một h́nh ảnh tương lai hấp dẩn cho tôi.
Trở về Úc, tôi thưa với thầy Phra Khantipalo, "Con muốn trở thành một sư cô, nhưng không phải ở Thái Lan". Tôi đă chọn một nơi khác đó là Sri Lanka. Tôi vẫn c̣n nhớ đến vẻ đẹp của xứ sở mà chúng tôi đă một lần du lịch qua đó giống như những cảnh thiên đáng!
Và v́ Sri Lanka từng là thuộc địa của Anh hơn một trăm năm, nên rất nhiều người nơi đó có thể nói đưọc tiếng Anh. Ở đây, tôi muốn trở lại lư do v́ sao tôi muốn xuất gia. Lúc nầy tôi đă năm mươi lăm tuổi, đă đi khắp nơi trên thế giới. Tôi đă có con, có cháu. Tôi đă có mái ấm gia đ́nh. Đă có tài sản.
Tôi đă từng rơi vào cảnh nghèo khổ, rồi cũng có lúc làm người giàu có. Tôi đă từng làm chủ một trang trại, với những con ngựa Shetland. Tôi đă từng sống ở những đô thị lớn của Mỹ, cũng như đă lang thang sống trong xe van, ngủ trên giường xếp, ăn uống ở những bếp cắm trại.
Tôi đă từng là thư kư ngân hàng, là cô giáo của con trai tôi. Nghĩa là không ít th́ nhiều tôi đă từng trăi qua tất cả. Cuộc đời c̣n ǵ cho tôi nữa? Cuộc sống không thể mang lại cho con người sự b́nh an và hạnh phúc nội tâm, v́ tất cả mọi thứ trên đời đều vô thường.
Tất cả những ǵ tôi vừa kể đă là quá khứ, đă qua đi. Tất cả những ǵ tôi kể lại ở đây chỉ c̣n là kư ức, và c̣n nhiều thứ mà tôi không thể nhờ đến nữa. Tất cả đều biến mất trong ḍng chảy của thời gian.
Tôi đă sống một cuộc đời đầy biến động. Không phải do sự sắp đặt của tôi, tất cả mọi việc đều tự nó đến. Tôi c̣n t́m kiếm ǵ nữa ngoài chính bản thân tôi? Đă tới lúc để giă từ đời sống thế tục. Nói như thề có vẻ như tôi đang quay lưng lại với cuộc đời, dỉ nhiên là tôi cũng đă từng nhiều lần làm như thế.
Nhưng không ai có thể hoàn toàn xa lánh cuộc đời. Một khi ta c̣n có thân, ta c̣n phải sống trong thế giới nầy. Ta c̣n phải nuôi dưỡng thân, phải tiếp xúc, phải chuyện tṛ với người khác.
Hơn thế nữa: khi tôi thuyết pháp, các đệ tử đến nghe, mang theo với họ những chuyện của thế giới bên ngoài. Khi nói từ giă cuộc sống thế tục", tôi chỉ có ư nói là tôi sẽ bước sang một lối rẽ mới, sống một cuộc đời mới, để làm người quan sát, kẻ đứng ngoài hơn là người chạy đuổi theo các ái dục.
Những việc nầy không phải dể thực hiện lúc đầu, nhưng dần dần qua thực tập, ta sẽ thấy dể dàng hơn. Người đứng ngoài sẽ dể thông cảm, thương yêu đối với mọi người quanh ḿnh, nhưng không để ḿnh bị cuốn theo t́nh cảm, hay số phận của họ.
Có một danh từ rất đẹp: ḷng thương cảm. Có nghĩa là lúc ban đầu, ta rất dể đồng cảm với những người có các t́nh cảm đam mê luyến ái. Nhưng mục đích của Phật pháp là để hủy diệt các t́nh cảm nầy. V́ ḷng luyến ái thường đưa ta đến thù hận, tham lam.
Các vị pháp sư luôn cố gắng truyền đạt những điều nầy đến với các đệ tử của ḿnh, và trong quá tŕnh giảng dạy, chính họ cũng đưọc nghiền ngẫm thêm những bài học thâm thúy nầy. V́ chỉ nếu như trong khi dạy, bạn tự biết ḿnh vẫn đang thực hành những điều ḿnh giảng, th́ người ta mới coi như bạn là người có tu chứng.
Chỉ có như thế, bạn mới cảm hóa đưọc người khác. Họ cần phải biết khi bạn nói, bạn nói về những điều tự thân bạn cũng đă kinh qua. Bạn không phải chỉ nói theo sách mà truyền đạt từ trái tim của ḿnh.
V́ thế việc tôi quyết định xuất gia, chỉ là con đường tôi phải đi để tự phát triển. Giờ nh́n lại, tôi thấy chính quá khứ của tôi đă dẫn dắt tôi vào con đường nầy. Những kinh nghiệm bản thân đă giúp tôi có thể xả bỏ những sợ hăi cho riêng ḿnh, cho đồng loại.
Tôi nhận thấy rằng tôi có thể đương đầu với mọi nghịch cảnh trong đời, dù đó là ở vùng Amazon hay ở trên tầng cao Hunza. Bạn có thể vượt qua tất cả nếu bạn biết thuận theo ḍng chảy.
Tôi đă rèn cơ thể tôi có thể chịu đựng sự khổ cực. Đối với tôi, đó là một tiến bộ vượt bực. V́ trong thời thơ ấu, tôi luôn đưọc sống trong nhung lụa. Ở Thượng Hải, cha mẹ tôi cũng cố giữ nếp sống củ cho tôi. Lớn lên, tôi sống ở Mỹ, cũng sung sướng nhàn hạ ở đô thị, trong một ngôi nhà khang trang.
Nhưng rồi cuộc sống sung sướng đó cũng chấm dứt. Tôi đă phải ngủ nhiều đêm trên băi biển đầy muổi, phải qua sông trên những con thuyền làm bằng thân cây, dưới cái nắng đốt da. Trên đoạn đường đi từ Java đến Sumatra, chúng tôi đi trên một chiếc tàu là tàu chở các dây cáp, trên đó không có chổ để nằm ngồi. Tôi phải đánh giấc trên những tấm ván gỗ.
Tôi không tiếc nuối đời sống sung sướng của ḿnh, v́ tôi thấy có nó cũng đưọc, mà không có cũng đưọc. Đó là một quá tŕnh tự khám phá ḿnh, một sự buông xả mọi điều kiện vật chất bên ngoài. Bù lại, nó mang đến cho ta biết bao tự do nội tại; nó khiến tôi nhận ra rằng những khía cạnh của đời sống tâm linh mới quan trọng hơn nhiều.
Thế là tôi bay qua Sri Lanka. Thầy Phra Khantipalo trao tôi lá thư giới thiệu Thầy viết cho Hoà thượng Nyanaponika Thera, một trong những vị sư nổi tiếng ở Sri Lanka. Hoà thượng sống trong một cái thất nhỏ ở ngọai ô Kandy. Ḥa thượng Nyanaponika Thera là một người Đức, gốc Do Thái, đă xuất gia từ năm 1935.
V́ có chung một hoàn cảnh, chúng tôi cảm thấy rất dễ hoà hợp. Ngài là một vị thầy đáng kính, ḥa nhă với mọi người, là một thiền sư, một học giả, đă dịch nhiều kinh sách Phật giáo từ tiếng Pali.
Tiếng Pali chỉ đưọc xử dụng trong các bài kinh luận của Đức Phật, trong các giới luật của tăng đoàn và Vi Diệu Pháp. Đó là một ngôn ngữ của thời xa xưa, và không có mẫu tự riêng.
Những lời dạy của Đức Phật đưọc viết lại lần đầu tiên có lẻ vào khoảng hai trăm năm mươi sau khi Ngài tịch, trên lá các cây cọ dùng mẫu tự Singhalese. Ở Sri Lanka có một tu viện vẫn tiếp tục sao chép từ các lá nầy qua những lá mới, v́ chúng rất dễ hư hoại. Lúc nào họ cũng phải có một pho đầy đủ tất cả các kinh tạng Pali của Đức Phật trên lá.
Ở Ngôi Nhà Phật (Buddha-Haus) ở Allgau, chúng tôi có bộ kinh tạng Pali bằng tiếng Anh và tiếng Đức trong thư viện. Tôi biết rất ít tiếng Pali.
Ḥa thượng Nyanaponika Thera bảo là có thể xuống tóc cho tôi xuất gia bất cứ lúc nào ở trong thất của người, nhưng làm như thế không trang trọng, không có ư nghĩa, v́ thế Ngài viết thư giới thiệu tôi cho Hoà thượng Narada Thera, là trưởng ban hoằng pháp ở một ngôi chùa lớn ở Colombo.
Với lá thư giới thiệu trong tay, tôi phải lấy xe buưt đi Colombo, một chuyến đi dài và không kém phần nguy hiểm hơn những chuyến xe buưt tôi đă đi ở Nam Mỹ trước đây. Tôi đến ra mắt Hoà thượng Narada Thera.
Ḥa thượng định ngày xuất gia cho tôi vào một ngày trong tháng bảy, năm 1979. Sau đó Ḥa thượng trao tận tay tôi những quyển sách kinh bằng tiếng Pali, mà tôi phải học. Phần lớn các kinh tôi đă thuộc ḷng. Số c̣n lại phải học không có là bao.
Ngoài ra Ḥa thượng c̣n cho tôi địa chỉ nơi may y cho các ni. Không thể mua các y may sẳn. Chiếc y của tôi do một người thợ may nữ may bằng thứ vải dạ màu vàng. Y của tôi gồm có một chiếc sà rong quấn quanh lưng, buộc bằng dây nịt, và một chiếc áo jacket nhỏ.
Bên ngoài lại có thêm phần áo trên, giống như chiếc áo dạ nâu tôi đang mặc, để cho thích hợp với khí hậu ở Đức. Vải may chiếc y đầu tiên của tôi bằng vải thật mỏng, v́ khí hậu ở Sri Lanka nóng không chịu nổi. Hoà thượng Narada Thera hỏi tôi muốn lấy pháp hiệu ǵ Dhammadinna or Khema. Tôi quyết định khá nhanh chóng. Khema chỉ có hai âm, rất dể cho người tây phương nhớ.
Sau nầy, khi tôi đă qua một thời gian nghiên cứu, học hỏi, tôi mới biết trong thời Đức Phật c̣n tại thế, Khema là một vị trưởng lăo ni đă đưọc Đức Phật khen là đầy trí tuệ". Ban đầu, bà là vợ của một v́ vua, một người đàn bà rất tự măn về sắc đẹp của ḿnh.
Bà không hế để ư đến những lời thuyết giảng của Đức Phật, trong đó Đức Phật luôn nhấn mạnh rằng sắc đẹp bên ngoài không có nghĩa lư ǵ. Dầu vậy, bà vẫn đến nghe Đức Phật thuyết pháp. Đức Phật khiến bà nh́n thấy h́nh ảnh một người đàn bà c̣n đẹp hơn bà nhiều.
Rồi Đức Phật cho bà thấy người đàn bà đẹp đó trở nên già nua, mất hết sắc đẹp, dần dần cho đến lúc chết. Lúc đó, hoàng hậu Khema nhận ra rằng sắc đẹp không có nghĩa ǵ cả. Ngày hôm sau, bà xuất gia đi tu, và dần đưọc Giác Ngộ. Đó là một trong những câu chuyện nổi tiếng vào thời Đức Phật. Nhưng tôi không hề biết đến câu chuyện nầy khi chọn cái tên đó.
Các vị tăng thường có phẩm chức trước tên của họ như là Phra, Tan hay Ajahn. Trước tên của tôi là "Ayya". Ayya là tiếng Pali, đưọc dùng để gọi các vị nữ tu từ thới Đức Phật. Tất cả các ni Tây phương theo Nguyên Thủy kể từ sau tôi đều đưọc gọi là Ayya.
Và tôi đă trở thành Ayya Khema như thế. Trước khi tôi đến chùa để làm lể xuất gia, các sư cô đă cắt tóc tôi. Lúc đó tóc tôi dài và rất dày. Theo nghi lể, người đưọc xuống tóc sẽ cầm lấy một nhúm tóc của ḿnh. Họ phải cầm mảnh tóc đó trong tay, và nghĩ rằng chỉ vài phút trước đây, mảnh tóc nầy là "của tôi".
Và giờ nó chỉ là một thứ dơ bẩn, đáng đưọc vứt vào thùng rác. Tôi vẫn nhớ là lúc đó tôi hoàn toàn không có một cảm giác ǵ về việc đó. Không ân hận, không có ǵ cả.
Buổi lể bắt đầu. Trong bộ y vàng, tôi đi băng qua sân đến từng ngôi tháp nhỏ. Tôi tưởng là tôi hoa mắt: Cả sân chùa đầy nghẹt người. Có đến sáu hay bảy trăm người. Tôi hỏi Ḥa thượng Narada Thera, họ làm ǵ ở đây. Ngài bảo:
"Tôi đă mời tất cả mọi người đến". Đúng vậy, ông đă mời tất cả mọi người quen biết, tất cả ai muốn đến dự, tất cả những ai nói tiếng Anh. Tôi quá đổi sợ hăi, đến nỗi quên tất cả tiếng Pali. Tôi không thể nhớ đưọc tôi phải nói câu ǵ.
Ḥa thượng Narada Thera phải xướng từng câu từng chữ, và tôi lập lại theo Thầy từng câu từng chữ. Buổi lể xuất gia diển ra khá nhanh chóng. Chưa đầy mười phút. Sau đó người xuất gia phải lể Đức Phật, thầy ḿnh và tất cả các vị tăng có mặt. Khi tất cả mọi nghi lễ đă xong xuôi, một nhóm khoảng gần hai mươi cô gái áo trắng tiến lại phía tôi.
Mổi người mang tặng tôi một món quà: bàn chải răng, khăn tay, khăn mặt, một quyển thành ngữ. Tôi bị choáng ngợp bởi mọi thứ. Các cô thiếu nữ nầy chúc mừng tôi. Các vị khách chúc mừng tôi. Sự chúc tụng kéo dài hằng giờ. Tôi nói cảm ơn không biết bao nhiêu lần.
Các vị tăng ni theo truyền thống không nói cảm ơn. Nhưng tôi vẫn chưa quên đưọc thói quen nầy. Tôi đă đưọc giáo dục như thế, tôi sẽ c̣n tiếp tục nói Cảm ơn như thế. Lư do khiến các vị tăng ni không nói lời Cảm ơn khi nhận cúng dường từ các cư sĩ, v́ chính người cúng dường cho các vị tăng ni sẽ đưọc thọ hưởng phước báu rất lớn.
Do đó người cúng dường phải cảm ơn các vị tăng ni cho họ cơ hội đưọc cúng dường, chứ không phải người thọ lănh vật cúng dường.
Cuối buổi chúc tụng, tôi đứng dậy, lúc đó một tu sĩ người Tây phương tiến về phía tôi. Tên thầy là Sumedha. Trước khi xuất gia, đến sống ở Sri Lanka, thầy từng là một họa sĩ rất nổi tiếng ở Thụy sĩ. Thầy nói: "Có thể nói là trước đây bà chỉ có t́nh cảm (với Phật giáo), giờ bà đă coi Phật giáo là gia đ́nh".
Tôi biết Thầy muốn ám chỉ về sự liên hệ giữa tôi và Phật giáo. Tôi nghĩ đó là một cách diển tả rất chính xác về sự xuất gia của tôi. Giờ nhiệm vụ duy nhất trong đời tôi là làm một vị ni, từ giờ sự hiện hữu của tôi là ở trong vai tṛ một người ni. Có nghĩa là tôi không chỉ đọc về giáo lư của Đức Phật, mà c̣n phải học thuộc một số kinh điển, và từng bước thực hành chúng.
Từ đó, tôi lại tham gia vào công việc giảng dạy, khiến tôi phải đi cùng khắp thế giới. Ngày nay có hàng ngàn Phật tử đă đưọc biết đến những kinh nghiệm tu tập của tôi qua sách vở, băng cassette, hay qua các bài giảng, và chúng đă phần nào đem lại lợi ích cho cuộc sống của họ.
Sống đời sống độc thân là một trong những giới luật quan trọng của người xuất gia. Là một sa di, tôi phải giữ mười giới luật. Trong đó có năm giới tôi đă từng đưọc nghe từ thầy Phra Khantipalo chỉ có cái khác là giới thứ ba trở thành giới sống đời độc thân cộng với những giới sau đây:
+ Không ăn phi thời
+ Không nhảy múa, ca hát hay dự các cuộc biễu diễn đó.
+ Không đeo trang sức, hay sức nước hoa; không dùng mỹ phẩm
+ Không ngủ trên giường cao nệm ấm
+ Không kinh doanh để làm lợi cho bản thân.
Bắt đầu từ thế kỷ thứ mười chín, ở Sri Lanka chỉ có các sa di ni. Để giải thích về điều nầy, tôi cần đi ngược ḍng lịch sử một chút. Theo truyền thống, một vị ni chỉ đưọc coi là đă hoàn toàn thọ đại giới đưọc lên hàng tỳ kheo ni (bhikkhuni), sau khi vị ấy đă đưọc chấp nhận vào tăng đoàn bởi các vị tỳ kheo khác.
Nhưng tăng đoàn của tỳ kheo ni đă không c̣n hàng ngàn năm về trước. Hàng ngàn vị ni đă đưọc nhắc nhở tới trong các kinh điển cổ xưa. Họ từng sống trong các tu viện to lớn. Rồi bổng nhiên tất cả đếu biến mất. Lúc đó là thời kỳ chiến tranh giữa Tamils và Singhalee, có lẻ các vị ni dễ bị nguy hiểm hơn, có thể họ đă bị tàn sát hay bị chết đói.
V́ bất cứ lư do ǵ, họ đă không c̣n có mặt ở đây. Do đó, v́ không có các vị tỳ kheo ni nữa, nên tôi không được trở thành tỳ kheo ở Sri Lanka, mà chỉ là sadi ni. Sau nầy tôi mới thọ đại giới ở California. Có các ni theo thiền tông, có ni theo Phật giáo Tây tạng, có ni theo Phật giáo nguyên thủy.
Tôi theo Phật giáo Nguyên thủy (Theravada), là tông phái rất thích hợp cho tôi. Phật giáo Nguyên thủy là Phật giáo cơ bản. Các nước Thái Lan, Sri Lanka, Burma và Campuchia theo Phật giáo nguyên thủy. Tông phái nầy dựa vào những lời dạy từ chính Đức Phật, và chính đặc tính nầy đă khiến tôi hướng về Phật giáo từ những ngày đầu.
Sau khi xuất gia, tôi đến một tu viện trung tâm, chuyên về thiền, ở Kanduboda, cách Colombo khoảng nửa tiếng. Tôi cần sự yên tĩnh, an b́nh. Tôi dọn vào một pḥng nhỏ, chỉ có giường, ghế và một bàn ngủ. Ở đây có điện, có buống tắm chung cho mọi người. Giờ thức chúng mổi ngày là bốn giờ sáng. Với cái nóng ở Sri Lanka, phải dậy sớm không thành vấn đề. Buổi sáng không khí mát mẻ, dể chịu, bầu trời quang đăng.
Tôi c̣n nhớ buổi sáng đầu tiên của ḿnh ở đó. Trong lúc toạ thiền, tôi thấy một h́nh ảnh hiện ra trong tâm ḿnh. Đó là một sư cô, có lẻ là người Singhalese, và tôi không hiểu sao, tôi tự nghĩ đó là h́nh ảnh của ḿnh. Tôi đang đứng ở một ngôi tháp chờ đợi một vị tăng, tôi c̣n nhớ rơ ràng như thế, và vị ấy cũng xuất hiện. Đó là một ngôi tháp to ở trong cánh rừng. Tôi c̣n nhớ các chi tiết hết sức rơ ràng.
Từ những h́nh ảnh nầy, tôi đi đến kết luận, có thể tôi đă từng là người xuất gia. Vậy th́ giờ tôi càng thêm quyết chí tiếp tục con đường ḿnh đă bắt đầu trong các tiền kiếp.
Những h́nh ảnh đó gây ấn tượng mănh liệt trong tôi. Một ngày kia, tôi kể cho vị trụ tŕ nghe về những ǵ ḿnh đă thấy. Tả về ngôi tháp rất chi tiết. Thầy trụ tŕ bảo: "Con có thể đi thăm ngôi tháp đó; nó ở trong một cánh rừng trong vùng Anuradhapura. Từ những ǵ con đă tả, con sẽ t́m thấy nó dể dàng".
Và tôi đă thực sự t́m ra đưọc ngôi tháp đó. Đúng y như tôi đă thấy trong lúc ngôi thiền đến từng chi tiết. Tôi rất thích cái thất của ḿnh. Ở trong đó, tôi có thể ngồi thiền rất yên. Một ngày kia, có một phụ nữ đến thăm tôi. Bà mời tôi đến dự một cuộc họp mặt của các vị ni người Singhalese, và nhờ tôi tổ chức họ lại.
Tôi rất muốn đi, nhưng tôi chỉ mới xuất gia được vài ngày, tôi có tư cách ǵ để đảm nhiệm vai tṛ đó? Người khách bảo tôi là các sư cô không có khả năng tự tổ chức. Họ cần đưọc tổ chức lại để ni giới có tiếng nói hơn trong giáo hội. Điều đó sẽ giúp ni giới đ̣i hỏi đưọc quyền đi học, đưọc có chổ ở thơa đáng hơn. Cho đến lúc đó, ni giới ở đây không đưọc coi trọng, quyền lợi của họ rất ít ỏi.
Thế là tôi tham dự vào cuộc họp đó. Chỉ có một người nói đưọc tiếng Anh. Qua người thông dịch viên, tôi mạnh dạn đề đạt những kiến nghị của ḿnh. Tôi cũng không biết là những đề nghị nầy có được thực hiện không. Nhưng tôi coi đó là một nghĩa vụ phải ủng hộ, nâng đở các bạn ni ở đó với những kiến thức chúng tôi có đưọc từ phương Tây.
Trong một trường hợp khác, tôi đă thành công. Qua một phụ nữ tích cực, giờ đă thành bạn của tôi, tôi đưọc biết đến một tu viện ở Madiwela, ngoại thành của Colombo. Danh từ "Tu viện" đă là một phóng đại cho nơi chốn nầy. Đó chỉ là một căn nhà nhỏ xíu, không có cả nhà bếp, dành cho các vị ni.
Tôi đă đóng góp giúp họ xây đưọc một thiền đường, một pḥng đọc sách, và hai pḥng ngủ. Và tôi đă dọn vào ở một trong hai pḥng đó. Chúng tôi cũng xây cả nhà bếp công việc đó đưọc các người thợ xây dựng Singhalese không nói đưọc một chữ tiếng Anh đảm nhiệm. Hướng dẩn đưọc họ làm theo ư ḿnh cũng muốn không phải là chuyện dể dàng.
Chúng tôi c̣n lo cả việc mời các pháp sư đến dạy, v́ thiền đường c̣n có thể dùng làm pḥng học. Một tầm bảng ghi công đức với tên tôi được đặt lên tường, rồi c̣n có lể khánh thành rất vui, với các em bé đến ca hát, nhảy múa, và với sự tham dự của nhiều sư cô.
Tôi dành mổi ngày chủ nhật thứ hai trong tháng để làm ngày tọa thiền cho những người nói tiếng Anh trong vùng. Họ luôn đến rất đông, tham dự đủ hết các chương tŕnh trong ngày. Tôi chỉ dẫn họ cách tọa thiền và tại sao phải tọa thiền. Họ tự mang theo đồ ăn trưa, các sư cô chỉ phục vụ trà.
Qua những hoạt động nầy, tôi đưọc quen biết với nhiều phụ nữ Singhalese, có nhiều người cho đến giờ vẫn c̣n giữ liên lạc với tôi. Có người hằng năm vẫn viết thư thăm hỏi, có người viết thường xuyên hơn.
Lúc tôi thọ giới xuất gia, tôi đă làm bà ngoại. Cháu ngoại trai tôi tên là Matthew, sinh năm 1973. Lúc đó Jeffrey cũng đă hoàn tất chương tŕnh đại học, và đang sống chung với Susan, sau hai người đă kết hôn. Trong thời gian tôi làm sadi, Jeffrey đă t́m đưọc việc làm ở Anh, làm kỷ thuật viên vi tính cho Đại học Norfolk.
Khi tôi rời Sri Lanka để trở về Uùc, tôi ghé qua Norfolk thăm con. Đường hàng không đă giúp khoảng cách giữa con người h́nh như gần lại. Trên đường trở lại, tôi ghé qua Ấn độ, v́ tôi muốn đến Bombay thăm Sri Nisargadatta Maharaj, một vị học giả với tiệm bán thuốc lá nhỏ của ông.
Tôi đă nghe nói những bài thuyết giảng của ông rất hữu ích. Dầu có địa chỉ của ông, tôi không chắc rằng ḿnh có thể t́m gặp đưọc ông. Cuối cùng tôi đến một con đường nơi mọi người không cần đợi tôi hỏi, đă chỉ tay về phía một ngôi nhà nhỏ tồi tàn.
Tầng dưới nhà ở mặt đường là một tiệm nhỏ mở cửa bán thuốc là, đồ ngọt. Người đàn bà tôi gặp cũng không nói một lời, chỉ tay về phía cầu thang dẩn lên lầu. Trong căn pḥng nhỏ, đầy các vị khách Tây phương, Nisargadatta Maharaj ngồi trên một tấm đệm nhỏ, với hai người thông dịch viên ở bên cạnh.
Tôi vừa kiếm đưọc một chỗ ngồi xuống trên sàn nhà, là Sri Nisargatta bắt đầu đặt câu hỏi nhắm vào tôi. Điều đó làm tôi khá bối rối. Tôi đến để đưọc nghe những lời trí tuệ của ông, không phải để nói về tôi trước mặt bao nhiêu người.
Nhưng ông không để tôi yên. Ông hỏi tên, hỏi quê quán, hỏi ai là bổn sư của tôi, kinh nghiệm tu tập của tôi, vân.. vân. Cuối cùng ông bảo là tôi đă đi đúng đường, nhưng chưa đạt đưọc Giác Ngộ.
Sau tôi biết là với các vị khách mới đến, ông đều đối xử như thế cả. Tôi đến nghe ông suốt một tuần, nhưng nhận thấy cách tŕnh bày của ông quá khó hiểu. Ngẫm nghĩ lại, tôi thấy là ông quá tự tin về những hiểu biết của ḿnh, nên ch́m đắm trong sự hiểu biết của ḿnh, thật khó xếp ông vào hàng đă Giác Ngộ. Ông đă mất ba năm sau lần gặp gở đó, lúc ông đă hơn tám mươi.
Trở về lâm tự viện ở Úc, tôi đă giúp thầy Phra Khantipalo trong các công việc tổ chức và giảng dạy thường ngày. Một biến cố quan trọng ở Wat Buddha Dhamma đă làm tôi nhớ măi. Đó là một buổi tối đầy trăng, chúng tôi đang chuẩn bị để ngồi thiền suốt đêm như thường lệ.
Lúc đang ngồi trong thiền đường, tôi bổng cảm thấy mỏi mệt, chán nản, càng lúc càng tăng. Chúng tôi đă ngồi suốt bốn tiếng, đă tụng kinh, đă nghe pháp của thầy Phra Khantipalo, lúc đó là khoảng nửa đêm. Tôi bổng nhớ lại những ǵ tôi đă đọc về các cảnh giới thiền trong kinh Phật.
Tôi đă tu chứng đưọc sơ thiền, một loại thiền định đem lại niềm vui, an lạc, và b́nh an, mà tôi khá quen thuộc. Nhưng tôi chưa từng kinh qua các cảnh vô sắc giới, mà cũng chẳng có ai có thể giải thích hay thuyết giảng về chúng.
Bổng tôi muốn thử đạt đưọc các cảnh vô sắc giới, không c̣n h́nh tướng, không c̣n tưởng cũng không phải là không có tưởng nữa. Và lạ kỳ thay, với mức độ định tôi đă có, giúp tôi dể dàng đi vào càc cảnh giới đó. Giờ th́ sự mệt mỏi, chán nản đă qua đi, tôi lại tiếp tục tọa thiền trong niềm hoan hỉ cho đến sáu giờ sáng hôm sau.
Tôi tiếp tục tọa thiền cách đó cho đến năm 1983, khi tôi đưọc gặp Hoà Thượng Nannarama Thera, người khẳng định rằng tôi đă thực hành đúng và khuyên tôi nên truyền bá lối tọa thiền nầy ở Tây phương.
Tôi lại bị lôi kéo về Sri Landa. Tôi cảm thấy ở đó có nhiều cơ hội để thực hiện những điều lợi ích. Tôi muốn giúp đở các sư cô bản xứ để họ có thể tự vươn lên, ủng hộ họ, đóng góp ư kiến giúp họ có thể thoát ra bóng tối họ đang sống. Những người phụ nữ tôi đă gặp ở Madewela muốn giúp tôi thực hiện giấc mộng nầy.
Một ngày kia, tôi được mời đến Polgasduwa. Đó là một ḥn đảo ở hồ Ratgama, phía nam Sri Lanka, nơi đó đă có các vị tăng đang sống. Ḥa thượng Nyanatiloka Thera, người Đức đầu tiên tu theo Phật giáo, đă thành lập tự viện trên đảo nầy vào năm 1911, và trụ tŕ ở đó.
Đại đức Nyanaponika Thera là đệ tử của ngài. Ngoài ra c̣n có một vị tăng nổi tiếng khác, cũng là người Đức, ngài Lama Govinda cũng từng sống ở đó một thời gian. Hầu như tất cả các vị tăng Tây phương đều có mặt trên ḥn đảo đó.
Trong chuyến tôi đến viếng thăm, vị trụ tŕ yêu cầu tôi tổ chức khóa tu thiền cho các đệ tử của ngài, v́ ngài không muốn tự ḿnh làm việc đó, mà muốn nhờ tôi đảm trách. Tuy nhiên trước khi việc đó có thể thực hiện, người ta bảo là các tăng không đưọc phép nghe một người ni giảng dạy.
Người ni không đưọc phép dạy các tăng. Do đó chỉ có các cư sĩ tham dự khóa giảng của tôi. Nhưng các bài giảng của tôi đưọc thâu băng, và các tăng đưọc phép nghe các băng đó.
Các cư sĩ tham dự khóa tu học là dayakas. Đó là tiếng Singhalese dùng để chỉ các thí chủ, hay người cúng dường tiền bạc, thực phẩm, thuốc men để chăm lo cho tự viện cũng như các tu sĩ ở đó. Một trong những vị thí chủ nầy có ông Arthur de Silva.
Người nầy và vợ là chủ một quán ăn trên bờ hồ, phía bên kia đảo. Họ là một cặp vợ chồng rất tử tế, dể thương. Giờ cả hai người đều đă không c̣n tại thế.
Một ngày kia Arthur đề nghị một điều mà trước đó chính tôi cũng đă nghĩ đến. Tôi đă để ư thấy ở không xa đảo của các tăng, trong cùng một hồ, có một đảo khác nữa. Trước đó tôi đă nghĩ nếu các tăng đă ở đảo nầy, các ni có thể ở đảo kia. Lúc nầy Arthur lại hỏi tôi có nghĩ đến việc xây một ni viện trên đảo thứ hai không.
Tôi hỏi lại ông: "Thế ông có nghĩ là tôi nên ở trong ni viện đó không?" Ông tră lời: "Dỉ nhiên rồi. Tôi sẽ thiết kế, mướn người, quản lư thợ xây dựng và mua vật liệu. Tôi sẽ kêu gọi người ta phát tâm".
Đó là khởi đầu của sự hợp tác giữa hai chúng tôi, một sự hợp tác tốt đẹp mang đến cho cả hai chúng tôi nhiều lợi ích, cho đến ngày ông mất vào năm 1989.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 364 of 1146: Đă gửi: 23 June 2010 lúc 9:08pm | Đă lưu IP
|
|
|
QUÀ TẶNG CUỘC ĐỜI
Chương Mười Ba
Đảo Của Các Ni
Người đă làm điều tốt
Khi qua cơi đời khác
Ở đó thiện nghiệp sẽ đón tiếp người ấy
Như thân quyến đón người thân bao lâu xa.
Kinh Pháp Cú 220
Tôi muốn đưọc nói đôi lời để tưởng niệm người mà không có ông dự tính xây dựng một ni viện trên đảo của tôi sẽ không bao giờ thành hiện thực. Đó là ông Arthur de Silva ở Dodanduwa.
Rất ít khi ta đưọc gặp một người như ông Arthur de Silva. Là người Singhalese có tổ tiên là người Portugese, ông nói tiếng Anh rất lưu loát. Dốc hết sức ḿnh vào việc xây dựng ni viện, ông đă nói rằng trước giờ lâm chung, ông sẽ rất măn nguyện v́ đă đưọc đóng góp công sức vào đó.
Ông đă mua từng cây đinh, con ốc, rồi chuyên chở mọi thứ đến đăo trên chiếc thuyền do ông làm bằng thân cây to. Oâng mướn thợ, và trong suốt thời gian xây dựng, ông đôn đốc họ làm việc, không để lăng phí vật liệu. Đó là một việc không phải dể làm ở Á châu.
Trong thời gian đó, tôi chu du khắp nơi thuyết giảng, mở khóa tu, đến mọi miền ở Uùc, Phi Châu, Indonesia, Mỹ, và lần đầu tiên ở Đức. Được đồng tiền cúng dường nào tôi đều gửi về cho Arthur de Silva.
Tôi xin kể ở đây câu chuyện của lần gặp gở định mệnh trong thời gian tôi đang ở Bali. Ở đó có một ngôi chùa rất đẹp, do một vị đại đức trụ tŕ. Ông yêu cầu tôi mở khóa tu cho các du khách. V́ có rất nhiều người khi thăm viếng chùa, đă có yêu cầu như thế.
Tôi đồng ư, thế là vị trụ tŕ dán bản thông báo về khóa tu ở khắp nơi. Kết quả là có bảy người ghi tên tham dự: năm người Đức và hai người Mỹ.
Ngôi chùa rất đẹp. uộc đời của Đức Phật đưọc chạm trổ tỉ mỉ trên các cánh cửa gỗ. Quanh chùa có các suối nước trong mát, có những tảng đá h́nh người lạ lẫm, quanh năm đầy hoa cỏ nhiệt đới. Bên trong chánh điện là một bức tượng của Đức Phật đẹp đẻ, nguy nga tôi chưa từng thấy ở nơi nào khác.
Trong bảy ngày, tôi giảng dạy bằng tiếng Anh. Vào tuần thứ hai, tôi nhận thấy h́nh như trong các học viên, có người không hiểu tôi nói ǵ. Th́ ra anh ta là người Đức, tên là Charlie. Tôi chỉ biết có thế.
Khi được hỏi có hiểu tôi nói ǵ không, anh thú nhận "Thưa không", v́ anh không biết tiếng Anh. Sau đó, buổi sáng tôi giảng bằng tiếng Anh, buổi tối bằng tiếng Đức. Tôi c̣n nhớ, trong tuần lể đó, sức khỏe tôi không đưọc tốt. Tôi bị bịnh ǵ đó mà không ăn uống đưọc. Nhưng v́ không muốn các học viên phải thất vọng, tôi cố gắng tiếp tục dạy. Cuối cùng, ḷng say mê học hỏi của họ cũng an ủi tôi phần nào.
Charlie và người bạn của anh tỏ ra rất chăm chú, ham hiểu biết. Các học viên khác c̣n có khi bỏ học, chứ Charlie và Norbert lúc nào cũng có mặt. Sau khi hai người Mỹ có việc phải về sớm, tôi hoàn tất chương tŕnh học bằng tiếng Đức.
Cuộc gặp gở với Charlie và Norbert mang lại nhiều ư nghĩa cho những ngày cuối đời của tôi. Norbert là em của thầy Nyanabodhi, người đă trú ngụ tại tu viện Nhà Phật (Buddha-Haus) ở Allgau với chúng tôi từ những ngày đầu thành lập. Tôi đưọc biết thầy qua Norbert, dưới thế danh là Roland.
Không có hai anh em họ và Charlie, tu viện Buddha-Haus sẽ không thể thành h́nh. Họ chính là những người đă khuyên tôi rời bỏ Sri Lanka trở về Đức. Họ đă giúp tôi trong việc xây dựng tu viện, hiện giờ th́ cả Norbert và Charlie đều dạy ở trung tâm thành phố Munich. Thầy Nyanabodhi là trụ tŕ ở lâm tự viện của chúng tôi.
Nhưng giờ hăy trở lại chuyện xây cất ni viện và ngài Arthur de Silva. Ông vào số từng xu tiền bạc tôi gửi cho ông, Tôi th́ không quan tâm đến những chuyện ấy v́ tôi tin tưởng ông tuyệt đối. Nhưng ông không thay đổi, vẫn làm đầy đủ bổn phận, vẫn chú tâm đến sự chính xác của từng con số.
Ông đă tự vẽ bản đồ xây dựng, và dỉ nhiên, không giống như tôi, ông có thể điều khiển những người thợ xây dựng bằng ngôn ngữ của họ.
Từ lúc mới biết nhau, chúng tôi đă hợp ư như thể chúng tôi đă biết nhau tự bao giờ. Ngay các vị khách đến thăm ni viện cũng nhận thấy là chúng tôi có thể hiểu ư nhau rất nhanh. Có lẻ từ một kiếp nào đó cũng chúng tôi đă có duyên gặp gỡ.
Sáu cái thất (kuti) đưọc xây trên đăo dành riêng cho các sư cô. Tất cả đều rất đẹp: Trong mỗi thất có một giường lớn, một pḥng tắm và một ngôi vườn nhỏ có tường bao bọc. Ngơ vào thất đưọc che bằng một mái hiên nên vào mùa mưa không bị ướt khi bước ra ngoài.
Tôi chọn đưọc một nơi khuất nhất, rất ưng ư trên đảo để xây thất. Trên mặt đất có một ḥn đá to, phẳng. Chúng tôi dự định sẽ xây thất quanh ḥn đá, để tôi có thể dùng ḥn đá làm chổ ngồi thiền. Tất cả đă đưọc xây dựng theo đúng như thế.
Sau đó Arthur de Silva báo tin cho tôi: "Ni Sư có thể đến rồi". Thế là tôi bay từ Úc, là nơi tôi đang có mặt ở thời điểm đó, đến Sri Lanka. Các sư cô cùng dọn vào ni viện với tôi đều là người Đức.
Mọi thứ vẫn c̣n bề bộn lắm. Nhà bếp, pḥng ăn vẫn chưa có. Chúng tôi phải nầu ở bếp đặt ngoài trời, rất ư không thuận lợi. Ăn uống cũng ngoài trời.
Chung quanh chúng tôi các công tŕnh xây dựng vẫn đưọc tiếp tục. Một ṭa nhà rất lớn đang đưọc xây trong đó có nhà bếp, pḥng ăn, thư viện, một hành lang nhỏ và một kho chứa đồ, cũng là chổ ngủ của người đầu bếp. Quanh nhà, theo kiến trúc thời thuộc địa, là một hàng hiên che mát. Ṭa nhà vẫn c̣n y nguyên cho đến ngày nay.
Chúng tôi đặt những chậu hoa dọc theo hàng hiên, để làm tăng theo vẻ mỹ quan cho ṭa nhà. Và để thêm hoàn hảo, tôi cho làm một hồ sen trong khuôn viên chùa. Tôi rất thích hoa sen. Ở Đức, không có sen, tôi thay bằng hoa huệ nước. Cả hai loại hoa đều cùng họ, và rất giống nhau.
H́nh ảnh của hoa sen gắn liền với Đức Phật. Người ta thường tạo dựng các h́nh tượng Đức Phật ngồi trên ṭa sen, v́ đặc tính của hoa sen là trong sạch, không nhiễm nhơ uế. Nước rơi trên các cánh hoa sen đều chảy xuống thành hạt, nên không làm ướt cánh hoa. Ngoài ra hoa sen c̣n đưọc dùng làm biểu tượng cho sự thành đạo, v́ tuy hoa mọc trong bùn, nhưng cánh và hoa vươn lên cao, không nhiễm ô uế.
Sau các đệ tử người Đức, có một phụ nữ người Singhalese t́m đến tu viện của chúng tôi. Trước đây cô đă là đệ tử của tôi. Giờ cô muốn đưọc thọ giới xuất gia ở trên đảo. Nhân dịp đó, tôi mời cả các tăng ở đảo láng giềng và mời tất cả các cư sĩ trong vùng đến dự. Có hơn hai ngàn người tất cả.
Không thể ngờ nhiều người đến vậy, tôi tự nghĩ không biết ḥn đảo có bị ch́m xuống không dưới sức nặng của bấy nhiêu người. Cũng may là việc đó đă không xảy ra. Dỉ nhiên là các cô bé mặc áo trắng cũng có mang quà đến.
Vị sư cô đó giờ là người kế thừa tôi làm trụ tŕ ở tu viện đó. Sư cô làm rất tốt bổn phận đưọc trao phó. Tôi rất măn nguyện đưọc biết rằng cả hai tu viện, một ở Úc mà tôi đă thành lập cùng với đại đức Phra Khantipalo, và một ở Sri Lanka vẫn tiếp tục trường tồn dù không có tôi.
Đó cũng là điều tôi mong mỏi sẽ xảy ra ở tu viện Buddha-Haus ở Allgau dù không có tôi, đây vẫn là nơi mọi người sẽ tụ đến để niệm hồng danh Phật. Suy cho cùng, tôi không biết ḿnh c̣n sống đưọc bao lâu nữa. Các đệ tử th́ mong tôi có thể ở với họ lâu hơn.
Lúc bắt đầu, chỉ có chúng tôi, một vài sư cô sống trên đảo, nhưng dần dần người ta biết đến tu viện nhiều hơn. Có lẻ cũng nhờ tôi đă đi hoằng pháp nhiều nơi trên thế giới, người ta biết đến tôi nhiều hơn. Và rồi tu viện của tôi ở Sri Lanka cũng dần dần tới tai mọi người.
Chúng tôi xây một nhà khách sáu pḥng, mỗi pḥng có thể chứa hai người. Nếu cần, chúng tôi cũng có thể đặt thêm một giường trong mỗi pḥng. Nghĩa là chúng tôi có chỗ cho mười tám khách tạm trú cùng một lúc.
Trong sáu thất c̣n lại, tôi và ba sư cô khác ở. Có hai thất đưọc dành cho các nữ cư sĩ nào muốn đến ở để học hỏi thêm về giáo lư Đức Phật.
Nhiều vị, trong đó có cả người Đức, ở đến một năm rưỡi. Nhưng cũng có người chỉ ở một đôi ngày. Sau đó tôi chỉ cho những người ở ít nhất là ba tháng đưọc ở. Nếu không nơi nầy biến thành một nhà ga. Nhiều người ra vào liên tục khiến chúng tôi không kiểm soát nổi. Ngoài ra ở ngắn quá, cũng khó thể thiết lập một chương tŕnh tu học cho riêng họ.
Mặc thời tiết nóng bức, chương tŕnh tu học của chúng tôi cũng đầy kín. Tuy nhiên cũng có một số việc phải du di v́ thời tiết, nếu không chắc khó có ai chịu nổi. Mổi sáng chúng tôi thức dậy lúc bốn giờ, tụng kinh bằng tiếng Pali và tiếng Anh, rồi tọa thiền, sau đó dùng điểm tâm. Luôn có một người nấu ăn ở đó để giúp đở chúng tôi, ngoài ra các cư sĩ tạm trú cũng thay nhau phụ giúp trong bếp.
Sau đó chúng tôi làm việc vài tiếng trước khi dùng bữa ngọ, v́ chúng tôi có xuất bản một tờ tin. Ngoài ra, dỉ nhiên là c̣n phải làm các công việc dọn dẹp trong tu viện, tưới hoa, nhổ cỏ.
Thư viện cũng cần đưọc sắp xếp lại, phải làm b́a cho các sách, phải tră lời thư từ nghĩa là lúc nào cũng không thiếu việc cho chúng tôi làm, và trong khí hậu nóng bức đó, mọi việc đều đ̣i hỏi một sự cố gắng. Sau khi thọ trai, tôi giảng về các giới luật trong tăng đoàn, luật tỳ ni.
Các người nữ ở với chúng tôi đưọc gọi là Anagarikas, có nghĩa là những người tu trong một thời gian ngắn. Nhưng nếu cho dù sau nầy họ có rời bỏ cuộc sống ở tu viện, các giới luật nầy cũng rất hữu ích cho họ. Tôi cố gắng làm cho việc giảng dạy đưọc hấp dẩn bằng cách xen vào các giới luật là những câu chuyện giải thích tại sao Đức Phật đă tạo ra chúng.
V́ lúc bắt đầu, khi Đức Phật nhận các đệ tử, th́ chưa có luật lệ ǵ cả. Họ là những vị đă tu chứng, nên không cần luật lệ ǵ. Chỉ có sau nầy, khi hàng ngàn đệ tử xuất gia với Đức Phật, lúc đó các giới luật mới trở nên cần thiết.
Buổi chiều, các sư cô đưọc tự do có thể nghĩ ngơi, ngồi thiền dưới các gốc cây, đọc sách hay viết lách.
Đến tối, tôi lại giảng pháp. Từ các bài giảng nầy, gom góp lại đưọc ba quyển sách nhỏ. Quyến đầu tiên đưọc gọi là Be An Island Unto Yourself (Oác đảo Tự Thân), bằng tiếng Anh, v́ tôi giảng bằng tiếng Anh. Tôi in sách bằng tiền cúng dường và đem phát không cho mọi người. Đó là quyển sách đầu tiên của tôi, đến nay sách vẫn c̣n đưọc tái bản, cả ở đây bằng tiếng Đức.
Dỉ nhiên giờ th́ tôi không thể phát không đưọc nữa, v́ chi phí in ấn rất cao. Cho tới giờ nầy đă có hai mươi lăm quyển sách đưọc h́nh thành dựa vào các bài giảng của tôi. Sách đưọc viết bằng tiếng Anh và Đức và đă đưọc dịch ra bảy thứ tiếng.
Thời khoá biểu hằng ngày trên đảo đưọc giử rất chặt chẻ. Khi hai mươi phụ nữ, đôi khi hơn nữa, sống với nhau, cần phải có luật lệ. Ngay cả với những luật lệ như thế, cũng không phải dể dàng để hoà hợp mọi người với nhau, v́ mổi người một cá tính, một quan điểm riêng biệt.
Đa số các sư cô là người Tây phương. Các vị người Singhalese nhiều khi không bằng ḷng cách làm việc của họ. Cũng dể hiểu, v́ họ đến từ hai nến văn hóa khác nhau.
Arthur de Silva giống như một thiên thần bảo hộ, luôn giúp đở tôi rất đắc lực. Tất cả các khách văng lai đều tụ tập ở nhà ông. Từ đó, ông lo thuyền vận chuyển họ đến đảo. Ông để tâm nghe nghóng các yêu cầu, phê b́nh của mọi người và cố gắng trong khả năng của ḿnh đáp ứng các yêu cầu đó.
Khi Jeffrey và vợ là Susan đến đảo thăm tôi, chúng đă ở nhà ông bà De Silva và đưọc họ chiều chuộng hết mức.
Vị trụ tŕ của nam viện trên đảo láng giềng th́ giống như một người cha của chúng tôi. Mổi ngày ông đều đi thuyền qua đảo xem chúng tôi có cần giúp đở ǵ không. Ông mang đến cho chúng tôi nào là chuối, dừa và các loại trái cây khác, cũng như rau cải, gạo nghĩa là tất cả những ǵ mà các Phật tử cúng dường bên đảo của các tăng có dư, ông đều chia sẻ với chúng tôi.
Một phần trong đời sống tu hành của chúng tôi là pindapat, đi tŕ bát. Đây là một phong tục truyền thống của các tăng ni từ thời Đức Phật c̣n tại thế. Phong tục nầy rất thịnh hành ở các lâm tự viện bên Thái Lan. Ở Sri Lanka phong tục nầy hầu như đă bị băi bỏ. V́ có lẻ người ta đồng hóa h́nh thức tŕ bát khất thực với đi xin ăn.
Mổi tuần chúng tôi đi thuyền qua đất liền để đi khất thực các sư cô đi trước và các học giới nữ (anagarikas) theo sau- vào trong làng. Nhiều người đứng trước cửa nhà chờ chúng tôi đến. Họ mang đồ cúng dường đă đưọc chuẩn bị, bỏ vào các bát khất thực, chúng tôi dừng lại và nâng cao bát trước mặt họ. Chúng tôi thường đưọc nhiều gạo quá đến nổi các cô học giới nữ phải bỏ vào bao mang theo.
Lần đầu tiên chúng tôi đi tŕ bát, nhiều phụ nữ, già cũng như trẻ đều ra bỏ thức ăn vào bát cho chúng tôi. Họ khóc và bảo rất mang ơn chúng tôi đă tạo cơ hội cho họ đưọc cúng dường các ni. Được tiếp xúc với tăng ni đối với các phụ nữ nầy là đưọc tiếp cận với Phật giáo. Đó là lư do chính tại sao tôi phát huy truyền thống nầy.
Nhưng chúng tôi quyết định không đi mổi ngày, v́ dân chúng ở đây rất nghèo; thật là không phải khi họ c̣n phải chia sẻ phần ít ỏi đó lại là những thứ ngon nhất, tươi nhất của họ cho chúng tôi mỗi ngày.
Có bốn làng dân ở quanh khu hồ. Chúng tôi luân phiên đền từng làng, nên mổi làng chúng tôi chỉ đến mười hai lần trong một năm. Kể ra không nhiều lắm, nhất là khi họ rất vui mừng tiếp đón, cúng dường khi chúng tôi đến khất thực.
Theo truyền thống, đi khất thực phải đi bằng chân không. Đôi khi đi cả trên nhựa đường nóng có thể khiến chân phỏng hay đi trên những con đường làng đầy đá sỏi cũng không phải là chuyện dể dàng.
Tôi không chỉ muốn đưọc dân địa phương chấp nhận, mà c̣n muốn đem lại chút hạnh phúc trong cuộc sống khó khăn của họ, cuộc sống đầy bao công việc tay chân nặng nhọc. Với ư nghĩ đó, vào chủ nhật cuối tháng tôi thường đến thăm ngôi làng đă cúng dường cho chúng tôi suốt tháng đó để tặng cho họ một thời pháp, với sư cô người Singhalese làm thông dịch viên.
Chúng tôi thực hiện việc nầy theo truyền thống như trong thời Đức Phật tại thế. Chúng tôi ngồi dưới gốc cây to, chờ mọi người đến. Dân làng lũ lượt kéo đến cùng với con cái, người thân. Lúc nào cũng ồn ào, lại c̣n có những người bán dạo cũng đem theo, rồi các em bé cùng với các gia súc.
Tôi đă giảng về những điều rất đời thường thí dụ phải đối xử với hàng xóm láng giềng, với vợ chồng như thế nào, v́ có rất nhiều xung đột trong những làng nầy. Ở trên đảo, chúng tôi cũng nghe rất nhiều về những chuyện xung đột của họ. Tập họp họ lại ở đây để nói về những việc nầy là một việc rất tốt. Qua họ, tôi muốn nói lời cảm ơn về sự ủng hộ, chấp nhận tôi ở Sri Lanka.
Một ngày kia, tôi đưọc báo tin là ngài thủ tướng Sri Lanka muốn thăm tu viện và học tu thiền với chúng tôi. Chuẩn bị cuộc đón tiếp nầy đ̣i hỏi rất nhiều công lao, rất nhiều việc phải làm.
Con đường xuyên qua làng dẩn đến bờ hồ đưọc trăi đá, các biễu ngữ đưọc giăng khắp nơi, và các hộ vệ của ngài thủ tướng phải đến trước một ngày hầu giữ cho ḥn đảo của chúng tôi đưọc hoàn toàn an toàn. Họ xét từng gốc cây, bụi cỏ để xem có ai núp sau đó không.
Rồi th́ ngài Premadasa cùng với phu nhân và một số người tháp tùng cùng đến đảo, nơi chúng tôi đang chờ đón ông ở bến đ̣. oOng yêu cầu đưọc dẩn đến thất của tôi, rồi đến thiền đường đế bắt đầu buổi tọa thiền. Ông dự định sẽ ở lại đây hai ngày.
Sau khi tôi đă cố gắng giải thích một số điều với ông về thiền, chúng tôi ngồi thiền được khỏang hai mươi phút, một cận vệ của ông vội vă bước vào và báo rằng Ngài Premadasa phải trở về Colombo ngay lập tức, v́ có cuộc khủng hoảng nội bộ ở quốc hội. Vậy là kết thúc buổi tọa thiền, kết thúc sự tu học.
Vài năm sau, Ngài Premadasa đưọc bầu làm tổng thống của Sri Lanka, và sau một thời gian ngắn ở địa vị, ngài đă bị ám sát bởi một trái bom của bọn khủng bố.
Khi tôi không có mặt ở tu viện, tôi xuất ngoại đi thuyết pháp khắp nơi. Thứ nhất là v́ chúng tôi cần tiền cúng dường từ những buổi thuyết pháp đó để bảo tŕ tu viện trên đảo. Tuy nhiên, sau một thời gian, tôi cảm thấy muốn đưọc trở về tu viện, xa rời mọi hoạt động một khỏang thời gian. Tôi muốn đưọc nhập thất, chỉ một ḿnh khoảng ba tháng.
Những người Singhalese, bạn của tôi, có một đồn điền chuối trong rừng. Trên đồn điền có một ngôi nhà củ, đă xuống cấp rất nhiều, nhưng vẫn c̣n có thể che nắng che mưa. Và thế là tôi đă đến ở nơi đấy suốt ba tháng một ḿnh. Các bạn của tôi đă sắp xếp cho tôi một người giúp việc người Tamil.
Anh ta không biết tiếng Anh, tôi không biết tiếng Tamil, nên chúng tôi luôn im lặng. Tôi chỉ biết một chữ cho Nước, để nhờ anh mang đến khi cần. Họ c̣n muốn mướn cho tôi cả đầu bếp, nhưng tôi đă bác bỏ ư kiến đó. Chỉ tạo thêm phiền phức. Người giúp việc cũng có thể vào làng mua trứng, bánh ḿ, cà chua và dưa leo cho tôi.
Thế là quá đủ. Tôi không cần phải có thức ăn nóng sốt mổi ngày. Các bạn tôi cũng cung cấp cho tôi rất nhiều trà v́ đây là đồn điền trà của họ, ngoài ra c̣n có rất nhiều chuối, dừs, và thơm. Những thứ nầy lúc nào cũng có.
Tôi lập một thời khóa biểu cho riêng ḿnh và dành nhiều th́ giờ cho việc tọa thiền. Thời gian nầy tôi coi như đang đưọc nghỉ phép, v́ đây là lần đầu, tôi không phải lo cho ai cả.
Thời điểm nầy qua sự giới thiệu của một vị sư khác, tôi đă đưọc gặp vị lăo ḥa thượng, người Singhalese, người đă tạo nhiều ảnh hưởng lớn đối với tôi. Không ai hiểu về thiền bằng ông.
Vào lúc đó ở Sri Lanka, người ta c̣n rất xa lạ với việc phát triển tu thiền, nhưng qua thời gian cũng có nhiều thay đổi tích cực, nhờ vào ảnh hưởng của các sư cô người Tây phương, mà tôi có lẻ cũng có góp phần vào đó.
Vị đại lăo ḥa thượng Nannarama Thera, là trụ tŕ một lâm tự viện nằm giữa rừng. Khi đưọc nghe nhiều câu chuyện liên quan đến Ngài, tôi quyết tâm phải tham kiến người. Lần đầu tiên tôi đưọc gặp Ḥa thượng ở nhà một Phật tử ở Colombo. Ngài đang ở đó trị bịnh.
Lần diện kiến đầu tiên đó vào năm 1983 là một kỷ niệm khó thể quên đối với tôi. Tuy nhiên v́ bất đồng ngôn ngữ, chúng tôi không thể trao đổi trực tiếp, may mà một vị sư trẻ, là thị giả của Ngài có thể nói tiếng Anh lưu loát.
Tôi ngồi trên sàn, đối diện Hoà thượng Nannarama Thera, rồi bắt đầu kể cho Ngài nghe về những kinh nghiệm tu thiền của tôi. Tôi đă vào được định từ nhiều năm nay, nhưng chưa t́m đưọc ai để có thể chia sẻ những kinh nghiệm nầy, cũng như để người đó có thể bảo với tôi là phương pháp tu tập của tôi là đúng. Cuối cùng tôi mới t́m gặp được người ấy.
Sau vài phút, trong khi Hoà thượng chăm chú lắng nghe, tôi bỗng sực nhớ rằng Ngài không biết tôi là ai, hẳn là tôi cần phải thưa lại là tôi đă hành thiền hơn hai mươi năm nay. Nếu không e rằng Hoà thượng sẽ nghĩ là tôi đă vọng tưỡng hay những điều tôi tu chứng là do t́nh cờ.
Sau khi vị sư trẻ thông dịch lại với Hoà thượng điều đó, Ngài phá ra cười và nói ǵ đó với vị sư trẻ. Người nầy quay sang tôi dịch: "À, bà ấy đă tu thiền hơn hai mươi năm! Đúng hơn là hai mươi kiếp!"
Tôi lại tiếp tục câu chuyện của ḿnh. Lúc đến định thứ tám, tôi không biết phải tŕnh bày lại như thế nào, nên tôi thưa là tôi sẽ thực hiện ngay điều đó hơn là tŕnh bày sai. Thế là tôi chú tâm thiền định và đi từ định thứ nhất đến thứ tám, qua từng giai đoạn một, trong ṿng chỉ vài phút.
Khi tôi mở mắt ra, tôi nh́n thấy Hoà thượng Nannarama Thera nh́n tôi vừa ngạc nhiên vừa tán thán. Sau đó tôi tả lại những cảm giác ở định thứ tám. Nói chung, việc diển tả cũng ngắn thôi, v́ ở trạng thái định nầy tâm hoàn toàn lắng đọng.
Hoà thượng Nannarama Thera xác định là tôi đă hành thiền đúng phương pháp và diển tả các trạng thái thiền định rất chính xác. Sau đó Ḥa thượng bảo rằng bổn phận của tôi là phải trở về truyền lại cho phương Tây những phương pháp thiền định nầy, sợ rằng những phương pháp nầy sẽ bị thất truyền.
Tôi đă khắc sâu những lời dạy của Ngài. Tôi đă truyền dạy các phương pháp tu thiền từ nhiều năm nay. Lúc đầu, tôi hơi do dự khi đem truyền dạy phương pháp tu không đưọc phổ biến nầy cho đại chúng, nhưng tôi nhận ra rằng càng ngày các đệ tử của tôi càng đạt đưọc nhiều kết quả trong thiền định.
V́ thế, tôi càng giải thích cho họ cặn kẻ thêm. Ngày nay các vị đệ tử nầy đóng góp rất nhiều vào tất cả các khóa tu thiền của tôi.
Sau nầy, tôi thường phải đi hơn sáu tiếng đồng hồ để đến thăm lăo Ḥa thượng Nannarama Thera ở lâm tự viện để trao đổi, tiếp nhận thêm sức mạnh và sự hướng dẩn của Ngài. Lúc nào tôi cũng đưọc Ngài tiếp đón nồng hậu. Ngài luôn nhớ về lần gặp gở đầu tiên với tôi, nhất là lúc tôi nhập định thứ tám để tŕnh kiến giải với Ngài.
Ngài đă viết một quyển sách đưọc dịch từ tiếng Singhalese sang tiếng Anh. Một quyển sách mỏng thôi, nhưng Ngài diển tả toàn bộ con đường của giáo lư Đức Phật từ lúc khởi đầu cho đến ngày Giác Ngộ. Tôi mang quyển sách đó theo tôi trong ba tháng ở đồn điền chuối để học tập.
Khi có điều thắc mắc, tôi đánh dấu vào quyển sách. Sau ba tháng nhập thất, tôi t́m đến lăo Ḥa thượng Nannarama Thera tham vấn với Ngài từng câu, từng chữ trong sách. Sau đó, tôi đă dịch quyển sách ra tiếng Đức. Phần dịch thuật của quyền sách đưọc coi là món quà cho sinh nhật năm tôi bảy mươi tuổi.
Ba tháng nhập thất một ḿnh rất hữu ích cho tôi. Khi ra thất, tôi cảm thấy như có thêm sức mạnh sẳn sàng để chia sẻ những ǵ tôi gặt hái được với bất cứ ai muốn nghe.
Cho đến ngày hôm nay, tôi như vẫn c̣n nghe những âm thanh của núi rừng văng vẳng bên tai; tiếng vượn kêu, tiếng chim, tiếng gió lướt trên những cành lá chuối. Nhưng cũng có những lúc không gian hoàn toàn yên ắng, lúc b́nh minh và hoàng hôn. Tôi thường tản bộ trong rừng để quán niệm thiên nhiên là một phần của tôi. V́ xét cho cùng, chúng ta có khác ǵ thiên nhiên.
Thí dụ, tôi dạy về tứ đại: đất, nước, gió và lửa, những thành phần căn bản cấu tạo nên con người, mà củng cấu tạo nên thiên nhiên. Và khi ta đứng giữa thiên nhiên, không để bất cứ điều ǵ làm bận ḷng ta, đó là lúc tốt nhất để cảm thấy ta hoàn toàn liên hệ với thiên nhiên, ta không khác ǵ với ngoại cảnh quanh ta.
Cứ mổi năm qua, ḥn đảo của chúng tôi càng trở nên tốt đẹp hơn. úc bắt đầu nó chỉ là một khu rừng, với rắn và chuột. Chúng tôi tạo nên những lối đi, các khu vườn. Diện tích đảo không rộng răi mấy.
Chiều dài của cả đảo chỉ khoảng chừng nửa kílomét, chiều ngang chừng một phần tư kílomét. Nhưng chúng tôi chỉ cần có thế, chỉ có điều lúc đầu các cô không quen với đời sống ở nơi hẻo lánh nầy.
Đi đâu cũng phải cần đến thuyền. Lúc đầu chúng tôi có một chiếc tam bản chèo bằng tay. Sau một gia đ́nh người Đức cúng dường một số tiền khá lớn, nên chúng tôi mua đưọc một mô-tơ để chạy đ̣. Thật là tiện lợi, dầu rằng chúng tôi cũng phải học bảo tŕ và chạy máy mô-tơ.
Điều khó khăn nữa là việc t́m người giúp việc và người nấu bếp, nhất là những người biết tiếng Anh. Phần lớn dân bản xứ không thích sống trên đảo, giữa những người phụ nữ nước ngoài. Cuối cùng tôi t́m đưọc một phụ nữ rất thích giúp việc cho chúng tôi và đă ở với chúng tôi cho đến măi sau nấy. Sau đó bà vẫn thư từ cho tôi một thời gian dài.
Cuộc sống của chúng tôi trên đảo coi cũng thơ mộng, nhưng cũng rất vất vả. Chúng tôi phải chịu đựng sức nóng như thiêu đốt, muỗi ṃng và những kỷ luật tôi bắt mọi người phải tuân theo triệt để. Tôi biết cuộc sống ở đây đều giúp ích cho hầu hết mọi người.
Thí dụ, có người giờ sống ở Stuttgart, trở thành thư kư cho trung tâm Buddha-Haus. Một phụ nữ Ḥa Lan, giờ sống và làm việc ở trung tâm Wat Buddha Dhamma ở Úc. Bà là Giám đốc của Trung tâm. Tôi cũng giao cho bà nhiệm vụ giảng dạy, và bà đă chấp hành công việc nầy rất tốt, với tất cả tấm ḷng.
Tôi vẫn c̣n giữ mối liên lạc với các phụ nữ đă sống với tôi trên đảo. Nhiều người sau nầy tổ chức những khóa tu do tôi hướng dẩn ở các thành phố nơi họ sống. Càng ngày việc hoằng pháp càng trở thành mục đích của đời tôi.
Tôi vẫn c̣n nhớ khóa tu đầu tiên tôi phụ trách ở Áo. Lúc đó tôi vừa từ Sri Lanka đến. Chỉ có bảy người ghi tên cho khóa tu học, người ta hỏi tôi như thế có tiến hành không. Tôi đáp: "Có chứ". Lần sau khi tôi mở khóa khác, có đến hai mươi lăm người ghi tên.
Ở Thụy Sĩ, hồi đó khi tôi thuyết giảng chỉ có mười hai người đến dự. Ngày nay hằng trăm người tham dự. Lúc ban đầu bao giờ cũng thế.
Tôi đă đi hóa đạo ở Thụy Sĩ, Anh quồc, Ḥa Lan và Đan Mạch. Đă thuyết giảng ở Nam Phi Châu, nơi có một trung tâm Phật giáo rất tráng lệ. Và dỉ nhiên là tôi cũng trở về Uùc và Mỹ để thuyết giảng. Tiền cúng dường ở khắp nơi, tôi dùng cho việc bảo quản, duy tŕ ni viện trên đảo. Nhờ thế mọi việc cũng ổn.
Năm 1987 là một năm có nhiều sự kiện đáng ghi nhớ đối với tôi. Việc đầu tiên là tôi đưọc mời tham dự phái đoàn từ Sri Lanka đến Liên Hiệp Quốc ở Nữu Ước để diễn thuyết. Hầu hết đại diện các nước nhỏ đều đến, nhưng đại diện của các cường quốc lại vắng mặt. Mỹ và Nga không có đại diện. Lúc đó bức màn sắt chưa đưọc cởi bỏ.
Tôi nói về sự b́nh an trong trái tim của mọi người như là một điều kiện tất yếu để mang lại hoà b́nh trên thế giới. Những người hiện diện trong buổi lể hôm đó h́nh như không nghĩ rằng tôn giáo và chính trị có thể đi đôi với nhau. Họ đặt khá nhiều câu hỏi sau bài nói chuyện của tôi.
Vào thời đại của Đức Phật, Ngài đă thuyết giảng cho các vị vua chúa và các quan đại thần. Ngày nay điều đó vẫn c̣n là một việc khó làm. Cuối buổi lễ, tôi đưọc tặng một huy chương v́ ḥa b́nh, khiến tôi rất vui.
Sự kiện thứ hai trong năm đó là đại hội Quốc tế dành cho các vị ni Phật giáo ở Bodh Gaya, Aán Độ. Đức Đạt Lai Lạt Ma chủ tŕ đại hội nầy. Đầy là lần đầu tiên một đại hội như thế đưọc thành h́nh, và tôi là một trong ba phụ nữ đă tổ chức đại hội nầy. Hai vị kia, là một sư cô người Mỹ theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và một nữ giáo sư người Thái.
Chúng tôi đă thành lập nên Sakyadhita (Các Nữ Đệ Tử của Đức Phật), một tổ chức quốc tế dành cho các ni và các nữ cư sĩ. Kể từ đó, gần như hằng năm tổ chức nầy đều tổ chức đại hội, cũng như đem lại nhiều chuyển đổi tốt đẹp cho các vị ni, giúp họ thoát khỏi một số áp lực nặng nề mà họ phải gánh chịu trước đó, nhất là ở Á châu.
Đáng kể nhất là tổ chức nầy đă tạo điều kiện để các nữ Phật tử trên ba mươi nước trên thể giới có thể gặp gở, giao lưu. Chúng tôi đă học hỏi lẫn nhau và về nhau. Một khía cạnh khác nữa là tổ chức nầy hoàn toàn ủng hộ việc phụ nữ muốn đưọc thọ giới tỳ kheo ni (bhikkhunis).
Năm 1988 lại đánh dấu một sự kiện quan trọng khác. Tôi đă bay sang California để tham gia vào thọ đại giới tỳ kheo ni ở Chùa Tây Lai ở Los Angeles. Đó là lần đầu tiên một buổi lể như thế được tổ chức ở Tây phương, hơn nữa nó lại đưọc tổ chức hoàn toàn theo truyền thống với cả hai giới chứng kiến. Có nghĩa là chúng tôi đưọc sự chứng minh của các vị ḥa thượng và các ni sư.
Hai trăm năm mươi vị ni Trung Hoa, năm mươi vị Tăng và mười hai ni người Tây phương đă đến thọ giới tại đại giới đàn nầy. Chùa Tây Lai đưọc xây theo kiến trúc của Cấm Thành (Forbidden Palace) ở Bắc Kinh, đă có nhiều buổi họp diễn ra ở sân trong của chùa.
Theo một bảng thông báo dán trên tường, người ta đưọc biết là chùa Tây Lai cũng vừa được xây dựng xong với phí tổn gần hai mươi lăm triệu Mỹ kim.
Chương tŕnh học tập rất gắt gao, kỷ luật như trong quân đội, hầu như tất cả đều bằng Hán văn. Tuy nhiên chúng tôi đưọc tiếp đăi rất chu đáo, mọi thứ đều đưọc chu cấp từ nơi ở, thức ăn cho đến cả y áo.
Nếu ban trách nhiệm Chùa sắp xếp để có ngay các sư cô người Tây phương có lẻ tốt hơn, v́ chỉ có một sư cô nói đưọc tiếng Anh, trong khi mục đích của Chùa là để truyền bá Phật pháp rộng răi ở Tây phương.
Sau bốn tuần lể đưọc huân tập mỗi ngày, với rất nhiều giờ mỗi ngày, ngày đại giới đàn cuối cùng cũng đến. Đối với các ni, th́ là cả buổi sáng và buổi tối, v́ chúng tôi phải thọ đại giới hai lần một lần do mười vị lăo ḥa thượng hướng dẩn, các vị nầy đă xuất gia ít nhất là ba mươi năm; và sau đó bởi mười trưởng lăo ni, các vị ni đă có hơn hai mươi năm tu tập.
Buổi lễ đă đưọc kết thúc tốt đẹp, dầu rằng suốt cả buổi lể các tăng ni người Tây phương chỉ lờ mờ đoán chuyện ǵ đă xảy ra, v́ chẳng có ai dịch lại. Chúng tôi chỉ nắm đưọc phần chủ yếu. Tôi rất mừng là buổi lể đă chấm dứt, v́ cả thân thể tôi đau nhừ.
Một chuyện thú vị tôi vẫn c̣n nhớ. Ở Trung Hoa và ở Đài Loan, các tăng ni đều bắt buộc phải ăn chay trường. Nhưng mỗi ngày ở chùa đều có bao nhiêu thực vật. Bữa th́ có gà, bữa cá, lúc khác là gan. Cho tới một ngày tôi thu hết can đảm để hỏi sư cô nói tiếng Anh rằng tại sao các món chay không đưọc dọn lên. Cô nh́n tôi với vẻ ngạc nhiên và bảo tất cả thức ăn đều là chay.
Khi tôi hỏi cô vậy chứ sao có cá, có gà, th́ cô bắt cười. Rồi cô giải thích là tất cả đều làm bằng đậu nành đưọc chở từ Đài Loan đến mỗi ngày, v́ các thức nầy không có ở tây phương.
Trước khi tôi bay trở về ni viện ở đảo, tôi ghé thăm Irene một thời gian, v́ tôi không đưọc gặp con gái khá lâu rồi. Cả tôi và con gái đều rất sung sướng đưọc gặp lại nhau. Tôi cũng có một kỷ niệm đáng nhớ trong lần gặp gở đó.
Con gái tôi, Irene đă hỏi tại sao tôi xuất gia. Nó có thể hiểu nếu tôi chỉ theo Phật giáo, nhưng tại sao phải xuất gia? Tôi hỏi lại con rằng; Vào những ngày chủ nhật khi con cùng với chồng đi nhà thờ con có vui không. Nó thưa vâng. Tôi bảo là tôi muốn đưọc có cảm giác an lạc đó mỗi ngày, nên tôi xuất gia. Câu tră lời đó khiến con gái tôi không thắc mắc ǵ thêm nữa.
Lúc đó tôi đă có thêm một đứa cháu ngọai, và câu chuyện sau đây liên quan đến đứa trẻ đó. Irene muốn có thêm một con gái, đồng thời cũng muốn nhận nuôi một đứa trẻ mồ côi. Do đó Irene và chồng là Ronny đă làm đơn xin băo lănh một em bé mồ côi, người Đại Hàn. Nhưng đă lâu mà chưa nhận đưọc tin tră lời.
Trong thời gian tôi thăm viếng hai vợ chồng, lại có thư báo là đă có một em bé Đại Hàn cho họ, c̣n có cả ảnh đính kèm. Chỉ nh́n bức ảnh, tôi có thể thấy rơ ràng đó là một em bé bị tâm thần, và tôi cũng biết rơ là con gái tôi Irene khó thể lo lắng cho một đứa trẻ như thế.
May mà lúc đó tôi cũng dự định sẽ bay sang Đại Hàn để viếng thăm một sư cô người Uùc, là bạn của tôi, v́ thế tôi nhận trách nhiệm đi gặp cháu bé. Nhờ bạn tôi nói đưọc tiếng Đại Hàn nên tôi có thể giải thích với văn pḥng lo việc băo lănh con nuôi rằng con tôi không thể nhận em bé đó, và họ nên t́m một em bé khác thay thế. Lúc đầu chúng tôi cũng gặp khó khăn với họ, nhưng cuối cùng cũng đưọc kết quả.
Thế là hai tháng sau Amy Jung Ah đưọc gửi theo người bảo mẫu đến phi trường Los Angeles. Amy không nói đưọc tiếng Anh nào. Cô bé đă đưọc năm tuổi và đă sống trong cô nhi viện từ lúc mới sinh ra. Cô bé vừa kháu khỉnh, lại rất ngoan, không lâu là cháu có thể nói đưọc tiếng Anh.
Giờ th́ cô bé đă đưọc mười bảy tuổi, đang học năm cuối và đưọc xếp vào loại học sinh giỏi ở một trường trung học. Cô lội như ráy, có rất nhiều bạn bè và năm nay sẽ là lần đầu tiên cô đến thăm bà ngoại. Cô bé đă viết thư nhờ tôi tổ chức chuyến viếng thăm trại tập trung, v́ đó là đề tài cô nghiên cứu ở trường. Ngoài ra, cô cũng muốn viếng thăm lâu đăi của Hoàng đế Ludwig.
Không may, có bao biến động đă xảy ra ở Sri Lanka. Những cuộc tấn công bằng bơm và các cuộc truy t́m quân khủng bố khiến cuộc sống ở xứ sở nầy càng trở nên khó khăn. Thí dụ, xe buưt thường hay bị đặt bom đến nổi không ai dám đi xe buưt nữa. Nhiều bưu điện bị phá hoại. Thư từ bị thất lạc, thông tin gián đoạn. Trong lúc tôi phải tùy thuộc vào hệ thống bưu chính rất nhiều.
Điều tệ hại nhất là tôi không thể tiếp nhận nhiều phụ nữ ở khắp nơi trên thế giới muốn đến tu học ở ni viện trên đảo. V́ tôi phải chịu trách nhiệm cho sự an toàn của họ. Tôi không thể mạo hiểm làm chuyện đó trong t́nh h́nh bất ổn như thế. V́ thế tôi khuyên họ không nên đến.
Và như thế là công việc hoằng pháp của tôi bị gián đoạn. Một trở ngại khác nữa là ngay chính các đệ tử người Singhalese của tôi, cũng không dám ra khỏi nhà. Con đường từ nhà họ đến đảo cũng rất nguy hiểm. Rồi một việc khủng khiếp đă xảy ra. Người bạn là chủ đồn điền, cũng là người bảo trợ tôi, đă bị nhóm khủng bố bắt và thiêu sống.
Nhưng không chỉ có thể, c̣n có sự ra đi vĩnh viễn của Arthur de Silva. Năm 1988, khi tôi sửa sọan lên đường đi California, tôi có cảm tưởng rất mạnh mẽ là tôi sẽ không bao giờ gặp lại Arthur de Silva nữa. Và thật thế, khi tôi trở lại, ông đă mất. Ông bị bịnh tiểu đường mà ăn uống không kiêng cữ lắm. Một ngày kia ông ngă té và tắt thở.
Năm 1989, theo yêu cầu của các đệ tử người Đức, tôi quyết định rời bỏ Sri Lanka, cái chết của Arthur de Silva cũng là một yếu tố khiến tôi cảm thấy chắc chắn là tôi không c̣n có duyên ở lại đây nữa.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 365 of 1146: Đă gửi: 23 June 2010 lúc 9:31pm | Đă lưu IP
|
|
|
QUÀ TẶNG CUỘC ĐỜI
Chương Mười Bốn
Ngôi Nhà Phật Ở Allgau
Ví như sống đặng trăm năm
Nhưng không tu chỉnh, thiếu trí tuệ
Không bằng một ngày sống
Của bậc tỉnh thức, của người tu thiền.
Kinh Pháp Cú 111
Vào mùa xuân năm 1989, từ Sri Lanka, tôi đặt chân xuống phi trường Munich. Charlie, người đệ tử không biết nói tiếng Anh ở Bali của tôi, ra đón. Sau đó chúng tôi đi xe về Uttenbuhl. Trời đang mưa, lạnh giá.
Uttenbuhl là một ngôi làng nhỏ với chỉ năm mái nhà, nằm giữa một cánh đồng xanh mướt. Vào mùa xuân, các ḍng nước do tuyết tan từ trên núi rừng đổ xuống đầy đường xá, ngơ ngách.
Ngôi nhà nằm kế bên căn nhà cuối cùng cạnh rừng, có cây lê già trong vườn, là nơi trú ngụ mới của tôi. Tôi rất yêu thích ngôi nhà đó. Nhờ vào tiền đóng góp ủng hộ mà chúng tôi có thể mua được ngôi nhà đó, và từ tháng hai người ta đă bắt tay vào việc sửa chữa, nâng cấp ngôi nhà. Tất cả các công tŕnh xây dựng, sữa chữa đều do các đệ tử của tôi phụ trách. Họ cúng dường công sức, không chịu nhận thù lao.
Charlie là huấn luyện viên môn tennis ở Munich; Roland ở Rosenheim, là nhà thiết kế nội thất, kiêm luôn chuyên viên làm các kệ tủ, và tạo cây cảnh; Gudrun dạy thể h́nh và khiêu vũ ở miền bắc nước Đức; Heinz, thương gia ở Munich; và Norbert, em của Roland, cũng là đệ tử của tôi từ lúc ở Bali, cùng thời với Charlie các đệ tử nầy đă góp sức giúp tôi từ lúc những ngày đầu.
Tôi vẫn c̣n nhớ ngày tôi đặt chân đến đó rất rơ ràng. Mọi thứ vẫn c̣n hỗn độn sách vở, hành lư, thùng giấy chúng tôi phải thức đến bốn giờ sáng để xếp đặt mọi thứ đâu vào đấy. Các bạn trẻ đều ngạc nhiên trước năng lực làm việc của tôi.
Chúng tôi ḥan tất công tŕnh sữa chữa ngôi nhà với sự tiếp sức cuả những người thợ chuyên môn trong một thời gian ngắn đến không ngờ. Tôi đến đó vào tháng tư. Tháng năm tôi đă có thể bắt đầu khai giảng khóa học đầu tiên. Nếu tôi nhớ không lầm, có khoảng hai mươi học viên tất cả.
Chỉ ít phút trước khi học viên đầu tiên bước vào lớp, chúng tôi vẫn c̣n tranh thủ treo nốt các bức tranh trong pḥng và ngoài hành lang. Rồi thở phào nhẹ nhỏm, chúng tôi có thể xếp các dụng cụ lại một bên để bắt đầu.
Mổi tối thứ tư tôi đều tổ chức mở cửa (open house) tiếp đón mọi người muốn đến tham quan, t́m hiểu Phật giáo. Truyền thống nầy vẫn đưọc tiếp tục cho đến ngày nay. Tôi thường nói một thời Pháp, sau đó chúng tôi ngồi thiền. Ngày thứ tư đầu tiên có khoảng năm người đến tham dự.
Giờ th́ có khỏang từ sáu mươi đến chín mươi người thường xuyên đến vào các tối thứ tư là con số cao nhất chúng tôi có thể chứa trong thiền đường. Sau buổi tọa thiền, chúng tôi dùng trà với khách. Đây là khoảng thời gian người ta thường dùng để tṛ chuyện, tâm sự, giăi bày mọi thắc mắc trong tâm tư.
Có thời gian, v́ thiếu chỗ, tôi không thể tổ chức các khóa tu học ở trung tâm Buddha-Haus (Ngôi Nhà Phật), mà phải xử dụng các tu viện Thiên Chúa Giáo. Ở Buddha-Haus, chúng tôi chỉ có chổ ngủ cho khỏang ba mươi người, khiến cho nhiều người phải ghi tên chờ đợi khá lâu, v́ thường chúng tôi có đến hơn hai trăm người ghi tên học.
Các tu viện Thiên Chúa Giáo tiếp đón chúng tôi rất nồng hậu. Chúng tôi trả tiền ăn, tiền pḥng cho họ, và giữ sự im lặng là vàng. Ngoài ra, các thầy tu ở đây cũng rất muốn t́m hiểu công việc làm của chúng tôi. Ở tu viện St. Albert ở Walberberg bei Koln, có vị thầy sắp trở thành cha ḍng, tham dự tất cả các buổi giảng của tôi.
Ở Niederaltaich trong các cánh rừng Bavarian, chính cha xứ cũng tham gia ngồi thiền. Ông đă học thiền ở Nhật trong một thiền viện, và đă viết nhiều sách về thiền định trong lúc cầu nguyện.
Ông vui vẻ kể đă có nhiều thầy ḍng quan sát các buổi thiền hành của chúng tôi và nói rằng họ cũng muốn tham gia. Tôi nghĩ là các hành lang trong các tu viện cổ kính nầy có lẽ trước đây đă đưọc xử dụng cho các mục đích tương tự.
Tôi rất quan tâm về việc phát triển và duy tŕ những cuộc đối thoại có tính cách ḥa đồng tôn giáo như thế nầy. Tôi không quan niệm phải coi Phật giáo như là phương tiện duy nhất dẫn đến giải thóat. Tôi muốn chứng tỏ với dân Đức rằng ta có thể đi đến con đường tâm linh bằng chính tôn giáo của ḿnh, và muốn giúp họ t́m đưọc sự b́nh an sâu lắng trong tâm hồn.
Tôi cảm thấy có bổn phận phải hướng dẩn người Tây phương đi trên con đường các thầy tôi đă dẩn dắt tôi đi. Đứng trên phương diện nầy, tôi có nhiều lợi thế v́ tiếng Đức cũng như tiếng Anh đều như tiếng mẹ đẻ của tôi, v́ tôi đă xử dụng cả hai từ thời thơ ấu.
Phần lớn năng lực tôi dồn vào những năm hoạt động ở Sri Lanka và ở Đức v́ tôi có cảm tưởng ḿnh không c̣n nhiều thời gian. Từ năm 1983 tôi đă khám phá ra ḿnh bị ung thư. Khi cảm thấy có một cục u trong ngực, tôi đă đi khám bác sĩ ở Úc. Bà bác sĩ sau khi làm khám nghiệm cho biết kết quả: bướu ác tính.
Lúc đó chúng tôi chỉ vừa bắt tay xây dựng ni viện trên đảo ở hồ Ratgama. Tôi nóng ḷng muốn hoàn thành công tŕnh, và cũng cảm thấy hoàn toàn khỏe mạnh, không đau ốm ǵ. Tôi bảo với bà bác sĩ là tôi không muốn phẫu thuật, v́ tôi không muốn bị kéo vào quỹ đạo trị bịnh ở các bịnh viện, mà một khi đă sa vào, người ta khó thể thoát ra.
Tôi c̣n nhớ rất rơ là bà bác sĩ đă nh́n tôi rất lâu, rồi bảo rằng mẹ của bà cũng bị ung thư ngực, và cũng đă chọn quyết định giống như tôi. Mẹ bà đă sống mười lăm năm với căn bịnh, mà không giải phẫu. Hai tháng sau cùng bà mới trở bịnh, rồi ra đi. Tôi bảo nếu đưọc thế càng tốt. Tôi rất muốn đưọc như người mẹ ấy.
Những năm tháng sau đó, căn bịnh chỉ đem lại cho tôi cái cảm giác khẩn trương trong tiếng Pali là samvega mà Đức Phật vẫn khuyên ta nên có. Phải gấp rút, khẩn trương tu tập v́ không ai biết đưọc ḿnh sẽ sống bao lâu. Và khi bạn mang trong ḿnh căn bịnh ung thư, bạn càng thấy rơ điều nầy hơn.
Mổi người đều mang bản án tử h́nh. Không có ai sống măi trên đời. Chỉ có điều ta thường không nghĩ đến bản án đó, để sống như thể thời gian sống của ta bất tận.
Cảm giác khẩn trương nầy thúc đẩy tôi phải hoàn thành công tŕnh xây ni viện trên đảo, để con số phụ nữ đưọc có điều kiện tu học trong hoàn cảnh thuận lợi đưọc nâng cao. Tôi cũng muốn viết thật nhiều sách để dân Đức được biết đến giáo lư của Đức Phật càng nhiều càng tốt.
Lúc trẻ, tôi đă ao ước có một ngày viết đưọc một đại tác phẩm. Tôi đă mơ mộng đến ngày cầm quyển tiểu thuyết nổi tiếng đó trong tay. Tôi chẳng bao giờ có cơ hội viết quyển tiểu thuyết đó, nhưng đến giờ th́ tôi đă xuất bản hơn hai mươi lăm đầu sách, và việc tôi kư tên tặng sách không c̣n mới mẻ ǵ.
Nhưng tôi hạnh phúc không kém, v́ qua những quyển sách nầy, Phật pháp đă đưọc truyền bá đến bao nhiêu người. Đức Phật đă không gọi các lư thuyết của ḿnh là Phật giáo (Buddhism) nhưng Ngài gọi là Pháp (Dharma), có nghĩa là luật thiên nhiên" hay sự thật tuyệt đối".
Ngày nào tôi c̣n sống, tôi c̣n muốn đưọc tiếp tục giảng Pháp. Tôi muốn giúp đở tất cả những ai muốn quay vào t́m hiểu chính ḿnh, đưọc biết đến thiền định. Có rất nhiều tầng tâm thức hoàn toàn khác với những tâm thức ta thường biết. Qua đó, ta có thể hiểu về tôn giáo ở một mức độ sâu xa mà người ta chỉ có thể đến đưọc qua thiền định.
Những người đến nghe tôi giảng, những người đến dự các buổi, các khóa tu của tôi không cần phải là, hay phải trở thành Phật tử. Đức Phật chẳng bao giờ dùng danh từ đó. Ngài chỉ nói chúng ta là các hành giả, những người thực hành với trí tuệ.
Dầu bạn là người theo Thiên Chúa, Tin Lành, Muslim, Do Thái hay Hindu, không thành vấn đề đối với tôi. Tôi không phân loại người ta theo tôn giáo, v́ như thế chỉ làm cho con người thêm chia rẽ nhau hơn. Nếu chúng ta c̣n suy nghĩ:
"Tôi là thế nầy, anh là thế khác", th́ chúng ta vẫn c̣n chia rẽ, xa cách nhau. Đó là sự chọn lựa sai lầm. Thực tế là chúng ta cùng chung trong một đại gia đ́nh nhân loại.
Đức Phật chỉ có một mục đích: là chỉ cho tất cả chúng sanh biết làm thế nào để đưọc hoàn toàn hạnh phúc. Ngài không bao giờ t́m kiếm đệ tử hay tín đồ. Đó cũng là phương pháp của tôi. Dầu người t́m đến với tôi có bảo họ là Thiên Chúa hay vô thần, không quan trọng.
Chỉ cần họ có ư hướng muốn t́m về con đường nội tâm, tôi sẽ giúp họ t́m ra những ǵ thật sự ẩn chứa bên trong con người của tất cả chúng ta sự b́nh an thực sự, chân hạnh phúc.
Tôn giáo không gắn chặt với các phong tục văn hóa hay xă hội của một quốc gia. Những phong tục đó đôi khi cũng hữu ích cho con người, nhưng chúng không phải là tính chất của tôn giáo. Tôn giáo là sự khám phá nội tâm, để đáp ứng cho nhu cầu muốn t́m đến chân thiện mỹ trong mỗi chúng ta.
Tôi đă đọc nhiều về sự thần bí của Thiên Chúa Giáo trong thời đại trung cổ, nhất là các tác giả như Meister Eckhart, Johannes Tauler, Heinrich Seuse, Teresa of Avila, Francisco de Osuna.
Nhất là những lời giáo huấn của Teresa đối với các vị nữ tu trong quyển Lâu Đài Bên Trong (The Interior Castle) đă gây ấn tượng sâu đậm đối với tôi, v́ trong đó bà đă diển tả những trạng thái giống như thiền định mà tôi cũng từng thuyết giảng chỉ có khác là bà diển tả bằng cách riêng của ḿnh, theo những viễn ảnh phác hoạ trong Thiên Chúa giáo.
Tôi đă hai lần thuyết giảng ở Tổ chức Eckhart ở Anh, dựa trên những điểm chung có thể t́m thấy trong giáo lư của Đức Phật và trong những bài thánh kinh của Meister Eckhart.
Tôi nghĩ rằng việc tôi trở lại Đức là một yếu tố rất quan trọng. Cuộc hành tŕnh cuộc đời của tôi đă bắt đầu từ đây và tôi đă trở về đây trong những ngày cuối đời.
Nhưng cuộc hành tŕnh của nội tâm th́ lại theo một con đường hoàn toàn khác. Tôi đă bắt đầu giống như bao người b́nh thường khác, cũng theo đuổi những mục đích sống như mọi người khác.
Nghề nghiệp, gia đ́nh và con cái. Những âu lo, hy vọng, sợ hăi cuộc đời tôi không thiếu thứ ǵ cả. Nhưng ở cuối của cuộc hành tŕnh nội tâm, tôi đă đến đưọc bến của sự b́nh an, hạnh phúc.
Tôi rất vui mừng là tôi đă có thể truyền đạt lại phần nào những ǵ tôi đă khám phá. Tôi đă công nhận cho chín đệ tử của tôi ở Đức đưọc phép giảng dạy hầu lưu truyền các phương pháp thiền định, để chúng không bị mai một. Ngoài ra tôi cũng công nhận cho bốn người khác làm công tác đó ở Úc và một ở Mỹ.
Một năm sau ngày tôi đến Buddha-Haus, Charlie trở về Munich, lập gia đ́nh và trở về với công việc làm huấn luyện viên tennis. Gudrun, sau gần tám năm làm thư kư ở Buddha-Haus, cũng đă ra đi.
Những người mới lại đến thay thế: Traudel, tốt nghiệp môn Toán, là một chuyên viên vi tính đă phụ trách phần kế toán, ngân hàng, các catalog, xếp chữ và in ấn các sách của tôi ngay tại pḥng phát hành của chúng tôi.
Về vấn đề nấu nướng, chúng tôi cũng có người tiếp tay tại Buddha-Haus. Chúng tôi ăn chay và không đ̣i hỏi ǵ. Mọi thức ăn đều đơn giản, vệ sinh và đưọc nấu bằng tất cả tấm ḷng. Chúng tôi giống như một đơn vị kinh doanh nhỏ, rất cần có tổ chức. Phải có người tră lời điện thoại, thư tín, đặt hàng.
Công tác vệ sinh ở Trung tâm đưọc các thiền sinh hay các khách văng lai giúp tay. Buổi sáng luôn có một giờ "làm việc v́ người khác" trong thời khắc dành cho mục đích nầy.
Tiền cúng dường, tiền học phí, tiền bán băng (thu trong các buổi nói chuyện của tôi) và sách là nguồn thu nhập nuôi sống chúng tôi cũng như trang trăi việc in ấn. Tất cả mọi người tham gia cuộc sống chung ở đây đều đă từ bỏ tiền của, sở hữu cá nhân. Cũng từ nguồn tiền trên chúng tôi trang trăi bảo hiểm y tế và tiền dằn túi cho mổi người.
Tổ chức của chúng tôi thật là đa đoan. Cũng may tôi có chút năng khiếu và nhiều kinh nghiệm trong lănh vực nầy. Trong các tu viện hay trung tâm Phật giáo, trật tự phải đưọc tôn trọng triệt để. Người ta khó có thể giử đầu óc thảnh thơi dành cho việc tu tập, nếu như quanh họ mọi thứ đều lung tung, lộn xộn. Hơn nữa, ngoại cảnh quanh ta là tấm gương phản chiếu tâm hồn ta.
Roland, nhà thiết kế nội thất ở Rosenheim, người đă thiết lập các hệ thống chất thải cũng như nhiều thứ khác nữa ở trung tâm; người đă thiết kế các trang b́a sách của tôi ở Đức, từ những ngày đầu tiên đă nêu tấm gương ở Buddha Haus.
Năm 1993, anh quyết định xuất gia. Tôi làm lễ thọ giới cho anh cùng với một tu sĩ người Aán Độ, ở Ladakh đến viếng thăm chỗ chúng tôi. Tôi dịch bài kinh đọc ở lễ thọ giới sang tiếng Đức, và cũng tụng nguyên bản tiếng Pali. Thật là một buổi lễ cảm động.
Tất cả mọi người trong gia đ́nh Roland đều đến tham dự. Từ ngày đó trở đi, Roland đưọc gọi là Nyanabodhi. Thầy là vị tăng người Đức đầu tiên đưọc thọ giới ở ngay nước Đức.
Năm 1993 cũng là năm tôi phải trăi qua cuộc giải phẩu cam go. Khối u trong ngực tôi càng ngày càng lớn đă vỡ ra. Làm tôi rất đau, và nó lại chảy máu luôn. Trước khi giải phẩu, tôi đă cố gắng làm xong hết những dự định của ḿnh. Và để không lưu lại những ác cảm hay khó khăn cho ai, tôi đă viết thư cho tất cả những người mà tôi đă có sự bất đồng dù lớn hay nhỏ, dù là mới đây hay đă từ lâu.
Tôi xin lổi mọi người về những lỗi vô t́nh hay cố ư, nói rơ cho họ hiểu là tôi vẫn nghĩ về họ với t́nh thương yêu. Tôi làm tất cả để không c̣n ǵ vướng mắc cho sự ra đi nhẹ nhàng của ḿnh.
Hai ngày sau khi giải phẩu, có lúc tôi có cảm giác như sự sống của tôi bị bào ṃn, hay đúng hơn nó chạy xuống gót chân tôi và tan đi. Tôi hoàn toàn sẳn sàng chờ đón cái chết, sẳn sàng ra đi, bằng ḷng để buông bỏ tất cả.
Có bao nhiêu tấm thiệp, bao bó hoa do các đệ tử của tôi gửi vào, nói lên t́nh cảm của họ dành cho tôi, đồng thời nói rằng chỉ sự có mặt của tôi bên họ là đủ, tôi không cần phải làm ǵ nữa cả. Tôi rất cảm kích trước những lời đó nói, chúng truyền thêm sức mạnh cho tôi. Sự thường xuyên thăm viếng của các bác sĩ, sự tận tụy chăm sóc của các cô y tá đối với tôi, nói lên những cố gắng của họ để cứu tôi sống. Lúc đó, tôi thấy ḿnh cần sống v́ những người đó.
Trái với mọi điều lo sợ, tôi b́nh phục nhanh chóng. Sau đó, tôi phải thêm ba lần giải phẩu nữa, lần cuối cùng vào tháng 11 năm 1995. Trong cuộc giải phẩu đó đă có một việc lạ lùng xảy ra. Dầu lúc đó tôi đă được làm hôn mê, tôi bỗng nghe một bác sĩ nào đó la lên: "Trời ơi, phải làm điều ǵ đó nhanh lên!"
Tôi cảm thấy như ông ở trước mặt tôi, dầu hai mắt tôi nhắm nghiền. Tôi nh́n thấy ông cố gắng trong tuyệt vọng để chích mủi kim vào gân tay tôi, và trong t́nh trạng đó, ông càng luống cuống thêm. Tôi cố gắng truyền cho ông sự b́nh tĩnh.
Các bác sĩ khác đứng quanh tôi tỏ vẻ bực bội, điều đó càng khiến vị bác sĩ gây mê thêm mất b́nh tĩnh. Sau đó ông chuyển sang tay phải của tôi, t́m đưọc một đường gân có thể tiêm kim vào, ông thở phào. Điều đó chứng tỏ là mạch máu của tôi đă xuống rất thấp. Tôi nghe ai đó nói "tám mươi trên năm mươi", con số đe dọa tính mạng người.
Tôi cũng hoàn toàn cảm đưọc thân thể ḿnh, nằm đó bất động, đồng thời tâm thức tôi như đă tách rời thân tôi, để nh́n xuống mọi thứ bằng con mắt quan sát. Tâm tôi rất b́nh tĩnh. Tôi chỉ cảm thấy tội nghiệp cho các vị bác sĩ, và tôi cố gắng giúp họ t́m lại đưọc b́nh tĩnh.
Kể từ đó, những ǵ tôi đă trải qua, những ǵ tôi tiếp tục trải qua là quà tặng của cuộc đời. Đáng lư ra cuộc đời tôi đă phải chấm dứt, vậy mà tôi vẫn c̣n đây thêm một thời gian nữa, giờ đă là bốn năm hơn, để có thể hoàn thành thêm một số công việc rỏ ràng đó là một món quà to lớn.
Tôi xử dụng thời giờ c̣n lại của tôi rất chọn lọc; tôi chỉ làm những việc đối với tôi là quan trọng và hữu ích. Điều đó không có nghĩa là tôi cho phép ḿnh đưọc thụ hưởng những sung sướng. Nhưng tôi chỉ làm những ǵ để giúp tôi và người khác thêm sức mạnh nội tại, những ǵ mang lại niềm vui, đem lại lợi ích.
Năm 1993, chúng tôi đưỏc báo đài biết đến. Đầu tiên là Zweites Deutsches Rundfunk, một đài truyền h́nh lớn ở Đức mới tôi nói chuyện. Sau đó một bài báo trên trang ba của tờ Suddeutschen Zeitung, một tờ báo lớn ở miền Nam nước Đức lại nói về chúng tôi, rồi h́nh ảnh của tôi đưọc phát trên nhiều đài, nhiều buổi nói chuyện đưọc phát thanh, vân vân.
Đặc biệt là một cú điện thoại của con gái bác tài xế của tôi thời thơ ấu. Cô đă xem chương tŕnh về tôi trên truyền h́nh, và gần té xỉu như thấy h́nh của ba cô trên màn ảnh. Sau đó cô cũng ghi tên học một khóa tu thiền với tôi.
Điều làm tôi vui nhất là cô c̣n nhớ cha mẹ tôi. Ngoài cô ra, chắc không c̣n ai ở Đức biết đến họ. Cô nhớ về cha mẹ tôi như những người rộng lượng, luôn sẳn sàng giúp đở người khác.
Nhưng điều trọng đại nhất mà các chương tŕnh truyền h́nh nầy đă tạo đưọc là mang đến một luống gió Phật pháp tươi mát, nguyên thủy cho phương Tây, dầu đă hơn hai mươi ngàn năm đă qua, giáo lư của Đức Phật mới đến đưọc trái tim của bao người ở đây.
Tôi thường nghe các Phật tử Á châu bảo rằng người Tây phương khó tọa thiền. Điều đó không đúng. Sau hơn hai mươi hai năm giảng dạy, tôi đă nhận thấy các đệ tử phương tây của ḿnh đều có khả năng tu học và hành thiền mà không gặp trở ngại ǵ. Bất cứ ai đă dốc tâm tu thiền, sau một thời gian tu tập, sẽ thấy đưọc rằng họ có thể trụ tâm vào một điểm.
Tôi đă dùng rất nhiều phương pháp. Thí dụ, tôi đă dạy họ chú tâm chánh niệm vào hơi thở, hay biết và làm chủ các vọng tưởng. Ngoài ra tôi c̣n dạy về thiền hành và phương pháp từng bước, từng bước". Phương pháp nầy liên quan đến việc kiểm soát các cảm thọ, các dấy khởi của cảm thọ, là một phương pháp quan trọng trong việc thanh tịnh hóa tâm.
Một phương pháp trọng yếu nữa là quán từ bi, trong phương pháp nầy tôi dùng những h́nh dung đa dạng nhất khiến ai cũng có thể mở rộng tấm ḷng ra với người khác. Trong các khóa tu của tôi, tôi hướng dẩn cho các học viên những phương pháp quán tưởng để có thể dẩn dắt họ vào những thực trạng của nội tâm. Bằng những phương pháp truyền thống nầy, tâm họ dần trở nên b́nh lặng, tạm thời quên đi thế giới bên ngoài.
Giáo lư quan trọng nhất, mà h́nh như chỉ có tôi đề cập đến ở Aâu châu, là những hướng dẩn về các trạng thái thiền định, là điều người ta chỉ có thể đạt đưọc trong một trạng thái hoàn toàn chú tâm.
Ở Á châu, cũng như ở Mỹ và Úc, chỉ có các đệ tử của tôi và hai vị giảng sư nữa là c̣n đề cập đến các trạng thái thiền định nầy. Nhưng chính các trạng thái nầy mới là thiền quán chân chính.
Chính Đức Phật đă dạy về những điều nầy; Ngài đă hành tŕ và tán thán các phương pháp nầy. Những trạng thái nầy mang tâm đến những tầng thức khác của tâm thức, khiến cho cái nh́n của ta đưọc mở rộng, khiến ta có thể nh́n thấy đưọc quá tŕnh tạo ra vũ trụ. Chúng là phương tiện để đạt đến cứu cánh của sự tự do tuyệt đối, thoát khỏi các áp lực, phiền năo và chấp ngă, đưa đến giải thoát.
Bất cứ ai tu tập với ḷng kiên nhẫn sẽ đạt đưọc trạng thái chú tâm thiền định. Qua đó, họ có thể t́m ra con đường đi vào không gian nội tại nơi chỉ có sự thanh tịnh và trí tuệ ngự trị.
Lúc đó chúng ta sẽ có khả năng để quan sát về tự ngă cũng như về những phiền năo của chúng ta một cách khách quan hơn. Qua sự tu chứng được các trạng thái của tâm thức, ta sẽ có cái nh́n mới về thế giới ḿnh đang sống.
Bên trong thiền đường ở Buddha-Haus, có một bức tượng cổ hơn hai trăm năm của Đức Phật bằng gổ cứng, có nguồn gốc từ Thái Lan, dù rằng chúng tôi đă thỉnh ở Kempten, một thành phố lớn ở Allgau. Trên thân tượng người ta phủ vàng lá, là một phong tục cổ truyền ở các nước Phật giáo Á châu để tỏ ḷng kính trọng.
Tôi thường ngồi dưới chân tượng để thuyết pháp. Tôi thường bắt đầu bằng, thí dụ như: "Tôi muốn nói với các bạn về ba đặc tính của cuộc sống về khổ, vô thường và vô ngă".
Nh́n vào sự bất động, chú tâm của khán giả, tôi biết là họ đă sẳn sàng theo tôi trên con đường vào nội tâm, con đường đến sự thật ban đầu mà con người hiện đại với bao lo lắng, bất an, đă đánh mất chúng. Trong thế giới vật chất, nhiều người không c̣n biết rơ mục đích, ư nghĩa của cuộc đời là ǵ, và họ chỉ biết thơa măn các ái dục, không cần biết chúng có thực sự mang đến hạnh phúc cho họ không.
Một trong những vị thầy lớn của thời đại chúng ta là một vị lăo hoà thượng ở Thái Lan, Ngài Ajahn Chah, người có rất nhiều đệ tử người Tây phương, và vừa mất cách đây vài năm. Ngài thường nói về ba đặc tính của sự hiện hữu khổ đau, vô thường và vô ngă bằng câu chuyện so sánh như sau.
Ngài nói: "Hăy nh́n ly nước đây. Nó rất có ích cho tôi. Tôi có thể dùng để uống nước. Khi để nó dưới ánh sáng mặt trời, nó chiếu ra những tia sáng đẹp đẽ. Khi tôi gơ muổng vào đây, nó cho ra những âm thanh vui tai.
Nhưng khi nó rơi xuống đất, nó vỡ tan. Đối với tôi, nó đă vỡ ngay từ bây giờ. Đối với tôi, tất cả mọi thứ có mặt trong hiện tại, hay sẽ có mặt, đều đă bị hủy diệt".
Câu chuyện đó rất có ư nghĩa với tôi. Ly nước của tôi cũng đă bể. Vào năm 1993, đối với tôi, cuộc sống của tôi như đă chấm dứt. Nhưng nó vẫn c̣n đây, thân của tôi lại c̣n đây, tôi c̣n xử dụng nó, nhưng nó không có nghĩa ǵ đối với tôi hơn là một chiếc ly đă bể.
Kể từ đó, bất cứ việc ǵ tôi làm cũng đă mất đi sự bám víu, chấp chặt. Tôi làm việc nầy việc nọ chỉ v́ chúng có ích lợi. Tôi sung sướng v́ c̣n có thể nh́n thấy công việc của tôi phát triển thêm một thời gian nữa. Nhưng khi chúng chấm dứt cũng chẳng có ǵ là quan trọng. Mọi chuyện đều đă xảy ra.
Đức Phật đă có nói Phật pháp sẽ đưọc phát triển ở những xứ sở khi con trai, con gái của những gia đ́nh tử tế trong xứ sở đó, đưọc thọ giới bằng chính tiếng mẹ đẻ của ḿnh. "Gia đ́nh tử tế" ở đây không phải là những gia đ́nh giàu sang, danh vọng. Mà trong một gia đ́nh tử tế, con cái biết cư xử phải đạo.
V́ việc di chuyển trở nên khó khăn cho tôi, thầy Nyanabodhi thường đi theo để giúp đở tôi. Đó là khi tôi về California để dự đám cưới của đứa cháu ngoại lớn nhất, Matthew, hay khi tôi đi San Francisco để mở khóa tu thiền.
Hoặc khi tôi đi Bá Linh, mùa hè năm 1995, trong khuôn khổ của chương tŕnh Đại học Hoà B́nh, tôi đă có nhiều bài nói chuyện ở đó; hay khi tôi đi Lindau để dự tuần lể tâm lư trị liệu ở đó, nơi hai năm qua tôi đă có nhiều buổi thuyết tŕnh, nhiều buổi thực tập ở đó.
Tiếng vang của các chương tŕnh truyền giáo của tôi khiến tôi nảy ra ư định thành lập một trung tâm Phật giáo ở một thành phố ở Munich. Chúng tôi t́m đưọc một chổ rất ưng ư, một cửa hàng thực phẩm củ với một căn pḥng nhỏ kế bên ở Neuhausen, một khu phố yên tĩnh.
Sau khi đưọc sửa chữa hoàn toàn, nơi ấy đă trở thành nơi họp mặt của chúng tôi mỗi ngày với những thời khắc nhất định. Các đệ tử của tôi giảng dạy ở đó, kể cả Charlie và Norbert. Traudel dạy yoga mổi tuần một lần, cô đă từng đưọc huấn luyện về môn nầy.
Nhưng trước khi chết, tôi vẫn c̣n một hoài bảo muốn thực hiện: đó là xây dựng ở Đức một lâm tự viện theo truyền thống nguyên thủy, ở một nơi hẻo lánh trong rừng, đối nghịch với thế giới bên ngoài ồn ào, đầy bao cám dổ.
Đă có thời gian chúng tôi đến khu rừng Bavarian để t́m một miếng đất vừa ư. Và chúng tôi cũng đă t́m thấy đưọc một nơi vừa ư; nhưng các điều lệ xây cất quá khó khăn nên sau nhiều tháng đấu tranh, chúng tôi đành phải bỏ cuộc.
Rồi vào tháng tám năm 1995, chúng tôi đă t́m đưọc một nơi thật lư tưởng, khá gần, chỉ cách trung tâm Buddha-Haus khỏang nửa tiếng đồng hồ, ở độ cao khỏang một ngàn thước, dưới chân dăy núi Alps.
Vào những ngày đẹp trời, ta có thể nh́n thấy các đỉnh núi phủ tuyết trắng rơ ràng trước mắt. Địa điểm nầy có bảy mẫu rưỡi đồng bằng và rừng, có sông chảy qua, có suối nước trong, và một ngôi nhà mười bốn pḥng, ở chính giữa.
Ngôi nhà đó đă hơn ba trăm năm tuổi, trước là một quán trọ, nhưng đă xuống cấp khá nhiều. Chủ nó là những người đă cao tuổi, không c̣n khả năng chăm sóc nó nữa. Một ngân hàng đă rao bán đấu giá. Chúng tôi mua đưọc khu đất nầy không thể nói là rẻ, nhưng cũng đưọc giá hời.
Có thể đi qua một con đường riêng để đến nhà, nhưng vào mùa đông không ai cào tuyết cho sạch đường. V́ thế chúng tôi phải mua một xe chạy trên tuyết để đi trên con đường chỉ có một kílomét rưỡi. Ở vùng nầy tuyết thường rơi kéo dài đến tháng tư.
Tôi thường phải đi trên chiếc xe tuyết, giống như một chiếc xe gắn máy có bánh trượt tuyết. Những lúc đó tôi phải nắm chặt xe, nhưng cũng rất vui.
Kể từ tháng mười năm 1995, chúng tôi bận rộn sửa chữa lại toàn bộ ngôi nhà. Chính ra là thầy Nyanabodhi phải vất vả nhiều với nó. Nền mới, hệ thống sưỡi ấm mới, và hệ thống dây điện mới tất cả đều phải có người lo. Các vách tường không có hệ thống cách âm, các cầu thang lên tấm trần sắp đổ, mưa th́ dột cả trần. Những ống cống quanh nhà cần phải đào, các máng xối hứng nước mưa đều phải thay.
Giờ thầy Nyanabodhi chỉ thích sống ở đó. Cũng may, các đệ tử của tôi có người là thợ chuyên môn trong các phần nầy, họ chỉ tính chúng tôi nữa giá. Các học viên khác th́ đóng góp công sức hằng ngày, có khi hằng tuần lễ. Dầu vậy, công tŕnh sữa chửa cũng tốn khá nhiều. Nhưng nói chung, chúng tôi tự tin là có đủ sức để hoàn thành.
Nh́n lại những việc như thế nầy, tôi nghiệm ra rằng bất cứ điều ǵ nếu người ta làm bằng tất cả ḷng thành khẩn, và không v́ tư lợi của riêng ḿnh, th́ công việc đó sẽ đưọc thành công.
Quanh nhà, chúng tôi phải đốn khá nhiều cây cối để có ánh sáng và không khí, cũng như để có không gian cho một khu vườn. Một tu viện thực thụ lúc nào cũng cần có vườn với hoa, cây cỏ và một chiếc hồ nhỏ.
Theo chúng tôi, đây là một lâm tự viện đẹp quá sức tưởng tượng. Hơn nữa, đây lại là tu viện Phật giáo trong rừng (lâm tự viện) đầu tiên ở Đức, với tên gọi là Metta Vihara (hay là Ngôi nhà của Ḷng từ bi). Mùa hè năm đó (1997) lễ khánh thành lâm tự viện đă đưọc tổ chức.
Tu viện nầy là nơi người ta có thể đến để t́m sự yên tĩnh, khám phá kinh nghiệm đưọc trở về với chính ḿnh. Muốn Tu ngắn ngày", người ta có thể thu xếp với tu viện để đưọc đến ở đây ít nhất là một tháng.
Dỉ nhiên, nếu muốn, người ta cũng có thể xuất gia, sau khi đă ở đó ít nhất là một năm và nhận thấy rằng việc phát triển tâm linh mới là mục đích chánh yếu nhất trong cuộc đời.
Matthias, một luật sư ở Konstanz, bên hồ Constance, giờ đă trở thành Nyanacitta, và là cánh tay mặt của Nyanabodhi. Anh nhúng tay vào tất cả mọi thứ, từ sơn cửa đến đóng bàn ghế, từ đi mua sắm đến thăm viếng các nhóm thanh niên, rồi dạy học ở thành phố. Ngay năm đầu tu tập, anh đă thề nguyện làm tu sĩ, tháng sáu nầy, anh ta sẽ đưọc xuất gia làm sadi.
Chừng nào c̣n trong khả năng, tôi c̣n ở lại tu viện nầy để giảng dạy. Chừng nào hăy hay, giờ th́ chúng tôi c̣n đang lo lựa chọn màu cửa sơn, hay đóng vách tấm trần như thế nào. Ngay hiện tại, đó là những vấn đề bức thiết của chúng tôi. Tôi rất vui mừng là vẫn c̣n có thể bắt tay xúc tiến đề án nầy, và sẽ c̣n nh́n thầy ngày nó đưọc hoàn thành.
Trong hai mươi năm qua tôi có cảm giác là ḿnh không định trước ǵ cả, mà đi theo hướng người ta vạch ra cho tôi cái hướng mà tôi phải theo để có thể làm đưọc những chuyện phải làm. V́ thế tôi nghĩ là tôi đă có mặt ở đúng nơi, đúng lúc, đúng thời để mang đến cho nước Đức những ǵ họ đang rất cần.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 366 of 1146: Đă gửi: 23 June 2010 lúc 9:51pm | Đă lưu IP
|
|
|
QUÀ TẶNG CUỘC ĐỜI
Chương Mười lăm
Cái Chết An Lành
Dẩu bay lên không trung, lặn dưới đáy bể
Chui vào hang sâu núi thẳm
Không có nơi đâu trên thế gian nầy
Người ta có thể trốn khỏi tử thần.
Kinh Pháp Cú 128
Đối với tôi, chết là điều đương nhiên. Tôi đă chuẩn bị để ra đi. Vị bác sĩ giải phẫu đă bảo rằng ông rất ngưỡng mộ tôi. Để làm ǵ? Chỉ v́ tôi không bị đe dọa bởi cái chết?
Tôi luôn xem Đức Phật là tấm gương cho ḿnh lúc Ngài tại thế cũng như lúc cận kề cái chết, đó là lư tưởng sống của tôi.
Hai ngàn năm trăm năm về trước, Ngài đưọc sinh ra là thế tử của một vị vua ở Bắc Ân Độ. Phụ thân của Ngài cai trị một nước lớn. Ngay từ khi ấu thơ, người ta đă tiên đoán rằng Ngài sẽ trở thành một vị vua tài trí hoặc nếu như Ngài từ bỏ cuộc sống thế gian, Ngài sẽ trở thành một vị Phật (Buddha). Phật có nghĩa là người đă Giác Ngộ.
Đó là danh hiệu của Ngài. Lúc c̣n là thái tử, Ngài đưọc gọi là Siddhartha Gautama. Bên cạnh những sự kiện lịch sử, cuộc đời Ngài cũng đầy những huyền thoại.
Vua cha muốn con trai phải kế thừa ông hơn là từ bỏ cuộc sống thế gian. V́ thế vua cha t́m đủ mọi cách để làm cho cuộc sống quanh Ngài đầy quyến rủ. Người già, người bịnh không đưọc phép bén mảng tới cung vua. Ngay cả những chiếc lá ĺa cành cũng được dọn dẹp trước khi Thái tử Siddhartha nh́n thấy chúng.
Tất cả mọi thứ đều để cung phụng cho Thái tử. Những thứ có thể so sánh với thế giới của chúng ta ngày nay, trong đó chúng ta cũng t́m đủ mọi cách để đưọc sung sướng. Nhà cửa, TV, đầu máy, điện thoại, radio mọi thứ đều đưọc cung ứng để thơa măn mọi nhu cầu của chúng ta. Nhưng mà thực tế th́ sau một thời gian, chúng ta cũng không c̣n thấy chúng hấp dẩn nữa.
Thái tử Siddhartha kết bạn bè với nhiều thanh niên, thiếu nữ. Năm mười sáu tuổi, Thái tử đưọc quyền chọn người phối ngẫu. Sau đó hai vợ chồng Thái tử sống trong cung điện, và không nh́n thấy ǵ khiến họ phải lo buồn.
Cũng giống như ngày nay chúng ta giấu những người bịnh hoạn, tàn tật sau những bức tường mà không ai có thể thấy họ; c̣n đối với người chết, th́ ta cắt bỏ bộ phận tiêu hóa, trang điểm lại trước khi chôn họ.
Một ngày kia thái tử Siddhartha bảo người đánh xe rằng ngài muốn đi dạo một ṿng bên ngoài, trước cung điện. Điều đầu tiên, khi ra ngoài, họ nh́n thấy là một ông lăo rất già yếu, chống gậy, mà hầu như không thể lê bước.
Thái tử Siddhartha hỏi: "Sao người đó coi tiều tụy thế?". Người đánh xe, Channah, thưa: "Đó là một người ǵa, thưa thái tử." Thái tử lại hỏi: "Tất cả chúng ta đều phải già sao?" Channah lại thưa: "Đương nhiên, thưa thái tử. Tất cả chúng ta đều phải già đi".
Họ lại trở về triều, rồi ngày hôm sau một cuộc du ngoại khác lại xảy ra. Lần nầy họ nh́n thấy một người bịnh nằm trên đường. Ông quá yếu để có thể nhấc ly nước để cạnh bên lên uống. Đám ruồi nhặng bu đầy trên mặt, nhưng người bịnh không thể làm ǵ ngoài kêu rên.
"Người đó bị làm sao vậy?", thái tử Siddharta hỏi.
"Đó là một người bịnh".
"Chúng ta có bị bịnh như thế không?"
"Không ai tránh khỏi đưọc, thưa thái tử", Channah lại tră lời.
Người thứ ba Thái tử Siddhartha đưọc gặp trong lần ra thành thứ ba là một người chết. Xác người chết đưọc khiêng đi và phía xa là gia đ́nh, quyến thuộc, bạn bè khóc lóc, kêu than. Họ đang trên đường đến nơi hỏa táng. Thái tử muốn biết: "Tất cả chúng ta đều phải đến đó sao?" Channah lại thưa: "Nơi đó chờ đợi tất cả chúng ta".
Vào ngày thứ tư, khi Thái tử Siddhartha lại ra khỏi thành. Lần nầy Thái tử đưọc gặp một người với vẻ mặt đầy b́nh an, không lo lắng.
"Người đó là ai vậy?"
"Thưa đó là một vị tu sĩ, người đă xa lánh cuộc sống thế tục", Channah thưa.
Thái tử Siddharta Gautama trở về nhà, đêm đó, thái tử từ giă vợ, cùng đứa con mới sinh, cha mẹ, và lầu đài cung điện để đi t́m câu tră lời cho những đau khổ của loài người. Cùng với Channah, thái tử ra đến b́a thành, ranh giới của vương quốc của vua cha. Tới đó, thái tử trao trả ngựa lại cho Channah và nói: "Hăy mang nó trở về thành và chăm sóc nó cho tốt".
Theo truyện kể, con ngựa chỉ quay đi một đoạn đường ngắn trước khi ngă ra chết v́ đau đớn phải xa chủ.
Sau đó Thái tử dùng gươm cắt tóc, vào rừng đi t́m một vị minh sư. Trước khi thành Phật, Thái tử đă tu khổ hạnh trong sáu năm. Khi ngài đă tu chứng đưọc các trạng thái thiền định, Ngài ngồi dưới gốc cây Bồ đề nổi tiếng giờ là Bodh Gaya và đạt Giác Ngộ, giải thoát.
Ngài đă thiết lập ra Tứ Diệu đế và các phần của Bát Chánh Đạo, là nền tảng của giáo lư của Ngài. Vị trời Phạm thiên và các chư thiên hiện ra, thỉnh cầu Ngài truyền đạo lại cho chúng sanh.
Trong khuôn khổ quyền sách nầy, tôi không thể nói chi tiết câu chuyện nầy. Chi tiết câu chuyện có thể t́m trong quyển Buddha Ohne Geheimnis (tạm dịch là Sự Thật về Đức Phật) của tôi.
Tuy nhiên, ở đây, dù tóm tắt, ta cũng thấy từ câu chuyện của cuộc đời Đức Phật, giáo lư của Ngài đặt căn bản từ đâu. Ta phải biết rằng Dukkha, tiếng Pali có nghĩa là đau khổ, lo âu, bịnh hoạn, và chết chóc. Hiểu như thế rồi, ta sẽ thấy cuộc đời ta, tự ngă của ta đều chỉ là những ảo vọng.
Nhưng không thể nhận ra điều nầy chỉ bằng các giác quan, hay cách suy nghĩ thông thường của ta. Mà phải qua những trạng thái tâm thức khác, là kết quả của thiền định sự chú tâm hoàn toàn không có suy tưởng.
Qua đó, chúng ta sẽ thấy sự hiện hữu của ḿnh không phải tách rời khỏi vũ trụ. Chúng ta với mọi người chung quanh, với vũ trụ là một. Do đó, chúng ta có thể giải thoát ḿnh khỏi sự ràng buộc của ḷng ham danh, ái dục vân vân.
Tới một mức độ nào đó, chúng ta sẽ thấy sự có mặt của ta ở nơi đây hay nơi khác không c̣n quan trọng nữa. Có nghĩa là ta sẽ không c̣n lo sợ Chết. Muốn đạt đưọc tất cả những điều đó, ta chỉ cần buông bỏ một thứ luôn gắn chặt với ta đó là tự ngă.
Chúng ta sống, chúng ta chết cũng như bao nhiêu người đă sống trước đó, hay sau nầy, không có ǵ là của ta cả. Khi ta đă thành công trong việc diệt bỏ ḷng ham muốn, tham vọng, th́ chết không c̣n là sự hủy diệt, mà là sự ḥa nhập vào Niết bàn. Để cách nh́n đó thành quán tính trong ta, ta cần phải không ngừng tu tập.
Mùa hè sau cuộc giải phẫu, tôi đưọc rất nhiều người thăm viếng. Con gái tôi Irene từ Mỹ bay qua, cùng đi với tôi qua Ư. Sau hơn hai mươi năm, đó là lần đầu tiên chỉ có tôi và con gái ở bên nhau. Trước đó, lúc nào cũng có con cái. Chúng tôi không có dịp để nói chuyện tự do.
Chúng tôi đặt pḥng ở một khách sạn ở Lago Maggiore, rồi cùng du ngoạn trên thuyền, bách bộ với nhau. Chúng tôi cảm thấy b́nh an và có th́ giờ dành cho nhau. Thật là một chuyến đi tốt đẹp.
Rồi Gerd, chồng trước của tôi cũng đến viếng thăm. Anh muốn biết về sức khỏe của tôi. Đó cũng là chuyện tốt. Chúng tôi đă chia tay từ năm 1979. Anh đến thăm, và lập tức ra chăm sóc khu vườn. Cũng vui khi thấy anh không thay đổi ǵ lúc nào cũng năng động, linh hoạt.
Rồi Matthew, đứa cháu ngoại đầu của tôi, cũng viếng thăm tôi cũng với vợ là Lara. Tôi đặc biệt thân thiết với cháu Matthew. Trong cả gia đ́nh, h́nh như chỉ có cháu là hoàn toàn thông hiểu việc tại sao bà ngoại xuất gia theo Phật giáo.
Điều nầy gợi tôi nhớ lại, lúc c̣n thơ ấu, tôi cũng rất yêu thương bà tôi. Tôi cảm thấy sự thân thiết giữa người trẻ nhất và lớn tuổi nhất trong gia đ́nh rất quan trọng. Giúp người ta biết nguồn gốc tổ tiên, cũng như thế hệ tiếp nối.
Con trai tôi Jeff từ Úc qua, cùng với vợ và đứa con gái nhỏ. Họ rất muốn thăm Venice. Nên chúng tôi cùng đến đó, nhưng không may là thời tiết không đưọc đẹp. Tuy nhiên tôi cũng giữ cháu bé để hai vợ chồng đi viếng cảnh. Jeff đă cùng tôi đi khắp nơi, nhưng lạ lùng thay, nó chẳng c̣n nhớ được ǵ mấy! Cả gia đ́nh ở lại mừng sinh nhật tôi.
Vào ngày 25 tháng 8, năm 1993, tôi đưọc bảy mươi tuổi. Một buổi tiệc vui vẻ với nhiều lời chúc tụng, đó là chuyện tự nhiên vào những dịp như thế nầy.
Tôi nhận đưọc một món quà rất đặc biệt của thầy Nyanabodhi: một ngôi tháp, do chính thầy xây. Đây là một lăng mộ dùng để chôn người theo Phật giáo, có h́nh dáng giống như một toà nhà trắng. Ngôi tháp nầy có một miếng gương đá lớn, trong suốt đặt trên đỉnh tháp. Vào ngày sinh nhật của tôi, chúng tôi cùng đi thăm ngôi tháp.
Trên vách tháp có chừa một khoảng trống. Tất cả những ai đến dự ngày sinh nhật của tôi có thể đặt một tượng Phật nhỏ vào đó. Những tượng nầy họ nhận đưọc do đă cúng dường cho Buddha-Haus. Một copy của tất cả các sách của tôi cũng được đặt vào đó.
Ngoài ra, chúng tôi cũng bỏ vào đó các món đồ qúi gía, vàng bạc. Cuối cùng, thầy Nyanabodhi cũng bỏ vào chiếc nhẫn vàng của người cha quá cố của thầy. Chúng tôi không có nhiều đồ quư giá nhưng những ǵ chúng tôi có, chúng tôi bỏ cả vào.
Một ngày nào đó, tro của tôi cũng sẽ đưọc bỏ vào. Đó là cách chôn một vị thầy theo phong tục cổ truyền. Cẩn thận hơn, tôi cũng đă làm đơn xin phép bộ y tế ở Sonthofen. Họ cử hai viên chức đến, khám xét trong ngoài, sau đó viết cho chúng tôi một giấy phép tay.
Ngôi tháp đưọc xây dựng ở một vị trí rất đẹp, cạnh bên một cây táo nhỏ trên cánh đồng thoai thoải. Ánh sáng mặt trời chiếu qua mảng gương đá tạo thành những màu sắc tuyệt đẹp. Tôi rất thích ngồi trên băng đá cạnh đấy.
Ngoài ra c̣n có một sự kiện khác cũng làm tôi rất vui. Đó là sau khi Brigitte, một tờ tạp chí ở Đức có bài đăng về tôi, thư từ của đọc giả từ những nơi không ngờ nhất cũng đưọc gửi đến. Hai người bạn học cũ của tôi ở trường trung học State Augusta, Bá Linh viết thư đến.
Chúng tôi thường đi học chung từ lúc chín tuổi đến năm mười hai, mười ba tuổi. Một người viết từ Bá Linh, người kia ở Heidenheim. Người thứ hai c̣n sắp xếp để tôi đến thuyết pháp ở Heidenheim cho khỏang ba trăm rưỡi thính giả. Rồi người bạn ở Bá Linh lại giúp tôi liên lạc với người bạn thân nhất thời học sinh của tôi, hiện đang sinh sống tại Anh.
Hiện tại, với tuổi tôi, tôi thấy sức khỏe của ḿnh không có ǵ đáng phàn nàn. Nếu tôi c̣n sống cũng tốt, mà có phải ra đi, cũng đưọc. Việc cận kề với cái chết đă giúp tôi có thể giảng Pháp hoàn toàn v́ Pháp, mà không có cái ǵ cho riêng tôi.
Tôi không chỉ thấy ḿnh không quan trọng, mà c̣n có cảm giác như ḿnh không có mặt ở đó, mà ḿnh chỉ là công cụ truyền giảng lại những điều có thể làm lợi ích cho người khác. Tôi sẽ sống cho đến ngày tôi phải ra đi.
Cho đến giây phút nầy, hầu như tôi đă hoàn tất mọi việc phải làm. Chỉ c̣n một, hai quyển sách tôi muốn thấy chúng đưọc hoàn thành, nhất là quyển kinh Trung Bộ của Đức Phật, đang rất cần có một bản dịch ra tiếng Đức mới hơn. Vậy thôi, c̣n mọi thứ có thể tiếp tục mà không cần đến sự có mặt của tôi.
Trong chương nầy tôi nói khá nhiều về cái chết v́ ḷng sợ hăi về cái chết là đề tài thường đưọc nhiều người hỏi đến ở các buổi nói chuyện của tôi. Tôi luôn phải đối đầu với đề tài nầy.
Một khi ta c̣n chưa có thể sẳn sàng chờ đón cái chết của ḿnh, chưa có thể nói về nó với ḷng b́nh thản, tự tại, th́ cuộc đời ta vẫn c̣n bị trói buộc trong sự sợ hăi. Tâm ta chỉ thực sự có an b́nh khi ta có thể chấp nhận mọi sự khi chúng đến.
Đức Phật có dạy một số điều liên quan đến cái chết, khá hữu ích. Điều quan trọng nhất là: Khi một người sắp từ gĩa cơi đời, ta cần nhắc nhở cho họ về tất cả những điều tốt họ đă làm, để họ có thể ra đi với tâm b́nh yên, hạnh phúc.
Điều đó rất quan trọng v́ trong những giờ phút cuối cùng, người ta thường bị xâm chiếm bởi những cảm giác ăn năn, hối hận v́ đă làm điều nọ, điều kia không đúng. Nếu bạn là người y tá hay bác sĩ ở cạnh bịnh nhân, nhưng không biết nhiều về họ, bạn cần hỏi thân nhân họ để có thể giúp họ ra đi nhẹ nhàng.
Chúng ta cũng cần phải có tiếp xúc trực tiếp như nắm tay người sắp chết hay ve vuốt họ, để họ không có cảm giác đă bị bỏ rơi.
Thính giác là giác quan cuối cùng ra đi. V́ vậy đừng nghĩ rằng người đang nằm mê man đó không thể nghe chúng ta nói ǵ. Chỉ nói trước mặt họ, những điều bạn muốn họ đưọc nghe.
Nếu người sắp chết là Phật tử, có ḷng tin ở Đức Phật và giáo lư của Ngài, th́ ta có thể tụng kinh cho họ nghe. Có nhiều bài kinh rất phù hợp cho mục đích nầy.
Thí dụ: "Ngay chính xe mă của nhà vua c̣n bị hủy diệt; thân nầy cũng mau chóng bị hủy diệt. Nhưng những lời dạy của các bậc Giác Ngộ chẳng bao giờ bị mai một. Những lời dạy của bậc Giác Ngộ đưọc lưu truyền bởi những người hiểu đạo".
Điều đó có nghĩa là ta có thể nói rằng ai rồi cũng chết. Nhưng thân mạng không phải là cái quan trọng bậc nhất. Tâm và ư thức về chân thiện mỹ c̣n quan trọng hơn. Chúng sẽ không bao giờ bị hủy diệt.
Chết không có ǵ hơn là một sự chuyển đổi. Chúng ta nhẹ nhàng chuyển đổi qua một trạng thái hiện hữu khác. Dỉ nhiên sự chết chỉ xảy ra nhẹ nhàng nếu ta không cưỡng lại nó và nếu chúng ta không phải chịu đau đớn.
Có một thời gian, các vị pháp sư giảng về Phật pháp, cho rằng người ta phải ra đi trong trạng thái hoàn toàn tỉnh thức, và v́ lư do đó, không nên cho người bịnh dùng các loại thuốc giảm đau. Nhưng điều đó có vẻ trái ngược với lời Đức Phật dạy rằng người ta cần đưọc ra đi với tâm yên tĩnh.
Làm sao người ta có thể yên tĩnh ra đi khi đang phải chịu đau đớn? Ở các nơi chăm sóc cho người bịnh của Phật giáo, người ta cũng t́m mọi cách làm cho bịnh nhân đưọc bớt đau đớn. V́ thế nếu cần ta vẫn phải dùng đến các loại thuốc giảm đau, dầu có làm cho người bịnh mê man.
Tâm thức lúc nào cũng có mặt dù rằng người bịnh có thể không tră lời ta hay có vẻ bất động. Thật là sai lầm nếu cứ để người sắp ra đi phải chịu đau đớn điều đó chỉ làm cho tâm họ rối bời, bất an.
Đức Phật c̣n khuyên rằng, ta cần phải đợi ba ngày trước khi chôn xác, v́ tâm thức cần thời gian để lià bỏ xác thân nó từng ẩn náu. Người Phật tử cũng nghĩ rằng nếu đưọc chết ở nhà trong một khung cảnh quen thuộc, ấm cúng th́ tốt hơn.
Những người thân cần có mặt và phải hiểu rằng họ cần nói lời từ gĩa với người sắp chết, như một lời chúc lành trước khi họ ra đi. Nói với họ rằng dù ta có nhớ nhung tiếc nuối họ, nhưng ta hoàn toàn có thể tự lo khi không có họ ở bên cạnh.
Rằng ta rất thương yêu họ, nhưng ta phải tiếp tục cuộc sống. Những lời nói như thế rất quan trọng đối với người sắp chết. Không nên níu kéo họ, v́ như thế chỉ làm cho sự ra đi của họ thêm khó khăn. Trong các bịnh viện của Thiên Chuá giáo, tôi nghĩ là chắc họ cũng làm như thế.
Trước đây, có một phóng viên đến chổ chúng tôi ở Buddha-Haus. Cô hỏi có phải lư do khiến tôi có thể dể dàng chấp nhận cái chết của ḿnh, là v́ tôi tin có luân hồi. "Không" tôi tră lời cô. "Tôi không nghĩ như thế".
Người ta chỉ phải tái sinh nếu có ư muốn đưọc tái sinh. Khi không c̣n ư muốn hiện hữu như một tự ngă, th́ không c̣n ǵ xảy ra nữa. Tôi sẳn sàng ra đi một lần cho tất cả.
"Rồi việc ǵ sẽ xảy ra", cô phóng viên muốn biết.
"Không có ǵ cả. Tất cả đă chấm dứt. Lúc đó người ta đă đạt đưọc đến Niết bàn, sự an b́nh tuyết đối. Loại thiền định sâu xa hoàn hảo nhất".
Tác giả: Ayya Khema
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 367 of 1146: Đă gửi: 24 June 2010 lúc 7:33pm | Đă lưu IP
|
|
|
TÂY PHƯƠNG DU KƯ
Ngày 25 tháng 10 âm lịch, năm 1967, Ngài Đại Pháp Sư KHOAN TỊNH ngồi thiền trong động Di Lặc, núi Cưu Tiên, dăy Quế Lạc, Công Xă Thượng Dơng Huyện Đức Hóa Tỉnh Phước Kiến, đột nhiên được Bồ Tát Quan Thế Âm tiếp dẫn đi, khiến mất cả tông tích.
Lúc ấy, Pháp Sư được dẫn đến Thế Giới Tây Phương Cực Lạc, tham quan các cảnh giới chín phẩm hoa sen. Thời gian dường như chừng một ngày một đêm, nhưng khi về đến nhân gian đă là ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch, năm 1973 chạy ra đă trên sáu năm, năm tháng trôi qua.
Thoạt nghe th́ như là vượt ra tri thức thường t́nh, khó mà lư giải được. Có câu nói: "Trên trời một ngày, dưới này vài năm" là vậy, cũng bởi không gian của vũ trụ không giống, khái niệm thời gian cũng có khác, người có chút ít hiểu biết về Phật học, tất lư nhận ra được.
Thế gian lúc ấy không thấy dấu tích Pháp Sư đâu, đổ xô đi t́m, tăng lục cả Chùa, t́m khắp cả núi, hằng trăm cái động, lớn có nhỏ có, vẫn không thấy tông tích của Pháp Sư, thậm chí huy động cả các đội trục vớt, đội cứu nạn băi biển, cứu nạn thác ghềnh vẫn không thấy.
Một số thiện tín nhiệt thành, c̣n tuôn ra các huyện thành, các chợ Tuyền Châu, chợ Hạ Môn, chợ Phước Châu, chợ Nam B́nh kiếm t́m, c̣n gởi thơ nhờ các tỉnh huyện lân cận như huyện Vĩnh Thái, Huyện Vĩnh Xuân, Đức Hóa, Phước Thanh, lăng xăng cả mấy năm dài mà vẫn không tin tức ǵ cả.
Thế rồi, mọi người đều nghĩ Pháp Sư đă viên tịch trong ḷng thương tiếc vô cùng. Thật ra từ đầu đến cuối, Pháp sư chưa hề rời khỏi động Di Lạc nữa bước. Do được Phật hộ, nhục thể để trong động những sáu bảy năm mà không bị phát hiện, không bị mục hư, cũng không rơ là được dấu ở đâu (rất có thể dấu ở một dạng không gia khác), về điểm nầy có các cư sĩ ở đây xác minh được, như cư sĩ Trịnh Tú Kiên chẳng hạn.
Suốt quá tŕnh dấn bước đến đất Phật Tây Phương Cực Lạc nầy, không thể sánh với bất kỳ một cảnh giới nào trong mộng được. Ngài là một vị tăng đắc đạo, không hề nói chuyện thêu đặt, vọng ngữ, mà cũng chẳng cần vọng ngữ làm ǵ.
Hơn nữa, cảnh giới mà Pháp Sư thấy được không hề giống cảnh giới nào của thiền định thấy, mà cả cảnh giới mà thiền định thấy, cũng chẳng nên đem ra tiết lộ, nếu không tam bộ Thiên Long, mà cả Thiên Ma nữa cũng có thể đến quấy nhiễu được.
Đằng nầy Pháp Sư đă nhận chỉ thị của đức Phật A Di Đà và Bồ Tát Quan Thế Âm nên mới công khai đem chuyện mắt thấy tai nghe trong các cảnh giới của chính phẩm hoa sen nơi Thế Giới Tây Phương Cực Lạc mà chi tiết tŕnh bày ra đây.
Phàm những người học Phật đều biết, tội đại vọng ngữ phải xuống ngục Vô Gián, khó có ngày ra, v́ thế mà những ǵ Pháp Sư diễn thuật về Thế Giới Cực Lạc mà Ngài thân hành bước tới là chuyện xác thực ngày vạn lần, có tam giới thần tiên, tám bộ Thiên Long làm chứng.
Ngoài cái thế giới ta đang sống, có một thế giới Cực Lạc mà đức Phật nói trong kinh A Di Đà, đều là thực có, Khoan Tịnh Đại Pháp Sư làm một nhân chứng sống về việc ấy. Bút giả cư sĩ Lưu Thế Hoa căn cứ lời kể mà ghi lại.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 368 of 1146: Đă gửi: 24 June 2010 lúc 7:43pm | Đă lưu IP
|
|
|
TÂY PHƯƠNG DU KƯ
Lược sử: Khoan Tịnh Đại Pháp Sư
Khoan Tịnh Đại Pháp Sư ra đời lúc 10 giờ mùng 7 tháng 7 năm giáp Tư 1924. Ngài ra đời trong căn nhà số 140 đại lộ Thành Quan Trấn Đông thuộc huyện Bồ Điền Tỉnh Phước Kiến. Là một hộ cư sĩ Phật giáo họ Phan.
Cái đêm Ngài sinh ấy, chân trời đông tây hai hướng ánh vàng óng ánh chớp liên hồi khiến cả cơi đất nơi ấy như vàng óng ánh, vinh diệu, nên lấy đó đặt tên ngài là Phan Kim Vinh.
Lúc nhỏ không học, nhưng tư chất thông minh vượt thường, bảy tuổi đă rời nhà tu tập Chùa Giáo Trung, Phước Kiến; mười lăm tuổi chính thức phủi tóc quy y với thầy Hư Vân lăo Hoà Thượng tại chùa Tô, hiệu chùa Nam Hoa, Quảng Đông.
Lại thọ chánh nhăn tạng với thầy Hư Vân lăo Hoà Thượng tại núi Vân Cư, Giang Tây, là người truyền đăng, đời thứ bốn mươi tám của Tông Động Vân, từng làm trục tŕ một số chùa ở Phước Kiến như chùa Đế B́nh, chùa Thủy Liên, chùa Tiên Phật, chùa Năng Nhân, chùa Khai B́nh, chùa Mạch Tà, chùa Tam Hội.
Lúc trụ tŕ chùa Tam Hội thuộc huyện Tiên Du, Phước Kiến năm 1980, Ngài bắt đầu tọa thiền từ ngày 23-12 ngồi riết đến ngày 29-12 mới xá, cộng lại cả sáu ngày rưỡi thiền, đă chấn động cả huyện Tiên Du, lúc ấy thiện tín đến quy y với Ngài có hơn ba ngàn.
Năm 1982, đến New York làm hành cước tăng, tuyên Hội Phật Pháp, đă từng lưu trú lại, làm việc tại Giáo Hội Phật Giáo Bắc Mỹ và được mời làm Hội Trưởng danh dự Giáo Hội Phật Giáo San Phan, Mỹ Châu. Chùa Nhă Na, Chùa Quán Thế Âm..Đúng là một vị nho tăng đắc đạo.
Đại Pháp Sư Khoan Tịnh thuyết giảng tại núi Nam Hải Phổ
Đà, Tân Gia Ba, vào tháng 4 năm 1987.
Chư vị Pháp Sư, Chư vị Đại Đức, chư vị Cư Sĩ.
Kính chào tất cả chư vị,
Hôm nay chúng ta có đủ Phật duyên cùng hội tụ một chỗ tại đây, cũng là nhân duyên kiếp rồi và quá khứ vô số kiếp về trước. Đó là nhân duyên kiếp rồi và quá khứ nhiều kiếp tập đặng, do đó hôm nay mới có thể gặp mặt nhau tại nơi nầy.
Câu chuyện mà tôi sắp nói đây là quá tŕnh bản thân tôi hành dấn bước đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Tôi sẽ tŕnh bày cặn kẽ những cảnh giới, t́nh h́nh được thấy được nghe trong thế giới Cực Lạc cùng chư vi.
Tôi sẽ nói thành năm phần như sau:
1. Tôi đến thế giới Cực Lạc bằng cách nào? Với nhân duyên ǵ có thể đến nơi ấy được? Thật ra th́ tôi viếng Thế Giới Cực Lạc trước sau vỏn vẹn chừng hai mươi tiếng đồng hồ trong ư nghĩ tôi ước đoán, thế mà, về tới thế gian này so lại, đă trôi qua hơn sáu năm, năm tháng dài.
2. Trên lộ tŕnh tôi đến thế giới Cực Lạc tuần tự ghé qua địa phương nào, kể th́ có đông La Hán, trời Đao Lợi, trời Đâu Suất, rồi đến ba địa điểm chính của thế giới Cực Lạc, Hạ phẩm Liên Hoa, Trung phẩm Liên Hoa.
Ghi nhận rằng mỗi phẩm Liên Hoa lại chia làm ba bậc: Thượng, Trung, Hạ, cho nên hợp thành cửu phẩm Liên Hoa. Tôi sẽ nói cùng chư vị thật cặn kẽ cảnh giới của ba địa điểm chính ấy như thế nào.
3. Tôi sẽ nói về t́nh h́nh văng sanh vào chín phẩm Liên Hoa như thế nào, nói cách khác, nghĩa là tôi sẽ nói cách tu tŕ như thế nào, để được công quả như thế nào của chúng sanh trong thế giới ta bà này, mà định đoạt sẽ được vănh sanh vào phẩm nào trong chín phẩm Liên Hoa ấy.
Và t́nh h́nh sinh hoạt thực tế của chúng sanh trong mỗi phẩm Liên Hoa như thế nào. Thí dụ: đặc trưng thân h́nh, màu sắc, y phục, ăn uống nghỉ ngơi và độ cao, độ lớn của chúng sanh trong từng phẩm Liên Hoa trên ấy như thế nào.
4. Tôi sẽ nói về phương pháp tu tŕ của chúng sanh trong nước Cực Lạc như thế nào, nói dễ hiểu hơn: Tức là nói chúng sanh của từng phẩm một, tu tŕ như thế nào để được lên từng phẩm, từ dưới lên trên, lên măi đến thành Phật đạo.
5. Sẽ tŕnh bày lại lời của chư vị ở trên ấy, mà trước này tôi biết được; nhắn nhủ tôi khi trở lại ta bà nầy dặn ḍ tôi chuyển lời lại chư vị ở ta bà như thế nào.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 369 of 1146: Đă gửi: 24 June 2010 lúc 8:03pm | Đă lưu IP
|
|
|
TÂY PHƯƠNG DU KƯ
Trên Đường Gặp Kỳ Duyên,
Bồ Tát Quan Âm Dẫn Vào Cảnh Thánh.
Ấy là câu chuyện ngày 25 tháng 10 năm 1967.
Hôm ấy tôi đang ngồi thiền trong chùa Mạch Tà Nham (ghi chú: Pháp Sư là trụ tŕ của chùa này). Đột nhiên dường như có tiếng ai gọi tên tôi, c̣n xô tôi về phía trước, lúc ấy tôi có hơi giống người ngà ngà say, lâng lâng làm sao ấy cũng chẳng hỏi nguyên do, cứ thế mà bước ra khỏi chùa.
Trong kư thức tôi nghĩ: giờ đây phải qua núi Cửu Tiên ở huyện Đức Hoà, tỉnh Phước Kiến dạo chơi (từ chùa Mạch Tà Nham đến núi Cửu Tiên ước chừng hai trăm cây số) cứ thế tôi bước đi, suốt dọc đường không hề cảm thấy mệt nhọc, cũng không thấy đói bụng, miệng khát th́ nốc vài ngụm nước suối, cũng chẳng biết được bao lâu rồi, hầu như không hề ngủ nghỉ qua, chỉ biết rằng lúc ấy đang tạnh ráo không mưa.
Đúng vào lúc đang dấy lên đại cách mạng văn hóa bên Trung Quốc.
Khi tôi đến nơi cách núi Cửu Tiên, huyện Đức Hóa không bao xa, đột nhiên, thần trí tôi tỉnh trở lại, lúc ấy tôi nghe tiếng nói chuyện của nhóm người đi đường, biết được nay là ngày 25 tháng 10 thời kỳ cách mạng văn hóa, nơi nơi loạn lạc dân chúng đợi ban đêm mới ra đường, tôi suy như vậy cũng không khác thường.
Lúc ấy cũng ba giờ khuya, trên đường tôi gặp một sư già, cách phục sức y áo giống như tôi vậy, chúng tôi vốn chưa quen biết, giữa đường gặp người đồng đạo, tự nhiên không hẹn mà chắp tay xá nhau thi lễ.
Chúng tôi trao đổi nhau danh tự, vị sư bảo:
- Tôi pháp hiệu Viên Quang, hôm nay chúng ta có duyên hội ngộ, chi bằng cùng đến núi Cửu Tiên dạo chơi được chứ!
Do đi cùng hướng, tôi đồng ư ngay. Thế là vừa đi vừa tṛ chuyện, suốt câu chuyện dường như vị sư ấy thấu rơ rất nhiều chuyện quá khứ thầm kín của tôi, nói rất nhiều chuyện nhân quả, cũng y như chuyện thần thoại, câu chuyện dẫn hết trong đời này qua đến nguyên nhân tạo tác của đời trước, rồi đời trước nữa.
Rằng kiếp ấy tôi sanh ở đâu? Ở những nơi nào? Lúc nào? Làm những việc ǵ, nghe say mê quá, đến nay từng câu từng chữ một, tôi vẫn c̣n nhớ vanh vách. (Sau này tra cứu lại niên đại ấy, người tên họ ấy, cả nghề nghiệp ấy, phần mộ ấy, nhóm con cái ấy đều đúng cả).
Chân bước theo câu chuyện, bất giác tới chân núi Cửu Tiên không hay, đỉnh núi này có một động lớn, thờ tượng Di Lạc nên gọi là động Di Lạc là nơi chúng tôi nhắm đến; tôi nghe rất quen thuộc và rành đường lối đến động này.
Nhưng mà khi lên đến nửa đường núi, hiện ra trước mắt tôi những cảnh tượng thật khác lạ, con đường đang đi đă này không phải là con đường núi Cửu Tiên trước đây, đằng nầy, đường lối được xây bằng những tảng đá lớn, lấp lánh ánh hào quang, thật lạ, đi đến cuối nh́n lại, đă không c̣n là động Di Lạc nữa, mà là một vùng trời đất khác rồi.
Trước mắt tôi hiện ra ngôi chùa lớn trước nay chưa từng thấy, vô cùng tráng lệ, so với cung điện ở Bắc Kinh, c̣n hùng vĩ hơn nhiều. Hai bên ngôi chùa có hai ṭa bảo tháp, đi một lúc chúng tôi đă đến cổng lớn, cổng xây bằng toàn là đá trắng, cửa cổng có tấm hoành phi to, trên ấy có viết mấy chữ, tôi nh́n không biết nghĩa.
Trước cổng có bốn vị Ḥa Thượng, ḿnh mặc aó tràng đỏ, lưng đeo đai vàng óng, tướng trang nghiêm, thấy hai chúng tôi đến, cùng quỳ xuống đảnh lễ nghênh tiếp, tôi vội vàng đáp lễ lại, tôi lấy làm lạ, cách phục sức của Ḥa Thượng nơi đây tôi chưa từng thấy. Có hơi giống các vị Lạc Ma tăng, các vị ấy cũng mỉm cười lên tiếng:
- Thế là đến rồi, hoan nghênh, hoan nghênh.
Rồi mời hai tôi vào trong. Vào cổng, qua mấy cung điện, lạ thật, nhà cửa ở đây đều ánh ra tia sáng, đẹp quá, hùng vĩ quá. Bên trong có một dăy hành lang, hai bên trồng đủ loại kỳ hoa dị thảo, màu sắc khác nhau, đi một lúc đến một ṭa đại điện, trên điện có bốn chữ vàng lớn, lấp lánh tia sáng, không phải hoa văn, cũng không phải Anh Văn.
Tôi nh́n không hiểu mới hỏi Sư Viên Quang về nghĩa bốn chữ ấy, Sư bảo là "Trung Thiên La Hán" tôi thầm nghĩ, đă gọi là Hán, đây chắc phải là cảnh giới đạt được của những vị La Hán. Bước đến nơi đây tôi rờn rợn cảm giác rằng vùng đất này hẳn không c̣n là thế giới ta bà chúng ta rồi. Đến nay tôi c̣n nhớ được một chữ, c̣n ba chữ kia không nhớ ra.
Lúc tôi gặp Sư Viên Quang là ba giờ khuya, nay đă hừng sáng rồi, bên trong và ngoài điện có vô số người ra vào, với các loại màu da vàng, trắng, đỏ, đen, đều có đó, da vàng chiếm đa số, già, trẻ, trai gái đều có.
Quần áo rất lạ, thẩy đều có phát hào quang tụ năm tụ ba, có nhóm tập vơ nghệ, có nhóm ca sang múa vũ, có nhóm đánh cờ, có nhóm ngồi thiền dưỡng thân, tất cả dù bận việc ǵ cũng ánh lên nét vui mừng; thấy chúng tôi đến, đều lộ vẻ thắm thiết, mĩm cười gật đầu, nhưng vẫn không nói lời nào.
Vào trong Đại Điện, tôi lại thấy bốn chữ lớn khác, Sư Viên Quan cho biết: đó là bốn chữ "ĐẠI HÙNG BỬU ĐIỆN", từ trong có hai vị Ḥa Thượng già ra đón chúng tôi. Tôi thấy một vị có râu trắng rất dài, một vị khác cũng già nhưng không có râu.
Vừa gặp Sư Viên Quang, vội quỳ xuống lạy, hành đại lễ, La Hán ở trung thiên đối với Sư Viên Quang mà kính trọng đến bậc ấy, thiết nghĩ, Ngài chắc là bậc phi phàm lắm vậy.
Lúc họ tiến dẫn chúng tôi vào pḥng khách, tôi để ư bốn bên điện, chỉ thấy khói hương lan tỏa, mùi thơm ngào ngạt, mặt đất đều trải bằng những phiến đá trắng bóng loáng. Đặt biệt hơn, trong điện thờ không có một tượng Phật nào, mà phẩm vật cúng dường th́ rất nhiều.
Hoa tươi từng đóa lớn như quả banh, đều tṛn ung ủng, các kiểu các dạng đèn treo, màu sắc sặc sỡ, lóng lánh hào quang, vào đến pḥng khách cụ Ḥa Thượng chuyển hai ly nước từ tay tiểu đồng để mời chúng tôi, người tiểu đồng ấy đầu thắt hai bím, thân mang áo lục, lưng thắt đai vàng óng, trang phục như đạo đồng, rất dễ thương.
Nước trong ly trắng trong mát dịu, tôi uống nửa ly. Sư Viên Quang cũng nâng cốc, uống rồi tinh thần phấn phát, khỏe hẳn người ra, mất hết cái mệt nhọc trong ngày.
Sư Viên Quang nói nhỏ bên tai cự Ḥa Thượng cái ǵ đó, cụ bèn dặn tiểu đồng dẫn tôi đi tắm, tôi thấy một bồn nước bằng đồng trắng đựng đầy nước trong sửa soạn từ lúc nào, tôi rửa mặt và tắm gội, rồi lại được trao cho bộ áo Ḥa Thượng màu lam xám, thanh khiết mới toanh.
Tắm xong tinh thần thư thái hẳn lên, tôi thầm nghĩ: hôm nay tôi nhất định đă vào cảnh Thánh rồi, ḷng mừng khẩp khởi khó mà thí dụ cho được.
Về lại pḥng khách, tôi vội đến trước Ḥa Thượng quỳ lạy ba lạy, xin được chỉ dạy, tôi hỏi về tương lai của Phật Giáo Trung Quốc ra sao? Vị Hoà Thượng này không nói một tiếng, chỉ thấy nhấc cây bút chấm mực viết trên giấy tám chữ: "PHẬT TỰ TÂM TÁC, GIÁO DO MA CHỦ".
Ḥa Thượng trao giấy cho tôi, hai tay tôi tiếp nhận, nhưng chẳng hiểu ǵ về ngụ ư của tám chữ này, vị Ḥa Thượng khác giải thích cho tôi biết, với tám chữ này để ngang đứng, đứng ngang, trái phải, phải trái, trên dưới, dưới trên, chữ cuối lại tách ra, đọc thành ba mươi sáu câu, sẽ hiểu được t́nh h́nh Phật Giáo từ nay đến trăm năm sau.
Nếu mà lại đem ba mươi sáu câu ấy diễn dịch thành tám trăm bốn mươi câu, có thể thấu được tiến tŕnh Phật Giáo thế giới từ nay cho đến khi Phật Giáo diệt độ mới thôi.
Sư Viên Quang cho biết tám trăm bốn mươi câu nầy, cần thời cơ chín mùi đă mới công bố được, nay chỉ nên tuyên bố ngầm như vậy, tám chữ nầy hóa ra tám trăm bốn câu, mỗi câu đều khác, giải thích t́nh huống Phật Giáo Trung Quốc sau nầy.
Tôi loay hoay sắp:
- Phật tự tâm tác, giáo do ma chủ
- Phật giáo tự chủ, ma tâm do tác
- Tác tâm tự Phật, chủ do ma giáo...
Nhiều lắm nhưng tôi vẫn không hiểu và chưa chắc chắn cách sắp này là đúng, thiện trí thức nào biết, cứ sắp thử, sắp một hồi, vị Ḥa Thượng bảo tôi nên vô pḥng nghỉ ít lâu, tiểu đồng dẫn tôi vào pḥng, chẳng thấy giường đệm đâu cả, chỉ có hai cái ghế dựa trên trải nhiễu.
Rồi tôi ngồi lên ghế tĩnh tọa, thoáng cái, cả người tôi bỗng thấy thoải mái, thư thái vô cùng, tôi không c̣n biết tôi đang ở đâu nữa. Thế rồi nghe tiếng Sư Viên Quang gọi tôi, tôi vội vă đi xuống, chạy ra khỏi pḥng.
Sư Viên Quang nói với tôi:
- Bây giờ tôi đưa ông đến Trời Đâu Xuất, đảnh lễ Bồ Tát Di Lặc, và Sư Phụ của ông là Hư Vân Lăo Ḥa Thượng nhá!
Tôi mừng quưnh:
- A Di Đà Phật hay quá, cám ơn Ngài.
Rời đại điện tôi định giă từ hai vị Ḥa Thượng nơi đây, nhưng Sư Viên Quang ngăn lại:
- Không cần, không cần, th́ giờ không có bao nhiêu.
Thế là lần nầy tôi đến cung trời Đâu Xuất.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 370 of 1146: Đă gửi: 24 June 2010 lúc 8:13pm | Đă lưu IP
|
|
|
TÂY PHƯƠNG DU KƯ
TRÊN TRỜI ĐÂU XUẤT GẶP HƯ VÂN LĂO H̉A THƯỢNG
Trên đường đi, tôi gặp rất nhiều điện vàng, bảo tháp, nguy nga tráng lệ, tất cả đều phát sáng, khiến tôi nh́n không chớp mắt nhưng Sư Viên Quang thôi thúc nói thời giờ eo hẹp, đi cho nhanh lên.
Măi sau này tôi mới biết, thời gian trên Thượng giới khác với thời gian chúng ta sống, không nên để luống qua, nếu không về tới ta bà đây chắc cũng lướt qua vài trăm năm, có khi cả ngàn năm không chừng.
Hầu hết những con đường đều xây bằng đá tảng lớn trắng, và ẩn hiện ánh hào quang, trên núi hoa thơm cỏ lạ muôn vàn, nương gió hắt lại những mùi thơm ngát trời. Quanh quanh mấy cái eo triền núi, đến một cái vực rất sâu cả mấy chục ngàn thước ẩn hiện phía trước một cây cầu để bước qua bên kia vực, nhưng không thấy đầu cầu và cuối cầu, mây từng cụm là là che phủ, chỉ thấy một đoạn ṿng lên cao ở giữa cầu. Tôi thầm nhủ:
- Cái cầu như vậy làm sao qua được đây? Ngay lúc ấy Sư Viên Quang hỏi tôi:
- Hằng ngày ông thường tŕ chú ǵ? Kinh ǵ?
Tôi trả lời:
- Tôi hay tŕ chú Lăng Nghiêm, kinh Pháp Hoa. Sư bảo tốt, thế giờ ông tŕ chú đi!
Tôi bắt đầu tŕ chú. Chú Lăng Nghiêm có hơn ba ngàn chữ, mới tŕ có hai ba trăm chữ, cảnh đằng trước tôi hóa ra khác rồi, cây cầu lúc ấy hiện rơ hai đầu cầu nối lại với lại bờ đất, cầu tỏa sắc óng ánh vàng, lóng lánh chói lọi, cả cầu được dựng bằng bảy báu vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ...
Trông như cầu vồng treo giữa lưng trời vậy, đẹp mắt vô cùng, thành cầu có nhiều cột đèn, đèn bằng hạt châu sáng và thật to, đầu cầu có dựng cổng trên có khắc năm chữ lớn, như bốn chữ ở đại điện đă thấy, nên tôi đoán năm chữ ấy là "TRUNG THIÊN LA HÁN KIỀU", qua khỏi cầu, nghỉ lại đôi chút tôi vội hỏi Sư Viên Quang:
- Bạch Sư, tại sao khi chưa niệm chú tôi chẳng thấy hai đầu cầu, niệm rồi lại rơ ra như vậy? Sư rằng:
- Khi chưa niệm chú, bản tánh của ông tức Bản Lai Diện Mục của ông bị nghiệp chướng của tự thân trùng trùng vây chặt, siêu thắt ḿnh lại, áng cả tầm nh́n, không thể thấy tánh cảnh được đâu, sau khi niệm chú do oai lực của chú, nghiệp chướng tức th́ tiêu tan nên chẳng bị che khuất, tự tánh thanh tịnh, hiện ra cảnh giới thật của nó, từ mê chuyển tỉnh, nên nói muôn dặm không thấy muôn dặm trời là vậy đó.
Chúng tôi lại bắt đầu đi, vừa đi vừa tŕ chú, tự nhiên phía trước bước chân hiện ra những hoa sen to, từng cánh sen chiếu ánh sáng xanh lóng lánh như thủy tinh vậy, bước lên hoa sen nâng lốc tôi lên lưng trời giống như cỡi mây lướt gió vậy, chỉ nghe tiếng rít bên tai mà không cảm thấy gió to ǵ cả, tốc độ bay sánh với máy bay siêu tốc, chỉ thấy cảnh vật chung quanh cứ vùn vụt mà ném lại đằng sau.
Không bao lâu thân tôi nóng dần lên, lúc ấy tôi thấy có một cái cổng to, nếu sánh với Thiên An Môn ở Bắc Kinh th́ cổng này hùng vĩ hơn nhiều, những cột to có dáng rồng phượng lóng lánh hào quang, trên chóp mái dạng như cung vua vậy, nhưng toàn một màu bạc óng, toàn cảnh như một cổng thành bằng bạc khối chiếu sáng vô cùng hùng tráng.
Bảng cổng có ghi bằng năm loại văn tự, về Hán văn th́ đọc được là "NAM THIÊN MÔN", Nam Thiên Môn là trụ xứ của Tứ Đại Thiên Vương. Trong Nam Thiên Môn có rất nhiều người trời đứng thành hai hàng, văn vơ hai bên, nhóm văn vơ đều mặc trang phục như tướng trong cung vua vậy, nhưng đều tỏa chiếu hào quang, vô cùng oai vơ, tất cả đều chắp tay mỉm cười làm lễ nghênh tiếp hai chúng tôi, nhưng chẳng nói một lời.
Vào trong thấy một tấm gương lớn, nghe đâu gương này soi thấy nguyên thần, biết được giả thật. Suốt đường vào trong, thấy rất nhiều cảnh lạ, như ráng trời, cụm mây, bông hoa sấm chớp, cứ vùn vụt lướt qua lại, lăng xăng liên tục, bên ngoài các từng mây, thấp thoáng những đ́nh đài, lầu các mũi tháp chập chùng, Sư Viên Quang bảo tôi:
- Đây là từng trên của trụ xứ Tứ Đại Thiên Vương, từng thứ hai của trời Dục Giới, gọi là trời Đao Lợi, là nơi ngự của Ngọc Hoàng Đại Đế, cai quản ba mươi hai cung trời bốn phương. Tôi không được nh́n ngắm lâu, cứ thế lướt qua mấy từng trời.
Sư Viên Quang nói tiếp:
- Đây rồi, nơi nầy là trời Đâu Xuất, từng thứ tư trời Dục Giới.
Thoáng chốc, đă đến trước một cửa cổng điện các lớn. Ra đón chúng tôi có hơn hai mươi người, trong đó có một người không xa lạ ǵ, đó là ân sư truyền giới cho tôi, Hư Vân Lăo Ḥa Thượng, là một trong ba cao tăng Trung Quốc thời cận đại.
C̣n hai người nữa, mà tôi biết được là Ḥa Thượng Diệu Liên và Đại Sư Phước Vinh, họ đều khoác y đỏ, rất hoa lê.. Gặp ân sư tôi vội quỳ xuống đảnh lễ, suưt chút nữa là tôi bật tiếng khóc v́ xúc động. Ân Sư hỏi tôi:
- Lúc này con làm sao, trong ḷng thanh tịnh không, có c̣n ǵ buồn vui xúc động không? Con có biết vị đưa con đến đây là ai không?
Tôi trả lời:
- Bạch Thầy vị ấy là Sư Viên Quang Lăo Pháp Sư.
Lúc ấy ân sư thổ lộ cho tôi biết: Vị ấy là vị mà hằng ngày con vẫn niệm Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT. Nghe qua tôi hết hồn, vội quỳ xuống đănh lễ Sư Viên Quang (Hóa thân của mẹ Quan Âm) thật là có mắt mà chẳng thấy núi Thái Sơn.
Trước Bồ Tát Quan Âm, trong khoảnh khắc ấy, không biết nói làm sao cho phải. Người ở trời Đâu Xuất chẳng giống người ở ta bà ḿnh, thân cao hơn ta những năm hoặc sáu lần, nhưng mà Bồ Tát Quan Âm đành rằng đă đưa tôi đến đây, khiến cho tôi hóa ra lớn bằng tầm cỡ trên này. Ân Sư dặn ḍ tôi:
- Ở thế gian phải cần khổ công tu luyện, nghiệp chướng cần thông qua thử thách mới có thể lần hồi giải trừ được..giải trừ được.
Ân sư c̣n dặn tôi phải xây chùa chiền...
Ở trên này tôi có gặp một số người nữa, trai gái trẻ già đều có, trang phục của họ hao hao giống triều đại nhà Minh.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 371 of 1146: Đă gửi: 24 June 2010 lúc 8:22pm | Đă lưu IP
|
|
|
TÂY PHƯƠNG DU KƯ
ĐƯỢC BỒ TÁT DI LẠC CHỈ DẠY
Sau đó chúng tôi cùng tiến vào nội điện của cung trời Đâu Xuất để đảnh lễ Bồ Tát DI LẠC. Cái đẹp, cái hùng tráng của Điện Di Lạc thật là không bút mực nào h́nh dung ra được, nơi đâu cũng lấp lánh óng ánh vàng. Cửa điện có gắn ba chữ lớn tỏa ánh vàng kim, viết bằng hán văn "ĐÂU XUẤT THIÊN".
Tại đây, chính mắt tôi thấy Bồ Tát Di Lạc. Dáng dấp của Ngài không giống như ông Phật cười ngất với cái bụng to, tṛn ung ủng như tượng Phật Di Lạc ở thế gian. Bồ Tát Di Lạc hiện tướng trang nghiêm với đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi oai nghi, dáng Ngài rất là đẹp.
Hai bên đại điện có rất nhiều Bồ Tát. Những Bồ Tát ấy mặc các loại áo đạo khác nhau đang đứng hoặc ngồi, nhưng những Ngài mặc áo cà sa đỏ có ánh hào quang, tỏa ra từ áo là chiếm đa số, mỗi vị đều ngự trên một ṭa sen. Tôi bèn tiến lên đảnh lễ Bồ Tát Di Lạc và xin Ngài chỉ dạy. Bồ Tát Di Lạc nói với tôi một số pháp âm:
- Ta sẽ giáng sanh vào thế giới ta bà khi mở Hội Long Hoa lần thứ ba (cách chừng sáu mươi ngàn vạn ức năm sau). Lúc ấy cả địa cầu không đâu có núi cao hay biển sâu, hang ổ vực thẳm, cả cơi đất bằng phẳng như bàn tay.
Thế giới ta bà sẽ biến thành tịnh độ nhân gian. Để dọn đường, các ông dưới ấy cần thương yêu lẫn nhau, giữa đạo này với đạo khác. Không nên chê dèm pha, phỉ báng nhau. Trong cùng một đạo, giữa tông này với tông khác cũng phải phấn đấu, khuyến khích nhau tinh tấn tu tŕ, cần phải sửa đổi cái sai, pḥ tŕ cái đúng.
Ngài c̣n nói nhiều nữa nhưng tôi nhớ không hết, cuối cùng tôi đảnh lễ Ngài rồi ra ngoài.
Ân Sư tôi Hư Vân Lăo Ḥa Thượng dẫn tôi đến một ṭa lầu các lớn. Trước ṭa ấy có một vị ăn mặc giống như quần áo của vơ tướng nhà Minh, xem ra không phải là Bồ Tát Vi Đà. Vị này dẫn tôi vào bên trong, c̣n dọn ra đăi chúng tôi bánh mật hoa mà các tiên nữ ở đây hái và luyện thành.
Tôi ăn thử một miếng sao mà ngon, dịu ngọt và hấp dẫn như thế. Phước Vinh Đại Sư nói với tôi là trên trời mọi người đều dùng bánh chế luyện bằng mật hoa, không những được bệnh tật, kéo dài tuổi thọ mà c̣n làm trẻ lại và khỏe ra nữa, cứ ăn nhiều lên đi có lợi lắm đó.
Sau này đúng là thể dạng tôi phục hồi tuổi xuân, tôi cảm thấy trẻ ra và thân thể cũng cảm thấy nhẹ nhàng nhiều, và măi đến hôm nay tôi chưa dùng đến một viên thuốc nào cả.
Tiếp đến Đại Sư Phước Vinh lại nói:
- Người ở Thượng giới ham vui chẳng chịu tu hành, cũng y như người giàu có ở thế gian vậy. Không chịu xuất gia chỉ ở hưởng cái phước trước mắt mà chẳng hề biết là chưa ra khỏi tam giới, chưa thoát khỏi sinh tử luân hồi. Chúng tôi ở đây nghe Bồ Tát Di Lạc thuyết pháp sau này giáng thế độ chúng sanh, mới là thực sự hành Bồ Tát Đạo, liễu thoát sinh tử.
Lúc ấy Ân Sư tôi cũng dạy tôi thêm:
- Thời kỳ mạt pháp này cần phải tu hành phổ độ chúng sanh trong hoàn cảnh ác liệt nhất, trong t́nh huống xấu xa nhất cũng phải thể hiện tâm đại từ bi, đừng tham cầu tiện nghi trong thuận cảnh mới độ sanh, mới từ bi hỉ xă, đừng né tránh nghịch cảnh, cần phải độ cho người ác biết giác ngộ, biết quay đầu hành thiện, làm lành.
Con người có làm lành cuộc sống mới tốt lành. Để thanh tịnh mà tu, ở ngay trong hoàn cảnh xấu ác nhất mà kiên quyết giữ được Huệ mạng Phật Bồ Tát, đó mới là thực hành chánh Bồ Tát Đạo.
Ta dặn con, khi trở lại thế gian cần nói cùng đồng đạo, nhất là các bạn cùng tu, cần lấy giới làm Thầy, theo cũ mà hành tŕ, đừng cải cách duy tân, sửa đổi tăng chế.
Ta rất đau ḷng thấy có người cho chú Lăng Nghiêm là giả, có kẻ c̣n không tin nhân quả lại bịa ra trứng là chay lạt, lại không chịu khó tu tŕ để cảm hóa chúng sanh, c̣n dùng những pháp tà mị để giải kinh Phật tới loạn cuồng lên, mong hưởng của cúng dường.
Những thứ ấy đều do ma giáo vào cơi phàm để triệt tiêu huệ căn của Như Lai, khiến quần ma có thể xuất đầu lộ diện, nhiễu hại chúng sanh, con hiểu chưa? C̣n cái này nữa, con cần hết sức nương ư chí ta, mới là tṛ ta.
Ta cho con biết, sau này con sẽ đi các nước Âu Á để thuyết pháp độ sanh. Nhưng muốn chuyển hóa trấn động được ḷng người ở hoàn cảnh xấu ác nhất, con cần phải sửa sang lại, phục hưng lại các chùa chiền của ta khai sáng trước đây. Bởi đó, ta đặt tên con là Phục Hưng lúc mới truyền pháp cho con đó, con có biết không?
Ngưng một lúc, Ân Sư tôi đột nhiên lớn tiếng ngâm rơ từng câu một, câu kệ "Thâm tùng sương tuyết du kiên uyển, hải thiên nhất sắc biến tam thiêm" (trong hoàn cảnh sương tuyết dầy đặc ấy, cây thông vẫn kiên tŕ giữ lẽ sống của ḿnh, màu biến nếu lắng tợ màu trời, có thể lan tỏa măi thế giới tam thiên).
Nghỉ ngơi một hồi Bồ Tát Quan Âm dẫn tôi ra khỏi đại điện đi tham quan thắng cảnh. Cả một bầu trời chói lọi ánh sáng trong lành, những chim chóc tuyệt đẹp đua nhau ca hót véo von, âm sắc du dương chợt xa chợt gần. Các tiên nữ, tiên đồng mặc đủ loại áo tiên thướt tha tuyệt vời, xếp thành từng hàng, đội ngũ chỉnh tề, tự tại dạo chơi.
Bông hoa khắp nơi nở mọi h́nh sắc lộng lẫy huy hoàng, ẩn hiện xa gần. Những đ́nh đài lầu các, bảo tháp bảo đàn, đều phát ra những ánh sáng lung linh huyền diệu, thật là cảnh ở trên trời so với thế gian sáng như muôn với một vậy.
Tôi vừa thưởng ngoạn vừa không ngớt miệng khen, Bồ Tát Quan Âm thấy vậy đưa tay chỉ cho tôi thấy ở xa xa ấy, có một ngọn núi to hơn quả núi côn lôn, phóng ra muôn vạn hào quang đủ mọi màu sắc, Ngài nói với tôi rằng:
- Đấy là xứ của Thái Thượng Lăo Quân (Lăo Tử), gọi là Luyện Đan Đại Tháp.
Phóng tầm nh́n ta thấy ṭa tháp luyện đan ấy vô cùng tráng lệ, ẩn hiện trong lớp lớp từng mây, cũng chẳng biết bao nhiêu từng, ôm lấy quanh quả núi chói chang hào quang ấy. Chúng tôi chỉ nh́n mà không ghé vào quả núi ấy, Bồ Tát Quan Âm nói thêm:
- Tháp ấy là nơi cư trú của chư vị Thượng Tiên, Đại Tiên, chung quanh các phía có dăy đầu những cây Lung Linh nguyên (cây Linh nguyên là nguyên h́nh của người tu theo đạo tiên) cùng hoa quả bốn mùa.
Nghe nói cách tu của đạo tiên ở thế gian, từ khi phát nguyện tu là trên trời mọc mọt cây linh nguyên. Tu khá th́ cây ấy tốt đẹp, bằng không cây ấy èo uột và có khi chết, nếu ở thế gian vị ấy phạm quá nhiều lầm lạc.
Lúc ấy Bồ Tát Quan Âm thúc hối tôi:
- Th́ giờ eo hẹp lắm đi cho nhanh, tôi dắt ông đến thế giới Cực Lạc Phương Tây, so với cảnh này c̣n đẹp và thích thú hơn nhiều.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 372 of 1146: Đă gửi: 24 June 2010 lúc 8:34pm | Đă lưu IP
|
|
|
TÂY PHƯƠNG DU KƯ
VIẾNG THẾ GIỚI CỰC LẠC, ĐẢNH LỄ PHẬT A DI ĐÀ
Ra khỏi trời Đâu Xuất, tôi lại tŕ chú Lăng Nghiêm, chân tôi lại thấy hiện ṭa sen nâng bốc tôi lên, chỉ nghe tiếng gió ào ào, cảnh tiên lướt qua và dạt về phía dưới rất nhanh, đến một nơi dưới đất óng ánh sắc vàng kim, và trải đầy cát vàng sáng chói.
Ước chừng khoảng mười lăm phút sau, thấy bên dưới ṭa sen, đường lối thênh thang trải đầy cát vàng, lóng lánh chói rạng và từng hàng, từng dẫy những cây cổ thụ to cao cả chục trượng, cành vàng, lá ngọc. Lá cây cổ thụ có h́nh ba góc, năm góc..bảy góc, đều phát ra tia sáng, hoa nở đủ màu, có cả rất nhiều những loại chim đậu đầy nhánh cây dương.
Các thứ chim có cánh đủ màu sắc tuyệt đẹp, thân th́ có hào quang. Chim có con có hai đầu, có con có nhiều đầu, chúng cùng hót một loại giọng thanh thót và ca ngâm Thánh hiệu Phật A Di Đà, và nhảy nhót tưng bừng. Bốn chung quanh đều có hàng rào, lan can bảy màu, Bồ Tát Quan Âm nói:
- Cảnh giới mà kinh Phật nói; Thất Trùng La Vơng Thất Trùng Hàng Thọ là chỗ này đây.
Bên tai tôi nghe rất nhiều tiếng nói chuyện, nhưng mà nghe chẳng hiểu ǵ cả. Bồ Tát Quan Âm nói:
- Những tiếng ấy Phật A Di Đà nghe hiểu.
Trên đường đi tới c̣n gặp rất nhiều tháp cao đều do thất bảo kết thành, phát từng luồng ánh sáng. Không bao lâu đến trước một ngọn núi bằng vàng, chói lọi, vàng sáng hắt ra, so với núi Nga Mi bên Trung Quốc, không biết ngọn núi này c̣n cao hơn gấp mấy chục ngàn lần. Bồ Tát Quan Âm nói với tôi:
- Đến rồi đó, chúng ta đă đến trung tâm điểm của thế giới Tây Phương Cực Lạc rồi đó! Ông có thấy không? Đức Phật A Di Đà ở trước mặt ông đó.
Tôi ngạc nhiên:
- Thưa Bồ Tát, con không thấy; ở đây là vách núi vàng ṛng kia mà, nó đă che hết tầm nh́n rồi cho nên con không thấy Đức Phật ở đâu?
Không ngờ Bồ Tát nói làm tôi hết sức chưng hửng:
- Không có vách núi ǵ đâu, ông đang ở trước ngón chân cái của Đức Phật A Di Đà đấy.
Tôi nói:
- A Di Đà Phật, ôi thôi, Ngài cao lớn dường ấy làm sao con có thể nh́n thấy được.
Tôi cứ như là con kiến ngước nh́n nhà chọc trời, trên gần hai trăm tầng lầu của Mỹ vậy đó, không có cách chi nh́n cho trọn vẹn toàn cảnh của cao ốc ấy. Bồ Tát Quan Âm dặn tôi quỳ xuống nhanh lên và khẩn cầu Phật A Di Đà gia bị cho, để tiếp dẫn tôi được thấy thế giới Tây Phương Cực Lạc.
Tôi vội quỳ xuống nguyện cầu A Di Đà Phật gia bị. Nguyện cầu được một lúc, tôi cảm thấy thân tôi rần rần chuyển động không ngừng cao lớn lên, cao riết đến khoảng rốn của Ngài. Lúc ấy tôi thấy rơ Đức Phật A Di Đà ở trước mắt tôi, đứng trên đếm không hết những tầng hoa sen rực ánh hào quang ấy.
Từng cánh hoa sen lại hiện lộ thắng cảnh bảo tháp phóng ra muôn ngàn tia sáng, trong những tia sáng lại có vô vàn những vị Phật, ngồi ngay ngắn trong rừng tia sáng chói chang ấy. Cũng cùng một lúc tôi c̣n thấy đại điện với những vách vàng óng ả, chói lọi, nh́n sâu vào măi tôi thấy cả toàn cảnh của thế giới Tây Phương Cực Lạc.
Lúc ấy Sư Viên Quang hiện lại thân thật của Bồ Tát Quan Thế Âm với toàn thân trong suốt sắc óng vàng, trang phục phát ra muôn tia sáng khác nhau. Nhận không rơ là nam hay nữ, giờ đây Bồ Tát Quan Âm với thân h́nh cao lớn hơn tôi, ước độ bằng vai của Đức Phật A Di Đà.
Tôi đứng ở nơi ấy được thấy cảnh giới vô cùng đẹp đẽ này, tôi ngắm tới ngất ngây người. Trong nhất thời không thốt ra được một tiếng nói nào cả, đến bây giờ bảo tôi thuật rơ từng cảm nghĩ về cái thấy, cái biết của cảnh giới thù thắng ấy chắc là tôi phải nói trọn cả bảy ngày bảy đêm.
Chỉ đơn cử nói về nét tướng của Đức Phật A Di Đà thôi, chắc tôi phải kể suốt cả nữa ngày trời. Thí dụ như nói về mắt Ngài có thể so sánh với cả một mặt biển lớn, nói ra có thể không ai tin, chứ thực tế mắt Ngài có thể sánh với cả một đại dương vậy.
Đất nước Cực Lạc của thế giới Tây Phương, nếu theo như lời kinh nói cách đây tới những mười vạn ức đất Phật; nếu đi bằng tốc độ ánh sáng, th́ phải hết một trăm năm mươi ức năm ánh sáng mới đến nơi.
Với tuổi thọ của con người th́ không thể nào đến được, c̣n nói về vật chất, nếu đi bằng xác thân xương thịt này, dẫu có khởi từ mới lập trái đất, đi hết ṿng quanh trái đất đến trái đất hư diệt, tạo lập lại rồi diệt, cũng khó ḷng mà đến được.
Thế mà chỉ với nguyện lực sẵn có và một ḷng vững dạ, cộng với sự khẩn cầu Đức Phật A Di Đà gia bị, thế th́ chỉ cần một sát na, lẹ như duỗi tay, đă đến được tận nơi.
Tôi kính cẩn đănh lễ Đức Phật A Di Đà xin Ngài gia bị, ban cho tôi phước huệ được liễu sanh thoát tử. Ngài bảo tôi:
- Bồ Tát Quan Thế Âm tiếp dẫn con đến đây tham quan các nơi, con cứ đi tham quan đi, rồi sau đó con c̣n phải trở về gian nữa.
Lúc ấy tôi đă say mê cảnh giới tốt đẹp của Tây Phương Cực Lạc rồi, cho nên tôi cảm thấy thế gian đầy dẫy những nhớp nhúa đau khổ, không muốn trở về nữa, tôi mới năn nỉ:
- Cực Lạc Quốc Độ quá là tốt đẹp, con không muốn về thế gian nữa, nguyện cầu Đức Phật A Di Đà phát đại từ bi tâm mà giữ con lại đây. Ngài dạy:
- Không được, không phải ta không chịu giữ con ở lại thế giới Cực Lạc, mà chỉ v́ hai kiếp về trước, con đă văng sanh đến đây, nhưng rồi chính con đ̣i trở về thế gian cứu đời, độ người, cho nên giờ đây con cần quay về, làm cho xong tâm nguyện của con. Đem t́nh h́nh được thấy ở đây truyền đạt cho thế gian biết, lấy đó mà giáo hóa thế nhân.
Đức Phật lại ngâm kệ trùng tuyên lại lời ấy, Ngài vừa dứt ngâm kệ, tôi rúng động toàn thân và nhớ lại tất cả cảnh cũ của hai kiếp trước, lồng lộng trước mắt.
Đức Phật A Di Đà bảo với Quan Âm Bồ Tát hướng dẫn tôi đi tham quan các nơi. Tôi đảnh lễ Ngài ba lạy rồi cùng với Quan Âm Bồ Tát bước ra khỏi cửa Đài Thuyết Pháp.
Lúc này tôi quan sát thấy hành lang, bờ ao, lan can, núi đất đều kết lại bằng bảy báu vật, đều phát ra tia sáng giống như ánh đèn màu vậy. Đặc biệt nhất là tất cả những dạng hữu h́nh như trên đều trong suốt không chướng ngại, có thể xuyên thấu qua được.
Trên cửa Đài có bốn chữ vàng, hai bên cũng có đôi liễu đối, tôi nh́n không hiểu chỉ nhớ được một chữ, c̣n ba chữ kia không nhớ rơ. Bồ Tát Quan Âm giải thích:
- Nếu đọc bằng hoa văn th́ đó là Đại Hùng Bửu Điện, cũng có thể đọc là Vô Lượng Thọ Phật.
Cái ṭa Đại Điện lung linh ánh vàng ấy hùng vĩ vô cùng, có tới mấy vạn người ở trong, đồng thời tôi thấy rất đông chư vị Bồ Tát, ngồi hoặc đứng, có vị ngoài điện, toàn thân đều hiện sắc vàng óng trong suốt, nhưng cao độ ánh sáng của Bồ Tát thấp hơn Đức Phật chút ít.
Trong số chư vị Bồ Tát tôi gặp có cả Đại Thế Chí Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát.. Quan Âm Bồ Tát bảo:
- Thôi để tôi dẫn ông đi, chúng ta sẽ đến hạ phẩm hạ sanh trước, thăm lần đến thượng sanh thượng phẩm nha!
Trên đường lướt đi ấy, thân h́nh Bồ Tát và tôi lần lần thu nhỏ lại và thấp xuống. Tôi thấy lạ, bèn hỏi:
- Bồ Tát Quan Âm tại sao lạ vậy, thưa Bồ Tát? Thân người tại sao lại có t́nh trạng thu nhỏ như vậy?
Ngài trả lời:
- Chúng sanh từng phẩm, v́ cảnh giới không giống nhau nên h́nh thể và độ cao cũng có lớn nhỏ khác nhau; chúng ta đang ở thượng phẩm nơi trụ xứ đức Phật A Di Đà, mà đi về hướng hạ phẩm.
Nên biết là trong chí phẩm sen vàng ấy, chúng sanh trong thượng phẩm cao lớn hơn chúng sanh trong trung phẩm; ở trung phẩm lại có độ cao lớn hơn hạ phẩm, cho nên ta đi từ thượng phẩm th́ cố nhiên thân h́nh cần thu nhỏ lại, thấp xuống để ta không khác thường với chúng sanh nơi ấy, đó gọi là thích hợp cảnh giới là vậy.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 373 of 1146: Đă gửi: 24 June 2010 lúc 8:45pm | Đă lưu IP
|
|
|
TÂY PHƯƠNG DU KƯ
VIẾNG HẠ PHẨM LIÊN HOA NƠI ĐỐI NGHIỆP VĂNG SANH
1. Hạ Phẩm Hạ Sanh.
Đem theo vong nghiệp mà văng sanh
Chưa nói được mấy câu đă đến ao sen hạ phẩm rồi. Thoáng nh́n qua, đă thấy băi đất bằng như bàn tay đều do cát vàng trăi phủ kín, óng ánh vàng rực. Trên băi đất rộng mênh mông ấy, có vô số các bé gái chừng mười ba, mười bốn tuổi.
Các bé ấy mặc cùng một loại áo màu lá mạ, váy màu hồng đào, đeo đai vàng óng. Mà lạ! Tất cả các đứa bé cùng cỡ tuổi, cùng chung một dáng dấp mặt mũi y như nhau. A! Thế ra Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng có con gái nữa.
Tôi bèn hỏi Bồ Tát Quan Thế Âm:
- Thưa Bồ Tát nghe kinh Phật nói ở thế giới Cực Lạc không có sự phân biệt nam nữ, cớ sao ở đây lại có con gái nữa?
Ngài trả lời:
- Đúng vậy, ở nơi đây không hề có sự phân biệt tướng nam tướng nữ. Ông nh́n lại thân h́nh ông th́ biết!
Tôi nh́n lại mới hết hồn, th́ ra tôi cũng có dáng dấp của bé gái mười ba, mười bốn tuổi và cách ăn mặt cũng giống y hệt những đứa bé gái kia, c̣n mặt mũi th́ thế nào chưa biết, chứ tóc tay và quần áo chẳng khác các nữ chúng ở đây tí nào. Tôi ngạc nhiên hỏi Bồ Tát:
- Thưa Bồ Tát tại sao như thế này được?
Ngài bảo:
- Ở đây có một vị Bồ Tát chủ tŕ, nếu vị ấy biến nam th́ toàn bộ là nam, khi biến nữ th́ toàn bộ đều là nữ. Thực ra dẫu có biến nam hay nữ, th́ tất cả đều từng ấy tuổi, và dẫu có biến nam hay nữ th́ tất cả đều như nhau, đâu có sự phân biệt khác phái được.
Hơn nữa từ hoa sen hóa sanh ra là không có máu thịt, chỉ một thể dạng trong suốt, chỉ có thay đổi dáng dấp bề ngoài thôi. Ông nh́n lại xem có phải vậy không?
Tôi nh́n lại thân thể ḿnh đúng là trong vắt như pha lê chiếu sáng, không có xương thịt máu móng tay chân. Những người được văng sanh đến ao hạ sanh hạ phẩm này, đều là đối nghiệp văng sanh, không luận là trai hay gái, trẻ hay già, sau khi từ hoa sen hóa sanh ra, nhất loạt biến thành bé mười ba, mưới bốn tuổi, cùng một cách ngây thơ xinh đẹp như vậy.
Tôi hỏi Bồ Tát Quan Âm:
- Thưa Bồ Tát tại sao người văng sanh đến đây lại biến thành cùng một dáng dấp, lại cùng một độ tuổi vậy?
Ngài trả lời rằng:
- Tại v́ Phật tánh b́nh đẳng. Phật lực A Di Đà tiếp dẫn họ đến hóa sanh bằng hoa sen, tất cả đều được tiếp độ, tất cả đều được liên hoa hóa sanh, cho nên tất cả đều được đăi ngộ như nhau, cho dù là ông cụ bà cụ hay là trai tráng, sau khi từ hoa sen nở ra, đồng loại trở thành những đứa bé mười mấy tuổi, tướng mạo y như nhau, kháu khỉnh dễ thương y như nhau.
Sau khi được hóa sanh ra trong ao hạ sanh phẩm, mỗi ngày trong sáu thời, có một thời là hội giảng kinh do một vị Bồ Tát chủ tŕ. Khi đến giờ chuông pháp reo vang, người trong ao sen lầu các, nhất loại biến thành nam hoặc nữ có h́nh tướng nhất định, trang phục đều như nhau, toàn do Phật lực hoặc do Bồ Tát điều khiển.
Những người trong hạ sanh hạ phẩm này ban ngày rời khỏi hoa sen ra ngoài chơi giỡn hoặc ca hát, hoặc là nhảy múa, hoặc là lễ bái hay niệm Phật tụng kinh và tất cả đồng theo ư thích của ḿnh.
Đến giờ nghỉ ngơi buổi chiều tối, th́ mỗi người đều trở về hoa sen của ḿnh, hay nói cách khác ban ngày sen nở ban đêm sen úp. Khi đă trở vào hoa sen rồi sẽ không được hoạt động lăng xăng bên ngoài, chỉ có thể niệm Phật hoặc là có thể trầm tư suy tưởng những vọng ảnh.
V́ hạ phẩm hạ sanh nay là đới nghiệp văng sanh, nên khó tránh được những phân ảnh của vọng nghiệp, được đem đến từ đời quá khứ.
Bồ Tát Quan Âm dẫn tôi đến một quảng trường. Thoạt đầu tôi chỉ thấy chừng một hai chục bé gái, rồi vài chục, rồi vài trăm, vài ngàn, vài vạn bé. Trong chốc lát cả cái sân rộng mênh mông của quảng trường, đă đầy ấp các bé gái có dáng dấp y như nhau, quần áo và độ tuổi cũng như nhau, tập trung lại xếp thành hàng ngũ chỉnh tề.
Việc ấy như là một chuyện rất dễ dàng nhẹ nhàng vậy. Chẳng giống như ở thế gian ḿnh đây, muốn tập trung xếp thành một lúc hàng vạn người, hay nói dễ hơn chừng ít ngàn người thôi, cũng tốn hao nhiều công sức và thời gian để chỉnh đốn hàng lối rồi.
Tôi lại được dẫn đến bên ao sen. Lạ quá, nước trong ao lềnh bềnh như mặt thoáng hơi nước, như là mây, như là không khí vậy, chớ không giống nước ở thế gian này.
Bồ Tát bảo:
- Ông xuống tắm thử đi.
Tôi lo lắng:
- Rồi ướt hết áo sao? Thưa Bồ Tát.
Ngài bảo:
- Không ướt đâu, không giống như ao ở thế gian làm ướt áo lúc tắm.
Tôi vâng lời mạnh dạn xuống tắm. Đúng như vậy, quần áo tôi không hề ướt. Tôi vốn sợ ao hồ v́ không biết bơi, nhưng ở đây lại có thể theo ư nghĩ của ḿnh, muốn lên, muốn xuống, qua trái, qua phải, toàn theo ư điều khiển.
Tôi thích thú lượn trong ao sen tắm và giỡn nước, v́ hiếu kỳ tôi thử hớp một ngụm nước. Ôi ngọt quá. Thế là tôi há to miệng hớp lấy hớp để, càng uống tinh thần càng khỏe khoắn toàn thân nhẹ thênh thênh.
Lúc ấy tôi bay tới giữa ao thấy rất nhiều đóa sen vô cùng đẹp đẽ nở sáng lạng, có người ngồi trên hoa sen niệm Phật. Nhưng cũng có một số hoa sen đang héo úa, hoặc gẫy gấp, thậm chí có đóa tàn lụn.
Nước ao sen này chính là loại nước mà kinh A Di Đà ghi là Bát Công Đức Thủy.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 374 of 1146: Đă gửi: 24 June 2010 lúc 9:07pm | Đă lưu IP
|
|
|
TÂY PHƯƠNG DU KƯ
VIẾNG HẠ PHẨM LIÊN HOA
2. Cách Phản Ảnh Vọng Nghiệp
Chúng sanh của hạ phẩm hạ sanh là những chúng sanh được đới nghiệp văng sanh, do nhất tâm niệm Phật cầu sanh tịnh độ. Thế nào gọi là đới nghiệp văng sanh? Ngày trước ở trong thế gian ta bà, những chúng sanh này, từng tạo qua vô số nghiệp ác, như sát sanh, trộm cướp, phỉ báng, dối gạt, hăm hại, tà dâm, nói thêu dệt...
Nói về hành vi những người này lẽ ra không thể văng sanh được nhưng ở ngày sắp chết ấy, gặp được thiện trí thức dạy bảo niệm Phật cầu văng sanh tịnh độ. Do bất tâm nhất loạn niệm Phật liên tục trong phút cuối, lại được nguyện lực Đức Phật A Di Đà gia bị, cho nên được tiếp dẫn đến Tây Phương Cực Lạc, hóa sanh trong ao sen của hạ phẩm hạ sanh.
Nhưng mà trong chín phẩm hoa sen ấy, nếu muốn tu tiến từ phẩm thấp nhất là hạ phẩm hạ sanh, đến phẩm cao nhất là thượng phẩm thượng sanh, phải cần thời gian là mười hai kiếp trên ấy, một kiếp tên ấy bằng 16,798,000 năm dưới trần gian, muốn vượt thêm để thành Phật cần 21,576,000 năm dài.
Nếu như ta nhất quyết chịu khó tu tŕ ở ta bà này, th́ chúng ta chỉ cần vài ba năm hay năm bảy năm, đă có thể ở trung phẩm hay thượng phẩm rồi, c̣n nếu ráng tu hết kiếp có thể thành Phật đạo.
Do đó chúng ta cần biết quư cái thân người, thân người khó đặng nay đă đặng th́ phải ra khổ công mà tu hành, th́ sẽ có nhiều triển vọng thành Phật hơn ở bất kỳ cảnh giới nào. Chúng ta phải ráng tu hành như gương Ngài Ấn Quang Pháp Sư hay Hoằng Nhất Pháp Sư chẳng hạn, các Ngài đang ở Thượng Phẩm Thượng Sanh.
Nhưng mà, nói qua cũng cần nói lại, chúng sanh ở thế giới ta bà ngày lại có rất nhiều loại khổ tâm khó mà tránh nổi, khổ tâm về cuộc sống, về sự già nua, bệnh, chết chóc, về oán ghét mà cứ gặp, về yêu thích mà cứ xa, về ngũ ấm dấy loạn, về ước mơ mà không đạt thành; c̣n ở Thế Giới Cực Lạc, dẫu ở bậc thấp thấp nhất là hạ phẩm hạ sanh, th́ cũng có an lạc mà không có khổ tâm.
Những người ở hạ phẩm hạ sanh tuy cần mười hai kiếp để đạt thành chánh quả, nhưng tuần tự từng bước, có chỉ bảo rơ rệt để họ không bị thoái chuyển mà rớt xuống tam ác đạo (là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ), suốt quá tŕnh tu tập vững như bàn thạch trong cảnh cực lạc mà trôi qua.
Hoa sen ở hạ sanh hạ phẩm, không giống hoa sen ở thế gian chúng ta, nó lớn cỡ ba dặm đến bốn dặm, nó cao ba đến bốn tầng lầu. Hoa sen nào cũng phát hào quang, nếu mà chúng sanh trong hoa sen ấy khởi vọng tưởng, th́ ánh sắc của hoa sẽ u trầm ảm đạm, nếu nội tâm thanh tịnh th́ hoa sen sẽ rừng rực chiếu sáng.
Bồ Tát Quan Âm nói:
- Chúng sanh từ nhiều đời nay, tạo vô lượng những nghiệp không giống nhau, cho nên sau khi đới nghiệp văng sanh, cách phản ánh vọng nghiệp cũng khác nhau. Người trong hạ phẩm hạ sanh nghiệp chướng tương đối nhiều, v́ có sự khác biệt về nặng nhẹ, ít nhiều của nghiệp mang theo, nên trong các hoa sen ở hạ phẩm, cũng chia làm thượng, trung, hạ ba bậc.
Phần nhiều là những loại h́nh ân t́nh luyến ái khó quên như cha mẹ, anh em, chị em bạn bè.. và cả mơ ước về vật chất, mỗi thứ đều phản ảnh ra cũng như ở thế gian chiêm bao vậy. Giờ đây tôi đưa ông đi xem t́nh h́nh thực tế của một phản ảnh vọng nghiệp ở nơi đây nha!
Bồ Tát Quan Âm dẫn tôi qua mấy ngă quẹo, đến một đóa sen tương đối ảm đạm tối. Lúc đến gần th́ tôi thấy một ṭa lâu đài, pḥng ốc đẹp lớn hơn cung vua, vườn hoa vô cùng tráng lệ, trong nhà bày biện những vật cổ quư giá, tất cả đều bố trí trang nhă không khác ǵ nhà của một tể tướng sang quư nhất vậy. Trong ấy trai gái già trẻ mười người, quần áo giống ở thế gian ta, có người ra vô, vô ra rất là nhộn nhịp, như đang sửa soạn đăi đằng ǵ đó.
Tôi hỏi Bồ Tát Quan Âm:
- Thưa Bồ Tát tại sao trong thế giới Cực Lạc lại có cả cách sống như ở trần gian vậy?
Ngài trả lời:
- Cảnh này là của một người lúc lâm chung tâm của bà ta rất là thanh tịnh, nhưng khi đến đây những tánh thói của nghiệp vọng nhiều đời nhiều kiếp dầy đặc, chưa dứt hết hồng trần, nên mỗi khi về nghĩ ở hoa sen hay đánh giấc mơ về dĩ văng, thương nhớ cha mẹ, vợ con, người yêu, bà con, anh em quyến thuộc..
Mà hễ vọng niệm khởi th́ hiển hiện ra ngay. Ở đây chỉ có an lạc mà không có khổ dẫu là khổ "cầu bất đắc". Cho nên khi vọng niệm nhớ đến cha mẹ, cha mẹ hiện đến, nhớ nhà lầu cung son th́ nhà lầu cung son hiện ra, muốn ăn món sơn hào hải vị ǵ th́ tất cả đều hiện đến ngay.
Nhưng khi tỉnh lại, tất chẳng có món nào cả, đấy là phản ảnh giống như người ở thế gian chiêm bao mà thôi. Những thứ đó đều là một thứ sắc giả hiện, và ngay khi ấy những người đang sống ở thế gian cũng không hề hay biết ǵ.
Những lời Bồ Tát dạy khiến ta thức tỉnh, kỳ thực cuộc sống ở thế gian này há chẳng giống như một giấc mơ lớn hay sao? Đua chen đă đời khi xuôi tay tạ thế th́ chẳng có cái ǵ đem theo được, cho dù có dành dụm được vô vàn của báu, nhưng đến lúc lâm chung cũng đành ra đi với hai bàn tay trắng.
Bồ Tát Quan Âm c̣n cho biết:
- Đúng ra người đời nghiệp vănh sanh đến đây th́ vọng tưởng c̣n nhiều hơn người thế gian, bởi v́ ở thế gian là dạng vật chất cách ngăn rất nhiều, khi vọng tưởng này được dựng lên th́ che lấp vọng tưởng trước, nên cái này sinh làm cái trước diệt, sinh diệt liên tục làm luôn luôn không bỏ.
Không thỏa các ước mơ to lớn, nên hay có cái than văn cầu bất đắc khổ, nhưng ở Cực Lạc Thế Giới th́ khác, chỉ cần tưởng cái ǵ th́ cái đó tŕnh diễn ra ngay, cho hưởng dụng tối đa, v́ nơi này có tính chất thuộc hư không và trải đầy pháp giới.
Ở cơi trời th́ lại là thần chất, tuy vật chất do thân lực ngũ thông hiển hiện, nhưng cũng có lúc cầu mà không được. C̣n ở thế gian thuộc vật chất là ngàn trùng xa cách, nếu có cầu mong ǵ th́ khó mà hiện thực được.
Tôi lại hỏi Bồ Tát:
- Vọng cảnh (tức mộng) với thực cảnh thanh tịnh của Như Lai khác nhau ở chỗ nào?
Ngài dạy rằng:
- Thực cảnh là c̣n măi không mất, vĩnh viễn phóng ra muôn đạo ánh sáng, c̣n vọng cảnh thuộc về vô thường không thể phóng ra bất kỳ ánh sáng nào cả, mà cũng không có ǵ bền chắc, đến khi thức tỉnh rồi th́ không thấy có ǵ tồn tại.
Chúng sanh trong thế giới ta bà không biết hối tiếc tinh lực của cuộc đời, phung phí trong việc tranh danh đoạt lợi tạm bợ, đấu đá cho đến chín sống mười chết, rốt cuộc lại buông hơi tắt thở chẳng vác được theo cái ǵ, mà ḿnh mất công trăm cay ngàn đắng để dành lấy.
Thần thức lại bị đoạ lạc vào luân hồi lục đạo, trôi theo sinh tử, nương nghiệp báo mà nếm đủ chua cay đắng chát, bởi vậy muốn thoát khỏi biển khổ, cần sớm thức tỉnh dừng chân ác nghiệp.
Bồ Tát bảo căn nhà này là của một người Phổ Điển tỉnh Phước Kiến, đồng hương với tôi được đới nghiệp văng sanh, Bồ Tát bảo tôi vào nhà xem thử. Tôi gơ cửa vào nhà, ở trong nhà đang bày tiệc, có chừng sáu, bảy chục người đang say mê chè chén, trên bàn đầy dẫy những món trân châu quư giá. Tôi thấy có một ông già ra đón tôi chừng bảy chục tuổi, dáng hào phóng, có thể là chủ nhà.
Ông ta hỏi:
- Mời ông vào tiệc. Ông ở đâu đến đây?
Tôi trả lời:
- Tôi là người đồng hương với ông. Tôi đến từ phổ điền, tỉnh Phước Kiến.
Ông ta nghe nói đến đồng hương là hớn hở ra mặt:
- Ồ! Thế th́ hay quá, quư quá, mời vô.
Tôi hỏi:
- Ông đang ăn mừng việc ǵ vậy?
Ông cười cười hỏi lại:
- Ông làm sao mà đến được đây vậy? Tôi đưa tay chỉ ra ngoài cửa và nói:
- Bồ Tát Quan Âm dẫn tôi đến đây tham quan các chỗ rồi về.
Tôi vừa nói xong câu ấy, tất cả các cảnh vật ở đây đột ngột biến mất, ông già ấy vừa nghe thánh hiệu Quan Âm liền rùng ḿnh một cái lộ vẻ bẽn lẽn sám hối.
Trước mắt tôi khi năy là một cảnh ồn ào chè chén của sáu, bảy chục người trong một căn nhà bày biện lộng lẫy, đă tan biến đi đâu mất hết, mà bây giờ tôi chỉ thấy một đóa hoa sen, trên ấy có cô bé mười ba, mười bốn tuổi trong hào quang niệm Phật, thật là đẹp vô cùng.
Sau đó ông ta kể:
- Tôi người thôn Da Đầu, Hàm Giang, thuộc Phổ Điền của tỉnh Phước Kiến, tên là Lâm Đạo Nhất. Nhà giàu có thuộc gia đ́nh danh vọng trong thôn, ngày lâm chung được thiện trí thức chỉ dẫn, mười niệm văng sanh. Cái mà tôi xấu hổ nhất là nghiệp chướng vọng tưởng quá nhiều không thể trừ hết, ân t́nh khó dứt, nên ưa nghĩ bậy bạ, hiện ra đủ thứ vọng cảnh.
Bồ Tát Quan Âm từng gọi tôi lên hai lần dạy dỗ, bảo tôi sửa sai, thế mà tật cũ tôi cứ vướng phải, sửa chữa không được. Tôi có đứa cháu tên là A Vượng đang ở Tân Gia Ba, ông nói dùm con tôi là tôi văng sanh Tịnh Độ Tây Phương rồi.
Bồ Tát Quan Âm thường khuyên nhủ những người đới nghiệp văng sanh này, nên thường đến tắm trong nước Bát Công Đức thủy để rửa đi vọng tưởng trong ḷng, cho ḿnh trở về được thanh tịnh như lúc ban đầu, hiện ra bản lai diện mục của ḿnh.
Tôi lại được dẫn đến một thung lũng hẹp giữa hai bờ vách cao, tôi được mục kích một hiện tượng lạ, một cô bé chừng hai mươi tuổi ngồi khóc rống thê thảm. Tôi ngơ ngác nghĩ: "Thế giới Cực Lạc không hề có sự khổ tâm mà sao lại có cô gái khóc lóc thảm thương vậy nhỉ."
Bồ Tát như hiểu ư tôi, bảo tôi tới đó xem sao. Tôi bèn đến bên cô gái, chắp tay hỏi nguyên cớ đâu lại khóc sướt mướt vậy? Cô bé ngước nh́n thấy tôi, không những không khóc nữa mà cười x̣a nói với tôi:
- Dạ thưa không có chi, chỉ v́ tâm linh vọng nhớ bậy bạ thôi.
Nói rồi cô chuyển ḿnh thành bé gái mười ba, mười bốn tuổi thân h́nh trong vắt, ngồi ngay ngắn chắp tay lên đóa hoa sen tỏa chiếu ánh hào quang, c̣n cảnh thung lũng với vách núi cao khi nảy biến mất. Cô bé mỉm cười nói với tôi:
- Cháu người Thuận Xương tỉnh Phước Kiến, năm 1960 cháu hai mươi mốt tuổi, gia đ́nh ép gả chồng, cháu cương quyết xuất gia học Phật. Gia đ́nh không cho bức bách quá cháu nhảy xuống vực như năy ông thấy đó để tự sát, việc này vốn trong thập ác tử, không được siêu sanh, nhưng Bồ Tát Quan Âm v́ thương cảm cháu một ḷng một dạ vững quy y đầu Phật cho nên tiếp dẫn cháu đến chốn nầy.
V́ cháu mới đến không lâu nên vọng nghiệp chưa dứt trừ, do đó thỉnh thoảng không kềm chế được nổi kinh hoàng khi té chết, cho nên dễ bị phản ảnh ra ngoài, hiện tượng này giống như thế gian gặp ác mộng, thường hiện ra cảnh giới hăi hùng, dù được Bồ Tát Quan Âm thuyết pháp dạy bảo nhưng vẫn chưa gội sạch được.
Tôi nhắc khéo cô bé:
- Cô coi, đứng bên tôi không phải là Bồ Tát Quan Âm sao?
Cô nh́n lại vội vă quỳ xuống đănh lễ Bồ Tát. Bồ Tát chỉ dạy cô ta, và dặn cô bé hăy xuống ao tắm nước Bát Công Đức sẽ lần hồi tiêu trừ nghiệp chướng này.
Trong ao sen này tôi lại thấy một số sen cũng tỏa sáng, một số sên lại úa héo ảm đạm và lụn tàn, tôi thấy lạ bèn hỏi Bồ Tát, Ngài trả lời:
- Một đóa sen tàn héo, là bởi có người thoạt đầu tin Phật, niệm Phật tinh tấn lắm, nên đă gieo vào ao sen mầm nẩn hoa cũng đẹp sáng hào quang, nhưng siêng năng ít lâu đă uể oải, giải đăi tâm ban đầu, không những không niệm Phật mà c̣n gây tạo nghiệp thập ác, do đó thiện căn tuy nó thành hoa sen nhưng cũng úa héo găy tàn đi.
Ông xem đây, hoa sen kia là của một ông người Giang Tây, lúc đầu quy y niệm Phật, sau đó được ra làm quan, chẳng niệm Phật nữa mà c̣n mở ṣng chứa làm chuyện thập ác bị chính phủ phán xử tử h́nh, cho nên hoa sen bị héo gẫy luôn.
C̣n một đóa này nữa, người này quy y niệm Phật được ba năm, hoa nọ coi khá khá rồi gặp dịp làm ăn lớn, cật lực hốt của phi nghĩa, cuối cùng bị phá sản, hết đường tính kế, tự sát chết, phạm thập ác là không được văng sanh, mới khiến hoa sen của ông ấy tàn lụn vậy đó.
Tôi lại hỏi Bồ Tát:
- Thưa Bồ Tát, thường thường Lương Pháp Sư tại tiền có nói với con là niệm một câu Phật diệt hằng sa tội, người ấy niệm Phật những ba năm mà sao chẳng có công quả ǵ vậy?
Ngài bảo:
- Câu ấy là chỉ cho kẻ nương đời tạo ác, sau khi nghe thiện trí thức khuyên mới hồi tâm hướng thiện, sám hối lỗi xưa, thề không phạm nữa, thật ḷng bỏ ác làm lành, niệm Phật một câu các tội tiêu sạch, nếu c̣n tiếp tục không ngừng niệm Phật khi chết văng sanh lạc quốc, dẫu đới nghiệp văng sanh cũng quyết không thoái chuyển, sau rốt thành Phật.
Bồ Tát ngưng một hồi nói tiếp.
- Nhưng cũng có người trên môi niệm Phật ḷng như rết rắn, âm thầm hại người, tác ác gian phi, ấy vẫn hành vi thập ác không văng sanh được, chỉ có gieo được một chút ít căn lành thế nhưng nếu người ấy một mai thức tỉnh, sửa sai làm lành, niệm sám hối hoa sen ấy lại vươn lên sáng đẹp như thường.
Đang nói, tôi đột nhiên gặp ni cô chừng ba mươi ngoài tuổi tiến về tôi reo mừng. Tôi nh́n kỹ th́ ra Ni Sư Pháp Bổn trụ tŕ Am ở trên núi Vân Cư tỉnh Giang Tây.
- A, Khoan Tịnh Sư Huynh đă đến rồi, hoan nghênh, hoan nghênh.
Tôi hỏi cô:
- Cô văng sanh lúc nào? Sao tôi không biết?
Cô ấy bảo:
- Năm 1971 tại v́ không chịu hoàn tục, bị ép quá nhảy sông tự sát, lẽ ra phạm nghiệp (thập ác) là không văng sanh, nhưng đức Phật mở lượng từ bi thương cho thân nữ chưa nhiễm hồng trần, nhất tâm niệm Phật, nên tiếp dẫn cho văng sanh đến đây, cũng chưa được bao lâu.
Tôi lại hỏi:
- Văng sanh hạ phẩm tất cả cùng một dáng dấp mười ba, mười bốn tuổi, sao cô lại vẫn có tướng ni cô ngoài ba mươi tuổi vậy?
Cô trả lời:
- Nghe Sư Huynh đến, muốn dễ dàng cho Sư Huynh nhận mặt mới dám phản ảnh theo vọng nghiệp chút đỉnh, Sư Huynh về rồi nhắn dùm Sư Huynh Khoan Trung, hăy yên tâm mà tinh tấn tu hành, muội đă văng sanh tịnh độ rồi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 375 of 1146: Đă gửi: 24 June 2010 lúc 9:13pm | Đă lưu IP
|
|
|
TÂY PHƯƠNG DU KƯ
VIẾNG HẠ PHẨM LIÊN HOA
3. VIẾNG THÁP TỊNH QUÁN VÀ NGÔN NGỮ ĐÀ-LA-NI
Đột nhiên chuông reo, Bồ Tát Quan Âm nói, đến giờ thuyết pháp rồi, tôi thấy tất cả bé gái lúc năy chuyển ḿnh thành bé trai cả, cũng mười ba, mười bốn tuổi thôi, nhưng dáng trai trẻ, mặc áo đỏ đai vàng óng, tóc để hai kết phía sau đầu, thân tay chân đều trong trắng và thấu suốt.
Cả hàng ngàn hàng vạn trẻ nhẩy ra khỏi đài sen, cùng nhau xá lễ, nhạc trời ở đâu trổi dậy du dương, chim chóc các loại hóa lên niệm Phật, tiếp đó xuất hiện một vị Bồ Tát toàn thân phóng ra ngàn muôn tia sáng đủ màu, toàn cảnh ấy đẹp đẽ vô cùng. Bồ Tát Quan Âm nói:
- Vị này là Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát, hôm nay đến phiên Bồ Tát ấy trực tiếp thuyết pháp.
Trước hết Ngài hướng dẫn chúng sanh ở đây đi đănh lễ mười phương chư Phật Thánh. Lúc ấy rợp cả bầu trời trải xuống từng chùm, từng chùm các loại hoa đủ màu tươi thắm, các bé trai ấy hàng ngũ rất chỉnh tề đưng dậy dùng vạt áo của ḿnh hứng đầy những hoa tuyệt diệu ấy, đi cúng dường mười phương chư Phật.
Thoáng chốc như những tia sáng xẹt tủa ra, rồi xẹt trở lại ngay ngắn hàng lối để vào nghe giảng, vô cùng nhanh nhẹn và đẹp mắt.
Ở trong Hạ Phẩm Hạ Sanh, có một nơi gọi là pḥng thuyết pháp "Ngôn ngữ Đà-La-Ni", Ngôn Ngữ Đà-La-Ni có nghĩa là Bồ Tát thuyết pháp câu ǵ chẳng biết, nhưng đến tai của người nào, đều đă chuyển ngữ thành tiếng bản xứ của người đó, bất cứ người Quảng Đông, Phước Kiến, Bắc Kinh, Giang Tây, Hải Nam, Triều Châu, Nhật Bản, Triều Tiên, Pháp, Mỹ, Việt Nam, Liên Xô, Phi Châu..
Cứ như là Bồ Tát đang thuyết pháp bằng tiếng nước ḿnh vậy, chẳng cần thông dịch viên cũng trực tiếp nghe được, đó là cái ảo diệu, nhiệm mầu của Ngôn Ngữ Đà-La-Ni.
Ở Hạ Phẩm Hạ Sanh, lại có một ṭa tháp rất cao, gọi là Định Quán Tháp, chúng sanh ở nơi này, nếu muốn lên đến tầng cao nhất của tháp hoặc từ đó xuống dưới, chỉ cần khởi tâm niệm là lên xuống tự nhiên, chẳng cần thang máy như vẫn thấy ở thế gian này.
Thân thể của họ như đă nói đều trong suốt, không ǵ trở ngại, không những lên xuống mà ngay cả đi lại hay vượt vách tường... cũng cứ bước là qua, không hề vướng mắc thậm chí cả ngàn cả vạn người tụ vào một gian pḥng, cũng không hề đụng độ va chạm, đến vướng chân nhau, bởi lẽ thân thể họ vốn không máu xương vật chất mà là một thể thấu suốt vô ngại.
Tịnh Quán Tháp vô cùng to lớn, ở trong ấy, cái ǵ cũng có thể thấy được, có thể ảnh hiện ra cả những cảnh giới của mười phương thế giới, nó như ngay tại chỗ ấy.
Chẳng hạn muốn thấy trái đất của cơi ta bà dây, đưa mắt dơi theo chỉ chừng một hạt cát, nh́n mặt trời cũng vậy chỉ lớn hơn tí ít, nhưng nếu muốn nh́n rơ t́nh cảnh của một vùng nào đó như Châu Á chẳng hạn, th́ cảnh ấy sẽ hiện lớn ra.
Muốn thấy vạn lư trường thành của Trung Quốc chẳng hạn, hay thậm chí muốn nh́n kỹ trong nhà nào ở đâu, sinh hoạt hiện giờ ra sao, đều hiện rơ vanh vách ra trước mắt, hay nói cách khác, chỉ cần nghĩ tới đâu, trong Tịnh Quán Tháp sẽ hiện rơ nơi ấy, việc ấy, cứ như là đài thiên văn vũ trụ tinh vi nhất vậy.
Văng sanh đến Hạ Phẩm Trung Sanh là những người ở ta bà hàng ngày làm việc thiện, tích lũy phước đức, hoặc niệm Phật hồi hướng văng sanh Tịnh Độ với sự gia bị của PHật A Di Đà, liền được cảnh giới này.
Văng sanh đến hạ phẩm Thượng Sanh, là những người ta bà tiến bộ hơn một bậc nữa, hằng giữ ǵn ngũ giới, bát quan trai giới, tích cực hành thiện, bố thí, tu tŕ tương đối nghiêm cấm, mới văng sanh đến nơi này.
Tham quan sơ qua những nơi này, Bồ Tát đẫn tôi lên cao hơn một từng nữa, đến trung phẩm để viếng thăm.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 376 of 1146: Đă gửi: 24 June 2010 lúc 9:23pm | Đă lưu IP
|
|
|
TÂY PHƯƠNG DU KƯ
VIẾNG TRUNG PHẨM LIÊN HOA
1. NƠI PHÀM THÁNH ĐỒNG CƯ
Ra khỏi ao sen hạ phẩm, tôi lại tŕ chú, thân như ngồi máy bay lướt gió mà bay lên, đột nhiên tôi có cảm giác thân ḿnh đang từ từ lớn và cao lên. Hoa sen ở Trung Phẩm quả là to lớn, một đóa sen lớn cở tám, chín trăm dặm, bằng như một tỉnh ở Trung Quốc, bán kính hoa sen có thể lớn bằng từ Tân Gia Ba đến nửa nước Thái Lan.
Toàn hoa sen có thể lớn vậy, nên người ngồi trên đó phải lớn tương đương, ta đă biết cao tới bậc nào chẳng cần phải nói, chư vị cũng biết là pḥng xá cung điện ở đây phải lớn đến cỡ nào, để tương ứng với hàng vạn chúng sanh vào trong nghe giảng pháp.
Bồ Tát Quan Âm nói:
- Ở Trung Phẩm đa số là Phàm Thánh Đồng Cư tứ chúng đều có (tứ chúng là tăng ni, thiện nam, tín nữ) người văng sanh đến đây, những người đến đây hơn người Hạ Phẩm một bậc, lúc sanh tiền họ đều có ư niệm ra khỏi Tam Giới.
Ở thế giới ta bà chịu khổ tu luyện ngoài việc tự tu, c̣n tích cực trong công việc Phật sự, hoặc đóng góp xây dựng chùa tháp, hoặc in ấn kinh sách, hoặc là trùng tuyên Phật pháp, dùng phương tiện khéo để khuyên hóa người khác tin Phật, tin pháp tin tăng, giảng giải chỗ nghi ngờ khó hiểu trong kinh Phật để người người tinh tấn tu hành.
C̣n cố gắng bố thí, pháp thí, vô úy thí, nghiêm tŕ giới luật, biết phát ḷng từ bi, hỉ xả, lâm chung nương Tây Phương tam thành tiếp dẫn, văng sanh đến ao sen Trung Phẩm, nhưng mà cách tu tŕ như cách tu tŕ như trên vẫn có bậc sâu cạn, nên ở đây cũng chia làm ba bậc Thượng Sanh, Trung Sanh, Hạ Sanh.
Câu chuyện vừa dứt chúng tôi đă đứng trước một đại điện, tôi đảnh lễ chư vị Bồ Tát nơi đây, Bồ Tát Quan Âm liền dẫn tôi đi tham quan các nơi.
Ôi! Ao sen Trung Phẩm mới đẹp làm sao, so với Hạ Phẩm, sao sen Trung Phẩm không biết vượt trội hơn chục lần, bốn bên đều được xây bằng bảy báu, hoa sen trong ao phóng ra những tia sắc sáng lung linh cùng nhau ánh lên màu sáng chói lọi hấp dẫn vô cùng.
Lạ hơn nữa là hoa này rất nhiều thần cánh sen, bên trong mỗi tầng đều hiện đ́nh đài lầu các, bảo tháp, phóng mười mấy thứ ánh sắc, cảnh trí đẹp không sao tả xiết, người ngồi trên toà sen toàn thân hiện sắc óng ánh vàng hồng trong suốt, cũng phóng muôn đạo hào quang.
Tất cả những người ở đây y phục cùng loạt giống như nhau, tuổi th́ cở trên dưới hai mươi, không thấy một đứa trẻ nào hay là một người già nào, bất giác tôi nh́n lại ḿnh th́ cũng giống như họ, riêng chỉ có Bồ Tát Quan Âm là giữ nguyên dáng Bồ Tát thôi.
Tôi hỏi Bồ Tát Quan Âm:
- Tại sao cái ǵ ở đây cũng có hào quang, màu sắc ǵ th́ phát ra màu ấy, c̣n thân con người ở đây đều phát ra hào quang giống như nhau vậy?
Ngài trả lời:
- Ở đây tất cả mọi cái đều dưới sự tác động của Phật lực Đức Phật A Di Đà. Đức Phật A Di Đà phóng ra vô lượng quang minh phản ánh đến đây, khiến tất cả đều phát lồ phóng quang chuyển biến, trong thân ông cũng như vậy. Trong mỗi cảnh giới của ao sen cách trang sức và dáng dấp đều giống nhau và cũng một màu, trừ phi chính ḿnh có năng lực thần thông biến hóa ra các dạng khác, bằng không toàn thể đều thống nhất như nhau.
Bồ Tát c̣n cho biết tuy là Trung Phẩm, ở đây cũng có những đóa sen, những lầu các u trầm, ảm đạm, không phát ra hào quang, nhưng đây không phải là cảnh thực của Cực Lạc, mà là cảnh giới vô thường mộng ảo, của vọng tưởng dĩ văng từng chúng sanh.
Bồ Tát chỉ cho tôi xem cái ṭa lầu các ảm đạm gần đấy, bốn phía của lầu các là vườn hoa rất rộng, trăm hoa đua nở đủ màu sắc, chim chóc trên cành nhảy nhót hót vang cảnh trí như nhà trưởng giả hào phú. Gia đ́nh này lớn bé già trẻ chừng hai mươi người, ṭa đại sảnh có trang thiết thờ tam bảo, cha mẹ con anh chị em thân quyến tựu lại niệm Phật tụng kinh vô cùng thuần thành và tinh tấn.
Lúc ấy Bồ Tát Quan Âm bảo tôi:
- Cái gia đ́nh này hay bố thí, làm lành từ bi hỷ xả, một số đă văng sanh Trung Phẩm liên hoa, nhưng vẫn cứ vọng nhớ t́nh cảm xa xưa cho nên thành vọng cảnh luôn như vậy.
Bồ Tát c̣n nói:
- Trong chín phẩm hoa sen, mỗi phẩm đều từ dưới lên trên, khi tu được rồi th́ hoa sen sẽ được dời lên ao phẩm trên. Cũng giống như tham thiền vậy, sơ thiền tu rồi lên nhị thiền, nhị thiền rồi lên tam thiền, rồi mới tới tứ thiền, lư ấy là như vậy.
Đột nhiên tiếng chuông reo vang, lầu các nầy thoáng cái đă biến mất, tất cả trở lại thân thanh niên khoảng hai mươi tuổi, hiện sắc óng vàng hồng trong suốt, bề ngoài trang sức đều đồng loạt giống nhau, và số người càng ngày càng đông, không thể kể hết, h́nh thành một hội trường to lớn.
Bồ Tát Quan Âm nói:
- Hôm nay ở đây do Bồ Tát Đại Thế Chí và Thường Tinh Tấn Bồ Tát giảng về kinh Pháp Hoa, ông đi nghe chứ!
Tôi trả lời:
- A Di Đà Phật, con rất thích kinh Diệu Pháp Liên hoa thưa Bồ Tát.
Nói rồi tôi cùng Bồ Tát Quan Âm bước lên hội trường của Đài giảng, bốn bên đài giảng đều là hàng rào như gắn những hạt châu phóng ra trăm ngàn tia sáng chiếu rọi lung linh, hai bên có bảy hàng cây báu cao thấy mây xanh, trên cây cũng có đ́nh đài lầu cát và đông đảo các Bồ Tát tập trung trên ấy để nghe giảng kinh, giảng đài này được xây bằng thất bảo lưu ly cao không biết bao nhiêu trượng, vô cùng trang nghiêm.
Bồ Tát Quan Âm dẫn tôi lên đài, tôi đảnh lễ hai vị Bồ Tát giảng sư rồi hai vị chủ tôi ngồi kế bên. Đại Thế Chí Bồ Tát lên bục giảng, lúc ấy không biết từ đâu khói hương xông lên, thơm ngát lan tỏa.
Đâu đây du dương tiếng nhă nhạc lưng trời, những con chim muôn màu muôn vẻ nhiều vô số đang bay lượn và hót lên thánh hiệu niệm Phật. Khi tất cả lễ bái xong, Bồ Tát Đại Thế Chí đứng dậy tuyên bố nội dung buổi giảng:
- Diệu Pháp Liên Hoa kinh là căn nguyên của chư Phật Thế Giới Hoa Tạng, là căn bản để thành Phật, hễ muốn thành Phật đạo, cần phải tu kinh học kinh điển này. Lần giảng trước là giảng tiết thứ nhứt, thế nào là kinh Diệu Pháp Liên Hoa, kinh Diệu Pháp Liên Hoa là vô lượng bảo, hôm nay sẽ nói đến tiết thứ hai về tác dụng của Diệu Pháp Liên Hoa kinh...
Đại khái nói khoảng một tiếng đồng hồ.
Tôi nghe xong trong ḷng có cái thắc mắc, kinh Diệu Pháp Liên Hoa ở thế gian lưu truyền về văn tự, và câu kinh không đồng nhau, tôi bèn hỏi Bồ Tát Quan Âm. Ngài cho biết:
- Kinh văn của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ở thế gian tương đối cạn dễ hiểu, ở đây lời lẽ huyền bí hơn, diệu mầu hơn, tuy dù có huyền bí hay diệu mầu hơn nhưng ư nghĩa chính cũng cùng một thứ thôi, có thể nói như thế này, người trời không hiểu cảnh giới Bồ Tát, La Hán không hiểu cảnh giới Bồ Tát. Bồ Tát không hiểu cảnh giới của Phật.
Ông nghe Bồ Tát giảng kinh chỉ phát ngôn bằng một tiếng nói, trăm ngàn tiếng nói cả nước đều được chuyển đến người nghe bằng độc nhất âm điệu của nước ḿnh, đó là ngôn ngữ Đà La Ni tam muội.
Bồ Tát Thường Tinh Tấn giảng xong, đất trời hiện ra cảnh tượng, không phải nói là một bức tranh, một bức tranh vô cùng đẹp mắt không thể nói hay nghĩ bàn được, rồi từ lưng trời rải xuống là là những đóa hoa tươi thắm đủ màu sắc, và từ hoa chiếu ra muôn đạo hào quang tỏa ra khắp nơi lung linh tuyệt vời.
Trong đài giảng tất cả thanh niên đồng thời đứng dậy lấy vạt áo đựng đầy hoa, lúc ấy nhạc trời đồng trổi lên du dương, diệu vợi, âm thanh không biết từ đâu vọng ra vô cùng hùng tráng, đột nhiên cả ngàn, cả vạn thanh niên áo đỏ ấy đồng loạt lay ḿnh biến thành thanh nữ mặc váy hồng đào, áo màu cốm, lưng đeo đai vàng óng lần lượt vươn lên múa hát vui thật là vui.
Không bao lâu tất cả lại biến thành những đóa hoa sen hiện ra từng sắc màu khác nhau, ánh sáng của hoa sen tủa ra thật là đẹp, sen trắng ánh sáng trắng, sen vàng ánh sáng vàng, mỗi hoa phát ra tia sáng của bản chất cánh sen ấy.
Bây giờ không c̣n thấy bóng người nào nữa, thế rồi trên hoa sen lại hiện h́nh Bồ Tát ngồi ngay ngắn, rồi tiếp đến lại biến hoa sen thành tháp vàng tháp bạc rọi muôn ngàn hào quang, cảnh sắc nơi đây biến hiện vô cùng tráng lệ và hấp dẫn.
Tôi đang ngắm nh́n một cách xuất thần, tự nhiên trên hư không cả ngàn cả vạn thanh nữ mặc áo màu cốm đi vào, họ đi xuyên tường xuyên vách, tà áo họ lất phất bay từ trên cao cùng nhau bước xuống. Tôi lấy làm lạ bèn hỏi Bồ Tát Quan Âm về việc đi xuyên qua vách. Bồ Tát Quan Âm cho biết:
- Thế giới Cực Lạc do nguyện lực của Đức Phật A Di Đà mà h́nh thành, thánh chất ấy không phải là vật chất, cho nên bất kỳ đ́nh đài, lầu các điện hay bảo tháp núi sông hoa cỏ, cây cối đều trong suốt trong vật chất do đó không có chướng ngại, có thể đi xuyên qua một cách tự nhiên, ông không tin cứ thử một lần xem.
Tôi y lời chạy qua vách đại điện để thử, rồi đến cột lớn, lan can.. thân tôi đều đi xuyên qua được. Khi tôi tiếp giáp với vật đó thấy vật đó nhưng nó không cản trở hay vướng vấp thân thể tôi.
Cũng như ở thế gian chúng ta biết khối nước do mặt thoáng hồ nước, nhưng đưa tay vào nước rất tự nhiên không bị cản lại. Tiếp đó, Bồ Tát Quan Âm dẫn tôi đến hai chỗ kỳ quan nữa là Bát Đại Cảnh Sơn và Hoa Tạng Thế Giới để tham quan.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 377 of 1146: Đă gửi: 24 June 2010 lúc 9:33pm | Đă lưu IP
|
|
|
TÂY PHƯƠNG DU KƯ
VIẾNG TRUNG PHẨM LIÊN HOA
2. BÁT ĐẠI CẢNH SƠN
Văng sanh đến trung phẩm hạ sanh, một số đă rất ít vọng tưởng vọng niệm, hoặc giả không c̣n vọng niệm, dáng dấp bên ngoài của họ đều biến thành cỡ tuổi mười sáu đến hai mươi, y phục không phân biệt nam nữ, hành động của họ cũng là tập thể, mỗi ngày cúng dường thập phương chư Phật.
Hoa sen chỗ này rất nhiều tầng cánh, những cánh sen màu sắc đều tuôn ra muôn thứ hào quang thật tuyệt đẹp, so với hạ sanh th́ khác xa nhau lắm.
Bát Đại Cảnh Sơn là tám núi cảnh lớn, tám núi này tượng trưng cho tám thức của con người: nhăn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ư thức, mạt na thức, a lại đa thức, hợp xưng bát thức tâm điền. Phật A Di Đà thiết lập cảnh này, là mong những người trước khi bước vào đất Tịnh Độ này, cần khiến cho tám thức của ḿnh tu thành chữ "KHÔNG".
Núi thứ nhất là Quang Minh Cảnh Sơn, tượng trưng cho nhăn thức, trong núi ấy h́nh ảnh của thế giới mười phương, tất cả và tất cả đều có thể nh́n tường tận được.
Thí dụ như cần xem một chúng sanh nào ở thế giới ta bà đang sống thế nào, đời quá khứ thế nào, kiếp tới nữa thế nào, chẳng hạn như kiếp trước là heo, là nô t́..kiếp trước nữa là gia đ́nh trưởng giả, đế vương, tướng quốc.. thậm chí t́nh h́nh đất Phật khác, đều có thể thấy rơ mồn một.
Núi thứ hai gọi là Thanh Vân Sơn, tượng trưng cho nhỉ thức. Vừa đến núi này là lỗ tai ta có thể nghe được tất cả âm thanh của mười phương thế giới, không phải nghe cùng một lúc đâu, ta nghĩ muốn nghe ở đâu hay nghe tiếng ǵ th́ âm thanh vang vọng nhận biết rơ ra, c̣n biết Đức Phật nào đang giảng kinh điển nào.
Núi thứ ba gọi là Vị Phương Cảnh Sơn, tượng trưng cho chỉ tỉ thức. Trên núi này ta có thể ngửi được mùi vị của bất cứ địa phương nào, c̣n có thể biết cả nội dung của cả mùi ấy nữa, chẳng hạn như mùi hóa chất ấy gồm những hợp chất ǵ, vàng, đồng, bạc thau sắt...
Núi thứ tư gọi là Âm Thanh Cảnh Sơn, tượng trưng cho thiệt thức, nhận biết tiếng từ miệng lưỡi người nào nói ra và ư nghĩa tiếng ấy ra sao, từ cảnh giới Phật Bồ Tát Thinh Văn Duyên Giác, Trời, Người, A Tu La.. thậm chí tiếng ngạ quỹ, súc sanh, địa ngục đều nghe hiểu.
Núi thứ năm gọi là Kim Thân Cảnh Sơn, tượng trưng cho thần thức. Trong núi này có thể bằng xúc giác nhận hiện ra tất cả sự vật, có thể thấy tất cả rất nhiều kim thân của thế giới ta bà, ba mươi hai tướng.. đều rất là rơ.
Núi thứ sáu gọi là Ư Thức Cảnh Sơn, tượng trưng cho ư thức. Núi này có thể gặp vô số chư Phật từng kiếp một tu hành như thế nào, và cả chính ḿnh hàng trăm kiếp, hàng ngàn kiếp trước là ǵ, thân thế ra sao, tu hành ra sao mọi thứ đều hiện ra.
Núi thứ bảy gọi là Tế Minh Cảnh Sơn, tượng trưng cho Mạt na thức. Đây là cảnh giới vô cùng đặc biệt gồm cả sáu khả năng ở sáu núi, đồng loạt thể hiện, có thể nói ở núi này ta muốn thấy hay biết bất kỳ cái ǵ cũng hiện ra rơ rệt.
Núi thứ tám gọi là Vô Biên Cảnh, tượng trưng cho thức thứ tám A Lại Đa Thức. Cảnh giới này ta có thể ư niệm và nghe thấy được đầy cả hư không giới tất cả mọi sự việc, quá khứ xa gần, hiện tại và cả vị lai xa gần, nếu chúng ta muốn biết chỉ khơi niệm là biết ngày không khó khăn tí nào.
VIẾNG TRUNG PHẨM LIÊN HOA
3. HOA TẠNG THẾ GIỚI TRIỂN LĂM QUÁN
Pḥng triển lăm về Hoa Tạng Thế Giới
Người văng sanh đến Trung Phẩm Trung Sanh, là người trước đây ở thế giới ta bà, đối với các việc nhận thức về Phật pháp và cách tu tŕ tương đối sâu hơn, đồng thời về mặt hành thiện và bố thí có thể nói là không chê được, có thành quả khá lớn. Do đó thành tựu được căn lành lớn.
Trung Phẩm Trung Sanh có rất nhiều pḥng ốc và tháp lớn. Khung trời nơi đây mỗi ngày đều mưa hoa, thường cứ hừng sáng chúng sanh nơi đây đều ra hứng đầy hoa tươi đẹp và thơm ngát, bằng vạt áo ḿnh để đi cúng dường chư Phật mười phương.
Đồng thời từ lưng trời vang vọng tiếng nhạc du dương trầm hùng câu thánh hiệu Phật A Di Đà, khó mà diễn tả hết cái tuyệt vời của cảnh này. Đúng là như kinh điển nói, muôn ngàn âm nhạc của vua chúa ở thế gian, không bằng phần trăm ngàn âm nhạc của Chuyển Luận Thánh Vương.
Muôn ngàn âm nhạc của cơi Chuyển Luận Thánh Vương không bằng âm nhạc của Trời Đao Lợi. Muôn ngày âm nhạc của Trời Đao Lợi, không bằng một âm nhạc của hàng cây báu trên A Di Đà Phật Cực Lạc Quốc Độ.
Chúng sanh của Trung Phẩm Trung Sanh, toàn thân đều phóng ra muôn đạo hào quang, sắc óng vàng hồng, hiện thân trong suốt không bị chướng ngại, do đó trong phút chốc họ có thể đi đến nước chư Phật khác cúng dường mười phương Phật, và cũng trong chốc lát lại trở về chỗ cũ, nếu khi sanh tiền không tạo nhiều công đức khó mà vào được phẩm này.
Chúng sanh đến được quả vị Trung Phẩm Trung Sanh, họ đă rất ít vọng tưởng, thậm chí rất đông đă dứt tuyệt vọng tưởng, c̣n về sự ao ước được ăn uống hầu như ít thấy lắm, chứ không giống ở Trung Phẩm Hạ Sanh, họ c̣n thèm các loại bánh và mật hoa. Khi tu đến tŕnh độ càng cao th́ sự thèm khát bớt đi rất nhiều.
Trung Phẩm Trung Sanh có một nơi gọi là cái quán triển lăm hay là pḥng triển lăm về Thế Giới Hoa Tạng. Trong pḥng triển lăm này, có thể thấy các dạng và các cách tu luyện của chư Phật và Bồ Tát, của nhiều đời nhiều kiếp.
Trong pḥng triển lăm ấy có rất nhiều tầng, mỗi tầng triển lăm bày ra quá tŕnh tu tŕ của một vị Phật hay một vị Bồ Tát nào đó. Thí dụ như muốn xem Phật A Di Đà trước đây là ai (Pháp Tạng Tỳ Kheo) cha là vị nào (Thế Tự Tại Vương Như Lai), Ngài tu pháp nào, pháp nguyện ǵ, kiếp trước nữa là ai, trăm kiếp nữa ra sao...
Rồi đến tầng khác chẳng hạn có thể thấy Đức Phật Thích Ca, Đức Phật Dược Sư, Bồ Tát Quan Âm.. từng đời, từng kiếp sống ra sao, ở những nơi nào, nói câu ǵ, gặp những ai, quá tŕnh tu hành và cuộc sống trong từng đời.. lần lượt cho thấy không sót một phần nào. Chúng ta có thể t́m thấy ở đây lịch sử chi tiết của từng vị Phật và Bồ Tát của cả Thế Giới Hoa Tạng.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 378 of 1146: Đă gửi: 24 June 2010 lúc 9:48pm | Đă lưu IP
|
|
|
TÂY PHƯƠNG DU KƯ
VIẾNG THƯỢNG PHẨM LIÊN HOA
1. HOA NỞ GẶP PHẬT
Rời khỏi Trung Phẩm Trung Sanh, Trung Phẩm Thượng Sanh, tôi được tiếp dẫn đến ao sen Thượng Phẩm. Khi tŕ chú lướt đi, tôi lần lần cao lớn lên như dáng dấp lúc đến đảnh lễ Đức Phật A Di Đà.
Bồ Tát Quan Âm bảo tôi:
- Chúng sanh văng sanh đến Thượng Phẩm là khi ở ta bà tinh tấn tu hành, giữ ǵn giới thanh tịnh, siêng năng nghiên cứu điển tích chư Phật, dũng mănh đoạn trừ mười nghiệp ác, hành mười việc lành, nương theo pháp môn ḿnh tu mỗi mỗi đều thực hành thấu đáo, cật lực dấn thân, mười năm như buổi đầu không hề lui bước đến lúc thịt rả xương tan, bỏ thân này mới thôi.
Ngoài ra c̣n tạo thêm những công đức lớn bên ngoài nữa, hành bố thí lớn, trong phút cuối cùng liền được đón về Thượng Phẩm. Những chúng sanh này cơ hồ không c̣n vọng tưởng nữa, sáu căn đều thanh tịnh cũng có thể nói đều đạt cảnh giới Bồ Tát, có thể tự do biến hóa, du hí thần thông.
Thí dụ như một nhóm chúng sanh Thượng Phẩm tu một chỗ, nếu họ muốn biến thành những đóa hoa th́ họ liền thành đóa hoa, muốn thành tảng đá liền thành tảng đá, muốn thành bảo tháp liền thành bảo tháp, muốn thành cây cổ thụ liền thành cổ thụ.
Hoa sen trên Thượng Phẩm này nhỏ nhất cũng cỡ ba tỉnh, nói cách khác lớn bằng ba lần Mă Lai Á. Tôi được dẫn đến ao sen Thượng Phẩm, ao ở đây đích thực trội hơn ao ở Hạ Sanh và Trung Phẩm nhiều, chung quanh ao tráng lệ hùng vĩ hơn.
Từng tầng từng tầng lan can vây lại phát ra muôn đạo hào quang, ngoài ra từ hoa sen tỏa ra muôn ngàn hương thơm. Trong ao có nhiều tháp lớn, h́nh dáng như núi cao vậy, tháp có nhiều góc cạnh phóng ra muôn ánh sáng đủ màu sắc uyển chuyển tuôn ra.
Trong ao c̣n có nhiều cầu màu sắc đẹp vô cùng. Ao lớn chưa từng thấy, tầm nh́n không thấy tới bờ bên kia. Trong ao có rất nhiều sen, không có sen nào úa héo cả, tất cả hoa sen đều phát ra ánh sáng lung linh rực rỡ và tỏa hương thơm ngát.
Nơi đây c̣n có những bảo cát bằng cả ngàn cả vạn hạt châu lấp lánh đủ kiểu, hoa th́ đếm không hết số. Mỗi tầng lại đầy dẫy những bảo tháp, đ́nh đài, lầu các, thật là hấp dẫn vô cùng, người ngồi ở trên hoa sen ấy toàn thân tỏa sáng ánh hào quang vàng óng, y phục rất hoa lệ cũng phát ra tia sáng màu rất đẹp.
Bất chợt Bồ Tát Quan Âm hỏi tôi:
- Đây có một vị tên là Ấn Quang Pháp Sư, Ngài là một trong ba vị cao tăng Trung Quốc thời cận đại ông có quen không?
Tôi vội trả lời:
- A Di Đà Phật. Thưa Bồ Tát ông ta ở đâu? Tôi đă nghe qua danh và rất quư trọng Ngài nhưng chưa được dịp gặp.
Tôi đang nói chuyện th́ một thanh niên chừng ba mươi tuổi ngoài bước ra khỏi hoa sen và hiện nguyên h́nh tướng Ấn Quang Đại Sư. Chúng tôi gặp mặt nhau mừng lắm, cùng đảnh lễ, rồi Ấn Quang Đại Sư nói thao thao bất tuyệt.
Ông nói nhiều lắm, tôi quên mất một số, chỉ nhớ lại là ông ta nhắn đi nhắn lại, tôi phải truyền đạt tới đồng đạo ở ta bà là phải lấy giới làm chuẩn, nghiêm tŕ giới luật, nhất tâm niệm Phật, tin hạnh nguyện, tất văng sanh Tây Phương không sai.
Ngoài ra ông c̣n nhắc nhở những người tu hành, đừng tự cho là ḿnh thông minh sửa đổi luật nhà Phật, quy chế chư Tổ, nhất là chớ nên hô hào cải cách duy tân, tái phải oai nghi giới luật.
Chúng tôi cùng bước xuống đài sen đưa đến lầu các lớn, trên đường đi các chim chóc đậu trên cành vàng lá ngọc líu lo ca hát, ḥa với âm nhạc trời du dương, thêm vào là âm thanh thướt tha của tiếng niệm Phật khắp nơi. Hoa nở rộ muôn màu muôn vẻ, hương thơm xông ngát, từng đóa hoa cánh hoa chiếu ánh sáng lung linh.
Ngoài ra lại c̣n rất nhiều loại đèn châu báu, đèn mă năo, đèn lưu ly từng hàng từng hàng ngay ngắn, các loại đèn lấp lánh ánh sáng màu sắc đẹp thôi nói không hết ư. Vào trong lầu các cái ǵ cũng lấp lánh ánh sáng màu sắc lung linh khiến tôi ngây người ra ngắm nghía.
Ấn Quang Đại Sư đi với chúng tôi lên lầu, trên lầu có các loại kính bằng thủy tinh, ở giữa có một cái kính lớn nhất gọi là chiếu thân kính. Bồ Tát Quan Âm giới thiệu:
- Kính này có thể soi thấy nguyên h́nh của từng người, xem bản tánh đă thanh tịnh hay chưa? Có c̣n vọng tưởng vọng niệm nữa không? Soi một cái là thấy ngay.
Trên lầu có ghế ngồi ngăn thành hai hàng lối, các nghế ngồi đều làm bằng bảy báu sáng lấp lánh. Trên bàn gần đó bày vật ǵ đó lạ lắm tôi không nh́n ra là ǵ.
Bồ Tát Quan Âm hỏi tôi:
- Ông thấy đói rồi hả?
Tôi thấy đúng là có cồn cào đói. Tôi nói:
- A Di Đà Phật. Thưa Bồ Tát, ở đây có ǵ ăn không ạ.
Ngài bảo:
- Về thức ăn th́ cũng như ở Hạ Phẩm vậy, ở đây ông muốn ăn ǵ sẽ có dọn ra.
Tôi nói:
- Vậy th́ hay quá, tôi chỉ ước được ăn cơm trắng với canh rau cải trắng thế thôi.
Tôi vừa nói dứt cơm trắng và tô canh c̣n nóng hổi được bày ra ở bàn, đũa muỗng cũng đầy đủ. Tôi hỏi:
- A Di Đà Phật. Thưa chư vị không ăn bây giờ sao?
Bồ Tát trả lời:
- Đây không có ai ăn đâu, ông cứ tự nhiên ăn đi.
Tôi nghĩ mà mắc cỡ quá, nhưng cũng ngồi vào ăn. Tôi ăn no nê rồi để gọn bát đũa lại, tự nhiên bát đũa muỗng đều biến đi đâu mất.
Tôi thắc mắc hỏi Bồ Tát, Ngài nói rằng:
- Tại ông vọng tưởng bụng đói, và khao khát muốn ăn cũng giống như ở thế gian chiêm bao vậy. Trong chiêm bao cái ǵ cũng có, khi thức tỉnh ra rồi chẳng có cái ǵ cả. Ông vọng tưởng ăn, thức ăn liền đến, ăn no rồi vọng tưởng về ăn không c̣n, những ǵ thuộc về vọng tưởng cũng v́ vậy mà biến mất.
Tôi gật đầu hiểu ra. Ngài nói thêm:
- Tự tánh thanh tịnh th́ không thèm ăn, không thèm khát, không thèm muốn cái ǵ ở trong hư không, thật ra trong hư không vốn là không có cái ǵ. Vọng tưởng dấy lên cũng giống như sương mờ được un lên vậy, cái ư ấy ông từ từ nghiệm ra, nếu mà lănh hội được th́ sẽ hiểu ra tam muội của việc ấy.
Người văng sanh về sen Thượng Phẩm vọng niệm ít nhất, hầu hết đều là Phật tánh chơn như, đều chứng quả vị Bất Thoái Chuyển Bồ Tát, trong chốc có thể nương nguyện lực Phật A Di Đà biểu hiện ra vô số hoa tươi đẹp, trái cây và phẩm vật cúng dường.. để đi cúng dường chư Phật mười phương.
C̣n đến giờ thuyết pháp nghe kinh, th́ cả ngày vạn ức Bồ Tát đều ngồi ngay ngắn trên hoa sen, hoặc trên lầu, trên bảo tháp, trên bảy hàng cây báu, trực tiếp nghe lời giảng của Đức Phật A Di Đà.
Tôi hỏi Bồ Tát Quan Âm:
- Người ở trái đất văng sanh về thế giới Cực Lạc này rất đông, tại sao thân quyến của họ đều không nh́n thấy vậy? Ngài bảo:
- Người địa cầu phần nhiều c̣n vọng nghiệp che lấp, rất nhiều cái gần hơn c̣n chưa nh́n thấy, nếu họ chịu nhất tâm niệm Phật không dấy vọng tưởng, tâm như hư không, th́ người địa cầu cũng có thể nh́n thấy thế giới Tây Phương Cực Lạc được.
Tôi thừa cơ hỏi hỏi Bồ Tát:
- Cầu Ngài chỉ dạy: Thưa Bồ Tát “Cần phải niệm Phật ra sao mới là tốt nhất?” Mới có thể tu nhanh nhất?
Ngài bảo:
- Cần thiền định song tu, nhất tâm niệm Phật, niệm Phật tham thiền gọi là tịnh độ thiền.
Tôi hỏi:
- Thưa Bồ Tát xin Bồ Tát chỉ cho biết tu tịnh độ thiền bằng cách nào?
Ngài gật đầu chỉ dạy như sau:
- Số người có thể chia thành hai nhóm, như cách tu của chúng sanh Thượng Phẩm Tây Phương Cực Lạc đây, nhóm trước niệm hai câu A Di Đà Phật, nhóm sau mặc niệm lắng nghe, sau đó nhóm sau niệm hai câu, nhóm trước mặc niệm lắng nghe, tu tŕ như vậy đă không mệt nhọc, lại không ngừng niệm, tâm và khẩu như nhau. Phật tánh tự nhiên lộ, tính tất sanh định, định tất sanh huệ.
2. VIẾNG THÁP LIÊN HOA
Bồ Tát Quan Âm hối thúc:
- Thôi lẹ đi, thời giờ eo hẹp lắm. Tôi dẫn ông đi thăm viếng Tháp Liên Hoa, là tháp lớn của Phật A Di Đà.
Lại lướt qua thêm mấy ṭa lầu các đến vạn tầng. Những tháp này có bao nhiêu góc cạnh cũng không đếm hết được. Tất cả các tháp đều phóng ra muôn đạo hào quang, sắc màu uyển chuyển ánh lung linh, đẹp vô ngần.
Trong tháp vang vọng ra tiếng niệm Nam Mô A Di Đà Phật, liên tục hai câu đầu nghe rất trong vút. Câu đầu tiên nghe rất cảm động và tha thiết như con réo mẹ cứu giúp vậy, c̣n câu thứ hai nghe trầm hùng rất quyết tâm và thân thiết.
Ṭa tháp này dành riêng cho chúng sanh Thượng Phẩm Trung Sanh đến dạo chơi. Tháp lớn lắm, khó mà h́nh dung ra được. Có thể lớn cở mấy ngàn mấy vạn độ lớn của trái đất chúng ta ở, c̣n độ cao th́ không thể tính được.
Trong tháp có rất nhiều cung điện, các loại màu sắc đều có thể phát hào quang trong suốt. Các chúng sanh Thượng Phẩm Trung Sanh đến đây đều có thể xuyên tường tự do ra vào, không bị ngăn trở. Muốn lên muốn xuống đều tùy tâm tưởng th́ sẽ đến ngay vị trí.
Trong tháp có thể nói muốn ǵ có nấy, trong y có thể thấy tất cả cảnh tượng của một chúng sanh của Hoa Tạng thế giới, có thể thấy được đất Tịnh Độ của hằng trăm, hàng vạn đức Phật khắp nơi. Cảnh vật nơi đây thật là tuyệt vời khó mà dùng bút mực tả cho hết được.
Chúng sanh Thượng Phẩm Trung Sanh nếu muốn đến những nơi Tịnh Độ của vị Phật nào, cũng đến trong nháy mắt rất dễ dàng. Chúng tôi vào trong tháp Liên Hoa, thân như ngồi thang máy vậy, xuyên thấy từng tầng, không vướng chi cả, hoàn toàn trong suốt hết.
Trong các tầng của tháp có từng nhiều người đang niệm Phật, tất cả là những thanh niên khoảng ba mươi tuổi. Mỗi một tầng cách ăn mặc đều khác, đại khái chừng hai mươi loại màu sắc. Tất cả những người ở đây đều là nam, không thấy một người con gái nào.
Tất cả những người thanh niên ấy ngồi ngay ngắn nơi đài sen của ḿnh niệm Phật Bồ Tát Quan Âm. Ở đây tu hành tinh tấn lắm trong ngày sáu thời: hai thời dành niệm Phật, hai thời chỉ tịnh, hai thời nghỉ ngơi, bây giờ th́ họ đang niệm Phật.
Chúng tôi tiến vào tầng giữa, chỉ thấy từng hàng người ngồi ngay ngắn trên bồ đoàn của ḿnh tham thiền niệm Phật, rất đẹp mắt, có vị ngồi ngay giữa pḥng là vị đại Bồ Tát đang ở đây dẫn chúng niệm Phật. Người nào niệm giỏi th́ trên đầu phát ra những tia sáng.
Trong tia sáng có vô số những vị hóa Phật, như Đức Phật A Di Đà vậy, trong mỗi tia sáng số hóa Phật vô số ức vị, vị Đại Bồ Tát ngồi giữa dân chúng ấy, cũng có nhiều hóa Phật nương tia sáng, hiện các loại chim bay đi bay lại ở tên chớp tháp.
Hoặc ở đại sảnh bay đến cũng cùng nhau niệm Phật; bay như vậy mà không mảy may hỗn loạn. Trong tháp có rất nhiều đèn trân châu, đèn lưu ly đều phát ra sức sáng tối đa, có loại đèn tṛn to, tự động chuyển biến các dạng màu sắc.
Tóm lại cảnh trí nơi đây nói không hết cái lung linh uyển chuyển đẹp. Đi cúng dường mười phương chư Phật cũng tập trung ở đây mà đi. Tại nơi đây có thể thấy được bất cứ thế giới nào mà toàn thế giới Hoa Tạng cũng hiện ở đây. Tất cả chúng sanh, tất cả Phật Thánh đều hiện rơ ở đây cả.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 379 of 1146: Đă gửi: 24 June 2010 lúc 9:55pm | Đă lưu IP
|
|
|
TÂY PHƯƠNG DU KƯ
A Di Đà Phật Chỉ Dạy
Thăm xong chín phẩm hoa sen rồi, tôi lại được đưa trở về trước Đức Phật A Di Đà. Tôi quỳ trước Ngài chí thành đảnh lễ, cầu Phật gia bị và chỉ dạy, từ chính kim khẩu Đức Phật A Di Đà từng câu từng câu một vô cùng thận trọng mà nhắc nhở tôi:
- Phật Tánh của chúng sanh vốn là b́nh đẳng, tùy nghiệp ḿnh làm đảo điên ư thức, lấy giả làm thực tạo nhân chịu báo, trôi lặn trong sáu nẻo luân hồi không dứt, chịu khổ vô vàn. Bốn mươi tám nguyện ta thề hằng độ chúng sanh, trai gái già trẻ, lấy tín nguyện hạnh nhất tâm bất loạn, tịnh độ thiền, chỉ cần mười niệm quyết được văng sanh.
Tôi quỳ lễ bái nữa, Ngài dạy tiếp:
- Con có nhân duyên với thế giới ta bà, con muốn độ cha mẹ nhiều đời, anh em chị em, thân bằng quyến thuộc, con cần dặn họ giữ giới làm lành, lấy giới làm thầy, dạy học tịnh độ thiền, thiền định song tu.
Con cần dặn kỹ các loại đạo giáo Thích, Đạo Nho, Đạo Gia Tô, Hồi Giáo.. các giáo cần cùng nhau giúp đỡ, cùng nhau khích lệ, đừng nói dèm pha nhau, đừng phỉ báng nhau, đừng nói những lời tà chánh.
Người tà, ta đạo, người ma, ta cao, người thấp, ta quư, đừng soi t́m cái dấu vết sai sót nhỏ của nhau mà phỉ báng không ngừng, đây chỉ là hành vi diệt căn lành; bào ṃn th́ giờ quư báu vào chuyện không đâu, thực chẳng đáng.
- Cửa Phật quảng đại, tám vạn bốn ngàn pháp môn, Đạo nào cũng thực, có thể tu tŕ tà biến được ra chánh, ma biến được ra đạo, nhỏ có thể đi về lớn, cùng nhau đùm bọc nương nhau tinh tấn tu hành pháp môn của ḿnh, sửa sai của ḿnh, hành cái lành của ḿnh mới đúng là chánh tông huệ mạng của chư Phật.
Ngưng một lúc Ngài bảo:
- Thôi con về là vừa rồi.
Tôi bái lễ tạ, lễ ba lần và lui gót.
Trên đường về tôi vẫn cứ bay bay, không thấy Nam Thiên Môn, đi bằng tŕ chú và nương hoa sen đi thật nhanh, đến ngay Trung Thiên La Hán tôi ngừng niệm chú, th́ hoa sen biến mất, lại thấy vị đồng tử hôm trước đưa nước trong cho uống.
Thầy tri khách bảo tôi vào pḥng nghỉ tí đă, tôi vào pḥng nghỉ, thoáng cái đă say say trong giấc ngon lành.
Về Đến Thế Gian
Lúc tôi tỉnh lại loay hoay không biết ḿnh đang ở đâu, không thấy người trời, không thấy Bồ Tát, không thấy ṭa đại diện cũng không thấy nơi nào phát ra hào quang nữa..
Tôi nhớ lại mới ba giờ khuya hôm qua, tôi đi dạo cả ngày và giờ lại tối khuya nữa rồi, chắc chừng hai mươi tiếng đồng hồ đi tham quan thích thú quá đi.
Ở đây sao mà tối thui như mực, đưa tay không thấy ngón, tôi cảm thấy như đang ở trên một tảng đá lớn của động núi cơi nào, lần ṃ hồi lâu mới có tia sáng hừng đông, tinh thần phục hồi ngay như thường, tôi thấy ra đă ở thế giới ta bà.
Ở trong động không thấy lối ra, tôi gọi, tôi nhẩy, tôi khát, không ai trả lời. Cuối cùng tôi cũng t́m được lối ra ven theo đường núi, xuống dưới đi bộ hai mươi cây số đến đường Xích Thủy, gặp người đi đường tôi bèn hỏi ra, hú vía kinh hồn.
Th́ ra bây giờ là ngày 8 tháng 4 năm 1973 rồi. Tôi bấm đốt ngón tay đếm, té ra tôi rời khỏi nhân gian hơn sáu năm năm tháng...
Tôi lầm bầm niệm trong ḷng, Nam Mô A Di Đà Phật, kẻ giác thành Bồ Tát, người mê ấy chúng sanh, Phật pháp có túc thân, lúc gặp duyên th́ độ, tôi phải thừa kế ư chí của ân Sư Hư Vân lăo Ḥa Thượng, thực hành chỉ thị của Đức Phật A Di Đà và Bồ Tát Quan Thế Âm, hoằng pháp độ chúng sanh hữu thiện duyên.
Nam Mô A Di Đà Phật
Quan Âm Tu Viện
01/06/1991
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 380 of 1146: Đă gửi: 26 June 2010 lúc 3:37am | Đă lưu IP
|
|
|
NHỮNG NGƯỜI SIÊU PHÀM
ANH BÙI VIỆT CHIẾN.
Trong khi cả nước Việt Nam đang dậy lên vấn đề sôi nổi về hài cốt quân nhân Mỹ và nhất là khi vấn đề MIA được chính phủ Hoa Kỳ nêu lên hàng đầu cho tiến tŕnh Bang giao Việt Mỹ th́ từ khắp nơi trong nước bắt đầu lộ diện những con người có khả năng kỳ lạ.
Họ có thể t́m ra nơi có hài cốt của những người đă chết bị mất tích. Ở miền Bắc cũng như miền Nam Việt Nam có nhiều nhân vật lạ lùng này xuất hiện. Theo lời đồng bào ở miệt Hậu Giang và Tây Ninh th́ có những vị đạo sư quanh năm ngồi tu niệm trong các hang động hay cốc.
Và họ có khả năng chỉ dẫn cho một số bổn đạo những hài cốt của thân nhân họ bị mất tích trong cuộc chiến VN ngay từ thời Pháp thuộc đến naỵ Ở Huế có vị chỉ chỗ có thi hà những người chết trong biến cố Mậu Thân cho thân nhân đem về chôn cất.
Điều kỳ lạ là những vị đó không dùng tới môn cảm xạ học mà chỉ dùng phương thức Thiền Định, quán tưởng mà thôi. Mới đây tại Đà Nẵng lại xuất hiện một nhân vật lạ lùng có khả năng t́m kiếm thi hài của những người bị mất tích vô cùng chính xác. Nhân vật đó có tên là Bùi Việt Chiến.
Anh này đă giúp cho vô số người t́m lại được hài cốt của những người mất tích bằng một phương thức đầy vẻ siêu linh huyền bí. Khi muốn t́m kiếm thi hài người nào th́ điều trước tiên thân nhân người đó phải trực tiếp gặp anh Chiến với tất cả ḷng thành và sự liên hệ huyết thống, người thân nhân ấy sẽ nói rơ họ, tên, ngày sanh tháng đẻ và nơi sinh quán của người bị mất tích cho anh Chiến biết.
Sau khi đó, anh Chiến thắp một bó nhang đến khấn vái nơi bàn thờ tổ tiên của anh rồi bắt đầu ngồi xếp bằng tĩnh tọa trên bộ phản, mắt nhắm nghiền, c̣n hai tay th́ ôm lấy đầu. Khoảng 20 phút sau, cả thân ḿnh anh Chiến chao đảo rồi bắt đầu lắc lư qua lại từ chậm đến nhanh dần. Kế đến đầu không c̣n quay quanh hay lắc lư nữa mà nghiêng hẳn về một phía.
Theo những người đă từng chứng kiến th́ chính đó là hướng của thi hài người mất tích. Đến giai đoạn này, cả người anh Chiến như được tăng cường bởi một sức mạnh vô h́nh nào đó làm tung anh xuống khỏi tấm phản đồng thời mắt anh mở lớn, hai tay đưa thẳng lên trời và bắt đầu đi nhanh như đang chạy theo hướng mà lúc tĩnh tọa đầu anh đă nghiêng về hướng đó. Cuối cùng anh đến một băi đất lầy lội anh nói to:
- Đó đó, ngay trước mắt tôi, đào lên, đào lên! Những người chạy theo anh Chiến đă chuẩn bị đầy đủ cuốc xẻng vội vă đào bới và một lúc sau họ thấy một bộ xương của người quá cố. Anh Chiến đă giúp cho hàng trăm người t́m lại được hài cốt thân nhân bị thất lạc và sự chính xác hơn 90%. Các nhà báo và cả những người nước ngoài đă đến phỏng vấn t́m hiểu.
Hiện nay hàng ngày có hàng chục người túc trực tại nhà anh Bùi Văn Chiến để nhờ anh xuất thần chỉ chỗ có thi hài người thân của họ. Anh Chiến không đ̣i hỏi tiền bạc quá nhiều chỉ một ít lễ vật hương hoa hoặc tiền mọn để sắm hương đèn mà thôi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|