Tác giả |
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 401 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 5:08pm | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH TỚI CÁC CƠI BÊN KIA CÁI CHẾT
1-NÚI HUY HOÀNG MÀU ĐỒNG-ĐỎ CƠI THUẦN TỊNH
CỦA ĐỨC PADMASAMBHAVA
Con đường mà tôi để cập tới là một lối đi hẹp, khó khăn và đóng kín.
V́ thế những ai khao khát giải thoát có thể đi vào con đường dẫn tới giải thoát đó.
Tôi sẽ rộng mở chút ít trên ṿng hoa lời dạy chữa lành này liên quan tới động lực cao cả hơn .
Những tường thuật được kể lại ở đây liên quan tới tôi, Dawa Drolma, con gái của Jigmed T’hrogyal thuộc bộ tộc Tromge, một đạo sư sống trong vùng Washul T’hron. Từ khi c̣n là một đức trẻ, tôi được phú bẩm một bản tánh bi mẫn, đức tin không định kiến và thị kiến thanh tịnh. T́nh thương của tôi thật mănh liệt đối với mọi hành khất và những người kém may mắn hơn tôi và tôi hiến thân ḿnh để cúng dường và bố thí.
Tôi thực hiện nhiều cuộc nhập thất tŕ tụng mănh liệt, đă hoàn tất chẳng hạn như hàng trăm ngàn lần Lời Khẩn nguyện Bảy-Ḍng. Sau này tôi được cảm hứng bởi Dakini Dorje Yudron và những bổn tôn khác của giác tánh nguyên sơ, cũng như bởi một Bồ Tát (bodhisattva) đệ bát địa, Ngài mang thân tướng của một vị trời địa phương, đại nyen siêu phàm ở phương bắc. Mặc dù các Ngài không hoàn toàn thuật lại quá khứ, hiện tại và tương lai cho tôi nghe, dù sao th́ tôi cũng đă nhận một số lượng phi thường những tiên tri liên quan tới thời đại của chúng ta.
Có một dịp, ba vị tulku, cũng như ngài Jatrul và những vị khác du hành xuống thung lũng để tham dự một nghi lễ trọng thể, một sự kiện hàng năm được tổ chức trong một cái lều lớn bằng nỉ. Vào buổi chiều tối, trước khi các ngài giải tán, tôi có một linh kiến mà nửa là một kinh nghiệm thiền định, nửa là một giấc mộng.
Trong linh kiến này, ba yêu ma có tên là “các chị em găy bể samaya” từ hướng cao nguyên Lashar tới, lấy cắp sinh lực của chúng sinh trên ba mức độ thuộc sự hiện hữu có điều kiện.
Bà Chị chính cầm một lá cờ bằng lụa đen và một sợi tḥng lọng; mặc dù nhiều lần bà ta cố cột chúng vào eo lưng tôi, nhưng vị bổn tôn nghiệp của tôi là Đức Tara tôn quư đă xuất hiện trong một biểu lộ trẻ trung, thân màu trắng chói lọi và đặt tôi trong một chiếc lều được bảo vệ chặt chẽ khiến sợi tḥng lọng không thể đụng tới tôi được].
Sau này, tôi có một thị kiến về người nào đó lại gần và đánh vào xương vai tôi bằng một cuộn len màu có kích thước cỡ một ḥn đá nhỏ, sau đó biến mất. Đây là một kinh nghiệm hết sức xấu, nhưng một lần nữa, Đức Tara lại can thiệp và nói:
“Bởi sự việc này, ta phải đi Ấn Độ để lấy một ít thuốc kanadava từ kho tàng bí mật của các dakini ở Orgyan. Ta sẽ không trở về trong bốn ngày. Trong thời gian này, con nên mặc y phục của người nào đó như anh Palchhen của con mà thân anh ta được các vị trời bảo vệ che chở và hăy giữ ǵn đừng để tâm con lang thang vơ vẩn.
Vào tối thứ tư, hăy dâng cúng tám mươi torma để giải trừ các chướng ngại. Sau đó, như một dấu hiệu là ta đă lấy được thuốc, ta sẽ đến như mặt trời chói lọi, không bị mây che hay một cơn gió hung tợn vây bủa”.
Trong bốn ngày này, tôi đau đớn ghê gớm; cơn đau dữ dội đến nỗi tôi không thể buộc khăn quanh người. Vào tối ngày thứ tư, vị đạo sư hóa thân Tromge Trungpa cử hành một nghi lễ cúng dường tám mươi torma, và ba chị em cắt đứt sinh lực hài ḷng với các vật cúng dường, đă quay về trụ xứ riêng của họ.
Một mùi hương dễ chịu ngập đầy căn lều bằng nỉ, từ đỉnh lều tới đáy, cho thấy là thuốc đă về tới. Tôi đă có thể thưởng thức một chất dị thường có hương vị rất tuyệt vời, và ngay lập tức, cơn đau của tôi tan biến. Tôi thực sự kinh nghiệm sự kiện kỳ diệu này, là điều mà bất kỳ ai cũng có thể tự ḿnh chứng thực.
Một lúc khác, bất ngờ tôi bị đánh gục như thể giờ chết của tôi chắc chắn đă tới. Đạo sư gốc quư báu[13] và chỗ nương tựa duy nhất của tôi, bậc quyền uy từ bi là kho tàng của ḷng bi mẫn, đă cử hành một buổi lễ tràn đầy oai lực để triệu hồi sinh lực trường thọ của tôi.
Các vị đạo sư của ḍng Sakya lừng lẫy cử hành những sự cầu nguyện, những nghi lễ ban sự che chở, lễ quy y của Đức Hevajra vinh quang và những buổi lễ khác. Sau cùng, những cơn đau mạnh mẽ suy giảm và những cơn đau vi tế hơn nguôi dịu thành một kinh nghiệm về đại lạc tánh Không.
Sau đó, ngài Khakyod Wangpo, đấng thống lĩnh của một trăm bộ Phật, kho tàng vô song và duy nhất của ḷng bi mẫn, Đức Vajrasattva toàn thiện vĩ đại trong thực tế, đă dẫn dắt tôi trong một linh kiến với sắc tướng huyễn mộng của giác tánh nguyên sơ của Ngài.
Như một người nói chuyện với người khác, tôi đă tṛ chuyện cùng các dakini của giác tánh nguyên sơ không có thân thể vật lư và đáp lại những câu hỏi của tôi, họ cho tôi những câu trả lời rơ ràng, khiến cho những chướng ngại đối với thọ mạng của cô gái[17] này được giải trừ và tôi đă có thể làm lợi cho chúng sinh theo khả năng của riêng tôi.
Tôi đă được tiên tri rằng tôi phải thực hiện các cuộc nhập thất tŕ tụng về ba vị bổn tôn Amitayus, Samyak và Vajrakilaya để viếng thăm nhiều cơi thuần tịnh Hóa thân.
Đức Tromge Kundun Rinpoche đă cử hành các lễ quán đảnh về ba bổn tôn này từ các giáo lư của đại terton Laykyi Dorje. Những cách nh́n quen thuộc của tôi về các sự việc được nhẹ nhàng quét sạch và tôi được đưa dẫn trực tiếp vào bản tánh tinh túy vô điều kiện của giác tánh nội tại, không chút lầm lạc.
Tôi đốn nhập vào giác tánh nội tại trong toàn bộ sự trần trụi của nó, rồi th́ những ngôn từ kim cương bí mật tuôn ra không ngưng nghỉ. Thiên nữ tôn kính, Đức Tara Trắng cao quư, ban cho tôi một linh kiến và nhiều kinh nghiệm thiền định của sự hợp nhất không thể nghĩ bàn của đại lạc và tánh Không đă ló rạng trong ḍng tâm thức tôi.
Đó là năm đầu tiên của chu kỳ sáu mươi năm cũ, năm Giáp Tư 1924. Trong tuần trăng khuyết tháng tám, vào ngày hai mươi ba âm lịch xảy ra một sự kiện quan trọng kỷ niệm sự tụ hội của các dakini, một thời gian tốt lành cho sự truyền bá được cách-tân giáo lư quư báu của con đường mật chú.
Vào ngày này, chúng tôi lại thăm Chhogtrul Rinpoche. Cô gái này nằng nặc hỏi Ngài về những giấc mơ và kinh nghiệm thiền định trong đời trước của cô, cũng như những kinh nghiệm gần đây và mới vừa xảy ra. Ngài có vẻ hân hoan đến độ đáng kinh ngạc và hết sức hài ḷng bởi những tường thuật này.
Tôi nói với Ngài: “Theo một tiên tri mà Đức Tara Trắng nói về cô gái này, con sẽ trải qua khoảng sáu hay bảy ngày trong một trạng thái kiên cố thiền định sâu xa, như thể ở trong một sự hôn mê hay một trạng thái giống như chết”.
Trên thực tế, Chohogtrul Rinpoche và Tromge Trungpa đều bảo tôi: “Tuyệt đối không cần tới loại đồn đại này. Sau khi trải qua tối đa một ngày trong nghi lễ chay nyungnay, con cảm thấy đói và khát. Không tốt hơn sao khi ở trong một lều thiền định tĩnh lặng tự nhiên, không suy nghĩ nhiều, nghỉ ngơi thoải mái trong những điểm trọng yếu của các giai đoạn phát triển và thành tựu và hoàn tất một ít sự tŕ tụng thần chú?”
“Nhưng”, tôi trả lời “an trụ bảy ngày trong một t́nh trạng như thế là một điều lợi lạc và rất cần thiết cho việc chữa trị bệnh tật của con”. Tôi cứ quấy rầy các ngài măi khi hỏi:
“Con có nên ở trong pḥng khóa cửa, không dùng chút thực phẩm và nước uống nào không?”
Tromge Kundun Rinpoche nói: “Hoàn toàn không nên làm ǵ cả! nếu muốn bớt bệnh, con nên cử hành những nghi thức và lễ trường thọ rộng lớn và hăy nhận những lễ quán đảnh Vajrakilaya cùng nghi lễ tắm gội của bổn tôn Bhurkakuta. Con cũng nên chuộc mạng những con vật sắp bị làm thịt.
Nếu con ước muốn hoàn thiện hạnh phúc của chúng sinh, hăy thực hành một nghi thức chẳng hạn như nghi thức dẫn dắt chúng sinh ở sáu cơi được t́m thấy trong giáo khóa Sự Giải thoát Tự nhiên của Ư hướng Giác ngộ của các bổn tôn ḥa b́nh và phẫn nộ[cùng khẩn cầu nguyên lư của ḷng bi mẫn siêu việt bằng cách tŕ tụng thần chú mani cùng với những lời cầu nguyện hồi hướng và ước nguyện”.
Trước phương cách này và nhiều cách khác mà Ngài buộc tôi phải làm, và mặc dù rất tốt khi tuân theo lời khuyên của Ngài, tôi lặp lại rằng theo ư kiến của tôi th́ không có ǵ để làm ngoài những ǵ tôi đă mô tả, và tôi quyết định thực hiện phù hợp, không thể tŕ hoăn thêm nữa.
Vào ngày hai mươi lăm âm lịch, tôi báo cho mọi người xung quanh về t́nh trạng của tôi. Vào buổi tối, thời điểm của năng lực , khi các dakini tụ hội, bảy lạt ma và tulku khá đặc biệt (lạt ma toàn trí Tromge Kundun Ringpoche là vị lỗi lạc nhất trong số họ) được nhiều đệ tử và các thị giả tháp tùng.
Cô gái này cũng nhập vào đám đông. Khi tôi ở đó, tâm tôi trở nên minh mẫn hơn bao giờ hết và những kinh nghiệm thiền định và các trạng thái chứng ngộ hết sức đặc biệt xuất hiện trong ḍng tâm thức của tôi.
Trong tầm nghe của Tromge Kundun Rinpoche tôi tụng đọc những bản văn nghi lễ theo thứ tự thích hợp của chúng mà tôi chưa bao giờ học, Những Mệnh lệnh của Bà Mẹ Phối ngẫu, cũng như sự dâng cúng tiệc và nghi thức thực hiện. Tâm tôi cực kỳ hỉ lạc và tôi cảm thấy chưa bao giờ hạnh phúc như đêm ấy.
Sau khi đám đông giải tán, tôi ở lại một lúc trong sự hiện diện của đạo sư quư báu của tôi. Sử dụng nhiều phương tiện cả nhẹ nhàng đến phẫn nộ, Rinpoche lập đi lập lại: “Con gái ta, ta xin con đừng tiến hành kế hoạch này”.
Tuy nhiên, yêu cầu đó không ích lợi ǵ và v́ thế sau cùng Ngài nói” “Bởi con đă quyết định làm thế, hăy giữ những lời này trong tâm và đừng quên chúng. Từ nay trở về sau, đừng ô nhiễm nẻo đường mê muội, bất tịnh và tăm tối như con đă làm trong quá khứ.
Hăy an trụ mà không dùng phương tiện hay nỗ lực nào trong bản tánh chân thật của tâm con, đúng như nó xuất hiện và tự nó xuất hiện. Càng nhiều càng tốt trong mức độ có thể, hăy phát triển ḷng tin và cái nh́n thanh tịnh về các đạo sư và bổn tôn được chọn lựa của con, cũng như ḷng từ bi đối với mọi chúng sinh, họ đă từng là những bậc cha và mẹ của con” [31]
Cùng với lời nói đó, Ngài tỏ vẻ cung kính tôi bằng cách đích thân cho tôi một đĩa đầy những khẩu phần đặc biệt của tiệc cúng dường. Ngài ngâm tụng: “Cầu mong con được đặt dưới sự bảo trợ của các đạo sư, Tam Bảo và Đức Orgyan vĩ đại. Cho tới khi con thành tựu sự Giác ngộ, cầu mong mọi chướng ngại và nghịch duyên được làm yên dịu.
Cầu mong ư hướng giác ngộ không bị tạo tác của hai phương diện của Bồ Đề tâm, bản tánh nền tảng của thực tại được nảy sinh trong ḍng tâm thức của con. Cầu mong con được thiên nữ tôn kính, Đức Tara cao quư dẫn dắt trên con đường và nhờ đó hăy thành tựu lợi ích không thể nghĩ bàn cho chúng sinh”.
Khi Ngài nói những lời này, ḷng tin của tôi phát triển thật mănh liệt khiến tôi có cảm tưởng như thể ḿnh bật khóc. Tôi thực hiện ba lễ lạy và quay trở về ẩn thất của ḿnh.
Sau đó tôi nói với Tulku Tromge Trungpa: “Con sẽ như thể thực sự chết trong khoảng năm ngày. Trong thời gian đó không ai trong những nhà sư hay đệ tử được ra vào pḥng con hoặc đi lại nhiều ngoài cửa; họ không nên nói luôn miệng hay gây những tiếng động kinh suất, quấy rối.
Xin dọn dẹp mọi thực phẩm ở trước mặt con, đừng để lại nhiều hơn bảy hạt lúa mạch. Để tịnh hóa những khuynh hướng quen thuộc, sự che chướng thai tạn và những ô nhiểm của thân thể con, xin rửa sạch con bằng nước nghệ đă được hiến cúng qua thực hành Vijay.
Vào lúc đó, để cung cấp một điều kiện tốt lành đặc biệt, phải có sự hiện diện của một cô gái tên là Drolma”. (Nhưng cuối cùng mọi việc hóa ra tự nhiên suôn sẻ bởi một người đàn bà đức hạnh có giới nguyện samaya trong sạch tên là Tsult’hrim Drolma đă trở thành bạn đồng hành của tôi).
Tôi nói tiếp: “Để xác định rơ ràng con thuộc loại bộ Phật nào và để giải trừ các chướng ngại, xin quấn một miếng vài màu xanh da trời quanh đầu con. Cho tới khi con trở lại cuộc đời, Kuzhab Rinpoche sẽ cử hành sự cúng dường bánh cho năm chị ở Lhaman Tsering.
Tromge Trungpa sẽ cử hành một trăm tiệc cúng dường của Nữ Hoàng Cực Lạc trong giáo khóa Những Mệnh lệnh của Bà Mẹ Phối ngẫu. Để giải trừ những chướng ngại cho các linh kiến của con, các đệ tử và thị giả nên tŕ tụng càng nhiều càng tốt Lời khẩn nguyện Bảy-Ḍng, bài cầu nguyện Giải trừ Chướng ngại trên Con Đường và các thần chú vajra guru (Kim Cương Đạo sư) và Tara.
Để bảo vệ con, hăy cài chốt cửa pḥng con bằng một khóa móc và có người mặc đồ xanh dương. Và để ngăn chặn và trấn áp thế lực của loài quỷ khát máu, xin niêm phong miếng vải với sáp ong được đóng dấu bằng dấu triện ngược đầu.
“Bây giờ cần một bộ quần áo sạch để thay đổi, nó không làm bằng da thú vật hay da sống. Nếu con không chết thực mà quay trở lại cơi đời, con sẽ phải súc miệng, v́ thế, con sẽ phải cần tới một cái b́nh đựng đầy nước mưa sạch hứng từ một trận mưa thuốc của các nhà thấu thị, nó xảy ra nhờ năng lực của những sự ban phước và đại nguyện của Đức Phật Dược Sư Bhaishajyaguru.
“Nếu bất kỳ ai hỏi Dawa Drolma đang làm ǵ khi hành động như này, th́ đừng nói điều ǵ đặc biệt, tốt hay xấu; chỉ cho biết chắc chắn con không sống cũng không chết. Trong năm ngày, xin hăy mời anh Palchhen của con, anh ấy đang sống với gia đ́nh con và những người bà con dưới thung lũng và nói với anh ấy rằng:
“Em gái anh đang ở trong một trạng thái không sống cũng không chết. Hăy đích thân tới thăm cô ấy”. Mặc dù đ̣i hỏi chút ít nhọc nhằn nhưng mọi sự con vừa sắp xếp th́ hết sức quan trọng, v́ thế xin Ngài tiến hành cho”.
Tulku Tromge Trungpa và các thị giả của Ngài hứa sẽ tôn trọng bức thư hướng dẫn mà tôi đă đưa và trung thành với lời cam kết của họ, và như thế tôi nằm xuống giường để nghỉ ngơi.
Cô gái này nói: “Hăy để tâm mi an trụ trong trạng thái tự nhiên nơi đó nó phát triển một cách nội tại, không bị bất kỳ niệm tưởng lan man nào làm gián đoạn”.
Phù hợp với yêu cầu này, tôi để tâm tôi an trụ. Trong một tâm trạng khoáng đạt và cực kỳ hỉ lạc, tôi kinh nghiệm một trạng thái hoàn toàn trong sáng. Đây không phải là trạng thái tiềm ẩn kunzhi, là sự vắng mặt đơn thuần các niệm tưởng lan man.
Cũng không phải là việc tôi hoàn toàn mê đắm trong những cảm xúc của lạc, sự trong sáng và sự tỉnh giác vô niệm. Và tôi không đơn thuần rơi vào một cuộc nô đùa vô tận của sự vô minh.
Đúng hơn, tôi hoàn toàn tỉnh giác về trạng thái nền tảng của tâm tôi trong mọi tính chất thông thường của nó được tất cả âm thanh và tiếng nói trong mọi xứ sở, chứ không chỉ ở vùng lân cận.
Vào sáng ngày hai mươi sáu âm lịch, khi mặt trời nhú lên ở chân trời, tôi nh́n thấy Đức Tôn kính và cao quư Tara thực sự hiện diện trước mặt tôi giữa một khối ánh sáng cầu vồng, thân Ngài có sắc trắng như một b́nh pha lê. Bà cầm một mũi tên có trang trí những giải ruy băng mà bà dùng để ban phước cho tôi.
Từ hướng núi Huy Hoàng trên tiểu lục địa Chamara, một cầu vồng gồm năm dải ánh sáng màu song song rọi vào thiền pḥng của tôi. Dọc theo con đường này xuất hiện một toán hộ tống gồm bốn phụ nữ trẻ mặc y phục bằng lụa và tô điểm các đồ trang sức bằng xương.
Vị dakini ở phương đông, Thiên nữ có Năng lực trên sự Trường thọ, sắc trắng sáng ngời và cầm một mũi tên trang trí dải ruy băng lụa và một cái b́nh. Dakini ở phương nam là Akyang Tara, dakini ở phương tây là Tara Rồng màu Lam Ngọc, và dakini ở phương bắc là Thiên nữ phương Bắc.
Các ngài đặt tôi trong một ổ rơm có trải lụa sặc sỡ trang trí hoa văn đỏ và trắng. Ngay lập tức, các dakini ở bốn tầng cấp và tôi cùng nhau hát tụng Lời Khẩn nguyện Bảy-Ḍng và lớn tiếng tŕ tụng liên tục các thần chú vajra guru và mani.
Tâm tôi trải rộng rộng tới một trạng thái cực kỳ hỉ lạc, bản tánh cốt tủy của sự hoàn toàn trong sáng trong đó tôi không thể bám níu vào bất kỳ điều ǵ dù tốt hay xấu theo nghĩa thông thường, giống như pháp giới vô sanh không có ǵ trong nó và của chính nó, nhưng với một sự chói lọi tự nhiên tuyệt đối không bị ngăn che.
Kinh nghiệm thiền định hài ḥa và tự phát này xuất hiện như sự phô diễn không thể nghĩ bàn của một đám mây mạn đà la, phạm vi hoàn toàn rộng lớn của kinh nghiệm thuần tịnh.
Sau đó tôi cảm giác leo lên càng lúc càng cao tới một khoảng không gian khá rơ ràng, c̣n nhanh hơn một con chim kên kên đuôi trắng hoang dă bay vút lên không trung. Khi kinh nghiệm bi tráng này mở trải ra như một ảo ảnh biến dịch, bất ngờ tôi thấy ḿnh ở một nơi mà tôi không nhận ra là ở đâu.
Giữa một cánh đồng rộng lớn, bao la và siêu phàm đến nỗi dường như bầu trời đổ sập xuống trái đất, một tảng đá có bề mặt lớn đứng sừng sững có h́nh dạng như một trái tim. Ở mọi phương và những rặng núi trông như những vũ khí chĩa lên bầu trời và đỏ như thể có lấm tấm máu.
Trên bầu trời xuất hiện một ṿm ánh sáng cầu vồng năm màu. Những chim công trống, chim hét và chim cu cu vút lên, bay chuyền thật vui thích. Không gian tràn ngập mùi hương ngọt ngào có năng lực chuyển hóa những tri giác của ta. Khắp mặt đất phủ đầy các loài hoa gồm năm màu thật đáng yêu trắng, vàng, đỏ, xanh lá cây và xanh dương. Tôi kinh nghiệm cảnh giới này như một nơi chốn thực sự.
Tôi cũng nh́n thất một ngọn núi rất đẹp, xanh thẳm như một viên ngọc bích. Tâm tôi tràn đầy đức tin và thị kiến thanh tịnh không tưởng tượng nổi. Tôi lớn tiếng lập đi lập lại những lời cầu nguyện của pháp guru yoga, Lời Khẩn Nguyện Bảy-Ḍng và một lời khẩn cầu mà trước đây chính Đức Tara đă nói với tôi và tôi thực hiện những sự lễ lạy và cúng dường mạn đà la.
Nơi đây là Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ trên tiểu lục địa Chamara. Khoảng nửa đường lên tới mặt tảng đá, trên một vùng bằng phẳng rộng lớn bao la là lâu đài Liên Hoa Quang rộng mênh mông đứng sừng sững [51].
Cung điện, một hóa thân của giác tánh của Đức Padmasambhava, được làm bằng năm loại châu báu, một mạn đà la thành tựu tự-sinh và tự nhiên. Từ ngoài vào, bên trong sáng sủa rực rỡ và từ trong nh́n ra, ta có thể thấy rất tường tận.
Được kết bằng những cầu vồng, lâu đài có bốn mặt, bốn cổng và các sân, trong đó có hơn một ngàn cung điện khác. Trong những cung điện này là tập hội các vidyadhara cũng như những daka và dakini.
Cô gái này tới cổng phía đông. Ở đó tôi gặp bốn người đàn bà, họ mặc cho tôi một áo choàng lụa sặc sỡ, chiếu sáng như một cầu vồng. Rồi họ ra đi, nhưng tôi không rơ họ đi đâu.
Người đàn bà gác cổng phía đông thách thức tôi: “Cô là ai?”
Tôi trả lời: “Tôi là Dawa Drolma, một con gái của bộ tộc Tromge trong thế giới con người”.
“V́ sao cô tới cơi này?”
Tôi trả lời khiêm tốn: “Nhằm mục đích bảo đảm hạnh phúc của chúng sinh, tôi xin được hội kiến Đức Orgyan Tsokey Dorje và nhiều vidyadhava, daka và dakini trên Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ trong tiểu lục địa Chamar”.
Vị dakini trả lời:
Cầu mong cô được Đức Vajravarahi ban phước.
Cầu mong các nghịch cảnh và chướng ngại cho sự trường thọ của cô được giải trừ.
Cầu mong cô đạt được quán đảnh kim cương bất diệt.
Và cầu mong cô bảo đảm được hạnh phúc của vô lượng chúng sinh.
Sau đó tôi nh́n thấy cảnh tượng phi thường của cổng phía đông kỳ diệu, một cửa làm bằng pha lê. Trên đó, trong h́nh chạm khắc lờ mờ là h́nh ảnh của một tathagata và những chữ đi kèm đem lại sự giải thoát nhờ cái thấy. Bên trái và phải cửa là những báu vật có h́nh những con rồng màu lam ngọc uốn ḿnh h́nh xoắn ốc theo chiều kim đồng hồ và ngậm nhiều viên ngọc.
Th́nh ĺnh vị dakini mở cửa bằng một ch́a khóa pha lê thạch anh trắng, có bề dài khoảng một bàn tay và đánh dấu bằng những chữ tượng trưng tự-tạo h́nh, kỳ diệu và huyền bí. Tôi đi bộ vào trong và t́m thấy một cầu thang dài làm bằng châu báu.
Tôi trèo lên và trong một căn pḥng rộng mênh mông, tôi t́m thấy ngài Jampa Migyur ngồi trên một cái ngai nhỏ . Ngài mặc một áo choàng không tay bằng lụa trắng và tô điểm với nhiều vật trang sức quư báu, tóc Ngài kết lại thành một cái búi.
Tay trái Ngài đang lần một mala bằng pha lê trắng, mỗi một trong 108 hột có kích thước khoảng ngón tay cái của ta. Quanh Ngài là đoàn tùy tùng gồm vài trăm dakin ni mặc áo choàng lụa trắng, đang cử hành một buổi tiệc vui vẻ. Các thiên nữ kim cương thuộc sự hoạt động mặc áo choàng xanh dương cúng dường những phần đặc biệt của bữa tiệc trong bốn phương chính trên bầu trời.
Từ hàng sau của tập hội, cô gái này thực hiện ba lễ lạy và cầu nguyện với những ước nguyện cao quư khi xuất hiện trong tâm. Đến gần vị lạt ma, tôi dâng lời sám hối, tự tịnh hóa bằng cách tụng thần chú một trăm âm và cử hành mạn đà la vũ trụ ba mươi bảy điểm.
Một dakini ở bên phải vị lạt ma là điều tra kỹ lưỡng quá khứ của tôi. Để trả lời bà, tôi nói năng thẳng thắn nhưng khiêm tốn. Vị lạt ma có vẻ hết sức hài ḷng. Tôi tham dự vào buổi lễ tiệc.
Rồi tôi được một bà mặc y phục xanh dương đưa ra ngoài và dẫn tới lâu đài rộng mênh mông khác. Một người có mặt ở đây đang tắm cho một dakini của mộ bộ tộc thuộc thảo nguyên thấp ở miền đông Tây Tạng.
Tôi cũng nhận một nghi lễ tắm rửa. Ngự trên một chiếc ngai cao ngất ở giữa chúng tôi, trên một tấm nệm cao bằng lụa đỏ trông thật đặc biệt là ngọn đèn soi sáng các sutra và tantra, vương miện của mười triệu vidyadhara, đạo sư vô song, bậc thông thái và thành tựu, bậc toàn trí Jamyang Khyentsei Wangpo.
Thân tướng chói ngời của Ngài trông thật lôi cuối và trẻ trung; dường như khoảng mười sáu tuổi. Ngài mặc ba chiếc y nghi lễ và đầu đội chiến nón tượng trưng cho ba sự tích tập kinh điển. Tay Ngài cầm chày kim cương và chuông. Ngài được vây quanh bởi một đoàn tùy tùng hơn một trăm daka và yogini.
Như trước đó, tôi đảnh lễ, cúng dường và cử hành lễ dâng cúng mạn đà la vũ trụ. Tôi dâng lên Ngài một đoạn khăn lụa trắng toàn mỹ để xin được diện kiến và thực hiện những sự khẩn cầu ước nguyện khi tôi có thể. Vị lạt ma dường như có một tánh khí rất khó khăn và cứng cỏi; Ngài không nói một tiếng nào và cố ư tránh nh́n tôi.
Tôi ra đi và tới lâu đài rộng mênh mông khác. Người gác cửa là một cô gái không thể quá mười lăm tuổi. Mặc dù tôi không nhận ra cô, cô ta tỏ ra rất vui thích đối với tôi như cha mẹ bộc lộ khi gặp con cái họ.
Bên trong lâu đài, ngồi trên một cái ghế thấp chất đầy những đệm lót bằng lụa xanh là một người đàn bà tên là Yul-lha, một dakini vùng Derge, là một hóa thân của bổn tôn Vajravarah. Tóc bà được búi lên bằng sáu dải ruy băng màu xanh da trời, bà cầm một bản văn giáo huấn tâm linh nhỏ.
Bà đang tụng những vần kệ gốc của Trạng thái Trung ấm sau Cái Chết. Có khoảng mười sáu dakini trong đoàn tùy tùng của bà. Tôi đảnh lễ và cúng dường hương trầm được pha chế từ gỗ đàn hương trắng Ấn Độ. Tôi được ban thức ăn khô với các gia vị làm từ năm thứ cam lồ.
Sau cùng tôi nói về các sự kiện trong cơi người. Bà tiếp tục: “Con sẽ t́m thấy bốn cầu thang trong một sảnh đường, ở giữa vùng này. Đừng dùng cầu thang màu đen, bởi ở đó ẩn dấu nguy hiểm do rắn độc và những quỷ ma khát máu. Thay vào đó, hăy lên cầu thang màu xanh lá cây”.
Với sự chỉ dạy ấy tôi tiếp tục cuộc hành tŕnh. Trong lâu đài rộng mệnh mông khác, tôi đi ngang qua một người đàn bà có vẻ rất già, tóc ngả màu xám hơi vàng, có khoảng hai trăm dakini vây quanh.
Các dakini đang đọc các bản văn từ giáo khóa của ngài Karma Lingpa trên mạn đà la các bổn tôn ḥa b́nh và phẫn nộ và Tantra Sám hối Bất Nhiễm. Người đàn bà chính cầm giữ hơi thở trong thực tập thở-cái b́nh. Khi bà thở hết ra, bà trục xuất nhiều sinh vật sống trong nước như rắn nước, ếch và cá; từ thây chúng nổi lên những cầu vồng trắng, vàng, đỏ và xanh lá cây, trong khi tâm thức chúng được kéo lên các cơi thuần tịnh,
Thực ra vị dakini này tên là Wangmo. Sau khi đảnh lễ và cúng dường, tôi tới gần bà. Bà đặt một chuỗi xương sọ lên đầu tôi và cười thật dễ thương, trong một lát bà hỏi tôi là ai.
Trong lâu đài mênh mông khác, bất chợt tôi gặp một thiên nữ áo trắng, một dakini có năng lực an b́nh, ngồi trên một tấm nệm phủ lụa và mặc áo choàng thêu kim tuyến linh thánh, có đoàn tùy tùng gồm bảy dakini vây quanh.
Tôi đảnh lễ và cúng dường bà. Các dakini đang hát thật ngọt ngào một bài cầu nguyện sùng mộ để khẩn cầu năng lực của Đức Avalokiteshvara và một bài nguyện ước hợp nhất với thần chú mani sáu âm. Nhưng ở đây tôi sợ trở thành quá dài ḍng và sẽ không viết dài hơn nữa.
Đức Yeshe Tsogyal xuất hiện trong một ṭa lâu đài rộng mênh mông rất đẹp có cửa nh́n về hướng đông. Bà phục sức đẹp đẽ với những áo choàng lụa và trang điểm nhiều vật trang sức bằng châu báu và bằng xương, mái tóc Bà đen, dày và rực rỡ. Sắc thân mỹ lệ không tả xiết của Bà đem lại niềm hỉ lạc cho người chiêm ngưỡng.
Bà được một đoàn tùy tùng gồm một ngàn dakini vây quanh. Họ đang làm lễ tiệc cúng dường cội gốc đạo sư (guru), Sự Hội tập các Đạo sư Tŕ giữ-Giác Tánh; cội gốc bổn tôn, Sự Hội tập các Đấng Vĩ đại và Vinh quang; và cội gốc dakini, Nữ Hoàng Cực Lạc.
Tôi nhập vào những người tham dự tiệc cúng dường, đảnh lễ và cúng dường Đức Yeshe Tsogyal, điều ấy làm Bà hài ḷng. Tôi khiêm tốn kể cho Bà về tiểu sử của ḿnh thật rơ ràng và chi tiết.
“Hăy tiếp tục đi lên” Bà nói “và ta sẽ cho người dẫn co tới gặp chú của con. Sẽ khó mà vượt mà vượt qua, bởi con sẽ gặp một người gác cổng rất nghiêm khắc”.
Tôi đi tới một nơi khủng khiếp, quả là cảnh tượng làm tôi rùng ḿnh khiếp sợ. Những mái ṿm làm làm bằng da người được treo bằng những sợi thừng là những con rắn. Những đầu lâu khô, những đầu người c̣n mới và những đầu héo khô c̣n dính tóc treo khắp nơi. Những màn cửa và rèm tường làm bằng da trăn màu đen.
Giữa tất cả những thứ đó, ngồi trênmột cái ngai màu đen tuyền là một yogi tên là Pawo Namkha Odsal mặc y phục đen pha lẫn đỏ tía. Tóc Ngài kết lại thành búi quanh một chày kim cương, trên đỉnh của nó là một miếng ngọc lam nhỏ. Tai Ngài đeo những chiếc ṿng bằng vỏ ốc xà cừ.
Ngài mặc một áo choàng trắng và cầm một trống tay lớn và chiếc kèn làm bằng xương đùi người. Trông Ngài thật lôi cuốn khó cưỡng nổi. Một đoàn tùy tùng vây quanh Ngài gồm sáu nhân vật mặc áo choàng không tay màu đen. Họ cực kỳ hung nộ, với mái tóc đen xơa xuống và những biểu lộ nham hiểm, giận dữ. Tôi đảnh lễ và cúng dường các ngài, cũng như dâng những lời ước nguyện.
Tiếp theo, tôi gặp một người gác cửa, một người đàn bà da trắng mặc quần áo lụa và những vật trang sức bằng xương. Tên bà là Nordzin Dronma và bà có mối liên hệ với tôi trong nhiều đời.
Giữa một lâu đài màu cam rộng mênh mông có bản chất ánh sáng, ngự trên một cái ngai rất cao bằng pha lê đỏ và những tấm đệm bằng lụa nhiều màu là vị phối ngẫu linh thánh Mandarava [72], có sắc đỏ sậm.
Trong tay phải, bà cầm một mũi tên cột những dải ruy băng và tay trái cầm một b́nh trường thọ. Bà mặc một hạ y lụa ngắn, xếp li và đeo những vật trang sức quư báu. Được vây quanh bởi một đoàn tùy tùng gồm một trăm dakini giác tánh nguyên sơ, bà hát một bài ca du dương về âm nhạc kim cương bất hoại.
Tôi đảnh lễ và cúng dường như đă làm trước đây và được Đức Tara thúc giục, tôi tụng một bài sùng mộ với bà. Một cảm thức của đức tin phát khởi không thể tưởng tượng nổi trong tôi.
Tôi đứng lên khi hội kiến và tới gần bà. Vị phối ngẫu linh thánh đặt bàn tay phải có cầm mũi tên cột dải ruy băng lên đầu tôi và hát:
Hung Ở biên giới tây bắc xứ Orgyan…
Con khẩn cầu Ngài tới ban cho những ân phước.
Khi đă ban phước cho con nơi chốn tuyệt hảo này,
xin ban bốn quán đảnh cho hành giả ưu tú này.
Xin giải trừ những chướng ngại bởi cái chết không đúng lúc.
Xin ban cho thành tựu của sự bất tử.
Đi xa hơn nữa, tôi chợt thấy một lâu đài rất đẹp, duyên dáng. Mười hai người đàn bà gác cữa đông, mười hai người gác cửa nam, mười hai người gác cửa tây, mười hai người gác cửa bắc. Ở phía đông, cửa và những người gác cửa toàn bằng pha lê, mặt phía nam bằng vàng, phía tây bằng hồng ngọc và mặt phía bắc bằng lam ngọc.
Ở hướng đông là mười hai thiên nữ có mục đích dẫn dắt chúng sinh, ở phương nam là mười hai thiên nữ có nhiệm vụ chỉ ra con đường đi tới giải thoát. Ở phương tây tôi nh́n thấy mười hai thiên nữ thuộc yếu tố lửa chói sáng và phương bắc mười hai thiên nữ là những bậc chiến thắng những mara. Tất cả các ngài mặc áo choàng theo màu phù hợp với các hướng tương ứng.
Ổ khóa trên cổng ngoài có chiều dài khoảng cánh ta và bằng vàng. Một trong những dakini mở cổng và cho tôi vào. Rồi cửa bắc mở ra và tôi đi vào ṭa nhà. Trong ṭa lâu đài có 180 cây cột chống, 180 dakini mặc y phục bằng lụa và đeo những đồ trang sức bằng xương, nhảy múa ca hát với nhạc đệm một bài hát tên là “Sự Giải thoát Tự nhiên khỏi những Cơi Thấp”:
Hri Trạng thái không chỉnh sửa thoát khỏi sự tạo tác ư niệm là đạo sư Pháp Thân.
Cực Lạc là đạo sư Báo Thân, chúa tể của Pháp.
Sinh ra từ một hoa sen là đạo sư của Hóa thân.
Chúng con đảnh lễ và tán thán bậc Kim Cương tŕ của ba thân.
Thân giác ngộ của Ngài th́ bất biến, là thân tướng của Đức Samantabhadra (Phổ Hiền)
Ngữ giác ngộ của Ngài th́ không lây động và siêu vượt ngôn ngữ, sự tưởng tượng, cùng sự biểu lộ.
Chúng con tán thán Ngài. Ôi vua Hoa Sen, bậc được phú bẩm thân, ngữ và tam giác ngộ.
Đại học giả của xứ Ấn Độ cao quư, xin thương xót xứ sở Tây Tạng.
Đức Kim Cương Sanh trong Hồ thoát khỏi sinh, lăo, bệnh, tử.
Chuyển hóa đám quỷ ma hiểm độc khát máu hướng về Pháp.
Chúng con tán thán Ngài, Ôi Đức Padma T’hod T’hreng Tzal.
Om ah hung vajra guru padma siddhi hung.
Maha guru padma t’hod t’hreng tzal la namo hung.
Khi họ hát, tôi kinh nghiệm vô lượng đức tin và sự hỉ lạc.
Ở một nơi khác, th́nh ĺnh tôi nh́n thấy một người đàn bà có nước da trắng mặc một cái khăn choàng và hạ y thêu kim tuyến trắng và cầm một sợi chuỗi bằng pha lê đỏ. Bà chính là ni cô Kunga Monlam mà cũng được biết là dakini Laykyi Wangmochhe.
Bà biểu lộ niềm vui chân thành đối với tôi. Vén một tấm rèm có đính những h́nh trang trí bằng lụa, bà dẫn tôi tới giữa cung điện. Ở đó tôi thấy đoàn tùy tùng của bà gồm bảy dakini, họ đặt một chiếc nệm trắng để tôi ngồi. Chính Laykyi Wangmochhe đặt một mũi tên trường thọ lên đỉnh đầu tôi và ngâm:
Om Sự trường thọ nguyên sơ không lầm lỗi.
Ta triệu mời điều này trong sự vinh quang cao cả nhất của sự nối kết mặt trời và mặt trăng.
Sự trường thọ của đại lạc không biến đổi,
Ta triệu thỉnh điều này trong sự vinh quang của cốt tủy vi tế của thân ánh sáng.
Sự trường thọ lâu dài không có sự đến và đi b́nh phàm.
Ta triệu thỉnh điều này giữa Pháp giới bao la bất hoại, vĩnh cửu và kiên cố.
Sự trường thọ là cái bị đánh cắp, cướp đoạt, găy bể, hoặc suy sụp bởi niệm tưởng lan man,
Ta triệu thỉnh điều này trong bản tánh nền tảng vô điều kiện của giác tánh nguyên sơ vô niệm
Sự trường thọ đặt nền trên sự vô minh về các sự xuất hiện của samsara, nirvana và con đường tâm linh.
Ta triệu thỉnh điều này trong trạng thái tự nhiên của các sự việc bởi chúng th́ phi thời gian và nguyên sơ.
Nếu không có sự ngừng dứt, th́ không có ǵ già đi,
và v́ thế ta cũng triệu thỉnh sự trường thọ, nó không có ngừng dứt và già đi.
Nếu không có sanh, th́ không có chết đi,
và v́ thế ta cũng triệu thỉnh sự trường thọ là cái không sanh và không diệt.
Ah ah ah.
Bà tiếp tục: “Thật là may mắn bởi con đă tới cơi thuần tịnh này từ thế giới b́nh phàm của con người. Con làm ta xúc động biết bao” và bà khóc. Rồi bà gọi một cô gái tên là Apal đi cùng với tôi và tôi được dẫn ra ngoài.
Đức tôn quư Tara Trắng nói với tôi: “Dawa Drolma, con gái ta, chính ta là người đă sắp xếp cho con rời cơi người b́nh phàm và là người dẫn dắt con tới cơi thuần tịnh này. Nhưng bây giờ chưa tới lúc để con và ta ở lại núi Huy Hoàng này.
“Có một cơi thuần tịnh cao hơn cơi này, được phú cho năm điều chắc chắn, nó là phạm vi chứng nghiệm của những bậc an trụ trong địa thứ mười của sự chứng ngộ. Ở đó Báo thân của Đấng Bi Mẫn Siêu việt được vây quanh bởi một đoàn tùy tùng gồm vô số các Bồ Tát nam và nữ, đang giảng dạy Tantra Chúa công của sự Nhảy múa Hoa Sen Binh mẫn Siêu phàm.
“Trên đó là cơi thuần tịnh Pháp Thân, thoát khỏi sự tạo tác ư niệm. Ở đó Đức Guru Padma an trụ, không ǵ khác hơn là sự xuất hiện tự-hiển lộ tự nhiên của Đấng bảo trợ nguyên sơ.
Ban những giáo lư tâm linh cho một tập hội trong đó ư hướng giác ngộ của vị thầy và của quyến thuộc th́ không thể phân ly, tŕnh bày những giáo huấn truyền dạy trực tiếp vượt lên những biểu tượng, ngôn ngữ và niệm tưởng b́nh phàm tantra Đại Viên Măn của sự bí mật tối hậu, có tên là Giác Tánh Nội tại Tự-sinh.
“Thời đại ngày nay thiếu một sự may mắn cần thiết để tiếp xúc trực tiếp với những cấp độ này. V́ thế hăy liên tục biểu lộ ước nguyện thực hiện điều này vào một lúc nào đó. Đừng đề cập tới việc con đă đi tới cơi thuần tịnh này”.
Cơ sự đă như thế này, tôi đau khổ đến nỗi tim tôi tưởng chừng tan vỡ, buồn tủi đến độ tôi tưởng như ḿnh có thể mất trí, hoàn toàn lạc hướng khiến tôi không thể nhớ lại bất kỳ điều ǵ đă từng suy nghĩ vào thời gian đó; tri giác của tôi bị mê lầm và lạc lối. Nước mắt tuôn rơi như thể mắt tôi rơi ra ngoài.
Tôi tự nghĩ: “Mặc dù giờ đây tôi có thể hội kiến Đức Padmasambhava, tôi không vật cúng dường chính thức nào để dâng lên Ngài, không có vàng bạc, không lễ cúng dường mạn đà la, ngay cả một khăn quàng lụa cũng chẳng có”.
Ngay lập tức, Đức Tara ban cho tôi một dải ruy băng tinh khiết bằng lụa trắng rất dài lấy từ mũi tên có trang trí ruy băng của Ngài. Bởi quá nhiều hồ nghi, tôi nghĩ rằng hành động này sẽ làm mũi tên giảm giá trị, nhưng Đức Tara nói: “Nó không bao giờ bị suy giảm, v́ thế đừng quá keo kiệt”.
Ngài nói thêm: “Đây không phải là chỗ để bắt đầu kêu khóc. Hăy đi tới Đức Guru và thỉnh cầu Ngài bất kỳ điều ǵ con ước muốn. Bất luận Ngài ban cho con điều ǵ, dù là vàng, bạc hay ngọc quư, đừng mang chúng đi với con. Thay vào đó hăy cầu xin Ngài ban cho con một khăn quàng lụa màu xanh dương có điểm những h́nh ảnh của năm Hóa Thân.
Cũng hăy cầu xin để những mối liên hệ nghiệp của con với Ngài từ những đời trước được thức giấc, những hành động làm lợi lạc chúng sinh của con sẽ không có định kiến hay phân biệt, cầu xin cho con có năng lực để trực nhận ra chúng sinh trong cơi thấp và để đem lại hứng khởi cho họ trong việc trau dồi đức hạnh và cầu xin bất kỳ ước nguyện nào của con cũng được thành tựu”.
Rồi tôi nh́n thấy cung điện khác, làm bằng pha lê đỏ với hai cánh cung điển dính liền, giống như những tay áo màu san hô trên bộ quần áo. Không cần ch́a khóa để vào cung điện; thay vào đó là một chữ biểu tượng màu đỏ trên cử.
Một người đàn bà đứng nơi cửa, bà có mái tóc trắng và nước da trắng như một vỏ ốc xà cừ. Bà có hàm răng đầy và được gọi là Thiên nữ có Năng lực đối với Trường thọ. Bà ban cho tôi một nghi thức để thỉnh cầu trường thọ và cho tôi một miếng pha lê có sáu mặt.
Tuy nhiên, tôi có cảm tưởng rơ ràng là tôi không nên nhận miếng pha lê, và v́ thế tôi đặt nó trên đỉnh một đĩa mạn đà la chất đầy gạo được sắp đặt theo kiểu mẫu làm ta nhớ lại những chủ đề Ấn Độ.
Đi xa nữa, tôi chợt thấy một lâu đài rộng lớn mênh mông và cao sừng sững đến nỗi kích thước của nó vượt quá tiêu chuẩn xác đáng. Đỉnh mai có trang trí những viên ngọc. Ở bên trong, tôi nh́n thấy hàng trăm chiếc dù bằng lông công.
Những cờ chiến thắng bóng mượt, những tấm rèm treo tường bằng sa tanh, những màn trướng thêu kim tuyến, những cái móc và dây bằng ngọc trai, những dăy vật cúng dường không thể tưởng tượng nổi và những của cải của một buổi tiệc cúng dường vĩ đại chất cao như núi, đổ sụp xuống giống như những con đê vỡ nát và cuộn tṛn như một đại dương cam lồ.
Trong mạn đà la này, nó giống như những đám mây không ǵ sánh được gồm những vật cúng dường của Đức Phổ Hiền, là một của cải gồm những chất thể samaya linh thánh vượt xa của cải của những vị trời vĩ đại ở cơi trời Nirmanarati.
Những tia sáng phóng ra muôn phương không bờ mé từ một cái ngai khổng lồ mà kích thước khó có thể đo lường, cao hơn cả một ṭa nhà ba tầng. Mặt ngai có ba tấm nệm chồng lên nhau bọc lụa đủ màu, trang trí những hoa sen ngàn cánh.
Ngự trên ngai là tinh túy, suối nguồn của sự quy y và sự hợp nhất của tất cả các Đấng Chiến Thắng, vị thống lănh tràn đầy năng lực của tâm giác ngộ của tất cả các Đấng Chiến Thắng.
Sự hợp nhất trong một thân tướng duy nhất của ba phẩm tính trí tuệ, ḷng bi mẫn và năng lực của tất cả các Đấng Chiến Thắng khắp mười phương, bổn tôn được chọn lựa duy nhất của Xứ Tuyết, vương quốc Tây Tạng: Đức Guru xứ Orgyan, Padma T’hod T’hreng Tzal, chính là Đức Kim Cương Sanh-trong-Hồ bất tử.
Thân Ngài sắc trắng hơi pha đỏ. Ngài cầm một chày kim cương trong tay phải, tay trái cầm một b́nh trường thọ trong một chén sọ người đựng đầy chất cam lồ. Trong chỗ gập của khuỷu tay trái, Ngài mang chĩa ba bí mật kim cương.
Hai chân Ngài chéo nhau lơi lỏng trong tư thế du hí vương giả. Ngài mặc một áo choàng ngắn tay bằng lụa màu hạt dẻ như sa tanh, một hạ y bằng lụa đỏ, một đại y màu đỏ trang trí bằng chỉ vàng và một quần áo bên trong bằng lụa trắng của các vị trời. Trên đầu Ngài là vương miện hoa sen đem lại sự giải thoát nhờ cái thấy.
Khi cô gái này trông thấy mạn đà la hài ḥa viên măn của khuôn mặt Đức Orgyan vĩ đại, tôi mê mải ngắm nh́n Ngài. Mọi tri giác lờ mờ thường tục của tôi tự nhiên ngừng dứt và tôi kinh nghiệm một trạng thái không thể nghĩ bàn, không thể diễn tả được, giống như một người câm đang nếm đường mía[. Tôi an trụ một lát trong tâm thái này, vừa vui lại vừa buồn.
Ở bốn phương chính quanh Đức Orgyan vĩ đại là bốn dakini giác tánh nguyên sơ ban hỉ lạc, mặc áo choàng lụa nhiều màu, thân huyễn mộng của họ giống như những khối ánh sáng. Họ vung vẩy những mũi tên trường thọ và những b́nh trường thọ trong bốn phương khi hát bài ca tán thán.
Ở bên kia chiếc ngai, trên một ngai khác là bậc đạo sư tôn kính của ḷng bi mẫn, bậc Kim Cương Tŕ ba nhánh vĩ đại, bậc dẫn dắt siêu phàm Dechhen Dorje (cũng được biết là Drimed Khakyod Wangpo).
Ngài là hiện thể đầy năng lực gần đây nhất của một loạt những hóa thân linh thánh trải qua nhiều đời, gồm cả Srongtzan Gampo (thân tướng mà Đức Avalokiteshvara đă hóa hiện làm một vị vua tâm linh để che chở miền bắc Tây Tạng, Xứ Tuyết), cũng như Nub Namnying và Dagpo Daod.
Thân tướng của Dechhen Dorje th́ c̣n gây xúc động hơn trước đây, rực rỡ với “cờ chiến thắng” là những chiếc y nhà sư màu nghệ. Ngài đội chiếc nón của học giả, nhọn đầu với những miếng vải che tai dài, cầm một cái trống tay và một cái chuông. T
rong bốn hướng chính quanh Ngài, tôi thấy bốn dakini màu trắng cầm những mũi tên có đính những dải ruy băng lụa xanh dương. Trước mặt Ngài là một dakini màu xanh dương sậm có vẻ biểu hiện phẫn nộ, đeo một khăn choàng lụa nhiều màu và cầm một mũi tên có dải ruy băng lụa màu xanh dương.
Trên một chiếc ngai, bên trái ngai là bậc siêu vượt mọi hoạt động, đạo sư chứng ngộ Jigmed Pawo (cũng được biết là Dza Konchhog) là một tái sanh của Lhatsun Namkha Jigmed và là trưởng tử tâm huyết của Dzaga Chhogtrul Ringpoche. Ngài có nước da hơi xanh sậm, mặc một áo choàng lụa buông dài, đội một chiếc nón học giả, trong tay một cái b́nh.
Ngài là một vị vua trong số những bậc lăo luyện thành tựu, là bậc trong đời đă đạt tới sự chứng ngộ tột bực của bốn cái thấy về con đường bí mật hợp nhất sự thuần tịnh nguyên thủy và sự hiện diện tự nhiên, và là bậc tâm đă ngập ch́m trong trạng thái nơi những hiện tượng thường tục biến mất trong chân tánh của thực tại. Trong bốn phương chính quanh Ngài là bốn dakini đỏ mặc áo choàng đỏ và trước mặt Ngài là dakini khác.
Tôi cũng nh́n thấy một tập hội khoảng mười ngàn daka, những bậc tŕ giữ giác tánh nội tại, đội nón lông công. Không gian quanh họ tràn đầy hằng hà sa số hàng tỉ thiên nữ đang cúng dường từ nước uống, nước tắm cho tới hoa và thực phẩm.
Vài vị trong số đó cầm chày kim cương và chuông, một số cầm trống tay nhỏ, một số cầm xập xơa, một số cầm chiêng, một số cầm các vỏ ốc xà cừ và một số (ở bốn hướng chính) cầm các kèn trắng, vàng, đỏ và xanh lá cây. Những chiếc kèn ở phương tây được làm bằng san hô và được hai dakini mặc áo choàng cam thổi.
Tôi được kể lại rằng họ đă thực hiện chứng năng đặc biệt là kéo chúng sinh tới con đường Kim Cương thừa. Những chiếc kèn trum pét xương đùi hoàn toàn được làm bằng xương đùi của con người, chứ không bằng đồng đỏ hay đồng thau.
Khoảng một trăm tù và bằng cây sậy cũng vang lên. Có khoảng một trăm người giữ lăng mộ trong những áo choàng vàng, vai trái của họ quấn một miếng lụa đủ màu truyền thống.
Tôi hỏi một trong những dakini: “Tập hội nghi lễ được thực hành cái ǵ ở đây?”
Bà trả lời: “Chúng tôi đang cử hành nghi thức và lễ cúng dường Tám Mệnh lệnh, sự Tập Hội của các Đấng đă Đạt tới Đại Lạc, nó là tinh yếu của giáo lư trong thời kỳ ban đầu của trường phái dịch thuật”.
Lúc này, nhiều thành viên của tập hội đứng lên. Cảm thấy bối rối và sợ hăi, tôi cũng đứng lên và lễ lạy liên tục. Tiến lại gần, tôi đặt bàn chân Đức Guru toàn trí vĩ đại lên đỉnh đầu. Tôi cúng dường Ngài một mạn đà la có h́nh dạng kim loại và đá quư và một khúc lụa trắng trinh nguyên. Sau đó Đức Orgyen vĩ đại đặt bàn tay lên đầu tôi, đọc Lời Khẩn nguyện Bảy-Ḍng.
Chú tôi, Khakyod Wangpo bắt đầu: “Với năng lực đối với sự trường thọ, cuộc đời con sẽ vô hạn…” và, trong khi vung vẩy một mũi tên trường thọ ông tụng một nghi lễ triệu thỉnh những năng lực trường thọ.
Về phần ḿnh, Dza Konchhog hát:
Tri giác của giác tánh nguyên sơ th́ trong trẻo sống động.
Ngọn đèn cho sinh linh là ngọn đuốc của giác tánh nguyên sơ.
Lộng lẫy và tráng lệ tột bậc, chói ngời rực rỡ.
là bậc đạo sư tŕ giữ thần chú, vị vua của các thần chú của giác tánh.
A P’hat A P’hat A P’hat.
Tôi vẫn quỳ trên nệm bằng lụa trắng, kêu khóc không thôi. Những giọt nước mắt rơi xuống tụ lại giống như nước trên nền pha lê. Sau cùng, bởi tràn ngập đau buồn, tôi kêu lên: “Ôi chú tôn quư, chú đă bỏ rơi chúng sinh, nhất là lũ chúng con là những đệ tử và thị giả và là đối tượng của ḷng thương yêu của chú.
Trong khi chú đă đi tới một cơi thuần tịnh không để lại một dấu vết, th́ đứa cháu gái này cảm thấy c̣n đau đớn hơn là trái tim nó bị xé tung ra. Những đệ tử và thị giả khác của chú cũng cảm xúc như thế.
Chú ơi, con khẩn cầu chú từ đáy ḷng con. Chú chỉ phải quay trở lại thế giới loài người v́ lợi lạc của chúng sinh. Cho tới khi hiện thân giác ngộ của chú xuất hiện trở lại, đứa con gái này sẽ không đi đâu hết. Con tới đây với ư hướng chín chắn.
Con đă tới, con gặp được chú; và gặp chú rồi, con đưa ra lời thỉnh cầu. Xin hăy làm cho tất cả những ǵ con yêu cầu chú trở nên có ư nghĩa, con van xin chú!” Và tôi lại bắt đầu khóc, đôi mắt tôi đẫm lệ.
Drimed Khakyod Wangpo biểu lộ ḷng thương yêu của Ngài bằng cách trả lời: “Dadrol cháu ta, những ǵ con nói th́ hoàn toàn chân thực, tuy thế con không nên buồn rầu. Giữa ta và Đạo sư Orgyen vĩ đại không có chút khác biệt nào. Mặc dù những danh xưng theo quy ước ‘sinh’ và ‘chết’, đối với ta, trong ư nghĩa tối hậu, không có chút ư niệm nào về sinh hay tử.
“Mọi chúng sinh hữu t́nh đă từng có bất kỳ mối liện nào dù tích cực hay tiêu cực với ta, lăo già Dechhen Dorje này, đă được đưa dẫn tới núi Huy Hoàng trên tiểu lục địa Chamara, cơi thuần tịnh của các Đấng Chiến Thắng của ba thân, giống như một đàn chim bị giật ḿnh bởi một viên sỏi bắn ra từ một súng cao su.
Ngay cả bây giờ, ta ban cho con một lời hứa trang nghiêm rằng những đệ tử hay thị giả nào có thể cầu xin ta sẽ đồng thời trở thành những vị Phật”.
“Con là kẻ đau khổ v́ lời giải thích của ta, hăy thận trọng trong sự sùng mộ của con, hăy nh́n đạo sư như Pháp Thân của Phật Quả. Hăy chú tâm tới ḷng bi mẫn của con, hăy thấu hiểu rằng sáu loài chúng sinh là những cha mẹ của con.
Hăy thận trọng trong việc thực hành đức hạnh, đừng làm mờ tối bất kỳ điều ǵ con làm với những lợi lạc vị kỷ. Hăy thận trọng trong việc tŕ tụng các thần chú và những thực hành thiền định, đừng rơi vào tám ảnh hưởng thế tục, hăy thấu suốt duy nhất thần chú mani sáu-âm để làm đầy đủ thực hành của con.
Hăy thận trọng trong thực hành chính thức của con, hăy gộp chung mọi sự trong tâm chân thật của riêng con. Chớ phạm sai lầm! Chớ phạm sai lầm!”.
“Ngay khi con rời bỏ thân người này, ta sẽ dẫn tất cả các con tới cơi thuần tịnh này như một con ngỗng dẫn dắt đàn ngỗng con của nó. Hăy đơn giản nhận ra rằng không phải ta dẫn dắt, mà chính là Tam Bảo!
Khi con trở lại cơi người, hăy thuật lại tất cả những thông điệp này cho Tromge Kundun, cho những người chủ gia đ́nh trong vùng và cho các đệ tử thân thiết của ta. Hăy thực hiện điều ta nói, bởi ngay cả nếu họ có trực tiếp gặp ta, ta cũng không có ǵ hơn để nói với họ”.
Khi nói những lời này, Ngài ban cho tôi một phần hậu hĩnh thức ăn và nước uống của tiệc cúng dường. Tôi quỳ lạy ba lần nữa rồi từ giả Ngài.
Trong một lâu đài bằng pha lê với tám con rồng lam ngọc cầm những hạt ngọc trong móng vuốt của chúng và cặp đôi trong tám phương chính và phụ, tôi t́m thấy một cái giường dễ thương với những chiếc gối và gối ôm, và nằm xuống đó. Một dakini làm thị giả phục vụ tôi. Tôi có cảm tưởng là ḿnh đă ngủ một lúc, khi tôi được đánh thức bởi tiếng kêu của một chim công có màu xanh xanh: “A a u u e o a m!”
Tôi lập tức quay trở lại với Đức Guru linh thánh và được hội kiến Ngài như trước đó. Tôi thực hiện nhiều lễ lạy và cúng dường. Trước sự hiện diện của người chú linh thánh, tôi lại khóc. “Chú ơi, không phải chú chỉ bỏ chúng con, mà giờ đây chú c̣n bỏ lại phía sau cả Tromge Chhogtrul Rinpoche là nơi nương tựa duy nhất cho những người tràn đầy hy vọng.
Nếu công đức cho phép chúng con nương cậy Ngài đă cạn kiệt, th́ nỗi khổ của chúng con sẽ to lớn hơn nỗi khổ của một người mù thiếu sự dẫn dắt và ngă nhào nơi vách núi. Có thể làm được ǵ để bảo đảm rằng sẽ không có chướng ngại nào cho cuộc đời Rinpoche, để Ngài có thể hoàn toàn thực hiện được sứ mạng của Ngài là làm lợi ích chúng sinh và làm thỏa măn quyến thuộc và các đệ tử của Ngài?”
Chú Khakyod Wangpo có vẻ quan tâm: “Điều đó chắc chắn là một vấn đề có giá trị”, Ngài nói: “Tromge Chhogtrul sẽ sống mười một năm nữa. Nhưng bởi Ngài có thể đau đớn bởi vài bệnh tật nhẹ trước thời gian đó, nên nếu cử hành một nghi thức để mời gọi lại sự bảo hộ của các dakini tương ứng với số tuổi của Ngài, và cúng dường một h́nh nộm của Ngài theo hướng mặt trời mọc th́ sẽ có ích lợi. Sau đó chắc chắn Ngài sẽ sống thọ như thế”.
Tôi hỏi: “Khi nào Ngài quay trở lại?”
Ngài trả lời: “Hiện tại ta sẽ đi cơi thuần tịnh gọi là Mộ Địa Núi lửa Đang Phun để dạy Giọt Tâm Yếu của Chetzun cho những người tụ hội ở đó. Mặc dù rất có thể người ta nghe nói về cách thức mà hóa thân của ta sẽ được sanh ra sau đó, chớ ghi lại những điều này, bởi chúng cần một sự niêm phong bí mật.
C̣n bây giờ con gái ta sẽ nguy hiểm cho con khi ở lại cơi giới này và con không nên tới đây một lần nữa. Hăy quay về cơi người và làm lợi lạc các sinh loài. Trong ṿng ba năm tới, ta sẽ tái sanh ở đó một lần nữa”.
Mặc dù rất đau đớn khi phải chia ly với nơi nương tựa của tôi, tôi chuẩn bị để quay trở về. Tôi hát lớn ba lần Lời Khẩn nguyện Bảy-Ḍng và cầu nguyện tha thiết nhiều lần với Đức Padmasambhava, với chú tôi và với Tam Bảo. Như một dấu hiệu là tôi đă viếng thăm núi Huy Hoàng trên tiểu lục địa Chamara, tôi được ban pháp danh là Khadro Sherab Chhodron (Dakini Bậc là Ngọn Đèn Trí huệ Tâm linh).
Nhiều hiện thể tập họp ở đó tấu nhạc và các dakini làm những người hộ tống cho tôi. Thân tôi bị để ư và tâm tôi th́ tràn đầy sự vướng mắc, nhưng không có ǵ để làm. Nước mắt tôi rơi như mưa trong khi thiết tha cầu nguyện thật nhiều.
Rồi chúng tôi tiến lên phía trước. Dakini Tsewang Barma lại gặp tôi lần nữa. Bà ban cho tôi bảy viên cam lồ và một hộp châu báu h́nh khối vuông của dakini làm bằng pha lê thạch anh. Bởi tôi không mang chúng theo ḿnh, bà đọc một bài cầu nguyện rất hay cho tôi:
Cầu mong giáo lư của chư Phật được truyền bá.
Cầu mong cuộc đời các đạo sư được vững chắc.
Cầu mong đại lạc và hạnh phúc đếnvới các sinh loài.
Cầu mong tất cả đạt được Phật Quả giác ngộ.
Tôi cũng gặp dakini Laykyi Wangmochhe một lần nữa. Bà ban cho tôi lụa trắng, gạo, những bó nhang và những thức khác và tôi ở với bà một lát, Bà nói:
Cầu mong đại lạc và hạnh phúc đến với cô gái này.
Cầu mong không có chướng ngại cho cô gái này.
Cầu mong sự che chở và nương tựa cho cô gái này.
Cầu mong cô gái này có thể làm lợi lạc các sinh loài.
Sau đó tôi gặp vị phối ngẫu linh thánh Mandarava một lần nữa. Một người đàn bà với vẻ mặt phẫn nộ rót một chất cam lồ trong giống như nước than từ b́nh bát của bà và đưa cho tôi. Đức Mandarava nói:
Cầu mong chúng sinh được phú tặng sự hạnh phúc.
Cầu mong họ thoát khỏi đau khổ.
Cầu mong họ không bao giờ xa rời hạnh phúc.
Cầu mong họ chứng ngộ tánh b́nh đẳng của mọi hiện tượng.
Kế đó tôi gặp rapa Namkha Odsal, Ngài nói:
Bồ Đề tâm quư báu:
Nơi đâu nó không phát khởi, cầu mong nó phát khởi.
Nơi đâu nó đă phát khởi, cầu mong nó không bao giờ suy giảm.
Mà tăng trưởng thêm, thêm nữa!
Om mani padme hum.
Sau đó tôi gặp dakini Yeshe Tsogyal. Bà cho tôi một chất lỏng màu hơi trắng giống như nhựa cây. Mặc dù Bà hát một bài ca nối kết với thần chú bao gồm danh hiệu của Đức Padmasambhava, nhưng tôi không viết ra đây. Bà cho tôi bài cầu nguyện tha thiết sau:
Cho cô gái Dawa drolma này,
trong thế giới phàm tục của cơi người,
trong lănh vực của thị kiến bao gồm trong đôi mắt cô ta,
khi c̣n trong thân xác hữu h́nh:
Ở phương đông khi cô ta nh́n về phương đông,
cầu mong cô nh́n thấy một người gác cổng pha lê.
Khi cô nh́n về phương nam, hăy nh́n về phương nam,
cầu mong cô thấy một người gác cổng bằng vàng.
Khi cô nh́n về phương tây, hăy nh́n về phương tây,
cầu mong cô nh́n thấy một người gác cổng bằng san hô.
Khi cô nh́n về phương bắc, hăy nh́n về phương bắc,
cầu mong cô thấy một người gác cổng màu lam ngọc.
Khi cô ta hát một bài ca thần chú Kim Cương Đạo sư
cầu mong cô thấy Đức Padma Jungnay.
Khi tiệc cúng dường được cử hành ở đây
cầu mong cô gái tới viếng cơi giới này.
Cầu mong cô đưa dẫn những chúng sinh này, những kẻ có liên hệ với cô, trong phạm vi vật lư hay ngôn ngữ.
tới lục địa Chamara.
Bà bảo tôi: “Hăy tới đây vào những ngày âm lịch khi những kết quả của những hành động của chúng ta được nhân lên một trăm ngàn lần: những ngày mồng mười, mười lăm và những ngày mười lăm và mồng một”.
Bà nói thêm: “Hăy khởi hành ngày hôm nay và đừng khóc lóc”, nhưng khi Bà đi với tôi một trăm bước, Bà đă để mặc nước mắt tuôn rơi. Bà nhấn mạnh: “Trừ một quăng ngắn ta đă đi hôm nay, nhưng thực ra ta chưa bao giờ đi đâu hết”. Sau khi đi thêm 110 bước nữa, tôi nh́n lại Bà. Tôi đă quá quyến luyến, nhưng Bà gọi to: “Đừng buồn v́ điều này”.
Đi xa hơn nữa, tôi lại tới trú xứ của dakini Wangmo. Một trong những người gác cổng dẫn tôi tới gặp bà. Do bởi mối liên hệ chặt chẽ của chúng tôi, tôi khóc ̣a lên v́ sợ rằng chúng tôi sẽ phải chia ly và chính vị dakini cũng nhỏ ít ḍng lệ. Bà cho tôi một nhúm hạt.
Bà nói: “Ta không được tự do di hộ tống con, nhưng ta có một thông điệp cho con mang về. Không có lỗi lầm ǵ trong việc con kiên quyết cắt đứt những ràng buộc của con với cơi người và đi tới đây. Nếu con thấy ḿnh không thể thoát khỏi miệng một con cá sấu dữ tợn hay một con rắn độc hiểm , hăy ném hạt này và nói: “Hạt này ném ra từ tay dakini Wangmo”.
Tiếp tục đi xuống, tôi được gặp và hộ tống bởi tám dakini, gồm cả Yul-lha, vị dakini ở vùng Derge đă nói ở trên. Khi chúng tôi thảo luận về sự tường thuật của tôi về cơi thuần tịnh, tôi cứ khóc măi. “Bây giờ hăy nghỉ qua đêm” bà nói.
“Nếu ta có thể ban cho con một quán đảnh về ba bổn tôn-Amitayus, Samyak và Vajrakilaya th́ con, ôi dakini, đối với các tulku đặc biệt, các lạt ma, thiện tri thức và những terton hóa thân linh thánh đang ở trong cơi người b́nh phàm, con sẽ trở thành một dakini cao quư, bậc sẽ xua tan chướng ngại cho những cuộc đời trường thọ của các ngài”.
Nhưng tôi không có thời gian để nhận lănh quán đảnh này. Khi tôi tiếp tục, Đức Tara Trắng cảnh báo tôi chớ nói bất kỳ điều ǵ về các điềm xấu. Tôi lại tới hội kiến Đức Jamyang Khyentsei Wangpo.
Với vẻ khoan thai từ tốn, dường như Ngài vui hơn lần trước và hơi mỉm cười. Ngài chắp tay hướng về phía tôi và Đức Tara Trắng nói những lời như sau:
Dù Ngài có chắp tay hay không,
dù Ngài có tin hay không,
tái sanh này của Đức Tara Trắng tôn quư
sắp đi tới cơi người b́nh phàm.
Đi xuống nữa, vị nhiếp chính Jampa Migyur gởi một đội hộ tống gồm năm dakini tới gặp tôi. Để xua tan nỗi sợ của tôi đối với những cư dân ở trong địa ngục, Ngài ban cho tôi một sợi dây ban phước có một chày kim cương được khắc từ một miếng đá phiến và một cái nơ có h́nh dạng một con ḅ cạp khắc trên đá.
Ngài tụng những lời ước nguyện chẳng hạn như bài bắt đầu bằng “Bồ Đề tâm quư báu…”
Khi tôi tiếp tục, Đức Tara Trắng nói: “Con đă không mang theo người hộp châu báu của dakini bằng pha lê mà hai chúng ta định đem về, v́ thế có ư nghĩa ǵ khi mang chiếc nơ đá này, là thứ không cần thiết?” và v́ thế tôi bỏ rơi nó trên mặt đất.
Rồi ở chỗ khuất gió của một mặt tảng đá, tôi nh́n thấy một cơi thuần tịnh sinhh ra từ đại nguyện, một cung điện rộng lớn bằng pha lê. Trên cổng phía đông là một cái khóa bằng pha lê có kích thước khoảng chiều dài tay áo tôi.
Bên phải và trái trên chiếc cổng là hai h́nh ảnh của Đức Phật Amitayus. Giữa hai tấm h́nh tôi nh́n thấy thần chú mani sáu-âm được viết trong ba loại chữ, chữ này trên chữ kia: Tây Tạng, Lantza và Wardhu.
Ở đó vị dakini Yul-lha (là vị tôi đă gặp trước kia) và tôi gặp một cô gái thuộc gia đ́nh Gya Chhagla tên là Adam. Cô ta và Yul-lha hết sức mừng rỡ, hôn và ôm nhau quanh cổ như những người trong thế giới phàm tục.
Trên một chiếc ngai cao trong cung điện là một lạt ma cao tuổi có bộ râu trắng. Ngồi nép một bên trên một cái ngai trước Ngài là Ashey Drolma, chị của cha tôi (Tromge Jigmed T’hrogyal).
Một người đàn bà với mái tóc cột túm lên trong một chiếc khăn xếp đang đặt nhiều câu hỏi cho cả hai vị về những vấn đề liên quan tới giáo lư đạo Phật. Có khoảng hai mươi ngàn người đàn bà khác ở đó, cả nữ cư sĩ lẫn ni cô; tất cả đều cầm những chiếc đèn bơ bằng kim loại và hát tụng những lời ước nguyện.
Khi tôi tiến lại gần hơn, Ashey Drolma nói: “Hăy mang thông điệp sau đây tới cho Jigmed T’hrogyal: ‘chị đă tái sanh trong cơi giới của đại nguyện này. Cha mẹ chúng ta đều đă tái sanh tại Zangri Kharmar[, nơi họ đang làm lợi ích cho chúng sinh như những hành giả Kim Cương thừa đầy năng lực.
Tên của em khi em c̣n nhỏ là Yudra Nyingpo; tên mà em được gọi bây giờ th́ không rơ ràng đối với chị, nhưng em đă mắc phạm những hành động đức hạnh lẫn ác hạnh trong đời này.
Trong khi không khó để thực hiện một sự pha trộn như thế gồm những hành động như một con người phàm tục trong ṿng luân hồi, điều quan trọng là em đă có được sự sinh ra làm người ít nhất là một lần. Đă tới lúc để chứng ngộ tiềm năng của đời người này, v́ thế hăy tŕ tụng thần chú sáu-âm và đừng quên thỉnh thoảng nhập thất.
Khi ấy, không c̣n nghi ngờ ǵ là em sẽ được tái sanh trên núi Huy Hoàng ở tiểu lục địa Charmara ngay tức khắc khi từ giă cuộc đời này”’.
Tôi cũng tụng những lời ước nguyện nhiệt thành.
Như thế, đây là linh kiến vắn tắt của tôi về núi Huy Hoàng. Tôi, một đứa con gái khiêm tốn của bộ tộc của Đạo sư Tromge, có tên là Dawa Drolma đă chết trong năm ngày và đă kinh nghiệm những linh kiến về núi Huy Hoàng, núi Potala và những cơi giới khác.
Những tường thuật này không được thêm thắt bằng những ngôn từ bác học, không được tô điểm bởi văn thuật của thi ca kinh điển mà cũng chẳng có những vần điệu du dương thích hợp. Nhưng tôi cũng không làm cho những ngôn từ huyền diệu của các dakini trở nên khó hiểu.
Đây là những câu chuyện dông dài, không đầu không đuôi khùng điên của chính cô gái này, được hóa thân Nyag Trulpa ghi chép ngay khi tôi thuật lại chúng trên đỉnh Đèo Mani Tashi trong vùng T’hrom.
Tôi xin sám hối với tập hội chư vị dakini và Hộ Pháp bất kỳ lỗi lầm nào bao hàm trong những câu chuyện đó và cầu mong công đức này khiến cho những ai nghe tới ngay cả danh hiệu của tôi và những ai nhiệt thành quan tâm tới những kinh nghiệm thuần tịnh linh kiến này được tái sanh trong núi Huy Hoàng trên tiểu lục địa Chamara.
May mắn, may mắn, may mắn!
Sarva mangalam cầu mong mọi sự tốt lành.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 402 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 5:09pm | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH TỚI CÁC CƠI BÊN KIA CÁI CHẾT
2- NHỮNG QUÁN CHIẾU TRONG TẤM GƯƠNG PHA LÊ
SÁU CƠI BẤT TỊNH
Xin đảnh lễ Đức Avalokiteshvara, đấng cao quư của thế giới
Ngàn cánh tay của Ngài là ngàn đại đế;
ngàn con mắt Ngài là ngàn vị Phật của thời đại may mắn này.
Ngài xuất hiện trong bất kỳ phương cách nào cần thiết để thuần hóa chúng sinh.
Con đảnh lễ Đức Avalokiteshvara cao quư và siêu phàm.
Con đảnh lễ Ngài, đấng che chở chúng con thoát khỏi tám nỗi sợ hăi.
Con đảnh lễ Ngài, đấng dẫn dắt chúng con trên con đường tới các cơi cao hơn.
Con đảnh lễ Ngài, đấng đưa dẫn chúng con tới sự giải thoát.
Con đảnh lễ Đức Tara, với Ngài mọi mối liên hệ đều có ư nghĩa.
Sắc thân vinh quang của các Ngài hợp nhất tất cả chư Phật.
Các Ngài là tinh túy đích thực của Đức Kim Cương Tŕ.
Các Ngài là cội gốc của Tam Bảo.
Con đảnh lễ các bậc đạo sư.
Bằng sự kính lễ, cúng dường, sám hối,
hoan hỉ trước công đức của người khác, khuyến thỉnh các bậc thầy giảng dạy và khẩn cầu chư Phật hiển lộ trong thế giới,
bất kỳ đức hạnh nhỏ bé nào con có thể tích tập
con hồi hướng cho sự giác ngộ siêu việt vô song.
Giờ đây Kundun Rinpoche, bậc có linh kiến về Phật Pháp,
hai tulku cực kỳ quư báu,
những bậc cha mẹ tốt lành đă sanh ra tôi, và những người khác
đă liên tục thúc giục tôi, cho tới khi tôi không thể phớt lờ họ,
và v́ thế tôi viết ra những điều chỉ là một giọt nước trong đại dương.
Tôi, cô gái khiêm tốn này là Dawa Drolma,
đă phát khởi động lực thanh tịnh và đi vào cửa Pháp,
Tôi đă từ bỏ cách hành xử xấu xa và những hành vi ác hại, vô đạo đức.
Tôi đă cúng dường Tam Bảo càng nhiều càng tốt
và bố thí cho hành khất bất kỳ thứ ǵ tôi có thể.
Tôi đă làm bất kỳ tinh tấn nào để thực hành đức hạnh.
Khi đă vứt bỏ những thái độ xấu, tôi chỉ nỗ lực trong những cách thế bi mẫn.
Một số người nói: “Đây là một sự tái sanh may mắn”,
và tự đặt ḿnh vào hàng ngũ những đệ tử trung thành và sùng mộ của tôi.
Những người khác nói: “Cô ta không phải là một vị trời cũng chẳng phải là một quỷ ma”.
Dù họ giải thích cho tôi, nhưng khó coi những ǵ họ nói là sự thật.
Trong bất kỳ trường hợp nào, tôi là một cô gái ít ham muốn và nhu cầu.
Tôi không có những hy vọng được nổi tiếng.
Tôi không có sức mạnh để mang vác gánh nặng của một nữ anh hùng đang t́m kiếm một địa vị cao ngất.
Tôi không khao khát của cải hay kiếm t́m để có được ngay cả một sợi chỉ.
Tôi không ước muốn thuyết giảng, và thiếu hẳn một cái miệng lanh lợi và cái lưỡi dí dỏm.
Tuy nhiên, với tâm hoàn toàn thanh tịnh và vị tha
tôi có cảm tưởng rằng ḿnh có thể ảnh hưởng tâm thức của một ít chúng sinh,
và v́ thế tôi sẽ bày lộ một con đường cao quư, không thể sai lầm và thẳng tắp.
Nếu các bạn coi nó như cái ǵ chân thật, th́ đó sẽ là sự tốt lành vĩ đại nhất mà các bạn có thể làm cho chính ḿnh.
Bởi bằng những chọn lựa đạo đức, các bạn bảo đảm hạnh phúc của riêng ḿnh.
V́ thế, hăy chú tâm lắng nghe những lời này của tôi!
Đây là câu chuyện của tôi về sự chết và hành tŕnh đi tới địa ngục.
Các đạo sư tôn kính ở địa vị cao,
những nhà cai trị với quyền lực và ảnh hưởng vĩ đại, an tọa trên những chiếc ngai của họ,
và những nhà bảo trợ giàu có, là những người tạo nên hạnh phúc và kho lẫm của cải vật chất –
khi họ chết và đi tới các cơi địa ngục,
không có vô số nhà sư tề tựu trong sự lộng lẫy, tráng lệ,
không có những cuộc duyệt binh với kiếm đao và các loại vũ khí,
không có những kho thực phẩm hay của cải để thực hiện những cuộc hối lộ bí mật.
Địa vị cao ngất, sức mạnh và quyền lực tàn nhẫn,
của cải của người giàu, những thân xác yêu kiều đẹp đẽ,
sự hóm hĩnh tinh ranh và những lư lẽ thông minh
không thể làm khuây khỏa hay lừa gạt Thần Chết.
Có ai trong cơi người này sống măi mà không chết?
Có ai không phải chia ly gia đ́nh và bằng hữu?
Có sự thâu đạt của bất kỳ ai mà không bị bỏ lại đằng sau?
Có ai không rơi ngă từ một đỉnh cao tột vời?
Thật tốt cho tất cả các bạn nếu có những người như thế!
Mặc dù chúng ta nói về địa ngục như nơi nào xa xôi lắm, nhưng không phải thế.
Mặc dù chúng ta nói về bardo như nơi nào khác để đi, nhưng không phải thế.
Cái chết lảng vảng bên ḿnh như cái bóng của ta đi theo thân xác.
Nếu các bạn tỉnh giác về cái chết không thể tránh, các bạn là những người thông minh nhất trong tất cả.
Khi giờ chết đă tới, những bậc cha mẹ và con cái,
vợ chồng, thân quyến và bạn bè, của cải và tài sản đều như nhau
họ có hiến tặng cho các bạn lợi ích hay nơi nương tựa nhỏ bé nhất? Hăy nh́n và thấy đấy!
Họ điều làm ác độc to lớn nhất là gởi các bạn tới các cơi thấp.
Như thế, điều ǵ là lợi lạc? Chính là Tam Bảo không thể sai lầm.
Nếu các bạn duy tŕ một tâm thức cao quư, đức hạnh và tŕ tụng thần chú mani sáu-âm,
các bạn sẽ không đi vào con đường dẫn tới những tái sanh ở các cơi thấp trong ṿng luân hồi,
mà đạt tới trạng thái toàn giác không ǵ sánh.
Om mani padme hum hri.
Xin đừng thất bại trong việc ban cho chúng con sự nương tựa, Ôi các bậc đạo sư và Tam Bảo.
Xin đừng ẩn dấu ḷng bi mẫn của Ngài, hỡi Đức Avalokiteshvara cao quư.
Xin làm những đấng bảo trợ nương tựa cho chúng con, hỡi các thiên nữ trắng và xanh.
Xin chỉ cho chúng con con đường đi tới giải thoát, Ôi các Đấng Chiến Thắng và những bậc kế thừa của các Ngài.
Om mani padme hum hri.
Trong bầu trời trống rộng và mặt đất trống không của trạng thái bardo giữa cái chết và sự tái sanh,
ta không có cả cha lẫn mẹ để quay về nương cậy.
Trong chốn thê lương, xa lạ này,
chúng sinh phàm tục lang thang, tan nát trong tâm tưởng.
Om mani padme hum hri.
Giờ đây tôi sẽ nói về những kinh nghiệm linh kiến của tôi. Trong khi tôi, cô gái Dawa Drolma, đang vượt qua một hẻm núi xa lạ và khủng khiếp th́ gặp Sherab Dronma, con gái của gia đ́nh ông Raga Shag, một trong những bộ trưởng của chính phủ Lhasa.
Bởi bà là một hóa thân của Đức bổn tôn Vajravarahi nên tất cả những ai có quan hệ với bà qua việc chia sẻ hoặc thọ nhận những của cải hay thực phẩm từ bà sẽ được dẫn dắt tới cơi thuần tịnh ở tiểu lục địa Chamara.
V́ thế, bà xuất hiện trong các cơi thấp của sự tái sanh và đă đưa dẫn khoảng một trăm triệu chúng sinh theo bà thoát ra ngoài. Khi tôi gặp bà, bà đang tụng hát thần chú mani với một âm điệu cực kỳ du dương, khơi dậy ḷng tin đến nỗi những giọt lệ tuôn chảy trên đôi mắt tất cả những người hiện diện.
Thiên nữ cao quư Tara Trắng (vị bổn tôn mà với Ngài tôi đă có mối liên hệ nghiệp riêng và Ngài đă dẫn dắt tôi trong nhiều đời) và Sherab Dronma đều hiển lộ trong những h́nh tướng có vẻ b́nh thường. Các vị cư xử với nhau thật đằm thắm, giống như sự gặp gỡ giữa mẹ và con. Hơn nữa, Sherab Dronma c̣n xử sự với tôi trong cung cách có vẻ sùng mộ và tôn kính. Sau đó bà hát bài ca này:
Om mani padme hum hri.
Có năm con đường: trắng, đỏ, xanh dương, xanh lá cây và vàng.
Con, con gái, hăy biết rơ con đường nào để đi.
Đức Tara Trắng, xin dẫn dắt cô gái trên con đường đó!
Con đường màu trắng đi về phương tây dẫn tới Cơi Cực Lạc,
cơi thuần tịnh của Đức Phật Amitabha.
Con đường màu đỏ dẫn tới Chamara,
cơi thuần tịnh của Đức Padmasambhava.
Con đường màu xanh dương dẫn tới Núi Potala,
cơi thuần tịnh của Đức Avalokiteshvara cao quư.
Con đường màu xanh lá cây dẫn tới Yulokod,
cơi thuần tịnh của Đức Tara cao quư, tôn kính.
Con đường màu vàng dẫn tới Cơi Hoa thượng,
cơi thuần tịnh của vị nhiếp chính Jampa Gonpo.
Nếu con không thể quyết định theo con đường nào,
th́ thật ít ư nghĩa trong việc lang thang trong bardo sau cái chết.
Con, Dawa Drolma, hăy biết rơ nơi phải đi.
Cầu mong con đến được cơi mà con t́m kiếm.
Ta là một hóa thân của Vajravarahi.
Không có những tái sanh trong trạng thái thấp đối với những ai có liên hệ với ta qua ngôn ngữ hay tiếp xúc.
Từ núi Huy Hoàng trong tiểu lục địa Chamara,
hăy đi tới thế giới của cơi người.
Cầu mong con được ban cho những sự ban phước để thực hiện con đường giải thoát.
Bà tiếp tục: “Con gái, con cần phải trở về cơi người. Nhưng chỉ mới mười sáu tuổi, năng lực tinh thần của con chưa phát triển đầy đủ, và khi đă tái sanh làm một người đàn bà, con sẽ có một chút uy quyền.
Bởi chúng sinh trong những thời đại suy hoại này sẽ khó tin rằng những tường thuật của con là chân thật, sự lợi lạc mà con có thể đem lại cho họ sẽ bị suy giảm”. Nước mắt bà rơi lă chă bởi ḷng trắc ẩn đối với tôi. Đức Tara Trắng, bậc đang dẫn dắt tôi trên con đường, có vẻ hơi phật ḷng v́ những lời này. Ngài trả lời:
Những cô gái thế tục b́nh thường và cô gái này th́ không giống nhau,
bởi cô ấy là một hóa thân của Tara Trắng.
Cô ấy là một cô gái có tâm hồn đức hạnh.
Cô ấy là cô gái có ḷng bi mẫn.
Cô ấy là một nữ anh hùng có tâm hồn can đảm.
Cô ấy là một dakini được chứng nhận trong tiên tri.
Cô ấy là cháu gái của bốn đạo sư.
Ngài Khakyod Wangpo bất nhiễm đă khởi hành tới Chamara trong một thời gian ngắn;
cô gái này đi tới cơi đó hy vọng gặp lại Ngài.
Cô ấy tới chốn này không chút quyến luyến với cha cô;
Cô ấy tới chốn này không chút quyến luyến với mẹ cô;
Cô ấy tới chốn này không chút quyến luyến với những vật sở hữu, thực phẩm hay tài sản;
Cô ấy tới chốn này không chút quyến luyến với bằng hữu hay các người phục vụ.
Không thể phân ly với bậc thống lĩnh Manjughosha,
bậc thống lĩnh bảo trợ, hóa thân hoạt động của một ngàn vị Phật,
là bậc thống lĩnh nương tựa, Đức Sakya Sodnam Tzemo vĩ đại.
Hóa thân của Ngài trong thân tướng của một thiện tri thức,
đạo sư Tromge Chhogtrul, nhập thể tuyệt hảo,
nỗ lực liên tục tŕ hoăn cô, Ngài nói: “Đừng đi!”
nhưng cô ấy không nghe và đi tới nơi này.
Cô ấy cũng gặp những cơi linh kiến thanh tịnh không thể suy lường.
Nếu cô ấy trở về thế giới con người,
cô có thể kể về những chọn lựa đạo đức trong việc chấp nhận những hành vi đức hạnh và từ bỏ những ác hạnh.
Cô ấy có thể chuyển tâm của chúng sanh.
Cô ấy có thể thành tựu vô số lợi ích cho họ.
Cô có thể nói về những linh kiến của cô trong những cơi này.
Cô có thể viếng thăm cơi giới này một lần nữa.
V́ thế không cần đối xử với cô ấy với ḷng trắc ẩn,
và bà không nên cảm thấy buồn đau trong ḷng.
Rồi chúng tôi tiến lên.
Trong cổng vào lối đi dài và ghê sợ của bardo là Đạo sư Gyajam, một đệ tử thân thiết của Tromge Kundun Rinpoche. Tóc Ngài bới lên thành một búi, và Ngài khoác một khăn choàng và mặc một hạ y bằng vải trắng.
Mặc dù tôi rất mong được gặp Ngài, nhưng chúng tôi không tiếp xúc và không bao lâu tôi tiếp tục đi. Tôi hỏi bà mẹ bi mẫn của Đấng Chiến Thắng: “Vị lạt ma đó của chúng ta, ngài Gyajam chứng ngộ - Ngài từ đâu tới, từ hướng nào? Và với mục đích ǵ?”
Các thiên nữ Tara Trắng và Tara Xanh trả lời:
Bậc chứng ngộ và hết sức cao quư đó được đặt tên theo Đức Manjughosha.
đă nương tựa một đạo sư nhân từ và cực kỳ bi mẫn.
Bởi mối liên hệ nghiệp của Ngài sâu đậm, Ngài đă phát triển sự chứng ngộ toàn hảo;
bởi sự tinh tấn của Ngài lớn lao, Ngài đă thực hành Pháp thật dũng mănh;
bởi ḷng bi mẫn của Ngài vĩ đại, Ngài đă tới giảng dạy Pháp trong bardo.
Om mani padme hum hri.
Lại thêm những điều để kể: Hàng năm chúng sinh bị cuốn lên giống như một trận băo tuyết; hàng ngàn chúng sinh nữa rớt xuống như một trận mưa tuyết dày đặc. Họ kêu khóc, tiếng kêu như âm thanh của một ngàn con rồng.
Nước mắt như một trận mưa rào dài một năm tuôn ra từ đôi mắt họ. Từ đỉnh đèo cát giữa sự sống và sự chết xuống tới những cánh đồng sắt nóng đỏ rộng lớn trong các địa ngục, chúng sinh nhiều vô số kể, như những hạt cát trong đại dương.
Họ không được nghỉ ngơi hay rảnh rỗi, giống như những cừu cái lẫn lộn với cừu non. Nỗi khổ của họ không thể đo lường được, giống như nỗi khổ của một con cá trên đất khô. Như người cố leo lên một đồi cát, họ không có cơ may để trốn thoát.
Như người bị ném vào ḷ lửa, họ không có phương tiện để chịu đựng. Như người có ảo giác nh́n thấy nước, họ kinh nghiệm những h́nh tướng lầm lạc theo nghiệp của họ. Các thiên nữ bi mẫn và cao quư, xin đưa dẫn những chúng sinh này là những người đang kinh nghiệm nghiệp quả thật hỗn loạn!
Om tare tuttare ture soha.
Trên một cánh đồng trống và rộng lớn trong bardo, Lozang Drolma, con gái của Tromge Kundun Dargyay, đang lang thang. Nỗi khổ của cô không quá lớn cũng không quá nhẹ nhàng. Cô trao cho tôi thông điệp sau đây để thuật lại:
Hăy nói lại điều này cho những người trong gia đ́nh tôi:
Nếu cha mẹ thực cảm nhận rằng con gái của mẹ đang đau khổ,
th́ một lần duy nhất tŕ tụng thần chú mani sẽ có lợi ích to lớn.
Nếu cha mẹ có thể thu xếp để tŕ tụng Kinh Giải Thoát,
càng nhiều càng tốt thần chú mani,
và Tantra Sám Hối Bất nhiễm,
th́ con có thể từ bỏ thân bardo này
và đạt được tái sanh như một con người với samaya trong sạch.
Với một tấm ḷng bi mẫn, tôi lớn tiếng tụng thần chú sáu-âm cho cô từ xa, và cô ấy ra đi, bị cuốn dạt như một chiếc lông chim trong gió.
Trên đèo cát rất cao giữa sự sống và sự chết, là một cánh đồng cực kỳ hoang vắng, thảo nguyên bao la xám xịt của sự chết. Con sông người chết có một màu nâu ngầu đục, không có chỗ cạn, chỉ có những con sóng tung cao thật dữ dội.
Chiếc cầu sáu-nhịp dễ sợ làm tôi ớn lạnh. Những sứ giả kinh khủng của Yama, Thần Chết, th́ cực kỳ hung dữ và phàm ăn. Không có tới một vị bảo trợ trong xứ sở của người chết, chúng sinh ở đó thật bơ vơ, không nơi nương tựa!
Om mani padme hum hri.
Aga, con dâu của gia đ́nh Gyaten xứ T’hromt’hog, ở trong con sông nâu không có chỗ cạn của người chết đó, phải chịu nỗi khổ không thể tưởng tượng nổi. Đây là hậu quả sau cùng của việc cô đă cúng dường trà bất tịnh cho tập hội nhiều nhà sư. Tôi hát thần chú mani và với một mũi tên có trang trí dải ruy băng, Đức Tara đă cứu thoát cô, kéo cô ra khỏi con sông nâu hung dữ.
Tôi tiếp tục đi xuống một nơi khủng khiếp. Không có ánh sáng, mà chỉ là bóng tối ảm đạm đến nỗi tôi chỉ có thể nh́n thấy khoảng một cánh tay trước mặt. Từ trên cao, một trận mưa đổ xuống. Mặt đất bị bao phủ bởi sắt nóng.
Kim loại nóng chảy tràn ngập mọi hướng và đủ loại vũ khí rải đầy khắp nơi. Xác chúng sinh chất cao khoảng một trăm sải (1 sải = 1,8m), da họ màu đen như mực. Họ kêu thét một âm thanh inh tai nhức óc không dứt, giống như trăm cừu mẹ gặp được trăm cừu con của chúng, “Trời ơi! Than ôi! Ôi khổ tôi chưa! Chao ôi! Ôi Cha ơi! Ôi Mẹ ơi! Cứu con! Ôi, nóng quá!”
Sự xuất hiện hỗn loạn và khủng khiếp này dường như rải rác ở một địa điểm nào đó.
Ở giữa một cánh đồng bao la khác sừng sững một cái ngai sắt màu đen có kích thước của một ṭa nhà ba tầng. Ngự trên đó là Dharmaraja[, Thần Chết. Thân tướng ông màu nâu pha đỏ tía đậm, trông thật khủng khiếp, hung nộ và dữ tợn. Đôi mắt ông sáng rực như mặt trời và mặt trăng, đỏ ngầu và lóe sáng như tia chớp.
Có những mụt cóc trên má và những chỗ khác trên mặt ông. Ở phần thân trên, ông khoác miếng da sống của một con voi, quanh thắt lưng là miếng da lột của một con người, quấn quanh phần thân dưới là hạ y bằng da cọp. Ông tô điểm bằng quần áo lụa cùng nhiều món trang sức bằng xương và châu báu.
Trên đầu đội một vương miện làm bằng năm đầu lâu khô. Trong bàn tay phải, ông ôm một bảng định mệnh có vẽ các vạch chéo song song, trong bàn tay trái là tấm gương nghiệp quả. Ông ngồi trong tư thế xếp chéo chân. Vẻ rực rỡ phát ra từ thân ông làm chói mắt không thể chịu nổi.
Trước mặt Yama là Ác Ư, một thuộc hạ có đầu của một con rắn đang cầm một tấm gương. Bên phải Yama là Kiêu Ngạo với cái đầu sư tử, cầm cái trống ṭa án. Phía sau Yama là Định Mệnh với cái đầu khỉ, cầm một cái cân.
Bên trái Yama là Awa Đầu-Ḅ, cầm những cuộn giấy. Xung quanh họ có vô số hàng triệu thuộc hạ của Thần Chết hóa thân trong những h́nh dạng có đầu của vô số thú vật.
Đức Tara và tôi, cô gái, cùng thực hiện ba lễ lạy và dâng bài tụng ca tán thán sau đây:
Nếu nhận ra được, th́ chính là đây - bổn tâm của ta;
nếu không nhận ra, th́ đó là Thần Chết phẫn nộ vĩ đại.
Thực ra đây chính là Đấng Chiến Thắng, Pháp Thân Samantabhadra (Phổ Hiền).
Chúng con đảnh lễ và tán thán dưới chân Dharmaraja.
Nếu nhận ra được, th́ đó là Đức Phật Vajrasattva (Kim Cang Tát Đỏa);
Nếu không đó là Ác Ư với đầu của một con rắn.
Thực ra đây chính là tâm giác ngộ, với sự sân hận hoàn toàn được tịnh hóa.
Chúng con đảnh lễ và tán thán vị thuộc hạ vĩ đại cầm một tấm gương.
Nếu nhận ra được, th́ đó là Đức Phật Ratnasambhava (Bảo Sanh);
nếu không, đó là Kiêu Ngạo với đầu sư tử.
Thực ra đây chính là tâm giác ngộ, với sự kiêu ngạo hoàn toàn được tịnh hóa.
Chúng con đảnh lễ và tán thán vị thuộc hạ vĩ đại cầm một cái trống ṭa án.
Nếu nhận ra được, th́ đó là Đức Phật Amitabha (A Di Đà)
nếu không, đó là Định Mệnh với cái đầu khỉ.
Thực ra đây chính là giác ngộ, với sự tham luyến hoàn toàn được tịnh hóa.
Chúng con đảnh lễ và tán thán vị thuộc hạ vĩ đại cầm một cái cân.
Nếu nhận ra được, th́ đó là Đức Phật Amoghasiddhi (Bất Không Thành Tựu);
nếu không đó là Awa Đầu-Ḅ.
Thực ra đây chính là tâm giác ngộ, với sự ganh tị hoàn toàn được tịnh hóa.
Chúng con đảnh lễ và tán thán vị thuộc hạ vĩ đại cầm những cuộn giấy.
Các ngài biết rơ đức hạnh hay điều xấu ác, những thuộc hạ phẫn nộ của sự chết này.
Cầu mong những chúng sinh đó, là những kẻ không hoàn tất điều ǵ, không tích tập nghiệp xấu.
không bị dẫn vào những con đường không lối thoát và không thể chịu đựng,
được tái sanh trong một cơi thuần tịnh không lỗi lầm và không sợ hăi.
Dharmaraja hơi mỉm cười và trả lời: “Cô con gái có biện tài từ cơi người, cô đă tích tập loại nghiệp tích cực, thiện lành nào? Cô đă tích tập loại nghiệp tiêu cực, xấu ác nào? Hăy nói thật trung thực, bởi nói dối sẽ không ích lợi ǵ!”
Đức Tara Trắng đứng lên, lạy Dharmaraja ba lạy và nói: “Thay mặt cô gái này, tôi có vài điều muốn nói”.
“Tốt lắm”, ông trả lời.
“Cô gái này là con gái của gia đ́nh Lạt ma Tromge” bà nói. “Về đức hạnh, cô ấy cúng dường bất cứ điều ǵ có thể cho Tam Bảo, coi Tam Bảo là bậc trưởng thượng của cô. Cô có ḷng đại bi và không coi thường những người xấu, những người hành khất như người dưới của cô.
Cô rất rộng lượng, thưa Ngài. Mặc dù bản thân cô không thực hành Phật Pháp nhiều, cô làm cho những người khác thực hành và khuyến khích họ sống đức hạnh. Cô luôn luôn có đức tin, ḷng sùng mộ và Bồ Đề tâm to lớn. Cô không bao giờ mắc phạm dù chỉ một hành vi ác hại hay phi-đạo đức, thưa Ngài”.
Khi bà tŕnh bày xong, Yama nói: “Tốt, nào! Thuộc hạ đầu-rắn sẽ nh́n vào tấm gương của ông xem điều này có đúng sự thật không”.
Thuộc hạ đầu-rắn chăm chú nh́n vào tấm gương và nói: “H́nh ảnh giống như mặt trời lộ ra từ sau đám mây”. Thuộc hạ đầu-sư tử đánh cái trống ṭa án và phát biểu: “Âm thanh thật du dương”. Thuộc hạ đầu-khỉ đặt các vấn đề lên bàn cân và tuyên bố:
“Đức hạnh của cô ta hoàn toàn trổi vượt; hầu như chỉ có hơn một hoặc hai hành động xấu”. Cuối cùng, thuộc hạ bảo vệ đầu-ḅ liếc nh́n những cuộn giấy và nói: “Một phút thôi! Cô có phạm vài hành động xấu, như đập vỡ trứng chim trên mặt đất hoặc tỏ lộ tánh khí quá ngang bướng, phải không?”
Nghe những điều này, Dharmaraja cười khúc khích và nói: “Ồ, thế à! Tốt, con gái ta, mặc dù con là một người đầy ḷng bi mẫn, nhưng lỗi lầm của những người xấu th́ thật nặng nề.
Nếu ta trừng phạt một số người và tha thứ những người khác, th́ với tư cách là một vị vua có quyền lực đối với những ác hạnh, ta sẽ phải chịu những hậu quả của sự sao lăng nhiệm vụ.
V́ thế, bây giờ ta sẽ gởi con trở về cơi giới của con một lần nữa, nhưng con nên sám hối những hành vi xấu của con và cẩn thận giữ ǵn đức hạnh chừng nào con có thể.
Hăy giữ trong tâm những cảnh tượng của địa ngục, những thông điệp từ những người quá cố, và những lời khuyên này của Dharmaraja. Con cũng hăy thuật lại các điều này cho những người khác và khuyến khích mọi người thực hành đức hạnh”.
Nh́n xung quanh, tôi thấy một cô gái tên là Bilima ở miền Zurpa. Một con rắn đen to mập như thân cây thông quấn quanh người cô từ đầu tới chân như thể cô đắp một cái mền.
Những thuộc hạ của Yama la hét và rống lên: “Ha, ha! Ồ, ồ!” tạo nên một âm thanh inh tai nhức óc. Nước mắt cô dầm dề như đại dương, và tôi nghe tiếng cô kêu khóc: “Ôi, Cha ơi, Mẹ ơi, cứu con!”
Vị thuộc hạ la lớn:
Ồ đứa con gái tội lỗi giết những con rắn,
Kêu réo cha mẹ mi th́ chẳng có ư nghĩa ǵ.
Đây là hậu quả của những hành động bản thân mi đă phạm.
Sẽ không thể thoát khỏi trong một ngàn kiếp!
Đây là kết quả sau cùng của việc cô giết một con rắn trong khi thu hoạch lúa mạch trong cánh đồng. Bà mẹ già của cô lo sợ những hậu quả của hành động này và nói với cô: “Con quỷ cái, đừng kêu la nữa hăy sám hối hành động này!” cô gái đă cười phá lên và sự tái sanh này kết quả.
Cũng có một cô gái tên là Palkyid ở quận Nyagrong. Những thuộc hạ của Yama đă đặt một cái rây bằng sắt trên đầu cô, qua đó họ đổ chất kim loại đỏ rực, nóng chảy và sôi sùng sục từ đầu tới chân cô. Với những âm thanh xèo xèo, xương thịt cô bị đóng dấu bằng sắt nung và bị thiêu đốt.
Cô thút thít, không thể khóc lớn tiếng. Những thuộc hạ la hét: “Ồ đứa con gái tội lỗi, trong thế giới con người phàm tục, mi đă la cà bên ngoài khu vực tu hành của một hội chúng tu sĩ, bắt đầu mỉm cười và tán tỉnh họ.
Gấu áo quần của mi làm tung bụi đất. Một nhà sư nói: “Đừng cư xử như vậy đừng tích tập nghiệp xấu!” Nhưng mi không nghe ông ấy và điều đang xảy ra cho mi bây giờ là hậu quả sau cùng của việc mi phá rối những thành viên này của tăng đoàn. Trong một ngàn kiếp, mi sẽ không có cơ may thoát khỏi”.
Bà mẹ bi mẫn của các Đấng Chiến Thắng vung vẩy mũi tên có trang trí dải ruy băng lụa; tôi, cô gái, đă tụng thần chú mani du dương như một giai điệu. Thoát khỏi trạng thái thấp đó, Palkyid tái sanh trong cảnh giới mà cô cầu nguyện, nhưng dường như cô vẫn c̣n phải chịu một vài hậu quả do các hành động của ḿnh.
Om mani padme hum hri.
Sau đó tôi thấy một người đàn bà già ở miền Tro, tên là Anag. Khi kim loại nóng chảy sôi sục được đổ vào miệng bà, thân bà ta vỡ tung ra từng mảnh từ đầu tới chân. Bà chịu đựng loại đau khổ này liên tục không ngừng nghỉ. Tôi được cho biết hậu quả này là bởi bà đă đầu độc một vị lạt ma.
Dingla ở vùng Aso, Khargya và những người khác thực ra phần lớn những người ở vùng đó đang lang thang trong bardo. Rinchhen Dargyay cũng lang thang vơ vẩn ở đó.
Một người tên là Nyima Holeb bị tái sanh trong Địa ngục Sống lại. Cũng có khoảng mười người ở Aji. Một số đă bị tái sanh trong các cảnh giới địa ngục, một số th́ ở các cảnh giới preta.
Trong số họ có một người tên là Abo có một cái đầu to như một cái b́nh đất sét lớn và thân ḿnh bị biến dạng trông thật khủng khiếp. Miệng ông ta nhỏ như lỗ kim và thực quản bằng bề rộng của một sợi bờm ngựa, trong khi bao tử th́ lớn bằng cả một thành phố.
Móng tay ông đâm thủng các năm tay nắm chặt của ông ba lần. Ông không t́m được thức ǵ để ăn; những lưỡi lửa trào ra khỏi miệng. Ông ra đang phải chịu nỗi khổ không thể tưởng tượng nổi.
Tôi hỏi: “Hành động nào dẫn tới nỗi khổ của người này?” Tôi được kể lại rằng ông ta không bao giờ cúng dường Tam Bảo là những bậc trưởng thượng của ông, và đối xử thiếu nhân từ với chúng sinh ở các trạng thái thấp là những kẻ dưới ông. Ông luôn luôn cúng dường một số lượng nhỏ bé và do sợ cạn kiệt lương thực, ông ta chỉ dâng cúng sự tham lam.
Một người quen của tôi tên là Atar thuộc gia đ́nh Tampa xứ T’hromt’hog cũng ở đó. Thông điệp của ông ta gởi cho mẹ và thân quyến là: “Xin đừng từ bỏ những thực hành đức hạnh, sự tŕ tụng thần chú mani và nghi thức của Đức Phật Akshobhya], cùng sự quyên cúng cho tập hội đông đảo các nhà sư”.
Tashi Dondrub thuộc gia đ́nh Nag cũng tái sanh ở đó và trải qua nỗi khổ ghê gớm. Tôi hỏi bạn đồng hành của tôi là Đức Tara: “Người này đă phạm hành động nào mà phải chịu hậu quả này?”.
Ngài đáp: “Không giữ ǵn các hứa nguyện samaya của ḿnh, hành động với sự ích kỷ kiêu căng, nghĩ tưởng rằng: “Có phải ta sẽ được cái này?” và “Ta sẽ kiếm được cái kia chăng?”
Ông ta trao cho tôi thông điệp gởi về gia đ́nh: “V́ lợi ích của tôi xin hăy tŕ tụng bảy mươi triệu lần thần chú mani và Kinh Giải thoát, hăy sám hối những hành động có hại của quư vị, và hăy dâng những lời cầu nguyện hồi hướng trong tập hội đông đảo”.
Gyashod Atsang bị tái sanh trong một cơi ngạ quỷ (preta). Vô số không thể nghĩ bàn những người khác, những người tôi quen biết lẫn những người không quen cũng bị tái sanh ở đó. Cơi giới này th́ thật khủng khiếp.
Các chúng sinh hết sức tuyệt vọng bởi họ không sao t́m được thứ ǵ để ăn hay uống. Tóc họ dựng đứng lên, thân thể gầy ṃn, miệng giống như lỗ kim, cổ họng như những sợi bờm ngựa, bụng lớn như toàn thể xứ sở, và chân tay th́ như những cọng cỏ. Móng tay rất dài, đâm thủng bàn tay họ chín lần.
Phần lớn trong số đó, có trong bàn tay chút nước bọt mà Đức Jamyang Khyentsei Wangpo hồi hướng cho họ, nhưng họ phải trải qua hàng trăm hay hàng ngàn năm trước khi có thể mở miệng và liếm tí chút nước bọt ấy.
Họ không t́m thấy bất kỳ sự nhàn nhă nào ngoại trừ giây phút nghỉ ngơi ngắn ngủi này. Trong nỗi đau khổ của họ, họ đồng thanh kêu khóc: “Tôi sẽ ăn cái ǵ? Tôi sẽ uống cái ǵ? Tôi đói! Tôi khát! Trời ơi, trời ơi! Than ôi!”
Quân lính bảo vệ cơi preta bày ra nhiều loại món ăn và của cải, rồi cầm những lưỡi gươm sắc nhọn trong tay và nh́n trừng trừng trông thật hiểm ác. Bị dồn ép bởi đói khát, những preta tới ăn cắp thực phẩm và nước uống này, nhưng chỉ khiến cho thân xác họ bị những thanh gươm này đâm chém làm họ kêu khóc thật hoảng loạn.
Các bán thần phải trải qua nỗi khổ dữ dội trong cuộc chiến đấu với các vị trời trên những dốc núi Tu Di. Họ ganh tị không thể chịu đựng nổi trước sự tráng lệ và của cải trong các cơi trời cùng tṛ nô đùa ve văn của các thiên nữ đang ca hát và nhảy múa, nhưng họ chỉ gánh chịu sự đau khổ không tưởng tượng nổi bởi thất bại trước các vị trời.
Các vị trời ném đĩa có các đinh nhọn, cũng như các mũi tên và chĩa ba, và sử dụng những con voi say có những vũ khí h́nh bánh xe được trang bị ở cuối thân voi. Các bán thần trải qua những đau khổ không thể nghĩ bàn khi bị giết chết hay bị thương tích. Họ cũng chiến đấu ngay trong nội bộ của họ, với những âm thanh inh tai “Giết, giết!” và “Đánh, đánh!” vang dội như tiếng gầm của một ngàn con rồng.
Ngay cả bản thân tôi cũng kinh hoàng trước những ǵ được chứng kiến trong cảnh giới đó. Đối với việc ném mạnh một trái trứng chim trên mặt đất, tất nhiên là tôi phải kinh qua mọi loại khí giới; nhưng tôi đă nhất tâm khẩn cầu Bồ Tát của ḷng bi mẫn và vị thiên nữ tôn kính và hát tụng thần chú sáu-âm ba lần, và rồi dường như đối với tôi, những âm thanh dần dần trở nên dịu đi.
Khoảng năm ngàn người ở vùng Chamtring và một số không rơ những người Trung Quốc tái sanh trong cùng cảnh giới này. Dường như cũng có nhiều nhà quư tộc, nổi bật nhất trong số đó là Lozang Tendzin, một vị tướng miền Chamtring. Một số đông người không thể tính xuể bị tái sanh ở đó, trong đó có gia đ́nh Wanggyal và bộ tộc Dugtza, phần lớn họ đă chết v́ dao.
Đi xa hơn nữa, trong một công viên đầy hoa, tôi t́m thấy một vị trời hết sức già, không chịu đựng điều ǵ ngoài sự đau khổ. Vài người bạn tới gần, ném những ṿng hoa lên người ông và nói:
“Ngay khi ông rời bỏ thân xác, cầu mong ông được tái sanh trong cơi người, thực hành mười loại thiện hạnh, và một lần nữa được sanh vào cơi trời này”. Cùng với lời nói đó, họ tung rải những bông hoa. Ông đă phải chịu nỗi khổ không thể tưởng tượng nổi, như thể trái tim ông vỡ tung ra và thân xác th́ tan thành cát bụi.
Sự trường thọ của đời một vị trời có thể được đo lường từ sự kiện là khoảng bảy ngàn năm của con người chúng ta chỉ bằng một tuần lễ đối với họ. Một tuần trước khi chết, họ trải qua những đau đớn mà mức độ dữ dội th́ vượt xa những đau khổ trong địa ngục khủng khiếp nhất của sự hành hạ không ngừng dứt.
Khi nghiệp của họ cạn kiệt, do các niệm tưởng bị hư hỏng bởi những cảm xúc như sự kêu ngạo, họ thực sự nh́n thấy nơi tái sanh trong tương lai của ḿnh ở một cơi thấp. Điều ấy làm họ đau khổ ghê gớm hơn việc tự vẫn bằng cách tự ném ḿnh vào hầm lửa lộ thiên.
Om mani padme hum hri.
Tôi tiếp tục đi và gặp Kardo thuộc bộ tộc Gestsay trong một cơi địa ngục. Ở đó, trong một căn nhà bằng sắt đồ sộ có kích thước to lớn, ông ta đang thâu thập đất, đá, cỏ và gỗ (mặc dù tôi nghi ngờ về sự cần thiết của những hành động của ông), và đặc biệt là lam ngọc, san hô, pha lê, đá lưu ly, vàng và bạc. R
ồi các thuộc hạ của Yama chất đống tất cả của cải cùng đất đá lên đầu ông. Ông kêu khóc trong đau đớn. Dù cố trốn thoát ở đâu, ông cũng bị chặn giữ lại. Sau đó, phải nh́n những viên đá và kim loại quư bị rải rắc như những lông chim trong gió, một lần nữa, ḷng ông đau khổ dữ dội.
Rồi lại như lần trước, ông thâu thập của cải và thực phẩm và lại bị chúng đè bẹp, và v́ thế ông phải chịu đựng trong từng giây phút những h́nh thức đau khổ luân phiên này.
Tôi hỏi: “Đây là hậu quả của hành động nào?”
Đức Tara nói với tôi: “Đây là hậu quả của việc ông ta thèm muốn tất những ǵ ông để mắt tới, hậu quả của việc ông có ác tâm với mọi người ông nghe nói, hậu quả của việc ông không có ǵ ngoài những tà kiến về mọi sự ông nghĩ tưởng tới.
Đây là hậu quả của việc không thực hành đức hạnh, mà dấn ḿnh vào những hành động phi đạo đức và có hại, kể cả việc đeo một mala (chuỗi hạt) trong khi bị phóng tâm bởi chuyện ngồi lê đôi mách và tṛ chuyện tầm phào không đâu”.
Kardo trao cho tôi thông điệp này để mang về: “Với Tsagdi, con dâu trong gia đ́nh tôi, tôi nói: ‘mặc dù con trang điểm bằng mă năo và san hô, điều này không tốt cho cha.
Con không thương xót cha sao? Con đă không thỉnh cầu một đạo sư duy nhất để tạo mối liên hệ với cha bằng cách hồi hướng tài sản của con nhân danh cha. Không ǵ lợi ích cho cha hơn nghi lễ tẩy tịnh của Đức Phật Akshobhya, bổn tôn trong cổng phía nam của mạn đà la của Đức Phật Vairocana”’.
Tôi tŕ tụng thần chú mani và trong chốc lát ít ra ông ta đă có thể nghỉ ngơi. Nhưng cũng như trước đó, ông bắt đầu phải chịu đựng những tri giác lầm lạc của ḿnh.
Thêm vào đó, có nhiều lạt ma (đạo sư) và nhiều sư trong một ngôi nhà trông-đẹp đẽ làm bằng sắt. Mặc dù thoạt đầu họ có vẻ khá ḥa nhă, bỗng nhiên tâm họ trở nên rối loạn và cùng lúc đó họ bắt đầu la hét một ngôn ngữ gớm ghiếc.
Trong sự hoài nghi, tôi tới gần và thấy lửa phun ra từ miệng họ, khói thoát ra từ lỗ mũi và những chiếc cưa sắt kêu ŕ rầm trên đỉnh đầu họ. Khi tôi hỏi họ hành động nào đă dẫn tới hậu quả này, họ trả lời là họ đă nói chuyện tầm phào trong các nghi lễ được cử hành cho tín đồ (cả người sống lẫn người chết).
Trong khi kết giao với những hành giả đang hoàn thành những thực hành bổn tôn theo nghi thức và trong khi dự những nhóm hội trong đền thờ của họ. Họ đă làm gián đoạn việc thiền định của người khác bằng cách nói luôn miệng, căi cọ trong những tiệc cúng dường và tạo nên một âm thanh chói tai.
Một người hành hương du phương xuất hiện mặc quần áo rách rưới tả tơi và cầm một cây cờ cầu nguyện. Yama Dharmaraja hiện ra với thuộc hạ của ông, biểu lộ sự vui thích và nói: “Lợi lạc to lớn biết bao cho Phật Pháp! Và không có ǵ vĩ đại hơn Pháp cao quư của một lá cờ cầu nguyện.
Những lá cờ cầu nguyện là cội gốc của Pháp. Thần chú mani là tinh túy của Pháp. Thần chú siddhi đem lại sự giải thoát từ lối hẹp của bardo. Nghi lễ chay nyungnay là bậc thầy chỉ rơ con đường đi tới giải thoát. Những ḥn đá một trăm ngàn thần chú mani là ṿng hoa của Pháp.
Hành vi cứu giúp những sinh mạng là cỗ xe của con đường. Việc đúc các satsa là cách chặn đứng sự tái sanh trong các cơi thấp. Đi hành hương là cây chổi quét sạch những hậu quả của các ác hạnh. Bày tỏ sự tôn kính bằng những lễ lạy tiệt trừ các lỗi lầm.
Tara là nguồn mạch bên ngoài của sự nương tựa (quy y). Sự tích tập công đức và giác tánh nguyên sơ (trí tuệ) là lương thực dự trữ cho những đời sau. Ḷng bi mẫn là trục chính của Giáo Pháp. V́ thế, con ta, hăy vui vẻ đi tới Potala”.
Người hành hương đi qua, dẫn khoảng một ngàn chúng sinh có liên hệ với ông qua ngôn ngữ hay tiếp xúc.
Om mani padme hum hri.
Đức tôn kính Tara nói với tôi:
Những kẻ không bỏ nón khi một vị lạt ma bước vào trước sự hiện diện của họ,
đă có một thời họ từng phải trải qua những địa ngục sẽ tái sanh làm con cừu hoang.
Những kẻ không đứng dậy và vẫn đứng khi các nhà sư bước vào trước sự hiện diện của họ,
đă có một thời họ từng phải trải qua những địa ngục sẽ tái sanh làm những người què.
Những kẻ không cúng dường đèn bơ tinh sạch sẽ tái sanh trong hầm lửa.
Những kẻ bước lên hay để quần áo trên ba biểu tượng của Châu báu.
sẽ tái sanh làm những người câm hoặc làm những con sâu dơ bẩn.
Những kẻ khạc nhổ hay hỉ mũi trong các chùa miếu
sẽ tái sanh trong địa ngục đầm lầy tử thi rữa nát.
Những kẻ ăn thịt từ một con vật bị giết trong cùng ngày mà không tịnh hóa hành động đó bằng sự sám hối,
sẽ tái sanh làm những quỷ ma khát máu.
Những kẻ ăn bám vô dụng biển thủ tài sản của Tam Bảo
sẽ tái sanh làm các preta (quỷ đói) hoặc những lính canh trong các cơi preta.
Những kẻ uống rượu không được hiến cúng
sẽ tái sanh trong Địa ngục Kêu khóc.
Những kẻ sử dụng những ghế ngồi của tăng đoàn xuất gia,
sẽ tái sanh trong các địa ngục nhất thời.
Sự lấy đi các lễ phục từ ba loại biểu tượng,
sự biển thủ phóng túng tài sản của tăng đoàn,
và đặc biệt là trộm cắp tài sản chung của tăng đoàn,
sự cướp đoạt hay đánh đập các hành giả trong ẩn thất cô tịch
những hành vi này đưa tới sự tái sanh trong tám địa ngục lạnh.
Những kẻ tích tập nghiệp bằng năng lực của sự sân hận
sẽ tái sanh làm các chúng sinh trong địa ngục;
những kẻ tích tập nghiệp bằng sự tham lam, sẽ tái sanh làm các quỷ đói;
tích tập nghiệp bằng năng lực của sự ngu si, tái sanh làm súc sinh.
Cầu mong những chúng sinh trải qua ba cơi thấp
được tái sanh ở Núi Patala.
Om mani padme hum hri.
Cũng có nhiều người ở bộ tộc Gyashod. Ở giữa cây cầu sáu nhịp trên con sông màu nâu không có chỗ cạn của người chết. Gonpo Dargyay bị xích lại, không hy vọng được giải thoát. Khói xuất hiện trên da thịt ông khi bị đốt cháy và ông phải chịu nỗi đau khổ không tưởng tượng nổi.
Những thuộc hạ trong các địa ngục, với các đầu sư tử và nai đực, đang canh giữ ông. Ông nói rằng thần chú mani sẽ là một phưong tiện để tịnh hóa nỗi khổ và những lỗi lầm của ông và sẽ hết sức lợi lạc nếu có ai nhân danh ông sám hối những ác hạnh của ông.
Tôi hỏi Đức Tara là những hành động ǵ dẫn tới hậu quả này. Ngài trả lời: “Khi ông ta là một nhà cai trị trong vùng, ông đă không phân phát của cải và thực phẩm hoặc không xét xử đúng đắn, và ông hành xử với ác ư”.
Thợ săn nai Tsewang Gonpo đang ở trong Địa ngục Sống lại. Ông nói rằng ông sẽ được giải thoát nếu có ai khắc vào đá Kinh Giải Thoát, hành động đó tịnh hóa những hậu quả của ác hạnh. Tôi hỏi những hành động nào dẫn tới hậu quả này, Đức Tara đáp: “Bởi giết hươu nai vô tội”.
Tashi Wangkhyug đang đau khổ trong Địa ngục Sợi chỉ Đen. Ông giao cho tôi một thông điệp để mang trở về: Nếu nhân danh ông ta mà tŕ tụng một trăm triệu lần mỗi thần chú sau: thần chú một trăm âm của Đức Vajrasattva, thần chú mani và thần chú siddhi th́ ông sẽ được tái sanh làm người.
Tsewang Gonpo đang đau khổ trên đỉnh Núi Shangma. Ông nói rằng nếu một trăm hay một ngàn nghi lễ chay nyunnay được thực hành tích cực nhân danh ông, ông sẽ có một tái sanh làm người tuyệt hảo.
Trong số những người ở Gyashod, một số trong đó có tâm hồn đức hạnh các đạo sư, các nhà sư và các cư sĩ ở trong các cơi thuần tịnh, kể cả nhà sư già Padma Kalzang, Tsering Dondrub, Dontse, cũng như một người được gọi là Barchhung Dragho, người ta nói rằng ông ta đă được tái sanh trong một cơi thuần tịnh bởi ḷng bi mẫn của Ngài Drimed Khakyod Wangpo Rinpoche tôn quư.
Phần lớn những người ở bộ tộc Nat’har từng tinh tấn thực hành Pháp được tái sanh ở núi Potala, trong khi những người không có mối liên hệ với các bậc linh thánh, tiêu phí cuộc đời khi dấn ḿnh vào những ác hạnh, th́ phải chịu sự tái sanh sau khi tái sanh trong các cơi thấp.
Một nhà sư tên là Hulay Buchhung đang đau khổ trong bardo. Một người tên là Natar Alug Chhodzin có một tái sanh may mắn. Nhà sư Lodro Zangpo đang ở cơi thuần tịnh Yulokod của Đức Tara.
Lahai Yontan, mặc dù đă từng thực hành đức hạnh và từ bỏ các ác hạnh, đă nuôi dưỡng những tà kiến hết sức nặng nề và đă bị tái sanh trong một cơi, ở đó ông ta bị giam cầm trong một căn nhà có bốn người canh gác.
Khi tôi hỏi Yontan là tôi có nên thỉnh cầu nhân danh ông để đức hạnh đó được thực hành trong cơi người hay không, vị sư già trả lời rằng tôi nên để ông chịu đựng hậu quả những hành động của ông cho tới khi nghiệp của ông cạn kiệt. Ông nói rằng sau khi đau khổ như thế này trong ba năm, ông sẽ được tái sanh ở núi Potala.
Kunzang và Tendzin Wanggal được tái sanh ở núi Potala. Samyay Monlam thuộc gia đ́nh Khamtay đang ở trong cơi thuần tịnh này. Ông nói: “Tôi có một thông điệp gởi cho con trai út của tôi. Xin nói với nó: ‘Đừng giết hươu nai, cừu hoang hoặc linh dương.
Đừng sống cuộc đời của một kẻ trộm cướp. Đừng nói dối hoặc thề thốt. Đừng lấy cắp của các anh con hay đánh nhau với chúng. Hăy thực hành đức hạnh nào mà con có thể cùng với thần chú mani và nghi lễ chay nyungnay!”’.
Một người đàn bà tên là Dronma đă tới Potala, khẩn cầu nhiều đạo sư. Một vị tulku ở làng Natar tên là Adam cũng ở núi Potala. Ông nói rằng mặc dù để làm lợi lạc cho chúng sinh, có lần ông đă tái sanh trong gia đ́nh Apal của các đạo sư trong quận Nyagrong, nhưng bởi những chứng ngại trong đời đó nên ông đă nhập Niết Bàn.
Petsa Gonpo Rinchhen cũng có mặt ở đó; ông nói rằng ông đă tái sanh trong cơi thuần tịnh đó nhờ ḷng bi mẫn của Tromge Kundun Rinpoche.
Ở một nơi cách xa cơi giới này tám mươi ngàn lư (1 lư bằng khoảng 4,8km), tôi đi tới một mặt vách đá khổng lồ và dễ sợ của một tảng đá màu đỏ sậm, có bề cao bằng thế giới-ba-ngàn-nhánh.
Ở giữa vô số các khí giới, cạnh một pháo đài đầy đầu lâu thật khủng khiếp là Thần Chết, Yama, đang hút đời sống và hơi thở trong tam giới, ném tất cả những chúng sinh đă chết không ngoại trừ ai vào máng ăn, chứa ba mức độ của sự sống trong bụng ông.
Với cái dạ dày súc vật teo tóp thèm thuồng, cái lưỡi cuộn tṛn giật giật, các răng nanh dài nhe ra sắc nhọn, đôi bàn tay ch́a ra để chộp bắt, ông ta trông thật khủng khiếp. Ông có thân thể của một người đàn ông với cái đầu của một con ḅ đỏ, những cái sừng sắc nhọn bằng sắt và đôi mắt nh́n cḥng chọc sáng như mặt trời và mặt trăng.
Những lưỡi lửa nóng bắn ra từ miệng ông. Ông có sự nhanh nhẹn, lẹ làng của gió, làm thiên đường và trái đất rung lên bằng những tiếng cười khiếp sợ như ḅ rống. Khi tôi thấy cái nh́n dữ dội phẫn nộ vô bờ này và nghe tiếng gầm điếc tai của ông, tôi cảm thấy như thể muốn ngất đi.
Ngậm lục địa phương nam của thế giới buồn khổ này trong miệng (một cái miệng dường như nuốt trọn thiên đường và trái đất), ông có thể làm thế giới run sợ bằng âm thanh của lưỡi đập vào ṿm miệng. Trong khi trước kia từng có một đại dương cuồn cuộn máu đỏ sẫm khi ông ta ngậm chặt miệng lại th́ trong năm này chỉ có ít giọt máu trông giống như sương.
Đó là bởi ngài Khakyod thuộc gia đ́nh Tromge, ngài Dza Konchhog và những bậc linh thánh khác đă thị tịch, và v́ thế trong năm đó nhiều chúng sinh không phải chết. Mặc dù nhiều điều khủng khiếp xảy ra cho tôi, nhưng nhờ khẩn cầu các thiên nữ tôn kính, tôi đă có thể giữ một quan điểm vững vàng không sợ hăi.
Gonpo Samdrub ở Tangkya đang ở trong một cơi địa ngục. Khi tôi hỏi Đức Tara hành động nào dẫn tới hậu quả này, Ngài đáp: “Khi làm một thủ lănh, ông ra đă tham ô tài sản, coi thường phong tục đă được lập ra”.
Droje Dondrup, con trai của Zangli thuộc gia đ́nh Sadu, đang trải qua sự đau khổ không tưởng tượng nổi. Có nhiều nhà quư tộc ở vùng Hor miền viễn đông Tây Tạng. Và cũng có nhiều người tôi không nhận ra. Bởi một ḷng bi mẫn kỳ lạ phát khởi trong tâm thức tôi, tôi tŕ tụng thần chú mani theo giai điệu du dương.
Khi tôi, cô gái Dawa Drolma, tiếp tục cuộc hành tŕnh th́ một yogin mặc quần áo trắng với mái tóc dài chảy ḷa x̣a tiến lại gần, có một số daka và dakini vây quanh. Ông quay một bánh xe cầu nguyện với một cái bao thêu kim tuyến rất tỉ mỉ và bàn chân không chạm đất. Ông đi ngang qua mặt tôi trên đường đi tới cánh đồng địa ngục.
Khi tôi hỏi ông đi đâu, ông đáp: “Đi tới những cơi tái sanh thấp. Tôi sắp đi tới các cơi địa ngục để dẫn ra những người đă từng chia sẻ thực phẩm tôi. Tôi là Togdan Pawo, một đạo sư dẫn dắt chúng sinh. Tên này có ư nghĩa thực sự là ‘anh hùng của sự chứng ngộ tâm linh’”.
Khi ông hát thần chú mani ba lần theo giai điệu, các ngôi nhà sắt nóng trở thành những cung điện pha lê và tất cả chúng sinh được chuyển hóa thành các thân ánh sáng. Ông tiến lên, đưa họ lên núi Potala, cơi thuần tịnh siêu phàm, giống như một đàn chim giật ḿnh hoảng hốt bởi một viên đá từ ná bắn ra.
Bà mẹ của tất cả các Đấng Chiến Thắng, Đức Tara tôn kính, chắp hai tay nơi ngực và nói:
Kỳ diệu thay bậc dẫn đường phi thường và linh thánh!
Vị hoa tiêu siêu phàm đưa dẫn tất cả những ai có liên hệ với Ngài:
Nếu không có mối liên hệ, Ngài không thể dẫn.
Đáng thất vọng biết bao, những người không tạo nên một mối liên hệ.
Om mani padme hum hri.
Trên đỉnh ngọn cây shalmali[, những con chim sắt đen đang móc mắt những chúng sinh trong địa ngục. Ở gốc cây là những người đàn bà dễ sợ đang ôm cổ những chúng sinh này và giựt đứt đầu họ. Trong cái nh́n của tôi, những chúng sinh ở địa ngục này không thể tránh đi tới chỗ đó, bởi nghĩ rằng bè bạn yêu quư đang kêu gọi họ.
Khi họ chạy trốn, các khí giới rơi vào người họ. Khi họ quay trở lại, khí giới nhảy lên đục khoét phổi, tim, gan và ruột họ. Khi họ chạy lên dốc, khí giới đâm xuống người họ. Thịt xương họ biến thành máu. Đó là nỗi nguy cơ trước mắt những lạt ma dâm đăng và những nhà sư, ni cô thế tục, họ đă hủy hoại những đứa con bất hợp pháp của ḿnh.
Có những người ở địa vị cao chót vót mà ngay cả tên của họ tôi cũng không dám đề cập tới, gồm cả nhiều lạt mà và các nhà sư. Một người là Nyikho thuộc gia đ́nh Sorgu, một nhà sư của bộ tộc Tromge bị găy bể giới nguyện. Mặc dù có lúc ông đă được tái sanh làm người, sau đó bởi nghiệp lực, ông tái sanh trong cơi địa ngục.
Dưới gốc cây shalmali bị vũ khí chồng chất nặng nề, ông trải qua nỗi khổ không chịu đựng nổi. Bà mẹ bi mẫn của tất cả các Đấng Chiến Thắng cùng tôi hát tụng ba lần thần chú sáu-âm theo giai điệu.
Thoát khỏi gánh nặng của khối sắt, ông ra đi. Nếu sự tŕ tụng Tantra Sám hối Bất nhiễm và Kinh Sám hối những Thiếu sót được ủy thác từ một tập hội rộng lớn, nếu có thể tổ chức với nhiều sự bảo trợ và nhiều vật cúng dường trong mức độ có thể, và nếu những lời cầu nguyện cao quư của sự hồi hướng và ước nguyện được thực hiện nhân danh ông, th́ ông sẽ được tái sanh ở Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ trên tiểu lục địa Chamara.
Một người tên là Atsul thuộc gia đ́nh Sogru này, nhờ ḷng bi mẫn của nhiều bậc xuất chúng và linh thánh, và nhờ con đường bí mật của chân lư siêu vượt nhân và quả, có lần đă được sanh ra làm người. Nhưng sau khi chết, ông bị rơi vào một cơi địa ngục.
Ông đang đau khổ dưới chân núi có cây shalmali. Bị lôi bừa đi bởi một ṿng sắt siết ngặt cổ, thân ông bị bọc trong một bộ y phục bằng sắt. Ba lính canh dữ tợn với đầu hươu đực đánh đập, đâm và xé ông bằng lưỡi dao cạo có cán bằng-hoa sen cho tới khi thịt ông bị lóc tới tận xương. Ông ta la hét dữ dội.
Khi tôi hỏi hành động nào dẫn tới hậu quả này, tôi được cho biết là ông đă dùng những quả cân sai trong việc mua bán với các lạt ma và nhà sư, nói xấu những thành viên của tăng đoàn, làm ra vẻ ḿnh là một bậc thầy của nghệ thuật nhảy múa tôn giáo, và v.v… Nỗi khổ này là hậu quả không thể tránh khỏi của những ác hạnh này. Với ḷng bi mẫn, tôi hát những thần chú sáu-âm từ xa.
Người quá cố Atsul trao cho tôi thông điệp sau đây để đem về:
Tôi chết sớm, một người đàn ông trẻ bị cái chết hủy hoại,
bị hủy hoại bởi sự chia ly cha mẹ và thân quyến của tôi.
Tôi để lại sau lưng lều bạt, bầy thú, và những vật sở hữu, v́ thế khó mà từ bỏ.
Tôi đau khổ bởi những hậu quả của những ác hạnh của chính tôi chúng chỉ chín mùi cho mỗi ḿnh tôi.
Để giải thoát tôi khỏi nỗi khổ không thể chịu nổi này,
mọi người có thể tŕ tụng thần chú mani một trăm triệu lần,
tụng đọc Kangyur, và khắc trên đá mười ngàn thần chú sáu-âm.
Khi ấy tôi sẽ không đau khổ trong chốn này, mà sẽ có được một thân người.
Đừng quên thông điệp này; xin mang nó về cho người bà con Chhung Lima của tôi.
Một đạo sư tên là Yengmed Dorje xuất hiện, Ngài là đệ tử thân tín của đạo sư Padma Duddul ở quận Nyagrong. Ngài có mang một bánh xe cầu nguyện và một chuỗi hột cùng một nhóm năm đệ tử. Ngài ngâm:
Hri con khẩn cầu đạo sư, Đấng Bi mẫn Siêu việt.
Con khẩn cầu bổn tôn được chọn lựa, Đấng Bi mẫn Siêu việt.
Con khẩn cầu daka, Đấng Bi mẫn Siêu việt.
Con khẩn cầu bổn tôn bảo vệ, Đấng Bi mẫn Siêu việt.
Con khẩn cầu sự hợp nhất của chư vị này, Đấng Bi mẫn Siêu việt.
Con nguyện cầu, xin đưa dẫn những chúng sinh đó là những người có mối liên hệ tốt hay xấu với con tới núi Potala.
Om mani padme hum hri.
Rồi Ngài dẫn khoảng một ngàn chúng sinh ra khỏi mười tám tầng địa ngục theo một con đường ánh sáng trắng.
Ani Bumo, một ni cô ở miền Zurpa cũng xuất hiện, tay cầm một bánh xe cầu nguyện và một chuỗi hột màu vàng. Cô và một thị giả tụng thần chú mani từ xa tạo nên một giai điệu hết sức đẹp đẽ.
Sư cô này dẫn khoảng một ngàn người – tăng, ni, nam nữ cư sĩ, những người hành khất và những người mù là những người có liên hệ với cô qua ngôn ngữ hay tiếp xúc, đi theo một con đường ánh sáng xanh dương tới cơi thuần tịnh Yulokod của Đức Tara.
Tsachhung, một phụ nữ già nua ở miền Tromge, bị nghiến nát trong Địa ngục Đè bẹp. Tiếng kêu thét của bà vang dội khắp các cơi trời. Khi tôi tụng một lần thần chú mani cho bà từ xa, một lính canh dễ sợ với sừng trên đầu la hét:
“Hừ, hừ! Chỉ một lần thần chú mani th́ khó có lợi ích ǵ”. Khi hỏi hành động nào dẫn tới hậu quả này, tôi được cho biết: “Khi ở trong thế giới con người, bà ta đă ăn cắp dê, cừu và giết hại chúng”.
Bà ta muốn nhắn gởi cho con trai là Chhot’har và con gái là Lukyid. Mặc dù thoạt tiên tôi từ chối mang bất kỳ thông điệp nào cho bà, Tsachhung cứ kêu khóc măi: “Cô phải mang! Cô không thể không mang về thông điệp của tôi!” Và v́ thế tôi hứa làm điều đó.
“Xin nói với chúng điều này”, bà nói. “Chớ ấp ủ hy vọng được trở nên giàu có. Chớ mê đắm trong sự sân hận và ganh ghét. Hăy bảo Lukyid đừng quyết ganh đua với những con rắn trong việc tạo ác nghiệp.
Hăy khắc thần chú mani trên đá. Hăy thỉnh cầu sự đọc tụng Kinh Giải thoát và Tantra Sám hối Bất nhiễm. Hăy tŕ tụng liên tục thần chú mani. Hăy hồi hướng đức hạnh theo một cách thế cao quư và sau khi chịu đựng nỗi khổ này trong một ngàn năm, tôi sẽ được tái sanh trong một cơi trời, vẫn phải chịu sự đọa lạc từ cảnh giới tráng lệ đó”.
Khi nói những điều đó, bà cứ khóc măi.
Om mani padme hum hri.
Sau đó, một phụ nữ trung niên thuộc gia đ́nh Lo ở Gualrong tiến lại gần. Lùa khoảng bốn ngàn con cừu phía trước, bà ta lao xuống một con đường ngập máu. Những cư dân ở địa ngục, như Awa Đầu-Ḅ, Định Mệnh Đầu-Khỉ và La Sát Đầu-Heo một số lượng không thể nghĩ bàn những thuộc hạ của Thần Chết săn đuổi bà và la lớn:
“Giết nó, giết nó! Đánh nó, đánh nó!”. Run rẩy như một chiếc lá, nước mắt tuôn rơi, người đàn bà già được dẫn tới trước Dharmaraja. Yama Dharmaraja bừng bừng giận dữ như ngọn lửa, cả khuôn mặt ông đen như than, đôi mắt th́ như những cái hồ cuồn cuộn máu.
Từ miệng ông phát ra một tiếng gầm khiếp sợ: “Mi, mụ già thế tục, hăy thận trọng lưỡi của mi, mi phạm vào loại hành động nào, tốt hay xấu? Đừng dấu diếm hay che đậy. Hăy nói thật trung thực!”
Ông dậm chân làm mặt đất rung chuyển như một trận động đất. Những cư dân địa ngục la hét: “Nói nhanh lên!” và cùng đi dậm chân huỳnh huỵch trong sự điên cuồng.
Người đàn bà tái mét và không thể nói được điều ǵ. Đập đầu xuống đất, đôi bàn tay bà xé tung bộ ngực. Giữa những vị này là hai đứa trẻ tượng trưng cho nghiệp tốt đẹp và tối ám của bà.
Đứa trẻ tốt đẹp có vẻ không có ǵ để nói; vẻ mặt của nó chuyển sang màu đen như than. Sau một lát, nó nói: “Có lần bà ta cúng dường một con ngựa cho lănh địa của tulku (vị hóa thân) Tsamtrul ở tỉnh Dza, nhưng tới lúc giao con ngựa th́ bà ta lưỡng lự”.
Đứa trẻ tối ám múa may nhảy nhót và nói:
Người đàn bà hết sức xấu xa, kẻ tạo nên những ác nghiệp trong cơi người thế tục,
quỷ cái ăn thịt người tài ba, kẻ tổ chức cuộc tàn sát chúng sinh,
kẻ tham tàn xảo quyệt mi không nhớ những hành vi tối tăm khác ư?
Mi không chỉ mắc phạm một ác hạnh từng dự tính.
Dù điều này có là sự thật hay không, nó cũng sẽ được sáng tỏ trước tâm thức Dharmaraja;
nó đúng hay không, các thuộc hạ biết rơ.
Hăy đem mụ ta đi tới con đường không hy vọng được giải thoát.
Sau khi đứa trẻ nói, một thuộc hạ của Yama cân trường hợp của người đàn bà già trên cái cân nghiệp và ngay lập tức bàn cân nghiêng từ đầu này sang đầu kia. Lấy ra một bằng chứng trên tấm bảng định mệnh, Yama nói: “Hăy đưa mụ ta tới Địa ngục Đè Bẹp. Trong nhiều ngàn kiếp mụ sẽ không t́m được sự giải thoát”.
Một đội quân gồm các thuộc hạ của Thần Chết đang la hét: “Giết nó, giết nó! Đánh nó, đánh nó! Ha, ha! Hê, hê!” và ném vào người bà những mũi tên, các ngọn giáo và gươm đao. Ấn mặt bà xuống đất họ kéo bà ta đi.
Om mani padme hum hri.
Wangchan, một thủ lănh tầm thường trong miền Derge là con trai của một người giàu có và nổi tiếng có tên là Drugdrag và một người đàn bà tên là Tseyang Drolma. Ông ta là một thủ lănh rất mạnh mẽ, là kẻ hưởng thụ của cải và thực phẩm của người khác, là kẻ lỗ măng, hung hăn, không có ḷng từ bi. Khi nghiệp lực duy tŕ thọ mạng của ông đă cạn kiệt, ông ta chết và lang thang vơ vẩn trong những cơi bardo.
Như thể bất thần nh́n thấy một kẻ thù căm ghét đă giết cha ông, Dharmaraja la lên: “Nhanh lên, các ngươi, tất cả thuộc hạ của Thần Chết, chạy mau, tất cả các ngươi! Đừng phí thời gian, dẫn ngay tên Wangchan lại đây cho ta!”.
Những thuộc hạ la hét “Ki!” và “Ha!” và lôi kéo ông ta. Những người cầm búa đánh đập ông, những người cầm kềm kéo giựt da thịt ông; những người cầm cưa cắt xẻ, những người cầm kiếm chặt chém, những người cầm giáo đâm; những người cầm ŕu chặt ông. Trước mặt Dharmaraja, đứa trẻ tối tăm kể câu chuyện sau đây:
Kẻ độc ác tên là Wangchan
tư tưởng và hành vi quay lưng lại Tam Bảo.
Ông ta móc mắt các lạt ma tốt lành,
phạm vô số ác hạnh, cắt môi và lưỡi
của nhiều nhà sư và ni cô, cư sĩ nam và nữ
Ông kết án nặng nề nhiều nhà sư thọ đại giới và giam cầm họ.
Ông gây ra nạn đói gần như giết hại dân chúng.
Ông khiến cho nhiều ngàn con cừu bị sát sanh.
Ông là một tập hợp của ác hạnh lớn như Núi Tu Di.
Ông ta xứng đáng loại trừng phạt nào, Dharmaraja biết rơ!
Nghe lời thỉnh cầu này, ngay lập tức Dharmaraja lôi một bằng chứng trên tấm bảng định mệnh của ông và nói: “Hăy đưa hắn tới Địa ngục Sống lại và rồi dừng lại ở tám địa ngục nóng, không được tự do trong thời gian mười ngàn kiếp”.
Những thuộc hạ la lớn: :Giết nó! Đánh nó! Đập nó!” Ấn mặt ông xuống đất, họ lôi ông ta đi.
Om mani padme hum hri.
Có một cô gái trẻ miền Derge mang một sợi những viên mă năo, mỗi viên lớn bằng một căn nhà, cột trên một sợi xích sắt quấn quanh cổ. Cô bị hành hạ bởi sức nặng và nỗi khổ khi không nâng nổi những tảng đá. Đây là hậu quả của việc cô đă trang điểm thân thể bằng những mă năo ăn cắp của người khác, dù ở vị trí cao hay thấp.
Om mani padme hum hri.
Tôi tiếp tục đi cho tới khi gặp một người thợ săn tên là Tsering ở miền Kat’hog bị bốn cư dân đầu hươu áp tải. Run rẩy như một chiếc lá, ông ta bị lôi tới trước mặt Yama Dharmaraja. Và ồ, hai đứa trẻ tượng trưng cho nghiệp của ông phơi bày tất cả những ǵ ông đă làm, đức hạnh hay ác hại, tích cực hay tiêu cực.
Đức trẻ tươi đẹp nói: Ồ Yama, Dharmaraja cao quư, người này không thể chăm lo cái ăn cái mặc hay che chở cho gia đ́nh rộng lớn của ḿnh. Kẻ vô lại già nua tiêu phí cả đời hắn để theo đuổi những ác hạnh.
Tuy nhiên, nếu Ngài gởi trả ông ta về để thử lại một lần nữa và ông thực hành đức hạnh hết sức thuần tịnh, ông ta sẽ trở thành một người không có ǵ để xấu hổ và sẽ trở lại trước sự hiện diện oai nghiêm của Ngài theo đúng nghĩa của nó”. Nói tới đây, đứa trẻ khóc.
Đứa trẻ tối tăm đưa ra thỉnh cầu:
He, he! Người đàn ông này đă giết ba loại chim – kên kên, diều hâu và chim ưng bay liệng trên không.
Hắn đă giết ba loại thú vật linh dương, hươu nai và cừu hoang sống trong vùng núi non.
Hắn đă giết các ma mốt vô tội trên những cánh đồng.
Hắn đă giết ba loại thú vật cá, rái cá và ếch sống trong nước.
Hắn đă bắt những con vật vô hại trong bẫy và lưới.
Hắn phạm những hành vi ác hại và phi-đạo đức.
Từ miệng của Yama Dharmaraja tuôn ra những lời sau:
Trong số những ác hạnh, không có ǵ nặng nề hơn việc cướp đi sinh mạng.
Trong trường hợp của tên thợ săn xấu xa này
hắn đă hứa với vị lạt ma thuộc bộ tộc Getze là không giết hại nữa,
nhưng sau đó phạm những hành vi hết sức độc ác vượt quá giới hạn của sự sám hối.
Bây giờ hăy đưa hắn tới Địa ngục Hoang vu.
Hắn sẽ chịu đau khổ không thoát ra được đời này sang đời khác.
Khi nói điều này, ông nêu ra một bằng chứng trên bảng nghiệp lực và ấn mặt người thợ săn xuống đất, những thuộc hạ kéo ông ta đi.
Có nhiều chúng sinh nữa mà mắt tôi không thể nh́n thấy hết được, số lượng của họ lưỡi tôi không hy vọng ǵ đề cập tới được, tư tưởng họ tâm tôi không thể bắt đầu thăm ḍ.
Những kẻ xấu ác bị kéo xuống, trong khi những người đức hạnh được đưa lên trên. Tất cả những việc xảy ra này bất chấp sự mô tả; những điều tôi vừa ghi lại th́ không hơn ǵ ư niệm thô thiển nhất.
Trước mặt Dharmaraja là một người đàn bà tên là Bochhungma sống trong miền thuộc gia đ́nh Dezhung. Khi hai đứa trẻ tượng trưng cho nghiệp của bà ta, một tươi đẹp và một tối ám, đang phơi bày những thỉnh cầu của họ, đứa trẻ tươi đẹp nói: “Người đàn bà này có chút liên hệ với Dzaga Chhogtrul Rinpoche. Tâm bà ta hướng về sự đức hạnh”.
Rồi đứa trẻ tối ám nói:
Người đàn bà này phục vụ thực phẩm bất tịnh cho các đạo sư thông thái;
bà ta giết bê bằng cách bắt chúng nhịn đói tới chết;
bà phê b́nh các đạo sư và những vị đă thọ giới;
và v́ thế bà phạm nhiều hành vi ác hại qua miệng, đôi bàn tay và tâm bà.
Dharmaraja trả lời: “Khi đứa trẻ tươi đẹp nói, có vẻ nó đă nói sự thật. Nhưng khi đứa trẻ tối ám nói, dường như nó đang nói sự thật. Hăy cân trường hợp này trên bàn cân thiện hạnh và ác hạnh”.
Thuộc hạ đầu-khỉ cân nhắc những hành động của người đàn bà trên chiếc cân, và thế là những ác hạnh của bà làm nghiêng bàn cân từ đầu này sang đầu kia. Yama Dharmaraja nói:
Mỗi một ngàn ngày trong cơi người
bằng khoảng một ngày và đêm duy nhất trong các cơi địa ngục.
Trong mười hai năm dằng dặc này mi sẽ chịu đựng đau khổ
bằng cách uống kim loại nóng chảy sôi sục.
Rồi ngươi sẽ được dẫn đi nhờ năng lực của ḷng bi mẫn
và những nguyện lực của Dzaga Chhogtrul Rinpoche.
Khi ông nói xong, người đàn bà bị lôi vào một dinh thự bằng sắt.
Om mani padme hum hri.
Kế tiếp là Paltso, một người đàn bà du cư già có mái tóc xám ở cộng đồng Nyingshul. Bà cầm một bánh xe cầu nguyện và một mala màu vàng, bà đang lần tràng hạt. Vừa hát tụng thần chú mani thật rơ ràng theo một giai điệu, bà đi thẳng tới Dharmaraja.
Yama Dharmaraja mà khuôn mặt th́ như mặt trăng chiếu rọi trên tuyết, nói thật lịch sự và vui vẻ: “Paltso, sau khi chết và đi tới cơi bardo, bà có mệt không? Đối với bất kỳ thiện hạnh và ác hạnh nào bà đă từng dính dáng tới, hăy phơi bày tại đây trước mặt ta”.
Bà cụ Paltso thỉnh cầu:
Tôi chú tâm nơi Tam Bảo như cứu cánh duy nhất của tôi.
Tôi gắn bó chặt chẽ chí hướng của tôi với Giáo Pháp tinh tuư.
Lời nói của tôi là sự thực hành đức hành, và ṿng quay tràng hạt của tôi th́ không ngừng dứt.
Tôi thiết lập những liên hệ với những bậc có khuynh hướng tâm linh tuyệt hảo.
Đặc biệt nhất là tôi có mối liên hệ với Dzaga Chhogtrul qua việc cúng dường Ngài một miếng hổ phách lớn.
Tôi đă tạo một mối liên hệ với Adzom Drugpa[ bằng cách cúng dường Ngài một cái kẹp dây lưng.
Trong số những người thắt một chiếc khăn vàng quanh ḿnh.
không ai mà với họ, tôi, người đàn bà này, không có mối liên hệ.
tôi đă rót khoảng hai mươi hoặc ba mươi ngàn ngọn đèn bơ;
đă tụng lớn tiếng một trăm triệu thần chú mani;
là một bà già có động lực cao quư,
tôi đă hồi hướng tất cả những điều này cho chúng sinh hữu t́nh.
Với sự hân hoan, đứa trẻ tươi đẹp đưa ra một thỉnh cầu tương tự. Đứa trẻ tối ám th́ hoàn toàn không nói ǵ hết. Bây giờ tấm gương, văn bản tường tŕnh và bàn cân là các chứng cứ của những thiện hạnh và ác hạnh của người đàn bà.
Những thuộc hạ la lên: “Nh́n những cái này xem!” Thuộc hạ đầu-sư tử chăm chú nh́n vào tấm gương, thuộc hạ-đầu khỉ cân nhắc những hành động của bà trên chiếc cân, và thuộc hạ đầu-ḅ đọc văn bản tường tŕnh về nghiệp của bà. Ba vị trong số những thuộc hạ khiêm tốn đệ tŕnh rằng tất cả những ǵ bà nói đều đúng sự thật, điều ấy làm Dharmaraja vô cùng hài ḷng. Ông nói:
Nếu những người đàn ông và đàn bà b́nh thường trong thế giới loài người thế tục
giống như người này, th́ sẽ tốt đẹp biết bao.
Nhưng cho dù hiểu biết những thiện hạnh và ác hạnh,
họ không từ bỏ một vài điều và áp dụng những thứ khác.
Họ ráng sức trong những hành động phi-đạo đức và ác hại.
họ bị dày ṿ biết bao bởi những cảm xúc muộn phiền.
không ai đi qua đời khác mà không gặp ta.
Nếu họ có Pháp, th́ ta là vua Pháp,
Nhưng nếu không có, th́ ta vị vua của những ác hạnh của họ.
Giờ đây, bà lăo tên là Paltso!
Hăy đi, nương tựa thiện nghiệp này.
Bà sẽ không rơi trở lại, v́ thế hăy đi tới Cơi Cực Lạc.
Khi nói xong, bà cụ đứng dậy và lạy ba lạy. Bà nói: “Tôi sẽ không đi một ḿnh”. Thay vào đó, bà dẫn khoảng một ngàn rưỡi chúng sinh có liên hệ với bà qua ngôn ngữ hay tiếp xúc, đi chầm chậm tới Cơi Cực Lạc ở phương Tây, trong khi th́ thầm thần chú mani theo một giai điệu.
Om mani padme hum hri.
Một ông già tên là Dondrub ở vùng Gulong đang bị một sợi cáp sắt xuyên thủng tim và bị những thuộc hạ đầu-cọp, đầu-báo, đầu-gấu đen và nâu, đầu-cáo, và đầu-chó rừng lôi đi. Họ tung ông lên không trung rồi quăng ông xuống đất, la hét: “Ki, ki! Ồ, ồ!” khi dẫn ông ta đi.
Người đàn ông mặc bộ quần áo sờn rách bằng da mác mô. Khi nhận ra ḿnh đang đứng trước mặt Dharmaraja, mặt ông trở nên tái mét và ông la lớn: “Ahhh!” Sau một tường thuật ngắn về những thiện hạnh và ác hạnh của ông, Yama Dharmaraja nói:
Con người thế tục ác độc, kẻ giết những ma mốt!
Mi đă từng giết nhiều ngàn ma mốt
ăn thịt và uống máu họ,
mặc y phục làm bằng da sống –
ngươi đă giết ma mốt như thiên hướng của mi.
Vào mùa hạ mi giết ma mốt bằng cách đổ nước xuống hang của họ để đuổi họ ra ngoài;
Vào mùa đông mi đào hang để bắt những con lửng, và giết những ma mốt ngủ đông.
Những hành động xấu xa trầm trọng như thế rất khó mà sám hối,
bởi những ǵ mi đă làm không khác ǵ việc giết một nhà sư thọ cụ túc giới.
Mi sẽ không có cơ may được giải thoát trong một ngàn kiếp.
“Vậy th́” Dharmaraja nói, “hăy đem hắn tới những địa ngục nóng!” Ấn mặt ông xuống đất, những thuộc hạ lôi ông ta đi xuống.
Om mani padme hum hri.
Sau đó, khoảng mười hai nhà sư thụ cụ túc giới ở miền Sakya đi tới. Họ mặc ba chiếc y tu viện, cầm những bản văn Phật Pháp linh thánh và lớn tiếng tŕ tụng các thần chú siddhi và mani.
Trước mặt Dharmaraja, họ làm như thể lễ lạy như một nhóm, nhưng Ngài nói: “Xin đừng lạy!” Chính Dharmaraja đứng thẳng người tỏ vẻ kính trọng. Khi những thuộc hạ run rẩy kính sợ th́ các nhà sư tiến lên, dẫn khoảng mười hai ngàn chúng sinh đi tới cơi Cực Lạc ở phương tây.
Kế đó, một ni cô đức hạnh ở miền Minyag đi tới. Quay một bánh xe cầu nguyện và lần tràng hạt làm bằng vỏ ốc xà cừ, bà đứng thật cung kính trước mặt Dharmaraja.
Ngài hỏi: “Bà là ai?”
Bà trả lời: “Tôi được gọi là Zangmo. Tôi đă thâu thập một đại dương đức hạnh trong khi tích lũy hai sự tích tập”. Bằng một giọng nói ngọt ngào, bà dâng cúng Ngài bài hát sau:
Om mani padme hum hri.
Đấng mà sắc thân là nơi tụ hội của tất cả chư Phật
và là đấng bất khả phân với Đức Avalokiteshvara:
Trong sự hiện diện tôi kính của ngài Sodnam Rinchhen
con xin thỉnh cầu: Xin ban cho con những sự ban phước của Ngài.
Con không mắc phạm những ác hạnh lớn bằng hạt mè.
Con là một ni cô đă đạt được chút ít kiên cố trong tâm.
Trong sự hiện diện tôn kính của ngài Sodnam Rinchhen, con dâng lời cầu nguyện lên
bậc có ḷng bi mẫn đặc biệt đối với chúng sinh trong những thời đại suy hoại tâm linh này,
một chúa công của Pháp, là một hóa thân của các Bồ Tát trong ba bộ.
Xin ban những ân phước của Ngài khiến những ước nguyện của chúng con được thành tựu tự nhiên.
Xin ban những ân phước của Ngài để những nỗi khổ trong các cơi thấp được an dịu.
Xin ban những ân phước của Ngài để chúng con có thể đi vào con đường giải thoát.
Xin ban những ân phước của Ngài để chúng con có thể được sanh vào cơi Cực lạc.
Xin ban những ân phước của Ngài để hai loại lợi lạc có thể được thành tựu tự nhiên.
Tất cả những chúng sinh được nghe những lời này
không phải trải qua nỗi khổ của địa ngục khi chết;
họ không phải kinh nghiệm những xuất hiện lầm lạc của bardo.
Nếu họ lập lại những lời này mỗi ngày bất kể điều ǵ xảy ra,
chắc chắn là khi chết họ sẽ không đi tới địa ngục.
Họ sẽ được tái sanh trong Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ.
Khi nói những lời này, bà hát tụng thần chú mani theo một giai điệu du dương, rồi bà tiếp tục đi, dẫn theo khoảng ba ngàn chúng sinh có liên hệ với bà bởi những nghiệp tốt và xấu tới Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ.
Rồi Dharmaraja ra lệnh cho hai trong số các thuộc hạ của Ngài là Awa Đầu-Ḅ và Định Mệnh Đầu-Khỉ đưa vào một nhà sư đă thọ cụ túc giới, quê quán ở miền nam tỉnh Tsang, tên là Kunga Paldan.
Khi ông xuất hiện trước Dharmaraja, những thiện hạnh và ác hạnh của ông được phơi bày. Đứa trẻ tươi đẹp đệ tŕnh: “Nhà sư này không phạm những ác nghiệp” và cúi đầu đứng lặng yên.
Đứa trẻ tối ám trả lời: “Nhà sư này đă găy bể giới luật và thệ nguyện. Ông thọ các giới nguyện trong sự chứng minh của tu viện trưởng và giáo thọ của ông và đă đắp ba y tu viện, tuy nhiên ông ta phải chịu trách nhiệm về việc giết hại nhiều người và ngựa.
Ông ném những lời thóa mạ vào những người tiếp xúc với Giáo Pháp. Về mặt đạo đức, ông ta là một kẻ phá sản, đă ném những thệ nguyện samaya của ḿnh xuống sông”.
Bởi thỉnh cầu này, Dharmaraja nói: “Những câu chuyện mà hai đứa trẻ tươi đẹp và tối ám này kể không thể chân thật cả hai. Chúng ta hăy hỏi ư kiến tâm gương, văn bản tường tŕnh và chiếc cân”.
Nh́n vào những vật dụng này, những người thẩm tra kính cẩn đệ tŕnh lên Dharmaraja: “Những điều đứa trẻ tối ám tŕnh bày là sự thật”.
Đùng đùng nổi giận, Dharmaraja la lớn: “Đem kẻ suy đồi đạo đức này tới đỉnh núi có những cây shalmali”.
Những thuộc hạ dẫn nhà sư đi, họ la hét: “Giết nó, giết nó! Đánh nó, đánh nó!”
Một người đàn bà tu hành tên là Dronchhung ở miền Minyag được dẫn vào. Khi những hành động của cô được phơi bày, đứa trẻ tươi đẹp nói: “Năm hai mươi mốt tuổi, người phụ nữ trẻ này xuống tóc, xuất gia làm ni cô và lên đường hành hương tới vùng Lhasa, trong khi đó liên tục tŕ tụng các thần chú một trăm-âm và mani”.
Đứa trẻ tối ám kiến nghị: “Ôi Yama Dharmaraja cao quư, chính con có thẩm quyền để nói về tiểu sử của người phụ nữ trẻ này. Cô ta là một con quỷ cái, một người có nghiệp xấu xa đă thực hiện những hành vi phi-đạo đức và ác hại.
Trong chuyến hành hương, cô ta đă giết hại một số sinh vật và việc đó chỉ là một biểu hiện trong vô số những ác hạnh mà cô ta đă phạm, thưa Ngài!”.
Bởi ư kiến này, Dharmaraja nói: “Hăy cân những kiến nghị này lên bàn cân”.
Khi chúng được cân nhắc xong, vấn đề được kính cẩn tŕnh lên Dharmaraja rằng đó là một pha trộn của những thiện hạnh và ác hạnh. Ngài nói: “Người phụ nữ này phải chịu đau khổ ở Địa ngục Sống lại trong thời gian một tháng ở cơi đó; sau đó, do sức mạnh của nguyện lực mà cô ta đă tạo nên trong chuyến hành hương, cô ta sẽ có một tái sanh làm người thuần tịnh”.
Một tướng lănh tên là Sanggi Adzam thuộc gia đ́nh Sa-ngon ở Jazi trong quận Nyagrong, bị tái sanh trong Địa ngục Đè bẹp và đang chịu nỗi thống khổ không thể đo lường được ở đó.
Ông nói với tôi: “Con dâu tôi tên là Lumotso. Bằng mọi giá cô phải tiếp âm thông điệp của tôi cho nó. Hăy nói với nó: ‘Con có thể làm lợi lạc cho cha bằng cách tạo một mối liên hệ với một vài đạo sư; nhân danh cha, hăy hiến cúng các đạo sư san hô và những đồ trang sức của cha mà con cất giấu.
Những giọt nước mắt mà con nhỏ xuống trở thành một trận mưa máu đổ xuống người cha. Bởi cha có một chút liên hệ với vị tulku ở Jazi, hăy cầu xin ư kiến và sự giúp đỡ của Ngài. V́ lợi ích của cha, hăy cúng dường trà cho các nhà sư ở tu viện Jazi và xin các ngài tŕ tụng thần chú mani và siddhi trong những nghi lễ tập thể”’.
Khi nói những điều đó ông ta bật khóc. Mặc dù bóng dáng ông đă mờ nhạt nhưng những tiếng kêu khóc ở ông vẫn tiếp tục ám ảnh tôi. V́ lợi lạc của ông, tôi dâng những lời cầu nguyện hồi hướng và ước nguyện, và tŕ tụng thần chú mani một lát, nhưng tôi không có liên hệ với ông và v́ thế hành động ấy không đem lại ích lợi.
Om mani padme hum hri.
Một sĩ quan quân đội tên là Arta ở quận Nyagrong Gangri đang ở trong Địa ngục Sợi Chỉ Đen. Hàng trăm và hàng ngàn những đường vạch đen được vẽ trên người ông. Bằng những cái cưa sắt đỏ rực lửa, ông ta bị cắt mỏng dọc theo những đường này đầu tới thắt lưng rồi th́ những bề mặt của đầu ông được nói lại với nhau.
Rồi ông ta bị cắt mỏng tới lui từ bụng trở xuống, với những mảnh thân thể bị chia ra thành từng phần và lại nối lại, khiến ông luân phiên chịu đựng những đau khổ này.
Khi tôi hỏi vị thiên nữ bi mẫn cao quư: “Những hành động nào dẫn tới hậu quả này?” bà trả lời:
Người này chỉ huy quân lính đánh phá các tu viện.
Ông đưa người tới phá hủy các lăng mộ và đài kỷ niệm,
thiêu rụi các sườn núi, đốt cháy ếch, nhái, rắn và các sinh vật khác,
gây xáo trộn trong xă hội, kích động sự chém giết tương tàn, xúi dục sự tranh chấp, hận thù.
Là thủ lĩnh, chỉ riêng ông đă giết mười tám người và những con ngựa.
Ông khó được giải thoát trong một ngàn kiếp.
Cầu mong nghiệp xấu và những ác hạnh của người này được tịnh hóa và cầu mong ông ta được tái sanh trong Cơi Cực Lạc.
Mặc dù bà nói trong chiều hướng này, ông ta không hưởng được lợi lạc ǵ nhiều.
Một người gốc gác ở Drured tên là Arkong bị các thuộc hạ dẫn tới trước Dharmaraja, bị đập bằng búa, bị kẹp bằng kềm và bị chém bằng các vũ khí. Mặc dù cả hai đứa trẻ tươi đẹp và tối ám đă nói nhưng không ích lợi ǵ bởi Dharmaraja trở nên giận dữ, dậm chân trên mặt đất cùng những nắm đấm mạnh mẽ và la lớn: “Để hắn giải thích, và nhanh lên!” Nhưng v́ quá khiếp sợ, ông ta không thể nói điều ǵ.
Thuộc hạ đầu rắn chăm chú nh́n tấm gương và nói: “Người này ôm giữ những tà kiến. Ông nói rằng thực hành các thiện hạnh th́ không ích lợi và không có ǵ lầm lỗi khi làm các ác hạnh.
Ông tuyên bố rằng Tam Bảo không có ân phước. Ông ta nói rằng chừng nào c̣n được sung sướng trong hiện tại th́ không cần phải quan tâm tới tương lai. Ông vui thú trong việc trộm cướp và áp bức”.
Sau khi cân nhắc những vấn đề trên bàn cân, thuộc hạ đầu-khỉ nói: “Nếu cùng một lúc xếp vào hũ những cặp sừng đầy máu của những con hươu đực, dược liệu xạ hương từ hươu nai, da sống và xương từ những con rái cá mà hắn đă giết, th́ chúng sẽ chất đầy một căn nhà nhỏ. Đây là kẻ mà bản thân đă từ chối sự may mắn được đeo đuổi Phật Pháp”.
Rồi thuộc hạ-đầu ḅ xem xét chứng cớ tốt đẹp trong báo cáo về nghiệp: “Người này giết hại những thú vật trong một tháng linh thiêng, trong tháng đó hậu quả những hành vi của hắn được khuyếch đại lên một trăm ngàn lần.
Cầm một cây súng đi loanh quanh, hắn bắn giết thật hung bạo nhiều sinh vật gấu đen và gấu mật, cáo, mèo rừng và ma mốt. Không con vật nào trong những loài này mà hắn không giết”.
Ngay sau đó Yama Dharmaraja ghi một chứng cớ trên bảng định mệnh. “Mặc dù thời kiếp có thể chấm dứt”, Ngài kêu lên “người đàn ông này sẽ không có cơ hội thoát khỏi. Hăy gởi hắn tới Địa ngục Hoang vu!”.
Với những tiếng la hét dễ sợ, thuộc hạ dẫn ông đi xuống, đầu ông ta gục xuống trong sự xấu hổ.
Om mani padme hum hri.
Chính Yama Dharmaraja nói những lời này:
Các ngươi đàn ông và đàn bà trong thế giới con người phàm tục!
Chớ giết bọ chét và chấy rận sống trên người các ngươi.
Chớ giết chúng, bởi việc sát hại ấy không đáp ứng mục đích ǵ.
Việc ấy không lợi lạc ǵ cho thực phẩm của các ngươi, không đáng giá một hạt mù tạc.
Việc ấy không ích lợi ǵ cho y phục trên lưng các ngươi, mà là một hành vi nghiêm trọng, ác hại.
Không nhất thiết phải giết chúng giữa răng và móng tay các ngươi,
bởi nó không khác ǵ giết chính con cháu của các ngươi.
Thay vào đó, nếu các ngươi thả chúng và để chúng sống, điều này sẽ có lợi ích to lớn.
Nếu giết chúng, các ngươi chỉ cần nh́n xem điều ǵ đă xảy ra cho những kẻ đọa lạc ở đó để hiểu rơ những ǵ sẽ là định mệnh của các ngươi.
Có nhiều ngàn người đă đau đớn v́ bị ép dẹp giữa hai ngọn núi. Ở đó có một người tên là Yado thuộc gia đ́nh T’hromt’hog. Thân xác một số người trong số đó bị lửa thiêu đốt; đó là hậu quả của việc đốt bọ chét. Một số bị rơi xuống nước và chết đuối; đây là hậu quả của việc ném bọ chét vào tuyết và mưa đá.
Dharmaraja nói: “V́ thế các ngươi hăy để yên bàn tay và hăy tŕ tụng thần chú mani”.
Om mani padme hum hri.
Rồi Yama Dharmaraja nói với tôi:
Các ngươi đàn ông và đàn bà trong thế giới con người phàm tục!
Chỉ trong lúc này mà các ngươi đă có được thân người.
Chỉ lúc này mà các ngươi đă được tái sanh trong Trái Đất.
Chỉ lúc này mà sự chọn lựa nơi các ngươi đi tới đang nằm trong ḷng bàn tay các ngươi.
Hăy cúng dường Tam Bảo ở trên các ngươi bất kỳ thứ ǵ các ngươi có thể.
Các ngươi sẽ không trở nên nghèo túng – tóm lại các ngươi sẽ giàu có hơn trong đời này,
và trong những đời sau các ngươi sẽ được tái sanh với một thân thể được phú bẩm hỉ lạc và cơ hội.
Hăy bố thí hào phóng cho những người hành khất, những người mù và chó ở dưới các ngươi.
Đứng nói với họ những lời thô lỗ, bởi họ đáng được hưởng ḷng bi mẫn.
Bố thí một nắm hạt lúa ḿ hay lúa mạch cho người hành khất,
th́ hơn là nuôi béo một trăm người giàu có trong một năm.
Trong hai thiện hạnh này, cái trước th́ đặc biệt hơn cái sau.
Những người giàu có sống sung túc, có nhiều của cải và đất đai,
họ giống như những người giữ kho tàng giữa đám quỷ đói với thức ăn và đồ uống, những người hầu, và của bố thí của họ,
lăng phí đời người, chẳng bao giờ có đủ thời gian và chẳng bao giờ thâu thập các sự tích tập.
Họ không có ngay cả một chốc lát để chậm răi và nghỉ ngơi.
Mặc dù đúng là có cả những núi của cải, tài sản và thực phẩm,
họ không thể đem theo duy nhất một cây kim tới trước mặt ta.
Những thành viên trong gia đ́nh không nghe ư kiến của người khác;
tranh căi vào buổi sáng, đánh nhau lúc sẩm tối như những bán thần.
Họ sẽ không thể sống chung lâu dài, mà sẽ đi theo con đường riêng lẻ của họ.
V́ thế hăy đối xử tốt với nhau trong gia đ́nh, và hăy tŕ tụng thần chú sáu-âm.
Người ta có vẻ giận dữ với cha mẹ tốt lành của họ,
sử dụng uy quyền với vợ hay chồng họ,
và coi những bậc trưởng thượng trong gia đ́nh như những tử thi cùi hủi.
Khi về già, người ta trở nên yếu tim và sa sút tinh thần,
v́ thế hăy đối xử với họ bằng ḷng kính trọng, giọng nói mềm mỏng, lời lẽ dịu dàng.
Giờ đây, không có h́nh thái tâm linh nào cao cả hơn điều đó.
Các ngươi sống trong thế giới con người thế tục là những kẻ đền đáp món nợ ḷng tốt cho cha mẹ các ngươi
th́ sẵn sàng và có thể đi tới Cơi Cực Lạc.
Những ai hầu hạ, trải dọn chỗ ngồi, cung cấp những nhu yếu của đời sống,
làm người hướng dẫn, nói năng với giọng dễ thương và lời lẽ dịu dàng
với những người già từ nơi xa tới trong chuyến hành hương
th́ giống như những người giao phó một viên ngọc như ư cho người khác.
Họ sẽ không bị khó khăn khi theo đuổi con đường đi tới giải thoát.
Có đức tin nơi các đạo sư và thiết lập mối quan hệ với các bậc trưởng thượng tâm linh –
th́ giống như việc giương cao ngọn đuốc trong một căn pḥng tối
và sẽ đưa dẫn các ngươi tới Cơi Cực Lạc mà không cần sự chuyển tiếp hay chuyển hóa.
Có ḷng bi mẫn đối với chúng sinh và hồi hướng công đức của các ngươi cho người khác –
th́ giống như một kho tàng châu báu bảo đảm mọi nhu cầu thiết yếu.
Trong mọi cuộc đời về sau các ngươi sẽ gặp gỡ rất nhiều bậc tôn quư.
Vị vua ngự trên ngai cao và kẻ hành khất chống gậy –
đối với hai vị này th́ “cao” và “thấp” không đáng giá một sợi tóc trước mắt ta,
v́ thế hăy đến với ta khi đă thực hành đức hạnh của Pháp.
Đừng quên thông điệp của ta, hỡi Dudjom Drolma.
Hăy làm lợi ích chúng sinh, dù cao hay thấp, bằng thông điệp này.
Om mani padma hum hri.
Tuy nhiên tại nơi ghê sợ khác có nhiều người là những kẻ ăn trộm ăn cướp, những thợ săn tàn ác, là những kẻ đặt bẫy bắt hươu xạ, lừa đảo người khác trong việc buôn bán, nói dối và báng bổ, là những kẻ trộm cắp của những người cao tuổi bơ vơ không nơi nương tựa, nói ác hay đánh đập các nhà sư, giết chó, ngựa và rắn một số đông người không kể xiết đă dấn ḿnh vào mười loại ác hạnh.
Trong số đó có một người hàng thịt tên là Atsog, ông ta khóc thổn thức khi bị dẫn tới trước Dharmaraja. Các thuộc hạ áp đảo ông, la hét dữ dội: “Giết, giết nó! Đánh, đánh nó!” Sau đó thuộc hạ đầu-ḅ, Awa Langgo nói với ông ta:
Khi mi ở trong thế giới con người thế tục,
mi cười phá lên khi phạm các ác hạnh là nguyên nhân của sự việc này.
Hậu quả là mi sẽ kêu khóc trong đau đớn khi chịu đựng một số phận thấp kém.
Giờ đây kêu khóc có lợi ích ǵ khi mi đang ở trong những cánh đồng địa ngục?
Họ đập đầu ông ta bằng một chiếc búa, xẻ lưng bằng một cái cưa, đâm một ngọn giáo ngắn vào ngực, và ném một loạt vũ khí lên người ông. Khi đă thẩm tra về những thiện hạnh và ác hạnh ông đă làm, họ lôi ông ta tới Địa ngục Nóng Dữ dội.
Om mani padme hum hri.
Một người tên là Chhungdron ở miền Gojo, cũng như Paldron Dal và con gái ông ta, đă bỏ thuốc độc một vị lạt ma, quyến rũ các nhà sư và vu khống các bậc trưởng thượng tâm linh của họ. Hậu quả sau cùng là lưng họ bị trĩu nặng bởi những tảng kim khí nóng chảy, lưỡi bị chẻ bằng gươm sắt cháy đỏ, và kim loại nóng chảy sôi sục đổ vào miệng họ.
Đức Tara nói:
Những ác hạnh của thân th́ giống như vùng cát lầy dơ bẩn:
Nó có vẻ mềm mịn, nhưng nó mà đau khổ phát sinh.
Những ác hạnh của ngữ th́ giống như những lưỡi lửa cháy rực:
Mặc dù tàn lửa bé nhỏ, nó có thể thiêu rụi những ngọn lửa công đức.
Những ác hạnh của tâm th́ giống như chất độc ghê gớm:
Mặc dù ngọt ngào trong miệng, chúng đem lại đau khổ to lớn trong những cơi thấp.
Đối với những kẻ đă thực hiện những ác hạnh thuộc thân, ngữ và tâm,
cầu mong những hậu quả được chế ngự giống như sương giá bị mặt trời quét sạch.
Om tara tam soha.
Một người tên là Argong ở miền Barong đă thuyết phục phối ngẫu của một đạo sư bỏ trốn theo ông ta, nhưng họ đă chết và đang lang thang trong xứ sở của Yama.
Tôi nh́n thấy Thần Chết, Yama Dharmaraja, giáng lên họ nhiều loại trừng phạt. Nhiều sinh linh ăn-thịt giằng xé thân xác họ; những đau đớn họ đang chịu đựng th́ vô bờ bến. Rồi một đạo sư mặc áo trắng có mái tóc dài đi tới. Ông hát tụng thần chú vara guru ba lần theo một giai điệu và tiến lên, dẫn vị phối ngẫu đi theo con đường ánh sáng trắng.
Om mani padme hum hri.
Có vô số đàn ông, đàn bà và trẻ em ở miền Barong. Tôi không có th́ giờ để thuật lại tất cả tên của họ, nhưng nếu các bạn muốn hỏi thêm nữa và thành thực quan tâm th́ tôi có nhiều điều có thể kể cho các bạn, miễn là các bạn không găy bể samaya với tôi hay dối gạt tôi theo cách nào đó.
Cũng có khoảng mười hai người thợ săn trộm ở miền Dartsedo], mà câu chuyện của họ được kể như sau:
Trong sự tàn ác và sân hận, họ đặt bẫy lấy lông ḅ yak làm nỉ.
Máu của những con vật bị họ giết cuồn cuộn như cái hồ.
Của cải họ cướp đoạt th́ chất cao như núi.
Họ lôi mọi sinh linh có quan hệ với họ tới những số phận xấu xa.
Nh́n vào dấu vết tinh tế, Awa Đầu-ḅ nói: “V́ lợi ích của gia đ́nh Gya Truglo, những người này đă dùng dao gây đổ máu trên khắp hai vùng rộng lớn. Họ là những kẻ đầu sỏ chịu trách nhiệm việc giết hại nhiều người.
Họ đă phạm quá nhiều ác hạnh khiến ngay cả việc kể hết ra cũng không thể làm được”. Với những tiếng gầm khủng khiếp: “Giết, giết chúng! Đánh, đánh chúng!” các thuộc hạ của Thần Chết dẫn họ tới Địa ngục Nóng Dữ dội, đầu họ gục xuống.
Om mani padme hum hri.
Có khoảng mười người đàn bà ở miền Sangen đă chế tạo chất độc. Karma T’harkhyin, Tsewang Dargyay, Gonpo Srung và những người khác, thân họ bị băm nhỏ, lưỡi bị nhổ ra và nhăn cầu bị chọc thủng.
Cũng thế, những kẻ ám sát các đạo sư và phá hủy các thánh tích bị ném vào một hầm lửa. Những thuộc hạ khủng khiếp của Thần Chết, cầm những chiếc búa có kích thước như những ṭa nhà, và bằng từng cú đập mạnh đă tung rải thịt xương họ.
Bởi họ chết đi sống lại liên tục và chỉ liên tục chịu đựng nỗi khổ không thể tưởng tượng nổi, nên những tiếng kêu khóc thất thanh của họ có thể làm nổ tung và tách rời núi non và thung lũng.
Mọi người kêu khóc gọi tôi: “Dudjom Drolma, xin tụng cho chúng tôi một thần chú mani!” về phần tôi, tôi cảm thấy một ḷng bi mẫn không thể nghĩ bàn và đă tụng hát thần chú mani theo một giai điệu.
Tôi tiếp tục đi cho tới khi đi ngang qua bốn người đàn ông, là những người hàng thịt ở Gamdzed trong miền Hor. Một người tên là Buchhung và người kia là Buja; tôi không nhớ rơ tên hai người kia.
Khi những thuộc hạ đầu ḅ lần lượt cắt cổ họ bằng những lưỡi gươm cháy đỏ, họ kêu khóc với tôi rằng họ phải chịu đựng hậu quả của việc giết những gia súc vô tội. Họ phải trải qua nỗi khổ không chịu đựng nổi của sự chết và sống lại liên tục.
Với ḷng bi mẫn, tôi hát tụng thần chú mani theo một giai điệu và thỉnh cầu thiên nữ cao quư và tôn kính Tara, v́ thế bốn người hàng thịt được giải thoát khỏi nỗi khổ của họ.
Họ nói với tôi: “Xin đưa chúng con ra khỏi chỗ này” Tôi thúc giục họ đi vào con đường ánh sáng trắng dẫn tới núi Potala, và trong tâm trạng vui mừng họ đi xa khuất tầm mắt.
Om mani padme hum hri.
Rồi vị thiên nữ cao quư bi mẫn nói những lời sau:
Đừng phục vụ chất độc cho các đạo sư thông tuệ.
Đừng trộm cắp thực phẩm của các hành giả Pháp dấn ḿnh vào thực hành mănh liệt.
Đừng thực hành Pháp đă bị ô nhiểm bởi những ác hạnh.
Đừng làm nhơ bẩn các b́nh chứa tượng trưng cho thân, ngữ và tâm của các Đấng Chiến Thắng.
Luôn luôn tránh xa các ác hạnh và hăy thực hành thiện hạnh.
Ô các cư sĩ và tu sĩ, thuộc giai cấp quư tộc hay giai cấp thấp của thế giới con người thế tục!
Chớ để tim quư vị bị trói buộc bởi xích xiềng lănh đạm.
Hăy bảo vệ nhân và quả của nghiệp như giữ ǵn đôi mắt quư vị.
Nhờ đức hạnh của Pháp, dù bằng một giạ hay chỉ một nhúm,
chắc chắn rằng không có ǵ khác hơn một định mệnh duy nhất,
v́ thế chớ nghi ngờ điều này là chân thật,
hăy liên tục cầu xin Tam Bảo.
Hăy thực hành theo giáo huấn của các đạo sư của quư vị;
hăy tuân thủ đức hạnh và từ bỏ những ác hạnh.
Không lợi ích ǵ khi cảm thấy hối tiếc và giờ chết của quư vị.
Ô các đạo sư và tulku, tăng và ni, những yogin chứng ngộ,
những hành giả mật thừa, những pháp sư, những học giả, thủ lănh,
những bộ trưởng chính phủ, những thần dân, từ trẻ em trở lên:
Hăy giữ thông điệp này giữa trái tim quư vị.
Tối hảo là hăy nuôi dưỡng sự xác tín siêu việt và hoan hỉ vào giở chết của quư vị.
Nếu không được như thế, đừng sợ hăi và không tự hổ thẹn.
Ít nhất là không có ǵ để hối tiếc.
Đừng sai phạm lỗi lầm! Đừng sai phạm lỗi lầm! Hăy thực hành đức hạnh!
Om tare tam soha.
Có nhiều ngàn thợ rèn ở thế giới con người. Thân họ bị bao phủ bởi những đống than lớn như núi Tu Di. Họ bị thêu đốt trong ngọn lửa, thịt họ không bị tách rời khỏi xương và bị nghiền nát bởi những chiếc búa có sắt, có kích thước như núi Tu Di.
Rồi họ bị những chiếc kẹp chụp bắt và bị thêu đốt như trước. Thân xác thêu cháy của họ biến thành màu sắt; chúng bị đập vỡ thành nhiều mảnh và bị đưa vào ḷ rèn. Rồi họ bị thêu đốt như trước, và lại tiếp tục. Thật là một cảnh tượng khủng khiếp làm tôi choáng váng.
Tôi hỏi những thuộc hạ: “Những hành động nào dẫn tới hậu quả cuối cùng này?”
“Ha, ha!” họ trả lời: “Những người này rèn súng ống và những khí cụ phá hoại khác dao và ŕu chiến đấu, những mũi tên và giáo dùng để tàn sát nhiều người và ngựa. Họ sửa chữa súng bắn không chính xác, kéo dài và làm thẳng ṇng súng và ống nhắm và trui rèn lưỡi kiếm và v.v…”.
Khi nói như thế, nhiều ngàn thuộc hạ giáng những nỗi đau đớn không ngừng nghỉ lên những người thợ rèn này.
Om mani padme hum hri.
Có nhiều người gây sự bất ḥa trong các ḍng tu, biển thủ tài sản của các đền chùa và tu viện, hoặc đầu tư kinh doanh bằng những vật cúng dường mà tăng đoàn thâu thập. Tôi không thể nhận biết tất cả họ. Có nhiều ngàn người trong số họ đang có mặt ở một khu vực. Than hồng nóng đỏ, rác rưởi và kim loại nóng chảy được rót vào miệng họ.
Họ kêu khóc: “Than ôi! Chúng tôi khổ biết bao! Ôi cha ơi, Ôi mẹ ơi! Nỗi khổ của chúng tôi to lớn biết bao! Chúng tôi thật khó thoát khỏi nỗi đau đớn và khốn khổ này! Khi chúng tôi sống trong cơi người, chúng tôi không nghĩ rằng có thể đau khổ ghê gớm như thế này.
Nhưng giờ đây chúng tôi nhận ra rằng thật nguy hiểm biết bao khi dính dáng vào tài sản của Tăng đoàn. Điều đó c̣n dễ hơn việc nuốt thuốc độc, bởi chỉ duy nhất cái chết là điều chắc chắn. Không có ǵ tệ hơn việc lạm dụng tài sản của những thành viên trong Tăng đoàn, bởi nó gây nên đau khổ to lớn như thế này. Than ôi!”.
Tôi được cho biết là dù được giải thoát khỏi trạng thái này, họ sẽ bị tái sanh làm ngạ quỷ với các che chướng ô uế nội tại. những kẻ gây nên sự bất ḥa và chia rẽ trong Tăng đoàn phải kinh qua Địa ngục Đau khổ Liên tục (Địa ngục Vô gián) thấp nhất mà không có bất kỳ sự ngưng nghỉ nào giữa những đời trước và đời sau của họ.
Om mani padme hum hri.
Tôi cũng nh́n thấy các cư sĩ tantrika, đă hành xử vô trách nhiệm, những phù thủy già và những người phàm tục giả bộ làm các đạo sư, vô số những người đó đang ói ra máu và trải qua sự đau đớn không thể chịu được của thân xác. Tôi thấy nhiều sinh vật ăn thịt đang ngấu nghiến họ và nhiều cư dân ở địa ngục ném ra những lời buộc tội về những ác hạnh của họ.
Ô những lạt ma tăm tiếng của thời đại, gồm cả tu sĩ lẫn cư sĩ, một đứa con gái hèn mọn như tôi hầu như không dám nhắn gởi tới quư ngài, v́ thế tôi phải van nài quư ngài. Trong các cơi địa ngục là những cuộc phán xét mà quư ngài có thể tự thấy chính ḿnh.
Chúng ta sẽ xem xét những điều này? Quư vị, những cư sĩ tantrika, ngày nay với mái tóc dài và những áo choàng trắng, vợ (chồng) và con cái quư vị đă sum vầy đông đảo. Được các vị trời và quỷ ma trợ giúp và được sở hữu một ít năng lực huyền bí nhỏ bé, quư vị lừa phỉnh người khác bằng cách tuyên bố ḿnh phải những thị kiến về các vị trời và quỷ ma.
Nếu quư vị có khả năng nghĩ tưởng về điều đó, giờ đây hăy thực hiện nó. Cầu mong điều đó không làm tổn hại quư vị và cầu mong cuộc đời quư vị được trường thọ. Đó là thỉnh cầu của tôi.
Dưới đây là thông điệp của Yama Dharmaraja:
Những đạo sư, các tăng và ni tôn quư trong thế giới này
tin cậy nhiều guru theo một cách thế hời hợt mà không khảo sát họ.
Họ không giữ ǵn những thệ nguyện samaya của ḿnh, và
v́ thế đặt một gánh nặng lên vai họ, nó kéo họ xuống đáy sâu địa ngục.
Đặc biệt, vị đạo sư mà từ Ngài ta nhận lănh những quán đảnh,
là người chỉ cho ta con đường đi tới sự trưởng thành và tự do trong tâm linh,
và là người khai thị bổn tánh chân thật của ta
là tinh túy của một ngàn vị phật của thời đại may mắn này.
Đối với những kẻ làm đảo lộn hay đi nghịch lại lời dạy của đạo sư họ
hoặc kẻ tạo nên mối bất ḥa trong những bằng hữu, anh em và chị em tâm linh
-là những người đă tham dự cùng một mạn đà la và cùng một ḍng giáo lư-
th́ chẳng có sự tích tập công đức nào đem lại lợi lạc.
Không chỉ như thế, mặc dù những kẻ mắc phạm những ác hạnh chống trái như Phật
có thể tịnh hóa nghiệp của họ nhờ sự sám hối, nhưng những kẻ găy bể samaya th́ không có nơi nương tựa.
Mặc dù những kẻ đă giết hại nhiều ngàn người và ngựa
có những phương tiện để sám hối các hành động của họ, nhưng những kẻ găy bể samaya đă từ bỏ các đối tượng quy y mà với các ngài họ có thể sám hối.
Đi nghịch lại lời dạy của vị thầy gốc của ḿnh là một ác hạnh c̣n to lớn hơn việc mỗi ngày giết một người.
Dù cho một ngàn vị Phật của thời đại may mắn này xuất hiện,
nhưng bất kỳ dây cứu hộ nào các ngài có thể tung ra để kéo lên những kẻ chịu trách nhiệm về ác hạnh nặng nề này cũng đều bị đứt.
Không chỉ một ḿnh kẻ mắc phạm bị đọa lạc;
mà những ai có liên hệ với họ qua ngôn ngữ hay tiếp xúc, giống như những đàn bê và cừu chạy tán loạn trên một sườn núi,
cũng sẽ bị lộn ngược đầu và rơi xuống Địa ngục Kim cương.
Vào lúc đó, mặt đất của thế giới con người sẽ rung động
và nhiều bậc linh thánh sẽ thị tịch.
Trong một ngàn kiếp sẽ không thoát khỏi trạng thái đó;
mà trong hàng tỉ đại kiếp không thể tính đếm được
họ sẽ phải chịu đựng lập tức mọi đau khổ
mà tuyệt đối không cách nào chịu đựng nổi sự đau đớn này.
Than ôi, hỡi các đạo sư và tulku, cư sĩ lẫn tu sĩ trong thế giới con người!
Hăy không ngừng dâng lên những lời cầu nguyện, trong mọi lúc hăy duy tŕ mối liên hệ không ngăn cách
với vị thầy gốc, ngài ngang bằng chư Phật trong ba thời.
Chớ để ba năng lực của quư vị bị xao lăng.
Hăy phụng sự đạo sư của quư vị trong bất kỳ cách thức nào có thể.
Hăy cúng dường những vật sở hữu thâu đạt được như một sự cúng dường mạn đà la hoan hỉ.
Nếu quư vị có thể chấp nhận mệnh lệnh của đạo sư của ḿnh
và hiến dâng thân thể lẫn sinh lực của ḿnh để phụng sự đạo sư,
th́ cho dù quư vị không thực hành đức hạnh nào khác, như thiền định về các bổn tôn hay tŕ tụng các thần chú,
quư vị sẽ không cần gặp ta khi từ bỏ thân xác ḿnh.
Quư vị sẽ sẵn sàng đi tới bất kỳ cơi thuần tịnh nào quư vị muốn.
Bởi thông điệp này tiết lộ công khai những vấn đề ẩn dấu và bí mật,
quư vị không cần phải xấu hổ hay bối rối – hăy lớn tiếng công bố ra ngoài cho mọi người.
Nếu quư vị muốn nghe lời khuyên của Dharmaraja,
hăy ôm giữ những ǵ ta nói trong tim quư vị,
Samaya!
Tiếp tục hành tŕnh trong các địa ngục, tôi đi tới một nơi có khoảng mười tám các vạc úp miệng xuống dưới. Tôi tự hỏi: “Những vật kỳ dị này sao lại úp ngược thế nhỉ?”
Ngay sau đó, Awa Đầu-Ḅ xoay cái vạc nhỏ nhất trong số đó (chúng lớn tới nỗi nếu đi ngựa th́ phải mất tới mười tám ngày mới giáp ṿng chu vi của nó) cho ngửa miệng lên, hướng về phía tôi. Bên trong là nhiều lớp máu. Tim tôi bừng bừng, thân tôi run rẩy v́ xúc động.
Ông ta nói: “Sự kiện năm nay chúng lật úp xuống có nghĩa là nhiều đạo sư, đặc biệt là các ngài Tromge Khakyod, Dza Konchhog và những vị khác, đă khởi hành tới các cơi thuần tịnh, đem theo những người có liên hệ với các ngài. Đối với họ, sẽ không có chuyện rơi trở lại vào ṿng luân hồi sinh tử”.
Trên một con đường ánh sáng cầu vồng trắng, vàng, đỏ và xanh lá cây, vị đại hành khất T’hrulzhing, lạt ma Gyurmed Dorje ở Tahor tiến lại gần cùng với đoàn tùy tùng gồm nhiều đệ tử. Ngài đang hát tụng bài ca sau đây:
Om ah hum vara guru padma siddhi hum.
Tôi không thấy cơi địa ngục, mà chỉ thấy cơi thuần tịnh cao tột, Pháp giới nền tảng của mọi hiện tượng.
Tôi không thấy Yama Dharmaraja, mà chỉ thấy Pháp Thân Samantabhadra (Phổ Hiền).
Tôi không thấy đám thuộc hạ hung nộ, mà chỉ thấy các bổn tôn ḥa b́nh và phẫn nộ của các mạn đà la.
Tôi không thấy các đứa trẻ tươi đẹp và tối ám của nghiệp, chỉ thấy năng lực mạnh mẽ tự-sinh của trí tuệ siêu việt và những phương tiện thiện xảo.
Tôi không thấy các cư sĩ, tăng hay ni, mà chỉ thấy cơi thuần tịnh của phạm vi hoàn toàn rộng lớn của sự thuần tịnh vĩ đại.
Tôi không thấy những hậu quả sau cùng của thiện hạnh và ác hạnh, mà chỉ thấy năng lực mạnh mẽ của giác tánh nội tại tô điểm chân tánh của thực tại.
Tôi không thấy sự khác biệt giữa những ǵ có mối liên hệ và những ǵ không,
mà chỉ thấy tất cả hoàn toàn nối kết trong Pháp giới nền tảng của các hiện tượng.
Tôi không thấy các cơi chúng sinh cao và thấp, mà chỉ thấy sự thuần tịnh nguyên sơ của sự hiện hữu có điều kiện và của trạng thái an b́nh.
Gấp lên, nhanh lên, mọi người hăy theo tôi!
Khi Ngài hát bài đó, từ trái tim Ngài một ánh sáng chiếu rọi như ánh trăng. Ngay lúc ấy nó tràn ngập mọi cơi địa ngục, những âm thanh của sự đau khổ và khóc than đột nhiên ngưng bặt.
Những cư dân địa ngục đứng nh́n với đôi mắt mở to, đầy vẻ sợ hăi. Ngay cả Dharmaraja cũng biến mất trong phút chốc. Vị lạt ma đi qua, dẫn dắt mười hai ngàn chúng sinh tới cơi Potala, dù họ có liên hệ với Ngài hay không.
Tôi quỳ lạy, cúng dường và lập đi lập lại sự xác quyết của tôi trong niềm tin và sự hoan hỉ. Đức Tôn kính Tara cũng chắp tay và nói: “Vị lạt ma đó tên là Akara, cũng được gọi là Tahor Gyurmed Dorje”.
Cũng xuất hiện một lạt ma ở quận Nyagrong tên là Yeshe Droje, thân Ngài chiếu sáng một vẻ rực rỡ khó mà cưỡng được và có một đoàn tùy tùng gồm nhiều daka và dakini vây quanh Ngài. Từ đôi môi Ngài phát ra những lời sau:
Con khẩn cầu dưới chân bậc thánh đại thành tựu ở sườn núi Lhangdrag.
Con là Yeshe Droje của cái thấy không tạo tác,
Yeshe Droje của sự thiền định không lầm lẫn,
Yeshe Droje của mục đích không lay động.
Từ tuổi ấu thơ, con đă nối góc một bậc thánh thành tựu vĩ đại.
Con đă đem tới sự hoàn thiện của Ngài cuộc đời cùng sự thực hành của con.
Tất cả những ai có một mối liên hệ với tôi, tôi đă hướng họ tới con đường toàn trí.
Giờ đây những ai có niềm tin nơi Padma Duddul,
bậc thánh đại thành tựu ở quận Nyagrong,
và ở tôi, một lăo già,
sẽ đi với tôi tới tiểu lục địa Chamara,
tới núi Huy Hoàng.
Om ah hum vajra guru padma siddhi hum.
Với những lời này, ánh sáng chiếu rọi và tràn ngập dưới mười tám cơi địa ngục. Rồi vị lạt ma dẫn hai mươi ngàn người, các đạo sư, tăng sĩ và các cư sĩ, ngay cả những hành khất và người mù, tới núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ trên tiểu lục địa Chamara.
Tôi cảm thấy một niềm tin và sự hoan hỉ khó tưởng tượng nổi. Vị thiên nữ tôn kính lạy ba lạy và nói: “Vị lạt ma này tên là Jnanavajra, cũng được gọi là hành khất Yeshe Dorje. Chúng sinh chỉ nghe nhắc tới danh hiệu Ngài cũng được hưởng vô lượng lợi lạc”.
Trong số những người đàn ông và đàn bà ở cộng đồng Satod là một người đàn ông tên là Wanggyal mang trên lưng một chuỗi hột bồ đề có kích thước bằng một trái núi. Không thể nâng nó lên, ông ta kêu thét trong đau đớn khi các thuộc hạ đánh đập ông.
Tôi hỏi một thuộc hạ đầu cọp là hành động nào đă dẫn tới hậu quả này. Ông ta trả lời: “Người này đă đánh đập một khách hành hương du phương, một yogin chứng ngộ đang trên đường tới Tsiwa và dùng vũ lực ăn cắp chuỗi tràng và tất cả những tài sản khác của Ngài”.
Om mani padme hum hri.
Có một người tên là Ashey, mặc y phục màu nâu sậm, sống trong miền Gakhog. Ông ta giết hại nhiều lạt ma và những bậc trưởng thượng tâm linh thánh thiện, giả vờ đọc các kinh điển và nhận thù lao để tụng Kangyur nhiều lần mà chưa từng thực hiện những sự tŕ tụng này.
Lưỡi của ông ta bị kéo ra khỏi miệng. Trên chiếc lưỡi lớn như đồng cỏ Aji, là những con trâu sắt với những chiếc sừng sắc nhọn. Buộc vào sừng là những lưỡi cày sắt nóng cháy mà các con trâu dùng để cày bừa “cánh đồng” này. Nỗi đau đớn của người đàn ông này th́ không thể tưởng tượng nổi. Một thuộc hạ đầu khỉ nói với ông:
Lời của các Đấng Chiến Thắng th́ giống như một viên ngọc như ư:
Chớ nhận thù lao nhờ chúng hay bán chúng cho những người khác.
Ngữ của lạt ma th́ giống như một cái b́nh pha lê:
Chớ ném nó vào rác rưởi hay bùn nhơ, mà hăy yêu quư nó.
Ngôn ngữ tuyệt hảo nhất của Đức Phật th́ giống như một đại dương lương dược:
Đừng ngồi trên bờ và chết khác.
Giả vờ đọc Kinh văn th́ giống như ngụy tạo cỏ là vàng,
nhưng nó không trở thành vàng và ngươi phải chịu đựng nỗi khốn khổ này.
Trong khi vị thuộc hạ nói, những con trâu cứ cày liên tục.
Có khoảng chín người gốc miền Ragchab đang ở trong bardo. Họ không có ư thức được rằng họ đă chết và tâm trí bị dính mắc với của cải, tài sản và với cha mẹ họ. Họ và nhiều người khác không làm chủ được nơi sắp đi tới.
Hơn nữa, có khoảng một trăm nhà sư ở Nyitso. Một số vị mặc một bộ y phục bằng sắt nóng giống như chiếc y của nhà sư; một số mặc y phục bằng sắt nóng giống như áo chẽn không tay của nhà sư. Tôi được cho biết rằng đó là hậu quả của việc họ đă tham dự những tiệc cúng dường với samaya bất tịnh, giả bộ giữ giới nguyện thanh tịnh, bản thân họ không sám hối và tịnh hóa.
Cũng thế, có một người tên là Atsang ở vùng T’hrom thượng. Nhiều thuộc hạ của Yama đang đổ ch́ nóng chảy vào miệng ông ta. Họ nói: “Đây là kết quả sau cùng của việc hắn đă kín đáo ăn những thực phẩm cúng dường được chuẩn bị tại nhà hắn và nhà những người khác, khiến cho các thành viên của tăng đoàn xuất gia phải ăn đồ ăn thừa”.
Con khẩn cầu Đức Avalokiteshvara cao quư.
Con khẩn cầu Đức Avalokiteshvara đưa dẫn chúng con suốt con đường.
Con khẩn cầu Ngài dẫn dắt những người chết đó
là những kẻ lang thang trong các cơi thấp của địa ngục, tới núi Potala.
Om mani padme hum hri.
Có một cụ già trông như ông nội thuộc gia đ́nh Lạt ma Tromge, mặc một áo choàng đen lùng thùng. Trong bàn tay phải ông quay một bánh xe cầu nguyện bằng bạc, trong khi bàn tay trái cầm chuỗi tràng bằng gỗ cây keo.
Tên ông là Tromge Sodnam Namgyal và ông đang lớn tiếng hát tụng thần chú mani theo một nhịp điệu vui tươi. Các cư dân ở địa ngục đối xử với ông rất kính trọng và tin tưởng. Là một gia chủ và hóa thân của một Bồ Tát, ông tiến lên, dẫn theo nhiều chúng sinh trên con đường đi tới giải thoát.
Lạt ma Jinpa Dondan thuộc bộ tộc Zur có cách hành xử hết sức điên khùng. Ngài đi qua, tay cầm một chuỗi tràng bằng xương và hát tụng thần chú vajra guru theo một giai điệu khi dẫn dắt nhiều chúng sinh trên đường đi tới giải thoát.
Một người bảo trợ của Tromge Chhogtrul tên là Rinchhen thuộc gia đ́nh Kyompa, ở trong cơi địa ngục, đang hát tụng thần chú mani theo giai điệu với một giọng trong trẻo. Khi lớn tiếng nói: “Chhogtrul Dorje Chang thấu biết tất cả”. Ngài dẫn vài người tới cơi giới núi Potala.
Một người nào đó tên là Buchhung ở miền Nyoshul, đang ở trong Địa ngục Sống lại. Ông yêu cầu tôi tụng cho ông thần chú mani, hay thậm chí một chữ Om duy nhất cũng được.
“Ông là ai?” Tôi hỏi.
“Tôi là cậu của cháu”.
“Sao cậu không được Orgyan T’hutob Lingpa cứu?”
Ông nói: “Nỗi đau khổ của cậu là hậu quả của những lỗi lầm đă phạm trong lúc tṛ chuyện với vị đạo sư đó”.
Sau khi tôi tụng lớn tiếng từ xa cho ông ba lần thần chú mani, ông đi qua, biến mất khỏi tầm mắt tôi và tôi không rơ ông đi đâu.
Om mani padme hum hri.
Một cư dân ở địa ngục có đầu của một con cú đang dẫn nhiều người trên một cánh đồng sắt nóng, gây đau đớn cho nhiều người, cả cư sĩ lẫn tu sĩ. Cư dân đầu-cú này nói với tôi: “Cô gái thế tục có thái độ cao thượng, đừng bước lên con dao bằng đồng đỏ này của tôi”.
Tôi đă tụng liên tục thần chú mani. “Xin hăy cư xử nhưng một đồng minh của những chúng sinh này”, tôi van nài.
Cư dân này nổi giận trước thỉnh cầu của tôi. “Cô đă làm những thiện hạnh và ác hạnh nào? Tự cô hăy giải thích rơ ràng xem!” ông ta nói.
“Tôi từng ở mọi nơi, từ núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ trở xuống và từ cánh đồng sắt nóng rộng lớn trong các địa ngục trở lên. Tôi đă tŕnh bày các thiện và ác hạnh của tôi trước mặt Dharmaraja. Tôi là một cô gái sống bởi nhân và quả của nghiệp. C̣n ông đă làm những thiện hạnh và ác hạnh nào?”
Ông ta không nói ǵ mà vẫn đứng đó, miệng mỉm cười.
Om mani padme hum hri.
Có một bà cụ tên là Argrong ở cộng đồng Barchhung. Là hậu quả sau cùng của việc giết chuột chũi, bà bị một cư dân có đầu chuột chũi đánh đập. Bà gởi cho tôi mang về một thông điệp:
Nếu nhân danh bà, một trăm triệu thần chú mani, Tantra Sám Hối Bất nhiễm, Sự Sám hối các Ác Hạnh và Kinh Giải Thoát được khắc trên đá và những sự hiến cúng được dâng lên cho nhiều hội chúng tăng sĩ, bà ta sẽ được tái sanh làm một cư sĩ tantrika trong miền Derge.
Khi bà nói điều này, nhờ nguyện lực của một đạo sư thuộc bộ tộc Ango ở Barchhung, bà thăm viếng chóng vánh một cơi thuần tịnh; nhưng sau đó tự bản thân nghiệp lực cạn kiệt và là hậu quả của việc sát hại một người, bà bị tái sanh trong Địa ngục Sống lại.
Để giải thoát bà khỏi chiếc ṿng cổ bằng sắt làm bà nghẹt thở, tôi khẩn cầu Đức Avalokiteshvara bi mẫn siêu việt và tụng thần chú mani cho bà từ xa, sau đó cái ṿng được lấy ra.
Tôi cho là bà ta sẽ được sanh làm người trong khoảng bảy đời. Bà nói rằng để bà được giải thoát, mọi người phải thực hiện pháp sám hối và tịnh hóa (đặc biệt là một trăm triệu thần chú mani, một trăm triệu thần chú siddhi, một triệu ba trăm ngàn thần chú trăm-âm của Đức Vajrasattva, và Sự Sám hối các Ác Hạnh); th́ bà có thể được tái sanh trong cơi thuần tịnh của Đức Avalokiteshvara sau khi đă trải qua một đời làm người.
Cái lưỡi của một người tên là Nyima P’huntsog ở Tsang phía nam trung tâm Tây Tạng bị kéo dài ra bằng kích thước của cả một quốc gia. Nó găm đầy những gai sắt trong bốn phương và bị đổ kim loại nóng chảy sôi sục lên. Tôi được cho biết đó là hậu quả sau cùng của sự báng bổ và nói dối, và đặc biệt là việc có cái nh́n sai lệch về các thành viên của tăng đoàn xuất gia.
Một người tên là Dondrub, là hậu quả sau cùng của việc đốt nhà, bị các cư dân trong địa ngục đưa lên một ngọn lửa phun ra từ sắt nóng đỏ, bị cháy sém cho tới khi thân ông chỉ c̣n trơ những khúc xương dính với nhau. Cuối cùng, ông ta sống lại và tiếp tục nỗi khổ như trước.
Kim loại nóng chảy được đổ vào miệng Tsering Drolma, phối ngẫu của Lạt ma Tanpa ở Minyag, là hậu quả của việc bà đă đầu độc vị lạt ma. Bởi đau đớn khủng khiếp, những giọt nước mắt tuôn ra từ đôi mắt bà giống như mưa rào trong một năm. Các cư dân tạo nên những tiếng huyên náo dễ sợ, một âm thanh ầm ĩ như tiếng sấm của một ngàn con rồng, đủ để tách rời thiên đường và trái đất ra làm hai.
Bảy người từ miền Golog, kể cả Tsering Kẻ Giết Ḅ Yak Hoang dă, bị móc vào sừng những con ḅ yak hoang bằng sắt, sau đó bị quăng xuống đất rồi bị húc. Kim loại nóng chảy được đổ vào miệng những bà vợ của họ, Chhimed Dronma và những người khác, khiến những lưỡi lửa nóng đỏ phụt ra sáng rực từ mọi khiếu trên người họ. Nỗi khổ của họ lên tới cực điểm.
Là hậu quả của việc làm ô uế nước trà của tăng đoàn xuất gia và đánh đập hoặc tấn công các nhà sư trong tăng đoàn, Gonpo Dargyay Tsogo, Je Nyima và những người khác ở Dartsedo đang vùng vẫy vượt qua con sông đầy xác chết không có chỗ cạn; họ kêu khóc ầm ĩ v́ đau đớn khủng khiếp.
Vào lúc đó, Yama Dharmaraja gởi tôi mang về thông điệp sau đây:
Hăy mang thông điệp này về cho các đạo sư:
Trong cái thấy tối hậu của bản tánh căn bản của thực tại thoát khỏi sự tạo tác,
Ta phải giống như không gian, không rơi vào bất kỳ thái cực nào.
Trong sự nuôi dưỡng các giai đoạn phát triển và thành tựu, sự hiện diện tự nhiên của sự trong sáng tuyệt đối,
ta phải giống như một ngọn núi, không có bất kỳ sự đổi thay hay chao đảo nào.
Trong sự vận dụng các giác tánh nguyên sơ, sự giải thoát tự nhiên khỏi năm độc,
ta phải giống như đại dương, không có sự chấp nhận hay chối bỏ.
Để làm việc v́ hạnh phúc của chúng sinh, dẫn đường trong việc làm lợi lạc cho người khác,
ta phải giống như một người cha hay mẹ, không đánh giá dựa trên sự thân thiết hay xa cách.
Để khám phá mục đích là sự thành tựu tự nhiên của hai loại lợi lạc,
ta phải giống như kẻ đi tới Đảo Vàng và không mất những ǵ đă t́m được ở đó.
Những người như thế th́ vô cùng tốt lành, là bậc siêu phàm trong những người quan tâm tới Giáo Pháp và chúng sinh.
Trái lại, những người giả bộ cung cách của đạo sư,
những kẻ thực hiện p’howa cho người khác mà không thấu suốt bổn tâm minh,
những kẻ chỉ v́ thực phẩm và của cải mà hạ thấp Mật thừa thành việc lầm bầm những nghi thức, trống rỗng,
những kẻ tự phong là người lăo luyện tài giỏi trong việc làm lợi ích cho người khác trong khi khát khao tích lũy của cải,
những kẻ chỉ bắt chước Phật Pháp linh thánh mà không giải thoát ḍng tâm thức của chính ḿnh,
và những kẻ dẫn dắt những người khác, cả người sống lẫn người chết, trên con đường sai lạc:
Hăy đưa tất cả những hành động theo những cách này tới gặp ta!
Và hăy mang một thông điệp tới các nhà sư:
Những người đi theo dấu chân của Đấng Đạo sư, Đức Phật Toàn Giác,
những người nắm giữ chân lư Thánh Pháp của các Kinh điển và tantra,
thân thể được tô điểm bằng cờ chiến thắng là những chiếc y màu vàng nghệ của sự thuần tịnh viên măn,
và những người đă ngưng dứt mọi hành vi ác hại, đă thâu thập mọi đức hạnh:
Họ là phước điền cho hai sự tích tập và được các vị trời tôn kính.
Những người mang dấu ấn con cái của các Đấng Chiến Thắng nhưng phá hoại Giáo Pháp của các Ngài,
Những kẻ mà sự thôi thúc của họ hướng về những theo đuổi thế tục,
những kẻ mê đắm đàn bà và rượu chè như cốt tủy của sự thực hành tâm linh của họ,
những kẻ dấn ḿnh vào mười loại hành vi ác hạnh:
Hăy để những kẻ hành động theo những cách này tới gặp ta!
Và hăy mang một thông điệp tới các vị phối ngẫu dakini:
Những ai lúc đầu làm chín mùi ḍng tâm thức của họ bằng sự quán đảnh và giữ ǵn samaya thanh tịnh,
những người khi đó trở nên thiện xảo trong các điểm trọng yếu của các giai đoạn phát triển và thành tựu,
và được phú bẩm kinh nghiệm và sự thực hành,
và những người sau cùng đi tới những giới hạn của sự thành tựu bằng con đường bốn cấp độ của sự hỉ lạc:
Những người như thế an trú giữa những bậc tŕ giữ giác tánh nội tại.
Nhưng những kẻ ích kỷ và dối gạt vĩ đại với những phương cách cám dỗ,
những kẻ khi đó chọn các ma vương làm bạn đồng hành và gây nên sự tranh chấp, đau khổ và xung đột,
và những kẻ cuối cùng bị đưa tới sự hủy hoại bởi những dục vọng thông dâm và tằng tịu tai hại:
Họ sẽ không được giải thoát.
Hăy cấp tốc đưa họ tới gặp ta!
Và hăy mang một thông điệp tới các sư cô:
Những người cúng dường tóc trên đỉnh đầu ḿnh cho các tu viện trưởng và giác thọ,
những người bảo vệ thân ḿnh như của cải không cho kẻ cướp xâm phạm
những người coi xứ sở quê hương như quân thù và t́m tới những sườn núi và khe hang cô tịch,
và những người theo đuổi thực hành đức hạnh với động lực hoàn toàn vị tha thanh tịnh:
Họ nhận ra bổn tâm và sẽ không hối tiếc vào giờ chết.
Trong một trạng thái cực kỳ hỉ lạc, họ sẽ đi tới bất kỳ cơi thuần tịnh nào họ muốn.
Nhưng những sư cô giả dối thọ giới
mà không tŕ giữ các thệ nguyện của họ và trắng trợn vứt bỏ chúng,
những kẻ cuối cùng dấu đầu ḿnh trong cát,
thèm khát tính dục bất chính và chạy quanh như những con chó lạc loài:
Hăy để những kẻ hành xử theo cách này tới gặp ta!
Và hăy mang một thông điệp tới các thủ lănh và nhà cai trị:
Hăy lấy Tam Bảo làm nguồn mạch nương tựa chính yếu.
Hăy giữ vững vương quốc Giáo Pháp như lời khuyên dạy tinh túy của quư vị.
Chớ quan tâm tới lợi lạc riêng của quư vị, mà hăy bảo vệ những định luật đạo đức.
Hăy khuyến khích mọi người thực hành đức hạnh, và ngăn cấm việc săn bắn và đánh bắt cá.
Quư vị sẽ đạt được quyền hành, thế lực và một thân thể cao quư, và thường xuyên gặp được con đường đi tới giải thoát.
Nhưng nếu quư vị không phân biệt được sự tuyệt hảo và điều ác hại,
quư vị sẽ đem tới sự hủy hoại cho chính óc bè phái của quư vị và phạm những tội ác làm hại người khác
và phí phạm cuộc đời khi hoàn toàn dấn ḿnh trong sự bất ḥa, mâu thuẫn, tranh căi và xung đột giết hại lẫn nhau.
Hoàn toàn vô ích, quư vị sẽ đem lại đau khổ cho nhiều chúng sinh.
Hăy đưa tất cả những kẻ hành xử theo cách này tới gặp ta!
Hăy mang một thông điệp tới những người đàn ông:
Tất cả các ông, trước tiên c̣n làm một sự pha trộn thiện hạnh và ác hạnh,
rồi thiết lập những liên hệ với nhiều đạo sư
và sau cùng gặp được Phật Pháp linh thánh đích thực,
thực hành sám hối như cách đối trị cho các ác hạnh:
Hăy đi trên con đường cao quư càng lúc càng dẫn tới những trạng thái chói ngời.
Nhưng hầu hết trong các ông hành xử phi đạo đức, như những người chỉ huy binh lính hay những kẻ cướp,
Nhồi nhét thừa mứa thực phẩm và của cải, làm năm hành vi bị quả báo lập tức,
coi đạo sư và Tam Bảo như một nỗi tai ương.
Tâm các ông bốc cháy như ngọn lửa, có khuynh hướng phạm các ác hạnh:
Hăy đưa tất cả những kẻ hành xử theo cách này tới gặp ta!
Và hăy mang một thông điệp tới những người đàn bà:
Tất cả quư vị không bội ơn những bậc cha mẹ tốt lành
hoặc là nguyên nhân cho mối bất ḥa của bạo lực và tranh chấp trong gia đ́nh,
mà phụng sự cha mẹ và cư xử nhân từ với mọi người,
xa lánh ác hạnh và theo đuổi thiện hạnh càng nhiều càng tốt:
không hối tiếc vào giờ chết và quư vị đi tới sự tái sanh trong những cơi cao hơn.
Những một số trong quư vị xâm phạm thân thể và tinh thần của các bậc cha mẹ tốt lành,
là nguyên nhân của nhiều bất ḥa cùng bạo lực và tranh chấp trong gia đ́nh,
hết sức khéo léo trong việc sử dụng những âm mưu vi tế với độc chất mạnh mẽ,
với những quan điểm sai lầm về mọi người, liên tục phỉ báng họ:
Hăy để những kẻ hành xử theo cách này tới gặp ta!
Và hăy mang một thông điệp tới tất cả mọi người trong thế giới con người:
Khi đă được sanh trong một cơi giới cao, hăy xoay chuyển tâm quư vị hướng tới Giáo Pháp.
Hăy giữ những bánh xe cầu nguyện và các chuỗi hạt trong tay quư vị không ngơi nghỉ.
Hăy theo đuổi sự tŕ tụng các thần chú mani và siddhi như tinh túy của ngôn ngữ quư vị.
Những người trong quư vị có động lực cao quư và ḷng bi mẫn vĩ đại
sẽ không gặp ta mà sẽ đi tới Cơi Cực Lạc thuần tịnh.
Nhưng những người trong quư vị ngay từ ngày đầu mới sanh ra
chỉ gắng làm những hành động ác hại và phi đạo đức
và quay lưng lại Tam Bảo
sẽ không gặp ta mà sẽ đi tới Địa ngục Đau khổ Không ngừng.
Trong Giáo Pháp duy nhất này, hăy phát triển cái thấy và ḷng bi mẫn thanh tịnh, hăy quy y và cầu nguyện;
hăy tŕ tụng các thần chú mani, siddhi, tare và những lời của các Đức Phật ChiếnThắng;
hăy ngăn cản việc săn bắn và đánh cá, hăy khuyến khích những người khác thực hành đức hạnh;
hăy chuộc mạng những chúng sinh, sử dụng cờ cầu nguyện, những khuôn satsa và bánh xe cầu nguyện;
hăy cử hành các nghi thức chay nyungnay, các sự lễ lạy, kinh hành và tịnh hóa những che chướng –
không thiện hạnh nào lớn lao hơn những điều này trong khắp ba cơi.
Đừng quên những thông điệp này, mà hăy tường thuật chúng cho tất cả mọi người.
Sau đó, trên một con đường ánh sáng trắng, tôi thấy những tu sĩ lẫn cư sĩ, đang cầm các bánh xe cầu nguyện, lần chuỗi, tham dự các nghi thức chay, khắc thần chú mani trên đá, treo cờ cầu nguyện, tu sửa những con đường ṃn và gờ tường, nâng cấp những con đường xấu, khuyến khích người khác thực hành đức hạnh, ném các khuôn satsa, thắp đèn cúng dường, thực hiện các sự lễ lạy, đi hành hương và chuộc mạng sống của chúng sinh sẽ bị giết.
Vô số tỉ người trong số đó có vẻ mặt uy nghi, tâm hồn hoan hỉ và tư tưởng lạc quan vui vẻ. Trong khi ŕ rầm tŕ tụng các thần chú mani, siddhi và tare, họ tiến lên, đi tới Cơi Cực Lạc, núi Potala và núi Huy Hoàng Màu Đồng Đỏ.
Đó là những lời thuật lại của tôi, nó không trái nghịch những chỉ dạy của đạo sư. Những bậc cha mẹ tốt lành của tôi và tất cả dân chúng trong miền tôi ở đă liên tục thỉnh cầu tôi thuật lại tiểu sử của tôi, v́ thế ở đây tôi ghi lại một bản tường thuật phác thảo. Cầu mong nó làm vui ḷng quư vị.
Trong thời đại suy hoại này, khi những vấn đề lớn nảy sinh nhanh chóng, nếu chúng ta không nắm giữ những lời dạy của các Đấng Chiến Thắng với sự xác tín, th́ điều ǵ có thể được nói cho chúng ta?
Bài tường thuật Giáo Pháp về nhân và quả này mà tôi thực chứng kiến th́ không bị ô nhiễm bởi sự nói dối; cũng không chỉ là một sự lặp lại những lời của người khác nói. Tôi t́m được sự xác quyết để nói mà không bóp méo những thị kiến ở cơi địa ngục, chúng giảng dạy sự chấp nhận và từ bỏ nhờ ân phước của Đức Tara tôn quư và những đạo sư tốt lành của tôi.
Nếu tôi dối trá, nói rằng đă chứng kiến điều nào đó trong khi thực ra tôi không thấy, hoặc nếu v́ ước ao được kính trọng và nổi tiếng mà tự phụ tuyên bố về trạng thái tâm linh của tôi, th́ xin các ma mốt (mamo) ăn thịt nhanh chóng cướp đoạt sinh lực và hơi thở của tôi.
Đối với những người đọc tường thuật này, xin truyền bá nó và thực hành nó, xin dấn ḿnh không sai sót vào sự chấp nhận và từ bỏ của nhân và quả, thiên nữ cao quư sẽ là người hướng đạo trong suốt con đường ánh sáng cầu vồng.
Nếu có những thuật ngữ hay danh xưng sai lầm, những chữ không chính xác, hay những từ bí mật được phơi bày ở đây, tôi xin sám hối những thiếu sót này trước sự hiện diện của đạo sư. Tôi khẩn cầu được thành tựu sự thuần tịnh không chướng ngại trong đời này và những đời sau.
Ḍng chảy êm ả, không ngừng nghỉ của đức hạnh hoàn toàn thuần tịnh
nhờ hàng trăm tia sáng tỏa ra sẽ xua tan bóng tối của những lỗi lầm tích tụ,
làm đổ xuống trận mưa lợi lạc và hạnh phúc cho tất cả chúng sinh vô biên như không gian:
Cầu mong mọi người nhanh chóng đạt được trạng thái của thiên nữ cao quư.
Như thế, bản văn này tường thuật làm thế nào cô gái Dawa Drolma trải qua năm ngày nh́n thấy các thị kiến về cơi địa ngục và những cơi giới khác đă được người sao chép ghi lại đúng như những ǵ từ miệng cô gái nói ra, không có bất kỳ chữ nào được thêm vào hay bỏ sót và không có bất cứ sự sai sót hay lầm lẫn nào trong ư nghĩa.
May mắn, may mắn, may mắn!
Cầu mong tường thuật này là sự trang hoàng sáu lần nhiều hơn của thế giới, chói ngời với sự lộng lẫy tốt lành.
Sarva mangalam cầu mong mọi sự tốt lành.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 403 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 5:12pm | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH TỚI CÁC CƠI BÊN KIA CÁI CHẾT
3- NÚI POTALACƠI THUẦN TỊNH CỦA ĐỨC AVALOKITESHVARA
Kính lễ Đấng Bi Mẫn Siêu Việt,
Avalokiteshvara, kho tàng vĩ đại của ḷng bi mẫn.
Mặc dù cô gái này không thể nói như cô nên nói, tôi có nên thuật lại cho các bạn một tường thuật ngắn về núi Potala hay không?
Cơi giới được gọi là núi Potala nằm ở phía đông nam của Bodh Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng) ở Ấn Độ. Toàn thể vùng này phủ đầy những bông hoa tươi đẹp và những cây như ư bằng châu báu đâm chồi nẩy lộc ở đó.
Những con suối sủi bọ cam lồ và những đàn chim véo von tuyên thuyết Giáo Pháp. Mọi người đều sinh ra từ những bông hoa và không có sự thay đổi theo mùa từ hạ sang đông. Ngay cả ư niệm về sự đau khổ cũng không có, trong khi kinh nghiệm về hỉ lạc và hạnh phúc th́ vô biên.
Các Bồ Tát nam và nữ là những bậc đă đạt một cấp độ chứng ngộ vững chắc vui hưởng thực phẩm.
Tuyệt vời một trăm vị, mặc y phục bằng vải sắc cầu vồng và uống cam lồ của các vị trời. Các ngài đă thoát khỏi sinh, lăo, bệnh, tử, phụng sự các Đức Tathagata và nghe Giáo Pháp từ chính Đấng Bi Mẫn Siêu Việt. Ḍng tâm thức các ngài được giải thoát nhờ ḷng bi mẫn vô biên của các ngài. Các ngài tắm trong những cái hồ đầy nước có tám phẩm tính.
Ở đây tôi t́m thấy một ṭa lâu đài đẹp tuyệt vời, tự xuất hiện và h́nh thành tự nhiên, tường làm bằng năm lớp riêng biệt. Nó trong mờ cả trong lẫn ngoài, được nâng đỡ bằng một ngàn cây cột pha lê và tráng lệ nhờ những đá mài bằng châu báu.
Nó được tô điểm bởi những cái rèm ánh sáng cầu vồng, như thể được thắp sáng bởi một ngàn mặt trời và mặt trăng. Những đà tường làm bằng lam ngọc, đầu tường bằng san hô, những bậc thang bằng ngọc trai. Vây quanh dinh thự làm bằng năm loại châu báu này là một bậc thềm thấp bằng hồng ngọc, trên đó nhiều ngàn thiên nữ cúng dường nhảy múa vui đùa.
Phía trên là một mái ṿm bằng vàng, với những chiếc dù bằng lụa trắng và một Pháp luân có nai quỳ gối và lắng nghe ở hai bên. Ở bốn bên của lâu đài là những đầu máng xối có đầu makara những sợi dây bằng ngọc trai treo từ miệng chúng với những cái chuông và chuông chùm nhỏ xíu phát ra những âm thanh thú vị.
Bốn phía của ṭa lâu đài được trang trí bằng bốn cửa. Tôi đi vào cửa phía tây và gặp một thiên nữ giác tánh nguyên sơ. Đi sâu vào trong, tôi thấy vô số của cải và những thú vui cảm giác, như thể đang ở trong một ảo giác. Vô số những đống vật cúng dường được sắp xếp, thậm chí c̣n vượt hơn cả của cải của những đại thiên trong cơi trời Nirmanarati.
Ở giữa những thứ này, trên một hoa sen trắng trăm ngàn cánh mở ra, là Đức Avalokiteshvara cao quư, bậc điều ngự bi mẫn siêu việt của chúng sinh, với vẻ tươi trẻ của một thiếu niên mười sáu tuổi. Thân Ngài có sắc trắng chói lọi, một mặt và bốn tay.
Đôi tay thứ nhất cầm một viên ngọc trong hai bàn tay chắp lại nơi tim, bàn tay phải của đôi tay thứ hai cầm một chuỗi hạt pha lê và bàn tay trái cầm một cành huệ trắng nở hoa cạnh tai Ngài. Tôi bị thu hút bởi những tướng chính và phụ trên thân tướng toàn hảo của Ngài.
Ngài mặc y phục bằng lụa và những vật trang sức bằng những châu báu khác nhau, trên vai choàng bộ da của một linh dương krisnasaranga trùm qua phía trái ngực. Ngài ngồi chéo chân trong tư thế kim cương, thân Ngài sáng chói lọi với vô số tia sáng. Trong tâm tôi, Ngài không khác với ngài Drimed Khakyod Wangpo, bổn sư gốc của tôi.
Bên phải Đức Avalokiteshvara là Manidhara, Bậc nắm giữ Viên Ngọc, trưởng tử siêu phàm của Ngài; bên trái là con gái Ngài, Vidyadhari, Bậc nắm giữ Thần chú của Giác tánh; phía sau Ngài là Đấng bảo trợ, Đức Phật Amitabha; và trước mặt Ngài là vị phối ngẫu siêu phàm của Ngài, Đức Shadakshari, thiên nữ của Thần chú Sáu-Âm.
Quyến thuộc tùy tùng của Ngài chỉ gồm những bậc trưởng thượng tâm linh là những vị đă đạt những cấp độ chứng ngộ cao quư, tập hội không thể nghĩ bàn của chư Phật và Bồ Tát.
Đức Tara, bạn đồng hành của tôi nói:
Cung điện này là một xứ sở được tô điểm bằng hoa.
Cơi giới này là một lâu đài quư báu rộng lớn vô biên.
Bổn tôn này là bổn tôn của ḷng bi mẫn của tất cả các Đấng Chiến Thắng.
Quyến thuộc này là một đoàn tùy tùng gồm các Bồ tát nam và nữ.
Con, cô gái may mắn, nên thực hiện những sự lễ lạy và cúng dường với ḷng sùng mộ.
Hăy tụng đọc những lời khẩn cầu ước nguyện để có một liên hệ nghiệp tích cực.
Ḷng tôi tràn ngập sự kính sợ và hoan hỉ, và bắt đầu lễ lạy, khẩn cầu. Tôi nói:
Đức Avalokiteshvara Bi Mẫn,
phóng ra những tia bi mẫn khắp mười phương,
con đảnh lễ Ngài, đấng không ly cách với đạo sư siêu phàm của con và không ly cách với quyến thuộc của Ngài.
Con cúng dường tập hợp những vật cúng dường vô song, thực có và tưởng tượng.
Với sự hối tiếc chân thật, con sám hối những ác hạnh và vi phạm giới nguyện của con,
và hứa không làm những điều đó trong tương lai.
Con tùy hỉ năng lực công đức vô tận.
Con khẩn cầu Ngài trụ thế măi măi, không thị nhập Niết Bàn,
và liên tục chuyển Pháp luân rộng lớn, sâu xa.
Con hồi hướng công đức tích tập được để tất cả chúng sinh trong sáu loài, vô biên như không gian,
có thể nhanh chóng đạt được trạng thái của Ngài, ôi đấng cao quư siêu phàm.
Con khẩn cầu Ngài, trong mọi cuộc đời, xin ban cho con ân phước siêu việt nhất
không bao giờ ly cách với Ngài, Đấng Bi Mẫn Siêu Phàm.
Khi tôi khẩn cầu như thế trong trái tim tôi, Đức Bi Mẫn cao quư mỉm cười, khuôn mặt rạng rỡ và tôi nghe những lời sau đây, trong những âm thanh du dương dịu dàng, lời Ngài rung động tự nhiên và vang rền đi tới toàn thể mạn đà la của đoàn quyến thuộc tùy tùng:
Om mani padme hum hri.
Đạo sư của ta chính là ḷng bi mẫn siêu phàm.
Ta chính là bổn tôn hiện thân tự nhiên của ḷng bi mẫn của tất cả các Đấng Chiến Thắng.
Hoạt động giác ngộ của ta trải rộng tới mọi chúng sinh, đối tượng của ḷng bi mẫn,
và sự xót thương, ta đặc biệt chăm sóc mọi chúng sinh trong cảnh khốn cùng.
Con, con gái ta, cũng có tâm hồn bi mẫn như thế,
giờ đây may mắn được gặp ta trong cơi này.
Tất cả những ai lễ lạy và tôn kính ta với niềm tin và ḷng sùng mộ
Ta sẽ đưa dẫn tới Cơi Cục Lạc của ta, nhờ nguyện lực trước đây của ta.
Nhờ năng lực của ḷng bi mẫn của ta, những chúng sinh trong sáu trạng thái mà số lượng th́ vô biên như không gian,
và đặc biệt những người ở Tây Tạng, Xứ Tuyết,
có thể tạo mối liên hệ với ta nhờ nghe danh hiệu và lễ lạy ta với đức tin,
ta sẽ chăm sóc họ với ḷng bi mẫn, bởi ta được gọi là Mahakarunika, Đấng Bi Mẫn Siêu Phàm.
Đặc biệt những ai không có khả năng tự bảo vệ, th́ suốt trong sáu thời của ngày và đêm.
ta trông chừng họ kỹ lưỡng với ḷng bi mẫn, đôi mắt giác tánh nguyên sơ của ta không bị ngăn che.
Ta thấu hiểu tất cả họ và ban tặng những con người nhỏ bé này sự nương tựa cuối cùng từ khổ đau của họ,
bởi ta được gọi là Avalokita, Đấng có Đôi Mắt Thấu suốt.
Thiền định về thân tướng của ta, niệm danh hiệu ta, tŕ trụng tâm chú của ta,
và cử hành nghi lễ chay của ta những ai nỗ lực trong những thực hành này,
mặc dù họ từng phạm một hành vi cực kỳ tàn ác đưa tới sự quả báo lập tức vào lúc chết,
ta sẽ dẫn họ tới Cơi Cực Lạc, bởi ta được gọi là Lokeshvara, Đấng của Thế Giới.
Bởi nguyện lực kiên quyết từ lâu xa của ta là đưa dẫn không dụng công
tất cả chúng sinh nào nh́n thấy ta, nghe ta nói, tưởng nhớ tới ta, hay tiếp xúc với ta
đối với hàng ngũ thính chúng của Đức Phật Amitabha trong Cơi Cực Lạc,
các Đấng Chiến Thắng đă tuyên xưng ta là Khorwa Rangdrol, Sự Giải Thoát Tự Nhiên khỏi Luân Hồi Sinh Tử.
Than ôi! Trong những ngày cuối cùng này của Giáo Pháp của Đấng Chiến Thắng.
mặc dù ta chăm sóc chúng sinh với ḷng bi mẫn rộng lớn hơn bao giờ hết,
nhưng như thể giây cột chiếc móc bi mẫn của ta đă đứt.
Bởi năng lực ngoan cường của ác hạnh, nhiều người đă mất niềm tin và ḷng sùng mộ.
Dường như họ vuột khỏi cái nh́n bi mẫn của ta.
Giống như ánh sáng mặt trời không lọt vào hang quay về hướng bắc,
họ bị đoạt mất sự hiện diện của ta, ḷng bi mẫn hiển nhiên của tất cả các Đấng Chiến Thắng.
Trong khi ḷng bi mẫn của ta th́ không định kiến hay thiên v́,
nhưng bởi tập quán ương ngạnh của họ, những niệm tưởng không thích đáng tự bản chất,
chúng sinh cứ măi lang thang vơ vẩn trong vực sâu tăm tối của những con đường ti tiện và những trạng thái tái sanh thấp kém.
Nhận ra rằng t́nh huống của họ do họ tự tạo, lỗi lầm nằm nơi chính họ,
trong sự chăm sóc của ta, ta t́m thấy những người bơ vơ thực sự xứng đáng với ḷng bi mẫn của ta.
Thời đại trở nên tồi tệ khi bệnh tật, vũ khí và nạn đói làm họ khốn khổ;
thọ mạng của họ ngắn lại bởi ma vương bất thần mang họ đi;
ngôn ngữ của họ suy vi v́ họ trở nên lanh lợi trong việc lọc lừa người khác;
thực phẩm của họ thoái hóa bởi họ dấn ḿnh vào những cách sinh nhai tà vạy;
cái thấy của họ suy đồi bởi họ lao ḿnh xuống vực thẳm của học thuyết vĩnh hằng và hư vô.
Mặc dù bàn tay Đấng Chiến Thắng muốn ngăn họ lại, nhưng không dừng họ lại được.
Chắc chắn là họ phải chịu đau khổ trong sự thèm khát, có phải thế không?
Họ đáng thương biết bao với ác nghiệp của họ, khi theo đuổi những ǵ họ cho là lạc thú.
Giờ đây các con, Ôi dân chúng Xứ Tuyết, những kẻ tự thiêu đốt thịt da ḿnh,
bởi nỗi khổ của các con chỉ do một ḿnh các con sắp đặt, chỉ một ḿnh các con bảo đảm và chỉ khiến một ḿnh các con đau khổ,
hăy nhớ lại lỗi lầm to lớn bị che dấu đă phạm trong quá khứ, bởi nghiệp và những cảm xúc đau buồn.
Đă tới lúc để ban cho các con vài lời khuyên.
Chỉ một lần duy nhất trong quăng thời gian rất dài, các con mới có được nơi nương tựa này với sự tự do và cơ hội.
Bây giờ là lúc các con có thể gặp được các thiện tri thức cùng sự thực hành Phật Pháp linh thánh,
và những hoàn cảnh thuận lợi cùng tụ hội, hăy dùng phần đời c̣n lại của các con trong chính con đường này.
Nếu ngay lúc này các con đầm ḿnh trong vũng lầy của nghiệp hay những cảm xúc đau khổ,
các con sẽ gây nên đau khổ trong tương lai ở những trạng thái tái sanh thấp kém
là nơi mà ngay cả cơ hội để nghe danh hiệu của Tam Bảo cũng khó t́m ra.
Những thuộc hạ khiếp sợ của Yama, Thần Chết sẽ tới lúc nào các con không biết.
Mọi khi tâm thức các con đă sở hữu nơi nương tựa này,
hăy thận trọng thực hành cốt tủy của Thánh Pháp.
Phật Pháp không hiện hữu chỉ v́ lợi ích bề ngoài nhằm bảo vệ các con khỏi nỗi sợ và đáp ứng mọi ước muốn của các con;
nó không đơn thuần là sự đạo đức giả như thế, v́ vậy hăy nh́n vào tâm thức phi đạo đức của các con.
Giờ đây, khi các con đă sở hữu một nền tảng cho sự tự do trong một cơi giới đạo đức,
các con đă có những hột giống của lương tri đạo đức không lầm lạc để tích tập đức hạnh.
Hăy sử dụng ba điều – sự chánh niệm, tỉnh giác và chú tâm – là nước và phân bón của đức hạnh.
hăy thiền định về lẽ vô thường, nó làm tăng trưởng đức hạnh.
Hăy bắt đầu sự vun trồng đức hạnh với ḷng sùng mộ và nỗ lực liên tục.
Niềm tin và sự trông cậy là gốc rễ của đức hạnh.
Ḷng vị tha bi mẫn là thân của đức hạnh.
Bồ Đề tâm ước nguyện và Bồ Đề tâm thực hành là cốt lơi của đức hạnh.
Sáu sự toàn thiện (sáu ba la mật) là những nhánh và cành của đức hạnh.
Ư hướng, sự hồi hướng đức hạnh của riêng con và sự hoan hỉ trước đức hạnh của người khác là lá của đức hạnh.
Bốn phương pháp ảnh hưởng tốt đẹp tới người khác là hoa của đức hạnh.
Và tánh không và ḷng bi mẫn siêu phàm là trái của đức hạnh.
Nếu cây đức hạnh cao quư được vun trồng theo cách này,
nó sẽ đem lại những trái quả nuôi dưỡng các con và những người khác, bây giờ và măi măi;
đó là tính không thể sai lạc của sự tương thuộc của các sự việc.
Không có các phương tiện bảo vệ loài cây cao quư của những đức hạnh tích tập được,
những đức hạnh này sẽ liên tục bị phí phạm trong bardo.
Phủ nhận một cách ngu xuẩn nhân và quả, từ bỏ Giáo Pháp và làm hư hỏng giới luật tâm linh của các con là trận sương giá dữ dội giết chết đức hạnh.
Sự gây gổ, sân hận, thù hằn và ganh tị
là trận mưa đá hung tợn làm hư thối trái quả của đức hạnh.
Sự dính bám và thanh danh và lợi dưỡng, và liên tục bị mắc bẫy trong đời sống của gia chủ
là những con sâu đục khoét các con tự bên trong, cướp đoạt gốc rễ đức hạnh của các con.
Báng bổ hay sỉ vả các đạo sư và Bồ Tát
bởi sự tự phụ, kiêu căng và ngạo mạn thái quá
là một cơn khô hạn dữ dội làm hư hỏng những đức hạnh tích tập được của các con.
Hậu quả không tránh khỏi của tất cả những điều này là sự phát triển mạnh mẽ nỗi khổ;
nó là kẻ thù vĩ đại của tài sản đức hạnh mà các con đă thâu thập.
Các pháp đối trị cho những điều này là ba loại trí tuệ siêu việt,
niềm tin kiên định vào bốn phẩm tính,
sự hoan hỉ trước thành công của người khác,
sự quán chiếu sâu xa về lẽ vô thường, sự nhàm chán ṿng luân hồi sinh tử và sự từ bỏ,
sự chế ngự tánh kiêu ngạo và sự tu tập trong một quan điểm linh thánh không thành kiến.
Chớ bao giờ rời xa những lá chắn và sự bảo vệ này.
Ban đầu, được thúc đẩy bởi niềm tin, ḷng sùng mộ và ḷng bi mẫn.
Hăy giữ các giới luật tạm thời của những thệ nguyện tám nhánh.
Hăy nhất tâm trong việc từ bỏ những phóng dật thuộc ba năng lực của các con.
Bất kỳ những ǵ xuất hiện đều là sắc tướng của Avalokiteshvara, nơi Ngài tất cả các Đấng Chiến Thắng hợp nhất;
âm thanh nghe được là âm thanh của thần chú tinh túy sáu-âm;
sự vắng mặt bất kỳ cấu trúc nhận thức nền tảng nào là phạm vi hoạt động không tạo tác của Bồ Đề tâm.
Đừng bao giờ ĺa xa ba điểm trọng yếu này;
hăy liên tục tŕ tụng lớn tiếng thần chú sáu-âm – chỉ ḿnh điều đó là đủ.
Hăy cùng nhau thâu thập đức hạnh mà các con và những người khác tích tập trong ba thời,
và hăy sử dụng tất cả chúng như một nguyên nhân nhờ đó tất cả chúng sinh nhanh chóng thành tựu Phật Quả,
hăy theo gương các Đấng Chiến Thắng và những bậc kế thừa của các Ngài bằng những lời nguyện hồi hướng và ước nguyện;
chủ đề hợp nhất này giống như một dây cương dẫn dắt một con ngựa tốt.
Nếu các con nỗ lực liên tục trong bốn loại thực hành đức hạnh,
vào giờ chết, ta sẽ đưa dẫn các con trong một trạng thái cực kỳ hoan hỉ
tới cơi Cực Lạc thuần tịnh.
Hăy nói với dân chúng Tây Tạng rằng chớ có nghi ngờ điều này.
Đừng do dự! Đây là lời khuyên thương yêu và chân thành của ta.
Đừng bám chấp vào đời này; nó giống như một giấc mộng dễ chịu.
Đừng bị cám dỗ bởi cái xấu; điều ác hại mà các con có thể tự gây cho ḿnh không có sự chấm dứt.
Đừng củng cố tám ảnh hưởng thế tục; các con sẽ chỉ lừa gạt chính ḿnh.
Đừng lập ra mọi thứ kế hoạch; nhớ rằng các con có thể chết ngày mai.
Hăy kiên tŕ hiến dâng năng lực ba nhánh cho Thánh Pháp.
Đây là sự tốt lành vĩ đại nhất mà toàn thể dân chúng Tây Tạng tự họ có thể làm.
Nếu các con có một thái độ thiện lành toàn hảo như thế,
hăy liên tục tŕ tụng thần chú mani và tare
và hăy khuyến khích mọi người thực hành đức hạnh trong bất kỳ cách nào các con có thể.
Về sau, các con có thể đi tới bất cứ cơi thuần tịnh nào các con muốn.
Con không xa ĺa ta, con gái, v́ thế hăy hoan hỉ.
Nghe những lời này, tôi kinh nghiệm một niềm tin siêu phàm, hỉ lạc và để khẩn cầu Đức Bi mẫn ban phước, tôi đọc bài kệ sau:
Đức Avalokiteshvara, bất kỳ sắc tướng nào của Ngài,
bất kỳ quyến thuộc, thọ mạng và cơi thuần tịnh nào của Ngài,
và bất kỳ phẩm tính cao quư nào của Ngài,
cầu mong con và những người khác hoàn toàn giống như Ngài.
Chắp hai bàn tay lại, tôi hỏi rằng sau này tôi có được gặp lại Ngài nữa hay không. Đấng cao quư trả lời:
Những ai ǵn giữ một thái độ quan tâm với ḷng sùng mộ,
ta sẽ hiện diện trước mặt họ;
ta ban cho họ lễ quán đảnh và các ân phước.
Chớ có hoài nghi điều này, Ôi người nữ của Tara.
Tôi cảm thấy một sự xác tín lớn lao chưa từng có về sự chân thật của những lời này. Tôi nhiễu quanh các Đấng Chiến Thắng ba lần, đi xung quanh sân trong ṭa lâu đài nguy nga của Ngài trong khi đọc bài kệ sau:
Trong mọi cuộc đời, cầu mong con không bao giờ xa ĺa đạo sư, chúa tể của các đấng cao quư.
Cầu mong con vui hưởng sự tráng lệ của Giáo Pháp,
hoàn thiện các phẩm tính của con đường và cấp độ.
Cầu mong con mau chóng đạt được trạng thái của Đức Avalokiteshvara.
Ở đây tôi sẽ đưa ra một ít luận giảng dựa trên Kinh điển để làm tăng thêm vẻ đáng tin cậy cho những điều tôi vừa thuật lại.
Đức Avalokiteshvara cao quư và tôn kính biểu lộ ḷng bi mẫn của tất cả các Đấng Chiến Thắng. Hằng hà sa số kiếp về trước, chính trong thế giới này, trong một đại kiếp tên là Graha có một vị đại đế có danh hiệu là Aranemi có một ngàn người con trai. Người con trai cả tên là Animisha, là người đầu tiên phát khởi thái độ giác ngộ Bồ Đề tâm trước sự hiện diện của Đức Như Lai Ratnagarbha (Bảo Tạng Như Lai).
Có một lần với ḷng bi mẫn, Ngài nghĩ tưởng tới tất cả chúng sinh trong sáu trạng thái tái sanh, đặc biệt Ngài đă nguyện: “Cầu mong những chúng sinh không được giúp đỡ, bị lâm vào cảnh khốn khổ, đang bị trói buộc bởi luật nhân quả sẽ lập tức thoát khỏi đau khổ bằng cách nhớ tưởng tới tôi hay niệm danh hiệu của tôi. Cho tới khi tôi chấm dứt mọi nỗi khổ đau của chúng sanh, cầu mong tôi không bao giờ đạt được sự toàn giác”.
Khi Ngài đă viên măn hoạt động sâu xa và rộng lớn của Ngài, Ngài mang danh hiệu Avalokiteshvara, một Bồ Tát vĩ đại và dũng cảm. Có tiên tri rằng trong tương lai, trong cơi Sukhavati-padmapradesha, với tư cách là nhiếp chính của Đấng Chiến Thắng siêu phàm Amitabha (Đức Phật A Di Đà).
Ngài sẽ giác ngộ là Đức Như Lai Rashmisamudra-shrikutaraja và thành tựu lợi ích to lớn hơn cho chúng sinh. Phù hợp với lời nguyện được tiên tri này, Ngài làm việc thậm chí c̣n mạnh mẽ hơn v́ lợi ích của chúng sinh trong sáu loài nói chung và đặc biệt là chúng sinh ở Xứ Tuyết Tây Tạng. Như Kinh Hoa Sen Trắng của Thánh Pháp nói:
Bồ Tát Akshayamati (Bồ Tát Vô Tận Ư) kính bạch Đấng Chiến Thắng, Đức Phật Toàn Giác, Đấng Thế Tôn, hỏi rằng: “Đức Thế Tôn, v́ sao vị ấy được gọi là Avalokiteshvara?”
Đức Thế Tôn trả lời: “Chỉ nhờ nghe danh hiệu của Đức Avalokiteshvara mà vô lượng tỉ chúng sinh đang phải chịu đựng đau khổ sẽ hoàn toàn thoát khỏi những gánh nặng đau khổ không thể chịu đựng nổi. Bất kỳ khi nào chúng sinh bị đe dọa bởi lửa, nước, thuốc độc, vũ khí, thú dữ, những yêu tinh dạ xoa ác hại, ma quỷ, sự tù đày, trộm cướp v.v… họ sẽ được cứu thoát.
Họ sẽ thoát khỏi năm độc của những cảm xúc phiền năo và thoát khỏi mọi phương cách hăm hại. Nếu họ chỉ lễ lạy Ngài với đức tin trọn vẹn, tất cả những mục đích của họ không loại trừ điều nào sẽ được thành tựu tự nhiên”.
Kinh Quư báu về Dăy B́nh (Kinh Đại thừa Trang Nghiêm Bảo Vương) nói:
“Bồ Tát Nivaranavishkambhin hỏi rằng sự chói lọi mănh liệt của những năng lực kỳ diệu phi thường của Bồ tát của ḷng bi mẫn siêu phàm th́ giống điều ǵ.
Từ kim khẩu của Đức Như Lai phát ra những lời này: “Đức bi mẫn Avalokiteshvara đem chúng sinh trong các cơi địa ngục tới sự thuần thục tâm linh viên măn. Khi đă mang h́nh tướng của một vị đại đế an trụ hoàn toàn thoải mái tại một khu rừng an lạc trong thành phố của các ngạ quỷ, Ngài mang lại một sự mát mẽ dễ chịu cho những người bị hành hạ bởi lửa nóng và biến hầm lửa thành những ao sen.
“Bằng cách tung rải và phân bổ lính canh trong các địa ngục, Ngài tạo nên Thần Chết, Dharmaraja, lễ lạy và liên tục tán thán ông ta. Ngài cũng làm dịu mát thành phố các ngạ quỷ và làm yên dịu những đám mây mưa đá kim cương.
Hơn nữa, những quân lính bảo vệ kho tàng, nhận ra rằng những thái độ thô lậu của họ được thuần hóa và bắt đầu phát khởi Bồ Đề tâm. Mười con sông lớn chảy ra từ mười ngón tay và bốn mươi con sông lớn khác chảy từ mười ngón chân Ngài.
Những hạt sương chảy ra từ những lỗ chân lông của đấng có một trái tim thương yêu, nhỏ xuống những ngạ quỷ. Chỉ nhờ nếm những giọt sương này mà cổ họng của họ được nghỉ ngơi, thân họ trở nên mạnh mẽ và toàn hảo, và họ được thỏa măn với thực phẩm hàng trăm vị của các vị trời.
Đức hạnh của những hành giả của Pháp đang cư ngụ trên trái đất khiến cho các ngạ quỷ hết sức hỉ lạc trong Giáo Pháp và Pháp âm Đại thừa xuất hiện trong cơi giới của họ.
Vào lúc này, hai mươi ngọn núi sừng sững của quan điểm hư vô bị chày kim cương giác tánh nguyên sơ đập tan tành, rồi những ngạ quỷ này được tái sanh trong Cơi Cực Lạc, ở đó họ trở thành các Bồ Tát phù hợp với ước nguyện của họ và được dẫn dắt tới sự thuần thục.
“Theo cách này, mỗi ngày Ngài đưa hàng tỉ không thể tính đếm chúng sinh tới sự viên măn. Đó là sự xác quyết của Đức Avalokiteshvara mà ngay cả các Đức Như Lai vẫn c̣n thiếu”.
V́ lợi ích của những người được thuần phục, tùy theo tánh khí, năng lực và động lực của riêng họ, trong sáu thời ngày và đêm, Đức Avalokiteshvara hiện thân làm chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn (shravaka), Phật Độc Giác (pratyekabuddha).
Các vị trời, các nhạc sĩ cơi trời, các yêu tinh dạ xoa (yaksha), Ishvara, Maheshvara, các vị đại đế, những quỷ ma khát máu, chúng sinh với thân tướng siêu phàm, những người Bà La Môn, và Đức Vajrapani (Kim Cương Thủ) và giảng dạy Pháp.
Hơn nữa thậm chí chỉ gọi tên Ngài một lần th́ cũng như niệm danh hiệu chư Phật với số lần nhiều như cát sông Hằng. Tương tự như vậy, tô tạo một pho tượng Đức Avalokiteshvara th́ ngang bằng việc tô tạo những h́nh tượng của tất cả chư Phật và Bồ Tát đă xuất hiện, đang và sẽ xuất hiện trong ba thời.
Thiền định trong một ngày về thân tướng của Đức cao quư Avalokiteshvara th́ có công đức to lớn hơn việc thực hành sáu sự toàn thiện (sáu ba la mật) trong một năm. Đây là một vài trong số những phẩm tính không thể nghĩ bàn của Bồ Tát.
Về những lợi ích và thuận lợi của việc tŕ tụng dharani của Đức Avalokiteshvara mười một mặt, ta được biết là cuối cùng th́ hành giả sẽ hoàn toàn làm chủ bốn phẩm tính tốt: Vào lúc chết, hành giả sẽ được thấy các Đức Như Lai; hành giả sẽ không tái sinh nơi các cơi thấp; sẽ không gặp cái chết khủng khiếp; và sau khi chết ở thế giới này, hành giả sẽ được tái sanh trong Cơi Cực Lạc.
Nhờ sáu-âm của thần chú mani, tất cả các Kinh điển của Phật Pháp được đúc kết; mọi bệnh tật, mọi thế lực xấu và những chướng ngại đều bị xua tan; hành giả đạt được vô số phẩm tính tích cực như sự trường thọ và thoát khỏi bệnh tật; nỗi khổ của chúng sinh trong sáu loài được làm yên dịu; và các kaya (thân) của sáu Đấng Chiến Thắng được thành tựu.
Tóm lại, chỉ cần nh́n, nghe, nhớ tưởng, hay xúc chạm sáu âm này là đă gieo trồng hạt giống của sự giác ngộ. Mọi che chướng đều được tịnh hóa nhanh chóng và hành giả ngăn ngừa được sự tái sanh nơi các cơi thấp. Sau khi trải qua một loạt những tái sanh cao quư trong các cơi cao, hành giả nhanh chóng đạt được giác ngộ viên măn.
Chỉ cử hành nghi thức chay của Đấng Bi Mẫn Siêu Phàm một lần, hành giả giải trừ được bốn mươi ngàn kiếp lang thang trong luân hồi sinh tử và tịnh hóa tất cả các nghiệp và che chướng do những hành động như năm hành vi đưa tới quả báo trực tiếp.
Khi hoàn thiện tất cả những phẩm tính tích cực của sáu sự toàn thiện, hành giả an trú trong cấp độ của một Bồ Tát bất thối chuyển. Những người nữ cũng thế, những ai cử hành dù chỉ một lần duy nhất nghi thức chay này, khi chết sẽ được tái sanh như những Bồ Tát chứng ngộ cao cấp và quay trở lại ṿng luân hồi sinh tử.
Sự thực hành của thân hành giả trong nghi thức chay khiến tịnh hóa các che chướng thuộc thân, và hành giả không bị tái sanh làm một ngạ quỷ. Việc tự chế sự nói năng bằng lời nguyện giữ yên lặng tịnh hóa các chướng thuộc ngữ, và hành giả sẽ không bị tái sanh làm một súc sinh.
Sự tŕ tụng đà ra ni trong tâm tịnh hóa các che chướng thuộc về tâm và đóng lại cánh cửa dẫn tới tái sanh trong các cơi địa ngục. Như vậy, sử dụng ba phương pháp giữ ǵn thân, khẩu và ư trong sự tỉnh giác sống động, hành giả nhanh chóng thoát khỏi luân hồi.
Phục vụ ngũ cốc nóng cho các hành giả ăn điểm tâm sáng theo nghi lễ th́ tương đương với việc phục vụ một Bồ Tát đệ bát địa; phục vụ một người chỉ thọ xuất gia tạm thời th́ tương đương với việc phụng sự một vị A La Hán (arhat).
Một người bảo trợ cho một nghi thức chay như thế sẽ không bị tái sanh trong bacơi thấp, mà sẽ được phú cho thái độ giác ngộ của Bồ Đề tâm, được hưởng một sự may mắn vô tận trong mọi sự tái sanh, hoàn thiện phẩm tính của sự bố thí và nhanh chóng đạt được giác ngộ.
Bởi những ích lợi này và những lợi lạc không thể nghĩ bàn khác, trong sự t́m kiếm đức hạnh hoàn toàn thanh tịnh, hăy hoan hỉ và nỗ lực ngày lẫn đêm không xao lăng, được thúc đẩy bởi ḷng vị tha, niềm tin và ḷng sùng mộ mănh liệt và quả quyết.
Nếu các bạn sống những ngày c̣n lại của đời ḿnh thật là ư nghĩa, các bạn sẽ bảo đảm được hạnh phúc của riêng các bạn và những người khác.
Sự thật này đă được xác nhận bởi ngữ chân thật của các Đấng Chiến Thắng, kinh nghiệm của tất cả những bậc trưởng thượng tâm linh vĩ đại và sự kiểm chứng trực tiếp của giác tánh nội tại của chính hành giả và những công đức của sự theo đuổi của các bạn với ư hướng sùng mộ.
Khởi hành thật đúng đắn, các bạn sẽ thoát khỏi nỗi sợ chết và sợ tái sanh, nếu không được như thế th́ các bạn sẽ có được sự xác tín để gặp gỡ cái chết một cách hoan hỉ; ít nhất th́ các bạn sẽ chết mà không sợ hăi hay hối tiếc.
Tôi chắp tay và cầu nguyện tận đáy ḷng rằng tất cả các bạn sẽ có thể thực hiện được điều này. Tôi luôn khẩn nài các bạn hăy giải thoát tâm thức ḿnh khỏi sự do dự và giữ vững sự trung thực trong công cuộc nỗ lực đầy ư nghĩa này.
May mắn, may mắn, may mắn!
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 404 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 5:18pm | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH TỚI CÁC CƠI BÊN KIA CÁI CHẾT
3- NÚI POTALACƠI THUẦN TỊNH CỦA ĐỨC AVALOKITESHVARA
Kính lễ Đấng Bi Mẫn Siêu Việt,
Avalokiteshvara, kho tàng vĩ đại của ḷng bi mẫn.
Mặc dù cô gái này không thể nói như cô nên nói, tôi có nên thuật lại cho các bạn một tường thuật ngắn về núi Potala hay không?
Cơi giới được gọi là núi Potala nằm ở phía đông nam của Bodh Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng) ở Ấn Độ. Toàn thể vùng này phủ đầy những bông hoa tươi đẹp và những cây như ư bằng châu báu đâm chồi nẩy lộc ở đó.
Những con suối sủi bọ cam lồ và những đàn chim véo von tuyên thuyết Giáo Pháp. Mọi người đều sinh ra từ những bông hoa và không có sự thay đổi theo mùa từ hạ sang đông. Ngay cả ư niệm về sự đau khổ cũng không có, trong khi kinh nghiệm về hỉ lạc và hạnh phúc th́ vô biên.
Các Bồ Tát nam và nữ là những bậc đă đạt một cấp độ chứng ngộ vững chắc vui hưởng thực phẩm.
Tuyệt vời một trăm vị, mặc y phục bằng vải sắc cầu vồng và uống cam lồ của các vị trời. Các ngài đă thoát khỏi sinh, lăo, bệnh, tử, phụng sự các Đức Tathagata và nghe Giáo Pháp từ chính Đấng Bi Mẫn Siêu Việt. Ḍng tâm thức các ngài được giải thoát nhờ ḷng bi mẫn vô biên của các ngài. Các ngài tắm trong những cái hồ đầy nước có tám phẩm tính.
Ở đây tôi t́m thấy một ṭa lâu đài đẹp tuyệt vời, tự xuất hiện và h́nh thành tự nhiên, tường làm bằng năm lớp riêng biệt. Nó trong mờ cả trong lẫn ngoài, được nâng đỡ bằng một ngàn cây cột pha lê và tráng lệ nhờ những đá mài bằng châu báu.
Nó được tô điểm bởi những cái rèm ánh sáng cầu vồng, như thể được thắp sáng bởi một ngàn mặt trời và mặt trăng. Những đà tường làm bằng lam ngọc, đầu tường bằng san hô, những bậc thang bằng ngọc trai. Vây quanh dinh thự làm bằng năm loại châu báu này là một bậc thềm thấp bằng hồng ngọc, trên đó nhiều ngàn thiên nữ cúng dường nhảy múa vui đùa.
Phía trên là một mái ṿm bằng vàng, với những chiếc dù bằng lụa trắng và một Pháp luân có nai quỳ gối và lắng nghe ở hai bên. Ở bốn bên của lâu đài là những đầu máng xối có đầu makara những sợi dây bằng ngọc trai treo từ miệng chúng với những cái chuông và chuông chùm nhỏ xíu phát ra những âm thanh thú vị.
Bốn phía của ṭa lâu đài được trang trí bằng bốn cửa. Tôi đi vào cửa phía tây và gặp một thiên nữ giác tánh nguyên sơ. Đi sâu vào trong, tôi thấy vô số của cải và những thú vui cảm giác, như thể đang ở trong một ảo giác. Vô số những đống vật cúng dường được sắp xếp, thậm chí c̣n vượt hơn cả của cải của những đại thiên trong cơi trời Nirmanarati.
Ở giữa những thứ này, trên một hoa sen trắng trăm ngàn cánh mở ra, là Đức Avalokiteshvara cao quư, bậc điều ngự bi mẫn siêu việt của chúng sinh, với vẻ tươi trẻ của một thiếu niên mười sáu tuổi. Thân Ngài có sắc trắng chói lọi, một mặt và bốn tay.
Đôi tay thứ nhất cầm một viên ngọc trong hai bàn tay chắp lại nơi tim, bàn tay phải của đôi tay thứ hai cầm một chuỗi hạt pha lê và bàn tay trái cầm một cành huệ trắng nở hoa cạnh tai Ngài. Tôi bị thu hút bởi những tướng chính và phụ trên thân tướng toàn hảo của Ngài.
Ngài mặc y phục bằng lụa và những vật trang sức bằng những châu báu khác nhau, trên vai choàng bộ da của một linh dương krisnasaranga trùm qua phía trái ngực. Ngài ngồi chéo chân trong tư thế kim cương, thân Ngài sáng chói lọi với vô số tia sáng. Trong tâm tôi, Ngài không khác với ngài Drimed Khakyod Wangpo, bổn sư gốc của tôi.
Bên phải Đức Avalokiteshvara là Manidhara, Bậc nắm giữ Viên Ngọc, trưởng tử siêu phàm của Ngài; bên trái là con gái Ngài, Vidyadhari, Bậc nắm giữ Thần chú của Giác tánh; phía sau Ngài là Đấng bảo trợ, Đức Phật Amitabha; và trước mặt Ngài là vị phối ngẫu siêu phàm của Ngài, Đức Shadakshari, thiên nữ của Thần chú Sáu-Âm.
Quyến thuộc tùy tùng của Ngài chỉ gồm những bậc trưởng thượng tâm linh là những vị đă đạt những cấp độ chứng ngộ cao quư, tập hội không thể nghĩ bàn của chư Phật và Bồ Tát.
Đức Tara, bạn đồng hành của tôi nói:
Cung điện này là một xứ sở được tô điểm bằng hoa.
Cơi giới này là một lâu đài quư báu rộng lớn vô biên.
Bổn tôn này là bổn tôn của ḷng bi mẫn của tất cả các Đấng Chiến Thắng.
Quyến thuộc này là một đoàn tùy tùng gồm các Bồ tát nam và nữ.
Con, cô gái may mắn, nên thực hiện những sự lễ lạy và cúng dường với ḷng sùng mộ.
Hăy tụng đọc những lời khẩn cầu ước nguyện để có một liên hệ nghiệp tích cực.
Ḷng tôi tràn ngập sự kính sợ và hoan hỉ, và bắt đầu lễ lạy, khẩn cầu. Tôi nói:
Đức Avalokiteshvara Bi Mẫn,
phóng ra những tia bi mẫn khắp mười phương,
con đảnh lễ Ngài, đấng không ly cách với đạo sư siêu phàm của con và không ly cách với quyến thuộc của Ngài.
Con cúng dường tập hợp những vật cúng dường vô song, thực có và tưởng tượng.
Với sự hối tiếc chân thật, con sám hối những ác hạnh và vi phạm giới nguyện của con,
và hứa không làm những điều đó trong tương lai.
Con tùy hỉ năng lực công đức vô tận.
Con khẩn cầu Ngài trụ thế măi măi, không thị nhập Niết Bàn,
và liên tục chuyển Pháp luân rộng lớn, sâu xa.
Con hồi hướng công đức tích tập được để tất cả chúng sinh trong sáu loài, vô biên như không gian,
có thể nhanh chóng đạt được trạng thái của Ngài, ôi đấng cao quư siêu phàm.
Con khẩn cầu Ngài, trong mọi cuộc đời, xin ban cho con ân phước siêu việt nhất
không bao giờ ly cách với Ngài, Đấng Bi Mẫn Siêu Phàm.
Khi tôi khẩn cầu như thế trong trái tim tôi, Đức Bi Mẫn cao quư mỉm cười, khuôn mặt rạng rỡ và tôi nghe những lời sau đây, trong những âm thanh du dương dịu dàng, lời Ngài rung động tự nhiên và vang rền đi tới toàn thể mạn đà la của đoàn quyến thuộc tùy tùng:
Om mani padme hum hri.
Đạo sư của ta chính là ḷng bi mẫn siêu phàm.
Ta chính là bổn tôn hiện thân tự nhiên của ḷng bi mẫn của tất cả các Đấng Chiến Thắng.
Hoạt động giác ngộ của ta trải rộng tới mọi chúng sinh, đối tượng của ḷng bi mẫn,
và sự xót thương, ta đặc biệt chăm sóc mọi chúng sinh trong cảnh khốn cùng.
Con, con gái ta, cũng có tâm hồn bi mẫn như thế,
giờ đây may mắn được gặp ta trong cơi này.
Tất cả những ai lễ lạy và tôn kính ta với niềm tin và ḷng sùng mộ
Ta sẽ đưa dẫn tới Cơi Cục Lạc của ta, nhờ nguyện lực trước đây của ta.
Nhờ năng lực của ḷng bi mẫn của ta, những chúng sinh trong sáu trạng thái mà số lượng th́ vô biên như không gian,
và đặc biệt những người ở Tây Tạng, Xứ Tuyết,
có thể tạo mối liên hệ với ta nhờ nghe danh hiệu và lễ lạy ta với đức tin,
ta sẽ chăm sóc họ với ḷng bi mẫn, bởi ta được gọi là Mahakarunika, Đấng Bi Mẫn Siêu Phàm.
Đặc biệt những ai không có khả năng tự bảo vệ, th́ suốt trong sáu thời của ngày và đêm.
ta trông chừng họ kỹ lưỡng với ḷng bi mẫn, đôi mắt giác tánh nguyên sơ của ta không bị ngăn che.
Ta thấu hiểu tất cả họ và ban tặng những con người nhỏ bé này sự nương tựa cuối cùng từ khổ đau của họ,
bởi ta được gọi là Avalokita, Đấng có Đôi Mắt Thấu suốt.
Thiền định về thân tướng của ta, niệm danh hiệu ta, tŕ trụng tâm chú của ta,
và cử hành nghi lễ chay của ta những ai nỗ lực trong những thực hành này,
mặc dù họ từng phạm một hành vi cực kỳ tàn ác đưa tới sự quả báo lập tức vào lúc chết,
ta sẽ dẫn họ tới Cơi Cực Lạc, bởi ta được gọi là Lokeshvara, Đấng của Thế Giới.
Bởi nguyện lực kiên quyết từ lâu xa của ta là đưa dẫn không dụng công
tất cả chúng sinh nào nh́n thấy ta, nghe ta nói, tưởng nhớ tới ta, hay tiếp xúc với ta
đối với hàng ngũ thính chúng của Đức Phật Amitabha trong Cơi Cực Lạc,
các Đấng Chiến Thắng đă tuyên xưng ta là Khorwa Rangdrol, Sự Giải Thoát Tự Nhiên khỏi Luân Hồi Sinh Tử.
Than ôi! Trong những ngày cuối cùng này của Giáo Pháp của Đấng Chiến Thắng.
mặc dù ta chăm sóc chúng sinh với ḷng bi mẫn rộng lớn hơn bao giờ hết,
nhưng như thể giây cột chiếc móc bi mẫn của ta đă đứt.
Bởi năng lực ngoan cường của ác hạnh, nhiều người đă mất niềm tin và ḷng sùng mộ.
Dường như họ vuột khỏi cái nh́n bi mẫn của ta.
Giống như ánh sáng mặt trời không lọt vào hang quay về hướng bắc,
họ bị đoạt mất sự hiện diện của ta, ḷng bi mẫn hiển nhiên của tất cả các Đấng Chiến Thắng.
Trong khi ḷng bi mẫn của ta th́ không định kiến hay thiên v́,
nhưng bởi tập quán ương ngạnh của họ, những niệm tưởng không thích đáng tự bản chất,
chúng sinh cứ măi lang thang vơ vẩn trong vực sâu tăm tối của những con đường ti tiện và những trạng thái tái sanh thấp kém.
Nhận ra rằng t́nh huống của họ do họ tự tạo, lỗi lầm nằm nơi chính họ,
trong sự chăm sóc của ta, ta t́m thấy những người bơ vơ thực sự xứng đáng với ḷng bi mẫn của ta.
Thời đại trở nên tồi tệ khi bệnh tật, vũ khí và nạn đói làm họ khốn khổ;
thọ mạng của họ ngắn lại bởi ma vương bất thần mang họ đi;
ngôn ngữ của họ suy vi v́ họ trở nên lanh lợi trong việc lọc lừa người khác;
thực phẩm của họ thoái hóa bởi họ dấn ḿnh vào những cách sinh nhai tà vạy;
cái thấy của họ suy đồi bởi họ lao ḿnh xuống vực thẳm của học thuyết vĩnh hằng và hư vô.
Mặc dù bàn tay Đấng Chiến Thắng muốn ngăn họ lại, nhưng không dừng họ lại được.
Chắc chắn là họ phải chịu đau khổ trong sự thèm khát, có phải thế không?
Họ đáng thương biết bao với ác nghiệp của họ, khi theo đuổi những ǵ họ cho là lạc thú.
Giờ đây các con, Ôi dân chúng Xứ Tuyết, những kẻ tự thiêu đốt thịt da ḿnh,
bởi nỗi khổ của các con chỉ do một ḿnh các con sắp đặt, chỉ một ḿnh các con bảo đảm và chỉ khiến một ḿnh các con đau khổ,
hăy nhớ lại lỗi lầm to lớn bị che dấu đă phạm trong quá khứ, bởi nghiệp và những cảm xúc đau buồn.
Đă tới lúc để ban cho các con vài lời khuyên.
Chỉ một lần duy nhất trong quăng thời gian rất dài, các con mới có được nơi nương tựa này với sự tự do và cơ hội.
Bây giờ là lúc các con có thể gặp được các thiện tri thức cùng sự thực hành Phật Pháp linh thánh,
và những hoàn cảnh thuận lợi cùng tụ hội, hăy dùng phần đời c̣n lại của các con trong chính con đường này.
Nếu ngay lúc này các con đầm ḿnh trong vũng lầy của nghiệp hay những cảm xúc đau khổ,
các con sẽ gây nên đau khổ trong tương lai ở những trạng thái tái sanh thấp kém
là nơi mà ngay cả cơ hội để nghe danh hiệu của Tam Bảo cũng khó t́m ra.
Những thuộc hạ khiếp sợ của Yama, Thần Chết sẽ tới lúc nào các con không biết.
Mọi khi tâm thức các con đă sở hữu nơi nương tựa này,
hăy thận trọng thực hành cốt tủy của Thánh Pháp.
Phật Pháp không hiện hữu chỉ v́ lợi ích bề ngoài nhằm bảo vệ các con khỏi nỗi sợ và đáp ứng mọi ước muốn của các con;
nó không đơn thuần là sự đạo đức giả như thế, v́ vậy hăy nh́n vào tâm thức phi đạo đức của các con.
Giờ đây, khi các con đă sở hữu một nền tảng cho sự tự do trong một cơi giới đạo đức,
các con đă có những hột giống của lương tri đạo đức không lầm lạc để tích tập đức hạnh.
Hăy sử dụng ba điều – sự chánh niệm, tỉnh giác và chú tâm – là nước và phân bón của đức hạnh.
hăy thiền định về lẽ vô thường, nó làm tăng trưởng đức hạnh.
Hăy bắt đầu sự vun trồng đức hạnh với ḷng sùng mộ và nỗ lực liên tục.
Niềm tin và sự trông cậy là gốc rễ của đức hạnh.
Ḷng vị tha bi mẫn là thân của đức hạnh.
Bồ Đề tâm ước nguyện và Bồ Đề tâm thực hành là cốt lơi của đức hạnh.
Sáu sự toàn thiện (sáu ba la mật) là những nhánh và cành của đức hạnh.
Ư hướng, sự hồi hướng đức hạnh của riêng con và sự hoan hỉ trước đức hạnh của người khác là lá của đức hạnh.
Bốn phương pháp ảnh hưởng tốt đẹp tới người khác là hoa của đức hạnh.
Và tánh không và ḷng bi mẫn siêu phàm là trái của đức hạnh.
Nếu cây đức hạnh cao quư được vun trồng theo cách này,
nó sẽ đem lại những trái quả nuôi dưỡng các con và những người khác, bây giờ và măi măi;
đó là tính không thể sai lạc của sự tương thuộc của các sự việc.
Không có các phương tiện bảo vệ loài cây cao quư của những đức hạnh tích tập được,
những đức hạnh này sẽ liên tục bị phí phạm trong bardo.
Phủ nhận một cách ngu xuẩn nhân và quả, từ bỏ Giáo Pháp và làm hư hỏng giới luật tâm linh của các con là trận sương giá dữ dội giết chết đức hạnh.
Sự gây gổ, sân hận, thù hằn và ganh tị
là trận mưa đá hung tợn làm hư thối trái quả của đức hạnh.
Sự dính bám và thanh danh và lợi dưỡng, và liên tục bị mắc bẫy trong đời sống của gia chủ
là những con sâu đục khoét các con tự bên trong, cướp đoạt gốc rễ đức hạnh của các con.
Báng bổ hay sỉ vả các đạo sư và Bồ Tát
bởi sự tự phụ, kiêu căng và ngạo mạn thái quá
là một cơn khô hạn dữ dội làm hư hỏng những đức hạnh tích tập được của các con.
Hậu quả không tránh khỏi của tất cả những điều này là sự phát triển mạnh mẽ nỗi khổ;
nó là kẻ thù vĩ đại của tài sản đức hạnh mà các con đă thâu thập.
Các pháp đối trị cho những điều này là ba loại trí tuệ siêu việt,
niềm tin kiên định vào bốn phẩm tính,
sự hoan hỉ trước thành công của người khác,
sự quán chiếu sâu xa về lẽ vô thường, sự nhàm chán ṿng luân hồi sinh tử và sự từ bỏ,
sự chế ngự tánh kiêu ngạo và sự tu tập trong một quan điểm linh thánh không thành kiến.
Chớ bao giờ rời xa những lá chắn và sự bảo vệ này.
Ban đầu, được thúc đẩy bởi niềm tin, ḷng sùng mộ và ḷng bi mẫn.
Hăy giữ các giới luật tạm thời của những thệ nguyện tám nhánh.
Hăy nhất tâm trong việc từ bỏ những phóng dật thuộc ba năng lực của các con.
Bất kỳ những ǵ xuất hiện đều là sắc tướng của Avalokiteshvara, nơi Ngài tất cả các Đấng Chiến Thắng hợp nhất;
âm thanh nghe được là âm thanh của thần chú tinh túy sáu-âm;
sự vắng mặt bất kỳ cấu trúc nhận thức nền tảng nào là phạm vi hoạt động không tạo tác của Bồ Đề tâm.
Đừng bao giờ ĺa xa ba điểm trọng yếu này;
hăy liên tục tŕ tụng lớn tiếng thần chú sáu-âm – chỉ ḿnh điều đó là đủ.
Hăy cùng nhau thâu thập đức hạnh mà các con và những người khác tích tập trong ba thời,
và hăy sử dụng tất cả chúng như một nguyên nhân nhờ đó tất cả chúng sinh nhanh chóng thành tựu Phật Quả,
hăy theo gương các Đấng Chiến Thắng và những bậc kế thừa của các Ngài bằng những lời nguyện hồi hướng và ước nguyện;
chủ đề hợp nhất này giống như một dây cương dẫn dắt một con ngựa tốt.
Nếu các con nỗ lực liên tục trong bốn loại thực hành đức hạnh,
vào giờ chết, ta sẽ đưa dẫn các con trong một trạng thái cực kỳ hoan hỉ
tới cơi Cực Lạc thuần tịnh.
Hăy nói với dân chúng Tây Tạng rằng chớ có nghi ngờ điều này.
Đừng do dự! Đây là lời khuyên thương yêu và chân thành của ta.
Đừng bám chấp vào đời này; nó giống như một giấc mộng dễ chịu.
Đừng bị cám dỗ bởi cái xấu; điều ác hại mà các con có thể tự gây cho ḿnh không có sự chấm dứt.
Đừng củng cố tám ảnh hưởng thế tục; các con sẽ chỉ lừa gạt chính ḿnh.
Đừng lập ra mọi thứ kế hoạch; nhớ rằng các con có thể chết ngày mai.
Hăy kiên tŕ hiến dâng năng lực ba nhánh cho Thánh Pháp.
Đây là sự tốt lành vĩ đại nhất mà toàn thể dân chúng Tây Tạng tự họ có thể làm.
Nếu các con có một thái độ thiện lành toàn hảo như thế,
hăy liên tục tŕ tụng thần chú mani và tare
và hăy khuyến khích mọi người thực hành đức hạnh trong bất kỳ cách nào các con có thể.
Về sau, các con có thể đi tới bất cứ cơi thuần tịnh nào các con muốn.
Con không xa ĺa ta, con gái, v́ thế hăy hoan hỉ.
Nghe những lời này, tôi kinh nghiệm một niềm tin siêu phàm, hỉ lạc và để khẩn cầu Đức Bi mẫn ban phước, tôi đọc bài kệ sau:
Đức Avalokiteshvara, bất kỳ sắc tướng nào của Ngài,
bất kỳ quyến thuộc, thọ mạng và cơi thuần tịnh nào của Ngài,
và bất kỳ phẩm tính cao quư nào của Ngài,
cầu mong con và những người khác hoàn toàn giống như Ngài.
Chắp hai bàn tay lại, tôi hỏi rằng sau này tôi có được gặp lại Ngài nữa hay không. Đấng cao quư trả lời:
Những ai ǵn giữ một thái độ quan tâm với ḷng sùng mộ,
ta sẽ hiện diện trước mặt họ;
ta ban cho họ lễ quán đảnh và các ân phước.
Chớ có hoài nghi điều này, Ôi người nữ của Tara.
Tôi cảm thấy một sự xác tín lớn lao chưa từng có về sự chân thật của những lời này. Tôi nhiễu quanh các Đấng Chiến Thắng ba lần, đi xung quanh sân trong ṭa lâu đài nguy nga của Ngài trong khi đọc bài kệ sau:
Trong mọi cuộc đời, cầu mong con không bao giờ xa ĺa đạo sư, chúa tể của các đấng cao quư.
Cầu mong con vui hưởng sự tráng lệ của Giáo Pháp,
hoàn thiện các phẩm tính của con đường và cấp độ.
Cầu mong con mau chóng đạt được trạng thái của Đức Avalokiteshvara.
Ở đây tôi sẽ đưa ra một ít luận giảng dựa trên Kinh điển để làm tăng thêm vẻ đáng tin cậy cho những điều tôi vừa thuật lại.
Đức Avalokiteshvara cao quư và tôn kính biểu lộ ḷng bi mẫn của tất cả các Đấng Chiến Thắng. Hằng hà sa số kiếp về trước, chính trong thế giới này, trong một đại kiếp tên là Graha có một vị đại đế có danh hiệu là Aranemi có một ngàn người con trai. Người con trai cả tên là Animisha, là người đầu tiên phát khởi thái độ giác ngộ Bồ Đề tâm trước sự hiện diện của Đức Như Lai Ratnagarbha (Bảo Tạng Như Lai).
Có một lần với ḷng bi mẫn, Ngài nghĩ tưởng tới tất cả chúng sinh trong sáu trạng thái tái sanh, đặc biệt Ngài đă nguyện: “Cầu mong những chúng sinh không được giúp đỡ, bị lâm vào cảnh khốn khổ, đang bị trói buộc bởi luật nhân quả sẽ lập tức thoát khỏi đau khổ bằng cách nhớ tưởng tới tôi hay niệm danh hiệu của tôi. Cho tới khi tôi chấm dứt mọi nỗi khổ đau của chúng sanh, cầu mong tôi không bao giờ đạt được sự toàn giác”.
Khi Ngài đă viên măn hoạt động sâu xa và rộng lớn của Ngài, Ngài mang danh hiệu Avalokiteshvara, một Bồ Tát vĩ đại và dũng cảm. Có tiên tri rằng trong tương lai, trong cơi Sukhavati-padmapradesha, với tư cách là nhiếp chính của Đấng Chiến Thắng siêu phàm Amitabha (Đức Phật A Di Đà).
Ngài sẽ giác ngộ là Đức Như Lai Rashmisamudra-shrikutaraja và thành tựu lợi ích to lớn hơn cho chúng sinh. Phù hợp với lời nguyện được tiên tri này, Ngài làm việc thậm chí c̣n mạnh mẽ hơn v́ lợi ích của chúng sinh trong sáu loài nói chung và đặc biệt là chúng sinh ở Xứ Tuyết Tây Tạng. Như Kinh Hoa Sen Trắng của Thánh Pháp nói:
Bồ Tát Akshayamati (Bồ Tát Vô Tận Ư) kính bạch Đấng Chiến Thắng, Đức Phật Toàn Giác, Đấng Thế Tôn, hỏi rằng: “Đức Thế Tôn, v́ sao vị ấy được gọi là Avalokiteshvara?”
Đức Thế Tôn trả lời: “Chỉ nhờ nghe danh hiệu của Đức Avalokiteshvara mà vô lượng tỉ chúng sinh đang phải chịu đựng đau khổ sẽ hoàn toàn thoát khỏi những gánh nặng đau khổ không thể chịu đựng nổi. Bất kỳ khi nào chúng sinh bị đe dọa bởi lửa, nước, thuốc độc, vũ khí, thú dữ, những yêu tinh dạ xoa ác hại, ma quỷ, sự tù đày, trộm cướp v.v… họ sẽ được cứu thoát.
Họ sẽ thoát khỏi năm độc của những cảm xúc phiền năo và thoát khỏi mọi phương cách hăm hại. Nếu họ chỉ lễ lạy Ngài với đức tin trọn vẹn, tất cả những mục đích của họ không loại trừ điều nào sẽ được thành tựu tự nhiên”.
Kinh Quư báu về Dăy B́nh (Kinh Đại thừa Trang Nghiêm Bảo Vương) nói:
“Bồ Tát Nivaranavishkambhin hỏi rằng sự chói lọi mănh liệt của những năng lực kỳ diệu phi thường của Bồ tát của ḷng bi mẫn siêu phàm th́ giống điều ǵ.
Từ kim khẩu của Đức Như Lai phát ra những lời này: “Đức bi mẫn Avalokiteshvara đem chúng sinh trong các cơi địa ngục tới sự thuần thục tâm linh viên măn. Khi đă mang h́nh tướng của một vị đại đế an trụ hoàn toàn thoải mái tại một khu rừng an lạc trong thành phố của các ngạ quỷ, Ngài mang lại một sự mát mẽ dễ chịu cho những người bị hành hạ bởi lửa nóng và biến hầm lửa thành những ao sen.
“Bằng cách tung rải và phân bổ lính canh trong các địa ngục, Ngài tạo nên Thần Chết, Dharmaraja, lễ lạy và liên tục tán thán ông ta. Ngài cũng làm dịu mát thành phố các ngạ quỷ và làm yên dịu những đám mây mưa đá kim cương.
Hơn nữa, những quân lính bảo vệ kho tàng, nhận ra rằng những thái độ thô lậu của họ được thuần hóa và bắt đầu phát khởi Bồ Đề tâm. Mười con sông lớn chảy ra từ mười ngón tay và bốn mươi con sông lớn khác chảy từ mười ngón chân Ngài.
Những hạt sương chảy ra từ những lỗ chân lông của đấng có một trái tim thương yêu, nhỏ xuống những ngạ quỷ. Chỉ nhờ nếm những giọt sương này mà cổ họng của họ được nghỉ ngơi, thân họ trở nên mạnh mẽ và toàn hảo, và họ được thỏa măn với thực phẩm hàng trăm vị của các vị trời.
Đức hạnh của những hành giả của Pháp đang cư ngụ trên trái đất khiến cho các ngạ quỷ hết sức hỉ lạc trong Giáo Pháp và Pháp âm Đại thừa xuất hiện trong cơi giới của họ.
Vào lúc này, hai mươi ngọn núi sừng sững của quan điểm hư vô bị chày kim cương giác tánh nguyên sơ đập tan tành, rồi những ngạ quỷ này được tái sanh trong Cơi Cực Lạc, ở đó họ trở thành các Bồ Tát phù hợp với ước nguyện của họ và được dẫn dắt tới sự thuần thục.
“Theo cách này, mỗi ngày Ngài đưa hàng tỉ không thể tính đếm chúng sinh tới sự viên măn. Đó là sự xác quyết của Đức Avalokiteshvara mà ngay cả các Đức Như Lai vẫn c̣n thiếu”.
V́ lợi ích của những người được thuần phục, tùy theo tánh khí, năng lực và động lực của riêng họ, trong sáu thời ngày và đêm, Đức Avalokiteshvara hiện thân làm chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn (shravaka), Phật Độc Giác (pratyekabuddha).
Các vị trời, các nhạc sĩ cơi trời, các yêu tinh dạ xoa (yaksha), Ishvara, Maheshvara, các vị đại đế, những quỷ ma khát máu, chúng sinh với thân tướng siêu phàm, những người Bà La Môn, và Đức Vajrapani (Kim Cương Thủ) và giảng dạy Pháp.
Hơn nữa thậm chí chỉ gọi tên Ngài một lần th́ cũng như niệm danh hiệu chư Phật với số lần nhiều như cát sông Hằng. Tương tự như vậy, tô tạo một pho tượng Đức Avalokiteshvara th́ ngang bằng việc tô tạo những h́nh tượng của tất cả chư Phật và Bồ Tát đă xuất hiện, đang và sẽ xuất hiện trong ba thời.
Thiền định trong một ngày về thân tướng của Đức cao quư Avalokiteshvara th́ có công đức to lớn hơn việc thực hành sáu sự toàn thiện (sáu ba la mật) trong một năm. Đây là một vài trong số những phẩm tính không thể nghĩ bàn của Bồ Tát.
Về những lợi ích và thuận lợi của việc tŕ tụng dharani của Đức Avalokiteshvara mười một mặt, ta được biết là cuối cùng th́ hành giả sẽ hoàn toàn làm chủ bốn phẩm tính tốt: Vào lúc chết, hành giả sẽ được thấy các Đức Như Lai; hành giả sẽ không tái sinh nơi các cơi thấp; sẽ không gặp cái chết khủng khiếp; và sau khi chết ở thế giới này, hành giả sẽ được tái sanh trong Cơi Cực Lạc.
Nhờ sáu-âm của thần chú mani, tất cả các Kinh điển của Phật Pháp được đúc kết; mọi bệnh tật, mọi thế lực xấu và những chướng ngại đều bị xua tan; hành giả đạt được vô số phẩm tính tích cực như sự trường thọ và thoát khỏi bệnh tật; nỗi khổ của chúng sinh trong sáu loài được làm yên dịu; và các kaya (thân) của sáu Đấng Chiến Thắng được thành tựu.
Tóm lại, chỉ cần nh́n, nghe, nhớ tưởng, hay xúc chạm sáu âm này là đă gieo trồng hạt giống của sự giác ngộ. Mọi che chướng đều được tịnh hóa nhanh chóng và hành giả ngăn ngừa được sự tái sanh nơi các cơi thấp. Sau khi trải qua một loạt những tái sanh cao quư trong các cơi cao, hành giả nhanh chóng đạt được giác ngộ viên măn.
Chỉ cử hành nghi thức chay của Đấng Bi Mẫn Siêu Phàm một lần, hành giả giải trừ được bốn mươi ngàn kiếp lang thang trong luân hồi sinh tử và tịnh hóa tất cả các nghiệp và che chướng do những hành động như năm hành vi đưa tới quả báo trực tiếp.
Khi hoàn thiện tất cả những phẩm tính tích cực của sáu sự toàn thiện, hành giả an trú trong cấp độ của một Bồ Tát bất thối chuyển. Những người nữ cũng thế, những ai cử hành dù chỉ một lần duy nhất nghi thức chay này, khi chết sẽ được tái sanh như những Bồ Tát chứng ngộ cao cấp và quay trở lại ṿng luân hồi sinh tử.
Sự thực hành của thân hành giả trong nghi thức chay khiến tịnh hóa các che chướng thuộc thân, và hành giả không bị tái sanh làm một ngạ quỷ. Việc tự chế sự nói năng bằng lời nguyện giữ yên lặng tịnh hóa các chướng thuộc ngữ, và hành giả sẽ không bị tái sanh làm một súc sinh.
Sự tŕ tụng đà ra ni trong tâm tịnh hóa các che chướng thuộc về tâm và đóng lại cánh cửa dẫn tới tái sanh trong các cơi địa ngục. Như vậy, sử dụng ba phương pháp giữ ǵn thân, khẩu và ư trong sự tỉnh giác sống động, hành giả nhanh chóng thoát khỏi luân hồi.
Phục vụ ngũ cốc nóng cho các hành giả ăn điểm tâm sáng theo nghi lễ th́ tương đương với việc phục vụ một Bồ Tát đệ bát địa; phục vụ một người chỉ thọ xuất gia tạm thời th́ tương đương với việc phụng sự một vị A La Hán (arhat).
Một người bảo trợ cho một nghi thức chay như thế sẽ không bị tái sanh trong bacơi thấp, mà sẽ được phú cho thái độ giác ngộ của Bồ Đề tâm, được hưởng một sự may mắn vô tận trong mọi sự tái sanh, hoàn thiện phẩm tính của sự bố thí và nhanh chóng đạt được giác ngộ.
Bởi những ích lợi này và những lợi lạc không thể nghĩ bàn khác, trong sự t́m kiếm đức hạnh hoàn toàn thanh tịnh, hăy hoan hỉ và nỗ lực ngày lẫn đêm không xao lăng, được thúc đẩy bởi ḷng vị tha, niềm tin và ḷng sùng mộ mănh liệt và quả quyết.
Nếu các bạn sống những ngày c̣n lại của đời ḿnh thật là ư nghĩa, các bạn sẽ bảo đảm được hạnh phúc của riêng các bạn và những người khác.
Sự thật này đă được xác nhận bởi ngữ chân thật của các Đấng Chiến Thắng, kinh nghiệm của tất cả những bậc trưởng thượng tâm linh vĩ đại và sự kiểm chứng trực tiếp của giác tánh nội tại của chính hành giả và những công đức của sự theo đuổi của các bạn với ư hướng sùng mộ.
Khởi hành thật đúng đắn, các bạn sẽ thoát khỏi nỗi sợ chết và sợ tái sanh, nếu không được như thế th́ các bạn sẽ có được sự xác tín để gặp gỡ cái chết một cách hoan hỉ; ít nhất th́ các bạn sẽ chết mà không sợ hăi hay hối tiếc.
Tôi chắp tay và cầu nguyện tận đáy ḷng rằng tất cả các bạn sẽ có thể thực hiện được điều này. Tôi luôn khẩn nài các bạn hăy giải thoát tâm thức ḿnh khỏi sự do dự và giữ vững sự trung thực trong công cuộc nỗ lực đầy ư nghĩa này.
May mắn, may mắn, may mắn!
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 405 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 5:20pm | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH TỚI CÁC CƠI BÊN KIA CÁI CHẾT
4- YULOKOD CƠI THUẦN TỊNH CỦA ĐỨC TARA
Kính lễ Đức Avalokiteshvara
Quỳ lạy dưới chân Đấng
nh́n chúng sinh với đôi mắt bi mẫn,
con sẽ tán thán vị bổn tôn phi thường này
để hoàn thiện hai tích tập.
Con đảnh lễ Ngài, Đức Tara, bổn tôn trong các bổn tôn,
suối nguồn của mọi thành tựu tâm linh không loại trừ cái nào.
Giống như một viên ngọc quư báu và như ư,
Ngài ban trái quả của mọi điều chúng con ước muốn.
Những chúng sinh thực sự mong ước được thấy trong tâm cơi thuần tịnh của Đức Tara
sẽ hoan hỉ trong những tia thị kiến dịu mát
trong chốn nương tựa êm ả của đóa sen đức tin nở rộ.
Khi từ núi Potala trở về, tôi bay vút lên hướng về bên trái, và nhờ Đức Tara Trắng dẫn đường, tôi đi tới một nơi mà khắp xứ đều xanh tươi, đẹp đẽ và trong trẻo tràn đầy sinh khí, một môi trường kỳ diệu với nhiều điều đặc biệt phi thường.
Những sảnh đường ánh sáng cầu vồng năm màu bay lượn trên không. Nhiều loại hoa sen mọc khắp nơi. Ở đây không có ư niệm về mùa hạ hay mùa đông. Những cây ban-điều-ước đầy lá, treo những chuông chùm và chuông nhỏ. Khi bị gió lay động, chúng vang lên những giáo huấn Phật Pháp bằng tiếng Phạn, như Namo arya tare mam.
Chim chóc là những hóa thân của Đức Bà Cao Quư những con chim sẻ, vịt, công, sếu, vẹt, gà gô trắng, chim cu và thiên nga nô đùa khắp nơi. Mặt đất ngập đầy của cải trù phú theo một mức độ không thể nghĩ bàn.
Những ngọn núi ẩn chứa vàng, bạc, lam ngọc và những ngọc báu. Khắp nơi là những ao cam lồ có tám phẩm tính tốt đẹp và những nhà tắm bằng châu báu được trang bị tao nhă.
Trong cơi này không có các ư niệm sinh, lăo, bệnh, tử. Tất cả các cư dân đều được sinh ra một cách kỳ diệu từ giữa hoa sen. Trong những đời tương lai họ không phải nghe một âm thanh khó chịu hay chói tai.
Những cư dân này là những Bồ Tát nam và nữ đă đạt tới sự chứng ngộ cao cấp. Nơi chốn này th́ vượt quá sức tưởng tượng; kích thước của nó không thể đo lường. Nó gồm chứa hàng ngàn lâu đài rộng mênh mông làm bằng năm chất thể quư báu.
Trong chốc lát, tôi đi tới cổng cung điện chính một ṭa lâu đài rộng lớn tuyệt vời có vẻ bề ngoài thật lôi cuốn và kỳ diệu, có năng lực giải thoát chúng sinh bằng bốn cách.
Ngay lúc tôi đi vào cung điện, tôi thức tỉnh khỏi giấc ngủ sâu của ư thức thuộc lư trí b́nh phàm và thoát khỏi những tấm màn vô minh. Cái thấy nội tại của giác tánh nguyên sơ của tôi trải rộng, và tôi cảm nghiệm t́nh thương và ḷng bi mẫn dạt dào trong ḷng.
Khi đi vào cửa phía tây, tôi gặp Guhyadevi, Thiên nữ của những điều Mật nhiệm, Ngài có vẻ hết sức vui mừng khi nh́n thấy tôi. Tôi đi tiếp tới một cái sân ở đó nhiều ngàn thiên nữ, mặc y phục xanh lá cây, hát tụng những lời tán thán hai mươi mốt thân thướng Tara bằng tiếng Phạn.
Thỉnh thoảng họ chơi những xập xơa nhỏ h́nh ngón tay, trống tay bằng vàng và trống làm bằng gỗ đàn hương, gỗ mun, gỗ “tim xoắn” và bốn loại lơi cây, cũng như các xập xơa, cồng chiêng và sáo. Họ thường ngắt quăng bài hát với âm nhạc được tấu lên bằng đủ loại khí cụ không thể nghĩ bàn này.
Khi nghe chúng, tôi thấy dấy lên một cảm thức sùng mộ không tưởng tượng nổi; tôi cúng dường trong tâm và tŕ tụng hết sức nhiệt thành những lời tán thán hai mươi mốt thân tướng Tara.
Tôi đi vào một căn nhà nhỏ, ở đó tôi thấy một thiên nữ. Bà có vẻ rất già, tóc trắng xoăn như vỏ ốc xà cừ, nhưng hàm răng c̣n đầy đủ và nước da bà sáng đẹp như nước da của một thiếu nữ thanh xuân.
Vị thiên nữ cao quư phi thường này an tọa với đoàn tùy tùng vây quanh. Bà có mật danh là Gauri Girtima, nhưng được biết nhiều qua danh hiệu thật của Ngài là Ayudevi, Thiên nữ Trường thọ. Tôi thực hành những sự lễ lạy, đi nhiễu, cúng dường mạn đà la, lời cầu nguyện bảy-nhánh và những lời khẩn cầu và ước nguyện.
Bà nói: “Cái ǵ đây, con gái ta? Con may mắn biết bao khi tới gặp ta. Kỳ diệu biết bao! Mối liên hệ nghiệp nào giải thích cho sự xuất hiện của con ở đây? Ta là một nữ anh hùng mà những phẩm tính được ẩn dấu. Được vị bổn tôn kỳ diệu Đức Tara tôn quư ban phước, ta làm chủ được đời sống kim cương bất tử”.
Ngài đặt bàn tay lên đầu tôi, tỏ ra hết sức vui mừng v́ sự hiện diện của tôi và tụng:
Xin đảnh lễ Đấng chói sáng như một viên hồng ngọc,
trong sự nở rộ của niềm hỉ lạc tuổi mười sáu.
Chiến thắng trong trận chiến điều phục thế lực đối kháng của các ma vương,
Ngài ban tặng sự thành tựu đời sống bất tử.
Bà nói thêm: “Ngay cả một biểu tượng cho h́nh ảnh của ta cũng không được t́m thấy ở Ấn Độ và Tây Tạng. Mặc dù vô số yogi và yogini được ban phước bởi Đức Tara, thực sự viếng thăm cơi giới này, thăm viếng trong các thị kiến, hay trong những giấc mơ, nhưng không ai trong số họ được hội kiến ta”. Tôi sung sướng bởi những lời này.
Tôi tiếp tục tới ṭa lâu đài chính rộng mênh mông. Bên trong, tôi thấy năm lớp tường được làm bằng vỏ ốc xà cừ, vàng, san hô, ngọc lục bảo và ngọc bích, tất cả có diềm trang trí bằng hồng ngọc. Các trụ cột được làm bằng ngọc đỏ, các đà mái chính bằng pha lê thạch anh và rui mè làm bằng ngọc như ư.
Những cửa sổ rộng và cửa sổ dưới mái ở khắp nơi để chiếu sáng bên trong. Trên đỉnh một gờ trang trí bằng vàng là một trán tường bằng san hô, nâng đỡ một mái ṿm bằng lam ngọc pha màu xanh dương nhạt.
Ở bốn hướng là các miệng máng xối với đầu makara; miệng chúng có treo những sợi dây và móc bằng ngọc trắng, vàng, đỏ và xanh lá cây, với những chuông chùm bé tí bằng vàng phát ra những âm thanh ngọt ngào.
Âm thanh du dương vang lừng cất đi nỗi khổ của chúng sinh trong các cơi thấp. Mùi khói hương thơm ngát của những tâm thái vô lượng thoang thoảng khắp nơi. Đó là những phô diễn đẹp đẽ của những sự cúng dường tràn đầy từ ái không tưởng tượng nổi.
Giữa ṭa lâu đài, trên một ṭa sen ngàn cánh nhiều màu và một đĩa mặt trăng là Đấng nương tựa duy nhất, hiện thân đích thực của ḷng bi mẫn, bà mẹ siêu phàm của tất cả các Đấng Chiến Thắng trong ba thời, bà chị của chư vị Bồ Tát.
Là Đấng mà chúng sinh trong thế giới loài người và trong những cơi trời bày tỏ ḷng sùng kính bằng cách chạm đỉnh đầu họ vào ḷng bàn chân Ngài chính là Đức Tara tôn quư, vị thiên nữ sinh ra từ những giọt nước mắt của Đấng Cao Quư.
Thân Ngài màu xanh lá cây nhạt, chói lọi hơn một ngọn núi lam ngọc được một ngàn mặt trời chiếu sáng. Vô lượng những tia sáng tỏa ra từ thân Ngài, nó được tô điểm bởi những tướng hảo chính và phụ. Đó là thân tướng của một thiếu nữ mười sáu tuổi, mặc y phục làm bằng lụa của những vị trời và trang điểm bằng những vật trang sức vô cùng quư giá gồm những viên bảo châu như ư.
Tóc Ngài đen như hạt huyền, nửa mái tóc cuốn lại thành búi và nửa kia chảy xuống phủ trên vai, được bện lại bằng những dải ruy băng lụa màu xanh dương pha xanh lá cây rung rinh trong gió nhẹ. Bàn tay trái kết ấn tượng trưng cho Tam bảo và cầm một nhánh hoa huệ màu xanh dương, các cánh hoa nở rộ cạnh tai Ngài.
Với bàn tay phải kết ấn ban cho sự nương tựa, Ngài che chở chúng sinh thoát khỏi những nỗi sợ hăi vô biên của thế giới vô minh này trong luân hồi sinh tử. Hai chân Ngài xếp lại trong tư thế bán già của một nữ Bồ Tát.
Nhiều nữ Bồ Tát cao quư đang đi nhiễu quanh Ngài theo chiều nghịch kim đồng hồ. Bậc thông tuệ Suryagupta ở bên phải Ngài, Bồ Tát Dawa Gyaltsan ở phía sau, thi sĩ Chandragomin ở bên trái, và Đức Dipamkara ở phía trước Ngài.
Nói chung, có nhiều ngàn nhân vật quan trọng với những quyến thuộc của các Ngài và một tập hội không thể nghĩ bàn gồm hàng trăm hàng ngàn thân tướng của Đức Tara, gồm cả Tara Tiếng Gầm Sấm Sét của Rồng, Tara Năng lực Siêu phàm, Tara Thành tựu Tự Nhiên, Tara Vô Úy, Tara Tia Sáng.
Tara Điều Phục Chúng Sinh, Tara ở Zang-yun, Tara Không Thể Nghĩ Bàn, Tara Phương Tiện Thiện Xảo, Tara Giác Ngộ, Tara Trung Tâm Tây Tạng và Tara Trung Quốc. Những vị này hiển hiện rơ ràng trước mắt tôi, nhưng thân tướng các ngài không phải là tập hợp hiện hữu nội tại của máu và thịt.
Thay vào đó, đó là những thân tướng huyễn hóa của giác tánh nguyên sơ, một sự phô diễn kỳ diệu hiển lộ trong vô số phương tiện. Tôi nh́n thấy các Ngài trong toàn bộ sự chói ngời tinh tế của các Ngài, giống như những v́ sao và hành tinh phản chiếu trên đại dương bao la.
Vào lúc này, sự bám chấp của tôi vào thực tại b́nh phàm tự nhiên ngừng dứt. Trong một quăng thời gian ngắn, tôi kinh nghiệm một cảm thức không thể diễn bày, không tưởng tượng nổi về trật tự của vũ trụ vô hạn, một toàn cảnh rộng lớn và hoàn toàn không bị ngăn che của sự thuần tịnh không có ǵ để bám níu như cái ǵ hoàn toàn có thực.
Tôi lễ lạy liên tục trong một tâm thái tin tưởng và hết sức hoan hỉ. Tiến lại gần vị thiên nữ tôn kính, tôi dâng cúng mạn đà la vũ trụ và lời cầu nguyện bảy-nhánh. Với sự khát khao mănh liệt, tôi cầu nguyện ba bổn tôn trông nom Xứ Tuyết. Đặt bàn chân Ngài lên đầu tôi, tôi hát bài ca này bằng những âm thanh ai oán:
Than ôi, than ôi, Bà Mẹ bi mẫn của các Đấng Chiến Thắng!
Đứa con gái yêu quư của Ngài lang thang trong vẻ hoang tàn của ṿng luân hồi sinh tử,
Tạo dựng bởi những tên trộm cướp là tám mươi ngàn kiểu niệm tưởng.
Cô ta đang ở thời điểm mất đi một tài sản tốt đẹp nhất là đức hạnh viên măn. Xin tóm lấy cô ta với ḷng bi mẫn của Ngài, Đức Bà Tara cao quư.
Giờ đây, như các biểu hiện cho thấy những thời đại suy hoại này nổi cơn thịnh nộ với chúng ta,
Giáo lư của các Đấng Chiến Thắng là một mặt trời đang tiến về trú xứ của vị trời nước.
Tập hội các thiện tri thức nắm giữ Giáo lư đă khởi hành tới một cơi yên b́nh.
Giáo lư của kinh điển và tantra bị che khuất bởi những đám mây định kiến bè phái.
Xin tóm lấy chúng con với ḷng bi mẫn của Ngài, Đức Bà Tara cao quư.
Nhiều chúng sinh hữu t́nh không có một chốn nghỉ ngơi.
Đau khổ thường xuyên bởi bệnh tật do nghiệp và những cảm xúc phiền năo,
họ chịu đựng hậu quả là nỗi khổ và đau đớn không chịu đựng nổi.
Thời gian sẽ rất dài trước khi họ đi tới xứ sở của toàn trí và giải thoát.
Xin tóm lấy họ với ḷng bi mẫn của Ngài, Đức Bà Tara cao quư.
Sắc màu của những tinh linh xấu ác nổi bật trên bầu trời.
Ánh sáng nhạt nḥa từ lá cờ chiến thắng của những hành giả của Pháp.
Giờ đây là lúc thế giới tràn ngập những kẻ bất tài bịp bợm tâm linh,
để chúng sinh không bị lôi kéo vào những con đường lầm lạc,
xin tóm lấy họ với ḷng bi mẫn của Ngài, Đức Bà Tara cao quư.
Lũ người man dă và các bộ tộc biên giới kết thúc Giáo lư.
Các cuộc chiến đấu được tiến hành không ngừng nghỉ với năm lực lượng xấu ác.
Những đội quân hủy diệt của các ma vương đang ở thời điểm xâm lược.
Nếu Ngài không che chở chúng con thoát khỏi những lực lượng này, th́ Ngài sẽ biểu lộ trí tuệ và năng lực cho ai?
Xin tóm lấy chúng con với ḷng bi mẫn của Ngài, Đức Bà Tara cao quư.
Tôi thốt ra nhiều lời cầu nguyện khác, tâm tôi tràn đầy sự khao khát. Thiên nữ cao quư đặt bàn tay phải, nó được đánh dấu rơ ràng bằng tướng hảo là một bánh xe như-ư lên đầu tôi và trả lời:
Hăy lắng nghe, ôi thiếu nữ đáng yêu, Chandra Tara.
Trong quá khứ, vào khởi đầu của những kiếp sớm nhất,
khi ta phát khởi Bồ Đề tâm tuyệt hảo,
không ai ước nguyện làm viên măn Phật Quả trong một thân tướng phụ nữ.
V́ thế ta ấp ủ nguyện ước sau:
“Tôi sẽ xuất hiện trong thân tướng những người nữ.
Tôi sẽ đem đại dương chúng sanh này tới sự giác ngộ siêu việt.
Giây phút họ nhớ tưởng thậm chí danh hiệu của tôi,
Họ được cam đoan là sẽ đứng trước tám loại sợ hăi.
và cái hầm của sự luân hồi sẽ được kéo vét tận đáy.
Cho tới khi tôi đưa họ tới Phật Quả viên măn,
cầu mong bản thân tôi không bao giờ đạt được Phật Quả”.
Với những ước nguyện này và một trăm ngàn ước nguyện khác,
tôi lập các lời hứa và thệ nguyện.
Và trong cơi giới này, vào thời một vị Phật nguyên thủy,
tuy thế tôi đă biểu thị phương cách để viên măn Phật Quả.
Ḷng bi mẫn của tôi lớn lao đối với tất cả chúng sinh;
Hoạt động của tôi nhanh chóng, đặc biệt là đối với thần dân Tây Tạng.
V́ thế, những người thông tuệ và may mắn,
hăy bảo vệ kỹ lưỡng mệnh lệnh sau đây của vị thiên nữ cao quư:
Vào thời đại của năm sự suy hoại, khi giáo lư chỉ c̣n là những dấu vết,
khi chẳng bao lâu những cuộc xâm lăng man rợ sẽ chấm dứt mọi sự,
vật chống đỡ cao quư này, được phú bẩm tánh lười nhác thực hành, bị đe dọa bởi tiếng chuông của sự vô thường.
Nếu các bạn lầm lạc nhân và quả, hăy tham khảo Kinh điển và các tantra để đem lại hạnh phúc và giải trừ khổ đau.
Tài sản và của cải, bằng hữu và quyến thuộc, cha và mẹ không phải là nơi nương tựa.
Cái ǵ cung cấp nơi nương tựa? Đó là Tam Bảo không lầm lạc.
Đặc biệt, ngày và đêm liên tục trong sáu thời, hăy cầu nguyện ba bổn tôn che chở Xứ Tuyết Tây Tạng.
Đức Phật Amitabha trong cơi Cực Lạc.
Đức Avalokiteshvara cao quư trong cơi Potala,
Đức đạo sự T’hod T’hreng Tzal ở tiểu lục địa Chamara,
Đức Tara cao quư ở cơi Yulokod,
và các đạo sư gốc là tinh túy sự hợp nhất của các vị này.
đồng nhất trong bản tánh cốt tủy, chỉ khác biệt trong sự xuất hiện bên ngoài,
không có sự tách biệt hay phân chia, các Ngài ở trong một trạng thái nguyên thủy của sự b́nh đẳng với giác tánh nội tại của riêng các bạn,
vượt lên sự hợp nhất trong ư nghĩa thông thường của sự tụ hội và tan tác.
Hăy luôn luôn chú tâm tới đức hạnh.
Chớ lăng phí đời người này trong sự phóng dật,
hoặc nói Pháp ngoài cửa miệng,
mà hăy chân thành tận đáy ḷng các bạn,
hăy nương dựa đức tin, cái thấy thuần tịnh, ḷng bi mẫn, Bồ Đề tâm,
sự tinh tấn, trí tuệ, sự chánh niệm, tỉnh gác và tự điều phục.
Nếu ba giai đoạn chuẩn bị, thực hành chính yếu và sự kết thúc đều viên măn, trái quả mục đích của các bạn sẽ chín mùi.
Đặc biệt, nếu các thần chú tinh túy của ba bổ tôn của ḷng đại bi –
các thần chú mani, siddhi và tare.
hoặc ngay cả một nghi thức chay nyungnay duy nhất do chính các bạn hay người khác thực hiện
sẽ giải tan hậu quả của những ác hạnh và vi phạm giới nguyên của các bạn trong bốn mươi ngàn kiếp,
th́ cần ǵ nói tới những lợi ích và thuận lợi của sự thực hành thường xuyên?
V́ thế, hăy hành xử theo đạo đức, không lầm lạc nhân và quả.
Một cách chắc chắn, là những người may mắn, các bạn có thể cầu nguyện
sẽ không nhọc mệt hay khó khăn
để đi tới cơi Yulokod không do dự chần chừ sau khi chết.
Ta thề rằng ta sẽ tới chào đón các bạn.
Các hóa thân của ta, như những thiện tri thức b́nh thường,
đàn ông và đàn bà, thú vật và chim chóc, và những ǵ tương tự,
mang bất kỳ h́nh tướng nào sẽ dẫn dắt và chăm sóc chúng sinh.
Bởi vô số người trong số họ,
có niềm tin và cái thấy thuần tịnh, và khẩn cầu cùng ước nguyện thiết tha.
Những lời dạy của Ngài đă gây một niềm tin và hoan hỉ vô biên trong ḷng tôi, tôi lặp đi lặp lại lời cầu xin được nhận bốn quán đảnh. Và mặc dù tôi cảm thấy nỗi khổ khi phải xa cách Đức Tara c̣n đau đớn hơn nỗi khổ của các vị trời đang đọa lạc từ hạnh phúc của họ, Đức Tara nói với tôi:
“Chớ buồn phiền trong ḷng! Chúng ta không bao giờ ly cách trong bất kỳ cuộc đời nào. Ta ban cho con Pháp danh Rigdzin Drolma, Tara Đấng Tŕ giữ Giác tánh Nội tại. Hơn nữa, một thiên nữ, một hóa thân của năng lực hoạt động của ta, sẽ ở bên con trong sáu thời ngày và đêm, giống như một người đang nói chuyện với người kia”.
Tiếp tục đi, tôi tới một pḥng nhỏ, ở đó tôi gặp Repa Dampa Gyagar, thân Ngài lực lưỡng, tóc trắng và hơi gầy, Ngài có bốn con trai và bốn con gái. Người nhỏ nhất tên là Chhang Trama nói với tôi:
“Thật tuyệt v́ cô đă tới t́m tôi” và bắt đầu một điệu vũ và bài ca về Đức Tara. Cô ta tỏ ra rất quư mến tôi. Cha cô ngồi bên cạnh, cầm một b́nh trường thọ, cười một ḿnh. Khi tôi xin Ngài cầu nguyện cho tôi, Ngài lại cười và nh́n chăm chú, tập trung sự chú tâm trong một lát.
Tôi rời ṭa lâu đài bằng cửa phía tây. Tôi tắm trong một cái ao và uống chất cam lồ bất tử. (Nếu tôi phải tường thuật mọi điều nh́n thấy và tất cả những người tôi đă gặp ở đó, th́ chắc chắn là sẽ đầy nhiều quyển sách, nhưng tôi không thể viết ra tất cả).
Ở một nơi không xa, tôi bắt gặp một cây karandatava, có gốc bằng vàng, thân bằng bạc, cành bằng ngọc bích, lá bằng hổ phách, hoa bằng hồng ngọc và trái bằng kim cương.
Đó là một cây ban điều ước muốn và dường như che phủ mặt đất. Nó có treo những lá cờ bằng lụa nhiều màu, và những sợi dây và tḥng lọng bằng ngọc có gắn những chuông chùm nhỏ bằng vàng kêu leng keng.
Đậu trên ngọn cây là vua loài chim một con chim masar, dù nó được gọi bằng một tên khác, karantava. Thân nó được tạo bằng bảy loại châu báu và trên đỉnh đầu nó là một cái mào làm bằng ngọc sarvaphala. Bộ lông của nó c̣n đẹp hơn bộ lông công và tiếng hót th́ bằng tiếng Phạn:
Sarva buddhaye eka potala yana duhkhashantim siddhiphala hoh, có thể dịch là: “Để thành tựu hoàn toàn Phật Quả, là các ǵ viên măn trong mọi thế cách, hăy đi tới cơi Potala. Cầu mong chúng sinh trong sáu cơi luân hồi được giải thoát khỏi đau khổ và cầu mong những thành tựu tâm linh được ban tặng”.
Ngồi nơi gốc cây là một ông già tóc trắng đang cầm một cái ŕu. Ông ta tên là Arthachandra (Mặt trăng Hoàn thành các Mục đích). Khi tôi nghỉ ngơi ở đó và ăn trái quả hái từ cây này, người đàn ông nói to: “Đứa con trai do Đức cao quư Avalokiteshvara gởi tới, có tên là Karmasarvamangala, hiện ra từ gốc cây karandatava”.
Vào lúc này, đàn chim bắt đầu hót lanh lảnh” “Than ôi!” Chúng vỗ cánh, trong khi nước mắt tuôn rơi. Vua của chúng kêu than:
Xin đừng hạ cây karandatava!
Chim karantava sẽ rơi xuống đất.
Ôi ông ơi, cầu mong ông trường thọ và thoát khỏi bệnh tật.
Tôi, con chim, sẽ đi tới Potala.
Tôi nh́n thấy những cảnh người đàn ông đốn cây và con chim rơi xuống xen kẽ nhau. Tôi có nhiều th́ kiến bí ẩn như thế. Sau đó một hành giả cư sĩ, được Đức Avalokiteshvara cao quư ban phước, xuất hiện và nh́n tôi trong khi tôi tụng những lời tán thán hai mươi mốt thân tướng của Đức Tara. Sau một lát ông ta nói: “Đây là lợi ích của việc tŕ tụng như thế”.
Tất cả những ai tŕ giữ lời cầu nguyện này trong tâm sẽ nhổ sạch mọi lỗi lầm và thiếu sót không loại trừ điều ǵ,
hăy phát triển các phẩm tính tốt giống như vầng trăng tṛn
và được một ngàn vị Phật ban phước.
Ôi kỳ diệu thay lời tán thán cao nhă nhất này;
Chỉ một lần gợi nó trong tâm
Dứt khoát người ta sẽ được tái sanh
Trong Cơi Cực Lạc linh thánh tuyệt hảo.
Ông ta dùng mô tả những lợi ích thế tục và siêu việt như chúng được giảng trong nguồn mạch truyền thống.
Sau đó xuất hiện một người mà trong những đời trước đă có một liên hệ samaya với Đức Vajradhara (Kim Cương Tŕ) và Guru Padmasambhava, và là người bảo vệ kho tàng ẩn dấu của Phật Pháp mênh mông và sâu xa.
Sau này bà là phối ngẫu tâm linh của Đức Mila Zhadpa Dorje (vật trang sức duy nhất của ḍng thực hành trong Xứ Tuyết) khi Ngài ở trong vùng núi Everest và Chhubar, và v́ thế đă rút năng lực vi tế và tâm thức của Ngài vào kinh mạch trung ương.
Cuối cùng, bà là bổn tôn bảo vệ riêng của vị tulku siêu phàm Jigmed Do-ngag Tandzin (một bậc tŕ giữ kim cương của giác tánh nội tại) và Dechhen Dorje (một vương miện trong số hàng trăm bậc thông tuệ tâm linh), tẩy trừ mọi chướng ngại cho sự trường thọ của hai vị thầy này và hướng dẫn sự phát triển những hoạt động của các ngài để làm lợi ích chúng sinh một cách vô tư.
Được biết nhiều với danh hiệu Tashi Tseringma, nữ hoàng của các thiên nữ dược sư, từ trung tâm thiền định của vị thầy cao quư của tôi, bà gọi to ba lần: “Con, con gái Dawa Drolma! Hăy trở về cơi người!”.
Khi nghe giọng nói của bà vang lên, tôi bắt đầu nhớ tới người chú tôn quư của tôi cùng những bằng hữu, thân quyến và cha mẹ tôi đang ở miền T’hrom. Tâm tôi tràn ngập một sự khao khát là lùng và tôi nghĩ tới việc quay về.
Và v́ thế, cùng với Đức Tara Trắng đi kèm, tôi trở về trong chốc lát. Năm ngày tṛn (đó là mười thời kỳ mười hai-tiếng trong ngày hay đêm) đă trôi qua trong cơi người. Khi tâm thức tôi trở về thân xác, tôi hắt hơi dữ dội.
Trước hết tôi kinh nghiệm một sự hoàn toàn lạc hướng, như thể tôi vừa ngủ dậy, nhưng chẳng mấy chốc tôi bị tràn ngập bởi niềm tin và sự hỉ lạc trước những thị kiến về các cơi thuần tịnh và cảnh tượng khủng khiếp trong các thị kiến thuộc nghiệp của các địa ngục.
Cậu Trungpa, đứng trước mặt tôi cầm một mũi tên có trang trí dải ruy băng trường thọ và nh́n tôi chăm chú bằng đôi mắt đỏ ngầu. Tôi không thể nói một lời, như thể tôi hơi bẽn lẽn. Tôi được tẩy tịnh theo nghi lễ với nước mưa được chế thành thuốc của các thấu thị và bằng nước được dùng trong thực hành thiền định của thiên nữ bảo vệ Vijaya.
Mọi người kêu khóc và phấn khích, nói những điều như: “Việc này không khó khăn sao? Hẳn là con đói lắm! Chắc hẳn con khát lắm!”. Hầu như họ cố đổ đồ ăn và thức uống lên đầu tôi.
Mặc dù tôi phản đối: “Tôi hoàn toàn không khó chịu bởi đói hay khát” nhưng họ không tin tôi và cố nài: “Ăn đi! Uống đi”. Mọi người đều cảm thấy vô cùng vui sướng như nỗi vui của một lạc đà mẹ t́m thấy đứa con bị lạc của nó, và cùng tham dự một bữa tiệc mừng.
Rôi tôi nghỉ ngơi trong một hoặc hai ngày, sau đó tường thuật của tôi về các cơi thuần tịnh Potala và Yulokod và các cơi địa ngục được Tulku Gyazur ghi chép lại mà không bịa đặt hay thêm thắt điều ǵ.
Thân, ngữ và tâm bí mật của tất cả vô lượng các Đấng Chiến Thắng
Được hợp nhất không hề ly cách trong Đức Tara, bà nẹ của các Đấng Chiến Thắng.
Ngay khi tia bi mẫn sắc nhọn của Ngài đâm trúng tim con
nó xua tan mọi bóng tối trong con.
Đằng sau các cơi thuần tịnh, bởi những ước nguyện trướcđây của con,
đă thực sự xuất hiện rơ ràng trong tấm gương của trái tim con,
tường thuật đúng đắn và chính xác này, thoát khỏi mọi sự cường điệu hay giản lược
và không bị tổn hại bởi quỷ ma của sự bè phái phân biệt hay ganh ghét đố kỵ,
xuất hiện chỉ nhờ ân phước của các đạo sư của con.
V́ thế, nếu chúng con nhiệt thành tôn kính các bậc linh thánh đó,
là những thiện tri thức chỉ cho chúng con con đường đúng đắn,
trong mọi cuộc đời của chúng con, cầu mong các ngài ban cho chúng con những ân phước.
Sarva mangalam cầu mong mọi sự tốt lành.
May mắn, may mắn, may mắn!
Cầu mong sự tốt lành cháy rực và thế giới được trang hoàng.
Jayantu cầu mong chiến thắng.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 406 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 5:22pm | Đă lưu IP
|
|
|
HÀNH TR̀NH TỚI CÁC CƠI BÊN KIA CÁI CHẾT
5-CẦU THANG ĐƯA TỚI GIẢI THOÁT
TÓM LƯỢC NHỮNG HẬU QUẢ CỦA ĐỨC HẠNH VÀ ÁC HẠNH
Hri Tự nhiên và thoát khỏi sự tạo tác là đạo sư Pháp Thân;
Niềm hạnh phúc lạc siêu việt của sự tráng lệ của hiện thể Báo Thân là đạo sư, chúa tể của Pháp;
Sanh trong một cọng sen dài là đạo sư Hóa Thân:
Con đảnh lễ bậc Kim Cương Tŕ của ba thân.
Bổn tôn không lầm lỗi, thân Ngài sắc trắng,
Đầu Ngài tô điểm một vị Phật Toàn Giác,
Chăm chú nh́n chúng sinh với đôi mắt bi mẫn bẩm sinh:
Con đảnh lễ Đức Avalokiteshvara.
Là nơi nương tựa, đấng sanh ra tất cả các Đấng Chiến Thắng và là lănh vực trong đó các ngài biểu lộ sự phô diễn của ḿnh,
Hỡi Mẹ, Đức Tara tôn kính, dưới gót sen Ngài,
Cho tới khi con đạt giác ngộ
Con sẽ quy y với ḷng sùng mộ, hoàn toàn trông cậy nơi Ngài.
Sau khi được bà mẹ tốt lành sanh, tôi, Dawa Drolma, con gái của gia đ́nh Tromge, đă đối xử thương yêu với mọi chúng sinh khốn khổ bằng ḷng bi mẫn. Năm mười lăm tuổi, tôi buồn khổ v́ bệnh tật; mẹ tôi, Đức Tara Trắng, phấn khích tôi và làm thuyên giảm hoàn toàn những đau đớn của tôi bằng một loại thuốc đă cứu tôi thoát khỏi cái chết.
Trong thời gian mười ngày đêm, tôi bỏ ăn và kinh nghiệm các linh kiến tiên tri chúng thúc đẩy tôi t́m kiếm xem đức hạnh là ǵ. Đằng sau những sắc tướng của đời này và sự tỉnh giác của tôi về chúng bị ngăn che, bốn dakini đă trở thành bạn đồng hành của tôi và khiêng tôi trên một cái kiệu lụa.
Trong một thời gian ngắn, tôi đă du hành qua lối đi hẹp của bardo. Tôi có những thị kiến kinh khiếp, thoáng qua và lờ mờ; tôi cũng thấy vài đạo sư linh thánh dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi trạng thái đó và tôi tṛ chuyện với các ngài trong một tâm trạng vừa tin tưởng vào ḷng bi mẫn của các ngài vừa không ảo tưởng đối với sự hiện hữu luân hồi.
Om mani padme hum hri.
Cơi giới núi Huy Hoàng có h́nh dáng như một trái tim. Trên những sườn núi hùng vĩ của nó, giữa thành phố của các dakini, giữa một lâu đài nhiều tầng, vô cùng trong suốt, tôi gặp Đức Orgyan vinh quang và quyến thuộc của Ngài gồm các bậc Hóa thân, vua xứ Tây Tạng và các thần dân của nhà vua.
Với niềm tin và nỗi khao khát, tôi phục lạy và khẩn nài Ngài ban cho nơi nương tựa. Ngài ban cho tôi những quán đảnh và ban phước đặc biệt, tâm tôi tràn đầy cảm xúc bi mẫn. Ngài nói: “Đừng quên những cách thức trong đó những thị kiến về sáu loài chúng sinh biểu lộ với con; hăy trở về cơi người để nài xin con người đeo đuổi đức hạnh”.
Tập hội của daka, yogini và bà mẹ Tsogyal, vị dakini của giác tánh nguyên thủy, đă tỏ ḷng tôn kính tôi bằng cách đi theo tôi một trăm bước. Tôi làm mủi ḷng các ngài bằng những lời khẩn cầu ước nguyện cao nhă của tôi.
Cùng với Đức Tara Trắng, vị bảo trợ giám hộ của tôi, để gây cảm hứng cho chính ḿnh, tôi băng qua lối đi dài và hẹp của bardo. Ở đó, tôi thấy những ấn tượng thoáng qua và lờ mờ về mọi loài chúng sinh đă khuất (những người tôi biết và cả những người tôi không quen biết) đang cùng nhau quay cuồng trôi dạt.
Kêu khóc thảm thiết, những kẻ bất hạnh này trao cho tôi nhiều thông điệp nản ḷng để đem về thế giới của những người c̣n sống mà họ đă để lại sau lưng. Họ van nài: “Bởi ḷng yêu thương và bi mẫn đối với chúng tôi, xin hăy chuyển dùm những thông điệp”. Nắm chặt tay tôi, nước mắt họ tuôn như suối. Không thể chịu đựng nổi cảnh tượng này, tôi lặp đi lặp lại thần chú mani.
Om mani padme hum hri.
Khi du hành qua thế giới bên kia của người chết, tôi nhận ra rằng những người không có sự an ủi của Phật Pháp th́ đau khổ biết bao. Từ trên trời đổ xuống một trận mưa đỏ như máu các vũ khí và cả một vùng chung quanh rùng ḿnh bởi âm thanh ầm ầm như tiếng gầm rống của một ngàn con rồng, trong khi trên mặt đất những cư dân dữ tợn khua những vũ khí ác liệt và la hét: “Giết, giết! Đánh, đánh!”. Bóng tối dày đặc của nỗi khốn khổ bao trùm vùng đất đó.
Om mani padme hum hri.
Những người đă từng thực hành Phật Pháp được hạnh phúc và hài ḷng trong bardo. Đối với họ, bầu trời ngập đầy hàng trăm cầu vồng và một trận mưa cam lồ ngọt ngào đổ xuống, trong khi từ muôn phương các daka và dakini hát ca, nhảy múa và chơi những nhạc cụ, trao tặng những đám mây gồm những vật cúng dường và đưa dẫn những chúng sinh này trên con đường tới sự cực lạc giải thoát. Đối với họ, một ngày của niềm hạnh phúc đă ló rạng.
Om mani padme hum hri.
Bạn đang ở trong thế giới của người sống, cho dù bạn từng tích lũy y phục suốt một trăm năm, bạn sẽ ra đi trần trụi buổi sáng ngày bạn chết; nên tốt hơn, hăy mặc y phục xuềnh xoàng trong khi thực hành đức hạnh. Mặc dù bạn tích trữ lương thực trong một thời gian dài, bạn sẽ đói khát vào buổi sáng ngày bạn chết; nên tốt hơn, hăy cho đi ngay cả thức ăn thừa của bạn.
Mặc dù bạn cóp nhặt tài sản suốt cả cuộc đời, bạn sẽ ra đi với hai bàn tay trắng vào buổi sáng ngày bạn chết; nên tốt hơn, hăy chuẩn bị tư lương cho hành tŕnh của bạn trong những đời sau. Vào buổi sáng ấy, khi sợi tḥng lọng tối ám của Thần Chết xiết quanh bạn, và đó là lúc bạn phải ra đi, th́ bất lực biết bao, cha mẹ bạn sẽ chẳng có ở đó để bảo vệ bạn, những quyến thuộc và bằng hữu yêu mến của bạn sẽ không có ở đó để che chở bạn.
Bạn sẽ nhận ra rằng họ chỉ là những đối tượng của hồi ức của bạn về niềm hạnh phúc và vui thú, rằng họ không có thực chất. Hăy vất bỏ những gông cùm này của h́nh tướng và tri giác đặt nền trên sự vô minh, bởi chắc chắn rằng đây là lúc để thực hành Phật Pháp tuyệt vời, nó sẽ thực sự làm lợi lạc cho bạn trong đời sau. Chớ để phần đời người c̣n lại của bạn trôi tuột đi mất.
Om mani padme hum hri.
Tuy nhiên, trong thị kiến bất tịnh khác, tôi nh́n thấy những cảnh tượng lờ mờ, khủng khiếp của địa ngục. Trong một pháo đài dễ sợ đầy đầu lâu, trên một cái ngai cao chồng chất sọ người là Thần Chết, khủng khiếp và hung ác. Những thuộc hạ ghê gớm của ông đang cùng nhau cai quản vô số chúng sinh đă chết và đang ở trong bardo.
Mỗi người trong những chúng sinh này được một đứa trẻ sáng đẹp và một đứa trẻ tối ám đi kèm, chúng rất tài ba trong việc ước định những thiện hạnh và ác hạnh. Awa Langgo, thuộc hạ đầu-ḅ, khéo léo trong việc đọc những bản báo cáo cuộn tṛn; thuộc hạ đầu-sư tử đang đánh trống công lư nghiệp quả; thuộc hạ đầu-rắn đang tiên đoán trong một tấm gương.
Thuộc hạ đầu-hươu đực đang sắp xếp dụng cụ tra tấn; thuộc hạ có đầu của một con gấu tuyết đỏ đang đánh bóng các vũ khí; thuộc hạ đầu-khỉ đang đo lường sự cân bằng (giữa thiện và ác), thuộc hạ đầu-gấu đang phân biệt thiện hạnh và ác hạnh. Bảy thuộc hạ này đă thẩm tra kỹ lưỡng thiện nghiệp và ác nghiệp của những người đă chết; đang ngợi ca tán thán những người có trí tuệ siêu phàm và đưa họ đi theo con đường sáng ngời dẫn tới giải thoát.
Om mani padme hum hri.
Những kẻ không có những phẩm tính tâm linh bị nắm tóc lôi xuống một con đường dẫn tới sự tăm tối, trong khi những thuộc hạ kêu gào: “Giết chúng! Đánh chúng!”. Bị đưa tới các địa ngục nóng và lạnh, họ sẽ phải chịu đau đớn không ngừng trong một kiếp.
Om mani padme hum hri.
Sự thương xót của tôi đối với chúng sinh khốn khổ đó thật không chịu đựng nổi. Tôi hát tụng các thần chú mani và tare bằng một giai điệu ai oán, nó đem lại chút lợi lạc nhỏ bé cho những ai có liên hệ với tôi bằng đức tin và sự khao khát.
Om mani padme hum hri.
Dharmaraja chăm chú nh́n tôi và hỏi gặng: “Cô gái, cô đă làm những đức hạnh hay ác hạnh nào? Không có lợi ích khi che dấu bất kỳ điều ǵ, v́ thế hăy nói cho ta nghe!” Đức Tara, vị bảo trợ của tôi, đứng lên, cúi đầu cung kính và nói:
“Chao ôi! Cô gái này có đức tin và sự kính trọng, v́ thế xin đừng giận dữ với cô ta. Cô ấy đối xử từ bi với người dưới và luôn luôn tránh làm điều ác”. Mặc dù sự khẩn cầu của Ngài, Dharmaraja nói với tôi “Hăy phơi bày những đức hạnh và ác hạnh của cô”.
Thuộc hạ đầu-ḅ xem kỹ cuộn giấy. “Hê, hê! Mặc dù tham gia nhiều hoạt động, cô vẫn kiên định với mục tiêu chính”.
Cô gái này nói với vẻ cung kính: “Tôi đă phạm lỗi khi mạnh tay xô ngă những đứa trẻ ngỗ nghịch”. Khi nói những điều này tôi cảm thấy sờ sợ.
Tuy nhiên, Dharmaraja hơi mỉm cười và nói: “Mặc dù có thể cô cần tự tịnh hóa lỗi lầm, nhưng thái độ thương yêu và che chở trẻ em của cô chiếu sáng bất kỳ ác hạnh nào có thể cô đă phạm.
Ta có thể gởi trả cô về cơi giới của cô. Bây giờ hăy chú tâm tới cảnh giới địa ngục, các thông điệp do người đă chết gởi và mệnh lệnh của riêng ta cho thế giới của người sống và hăy tường thuật chúng thật rơ ràng. Cũng thật đúng lúc cho cô để sám hối các ác hạnh và tiếp tục nhiều điều đức hạnh. Từ nay về sau, hăy quả quyết rằng cô không làm điều ǵ để phải xấu hổ”.
Om mani padme hum hri.
Mặc dù người chết gởi về nhiều thông điệp, hăy cho phép tôi thỉnh cầu các bạn tụ hội ở đây để nghe những vấn đề trọng yếu. Các bạn là những người được ở lại trong thế giới này của người sống, nghiệp tích cực và tiêu cực chắc chắn phải được tổng kết.
Những chúng sinh bất hạnh trong các cơi thấp phải liên tục chịu đựng nỗi khốn khổ mà không có cơ may thoát khỏi, v́ thế đừng để mối xúc động và ḷng bi mẫn của các bạn đối với họ bị ch́m lắng. Bây giờ là lúc để các bạn nhân danh họ mà nhanh chóng hồi hướng một vài công đức.
Om mani padme hum hri.
Đối với đức hạnh, trong ư định và trong thực tế, đây là lúc để nương cậy vào các điểm trọng yếu của sự tích tập, tịnh hóa và tăng trưởng. Để tịnh hóa các chướng ngại, giống như đứng lên lại bằng cách dựa vào mặt đất nơi các bạn té ngă, hăy quán tưởng, cung kính, thờ phụng một cách trong sáng các đối tượng của đức tin của các bạn và hăy dâng lời sám hối.
Ba hành động là sao chép, tụng đọc và truyền bá những mệnh lệnh của Dharmaraja, và đặc biệt là Kinh Giải Thoát, Kinh Tịnh Hóa Ba Nhánh, Tụng Niệm Hồng Danh Phật, Kinh Dược Sư, Sám Hối các Tội Phạm Giới và Tantra Sám Hối, là những phương cách tối hảo để tịnh hóa các che chướng.
Đức Phật Vajrasattva, Đức Phật Vairocana Toàn Tri, Đức Phật Akshobhya Bất Động, những nghi lễ của các bổn tôn ḥa b́nh và phẫn nộ, nghi lễ Sự Lưới Vét từ Tận cùng Địa Ngục, Akashagarbha Kinh Giải Thoát và hai văn bản tên là “Bất Nhiễm” hăy sử dụng chín phương tiện này để tịnh hóa các che chướng trong các sự tiếp cận Kinh điển và Tantra.
Một cách kiên tŕ, với niềm tin và ḷng bi mẫn, hăy duy tŕ ba điểm của sự tỉnh giác tươi mới và hăy tŕ tụng các thần chú mani, siddhi và tare, cũng như thần chú trăm-âm. Hăy phất lên những lá cờ cầu nguyện, khắc các thần chú lên đá, quay bánh xe cầu nguyện và cử hành nghi lễ chay nyungnay.
Hăy giải cứu chúng sinh thoát khỏi sự ác, hăy chuộc lại mạng sống của những chúng sinh chắc chắn bị giết hại và khoanh các vùng cấm đối với thợ săn. Bây giờ là lúc cúng dường để cấp dưỡng cho các hành giả và những bữa tiệc tsog. Hăy nỗ lực để bảo đảm những t́nh huống có thể hỗ trợ cho sự thực hành Pháp và để giúp đỡ người khác.
Nếu mối quan hệ của họ không lỏng lẻo th́ những người chết có sự nối kết với người sống qua gia đ́nh, Giáo Pháp, hay các đối tượng vật chất sẽ được thụ hưởng những lợi lạc của bất kỳ đức hạnh nào được hồi hướng cho họ.
Hăy kiên tŕ trong việc hồi hướng đức hạnh nhân danh những các nhân riêng biệt. Nếu các bạn thực hành theo cách này th́ lợi ích sẽ rất to lớn; nói chung, người chết và người sống cùng chia sẻ một vận mệnh chung cơ bản. Tôi báo cho các bạn” “Đừng quên những thông điệp của người chết. Đừng tự xa cách hay chối bỏ họ”. Các bạn là những người có sự hiệu biết, hăy ghi nhớ điều này trong tâm.
Om mani padme hum hri.
Hơn nữa, vị vua định mệnh đưa ra những mệnh lệnh sau đây:
Tất cả các ông ở trong thế giới những người sống, cao hay thấp;
Mọi sự sinh ra đều phải chết đi, và mọi sự hội tụ phải tan tác.
Kết quả sau cùng của sự tập hợp là phân tán và kết quả sau cùng của sự sinh khởi là suy hoại.
Bởi không điều ǵ trong ṿng hiện hữu sinh tử là thường hằng hay kiên cố, chớ níu chặt sự có vẻ thường hằng của các sự vật hoặc bám dính vào chúng như thật có.
Bất kỳ điều ǵ xuất hiện trước mặt các ông th́ giống như những kinh nghiệm trong một giấc mơ;
đừng bám luyến vào những h́nh tướng huyễn mộng của hạnh phúc.
Nếu các ông ước muốn hạnh phúc, hăy bỏ đi sự sao nhăng và biếng lười.
Hăy phát triển sự từ bỏ, Bồ Đề tâm, và một nhăn quan thanh tịnh.
Hăy hiến dâng ba đại lộ của hiện thể của các ông cho cái ǵ hoàn toàn tích cực.
Nếu các ông không ước muốn đau khổ, hăy tịnh hóa các hậu quả của những ác hạnh trước kia,
Và kiên quyết không tái phạm chúng.
Những nghiệp quả của các hành động tích cực và tiêu cực th́ không thể sai chạy.
Chớ phủ nhận chúng bằng những lời trống rỗng.
Các ông sẽ tái sinh trong một xứ sở tối tăm kéo dài một đại kiếp.
Những kẻ có dục vọng và tham muốn to lớn sẽ phải chịu đựng sự đói khát trong các cơi ngạ quỷ trong một triệu tám trăm ngàn năm.
Những kẻ có động lực xấu ác và luôn ám ảnh sự giết hại
Sẽ kinh nghiệm các địa ngục nóng và lạnh trong nhiều kiếp.
Những kẻ mắc phạm các ác hạnh chống trái những bậc tôn quư,
Những kẻ phạm các hành động bị nghiệp báo tức khắc,
Hay những kẻ từ bỏ Pháp hoặc giữ những tà kiến với nó
sẽ bị tái sanh trong Địa Ngục Kim Cương và ở đó trong một kiếp, kinh nghiệm nỗi khổ khủng khiếp không hề gián đoạn.
Những kẻ ganh tị và đua tranh, hoặc những kẻ vui thú trong sự gây gổ và tranh đấu,
Sẽ chịu đau khổ dài lâu trong các cơi bán thần.
Những kẻ tâm thức căng đầy kiêu ngạo và những người có thiện nghiệp th́ bị phụ thuộc vào sự cạn kiệt
Sẽ bị tái sinh trong các cơi trời và cuối cùng sẽ đọa lạc từ trạng thái này.
Những kẻ dấn ḿnh vào một pha trộn của sự hám lợi và những thiện hạnh
Sẽ bị tái sinh trong cơi người, phụ thuộc sự phiền muộn và túng thiếu.
Om mani padme hum.
V́ thế, chớ sa đà vào các ác hạnh, tám mối bận tâm thế tục.
Hay những tâm thái vụn vặt tầm thường,
Hăy nỗ lực gieo trồng cội gốc của đức hạnh hoàn toàn thanh tịnh.
Om mani padme hum hri.
Ẩn nghiệp tạo nên bởi những hành động được thực hiện bí mật trở thành hiển nhiên khi nó rơi xuống đỉnh đầu các ông.
Sự lựa chọn giữa thiện và ác nằm trong ḷng tay các ông.
Nếu các ông không suy tưởng về điều này, sự ân hận sẽ là vô ích khi các ông tới trước mặt ta, Thần Chết, trong ṭa án của ta.
Om mani padme hum hri.
Như các ông đă thấy, ta tập hợp nhiều tinh linh của người chết làm thuộc hạ.
Chúng ta đâm chúng sinh bằng những vũ khí sắc nhọn,
Bắt chúng uống vạc kim loại nóng chảy,
Khiến chúng chịu nỗi thống khổ của nóng và lạnh trong nhiều kiếp,
Chúng ta đoan chắc rằng đau khổ tiếp diễn không hề gián đoạn.
Om mani padme hum hri.
Đừng lăng quên những thông điệp này; hăy truyền đạt chúng thật rơ ràng.
Việc này sẽ đem tới cho các ông công đức lớn lao.
Các ông, những tu sĩ và cư sĩ tụ hội nơi đây,
Ta yêu cầu các ông quán chiếu tới lui những vấn đề này cho tới khi các ông không c̣n nghi ngờ ư nghĩa của chúng.
Om mani padme hum hri.
Con khẩn cầu các cội nguồn quy y, các Đấng Chiến Thắng và những vị kế tục của các Ngài chứng minh cho con.
Cầu mong mọi đức hạnh mà con và những người khác tích tập suốt trong ba thời, như được minh chứng bởi năng lực đức hạnh của đức tin và ḷng sùng mộ được tập hợp nơi đây, đều được hồi hướng và bởi sức mạnh của sự hồi hướng này.
Cầu mong giáo lư của các Đấng Chiến Thắng, dù thuộc lư thuyết hay sự chứng nghiệm, phát triển tới những phạm vi rộng lớn nhất xa rộng ở muôn phương.
Cầu mong những ư hướng giác ngộ của các đạo sư, những bảo trợ vinh quang của chúng con được hoàn thành.
Cầu mong các sự cúng dường làm vui ḷng tất cả các Đấng Chiến Thắng và những vị kế tục.
Cầu mong các hoạt động giác ngộ của những thánh nhân nắm giữ giáo lư được hưng thịnh.
Cầu mong mối ràng buộc thiêng liêng với các bậc bảo vệ giáo lư được hoàn thành nhờ những chất thể linh thánh.
Cầu mong cái thấy (kiến) và hành vi (hành) của tăng đoàn duy tŕ giáo lư được thuần tịnh.
Cầu mong năng lực và ảnh hưởng của những ai tôn kính Giáo Pháp được tăng tưởng.
Cầu mong sự suy đồi của thế giới các sinh loài và vật vô tri giác được yên b́nh. Con hồi hướng đức hạnh này để đem lại sự chữa lành bây giờ và trong tương lai.
Tôi hồi hướng đức hạnh này cho hai đấng sinh thành, cũng như cho những kẻ thù, quỷ ma, những chướng ngại và cho tất cả những ai có liên hệ với tôi qua thiện nghiệp hay ác nghiệp và đặc biệt hồi hướng cho những người nam và nữ phụ thuộc vào tôi trong việc sinh nhai.
Cho những con ngựa cày xới ruộng đồng để phục vụ chúng tôi, cho những con ḅ cung cấp cho chúng tôi tinh chất của chúng, và cho những con vật mà chúng tôi sử dụng máu, thịt và da của chúng mọi loài hữu t́nh mà chúng tôi đă trực tiếp hay gián tiếp gây nên cái chết của chúng.
Tôi hồi hướng đức hạnh này để mọi ác hạnh và thiếu sót mà tôi và những người khác đă mắc phạm, hoặc khiến cho người khác mắc phạm, hoặc vui thú trước những ác nghiệp, cùng những kiểu thói quen thuộc nằm dưới chúng. Được nhanh chóng tịnh hóa.
Tôi hồi hướng đức hạnh này để mọi chúng sinh trong sáu loài và trong bardo có thể dễ dàng và nhanh chóng hoàn thiện hai tích tập vĩ đại, và nhờ đó chứng ngộ trực tiếp bản tánh toàn khắp và nền tảng của thực tại, đạt được giác ngộ không ǵ sánh, nó làm hiển lộ những phẩm tính của sự từ bỏ và trưởng thành.
Bản tóm lược này về những thị kiến trong các cơi địa ngục được biên soạn theo cách chuyển Pháp luân bởi dakini Sherab Chhodron, cũng được gọi là Dawa Drolma, một hóa thân thực sự của Đức Tsogyal.
Sarva Mangalam May mắn, may mắn, may mắn!
Cầu mong mọi sự tốt lành.
Liên Hoa
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 407 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 5:36pm | Đă lưu IP
|
|
|
THẾ GIỚI KHI XƯA
I. THUỞ SƠ KHAI
Trong Thánh-Kinh (Bible) có câu: "Thuở sơ khai, Thượng-Đế tạo ra Trời và Đất". Nhưng thế giới từ đâu mà có, và trước đó là ǵ? Dẫn-đạo-sư nói rằng: Trước đó chỉ là sự trống rỗng sâu thẳm quá sức hiểu biết của con người.
Không có hỗn mang, không có tiếng động, không có yên tĩnh, không có ǵ cả. Thế nhưng cái Mănh-lực mà ta gọi là Thượng-Đế vẫn có luôn luôn ở đó, v́ khôngcó Thượng-Đế th́ không có vật ǵ, không có động lực, cũng không có cả cái không có.
Hỏi: cái Mănh-lực ấy từ đâu ra? Dẫn-đạo-sư thành thật nói: Chúng tôi không thể trả lời câu hỏi ấy, v́ lẽ trước khi phát sinh ra linh hồn con người th́ chưa có cuốn sổ thiên nhiên (Cuốn sổ nầy theo như tôi hiểu, là cuốn sổ vô h́nh, mà ta thường gọi là sổ Thiên Tào, ghi chép tất cả các việc ở thế gian không thiếu xót việc ǵ.
Các nhà Tiên tri là những người có thần nhăn có thể xem thấy cuốn sổ ấy và biết được những việc quá khứ vị lai. Cũng thế, tất cả hành động của một người từ bao nhiêu đời trước đều được ghi vào trong tâm thức, mà kinh Duy thức gọi là A-lại da thức hoặc thức thứ tám, thức ấy bất diệt và mang theo kho tàng phúc tội từ đời nầy sang đời khác theo luật luân hồi nhân quả.)
Cho đến khi Thượng-Đế đặt những hành tinh vào quỹ-đạo, tạo nên tác động và sự ḥa nhịp, th́ linh hồn chúng ta chỉ là những phần tử của Toàn Thể, không có sự linh hoạt và hiểu biết. Nhưng Mănh-lực ấy vẫn có đó, Thượng-Đế vẫn có đó, vẫn có ở đó cái trí thông minh hoàn toàn khôn khéo, ngoài tầm hiểu biết của tâm trí con người.
Cái Mănh-lực ấy bắt đầu tác động, và những ư nghĩ nẩy sinh ra trong Đại-Thể ấy, để rồi trở thành sự thực. Từ những nguyên tử hợp thành mảnh li-ti, rồi những mảnh li-ti cuốn vào nhau quay theo chiều hướng nhất định, dần dần đến những khối lớn trở thành hành tinh xoay quanh những mặt trời do từ lực hút dẫn.
Vài hành tinh dần dần khô cứng vỏ ngoài, sinh vật vi-tế hiện ra, trước c̣n đơn giản như những tế bào, sau phức tạp hơn như trứng, tinh trùng và bào thai. Từ Mănh-lực ấy, gọi là Thượng-Đế, bắn ra hàng triệu triệu tàn lửa, mỗi tàn lửa là một linh hồn bao quanh Đại-Thể, mỗi linh hồn được tự do đi theo ư muốn của ḿnh.
Theo các Dẫn-đạo-sư, tất cả chúng ta được tạo nên cùng một lúc trong lần bùng nổ tàn lửa đầu tiên ấy, sau đó không có tạo ra linh hồn nào nữa, và cho tới nay có nhiều linh hồn c̣n chưa bước vào đời vật chất.
Lúc phôi thai, các linh hồn là những tàn lửa nhỏ do Thượng-Đế phóng ra, cũng như những đứa trẻ chập chững đi bên cạnh cha, đều ngây thơ như nhau. Rồi sau có một số lang thang ra ngoài đường chính như những đứa trẻ mất nết, muốn thử sức ḿnh mà không theo khuôn khổ của Thượng-Đế. Nhân đó, những tính xấu như ghen ghét, tham vọng, phát sinh và càng ngày càng tăng trưởng
Nói đến sự cấu tạo lên vũ-trụ, dẫn-đạo-sư viết: Có nhiều chuyển biến trong thời gian trái đất dần dần đặc cứng. Đầu tiên là khí, rồi đến nước, rồi đến đất, đến cỏ cây, đến sinh vật, rồi những linh hồn nhập vào sinh vật hưởng thú ăn, ngủ, sinh sản, rồi bị ràng buộc vào thân h́nh vật chất.
Rồi Mănh-lực mà ta gọi là Thượng-Đế lại sinh ra một loại sinh vật tŕnh độ cao hơn, có bàn tay, bàn chân, và xương đứng thẳng, với khối óc lớn hơn, có thể phân biệt thiện ác, và có thể điều khiển thú vật, chim cá, nhờ thông minh hơn.
Mới đầu mọi sự đều tốt đẹp, sau v́ họ được tự do làm theo ư muốn, những sinh vật ấy phối hợp với những linh hồn đă nhập vào thân súc vật, mà sinh sản ra những loại bán-nhân dị-h́nh, như người có móng chân ngựa, có đuôi, sừng, vây cá, lông chim.
Đó là các hậu quả thương tâm của sự cố ư bất tuân lệnh Thượng-Đế. Những bán-nhân ấy xưa kia nhan-nhản trên trái đất, nay c̣n nhớ lại là những thân h́nh chân ngựa ḿnh người (contaur), thần dê (salyr), người đuôi cá (mermaid). Một số đă được tạc h́nh trong các ngôi mộ cổ Ai-Cập, những thân h́nh người có sừng, có móng vuốt, có cánh, hoặc bộ phận bất thường khác.
Ngay cả đến tượng thần Sphinx tại Ai-Cập, là một trong những kỳ quan thế-giới, cũng được tạc với mặt người, thân sư tử và có cánh. Những thân h́nh ấy, không nên coi là chuyện thần thoại, mà là có thực, do lỗi lầm nguyên thủy là sự phối hợp với loài vật.
Tại sao những người đầu tiên ấy lại phối hợp với thú vật, cá và chim? Dẫn-đạo-sư nói: Thoạt kỳ thủy, mỗi linh hồn là một thư-hùng lưỡng-thể, có đủ cả âm-lực và dương-lực, cũng như Thượng-Đế. Một linh hồn có thể tự ư muốn ở trong một xác thân bao lâu cũng được, hàng ngàn năm, v́ thế không cần sinh sản.
Nhưng sau có những linh hồn bị ràng buộc vào thân xác thịt và phối hợp với loài vật, nên cần phải đặt ra một hệ-thống để cho con người có thể sinh sản riêng giống người và thỏa măn nhu cầu phối hợp.
Nhân đấy, một linh hồn nhập vào thân xác thịt được chia làm hai, tức là hai nửa, và chỉ khi nào hết đời vật chất trở về cơi tâm linh, hai phần mới lại nhập một. Linh hồn đầu tiên nhập vào thân h́nh người là Amelius, là một cá thể hoàn toàn. Nhưng đến khi Amelius trở lại th́ thành ra hai phần Adam và Eve.
Tác giả nhắc lại lời Edgar Cayee cũng nói đến tên Amilius, hai chữ khác nhau về chính tả, v́ Edgar Cayee chỉ "nói" lên trong lúc thôi-miên, c̣n dẫn-đạo-sư đă đánh thành chữ nên chính xác hơn.
Tập quán thông thường coi đàn bà ở địa vị thấp hơn đàn ông. Thực ra việc sinh con đẻ cái cực kỳ quan trọng. Vả chăng mỗi chúng ta khi trở lại trái đất, lấy thân h́nh hoặc nam hoặc nữ, vậy vinh dự không dành riêng cho phái nào. Ngay chính Thượng-Đế là một cá thể hoàn toàn, chẳng phải nam, chẳng phải nữ; chúng ta gọi là Cha, chỉ là theo tập quán thông thường.
Sự sinh ra những người đầu tiên là một biến chuyển cực kỳ quan trọng, không những v́ tŕnh độ trí khôn và thân h́nh con người cao hơn tất cả các sinh vật khác, mà c̣n v́ chính một phần tâm linh của Thượng-Đế ở trong đó, khiến con người, với sự tự do làm theo ư muốn, có thể đạt đến quyết định sau khi suy luận, điều này hoàn toàn không có trong loại vật.
Y được chọn con đường y đi, được thương yêu và được thù hận, v́ y là một phần của Thượng-Đế, nên y có thể tạo ra ư nghĩ rồi đem ư nghĩ đến chỗ thực hiện. Như vậy, con người trở lên một cá tính, nhưng vẫn là một phần của Toàn Thể Vĩ Đại.
Vậy th́ ghét bỏ hay khinh khi một người khác tức là thù hận chính ḿnh và cả Tạo Vật. Mỗi chúng ta là một phần của Toàn Thể Nguyên Thủy, và bị tách ra cho đến ngày chúng ta được hợp trở lại với Thượng-Đế.
Những lời Dẫn-đạo-sư nói cũng tương tự lời của Edgar Cayee và những nhà siêu-h́nh-học khác, v́ lẽ tất cả sự việc đều ghi vào sổ thiên nhiên, và những tâm linh sáng suốt được đọc sổ ấy, đều được nói lên sự thật như nhau.
Edgar Cayee cũng nói rằng Amelius là thiên thần đầu tiên nhập vào thân h́nh người, và một số linh hồn đă làm trái ư muốn của Thượng-Đế mà phối hợp với cầm thú, khiến cho những quái vật được sinh ra. Sự kiện này đă tiếp diễn trong nhiều ngàn năm.
Nhưng từ khi linh hồn người được phân chia ra nam nữ để sinh sản ra cùng giống, Thượng-Đế đặt ra luật khiến cho loài người không thể sinh ra con cái khi phối hợp với loài khác.
Năm giống người được vào trái đất cùng một lúc, mỗi giống có một mầu da riêng biệt để thích hợp với ánh nắng mặt trời và hoà đồng với hoàn cảnh (Từ trước tôi không khỏi thắc mắc, sau khi đọc truyện Adam và Eve, rằng ai là thủy tổ của loài người.
Theo kinh Thánh (Bible), Đức chúa trời (God) đă tạo ra trời đất cỏ cây động vật và sau cùng là người trong sáu ngày.
Người đầu tiên Adam và Eve sinh ra tại vườn Eden ở trong khu vực Assyria-Euphrates, tức là vùng tây Á châu từ Địa trung hải đến vịnh Ba tư. Đến khi cháu Adam đời thứ 20 là Abram (sau đổi là Abraham) v́ nạn đói phải đi sang Ai Cập, và cháu Adam đời thứ 23 là Joseph bị các anh bán sang Ai Cập, th́ thấy rằng người Ai Cập không phải là ḍng-dơi Adam.
Theo tập Exodus là Jehovah (chương 6) "là Đức Chúa Trời của người Do Thái" (The Lord of the Hebrews, chương 3), vậy Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh chỉ sinh ra người Do Thái, chứ không sinh ra người Ai Cập. Ngoài ra, c̣n người Á châu da vàng, người Âu châu da trắng, người Phi châu da đen, người Mỹ châu da đỏ, ai đă sinh ra?
Nay đọc cuốn sách nầy, dẵn đạo sư nói có năm giống người được sinh ra tại năm nơi với màu da khác nhau, như thế có lư hơn.)
Từ đấy mặt địa cầu càng ngày càng đông người ở. Những tâm linh ở trong thân h́nh người ấy có thể giao tiếp với nhau bằng ư nghĩ, và cũng có thể tự ư thoát ra khỏi từ lực của trái đất, để tạo lên những vật rất to lớn và di chuyển vật ấy từ nơi này đến nơi khác.
Thực ra họ có thể phân tán ra và kết hợp lại những nguyên tử, nên với phương pháp giản dị này, ta thấy có những đầu khổng lồ trên Cù-lao Easter (Easter Island) (Easter Island là một cù lao trên Thái B́nh Dương thuộc Chi Li (Chile)), kim-tự-tháp lớn tại Ai-Cập, và nhiều di tích khác của một nền văn minh cao hơn ngày nay rất nhiều.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 408 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 5:38pm | Đă lưu IP
|
|
|
THẾ GIỚI KHI XƯA
II. NGƯỜI TRÊN TRÁI ĐẤT
Các nhà siêu-h́nh-học đều công nhận rằng Đại-lục Mu, cũng tên là Lemuria, trong quá khứ, là nơi phát nguyên nền văn minh. Đại lục ấy là một vùng đất đai rộng lớn đi từ bắc California đến nam Peru, bao gồm một phần lớn Thái B́nh Dương, mà những đảo Hawaii, Tahiti, Polynesia và Easter là những di tích c̣n sót lại.
Từ miền tây California, bấy giờ thuộc bờ biển của Lemuria sang đến Bắc mỹ, là biển cả, trong đó có vùng Hồ Mặn (Great Salt Lake) tại Utah. Lưu vực sông Mississippi là bờ biển phía tây của lục địa Hoa Kỳ ngày nay.
Nhưng khi Lemuria bị ch́m xuống và đất nhô lên thành dăy núi Rocky và Appalachian, th́ trong một thời gian, sông Mississippi đổ vào những Đại Hồ (Great Lakes), trước khi một thiên tai khác, một lần nữa, thay đổi địa thế.
Các dẫn-đạo-sư ước rằng người thái-cổ đă có ở trên trái đất từ năm đến bảy triệu năm, sau khi những bán-nhân thô lỗ đă được sinh ra từ nhiều triệu năm trước. Người đầu tiên là Amelius có thân h́nh nhẹ nhàng, có thể hiện diện tức th́ tại bất cứ nơi nào trên trái đất.
Amelius và những người sau cũng có thân h́nh nhẹ như thế, đều có khả năng chuyển ư nghĩ thành sự thật, và di chuyển những vật nặng bằng cách phân tán ra và kết hợp lại những nguyên tử của vật ấy. Chính amelius cũng là một ư nghĩ của Thượng-Đế chuyển thành sự thật.
Theo dẫn-đạo-sư nhiều người thái-cổ cao trên ba thước rưỡi, và những loài thú, cá, chim, phối hợp với họ để sinh sản ra những con dị h́nh to lớn, một số những con này có nhiều tài lạ khiến chúng được tôn thờ trong thần thoại Hy-Lạp và La-Mă.
Trong thời Amelius sống trên trái đất với h́nh thể nhẹ nhàng, con người không bị bám chặt trên mặt đất v́ sức hút của từ lực, nên không nặng nề. Amelius là một thư-hùng lưỡng-thể, nghĩa là có đủ âm lực và dương lực, là một người mẫu hoàn toàn, chỉ trừ không thể ăn uống, tiêu hoá và sinh sản, bản năng này chỉ được phú cho người sau này khi đă được phân chia nam nữ.
Những người bất tử đầu tiên ấy luôn luôn ở trong t́nh trạng trẻ trung không già không chết như người vật chất. Họ muốn đến đâu là tức th́ đến đó, cũng như h́nh ảnh ti-vi được thấy tại tất cả mọi nơi nếu có máy thích hợp. Họ ở Atlantis, Lemuria, ở Mỹ Châu, Á châu, ở đâu họ cũng t́m cách an ủi và dạy bảo những kẻ dị h́nh.
Đến khi Thượng-Đế đặt ra luật loại nào sinh sản ra loại ấy, khiến cho không thể trộn lẫn hai loại khác nhau, th́ người không c̣n phối hợp được với thú, chim, cá và sinh sản ra loại dị h́nh nữa.
Từ khi có Adam và Eve đầu tiên đă phân chia nam nữ, sinh sản loài người lan tràn trên mặt đất, và thời kỳ vàng son trên Lemuria lư tưởng quá sức tưởng tượng của người hiện đại, đến nay đă hơn bốn triệu năm.
Những người đầu tiên sinh sản nhanh chóng, v́ sự sinh nở tự nhiên không khó khăn, nên có nhiều phụ nữ sinh mấy chục con trong đời họ. Sự hoà nhịp với thiên nhiên được hoàn toàn nên không có tật bệnh, và họ có thể ở trong thân h́nh rất lâu. Nhưng về sau họ bị ràng buộc vào vật chất, nên thể chất họ trở thành nặng nề hơn và khả năng bảo vệ đời sống giảm dần đi.
Từ khi trái đất dần nguội lạnh, vỏ ngoài co lại thành những nơi lồi lên lơm xuống, những lồi lơm ấy đă thay đổi nhiều lần, khiến nên nơi này đất liền ch́m xuống biển, nơi khác đất từ biển nổi lên.
Dẫn-đạo-sư nói rằng gần cuối thế kỷ này một thiên tai như thế sẽ xảy ra, nhiều lục địa sẽ biến thành biển cả và biển cả trở thành lục địa, nơi băng giá sẽ nóng bức và vùng nhiệt đới sẽ đông lạnh. Một số nhà địa-chất-học cũng công nhận rằng trái đất đă thay đổi trục nhiều lần trong qúa khứ.
Bằng chứng là thấy có vết tích cây cối, động vật và khủng long dưới những lớp băng đá dày tại nam bắc cực. Bác-sĩ Frank Hibben ước tới bốn mươi triệu thú vật đă bị chết cứng đột ngột trong lần đổi trục cuối cùng trước đây.
Dẫn-đạo-sư khuyên những ai lo sợ thảm họa ấy hăy nhớ rằng đời sống vật chất chỉ là đời sống mỏng manh. Mục đích của chúng ta là thực hiện sự toàn thiện, để cho không phải trở lại đời vật chất nữa.
Càng bám vào của cải trần gian th́ càng cản trở bước tiến của tâm linh. Trong đời sống tâm linh, của cải không có nghĩa ǵ, v́ mọi vật đều do ư nghĩ sinh ra, muốn ǵ có nấy tức th́. Những ai lo sợ hủy diệt vật chất, nên biết rằng thân xác tuy mất, nhưng linh hồn vẫn c̣n tồn tại đời đời.
Lư do duy nhất năm giống người khác nhau được tạo lên là để giúp cho con người thích nghi với khí hậu. Màu da của người da đen cần để che thân dưới mặt trời gay gắt miền nhiệt đới, và cũng để dễ dàng ẩn náu trong rừng rậm âm u của Phi-Châu. Người da trắng ở nơi giá lạnh mùa đông tuyết phủ, cần ít mầu sắc để che thân dưới ánh mặt trời xiên nghiêng.
Mầu nâu được dành cho những người ở vùng bán-nhiệt-đới Thái B́nh Dương nhiều gió băo. Màu đỏ để hoà đồng với đất đỏ châu Atlantis và châu Mỹ. Sau cùng mầu vàng cho người phương đông hợp với đất vàng và mặt trời ít gắt. Mỗi giống có một thủy tổ Adam hay muốn gọi tên ǵ cũng được, và một Eve tượng trưng cho sự tạo thành con người hoàn toàn có bộ phận loài vật.
Dẫn-đạo-sư đồng ư với Edgar Cayee rằng Amelius tái sinh là Adam và Eve, cả hai đều tái sinh nhiều triệu năm sau là Jesus và Mary. Về điểm dẫn-đạo-sư ước từ năm đến bảy triệu năm từ khi có người thái-cổ trên trái đất, tác giả vẫn c̣n thắc mắc cho đến ngày 31-10-1975 được đọc một bài báo Associated Press như sau:
"Các nhà bác học đă tuyên bố hôm qua rằng xương người cổ xưa nhất đă được t́m thấy tại một ḷng sông khô cạn miền đông Phi Châu. Những răng và xương hàm đă hóa thạch của 11 người đă được ước lượng chính xác bằng kỹ thuật phóng xạ, có từ 3.350.000 đến 3.750.000 năm. Đây là di tích cổ xưa nhất thế giới.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 409 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 5:45pm | Đă lưu IP
|
|
|
THẾ GIỚI KHI XƯA
III. ĐẠI LỤC LEMURIA
Trong buổi sơ khai của nền văn minh trên đại lục Lemuria, những loại cây có nhiều đời sống không khó nhọc. Sau v́ nhân số gia tăng, những người thái-cổ phải cố gắng để có thêm thực phẩm.
Trước c̣n là đời sống vô định, nay đây mai đó, về sau họ phải gom hạt giống để trồng loại cây có nhân như hạt dẻ. Nông nghiệp bắt đầu từ đó, và là một bước tiến phi thường, cũng như ngày nay bay lên mặt trăng.
Nhiều dân Lemuria làm nghề đánh cá và tỏ ra có tài trên mặt biển. Thoạt đầu, họ ở những vùng bờ biển, rồi sau di chuyển vào nội địa. Họ nuôi cừu (trừu) và gia súc mà họ coi như là anh em, nhưng khi dân số càng đông th́ họ giết để ăn thịt.
Tuy rằng đa số cao lớn hơn người ngày nay rất nhiều, nhưng trong thời kỳ thí nghiệm ấy, cũng có những người nhỏ bé hơn người lùn bây giờ. Tất cả những người ấy đều ưa thích hát và nhảy múa theo nhịp sáo và nhịp trống.
Những người Lemuria đầu tiên có đời sống tâm linh cao. Họ ḥa nhịp với Thượng-Đế, nghĩa là hiểu những ǵ Thượng-Đế truyền dạy bằng cách truyền tư tưởng. Dần dần họ bị ràng buộc vào trái đất, khiến thân h́nh nặng nề hơn, và con mắt thứ ba, là mắt sáng suốt hiểu biết mọi sự, bắt đầu lu mờ.
Một số sống thanh đạm, ăn dè dặt, và luôn luôn tưởng niệm đến Tạo-Hóa, nên vẫn có thể thông cảm với Thượng-Đế. Họ không dự vào những thú vui của người trần tục để giữ cho tâm linh họ gần với Thượng-Đế.
Họ dạy bảo dân chúng những điều trong sạch, ngay thẳng, nên được dân chúng kính nể và chia sẻ hoa lợi mùa màng với họ. Từ đấy phát sinh giới thầy tu đầu tiên.
Những người cao siêu ấy c̣n giữ được khả năng phân tán nguyên tử và di chuyển những tản đá lớn. Đến đây, tác giả hỏi đến nguyên lai những đầu khổng lồ trên cù lao Easter.
Dẫn-đạo-sư nói: Đó là những tản đá rất lớn đánh dấu nơi công trường vĩ đại mà dân từ khắp nơi trên đại lục Lemuria kéo đến tụ họp trong những cuộc đại lễ.
Những đầu to lớn ấy với những nét mặt khác nhau tượng trưng các vị thần, mỗi vị ngự trị trên một phạm vi riêng biệt và hướng về một phương trời. Những đầu ấy được dựng lên trong thời sơ khai, khi con người chưa bị ràng buộc vào sức thu hút của từ lực, và như thế được tạo lên dễ dàng.
Dẫn-đạo-sư kể lại một sự tích về những khối đá khổng lồ ấy. Trong thời kỳ giới thầy tu được nhiều uy tín, có những kẻ ghen ghét muốn làm giảm uy tín ấy.
Họ thách đố những thầy tu trong ngôi đền tại vị trí hiện nay của cù-lao Easter: Ai có thể di chuyển một cái đầu khổng từ nơi này qua nơi kia th́ sẽ được nhận đồ dâng cúng và được quyền ưu đăi hơn người khác.
Những kẻ thách đố xảo quyệt ấy đă biết cách di chuyển những vật to lớn bằng một phương pháp huy động tinh thần gần như thôi miên, góp sức nhiều người cùng nhau tác động.
Một số đông tụ họp lại, và đến giờ đă định họ đều bước tới, niệm câu thần chú, và cùng nhau ghé vai vào dưới cằm một cái đầu bằng đá, nâng bổng lên được vài phân, nhưng rồi kiệt lực đều té cả xuống.
Đến lượt các thầy tu, họ dùng khả năng phân tán nguyên tử, cùng nhau hát lên, ngước mắt nh́n trời, cử động bàn tay ( Có lẽ là hộ thần là bất quyết), tức th́ đầu đá khổng lồ biến mất. Tất cả đám đông hoảng hốt kêu lên: "Trả lại đầu đá cho chúng tôi."
- Xin vâng, thầy tu vừa nói xong, đầu đá hiện ra trên một ngọn đồi khác. Những kẻ thách đố xấu hổ, và từ đấy uy tín các thầy tu càng cao.
Thời bấy giờ có những linh hồn từ các hành tinh khác đến thăm. Mặc dù họ mang h́nh thể khác hẳn trên hành tinh của họ, nhưng họ có thể biến thành h́nh người thái-cổ khi họ đến trái đất.
V́ những thân h́nh của họ nhẹ gần như bóng sáng, cũng như Amelius và những người thái-cổ đầu tiên, nên họ có thể đi về trong thời gian ư nghĩ phóng ra.
Dẫn-đạo-sư giải thích rằng v́ họ có khả năng phân tán và kết hợp nguyên tử, nên họ thoát ra ngoài ảnh hưởng từ lực của trái đất, họ nhẹ hơn không khí, tùy ư muốn biến hiện chính thân ḿnh hoặc những tản đá lớn lúc nào cũng được, đến nơi nào cũng được.
Những kim-tự-tháp Ai-Cập và các di tích khổng lồ khác đă được tạo dựng lên bằng phương pháp ấy.
Đại lục Atlantis là một nơi thiên đường không nóng không lạnh, dân chúng thuộc giống người da đỏ, và cũng có những bán nhân thân h́nh thô kệnh, là ḍng dơi của những người đă phối hợp với cầm thú.
Không như người Lemuria chịu khó dạy dỗ và nâng cao những kẻ dị h́nh ấy, người Atlantis đối đăi với họ như những con vật để khuân vác nặng nề và làm những việc ti tiện.
Văn minh trên lục địa Lemuria lên đến cực điểm. Nền giáo dục rất cao, những người trưởng thành có tŕnh độ ngang với tiến sĩ ngày nay, nhiều người c̣n tiến xa hơn về cảm giác và ư thức. Chính quyền rất dịu dàng, ḥa hoăn, hàng ngày ít việc làm v́ không có tội ác, không có thù hận.
Nếu ai có điều bất ḥa nhất thời với một người khác, th́ người trọng tài giải thích rơ ràng quan điểm của đôi bên. Không người nào bị giam vào tù ngục, v́ người ấy có thể thoát ra khỏi tức th́, bởi lẽ ai cũng có thể chuyển ư thành sự thực.
H́nh phạt về một hành động sai lầm chỉ là lời khuyên nhủ khiến họ hiểu tính chất của điều lầm lỗi và tránh không tái phạm.
Về luật luân hồi nhân quả, dẫn-đạo-sư nói rằng luật ấy đă có từ trước khi linh hồn nhập vào thân xác thịt. Đó là luật trời, nếu ai làm trái th́ phải đền tội. Amelius và những người sinh ra cùng thời đầu đă hiểu luật ấy.
Khi tái sinh ra thành những Adam, Eve và thân h́nh khác, họ đă phải cố gắng xoá cái nợ luân hồi ấy bằng cách đối xử tốt với loài vật. Nhưng bấy giờ Satan lợi dụng cơ hội để điều khiển những kẻ làm sai ư muốn của Thượng-Đế.
Vị thần sa ngă ấy quyến rũ những linh hồn xấu xa, càng ngày càng đông bộ hạ, đi ngược lại con đường dự định của Thượng-Đế, có lúc tưởng chừng như y có quyền năng mạnh hơn cả Thượng-Đế, nhưng không phải.
Thượng-Đế vẫn toàn năng, vẫn theo dơi kẻ lạc đường nhất thời, và khi một linh hồn biết hối cải và hồi đầu về Cha, tức th́ có sự lạ chờ đón y.
Do đó mà có luân hồi, là chuyện đáng buồn cho người đời cứ phải trở lại nhiều lần vào cái thân vật chất, nhất quyết rửa sạch vết xấu xa trong tâm thức. Một số linh hồn đă tiến cao đến toàn thiện, đă hoàn tất bánh xe luân hồi, không phải trở lại đời vật chất nữa.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 410 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 5:46pm | Đă lưu IP
|
|
|
THẾ GIỚI KHI XƯA
IV. D̉NG DƠI THIÊN THẦN
Văn minh trên trái đất chưa bao giờ lại được tiến bộ như thời vàng son trên đại lục Lemuria và Atlantis. Đa số dân chúng có tŕnh độ trí thức cao, và nhờ sự cần cù của họ, cây cối tốt tươi bao phủ khắp mặt đất.
Nhưng không phải là tất cả đều thơ mộng. Nhờ sự phồn thịnh do sức người tạo lên, có vài giống vật sinh sản nhanh hơn loài người. Điểu thú khổng lồ phá hoại mùa màng, thằn lằn to lớn từ biển ḅ lên đầy mặt đất, và những con khủng long với thân vĩ đại và đầu nhỏ bé, hung bạo đến nỗi người phải họp nhau lại trong những khu bảo vệ chặt chẽ. Tại Lemuria t́nh trạng rất nguy nan, khiến người ta phải đào hầm dưới đất hoặc moi rộng hang ở sườn núi để ẩn náu.
Những con khủng long khổng lồ lang thang khắp nơi, đạp đổ cây cối, tàn hại hoa mầu, phá hoang vườn tược mà người ta tốn công trồng tỉa để có thức ăn và bóng mát. Chúng dày séo lên tất cả mọi vật trong tầm của chúng, một ngón chân của chúng có thể đè nát một đứa trẻ con. Chúng thường đánh nhau kịch liệt để tranh dành miếng mồi ngon như người hoặc thú vật. Đuôi lớn của chúng quạt khắp rừng rậm và sông ng̣i để t́m miếng ăn.
Để tránh các thú dữ ấy, người phải sống trong những hang mà cửa vào thấp nhỏ. Đó là một thế giới trong bóng tối. Chỉ có đàn ông mới dám đi ra để kiếm mồi khi những thú dữ không có ở gần. Họ sống bằng thịt săn và ít rau cỏ trồng quanh cửa hầm. Phụ nữ cả đời chỉ được trông thấy bóng người đi qua cửa hang.
Họ nói với những bóng ấy, tưởng đó là những tâm linh của thế giới khác đến nói chuyện với họ, không biết rằng đó là bóng của những người có thân h́nh như thường đứng trước họ và quay lưng ra ánh sáng. Trẻ con dám phiêu lưu ra ngoài, khi không trông thấy có con vật khổng lồ nào từ xa mới chui ra khỏi cửa hang. Mắt họ bị chói ḷa v́ không quen với ánh sáng mặt trời.
Những gia đ́nh ấy hôn phối lẫn nhau trong những buổi lễ ngắn ngủi tổ chức bởi những thầy tu là những người c̣n nhớ đến đời sống tâm linh xưa kia. Trước mặt thầy tu, đôi trai gái nắm tay nhau, và tất cả cùng hát những câu chúc tụng. Nếu có người săn được một con vật, nhỏ như con thỏ hoặc lớn như con trâu, th́ đó là một đại tiệc. Họ ăn, họ ngủ, họ nói chuyện, họ sinh sản. Đó là đời sống âm thầm tăm tối của những người Lemuria ít may mắn.
Vậy mà họ là ḍng dơi thiên thần! Trước khi một số gan dạ cố gắng trừ khử những con vật kinh khủng ấy, tưởng chừng ít có hy vọng cho sự tiến hoá của loài người.
Dẫn-đạo-sư kể lại một gia đ́nh Lemuria chừng 20 người cả con và cháu, sống cách đây khoảng 60 ngàn năm. Họ ở trong hang đào sâu trong đất dưới một ngọn đồi, cửa hang rất thấp, ra vào phải ḅ, để giữ cho những con vật to lớn không thể vào được.
Họ ngủ trên những chiếu đan bằng cỏ mọc quanh hang, sống bằng hạt dẻ và trái cây, đôi khi có thịt do đàn ông săn được. Họ sống trong bóng tối lờ mờ, chỉ có chút ánh sáng nơi gần cửa vào và những khi đốt đuốc, cây đuốc làm bằng mỡ những con vật đă chết, nhưng đuốc ấy tỏa nhiều khói quá chỉ dùng khi nào rất cần.
Một ngày kia, trong khi đàn ông ra ngoài săn bắn, một con khủng long to lớn đánh hơi biết có người trong hang, nó lách cái đầu nhỏ của nó vào cửa hang, cố sức cậy ra một lỗ lớn để vào. Tất cả đàn bà, trẻ con trong hang sợ hết hồn, nhưng cũng phải can đảm lấy gậy đập vào đầu nó trong khi miệng nó phun ra khói.
Đàn ông nghe tiếng ồn ào chạy về, lấy giáo nhọn đâm vào nó hàng trăm nhát cho đến khi nó chết. Rồi mấy chục người ở những hầm quanh đấy phải họp nhau lại lôi xác nó ra xa vừa để tránh mùi hôi thối, vừa để những con vật khác khỏi đến gần.
Đó là cảnh sống hằng ngày của những gia đ́nh thời bấy giờ, luôn luôn ở trong t́nh trạng sợ hăi. Họ ao ước được thấy cảnh đẹp bên ngoài, cũng như ngày nay một người già bệnh tật ao ước được lên cơi trời.
Chỉ có những người đánh cá là không phải ở trong cảnh sợ hăi tối tăm ấy, v́ vùng bờ biển cây cối thưa thớt, những con khủng long và mam-mút (là loại voi khổng lồ có nhiều lông và ngà cong lên) thường không lui tới. Nhưng v́ đông dân cư quá nên chỉ có một số ít được hưởng cái tự do ấy.
Thật là một ngày quan trọng vô cùng khi một chiếc máy bay đầu tiên đáp xuống hồ Chalda trên đại lục Lemuria, đem lại hy vọng cho những kẻ khốn khổ, ḍng dơi của những bậc trí thức cao mà ngày nay sa xuống gần ngang súc vật, với đời sống trong tăm tối không có tương lai.
Họ hết sức vui sướng khi được biết rằng những người Atlantis muốn cộng tác với họ để triệu tập một đại hội thế giới bàn cách trừ khử những con vật khổng lồ.
Máy bay có thể đáp xuống băi biển không sợ nguy hiểm, v́ những con vật khổng lồ không ở nơi băi cát. Khi những người Atlantis đầu tiên đặt chân lên Lemuria, tin tức lan ra rất nhanh trên khắp đại lục, phá tan không khí buồn tẻ trong nhiều thế hệ.
Tin tức được loan ra bằng hệ thống một loại dây leo truyền âm do một nhạc khí tựa như cái trống của bộ lạc Phi Châu, trống nọ truyền đến trống kia đi xa hàng trăm dặm. Những người mới đến chào hỏi người Lemuria như là những anh em lâu ngày mới gặp lại nhau. Người Lemuria chạy vội đến nơi đón khách quư, vui mừng khôn tả.
Khi người Atlantis nói đến những điều mới lạ trên đất họ, người Lemuria sụt sùi khóc, v́ cảm thấy khác biệt một trời một vực giữa cảnh xa hoa của người và cảnh khốn khổ của ḿnh. Chẳng khác nào một người mọi Phi Châu chưa bao giờ bước chân ra khỏi làng, nay được nghe tả cảnh phồn hoa Nữu Ước và Luân Đôn.
Một số những người niên trưởng Lemuria đi theo đám quư khách trở về Atlantis để cùng họp với những người từ các nước phương xa đến hội. Atlantis có nhiều tàu, nhiều khinh-khí cầu, nên việc triệu tập dễ dàng nhanh chóng, và những thanh niên được đưa đi học về kỹ thuật và hóa học.
Phi công lái chiếc máy bay tên là Drofus. Cùng với y có hai nhà bác học để điều khiển quả cầu pha lê nhỏ trong máy bay cho phù hợp với một tia sáng của quả cầu lớn trung ương. Đây là một phương pháp tinh vi mà ngày nay không ai hiểu được.
Muốn bay từ Lemuria hoặc một nơi khác xa Atlantis, th́ phải sửa soạn rất công phu, để điều hợp quả cầu nhỏ trong phi cơ với một tia sáng của quả cầu lớn, khiến cho phi cơ tự động theo hướng mà bay trở về. Nguyên tắc những quả cầu pha lê có nhiều mặt phẳng đă bị chôn vùi với đại lục Atlantis, ngày nay không ai biết cách tạo lên và xử dụng những quả cầu ấy.
Người Atlantis bấy giờ là những người tốt bụng. Họ thấy đời sống khốn khổ mà những con vật khổng lồ đă gây cho người Lemuria, họ thúc giục những người này di cư sang nước họ, và họ dạy cho cách đóng những chiếc tàu lớn để có thể đi xa.
Nhưng họ không cho ai biết bí mật Quả cầu Pha lê, nó giúp họ điều động các máy bay và tàu ngầm của họ. V́ họ có phương tiện vận chuyển nhanh chóng tiện lợi, nên những lần triệu tập hội đồng cũng được nhanh chóng.
Có những máy bay loại nhẹ chở vài ba người, buộc vào một quả cầu, chỉ cần một khu nhỏ để đáp xuống và bốc lên, lại có bộ phận điều khiển luồng gió, đại khái như máy trực thăng ngày nay, để di chuyển gần. Những máy lớn và mạnh hơn điều khiển bằng tia sáng loại laser do Quả cầu Pha-lê phát ra, cần phi đạo dài hơn, như máy phản lực hiện thời.
Những sân bay được xây tại nhiều nơi để chở người đi dự hội và để tiếp tế hàng hóa, v́ khi ấy Atlantis giữ địa vị lănh đạo trong việc sáng chế và sản xuất các loại hàng.
Lemuria trong những ngày cuối được coi như một bà mẹ khôn ngoan và dịu hiền, cố gắng dạy bảo những nước nhỏ, nhưng bọn này ưa thích đời sống tối tân của Atlantis hơn là triết lư của Lemuria. Điều này khiến chúng ta nghĩ đến bọn trẻ tại Hoa-Kỳ ngày nay.
Trong những hội họp quốc tế, có người đưa ra ư kiến ḍ t́m đến tổ những con vật khổng lồ để diệt con nó ngay khi c̣n nhỏ. Người Atlantis chế ra một hơi độc để "thổi" vào tổ chúng khi thuận chiều gió, cách ấy tỏ ra có hiệu quả với những con nhỏ, nhưng không đủ sức sát hại những con lớn.
Dẫn-đạo-sư tả khí cụ được dùng tựa như cặp đũa để t́m mỏ hay mạch nước ngày nay, nhưng tinh vi hơn nhiều, để t́m ra tổ khủng long và mam-mút, những đũa ấy giúp cho những người liều mạng đi t́m đích xác vị trí và thổi thuốc vào tổ nó. Những người gan dạ đă đi t́m khắp các nơi trên thế giới.
Cuộc chiến đấu với khủng long và các vật khổng lồ khác đă kéo dài nhiều thế kỷ và đă có nhiều cuộc hội họp quốc tế để bàn cách giải phóng đất đai nhanh chóng hơn. Người ta đă đạt được nhiều kết quả tốt đẹp trong việc diệt trừ những vật khổng lồ khiến chúng đă giảm bớt, trước khi một thiên tai xảy đến, đáy biển trồi lên, lục địa ch́m xuống, chôn vùi đại lục và chôn luôn cả những vật khổng lồ.
Khi một giống nào làm nguy hại cho giống khác, th́ giống ấy không thể tồn tại lâu bền trên trái đất. Cái luật ấy là một sự cảnh cáo cho nhân loại hiện nay đương làm cho đất đai, sông biển và không khí nhiễm độc nguy hại cho các loài khác.
Được hỏi tại sao Thượng-Đế đă sinh ra những vật khổng lồ ấy rồi lại khiến cho chúng bị diệt chủng, như thế có phải là Thượng-Đế đă lầm không? Dẫn-đạo-sư nói: Thượng-Đế không lầm. Tạo-Hoá là một pḥng thí nghiệm trường kỳ. Thoạt đầu con người cao hơn ba thước hoặc thấp hơn một thước, rồi sau trở lại trung b́nh hơn một thước rưỡi, và trong mấy ngàn năm gần đây lại cao hơn trước.
Nhưng nếu nhân loại cứ tiếp tục nhiễm độc trái đất, làm nguy hại cho các giống khác, th́ sẽ phải chịu số phận như loài khủng long. Ḿnh được sống th́ phải để cho kẻ khác cùng sống với ḿnh, đó là luật chung của vũ-trụ, nếu chỉ phá hoại, tàn hại giống khác, sẽ không tồn tại lâu trên trái đất.
Khi những vật khổng lồ bị giảm sút dần đi, th́ đời sống con người đỡ khổ, họ đă có thể hưởng ánh sáng mặt trời và gió mát. Dân số tăng rất nhanh chóng, những phụ nữ có hàng chục đứa con. Việc sinh sản không khó khăn và không cần săn sóc như ngày nay, v́ đó là sự tự nhiên, cũng như loài vật sinh con đẻ trứng chẳng cần ai săn-sóc và dạy cách nuôi con.
Trẻ con lớn lên được dạy bảo nhờ những người c̣n nhớ đời sống tâm linh và cảm thông với các linh hồn như ta nói chuyện với hàng xóm. Chúng được dạy cho biết lư do tại sau chúng thác sinh ra đời vật chất, và chúng phải làm việc thiện để hoàn tất sứ mệnh theo luật Trời.
Những bậc cha mẹ cũng hiểu rằng con họ cũng là những linh hồn ngang tuổi với họ, đă chọn họ làm cha mẹ để học hỏi và tiến hóa trong thân xác thịt. Những trẻ con Lemuria có lẽ là những kẻ hoàn toàn nhất trong nhân loại, chúng gần như không biết đến tội lỗi đối với cha mẹ, thầy dạy và bạn bè.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 411 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 5:47pm | Đă lưu IP
|
|
|
THẾ GIỚI KHI XƯA
V. NHỮNG MÁY BAY ĐỜI THƯỢNG CỔ
Atlantis là một đại lục huyền ảo, lư tưởng, xưa nay không đâu bằng, với rừng rậm thâm u, với cánh đồng bát ngát, với khe nước suối, và một con sông lớn ngăn cách Poserdia với phần đất đai c̣n lại. Thật là một cơi thần tiên! Vua Atlantis tên là Atlas tức là một Adam, vợ là Heputh.
Châu Atlantis chạy dài từ duyên hải đông Hoa Kỳ, gồm những vùng bờ biển Georgia, Carolina, Virginia, west Indies và Braril, băng qua Đại Tây Dương đến gần duyên hải tây Phi Châu.
Những vua đầu tiên là những linh hồn tiến hóa cao, c̣n nhớ đời sống tâm linh và có thể cảm thông bằng tư tưởng. Vua Atlas phóng những luồng điện và những người dưới bắt luồng điện ấy hiểu được ư vua không cần nói hay viết.
Nhưng đó không phải là một trạng thái thôi miên, chỉ là sức mạnh của ư nghĩ. Sức mạnh ấy tỏa ra từ Atlas qua các con cháu, trở thành năng lực linh động, từ ấy nẩy sinh ra những sáng chế kỳ lạ, chưa bao giờ có từ khi châu ấy bị ch́m.
Vua Atlas phóng ra một tư tưởng, những người khác bắt được làn sóng tư tưởng ấy đưa đến chỗ thực hiện ư nghĩ thành sự thật. Có như thế, những người Atlantis trong nhiều ngàn năm, đă sáng chế ra máy bay, tàu ngầm, tàu nổi, và tia điện như loại tia laser ngày nay, đưa đến một nền văn minh cao tột bực chưa từng có.
Atlas và Heputh sinh ra 24 người con và có nhiều cháu, đều có tŕnh độ tâm linh cao. Mỗi người con là một ông Hoàng cai quản khu vực của ḿnh. Anh quốc ngày nay nằm trong phạm vi của một khu vực, trước khi bị loạt thiên tai nhận ch́m tất cả đất đai từ Hoa Kỳ đến Anh, Bồ Đào Nha và miền tây Phi Châu.
Thời bấy giờ người sống rất lâu, hàng triệu năm, nên chưa có vấn đề thừa hưởng, và chẳng bao lâu vua Atlas có hàng trăm con cháu.
Tác giả nhận thấy rằng những điều Dẫn-đạo-Sư nói trên tương tự với sự tích Atlantis mà nhà học giả Hy-lạp trứ danh Plato đă để lại cho văn minh tây phương. Plato được biết sự tích ấy do luật gia đại tài Solon ở thành Athens 600 năm trước kỷ nguyên, ông nầy đă sang Ai-Cập mười năm và đă học nhiều sự tích Atlantis do các thầy tu thành Sais, thủ đô Hạ Ai Cập.
Theo Plato kể lại, vị thần Poseidon sinh ra năm đứa con trai sinh đôi, người con trưởng là vua Atlas có nhiều con cháu tiếp tục trị v́ vương quốc trong nhiều thế kỷ.
Dẫn-đạo-Sư nói thêm rằng Atlas là con cháu là ḍng giống thuần túy không bao giờ ô nhiễm v́ chung sống với những bàn-nhân đă có từ lâu trên Atlantis trước thời Atlas. Người Atlantis coi những bàn-nhân thô lỗ ấy như loài vật để làm việc nặng, như khuân vác, cày bừa, và sau nầy vận chuyển máy móc.
Tuy có sự phân biệt giữa hai hạng người và bàn-nhân, nhưng lúc đầu họ không cảm thấy bị lạm dụng, v́ mỗi bên đều làm hết sức ḿnh. Nhưng mấy chục ngàn năm sau, sinh ra có sự tranh chấp, không những giữa người và bàn-nhân, mà c̣n ngay chính giữa loài người, v́ bấy giờ đă mất quan niệm họ hàng và quan niệm đồng nhất.
Khi ấy Atlas và con cháu gần đă qua đời lâu rồi, dân chúng đă đông đầy trên đại lục, đồng thời những chim và thú khổng lồ đă sinh sôi nẩy nở ra nhiều, trở thành mối đe dọa tiêu diệt nhân loại.
Được hỏi rơ hơn về sự cấu tạo loài người, Dẫn-đạo-Sư nói: Người ta lúc đầu chỉ là những h́nh bóng do ư nghĩ của Thượng Đế mà thành, nhưng từ khi phối hợp với loài vật sinh ra những bàn-nhân, th́ bị ràng buộc vào mặt đất. Khi Thượng Đế sinh ra nam và nử là hai phần của linh hồn.
Ngài dùng những chất liệu ở mặt đất để tạo thành những thân h́nh xác thịt, như đă tạo nên loài vật và các sinh vật khác, các nguyên liệu căn bản vẫn thế: khí, nước, đất, kim thạch, sinh tố. Thân h́nh người ta là sự sáng tạo tối cao, cũng bằng cùng những thứ vật liệu như các h́nh thể khác trên trái đất nầy.
Xin chớ nghĩ rằng Tạo Hóa có hai bàn tay lớn từ trên trời tḥ xuống cạo đất xét trộn với nước, kim thạch, cây cỏ. Thực ra chỉ là ư nghĩ của Thượng Đế dùng những vật liệu thích hợp tạo nên h́nh một sinh vật hoàn toàn.
Atlantis trong nhiều ngàn năm được những vua và hoàng tử sáng suốt nối tiếp nhau trị v́, mưu lợi ích chung. Rồi sau, người Atlantis hành hạ những bàn-nhân, gọi chúng là lao động nửa người nửa vật, cũng như người Mỹ miền nam trong thời kỳ đồn điền hưng thịnh, những trại chủ hành hạ người da đen bị bắt từ Phi Châu tới để làm nô-lệ.
Những bàn-nhân xấu số ấy thường ở với nhau, nên ḍng giống không khá lên được. Họ ở trong những túp lều, trong khi người Atlantis giống da đỏ sống xa hoa, với đủ đồ trang bị tự động do sức mạnh của quả cầu Pha-lê thu hút năng lực của mặt trời phát ra.
Người Atlantis có đầu óc sáng tạo, thích thí nghiệm tất cả các loại khí (hơi), kim thạch, thảo mộc, và họ dùng những bàn-nhân để làm việc nặng nhọc như khuân vác, vận chuyển, hoặc làm việc nhẹ như điều hành những công tác dưới sự chỉ huy của người Atlantis.
Dẫn-dạo-sư nói rằng những sinh linh (beings) từ ngoài không gian được hấp dẫn tới Atlantis v́ năng khiếu sáng tạo của những người ở đấy, và đă dành nhiều th́ giờ đàm luận với họ. Những quư khách không gian ấy đă giúp nhiều trong việc tạo nên Quả cầu Pha-Lê vĩ đại.
Nhờ sức mạnh lớn lao của Quả cầu ấy mà những máy bay, tàu nổi, và tàu ngầm được duy chuyển với một tốc độ kinh khủng. Lúc đầu sức mạnh ấy được dùng vào việc ích lợi chung, nhưng về sau lại dùng vào việc phá hoại.
Quả cầu vỉ đại! cái lực lượng do việc thiện và việc ác mà Edgar Cayee đă nói đến, hiện nay c̣n nằm sâu dưới Đại Tây Dương khu Tam giác Bermuda, ở đấy đă có biết bao máy bay và tàu biển biến mất một cách bí mật trong những thập niên gần đây.(Xem chương. IX. biển Sargasso bí mật)
Những khách không gian đă dạy cho người Atlantis đă tạc nên Quả cầu khổng lồ, sau khi họ đă bắt đầu chinh phục được năng lực bằng những quả cầu nhỏ để điều khiển những đồ trang bị. Trên một sườn đồi, họ t́m thấy một mạch đá thạch anh (quart) đủ lớn để phản chiếu tất cả tia sáng của mặt trời và mặt trăng, v́ mặt trăng cũng dự phần vào cuộc thí nghiệm lớn lao ấy.
Sau khi đă dục bỏ hết đất bám chung quanh,họ khắc những mặt phẳng rất tỉ mỉ để phản chiếu tất cả các tia sáng. Thời bấy giờ bầu khí quyển hoàn toàn trong sạch, nên tia sáng không bị thiên lệch. V́ họ sản xuất năng lực thừa dùng hàng ngày, nên họ t́m cách tích trữ năng lực c̣n dư vào những thùng lớn bằng đồng, để cho các máy bay và tàu không phải tùy thuộc vào sự cung ứng năng lực mỗi ngày.
Những khách không gian ấy đến trái đất bằng những phi thuyền tuyệt xảo. Có nhiều loại máy bay khác nhau, phần lớn có những đĩa và những máy xoay tṛn để không bị sức hút của từ lực khi cất cánh và hạ cánh.
Đến nơi họ chuyển những vật liệu lấy ở trái đất thành khí chất để làm ra điện lực. Những người Atlantis theo mẫu ấy đă sáng chế ra những máy bay và tàu chuyển động bằng năng lực do Quả cầu vĩ đại phóng ra.
Theo Dẫn-đạo-Sư, v́ có những thú vật khổng lồ càng ngày càng đông, nên người Atlantis đă phải tập trung vào những khu có tường thành bao bọc, và nhu cầu đă thúc đẩy tài sáng tạo của họ. V́ họ là ḍng dơi những "linh hồn nhẹ hơn không khí", nên họ c̣n giữ được khả năng giao tiếp với thế giới tâm linh và sáng tác ra những kỳ quan mà thế giới chưa từng thấy.
Tại sao những người không gian đến Atlantis mà không đến Lemura? Dẫn-đạo-Sư nói: Đó là ǵ cái lẽ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, cùng có óc sáng tạo như nhau th́ dễ gần nhau hơn.
Những khách không gian và người Atlantis đă phải mất nhiều năm mới tạo nên Quả cầu khổng lồ, và cái gương phản chiếu để chứa đựng quả cầu đó. Rồi họ sáng chế những tàu, máy bay, cả loại máy đứng yên một chỗ trên không trung như máy trực thăng ngày nay.
Với những máy nầy họ đă học được địa đồ những vùng rộng lớn trên trái đất. Một số họa đồ ấy được t́m thấy mấy trăm năm trước, cho thấy h́nh ảnh trái đất trước lần đổi trục sau cùng, khi mà Nam-cực không có băng tuyết.
Những họa đồ ấy đă được t́m thấy tại Thỗ-Nhĩ-Kỳ hồi đầu thế kỷ 18, là sở hữu của Đề-đốc Thổ Piri Reis. Đó là bản sao họa đồ rất cổ, cho thấy những dăy núi ở Nam-cực trong thời không có băng tuyết.
Những nhà địa-dư học măi đến năm 1952 dùng phương pháp đo tiếng vang mới h́nh dung được những núi ấy. Ngày nay đem những h́nh chụp từ vệ tinh so với bản địa đồ ấy th́ thấy rất giống nhau.
Đại học Georgetown trong buổi phát thanh vô tuyến ngày 26-8-1956 b́nh luận về địa đồ Reis, nói rằng nếu không dùng phương pháp chụp h́nh từ trên không trung th́ không thể nào họa được địa đồ ấy.
Trong cuốn Edgar Cayee on Atlantis, chính con Edgar Cayee cũng có đề cập tới địa đồ ấy.
Chắc chắn rằng chưa ai có thể bay được hồi đầu thế kỷ 18 khi địa đồ Reis được t́m thấy. Edgar Cayee và các dẫn-đạo-sư đồng ư rằng những người Atlantis là những phi hành gia đại tài.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 412 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 5:49pm | Đă lưu IP
|
|
|
THẾ GIỚI KHI XƯA
VI. ATLANTIS HIỂN NHIÊN CÓ THẬT
Plato, nhà hiền triết Hy-lạp 24 thế kỷ trước (427-347 trước kỷ nguyên) đă nói đến một đại lục rộng lớn nằm tại phía tây eo biển Gibraltar, đó là đại lục Atlantis. Khi bị ch́m xuống v́ động đất, Atlantis trở thành một vùng biển bùn lầy trong nhiều ngàn năm, tàu thuyền không qua lại được.
Edgar Cayee trong khi thôi miên, nói Atlantis bị ch́m mất dạng sau ba trận thiên tai, trận sau chót khoảng 10.000 năm trước kỷ nguyên.
Những nhà địa chất học cũng nhận rằng những đại lục ngày nay đă trải qua rất nhiều biến chuyển nổi lên ch́m xuống trong nhiều triệu năm. Bờ biển Na-uy, Thụy Điển, Đam Mạch, đă trồi lên hàng trăm thước trong nhiều ngàn năm gần đây.
Cù lao Sivily thuộc Ư ngày nay cao 1000 thước trên mặt biển, xưa là đáy biển. Những lớp than đá tại Pennsylvania chứng tỏ rằng vùng ấy đă ở trên và dưới mặt biển ít nhất 23 lần. Trận động đất tai hại nhất trong thời cận đại đă xảy ra 200 năm trước tại thủ đô Bồ-đào-Nha (gần bờ biển đông của Atlantis) sát hại 60 ngàn người trong sáu phút.
Nhiều người chạy đến bến bờ cẩm thạch tưởng rằng được an toàn, nhưng bến tàu đột nhiên ch́m xuống biển sâu 200 thước, hút xuống tất cả người và tàu thuyền lân cận. Đồng thời đất nứt ra ở một làng Maroc nuốt cả 10 ngàn người ở đó.
Nhiều người ngày nay c̣n nhớ nạn núi phun lửa Pelée trên đảo Martinique năm 1902, thành phố thủ đô và 30 ngàn dân chúng bị quét sạch trong ṿng mấy phút.
Gần 40 năm trước, Edgar Cayee đă tiên đoán một phần Atlantis quanh Bimini bắt đầu nổi lên khoảng 1968-1969. Trong mấy năm vừa qua, các nhà địa chất học đă chụp được những h́nh tựa như những bức tường và những ṭa nhà ở dưới mặt nước tại đó.
Năm 1949 nhà bác học Maurice Ewing thuộc đại học Columbia, đă công bố một bản báo cáo về những cuộc thám hiểm dưới Đại-Tây-Dương trong đó có nói đến việc khám phá một băi cát nằm dưới sâu 5600 thước dưới mặt nước và cách xa đất liền 2000 cây số, nơi ấy xưa là băi biển, v́ chỉ có bờ biển mới có băi cát.
Bắc Mỹ thời tiền sử khác với h́nh thể ngày nay, v́ người ta t́m thấy xương cá voi tại Michigan, New Hampshire,Montreal, ở những nơi cao hơn mặt biển 150 đến 200 thước.
Những kim-tự-tháp tại Ai-Cập và Mể Tây Cơ có nhiều điểm tương tự, như là những chữ thập trên các ngôi đền ở Mễ Tây Cơ đă có từ lâu trước khi người Tây Ban Nha xâm chiếm và đem đạo Gia Tô truyền vào nước. Dẫn-đạo-Sư giải thích rằng:
Từ đời xa xưa không có núi, những kim-tự-tháp được xây dựng trên Lemuria và Atlantis, là những nơi cao nhất cho các thầy tu tôn thờ Thuợng Đế. Bao giờ người ta cũng nghĩ rằng Thượng Đế ở trên cao, trái với đất ở dưới. Thập-tự tượng trưng cho người đứng trên trái đất với hai tay dang ra, giữa khoảng từ mặt đất lên đến trời.
Trong thời vàng son trên Atlantis, theo lời dẫn-đạo-sư, những nhà ở cũng tựa như thời La-mă, dùng đá, cẩm thạch, đất sét để xây. Nhờ được khí hậu tốt, người ta ưa sống ngoài trời, nên có nhiều hành lang và sân trống giữa nhà. Người Atlantis có óc sáng tạo, chuyển ư nghĩ thành đồ dùng.
Nhiều người c̣n giữ ḿnh trong sạch không tội lỗi, nên có thể phóng ư nghĩ nhanh hơn là gửi thơ. V́ lẽ ấy những sáng tác mỹ thuật giống nhau tại nhiều nơi trên hoàn cầu.
Nói về luân hồi, Dẫn-đạo-sư giải thích: Lúc đầu, người đều toàn thiện nên sống rất lâu. Nhưng sau v́ cám dỗ làm dơ bẩn linh hồn, nên đời sống bị rút ngắn lại. Những linh hồn ấy trăi qua một thời gian thiền định để kiểm điểm lại những lỗi lầm và quyết định chuộc tội, nên t́m cơ hội trở lại đời vật chất, do đó mà có luân hồi.
Luân hồi cần thiết cho sự tiến hóa cũng như không khí để thở. Khi ở trong thân h́nh vật chất th́ linh hồn muốn trở về với đất Sáng Tạo.
Họ nhớ đến t́nh trạng toàn thiện, và mặt dù con đường đi cực nhọc và khó khăn, có rất nhiều linhhồn đă đi được đến nơi và ḥa đồng với Thượng Đế, không phải quay trở lại thân h́nh vật chất nữa.
Không phải là tất cả các linh hồn đều đă đầu thai. Có một số muốn ở lại trạng thái tâm linh để giúp đỡ những linh hồn trong thân xác thịt, có thể gọi đó là những thiên thần hộ mệnh.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 413 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 5:49pm | Đă lưu IP
|
|
|
THẾ GIỚI KHI XƯA
VII. ĐỜI SỐNG TRÊN ATLANTIS
Dẫn-đạo-sư nói: Trong một đời trước, cách đây hơn 51.000 năm, tác giả tên là Thelama, đă sống cùng gia đ́nh trên Atlantis gần Poseidon, thành phố lớn nhất của Poseidia, trong một khu vườn trại rộng lớn có tường cao bao bọc chung quanh để tránh khủng long và man-mút. Ở đây cái nạn những con vật khổng lồ c̣n đỡ hơn ở Lemuria.
Những người Atlantis có mũi nhọn dài, tóc đen bóng như than, mắt đen, môi tô son, da đỏ như người thổ dân Mỹ, những nguời nầy ḍng dơi người Atlantis. Không có tục bôi móng tay móng chân, nhưng họ xoa dầu lên tay, mặt và ngực để giữ cho da mềm và đỡ bị nắng rám.
Quần áo họ bằng hàng dệt nhuộm màu các kiểu, đàn ông nhiều khi c̣n làm dáng hơn đàn bà. Răng trắng như ngọc trai và không bị sâu. Rau cỏ và trái cây họ đều ăn sống, c̣n thịt th́ ăn nướng nhưng ít ăn trừ khi có đại tiệc. Bao giờ cũng có một ngày để lễ mặt trời và một ngày để lễ mặt trăng tṛn được coi là Hoàng Hậu Ban Đêm.
Thượng Đế là đấng tối cao, ít khi được nói đến tên, mà chỉ tôn xưng là Ngài. Khi cần cầu đến Thượng Đế th́ chúm môi lại tṛn như chữ o và phát âm thanh "o" để chỉ mặt trời, và ngậm miệng lại phát âm thanh "om"(Nhiều câu chú trong kinh Phật có chữ "Ôm", ta thường đọc là "Úm" hoặc "Án"). Nếu được như thế th́ đó là căn nguyên của tiếng "Om" trong khi thiền (lời tác giả).
Cừu (trừu) được nuôi trong nhà như bạn, cũng như chó ngày nay. Chúng được buộc yên cho trẻ con cưỡi, lông được xén để ngồi gối hoặc dệt hàng mặt. Những nhà giàu hay mở tiệc có khi kéo dài hàng tuần lễ, khách từ mọi nơi được gởi thiệp mời do chim bồ câu mang đi và đem thiếp trả lời về. Họ không ăn thịt chim và cừu, coi chúng như những báo nhân.
Giới cầm quyền có những lâu đài lộ thiên lan rộng ra hàng mấy trâm thước mỗi chiều, và họ cũng lịch sự tao nhă như người thời nay. Nước được dẫn bằng ống từ giếng hay từ suối trong khe núi. Người Atlantis đều thọ mấy trăm năm (Thelama thọ 300 năm) do đó họ có nhiều thời giờ để phát triển khả năng
Trong thời Thelama trên Atlantis. Quả cầu pha-lê vĩ đại và các phi cơ đă được thành h́nh. Thelama gặp một nhà bác học trẻ tuổi đến Poseidia từ nơi xa mà ngày nay là Alegia. Y nghiên cứu cách thu hút năng lực của mặt trời tạo ra một tia sáng kiểu laser bằng Quả cầu Pha-lê vĩ đại, để chuyển động các tàu và phi cơ đi quanh trái đất.
Cha Thelama là cố vấn trong triều, mời y đến ở trong trại v́ nhà y ở xa quá. Y tự phụ y là người đặc biệt, không tin có Thượng Đế mà y không trông thấy, đă tạo ra vũ-trụ, nên không theo luật trời.
Y muốn thu hút năng lực không những để chuyển động máy móc, mà c̣n để sai khiến mọi người, và y muốn diệt chủng những bàn-nhân, như kiểu những nhà bác học của Hitler. Trái lại, Thelama rất tin Thượng Đế, v́ thế cuộc hôn nhân đă dự tính giữa Thelama và y đă không thành.
Y trở lại Poseidon và được chính phủ cho phép nhóm của y nghiên cứu Quả cầu Pha-lê vĩ đại. Việc nầy phải mất nhiều năm và có nhiều người khác cộng tác, nhưng y là một trong những nhà bác học nổi tiếng nhất đă sáng chế ra quả cầu pha-lê. Mảnh lực hùng vĩ Quả cầu Pha-lê từ đấy đă giúp ích nhiều cho dân Atlantis, nhưng sau nầy chính nó lại tiêu diệt đại lục và đa số dân chúng.
Sự bí mật của Quả cầu là ở trong thán chất. Những người điều khiển việc kiến tạo nầy cùng ở trong một khu có đầy đủ tiện nghi và xa hoa tối tân. Họ hướng những mặt phẳng của quả cầu một cách rất tinh xảo để thu hút năng lực của mặt trời và phản chiếu ra thành tia kiểu laser để phục vụ nhân loại.
Khi hoàn thành, những tia từ quả cầu phát ra có thể chuyển động máy móc trên trời hay dưới biển đi nhanh với tốc độ âm thanh. Quả cầu không được đặt tại thành phố Poseidon, mà ở gần nơi mà ngày nay là đảo Bimini, ở đó lâu lâu nó c̣n hoạt động.
Atlantis bấy giờ văn minh nhất thế giới về tất cả mọi phương diện, duy kém Lemuria về triết lư. Tính ham biết lên đến cực điểm, và những giải pháp được nghiên cứu theo mọi khía cạnh, trên tiến bộ nhanh chóng lạ lùng.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 414 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 5:50pm | Đă lưu IP
|
|
|
THẾ GIỚI KHI XƯA
VIII. TRÁI ĐẤT CHUYỂN TRỤC
Những đám mây báo trước tai họa đă bao phủ trái đất cách đây khản 50.000 năm. Dẫn-đạo-sư nói rằng những sinh linh bên ngoài không gian đă trông thấy nhiều đường rạn nứt, cũng như những vệ tinh nhân tạo này nay chụp h́nh mây và gió bảo.
Từ trước trái đất đă nhiều lần chuyển động khi vỏ ngoài dần dần nguội đi, nhưng những lần ấy không đáng kể v́ chưa có loài người có h́nh thể vật chất, họ chỉ như là những bóng sáng có thể phóng ḿnh đến những nơi an toàn.
Những người có tâm linh sáng suốt ở Lemuria đă biết trước tai họa sẽ đến và khuyên những ai c̣n muốn lưu lại trên trái đất hăy di chuyển đến những nơi an toàn hơn.
Nhiều người lánh sang Á-Châu, Phi- Châu, Mỹ-Châu, mang theo giống rau cỏ, trái cây, hạt dẻ, đă trồng từ nhiều ngàn năm, và được người bản xứ đón tiếp, những người nầy coi họ là người văn minh hiểu biết hơn.
Những người khác cảm thấy đời sống xác thịt đă đủ muốn trở lại trạng thái tâm linh khi thiên tai đến. Những người lánh khỏi Lemuria muốn bảo tồn nền văn hóa của họ đă tiến cao và lưu lại cho đời sau, họ có một triết lư vững vàng, chứ không phải là một cuộc tỵ nạn hổn loạn để được an thân.
Đồng thời những người không gian cũng báo cho người Atlantis biết về tai hoạ sắp đến, mà một số người nầy lánh sang những nơi mà ngày nay là Yucatan thuộc Mễ-tây-Cơ, hoặc Ai-Cập.
Li-bi, Tây-ban-Nha, Bồ-đào-Nha. Họ mở trường dạy văn chương, toán, canh nông và kỷ thuật, và cũng như người Lemuria, dựng những ṭa nhà h́nh kim tự, v́ luôn luôn họ hướng lên Thượng Đế.
Những ngày chót của Lemuria kéo dài trong mấy trăm năm. Những người di dân đem theo kiến thức của họ về khoa chiêm tinh, v́ có một số đă liên lạc với những hành tinh khác trên bầu trời và hiểu luật chuyển động của các hành tinh cũng như trái đất.
Những người Lemuria dạy người bản xứ tôn thờ Đức-Sáng-Tạo và giúp họ xây những ngôi đền hướng về Mẫu quốc:
Những đền tại Mỹ châu quay mặt về huớng tây và đền tại Á châu quay mặt về hướng đông. Tục nầy vẫn c̣n tồn tại nhiều ngàn năn sau. Người ta nhận thấy những đền ở Mể-tây-Cơ hướng về phía tây, và đền Angkor Wat (Đế Thiên Đế Thích) tại Cao-Miên hướng về phía đông.
James Churchward nói rằng đă khám phá những chữ khắc tại hai nơi giống nhau. Dẫn-đạo-sư nói rằng thời ấy không có hàng rào ngôn ngữ, tuy giọng nói khác nhau chút đỉnh nhưng vẫn hiểu nhau.
Rồi đến khoảng 48.000 năm trước kỷ nguyên, thiên tai kinh khủng đă xẩy đến. Những hỏa-diệm-sơn phun lửa, mặt đất rung chuyển tựa như một tờ giấy bị ṿ nát, trái đất giao động mạnh và đổi trục, nước biển dâng lên khiến toàn thể Lemuria ch́m mất dạng, chỉ c̣n lại vài nơi cao như Hawaii, Cahiti, Polynesia và một số đảo khác.
Địa dư thế giới thay đổi trong chớp mắt, và sau đó trong một thời gian dài, sương mù dày dặt bao phủ trên nơi đất liền xưa đă nuôi sống bao nhiêu triệu người và sinh linh khác. Nhiều khu đồng bằng nay đă thành núi cao khe thẳm.
Những khu thành phố lớn ở Peru và Mể-tây-Cơ xưa kia gần ngang mặt biển, nay vọt lên cheo leo lưng chừng trời cao hai ba ngàn thước.
California ngày nay là bờ biển đông của Lemuria, đă thoát khỏi nạn lụt nhờ dính vào địa lục mới là miền tây Hoa Kỳ ngày nay từ đáy biển nổi lên. Nhiều đám đất mới cũng nổi lên tại Âu-Châu và Sahara xưa là đáy biển nay trở thành vùng đất ph́ nhiêu.
C̣n Atlantis thế nào? Không thay đổi mấy. Một phần đất miền tây ch́m xuống, trong khoảng từ bờ biển đông Hoa Kỳ đến Brésil ngày nay. V́ đường xích đạo thay dổi, nên khí hậu lư tưởng của Atlantis trở thành nóng bức, ảnh hưởng đến tính t́nh con người.
Khi những vùng nóng ấm trở thành đông lạnh, và những nơi băng tuyết thành nhiệt đới, những con khủng long không quen với sự thay đổi thời tiết đột ngột, đă chết hàng vạn, thân h́nh rất lớn mà đầu óc tất nhỏ nên thiếu trí nhớ.
Cả những con vật khổng lồ ở dưới nước, trên cạn và trên không cũng không sống nổi. Nhiều tàn tích khủng-long c̣n nguyên vẹn đă được đào thấy tại vùng bắc cực. Ngày nay chỉ c̣n vài loại to lớn ở sâu dưới biển, nhưng không nguy hại cho loài người nữa.
Người tuy cũng chết rất nhiều v́ trái đất đổi trục, nhưng nhờ thông minh hơn nên một số c̣n sống sót và bắt đầu công việc tái tạo. Đất ph́ nhiêu có nhiều nên không có vấn đề nhân mản, v́ số người bị tiêu diệt khi ấy gần bằng số toàn thể nhân loại ngày nay.
Nếu thực như thế th́ điều này trả lời câu hỏi của một số người thắc mắc về luật luân hồi, rằng nhân số ngày nay càng ngày càng tăng nhiều hơn xưa th́ những người ấy từ đâu mà ra? Lịch sử của chúng ta mới bắt đầu từ mấy ngàn năm, đâu có biết được thời tiền sử.
Cù lao Easter, một đồi cao xưa là thánh địa thiêng liêng nhất của Lemuria, đă tồn tại an toàn. Những người trước kia di cư sang Mỹ Châu bắt đầu kiến thiết lại những thành phố với những ngôi đền tại Mễ-tây-Cơ và Leru. Ngày nay có những nơi người ta đào thấy được nhiều lớp thành phố chồng chất lên nhau do những thiên tai liên tiếp nó đă chôn vùi những thành phố ấy.
William Niven, một nhà khảo cứu mỏ, hồi đầu thế kỷ đă đào bới tại một nơi gần thành phố Mễ-tây-Cơ (Mexico city) và đă t́m thấy tàn tích của ba thành phố cổ nằm đè lên nhau qua một lớp đá cát dày chỉ mấy thước, những lớp đá cát này chứng tỏ nơi đây đă là băi biển, mà ngày nay ở trên 2000 thước cao hơn mặt biển.
Hàng triệu hàng triệu linh hồn mất thể xác trong nạn ch́m đắm Lemuria, đă trở về trạng thái tâm linh. Những hồn nào đă tiến hóa v́ làm được nhiều công đức, th́ không phải trở lại đời sống vật chất nữa, và sẽ tiếp tục tu tiến để trở về với Thượng Đế, c̣n những kẻ đă làm việc thất đức sẽ phải luân hồi nhiều lần để học nhẫn nhục và t́nh thương.
Một số người đương sống ngày nay là người đă ở Lemuria hay Atlantis, nhưng không phải là tất cả đều trở lại cùng một lúc hay trong khoảng vài trăm năm.
Khi Lemuria bị ch́m, những người Atlantis ngạc nhiên sợ hăi, họ coi Lemuria là mẹ đẻ của nền văn minh, tuy rằng Atlantis đă tiến hơn nhiều. Những người lảnh đạo Lemuria đều là nhà triết học, canh tác và chiêm tinh, đă dẫn đầu thế giới về triết học và tôn giáo
Nay lănh đạo tinh thần không c̣n, Atlantis chỉ thiên về lảnh đạo vật chất. Quả cầu Pha-lê giúp ích cho sự sáng tác rất nhiều, văn minh vật chất càng tiến th́ những kỷ thuật gia càng có quyền thế.
Khoa học được tôn sùng trên hết và người ta bớt tin tưởng ở Thượng Đế. T́nh trạng ấy cũng gần giống nước Mỹ ngày nay, chú trọng nhiều về máy móc, đời sống vật chất lên cao, nhưng tín ngưỡng và triết lư xuống thấp.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 415 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 5:52pm | Đă lưu IP
|
|
|
THẾ GIỚI KHI XƯA
IX. BIỂN SARGASSO BÍ MẬT
Sau khi Lemuria ch́m, Atlantis trở thành lảnh đạo thế giới, nhưng không được ḷng người v́ tính kiêu căng, chỉ muốn dùng vơ lực để bắt các nước khác thần phục. Tuy chưa biết dùng đến chất nổ. nhưng với quả cầu Pha-lê họ có thể phóng năng lực của tia sáng mặt trời làm nổ những thành phố rất xa.
Cướp bóc là sự rất thường. Những người Atlantis trong thời kỳ thứ hai này vơ vét đem về nước tất cả cái ǵ họ thích, từ các nơi xa Mỹ Châu, Âu Châu và Phi Châu.
Chính thể tại Atlantis trong thời vàng son là quân chủ, những quốc vương trị v́ trú trọng đến đạo đức và tôn giáo. Nhưng sau khi Lemuria bị ch́m, ngôi vua chỉ tượng trưng cho nghi lễ, c̣n thực quyền ở trong tay những nhà bác học.
Atlantis là một thành tŕ học vấn vững mạnh trước khi xảy ra thiên tai. Những học giả từ khắp nơi đến các trường đại học tại đó để dự lớp học về địa chất, thiên văn khoa học, toán học, canh nông. Nhiều người có thể tính nhẩm tới 11 số và có những bảng tính tiện dùng hơn máy tính ngày nay.
Những tài liệu được chất chứa trong những thùng làm bằng ruột súc vật chế biến có thể tồn tại trong nhiều ngàn năm nếu được bảo tŕ kỹ lưỡng. Nhiều thùng ấy nay c̣n nguyên vẹn trong thùng tài liệu chôn dấu không xa Kim-tự-tháp lớn tại Giza, về hướng thần tượng Sphinx.
Có những thùng khác được cất tại Yucatan. H́nh trái đất được chụp theo một phương pháp không giống ngày nay. Radio bấy giờ đă có, tiếng nói được truyền bằng sự phản ứng của đá thạch anh (quartz) trên chất kim khí và điều khiển bởi những mặt phẳng của Quả cầu Pha-lê.
Trong 20.000 ngàn năm sau trận thiên tai, Atlantis dần dần suy đồi, bên trong mục nát, chỉ nhờ có Quả cầu Pha-lê mà c̣n giữ được uy thế đối với các nước. Nhưng không phải là tất cả các nước đều chịu thần phục.
Những dân ở nơi mà sau này là Ba Tư hợp với Hi-Lạp chống lại Atlantis. Người Atlantis dùng Lybia làm căn cứ để tấn công Hi-Lạp nhưng bị đánh lui, và khi họ tập trung lại lực lượng để tấn công lần nữa th́ một thiên tai kinh khủng xảy đến làm thay đổi lịch sử.
Những nhà bác học tăng cường năng lực của Quả cầu Pha-lê, và để khuất phục những dân Á Châu ở cách xa nửa ṿng địa cầu, nơi mà ngày nay là Trung Hoa, Họ dọi tia sáng xuyên qua trái đất, khiến cho vỏ trái đất nổ tung nhận ch́m hầu hết đại lục Atlantis và luôn cả Quả cầu Pha-lê.
Vùng ấy ngày nay gọi là biển Sargasso. Vùng biển bí mật này, phần lớn nước đứng, với nhiều rêu biển nổi trên, trong nhiều thế kỷ đă được mệnh danh là "Nghĩa địa của Đại-tây Dương"! Xưa những tàu buồm qua đó đều biến mất dạng, rồi sau những tàu có động cơ cũng vậy.
Quá trưa ngày 5-12-1945, một đoàn 5 chiếc phi cơ Hăi quân Grumman TBM-3 Avenger cất cánh từ căn cứ Fort Lauderdale, Florida, để tập dợt, do 5 phi công lái với 9 phi hành đoàn.
Đoàn phi cơ gọi là Phi vụ 19, do trung úy Hăi quân Charles C. Taylor, một phi công với trên 2500 giờ bay, điều khiển. Chừng 70 phút sau, sau khi bay qua phía bắc đảo Bimini, một phi công bay trên phi trường Hăi quân Fort Lauderdale, nhận được tính hiệu lạ lùng của phi cơ điều khiển.
Phi công nầy bị lạc, cả hai địa bàn đều hư, Rồi những tính hiệu bị loạn, căn cứ không thể liên lạc được với người nào trong số 14 người trên 5 phi cơ. Ngay sau đó, một phi cơ hai máy Martin Mariner với phi hành đoàn 13 người cất cánh từ căn cứ Hăi quân Banana River để t́m 5 phi cơ lạc và dẫn họ về căn cứ.
Nhưng rồi sau không nhận được tính hiệu nào của cả 6 phi cơ, và mặt dù một cuộc t́m kiếm vĩ đại chưa từng có gồm hơn 300 phi cơ, 4 khu trục hạm, 18 tàu tuần, mấy chiếc tàu ngầm, hàng trăm phi cơ và tàu của tư nhân, và cả phi cơ và tàu của Anh đóng tại quần đảo Bahama, không t́m thấy một vết tích nào cả, không một vết dầu, không một phao hoặc một mảnh vụn.(Những bí mật của vùng này đă được nói đến trong cuốn, "khu tam giác Bermuda" (The Bermuda Triangle).
Tác giả Adi-Kent Thomas Jeffrey đă kể rơ tên 12 chiếc tàu, một tàu ngầm nguyên tử và hơn một chục phi cơ được ghi nhận đă mất tích tại đây từ 1609 đến 1968,không để lại một dấu vết ǵ: mảnh gổ, mảnh áo, hay vết dầu trên mặt biển, mặc dù rất nhiều tàu và phi cơ qua lại t́m kiếm.).
Charles Berlitz trong cuốn "Khu tam giác Bermuda" (The bermuda triangle) nói ranh giới biển Sargasso chạy dài từ 200 dặm phía bắc đảo Antilles lớn, dọc theo và cách bờ biển Hoa Kỳ 200 dặm tới mỏm Hatteras tại North Carolina, rồi thẳng ra Đại-tây-Dương đến Phi Châu và Bồ Đào Nha, ngược lên hướng bắc rồi trở về Mỹ, ranh giới nầy hợp với ranh giới mà dẫn-đạo-sư đă nói về Atlantis.
Khu tam giác Bermuda nằm trên phần phía tây của biển Sargasso gần khu xưa kia đặt Quả cầu Pha-lê. Berlitz nói rằng trong một phần tư thế kỷ vừa qua, hơn một ngàn nhân mạng đă mất tích tại đó, không để lại một vết tích ǵ của những phi cơ và tàu thủy.
Dẫn-đạo-sư giải thích rằng Quả cầu Pha-lê vẫn c̣n nằm dưới biển Sargasso, và khi mặt trời và mặt trăng đến một vị trí nào đó, ảnh hưởng đến Quả cầu, khiến cho những tia phát ra làm nguy hại cho tàu biển và phi cơ đi qua tầm những tia ấy.
Vụ nổ đă xé đại lục Atlantis mạnh hơn một triệu lần sức nổ của trái bom ném xuống Hiroshima, không những đă nhận ch́m hầu hết Atlantis c̣n gây nên bảo tố và sóng thủy triều trên khắp nửa thế giới ở tây phương trong nhiều tháng.
Vụ nổ ấy đă được nhận thấy từ các hành tinh khác trên bầu trời. May mắn là những tia của quả cầu pha lê không thể xuyên qua ḷng lỏng của trái đất để sang tận Trung Hoa,nên vùng nầy không hề ǵ. Nạn hồng thủy lớn lao đă được kể lại trong những huyền thoại của nhiều sắc tộc, như dân Do Thái trong thánh kinh.
Phần c̣n lại Atlantis chỉ là hai ḥn đảo Poseidia và Og. Những sự di chuyển đi xa bằng phi cơ và tàu không được nữa v́ những quả cầu nhỏ đều quá yếu. Vùng biển đă chôn vùi đại lục, nay như là một vũng bùn lầy đầy những tàn tích.
Đất đai mới nổi lên th́ khô cằn v́ chất phóng xạ, tựa như sau một vụ nổ bom nguyên tử khổng lồ. Dân Atlantis c̣n lại phải di chuyển đến những nơi khác và trà trộn với dân Mỹ Châu, Á Châu, Âu Châu và vùng Địa Trung Hăi.
Hai ḥn đảo c̣n lại vẫn bị rung động ngầm, những hỏa diệm sơn thi nhau bùng nổ, rồi sau hai đảo ấy cũng ch́m nốt xuống biển.
Thiên tai này xảy ra khoảng 12.000 ngàn năm trước, chỉ c̣n lại vài ḥn đảo nhỏ như azores và Bahamas.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 416 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 5:52pm | Đă lưu IP
|
|
|
THẾ GIỚI KHI XƯA
X. THẾ GIỚI THỜI TIỀN SỬ
Trong thời Lemuria toàn thịnh, một số dân đă đến lập nghiệp tại vùng đồng bằng Á Châu, nơi mà ngày nay là Gobi. Họ liên lạc với mẫu quốc bằng ư nghĩ và cũng bằng tàu thuyền. Họ sống lẫn lộn với dân bản xứ da vàng, một trong năm giống đă được sinh ra từ nguyên thủy.
Triết lư là môn học được ưa chuộng nhất. Những ngôi đền đều hướng về đông, là hướng về đại lục Lemuria. Sau khi trái đất đổi trục nhận ch́m Lemura và nhiều núi nổi lên khắp nơi, các thầy tu xây cất những tu viện trên núi cao, để dể ḥa đồng với vũ-trụ lực.
Để giữ truyền thống của Lemuria, họ bảo toàn văn hóa triết lư và tôn thờ Thượng Đế. Những tu viện ấy ngày nay nằm ở Tây Tạng, và dăy núi Hy-Mă-Lạp-Sơn xưa là một phần của đồng bằng Gobi. Gobi khi ắy khí hậu ẩm ướt, đất đai ph́ nhiêu, ngày nay là sa mạc.
V́ Quả cầu Pha-lê của Atlantis không thể chuyển động máy bay và tàu qua một bên kia trái đất, nên không có mấy người Atlantis đến Gobi và Trung Hoa ngày nay. Nhưng v́ tham vọng, những nhà bác học cầm quyền tại Atlantis muốn chinh phục vùng này, đă dọi tia sáng qua trái đất, nhưng tai họa đă đến với chính họ.
Vùng Ấn Độ được nổi lên sau Gobi và trước khi Lemuria ch́m. Từ trước không có thổ dân,người Lemuria đến rất nhiều, coi đó như là thuộc địa, và sống chung với người da vàng cũng di dân đến. Nhiều thầy tu đến đó để truyền bá văn hóa Lemuria.
Dân chúng Ấn Độ ngày nay là ḍng dơi nhiều lớp văn minh: Thầy tu và dân Lemuria, di dân da vàng, da đen , da trắng, và những bàn-nhân tuy h́nh thể không giống những cùng đinh (untouchable) Ấn Độ ngày nay, nhưng sống ở nước thấp nhất, nhân đó cản trở công việc dân-chủ-hóa xă hội này.
V́ ở đây có rất ít người Alantis, nên văn hóa không bị nhiểm độc bởi tham vọng quyền thế của họ. Nhưng khi Lemuria ch́m th́ người Atlantis bắt đầu đến đông.
Trong tập Bách Khoa Toàn Thư (Encydopedia Britannica) tác giả thấy có đoạn nói về Ấn Độ. Khi những người Aryan xâm chiếm Ấn Độ, họ thấy dân ở đấy văn minh hơn họ về nhiều phương diện, rơ ràng đó là những di dân từ miền đông tới (Lemuria ở về miền đông).
Churchward trong cuốn "những con cháu Lemuria" (The children of Mu). Nói đến những người Naacals, 70.000 năm trước, đă đem đến đây những sách "Cảm hứng thiêng liêng về Mẫu quốc", những sách ấy được cất giữ trong một tu viện Tây-Tạng.
Trong sách của người Naacal, nói đến những người Maga lập nghiệp ở Ấn Độ 70.000 năm trước, màu da sậm và mắt đen sắc, câu này có vẻ tả người Lemuria da màu. Lại có câu: Cũng như Ai Cập, Ấn Độ không bao giờ có một thời man rợ trước thời văn minh. Ấn-Độ là hạt ngọc trai trên trán của Mẫu quốc Lemuria.
Những người da trắng, thoạt tiên ở trong vùng Carpathe-Caucase, dần dần tràn lan về phía tây quanh Địa trung Hăi rồi cùng tập trung tại dăy núi Pyrénée miền nam nước Pháp. Họ cũng tràn về phía đông nam đến Ba Tư và Ai Cập.
Tại Ba Tư họ lập thành ḍng giống Aryan mà Đức Quốc Xă đă tự hào là ḍng dơi.Người da trắng cũng cầm quyền tại Ai Cập, quốc vương là Araaraat. Một vị cao tăng là Ra Ta theo Araaraat đến, cùng với hàng trăn người khác, lo giúp đở những người bản xứ, trong ấy có nhiều bàn-nhân được Ra Ta giúp loại bỏ những bộ phận dị h́nh.
Ra Ta hợp tác vơi những người Atlantis tại Poseidia, dùng phương pháp giải phẩu và năng lực những quả cầu Pha-lê nhỏ c̣n xót lại, để loại bỏ những đuôi, móng, sừng, lông cánh, cho các bàn-nhân.
Những người Atlantis đến Ai Cập càng ngày càng đông để tránh tai nạn, v́ hai ḥn đảo c̣n lại thường bị rung chuyển, và những nhà tiên tri đoán sẽ có nạn hồng thủy nữa. Hermes, là sứ giả của Atlantis có nhiệm vụ bảo vệ những tài liệu quư giá, đă đem những tài liệu ấy đến Ai Cập và hợp tác với Ra Ta xây dựng kim-tự-tháp để cất giữ những bí mật của thời oanh liệt xưa.
Kim-tự-Tháp lớn nhất được xây dựng tại Giza trong thời gian trước và sau khi Atlantis bị ch́m lần cuối, vào khoảng 10.000 năm trước kỷ nguyên, trong đó có chứa tất cả những toán số để tính vị trí các ngôi sao, kinh tuyến, vĩ tuyến và đường kính trái đất, chiều dày lớp vỏ trái đất. v.v...
Kim-tự-tháp cũng có mục đích làm cái kho để chứa những bảo vật của Atlantis, nhưng v́ thiên tai xảy đến nhanh chóng quá, nên những bảo vật đều bị chôn vùi dưới biển.
Nhiều người nghĩ rằng những người thượng cổ có quay hàm lớn và khối óc nhỏ. Nhưng những bộ xương cổ xưa đă được khám phá hơn 100 năm trước tại Pháp cho thấy người xưa cao hơn và xương sọ lớn hơn người ngày nay.
Những người ấy đă sống quanh Địa trung Hăi 15 đến 30 ngàn năm trước, trán cao, gồ má cao, quay hàm nở, thân cao hai thước, không có vẻ ǵ giống loài khỉ. Nếu thực những người ấy là tổ tiên loài người, th́ quả là người thời nay đă suy đồi hơn xưa.
Âu Châu xưa kia chỉ gồm có mấy ḥn đảo Anh quốc và Na-uy, Thụy Điển ngày nay, c̣n phần lớn lục địa mới được nổi lên sau khi trái đất đổi trục.
Những người Lemuria và Atlantis c̣n lại dần dần pha trộn giống với người da trắng tại Âu Châu, người da vàng tại Mông Cổ, người da đen tại Phi Châu, Úc Châu và các quần đảo tại vùng Nam Dương là những đất đai Lemuria c̣n xót lại, dân chúng ở đó lâu ngày mất liên lạc với giới lănh đạo và thầy tu nên trở thành man rợ.
Miền Nam cực trong nhiều triệu năm thuộc vùng ôn đới và nối liền với Úc Châu, trước khi bị thiên tai tách ra bằng những vùng biển rộng lớn. Người Atlantis đă họa địa đồ miền này nhưng thấy không thể ở được v́ đầy dẫy những khủng long và vật khổng lồ. Khi trái đất đổi trục, những vật ấy bị tiêu diệt v́ không chịu nổi cái lạnh băng giá đột ngột.
Khi Lemuria hăy c̣n, Alaska ở trong vùng nhiệt đới như Florida ngày nay, nhưng ít có người dám ở đó v́ những khủng long và man-mút rất nhiều. Nhưng khi trái đất đổi trục, những con vật khổng lồ ấy bị chết v́ băng giá, một vùng đất nổi lên bắt cầu từ đấy sang miền đông bắc Á Châu, vùng này cũng bị đông lạnh.
Rất lâu về sau, mới có những bộ lạc du mục Á Châu đi phiêu lưu qua đấy, dần dần tiến xuống những vùng ấm áp hơn. Những người Á Châu ấy càng ngày càng đến đông, rồi trộn lẫn với những người da đỏ và da nâu thành những giống phụ. Những người Mễ-tây-Cơ ngày nay có vài nét mặt Á Đông là v́ cuộc di dân này từ Siberia đến vùng nắng ấm trung Mỹ.
Nhiều người Alantis lánh nạn sang Mỹ Châu, ở đây những người Lemuria đă đến từ nhiều ngàn năm trước. Đất đai ph́ nhiêu, hoa màu được phân phát đều cho mọi người, không hề có sự tranh dành.
Những người Lemuria bắt đầu chiếm vùng bờ biển phía tây hiện thời và xứ Yucatan (Mễ-tây-Cơ), nhưng về sau họ di chuyển đến những đất mới nổi lên tại vùng trung ương Hoa Kỳ ngày nay.
Họ đă mang theo những tài liệu và xây một pḥng rất kính gần thành phố Uxmad tại Yucatan để cất những tài liệu về văn minh Atlantis và về việc xây dựng một Quả cầu Pha-lê. Nhưng không một người nào c̣n sống sót khi đó biết cách tái tạo Quả cầu Pha-lê đă mất.
Sau khi phần c̣n lại của Atlantis bị ch́m nốt, pḥng kín ấy nằm sâu dưới nước, lâu ngày không ai c̣n biết đích là chỗ nào, rồi đến khi đất lại nổi lên, không c̣n thể nhận biết được pḥng ấy đă được chôn tại đâu.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 417 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 5:53pm | Đă lưu IP
|
|
|
THẾ GIỚI KHI XƯA
XI. NHỮNG THIÊN THẦN TRONG THÁNH KINH
Những nhà bác học nói rằng 70.000 năm trước, Bắc-cực nằm ở vùng Nam-cực, và có thể một ngày kia quay trở lại. Những tảng đá có từ lực trái ngược với từ lực của trái đất và đă được khám phá tại Ấn Độ, Pháp và Nhật Bản trong khoảng từ 1855 đến 1929.
Trong đầu thập niên 1960, Ban Khảo Sát Địa Chất Hoa Kỳ đă báo cáo rằng theo sự nghiên cứu những tảng đá lớn thu thập từ khắp nơi trên hoàn cầu, th́ đă có chín lần trái đất đổi trục trong thời gian ba triệu rưởi năm qua.
Trong thời vàng son của Lemuria và Atlantis, hai đại lục ấy phần lớn nằm tại vị trí Thái b́nh Dương và Đại tây Dương, tuy nhiên không phải cùng vị trí đối với trục trái đất ngày nay.
Phần lớn lục địa Mỹ Châu và Âu Châu c̣n nằm dưới mặt biển, núi non hầu như không có, cho đến khi Lemuria ch́m xuống bấy giờ núi mới nổi lên như một tờ giấy bị ṿ nhàu. Tại Alaska có những vết tích động vật và cây cối chồng chất lên nhau như trong những thiên tai.
Những thân h́nh man-mút c̣n cả thịt da và lông nguyên vẹn đă được đào thấy tại vùng băng giá bắc Sibérie, tỏ rằng những con vật ấy đă bị đột nhiên đông lạnh. Trong Bắc băng Dương quanh Bắc cực, có rất nhiều tàn tích man-mút, tê-giác, ngà voi, những giống này cần rất nhiều cây cỏ để sống, không thể nào ở những nơi quanh năm đá phủ.
Rơ ràng Alaska và miền bắc Sibérie xưa kia là xứ nóng. Trái lại có nhiều bằng chứng cho thấy rằng vùng nhiệt đới Brézil và Phi Châu xưa kia bị bao phủ dưới một lớp dày băng đá.
Điều đó có thể giải thích tại sau, khoảng 50.000 năm trước người Atlantis với những phi cơ của họ, đă có thể chụp h́nh Greenland và Nam-cực khi những nơi ấy không bị băng đá bao phủ (Bản địa đồ Reis đă nói ở trên)
Trong số những thiên tai nhiều vô kể đă thay đổi cục diện trái đất, có ba lần đáng để ư hơn cả là Lemuria bị ch́m 48.000 năm trước kỷ nguyên, phần lớn Atlantis bị ch́m 28.000 năm trước kỷ nguyên, và phần c̣n lại của Atlantis bị ch́m nốt 10.000 năm trước kỷ nguyên.
Theo dẫn-đạo-sư và Edgar Cayee, nạn hồng thủy trong Thánh Kinh trùng hợp với thiên tai thứ hai cách đây khoảng 30.000 năm.
Những thời kỳ nói trên chỉ là phỏng chừng, v́ thời gian trên trái đất không nghĩa lư ǵ đối với thế giới tâm linh. Chỉ ước rằng những Adam và Eve hiện thân trên trái đất khoảng 4 triệu năm trước. Amelius với h́nh thể nhẹ vài năm trước đó, và những bàn-nhân nhiều triệu năm trước nữa.
Trong Thánh Kinh chỉ nói đến gia đ́nh Noah, cháu Adam đời thứ 10, được thoát khỏi nạn hồng thủy, nhưng thực ra c̣n rất nhiều người khác nữa, mặt dù đă có hàng vạn người chết ở Trung Đông và hàng triệu người chết tại Atlantis. Noah là tổ ḍng giống Semite, các cháu chắt là Abraham, Jacob, Joseph, David rồi đến Jesus Christ.
Abraham, cháu Adam đời thứ 20, có hai con trai: Con thứ hai Isaac là con vợ cả, là ḍng giống thuần túy Lemuria; con lớn Ishmaci là con vợ bé, sau này là tổ dân tộc Ả-Rập. Con cháu thứ hai của Isaac là Jacob, là tổ dân tộc Do-Thái (Jew). Dân Do-Thái vẫn giữ được truyền thống của người Lemuria và tôn thờ Thượng Đế (GOD).
Nhờ tín ngưỡng ấy, chứ không phải là nhờ có giúp đở người khác, họ được các thiên thần trợ lực t́m một xứ sở, và sau một thời gian dài lang thang rồi sống nhờ Ai-Cập, họ đă được trở về đất hứa. Theo dẫn-đạo-sư, Moses là một người Lemuria đầu thai vào ḍng giống Hebrew để cứu dân tộc này ra khỏi cảnh nô lệ tại Ai-Cập.
Tâm linh (Spririt) và linh hồn (Soul) khác nhau thế nào?. Dẫn-đạo-Sư giải thích như sau. Linh hồn là cá thể riêng biệt, là Ta. Tâm linh là cái sức mạnh của đời sống rút từ nhiều nguồn tiến hóa.
Khi một hài nhi nhập vào thân xác thịt, linh hồn nó qua nhiều kiếp luân hồi, đă tạo nên một cái-thể và mẫu mực ăn ở hành động trong đời sống tới. Bấy giờ tâm linh được rút vào ḥa nhịp với linh hồn ấy để cho con đường đi tới được tốt đẹp hơn.
Tâm linh là tinh hoa của Thượng Đế, nhưng v́ đă tách rời với đại khối từ khi bắt đầu làm người, nên có nhiều đẳng cấp khác nhau. Cả linh hồn và tâm linh đều cùng hướng về hợp với Đức Sáng Tạo. Tâm linh (Esprit) nói ở đây có lẽ là Tâm thức, là A-Lại-Da-Thức, là Phật tính trong kinh Phật.
Đức chúa Jesus gọi tâm linh là Đức Chúa Thánh Thần (Holy Spririt: le saint Esprit). Không có tâm linh, chúng ta sẽ quay trở về đời xác thịt như thú vật.
Nói đến các thiên thần, dẫn-đạo-sư nói có ba hạng. Thượng thiên thần là những vị không bao giờ sinh vào thân vật chất, v́ không bao giờ trái luật thiên nhiên, hoàn toàn ḥa đồng với Thượng Đế. Những vị ấy cai quản những khu vực rộng lớn trong vũ-trụ.
Thứ đến những thiên thần, mà một số đă sống trong đời vật chất. Sau nhiều đời sống không tội lỗi, những vị này không cần trở lại và được ở gần Thượng Đế. Nhưng cũng có nhiều thiên thần không bao giờ sinh vào thân xác thịt. Các thiên thần có nhiệm vụ trong việc tiến hóa của nhân loại và của các động vật, thực vật và khoáng vật.
Sau cùng là những thần hộ mệnh, là những tâm linh trước đă sống trong đời xác thịt, nay hết ḷng giúp đở người sống tránh khỏi tai ương và chết bất thần. Đây là những linh hồn quảng đại, tuy vậy chưa được tiến cao bằng những thiên thần và thượng thiên thần.
Một số thần hộ mệnh giúp cho những sáng kiến, như Instein là một trạm tiếp nhận những luật vũ-trụ nên có thể trong những giấc mơ, xảy ra những ư nghĩ phi thường.
Chúng ta cũng có thể trở thành những thiên thần nếu chúng ta biết nghe tiếng nói yên lặng của Thượng Đế bên trong chúng ta, và quay vào đó (lương tâm) trước khi quyết định hay hành sự một việc ǵ. Tất cả chúng ta cần phải nghe hoặc cảm thấy tiếng đó, nhưng thường thường ta vẫn quên trong khi đi trên con đường tươi đẹp của ta.
Khi ở bên kia ngưỡng cửa (cơi vô h́nh) tự nhiên ta hiểu rơ thế nào là phải là trái, v́ ta sẵn có tinh hoa của Thượng Đế bên trong chúng ta và không bị những cám dỗ vật chất nó cạm bẫy ta. Ta hiểu rơ rằng những hành động vô ư thức trong đời xác thịt đă làm cho ta xa Đấng Sáng Tạo.
Như thế, thay v́ được hưởng khung cảnh t́nh yêu thương thuần túy không ích kỷ mà chúng ta có thể đạt tới, ta c̣n phải ở đây học đi học lại những bài học trước trong những thời gian chờ đợi giữa hai đời sống trên mặt đất.
Cho nên ta cần phải học sau cho có thể, phân biệt tức khắc không lưỡng lự cái hay với cái dỡ, đều phải với đều trái, như ta thuộc ḷng bản cửu chương - Hăy làm việc thiện bỏ việc ác.
Trở lại t́nh trạng nhân loại trên trái đất từ sau khi Atlantis hoàn toàn ch́m hết khoảng 10.000 năm trước kỷ nguyên, dẫn-đạo-sư nói rằng người ta dần dần tụt xuống tŕnh độ gần như dă man v́ không c̣n những người lảnh đạo của hai đại lục trước nữa.
Những phương tiện vận chuyển như thời sơ khai. Tàu thuyền không thể đi lại được trên Đại Tây Dương v́ bùn lầy và những tàn tích nổi lềnh-bềnh. những trận thủy tai và động đất đă phá hủy các kho tàng tài liệu, và những dân tộc rời rạc quên cả lối viết đọc xưa, v́ không c̣n tu sĩ giảng dạy, không c̣n người lảnh đạo tâm linh.
Trừ một vài nơi như Ấn Độ, Ai Cập, Peru, ngoài ra dân chúng không hiểu biết ǵ về văn hóa. Đó là thời kỳ đen tối.
Trong thời kỳ ấy, những thú vật được người chăn nuôi để làm việc nặng nhọc, v́ những bàn-nhân hầu như mất hết, nhờ phương pháp thành công của người Atlantis và Ra Ta. Khi mọi người bắt buộc phải làm lấy các việc chân tay, họ không có th́ giờ rèn luyện trí thức, nên không tiến hóa.
Sau nhiều ngàn năm thời tiền sử đen tối ấy, việc học mới lại được phục hồi tại vùng Tiểu Á. Thành Athens và một vài nơi khác quanh Địa Trung Hăi trở thành những trung tâm văn học.
Người Ai Cập không bao giờ dập tàn ngọn đuốc, nhưng họ giử lấy riêng cho họ. Từ khi Alexander the Great truyền bá ngọn đuốc văn minh cùng với đạo quân chinh phục, Athens bừng sáng, Rome (La mă) trỗi lên và rồi sụp xuống. Lịch sử bắt đầu từ đó.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 418 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 5:54pm | Đă lưu IP
|
|
|
THẾ GIỚI KHI XƯA
XII. NHỮNG V̉NG TÁI SANH
Những người đă quen biết nhau trong những đời trước, có khuynh hướng trở lại ṿng tái sanh cùng với nhau. Các quốc gia cũng vậy, cũng cùng với nhau khi thăng khi trầm.
V́ những nền văn hóa của Lemuria và Atlantis đă tiến đến cực thịnh trong nhiều triệu năm, và v́ thiện và ác luôn luôn đi sát cạnh nhau, không thể nói rằng tất cả người Lemuria cao thượng và tất cả người Atlantis tội lổi.
Nhưng trong giai đoạn sau của Atlantis, có rất nhiều người quá hăng sai về kỹ thuật, đă phá hủy lục địa của họ. Edgar Cayee đă cảnh cáo rằng những linh hồn phá hoại ấy đă đầu thai trở lại rất nhiều trong nữa thế kỷ 20 này, thu hút bởi thời kỳ đặc biệt khoa học tân tiến ngày nay.
Thời kỳ phục hưng (Renaissance) tại Âu Châu trong thế kỷ 14 và 15, và thời kỳ Mỹ dành độc lập thế kỷ 18, là những thời dựng lên sự nghiệp của những người Lemuria tái sanh.
Thomas Jefferson, Benjamin Franklin, George Washington, xưa ở Lemuria rồi sau ở Atlantis. Wondrew Wilson sống đời thứ nhất ở Lemuria, thuộc về giới tu sĩ.
Khi trở lại Atlantis, ông là một ông hoàng trẻ trong hoàng cung, nhưng từ sớm ông đă thiên về triết học và hoạt động tôn giáo. Ông rời khỏi hoàng cung để dốc ḷng vào việc họa và việc tôn thờ, nhưng trong thế kỷ 20 ông không thể lôi cuốn Clémenceau và Lloyd George theo ư kiến ông, v́ hai ông nầy là người Atlantis thực tế.
Winston Churchill là một người Atlantis thuần túy, rất tinh xảo về chiến trận. Franklin D. Roosevelt đă sinh cùng thời với Wondrew Wilson tại Atlantis, có tài về trị quốc. Anwar Sadat xưa cũng giữ một địa vị cao tại Ai Cập sau thời Ra Ta.
Cũng đă từng thương lượng giăn ḥa với các lân bang hiếu chiến. Gerald Ford xưa cũng là một nhà chính trị ḥa b́nh tại Ai Cập và Atlantis. Bao giờ cũng có những người từ các nền văn hóa khác nhau cùng sinh ra một thời.
V́ có một số nhiều người xưa đă sống trong thời kỳ sau của Atlantis ngày nay tái sinh trên mặt đất, chắc chắn rằng sẽ có những hành động hiếu chiến, bất ḥa và vô nhân đạo.
Nói đến Đông phương, dẫn-đạo-sư cho biết rằng những người đầu tiên lập nghiệp tại Gobi là những người hiểu biết đạo Trời, và có đầy ḷng từ bi bác ái với tất cả nhân loại.
V́ thế họ truyền lại nhiều phúc đức trên khắp vùng này bao gồm phần lớn Trung Hoa ngày nay, Tây Tạng và Mông Cổ, và sự thấm nhuần của tâm linh vào đời sống hàng ngày đă sản xuất ra những tư tưởng cao siêu chưa từng có: Khổng học và Phật học
Nhóm cầm quyền tại đó ngày nay phần lớn gồm những người Atlantis tái sinh, đă sống trên đất Gobi sau khi Lemuria ch́m xuống biển, và đặt ách độc tài trên dân da vàng. Mao trạch Đông xưa là một người Atlantis nắm quyền tại Gobi trên 10 năm đến khi bị nguời Aryan xăm lăng truất quyền.
Chu Ân Lai là một người Mông Cổ theo Mao, đă bán nước cho người Atlantis. Những người cầm quyền tại Nga trong mấy chục năm gần đây cũng là người Atlantis, tuy nhiên Staline xưa là người Mông Cổ, khát máu và quyết định vươn lên bằng bất cứ cách nào, đă từng cộng tác với người Atlantis xâm lăng Gobi.
Sau khi tác giả nhận được những lời trên này ít lâu. Chu Ân Lai chết v́ bệnh ung thư. Tác giả hỏi về Hoa Quốc Phong mà bên tây phương ít người biết đến. Dẫn-đạo-sư nói: Hoa Quốc Phong là một người Atlantis trong thời kỳ sau chỉ c̣n lại hai đảo, là một thủy thủ đi thám hiểm đến Gobi.
Y yêu thương một phụ nử Mông Cổ và đem thị trở về Atlantis. Nhưng bị sợ hăi v́ thấy người ta chỉ tôn thờ máy móc và sáng chế, thị thuyết phục Hoa trở lại Gobi và ở luôn đó. Hoa không phải là người Atlantis có học thức, v́ hầu hết đời y sống trên mặt biển, nhưng y khôn ngoan, và khi y nghe nói một số đông người Atlantis rời bỏ quê hương v́ đất rung động, y quyết định lập một tổ-chức thực dân với y làm chủ, và tuyển mộ những người mới đến Gobi.
Y thành lập vương quốc riêng của y, và cai trị tất cả vùng đất thuộc Trung Hoa ngày nay đă được nổi lên thành đồi núi. Nhiều người Atlantis đă đến đó lập nghiệp, nhưng ǵ y đối đăi gắt gao với họ, nên họ vượt qua núi đi sang Ấn Độ và các vùng lân cận. Y sẽ không cầm quyền tại Trung Hoa được lâu, và sau khi Mao chết, y sẽ phải nhường quyền cho Đặng.
Đặng Tiểu B́nh cũng là một người Atlantis có nhiều tài, xưa kia y hay đi tới Gobi, cuộc hành tŕnh rất gian nan v́ Quả cầu Pha-lê không có hiệu lực qua phần bên kia trái đất. Y có tư tưởng ḥa b́nh, và như thế là điều tốt cho Trung Hoa và thế giới tây phương ngày nay.
Y sẽ hợp tác với tây phương nhiều hơn Mao, và sẽ đưa Trung Hoa trở lại với các quốc gia thân thiện. Trung Hoa sẽ trở thành một lănh tụ thế giới sau khi trái đất đổi trục trong hai thập niên tới, khi đất đai rộng lớn của nó sẽ bị thay đổi nghiêm trọng và sẽ giải phóng dân chúng khỏi bàn tay sắt của chính phủ.
Những người Atlantis lan tràn đến bắc Phi Châu, pha trộn với người da trắng từ vùng Caucase, phát sinh ra nền văn hóa Ai Cập ở mức độ cao. C̣n những người da đen không pha trộn với các giống khác, tiến hóa rất chậm, nhưng thời của họ đă đến.
Họ được sinh ra ở Phi Châu có nhiều ánh nắng, nên có màu da che chở cho họ thích hợp với khí hậu. Tại đây có ít những con vật khổng lồ và không có khủng long. Và những loài vật cũng không sinh sản quá nhiều như khủng-long và man-mút tại Lemuria và Atlantis.
Bánh xe luân hồi đă mang lại trong nhiều ṿng những người xưa kia đă chung đụng với nhau, không có người nào không phải trở lại đời sống nhiều lần. V́ thế không có ai c̣n là thuần túy người Lemuria hay người Atlantis. Dẫn-đạo-sư nói:
V́ xă hội ta ngày nay đa số là những người Atlantis trong thời cuối, nên những lớp trẻ và lớp chưa đứng tuổi có nhiều hành động sai lạc như phá rối, bắc cóc, nổ bom, bạo động, ma túy...
Ngày nay là một thời tao loạn, và điềm báo trước bạo động sẽ tiếp tục trong thập niên 1980, cho đến thập niên cuối cùng của thế kỷ này khi trái đất đổi trục lần nữa. Một trận chiến tranh khác với vơ khí nguyên-tử sẽ mang lại t́nh trạng như tại Atlantis khi năng lực của Quả cầu Pha-lê phát ra đă phá hủy châu Mỹ.
Trong thời vàng son, khi chưa có phi cơ dùng năng lực Quả cầu Pha-lê, những sự vận chuyển đều bằng tàu thuyền và xe trượt. Vận chuyển bằng xe trượt rất khó khăn vất vả, do những bàn-nhân hoặc trâu kéo trên mặt đất. Không hiểu tại sao họ không chế ra bánh xe.
Cũng như trâu, chó mèo cũng được nuôi trong nhà. Chúng thuộc giống sói, cáo, hoặc cọp, báo, sư tử, nhưng loại nhỏ hơn, nhiều hơn và trung thành với người. Được hỏi những loài vật ấy có hồn không, Dẫn-đạo-sư trả lời:
Linh hồn loài vật thuộc về một loại riêng và cũng là một phần của tinh hoa Thượng Đế, nhưng không phải là linh hồn người, cũng như tính linh của cây cỏ đối với tính linh của đất đá và các vật khác, mỗi loại có liên lạc riêng với Tạo Hóa.
Tất cả linh hồn người là những tàn lửa từ Thượng Đế sinh ra cùng một lúc từ nguyên thủy. Linh hồn loài vật cũng tiến hóa không ngừng, nhưng không bao giờ được thành người, cũng như chim và cây cỏ không bao giờ trở thành thú vật, v́ mỗi loài ở trong một phạm vi riêng biệt.
So sánh Hoa Kỳ với Atlantis, dẫn-đao-sư nói rằng: Khi Hoa Kỳ mở cửa cho tất cả các dân tộc và trở thành một nơi chứa đựng những người nghèo từ các nước, chủng tộc và tín ngưỡng hoà tan với nhau, chúng ta sẽ trở nên mạnh mẽ.
Cho tới thế kỷ này, Hoa Kỳ là một thí dụ rực rỡ của Atlantis trong thời kỳ vàng son khi mọi chủng tộc đều được hoan nghênh, và tất cả mọi người đều cố gắng tiến hóa về Tâm linh, về tinh thần và về văn hóa.
Hoa Kỳ giống Atlantis về nhiều phương diện và cần so sánh những trạng thái nó đưa đẩy lên cao cùng những trạng thái nó dẫn đến sụp đổ của đất đai mạnh lớn ấy. Chắc chắn chúng ta phải kềm hăm cái ḷng ham muốn vô biên về vũ khí kỹ thuật cho chiến tranh và về địa vị lănh đạo thế giới.
Con đường đi ngày nay đưa thẳng đến một cuộc xung đột khác trong những thập niên 1980 và 1990 trước khi diễn ra tai họa chuyển trục trái đất.
Theo dẫn-đạo-sư th́ tai họa này khó tránh khỏi. Nhưng theo Edgar Cayee, luật ân huệ vượt lêntrên luật nhân quả. Nếu không được Thượng Đế ban ân huệ, th́ chúng ta sẽ phải trăi qua 20 năm xung đột bạo lực, đổ máu và có thể chiến tranh hạt nhân trước khi trái đất đổi trục vào cuối thế kỷ này.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 419 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 5:57pm | Đă lưu IP
|
|
|
THẾ GIỚI KHI XƯA
XIII. ĐI SANG TINH CẦU KHÁC
Nhiều nhà chiêm tinh học nói rằng người, vật, cá, chim, cây cỏ đều bị ảnh hưởng của các tinh cầu khác, trái đất có lẽ cũng vậy. Chúng ta đều biết rằng nước biển lên xuống là do sức hút của mặt trời và mặt trăng, và từ thượng cổ người ta đă biết trồng tỉa theo tuần mặt trăng.
Nay dẫn-đạo-sư lại nói rằng những linh hồn cũng phải trăi qua những rung động của tinh cầu khác để hoàn bị sự tiến hóa trước khi ḥa đồng với Tạo Hóa. Dẫn-đạo-sư cũng nhấn mạnh về sự cần thiết tham thiền, cả đến sau khi chết.
Khi linh hồn chưa tiến cao, th́ chọn tinh cầu rung động nhẹ hơn như Kim-tinh (Venus) để chịu đựng dể dàng hơn. Những linh hồn trên Kim-tinh đều dịu-dàng, đầy ḷng yêu thương và ḷng tôn thờ Đức Sáng Tạo.
Trên Hỏa-tinh (mars) không khí nóng bỏng, để cho những linh hồn đốt cháy tính nóng nảy hiếu chiến, Cho nên tốt hơn là trong đời sống vật chất, cần san bằng những mối bất ḥa, hơn là chịu áp lực trên Hỏa-tinh. Nhưng người nào chịu nổi áp lực ấy th́ sự đốt cháy sẽ nhanh chóng hơn, và sẽ không phải ở lâu trên đó.
Trên hành tinh Uranus, có ảnh hưởng "đ́nh chiến", những linh hồn học hỏi giàn xếp bằng cách không nghĩ đến nguyên nhân những mối bất ḥa. Tuy nói vậy nhưng không phải dễ, v́ những linh hồn đă thù hận nhau trong suốt một đời, nay phải luôn luôn đối diện với nhau.
Nếu họ cố gắng chịu đựng trong một thời gian khá lâu trên Uranus th́ mối bất ḥa có thể sẽ tiêu tan. Nhưng đôi khi có những linh hồn không chịu nổi t́nh trạng kéo dài ấy, nên có dịp liền trở lại đời sống vật chất, nhất định giải quyết vấn đề trong thân xác thịt để có thể hoặc chiến đấu hoặc thương lượng ḥa b́nh.
Ảnh hưởng của Neptune dể chịu hơn là của Hỏa-tinh và Uranus nhiều. Những tham vọng được xoay chiều nhẹ nhàng, khiến cho tâm hồn được yên tỉnh, nên nhiều linh hồn không muốn đi nơi khác.
Nhưng ai muốn được nhanh chóng hợp nhất với Thượng Đế th́ không muốn kéo dài thời gian yên tỉnh, v́ những thử thách gắt gao là những cơ hội để tiến hóa nhanh chóng hơn. Sau thời gian ở Neptune, những linh hồn sẵn sàng chịu đựng thử thách gắt gao hơn như ở Uranus, Uranus là nơi mài dũa linh hồn.
Rồi dẫn-đạo-sư nói đến Mộc-tinh (Jupiter). Mộc tinh dạy cho tính tự chế ngự, đồng thời tính cương quyết theo lẽ phải, nhưng không được có tính tự phụ, Nếu người nào có cảm tưởng rằng ḿnh cao hơn nguời khác, th́ được nhắc nhở rằng ḿnh chỉ là một vật rất nhỏ mọn, phải tùy thuộc vào một nguời mẹ mang nặng đẻ đau.
Thủy-tinh (Mercury) là thủy ngân. Trên Thủy tinh người ta có thể thấy lại h́nh ảnh tất cả các đời sống trước và ấn định hướng đi lên hay đi xuống trong hoạt động tương lai. Đó là một nơi rất nhỏ để un đúc lại các nguyên động-lực trong mỗi lần giáng sinh, để cố gắng xóa bỏ trong một đời sống tất cả những nhân xấu từ xưa.
Đây không phải là một nơi nghĩ an nhàn, v́ không những là phải kiểm điểm lại những lầm lỗi trong đời mới trăi qua, mà c̣n cả hàng ngàn đời trước. Những lầm lổi càng nhiều th́ sự đau khổ càng nhiều. Có lẽ v́ thế mà có những linh hồn can đảm đă chọn thân h́nh bất toàn, như mù, điếc, tàn tật, để trả quả cho nhanh chóng.
Thổ-tinh (Saturn) là cao hơn hết, là nơi những linh hồn đă tiến đến mức toàn thiện. Dẫn-đạo-sư không thể nói ǵ nhiều về Thổ-tinh, v́ chưa được lên đến đó. Có những linh hồn từ Thổ-tinh trở về đă nói rằng chưa đủ tŕnh độ c̣n phải trở lại để tu thêm.
Dẫn-đạo-sư nói thêm rằng nếu trong đời sống vật chất mà chúng ta đạt tới mức gần hoàn toàn (toàn thiện) th́ những cuộc hành tŕnh sang các tinh cầu khác rất là nhẹ nhàng. Tại sao phải đi sang tinh cầu khác? V́ cần phải đền bù tội lỗi đối với người khác và phải ĺa bỏ thái độ ích kỷ và trịch thượng.
Đó là một phương pháp san bằng. Cho nên trong đời vật chất, cần phải thiện những ư nghĩ và hành động đối với người khác, v́ việc làm ấy dễ hơn rất nhiều là phải chịu khổ năo tinh thần trên các tinh cầu. Vậy tại sao không bắt đần ngay từ bây giờ phương pháp gột rửa cuốn sổ thiên nhân ấy!
Hăy cân nhắc những điều thiệt hại đă gây cho người khác, rồi ngay từ bây giờ bắt đầu t́m cách chuộc lại, hoặc giúp đở những người kém ta. Nếu những người đó đă làm thiệt hại cho người ta th́ cũng chẳng sao, v́ đó là việc nhân quả của họ, họ sẽ phải đền bù.
Hăy để mặc họ về chuyện đó, nhưng cứ giúp đỡ họ đi khi nào có thể được, hăy quên đi, tha thứ đi. C̣n ở trong đời vật chất th́ rất dễ, nhưng khi đă bước sang cơi tâm linh th́ rất khó. Hăy xóa bỏ tội lỗi khi c̣n ngày giờ, hăy lợi dụng tối đa cơ hội c̣n ở trong xác thịt.
Tâm Linh
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 420 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 6:08pm | Đă lưu IP
|
|
|
TẠNG THƯ SỐNG CHẾT
LỜI GIỚI THIỆU CỦA ĐỨC DALAI LAMA
Trong tác phẩm này, thầy Soyal tập trung vào các vấn đề làm sao để hiểu ư nghĩa thực thụ của sự sống, làm sao để chấp nhận cái chết, và làm sao để giúp đỡ người sắp chết, và người đă chết.
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm th́ muộn. Theo tôi th́ có hai cách để xử với cái chết trong khi ta c̣n sống.
Hoặc là ta tảng lờ nó, hoặc là ta chạm trán với viễn ảnh cái chết của chính ḿnh, và bằng cách tư duy sáng suốt về nó, ta cố giảm thiểu những khổ đau mà cái chết có thể mang lại. Tuy nhiên, trong cả hai cách, không cách nào chúng ta có thể thực thụ chinh phục được sự chết.
Là một Phật tử, tôi xem chết là chuyện b́nh thường, là một thực tại mà tôi phải chấp nhận, khi tôi c̣n hiện hữu trên trái đất. Đă biết không thể nào thoát khỏi, th́ lo lắng làm ǵ.
Tôi có khuynh hướng nghĩ đến sự chết cũng như thay bộ y phục khi nó đă cũ ṃn, hơn là một cái ǵ hoàn toàn chấm dứt. Tuy vậy cái chết không thể biết trước: ta không biết được khi nào cái chết đến với ta, và ta sẽ chết như thế nào. Bởi thế tốt hơn cả là ta hăy dự pḥng một số việc trước khi cái chết thực sự xảy ra.
Đương nhiên phần đông chúng ta đều muốn có một cái chết an ổn, nhưng một điều cũng hiển nhiên nữa, là ta không thể hy vọng chết một cách thanh b́nh nếu đời sống của ta đầy những bạo hành, hoặc nếu tâm ta thường giao động v́ những cảm xúc mạnh như giận dữ, ái luyến, hay sợ hăi.
Bởi thế, nếu ta muốn chết tốt, ta phải học cách sống tốt. Nếu ta mong có được một cái chết an lành, th́ ta phải đào luyện sự b́nh an trong tâm ta, và trong lối sống của ta.
Như bạn đọc sẽ thấy trong sách này, theo quan điểm Phật giáo th́ cái kinh nghiệm thực thụ về chết rất quan trọng. Mặc dù sự tái sinh của chúng ta, nơi tái sinh của ta phần lớn tùy thuộc vào năng lực của nghiệp, song tâm trạng ta vào lúc chết có thể ảnh hưởng tới tính chất của tái sanh kế tiếp.
Vậy, vào lúc chết, mặc dù ta đă tích lũy đủ loại nghiệp, nhưng nếu ta làm một nỗ lực đặc biệt để phát sinh một tâm lành, th́ có thể tăng cường và khởi động một nghiệp thiện, và do đó đem lại một tái sinh hạnh phúc.
Lúc chết thực sự cũng là lúc mà những kinh nghiệm nội tâm lợi lạc sâu xa nhất có thể xảy ra. Do thường thực tập tiến tŕnh chết trong khi thiền định, một thiền giả tu cao có thể sử dụng lúc chết của ḿnh để đạt những chứng ngộ lớn lao.
Đấy là lư do những hành giả có kinh nghiệm thường nhập định vào lúc họ chết. Một dấu hiệu của sự đắc đạo nơi họ là thi thể họ thường không thối rửa sau khi họ đă chết rất lâu trên phương diện lâm sàng.
Ngoài sự chuẩn bị cái chết của riêng ḿnh, một việc khác không kém phần quan trọng là giúp người khác có một cái chết tốt đẹp. Khi mới sinh ra đời, chúng ta đều là những hài nhi yếu đuối; nếu không nhờ sự săn sóc tử tế mà chúng đă nhận được, th́ chúng ta đă không thể sống c̣n. Người sắp chết cũng thế, không thể tự túc được, nên ta phải giúp họ thoát khỏi những bất tiện và lo âu, và cố hết sức để giúp họ có một cái chết thanh thản.
Điều quan trọng nhất là tránh làm điều ǵ khiến cho tâm người sắp chết thêm rối loạn. Mục đích trước nhất của chúng ta giúp người sắp chết là làm cho họ được thoải mái. Có nhiều cách để làm việc này. Với người đă quen tu tập, nếu khi họ sắp chết mà ta nhắc nhở chuyện tu hành, tinh thần họ có thể thêm phấn chấn. Một lời trấn an đầy từ ái của ta có thể gợi cho người sắp chết một thái độ b́nh an, thoải mái.
Cái chết và tiến tŕnh chết có thể cung cấp một giao điểm gặp gỡ giữa Phật giáo Tây Tạng và khoa học tân tiến. Tôi tin rằng hai bên có thể cống hiến cho nhau rất nhiều về hiểu biết và thực hành.
Thầy Sogyal Rinpoche đúng là người để làm cho cuộc gặp gỡ này thêm dễ dàng, v́ thầy đă sinh ra và trưởng thành trong truyền thống Tây Tạng, đă thụ giáo với một vài vị lạt ma tên tuổi nhất của Tây Tạng, đồng thời thầy cũng được hấp thụ một nền giáo dục tân tiến, đă sống và giảng dạy nhiều năm ở Tây phương và đă quen thuộc với lề lối tư duy của người phương Tây.
Sách này không chỉ cống hiến cho độc giả một tŕnh bày lư thuyết về sự chết, mà c̣n cung cấp những cách thực tiễn để hiểu và tự chuẩn bị cho ḿnh lẫn người khác (về cái chết) một cách thản nhiên và viên măn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|