Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
  H́nh Ảnh Từ Thiện
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Thông Tin
  Thông Báo
  Báo Tin
  Liên Lạc Ban Điều Hành
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Nhờ Coi Quẻ
  Nhờ Coi Ngày
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Tử Vi
  Tử Bình
  Kinh Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Bói Bài
  Đoán Điềm Giải Mộng
  Khoa Học Huyền Bí
  Thái Ất - Độn Giáp
  Y Dược
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch và Phong Thủy 3
Kỹ Thuật
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
Thư Viện
  Tủ Sách
  Bài Viết Chọn Lọc
Linh Tinh
  Linh Tinh
  Giải Trí
  Vườn Thơ
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 258 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
chindonco (3250)
hiendde (2589)
HoaCai01 (2277)
vothienkhong (1807)
dinhvantan (934)
ryan88 (805)
Vovitu (713)
ruavang (691)
lancongtu (667)
TranNhatThanh (644)
Hội viên mới
redlee (0)
dautranhsinhton (0)
Chieu Tim1234 (1)
huyent.nguyen (0)
tamsuhocdao (0)
henytran2708 (0)
thuanhai_bgm (0)
Longthienson (0)
thuyenktc (0)
liemnhi (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Truyện tâm linh - hiendde Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 421 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 6:13pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TẠNG THƯ SỐNG CHẾT


LỜI NÓI ĐẦU


Tôi sinh ra ở Tây Tạng, và mới vừa sáu tháng tuổi, tôi đă vào tu viện của thầy tôi, Jamyang Khientse Chokyi Lodro. Ở Tây Tạng chúng tôi có truyền thống độc đáo là t́m tái sinh của những bậc thầy vĩ đại đă từ trần. Họ được tuyển chọn từ lúc hăy c̣n bé và được cung cấp một nền giáo dục đặc biệt, huấn luyện họ trở thành những bậc thầy trong tương lai.

Tôi được đặt tên là Sogyal, mặc dù măi lâu về sau thầy tôi mới nhận ra tôi là tái sinh của Terton Sogyal, một hành giả mật tông nổi tiếng đă từng là một trong những bậc giáo thọ của chính thầy, và là một bậc thầy của đức Dalai Lama thứ mười ba.

Thầy tôi, Jamyang Khientse, dáng người cao lớn vượt hẳn khổ người Tây Tạng trung b́nh. Thầy thường đứng cao hơn mọi người cả một cái đầu, trong đám đông. Tóc thầy có màu bạch kim cắt thật ngắn, và đôi mắt từ bi thường ánh lên một vẻ hài hước. Đôi tai dài, giống tai Phật. Nhưng điều làm ta chú ư nhất nơi thầy là sự hiện diện của thầy.

Cái nh́n và dáng điệu của thầy cho ta biết thầy là một người minh triết và thánh thiện. Thầy có một giọng nói thâm hậu, hấp dẫn, và mỗi khi giảng dạy, đầu hơi ngả về phía sau, lời giảng tuôn ra từ nơi thầy như nước chảy, hùng hồn và đầy thi vị. Và mặc dù thầy được mọi người kính nể, sợ nữa là khác, ta vẫn nhận thấy một thái độ khiêm cung trong mọi việc thầy làm.

Tôi sinh ra ở Tây Tạng, và mới vừa sáu tháng tuổi, tôi đă vào tu viện của thầy tôi, Jamyang Khientse Chokyi Lodro. Ở Tây Tạng chúng tôi có truyền thống độc đáo là t́m tái sinh của những bậc thầy vĩ đại đă từ trần. Họ được tuyển chọn từ lúc hăy c̣n bé và được cung cấp một nền giáo dục đặc biệt, huấn luyện họ trở thành những bậc thầy trong tương lai.

Tôi được đặt tên là Sogyal, mặc dù măi lâu về sau thầy tôi mới nhận ra tôi là tái sinh của Terton Sogyal, một hành giả mật tông nổi tiếng đă từng là một trong những bậc giáo thọ của chính thầy, và là một bậc thầy của đức Dalai Lama thứ mười ba.

Thầy tôi, Jamyang Khientse, dáng người cao lớn vượt hẳn khổ người Tây Tạng trung b́nh. Thầy thường đứng cao hơn mọi người cả một cái đầu, trong đám đông. Tóc thầy có màu bạch kim cắt thật ngắn, và đôi mắt từ bi thường ánh lên một vẻ hài hước. Đôi tai dài, giống tai Phật. Nhưng điều làm ta chú ư nhất nơi thầy là sự hiện diện của thầy. Cái nh́n và dáng điệu của thầy cho ta biết thầy là một người minh triết và thánh thiện.

Thầy có một giọng nói thâm hậu, hấp dẫn, và mỗi khi giảng dạy, đầu hơi ngả về phía sau, lời giảng tuôn ra từ nơi thầy như nước chảy, hùng hồn và đầy thi vị. Và mặc dù thầy được mọi người kính nể, sợ nữa là khác, ta vẫn nhận thấy một thái độ khiêm cung trong mọi việc thầy làm.

Jamyang Khientse là nền tảng của cuộc đời tôi, và là nguồn cảm hứng cho tác phẩm này. Thầy là nhập thể của một bậc thầy đă canh tân sự thực hành đạo Phật trong xứ sở chúng tôi. Ở Tây Tạng, được danh xưng là một vị “tái sinh” chưa đủ, bạn luôn luôn phải làm cho người ta kính nể nhờ học và tu. Thầy tôi thường nhập thất nhiều năm, và có nhiều mẫu chuyện mầu nhiệm được kể về thầy.

Thầy có tri kiến và thực chứng tâm linh sâu xa, và tôi dần khám phá rằng thầy giống như một bộ bách khoa về trí tuệ, thầy biết giải đáp cho mọi câu hỏi bạn có thể đặt ra. Ở Tây Tạng có nhiều ḍng tu, nhưng thầy Jamyang Khientse lại có tiếng là một vị thông suốt tất cả lư thuyết các ḍng ấy. Đối với mọi người đă biết hay nghe nói về thầy, th́ thầy chính là nhập thể của Phật giáo Tây Tạng, một bằng chứng sống cho ta thấy thế nào là một con người “thuyết thông lẫn tông thông”.

Tôi đă nghe nói thầy tôi bảo rằng tôi sẽ giúp tiếp nối sự nghiệp của thầy, và dĩ nhiên thầy luôn xem tôi như con đẻ. Tôi có cảm nghĩ rằng những ǵ tôi có thể thành tựu được trong công việc của ḿnh đều nhờ ân phước của thầy tôi.

Mọi hoài niệm sớm sủa nhất của tôi đều là hoài niệm về thầy tôi. Thầy là bối cảnh trong đó tôi lớn lên, và ảnh hưởng thầy ngự trị tuổi thơ tôi. Thầy như một người cha đối với tôi. Thầy cho tôi bất cứ ǵ tôi xin cầu. Người bạn đạo của thầy, Khandro Tsering Chodron, mà cũng là cô tôi, thường bảo:

- Đừng quấy rầy Rinpoche, có thể ông đang bận đấy.

Nhưng tôi th́ luôn muốn ở bên cạnh thầy, và thầy cũng sung sướng có tôi ở bên ḿnh, Tôi thường không ngớt đặt những câu hỏi với thầy suốt buổi, và thầy luôn luôn kiên nhẫn trả lời tôi. Tôi là một đứa bé hư hỏng, không một thầy giáo nào có thể ghép tôi vào kỷ luật. Mỗi khi họ cố đánh tôi, th́ tôi lại chạy đến thầy, leo lên sau lưng thầy, thế là không ai dám bén mảng. Thu ḿnh ở đấy, tôi cảm thấy hănh diện và khoái thích, c̣n thầy chỉ cười lớn.

Bỗng một ngày nọ, thầy dạy kèm yêu cầu thầy tôi mà tôi không biết, giải thích rằng v́ lợi ích cho riêng tôi, không thể tiếp tục để như thế được. Lần kế tiếp khi tôi chạy đến nấp sau lưng thầy, th́ thầy dạy kèm đi vào pḥng, lạy thầy tôi ba lạy, rồi lôi tôi ra ngoài. Trong khi bị kéo ra khỏi pḥng, tôi nhớ ḿnh đang nghĩ rằng, thật lạ lùng là ông này dường như không sợ ǵ thầy tôi cả.

Jamyang Khientse thường ở trong gian pḥng mà tiền thân của thầy đă có những linh kiến và khởi sự công cuộc phục hưng văn hóa và tôn giáo đă lan tràn suốt miền đông Tây Tạng trong thế kỷ trước. Đấy là một gian pḥng kỳ diệu, không rộng lắm nhưng có một bầu không khí thần tiên, đầy những vật thiêng liêng, tranh và sách.

Nó được gọi là “thiên đường của những vị Phật”, “căn pḥng đầy năng lực”. Nếu có cái ǵ ở Tây Tạng làm tôi nhớ nhung, thấp làm bằng gỗ và những đai da, tôi ngồi bên cạnh. Tôi thường không chịu ăn cái ǵ không phải lấy từ nơi bát của thầy. Trong cái pḥng ngủ nhỏ gần kề, có một hành lang luôn luôn mờ tối, với một ấm nước trà sủi bọt trên hỏa ḷ nhỏ đặt trong góc.

Tôi thường ngủ cạnh thầy tôi, trên một cái giường nhỏ dưới chân giường thầy. Một âm thanh mà tôi không bao giờ quên được là tiếng lần tràng hạt của thầy trong lúc thầy nhẩm những lời cầu nguyện. Khi tôi đi ngủ thầy thường vẫn ở đấy, ngồi thiền đọc kinh và sáng sớm khi tôi thức dậy th́ thầy cũng đă ngồi tu tập, tràn đầy năng lực và ân phước. Mỗi khi mở mắt trông thấy thầy, ḷng tôi lại ngập tràn một niềm hạnh phúc ấm cúng. Có một vẻ ǵ rất thanh b́nh nơi thầy.

Khi tôi lớn lên, thầy Jamyang thường để cho tôi chủ tọa những buổi lễ, c̣n thầy làm duy na điều khiển thời tán tụng. Tôi có dịp chứng kiến tất cả những cuộc giảng dạy và phép quán đảnh mà thầy làm cho mọi người, nhưng không phải nhớ những chi tiết mà nhớ bầu không khí trong những dịp ấy. Với tôi, thầy chính là Phật, tôi không c̣n nghi ngờ ǵ về chuyện ấy.

Và mọi người khác cũng công nhận như thế nữa. Khi thầy làm lễ quán đảnh, những đệ tử sợ tới nỗi không dám nh́n mặt thầy. Một vài người thấy thầy dưới h́nh dạng của vị tiền thân của thầy, hoặc thấy thầy giống vị Phật này, vị bồ tát kia. Mọi người gọi ngài là Rinpoche, “bậc quư nhân,” danh xưng đối với một bậc thầy, và khi thầy ở đấy th́ không có vị nào khác được gọi bằng danh từ ấy. Sự hiện diện của thầy gây cảm khái tới nỗi nhiều người thương mến gọi thầy là “Phật nguyên thủy.”

Nếu tôi không gặp được thầy tôi, tôi đă thành một con người khác hẳn. Với trí tuệ và đức bi mẫn, thầy là hiện thân của giáo lư thiêng liêng và khiến cho giáo lư ấy thực tiễn và đầy sức sống. Khi tôi nói với người khác về bầu không khí vây quanh thầy tôi, họ cũng cảm thấy như tôi.

Vậy, thầy tôi đă gây trong tôi cảm hứng ǵ? Đó là một ḷng tin không lay chuyển đối với nên giáo lư, và một niềm tin ở tầm quan trọng chính yếu và quyết liệt của bậc thầy. Bất cứ một hiểu biết ǵ mà tôi có được, đều nhờ thầy mà có. Đấy là một điều không bao giờ tôi có thể đền đáp, song tôi có thể trao lại cho những người khác.

Suốt thời niên thiếu của tôi ở Tây Tạng tôi đă thấy cái t́nh yêu thương mà thầy tôi thường tỏa ra trong hội chúng, nhất là khi hướng dẫn người hấp hối và người đă chết. Một vị Lama ở Tây Tạng không chỉ là một bậc thầy về tâm linh mà c̣n là một người minh triết, một người trị bệnh, cha xứ, bác sĩ, người chữa tâm bệnh, người giúp đỡ kẻ hấp hối.

Về sau tôi phải học những kỹ thuật đặc biệt để hướng dẫn người sắp chết và người chết, từ những giáo lư liên hệ cuốn Tử thư Tây Tạng. Nhưng những bài học lớn nhất mà tôi học được về sự chết và về sự sống, là nhờ ngắm nh́n thầy tôi khi thầy hướng dẫn người chết với một ḷng bi mẫn vô biên, với trí tuệ và hiểu biết.

Tôi cầu nguyện rằng sách này sẽ truyền đạt đến mọi người một trí tuệ và từ bi của ngài, và qua nó, các bạn có thể cảm nhận phần nào tâm đầy trí tuệ của ngài và t́m thấy một mối giao cảm linh động với ngài.






Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 422 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 6:18pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TẠNG THƯ SỐNG CHẾT


CHƯƠNG MỘT: SỐNG


1. TRONG TẤM GƯƠNG CỦA CÁI CHẾT


Kinh nghiệm đầu tiên của tôi về sự chết xảy đến vào lúc tôi khoảng chừng bảy tuổi. Chúng tôi đang chuẩn bị rời vùng cao nguyên miền đông để du hành đến vùng trung tâm của Tây Tạng. Samten, một trong những thị giả của thầy tôi, là một thầy tu kỳ diệu rất tử tế đối với tôi lúc tôi c̣n bé. Ông có gương mặt sáng tṛn mủm mĩm luôn sẵn sàng nở nụ cười. Ông được mọi người trong tu viện yêu mến v́ tính t́nh ông thật tốt.

Hàng ngày thầy tôi thường giảng dạy, làm phép quán đảnh, dẫn đầu những buổi lễ hay những thời khóa tu tập. Đến cuối ngày, tôi thường họp chúng bạn để đóng tuồng, diễn lại những công việc làm trong ngày, Thầy Samten luôn luôn cho tôi mượn tạm những bộ y phục mà thầy tôi đă mặc hồi sáng. Thầy chả bao giờ từ chối tôi việc ǵ.

Rồi bỗng Samten ngă bệnh, và điều rơ rệt là thầy sẽ không sống được nữa. Chúng tôi phải tŕ hoăn cuộc hành tŕnh. Tôi không bao giờ quên được hai tuần lễ kế tiếp. Mùi hôi thối của chết chóc đang lơ lửng như đám mây phủ trên mọi sự. Mỗi khi tôi nhớ về khoảng thời gian ấy, th́ cái mùi đó lại trở lại trong tôi.

Tu viện ngập tràn một ư thức mănh liệt về cái chết. Tuy vậy, điều này tuyệt nhiên không có ǵ ghê gớm hăi hùng; v́ với sự hiện diện của thầy tôi, cái chết của thầy Samten mang một ư nghĩa đặc biệt. Nó trở thành một bài học cho tất cả chúng tôi.

Thầy Samten nằm trên chiếc gường cạnh cửa sổ trong một điện thờ nhỏ tại tư dinh của thầy tôi. Tôi biết thầy đang từ từ chết. Thỉnh thoảng tôi đi vào pḥng, ngồi bên thầy. Thầy không nói được nữa, và tôi kinh ngạc trước sự đổi thay của gương mặt thầy, bây giờ đă xệ xuống trông thật hốc hác. Tôi nhận ra rằng thầy sắp từ giă chúng tôi, và chúng tôi sẽ không bao giờ c̣n gặp lại thầy. Tôi cảm thấy vô cùng buồn bă cô đơn.

Samten không chết dễ dàng cho lắm. Hơi thở khó khăn nặng nhọc của thầy luôn ám ảnh chúng tôi, và chúng tôi có thể ngửi thấy cả cái mùi thân xác thầy đang tàn tạ. Tu viện hoàn toàn im lặng, không một tiếng động ngoại trừ tiếng hơi thở của thầy. Mọi sự đều tập trung vào thầy Samten. Nhưng, dù cơn hấp hối kéo dài của Samten thật đau đớn, chúng tôi vẫn thấy được rằng, tự trong thẳm sâu của con người thầy, đang có một niềm b́nh an và tin tưởng.

Lúc đầu tôi không thể giải thích được điều này, nhưng rồi tôi hiểu tại sao. Đó là nhờ ở đức tin của thầy, công phu tu tập của thầy, và sự hiện diện của thầy chúng tôi. Mặc dù buồn bă, tôi cũng biết rằng khi có thầy tôi đó th́ mọi sự sẽ yên ổn, v́ thầy sẽ giúp cho thầy Samten đạt giải thoát. Về sau tôi được biết rằng, bất cứ hành giả mật tông nào cũng đều mơ ước được chết trước thầy ḿnh, và có cái diễm phúc được thầy tiếp dẫn trong lúc chết.

Trong lúc thầy tôi b́nh tĩnh hướng dẫn thầy Samten trải qua cái chết, ngài chỉ cho thầy biết từng giai đoạn một của tiến tŕnh chết mà thầy sẽ gặp. Tôi rất ngạc nhiên trước sự hiểu biết rơ ràng minh bạch của thầy tôi, trước vẻ tin tưởng và b́nh an nơi ngài. Khi có sự hiện diện của thầy tôi, người cả lo nhất cũng phải an tâm. Bây giờ Jamyang Khientse đang chứng tỏ cho chúng tôi thấy đức vô úy ngài đối với sự chết.

Không phải ngài coi thường nó: Ngài thường bảo chúng tôi rằng ngài sợ nó, và cảnh cáo chúng tôi đừng có ngây ngô tưởng chết là dễ. Nhưng cái ǵ đă khiến thầy tôi đối diện cái chết với thái độ nhẹ nhàng lănh đạm, thực tiễn mà lại thoải mái lạ lùng như thế? Câu hỏi ấy đă thâm nhập trong đầu tôi, làm tôi đầy kinh ngạc.

Cái chết của Samten đă làm tôi chấn động. Thế là mới bảy tuổi đầu, tôi đă thoáng thấy năng lực rộng lớn của truyền thống tôn giáo trong đó tôi dự phần, và tôi chợt hiểu được mục đích của sự tu hành.

Nhờ tu hành, mà Samten đă chấp nhận được cái chết cũng như hiểu rơ rằng nỗi đau đớn có thể là một phần của quá tŕnh thanh luyện rất tự nhiên và sâu xa. Nhờ tu hành, mà thầy tôi đă có một hiểu biết trọn vẹn về sự chết, và một kỹ thuật minh bạch để hướng dẫn người khác đi vào cơi chết.

Sau khi thầy Samten chết, chúng tôi khởi hành đi Lhasa, thủ đô Tây Tạng. Đấy là một cuộc hành tŕnh gian nan suốt ba tháng trên lưng ngựa. Từ đấy chúng tôi tiếp tục cuộc hành hương đến những thánh tích ở trung ương và miền nam Tây Tạng, những di tích của các bậc thánh, vua chúa và học giả đă có công du nhập đạo Phật vào Tây Tạng từ thế kỷ thứ bảy trở đi.

Thầy tôi là hiện thân của nhiều bậc thầy thuộc đủ mọi truyền thống, và v́ thầy nổi tiếng như thế nên chúng tôi đi đến đâu cũng được đón tiếp rất rộn ràng.

Đối với tôi, cuộc hành tŕnh ấy rất hấp dẫn và đă để lại trong tôi nhiều hoài niệm tốt đẹp. Người Tây Tạng quen dậy sớm để sử dụng tối đa ánh sáng thiên nhiên. Chúng tôi đi ngủ vào lúc trời sập tối và thức dậy trước b́nh minh, và khi tia sáng đầu tiên vừa ló dạng th́ những con trâu yaks chở hành lư đă bắt đầu di chuyển.

Những lều trại được nhổ lên, căn lều của thầy tôi nhổ sau chót. Một thanh niên sẽ đi trước để chọn chỗ tốt cho việc cắm lều trại, nơi chúng tôi sẽ dừng khoảng giữa trưa để nghỉ ngơi đến hết ngày. Tôi thường thích cắm trại cạnh một con sông để nghe tiếng nước chảy, hoặc để ngồi trong lều mà nghe mưa tí tách trên mái.

Đoàn người chúng tôi có tất cả khoảng chừng ba mươi căn lều. Suốt ngày tôi cỡi một con ngựa màu vàng bên cạnh thầy tôi. Trong khi chúng tôi cỡi ngựa, thầy tôi giảng dạy cho tôi, kể chuyện, niệm chú, và đặt ra một số phương pháp cho tôi thực hành giáo lư.

Một ngày kia, khi chúng tôi tiến gần đến hồ thiêng Yamdrok và thoáng thấy bóng mặt nước ngời sáng như xa cừ của nó, th́ một vị Lạt ma trong đoàn lữ hành, Lạt ma Tseten, bắt đầu chết.

Cái chết của Tseten là một bài học sống động khác nữa đối với tôi. Ông là thầy của bà vợ tâm linh của thầy tôi, Khandro Tsering Chodron, hiện nay vẫn c̣n. Bà được xem như nữ hành giả mật tông xuất sắc nhất của Tây Tạng, một bậc thầy mai danh ẩn tích mà đối với tôi là một hiện thân của đức hy sinh tận tụy.

Nội một sự hiện diện đầy tŕu mến của bà cũng đủ dạy cho tôi rất nhiều. Lama Tseten là người có ḷng nhân ái vô biên, Ông tuổi ngoại lục trần, khổ người khá cao và tóc đă hoa râm. Ông tỏa ra một sự dễ thương không chút nào gắng gượng.

Ông cũng là một thiền giả tu chứng cao, chỉ cần ở cạnh ông cũng đủ đem lại cho tôi một cảm giác thanh b́nh và trong sáng. Một đôi khi ông rầy la tôi, và tôi cũng khá sợ hăi; nhưng mặc dù thỉnh thoảng ông có hơi nghiêm khắc, ông vẫn luôn luôn đầy tính nhân hậu.

Lama Tseten chết một cách phi phàm. Mặc dù có một tu viện gần đấy, ông không chịu đến, bảo rằng ông không muốn để lại cho người ta một cái xác phải thu dọn. Bởi thế chúng tôi dựng lều trại thành ṿng tṛn như thường lệ.

Khandro săn sóc đều dưỡng cho Lama Tseten, thầy giáo đạo của bà. Chúng tôi là hai người duy nhất có mặt trong lều của ông, khi ông cất tiếng gọi. Ông thường gọi là Khandro là “a-mi” tiếng nói địa phương ông, có nghĩa là “con ta”.

- Này con, hăy lại đây. Nó đang đến. Ta không c̣n ǵ để khuyên bảo con thêm nữa. Con rất tốt, ta lấy làm sung sướng v́ con. Hăy phụng sự bậc thầy của con như bấy lâu con đă làm.

Lập tức bà khởi sự chạy ra khỏi lều, nhưng ông đă nắm lấy tay áo bà lại.

- Con đi đâu thế?

Bà trả lời:

- Con sẽ đi gọi Rinpoche.

Ông mỉm cười:

- Chớ làm phiền ông ta, không cần thiết. Đối với bậc thầy, vốn không bao giờ có khoảng cách nào giữa chúng ta.

Với những lời lẽ ấy, ông đưa mắt nh́n lên trời rồi chết. Khandro thoát được khỏi tay ông và chạy vội ra để gọi thầy tôi. Tôi ngồi yên bất động tại chỗ, kinh ngạc khi thấy một người nh́n thẳng mặt cái chết với thái độ b́nh thản như vậy. Lama Tseten đáng lẽ có thể nhờ thầy ḿnh thân hành đến giúp, một điều mà bất cứ người nào khác đều mong mỏi, nhưng ông ta lại không cần.

Bây giờ tôi đă hiểu tại sao: Tại v́ ông đă trực nhận sự hiện diện của bậc thầy ở trong tâm ḿnh, Jamyang Khientse vẫn luôn luôn ở bên ông, trong đầu óc và trái tim của ông; ông không bao giờ cảm thấy có sự ngăn cách nào cả.

Khandro đă đi mời thầy tôi, Jamyang Khientse. Tôi không sao quên được cái lúc ông khom lưng để bước vào căn lều. Ông đưa mắt nh́n vào mặt của Lama Tseten rồi nh́n sâu vào đôi mắt, và khởi sự cười khúc khích. Ông thường gọi Lama Tseten là “La Ghen”, vị lạt ma già, một cách gọi âu yếm của ông. Ông bảo:

- La Ghen, đừng có ở trong trạng thái đó.

Bây giờ tôi hiểu rằng, lúc đó thầy tôi đă thấy Lama Tseten đang nhập vào một thứ định trong đó hành giả tan ḥa bản chất của tâm ḿnh với không gian của chân lư.

- Ông biết chứ, La-Ghen, nếu ông nhập định này, th́ một đôi khi có vài chướng ngại vi tế có thể phát sinh. Nào, ta sẽ hướng dẫn ông.

Sửng sốt, tôi ngắm nh́n những ǵ xảy ra kế tiếp, và nếu không phải chính mắt tôi trông thấy th́ tôi sẽ không bao giờ tin được. Lama Tseten sống lại. Rồi thầy tôi ngồi một bên ông ta, hướng dẫn thần thức ông đi vào cơi chết. Có nhiều cách làm việc này, và cách mà thầy tôi đang sử dụng lúc đó kết thúc với ba lần thầy thốt lên âm “A”. Khi thầy tôi thốt tiếng “A” đầu tiên, chúng tôi có thể nghe Lama Tseten nói theo khá rơ. Lần thứ hai, giọng ông không rơ nữa, và lần thứ ba th́ hoàn toàn im lặng: Ông đă chết.

Cái chết của Samten đă dạy cho tôi mục đích của sự tu hành, cái chết của Lama Tseten cho tôi thấy rằng những hành giả thuộc tầm cỡ như ông lúc sinh thời vẫn ẩn giấu những khả năng kỳ diệu của ḿnh, và đôi khi chỉ bày tỏ chúng một lần mà thôi, vào lúc chết.

Mặc dù c̣n bé xíu, tôi cũng đă hiểu rằng có một sự khác nhau rơ rệt giữa cái chết của Samten và của Lama Tseten, đó là sự khác nhau giữa cái chết của một thầy tu tử tế có hành tŕ lúc sinh thời, và cái chết của một hành giả có nội chứng tâm linh sâu xa hơn nhiều. Samten chết một cái chết b́nh thường và chết trong đau đớn, nhưng với sự b́nh an của đức tin; c̣n cái chết của Lama Tseten là một sự thi triển thần thông của sự làm chủ tâm ư.

Ngay sau tang lễ Lama Tseten, chúng tôi di chuyển lên tu viện Yamdrok. Như lệ thường, tôi ngủ cạnh thầy tôi trong pḥng ông, và tôi c̣n nhớ đêm ấy tôi đang ngắm những cái bóng của những ngọn đèn thắp bằng bơ nhảy múa trên vách tường. Trong lúc mọi người ngủ say, tôi đă nằm thức và khóc suốt đêm trường.

Điều ấy tôi hiểu rằng cái chết là một sự thật, và cả tôi nữa cũng sẽ phải chết. Khi tôi nằm đấy suy nghĩ về sự chết và về cái chết của chính tôi, qua tất cả nỗi đau buồn đó, trong tôi một ư thức sâu xa dần dần ló dạng, đó là ư thức rằng “ḿnh phải chấp nhận nó”. Và với ư thức ấy, tôi quyết định cống hiến cuộc đời ḿnh cho sự tu tập tâm linh.

Thế là tôi đă khởi sự giáp mặt cái chết và những hàm ẩn của nó khi tuổi c̣n rất nhỏ. Lúc ấy tôi không bào giờ tưởng tượng được rằng ta phải trải qua biết bao nhiêu là cái chết dồn dập, hết cái chết này tới cái chết khác. Cái chết mất nước Tây Tạng sau khi Trung quốc xâm chiếm. Cái chết lưu đày.

Cái chết mất mọi thứ mà gia đ́nh tôi và tôi đă sở hữu. Gia đ́nh tôi, Lakar Tsang, đă từng là một trong những nhà giàu nhất xứ Tây Tạng. Từ thế kỷ thứ mười bốn, gia đ́nh tôi đă nổi tiếng là một trong những thí chủ quan trọng nhất của Phật giáo, bằng cách hỗ trợ sự hoằng dương chánh pháp và giúp các bậc thầy vĩ đại trong những công tŕnh của họ.

Nhưng cái chết tàn phá tôi hơn tất cả th́ chưa xảy tới, đó là cái chết của thầy tôi, Jamyang Khientse. Khi ngài mất, tôi cảm như nền móng cuộc đời tôi đă sụp đổ. Đấy là vào năm 1959, năm mà nước Tây Tạng sụp đổ. Đối với người Tây Tạng, cái chết của thầy tôi là một số ác liệt thứ hai, và đối với xứ Tây Tạng, cái chết ấy đánh dấu sự cáo chung của một thời đại.



CÁI CHẾT TRONG THẾ GIỚI TÂN TIẾN



Khi mới đến Tây phương lần đầu, tôi hoàn toàn kinh ngạc v́ sự trái ngược giữa những thái độ đối với cái chết ở đây với những ǵ tôi đă quen thuộc từ bé. Mặc dù đă đạt đến nhiều thành quả kỹ thuật, xă hội tân tiến phương tây vẫn chưa có hiểu biết thực sự nào về cái chết hoặc những ǵ xảy ra trong khi chết hay sau khi chết.

Tôi được biết rằng người ngày nay được dạy phải phủ nhận cái chết, xem nó không có ư nghĩa ǵ ngoài ra là sự hoàn toàn hủy diệt, tiêu vong. Điều đó có nghĩa rằng phần đông người trên thế giới ngày nay hoặc sống trong sự phủ nhận cái chết hoặc sợ hăi nó. Ngay cả việc nói về cái chết cũng được xem là điềm gở, nhiều người tin rằng nhắc đến cái chết th́ cũng gần như là mong nó xảy đến cho ḿnh.

Nhiều người khác nh́n cái chết với một sự vui vẻ ngây ngô thiếu suy nghĩ, tưởng chừng như v́ một lư do bí ẩn nào đó, cái chết sẽ đến với họ một cách êm thấm, không có ǵ phải lo ngại. Khi nghĩ đến những người này, tôi nhớ lời một bậc thầy của Tây Tạng nói:

- Người ta thường khinh suất về sự chết và cứ nghĩ: “Ôi! Hơi đâu mà lo cho mệt, ai rồi cũng phải chết, chuyện đó tự nhiên quá mà. Tôi th́ khỏi lo.” Nhưng đấy chỉ là lư thuyết, đến khi sắp chết mới biết không phải là chuyện đơn giản.

Trong hai thái độ nói trên về cái chết, th́ một thái độ xem chết như chuyện gở cần né tránh, một xem chết là một điều sẽ xảy đến tự nhiên không cần lo nghĩ. Nhưng cả hai đều hoàn toàn cách xa sự am hiểu ư nghĩa đích thực của cái chết.

Mọi truyền thống tôn giáo lớn nhất của nhân loại, dĩ nhiên trong đó có Ki tô giáo, đều nói rơ cho ta biết rằng chết không phải là hết. Các tôn giáo ấy đều nói đến một viễn ảnh về đời sắp đến, khiến cho cuộc đời hiện tại ta đang sống mang đầy ư nghĩa thiêng liêng.

Nhưng mặc dù có những giáo lư như vậy, phần lớn xă hội tân tiến vẫn là một sa mạc tâm linh ở đấy đa số người tưởng chừng như cuộc đời này là tất cả. V́ thiếu một đức tin chân chính về đời sau, họ sống mà không có một mục đích tối hậu nào cả.

Tôi đă nhận ra rằng thái độ chối bỏ cái chết có những hậu quả khốc hại vượt ngoài phạm vi cá nhân, nó ảnh hưởng tới hoàn thể hành tinh này. V́ tin tưởng chỉ có cuộc đời này mà thôi, không có đời nào khác, cho nên người thời nay không phát triển một tri kiến sâu xa nhắm đến trường kỳ.

Do đó không có ǵ để ngăn cản họ khỏi cướp bóc quả địa cầu v́ những mục tiêu cấp thời, hoặc ngăn họ sống một cách ích kỷ gây tai họa cho tương lai. Chúng ta c̣n cần bao nhiêu lời cảnh cáo khác nữa, giống như lời sau đây của ông Bộ trưởng xứ Brazil về Môi sinh, người chịu trách nhiệm bảo vệ rừng Amazone.

- Xă hội kỹ nghệ tân tiến quả là một thứ tôn giáo cuồng tín. Chúng ta đang phá hoại, làm nhiễm độc, hủy diệt tất cả mầm sống trên hành tinh này. Chúng ta đang kư những giấy nợ mà con cháu chúng ta sẽ không thể trả...

Chúng ta đang làm như thể ḿnh là thế hệ cuối cùng trên hành tinh này. Nếu không có một biến cải tận gốc về tâm, trí và lối nh́n, th́ trái đất sẽ kết thúc như Vénus, cháy thành than và chết.

Sự sợ chết và không biết đến đời sau quả đang cung cấp nhiên liệu cho sự thiêu hủy sinh môi đe dọa tất cả đời sống chúng ta. Vậy có phải là sự thể càng phiền phức hơn nếu người ta không được học tập về chết là ǵ, hoặc làm thế nào để chết?

Nếu người ta không được thấy vài hy vọng vào những ǵ nằm sau cái chết, và bởi thế, biết được những ǵ thực sự nằm sau sự sống? Có ǵ mỉa mai hơn, khi giới trẻ được học đầy đủ mọi môn ngoại trừ môn học duy nhất chứa đựng ch́a khóa mở ra toàn thể ư nghĩa cuộc đời, và có thể là mở đến chính sự sinh tồn của chúng ta?

- Bạn có tin có đời sau không?

Không phải hỏi họ có tin ở một lư thuyết triết học về đời sau không, mà hỏi họ có cảm thức niềm tin ấy một cách sâu xa trong tim họ không. Bậc thầy biết rằng nếu người ta tin có đời sau, th́ toàn bộ nhân sinh quan của họ sẽ khác, họ sẽ ư thức rơ về trách nhiệm cá nhân và về đạo đức.

Những ǵ các bậc thầy phải hoài nghi là, với những người không tin có đời sau, th́ có nguy cơ là họ sẽ kiến tạo một xă hội chỉ nhắm đến những kết quả đoản kỳ, không cần suy nghĩ nhiều về hậu quả hành động. Phải chăng điều này có thể là lư do chính tại sao chúng ta đă tạo nên một thế giới tàn bạo như hiện nay, một thế giới ít có ḷng bi mẫn thực sự?

Đôi khi tôi nghĩ rằng những nước giàu mạnh nhất của thế giới đă phát triển thật giống như những cơi trời mô tả trong kinh. Trong kinh mô tả loài chư thiên sống cực kỳ xa hoa, hưởng đủ mọi lạc thú, không lo lắng ǵ về chiều hướng tâm linh của cuộc đời. Mọi sự xảy ra thật tốt đẹp cho đến khi cái chết đến gần, với những suy tưởng bất ngờ xuất hiện.

Khi ấy những bà vợ và t́nh nhân của họ không dám đến gần họ, chỉ đứng từ xa mà tung hoa tới, với lời cầu nguyện chiếu lệ rằng mong cho họ được sanh làm trời trở lại. Không một hoài niệm nào về những hạnh phúc hay tiện nghi đă qua có thể làm nơi trú ẩn cho họ khỏi cái khổ trước mắt, trái lại càng làm cho nó bi đát hơn. Cứ thế những vị trời bị bỏ rơi cho chết trong cô đơn khốn khổ.

Số phận những vị trời ấy làm tôi nhớ đến cách người ta đối xử với những người lớn tuổi, người bệnh và người sắp chết hiện nay. Xă hội chúng ta bị ám ảnh bởi tuổi trẻ, dục tính, quyền lực, và chúng ta tránh né tuổi già, tránh né sự tàn tạ.

Có phải thật kinh khủng, khi ta bỏ rơi người già v́ cuộc đời hoạt động của họ đă chấm dứt, họ không c̣n ích lợi nữa? Có phải thật ray rứt khi ta tống họ vào nhà dưỡng lăo, ở đấy họ phải chết trong cô độc, bị ruồng bỏ?

Phải chăng cũng đă đến lúc ta phải nh́n lại cách ta đối xử với những người mắc bệnh nan y như ung thư và AID? Tôi biết một số người đă chết v́ bệnh AID, và đă thấy họ thường bị cả đến bạn bè cũng xem họ như những tiện dân. Dấu ấn gắn liền với cơn bệnh đă đưa họ tới chỗ tuyệt vọng, làm cho họ cảm thấy đời ḿnh thật ghê tởm, và dưới mắt người khác th́ đời họ coi như đă chấm dứt.

Ngay cả khi một người ta quen biết hay thương mến sắp chết, nhiều người cũng không biết phải làm sao để giúp đỡ họ; và khi họ chết, không ai khuyến khích ta nên có một ư niệm ǵ về tương lai của người chết, họ sẽ ra sao, làm sao ta có thể tiếp tục giúp đỡ họ. Quả thế, mọi ư nghĩ tương tự đều dễ bị xua đuổi xem là lố bịch, vô nghĩa.

Tất cả điều này cho ta thấy rơ rằng, hơn bao giờ hết, chúng ta đang cần một sự thay đổi căn để trong thái độ đối với cái chết và người sắp chết.

May thay, những thái độ đă bắt đầu thay đổi. Phong trào Tiếp dẫn đường chẳng hạn, đang làm những công việc kỳ diệu là đem lại sự săn sóc thuộc phạm vi thực tiễn và t́nh cảm. Tuy nhiên, sự săn sóc thực tiễn và t́nh cảm chưa đủ; dĩ nhiên người hấp hối cần được săn sóc yêu mến, song họ c̣n cần một cái ǵ sâu sắc hơn nữa.

Họ cần khám phá một ư nghĩa thực thụ cho cái chết và sự sống. Không thế th́ làm sao chúng ta có thể đem lại cho họ niềm an lạc tối hậu? Bởi vậy, giúp đỡ người hấp hối c̣n cần đến khả năng tâm linh, v́ chỉ nhờ có kiến thức về tâm linh mà chúng ta mới có thể thực sự hiểu và đối mặt với cái chết.

Tôi lấy làm phấn chấn tinh thần khi những năm gần đây, toàn bộ vấn đề chết và hấp hối đă được mở ra ở Tây phương nhờ những nhà tiên phong như Elizabeth Kubler-Ross và Raymond Moody. Khi nh́n kỹ cách thức chúng tôi săn sóc người sắp chết, Elizabeth Kubler Ross đă chứng minh rằng, với một t́nh yêu vô điều kiện, và một thái độ có tuệ giác, th́ cơn hấp hối có thể trở thành một kinh nghiệm an lành, chuyển hóa.

Những nghiên cứu khoa học về nhiều phương diện khác nhau của kinh nghiệm cẩn-tử (khi cần chết) ra đời tiếp theo tác phẩm của Raymond Moody đă cho nhân loại thấy một hy vọng mănh liệt sinh động rằng cuộc đời không phải chấm dứt với cái chết, và quả thực c̣n có một đời ở sau cuộc đời.

Rủi thay, có vài người không thực hiểu ư nghĩa trọn vẹn của những khám phá ấy về sự chết. Họ đi đến cực đoan thi vị hóa cái chết, và tôi đă nghe những trường hợp bi đát về những thanh niên đă tự sát bởi v́ họ tin rằng chết là tốt đẹp và là một lối thoát khỏi những đau buồn trong đời họ. Nhưng cả hai thái độ, sợ chết và ưa chết, đều là một kiểu trốn tránh. Chết không đáng buồn cũng không đáng vui, đó chỉ là một sự kiện hiển nhiên của cuộc đời.

Thật đáng buồn, là phần đông chúng ta chỉ bắt đầu thưởng thức được hương vị đời sống khi chúng ta sắp sửa chết. Tôi thường nghĩ về lời nói của bậc đạo sư Padmasambhava (Liên Hoa Sanh):

- Những người tin rằng họ c̣n có nhiều thời gian chỉ chuẩn bị lúc cái chết đến. Khi ấy th́ họ ân hận vô cùng. Nhưng có phải là đă quá muộn hay không?

Về thế giới hiện nay, có lời b́nh luận nào rùng rợn hơn nhận xét rằng đa số người chết mà không chuẩn bị cho cái chết, cũng như họ đă sống mà không chuẩn bị cho đời sống?



CUỘC HÀNH TR̀NH QUA SỐNG CHẾT



Theo sự minh triết của Phật, th́ chúng ta có thể thực sự dành cả đời ḿnh để chuẩn bị cho cái chết. Chúng ta không cần chờ đến khi có người thân đang chết một cách khó nhọc, hoặc khi gặp bạo bệnh bất ngờ, mới miễn cưỡng nh́n lại đời ḿnh.

Chúng ta cũng không buộc phải đi tay không vào lúc chết để gặp cái điều xa lạ ḿnh chưa biết. Ta có thể khởi sự ngay tại đây và bây giờ, t́m ra ư nghĩa cho đời ḿnh. Ta có thể biến mọi lúc thành một cơ hội để cho ta thay đổi và chuẩn bị một cách nhiệt t́nh, minh bạch, và an tâm cho cái chết và vĩnh cửu.

Theo đạo Phật, sống và chết được xem như một toàn thể, ở đây chết chỉ là khởi đầu của một chương mới. Chết như một tấm gương trong đó phản chiếu tất cả ư nghĩa cuộc đời.

Quan điểm ấy là cốt tủy trong những giáo lư thuộc trường phái cổ xưa nhất của Phật giáo Tây Tạng. Nhiều độc giả có lẽ đă nghe nói về quyển Tử thư của Tây Tạng. Điều tôi định làm trong tác phẩm này là giải thích và khai triển cuốn Tử thư ấy, để bao gồm không những cái chết mà cả đến sự sống nữa, bổ túc chi tiết toàn thể nền giáo lư trong đó Tử thư chỉ là một phần.

Trong nền giáo lư vi diệu này, chúng ta t́m thấy toàn bộ sự sống chết được tŕnh bày song hành như một chuỗi dài những thực tại thoáng chốc luôn luôn biến chuyển được biết dưới danh từ Bardos, sự mờ mịt, danh từ này thông thường dùng để mô tả trạng thái trung gian giữa chết và tái sanh, nhưng kỳ thực, Bardo đang xảy ra liên tục suốt cả trong đời sống lẫn trong cái chết, và là những giao thời cao điểm mà nếu biết vận dụng, nó có thể đưa đến giác ngộ giải thoát.

Những Bardos là cơ hội ngàn năm một thuở để giải thoát bởi v́, theo giáo lư, có một vài thời điểm có mănh lực hơn những lúc khác rất nhiều, đầy tiềm năng hơn, vào lúc ấy bất cứ ǵ ta làm đều có một ảnh hưởng quan trọng sâu xa. Tôi nghĩ Bardo giống như lúc mà bạn bước qua lề của một vực thẳm; chẳng hạn như lúc bậc thầy khai thị cho đệ tử thấy bản lai diện mục của y. Nhưng một trong những thời điểm lớn lao nhất, đầy tiềm năng nhất, đó là lúc chết.

Theo Phật giáo Tây Tạng, ta có thể chia toàn thể hiện hữu của ḿnh thành bốn thực tại liên tục nối tiếp nhau:

1- Đời sống,

2- Hấp hối và chết,

3- Sau khi chết, và

4- Tái sinh.

Bốn giai đọan này được gọi là bốn Bardo:

Thứ nhất là Bardo tự nhiên của đời này,

Thứ hai là Bardo đau đớn của sự chết,

Thứ ba là Bardo chiếu sáng của dharmatta hay pháp giới tánh.

     Thứ tư là Bardo nghiệp lực đưa đến tái sinh, trở thành.

V́ giáo lư về Bardo có tính chất lớn lao bao trùm toàn diện như thế, nên sách này đă được cấu trúc khá kỹ lưỡng. Bạn đọc sẽ được hướng dẫn từ giai đoạn này đến giai đoạn khác trong quá tŕnh khai mở tri kiến về cuộc hành tŕnh sinh tử. Cuộc thám hiểm của chúng ta đương nhiên phải khởi sự bằng một sự suy nghiệm chân xác để biết chết nghĩa là ǵ, và nhiều mặt khác nhau của sự thật về vô thường.

Đó là loại tư duy có thể giúp ta tận dụng đời sống này trong khi chúng ta c̣n có thời gian, để bảo đảm khi chết sẽ không c̣n ǵ ân hận hay tự trách đă uổng phí một đời. Như Milarepa bậc thánh thi sĩ nổi tiếng của Tây Tạng đă nói:

- Tôn giáo của tôi là sống và chết làm sao để khỏi ân hận.

Khi quán chiếu sâu xa về thông điệp của vô thường, cái ǵ quả thực đang nằm bên kia vô thường và sự chết, chúng ta đi thẳng tới trong tâm của giáo lư cổ xưa và đầy quyền năng của Tây Tạng, đó là bản chất tinh túy của tâm, hay tự tánh của tâm. Sự trực nhận bản chất của tâm (trực ngộ bản tâm) mà ta có thể gọi là tinh túy sâu xa nhất của chúng ta, cái sự thật mà tất cả chúng ta đều mong t́m đạt, chính là ch́a khóa của sự thấu hiểu về sống chết.

V́ vào lúc chết, điều thực sự xảy ra là, chỉ có cái tâm thường ngày (tức là ư thức do năm giác quan đem lại) và những vọng tưởng của nó chết đi, và trong khoảng hở này, bản chất vô biên của tâm ta, như một bầu trời bao la vô hạn, được hiển lộ. Bản chất tinh túy này của tâm, hay tâm bản nhiên, chính là bối cảnh cho toàn thể sự sống và chết, giống như bầu trời ôm trọn cả vũ trụ.

Giáo lư dạy rơ rằng, nếu chúng ta chỉ biết về tâm như là cái phần phải tan ră khi ta chết (nghĩa là ư thức thuộc năm giác quan) th́ chúng ta sẽ không biết ǵ về những ǵ sẽ tiếp tục, không có một ư niệm nào về một “chiều không gian mới”, nghĩa là về cái tâm bản nhiên, một thực tại sâu xa hơn nhiều.

Bởi thế, điều tối cần với chúng ta là phải làm quen với tâm bản nhiên trong khi ta c̣n sống. Có vậy chúng ta mới sẵn sàng để đón nhận nó khi nó hiển lộ một cách tự nhiên và mănh liệt vào lúc ta chết; có vậy ta mới có thể nhận ra nó “một cách tự nhiên như một đứa trẻ chạy đến nấp vào gối mẹ”, như giáo lư đă nói. Và khi ta an trú trong trạng thái đó, cuối cùng sẽ được giải thoát.

Sự mô tả về tâm bản nhiên đương nhiên dẫn đến một nền giáo dục đầy đủ về thiền định, v́ thiền là cách duy nhất, giúp ta có thể hé thấy, rồi dần dần trực nhận và an trú cái tâm bản nhiên ấy. Kế tiếp sẽ đến phần giải thích bản chất của tiến hóa nhân loại, tái sanh, nghiệp, để bạn đọc có một ư niệm đầy đủ về ư nghĩa cuộc lộ tŕnh của chúng ta qua sinh tử.

Ngang đây có lẽ bạn đọc đă có đủ tri kiến để có thể đi vào trọng tâm của quyển sách này: Một tŕnh bày bao quát về cả bốn Bardos và các giai đoạn khác của sự chết, rút từ nhiều kinh điển.

Giáo lư, lời khuyên thực tiễn, những sự luyện tâm, được tŕnh bày chi tiết để giúp chúng ta và những người khác kinh quá cuộc sống, kinh quá giai đoạn hấp hối, cái chết và giai đoạn sau khi chết. Sách này kết thúc bằng một viễn tượng về giáo lư Bardo có thể giúp ta hiểu thấu bản chất thâm sâu nhất của nhân tâm và vũ trụ như thế nào.

Nhiều sinh viên thường hỏi tôi:

- Làm sao ta biết được những Bardos ấy là ǵ, từ đâu có được giáo lư minh bạch một cách lạ lùng về Bardo, trí kiến khúc chiết về từng giai đoạn một của quá tŕnh chết, về sự chết và tái sinh ấy?

Đối với nhiều độc giả, câu trả lời mới nghe dường như khó hiểu, bởi v́ khái niệm về tâm mà tây phương hiện có, là một khái niệm hết sức hẹp ḥi. Mặc dù những năm gần đây có những sự vượt rào đáng kể, nhất là về khoa học tâm sinh lư và về tâm thức siêu việt, đại đa số các nhà khoa học vẫn tiếp tục xem tâm chỉ là những quá tŕnh vật lư trong năo bộ, điều này đi ngược lại chứng cứ của hàng ngàn năm kinh nghiệm của các nhà thần bí và các thiền giả thuộc mọi truyền thống tôn giáo.

Vậy th́ từ nguồn thẩm quyền nào mà một quyển sách như thế này được viết ra? Một học giả Hoa kỳ đă viết:

- Nội minh của đạo Phật được căn cứ trên một tri kiến bao quát về thực tại, trên một tuệ giác sâu xa về tự ngă và hoàn cảnh xung quanh; nghĩa là, trên sự toàn giác của đức Phật.

Nguồn gốc của giáo lư về Bardo là tâm giác ngộ, cái tâm đă hoàn toàn tỉnh thức của Phật được chứng nghiệm và giảng giải bởi một dọc dài những bậc đạo sư kể từ đức Phật Nguyên ủy trở về sau.

Những khám phá tỉ mỉ và thận trọng có thể bảo là rất khoa học của các ngài, và cách lập thành công thức những khám phá ấy về tâm linh qua nhiều thế kỷ, đă cho ta một bức tranh đầy đủ nhất có thể có về cả sự sống lẫn sự chết.

Chính bức tranh toàn diện này mà, được cảm hứng từ Jamyang Khientse thầy tôi và những bậc thầy vĩ đại khác, lần đầu tiên tôi đang cố truyền đạt lại cho người tây phương.

Trải qua nhiều năm thiền quán, giảng dạy và thực tập, thỉnh vấn những bậc thầy để sáng tỏ vấn đề, tôi đă viết ra quyển Tạng thư về sống chết này, như một đúc kết tinh hoa những lời khuyên tâm huyết của các bậc thầy tôi, để trở thành một Tử thư Tây Tạng và một Sinh thư Tây Tạng mới.

Tôi muốn nó sẽ là một sách dẫn, một sách tham khảo, và một nguồn cảm hứng thiêng liêng. Chỉ nhờ đọc đi đọc lại nhiều lần, tôi xin gợi ư, bạn mới có thể khám phá được nhiều tầng ư nghĩa sâu xa của nó. Bạn sẽ thấy rằng càng sử dụng nó bao nhiêu, bạn càng thấy những hàm ẩn của sách này bấy nhiêu, và càng nhận thức được chiều sâu của sự minh triết đang được truyền đạt đến bạn qua nền giáo lư này.

Giáo lư Bardo chứng minh cho ta thấy rơ những ǵ sẽ xảy đến nếu ta có chuẩn bị cho cái chết và những ǵ sẽ xảy đến nếu chúng ta không chuẩn bị. Thật không thể có chọn lựa nào minh bạch hơn. Nếu bây giờ chúng ta không chịu chấp nhận cái chết trong lúc ta đang sống, th́ chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt suốt cuộc đời, vào lúc chết, và sau khi chết. Hậu quả sẽ là, ta tàn phá cả cuộc đời này và tất cả những đời sắp tới.

Ta sẽ không thể sống cuộc đời ḿnh một cách viên măn, ta sẽ cứ bị giam hăm trong cái phần phải chết của ta. Sự vô minh này sẽ cướp đi của ta cái căn bản của cuộc hành tŕnh tiến đến giác ngộ, và khiến chúng ta măi măi vướng vào cái bẫy của ảo tưởng, vào chu kỳ sống chết không được kiểm soát, cái biển khổ mà Phật tử thường gọi là luân hồi.

Nhưng thông điệp chính của giáo lư Phật là, nếu ta có chuẩn bị, th́ có hy vọng tràn trề ở trong đời sống cũng như vào lúc chết. Giáo lư đó cho ta thấy cái khả tính về một sự giải thoát vô giới hạn, mà ta phải đạt đến ngay bây giờ trong đời này, sự giải thoát làm cho chúng ta có thể chọn lựa cái chết của ḿnh và bởi thế, chọn lựa sự sinh ra của ḿnh.

Đối với một người có chuẩn bị và thực tập, th́ cái chết đến với họ không phải như một chiến bại mà là một chiến thắng, cái giờ phút vinh quang nhất của cuộc đời.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 423 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 6:24pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TẠNG THƯ SỐNG CHẾT


2. VÔ THƯỜNG


Không một nơi nào trên thế giới mà thần chết không thể t́m được chúng ta, dù chúng ta có xoay đầu mọi phía để tránh né. Nếu có một cách nào để tránh được vố đánh của tử thần, th́ tôi cũng không tránh làm ǵ... Nhưng thật điên rồ nếu nghĩ rằng bạn có thể thành công...

Con người đến rồi đi, tung tăng múa nhảy mà không hề đả động đến cái chết. Mọi sự đều êm xuôi tốt đẹp. Nhưng khi cái chết xảy đến cho chính họ, vợ con bè bạn họ, trong lúc bất ngờ không chuẩn bị, th́ ôi chao là họ đấm ngực khóc than, phẫn nộ, tuyệt vọng xiết bao!

Để khởi sự tước đoạt thế thượng phong của thần chết, chúng ta hăy áp dụng một đường lối hoàn toàn ngược lại với thế thường; ta hăy coi cái chết như pha không có ǵ lạ lùng cả, ta hăy thường lui tới với nó, quen thuộc với nó; ta hăy để tâm thường xuyên nghĩ tới cái chết hơn bất cứ cái ǵ khác...

Ta không biết chừng nào th́ cái chết chực sẵn để đón ta: Vậy ta hăy chực sẵn để đón nó ở khắp mọi nơi. Tập chết chính là tập giải thoát tự do. Một người biết cách làm thế nào để chết th́ hết biết làm nô lệ.



MONTAIGNE



Tại sao thật quá khó để tập chết, tập giải thoát tự do? Tại sao ta lại sợ chết đến thế, và hoàn toàn tránh nh́n thẳng vào nó? Tận tâm khảm, đôi lúc ta cũng biết rằng ra không thể măi măi tránh đối mặt với nó. Milarepa nói rằng:

- Cái vật gọi là thây chết mà ta chúa sợ này, hiện đang sống với ta ở đây.

Càng chậm trễ đối diện với cái chết, ta càng xa lạ với nó, và nỗi sợ hăi bất an ám ảnh ta càng thêm lớn. Ta càng cố chạy trốn nỗi sợ hăi ấy, th́ nỗi sợ hăi càng thêm ác liệt.

Chết là một huyền bí lớn rộng, nhưng có hai điều ta có thể nói về nó: Điều tuyệt đối chắc chắn là ta sẽ chết, và ta không chắc khi nào hoặc bằng cách nào ta sẽ chết. Vậy, sự bảo đảm duy nhất mà ta có được, đó là giờ chết bất định, và ta bám lấy nó làm cái cớ để khỏi trực tiếp giáp mặt cái chết. Chúng ta như những đứa trẻ tự bịt mắt ḿnh trong tṛ chơi trốn bắt và tưởng không ai thấy được chúng.

Tại sao ta lại sống trong nỗi kinh sợ cái chết đến thế? Bởi v́ ước muốn theo bản năng của ta là được sống và tiếp tục sống. Chết là một chấm dứt tàn bạo của mọi sự mà ta xem là quen thuộc. Ta cảm thấy khi cái chết đến, ta sẽ rơi vào một cái ǵ hoàn toàn xa lạ, hoặc trở thành một người nào hoàn toàn khác hẳn.

Ta tưởng ḿnh sẽ lạc lơng chơi vơi giữa một khung cảnh lạ lùng kinh khủng. Ta tưởng nó sẽ như lúc ta thức dậy một ḿnh ở nơi xứ lạ, hoàn toàn xao xuyến lo âu v́ không biết ngôn ngữ, không biết đấy là đâu, không tiền, không có giấy thông hành, không bè bạn...

Có lẽ lư do sâu xa nhất tại sao ta sợ chết, là v́ ta không biết ta là ai. Ta tin tưởng vào một cái thể riêng biệt, tách rời, độc nhất vô nhị; song nếu dám xét kỹ nó, ta sẽ thấy cá thể ấy hoàn toàn tùy thuộc vào một tập hợp bất tận gần đủ thứ để phát sinh ra nó: Tên họ ta, “tiểu sử” ta, vợ hay chồng, gia đ́nh, tổ ấm, công việc, bè bạn, phiếu nợ...

Chính trên những chống đỡ mong manh tạm bợ ấy, ta đă nương tựa để có được an ninh bảo đảm. Cho nên khi những thứ ấy đều bị tước khỏi ta, th́ ta c̣n có ư niệm ǵ về cái tôi thực sự là ai không?

Nếu không có những cây chống quen thuộc của ta, th́ ta bị đối diện với chính ḿnh, một con người ta không quen biết, một kẻ lạ gây rối luôn luôn sống chung với ta mà ta không bao giờ thực sự muốn giáp mặt. Có phải đó là lư do ta cố lấp đầy mọi giờ phút bằng hoạt động náo nhiệt, dù tầm thường đáng chán cách mấy cũng xong, miễn là khỏi phải bao giờ bị bỏ lại một ḿnh trong im lặng với kẻ lạ ấy.

Và phải chăng điều ấy chứng tỏ có một cái ǵ thật bi đát trong lối sống của ta? Chúng ta sống dưới một lư lịch được gán cho ḿnh, trong một thế giới ảo hóa không có thực tính ǵ hơn Con Rùa Giả trong truyện Cuộc phiêu lưu của Alice.

Bị mê hoặc bởi ḷng ham thích xây dựng, chúng ta đă xây những ngôi nhà cuộc đời ḿnh ở trên cát. Thế giới này có vẻ chắc ăn một cách kỳ tuyệt cho đến lúc thần chết giật sập ảo tưởng và đuổi ta ra khỏi chỗ nấp. Vậy cái ǵ sẽ xảy đến cho ta nếu ta không có một cái mốc nào của thực tại sâu xa hơn, để bám víu?

Khi chết ta phải để lại tất cả sau lưng ḿnh, nhất là thân xác, cái thân xác ta đă nâng niu yêu quư biết bao, đă nương tựa vào nó một cách mù quáng và cố gắng tối đa để làm cho nó sống. Nhưng tâm ta cũng không khá ǵ hơn thân xác để làm điểm tựa: Thử nh́n vào tâm bạn ít phút mà xem. Bạn sẽ thấy nó như một con rận luôn luôn nhảy qua nhảy lại.

Bạn sẽ thấy những ư tưởng khởi nên một cách vô lối, không mạch lạc ǵ cả. Bị cuốn theo chiều gió bởi sự huyên náo trong mọi lúc, chúng ta chính là nạn nhân của sự bốc đồng của tâm ta. Nếu đây là cái trạng thái duy nhất của tâm mà chúng ta quen thuộc, th́ sự nương tựa vào cái tâm ấy trong lúc chết quả là một canh bạc quái gở.



ẢO TƯỞNG LỚN



Sự ra đời của một người cũng là ra đời nỗi khổ của y. Càng già con người càng ngớ ngẩn, v́ nỗi lo sợ cái chết không thể tránh càng thêm mănh liệt. Thực cay đắng làm sao! Y sống để đuổi theo những ǵ luôn luôn ở ngoài tầm tay. Ḷng khao khát sống c̣n trong tương lai làm cho y không thể sống trong hiện tại.

TRANG TỬ

Sau khi thầy tôi chết, tôi được gần gũi Dudjom Rinpoche, một trong những thiền sư, hành giả mật giáo và Du già sư vĩ đại của thời cận đại. Một ngày khi thầy đang lái xe hơi xuyên nước Pháp cùng với vợ thầy, ngắm cảnh miền quê, họ đi ngang một khu nghĩa trang dài vừa mới sơn quét và trang trí hoa tươi. Bà vợ thầy nói:

- Rinpoche, ngài hăy xem mọi thứ ở Tây phương thật ngăn nắp sạch sẽ đến thế. Ngay tại những nơi người ta để thây chết cũng thật sạch không t́ vết. C̣n ở Đông phương ḿnh, ngay nhà người ta ở cũng không đâu sạch bằng ở đây.

Thầy nói:

- Ồ! Đúng thế; đây quả thực là một xứ văn minh. Họ có những ngôi nhà đẹp đến thế cho những xác chết. Nhưng bà không để ư sao? Họ cũng có những ngôi nhà tuyệt diệu cho những xác sống nữa chứ.

Mỗi khi nhớ lại câu chuyện ấy, tôi không khỏi nghĩ rằng cuộc đời thực trống rỗng vô vị làm sao, khi nó được căn cứ vào một niềm tin sai lạc về trường cửu và tương tục. Khi sống kiểu ấy th́ chúng ta đă vô t́nh tự biến thành những cái xác sống, như thầy Dudjom Rinpoche đă nói.

Nhưng đấy là kiểu sống của phần đông chúng ta; chúng ta sống theo một kế hoạch đă định. Nhỏ th́ được giáo dục. Lớn lên kiếm việc làm, rồi gặp một người nào đó, rồi kết hôn, rồi có con cái. Chúng ta mua một cái nhà, rán cho làm ăn trúng mánh, mơ ước có một ngôi nhà ở miền quê hoặc thêm được một chiếc xe hơn.

Vào dịp nghỉ th́ đi du lịch xa cùng với bạn bè. Chúng ta dự định kế hoạch cho lúc về hưu. Những vấn đề trọng đại nhất mà một vài người trong chúng ta từng gặp phải chỉ là: Không biết nên đi chơi đâu vào kỳ nghĩ tới, hoặc nên mời ai vào dịp lễ Giáng sinh. Cuộc đời ta thật đơn điệu, tầm thường, lặp đi lặp lại; ta phí cả một đời để theo đuổi những chuyện nhỏ nhen, bởi v́ dường như ta không biết có cái ǵ hơn thế.

Nhịp điệu đời sống chúng ta rộn ràng tới nỗi ta không có th́ giờ để nghĩ đến cái chết. Ta ém nhẹm những nỗi sợ hăi thầm kín của ta về vô thường bằng cách bao vây quanh ḿnh thêm nhiều đồ đạc, của cải, tiện nghi, chỉ để tự thấy ḿnh biến thành tên nô lệ cho chúng. Mọi thời giờ và năng lực của ta đều kiệt quệ chỉ v́ phải bảo tŕ những thứ ấy.

Chẳng bao lâu mục đích duy nhất của ta trên đời hóa ra chỉ là giữ cho mọi thứ ta sở hữu càng được bảo đảm an ninh càng tốt. Khi có biến chuyển ǵ xảy đến, ta t́m cách đối phó mau lẹ nhất, một giải pháp hiệu nghiệm tạm thời. Cứ thế đời ta tiếp tục trôi giạt cho đến khi một cơn trọng bệnh hay tai nạn nào đó lay ta ra khỏi cơn mê.

Cũng không hẳn là ta dành nhiều th́ giờ hay suy nghĩ cho cuộc đời này. Hăy nghĩ đến những người đă làm việc bao nhiêu năm rồi phải hồi hưu, để thấy không biết ḿnh phải làm ǵ cả, v́ họ càng ngày càng già và tiến gần cái chết. Mặc dù ta luôn luôn hô hào phải thực tế, thực tế ở Tây phương có nghĩa là thiển cận một cách vô minh và thường ích kỷ.

Sự tập trung thiển cận của chúng ta vào đời này và chỉ đời này mà thôi, chính là một ảo tưởng lớn, nguồn gốc của nền duy vật đen tối và phá hoại của thế giới ngày nay. Không ai bàn tới sự chết và đời sau, v́ người ta có thói tin rằng chuyện ấy chỉ làm đ́nh trệ cái gọi là “sự tiến bộ” của ta trên thế giới.

Nhưng nếu ước muốn sâu xa nhất của chúng ta quả là sống và tiếp tục sống, th́ tại sao ta lại cả quyết một cách mù quáng rằng chết là hết chứ? Ít nhất cũng nên thử thám hiểm xem có thể có đời sau hay không đă chứ? Nếu quả thực chúng ta có óc thực nghiệm như ta tuyên bố, th́ tại sao ta không khởi sự tự đặt câu hỏi cho ḿnh một cách nghiêm chỉnh:

“Tương lai thực sự của ta nằm ở đâu?” Chung quy, chẳng có mấy ai sống lâu trên trăm tuổi. Và sau thời gian đó là cả một thời gian vô tận trải dài, không được giải thích...



SỰ LƯỜI BIẾNG NĂNG ĐỘNG



Có một câu chuyện cổ Tây Tạng mà tôi rất thích, gọi là “Cha của Nổi-Tiếng-Như-Mặt-Trăng”:

Một người nghèo kiết xác sau khi làm lụng khá vất vả đă tích trữ được một bao lúa đầy. Anh ta lấy làm hănh diện, treo bao lúa trên xà nhà để đề pḥng chuột và kẻ trộm, rồi để chắc ăn hơn nữa, anh nằm ngay phía dưới. Khi nằm đấy anh bắt đầu suy nghĩ lan man:

- Nếu đem bán lẻ số lúa này, ḿnh sẽ lời to, lấy tiền ấy mua thêm và lại bán, cứ mua đi bán lại như thế chẳng bao lâu ta sẽ giàu, sẽ thành một người quan trọng trong làng xóm. Con gái theo nườm nượp. Ta sẽ cưới một cô thật đẹp, và chẳng bao lâu ta sẽ có một đứa con... Có lẽ là một thằng con trai. Ta sẽ đặt tên nó là ǵ nhỉ?

Nh́n quanh nhà, tia mắt anh gặp phải khung cửa sổ qua đó anh thấy ánh trăng đang lên. Anh nghĩ:

- Thật là điềm tốt! Ta đă t́m được một cái tên hay. Ta sẽ gọi thằng con đó là Nổi-Tiếng-Như-Mặt-Trăng...

Trong khi anh ta đang nghĩ vơ vẩn th́ một con chuột đă trèo lên bao gạo, gặm đứt sợi dây. Vừa khi anh thốt mấy tiếng đặt tên đứa con, th́ bao gạo trên xà nhà rớt trúng làm anh chết tức khắc. Dĩ nhiên là đứa con ấy không bao giờ được sinh ra.

Biết bao nhiêu người trong chúng ta, giống như anh chàng nọ, đă bị cuốn trôi bởi cái mà tôi đă gọi là “sự lười biếng năng động”? Dĩ nhiên có nhiều kiểu lười biếng khác nhau: Đông phương và Tây phương. Cái kiểu ở phương Đông là như kiểu thực hành thuần thục ở Ấn: Suốt ngày ngồi giữa trời không làm ǵ cả.

Tránh né mọi công việc hay hoạt động hữu ích, uống trà hết tách này tới tách khác, nghe nhạc vang lên từ một chiếc máy thu thanh và tán gẫu với bạn bè. Kiểu lười Tây phương th́ khác hẳn: Độn đầy cuộc sống bằng những hoạt động hấp dẫn, sao cho không c̣n một chút th́ giờ nào để đối phó với những vấn đề then chốt.

Nếu nh́n vào cuộc đời ḿnh ta sẽ thấy biết bao nhiêu công việc không quan trọng, những cái gọi là “trách nhiệm” cứ dồn dập độn đầy cuộc đời ta. Ta tự nhủ là muốn dùng th́ giờ vào những chuyện quan trọng trong đời, nhưng không bao giờ có th́ giờ ấy cả. Thức dậy buổi sáng là đă có bao nhiêu việc:

Mở cửa sổ, làm giường, tắm, chà răng, cho chó mèo ăn, giặt đồ, khám phá đă hết cà phê hoặc đường, đi mua, làm thức ăn sáng cả một dọc dài bất tận. Rồi lại có áo quần phải lựa ra mà ủi và xếp. Rồi c̣n tóc tai, trang điểm nữa th́ sao? Không c̣n biết sao hơn, chúng ta nh́n ngày tháng đầy những cú điện thoại và chương tŕnh, và bao nhiêu trách nhiệm hay ta nên gọi là “vô trách nhiệm”?

Cuộc đời ta dường như xâm chiếm lấy ta, như có một tối hậu thư oái ăm của nó, lôi tuốt chúng ta đi, để cuối cùng ta cảm thấy ḿnh không có quyền kiểm soát nó nữa. Dĩ nhiên thỉnh thoảng ta cũng cảm thấy khó chịu về điều này, ta chiêm bao ác mộng và thức dậy mồ hôi ướt đẫm, tự hỏi: “Ta đă làm chi đời ta?” Nhưng nỗi kinh hoàng của ta chỉ kéo dài tới bữa ăn sáng, rồi đâu vẫn hoàn đấy.

Tôi nghĩ đến lời một bậc thánh Ấn Độ, Ramakrishna, đă nói với môn đệ:

- Nếu các anh chỉ dùng một phần mười thời gian anh dành cho những môn giải trí như săn đuổi phụ nữ và làm tiền, để mà tu luyện, th́ chỉ trong ṿng vài năm có thể giác ngộ.

Có một bậc thầy Tây Tạng sống vào khoảng đầu thế kỷ, một Leonardo da Vinci của Hy Mă Lạp Sơn, tên là Mipham. Tương truyền ông ta đă sáng chế một cái đồng hồ treo, một khẩu đại bác, và một chiếc phi cơ. Nhưng mỗi khi làm xong một thứ, ông lại phá hủy ngay, bảo rằng nó chỉ tổ gây thêm tṛ giải trí.

Tạng ngữ chỉ thân xác là lu, có nghĩa “một cái ǵ ta để lại sau lưng” như hành lư. Mỗi khi nói lu, ta nhớ rằng ta chỉ là những lữ khách tạm thời cư trú trong đời này và thân xác này. Bởi thế ở Tây Tạng người ta không xao lăng th́ giờ vào việc làm cho hoàn cảnh sống thêm tiện nghi. Người Tây Tạng cảm thấy hài ḷng nếu có đủ ăn, mặc và một mái nhà trên đầu.

Nếu cứ tiếp tục như chúng ta nghĩa là cố cải thiện hoàn cảnh sống, th́ dần dần công việc ấy tự nó trở thành mục đích chính, và đó là một xao lăng vô lối. Có người nào tâm trí tỉnh táo mà lại cẩn thận trang hoàng cái pḥng khách sạn của ḿnh mỗi khi thuê mướn không? Tôi thích lời khuyên này của Patrul Rinpoche:

Hăy nhớ noi gương chị ḅ cái già

Nàng hài ḷng ngủ trong vựa lúa.

Bạn phải ăn, ngủ và bài tiết.

Đó là điều không thể tránh.

Ngoài ra, không việc ǵ đến bạn.

Đôi khi tôi có ư nghĩ rằng thành tựu vĩ đại nhất của nền văn hóa tân tiến chính là nó bán Samsara (sinh tử, luân hồi) một cách xuất sắc và có những lối giải trí trống rỗng. Xă hội ngày nay đối với tôi dường như là cuộc lễ mừng tất cả mọi thứ ǵ dẫn ta đi xa sự thật, làm cho người ta khó mà sống v́ chân lư, và nó lại c̣n không muốn cho người ta tin rằng có chân lư hiện hữu.

Và tất cả điều này thoát thai từ một nền văn minh tự cho là tôn thờ sự sống, nhưng kỳ thực đă tước hết ư nghĩa đích thực của cuộc đời; một nền văn minh luôn luôn nói làm cho người ta hạnh phúc, mà kỳ thực đă làm bế tắc con đường dẫn đến suối nguồn của hạnh phúc chân thực.

Samsara tân tiến được tổ chức tinh vi, thông bác, nó tấn công ta từ mọi góc cạnh bằng tuyên truyền, và gây một môi trường nghiện ngập khó gỡ xung quanh ta. Càng cố thoát, ta dường như càng vướng sâu vào cạm bẫy tinh vi nó đặt ra cho chúng ta. Bậc thầy Jikmè Lingpa vào thế kỷ 18 nói:

- Chỉ v́ bị cách tưởng sai biệt làm cho mê hoặc mà hữu t́nh lang thang bất tận, trong ṿng lẩn quẩn của sinh tử.

Bị ám bởi những hy vọng sai lầm, mộng mị, tham vọng, chúng ta như người đang ḅ qua một sa mạc bất tận, đang khát cháy cổ. Và cái duy nhất mà thế giới tân tiến này đưa ra cho ta uống là một cốc nước muối, chỉ cốt để làm cho ta thêm khát.



ĐỐI MẶT CÁI CHẾT



Khi nhận thức điều ấy, có phải là ta nên nghe lời Gyalseé Rinpoche khi ngài nói:

- Dự tính tương lai cũng giống như đi câu trong một hố sâu không có nước;

Không bao giờ có ǵ xảy ra đúng như bạn muốn, vậy hăy bỏ hết mọi kế hoạch tham vọng của ngươi đi.

Khi bạn phải tính toán một việc ǵ.

Th́ hăy xem nó không chắc như cái giờ chết mà bạn chưa biết chắc.

Với người Tây Tạng, lễ hội chính trong một năm là Năm Mới, như lễ Giáng sinh, Phục sinh, Tạ ơn, và sinh nhật của bạn, tất cả dồn vào một dịp lễ. Patrul Rinpoché là một bậc thầy vĩ đại mà cuộc đời đầy những biến cố lạ lùng có thể làm sống động nền giáo lư.

Thay v́ ăn tết và chúc mừng năm mới như mọi người, ngài lại khóc. Khi hỏi tại sao, ngài đáp rằng một năm nữa lại trôi qua, ai cũng tiến gần cái chết thêm một chút, nhưng nhiều người vẫn chưa chuẩn bị.

Hăy nghĩ đến cái ǵ có thể xảy đến cho tất cả chúng ta một ngày nào đó. Chúng ta đang tản bộ trên đường, đang suy nghĩ những chuyện làm ta phấn chấn, đang trầm tư về những vấn đề quan trọng, hoặc chỉ đang nghe máy thu thanh bỏ túi. Bỗng th́nh ĺnh một chiếc xe hơi vút qua, suưt cán chết chúng ta.

Hăy bật truyền h́nh lên hay nh́n qua một tờ nhật báo: bạn sẽ thấy chết ở khắp mọi nơi. Những nạn nhân của những tai nạn phi cơ hoặc xe hơi ấy có bao giờ ngờ họ sẽ chết không? Họ xem sống là chuyện đương nhiên, cũng như chúng ta.

Biết bao lần ta đă nghe những câu chuyện về người quen, bạn bè, chết bất thần, đột ngột? Ta không cần phải bệnh rồi mới chết, cơ thể ta có thể th́nh ĺnh suy sụp, hỏng máy, hệt như chiếc xe hơi của ta. Hôm nay ta có thể đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngă bệnh và chết ngay hôm sau. Milarepa có khúc hát:

Khi đang khỏe mạnh

Bạn khồng hề nghĩ tới ốm đau

Nhưng bệnh tật th́nh ĺnh giáng xuống

Nhanh như một tia chớp.

Khi bận những việc thế gian

Bạn không bao giờ nghĩ đến cái chết gần kề;

Nó đến nhanh như sấm sét

Bổ xuống đầu bạn.

Ta cần thỉnh thoảng tự dạy ḿnh mà hỏi: “Nếu đêm nay ta chết th́ thế nào?” Ta không biết ta có thức dậy sáng hôm sau không, thức dậy ở đâu. Nếu bạn thở ra mà không thể hít vào lại, thế là bạn đă chết. Đơn giản là vậy. Người Tây Tạng có câu: “Ngày mai hay đời sau, cái ǵ tới trước, ta không thể biết”.

Một vài bậc thầy nổi tiếng của Tây Tạng ban đêm mỗi khi đi ngủ, thường rửa ly tách úp bên cạnh giường. Họ không bao giờ chắc chắn ḿnh có thức dậy để cần tới chúng sáng hôm sau. Họ tắt hết lửa, không buồn lưu lại đóm mồi cho sáng hôm sau. Từng sát na họ sống trong ư niệm có thể cái chết đang gần kề.

Cạnh am cốc của Jikmé Lingpa có một cái ao mà ông phải khó nhọc lắm mới vượt qua. Một số đệ tử xin xây một cái cầu, song ông bảo:

Xây làm ǵ? Ai biết được ta c̣n sống để ngủ tại đây đêm mai?

Nhiều bậc thầy cố cảnh tỉnh cho ta thấy rơ tính mong manh của đời sống bằng những h́nh ảnh mạnh hơn: Họ bảo mỗi người trong chúng ta hăy nghĩ như ḿnh là một tên tù tội đang đi đến nơi hành quyết, như một con cá đang vùng vẫy trong lưới, như một con ḅ đang đợi vào nhà tế sinh.

Thân thể nằm dài trên giường lần cuối

Miệng th́ thào những lời trăn trối

Tâm ngắm nh́n kư ức lần cuối diễn ra:

Bi kịch ấy khi nào sẽ đến với ngươi?

Điều quan trọng là ta phải tư duy một cách thản nhiên và thường xuyên rằng cái chết thực có, và nó sẽ tới mà không báo trước. Đừng để như con bồ câu trong ngạn ngữ Tây Tạng, suốt đêm lăng xăng soạn chỗ ngủ cho đến sáng, và nó không c̣n th́ giờ để ngủ nữa. Như Drakpa Gyaltsen, một bậc thầy hiện đại, đă nói:

- Loài người trải qua suốt cả đời để chuẩn bị hết việc này tới việc khác chỉ để th́nh ĺnh bắt gặp đời sau mà họ hoàn toàn không chuẩn bị.



XEM TRỌNG CUỘC ĐỜI



Có lẽ chỉ có những người hiểu được tính mong manh của đời sống mới biết được sự sống quư báu ngần nào. Một lần, khi tôi dự hội thảo ở Anh quốc, phóng viên đài BBC phỏng vấn những người tham dự. Đồng thời họ cũng nói chuyện với một người phụ nữ sắp chết.

Bà ta vô cùng hăi sợ, v́ bà chưa từng nghĩ cái chết là thực có. Bây giờ bà đă biết. Bà chỉ có một thông điệp duy nhất cho những người chết sau bà, đó là: Hăy xem trọng sự sống và cái chết.

Xem trọng cuộc đời không có nghĩa phải bỏ cả đời mà tĩnh tọa tư duy như thể là ta đang ở trên Núi Tuyết hay như vào những ngày xưa tại Tây Tạng. Trong thế giới tân tiến, ta phải làm việc và kiếm sống, nhưng không nên vướng vào kiểu sống “chụp giật” không nh́n thấy một ư nghĩa sâu xa nào của cuộc đời.

Công việc của ta là t́m một thế quân b́nh, trung đạo, không quá dấn ḿnh vào những hoạt động và bận bịu ngoại vi, mà càng ngày càng làm cho cuộc sống của ta trở thành đơn giản. Ch́a khóa để t́m ra một thể quân b́nh hạnh phúc cho đời sống hiện nay là tính giản dị.

Đó là ư nghĩa đích thực của giới luật ở trong đạo Phật. Tạng ngữ gọi giới luật là Tsul trim. Tsul có nghĩa là thích hợp, chính xác, và trim có nghĩa là quy luật hay cách thức, con đường. Vậy giới luật là làm cái ǵ thích hợp hay chính xác; ở trong một thời đại quá phức tạp như hiện nay, th́ đó chính là sống giản dị.

Chính từ đây mà ta có được sự an b́nh trong tâm. Ta sẽ có nhiều th́ giờ hơn để theo đuổi sự nghiệp tâm linh và những hiểu biết có thể giúp chúng ta giáp mặt cái chết.

Buồn thay, đây là điều mà trong chúng ta ít có ai làm. Có lẽ bây giờ ta nên tự đặt cho ḿnh câu hỏi:

- Thực sự ta đă làm được cái ǵ trong đời ta?

Tôi muốn nói là, ta đă thực sự hiểu được bao nhiêu về sống chết. Điều làm tôi lên tinh thần là sự xuất hiện những báo cáo về các nghiên cứu kinh nghiệm cận tử, như những quyển sách của bạn tôi, anh Kenneth Ring và những người khác.

Một số đáng kể những người sống sót qua tử nạn hoặc qua kinh nghiệm lúc suưt chết đều mô tả họ có một toàn cảnh cuộc đời họ diễn ra trong tâm trí vào lúc đó. Một cách sống động và chính xác, họ sống lại những biến cố quan trọng của đời họ. Đôi khi họ c̣n thấy sống lại những hậu quả hành động của họ đối với kẻ khác, và kinh quá những cảm xúc mà hành động họ đă gây nên. Một người đàn ông kể cho Kenneth Ring nghe:

- Tôi nhận ra rằng có những việc mà mỗi người được đưa xuống trần gian để học hỏi và thực chứng. Chẳng hạn để san sẻ thêm t́nh yêu thương, lân mẫn đối với nhau hơn. Để khám phá rằng điều quan trọng nhất là mối tương giao giữa người với người và ḷng nhân ái chứ không phải là những thứ duy vật. Để thấy rằng mỗi một việc làm của bạn trong đời này đều được ghi lại, và mặc dù lúc đó bạn không nghĩ tới, nó vẫn xuất hiện lại về sau.

Đôi khi cuộn phim về cuộc đời xảy ra kèm theo một “thực thể ánh sáng” quang vinh. Điều nổi bật trong nhiều nhân chứng khác nhau là, sự gặp gỡ “thực thể” ấy chứng tỏ rằng mục đích thực sự duy nhất trong đời là “tập sống yêu thương kẻ khác và có được tri kiến”.

Một người kể với Raymond Moody:

- Khi ánh sáng xuất hiện, điều đầu tiên ngài nói với tôi là: “Con đă làm ǵ để chứng tỏ với ta là con đă sống trọn vẹn đời con?” hoặc một điều ǵ tương tự như thế... Tựu trung suốt buổi, ngài cứ nhấn mạnh về tầm quan trọng của yêu thương... Ngài dường như cũng rất quan tâm đến những việc liên hệ tới hiểu biết nữa...

Một người khác bảo với Kenneth Ring:

- Tôi được hỏi, mà không nghe thành lời nó như một giao cảm tâm linh trực tiếp rằng: “Tôi đă làm ǵ để đem lại lợi lạc hay tiến hóa cho loài người?”

Những hành động của ta lúc sống như thế nào, th́ khi chết ta như thế ấy. Và tất cả mọi sự, tuyệt đối tất cả, đều đáng kể.



MÂY MÙA THU



Ở tu viện của ngài tại Népal, vị đệ tử già nhất hiện c̣n sống của thầy tôi là Dilgo Khientse Rinpoche, đă giảng dạy đến ngày cuối một khóa tu học. Ngài là một trong những bậc thầy nổi tiếng hiện nay, đă từng dạy cả đến đức Dalai Lama và nhiều bậc thầy khác, những người xem ngài như một kho tàng bất tận của trí tuệ và từ bi.

Tất cả chúng tôi đều ngước lên mà chiêm ngưỡng con người vĩ đại như tuyết ấy, một bậc học giả, thi sĩ, và hành giả mật tông đă trải qua hai mươi lăm năm trong đời để nhập thất ẩn cư. Ngài dừng lại và đưa mắt nh́n xa xăm, dạy rằng:

- Tôi nay đă già bảy mươi tám tuổi, đă trông thấy quá nhiều việc trong đời. Bao nhiêu người trẻ tuổi đă chết, bao nhiêu người bằng tuổi đă chết, bao nhiêu người già đă chết. Nhiều người ở trên cao đă tụt xuống thấp. Nhiều người ở dưới thấp đă vượt lên cao. Nhiều xứ sở đă biến đổi.

Đă có bao nhiêu biến động đau thương, bao nhiêu chiến tranh, tật dịch, bao nhiêu tàn phá trên khắp thế giới. Tuy thế tất cả những biến chuyển kia không thực ǵ hơn một giấc chiêm bao. Khi ta nh́n thật sâu xa, ta nhận ra rằng không có một cái ǵ trường cửu miên viễn, không một cái ǵ, cả đến sợi lông măng trên thân thể ta.

Và đây không là một lư thuyết, mà là điều bạn có thể thực sự chứng nghiệm, thấy biết bằng chính mắt bạn. Tôi thường tự hỏi: “Tại sao mọi sự đều thay đổi?” Và chỉ một câu trả lời duy nhất trở lại với tôi: “Đấy là cuộc đời.” Không một thứ ǵ, tuyệt đối không thứ ǵ, có một tính chất trường cửu nào cả. Đức Phật dạy:

Hiện hữu của chúng ta mong manh như mây mùa thu

Cảnh sống chết như màn nhảy múa.

Đời người như chớp loáng qua bầu trời

Vút nhanh như thác trên núi cao đổ xuống.

Một trong những lư do chính khiến ta lấy làm khó khăn lo sợ khi đối mặt cái chết là v́ ta tảng lờ sự thật về vô thường. Chúng ta cứ khăng khăng muốn mọi sự tiếp tục như cũ, đến nỗi ta tưởng rằng chúng vẫn luôn như vậy. Nhưng đấy chỉ là ảo tưởng.

Chúng ta cũng thường thấy rằng ḷng tin không ăn nhập ǵ với thực tại. Ảo tưởng ấy, cùng với những thông tin sai lạc, ư tưởng, giả thuyết, là một nền tảng bấp bênh trên đó ta xây dựng cuộc đời ta. Dù sự thật có xen vào chứng minh ngược lại, chúng ta vẫn cố bám giữ lấy ảo tưởng của ta.

Trong tâm trí ta, sự biến chuyển luôn đồng nghĩa với mất mát, đau khổ. Và khi nó xảy tới, ta cố tự “gây mê” cho ḿnh càng nhiều càng hay. Ta cứ nghĩ một cách ươn ngạnh phi lư rằng sự trường cửu đem lại an ninh, c̣n vô thường th́ không. Nhưng kỳ thực vô thường cũng như một vài người ta gặp trong đời, lúc đầu khó chịu nhưng khi đă quen biết lại rất thân thiện, không đáng bực ḿnh như ta tưởng.

Hăy suy nghĩ về điều này: Sự thực chứng về vô thường, ngược đời thay, lại là cái duy nhất ta có thể nắm chắc, có lẽ đấy là sở hữu bền bỉ duy nhất của ta. Nó giống như bầu trời hay trái đất. Bất kể vạn vật chung quanh ta đều có thể sụp đổ, đổi thay bao nhiêu, trời đất vẫn tồn tại măi.

Chẳng hạn chúng ta có trải qua một cơn khủng hoảng đau đớn ê chề, toàn bộ cuộc đời ta dường như tan ră thành mảnh vụn... Chẳng hạn người bạn đời của ta đột ngột bỏ ta không báo trước. Nhưng trái đất vẫn c̣n đó, bầu trời c̣n đây. Dĩ nhiên, thỉnh thoảng ngay cả trái đất cũng chấn động, chỉ để mà nhắc cho ta nhớ đừng có chắc ăn bất cứ một việc ǵ...

Ngay cả đức Phật cũng chết. Cái chết của ngài là một cách giáo hóa, để gây chấn động nơi kẻ ngây ngô, biếng nhác, tự măn, để đánh thức cho ta thấy sự thật là mọi sự đều vô thường, và cái chết là một sự kiện hiển nhiên của cuộc đời. Khi gần chết, đức Phật đă dạy:

- “Trong các dấu chân, dấu chân voi là lớn hơn cả. Trong các phép quán niệm xứ, th́ niệm vô thường là hơn cả.”
(Kinh Đại bát Niềt Bàn)

Mỗi khi chúng ta đánh mất mục tiêu của ḿnh, rơi vào lười biếng giải đăi, th́ sự quán niệm vô thường và chết lay ta trở về sự thật:

Cái ǵ đă sinh ra sẽ chết

Cái ǵ đă tụ, sẽ tan

Cái ǵ có tích lũy sẽ cạn kiệt

Cái ǵ đă xây dựng sẽ sụp đổ

Và cái ǵ lên cao sẽ xuống thấp.

Toàn thể vũ trụ, theo các nhà khoa học hiện nay, chỉ là sự chuyển biến, hoạt động, tiến tŕnh, một tổng thể biến thiên làm nền tảng cho mọi sự vật.

Mỗi tác động hỗ tương trong một hạt nhân nguyên tử gồm có sự hủy diệt và tái tạo những hạt nguyên tử (subatomic particles). Thế giới bên trong một nguyên tử là cuộc luân vũ liên tục của sinh và diệt, vật chất chuyển thành năng lượng và năng lượng thành vật chất. Những h́nh dạng phù du thoạt hiện thoạt mất tạo thành một thực thể bất tuyệt măi măi được tái tạo.

Đời chúng ta là ǵ nếu không phải là cuộc luân vũ của những h́nh dạng phù du ấy? Há chẳng phải mọi sự luôn luôn thay đổi: Lá trên cành cây trong công viên, ánh sáng trong pḥng bạn lúc đang xem sách này, những mùa, khí hậu, thời gian trong ngày, người qua lại trên đường. C̣n bạn th́ thế nào:

Không phải mọi sự ta làm trong quá khứ bây giờ chỉ như một giấc mộng đó sao? Những bạn bè thuở bé, những chỗ ngày nhỏ ta thường lui tới, những quan niệm, ư tưởng mà có một thời ta đă say mê ấp ủ: Ta đă bỏ lại tất cả sau lưng. Bây giờ, trong giây phút này, bạn thấy sự đọc những trang sách này dường như rất thực. Nhưng rồi nó cũng chỉ c̣n là một kư ức.

Những tế bào trong cơ thể ta đang chết, những tế bào năo ta đang tàn tạ, cả đến sự biểu hiện trên gương mặt ta cũng luôn thay đổi tùy theo tâm trạng ta. Cái mà ta gọi là tính t́nh của ta chỉ là một ḍng tâm thức, không ǵ khác.

Hôm nay ta cảm thấy thoải mái v́ mọi sự tiến triển tốt đẹp, ngày mai ta cảm thấy ngược lại. Vậy th́ cái cảm giác thoải mái đi đâu rồi? Những ảnh hưởng mới xâm chiếm lấy ta, mỗi khi hoàn cảnh thay đổi: Chúng ta đă vô thường, hoàn cảnh cũng vô thường, không một thứ ǵ chắc chắn bền bỉ ở bất cứ đâu, mà ta có thể chỉ ra.

Không ǵ khó tiên liệu hơn là những ư tưởng và t́nh cảm của ta: Bạn có bao giờ biết được bạn sẽ nghĩ ǵ, cảm thấy thế nào trong thời gian sắp tới không? Tâm ta quả thực trống rỗng, vô thường, phù du như một giấc mộng. Hăy nh́n một ư tưởng: Nó đến, ở và đi. Quá khứ đă qua, tương lai chưa tới, và ngay cái ư nghĩ hiện tại khi ta cảm nhận nó, nó đă thành dĩ văng.

- Điều duy nhất ta thực sự có được là cái bây giờ, là hiện tại.

Có đôi lúc, sau khi tôi giảng dạy những điều này, một người tiến lên bảo:

- Tất cả chuyện đó rơ ràng quá rồi. Tôi đă biết. Hăy giảng cho tôi nghe một điều ǵ mới lạ.

Tôi bảo họ:

- Bạn có bao giờ thực sự hiểu, thân chứng sự thật vô thường hay chưa? Bạn đă thâm nhập nó trong từng ư tưởng, hơi thở và động tác, đến nỗi cuộc đời bạn nhờ vậy mà được đổi mới hay chưa?

Hăy tự hỏi bạn hai câu này: Tôi có nhớ vào mọi lúc, rằng tôi đang chết hay không, và mọi người mọi vật khác cũng đang chết, bởi thế đối xử với mọi chúng sinh với ḷng bi mẫn trong mọi lúc?

Sự hiểu biết về chết và vô thường nơi tôi có thực đă trở nên bén nhạy, cấp thiết đến độ tôi đang dành mọi giây phút c̣n lại của đời tôi để theo đuổi sự nghiệp giác ngộ? Nếu bạn có thể trả lời “Có” cho cả hai câu hỏi ấy, th́ bạn mới thực sự đă hiểu ư vô thường.







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 424 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 6:32pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TẠNG THƯ SỐNG CHẾT


3. TƯ DUY VÀ THAY ĐỔI


Hồi c̣n bé ở Tây Tạng, tôi có nghe câu chuyện về bà Krisha Gotami, một thiếu phụ có cái diễm phúc được sống vào thời Phật. Đứa con đầu ḷng của nàng mới chừng một tuổi bỗng nhiên ngă bệnh và chết. Quá đau khổ, nàng ôm xác con đi lang thang khắp các nẻo đường, gặp ai cũng xin cứu cho nó sống lại.

Một số người tảng lờ, vài người cười nhạo, nghĩ nàng đă điên, nhưng cuối cùng nàng gặp một người thông minh chỉ cho nàng biết đức Bụt là người duy nhất trên đời có thể làm được cái phép lạ mà nàng đang cần. Bởi thể nàng tới nơi Bụt, đặt xác con dưới chân ngài và kể lại chuyện trên. Bụt lắng nghe với ḷng bi mẫn vô biên, rồi ngài nhẹ nhàng bảo:

- Chỉ có một cách duy nhất để hàn gắn nỗi đau buồn của con. Con hăy xuống phố, xin về cho ta một hột mù tạt từ một nhà nào chưa hề có người chết.

Gotami sung sướng đi ngay xuống phố thị. Nàng đứng trước ngôi nhà đầu tiên và nói:

- Bụt đă bảo tôi đi t́m một hột mù tạt từ nơi nhà chưa từng biết đến cái chết. Người trong nhà nói:

Nhiều người đă chết trong nhà này.

Nàng đến nhà kế tiếp, và cũng được bảo:

Trong gia đ́nh chúng tôi, có vô số người thân đă chết.

Cứ thế qua đến nhà thứ ba thứ tư cho đến khi nàng đă đi quanh hết cả thành phố, và nhận ra rằng cái điều kiện mà Bụt đặt ra không thể nào thực hiện. Nàng bèn đem xác con đến nghĩa địa và nói lời cuối cùng vĩnh biệt nó, rồi trở về nơi Bụt. Ngài hỏi:

Con có đem lại hột mù tạt đó không?

Nàng đáp:

Thưa Bụt không. Con bắt đầu hiểu được bài học Bụt cố dạy con. Sự đau khổ đă làm cho con mù quáng, và con nghĩ rằng chỉ có con là khổ v́ cái chết.

Phật hỏi:

Tại sao con trở lại?

Nàng đáp:

Để xin Bụt dạy cho con chân lư về chết là ǵ, cái ǵ ở đằng sau và bên kia sự chết, và có cái ǵ ở trong con sẽ không chết hay không.

Đức Phật khởi sự giảng dạy cho nàng.

- Nếu con muốn biết sự thật về sống và chết, con hăy tư duy liên tục về điều này: “Có một định luật duy nhất trong vũ trụ không bao giờ thay đổi, đó là mọi sự đều chuyển biến vô thường. Cái chết của con con bây giờ đă giúp con thấy được rằng cái thế giới của sinh tử mà ta đang sống là một biển khổ vô biên không thể nào chịu nổi.

Chỉ có một con đường duy nhất ra khỏi ṿng sống chết bất tận đó là con đường giải thoát. V́ sự đau khổ đă khiến con sẵn sàng học hỏi, và tâm con sẵn sàng mở ra để đón nhận chân lư, nên ta sẽ khai thị cho con”.

Krisha Gotami quỳ dưới chân Bụt và theo Bụt suốt quăng đời c̣n lại của nàng. Khi gần chết, nàng đă giác ngộ.



CHẤP NHẬN CÁI CHẾT



Câu chuyện về Krisha Gotami chỉ cho ta một điều mà ta có thể chiêm nghiệm nghiền ngẫm: Một sự xúc chạm gần gũi với cái chết có thể đem lại một sự tỉnh thức thực sự, một sự chuyển hóa trong toàn bộ nhân sinh quan của ta.

Hăy lấy ví dụ cái kinh nghiệm cận tử. Có lẽ một trong những khải thị quan trọng nhất của nó đă chuyển hóa con người trải qua kinh nghiệm ấy như thế nào. Những nhà nghiên tầm đă lưu ư một số hậu quả và biến đổi đáng ngạc nhiên nơi những người ấy:

Đó là họ bớt sợ hăi và biết chấp nhận sự chết; họ quan tâm đến việc giúp đỡ người khác nhiều hơn, họ càng thấy rơ tầm quan trọng của yêu thương, họ ít quan tâm đến những theo đuổi vật chất, họ càng tin tưởng vào chiều hướng tâm linh và ư nghĩa cuộc đời, và dĩ nhiên họ càng mở rộng niềm tin về đời sau. Một người đă nói với Kenneth Ring:

- Tôi đă được chuyển hóa từ một con người lạc lơng lang thang không mục đích, không thiết ǵ trong đời ngoài ra là tài sản vật chất, đến một người có định hướng, có động cơ sâu xa, có một mục đích trong cuộc đời, và một niềm tin mănh liệt rằng sẽ có một quả báo vào cuối cuộc đời.

Ḷng say mê của cải, ham muốn sở hữu vật chất nơi tôi đă được thay bằng sự khát khao t́m hiểu về tâm linh và ước mong thấy thế giới được cải thiện.

Một phụ nữ nói với Margot Grey, một nhà nghiên cứu Anh quốc về kinh nghiệm cận tử:

- Tôi dần dần cảm thấy có một ư thức cao về t́nh yêu, khả năng cảm thông, khả năng t́m thấy niềm vui và lạc thú trong những việc nhỏ nhặt tầm thường nhất quanh tôi... Tôi phát sinh một ḷng bi mẫn lớn lao đối với người bệnh và người sắp chết, và hết sức mong sao cho họ biết và ư thức được rằng tiến tŕnh chết chỉ là một sự nối dài của đời sống.

Tất cả chúng ta đều biết những khủng hoảng đe dọa sự sống như bệnh nặng.. có thể phát sinh những chuyển hóa sâu xa tương tự. Freda Naylor, một bác sĩ can đảm ghi nhật kư khi chết v́ bệnh ung thư như sau:

- Tôi đă có những kinh nghiệm mà có lẽ không bao giờ tôi có được, về điều nầy tôi phải cảm ơn bệnh ung thư. Sự khiêm cung, giảng ḥa với cái chết của chính tôi, nhận ra năng lực tâm linh tôi một điều luôn làm tôi ngạc nhiên - và nhiều điều khác nữa về chính ḿnh mà tôi đă khám phá bởi v́ tôi đă dừng tại chỗ, xác định lại và tiến lên.

Nếu chúng ta quả có thể “xác định lại và tiến lên” với ḷng khiêm cung và cởi mở ấy, và thực sự chấp nhận cái chết của chúng ta, th́ ta sẽ tự thấy ḿnh sẵn sàng hơn để đón nhận những chỉ dẫn về tâm linh để tu tập. Sự sẵn sàng đón nhận này c̣n mở đến một khả năng khác kỳ diệu hơn: Khả năng phục hồi đích thực.

Tôi nhớ một phụ nữ Mỹ trung niên đến viếng Dudjom Rinpoche tại Nữu ước vào năm 1976. Bà ta không đặc biệt quan tâm ǵ tới Phật giáo, nhưng bà nghe nói có một bậc thầy vĩ đại đang ở trong thành phố. Bà đang ốm nặng, và trong cơn tuyệt vọng bà muốn thử bất cứ ǵ, cả đến sự viếng thăm một bậc thầy Tây Tạng! Lúc ấy tôi làm người thông dịch.

Bà vào pḥng, ngồi trước mặt Dudjom Rinpoche. Bà quá xúc động bởi chính t́nh trạng ḿnh và sự hiện diện của ngài, tới nỗi bà ̣a lên khóc. Bà la lên:

- Bác sĩ của tôi bảo tôi chỉ c̣n sống vài tháng nữa. Thầy có thể nào giúp tôi không? Tôi đang chết.

Ngạc nhiên cho bà làm sao, một cách nhẹ nhàng đầy từ mẫn Dudjom Rinpoche khởi sự cười khúc khích. Rồi ngài b́nh tĩnh nói:

- Bà thấy, ai trong chúng ta cũng đang chết cả. Chỉ là vấn đề thời gian. Một số người chết sớm hơn người khác, thế thôi.

Với những lời ít ỏi đó, ngài giúp bà ta thấy được tính chất phổ quát của sự chết, và cái chết sắp tới của bà không phải là duy nhất. Điều ấy làm bà đỡ lo. Rồi ngài nói về chết và chấp nhận cái chết. Ngài nói về niềm hy vọng ở trong sự chết. Và cuối cùng ngài cho bà một phương pháp tu tập để chữa trị, mà bà đă hăng hái tuân theo.

Không những bà khởi sự chấp nhận cái chết, mà nhờ tu tập một cách hoàn toàn thành khẩn, bà đă khỏi bệnh. Tôi đă nghe nhiều trường hợp khác, có những người được chẩn đoán là bệnh đă tới thời kỳ sau chót, chỉ c̣n sống vài tháng, nhưng khi họ đi vào độc cư, tu tập tâm linh, thực sự đối mặt với chính ḿnh và với cái chết, th́ họ lại hết bệnh.

Điều này cho ta thấy ǵ? Rằng khi ta chấp nhận chết, chuyển hóa thái độ của ta đối với cuộc đời, và t́m ra mối liên hệ căn để giữa sống và chết, th́ lúc ấy, một khả năng chữa trị kỳ diệu có thể xảy ra.

Những Phật tử Tây Tạng tin rằng những bệnh như ung thư có thể là một lời cảnh cáo nhắc ta nhớ rằng ta đă lăng quên những khía cạnh sâu xa của bản thể ta, những nhu cầu tâm linh chẳng hạn. Nếu ta nghiêm túc đón nhận sự cảnh cáo này, và thay đổi một cách căn bản chiều hướng cuộc đời ta, th́ rất có hy vọng chữa lành không những thân xác ta mà cả toàn thể con người ta nữa.



SỰ THAY ĐỔI SÂU XA TRONG TÂM ĐỂ



Tư duy sâu xa về vô thường, như Krisha Gotami đă làm là thấu hiểu tận trong tim bạn cái sự thật được diễn tả trong những câu thơ của một bậc thầy hiện nay, Nyoshul Khenpo:

Bản chất mọi sự đều huyễn hóa phù du

Những người nhận thức nhị nguyên thường xem khổ là vui

Như kẻ liếm mật nơi lưỡi dao bén.

Đáng thương những ai bám chặt vào thực hữu

Hăy xoay sự chú ư vào trong, hỡi bạn thân.

Nhưng thật là khó làm sao để xoay chú ư vào trong! Chúng ta dễ dàng quen thói cũ, đặt ra những mẫu mực để nó trở lại khống chế ḿnh! Mặc dù, như bài thơ trên cho thấy, chúng đem lại đau khổ cho ta, ta vẫn chấp nhận chúng một cách cam chịu, v́ đă quen đầu hàng chúng. Chúng ta có thể xem tự do giải thoát như một lư tưởng, song khi động tới những thói quen của ḿnh, th́ ta hoàn toàn biến thành nô lệ.

Tuy thế, nhờ tư duy mà ta có thể dần dần đạt đến trí tuệ. Chúng ta có thể một ngày nào đó nhận ra rằng ḿnh đang tái đi tái lại những mẩu mực cố định, và khởi sự mong muốn thoát ra. Dĩ nhiên chúng ta có thể rơi trở lại vào thói quen, nhiều lần, nhưng dần dà cũng có thể ngoi lên khỏi chúng và bắt đầu thay đổi. Bài thơ sau đây nói cho tất cả chúng ta, gọi là “Tự truyện trong Năm Chương”:

1. Tôi đi xuống đường phố

    Có một lỗ sâu bên vệ đường

    Tôi rớt vào đó.

    Tối chới với vô phương.

2. Tôi đi xuống cũng con đường ấy

    Có một lỗ sâu bên vệ đường

    Tôi làm bộ như không trông thấy

    Tôi lại rớt như thường.

    Tôi không ngờ ḿnh ở ngay chỗ cũ

    Nhưng đó đâu phải lỗi tại tôi

    Mất nhiều thời gian mới ḥng ra được.

3. Tôi cũng lại đi con đường cũ

    Có một lỗ sâu bên vệ đường

    Tôi thấy nó vẫn đang ở đấy

    Và tôi vẫn rơi vào. Đó là thói quen

    Mắt tôi vẫn mở

    Tôi biết ḿnh ở đâu

    Đấy là lỗi tại tôi

    Tôi liền ra tức khắc.

4. Tôi đi xuống con đường phố cũ

    Có một lỗ sâu bên vệ đường

    Tôi đi quành qua nó.

5. Tôi đi xuống bằng con đường khác.

Mục đích của tư duy về cái chết (tử tưởng) là làm một cuộc đổi mới thực sự trong đáy tim bạn, và tập khởi sự tránh cái “lỗ sâu bên vệ đường” bằng cách “đi con đường khác”. Thường điều này cần có một thời gian nhập thất quán tưởng sâu xa, v́ chỉ có vậy ta mới có thể mở mắt thực sự để thấy ta đă làm ǵ với cuộc đời ta.

Nh́n thẳng cái chết không nhất thiết phải hăi hùng ghê gớm lắm. Tại sao không tư duy sự chết khi bạn đang cao hứng, thoải mái, nằm trong giường ấm áp tiện nghi, hoặc khi bạn đang trải qua dịp nghỉ lễ, đang lắng nghe bản nhạc mà bạn yêu thích?

Tại sao không tư duy sự chết khi bạn đang hạnh phúc, khỏe mạnh, đầy tin tưởng và hoàn toàn an vui? Bạn có để ư rằng có những giờ phút đặc biệt trong đó bạn có khuynh hướng nội quán hay không?

Hăy làm việc với những giây phút ấy một cách nhẹ nhàng, v́ đấy là những giây phút bạn có thể có được một kinh nghiệm mănh liệt sâu xa, thay đổi toàn thể quan niệm của bạn về thế giới. Có những thời điểm trong đó những niềm tin cũ của bạn trước kia tự động sụp đổ hoàn toàn, bạn tự thấy ḿnh được đổi mới hẳn.

Sự quán niệm cái chết sẽ đem lại cho bạn một ư thức sâu xa về sự từ bỏ trong đạo Phật, Tạng ngữ là Ngé jung. Ngé có nghĩa là “thực sự” hay “quyết định”, jung là “ra khỏi”, “ngoi lên”, hay “sinh ra”. Kết quả sự tư duy thường xuyên và sâu xa về cái chết là, bạn sẽ thấy ḿnh “ngoi lên” khỏi những mẫu mực thói quen của ḿnh.

Thông thường là với cảm giác ngấy chán đối với chúng. Bạn sẽ thấy ḿnh càng lúc càng thêm sẵn sàng rũ bỏ chúng, và cuối cùng bạn có thể thoát khỏi chúng một cách êm thấm nhẹ nhàng, “như rút một cọng tóc ra khỏi một thỏi bơ”, các bậc thầy đă ví dụ.

Sự từ bỏ mà bạn sẽ đạt tới ấy, đem lại cho bạn vừa nỗi buồn vừa niềm vui: Buồn v́ bạn nhận thức được cái vô vị của những thói cũ nơi bạn, và vui v́ cái tri kiến sâu xa dần dần mở ra trong bạn, khi bạn có thể buông bỏ những thói cũ.

Đây không là một niềm vui phàm tục, mà là một hỉ lạc làm phát sinh một năng lực mới mẻ, thâm hậu, một niềm tin, một cảm hứng bền bỉ thoát thai từ nhận thức rằng ḿnh không phải là tên nô lệ cho những thói quen của ḿnh, quả thế ḿnh có thể ngoi lên khỏi chúng, rằng ḿnh có thể thay đổi, và trở nên càng ngày càng giải thoát tự do.



NHỊP TIM CỦA THẦN CHẾT



Sẽ không có hy vọng nào biết được cái chết nếu nó chỉ xảy đến một lần mà thôi. Nhưng may thay, cuộc đời toàn thị chỉ là một màn luân vũ của sống và chết, một cuộc nhảy múa của vô thường. Mỗi khi tôi nghe tiếng thác đổ, hay tiếng sóng vỗ vào bờ, hay tiếng tim tôi đập, tôi lại nghe tiếng của vô thường.

Những thay đổi ấy, những cái chết nhỏ ấy là những móc nối sống động giữa ta với sự chết. Đó là mạch nhảy của thần chết, là nhịp tim của thần chết, nhắc ta buông mọi sự ta đang bám víu.

Bởi thế ta hăy làm việc với những thay đổi ấy ngay bây giờ, trong đời sống: Đấy là cách thực sự để chuẩn bị cho cái chết. Đời sống có thể đầy những nỗi đau thể xác và tinh thần, đầy những gian khổ, nhưng tất cả những thứ này lại là những cơ hội giúp ta có thể chấp nhận cái chết.

Chỉ khi ta tin tưởng mọi sự vẫn trường tồn, th́ ta mới không thể rút bài học từ biến dịch. Khi ấy ta như bị nhốt kín, và trở nên tham lam níu kéo (chấp thủ). Chấp thủ là nguồn gốc mọi vấn đề của chúng ta. V́ vô thường đối với chúng ta có nghĩa là lo âu bất trắc, nên ta bám vào, níu kéo mọi sự một cách tuyệt vọng, mặc dù mọi sự đều biến đổi.

Chúng ta sợ phải buông xả, và có thể nói là chúng ta sợ phải sống thực sự, v́ tập sống thực sự có nghĩa tập buông xả. Và đấy là bi kịch, là sự nghịch lư của cuộc đấu tranh ḥng tiếp tục bám víu: Không những điều ấy là bất khả, mà nó c̣n mang lại cho ta cái khổ mà ta muốn tránh. Cái ư định đằng sau sự bám víu tự nó có thể không có ǵ quấy.

không có ǵ sai lầm trong sự việc ta muốn được hạnh phúc an vui, nhưng cái điều ta muốn níu kéo th́ tự bản chất đă là không thể níu kéo được. Người Tây Tạng nói rằng: “Chúng ta không thể rửa tay hai lần trong cùng một ḍng nước”, và “Dù có ép mạnh bao nhiêu, bạn cũng không thể ép cát ra dầu”.

Thâm nhập lư vô thường thực sự chính là dần dần tự giải thoát khỏi chấp thủ, khỏi quan niệm sai lầm tai hại của ta về trường tồn, khỏi sự say mê an ninh bảo đảm trên đó ta dựng xây mọi thứ. Dần dà, ta nhận ra rằng, cái cơn nhức nhối tim gan mà ta phải trải qua do cố níu những ǵ không níu được, suy cho cùng thực không cần thiết.

Lúc đầu, ngay đến chuyện này cũng thật khó mà chấp nhận, v́ ta chưa quen thuộc. Nhưng khi càng suy nghĩ và tiếp tục suy nghĩ, tâm trí ta sẽ dần dần thay đổi. Sự buông xả bắt đầu có vẻ tự nhiên hơn, và càng ngày càng dễ.

Có thể phải cần nhiều thời gian để những sự điên rồ của ta lắng xuống, nhưng càng tư duy, ta càng phát triển cái tri kiến của sự buông xả, chính lúc đó một sự đổi mới xảy ra trong lối nh́n của ta đối với mọi sự.

Quán niệm tính vô thường mà thôi chưa đủ, bạn phải làm việc với nó trong cuộc đời của bạn. Cũng như học y khoa cần cả lư thuyết lẫn thực hành, học sống cũng vậy, và trong sự học sống ở đời, sự thực hành nằm ngay đây, trong pḥng thí nghiệm của biến dịch.

Khi những đổi thay xảy đến, chúng ta tập nh́n chúng với một tuệ giác mới. Mặc dù mọi sự vẫn tiếp tục xảy ra như trước, song một cái ǵ trong ta sẽ đổi khác.

Hoàn cảnh bây giờ đối với ta có vẻ thoải mái hơn, bớt căng thẳng khổ nhọc, và dù có trải qua những cuộc bể dâu, chúng ta cũng ít kinh hăi trước ảnh hưởng của chúng. Mỗi cuộc bể dâu đem lại cho ta thêm một ít thực chứng, và quan niệm của ta về sự sống trở nên càng ngày càng sâu sắc và khoáng đạt hơn.



LÀM VIỆC VỚI NHỮNG ĐỔI THAY



Ta hăy thử một thí nghiệm. Hăy nhặt một đồng xu lên, và tưởng tượng nó là cái đối tượng mà bạn đang bám víu. Bạn hăy giữ nó thật chặt trong nắm tay đối diện với mặt đất. Bấy giờ nếu bạn buông ra hay thả lỏng nắm tay, bạn sẽ mất cái mà bạn đang nắm giữ. Chính đó là lư do làm bạn phải nắm lại.

Nhưng có một khả năng khác: Bạn có thể buông ra mà vẫn giữ được đồng xu đó. Bạn duỗi cánh tay, để ngữa nắm tay cho đối diện với bầu trời. Rồi bạn thả nắm tay, th́ đồng xu vẫn c̣n nằm trên bàn tay mở của bạn. Thế là bạn buông xả mà đồng xu vẫn c̣n là của bạn, mặc dù xung quanh nó là hư không bao la.

Bởi vậy vẫn có cách để chúng ta có thể chấp nhận vô thường mà vẫn thưởng thức được hương vị cuộc đời, và đồng thời không bám víu. Ta hăy nghĩ đến những ǵ thường xảy ra trong những mối tương quan.

Phần lớn chỉ khi sắp mất bạn, người ta mới nhận ra ḿnh thương bạn, và khi ấy người ta càng bám chặt hơn. Nhưng càng níu kéo th́ người kia càng thoát ly, và mối liên lạc giữa họ càng mong manh hơn.

Chúng ta muốn có hạnh phúc, nhưng chính cái cách ta theo đuổi hạnh phúc lại quá vụng về đến nỗi nó chỉ đem lại thêm nhiều phiền muộn. Thông thường ta tưởng chừng ta phải giữ kỹ để có được cái ǵ mà ta cho là sẽ bảo đảm hạnh phúc của ta.

Ta tự hỏi: “Làm sao ta có thể sẽ bảo đảm một cái ǵ nếu ta không thể sở hữu nó?” Quá thường khi, ta lẫn lộn sự bám víu với t́nh yêu. Ngay cả khi mối tương giao thật tốt đẹp, th́ t́nh yêu vẫn thường bị hỏng do sự bám víu, từ bám víu có nỗi bất an, chiếm hữu và kiêu căng; và khi t́nh yêu bay mất, th́ bạn chỉ c̣n lại những hoài niệm để chứng tỏ t́nh yêu của bạn, đó là vết sẹo của sự bám víu.

Vậy th́ làm thế nào ta có thể vượt qua sự bám víu? Chỉ bằng cách trực nhận bản chất vô thường của nó; sự nhận chân này sẽ giải thoát ta khỏi nanh vút của tính chấp thủ. Chúng ta sẽ thoáng thấy được như các thiền sư đă nói, thái độ đích thực đối với sự đổi thay là: Ta như thể bầu trời đang nh́n mây bay qua, hay “giải thoát như thủy ngân”.

Khi thủy ngân giọt trên đất, bản chất nó là vẫn nguyên vẹn không lấm bụi. Khi ta theo lời dạy của các bậc thầy, dần dần buông bỏ sự bám víu, th́ một ḷng bi mẫn bao la cũng nảy sinh trong ta. Những đám mây vô minh chấp thủ tan biến, và mặt trời là trái tim yêu thương chân thực bỗng chiếu sáng. Chính lúc ấy từ bản thể sâu xa, ta bắt đầu nếm được hương vị câu thơ chứa đựng chân lư siêu thoát của William Blake:

Kẻ nào ràng buộc ḿnh vào một lạc thú

Làm hỏng đôi cánh cuộc đời;

Kẻ nào chỉ hôn hạnh phúc khi nó lướt qua

Sẽ sống trong ánh mặt trời Bất tận.



TINH THẦN CHIẾN SĨ



Chúng ta có thói quen tin rằng nếu ta buông xả, ta sẽ không c̣n ǵ. Nhưng cuộc đời luôn luôn cho thấy cái ngược lại. Đó là, sự buông xả chính là con đường đưa đến giải thoát tự do.

Cũng như khi sóng đánh vào bờ, những mỏm đá không thiệt hại ǵ mà c̣n được giũa ṃn và chạm trổ thành những h́nh dáng đẹp, nhân cách chúng ta cũng vậy, có thể được un đúc nhờ những cuộc đổi thay, những góc cạnh thô nhám được giũa ṃn và trở nên mềm mại. Nhờ những đổi thay mà ta có thể dần phát huy một thái độ ḥa nhă nhưng không ai lay chuyển nổi.

Ḷng tự tín nơi ta càng thêm tăng trưởng và từ đó tự nhiên tỏa ra sự tử tế từ bi, đem lại niềm vui cho người khác. Chính thiện tính ấy là cái ǵ c̣n lại sau khi chết, cái thiện tính căn để sẵn có trong tất cả mọi người chúng ta. Toàn thể cuộc đời chỉ là để dạy cho ta làm thế nào để hiển lộ thiến tính ấy, và luyện cho ta thực chứng nó.

Bởi thế mỗi khi những mất mát, vỡ mộng trong đời dạy cho ta về vô thường, chúng lại đưa ta đến gần sự thật hơn. Khi bạn từ trên cao rớt xuống th́ chỉ có một chỗ duy nhất có thể đậu lại, đó là nền mặt đất,

nền tảng của chân lư. Và nếu bạn có tuệ giác do sự tu tâm đem lại, th́ việc rớt xuống tuyệt nhiên không là một tai họa, v́ chính nhờ vậy bạn t́m được một chỗ trú nội tâm.

Những khó khăn và chướng ngại nếu hiểu đúng và biết vận dụng, thường có thể biến thành nguồn năng lực không ngờ. Trong tiểu sử những bậc thầy, ta thường thấy rằng nếu họ không gặp khó khăn chướng ngại, th́ họ đă không khám phá được sức mạnh cần thiết để vượt qua. Chẳng hạn đời của Gesar, vị vua chiến sĩ mà những cuộc tẩu thoát đă làm nên bản anh hùng ca vĩ đại nhất của văn học Tây Tạng. Gesar có nghĩa là không ai hàng phục nổi.

Từ khi ông sinh ra, người chú ác độc tên Trotung t́m đủ mọi cách để giết, nhưng càng gặp nạn Gesar càng trở nên hùng mạnh. Kỳ thực, chính nhờ những nỗ lực của chú để làm hại ông, mà ông trở thành con người vĩ đại như thế. Do đó Tây Tạng có ngạn ngữ: “Tro tung tro ma tung na, Gesar ge mi sar,” có nghĩa nếu Tro tung không mưu mô quỷ quyết, th́ Gesar đă không lên cao như vậy.

Đối với dân Tây Tạng, Gesar không những là một chiến sĩ về quân sự mà cả về tâm linh, nghĩa là đă luyện được một thứ dũng cảm đặc biệt có tính cách thông minh thiên phú, vừa hiền ḥa vừa bất khuất.

Chiến sĩ tâm linh th́ dù vẫn c̣n sợ hăi song cũng đủ can đảm để nếm trải khổ đau, nhớ đến nỗi sợ hăi căn để của ḿnh, và rút ra được bài học từ những gian khổ nên không tránh né. Chogyam Trungpa Rinpoche nói:

- Trở thành một chiến sĩ tâm linh có nghĩa là có thể đổi sự phấn đấu cho sự bảo đảm an ninh nhỏ nhen của ta để có một tri kiến rộng lớn hơn, đầy tính vô úy, khoáng đạt và anh hùng...(*)



THÔNG ĐIỆP CỦA VÔ THƯỜNG TRONG CÁI CHẾT CÓ NIỀM HY VỌNG



Hăy nh́n sâu thêm nữa vào vô thường, bạn sẽ thấy nó có một thông điệp khác, một bộ mặt khác, đầy hy vọng lớn lao, một thông điệp làm bạn mở mắt ra trước bản chất uyên nguyên của vũ trụ, và mối tương quan kỳ diệu của ta với nó.

Nếu mọi sự là vô thường, th́ mọi sự là “không” (trống rỗng), nghĩa là không có một thực hữu nội tại, chắc chắn, trường cửu. Và mọi sự, khi được thấy và hiểu trong tương quan đích thực của nó, th́ không phải là những thực thể độc lập mà hỗ tương lệ thuộc với mọi vật khác.

Phật so sánh vũ trụ như một cái lưới rộng lớn dệt bằng vô số hạt châu chiếu sáng, mỗi hạt có vô số góc cạnh. Mỗi hạt châu phản chiếu vô số hạt khác trong lưới, và là một với những hạt khác.

Hăy nghĩ đến một làn sóng trên biển. Nh́n một cách, th́ nó dường như có một thực thể riêng biệt, có đầu có cuối, có sinh có diệt. Nhưng nh́n cách khác, th́ làn sóng chính nó không thực hữu mà chỉ là một dáng dấp của nước, nó “trống rỗng” hay không có lư lịch riêng, nhưng mà “đầy” nước. Vậy khi bạn thực sự nghĩ về làn sóng, bạn nhận ra

rằng nó là một cài ǵ tạm thời có được nhờ gió và nước, và tùy thuộc vào một loạt những trường hợp luôn luôn thay đổi. Bạn cũng nhận ra rằng mỗi làn sóng đều có tương quan với mỗi làn sóng khác.

Không một thứ ǵ có một hiện hữu nội tại riêng nó, khi bạn thực t́nh nh́n kỹ. Và sự vắng mặt một hiện hữu biệt lập ấy ta gọi là “trống rỗng”. Hăy nghĩ đến một cái cây. Khi bạn nghĩ đến cái cây, bạn ưa nghĩ đến một sự vật được xác định rơ rệt, và ở một b́nh diện, nó quả có thực, như làn sóng nói trên.

Nhưng khi bạn nh́n kỹ hơn vào cái cây, bạn sẽ thấy cuối cùng nó cũng không có hiện hữu biệt lập. Khi ngắm nh́n nó, bạn sẽ thấy nó tan biến vào một mạng lưới tương quan vô cùng vi tế trải dài suốt vũ trụ. Cơn mưa rơi trên lá cây, gió lay cành, đất nuôi dưỡng và nâng đỡ nó, bốn mùa và thời tiết, trăng sao và ánh mặt trời tất cả đều là một phần của cái cây.

Khi bạn khởi sự nghĩ về cái cây càng nhiều hơn nữa, bạn sẽ khám phá rằng mọi sự trong vũ trụ đều phụ lực để làm cho cây trở thành cái nó đang thành, rằng không một lúc nào nó có thể tách biệt nó ra khỏi những cái khác; rằng mọi lúc bản chất nó đang thay đổi một cách tinh tế. Đây là ư nghĩa khi chúng tôi bảo mọi sự là trống rỗng, không có hiện hữu độc lập.

Khoa học hiện nay cho ta biết phạm vi rộng lớn của những tương quan trong vũ trụ. Những nhà sinh môi biết rằng một cây cháy trong rừng Amazon bằng một cách nào đó, làm thay đổi bầu không khí mà một thị dân thủ đô Ba lê đang thở, và sự rung động của một cánh bướm ở Yucatan có ảnh hưởng tới đời sống của một trang trại vùng Hebrides.

Những nhà sinh vật học bắt đầu khám phá cuộc luân vũ phức tạp ly kỳ của những nhiễm thể trong tế bào tạo nên cá tính và sự giống nhau, một cuộc luân vũ trải dài rất xa về quá khứ và chứng minh rằng mỗi sự gọi là “giống nhau” gồm rất nhiều ảnh hưởng khác nhau.

Những nhà vật lư học th́ giới thiệu chúng ta vào thế giới của lượng tử, một thế giới giống hệt một cách lạ lùng với thế giới mà Phật mô tả trong h́nh ảnh cái lưới châu ngọc (Phạm vơng) trải khắp vũ trụ. Hệt như những hạt ngọc trong lưới ấy, mọi phân tử đều hiện hữu kể như những phối hợp khác nhau của những phân tử khác.

Bởi thế khi ta thực sự nh́n vào chính ḿnh cùng những sự vậy chung quanh mà ta cho là chắc chắn bền bỉ, ta đều thấy chúng không thực ǵ hơn một giấc chiêm bao. Phật dạy:

Hăy quán sát vạn pháp

Như ảo tượng, lầu mây

Như mộng, như hóa hiện,

Có thấy, không thực chất

Hăy quán sát vạn pháp

Như bóng trăng phản chiếu

Đáy hồ nước lặng trong

Trăng chưa từng di chuyển.

Hăy quán sát vạn pháp

Như vang của âm thanh

Tiếng nhạc và tiếng khóc

Trong vang không điệu ǵ.

Hăy quán sát vạn pháp

Như huyễn sư tạo huyễn

Đủ thứ ngựa, xe, ḅ

Chỉ có tưởng, không thực.

Sự quán tưởng tính chất mộng huyễn của thực tại không nhất thiết làm cho ta phải trở nên lạnh lùng, vô vọng hay cay đắng. Ngược lại, nó có thể mở ra trong ta một tính hài hước thân thiện, một ḷng bi mẫn mà ta không ngờ ḿnh cũng có, và do đó càng ngày tâm ta càng rộng răi đối với mọi sự vật và hữu t́nh. Milarepa nói:

- Thấy được Tánh không, th́ mở ḷng thương xót.

Khi nhờ quán sát mà ta thực sự thấy được tánh không và tính hỗ tương lệ thuộc của mọi sự và chính ḿnh, th́ ta sẽ thấy thế giới dưới môt ánh sáng huy hoàng, tươi mát hơn, như cái lưới đan kết bằng vô số bảo châu phản chiếu nhau mà Phật đă mô tả. Khi ấy ta không cần phải tự che chở ḿnh hay giả bộ, và ta sẽ dễ dàng thực hiện lời khuyên của một bậc thầy:

- Hăy luôn nhận chân tính mộng huyễn của cuộc đời để giảm bớt ái luyến và thù ghét. Hăy có tâm tốt đối với mọi loài. Có tâm thương xót, bất kể kẻ khác đối xử với bạn ra sao. Những ǵ người khác làm đối với bạn không quan trọng lắm, khi bạn xem như mộng huyễn. Cái mánh là, bạn phải có những ư định tốt trong giấc mộng. Đây là điểm cốt yếu. Đây đích thực là tu tâm.

Tu tâm đích thực cũng là ư thức được rằng nếu ta có tương quan mật thiết với mọi người mọi sự, th́ ngay cả một ư nghĩ, lời nói, hành động nhỏ nhất của ta cũng có những hậu quả khắp vũ trụ. Hăy ném một ḥn sỏi xuống ao nước. Nó liền có một rung động trên mặt nước, những làn sóng nhỏ lăn tăn tan ḥa vào nhau và tạo thành những làn sóng mới.

Mọi sự đều tương thuộc một cách chặt chẽ: Chúng ta sẽ nhận ra rằng chúng ta chịu trách nhiệm về mọi điều ta làm, nghĩ và nói, quả thế, có trách nhiệm về chính ta, về mọi người và mọi sự vật khác, cũng như với toàn thể vũ trụ. Đức Dalai Lama đă dạy:

- Trong cái thế giới hỗ tương lệ thuộc mật thiết này, những cá nhân và quốc gia không c̣n có thể tự giải quyết vấn đề riêng của họ được. Chúng ta cần đến nhau. Bởi thế ta phải phát huy một ư thức về trách nhiệm hỗ tương...

Trách nhiệm của tập thể và của từng cá nhân là bảo vệ và nuôi dưỡng đại gia đ́nh địa cầu, nâng đỡ những thành viên yếu kém, bảo tŕ và săn sóc môi trường sống của tất cả chúng ta.

Vô thường đă khải thị cho ta nhiều sự thật, nhưng c̣n một kho tàng cuối nó đang giữ, một kho tàng mà phần lớn bị che khuất dưới mắt chúng ta, ta không ngờ và cũng không nhận ra được, song lại là của ta một cách thân thiết nhất.

Thi sĩ Rainer Maria Rilke đă nói rằng những nỗi sợ sâu xa nhất của ta giống như những con rồng đang giữ kho tàng sâu kín nhất của ta. Cái nỗi sợ mà vô thường khơi dậy trong ta, theo đó không có ǵ là thực, không ǵ trường cửu, hóa ra lại là người bạn tốt nhất của ta, bởi v́ nó giục ta đặt câu hỏi:

Nếu mọi sự đều hủy diệt, thay đổi, th́ cái ǵ là có thực? Có chăng một cái ǵ đằng sau mọi giả tưởng, một cái ǵ vô biên, khoáng đạt vô cùng, làm sân khấu cho cuộc luân vũ của vô thường chuyển biến? Có chăng một cái ǵ ta có thể nương tựa an trú, một cái ǵ sống lâu hơn cái mà ta gọi là cái chết?

Để cho câu hỏi ấy xâm chiếm ta một cách cấp thiết, tư duy về nó, ta sẽ dần dần thay đổi sâu xa lối nh́n của ta về mọi sự. Với sự liên tục quán tưởng và thực hành buông xả, ta sẽ thấy hiển lộ trong chính ta “một cái ǵ” ta không thể gọi tên, mô tả, đặt thành khái niệm, “một cái ǵ” mà ta khởi sự thấy đang nằm đằng sau mọi sự biến dịch chết chóc của thế giới.

Khi ấy những dục vọng và giải trí thiển cận mà ta bị trói buộc vào do chấp thủ tính chất trường cửu khởi sự tan biến và rơi rụng.

Khi điều này xảy đến, ta thường thoáng thấy những hàm ẩn rộng lớn ở đằng sau sự thật về vô thường. Nó giống như suốt buổi ta đă bay trong một chiếc phi cơ luồng qua những đám mây đen vần vũ, rồi bỗng dưng phi cơ vút lên trên những tầng mây, bay vào một bầu trời trong sáng bao la.

Được cảm hứng, vui mừng khi ngoi lên trong chiều không gian mới đầy tự do ấy, ta dần khám phá một niềm an lạc sâu xa, một niềm tự tin làm ta đầy ngạc nhiên sung sướng. Dần dần, phát sinh một niềm xác tín rằng “một cái ǵ” đó trong ta không ǵ phá hủy được, không ǵ làm thay đổi được, và không thể chết. Milarepa viết:

V́ sợ chết tôi đi vào núi-

Liên tục trầm tư về tính bất định của giờ chết,

Bỗng bắt gặp thành tŕ bất tử, vô tận của tâm bản nhiên.

Bây giờ tất cả nỗi sợ chết đều tan biến.

Vậy, dần dần ta biết được trong ta có sự hiện diện của tự tính như bầu trời trong sáng mà Milarepa gọi là tâm bản nhiên, vốn bất tử và vô tận. Khi ư thức mới mẻ ấy trở nên sống động và gần như không gián đoạn.

Th́ xảy ra cái mà Áo nghĩa thư gọi là “một sự xoay chiều của tâm thức” một khải thị có tính cách cá nhân, hoàn toàn không thể đặt tên, cho thấy ta là ǵ, tại sao ta ở đây, ta phải làm thế nào..Điều này cuối cùng, không khác ǵ một đời sống mới mẻ, một cuộc phục sinh.

Kỳ diệu thay, nhờ quán chân lư về vô thường một cách liên tục, không sợ hăi, mà dần dần ta thấy ḿnh giáp mặt trong niềm tri ân và hỷ lạc với chân lư về bản chất bất biến, bất tử và vô tận của tâm.






Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 425 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 6:41pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TẠNG THƯ SỐNG CHẾT


4. BẢN CHẤT CỦA TÂM


V́ bị nhốt kín trong cái lồng hạn hẹp tối tăm của bản ngă mà ta cho là cả vũ trụ, rất ít người trong chúng ta khởi sự ngay cả tưởng đến một chiều không gian khác của thực tại. Patrul Rinpoche kể cho chúng ta câu chuyện về một con ếch già suốt đời sống trong một cái giếng ẩm. Một ngày kia có con ếch từ ngoài biển vào thăm nó. Nó hỏi:

- Anh từ đâu đến?

- Từ biển.

- Biển của anh to bao nhiêu?

- To khổng lồ.

- Anh muốn nói là bằng cỡ chừng phần tư cái giếng của tôi đây chứ ǵ?

- Không, lớn hơn cơ.

- Lớn hơn à? Vậy th́ bằng nửa cái giếng của tôi không?

- Không, lớn nữa kia.

- Thế... Chẳng nhẽ lại bằng cả cái giếng của tôi à?

- Không có thể so sánh được.

- Chuyện vô lư! Tôi phải đi xem cho tận con mắt.

-Chúng cùng đi. Khi con ếch ở giếng trông thấy đại dương, nó bị một cú sốc kinh hoàng tới nỗi nó nổ tung ra thành từng mảnh.

Phần lớn những hoài niệm tuổi thơ tôi về Tây Tạng đă phai tàn, nhưng có hai thời điểm mà tôi không bao giờ quên. Đó là khi thầy tôi Jamyang Khientse khải thị cho tôi đi vào bản chất cốt tủy, uyên nguyên và sâu xa nhất của tâm tôi.

Lúc đầu tôi cảm thấy dè dặt không muốn tiết lộ những kinh nghiệm riêng tư này, v́ ở Tây Tạng không bao giờ người ta làm chuyện đó, nhưng các học tṛ, bạn bè tôi tin rằng nếu tôi nói ra th́ có thể giúp đỡ nhiều người, và họ yêu cầu tôi, năn nỉ tôi viết về những kinh nghiệm ấy.

Lần đầu tiên nó xảy đến khi tôi khoảng sáu bảy tuổi, tại trong cái pḥng đặc biệt mà thầy tôi ở, trước mộ bức tranh lớn của tiền nhân thầy là Jamyang Khientse Wangpo. Đấy là một h́nh dáng oai vệ nghiêm trang, càng oai vệ trang nghiêm hơn khi ánh đèn bơ đặt trước bức tranh cứ chập chờn soi sáng gương mặt trên bức tranh ấy.

Tôi chưa biết có chuyện ǵ xảy ra th́ thầy tôi đă làm một sự bất thường chưa từng có. Ngài th́nh ĺnh ôm tôi và nhấc bổng lên. Đoạn ngài hôn tôi một cái vào một bên má. Trong một lúc lâu, tâm tôi hoàn toàn biến mất, tôi được bao phủ bởi một niềm yêu thương, tin tưởng, một năng lực phi thường.

Biến cố kế tiếp th́ trang trọng hơn và xảy ra ở Lhodrak Kharchu trong một hang động mà Padmasambhava bậc thánh vĩ đại và là cha đẻ của Phật giáo Tây Tạng, đă nhập thất thiền định. Chúng tôi đă dừng chân tại đấy trên đường hành hương đến miền Nam. Lúc đó tôi chừng chín tuổi. Thầy tôi gọi tôi đến và bảo tôi ngồi trước mặt ôn. Chỉ có hai thầy tṛ chúng tôi. Thầy tôi bảo:

- Bây giờ ta sẽ khai thị cho con về bản lai diện mục của tâm.

Cầm cái chuông và trống tay nhỏ lên, thầy triệu thỉnh tất cả những bậc thầy trong hệ truyền thừa, từ Phật nguyên thủy trở xuống đến bậc thầy của chính thầy. Rồi thầy bắt đầu khai thị. Bỗng chốc thầy ném vào mặt tôi một câu hỏi không thể trả lời:

- Tâm là ǵ?

Thầy nh́n xoáy sâu vào mắt tôi. Tôi hoàn toàn kinh ngạc. Tâm tôi tan ra. Không c̣n ngôn từ, tên gọi, ư tưởng nào ở lại – Không có tâm nào hết, quả thế.

Cái ǵ xảy ra trong giây phút đầy kinh ngạc ấy? Những ư niệm quá khứ đă chết, tương lai chưa đến; ḍng tư tưởng của tôi bị cắt ngang đột ngột. Trong cú sốc đó một khoảng trống mở ra, trong khoảng trống ấy chỉ có một giác tính tuần túy trực tiếp về hiện tại, một cái ǵ hoàn toàn vượt ngoài mọi bám víu chấp thủ.

Giác tính ấy đơn giản, sơ nguyên và căn để. Tuy vậy sự giản đơn thuần túy đó cũng tỏa sáng đầy sự ấm áp của một niềm bi mẫn bao la.

Biết bao nhiêu điều tôi có thể nói về giây phút ấy! Thầy tôi rơ ràng đang đặt cho tôi một câu hỏi, nhưng tôi biết thầy không chờ đợi một câu trả lời. Tôi chưa săn t́m giải đáp th́ đă thấy rằng không có giải đáp nào có thể t́m kiếm. Tôi ngồi thộn ra trong kinh ngạc, nhưng trong khi ấy một niềm tin vững chắc sâu xa sáng chói tôi chưa từng biết đến, đang dâng tràn trong tôi.

Thầy tôi đă hỏi: “Tâm là ǵ?” và vào lúc ấy tôi tưởng chừng ai cũng biết rằng, không có chuyện có hiện hữu một cái tâm nào cả, làm sao tôi có thể t́m ra. Vậy, dường như đi t́m tâm thực là phi lư.

Sự khai thị của thầy tôi đă gieo một hạt giống sâu xa trong tôi. Về sau tôi mới biết đấy là phương pháp khai thị được dùng trong truyền thống chúng tôi. Tuy nhiên, v́ lúc đó tôi không biết, mà những ǵ xảy ra có vẻ hoàn toàn bất ngờ, và do đó càng kinh hoàng mănh liệt.

Trong truyền thống chúng tôi có “ba chân xác” cần hội đủ để khai thị bản tâm: Sự làm phép của một bậc thầy chân xác,Ḷng sùng tín của một đệ tử chân xác, và Tính chính thống trong phương pháp khai thị.

Tổng thống Mỹ không thể khai thị bản tâm cho bạn, mà cha hay mẹ bạn cũng không thể làm việc đó. Một người có quyền thế đến bao nhiêu cũng không ăn thua ǵ, hoặc họ có yêu mến bạn bao nhiêu cũng không ăn thua ǵ. Việc khai thị chỉ có thể được thực hiện bởi một người đă hoàn toàn thực chứng, và có sự ban phép và kinh nghiệm thuộc trong hệ phái truyền thừa.

Và bạn, người học tṛ, phải t́m ra và luôn hàm dưỡng cái tri kiến khoáng đạt thênh thang ấy, niềm hăng say, nhiệt t́nh và sự tôn trọng nó sẽ làm biến đổi cả bầu không khí trong tâm bạn, làm bạn sẵn sàng đón nhận sự khai thị. Đây là điều mà ta gọi là ḷng sùng tín.

Nếu không có ḷng sùng tín, th́ thầy có khai thị tṛ cũng không nhận ra. Sự khai thị bản tâm chỉ có thể thực hiện khi cả thầy lẫn tṛ cùng thể nhập cái kinh nghiệm ấy; chỉ trong sự giao cảm giữa tâm và trí ấy, người môn sinh mới trực ngộ được.

Phương pháp khai thị cũng vô cùng quan trọng. Chính phương pháp ấy đă được thử nghiệm qua hàng ngàn năm và đă giúp cho những bậc thầy trong quá khứ đạt đến thực chứng. Khi thầy tôi khai thị cho tôi một cách tự nhiên như thế, vào lúc tuổi c̣n bé như thế, là thầy đă làm một việc hoàn toàn bất thường.

Thông thường th́ việc khai thị xảy ra muộn hơn nhiều, khi đệ tử đă trải qua những thực tập thiền định và thanh luyện tâm ư. Chính những việc làm này khiến cho tâm trí người đệ tử thuần thục và có thể mở ra để đón nhận tri kiến trực tiếp về chân lư. Vào cái thời điểm đầy tiềm năng của sự khai thị, bậc thầy có thể truyền cái tâm giác ngộ của ḿnh vào trong tâm của người đệ tử bấy giờ đă chân xác sẵn sàng đón nhận.

Bậc thầy làm cái việc khai thị cho tṛ thấy Phật thật là ǵ, nói cách khác là đánh thức tṛ thấy sự hiện diện sống động của tuệ giác nội tâm. Trong kinh nghiệm ấy, th́ Phật, bản tâm của người đệ tử, và tâm giác ngộ của bậc thầy tan ḥa thành một.

Khi ấy người học tṛ nhận ra, trong một niềm tri ân vô bờ bến, rằng không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, giữa thầy và tṛ, giữa tâm giác ngộ của bậc thầy và bản tâm người đệ tử, không có và chưa bao giờ có sự ngăn cách nào cả. Dudjom Rinpoche trong bài ca chứng đạo nổi tiếng của ngài đă viết:

- Tuệ giác về cái bây giờ chính là Phật thật,

Trong tâm trạng cởi mở, hài ḷng, tôi gặp Thầy trong tim tôi. Khi ta nhận chân được rằng cái tâm bản nhiên bất tận đó chính là Thầy.

Th́ không cần bám víu, chấp thủ, cầu khẩn khóc than.

Chỉ cần an trú thoải mái trong trạng thái tự nhiên như nhiên ấy,

Là ta có được phúc lạc của giải thoát.

Khi bạn đă nhận chân toàn triệt rằng tự tính của tâm bạn cũng giống như của thầy, th́ từ đấy trở đi bạn và thầy không bao giờ ngăn cách v́ thầy là một với tâm bản nhiên của bạn, luôn luôn hiện tiền. Có lẽ bạn c̣n nhớ Lama Tseten (Chương một), khi sắp chết và được hỏi có muốn gọi bậc thầy đến bên giường không, ông đă trả lời:

- Với bậc thầy, không có cái ǵ gọi là ngăn cách.

Khi nào bạn thấy được như Lama Tseten rằng thầy và ḿnh không từng xa nhau, th́ một niềm tri ân vô bờ bến, một cảm thức úy phục và kính lễ nảy sinh trong bạn. Dudjom Rinpoche gọi đó là “Sự kính lễ của Tri kiến.” Đó là một niềm sùng kính luôn phát tự nhiên do ngộ được cái Tri kiến về bản tâm.

Đối với tôi, c̣n có nhiều lần nhập môn khác nữa: Nhập môn về giáo lư và quán đảnh, và về sau tôi được sự khai thị của nhiều thầy khác. Sau khi Jamyang Khientse viên tịch, Dudjom Rinpoche chăm sóc tôi, bao bọc tôi trong t́nh thương mến của ngài, và tôi làm người thông dịch cho ngài trong nhiều năm. Việc này mở ra một giai đoạn mới trong đời tôi.

Dudjom Rinpoche là một trong những bậc thầy mật tông nổi tiếng của Tây Tạng, một học giả, tác giả nổi tiếng. Thầy Jamyang Khientse tôi thường ca tụng Dudjom, nói ngài là một đại diện sống động của Padmasambhava trong thời đại này. Bởi thế tôi rất kính trọng ngài, mặc dù chưa từng tiếp kiến cũng chưa được nghe ngài giảng dạy.

Một hôm, sau khi thầy tôi đă chết, vào lúc tôi chừng hai mươi mấy tuổi, tôi đến viếng Dudjom Rinpoche tại nhà riêng của ngài ở Kalimpong, trên một ngọn đồi thuộc dăy núi tuyết.

Khi tới nơi, tôi thấy một trong những đệ tử Mỹ đầu tiên của ngài đang thọ giáo. Bà ta đang khổ sở v́ không có người nào biết đủ Anh ngữ để dịch những lời dạy về tự tánh của tâm. Khi thấy tôi đi vào, Dudjom Rinpoche nói:

- Ồ! Có con đây rồi. Tốt. Con có thể thông dịch giùm bà ấy không?

Thế là tôi ngồi xuống và khởi sự dịch. Ngày trong một thời gian giảng dạy chừng một tiếng đồng hồ, ngài đă cho một bài pháp tuyệt diệu, bao trùm tất cả mọi sự. Tôi xúc cảm và phấn chấn đến độ mắt tôi rớm lệ. Tôi nhận ra đây là điều mà Jamyang Khientse muốn nói.

Ngay sau đó, tôi thỉnh cầu ngài chỉ giáo cho tôi. Tôi thường đến tư thất ngài mỗi chiều và ở đó vài giờ. Ngài có vóc người nhỏ thó, gương mặt đẹp hiền từ, đôi bàn tay tuyệt vời, và một dáng dấp mảnh mai gần như phụ nữ. Ngài để tóc dài bới cao lên như một hành giả Du già; Mắt ngài luôn ánh lên một niềm thích thú huyền bí.

Giọng nói ngài dường như chính là tiếng nói của tâm đại bi, êm và hơi khàn. Ngài thường ngồi trên một ghế thấp trải thảm Tây Tạng, tôi ngồi dưới chân ngài. Tôi luôn nhớ lại h́nh ảnh ngài ngồi đó, bóng trời chiều chiếu qua khung cửa sổ sau lưng ngài.

Rồi một hôm trong khi tôi đang thụ giáo và thực tập với ngài, tôi có một kinh nghiệm kỳ lạ nhất. Mọi sự mà tôi đă từng nghe trong giáo lư mật tông dường như đang xảy đến với tôi – tất cả những hiện tượng vật chất quanh chúng tôi đang tan biến tôi sung sướng ấp úng:

- Thầy, thầy.. Nó đang xảy ra!

Tôi không bao giờ quên được vẻ bi mẫn trên gương mặt thầy, khi thầy cúi xuống vỗ về:

- Được, được. Đừng có náo nức quá. Chung quy, điều ấy không tốt cũng không xấu..

Sự kinh ngạc và sung sướng bắt đầu cuốn hút tôi đi, nhưng Dudjom Rinpoche biết rằng mặc dù những thực chứng có thể là những cái mốc hữu ích trên đường tu thiền định, chúng cũng có thể thành những cái bẫy nếu có sự bám víu xen vào.

Ta cần phải vượt qua kinh nghiệm ấy để đi vào một nền tảng sâu xa vững chắc hơn: Những lời minh triết của thầy để đưa tôi đến cái nền tảng ấy.

Dudjom Rinpoche c̣n giúp tôi thực chứng nhiều lần bản chất của tâm qua những lời dạy của thầy, chính những danh từ cũng đă nhen nhúm lên những tia sáng về kinh nghiệm thực.

Trong nhiều năm, mỗi ngày ngài thường chỉ giáo cho tôi về bản tính tự nhiên của tâm mà người ta gọi là giáo lư “trực chỉ” (pointing-out instructions). Mặc dù tôi đă thụ huấn tất cả những ǵ thiết yếu từ nơi thầy Jamyang tôi, nhưng đó chỉ như mới gieo hạt.

Chính Dudjom là người đă tưới tẩm chăm bón làm cho nó đơm hoa. Và khi tôi khởi sự ra giảng dạy, th́ chính tấm gương thầy Dudjom đă gợi cảm hứng cho tôi nhiều nhất.



TÂM VÀ TỰ TÍNH CỦA TÂM



Cái thấy thực “cách mạng” trong Phật giáo là, sự sống và chết ở ngay trong tâm, không đâu khác. Tâm được xem như nền tảng phổ quát của kinh nghiệm kẻ sáng tạo ra hạnh phúc và đau khổ, kẻ sáng tạo ra cái ta gọi là sự sống và cái ta gọi là sự chết.

Có nhiều phương diện của tâm, nhưng có hai phương diện nổi bật hơn cả. Đầu tiên là cái tâm thông thường mà người Tây Tạng gọi là sem. Một bậc thầy đă định nghĩa:

- Đó là cái tâm có khả năng phân biệt, có ư thức về nhị nguyên hoặc lấy hoặc bỏ một đối tượng ngoài đó là tâm. Đó là cái có thể giao thiệp với một cái “khác”, bất cứ cái ǵ khác, được xem là sở tri (bị biết) khác với cái năng tri (người biết).

Sem là cái tâm suy nghĩ, tâm nhị nguyên, phân biệt, chỉ có thể vận hành tương quan với một điểm quy chiếu ở ngoài, bị nhận lầm và chỉ là một cái bóng được chiếu ra.

Vậy Sem là cái tâm suy nghĩ, đặt kế hoạch, ham muốn, vận động, cái tâm bừng lên trong cơn giận dữ, tạo ra và say mê trong những đợt sóng tư duy và cảm xúc tiêu cực, cái tâm cứ luôn luôn phải tiếp tục quả quyết, đánh giá, và xác định lại hiện hữu của nó bằng cách cắt xén, đặt tên, củng cố kinh nghiệm.

Tâm thông thường là miếng mồi thụ động di chuyển không ngừng theo những ảnh hưởng bên ngoài, theo những khuynh hướng tập quán và điều kiện: Những bậc thầy ví nó với một ngọn đèn cầy đặt trước gió, phải bị lay động bởi tất cả những ngọn gió của hoàn cảnh.

Nh́n từ một góc cạnh, th́ sem là lay động, không dừng trụ, chấp thủ, luôn luôn xía vô việc của người khác; năng lực nó bị tiêu hao do chiếu ra ngoài quá nhiều. Đôi khi tôi v́ nó như hột đậu nhảy của xứ Mexico hay một con khỉ không ngừng nhảy chuyền cành.

Tuy vậy nh́n một cách khác, th́ tâm thông thường có một tính cố định cùn nhụt giả tạm, một tính trơ ĺ tự về và tự măn, một sự b́nh thản lạnh lùng của thói quen ăn sâu. Sem láu cá như một chính trị gia quỷ quyệt, hoài nghi, nhiều muu mô lừa dối, và “tinh vi với những tṛ lừa gạt, ”Jamyang Khientse đă viết.

Chính trong kinh nghiệm của sem, cái tâm hỗn mang vô trật tự này mà chúng ta chịu những đổi thay và chết chóc.

Nhưng c̣n có bản tính tự nhiên của tâm, tính chất sâu xa của nó, cái tuyệt đối không dính tới đổi thay và chết chóc. Hiện giờ nó đang ẩn trong tâm sem thông thường của ta, bị bao phủ và che mờ bởi những huyên náo rộn ràng trong tâm, những ư nghĩ và cảm xúc.

Cũng như mây có thể bị luồng gió mạnh thổi tan, để lộ mặt trời sáng chói và bầu trời rộng mở, cũng thế, trong vài trường hợp đặc biệt, một cảm hứng nào đó có thể vén mở cho ta hé thấy bản tính tự nhiên ấy của tâm. Những sự hé thấy này có nhiều mức độ cạn sâu, song đều đem lại cho ta một ít tuệ giác, ư nghĩa và giải thoát tự do.

Bởi v́ bản tính tự nhiên này của tâm chính là gốc rễ của trí tuệ. Tạng ngữ gọi nó là Rigpa, một sự tỉnh giác trong sáng nguyên ủy có tính chất thông minh, biết nhận thức, sáng chói và luôn luôn tỉnh thức. Có thể nói nó là cái biết của chính cái biết.

Đừng tưởng lầm bản chất tự nhiên của tâm chỉ có trong tâm ta mà thôi. Ḱ thực nó là bản chất của mọi sự vật. Điều cần nói là, trực nhận bản tính tự nhiên của tâm cũng chính là trực nhận bản tính tự nhiên của mọi sự vật.

Những bậc thánh và hành giả huyền học trong lịch sử thường nói về sự chứng ngộ của họ bằng những tên khác nhau, khoác cho nó nhiều bộ mặt khác nhau, lối giải thích khác nhau, nhưng tất cả đều kinh nghiệm một điều căn bản là bản tính thuần túy của tâm.

Người Ki tô và Do thái giáo gọi nó là Thượng đế; Ấn giáo gọi là Đại ngă, Shiva, Brahman và Vishnu; những nhà thần bí Sufi gọi nó là “Tính chất ẩn nấp;” c̣n Phật tử th́ gọi là “Phật tính.” Trọng tâm của mọi tôn giáo là niềm xác tín rằng có một chân lư căn để, và đời sống là một cơ hội thiêng liêng để tiến hóa và thực chứng chân lư ấy.

Khi ta nói Phật, ta tự nhiên nghĩ đến thái tử xứ Ấn Gotama Siddhartha đạt giác ngộ vào thế kỷ thứ sáu trước tây lịch, người đă giảng dạy con đường tâm linh mà hàng triệu người khắp Á châu noi theo, ngày nay gọi là Phật giáo. Tuy nhiên danh từ Buddha có một ư nghĩa sâu xa hơn nhiều.

Nó có nghĩa là một con người, bất cứ người nào, đă hoàn toàn thức dậy từ giấc ngủ vô minh và mở mang tiềm năng trí tuệ bao la của ḿnh. Một đức Phật là một người đă chấm dứt đau khổ và bất măn, đă t́m ra một niềm b́nh an, hạnh phúc dài lâu bất tận.

Nhưng đối với nhiều người trong thời đại hoài nghi này, th́ trạng thái ấy có vẻ như một điều huyễn hoặc, mộng mị, hay một sự thành tựu hoàn toàn vượt ngoài tâm chúng ta. Điều quan trọng nên nhớ là, đức Phật đă từng là một con người như bạn và tôi.

Ngài chưa từng tuyên bố là thần thánh ǵ cả, ngài chỉ biết ngài có Phật tính, hạt giống của giác ngộ, và mọi người cũng đều có. Phật tính là quyền sống của mọi chúng sinh, và tôi thường nói rằng Phật tính nơi chúng ta cũng tốt như Phật tính nơi bất cứ đức Phật nào. Đấy là tin lành mà đức Phật mang lại cho chúng ta từ khi ngài giác ngộ tại bồ đề tràng, nơi mà nhiều người sau đă t́m thấy nguồn cảm hứng thiêng liêng.

Thông điệp của ngài, đem lại cho ta một hy vọng tràn trề. Nhờ luyện tập, chúng ta cũng có thể đạt đến sự tỉnh thức. Nếu điều này không đúng, th́ vô số người tư xưa cho đến ngày nay đă không giác ngộ.

Tương truyền khi Phật mới đạt giác ngộ, điều duy nhất ngài muốn làm là chỉ cho tất cả chúng ta tự tính của tâm, san sẻ cho ta những ǵ ngài đă trực ngộ. Nhưng ngài cũng thấy, với nỗi đau buồn và ḷng bi mẫn bao la - rằng thật khó mà làm cho chúng ta hiểu được.

V́ mặc dù ta cũng có tự tánh của tâm như Phật, chúng ta không nhận ra nó được v́ nó bị gói kín, bao trùm trong những cái tâm thông thường phàm tục của ta. Hăy tưởng tượng một cái b́nh trống.

Khoảng không trong b́nh cũng giống hệt như khoảng không bên ngoài. Chỉ có những bức thành mong manh của cái b́nh đă ngăn cách không gian bên trong với bên ngoài. Tâm Phật trong ta bị vây kín trong những bức thành của tâm thông tục. Nhưng khi ta giác ngộ, th́ cũng giống như cái b́nh vỡ tan thành mảnh vụn.

Khoảng không gian “bên trong” liền tan ḥa ngay vào không gian “bên ngoài”. Cả hai trở thành một: Ngay lúc đó và tại chỗ đó, ta trực nhận được rằng chúng chưa từng bao giờ có sự ngăn cách hay sai khác; chúng vẫn luôn luôn là một.



BẦU TRỜI VÀ NHỮNG ĐÁM MÂY



Bởi thể, dù đời ta có thế nào đi nữa, Phật tính của ta cũng luôn luôn ở đấy. Và nó luôn luôn toàn hảo. Ngay cả chư Phật với trí tuệ vô biên cũng không thể làm cho nó tốt hơn được, và chúng sinh với tất cả vô minh có vẻ bất tận, cũng không thể làm cho nó lấm lem.

Tính bản nhiên của chúng ta có thể ví như bầu trời, và sự mờ mịt của tâm thông tục giống như mây. Có những ngày bầu trời hoàn toàn bị mây phủ kín. Khi ấy nếu nằm xuống đất mà nh́n lên, th́ ta thực khó mà tin nổi trên trời c̣n có cái ǵ khác ngoài ra mây.

Nhưng chỉ cần bay trong một chiếc phi cơ ta sẽ thấy tít trên cao xa nữa là một vùng trời xanh trong bao la vô tận. Từ đấy mà nh́n xuống th́ thấy những đám mây mà khi ở dưới đất, ta tưởng là tất cả mọi sự thật xa xăm nhỏ bé làm sao.

Ta phải cố nhớ luôn luôn rằng: Những đám mây không phải là bầu trời, và không “thuộc về” bầu trời. Chúng chỉ lơ lửng giữa từng không, và đi qua với kiểu hơi lố bịch, không lệ thuộc vào đâu. Nhưng chúng không bao giờ có thể để dấu vết làm lấm lem nền trời.

Vậy th́ Phật tính ấy đích thực nằm ở đâu? Nó nằm ngay nơi tự tính của tâm, cái tự tính được ví như bầu trời ấy. Hoàn toàn cởi mở, tự do, vô biên, Phật tính ấy thực đơn giản, tự nhiên như nhiên tới nỗi không bao giờ có thể trở thành phức tạp, hư hỏng, hay bị nhiễm ô; nó thuần tịnh tới nỗi vượt ngoài cả ư niệm dơ sạch.

Nhưng nói về tự tính của tâm ví như bầu trời ấy chỉ là một ẩn dụ để giúp ta bắt đầu tưởng tượng được tính chất vô biên bao trùm tất cả của nó; v́ Phật tính có một tính chất mà bầu trời không có được, đó là tính sáng chói của tỉnh thức. Như có câu:

- Đó là cái giác tính hiện tiền không lỗi nơi bạn, biết nhận thức mà vẫn trống rỗng, giản đơn mà sáng suốt.

Dudjom Rinpoche viết:

Không lời nào có thể mô tả,

Không ví dụ nào để chỉ rơ

Sinh tử không làm nó xấu hơn

Niết bàn không làm nó tốt hơn

Nó chưa từng sinh

Nó chưa từng diệt

Chưa từng giải thoát

Chưa từng mê lầm

Chưa từng có cũng chưa từng không

Nó không có một giới hạn nào

Không thể xếp nó vào một phạm trù nào cả.

Nyoshul Khen Rinpoche nói:

Sâu xa vắng lặng, thoát mọi rắc rối

Sáng suốt không do kết hợp mà thành

Vượt ngoài tâm phân biệt đặt tên;

Đấy là tâm sâu xa của những Đấng Chiến thắng.

Trong đó không một vật ǵ phải vứt ra

Cũng không một vật ǵ cần thêm vào.

Đấy thuần là cái vô nhiễm

Đang nh́n vào chính nó một cách tự nhiên.



BỐN LỖI



Tại sao người ta thấy khó, ngay cả cái chuyện nghĩ đến chiều sâu và vẻ sáng chói của tự tính tâm? Tại sao đối với nhiều người, đấy dường như là một ư niệm lạ lùng vô lối? Giáo lư nói đến bốn lỗi ngăn cản chúng ta không trực nhận được bản tâm ngay bây giờ:

1. Tự tính tâm quá gần gũi đến nỗi ta khó nhận ra. Cũng như ta không thể nh́n chính cái mặt của ḿnh, tâm cũng thấy rất khó nh́n vào tự tính của chính nó.

2. Nó quá sâu xa chúng ta khó ḍ thấu. Ta không thể biết tâm ta sâu tới mức nào, nếu biết, ta đă ngộ một phần nào tự tính của nó.

3. Nó quá dễ ta không tin nổi. Điều duy nhất ta cần làm là an trú trong sự tỉnh giác sơ nguyên thuần túy của tự tính tâm, cái luôn luôn có mặt hiện tiền.

4. Nó quá kỳ tuyệt ta không dung chứa nổi. Nội một tính chất bao la của nó cũng quá lớn rộng không lọt được vào lối suy nghĩ hẹp ḥi của tâm ta. Ta không thể tin nổi, cũng không thể tưởng tượng nổi rằng giác ngộ lại là bản chất thực sự của tâm chúng ta.

Nếu sự phân tích trên đây về bốn lỗi đă đúng trong nền văn minh Tây Tạng, một nền văn minh hầu như dành trọn cho sự nghiệp giác ngộ, th́ nó lại càng đúng xiết bao ở trong nền văn minh tân tiến hiện nay, một nền văn minh dành phần lớn cho sự nghiệp tôn thờ ảo tưởng. Không bao giờ ở tây phương có một thông tin tổng quát nào về bản chất của tâm.

Văn sĩ và những nhà trí thức chưa từng đề cập tới nó; những triết gia hiện đại không bàn về nó một cách trực tiếp; đa số khoa học gia hoàn toàn phủ nhận sự hiện hữu của nó.

Nó không có chỗ đứng trong văn hóa nhân gian: Không ai hát ca về nó; không ai nói về trong những vở kịch; nó không có trên truyền h́nh. Chúng ta thực sự được giáo dục để tin rằng không ǵ có thực ngoài ra là những cái ta có thể nhận thức được bằng những giác quan thông thường của chúng ta.

Mặc dù sự chối bỏ toàn diện ấy về hiện hữu của tự tính tâm, chúng ta vẫn thỉnh thoảng thoáng thấy được nó. Những “thoáng thấy” ấy được cảm hứng bởi một khúc nhạc hay, bởi thiên nhiên, hoặc bởi một sự cố nhỏ nhặt thường ngày. Chúng có thể phát sinh khi ngắm tuyết rơi, hay nh́n mặt trời lên sau dăy núi, hay ngắm một tia nắng rơi vào pḥng. Những giây phút của sự thắp sáng, của b́nh an và hạnh phúc.

Mặc dù sự chối bỏ toàn diện ấy về hiện hữu của tự tính tâm, chúng ta vẫn thỉnh thoảng thoáng thấy được nó. Những “thoáng thấy” ấy được cảm hứng bởi một khúc nhạc hay, bởi thiên nhiên, hoặc bởi một sự cố nhỏ nhặt thường ngày.

Chúng có thể phát sinh khi ngắm tuyết rơi, hay nh́n mặt trời lên sau dăy núi, hay ngắm một tia nắng rơi vào pḥng. Những giây phút của sự thắp sáng, của b́nh an và hạnh phúc ấy vẫn thường xảy đến với tất cả chúng ta và một cách lạ lùng, nó ở lại với chúng ta.

Tôi nghĩ rằng chúng ta đôi khi cũng hiểu được lờ mờ những cái thoáng thấy ấy, nhưng nền văn hóa ngày nay không cung cấp cho ta một bối cảnh nào để có thể hiểu được chúng. Tệ hơn nữa là, thiên hạ đă không khuyến khích chúng ta nên thám hiểm những cái thấy ấy và đào sâu xem nó từ đâu tới, mà lại c̣n bảo ta, bằng cách vừa tinh vi vừa lộ liễu, phải gạt nó ra ngoài.

Không ai sẽ nghe ta một cách nghiêm túc nếu ta cố san sẻ kinh nghiệm ấy với họ. Bởi thế ta thường tảng lờ những ǵ có thể thực sự là kinh nghiệm mặc khải nhất trong đời ta, nếu ta hiểu được chúng. Đấy có lẽ là khía cạnh đen tối đáng buồn nhất của văn minh hiện đại; Vô minh và áp chế đối với sự thật là ai.



NH̀N VÀO TRONG



Giả sử bây giờ ta làm một cuộc thay đổi, ta không nh́n vào một hướng duy nhất như trước nữa. Ta được dạy phải dành suốt đời để theo đuổi những tư tưởng và dự phóng của ta.

Ngay cả khi nói về “tâm,” th́ ta cũng chỉ nói tới những ư tưởng và cảm xúc của nó; và khi những nhà nghiên cứu khảo sát cái mà họ tưởng là tâm, th́ họ cũng chỉ nh́n thấy những phóng ảnh của nó.

Chưa từng có ai thực sự nh́n vào chính cái tâm, nền tảng từ đó tất cả những tư tưởng ngôn từ khởi lên, và điều này có những hậu quả bi thảm. Như Padmasambhava nói:

- Ngay cả khi cái thường gọi là “tâm” được nhiều người bàn tới,

Nó vẫn không được hiểu thấu, hoặc hiểu sai lạc, một chiều.

V́ tâm không được hiểu đúng như nó là, trong bản chất nó,

Cho nên có nhiều tư tưởng triết học và lư thuyết ra đời.

Lại v́ người, thường không hiểu được tâm.

Nên họ không nhận ra bản lai diện mục họ

Và tiếp tục lang thang trong sáu nẻo luân hồi và ba cơi hữu mà kinh quá khổ đau.

Bởi thế không hiểu được bản tâm của bạn là một lỗi rất đáng buồn.

Làm sao chúng ta có thể lật ngược t́nh huống? Rất giản dị. Tâm ta chỉ có hai vị trí: Nh́n ra và nh́n vào.

Nay ta hăy nh́n vào.

Điều khác biệt mà việc chuyển hướng nh́n ấy đem đến lại có thể rất lớn lao, có thể lật lại những tai ách đang đè nặng thế giới. Khi có một số lớn người biết được bản tâm của họ, họ cũng sẽ biết được bản chất đầy quang vinh của cái thế giới trong đó họ sống, và phấn đấu một cách dũng cảm cấp thiết để bảo tŕ nó.

Một điều thú vị là tiếng Tây Tạng gọi Phật tử là nangpa là “người ở trong”, nghĩa là người không t́m kiếm chân lư ở bên ngoài mà t́m trong bản chất của tâm. Mọi giáo lư và thực tập trong Phật giáo đều dẫn đến một điểm duy nhất là nh́n vào tự tính của tâm, và nhờ vậy giải thoát ta khỏi nỗi sợ chết và giúp ta nhận chân được sự thật của cuộc đời.

Việc nh́n vào trong (nội quán) đ̣i hỏi ta phải có sự tế nhị sâu sắc và đức can đảm lớn lao - một thay đổi tận gốc trong thái độ của ta đối với cuộc đời và tâm thức. Chúng ta đă quá ghiền nh́n ra ngoài đến nỗi ta hầu như hoàn toàn mất liên lạc với bản thể sâu xa của ta.

Chúng ta sợ phải nh́n vào trong, v́ nền văn hóa chúng ta không cho ta biết một tí ǵ về những cái ta sẽ t́m gặp. Chúng ta lại c̣n nghĩ rằng nếu nh́n vào trong, ta sẽ có nguy cơ bị điên loạn. Điều này là một trong những mánh khóe cuối cùng, hiệu lực nhất của bản ngă để ngăn cản ta khám phá bản chất chân thực của ḿnh.

Chúng ta đă làm cho đời sống trở nên cuồng nhiệt tới nỗi ta trừ khử mọi lăm le muốn nh́n vào trong. Cả đến ư nghĩ “ngồi thiền” cũng làm cho người ta sợ hăi. Khi nghe nói đến “Không” hay “vô ngă”, họ tưởng là ḿnh phải trải qua những trạng thái như bị ném ra khỏi con tàu vũ trụ để chơi vơi giữa khoảng không lạnh lẽo âm u.

Thực không ǵ sai lạc sự thật hơn thế. Nhưng trong một thế giới dành trọn cho cuộc giải trí, th́ sự im lặng và yên lặng làm cho ta sợ hăi; ta tự bảo về để tránh né chúng bằng sự huyên náo và những công việc rộn ràng. Nh́n vào bản chất của tâm ta là chuyện chót bẹt mà ta dám làm.

Đôi khi tôi nghĩ rằng chúng ta không muốn đặt câu hỏi nghiêm túc nào về ta là ai, v́ sợ sẽ khám phá có một thực tại khác hơn sự thực, hiện tại này. Sự khám phá ấy sẽ làm ǵ với cái kiểu sống của ta bấy lâu nay?

Bạn bè, đồng nghiệp của ta sẽ phản ứng ra sao trước cái điều mà bây giờ ta mới biết? Kèm theo hiểu biết là trách nhiệm. Có đôi khi kẻ tù nhân chọn lựa ở lại, ngay cả khi cánh cửa ngục tù đă được mở tung.



NHỮNG HỨA HẸN CỦA GIÁC NGỘ



Trong thế giới hiện nay, ít có những mẫu người thể hiện được những đức tính do sự trực ngộ bản tâm đem lại. Bởi thế thực khó cho chúng ta tưởng tượng được giác ngộ ra sao, nhận thức của một người đă giác ngộ là thế nào, huống hồ tin nổi rằng chính ḿnh cũng có thể giác ngộ.

Mặc dù luôn luôn đề cao giá trị đời sống và tự do cá nhân, xă hội chúng ta kỳ thực xem chúng ta như những kẻ luôn bị ám ảnh bởi quyền lực, tiền và dục tính, và bất cứ lúc nào cũng cần phải lôi kéo chú ư của ta ra khỏi sự chết chóc, hay sự sống chân thực.

Nếu có ai bảo cho ta biết, hay nếu ta bắt đầu “đánh hơi” được tiềm năng sâu xa của ḿnh, th́ ta không thể nào tin nổi chuyện ấy; và khi ta động nghĩ tới việc làm một cuộc chuyển hóa tâm linh, ta lại thấy rằng chỉ có những bậc thánh hiền trong quá khứ mới làm nổi điều ầy.

Đức Dalai Lama thường nói đến sự thiếu niềm tự tôn trọng, tự thương lấy ḿnh nơi nhiều người trong thế giới hiện nay. Bên dưới toàn bộ nhân sinh quan của ta là một sự cả quyết ta. Điều ấy làm cho ta mất hết hy vọng thức tỉnh, và ngược lại với chân lư trọng tâm của lời Phật dạy, đó là, tự cốt tủy, chúng ta vốn toàn thiện.      

Ngay cả khi có thể nghĩ đến chuyện đạt giác ngộ, th́ chỉ cần nh́n vào những ǵ làm nên cái tâm thường ngày của ta giận dữ, tham lam, ganh tị, ác ư, bạo tàn, nhục dục, sợ hăi, lo lắng, giao động cũng đủ làm cho ta không c̣n hy vọng ǵ đạt giác ngộ, nếu ta không được bảo cho biết rơ về tự tính thanh tịnh của tâm, và về khả năng ta chắc chắn có thể thực chứng được tự tính ấy.

Nhưng sự giác ngộ vốn thực có, và có nhiều bậc thầy đă giác ngộ hiện c̣n sống trên trái đất. Khi bạn gặp được một vị như vậy, bạn sẽ xúc động tận tâm can và sẽ thấy rằng mọi danh từ, như “giác ngộ” và “trí tuệ”, mà lâu nay bạn tưởng chỉ là những ư niệm, th́ ra là có thực. Mặc dù đầy những nguy hiểm, thế giới nay vẫn là một cơi thật hấp dẫn.

Tâm thức tây phương đang dần mở ra trước những tri kiến khác nhau về thực tại. Những bậc thầy vĩ đại như đức Dalai Lama và Mẹ Teressa có thể được trông thấy trên màn ảnh truyền h́nh; nhiều bậc thầy đông phương đang viếng thăm và giảng dạy giáo lư ở Tây phương.

Và những sách vở từ mọi truyền thống huyền học đang càng ngày càng có nhiều độc giả. T́nh trạng tuyệt vọng của hành tinh này đang dần dần đánh thức mọi người tỉnh dậy để thấy sự cấp thiết phải thay đổi trên một phạm vi rộng lớn có tính cách toàn cầu.

Sự giác ngộ, như tôi đă nói, là có thực, và bất cứ ai trong mỗi chúng ta cũng có thể, nếu được huấn luyện đúng cách, và gặp đúng “thời tiết nhân duyên”, sẽ trực nhận được tự tính tâm và nhờ thế biết được trong ta có cái bất tử và vĩnh viễn thuần tịnh. Đấy là sự hứa hẹn trong mọi truyền thống huyền học của nhân loại, và nhiều ngàn người đă và đang thực chứng điều đó.

Điều kỳ diệu của sự hứa hẹn này là, nó không phải là một cái ǵ thần kỳ, xa lạ ǵ cả, nó không phải chỉ dành cho một số ít người xuất sắc được chọn lọc, mà dành cho toàn thể loài người; và khi trực nhận được bản tâm, th́ thấy như lời các thiền sư bảo, nó b́nh thường một cách kỳ lạ. Chân lư về tâm không phải là một cái ǵ rắc rối bí truyền, nó kỳ thực là lương tri sâu xa.

Khi ta trực ngộ bản tâm, th́ những tầng lớp mê lầm rơi rụng. Thực sự không phải là bạn “thành” Phật, mà bạn chỉ có chấm dứt mê hoặc, hết bị ảo tưởng lừa dối. Và thành Phật không có nghĩa là thành một siêu nhân có nhiều quyền năng tâm linh, mà thành một con người đúng nghĩa.

Một trong những truyền thống lớn của Phật giáo Tây Tạng gọi bản chất của tâm là “trí tuệ của b́nh thường”. Tôi phải nhắc lại lời này nhiều lần mới được: Tự tính chân thực của chính ta, với bản tính của mọi sự vật không phải là một cái ǵ lạ lùng. Điều mỉa mai là, chính cái thế giới mà ta gọi là thường nhật ấy mới thực lạ lùng, một màn ảo hóa li kỳ tinh vi của cái thấy mê lầm trong sinh tử.

Chính cái thấy “lạ lùng” ấy đă làm ta mù mắt đối với bản tính tự nhiên, “b́nh thường” của tâm. Hăy thử tưởng tượng những vị Phật đang nh́n xuống chúng ta: các ngài sẽ kinh ngạc đau buồn xiết bao để thấy sự khôn lanh chết người, và tính phức tạp trong cái vô minh của chúng ta.

Đôi khi, chính v́ ta vẫn thường rắc rối một cách không cần thiết, mà khi được một bậc thầy khai thị bản tâm, ta không thể tin được rằng nó quá đơn giản như thế. Cái tâm thường ngày của ta bảo ta rằng không thể thế được, phải có cái ǵ khác hơn thế chứ.

Chắc phải “huy hoàng” hơn, phải có nhiều hào quang xẹt xung quanh ta, có chư thiên với đầu tóc vàng óng bay lả tả từ trên trời sà xuống gặp ta mà loan tin “Thế là bạn đă được khai thị bản tâm rồi đấy”. Hoàn toàn không có cái màn ấy đâu.

V́ trong nền văn hóa chúng, ta, chúng ta đă quen đánh giá tri thức quá cao, nên ta cứ tưởng rằng muốn giác ngộ th́ cần phải có một trí thông minh phi thường. Tây Tạng có một ngạn ngữ rằng: “Nếu bạn quá thông minh, bạn có thể hụt mất hoàn toàn cái cốt tủy.”

Patrul Rinpoche nói:

- Cái tâm duy lư có vẻ hay đấy, nhưng chính nó là hạt giống của mê lầm.

Con người có thể bị ám ảnh bởi chính những lư thuyết của ḿnh và hụt mất cái cốt tủy trong mọi sự. Ở Tây Tạng chúng tôi thường nói: “Lư thuyết giống như những miếng vá trên chiếc áo, có ngày cũng phải cũ ṃn.”

Tôi xin kể cho bạn nghe một mẫu chuyện lư thú:

- Một bậc thầy vĩ đại vào thế kỷ trước có một đệ tử rất ngu đần. Ông đă giảng dạy nhiều lần, cố khai thị cho y trực ngộ bản tâm, mà y vẫn không ngộ. Cuối cùng, bậc thầy nổi giận bảo, “Này, ngươi hăy mang bao lúa mạch này lên trên đỉnh núi xa kia, nhưng không được dừng lại nghỉ.

Phải đi một mạch cho tới đỉnh núi”. Người đệ tử tuy ngu đần song có ḷng sùng kính và hoàn ṭan tin tưởng nơi thầy, nên đă làm y như lời thầy dạy. Bao lúa rất nặng, nhưng y vẫn mang lên giốc núi không dám dừng lại nghỉ. Y cứ đi măi đi măi, và cái bao mỗi lúc một năng thêm. Y phải mất một thời gian dài, và cuối cùng, khi lên tới đỉnh núi, y thả cái bao ngồi phịch xuống đất, kiệt sức v́ mệt nhọc nhưng bắt đầu thư giăn, nhẹ nhàng.

Y cảm thấy gió núi mát lạnh trên mặt. Tất cả sự trơ ĺ đối với giác ngộ nơi y bỗng tan biến, cùng với cái tâm thường ngày của y. Mọi sự dường như ngừng phắt lại. Ngay lúc ấy, y th́nh ĺnh trực ngộ bản tâm. Y nghĩ, “Ồ, th́ ra đây là cái mà thầy đă chỉ cho ta bấy lâu nay”.

Y chạy xuống núi trở về, và trái với mọi quy ước thường ngày y đâm sầm vào pḥng thầy. “Con nghĩ rằng con đă được nó... Con thực sự đă được nó!” Vị thầy mỉm cười đầy cảm thông nh́n y mà nói: “Thế là con đă có một chuyến leo núi thú vị đấy chứ?”

Ngay cả bạn, bất kể bạn là ai, cũng có thể có cái kinh nghiệm mà người môn đệ kia đă gặp trên đỉnh núi, và chính cái kinh nghiệm ấy sẽ đem lại cho bạn đức tính vô úy để điều đ́nh với sống chết. Nhưng ǵ là cách tốt nhất, nhanh nhất, và hiệu nghiệm nhất để khởi hành đi t́m nó? Bước đầu tiên là thực tập thiền định.

Chính thiền định dần dần thanh lọc cái tâm thường ngày, lột mặt nạ nó, làm cho kiệt quệ những ảo tưởng và tập quán của nó, để chúng ta có thể, vào đúng thời tiết, trực nhận ra ta là ai.

















Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 426 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 6:57pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TẠNG THƯ SỐNG CHẾT


5. ĐƯA TÂM VỀ NHÀ


Trên hai ngàn năm trăm năm về trước, một người đă đi t́m chân lư trong nhiều đời kiếp, đi đến một chỗ thanh vắng miền Bắc Ấn và ngồi dưới một bóng cây. Người ấy tiếp tục ngồi dưới cây với một tâm cả quyết vô biên, và thề sẽ không đứng dậy nếu không t́m ra chân lư.

Tương truyền vào lúc hoàng hôn, người ấy đă chiến thắng tất cả những năng lực hắc ám của mê vọng; và b́nh minh hôm sau, khi ngôi sao Mai xuất hiện trên nền trời, người ấy đă được đền bù cho ḷng kiên nhẫn trường kỳ, cho kỉ luật và sự tập trung toàn hảo của ḿnh bằng sự chứng đắc tuệ giác, cái mục đích tối thượng của đời người.

Vào giờ phút thiêng liêng ấy, trái đất cũng phải rùng ḿnh như thể “say sưa trong niềm phúc lạc”, và kinh điển đă ghi rằng “Không ai trong giờ phút ấy, ở bất cứ đâu, nổi giận, hay ốm đau, buồn khổ, không ai làm ác, không ai kiêu căng ngă mạn; thế giới trở nên hoàn toàn thanh tịnh, dường như thể vừa đạt tới sự toàn thiện.

Con người ấy được biết dưới danh hiệu là Đức Phật. Thầy Nhất Hạnh đă mô tả sự giác ngộ của Phật bằng những lời đẹp đẽ như sau:

- Gautama cảm thấy như thể là cái ngục tù giam giữ ḿnh cả ngàn đời, vừa mới mở tung. Vô minh chính là người giữ ngục. V́ vô minh, tâm người đă bị che mờ, hệt như trăng sao bị mây che trong bầu trời giông băo.

Bị vây bủa bởi nhiều làn sóng vọng tưởng bất tận, tâm ta đă cắt xén thực tại một cách sai lầm thành ra chủ thể và đối tượng, ta và người, hữu và phi hữu, sinh và tử, và do phân biệt khởi lên tà kiến đó là những ngục tù của thọ, ái, thủ và hữu. Nỗi khổ sinh già bệnh chết chỉ làm cho tường vách nhà tù dày thêm.

Điều duy nhất phải làm là tóm lấy kẻ giữ ngục mà nh́n vào mặt thật của y. Kẻ giữ ngục chính là vô minh... Khi kẻ giữ ngục đă bỏ đi, th́ nhà tù sẽ tan biến và không bao giờ được xây trở lại.

Những ǵ Phật thấy là, sự không biết bản tâm chính là nguồn gốc của tất cả đau khổ trong sinh tử, và nguồn gốc của vô minh chính là khuynh hướng xao lăng của tâm ta, cái khuynh hướng đă thành thói quen khó gỡ.

Chấm dứt cái tâm lơ đễnh ấy chính là chấm dứt sinh tử; và ch́a khóa đưa đến sự chấm dứt là đưa tâm về nhà, trở về bản tính chân thực của nó, nhờ sự thực tập thiền định.

Đức Phật ngồi trên đất với cung cách khiêm hạ b́nh an, trên cao và quanh ngài là trời đất bao la, như thể chỉ cho ta rằng trong khi thiền định, bạn nên ngồi với một tâm thái rộng mở khoáng đạt như bầu trời, mà đồng thời vẫn hiện diện, có nền tảng vững vàng trên mặt đất. Bầu trời là bản tính tuyệt đối của chúng ta, vốn không có rào ngăn, không biên giới, c̣n mặt đất là thực tại của chúng ta, hoàn cảnh tương đối và thường nhật của ta.

Dáng ngồi khi ta thiền định có nghĩa rằng ta đang nối cái tuyệt đối với tương đối, trời và đất, như đôi cánh của một con chim, thể nhập cái bản tâm bất tử như bầu trời, với cái bản chất phù du khả loại của ta như đất.

Năng khiếu tập thiền định là năng khiếu vĩ đại nhất mà bạn có thể tự đem lại cho ḿnh trên cuộc đời này. V́ chỉ nhờ thiền định bạn mới có thể khởi hành cuộc hành tŕnh đi t́m bản chất chân thực của bạn, và nhờ vây t́m thấy niềm tin vững chải mà bạn cần, để sống tốt đẹp và chết tốt đẹp. Thiền định chính là con đường đưa đến tuệ giác.



LUYỆN TÂM



Có rất nhiều cách tŕnh bày về thiền định, và có lẽ tôi đă giảng dạy cả ngàn lần về thiền, nhưng mỗi lần một khác, và mỗi lần nó đều trực tiếp và mới mẻ.

May thay ta sống trong một thời đại mà tất cả mọi người trên thế giới đều quen thuộc với thiền định. Càng ngày thiền càng được chấp nhận như một lối tập luyện, bỏ qua và vượt trên tất cả những hàng rào văn hóa và tín ngưỡng, giúp hành giả thiết lập một tiếp xúc thẳng với sự thật của bản thể họ. Đấy là một luyện tập vượt ngoài giáo điều của các tôn giáo, và là tinh túy của tôn giáo.

Thông thường chúng ta lăng phí đời ḿnh, lạc ra ngoài cái ngă chân thực của ta, trong những hoạt động bất tận. Thiền trái lại, là phương pháp đưa ta trở về chính ḿnh, ở đấy ta có thể thực sự chứng nghiệm và thưởng thức cái bản thể toàn vẹn của ta, vượt ngoài mọi mẫu mực thói quen.

Những cuộc đời của chúng ta được sống trong đấu tranh căng thẳng và lo âu, trong sự quay cuồng của tốc độ và bạo động, trong cạnh tranh, bám víu, chiếm hữu, thành công, ta măi măi chất đầy những hoạt động và bận rộn thuộc ngoại vi. Thiền chính là cái ngược lại. Thiền định là làm một cuộc tuyệt giao với cái cách ta hành động “b́nh thường” v́ đấy là trạng thái không lo lắng không bận tâm, không có cạnh tranh.

Không có ham muốn sở hữu hay níu kéo một thứ ǵ, không có sự phấn đấu quyết liệt đầy âu lo, và không có sự khao khát đạt thành: Một trạng thái không có tham vọng không có lấy hay bỏ, không hy vọng cũng không sợ hăi, một trạng thái trong đó ta dần khởi sự buông bỏ mọi cảm xúc và khái niệm đă giam hăm ta để tung cánh vào bầu không gian của tính tự nhiên đơn giản.

Những bậc thầy về thiền định trong Phật giáo biết rơ tính dẻo dai, dễ sử dụng của tâm là như thế nào. Nếu ta luyện được nó, th́ không có ǵ là bất khả. Quả thực ta đă được huấn luyện một cách thuần thục bởi sinh tử và cho sinh tử, được luyện để nổi ghen tuông, được luyện để bám víu chấp thủ, được luyện để lo âu, phiền muộn, thất vọng, thèm khát; được luyện để phản ứng một cách tức giận đối với bất cứ ǵ khiêu khích chúng ta.

Thực vậy, chúng ta được luyện thuần thục tới mức độ mà những cảm xúc tiêu cực ấy khởi lên một cách tự nhiên, chúng ta không cần cố gắng làm cho chúng phát sinh ra. Bởi thế, mọi sự đều là vấn đề huấn luyện, và năng lực của thói quen. Nếu tâm chuyên chú vào sự nghiệp vô minh th́ ta sẽ thấy nó trở thành một chúa tể của vô minh, chuyên viên nghiện ngập, tinh vi và mềm dẻo trong thói nô lệ của nó.

Nếu tâm chuyên chú vào thiền định, vào sự nghiệp tự giải thoát ra khỏi ảo tưởng, th́ ta sẽ thấy với thời gian, kiên nhẫn, kỷ luật, và luyện đúng – tâm ra khởi sự mở gút và biết được niềm phúc lạc và trong sáng nguyên ủy của nó.

“Luyện” tâm tuyệt nhiên không có nghĩa là gượng ép ức chế nó, hay tẩy năo cái tâm. Luyện tâm là trước hết thấy được một cách trực tiếp và cụ thể, tâm thực sự vận hành như thế nào, một hiểu biết mà ta có thể rút từ những giáo lư tâm linh và qua kinh nghiệm của ḿnh trong sự thực hành thiền định.

Rồi bạn có thể dùng sự hiểu biết ấy để thuần hóa cái tâm và làm việc với nó một cách khéo léo, làm cho nó càng ngày nhu nhuyến, để bạn có thể trở thành chủ nhân của chính tâm ḿnh và sử dụng nó cho cứu cánh viên măn và lợi lạc nhất.

Bậc thầy Shantideva vào thế kỷ thứ tám có nói:

- Nếu buộc chặt con voi tâm bằng sợi dây chánh niệm

Th́ mọi sợ hăi tan biến, hạnh phúc toàn vẹn đến với ta

Tất cả kẻ thù: cọp, sư tử,, voi, gấu, rắn những cảm xúc;

Tất cả ngục tốt ở địa ngục; ngạ quỷ, những sự khủng khiếp

Tất cả thứ ấy đều bị trói nhờ bạn đă làm chủ được tâm.

Hàng phục một tâm ấy, th́ mọi sự đều được hàng phục.

V́ do tâm mà có ra mọi sợ hăi và vô lượng khổ đau.

Cũng như một văn sĩ sau nhiều năm dày công học hỏi mới có được cách diễn đạt tự nhiên, hoặc như một vũ công chỉ thành đạt nhờ nỗ lực lớn và kiên nhẫn, cũng thế khi bạn bắt đầu hiểu được thiền định sẽ đưa bạn tới đâu, th́ bạn sẽ xem nó như sự nghiệp lớn nhất của đời ḿnh, và nó đ̣i hỏi ở bạn một sự kiên tŕ sâu xa, ḷng hăng hái, trí thông minh, và kỷ luật.



TRỌNG TÂM CỦA THIỀN ĐỊNH



Mục đích thiền định là để làm thức dậy trong ta cái tự tính của tâm giống như bầu trời ấy, và để cho ta thấy bản lai diện mục của ta, tính giác không thay đổi nơi ta, cái nằm đằng sau toàn thể sự sống và chết.

Trong cái yên lặng và im lặng của thiền, ta thoáng thấy và quay về với sự tự tính sâu xa ấy, cái mà từ quá lâu ta đă không thấy được giữa những bận rộn và xao lăng của tâm. Có phải lạ lùng, là tâm ta không thể ở yên lâu hơn chốc lát mà không theo đuổi bám víu một lối xao lăng nào đó.

Nó bất an, rộn ràng tới nỗi lắm lúc tôi nghĩ rằng, sống trong một đô thị tân tiến, là ta đă giống như những linh hồn bị dày ṿ trong trạng thái trung gian sau khi chết, lúc mà tâm (theo Tử thư) được mô tả là vô cùng xao xuyến. Theo tài liệu đáng tin, th́ hết mười ba phần trăm người ở Mỹ mắc phải chứng rối loạn thần kinh. Điều ấy nói ǵ về cách sống của chúng ta?

Chúng ta bị phân đoạn thành quá nhiều phương diện khác nhau. Chúng ta không biết ḿnh thực sự là ai, hay ta nên đồng hóa ḿnh với phương diện nào, nên tin tưởng cái ǵ. Quá nhiều tiếng nói mâu thuẫn, nhiều mệnh lệnh và cảm thức khác nhau giành giựt quyền kiểm soát đời sống nội tâm ta, đến nỗi ta tự thấy ḿnh ră rời ra từng mảnh ở khắp mọi nơi, mọi hướng, không c̣n ai ở nhà.

Thiền định, như vậy, chính là đem tâm trở về nhà.

Trong giáo lư Phật, chúng ta nói có ba việc làm nên sự khác nhau sự tu thiền của bạn, hoặc để đem lại thoải mái b́nh an tạm thời, hoặc để đưa đến tự giác giác tha. Ba việc đó gọi là “tốt ở chặng đầu, chặng giữa và chặng cuối.”

·        Tốt ở chặng đầu bắt nguồn từ cái ư thức rằng chúng ta và mọi hữu t́nh tự căn để, đều có Phật tính, tinh chất sâu xa nhất của ta, và trực ngộ được nó th́ thoát khỏi vô minh và chấm dứt vĩnh viễn mọi đau khổ.

Bởi vậy mỗi lần khởi sự tập thiền định, chúng ta được điều động bởi cái ư thức ấy, và phát tâm cống hiến sự tập thiền của ḿnh và cả cuộc đời ḿnh cho việc giác ngộ tất cả chúng sinh, trong tinh thần lời nguyện sau đây, mà chư Phật trong quá khứ đă từng phát ra:

Nhờ năng lực và chân lư của tập luyện này,

Mong tất cả hữu t́nh được hạnh phúc, và nhân của hạnh phúc.

Mong tất cả đều thoát khổ đau, và nhân của khổ đau;

Mong tất cả không rời hạnh phúc tối thượng, không sầu;

Mong tất cả sống hỉ xả không thương ghét

Và sống tin ở b́nh đẳng của mọi loài.

Tốt ở chặng giữa là tâm thái khi ta đi vào trọng tâm của luyện tập, mong thực chứng bản tâm, từ đấy khởi lên sự không chấp thủ, thoát khỏi mọi khái niệm phân biệt, và một tỉnh thức để thấy mọi sự tự nó trống rỗng không thực chất, như huyễn, như mộng.

Tốt ở chặng cuối là cách ta kết thúc thời thiền tập bằng sự hồi hướng tất cả công đức, với lời cầu nguyện thành thiết như sau:

- Mong rằng, bất cứ công đức ǵ có được do thời thiền tập này, đều hướng về sự giác ngộ tất cả hữu t́nh; mong rằng nó trở thành một giọt nước trong biển công hạnh của chư Phật đang làm việc không biết mệt để giải thoát tất cả chúng sinh.

Công đức là công năng tích cực và lợi lạc, niềm b́nh an hạnh phúc mà sự tu tập thiền định của bạn tỏa chiếu ra. Bạn cống hiến công đức ấy cho sự an lạc lâu dài của hữu t́nh, cho sự giác ngộ của chúng. Gần hơn, th́ bạn hồi hướng cầu nguyện cho ḥa b́nh thế giới, cho mọi người thoát khỏi thiếu thốn bệnh tật, được sức khỏe và hạnh phúc lâu bền.

Rồi, khi nhận thức bản chất mộng huyễn của thực tại, bạn tư duy rằng, trong ư nghĩa sâu kín nhất, th́ bạn, người hồi hướng, những chúng sinh mà bạn cống hiến công đức, và chính cái hành vi hồi hướng, cả ba thứ đều trống rỗng, huyễn hóa.

Điều này được nói trong giáo lư là để “niêm phong” thời thiền định, bảo đảm sao cho không một giọt nào của công năng thuần tịnh của nó bị ṛ rỉ, và để chắc chắn không một chút công đức nào của sự thực hành là bị lăng phí.

Những nguyên tắc thiêng liêng này – cách khởi tâm thiện xảo, thái độ không chấp thủ, và sự hồi hướng sau cùng để niêm phong, là những ǵ làm cho việc thiền tập của bạn thực sự có năng lực, đem lại giác ngộ. Ba nguyên lư này được Longchenpa bậc thầy Tây Tạng mô tả là “trái tim, con mắt và sức sống của sự thực hành chân chính.” Như Nyoshul Khenpo nói:

- Muốn đạt toàn giác, nhiều hơn thế th́ dư, mà ít hơn th́ thiếu.



LUYỆN TẬP CHÁNH NIỆM



Thiền định là đưa tâm về nhà, và việc này trước hết được hoàn tất nhờ luyện tập chánh niệm.

Một lần có một thiếu phụ đến hỏi Bụt làm cách thế nào để thiền. Bụt bảo nàng hăy ư thức từng động tác của đôi tay khi nàng kéo nước giếng, v́ ngài biết như vậy nàng sẽ tự thấy ḿnh ở trong tâm trạng an b́nh, khoáng đạt và bén nhạy, mà chính là thiền định.

Sự thực tập chánh niệm, đưa cái tâm phân tán trở về nhà và do đó tập trung ư thức vào những khía cạnh khác nhau của con người chúng ta được gọi là “Tịnh trú” hay “An trú,” thành tựu được ba việc.

Trước hết, mọi mảnh vụn của con người ta thường mâu thuẫn chống chọi nhau – bây giờ ổn định, tan ḥa và trở thành bạn. Trong sự ổn định ấy ta bắt đầu hiểu ḿnh hơn, và đôi khi c̣n thoáng thấy được tia sáng tự tính bản nhiên của ta.

Thứ hai là, luyện tập thiền định làm tiêu tan tính tiêu cực, bạo hành nơi ta, những cảm xúc hỗn độn đă chứa nhóm nhiều đời. Thay v́ đàn áp chúng hay bị lôi cuốn theo chúng, ở đây điều quan trọng là ngắm nh́n chúng và bất cứ ǵ khởi lên trong tâm, với sự chấp nhận và bao dung, càng cởi mở càng tốt.

Những bậc thầy Tây Tạng thường bảo rằng tính độ lượng sáng suốt ấy giống như không gian vô biên, thân thiết và dễ chịu, làm bạn cảm thấy như thể được bao phủ, được che chở trong một cái mền bằng ánh sáng.

Dần dần, khi bạn vẫn ở trong trạng thái cởi mở, tỉnh giác ấy, và dùng một trong những phương pháp sẽ nói sau, để làm cho tâm càng lúc càng tập trung hơn, tính tiêu cực nơi bạn càng ngày càng tan loăng ra; bạn khởi sự cảm thấy thoải mái trong toàn diện bản thể bạn, hay như ngựi Pháp nói, être bien dans sa peau.

Từ đấy phát sinh sự buông xả và một niềm an lạc sâu xa. Theo tôi th́ sự tập luyện này là cách tốt nhất để chữa trị thân bệnh và tâm bệnh nơi bạn.

Thứ ba, sự tập luyên này vén màn, làm hiển lộ Thiện tâm căn bản của bạn, v́ nó làm tan biến thói hung ác hay tác hại ở trong bạn. Chỉ khi trừ khử được thói ấy ta mới thực sự hữu ích cho người khác.

Vậy th́ nhờ tập luyện, trừ khử dần thói ác tác hại khỏi tâm ta, mà ta có thể để cho Thiện tâm chân thực của ta – ḷng tử tế, từ bi tự nhiên nơi ta chiếu sáng, và trở thành bầu khí hậu cho bản thể đích thực của ta phát triển.

Bây giờ bạn thấy tại sao tôi gọi thiền định là sự thực hành chân thực để đi đến ḥa b́nh, đi đến sự không gây hấn, đi đến sự bất bạo động. Đấy là sự giải trừ vũ khí chân thực và quan trọng nhất.



SỰ B̀NH AN TỰ NHIÊN



Mỗi khi giảng dạy thiền định, tôi thường bắt đầu bằng câu nói:

- Hăy đưa tâm bạn về nhà. Buông xả, và thư giăn.

Toàn thể sự thực hành thiền định có thể rút gọn vào ba điểm cốt yếu đó: Đưa tâm về nhà, buông xả và thư giăn.

Đưa tâm về nhà có nghĩa là hướng dẫn tâm đến trạng thái An trú nhờ thực tập chánh niệm. Trong ư nghĩa sâu xa nhất, th́ đưa tâm về nhà có nghĩa là xoay tâm vào trong và an trú trong bản tánh tự nhiên của nó. Điều này chính là thiền định tối thượng.

Buông xả là giải phóng tâm khỏi ngục tù chấp thủ, v́ bạn đă nhận thấy rằng mọi đau khổ, sợ hăi và lo buồn đều bắt nguồn từ sự khát ái của tâm chấp thủ. Ở b́nh diện sâu xa hơn, sự thực chứng, niềm tin phát sinh do hiểu rơ bản chất của tự tâm sẽ làm cho bạn có được tính bao dung sâu sắc và tự nhiên, khiến bạn dễ dàng buông hết mọi chấp thủ của ḿnh, để cho nó tự bay mất, tan vào trong nguồn cảm hứng của thiền định.

Cuối cùng, thư giăn có nghĩa là khoáng đạt, giải tỏa tâm khỏi mọi căng thẳng. Sâu hơn nữa, là bạn thể nhập vào bản tính chân thực tự nhiên của tâm bạn một cách thoải mái, vào trạng thái Rigpa. Tạng ngữ diễn tả tiến tŕnh này là “thư giăn trên Rigpa”.

Giống như khi ta đổ một nắm cát trên một mặt phẳng, th́ mỗi hạt cát tự động an trú. Đấy là cách bạn thư giăn vào trong bản tính chân thực của bạn, để cho mọi ư nghĩa cảm xúc tự động rút lui, tan biến vào trong trạng thái tâm tự nhiên.

Mỗi khi thiền định, bài thơ sau đây của Nyoshul Khenpo luôn luôn gây cho tôi nguồn cảm hứng:

Hăy an trú tịch nhiên

Cái tâm mệt mỏi này

bị nghiệp làm xơ xác

với tư duy cuồng loạn

như sóng vỗ không ngừng

trong biển lớn sinh tử.

Hăy an trú tịch nhiên.

Cần nhất là ta hăy thoải mái tự nhiên và khoáng đạt như hư không. Hăy lặng lẽ chuồn ra khỏi cái tḥng lọng của bản ngă đầy lo âu thường ngày, buông mọi sự bám víu, và thả ḿnh vào trong bản tính chân thực của bạn. Hăy tưởng đến cái tôi thường nhật của bạn như một khối băng hay một thỏi bơ để dưới ánh mặt trời.

Nếu bạn đang cảm thấy cứng cỏi lạnh lùng, th́ hăy để cho sự cứng cỏi ấy tan ra trong ánh mặt trời thiền định. Để cho niềm b́nh an làm việc trên bạn, giúp bạn thâu nhặt lại cái tâm phân tán gom vào trong sự An trú, và đánh thức dậy sự tỉnh giác và cái thấy sâu xa của Minh kiến.

Rồi bạn sẽ thấy tất cả thói tiêu cực nơi ḿnh bị tước khí giới, tính bạo động tan ra, vọng tưởng chầm chậm tiêu tan như thể sương mù tan vào trong bầu trời khoáng đạt vô nhiễm của tính tự nhiên tuyệt đối nơi bạn.

Khi ngồi lặng lẽ, thân yên, lời im, tâm am tĩnh, bạn hăy để cho những ư tưởng, cảm xúc hay bất cứ ǵ khởi lên, tự đến và đi, không bám víu vào cái ǵ.

Trạng thái ấy ra thế nào? Dudjom Rinpoche thường nói, hăy tưởng tượng một nông phu suốt ngày làm lụng mệt nhọc ngoài đồng, bây giờ đang ngồi thoải mái trước ḷ sưởi, trong chiếc ghế mà ông yêu thích. Ông đă làm lụng trọn ngày và biết ḿnh đă làm những ǵ cần hoàn tất, không c̣n ǵ phải lo, không c̣n việc ǵ chưa xong, ông có thể buông bỏ hoàn toàn mọi lo âu bận bịu, và bây giờ hài ḷng, ông chỉ là, không c̣n ǵ phải làm nữa.

Vậy, khi thiền định, điều cần thiết là bạn phải tạo ra bối cảnh nội tâm cho thích hợp. Mọi nỗ lực và phấn đấu xảy ra đều do bởi cái tâm không khoáng đạt như hư không, bởi thế tạo ra bối cảnh thích hợp ấy là điều cốt yếu để cho thiền định thực sự xảy đến. Khi điều kiện ấy có mặt, th́ thiền định phát sinh không cần nỗ lực.

Đôi khi, lúc thiền định, tôi không dùng một phương pháp đặc biệt nào cả. Tôi chỉ để cho tâm an nghỉ, và thấy rằng tôi có thể đưa tâm về nhà và thư giăn một cách mau lẹ, nhất là mỗi khi được cảm hứng. Tôi ngồi yên lặng và an trú trong tự tính của tâm; tôi không cần tự hỏi ḿnh có ở trong trạng thái “đúng” hay không.

Không có nỗ lực, chỉ có sự hiểu biết dồi dào, sự tỉnh thức, và một niềm xác tín không lay chuyển. Khi tôi ở trong trạng thái tâm bản nhiên ấy, th́ cái tâm thường ngày không c̣n ở đấy. Không cần xác định một cảm thức hiện hữu nào: tôi chỉ đang là, một cách đơn giản. Một niềm tin tưởng căn để đang có mặt. Không có việc ǵ đặc biệt phải làm.



PHƯƠNG PHÁP TRONG THIỀN



Nếu tâm bạn tự nó có thể an trú một cách tự nhiên và nếu bạn thấy ḿnh có thể trú trong sự tỉnh thức thuần tịnh của tâm bạn, th́ khi ấy bạn không cần phương pháp nào để thiền định nữa. Quả thế, đôi khi c̣n không nên cố sử dụng một phương pháp, khi tâm bạn đă ở trong một trạng thái như vậy.

Tuy nhiên, phần đông chúng ta thấy khó mà đạt tới trạng thái đó ngay được. Chúng ta không biết làm sao để đánh thức tâm, tâm ta quá hoang vu và xao lăng đến độ ta cần một phương tiện thiện xảo, một phương pháp tốt, để hô triệu nó lên.

Tôi muốn nói “thiện xảo” nghĩa là hợp nhất cái biết của bạn về tự tánh tâm, cái biết những tâm trạng đang thay đổi nơi bạn và cái biết đối trị mà bạn đă phát triển qua sự thực tập những vọng tưởng trong từng giai đoạn.

Nhờ ḥa hợp chúng lại, mà bạn học được nghệ thuật áp dụng phương pháp thích hợp cho bất cứ một t́nh huống hay vấn đề đặc biệt nào, để chuyến hóa bối cảnh của tâm bạn.

Nhưng nên nhớ rằng phương pháp chỉ là phương tiện, không phải chính là thiền định. Nhờ thực hành phương pháp một cách thiện xảo mà bạn có thể đạt đến trạng thái thuần tịnh của sự tỉnh giác toàn vẹn, mà chính là thiền đích thực.

Tạng ngữ có câu: “Gompa ma yin, kompa yin” nghĩa là, không có thiền định mà chỉ có sự quen thực hành thiền định. Thiền định không phải là nỗ lực, mà tự nhiên thấm nhuần. Khi bạn tiếp tục áp dụng phương pháp, th́ dần dần thiền định phát sinh. Thiền định không phải là một cái ǵ bạn có thể làm, nó xảy đến một cách tự nhiên, chỉ khi bạn đă thuần thục trong sự thực tập.

Tuy nhiên muốn thiền định xảy đến, th́ cần tạo những điều kiện yên tĩnh và tốt lành. Muốn làm chủ được tâm, ta cần phải làm cho hoàn cảnh xung quanh được an tịnh. Lúc này tâm ta giống như ngọn đèn cầy luôn luôn lay động bởi những ngọn gió mạnh của ư tưởng và cảm xúc.

Ngọn đèn chỉ đứng yên khi ta làm cho không khí xung quanh nó lắng xuống. Ta chỉ có thể thoáng thấy tự tính tâm và an trú trong đó, khi những ư tưởng và cảm xúc quay cuồng của ta đă lắng xuống. Ngược lại, khi ta đă an trú trong thiền định th́ những tiếng ồn và rối loạn đủ loại sẽ rất ít ảnh hưởng.

Ở Tây phương, người ta quen thói chú mục vào cái mà tôi gọi là “kỹ thuật thiền định”. Thế giới ngày nay thực say mê máy móc cơ khí, và chỉ thích những công thức thực tiễn. Nhưng điều quan trọng hơn nhiều ở trong thiền không phải là kỹ thuật, mà là tinh thần, cách thế thiện xảo và đầy sáng tạo trong đó ta thực hành thiền định, gọi là thế ngồi.



THẾ NGỒI



Những bậc thầy nói:

- Nếu bạn tạo một điều kiện tốt lành trong thân và cảnh, th́ thiền và ngộ sẽ tự động sinh khởi.

Nói về thế ngồi không phải là dạy một chuyện bí truyền; toàn bộ của việc ngồi đúng cách chỉ là để tạo một bối cảnh gợi cảm hứng cho thiền, cho sự thức dậy của Rigpa. Có sự tương quan giữa thế ngồi của thân với thái độ của tâm, và thiền định phát sinh một cách tự nhiên khi có thế ngồi và thái độ thích hợp.

Nếu bạn đang ngồi mà tâm không hoàn toàn ḥa điệu với thân chẳng hạn bạn đang lo lắng bận rộn một việc ǵ th́ thân bạn sẽ kinh quá nỗi bực dọc vật lư, và những khó khăn dễ dàng xảy ra.

Trong khi nếu tâm bạn an tĩnh, nó sẽ ảnh hưởng đến toàn thể thế ngồi của bạn, bạn có thể ngồi tự nhiên không cần cố gắng. Bởi thế thực rất quan trọng để phối hợp thế ngồi của thân với niềm tin phát sinh từ sự trực ngộ bản tâm nơi bạn.

Thế ngồi tôi sắp giải thích có thể khác những thế ngồi mà bạn đă quen. Nó rút từ giáo lư Dzogchen ngày xưa, đó là thế ngồi mà các bậc thầy đă dạy tôi, và tôi thấy nó đầy hiệu lực.

Trong giáo lư Dzogchen nói rằng Cái thấy và Thế ngồi của bạn phải như ngọn núi. Cái thấy là đỉnh cao của toàn thể tri kiến và tuệ giác về bản tâm mà bạn đem vào thiền định. Bởi vậy cái thấy ấy gợi cảm hứng cho thế ngồi của bạn, diễn tả cốt lơi của bản thể bạn trong lối bạn ngồi.

Vậy, hăy ngồi như thể bạn là một ngọn núi, với tất cả uy thế lẫm liệt vững chắc không ai lay chuyển nổi, của một ngọn núi. Ngọn núi hoàn toàn tự nhiên, thoải mái dù có bao nhiêu ngọn gió mạnh tạt qua nó, bao nhiêu đám mây đen dày vần vũ quanh nó. Ngồi như một ngọn núi, bạn để tâm bạn vươn lên và bay lượn.

Điều quan trọng nhất trong thế ngồi này là giữ lưng thẳng như một mủi tên hay một cọc tiền vàng. Nội khí hay prana sẽ tuôn chảy thông suốt qua các huyệt đạo cơ thể, và tâm bạn sẽ t́m được trạng thái an nghỉ thực sự của nó. Đừng gắng gượng cưỡng ép cái ǵ cả.

Phần dưới của cột sống có một đường cong tự nhiên; nên thư dăn nó theo chiều thẳng đứng. Đầu bạn nên an nghỉ thoải mái trên cần cổ. Đôi vai và phần trên ngực mang tất cả sức mạnh và vẻ đẹp của thế ngồi, cần giữ yên, vững, nhưng không được có một sự căng thẳng nào.

Hăy ngồi khoanh chân, không cần phải theo thế hoa sen (kiết già) như trong pháp Yoya cao cấp. Đôi chân khoanh lại biểu trưng sự nhất thể giữa sống và chết, thiện và ác, phương tiện và trí tuệ, nguyên lư âm dương, sinh tử niết bàn, trạng thái bất nhị. Bạn cũng có thể ngồi trên ghế để thỏng chân, nhưng điều cần thiết là phải giữ lưng cho thẳng.

Trong truyền thống thiền của tôi, th́ đôi mắt phải mở: Đây là điều tối quan trọng. Nếu bạn nhạy cảm đối với những quấy rầy bên ngoài, th́ mới đầu bạn có thể nhắm mắt lại một lúc, và lặng lẽ xoay cái nh́n vào trong (nội quán).

Khi đă định tĩnh, và từ từ mở mắt ra bạn sẽ thấy cái nh́n của bạn đă trở nên an tịnh hơn. Bấy giờ bạn nh́n xuống dọc theo sóng mũi, làm thành một góc bốn mươi lăm độ trước mặt. Thông thường một cái mánh thực tiễn là khi tâm tán loạn, tốt nhất là hạ tầm nh́n xuống, và khi lừ đừ muốn ngủ th́ đưa tầm nh́n lên.

Khi tâm đă định tĩnh, sự sáng suốt của tuệ giác bắt đầu sinh khởi, bạn có thể tự nhiên nh́n lên, mở lớn mắt hơn và nh́n vào khoảng không gian ngay trước mặt. Đấy là cái nh́n mà giáo lư Dzogchen thường dạy.

Giáo lư Dzogchen dạy rằng thiền định và cái nh́n của bạn phải giống như không gian bao la của đại dương: Cùng khắp, khoáng đạt và vô giới hạn. Cũng như Cái thấy và Thế ngồi không rời nhau, thiền định và lối nh́n của bạn cũng tan ḥa thành một.

Khi ấy đừng chú ư vào một cái ǵ đặc biệt, trái lại nhẹ nhàng xoay vào trong tâm bạn, cứ để cái nh́n trải rộng, càng lúc càng bao la, thấm nhuần khắp. Bấy giờ bạn sẽ thấy “cái thấy” của bạn cũng rộng răi hơn, và nhờ thế trong tia mắt của bạn có niềm b́nh an hơn, có niềm bi mẫn, hỉ xả và trầm tĩnh hơn.

Tạng ngữ gọi vị Phật của ḷng Từ bi là Chenrezig. Chen là con mắt, re là khóe mắt, và zig là nh́n; có nghĩa rằng, với đối mắt bi mẫn, ngài nh́n thấy nhu cầu của mọi chúng sinh. Vậy bạn hăy dồn sự bi mẫn phát sinh từ thiền quán vào đôi mắt, sao cho cái nh́n của bạn chính là cái nh́n của tâm đại bi, bao la như đại dương, và soi thấy cùng khắp.

Có nhiều lư do để giữ đôi mắt mở. Khi mở mắt, bạn ít buồn ngủ. Và thiền định không phải là một cách trốn đời, hay để tâm thoát li vào một trạng thái xuất thần mê mẩn. Trái lại, đó là cách trực tiếp giúp ta thực sự biết ḿnh trong tương giao với cuộc đời và mọi người.

Bởi thế, trong thiền định, bạn để con mắt mở, không nhắm mắt. Thay v́ đóng cửa để cuộc đời ra ngoài, bạn có thái độ phóng khoáng và ḥa b́nh với mọi sự. Bạn để cho các giác quan thấy nghe cảm giác cứ mở ra tự nhiên mà không bám víu vào những cái biết của chúng. Dudjom Rinpoche nói:

- Mặc dù nhiều h́nh sắc được thấy, tự bản chất chúng là không (trống rỗng); tuy thế trong không ta thấy sắc. Mặc dù nhiều âm thanh được nghe, tự bản chất chúng là không; tuy thế trong không ta nghe tiếng, Cũng vậy, nhiều ư nghĩ khởi lên, chúng vốn là trống rỗng, tuy thế trong không, ta thấy có tư tưởng.

Bất cứ ǵ bạn thấy, nghe, cứ để mặc chúng, đừng bám víu. Để cái nghe cứ là cái nghe, để cái thấy cứ là cái thấy, không để cho sự bám víu của bạn đi vào trong đó.

Theo sự thực tập quang sắc đặc biệt của Dzogchen, mọi ánh sáng của trí tuệ ta nằm ở tim, liên lạc tới con mắt qua những huyệt đạo thuộc trí tuệ. Con mắt là cửa ngơ của quang tướng, bởi thể bạn để mắt mở để khỏi bế tắc các huyệt đạo trí tuệ.

Khi thiền định, bạn để miệng hơi hé mở, như thể sắp thốt ra một tiếng Aaaah sâu dài thư dăn. Khi hé miệng và thở phần lớn qua ngơ ấy, người ta bảo, những luồng gió nghiệp gây ra tư tưởng tán loạn làm chướng ngại thiền định, nhờ thế mà ít có dịp phát sinh.

Tay bạn nghỉ ngơi thoái mái bao bọc hai đầu gối. Đây gọi là thế ngồi làm cho tâm an lạc.

Có một tia hy vọng lạc quan trong thế ngồi này, do sự ngầm hiểu chúng ta đều có Phật tính. Bởi vậy khi ngồi như thế, ta đang bắt chước một đức Phật, xác nhận và khuyến khích sự xuất hiện của Phật tính trong ta. Quả thế, bạn khởi sự tôn trọng chính ḿnh như một vị Phật tiềm tàng.

Đồng thời, bạn vẫn nhận ra hoàn cảnh tương đối của ḿnh. Nhưng v́ bạn đă được cảm hứng từ niềm tin ở Phật tính thực sự của bạn, ban có thể dễ chấp nhận những khía cạnh tiêu cực nơi ḿnh hơn, đối xử với chúng tử tế hơn, và có thái độ hài hước hơn. Vậy khi thiền định, bạn nên mời chính bạn hăy cảm thấy tự tôn trọng, hăy thấy ḿnh có tư cách, và có sự khiêm cung của một vị Phật. Bạn chỉ cần gợi lên niềm tin lạc quan đó là đủ: Từ niềm vui và sự hiểu biết ấy, tự nhiên thiền định sẽ phát sinh.



BA PHƯƠNG PHÁP THIỀN QUÁN



Đức Phật dạy tám muôn bốn ngàn pháp môn để thuần hóa và an định những cảm xúc tiêu cực, và trong Phật giáo có vô số phương pháp thiền định. Tôi t́m thấy có ba kỹ thuật thiền đặc biệt hiệu nghiệm trong thế giới ngày nay, mà ai cũng có thể sử dụng để được lợi lạc. Đó là phương pháp “canh chừng” hơi thở, sử dụng một vật làm đối tượng, và nhẩm đọc một câu thần chú.

1. Quán hơi thở.

Phương pháp này rất xưa và có mặt trong tất cả trường phái Phật giáo. Đó là để tâm chú ư vào hơi thở một cách nhẹ nhàng đầy chánh niệm.

Hơi thở là sự sống, sự biểu hiện căn bản nhất của cuộc đời ta. Trong Do thái giáo th́ ruah, hơi thở, là linh hồn của Thượng đế thấm khắp tạo vật; trong Ki tô giáo cũng có dây nối mật thiết giữa đấng Thánh linh nguồn gốc của mọi sự sống và hơi thở. Trong giáo lư Phật, th́ hơi thở, Phạn ngữ là prana, được gọi là “cỗ xe của tâm”, v́ chính hơi thở làm cho ta tâm ta di chuyển.

Bởi thế khi ta làm an tịnh tâm bằng cách làm việc khéo léo với hơi thở, th́ cũng như ta đang luyện tâm và hàng phục tâm. Có phải ai trong chúng ta cũng đă từng thấy khỏe khoắn biết bao khi đang gặp căng thẳng mà ngồi lại vài phút để thở những hơi thở vào ra thật chậm và sâu không? Ngày cả một tập luyện đơn giản như thế cũng có thể giúp ta rất nhiều.

Vậy khi thiền định, bạn hăy thở tự nhiên, như thường ngày bạn thở. Tập trung sự chú ư của bạn vào hơi thở ra. Khi thở ra, bạn hăy buông ra theo hơi thở tất cả sự bám víu của bạn. Tưởng tượng hơi thở bạn tan vào trong khoảng không bao la của chân lư. Mỗi lần thở ra, trước khi hít vào lại, bạn sẽ thấy có một khoảng hở tự nhiên, khi sự chấp thủ đă tan biến.

Hăy an trú trong khoảng hở ấy, không gian rộng mở ấy. Và khi tự nhiên bạn thở vào, th́ đừng chú ư hơi thở vào, mà cứ tiếp tục an trú tâm nơi khoảng hở đă mở ra ấy.

Khi thực tập, điều quan trọng là bạn đừng vướng vào sự luận giải, phân tích trong tâm, hay thói lải nhải nội tâm. Đừng lầm sự lặp đi lặp lại trong tâm rằng “Bây giờ tôi đang thở vào, bây giờ tôi đang thở ra” cho đó là chánh niệm; cái quan trọng là sự tỉnh giác thuần túy không xao lăng.

Đừng quá tập trung vào hơi thở; chỉ để cho nó chừng hai mươi lăm phần trăm, c̣n bảy mươi lăm phần trăm th́ bạn hăy buông xả một cách lặng lẽ bao la. Càng chánh niệm hơi thở, bạn càng tỉnh thức về chính ḿnh, gom lại những mảnh vụn phân tán của bạn thành một nhất thể, tính nhị nguyên và ngăn cách tan biến.

Chính tiến tŕnh chánh niệm ấy lọc sạch tư tưởng và cảm xúc bạn. Khi ấy, bạn cảm như đă rũ bỏ một cái lốt da ngoài, có cái ǵ được lột sạch, được phóng thích.

Tuy nhiên có nhiều người không được thoải mái với pháp quán hơi thở, họ c̣n thấy gần như bị ngộp. Đối với họ, kỹ thuật sau đây có thể tốt hơn.

2. Dùng một vật làm đối tượng.

Phương pháp thứ hai, mà nhiều người thấy tốt, là an tâm vào một đối tượng. Bạn có thể dùng một vật đẹp tự nhiên gợi cảm đối với bạn, như một đóa hoa hay b́nh pha lê. Nhưng một cái ǵ biểu tượng cho chân lư, như tượng Phật, Chúa, hay nhất là bậc thầy của bạn. Thầy là gạch nối giữa bạn với chân lư, và nhờ bạn có quan hệ mật thiết với thầy, nên nh́n gương mặt thầy bạn có thể được cảm hứng và nhớ đến Phật tính của bạn.

Nhiều người đă có được liên hệ đặc biệt với bức tranh của tượng đức Padmasambhava gọi là “Trông giống tôi,” bức tượng được tạc lúc sinh thời của ngài và được ngài ban phép vào thế kỷ thứ tám ở Tây Tạng. Padmasambhava, bằng năng lực tâm linh khổng lồ của ngài đă đưa giáo lư Phật vào Tây Tạng.

Ngài được xem là vị Phật thứ hai, và được dân Tây Tạng gọi một cách âu yếm là “Thầy Rinpoche” hay “Bậc thầy quư báu.” Dilgo Khientse Rinpoche nói:

- Trên đất Ấn và Tây Tạng, đă từng có nhiều bậc thầy tuyệt luân, nhưng người có công bi mẫn lớn lao nhất, người nhiều ân đức với hữu t́nh trong thời đại khó khăn này, chính là Padmasambhava, người tượng trưng từ bi và trí tuệ của tất cả chư Phật. Một trong những đức của ngài là, ngài ban phúc ngay lập tức cho ai cầu khẩn ngài, và bất cứ ǵ ta cầu xin, ngài đều có năng lực làm ta toại nguyện tức khắc.

Khi được cảm hứng từ điều này, th́ bạn hăy gắn một tấm h́nh của bức tượng ngài ngang tầm mắt bạn, rồi hướng sự chú ư của bạn đến gương mặt ngài, nhất là tia nh́n nơi đôi mắt. Có niềm an tịnh sâu xa trong cái nh́n ấy, như đang phóng ra từ bức tranh để đưa bạn đi vào một trạng thái tỉnh giác không bám víu, trạng thái thiền định. Rồi bạn để yên cho tâm bạn an nghỉ cùng với Padmasambhava.

3. Nhẩm đọc một thần chú.

Một kỹ thuật thứ ba được sử dụng rất nhiều trong Phật giáo Tây Tạng (và cả trong đạo Sufism, Ki tô giáo chính thống, và Ấn giáo), là hợp nhất tâm bạn với âm thanh của một bài chú. Định nghĩa của mantra là “cái che chở tâm.” Cái che chở tâm khỏi tính tiêu cực, hay che chở bạn khỏi tâm bạn, gọi là mantra.

Khi bạn đang nóng nảy, mất hướng đi, hoặc cảm thấy yếu đuối t́nh cảm, th́ tụng đọc thần chú có thể thay đổi hoàn toàn tâm thái của bạn bằng cách thay đổi năng lực và bầu khí hậu của nó. Việc này xảy ra được bằng cách nào? Thần chú là tinh túy của âm thanh, và là hiện thân của chân lư qua h́nh thức âm thanh.

Mỗi âm đều thấm nhuần năng lực tâm linh, cô đọng một sự thật về tâm linh, và rung động với ân đức của Lời chư Phật. Người ta bảo rằng tâm cỡi trên Prana hay Khí lực, khí này di chuyển khắp cơ thể và thanh lọc những huyệt đạo vi tế. Bởi thế khi đọc chú, là bạn đang chở đầy năng lực của thần chú trong hơi thở và khí lực của ḿnh, tác động trực tiếp trên tâm và thân vi tế.

Câu chú tôi khuyên các học tṛ tôi đọc là:

- OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM

(Người Tây Tạng nói:

Om Ah Hung Benzaa Guru Péma Siddhi Hung)

Là thần chú của Padmasambhava, của tất cả chư Phật, các bậc thầy và những bậc đă chứng ngộ, bởi thế rất có mănh lực đem lại b́nh an, chữa bệnh, chuyển hóa và che chở người ta trong thời đại hỗn độn bạo hành này.

Hăy lặng lẽ đọc câu chú với sự chú tâm sâu xa, và để hơi thở, câu chú và sự tỉnh thức của bạn dần trở thành một. Hoặc tụng nó lên một cách hứng khởi, rồi an trú trong sự im lặng bao la đôi khi tiếp theo sau đó.

Mặc dù suốt đời quen thuộc với sự thực hành này, tôi vẫn c̣n đôi lúc kinh ngạc bởi năng lực của thần chú. Vài năm trước, khi tôi đang hướng dẫn một thiền hội gồm ba trăm người ở Lyon, Pháp, phần đông là những bà nội trợ và những nhà chữa tâm bệnh.

Tôi đă giảng dạy suốt ngày, nhưng họ dường như muốn tận dụng khoảng thời gian ở gần tôi, nên cứ tiếp tục hỏi hết câu này tới câu khác không ngừng. Cuối ngày th́ tôi hoàn toàn kiệt sức, một bầu không khí nặng nề tẻ nhạt lan khắp pḥng. Bởi thế tôi tụng lên bài chú nói trên.

Tôi kinh ngạc trước hiệu quả: Trong vài phút tôi cảm thấy năng lực được phục hồi, bầu khí quanh chúng tôi thay đổi, và toàn thể thính giả trở lại tươi sáng say mê. Tôi vẫn thường có kinh nghiệm ấy nhiều lần, nên tôi biết không phải chỉ là một “phép lạ” t́nh cờ.



TÂM TRONG THIỀN ĐỊNH



Vậy, ta nên làm ǵ với tâm ta trong thiền định? Không ǵ cả. Cứ để mặc nó như nó là. Một bậc thầy mô tả thiền định là “Tâm lơ lửng trong không, không ở đâu.”

Có một câu nói nổi tiếng:

- Nếu tâm không bị gượng ép, th́ nó tự nhiên đầy hỉ lạc, cũng như nước, khi không bị quấy động th́ tự nhiên trong suốt.

Tôi thường so sánh tâm thiền với một chun nước bùn: Ta càng để yên đừng khuấy động nước lên, th́ những phân tử bụi càng ch́m xuống đáy, làm cho tính trong sáng tự nhiên của nước chiếu suốt đáy. Tính tự nhiên của tâm là nếu bạn để nó trong trạng thái đừng thay đổi, th́ nó sẽ t́m thấy tính tự nhiên chân thực của nó, hỉ lạc và trong sáng.

Bởi vậy cẩn thận đừng áp đặt lên tâm bạn một cái ǵ. Khi thiền định, không được có nỗ lực để kiểm soát, không cố để được an. Đừng quá quan trọng cảm thấy ḿnh đang làm một lễ lạc ǵ đặc biệt; hăy buông xả ngay cả cái ư niệm rằng bạn đang thiền. Hăy để thân bạn tự nhiên, hơi thở tự nhiên. Tưởng về bạn như bầu trời, bao trùm tất cả vũ trụ.



QUÂN B̀NH TẾ NHỊ



Trong thiền định cũng như trong mọi nghệ thuật, cần có một quân b́nh tế nhị giữa thư dăn và bén nhạy.

Một lần, một tu sĩ tên Shrona học thiền với một trong những đệ tử gần nhất của Phật. Ông đang gặp khó khăn trong việc để tâm như thế nào. Ông có hết sức để tập trung, làm cho ông bị nhức đầu.

Rồi khi buông tâm ra, th́ buông quá độ nên ông buồn ngủ. Cuối cùng ông phải tới cầu xin Bụt giúp đỡ. Biết ông ta đă từng là nhạc công nổi tiếng lúc c̣n tại gia, Bụt hỏi:

- Có phải ông đă từng chơi đàn lúc c̣n là cư sĩ không?

Shrona thưa vâng. Bụt hỏi:

- Ông làm sao để găy ra tiếng hay nhất? Đó là lúc dây đàn thật căng, hay lúc dây thật chùng?

- Bạch Thế tôn, không quá căng cũng không quá chùng mới được.

- Vậy, với tâm ông cũng như thế đó.

Ma Chik Lap Dron, một trong những bậc nữ đạo sư của Tây Tạng, nói:

- Tỉnh, tỉnh, mà buông, buông. Đây là điểm cốt yếu trong thiền để có Tri kiến.

Hăy khơi dậy sự tỉnh giác, nhưng đồng thời buông xả, xả cho đến độ bạn không bám vào một ư niệm về buông xả.



Ư TƯỞNG VÀ CẢM XÚC: SÓNG VÀ ĐẠI DƯƠNG



Khi bắt đầu thiền, người ta thường nói những ư tưởng của họ nổi loạn, và trở nên ồn ào hơn bao giờ hết. Nhưng tôi trấn an họ rằng, đó là dấu hiệu tốt. Nó chứng tỏ bạn đă trở nên an tịnh hơn, nên mới ư thức được sự ồn ào của những ư tưởng trong tâm bạn. Bạn không nên nản chí bỏ cuộc. Dù khởi lên ư niệm ǵ, hăy để tâm bạn tỉnh thức, kéo tâm về hơi thở, ngay dù nó đang tán loạn.

Trong những chỉ dẫn về thiền ngày xưa, thường nói rằng lúc đầu những ư tưởng kéo đến té nhào lên nhau không gián đoạn, như thác đổ trên núi xuống. Dần dần, khi bạn hoàn hảo về thiền, th́ ư tưởng như nước trong vực sâu, rồi như ḍng sông lớn chảy ra biển, chỉ thỉnh thoảng có sống gợn lăn tăn.

Đôi khi người ta nghĩ rằng khi thiền định, họ không được có ư tưởng cảm xúc nào cả, nên khi chúng khởi lên, họ đâm ra bực bội cáu tiết với chính họ, v́ tưởng ḿnh thất bại. Thật không ǵ sai sự thật hơn. Tây Tạng có câu: “Đấy cũng như đ̣i thịt đừng có xương, đ̣i trà đừng có lá.” Bao lâu bạn c̣n tâm là c̣n có ư tưởng và cảm xúc.

Cũng như đại dương có sóng, mặt trời có tia, những tia sáng của tâm bạn chính là những ư tưởng và cảm xúc. Biển có sóng, nhưng nó không phiền hà ǵ về những ngọn sóng. Sóng chính là bản tính của biển. Sóng sẽ nổi lên, nhưng sẽ đi về đâu? Trở về đại dương. Và những con sóng ấy từ đâu đến? Từ đại dương. Cũng thế, ư tưởng và cảm xúc là những tia sáng và biểu hiện của chính tự tính của tâm.

Chúng nổi lên từ tâm, nhưng chúng tan biến đi đâu? Cũng tan trở về tâm. Dù ư tưởng ǵ khởi lên, cũng đừng xem nó như một vấn đề trọng đại. Nếu bạn không phản kháng một cách ồn ào, nếu bạn cứ kiên nhẫn, th́ nó sẽ lại trở về trong tự tính của nó.

Khi bạn hiểu được như vậy, th́ những ư tưởng khởi lên chỉ làm tăng tiến việc thực tập thiền định của bạn. Mà nếu không hiểu như vậy, th́ chúng lại trở thành hạt giống của mê mờ.

Vậy hăy có một thái độ cởi mở từ bi đối với chúng, v́ những ư tưởng ấy đều là gia đ́nh của tâm bạn. Bạn hăy xử với chúng “như một ông già minh triết nh́n đứa trẻ đang chơi,” như Dudjom Rinpoche đă nói.

Chúng ta thường không biết làm sao với tính tiêu cực hay vài cảm xúc rầy rà. Trong tính khoáng đạt của thiền định, bạn có thể nh́n những ư tưởng và cảm xúc bạn với một thái độ hoàn toàn cởi mở không thành kiến.

Khi thái độ của bạn thay đổi, th́ toàn thể không khí của tâm bạn cũng thay đổi, cả đến bản chất của những tư tưởng và cảm xúc bạn. Khi bạn trở nên dễ chịu hơn, th́ chúng cũng dễ chịu hơn; nếu bạn không khó khăn với chúng, th́ chúng cũng không khó khăn với bạn.

Bởi thế, dù tư tưởng cảm xúc nào khởi lên, hăy để cho chúng lên xuống như sóng biển. Bất cứ ǵ bạn thấy ḿnh đang nghĩ tới, hăy để cho ư nghĩ ấy tự sinh tự diệt không một gượng ép nào.

Đừng nắm bắt nó, nuôi dưỡng nó, chạy theo nó; đứng bám lấy nó và củng cố nó. Không theo dơi những vọng tưởng, cũng không mời gọi chúng, bạn hăy giống như biển nh́n những làn sóng của nó, hay như bầu trời nh́n những đám mây bay qua nó.

Bạn sẽ thấy rằng những ư tưởng như cơn gió, chúng đến và đi. Bí quyết là đừng “nghĩ” về chúng, mà để cho chúng tuôn chảy qua tâm, đồng thời giữ cho tâm bạn thoát khỏi những “hậu” ư tưởng.

Trong tâm thường ngày, ta nhận thấy ḍng tư tưởng như là liên tục; song kỳ thực không phải vậy. Bạn sẽ khám phá cho chính bạn rằng có một khoảng hở giữa hai ư tưởng. Khi niệm quá khứ đă qua, th́ niệm tương lai chưa đến. Bạn sẽ luôn luôn t́m thấy một khe hở trong đó Rigpa, tự tính của tâm, làm hiển lộ. Vậy, công việc của thiền định là làm chậm lại ḍng tư tưởng, để cho khoảng hở ấy trở thành rơ rệt hơn.

Thầy tôi có một người học tṛ tên Apa Pant, một nhà ngoại đạo Ấn, một tác giả, người đă làm đại sứ Ấn ở nhiều thủ đô khắp thế giới. Ông ta đă từng làm đại diện cho chính phủ Ấn tại Tây Tạng ở Lhasa, và có một thời gian ông làm đại diện ở Sikkim. Ông cũng là một thiền giả và người thực hành yoga, và mỗi lần gặp thầy tôi, ông đều hỏi làm sao để thiền.

Ông đang theo một truyền thống Đông phương, trong đó người học cứ hỏi đi hỏi lại vị thầy một câu hỏi căn bản thật nhiều lần.

Apa Pant kể cho tôi nghe chuyện này. Một hôm thầy tôi Jamyang Khientse đang ngắm một màn vũ của các Lama trước Chùa Cung điện ở Gangtok, thủ đô Sikkim, đang khúc khích xem một người hề làm tṛ giữa hai màn vũ. Apa Pant cứ hỏi đi hỏi lại măi cái câu làm thế nào để thiền định, bởi thế thầy tôi cho ông biết thầy trả lời ông ta một lần chót:

- Xem, nó giống như thế này: Khi ư tưởng quá khứ đă qua, mà ư tưởng vị lai chưa đến, có phải có một khoảng hở không?

Apa Pant đáp:

- Vâng.

Thầy tôi nói:

- Đấy, hăy kéo dài nó ra: Đó là thiền định.



KINH NGHIỆM



Khi bạn tiếp tục thực hành, bạn có thể có đủ thứ kinh nghiệm tốt cũng như xấu. Như một cái pḥng có nhiều cửa sổ cửa lớn để cho không khí ùa vào từ mọi phía, cũng thế khi tâm bạn mở ra, th́ tự nhiên mọi kinh nghiệm có thể vào trong tâm. Bạn có thể kinh quá những trạng thái hỉ lạc, sáng suốt, hay dứt mọi tư tưởng.

Có thể nói đấy là những kinh nghiệm tốt, những dấu hiệu của sự tiến bộ trong thiền. V́ khi bạn có hỉ lạc, ấy là dấu hiệu dục vọng tạm thời lắng xuống. Khi bạn cảm thấy sáng suốt, là dấu hiệu sân giận tạm ngừng. Khi bạn kinh quá sự vắng bóng tư tưởng, là dấu hiệu vô minh tạm diệt. Tự bản chất, chúng là kinh nghiệm tốt, nhưng nếu bạn bám víu chúng th́ chúng trở thành những chướng ngại.

Kinh nghiệm tự chúng không phải là chứng ngộ, nhưng nếu ta thoát khỏi chấp thủ vào chúng, th́ chúng là những nguyên liệu để chứng ngộ.

Những kinh nghiệm tiêu cực thường bị lầm nhất, v́ người ta dễ xem chúng như dấu hiệu xấu. Nhưng kỳ thực chúng là những ân sủng trá h́nh. Hăy cố đừng phản ứng lại với sự chán ghét như bạn thường làm, mà thay v́ thế, hăy nhận chân chúng chỉ là những kinh nghiệm, như huyễn như mộng.

Sự nhận ra thực tính của kinh nghiệm sẽ giải thoát bạn khỏi tai hai nguy hiểm của nó, và do vậy ngay cả một kinh nghiệm xấu có thể trở thành một nguồn ân sủng và thành tựu lớn lao. Có rất nhiều câu chuyện về những bậc thầy đă làm việc như vậy với những kinh nghiệm xấu và đă chuyển hóa chúng thành chất xúc tác cho sự chứng ngộ.

Theo truyền thống, người ta bảo rằng đối với một hành giả thực thụ, th́ không phải nhưng kinh nghiệm xấu, mà chính những kinh nghiệm tốt mới gây ra chướng ngại. Khi mọi sự tiến hành tốt đẹp, bạn phải đặc biệt cẩn thận để khỏi đâm ra tự măn hay quá tin. Nhớ lại Dudjom Rinpoche đă bảo tôi khi tôi gặp một kinh nghiệm rất mănh liệt:

- Đừng quá náo nức. Cuối cùng, nó không tốt cũng không xấu.

Thầy biết tôi đang bám víu kinh nghiệm: Chính sự bám víu ấy phải được cắt đứt, như bất cứ sự bám víu nào khác. Điều chúng ta cần học trong thiền định cũng như trong cuộc đời, là giải thoát chấp thủ đối với những kinh nghiệm tốt, và giải thoát sự chán ghét đối với những kinh nghiệm xấu.

Dudjom Rinpoche cảnh cáo chúng ta một cái bẫy khác:

- Ngược lại, trong khi hành thiền, bạn có thể kinh quá một cảm giác bồng bềnh nửa tỉnh nửa mê, như là có cái mồng trên đầu bạn, một trạng thái chán chường mơ mộng. Đây chỉ là một t́nh trạng ứ đọng vô tâm. Làm sao bạn ra khỏi t́nh trạng ấy?

Hăy thức tỉnh bạn, thẳng người lại, thở mạnh cho thán khí ra khỏi buồng phổi, và hướng sự tỉnh giác của bạn vào khoảng không gian trong sáng để làm tâm bạn tươi tỉnh lại. Nếu ở lại trong trạng thái tù đọng ấy, bạn sẽ không tiến bộ; bởi thế mỗi khi sự thụt lùi này xảy ra, th́ bạn hăy xua tan nó nhiều lần. Điều quan trọng là bạn hăy thật tỉnh táo canh chừng.

Bất cứ phương pháp nào bạn sử dụng, hăy bỏ nó, hay để nó tự tan ră, khi bạn thấy ḿnh đă đạt tới một trạng thái bén nhạy, rộng răi, và b́nh an. Rồi tiếp tục an trú trong đó lặng lẽ không xao lăng, không cần dùng một phương pháp đặc biệt nào. Phương pháp đă làm tṛn mục đích của nó. Tuy nhiên, nếu bạn trở nên phân tán, th́ hăy trở lại sử dụng bất cứ kỹ thuật nào thích hợp để gọi tâm bạn trở lại.

Vinh quang thực sự của thiền định không nằm ở phương pháp, mà ở cái kinh nghiệm liên tục về sự tỉnh giác, sự hỉ lạc, sáng suốt, b́nh an, và quan trọng hơn cả là hoàn toàn vắng bóng chấp thủ. Sự giảm bớt chấp thủ trong chính bạn là dấu hiệu chứng tỏ bạn đang dần thoát khỏi chính ḿnh.

Và bạn càng kinh quá sự giải thoát này, th́ càng chứng tỏ cái ngă và những hy vọng sợ hăi đă nuôi dưỡng nó, đang tan ră, và bạn càng tiến gần hơn đến trí tuệ vô ngă. Khi bạn ở trong cái nhà trí tuệ ấy, bạn sẽ không c̣n thấy một rào ngăn nào giữa tôi và anh, tự và tha, trong và ngoài; cuối cùng bạn đă trở về ngôi nhà chân thực, nghĩa là trạng thái bất nhị.



NGHỈ NGƠI



Phần nhiều người ta hỏi:

- Tôi nên ngồi thiền bao nhiêu lâu? Lúc nào? Tôi có nên thực tập hai mươi phút sáng chiều, hay nên làm thành nhiều thời ngắn hơn trong ngày?

Vâng, nên ngồi trong hai mươi phút, mặc dù không muốn nói mức giới hạn là hai mươi phút. Trong kinh điển tôi chưa từng thấy ở đâu nói hai mươi phút; có lẽ đấy là một quan niệm mới bày đặt ra ở phương Tây, mà tôi gọi là “Thời hạn Thiền theo tiêu chuẩn Tây phương”

Vấn đề không phải là bạn phải ngồi bao lâu, mà vấn đề là sự hành thiền có thực sự đem lại cho bạn một trạng thái tỉnh thức và hiện trú hay không, một trạng thái trong đó bạn hơi cởi mở và có thể liên lạc với bản tâm của bạn. Và năm phút ngồi thiền tỉnh táo có giá trị hơn nhiều so với hai mươi phút ngủ gà ngủ gật!

Dudjom Rinpoche thường nói một người mới tập nên tập từng thời ngắn. Hăy thực tập chừng bốn năm phút, rồi nghỉ ngơi chỉ chừng một phút. Trong khi nghỉ th́ buông phương pháp ra, nhưng đừng buông hoàn toàn cái tâm tỉnh giác của bạn.

Đôi khi, lúc bạn đang phấn đấu nỗ lực để thiền, th́ kỳ lạ thay, vào đúng cái lúc bạn nghỉ ngơi không dùng phương pháp mà nếu bạn vẫn duy tŕ tỉnh giác và hiện trú, thiền định mới thực sự xảy ra.

Đấy là lư do sự nghỉ ngơi cũng là một phần của thiền định, quan trọng như chính lúc ngồi. Tôi thường bảo những học tṛ nào gặp khó khăn trong khi thực tập, hăy tu tập trong lúc nghỉ ngơi và nghỉ ngơi trong lúc tu tập.

Hăy ngồi một thời ngắn, rồi nghỉ chứng ba mươi giây hay một phút. Nhưng trong lúc ấy hăy tỉnh giác đối với mọi sự bạn làm, mà đừng đánh mất sự hiện trú của bạn, sự thoải mái tự nhiên của nó. Rồi làm cho bạn tỉnh táo ra, và ngồi tiếp.

Nếu bạn tập nhiều thời ngắn như thế, những thời nghỉ ngơi của bạn thường làm cho thiền của bạn thực hơn, gợi cảm hứng nhiều hơn, tẩy trừ sự cứng đơ, tính trịnh trọng và mất tự nhiên của sự tu tập, và đem lại cho bạn nhiều chú tâm và thoải mái hơn.

Dần dần, qua sự xen kẽ giữa thực tập và nghỉ ngơi như thế, cái hàng rào ngăn giữa đời sống thường ngày và thiền định sẽ sụp đổ, sự tương phản tiêu tan, và bạn sẽ thấy ḿnh càng ngày càng ở trong trạng thái tỉnh giác hiện trú một cách tự nhiên không phân tán. Khi ấy, như Dudjom Rinpoche thường nói:

- Dù cho người thiền định từ bỏ thiền, mà thiền không bao giờ rời khỏi người.



H̉A NHẬP THIỀN VỚI HÀNH ĐỘNG



Tôi đă thấy rằng phần lớn những hành giả tâm linh ngày nay thiếu tri thức để hội nhập đời sống hàng ngày của họ với thiền định. Tôi không biết làm sao để nhấn mạnh điều này: Hội nhập thiền vào hành động chính là tất cả nền tảng, lư do và mục tiêu của thiền định. Sự bạo động, căng thẳng, những thử thách và xao lăng của đời sống tân tiến làm cho sự hội nhập này càng thêm khẩn thiết hơn nữa.

Có người phàn nàn với tôi:

- Tôi đă thiền mười hai năm, những vẫn chứng nào tật ấy. Tôi không thay đổi, tại sao?

Tại v́ có một hố sâu giữa hành thiền của họ với đời sống hàng ngày. Họ dường như hiện hữu trên hai thế giới tách biệt, thế giới này không giúp ǵ cho kia. Tôi lại nhớ một thầy giáo hồi tôi c̣n đi học ở Tây Tạng. Ông ta giảng quy luật văn phạm rất xuất sắc, nhưng không bao giờ viết đúng được một câu nào.

Thế th́ làm sao chúng ta có được sự hội nhập giữa đời sống hàng ngày với tư thái b́nh tĩnh, buông xả rộng răi của thiền định? Không ǵ bằng thực tập thường xuyên, chỉ nhờ thực tập thường xuyên ta mới bắt đầu nếm được một cách không gián đoạn sự an tĩnh của tự tính ta, và có thể duy tŕ kinh nghiệm ấy trong đời sống hàng ngày.

Tôi luôn luôn bảo học tṛ tôi đừng xuất thiền quá nhanh: Hăy để vài phút cho niềm an lạc của sự hành thiền len lỏi vào đời bạn.

Thầy Dudjom Rinpoche tôi nói:

- Đừng nhảy lên bỏ chạy, mà ḥa tâm tỉnh giác của bạn với đời sống hàng ngày. Hăy giống như người bị nứt sọ, luôn luôn cẩn thận canh chừng để người khác khỏi đụng vào ḿnh.

Rồi sau thời thiền định, điều quan trọng là đừng đầu hàng cái khuynh hướng củng cố lối nhận thức của ta đối với sự vật. Khi bạn vào lại đời sống hàng ngày, hăy để cho tuệ giác, tri kiến, ḷng bi mẫn, tính khí, sự khoáng đạt và giải thoát mà thiền đă đem lại cho bạn, thể nhập trong kinh nghiệm hàng ngày.

Thiền khơi dậy trong bạn cái nhận thức vạn pháp đều huyễn hóa, như mộng; bạn hăy duy tŕ nhận thức ấy ngay trong ḷng sinh tử. Một bậc thầy vĩ đại đă nói:

- Sau khi thực tập thiền định, người ta phải trở thành một đứa con của huyễn hóa.

Dudjom Rinpoche khuyên:

- Mặc dù mọi sự đều như mộng, huyễn hóa, bạn vẫn tiếp tục làm việc với thái độ hài hước. Chẳng hạn, nếu bạn đang đi dạo, hăy bước về khoảng trống khoáng đạt của chân lư.

Khi ngồi, bạn hăy là thành tŕ của chân lư. Khi ăn, bạn hăy cho những thói tiêu cực và ảo tưởng của bạn vào trong cái bụng của chân-không. Và khi đi cầu, hăy xem những chướng ngại đang được tẩy sạch.

Vậy, điều quan trọng không phải chỉ là ngồi, mà chính là trạng thái tâm của bạn sau thời thiền. Chính cái tâm trạng an tĩnh tập trung ấy, bạn hăy đưa nó vào trong mọi sự bạn làm. Tôi rất thích câu chuyện thiền trong đó môn đệ hỏi bậc thầy:

- Bạch thầy, làm sao ta đưa giác ngộ vào trong hành động? Làm sao ta thực hành thiền trong đời sống?

Vị thầy đáp:

- Bằng cách ăn, ngủ.

- Nhưng bạch thầy, ăn ngủ th́ ai cũng ăn ngủ.

- Nhưng không phải ai cũng thực ăn lúc họ ăn, thực ngủ lúc họ ngủ.

Từ đấy có thiền ngữ nổi tiếng:

- Khi ăn, ta ăn; khi ngủ, ta ngủ.

Ăn khi bạn ăn và ngủ khi bạn ngủ có nghĩa là hoàn toàn hiện trú trong tất cả hành động của bạn, không có những sự phân tán của bản ngă xen vào. Đấy là hội nhập.

Và nếu bạn thực sự mong muốn hoàn thành việc này, điều cần yếu không phải là chỉ tập thiền thỉnh thoảng như uống thuốc trị bệnh, mà phải như ăn cơm bữa. Bởi vậy, một cách tuyệt hảo để phát triển khả năng hội nhập này, là đầu tiên hăy thực tập thiền trong một khung cảnh nhập thất, xa hẳn những căng thẳng của sinh hoạt đô thị ngày nay.

Người ta rất thường đến với thiền với hy vọng có những kết quả phi thường, như linh kiến, ánh sáng, hay một vài phép lạ siêu nhiên. Khi không có điều ǵ như vậy xảy ra, th́ họ hết sức thất vọng. Nhưng phép lạ thực sự của thiền định lại “thuờng” hơn, và hữu ích hơn nhiều. Đấy là một sự chuyển hóa tế nhị, không chỉ xảy ra trong tâm bạn, cảm xúc bạn, mà thực sự cả trong thân bạn. Nó chữa lành.

Những bác sĩ và nhà khoa học đă khám phá rằng khi bạn vui vẻ, th́ những tế bào trong cơ thể bạn c̣n vui vẻ hơn, nhưng khi tâm bạn ở trong trạng thái tiêu cực, th́ những tế bào của bạn có thể trở thành ác tính. Toàn thể t́nh trạng sức khỏe bạn, có quan hệ mật thiết đến trạng thái tâm bạn và lối sống của bạn.



NGUỒN CẢM HỨNG



Tôi đă nói rằng thiền định là con đường đưa đến giác ngộ và là nỗ lực lớn lao nhất của đời này. Mỗi khi nói về thiền định cho sinh viên, tôi luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải thực hành thiền với một kỷ luật quyết định và sự sùng kính nhất tâm.

Đồng thời, cũng rất quan trọng là thực hành thiền với cảm hứng và tinh thần sáng tạo càng nhiều càng tốt. Có thể nói thiền là một nghệ thuật, và bạn nên tập thiền định với niềm hứng thú và giàu tính phát minh của một nghệ sĩ.

Hăy hăng hái đi vào sự an lạc của bạn như bạn đang cạnh tranh điên cuồng trong cuộc đời. Có nhiều cách đề làm cho thiền định trở thành một niềm vui. Bạn có thể t́m một bản nhạc ưa thích, và dùng nó để mở tâm trí bạn. Bạn có thể sưu tập thi ca, trích dẫn lời thánh nhân động đến tâm can bạn, và giữ chúng bên ḿnh để làm bạn lên tinh thần.

Tôi luôn luôn thích những bức tranh cổ thangka của Tây Tạng, vẻ đẹp của chúng làm cho tôi thêm năng lực. Bạn cũng có thể t́m những bức tranh gợi cho bạn cảm giác thiêng liêng, và treo lên tường pḥng bạn. Lắng nghe băng giảng của một vị thầy vĩ đại, hoặc nghe tán tụng. Bạn có thể biến chỗ bạn ngồi thiền thành một thiên đường giản dị, với một đóa hoa, một cây hương, một ngón nến, một bức ảnh của bậc thầy đă giác ngộ, hay một tượng Phật.

bạn có thể biến gian pḥng thường nhất thành một nơi thiêng liêng ấm cúng, một khung cảnh mà mỗi ngày bạn đến gặp bản ngă đích thực của bạn với tất cả niềm vui và hạnh phúc như gặp bạn cố tri. Và nếu bạn nhận thấy thiền định không dễ dàng xảy đến trong pḥng bạn ở đô thị, th́ hăy ra ngoài thiên nhiên. Thiên nhiên luôn luôn là một nguồn cảm hứng bất tận. Muốn an tâm, bạn hăy đi dạo vào lúc b́nh minh trong công viên, hay ngắm sương mai trên một đóa hồng trong vườn.

Nằm giữa đất mà ngắm nh́n bầu trời, để tâm bạn trải ra trong cái bao la đó. Hăy để cho bầu trời bên ngoài đánh thức bầu trời trong tâm bạn. Đứng bên ḍng suối mà ḥa tâm bạn vào tiếng nước chảy, ngồi bên thác đổ, để cho tiếng cười trong sáng của nó tịnh hóa tâm hồn bạn. Đi dạo trên băi biển và hứng đầy gió biển trên mặt bạn. Mừng ánh trăng sáng để cho vẻ đẹp của trăng làm lắng tâm bạn.

Ngồi trên hồ hay trong vườn, thở lặng lẽ, để tâm bạn im lặng khi trăng từ từ lên tráng lệ trong bầu trời không mây. Mọi sự đều có thể dùng làm sự mời gọi thiền định. Một nụ cười, một gương mặt trên tàu hầm, một cánh hoa mọc trong khe đá bên vệ đường, một tấm vải sặc sỡ treo trong cửa tiệm, ánh trời chiếu trên chậu hoa nơi cửa sổ.

Hăy nhạy bén đối với mọi dấu hiệu của cái đẹp và vẻ diễm kiều. Dâng lên mọi niềm vui, tỉnh giác vào mọi lúc, trước “những tin tức luôn luôn đến từ im lặng.”

Dần dà bạn sẽ là người làm chủ lấy hạnh phúc của ḿnh, tạo ra niềm vui cho chính ḿnh, có đủ mọi phương pháp để thắp sáng, nâng cao, gợi cảm hứng cho từng hơi thở và động tác của ḿnh.

Thế nào là một thiền giả vĩ đại? Đó là người luôn luôn sống với sự hiện diện của cái tự ngă chân thực của ḿnh, đă t́m ra và sử dụng liên tục suối nguồn của cảm hứng sâu xa. Nhà văn Anh Lewis Thompson viết:

- Kitô, thi nhân tối thượng, đă sống chân lư một cách say sưa đến độ mỗi hành vi của ngài đều là Hành vi thuần tịnh và ngôi Lời toàn hảo, thể hiện cái siêu việt.

Thể hiện cái siêu việt, đó là lư do chúng ta sống trên đời.







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 427 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 7:05pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TẠNG THƯ SỐNG CHÉT


6. TIẾN HÓA, NGHIỆP VÀ TÁI SINH


Vào cái đêm lớn lao ấy, khi đức Phật giác ngộ, tương truyền rằng ngài đă kinh quá nhiều giai đoạn của sự tỉnh thực. Đầu tiên, “với tam định tĩnh, thuần tịnh, không lỗi lầm, không cấu nhiễm, được làm cho mềm mại, dễ sử dụng, an trú bất động,” ngài xoay chú ư về sự nhớ lại những đời quá khứ. Ngài kể lại cho ta kinh nghiệm ấy như sau:

- Ta nhớ lại nhiều đời trước: một đời, hai, ba, bốn, năm đời,.. năm mươi, một trăm đời... trăm ngàn đời, trong các thời kiếp khác nhau. Ta biết mọi sự về những thời ấy: chỗ ở, tên họ, gia đ́nh, và ta đă làm ǵ.

Ta kinh quá trở lại những may mắn bất hạnh của mỗi đời, cái chết của ta trong mỗi đời, rồi lại tái sinh trở lại nhiều lần. Như thế ta nhớ lại vô số đời trước với những nét đặc biệt chính xác, và những hoàn cảnh. Minh này ta đă chứng vào canh đầu của đêm.

Từ thuở b́nh minh của lịch sử, sự tái sinh và niềm tin có đời sau đă chiếm một chỗ quan trọng trong hầu hết các tôn giáo lớn của nhân loại. Sự tin có tái sinh vẫn hiện hữu trong những người Ki tô vào thuở sơ khai của lịch sử Ki tô giáo, và tồn tại dưới nhiều h́nh thức cho đến thời Trung cổ.

Origen, một trong những người có ảnh hưởng nhất trong những nhà thờ, đă tin tưởng “sự có-trước của linh hồn” và đă viết vào thế kỉ thứ ba:

- “Mỗi linh hồn đến thế giới này được tăng cường bởi vinh quang hay bị yếu kém bởi những thất bại trong những đời trước của nó.”

Mặc dù Ki tô giáo cuối cùng đă chối bỏ niềm tin tái sinh, ta vẫn có thể t́m dấu vết niềm tin ấy qua tư tưởng thời Phục sinh, trong những trước tác của những thi sĩ lăng mạn chính như Blake và Shelley, và cả đến trong một con người như tiểu thuyết gia Honoré de Balzac.

Từ khi có sự nổi lên ưa chuộng các tôn giáo đông phương vào cuối thế kỉ trước, một số khá lớn những người Tây phương đă bắt đầu chấp nhận tri kiến của Ấn giáo và Phật giáo về tái sinh. Một trong những người này là Henry Ford, kỹ nghệ gia nổi tiếng thương người, đă viết:

- Tôi theo lư thuyết tái sinh vào năm tôi hăm sáu tuổi. Tôn giáo không cho biết tí ǵ về vấn đề này. Ngay cả sự nghiệp cũng không đem lại cho tôi niềm thỏa măn. Sự nghiệp thật vô bổ nếu ta không thể đem theo cái kinh nghiệm ta thu nhập để sử dụng trong đời kế tiếp.

Nhưng khi tôi khám phá thuyết tái sinh, th́ thời gian không c̣n bị hạn chế nữa. Tôi không c̣n là một tên nô lệ cho cái kim đồng hồ... Tôi muốn san sẻ với người khác sự an tịnh mà cái thấy ấy đă đem lại cho chúng ta.

Một cuộc trưng cầu ư kiến của viện Gallup vào năm 1982 chứng tỏ cứ bốn người Mỹ th́ có một người tin có luân hồi. Đây là một thống kê làm ta giật ḿnh, khi xét đến một nơi mà triết lư khoa học duy vật hầu như tiềm tàng trong mọi phương diện của đời sống hàng ngày.

Tuy nhiên, phần đông người ta chỉ có khái niệm lờ mờ về đời sống sau khi chết, và hoàn toàn không biết nó ra như thế nào. Luôn luôn người ta bảo tôi rằng họ không thể nào tin nổi một chuyện không có bằng cứ hiển nhiên. Nhưng sự “không tin” của họ đâu phải là bằng chứng để nói không có đời sau chứ? Voltaire nói:

- Chung quy, sinh ra lần nữa cũng không là chuyện lạ lùng ǵ hơn chuyện sinh ra lần này.

Tôi thường hỏi: “Nếu ta đă từng sống trước đây, th́ tại sao ta không nhớ?” Nhưng tại sao “ta không nhớ” lại có nghĩa rằng trước kia ta chưa từng sống? Chung quy, những kinh nghiệm tuổi thơ, hay của hôm qua, hay cả đến những điều ta vừa nghĩ một giờ trước, rất sống động khi chúng xảy ra, nhưng kí ức về chúng hầu như hoàn toàn phai mờ, như thể chưa từng xảy đến.

Nếu những ǵ chúng ta làm hay nghĩ vào thứ hai tuần trước mà ta c̣n không nhớ được, th́ làm sao ta nghĩ là có thể dễ dàng hay b́nh thường, để nhớ những ǵ ta làm trong đời trước?

Đôi khi tôi đùa người ta và hỏi:

- Cái ǵ làm bạn cương quyết cho rằng không có đời sau như vậy? Bạn có bằng chứng ǵ? Nếu bạn chết mà thấy quả thực có đời sau th́ bạn tính sao? Có phải là bạn phải tự giới hạn ḿnh, khi bạn tin rằng không có đời sau nào cả?

Có phải là có lư hơn nếu bạn cứ đặt một nghi vấn về đời sau, hay ít nhất có thái độ cởi mở về điều ấy, mặc dù không có cái mà bạn gọi là “bằng chứng cụ thể”? Cái ǵ sẽ làm bằng chứng cụ thể là có đời sau?

Tôi lại muốn người ta hăy tự hỏi ḿnh:

- Tại sao bạn thấy tất cả tôn giáo lớn đều tin có đời sau, tại sao hàng trăm triệu người suốt lịch sử, kể cả những triết gia lỗi lạc nhất, thánh hiền và những thiên tài của Á châu, đều sống niềm tin này như một phần cốt yếu của đời họ? Phải chăng họ đều ngu cả?

Ta hăy trở lại vấn đề bằng chứng cụ thể. Không phải chỉ v́ ta chưa bao giờ nghe về Tây Tạng, hay chưa từng đến đấy, mà ta nói rằng không có xứ Tây Tạng. Trước khi lục địa khổng lồ Mỹ châu được “t́m ra” có ai ở châu Âu ngờ rằng nó có đấy?

Ngay cả sau khi t́m ra châu Mỹ, người ta c̣n tranh căi về sự có mặt của nó. Tôi nghĩ chính cái tri kiến hạn hẹp của ta về cuộc đời đă ngăn cản ta chấp nhận hay khởi sự tư duy nghiêm chỉnh về khả tính của tái sinh.

May thay, chuyện chưa hết. Những người nào trong chúng ta có tu tập tâm linh, như tu thiền chẳng hạn, sẽ khám phá nhiều chuyện về tâm thức chúng ta, mà từ trước ta chưa biết đến.

V́ khi tâm ta càng mở ra cho kinh nghiệm kỳ lạ, bao la về hiện hữu của tự tính tâm, th́ ta bắt đầu thấy một chiều không gian khác hẳn, trong đó mọi quyết đoán của chúng ta về lai lịch ḿnh và về thực tại, mà ta tưởng ḿnh biết thật rơ, bây giờ khởi sự tan ră, và trong đó ta thấy đời sau ít nhất cũng là một chuyện có thể xảy đến.

Ta khởi sự hiểu rằng mọi sự mà các bậc thầy nói về sống chết và đời sau, quả là thực có.



VÀI “BẰNG CHỨNG” VỀ TÁI SINH



Hiện nay đă có rất nhiều sách nói về những chứng cứ của những người tuyên bố họ có thể nhớ lại đời trước. Tôi đề nghị nếu bạn thực t́nh muốn hiểu về tái sinh, th́ hăy điều nghiên việc này với tâm trạng cởi mở, và càng nhiều tinh thần phân tích càng tốt.

Trong số hàng trăm câu chuyện về tái sinh có thể kể ra đây, có một chuyện làm tôi thích thú đặc biệt. Đó là câu chuyện của một người đàn ông trung niên ở Norfolk, Anh quốc, tên Arthur Flowerdew. Năm mười hai tuổi ông ta có kinh nghiệm về những tâm ảnh sống động của một đô thị lớn nào đó ở giữa một sa mạc.

Một trong những h́nh ảnh xuất hiện nhiều lần trong trí ông là một ngôi đền chạm trổ từ một mỏm đá. Những h́nh ảnh lạ lùng này cứ trở lại trong trí ông, nhất là khi ông nhặt những ḥn sỏi màu hồng và màu cam trên bờ biển cạnh nhà. Khi lớn lên, những chi tiết về đô thị trong tâm trí càng rơ hơn, ông thấy thêm nhiều ṭa nhà, đường sá, lính, và đường đến đô thị xuyên qua một con kênh hẹp.

Măi lâu về sau, hoàn toàn t́nh cờ, ông xem một phim tài liệu về đô thị Petra cổ của Jordan. Ông rất ngạc nhiên khi trông thấy lần đầu tiên, h́nh ảnh mà ông đă thấy nhiều lần trong trí qua nhiều năm.

Ông cho biết ông chưa hề đọc sách vở ǵ về Petra. Những linh kiến của ông trở thành nổi tiếng, và sự xuất hiện của ông trên truyền h́nh của đài BBC làm chính phủ Jordan lư ư, đề nghị đưa ông bằng phi cơ đến Jordan cùng với một phóng viên quay phim của BBC.

Trước khi phái đoàn xuất hành, Arthur Flowerdew được giới thiệu với một nhà khảo cổ chuyên về Petra, đă viết một quyển sách về thành phố này. Nhà khảo cổ lấy làm lạ lùng trước sự hiểu biết rành mạch của ông ta, một vài điều ông nói ra chỉ có một chuyên gia khảo cổ về vùng ấy mới biết được.

Đài BBC ghi lại sự mô tả của Arthur Flowerdew về Petra trước khi đi, để so sánh. Flowerdew nêu lên ba địa điểm trong linh kiến của ḿnh về Petra: Một mỏm đá h́nh núi lửa ở ngoài đô thị, một ngôi đền nhỏ ở đấy ông tin rằng ông đă bị giết vào thế kỷ thứ nhất trước Thiên chúa, và một xây cất bất thường trong thành phố, mà các nhà khảo cổ rất quen thuộc, nhưng họ không biết để làm ǵ.

Chuyên gia khảo cổ không nhớ có mỏm đá nào như vậy, và tỏ vẻ hoài nghi. Khi ông ta đưa cho Flowerdew xem một bức ảnh chụp đô thị Petra, ông lấy làm kinh ngạc v́ Flowerdew chỉ đúng cái nơi có di tích ngôi đền. Rồi người đàn ông trung niên này thản nhiên giải thích, mục đích của cái cấu trúc kỳ lạ kia là cái vọng gác trong đó ông ta đă làm lính canh, cách hai ngàn năm về trước.

Một số lớn những tiên đoán của ông chứng tỏ rất chính xác. Khi đoàn đến gần thành Petra, Arthur Flowerdew chỉ chỗ mỏm đá kỳ bí, và khi vào thành, ông đến ngay vọng gác, không cần nh́n bản đồ, và chứng minh cái cách lạ lùng mà thời xưa đă sử dụng để điểm danh lính gác.

Cuối cùng ông đi đến nơi mà ông bảo ông đă bị một mủi kiếm của kẻ thù đâm chết vào thế kỉ thứ nhất trước Tây lịch, và lại chỉ ra những địa điểm, mục đích của những cấu trúc chưa khai quật được tại đô thị này.

Làm sao giải thích được sự hiểu biết lạ lùng của Arthur Flowerdew ngoại trừ sự tái sinh luân hồi?

Rồi lại có trường hợp những trẻ em nhớ lại một cách tự nhiên những chi tiết về đời trước. Nhiều trường hợp như vậy đă được tiến sĩ Ian Stevenson thuộc đại học Virginia sưu tập. Một tường thuật về những kí ức của một trẻ em về đời quá khứ đă gây sự chú ư của đức Dalai Lama. Ngài đă gửi một đại diện đến phỏng vấn và xác chứng những kí ức của em.

Tên em bé là Kamaljit Kor, con một thầy giáo sống trong một gia đ́nh theo đạo Sikh ở tỉnh Punjab ở Ấn. Một ngày kia, khi đi coi hội chợ với cha tại một khu làng, t́nh cờ cô bé bảo cha đưa đến một làng khác cách đó không xa. Cha cô rất ngạc nhiên, hỏi tại sao. Cô bảo:

- Con không có ǵ ở đây. Đây không phải nhà của con. Cha hăy đưa con đến làng ấy. Một đứa bạn học và con đang cỡi xe đạp th́ chúng con bị xe buưt đụng. Bạn con chết ngay, con bị thương ở đầu, tai, mũi. Con được đưa đi khỏi chỗ xảy ra tai nạn và đến nằm trên một ghế dài trước một ṭa án nhỏ gần đấy.

Rồi người ta đưa con đến bệnh viện làng. Những vết thương của con chảy máu thật nhiều, cha mẹ bà con đều theo con đến đấy. V́ bệnh viện làng không đủ phương tiện, họ tính đưa con đi Ambala. Khi các bác sĩ nói không cứu con được nữa, con đă yêu cầu đưa con về nhà.

Cha cô bé lấy làm kinh ngạc, nhưng v́ cô bé năn nỉ, ông phải đưa cô đến khu làng cô muốn. Khi đến gần, cô bé nhận ra ngay, chỉ chỗ đụng xe, và gọi một chiếc xích lô.

Cô bảo xe ngừng khi họ đến một cụm nhà mà cô bảo đă từng ở đó. Người cha vẫn không tin cô, nên hỏi những người ở đấy xem họ có biết gia đ́nh mà cô Kamaljit Kour đă mô tả. Họ xác nhận quả có việc như thế, và bảo người cha cô bé rằng Rishma, tên cô gái trước kia, khi chết đă được mười sáu tuổi, chết trong xe trên đường từ bệnh viện về nhà.

Người cha hết sức bực bội, bảo cô bé họ nên trở về, song cô đi ngay tới nhà cũ, đ̣i bức ảnh cô chụp ở trường, và ngắm nh́n thích thú. Khi ông nội và chú của cô Rishma đến, th́ cô bé nhận ra ngay, nói đúng tên họ. Cô chỉ cái pḥng riêng của cô, và đưa cha cô đi xem những pḥng khác trong nhà. Rồi cô đ̣i những quyển sách học cũ, đôi ṿng bạc và những cái nơ cùng với bộ áo quần mới màu marông.

Cô của Rishma giải thích, đấy là những vật sở hữu cũ Rishma ngày xưa. Hôm sau cô gặp tất cả những bà con cũ, và khi tới giờ lên xe buưt trở về, cô bé không chịu, bảo cha rằng cô sẽ ở lại. Nhưng cuối cùng ông đă năn nỉ cô bé cùng về.

Gia đ́nh khởi sự ráp câu chuyện lại. Kamalljit Kour đă ra đời mười tháng sau khi Rishma chết. Mặc dù chưa đi học, em bé vẫn thường làm bộ đọc sách, và nhớ được tất cả tên bạn trong tấm ảnh trường học. Kamaljit cũng thường đ̣i mặc áo marông.

Cha mẹ cô bé khám phá ra rằng Rishma đă được tặng một bộ quần áo màu ấy mà em rất thích, nhưng chưa được mặc. Điều cuối cùng mà em bé nhớ về đời trước của ḿnh là những ánh sáng trên chiếc xe hơi bỗng vụt tắt trên đường từ bệnh viện về nhà; có lẽ đấy là lúc em chết.

Ai muốn khảo sát nghiêm túc khả tính về đời sau, tôi đề nghị họ xem những chứng cứ cảm động về kinh nghiệm cận-tử. Rất nhiều người sống lại đă phát sinh một niềm xác tín rằng cuộc đời vẫn tiếp tục sau khi chết; nhiều người trong đó không có tín ngưỡng cũng chưa từng có kinh nghiệm tâm linh nào:

Bây giờ, suốt đời tôi hoàn toàn tin chắc có đời sau, không một chút nghi ngờ ǵ. Và tôi không sợ chết nữa, không. Nhiều người tôi biết rất sợ chết, sợ quá. Tôi luôn luôn cười thầm khi nghe người ta hoài nghi về đời sau, hay bảo, “Chết là hết.” Tôi tự nhủ: “Họ thực sự không biết ǵ cả.”

“Cái điều xảy đến cho tôi lúc đó là kinh nghiệm lạ lùng nhất tôi chưa từng thấy. Nó làm cho tôi nhận ra rằng có đời sau.”

“Tôi biết là có đời sau. Không ai có thể lay chuyển ḷng tin của tôi. Tôi không hoài nghi ǵ nữa. Chết thật an ổn, không có ǵ phải sợ. Tôi không biết c̣n ǵ ngoài ra cái mà tôi đă kinh nghiệm, nhưng với tôi, đă là tràn trề hạnh phúc...”.

“Nó cho tôi một giải đáp cho cái điều mà tôi nghĩ sẽ làm mọi người ngạc nhiên vào lúc này hay khác trong đời. Vâng, có đời sau! Đẹp hơn bất cứ ǵ ta có thể tưởng tượng! Khi bạn đă biết, th́ không có một cái ǵ có thể sánh bằng nó. Bạn chỉ biết thế!”

Những khảo cứu về đề tài ấy cũng chứng tỏ những người đă chết hụt sau đó thường cởi mở hơn và có khuynh hướng chấp nhận tái sinh luân hồi.

Và phải chăng những thiên tài đặc biệt về âm nhạc hoặc toán nơi một số trẻ em có thể suy từ sự phát triển của chúng trong những đời trước? Như Mozart năm tuổi đă soạn những đoản khúc, và xuất bản những khúc sonatas vào năm tám tuổi.

Bạn có thể đặt câu hỏi:

- Nếu có đời sau, th́ tại sao quá khó để nhớ lại đời trước của ḿnh như vậy?

Trong tác phẩm “Myth of Er” (Huyền thoại về Er) Platon gợi ư một giải thích cho sự thiếu trí nhớ này.

Er là một quân nhân được xem đă chết trận, và dường như đă trải qua một kinh nghiệm cận tử rồi sống lại. Y thấy nhiều chuyện trong khi “chết,” và được bảo phải trở về lại cuộc đời để kể cho người khác nghe trạng thái sau khi chết ra thế nào.

Ngay trước khi trở về, y thấy những người đang được chuẩn bị để tái sinh phải di chuyển trong hơi nóng ngột ngạt ghê gớm qua “Cánh đồng quên lăng”, một sa mạc không có cây cối.

Khi chiều đến, họ cắm trại gần Con Sông Thất Niệm, mà nước của nó không thể múc được. Tất cả đều được bảo uống một ít nước này, và một số người không có được cái trí tuệ để ngăn họ uống nhiều. Mỗi người khi uống th́ quên hết mọi sự.

Er không được phép uống nước, và khi thức dậy y thấy ḿnh đang nằm trên giàn hỏa, và có thể nhớ lại tất cả những ǵ y đă thấy nghe.

Có chăng một định luật chung để làm cho ta hầu như quên hết mọi sự về thời gian và nơi chốn ta đă sống trước kia? Hay chỉ v́ quá nhiều kinh nghiệm, phạm vi và cường độ của chúng quá lớn, đă xóa hết những kí ức chúng ta về những đời quá khứ?

Đôi khi tôi tự hỏi, chúng sẽ giúp ta được bao nhiêu nếu ta nhớ được? Hay lại c̣n làm cho chúng ta rối ren thêm?



TÍNH TƯƠNG TỤC CỦA TÂM THỨC



Theo quan điểm Phật giáo, luận cứ chính xác nhận có tái sinh là dựa trên một hiểu biết sâu xa về tâm tương tục. Tâm thức từ đâu đến? Nó không thể không từ đâu mà khởi lên. Mỗi sát na tâm không thể khởi nếu không có sát na tâm đi trước nó. Đứa Dalai Lama giải thích tiến tŕnh phức tạp này như sau.

- Căn bản trên đó Phật giáo chấp nhận có tái sinh, chính yếu là sự tương tục của tâm thức. Hăy lấy thế giới vật chất làm ví dụ: tất cả yếu tố trong vũ trụ hiện tại của chúng ta, cho đến mức vi tế nhất, có thể t́m về một nguồn gốc, một khởi điểm ở đấy mọi vật thể của thế giới vật chất được cô đọng lại thành cái mà khoa học gọi là “lượng tử”.

Những phân tử này lại là kết quả sự phân hóa của một vũ trụ có trước nó. Bởi thế có một chu kỳ miên viễn trong đó vũ trụ thành và hoại, rồi lại tái sinh.

Tâm cũng tương tự như thế. Sự kiện ta có một cái gọi là “tâm hay thức” thật rơ ràng, v́ kinh nghiệm chúng ta chứng tỏ sự hiện hữu của nó. Rồi kinh nghiệm cũng cho thấy rơ rằng cái mà ta gọi là “tâm hay thức” luôn luôn thay đổi theo hoàn cảnh, điều kiện. Điều này cho ta thấy bản chất liên tục và thay đổi của tâm thức.

Một sự kiện khác nữa cũng rơ ràng, là những tầng lớp thô của tâm thức liên lạc mật thiết với những trạng thái vật lư của cơ thể, và kỳ thực tùy thuộc vào chúng. Nhưng phải có một căn bản nào đó, một năng lực, nguồn gốc, khiến cho tâm thức, khi tác động hỗ tương với những phân tử vật chất, có thể sản xuất những hữu t́nh chúng sinh.

Cũng như b́nh diện vật chất, tâm cũng phải có sự tương tục từ quá khứ. Bởi thế nếu bạn theo dấu tâm trở về quá khứ, th́ bạn sẽ thấy bạn đang t́m về nguồn gốc của tâm tương tục hệt như của thế giới vật chất là một chiều không gian vô biên; bạn sẽ thấy nó không có khởi thủy.

Bởi thế, phải có những đời tái sinh tương tục th́ ḍng tâm thức tương tục mới có ở đấy.

Bởi thế, phải có những đời tái sinh tương tục th́ ḍng tâm thức tương tục mới có ở đấy.

Phật giáo tin ở lư duyên sinh theo đó mọi sự đều biến đổi, và đều có nguyên nhân và điều kiện. Bởi thế không có chỗ cho một thần sáng tạo, hay những thực thể tự-sinh. Đúng hơn, mọi sự phát sinh do kết quả của những nhân và duyên hay điều kiện. Bởi vậy tâm hay thức cũng xuất hiện kể như hậu quả của những tâm đi trước nó.

Khi nói về nhân và duyên, có hai loại: những nguyên nhân thực thụ, chất liệu từ đó một vật được sinh ra; và những yếu tố hợp tác góp phần vào sự tạo nên vật ấy, hay pháp duyên sinh ấy.

Trong trường hợp tâm và thân, mặc dù cái này có thể ảnh hưởng cái kia, songc ái này không thể là chất liệu của cái kia... Tâm và vật, mặc dù lệ thuộc lẫn nhau, song không phải là những nguyên nhân thực thụ thuộc loại “chất liệu” cho nhau.

Đây là cơ sở trên đó Phật giáo chấp nhận có tái sinh.

Phần đông người hiểu từ ngữ “tái sinh” như một “vật” sinh trở lại, du hành từ đời này sang đời khác. Nhưng trong Phật giáo, chúng tôi không tin có một thực thể độc lập bất biến như một linh hồn hay cái ngă tồn tại sau khi thân xác chết đi.

Cái yếu tố đem lại sự tiếp nối những đời sống, theo Phật giáo, không phải là một thực thể, mà là tầng lớp vi tế sâu xa tối hậu của tâm thức. Đức Dalai Lama giải thích:

- Theo lối giải thích Phật giáo, nguyên lư sáng tạo tối hậu là tâm. Có nhiều tầng lớp của tâm. Cái mà ta gọi là bản tâm sâu xa nhất vẫn luôn luôn hiện diện ở đấy. Sự tương tục của bản tâm ấy hầu như là một cái ǵ trường cửu, như những lượng tử không gian.

Trong địa hạt vật chất, đấy là lượng tử (phân tử không gian); trong địa hạt tâm thức, đấy là Ánh sáng Căn bản, điểm Linh Quang... Điểm Linh Quang, với năng lực đặc biệt của nó, tạo nên sự móc nối với tâm.

Cách tái sinh xảy ra đă được minh họa rơ ràng trong ví dụ sau.

- Những hiện hữu liên tiếp trong một chuỗi tái sinh không giống như những hạt ngọc trong một chuỗi ngọc, được xâu lại với nhau bằng một sợi dây gọi là “linh hồn,” xuyên qua tất cả hột châu; đúng hơn chúng như những con xúc xắc chồng lên nhau, mỗi con xúc xắc là riêng biệt, nhưng nó chống đỡ con ở trên nó, tự căn để có liên hệ với nhau. Giữa những con xúc xắc không có sự giống nhau nhưng có điều kiện tính.

Kinh điển Phật giáo nói rất rơ về tiến tŕnh duyên sinh hay điều kiện tính này. Bậc thánh tăng Nagasena giải thích cho vua Milinda trong một loạt những giải đáp nghi vấn mà nhà vua đă hỏi ngài.

Vua hỏi:

- Khi một người nào tái sinh, th́ y là một với người vừa chết, hay là khác?

Nagasena trả lời:

- Không phải một cũng không phải khác... Nếu một người đốt một ngọn đèn, có thể nó cho ánh sáng suốt đêm không?

- Có thể.

- Ngọn đèn cháy trong canh một có phải là một với ngọn đèn cháy trong canh hai... hay canh cuối?

- Không.

- Như vậy có phải nghĩa là ngọn đèn canh một khác, ngọn đèn canh hai khác, ngọn đèn canh ba khác?

- Không, v́ cũng chính ngọn đèn ấy cháy suốt cả đêm.

- Tái sinh cũng giống như vậy: Một hiện tượng này khởi lên và hiện tượng kia chấm dứt, hai cái đồng thời. Bởi thế tâm đầu tiên khởi lên trong đời sống mới không phải một cũng không phải khác với tâm cuối cùng trong đời trước.

Nhà vua xin một ví dụ khác để giải thích rơ bản chất của tương quan này, và Nagasena đă so sánh với sữa:

- Ván sữa, bơ, hay gia ua làm ra từ sữa không phải là một với sữa, nhưng cũng không phải khác, v́ hoàn toàn tùy thuộc vào sữa.

Khi ấy vua hỏi:

- Nếu không có thực thể nào di chuyển từ thân xác này qua thân xác khác, th́ có phải là ta sẽ thoát khỏi những nghiệp xấu mà ta đă làm trong các đời trước?

Nagasena cho tỉ dụ sau đây:

- Một người ăn trộm xoài người khác. Xoài y lấy không phải xoài người chủ đă trồng, làm sao lại phạt y được? Lí do y bị phạt là, những trái xoài y ăn trộm chỉ có được nhờ trước tiên người chủ có trồng ra. Cũng thế, chính v́ những nghiệp của ta trong quá khứ, thanh tịnh hay không thanh tịnh, mà ta được nối liền với một đời khác, và không thể thoát khỏi hậu quả.



NGHIỆP



Vào canh hai, khi Phật đạt giác ngộ, ngài chứng một loại hiểu biết hay minh thứ hai, bổ túc cho trí biết về tái sinh hay túc mạng trí, đó là trí biết về nghiệp, định luật tự nhiên của nhân và quả.

“Với thiên nhăn thuần tịnh siêu nhân, Ta thấy hữu t́nh chết và tái sinh, người hạ liệt kẻ cao sang, người may mắn kẻ bất hạnh tùy theo hạnh nghiệp của chúng.”

(Tùy nghiệp thú trí, liên hệ đến thiên nhăn. Dịch giả)

Sự thật và năng lực điều động tái sinh là cái mà ta gọi nghiệp. Người ta thường hiểu lầm nghiệp với định mệnh hay tiền định. Tốt nhất nên hiểu nghiệp là luật nhân quả tất yếu điều khiển vũ trụ. Danh từ karma, nghiệp, có nghĩa là “hành động,” và karma vừa là năng lực tiềm tàng trong hành động vừa là hậu quả mà hành động đem lại.

Có nhiều loại nghiệp: Nghiệp quốc tế, nghiệp quốc gia, nghiệp đô thị, và nghiệp cá nhân. Tất cả đều tương quan mật thiết với nhau, và chỉ có một người đă giác ngộ mới hiểu được sự phức tạp của chúng.

Nói giản dị th́ nghiệp là ǵ? Nó có nghĩa là bất cứ ǵ ta làm, qua thân, lời hay ư, đều sẽ có một hậu quả tương ứng. Mỗi hành vi, dù nhỏ nhất, đều mang nặng những kết quả của nó. Những bậc thầy nói rằng chỉ một chút độc dược cũng có thể gây ra cái chết, một hột nhỏ có thể trở thành một cây khổng lồ. Và đức Phật cũng dạy:

- Đừng khinh việc ác nhỏ chỉ v́ nó nhỏ; một đóm lửa nhỏ cũng có thể đốt cháy một đống cỏ khô lớn như ngọn núi.

Ngài c̣n dạy:

- Đừng xem thường việc lành nhỏ, nghĩ rằng không lợi lạc; những giọt nước tuy nhỏ cũng có thể làm đầy hồ.

Nghiệp không hư hoại như những vật thể ở ng̣ai hay trở thành vô hiệu lực. Nó không thể bị thời gian, lửa hay nước phá hoại. Năng lực của nghiệp sẽ không bao giờ biến mất cho đến khi nó chín mùi. Mặc dù những hậu quả của nghiệp chúng ta có thể chưa chín, nhưng chúng chắc chắn sẽ chín, khi gặp điều kiện thích hợp.

Thường chúng ta quên những ǵ ḿnh làm, và thực lâu về sau những hậu quả mới đến đuổi kịp chúng ta. Khi ấy ta không thể nào liên hệ chúng với những nhân, sinh ra chúng. Jigmé Lingpa nói:

- Hăy tưởng tượng, một con đại bàng đang bay cao trên bầu trời, không có bóng, không có ǵ chứng tỏ nó có ở đấy. Rồi th́nh ĺnh nó ŕnh mồi, lặn xuống, và sà xuống đất. Và khi nó rớt xuống, th́ cái bóng đe dọa của nó xuất hiện.

Những hậu quả hành động chúng ta thường bị triển hạn, ngay cả vào những đời sau; chúng ta không thế gán một nguyên nhân duy nhất, v́ bất cứ biến cố nào cũng có thể là một pha trộn vô cùng phức tạp của nhiều nghiệp chín cùng một lúc. Bởi thế chúng ta có khuynh hướng cho rằng mọi sự “t́nh cờ” xảy đến cho chúng ta, và khi mọi sự tiến hành tốt đẹp, ta chỉ gọi đấy là “may mắn.”

Tuy nhiên, cái ǵ khác ngoài nghiệp, có thể thực sự giải thích thỏa đáng những sai khác kỳ lạ giữa chúng ta? Dù chúng ta có thể sinh ra trong cùng một gia đ́nh hay xứ sở, hay trong những hoàn cảnh giống nhau, chúng ta đều có tính t́nh khác nhau, gặp những sự việc hoàn toàn khác nhau, có tài năng khác nhau, khuynh hướng và số phận khác nhau.

Như lời Phật dạy:

- Hiện tại ta là những ǵ trong quá khứ ta đă từng là, và tương lai ta sẽ là ǵ tùy thuộc vào hiện tại ta làm ǵ.

Padmasambhava cũng nói:

- Muốn biết đời quá khứ, hăy nh́n t́nh trạng hiện tại của bạn; muốn biết đời vị lai, hăy nh́n những hành động hiện tại.



THIỆN TÂM



Như vậy, loại tái sinh mà ta sẽ có trong đời vị lai được định đoạt bởi bản chất của những hành động ta trong đời hiện tại. Và điều thật quan trọng là đừng bao giờ quên rằng hậu quả của hành động chúng ta hoàn toàn tùy thuộc vào ư định hay động cơ đằng sau những họat động ấy, chứ không phải tùy theo phạm vi tầm mức của chúng.

Vào thời Phật, có một bà lăo ăn xin tên gọi là “Nương tựa Niềm Vui.” Bà thường ngắm những vua chúa và mọi người cúng dường Phật và đệ tử của Ngài. Và không có ǵ bà thích hơn là được làm như họ. Bởi thế bà đi xin suốt ngày, và được một đồng tiền nhỏ.

Bà đem đồng tiền ấy đi mua một ít dầu. Người bán dầu bảo bà không mua ǵ được với đồng tiền ít ỏi ấy, nhưng khi nghe bà muốn cúng Phật, anh ta thương hại, cho bà một ít dầu bà cần. Bà đem đến chùa đốt một cây đèn, và phát nguyện:

- Con không có ǵ cúng dâng Phật, ngoại trừ cây đèn nhỏ này. Nhưng do sự cúng dường này, mong cho con đời sau có trí tuệ. Mong cho con giải thoát tất cả hữu t́nh ra khỏi bóng tối ngu si. Mong cho con tịnh hóa tất cả những cấu uế chướng ngại của họ, và đưa họ đến giải thoát.

Đêm ấy tất cả các ngọn đèn đều cháy hết cả dầu. Nhưng vào lúc b́nh minh, ngọn đèn của bà lăo vẫn tiếp tục cháy, khi tôn giả Mục kiền liên đi thâu lại những cây đèn. Khi trông thấy ngọn đèn c̣n cháy sáng, đầy dầu và bấc mới, ngài nghĩ:

“Không lư ǵ để cho cây đèn này vẫn cháy vào ban ngày,” và ngài cố thổi tắt. Nhưng cây đèn vẫn cháy. Ngài lấy tay bóp, lấy y chụp lên cho nó tắt, mà nó vẫn tiếp tục cháy sáng. Đức Phật vẫn nh́n ngài từ lúc đầu, và bảo:

- Mục kiền liên, có phải ông muốn dập tắt ngọn đèn ấy không? Ông không làm được đâu. Ông không di chuyển được nó, chứ đừng nói là dập cho nó tắt. Nếu ông đem được bốn biển mà tưới lên cây đèn này, nó vẫn không tắt được, tại sao? V́ cây đèn này đă được đốt lên để dâng cúng với tất cả niềm sùng kính, và với tâm trí thanh tịnh. Chính động cơ ấy đă làm cho nó có công đức vô cùng.

Khi đức Phật nói lời này, th́ bà lăo ăn xin đi đến ngài, và ngài nói lời thọ kí cho bà trong tương lai sẽ thành Phật, hiệu là “Ánh sáng ngọn đèn.”

Như vậy chính động lực tốt hay xấu của chúng ta đă định đoạt kết quả hành động chúng ta. Shantideva nói:

- Tất cả niềm vui có được trên đời

Đều do muốn an lạc cho kẻ khác,

Tất cả đau khổ trên đời này

Đều do muốn hạnh phúc cho chính ḿnh.

V́ luật nhân quả là không lầm lẫn và không thể tránh, mỗi khi ta hại người khác, là ta đang tự hại ḿnh; mỗi khi ta đem lại hạnh phúc cho người khác, là ta đang đem lại cho chính chúng ta hạnh phúc tương lai. Bởi thế Đức Dalai Lama nói:

- Nếu bạn cố hàng phục những động lực ích kỷ, giận dữ vân vân... và phát triển ḷng từ bi đối với người khác, th́ cuối cùng bạn sẽ được lợi lạc hơn nhiều, cho chính bạn. Bởi thế tôi thường bảo những người ích kỉ khôn ngoan nên thực hành kiểu đó.

Những kẻ ích kỉ dại dột th́ luôn luôn nghĩ về chính ḿnh, và kết quả là không được cái ǵ. Người ích kỉ khôn ngoan th́ nghĩ tới người khác, giúp đỡ người khác càng nhiều càng tốt, và được kết quả là chính họ cũng nhận được lợi lạc.

Niềm tin vào tái sinh cho ta thấy có một thứ công bằng tối hậu hay thiện tính trong vũ trụ. Chính thiện tính ấy mà tất cả chúng ta đang cố phơi bày, làm cho hiển lộ. Bất cứ khi nào chúng ta có hành động tích cực, là ta đang tiến về phía nó; khi ta hành động tiêu cực, là ta bít lấp nó. Và khi ta không thể biểu lộ nó trong đời sống và hành động của ta, th́ ta cảm thấy đau khổ, bất măn.

Vậy nếu bạn muốn rút ra một thông điệp từ sự kiện tái sinh, th́ đó sẽ là:

- Phát triển thiện tâm, mong muốn người khác được hạnh phúc lâu dài, và hành động để có được hạnh phúc ấy.

Đức Dalai Lama nói:

- Không cần xây chùa; không cần triết lư rắc rối. Trí năo ta, trái tim ta là ngôi chùa của ta. Triết lư của tôi là ḷng tốt.



TÍNH SÁNG TẠO



Nghiệp như vậy không có tính cách định mệnh hay tiền định. Nghiệp là khả năng của chúng ta có thể định đoạt cách thức và lư do chúng ta hành động. Chúng ta có thể thay đổi. Tương lai nằm trong tay ta, và trong tay của trái tim ta. Phật dạy:

- Nghiệp tạo tất cả, như một họa sĩ.

Nghiệp sáng tác như một vũ công.

V́ mọi sự là vô thường, tuôn chảy, và hỗ tương lệ thuộc, nên cách làm và nghĩ của ta đương nhiên thay đổi tương lai. Không có hoàn cảnh nào dù có vẻ ghê gớm vô vọng tới đâu, như một cơn bệnh tới thời kỳ chót mà chúng ta không có thể sử dụng để tiến hóa. Và không có tội ác hay sự tàn bạo nào mà không được tịnh hóa nhờ sự sám hối chân thành và tu tâm thực sự.

Milarepa được xem như vị đạo sư Du già vĩ đại nhất ở Tây Tạng, một nhà thơ, một bậc thánh. Tôi c̣n nhớ hồi nhỏ tôi đă ớn lạnh như thế nào khi đọc câu chuyện đời ngài, và nghiền ngẫm những bức minh họa trong cuốn tập chép tay của tôi về cuộc đời ngài.

Khi c̣n trẻ, Milapera đă được huấn luyện làm phù thủy, và với tà thuật ngài đă giết và tàn hại vô số người. Thế nhưng nhờ ăn năn sám hối, và những nỗi đau khổ nhọc nhằn mà ngài đă phải chịu đựng với vị thầy vĩ đại Marpa, ngài đă có thể lọc sạch tất cả ác nghiệp. Ngài tiến lên đến sự giác ngộ, trở thành một nguồn cảm hứng cho hàng triệu người sau qua nhiều thế kỉ.

Ở Tây Tạng chúng tôi nói: “Ác nghiệp có một điều hay, đó là nó có thể được tịnh hóa.” Bởi vậy luôn luôn c̣n có hy vọng. Ngay cả những kẻ sát nhân và những kẻ trọng tội ghê gớm nhất cũng có thể thay đổi và vượt qua cái hoàn cảnh đưa họ đến tội lỗi. Hoàn cảnh hiện tại của chúng ta, nếu biết sử dụng khéo léo, có trí tuệ, có thể gợi hứng cho ta thoát khỏi dây trói của đau khổ.

Những ǵ đang xảy ra cho ta hiện tại phản ảnh nghiệp quá khứ của ta. Nếu ta biết điều ấy, và biết thực sự, th́ mỗi khi đau khổ hay khó khăn giáng xuống cho ta, ta sẽ không xem chúng đặc biệt như một thất bại hay tai họa, hay xem đau khổ như một sự trừng phạt nào đó. Chúng ta cũng không trách kẻ khác, hay tự ghét ḿnh.

Chúng ta xem đau khổ mà ta đang trải qua cũng như sự hoàn tất của những kết quả của nghiệp quá khứ. Người Tây Tạng nói rằng đau khổ là “một cái chổi quét sạch những nghiệp ác của ta.” Chúng ta lại c̣n nên cám ơn (sự đau khổ) v́ đấy là một cái nghiệp ta đang đi đến kết thúc.

Chúng ta biết rằng “sự may mắn” một kết quả tốt của nghiệp, có thể trôi qua nếu ta không khéo sử dụng, nhưng “rủi ro” kết quả của ác nghiệp, quả có thể đem cho chúng ta một cơ hội tuyệt diệu để tiến hóa.

Với những người Tây Tạng, nghiệp có một ư nghĩa thiết thực sống động trong đời sống hàng ngày. Họ sống những nguyên lư của nghiệp, trong sự hiểu biết sự thật của nó, và đây là căn bản của đạo đức Phật giáo. Họ hiểu nghiệp là một tiến tŕnh tự nhiên và công bằng. Bởi thế nghiệp gợi cho họ có được một ư thức trách nhiệm cá nhân trong bất cứ việc ǵ họ làm.

Hồi tôi c̣n bé, gia đ́nh tôi có một nô bộc kỳ diệu tên là A pé Dorje thương tôi rất mực. Ông ta thực là một người thánh thiện, suốt đời không bao giờ hại ai. Mỗi khi tôi nói hay làm điều ǵ có hại, ông liền nhẹ nhàng nói:

“Ồ, thế là không phải.” bằng cách ấy ông gieo cho tôi một ư thức sâu xa về sự có mặt khắp nơi của nghiệp, và hầu như một thói quen máy móc để chuyển hóa những phản ứng của tôi, nếu tôi có một ư tưởng tai hại.

Có phải thực sự khó thấy vận hành của nghiệp không? Há chẳng phải ta chỉ cần nh́n lại đời ḿnh, để thấy những hậu quả của một vài nghiệp chúng ta đă làm? Khi chúng ta làm tổn thương một người nào, có phải là nó dội lại trên chính ta? Có phải chúng ta c̣n lại một hoài niệm đen tối đắng cay, và bóng đen của sự tự ghét? Hoài niệm và bóng đen đó chính là nghiệp.

Những thói quen và những nỗi sợ của chúng ta cũng thế, là do nghiệp, hậu quả những hành động, lời nói, tư tưởng ta đă làm trong quá khứ. Nếu ta xem xét những hành động của ta, và thực sự ư thức về chúng, ta sẽ thấy rằng có một mẫu mực luôn luôn trở lại trong những hành động của ta.

Bất cứ lúc nào ta có hành động xấu, nó liền đưa đến đau khổ; khi ta có hành động tốt, cuối cùng sẽ có kết quả là hạnh phúc.



TRÁCH NHIỆM



Tôi vẫn thường xúc đông về sự xác nhận của những báo cáo về kinh nghiệm cận tử, v́ nó cho thấy rơ ràng sự thật về nghiệp. Một trong những yếu tố chúng của kinh nghiệm cận tử một yếu tố đă gợi nhiều suy nghĩ là “sự thấy lại toàn cảnh cuộc đời.”

H́nh như rằng những người trải qua kinh nghiệm này không những thấy lại những chi tiết sống động nhất của cuộc đời đă qua, mà c̣n có thể chứng kiến những ẩn ư trọn vẹn nhất của những ǵ họ đă làm. Quả thế, họ kinh quá toàn thể những hậu quả hành động của họ trên người khác, và tất cả những cảm giác mà họ đă khơi dậy trong người khác, có thể là rất kinh khủng.

“Mọi sự trong suốt cuộc đời trải ra trước mắt tôi. Tôi hổ thẹn v́ nhiều chuyện tôi đă kinh quá, v́ lúc đó dường như tôi có một cái biết khác... Không những tôi thấy lại những ǵ tôi đă làm, mà c̣n thấy ảnh hưởng việc làm ấy trên người khác... Tôi nhận ra rằng ngay những ư tưởng của ta cũng không mất.

“Cuộc đời tôi trải ra trước mắt tôi... mọi cảm xúc tôi đă từng có trong đời, tôi đều cảm thấy. Và mắt tôi chỉ cho tôi thấy cái căn bản là những cảm xúc ấy đă ảnh hưởng đến đời tôi như thế nào. Đời tôi đă làm ǵ bấy nay để ảnh hưởng đến những cuộc đời người khác...

“Tôi chính là những người mà tôi làm thương tổn, và tôi chính là người mà tôi làm sung sướng.

“Đấy là một sự sống lại mọi ư nghĩ tôi đă nghĩ, mọi lời tôi đă nói, mọi việc tôi đă làm; cùng với hậu quả của từng ư nghĩ, lời nói, hành vi của tôi đối với mọi người và bất cứ người nào ở trong tầm ảnh hưởng tôi, dù tôi có biết họ hay không...; cộng thêm hậu quả của mỗi ư nghĩ, lời nói, và hành động tôi đối với thời tiết, cây cối, loài vật, đất, nước, lửa, gió.”

Tôi nghĩ rằng những chứng cứ này đáng được xem xét thực nghiêm túc. Chúng sẽ giúp tất cả chúng ta nhận chân được những hành ẩn của hành động, lời nói và ư nghĩ của chúng ta, và buộc chúng ta trở nên có trách nhiệm. Tôi đă để ư rằng nhiều người cảm thấy bị đe dọa trước thực tại về nghiệp, v́ họ bắt đầu hiểu được họ không thể thoát khỏi định luât tự nhiên của nó.

Có nhiều người tuyên bố họ coi thường nghiệp, nhưng tận tâm để, họ vẫn có những hoài nghi sâu xa về sự phủ nhận của họ. Ban ngày họ có thể hành động hoàn toàn coi khinh đạo đức, nhưng khi một ḿnh ban đêm, tâm họ thường u ám và giao động.

Cả Đông lẫn Tây đều có những lối đặc biệt đưa cái cách họ hiểu về “nghiệp” ra để tránh né trách nhiệm. Ở phương đông người ta dùng nghiệp để làm cái cớ khỏi giúp đỡ người khác, bảo rằng, người nào khổ là do cái “nghiệp” của họ.

Trong thế giới “tư tưởng tự do” ở phương tây, th́ ngược lại, những người Tây phương tin vào nghiệp có thể nhạy cảm và cẩn thận quá lố, và bảo rằng thực sự nếu ta giúp người nào tức là can thiệp vào cái nghiệp của họ, một cái ǵ họ phải tự lo liệu lấy cho ḿnh. Thật là một cách né tránh phản lại ḷng nhân đạo!

Có lẽ ta nên cho rằng cái nghiệp của chúng ta là t́m cách giúp đỡ họ. Tôi biết nhiều người giàu có: Tài sản họ có thể tàn phá họ, khi họ làm tăng thêm thói ích kỉ và lười biếng; nhưng họ cũng có thể tóm lấy cơ hội mà tài sản đem lại để giúp đỡ người khác, và khi làm thế, giúp đỡ chính họ.

Đừng bao giờ quên rằng chính qua hành động, lời nói và ư nghĩ, mà ta có quyền chọn lựa. Và nếu ta chọn lựa, ta có thể chấm dứt đau khổ và nguyên nhân đau khổ, và giúp cho tiềm năng chân thực của ta, Phật tính, thức dậy trong ta.

Chừng nào Phật tính này hoàn toàn tỉnh thức, chừng nào chúng ta được giải thoát khỏi vô minh và ḥa nhập với tâm giác ngộ bất tử, th́ ta mới có thể chấm dứt ṿng sống chết. Như vậy, giáo lư dạy ta, nếu ta không chịu đảm nhận toàn trách nhiệm cho chính ḿnh trong đời hiện tại, th́ sự đau khổ của chúng ta sẽ tiếp tục dài dài không những một vài đời mà hàng ngàn đời.

Chính nhận thức nghiêm trọng này đă làm cho những người theo Phật xem những đời sau c̣n quan trọng hơn cuộc đời này, v́ c̣n có nhiều điều chờ đợi chúng ta trong tương lai. Cái thấy trường kỳ ấy chủ động lối sống của họ. Họ biết rằng nếu chúng ta v́ một đời này mà không nghĩ ǵ đến tương lai vô tận th́ cũng giống như điên rồ đem tất cả tiền dành dụm được cả đời vào một cuộc rượu duy nhất, không cần biết hậu quả.

Nhưng nếu chúng ta tuân theo luật nhân quả và đánh thức thiện tâm, ḷng từ bi trong ta, nếu chúng ta thanh lọc ḍng tâm thức và dần dần khơi dậy trí tuệ của tự tính, th́ chúng ta có thể thành một con người đúng nghĩa, và cuối cùng sẽ giác ngộ.

Albert Einstein nói:

- Một con người là một phần của toàn thể vũ trụ, một phần được giới hạn trong thời-không. Nó tự xem ḿnh, những tư tưởng cảm giác của ḿnh, như là cái ǵ tách biệt với toàn thể đấy là một loại ảo tưởng của tâm thức. Ảo tưởng này là một nhà tù giam giữ chúng ta, giới hạn chúng ta vào những dục vọng riêng, và chỉ yêu mến vài người gần chúng ta nhất.

Nhiệm vụ chúng ta là phải giái thoát ḿnh khỏi ngục tù ấy bằng cách nới rộng ṿng bi mẫn để bao gồm tất cả sinh loài và tất cả thiên nhiên trong vẻ đẹp của nó.



TÁI SINH TẠI TÂY TẠNG



Những người nắm vững định luật về nghiệp và đă chứng ngộ, có thể chọn tái sinh nhiều lần để giúp đỡ những người khác. Ở Tây Tạng một truyền thống nhận chân những tái sinh (gọi là tulkus) như thế, được bắt đầu từ thế kỉ mười ba và tiếp tục đến ngày nay. Khi một bậc thầy đắc đạo chết, vị ấy có thể để lại những chỉ dẫn rơ ràng về nơi chốn sẽ tái sinh.

Một trong những đệ tử thân tín nhất của vị ấy hay bạn đạo của vị ấy sau đó có thể có một linh kiến hay chiêm bao, nói trước sự tái sanh sắp đến. Trong vài trường hợp, những đệ tử có thể đến một bậc thầy nổi tiếng về tài nhận ra những tulkus, và bậc thầy này có thể có một giấc mộng hay linh kiến giúp ông chỉ đạo sư t́m kiếm. Khi một đứa bé được t́m ra, th́ chính bậc thầy này là người xem xét có phải thật hay không.

Mục đích của truyền thống này là nó bảo đảm kí ức tuệ giác của những bậc thầy đă chứng ngộ khỏi tan mất. Điều quan trọng nhất về đời một vị tái sinh là, trong quá tŕnh huấn luyện, bản lai diện mục thức dậy, và đấy là dấu hiệu chứng tỏ “thứ thiệt”.

Chẳng hạn đức Dalai Lama thừa nhận ngài có thể hiểu dễ dàng từ lúc tuổi c̣n rất nhỏ, những khía cạnh thâm ảo của giáo lư Phật mà người ta cần phải nhiều năm mới hiểu được.

Nuôi dưỡng những vị tái sinh cần sự cẩn thận tối đa. Ngay cả trước khi sự huấn luyện bắt đầu, cha mẹ được chỉ dẫn phải đặc biệt chăm sóc những vị ấy. Sư huấn luyện những vị tái sanh c̣n gắt gao hơn huấn luyện tu sĩ thường, v́ những triễn vọng mà người ta chờ đợi ở các vị ấy.

Đôi khi họ nhớ những đời trước, hoặc chứng tỏ những khả năng lạ lùng. Như Đức Dalai Lama đă nói:

- Chuyện thông thường là những trẻ tái sanh nhớ được những vật và người từ những đời trước. Một vài trẻ c̣n có thể thuộc những kinh chưa được ai dạy.

Một vài người chỉ cần học qua đă thuộc, như trường hợp thầy Jamyang Khientse tôi. Khi c̣n bé, thầy có một vị dạy kèm rất khó tín. Thầy tôi phải sống với ông trong am cốc trên núi.

Một buổi sáng ông bận đi làm lễ cho một người mới chết ở làng lân cận, và trước khi ra đi ông dặn thầy tôi đến chiều phải thuộc một quyển kinh nhan đề là “Tụng những danh hiệu của Văn thù,” một bài kinh rất khó dài năm chục trang, mà thường phải mất nhiều tháng mới thuộc được.

Như mọi chú bé khác, ông vừa đi khỏi là thầy tôi bắt đầu chơi. Những người xung quanh lo ngại và bảo thầy tôi nên khởi sự học kẻo sẽ bị đ̣n, v́ họ biết ông thầy dạy kèm rất nghiêm khắc và nóng tính. Thầy tôi vẫn chơi đùa cho đến xế chiều, biết ông ta sắp về, mới chịu đọc qua bài kinh một lần. Khi vị thầy dạy kèm trở về hỏi bài, th́ thầy tôi đă thuộc ḷng không sót một chữ.

Thông thường, th́ không bậc thầy nào lại bắt một đứa trẻ làm một việc như vậy. Nhưng trong thâm tâm, vị này biết thầy tôi là một hóa thân của ngài Văn thù, vị Phật của đại trí huệ, và gần như là ông muốn dụ cho ngài phải tự chứng minh.

Chú bé tức thầy Jamyang Khientse khi nhận một công việc khó khăn như thế mà không phản đối, cũng đă mặc nhiên tự nhận ḿnh là ai. Về sau thầy Khientse viết trong tự truyện của ngài rằng vị thầy của ngài rất thán phục mặc dù không nói ra.

Cái ǵ tiếp tục nơi một vị tái sinh? Có phải vị ấy là một người với tiền thân vị ấy? Vừa phải vừa không phải. Động cơ và sự phát nguyện giúp đỡ mọi hữu t́nh th́ giống, nhưng không phải cũng một người ấy. Yếu tố tiếp nối đời này sang đời khác là một ân phước.

Sự truyền thừa ân phước này ḥa điệu và thích hợp với mỗi thời đại kế tiếp, và vị tái sinh xuất hiện một cách thích nghi nhất với nghiệp của người đồng thời đại, để có thể hoàn toàn giúp đỡ họ.

Có lẽ ví dụ cảm động nhất về sự phong phú, hiệu quả, và tinh vi của hệ thống này là Đức Dalai Lama. Ngài được tôn sùng bởi tất cả Phật tử như là nhập thể của Phật Quan Âm, vị Phật của ḷng bi mẫn bao la.

Lớn lên ở Tây Tạng, làm vị Phật-Vương, đức Dalai Lama hấp thụ tất cả sự huấn luyện cổ truyền và những giáo lư chính thống của mọi hệ phái, và trở thành một trong những bậc thầy vĩ đại nhất của Tây Tạng hiện nay. Nhưng thế giới th́ chỉ biết đến ngài như là một người có đức b́nh dị thẳng thắn và cái nh́n rất thực tiễn.

Ngài có một quan tâm nhạy bén đối với nhiều khoa học đương thời: Vật lư, Thần kinh học, Tâm lư học, và Chính trị. Quan điểm và thông điệp của ngài về trách nhiệm đại đồng không những được Phật tử nghe theo mà cả những người thuộc đủ mọi tôn giáo trên thế giới. Sự dấn thân của ngài trong phong trào bất bạo động trong cuộc tranh đấu dành độc lập cho Tây Tạng trải qua bốn mươi năm đă đem lại cho ngài giải thưởng Nobel Ḥa b́nh năm 1989.

Trong một thời đại bạo động, tấm gương của ngài đă khởi hứng cho nhiều dân tộc trên khắp địa cầu, trong khát vọng tự do của họ. Đức Dalai Lama đă trở thành một trong những người lên tiếng bảo vệ sinh môi trên thế giới, không mỏi mệt trong nỗ lực thức tỉnh con người trước hiểm họa của một nền triết lư ích kỷ duy vật.

Ngài được những nhà trí thức và lănh tụ khắp nơi ngưỡng mộ, tuy thế tôi đă biết hàng trăm người thường dân đủ loại và ở khắp các quốc gia, mà cuộc đời họ đă biến đổi nhờ niềm vui được thấy vẻ đẹp, tính hài hước và sự hiện diện thánh thiện của ngài.

Đức Dalai Lama, tôi tin tưởng, chính là gương mặt của Đức Phật Từ Bi đang hướng về một nhân loại lâm nguy; ngài là hiện thân của Quán Âm không những cho Tây Tạng hay cho Phật tử, mà cho toàn thế giới đang cần hơn bao giờ hết, đức bi mẫn và tấm gương của ngài, hoàn toàn phụng sự cho ḥa b́nh.

Người Tây phương sẽ ngạc nhiên khi biết được rằng ở Tây Tạng đă có bao nhiêu tái sinh, bao nhiêu vị đă từng là đạo sư, học giả, tác giả, bậc thánh, đă có những đóng góp nổi bật cả về giáo lư lẫn về xă hội. Những vị này đóng một vài tṛ cốt yếu trong lịch sử Tây Tạng. Tôi tin rằng tiến tŕnh tái sinh này không giới hạn ở Tây Tạng, mà có thể xảy ra trong mọi nước vào mọi thời.

Trong lịch sử đă có nhiều thiên tài về nghệ thuật, sức mạnh tâm linh, nhân bản, đă giúp loài người tiến hóa. Tôi nghĩ đến Gandhi, Einstein, AbLincoln, Mẹ Theresa, đến Shakespeare, đến thánh Francis, đến Beethoven, đến Michelangelo.

Khi người Tây Tạng nghe đến những vị ấy, họ liền bảo ngay đấy là những Bồ tát. Và mỗi khi tôi nghe về họ, về tác phẩm, tri kiến của họ, tôi rất xúc động trước sự vĩ đại của tiến tŕnh rộng lớn mà chư Phật và các bậc thầy đă tỏa ra để giải thoát hữu t́nh và cải thiện thế giới.








Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 428 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 7:10pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TẠNG THƯ SỐNG CHẾT


7. BARDO VÀ NHỮNG THỰC TẠI KHÁC


Danh từ Bardo trong Tạng ngữ chỉ có nghĩa là một chuyển tiếp hay một khoảng hở giữa sự hoàn tất một trạng huống và sự bắt đầu một trạng huống khác. Bar nghĩa là “ở giữa”, và do có nghĩa “bị lơ lửng,” “bị ném vào.” Bardo là một danh từ trở thành nổi tiếng do sự nổi tiếng của cuốn Tử thư Tây Tạng.

Từ khi bản dịch tác phẩm ấy ra đời đầu tiên năm 1927, quyển sách đă khơi dậy một sự chú ư lớn lao trong số những nhà tâm lư học, văn sĩ, triết học ở Tây phương, và đă bán ra hàng triệu bản.

Nhan đề Tử thư Tây Tạng do dịch giả người Mỹ Evans-Wentz đặt ra, phỏng theo tác phẩm danh tiếng (và cũng được đặt nhan đề sai lạc như thế) Tử thư Ai cập. Tên thật của quyển sách là Bardo Todrol Chenmo, có nghĩa “Sự Giải thoát lớn do Nghe trong cơi Trung gian.”

Giáo lư về cơi trung gian rất xưa cũ và được t́m thấy trong Dzogchen Tantras (Mật điển phái Dzogchen). Giáo lư này có một truyền thừa vượt ngoài những đạo sư nhân loại từ đời Phật Nguyên ủy (Phạn ngữ là Samantabhadra, và Tạng ngữ là Kuntuzangpo), tiêu biểu tính thuần tịnh nguyên sơ tuyệt đối giống như bầu trời của bản tâm ta.

Nhưng Bardo Todrol Chenmo chính nó là một phần của một chu kỳ giáo lư rộng lớn được truyền từ bậc đạo sư Padmasambhava và được hiển thị vào thế kỷ mười bốn nhờ bậc thấu thị Tây Tạng Karma Lingpa.

“Sự giải thoát lớn do Nghe trong cơi Trung gian, Bardo Todrol”, là một quyển sách độc đáo về tri kiến. Nó là một loại sách dẫn, một sách chỉ lộ tŕnh những trạng thái sau khi chết, cốt để một bậc thầy hay bạn đạo đọc cho một người sắp chết và sau khi chết.

Ở Tây Tạng người ta tin rằng có “Năm Phương Pháp để đạt Giác Ngộ mà không cần Thiền”: Nhờ thấy một bậc thầy vĩ đại hay một vật thiêng liêng; nhờ mặc những bức đồ h́nh mật tông và thần chú đă được làm phép đặc biệt; nhờ nếm nước thiêng, được chú nguyện bởi những bậc thầy trong thời gian tu nhập thất; nhờ nhớ lại sự chuyển di tâm thức, gọi là phowa, vào lúc chết; và nhờ nghe một vài giáo lư sâu xa, như “Giải thoát lớn do Nghe trong cơi Trung gian.”

Quyển sách này, Tử thư Tây Tạng, được dành cho một hành giả hay người đă quen thuộc với giáo lư trong đó. Đối với một độc giả tân tiến, th́ thật vô cùng khó để thâm nhập, nó nêu lên rất nhiều nghi vấn không thể trả lời nếu không có vài hiểu biết về truyền thống đă phát sinh ra Tử thư ấy.

Nhất là v́ quyển sách này không thể được sử dụng và hiểu thấu đáo nếu không biết được những chỉ dẫn khẩu truyền mà một bậc thầy truyền cho môn đệ làm ch́a khóa để thực hành.

Trong tác phẩm này, tôi sẽ đặt những lời dạy, mà Tây phương đă quen thuộc qua quyển Tử thư Tây Tạng, trong một bối cảnh rộng lớn hơn và dễ hiểu hơn nhiều.



BARDO HAY CƠI BARDO



V́ tính cách phổ thông của cuốn Tử thư Tây Tạng, nên người ta thường liên kết danh từ Bardo với sự chết. Quả thực danh từ ấy, trong ngôn từ thường ngày ở Tây Tạng, được dùng để chỉ trạng thái trung gian giữa chết và tái sinh, nhưng nó có một ư nghĩa rộng lớn sâu xa hơn nhiều.

Chính trong giáo lư này có lẽ hơn bất cứ chỗ nào khác, mà ta có thể thấy tri kiến của đức Phật về sống chết thực sâu xa và bao quát đến mức nào, và thực sự cái mà ta gọi chết kỳ thực bất khả phân ly, khi được nh́n và hiểu rơ từ nhăn quan của giác ngộ.

Chúng ta có thể chia toàn thể hiện hữu ta thành bốn thực tại: Sống, hấp hối và chết, sau khi chết, và tái sinh. Đấy là bốn Bardo hay Giai đoạn trung quan:

Bardo tự nhiên của đời này.

Bardo đau đớn của sự chết.

Bardo quang minh của pháp tánh.

Bardo nghiệp của sự trở thành hay tái sinh.



1. Bardo tự nhiên của đời này


trải dài suốt thời gian từ lúc sinh ra đến lúc chết. Trong t́nh trạng hiểu biết của ta hiện tại, giai đoạn này có vẻ như một cái ǵ to tát hơn là một chuyển tiếp. Nhưng nếu xét kỹ, ta sẽ thấy rơ rằng, so với chiều dài vô tận của lịch sử nghiệp của ta, th́ thời gian ta sống trong đời này thực tương đối ngắn.

Giáo lư nhấn mạnh với ta rằng, bạt đô đời này là thời gian duy nhất và tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết: Bằng cách làm quen với giáo lư này và ổn định sự tu tập.


2. Bardo đau đớn khi chết


kéo dài từ khi hấp hối cho đến khi chấm dứt cái được biết là “hơi thở bên trong”; giai đoạn này lên cao độ ở sự ló dạng của tự tính tâm, cái ta gọi là “Ánh sáng căn bản” vào lúc chết.


3. Bardo quang minh của pháp giới


là kinh nghiệm ngay sau khi chết về ánh sáng của tự tính tâm, quang sắc hay “Linh quang,” xuất hiện dưới dạng âm thanh, màu sắc và ánh sáng.


4. Bardo nghiệp của hiện hữu


hay trở thành, là cái mà ta thường gọi là cơi Bardo hay trung gian kéo dài cho tới khi ta tái sinh.

Điều phân biệt, định ranh giới mỗi Bardo là, chúng đều là những khoảng hở, những giai đoạn trong đó khả tính tỉnh thức hiện diện một cách rơ rệt. Những cơ hội để giải thoát đang xảy ra liên tục suốt cuộc sống chết, và giáo lư Bardo là ch́a khóa, là khí cụ giúp ta khám phá và nhận diện được những cơ hội ấy, và tận dụng chúng tối đa.



BẤT TRẮC VÀ CƠ HỘI



Một trong những đặc tính chính yếu của những Bardo (Giai đoạn trung gian) là, đấy là những thời kỳ vô cùng bất định. Cuộc đời này là một ví dụ rơ nhất. Thế giới quanh ta càng ngày càng quay cuồng, nên cuộc đời ta cũng càng phân tán thành nhiều mảnh. V́ bị mất liên lạc, không tiếp xúc được với chính ḿnh, chúng ta thường lo âu, bất an, và gần như bị chứng thần kinh loạn.

Một khủng hoảng nhỏ cũng đủ chọc thủng cái bong bóng của những kế hoạch ta dự tính. Một phút giây kinh hoàng cũng đủ cho ta thấy mọi sự thật bấp bênh làm sao. Sống trong thế giới ngày nay là sống trong một cảnh rơ ràng là cơi Bardo, bạn không cần phải chết mới kinh quá một cơi như thế.

Tính cách bất định này, mà hiện tại đang thấm nhuần khắp mọi sự vật, càng trở nên mănh liệt hơn, rơ nét hơn, sau khi ta chết, khi mà tính sáng suốt hay mê mờ của chúng ta, theo lời những bậc thầy, “được nhân lên bảy lần.”

Bất cứ ai nh́n cuộc đời một cách trung thực, cũng sẽ thấy rằng chúng ta đang sống trong một t́nh trạng miên viễn của hồi hộp và bất định. Tâm thức ta luôn luôn di chuyển từ trạng thái sáng suốt đi vào mê mờ, và từ mê mờ ra sáng suốt.

Nếu mê mờ luôn, th́ ít nhất nó cũng sẽ đưa đến một thứ sáng suốt nào đó. Một điều đáng buồn cười của cuộc đời này là đôi khi, nh́n chung th́ ta ngu thực, song ta cũng có thể sáng suốt đột xuất! Điều này chứng tỏ cho ta thấy Bardo là ǵ:

Một sự chập chờn giữa sáng suốt và mê mờ, giữa hoang mang và tuệ giác, chắc chắn và không chắc, khi tỉnh khi điên. Trong tâm ta hiện tại, tuệ giác và mê mờ khởi lên cùng lúc, đồng khởi. Điều này có nghĩa rằng chúng ta phải luôn luôn đối diện với một t́nh trạng chọn lựa giữa hai trường hợp, và mọi sự tùy thuộc ở chỗ ta sẽ chọn trường hợp nào.

Tính bất trắc miên viễn này có thể làm cho mọi sự có vẻ đáng chán và hầu như vô vọng, nhưng nếu nh́n kỹ, bạn sẽ thấy rằng tự bản chất nó đă tạo ra những khe hở, những khoảng không trong đó những cơ hội, dịp may để chuyển hóa luôn luôn phát sinh – nghĩa là, nếu chúng ta có thể thấy được và tóm lấy chúng.

V́ cuộc đời chỉ là một sự tuôn chảy bất tận giữa sống, chết và chuyển tiếp, nên những kinh nghiệm Bardo đang xảy đến cho chúng ta luôn luôn, và là một phần căn để làm nên toàn thể tâm thức ta. Tuy nhiên, b́nh thường chúng ta quên mất những bardo và khoảng hở giữa chúng, v́ tâm ta đi từ một t́nh huống “chắc ăn” này tới một t́nh huống chắc chắn khác, ta quen bỏ qua những chuyển tiếp luôn luôn xảy ra.

Kỳ thực, như giáo lư có thể giúp ta hiểu, từng mỗi lúc trong kinh nghiệm của chúng ta là một Bardo, v́ mỗi ư tưởng, mỗi cảm xúc sinh khởi từ tự tính tâm và ch́m trở vào trong tự tính ấy. Giáo lư cho ta biết rằng, chính vào những lúc thay đổi và chuyển tiếp đặc biệt quan trọng, mà tự tính tâm nguyên ủy giống như bầu trời của chúng ta mới có cơ hội xuất hiện.

Tôi xin lấy một ví dụ. Tưởng tượng một ngày làm việc bạn trở về nhà và thấy cửa nhà bạn đă bị phá tung, cánh cửa lơ lửng treo nơi bản lề. Bạn đă bị kẻ cướp viếng nhà. Bạn đi vào trong, và thấy mọi thứ bạn sở hữu đều đă biến mất. Trong một lúc, bạn điếng người v́ cú sốc, và đầy tuyệt vọng bạn quay cuồng trải qua một tiến tŕnh tâm thức cố làm sao tạo lại những ǵ đă mất. Tai nạn đă tới: Bạn đă mất hết mọi thứ.

Tâm thức đầy bất an giao động của bạn khi ấy bỗng choáng váng, và những ư tưởng lắng lại. Bỗng dưng có một sự vắng lặng sâu xa đột ngột, hầu như một kinh nghiệm hạnh phúc. Không c̣n phải phấn đấu, không cần ǵ nỗ lực nữa, v́ cả hai chuyện đều vô vọng. Bạn chỉ có buông bỏ, v́ không có chọn lựa nào khác.

Thế là một phút trước, bạn mất một cái ǵ quư báu, và ngay sau đó, bạn cảm thấy tâm bạn đang ở trong một trạng thái an tĩnh sâu xa. Khi loại kinh nghiệm ấy xảy đến, th́ đừng vội bủa đi t́m một giải pháp ngay. Hăy ở lại một lúc trong trạng thái an tĩnh đó. Hăy cứ để nó là một khoảng hở.

Và nếu bạn thực sự an trú trong khoảng trống ấy, nh́n vào tâm bạn, bạn sẽ thoáng thấy được bản chất bất tử của tâm giác ngộ. Ta càng có tính cảm thụ sâu xa và tỉnh giác bén nhạy đối với những khoảng trống, những giai đoạn chuyển tiếp trong cuộc đời như trên (đó là những cơ hội lạ lùng đưa ta đến tuệ giác căn để), th́ nội tâm ta càng được chuẩn bị khi chúng xảy đến một cách vô vàn mănh liệt hơn, và không được kiểm soát, vào lúc ta chết.

Điều này tối quan trọng, v́ giáo lư về Bardo cho ta biết có những lúc mà tâm thức tự do hơn b́nh thường rất nhiều, những thời điểm mănh liệt hơn những thời khác rất nhiều, những giây phút mang theo gánh nặng và hàm ẩn của nghiệp mạnh mẽ hơn nhiều lúc khác. V́ lúc ấy cơ thể bị bỏ lại, và ta được cống hiến cái cơ hội ngàn năm một thuở để giải thoát.

Dù ta có làm chủ được tâm một cách thuần thục đến bao nhiêu, ta vẫn bị giới hạn bởi thân xác và nghiệp của nó. Nhưng với cái chết, sự phóng thích xác thân vật lư, ta có được cái cơ hội kỳ diệu nhất để hoàn tất những ǵ ta đă nỗ lực theo đuổi trong suốt cuộc đời tu tập của ta.

Ngay cả một bậc thầy tối thượng đă đạt đến sự chứng ngộ cao nhất, th́ sự giải phóng cuối cùng cũng chỉ xảy đến vào lúc chết, gọi là Parinirvana, đại niết bàn. Đấy là lư do ở Tây Tạng, chúng tôi không mừng sinh nhật những bậc thầy, mà mừng Ngày chết của họ, cái giây phút họ đạt giác ngộ tối hậu.

Lúc tôi c̣n bé ở Tây Tạng, và nhiều năm về sau, tôi đă nghe nhiều chuyện kể về các bậc hành giả mật tông vĩ đại và ngay cả những cư sĩ tu yoga có vẻ b́nh thường, đă chết một cách lạ lùng gây nhiều cảm kích. Chỉ đến lúc chết họ mới phô diễn chiều sâu của sự thực chứng nơi họ, và năng lực của nền giáo lư mà họ đă thể hiện.

Giáo lư Dzogchen cổ xưa, từ đó phát sinh Tử thư Tây Tạng, có nói về một giống chim thần thoại, chim Garuda (kim sí điểu), mới sinh ra đă đủ lông cánh. H́nh ảnh ấy tượng trưng cho bản tính sơ nguyên của ta, đă hoàn hảo từ khởi thủy. Con chim con Garuda đă phát triển lông cánh đầy đủ ở trong trứng, nhưng không thể bay trước khi trứng nở ra.

Chỉ vào lúc vỏ trứng nứt ra, nó mới tung cánh bay lên bầu trời. Cũng vậy, theo lời các bậc thầy, những đức tính của Phật bị che mờ bởi cái thể xác, nên khi rũ bỏ được xác thân, những đức tính ấy sẽ hiển lộ một cách sáng chói.

Lư do tại sao thời điểm chết lại là cơ hội đầy tiềm năng như thế, là v́ chính lúc đó bản chất căn để của tâm, Ánh sáng Căn bản hay Linh Quang, sẽ tự nhiên hiển bày một cách rộng lớn và tráng lệ huy hoàng. Theo giáo lư Bardo, nếu vào lúc ấy ta có thể nhận chân được Ánh sáng Căn bản, th́ ta sẽ đạt giải thoát.

Tuy nhiên điều này không thể xảy ra nếu bạn chưa làm quen và thực sự quen thuộc với bản chất của tâm trong đời sống, qua sự thực hành thiền định. Và đấy là lư do tại sao một người giải thoát vào lúc chết được xem là giải thoát trong đời này, chứ không phải trong trạng thái trung gian sau khi chết. V́ chính trong lúc sống mà sự trực ngộ ánh Linh Quang đă xảy và được an trú. Đây là điểm tối quan trọng cần thiết.



NHỮNG THỰC TẠI KHÁC



Tôi đă nói rằng những Bardo là những cơ hội, nhưng cái ǵ thực sự ở trong những bạt đô làm cho ta có thể tóm lấy cơ hội mà chúng cống hiến? Câu trả lời rất đơn giản: Chúng đều là những trạng thái khác nhau, những thực tại khác của tâm.

Trong sự thực hành Phật giáo, qua thiền định, chúng ta chuẩn bị để khám phá những khía cạnh tương quan của tâm, và khéo léo đi vào những mức độ khác nhau của ư thức. Có một tương quan chính xác và rơ rệt giữa những trạng thái trung gian và những tầng lớp tâm thức mà ta kinh nghiệm qua chu kỳ sống chết.

Bởi thế khi ta di chuyển từ một Bardo này tới Bardo khác, cả trong lúc sống lẫn lúc chết, th́ có một thay đổi tương đương trong tâm thức; và nhờ thực tập thiền, chúng ta có thể làm quen, thân thiết với nó, và cuối cùng có thể hoàn toàn hiểu rơ nó.

V́ cái tiến tŕnh diễn ra trong cơi trung gian sau khi chết đă nằm sẵn trong những tầng sâu của tâm thức chúng ta, nên nó cũng thể hiện trong đời sống với nhiều từng bực. Chẳng hạn, có một tương đương rơ rệt giữa những mức độ tinh tế của tâm thức mà chúng ta trải qua trong giấc ngủ và mộng mị, với ba Bardo liên hệ tới cái chết:

Đi ngủ là giống như Bardo chết, trong đó tứ đại và tiến tŕnh tư duy tan ră, mở vào kinh nghiệm Ánh sáng căn bản.

Chiêm bao là giống như Bardo tái sinh, trạng thái trung gian trong đó bạn có một “ư sanh thân” (thân bằng tư tưởng) rất hoạt động và sáng suốt, trải qua đủ thứ kinh nghiệm. Trong trạng thái mộng mị, chúng ta cũng có một loại thân như thế, thân trong mộng, trong đó chúng ta trải qua mọi kinh nghiệm của đời sống trong mộng.

Khoảng giữa Bardo chết và Bardo tái sinh, có một trạng thái rất đặc biệt của quang sắc hay Ánh sáng căn bản, được gọi là “Bardo pháp tánh.” Đấy là một kinh nghiệm xảy đến với tất cả mọi người, nhưng rất ít người có thể chú ư đến nó, huống hồ kinh nghiệm nó một cách toàn vẹn, v́ nó chỉ được nhận chân bởi một hành giả đă tu tập. Bardo pháp tánh này tương đương với giai đoạn sau khi ngủ và trước khi bắt đầu chiêm bao.

Dĩ nhiên những giai đoạn tâm mờ mịt (tức những Bardo) trong khi chết là những trạng thái tâm thức sâu xa hơn và mănh liệt hơn nhiều so với trạng thái ngủ và mộng, nhưng chúng cũng có từng mức độ tinh tế như vậy. Những bậc thầy thường sử dụng sự so sánh đặc biệt này để chỉ cho ta thấy thật khó như thế nào để duy tŕ sự tỉnh giác suốt trong những trạng thái Bardo.

Có bao nhiêu người trong chúng ta ư thức được sự thay đổi trong tâm ta trong khi ngủ? Hay ư thức được cái lúc những giấc mộng bắt đầu? Có bao nhiêu người trong chúng ta ư thức được ngay khi mộng, rằng ḿnh đang nằm mộng? Vậy, hăy tưởng tượng duy tŕ được sự tỉnh giác trong giây phút kinh hoàng của những giai đoạn trung gian sau khi chết là khó đến mức nào.

Tâm bạn như thế nào trong giấc ngủ và trong trạng thái mộng, chỉ cho bạn biết tâm bạn sẽ như thế nào trong những trạng thái chết và tái sinh; ví dụ, cái cách bạn phản ứng đối với chiêm bao, ác mộng, và những khó khăn hiện tại, chứng tỏ bạn sẽ phản ứng như thế nào sau khi bạn chết.

Đấy là lư do pháp yoga về ngủ và mộng đóng vai tṛ quan trọng trong sự chuẩn bị cho cái chết. Điều mà một hành giả thực thụ t́m cách làm là giữ cho sự tỉnh giác về tự tánh tâm luôn luôn liên tục không gián đoạn ngày và đêm, và dùng ngay những giai đoạn khác nhau của giấc ngủ và mộng để trực nhận và quen thuộc với những ǵ sẽ xảy ra trong các giai đoạn bạt đô sau khi chết.

Bởi thế chúng ta t́m thấy hai Bardo khác cũng gồm trong Bardo tự nhiên của đời này: Bardo ngủ và mộng, và Bardo của thiền định. Thiền định là hành thiền ban ngày, c̣n yoga ngủ và mộng là thực hành về đêm. Trong truyền thống mà Tử thư Tây Tạng thuộc vào, có thêm hai Bardo này vào bốn Bardo nói trên, làm thành sáu Bardo.



SỐNG CHẾT TRONG L̉NG BÀN TAY



Mỗi Bardo có một loạt chỉ dẫn và hành thiền riêng của nó, được hướng dẫn đúng vào những thực tại và tâm trạng đặc biệt của từng Bardo. Đây là cách làm thế nào những thực tập và huấn luyện tâm linh dành cho mỗi trạng thái Bardo có thể giúp chúng ta tận dụng những trạng thái ấy, và những cơ hội do chúng đem lại, để giải thoát.

Điểm cốt yếu cần hiểu về Bardo là: Nhờ tuân theo sự luyện tập này, ta có thể thực sự trực nhận được những trạng thái tâm ấy trong lúc ta c̣n sống. Chúng ta có thể thực sự kinh nghiệm chúng ngay bây giờ ở đây.

Sự hoàn toàn làm chủ những chiều không gian khác nhau của tâm thức có thể khó hiểu đối với người tây phương, nhưng không phải là không thể đạt được.

Kunu Lama Tenzin Gyaltsen là một bậc thầy đă thành tựu tâm linh, xuất thân từ vùng núi tuyết thuộc miền Bắc Ấn. Khi c̣n trẻ, ngài gặp một vị Lama ở Sikkim, ông khuyên ngài đi Tây Tạng để học Phật. Bởi thế ngài đi đến tỉnh Kham miền đông Tây Tạng, ở đấy ngài hấp thụ giáo lư từ một vài Lạt ma vĩ đại, trong đó có Jamyang Khientse, thầy tôi.

Kiến thức về Phạn ngữ của Kunu Lama làm cho ngài được kính nể và mở ra cho ngài nhiều cánh cửa. Những bậc thầy hăng hái dạy ngài với hy vọng ngài sẽ đem những giáo lư ấy về truyền bá ở Ấn Độ, nơi mà giáo lư Phật hầu như đă biến mất. Trong thời gian ngài ở Tây Tạng, Kunu Lama trở thành một bậc đa văn và có thực chứng.

Cuối cùng ngài cũng trở về Ấn Độ, ở đấy ngài sống như một nhà khổ hạnh chân chính. Khi thầy tôi và tôi đến hành hương xứ Ấn sau khi rời Tây Tạng, chúng tôi đi t́m kiếm ngài khắp nơi ở Benares. Cuối cùng chúng tôi gặp ngài đang ở trong một ngôi đến Ấn giáo.

Không ai biết ngài là ai, lại c̣n không biết ngài là một người theo Phật giáo, đừng nói ǵ biết ngài là một bậc thầy. Người ta chỉ biết ngài là một thầy tu yoga thánh thiện dễ mến, và cúng dường ngài thực phẩm. Mỗi khi nghĩ về ngài, tôi luôn tự nghĩ:

- Có lẽ thánh Francis of Assisi cũng như thế đấy.

Khi những tu sĩ Tây Tạng mới đến Ấn trong cuộc lưu đày, Kunu Lama được chọn để dạy văn phạm và Phạn ngữ ở một ngôi trường do Dalai Lama sáng lập. Nhiều Lamas uyên bác theo học với ngài, và đều xem ngài là một vị thầy tuyệt hảo về ngôn ngữ. Nhưng một ngày nọ, có người t́nh cờ hỏi ngài về Phật pháp.

Câu trả lời của ngài vô cùng sâu sắc. Bởi vậy họ tiếp tục hỏi ngài nhiều câu, và thấy rằng ngài có thể giải đáp bất cứ câu hỏi nào họ đặt ra. Danh tiếng ngài lan rộng, và chẳng bao lâu ngài giảng dạy cho những tu sĩ thuộc các trường phái khác nhau, những giáo lư thuộc truyền thống riêng của họ.

Đức Dalai Lama lúc ấy đă nhận ngài làm vị hướng đạo tâm linh. Ngài công nhận Kunu Lama là nguồn cảm hứng cho ngài giảng dạy và thực hành từ bi. Quả thế, Kunu Lama là một điển h́nh sống động của từ bi. Mặc dù ngài rất nổi tiếng, ngài không hề thay đổi.

Ngài vẫn vận những y phục đơn giản như cũ, và sống trong một gian pḥng nhỏ. Khi ai đến cúng dường ngài một thứ ǵ, ngài liền đem làm quà cho người khác kế tiếp. Ai nấu cho ngài, ngài sẽ ăn, nếu không ai nấu, ngài nhịn.

Một hôm một bậc thầy mà tôi quen biết tới viếng Kunu Lama để hỏi ngài vài câu hỏi về những trạng thái Bardo. Vị thầy này là một giáo sư rất uyên bác trong truyền thống Tử thư, và có kinh nghiệm về những sự hành tŕ liên hệ đến Bardo. Ông ta kể lại cho tôi nghe ông đă ngạc nhiên mê mẩn như thế nào khi lắng nghe Kunu Lama trả lời.

Ông chưa từng nghe những điều hay như thế bao giờ. Khi ngài mô tả những trạng thái Bardo, thực quá sống động và khúc chiết đến nỗi ta có cảm tưởng ngài đang chỉ dẫn đường đi đến Kensington High Street, hay Công viên trung ương, hay điện Elysées. Nó dường như thể ngài đă từng thực sự sống trong những trạng thái ấy.

Kunu Lama chỉ dẫn những Bardo bằng kinh nghiệm trực tiếp của chính ngài. Một hành giả tầm cỡ như ngài thường du hành qua tất cả chiều không gian khác nhau của thực tại. Và v́ những trạng thái Bardo đều chứa sẵn trong tâm chúng ta, nên chúng có thể được khơi mở, phóng thích, nhờ những thực hành thiền quán.

Những giáo lư ấy xuất phát từ trí tuệ của chư Phật, những người có thể thấy suốt sinh tử như nh́n vào ḷng bàn tay.

Chúng ta cũng là những vị Phật. Bởi thế nếu ta có thể thực hành trong cơi trung gian là cuộc đời này, tập đi sâu vào tự tính tâm chúng ta, ta có thể khám phá tri kiến về những cơi trung gian hay Bardo khác. Sự thật của những giáo lư về cơi trung gian tự nó sẽ mở ra trong ta. Bởi thế, giai đoạn trung gian tự nhiên của đời này là giai đoạn quan trọng nhất. Chính ngay bây giờ và ở đây, ta phải chuẩn bị cho tất cả những giai đoạn Bardo khác:

- Cách tối thượng để chuẩn bị là ngay bây giờ, đạt giác ngộ ngay trong đời này.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 429 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 7:31pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TẠNG THƯ SỐNG CHẾT


8. ĐỜI NÀY: CƠI BARDO TỰ NHIÊN


Ta hăy thám hiểm Bardo đầu tiên, Bardo tự nhiên của cuộc đời, cùng những hàm ẩn của nó, rồi sẽ tiếp tục thám hiểm ba Bardo kia theo thứ tự và thời gian thích hợp. Bardo tự nhiên của cuộc đời này trải dài suốt cuộc đời từ lúc sinh ra cho đến lúc chết.

Giáo lư về Bardo làm ta hiểu rơ tại sao đời này lại là một cơ may quư báu, được làm người có nghĩa ǵ, và ǵ là điều quan trọng nhất, cốt yếu nhất ta nên làm đối với tặng phẩm vô giá này, nghĩa là một đời người.

Những bậc thầy cho ta biết có một khía cạnh làm nền tảng căn để của tâm ta, gọi là “nền tảng của tâm thường ngày.” Longchenpa, bậc thầy Tây Tạng thế kỷ thứ mười bốn, mô tả nó như sau:

- Đó là một trạng thái trung tính, không giác ngộ, thuộc về tâm và tâm sở, đă trở thành nền tảng cho mọi hành nghiệp và dấu vết của sinh tử và niết bàn.

Nó có nhiệm vụ như một cái nhà kho, trong đó những dấu ấn của các hành vi quá khứ do cảm xúc tiêu cực gây ra được tích chứa lại như những hạt giống. Khi những điều kiện thích hợp phát sinh, chúng nẩy mầm và biểu hiện thành hoàn cảnh của đời ta.

Hăy tưởng tượng cái nền tảng của tâm ấy giống như một ngân hàng trong đó nghiệp được gửi vào kể như những dấu ấn của khuynh hướng thói quen. Nếu ta có thói suy nghĩ theo một mẫu mực đặc biệt nào đó, tiêu cực hay tích cực, những khuynh hướng ấy sẽ bị kích động dễ dàng, cứ trở lại và tiếp tục trở lại.

Với sự lặp đi lặp lại ấy, những khuynh hướng và tập quán của ta càng ăn sâu, tăng trưởng, thêm năng lực, ngay cả khi ta ngủ. Đây là cách những thói quen, khuynh hướng ấy định đoạt đời ta, cái chết và tái sinh của ta.

Chúng ta thường tự hỏi: “Tôi sẽ như thế nào khi tôi chết?” Câu trả lời là, như cái tâm trạng mà hiện thời ta đang là, loại người mà ta đang là:

- Ta sẽ như thế ấy khi ta chết, nếu ta không thay đổi. Đấy là lư do tại sao thực quan trọng để xử dụng cuộc đời hiện tại của ḿnh để thanh lọc luồng tâm thức, và do đó thanh lọc con người và tính t́nh ta, trong khi ta c̣n có thể làm việc ấy.



CÁI THẤY DO NGHIỆP LỰC



Tại sao chúng ta sinh làm người? Tất cả hữu t́nh có nghiệp giống nhau sẽ có một cái thấy giống nhau về thế giới xung quanh, toàn bộ thấy biết mà họ cùng có ấy gọi là “cái thấy do nghiệp.” Sự tương ứng mật thiết giữa nghiệp chúng ta với hoàn cảnh ta gặp, cũng giải thích được sự xuất hiện những h́nh tướng khác nhau: Chẳng hạn bạn và tôi là những con người, là do cái nghiệp căn để chung mà chúng ta cùng san sẻ.

Tuy nhiên ngay trong thế giới người, chúng ta c̣n có mỗi người một nghiệp riêng. Chúng ta được sinh ra trong những xứ sở khác nhau, đô thị, gia đ́nh khác; mỗi người hấp thụ một nền giáo dục khác, có những ảnh hưởng và niềm tin khác, tất cả những thứ này gồm chung lại thành nghiệp riêng của mỗi người.

Mỗi chúng ta là một tổng thể những thói quen và hành động quá khứ, do vậy chúng ta chỉ có thể nh́n thấy sự vật bằng cái lối nh́n riêng biệt độc đáo của ta. Con người có vẻ giống nhau nhưng nh́n sự vật với cách hoàn toàn khác nhau, mỗi người sống trong một thế giới độc đáo của riêng ḿnh. Kalu Rinpoche nói:

- Một trăm người chiêm bao, th́ có trăm cảnh mộng khác nhau. Có thể nói mọi giấc mộng đều thực, nhưng thật phi lư nếu cả quyết rằng chỉ có một của một người là cảnh thực, những cảnh mộng khác đều sai sự thật. Mỗi người thấy sự thực tùy theo nghiệp chi phối những nhận thức của họ.



LỤC ĐẠO



Đời người chúng ta không phải là nghiệp cảnh duy nhất. Phật giáo phân biệt sáu cơi hiện hữu: Trời, a tu la, người, súc sinh, quỷ đói, địa ngục. Mỗi cơi là hậu quả của một trong sáu cảm xúc tiêu cực chính yếu: Kiêu mạn, ganh tị, dục vọng, ngu si, thèm khát và giận dữ.

Sáu cơi ấy có thực sự hiện hữu bên ngoài không? Chúng quả có thể hiện hữu vượt ngoài tầm nghiệp thấy của ta. Đừng bao giờ quên: “Cái ǵ chúng ta thấy chỉ là do nghiệp, thấy của chúng ta khiến cho thấy, không ǵ khác.”

Cũng như trong hiện tại, với nhận thức bất tịnh, chưa tiến hóa của chúng ta, chúng ta chỉ biết được vũ trụ này, một con vi trùng cũng thế, có thể thấy một ngón tay của ta như cả một phong cảnh. Chúng ta kiêu căng tới nỗi chỉ tin rằng “thấy là tin tưởng” (nghĩa là, có thấy mới tin.)

Nhưng những giáo lư cao của Phật thường nói đến vô lượng thế giới trong nhiều chiều không gian khác nhau – có thể có nhiều thế giới rất giống với thế giới chúng ta – và nhiều nhà thiên văn hiện đại đă có những giả thuyết về sự hiện hữu những vũ trụ song hành với vũ trụ này. Làm sao ta có thể cả quyết cái ǵ hiện hữu hay không hiện hữu ở bên kia giới hạn tri kiến hẹp ḥi của chúng ta?

Nh́n vào thế giới xung quanh ta, và vào tâm ta, ta có thể thấy quả thực có sáu cơi luân hồi. Chúng hiện hữu khi chúng ta vô t́nh để cho những cảm xúc tiêu cực nơi ta chiếu ra và kết tinh thành những hoàn cảnh sống (cơi, hay y báo), và để cho những cảm xúc ấy định đoạt mẫu mực, h́nh dạng, hương vị và toàn thể đời ta trong những cơi ấy.

Sáu cơi cũng hiện hữu trong tâm ta dưới dạng những hạt giống và khuynh hướng tiêu cực luôn sẵn sàng để nẩy nầm và tăng trưởng, tùy theo ảnh hưởng bên ngoài và lối sống của ta.

Ta hăy nh́n xem một vài cơi như thế đă được phản chiếu và cô đọng lại trong thế giới quanh ta như thế nào. Đặc tính chính của cơi trời chẳng hạn, là vắng bóng khổ

đau, một cơi có sắc đẹp bất biến và mê mẩn theo dục lạc. Hăy tưởng tượng những vị thiên thần cao ráo, tóc hung đang tản bộ trên bờ biển, trong những khu vườn ngập nắng, đang lắng nghe bất cứ bản nhạc nào họ ưa thích, đang say sưa với đủ mọi thứ kích thích, hăng say học yoga thiền định, luyện thân thể, và t́m đủ cách để cải thiện chính ḿnh.

Nhưng không bao giờ động năo, không bao giời xúc chạm một sự rắc rối nào, một hoàn cảnh đau khổ nào, không bao giờ ư thức đến tính bản nhiên của họ, bị “gây mê” đến độ họ không bao giờ ư thức được t́nh huống đích thực của ḿnh.

Nếu một vài vùng ở California hay úc châu hiện lên trong tâm ta như cơi thiên giới, th́ bạn cũng có thể thấy cơi tu la có lẽ diễn ra hàng ngày trong sự cạnh tranh mưu mẹo ở vùng Wall Street hay trong những hành lang của Washington và Ṭa Bạch ốc.

C̣n cơi ngạ quỷ ở đâu? Nó hiện hữu ở bất cứ nơi nào mà con người, dù đă giàu có vô tận, cũng không bao giờ thỏa măn, muốn chiếm lấy công ti này, công ti nọ, hoặc tỏ ḷng tham không đáy của họ tại các vụ án ṭa. Hăy bật truyền h́nh lên bất cứ đài nào, bạn sẽ đi vào ngay cái thế giới của tu la và quỷ đói.

Tính chất cuộc đời trong cơi chư thiên có vẻ như thư thản hơn thế giới chúng ta, nhưng các bậc thầy lại bảo đời người là vô vàn quư báu hơn. Tại sao? V́ chính cái sự kiện rằng chúng ta có tỉnh giác và thông minh, những nguyên liệu cho giác ngộ. Và v́ sự đau khổ lan khắp cơi người ta chính là cái bàn đạp để cho ta làm cuộc chuyển hóa tâm linh.

Sự đau đớn, buồn phiền mất mát, và đủ thứ bất măn vô tận ở trong cuộc đời, thực sự chỉ có một mục đích đáng kể duy nhất là: Đánh thức chúng ta tỉnh dậy, giúp ta có thể gần như bắt buộc ta phải bứt ra khỏi chu kỳ sinh tử và nhờ thế bung ra được ánh quang vinh đang bị vây hăm trong ta.

Mọi truyền thống tôn giáo đều nhấn mạnh rằng đời người là cơ hội duy nhất, và có một tiềm năng ghê gớm mà thường ta không ngờ tới. Nếu ta để lỡ cơ hội mà cuộc đời này cống hiến cho ta tự chuyển hóa, th́ có thể một thời gian vô cùng tận nữa ta mới có được cơ hội khác.

Hăy tưởng tượng có một con rùa mù bơi trong đại dương bát ngát. Trên mặt biển có một cái ṿng bằng gỗ nhấp nhô theo sóng. Cứ một trăm năm con rùa mới ngoi lên mặt biển một lần. Theo ví dụ trong Phật giáo, được sinh làm người c̣n khó hơn là con rùa nổi lên và chui được cái đầu của nó vào chiếc ṿng gỗ ấy.

Và trong số những người được sinh làm người, th́ những kẻ may mắn được gặp nền giáo lư này cũng rất hiếm; và những người thực sự để tâm đến giáo lư và thể hiện giáo lư trong đời sống lại càng hiếm hoi, quả vậy, “như sao mọc ban ngày.”



CÁNH CỬA NHẬN THỨC



Như tôi đă nói, cách chúng ta nh́n thế giới tùy thuộc hoàn toàn vào nghiệp của ta. Những bậc thầy có ví dụ sáu loài chúng sinh nh́n ḍng sông. Loài người thấy con sông là nước, để tắm rửa hoặc để uống; loài cá thấy đó là nhà ở của chúng; loài trời trời thấy đó là vị cam lồ đem lại phúc lạc; loài tu la thấy đó là khí giới của chúng, loài quỷ đói thấy ra máu mủ tanh hôi; c̣n loài địa ngục th́ thấy là nước đồng sôi. Nước chỉ có một, nhưng được trông thấy nhiều cách khác nhau, nhiều khi hoàn toàn trái ngược.

Sự nhận thức theo nhiều kiểu đa dạng như thế chứng tỏ rằng tất cả cái thấy do nghiệp đều là ảo tưởng; v́ nếu một chất mà có thể được thấy ra nhiều cách như thế, th́ làm sao có thứ ǵ thực sự có được một thực hữu nội tại? Và nó cũng cho ta thấy rằng có thể một vài người cảm thấy thế giới này là thiên đường, vài người khác cho là địa ngục.

Giáo lư cho ta biết cốt yếu có ba loại thấy: “Cái thấy bất tịnh, do nghiệp” của phàm phu; “Cái thấy do kinh nghiệm,” mở ra cho những người hành thiền, mà là con đường siêu việt; và “Cái thấy thuần tịnh” của những bậc giác ngộ.

Một vị Phật hay người đă giác ngộ, sẽ thấy thế giới này toàn hảo một cách tự nhiên, một cảnh giới hoàn toàn thanh tịnh sáng chói. V́ đă tịnh trừ những nguyên nhân gây nên cái thấy đầy nghiệp chướng, nên họ thấy mọi sự trong vẻ thiêng liêng nguyên ủy giản đơn của nó.

Sở dĩ thấy mọi sự quanh ta theo kiểu ta thấy bây giờ, là v́ ta luôn luôn củng cố kinh nghiệm về thực tại bên trong và bên ngoài cùng một cách ấy đời này sang đời khác, và điều này đưa ta đến nhận thức sai lầm rằng cái ǵ ta trông thấy là thực hữu một cách khách quan.

Kỳ thực, khi ta đi sâu hơn vào sự tu tập, ta dần biết cách làm việc thẳng với những nhận thức cố chấp của ta. Mọi khái niệm sai lầm cũ của ta về thế giới, về vật chất và về chính ta, đều được lọc sạch, tan ră, và một cái thấy hoàn toàn mới, gần như thiên nhăn mở ra, như Blake nói:

- Nếu cái cửa nhận thức được lọc sạch. Th́ mọi sự sẽ xuất hiện nguyên vẹn bao la

Tôi không sao quên được lúc thầy Dudjom Rinpoche cao hứng thân mật bảo tôi qua giọng nói cao và khàn của thầy:

- Này, con biết chứ, thực sự mọi vật chung quanh ta đang biến mất, biến mất...

Nhưng với phần đông chúng ta, nghiệp và những cảm xúc tiêu cực cứ ngăn che chúng ta không cho thấy bản chất nội tại tự nhiên của ḿnh, và bản chất sự vật. Kết quả là ta bám lấy hạnh phúc và đau khổ cho là thực có, và một cách ngu si ta cứ tiếp tục gieo hạt giống cho đời sau của ta.

Những hành nghiệp cứ trói buộc chúng ta vào chu kỳ tiếp nối của sinh tử bất tận. Bởi thế mọi sự đang bấp bênh, tùy thuộc cách ta sống hiện giờ, ngay giờ phút này. Ta đang sống như thế nào bây giờ, có thể ảnh hưởng toàn thể tương lai ta.

Đấy là lư do cấp thiết thực sự khiến ta phải chuẩn bị để gặp gỡ cái chết với thái độ thông minh, để chuyển hóa nghiệp vị lai của ta, tránh cái thảm kịch cứ bị rơi trở lại vào trong vô minh vọng tưởng và lập lại chu kỳ sống chết khổ nhọc.

Cuộc đời này là th́ gian và nơi chốn duy nhất cho ta chuẩn bị, và ta chỉ có thể thực sự chuẩn bị nhờ tu tập tâm linh. Đây là thông điệp không thể tránh của đời này, một giai đoạn trung gian tự nhiên. Padmasambhava nói:

- Khi Bardo đời này xuất hiện với tôi.

Tôi sẽ từ bỏ lười biếng v́ cuộc đời ngắn ngủi

Đi vào con đường thấy, nghe, nghĩ, quán tưởng không xao lăng

Lấy tâm và nhận thức làm con đường, để thực hiện ba thân: tâm giác ngộ.

Bây giờ một khi tôi đă được thân người

Không có th́ giờ cho tâm lang thang trên đường nữa.



TUỆ GIÁC VÔ NGĂ



Đôi khi tôi tự hỏi một người nhà quê ở Tây Tạng sẽ cảm thấy thế nào nếu bạn th́nh ĺnh đưa họ đến một đô thị tân tiến với đủ thứ kỹ thuật tinh xảo.

Có lẽ người ấy sẽ tưởng ḿnh đă chết và đang ở trong trạng thái Bardo, sẽ há hốc miệng ra, đầy ngờ vực, mà nh́n những chiếc phi cơ bay trong bầu trời trên đầu y, hoặc ngắm một người đang nói chuyện bằng điện thoại với một người khác ở bên kia thế giới.

Y sẽ cho rằng ḿnh đang chứng kiến những phép thần thông. Thế mà tất cả điều đó dường như rất tự nhiên đối với người sống trong thế giới tân tiến, được nền giáo dục Tây phương giải thích từng bước một.

Cũng giống như thế, trong Phật giáo Tây Tạng, có một nền giáo dục tâm linh cơ bản, sơ đẳng, b́nh thường, một sự huấn luyện tâm linh đầy đủ về cơi trung gian là cuộc đời này, đem lại cho bạn ngữ vựng thiết yếu, ABC của tâm thức. Căn bản của sự huấn luyện này được gọi là “ba dụng cụ của trí tuệ”:

Văn tuệ, biết lắng nghe; Tư tuệ, biết tư duy quán tưởng, và Tu tuệ, biết thiền. Nhờ đấy chúng ta đi đến chỗ đánh thức tự tính tâm của ta, nhờ đấy chúng ta t́m thấy được sự thật ta là ai, và thể hiện niềm vui giải thoát - gọi là trí vô ngă.

Tưởng tượng một người th́nh ĺnh tỉnh dậy ở bệnh viện sau một tai nạn xe hơi, và thấy ḿnh hoàn toàn mất trí nhớ. Bên ngoài, mọi sự vẫn y nguyên: Nàng vẫn c̣n gương mặt ấy, h́nh dáng ấy, các giác quan và tâm vẫn ở đấy, nhưng hoàn toàn không nhớ thực sự ḿnh là ai. Cũng y hệt như vậy, ta không thể nhớ được bản lai diện mục của ḿnh.

Kinh hoàng, sợ hăi, ta nh́n quanh và đặt bày ra một lư lịch khác, một lư lịch ta bám lấy với tất cả sự tuyệt vọng của một người đang rơi vào hố thẳm. Cái lư lịch giả tạo, được bày đặt trong lúc vô minh đó gọi là cái tôi, “tự ngă.”

Vậy, ngă là sự vắng mặt tri kiến chân thực về ta là ai, cùng với những hậu quả của nó: Một sự bám víu tuyệt vọng, bằng mọi giá, vào một khối chắp vá, một h́nh ảnh tạm thời về cái ta, một tự ngă luôn luôn biến chuyển và phải biến chuyển để duy tŕ cái ảo tưởng về hiện hữu của nó.

Tạng ngữ gọi ngă là dak dzin, có nghĩa “tóm lấy một cái ngă.” Ngă như vậy được định nghĩa là những di chuyển không ngừng của sự chấp thủ một quan niệm lừa dối về “tôi” và “của tôi,” tự và tha, và chấp thủ mọi khái niệm, ư tưởng, dục vọng, và hoạt động nào sẽ duy tŕ cái cấu trúc giả tạo ấy.

Một sự bám víu như vậy là vô lối ngay từ khởi thủy, và đương nhiên phải bất măn, v́ không có cơ sở chân lư nào trong đó, v́ những ǵ ta bám víu tự bản chất đă không thể nắm bắt. Sự kiện chúng ta cần bám víu và cứ vẫn tiếp tục bám víu, chứng tỏ rằng tự thẳm sâu trong bản thể ta, ta biết cái ngă đó vốn không có thực chất nội tại. Từ cái biết âm thầm, làm ta bực bội đó, phát sinh mọi nỗi bực bội đó, phát sinh mọi nỗi bất an lo sợ trong ta.

Bao lâu ta chưa lột mặt nạ cái ngă thi nó c̣n tiếp tục đánh lừa chúng ta, như một chính trị gia bịp bợm luôn luôn rêu rao những hứa hẹn giả dối, hay một luật sư không ngừng phát minh những lời nói dối và biện hộ tinh vi, hay một chuyên viên quảng cáo cứ tiếp tục ba hoa những lời thuyết phục ngọt lịm mà trống rỗng.

Nhiều đời kiếp vô minh đă đưa ta đến chỗ đồng hóa toàn diện bản thể ḿnh với cái ngă. Chiến thắng lớn nhất của cái ngă là thuyết phục được cho ta tin rằng lợi lạc nhất cho nó cũng là cho ta, và lại c̣n đồng hóa sự sống c̣n của ta với của chính nó. Đây là một mỉa mai to lớn, khi ta xét rằng ngă và sự chấp thủ của nó chính là gốc rễ mọi đau khổ của ta.

Nhưng v́ chúng ta đă bị cái ngă lừa bịp quá lâu, bị nó thuyết phục quá hay, đến nỗi nội cái ư nghĩ rằng ta có thể trở thành vô ngă làm cho ta sợ hăi. Cái ngă rỉ tai ta rằng, vô ngă là mất hết tất cả huyền thoại phong phú của con người, chỉ c̣n là một người máy vô vị hay một cây cỏ không óc năo.

Cái ngă đánh một đ̣n xuất sắc vào nỗi sợ hăi căn để của ta, là sợ mất quyền kiểm soát, sợ cái mà ta chưa từng biết. Ta có thể tự nhủ:

- “Ḿnh cũng nên buông cái ngă ra lắm chứ, ḿnh đau khổ v́ nó, nhưng nếu ḿnh làm thế, th́ cái ǵ sẽ xảy đến cho ḿnh?”

Cái ngă sẽ tán đồng ngay trong một cách ngọt lịm:

- “Tôi biết đôi khi tôi cũng rầy rà thực, và thực t́nh tôi hoàn toàn thông cảm nếu anh muốn buông tôi ra. Nhưng có thực anh muốn như thế không nào? Ai sẽ săn sóc anh? Ai sẽ che chở và thương lấy anh như tôi đă làm bao nhiêu năm nay?”

Và ngay dù ta thấy rơ tận ruột gan những lời dối trá của cái ngă, chúng ta cũng quá sợ không dám bỏ nó, v́ ta chưa biết một tí ǵ về tự tính của tâm ta, lư lịch chân thực của ta, nên rơ ràng ta không có cách nào khác hơn là bám lấy ngă.

Chúng ta tuân theo những đ̣i hỏi của nó với thái độ tự khinh ghét, như bợm rượu với lấy chất uống mà y biết đang tàn phá y, hoặc như kẻ ghiền ma túy lục t́m chất kích thích mà họ biết sau một hồi “phi” ngắn ngủi sẽ đem lại cho họ sự chán chê tuyệt vọng.



CÁI NGĂ TRÊN ĐƯỜNG TÂM LINH



Chấm dứt sự chuyên chế oái ăm của bản ngă chính là lư do ta bước lên đường tu tập tâm linh, nhưng quyền năng của cái ngă hầu như vô tận, và mỗi giai đoạn nó đều có thể phá hoại và và xoay chuyển ta khỏi cái ước muốn giải thoát nó.

Chân lư thật giản dị, và những lời dạy cũng vô cùng sáng sủa, nhưng nhiều lần tôi phải buồn bă mà thấy rằng, mỗi khi giáo lư bắt đầu lay chuyển được chúng ta, th́ cái ngă lại cố làm cho những lời dạy trở thành rắc rối, v́ nó biết nó đang bị đe dọa tận căn để.

Lúc đầu, khi chúng ta mới khởi sự say mê con đường tu tập với những khả năng của nó, th́ cái ngă có thể cổ vũ ta và bảo:

Thật là kỳ diệu. Chính là điều anh nên làm. Lời dạy này hoàn toàn có lư.

Rồi khi chúng ta nói chúng ta muốn thử thực tập thiền, hay nhập thất, th́ cái ngă vỗ về:

- Thật là một ư nghĩ tuyệt vời. Tại sao tôi lại không theo anh. Cả hai chúng ta có thể học được vài điều.

Suốt kỳ trăng mật của sự tu tập tâm linh, cái ngă cứ giục ta:

- Thật tuyệt, thật lạ lùng, gợi cảm hứng...

Nhưng vừa khi chúng ta đi vào giai đoạn mà tôi gọi là “thời kỳ bếp núc” của con đường tu tập, và giáo lư bắt đầu động tới bản ngă sâu xa của chúng ta, th́ không sao tránh khỏi chúng ta va chạm với sự thật về bản ngă. Khi cái ngă được phơi bày, những chỗ yếu của nó bị động tới, là đủ mọi thứ vấn đề bắt đầu nổi lên. Nó như một tấm gương để ngay trước mặt chúng ta mà ta không thể tránh nh́n chỗ khác.

Tấm gương hoàn toàn trong sáng, nhưng trong đó có một cái mặt xấu xí, cau có, cái mặt chúng ta, đang trừng trừng nh́n lại chúng ta. Chúng ta khởi sự nổi loạn phản kháng v́ ta ghét cái ǵ ḿnh không thấy; chúng ta có thể nổi giận đập vỡ cái gương, nhưng nó chỉ vỡ ra thành hàng trăm gương mặt xấu xí giống nhau, và vẫn trợn trừng nh́n lại chúng ta.

Bấy giờ là lúc chúng ta bắt đầu nổi đóa và phàn nàn một cách cay đắng:

- Thế th́ ngă của ta nằm ở đâu?

Cái ngă đang đứng bên ta một cách trung thành, xúi giục:

Anh hoàn toàn đúng. Chuyện này xúc phạm quá thể chịu đựng. Đừng theo nó!

Khi chúng ta mê mẩn lắng nghe, th́ cái ngă tiếp tục hô triệu đủ loại hoài nghi, cảm xúc, hốt hoảng, như đổ thêm dầu vào lửa:

Anh không thấy giáo lư ấy không thích hợp với anh à? Tôi đă bảo. Anh không thấy ông ta không xứng làm thầy của anh sao? Hăy xem: Anh là một con người tây phương thông minh, tân tiến, từng trải; c̣n những chuyện xa lạ như thiền, Sufi, Zen, Phật giáo Tây Tạng... thuộc về văn hóa phương đông. Một triết học ở tuốt trên dăy Hy Mă Lạp Sơn một ngàn năm về trước th́ phỏng có ích lợi cho anh được?

Khi cái ngă vui mừng ngắm ta càng lúc càng bị vướng vào lưới của nó, nó c̣n trách móc ta về tất cả những nỗi nhọc nhằn, cô đơn, gian khổ mà chúng ta đă trải qua, khi chúng ta biết được chính ḿnh qua lời giảng dạy, và qua bậc thầy:

- Những ông đạo sư ấy không cần biết anh đă phải trải qua những ǵ. Họ chỉ cốt khai thác anh. Họ chỉ xử dụng những danh từ như từ bi, sùng tín, để làm cho anh rơi vào quyền năng của họ...

Cái ngă quá khôn lanh tới độ có thể bóp méo giáo lư để xài cho mục tiêu của nó; v́ “Quỷ Xa tăng có thể trích dẫn kinh thánh cho mục đích ḿnh.” Khí giới cuối cùng của cái ngă là chỉ ngay vào mặt ông thầy và những tín đồ mà bảo:

- Không có ai ở đây sống đúng theo giáo lư ấy được cả.

Bây giờ cái ngă lại đóng vai tṛ trọng tài công b́nh cho mọi hành vi: Vị trí láu cá hơn hết, từ điểm này nó có thể phá hỏng niềm tin của bạn, và làm tiêu ma bất cứ sự sùng kính nào, sự phát nguyện tu tập nào mà bạn đă có.

Nhưng dù cái ngă cố hết sức để phá hoại con đường tu của bạn, nếu bạn thực sự tiếp tục thực hành thiền định, bạn sẽ dần nhận ra ḿnh đă bị cái ngă gạt gẫm như thế nào: Hy vọng và lo sợ hăo huyền. Dần dần bạn thấy rằng cả hy vọng lẫn lo sợ đều là kẻ thù của sự an tâm; hy vọng đánh lừa bạn, bỏ bạn thất vọng trống rỗng, c̣n sợ hăi th́ làm bạn tê liệt trong tù ngục hẹp ḥi của bản ngă giả tạo.

Bạn bắt đầu thấy cái ngă đă lung lạc tâm bạn như thế nào, và trong bầu trời giải thoát mà thiền định đă mở ra, mỗi khi bạn tạm thời thoát khỏi chấp thủ, bạn hé thấy cái khoáng đạt của tự tính chân thực. Bạn nhận ra rằng trong hàng bao nay cái ngă của bạn, giống như một kẻ lường gạt bạn với đủ kế hoạch hứa hẹn mà toàn thị là láo khoét, chỉ có đưa bạn đến sự phá sản tâm linh.

Khi bạn thấy điều này trong sự an tĩnh của thiền định, mà không an ủi hay muốn che đậy những ǵ bạn thấy, th́ tất cả kế hoạch mưu đồ của ngă tự cho thấy nó trống rỗng, và bắt đầu sụp đổ.

Đây không phải là một tiền tŕnh phá hoại thuần túy. V́ cùng với sự nhận chân đau đớn tính giả dối tội lỗi của cái ngă của bạn, và của mọi người, phát sinh một cảm thức về tầm bao la của nội tâm, một trực cảm về vô ngă và tính duyên sinh của vạn pháp, và tính hài hước độ lượng, mà chính là dấu hiệu của giải thoát.

Nhờ bạn đă tập đơn giản hóa sự sống và làm cho cái ngă bớt có cơ hội quyến rũ bạn, và nhờ bạn đă tập sự tỉnh giác của thiền định – do vậy nới lỏng kềm tỏa của tính bạo động, bám víu và tiêu cực trong bạn – mà tuệ giác từ từ có thể ló dạng. Trong ánh sáng soi cùng khắp của nó, tuệ giác này có thể chỉ cho bạn một cách rơ ràng trực tiếp, những vận hành tinh vi nhất của tâm bạn, và đồng thời, bản chất của thực tại.



HƯỚNG ĐẠO MINH TRIẾT



Hai con người đă luôn sống trong bạn suốt cả đời bạn. Một người là bản ngă, nói nhiều, đ̣i hỏi, nóng nảy, tính toán; người kia là con người tâm linh kỳ bí mà tiếng nói lặng lẽ minh triết của y bạn hiếm khi nghe được hoặc nghe theo.

Khi bạn càng học giáo lư, quán xét, và ḥa nhập giáo lư đời sống của bạn, th́ tiếng nói bên trong bạn, trí phân biệt bẩm sinh của bạn được đánh thức và tăng trưởng, và bạn khởi sự phân biệt giữa sự hướng dẫn của nó với những tiếng nói của bản ngă. Kư ức về bản lai diện mục của bạn bắt đầu trở về với tất cả vẻ huy hoàng và tin tưởng.

Bạn sẽ thấy bạn đă t́m ra trong chính bạn người hướng đạo cho bạn. V́ người ấy biết rơ bạn y chính là bạn nên có thể giúp bạn dàn xếp mọi rắc rối của tư tưởng và cảm xúc bạn.

Người hướng đạo của bạn có thể có mặt thường xuyên, vui vẻ, đôi khi chế nhạo, người luôn luôn biết cái ǵ là tốt hơn cả cho bạn, giúp bạn càng lúc càng t́m ra lối thoát khỏi những ám ảnh của những phản ứng do thói quen và những cảm xúc mê mờ.

Khi tiếng nói của “trí phân biệt” trong bạn càng mạnh và rơ hơn, bạn sẽ phân biệt được chân lư của nó và những lừa bịp của bản ngă, và bạn có thể lắng nghe nó với niềm tư tưởng.

Bạn càng thường xuyên nghe theo người hướng đạo này, th́ càng dễ dàng thay đổi được những tâm thái tiêu cực nơi bạn. Dần dần bạn sẽ thấy ḿnh có thể thoát ra càng ngày càng nhanh hơn, khỏi những cảm xúc đen tối đă ngự trị đời bạn, và khả năng làm được việc ấy là phép lạ mầu nhiệm nhất.

Terton Sogyal, nhà thần bí Tây Tạng, đă nói rằng, ngài không khâm phục ǵ một người có thể biến hóa được cái nền nhà thành trần nhà, hay lửa thành nước. Phép lạ đích thực theo ngài là người nào có thể giải tỏa một cảm xúc tiêu cực.

Như vậy, dần dà, thay v́ nghe tiếng lải nhải của bản ngă, bạn sẽ thấy ḿnh càng ngày càng nghe được trong tâm ḿnh nhưng chỉ dẫn rơ ràng của giáo lư đang khởi hứng, khuyên bảo, hướng đạo, chỉ thị cho bạn ở mỗi khúc quanh.

Càng lắng nghe, bạn càng nhận được những hướng dẫn. Nếu bạn nghe theo tiếng nói của người hướng đạo minh triết ấy, của trí phân biệt nơi bạn, và để cho bản ngă im tiếng, th́ bạn sẽ kinh quá sự hiện diện của trí tuệ và phúc lạc mà chính thực là bạn. Một cuộc đời mới hoàn toàn khác cuộc đời trước đây khi bạn c̣n khoác cái lốt bản ngă, bắt đầu trong bạn.

Và khi cái chết đến, th́ bạn đă biết cách làm thế nào để kiểm soát những cảm xúc và ư tưởng nổi lên trong các trạng thái trung gian, những cảnh tượng mà nếu bạn không biết trước th́ có vẻ thực một cách ghê gớm.

Khi bệnh mất trí nhớ của bạn về chính ḿnh bắt đầu được chữa khỏi, cuối cùng bạn sẽ nhận ra rằng dak dzin, sự chấp thủ bản ngă, là căn nguyên mọi đau khổ của bạn. Bạn sẽ hiểu nó đă tàn hại bạn và kẻ khác đến mức nào, và sẽ thấy rằng điều cao quư nhất và lại khôn ngoan nhất để làm, là yêu thương người khác thay v́ yêu thương chính ḿnh. Việc ấy sẽ chữa lành trái tim, khối óc của bạn, và chữa lành tâm linh bạn.

Điều quan trọng là luôn luôn nhớ rằng nguyên tắc vô ngă không phải là lúc đầu có một bản ngă, rồi theo Phật th́ phải từ bỏ bản ngă. Trái lại, vô ngă có nghĩa là tự khởi thủy chưa bao giờ có một cái ngă, và nhận chân được điều này gọi là thấy “vô ngă”.



BA KHÍ CỤ CỦA TRÍ TUỆ



Cái cách để t́m được sự tự do giải thoát do trí tuệ vô ngă đem lại, là nhờ tiến tŕnh lắng nghe, tư duy quán tưởng và thiền định. Các bậc thầy khuyên ta bắt đầu bằng lắng nghe giáo lư thực nhiều lần (văn tuệ), và khi lắng nghe, giáo lư ấy nhắc đi nhắc lại cho ta nhớ bản tính trí tuệ bị che giấu trong ta.

Giống như thể ta là người đang nằm trong bệnh viện bị mất trí nhớ sau một tai nạn, và có người thương yêu săn sóc ta đang th́ thầm trong tai ta tên thật của ta, chỉ cho ta những h́nh ảnh của bạn bè thân quyến ta, cố đưa ta trở về tri giác để biết ḿnh là ai.

Dần dần, khi lắng nghe giáo lư, có vài đoạn vài tri kiến trong đó tác động trên ta môt cách mạnh mẽ, những kí ức bản lai diện mục của ta sẽ bắt đầu t́m lối quay về, và một cảm giác sâu xa về một cái ǵ thân thiết, quen thuộc sẽ chầm chậm thức dậy trong ta.

Lắng nghe là một tiến tŕnh vô cùng khó khăn hơn phần đông người ta tưởng, lắng nghe thực sự theo các bậc thầy muốn nói là hoàn toàn buông bỏ cái ta, buông tất cả thông tin, khái niệm, tư tưởng và thành kiến đă được độn đầy đầu óc ta.

Nếu bạn thực t́nh lắng nghe giáo lư, th́ những thứ ấy vốn dĩ là chướng ngại thực sự ngăn che ta với tính bản nhiên của ta – có thể từ từ được rửa sạch.

Khi cố lắng nghe thực sự, tôi thường thấm câu nói của thiền sư Suzuki Rodhi:

- Nếu tâm bạn trống rỗng, th́ nói luôn luôn sẵn sàng cho mọi sự; mở ra cho mọi sự. Trong tâm người sơ học, có thật nhiều khả năng, nhưng trong tâm của chuyên gia th́ có rất ít khả năng.

Tâm người sơ cơ là một cái tâm trống rỗng, rộng mở, sẵn sàng đón nhận, và nếu ta thực sự lắng nghe với một cái tâm của người sơ học, th́ ta mới có thể thực sự nghe được một cái ǵ.

V́ nếu ta lắng nghe với một tâm im lặng, càng thoát khỏi thành kiến càng tốt, th́ có thể tạo cơ hội cho sự thật của nền giáo lư xuyên thủng khối vô minh nơi ta, và làm cho ư nghĩa của sự sống chết trở nên càng ngày càng rơ rệt một cách lạ lùng. Thầy Digo Khientse Rinpoche tôi thường nói:

- Càng lắng tai, càng nghe nhiều, càng nghe nhiều, hiểu càng sâu.

Hiểu biết được sâu xa là nhờ quán xét và tư duy (tư tuệ), khí cụ thứ hai của trí tuệ. Khi ta quán xét những ǵ ta đă nghe, nó từ từ thẩm thấu vào ḍng tâm thức ta và thấp khắp kinh nghiệm nội tâm về cuộc đời ḿnh. Những sự cố hàng ngày bắt đầu xác chứng sự thật của giáo lư, v́ sự quán tưởng dần mở ra cho ta thấy những ǵ ta đă hiểu trên phương diện tri thức, sự quán tưởng mang hiểu biết ấy từ đầu óc đi vào tim ta.

Khí cụ thứ ba của trí tuệ là thiền định (tu tuệ). Sau khi lắng nghe giáo lư và tư duy về những lời dạy, ta đem thực hành những tri kiến ta đă đạt được và áp dụng chúng một cách trực tiếp trong nhu cầu hàng ngày, qua quá tŕnh thiền định.



NHỮNG HOÀI NGHI TRÊN ĐƯỜNG



Thầy Dudjom Rinpoche tôi thường kể câu chuyện ở Ấn Độ về một tướng cướp khét tiếng ngày xưa. Sau vô số lần cướp của giết người, y đâm ra hối hận v́ ḿnh đă gây ra biết bao nhiêu đau khổ cho người khác. Y khao khát t́m cách sám hối tội lỗi y đă làm, và đến viếng một thiền sư. Y nói với Ngài:

- Con là một kẻ phạm tội, bây giờ con bị lương tâm cắn rứt ghê gớm. Có lối thoái nào không? Con phải làm ǵ?

Bậc thầy nh́n tướng cướp từ đầu đến chân, rồi hỏi y có được tài nghệ ǵ. Tên cướp trả lời:

- Không có tài ǵ cả.

Vị thầy hét:

- Không à? Ngươi phải giỏi một nghề ǵ mới được chứ.

Tên cướp im lặng một hồi, rồi cuối cùng xác nhận:

- Thực sự, có một nghề duy nhất mà con chuyên môn, đó là nghề trộm cướp.

Vị thầy cưới khúc khích:

- Tốt. Đấy chính là tài nghệ mà bây giờ ngươi cần dùng. Hăy đi đến một nơi thanh vắng, và cướp hết tất cả những ư tưởng nhận thức của người, ăn trộm hết tất cả tinh tú, hành tinh trong bầu trời, cho chúng tan mất và trong cái bụng của Chân không, không gian to rộng của tâm hồn nhiên.

Chỉ trong hai mươi mốt ngày, tên cướp đă trực ngộ bản tâm và cuối cùng trở thành một người được xem là một trong những bậc thánh vĩ đại của xứ Ấn.

Như vậy, ở thời cổ, có những bậc thầy phi thường và môn đệ nhạy bén và nhất tâm như tên cướp nọ, chỉ nhờ thực hành với niềm tin không chuyển hướng, một lời dạy duy nhất mà chứng đắc giải thoát. Ngay cả bây giờ, nếu ta để tâm thực hành một phương pháp và làm việc với nó một cách trực tiếp, th́ cũng sẽ có hy vọng giác ngộ.

Tuy nhiên, tâm chúng ta thường giao động và hoang mang v́ hoài nghi. Đôi khi tôi nghĩ nghi quả là một chướng ngại bế tắc tiến hóa nhân loại hơn cả tham lam chấp thủ. Xă hội chúng ta đề cao sự khôn khéo thay v́ trí tuệ, và ca tụng những khía cạnh nông cạn, khó chịu và ít lợi ích nhất của trí thông minh.

Chúng ta đă trở nên quá tinh khôn và loạn thần kinh đến nỗi ta xem chính hoài nghi là chân lư, và sự hoài nghi mà chỉ là nỗ lực vô vọng của bản ngă để tự vệ lại được thần thánh hóa xem như mục tiêu và kết quả hiểu biết.

H́nh thức hoài nghi nhỏ nhen thấp kém này là chúa tể thảm hại của luân hồi sinh tử, được phụng sự bởi một đám “chuyên gia” chuyên dạy cho ta không phải thứ hoài nghi rộng mở mà Phật xác nhận là cần thiết để thử nghiệm nền giáo lư, mà một h́nh thái hoài nghi phá hoại không chừa lại cho ta một điều ǵ để tin vào, không có ǵ để hy vọng, và không có ǵ để sống theo.

Như thế nền giáo dục hiện đại đă nhồi sọ chúng ta trong sự tôn vinh hoài nghi, trong đó muốn được xem là thông minh th́ ta phải hoài nghi tất cả mọi sự, phải luôn luôn bới lông t́m vết và ít khi hỏi có cái ǵ là đúng, tốt lành; phải chế nhạo mọi lư tưởng tâm linh, mọi triết lư ta thừa hưởng, hoặc nhạo báng bất cứ ǵ được làm với tâm vô tư và thiện chí.

Đức Phật kêu gọi ta đến một hoài nghi khác, “như phân tích vàng, nướng nó lên, cắt, cọ xát để thử tính chất nó có thực sự là vàng ṛng hay không.” Để có được thứ hoài nghi thực sự sẽ đưa ta đến chân lư ấy, muốn theo đến cùng, quả thực chúng ta không đủ tri kiến, can đảm, và cũng không được huấn luyện để làm việc ấy.

Chúng ta đă được huấn luyện cho quen cái thói mâu thuẫn vẫn thường xuyên tước đoạt khỏi ta hết mọi sự cởi mở để đón nhận bất cứ một sự thật nào khoáng đạt và cao quí hơn.

Thay v́ h́nh thái hoài nghi chấp đoạn diệt như hiện nay, tôi sẽ mời bạn đặt một nghi vấn mà tôi gọi là “hoài nghi cao cả,” một thứ hoài nghi vốn là một thành phần làm nên con đường đưa đến giác ngộ.

Chân lư rộng lớn của những giáo lư mật tông được truyền lại cho chúng ta ngày nay, quả không phải là một cái ǵ mà thế giới đang lâm nguy hiện nay có thể bác bỏ được. Thay v́ nghi ngờ những giáo lư ấy, tại sao ta không nghi ngờ chính ta:

Sự ngu dốt của ta, sự hợm hĩnh tự cho ta đă hiểu biết tất cả mọi sự, thói chấp thủ và tránh né của ta, ḷng say mê đối với những cái gọi là giải thích thực tại, những giải thích không giống chút nào với trí tuệ bao la khả úy mà những bậc thầy, những sứ giả của Thực tại, đă cho ta biết?

Loại hoài nghi cao cả ấy giục ta tiến lên, gợi cảm hứng cho ta, thử thách ta, làm cho ta càng ngày càng trở nên chân thực, thêm năng lực cho ta, và kéo ta lại gần từ trường của chân lư.

Khi gần những bậc thầy, tôi thường hỏi đi hỏi lại những vấn đề tôi cần giải đáp. Đôi khi tôi không được những giải đáp rơ ràng, song tôi không nghi ngờ thầy, hay nghi ngờ nền giáo lư. Đôi khi tôi có thể nghi ḿnh chưa đủ tŕnh độ tâm linh, hoặc nghi khả năng nghe (văn tuệ) của ḿnh chưa đủ để hiểu trọn vẹn.

Và thường khi, tôi cứ tiếp tục hỏi đi hỏi lại cho đến khi có được một giải đáp rơ ràng. Và khi giải đáp ấy đến, vang lên một cách mạnh mẽ trong sáng trong trí tôi, tim tôi nhói lên một niềm tri ân đón nhận, th́ trong tôi phát sinh một ḷng tin kiên cố mà dù cả thế giới đầy những người nhạo báng cũng không phá hoại nổi.

Tôi nhớ một mùa đông, tôi cùng lái xe với một trong những sinh viên của tôi từ Paris xuống Ư vào một đêm trăng sáng. Bà ta là một nhà chữa tâm bệnh, và đă qua nhiều loại huấn luyện. Bà bảo tôi, điều bà nhận thấy là càng biết nhiều, ta càng nghi nhiều, và càng viện cớ để nghi mỗi khi sự thật bắt đầu động chạm đến ḿnh một cách sâu xa.

Bà bảo, bà đă cố nhiều lần để chạy trốn giáo lư này, nhưng cuối cùng bà nhận ra rằng không chạy đâu thoát được, v́ thực sự là bà đang chạy trốn chính ḿnh.

Tôi bảo bà rằng hoài nghi không phải là một cái bệnh, mà chỉ là một triệu chứng của thiếu ‘Tri kiến’, thiếu sự nhận chân về bản tính tự nhiên của tâm. Khi có Tri kiến, th́ không thể nào nghi ngờ ǵ nữa, v́ khi ấy ta sẽ nh́n thực tại với chính con mắt của thực tại. Nhưng khi ta chưa đạt giác ngộ, tôi nói, th́ đương nhiên phải c̣n hoài nghi, v́ nghi là hoạt động căn bản của cái tâm chưa ngộ. Và cách duy nhất để xử lư những hoài nghi là, không đàn áp chúng cũng không say mê theo chúng.

Cần có sự khéo léo để xử lư những hoài nghi, nhưng tôi để ư ít ai biết cách theo dơi những hoài nghi hoặc xử dụng chúng. Có phải mỉa mai chăng, trong một nền văn minh sùng thượng thế lực của sự giảm giá và hoài nghi như vậy, lại không có ai can đảm để hạ giá chính những tuyên bố của hoài nghi, để làm như một bậc thầy Ấn Độ đă nói, hoài nghi chính cái sự hoài nghi.

Lột mặt nạ tính đa nghi và t́m xem nó có nguồn gốc từ nỗi tuyệt vọng nào, nỗi sợ hăi ǵ, từ đâu tới? Khi ấy hoài nghi không c̣n là một chướng ngại, mà là một cánh cửa mở đến thực chứng, và mỗi khi hoài nghi xuất hiện trong trí, một người tầm đạo sẽ đón nó như một phương tiện để đi sâu vào sự thật.

Có một câu chuyện về một thiền sư mà tôi rất thích. Thiền sư này có một đệ tử trung thành nhưng rất ngốc nghếch, cứ xem ông như một vị Phật sống. Một hôm t́nh cờ ngồi trên một cây kim, ông la lên “Ối” rồi tung ḿnh lên để tránh.

Người đệ tử liền mất hết tin tưởng nơi vị thầy, và bỏ đi, bảo rằng anh ta rất thất vọng v́ thấy thầy ḿnh chưa chứng đạo, nếu chứng th́ ông đă không nhảy lên mà la lớn như thế. Vị thầy buồn bă khi nghe người đệ tử đă bỏ đi, và bảo:

- Tội nghiệp cho y! Nếu y hiểu được rằng kỳ thực không có ta, không có cây kim, cũng không có tiếng la nào thực hữu!

Ta không nên lập lại cái lỗi của người đệ tử nọ. Đừng nên xem những hoài nghi quan trọng quá mức, để cho chúng lớn quá cỡ, hay trở nên cuồng tín về chúng. Điều ta cần học là làm thế nào dần dần chuyển được sự vướng vào hoài nghi do bối cảnh văn hóa thành ra một hoài nghi có tính chất hài hước và bi mẫn.

Điều này có nghĩa hăy cho những hoài nghi có thời gian, và cho chúng ta có thời gian, để t́m giải đáp cho những nghi vấn của ḿnh, những nghi vấn không phải chỉ có về phương diện tri thức hay triết lư, mà thực, sống, và có thể giải được.

Những hoài nghi không thể tự chúng giải quyết ngay; nhưng nếu chúng ta đủ kiên nhẫn th́ một khoảng không có thể được sinh ra trong nội tâm ta, ở đó những hoài nghi có thể được xem xét cẩn thận, khách quan, và do đó được gỡ rối, được giải quyết.

Không nên quá hấp tấp để giải quyết tất cả mọi vấn đề và hoài nghi của bạn; v́ các bậc thầy nói, “Hăy gấp rút một cách từ từ.” Tôi luôn luôn bảo sinh viên tôi đừng có những mong đợi phi lư, v́ sự tiến bộ tâm linh cần thời gian.

Muốn học Nhật ngữ thật giỏi hay trở thành bác sĩ cũng phải cần nhiều năm. Làm sao chúng ta có thể hy vọng có được tất cả những giải đáp chỉ trong vài tuần, huống ǵ là đạt giác ngộ? Cuộc hành tŕnh tâm linh là một cuộc học hỏi và thanh luyện không ngừng. Khi biết như vậy, bạn sẽ trở nên khiêm cung. Có một châm ngôn Tây Tạng rằng:

- “Đừng lầm hiểu với chứng ngộ, và đừng lầm chứng ngộ với giải thoát.”

Và Milapera nói:

- “Không nên hy vọng chứng đạo, mà hăy hành đạo suốt đời bạn.”

Một trong những điều tôi thích nhất trong truyền thống tôi, là sự thực tế giản dị, và ư thức mănh liệt rằng những thành tựu lớn nhất cần có sự kiên nhẫn sâu xa và thời gian dài nhất.







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 430 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 9:08pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TẠNG THƯ SỐNG CHẾT


9. CON ĐƯỜNG TÂM LINH


Rumi, bậc thầy đạo Sufisme có viết:

- Bậc thầy nói, có một điều duy nhất trên đời mà ta không bao giờ được quên. Nếu bạn quên hết mọi sự khác, mà không quên điều này, th́ sẽ không có ǵ phải lo, nhưng nếu bạn nhớ thực hành chu tất mọi sự khác mà lại quên mất việc duy nhất này, th́ quả thực bạn chưa làm được cái ǵ. Ví như khi vua sai bạn đến một xứ nọ để làm một công việc đặc biệt nào đó; khi đến, bạn làm cả trăm việc khác, nhưng quên làm cái sứ mạng của ḿnh được sai đi, th́ cũng như là bạn chưa làm ǵ hết. Cũng vậy con người xuất hiện trên đời v́ một công việc đặc biệt, đó là mục đích của y. Nếu y không hoàn tất, th́ coi như y không làm ǵ cả.

Mọi bậc thầy tâm linh của nhân loại đều nói cho chúng ta biết cùng một chuyện ấy, rằng mục đích cuộc sống trên trái đất là để thực hiện sự hợp nhất với cái bản chất giác ngộ căn để của chúng ta. “Công việc” mà “vua” đă gửi ta vào cái xứ sở đen tối lạ lùng này là để thực chứng và thể hiện con người thật của ta. Có một cách duy nhất để làm việc đó, là khởi sự cuộc hành tŕnh tâm linh, với tất cả hăng say và trí tuệ, can đảm và cương quyết để chuyến hóa. Trong Katha Upanishad, thần chết bảo Nachiketas rằng:

- Có con đường trí tuệ và con đường vô minh. Hai con đường dẫn đến những mục đích hoàn toàn khác nhau.... Trú trong vô minh, nghĩ ḿnh khôn lanh bác học, những kẻ ngu lang thang không mục đích, như kẻ mù dắt người mù. Những ǵ nằm bên kia cuộc đời không hiển lộ cho những kẻ khờ khạo, bất cẩn, hoặc bị của cải làm mê hoặc.



T̀M ĐƯỜNG



Vào thời khác và trong những nền văn minh khác, con đường chuyển hóa tâm linh này chỉ giới hạn cho một số ít người được chọn. Nhưng ngày nay, một tỉ lệ lớn trong loài người cần phải t́m kiếm con đường trí tuệ nếu muốn giữ ǵn trái đất khỏi những mối nguy bên trong và bên ngoài đang đe dọa nó. Trong thời đại phân hóa và bạo hành này, tri kiến tâm linh không phải là xa xỉ phẩm dành cho thiểu số chọn lọc, mà là một cái ǵ cấp thiết cho sự sống c̣n.

Việc đi theo con đường tâm linh chưa bao giờ lại cấp thiết và gay go hơn bây giờ. Xă hội chúng ta dành hoàn toàn cho sự tôn vinh bản ngă, tôn vinh chính những sức mạnh của tham lam và vô minh đang tàn phá quả địa cầu. Chưa bao giờ khó hơn để nghe tiếng nói của chân lư, và chưa bao giờ khó hơn để tuân theo tiếng nói ấy nếu nó được nghe đến.

Bởi v́ trong thế giới quanh ta không có cái ǵ hỗ trợ cho sự chọn lựa của ta, và cái xă hội ta sống dường như phủ nhận tất cả mọi ư nghĩa thiêng liêng, vĩnh cửu. Bởi vậy, vào thời gian nguy ngập nhất của chúng ta khi chính tương lai chúng ta cũng thật khả nghi, th́ chúng ta, những con người, lại thấy ḿnh đang ở giai đoạn hoang mang nhất, và bị vướng vào một cơn ác mộng do chính chúng ta tạo nên.

Tuy thế vẫn có một nguồn hy vọng đầy ư nghĩa trong t́nh huống bi đát này, đó là, giáo lư tâm linh của mọi truyền thống mật tông vĩ đại vẫn c̣n có thể xử dụng. Rủi thay, có rất ít bậc thầy thể hiện được những giáo lư ấy, và hoàn toàn thiếu sự biện biệt nơi những người tầm đạo. Phương tây đă trở thành một thiên đường cho những lang băm về tâm linh.

Nếu là lĩnh vực khoa học th́ bạn có thể xác thực ai thực ai giả, v́ có những nhà khoa học khác kiểm chứng tŕnh độ và những t́m ṭi phát minh của họ. Nhưng ở Tây phương, v́ không có tiêu chuẩn của một nền văn hóa trưởng thành về trí tuệ, nên tính trung thực của những người được gọi là “đạo sư” hoàn toàn không thể thiết lập được. Dường như bất cứ ai cũng có thể diễn hành tự xưng bậc thầy và lôi cuốn một số tín đồ.

Ở Tây Tạng không có như vậy, nơi người ta nhận thấy bảo đảm hơn nhiều nếu chọn cho đúng một con đường và đúng thầy để theo. Những người đến Tây Tạng lần đầu thường lấy làm ngạc nhiên tại sao người ở đây đặt nặng ḍng tu đến thế, đặt nặng sự truyền thừa không gián đoạn từ bậc thầy này đến bậc thầy khác.

Ḍng tu được dùng làm sự bảo đảm cốt yếu: Nó duy tŕ tính chân thực và thuần tính của nền giáo lư. Người ta biết được một bậc thầy qua bậc thầy của vị ấy. Đó không phải chuyện giữ ǵn một tri thức đă xưa cũ, có tính cách lễ tục, mà một truyền thừa từ tâm sang tâm, từ trí sang trí, một trí tuệ sống và nguyên chất, cùng với những phương pháp thiện xảo.

Nhận ra ai cũng là bậc thầy ai không, làm một công việc tế nhị và đ̣i hỏi nhiều điều kiện. Nhưng ở thời đại như chúng ta, ham giải trí, ưa những câu trả lời dễ dàng, những giải pháp nhanh, th́ những bậc thầy tâm linh đạm bạc không làm bộ, có thể không được ai để ư. Những ư tưởng ta nghĩ về sự thánh thiện có thể làm ta không thấy được biểu hiện của tâm giác ngộ đôi khi rất linh động và lại có vẻ giỡn đùa. Patrul Rinpoche viết:

- Những đức tính kỳ diệu của những vĩ nhân là giấu kín sự thánh thiện của họ, làm cho những người thường như chúng ta không thể thấy, dù ta có nỗ lực xem xét. Ngược lại, ngay cả những lang băm cũng lừa đảo rất tài t́nh bằng cách ăn nói như những bậc thánh.

Nếu Patrul Rinpoche có thể viết như vậy về thế kỷ trước tại Tây Tạng, th́ điều ấy lại càng đúng biết bao trong cảnh hỗn loạn của cái siêu thị tâm linh hiện thời?

Vậy, chúng ta làm thế nào để trong thời đại cực kỳ khả nghi này, có thể t́m ra được niềm tin cậy quá cần thiết cho sự tu tập tâm linh? Theo tiêu chuẩn nào để biết một vị thầy là thực hay dỏm?

Tôi nhớ rơ một lần ở bên vị thầy tôi biết, khi ấy ông hỏi các học tṛ cái ǵ đă lôi cuốn họ đến ông, tại sao họ tin cậy ông. Một phụ nữ nói:

- Tôi đă nhận ra rằng điều thầy thực sự muốn, hơn bất cứ ǵ khác, là muốn cho chúng tôi hiểu và áp dụng giáo lư, và thấy thầy hướng dẫn chúng tôi thật khéo léo để chúng tôi có thể hiểu được.

Một người đàn ông ngũ tuần bảo:

- Không phải những ǵ thầy biết làm tôi cảm động, mà chính v́ thầy thực sự có ḷng vị tha và tâm tốt.

Một phụ nữ trung niên nói:

- Tôi đă cố coi thầy như mẹ tôi, cha tôi, bác sĩ tâm thần của tôi, chồng tôi, người yêu tôi; thầy đă lặng lẽ ngồi chứng kiến tất cả tấn tuồng do tôi phóng chiếu ra đó, và không bao giờ bỏ rơi tôi.

Một kỹ sư ngoài hai mươi tuổi nói:

- Điều tôi t́m thấy nơi thầy rất khiêm cung, thầy thực sự mong muốn sự tốt lành nhất cho tất cả chúng tôi, và trong khi thầy làm thầy, thầy vẫn không bao giờ ngưng làm một đệ tử của những bậc thầy.

Một luật sư trẻ nói:

- Đối với thầy, chính nền giáo lư mới là quan trọng nhất. Đôi khi tôi lại c̣n nghĩ rằng có lẽ cái lư tưởng của thầy là, chính thầy hoàn toàn biến mất, chỉ trao truyền lại những lời dạy càng vô ngă càng tốt.

Một sinh viên khác rụt rè nói:

- Lúc đầu tôi sợ phải mở tôi ra trước thầy. Tôi vẫn quá thường khi bị xúc phạm. Nhưng khi tôi khởi sự thổ lộ tâm can, th́ tôi để ư những thay đổi thực sự trong tôi. Dần dần tôi càng biết ơn thầy, v́ tôi nhận ra thầy đă giúp tôi nhiều quá. Và rồi tôi khám phá trong tôi một niềm tin cậy sâu xa đối với thầy, sâu hơn tôi có thể tưởng tượng.

Cuối cùng, một chuyên viên điện toán tuổi ngoại tứ tuần, bảo:

- Thầy đă là một tấm gương kỳ diệu cho tôi soi vào, và thầy chỉ cho tôi hai điều: Khía cạnh tương đối về tôi là ai, và khía cạnh tuyệt đối tôi là ai. Tôi có thể nh́n vào thầy và thấy không phải v́ thầy là ai, mà v́ những ǵ thầy phản chiếu lại nơi tôi tất cả sự rối ren tương đối của tôi, rất rơ ràng.

Nhưng tôi cũng có thể nh́n vào thầy và thấy phản ảnh nơi thầy cái tự tánh của tâm, từ đấy mọi sự đang sinh khởi, từng giây phút.

Những câu trả lời trên đây cho ta thấy rằng những bậc thầy thực sự th́ tử tế, bi mẫn, không biết mệt trong ước muốn san sẻ bất cứ trí tuệ nào họ có được từ những bậc thầy của họ, không bao giờ lợi dụng hay điều động các đệ tử dưới bất cứ hoàn cảnh nào, không bao giờ bỏ rơi họ, phụng sự cho nền giáo lư vĩ đại hơn là cho mục đích riêng tư, và luôn luôn khiêm hạ.

Sự tin cậy chân thực có thể phát triển, và chỉ nên phát triển đối với một người nào bạn biết được, qua thời gian, hội đủ tất cả những đức tính ấy. Bạn sẽ thấy niềm tin ấy trở thành nền tảng của đời bạn, nó vẫn ở đấy để nâng đỡ bạn qua những gian khổ của sống chết.

Trong Phật giáo chúng ta xác định một bậc thầy là chân thực hay không tùy theo sự hướng dẫn của họ có phù hợp với giáo lư Phật dạy hay không. Ta phải luôn luôn nhấn mạnh rằng chính sự thật của giáo lư mới là tất cả tầm quan trọng, chứ không bao giờ quan trọng cá nhân của bậc thầy. Bởi vậy đức Phật đă nhắc nhở chúng ta nguyên tắc Bốn chỗ y cứ (tứ y) là:

Y pháp bất y nhân: Dựa trên thông điệp của bậc thầy, không phải trên nhân cách của ông;

Ư nghĩa bất y ngữ: Dựa trên ư nghĩa, không chỉ dựa trên lời;

Y liễu nghĩa, bất y bất liễu nghĩa: Dựa trên ư nghĩa chân thực, không dựa trên ư nghĩa tạm thời.

Y trí bất y thức: Dựa trên tâm trí tuệ của bạn, không dựa trên tâm phân biệt thường ngày của bạn.

Bởi thế thật quan trọng để nhớ rằng vị thầy chân thực, như ta sẽ thấy, là phát ngôn viên của chân lư. Quả thế, tất cả chư Phật, đạo sư, nhà tiên tri, đều là những biểu hiện của chân lư ấy, hóa hiện bằng vô số h́nh dạng khéo léo đầy từ bi để dắt dẫn chúng ta trở về chân tánh của ta qua lời giảng dạy của họ.

Bởi vậy, lúc đầu, việc quan trọng hơn việc t́m thầy, là t́m thấy sự thật của giáo lư và sống theo nó. Bởi v́, nhờ bắt liên lạc được với sự thật của giáo lư mà bạn sẽ t́m được liên lạc với một bậc thầy.



THEO MỘT CON ĐƯỜNG



Tất cả chúng ta đều có cái nghiệp gặp phải môt con đường tâm linh này hay khác, và tôi sẽ khuyên bạn, tự đáy tim tôi, hăy đi theo với sự chân thành trọn vẹn, con đường nào gợi cảm hứng cho bạn nhiều nhất.

Hăy đọc kinh sách của tất cả các truyền thống, t́m hiểu các bậc thầy muốn nói ǵ khi nói giải thoát giác ngộ, và t́m con đường chân lư nào thực sự lôi cuốn bạn nhất.

Hăy vận dụng khả năng phân biệt của bạn; con đường tâm linh đ̣i hỏi nhiều thông minh, nhiều khả năng phân biệt tinh tế hơn bất cứ đường nào khác, v́ đó là việc quan hệ đến chân lư tối thượng.

Hăy xử dụng lương tri bạn trong mọi lúc. Đến với con đường ấy và biết rơ hành lư bạn mang theo: những thiếu sót, tưởng tượng, yếu đuối, phóng chiếu của tâm thức. Trong khi tự thức được bản tính chân thực của bạn là như thế nào, bạn hăy ḥa hợp sự khiêm hạ sát đất với một sự thấm định rơ ràng bạn đang ở đâu trên con đường tâm linh, và những ǵ c̣n phải được thấu hiểu và thực chứng.

Điều quan trọng nhất là đừng để vướng vào cái mà tôi thấy khắp nơi ở phương tây, một kiểu “đi chợ tâm linh”: Chạy quanh từ thầy này đến thầy khác, giáo lư này đến giáo lư khác, mà không có một sự dấn ḿnh thực sự vào bất cứ nên giới luật nào.

Gần hết mọi bậc thầy tâm linh thuộc mọi truyền thống đều đồng ư rằng điều cốt yếu là phải làm chủ, nắm vững lấy một đường lối tu tập, một con đường đưa đến chân lư, bằng cách tuân theo một truyền thống với tất cả tim óc bạn, đi cho đến cuối cuộc hành tŕnh tâm linh, trong khi vẫn giữ thái độ cởi mở kính trọng đối với tri kiến của các truyền thống khác.

Ở Tây Tạng chúng tôi thường nói: “Khi biết rơ một chuyện th́ ta có thể thành tựu được tất cả.” Tư tưởng đặc biệt thời nay là, ta có thể luôn luôn mở ra cho mọi chọn lựa và bởi thế không bao giờ dấn ḿnh vào một cái nào. Nhưng đấy là một trong những ảo tưởng lừa dối nhất trong nền văn hóa hiện nay, một trong những kiểu hiệu nghiệm nhất của bản ngă để phá hỏng sự tu tập của chúng ta.

Khi bạn cứ tiếp tục t́m kiếm măi, th́ chính sự t́m kiếm trở thành một căn bệnh ám ảnh bạn. Bạn trở thành một khách du lịch về tâm linh, đi khắp nơi chốn mà không bao giờ tới một chỗ nào. Như Patrul Rinpoche nói:

- Bạn để con voi của bạn ở nhà mà đi t́m dấu chân của nó ở trong rừng.

Theo một con đường không phải là một kiểu tự giam giữ bạn hay để con đường ấy chiếm độc quyền đối với bạn. Mà con đường ấy là một phương tiện thiện xảo đầy bi mẫn để giữ cho bạn tập trung luôn luôn vào đấy, dù có bao nhiêu trở ngại mà chính bạn và cuộc đời của bạn chắc chắn sẽ xen vào.

Bởi thế, khi bạn đă thăm ḍ những truyền thống mật tông, hăy chọn một vị thầy và theo sự hướng dẫn của vị ấy. Khởi hành lên đường tu tập là một chuyện, mà có được kiên nhẫn, tŕ chí, tuệ giác, can đảm và sự khiêm hạ để theo cho đến cùng, là một chuyện khác. Bạn có thể có duyên nghiệp để t́m ra một vị thầy, nhưng khi ấy chính bạn phải tạo ra cái nghiệp để theo vị thầy ấy.

V́ rất ít người trong chúng ta biết được làm cách nào để theo thầy, đó là cả một nghệ thuật. Cho nên dù giáo lư có vĩ đại đến đâu, bậc thầy vĩ đại đến đâu, điều cốt yếu vẫn là, bạn phải t́m trong chính bạn cái tuệ giác và thiện xảo trong sự tu tập làm sao để yêu mến và tuân theo bậc thầy và giáo lư.

Điều ấy không dễ. Sự việc không bao giờ toàn hảo. Làm sao mà toàn vẹn được, khi chúng ta đang c̣n ở trong thế giới tương đối của sinh tử. Ngay cả khi bạn đă chọn được một vị thầy và rất chân thành theo giáo lư, bạn vẫn thường gặp phải những rắc rối và bất măn, mâu thuẫn và bất toàn. Đừng ngă quị trước những chướng ngại nhỏ nhen ấy.

Đấy chỉ là những cảm xúc trẻ con của bản ngă. Đừng để chúng làm bạn đui mù trước giá trị bền bỉ và tinh túy mà bạn đă chọn được. Đừng để cho sự mất kiên nhẫn của bạn lôi bạn đi xa khỏi sự dấn ḿnh t́m chân lư của bạn.

Đă bao nhiêu lần tôi lấy làm buồn khi thấy nhiều người chọn được một giáo lư và bậc thầy, theo học với một niềm hăng say đầy hứa hẹn, mà sau đó lại mất niềm tin khi xảy đến những chướng ngại nhỏ không thể tránh. Họ rơi trở lại vào con đường luân hồi sinh tử, vào những tập quán cũ, và để lăng phí nhiều năm tháng, có lẽ cả cuộc đời họ.

Đức Phật đă dạy trong bài Pháp đầu tiên của ngài, căn nguyên của mọi khổ đau chúng ta trong sinh tử là vô minh. Vô minh có vẻ như là bất tận, khi ta chưa giải thoát khỏi nó. Ngay cả khi ta đă lên đường tu tập, sự t́m kiếm của ta cũng vẫn c̣n bị sương mù vô minh vây phủ.

Tuy nhiên, nếu bạn nhớ điều này, và luôn giữ lời Phật dạy trong tâm bạn, th́ dần dần bạn sẽ phát triển được trí phân biệt để nhận ra được những mê muội của vô minh, và nhờ vậy chúng không tác hại được sự tu hành của bạn hay làm bạn mất mục tiêu nhắm tới.

Đức Phật dạy, cuộc đời ngắn ngủi như một làn chớp; tuy nhiên, như Wordsworth nói:

- Cuộc đời này thực quá nặng nề: Làm ra tiền và xài tiền cũng đủ làm cho chúng ta tiêu ma hết năng lực.

Chính sự tiêu ma năng lức ấy có lẽ là cái sự nát ḷng nhất về đời người: Nó phản bội lại tinh túy của ta, nó để lỡ mất cơ hội quư báu mà cuộc đời này cơi Bardo tự nhiên đem lại cho ta, để hiểu được và thể hiện được tự tính giác của ta.

Điều mà những bậc đạo sư cốt nói cho ta biết là, ta hăy chấm dứt tự làm cho ta mê muội: Ta đă học được điều ǵ, nếu vào lúc chết ta không biết ḿnh thực sự là ai? Tử thư Tây Tạng nói:

Tâm nghĩ xa xôi, không nghĩ cái chết sắp đến,

Làm những hoạt động vô nghĩa này,

Rồi trở về hai bàn tay trắng

Thực là mê muội hoàn toàn;

Điều cần là trực nhận bản tâm và giáo lư

Tại sao không tu tập đạo lộ trí tuệ ngay lúc này?

Những lời này từ kim khẩu bậc thánh nói ra:

Nếu bạn không ghi nhớ lời thầy vào tâm khảm

Th́ có phải bạn đă tự lừa dối ḿnh?



BẬC THẦY



Đức Phật dạy trong một mật điển:

- Trong tất cả chư Phật đă đạt giác ngộ, không có một vị nào thành tựu việc này mà không nhờ một bậc thầy, và trong tất cả ngàn vị Phật sẽ xuất hiện trong đại kiếp này, không một vị nào sẽ đạt giác ngộ mà không nương tựa vào một bậc thầy.

Vào năm 1987, sau khi bậc thầy thân yêu Dudjom của tôi từ trần ở Pháp th́ tôi đang ngồi trong xe lửa từ miền Nam nước Pháp nơi ngài ở, để trở về Paris. Trong trí tôi hiện ra muôn ngàn hành vi độ lượng, hiền lành và từ ái của ngài, tôi rưng nước mắt tự nhủ với ḿnh nhiều lần:

- Nếu không nhờ thầy, th́ làm sao con hiểu được?

Tôi nhận chân một cách tha thiết cái điều trước đấy tôi chưa bao giờ biết đến, đó là tại sao truyền thống chúng tôi lại đặt tầm quan trọng thiêng liêng như vậy vào liên hệ thầy tṛ, và mối liên hệ ấy là thiết yếu như thế nào đối với việc truyền thừa chân lư từ trí sang trí, từ tâm sang tâm. Nếu không có những bậc thầy tôi, th́ tôi đă không thể trực nhận chân lư của lời dạy, tôi đă không thể đạt đến tầm mức hiểu biết khiêm tốn mà tôi có được.

Nhiều người Tây phương nghi ngờ thầy, thông thường bất hạnh thay, lại là v́ những lư do chính đáng. Tôi không cần phải kể ra đây vô số trường hợp ghê gớm, đáng chán, về sự điên rồi, tham lam, và lường gạt đă xảy ra trong thế giới hiện nay, kể từ khi tây phương mở cửa đón nhận nền minh triết đông phương vào những thập niên 1950 và 1960.

Tuy nhiên, tất cả truyền thống trí tuệ lớn, dù là Ki-tô, Sufi, Phật giáo hay Ấn giáo, muốn có năng lực đều phải dựa vào quan hệ thầy tṛ. Bởi thế điều mà thế giới cấn một cách cấp thiết hiện nay, là sự hiểu biết rơ ràng càng minh bạch càng tốt, một bậc thầy chân thực là ǵ, và một môn đệ chân thực là ǵ, và ǵ là thực chất của sự chuyển hóa xảy ra nhờ ḷng tin đối với thầy.

Có lẽ sự mô tả cảm động và chân xác nhất về bản chất chân thực của bậc thầy mà tôi từng nghe, là cách mô tả của thầy Jamyang tôi. Ngài nói rằng mặc dù bản tính chân thực của chúng ta là Phật, song từ vô thỉ nó đă bị che mờ bởi một đám mây đen vô minh mê lầm.

Tuy thế, bản tính chân thực ấy, Phật tính của ta, không bao giờ hoàn toàn đầu hàng sự chuyên chế của vô minh, ở đâu đó Phật tính ấy luôn luôn chống lại sự thống trị của vô minh.

Như thế Phật tính của chúng ta có một khía cạnh tích cực, đó là “bậc thầy nội tâm” của chúng ta. Ngay khi chúng ta trở nên mờ mịt, là bậc thầy nội tâm ấy đă làm việc cho chúng ta không biết mỏi mệt, cố đưa chúng ta trở về sự sáng sủa, khoáng đạt của bản thể chân thực chúng ta.

Bậc thầy ấy không bỏ rơi ta giây phút nào. Trong ḷng từ bi vô lượng như của chư Phật và của các đấng giác ngộ, Phật tính ấy không ngừng hoạt động cho sự tiến hóa của ta - không những đời này mà tất cả đời quá khứ của ta – dùng đủ phương tiện thiện xảo, đủ loại hoàn cảnh để giáo hóa, thức tỉnh chúng ta, và để dẫn chúng ta trở về chân lư.

Khi chúng ta đă cầu nguyện, khát ngưỡng chân lư trong một thời gian dài, qua nhiều đời kiếp, và khi nghiệp ta đă được thanh lọc khá đủ, th́ một thứ phép lạ xảy ra. Và nếu ta có thể hiểu và xử dụng phép lạ này, th́ nó có thể đưa đến sự vĩnh viễn chấm dứt vô minh:

Vị thầy nội tâm, người luôn luôn theo sát chúng ta, xuất hiện dưới h́nh dạng một “vị thầy bên ngoài”, người mà gần như do một huyễn thuật, ta đă gặp được trong thực tế. Sự gặp gỡ này là quan trọng nhất trong tất cả đời kiếp.

Ai là vị thầy bên ngoài? Không ai khác hơn là hiện thân, là tiếng nói và đại diện của vị thầy bên trong. Vị thầy mà h́nh dáng con người, tiếng nói con người, và trí tuệ của ông, đă khiến ta thương mến hơn bất cứ người nào khác trong các đời kiếp của ta, người ấy không ai khác hơn là biểu hiện của sự thật huyền bí nội tâm ta. Nếu không th́ làm sao giải thích được tại sao cảm thấy liên hệ mănh liệt đến vị thầy ấy như thế?

Ở tầng mức cao sâu nhất, thầy và tṛ không thể có sự ngăn cách, v́ công việc của thầy là dạy cho ta nhận được thông điệp rơ ràng của vị thầy bên trong tâm ta, và làm cho ta nhận chân được sự hiện diện liên tục của bậc thầy tối hậu ấy ở trong tâm. Tôi cầu cho quư vị có thể thưởng thức được trong đời này, niềm hỉ lạc của mối tương giao hoàn hảo nhất đó.

Không những vị thầy là phát ngôn chính thức của chính vị thầy trong tâm bạn, mà ông c̣n là người chuyên chở, truyền đạt tất cả những ân phước của các đấng giác ngộ. Đấy là điều làm cho vị thầy của bạn có khả năng phi thường để soi sáng tâm trí bạn.

Vị thầy không khác ǵ hiện thân của cái tuyệt đối, đấy là đường dây điện thoại qua đó tất cả chư Phật và các bậc giác ngộ có thể liên lạc với bạn. Vị thầy là kết tinh của trí tuệ tất cả chư Phật, và hiện thân của ḷng từ bi của các ngài luôn luôn hướng về bạn: Ánh sáng của chư Phật nhắm thẳng vào tim óc bạn để giải thoát bạn.

Trong truyền thống chúng tôi xem vị thấy c̣n tốt hơn cả những vị Phật. Mặc dù ḷng từ bi và năng lực chư Phật luôn luôn hiện hữu, song những mê mờ đă ngăn che chúng ta không gặp được chư Phật một cách trực tiếp. Nhưng vị thầy của chúng ta có thể gặp;

vị thầy đang ở đó, sống, thở, nói, làm việc. Vị thầy luôn ở trước mắt ta để chỉ cho ta bằng mọi cách có thể, con đường của chư Phật: Con đường giải thoát. Với tôi, những bậc thầy của tôi là hiện thân của chân lư sống, là những dấu hiệu ám chỉ rằng sự giác ngộ có thể đạt được khi c̣n thân xác, ngay trong đời này, trong thế giới này, ngay bây giờ và tại đây.

Các ngài là những nguồn cảm hứng tối thượng trong việc tu tập của tôi, trong công việc, đời sống của tôi, và trong cuộc hành tŕnh của tôi tiến đến giải thoát. Những bậc thầy đối với tôi là hiện thân của lời nguyện thiêng liêng đặt giác ngộ lên trên hết, cho đến khi tôi thực hiện được nguyện ấy. Tôi biết rằng chỉ khi đạt giác ngộ tôi mới hiểu biết hoàn toàn những vị ấy thực sự là ai, và biết được trọn vẹn ḷng độ lượng, từ bi và trí tuê vô biên của các vị.

Tôi muốn san sẻ với các bạn lời cầu nguyện đẹp đẽ sau đây, mà ở Tây Tạng chúng tôi đọc để triệu thỉnh vị thầy trong tâm ta:

Từ đóa sen ḷng sùng kính trong tim con

Hỡi Thầy từ bi, chỗ nương cậy duy nhất của con;

Hăy xuất hiện che chở con trong cơn khốn đốn

Bởi các nghiệp quá khứ và cảm xúc hỗn loạn.

Như viên ngọc an trú trên đầu con, mandala

của đại lạc.

Khơi dậy tỉnh giác và sáng suốt trong con, xin Thầy!



NĂNG LỰC CỦA L̉NG SÙNG KÍNH



Như Phật đă dạy về các vị Phật đă giác ngộ, không ai là không nương vào một bậc thầy, Ngài c̣n dạy:

- Chỉ nhờ ḷng sùng kính mà thôi, ta có thể thực chứng chân lư tuyệt đối.

Chân lư tuyệt đối không thể thực chứng được trong phạm vi cái tâm thường ngày. Và tất cả truyền thống trí tuệ lớn, đều dạy con đường để vượt ngoài tâm thường ngày là trái tim. Con đường của trái tim là sự sùng kính.

Dilgo Khientse Rinpoche nói:

- Chỉ có một cách duy nhất để đạt giải thoát giác ngộ, đó là theo một bậc thầy chân thực. Thầy là vị hướng đạo giúp ta vượt biển sinh tử.

Như mặt trời, trăng phản chiếu trên mặt nước lặng trong, ân phước chư Phật cũng luôn luôn hiện diện cho những người có ḷng tin tuyệt đối. Ánh sáng mặt trời rơi khắp, nhưng chỉ nơi nào có kính hội tụ th́ mới đốt được cỏ khô. Khi những tia sáng bao la của tâm Phật từ bi được hội tụ vào tấm gương lớn của ḷng tin và sự sùng kính, th́ ngọn lửa ân phước sẽ cháy bùng trong bản thể bạn.

Vậy th́ điều cốt yếu là biết được sùng kính thực sự có nghĩa ǵ. Đấy không phải là sự tôn thờ vô ư thức, không phải là bỏ hết trách nhiệm đối với chính bạn, tuân theo một cách mù quáng sự bốc đồng của một người khác. Sùng kính chân thực là một sự luôn sẵn sàng đón nhận chân lư không gián đoạn. Sự sùng kính ấy có gốc rễ trong niềm tri ân kính phục, nhưng sáng suốt và có trí tuệ, có căn cứ.

Khi bậc thầy có thể khơi mở cái tâm sâu xa của bạn, làm cho bạn thấy được tự tính của tâm, th́ trong bạn nổi lên một niềm tri ân hoan hỉ đối với người đă giúp bạn thấy được. V́ sự thật mà bạn thấy là những ǵ mà bậc thầy thể hiện trong con người, trong giáo lư và trong trí tuệ của thầy.

Cảm giác chân thực tự nhiên ấy luôn luôn có gốc rễ trong kinh nghiệm nội tâm, và chỉ điều này mới được gọi là sùng kính, Tạng ngữ là Mogu. Mogu nghĩa là “khát khao và kính trọng”:

Kính trọng thầy, niềm kính trọng càng tăng khi bạn càng hiểu bậc thầy là ai, và khao khát những ǵ mà thầy có thể khai thị cho bạn, v́ bạn đă biết thầy chính là gạch nối của tâm bạn với chân lư tuyệt đối, hiện thân của tự tính chân thực trong bạn.

Dilgo Rinpoche nói:

- Lúc đầu sự sùng kính này có thể chưa tự nhiên, nên ta phải dùng một số kỹ thuật để giúp ta có được sự sùng kính. Điều chính yếu là phải luôn luôn nhớ những đức tính tuyệt hảo của vị thầy, nhất là ḷng tử tế của vị ấy đối với ta.

Nhờ liên tục phát sinh niềm tin tưởng, tán thán vị thầy, tận tụy với thầy, mà sẽ có ngày chỉ cần nhớ tên hay nghĩ đến vị ấy cũng đủ dừng lại mọi vọng tưởng của ta, và ta sẽ thấy vị ấy như chính là đức Phật.

Thấy thầy không phải như một con người, mà như chính đức Phật, đó là nguồn gốc của ân phước lớn nhất. Padmasambhava nói:

- Sùng kính tuyệt đối đem lại ân phước lớn lao; không hoài nghi đem lại thành công mỹ măn,

Những người Tây Tạng biết nếu bạn xem thầy như Phật, th́ bạn sẽ nhận được phước của Phật, nhưng nếu bạn xem thầy như một con người mà bạn chỉ được phước của con người. Vậy nếu muốn nhận được năng lực chuyển hóa trọn vẹn của lời dạy của bậc thầy, th́ bạn phải khơi mở trong chính ḿnh ḷng sùng kính lớn lao nhất.

Chỉ khi bạn xem thầy như Phật th́ một nền giáo lư như của Phật mới đến với bạn từ tâm giác ngộ của bậc thầy. Nếu bạn không thể xem thầy như Phật, mà chỉ xem như người, th́ không bao giờ có được ân phước trọn vẹn, và ngay cả nền giáo lư vĩ đại nhất bạn cũng không thể đón nhận được.

Càng tư duy về sự sùng kính và vai tṛ của nó trong tri kiến về giáo lư, tôi càng nhận sâu xa rằng đấy cốt yếu là một phương tiện thiện xảo để làm cho chúng ta dễ hấp thụ chân lư mà thầy truyền dạy. Những bậc thầy không cần sự tôn thờ của chúng ta, nhưng có xem thầy như Phật sống th́ ta mới có thể lắng nghe thông điệp của giáo lư và nhất nhất tuân theo những chỉ giáo của họ.

Như vậy, có thể nói sự sùng kính là cách thực tiễn nhất để có niềm tôn trọng tuyệt đối và do đó mở ḷng ra để đón nhận giáo lư mà bậc thầy truyền đạt và thể hiện qua con người của họ.

Càng sùng kính, bạn càng mở ḷng ra đối với lời giảng dạy, và bạn càng mở ḷng ra th́ giáo lư càng có nhiều cơ hội để thấm vào tim óc bạn, và nhờ vậy phát sinh một sự chuyển hóa tâm linh toàn diện.

Vậy, chỉ nhờ xem thầy như Phật sống, mà tiến tŕnh “thành Phật” của bạn có thể thực sự bắt đầu và hoàn tất. Khi tâm trí bạn đă hoàn toàn mở ra trong niềm hân hoan, ngạc nhiên, biết ơn đối với sự mầu nhiệm là hiện diện của bậc thầy, hiện thân của giác ngộ, th́ khi ấy, dần dà trải nhiều năm, có thể xảy ra sự truyền thừa từ tâm trí tuệ của bậc thầy sang tâm của bạn, mở cho bạn thấy ánh quang vinh của Phật tính nơi chính bạn, và cùng với Phật tính ấy là ánh quang vinh của toàn vũ trụ.

T́nh sư đệ thân thiết sâu xa nhất ấy trở thành một tấm gương phản chiếu mối tương quan của người đệ tử đối với cuộc đời và thế giới nói chung. Bậc thầy trở thành h́nh ảnh cốt cán trong sự thực hành “tri kiến thuần tịnh,” cao điểm của nó là khi hành giả thấy một cách trực tiếp không c̣n chút nghi ngờ nào:

Thầy là Phật sống, lời thầy là Phật ngôn, tâm thầy là tâm giác ngộ của tất cả chư Phật, mỗi hành động của thầy là một biểu hiện của Phật hạnh, chỗ thầy ở là cảnh giới Phật, và ngay cả những người xung quanh thầy là ánh sáng do trí tuệ của thầy chiếu ra.

Khi những nhận thức như vậy càng ngày càng hiện thực và vững chắc, th́ phép lạ trong tâm mà hành giả đă trông ngóng từ bao đời kiếp có thể dần dần xuất hiện: Hành giả khởi sự thấy một cách tự nhiên rằng ḿnh, vũ trụ và tất cả hữu t́nh trong đó đều trong sáng toàn hảo một cách tự nhiên:

Thế là cuối cùng hành giả đang nh́n vào Thực tại với chính con mắt của ḿnh. Bậc thầy, như vậy, là con đường, là phiến đá thử vàng mầu nhiệm để phát sinh một chuyển hóa toàn diện của mọi nhận thức nơi người đệ tử.

Sự sùng kính trở thành phương thức nhanh nhất, giản dị nhất và thuần tịnh nhất để trực ngộ bản tâm và vạn pháp trong vũ trụ. Càng tiến trên con đường này, ta thấy tiến tŕnh ấy hỗ tương duyên sinh một cách kỳ diệu:

Khi chúng ta cố liên tục phát sinh ḷng sùng kính, sự sùng kính ta có được ấy lại phát sinh ra ánh sáng của tự tâm ta; sự thấy được ánh sáng tự tâm lại làm cho ta tăng ḷng sùng kính đối với bậc thầy đă khơi niềm cảm hứng cho ta. Như thế là sùng kính tuôn phát từ trí tuệ: Sùng kính và kinh nghiệm về bản tâm trở thành một thực thể bất khả phân, và gợi cảm hứng lẫn nhau.

Thầy của Patrul Rinpoche là Jikmé Gyalwé Nyugu. Trong nhiều năm ngài nhập thất trong một hang động. Một ngày kia khi ngài ra ngoài, mặt trời đang đổ xuống; ngài nh́n lên trời thấy một đám mây đang di chuyển về hướng mà Jikmé Lingpa, bậc thầy ngài đang cư trú.

Ngài nghĩ trong tâm, “Thầy ta đang ở nơi kia,” và một niềm khát ngưỡng và sùng kính dâng trào trong tâm ngài, mănh liệt tới nỗi ngài ngă quị. Khi ngài tỉnh dậy, toàn thể tâm giác ngộ của bậc thầy đă được truyền sang cho ngài, và ngài đạt đến tŕnh độ chứng nhập cao nhất, gọi là “Diệt tận định.”



D̉NG ÂN SỦNG



Những câu chuyện về năng lực của ḷng sùng kính và ân phước của bậc thầy không phải là những chuyện chỉ có trong quá khứ. Trong một con người như Khandro Tsering Chodron, bậc nữ đạo sư của thời đại chúng ta, ta có thể thấy được kết quả sự tu tập và sự sùng kính sâu xa đối với bậc thầy là như thế nào.

Tính khiêm hạ, giản dị của bà, trí tuệ trong sáng của bà được mọi người Tây Tạng tôn kính, mặc dù bà cố hết sức ở lại trong bóng tối, không bao giờ xuất đầu lộ diện. Bà sống cuộc đời khổ hạnh ẩn cư của một hành giả tu thiền quán ngày xưa.

Tôi thường nghe Khandro nói nhiều lần rằng nếu liên hệ của bạn với thầy bạn được giữ thực sự trong sáng, th́ mọi sự trong đời bạn sẽ tốt đẹp. Cuộc đời bà là điển h́nh cảm động nhất về điều này. Sự sùng kính đă làm cho bà thể hiện được tinh hoa của giáo lư, và tỏa chiếu cho người khác ánh sáng ấm áp của tinh hoa ấy.

Khandro không giảng dạy một cách trịnh trọng, kỳ thực bà không nói nhiều; nhưng điều ǵ bà nói thường rơ rệt một cách sâu xa đến nỗi nó trở thành lời tiên tri. Lắng nghe bà tụng lên những lời kinh, hay thực tập thiền định với bà, bạn được cảm hứng sâu xa tận tâm để. Ngay cả khi đi dạo với bà, hay chỉ ngồi với bà, ta cũng thấy như được tấm trong niềm hỉ lạc mănh liệt của sự hiện diện ấy.

V́ Khandro rất dè dặt, và v́ sự vĩ đại của bà nằm ở tính b́nh dị, nên chỉ có người nào thực sự trí tuệ mới thấy được bà là ai. Chúng ta sống trong một thời đại mà chỉ những người phô trương ḿnh ra lại thường được thán phục nhiều nhất. Nhưng chính trong những người khiêm cung như Khandro, mà chân lư đang sống thực sự.

Nếu Khandro có bao giờ đến giảng dạy ở Tây phương, bà sẽ là một bậc thầy toàn hảo, bậc nữ đạo sư vĩ đại nhất, người nhập thể được một cách huyền nhiệm toàn triệt, đức từ bi và trí tuệ của Tara, tâm bi mẫn có tuệ giác được thể hiện qua thân h́nh một nữ nhân, có năng lực chữa trị tâm linh. Nếu tôi phải chết, mà có Khandro tiếp nối, th́ tôi sẽ cảm thấy tin tưởng và an tâm hơn bất cứ bậc thầy nào khác.

Tất cả những ǵ tôi thực hiện được đều là nhờ sùng kính các bậc thầy. Càng ngày tôi càng ư thức rơ với niềm úy phục rằng những ân sủng của các bậc thầy đang làm việc qua tôi. Tôi không là ǵ nếu không có sự ban ân của thầy, và nếu có điều ǵ tôi làm được, th́ đấy là làm một nhịp cầu giữa bạn và các bậc thầy.

Nhiều lần, tôi đă nhận thấy rằng khi tôi nói về các thầy tôi trong các buổi giảng dạy, th́ ḷng sùng kính của tôi gợi cảm hứng nơi những người nghe, và trong những giây phút kỳ diệu ấy tôi cảm thấy các thầy tôi đang hiện diện, đang ban ân phước và mở những trái tim các học tṛ tôi, cho họ thấy được chân lư.

Tôi nhớ ở Sikkim vào thập niệm 1960, sau khi thầy Jamyang tôi chết không bao lâu, Dilgo Khientse Rinpoche đang làm một loạt dài những lễ quán đảnh thuộc giáo lư của Padmasambhava, có thể kéo dài nhiều tháng.

Nhiều bậc thầy đang ở trong một tu viện trên ngọn đồi phía sau thủ đô Gangtok, và tôi đang ngồi với Khandro Tsering Chodron và Lama Chokden, phụ tá của thầy Jamyang Khientse và là một thầy nghi lễ.

Chính vào lúc ấy tôi kinh nghiệm được sự thật về cách làm thế nào một bậc thầy có thể truyền phúc lạc của tâm giác ngộ cho đệ tử (truyền tâm ấn). Một ngày, Dilgo Khientse Rinpoche giảng dạy về sự sùng kính và nói về thầy Jamyang Khientse, tuôn ra từ tâm ngài như ḍng thác hùng hồn và đầy thi vị tâm linh.

Khi nh́n thấy Dilgo Khientse Rinpoche và lắng nghe thầy nói, một cách mầu nhiệm tôi nhớ lại phong thái của chính thầy Jamyang Khientse những lúc thầy giảng giáo lư tuyệt vời một cách thao thao bất tuyệt, như từ một suối nguồn bất tận. Từ từ tôi kinh ngạc nhận thấy cái ǵ đă xảy đến:

Đó là ân sủng tuệ giác của thầy Jamyang Khientse đă được trao truyền trọn vẹn cho pháp tử của ngài, Dilgo Khientse Rinpoche, và giờ đây ở trước chúng tôi, ân sủng tuệ giác ấy đang phát ngôn một cách lưu loát không cần nỗ lực, qua thầy Dilgo Rinpoche.

Sau buổi giảng, khi quay lại Khandro và Chokden, tôi thấy mặt họ đang ràn rụa nước mắt, và bảo:

- Chúng tôi biết Dilgo Khientse là một bậc thầy vĩ đại, và chúng tôi cũng biết người ta thường bảo một vị thầy có thể truyền hết ân sủng tuệ giác cho pháp tử của ḿnh. Nhưng chỉ mới hôm nay, bây giờ và tại đây, tôi mới thực chứng được sự thật ấy có nghĩa ǵ.

Khi nghĩ lại cái ngày kỳ diệu ấy ở Sikkim, và nghĩ đến những bậc thầy vĩ đại mà tôi đă biết, th́ tôi lại nhớ đến những lời này của một bậc thánh Tây Tạng:

- Khi mặt trời sùng kính chói chang (của môn đệ) chiếu trên đỉnh núi tuyết là bậc thầy, th́ ḍng thác ân sủng của thầy sẽ tuôn xuống.

Tôi lại nhớ đoạn văn của chính Dilgo Khientse Rinpoche đă diễn tả những đức tính cao quí vô biên của bậc thầy một cách hùng hồn hơn bất cứ đoạn văn nào khác:

- Thầy như một con thuyền lớn cho chúng sinh vượt qua đại dương hiểm nghèo của sinh tử, thầy là thuyền trưởng vững vàng hướng dẫn chúng tới bến bờ khô ráo của giải thoát; thầy là cơn mưa dập tắt ngọn lửa năo phiền, là ánh nhật nguyệt chói lọi xua tan bóng tối vô minh, là đất kiên cố có thể chuyên chở sức nặng của ác và thiện, một Cây ước ban bố niềm vui tạm thời và hạnh phúc vĩnh cửu, là kho tàng giáo lư thâm diệu bao la, là ngọc châu như ư đem lại tất cả đức tính của chứng ngộ, là cha là mẹ trải ḷng thương b́nh đẳng lên tất cả hữu t́nh, là con sông lớn của ḷng từ, là ngọn núi vươn lên trên mọi lo phiền thế tục, không lay chuyển trước những gió băo của cảm xúc.

Thầy là vừng mây lớn đem mưa rưới mát những dằn xé của dục vọng. Tóm lại, thầy ngang với tất cả chư Phật. Chỉ cần liên lạc với bậc thầy bằng bất cứ cách nào, hoặc trông thấy thầy, hoặc nghe giọng nói của thầy, hoặc được thầy lấy tay sờ đầu, hoặc nhớ đến thầy, cũng sẽ đưa ta đến giải thoát.

Hoàn toàn đặt tin tưởng nơi bậc thầy, đó là cách bảo đảm nhất để có tiến bộ trên đường chứng đắc tuệ giác. Sự ấm áp của trí tuệ và từ bi của thầy sẽ làm tan những cấu uế trong người ta và giải tỏa được chất vàng ṛng của Phật tính trong ta.

Tôi đă ư thức được niềm ân sủng mà các bậc thầy tôi rót vào tâm tôi mà tôi hầu như không hay biết. Từ ngày Dudjom Rinpoche chết, những học tṛ tôi bảo rằng những lời giảng dạy của tôi trở nên lưu loát rơ ràng hơn. Cách đây không lâu, sau khi nghe Dilgo Khientse Rinpoche giảng một bài pháp hay đặc biệt, tôi đă bày tỏ ḷng thán phục của tôi và nói:

- Thật như là một phép lạ, khi những lời giảng tuôn ra từ tâm trí tuệ của ngài một cách tự nhiên không nỗ lực.

Thầy nhẹ nhàng ngả về phía tôi và nói, với một ánh mắt trêu chọc:

- Và mong sao những lời dạy của con bằng tiếng Anh cũng tuôn ra dễ dàng trôi chảy như vậy.

Từ đấy trở đi, tự nhiên tôi có cảm giác cái khả năng diễn đạt giáo lư nơi tôi trở nên tự nhiên hơn, hoàn toàn không do luyện tập. Tôi xem quyển sách này như một biểu hiện của niềm ân sủng từ những vị thầy tôi, được truyền từ tâm trí tuệ của bậc thầy và vị đạo sư tối hậu là Padmasambhava. Vậy, quyển sách này là tặng phẩm của các ngài đến cho bạn.

Chính niềm sùng kính đối với những bậc thầy đă đem lại cho tôi sức mạnh để giảng dạy, và tâm hồn rộng mở, tính cảm thụ sâu xa để học hỏi và luôn luôn học hỏi. Chính thầy Dilgo Khientse Rinpoche cũng không bao giờ ngưng học hỏi một cách khiêm hạ từ những bậc thầy khác, phần lớn là từ chính những đệ tử của ngài.

Bởi thế, niềm sùng kính gợi cảm hứng cho sự giảng dạy cũng là sự sùng kính đem cho ta tính khiêm hạ để tiếp tục học hỏi. Vị đại đệ tử của Milapera là Gampopa đă hỏi thầy ḿnh lúc chia tay:

- Khi nào th́ đúng lúc con nên khởi sự d́u dắt đệ tử?

Milapera trả lời:

- Khi con không phải như con bây giờ, khi toàn thể nhận thức của con đă được chuyển hóa, và con có thể thấy, thực sự thấy, cái ông già trước mặt con không ai khác hơn là chính đức Phật. Khi ḷng sùng kính đă đem lại cho con giây phút nhận thức được như thế, cái lúc ấy sẽ là dấu hiệu chứng tỏ thời gian ra giáo hóa của con đă đến.

Giáo lư này đă đến với bạn từ tâm giác ngộ của Padmasambhava xuyên qua hàng bao thế kỷ, trên ngàn năm, qua một ḍng truyền thừa không gián đoạn gồm những bậc thầy mà mỗi vị đều trở thành bậc thầy chỉ nhờ đă biết khiêm hạ làm đệ tử, và vẫn luôn luôn, trong ư nghĩa sâu xa nhất, là đệ tử của những bậc thầy họ suốt cả đời.

Ngay cả vào lúc ngài đă tám mươi hai tuổi, mỗi khi Dilgo Khientse Rinpoche nói về Thầy ḿnh là Jamyang Khientse Rinpoche, mắt ngài đều rướm lệ, những giọt nước mắt của niềm tri ân và sùng kính.

Trong bức thư cuối cùng gửi cho tôi trước khi chết, ngài đă kư tên là “Đệ tử đệ nhất.” Điều ấy chứng tỏ cho tôi thấy thực vô tận thay ḷng sùng kính chân thực, và cùng với sự chứng ngộ cao nhất cũng phát sinh niềm sùng kính lớn nhất và niềm tri ân toàn vẹn nhất, v́ nó đầy cả đức khiêm cung.



PHÉP ĐẠO SƯ DU GIÀ; H̉A VỚI TÂM TRÍ TUỆ CỦA BẬC THẦY



Tất cả chư Phật, Bồ tát và những bậc giác ngộ luôn luôn hiện diện để giúp chúng ta, và chính nhờ hiện diện của bậc thầy mà tất cả ân sủng của Phật, Bồ tát được tập trung trực tiếp trên ta. Những người đă biết Padmasambhava th́ biết sự thật của lời hứa mà ngài đă lập trên ngàn năm trước:

- Tôi không bao giờ xa các người có đức tin, hay cả đến những người không có đức tin, mặc dù họ không trông thấy tôi. Những người con của ta sẽ luôn luôn được ḷng từ bi của tôi che chở.

Chúng ta chỉ cần xin cầu nếu muốn được giúp đỡ trực tiếp. Há không phải Ki-tô cũng nói:

- Hăy xin, ngươi sẽ được cho; hăy t́m kiến, ngươi sẽ gặp; hăy gơ, và cửa sẽ được mở cho ngươi. Ai xin đều nhận được, ai t́m đều gặp được.

Tuy thế, hỏi xin là điều khó khăn nhất đối với chúng ta. Tôi nghĩ nhiều người trong chúng ta hoàn toàn không biết làm thế nào để hỏi. Đôi khi v́ ta kiêu căng, đôi khi v́ ta không muốn được giúp đỡ, đôi khi v́ ta biếng nhác, đôi khi v́ tâm ta bận rộn đủ thứ vấn đề, lo ra, và mờ mịt đến nỗi ta không bao giờ nghĩ đến chuyện giản dị là hỏi.

Khúc quanh quan trọng trong bất cứ sự cai rượu hay cai nghiện nào, là khi những người nghiện chấp nhận họ có bệnh và xin được giúp đỡ. Có thể nói chúng ta đều là những kẻ nghiện sinh tử; cái lúc sự giúp đỡ có thể đến với ta là lúc ta công nhận ḿnh có bệnh nghiện và chỉ có việc xin cầu giúp đỡ.

Điều ta cần hơn bất cứ ǵ, là tính can đảm và khiêm hạ thực sự để cầu xin sự giúp đỡ, từ đáy tim ta cầu xin ḷng từ bi của các bậc giác ngộ, cầu sự gạn lọc và chữa lành, cầu được khả năng hiểu thấu ư nghĩa của khổ đau và chuyển hóa nó; cầu xin trên b́nh diện tương đối, được tăng trưởng sự sáng suốt, b́nh an, khả năng phân biệt, và cầu được chứng ngộ bản chất tuyệt đối của tâm, nhờ tan ḥa vào cái tâm giác ngộ bất tử của bậc thầy.

Để có được sự giúp đỡ của chư Phật, để khơi dậy ḷng sùng kính và trực nhận bản tính tự tâm, không có pháp môn nào nhanh hơn, cảm động hơn và hiệu lực hơn pháp môn Đạo sư Du già. Dilgo Khientse Rinpoche viết:

- Danh từ Guru Yoya có nghĩa là “hợp nhất với đấng đạo sư,” và trong sự thực tập này, chúng ta được cho những phương pháp để ḥa nhập tâm ḿnh với tâm giác ngộ của bậc thầy.

Hăy nhớ rằng bậc thầy đạo sư thể hiện sự kết tinh của những ân sủng của tất cả chư Phật, tất cả bậc thầy, và các bậc đă giác ngộ. Bởi thế triệu thỉnh bậc thầy cũng là triệu thỉnh tất cả; và ḥa nhập tim óc bạn với chân lư và với chính hiện thân của giác ngộ.

Bậc thầy bên ngoài trực chỉ cho bạn chân lư về bậc thầy bên trong bạn. Chân lư ấy càng được khải thị qua lời dạy bậc thầy, qua cảm hứng từ bậc thầy, th́ bạn càng nhận ra rằng bậc thầy bên ngoài và bên trong bạn là bất khả phân.

Khi bạn dần dần khám phá ra chân lư này cho chính bạn, qua phương pháp triệu thỉnh trong lối thực hành phép Đạo sư Du già, th́ một niềm tin tưởng, tri ân, hỉ lạc và sùng kính phát sinh trong bạn, qua đó tâm bạn và tâm giác ngộ của bậc thầy thực sự trở thành bất khả phân. Dilgo Khientse Rinpoche có soạn theo yêu cầu của tôi trong một thời thực tập Đạo sư Du già như sau:

Cái ǵ hoàn tất sự thanh lọc lớn lao của nhận thức

Chính là sự sùng kính, ánh sáng của Tự tâm chiếu ra

Nhận chân, và nhớ rằng tự tâm ta chính là bậc thầy. Qua điều này, mong rằng tâm con và ta ḥa llàm một.

Đó là lư do tất cả truyền thống trí tuệ của Tây Tạng đều đặt tầm quan trọng vào phép thực hành Đạo sư Du già, và tất cả những bậc thầy đều xem đấy là pháp môn tâm đắc nhất của họ. Dudjom Rinpoche viết:

- Điều cốt yếu là đặt tất cả nghị lực của bạn vào Đạo sư Du già, bám lấy pháp này xem như sự sống, như trái tim của sự tu luyện. Nếu không vậy, th́ thiền định của bạn sẽ cùn nhụt, và dù bạn có làm được chút tiến bộ, cũng không chấm dứt được những chướng ngại, và sẽ không có khả năng để sự chứng ngộ chân thực phát sinh trong tâm bạn.

Bởi thế, nhờ tha thiết cầu nguyện với sự sùng kính không giả tạo, mà sau một thời gian ân sủng trực tiếp từ tâm giác ngộ của bậc thầy sẽ truyền vào bạn, gia tŕ cho bạn sự thực chứng vượt ngoài mô tả, phát sinh từ trong tâm khảm của bạn.

Điều mà tôi sẽ đem lại cho bạn bây giờ là một phép đơn giản để thực hành Đạo sư Du già mà người theo tôn giáo nào cũng có thể tập. Đây là pháp tu chính yếu của tôi, là trái tim và cảm hứng của cả đời tôi. Mỗi khi tôi thực hành pháp này, th́ Padmasambhava chính là người mà tôi tập trung vào.

Khi đức Phật nhập niết bàn, ngài có tiên đoán rằng Padmasambhava sẽ ra đời để gieo rắc giáo lư mật tông. Như tôi đă nói, chính Padmasambhava là người thiết lập đạo Phật ở Tây Tạng vào thế kỷ thứ tám.

Đối với người Tây Tạng chúng tôi, th́ Padmasambhava, Bậc thầy yêu quư, là hiện thân của một nguyên lư rộng lớn không có thời gian. Ngài là bậc thầy của tất cả. Ngài đă xuất hiện vô số lần cho các bậc thầy của Tây Tạng thấy.

Những linh kiến này, những cuộc gặp gỡ này đă được ghi chép rơ ngày tháng, nơi chốn và cách xuất hiện, cùng với những giáo lư và lời tiên tri mà ngài cho biết. Ngài cũng đă để lại hàng ngàn giáo lư cho đời sau, được hiển thị nhiều lần bởi nhiều bậc thầy vĩ đại hậu thân của ngài. Một trong những giáo lư ngài để lại ấy là Tử thư Tây Tạng.

Tôi luôn luôn cầu Padmasambhava trong những lúc gặp khó khăn khủng hoảng, và ngài không bao giờ không ban ân sủng và năng lực cho tôi. Khi tôi nghĩ về ngài, th́ các bậc thầy của tôi đều là hiện thân của ngài. Đối với tôi th́ ngài hoàn toàn sống động vào mọi lúc, và lúc nào toàn vũ trụ cũng chiếu sáng với vẻ đẹp, năng lực và hiện diện của ngài.

Ôi hỡi Đạo sư, Bậc thầy tôn quư,

Ngài là hiện thân của từ bi

và ân sủng của tất cả chư Phật,

Là đấng che chở tất cả hữu t́nh

Thân con, tài sản con, tim con, linh hồn con

Tất cả, con xin dâng lên ngài

Từ giờ phút này đến khi con đạt giác ngộ,

Trong hạnh phúc hay đau buồn,

Trong hoàn cảnh tốt hay xấu, lên cao hay xuống thấp

Con hoàn toàn nương tựa vào ngài, hỡi đấng Liên Hoa Sanh,

Người biết con: hăy thương tưởng, d́u dắt con, làm cho con trở thành một với ngài.

Tôi xem Padmasambhava như là nhập thể của tất cả bậc thầy tôi, bởi thế khi tôi ḥa nhập tâm tôi với Ngài trong phép Đạo sư Du già, th́ tất cả bậc thầy của tôi đều bao hàm trong đó.

Tuy nhiên, bạn có thể dùng bất cứ một vị đă giác ngộ nào, bậc thánh, hay bậc thầy từ bất cứ tôn giáo nào hay truyền thống nào mà bạn cảm thấy sùng kính, dù họ c̣n sống hay đă chết.

Pháp Đạo sư Du già này có bốn giai đoạn chính: Triệu thỉnh; ḥa nhập tâm bạn với bậc thầy qua tinh túy của vị ấy là thần chú; nhận sự gia tŕ hay ân sủng; ḥa nhập tâm bạn với bậc thầy và an trú trong bản tính tự nhiên Rigpa.

1. Triệu thỉnh.

Ngồi yên lặng. Từ đáy sâu của tim bạn, hăy gợi ra những bầu trời trước mặt bạn hiện thân của chân lư dưới h́nh thức của bậc thầy bạn, hay một vị thánh, hay một người đă giác ngộ.

Cố quán tưởng bậc thầy hay đức Phật ấy đang sống, tỏa chiếu ánh sáng trong suốt như cầu vồng. Hăy tin tưởng, với niềm tin tuyệt đối, rằng tất cả niềm ân sủng và đức tính của trí tuệ, từ bi, và năng lực của tất cả chư Phật đều được nhập thể trong vị ấy.

Nếu bạn thấy khó mà quán tưởng bậc thầy, th́ hăy tưởng tượng hiện thân của chân lư như là một thực thể thuần ánh sáng, hoặc cảm thấy sự hiện diện toàn vẹn của bậc thầy ở đấy trong bầu trời trước mặt bạn; đó là hiện diện của tất cả chư Phật và các bậc thầy.

Hăy để cho nguồn cảm hứng, hỉ lạc, úy phục mà bạn cảm thấy lúc đó thay cho sự quán tưởng. Chỉ cần tin tưởng rằng sự hiện diện mà bạn triệu thỉnh đă thực sự ở đấy. Chính đức Phật cũng đă nói:

- Kẻ nào nghĩ đến ta, là ta đă ở trước mặt kẻ ấy.

Thầy tôi Dudjom Rinpoche thường nói không hề ǵ nếu lúc đầu bạn không thể quán tưởng; điều quan trọng là cảm thấy sự hiện diện trong tim bạn, và biết rằng hiện diện ấy là hiện thân của ân sủng, từ bi, năng lực và trí tuệ của tất cả chư Phật.

Rồi, khi thư dăn và để tim bạn tràn đầy hiện diện bậc thầy, bạn hăy triệu thỉnh vị ấy một cách tha thiết thành khẩn trong tâm:

- Xin giúp con, làm cho con thanh tịnh tất cả phiền năo nghiệp chướng, để chứng ngộ bản tâm.

Đoạn với niềm sùng kính sâu xa, hăy ḥa nhập tâm bạn với bậc thầy, và an trú tâm bạn trong tâm giác ngộ của thầy. Và khi bạn làm như thế, bạn hăy hoàn toàn quy phục nơi thầy, tự nhủ:

- Xin giúp con, săn sóc con. Cho con tràn ngập niềm vui và năng lực của ngài, trí tuệ của ngài. Hăy thâu tóm con vào trong tâm giác ngộ của ngài. Hăy ban cho con ân sủng và trí tuệ.

Khi ấy th́ “chắc chắn sự gia tŕ sẽ được rót vào tâm bạn” Dilgo Khientse Rinpoche nói.

Khi chúng ta khởi sự pháp tu này, th́ đấy là một cách trực tiếp, thiện xảo và hiệu nghiệm để mang ta ra khỏi tâm phàm phu và nhập vào lĩnh vực thanh tịnh của trí giác Rigpa, ở đấy chúng ta sẽ khám phá rằng tất cả chư Phật đều hiện diện.

Bởi thế, pháp môn này thực sự chuyển hóa được tâm bạn. Khi bạn triệu thỉnh Phật, th́ Phật tính của tự tâm bạn có thể được đánh thức và khai ngộ, tự nhiên như một đóa hoa dưới ánh mặt trời.

2. Đào sâu và làm chín mùi ân sủng.

Khi đến giai đoạn này của sự tu tập, ḥa lẫn tâm tôi với bậc thầy qua câu thần chú, tôi đọc câu chú:

- OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM.

Mà tôi tưởng như là Padmasambhava thực sự, và là ân sủng của tất cả những bậc thầy, dưới h́nh thức âm thanh. Tôi tưởng tượng toàn thân tôi tràn ngập hiện diện của ngài, và câu thần chú tinh túy của ngài, đang ngân vang và thấm khắp người tôi, như thể hàng trăm Padmasambhava dưới dạng âm thanh đang lưu hành trong tôi, chuyển hóa toàn bản thể tôi.

Vậy, dùng câu chú, dâng hiến tim và hồn của bạn trong niềm sùng kính nhất tâm, ḥa tâm bạn với Padmasambhava hay bậc thầy của bạn. Dần dà bạn sẽ thấy ḿnh đến gần Padmasambhava hơn, và lấp khoảng trống ngăn cách tâm bạn với tâm giác ngộ của ngài.

Dần dần, nhờ năng lực của thực tập này, bạn sẽ thực sự kinh nghiệm tâm ḿnh được chuyển hóa thành tâm giác ngộ của Padmasambhava và bậc thầy; bạn bắt đầu nhận chân được tính bất khả phân của hai tâm ấy.

Như khi thọc ngón tay vào nước th́ ướt, vào lửa th́ nóng, cũng vậy nếu bạn để tâm bạn vào tâm giác ngộ của chư Phật, th́ tâm bạn sẽ chuyển thành bản chất giác ngộ của chư Phật. Dần dần tâm bạn tự thấy ḿnh ở trong trạng thái tự tính tâm, Rigpa, v́ tự tính tâm sâu xa nhất, không khác ǵ tâm giác ngộ của tất cả chư Phật.

Nó giống như thể tâm phàm phu của bạn dần dần tan biến, và sự tỉnh giác thuần tịnh, Phật tính của bạn, bậc thầy bên trong, hiển lộ. Đây là ư nghĩa chân thực của “ân sủng”, một sự chuyển hóa trong đó tâm bạn siêu việt vào trạng thái tuyệt đối.

Sự chín mùi của ân sủng này là trọng tâm, phần chính của sự tu luyện, phần mà bạn cần dành nhiều th́ giờ nhất, khi bạn thực hành pháp Đạo sư Du già.

3. Gia tŕ.

Bây giờ, bạn hăy tưởng tượng, từ nơi bậc thầy, hàng ngàn ánh sáng rực rỡ tuôn tràn về phía bạn, thâm nhập vào người bạn, tịnh hóa, chữa lành, ban ân sủng, gia tŕ cho bạn và gieo vào tâm bạn những hạt giống giác ngộ. Để cho sự tu tập này càng thêm phong phú, bạn có thể tưởng tượng nó mở ra trong ba giai đoạn:

Trước hết, ánh sáng chói chang như pha lê màu trắng tuôn ra từ trán của vị thầy và đi vào luân xa ở trán bạn, tràn ngập toàn thân bạn. Ánh sáng trắng này tượng trưng ân sủng của thân Phật:

Nó thanh lọc tất cả những ác nghiệp mà bạn đă tích lũy do thân ác hành; nó tịnh hóa những huyệt đạo vi tế của hệ thống tâm-vật-lư của bạn; nó đem lại cho bạn phúc lạc của Phật thân, nó gia tŕ năng lực cho bạn thực hành quán tưởng; và nó mở ra cho bạn sự chứng ngộ năng lực từ bi của tự tánh tâm, hiển lộ nơi mọi sự vật.

Kế đến, một luồng ánh sáng màu đỏ chiếu ra từ yết hầu của vị thầy, đi vào luân xa yết hầu của bạn, tràn ngập thân thể bạn. Ánh sáng đỏ này tượng trưng ân sủng của Lời chư Phật:

Nó lọc sạch tất cả ác nghiệp bạn đă tích lũy qua ngữ ác hành; nó thanh lọc nội khí của hệ thống tâm-vật-lư bạn; nó đem lại cho bạn ân sủng ngữ nghiệp của chư Phật; nó gia tŕ năng lực cho bạn thực hành thần chú; và mở ra cho bạn chứng ngộ ánh sáng của tự tánh Rigpa.

Thứ ba, một luồng ánh sáng màu xanh như ngọc lưu ly tuôn phát từ tim của bậc thầy vào luân xa ở tim bạn và tràn ngập người bạn. Ánh sáng xanh này tượng trưng cho ân sủng từ tim của chư Phật.

Nó lọc sạch tất cả ác nghiệp bạn đă tích lũy qua ư ác hành; nó tịnh hóa khí lực trong cơ thể tâm vật lư của bạn; nó đem lại cho bạn ân sủng của tâm Phật; nó gia tŕ cho bạn trong các thực tập yoga cao cấp; và mở ra cho bạn chứng ngộ sự thanh tịnh nguyên ủy của tự tính tâm Rigpa.

Bây giờ, bạn hăy nhận biết rằng bạn đă được gia tŕ qua sự ban ân sủng, bằng thân, lời, ư không thể phá hoại của Padmasambhava, của tất cả chư Phật.

4. An trú trong Rigpa.

Bây giờ, hăy để cho vị thầy tan thành ánh sáng và nhập làm một với bạn, trong tự tính tâm bạn. Hăy nhận chân không nghi ngờ rằng bản tính như bầu trời của bạn chính là vị thầy tuyệt đối. Tất cả chư Phật ở đâu, nếu không phải ở trong Rigpa, tự tính tâm bạn?

Được bảo đảm trong nhận thức ấy, trong một trạng thái thoải mái khoáng đạt, bạn an trú trong sự ấm áp quang vinh và phúc lạc của bản thể tuyệt đối trong bạn. Bạn đă đạt đến nền tảng nguyên thủy: Sự trong sáng nguyên ủy và tính giản dị tự nhiên. Khi bạn an trú trong trạng thái Rigpa ấy, bạn sẽ nhận chân sự thật của lời dạy Padmasambhava:

- Tâm chính là Padmasambhava; không có thực hành thiền định nào ngoài tâm ấy.

Tôi đă tŕnh bày pháp tu ấy ở đây, như một thành phần của cơi trung gian tự nhiên của đời này, bởi v́ đấy là thực tập quan trọng nhất trong đời, và bởi thế quan trọng nhất vào lúc chết.

Phép Đạo sư Du già, như bạn sẽ thấy ở chương mười ba, “Giúp đỡ tinh thần cho người hấp hối,” là nền tảng của phép Chuyển di tâm thức, phowa, vào lúc chết. V́ nếu vào lúc chết, bạn có thể đầy tin tưởng, hợp nhất tâm bạn với tâm giác ngộ của bậc thầy, và chết trong niềm b́nh an ấy, th́ tôi xin hứa và bảo đảm với bạn là mọi sự sẽ tốt đẹp.

Vậy công việc của ta trong đời là thực tập nhiều lần, sự ḥa nhập với tâm giác ngộ của bậc thầy, làm sao để nó trở thành một việc tự nhiên đến nỗi mọi hoạt động hàng ngày ngồi, đi, đứng, ăn, uống, ngủ, mộng càng lúc càng thấm nhuần sự hiện diện sống động của bậc thầy.

Dần dần, sau nhiều năm tập trung sùng kính, bạn bắt đầu biết và trực nhận được rằng tất cả tướng thế gian đều hiển bày trí giác của bậc thầy. Mọi hoàn cảnh trong đời ngay cả những hoàn cảnh đă từng có vẻ bi thương, vô nghĩa, hăi hùng bây giờ càng ngày càng tỏ lộ cho bạn thấy chính là sự giáo hóa trực tiếp và là ân sủng của bậc thầy, và thầy nội tâm. Như Dilgo Khientse Rinpoche nói:

- Sùng kính là tinh túy của con đường tu tập, và nếu trong tâm ta không có ǵ ngoài bậc thầy, không cảm thấy ǵ ngoài sự sùng kính nhiệt tâm, th́ bất cứ ǵ xảy đến đều được xem như ân sủng của thầy. Nếu chúng ta chỉ thực hành với sự sùng kính luôn luôn hiện diện này, th́ đây chính là sự cầu nguyện.

Khi tất cả mọi ư nghĩa đều thấm nhuần sự sùng kính đối với bậc đạo sư, th́ có một niềm tin tưởng tự nhiên rằng, không cần phải lo bất cứ ǵ xảy đến. Mọi sắc tướng đều là bậc đạo sư, mọi âm thanh đều là lời cầu nguyện, và mọi ư tưởng thô hoặc tế đều là sự sùng kính. Mọi sự vật khi ấy được giải phóng một cách tự nhiên vào bản chất tuyệt đối.







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 431 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 9:25pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TẠNG THƯ SỐNG CHẾT


10. TỰ TÁNH SÂU XA CỦA TÂM


Không ai có thể chết một cách vô úy và hoàn toàn bảo đảm, khi họ chưa thực sự giác ngộ được bản chất sâu xa của tâm. V́ chỉ có sự chứng ngộ này, được thuần thục qua nhiều năm thiền định, mới có thể giữ vững tâm suốt tiến tŕnh rối loạn của cái chết.

Trong tất cả những phương pháp mà tôi biết để giúp người trực nhận bản tâm, th́ phương pháp Dzogchen, ḍng tuệ giác trực tiếp và cổ nhất trong giáo lư Phật, và chính là nguồn gốc của giáo lư Bardo, là phương pháp minh bạch nhất, hiệu nghiệm nhất, và thích hợp nhất cho nhu cầu hiện nay.

Nguồn gốc của Dzogchen trở về từ thời Phật nguyên ủy, đức Samantabhadra (Phổ Hiền) truyền xuống trong một hệ truyền thừa không gián đoạn cho đến ngày nay. Hàng trăm ngàn người ở Ấn, Hy Mă Lạp Sơn và Tây Tạng, đă đạt ngộ nhờ thực hành phương pháp ấy. Có một lời tiên tri kỳ diệu rằng:

- Vào thời đại tối tăm, trái tim của Samantabhadra sẽ chiếu sáng như lửa.

Cuộc đời tôi, sự giảng dạy của tôi và quyển sách này, được phụng hiến để thắp lên ngọn lửa ấy trong tim và năo của thế giới.

Sự nâng đỡ, niềm cảm hứng và thầy hướng đạo miên viễn của tôi là ngài Padmasambhava, bậc thầy tối thượng Liên Hoa Sanh. Ngài là linh hồn của Dzogchen, là người hoằng dương vĩ đại nhất cho giáo lư này, nhập thể của giáo lư, với những đức tính quảng đại sáng chói, với thần thông, với năng lực tuệ giác và ḷng từ bi vô biên.

Dzogchen không được giảng dạy rộng răi ở Tây Tạng, và trong một thời gian nhiều bậc thầy lớn nhất cũng không giảng dạy pháp môn này ở thế giới tân tiến. Thế th́ tại sao bây giờ tôi giảng dạy? Một vài bậc thầy đă bảo tôi rằng đă đến lúc nên hoằng dương Dzogchen, thời gian mà lời tiên tri đă nói đến. Tôi cũng cảm thấy rằng thực thiếu từ bi nếu không san sẻ với mọi người, hiện hữu của một tuệ giác kỳ diệu như thế.

Nhân loại đă đến một giai đoạn khủng hoảng trong cuộc tiến hóa, và thời đại cực kỳ hỗn loạn đ̣i hỏi một nền giáo lư minh bạch, có hiệu năng. Tôi cũng thấy con người ngày nay cần một con đường được tỉa sạch giáo điều, độc đoán, siêu h́nh phức tạp.

Và những thứ phụ tùng có tính cách ngoại lai về phương diện văn hóa; một con đường vừa giản dị, vừa sâu sắc, một con đường không cần phải thực hành trong am thất hay tu viện, mà có thể ḥa nhập vào đời sống hàng ngày, và có thể thực hành bất cứ ở đâu.

Vậy Dzogchen là ǵ? Đó không phải là một giáo lư đơn thuần, không phải là một nền triết học khác; một hệ thống tinh vi khác, cũng không phải là một mớ kỹ thuật hấp dẫn. Dzogchen là một trạng thái tâm, cái trạng thái nguyên ủy, toàn giác vốn là cốt lủy của tất cả chư Phật và tất cả các con đường tâm linh, đó là tột đỉnh của tiến hóa tâm linh nơi một con người.

Dzogchen thường được dịch là “Sự toàn hảo lớn lao.” Tôi thích để nguyên danh từ “Dzogchen, bởi khi nói sự toàn hảo là bao hàm có một cái ǵ ta phải cố đạt tới, một mục đích nằm cuối con đường dài gian khổ. Không ǵ đi xa ư nghĩa thực sự của Dzogchen hơn thế: V́ Dzogchen là trạng thái đă toàn hảo của bản tính nguyên ủy của ta, không cần phải làm cho toàn, v́ nó ngay từ khởi thủy, đă toàn vẹn, như bầu trời.

Tất cả giáo lư Phật đều được giải thích theo “Cảnh, hành, quả”. Cảnh hay “nền tảng” của Dzogchen là trạng thái nguyên ủy căn để này, bản chất tuyệt đối của chúng ta, vốn đă toàn hảo và luôn luôn có mặt. Patrul Rinpoche nói:

- Nó không cần t́m kiếm bên ngoài, cũng không phải là một cái ǵ trước đây bạn chưa có và bây giờ phải mang vào trong tâm bạn.

Vậy trên phương diện Cảnh (hay Nền tảng) cái tuyệt đối, th́ bản chất hay tự tính của chúng ta đồng với chư Phật, và ở tầng mức này, th́ không có vấn đề giáo lư hay thực hành nào cả, “dù chỉ bằng tơ tóc.”

Tuy nhiên cần hiểu rằng, chư Phật đi một đường, chúng ta đi một nẻo. Chư Phật nhận chân được Phật tính và đạt giác ngộ, c̣n chúng ta không nhận chân được Phật tính ấy nên trờ thành mê mờ rối ren. T́nh trạng này được gọi là “một cảnh hai đường.”

Hoàn cảnh tương đối của chúng ta là, tự tâm chúng ta bị mê mờ, cho nên ta cần giáo lư và thực hành để quay trở về chân lư: Đây là con đường của Dzogchen (Hành). Cuối cùng, trực nhận bản tâm ta là đạt giải thoát hoàn toàn và trở thành một vị Phật. Đây là Quả của Dzogchen, và nó có thể thực hiện ngay trong một đời này nếu hành giả thực sự để hết tâm trí ḿnh vào đó.

Những bậc thầy Dzogchen biết rơ những nguy hiểm của sự lầm lẫn cái tuyệt đối với cái tương đối. Những người không hiểu được tương quan này có thể bỏ qua, ngay cả coi thường, khía cạnh tương đối của sự tu tập và định luật nhân quả nghiệp báo.

Tuy nhiên, người nào thực sự nắm được ư nghĩa của Dzogchen th́ lại càng có ư thức sâu xa hơn về nghiệp, và càng xem trọng nhu cầu cần thiết là thanh luyện và tu tập tâm linh. Bởi v́ những người này hiểu được ở trong đó c̣n cả một kho tàng rộng lớn đang bị che khuất, nên càng cố gắng nhiệt tâm với một kỷ luật tự nhiên, luôn luôn hăng hái để tẩy trừ bất cứ chướng ngại ǵ ngăn che ḿnh với bản tính chân thực của ḿnh.

Giáo lư Dzogchen giống như một tấm gương phản chiếu. Nền tảng của bản tính nguyên ủy của ta, vốn thanh tịnh, giải thoát vô cấu, không bị giam giữ bởi một tri thức ngụy tạo nào dù tinh vi, quyến rũ đến đâu.

Thế th́ với tôi, sự kỳ diệu của Dzogchen là ǵ? Tất cả giáo lư đều đưa đến giải thoát, nhưng điểm độc đáo của Dzogchen là ngay cả khía cạnh tương đối của giáo lư này, ngôn ngữ của Dzogchen, cũng không bao giờ làm nhiễm ô cái tuyệt đối bằng những khái niệm.

Nó để cho cái tuyệt đối ở yên trong vẻ sơ nguyên, năng động, giản đơn, tráng lệ của nó, nhưng đối với kẻ nào có tâm khoáng đạt th́ ngôn ngữ ấy thật rơ ràng, mạnh mẽ đến độ dù chưa giác ngộ mà nghe tới, ta cũng đủ có một thoáng nh́n thấy được vẻ tráng lệ huy hoàng của trạng thái giác ngộ.



CÁI THẤY



Sự thực tập tu luyện Dzogchen được mô tả là “Kiến, Thiền, Hành”. Thấy được một cách trực tiếp trạng thái tuyệt đối, CẢNH hay nền tảng của bản thể chúng ta - tự tánh, tánh bản nhiên, đó là Kiến; Cái cách để làm cho cái thấy ấy không gián đoạn gọi Thiền; và hội nhập cái thấy ấy vào trong toàn thể thực tại và cuộc đời chúng ta, gọi là Hành.

Vậy th́ Kiến là ǵ? Đấy là thấy đuợc thực trạng của vạn pháp như nó là, đấy là biết được rằng bản tánh thực của tự tâm cũng là bản tánh thực của sự vật, và đấy là nhận được rằng bản tánh thực của tâm ta chính là chân lư tuyệt đối. Dudjom Rinpoche nói:

- Kiến là sự bao gồm của trạng thái tỉnh thức sơ nguyên, trong đó mọi sự được chứa đựng: Nhận thức giác quan và hiện tượng bên ngoài, sinh tử và niết bàn. Sự tỉnh thức ấy có hai khía cạnh; “Không” là cái tuyệt đối và “tướng” hay nhận thức là cái tương đối.

Điều này muốn nói rằng toàn thể lĩnh vực tướng có thể hiện ra, và tất cả hiện tượng trong mọi thực tại khác nhau, dù sinh tử hay niết bàn, tất cả, vẫn luôn luôn và sẽ măi măi toàn vẹn, đầy đủ trong bầu trời bao la của tự tánh tâm.

Nhưng mặc dù tinh túy của vạn pháp là trống rỗng, và “thanh tịnh từ khởi thủy”, bản chất của nó vẫn đầy đủ đức tánh cao quư sung măn mọi khả năng. Đó là một môi trường sáng tạo vô biên, năng động không ngừng nghỉ và luôn luôn tự nhiên toàn hảo:

Bạn có thể hỏi:

- Nếu trực nhận cái thấy ấy là chứng ngộ bản tâm, thế th́ bản tâm là ǵ?

Hăy tưởng tượng một bầu trời trống rỗng bao la, trong sáng từ khởi thủy, “Tinh túy” (Thể) của nó là như thế. Hăy tưởng tượng một mặt trời sáng, trong, không bị mây che, hiện diện một cách tự nhiên: “Bản chất” (Tướng) của nó là như thế.

Hăy tưởng tượng mặt trời ấy chiếu ra một cách vô tư trên tất cả người vật, đi vào mọi hướng: “Năng lực” (Dụng) của nó, biểu hiện của tâm đại bi – là như thế không ǵ làm chướng ngại nó được, và nó thâm nhập khắp cả.

Bạn cũng có thể tưởng đến tự tánh tâm như một tấm gương, với năm năng lực hay trí khác nhau.

Tính mở rộng, bao la của nó là “Pháp giới thể tánh trí,” thai tạng của ḷng bi mẫn. Khả năng phản chiếu của tấm gương từng chi tiết đều hiện rơ khi một vật đi qua nó, đấy là “Đại viên cảnh trí.” Bản chất không thiên vị chút nào của nó đối với mọi ấn tượng in lên nó, là “B́nh đẳng tánh trí.”

Khả năng phân biệt rơ ràng không lẫn lộn mọi hiện tượng khởi lên, đó là “Diệu quan sát trí.” Và tiềm năng có được mọi sự đă viên thành toàn vẹn, hiện diện tự nhiên là “Thành sở tác trí.”

Trong Dzogchen “Kiến” được thầy trực tiếp truyền cho môn đệ. Chính cái cách độc đáo của sự điểm đạo này, đă làm cho Dzogchen thành đặc biệt, độc nhất vô nhị.

Cái được truyền cho môn đệ trong lúc khai đạo chính là kinh nghiệm trực tiếp về tâm giác ngộ của chư Phật, qua sự ban ân của một bậc thầy biểu tượng của sự chứng ngộ toàn vẹn.

Muốn có thể tiếp nhận được sự khai đạo, người học cần phải đạt đến một giai đoạn trong đó họ vừa có được tâm khoáng đại vừa có ḷng sùng kính để làm cho họ dễ cảm thụ đối với ư nghĩa chân thực của Dzogchen.

Làm sao tâm giác ngộ của chư Phật có thể truyền được?

Hăy tưởng tượng bản tâm như cái mặt của bạn; nó luôn luôn ở với bạn, nhưng bạn không thấy được nếu không có sự giúp đỡ. Tưởng tượng rằng bạn chưa hề thấy một tấm gương. Sự khai ngộ của vị thầy là như th́nh ĺnh đưa lên trước mặt bạn một tấm gương và lần đầu tiên bạn thấy được chính cái mặt của bạn phản chiếu.

Cũng như mặt bạn, sự tỉnh giác thuần túy về Tự tánh tâm, không phải là một cái ǵ bậc thầy mới đem lại cho bạn mà lâu nay bạn không có, đó cũng không là một cái ǵ mà bạn có thể t́m ở bên ngoài bạn. Nó vẫn luôn luôn là của bạn, nhưng cho đến lúc ấy, bạn chưa từng thực sự nh́n thấy nó một cách trực tiếp.

Patrul Rinpoche giải thích:

- Theo truyền thống đặc biệt của những bậc thầy, th́ bản tâm được khai ngộ ngay khi tâm phân biệt tan biến.

Trong lúc khai thị, bậc thầy cắt đứt hoàn toàn cái tâm phân biệt, để bày ra tự tánh nguyên sơ của tâm, gọi là tính giác Rigpa, hiển thị bản chất thực của nó một cách rơ ràng.

Trong giây phút mănh liệt ấy, có một sự ḥa nhập giữa tâm và trí xảy ra, người học có ngay kinh nghiệm không chối căi được về tự tánh, bản chất Rigpa. Trong cùng một giây phút ấy, thầy khai thị và tṛ chứng ngộ. Khi vị thầy hướng ân sủng của ḿnh do trí giác của ông về tự tính, vào tự tính tâm của đệ tử, là thầy trực chỉ cho đệ tử bản lai diện mục của y.

Tuy nhiên, muốn cho sự khai ngộ của thầy được hoàn toàn công hiệu, th́ cần phải tạo cho đúng điều kiện và môi trường thích hợp. Trong lịch sử chỉ có một số ít người đặc biệt, nhờ nghiệp đă thanh tịnh, mới có thể trực nhận bản tâm và ngộ ngay tức khắc.

Phần đông c̣n lại, sự khai thị phải luôn luôn được chuẩn bị bởi một số điều kiện trước đấy. Chính những chuẩn bị này tịnh hóa, lột hết cái tâm phàm, đưa bạn đến trạng thái trong đó tâm bản nhiên có thể được khải thị cho bạn.

Trước tiên thiền định phương thuốc chữa bệnh phân tán đưa tâm về nhà, khiến nó có thể an trú trong trạng thái tự nhiên.

Thứ hai, những thực tập sâu xa về thanh luyện tăng cường thiện nghiệp nhờ tích lũy công đức và trí tuệ làm ṃn, tiêu mất những tấm màn cảm xúc và tri thức che khuất bản tánh tự nhiên của tâm. Thầy tôi đă viết:

- Khi những chướng ngại ngăn che đă được tẩy trừ, th́ trí tuệ bản nhiên của tự tánh sẽ chiếu sáng.

Những thực tập để thanh luyện này đă được thi thiết khéo léo để đem lại một sự chuyển hóa nội tâm toàn vẹn. Chúng bao quát toàn bản thể thân, lời, ư và khởi sự bằng một quán sát sâu xa về.

Tính độc nhất vô nhị của đời người.

Tính thường tại của vô thường và chết.

Tính nhân nào quả ấy của mọi hành vi.

Ṿng lẩn quẩn đau khổ của luân hồi sinh tử.

Những tư duy này gợi lên ư thức mănh liệt về “từ bỏ,” một ước muốn cấp thiết để ngoi lên khỏi sinh tử và đi theo con đường giải thoát. Đây là nền tảng cho sự thực hành đặc biệt gồm có:

Quay về nương tựa Phật, chân lư trong lời dạy của Ngài, và tấm gương của những hành giả đă thực hành giáo lư ấy, và nhờ vậy đánh thức niềm tin và Phật tính ở trong ta.

Nảy sinh ḷng bi mẫn hay tâm Bồ đề, trái tim của trí giác, luyện tâm để làm việc với chính ḿnh và người khác, và những khó khăn trong đời.

Tẩy trừ những chướng ngại và cấu uế nhờ quán tưởng và tŕ chú để thanh lọc và chữa lành thân tâm.

Tích lũy công đức và trí tuệ bằng cách phát triển bố thí và tạo những hoàn cảnh lành tốt.

Tất cả những thực tập nói trên họp thành, xoay quanh pháp Du già đạo sư, phương pháp căn bản mănh liệt cảm động hơn tất cả, tối cần thiết để mở mang tâm trí hầu trực nhận trạng thái thiền.

Thứ ba, một tra tầm đặc biệt đi sâu vào bản chất của tâm và các tướng sẽ làm kiệt quệ sự không ngừng theo đuổi tư duy t́m kiếm của tâm, sự lệ thuộc đủ thứ khái niệm, phân tích, tham khảo của nó, và đánh thức sự chứng nhập bản chất chân không.

Những chuẩn bị ấy vô cùng quan trọng, cần được thực hiện song hành một cách có hệ thống, để làm cho người học có thể đánh thức bản tâm, sẵn sàng cho thời điểm được thầy khai thị bản lai diện mục.

Nyoshul Lungtok, về sau trở thành một trong những đạo sư vĩ đại về thiền đốn ngộ trong thời hiện đại, đă theo thầy Patrul trong mười tám năm. Suốt thời gian ấy hai thầy tṛ không rời nhau. Nyoshul học và hành rất chuyên cần, đă tích lũy một kho công đức, thực tập và tịnh hóa, sẵn sàng để nhận ra bản tâm, nhưng vẫn chưa được thầy khai thị. Rồi vào một buổi chiều, Patrul Rinpoche đă khai thị cho ông.

Việc ấy xảy ra vào lúc họ cùng ở lại trong một am ẩn cư trên núi, phía trên ngôi tu viện. Đấy là một đêm đẹp trời. Bầu trời xanh thẳm sáng lên dưới ánh sao lấp lánh. Âm thanh tịch mịch càng tăng thêm bởi tiếng chó sủa xa xa. Patrul Rinpoche đang nằm dài dưới đất, thực tập một kiểu tu Dzogchen đặc biệt. Ngài gọi Nyoshul đến bảo:

- Có phải ông bảo là ông chưa biết tự tánh tâm là ǵ hay không?

Nyoshul đoán biết qua giọng nói của thầy rằng đấy là một giây phút nghiêm trọng. Ông gật đầu chờ đợi. Patrul Rinpoche nói:

- Kỳ thực th́ không có ǵ.

Ngài nói bâng quơ và thêm:

- Này con, hăy tới nằm đây như cha già của con.

Nyoshul tiến đến duỗi dài cạnh ông, Patrul hỏi:

- Con có thấy những v́ sao trên trời không?

- Có.

- Con có nghe chó sủa phía dưới tu viện không?

- Có.

- Con có nghe ta nói ǵ với con không?

- Có.

- Được rồi, tự tánh tâm, bản chất của Dzogchen chỉ là thế đấy.

Nyoshul kể lại những ǵ xảy ra lúc đó:

- Ngay khi ấy, tôi đạt đến một sự chắc chắn của thực chứng nội tâm. Tôi đă giải thoát khỏi xiềng xích của phải và không phải. Tôi đă nhận chân trí giác nguyên thủy, sự hợp nhất đơn thuần giữa Không với trực giác nội tại. Tôi được khai ngộ nhờ ân phước của thầy như Saraha bậc thầy vĩ đại của Ấn Độ đă nói:

- “Kẻ nào mà lời thầy đă thâm nhập vào tâm

Sẽ thấy được chân lư như ngọc trong ḷng tay”

Vào lúc ấy mọi sự hiển bày, kết quả bao năm tu tập, thanh luyện đă phát sinh, Nyoshul đă chứng ngộ bản tánh. Không có ǵ phi thường trong lời lẽ mà bậc thầy đă xử dụng, chúng kỳ thực rất b́nh thường, nhưng ngoài lời lẽ, một cái ǵ khác đă được truyền thông.

Cái mà bậc thầy khai thị là bản chất nội tại của mọi sự, mà chính là ư nghĩa chân thật của Dzogchen. Vào lúc này bậc thầy đă đưa đệ tử vào trạng thái chứng ngộ qua năng lực và sự gia tŕ của sự thực chứng nơi ngài.

Nhưng các bậc thầy không giống nhau, họ có thể dùng đủ mọi phương tiện thiện xảo để tạo ra sự thay đổi tâm lư ấy nơi đệ tử. Patrul Rinpoche chẳng hạn đă được khai ngộ bằng một cách lạ lùng bởi vị thầy quái dị tên Do Khientse, mà tôi được nghe truyền tụng như sau:

Patrul Rinpoche đang tu một phép quán Yoga cao cấp và bị kẹt, không một đồ h́nh nào về chư thiên hiện ra trong tâm ông. Một hôm ông đi đến thầy đang ngồi uống trà bên đống lửa giữa trời. Ở Tây Tạng khi bạn thấy một bậc thầy mà ḿnh kính trọng th́ bạn lạy dài. Khi Patrul Rinpoche khởi sự lạy từ xa, th́ Do Khientse điểm mặt ông mà gầm lên:

- Ê con chó già kia, có giỏi th́ cứ đến đây!

Do Khientse có dáng vóc một hiệp sĩ dữ tợn với tóc xơa dài, áo quần xốc xếch, ưa cỡi ngựa. Khi Patrul Rinpoche tiếp tục lạy và tiến gần ông, ông luôn mồm chửi rủa và ném sỏi, đá càng lúc càng lớn cho đến khi Patrul tới trong tầm tay th́ ông quật ngă ngất xỉu. Khi tỉnh dậy Patrul ở trong một trạng thái tâm khác hẳn.

Những đồ h́nh lâu nay quán không được bỗng nhiên hiện rơ cho ngài. Mỗi câu chửi và nhục mạ của vị thầy đă phá tan những dư tàn trong tâm phân biệt của người đệ tử, và mỗi cục đá trúng người ông đă mở những huyệt đạo bế tắc trong cơ thể ông. Trong hai tuần kỳ diệu tiếp theo, những h́nh ảnh của đồ h́nh đă không rời ông.

Bây giờ tôi sẽ cố đưa ra một vài ư nghĩa Kiến là ǵ, nó ra sao khi đă trực ngộ bản tâm, mặc dù thực sự th́ không ngôn từ phân biệt nào mô tả được điều ấy.

Dudjom Rinpoche nói lúc đó giống như cất một cái mồng ra khỏi đầu bạn, thật là nhẹ nhơm khoáng đạt vô biên. Đây là cái Thấy tối thượng, thấy cái chưa từng thấy trước đây. Khi bạn “thấy được cái chưa từng thấy” th́ mọi sự mở ra, trải rộng, rơ ràng, đầy sức sống, lạ lùng, tươi mát.

Nó như thể là một cái mái vừa bay khỏi tâm bạn hay một bầy chim th́nh ĺnh bay ra từ một cái tổ đen tối. Mọi sự hạn cuộc trong đời đều tan biến rơi rụng, “Như xé một dấu niêm phong,” người Tây Tạng thường nói.

Tưởng tượng bạn đang ở trong một ngôi nhà trên đỉnh một ngọn núi cao nhất thế giới. Th́nh ĺnh toàn thể ngôi nhà đă ngăn bít nhăn quan của bạn bấy lâu bỗng sụp đổ, làm cho bạn thấy được mọi sự vật xung quanh trong và ngoài. Nhưng kỳ thực không có vật ǵ để thấy; những ǵ xảy ra không thể so sánh với bất cứ thường ngày; đấy là một sự “thấy” toàn vẹn, đầy đủ, chưa từng có trước kia.

Dudjom Rinpoché bảo:

- Kẻ thù nguy hiểm nhất của bạn đă trói bạn vào ṿng sinh tử từ vô lượng kiếp đến nay, chính là sự chấp thủ và cái bị chấp thủ. Khi bậc thầy khai thị và bạn nhận được, th́ hai thứ đó bị đốt sạch như lông chim trong ngọn lửa, không c̣n dấu vết.

Cả sự chấp thủ và cái bị chấp thủ, vật bị chấp thủ và con người chấp thủ được giải phóng trọn vẹn từ căn bản. Căn nguyên của vô minh đau khổ hoàn toàn khô kiệt. Và mọi sự xuất hiện như bóng trong gương, trong suốt, long lanh và như mộng huyễn.

Khi bạn tự nhiên đạt đến trạng thái thiền định ấy, khởi hứng bởi Kiến, th́ bạn có thể an trú rất lâu, không xao lăng, không cần nỗ lực. Khi ấy không có ǵ gọi là “thiền định” để bảo vệ giữ ǵn, và bạn đang ở trong trạng thái ḍng tuệ giác tự nhiên gọi là Rigpa.

Và khi ở trong đó, th́ bạn thấy nó vẫn luôn luôn như vậy rồi. Khi trí giác bản nhiên chiếu sáng, th́ không một bóng tối hoài nghi nào có thể c̣n lại, và một tri kiến sâu xa, toàn vẹn sinh khởi trực tiếp, không nỗ lực.

Bạn sẽ thấy tất cả những h́nh ảnh và ẩn dụ tôi đă dùng, tan hóa thành một kinh nghiệm bao quát về chân lư. Sự sùng kính ở trong trạng thái ấy, tâm đại bi ở trong trạng thái ấy, và tất cả tuệ giác, phúc lạc, sáng sủa, vô tưởng, tất cả ḥa nhập với nhau, liên kết với nhau thành một vị duy nhất.

Lúc ấy là lúc giác ngộ. Một năng khiếu hài hước sâu xa tuôn phát từ trong tâm, khiến bạn mỉm cười trước khái niệm tư duy trật lất của ḿnh bấy lâu về tự tánh tâm như thế nào. Từ đấy phát sinh một niềm tin không thể lay chuyển, một xác tín rằng “nó đây rồi”:

Không c̣n ǵ khác để t́m kiếm, không c̣n ǵ hơn thế để mà hy vọng. Tính chắc chắn của Kiến này là cái cần làm cho sâu xa bằng cách liên tục nh́n vào tự tánh của tâm, nó cần được an trú qua kỷ luật thiền định.



THIỀN ĐỊNH



Thế th́ thiền định trong Dzogchen nghĩa là ǵ? Đấy chỉ là an trú trong KIẾN không xao lăng, một khi đă được khai thị. Dudjom Rinpoche mô tả:

- Thiền là trú âm vào trạng thái Tâm bản lai (Rigpa), không hết thảy mọi tạo tác của tâm, trong khi hoàn toàn buông xả, không xao lăng cũng không bám víu.

V́ người xưa đă nói rằng:

- Thiền không phải là nỗ lực, mà tự nhiên thấm vào trong đó.

Toàn thể mục đích của thiền trong pháp tu Dzogchen là tăng cường và an trú trạng thái Tâm bản nhiên (Rigpa), khiến cho nó phát triển toàn vẹn. Cái tâm b́nh thường theo tập quán, đầy những dự phóng, thật là mănh liệt vô cùng. Nó cứ luôn luôn trở lại, và tóm lấy ta một cách dễ dàng khi ta không chú ư, hoặc xao lăng, Dudjom Rinpoche thường nói:

- Bây giờ tâm bản nhiên (Rigpa) của ta như một hài nhi bé bỏng bị mắc kẹt trên một băi chiến trường vọng tưởng nổi lên rất mạnh.

Tôn muốn nói rằng chúng ta khởi sự công việc “giữ em”, giữ cái Tâm bản nhiên ở trong môi trường bảo đảm của thiền định.

Nếu thiền định chỉ là tiếp tục ḍng Tâm bản nhiên sau khi đă được khai thị, th́ làm sao ta biết được lúc nào đó là Tâm bản nhiên, lúc nào không phải Tâm bản nhiên? Tôi đă hỏi Dudjom Rinpoche câu ấy, và Ngài đă trả lời với sự giản dị đặc biệt nơi Ngài:

- Nếu con ở trong tâm trạng không thay đổi, đó là Tâm bản nhiên.

Nếu chúng ta không vẽ rắn thêm chân, lèo lài cái tâm bằng bất cứ cách nào, mà an trú trong trạng thái bất biến, sự tỉnh giác thuần tịnh của nó, th́ đấy là Tâm bản nhiên. Nếu có một sự gượng ép nào, một lèo lái nào, một bám víu nào của ta, th́ đó không phải là Tâm bản nhiên.

Tâm bản nhiên là một trạng thái trong đó không c̣n một hoài nghi nào, thực sự không có cái tâm nào để hoài nghi. Bạn thấy một cách trực tiếp. Nếu bạn ở trong trạng thái ấy, th́ một niềm vui, một xác tín tự nhiên khởi lên cùng với Tâm bản nhiên, làm cho bạn biết.

Truyền thống Dzogchen là một truyền thống cực kỳ minh bạch, v́ càng đi sâu càng có thể khởi lên vọng tưởng vi tế, và cái đang cần là tri kiến về thực tại tuyệt đối. Ngay cả sau khi khai thị, vị thầy vẫn c̣n giải rơ chi tiết những trạng thái không phải là thiền Dzogchen và không được lầm lẫn.

Một trong những trạng thái đó là, bạn trôi giạt vào “một cơi đất không thuộc về đâu” trạng thái tâm trong đó không có tư tưởng, không kí ức, một trạng thái thờ ơ, đen tối, chán chường, ở đó bạn ch́m lại vào trong nền tảng của tâm phàm t́nh. Trong trạng thái thứ hai có một chút ít yên lặng và hơi sáng sủa, nhưng là một thứ yên lặng trầm trệ, vẫn c̣n vùi trong tâm phàm t́nh.

Trong một trạng thái thứ ba, bạn cảm nghiệm một sự vắng bóng tư tưởng, nhưng lại rơi vào không gian trống rỗng lạ lùng. Trong một trạng thái thứ tư, tâm bạn đi lang thang, chạy theo những tư tưởng, dự phóng. Không có trạng thái nào trong đấy là thiền định thật sự, và hành giả cần phải xem chừng một cách thiện xảo để tránh bị lừa dối bằng những cách ấy.

Tinh yếu của hành thiền Dzogchen được đề ra trong bốn điểm sau:

Khi một niệm quá khứ đă chấm dứt mà niệm vị lai chưa sanh, trong khoảng hở đó giữa hai niệm, có phải là có một ư thực tại, mới mẻ, nguyên sơ, không bị thay đổi bởi một tơ tóc khái niệm nào, thuần là một sự tỉnh giác nguyên vẹn hay không?

Đấy! Tâm bản nhiên là thế đấy!

Tuy nhiên nó không ở măi trong trạng thái như vậy, bởi v́ một niệm khác lại khởi lên, phải chăng?

Nhưng nếu bạn không nhận ra niệm ấy đúng như bản chất nó (nghĩa là khi có tâm, th́ tự nhiên có ư tưởng khởi lên. DG) ngay khi nó khởi, th́ nó sẽ trở thành một ư tưởng khác, như trước. Đây gọi là “dây chuyền vọng tưởng”, và là nguồn gốc của sinh tử.

Nếu bạn có thể nhận chân được bản chất thật sự của ư tưởng (niệm) ngay khi nó khởi lên, và cứ để yên nó đừng theo đuổi thêm, th́ bất cứ ư tưởng nào khởi lên đều tự động tan trở lại vào trong khoảng bao la của Tâm bản nhiên, và được giải thoát.

Đương nhiên, cần cả một đời tu tập mới hiểu và nhận chân được tính phong phú và vĩ đại của bốn điều giản dị mà thâm sâu này. Ở đây tôi chỉ có thể cho bạn nếm qua một chút vị của cái khoáng đạt của thiền Dzogchen là như thế nào.

Có lẽ điểm quan trọng nhất là Dzogchen trở thành một ḍng liên tục của Tâm bản nhiên, như một con sông chảy liên tục ngày đêm không gián đoạn. Dĩ nhiên đây là trạng thái lư tưởng, v́ sự an trú vào kiến một cách không xao lăng ấy, sau khi được khai thị và nhận chân – chính là phần thưởng của nhiều năm tu tập kiên tŕ.

Thiền Dzogchen rất hiệu lực trong công việc xử lư những sanh khởi của tâm và có cái nh́n độc đáo về những sanh khởi ấy. Mọi sự khởi tâm đều được thấy trong bản chất thật của chúng, nghĩa là không rời Tâm bản nhiên và không chống chọi với nó, mà kỳ thực không ǵ khác hơn – và điều này rất quan trọng – là những tia tự chiếu của Tâm bản nhiên, những biểu hiện năng lực của nó.

Giả sử bạn thấy ḿnh ở trong một trạng thái yên lặng sâu xa; thông thường trạng thái ấy không kéo dài, một ư niệm, một chuyển động luôn luôn khởi lên, như sóng trong biển. Đừng chối bỏ sự chuyển động hay đặc biệt ôm lấy sự yên tĩnh,

mà cứ tiếp tục ḍng hiện trú thuần túy ấy của tâm bạn. Trạng thái an b́nh lan khắp của thiền định ấy chính là Tâm bản nhiên, mọi sự khởi lên trong tâm không ǵ khác hơn là tâm ấy chiếu ra. Đây là trái tim, là nền tảng của pháp hành thiền Dzogchen.

Một cách để tưởng tượng điều này là, như thể bạn đang cỡi trên tia mặt trời để trở về mặt trời. Bạn theo dơi ngay những niệm khởi trở về căn nguyên của chúng, nền tảng Tâm bản nhiên. Khi bạn thể hiện sự bền vững của kiến, th́ bạn không c̣n bị đánh lừa và chia trí bởi bất cứ ǵ sanh khởi, và do đó không thể làm mồi cho vọng tưởng.

Dĩ nhiên trong biển có sóng to, sóng nhỏ; có những cảm xúc mạnh kéo đến như giận dữ, dục vọng, ganh tị. Hành giả thực thụ sẽ nhận chân những thứ này không phải quấy rầy hay chướng ngại, mà là một cơ hội lớn. Phản ứng lại những sinh khởi như thế với khuynh hướng thông thường là chấp nhận và chối bỏ chính là dấu hiệu chứng tỏ không những bạn chia trí, mà c̣n không nhận ra được, và đă mất dấu Tâm bản nhiên.

Phản ứng lại những cảm xúc bằng cách đó th́ chỉ làm cho chúng có thêm năng lực, và trói buộc chúng ta chặt chẽ hơn vào dây xích vọng tưởng. Bí quyết lớn của Dzogchen là nh́n suốt những cảm xúc khi chúng khởi lên, để thấy mặt thực của chúng là biểu hiện sống động như hiện chớp của chính năng lực Rigpa, Tâm bản nhiên.

Khi bạn tập dần cách làm này, th́ ngay cả những cảm xúc rầy rà nhất cũng không thể tóm lấy bạn, mà tan biến như sóng lớn dậy lên rồi lùi lại và ch́m vào đại dương yên tĩnh.

Hành giả khám phá và đây là một cái nh́n đảo lộn, mà sự vi tế và năng lực của nó không thể suy lường rằng không những cảm xúc mạnh không thể kéo bạn đi, lôi bạn trở lại vào ḍng nước xoáy của sự thác loạn trong bạn, mà chúng có thể thực sự hữu ích để đào sâu, làm mạnh thêm, tăng cường Rigpa, trạng thái Tâm bản nhiên.

Năng lực vũ băo trở thành nguyên liệu để nuôi dưỡng cái năng lượng đă được đánh thức của Tâm bản nhiên. Cảm xúc càng mạnh, càng bốc lửa, th́ trạng thái Tâm bản nhiên càng được tăng cường. Tôi thấy rằng phương pháp độc đáo này của Dzogchen có mănh lực ghê gớm để giải tỏa ngay cả những vấn đề tâm lư và cảm xúc đă ăn sâu, thâm căn cố đế.

Bây giờ tôi xin đưa ra cho bạn một lối giải thích giản dị về tiến tŕnh này hoạt động ra sao. Điều này sẽ vô giá về sau, khi ta xét đến những ǵ xảy ra vào lúc chết.

Trong Dzogchen, bản chất nội tại tự nhiên của mọi sự gọi là “Ánh sáng căn bản” hay “Ánh sáng Mẹ.” Nó lan khắp lĩnh vực kinh nghiệm của chúng ta, và bởi thế cũng là bản chất nội tại của những tư tưởng và cảm xúc khởi lên trong tâm ta nữa, mặc dù chúng ta không nhận ra điều đó.

Khi bậc thầy khai thị cho chúng ta bản tính chân thật của tâm, tức là trạng thái Rigpa hay Tâm bản nhiên, th́ điều ấy giống như thầy cho ta một cái ch́a khóa. Trong Dzogchen chúng ta gọi ch́a khóa ấy ẽ mở cho chúng ta đến tri kiến toàn vẹn là “Ánh sáng đạo lộ” hay “Ánh sáng con.”

Ánh sáng căn bản và ánh sáng đạo lộ thực ra chỉ là một, nhưng v́ mục đích giảng dạy mà được phân ra như thế. Nhưng một khi có được ch́a khóa Ánh Sáng Đạo Lộ nhờ sự khai thị của bậc thầy, th́ ta có thể sử dụng nó tha hồ để mở vào cánh cửa Bản tánh tự nhiên của thực tại.

Sự mở cửa này được gọi theo Dzogchen là “Gặp gỡ giữa Ánh sáng Căn bản và Ánh sáng Đạo lộ” hay “Mẹ con gặp gỡ.” Nói cách khác là, vừa khi một ư tưởng hay cảm xúc khởi lên, Ánh sáng Đạo lộ Rigpa nhận ra ngay bản chất của nó, tính nội tại của nó, là Ánh sáng Căn bản. Trong giây phút nhận ra nhau ấy, hai ánh sáng tan ḥa vào nhau, tư tưởng và cảm xúc được giải phóng ngay tại nền tảng của nó.

Điều cốt yếu là kiện toàn sự tập luyện hội nhập hai ánh sáng này và giải tỏa những móng tâm động niệm ngay khi đang sống, bởi v́, điều xảy ra vào lúc chết, với tất cả mọi người là: Ánh sáng căn bản xuất hiện trong vẻ huy hoàng rộng lớn, và mang theo nó một cơ hội để giải thoát hoàn toàn nếu, và chỉ nếu bạn đă biết làm thế nào để nhận ra nó.

Có lẽ đến đây, điều rơ ràng là sự tan ḥa hai ánh sáng và tự hóa giải mọi ư tưởng cảm xúc, chính là thiền định ở tầng sâu xa nhất của nó. Kỳ thực th́ danh từ “thiền định” quả không thích hợp với pháp hành tŕ Dzogchen, v́ thiền định bao hàm sự tư duy về một cái ǵ, mà trong Dzogchen th́ tất cả chỉ là và luôn luôn là Tâm bản nhiên Bởi thế không có vấn đề một sự thiền định tách rời với sự an trú cái hiện diện thuần túy của Tâm bản nhiên.

Danh từ duy nhất có thể diễn đạt được cái này là không-thiền. Trong trạng thái ấy, theo lời các bậc thầy, dù bạn có đi t́m vọng tưởng cũng không c̣n sót lại cái nào. Cho dù bạn muốn kiếm một ḥn sỏi b́nh thường trên một ḥn đảo vàng ngọc, th́ bạn cũng không cách nào t́m được.

Khi Kiến đă hiện diện liên tục, ḍng Tâm bản nhiên không gián đoạn, sự ḥa nhập hai Ánh sáng là tự nhiên, liên tục, th́ mọi vọng tưởng khả hữu đều được giải tỏa ngay tại gốc của nó, và toàn thể nhận thức của bạn khởi lên liên tục là Tâm bản nhiên.

Những bậc thầy nhấn mạnh rằng muốn ổn định Kiến trong thiền định, cốt yếu trước hết là hoàn tất sự luyện tập này trong một khung cảnh đặc biệt của nhập thất, ở đấy mọi điều kiện thuận lợi đều sẵn có. C̣n ở giữa sự tán loạn rộn ràng của thế gian, th́ dù bạn có thiền bao nhiêu, kinh nghiệm thực thụ cũng không phát sinh được trong tâm bạn.

Thứ hai, mặc dù trong Dzogchen không có sự khác biệt giữa thiền và đời sống thường nhật, song khi bạn chưa có được sự an trú thực vững vàng nhờ thiền tập vào những thời khóa hẳn hoi, th́ bạn không thể nào hội nhập tuệ giác của thiền định vào kinh nghiệm hàng ngày.

Thứ ba, ngay cả khi bạn thực hành, bạn có thể an trú ḍng tương tục Tâm bản nhiên với niềm tin của Kiến; nhưng nếu bạn không thể tiếp tục ḍng ấy vào mọi lúc và mọi t́nh huống, ḥa lẫn sự tu tập với đời sống hàng ngày của bạn, th́ nó sẽ không làm phương thuốc cứu bạn được, mỗi khi hoàn cảnh khó chịu khởi lên, và bạn sẽ bị ư tưởng, cảm xúc dẫn cho lạc vào mê vọng.

Có câu chuyện thú vị về một hành giả Dzogchen sống không khoe khoang, nhưng lại có một đám đông đồ đệ. Có một thầy tu rất kiêu hănh về học vấn đa văn của ḿnh, đâm ra ganh tị với hành giả mà ông ta biết là không đọc sách nhiều. Ông ta nghĩ:

- Sao một người tầm thường như thế dám dạy đệ tử? Sao y dám tự xưng thầy? Ta sẽ đến thử tri kiến của y, cho lộ cái sự giả dối của y, và làm nhục y trước mặt đệ tử, để bọn này bỏ y mà theo ta.

Bởi vậy y đến viếng vị hành giả, và hỏi với vẻ khinh miệt:

- Này đồng bạn Dzogchen, có phải ông chỉ có thiền mà thôi không?

Vị hành giả trả lời một câu hoàn toàn bất ngờ:

- Có ǵ để thiền?

Vị học giả nói một cách đắc thắng.

- Thế th́ ông không thiền định ǵ cả sao?

Vị hành giả đáp.

- Nhưng có bao giờ tôi tán loạn đâu?



HÀNH



Khi sự an trú trong Tâm bản nhiên trở nên một thực tại, th́ nó bắt đầu thấm nhuần sự sống và hành động hàng ngày của hành giả, nuôi dưỡng một sự ổn định và niềm tin sâu xa. Dudjom Rinpoché nói:

- Hành có nghĩa là thật sự ngắm nh́n những ư tưởng của chính bạn, xấu hay tốt, nh́n suốt bản chất thực sự của bất cứ ư tưởng nào có thể khởi lên, không truy tầm quá khứ cũng không mời gọi tương lai, không để cho tâm bám víu vào một kinh nghiệm hạnh phúc, cũng không để nó tràn ngập bởi những t́nh cảnh đau buồn.

Khi làm như vậy, bạn cố đạt đến và an trú trong đại xả, trong đó mọi sự tốt xấu, an nguy đều không có lai lịch ǵ chân thực.

Sự trực ngộ Kiến một cách tinh vi toàn triệt, sẽ thay đổi cái nh́n của bạn đối với sự vật. Càng ngày tôi càng nhận rơ rằng chính ư tưởng và khái niệm đă ngăn cản không để cho chúng ta luôn an trú trong tuyệt đối. Bây giờ tôi mới hiểu v́ sao thầy tôi thường dạy: “Hăy cố gắng đừng tạo ra quá nhiều hy vọng hay lo sợ”, v́ chúng chỉ tổ gây thêm sự bám víu trong tâm.

Khi Kiến có mặt, th́ những ư tưởng được nh́n thấy đúng như bản chất chúng, đó là phù du, trong suốt, và chỉ có tính cách tương đối. Bạn thấy suốt mọi sự một cách trực tiếp, như thể là bạn có con mắt X-quang. Bạn không bám víu cũng không xua đuổi những ư tưởng cảm xúc, mà chào đón tất cả chúng trong ṿng ôm lớn rộng của Tâm bản nhiên.

Những ǵ mà trước đây bạn coi là rất quan trọng những tham vọng, kế hoạch, mong đợi, hoài nghi, đam mê không c̣n khống chế bạn một cách sâu xa nữa, v́ chánh kiến đă giúp bạn thấy được cái trống rỗng, phi lư của tất cả chúng nó, nhờ vậy phát sinh trong bạn một tinh thần từ bỏ thật sự.

An trú trong niềm tin và ánh sáng của Tâm bản nhiên làm cho những ư tưởng cảm xúc của bạn được giải tỏa một cách tự nhiên không cần nỗ lực, vào trong không gian rộng lớn của Tự Tính tâm, giống như là viết chữ trên nước hay vẽ trên nền trời.

Nếu bạn thật sự tu tập như thế đến chỗ toàn vẹn, th́ nghiệp không c̣n cơ hội để tích lũy, và trong trạng thái buông xả hoàn toàn ấy, định luật nhân quả trong ṿng nghiệp báo không c̣n cách nào trói buộc bạn.

Đừng tưởng điều ấy dễ. Thật vô cùng gay go để an trú không xao lăng trong Tự tánh của tâm, dù chỉ trong chốc lát, chứ đừng nói đến giải tỏa một ư niệm hay cảm xúc ngay khi nó sinh khởi. Chúng ta thường cho rằng chỉ v́ ḿnh hiểu được một điều ǵ trên phương diện tri thức, hoặc tưởng ḿnh đă hiểu, mà việc ấy có nghĩa rằng ḿnh đă thật sự đạt ngộ.

Đấy là một ảo tưởng lớn lao. Cần phải có sự chín mùi, thuần thục của sự tu tập, qua nhiều năm học lắng nghe, tư duy, quán tưởng, thiền định và thực hành kiên tŕ. Và nhất là sự thực hành Dzogchen luôn luôn cần sự hướng dẫn và khai đạo của một bậc thầy đủ tư cách.

Nếu không, th́ sẽ có một mối nguy mà truyền thống này gọi là “Kiến nuốt mất Hành.” Một giáo lư cao siêu mănh liệt như Dzogchen kéo theo một nguy cơ trầm trọng. Khi tự lừa dối ḿnh tưởng ḿnh đă giải thoát hết tư tưởng cảm xúc.

Mà kỳ thực tuyệt nhiên bạn chưa có khả năng làm chuyện ấy; hoặc tưởng ḿnh đang hành động một cách tự nhiên như thiền sư Dzogchen thực thụ th́ bạn chỉ có đang kết nạp, tích lũy vô số ác nghiệp. Như Padmasambhava nói, và điều này tất cả chúng ta đều nên có, là:

- Mặc dù Kiến ta bao la như bầu trời.

Mà hành động và niềm tôn kính đối với nhân quả nơi ta nhỏ nhiệm, vi tế như hạt bụi.

Những bậc thầy trong truyền thống Dzogchen vẫn thường nhấn mạnh rằng, nếu không hoàn toàn quen thuộc một cách sâu xa với “tinh yếu và phương pháp tự giải thoát” nhờ thực tập lâu dài, th́ thiền “chỉ có đi sâu thêm vào con đường hư vọng.”

Điều này có vẻ gay cấn, nhưng thực sự là thế, bởi v́ chỉ có nhờ liên tục tự giải tỏa tư tưởng mới thực sự chấm dứt được sự thống trị của hư vọng và che chở bạn khỏi ngụp lặn trong đau khổ và loạn thần kinh. Nếu không có phương pháp tự giải tỏa, th́ bạn sẽ không thể nào chống chọi những bất hạnh và hoàn cảnh xấu mỗi khi gặp phải; và dù có thiền định, bạn vẫn bị những cảm xúc mạnh như giận dữ, ham muốn hoành hành.

Mối nguy hiểm của những loại thiền khác không theo phương pháp này là, chúng trở thành giống như “thiền định của chư thiên,” dễ dàng lạc vào trạng thái đăm chiêu trịnh trọng, hoặc xuất thần thụ động, hoặc trống rỗng “ngoan không”, không thứ nào trong đây tấn công và đánh tan vọng tưởng tận gốc rễ.

Bậc thầy Dzogchen vĩ đại, Vimalamitra nói về những cấp độ của tính tự nhiên trong sự giải thoát này một cách minh bạch nhất: Lúc mới làm chủ được công phu này, sự giải thoát xảy ra đồng thời với sự sanh khởi, giống như nhận ra người quen trong đám đông.

Khi thuần thục đi sâu vào công phu, th́ giải thoát xảy ra đồng thời với sự khởi lên những ư tưởng và cảm xúc, như một con rắn mở ra những khoanh cuộn tṛn của nó. Và trong trạng thái cuối cùng của sự làm chủ pháp môn này, th́ giải thoát ví như một kẻ trộm đi vào ngôi nhà trống, dù cái ǵ khởi lên cũng không có hại hay có lợi ǵ cho một hành giả thực thụ.

Ngay cả trong một hành giả Dzogchen cao cấp nhất, nỗi buồn niềm vui, hy vọng sợ hăi vẫn c̣n nổi lên như trước. Cái khác nhau giữa một người thường với một hành giả là cái cách họ nh́n những cảm xúc của họ và phản ứng đối với những cảm xúc đó.

Một người thường sẽ theo bản năng mà chấp nhận hay chối bỏ ngay những cảm xúc, và thế là khởi dậy ràng buộc hoặc chán ghét, kết quả là tích lũy thêm ác nghiệp. Nhưng một hành giả Dzogchen th́ nhận ra mọi sự khởi lên trong trạng thái trong sáng tự nhiên của nó, không để cho sự chấp thủ khởi lên trong nhận thức của ḿnh.

Dilgo Khientse Rinpoche mô tả một hành giả lang thang qua một khu vườn. Ông hoàn toàn tỉnh giác trước vẻ đẹp huy hoàng của những đóa hoa, thưởng thức màu sắc, h́nh dáng, mùi hương của chúng. Nhưng không có dấu vết nào của sự bám víu ở nơi ông, hay bất cứ một “hậu ư” nào trong tâm. Như Dudjom Rinpoche nói:

- Bất cứ nhận thức ǵ khởi lên, bạn hăy nên làm như một đứa trẻ đi vào một ngôi chùa trang hoàng lộng lẫy. Nó nh́n mà sự bám víu tuyệt nhiên không đi vào nhận thức của nó. Cứ thế, bạn để mọi sự vật ở nguyên trong trạng thái mới mẻ, tự nhiên, sống động, vô nhiễm của nó.

Khi bạn để mọi sự ở nguyên trạng thái nó, th́ h́nh dáng nó không thay đổi, màu sắc của nó không phai nhạt, vẻ sáng sủa của nó không biến mất. Bất cứ ǵ xảy đến không bị ô nhiễm bởi chấp thủ nào, bởi thế tất cả ǵ bạn thấy đều khởi lên như là tuệ giác trần trụi của (Rigpa) Tâm bản nhiên, và vốn là sự bất khả phân của ánh sáng và hư không.

Sự hài ḥa, tin tưởng, sự trong sáng khoáng đạt, sức mạnh và tính hài hước sâu xa, niềm xác tín khởi lên do sự trực nhận chánh kiến về Tâm bản nhiên, là kho tàng vĩ đại nhất của cuộc đời, là hạnh phúc tối thượng, mà một khi đă đạt đến, th́ không ǵ có thể phá hủy, ngay cả cái chết. Didgo Rinpoche nói:

- Một khi bạn đă có chánh kiến, th́ dù cho những nhận thức lừa dối của sinh tử vẫn c̣n khởi lên trong tâm, bạn vẫn như bầu trời: khi một cầu vồng xuất hiện trước mặt, nó cũng không lấy làm hănh diện, mà khi mây mù xuất hiện, nó cũng không lấy làm buồn bực.

Có một cảm giác sâu xa về sự hài ḷng. Bên trong bạn cười thầm khi thấy mặt tiền của niết bàn và sinh tử. Chánh kiến làm cho bạn luôn luôn vui vẻ, một nụ cười hàm tiếu luôn nở trong tâm.

Dudjom Rinpoche nói:

- Khi đă thanh lọc ảo tưởng lớn, bóng đen của tâm thức, th́ tia sáng của mặt trời không bị ngăn bít cứ liên tục chiếu ra.

Người nào để trong tâm, sự chỉ dạy trong quyển sách này về Dzogchen và thông điệp của nó về sự chết, th́ sẽ được gợi cảm hứng để đi t́m, t́m được và đi theo một bậc thầy có tư cách, và khởi sự dấn ḿnh vào công phu tu tập. Trọng tâm của công phu Dzogchen là hai việc luyện tập Trekcho và Togal, tối cần cho sự thấu hiểu sâu xa về những ǵ xảy ra trong các giai đoạn trung gian (Bardo).

Ở đây tôi chỉ có thể cho một dẫn nhập sơ lược nhất về hai pháp ấy. Sự giải thích toàn vẹn chỉ được làm bởi một bậc thầy đối với môn đệ, khi người đệ tử đă hoàn toàn nhiệt tâm theo giáo lư, và đă đến một giai đoạn tu tập nào đó. Điều tôi đă giải thích trong chương này. “Tinh yếu sâu xa,” chính là trái tim của sự thực hành Trekcho.

Trekcho có nghĩa là cắt ngang vọng tưởng một cách trực tiếp, mạnh mẽ và toàn triệt. Vọng tưởng được cắt đứt cốt yếu là nhờ năng lực của Kiến về tâm bản nhiên, như một con dao cắt xuyên qua một thỏi bơ hay một lực sĩ Karate chặt một chồng gạch.

Toàn thể lâu đài vọng tưởng sụp đổ như thể nền móng của nó bị giựt sập. Vọng tưởng bị cắt đứt và sự trong sáng nguyên thủy, tính giản dị tự nhiên của Tâm bản nhiên được hiển bày.

Chỉ khi bậc thầy xác định bạn đă có căn bản trong sự thực hành Trekcho th́ vị ấy mới khai thị cho bạn pháp tu nâng cấp gọi là Togal. Hành giả Togal làm việc trực tiếp với Điểm Linh Quang nội tại, “hiện trú một cách tự nhiên,” trong mọi hiện tượng; dùng những công phu đặc biệt và rất hiệu lực để làm hiển lộ nó ở ngay trong tâm hành giả.

Togal có đặc tính là sự trực ngộ tức khắc đồng thời. Thay v́ phải băng qua một dăy núi để đạt đến chóp đỉnh của một ngọn núi đằng xa, phương pháp Togal sẽ là nhảy một cái tới ngay đích. Hiệu quả của Togal là giúp cho người ta thực hiện mọi khía cạnh khác nhau của Tuệ Giác nội tâm ngay trong một đời này.

Bởi vậy nó được xem như phương pháp độc đáo phi thường của Dzogchen. Nếu Trekcho là trí tuệ của Dzogchen, th́ Togal chính là phương tiện thiện xảo của nó. Pháp môn này cần một kỉ luật lớn lao, và thông thường được luyện tập trong môi trường nhập thất.

Tuy nhiên cần nhấn mạnh lần nữa rằng con đường Dzogchen chỉ có thể được theo dưới sự hướng dẫn trực tiếp của mộc bậc thầy đủ tư cách. Đức Dalai Lama đă nói:

- Một điều bạn cần nhớ kỹ, là sự thực hành những pháp môn thuộc thiền đốn ngộ như Trekcho và Togal, chỉ có thể được hoàn tất dưới sự chỉ dẫn của một bậc thầy có kinh nghiệm, và nhờ nhận được cảm hứng và ban phước của một người đă chứng ngộ pháp môn này.



THÂN THỂ CẦU VỒNG



Qua những công phu cao cấp về Dzogchen này, những hành giả đă hoàn tất sự tu tập có thể đưa cuộc đời họ đến một kết thúc phi thường và vinh quang.

Khi chết, họ có thể làm cho cơ thể ḿnh tan ḥa trở lại trong tinh chất ánh sáng của tứ đại đă tạo ra nó, và kết quả là cơ thể vật chất họ tan thành ánh sáng và biến mất hoàn toàn.

Tiến tŕnh này gọi là “thân thể cầu vồng” hay “thân thể ánh sáng,” v́ sự tan ră cơ thể thường xảy ra đồng thời với sự xuất hiện tự nhiên của ánh sáng và cầu vồng.

Những mật điểm Dzogchen xưa cổ và trước tác của các bậc thầy vĩ đại phân biệt rơ ràng các loại khác nhau của hiện tượng lạ lùng này, v́ đă có một thời việc ấy xảy ra nếu không phải b́nh thường th́ cũng khá thường xuyên. Thông thường một người khi biết thân ḿnh sắp thành ánh sáng cầu vồng, sẽ yêu cầu được đặt thi thể trong một cái pḥng hay lều, đừng động tới trong bảy ngày.

Vào ngày thứ tám người ta chỉ thấy tóc và móng là bất tịnh duy nhất của cơ thể c̣n để lại. Điều này có thể khó tin đối với chúng ta ngày nay, nhưng lịch sử truyền thừa của Dzogchen đầy những trường hợp cá nhân đă chứng được thân cầu vồng, và Dudjom Rinpoche thường nói đây không phải chỉ là chuyện lịch sử quá khứ.

Trong số nhiều trường hợp, tôi xin đơn cử một trường hợp gần đây nhất mà tôi có liên hệ mật thiết. Vào năm 1952 ở miền đông Tây Tạng, có một vụ nổi tiếng về thân thể biến thành ánh cầu vồng được nhiều người chứng kiến. Người đạt được chuyện ấy là Sonam Namgyal, thân phụ của thầy tôi và là anh của Lama Tseten, người có cái chết tôi đă mô tả ở đầu sách này.

Ông là một con người b́nh dị khiêm cung, làm nghề đẻo đá dạo, khắc những câu thần chú và kinh lên đá. Một vài người nói hồi c̣n trẻ ông đă từng làm thợ săn, và đă thụ giáo với một bậc thầy vĩ đại. Không ai biết sự thật ông là một hành giả, ông quả là một vị tu mật hạnh.

Một thời gian trước khi chết, người ta trông thấy ông lên trên một đỉnh núi và cứ ngồi im ĺm giữa nền trời, mắt nh́n vào không trung. Ông tự đặt ra những bài thánh ca để tụng đọc thay v́ đọc những bài cổ truyền. Không ai biết ông đang làm ǵ.

Rồi ông ngă bệnh hay dường như thế, nhưng lạ thay ông càng có vẻ sung sướng hơn. Khi bệnh t́nh trở nặng, gia đ́nh ông thỉnh các bậc thầy và mời bác sĩ. Con trai ông dặn ông nên nhớ lại tất cả những giáo lư mà ông đă được nghe. Ông chỉ mỉm cười bảo:

- Ta đă quên tuốt luốt rồi. Vả lại chẳng có ǵ để mà nhớ. Mọi sự đều huyễn ảo, nhưng ta tin tất cả đều tốt đẹp.

Ngay trước khi chết, vào năm ông 79 tuổi, ông nói:

- Tôi chỉ yêu cầu một chuyện là khi tôi chết, hăy để thi hài tôi yên ổn đừng động chạm trong một tuần lễ.

Khi ông chết, gia đ́nh quàng thây ông và thỉnh các vị tu sĩ, lạt ma đến hành lễ cho ông. Họ đặt thi thể ông vào một pḥng nhỏ trong nhà, và họ không thể không để ư rằng mặc dù b́nh thường ông cao lớn, lúc bấy giờ họ đưa ông vào đó rất dễ dàng, như thế là người ông thu nhỏ lại.

Đồng thời có ánh sáng cầu vồng tỏa khắp xung quanh nhà. Vào ngày thứ sáu, khi nh́n vào căn pḥng, người ta thấy thi thể ông càng rút lại thêm nữa. Ngày thứ tám sau khi ông chết, buổi sáng vào giờ làm tang lễ, những người phu đến để nhặt xác ông. Khi mở những vải liệm ra, họ không thấy ǵ ngoài ra là tóc và móng của người đă chết.

Thầy tôi Jamyang Khyentse bảo đem những di vật này đến cho ngài xem, và ngài đă xác nhận đấy là một trường hợp của thân thể biến thành ánh sáng cầu vồng.






Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 432 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 9:34pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TẠNG THƯ SỐNG CHẾT


CHƯƠNG HAI: CHẾT


11. LỜI KHUYÊN TÂM HUYẾT VỀ VIỆC GIÚP ĐỠ NGƯỜI SẮP CHẾT


Trong một Tiếp dẫn đường mà tôi biết, Emily, một bà tuổi gần bảy mươi đang chết với bệnh ung thư vú. Con gái bà đến thăm hàng ngày, và dường như có một liên hệ hạnh phúc giữa hai mẹ con. Nhưng khi con gái bà bỏ về, th́ Emily gần như luôn luôn ngồi một ḿnh mà khóc.

Sau một thời gian, hóa ra lư do bà khóc là v́ con gái bà hoàn toàn không chịu chấp nhận cái điều không thể tránh là bà sẽ chết, mà suốt buổi cứ khuyên mẹ hăy “có tư tưởng tích cực”, hy vọng rằng nhờ vậy bệnh ung thư của bà có thể chữa khỏi.

Sự t́nh bấy giờ là Emiy phải ôm những ư tưởng, những nỗi sợ hăi, kinh hoàng và buồn đau một ḿnh ḿnh biết, không có ai để san sẻ, không ai phụ giúp bà thám hiểm những t́nh huống ấy, không ai giúp bà thấu hiểu cuộc đời bà, và không ai giúp bà t́m một ư nghĩa tích cực ở trong cái chết.

Điều quan trọng nhất trong đời là thiết lập một tương giao thật t́nh vô úy với những người khác, và càng quan trọng hơn, với một người sắp chết - như trường hợp Emily đă chứng tỏ cho tôi thấy. Thường người sắp chết cảm thấy dè dặt bất an, và không biết chắc ư định của bạn lúc bạn đến thăm lần đầu.

Bởi vậy đừng tưởng sẽ có chuyện ǵ kỳ diệu xảy ra, hăy tự nhiên thoải mái. Người sắp chết thường không nói họ muốn ǵ, nghĩ ǵ, nên người gần họ không biết nói ǵ hay làm ǵ cho họ. Thật khó mà biết họ đang cố nói cái ǵ, hay họ có thể đang che dấu điều ǵ. Đôi khi ngay cả họ cũng không biết.

Bởi thế, điều cốt yếu trước tiên là buông xả bất cứ một căng thẳng nào trong bầu không khí, bằng cách nào dễ nhất và tự nhiên nhất.

Một khi miềm tin cậy đă được thiết lập, không khí bớt căng, th́ sẽ làm cho người sắp chết bắt đầu đề cập những ǵ họ thật t́nh muốn nói : hăy ân cần khuyến khích để họ cảm thấy thoải mái mà nói ra những ư nghĩ, lo sợ và cảm xúc của họ về cái chết sắp đến.

Sự nói trắng ra những cảm xúc ấy một cách chân thành là điều cốt tủy để có được một cuộc đổi thay, giảng ḥa với cuộc đời và chết một cái chết tốt đẹp. Bạn cần phải để người sắp chết hoàn toàn tự do bày tỏ, cũng như cho bạn đủ cả gan để nói ra những điều mà người sắp chết đang cần.

Khi người sắp chết cuối cùng chịu nói ra những cảm nghĩ riêng tư của họ th́ đừng ngắt lời, từ chối hay giảm nhẹ những ǵ họ nói. Người hấp hối hay bệnh nặng sắp chết là đang ở một giai đoạn dễ bị thương tổn nhất trong đời họ, nên bạn phải vận dụng tất cả khéo léo và t́nh cảm, sự cảm thông, từ mẫn của bạn để giúp họ thổ lộ tâm can.

Hăy học lắng nghe, học im lặng thu vào, một sự im lặng cởi mở, trầm tĩnh, làm cho người sắp chết cảm thấy được chấp nhận. Hăy hết sức thoải mái tự nhiên, ngồi đó với người sắp chết xem như là bạn không có việc ǵ quan trọng hơn, vui hơn thế để mà làm.

Tôi đă nhận thấy rằng trong việc chết chóc cũng như trong tất cả mọi t́nh huống trầm trọng của cuộc đời, có hai điều hữu ích nhất : thái độ thực tiễn và óc hài hước. Óc hài hước có một đường lối kỳ diệu để giảm bớt không khí căng thẳng, giúp đặt tiến tŕnh chết vào đúng viễn ảnh phổ quát của nó, đánh tan tính cách nghiêm trọng quá mức của t́nh huống.

Vậy bạn hăy xử dụng óc hài hước càng nhẹ nhàng khéo léo càng tốt. Tôi cũng thấy rằng, theo kinh nghiệm riêng tôi, điều cần yếu là không nên xem cái ǵ quá riêng tư. Người sắp chết, vào một lúc bất ngờ, có thể biến bạn thành mục tiêu cho tất cả sự giận dữ hay trách móc của họ. Elisabeth Kubler-Ross nói rằng: sự giận dữ, trách móc có thể “trút lên mọi phía, nhằm vào hoàn cảnh xung quanh, vào những lúc hoàn toàn bất ngờ” .

Đừng tưởng tượng sự giận dữ ấy thật sự nhắm vào bạn ; nhận chân được nó tuôn phát từ sự lo sợ đau buồn như thế nào, sẽ làm cho bạn khỏi phản ứng bằng những cách có thể làm hỏng mối liên hệ giữa bạn với người sắp chết.

Đôi khi bạn có thể muốn giảng đạo cho người sắp chết nghe, hoặc cho họ công thức tu tập của riêng bạn, xin hăy tuyệt đối tránh làm chuyện ấy, nhất là khi bạn không biết người sắp chết có muốn vậy không! Không ai muốn được “cứu rỗi” với niềm tin của một người khác.

Hăy nhớ công việc của bạn không phải là hoán cải một người nào theo một đường (đạo) nào, mà là giúp cho người trước mắt liên lạc được với năng lực của chính họ, niềm tin, tinh thần hay bất cứ ǵ khác ở trong họ. Dĩ nhiên nếu người sắp chết thực sự muốn nghe những vấn đề tâm linh, và thực sự muốn biết bạn nghĩ ǵ về họ, th́ cũng không nên quá dè dặt.

Đừng quá trông mong rằng sự giúp đỡ của bạn phát sinh những kết quả mầu nhiệm nơi người sắp chết hay “cứu rỗi” họ. Bạn chỉ thất vọng mà thôi. Người ta sẽ chết như khi họ đă sống, họ vẫn nguyên vẹn là họ.

Muốn thiết lập được tương giao thực sự, bạn phải làm một nỗ lực quyết định là sẽ nh́n người ấy theo cuộc đời họ, bối cảnh họ, lịch sử họ, chấp nhận con người của họ không chút dè dặt. Cũng đừng buồn nếu sự giúp đỡ của bạn dường như đem lại rất ít hiệu quả và người sắp chết không đáp ứng. Chúng ta không thể biết được những hiệu quả sâu xa mà sự săn sóc của chúng ta đem lại.


Chứng tỏ t́nh yêu vô điều kiện


Người sắp chết cần nhất là ta bày tỏ với họ một t́nh yêu hoàn toàn vô điều kiện, không mong đợi bất cứ ǵ. Đừng nghĩ bạn phải là một người chuyên môn trong trong bất cứ kiểu nào. Hăy tự nhiên, hăy chính là bạn, là một người bạn chân t́nh, th́ người sắp chết sẽ an tâm rằng bạn thật sự ở với họ, cảm thông với họ như một con người đối với một con người.

Tôi đă nói “Tỏ cho người sắp chết một t́nh yêu vô điều kiện”, nhưng ở vài trường hợp điều ấy hoàn toàn không dễ. Chúng ta có thể có một lịch sử dài đau khổ với người ấy, có thể cảm thấy tội lỗi về những ǵ ḿnh làm đối với họ trong quá khứ, hoặc cảm thấy ân hận về những ǵ họ đă làm cho ta.

Bởi thế, tôi xin đề nghị hai đường lối đơn giản để bạn có thể bung ra t́nh yêu trong bạn đối với người sắp chết. Tôi và các bạn tôi khi làm việc với những người sắp chết đă nhận thấy hai phương pháp này rất hiệu nghiệm :

Thứ nhất, hăy nh́n người sắp chết trước mắt bạn và nghĩ họ cũng như ta, cũng có những nhu cầu giống ta, muốn được hạnh phúc, muốn tránh đau khổ, họ cũng có nỗi cô đơn như ta, nỗi sợ đối với cái chưa biết, cũng có những lănh vực buồn khổ âm thầm, cũng có những cảm giác bơ vơ mà họ chỉ mơ hồ nh́n nhận. Nếu bạn nghĩ thế, tim bạn sẽ mở ra về phía người ấy, và t́nh yêu sẽ hiện diện giữa bạn và người sắp chết.

Phương pháp thứ hai c̣n hiệu lực hơn, là đặt bạn vào địa vị người sắp chết. Tưởng tượng bạn đang nằm trên giường trước mắt bạn, đang đối diện cái chết. Tưởng tượng bạn đang ở đấy, đau đớn và cô độc - rồi thực sự tự hỏi ḿnh : Ta sẽ cần ǵ nhất ? Ta sẽ thích ǵ nhất ? Ta sẽ thực sự mong muốn ǵ từ nơi người bạn trước mặt ta ?

Nếu bạn làm hai thực tập này, tôi nghĩ bạn sẽ t́m ra rằng, cái mà người sắp chết cần nhất là cái mà chính bạn cần nhất : được yêu thương, được chấp nhận.

Tôi cũng thường thấy rằng những người ốm nặng khao khát được sờ, được xem như người sống, chứ không phải chỉ là những chứng bệnh. Một niềm an ủi lớn lao có thể đến với người bệnh nặng nếu ta chỉ cầm tay họ, nh́n vào mắt họ, nhẹ nhàng chà xát họ hay ôm họ trong ṿng tay, hay cùng thở với họ một nhịp thở nhẹ nhàng.

Thân thể cũng có ngôn ngữ yêu thương của riêng nó, hăy xử dụng nó đừng sợ hăi, bạn sẽ thấy bạn đem lại cho người sắp chết niềm an ủi và thoải mái.

Thường chúng ta quên rằng người sắp chết đang mất cả thế giới của họ : nhà cửa, công việc, bạn bè, thân thể và tâm trí ; họ đang mất tất cả mọi thứ. Tất cả những mất mát mà ta có thể kinh quá trong đời hợp lại thành một sự mất mát tràn trề khi ta chết, hỏi làm sao một người sắp chết không ba hồi sợ, ba hồi giận dữ, ba hồi buồn?

Elizabeth Kubler-Ross kể năm giai đoạn trong tiến tŕnh giảng ḥa với cái chết : chối bỏ, giận dữ, mặc cả, xuống tinh thần, và chấp nhận. Dĩ nhiên không phải ai cũng qua cả năm giai đoạn ấy, hoặc luôn luôn theo thứ tự ấy. Với vài người, con đường đi đến chấp nhận cái chết có thể rất dài và đầy chông gai ; có những người hoàn toàn không đạt đến giai đoạn chấp nhận.

Nền văn hóa chúng ta (Tây phương) không giúp cho con người có cái tầm nh́n xa về tư tưởng, cảm xúc, và kinh nghiệm của chính ḿnh, khiến nhiều người khi đối mặt cái chết và thử thách cuối cùng này tự thấy ḿnh bị lừa bịp bởi chính sự ngu si của ḿnh, lấy làm vô cùng bất măn, giận dữ, nhất là khi không có ai muốn hiểu họ và những nhu cầu tha thiết nhất của họ (khi sắp chết).

Ciceley Saunders, tiên phong của phong trào Tiếp dẫn đường ở Anh quốc, viết: “Một lần tôi hỏi một người sắp chết rằng họ cần ǵ hơn hết nơi những người săn sóc họ. Ông ta bảo, tôi cần một người có vẻ cố gắng để hiểu tôi”.

Quả thực không thể nào hoàn toàn hiểu được một người khác, nhưng tôi không bao giờ quên rằng ông ta không đ̣i hỏi sự thành công, mà chỉ mong có một người nào quan tâm đến sự cố gắng t́m hiểu.

Chỉ cốt chúng ta đủ quan tâm để cố gắng hiểu người sắp chết, và trấn an họ rằng dù họ cảm thấy ǵ đi nữa, dù họ có bất măn, giận dữ cũng là chuyện thường. Sự chết sẽ đem lại nhiều cảm xúc bị ức chế: sự buồn rầu, sự trơ ĺ hay mặc cảm tội lỗi, hay cả đến sự ganh tị với người c̣n mạnh khỏe. Hăy giúp người sắp chết đừng đè nén những cảm xúc ấy khi chúng khởi lên.

Hăy ở lại với họ khi những cơn sóng đau đớn buồn khổ đang lên, cùng với sự chấp nhận, thời gian và kiên nhẫn, thông cảm, những cảm xúc ấy từ từ lắng xuống và trả lại cho người sắp chết nền tảng an b́nh, tĩnh lặng và sự sáng suốt mà tự thẳm sâu vốn thực là của họ.

Đừng cố làm bộ quá minh triết, đừng luôn luôn cố t́m lời ǵ cho sâu sắc. Bạn không cần phải làm hay nói một điều ǵ để làm cho sự thể trở nên tốt hơn. Chỉ cần hiện diện ở đấy một cách trọn vẹn càng tốt. Nếu bạn cảm thấy lo ngại, sợ hăi không biết phải làm ǵ, th́ hăy thẳng thắn nói ra như vậy, và xin người sắp chết giúp đỡ bạn, để bạn biết phải làm ǵ.

Sự chân thành này sẽ đem bạn và người sắp chết lại gần nhau hơn, mở ra một sự truyền thông thoải mái hơn. Đôi khi người sắp chết biết hơn chúng ta nhiều, cách thế nào để giúp đỡ họ, và chúng ta cần phải biết làm sao để rút từ trí tuệ của họ, và để họ cho ta biết những ǵ họ biết. Cicely Saunders đă bảo chúng ta phải tự nhắc ḿnh rằng, khi ở cạnh người sắp chết chúng ta không chỉ là người “cho” mà thôi.

“Sớm hay muộn, ai làm việc với người sắp chết cũng biết ḿnh “nhận” được nhiều hơn “cho”, v́ ta học được sự kiên nhẫn, can đảm và thông thường, óc hài hước. Chúng tôi cần phải nói thế...”. Thường ta có thể làm cho người sắp chết lên tinh thần khi ta công nhận sự can đảm của họ.

Tôi cũng nhận ra rằng tôi đă được người sắp chết giúp cho tôi nhớ một điều : con người trước mặt tôi, người đang chết ấy, ở đâu đó, vẫn là một người tốt, dù họ có nổi giận, gây kinh hoàng trong chốc lát, nhưng nếu chúng ta tập trung vào thiện tính ấy nơi họ, ta sẽ tự chế và có được lối nh́n cần thiết để trở nên càng hữu ích cho họ càng tốt.

Cũng như khi bạn gây gổ với một người bạn thân, bạn không quên những tính tốt nhất của người ấy. Hăy làm như vậy với người sắp chết.

Đừng phê phán họ, dù họ có nổi lên những cảm xúc như thế nào. Sự chấp nhận của bạn sẽ làm cho người chết có được niềm thoải mái tự nhiên mà họ đang cần. Đối xử với họ như thể một đôi khi họ cũng có tính ấy : cởi mở, thương yêu, độ lượng.

Ở một b́nh diện tâm linh sâu xa hơn, tôi nhận thấy một điều vô cùng lợi ích là nhớ người sắp chết có Phật tính, dù họ có nhận ra hay không, và tiềm năng đạt giác ngộ. Khi người ấy tiến gần hơn đến cái chết, th́ khả năng ấy lại càng lớn hơn về nhiều phương diện. Vậy họ đáng được nhiều săn sóc và kính trọng hơn.


Nói thật


Người ta thường hỏi tôi : “Có nên cho người bện biết họ sắp chết không ?”. Và tôi luôn trả lời : “Có, và càng lặng lẽ, tử tế, nhạy cảm, càng khéo léo càng tốt”. Nhiều năm thăm viếng người ốm và người hấp hối khiến tôi đồng ư với Elizabeth Ross rằng:

“Phần đông, nếu không nói là tất cả người chết đều biết họ sắp chết. Họ cảm thấy điều đó qua sự thay đổi nơi lối chăm sóc, qua thái độ đổi khác của người ta đối với ḿnh, qua sự hạ giọng hay tránh làm ồn, qua gương mặt đẫm lệ hay vẻ nghiêm trọng của một người bà con không giấu được cảm xúc”.

Tôi vẫn thấy người ta thường biết theo bản năng rằng họ sắp chết, nhưng phải nhờ người khác bác sĩ hay người thân xác nhận điều này. Nếu họ không xác nhận, th́ người sắp chết có thể nghĩ rằng v́ người thân của họ không thể chịu nổi cái tin ấy. Và rồi người sắp chết cũng không đề cập vấn đề làm ǵ nữa.

Sự thiếu chân thật này chỉ làm cho người chết càng thêm lo lắng, cô đơn. Tôi nghĩ rằng cần cho họ biết sự thật, v́ nếu không, làm sao họ có thể dọn ḿnh cho cái chết ? Làm sao họ có thể đưa những mối quan hệ với cuộc đời đi đến một kết thúc thực sự ? Làm sao họ có thể giải quyết những vấn đề thực tế mà họ cần phải giải quyết ? Làm sao họ có thể giúp những người thân của họ sống - những người họ bỏ lại ?

Theo quan điểm của tôi, kể như một hành giả tâm linh, th́ chết là một cơ hội lớn để người ta ḥa giải với toàn thể cuộc đời ḿnh, và tôi đă trông thấy nhiều, rất nhiều người nhân dịp này để thay đổi tính nết và đạt đến gần hơn sự thật sâu xa nhất của họ. Bởi vậy, nếu ta biết một cách tế nhị và tử tế, nói sớm cho người kia biết họ sắp chết, th́ thế là ta giúp họ có thời gian chuẩn bị và t́m thấy can đảm, sức mạnh của chính họ, và t́m thấy ư nghĩa cuộc đời.

Tôi xin kể lại câu chuyện tôi nghe chị Brigid kể - chị là một y tá tu sĩ Công giáo phục vụ trong một Tiếp dẫn đường ở Ái Nhĩ Lan. Ông Murphi, độ trên lục tuần, ông và vợ ông đă được bác sĩ cho biết là ông sẽ không c̣n sống bao lâu nữa.

Ngày hôm sau, bà Murphi chờ chồng ở Tiếp dẫn đường, họ nói chuyện và khóc suốt ngày. Chị Brigid nh́n hai người bạn già nói chuyện và thường ̣a lên khóc, việc này xảy ra ba ngày liên tiếp làm cho chị tự hỏi có nên xen vào hay không ? Nhưng đến hôm sau, hai vợ chồng đột ngột thay đổi : họ có vẻ thư thái an b́nh, cầm tay nhau và tỏ lộ yêu thương nhau rất mực.

Chị Brigid đă chận bà Murphi ở hành lang để hỏi có chuyện ǵ xảy ra, đă thay đổi rơ rệt thái độ của họ như thế. Bà Murphi kể, khi cả hai người đều nhận chân rằng ông chồng sắp chết, th́ họ nh́n lại bao năm chung sống, và nhiều kỷ niệm trở về trong trí họ.

Họ đă cưới nhau gần 40 năm, và dĩ nhiên họ cảm thấy một nỗi đau buồn lớn lao ; nghĩ và nói về những việc mà họ sẽ không bao giờ cùng nhau làm được nữa. Khi ấy, ông Murphi bèn viết tờ di chúc và những trăn trối cuối cùng cho những người con lớn. Tất cả việc này thật buồn ghê gớm, v́ thật cam go để mà buông tất cả, nhưng họ vẫn tiến hành, v́ ông Murphi muốn kết thúc đời ḿnh một cách tốt đẹp.

Chị Brigid bảo tôi rằng, trong 3 tuần kế tiếp ông Murphi c̣n sống, hai người tỏa ra một sự b́nh an và một cảm giác yêu thương kỳ diệu, đơn giản, Ngay cả sau khi chồng chết, bà Murphi vẫn tiếp tục đến Tiếp dẫn đường để thăm viếng bệnh nhân, nơi đó bà đă trở thành một nguồn cảm hứng cho tất cả mọi người.

Câu chuyện này cho tôi thấy tầm quan trọng của việc nói sớm cho người sắp chết biết sự thật, và sự lợi ích lớn lao khi biết đối diện ṣng phẳng với nỗi đau mất mát. Ông bà Murphi biết họ sắp mất đi nhiều thứ, nhưng nhờ cùng nhau đối phó với những mất mát ấy, cùng san sẻ nỗi buồn, họ cùng t́m được cái mà họ không thể mất, đó là t́nh yêu sâu xa giữa họ sẽ c̣n măi sau khi ông chết.


Sợ chết


Tôi chắc rằng một trong những điều mà bà Murphi giúp chồng bà, là bà đă đối mặt với cái nỗi sợ chết của chính bà ngay trong tâm khảm. Bạn không thể giúp đỡ một người sắp chết nếu bạn không nhận ra nỗi sợ chết làm ta bối rối như thế nào, đem lại những sợ hăi khó chịu nhất.

Làm việc với người sắp chết giống như đối diện với một tấm gương láng bóng ghê rợn về sự thực của chính ḿnh. Bạn thấy trong đó gương mặt, nỗi kinh hoàng của chính bạn, và của nỗi sợ chết nơi bạn.

Nếu bạn không nh́n và chấp nhận gương mặt kinh hoàng sợ hăi đó trong chính bạn, th́ làm sao bạn có thể chịu đựng nó ở nơi người đối diện ? Khi đến giúp đỡ người sắp chết, bạn cần phải khám xét mỗi phản ứng của chính bạn, v́ phản ứng của bạn sẽ phản chiếu trên phản ứng của người sắp chết, và sẽ đóng góp một phần lớn vào sự giúp đỡ họ hay tàn hại họ.

Nh́n vào nỗi sợ chết của bạn một cách thực thà cũng sẽ giúp bạn trong chính cuộc hành tŕnh của bạn tiến đến sự trưởng thành. Đôi khi tôi nghĩ không cách nào giúp ta mau chóng trưởng thành trong đạo làm người, hơn là làm việc với những người sắp chết. Săn sóc người sắp chết đă là một sự quán tưởng sâu xa và một tư duy về cái chết của chính bạn. Đấy là một cách để đối diện và làm việc với cái chết. Khi bạn làm việc với người sắp chết, bạn có thể đi đến một thứ quyết định, một thấu hiểu rơ ràng cái ǵ là trọng tâm căn để nhất của cuộc đời.

Thực sự học cách giúp đỡ người sắp chết là bắt đầu hết sợ và có trách nhiệm về cái chết của chính bạn, và t́m ra trong chính bạn, khởi thủy của một ḷng bi mẫn vô bờ mà bạn có thể chưa hề ngờ đến.

Ư thức nỗi sợ chết nơi chính bạn sẽ giúp bạn vô vàn trong việc biết đến nỗi sợ hăi nơi người sắp chết. Hăy tưởng tượng sâu xa điều ấy ra sao : sợ nỗi đau đớn càng lúc càng tăng không chịu nổi, sợ đau khổ, sợ mất tư cách, sợ phải lệ thuộc người khác, sợ rằng ta đă sống một đời vô nghĩa, sợ chia ĺa với tất cả những ǵ ta thương yêu, sợ mất sự tự chế, sợ mất sự kính trọng, và ló lẽ nỗi sợ hăi lớn nhất của chúng ta là sợ chính nỗi sợ hăi, ta cứ càng tránh né th́ nó càng mạnh thêm.

Thông thường khi sợ hăi, bạn cảm thấy bị cô lập một ḿnh, không bè bạn. Nhưng nếu có người ở bên bạn và nói họ cũng sợ, th́ khi ấy bạn nhận ra rằng sợ hăi là chuyện ai cũng có, khi ấy cái ŕa sắc cạnh của nó, nỗi sợ riêng tư, bị tước mất.

Nỗi sợ hăi của bạn được đưa về trong bối cảnh sợ hăi của con người nói chung. Khi ấy bạn có thể cảm thông hơn, từ bi hơn, và xử với nỗi sợ của bạn một cách tích cực, có ích hơn nhiều.

Càng chạm trán và chấp nhận nỗi sợ của riêng bạn, bạn càng nhạy cảm đối với nỗi sợ của người sắp chết trước mắt bạn. Bạn sẽ thấy ḿnh phát triển được thông minh trí tuệ để giúp người ấy đưa nỗi sợ hăi của họ ra ánh sáng, xử lư nó, và khởi sự khéo léo xua tan nó.

V́ đối diện nỗi sợ hăi của bạn không những làm cho bạn dạn dĩ hơn, có ḷng thương hơn, sáng suốt hơn, mà nó c̣n làm bạn khéo léo hơn, và sự khéo léo ấy sẽ mở ra cho bạn nhiều phương pháp giúp người chết hiểu và đối mặt với nỗi sợ hăi của họ.

Một trong những nỗi lo sợ mà chúng ta có thể xua đuổi dễ dàng nhất là sợ đau đớn trong khi chết, như tất cả chúng ta đều sợ. Tôi muốn nghĩ rằng mọi người trên thế giới bây giờ đều có thể biết không cần phải sợ như thế.

Nỗi đau thể xác cần được giữ mức tối thiểu v́ chết cũng đủ đau khổ rồi. Một sự khảo sát ở Tiếp dẫn đường St-Christopher ở Luân Đôn mà tôi biết rơ v́ ở đấy nhiều học tṛ tôi đă chết cho thấy rằng nếu săn sóc cẩn thận th́ 98% bệnh nhân có thể có một cái chết b́nh an.

Phong trào Tiếp dẫn đường đă phát minh nhiều phương pháp chế ngự cơn đau bằng cách xử dụng phối hợp nhiều loại thuốc, chứ không phải chỉ dùng toàn á phiện. Những bậc thầy trong Phật giáo thường nói cần phải chết một cách đầy đủ ư thức, có sự tự chủ, sáng suốt càng nhiều càng tốt.

Vậy cần phải kiểm soát sự đau đớn không để đến độ nó che mờ ư thức của người sắp chết, đó là điều kiện cốt yếu của việc làm giảm đau. Và điều kiện ấy hiện nay có thể làm được : mọi người sắp chết đều đáng được giúp đỡ trong phương diện này, ở giai đoạn chuyển tiếp quan trọng nhất ấy


Công việc chưa xong


Một niềm lo âu khác của người sắp chết là công việc dang dở họ để lại. Những bậc thầy cho biết ta nên chết một cách an ổn, “không bám víu, khát khao, chấp thủ”. Điều này không thể xảy đến nếu công việc dang dở của một đời chưa được thanh toán.

Đôi khi bạn thấy rằng người ta c̣n níu kéo cuộc đời, sợ phải buông ra, phải chết, bởi v́ họ chưa ḥa giải được với những ǵ họ đă là và đă làm trong đời. Và khi một người sắp chết vẫn c̣n ôm ấp mặc cảm phạm tội hay oán ghét người khác, th́ những người c̣n ở lại sẽ đau khổ sâu xa hơn.

Đôi khi người ta hỏi tôi : “Có phải quá muộn lúc ấy để hàn gắn những đau thương dĩ văng ? Phải chăng giữa tôi và người bà con, bạn bè sắp chết của tôi đă có quá nhiều đau khổ, khó có thể hàn gắn nổi ?”.

Tôi tin rằng, và kinh nghiệm rằng không bao giờ là quá muộn, ngay cả sau khi nhục mạ nhau một trận tơi bời, người ta vẫn có thể t́m cách tha thứ cho nhau. Cái giây phút chết chóc có mọt vẻ trọng đại, nghiêm túc và tối hậu có thể làm người ta xét lại những thái độ của ḿnh, và sẵn sàng cởi mở hơn để tha thứ, khi mà trước đấy họ không thể nào làm được. Ngay cả vào lúc cuối đời, những lỗi lầm của cả một đời có thể được giải tỏa.

Có một phương pháp giúp hoàn tất công việc dang dở mà tôi và các học tṛ tôi thấy rất hiệu nghiệm, khi làm việc với những người sắp chết. Nó được rút từ pháp tu của Phật giáo là xem ḿnh như người khác, trao đổi địa vị tự ngă với những người khác; và từ kỹ thuật Gestalt của Christine Longaker, một trong những học tṛ đầu tiên của tôi, người đă đến làm việc với người sắp chết sau khi có chồng chết v́ bệnh ung thư máu.

Thông thường công việc chưa xong là hậu quả của sự truyền thông bị tắt nghẽn. Khi chúng ta bị tổn thương, chúng ta đâm ra rất tự vệ, luôn luôn biện bác dành phần phải về ḿnh và nhất định không chịu thấy lập trường người kia.

Điều này không chỉ vô ích mà c̣n làm bế tắc mọi khả năng trao đổi thực sự. Bởi vậy, khi bạn làm tập luyện này, trước hết hăy đem tất cả ư nghĩ cảm xúc tiêu cực của bạn ra ánh sáng, cố mà t́m hiểu chúng, làm việc với chúng và giải quyết chúng, và cuối cùng buông xả.

Rồi quán tưởng người mà bạn có vấn đề với họ, đang ở trước mặt bạn. Nh́n thấy họ trong tâm nhăn của bạn, hệt như họ thường ngày trước mắt bạn.

Bây giờ hăy xem như có một thay đổi thực sự xảy ra, khiến người kia mở ḷng ra mà lắng nghe những ǵ bạn nói, có thiện chí hơn bao giờ hết, để san sẻ một cách trung thực, và giải quyết vấn đề giữa bạn và họ. Hăy quán tưởng người ấy một cách rơ ràng trong trạng thái mới thay đổi, nghĩa là rất cởi mở.

Điều này giúp bạn cũng cởi mở hơn đối với người ấy. Rồi thực sự cảm thấy sâu xa trong tâm bạn những ǵ bạn muốn nói với họ nhất. Nói với họ vấn đề là thế nào, cho họ biết tất cả cảm nghĩ của bạn, những khó khăn của bạn, niềm tổn thương, nỗi ân hận của bạn. Nói với họ những ǵ mà trước đây bạn không đủ can đảm để nói ra.

Bây giờ bạn hăy lấy một mảnh giấy mà viết lên đó tất cả những ǵ bạn muốn nói. Rồi ngay sau đó, viết ra những ǵ mà người kia có thể trả lời. Đừng dừng lại để suy nghĩ những ǵ họ thường nói : hăy nhớ rằng bây giờ, như bạn đă quán, người ấy thự sự nghe bạn, và cởi mở hơn. Bởi thế bạn cứ viết cái ǵ tuôn ra một cách tự nhiên ; để cho người kia trong tâm trí bạn, diễn đạt hoàn toàn ư kiến của họ về vấn đề.

Hăy xem bạn cần nói thêm ǵ với họ nữa chăng - những cảm giác bị thương tổn hay niềm hối hận nào trong quá khứ, mà bạn đă giữ lại, hoặc chưa từng ngờ đến. Mỗi lần, sau khi nói lên cảm nghĩ của ḿnh, bạn hăy viết lên một lời đáp lại của người kia, cứ viết bất cứ ǵ đến trong đầu bạn. Tiếp tục cuộc đối thoại này cho đến khi bạn thực sự cảm thấy không c̣n che giấu điều ǵ, không cần nói thêm ǵ nữa.

Muốn biết bạn thực sự sẵn sàng kết thúc cuộc đối thoại, hăy tự hỏi một cách sâu xa trong tâm khảm, rằng bạn có thể thực t́nh buông bỏ quá khứ chăng, thực sự tha thứ người kia hay cảm thấy họ sẽ tha thứ cho ḿnh. Khi bạn cảm thấy đă được như thế, th́ hăy nhớ nói lên những cảm tưởng yêu mến mà có thể bạn đang giữ lại, rồi nói lới từ giă.

Hăy quán tưởng người kia quay lưng bỏ đi và dù bạn phải buông người ấy ra, hăy nhớ rằng bạn vẫn có thể giữ lại niềm yêu thương người ấy và những hoài niệm ấm áp về những khía cạnh tốt nhất của mối tương giao luôn luôn ở trong tim bạn.

Muốn đạt đến một ḥa giải sáng sủa hơn với quá khứ, th́ hăy t́m một người mà bạn có thể đọc cho nghe cuộc đối thoại bạn đă viết, hoặc đọc lớn cho bạn nghe một ḿnh. Một khi bạn đă đọc lớn cuộc đối thoại này, bạn sẽ ngạc nhiên để ư một thay đổi nơi bạn, như thể là bạn đă thực sự liên lạc với người ấy, thực sự giải tỏa với họ mọi vấn đề giữa họ và bạn. Sau đó bạn sẽ thấy vô cùng dễ dàng để buông xả, để nói trực tiếp với người kia về những khó khăn của bạn.

Và khi bạn đă thực sự buông xả, th́ một thay đổi vi tế trong sự hóa giải giữa bạn và người kia sẽ xảy ra, mối căng thẳng từ bao lâu nay bỗng tan biến. Đôi khi nhờ vậy mà các bạn lại c̣n trở thành đôi bạn thân thiết nhất. Đừng bao giờ quên rằng : “Một người bạn có thể biến thành thù, và một kẻ thù có thể biến thành bạn” , như lời Tsongkhapa, bậc thầy Tây Tạng đă nói.


Nói lời từ biệt



Không những bạn cần tập buông những mối căng thẳng, mà c̣n phải buông cả người sắp chết. Nếu bạn ràng buộc, bám víu họ, bạn có thể đem lại cho họ rất nhiều mối thương tâm không cần thiết, làm cho họ rất khó xả để chết một cách an b́nh.

Đôi khi người hấp hối c̣n kéo dài cả nhiều tháng, nhiều tuần, lâu hơn sự chờ đợi của bác sĩ, và phải chịu đau đơn kinh khủng về thể xác. Christine Longaker đă khám phá rằng muốn cho một người như thế buông xả và chết được dễ dàng, th́ họ cần được nghe hai lời xác quyết rơ ràng từ những người thân. Trước hết, người thân phải để cho họ chết, thứ hai là người thân phải làm cho họ an tâm rằng ḿnh sẽ không sao sau khi họ chết, không cần phải lo lắng.

Khi người ta hỏi tôi cách nào tốt nhất để cho phép người ta chết, tôi bảo hăy tưởng ḿnh đang ở bên giường người sắp chết mà nói với một vẻ yêu thương chân thành sâu xa nhất : “Tôi đang ở bên bạn, tôi yêu mến bạn. Bạn đang chết, điều ấy hoàn toàn tự nhiên, cái chết xảy đến với tất cả mọi người.

Tôi ước ǵ bạn có thể ở lại với tôi, nhưng tôi cũng không muốn cho bạn đau đớn thêm nữa. Thời gian chung sống của chúng ta đă nhiều, tôi sẽ luôn luôn trân quư, bây giờ xin bạn đừng bám víu cuộc đời nữa, hăy buông ra. Tôi sẵn sàng để cho bạn chết. Bạn không cô đơn đâu - bây giờ và măi măi : bạn đang có tất cả niềm thương yêu của tôi.

Một học tṛ tôi làm việc trong một Tiếp dẫn đường đă kể cho tôi nghe về một bà Tô Cách Lan tên Maggie mà cô đă viếng thăm sau khi chồng bà rơi vào cơn hôn mê. Maggie vô cùng buồn khổ v́ chưa từng nói cho chồng biết t́nh yêu của bà đối với ông, cũng chưa nói lời từ biệt, và bây giờ bà thấy đă quá muộn màng.

Người làm việc trong Tiếp dẫn đường khuyến khích bà, bảo rằng mặc dù ông có vẻ không có phản ứng, song có lẽ ông vẫn c̣n nghe bà nói được. Cô ta đă đọc sách nói nhiều người bề ngoài bất tỉnh, song kỳ thực vẫn biết được những ǵ đang xảy ra. Cô ta giục bà hăy ở lại với chồng bà thêm ít phút, nói với ông tất cả những ǵ bà muốn nói.

Maggie chưa bao giờ nghĩ tới chuyện ấy, nhưng bà vẫn đến nói với chồng về những ngày hạnh phúc họ cùng san sẻ, về nỗi nhớ thương của bà từ đây, và về t́nh yêu của bà đối với ông. Cuối cùng bà từ biệt và nói: “Thật đau ḷng cho tôi nếu sống mà không có ông, nhưng tôi không muốn nh́n thấy ông đau đớn nữa, bởi thế bây giờ ông cứ việc buông xả đi” . Khi bà dứt lời, ông chồng trút ra một hơi thở dài, và chết một cách an ổn.

Không những người sắp chết cần buông xả, mà chính gia đ́nh họ cũng cần tập buông. Mỗi thành viên gia đ́nh có thể ở một mức độ chấp nhận khác nhau, và điều này cần biết rơ. Một trong những thành công lớn của phong trào Tiếp dẫn đường là nhận chân được tầm quan trọng của việc giúp đỡ toàn thể gia đ́nh đối mặt với nỗi thương tâm và sự bất trắc về tương lai.

Một vài gia đ́nh không chịu để cho người thân của họ ra đi, v́ tưởng như vậy là phản bội, và chứng tỏ ḿnh không thương người sắp chết cho lắm. Christine Longaker bảo những gia đ́nh ấy hăy đặt ḿnh vào địa vị người sắp chết:

“Hăy tưởng tượng các bạn đang đứng trên một con tàu xuyên đại dương sắp khởi hành. Bạn nh́n lui phía bờ, trông thấy bà con, bè bạn vẫy tay từ biệt. Bạn không c̣n chọn lựa nào khác ngoài sự phải ra đi, và con tàu đang rời xa. Bạn muốn những người bạn yêu mến từ biệt bạn như thế nào ? Cái ǵ sẽ giúp bạn nhất trong cuộc hành tŕnh của bạn ?” .

Ngay cả một luyện tập nhỏ ấy cũng có thể giúp rất nhiều cho mỗi thành viên trong gia đ́nh xử lư nỗi buồn theo kiểu của họ, để nói lời từ biệt cho êm.

Đôi khi có người hỏi tôi : “Tôi nên nói với con nhỏ của tôi như thế nào về cái chết của bà con nó ?” . Tôi trả lời là họ nên tế nhị, nhưng hăy nói sự thật. Đừng để cho đứa trẻ nghĩ chết là một cái ǵ ghê gớm lạ lùng. Hăy để nó tham dự càng nhiều càng tốt vào cuộc sống của người sắp chết, và trả lời trung thực bất cứ câu hỏi nào của nó.

Sự trực tiếp, ngây thơ của một đứa trẻ có thể đem lại một ánh sáng, một sự ngọt ngào, đôi khi cả đến một chút hài hước cho nỗi đau hấp hối. Hăy khuyến khích đứa trẻ cầu nguyện cho người sắp chết, để nó có cảm giác nó đang giúp người ấy. Và khi cái chết thực sự xảy ra th́ bạn đừng quên đem lại cho đứa bé sự chú ư chăm sóc đặc biệt.


Tiến đến một cái chết b́nh an


Khi tôi nhớ về Tây Tạng và những cái chết mà tôi đă chứng kiến ở đấy, tôi lấy làm ngạc nhiên về khung cảnh yên tịnh hài ḥa trong đó nhiều cái chết đă diễn ra. Loại khung cảnh đó than ôi, thường vắng bóng ở Tây phương, nhưng với kinh nghiệm 20 năm qua, tôi thấy ta có thể tạo ra một khung cảnh như vậy, chỉ cần có chút tưởng tượng.

Tôi nghĩ nếu có thể, người ta nên chết tại nhà, v́ chính ở nhà mà đa số người dễ thấy thoải mái nhất. Và sự chết thanh thản như các bậc thầy khuyên, dễ xảy ra trong khung cảnh thân thuộc của gia đ́nh. Nhưng nếu người nào phải chết ở bệnh viện, cũng có rất nhiều điều mà bạn, những người thân, có thể làm để cho sự chết ấy càng dễ dàng, thoải mái càng tốt.

Hăy đem vào đấy hoa, cây cảnh, tranh ảnh những người thân yêu, bức họa của con cái, cháu chắt ; hoặc mở băng nhạc, và nếu có thể đem thức ăn nấu từ nhà đến. Bạn có thể xin phép cho trẻ con trong gia đ́nh đến thăm, hoặc cho những người thân đến ở lại đêm với người sắp chết.

Nếu người sắp chết theo đạo Phật, hoặc một tôn giáo khác, bạn bè có thể thiết một bàn thờ nhỏ trong pḥng chết, với những tranh ảnh gợi niềm tin. Tôi nhớ một người học với tôi tên Reiner, hấp hối tại một bệnh viện ở Munich. Người ta đă thiết một bàn thờ cho anh, với tranh ảnh của các bậc thầy an vị trên bàn.

Tôi rất xúc động trước cảnh ấy, và nhận ra rằng Reiner đă được giúp đỡ một cách sâu xa nhờ bầu không khí mà bức ảnh đă tạo nên. Giáo lư Phật khuyên ta nên lập một bàn thiết đồ cúng khi có người sắp chết. Nh́n sự sùng kính của Reiner và niềm b́nh an của anh, tôi mới hiểu được một bàn thờ có thể có mănh lực như thế nào, và lấmo nó có thể giúp người ta cảm thấy cái chết của họ là một quá tŕnh thiêng liêng.

Khi một người bệnh đă gần kề cái chết, tôi đề nghị bạn yêu cầu các bác sĩ, y tá đừng thường xuyên quấy rầy người bệnh, và nên chấm dứt các thử nghiệm. Người ta thường hỏi tôi nghĩ ǵ về sự chết trong các trường hợp được tăng cường săn sóc. Tôi phải nói rằng ở trong một trường hợp như thế sẽ làm cho sự chết thanh thản rất là khó khăn, v́ nó hoàn toàn không để cho người ta tu luyện tâm linh vào lúc sắp chết. Khi người ấy hấp hối, họ mất hết sự riêng tư :

Họ bị gắn vào các máy đo đủ loại, rồi những nỗ lực để phục hồi sẽ được thực hiện khi phổi đă ngưng thở hay tim ngưng đập. Như thế th́ không c̣n hy vọng ǵ để cái xác được yên ổn một thời gian sau khi chết, như các bậc thầy đă khuyên. Nếu có thể, bạn nên dàn xếp với bác sĩ để họ báo cho biết khi không c̣n có thể cứu người bệnh được nữa, và xin dời họ đến một pḥng riêng, nếu người hấp hối muốn, và gỡ hết các máy mọc dụng cụ ra.

Cần bảo đảm rằng bệnh viện biết và tôn trọng ước nguyện của người sắp chết, nhất là khi họ không muốn được phục hồi, và hăy bảo đảm rằng nhân viên bệnh viện cũng biết để cho thi thể được nằm yên càng lâu càng tốt. Dĩ nhiên trong một bệnh viện tiên tiến th́ không thể nào để xác chết suốt ba ngày như tục lệ Tây Tạng, nhưng cần nên giữ im lặng an b́nh để giúp cho người chết khởi sự cuộc du hành sau khi chết.

Bạn cũng nên cố gắng để - khi biết người bệnh thực sự gần kề cái chết - tháo gỡ tất cả những kim, thuốc và mọi thứ xâm nhập cơ thể. Những vật này có thể gây giận dữ, cáu tiết, đau đớn ; nên muốn cho tâm người sắp chết được an tịnh vào giờ phút chết th́ điều này tuyệt đối quan trọng.

Phần đông người chết trong trạng thái hôn mê. Một điều chúng tôi đă được học trong kinh nghiệm cận tử là : những bệnh nhân hôn mê và sắp chết kỳ thực biết rơ mọi sự xảy ra xung quanh hơn là chúng ta tưởng. Nhiều người chết đi sống lại đă báo cáo những kinh nghiệm thoát xác của họ, từ đấy họ có thể tường thuật một cách tỉ mỉ, chính xác lạ lùng về những chuyện xẩy ra xung quanh, và cả đến trong các pḥng khác của các bệnh viện.

Điều này cho thấy rơ ràng sự quan trọng của việc nói chuyện tốt lành và thường xuyên cho người sắp chết, hoặc với người đang hôn mê. Sự chăm sóc đầy tŕu mến, bén nhạy, có ư thức đối với người sắp chết cần phải tiếp tục cho đến giây phút cuối cùng của đời họ, và ngay cả xa hơn.

Một trong những điều mà tôi hy vọng từ quyển sách này là, các y sĩ trên khắp thế giới nên cực lực tôn trọng nhu cầu cho phép người chết được chết trong im lặng trang nghiêm. Tôi muốn kêu gọi thiện chí của nghề y, và hy vọng gợi cảm hứng cho họ t́m ra những phương pháp nào để làm cho sự chuyển tiếp vô cùng cam go của cái chết trở nên càng dễ dàng, không đau đớn, và càng thanh b́nh càng tốt.

Sự chết thanh thản thực sự là một nhân quyền căn bản thiết yếu, có lẽ c̣n thiết yếu hơn cả quyền đầu phiếu hay quyền công lư, đấy là một thứ quyền rất cần thiết cho sự an lạc và tương lai tâm linh của người chết.

Không có món quà từ thiện nào bạn có thể cho mà quư hơn sự giúp đỡ một người được chết một cái chết tốt đẹp.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 433 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 9:44pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TẠNG THƯ SỐNG CHẾT


CHƯƠNG HAI: CHẾT


12. L̉NG BI MẪN VIÊN NGỌC NHƯ Ư


Săn sóc người sắp chết làm cho bạn ư thức thấm thía không những nỗi tử vong của họ mà c̣n của chính bạn. Bao nhiêu tấm màn ảo tưởng đă ngăn chúng ta với tri kiến rơ rệt phũ phàng là chúng ta đang chết. Bởi thế, khi cuối cùng ta biết được rằng ḿnh đang chết và tất cả hữu t́nh khác cũng đang chết, th́ ta khởi sự có một ư thức nóng bỏng, nát ḷng về sự mong manh quư báu của mỗi lúc và mỗi sinh vật,

và từ đấy có thể phát sinh một ḷng bi mẫn vô hạn, sâu xa, trong sáng đối với tất cả hữu t́nh. Sir Thomas More tôi nghe nói đă viết những ḍng này trước khi bị chặt đầu : “Tất cả chúng ta đều đang tiến đến nơi hành quyết, làm sao tôi có thể thù ghét hay mong hại người nào"? Cảm thấy trọn vẹn sức mạnh của cái chết nơi bạn, hoàn toàn mở ḷng ra với nó, chính là để tăng trưởng trong bạn ḷng từ bi bao la vô úy làm chất liệu nuôi dưỡng cuộc đời của bất cứ ai muốn thực sự giúp đỡ người khác.

Bởi thế mọi sự tôi nói từ trước đến đây về săn sóc người chết có thể tóm gọn trong hai chữ : từ bi. Bi là ǵ ? Không phải chỉ là một sự đồng cảm hay săn sóc cho người đang khổ, hay một tấm ḷng nồng nàn đối với người trước mắt bạn, hay biết rơ nhu cầu và nỗi đau của họ, mà đấy là một quyết định thực tiễn, kiên tŕ, muốn làm mọi sự cần thiết khả dĩ làm vơi bớt khổ đau của họ.

Bi mẫn không thực sự là bi mẫn nếu nó không tích cực. Đức Quán Tự Tại, vị Phật của ḷng bi mẫn, thường được biểu trưng có ngàn mắt để thấy nỗi khổ trong mọi xó góc của vũ trụ, và ngàn tay duỗi ra khắp nơi để giúp đỡ.


Cái hợp lư của bi mẫn



Tất cả chúng ta đều biết và cảm nhận một vài lợi lạc của ḷng bi mẫn. Nhưng sức mạnh đặc biệt của Phật giáo là nó chứng minh cho bạn một cách rơ ràng cái lư của ḷng bi mẫn. Một khi bạn đă nắm vững nó, th́ cái lư này làm cho sự thực hành của bạn càng cấp thiết, càng bao quát, càng vững chăi và có căn cứ, v́ dựa trên sự sáng suốt của một lư luận mà chân lư của nó bạn càng theo đuổi, thí nghiệm, th́ càng trở nên rơ rệt.

Chúng ta có thể nói, và hơi tin rằng đức bi mẫn thật tuyệt, nhưng hành động chúng ta lại rất thiếu bi mẫn, phần nhiều đem lại cho chúng ta và người khác bất măn đau buồn, chứ không phải là hạnh phúc mà tất cả chúng ta đều t́m kiếm.

Vậy có phải là phi lư không, khi tất cả chúng ta đều mong mỏi hạnh phúc, thế mà hầu hết mọi hành động và cảm nghĩ của chúng ta đều đi xa khỏi hạnh phúc ấy ? Có dấu hiệu nào rơ hơn thế để chứng tỏ toàn bộ quan điểm chúng ta về hạnh phúc chân thật và cách đạt đến nó là sai lầm căn để.

Điều ǵ chúng ta tưởng tượng sẽ làm ḿnh hạnh phúc ? Sự bảo vệ ích kỷ cho tự ngă, có thể làm cho chúng ta có lúc vô cùng tàn ác. Nhưng kỳ thực cái ngược lại mới đúng. Sự chấp thủ tự ngă, tự thương ḿnh, chính là cội gốc mọi tai hại cho kẻ khác và cho chính ḿnh - nếu bạn nh́n sâu vào điều ấy.

Mỗi việc tiêu cực mà chúng ta đă nghĩ hay làm đều phát sinh từ sự chấp thủ của ta vào một tự ngă giả tạo, và sự yêu mến cái ngă ấy, cho nó là yếu tố quan trọng nhất đời. Tất cả những tư tưởng tiêu cực, cảm xúc, dục vọng và hành động làm nhân cho ác nghiệp của chúng ta, đều do sự chấp thủ bản ngă, yêu mến bản ngă mà ra. Chúng ta là cục nam châm mănh liệt u ám cuốn hút tới chúng ta mọi trở ngại, mọi bất hạnh, lo buồn, tai ách đời này qua đời khác ; bởi thế chúng là căn nguyên mọi khổ đau trong sinh tử.

Khi chúng ta đă nắm được định luật về nghiệp trong mọi năng lực ghê gớm của nó, sự vang dội của nó qua nhiều đời ; khi chúng ta đă thấy rơ ngă thủ, ngă ái đă lôi chúng ta vướng vào cái lưới vô minh dường như càng ngày càng thắt chặt như thế nào ; khi chúng ta hiểu rơ cái tâm thường ngày và những hoạt động của ta đều bị thu hẹp, trở nên hắc ám v́ sự chấp thủ bản ngă, làm cho chúng ta không thể mở ḷng ra để thương yêu vô điều kiện ; khi ta thấy sự chấp thủ ấy đă làm bế tắc mọi suối nguồn yêu thương chân thật th́ sẽ có một lúc ta nhận định một cách vô cùng sáng suốt, như Shantideva rằng :

Nếu tất cả tai hại

Sợ hăi và đau khổ trong đời

Phát sinh từ ngă chấp

Th́ ta cần ǵ đến ác ma lớn ấy ?

Và trong ta nẩy sinh quyết định diệt trừ con ma kia, kẻ thù lớn nhất của ta. Khi ác ma ấy chết rồi, th́ cái nhân của mọi khổ đau sẽ hết, và bản tính chân thật của ta sẽ chiếu sáng, bao la và năng động.

Trong trận chiến chống lại kẻ thù lớn nhất đó ngă chấp, ngă ái th́ đồng minh lớn nhất của bạn là sự thực hành tâm đại bi, đấy là ḷng bi mẫn, hiến ḿnh phụng sự kẻ khác, gánh lấy đau khổ của họ thay v́ tự yêu thương ta. Ḷng bi mẫn ấy song hành với trí vô ngă, sẽ phá hủy một cách toàn vẹn sự cố chấp vào một tự ngă giả tạo đă từng là nguyên nhân của cuộc lang thang bất tận của chúng ta trong sinh tử. Bởi thế, trong truyền thống Tây Tạng, chúng tôi xem đại bi như là nguồn cội tinh túy của giác ngộ, trọng tâm của hoạt động giác ngộ. Shantideva nói :

C̣n ǵ cần nói nữa ?

Kẻ ngu làm việc cho tự lợi

Chư Phật làm việc cho tha lợi

Hăy nh́n sự khác nhau

Nếu tôi không đổi hạnh phúc ḿnh

Lấy khổ đau của người

Th́ tôi sẽ không đạt thành Phật quả

Và trong sinh tử tôi cũng không có

niềm vui chân thật.

Nhận chân được cái mà tôi gọi là “trí tuệ của đại bi” là thấy rơ lợi lạc của bi mẫn, cũng như tai hại mà điều ngược lại với tâm bi mẫn đă đem lại cho ta. Chúng ta cần phân biệt rơ ràng cái ǵ là lợi lộc ích kỷ của tự ngă, và cái ǵ là lợi lạc tối hậu của chúng ta, v́ chính do lẫn lộn hai thứ ấy mà tất cả khổ đau đă đến. Chúng ta cứ tiếp tục tin một cách ngoan cố rằng tự che chở ḿnh là tốt hơn hết trong đời, nhưng sự thực trái lại. Ngă chấp tạo ra ngă ái, và ngă ái trở lại tạo ra sự thù ghét thâm căn đối với đau khổ và điều hại.

Tuy nhiên đau khổ và điều hại vốn không có hiện hữu khách quan, cái làm cho nó thực hữu chính là thái độ thù ghét của chúng ta đối với nó. Khi hiểu điều này, bạn sẽ hiểu rằng chính sự thù ghét của ta đă thực sự thu hút vào nơi ta mọi trở ngại và tiêu cực có thể xảy đến, làm cho đời ta đầy những lo âu, mong chờ, sợ hăi. Hăy làm ṃn sự thù ghét ấy bằng cách làm ṃn tâm chấp ngă và sự bám víu của nó vào một cái ngă phi thực, và khi ấy bạn sẽ tiêu ṃn mọi trở ngại và tiêu cực đeo theo bạn. V́ làm sao bạn có thể tấn công một người hay một vật không có ở đấy ?

Vậy chính tâm đại bi mới là sự che chở lớn nhất, và những bậc thầy quá khứ c̣n biết đấy là nguồn suối chữa lành mọi bệnh tật. Giả sử bạn bị một chứng bệnh như ưng thư hay sida. Bằng cách gánh lấy tất cả đau đớn của những người đồng bệnh, cọng vào nỗi đau của bạn, với một tâm đầy bi mẫn, bạn sẽ chắc chắn thanh lọc ác nghiệp cũ, mà chính là nguyên nhân bây giờ và trong tương lai, của đau khổ tiếp nối.

Ở Tây Tạng ngày xưa tôi nhớ đă nghe có nhiều trường hợp lạ lùng, những người khi nghe ḿnh bị bệnh nan y sắp chết, đă bố thí mọi sở hữu và đi đến nghĩa địa để chết. Ở đây họ thực tập sự chịu thay những đau khổ cho người khác, và điều kỳ diệu xảy ra là họ không chết, mà trở về nhà hoàn toàn khỏi bệnh.

Khi làm việc với người sắp chết, ta sẽ có được cơ hội trực tiếp thực hiện ḷng bi mẫn trong hoàn cảnh mà ḷng bi mẫn có lẽ cần thiết nhất.

Ḷng bi mẫn của bạn có ba lợi ích cho người sắp chết : trước hết, v́ nó mở ḷng bạn nên bạn dễ tỏ cho người ấy niềm yêu thương vô điều kiện mà họ rất cần. Trên một b́nh diện tâm linh sâu xa hơn, nếu bạn cố thể hiện tâm đại bi và hành động từ tâm ấy, bạn sẽ tạo một bầu không khí trong đó người sắp chết có thể được gợi hứng để tưởng đến chiều hướng tâm linh hay cả đến bắt đầu tu tập. Trên b́nh diện sâu xa nhất, nếu bạn thường xuyên thực hành đại bi đối với người chết, và làm cho họ cũng làm theo bạn, bạn có thể chẳng những chữa lành tâm bệnh mà cả đến thân bệnh của họ. Khi ấy, bạn sẽ ngạc nhiên thấy năng lực của tâm đại bi thực là vô giới hạn, như các bậc thầy đă nói.

Asanga (Vô Trước) là một bậc thánh tăng Ấn Độ, sống vào thế kỷ thứ tư. Thầy lên núi nhập thất tu thiền quán về Phật Di Lặc với hy vọng được thấy ngài và được ngài chỉ giáo.

Trong sáu năm thầy thiền định ráo riết mà không bao giờ thấy được một điềm lành. Quá thất vọng, thầy bỏ nhập thất để xuống núi. Khi đi chưa bao xa, thầy trông thấy một người đang dùng một dăi lụa để mài một thỏi sắt khổng lồ. Thầy đến hỏi ông ta đang làm ǵ, ông trả lời : “Tôi mài cho thành một cây kim”. Thầy kinh ngạc nghĩ, dù trong một trăm năm, ông ta có làm được cây kim đi nữa, th́ có lợi ích ǵ ? Hăy xem con người ta phải khổ nhọc về những việc hoàn toàn phi lư như vậy.

Ta đang tu tập một pháp môn thực sự có giá trị tâm linh, vậy mà ta không chuyên tâm được đến thế. Thầy quay trở lại nơi nhập thất. Ba năm nữa trôi qua, vẫn không có dấu hiệu nào về Phật Di Lặc. Thầy nghĩ : “Bây giờ ta biết chắc chắn ta sẽ không bao giờ thành công”. Bởi vậy, thầy rời chỗ ấy bỏ đi.

Thầy gặp một tảng đá khổng lồ nơi một khúc quanh của đường núi, và thấy dưới châng tảng đá ấy có một người đang bận chà xát tảng đá bằng một cái lông chim nhúng trong nước. Thầy hỏi y làm ǵ vậy, y bảo : “Tảng đá này to quá, ngăn bít mặt trời không chiếu vào nhà tôi được, bởi thế tôi mài cho nó ṃn” .

Thầy Asanga lại kinh ngạc trước nghị lực không nao núng của người ấy, và hổ thẹn v́ ḿnh không đủ tin tưởng bằng ông ta. Thầy bèn quay trở lại nơi nhập thất. Lại thêm ba năm nữa trôi qua, mà vẫn chưa có được một giấc mơ tốt. Thầy quyết định một lần cuối cùng sẽ bỏ đi không trở lại. Thầy đi trọn một ngày, đến xế chiều th́ gặp một con chó nằm bên đường.

Nó chỉ c̣n hai chân trước, toàn thân sau của nó đă thối rửa và đầy bọ chét. Mặc dù đă rơi vào t́nh trạng thảm thương như vậy, con chó vẫn sủa người qua đường, cố lê lết hai chân trước tới cắn người ta. Cảm thấy tràn ngập một ḷng bi mẫn sâu xa không thể chịu nổi, thầy bèn cắt một miếng thịt nơi thân ḿnh cho chó ăn, rồi cúi xuống bắt bọ chét. Nhưng thầy nghĩ, có lẽ nó sẽ đau đớn vô cùng nếu thầy dùng ngón tay để bắt.

Thầy bèn quỳ gối xuống đất, nh́n vào cái đống thịt thối ghê tởm, và nhắm mắt lại. Thầy cúi sát hơn, thè lưỡi... Điều kế tiếp thầy được biết là cái lưỡi thầy chạm xuống đất. Thầy mở mắt nh́n lên, th́ con chó đă biến mất, thay v́ đức Phật Di Lặc trong hào quang chói lọi đang ở trước thầy. Thầy Asanga nói : “Có thế chứ. Tại sao trước đây ngài không bao giờ xuất hiện cho con ?”.

Đức Phật Di Lặc nhẹ nhàng bảo : “Không phải ta chưa từng xuất hiện trước con đâu. Ta vẫn ở trước con luôn luôn, nhưng ác nghiệp và chướng ngại ngăn che làm cho con không trông thấy ta mà thôi. Mười hai năm khổ tu của con đă tiêu hao một ít nghiệp chướng, nên cuối cùng con mới thấy được con chó. Rồi nhờ ḷng bi mẫn chân thành tha thiết của con mà tất cả nghiệp chướng tiêu tan, và con có thể trông thấy ta. Nếu không tin, con hăy mang ta lên vai mà đi xem có ai trông thấy ta chăng ?”.

Asanga mang đức Phật trên vai đi vào chợ. Thầy hỏi mọi người : “Cái ǵ trên vai tôi đây ?”. Phần đông đều nói : “Có ǵ đâu ?”. Chỉ có một bà già đă hơi sạch nghiệp, trả lời rằng : “Thầy đang mang một cái thây chó già thối tha trên vai thầy chứ ǵ”. Cuối cùng thầy Asanga mới hiểu được năng lực bao la của ḷng từ bi đă chuyển hóa ác nghiệp, làm cho thầy trở thành một pháp khí có thể chứa đựng h́nh ảnh đức Di Lặc và sự chỉ giáo của ngài. Rồi đức Di Lặc, Phật ḍng họ Từ, đưa thầy lên cung trời Đâu Suất, ở đấy thầy nhận được nhiều giáo lư siêu việt, thuộc về phần quan trọng nhất của Phật giáo.


Câu chuyện về Tonglen và năng lực tâm đại bi


Các học tṛ tôi thường đến hỏi tôi : “Nỗi đau đớn của bạn tôi, bà con tôi, làm cho tôi rất khó chịu, tôi rất muốn giúp đỡ. Nhưng tôi thấy tôi thực sự không có đủ t́nh yêu để giúp họ. Ḷng bi mẫn của tôi bị tắt nghẽn. Tôi có thể làm ǵ ?”. Đương nhiên ai trong chúng ta cũng đă từng biết đến nỗi bất b́nh sầu năo v́ không thể t́m ở trong tim ta đủ ḷng từ bi đối với những người đau khổ quanh ta, và do đó không đủ sức mạnh để giúp họ.

Một trong những đức lớn lao của của Phật giáo là có nhiều pháp tu tập rất ích lợi trong những t́nh huống ấy. Một phương pháp trong đó là Tonglen, Tạng ngữ có nghĩa là “cho và nhận”. Đấy là phương pháp hữu hiệu nhất. Khi bạn cảm thấy ḿnh bị khóa kín trong tự ngă của ḿnh, th́ Tonglen mở ra cho bạn sự thật về nỗi khổ của người khác.

khi tim bạn bị bế tắt, nó phá hủy những năng lực đang bít lấp, và khi bạn cảm thấy xa lạ với người đang đau đớn trước mặt ḿnh, hoặc cảm thấy cay đắng tuyệt vọng, th́ phương pháp này giúp cho bạn t́m thấy trong chính ḿnh, để rồi tỏa ra, ánh sáng từ bi lớn rộng của tự tâm bạn. Hơn pháp môn nào hết, pháp này rất hiệu lực để phá trừ ngă chấp, ngă ái, nguồn gốc của mọi đau khổ của ta và cũng là gốc rễ của mọi sự nhẫn tâm, vô cảm.

Một trong những bậc thầy vĩ đại của pháp môn Tonglen ở Tây Tạng là Geshe Chekhawa sống vào thế kỷ 11. Ngài rất đa văn và đă thành tựu được nhiều h́nh thức thiền quán. Một hôm, khi đang ở trong pḥng của bậc thầy ḿnh, ngài t́nh cờ đọc thấy hai ḍng chữ trên một quyển sách mở :

Hăy cho mọi người khác tất cả lợi lộc

Hăy nhận vào ḿnh tất cả thiệt tḥi.

Ḷng đại bi bao la khó thể tưởng ở trong hai ḍng chữ ấy làm ngài kinh ngạc. Ngài khởi hành t́m xem bậc thầy nào đă viết câu ấy. Một ngày, trên đường đi ngài gặp một người cùi cho biết là bậc thầy đó đă viên tịch. Nhưng Geshe Chekhawa vẫn kiên tŕ t́m kiếm và gặp được đồ đệ chính thức của bậc thầy đă chết. Ngài hỏi vị ấy : “Ông nghĩ tầm quan trọng của lời dạy trong câu đó là thế nào ?”.

Người đệ tử đáp : “Dù ông thích hay không, ông vẫn phải thực hành lời dạy ấy nếu muốn thành Phật”. Câu trả lời này làm Geshe Chekhawa ngạc nhiên không khác khi ông đọc câu ấy lần đầu. Ngài ở lại bên vị đệ tử ấy 12 năm để học hỏi giáo lư ấy và thuộc nằm ḷng pháp môn cho và nhận, tức Tonglen.

Trong thời gian ấy, ngài phải đương đầu với nhiều thử thách, chịu đủ thứ gian khó, chỉ trích, chê bai. Nhưng lời dạy quá hiệu nghiệm, sự kiên tŕ của ngài quá mănh liệt, đến độ sáu năm sau, ngài đă nhổ tận gốc rễ ngă chấp, ngă ái. Sự thực hành Tonglen cho và nhận đă chuyển hóa ngài thành một bậc thầy của ḷng từ mẫn.

Lúc đầu Geshe Chekhawa chỉ giảng dạy pháp môn Tonglen cho một vài đệ tử gần gũi, v́ nghĩ rằng nó chỉ công hiệu đối với những người có ḷng tin vào pháp môn ấy mà thôi. Rồi ngài bắt đầu giảng dạy cho một nhóm người cùi. Bệnh cùi vào thuở ấy khá phổ biến ở Tây Tạng, không bác sĩ nào chữa khỏi. Nhưng có nhiều người cùi nhờ thực hành pháp Tonglen mà khỏi bệnh. Tin đồn lan rộng rất nhanh, nhiều người cùi đến nhà ngài, dần dà trông như một bệnh viện.

Nhưng Geshe Chekhawa vẫn không giảng dạy rộng răi pháp môn Tonglen. Chỉ khi để ư hiệu nghiệm của nó trên người em trai, ngài mới khởi sự phổ biến rộng răi pháp môn ấy. Người em của Geshe Chekhawa là một kẻ hoài nghi thâm căn cố đế, luôn nhạo báng mọi sự tu hành.

Tuy nhiên, khi ông ta trông thấy những ǵ xảy đến cho những người cùi thực hành Tonglen, ông không khỏi cảm khái, lạ lùng. Một hôm ông nấp sau cửa để nghe Geshe Chekhawa giảng dạy Tonglen, và ông bí mật khởi sự thực hành, một ḿnh ông biết. Khi Geshe Chekhawa để ư thấy tính t́nh người em bắt đầu thuần lại, th́ ngài cũng đoán đă xảy ra chuyện ǵ.

Ngài nghĩ : “Nếu pháp môn này có thể công hiệu đối với em ta, cải hóa được y, th́ cũng có thể công hiệu và cải hóa được bất cứ người nào khác” . Điều này làm cho ngài thêm tin tưởng để giảng dạy pháp môn này rộng răi hơn. Bản thân ngài không bao giờ ngưng thực hành nó. Vào cuối đời, Geshe Chekhawa bảo các học tṛ rằng, từ lâu ngài đă tha thiết cầu tái sinh vào các địa ngục để có thể giúp đỡ tất cả những chúng sanh đau khổ ở đấy.

Rủi thay, ngài nói thêm, gần đây ngài có nhiều giấc mộng rơ ràng cho biết ngài sẽ tái sinh vào cơi Phật. Ngài vô cùng thất vọng, nước mắt ràn rụa, ngài nhờ các đệ tử cầu xin chư Phật cho chuyện ấy đừng xảy ra, để ngài được măn nguyện cứu giúp chúng sanh ở địa ngục, ước nguyện tha thiết nhất của ngài.


Làm sao để đánh thức tâm đại bi


Trước khi thực hành “cho và nhận”, bạn cần phải khơi dậy tâm đại bi trong bạn. Điều này khó hơn ta tưởng, bởi v́ suối nguồn của từ và bi nơi ta đôi khi bị che khuất, chúng ta có thể không đạt đến được. May thay Phật giáo có nhiều kỹ thuật đặc biệt để đào luyện tâm đại bi, giúp ta khơi mở khả năng thương yêu bị khuất lấp ấy. Trong vô số phương pháp, tôi đă chọn ra những pháp sau, và sắp xếp chúng theo cách đặc biệt để có được lợi ích lớn nhất cho người hiện đại.

1- Ḷng từ : khơi nguồn

Khi chúng ta tin rằng trong ta không có đủ t́nh yêu, th́ có một phương pháp để t́m ra và hô triệu nó lên. Hăy trở lại trong tâm bạn và tạo lại, quán tưởng một t́nh yêu mà một người nào đă cho bạn, làm bạn thực cảm động, vào thuở ấu thời chẳng hạn.

Thông thường người ta bảo bạn hăy nhớ đến mẹ và một đời tận tụy hy sinh của bà, nhưng nếu bạn thấy điều ấy không ổn với ḿnh, th́ có thể nghĩ đến bà ngoại, ông ngoại, hay bất cứ ai đă từng rất tốt với bạn trong đời. Hăy nhớ lại một ví dụ đặc biệt lúc họ thực sự chứng tỏ t́nh yêu thương của họ cho bạn, và bạn cảm thấy t́nh yêu ấy một cách mănh liệt.

Bây giờ, hăy để cho cảm thức ấy sống dậy trong tim bạn, làm cho bạn tràn ngập niềm tri ân. Khi làm thế, t́nh yêu của bạn sẽ tự nhiên hướng đến người ấy. Bạn sẽ nhớ rằng, mặc dù bạn không luôn luôn cảm thấy ḿnh đă được hưởng đầy đủ t́nh thương yêu, tuy vậy ít nhất bạn cũng đă từng có lần được yêu một cách chân thực. Bây giờ khi biết điều ấy bạn sẽ cảm thấy như người kia đă làm cho bạn cảm thấy lúc đó rằng bạn cũng đáng được yêu thương, và thực sự là rất dễ thương.

Bây giờ bạn hăy mở ḷng ra để t́nh yêu tuôn tràn từ tim bạn, và trải t́nh yêu ấy lên khắp mọi loài. Hăy bắt đầu với những người gần nhất, rồi trải t́nh yêu đến thân hữu và những người quen biết, đến láng giềng, đến người xa lạ, đến những người bạn không ưa, hoặc thường gặp rắc rối với họ, rồi đến những kẻ mà bạn có thể xem như “kẻ thù”, cuối cùng là trải t́nh yêu khắp cả vũ trụ.

Hăy để cho t́nh yêu ấy càng lúc càng rộng ra vô biên. Xả là một trong bốn phương diện cốt yếu (từ, bi, hỷ, xả) làm nên ước nguyện của tâm đại bi. Cái thấy của tâm “xả” vô tư, thấm nhuần khắp thực sự là khởi điểm, là căn bản của con đường đại bi.

Bạn sẽ thấy pháp tu này mở ra một ḍng suối từ tâm, nhờ đó mà bạn sẽ thấy nó gợi cảm cho sự sanh khởi tâm đại bi (thương xót). Như đức Di Lặc đă bảo Asanga : “Nước đại bi chảy qua kênh lạch ḷng từ” .

2- Đồng thể đại bi : xem người như ḿnh

Một phương pháp hiệu lực để khơi dậy tâm đại bi, như tôi đă nói là nghĩ người cũng như ḿnh. Đức Dalai Lama nói : “Chung quy, mọi con người đều giống nhau, làm bằng thịt, xương và máu. Tất cả chúng ta đều muốn được hạnh phúc và tránh đau khổ. Hơn nữa, chúng ta đều có b́nh quyền được sung sướng. Nói tóm, thực là quan trọng để nhận ra chỗ giống nhau của chúng ta, là thân phận làm người” .

Hăy ví dụ bạn đang gặp khó khăn gay cấn với một người thân, như cha, mẹ, chồng, vợ, người yêu hay bè bạn. Điều hay nhất là bạn hăy xem người ấy như chính ḿnh, một người cũng có những cảm xúc như ḿnh, cũng muốn tránh đau khổ. Sự nghĩ đến người ấy như ḿnh, sẽ làm cho bạn mở ḷng ra với họ, đem lại cho bạn nhiều trí tuệ hơn để biết cách giúp đỡ.

Nếu bạn xem người như ḿnh, th́ dễ mở ra và đem lại một ư nghĩa mới cho những mối tương quan. Hăy tưởng tượng mọi xă hội, quốc gia khởi sự nh́n nhau bằng cách ấy, th́ cuối cùng chúng ta sẽ có được khởi nguyên của một nền tảng ḥa b́nh vững chắc trên quả địa cầu, và sẽ có sự sống chung an lạc của mọi dân tộc.

3- Tâm đại bi : đổi địa vị ḿnh với người khác

Khi một người đang khổ mà bạn không biết làm sao để giúp đỡ họ, bạn hăy đặt ḿnh hoàn toàn vào địa vị của họ. Bạn hăy tưởng tượng một cách sống động, ḿnh sẽ như thế nào nếu phải đau khổ như vậy, tự hỏi : “Tôi sẽ cảm thấy ra sao ? Tôi sẽ muốn bạn bè tôi đối xử với tôi như thế nào ? Tôi cần nhất cái ǵ nơi họ ?” .

Khi bạn đổi địa vị với họ như thế là bạn đang di chuyển ḷng thương yêu của ḿnh đối với ḿnh thành ra ḷng thương yêu người khác. Như vậy, đấy là cách rất hiệu nghiệm để nới lỏng kềm tỏa của ngă chấp, ngă ái và làm bung ra trọng tâm của ḷng bi mẫn.

4- Dùng một người bạn để phát tâm

Một cách cảm động khác để khơi dậy đức bi mẫn đối với người đang đau khổ là tưởng tượng một trong những người mà bạn thương mến nhất, đang ở vị trí của người đau khổ ấy

Hăy tưởng tượng anh ruột, hay con gái, hay bà con, hay bạn thân của bạn đang ở trong hoàn cảnh đau khổ như thế, tự nhiên bạn sẽ mở ḷng ra, và sự bi mẫn sẽ thức dậy : bạn không mong muốn ǵ hơn là giải thoát họ khỏi nỗi đau đớn. Bây giờ, bạn hăy di chuyển ḷng bi mẫn đă được khơi dậy trong tâm bạn, và hướng nó về con người đang cần sự giúp đỡ của bạn. Khi ấy bạn sẽ thấy ḿnh tự nhiên muốn giúp và dễ dàng hướng tâm đến việc giúp đỡ.

Đôi khi người ta hỏi tôi : “Nếu tôi làm như vậy, liệu người thân mà tôi tưởng tượng đang đau khổ ấy có bị hại không ?”. Ngược lại, nếu bạn nghĩ về họ với niềm yêu thương, bi mẫn như thế, th́ rất dễ có lợi cho họ, có thể làm cho họ hết khổ, hết cơn đau đớn mà họ có thể đă, đang hoặc sẽ trải qua.

Nhờ bạn đem họ làm khí cụ để khơi dậy tâm bi mẫn, dù chỉ trong chốc lát, mà họ sẽ được vô vàn lợi ích. V́ họ đă góp phần giúp bạn mở ḷng ra, phát tâm giúp đỡ người khác, nên công đức của hành vi ấy tự nhiên sẽ quay về cho họ.

Bạn cũng có thể hồi hướng công đức của hành vi ấy cho người bà con hay bạn của ḿnh, người đă giúp bạn mở ḷng ra. Bạn có thể mong sự an lạc đến với họ, và cầu nguyện trong tương lai họ sẽ hết khổ. Bạn sẽ biết ơn người bạn ấy, và người này cũng cảm thấy vui và tri ân bạn, nếu bạn cho họ biết là họ đă giúp cho bạn phát tâm đại bi.

Bởi thế khi bạn hỏi : “Làm như thế (tưởng tượng một người thân sắp chết hoặc ốm đau) th́ người thân của tôi có hại ǵ không ?” là chứng tỏ bạn chưa thực sự hiểu thấu năng lực mầu nhiệm của tâm đại bi. Nó ban ân sủng và chữa lành mọi người liên hệ : người phát tâm, người làm khí cụ qua đó tâm đại bi được phát, và người mà tâm đại bi hướng đến. Như Shakerpeare nói qua lời Partia (trong vở kịch Merchant of Venice) :

Đức tính của t́nh yêu không hạn cuộc

Rơi như mưa xuân từ trời cao

Xuống đến trần gian nó ban ân sủng

Đến người cho, cũng như kẻ nhận...

Tâm đại bi là viên ngọc châu như ư mà ánh sáng chữa lành tất cả bệnh tỏa khắp muôn phương.

Có một câu chuyện rất đẹp chứng minh điều này mà tôi yêu thích. Đức Phật có lần kể chuyện tiền thân của Ngài, trước khi Ngài đạt chánh giác. Một vị vua có ba con trai, đức Phật trong kiếp ấy là con út, tên gọi là Đại hữu t́nh. Đại hữu t́nh bẩm chất rất từ bi, xem tất cả muôn loài như con đẻ.

Một hôm, khi vua và đ́nh thần vào rừng cắm trại, ba vị hoàng tử đi chơi trong rừng sâu. Họ gặp một con hổ cái đă sinh con, đang quá đói đến nỗi sắp ăn thịt bầy hổ con của nó. Đại hữu t́nh hỏi các anh :

“Con cọp mẹ cần ăn cái ǵ bây giờ để lai tỉnh ?” .

Họ trả lời : “Chỉ có thịt và máu tươi” .

“Ai có thể cho nó thịt và máu để cứu sống nó và đàn con nó ?”

“Quả thế, ai nhỉ ?” . Các anh trả lời.

Đại hữu t́nh rất xúc động trước nỗi đau đớn của con hổ cái và đàn con. Ông nghĩ : “Đă bao lâu ta lang thang không mục đích qua ḍng sanh tử, hết đời này đến đời khác, và v́ tham sân si ta đă không làm được ǵ để giúp đỡ chúng sanh. Đây là một cơ hội lớn cho ta” .

Các hoàng tử sắp trở về lại chỗ cha mẹ, nhưng Đại hữu t́nh nói : “Hai anh đi về trước đi, em sẽ theo kịp” .

Lặng lẽ, Ngài ḅ tới con hổ đói, đến thẳng nơi nó, nằm xuống trước mặt nó để hiến ḿnh làm thực phẩm cho hổ. Hổ cái nh́n Ngài nhưng quá yếu đến nỗi không thể mở miệng. Bởi thể, vị hoàn tử t́m một cây gậy nhọn, chọc thủng một lỗ sâu nơi thân ḿnh cho máu vọt ra. Con hổ liếm máu ấy rồi mới đủ sức há miệng ra mà ăn thịt Ngài.

Đại hữu t́nh đă đem thân cho con hổ cái ăn thịt để cứu sống bầy con nó, và do công đức của tâm đại bi ấy, Ngài đă tái sinh lên các cơi cao hơn, và cuối cùng đạt giác ngộ, thành Phật. Nhưng không phải qua hành vi ấy Ngài chỉ làm lợi ích cho chính Ngài thôi ; năng lực đại bi nơi Ngài c̣n tịnh hóa con hổ cái và bầy con của nó thoát khỏi ác nghiệp, và khỏi nợ nghiệp mà chúng có thể mắc Ngài do Ngài cứu chúng.

V́ hành vi bi mẫn quá mănh liệt ấy đă tạo một dây nối lâu xa về sau : mẹ con hổ đă thác sinh làm 5 đệ tử đầu tiên của Ngài sau khi Ngài thành đạo. Câu chuyện này cho ta thấy năng lực của tâm đại bi thật bao la mầu nhiệm xiết bao.

5- Làm sao để thiền quán tâm Bi

Nhưng như tôi đă nói, khơi dậy năng lực tâm bi mẫn này trong ta không phải luôn luôn dễ dàng. Tôi tự thấy những cách đơn giản nhất lại là cách trực tiếp và hiệu nghiệm nhất. Mỗi ngày, cuộc sống đem lại cho ta vô số cơ hội để mở ḷng ra, chúng ta chỉ cần tóm lấy chúng : một bà già đi qua trước mặt bạn với vẻ cô đơn buồn bă, gân chân bong lên, hai tay khó nhọc xách hai túi đầy ;

Một ông già đang lê gót trước mặt bạn vào bưu điện ; một bé trai chống nạng đang bối rối cố băng qua đường trong một buổi chiều kẹt xe ; một con chó chảy máu gần chết nằm trên đường ; một cô bé ngồi khóc nức nở trong tàu hầm. Bật truyền h́nh lên có lẽ bạn sẽ thấy ngay một bà mẹ ở Beyrut quỳ bên xác con, một bà ngoại ở Moscou chỉ vào bát cháo duy nhất trong ngày, đang lo ngày mai không được như thế ;

Hoặc một em bé mắc phải Sida ở Roumanie đang nh́n bạn với đôi mắt cạn hết sức sống. Bất cứ một cảnh nào trên đây cũng có thể mở con mắt ḷng bạn ra trước thực trạng khổ đau lớn rộng của loài người. Đừng xao lăng t́nh thương, nỗi buồn đau mà cảnh ấy gợi cho bạn. Trong lúc bạn cảm thấy ḷng bi thương dâng trào, th́ đừng có dẹp nó xuống, rũ sạch nó đi, và cố quay về thật nhanh trạng thái “b́nh thường” của bạn.

Đừng sợ cảm xúc, đừng lúng túng v́ nó, hoặc làm khuây lăng nó, để trở thành vô cảm. Hăy bén nhạy với nỗi thương tâm : hăy xử dụng sự dâng trào tâm xót xa ấy, tập trung vào nó, thiền quán thật sâu về nó. Khi làm thế, bạn sẽ nhận thấy lâu nay ḿnh thật đui mù trước cảnh khổ đau làm sao, rằng cái khổ đau bạn kinh quá hay trông thấy, chỉ là một phần bé nhỏ của nổi khổ nhân loại.

Tất cả mọi loài ở khắp nơi đều khổ, hăy để ḷng bạn đi ra, đến với tất cả trong niềm bi mẫn tự nhiên và vô lượng, và hướng sự bi mẫn ấy, cùng với ân sủng chư Phật, đến việc giảm bớt thống khổ ở khắp nơi.

Đức bi mẫn là một điều lớn lao cao cả, hơn sự thương hại rất nhiều. Ḷng thương hại có gốc rễ trong nỗi sợ hăi và cảm thức kiêu căng, bề trên, đôi khi là một cảm giác nhẹ nhơm ngụ ư “may thay ta không bị” .

Stephen Levine nói : “Khi bạn chạm xúc nỗi đau của người nào với sự sợ hăi, th́ đó là ḷng thương hại ; với t́nh thương th́ đó là ḷng bi mẫn” . Tập luyện đức bi mẫn là ư thức rơ mọi loài chúng sanh đều b́nh đẳng và đau khổ như nhau, tôn trọng những người đau khổ , và biết bạn không khác ǵ, không hơn ǵ bất cứ ai.

Bởi vậy, phản ứng đầu tiên của bạn khi thấy người nào đau khổ, trở thành - không chỉ là thương hại - ḷng bi mẫn sâu xa. Bạn c̣n cảm thấy niềm kính trọng, tri ân đối với họ, v́ họ giúp bạn phát triển cái đức tính mà bạn cần nhất trên đường tiến đến giác ngộ. Bất cứ ai với sự đau khổ của họ đă nhắc nhở bạn phát tâm đại bi, th́ quả là họ đem cho bạn một món quà quư nhất.

Bởi thế, ở Tây Tạng chúng tôi nói người ăn xin xin bạn tiền, hay bà già ốm đau làm bạn thương tâm, có thể là Phật trá h́nh hiện ra để giúp bạn tăng trưởng tâm đại bi, và nhờ thế mà tiến đến cơi Phật.

6- Làm sao hướng tâm đại bi của bạn

Khi bạn thiền quán sâu xa về đại bi tâm, th́ trong bạn sẽ phát sinh một quyết định mạnh mẽ muốn làm nhẹ bớt khổ đau cho muôn loài, và một ư thức trách nhiệm mănh liệt đối với mục tiêu cao quư ấy. Vậy có hai cách để hướng tâm đại bi và làm cho nó trở nên tích cực.

Cách thứ nhất là cầu nguyện với chư Phật và các bậc giác ngộ, tự tâm khảm sâu xa của bạn, rằng mọi sự bạn làm, nói và nghĩ đều đem lại lợi ích, hạnh phúc cho hữu t́nh. Lời một bài kinh có câu : “Cho con được hữu ích” . Hăy cầu nguyện sao cho bạn làm lợi lạc mọi người nào tiếp xúc bạn, và giúp họ chuyển hóa được nỗi khổ và cuộc đời của họ.

Cách thứ hai và cách phổ quát, là hướng tâm đại bi đến tất cả hữu t́nh bằng cách hồi hướng tất cả thiện nghiệp của bạn, sự tu tập của bạn, cho sự an vui hạnh phúc của hữu t́nh, và nhất là cho họ tiến đến giác ngộ. V́ khi thiền quán sâu xa về tâm đại bi, bạn sẽ nhận chân rằng cách duy nhất để bạn có thể giúp đỡ trọn vẹn chúng sanh là chính bạn phải đạt giác ngộ.

Từ đó phát sinh một quyết định và tinh thần trách nhiệm đại đồng, và ước nguyện đại bi khởi lên nơi bạn - mong muốn đạt giác ngộ để lợi lạc tất cả hữu t́nh.

Ước nguyện đại bi ấy, Phạn ngữ gọi là Bồ-đề tâm (Bodhicitta). Bodhi là tính giác của chúng ta, c̣n citta là tâm. Vậy có thể dịch là “cái trọng tâm hay trái tim của tâm giác ngộ” .

Đánh thức và phát triển trọng tâm của tâm giác ngộ đó tức là làm cho chín mùi hạt giống Phật tính, cái hạt giống mà khi sự luyện tập về đại bi đă trở nên toàn hảo, bao trùm khắp sẽ đơm hoa kết trái thành quả Phật. Bồ-đề tâm như vậy là gốc rễ, suối nguồn của toàn thể con người tu tập Đó là lư do mà truyền thống chúng tôi tha thiết cầu nguyện như sau :

Mong ai chưa phát Bồ-đề tâm th́ hăy phát

Ai đă phát Bồ-đề tâm rồi

Mong cho Bồ-đề tâm ấy ngày càng tăng.

Và đấy là lư do Shatideva ca tụng Bồ-đề tâm như sau :

Đấy là vị cam lồ tối thượng thắng lướt cả uy thế của thần chết.

Đó là kho tàng vô tận, trừ diệt nghèo khó trong thế gian,

Đó là vị thuốc hay làm dịu cơn đau cuộc đời.

Đó là tàng đại thụ che chở muôn loài lang thang mỏi mệt trên đường sinh tử.

Đó là cây cầu lớn đưa đến giải thoát các đọa xứ.

Đó là vầng trăng mới mọc trong tâm, xua tan phiền năo của phân biệt.

Đó là mặt trời vĩ đại xóa sạch mây mù vô minh của thế nhân.


Những giai đoạn của Tonglen


Bây giờ sau khi đă giới thiệu nhiều phương pháp khởi tâm đại bi, và sự quan trọng cùng năng lực của tâm ấy, tôi có thể tŕnh bày cho bạn pháp môn Tonglen một cách hữu hiệu hơn. V́ bây giờ bạn đă có được động lực, sự hiểu biết, và khí cụ để làm việc ấy, để lợi lạc nhất cho chính bạn và cho tất cả người khác. Tonglen là một pháp môn trong đạo Phật, nhưng tôi tin chắc bất cứ ai cũng có thể làm. Dù bạn không tin theo tôn giáo nào, tôi cũng đề nghị bạn cứ thực tập mà xem. Tôi đă thấy Tonglen có lợi ích rất lớn.

Nói rất đơn giản, th́ Tonglen, pháp môn “cho và nhận” là rước vào đau đớn khổ sở của những người khác, và ban cho họ hạnh phúc của bạn, niềm an lạc, thoải mái của bạn. Cũng như một phương pháp thiền đă giải thích trước đây, Tonglen xử dụng trung gian là hơi thở. Geshe Chekhawa viết : “Cho và nhận cần thực tập xen kẽ. Sự xen kẽ này nên đặt vào trung gian là hơi thở”.

Tôi biết bằng chính kinh nghiệm bản thân, thật khó mà tưởng tượng rước vào đau khổ của người khác, nhất là người bệnh và người sắp chết, nếu trước đấy bạn không xây dựng trong bạn một năng lực và niềm tin vào đại bi tâm. Chính năng lực và niềm tin này sẽ đem lại cho bạn cái khả năng để chuyển di khổ đau của họ.

Đây là lư do tôi luôn khuyên bạn khởi sự thực tập Tonglen trên chính ḿnh trước khi làm cho người khác. Trước khi bạn trải từ bi đến người khác, bạn hăy mở ḷng từ bi, làm cho sâu sắc, tăng cường nó ngay trong chính bạn, và chữa cho bạn khỏi sự dè dặt, lo buồn, giận dữ, sợ hăi có thể gây chướng ngại trên đường thực hành Tonglen.

Qua nhiều năm, một phương pháp giảng dạy Tonglen đă được phát triển, mà các học viên của tôi đă cho là rất bổ ích và có hiệu lực chữa trị. Có 4 giai đoạn.


Pháp tu Tonglen sơ khởi


Cách hay nhất tu tập pháp này hay bất cứ pháp nào của Tonglen là khởi đầu bằng cách gợi lên tự tánh tâm và an trú trong đó : Khi bạn an trú tự tánh của tâm và thấy mọi sự một cách trực tiếp là “trống không”, như huyễn, như mộng, tức là bạn đang trú trong trạng thái gọi là “tuyệt đối” hay “Bồ-đề tâm tuyệt đối”, trái tim của tâm giác ngộ.

Giáo lư ví tâm Bồ-đề tuyệt đối này với một kho tàng bất tận của bố thí ; và tâm đại bi, khi được hiểu trong ư nghĩa sâu xa nhất của nó, chính là tia sáng tự nhiên của tự tính tâm, phương tiện thiện xảo vươn lên từ trái tim của trí giác.

Hăy khởi sự ngồi, và đưa tâm về nhà. Hăy để cho tất cả ư tưởng của bạn an vị, đừng mời mọc chúng, cũng đừng theo dơi chúng. Nhắm mắt lại nếu bạn muốn. Khi nào bạn cảm thấy thực sự an tịnh, tập trung, th́ bạn khởi động chút xíu và bắt đầu pháp tu.


1- Tonglen cho hoàn cảnh


Chúng ta đều biết trạng thái và bầu không khí của tâm ta có một mănh lực lớn đối với ta. Hăy ngồi với tâm bạn và cảm thọ trạng thái tâm và bầu không khí của nó. Nếu bạn cảm thấy trạng thái ấy là khó chịu, hay bầu không khí tối tăm, th́ bạn hăy hít vào, hăy thấm vào trong tâm bất cứ ǵ bất thiện, và khi bạn thở ra, trong tâm đưa ra sự an tịnh, sáng sủa, niềm vui, như vậy bạn có thể thanh lọc, chữa lành bầu không khí và môi trường trong tâm bạn. Đấy là lư do tôi gọi giai đoạn này là thực tập “Tonglen hoàn cảnh”.


2- Tonglen tự ngă


V́ mục đích sự tập luyện, bạn hăy chia con người bạn ra hai khía cạnh A và B. A là khía cạnh lành mạnh trong bạn, khía cạnh bi mẫn, yêu thương ấm áp, như một người bạn chân t́nh, thực sự muốn ở đấy v́ bạn, rất sẵn sàng, cởi mở, không bao giờ phê phán bạn, dù bạn có lỗi lầm nào. B là khía cạnh của bạn đă bị tổn thương, cảm thấy bị hiểu lầm, bất măn, cay đắng, giận dữ, có thể chẳng hạn lúc nhỏ đă bị đối xử bất công, bị lợi dụng, hoặc đă khổ đau trong các mối tương quan bạn bè, bị xă hội ruồng rẫy.

Bây giờ, khi bạn hít vào, hăy tưởng tượng A đang hoàn toàn mở ḷng ra, từ bi chấp nhăn và ôm choàng mọi đau khổ, tiêu cực, tổn thương của B. Cảm động v́ điều này, B mở ḷng ra, và tất cả đau khổ tiêu tan trong cái ôm của ḷng bi mẫn ấy.

Khi bạn thở ra, hăy tưởng tượng A gửi đến B tất cả niềm yêu thương tin cậy, tiện nghi, hạnh phúc và niềm hỷ lạc.


3- Tonglen trong một hoàn cảnh sống


Hăy tưởng tượng ra một hoàn cảnh trong đó bạn đă hành động rất quấy, một hoàn cảnh trong đó bạn cảm thấy phạm tội, làm bạn không muốn nghĩ tới.

Khi bạn hít vào, hăy nhận biết trách nhiệm về hành vi bạn trong hoàn cảnh đặc biệt ấy, không cố biện minh cho hành vi của bạn. Hăy nhận chân rằng bạn đă làm sai, và tha thiết cầu tha thứ. Bây giờ, khi thở ra, bạn hăy tuôn ra sự ḥa giải, tha thứ, hàn gắn, cảm thông.

Cứ như thế, hít vào sự quở trách, thở ra sự giải trừ tai hại ; hít vào trách nhiệm, thở ra sự chữa lành, tha thứ và ḥa giải.

Thực tập này rất hiệu nghiệm, có thể cho bạn cái can đảm đi đến thăm người mà bạn đă làm tổn thương, cho bạn sức mạnh và thiện chí để nói thẳng với họ và thực sự xin lỗi họ từ đáy ḷng bạn.


4- Tonglen cho người khác


Hăy tưởng tượng một người mà bạn cảm thấy rất gần gũi, nhất là một người đang đau khổ. Khi thở vào, tưởng tượng bạn thở vào tất cả đau khổ của họ với tâm đại bi, và khi thở ra, bạn gở đến nơi họ niềm thân thiết, hàn gắn, yêu thương, niềm vui, hạnh phúc.

Cũng như trong thực tập về tâm từ, hăy nới rộng dần dần phạm vi của bi tâm bao gồm trước nhất những người thân, rồi đến những người dưng, rồi đến những người bạn ít ưa, thường gặp rắc rối với họ, và cuối cùng cả đến những người mà bạn cho là quỷ quái, tàn bạo thực sự. Hăy để cho bi tâm của bạn lan khắp không chừa một ai :

Hữu t́nh vô lượng như hư không

Mong tất cả đều dễ dàng chứng được tự tính

Mong cho mỗi chúng sanh trong sáu đường

Đă từng là cha mẹ tôi trong đời này

Hay đ̣i khác đều đạt đến thật địa, sự toàn hảo

tối sơ.

Trong đoạn này tôi đă đưa ra đường lối thực hành toàn diện để chuẩn bị cho pháp Tonglen chính thức, mà bạn sẽ thấy bao hàm một tiến tŕnh quán tưởng phong phú hơn nhiều. Thực tập sơ khởi này làm việc với thái độ tâm thức của bạn, khiến bạn chuẩn bị mở ḷng ra và gợi cảm hứng cho bạn.

Không những nó giúp bạn chữa lành hoàn cảnh tâm bạn, nỗi đau khổ quá khứ của bạn, và khởi sự giúp ích mọi hữu t́nh nhờ bi tâm của bạn, mà nó c̣n giúp bạn thân thiết, quen thuộc, an trú tiến tŕnh “cho và nhận” trong phép Tonglen chính thức.


Pháp Tonglen chính thức


Trong phép “cho và nhận”, chúng ta nhận vào, qua tâm đại bi tất cả đau khổ thân tâm của mọi hữu t́nh nỗi sợ hăi, bất măn, đau đớn, giận dữ, tội lỗi, cay đắng, hoài nghi, điên tiết ; và chúng ta cho họ, qua tâm đại từ, tất cả hạnh phúc, sự thoải mái, an tâm, chữa lành và sự thành tựu của ta.

1- Trước khi thực tập, ngồi yên tĩnh và đưa tâm về nhà. Rồi xử dụng bất cứ phương pháp nào đă chỉ, mà thích hợp với bạn. Hăy thiền quán sâu xa về tâm đại bi. Triệu thỉnh tất cả Phật, Bồ-tát, thánh chúng, để nhờ ân phước các ngài, mà tâm bạn có thể phát sinh đại bi.

2- Hăy tưởng tượng trước mặt bạn càng sống động càng tốt một người thân đang đau khổ, hăy cố tưởng đến mọi khía cạnh của cơn đau và nỗi buồn khổ của họ. Khi đă thấy tâm ḿnh mở ra với họ trong niệm đại bi, bạn hăy tưởng tượng tất cả khổ đau của họ nhóm tụ thành một khối lớn khói nóng màu đen.

3- Bây giờ, hăy quán tưởng khi bạn thở vào, luồng khói đen ấy tan ra theo hơi thở của bạn và đi vào cốt lơi của ngă chấp trong tim bạn. Ở đấy nó hoàn toàn phá hủy mọi dấu vết của ngă ái, và nhờ vậy tịnh hóa tất cả ác nghiệp trong bạn.

4- Tưởng tượng, v́ ngă ái của bạn đă bị phá hủy, nên cốt lơi của tâm giác ngộ, tức Bồ-đề tâm được hoàn toàn hiển bày. Vậy, khi thở ra, hăy quán tưởng bạn đang gởi đến người bạn đang đau khổ của bạn, tia sáng mát dịu của hỷ lạc, hạnh phúc, b́nh an, và ánh sáng ấy đang tịnh hóa mọi ác nghiệp của họ.

Theo Shantieva, bạn hăy quán tưởng Bồ-đề tâm đă chuyển hóa tim bạn, toàn thân, toàn thể bạn thành một viên bảo châu như ư có thể ban cho ai bất cứ ǵ họ mong muốn, và cung cấp đúng cái ǵ họ đang cần. Tâm đại bi là viên bảo châu như ư, v́ nó sẵn có năng lực đem lại cho mỗi hữu t́nh cái mà nó cần nhất, để giảm bớt đau khổ và đem lại cho họ sự viên măn chân thực.

5- Như vậy, khi ánh sáng của Bồ-đề tâm bạn tuôn ra đến nơi người đang khổ, th́ điều cốt yếu là bạn phải tin chắc mọi nghiệp ác của y đă sạch, và cảm thấy một niềm vui sâu xa bền bỉ v́ người ấy đă thoát khổ hoàn toàn.

Khi tiếp tục thở vô ra b́nh thường, bạn hăy tiếp tục tập luyện như thế. Thực tập đối với một người thân đau khổ giúp bạn nới rộng dần phạm vi của ḷng bi mẫn để chịu thay đau đớn và tịnh hóa nghiệp ác của tất cả hữu t́nh, đem cho họ tất cả hạnh phúc, hỷ lạc, an b́nh của bạn. Đây là mục tiêu kỳ diệu của pháp môn Tonglen, và trong nghĩa rộng, của toàn thể con đường đại bi.


Tonglen cho một người sắp chết


Bây giờ, tôi nghĩ các bạn đă thấy Tonglen có thể đặc biết hướng về người sắp chết như thế nào, nó đem lại cho bạn sức mạn và ḷng tin như thế nào khi bạn giúp đỡ người sắp chết ; và nó có thể cống hiến cho người ấy lợi ích thực tiễn chuyển hóa ra sao.

Tôi đă nói đến pháp Tonglen chính thức. Bây giờ bạn thay v́ quán tưởng người thân đang đau đớn, hăy quán tưởng người sắp chết. Hăy trải qua các giai đoạn đúng như trong pháp Tonglen chính thức.

Trong pháp quán phần ba, hăy tưởng tượng mọi khía cạnh của nỗi đau đớn nơi người sắp chết, nỗi sợ hăi của họ, tất cả tụ lại thành một đống khói đen nóng ghê rợn, mà bạn thở vào, và khi làm thế, hăy quán bạn đang phá hủy ngă chấp, ngă ái, và thanh lọc tất cả nghiệp ác nơi bạn.

Rồi cũng như trên, khi thở ra, bạn quán ánh sáng của tâm Bồ-đề đang tỏa đến người sắp chết, đem lại b́nh an, thoải mái, và thanh lọc mọi ác nghiệp nơi họ.

Vào mọi lúc trong đời, chúng ta đều cần t́nh thương, nhưng không lúc nào cấp thiết cho bằng lúc ta đang chết. C̣n món quà an ủi mầu nhiệm nào hơn cho người sắp chết khi họ biết ḿnh đang cầu nguyện cho họ, đang hóa giải hết khổ đau của họ và tịnh hóa ác nghiệp họ bằng cách thực hành pháp “chịu thay” cho họ ?

Dù họ không biết bạn đang tu tập cho họ, bạn vẫn là đang giúp họ, đồng thời họ đang giúp bạn. Họ đang thực sự giúp bạn phát triển tâm đại bi, và nhờ thế bạn thanh lọc bản thân, chữa lành chính bạn. Với tôi, mỗi người sắp chết là một vị thầy đem lại cho tất cả những người giúp đỡ vị ấy một cơ hội để tự chuyển hóa nhờ phát triển tâm đại bi.


Bí quyết thánh linh


Bạn có thể tự hỏi : “Nếu tôi chịu thay tất cả đau đớn khổ sở của người khác, liệu tôi có tự hại ḿnh chăng ?”. Nếu bạn c̣n chút do dự nào, và cảm thấy chưa đủ năng lực, can đảm hay đại bi để thực tập Tonglen một cách nhiệt tâm, th́ đừng lo lắng.

Bạn chỉ cần tưởng ḿnh đang làm việc ấy, tự nhủ trong tâm : “Khi thở vào, tôi đang mang vào đau khổ của bạn tôi hay người khác ; và khi thở ra, tôi đang đem cho họ hạnh phúc và b́nh an”. Chỉ cần làm thế cũng tạo một khí hậu trong tâm, khiến bạn dễ dàng khởi sự thực tập Tonglen một cách trực tiếp.

Nếu bạn do dự hoặc không thể làm trọn vẹn sự tu tập, bạn cũng có thể làm phép “chịu thay” dưới dạng một lời cầu nguyện, ước vọng sâu xa muốn giúp đỡ cho hữu t́nh. Bạn có thể cầu, chẳng hạn : “Mong cho con có thể chịu thay người khác ; mong sao con có thể cho họ niềm an lạc hạnh phúc của con”. Sự cầu nguyện này sẽ tạo điều kiện tốt lành để đánh thức khả năng thực hành “chịu thay” của bạn về sau.

Điều duy nhất bạn nên biết chắc, đó là pháp Tonglen chỉ có làm hại cho một cái đă hại bạn nhiều nhất, đó là ngă ái, ngă thủ nơi bạn, gốc rễ của đau khổ. Nếu bạn thực tập thường xuyên, ngă chấp ấy sẽ yếu dần, và bản tính chân thực, tâm đại bi sẽ có cơ hội xuất đầu lộ diện, càng ngày càng mạnh.

Tâm đại bi của bạn càng mạnh càng lớn, th́ niềm tin, đức vô úy nơi bạn càng sâu xa. Bởi thế tâm đại bi lại hóa ra là tài nguyên lớn nhất của bạn, sự che chở bảo đảm nhất. Shantideva nói :

Ai muốn nhanh chóng có được sự che chở

Cho cả ḿnh lẫn người

Th́ hăy thực hành bí quyết thánh linh :

Chịu thay khổ đau và ban vui kẻ khác.

Bí quyết linh thiêng của pháp Tonglen này là một pháp mà mọi bậc thánh và đạo sư của mọi truyền thông đều biết, sống và thể hiện nó. Và chính sự từ bỏ, cùng với nhiệt t́nh của trí tuệ và đại bi chân thực, đă làm cho đời họ tràn đầy hỷ lạc.

Một tấm gương hy sinh cho người ốm và người chết, tỏa sáng niềm vui của “cho và nhận” ngày nay là Mẹ Teresa. Không lời nào diễn tả tinh túy của Tonglen hay hơn lời của bà : “Tất cả chúng ta đều mong mỏi được lên thiên đường với Chúa, nhưng có điều là chúng ta đều có khả năng ở thiên đường với Chúa ngay lúc này. Và sống hạnh phúc với Chúa ngay bây giờ có nghĩa là :

Yêu thương như ngài yêu thương

Giúp đỡ như ngài giúp đỡ

Cho như ngài cho

Phụng sự như ngài phụng sự

Cứu giúp như ngài cứu giúp

Ở với ngài trọn hăm bốn tiếng

Sờ hóa thân của ngài dưới dạng đau thương.

Một t́nh yêu rộng lớn như thế đă chữa lành những người bệnh cùi của Geshe Chekhawa ; nó cũng có thể giúp chữa chúng ta khỏi một căn bệnh nguy hiểm hơn thế : bệnh vô minh, mà nhiều đời kiếp đă ngăn che ta trực nhận tự tánh tâm, ngăn cản ta giải thoát.








Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 434 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 9:49pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TẠNG THƯ SỐNG CHẾT


13. GIÚP ĐỠ TINH THẦN CHO NGƯỜI SẮP CHẾT


Tôi đến Tây phương đầu tiên vào đầu thập niên 1970, và điều đă làm tôi khó chịu nhất, và hiện nay vẫn c̣n khó chịu, là hầu như thiếu hẳn sự giúp đỡ tinh thần cho người hấp hối hiện nay trong nền văn minh tân tiến. Ở Tây Tạng, như tôi đă nói, mỗi người đều có vài hiểu biết về những sự thật cao siêu của đạo Phật, và vài liên hệ với một bậc thầy.

Không ai chết mà bị cộng đồng của họ bỏ rơi, trên phương diện thiển cận cũng như sâu xa. Người ta đă kể cho tôi nghe nhiều chuyện về người chết ở Tây phương bị bỏ rơi, buồn khổ, vỡ mộng, không một nâng đỡ tinh thần nào. Một trong những động lực thúc đẩy tôi viết sách này là muốn trải đến tất cả mọi người (Tây phương) sự minh triết của Tây Tạng, có thể hàn gắn sự thiếu sót ấy.

Phải chăng tất cả chúng ta đều có quyền lúc chết không những xác ta được đối xử với niềm kính trọng, mà c̣n quan trọng hơn nữa là tâm thức chúng ta ? Phải chăng một trong những quyền chính của bất cứ xă hội văn minh nào, là để cho mỗi người trong đó đều có quyền được chết trong sự săn sóc phần tâm linh một cách toàn hảo nhất ?

Có phải chúng ta chỉ thực sự văn minh khi điều này trở thành một tiêu chuẩn được chấp nhận ? Có nghĩa ǵ các nền kỹ thuật đưa người lên cung trăng, khi mà ta không biết cách nào giúp đồng loại ḿnh chết có tư cách và hy vọng ?

Sự săn sóc tâm linh không chỉ là một xa xỉ phẩm dành cho thiểu số, nó là quyền thiết yếu của mỗi người, cũng thiết yếu như quyền chính trị, y tế và b́nh đẳng trong cơ hội. Một lư tưởng dân chủ thực sự phải bao gồm sự săn sóc tâm linh có thể thừa nhận đối với mọi người, kể như một trong những sự thật thiết yếu nhất của nó.

Bất cứ ở đâu tôi đến tại Tây phương, tôi đều kinh ngạc trước nỗi đau khổ tinh thần lớn lao do sự sợ chết phát sinh, dù họ có chấp nhận nỗi sợ ấy hay không. Thật là một điều an tâm biết bao cho người ta, nếu họ biết rằng khi nằm xuống chết họ sẽ được săn sóc với niềm yêu thương có trí tuệ.

Nền văn hóa chúng ta hiện nay thực nhẫn tâm trong sự khôn khéo của nó, sự phủ nhận mọi giá trị tâm linh của nó, đến nỗi con người ta mỗi khi đối diện với cơn bệnh nan y th́ cảm thấy kinh hoàng như họ sắp bị vứt đi như một món hàng vô dụng. Ở Tây Tạng, phản ứng tự nhiên là cầu nguyện cho người sắp chết và săn sóc tâm linh cho họ. C̣n ở phương Tây, sự lưu ư duy nhất về tâm linh mà đa số người đem lại cho người chết chỉ là đi đưa đám ma.

Quả vậy, trong thế giới Tây phương vào cái thời điểm đau đớn nhất của người hấp hối, họ thường bị bỏ rơi, hoàn toàn không được một nâng đỡ hay một tuệ giác nào để giúp họ. Đấy là một thực trạng bi đát sỉ nhục, cần phải thay đổi. Tất cả những tự hào về uy lực và thành công của nhân loại tân thời sẽ là rỗng tuếch, khi mà mọi người chưa được chết trong một mức độ an b́nh nào đó, khi chưa có ít nhất một vài nỗ lực để đảm bảo khả năng ấy.



Bên cạnh tử sàng



Một người bạn tôi, mới tốt nghiệp một trường y khoa nổi tiếng, khởi sự phục vụ trong một bệnh viện lớn ở Luân Đôn. Vào ngày đầu của phiên cô ta trực, có bốn năm người bệnh chết. Đấy là một cú sốc kinh khủng đối với cô, v́ không có một điều ǵ cô đă học có thể giúp cô đối phó thực tại ấy.

Có phải đáng ngạc nhiên không, khi xét rằng cô đă được huấn luyện để làm một bác sĩ ? Một ông già nằm trên giường, mắt trợn trừng nh́n lên vách. Ông ta chỉ có một ḿnh, không có gia đ́nh bè bạn nào đến thăm viếng cả, và ông mong mỏi có được một người nào để nói chuyện. Cô đi đến nơi ông. Đôi mắt ông đẫm lệ, giọng run run, ông hỏi cô ta một câu mà cô không ngờ : “Bà có nghĩ rằng Thượng đế sẽ tha tội cho tôi không ?” .

Bạn tôi không biết phải trả lời như thế nào ; thời gian học tập y khoa hoàn toàn không chuẩn bị cho cô những vấn đề tâm linh. Cô không có ǵ để nói, tất cả ǵ cô có bên trong chỉ là nghề nghiệp y khoa của cô. Không có nhà nguyện ở gần, và cô cứ đứng đấy, tê liệt, không thể trả lời sự kêu cứu tuyệt vọng của con bệnh, đang van xin một lời bảo đảm về ư nghĩa cuộc đời.

Cô hỏi tôi trong ngạc nhiên đau đớn : “Ngài làm được ǵ trong hoàn cảnh ấy ?” . Tôi nói, tôi sẽ ngồi bên cạnh ông, cầm tay ông và để cho ông nói. Tôi vẫn thường kinh ngạc nhiều lần khi thấy nếu bạn cứ để cho người ta thổ lộ, nếu bạn chú ư lắng nghe với tâm từ mẫn họ có thể nói những lời có chiều sâu tâm linh lạ lùng, dù cho họ nghĩ là họ không tin tôn giáo nào cả.

Mỗi người đều có tuệ giác của riêng họ về đời sống, nên khi bạn để cho họ nói, là bạn làm cho tuệ giác ấy hiển lộ. Tôi vẫn thường xúc động khi thấy được rằng, ta có thể giúp người khác “tự cứu ḿnh” bằng cách ta giúp họ khám phá sự thật trong chính họ, một sự thật mà có thể họ chưa từng biết nó phong phú, ngọt ngào, sâu xa đến mức nào.

Suối nguồn của sự lành mạnh và tuệ giác vốn ẩn sâu trong mỗi chúng ta, và công việc của bạn tuyệt nhiên không phải là áp đặt niềm tin của bạn, mà chính là giúp họ có thể t́m thấy suối nguồn của tuệ giác ấy trong chính họ.

Khi ngồi bên cạnh người sắp chết, bạn hăy tin rằng bạn đang ngồi bên cạnh một người có tiềm năng thực sự để thành Phật. Hăy tưởng tượng Phật tính họ như một tấm gương sáng vô cấu, và tất cả đau đớn lo sợ của họ chỉ như sương mù mỏng manh trên mặt gương, có thể nhanh chóng dẹp bỏ.

Điều này sẽ giúp bạn nh́n thấy họ rất dễ thương, đáng tha thứ, và giúp bạn rút ra t́nh yêu vô điều kiện của bạn. Bạn sẽ thấy thái độ này làm cho người sắp chết mở ḷng ra với bạn. Thầy Dudjom Rinpoche tôi thường bảo : Giúp một người sắp chết giống như đưa ra một bàn tay để đỡ người sắp té. Nhờ sức mạnh, sự b́nh an, sự chú ư sâu xa đầy bi mẫn của bạn, mà bạn có thể giúp họ đánh thức sức mạnh nơi chính họ.

Tính chất sự hiện diện của bạn vào cái lúc dễ tổn thương nhất, gay cấn nhất ấy thực vô cùng quan trọng. Cicely Saunders viết : “Người sắp chết đă rũ bỏ những mặt nạ và những nông cạn của sự sống hàng ngày, và chính v́ vậy mà họ cởi mở hơn, nhạy cảm hơn. Họ thấy rơ mọi sự giả dối. Tôi nhớ một người đă nói : “Không, xin đừng đọc. Tôi chỉ cần những ǵ ở trong trí bạn, trong tim bạn mà thôi” .

Tôi chưa bao giờ đến bên giường người sắp chết mà trước đấy không nhúng ḿnh vào bầu không khí thiêng liêng của tự tánh tâm. Khi ấy tôi không cần phải vất vả để có được tâm đại bi và sự chân thực, v́ những tính này đă có ở trong đấy, chiếu sáng một cách tự nhiên.

Cần nhớ rằng bạn không thể làm ǵ để gây cảm hứng cho người trước mặt bạn, nếu chính bạn không có cảm hứng từ trong tâm bạn. Bởi vậy, khi nào bạn không biết phải làm ǵ, không biết làm sao để giúp đỡ, th́ hăy cầu nguyện và thiền quán, triệu thỉnh Phật hay bất cứ năng lực thiêng liêng nào bạn tin.

Mỗi khi gặp người nào đang trải qua nỗi thống khổ ghê gớm, tôi lại tha thiết cầu khẩn sự giúp đỡ của chư Phật và thánh chúng, với tim tôi hoàn toàn mở về hướng người sắp chết, tràn đầy bi mẫn đối với nỗi đau của họ.

Thu hết năng lực của ḷng sùng kính tin tưởng, tôi quán h́nh ảnh các ngài đầy ánh sáng đang ở trên đầu người sắp chết, từ bi nh́n xuống họ và chan ḥa ánh sáng ân sủng lên họ, thanh lọc ác nghiệp họ trong quá khứ và nỗi đau đớn trong hiện tại. Tôi lại cầu nguyện cho người ấy không c̣n khổ nữa, được giải thoát b́nh an.

Tôi làm việc ấy với sự tập trung nghiêm cẩn, rồi an trú trong tự tính tâm, để cho sự b́nh an và ánh sáng của tự tính lan khắp không khí trong pḥng. Tôi đă nhiều lần cảm thấy úy phục bởi cảm giác có một hiện hữu thiêng liêng đang ở đấy một cách tự nhiên và ảnh hưởng đến người sắp chết.

Tôi lại nói điều này, có lẽ sẽ làm bạn ngạc nhiên : có thể có đầy cảm hứng trong sự chết. Trong kinh nghiệm tôi có với những người sắp chết, tôi đă thấy rằng tôi phải kinh ngạc khi thấy sự cầu nguyện, triệu thỉnh của tôi đă làm thay đổi bầu không khí, khiến cho đức tin của tôi tăng trưởng sâu xa khi thấy hiệu lực của sự cầu nguyện và hiện hữu của chư Phật. Nhờ ở cạnh người sắp chết mà tự tu tập của tôi càng có năng lực lớn hơn.

Đôi khi những người sắp chết cũng cảm nhận được bầu không khí đầy cảm ứng đạo giao ấy, và lấy làm tri ân v́ đă tạo cơ hội cho cả hai chúng tôi cùng đạt đến một giây phút thực sự gây cảm khái và hoán cải.



Đem lại hy vọng và t́m sự tha thứ



Tôi muốn nêu lên hai điểm trong việc giúp đỡ tinh thần người hấp hối : đem lại hy vọng, và t́m thấy sự tha thứ.

Khi gần người sắp chết, luôn luôn bạn chỉ nên giữ lấy những ǵ họ đă thành tựu được, những thành công của họ. Giúp họ cảm thấy họ đă sống một đời hữu ích và hạnh phúc, càng nhiều càng tốt. Tập trung vào đức tính của họ, chứ không tập trung vào lỗi lầm của họ. Người sắp chết thường rất nhạy cảm về tội lỗi, hối hận, buồn nản, hăy để họ trút hết tất cả ra, lắng nghe và công nhận những ǵ họ nói.

Đồng thời, lúc thích hợp, hăy nhớ nhắc họ Phật tính của họ, và khuyên họ cố an trú tự tính nhờ thiền định. Nhất là nhắc họ nhớ : đau đớn khổ sở không phải là cả cuộc đời họ. T́m cách nào hiệu quả nhất, để gợi cảm hứng cho họ, gây cho họ niềm hy vọng. Nhờ vậy, họ có thể chết với tâm an lạc thay v́ cứ nhớ tới lỗi lầm của ḿnh.

Với người la lên một câu : “Bạn có nghĩ Thượng đế sẽ tha tội cho tôi chăng ?”, tôi sẽ nói : “Sự tha thứ đă có sẵn trong bản chất của Thượng đế. Thượng đế đă tha cho bạn rồi, v́ Thượng đế chính là sự tha thứ. Lầm lạc là con người, tha thứ là Thượng đế. Nhưng bạn có thể tha thứ cho bạn không ? Đó mới thực là vấn đề.

“Chính cái cảm tưởng không được tha thứ và không thể tha thứ đă làm cho bạn đau khổ. Nhưng cảm tưởng ấy chỉ có trong tâm trí bạn. Bạn chưa đọc về một vài kinh nghiệm cận tử nói có một ánh hào quang vàng rực chiếu đến toàn là sự tha thứ sao ? Và thông thường có câu rằng : chỉ có chúng ta tự phê phán chúng ta mà thôi.

Muốn giải tỏa tội lỗi bạn, hăy xin thanh lọc từ tận đáy tim bạn. Nếu bạn thực sự xin sám hối và trải qua sự thanh lọc ấy, th́ sự tha thứ đă có ở đấy rồi. Thượng đế sẽ tha thứ bạn, hệt như người cha tha thứ cho đứa con hoang đàng trong ẩn dụ đẹp đẽ của Ki-tô giáo. Muốn giúp bạn tự tha thứ cho bạn, th́ hăy nhớ lại những việc tốt bạn đă làm, hăy tha thứ cho mọi người khác trong đời bạn, và xin lỗi bất cứ người nào mà bạn đă làm hại” .

Không phải ai cũng tin vào một tôn giáo, nhưng hầu như ai cũng tin vào sự tha thứ. Bạn có thể giúp người sắp chết rất nhiều bằng cách cho họ thấy thời gian cận tử là lúc để tha thứ và giảng ḥa.

Hăy khuyên họ ḥa giải với bạn bè thân quyến, dọn sạch cơi ḷng để đừng giữ lại dấu vết nào của sự sân giận hay oán ghét. Nếu họ không thể gặp người mà họ có vấn đề, th́ hăy gợi ư họ điện thoại hay nói vào máy ghi âm cho người ấy, hay viết một bức thư để xin tha thứ.

Nếu họ ngờ vực người kia không tha thứ được, th́ ta không nên khuyên họ chạm mặt trực tiếp với người kia ; v́ một phản ứng tiêu cực chỉ làm tăng thêm nỗi buồn khổ của họ. Đôi lúc người ta cần thời gian để tha thứ. Hăy nói họ để lại một bức thư xin lỗi, để ít nhất họ có thể chết trong khi biết ḿnh đă làm hết sức ḿnh, có thể giải tỏa sự gay cấn giận hờn khỏi trái tim họ.

Nhiều lúc tôi đă thấy những người trái tim cứng lại v́ tự giận và v́ mặc cảm phạm tội, cuối cùng chỉ nhờ một hành vi xin lỗi mà đă có được một năng lực và sự b́nh an không ngờ.

Tất cả mọi tôn giáo đều nhấn mạnh năng lực của tha thứ, và năng lực này không bao giờ cần thiết và được cảm thụ một cách sâu xa cho bằng lúc người sắp chết nhờ tha thứ và được tha thứ, mà đă thanh lọc ḿnh khỏi màn hắc ám và chuẩn bị một cách trọn vẹn cho cuộc hành tŕnh đi qua cái chết.



T́m một pháp tu



Nếu người thân bạn đang chết đă quen với một lối thiền định nào đó, th́ bạn hăy khuyên y an trú trong thiền ấy càng nhiều càng tốt, và hăy nhập thiền định với họ khi cái chết đến gần. Nếu người sắp chết sẵn sàng chấp nhận một pháp tu, bạn hăy giúp họ t́m một pháp tu thích hợp, giản dị, và cùng thực tập với họ càng thường xuyên càng tốt, và nhẹ nhàng nhắc cho họ thực tập pháp ấy khi cái chết đến gần.

Bạn cần phải phong phú, sáng tạo trong cách giúp đỡ, vào cái lúc cao điểm này, v́ rất nhiều chuyện lệ thuộc vào đấy. Toàn thể bầu không khí chết chóc có thể được chuyển hóa nếu người ta t́m được một pháp tu mà họ có thể làm hết ḿnh, trước và trong khi họ chết. Có rất nhiều phương diện của sự tu tập tâm linh, bạn phải sử dụng tính mẫn cảm của bạn để t́m ra phương diện liên hệ tới họ nhiều nhất : hoặc tha thứ (sám hối), hoặc thanh luyện, hoặc hiến dâng, hoặc cảm thấy hiện diện của ánh sáng và t́nh yêu.

Khi bạn giúp họ khởi sự tu tập, hăy tha thiết cầu nguyện cho họ tập luyện thành công, nguyện cho họ có mọi năng lực và đức tin để theo con đường họ chọn. Tôi đă biết có những người ngay cả khi gần chết, đă làm được sự tiến bộ tâm linh rơ rệt nhờ sử dụng một câu chú, một bài kinh hay một sự quán tưởng đơn giản, nhờ vào đó họ đă thực sự liên lạc được với cái tâm của họ.

Stephen Levine kể cho tôi câu chuyện về một phụ nữ chết v́ bệnh ung thư. Bà cảm thấy chới với v́ đă bỏ nhà thờ, mặc dù bà sùng kính Chúa Giê-su. Stephen cùng bà ta cố t́m cách nào để bà có thể lấy lại được sức mạnh của ḷng tin và sự sùng kính ấy.

Bà nhận ra rằng cái điều có thể giúp bà tái lập quan hệ với Chúa để t́m được một ít b́nh an, tin tưởng trong lúc chết, là liên tục nhẩm lời cầu nguyện : “Xin Chúa Ki-tô hăy thương xót con” . Sự đọc lời nguyện này đă mở ḷng bà, làm cho bà khởi sự cảm thấy sự hiện diện của Chúa ở bên bà măi măi.



Pháp chuyển di tâm thức “Phowa”



Pháp tu có giá trị nhất, hiệu lực nhất mà tôi t́m thấy trong lúc săn sóc người hấp hối, là pháp chuyển di tâm thức, Tạng ngữ là phowa. Rất nhiều người hăng hái theo pháp này.

Pháp chuyển di tâm này đă được thực hiện bởi những bạn bè thân quyến hay thầy (của người chết) ở khắp nơi trên thế giới Úc, Mỹ và AÂu châu. Nhờ năng lực của nó mà hàng ngàn người đă có cơ hội để chết một cách thanh thản. Tôi lấy làm hoan hỷ khi đem trái tim của sự thực hành “chuyển di” này đến cho bất cứ ai cần dùng.

Tôi muốn nhấn mạnh, pháp tu này ai làm cũng được. Nó rất giản dị, nhưng cũng là pháp tu cốt yếu nhất mà ta có thể làm để tự chuẩn bị cái chết cho ta. Và đây là phần thực tập chính thức mà tôi đă dạy cho học tṛ để giúp người bạn sắp chết của họ, hoặc những bà con thân quyến đă chết.



Thực tập một :



Trước hết, ngồi thoải mái theo thế ngồi thiền. Nếu bạn làm thực tập này lúc bạn gần chết, th́ có thể ngồi kiểu nào thuận tiện cho bạn, hoặc nằm mà tập.

Rồi đưa tâm bạn về nhà, buông xả, thư giăn hoàn toàn.

1- Trong bầu trời trước mặt, bạn hăy triệu thỉnh biểu tượng của chân lư mà bạn tin, dưới dạng ánh sáng tỏa chiếu. Hăy chọn h́nh ảnh vị Phật hay thần thánh nào bạn thích. Nếu bạn không có liên hệ đặc biệt với một h́nh ảnh nào cả, th́ chỉ tưởng tượng một ánh sáng vàng ṛng trong nền trời trước mặt.

Điểm quan trọng là bạn xem đấy là biểu tượng của chân lư, trí tuệ và từ bi của tất cả chư Phật, thánh chúng, các bậc thầy, các bậc đă giác ngộ. Đừng lo nếu bạn không quán ra h́nh ảnh được một cách rơ ràng. Chỉ cần bạn làm tràn ngập tim ḿnh với sự hiện diện của Phật, và tin rằng Phật đang ở đấy

2- Rồi tập trung tâm, trí, hồn của bạn vào hiện diện mà bạn đă triệu thỉnh, và cầu nguyện như sau :

Nhờ ân sủng, sự d́u dắt, năng lực ánh sáng tuôn phát từ nơi ngài.

Xin cho tất cả ác nghiệp của con, phiền năo nghiệp chướng đều được tịnh trừ.

Xin cho con tự biết đă được tha thứ về tất cả điều hại mà con đă nghĩ và làm.

Xin cho con hoàn tất phép chuyển di sâu xa này, để chết một cái chết an ổn.

Và qua sự chết vinh quang của con, mong con có thể lợi lạc tất cả hữu t́nh sống hay chết.

3- Bây giờ, hăy tưởng tượng sự hiện diện ánh sáng mà bạn đă triệu thỉnh do lời cầu nguyện chân thành tha thiết của bạn liền đáp ứng bằng một nụ cười âu yếm và gởi đến bạn ḷng từ bi trong một luồng ánh sáng từ trái tim vị ấy chiếu ra. Khi ánh sáng này chạm tới bạn, vào trong bản thể bạn, th́ bao nhiêu ác nghiệp phiền năo chướng ngại của bạn, nguyên nhân đau khổ đều được tịnh hóa. Bạn thấy và cảm nhận rằng bạn hoàn toàn ch́m ngập trong ánh sáng ân sủng ấy.

4- Bây giờ bạn đă được tịnh hóa, hoàn toàn được chữa lành những đau khổ, nhờ ánh sáng ấy. Hăy xem như chính thân thể do nghiệp sanh của bạn, bây giờ bỗng tan ră hoàn toàn thành ánh sáng.

5- Cái thân bằng áng sáng của bạn bây giờ bay lên hư không và tan ḥa trong sự hiện diện của ánh sáng ân sủng trên kia, thành một nhất thể bất khả phân.

6- An trú trong trạng thái nhất thể ấy càng lâu càng tốt.



Thực tập hai :



1- Muốn thực tập pháp này cách giản dị hơn, hăy bắt đầu như trên, bằng cách nghỉ ngơi yên tĩnh, rồi triệu thỉnh sự hiện diện của chân lư.

2- Tưởng tượng tâm thức của bạn như một trái cầu sáng ở tim, chiếu ra như một v́ sao băng, và bay vào tim của sự hiện diện trước mặt bạn.

3- Trái cầu sáng ấy tan ra và ḥa nhập với hiện diện ấy.

Qua sự luyện tập này, bạn đặt tâm bạn vào tâm giác ngộ của Phật. Dilgo Khientse Rinpoche nói rằng giống như ném một ḥn sỏi vào hồ, nghĩ đến ḥn sỏi ch́m xuống càng lúc càng sâu. Quán tưởng rằng nhờ ân sủng đó, tâm bạn được chuyển hóa thành tâm giác ngộ của Phật.



Thực tập ba :



Phương pháp cốt yếu nhất để tập luyện phép này như sau : chỉ việc ḥa tâm bạn vào tâm giác ngộ của hiện diện thuần khiết. Hăy quán : “Tâm con và tâm Phật là một” .

Bạn hăy chọn bất cứ phương pháp nào trong các pháp trên, mà bạn thấy thuận tiện ; hoặc pháp nào hấp dẫn bạn nhất vào một lúc đặc biệt nào đó. Đôi khi pháp môn hiệu nghiệm nhất có thể lại là pháp môn đơn giản nhất. Nhưng dù chọn cách nào, điều cốt yếu vẫn là bạn cần thời gian tập luyện cho thuần thục.

C̣n cách nào khác để bạn có được niềm tin cậy mà làm phép Chuyển di cho chính bạn hay người khác vào lúc chết ? Thầy tôi, Jamyang Khientse Rinpoche nói : “Nếu bạn thiền định và tập theo cách ấy luôn luôn th́ vào lúc chết, nó sẽ xảy đến một cách dễ dàng”.

Quả thế, bạn cần phải quen thuộc với phép Chuyển di này để cho nó thành một phản xạ tự nhiên, bản tính thứ hai của bạn. Nếu bạn đă xem phim Gandhi, bạn sẽ thấy khi bị bắn, phản ứng lập tức của ngài là kêu lên “Ram... Ram !” (Thượng đế của Ấn giáo). Hăy nhớ, chúng ta không bao giờ biết được khi nào th́ ḿnh chết, hoặc biết ḿnh có thời giờ mà nhớ lại pháp môn nào không.

Ta sẽ có bao nhiêu thời gị, chẳng hạn, nếu ta tông chiếc xe hơi của ḿnh vào một xe cam-nhông đang chạy hết tốc lực trên xa lộ ? Khi ấy sẽ không có một giây nào để nghĩ cách nào làm phép Chuyển di, hoặc để xem lại những xách chỉ dẫn trong sách này. Hoặc chúng ta đă thuần thục phép Chuyển di, hoặc là không.

Có một cách đơn giản để đo lường điều này : hăy xem phản ứng của bạn khi gặp hoàn cảnh khủng hoảng, hoặc trong một phút kinh hoàng như động đất, hay ác mộng. Bạn có phản ứng bằng phép Chuyển di hay không ? Nếu có, bạn làm với mức độ tin tưởng thế nào, vững vàng thế nào ?

Tôi nhớ một học tṛ tôi ở Mỹ, có lần cỡi ngựa đi chơi. Con ngựa hất nàng xuống, bàn chân nàng mắc vào sợi dây cương, và nàng bị kéo xềnh xệch trên đường. Tâm trí nàng trống rỗng, nàng cố một cách vô vọng để nhớ lại vài pháp môn nhưng không nhớ được một tí ǵ. Nàng đâm ra kinh hoàng thất sắc. Một điều tốt về nỗi hoảng sợ này là, nó làm cho nàng nhận chân rằng sự tập luyện cần phải trở thành bản tính thứ hai của ḿnh mới được.

Đây là bài học của nàng phải học, quả thế, là bài học mà tất cả chúng ta phải học. Hăy thực tập Chuyển di càng nhiều càng tốt, cho đến khi bạn bảo đảm có thể phản ứng lại bất cứ biến cố bất ngờ nào, bằng pháp môn ấy. Điều ấy sẽ bảo đảm rằng khi cái chết xảy đến, bạn sẽ sẵn sàng.



Dùng pháp Chuyển di để giúp người sắp chết



Làm sao chúng ta sử dụng pháp này để giúp một người sắp chết ?

Nguyên tắc và thứ tự của sự tập luyện cũng giống như đă nói ; chỉ khác là bạn quán h́nh ảnh Phật ở trên đầu người sắp chết. Tưởng tượng những tia sáng trút xuống người hấp hối, tịnh hóa bản thể họ, và người ấy đang tan thành ánh sáng, nhập vào ánh sáng của Phật.

Làm pháp này suốt thời gian người thân của bạn bị bệnh, nhất là vào lúc họ thở hơi cuối cùng, hoặc vừa khi ngưng thở, trước khi thân thể họ bị động tới bằng cách nào đó. Nếu người hấp hối biết bạn sắp làm phép ấy cho họ, và đă biết qua pháp môn này, th́ điều ấy có thể đem lại cho họ một nguồn cảm hứng và an ủi lớn lao.

Hăy ngồi yên tĩnh với người hấp hối, thắp đèn sáng trước một h́nh ảnh Phật, rồi luyện pháp Chuyển di này cho họ. Bạn có thể tập luyện trong lặng lẽ, không cần người kia biết ; trái lại nếu người kia sẵn sàng - như phần đông người sắp chết - th́ bạn chỉ cho họ cách quán tưởng và cùng làm với họ.

Người ta thường hỏi : “Nếu người bà con đang hấp hối của tôi là một người thực hành Ki-tô giáo, c̣n tôi là Phật tử, th́ có mâu thuẩn ǵ không ?” . Làm sao có mâu thuẩn được ? Bạn đang triệu thỉnh chân lư, và Chúa hay Phật đều là hiện thân đầy từ bi của chân lư, xuất hiện cách cách khác nhau để giúp đỡ con người.

Tôi cực lực đề nghị các bác sĩ, y tá cũng nên tập pháp Chuyển di cho những bệnh nhân đang hấp hối của họ. Hăy tưởng tượng điều ấy sẽ thay đổi bầu không khí trong bệnh viện một cách kỳ diệu thế nào, nếu những người chữa trị cho người hấp hối cũng làm pháp Chuyển di này. Tôi nhớ cái chết của thầy Samten lúc tôi c̣n bé, hồi đó thầy tôi và các tu sĩ đều giúp ông. Thật là mănh liệt, nhẹ nhàng làm sao ! Điều tôi mong mỏi nhất là ai cũng chết được với niềm b́nh an và ân sủng như thầy Samten.

Tôi đă soạn pháp Chuyển di vắn tắt này từ pháp truyền thống đặc biệt của Tây Tạng dành cho người sắp chết. Nó bao gồm tất cả những nguyên tắc quan trọng nhất. Không những nó chỉ là một pháp luyện tập cho người sắp chết, mà c̣n có thể dùng để tịnh hóa và chữa lành ; nó c̣n quan trọng đối với người đang sống và người bệnh nữa.

Nếu người ốm khỏi bệnh, th́ pháp này giúp cho khỏi bệnh ; nếu người ấy chết th́ pháp này sẽ giúp chữa lành tâm hồn họ trong khi chết ; nếu người ấy đă chết, th́ nó vẫn tiếp tục tịnh hóa người sống cũng như người chết.

Nếu bạn không chắc người bệnh nặng có qua khỏi hay sẽ chết, th́ mỗi khi đi thăm, hăy làm pháp này cho họ, và khi về nhà lại làm nữa. Càng làm nhiều lần, th́ người sắp chết càng được tịnh hóa. Bạn không bao giờ biết ḿnh có gặp lại họ không, hoặc có hiện diện khi họ chết hay không, bởi thế mỗi lần viếng thăm, bạn nên kết thúc bằng pháp Chuyển di này để chuẩn bị và tiếp tục làm lúc bạn rảnh rỗi.



Cống hiến cái chết của chúng ta



Trích từ Tử thư Tây Tạng :

“Này thiện nam, nay cái gọi là “chết” đă đến, vậy ngươi hăy có thái độ này : Tôi đă tới thời chết. Bây giờ, qua cái chết này, tôi sẽ giữ thái độ của tâm đă giác ngộ mà thôi, đó là từ và bi, và sẽ đạt giác ngộ hoàn toàn v́ lợi lạc cho tất cả hữu t́nh nhiều vô lượng như không gian...”

Gần đây, một học tṛ tôi đến nói với tôi : “Bạn tôi mới có 25 tuổi đang đau đớn và sắp chết v́ bệnh ung thư máu. Y đă đâm ra cay đắng kinh khủng, và tôi sợ y sẽ bị chết      đuố i trong nỗi cay đắng. Y cứ hỏi tôi : “Tôi có thể làm ǵ với tất cả nỗi khổ đau kinh khủng, vô ích này ?”.

Tim tôi hướng về cô và người bạn cô. Có lẽ không ǵ đau khổ bằng thấy ḿnh chịu khổ đau một cách vô ích. Tôi bảo cô học tṛ tôi rằng : “Có một cách để bạn cô có thể chuyển hóa cái chết của y ngay bây giờ, ngay trong cơn đau ghê gớm mà y đang chịu đựng : đó là y hăy hiến dâng với tất cả tấm ḷng, nỗi khổ của cái chết và chính cái chết của y, cho sự lợi lạc và hạnh phúc tối hậu của người khác”.

Tôi bảo cô ta hăy nói với y : “Tôi biết bạn đang đau đớn rất nhiều. Hăy tưởng tượng giờ phút này tất cả những người trên thế giới đang đau đớn như bạn, hay c̣n đau hơn nữa, và để trái tim bạn tràn ngập sự bi mẫn đối với họ. Hăy cầu nguyện rằng sự khổ đau của bạn sẽ giúp làm vơi bớt khổ đau của họ.

Bạn hăy lập đi lập lại sự hiến dâng nỗi đau đớn của bạn để làm vơi bớt khổ đau của nhân loại. Và rồi bạn sẽ t́m được ngay trong chính bạn một nguồn năng lực mới, một ḷng bi mẫn mà bây giờ bạn khó tưởng tượng nổi, và bạn sẽ có được niềm xác tín không chút nghi ngờ, rằng nỗi đau của bạn không những không vô ích, mà c̣n mang một ư nghĩa nhiệm mầu” .

Điều mà tôi diễn đạt cho người học tṛ tôi kỳ thực là phương pháp hành tŕ Tonglen, “chịu thay” , hay “cho và nhận” mà tôi đă tŕnh bày, nhưng nó c̣n có ư nghĩa đặc biệt đối với người đang mắc bệnh nan y hay sắp chết.

Nếu bạn bị một căn bệnh như Sida hay ung thư, bạn hăy cố hết sức tưởng đến mọi người đồng bệnh với bạn trên thế giới.

Hăy tự nhủ bạn, với ḷng bi mẫn sâu xa : “Tôi xin chịu thay đau đớn cho tất cả những ai có căn bệnh hiểm nghèo này. Mong cho họ giải thoát thoát khỏi đau đớn này và khỏi tất cả khổ đau của họ” .

Rồi hăy tưởng tượng những ung nhọt, bệnh tật của người ấy từ giă cơ thể họ dưới dạng khói tan vào ung nhọt, bệnh tật của bạn. Khi thở vào, bạn thở vào tất cả đau đớn của họ, và khi thở ra, bạn thở ra toàn sự khỏi bệnh, sự an lạc. Mỗi khi thực tập, bạn hăy tin chắc bây giờ những người kia đă được chữa khỏi.

Khi bạn gần chết, hăy liên tục nghĩ trong tâm : “Tôi xin chịu thay sự đau khổ, nỗi sợ hăi, cô đơn của tất cả mọi người trên thế giới giờ phút này đang hấp hối, đang chết. Mong tất cả họ đều thoát khỏi đau đớn mê mờ ; mong tất cả họ đều được tiện nghi và an ổn. Mong sao tất cả đau đớn mà tôi đang chịu và sẽ chịu trong tương lai có thể giúp họ tiến đến một tái sinh tốt đẹp và cuối cùng đạt giác ngộ” .

Tôi biết một nghệ sĩ ở Nữu Ước chết v́ chứng Sida. Anh ta có thói cay cú và ghét tất cả tôn giáo có tổ chức, mặc dù chúng tôi đều nghĩ thâm tâm anh có nhiều ṭ ṃ về tâm linh hơn là anh công nhận. Bạn bè khuyên anh nên đến gặp một bậc thầy Tây Tạng. Ngài hiểu ngay rằng nguyên nhân lớn nhất của nỗi bất măn và đau khổ nơi anh là v́ anh cảm thấy nỗi khổ của anh không có lợi ǵ cho chính anh, hay bất cứ ai.

Bởi thế, ngài dạy anh một pháp môn duy nhất : “Chịu thay”, tức Tonglen. Mặc dù lúc đầu hơi hoài nghi, song anh cũng chịu tu tập, và bạn bè thấy anh thay đổi một cách diệu kỳ. Anh nói cho họ biết rằng nhờ pháp “chịu thay” nên nỗi đau đớn mà trước đây anh thấy vô nghĩa, kinh khủng, bây giờ lại đầy mục đích vinh quang. Ai biết anh đều công nhận ư thức mới về mục đích này đă chuyển hóa cái chết của anh như thế nào. Anh chết trong thanh thản, ḥa giải với chính ḿnh và với nỗi khổ đau của ḿnh.

Nếu sự tu luyện pháp “chịu thay” này có thể cải hóa một người trước đây chưa từng tu tập, th́ thử tưởng tượng với một bậc thầy vĩ đại, nó c̣n có năng lực biết ngần nào. Khi Gyalwang Karmapa chết ở Chicago vào năm 1981, một môn đệ của ngài kể lại :

“Vào lúc tôi viếng thăm, ngài đă qua nhiều cuộc giải phẫu, vài thân phần bị cắt bớt, nhiều vật khác bỏ thêm vào, máu ngài được chuyền thêm.v.v... Cứ mỗi ngày các bác sĩ lại khám phá thêm một bệnh mới, chỉ để thấy hôm sau nó hoàn toàn biến mất và thay bằng một bệnh khác, dường như tất cả bệnh tật trên thế giới đều có chỗ cư trú trong xương thịt của ngài.

Suốt hai tháng liền, ngài không dùng được thực phẩm cứng, cuối cùng bác sĩ cũng hết hy vọng, nghĩ ngài không thể nào sống được nữa nên các bác sĩ định rút ra tất cả máy móc duy tŕ sự sống của ngài.

Nhưng ngài bảo : “Không, tôi sẽ sống, cứ để vậy”, và ngài vẫn sống, làm cho các bác sĩ kinh ngạc. Ngài lại có vẻ hoàn toàn thoải mái trong hoàn cảnh của ngài cười pha tṛ, làm như ngài vui mừng trước mọi sự mà cơ thể ngài chịu đựng.

Khi ấy tôi nghĩ, với niềm tin sáng suốt nhất, ngài đă chịu tất cả sự cắt xẻ ấy, chịu mọi xuất hiện của các chứng bệnh trên cơ thể ngài, chịu nhịn đói, bằng một cách hoàn toàn cố ư tự nguyện : rơ ràng ngài đang cố chịu những bệnh tật để giúp giảm thiểu những khổ chiến tranh, đói khát, tật bệnh sắp tới, để tránh nỗi thống khổ kinh hoàng cho nhân loại trong thời đại đen tối này.

Đối với những người có mặt hôm ấy, cái chết của ngài là một cảm hứng khó quên. Nó chứng tỏ một cách sâu xa hiệu lực của pháp, và cái sự kiện đạt giác ngộ v́ người khác là chuyện có thực” .

Bây giờ tôi tin chắc một điều, không ai ở đời cần phải chết trong ân hận, cay đắng cả. Không một đau khổ nào, dù kinh hăi tới đâu, là vô nghĩa, nếu sự đau khổ ấy được hiến dâng để giảm thiểu khổ đau của người khác.

Trước mắt chúng ta có những tấm gương cao cả là những bậc thầy tối thượng với tâm đại bi, đă sống và chết với pháp tu “chịu thay”, đem vào đau khổ của tất cả hữu t́nh khi thở vào, và chan ḥa cho nhân loại sự lành mạnh, khỏi bệnh khi thở ra trọn đời như thế, cho đến khi hơi thở cuối cùng. Ḷng đại bi của các ngài mănh liệt, bao la tới nỗi vào lúc chết, nó mang các ngài tái sinh vào ngay cơi Phật.

Thế giới và kinh nghiệm của chúng ta về nhân sinh sẽ được chuyển hóa xiết bao nếu mỗi chúng ta trong suốt cuộc đời và lúc chết, có thể đọc lời nguyện của Shantideva và các bậc thầy của tâm đại bi :

Với những người bơ vơ, tôi xin làm người che chở

Với kẻ lữ hành, tôi xin làm người hướng đạo

Xin được là thuyền, là cầu, là lối đi qua

Cho người muốn đến bờ kia

Mong sao đau khổ của mọi sinh vật

Đều hoàn toàn chấm dứt.

Mong cho tôi được là y sĩ

Là dược liệu, là người điều dưỡng mọi bệnh nhân

Cho đến khi mọi người đều được chữa khỏi.

Như hư không

Như đất và bốn đại chủng

Mong rằng tôi luôn nâng đỡ sự sống của vô lượng sinh loài

Cho đến khi chúng chết v́ đau đớn

Tôi vẫn là nguồn sống

Cho mọi cảnh giới chúng sanh

Đến tận cùng hư không ấy.







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 435 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 9:57pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TẠNG THƯ SỐNG CHẾT


14. NHỮNG HÀNH TR̀ CHO NGƯỜI SẮP CHẾT


Tôi nhớ nhiều người thường đến thầy Jamyang Khientse tôi để xin thầy chỉ dẫn cho lúc sắp chết. Ngài được yêu mến, kính trọng khắp xứ Tây Tạng, nhất là ở vùng tỉnh Kham về phía Đông. Nhiều người đă du hành hàng tháng để đến gặp ngài và xin ngài ban ân phước một lần trước khi họ chết.

Tất cả các bậc thầy của tôi đều cho lời khuyên sau đây, v́ nó là cốt tủy tối cần cho bạn vào lúc chết : “Hăy giải thoát mọi sự bám víu và ghét bỏ. Hăy để tâm thanh tịnh. Hợp nhất tâm bạn với tâm Phật” .

Toàn thể thái độ của đạo Phật đối với lúc chết có thể tóm tắt trong đoạn thơ sau, của Padmasambhava trong Tử Thư Tây Tạng :

Khi Trung Ấm chết xuất hiện

Tôi sẽ từ bỏ mọi chấp thủ, khát khao, lưu luyến

Thể nhập không tán loạn vào minh sát giáo lư

Và chiếu tâm tôi vào không gian của Tự Tánh vô sanh

Khi xả cái thân do máu thịt tập hợp này

Tôi sẽ biết nó chỉ là phù du mộng huyễn.

Vào lúc chết, có hai việc đáng kể : những ǵ ta đă làm trong đời, và tâm trạng ta lúc sắp chết. Dù ta có tích lũy rất nhiều ác nghiệp, song nếu ta có thể thật sự thay đổi ḷng dạ vào lúc chết, th́ điều ấy chắc chắn có thể ảnh hưởng đến tương lai ta và chuyển hóa nghiệp của ta, bởi v́ giờ phút chết là một cơ hội vô vàn mănh liệt để tịnh hóa nghiệp chướng.



Giây phút chết



Hăy nhớ mọi tập quán khuynh hướng đă chất chứa trong nền tảng tâm thông thường của ta, đang nằm sẵn để có thể bị khởi động bởi bất cứ một ảnh hưởng nào. Ngay hiện tại ta cũng biết chỉ cần một khiêu khích nhỏ cũng đủ để làm cho những phản ứng quen thuộc, bản năng nơi ta nổi lên. Điều này càng đúng hơn vào lúc chết. Đức Dalai Lama giải thích :

“Vào lúc chết, những thái độ ta đă quen thói từ lâu thường thắng lướt để hướng dẫn tái sinh. Cũng v́ lư do này, sự chấp thủ mănh liệt đối với tự ngă được phát sinh, v́ người ta sợ tự ngă ḿnh đang biến mất. Sự chấp thủ này là dây nối ở khoảng giữa hai đời sống. Ước muốn có một thân xác mới là cái nhân để tạo ra thân Trung Ấm”.

Bởi vậy, tâm trạng chúng ta vào lúc chết vô cùng quan trọng. Nếu ta chết trong tâm trạng tích cực, ta có thể cải thiện tái sinh kế tiếp của ḿnh, mặc dù nghiệp ta xấu. Nhưng nếu ta tán loạn, buồn khổ th́ ảnh hưởng sẽ tai hại, mặc dù có thể ta đă xử dụng đời ta một cách tốt đẹp. Điều này có nghĩa ư tưởng và cảm xúc cuối cùng mà ta có trước khi chết, có một hiệu lực vô cùng quyết liệt đối với đời sống tương lai kế tiếp của chúng ta.

Cũng như người điên th́ tâm trí hoàn toàn bị xâm chiếm bởi một ám ảnh duy nhất, tái đi tái lại nhiều lần ; tâm ta khi chết cũng thế, rất nhạy cảm và hoàn toàn bị phơi ra cho bất cứ ư tưởng nào xâm chiếm tâm vào lúc đó. Ư nghĩ hay cảm xúc cuối cùng ta có, có thể khuếch đại hết cỡ và tràn ngập toàn thể nhận thức của ta. V́ vậy các bậc thầy nhấn mạnh rằng, tính chất bầu không khí xung quanh lúc ta chết rất là quan trọng.

Cho nên khi thân quyến, bạn bè chết, ta nên làm mọi cách có thể để gây những cảm xúc tích cực, thiêng liêng, như ḷng từ bi, sự sùng kính, và giúp “buông xả chấp thủ, khát khao, ràng buộc” .



Buông xả ái luyến (ràng buộc)



Cách lư tưởng để chết là buông xả hết mọi thứ trong cũng như ngoài, càng ít khát khao, chấp thủ, ái luyến càng tốt, để cho cái tâm vào thời điểm tối hậu đó không c̣n ǵ để vương vấn. Bởi vậy trước khi chết, ta nên cố giải thoát ái luyến đối với tài sản, bạn bè, người thân. Ta không thể đem theo bất cứ ǵ, bởi thế ta dự tính cho hết đồ đạc của ḿnh trước, hoặc hiến tặng vào quỹ từ thiện.

Ở Tây Tạng, các bậc thầy trước khi từ bỏ thân xác thường chỉ định cho những thầy khác những vật ǵ. Đôi khi một bậc thầy định tái sanh sẽ chừa lại một số đồ vật cho thân tái sanh của ông sau này, và chỉ định rơ ràng cái ǵ ông muốn để lại.

Tôi cũng tin chắc rằng chúng ta nên chỉ định chính xác ai sẽ nhận tài sản hay tiền bạc của ta. Những điều này cần được diễn tả càng rơ ràng càng tốt. Nếu không, sau khi chết, đang ở trong Trung Ấm chờ tái sanh, mà thấy bà con giành giật của cải, hoặc sử dụng sai tiền của bạn, bạn sẽ khó chịu. Khi xác định mọi sự một cách rơ ràng cho đến từng chi tiết, th́ bạn sẽ an tâm và dễ buông xả.

Như đă nói, bầu không khí xung quanh lúc ta chết cần phải hết sức thanh b́nh. Bạn bè thân thuộc nào khóc lóc buồn thảm không nên ở cạnh người sắp chết, v́ họ sẽ gây một cảm xúc rầy rà vào lúc chết. Những người làm việc trong các nhà Tiếp dẫn kể lại rằng, đôi khi người sắp chết yêu cầu thân quyến đừng đến thăm lúc họ hấp hối, chính v́ sợ khêu gợi những cảm giác đau khổ và ái luyến mănh liệt.

Đôi khi điều này thực vô cùng khó hiểu đối với gia đ́nh, họ tưởng là người sắp chết không yêu họ nữa. Nhưng họ nên hiểu rằng, chỉ cần những người thương yêu có mặt cũng đủ gợi lên những cảm t́nh ái luyến nơi người sắp chết, làm cho họ càng khó buông xả.

Thật vô cùng khó mà không khóc khi ta ở bên tử sàng của một người ta yêu mến. Tôi khuyên mọi người hăy cố gắng thanh toán nỗi ái luyến đau buồn với người sắp chết trước khi cái chết xảy đến : Hăy cùng nhau khóc, hăy diễn đạt t́nh yêu của bạn, nói lời từ biệt..., nhưng hăy cố chấm dứt những màn này trước khi cái chết thực sự xảy đến.

Bởi v́ tâm thức người chết vào giờ phút hấp hối rất dễ tổn thương, bén nhạy. Tử Thư Tây Tạng nói rằng, sự khóc lóc và nước mắt của bạn xung quanh người chết làm cho họ cảm thụ đau đớn như là sấm sét và mưa đá. Nhưng nếu bạn đă từng lỡ khóc bên một người chết nào, th́ cũng đừng lo, bạn không cần phải hoảng hốt và cảm thấy phạm tội (khi biết điều này) .

Một bà d́ của tôi, Ani Pelu, là một hành giả phi thường. Bà đă theo học với một vài bậc thầy lỗi lạc vào thời ấy, nhất là với Jamyang Khientse, và thầy tôi đă ban ân sủng bằng cách viết riêng cho bà một “lời khuyên tâm huyết”. Bà có thân thể khỏe mạnh, tṛn trịa, với một gương mặt đẹp cao quư và bản chất tự nhiên, hơi nóng tính.

Bà có vẻ là một phụ nữ rất thực tế, chịu trách nhiệm trực tiếp quản trị công việc trong đại gia đ́nh. Nhưng một tháng trước khi bà chết, bà hoàn toàn thay đổi, một cách thực cảm động. Bà, mà thường ngày luôn luôn bận rộn như thế, bây giờ bỗng buông xuôi mọi sự, với một sự từ bỏ thản nhiên, không lo lắng.

Bà có vẻ luôn luôn ở trong trạng thái thiền định, và không ngừng tụng lên những đoạn kinh bà thích, rút từ những trước tác của Longchenpa, bậc thánh về pháp đốn ngộ Dzogchen. Bà thường rất thích ăn thịt, nhưng trước khi chết, bà không muốn động đến một chút thịt nào.

Bà thường sống như chúa tể trong thế giới của bà, ít ai ngờ được bà là một hành giả thiền. Nhưng khi chết, bà mới chứng tỏ cho mọi người biết bà là ai. Tôi không bao giờ quên vẻ an tịnh sâu xa toát ra từ nơi bà trong những ngày ấy.

Ani Pelu gần như là thiên thần hộ mạng cho tôi, ở nhiều phương diện. Tôi nghĩ bà thương tôi bởi v́ bà không có con riêng. Cha tôi luôn bận rộn v́ ông làm quản ư cho thầy Jamyang tôi, c̣n mẹ tôi cũng bận việc nhà bề bộn, và bà không bao giờ nghĩ tới những chuyện mà Ani Pelu không bao giờ quên.

Ani Pelu thường hỏi thầy tôi : “Cái ǵ sẽ xảy đến cho thằng nhỏ này khi nó lớn lên ? Nó có an toàn không ? Nó có gặp trở ngại ǵ không ?” . Đôi khi thầy trả lời cho bà, và nói những điều về tương lai tôi, mà nếu bà không hỏi th́ chẳng bao giờ thầy nói.

Và cuối đời bà, Ani Pelu có một vẻ trong sáng dị thường trong con người bà, và sự kiên tŕ trong việc tu tập của bà. Thế mà ngay cả bà, khi gần chết, cũng yêu cầu rằng đừng để tôi hiện diện lúc đó, sợ rằng sự yêu mến của bà đối với tôi có thể gây cho bà một phút giây quyến luyến. Điều ấy chứng tỏ bà đă ghi nhớ nằm ḷng lời khuyên tâm huyết của thầy Jamyang tôi như thế nào : “Vào lúc chết hăy từ bỏ mọi ư tưởng thương hoặc ghét” .



Thể nhập sự tỉnh giác sáng suốt



Ani Rilu, em gái bà tôi, cũng dành trọn đời để tu tập, và cũng gặp được những bậc thầy vĩ đại như thế. Bà có một bộ kinh dày, và thường đọc kinh tu thiền suốt ngày. Thỉnh thoảng bà ngủ gật, và khi bà giật ḿnh dậy, bà lại tiếp tục chỗ bà đă ngủ. Suốt ngày bà làm như vậy, đến nỗi bà không bao giờ ngủ trọn đêm, rốt cuộc là bà thường tụng kinh sáng vào buổi tối và tụng kinh tối vào buổi sáng.

Chị của bà bà, bà Ani Pelu, là một người cả quyết và ngăn nắp hơn nhiều, và vào cuối đời bà không thể chịu được cái cảnh luôn luôn phá rối trật tự thông thường như vậy nơi người em, nên bảo: “Sao em không tụng kinh sáng vào buổi sáng, kinh tối vào buổi tối, rồi tắt đèn đi ngủ như mọi người khác ?” Ani Rilu sẽ th́ thầm : “Vâng... vâng...” nhưng rồi vẫn chứng nào tật ấy.

Vào thời ấy, tôi thường theo phe bà Ani Pelu, nhưng bây giờ tôi lại thấy bà Ani Rilu làm vậy là khôn. Bà luôn ch́m đắm ḿnh trong một ḍng tu tập tâm linh, và trọn cuộc đời bà trở thành một ḍng tương tục của sự cầu nguyện. Quả thế, sự tu tập của bà mạnh đến nỗi bà tiếp tục cầu nguyện ngay cả trong mộng, và bất cứ ai làm vậy sẽ có một cơ hội rất tốt để giải thoát trong các cơi Trung Ấm.

Cái chết của Ani Rilu cũng có tính chất thanh b́nh thụ động như sự sống của bà. Bà đau ốm một thời gian, và một buổi sáng mùa đông, vợ thầy tôi bỗng cảm thấy cái chết của bà đang đến gần. Mặc dù khi ấy Ani Rilu không nói được nữa, bà vẫn c̣n tỉnh táo. Người ta tức tốc đi mời Dodrupchen Rinpoche, một bậc thầy nổi tiếng ở gần đấy, đến để cho những chỉ dẫn cuối cùng và làm pháp chuyển di tư tưởng vào lúc chết.

Trong gia đ́nh tôi có một ông già tên Apé Dorje, chết vào năm 1989 lúc ông 85 tuổi. Ông đă ở với gia đ́nh tôi qua năm thế hệ và là một người có trí tuệ và khôn ngoan như một bậc tổ tiên. Ông có ḷng tốt và sức mạnh tâm linh phi thường, và có biệt tài dàn xếp những cuộc căi vả. Đối với tôi, ông là hiện thân của tất cả những đức tính dân tộc : một con người chắc chắn, thực tiễn, b́nh dị, sống tự nhiên theo tinh thần giáo lư.

Ông đă dạy cho tôi thật nhiều lúc tôi c̣n bé, nhất là sự quan trọng phải đối xử tốt với người khác, và không bao giờ ôm giữ ư tưởng xấu, dù có ai hại ḿnh. Ông có một năng khiếu tự nhiên để san sẻ những giá trị tâm linh một cách giản dị nhất. Ông gần như bỏ bùa mê để cho bạn phải là cái tự ngă tốt nhất của bạn.

Apé Dorje là một người có khiếu bẩm sinh về kể chuyện, và ông thường làm cho tôi mê mẩn v́ những chuyện cổ tích và anh hùng ca của Tây Tạng, hoặc về những cuộc kháng chiến ở các tỉnh miền đông, khi quân Trung Quốc xâm nhập Tây Tạng vào đầu thập niên 1950. Bất cứ đi đâu ông cũng mang theo niềm vui, sự thoải mái, tính hài hước, làm cho mọi t́nh huống khó khăn cũng bớt vẻ rắc rối. Ngay cả lúc đă 80 tuổi, ông vẫn c̣n nhanh nhẩu vui tươi, gần như ngày nào cũng đi mua hàng cho tới lúc ông chết.

Ông thường đi chợ vào khoảng chín giờ sáng. Ông đă nghe tin bà Ani Rilu sắp chết, nên đến pḥng bà. Ông có thói nói hơi lớn, gần như hét : “Ani Rilu !” . Ông gọi to. Bà d́ tôi mở mắt. Ông mỉm cười rạng rỡ nh́n bà với một nụ cười thương mến : “Con ơi, bây giờ chính là lúc để chứng tỏ ḷng can đảm của con. Đừng do dự, đừng lung lay. Con đă có phước được gặp và thụ giáo nhiều bậc thầy kỳ diệu.

Không những thế, con lại c̣n được cơ hội quư báu để thực hành Pháp. Con c̣n đ̣i ǵ hơn được nữa ? Bây giờ con chỉ việc ghi nhớ tinh yếu của lời dạy trong tim, nhất là những chỉ dẫn về lúc chết mà các thầy đă dạy cho con. Nhớ kỹ điều ấy, đừng xao lăng. Đừng lo ǵ cho chúng ta, chúng ta sẽ không sao đâu. Ta đi mua hàng cái đă, có lẽ lúc về ta sẽ không gặp con. Bởi thế, xin chào” . Ông nói với một nụ cười. Ani Rilu vẫn c̣n tỉnh táo nên bà mỉm cười khẽ gật.

Apé Dorje biết điều cốt yếu khi sắp chết là nhớ lại tinh yếu của sự tu tập, như Padmasambhava bảo : “Hăy thể nhập không tán loạn, vào sự tỉnh thức sáng suốt về giáo lư” .

Đói với người đă nhận ra tự tánh tâm và đă hành tŕ vững vàng, điều này có nghĩa là an trú trong trạng thái Rigpa, tự tánh Bồ-đề. Nếu bạn không có sự an trú đó, th́ hăy nhớ trong đáy tim bạn tinh yếu của lời thầy dạy, nhất là những lời dạy cốt yếu dành cho lúc chết. Bạn hăy nhớ điều ấy trong tâm trí, nghĩ đến bậc thầy, hợp nhất tâm ḿnh với tâm thầy vào lúc chết.



Những chỉ dẫn vào lúc hấp hối



Người ta thường ví trạng thái Trung Ấm sau khi chết với h́nh ảnh một người nữ tài tử đẹp ngồi trước tấm gương soi. Buổi tŕnh diễn cuối cùng của nàng sắp bắt đầu, nàng đang đánh son phấn và kiểm soát lại một lần cuối toàn thể dáng dấp ḿnh trước khi bước ra sân khấu.

Cũng thế, vào lúc chết bậc thầy khai thị cho ta tinh yếu của giáo lư trong tấm gương tự tánh tâm và trực chỉ cho ta trọng tâm của sự tu tập. Nếu bậc thầy không hiện diện th́ những bạn đạo có duyên với ta nên có mặt để giúp ta nhớ lại.

Người ta bảo thời gian tốt nhất để khai thị là sau khi hơi ra đă ngưng, và trước khi “hơi thở bên trong” chấm dứt ; mặc dù bảo đảm nhất là bắt đầu khai thị trong tiến tŕnh chết, trước khi các giác quan hoàn toàn suy sụp. Nếu bạn không có cơ hội gặp thầy ngay trước khi chết, th́ phải thụ giáo và tập cho quen với những chỉ dẫn này trước.

Nếu bậc thầy hiện diện bên tử sàng, những ǵ vị ấy làm lúc ấy theo truyền thống chúng tôi như sau :

Vị thầy xướng : “Hỡi thiện nam (hay thiện nữ) hăy lắng nghe...” , rồi dẫn chúng ta qua từng giai đoạn một của tiến tŕnh chết. Rồi vị ấy tóm thâu tinh yếu của sự khai thị một cách mạnh mẽ rơ ràng, bằng vài từ ngắn gọn, để tạo một ấn tượng mạnh trong tâm ta, và bảo ta hăy an trú trong tự tánh tâm. Nếu việc này ngoài khả năng ta, th́ thầy sẽ nhắc cho ta phép Chuyển di tâm thức, nếu ta biết ; nếu không vị ấy sẽ làm phép Chuyển di ấy cho ta.

Rồi, để pḥng xa, vị thầy có thể giải thích bản chất những kinh nghiệm trạng thái Trung Ấm sau khi chết, bảo rằng tất cả những cảnh tượng ấy đều do tâm biến hiện, cần phải nhận chân rơ như thế vào mọi lúc. “Này thiện nam, bất cứ ǵ con thấy, dù kinh hăi đến đâu, hăy nhận chân đấy là tâm con biến ra ; hăy nhận đấy là ánh sáng, tia chiếu tự nhiên của tâm con” .

Cuối cùng vị thầy sẽ dạy ta nhớ lại những cơi Phật thuần tịnh để phát sinh niềm sùng kính, và cầu nguyện được tái sinh về đấy. Vị thầy sẽ lặp lại lời khai thị ba lần, rồi an trú trong trạng thái thiền để hướng ân sủng của vị ấy về phía người đệ tử đang chết.



Hành tŕnh cho người sắp chết



Có ba pháp hành tŕ cho sự chết :

- Tốt nhất là an trú trong tự tánh tâm, hay gợi lên tâm yếu của sự tu tập.

- Kế tiếp, pháp Chuyển di tâm thức.

- Cuối cùng, dựa vào năng lực của cầu nguyện, sùng kính, nguyện lực và ân sủng của các bậc giác ngộ.

Những hành giả thượng thặng về Dzogchen, như tôi đă nói, đă hoàn toàn trực nhận tự tánh tâm trong suốt đời họ, nên khi chết, họ chỉ cần tiếp tục an trú trong trạng thái Rigpa, khi làm cuộc chuyển tiếp qua sự chết. Họ không cần chuyển di tâm thức vào một vị Phật nào hay cơi Phật nào, v́ họ đă thực chứng tâm giác ngộ của chư Phật ngay trong chính họ.

Cái chết đối với họ là giải thoát tối hậu cao điểm của sự chứng đắc, tột đỉnh của một đời tu tập. Tử Thư Tây Tạng chỉ có vài lời này để nhắc nhở một hành giả như vậy : “Bạch ngài, bây giờ Ánh sáng căn bản đă ló dạng. Hăy nhận ra, và an trú trong sự tu tập”.

Người ta nói những người đă hoàn tất pháp tu Dzogchen th́ chết “như một hài nhi mới sinh”, không một chút lo âu, quan tâm về sự chết. Họ không cần quan tâm về chuyện họ sẽ chết lúc nào, ở đâu, họ cũng không cần ǵ đến những lời dạy, chỉ dẫn, hay nhắc nhở.

Những hành giả trung b́nh hạng nhất th́ “chết như hành khất trên đường” , không ai để ư đến họ, không ǵ có thể quấy rầy họ. V́ họ đă tu tập vững vàng nên tuyệt đối không bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh xung quanh. Họ có thể chết dễ dàng trong một bệnh viện bận rộn, hay ở nhà giữa một gia đ́nh đang tranh chấp rộn ràng.

Tôi không bao giờ quên được một hành giả thiền ở Tây Tạng mà tôi từng biết. Trẻ con theo ông khắp nơi, v́ đi đâu ông cũng ca hát làm cho mọi người phải tụ lại, rồi ông dạy họ tu hành và tụng câu : “OM MANI PADME HUM” .

Ông có một bánh xe lớn để cầu nguyện, và khi ai cho ông vật ǵ, ông lại may vào áo quần ông, nên cuối cùng toàn thể người ông trông như một bánh xe cầu nguyện di động. Ông cũng có một con chó luôn luôn theo ông, mà ông đối xử như con người, cùng ăn cùng ngủ với nó, chuyện tṛ với nó như bạn. Không ai xem ông ra ǵ, có người c̣n gọi ông là “hành giả cuồng” song nhiều vị Lama rất ca tụng ông, và bảo chúng tôi không nên coi thường ông.

Ông nội tôi và cả nhà thường đối xử với ông rất lễ phép, thường mời ông vào pḥng thờ để uống trà và ăn bánh. Ở Tây Tạng có tục lệ viếng thăm ai th́ phải mang quà. Một ngày, trong khi đang uống trà, ông ngừng lại : “Ô, xin lỗi, tôi suưt quên mất... Đây là món quà cho ông” . Ông đưa ngay dăi khăn quàng trắng và bánh ḿ mà ông nội tôi đă tặng ông, để làm quà lại.

Ông thường ngủ ngoài trời, giữa đất trống. Một hôm ông chết ở gần tu viện phái Dzogchen, với con chó bên cạnh, trong một đống rác. Không ai chờ đợi việc ǵ xảy ra kế tiếp, nhưng việc ấy đă được nhiều người chứng kiến. Xung quanh ông, xuất hiện một ṿng ánh sáng cầu vồng chói lọi.

Người ta bảo rằng “hành giả bậc trung, khả năng trung b́nh th́ chết như những thú hoang hay sư tử trên núi tuyết, trong động đá và thung lũng vắng vẻ”. Họ có thể hoàn toàn tự lo liệu lấy, và thích đi đến những nơi hoang dă để lặng lẽ chết, không bị bạn bè quyến thuộc quấy rầy làm rộn ràng.

Những hành giả đă thuần thục như những người kể trên thường được thấy họ nhắc nhở về những pháp hành tŕ mà họ nên xử dụng khi gần chết. Sau đây là hai ví dụ rút từ truyền thống Dzogchen :

Ví dụ thứ nhất, hành giả được khuyên nên nằm theo dáng nằm sư tử . Rồi họ được bảo phải tập trung ư thức vào đôi mắt, và dán chặt cái nh́n vào bầu trời trước mặt. Cứ để tâm họ không thay đổi, an trú trong trạng thái ấy, để cho tính giác Rigpa của họ ḥa vào không gian nguyên sơ của chân lư. Khi Ánh sáng Căn bản của cái chết sanh khởi, họ lướt vào đó một cách hoàn toàn tự nhiên và đạt giác ngộ. Nhưng điều này chỉ có thể thực hiện đối với một người do tu tập đă an trú vững vàng trong sự trực nhận bản tâm.

Đối với những người chưa đạt tới tŕnh độ này, và cần một phương pháp trịnh trọng hơn để tập trung, th́ có một pháp thực hành khác : Quán tâm thức của họ như một chữ A màu trắng, và phóng nó qua huyệt đạo từ tim, rồi thoát ra trên đỉnh đầu để đi vào cơi Phật. Đây là một pháp Chuyển di tâm thức mà thầy tôi đă giúp Lama Tseten thực hành khi ông chết.

Những người làm thành công một trong hai phương pháp nói trên th́ vẫn phải kinh quá tiến tŕnh chết của thể xác, song họ sẽ không kinh quá những trạng thái Trung Ấm sau đó.



Phowa : Pháp chuyển di tâm thức



Bây giờ, khi giai đoạn Trung Ấm chết bắt đầu xuất hiện cho tôi,

Tôi sẽ từ bỏ mọi bám víu, khát khao và quyến luyến

Thể nhập không tán loạn vào ư thức sáng suốt về giáo lư

Và chiếu tâm thức tôi vào khoảng không gian của Tự tánh vô sanh

Khi tôi từ bỏ hợp thể máu thịt này

Tôi biết nó chỉ là một ảo ảnh phù du.

“Chiếu tâm thức vào không gian của tự tánh vô sanh” là ám chỉ pháp chuyển di tâm thức gọi là Phowa - một pháp thực hành thông thường nhất khi chết - và chỉ dẫn đặc biệt liên hệ đến Trung Ấm của sự chết. Chuyển di tâm thức là một phép yoga và thiền đă được xử dụng qua nhiều thế kỷ để giúp người sắp chết và để chuẩn bị cho cái chết.

Nguyên tắc là, vào lúc chết, hành giả chiếu cái tâm của ḿnh ra và ḥa nhập với tâm giác ngộ của chư Phật, mà Padmasambhava gọi là “không gian của tự tánh vô sanh”. Pháp này có thể thực hiện bởi cá nhân người sắp chết, hoặc bởi một vị thầy đủ tư cách, hoặc một hành giả thiện xảo làm thay cho người chết.

Có nhiều loại Chuyển di tương ứng với khả năng kinh nghiệm và sự luyện tập của từng người. Nhưng pháp Chuyển di thông dụng nhất là pháp “Chuyển di với ba nhận thức” : nhận ra huyệt đạo trung ương kể như con đường, nhận ra tâm thức như kẻ lữ hành, và nhận ra cảnh Phật như đích đến.

Những người tại gia ở Tây Tạng bận rộn với trách nhiệm, công việc gia đ́nh không thể dành suốt đời để học pháp và tu tập, nhưng họ có ḷng tin kiên cố vào giáo lư.

Khi con cái họ lớn lên và họ gần đến cuối đời như tuổi về hưu ở Tây phương họ thường đi hành hương, hoặc gặp những bậc thầy và tập trung vào sự tu hành ; họ thỉnh thoảng lại sự một khóa tu về Chuyển di tâm thức để chuẩn bị cho cái chết. Pháp này được giáo lư xem là một phương pháp đạt giác ngộ mà không cần phải tu thiền suốt cả đời.

Trong pháp Chuyển di tâm thức, h́nh ảnh chính được triệu thỉnh là đức Phật A Di Đà, vị Phật với ánh sáng vô lượng. Đức Phật này rất phổ thông đối với thường dân ở Trung Hoa và Nhật Bản, cũng như ở Tây Tạng và dăy Hy Mă Lạp Sơn. Ngài là vị Phật nguyên ủy thuộc ḍng họ Hoa sen, nhân loại thuộc vào ḍng họ vị Phật này.

Ngài tượng trưng cho bản tánh thanh tịnh của chúng ta, và tượng trưng sự chuyển hóa của dục vọng, cảm xúc mạnh nhất nơi cơi người. A Di Đà c̣n là bản chất sáng suốt vô hạn của tâm. Khi chết, bản tánh chân thật ấy của tâm sẽ hiển lộ vào lúc Ánh sáng Căn bản hiện ra, nhưng không phải ai trong chúng ta cũng có được sự quen thuộc để nhận ra ánh sáng ấy.

Quả thực chư Phật đă đầy từ bi và phương tiện thiện xảo xiết bao khi truyền lại cho chúng ta một phương pháp để triệu thỉnh chính cái nhập thể của ánh sáng ấy, tức là đức Phật A Di Đà với hào quang chói lọi.

Ở đây không phải chỗ để giải thích chi tiết pháp Chuyển di tâm thức cổ truyền, một pháp cần phải thực hành dưới sự hướng dẫn của một bậc thầy tư cách. Bạn đừng bao giờ cố tự tập pháp này nếu không có người hướng dẫn.

Vào lúc chết, giáo lư giải thích, tâm thức chúng ta được đặt lên một ngọn “gió”, bởi thế cần một chỗ mở để thoát ra khỏi thân xác. Nó có thể từ bỏ thân xác qua bất cứ một chỗ mở nào trong 9 chỗ. Con đường mà nó đi sẽ định đoạt chính xác cơi hữu nào ta sẽ tái sinh đến. Người ta nói, khi nó thoát ra từ đỉnh đầu, th́ chúng ta sẽ tái sinh vào một cơi đất tịnh, ở đấy chúng ta có thể tiến dần đến giác ngộ.

Pháp này tôi cần phải nhấn mạnh lần nữa, chỉ có thể thực hiện dưới sự hướng dẫn của một bậc thầy đủ tư cách, có được ân sủng để truyền thừa thích nghi.

Muốn thành công trong pháp Chuyển di tâm thức này, không cần phải có một tri thức rộng hay sự chứng đắc sâu xa, chỉ cần ḷng sùng kính, từ bi, nhất tâm quán tưởng, và một cảm giác sâu xa về hiện diện của Phật A Di Đà. Người học sau khi nhận chỉ giáo sẽ thực hành theo đó cho đến khi có những triệu chứng thành công xuất hiện.

Những triệu chứng này gồm có : trên đỉnh đầu có cảm giác ngứa, nhức đầu, chảy nước trong, xung quanh vùng sọ nổi sưng lên hoặc mềm ra, đôi khi c̣n có một lỗ nhỏ mà theo truyền thống, bậc thầy sẽ nhét vào đó một cọng cỏ để đo lường mức thành công của sự tu tập.

Mới đây có một nhóm cư sĩ Tây Tạng đă lớn tuổi ở Thụy Sĩ được tập luyện dưới sự hướng dẫn của một bậc thẩy nổi tiếng về phép Chuyển di. Con cái họ đă lớn lên tại Thụy Sĩ, rất hoài nghi về công hiệu của phép này. Nhưng họ rất kinh ngạc khi thấy cha mẹ họ đă thực sự thay đổi và chứng tỏ vài dấu hiệu của thành công nói trên sau 10 ngày nhập thất.

Bác sĩ Hiroshi Motoyama, nhà khoa học Nhật Bản có làm một nghiên cứu về những hậu quả tâm sinh lư của pháp Chuyển di tâm thức. Ông khám phá ra những thay đổi về sinh học rơ ràng trong hệ thống thần kinh và các kinh mạch trong thời kỳ thực tập Chuyển di tâm thức.

Một trong những khám phá của bác sĩ Motoyama khi khảo sát cơ thể bậc thầy về pháp này là : khí tuôn chảy trong kinh mạch của vị ấy rất giống trường hợp được t́m thấy nơi những người có năng lực mạnh về thần giao cách cảm.

Năo điện đồ cũng cho thấy những sóng năo trong thời gian thực hành Chuyển di tâm thức khác hẳn với sóng năo được t́m thấy nơi những hành giả thực hành các pháp thiền khác, chứng tỏ rằng pháp này gây ra sự kích thích hypothalamus, một phần của năo bộ, cũng như sự chấm dứt những hoạt động b́nh thường của tâm, để có thể kinh nghiệm một trạng thái thiền sâu xa.

Đôi khi nhờ pháp Chuyển di tâm thức mà người thường có thể có những kinh nghiệm thị giác mănh liệt. Sự thấy được niềm an lạc, ánh sáng của cơi Phật và sự thấy được đức Phật A Di Đà, đều tương tự một vài khía cạnh của kinh nghiệm cận tử. Và cũng như kinh nghiệm cận tử, sự thành công trong pháp Chuyển di cũng đem lại niềm tin và vô úy khi đối diện với cái chết.

Sự thực hành phần cốt yếu của pháp Chuyển di mà tôi đă nói trong một chương trước, là một pháp chữa bệnh cho người sống, cũng như một pháp thực hành cho lúc chết, và có thể làm bất cứ lúc nào không nguy hiểm. Tuy nhiên, thời gian của sự thực hành pháp Chuyển di cổ truyền có một tầm quan trọng lớn lao.

Chẳng hạn, nếu một người nào thực sự chuyển di tâm thức được thành công trước thời điểm cái chết tự nhiên, th́ điều ấy cũng tương đương với sự tự sát. Thời điểm để làm pháp Chuyển di là lúc hơi thở bên ngoài đă ngừng, mà hơi thở bên trong vẫn tiếp tục. Nhưng muốn bảo đảm hơn, hăy khởi sự thực hành trong khi tiến tŕnh tan ră xảy ra và nên lặp lại nhiều lần.

Khi một bậc thầy đă hoàn toàn thiện xảo trong pháp Phowa cổ truyền làm phép ấy cho một người hấp hối, bằng cách quán cái tâm thức họ cho xuất ra ngoài qua đỉnh đầu, th́ cốt yếu là phải đúng thời điểm, không làm quá sớm. Nhưng một hành giả tu cao, biết rơ tiến tŕnh chết, có thể kiểm điểm những chi tiết như huyệt đạo, sự di chuyển các luồng khí, và hơi ấm cơ thể, để xem lúc nào nên làm pháp chuyển di. Nếu có xin một bậc thầy làm phép ấy cho một người sắp chết, th́ nên liên lạc ngay vị ấy, v́ pháp này cũng có thể thực hiện được từ một khoảng cách.

Có thể xảy ra một vài trở ngại cho pháp Chuyển di. Bất cứ một hướng tâm bất thiện, một chút khao khát tài sản, sẽ thành chướng ngại khi chết đến. Bạn không được có một chút tư tưởng hay khát vọng tiêu cực nào. Ở Tây Tạng người ta tin rằng rất khó làm pháp Chuyển di thành công nếu trong pḥng người hấp hối có vật ǵ làm bằng da thú, lông thú. Cuối cùng, khói thuốc hay bất cứ loại thuốc kích thích nào cũng có hậu quả làm bế tắc huyệt đạo trung ương, khiến cho pháp Chuyển di khó thực hiện.

Người ta bảo, ngay cả một kẻ trọng tội cũng có thể được giải thoát vào lúc chết nếu có một bậc thầy đă tu chứng, có năng lực, chuyển di tâm thức của người chết vào một cơi Phật. Và dù cho người sắp chết thiếu công đức tu luyện, và bậc thầy không hoàn toàn thành công trong pháp Chuyển di, th́ pháp này vẫn ảnh hưởng đến tương lai của người chết, giúp y tái sanh thượng giới. Nhưng nếu muốn thực hành Chuyển di cho thành công, th́ những điều kiện phải hoàn hảo. Pháp Chuyển di có thể giúp một người nghiệp chướng nặng nề, song chỉ khi người ấy có một liên lạc mật thiết và trong sáng với bậc thầy làm pháp ấy, nếu y có ḷng tin vào giáo lư, và nếu y đă thành tâm sám hối.

Trong một khunh cảnh lư tưởng ở Tây Tạng, những người trong gia đ́nh thường mời các Lạt-ma đến làm pháp Chuyển di nhiều lần, cho tới khi dấu hiệu thành công xuất hiện. Họ có thể làm suốt nhiều giờ, hàng trăm lần, có khi suốt cả ngày. Vài người chỉ cần làm một hai lần pháp này là đă thấy triệu chứng tốt, trong khi có nhiều người làm cả ngày cũng không xong. Đương nhiên việc này tùy thuộc phần lớn ở nghiệp của người sắp chết.

Ở Tây Tạng có những hành giả có khả năng đặc biệt làm pháp Chuyển di, các triệu chứng tốt sẵn sàng xảy đến. Có nhiều dấu hiệu chứng tỏ một bậc thầy làm pháp Chuyển di đă thành công nơi người sắp chết : đôi khi một nhúm tóc nơi sọ người ấy rớt ra, hoặc cảm thấy trên đỉnh họ có hơi nóng tuôn ra. Trong vài trường hợp đặc biệt, năng lực bậc thầy khi thốt ra âm thanh chữ A để chuyển di tâm thức, mănh liệt đến độ mọi người trong pḥng té xỉu, hoặc từ sọ người chết vọt ra một mảnh xương theo thần thức họ bay ra quá mạnh.



Ân sủng của sự cầu nguyện

vào lúc chết



Trong mọi truyền thống tôn giáo, người ta đều cho rằng chết trong khi được cầu nguyện là rất tốt. Bởi vậy, điều tôi hy vọng bạn có thể làm khi chết là triệu thỉnh chư Phật và thầy của bạn. Cầu nguyện rằng do sám hối ác nghiệp đời này và các đời trước, nghiệp bạn được thanh lọc và bạn có thể tỉnh giác an b́nh vào lúc chết, có tái sanh tốt và cuối cùng đạt giải thoát.

Hăy phát nguyện tái sanh vào cơi tịnh hoặc làm người nhưng để giúp đỡ người khác. Chết với niệm từ bi trong tâm như vậy cho đến hơi thở cuối th́ cũng là một pháp Chuyển di tư tưởng, và bảo đảm cho bạn có được một thân người quư báu trong tương lai.

Tạo ấn tượng tích cực nhất trong ḍng tâm thức trước khi chết là điều cốt yếu. Pháp tu hiệu nghiệm nhất để có được điều này là pháp Đạo sư Du-già, ở đấy người sắp chết ḥa nhập tâm ḿnh với tâm giác ngộ của bậc thầy, hay Phật, hay một bậc thánh. Dù bạn không thể quán ra h́nh ảnh thầy trong lúc đó, ít nhất hăy nhớ đến vị ấy trong tim của bạn và chết trong niệm sùng kính. Khi tâm thức của bạn tỉnh dậy trở lại sau khi chết, ấn tượng về hiện diện bậc thầy sẽ thức dậy trong bạn, và bạn sẽ được giải thoát.

Nếu bạn chết trong khi nhớ đến thầy, th́ khả năng của ân sủng bậc thầy thực vô hạn, ngay cả những âm thanh, màu sắc và ánh sáng trong cơi trung gian của pháp tánh cũng có thể xuất hiện như là sự ban ân sủng của thầy và tia sáng chiếu ra từ trí tuệ của thầy.

Nếu bậc thầy có mặt bên giường chết, vị ấy sẽ bảo đảm cho ḍng tâm thức của người chết mang dấu ấn của hiện diện vị ấy. Vị thầy có thể giúp cho người chết khỏi tán loạn bằng một vài nhận xét đầy ư nghĩa, gây chú ư. Chẳng hạn có thể nói lớn: “Hăy nhớ ta !” . Vị thầy sẽ gây chú ư của người ấy bằng bất cứ cách nào để tạo một ấn tượng khó phai mờ, sẽ trở lại trong trạng thái Trung Ấm của người chết như một “hoài niệm về bậc thầy”.

Khi mẹ của một bậc thầy nổi tiếng đang hấp hối và rơi vào trạng thái hôn mê, Dilgo Khientse Rinpoche có mặt nơi giường chết đă làm một chuyện rất bất ngờ: ngài đánh vào đùi bà. Nếu bà không quên Dilgo Khientse Rinpoche khi bà đi vào cơi chết, th́ quả thực là bà đă được ân sủng.

Theo truyền thống chúng tôi, những hành giả thường cầu nguyện bất cứ một vị Phật nào họ cảm thấy tin tưởng và có duyên với ngài. Nếu vị ấy là Liên Hoa Sanh, th́ họ sẽ cầu được sanh vào cơi thuần tịnh vinh quang của ngài, là lâu các Liên Hoa trên đỉnh núi màu đồng ; nếu họ thích Phật A Di Đà th́ họ sẽ cầu sanh vào nước Cực lạc.



Bầu không khí để chết



Làm sao để giúp đỡ một cách tế nhị nhất, những hành giả thông thường khi họ chết ? Tất cả chúng ta đều cần đến sự thương mến và săn sóc chân t́nh và thực tiễn, nhưng đối với người có tu tâm, th́ bầu không khí, cường độ và chiều sâu tâm linh c̣n có một ư nghĩa đặc biệt. Điều lư tưởng và một ân sủng lớn cho họ là thầy họ có mặt ở đấy, nhưng nếu không thể, th́ bạn đạo cũng có thể giúp đỡ rất nhiều để nhắc nhở người chết nhớ lại giáo lư và pháp tu quen thuộc nhất của họ trong lúc sống. V

ới một hành giả sắp chết th́ bầu không khí tin tưởng và sùng kính là cốt yếu. Sự hiện diện tŕu mến của thầy và bạn đạo, sự khích lệ của giáo lư và năng lực sự hành tŕ của riêng họ, tất cả phối hợp lại để tạo ra và nâng cao nguồn cảm hứng rất cần thiết vào những tuần, những ngày cuối cùng, có lẽ cần thiết như chính hơi thở.

Một người học tṛ thân yêu của tôi chết v́ ung thư đă hỏi tôi cách tập luyện nào tốt nhất để làm khi nàng tiến gần đến cái chết, nhất là khi không c̣n đủ sức để tập trung vào một phép tu trịnh trọng ? Tôi bảo nàng :

“Con hăy nhớ con đă được may mắn như thế nào khi đă gặp được nhiều bậc thầy, hấp thụ nhiều giáo lư và có th́ giờ cùng khả năng để tu tập. Ta hứa với con rằng lợi ích của những điều ấy sẽ không bao giờ rời con. Thiện nghiệp mà con đă làm sẽ ở măi với con, nâng đỡ con.

Được nghe giáo lư dù chỉ một lần, hoặc gặp được một bậc thầy như Dilgo Khientse Rinpoche và có liên lạc mật thiết với ngài như con, chính đă là giải thoát. Đừng bao giờ quên điều ấy, và cũng đừng quên bao nhiêu người trong địa vị con mà lại không được có cơ hội kỳ diệu ấy.

“Nếu con đến lúc không tu tập một cách tích cực được, th́ điều duy nhất quan trọng là thư giăn, nghỉ ngơi, càng sâu càng tốt trong niềm tin của Kiến, và an trú trong tự tánh tâm. Không hề ǵ nếu thân con, năo bộ con vẫn c̣n hoạt động hay không hoạt động, tự tánh tâm con luôn luôn ở đấy, giống như bầu trời, chiếu sáng đầy ân sủng, vô biên không thay đổi...

Hăy biết điều ấy không hồ nghi, và để cho sự hiểu biết ấy đem lại cho con sức mạnh để nói với nỗi đau đớn của con, dù có khốc liệt cách mấy, rằng : “Hăy đi đi, để cho ta yên” . nếu có điều ǵ làm con bực tức hay khó chịu, th́ đừng phí th́ giờ cố thay đổi nó ; cứ quay về với chánh kiến.

“Hăy tin sâu vào tự tánh của tâm con, và thư giăn hoàn toàn. Không có ǵ mới con cần phải học thêm, có thêm, hoặc hiểu biết thêm. Hăy để cho những ǵ đă ở nơi con tự khai mở và trở nên sâu xa.

“Hăy nương tựa vào pháp môn nào con thích nhất. Nếu con thấy khó mà quán tưởng hay theo một sự tu tập trịnh trọng nào, th́ hăy nhớ lời Dudjom Rinpoche : cảm thấy sự hiện diện là quan trọng hơn có được sự quán tưởng rơ ràng chi tiết.

Bây giờ là lúc con nên cảm thụ, càng mănh liệt càng tốt, với toàn thể con người của con, sự hiện diện của các bậc thầy, của đấng Liên Hoa Sanh, và của chư Phật. Dù bất cứ ǵ có thể xảy đến cho thân con, con hăy nhớ tâm con chưa từng đau ốm, què quặt bao giờ.

“Con đă yêu mến Dilgo Rinpoche, hăy cảm thụ hiện diện của ngài, thực sự xin ngài giúp đỡ và thanh luyện con. Đặt tất cả tính mạng của con trong tay bậc thầy : tâm, thân và hồn. Tính giản dị của ḷng tin tuyệt đối là một trong những năng lực hữu hiệu nhất trên đời.

“Ta đă kể cho con nghe câu chuyện về Ben ở Kongpo chưa nhỉ ? Ông ta là một người rất đơn giản, có ḷng tin vô biên, đến từ Kongpo, một tỉnh miền đông nam Tây Tạng. Ông đă nghe rất nhiều về Jowo Rinpoche, một pho tượng đẹp của Phật lúc ngài c̣n là thái tử mười hai tuổi, được cất giữ trong nhà thờ chính tại Lhasa.

Tương truyền pho tượng ấy được tạc lúc Phật c̣n sống, đấy là pho tượng thiêng liêng nhất trong toàn cơi Tây Tạng. Ben không thể biết được đấy là Phật hay người thường, và quyết đi đến tận nơi thăm viếng Jowo Rinpoche để hỏi cho ra lẽ. Ông khởi hành nhiều tuần mới đến Lhasa ở trung tâm Tây Tạng.

“Lúc vừa tới nơi ông rất đói, và khi vào đền thờ, ông thấy pho tượng Phật rất lớn, trước mặt là một dăy đèn bơ và bánh đặc biệt làm để cúng Phật. Ông nghĩ ngay đấy là những ǵ Jowo Rinpoche ăn: “Chắc hẳn bánh này là để nhúng vào bơ trong đèn, c̣n đèn th́ phải cháy để cho bơ khỏi đông cứng lại. Ta hăy làm như kiểu Jowo Rinpoche làm”. Thế là ông nhúng bánh vào đĩa bơ mà ăn, rồi nh́n lên tượng Phật dường như cũng đang mỉm cười từ bi nh́n ông. Ông nói : “Thầy thực tốt làm sao.

Chó vào ăn trộm thức ăn người ta cúng cho thầy, thầy cũng chỉ mỉm cười. Gió thổi đèn tắt hết, thầy cũng mỉm cười... Nhưng bây giờ tôi phải kinh hành quanh điện thờ để cầu nguyện và chứng tỏ ḷng sùng kính. Vậy thầy làm ơn giữ giùm tôi đôi ủng cho đến lúc tôi trở lại, được chứ ?” . Nói xong, ông cổi bỏ đôi ủng cũ dơ dáy để lên bàn thờ trước mặt pho tượng, rồi bỏ đi.

“Khi Ben đang tản bộ quanh ngôi điện khổng lồ, th́ người giữ đền trở về và hoảng hồn trông thấy kẻ nào đă ăn mất đồ cúng và để một đôi ủng dơ dáy trên bàn thờ. Ông ta giận dữ cầm lấy đôi ủng ném ra ngoài, nhưng bỗng nghe một tiếng nói từ pho tượng phát ra : “Đừng. Để lại chỗ cũ. Ta đang canh chừng giùm Ben của xứ Kongpo” .

“Sau đó Ben trở lại để lấy ủng. Nh́n lên gương mặt pho tượng, vẫn nụ cười an lạc đang tỏa chiếu xuống ông ta. “Thật ông đúng là một vị Lạt-ma rất tốt. Sao ông không xuống chỗ chúng tôi chơi ? Tôi sẽ quay một con heo và nấu rượu thết ông” . Lần thứ hai, pho tượng Jowo Rinpoche lại cất tiếng, hứa sẽ đi thăm Ben.

“Ben trở về nhà ở Kongpo, kể cho vợ nghe mọi sự, dặn nàng hăy canh chừng để đón Jowo Rinpoche v́ không biết chừng nào ông ta đến. Năm ấy trôi qua, một hôm vợ ông chạy về nhà báo tin đă trông thấy một cái ǵ sáng rực như mặt trời, đang ở dưới nước. Ben bảo nàng pha trà, và vội vă chạy ra sông. Ông thấy Jowo Rinpoche đang lấp lánh trong nước, và nghĩ có lẽ ngài đă rớt xuống sông đang chết đuối.

Ông lao ngay vào nước vớt ngài lên. Khi họ cùng trở về nhà Ben, vừa đi vừa tṛ chuyện, họ đi ngang một tảng đá to, Jowo Rinpoche nói : “Thực sự là tôi không thể vào nhà được” . Nói xong, ngài biến mất vào tảng đá. Cho đến ngày nay vẫn c̣n hai nơi hành hương danh tiếng ở Kongpo : một là Jowo Đá, gương mặt trên đá, ở đấy người ta có thể trông thấy h́nh dạng một vị Phật ; và Jowo Sông, ở đấy h́nh dạng Phật có thể thấy dưới sông.

Người ta bảo năng lực ban phước và chữa bệnh của hai nơi này cũng giống như pho tượng Jowo ở Lhasa. Và đấy là do ḷng tin tưởng vô biên của Ben đối với Phật.

“Ta muốn con cũng có ḷng tin như thế. Hăy để tim con tràn ngập niềm sùng kính đối với Padmasambhava và Dilgo Rinpoche. Hăy tưởng như con đang ở trước mặt các ngài, toàn thể không gian xung quanh con là ngài. Rồi hăy niệm ngài luôn luôn. Hăy hợp nhất tâm con với tâm ngài, và nói từ đáy tim con : “Bây giờ ngài cũng thấy đó, con không thể nào tu tập kiên tŕ được nữa.

Con phải hoàn toàn nương tựa vào ngài. Xin ngài che chở con” . Hăy làm pháp Đạo sư Du-già, tưởng tượng ánh sáng nơi bậc thầy đang tuôn tràn vào con để thanh lọc con, đốt sạch mọi cấu uế bệnh tật trong con, chữa con lành ; thân con tan thành ánh sáng ; và cuối cùng hăy ḥa nhập tâm con vào tâm giác ngộ của bậc thầy, trong niềm tin tưởng tuyệt đối.

“Khi thực tập như vậy, con chỉ cần tin tưởng và cảm thấy điều ấy trong tim con. Mọi sự bây giờ đều tùy thuộc vào cảm ứng, v́ chỉ có điều ấy làm thư giăn sự lo lắng và đánh tan cơn thác loạn thần kinh nơi con. Hăy giữ một h́nh tượng của thầy con, hay Phật, trước mặt con.

Tập trung nhẹ nhàng vào đó, rồi thư giăn vào trong tia sáng của nó. Hăy tưởng giờ này bên ngoài nắng đang lên, và con có thể lấy hết y phục ra mà tắm trong mặt trời ấm áp : tước hết mọi tính dè dặt và thư giăn trong ánh sáng ân sủng. Và từ tâm khảm sâu xa, con hăy buông xả mọi sự.

“Đừng lo lắng ǵ. Không có một vật ǵ con cần bám víu. Hăy buông ra và trôi bồng bềnh trong ư thức về ân sủng đó. Đừng để cho những câu hỏi nhỏ nhặt quấy rối tâm con, chẳng hạn hỏi : “Đó có phải là Rigpa không ?”. Cứ để cho tâm con càng lúc càng tự nhiên. Hăy nhớ Rigpa luôn ở đấy, trong tự tánh tâm con.

Nhớ lời Dilgo Rinpoche thường nói : “Nếu tâm con không thay đổi, th́ chính con đang trong trạng thái Rigpa” . V́ con đă thụ giáo nên con cũng đă được khai thị tự tánh tâm, hăy thư giăn, trong đó không có nghi ngờ.

“Con đă khá may mắn có vài bạn đạo gần bên con. Hăy khuyến khích họ tạo một môi trường tu tập quanh con, và tiếp tụ tu tập như thế cho đến khi con chết, và sau đó. Bảo họ đọc cho con nghe một bài thơ mà con thích, hay một lời chỉ dẫn của bậc thầy, hay giáo lư làm con lên tinh thần. Bảo họ cho con nghe băng giảng của thầy con, hoặc băng tụng kinh, hay băng nhạc mà con ưa chuộng. Ta cầu nguyện mỗi khi con thức tỉnh, hăy ḥa tâm con với ân sủng của sự tu tập, trong bầu không khí sáng sủa đầy cảm hứng.

Khi nhạc hay lời dạy trong băng từ đang tiếp tục, con cứ an nghỉ trong đó, ngủ và ăn với nó. Hăy để cho bầu không khí tu tập thấm nhuần toàn thể đoạn cuối đời con, như bà d́ Ani Rilu của ta. Đừng làm ǵ ngoài ra tu tập, để cho sự tu tập tiếp diễn ngay cả trong mộng của con. Hăy để cho nó trở thành hoài niệm cuối cùng mănh liệt nhất đời, ảnh hưởng đến tâm con, thay thế cho những thói quen thường ngày trong ḍng tâm thức con.

Và khi con cảm thấy gần chết, hăy chỉ nghĩ đến thầy con trong từng hơi thở, từng nhịp tim đập. Bất cứ ư tưởng ǵ con nghĩ tới vào lúc chết, sẽ là ư tưởng trở lại mănh liệt nhất khi con thức dậy trong trạng thái Trung Ấm sau khi chết”.



Từ giă thân xác



Bây giờ khi Trung Ấm cái chết xuất hiện

Tôi sẽ từ bỏ mọi bám víu khát khao chấp thủ

Thể nhập không tán loạn vào tinh yếu của giáo lư

Và chiếu tâm tôi vào không gian của tự tánh vô sanh.

Khi từ bỏ tập hợp máu thịt thân xác này

Tôi biết nó chỉ là ảo ảnh phù du.

Hiện giờ, thân ta có lẽ là trung tâm của vũ trụ. Chúng ta liên kết nó với tự ngă của ta, với cái tôi của ta, và sự liên kết sai lầm ấy cứ tăng cường cái ảo tưởng về hiện hữu cụ thể bất khả phân này. Bởi v́ thân ta dường như hiện hữu, nên cái tôi cũng dường như có, và “anh” cũng dường như có, và cái toàn thể thế giới nhị nguyên huyễn hóa mà ta không ngừng chiếu ra quanh ta, có vẻ tuyệt đối chắc thực. Khi ta chết, toàn thể tập hợp này tan ră thành từng mảnh vụn một cách thảm hại.

Nói giản dị th́ điều xảy ra là tâm thức ở tầng sâu xa vi tế nhất của nó vẫn tiếp tục không cần thân xác và kinh quá chuỗi trạng thái gọi là “Trung Ấm”. Giáo lư dạy ta rằng : chính v́ ta không c̣n có một thân thể trong các trạng thái Trung Ấm, nên không cần phải sợ bất cứ một kinh nghiệm nào, dù ghê rợn tới đâu, có thể xảy ra sau khi chết. Có ǵ có thể làm hại một cái không-thân ?

Tuy nhiên điều rắc rối là trong các trạng thái Trung Ấm, phần đông người ta vẫn tiếp tục chấp thủ một ư thức sai lầm về tự ngă, cùng với sự níu kéo ma quái vào vật thể chắc chắn ; và sự tiếp diễn của ảo tưởng này, vốn đă là gốc rễ mọi đau khổ trong đời, bây giờ lại làm cho người ta khổ thêm vào lúc chết, nhất là trong những cơi “Trung Ấm của sự tái sanh” .

Bạn có thể thấy điều thiết yếu là ngay bây giờ trong lúc c̣n cái thân xác sống, ta cần phải nhận ra rằng tính bền vững rơ ràng của nó chỉ là một ảo tưởng. Cách hiệu nghiệm nhất để nhận ra điều này là tập trở thành “một đứa con của ảo tưởng” : đừng củng cố cái nhận thức về tự ngă và thế giới, như chúng ta luôn luôn làm, mà phải tiếp tục cái thấy như trong thiền định, rằng mọi hiện tượng đều như mộng như huyễn. Nhận thức về thân huyễn này là nhận thức sâu sắc nhất giúp ta buông xả.

Được trang bị bằng tri thức ấy, th́ khi vào lúc chết, đối mặt với sự kiện rằng thân ta là một ảo tưởng, ta sẽ nhận ra ngay được tính chất huyễn hóa của nó mà không hăi sợ, b́nh thản thoát khỏi mọi bám víu thân xác, và vui vẻ bỏ nó lại sau lưng, lại c̣n cảm ơn khi biết rơ mặt thật của nó. Quả thế, khi ấy ta có thể, một cách thực sự và trọn vẹn, chết khi ta chết, và nhờ vậy hoàn toàn giải thoát.

Vậy, hăy nghĩ đến lúc chết như một vùng biên giới lạ lùng của tâm thức, một vùng đất không của ai, trong đó một mặt nếu không hiểu bản chất như huyễn của thân xác, th́ khi chết ta có thể kinh hoảng vô cùng v́ phải mất nó ; mặt khác chúng ta có thể thấy cái chết đem lại khả năng giải thoát vô giới hạn, một sự giải thoát tuôn phát từ chính sự vắng mặt của xác thân ấy.

Khi chúng ta cuối cùng thoát khỏi cái thân xác đă thống trị quá lâu sự hiểu biết của ta về chíùnh ta như vậy, cái thấy do nghiệp của cả một đời bây giờ hoàn toàn kiệt quệ, nhưng nghiệp có thể tạo trong tương lai th́ chưa khởi sự kết tinh. Bởi thế, điều xảy ra trong cái chết là, có một khe hở, một khoảng trống đầy những khả tính vô biên ; đó là một thời điểm có tiềm năng ghê gớm, trong đó điều duy nhất đáng kể là tâm của ta đang là cái ǵ. Khi cởi bỏ thân xác vật lư, tâm đứng chơ vơ và hiển bày một cách dễ sợ bộ mặt nguyên ủy của nó, luôn luôn vẫn là : kiến trúc sư của đời ta.

Vậy nếu khi chết ta đă có một nhận thức vững chăi về tự tánh của tâm, th́ trong một nháy mắt có thể thanh lọc tất cả nghiệp. Và nếu chúng ta tiếp tục cái thấy vững chăi ấy, th́ ta có thể thực sự chấm dứt tất cả nghiệp, bằng cách thể nhập sự trong sáng sơ nguyên của tự tánh, và đạt giải thoát.

Padmasambhava giải thích điều này như sau :

Bạn có thể tự hỏi, tại sao trong trạng thái Trung Ấm, ta có thể giải thoát chỉ nhờ một thoáng trực nhận tự tánh tâm ? Trả lời như sau : hiện tại tâm ta bị nhốt trong một cái lưới của “gió nghiệp” , và gió nghiệp lại bị nhốt trong một cái lưới là xác thân vật lư của ta. Kết quả là ta không có được tự do tự chủ.

Nhưng vừa khi thân xác ta đă chia ĺa thành tâm và vật, trong khoảng hở trước khi nó bị nhốt một lần nữa trong cái lưới của một thân sau, cái tâm, cùng với những tŕnh diễn ảo thuật của nó, bây giờ không có chỗ y cứ vật lư cụ thể. Trong khi nó c̣n thiếu một cơ sở vật chất như thế, th́ chúng ta c̣n tự do và ta có thể nhận ra được.

Khả năng đạt an trú chỉ nhờ nhận chân được tự tánh tâm, là ví như một bó đuốc trong chớp mắt có thể xua tan bóng tối ngàn kiếp. Bởi thế, nếu chúng ta có thể nhận ra tự tánh tâm trong cơi trung gian như bây giờ, khi bậc thầy khai thị, th́ chắc chắn sẽ đạt giác ngộ. Bởi vậy, ngay từ bây giờ trở đi, ta phải tập quen với tự tánh tâm nhờ thực hành thiền định.







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 436 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 10:03pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

     

TẠNG THƯ SỐNG CHẾT


CHƯƠNG HAI: CHẾT


15. TIẾN TR̀NH CHẾT


admasambhava nói :

Con người đối mặt với hai thứ chết : chết phi thời và chết do chấm dứt thọ mạng. Chết phi thời có thể tránh nhờ những phương pháp để kéo dài thọ mạng. Tuy nhiên, khi nguyên nhân cái chết là thọ mạng tận, th́ bạn như một cây đèn đă hết dầu. Không thể nào tránh cái chết bằng cách lừa bịp nó, bạn phải sẵn sàng ra đi.

Bây giờ ta hăy nh́n vào hai nguyên nhân sự chết : thọ mạng hết và một chướng ngại hay tai nạn đưa đời ta đến một kết thúc phi thời.



Thọ mạng tận



Do nghiệp lực, chúng ta mỗi người đều có một thọ mạng, và khi nó chấm dứt, th́ thực vô cùng khó mà kéo dài đời sống. Tuy vậy, một người đă kiện toàn thực tập yoga có thể vượt cả giới hạn ấy, và thực sự kéo dài được thọ mạng. Có truyền thống là, đôi khi những bậc thầy được bổn sư họ báo cho biết họ sẽ sống bao lâu.

Nhưng họ cũng biết rằng nhờ năng lực tu luyện, nhờ sự thuần tịnh của mối liên hệ giữa họ với đệ tử họ nhờ công đức, họ có thể kéo dài thọ mạng. Thầy tôi tiên đoán Dilgo Rinpoche sẽ sống đến tuổi 80, nhưng nếu xa hơn là nhờ tu tập. Dilgo Rinpoche đă sống tới 82 tuổi. Dudjom Rinpoche được thầy bảo cho biết sẽ thọ 73 tuổi, nhưng ngài đă sống đến tuổi 82.



Chết phi thời



Người ta bảo, nếu do trở ngại nào đó mà ta có thể chết bất đắc kỳ, th́ cái chết ấy có thể dễ dàng tránh được, miễn là ta biết trước. Trong giáo lư về Trung Ấm và y học Tây Tạng, chúng ta có thể t́m thấy những mô tả về những dấu hiệu báo trước cái chết, có dấu hiệu báo trước hàng năm, hoặc tháng, có khi tuần hay ngày.

Những điềm báo này gồm những dấu hiệu vật lư, vài loại chiêm bao đặc biệt, và những điều tra đặc biệt xử dụng h́nh ảnh cái bóng. Quan sát cái bóng của ḿnh trên nền trời vào lúc b́nh minh hay trăng sơ tuần). Rủi thay chỉ một ít người có khả năng chuyên môn mới có thể đoán giải những dấu hiệu này.

Mục đích là để báo cho một người biết mạng sống của họ lâm nguy, và báo động cho họ nên dùng các pháp môn để kéo dài thọ mạng, trước khi những chướng ngại ấy xảy đến.

Bất cứ pháp tu nào ta làm, cũng có thể giúp kéo dài thọ mạng và đem lại sức khỏe. Một hành giả thiện xảo nhờ năng lực công phu của ḿnh, thường cảm thấy lành mạnh về tâm lư, cảm xúc và tâm linh, và đấy là nguồn suối lớn nhất để chữa trị và sự che chở lớn nhất chống lại bệnh tật.     

Cũng có những pháp tu đặc biệt kéo dài thọ mạng, dùng năng lực thiền định và quán tưởng để hô triệu sinh lực từ tứ đại và vũ trụ. Khi nghị lực chúng ta suy yếu và thiếu quân b́nh, pháp môn này cũng làm tăng cường và điều ḥa lại cơ thể, và cũng kéo dài thọ mạng ta. Cũng có nhiều pháp để tăng cường mạng sống.

Một pháp môn là phóng sanh những con vật sắp bị giết. Pháp này rất phổ thông ở Tây Tạng và vùng Hy Mă Lạp Sơn, ở đấy người ta thường mua cá để thả. Việc này căn cứ trên luật nhân quả nghiệp báo tự nhiên là : giết hại mạng sống của kẻ khác th́ rút ngắn mạng sống của chính ḿnh, và phóng sinh th́ sẽ kéo dài thọ mạng.



Trung gian đau đớn của sự chết



Trung Ấm này kéo dài từ khi ta mắc một bệnh nan y thời cuối cùng, hoặc một t́nh huống sẽ chấm dứt bằng cái chết, đến lúc hơi thở bên trong chấm dứt. Nó được gọi là “đau đớn” v́ nếu ta không chuẩn bị, th́ nó có thể thành một kinh nghiệm vô cùng đau khổ.

Ngay cả đối với một hành giả, toàn thể tiến tŕnh chết cũng vẫn đau khổ, v́ mất cái thân xác ở đời có thể là một kinh nghiệm rất gay go. Nhưng nếu chúng ta đă được chỉ dẫn về ư nghĩa sự chết, ta sẽ biết có một niềm hy vọng lớn lao như thế nào khi Ánh sáng Căn bản ló dạng vào lúc chết.

Tuy nhiên, vẫn c̣n một điều bất trắc là không biết ta có nhận ra được ánh sáng ấy hay không. V́ vậy, thực quan trọng để ổn định nhận thức về tự tánh tâm nhờ thực tập thiền trong lúc ta c̣n sống.

Nhưng nhiều người trong chúng ta không có cái may mắn gặp được nền giáo lư này, và ta không có một khái niệm nào về ư nghĩa thực thụ của sự chết. Khi chúng ta th́nh ĺnh nhận ra rằng toàn thể cuộc đời ta, toàn thể thực tại của ta, đang biến mất, th́ điều ấy thực kinh khủng : Chúng ta không biết ta sẽ ra sao, sẽ đi về đâu. Không có một thứ ǵ trong kinh nghiệm trước đấy của ta đă chuẩn bị cho ta đón nhận cái chết.

Như bất cứ ai đă từng săn sóc người hấp hối đều biết, sự lo sợ của ta chỉ tổ tăng thêm nỗi đau thể xác. Nếu chúng ta đă không lo cho đời sống của ta, hay ta đă có hành động xấu xa tác hại, tiêu cực, th́ lúc đó ta sẽ cảm thấy hối hận, phạm tội, sợ hăi.

Bởi thế, nhờ có chút quen thuộc với giáo lư này về các cơi Trung Ấm mà ta sẽ được an tâm phần nào, được cảm hứng và hy vọng, cho dù ta chưa từng tu tập hay thực chứng giáo lư ấy.

Đối với những hành giả thuần tục, biết rơ cái ǵ sẽ xảy đến, th́ không những chết không có ǵ đau đớn đáng sợ mà c̣n chính là thời điểm mà họ đang chờ chực sẵn ; họ đối mặt với cái chết một cách thản nhiên, c̣n có hỷ lạc nữa. Tôi nhớ câu chuyện Dudjom Rinpoche kể về cái chể của một hành giả đă ngộ đạo.

Ông đă đau ốm vài hôm, bác sĩ đến xem mạch và khám phá rằng ông sắp chết, nhưng không biết có nên nói cho ông biết hay không. Mặt ông bác sĩ xệ xuống, đừng bên giường trông có vẻ nghiêm trọng, buồn bă. Nhưng với một vẻ nồng nhiệt của trẻ thơ, hành giả năn nỉ bác sĩ cho biết sự thực tệ nhất.

Bác sĩ đành nhượng bộ, nhưng cố nói như để an ủi ông : “Hăy cẩn thận, thời gian đă đến”. Bác sĩ lấy làm ngạc nhiên khi thấy mặt ông tươi hẳn lên, vui như đứa trẻ nhận được quà. “Thật sao ? Ôi, thật là một tin mừng !” . Ông nh́n lên trời và chết ngay trong một trạng thái thiền sâu xa.

Ở Tây Tạng ai cũng biết rằng chết một cái chết đặc biệt là cách thực sự để lưu danh, nếu ta chưa thể làm ǵ có tiếng tăm trong lúc sống. Tôi nghe nói về một người quyết định chết một cách phi phàm, bằng một kiểu vĩ đại. Ông biết thông thường các bậc thầy sẽ chỉ rơ lúc nào th́ họ chết, và triệu tập môn đệ.

Bởi thế, người này cũng tụ hội tất cả bạn bè đến ăn một bữa tiệc lớn xung quanh tử sàng của ông. Ông ngồi đấy trong tư thế thiền để chờ chết, nhưng không có ǵ xảy đến. Sau nhiều giờ, các thực khách đâm ra mệt mỏi v́ chờ đợi, và bảo nhau : “Ta hăy kởi sự ăn thôi”. Họ bỏ thức ăn đầy đĩa, rồi nh́n người sắp chết mà bảo : “Ông ta sắp chết, không cần phải ăn đâu” .

Th́ giờ trôi qua mà vẫn không có dấu hiệu ǵ về cái chết, người “sắp chết” cũng thấy đói bụng và lo sợ sẽ không c̣n ǵ để ăn. Ông ta tụt xuống khỏi giường và tham gia bữa tiệc. Cái màn “dự tri thời chí” lớn lối của ông trở thành một tṛ hề.

Những hành giả thiện xảo có thể tự lo liệu lấy khi họ chết, nhưng những người thường th́ cần có thầy họ ở bên giường chết, nếu không th́ một bạn đạo có thể nhắc nhở họ tinh yếu của việc tu hành và giúp họ thấy được tự tánh tâm.

Dù chúng ta là ai, cũng vẫn rất lợi lạc nếu làm quen với tiến tŕnh chết. Nếu chúng ta hiểu biết các giai đoạn của sự chết, ta sẽ biết rằng tất cả những kinh nghiệm lạ lùng mà ta đang kinh quá trong lúc chết, chỉ là một phần của một tiến tŕnh tự nhiên. Khi tiến tŕnh ấy bắt đầu, nó báo hiệu cái chết sắp đến, và nhắc ta tỉnh giác. Và đối với một hành giả th́ mỗi giai đoạn của sự chết sẽ là một cột đánh dấu hiệu, nhắc cho ta nhớ cái ǵ đang xảy đến với ta, và nhớ thực hành pháp vào mỗi thời điểm như vậy.



Tiến tŕnh chết



Tiến tŕnh chết được giải thích cặn kẽ trong nhiều kinh sách Tây Tạng. Cốt yếu nó gồm hai giai đoạn tan ră : một sự tan ră bên ngoài, khi các căn và tứ đại phân tán ; và một sự tan ră bên trong, thuộc về các ư tưởng và cảm xúc thô và tế. Nhưng trước hết ta cần hiểu rơ những thành phần của thể xác và tâm thức ta, những thứ sẽ phân tán vào lúc chết.

Toàn thể sinh tồn của ta được quyết định bởi các đại chủng : đất, nước, lửa, gió và khoảng không. Nhờ các đại chủng này mà thân thể thành h́nh và tồn tại, và khi chúng tan ră th́ chúng ta chết. Chúng ta quen thuộc với những đại chủng bên ngoài, những thứ định đoạt cách thế chúng ta sống, nhưng điều đáng chú ư là những đại chủng bên ngoài này tác động ảnh hưởng lên các đại chủng bên trong cơ thể ta như thế nào.

Và tiềm năng cùng tính chất của năm đại chủng này cũng hiện hữu trong tâm chúng ta. Khả năng của tâm thức để làm nền tảng cho mọi kinh nghiệm là cái khả năng của đất ; tính tương tục và dễ thích nghi của nó là nước ; tính sáng suốt và khả năng nhận thức của nó là lửa ; tính chuyển động liên tục của nó là gió ; và tính trống rỗng vô giới hạn của nó là hư không.

Sau đây, giải thích cơ thể vật lư của chúng ta h́nh thành như thế nào. Một văn bản y khoa cổ của Tây Tạng nói :

“Các thức thuộc về giác quan khởi lên từ trong tâm. Thịt, xương, khứu giác và mùi được tạo thành do địa đại. Máu, vị giác, vị và chất lỏng khởi lên từ thủy đại. Hơi ấm, màu, thị giác và h́nh sắc được h́nh thành từ hỏa đại. Hơi thở, xúc giác và đối tượng vật lư được tạo thành từ phong đại. Những lỗ hổng trong thân, thính giác và âm thanh được tạo thành từ không đại”.

(Ambrosia Heart Tantra, p.33)

Kalu Rinpoche viết : “Tóm lại, chính từ nơi tâm, biểu trưng tính chất năm đại chủng, mà cơ thể vật lư phát triển. Chính cơ thể vật lư cũng thấm nhuần năm tính chất này, và chính v́ cái phức thể tâm/vật này mà chúng ta nhận thức được ngoại giới - cái thế giới cũng gồm năm đại chủng đất, nước, lửa, gió và hư không như vậy”.

Truyền thống Mật tông Tây Tạng nêu lên một giải thích về thân xác hoàn toàn khác với lối giải thích mà chúng ta vẫn quen thuộc. Đây là một hệ thống tâm vật lư, gồm một mạng lưới năng động với những huyệt đạo vi tế, “khí” hay nội khí, và tinh thần. Những thứ này Phạn ngữ gọi là nadi, prana và bindu (tinh khí thần) ; Tạng ngữ gọi là tsa, lung và tikleù. Chúng ta quen thuộc với một thứ tương tự trong y học và châm cứu Trung quốc là các kinh mạch và khí.

Thân người được các bậc thầy ví như một đô thị, các kinh mạch giống như đường sá, gió như ngựa, tâm như người cỡi. Có 72.000 kinh mạch vi tế trong thân thể, nhưng có 3 kinh mạch chính : trung ương, chạy dọc cột sống, và kinh mạch bên trái và phải chạy hai bên kinh mạch trung ương.

Hai kinh mạch phải, trái cuộn quanh kinh mạch giữa tại một số điểm để làm thành một dăy “gút” . Dọc theo kinh mạch chính có một số “luân xa” chakras, trung tâm năng lượng, từ đấy những kinh mạch phân ra như những cọng dù. Qua những kinh mạch ấy, “khí” tuôn chảy, c̣n gọi là nội khí. Có 5 khí gốc và 5 khí ngành ngọn. Mỗi khí gốc nâng đỡ một đại chủng và chịu trách nhiệm về một vận hành của cơ thể con người.

Những khí ngành ngọn giúp cho các giác quan hoạt động. Những khí nào chảy qua tất cả các kinh mạch, ngoại trừ kinh mạch giữa, th́ được gọi là bất tịnh, v́ gợi lên những mẫu tư duy nghị nguyên, tiêu cực. Những khí ở huyệt đạo trung ương gọi là “khí của trí tuệ”.

“Tinh chất” chứa đựng trong các huyệt đạo. Có tinh đỏ và trắng. Chỗ chứa chính thức của tinh trắng là cái đỉnh đầu, và tinh đỏ ở nơi lỗ rốn.

Trong thực hành yoga cao cấp, hệ thống này được hành giả quán rất rơ. Bằng cách làm cho khí vào trong huyệt đạo trung ương nhờ năng lực thiền định, một hành giả có thể trực nhận ánh sáng hay “Điểm Linh Quang” của tự tánh tâm. Điều này làm được v́ tâm thức cỡi trên khí.

Bằng cách hướng tâm về một chỗ đặc biệt nào trên cơ thể ḿnh, hành giả có thể đưa khí đến đấy. Với cách ấy, hành giả đang mô phỏng cái điều xảy ra lúc chết : khi những gút trong các huyệt đạo được bung ra, khí chảy vào huyệt đạo trung ương, và hành giả đốn ngộ tức th́.

Digo Khientse Rinpoche kể câu chuyện về một bậc thầy nhập thất ở một tu viện thuộc tỉnh Kham, vị này ở gần các anh của ngài. Bậc thầy này đă hoàn tất pháp yoga về các huyệt đạo, khí và tinh thần. Một hôm ông hỏi thị giả : “Bây giờ ta sắp chết, con hăy giở lịch xem ngày nào tốt” .

Vị thị giả kinh ngạc, nhưng không dám trái lời thầy. Ông xem lịch và trả lời rằng ngày thứ hai, sau đó là ngày các sao đều tốt lành. Bậc thầy bảo : “C̣n ba hôm nữa. Được rồi, ta có thể chết”. Khi người hầu ở lại trong pḥng ngài vài phút sau, ông đă thấy ngài ngồi thiền bất động trông như đă chết. Không có hơi thở nhưng c̣n một nhịp mạch rất yếu. Người hầu quyết định không làm ǵ, chỉ chờ đợi.

Vào giữa trưa, th́nh ĺnh ông nghe một tiếng thở ra rất sâu, và thầy ông trở lại t́nh trạng b́nh thường, nói chuyện với ông một cách vui vẻ, và đ̣i bữa ăn trưa, mà ông thưởng thức rất thú vị. Ông đă nín thở suốt một buổi sáng thiền định.

Lư do ông làm việc ấy là v́ thọ mạng chúng ta được tính ra một số lượng có hạn những hơi thở, và bậc thầy khi biết ông gần chết đă nín thở để có thể kéo đến ngày tốt ông sẽ thở hơi cuối cùng. Sau bữa trưa, ông thở vào một hơi thật sâu, rồi giữ nó cho tới chiều. Ông làm như vậy ngày hôm sau, và sau nữa. Khi ngày thứ hai đến, ông hỏi : “Hôm nay có tốt ngày không ?”. “Tốt ạ” . Đệ tử đáp. Ông bảo : “Tốt, vậy ta sẽ đi”. Và hôm ấy, không một dấu hiệu đau ốm nào, ông từ trần trong thiền định.

Khi có một cái thân vật lư th́ ta cũng có năm uẩn - những nhóm làm nên toàn thể hiện hữu vật lư và tâm lư của ta. Chúng là những thành phần của kinh nghiệm ta, chỗ nương cho sự chấp thủ bản ngă, và cũng là nền tảng cho nỗi khổ sinh tử. Đó là h́nh dáng, cảm giác, nhận thức, tri thức, và tâm ư (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) .

“Năm uẩn biểu hiện cơ cấu miên viễn của tâm lư con người cũng như mẫu mực tiến hóa của nó, và mẫu mực tiến hóa của nhân loại. Năm uẩn c̣n liên hệ đến những chướng ngại thuộc nhiều loại khác nhau : chướng ngại về tâm linh, về vật chất và về cảm xúc” . Chúng được khảo sát sâu rộng trong nền Tâm lư học Phật giáo.

Tất cả những kết hợp ấy sẽ tan ră khi chúng ta chết. Tiến tŕnh chết là một tiến tŕnh duyên sinh phức tạp, trong đó những nhóm thuộc các khía cạnh tương quan trong thân và tâm ta phân tán đồng thời. Khi phong đại biến mất th́ những thân hành và các giác quan suy sụp.

Những trung tâm năng lượng sụp đổ, và v́ không có những luồng gió nâng đỡ chúng, nên các đại chủng liên tiếp tan ră từ thô nhất đến tế nhất. Kết quả là mỗi giai đoạn của quá tŕnh tan ră đều có hiệu quả vật lư và tâm lư trên người sắp chết, và được phản chiếu bằng những triệu chứng vật lư bên ngoài cũng như kinh nghiệm tâm lư bên trong.

Đôi lúc các bạn hỏi tôi : “Những người như chúng tôi có thể trông thấy những triệu chứng bên ngoài này nơi một người bạn hay bà con sắp chết không ?” . Các học tṛ tôi săn sóc người hấp hối đă cho biết rằng một vài dấu hiệu vật lư mô tả dưới đây đă được thấy tại các Tiếp dẫn đường và bệnh viện.

Tuy nhiên, những giai đoạn của sự tan ră bên ngoài có thể xảy ra cực kỳ nhanh chóng và không rơ rệt lắm, và phần đông người săn sóc người chết trong thế giới ngày nay không cần để ư t́m kiếm những dấu hiệu ấy. Những y tá trong những bệnh viện rộn ràng thường dựa vào trực giác của họ và nhiều yếu tố khác, như thái độ của bác sĩ, của các thành viên gia đ́nh bệnh nhân, hay tâm trạng người bệnh, để đoán biết người nào sắp chết.

Họ cũng quan sát một vài dấu hiệu vật lư - song không theo một hệ thống nào như là màu da đổi khác, một mùi ǵ đó, một sự đổi khác trong hơi thở. Tuy nhiên, những dược liệu tân thời rất có thể che lấp những dấu hiệu mà giáo lư Tây Tạng mô tả. Và lạ thay, lại có rất ít nghiên cứu ở Tây phương về đề tài rất quan trọng này. Điều ấy phải chăng chứng tỏ tiến tŕnh chết rất ít được hiểu biết và tôn trọng ?



Tư thế chết



Theo truyền thống th́ tư thế để chết là nằm nghiêng bên mặt, như dáng nằm sư tử. Đó là thế nằm của Phật lúc nhập Niết-bàn. Bàn tay trái nghỉ trên vế trái ; tay mặt để dưới cằm, bít lỗ mũi phải lại. Hai ống chân duỗi ra và hơi cong lại. Bên hông phải có vài huyệt đạo vi tế làm tăng thêm “gió nghiệp” vọng tưởng.

Nằm lên trên chúng trong dáng nằm sư tử và bít lỗ mũi phải là làm bế tắc những huyệt đạo ấy, khiến cho một người dễ dàng nhận ra ánh sáng khi nó xuất hiện vào lúc chết. Điều ấy cũng giúp cho thần thức từ giă thân xác qua ngơ mở trên đỉnh đầu, khi tất cả các chỗ mở khác qua đó thần thức có thể thoát ra đều bít lại.



Sự tan ră bên ngoài : các giác quan và tứ đại



Sự tan ră bên ngoài xảy ra khi các giác quan và tứ đại phân tán. Chúng ta thực sự kinh quá điều này như thế nào khi chết ?

Điều trước tiên chúng ta có thể ư thức là các giác quan ta ngưng hoạt động như thế nào. Nếu người đứng xung quanh giường ta đang nói chuyện, sẽ đến một lúc ta có thể nghe âm thanh tiếng nói họ, mà không thể nghe ra một lời nào. Đây là dấu hiệu nhĩ thức đă ngưng hoạt động.

Ta nh́n một vật trước mặt, mà chỉ có thể thấy h́nh dạng lờ mờ, không rơ chi tiết. Đấy là dấu hiệu nhăn thức đă suy. Và việc cũng xảy ra tương tự đối với các khả năng ngửi, nếm, sờ. Khi các giác quan không c̣n được cảm nhận một cách trọn vẹn, đó là giai đoạn đầu tiên của tiến tŕnh tan ră.

Bốn giai đoạn tan ră kế tiếp đi kèm với sự tan ră của bốn đại :



Địa đại :



Thân xác chúng ta khởi sự mất hết sức mạnh. Chúng ta kiệt quệ, không c̣n chút năng lực nào ; không thể đứng lên, ngồi thẳng, hay cầm bất cứ vật ǵ. Ta không c̣n giữ được cái đầu của ta. Ta cảm thấy như ḿnh đang té xuống, đang nhận ch́m xuống đất, hay đang bị một sức nặng ghê gớm nghiền nát. Kinh điển mô tả như là trái núi khổng lồ đang ép xuống người ta, và ta đang bị nó nghiền nát.

Ta cảm thấy nặng nề, khó chịu trong bất cứ tư thế nào. Ta có thể yêu cầu đỡ ta lên, chồng gối cao lên, lấy hết mền trên người ra. Màu da của ta phai nhạt và một màu tái xanh xuất hiện. Má ta hóp lại, và những vết đen xuất hiện trên răng. Càng lúc ta càng thấy khó mở mắt nhắm mắt. Khi sắc uẩn phân tán, ta trở nên yếu đuối mong manh. Tâm ta giao động, nói nhảm, nhưng rồi lại ch́m vào hôn trầm.

Đấy là những dấu hiệu địa đại đang rút vào thủy đại. Điều này có nghĩa rằng gió liên hệ đến địa đại đang trở thành ít có khả năng cung cấp một nền tảng cho ư thức và khả năng của thủy đại bây giờ rơ rệt hơn. Bởi thế, “dấu hiệu bí mật” xuất hiện trong tâm lúc đó là thấy một h́nh ảnh chập chờn.



Thủy đại :



Chúng ta khởi sự mất khả năng kiểm soát chất lỏng trong thân. Mũi ta bắt đầu chảy nước, và miệng rỏ nước miếng. Có thể có nước mắt chảy ra, và ta cũng có thể mất hết sự tự chế. Ta không thể nào di động cái lưỡi. Mắt ta khởi sự cảm thấy khô cạn trong lỗ mắt. Môi ta thụt vào, không c̣n chút sắc máu ; miệng và cổ họng bế tắc. Những lỗ mủi ta lún vào, và ta cảm thấy rất khát nước.

Ta run rẩy, co giật. Mùi tử khí bắt đầu phảng phất xung quanh. Khi thọ uẩn phân tán, th́ những cảm giác của thân yếu dần ; khi khổ khi vui ; lúc nóng lúc lạnh. Tâm ta đâm ra mờ mịt, bất măn, cáu tức, và nóng nảy. Một vài kinh điển nói chúng ta cảm thấy như ḿnh bị d́m trong đại dương hay cuốn trôi trong ḍng nước lớn.

Thủy đại đang tan ră vào hỏa đại, bây giờ hỏa đại thắng lướt và có khả năng nâng đỡ tâm thức. Bởi thế, “dấu hiệu bí mật” là người sắp chết thấy một đám mờ như khói cuộn.



Hỏa đại :



Miệng và mũi chúng ta hoàn toàn khô cạn. Tất cả hơi ấm trong cơ thể bắt đầu mất dần, từ chân tay cho đến tim. Có thể có một luồng khói xuất từ đỉnh đầu. Hơi thở lạnh giá khi qua miệng và mũi. Ta không c̣n có thể uống hay tiêu hóa bất cứ thứ ǵ. Tưởng uẩn đang phân tán, và tâm ta lơ lửng giữa sáng suốt và mê mờ. Ta không thể nhớ được tên bà con, bè bạn, hay nhận ra họ là ai. Càng lúc ta càng khó nhận ra cái ǵ bên ngoài, v́ âm thanh và cái thấy lẫn lộn.

Kalu Rinpoche viết : “Đối với người sắp chết, kinh nghiệm bên trong là như thể bị nuốt chửng trong một ngọn lửa lớn, ở giữa một cái hỏa ḷ hừng hực, hay toàn thế giới đang bị thiêu đốt”.

Hỏa đại đang tan vào phong đại, nên bây giờ nó không có thể làm nền tảng cho tâm thức được nữa, mà khả năng của phong đại th́ rơ rệt hơn. Bởi thế dấu hiệu bí mật là những đóm sáng chập chờn trên một ngọn lửa mở ra, như những con đom đóm.



Phong đại :



Càng lúc càng khó thở. Không khí dường như thoát ra ngơ yết hầu chúng ta. Chúng ta khởi sự thở hào hển. Nhưng hơi thở vào càng lúc càng ngắn và khó nhọc, hơi thở ra càng lúc càng dài. Mắt chúng ta trợn trừng lên, và chúng ta hoàn toàn bất động. Khi hành uẩn phân tán, tâm trở nên hoang dă, không biết ǵ về thế giới bên ngoài. Mọi sự trở nên một khối mờ mịt. Cảm giác liên lạc cuối cùng của chúng ta với hoàn cảnh vật lư đang tan mất.

Chúng ta khởi sự có những ảo giác và thấy các cảnh tượng : Nếu trong đời ta đă tạo nhiều nghiệp ác, ta có thể trông thấy những h́nh thù ghê rợn. Những ám ảnh và những giây phút kinh hăi của đời ta bây giờ quay lại, và có khi chúng ta cố la lên v́ kinh hoàng. Nếu chúng ta đă sống đời có ḷng tử tế xót thương, th́ chúng ta có thể kinh nghiệm những cảnh thiên đường đầy hỷ lạc, và “gặp” những bạn bè thân yêu, hoặc những bậc giác ngộ.

Với những người đă sống đời lương thiện, th́ khi chết có sự an b́nh thay v́ hăi sợ. Kallu Rinpoche viết : “Kinh nghiệm nội tâm đối với người sắp chết là một ngọn cuồng phong quét sạch toàn thế giới, kể cả chính ḿnh, một trận gió xoáy cuốn hút toàn vũ trụ”.

Điều đang xảy đến là phong đại đang tan vào tâm thức. Những ngọn gió đều tập hợp lại trong “gió nâng đỡ đời sống” nằm ở tim. Bởi thế, “dấu hiệu bí mật” là (người chết) thấy một ngọn đuốc hay đèn đỏ rực. Hơi thở vào càng nông cạn, hơi thở ra càng sâu. Ở thời điểm này, máu tụ lại đi vào trong “kinh mạch của sự sống” nằm chính giữa tim ta.

Ba giọt máu lần lượt tụ lại, gây nên ba hơi thở ra cuối cùng. Rồi th́nh ĺnh, hơi thở chúng ta chấm dứt. Chỉ một chút hơi ấm c̣n ở lại nơi tim ta. Mọi dấu hiệu của sự sống không c̣n, và đây là điểm mà sự xét nghiệm lâm sàng cho là “chết”.

Nhưng những bậc thầy Tây Tạng nói đến một tiến tŕnh bên trong vẫn c̣n tiếp diễn. Thời gian giữa sự ngưng thở và thời gian chấm dứt “hơi thở bên trong” được cho là “khoảng chừng bữa ăn”, tức khoảng 20 phút. Nhưng không có ǵ chắc chắn, và toàn thể tiến tŕnh này có thể xảy ra rất nhanh.



Sự tan ră bên trong



Trong quá tŕnh tan ră nội tâm, ở đấy những tâm trạng và cảm xúc từ thô đến tế tan ră, có bốn tầng lớp tâm thức vi tế được gặp gỡ. Ở dây tiến tŕnh chết phản ảnh ngược lại với tiến tŕnh đầu thai. Khi tinh huyết cha mẹ gặp gỡ, tâm thức ta do nghiệp thúc đẩy, bị kéo vào. Trong thời kỳ phát triển bào thai, tinh chất của cha, một hạt nhân “trắng và phúc lạc” an trú trong luân xa ở đỉnh đầu, trên cùng của huyệt đạo trung ương.

Tinh chất của người mẹ, một hạt nhân “đỏ và nóng”, an trú trong luân xa được nói là năm dưới rốn chừng bốn ngón tay. Chính từ nơi hai tinh chất này mà những giai đoạn kế tiếp của sự tan ră xảy ra. Với sự biến mất của ngọn gió giữ nó lại đấy, tinh chất màu trắng đi xuống huyệt đạo về phía trái tim. Bên ngoài có tướng màu “trắng” hiện ra như “một bầu trời trong sáng dưới ánh trăng” .

Bên trong, ư thức chúng ta trở nên vô cùng sáng suốt, và tất cả những tâm trạng do sân giận, gồm 33 thứ, đi đến chấm dứt. Giai đoạn này gọi là “Xuất hiện”. Rồi tinh chất của mẹ bắt đầu đi lên qua huyệt đạo trung ương, khi ngọn gió giữ nó nguyên chỗ đă biến mất.

Tướng bên ngoài là một màu “đỏ” như mặt trời chiếu trên nền trời trong. Bên trong, có một cảm giác phúc lạc phát sinh, và những tâm trạng do tham dục, gồm 40 thứ tất cả, ngưng hoạt động. Giai đoạn này gọi là “Tăng trưởng” .

Khi hai tinh chất đỏ trắng gặp gỡ ở tim, tâm thức được kèm theo trong ấy. Tulku Urgyen Rinpoche, một bậc thầy lỗi lạc ở Nepal, nói : “Kinh nghiệm ấy giống như bầu trời và trái đất gặp nhau” . Bên ngoài, chúng ta thấy xuất hiện một màu “đen” giống như một bầu trời trống rỗng ch́m trong màn đêm dày đặc.

Tướng bên trong là một trạng thái tâm thức không có tư tưởng. Bảy trạng thái tâm do ngu si và vọng tưởng đi đến chấm dứt. Điều này được gọi là “Thành tựu”. Khi chúng ta hơi tỉnh giác trở lại, Ánh sáng Căn bản lóe lên như một bầu trời vô nhiễm không mây mù. Đôi khi đấy gọi là “tâm với ánh sáng trong của sự chết”.

Đức Dalai Lama nói : “Tâm thức này là tâm thức sâu xa nhất. Chúng ta gọi nó là Phật tính, suối nguồn thực sự của mọi thức. Ḍng tương tục của tâm thức này kéo dài ngay cả đến khi thành Phật quả.



Cái chết của “các độc tố”



Thế th́ cái ǵ xảy ra khi ta chết ? Nó giống như ta trở về trạng thái nguyên ủy của ta, mọi sự đều tan ră, khi thân và tâm đă được gỡ rối. Ba độc tham, sân, si cùng chết, có nghĩa là tất cả những cảm xúc tiêu cực, gốc rễ của sinh tử, thực sự chấm dứt, và khi ấy có một khoảng hở.

Và tiến tŕnh ấy đưa chúng ta đi đâu ? Đi trở về nền tảng nguyên ủy của tự tánh tâm, trong tất cả vẻ đơn giản tự nhiên và thuần khiết của nó. Bấy giờ mọi thứ che mờ nó đă bị dời bỏ, và bản lai diện mục của chúng ta hiển lộ.

Một trạng thái tương tự có thể xảy ra như đă giải thích ở chương 5 “Đưa tâm về nhà”, khi chúng ta thực hành thiền quán và có những kinh nghiệm hỷ lạc, trong sáng, vô tưởng : điều này chứng tỏ tham, sân, si đă tạm thời tan ră.

Khi tham, sân, si chết, th́ chúng ta càng trở nên thanh tịnh. Một vài bậc thầy giải thích rằng, đối với một hành giả Dzogchen th́ những giai đoạn xuất hiện, tăng trưởng và thành tựu là những dấu hiệu của của sự biểu hiện dần dần của Rigpa hay Tính giác (Tâm bản nhiên).

Khi những ǵ che mờ bản tánh của tâm chết đi th́ ánh sáng của Rigpa dần khởi sự xuất hiện và tăng trưởng. Toàn thể tiến tŕnh trở nên một tiến tŕnh phát triển của trạng thái ánh sáng gắn liền với sự nhận chân của hành giả đối với ánh sáng ấy, sự sáng suốt của Tính giác hay tâm bản nhiên.

Trong Mật tông có một lối thực tập khác trong tiến tŕnh tan ră. Trong pháp thực hành yoga về tinh khí thần, hành giả Mật tông chuẩn bị cho tiến tŕnh chết bằng cách kích thích những thay đổi tâm thức trong quá tŕnh tan ră, mà cao điểm là kinh nghiệm về ánh sáng hay “Điểm Linh Quang”.

Hành giả cũng t́m cách duy tŕ sự tỉnh giác đối với những đổi thay ấy khi ngủ. V́ điều quan trọng cần nhớ là chuỗi trạng thái tâm thức tuần tự sâu dần này không những chỉ diễn ra khi chúng ta chết. Nó c̣n xảy đến mà ta thường không để ư, trong khi ta ngủ, hoặc khi ta du hành từ những tầng tâm thức thô đến tế, trong thiền định. Một vài bậc thầy lại chứng minh rằng nó c̣n xảy ra ngay trong tiến tŕnh tâm lư của trạng thái tỉnh thức hàng ngày.

Sự kể chi tiết tiến tŕnh tan ră có vẻ phức tạp, nhưng sẽ có lợi ích lớn nếu ta thực sự quen thuộc với nó. Đối với những hành giả Mật tông, có một loạt những thực tập đặc biệt để làm vào mỗi giai đoạn của quá tŕnh tan ră. Chẳng hạn, bạn có thể chuyển tiến tŕnh chết thành một pháp tu Đạo sư Du-già.

Với mỗi giai đoạn của sự tan ră bên ngoài, bạn phát khởi tâm sùng kính và cầu nguyện với bậc thầy, quán h́nh ảnh thầy trong các trung tâm năng lượng (luân xa) khác nhau. Khi địa đại tan ră, hiện tượng ảo ảnh xuất hiện, bạn quán thấy trong tim bạn.

Khi thủy đại phân tán và dấu hiệu khói xuất hiện, bạn quán thấy nơi luân xa ở rốn. Khi hỏa đại phân tán và tướng đom đóm xuất hiện, bạn quán thấy nơi luân xa ở trán. Và khi phong đại phân tán, tướng ngọn đuốc xuất hiện, bạn tập trung hoàn toàn vào sự chuyển di tâm thức bạn vào tâm giác ngộ của thầy.

Về các giai đoạn chết, có nhiều mô tả hơi khác về chi tiết và thứ tự. Những ǵ tôi giải thích ở đây là theo mô tả thông thường, nhưng nó cũng có thể đổi khác tùy từng cá nhân. Tôi nhớ khi Samten, thị giả thầy tôi chết, chuỗi tiến tŕnh rất rơ rệt.

Nhưng những thay đổi có thể xảy ra do hậu quả chứng bệnh đặc biệt của người chết, và t́nh trạng các huyệt đạo, khí lực và tinh thần. Các bậc thầy nói rằng, tất cả chúng sanh, cho đến loài côn trùng nhỏ nhất cũng trải qua tiến tŕnh này. Trong trường hợp chết bất ngờ hay chết v́ tai nạn, tiến tŕnh này cũng vẫn xảy ra, nhưng cực kỳ nhanh chóng.

Tôi đă thấy rằng cách dễ nhất để hiểu cái ǵ xảy ra trong tiến tŕnh chết, với sự tan ră bên trong và bên ngoài của nó, là xem nó như một phát triển tuần tự và sự sinh khởi của những tầng lớp tâm thức càng lúc càng vi tế dần. Mỗi tầng lớp nổi lên trên sự tan ră liên tục của hợp thể thân tâm, khi tiến tŕnh tuần tự di chuyển về hướng ở đấy có sự hiển lộ cái tâm vi tế hơn tất cả : Ánh sáng căn bản hay Điểm Linh Quang.







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 437 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 10:09pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TẠNG THƯ SỐNG CHẾT


PHẦN BA: CHẾT VÀ TÁI SINH


16- Nền tảng


Chúng ta thường nghe những câu nói như : “Chết là lúc nói sự thật” , hay “Chết là thời điểm ta đối mặt với chính ta”. Như ta đă thấy những người qua kinh nghiệm cận tử đôi khi kể lại rằng họ chứng kiến cả cuộc đời họ quay lại trước mắt, và họ được hỏi những câu như : “Ngươi đă làm ǵ với cuộc đời ngươi ? Ngươi đă làm ǵ cho người khác ?” .

Tất cả những chuyện này ám chỉ một điều duy nhất rằng : khi chết, ta không thể tránh thoát đối diện với sự thật ta là ai, ta là ǵ ? Dù ta muốn hay không, bản chất thực của ta cũng hiển lộ. Nhưng điều quan trọng cần biết là có hai khía cạnh con người của ta hiển lộ vào lúc chết : bản chất tuyệt đối của ta và bản chất tương đối ta hiện tại như thế nào, và đă như thế nào, trong cuộc đời.

Như tôi đă giải thích, khi chết tất cả những hợp thể của thân tâm ta đều bị tước bỏ, phân tán. Khi thân xác chết, giác quan và đại chủng vi tế tan ră, tiếp theo đó là cái chết của các khía cạnh tâm thông thường, nhăn thức v.v... với những cảm xúc tiêu cực của nó như tham, sân, si. Cuối cùng không c̣n ǵ để che mờ bản chất thực của ta, v́ mọi thế sự vây phủ cái tâm giác ngộ đă rơi rụng. Và khi ấy, cái được hiển bày là nền tảng tối sơ của bản chất tuyệt đối chúng ta, như một bầu trời trong sáng không mây.

Điều này gọi là sự xuất hiện Ánh sáng Căn bản, hay “Điểm Linh Quang”, khi chính tâm thức cũng tan vào trong không gian bao la của chân lư. Tử Thư Tây Tạng nói về giây phút này như sau :

Bản chất vạn pháp là khoáng đạt, trống rỗng, trơ trụi như bầu trời.

Sự trống rỗng sáng chói, không có tâm điểm hay chu vi : Tính giác của tâm, hay Rigpa, xuất hiện.

Padmasambhava mô tả ánh sáng ấy như sau :

Điểm Linh quang tự sinh ấy, từ khởi thủy chưa từng sinh.

Là con đẻ của Rigpa, tự nó không cha mẹ - lạ lùng thay !

Trí tuệ tự sinh ấy chưa từng được ai tạo ra - lạ lùng thay !

Nó chưa từng sinh, và không ǵ trong nó để gây ra sự chết - lạ lùng thay !

Nó thấy, mà không ai là người thấy nó - lạ lùng thay !

Nó du hành qua sinh tử mà không hại ǵ - lạ lùng thay !

Nó thấy Phật tính, nhưng cũng không lợi ǵ - lạ lùng thay !

Nó hiện hữu trong mọi người, mọi nơi, mà không ai nhận ra nó - lạ lùng thay !

Người ta lại mong đạt một kết quả nào khác bên ngoài - lạ lùng thay !

Mặc dù nó là vật của bạn, bạn lại đi t́m nó ở chỗ khác - lạ lùng thay !

V́ sao trạng thái ấy được gọi là “ánh sáng” hay “Điểm linh quang” ? Các bậc thầy có nhiều cách giải thích khác nhau. Có vị bảo rằng nó biểu thị sự sáng chói của tự tánh tâm hoàn toàn thoát khỏi bóng tối mê mờ “thoát khỏi bóng tối vô tri và có được khả năng trí giác”.

Một bậc thầy khác tả ánh sáng hay linh quang là “một trạng thái ít phân tán nhất” , v́ tất cả đại chủng, giác quan, đối tượng giác quan đă tan ră. Điều quan trọng là xin đừng lẫn lộn nó với ánh sáng vật lư mà ta biết, hay những kinh nghiệm về ánh sáng mà ta sẽ thấy trong Bardo kế tiếp. Ánh sáng khởi lên vào lúc chết là tia tự chiếu của tính giác Rigpa trong ta, “tự tánh vô vi hiện diện suốt trong sinh tử và niết bàn” .

Sự xuất hiện Ánh sáng Căn bản hay Điểm linh quang vào lúc chết là cơ hội ngàn năm một thuở để giải thoát. Nhưng điều cốt yếu là phải nhận ra cơ hội ấy được cống hiến cho ta trong những điều kiện như thế nào. Một vài nhà văn và nhà nghiên cứu tân thời về cái chết đă coi thường sự sâu sắc của giây phút ấy.

V́ họ đă đọc và giải thích Tử Thư Tây Tạng mà không được sự chỉ giáo khẩu truyền, không tu tập để hiểu ư nghĩa thiêng liêng của nó, nên họ đă đơn giản hóa quá mức và nhảy bổ đến những kết luận vội vàng.

Họ cho rằng sự xuất hiện Ánh sáng Căn bản chính là giác ngộ. Tất cả chúng ta đều ưa đồng hóa cái chết với thiên đường hay giác ngộ ; nhưng điều quan trọng hơn sự mong ước ấy là phải biết rằng chỉ khi chúng ta đă thực sự được khai ngộ bản tâm, hay Tính giác Rigpa, chỉ khi chúng ta đă an trú nó nhờ thiền định và thể nhập nó trong đời sống hàng ngày của ta, th́ cái thời điểm chết mới thực sự đem lại một cơ hội để giải thoát.

Mặc dù Ánh sáng Căn bản hiện ra cho tất cả chúng ta một cách tự nhiên, song phần đông chúng ta hoàn toàn không sẵn sàng để đón nhận tính bao la thuần túy của nó, chiều sâu rộng vi tế, tính giản dị sơ nguyên của nó. Đa số chúng ta không có cách ǵ để nhận ra nó, v́ trong đời chúng ta chưa từng quen thuộc với những phương thức nhận ra nó.

Khi ấy, điều xảy đến là, theo bản năng, chúng ta có khuynh hướng phản ứng lại do những nỗi sợ hăi quá khứ của ta, do tập quán, hoàn cảnh, tất cả những phản xạ cũ của ta. Mặc dù những cảm xúc tiêu cực có chết đi th́ Ánh sáng Căn bản mới xuất hiện, song tập quán của nhiều đời vẫn c̣n, ẩn nấp trong hậu trường của tâm phàm t́nh chúng ta. Mặc dù mọi rối ren mờ mịt của chúng ta chết đi lúc thân ta chết, song thay v́ quy phục, đón nhận ánh sáng, th́ v́ sợ hăi và vô minh, chúng ta lùi lại, và theo bản năng bám lấy những ǵ ta đă từng bám giữ.

Đấy chính là nguyên nhân ngăn cản chúng ta lợi dụng thời điểm mănh liệt này làm cơ hội giải thoát. Padmasambhava nói : “Tất cả hữu t́nh đă sống và chết vô số lần. Chúng đă nhiều lần kinh nghiệm Ánh sáng khôn tả này, nhưng v́ bóng tối vô minh làm mờ mịt, chúng vẫn lang thang bất tận trong sinh tử” .


Nền tảng của tâm phàm t́nh



Tất cả những khuynh hướng tập quán ấy, hậu quả của ác nghiệp chúng ta, tuôn phát từ vô minh, được chất chứa trong nền tảng của tâm phàm t́nh. Tôi vẫn thường không biết lấy ǵ làm ví dụ thích hợp để mô tả nền tảng tâm phàm t́nh.

Bạn có thể ví dụ nó với một cái bọt thủy tinh trong suốt, một tấm màn rất mỏng manh che mờ toàn thể tâm ta, song có lẽ h́nh ảnh hay nhất là một cái cửa kính. Tưởng tượng bạn đang ngồi trước một cửa kính dẫn ra vườn, nh́n qua cửa để ngắm trời. Dường như không có ǵ giữa bạn và bầu trời, v́ bạn không thể trông thấy mặt gương.

Nhưng nếu bạn đứng dậy đi ra vườn, bạn có thể đụng lỗ mũi của bạn vào tấm kính, v́ tưởng là không có ǵ. Khi va chạm, bạn mới thấy có vật gi ở đấy giữ lại dấu tay bạn, một cái ǵ đứng chắn giữa bạn và không gian bên ngoài.

Cũng thế, nền tảng tâm phàm t́nh ngăn chúng ta không đi vào bản chất tuyệt đối như bầu trời của tâm, dù chúng ta vẫn thoáng thấy nó. Như tôi đă nói, các bậc thầy giải thích rằng có mối nguy là những thiền giả có thể lầm lẫn nền tảng tâm phàm t́nh với tính giác đích thực của tâm.

Khi họ an trú trong một trạng thái an tĩnh vắng lặng, th́ có thể họ chỉ an trú trong nền tảng tâm phàm t́nh. Đấy là sự khác nhau giữa nh́n trời từ một ṿm kính, và đứng ra giữa trời mà nh́n. Chúng ta phải phá vỡ hoàn toàn nền tảng của tâm phàm, để khám phá và thở bầu không khi tươi mát của Tính giác Rigpa.

Bởi thế, mục đích mọi sự tu tập của chúng ta là chuẩn bị thực sự cho lúc chết, là thanh ọc cái rào ngăn vi tế ấy, dần dần làm nó suy yếu và cuối cùng sụp đổ. Khi bạn đă phá đổ nó hoàn toàn, th́ không có ǵ ngăn cách bạn với trạng thái toàn giác.

Sự khai thị bản tâm của bậc thầy phá vỡ hoàn toàn nền tảng tâm phàm t́nh ấy, v́ chính nhờ sự tan ră của tâm phân biệt khái niệm mà tâm giác ngộ được hiển bày một cách rơ ràng. Rồi khi chúng ta an trú tỉnh giác bản tâm, th́ nền tảng tâm phàm t́nh ấy càng suy yếu.

Nhưng ta sẽ thấy, sự an trú lâu hay mau trong trạng thái tâm bản nhiên ấy hoàn toàn tùy thuộc vào việc tu tập hàng ngày của ta. Rủi thay những tập quán cũ rất khó bỏ, và nền tảng tâm phàm t́nh cứ quay trở lại ; tâm ta như một bợm nhậu chỉ có thể đá đổ ṿ rượu trong chốc lát, nhưng lại rơi vào thói nghiện ngập trở lại mỗi khi bị cám dỗ hay buồn sầu.

Cũng như cánh cửa kính dính đầy dấu vết bụi dơ từ nơi những bàn tay và ngón tay ta, nền tảng tâm phàm t́nh cũng chứa nhóm tất cả nghiệp và thói quen của ta. Và cũng như ta phải tiếp tục lau kính luôn luôn, ta phải luôn luôn thanh lọc nền tảng tâm phàm t́nh.

Sự thực tập thiền cũng như thể là làm cho tấm cửa kính bị ṃn dần, mỏng dần, những hỗ hổng xuất hiện, và nó bắt đầu tan ră. Nhờ thực tập, chúng ta dần an trú vững vàng trong tính giác bản nhiên hơn nữa, đến nỗi nó không c̣n là bản tánh tuyệt đối của ta, mà trở thành thực tại hàng ngày của ta.

Khi t́nh trạng này xảy đến, th́ những thói cũ của ta càng tan biến, và càng có ít sự khác biệt giữa thiền định và sự sống hàng ngày. Dần dần, bạn trở thành như một người có thể đi thẳng ra vườn, xuyên qua cửa kính, không bị chướng ngại. Và cái dấu hiệu tâm phàm t́nh suy yếu là khi ta có thể an trú không nỗ lực trong tự tánh của tâm.

Khi Ánh sáng Căn bản ló dạng, th́ vấn đề then chốt sẽ là mức độ an trú tự tánh nơi ta, mức độ hợp nhất bản chất tuyệt đối và đời sống hàng ngày nơi ta, và mức độ thanh lọc tâm phàm t́nh nơi ta, để thể nhập trạng thái trong sáng nguyên ủy.


Mẹ con gặp gỡ


Có một phương pháp theo đó chúng ta có thể sẵn sàng chuẩn bị để nhận ra khi Ánh sáng Căn bản xuất hiện vào lúc chết. Đấy là phương pháp thiền tối thượng kết quả tối hậu của pháp hành tŕ Dzogchen. Phương pháp ấy gọi là “hợp nhất giữa hai ánh sáng”, hay c̣n gọi là “sự tan ḥa giữa Ánh sáng Mẹ và Ánh sáng Con” .

Ánh sáng Mẹ là cái tên mà ta đặt cho Ánh sáng Căn bản. Đấy là bản chất nội tại của mọi sự vật, nằm bên dưới toàn thể kinh nghiệm của ta, và thể hiện trong vẻ sáng ngời nguyên vẹn của nó vào lúc chết.

Ánh sáng Con, c̣n gọi là Ánh sáng Đạo lộ, là tự tánh của tâm ta, cái mà nếu được thầy khai thị và chúng ta trực nhận, th́ ta có thể dần dần an trú nó nhờ thiền định, và càng ngày càng hội nhập nó vào sự sống hàng ngày của ta. Khi sự hội nhập đă được toàn triệt th́ trực nhận cũng toàn triệt, và sự chứng ngộ xảy đến.

Mặc dù Ánh sáng Căn bản là bản chất nội tại của ta và là bản chất của mọi sự vật, song ta không nhận ra nó, thành thử hầu như bị khuất lấp. Tôi muốn nghĩ đến Ánh sáng Con như là cái ch́a khóa mà bậc thầy trao cho bạn để mở cánh cửa nhận thức, để bạn nhận ra được Ánh sáng Căn bản, mỗi khi gặp cơ hội.

Hăy tưởng tượng bạn phải đi đón một phụ nữ đến bằng phi cơ. Nếu bạn không biết bà ấy ra sao th́ bạn có thể đến phi trường nhưng vẫn hụt đón v́ bà ta đi qua mà bạn không biết. Nếu bạn có một tấm ảnh giống bà ta, hoặc đă có h́nh ảnh bà ấy trong trí bạn, th́ bạn có thể nhận ra bà ấy ngay khi bà tiến đến.

Một khi tự tánh tâm đă được khai thị cho bạn, và bạn đă trực nhận, tức là bạn có ch́a khóa để trực nhận lần khác. Nhưng, cũng như bạn phải giữ tấm ảnh và nh́n nó luôn luôn để cho chắc bạn có thể nhận ra người bạn sắp gặp ở phi trường, cũng vậy bạn phải tiếp tục an trú sự trực nhận tâm bản nhiên (tự tánh tâm) qua sự thường xuyên thực tập.

Khi ấy, sự trực nhận trở thành thâm căn cố đế nơi bạn, thành một phần của bạn, đến nỗi gặp là nhận ra ngay không cần bức ảnh. Vậy, sau khi thực hành sự trực nhận bản tâm đă thuần, th́ vào lúc chết, khi Ánh sáng Căn bản xuất hiện, bạn có thể nhận ra nó và ḥa nhập với nó một cách tự nhiên “như con thơ sà vào ḷng mẹ”, các bậc cổ đức nói, hay như gặp bạn cố tri, hay như sông chảy vào biển.

Nhưng điều này thực vô cùng khó khăn. Cách duy nhất để bảo đảm sự trực nhận ấy là ngay khi ta c̣n sống phải kiện toàn sự luyện tập hội nhập hai ánh sáng. Điều này chỉ khả dĩ nhờ cả một đời nỗ lực tu luyện. Thầy tôi, Dudjom Rinpoche nói rằng : “Nếu chúng ta không thực tập ḥa nhập hai ánh sáng ngay bây giờ, và từ đây về sau, th́ đừng nói tới chuyện sự trực nhận sẽ tự nhiên xảy đến vào lúc chết.

Nhưng hội nhập hai ánh sáng nghĩa là ǵ ? Đây là một pháp tu luyện rất sâu xa và cao cấp, và đây không phải chỗ để bàn chi tiết về điều ấy. Nhưng ta có thể nói điều này : Khi bậc thầy khai thị bản tâm cho ta, th́ cũng giống như chữa lành mắt ta, v́ ta đă bị mù đối với Ánh ánh sáng Căn bản nằm trong tất cả mọi sự. Sự khai thị của bậc thầy đánh thức con mắt tuệ trong ta, nhờ vậy ta thấy được rơ ràng bản chất thực của mọi sự, hay thực chất Ánh sáng điểm Linh quang của mọi cảm xúc và ư tưởng trong ta.

Hăy tưởng tượng, nhờ thực tập toàn hảo sự an trú bản tánh, mà sự trực nhận bản tánh ấy giống như một vầng mặt trời rực rỡ. Tư tưởng và cảm xúc vẫn tiếp tục sanh khởi, chúng như những đợt sóng đen tối. Nhưng mỗi khi những đợt sóng ấy cuộn lên và gặp ánh mặt trời, th́ chúng lại tan ngay.

Nền tảng tâm phàm t́nh của ta được hoàn toàn thanh lọc th́ cũng giống như ta đă phá tan cái kho chứa nghiệp của ḿnh và không c̣n nguyên liệu nghiệp để cung cấp cho tái sinh tương lai. Nhưng nếu ta chưa có thể hoàn toàn thanh lọc tâm, th́ sẽ vẫn c̣n tàn dư của những khuynh hướng tập quán cũ đang nằm trong kho chứa nghiệp của chúng ta. Khi gặp điều kiện thích hợp, chúng sẽ xuất hiện để đẩy chúng ta vào những tái sinh mới.


Thời gian của Ánh sáng Căn bản


Ánh sáng Căn bản xuất hiện, đối với một hành giả, nó kéo dài bao lâu vị ấy an trú không tán loạn vào tự tánh tâm. Nhưng đối với phần đông, nó kéo dài không lâu hơn một búng tay, và với vài người, nó kéo dài “khoảng chừng một bữa ăn”. Phần đông người tuyệt nhiên không nhận ra Ánh sáng Căn bản, thay v́ thế, họ rơi vào một trạng thái ngất xỉu có thể kéo dài ba ngày rưỡi. Sau đó thần thức mới thực sự rời khỏi thể xác.

Do vậy, ở Tây Tạng có tục lệ không động đến thi thể trong 3 ngày sau khi chết. Điều này rất quan trọng, nhất là nơi một hành giả, v́ có thể họ đă ḥa tan với Ánh sáng Căn bản và đang ở trong trạng thái tâm bản nhiên. Tôi c̣n nhớ ở Tây Tạng, người ta thường giữ bầu không khí tuyệt đối thanh b́nh im lặng quanh xác chết như thế nào, nhất là khi đó là xác một bậc thầy hay hành giả tu cao, để tránh gây sự quấy rầy dù nhỏ nhất.

Nhưng dù là thi thể của người thường cũng không nên di chuyển trong ṿng 3 ngày sau khi chết, v́ ta không thể biết được ai đă chứng, ai chưa, và cũng không chắc chắn thần thức đă rời khỏi xác. Người ta tin rằng nếu sờ vào một nơi nào trên thi thể ví dụ chích một mũi thuốc th́ thần thức có thể bị lôi kéo đến chỗ ấy. Khi đó thần thức người chết có thể chui ra lỗ hổng gần nhất để thoát ra ngoài thay v́ thoát lên đỉnh đầu, và v́ vậy sẽ có một tái sanh bất hạnh.

Một vài bậc thầy nhấn mạnh nhiều đến chuyện để yên thi thể trong 3 ngày. Khi nghe có người nói sợ để thi thể trong thời tiết nóng sẽ thối, Chadral Rinpoche, một thiền sư Tây Tạng sống ở Ấn Độ và Nepal, đă bảo : “Bạn làm như thể là bạn phải ăn hay bán cái thây ấy” .

Như vậy, việc hỏa táng hay giải phẫu tử thi tốt nhất nên để 3 ngày sau. Tuy nhiên, v́ ngày nay không thể nào để yên một thây chết đến 3 ngày không động tới, nên ít nhất pháp Chuyển di tâm thức cần được làm trước khi động đến thi thể hoặc dời đi chỗ khác.


Cái chết của một bậc thầy


Một hành giả đă chứng đắc thường tiếp tục an trú sự trực nhận tính giác bản tâm vào lúc chết, và tỉnh thức để thể nhập Ánh sáng Căn bản khi nó xuất hiện. Vị ấy c̣n có thể trú trong trạng thái ấy một vài ngày. Một vài hành giả và bậc thầy chết trong tư thế ngồi thiền, lưng thẳng, hoặc nằm như “dáng nằm sư tử ngủ”.

Ngoài sự tuyệt đối tự chủ, c̣n những dấu hiệu khác chứng tỏ vị ấy đang an trú trong trạng thái Ánh sáng Căn bản : gương mặt họ vẫn c̣n có sắc sáng, mũi không lún vào, da vẫn mềm mại, thân thể không cứng đờ, đôi mắt vẫn giữ một ánh sáng hiền hậu, từ bi, và tim vẫn c̣n hơi ấm. Người ta phải rất thận trọng đừng chạm đến nhục thể của bậc thầy, và giữ im lặng cho đến khi vị ấy ra khỏi trạng thái thiền định này.

Gyalwang Karmapa, một bậc thầy vĩ đại, chưởng môn một trong bốn tông phái lớn của Phật giáo Tây Tạng, đă chết trong một bệnh viện tại Hoa Kỳ vào năm 1981. Ngài gây một cảm hứng kỳ diệu cho tất cả mọi người xung quanh, v́ ngài luôn luôn vui tươi và đầy bi mẫn. Bác sĩ Ranulfo Sanchez, trưởng khoa giải phẫu đă viết :

“Tôi cảm thấy tự thâm tâm rằng ngài không phải người phàm. Khi ngài nh́n bạn, th́ giống như đang xoáy sâu vào bản thể bạn, ngài dường như thấy suốt con người bạn. Tôi rất kinh ngạc trước cái cách ngài nh́n tôi, như thể là ngài biết chuyện ǵ đang xảy đến.

Ngài làm cho hầu hết mọi người trong bệnh viện phải cảm động, bất cứ ai tiếp xúc với ngài. Nhiều lần khi chúng tôi cảm thấy ngài gần kề cái chết, th́ ngài lại nh́n chúng tôi mà mỉm cười, và bảo chúng tôi nói sai, và sau đó sức khỏe ngài lại khá hơn.

Ngài không bao giờ dùng thuốc giảm đau. Chúng tôi, những bác sĩ, trông thấy ngài và biết ngài phải đau đớn lắm, nên hỏi : “Có phải hôm nay ngài đau nhiều lắm không ?”. Nhưng ngài bảo : “Không” .

Khi chúng tôi biết gần tới giây phút cuối cùng, ngài có thể cảm thấy sự lo lắng của chúng tôi, và điều ấy trở thành một tṛ đùa. Chúng tôi sẽ hỏi : “Ngài có đau không ?” , ngài lại mỉm cười thật từ bi và nói : “Không” .

Mọi dấu hiệu của sự sống nơi ngài đă gần chấm dứt. Tôi chích cho ngài một mũi thuốc, chỉ để ngài có thể nói chuyện vào giây phút cuối. Tôi từ giă căn pḥng vài phút để cho ngài trao đổi với các vị tái sanh (tulkus) ; ngài trấn an họ rằng ngài không định chết vào ngày hôm ấy. Khi tôi trở lại chừng năm phút sau, th́ ngài đă ngồi thẳng dậy, mắt mở lớn và nói thật rơ :

“Hello, how are you ?” . Mọi dấu hiệu sống nơi ngài đă trở ngược lại, ngài ngồi nửa tiếng trên giường, nói chuyện, cười lớn. Trên phương diện y học th́ điều này người ta chưa từng nghe thấy bao giờ. Các cô điều dưỡng tái mặt, một cô dở cánh tay cho tôi xem họ đă nổi da gà như thế nào”.

Ban điều dưỡng để ư thi hài của Karmapa không theo tiến tŕnh thông thường của thây chết như cứng và hôi thối, mà vẫn như t́nh trạng lúc ngài mới chết. Sau một lúc, họ mới để ư vùng tim ngài c̣n ấm. Bác sĩ Sanchez viết :

“Họ đưa tôi vào pḥng 36 tiếng đồng hồ sau khi ngài chết. Tôi sờ vùng bên phải, trên trái tim ngài và thấy nó nóng hơn các chỗ khác. Đấy là một điều mà y học không thể giải thích được”.

Một vài bậc thầy chết trong tư thế ngồi thiền, thân thể tự thẳng đứng. Kalu Rinpoche chết năm 1989 trong tu viện của ngài ở dăy núi tuyết, xung quanh có nhiều bậc thầy và các bác sĩ , y tá điều dưỡng. Đệ tử hầu cận ngài đă viết :

“Ngài cố ngồi dậy, nhưng hơi khó khăn. Lama Gyaltsen cảm thấy có lẽ đă đến thời, và nếu không ngồi dậy th́ sẽ chướng ngại cho ngài, nên đă đỡ lưng ngài khi ngài ngồi. Ngài duỗi tay tới nơi tôi, và tôi cũng giúp ngài ngồi thẳng. Ngài ngơ ư muốn ngồi thật thẳng, vừa bằng lời vừa ra dấu. Bác sĩ và y tá cuống lên trước cảnh tượng ấy, nên ngài hơi thư giăn lại, nhưng vẫn để chân tay theo thế ngồi thiền...

Mắt ngài mở nh́n ra, kiểu nh́n trong lúc thiền quán, và môi ngài khẽ mấp máy. Một cảm giác thanh b́nh, an lạc ngự trị trên tất cả chúng tôi, lan tràn qua tâm chúng tôi. Tất cả mọi người hiện diện lúc ấy đều cảm thấy rằng niềm phúc lạc dâng tràn trong chúng tôi chính là phản ảnh yếu ớt của niềm phúc lạc trào dâng trong tâm ngài... Dần dần tia nh́n và mi mắt Rinpoche hạ xuống, và hơi thở chấm dứt” .

Tôi nhớ măi cái chết của thầy tôi, Jamyang Khientse vào mùa hạ năm 1959. Vào khoảng cuối đời, ngài cố càng ít rời tu viện càng tốt. Những bậc thầy đủ mọi truyền thống thường tụ họp lại để được sự giáo thọ, những người giữ ǵn các hệ phái truyền thừa cũng đến xin ngài chỉ dẫn, v́ ngài biết tận nguồn gốc của các hệ phái ấy.

Tu viện Dzongsar, nơi ngài cư trú trở thành một trong những trung tâm sinh hoạt tâm linh sống động nhất Tây Tạng, ở đấy tất cả những Lạt-ma cao cấp thường lui tới. Lời ngài là pháp là luật ở trong vùng ; ngài là bậc thầy vĩ đại và hầu như tất cả mọi người đều là đệ tử của ngài, tới nỗi ngài có năng lực ngăn chận nội chiến chỉ bằng cách hăm dọa ngài sẽ rút lui sự gia tŕ tâm linh của ngài cho cả hai phe.

Rủi thay, khi gọng kềm của quân xâm lược Trung Quốc siết chặt, th́ t́nh huống ở tỉnh Kham trở nên tồi tệ một cách nhanh chóng. Dù c̣n bé, tôi cũng có thể linh cả sự đe dọa của những ǵ sắp xảy ra. Vào năm 1955, thầy tôi đă có vài dấu hiệu chứng tỏ ngài sẽ từ giă Tây Tạng.

Trước tiên, ngài hành hương đến những thánh tích ở miền Trung và Nam Tây Tạng, rồi để làm tṛn lời nguyện tha thiết của thầy ngài, ngài làm một chuyến hành hương chiêm bái thánh tích tại đất Ấn, có tôi đi theo.

Chúng tôi đều hy vọng t́nh h́nh ở miền Đông sẽ khá hơn trong khi chúng tôi đi xa. Hóa ra về sau tôi mới biết nhiều Lạt-ma khác, và dân thường, đă xem cái quyết định du hành của thầy tôi như là một điềm báo trước Tây Tạng sẽ lâm nguy, nhờ thế họ đă kịp thời thoát nạn.

Thầy tôi từ lâu đă muốn viếng thăm Sikkim, một nước nhỏ trong dăy Hy Mă Lạp Sơn, một trong những vùng đất thiêng của Padmasambhava. Jamyang Khientse là nhập thể của bậc thánh thiêng liêng nhất của Sikkim, nên vị vua ở đấy đă yêu cầu ngài đến giảng dạy và ban phước cho xứ ấy bằng sự hiện diện của ngài.

Khi được tin ngài đă đến Sikkim, nhiều bậc thầy từ Tây Tạng cũng đến đấy để thọ giáo với ngài, mang theo những bản kinh quư hiếm, nhờ vậy mới khỏi bị phá hủy. Jamyang Khientse là bậc thầy của những bậc thầy, và đến lượt chùa, cung điện nơi ngài ở trở thành một trung tâm tu học lớn. Khi t́nh h́nh Tây Tạng càng lúc càng kinh khủng, th́ có thêm nhiều Lạt-ma đến tụ tập quanh ngài.

Người ta bảo nếu những bậc thầy vĩ đại giảng dạy quá nhiều, th́ không sống lâu ; như thể là họ gánh lấy những chướng ngại xảy ra cho nền giáo lư. Có những lời tiên đoán, nếu thầy tôi đừng giảng dạy mà chỉ du hành như một ẩn sĩ đến những nơi xa xôi hẻo lánh, th́ ngài có thể sống lâu nhiều năm nữa.

Quả thế, ngài cũng đă cố làm điều này : Khi chúng tôi khởi hành từ tỉnh Kham lần cuối, ngài đă để lại tất cả sở hữu và ra đi trong ṿng bí mật hoàn toàn. Nhưng khi khám phá ra tông tích ngài, th́ đâu đâu người ta cũng liền đến xin ngài giảng dạy và làm phép quán đảnh. Ḷng từ bi của ngài lớn rộng tới nỗi dù biết nguy hiểm đến tánh mạng, ngài vẫn tiếp tục giảng dạy.

Và chính tại Sikkim mà Jamyang Khientse ngă bệnh, đúng vào lúc nhận được hung tin Tây Tạng cuối cùng đă gục ngă. Tất cả những vị Lạt-ma lớn nhất, trưởng các hệ phái, lần lượt tấp nập đến viếng thăm thầy tôi. Lễ cầu an diên mạng cho ngài được tổ chức suốt ngày suốt đêm. Mợi người đều tham dự.

Tất cả chúng tôi đều yếu cầu ngài sống thêm, v́ một bậc thầy vĩ đại như ngài th́ có năng lực quyết định thời gian để ĺa bỏ thể xác. Ngài cứ nằm trên giường, nhận tất cả những đồ dâng cúng, cười lớn mà bảo : “Được rồi, chỉ để chứng tỏ điềm lành, tôi nói là tôi sẽ sống” .

Dấu hiệu đầu tiên chúng tôi biết được là qua Gyalwang Karmapa. Ngài bảo Karmapa rằng ngài đă hoàn tất công việc ngài phải làm trong đời, và ngài đă quyết định từ giă thế gian. Một trong những thị giả thân tín của thầy tôi bật lên khóc vừa khi nghe Karmapa tiết lộ điều này, sau đó chúng tôi đều biết.

Cái chết của ngài cuối cùng đă xảy đến ngay sau khi chúng tôi nghe ba tu viện lớn nhất Tây Tạng là Sera, Drepung và Gaden đă bị quân Trung Quốc chiếm đóng. Dường như đấy là một biểu tượng bi đát khi Tây Tạng sụp đổ th́ con người vĩ đại ấy, linh hồn của Phật giáo Tây Tạng, cũng từ trần.

Jamyang Khientse Chokyi Lodro mất lúc 3 giờ sáng, vào ngày mồng 6 tháng 5, lịch Tây Tạng. Mười ngày trước đấy, trong khi chúng tôi đang có cuộc lễ cầu diên thọ suốt đêm cho ngài, th́nh ĺnh đất rung chuyển v́ một trận động đất lớn. Theo kinh điển Phật giáo, th́ đấy là triệu chứng một bậc giác ngộ sắp từ trần.

Trong 3 ngày, sau khi ngài đă viên tịch, sự bí mật được giữ tuyệt đối không ai được biết Khientse đă chết. Tôi chỉ được bảo cho biết sức khỏe của ngài đang biến đổi tệ hơn, và thay v́ ngủ trong pḥng ngài như thường lệ, tôi được bảo phải ngủ pḥng khác. Thị giả thân cận nhất của thầy tôi và Lama Chokden, vị thầy nghi lễ, ở lại với thầy tôi lâu hơn tất cả mọi người.

Ông là một nhà khổ hạnh lặng lẽ nghiêm trang với đôi mắt nh́n sâu thẳm và đôi má hóp, phong độ nhă nhặn khiêm cung. Chokden nổi tiếng v́ tính trung thực, đàng hoàng, lịch sự, và có trí nhớ phi thường. Ông nhớ từng chữ lời thầy tôi dặn, thuộc từng mẩu chuyện, và biết rơ từng chi tiết của mọi lễ lạc phức tạp nhất, cùng ư nghĩa của chúng. Ông cũng là một hành giả gương mẫu và một thầy giáo trong lĩnh vực của ông.

Lúc ấy chúng tôi nh́n Lama Chokden tiếp tục mang những bữa ăn của thầy tôi vào pḥng, nhưng mặt ông trông rất buồn thảm. Chúng tôi không ngớt hỏi thầy Khientse tôi ra sao, nhưng Chokden chỉ nói : “Ngài vẫn thế” . Trong vài truyền thống, sau khi một bậc thầy qua đời, và suốt thời gian ngài an trú trong thiền định sau khi chết, điều quan trọng là phải giữ bí mật. Chỉ 3 ngày sau đó chúng tôi mới được nghe thầy đă chết.

Chính phủ Ấn đă đánh một điện tín qua Bắc kinh, từ đấy tin được đưa đến tu viện Dzongsar của thầy tôi ở Tây Tạng, ở đấy nhiều thầy tu đă khóc trước khi hay tin, v́ họ đă biết ngài sẽ chết bằng cách nào đó. Trước khi thầy tôi và tôi ra đi, thầy Khientse đă làm một lời hứa huyền bí rằng thầy sẽ trở lại một lần trước khi chết. Và thầy đă trở lại.

Vào ngày Tết năm ấy, sáu tháng trước khi ngài từ trần, trong khi đang cử hành một điệu vũ cổ truyền, nhiều vị sư già đă thấy h́nh ảnh ngài xuất hiện trên nền trời. Tại tu viện, thầy tôi đă lập một trường học nổi tiếng v́ đă đào tạo được nhiều học giả xuất sắc của thời cận đại. Trong ngôi chánh điện của trường, có một tượng Phật Di Lặc khổng lồ. Vào một buổi sáng sớm, ngay sau ngày linh kiến xuất hiện trên trời, khi người giữ chánh điện mở cửa th́ thấy Khientse đang ngồi trên vế đức Phật Di Lặc.

Thầy tôi từ trần trong tư thế “sư tử nằm ngủ”. Mọi triệu tướng đều chứng tỏ ngài vẫn đang trong thiền định, không ai động tới thi thể trong suốt 3 ngày. Cái lúc ngài xuất định là một kỷ niệm tôi sẽ nhớ suốt đời : Lỗ mũi ngài th́nh ĺnh xẹp xuống, màu sắc trên gương mặt không c̣n, và đầu ngài hơi ngoẻo về một phía. Cho tới lúc ấy, luôn luôn vẫn c̣n một mức tự chủ nào đó, một sức mạnh, một sự sống nào đó ở trên xác thầy.

Vào chiều tối chúng tôi tắm rửa cái xác, mặc y phục và đưa xác từ pḥng ngủ của thầy lên ngôi chánh điện của cung đ́nh. Từng đám đông người lũ lượt kéo đến xếp hàng quanh ngôi đền để lễ bái. Khi ấy, một điều dị thường xảy ra. Một ánh sáng rực rỡ màu sữa, trông như một đám mù mỏng và sáng bắt đầu xuất hiện và dần dần tỏa khắp. Ngôi chánh điện của cung đ́nh có 4 bóng điện bên ngoài, thông thường vào giờ ấy chúng chiếu sáng rực.

Nhưng lúc ấy chúng bị mờ đi v́ ánh sáng huyền bí ấy. Apa Pant lúc ấy là sĩ quan chính trị ở Sikkim, là người đầu tiên điện thoại đến hỏi có việc ǵ xảy ra. Nhiều người khác cũng khởi sự gọi đến hỏi thăm : hiện tượng lạ lùng phi phàm ấy đă được hàng trăm người trông thấy. Một trong những bậc thầy lúc ấy đă cho chúng tôi biết đấy là dấu hiệu có người đang chứng đắc Phật quả.

Lúc đầu có dự tính xác của thầy tôi sẽ được giữ trong chùa cung điện một tuần lễ, nhưng ngay sau đó chúng tôi khởi sự nhận nhiều điện tín từ các đệ tử của ngài. Đấy là vào năm 1959, nhiều người trong đó có Dilgo Rinpoche vừa mới di tản đến sau một cuộc gian nan dài đào thoát khỏi Tây Tạng. Tất cả những vị này đều yêu cầu giữ cái xác lại để họ có thể được dịp trông thấy. Bởi vậy chúng tôi giữ thêm 2 tuần.

Mỗi ngày có 4 phiên cầu nguyện, mỗi phiên hàng trăm tu sĩ, dẫn đầu bởi những Lạt-ma thuộc đủ mọi tông phái khác nhau, thường lại có những vị chưởng môn các tông phái làm chủ tọa buổi lễ. Hàng ngàn cây đèn bơ được thắp lên dâng. Cái xác vẫn không hôi thối, cúng không khởi sự tan ră, bởi thế chúng tôi giữ thêm một tuần lễ nữa. Ở Ấn, trời vô cùng nóng bức vào mùa hạ, thế mà hết tuần này sang tuần khác, thi thể vẫn không có dấu hiệu ǵ là tan ră.

Rốt cuộc chúng tôi giữ cái xác của thầy tôi trong 6 tháng ; trong thời gian ấy, một khung cảnh giảng dạy và thiền tập diễn ra trước sự hiện diện thiêng liêng của thầy tôi : những giáo lư mà Jamyang Khientse đă giảng dạy nhưng chưa hoàn tất, bây giờ được hoàn tất bởi những đệ tử lớn nhất của ngài, và nhiều thật nhiều những tu sĩ được thụ giới pháp.

Cuối cùng chúng tôi đưa thi thể đến nơi mà thầy đă chọn để làm lễ hỏa táng. Tashiding là một trong những cảnh thiêng liêng nhất của Sikkim, nằm trên một ngọn đồi. Tất cả đệ tử đều lên đấy, chúng tôi tự thân hành xây dựng tháp cho di thể của ngài, mặc dù ở Ấn những công việc ấy thường mướn nhân công.

Mọi người trẻ, già, từ bậc thầy như Dilgo Khientvse cho đến người b́nh thường nhất, đều mang đá gạch lên đồi và tự tay xây toàn bộ ngôi tháp. Đấy là bằng chứng cụ thể nhất chứng tỏ niềm sùng kính mà ngài đă gợi cho chúng tôi.

Không một lời nào có thể nói lên để diễn tả sự mất mát lớn lao trong cái chết ấy. Khi rời khỏi Tây Tạng, tôi và gia đ́nh tôi mất hết đất đai, tài sản, nhưng hồi đó tôi c̣n quá nhỏ nên không tiếc ǵ. Nhưng mất thầy Jamyang Khientse tôi, là một sự mất mát to lớn, đến nỗi bây giờ sau bao nhiêu năm tôi vẫn c̣n thương tiếc.

Toàn thể chuỗi ngày thơ ấu của tôi đă được sưởi ấm bởi sự hiện diện của thầy như ánh mặt trời. Tôi đă ngủ trong một cái giường nhỏ dưới chân giường thầy, trong nhiều năm tôi đă thức dậy giữa âm thanh của lời thầy th́ thầm lời kinh sáng và tiếng thầy lần tràng hạt. Lời thầy, giáo lư thầy dạy, ánh sáng thanh b́nh mà sự hiện diện của ngài tỏa ra, nụ cười của ngài, tất cả, là những kư ức không phai mờ trong tôi.

Ngài là nguồn cảm hứng của đời tôi ; chính hiện diện của ngài và của Padmasambhava mà tôi luôn luôn triệu thỉnh mỗi khi gặp khó khăn hay khi giảng dạy. Cái chết của ngài là một mất mát vô số kể cho toàn thế giới và cho Tây Tạng.

Tôi thường nghĩ về ngài, cũng như về Dilgo Rinpoche, rằng nếu Phật giáo phải bị hủy diệt mà chỉ cần một ḿnh ngài c̣n sống, th́ Phật giáo vẫn không sao cả, v́ ngài là hiện thân toàn vẹn của ư nghĩa đạo Phật. Jamyang Khientse chết đi, là cả một thời đại, dường như cả một trời năng lực và tri kiến cùng sụp đổ theo ngài.

Ngài mất lúc ngài chỉ mới 67 tuổi. Tôi thường tự hỏi tương lai Phật giáo Tây Tạng sẽ khác tới mức nào nếu ngài c̣n sống để khơi nguồn cảm hứng cho sự tăng trưởng của Phật giáo trong dân tộc lưu đày và tại Tây phương. Sự uyên bác của ngài về mọi truyền thống, sự kính trọng của ngài đối với tất cả giáo phái, đă làm cho ngài được yêu chuộng khắp nơi ở Tây Tạng.

Bởi v́ ngài đă là bậc thầy của tất cả những bậc thầy, chưởng môn các giáo phái đều thụ giáo và nhận lễ quán đảnh từ nơi ngài, xem ngài như bổn sư, cho nên lẽ tự nhiên là ngài có thể kéo họ lại gần nhau trong tinh thần ḥa điệu và hợp tác.

Thế nhưng, một bậc thầy vĩ đại th́ không bao giờ chết. Jamyang Khientse đang gợi cảm hứng cho tôi viết sách này ; ngài là năng lượng đằng sau tác phẩm và bất cứ ǵ tôi giảng dạy ; là nền tảng, là tinh thần của mọi sự tôi làm ; chính ngài hiện vẫn tiếp tục dẫn đạo nội tâm tôi.

Ân sủng của thầy và niềm tin vào ân sủng đó luôn luôn có mặt trong tôi, d́u dắt tôi qua những khó khăn trong nỗ lực tŕnh bày truyền thống tâm linh mà ngài là một đại diện cao cả. Gương mặt cao quư của ngài bây giờ vẫn c̣n sống động với tôi hơn bất cứ gương mặt của một người nào đang sống ; và trong mắt ngài, tôi luôn luôn thấy ánh sáng trí tuệ siêu thoát và từ mẫn vô biên, mà trên trời dưới đất không một mănh lực nào có thể dập tắt được.

Mong sao tất cả các bạn đọc sẽ biết được một ít về ngài như tôi biết, mong sao tất cả bạn đọc sẽ được nguồn cảm hứng từ cuộc đời phụng hiến của ngài và cái chết vinh quang của ngài như tôi đă được, mong sao tất cả các bạn sẽ rút được từ tấm gương hy sinh của ngài cho sự an lạc của tất cả hữu t́nh ḷng can đảm và trí tuệ mà bạn cần, để làm việc cho sự thật trong thời hiện đại.






Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 438 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 10:18pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TẠNG THƯ SỐNG CHẾT


PHẦN BA: CHẾT VÀ TÁI SINH


17- Tia sáng nội tại


Khi Ánh sáng Căn bản ló dạng vào lúc chết, một hành giả có kinh nghiệm sẽ duy tŕ sự tỉnh giác trọn vẹn và hội nhập với ánh sáng ấy, nhờ thế đạt giải thoát. Nhưng nếu chúng ta không nhận ra Ánh sáng Căn bản th́ ta sẽ chạm mặt với Bardo kế tiếp, đó là Bardo của pháp tánh. Giáo lư về Bardo của pháp tánh là một giáo lư rất đặc biệt của Dzogchen qua nhiều thế kỷ.

Lúc đầu tôi ngần ngại không dám tŕnh bày công khai giáo lư thiêng liêng này, và quả thực tôi đă không làm nếu không có người đi trước. Tử Thư Tây Tạng và một số sách nói về Bardo của pháp tánh đă được xuất bản, và đă đưa đến những kết luận ngây ngô. Bởi thế tôi thấy thực quan trọng, và đă đến lúc nên có một giải thích rơ về Bardo này đúng như nghĩa chân thực của nó.

Có lẽ tôi cũng nên nhấn mạnh rằng tôi chưa đi vào chi tiết về những pháp tu cao cấp bao hàm trong đó, mà pháp nào cũng cần phái có thầy, và sự liên hệ với bậc thầy ấy phải được giữ thật hoàn toàn trong sáng.

Tôi đă thu thập tuệ giác từ nhiều nguồn để viết chương này mà tôi cho là một trong những chương quan trọng nhất của quyển sách càng sáng sủa càng hay. Tôi hy vọng nhờ đấy mà một vài người trong các bạn có thể liên lạc với giáo lư phi thường này, và được cảm hứng để tra tầm thêm, và khởi sự tu tập.


Bốn giai đoạn của pháp tánh



Phạn ngữ Dharmata. Tạng ngữ Cho nyi, nghĩa là bản chất nội tại của mọi sự vật, tinh yếu của các pháp. Pháp tánh là sự thật nguyên vẹn, vô điều kiện, bản chất của thực tại, hay thật tánh của hiện tượng giới. Những ǵ chúng ta đang bàn là toàn thể căn bản để hiểu tự tánh của tâm và bản chất của vạn sự vạn vật.

Sự chấm dứt tiến tŕnh tan ră và xuất hiện Ánh sáng Căn bản đă mở ra một chiều không gian hoàn toàn mới mẻ, bây giờ bắt đầu phơi bày. Một cách giản dị để giải thích điều này là so sánh với cách đêm chuyển thành ngày. Giai đoạn cuối của tiến tŕnh tan ră khi chết là kinh nghiệm màu đen của giai đoạn “thành tựu”.

Nó được mô tả “giống như bầu trời trùm trong màn đêm u tối”. Sự sinh khởi Ánh sáng Căn bản là như ánh sáng trong bầu trời trống rỗng không mây ngay trước lúc b́nh minh. Bây giờ, dần dần mặt trời pháp tánh bắt đầu lên cao trong vẻ tráng lệ huy hoàng của nó, thắp sáng mọi đường cong của trái đất ở mọi hướng. Tia sáng tự chiếu của tự tánh Rigpa xuất hiện một cách tự nhiên và tỏa ra thành ánh sáng và năng lượng.

Cũng như mặt trời lên trong bầu trời trong sáng trống rỗng, sự xuất hiện ánh sáng của Bardo pháp tánh cũng sẽ nổi lên từ không gian lan khắp của Ánh sáng Căn bản. Cái tên chúng ta đặt cho sự tŕnh diễn âm thanh, ánh sáng và màu sắc này là “hiện diện tự nhiên”, v́ nó vẫn luôn luôn hiện diện trong tâm, trong sự “trong sáng nguyên ủy”, mà vốn là nền tảng của nó.

Điều thực sự xảy ra là một tiến tŕnh hiển bày, trong đó tâm và bản chất căn để của nó dần dần trở nên rơ rệt hơn. Bardo pháp tánh là một giai đoạn trong tiến tŕnh ấy. V́ chính qua bối cảnh ánh sáng và năng lượng này mà tâm hiển thị trạng thái thuần tịnh nhất của nó. Ánh sáng Căn bản, để tiến đến sự hiển hiện của nó thành h́nh dạng trong Bardo kế tiếp, nghĩa là Bardo của tái sanh.

Tôi nhận thấy một điều rất đáng chú ư là vật lư học tân thời cũng đă chứng minh rằng khi tra tầm vật chất đến chỗ cùng cực th́ nó được hiển bày dưới dạng một biển năng lượng và ánh sáng. “Dường như thể vật chất là ánh sáng được cô đọng lại, được làm cho đông lại...

Tất cả vật chất là một kết tinh của ánh sáng thành những mẫu mực di chuyển qua lại trung b́nh chậm hơn tốc độ ánh sáng”, nhà vật lư David Bohm nhận xét. Vật lư học tân thời cũng hiểu về ánh sáng trong nhiều phương diện: “Nó đồng thời là năng lượng và cũng là thông tin nội dung, h́nh dáng, cơ cấu. Nó là tiềm năng của mọi sự” .

Bardo pháp tánh có 4 giai đoạn, mỗi giai đoạn tŕnh bày một cơ hội khác nữa để giải thoát. Nếu cơ hội này không được bắt lấy, th́ giai đoạn kế tiếp sẽ mở ra. Sự giải thích mà tôi làm ở đây về Bardo này bắt nguồn từ mật điển Dzogchen, trong đó nói chỉ nhờ pháp tu cao cấp đặc biệt gọi là Togal, người ta mới có thể hiểu được ư nghĩa thực sự của Bardo pháp tánh.

Bởi thế, Bardo pháp tánh này ít nổi bật trong các giáo lư về sự chết trong truyền thống Tây Tạng. Ngay cả trong Tử Thư Tây Tạng, vốn cũng thuộc giáo lư Dzogchen, chuỗi liên tục 4 giai đoạn này cũng chỉ nói mơ hồ, hầu như hơi ẩn mật, và không xuất hiện trong một cơ cấu trật tự rơ ràng.

Tuy nhiên, tôi phải nhấn mạnh rằng danh từ chỉ có thể cho một vài h́nh ảnh khái niệm về những ǵ có thể xảy ra trong Bardo pháp tánh mà thôi. Những h́nh ảnh của Bardo này vẫn chỉ là khái niệm, khi mà hành giả chưa kiện toàn pháp môn Togal. Khi đă kiện toàn pháp tu ấy th́ những ǵ tôi nói sau đây sẽ trở thành một kinh nghiệm cá nhân không thể chối căi.

Điều mà tôi cố tŕnh bày ở đây chỉ là để cho bạn biết về hiện hữu của một chiều không gian kỳ diệu như vậy, và để hoàn tất sự mô tả của tôi về các cơi Trung Ấm. Tôi cũng hy vọng sâu xa rằng sự mô tả đầy đủ này có lẽ sẽ giúp nhắc nhở bạn phần nào, khi bạn kinh quá tiến tŕnh chết.



1- Quang sắc - Phong cảnh bằng ánh sáng



Trong Bardo pháp tánh, bạn mang một cái thân bằng ánh sáng. Giai đoạn đầu của Bardo này là khi “hư không tan thành ánh sáng” .

Th́nh ĺnh bạn ư thức đến một thế giới âm thanh, ánh sáng và màu sắc. Tất cả những h́nh dạng quen thuộc thường ngày đă ḥa tan thành một phong cảnh ánh sáng lan khắp. Ánh sáng này rực rỡ chói chang, trong suốt và nhiều màu, không bị giới hạn bởi một chiều hướng nào, lóng lánh và luôn luôn chuyển động.

Tử Thư Tây Tạng gọi nó “giống như một ảo giác trên đồng trống trong hơi nóng mùa hè” . Màu sắc của nó là biểu hiện tự nhiên của thể tánh tứ đại trong tâm : hư không màu xanh, nước trắng, đất vàng, lửa đỏ và gió lục.

Những tướng sáng chói chang ấy trong Bardo pháp tánh an trú lâu mau hoàn toàn tùy thuộc mức độ an trú của bạn trong pháp môn Togal. Chỉ khi bạn thực sự làm chủ pháp môn này, bạn mới có thể ổn định kinh nghiệm ấy và xử dụng nó để đạt giải thoát.

Nếu không, Bardo pháp tánh chỉ lóe lên như một làn chớp, mau đến độ bạn không ngờ nó đă xẹt tới nữa. Tôi lại phải nhấn mạnh rằng, chỉ một hành giả Togal mới có thể có sự trực nhận vô cùng quan trọng này, đó là những biểu hiện ánh sáng chói lọi này không hiện hữu ngoài tự tánh của tâm.



2- Hội nhập - Chư thiên



Nếu bạn không thể nhận ra đấy là biểu hiện tự nhiên của tự tánh - Rigpa, th́ những quang sắc giản đơn khi ấy khởi sự ḥa vào nhau, cô đọng lại thành những điểm sáng hay những trái cầu bằng ánh sáng đủ cỡ, gọi là tiklé. Trong những trái cầu sáng này, “những mandala chư thần an lạc và phẫn nộ” xuất hiện, khi những trái cầu khổng lồ bằng ánh sáng tụ lại, dường như chiếm trọn cả không gian.

Đây là giai đoạn thứ hai, gọi là “ánh sáng tan thành nhất thể”, trong đó ánh sáng xuất hiện dưới h́nh dạng những đức Phật hay chư thiên đủ cỡ, đủ màu sắc h́nh dạng, cầm những đồ phụ tùng khác nhau. Ánh sáng họ chiếu ra thật chói chang làm ḷa mắt, âm thanh th́ ghê rợn như ngàn tiếng sấm sét nổi lên, c̣n những tia sáng th́ như những tia laser đâm thủng mọi sự.

Đấy là “42 thần an lạc và 58 thần phẫn nộ” mô tả trong Tử Thư Tây Tạng. Những vị này xuất hiện trong giai đoạn vài “ngày”, ở trong những mandala đặc biệt của họ gồm từng nhóm năm. H́nh ảnh này chiếm trọn bầu trời bên trong tâm thức bạn, với một cường độ mănh liệt mà nếu bạn không thể nhận ra thực chất của nó, th́ nó có vẻ đe dọa ghê gớm. Bạn bị ngốn ngấu trong nỗi sợ hăi kinh hoàng, và bạn ngất xỉu.

Từ chính bạn và từ những vị thần ấy, có những chùm tia sáng nhỏ nhiệm tỏa ra, ḥa tâm bạn với tâm chư thiên. Vô số trái cầu sáng xuất hiện trong những tia sáng càng tăng thêm rồi “cuộn lại”, khi tất cả chư thần đều tan vào trong bạn.



3- Tuệ giác



Nếu bạn vẫn chưa nhận ra được và an trú, th́ giai đoạn kế tiếp mở ra, gọi là “nhất thể tan thành trí tuệ”.

Một chùm tia sáng nhỏ nhiệm khác tuôn phát từ tim bạn và một chùm ảo tượng khổng lồ mở ra ; tuy nhiên từng chi tiết vẫn sáng sủa rơ ràng. Đây là sự tŕnh bày những khía cạnh khác nhau của trí tuệ, hiện ra một lượt dưới dạng những tấm thảm trải ra bằng ánh sáng và trái cầu sáng rực rỡ.

Đầu tiên, trên một tấm thảm ánh sáng màu xanh lục, xuất hiện những trái cầu sáng màu xa-phia xanh, gồm những nhóm năm. Phía trên đó, trên một thảm ánh sáng trắng, xuất hiện những trái cầu sáng chói lọi, trắng như pha-lê.

Trên nữa, trên một thảm ánh sáng vàng nhạt, xuất hiện những trái cầu sáng màu vàng ṛng, và trên nữa, một thảm ánh sáng đỏ nâng đỡ những trái cầu sáng đỏ màu hổ phách. Trên tất cả là một trái cầu ánh sáng rực rỡ như một cái lọng tỏa ra làm bằng lông chim công.

Sự tŕnh diễn những quang sắc sáng chói này là biểu hiện của năm trí : pháp giới thể tánh trí, giống như hư không cùng khắp ; đại viên cảnh trí, b́nh đẳng tánh trí, diệu quan sát trí và thành sở tác trí.

Nhưng v́ trí Thành sở tác chỉ kiện toàn được vào lúc giác ngộ, nên nó chưa hiện ra ở đây. Bởi thế mà không có thảm ánh sáng màu lục và những trái cầu sáng, tuy thế nó nội tại trong tất cả màu sắc khác. Điều được biểu hiện ở đây là tiềm năng giác ngộ của ta. Thành sở tác trí chỉ xuất hiện khi ta thành Phật.

Nếu bạn không đạt giải thoát ở đây nhờ an trú không tán loạn vào tự tánh tâm, th́ những tấm thảm ánh sáng và những trái cầu sáng trong đó, cùng với tự tánh bạn, tất cả sẽ tan vào trong trái cầu sáng như cái lọng lông chim công.



4- Hiện diện tự nhiên



Điều này báo hiệu giai đoạn cuối cùng của Bardo pháp tánh, “trí tuệ tan thành hiện diện tự nhiên”. Bây giờ, toàn thể thực tại trưng ra trong một cuộc trưng bày vĩ đại. Trước hết, trạng thái thanh tịnh nguyên thủy xuất hiện như một bầu trời mở rộng không mây, rồi chư thần an lạc và phẫn nộ xuất hiện, tiếp theo là những cảnh giới chư Phật, và dưới đó là sáu cơi luân hồi.

Tính cách bao la vô hạn của cảnh tượng này thực hoàn toàn ngoài sức tưởng tượng thông thường của chúng ta. Mọi khả tính đều được tŕnh bày : từ trí tuệ và giải thoát cho đến mê mờ và tái sinh.

Ở điểm này, bạn tự thấy ḿnh có những khả năng nhận thức và trí nhớ sáng suốt. Chẳng hạn, với sự sáng suốt hoàn toàn, các giác quan không bị trở ngại, bạn sẽ biết các đời trước và đời sau, thấy suốt tâm địa người khác và có tri kiến về cả sáu nẻo luân hồi. Trong một thoáng, bạn có thể nhớ lại một cách sống động tất cả những giáo lư đă được nghe, và cả những giáo lư chưa từng nghe cũng thức dậy trong tâm bạn.

Toàn thể cảnh tượng này sẽ tan biến trở lại vào tinh chất sơ nguyên của nó, như một cái lều sụp đổ khi những sợi dây của nó bị cắt đứt.

Nếu bạn có được sự an trú bền vững để nhận ra những hiện tượng ấy là “tia tự chiếu” từ chính bản tâm Rigpa của bạn th́ bạn sẽ được giải thoát. Nhưng nếu không có kinh nghiệm của pháp tu Togal, bạn không thể nh́n vào những vị thần “sáng chói như mặt trời”. Thay v́ thế, bạn đưa mắt nh́n xuống lục đạo, theo khuynh hướng tập quán nhiều đời trước. Chính những h́nh ảnh lục đạo bạn nhận ra sẽ dụ dẫn bạn trở lại vào lưới mê.

Trong Tử Thư Tây Tạng, những thời kỳ nhiều “ngày” được dành cho những kinh nghiệm về Bardo pháp tánh. Đây không phải là những ngày dương lịch 24 tiếng đồng hồ, bởi v́ trong phạm vi pháp tánh, chúng ta đă hoàn toàn vượt ra ngoài mọi giới hạn thời không.

Những “ngày” này là “ngày thiền quán” và ám chỉ thời gian mà chúng ta có thể an trú không tán loạn trong tự tánh tâm, hay trong trạng thái nhất tâm. Nếu không có sự thực tập an trú vững vàng trong thiền định th́ những ngày ấy có thể ngắn như một phút, và sự xuất hiện chư thần an lạc và phẫn nộ sẽ mau chóng đến độ ta không thể ghi nhận được.


Hiểu ngộ pháp tánh


Khi Bardo pháp tánh xuất hiện cho tôi

Tôi sẽ từ bỏ mọi kinh hoàng sợ hăi

V́ nhận ra tất cả đều từ tâm tôi hiển bày

Và biết đấy là xuất hiện tự nhiên của Trung Ấm

Bây giờ khi đă đạt đến cao điểm

Tôi sẽ không sợ chư thần an lạc và phẫn nộ sinh khởi từ chính tâm tôi.

Ch́a khóa để hiểu Trung Ấm này là, tất cả mọi kinh nghiệm xảy ra trong đó đều là tia chiếu tự nhiên của tự tánh tâm. Điều đang xảy đến là, những khía cạnh khác nhau của năng lực giác ngộ của tâm thức đang được phóng thích (khi không c̣n bị thân xác trở ngại DG).

Hệt như những tia sáng cầu vồng nhảy múa do một b́nh pha-lê chiếu ra chỉ là sự hiển bày tự nhiên của nó, cũng thế những xuất hiện chói chang của pháp tánh không thể tách rời tự tánh của tâm. Chúng chính là những biểu hiện tự nhiên của nó. Bởi thế, dù có những h́nh ảnh ghê rợn đến đâu, Tử Thư Tây Tạng nói, chúng cũng không làm ǵ được bạn hơn là một con sư tử độn bông.

Tuy nhiên, thật không đúng khi gọi những xuất hiện này là “h́nh ảnh” hay “kinh nghiệm”, v́ h́nh ảnh, kinh nghiệm tùy thuộc vào một tương quan nhị nguyên giữa chủ thể nhận thức và đối tượng bị nhận thức. Nếu chúng ta có thể nhận ra những tướng trạng ấy của Bardo pháp tánh, xem đấy là năng lực trí tuệ của chính tâm ta.

Th́ khi ấy không có sai khác giữa cái thấy và cái bị thấy, và đây là một kinh nghiệm về bất nhị. Thể nhập hoàn toàn vào kinh nghiệm ấy là đạt giải thoát. V́, như Kalu Rinpoche nói : “Giải thoát xảy đến vào lúc sau khi chết, khi tâm thức có thể nhận ra rằng những ǵ nó kinh nghiệm chỉ là tâm tạo” .

Tuy nhiên, bây giờ khi chúng ta không c̣n có nền tảng vật lư hay được bao bọc bởi một thế giới vật lư, th́ những năng lực của tự tánh tâm được giải tỏa trong trạng thái Trung Ấm có thể trông như vô cùng thực, và dường như có một hiện hữu khách quan. Chúng dường như hiện hữu trong một thế giới bên ngoài chúng ta. Và khi không có sự tu tập vững chăi th́ ta sẽ không biết đến một cái ǵ bất nhị, duy tâm tạo.

Một khi chúng ta đă lầm cho những hiện tượng ấy là tách biệt với ta, là “những h́nh ảnh bên ngoài” th́ chúng ta sẽ phản ứng lại bằng sợ hăi hoặc hy vọng, và thế là nó dẫn chúng ta đi vào mê lộ.

Cũng như khi Ánh sáng Căn bản xuất hiện, sự nhận ra được nó là ch́a khóa để giải thoát, ở đây cũng thế, trong Bardo pháp tánh. Nhưng ở đây, chính sự nhận ra “tia tự chiếu của tính giác Rigpa”, sự biểu hiện năng lực của tự tánh làm nên sự khác biệt giữa giải thoát hay tiếp tục chu kỳ tái sanh do nghiệp.

Lấy ví dụ sự xuất hiện một trăm vị thần an lạc và phẫn nộ, xảy ra trong giai đoạn của hai Bardo này. Những vị này gồm chư Phật thuộc 5 ḍng họ, nguyên lư nữ tánh của những vị ấy, chư Bồ-tát nam nữ, chư Phật trong lục đạo và một số chư thần phẫn nộ và thần hộ mạng. Tất cả đều xuất hiện giữa ánh sáng chói lọi của năm trí.

Chúng ta phải hiểu những Phật và Bồ-tát này như thế nào ? - “Mỗi h́nh dạng thuần tịnh trong đây tiêu biểu một viễn cảnh giác ngộ của một phần kinh nghiệm bất tịnh của chúng ta” .

Năm vị Phật thuộc dương tánh là khía cạnh thanh tịnh của năm uẩn làm nên tự ngă. Năm trí của Phật là khía cạnh thanh tịnh của năm cảm xúc tiêu cực. Năm vị Phật mẫu là những đức tính đại chủng thanh tịnh thuộc tâm, mà chúng ta kinh nghiệm thành ra đại chủng bất tịnh của thân và hoàn cảnh. Tám vị Bồ-tát là khía cạnh thanh tịnh của tám thức, và phần nữ tánh của họ là đối tượng của tám thức.

Dù là h́nh ảnh thanh tịnh năm vị Phật thuộc năm ḍng họ với những loại trí tuệ hiện ra, hay h́nh ảnh bất tịnh của năm uẩn và những cảm xúc tiêu cực của chúng xuất hiện, bản chất của những h́nh ảnh ấy chỉ là một. Sự khác nhau là ở thái độ chúng ta khi nhận ra những h́nh ảnh ấy, và ở chỗ ta có nhận ra rằng chúng vốn xuất phát từ nền tảng của tự tâm ta hay không.

Hăy lấy ví dụ một cái ǵ xuất hiện trong tâm phàm t́nh của ta như là một ư tưởng về tham dục ; nếu bản chất thực của nó được nhận ra, th́ nó khởi lên tách rời chấp thủ như là “Diệu quan sát trí”. Thù ghét và giận dữ, khi nhận chân được nó ĺa chấp thủ, th́ nó khởi lên với sự trong sáng như kim cương, và đấy là “Đại viên cảnh trí”.

Khi ngu si được nhận chân, nó khởi lên như là ánh sáng tự nhiên rộng lớn không có khái niệm, gọi là “Pháp giới thể tánh trí”. Kiêu mạn, khi được nhận chân, được thực chứng như là bất nhị và b́nh đẳng, th́ đó là “B́nh đẳng tánh trí”. Ganh tị, khi được nhận chân, th́ thoát khỏi thiên vị và chấp thủ, và khởi lên như là “Thành sở tác trí” .

Vậy, năm cảm xúc tiêu cực khởi lên như là hậu quả trực tiếp của sự không nhận chân được bản tánh thực của chúng. Khi được nhận chân th́ chúng được thanh lọc và giải thoát, và khởi lên không khác ǵ hơn là sự hiển bày của năm trí.

Trong Bardo pháp tánh, khi bạn không nhận ra được những tia sáng của năm trí ấy, th́ ngă-chấp-thủ sẽ đi vào nhận thức của bạn, cũng như một người lên cơn sốt cao khởi sự có ảo giác và thấy đủ thứ cảnh tượng trước mắt.

Bởi thế, chẳng hạn nếu bạn không nhận ra màu đỏ, ánh sáng hổ phách của Diệu quan sát trí, th́ nó xuất hiện như một ngọn lửa, v́ đó là tinh túy của hỏa đại ; nếu bạn không nhận ra thực chất ánh sáng màu vàng của B́nh đẳng tánh trí, th́ nó xuất hiện như là địa đại, v́ đấy tinh túy của địa đại...

Đấy là cái cách những tướng hiện ra trong Bardo pháp tánh sẽ bị biến hóa - khi ngă chấp đi vào trong nhận thức - thành ra có thực chất để nhập vào những căn bản vọng tưởng trong sinh tử.

Một bậc thầy Dzogchen dùng thí dụ băng và nước để chứng minh sự thiếu nhận thức và ngă chấp diễn ra như thế nào : Nước thường là lỏng, một yếu tố có những tính chất kỳ diệu làm sạch và giải khát. Nhưng khi gặp lạnh nó đông lại thành băng giá.

Cũng thế, mỗi khi ngă chấp xuất hiện, nó củng cố vừa kinh nghiệm bên trong của ta vừa cái cách ta nh́n thế giới quanh ḿnh. Nhưng cũng như sức nóng mặt trời sẽ làm cho băng tan thành nước, dưới ánh sáng của sự trực nhận, bản chất trí tuệ của chúng ta không c̣n bị trói buộc (bởi ngă chấp DG) sẽ hiển bày.

Bây giờ ta có thể thấy rơ làm thế nào - sau khi Ánh sáng Căn bản xuất hiện, rồi Bardo pháp tánh xuất hiện - mà sinh tử thực sự đă khởi lên như hậu quả của sự không nhận ra được bản tâm trong cả hai lần ấy. Lần đầu Ánh sáng Căn bản, nền tảng (hay Tướng DG) của tự tánh tâm, đă không được nhận ra, nếu nhận được, là ta đă đạt giải thoát.

Lần thứ hai năng lực (hay Dụng) của tự tánh ấy xuất hiện, và đó là một cơ hội thứ hai để giải thoát ; nhưng nếu nó không được trực nhận th́ những cảm xúc tiêu cực khởi lên, cô đọng lại thành nhiều nhận thức sai lầm khác nhau, cùng nhau tiếp tục tăng trưởng những cảnh giới huyễn mộng mà ta gọi là sinh tử, giam giữ ta trong chu kỳ tái sanh.

Toàn thể sự tu tập tâm linh, như vậy, cốt là để lật ngược cái t́nh huống mà tôi muốn gọi là quá tŕnh vô minh, để chấm dứt tạo tác, chấm dứt củng cố những nhận thức sai lạc chằng chịt lệ thuộc vào nhau, những thứ đă bẫy ta vào cái thực tại huyễn hóa do chính ta bày đặt.

Cũng như khi Ánh sáng Căn bản xuất hiện vào lúc chết, ở đây trong Bardo pháp tánh cũng thế, chưa chắc đă được giải thoát. V́ khi ánh sáng trí tuệ chiếu ra, nó c̣n kèm theo một loạt những âm thanh và ánh sáng ấm áp dịu dàng hấp dẫn hơn, không tràn ngập, không chói chang như ánh sáng trí tuệ.

Những ánh sáng mờ nhạt này có màu khói nhạt, màu vàng, lục, xanh, đỏ và trắng là những khuynh hướng tập quán vô thức trong ta tích lũy do giận dữ, tham lam, ngu si, nhục dục, ganh tị và kiêu mạn. Đấy là những cảm xúc đă tạo ra sáu cơi luân hồi hay lục đạo : địa ngục, quỷ đói, súc sinh, người, a tu la và chư thiên.

Nếu chúng ta không nhận ra và an trú pháp tánh của tự tâm trong đời sống thường ngày (nghĩa là ngồn gốc 6 cơi ở ngay trong tâm thức DG), th́ theo bản năng chúng ta sẽ bị lôi cuốn về phía những ánh sáng mờ của lục đạo, v́ khuynh hướng chấp thủ cố hữu nơi ta khởi sự thức dậy. Tâm ta lùi lại v́ cảm thấy bị đe dọa bởi ánh sáng trí tuệ chói chang.

Những ánh sáng ấp áp, sự mời gọi của những khuynh hướng thường ngày, dụ dẫn chúng ta vào một tái sanh mới, được định đoạt bởi cảm xúc tiêu cực nào mạnh nhất (trong 6 thứ nói trên) trong nghiệp thức chúng ta.

Ta hăy lấy một ví dụ sự xuất hiện của một trong những vị Phật trong Tử Thư Tây Tạng để minh họa toàn thể tiến tŕnh này. Bậc thầy hay bạn đạo nói với thần thức người chết như sau :

Này thiện nam nữ, hăy lắng nghe không tán loạn !

Vào ngày thứ ba, một ánh sáng sẽ sanh khởi, đó là tinh chất của địa đại. Đồng thời, từ cơi Phật phương Nam, gọi là “thế giới quang vinh” đức Phật Bảo Sanh sẽ xuất hiện trước ngươi, thân ngài màu vàng, tay cầm viên bảo châu như ư.

Ngài ngồi trên ṭa có những con ngựa đỡ và được ôm bởi Phật mẫu Mamaki, nguyên lư nữ tánh của ngài. Xung quanh ngài là hai Bồ-tát dương tánh : Hư Không Tạng (Akashagarbha) và Phổ Hiền (Samantabhadra), và hai Bồ-tát nữ tánh : Mala và Dhupa, làm thành 6 vị Phật ở trong bối cảnh ánh sáng cầu vồng.

Tính thuần tịnh nội tại của thọ uẩn. B́nh đẳng tánh trí một bầu ánh sáng vàng chói lọi, được trang trí bằng những trái cầu cũng bằng ánh sáng (tiklés) lớn nhỏ đủ cỡ, trong suốt rực rỡ, con mắt trần không thể chịu nổi, sẽ tuôn tràn về phía ngươi từ nơi tim của Phật Bảo Sanh và nguyên lư nữ tánh của ngài, và đâm xoáy tim ngươi đến nỗi con mắt ngươi không thể nào nh́n vào đó.

Vào cùng lúc ấy, cùng với tia sáng trí tuệ, có một ánh sáng xanh của cơi người chiếu về phía ngươi, xoáy vào tim ngươi. Khi ấy, bị kiêu mạn thúc đẩy, trong nỗi kinh hoàng ngươi chạy trốn ánh sáng vàng quá chói lọi kia, nhưng lại thích ánh sáng xanh của cơi người, và bị dính mắc vào đó.

Lúc ấy, ngươi đừng sợ ánh sáng vàng chói chang, hăy nhận ra đó là trí tuệ. Hăy an trú tự tánh ngươi trong đó một cách thoải mái, vô vi. Hăy tin tưởng vào đó, hăy có sự sùng kính và khát khao đối với nó.

Nếu ngươi nhận ra nó là tia chiếu tự nhiên của tự tánh Rigpa ngươi, th́ dù cho ngươi không có sùng kính, chưa đọc kinh cầu nguyện, tất cả chư Phật và ánh sáng ấy cũng sẽ tan ḥa bất ly với ngươi, và ngươi sẽ đạt đến cơi Phật.

Nếu ngươi không nhận ra đấy là tia chiếu tự nhiên của tự tánh ngươi, th́ hăy có ḷng sùng kính mà cầu nguyện, nghĩ : “Đây là ánh sáng năng lực từ bi của Phật Bảo Sanh. Con xin quay về nương tựa ngài” .

V́ đó quả thực là Phật Bảo Sanh đang đến hướng dẫn ngươi trong nỗi kinh hoàng của cảnh Trung Ấm, đó là những móc câu bằng ánh sáng của năng lực tâm đại bi, bởi thế ngươi hăy để niềm sùng kính tràn ngập tim ngươi.

Đừng thích trú trước ánh sáng xanh của cơi người. Đây là con đường hấp dẫn của những khuynh hướng, tập quán mà ngươi đă tích lũy bằng kiêu mạn mănh liệt. Nếu ngươi quyến luyến với nó, ngươi sẽ tái sanh vào cơi người, ở đó ngươi sẽ kinh quá những đau đớn của sinh, già, bệnh, chết ; ngươi sẽ lỡ mất cơ hội ngoi đầu lên khỏi vũng lầy sinh tử.

Ánh sáng xanh dịu này là một chướng ngại bít lấp con đường giải thoát, bởi thế ngươi đừng nh́n vào đó, mà hăy từ bỏ kiêu mạn ! Từ bỏ những khuynh hướng tập quán của nó. Đừng quyến luyến ánh sáng xanh dịu, đừng khát khao nó. Hăy sinh tâm sùng kính và khát ngưỡng ánh sáng vàng chói chang, hăy tập trung toàn sự chú ư của ngươi vào đức Phật Bảo Sanh và cầu nguyện :

“Than ôi, v́ kiêu mạn con đă lang thang trong sinh tử.

Xin đức Phật Bảo Sanh dẫn đường cho con

Trên đạo lộ quang minh rực rỡ vốn là “B́nh đẳng tánh trí”.

Xin Phật mẫu Mamaki tối thượng của ngài hăy đi sau con

Xin các ngài giúp con vượt qua ngơ hiểm nghèo Trung Ấm

Và đưa con đến trạng thái toàn giác”.

Nhớ đọc lời cầu nguyện này trong niềm sùng kính sâu xa, ngươi sẽ tan thành ánh sáng cầu vồng trong tim của Phật Bảo Sanh và Phật mẫu Mamaki, trở thành một báo thân Phật trong cơi Phật “Quang vinh” phương Nam”.

Sự mô tả đức Phật Bảo Sanh xuất hiện kết thúc với lời giải thích rằng nhờ vị thầy hay bạn đạo “khai thị” như thế nhiều lần, người chết sẽ được giải thoát, dù năng lực họ có kém cỏi bao nhiêu. Tuy nhiên, Tử Thư nói, dù đă được khai thị nhiều lần, có những người v́ ác nghiệp nên không nhận ra, không giải thoát được.

Bị giao động bởi tham dục, si mê và kinh hoàng trước những ấm thanh ánh sáng ấy, họ sẽ chạy trốn. Bởi thế, vào “ngày” hôm sau, vị Phật kế tiếp là A Di Đà với ánh sáng vô lượng, cùng với mandala chư thần của ngài sẽ xuất hiện trong tất cả vẻ huy hoàng với quang sắc màu đỏ chói lọi, đồng thời lại có ánh sáng đục hấp dẫn của ngạ quỷ đạo, do tham dục thấp hèn phát sinh. Tương tự như thế, Tử Thư lần lượt giới thiệu sự xuất hiện của chư thần an lạc và phẫn nộ.

Người ta thường hỏi tôi : “Chư thần có hiện ra cho một người Tây phương không ? Nếu có, th́ có phải hiện dưới h́nh dạng quen thuộc của phương Tây hay không ?”

Những sự hiển bày của Bardo pháp tánh được gọi là “hiện diện tự nhiên”. Điều này có nghĩa chúng nội tại vô điều kiện, hiện hữu trong tất cả chúng ta. Sự khởi lên của chúng không tùy thuộc sự chứng đắc nào của ta, nhưng sự nhận ra chúng th́ có tùy thuộc.

Những h́nh ảnh ấy không phải chỉ xuất hiện cho người Tây Tạng, mà đấy là kinh nghiệm phổ quát và căn để, nhưng cái cách theo đó chúng được thấy, tùy thuộc bối cảnh sống của chúng ta. V́ tự bản chất chúng là vô giới hạn, nên chúng có tự do xuất hiện dưới bất cứ h́nh dạng nào.

Bởi thế, chư thần có thể mang h́nh dạng mà chúng ta thường quen thuộc nhất trong đời sống hàng ngày. Ví dụ, với hành giả Tây phương, th́ chư thần có thể mang h́nh dạng chúa Ki-tô hay đức Mẹ đồng trinh.

Thông thường, toàn thể sự hiển bày giác ngộ của chư Phật là giúp chúng ta, bởi thế nên chúng có thể mang h́nh dạng nào thích hợp và lợi ích nhất cho chúng ta. Nhưng dù dưới h́nh dạng nào th́ điều quan trọng vẫn là phải nhận ra rằng tự bản chất, không có sự khác nhau nào cả giữa những biểu hiện ấy.


Sự trực nhận


Giáo lư Dzogchen giải thích rằng, cũng như một người sẽ không nhận ra Ánh sáng Căn bản nếu không có sự thực chứng tự tánh tâm và một kinh nghiệm vững vàng về pháp tu Trekcho ; cũng thế nếu không thực hành pháp Togal th́ không thể nhận ra được Bardo pháp tánh.

Một hành giả Togal thuần thục đă kiện toàn và an trú trong ánh sáng của tự tánh th́ khi sống, họ đă có kinh nghiệm trực tiếp về những biểu hiện sẽ nổi lên trong Bardo pháp tánh. Năng lượng và ánh sáng này như vậy nằm ngay trong chúng ta, mặc dù hiện tại chúng bị khuất lấp. Tuy nhiên, khi thể xác và những tầng thô của tâm thức đă chết, th́ chúng tự nhiên được phóng thích, và âm thanh, màu sắc và ánh sáng của tự tánh ta sẽ chiếu sáng rực rỡ.

Tuy nhiên, không phải chỉ có nhờ pháp Togal mới có thể xử dụng Bardo này để giải thoát. Những hành giả Mật tông trong Phật giáo sẽ liên kết những tướng xuất hiện trong Bardo pháp tánh với pháp tu của riêng họ. Trong Mật tông, nguyên lư chư thần là một cách truyền thông. Chư thần được hiểu như những ẩn dụ, nhân cách hóa và biểu trưng cho những năng lực và tính chất vô biên của tâm trí tuệ chư Phật.

Sự nhân cách hóa những năng lực và tính chất ấy dưới h́nh dạng chư thần sẽ giúp cho hành giả nhận ra chúng và thiết lập tương quan với chúng. Nhờ tu tập sự tạo ra rồi thâu lại h́nh ảnh ấy vào tâm, qua phương pháp quán tưởng, mà hành giả nhận ra rằng cái tâm quán ra chư thần và chư thần được quán ra ấy không phải là hai thứ tách biệt.

Trong Phật giáo Tây Tạng, mỗi hành giả có một yidam, h́nh ảnh một vị Phật hay Bồ-tát nào mà họ cảm thấy có duyên với ḿnh, và thường triệu thỉnh vị ấy để quán tưởng h́nh ảnh trong tim mỗi khi tập luyện. Thay v́ xem những tướng của pháp tánh là hiện tượng bên ngoài, hành giả Mật tông sẽ liên kết chúng với yidam, h́nh ảnh vị Phật của riêng họ, ḥa nhập làm một với tướng ấy.

Bởi v́ trong khi tu luyện, họ đă nhận ra yidam là tia chiếu tự nhiên của tâm giác ngộ, nên (khi chết) họ có thể nh́n các tướng trong Bardo pháp tánh như là biểu hiện của yidam ấy. Với cái thấy thuần tịnh này, hành giả sẽ nhận ra bất cứ ǵ xuất hiện trong Bardo đều là những thị hiện của yidam. Rồi nhờ năng lực tu tập và sự ban phước của yidam, vị ấy sẽ đạt giải thoát trong Bardo pháp tánh.

Đấy là lư do trong truyền thống Tây Tạng có lời khuyến cáo cho cư sĩ thế tục và những hành giả thông thường chưa quen thuộc với pháp tu yidam rằng bất cứ tướng ǵ khởi lên, đều nên quán ngay đấy là đức Quán Thế Âm, vị Phật của ḷng bi mẫn, hoặc đức A Di Dà, hoặc Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) tùy theo vị nào họ quen thờ nhất.

Nói tóm lại, bất cứ cách nào bạn thường tu tập trong đời sống, th́ cũng bằng cách đó bạn cố mà nhận ra các tướng trong Bardo pháp tánh.

Một gợi ư khác để nh́n Bardo pháp tánh là, hăy xem nó như thế giới nhị-nguyên được hiển bày trong h́nh dạng thuần tịnh tối hậu của nó. Chúng ta được đưa ra phương tiện để giải thoát, song đồng thời chúng ta cũng bị dụ dẫn bởi tiếng gọi của những bản năng và tập quán trong ta.

Ta kinh nghiệm năng lực thuần túy của tâm linh mà đồng thời cũng kinh nghiệm sự rối ren mờ mịt của nó. Dường như thể ta đang được nhắc nhở phải làm một quyết định, phải chọn lựa giữa đường này hay đường kia. Dĩ nhiên chúng ta có được cái quyền chọn lựa ấy hay không c̣n tùy thuộc vào mức độ hoàn tất của việc tu tập của ta trong lúc sống.







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 439 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 11:45pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TẠNG THƯ SỐNG CHẾT


PHẦN BA: CHẾT VÀ TÁI SINH


18- BARDO TÁI SANH


Đối với phần đông người, kinh nghiệm về cái chết chỉ có nghĩa là bước vào một trạng thái quên lăng ở cuối tiến tŕnh chết. Ba giai đoạn của sự tan ră bên trong có thể rất nhanh, “như ba cái búng tay”. Những tinh chất trắng và đỏ của cha và mẹ gặp nhau ở tim, và kinh nghiệm màu đen gọi là “thành tựu” khởi lên. Ánh sáng Căn bản xuất hiện, nhưng ta không nhận ra được nó, và ta rơi vào trạng thái hôn mê bất tỉnh.

Như tôi đă nói, đây là sự hụt trực nhận lần thứ nhất, hay giai đoạn vô minh thứ nhất, Tạng ngữ gọi là Ma Rigpa, hay “Bất giác”, ngược lại với Rigpa, sự tỉnh giác về tự tánh tâm. Điều này đánh dấu trong ta sự khởi đầu một chu kỳ khác của sinh tử, chỉ bị gián đoạn chốc lát vào lúc chết. Khi ấy Bardo pháp tánh xuất hiện và nó chỉ vút qua như một làn chớp, không được nhận ra. Đây là sự hụt trực nhận lần thứ hai, giai đoạn hai của vô minh bất giác.

Điều đầu tiên mà ta ư thức đến là “như thể trời và đất lại cách ngăn trở lại” : Chúng ta th́nh ĺnh tỉnh dậy trong trạng thái trung gian giữa cái chết và một tái sanh mới. Đây gọi là Trung Ấm của tái sanh, sipa Bardo, và là Trung Ấm thứ ba của sự chết.

Khi chúng ta không nhận ra được Ánh sáng Căn bản và không nhận ra Bardo pháp tánh, những hạt giống của khuynh hướng tập quán trong ta được khơi dậy, bừng tỉnh. Bardo tái sanh bắt đầu từ khi bừng tỉnh này cho đến khi chúng ta nhập vào bào thai của đời sống mới.

Danh từ Sipa trong Sipa Bardo dịch là “Trung Ấm tái sinh”, cũng có nghĩa là “khả năng” và “hiện hữu”. Trong Trung Ấm này, v́ tâm thức không c̣n bị giới hạn và ngăn che bởi cái thân vật lư của thế giới này, nên những “khả năng” là vô biên cho việc tái sinh trong các cơi. Và Bardo này có “hiện hữu” bên ngoài là thân tâm lư và ‘hiện hữu” bên trong là tâm.

Khía canh nổi bật của Bardo tái sanh là, ở đây tâm đóng vai tṛ quan trọng, trong khi ở giai đoạn Bardo pháp tánh, th́ mọi sự diễn ra trong phạm vi Tính giác Rigpa, cốt lơi của tâm. Bởi thế, trong Bardo pháp tánh, chúng ta có một thân bằng ánh sáng, c̣n trong Bardo tái sinh chúng ta có một thân do ư sanh.

Trong Bardo tái sinh, tâm có được ánh sáng vô biên và sự di động không giới hạn, nhưng hướng di chuyển của nó hoàn toàn được định đoạt bởi những khuynh hướng tập quán cũ của ta. V́ vậy nó được gọi là Bardo tái sinh. Kalu Rinpoche nói : “Đó là hậu quả hoàn toàn thụ động, mù quáng của những nghiệp đời trước, và không có ǵ xảy ra là hữu thức ; chúng ta hoàn toàn bị nghiệp lực lôi kéo”.

Ở điểm này, tâm đă đạt đến giai đoạn kế tiếp trong tiến tŕnh tuần tự mở ra của nó : Từ trạng thái thanh tịnh nhất của nó là Ánh sáng Căn bản, qua ánh sáng và năng lượng của nó, tức là những tướng hiện ra trong Bardo pháp tánh, và bây giờ đi vào sự biểu hiện thô hơn của một thân ư sanh trong Bardo tái sinh. Những ǵ xảy ra bây giờ ở giai đoạn này là một tiến tŕnh tan ră ngược lại : những ngọn gió lại xuất hiện, cùng với chúng là những trạng thái tư tưởng liên hệ đến ngu si, tham dục và giận dữ. Rồi, v́ kư ức về thân nghiệp sanh trong quá khứ của chúng ta đang c̣n mới mẻ, chúng ta mang một “thân ư sanh”.


Thân ư sanh


Thân ư sanh của chúng ta trong Bardo tái sanh mang một số đặc tính đặc biệt. Nó có đủ tất cả các giác quan. Nó vô cùng nhẹ, sáng suốt và di động ; và sự bén nhạy của nó được nói là gấp 7 lần trong đời sống thực. Nó cũng có được một loại thần thông lặt vặt, không được ư thức kiểm soát, nhưng đem lại cho thân ư sanh khả năng đọc được tâm người khác.

Lúc đầu, thân ư sanh này sẽ có một h́nh dáng giống như thân thể trong đời vừa qua, nhưng không có một khuyết điểm nào, và đang ở độ tuổi xuân xanh. Ngay cả khi bạn bị què quặt hay đau ốm trong đời sống, bạn vẫn có được thân ư sanh toàn hảo trong Bardo tái sanh.

Một trong những giáo điển cổ của Dzogchen cho chúng ta biết rằng thân ư sanh cỡ bằng một đứa bé từ 8 đến 10 tuổi.

Do năng lực của tư duy khái niệm, gọi là “gió nghiệp”, thân ư sanh không thể ở yên dù chỉ trong chốc lát. Nó không ngừng di động. Nó có thể đi khắp nơi nó muốn, không bị trở ngại. V́ thân ư sanh không có cơ sở vật lư nên nó có thể đi xuyên qua tường vách hay núi.

Khi mang thân ư sanh có thể thấy suốt những vật thể có ba chiều. Nhưng v́ thiếu tinh chất vật lư của cha mẹ, chúng ta không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng, mà chỉ có ánh sáng mờ soi tỏ khoảng không gian ngay trước mặt. Chúng ta có thể thấy những chúng sanh khác trong cơi Trung Ấm, nhưng người sống không thấy chúng ta, ngoại trừ những người đă có thần thông nhờ thiền định. Bởi thế, chúng ta có thể gặp và nói chuyện vài giây phút thoáng qua với nhiều kẻ đang du hành trong thế giới Bardo (Trung Ấm), nghĩa là những kẻ chết trước chúng ta.

Do sự có mặt của năm uẩn đang thành h́nh, nên thân ư sanh đối với chúng ta dường như chắc thực, và chúng ta vẫn c̣n cảm thấy những cơn đói cồn cào. Giáo lư Trung Ấm dạy rằng thân ư sanh này sống bằng mùi hương và rút dưỡng chất từ những đồ cúng được đem đốt, nhưng nó cũng có thể hưởng được những đồ cúng đặc biệt nhân danh nó.

Trong trạng thái này, hoạt động tâm ư rất nhanh : tư tưởng liên tục trôi qua nhanh, và chúng ta có thể làm một lúc nhiều công việc. Tâm tiếp tục duy tŕ những mẫu mực thói quen của nó, nhất là thói bám víu những kinh nghiệm, và thói tin rằng mọi sự tuyệt đối là thực có.


Những kinh nghiệm của cơi Trung Ấm


Suốt trong những tuần đầu trong cơi Trung Ấm (Bardo), chúng ta có cảm tưởng rằng ḿnh là một người đàn ông hay một phụ nữ, hệt như khi ta c̣n sống đời vừa qua. Chúng ta không nhận ra rằng ḿnh đă chết. Chúng ta trở về nhà để gặp bà con và những người thân yêu. Ta cố nói với họ, sờ vai họ. Nhưng họ không trả lời, cũng không tỏ ra họ biết ta có ở đấy. Dù ta cố gắng bao nhiêu, cũng không ǵ làm cho họ chú ư ta được.

Ta bất lực đứng nh́n họ khóc hay ngồi thẩn thờ với cơi ḷng tan nát v́ cái chết của ta. Ta lại c̣n cố một cách vô hiệu để xử dụng những đồ đạc của ta khi trước. Chỗ ta ngồi nơi bàn ăn không c̣n dành cho ta nữa, và người ta đang làm những chuẩn bị để thanh toán của cải của ta. Ta cảm thấy tức tối, bị thương tổn, hằn học, “như một con cá quằn quại trên cát nóng”, Tử Thư nói.

Nếu hết sức quyến luyến cái xác của ḿnh, thậm chí ta lại c̣n cố nhập vào nó hay lảng vảng bên nó. Có những trường hợp quá khích, là thân ư sanh có thể lai văng gần tài sản hay xác của họ hàng tuần, hàng năm mà vẫn chưa có thể nghĩ rằng ḿnh đă chết.

Chỉ khi họ thấy ḿnh không có bóng in trên mặt đất, không in dấu chân bước, cũng không phản chiếu trong gương, họ mới vỡ lẽ. Và nội một nỗi kinh hoàng khi nhận ra ḿnh đă chết, cũng đủ làm cho họ ngất xỉu.

Trong cơi Trung Ấm tái sanh, ta sống lại tất cả những kinh nghiệm của đời vừa qua, ôn lại những kỷ niệm đă từ lâu phai mờ trong kư ức, và thăm lại những nơi chốn cũ, “dù chỉ là nơi ta chỉ có khạc nhổ lên đấy”. Cứ bảy ngày một lần, ta lại bắt buộc phải sống trở lại cái kinh nghiệm chết, với tất cả nỗi đau khổ của nó.

Nếu ta đă chết một cách an b́nh, th́ trạng thái tâm an b́nh đó được tái diễn ; nhưng nếu đó là một cái chết vật vă, sự vật vă ấy cũng được tái diễn. Và nên nhớ rằng, mọi sự được tái diễn với một ư thức mănh liệt gấp bảy lần lúc sống. Và trong giai đoạn thoáng qua của Trung Ấm tái sanh, mọi nghiệp ác của các đời trước trở lại, một cách cô đọng cường liệt, làm cho tâm ta rối bời.

Cứ thế, ta một ḿnh lang thang không ngừng qua thế giới Trung Ấm, kinh hoảng như trong một cơn ác mộng. Và cũng hệt như trong mộng, ta tin rằng ḿnh thực có một cái thân vật lư, và ḿnh thực sự hiện hữu. Tuy thế, tất cả những kinh nghiệm của Bardo này chỉ do tâm ta biến ra, do nghiệp và những tập quán cũ của ta tái diễn.

Những ngọn gió của tứ đại trở về, và như Tulku Urgyen Rinpoche nói : “Người ta nghe những âm thanh to lớn của đất, nước, lửa, gió. Có tiếng như núi lở sau lưng ta, tiếng con sông lớn gầm lên, tiếng một khối lửa khổng lồ như hỏa diệm sơn, tiếng của một trận băo lớn”.

Khi ta hoảng hốt cố chạy thoát những thứ này, trong bóng tối kinh hoàng, th́ trước mặt ta mở ra ba cái hố thẳm trắng, đỏ, đen, “sâu và kinh khủng”. Đấy là Tử Thư nói, tâm giận dữ, tham dục và ngu si của ta. Ta bị tấn công bởi những ngọn thác đổ, mưa đá bằng máu mủ ; bị ám ảnh bởi những âm thanh la hét của quỷ không đầu ; bị săn đuổi bởi những yêu quái và thú dữ chuyên ăn thịt.

Cứ thế, ta không ngừng bị ngọn gió nghiệp cuốn đi, không thể vin víu vào một căn cứ nào cả. Tử Thư nói : “Vào lúc ấy, trận cuồng phong của nghiệp thức kinh hoàng, khó chịu xoáy lên một cách dữ tợn, từ đằng sau sẽ đẩy ngươi tới trước” . Bị ngốn ngấu bởi nỗi hoảng sợ, bị thổi giạt qua lại như những hạt nhị hoa bay trước gió, ta lang thang vô vọng qua cơi Trung Ấm.

Bị cơn đói khát dày ṿ, ta t́m nơi trú ẩn chỗ này chỗ khác. Nhận thức của tâm ta thay đổi từng chặp, lúc vui lúc buồn. Bỗng tâm ta đâm ra khao khát có một cái xác thân vật lư nhưng lại không thể t́m được, làm cho ta lại rơi vào đau khổ.

Toàn thể khung cảnh ấy đều do nghiệp ta un đúc, cũng như thế giới trung gian có thể chứa đầy những ảnh tượng ác mộng do vọng tưởng chúng ta tạo nên. Nếu b́nh thường lúc sống, ta có hành động tích cực, th́ kinh nghiệm và nhận thức chúng ta trong cơi Trung Ấm sẽ là hạnh phúc và an lạc ; nếu đời ta tác hại và làm người khác đau khổ th́ kinh nghiệm trong cơi Trung Ấm của ta sẽ đầy đau đớn buồn lo. Bởi thế, Tử Thư nói rằng : những người đánh cá, đồ tể, thợ săn đều bị tấn công bởi những h́nh ảnh ghê rợn của những nạn nhân của họ trước kia.

Vài người nghiên cứu kỹ kinh nghiệm cận tử, nhất là khi nghiên cứu những “cuộn phim đời” - một đặc điểm chung của tất cả mọi người chết đi sống lại - đă tự hỏi : “Làm sao tưởng tượng nổi sự kinh khủng của những kinh nghiệm trong cơi Trung Ấm của một nhà độc tài, một kẻ chuyên tra tấn ?

“Cuộn phim đời” cho ta thấy rằng, sau khi ta chết, ta có thể kinh quá tất cả những nỗi đau khổ mà ta đă gieo, trực tiếp hay gián tiếp” .


Độ dài của Trung Ấm tái sanh


Toàn thể Trung Ấm tái sanh kéo dài trung b́nh 49 ngày, và ít nhất là một tuần. Nhưng cũng c̣n tùy, giống như hiện tại có người sống tới trăm tuổi, trong khi kẻ khác chết non. Một số lại c̣n bị kẹt trong thế giới trung gian để thành ma quỷ.

Dudjom Rinpoche thường giải thích rằng suốt trong 21 ngày đầu của thời gian Trung Ấm, bạn vẫn c̣n một số ấn tượng mạnh về đời sống vừa qua, bởi thế đây là giai đoạn quan trọng nhất để người sống giúp đỡ người chết. Sau đó, đời sống tương lai của bạn dần dần thành h́nh và trở thành ảnh hưởng chính.

Chúng ta phải chờ đợi trong thế giới trung gian (Bardo) cho đến khi nào nghiệp ta bắt liên lạc được với cha mẹ tương lai. Đôi khi tôi nghĩ về Bardo này như một thứ hành lang chuyển tiếp, trong đó bạn có thể chờ đợi đến 49 ngày trước khi chuyển sang đời sống mới. Nhưng có hai trường hợp đặc biệt không cần phải đợi trong cơi Trung Ấm, bởi v́ tính cách cường liệt của nghiệp lực họ đẩy ngay họ vào tái sanh mới.

Trường hợp đầu tiên là những người đă sống một đời vô cùng lợi lạc và tích cực, đă tu luyện tâm đến tŕnh độ năng lực chứng ngộ của họ sẽ đưa họ trực tiếp vào một tái sanh tốt đẹp. Trường hợp thứ hai là những người đă sống cuộc đời tiêu cực, tác hại, họ đi rất nhanh xuống đời tái sanh kế tiếp, bất cứ ở đâu.


Phán xét


Một vài mô tả về cơi Trung Ấm có nói đến một cảnh xét xử, một loại “quay lại cuộn phim đời” giống như sự phán xét sau khi chết ở trong nhiều nền văn hóa của nhân loại. Lương tâm tốt của bạn, một vị thiên thần hộ mạng màu trắng, đóng vai cố vấn bào chữa, kể lại những việc tốt bạn đă làm ; trong khi lương tâm xấu, một con quỷ đen, tŕnh lên vụ án để xét xử.

Tốt và xấu được tính thành những ḥn sỏi trắng đen. “Thần chết” hay Diêm vương chủ tọa phiên xử, khi ấy soi vào kính nghiệp để làm cuộc phán xét.

Tôi nhận thấy trong cái màn phán xét này có vài tương đồng với “cuộn phim cuộc đời” ở kinh nghiệm cận tử. Cuối cùng, mọi cuộc phán xét đều xảy ra ngay trong tâm ta. Chúng ta đồng thời là quan ṭa và bị cáo. Raymond Moody nói : “Điều đáng chú ư là sự phán xét trong những vụ mà tôi khảo sát, không phải đến từ nơi thực thể ánh sáng có vẻ yêu thương và chấp nhận mọi người Một phụ nữ đă trải qua kinh nghiệm cận tử nói với Kenneth Ring :

“Bạn được chỉ cho thấy lại cả cuộc đời bạn và bạn làm việc phê phán... Bạn tự phán xét ḿnh. Bạn đă được tha thứ mọi tội lỗi, nhưng bạn có thể tha cho chính bạn v́ đă không làm những việc đáng lẽ bạn nên làm, và một vài vụ lường gạt nhỏ mà có lẽ bạn đă làm trong đời hay không ? Bạn có thể tự tha thứ cho ḿnh chăng ? Đây là sự phán xét”.

Cảnh phán xét cũng chứng tỏ rằng trong sự phân tích tối hậu, chính cái động lực sau mọi hành động của chúng ta mới là điều quan trọng, và không thể thoát khỏi hậu quả của những hành động, lời nói và ư nghĩ của ta, và những dấu ấn, những thói quen của những hành động này trên ta. Điều này có nghĩa chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm không những về cuộc đời hiện tại, mà cả những đời tương lai của ta nữa.


Năng lực của tâm


V́ trong cảnh giới Trung Ấm, tâm ta rất nhẹ nhàng linh động và bén nhạy, nên bất cứ tư tưởng nào khởi lên, tốt hay xấu, đều có ảnh hưởng và năng lực ghê gớm. V́ không có một cơ thể vật lư làm nền tảng, nên những ư tưởng trở thành thực tại. Hảy tưởng tượng sự buồn bă giận dữ khốc liệt mà ta có thể cảm thấy khi trông thấy người sống làm đám tang cho ta quá sơ sài.

Hay bà con tham lam đang tranh giành những vật sở hữu của ta, hay bạn bè mà ta rất yêu mến, và ta tưởng cũng yêu mến ta, bây giờ đang nói về ta một cách khinh miệt, thương tổn, hổn láo. Một t́nh huống như vậy có thể rất nguy hiểm, v́ phản ứng bạo hành của ta có thể đưa ta thẳng đến một tái sanh bất hạnh.

Như vậy, năng lực mănh liệt của tâm ta là vấn đề then chốt trong Trung Ấm tái sanh. Cái giai đoạn cao điểm này hoàn toàn phơi bày chúng ta ra giữa những thói quen và khuynh hướng cố hữu mà ta đă để cho tăng trưởng và thống trị đời ta. Nếu bạn không kiểm soát những khuynh hướng ấy ngay bây giờ trong khi sống, ngăn chúng xâm chiếm tâm bạn, th́ trong Trung Ấm tái sanh bạn sẽ thành nạn nhân tội nghiệp của chúng, bị mănh lực của chúng đưa đẩy.

Một sự giận dữ nhỏ nhặt trong trạng thái Trung Ấm cũng có thể có một ảnh hưởng tai hại, bởi thế mà theo truyền thống, người đọc Tử Thư cho bạn lúc sắp chết phải là một người mà bạn có quan hệ tốt đẹp ; nếu không, nội một việc nghe âm thanh tiếng nói của y cũng đủ làm cho bạn nổi tam bành, và điều này sẽ có những hậu quả vô cùng khốc hại.

Giáo lư cho ta thấy nhiều mô tả về tính chất sống sít của cái tâm ở trong trạng thái Trung Ấm ; mô tả mạnh nhất nói rằng tâm ta lúc ấy giống như một thỏi sắt nung đỏ sẵn sàng uốn bất cứ kiểu nào bạn muốn, cho đến khi nó nguội.

Bất cứ h́nh dáng ǵ nó được uốn nắn, nó sẽ mau chóng thành h́nh y như vậy. Cũng thế, một tư tưởng tích cực duy nhất trong trạng thái Trung Ấm có thể trực tiếp dẫn đến giác ngộ, một phản ứng tiêu cực duy nhất có thể làm bạn ch́m vào đau khổ lâu dài. Tử thư cảnh cáo chúng ta một cách mạnh mẽ như sau :

Đến đây là ngă rẽ đôi đường lên cao và xuống thấp : đây là lúc mà chỉ cần lướt vào sự lười biếng một chút ngươi cũng đủ chịu khổ miên viễn ; đây là lúc mà chỉ cần tập trung một chút ngươi cũng sẽ hưởng được hạnh phúc lâu bền. Hăy chú tâm không tán loạn, hăy nỗ lực kéo dài hậu quả thiện nghiệp !

Tử Thư cố đánh thức dậy bất cứ một liên hệ nào với sự tu tập mà người chết có thể có, và khuyến khích chúng ta từ bỏ bám víu người, của, từ bỏ sự khát khao có một thân xác, đừng buông trôi theo giận dữ hay tham dục, đào luyện sự tử tế hơn là thù hằn, đừng nghĩ đến việc ác. Tử Thư nhắc nhở người chết không cần phải sợ hăi :

Một mặt cho người chết biết những h́nh dạng ghê rợn trong cơi Trung Ấm chỉ là do tâm họ chiếu ra, thực chất vốn trống rỗng ; mặt khác, nhắc người chết rằng bây giờ họ chỉ có cái thân ư sanh do tập quán cũ, bởi thế cũng là trống rỗng. “Bởi thế cái trống rỗng không thể làm hại cái trống rỗng” .

Bản chất bấp bênh chóng qua của giai đoạn Trung Ấm có thể là nguồn suối cho nhiều cơ hội giải thoát, và tính bén nhạy của tâm trong Trung Ấm này có thể hóa ra lợi lạc cho chúng ta. Chúng ta chỉ cần nhớ đến những lời giảng dạy, ta chỉ cần có một tư tưởng tích cực khởi lên trong tâm ta.

Nếu ta nhớ được một giáo lư nào gợi cho ta tự tánh tâm, nếu ta có dù chỉ một khuynh hướng tu tập, hay một liên hệ sâu xa với sự tu hành, ta cũng đủ nhờ vậy mà giải thoát.

Trong Trung Ấm tái sanh, các cơi Phật không hiện ra một cách tự nhiên như trong Trung Ấm pháp tánh. Tuy nhiên, chỉ cần nhớ đến các vị Phật, bạn cũng có thể đi thẳng đến các cơi ấy bằng năng lực tâm bạn, và tiến đến giải thoát. Nếu bạn có thể niệm danh hiệu một vị Phật, vị ấy liền hiện ra trước bạn.

Nhưng nên nhớ, mặc dù các khả năng là vô giới hạn, chúng ta vẫn phải có sự tự chủ tâm ư trong Trung Ấm này, và điều này vô cùng khó khăn, v́ tâm ta ở giai đoạn này hết sức bén nhạy, phân tán và bất an.

Bởi thế trong Trung Ấm này, bất cứ khi nào bạn có thể có lại sự tỉnh giác dù chỉ trong thoáng chốc, th́ bạn hăy lập tức nhớ lại sự tu tập, nhớ thầy hay vị Phật của bạn thờ, và tha thiết triệu thỉnh. Nhờ năng lực ân sủng của bậc thầy hay Phật, tâm bạn sẽ được giải thoát vào trong khoảng không gian của tâm giác ngộ. Sự cầu nguyện trong đời này dường như ít hiệu quả, nhưng trong cơi Trung Ấm lại có hiệu quả mănh liệt vô cùng.

Tuy nhiên, sự mô tả trên đây về Trung Ấm chứng tỏ thực rất khó mà tập trung tâm vào giai đoạn này, nếu ta không thực tập từ trước. Hăy tưởng tượng ta dường như tuyệt nhiên không nhớ bài chú nào lúc gặp ác mộng, ta cảm thấy bất lực như thế nào, th́ trong cảnh giới Trung Ấm cũng khó như thế, nếu không nói là khó hơn, để tập trung tâm ư. Đấy là lư do Tử Thư luôn luôn nhắc đi nhắc lại một lời “Đừng xao lăng”, và Tử Thư nhấn mạnh :

Đến đây là ngă rẽ giữa Phật và hữu t́nh...

Trong một giây, phân cách. Trong một giây, toàn giác.


Tái sanh


V́ trong Trung Ấm tái sanh, thời gian tái sanh càng gần, nên ta càng thêm khát khao một thân xác làm chỗ nương, và ta đi t́m một người nào có thể sử dụng để được tái sanh vào đó. Những dấu hiệu bắt đầu hiện ra báo cho ta biết cái cảnh giới ta có thể tái sanh vào.

Những ánh sáng đủ màu chiếu từ sáu nẻo luân hồi, và ta cảm thấy bị thu hút vào một cơi này hay khác, tùy theo cảm xúc tiêu cực nào mạnh nhất trong tâm ta. Một khi ta đă bị lôi cuốn đến đấy, th́ thật vô cùng khó mà trở lui.

Rồi những h́nh ảnh sẽ khởi lên, liên hệ đến những cơi khác nhau. Càng quen thuộc với giáo lư, ta càng dễ nhận ra ư nghĩa thực của chúng. Những dấu hiệu thay đổi phần nào theo những giáo lư khác nhau. Một số bảo rằng nếu sanh vào cơi trời, ta sẽ thấy ḿnh đi vào một thiên cung có nhiều tầng lầu. Nếu tái sanh vào loài a tu la, ta sẽ thấy ḿnh ở giữa những khí giới bằng lửa, hay sắp ra chiến trường.

Nếu sanh vào súc vật, ta sẽ thấy ḿnh ở trong một hang lỗ dưới đất, hay một cái ổ rơm. Nếu thấy một gốc cây, một rừng sâu, hay một tấm vải dệt, th́ đó là dấu hiệu sắp tái sanh làm quỷ đói.Và nếu sắp sanh vào địa ngục th́ ta sẽ thấy ḿnh đang bị dẫn vào một hố đen, xuống một con đường tối, vào một cơi đất mờ mịt có nhà màu đỏ hoặc đen, hay về phía một thành phố bằng sắt.

Có nhiều dấu hiệu khác, như là cách ta nh́n hay cử động, chứng tỏ cảnh giới ta đang hướng đến. Nếu sắp sửa sanh vào cơi trời hay người, th́ cái nh́n của ta sẽ hướng lên trên ; nếu sanh vào cơi súc sinh, ta sẽ nh́n thẳng tới trước, như chim ; nếu sanh vào địa ngục hay ngạ quỷ th́ ta sẽ nh́n xuống, như thể là sắp nhào xuống. Nếu có dấu hiệu nào như thế, th́ ta nên coi chừng đừng rơi vào một cơi tái sanh bất hạnh.

Đồng thời, ta sẽ có một khát khao mănh liệt đối với một cảnh giới nào đó, và bị cuốn hút vào đó theo bản năng. Giáo lư về Trung Ấm dạy rằng, vào điểm ấy, có nguy cơ lớn là, do ḷng nôn nóng thèm khát tái sanh, ta có thể xông tới bất cứ một nơi nào, dù nó không có vẻ ǵ an ninh bảo đảm. Nếu ước muốn của ta bị bất măn, sự giận dữ khởi lên sẽ đưa giai đoạn Trung Ấm đến một kết thúc, v́ ta sẽ bị đẩy vào cơi dữ bằng chính năng lực cảm xúc của ḿnh.

Và như thế, ta có thể thấy tái sanh tương lai của ta được trực tiếp định đoạt bởi tham, sân và si. Hăy tưởng tượng ta đang chạy về phía một chỗ nấp, chỉ để tránh thoát kinh nghiệm đau khổ của Trung Ấm. Rồi, v́ sợ phải từ bỏ tất cả, mà ta đâm ra ràng buộc với một tái sanh mới, bất kể ở đâu, miễn là được tái sanh.

Khi ấy ta có thể đâm ra thác loạn, như Tử Thư nói, và lầm lẫn tái sanh tốt với xấu, xấu với tốt. Ta có thể nghe tiếng gọi của những người thân yêu, hoặc giọng ca hấp dẫn, rồi chạy theo chúng, để cuối cùng bị dẫn dụ xuống những cơi thấp kém.

Bảy vậy, phải cẩn thận đừng mù quáng đi vào những cơi vô phúc ấy. Điều kỳ diệu là, ngay lúc ta ư thức được cái ǵ xảy đến cho ta, th́ ta có thể bắt đầu tác động, và điều ấy ảnh hưởng đến số phận của ta.

Bị đẩy tới bởi ngọn gió nghiệp, thân ư sanh đi đến một nơi ở đấy cha mẹ đang giao hợp. Khi thấy họ, nó bị kéo vào trong cảm xúc ấy ; và do nghiệp quá khứ, nó tự nhiên cảm thấy rất thương hoặc rất ghét. Sự quyến luyến người mẹ và thù ghét, ganh tị với người cha sẽ đưa đến hậu quả là nó sinh thành con trai ; ngược lại là gái. Nhưng nếu nó ngă quỵ trước những cảm xúc rất mạnh th́ nó có thể sanh vào một cảnh giới hèn hạ.

Có cách nào ta có thể làm bây giờ, để tránh bị tái sanh hoặc hướng dẫn sự tái sanh kế tiếp của ta không ? Giáo lư về Trung Ấm đưa ra hai chỉ dẫn đặc biệt : phương pháp ngăn ngừa tái sanh, và nếu không ngăn được, th́ chọn một tái sanh tốt. Đầu tiên là những chỉ dẫn để đóng cửa ngơ đi vào một đời sống khác :

Phương pháp tốt nhất là từ bỏ những cảm xúc như tham dục, giận dữ, hay ganh tỵ, và nhận chân rằng không một trạng thái Trung Ấm nào có thực chất tối hậu. Nếu bạn có thể nhận chân điều ấy, rồi để tâm an trú trong bản chất chân không của nó, th́ chính điều này sẽ ngăn ngừa tái sanh. Tử Thư Tây Tạng báo cho chúng ta biết :

Than ôi ! Cha và mẹ, cơn băo lớn, luồng gió xoáy, sấm sét, những cảnh tượng kinh hoàng và tất cả những ǵ hiện ra đấy, bản chất đều huyễn ảo. Dù có hiện tướng ǵ đi nữa, th́ cũng không thực. Mọi chất liệu đều giả dối, trống rỗng. Chúng như ảo ảnh, không trường tồn bất biến. Tham ái mà làm chi ? Sợ hăi mà làm chi ? Như vậy là xem cái không thành cái có...

Tử Thư lại khuyến cáo tiếp :

Tất cả đều do tâm tôi biến ra, và tâm ấy vốn là chân không, vô sanh, không bị chướng ngại”. Khi nghĩ vậy, hăy để tâm ngươi tự nhiên trong bản chất của nó, như nước đổ vào nước, cứ như nó là, thong thả, phóng khoáng và thư giăn. Khi để nó an trú tự nhiên và thong thả, ngươi có thể bảo đảm ngơ vào mọi lối tái sanh chắc chắn bị đóng lại.

Phương pháp hay nhất kế tiếp để ngăn ngừa tái sanh là nh́n những người có thể làm cha mẹ bạn như là Phật, hay thầy, hay thần hộ mạng yidam của bạn. Và ít nhất, bạn hăy cố phát sinh một cảm giác từ bỏ, không bị lôi kéo vào những cảm xúc tham dục, và nghĩ đến những cơi Phật thanh tịnh. Điều này sẽ ngăn ngừa tái sanh và khiến bạn được sanh vào một trong những cơi Phật.

Nếu bạn không thể an trú tâm đủ vững vàng để làm như vậy, th́ c̣n có những phương pháp chọn lựa một tái sanh, liên hệ đến những điểm mốc và những tướng các cảnh giới khác nhau. Nếu bạn nhất định phải tái sanh, hay cố ư muốn tái sanh để theo đuổi con đường tu tập và làm lợi ích người khác, th́ bạn không nên đi vào cơi nào khác cơi người ta. Chỉ có ở đấy các điều kiện mới thuận lợi cho sự tiến tu đạo nghiệp.

Giáo lư về Trung Ấm cho biết, nếu bạn sắp sửa sanh vào một hoàn cảnh tốt trong cơi người, th́ bạn sẽ cảm thấy ḿnh đang đi vào một ngôi nhà sang trọng đẹp đẽ, hay vào một đô thị, hay ở giữa một đám đông, hay thấy những người đang giao hợp.

Ngoài những cách ấy ra, thông thường chúng ta không có chọn lựa nào. Chúng ta bị lôi kéo về chỗ thọ sanh của ta “như con chim bị sa lưới, như cỏ khô bắt lửa, hay súc vật sa đầm lầy” . Tử Thư nói : “Này hỡi thiện nam/nữ, dù ngươi không muốn đi, ngươi cũng không có năng lực tự chủ, ngươi bị bắt buộc phải đi”.

Tuy nhiên, như giáo lư luôn luôn nhắc ta, vẫn c̣n có hy vọng, bây giờ là lúc nên cầu nguyện. Nhờ tha thiết mong mỏi và tập trung mănh liệt, ngay trong lúc này, bạn vẫn c̣n có thể tái sanh vào một cơi Phật, hoặc bạn có thể phát nguyện sâu xa tái sanh vào một gia đ́nh loài người, ở đấy bạn có thể gặp đường lối tu tập và tiếp tục tiến đến giải thoát.

Nếu bạn có một nghiệp nặng buộc bạn rơi vào một cảnh giới đặc biệt nào, th́ có thể bạn hết phương chọn lựa, tuy nhiên, lời nguyện quá khứ và sự mong cầu của bạn có thể giúp bạn chuyển số phận để có thể tái sanh vào một đời sống mà một ngày nào đó sẽ đưa bạn đến giải thoát.

Ngay cả khi bạn đă nhập thai, cũng có thể cầu nguyện cho điều này xảy ra. Ngay cả khi ấy, bạn có thể quán tưởng ḿnh như một chúng sanh giác ngộ, như thần Kam cang tát đỏa (Vajrasattva) như các bậc thầy truyền thống nói và làm cho cái thai cung mà bạn đang vào biến thành một môi trường thiêng liêng, “một cung trời”, ở đấy bạn tiếp tục tu luyện.

Bây giờ, khi Trung Ấm tái sanh hiện ra

Tôi sẽ tập trung nhất tâm thiền quán

Và cố kéo dài những hậu quả của nghiệp tốt

Đóng cửa ngơ tái sanh, cố đừng sanh trở lại

Đây là lúc cần tinh tấn và nhận thức thuần tịnh

Hăy từ bỏ cảm xúc tiêu cực, và quán tưởng bậc đạo sư.

Cuối cùng, chính sự thúc giục của tự tâm muốn trú trong một cơi nào đó, đă buộc ta tiến về tái sanh, và chính khuynh hướng chấp thủ của tự tâm đă t́m sự thể hiện thành thân xác tái sanh. Đây là giai đoạn kế trong tiến tŕnh xuất hiện mà ta đă thấy xảy ra trong các cảnh Trung Ấm.

Nếu bạn thành công trong sự hướng dẫn tâm về phía một sự sanh làm người, th́ tức là bạn đă đi trọn chu kỳ. Bạn sẽ được sanh vào trong Trung Ấm tự nhiên của đời này. Khi trông thấy cha mẹ bạn đang giao hợp, tâm bạn bị thu hút, và bạn vào thai.

Điều này báo hiệu sự kết thúc của Trung Ấm tái sanh, khi tâm bạn một lần nữa kinh quá rất nhanh chóng những tướng của các giai đoạn tan ră, và sự xuất hiện của Ánh sáng Căn bản. Rồi kinh nghiệm tối đen của sự “thành tựu” lại khởi lên, và đồng thời sự liên lạc với bào thai mới bắt đầu.

Như vậy đời sống khởi đầu cũng như kết thúc bằng Ánh sáng căn bản.








Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 440 of 1146: Đă gửi: 28 June 2010 lúc 11:54pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




TẠNG THƯ SỐNG CHẾT


19. GIÚP ĐỞ SAU KHI CHẾT


Trong thế giới tân tiến, rất thường khi một người nào chết, th́ một trong những nỗi lo sầu nhất cho người ở lại là nghĩ rằng họ không thể làm ǵ để giúp đỡ những người thân yêu đă mất. Đó là một niềm tin chỉ làm cho sự sầu khổ của họ càng thêm trầm trọng. Nhưng sự thực không phải thế.

Có nhiều, rất nhiều cách chúng ta có thể giúp người đă chết, và tự giúp cả chúng ta để sống vắng bóng họ. Một trong những đặc điểm của đạo Phật, một trong những đường lối chứng tỏ phương tiện thiện xảo và tâm từ bi của chư Phật là có rất nhiều pháp tu đặc biệt để giúp người chết, và c̣n an ủy được tang quyến đau buồn.

Tử Thư có lối nh́n bao quát cả sống và chết, cho ta thấy rằng có nhiều cách giúp đỡ người khác trong mọi t́nh huống có thể nghĩ tới, bởi v́ không có một ranh giới nào giữa cái gọi là “sinh” và cái gọi là “tử”. Năng lực sáng chói và sự ấm áp của tâm từ bi có thể vươn tới để giúp đỡ tất cả mọi t́nh huống, mọi cảnh giới.


Khi nào ta có thể giúp


Trung Ấm tái sinh, như đă nói, dường như là một thời gian hết sức rầy rà đáng ngại. Nhưng trong đó có niềm hy vọng lớn lao. Những tính chất của thân ư sanh suốt trong giai đoạn Trung Ấm làm cho nó dễ bị thương tổn sự sáng suốt của nó, di động, nhạy cảm, và thần thông song cũng làm cho nó đặc biệt dễ cảm thụ đối với sự giúp đỡ của người sống.

Sự kiện nó không có h́nh dạng vật lư làm cho nó rất dễ hướng dẫn. Tử Thư Tây Tạng ví thân ư sanh này như một con ngựa, dễ dàng được điều khiển với sợi dây cương hoặc với một thân cây khổng lồ, khi ở trên đất th́ có thể là khó di chuyển, nhưng khi đă nổi bềnh bồng trên mặt nước th́ bạn có thể đưa nó đi bất cứ đâu tùy ư, không cần nỗ lực.

Thời gian tốt nhất để tu tập cho người chết là 49 ngày Trung Ấm tái sanh, mà 3 tuần đầu là quan trọng nhất. Chính trong 3 tuần ấy, người chết có một liên hệ mạnh mẽ với cuộc đời này, làm cho họ dễ dàng nhận sự giúp đỡ của ta. Bởi thế, chính trong thời gian này sự tu tập của ta có thể ảnh hưởng đến tương lai của người chết nhiều hơn cả, hoặc giúp họ giải thoát, hoặc giúp họ có tái sanh tốt đẹp.

Vậy ta nên dùng mọi phương tiện ta có thể để giúp họ, v́ sau khi h́nh dạng vật lư của họ bắt đầu quyết định, - thường là khoảng từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 49 - th́ cơ hội chuyển nghiệp cho họ càng bị hạn chế.

Tuy nhiên sự giúp đỡ người chết không chỉ giới hạn trong 49 ngày sau khi chết. Không bao giờ quá muộn để giúp đỡ người nào đă chết, dù họ chết lâu bao nhiêu về trước. Người mà bạn muốn giúp có thể đă chết 100 năm về trước, nhưng nếu ta tu tập cho họ, vẫn c̣n được lợi lạc. Dudjom Rinpoche thường nói ngay cả khi người ấy đă đạt giác ngộ, họ vẫn c̣n cần tất cả sự giúp đỡ mà họ có thể dùng để giúp lại kẻ khác.


Ta có thể giúp đỡ như thế nào


Cách tốt nhất và dễ nhất để giúp đỡ một người chết là làm pháp Chuyển di tâm thức tinh yếu mà tôi đă tŕnh bày trong chương 13, khi chúng ta nghe một người nào đă chết.

Ở Tây Tạng, chúng ta nói cũng như bản chất của lửa là đốt cháy, của nước là giải khát, bản chất của chư Phật là hiện thân ngay khi người nào triệu thỉnh, v́ từ bi của các ngài là vô hạn, muốn giúp đỡ tất cả hữu t́nh. Đừng bao giờ tưởng tượng rằng bạn cầu nguyện không hiệu quả bằng một “người thánh thiện” cầu nguyện cho họ. Bởi v́ bạn gần với người chết hơn, nên mănh lực của t́nh yêu và chiều sâu của mối liên hệ sẽ làm cho sự cầu nguyện của bạn có năng lực hơn.

Các bậc thầy đă bảo đảm với chúng ta : hăy kêu cầu với chư Phật, các ngài sẽ đáp ứng bạn.

Khandro Tsering Chodron, người vợ tâm linh của Jamyang Khientse, thường nói rằng, nếu bạn thực sự có tâm tốt và có ư định chân thành, th́ khi bạn cầu cho người nào, sự cầu nguyện sẽ rất hiệu nghiệm. Bởi thế, hăy tin tưởng rằng nếu người nào bạn rất thương yêu đă chết, và nếu bạn cầu nguyện cho họ với t́nh yêu và ḷng chân thành, th́ sự cầu nguyện của bạn sẽ có hiệu lực đặc biệt.

Cách tốt nhất, hiệu quả nhất để làm pháp Chuyển di là trước khi thi thể bị chạm tới hay bị di chuyển bất cứ cách nào. Nếu điều này không thể thực hiện, hăy làm pháp Chuyển di tại chỗ mà người ấy đă chết, hay ít nhất tưởng tượng rơ rệt h́nh ảnh nơi ấy trong tâm bạn. Có một liên hệ mănh liệt giữa người chết với nơi chốn và thời gian chết, nhất là trong trường hợp người chết bạo tử.

Trong cơi Trung Ấm tái sanh, như tôi đă nói, tâm thức người chết sống trở lại cái kinh nghiệm chết mỗi tuần một lần, vào đúng ngày hôm ấy. Bởi thế bạn nên làm pháp Chuyển di, hay bất cứ pháp môn tu nào bạn đă chọn, vào bất cứ ngày nào trong 49 ngày, nhưng đặc biệt là vào những ngày tuần của người chết.

Mỗi khi người bà con hay bạn bè đă chết hiện lên trong tâm trí bạn, mỗi khi bạn nghe tên người ấy được nhắc tới, th́ hăy gởi đến họ niềm yêu thương của bạn, và tập trung làm phép Chuyển di. Làm pháp ấy bao lâu tùy ư, và càng nhiều lần càng tốt.

Một điều khác bạn có thể làm, mỗi khi bạn nghĩ tới người nào đă chết, là đọc ngay một câu chú như OM MANI PADME HUM, thần chú của đức Phật của ḷng từ mẫn, tịnh hóa được tất cả ác nghiệp đưa đến tái sanh ; hoặc câu OM AMI DEWA HRIH, thần chú của đức A Di Đà, vị Phật của ánh sáng vô lượng. Rồi bạn có thể tiếp theo bằng pháp Chuyển di.

Nhưng dù bạn có làm bất cứ pháp môn nào trên đây để giúp người chết hay không làm, đừng bao giờ quên rằng tâm trong cơi Trung Ấm rất bén nhạy, bạn chỉ cần hướng những thiện cảm đến họ cũng đủ lợi lạc cho họ rồi.

Khi bạn cầu nguyện cho người nào thân thiết, bạn có thể, nếu muốn, bao gồm cả những người đă chết khác trong lời cầu nguyện : những nạn nhân của chiến tranh, tàn bạo, tai ách, đói kém, hoặc những người đă và đang chết trong các trại tập trung, như tại Trung Quốc và Tây Tạng. Bạn có thể cầu nguyện cho những người đă chết nhiều năm về trước, như ông bà cố của bạn và những người trong gia đ́nh đă chết từ lâu, hay những nạn nhân trong hai cuộc thế chiến. Hăy tưởng tượng lời cầu nguyện của bạn đặc biệt trải đến những người đă chết trong cơn giận dữ, lo lắng hăi hùng.

Những người đă có cái chết kinh khủng hay đột ngột rất cần được giúp đỡ. Những nạn nhân của ám sát, tự sát, tai nạn, chiến tranh, thường rất dễ rơi vào sợ hăi đau đớn, hoặc ở măi trong kinh nghiệm khủng khiếp về cái chết của họ, do đó không thể tiến đến giai đoạn tái sanh. Khi bạn làm pháp Chuyển di cho họ, hăy làm với mức độ mănh liệt tha thiết hơn bao giờ cả.

Hăy tưởng tượng những tia sáng chói lọi tuôn phát từ chư Phật và Bồ-tát, trút xuống tất cả ân sủng từ bi của các ngài. Tưởng tượng ánh sáng ấy tuôn xối trên người chết, tịnh hóa họ hoàn toàn, giải thoát họ khỏi nỗi đau đớn rối loạn của cái chết, đem lại cho họ an b́nh sâu xa lâu dài. Rồi tưởng tượng, với tất cả tâm hồn bạn, người chết đang tan thành ánh sáng và tâm thức họ bây giờ đă được chữa lành, thoát mọi khổ đau và bay lên ḥa nhập với tâm giác ngộ của chư Phật.

Một vài người Tây phương vừa qua viếng thăm Tây Tạng đă kể cho tôi nghe một câu chuyện mà họ chứng kiến. Một ngày nọ, một người Tây Tạng đang đi bộ bên lề đường, bị một chiếc xe cam-nhông của Trung Quốc đụng chết ngay tức khắc. Khi ấy, một tu sĩ t́nh cờ đi qua, vội vàng đến ngồi cạnh người chết nằm trên đất.

Họ trông thấy tu sĩ ghé vào tai người chết đọc một câu ǵ đó ; th́nh ĺnh họ kinh ngạc thấy người chết sống lại. Khi ấy tu sĩ làm pháp Chuyển di tâm thức cho người ấy, và hướng dẫn ông ta an tịnh đi vào cơi chết. Cái ǵ đă xảy ra ? Rơ ràng vị tu sĩ đă nhận thấy nỗi kinh hoàng của người kia, làm cho y rất giao động khi chết, nên vị tu sĩ đă hành động chớp nhoáng : trước hết giải thoát tâm người chết khỏi nỗi đau buồn, rồi sau đó, nhờ pháp Chuyển di, đưa thần thức họ về một cơi Phật, hoặc một tái sanh tốt.

Đối với những người Tây phương chứng kiến việc ấy, th́ tu sĩ có vẻ chỉ là một người b́nh thường, nhưng câu chuyện này chứng tỏ ông là một hành giả có năng lực rất đáng nể.

Thiền định và cầu nguyện không phải là cách duy nhất ta có thể làm để giúp người chết. Chúng ta có thể bố thí cho người bệnh, người nghèo khổ, để hồi hướng cho họ. Chúng ta có thể đem tài sản họ để lại để cho người nghèo. Ta có thể nhân danh họ mà đóng góp vào các việc nghĩa như sung vào bệnh viện, cứu trợ, tiếp dẫn đường hay tu viện.

Ta cũng có thể bảo trợ cho các khóa tu nhập thất của những hành giả tốt, hay lễ cầu nguyện do những bậc thầy vĩ đại hướng dẫn ở những nơi thiêng liêng như Bồ đề tràng. Ta có thể cúng đốt đèn cho người chết, hay bảo trợ những công tŕnh mỹ thuật liên hệ đến việc tu tập. Một phương pháp giúp đỡ người chết nữa là phóng sanh những con vật sắp bị giết. Pháp này thịnh hành ở Tây Tạng và dăy Hy Mă Lạp Sơn.

Điều quan trọng là hồi hướng công đức những thiện sự ấy cho người chết, cho tất cả người chết, để mọi người đă chết có được một tái sanh tốt và hoàn cảnh thuận lợi trong đời kế tiếp của họ.


Sự thấu thị của người chết


Hăy nhớ rằng tâm thức người trong cơi Trung Ấm sáng suốt bén nhạy gấp bảy lần khi sống. Điều này có thể làm cho họ đau khổ lớn hoặc lợi lạc lớn.

Bởi thế, điều cốt yếu là, khi một người thân chết, bạn phải càng cẩn thận càng tốt, trong tất cả hành vi cử chỉ bạn, để khỏi quấy rầy họ, làm họ tổn thương. V́ khi người chết trở về nhà với những người thân c̣n lại, hay với những người tụng niệm làm phép cho họ, th́ trong t́nh trạng mới của tâm thức họ, họ có thể không những trông thấy những ǵ đang xảy ra, mà c̣n đọc được trong tâm những người khác.

Nếu bà con chỉ âm mưu tranh đoạt chia gia tài họ để lại, hay chỉ nói và nghĩ về ân oán, không co t́nh thương chân thực đối với người chết, th́ họ có thể vô cùng tức giận, đau khổ, vỡ mộng, và do đó sẽ bị lôi kéo vào những cảm xúc dữ dội mà phải đi vào một tái sanh bất hạnh.

Chẳng hạn, hăy tưởng tượng nếu người chết thấy người ta tụng kinh cho ḿnh không thành khẩn, tâm người tụng bận rộn với những việc giải trí tầm thường th́ họ có thể mất tất cả chút niềm tin nào họ có thể có. Hăy tưởng tượng nếu một người chết phải nh́n những người thân buồn sầu thảm thiết, cũng có thể làm cho họ vô cùng áo năo.

Và nếu ví dụ người chết khám phá ra rằng bà con chỉ giả vờ yêu thương họ v́ tiền, th́ họ cũng có thể đau khổ vỡ mộng đến nỗi sẽ thành ma trở về ám ảnh người hưởng gia tài ḿnh để lại. Bây giờ bạn đă thấy những ǵ bạn làm, nghĩ, hay cư xử sau khi một người thân chết, có thể có tầm quan trọng ghê gớm và ảnh hưởng lớn lao đến tương lai họ nhiều hơn bạn tưởng.

Bạn cũng sẽ thấy tại sao điều thật thiết yếu cho tâm linh người chết được an ổn, là những người c̣n lại phải ḥa hợp. Bởi thế, ở Tây Tạng khi bà con bạn bè người chết tụ hội lại, họ thường được khuyến khích hăy cùng tụng đọc với nhau càng nhiều càng tốt một câu thần chú như OM MNI PADME HUM.

Điều này ai ở Tây Tạng cũng có thể làm, v́ biết nó chắc chắn sẽ giúp đỡ người chết. Bởi thế, câu thần chú này gây cho họ nguồn cảm hứng để cùng nhau tụng đọc trong niềm sùng tín. Tính thiêng liêng của người chết trong cơi Trung Ấm cũng khiến nếu được một bậc thầy hay hành giả tâm linh giàu kinh nghiệm làm lễ, người chết sẽ được lợi lạc vô cùng. Điều vị ấy là là an trú trong tự tánh tâm nguyên ủy, rồi hô triệu thân ư sanh của người chết đang lang thang trong cơi Trung Ấm.

Khi thân ư sanh đă đến trước bậc thầy, do năng lực thiền định của ông, ông có thể khai thị bản tánh thanh tịnh cho người chết. Nhờ năng lực thần thông, người chết thấy được tâm giác ngộ của vị thầy, và ngay tại chỗ được giải thoát.

Những cũng chính v́ lư do đó, mà bất cứ ǵ một hành giả thông thường có thể làm cho người chết, cũng có thể giúp họ rất nhiều. Bạn có thể tu tập pháp quán một trăm vị thần an lạc và phẫn nộ liên hệ Tử Thư Tây Tạng, hay bạn có thể chỉ an trú trong một tâm trạng bi mẫn ; nhất là nếu khi ấy bạn có triệu thỉnh hương linh người chết, th́ họ được lợi lạc vô cùng.

Mỗi khi hành giả Phật tử chết, chúng tôi báo cho tất cả thầy và bạn đạo của họ biết để có thể khởi sự hành pháp cầu siêu cho họ ngay. Thường tôi thâu thập tên những người đă chết, rồi gửi đến cho những bậc thầy lớn mà tôi biết ở Ấn và Hy Mă Lạp Sơn. Cách vài tuần, các vị này làm pháp thanh luyện cho họ một lần, và mỗi năm có một thiền hội mười ngày để cầu siêu tập thể tại các tu viện.


Cách Tây Tạng cầu siêu người chết


1- Tử Thư Tây Tạng

Tại Tây Tạng, khi pháp Chuyển di đă làm cho người chết xong, quyển Tử Thư được đọc đi đọc lại nhiều lần, và những pháp tu liên hệ được thực hành. Ở miền Đông Tây Tạng, chúng tôi thường có truyền thống đọc Tử Thư suốt 49 ngày sau khi chết. Qua đó, người chết được chỉ cho biết họ đang ở giai đoạn nào trong tiến tŕnh, và được cho những chỉ dẫn hay cảm hứng mà họ cần.

Những người Tây phương thường hỏi tôi : “Làm sao một người đă chết có thể nghe đọc Tử Thư ?”

Câu trả lời giản dị là : Tâm thức người chết khi được hô triệu bởi năng lực của lời kinh, th́ có thể đọc được tâm ta và có thể cảm nhận đúng những ǵ mà ta có thể nghĩ hay thiền định về họ. Bởi thế, không có chướng ngại nào cho người chết để hiểu được Tử Thư Tây Tạng đang đọc cho họ, dù là đọc bằng Tạng ngữ.

Đối với người chết th́ ngôn ngữ không là một trở ngại, v́ tâm họ có thể đọc được ư nghĩa cốt yếu của kinh văn.

Điều này khiến cho sự tập trung tâm ư của người hành lễ càng thêm quan trọng, chứ không phải chỉ làm chiếu lệ mà được. Và bởi v́ người chết đang thực sự sống những kinh nghiệm đề cập trong sách, nên họ có thể có nhiều khả năng hơn ta để hiểu chân lư của Tử Thư.

Đôi khi tôi tự hỏi : “Nhưng nếu lỡ tâm thức đă ngất xỉu và rơi vào t́nh trạng quên lăng vào lúc chết th́ sao ?” . V́ ta không biết bao lâu người chết sẽ ở trong trạng thái hôn mê, và lúc nào th́ họ bắt đầu đi vào Trung Ấm tái sanh, nên Tử Thư được đọc và tu luyện liên tục để pḥng hờ.

Nhưng c̣n những người không quen thuộc với giáo lư hay Tử Thư th́ sao ? Chúng ta có nên đọc cho họ nghe không ? Đức Dalai Lama đă cho một lời chỉ dẫn rơ ràng :

Dù bạn có tin tôn giáo nào hay không, điều rất quan trọng vẫn là có được tâm an b́nh lúc chết... Theo quan điểm Phật giáo, dù người chết có tin luân hồi hay không, th́ sự tái sanh của họ vẫn hiện hữu, bởi thế một tâm an b́nh là quan trọng vào lúc chết. Nếu người chết là một kẻ vô thần, th́ việc đọc Tử Thư có thể làm tâm họ giao động, có thể gợi sự thù ghét, và bởi thế có thể hại họ hơn là giúp họ.

Nhưng nếu người nào mở ḷng ra mà nghe, th́ những câu thần chú hay danh hiệu Phật trong đó có thể giúp họ “kết nhân duyên” và nhờ thế có thể có ích lợi cho họ. Bởi thế, điều quan trọng trên hết là xét thái độ của người chết.

2- Né Dren và Chang Chok

Cùng với việc đọc Tử Thư c̣n có lễ Né Dren để hướng dẫn hương linh, hay lễ Chang Chok để tịnh hóa hương linh, trong đó bậc thầy sẽ hướng dẫn người chết đến một tái sanh tốt.

Tốt nhất, hai lễ ấy nên làm ngay sau khi chết, hay ít nhất trong ṿng 49 ngày. Nếu thi thể không có đấy, th́ nên hô triệu thần thức người chết về trong một h́nh nhân hay tấm thẻ “bài vị” có h́nh và tên họ người ấy, gọi là một “tsenjang”. Lễ này có năng lực nhờ ở sự kiện rằng thời gian ngay sau khi chết, người chết thường có một ấn tượng mạnh về thân xác ḿnh trong đời vừa qua.

Nhờ năng lực thiền quán của bậc thầy, thần thức người chết đang lang thang trong cơi Trung Ấm, được gọi về trong tấm thẻ bài hay tấm ảnh tượng trưng cho họ.

Thần thức khi ấy được tịnh hóa, lọc sạch những hạt giống nghiệp trong sáu cơi, rồi được nghe một bài thuyết pháp giống như lúc c̣n sống ở đời ; và người chết khi ấy được khai thị bản tâm. Cuối cùng, lễ Chuyển di tâm thức được thực hiện và thần thức người chết được hướng dẫn đến một trong các cơi Phật. Sau đó tsenjang (h́nh nhân hay thẻ bài) được đốt, và thế là đă tịnh hóa nghiệp chướng của người chết.

3- Tịnh hóa lục đạo

Thầy tôi, Dilgo Khientse Rinpoche thường bảo, lễ “Tịnh hóa lục đạo” là lễ thanh luyện tốt nhất cho một hành giả đă chết.

Sự tu tập để tịnh hóa lục đạo này thường làm khi sống, dùng thiền định và quán tưởng để thanh lọc thân xác khỏi sáu phiền năo chính, cùng với sáu cơi mà phiền năo ấy tạo nên.

Pháp này cũng có thể làm cho người chết rất hiệu nghiệm, v́ nó thanh lọc căn bản nghiệp của họ và do đó thanh lọc cái gốc rễ của tương quan giữa họ với sinh tử. Điều này quan trọng, v́ nếu cảm xúc tiêu cực (phiền năo) không tịnh hóa, th́ chúng sẽ điều động thần thức tái sanh vào cơi nào đó trong lục đạo.

Theo mật điển Dzogchen, những cảm xúc tiêu cực tích tụ trong hệ tâm-vật-lư là những huyệt đạo vi tế, nội phong hay năng lực, và nhóm lại ở một vài trung tâm năng lực (huyệt) đặc biệt trong cơ thể. Bởi thế, hạt giống của địa ngục và nhân của nó là giận dữ, được định vị trí ở dưới hai gót chân.

cơi ngạ quỷ và nhân của nó là dục tham, gốc ở bàn tọa ; cơi súc sinh và nhân của nó là ngu si th́ có vị trí ở rốn ; cơi người và nhân của nó là hoài nghi, có trị tri ở tim ; cơi tu-la và nhân của nó là ganh tị nằm ở yết hầu ; cơi trời và nhân của nó là kiêu mạn, th́ có vị trí ở đỉnh đầu.

Trong pháp tu tập để tịnh hóa lục đạo, khi mỗi cơi và cảm xúc tiêu cực của nó được thanh lọc, hành giả quán tưởng tất cả nghiệp do cảm xúc đặc biệt ấy tạo nên bây giờ đă khô kiệt, và thân phần liên hệ đến nghiệp của cảm xúc ấy hoàn toàn tan thành ánh sáng. Bởi thế, khi bạn làm pháp tu luyện này cho một người chết, th́ hăy nhất tâm quán tưởng rằng, sau khi làm xong, tất cả nghiệp được thanh tịnh và thân họ, toàn bản thể họ tan thành ánh sáng rực rỡ.

4- Pháp tu quán một trăm vị thần an lạc và phẫn nộ

Một cách khác để giúp người chết là sự hành tŕ Trăm vị thần an lạc và phẫn nộ (những thần này đă được nói ở chương 17 - “Tia sáng nội tâm”). Hành giả quán toàn thân thể ḿnh là một mandala của trăm vị thần an lạc và phẫn nộ ; chư thần an lạc được quán ở huyệt tim, chư thần phẫn nộ ở năo. Hành giả khi ấy tưởng tượng chư thần phát ra ngàn tia sáng chan ḥa lên trên người chết để tịnh hóa tất cả ác nghiệp của họ.

Thần chú để tịnh hóa mà hành giả tụng đọc là thần chú Kim cương tát đỏa, vị thần chủ tŕ tất cả mandala của Mật giáo, và là vị thần ở trung ương trong mandala một trăm vị thần an lạc và phẫn nộ, mà năng lực được hô triệu cốt để tịnh hóa và chữa bệnh.

Thần chú này là “Thần chú một trăm ngữ âm”, bao gồm trăm “chủng tự” của trăm vị thần ấy. Bạn có thể xử dụng một dạng ngắn gồm sáu âm của thần chú Kim cương tát đỏa (Vajrasattva) là OM VAJRA SATTVA HUM (Tạng ngữ Om Benza Sattb Hung). Ư nghĩa câu này là “Hỡi thần Kim cương tát đỏa ! Nhờ năng lực của ngài, xin cho con được tịnh hóa, được chữa lành, được chuyển nghiệp”.

Một bài chú quan trọng khác trong mật điển Dzogchen và trong hành tŕ liên hệ đến Tử Thư Tây Tạng là A A HA SHA SA MA. Sáu âm của bài chú này có năng lực “đóng cửa ngơ” đi vào lục đạo luân hồi.

5- Hỏa táng

Thông thường trong nhiều truyền thống Đông phương, hỏa táng là cách để thanh toán thây chết. Trong Phật giáo Tây Tạng cũng có những pháp hành đặc biệt cho lễ hỏa táng. Chỗ hỏa táng hay dàn hỏa táng được quán tưởng thành mandala của Kim cương tát đỏa, hay Trăm vị thần an lạc và phẫn nộ.

Chư thần được quán tưởng mănh liệt, sự hiện diện của họ được triệu thỉnh. Cái thây của người chết được quán như thực sự đại diện cho tất cả nghiệp ác và chướng ngại của họ. Khi cái thây bùng cháy, những ác nghiệp chướng ngại ấy được chư thần tiêu thụ trong một bữa tiệc lớn, chuyển hóa chúng thành ra bản chất trí tuệ.

Những tia sáng được tưởng tượng như là tuôn phát từ chư thần ; cái xác được quán đang tan ră hoàn toàn thành ánh sáng, và tất cả bất tịnh của người chết được tịnh hóa trong ngọn lửa rực rỡ của trí tuệ. Khi quán tưởng điều này, ta có thể tụng đọc thần chú một trăm âm hay sáu âm của Kim cương tát đỏa. Sự tu tập giản dị này dành cho lễ hỏa táng là do Dudjom Rinpoche và Dilgo Khientse Rinpoche truyền lại.

Tro của cái xác và tsenjang (h́nh nhân, bài vị...) khi ấy có thể trộn với đất sét mà làm thành những h́nh tượng nhỏ gọi là tsatsa, được chú nguyện và dâng hiến nhân danh người chết để tạo những duyên tốt cho một tái sanh tốt đẹp trong tương lai.

6- Cúng tuần

Trong một môi trường Tây Tạng, những cuộc hành thiền tu tập xảy ra đều đặn mỗi ngày thứ bảy sau khi chết, hay nếu gia đ́nh có thể lo liệu, th́ suốt cả 49 ngày. Những tu sĩ được mời đến hành pháp, nhất là những vị Lama thường gần gũi gia đ́nh ấy và có liên hệ với người chết.

Đèn được thắp sáng và liên tục đọc kinh cầu nguyện, cho đến khi cái xác được đưa ra khỏi nhà. Những phẩm vật được cúng dường lên các vị thầy và các bàn thờ, và phát chẩn cho kẻ nghèo nhân danh người chết.

Những pháp hành hàng tuần nhân danh người chết được xem là thiết yếu, v́ thân ư sanh trong cơi Trung Ấm đang kinh quá cái chết của ḿnh trở lại đúng vào ngày ấy mỗi tuần. Nếu người chết có đủ công đức do kết quả của thiện nghiệp quá khứ, th́ lợi lạc của những pháp này, hành tŕ nhân danh họ, sẽ làm cái đà để chuyển họ đến một cơi thanh tịnh.

Nói thật chính xác, th́ nếu người ấy chết ngày thứ tư trước ngọ, th́ tuần thứ nhất sẽ làm vào thứ ba tuần sau đó. Nếu chết sau ngọ, th́ làm tuần vào ngày thứ tư tuần sau.

Người Tây Tạng xem tuần thứ tư sau khi chết là một ngày có ư nghĩa đặc biệt, v́ có người nói b́nh thường người chết không ở trong cơi Trung Ấm lâu hơn 4 tuần. Tuần thứ bảy cũng được xem là một khúc quanh quan trọng, v́ 49 ngày được xem là thời hạn lâu nhất trong cơi Trung Ấm đi đầu thai. Bởi thế, vào những dịp này, thầy và các bạn đạo sẽ được mời đến nhà, và những sự tu tập, cúng dường, bố thí... được thực hiện đại quy mô.

Một lễ cúng khác được thực hiện mỗi năm một lần sau khi chết, để đánh dấu ngày tái sanh của người chết. Phần đông gia đ́nh Tây Tạng thường làm lễ mỗi năm một lần vào những ngày giỗ thầy, giỗ cha mẹ, chồng vợ, anh chị em của họ. Vào những ngày ấy họ cũng bố thí cho người nghèo.


Giúp đỡ người đau buồn


Trong cộng đồng Tây Tạng, mỗi khi một người nào chết, th́ điều tự nhiên là thân quyến bạn bè họ tụ họp lại, và mọi người t́m cách này cách khác để giúp một tay. Toàn thể cộng đồng đem lại cho tang gia sự nâng đỡ tinh thần, t́nh cảm và thực tế, nên nhà có người chết không bao giờ bị bỏ mặc cho cảm thấy vô phương không biết phải làm ǵ.

Mọi người trong xă hội Tây Tạng biết họ phải làm những ǵ họ có thể làm cho người chết, càng nhiều càng hay, và chính điều đó giúp tang quyến có thể chịu đựng, chấp nhận cái chết của người thân để tiếp tục sống.

Thật là khác xa với xă hội tân tiến, trong đó sự nâng đỡ của cộng đồng hầu như hoàn toàn không có. Tôi nghĩ sự nâng đỡ như thế thường đă giúp ích xiết bao cho thân quyến người chết khỏi kéo dài nỗi đau buồn và những khó khăn không cần thiết.

Những học tṛ tôi, làm cố vấn tỉnh cảm trong các Tiếp dẫn đường, cho tôi biết một trong những nguyên nhân buồn khổ trầm trọng nhất của một người mất mát người thân, là nghĩ rằng bản thân họ cũng như bất cứ ai, không ai có thể làm ǵ cho những thân quyến đă mất của họ. Nhưng như tôi đă nói, có rất nhiều việc mà bất cứ ai cũng có thể làm để giúp cho người đă chết.

Một cách an ủi người đau buồn là khuyến khích họ làm cái ǵ cho những người thân của họ đă chết : bằng cách sống hăng hái hơn, sống thay cho người chết, tu thay cho họ, và đem lại cho cái chết của họ một ư nghĩa sâu xa hơn. Ở Tây Tạng người ta c̣n đi hành hương nhân danh người đă chết, và vào những thời gian đặc biệt và nơi chốn thiêng liêng, họ sẽ nghĩ đến những người thân đă chết và tu tập để hồi hướng cho họ.

Người Tây Tạng không bao giờ quên người chết : họ thường cúng chùa nhân danh người chết ; khi có những lễ hội cầu nguyện lớn, họ sẽ cúng vào đó nhân danh người chết ; họ tiếp tục hiến tặng cho những chương tŕnh tu học nhân danh người chết, và lúc nào gặp những bậc thầy họ cũng xin lời cầu nguyện đặc biệt cho người chết. Niềm an ủi lớn nhất cho một người Tây Tạng là khi biết một bậc thầy đang tu tập hồi hướng công đứ cho thân nhân đă chết của họ.

Vậy th́ đừng để cho ta chết đi một nửa theo với người chết ; ta hăy cố sống sau khi họ chết với niềm hăng say hơn nữa. Ta hăy cố ít nhất làm tṛn ước nguyện của người chết, ví dụ bằng cách bố thí vài sở hữu của họ cho hội từ thiện, hay bảo trợ nhân danh họ cho một dự án mà họ thường ưa chuộng.

Những người Tây Tạng thường viết thư chia buồn với bạn bè đang khóc người thân với những lời đại khái như sau :

“Mọi sự đều vô thường, mọi người rồi phải chết, bạn đă biết. Vậy mẹ bạn có chết cũng là điều tự nhiên : thế hệ già chết trước. Bà cụ đă già yếu, chắc cũng không ân hận ǵ khi bỏ thân xác này. Và v́ bạn có thể giúp bà bằng cách cúng vào các thiền hội tu tập và làm việc thiện nhân danh bà, chắc chắn bà sẽ sung sướng nhẹ nhàng. Vậy bạn đừng buồn” .

Nếu bạn ta có con hay một người thân c̣n trẻ chết, chúng ta có thể nói với họ :

“Con trai bạn đă chết, thật là như trời long đất lỡ với bạn. Tôi biết điều đó thật tàn nhẫn phi lư. Tôi không thể nào hiểu được. Nhưng có lẽ cái nghiệp của cháu là phải chết, và tôi tin rằng cái chết ấy chắc đă thanh toán được một món nợ nghiệp nào đó mà bạn và tôi không thể biết. Nỗi đau buồn của bạn cũng là của tôi.

Nhưng hăy nhớ rằng, bây giờ bạn và tôi có thể giúp cháu, bằng sự tu tập của chúng ta, thiện nghiệp chúng ta, t́nh thương của chúng ta ; chúng ta có thể cầm tay cháu mà bước bên cạnh cháu ngay bây giờ, dù cháu đă chết, để giúp cháu có được một tái sanh mới và một đời sống dài hơn lần sau” .

Trong thế giới hiện nay của chúng ta, nơi mà ta không biết được cả đến chuyện có thể giúp đỡ người chết, nơi mà ta chưa từng đối mặt cái chết một lần nào trong đời, th́ chuyện tư duy sáng suốt và b́nh tĩnh như vậy không phải dễ. Một người lần đầu tiên khóc người thân có thể phải tan nát cơi ḷng v́ những cảm xúc rối bời như buồn, giận, chối bỏ, rút lui, mặc cảm phạm tội... th́nh ĺnh tàn phá tâm hồn họ. Muốn giúp những người như thế, bạn cần sự kiên nhẫn và tế nhị.

Bạn cần thời gian ngồi với họ để cho họ nói, lắng nghe không phê phán mỗi khi họ nhớ lại những hoài niệm riêng tư nhất, hoặc cứ tái đi tái lại từng chi tiết của cái chết. Trên tất cả, có thể bạn chỉ cần ở đấy với họ, lúc mà họ đang kinh quá nỗi đau buồn khốc liệt nhất trong đời.

Hăy sẵn sàng đến với họ bất cứ lúc nào, ngay cả những lúc họ có vẻ không cần hiện diện của bạn. Carol, một góa phụ, khi được hỏi ai giúp bà nhiều nhất trong lúc chồng bà chết, đă trả lời : “Những người tiếp tục gọi điện thoại và ghé thăm, ngay cả khi tôi nói không cần” .

Những người buồn khổ cũng như đang trải qua một loại chết. Cũng như người chết, họ cần biết rằng những cảm xúc rối ren mà họ đang kinh quá là điều tự nhiên. Họ cũng cần biết rằng tiến tŕnh tang tóc thường cam go và dài đăng đẳng, khi nỗi đau buồn cứ tái đi tái lại theo chu kỳ.

Nỗi kinh hoàng tê tái không tin ban đầu sẽ tàn phai, nhường chỗ cho một ư thức sâu xa tuyệt vọng về sự mất mát vô biên của họ, mà cuối cùng cũng sẽ hồi phục, trở lại thế quân b́nh. Hăy cho họ biết đây là một mẫu mực sẽ trở lại nhiều lần, tháng này qua tháng khác, và tất cả những cảm giác đau khổ, sợ hăi không thể chịu đựng, tưởng chừng như không c̣n sống ra con người được nữa, cũng chuyện là chuyện b́nh thường.

Cho họ biết rằng, dù họ có thể đau đớn trong một, hai năm, nỗi đau của họ chắc chắn rồi cũng đi đến kết thúc và chuyển thành sự chấp nhận.

Judy Tatebaum nói :

“Nỗi đau buồn là một vết thương cần được chú ư để hàn gắn. Hàn gắn một nỗi đau buồn có nghĩa là đối mặt với nó một cách công khai, thẳng thắng, bộc lộ và phóng thích trọn vẹn nó, chấp nhận nó kéo dài bao lâu nó cần để cho vết thương lành lại.

Thường ta cứ sợ rằng một khi công nhận nỗi đau buồn, chắc ta không thể nào chịu nổi. Sự thật th́ nỗi đau khổ được bộc lộ ra sẽ có lúc đi đến kết thúc. Đau khổ mà không bộc lộ được th́ cứ kéo dài bất tận”.

Nhưng thông thường, bạn bè và gia quyến của người đau buồn cứ mong cho người ấy “trở lại b́nh thường” sau vài tháng. Điều này chỉ tăng thêm nỗi lạc loài cô lập của họ, khi nỗi đau khổ vẫn tiếp diễn, và có thể càng sâu sắc hơn.

Ở Tây Tạng, như tôi đă nói, toàn thể cộng đồng, bạn bè, bà con, thường tham dự suốt 49 ngày sau khi một người nào chết, và mọi người đều bận rộn trong việc giúp đỡ tâm linh cho người chết, có hàng trăm chuyện để làm. Người đau buồn cứ việc đau buồn, họ khóc lóc chút đỉnh, đó là chuyện tự nhiên, và khi mọi người ra về, th́ ngôi nhà có vẻ trống trải.

Tuy thế, sự bận rộn lo lắng nâng đỡ của người xung quanh bằng nhiều cách tế nhị, làm ấm ḷng ­ đă giúp họ rất nhiều trong nỗi đau thương tang tóc.

Trong xă hội Tây phương, sự chạm mặt một ḿnh với nỗi mất mát thực là khác hẳn. Và nhất là trong trường hợp một vụ chết đột ngột, tự sát, th́ nỗi đau khổ của người ở lại càng tăng cường mănh liệt. Nó làm cho họ càng cảm thấy bất lực không biết làm sao để giúp đỡ người chết.

Điều rất quan trọng là để cho người thân đến nh́n thấy xác chết của người chết đột ngột, nếu không, họ rất khó mà nhận ra cái chết thực sự đă xảy đến. Nếu có thể, người ta nên ngồi cạnh xác chết ấy, để nói những ǵ cần nói, diễn tả niềm yêu thương, và khởi sự nói lời từ biệt.

Nếu điều này không thể thực hiện được, th́ hăy đem ra một tấm ảnh của người chết và khởi sự tiến tŕnh từ giă, hoàn tất mối tương quan, rồi buông xả. Hăy khuyên những người có người thân chết nên làm việc này, điều này sẽ giúp cho họ chấp nhận tin buồn, thực tại nát ḷng của cái chết.

Cho họ biết những cách giúp đỡ người chết như đă nói trên, những cách đơn giản họ có thể làm, thay v́ ngồi bó gối một cách vô vọng, nghiền ngẫm về cái chết ấy trong nỗi âm thầm áo năo tự trách.

Trong trường hợp một cái chết đột ngột, những người thân thường có thể kinh quá những cảm xúc tức tối trước những ǵ mà họ cho là nguyên nhân cái chết.

Hăy giúp họ bộc lộ sự tức giận ấy, v́ nếu bị giữ lại trong ḷng, th́ sớm muộn sự tức giận ấy sẽ đưa đẩy họ vào một nỗi áo năo kinh niên. Hăy giúp họ buông xả cơn tức giận và cho họ thấy những chiều sâu của nó, là nỗi đau mất mát. Rồi họ có thể khởi sự công việc buông xả, một chuyện gay go nhưng cuối cùng sẽ hàn gắn mối thương tâm.

Cũng có nhiều khi người c̣n lại sau cái chết của một người thân, cảm thấy mănh liệt mặc cảm phạm tội, cứ bị ám ảnh bởi những lỗi lầm của ḿnh trong quá khứ với người đă chết, hoặc tự dày ṿ v́ nghĩ đáng lẽ ḿnh có thể làm ǵ để ngăn cái chết. Hăy giúp họ nói ra những cảm giác phạm tội ấy, dù chúng có vẻ phi lư đến đâu. Dần dà những cảm giác ấy sẽ giảm bớt, và họ sẽ tự tha thứ cho họ để tiếp tục sống nốt cuộc đời của ḿnh.


Một pháp môn trọng yếu


Bây giờ tôi sẽ cho bạn một phương pháp tu tập có thể giúp bạn rất nhiều, mỗi khi bạn bị đau đớn, buồn sầu kinh khủng. Đấy là một pháp mà thầy Jamyang Khientse tôi thường dạy cho những người đang kinh quá sự đau khổ tinh thần, dằn vặt tâm can.

Và tôi biết với kinh nghiệm bản thân rằng pháp này có thể đem lại nguồn an ủi lớn lao như cất một gánh nặng khổng lồ. Đời sống của một người giảng dạy trong một thế giới như thế giới phương Tây không phải dễ. Lúc c̣n trẻ, có những lúc tôi gặp phải khủng hoảng khó khăn, khi ấy tôi luôn luôn triệu thỉnh Padmasambhava, như bây giờ tôi vẫn làm, và nghĩ đến ngài như tất cả các bậc thầy của tôi.

Và tôi đă khám phá rằng phương pháp ấy thật có thể chuyển hóa tôi một cách mầu nhiệm, thảo nào các bậc thầy tôi thường nói rằng, pháp hành tŕ Padmasambhava là hữu ích nhất mỗi khi ta gặp khó khăn, v́ pháp này có cái năng lực mà bạn cần để vượt qua sự hỗn loạn, rối ren của thời đại.

Bởi vậy, khi bạn buồn nản, lo sầu, xuống dốc, khi bạn cảm thấy không thể đi thêm được nữa, cảm thấy cơi ḷng tan nát, th́ tôi khuyên bạn nên áp dụng pháp môn này. Điều kiện duy nhất để tu tập có hiệu quả là bạn cần phải làm thực tập này với tất cả năng lực của bạn, bạn cần phải xin cầu, và tha thiết xin cầu.

Mặc dù hành thiền, bạn vẫn c̣n có nhiều cảm xúc đau đớn khổ sở và vô số chuyện từ các đời quá khứ, hoặc đời này nổi lên mà bạn thấy khó thể đương đầu. Bạn có thể thấy ḿnh không đủ trí tuệ và định tĩnh để đối phó với chúng, và một mặt thiền định không mà thôi chưa đủ. Khi ấy điều bạn cần là cái mà tôi gọi “một sự tu luyện từ tim”.

Tôi luôn luôn cảm thấy buồn sầu v́ người ta không có một kiểu làm như thế để giúp họ trong những lúc khốn đốn. Nếu bạn có làm, bạn sẽ t́m thấy ḿnh có một cái ǵ vô cùng quư báu, nó sẽ là một nguồn sức mạnh chuyển hóa cuộc đời bạn.

1- Triệu thỉnh

Trong bầu trời trước mặt, bạn hăy triệu thỉnh hiện diện của bất cứ thực thể giác ngộ nào mà bạn có cảm ứng nhất, và xem vị ấy như hiện thân của tất cả chư Phật, Bồ-tát, bậc thầy. Đối với tôi, hiện thân ấy là Padmasambhava. Nếu bạn không thể tưởng tượng ra trong tâm nhăn của bạn một h́nh dạng nào, th́ hăy cứ có một cảm giác mănh liệt về sự hiện diện ấy, và triệu thỉnh năng lực từ bi và ân sủng vô biên của ngài.

2- Hô triệu

Mở ḷng bạn ra, và kêu gọi ngài với tất cả nỗi đau đớn khổ sở mà bạn cảm thấy. Nếu bạn cảm thấy muốn khóc th́ đừng cố nín, mà cứ việc tuôn ra, và thực t́nh cầu xin sự giúp đỡ. Hăy biết rằng có một người nào thực sự đang ở đấy để giúp bạn, một người đang lắng nghe bạn, cảm thông bạn với ḷng từ mẫn, không bao giờ phê phán bạn : đó là một người bạn chân t́nh.

Hăy hô triệu vị ấy từ đáy sâu nỗi đau đớn của bạn, dùng câu thần chú OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDhi HUM, thần chú đă được xử dụng hàng bao thế kỷ bởi hàng trăm ngàn người, như một ḍng suối để tịnh hóa, chữa lành và che chở.

3- Làm tràn đầy hỷ lạc trong tim

Hăy tưởng tượng và biết rằng vị Phật mà bạn đang kêu cầu ấy đă đáp ứng với tất cả năng lực từ bi và trí giác của ngài. Nguồn ánh sáng rực rỡ từ nơi ngài đang tuôn về phía bạn. Hăy tưởng tượng ánh sáng ấy như vị cam lồ đang rót đầy tim bạn, và chuyển hóa tất cả đau thương của bạn thành hỷ lạc.

Một cách Padmasambhava xuất hiện là đắp y ngồi trong tư thế thiền, toát ra một cảm giác ấm cúng tiện nghi, với nụ cười yêu thương trên gương mặt ngài. Trong hóa thân này, ngài được gọi là “Đại lạc”.

Tay ngài đặt thoải mái trên hai vế, đỡ lấy một cái tách làm bằng sọ người đựng toàn cam lồ Đại lạc. Nước cam lồ ấy đang tung tóe khắp nơi để chữa lành mọi đau thương bệnh tật. Ngài ngồi một cách an tịnh trên một ṭa sen nở, nằm trong một trái cầu bằng ánh sáng.

Hăy nghĩ về ngài như một mặt trời phúc lạc, suối nguồn của sự nồng nàn yêu thương, an ủi, chữa lành. Hăy mở ḷng bạn ra, tuôn ra tất cả đau khổ của bạn, cầu xin cứu giúp. Và đọc câu thần chú của ngài : OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDhi HUM.

Bây giờ, hăy tưởng tượng hàng ngàn tia sáng tuôn ra từ nơi thân ngài hay từ tim ngài. Tưởng tượng ngài đang vui vẻ chan rưới vị cam lồ liên tục trên người bạn, một thứ ánh sáng như chất lỏng bằng vàng ṛng rót vào tim bạn, chuyển hóa khổ đau của bạn thành an lạc.

Đấy là phương pháp kỳ diệu mà thầy tôi thường dạy, nó đem lại cho tôi cảm hứng và sự giúp đỡ lớn lao vào những lúc tôi cần giúp đỡ.

4- Giúp đỡ người chết

Khi bạn làm thực tập này nhiều lần, đọc thần chú và làm cho tâm bạn tràn ngập hỷ lạc, th́ dần dần sự khổ đau của bạn sẽ tan ḥa vào trong niềm an tịnh của tự tánh tâm bạn. Bạn sẽ vui mừng nhận ra rằng, chư Phật vốn không ngoài tâm bạn, mà luôn luôn ở với bạn, bất ly tự tánh bạn. Và những ǵ Phật làm qua sự ban phước của ngài, là gia tŕ năng lực cho bạn, nuôi dưỡng bạn bằng niềm tin đối với Phật tánh ở bên trong.

Bây giờ, với tất cả năng lực tin tưởng mà pháp này đă đem lại cho bạn, bạn hăy tưởng tượng ḿnh đang gởi phúc lạc ấy, ánh sáng từ bi của chư Phật ấy đến những người thân yêu đă chết. Điều này đặc biệt quan yếu trong trường hợp một người gặp cái chết thảm khốc, v́ nó giúp chuyển hóa nỗi đau đớn của họ, đem lại cho họ b́nh an và phúc lạc.

Trong quá khứ, có lẽ bạn đă cảm thấy tuyệt vọng, vô phương giúp đỡ những người thân, nhưng bây giờ, qua pháp tu tập này, bạn có thể cảm thấy được an ủi, khuyến khích và có thêm năng lực để giúp người đă chết.


Mở rộng cơi ḷng


Đừng mong có hiệu quả tức th́, hay một phép lạ nào đó. Có thể chỉ sau một thời gian, hay lâu hơn nhiều, trong lúc không ngờ, sự đau khổ của bạn sẽ chuyển hướng. Đừng mong đợi chấm dứt đau khổ một lần dứt khoát. Hăy mở rộng ḷng đối với nỗi đau buồn, như bạn mở ḷng ra đối với chư Phật và các bậc giác ngộ trong lúc thiền quán.

Bạn có thể cảm thấy biết ơn nỗi đau khổ, v́ nó cho bạn cơ hội làm việc thẳng với nó và chuyển hóa nó. Nếu không có đau khổ th́ bạn đâu bao giờ khám phá ra rằng tận đáy sâu của khổ đau c̣n có một kho tàng phúc lạc. Thời gian mà bạn đau khổ có thể là thời gian bạn cởi mở nhất, và chỗ mà bạn cực kỳ thương tổn có thể là nơi ẩn tàng sức mạnh lớn nhất của bạn.

Vậy bạn hăy tự nhủ ḷng : “Tôi sẽ không chạy trốn khổ đau. Tôi muốn xử dụng nó bằng cách tốt nhất, phong phú nhất, để tôi có thể thương yêu người khác và trở nên hữu ích cho họ”. Chung quy, chính khổ đau dạy cho ta ḷng từ mẫn. Khi bạn đau khổ, bạn mới biết người khác đau khổ như thế nào. Và nếu bạn có thể giúp người khác, th́ chính nhờ kinh nghiệm khổ đau của bạn mà bạn có thể có sự cảm thông và tâm từ bi để làm việc ấy.

Bởi thế dù có làm ǵ, bạn cũng nhớ đừng dập tắt nỗi đau khổ của bạn ; hăy chấp nhận nó và giữ tâm nhạy bén với nỗi khổ đau. Dù tuyệt vọng đến đâu, bạn hăy nhận nỗi đau khổ như nguyên trạng của nó, v́ kỳ thực nó đang đem lại cho bạn một món quà vô giá, nhờ tu tập, bạn sẽ có cơ hội t́m ra được cái ẩn giấu sau nỗi đau buồn. “Đau buồn có thể là khu vườn bi mẫn”, Rumi viết. Nếu bạn mở ḷng ra với mọi sự, th́ nỗi khổ có thể trở thành đồng minh lớn nhất của bạn trên đường t́m kiếm từ bi và trí tuệ.

Và có lẽ chúng ta đều biết rơ rằng, ta không thể nào tránh né khổ đau. Khi ta cố tự vệ chống lại đau khổ, th́ ta chỉ càng thêm đau khổ và không học được ǵ về kinh nghiệm khổ đau. Rilke viết rằng : “Một trái tim chưa hề mở ra nhận chịu sự mất mát, một trái tim được che chở, luôn vô tư an ổn, th́ không thể biết yêu thương” .


Chấm dứt đau buồn và rút bài học từ nỗi buồn đau


Khi bạn tràn ngập khổ đau, th́ hăy cố vươn lên bằng một trong những phương pháp thiền tôi đă đề cập trong chương 5 “Đưa tâm về nhà” . Một trong những phương pháp tôi thấy rất hiệu lực để làm lắng dịu, tiêu tan nỗi sầu là đi vào thiên nhiên, nhất là đứng nh́n một ḍng thác đổ, để cho nước mắt bạn, nỗi đau khổ của bạn trào tuôn và tịnh hóa bạn, như ḍng nước chảy kia. Hoặc bạn có thể đọc một bản kinh cảm động nói về vô thường, và để cho trí tuệ nói trong kinh xoa dịu ḷng bạn.

Chấp nhận đau thương để chấm dứt nó là chuyện có thể làm. Một cách mà nhiều người thấy hiệu nghiệm là phương pháp tôi đă nói về sự “hoàn tất công việc dang dở”, thay đổi đôi chút. Dù người thân của bạn chết từ bao lâu, bạn cũng sẽ thấy pháp này rất hiệu nghiệm.

Quán tưởng chư Phật, Bồ-tát đứng ở trên bầu trời trên đầu và xung quanh bạn, đang chiếu xuống những tia sáng từ bi, ban ân sủng cho bạn. Trước sự hiện diện ấy, hăy nói những ǵ bạn cần nói, những ǵ thực sự ở trong tim bạn, với người thân đă chết.

Quán tưởng người ấy đang nh́n bạn với niềm cảm thông và t́nh thương mến nhiều hơn bao giờ cả trong đời họ. Hăy biết rằng người chết muốn cho bạn hiểu rằng họ yêu mến bạn và tha thứ cho bạn những ǵ bạn đă làm, và họ cũng muốn xin bạn tha thứ cho họ.

Hăy để cho tim bạn tuôn ra thành lời bao nhiêu nỗi giận hờn, thương tổn, mà có thể bạn đă ấp ủ bấy lâu, rồi buông xả hoàn toàn. Bằng tất cả tâm trí bạn, hăy để cho sự tha thứ của bạn hướng về người chết. Nói với họ, bạn đă tha thứ, nói với họ bạn đă hối hận như thế nào về tất cả nỗi đau khổ có thể bạn đă gây ra.

Bây giờ, hăy để cho sự tha thứ và t́nh yêu thương của họ tràn ngập bản thể bạn. Hăy biết tận đáy ḷng bạn rằng bạn đáng được yêu thương, đáng được tha thứ, và hăy cảm thấy nỗi đau buồn của bạn đang tan biến.

Cuối cùng, hăy tự hỏi bây giờ bạn có thể thực sự nói lời từ biệt và buông xả người ấy hay chưa. Rồi tưởng tượng người ấy quay lưng bỏ đi, và kết thúc bằng pháp Chuyển di hay bất cứ pháp nào để giúp đỡ người đă chết.

Pháp này sẽ cho bạn cơ hội chứng tỏ t́nh yêu của bạn một lần nữa, làm một cái ǵ thêm nữa để giúp người đă chết, và chữa lành, hoàn tất mối tương giao trong tâm bạn.

Bạn có thể học được rất nhiều từ nỗi đau thương mất mát, nếu bạn mở ḷng ra. Sự đau thương có thể bắt buộc bạn phải nh́n thẳng vào cuộc đời bạn, t́m một ư nghĩa trong đó mà lâu nay bạn chưa thấy. Khi đột nhiên bạn cảm thấy bơ vơ v́ cái chết của người thân, th́ bạn như sống lại một cuộc đời mới và tự hỏi : “Ta sẽ làm ǵ với cuộc đời này ? Tại sao ta c̣n mong tiếp tục sống ?” .

Sự mất mát thương đau c̣n có thể nhắc cho bạn một cách mănh liệt cái ǵ có thể xảy ra nếu trong khi sống bạn không chịu bày tỏ t́nh thương mến của bạn, sự tán thưởng của bạn, hay sự xin lỗi, và bởi thế có thể làm cho bạn nhạy cảm hơn đối với những người thân c̣n sống. Elisabeth Kubler-Ross nói : “Điều tôi muốn nhắn nhủ mọi người là, hăy sống thế nào để bạn có thể nói những lời ấy trong lúc người kia c̣n có thể nghe được”.

Và Raymond Moody, sau công tŕnh một đời nghiên cứu kinh nghiệm cận tử, đă viết : “Tôi bắt đầu nhận ra rằng : tất cả chúng ta thường ngày như thế nào th́ khi gần chết, cũng như thế ấy. Hơn bao giờ hết, bây giờ tôi rất thận trọng để làm cho mọi người tôi yêu mến biết rơ cảm xúc của tôi” .

Bởi thế, lời khuyên tâm huyết của tôi cho những người đang ở trong cơn đau đớn sâu xa về nỗi mất mát người thân của họ, là hăy cầu nguyện chư Phật để được giúp đỡ, được ân sủng và sức mạnh.

Cầu nguyện cho bạn sống để t́m ra ư nghĩa phong phú nhất cho đời sống mới của bạn, sau khi họ mất đi. Hăy nhạy bén đối với nỗi đau ḷng, hăy can đảm và kiên nhẫn. Trên tất cả, hăy nh́n vào cuộc đời bạn để t́m cách san sẻ niềm thương yêu của bạn một cách sâu xa hơn, đối với những người khác ngay bây giờ.






Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 

<< Trước Trang of 58 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.4063 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO