Tác giả |
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 441 of 1146: Đă gửi: 29 June 2010 lúc 12:01am | Đă lưu IP
|
|
|
TẠNG THƯ SỐNG CHẾT
20. KINH NGHIỆM CẬN TỬ NẤC THANG LÊN TRỜI
Ngày nay ở phương Tây chúng ta đă rất quen thuộc với kinh nghiệm cận tử, cái tên đặt cho một loạt những ǵ xảy đến cho những người chết hụt , và được họ kể lại sau khi thoát một tai nạn hay một cơn bệnh thập tử nhất sinh.
Kinh nghiệm cận tử này đă được kể khá nhiều, trong tất cả các truyền thống huyền học, bởi các văn sĩ, triết gia thuộc đủ trường phái khác nhau như Platon, Giáo hoàng Gregory, một vài bậc thầy giáo phái Sufisme, Toltoi và Carl Jung. Mẩu chuyện mà tôi thích nhất là mẩu chuyện của một sử gia Anh, thầy tu Bede, đă kể lại vào thế kỷ thứ 8.
Vào thời ấy, một phép lạ đáng chú ư, giống như những phép lạ ngày xưa, đă xảy ra ở Anh quốc. Để đánh thức những người đang sống mà tâm hồn đă chết, có một người đă chết trở về lại đời sống trong thân xác cũ của họ và kể nhiều chuyện mà y đă trông thấy. Một vài chuyện trong đấy tôi nghĩ là đáng nói vắn tắt ở đây.
Có một gia chủ ở xứ Northumbrian, tên là Cunningham, sống một đời sùng tín. Ông ta ngă bệnh càng ngày càng nặng, cho đến vào đầu một đêm kia, ông chết. Nhưng đến lúc b́nh minh, ông th́nh ĺnh sống lại, ngồi dậy trên giường trước nỗi kinh ngạc của mọi người đang khóc xung quanh xác ông. Họ vùng bỏ chạy, chỉ trừ bà vợ, người yêu thương ông hơn ai hết, ở lại bên ông mặc dù bà cũng run lên v́ hăi sợ.
Ông trấn an bà và bảo : “Đừng sợ, v́ tôi quả thực vừa thoát khỏi nanh vuốt thần chết, và tôi được phép sống lại giữa loài người. Nhưng từ đây tôi không được sống theo thói cũ, và phải có một lối sống hoàn toàn khác hẳn” . Không lâu sau đó, ông từ bỏ tất cả trách nhiệm ở đời và gia nhập tu viện Melrose...
Ông thường kể lại kinh nghiệm ông đă trải qua như sau :
“Một người đẹp trai trong chiếc áo rực rỡ, hướng dẫn tôi, và chúng tôi im lặng đi về hướng dường như là đông-bắc. Khi tiếp tục đi, chúng tôi gặp một thung lũng rộng, sâu, và có độ dài bất tận... Người ấy liền đưa tôi ra khỏi bóng tối, đến một bầu không khí có ánh sáng trong suốt, và khi người ấy dẫn tôi đi trong ánh sáng ấy, tôi thấy trước mặt một bức tường to lớn dường như có chiều cao và chiều dài vô tận.
V́ tôi không trông thấy cửa ngơ, cửa sổ hay lối vào nào cả, tôi tự hỏi tại sao chúng tôi đi đến đấy làm ǵ. Nhưng vừa khi tới nơi, tôi không hiểu tại sao, chúng tôi đă ở trên nóc bức tường ấy. Bên trong có một cánh đồng khoáng đạt và vui vẻ trải ra... Ánh sáng tràn ngập trong đó, c̣n sáng chói hơn cả ánh mặt trời giữa ngọ...
Người hướng đạo nói : “Nay ngươi phải trở về nhập xác lại và sống giữa loài người một lần nữa, nhưng nếu ngươi cân nhắc hành động một cách cẩn thận và học hỏi để giữ cho lời nói và tư cách ngươi đều b́nh dị, có đạo đức, th́ khi chết, ngươi cũng sẽ được một căn nhà trong đó và sống giữa những linh hồn hạnh phúc mà ngươi đă thấy. V́ khi ta rời ngươi trong chốc lát là để xem tương lai của ngươi sẽ là ǵ” .
Khi ông ta nói thế, tôi rất miễn cưỡng trở về thân xác, v́ tôi đâm ra mê mẩn trước vẻ đẹp và sự vui thú của cái nơi tôi đă thấy và những người trong đó. Nhưng tôi không dám hỏi người hướng đạo tôi, và trong khi ấy, không biết làm thế nào tôi chợt thấy ḿnh sống lại”.
Bede chấm dứt câu chuyện với những lời này :
“Con người của Chúa trời này không kể chuyện này và những điều y đă thấy với những người sống bất cẩn, vô cảm, mà chỉ nói với những người sẵn sàng ghi nhớ những lời của y và tăng thêm sự thánh thiện”.
Kỹ thuật y khoa tân tiến đă đem lại một chiều hướng mới mẻ, hấp dẫn cho tầm mức kinh nghiệm cận tử ; bây giờ nhiều người đă sống lại sau một tai nạn, cơn suy tim hay bệnh nặng, hoặc trong khi giải phẫu, trong cuộc chiến. Kinh nghiệm cận tử đă là đề tài của một số lớn khảo cứu khoa học và tư duy triết học. Theo một cuộc trưng cầu ư kiến của viện Gallup năm 1982, có đến 8 triệu người Mỹ, hay một phần hai mươi dân số, đă có ít nhất một lần suưt chết.
Mặc dù kinh nghiệm cận tử không ai giống ai, cũng như không có hai người cùng có một kinh nghiệm giống nhau về cơi Trung Ấm, tuy thế có một mẫu mực chung về các giai đoạn khác nhau trong kinh nghiệm cận tử, một “kinh nghiệm cốt lơi” xuất hiện :
1- Họ đều cảm thấy một tâm trạng đổi khác, an lạc và thoải mái, không đau đớn, hoặc có những cảm thọ về thân, hoặc cảm thấy sợ hăi.
2- Họ có thể để ư đến một âm thanh ào ào hay vù vù, và cảm thấy ḿnh rời khỏi xác. Đây gọi là “kinh nghiệm thoát xác” : Họ có thể nh́n thấy cơ thể họ từ một điểm ở trên cao ; thị giác và thính giác của họ bén nhạy hơn, tâm thức họ sáng suốt và rất nhạy cảm, và họ c̣n có thể đi xuyên qua vách tường.
3- Họ ư thức đến một thực tại khác, đi vào một bóng tối, trôi nổi trong một không gian có chiều hướng, rồi di chuyển rất nhanh qua một đường hầm.
4- Họ trông thấy một ánh sáng, lúc đầu chỉ là một điểm ở đằng xa, rồi họ bị cuốn hút tới đó và được bao phủ trong ánh sáng và t́nh yêu thương. Nó được mô tả như ánh sáng chói chang rất đẹp, nhưng không hại mắt nh́n. Vài người kể lại, họ đă gặp “một thực thể thuần là ánh sáng”, một hiện diện bằng quang sắc có vẻ toàn năng mà một số người gọi là Thượng đế hay Chúa Ki-tô, có ḷng từ mẫn.
Đôi khi trước hiện diện này, họ có thể chứng kiến toàn cảnh cuộc đời họ diễn lại ; thấy mọi việc họ đă làm lúc sống, cả tốt lẫn xấu. Họ nói chuyện bằng thần cảm với hiện diện ánh sáng ấy, và tự thấy ḿnh ở trong một trạng thái phúc lạc, trong đó mọi khái niệm về thời gian và không gian đều vô nghĩa. Mặc dù kinh nghiệm ấy chỉ kéo dài một hai phút, nó vẫn là cái ǵ rất toàn vẹn và phong phú.
5- Một vài người thấy một thế giới nội tâm tràn đầy vẻ đẹp, dinh thự, phong cảnh thiên đường, với thiên nhạc, và họ có một cảm giác về nhất thể. Một vài người, dường như rất ít người, báo cáo thấy những h́nh ảnh ghê rợn của hỏa ngục.
6- Họ có thể đạt đến một biên giới mà họ không thể đi xa hơn; vài người gặp bà con bè bạn đă chết và nói chuyện với họ. Họ quyết định (thường rất miễn cưỡng) hoặc được bảo phải trở về lại thân xác và cuộc đời, đôi khi v́ ư thức sứ mệnh và phụng sự, đôi khi v́ để lo cho gia quyến, đôi khi chỉ để hoàn tất mục tiêu cuộc đời họ đang bị dang dở.
Khía cạnh quan trọng nhất của kinh nghiệm cận tử là sự chuyển hóa toàn diện trong sự sống, trong thái độ và trong tương giao của những người đă có kinh nghiệm ấy. Họ có thể không mất nỗi sợ hăi đối với nỗi đau và hấp hối, song chính cái chết th́ họ không sợ.
Họ trở nên bao dung hơn, đầy t́nh thương yêu, và quan tâm đến những giá trị tâm linh, đến con đường trí tuệ, và thường họ thiên về đời sống tâm linh nói chung, hơn là quan tâm đến những giáo điều của một tôn giáo.
Thế th́ làm sao để giải thích kinh nghiệm cận tử ? Vài người Tây phương đọc Tử Thư Tây Tạng đă so sánh những kinh nghiệm cận tử này với các kinh nghiệm về thân Trung Ấm trong truyền thống Tử Thư.
Nh́n qua th́ có vẻ tương đồng, nhưng nói chính xác th́ những chi tiết của kinh nghiệm cận tử liên hệ như thế nào với giáo lư Bardo ? Tôi nghĩ rằng việc này cần một khảo sát đặc biệt vượt ngoài tầm sách này, nhưng có một số điểm đồng và dị mà ta có thể thấy.
Bóng tối và đường hầm
Có lẽ bạn cũng nhớ, giai đoạn cuối tiến tŕnh tan ră của Bardo chết là khi kinh nghiệm tối đen của sự “thành tựu” xuất hiện “như một bầu trời trống trải trùng trong màn đêm tối mịt” . Ở điểm này, giáo lư nói đến một giây phút hỷ lạc hạnh phúc. Một trong những nét chính của kinh nghiệm cận tử là cái cảm tưởng di chuyển “với tốc độ kinh khủng” và “cảm giác vô trọng lực” qua một không gian tối đen, “một màu đen kỳ diệu, thanh b́nh, toàn triệt”, và đi xuống “một cái hầm đen dài” .
Một phụ nữ kể cho Kenneth Ring :
“Nó giống hệt một khoảng trống thoải mái thanh b́nh, đến nỗi bạn có thể tiếp tục đi tới. Chỉ toàn là màu đen, không có cảm giác nào cả... như là một đường hầm. Bạn cứ như là trôi giữa hư không”.
Và một bà khác kể :
“Điều đầu tiên tôi nhớ được là một tiếng xào xạc kinh khủng... Thực khó thể nói nên lời. Tôi có thể nói là nó như một cơn gió lốc, một trận cuồng phong kéo tôi đi. Và tôi đang được kéo từ một điểm chật hẹp đến một nơi rộng răi” .
Một phụ nữ kể cho Margot Grey :
“Tôi đang ở một nơi giống như là một khoảng trống ngoài trời. Hoàn toàn tối đen, và tôi cảm thấy đang được lôi kéo về phía cuối một đường hầm. Tôi biết thế v́ tôi có thể trông thấy một ánh sáng cuối đường. Tôi đang thẳng đứng và bị kéo về phía lối ra. Tôi biết đấy không phải là mộng mộng mị không xảy ra kiểu đó. Tôi không bao giờ tưởng tượng đó lại là mộng mị”.
Ánh sáng
Vào lúc chết, Ánh sáng Căn bản hay Linh quang xuất hiện với tất cả vẻ chói lọi quang vinh. Tử Thư Tây Tạng nói : “Hỡi thiện nam/nữ, tự tánh tâm ngươi là ánh sáng và koảng trống bất khả phân, nó trú như một vùng ánh sáng rộng lớn, vượt ngoài sống và chết ; quả thế, đấy là đức Phật với Ánh sáng không thay đổi” .
Melvin Morse, chuyên gia sưu tầm kinh nghiệm cận tử nơi trẻ em, có nhận xét : “Gần hết mọi kinh nghiệm cận tử của trẻ con (và một phần tư kinh nghiệm của người lớn) đều có yếu tố ánh sáng. Tất cả đều báo cáo rằng ánh sang xuất hiện ở giai đoạn cuối của kinh nghiệm cận tử, sau khi chúng ta đă có kinh nghiệm thoát xác, hoặc đă đi hết đường hầm” .
Một mô tả hay nhất về sự tiến gần ánh sáng được Margot Grey báo cáo :
Dần dần, bạn nhận ra rằng : rất xa ở đằng xa, một khoảng cách vô lượng, bạn có thể đạt đến cuối đường hầm, v́ bạn có thể trông thấy một ánh sáng trắng, nhưng nó quá cách xa, tới độ tôi chỉ có thể so sánh nó như khi nh́n lên bầu trời mà thấy một v́ sao duy nhất ở đằng xa. Nhưng bạn phải nhớ rằng ḿnh đang nh́n qua một đường hầm, và ánh sáng ấy sẽ lấp đầy cuối đường hầm. Bạn có thể tập trung trên điểm sáng ấy v́ khi bạn ngoi tới trước bạn sẽ gặp nó.
Dần dần, khi bạn du hành về phía điểm sáng ấy ở một tốc độ cực nhanh, ánh sáng càng ngày càng lớn. Toàn thể tiến tŕnh này nhớ lại dường như kéo dài chỉ chừng một phút. Khi bạn từ từ tiến đến ánh sáng cực chói lọi ấy, th́ không có cảm giác đường hầm đột ngột chấm dứt, đúng hơn bạn có cảm giác ḿnh tan vào trong ánh sáng ấy. Khi đó, đường hầm đă ở sau bạn, và trước mặt là một ánh sáng màu trắng xanh rực rỡ tuyệt đẹp. Ánh sáng vô cùng rực rỡ hơn cả một ánh sáng sẽ làm ḷa mắt bạn, nhưng ánh sáng này tuyệt nhiên không làm hại mắt bạn chút nào.
Nhiều người có kinh nghiệm cận tử đă tả ánh sáng ấy như sau :
Tôi sẽ tả về ánh sáng ấy là - vâng, đấy không phải là ánh sáng, mà là sự vắng mặt của bóng tối, toàn diện và viên măn... Bạn thường nghĩ, ánh sáng lớn là ánh sáng chiếu trên mọi vật làm nên những cái bóng.v.v... Nhưng ánh sáng này thực sự là vắng mặt của bóng đen. Chúng ta không quen với khái niệm này, v́ ta luôn luôn có một cái bóng từ nơi ánh sáng, nếu ánh sáng không bao quanh ta. Nhưng ánh sáng này toàn vẹn, tràn đầy tới nỗi bạn không nh́n vào nó, mà bạn ở trong nó.
Một người kể cho Kenneth Ring : “Nó không sáng. Nó như một ngọn đèn có chụp lại, hay ǵ ấy. Nhưng đó không phải là loại ánh sáng mà bạn có được từ ngọn đèn. Bạn biết nó ra sao không ? Giống như người nào đă để một cái chụp lên mặt trời. Nó làm cho tôi cảm thấy vô cùng an lạc. Tôi không c̣n sợ hăi. Mọi sự sẽ không sao cả” .
Một phụ nữ bảo Margot Grey : “Ánh sáng rực rỡ hơn bất cứ ǵ bạn có thể tưởng tượng nổi. Không có lời nào để mô tả nó. Tôi cảm thấy hạnh phúc khôn tả. Đấy là một cảm giác an lành, một cảm giác kỳ diệu. Ánh sáng chói lọi tới nỗi b́nh thường có thể làm ḷa mắt bạn, nhưng sao nó không làm ta đau mắt chút nào” .
Những người khác kể lại, họ không những trông thấy ánh sáng, mà c̣n có thể nhập vào đó, và kể về cảm giác ấy như sau : “Tôi không có cảm giác ḿnh là cái ǵ tách biệt với ánh sáng. Tôi chính là ánh sáng, và là một với nó” .
Một phụ nữ đă qua hai cuộc giải phẫu lớn trong trong hai ngày, đă kể cho Margot Grey : “Chỉ có tinh chất của tôi được cảm thấy. Thời gian không c̣n là cái ǵ cả, và không gian th́ tràn đầy phúc lạc. Tôi được tắm trong ánh sáng rực rỡ và ch́m ngập trong hào quang của ánh cầu vồng. Mọi sự đều tan ḥa vào nhau. Những âm thanh thuộc về một trật tự khác, ḥa điệu, không tên (bây giờ th́ tôi gọi là âm nhạc) ”.
Một người đàn ông khác khi đạt đến giai đoạn thể nhập ánh sáng đă tả :
“Loạt biến cố sau đây dường như xảy ra đồng thời, nhưng khi mô tả th́ tôi phải làm tuần tự. Tôi có cảm giác về một thực thể thuộc loại nào đó, một năng lực, đúng hơn là một con người, một trí tuệ mà ta có thể nói chuyện với. Về tầm vóc th́ “thực thể ấy” chiếm trọn khoảng không gian trước mặt ta, nuốt chửng tất cả mọi sự, bạn cảm thấy bạn cũng được bao bọc trong đó.
Ánh sáng ấy liền nói với bạn, đọc được ngay những làn sóng tư tưởng bạn, không cần ngôn ngữ. Thông điệp đầu tiên tôi nhận được là “Hăy thư giăn, mọi sự đều tốt đẹp, con không có ǵ phải sợ hăi”. Tôi liền được hoàn toàn thoải mái. Trong quá khứ nếu một người nào, như một bác sĩ, nói “Không sao, bạn không có ǵ phải lo sợ, không đau đâu”, th́ thường có đau, nên bạn không thể tin được. Nhưng đây lại là cái cảm giác kỳ tuyệt nhất mà tôi từng biết đến, đầy thuần túy là t́nh yêu.
Mọi cảm giác đều toàn hảo. Bạn cảm thấy ấp áp, nhưng không dính ǵ đến thời tiết cả. Mọi sự ở đấy tuyệt đối sống động và sáng sủa. Cái mà ánh sáng truyền thông cho bạn là một cảm giác về t́nh yêu chân thật và thuần tịnh. Lần đầu tiên bạn cảm thấy điều ấy. Bạn không thể so sánh nó với t́nh yêu của vợ con bạn. Tất cả những t́nh yêu trên thế gian góp lại cũng không sánh được với cảm giác bạn có được từ nơi ánh sáng ấy” .
Một người đàn ông suưt chết đuối vào năm 14 tuổi, đă kể :
“Khi tôi đạt đến nguồn gốc của Ánh sáng, tôi có thể nh́n vào. Tôi không thể nào khởi sự mô tả bằng ngôn ngữ con người những cảm giác mà tôi có về những ǵ tôi trông thấy. Đấy là một thế giới vô biên, đầy sự an tĩnh, năng lực, vẻ đẹp và t́nh yêu.
Dường như đời người không quan trọng khi so sánh với cái này. Tuy vậy, “nó” nhấn mạnh tầm quan trọng của đời sống, đồng thời cũng xin cầu cái chết như một phương tiện để đạt đến một đời sống khác tốt đẹp hơn. Đấy là tất cả vẻ đẹp và ư nghĩa của mọi hiện hữu. Đó là tất cả năng lực vũ trụ”.
Melvin Morse đă viết rất cảm động về kinh nghiệm cận tử của trẻ em, và kể lại cách chúng mô tả ánh sáng với sự hùng hồn đơn giản : “Cháu có một điều bí mật kỳ diệu để nói với chú. Cháu đă leo lên một cái thang bắc lên thiên đàng” . “Cháu chỉ muốn đi đến Ánh sáng ấy, quên thân thể cháu, quên tất cả mọi sự.
Cháu chỉ muốn đạt đến Ánh sáng ấy” . “Có một Ánh sáng thực đẹp trong đó có đủ mọi điều tốt lành. Trong chừng một tuần lễ sau đó, cháu có thể thấy những tia nhỏ của Ánh sáng ấy nơi tất cả mọi sự” . “Khi cháu ra khỏi cơn hôn mê trong bệnh viện, cháu mở mắt và trông thấy những mẩu của Ánh sáng ấy ở khắp nơi. Cháu có thể thấy được mọi sự trong thế giới ăn khớp nhau như thế nào”.
Điểm tương đồng với Trung Ấm tái sanh
Trong kinh nghiệm cận tử, tâm tạm thời thoát khỏi thân xác, và kinh quá một số kinh nghiệm gần giống những ǵ mà một thân ư sanh trải qua trong cơi Bardo tái sanh.
1- Kinh nghiệm thoát xác
Kinh nghiệm cận tử thường khởi đầu bằng một kinh nghiệm thoát xác : người ta có thể trông thấy thân thể của chính họ, cũng như thấy hoàn cảnh chung quanh. Điều này trùng hợp với điều đă được nói trong Tử Thư :
“Tôi nhớ ḿnh tỉnh dậy khỏi hôn mê, rồi trôi giạt và tự thấy ḿnh đă ra khỏi xác, đang lơ lửng trên không nh́n xuống cái thân xác của tôi. Tôi chỉ biết ḿnh có một óc năo và đôi mắt, mà không nhớ đă có một xác thân” .
Một người đàn ông đă qua một cơn suy tim kể với Kenneth Ring : “Nó như thể là tôi đang ở trên không trung và chỉ có tâm tôi đang hoạt động. Không có cảm giác cơ thể, cũng như óc năo tôi cũng ở trên không. Tôi không có ǵ ngoài tâm tôi. Mất trọng lượng, tôi không có ǵ cả” .
2- Ngắm nh́n thân quyến một cách vô vọng
Trong Trung Ấm tái sanh, tôi đă tả rằng những người chết có thể thấy và nghe bà con đang sống của họ, nhưng không thể nào liên lạc được với họ, và điều này làm họ tức tối. Một phụ nữ ở Florida kể cho Michael Sabom, nàng đă nh́n xuống mẹ nàng như thế nào, từ một điểm gần cái trần nhà : “Điều to tát nhất tôi nhớ được là tôi cảm thấy vô cùng buồn bă v́ không thể làm sao để nói cho họ biết tôi không sao cả”.
Và một phụ nữ khác kể cho Michael Sabom : “Tôi đang ngồi tuốt trên cao nh́n chính tôi đang co giật, c̣n mẹ tôi và tớ gái th́ la lớn lên v́ họ tưởng tôi đă chết. Tôi thương hại cho họ... Một nỗi buồn vô tận. Nhưng tôi cảm thấy ḿnh đă tự do ở trên cao ấy, và không lư ǵ để đau khổ” .
3- Thân thể toàn vẹn, Di động và Sáng suốt
Trong Tử Thư Tây Tạng, thân ư sanh ở trong Trung Ấm tái sanh được mô tả là “như một thân thể của thời đại hoàng kim” , và có năng lực di động và sáng suốt phi thường. Kinh nghiệm cận tử cũng thấy rằng h́nh dạng mà họ có là toàn vẹn và ở độ tuổi thanh xuân. “Tôi đang trôi nổi, và tôi là một người trẻ hơn rất nhiều... Cái cảm tưởng tôi lúc ấy là tôi có thể nh́n thấy chính ḿnh qua một phản chiếu hay qua một cái ǵ đó mà làm cho tôi trẻ lại hơn 20 năm tuổi tôi lúc ấy” .
Họ cũng thấy ḿnh có thể du hành rất nhanh, chỉ bằng năng lực của tâm ư. Một cựu chiến binh Việt Nam đă kể với Michael Sabom rằng :
“Tôi có cảm tưởng tôi nghĩ tới nơi nào là có mặt ngay ở đấy... Tôi khoái chí v́ cảm giác về năng lực thần thông này. Tôi có thể làm bất cứ ǵ ḿnh muốn... Điều ấy c̣n thực hơn là chuyện tôi hiện đang ở đây nữa, thực đấy”.
“Bỗng chốc tôi nhớ ḿnh trở lại nơi chiến trường, chỗ tôi đă chết... Dường như thể là bạn hiện thân ra ngay ở đấy, rồi một giây sau, bạn đă ở đây, như một cái chớp mắt”.
Nhiều người chết đi sống lại cũng đă báo cáo họ có một cảm thức toàn tri “từ khởi thủy cho đến chung cuộc của thời gian”. Một phụ nữ kể với Rayond Moody : “Bỗng chốc, tôi có được hiểu biết về mọi sự từ vô thủy đến vô chung. Trong một giây, tôi có thể biết được bí mật của các thời đại, biết được ư nghĩa của vũ trụ, trăng sao, biết tất cả”.
“Có một giây phút trong đó dường như tôi biết tất cả mọi sự... Trong giây lát, ở đấy, dường như ngôn từ không cần thiết. Tôi nghĩ rằng tất cả điều ǵ tôi muốn biết là có thể biết ngay”.
“Khi ở đấy, tôi cảm thấy ḿnh ở trung tâm điểm của sự vật. Tôi cảm thấy ḿnh sáng suốt và trong sạch. Tôi cảm thấy ḿnh có thể thấy được ư nghĩa cốt yếu trong mọi sự. Mọi sự đều khít khao, đều có ư nghĩa của nó, ngay cả những lúc đen tối nhất. Nó như thể là những mảnh vụn của một tṛ chơi nối ráp đă được kết lại vừa khít”.
4- Gặp gỡ người khác
Tử Thư Tây Tạng mô tả thân ư sanh trong Bardo tái sanh là có gặp những người chết khác trong cơi Trung Ấm tương tự, người chết đi sống lại cũng thường (trong lúc chết) có thể nói chuyện với người đă chết.
Cựu chiến binh Việt Nam kể cho Michael Sabom, khi ông ta nằm bất tỉnh trên chiến trường, ngắm cái thi thể ḿnh :
“13 ba đứa đă bị tử trận vào ngày hôm trước, mà tôi đă cho vào túi nylon, bây giờ đang ở đấy với tôi. Hơn thế nữa, suốt trong tháng năm ấy, trung đoàn tôi chết 42 người. Tất cả 42 người đều có mặt ở đấy. Họ không ở trong h́nh dạng mà ta thấy như người thường... Nhưng tôi biết họ ở đấy. Tôi cảm thấy hiện diện của họ. Chúng tôi liên lạc với nhau không cần ngôn ngữ, lời nói”.
Một phụ nữ bị đứng tim v́ thuốc gây mê trong lúc nhổ răng, đă nói :
“Khi ấy tôi thấy ḿnh đang ở trong một phong cảnh đẹp đẽ, cỏ xanh hơn bất cứ thứ ǵ tôi đă thấy trên mặt đất, nó có một ánh sáng, một vẻ rực rỡ đặc biệt. Những màu sắc đẹp vượt ngoài mô tả, không có màu ǵ ở trên đời có thể so sánh được... Ở chỗ này, tôi thấy lại những người tôi biết đă chết. Không có lời trao đổi, nhưng dường như tôi biết được họ đang nghĩ ǵ, đồng thời tôi biết họ biết tôi đang nghĩ ǵ”.
5- Những cảnh giới khác nhau
Trong Bardo tái sanh, ngoài các loại thấy khác, thân ư sanh c̣n thấy được những ảnh tượng và dấu hiệu của những cảnh giới khác nhau. Một số ít trong những người chết đi sống lại thuật về những cảnh tượng của thế giới nội tâm, về những cơi thiên đường, đô thị ánh áng, với âm nhạc siêu trần.
Một phụ nữ kể với Raymond Moody :
“Ở tuốt đằng xa... tôi có thể trông thấy một đô thị. Có những ṭa nhà riêng rẻ, sáng chói, rực rỡ. Người ta sống hạnh phúc trong đó. Có hồ nước, suối nước tung tóe... cả một đô thị ánh sáng, tôi có thể nói : thật tuyệt vời. Lại có âm nhạc tuyệt diệu. Mọi thứ đều sáng chói, diệu kỳ... Nhưng, nếu tôi vào trong đó, th́ tôi nghĩ tôi đă không bao giờ trở lại... Tôi được bảo cho biết rằng nếu vào đấy th́ tôi không thể trở về... rằng tôi có quyền quyết định”.
Một người khác kể với Margot Grey :
“Tôi dường như thấy ḿnh ở trong một cái ǵ như là một dinh thự, nhưng tôi không thể nhớ được có tường vách nào. Chỉ có một ánh sáng vàng ṛng lan khắp... Tôi để ư quanh tôi nhiều người dường như đang tản bộ, mỉm cười ; họ dường như không phải đang đi, mà họ đang lướt qua. Tôi không cảm thấy có ǵ ngăn cách với họ ; tất cả cảm giác tôi nhớ nhất về họ là, một cảm thức toàn triệt về nhất thể ; tôi là một phần của tất cả mọi thứ quanh tôi”.
6- Cảnh tượng địa ngục
Nhưng không phải tất cả mọi người chết đi sống lại đều mô tả những cảnh tượng tích cực lạc quan, v́ bạn cũng đă thấy nói trong Tử Thư Tây Tạng. Vài người kể họ đă kinh quá những nỗi sợ hăi kinh hoàng, cô độc, buồn sầu ảm đạm, rất giống với cảnh tượng mô tả trong Trung Ấm tái sanh.
Theo báo cáo của Margot Grey, một người đă kể : họ “như bị hút vào trong một vực nước xoáy rộng lớn, đen ng̣m”, và những người đă làm ác th́ thấy ḿnh đang du hành xuống phía dưới thay v́ hướng lên trên, giống như Tử Thư mô tả những người sắp bị rơi vào những đọa xứ trong Trung Ấm tái sanh :
Tôi đang di chuyển như một phần của một ḍng sông âm thanh tiếng người lải nhải bất tận... Tôi thấy ḿnh ch́m vào trong đó, trở thành một phần của ḍng nước và từ từ bị ch́m ngập. Một nỗi kinh hoàng tóm lấy tôi, như thể tôi biết rằng một khi bị nuốt chửng bởi cái khối lượng tiếng ồn càng lúc càng tăng này, th́ tôi sẽ chết mất.
Tôi đang ḍm xuống một cái hố rộng sâu, đầy những sương mù cuồn cuộn. Từ dưới ấy có vô số những bàn tay và cánh tay vươn lên cố chụp bắt lấy tôi, kéo tôi vào đấy. Có tiếng rên siết kinh khủng, đầy tuyệt vọng
Những người khác kinh quá những điều mà ta chỉ có thể gọi là cảnh tượng địa ngục, với hơi nóng ngột ngạt và khí lạnh kinh hồn, và nghe những âm thanh của sự kêu la do bị hành hạ, hay tiếng ǵ như tiếng thú rừng. Theo báo cáo của Margot Grey, một phụ nữ đă kể :
“Tôi thấy ḿnh ở một nơi xung quanh toàn là sương mù mờ mịt. Tôi cảm thấy ḿnh đang ở địa ngục. Có một cái hố thật lớn từ trong đó hơi nóng tuôn ra, có những bàn tay và cánh tay đưa lên cố níu lấy tay tôi... Tôi kinh hoảng, sợ rằng bàn tay ấy sắp sửa tóm lấy tôi mà kéo vào trong địa ngục với họ...
Từ phía khác, một con sư tử khổng lồ nhảy chồm về phía tôi, tôi thét lên. Tôi không sợ con sư tử, mà sợ nó sẽ làm cho tôi mất chân đứng và xô tôi vào cái hố sâu kinh khủng ấy... Dưới đó vô cùng nóng và luồng hơi dưới ấy tuôn lên cũng nóng khủng khiếp”.
Một người đàn ông bị đứng tim đă kể lại :
“Tôi đang đi xuống, xuống sâu trong ḷng đất. Có nỗi giận dữ, và tôi cảm thấy sợ hăi vô cùng. Mọi sự đều một màu xám. Có tiếng ồn náo khủng khiếp như những con thú điên dại đang gầm gừ nghiến răng”
Raymond Moody viết : Có nhiều người cho rằng họ đă thấy những người dường như đă bị mắc bẫy do không thể đầu hàng cái khuynh hướng bám víu thế giới vật lư : tài sản, người, tập quán. Một phụ nữ nói về những con người “lạc loài” ấy như sau :
“Đầu họ cúi xuống, họ có những vẻ buồn thảm tuyệt vọng, họ dường như đang lê bước, như bị xiềng chung lại với nhau, không biết ḿnh đang đi đâu, không biết có ai để đi theo, hay có cái ǵ để t́m kiếm. Khi tôi đi qua, họ không buồn ngẩng lên nh́n xem cái ǵ. Họ dường như nghĩ : “Thôi, thế là xong. Tôi đang làm ǵ ?
Tất cả chuyện này có nghĩa ǵ ?”. Chỉ thuần một tư thái vô vọng như thế, không biết ḿnh phải làm ǵ, phải đi đâu, không biết ḿnh là ai, hay ǵ cả. Họ dường như đi măi, đi măi tới trước, chứ không phải chỉ ngồi một chỗ, nhưng không có một hướng đặc biệt nào. Họ cứ đi thẳng tới, quay qua trái vài bước, rồi lại quay qua phải. Và tuyệt đối không có một việc ǵ để làm. Họ đang t́m kiếm, nhưng t́m cái ǵ tôi không biết được”.
Trong những tường thuật mà ta có về kinh nghiệm cận tử, người ta thỉnh thoảng thấy có một ranh giới, một điểm ở đấy không thể có chuyện trở về. Ở ranh giới ấy, đương sự chọn lựa, hay được ánh sáng hiện diện bảo phải chọn lựa, trở về đời sống. Dĩ nhiên trong giáo lư Trung Ấm của Tây Tạng không có điều này, v́ Tử Thư th́ mô tả về những người đă chết thực sự. Tuy nhiên ở Tây Tạng có một số người gọi là déloks, cũng có cái ǵ gần giống với kinh nghiệm cận tử, và những ǵ họ thuật lại giống nhau một cách lạ lùng.
Délok : một kinh nghiệm cận tử của Tây Tạng
Một hiện tượng lạ lùng, ít được biết ở Tây phương, nhưng rất quen thuộc ở Tây Tạng, là délok. Tạng ngữ délok có nghĩa “trở về từ cơi chết”, và truyền thống délok là những người dường như “chết” do hậu quả một cơn bệnh, và tự thấy ḿnh du hành trong cơi Trung Ấm. Họ đi thăm các cơi địa ngục, ở đấy họ chứng kiến sự phán xét người chết và những thống khổ ở địa ngục, và đôi khi họ lên thiên đường hay những cơi Phật.
Họ có thể được một thiên thần mang đi, người bảo vệ họ và giải thích cho họ những ǵ xảy đến. Sau một tuần, người chết trở về thân xác với một thông điệp của Diêm vương gởi cho những người sống, giục họ phải tu hành và có một đời sống lợi lạc. Thông thường, những người déloks này rất khó mà làm cho người ta tin được những ǵ họ kể, và họ dành suốt đời c̣n lại để kể cho người khác nghe những kinh nghiệm của ḿnh, để làm cho người ta tiến đến con đường tuệ giác.
Có vài tiểu sử những déloks nổi tiếng được ghi lại thành vè, và được những người hát rong ca khắp xứ Tây Tạng. Một số khía cạnh của kinh nghiệm những déloks không những tương đương với giáo lư Trung Ấm trong Tử Thư Tây Tạng, mà c̣n tương đương với kinh nghiệm cận tử.
Lingza Chokyi là một délok nổi tiếng, xuất thân từ vùng quê tôi ở Tây Tạng và sống vào thế kỷ 16. Trong tiểu sử của bà, bà kể rằng bà không nhận ra ḿnh đă chết, bà thấy ḿnh thoát xác, thấy xác một con heo nằm trong giường bà, mặc áo quần của bà.
Bà cuống cuồng cố một cách vô vọng để liên lạc với gia đ́nh, khi họ đang khởi sự công việc cầu nguyện cho cái chết của bà. Bà đâm ra tức giận họ, khi họ tỉnh bơ không để ư ǵ tới ḿnh, và không dọn thức ăn cho ḿnh. Khi những con cái bà khóc lóc, bà cảm thấy như “một trận mưa đá đầy cả máu mủ” tuôn xuống, làm cho bà đau đớn vô cùng.
Bà cho chúng ta biết bà rất vui khi thấy làm lễ cầu siêu cho bà, và cuối cùng một niềm hạnh phúc vô lượng dâng lên khi bà đến trước bậc thầy đang làm lễ cho bà, đang an trú trong tự tánh tâm, và khi ấy tâm bà với tâm thầy trở thành một.
Sau một lúc bà nghe tiếng gọi của người mà bà nghĩ là thân phụ ḿnh, và bà đi theo ông. Bà đến cơi Trung Ấm, mà bà trông giống như một xứ sở. Từ đấy, bà kể, có một cây cầu dẫn xuống các cơi địa ngục, nơi mà Diêm vương đang kể những hành vi thiện ác của người chết. Trong cơi này, bà gặp nhiều người kể cho bà nghe chuyện của họ, và bà trông thấy một thiền giả vĩ đại đă xuống địa ngục để giải cứu các chúng sanh.
Cuối cùng Lingza Chokyi được trả về thế gian, v́ có sự lầm lẫn về lư lịch, bà chưa tới số chết. Với thông điệp từ Diêm vương cho những người sống, bà trở về nhập xác và b́nh phục. Bà đă dành cuộc đời c̣n lại để kể những ǵ bà đă học được. Hiện tượng délok không chỉ có trong quá khứ, mà vẫn tiếp diễn đến rất gần đây, ở Tây Tạng.
Đôi khi một người như vậy rời bỏ thân xác chừng một tuần, gặp những người đă chết, đôi khi là những người họ hoàn toàn không quen biết. Những người này gửi gắm những thông điệp để mang về trần gian cho bà con họ, bảo bà con phải làm lễ này, lễ nọ nhân danh họ. Người chết hụt khi trở về sẽ nói lại những thông điệp ấy cho những thân quyến của người kia.
Ở Tây Tạng, việc này được xem là thường, và có những phương pháp tinh vi để thử xem nhữngn gười sống lại ấy là thật hay giả. Con gái của Dilgo Khientse Rinpoche kể cho Francoise Pommaret, tác giả một quyển sách về các délok, rằng ở Tây Tạng, trong khi người délok đang trải qua cơn hôn mê, th́ các lỗ trên thân xác của họ được bít lại bằng bơ và bột lúa mạch trát lên mặt họ.
Nếu bơ không chảy ra, mặt nạ lúa mạch không nứt ra th́ vị délok ấy được xác nhận là có chết thực. Truyền thống déloks vẫn tiếp tục ở Tây Tạng và vùng Hy Mă Lạp Sơn cho đến ngày nay. Những déloks là những người hoàn toàn b́nh thường, thường là những phụ nữ sùng tín. Họ “chết” vào những ngày đặc biệt trong lịch Phật giáo, chết đi vài giờ, và nhiệm vụ chính của họ là làm những sứ giả giữa người chết với người sống.
Thông điệp của kinh nghiệm cận tử
Như ta đă thấy, có những giống nhau giữa kinh nghiệm cận tử và giáo lư về cơi trung gian, nhưng cũng có những khác nhau. Sự khác nhau lớn nhất dĩ nhiên là người có kinh nghiệm cận tử chưa thực chết, trong khi giáo lư Bardo th́ nói về những ǵ xảy ra sau khi thân xác thực sự chết, và khi họ tái sanh. Sự kiện rằng kinh nghiệm cận tử không tiếp tục đi cuộc hành tŕnh xa hơn vào cơi chết vài người nói họ chỉ “chết” trong một phút - phần nào giải thích được sự khác nhau giữa hai bên.
Vài người cho rằng kinh nghiệm cận tử diễn tả những giai đoạn của tiến tŕnh tan ră trong Bardo cái chết. Tôi nghĩ c̣n quá sớm để cố liên hệ kinh nghiệm cận tử một cách chính xác với các mô tả về Trung Ấm, v́ người kinh quá kinh nghiệm cận tử chỉ có “suưt” chết mà thôi. Tôi thuật cho thầy Dilgo Khientse Rinpoche tính chất kinh nghiệm cận tử, và thầy gọi đó là một hiện tượng thuộc về cơi trung gian tự nhiên của cuộc đời này, v́ tâm thức chỉ tạm rời khỏi thân xác của người “chết” và lang thang trong các cơi.
Dilgo Khientse Rinpoche ngụ ư rằng những người chết đi sống lại đang kinh quá sự chết lâm sàng ở trong cơi trung gian tự nhiên của đời này. Có lẽ họ đang ở ngưỡng cửa của các cơi Trung Ấm, chứ chưa thực sự đi vào trong ấy rồi trở về. Dù họ kinh quá những ǵ đi nữa, họ cũng vẫn đang c̣n trong phạm vi Bardo tự nhiên của đời này. Kinh nghiệm về ánh sáng của họ có giống với sự xuất hiện Ánh sáng Căn bản chăng ? Có thể chăng ngay trước khi mặt trời to rộng ấy mọc lên, họ đă nh́n thấy được những tia sáng đầu tiên của b́nh minh ?
Dù ư nghĩa tối hậu của những chi tiết kinh nghiệm cận tử ra sao, tôi vẫn rất xúc động trước nhiều báo cáo mà tôi đă đọc hoặc nghe nói, nhất là trước những thái độ tuôn phát từ những kinh nghiệm ấy, những thái độ đă phản ảnh một cách phong phú nhân sinh quan của đạo Phật. Hai thái độ tôi đă đề cập là sự chuyển hóa sâu xa, sự bừng tỉnh về tâm linh xảy ra nơi những người chết đi sống lại, và những ư nghĩa mà “toàn cảnh cuộc đời” đem lại cho đời sống chúng ta.
Tất cả những người chết đi sống lại đều có cái kinh nghiệm này, thấy toàn cảnh cuộc đời ḿnh diễn lại, và điều ấy chứng minh rơ ràng tính cách không thể trốn tránh của nghiệp, những hậu quả lâu xa và mănh liệt của tất cả hành động, lời nói và ư nghĩ chúng ta.
Thông điệp chính mà những người chết đi sống lại đem về cuộc đời này, hay hiện diện của “thực thể ánh sáng”, là giống hệt như thông điệp của Phật và giáo lư Trung Ấm : những đức tính cốt yếu và quan trọng nhất trong đời là yêu thương và hiểu biết, từ bi và trí tuệ. Những người ấy chắc chắn bắt đầu thấy cái mà giáo lư Trung Ấm dạy chúng ta rằng : sống và chết ở ngay trong tâm.
Và niềm tin mà phần nhiều họ có được sau khi chết đi sống lại cũng phản chiếu phần nào cái tri kiến sâu xa hơn của họ.
C̣n có những tương đồng lạ lùng giữa kinh nghiệm cận tử và hậu quả nó, với những trạng thái thần bí và tâm thức đổi khác. Chẳng hạn, một số hiện tượng bất thường đă được những người chết đi sống lại báo cáo. Một vài người sau đó đă có những linh kiến tiên tri, nói trước nhiều việc xảy ra trong đời mà về sau quả đă thành sự thực. Sau khi chết đi sống lại, nhiều người dường như kinh quá năng lực kundalini, nhiều người cảm thấy họ có năng lực thần thông hoặc chữa lành bệnh tật.
Nhiều người sống lại đă nói một cách lưu loát về vẻ đẹp, t́nh yêu, sự b́nh an, hạnh phúc và trí tuệ của cái mà họ đă trải qua trong giây phút chết. Với tôi, điều này có vẻ như họ có được một thoáng nh́n thấy vẻ sáng chói của tự tánh tâm, và do vậy không đáng ngạc nhiên chút nào khi cái nh́n ấy đă đem lại sự chuyển hóa tâm linh nơi họ.
Nhưng như Margot Grey nhận xét : “Chúng ta không cần phải đợi suưt chết mới kinh quá được một thực tại tâm linh cao cả”. Thực tại ấy ở ngay đây, vào lúc này, trong cuộc đời, nếu ta có thể khám phá và thể nhập.
Tôi lại muốn đưa ra một đề pḥng cốt yếu : Xin bạn đừng để những tường thuật về kinh nghiệm cận tử dù cũng khá hấp dẫn thật đấy ru ngủ bạn đến chỗ tin rằng muốn an trú trong những trạng thái thanh b́nh an lạc ấy, bạn chỉ cần chết là được. Không phải và không thể giản dị thế đâu.
Đôi khi người ta gặp lúc quá đau khổ, tưởng chừng không chịu nổi nữa, mà nghe nói về những kinh nghiệm cận tử, họ có thể bị cám dỗ chấm dứt mọi sự bằng cách tự sát. Điều này có vẻ là một cách giải quyết đơn giản, nhưng họ quên một sự kiện rằng, bất cứ cái ǵø ta trải qua đều là một phần của cuộc đời. Không thể trốn chạy. Nếu trốn chạy kiểu đó, bạn sẽ phải đối mặt với nỗi đau khổ một cách sâu đậm hơn về sau.
Ngoài ra, trong khi quả thực đa số kinh nghiệm cận tử được sưu tập đều là những kinh nghiệm tốt đẹp, ta vẫn phải c̣n xét lại xem điều này nó có nghĩa là có rất hiếm kinh nghiệm ghê gớm, tiêu cực, hay chỉ có nghĩa là những kinh nghiệm này khó nhớ lại.
Có thể người ta không muốn nhớ lại những chuyện đen tối khủng khiếp. Lại nữa, những người có kinh nghiệm cận tử cũng nhấn mạnh rằng, điều mà họ học được là sự quan trọng của việc cải hóa cuộc đời ngay bây giờ, khi ta c̣n sống, v́ họ bảo, chúng ta “có một sứ mạng quan trọng hơn trong lúc ta ở trên đời” .
Sự chuyển hóa cuộc đời ta ngay bây giờ là điều cấp thiết cốt yếu. Phải chăng thực là bi đát nếu cái thông điệp cốt tủy này của kinh nghiệm cận tử - rằng đời sống là thiêng liêng, và cần phải sống một cách nhiệt t́nh, có mục đích - lại bị che lấp, bị mất hút trong thái độ hời hợt là thi vị hóa cái chết ? Và có phải càng bi đát hơn, nếu thái độ lạc quan dễ dăi ấy càng đào sâu thêm thói xem nhẹ trách nhiệm đối với bản thân và với cuộc đời, một thói đang đe dọa sự sống c̣n của hành tinh trái đất ?
Ư nghĩa kinh nghiệm cận tử
Dĩ nhiên vài người cố t́nh chứng minh rằng những chuyện xảy ra trong lúc chết đi sống lại không có ǵ là kinh nghiệm tâm linh cả. Những nhà khoa học cố giải thích quấy quá những kinh nghiệm ấy là do những ảnh hưởng vật lư, thần kinh, hóa học hay tâm lư.
Tuy nhiên, những nhà nghiên cứu kinh nghiệm cận tử, cũng là bác sĩ và khoa học gia, th́ lại bác bỏ từng điểm một của giải thích ấy một cách minh bạch, và nhấn mạnh rằng họ không thể giải thích toàn thể kinh nghiệm cận tử. Melvin Morse viết cuốn tác phẩm vĩ đại của ông “Gần ánh sáng hơn”, học từ kinh nghiệm cận tử của trẻ em :
“Nhưng kinh nghiệm cận tử có vẻ là một chùm biến cố mà người ta không thể hiểu được toàn diện bằng cách nh́n từng mảnh vụn khác nhau của nó. Ta không thể hiểu âm nhạc bằng cách nghiên cứu những tần số âm thanh khác nhau đă tạo nên mỗi nốt nhạc, ta cũng không cần phải thấu hiểu vật lư học về âm thanh mới thưởng thức được Mozart. Kinh nghiệm cận tử vẫn c̣n là một sự huyền bí”. (tr.40)
Melvin Morse c̣n nói :
“Tôi nghĩ rằng chỉ cốt hiểu được kinh nghiệm cận tử, đó là bước đầu của chúng ta để hàn gắn sự phân chia lớn lao giữa khoa học và tôn giáo, khởi đầu với Isaac Newton gần 300 năm trước. Việc giáo dục những y sĩ, điều dưỡng viên, và chính chúng ta về những ǵ người ta kinh quá vào những giờ phút cuối cùng ấy, sẽ lung lay tận gốc những thành kiến ta trong đường lối suy nghĩ của ta về y học và đời sống”.
Nói cách khác, tiến bộ thực sự của kỹ thuật y khoa đồng thời cung cấp phương tiện cho nó tự cách mạng chính nó. Melvin Morse nói :
“Tôi thấy điều thực mỉa mai là chính kỹ thuật y khoa của chúng ta đă đưa đến vô số những kinh nghiệm cận tử như thế... Trải hàng thế kỷ, đă có nhiều kinh nghiệm cận tử, nhưng chỉ có 20 năm sau này ta mới có được kỹ thuật để phục sinh bệnh nhân. Bây giờ họ đang kể cho chúng ta nghe những kinh nghiệm của họ, vậy ta hăy lắng nghe họ nói.
Điều này tôi cho là một thử thách cho xă hội ta... Kinh nghiệm cận tử, theo tôi nghĩ, là tiến tŕnh tâm lư tự nhiên liên hệ đến cái chết. Tôi dám tiên đoán rằng, nếu ta có thể hội nhập tri kiến này vào đời sống xă hội ta, th́ không những nó sẽ giúp cho những bệnh nhân sắp chết, mà c̣n giúp cho xă hội nói chung. Tôi thấy y khoa ngày nay thiếu hẳn tâm hồn... Không có lư do nào kỹ thuật và tâm linh không thể hiện hữu bên nhau được”.
Một trong những lư do tôi viết sách này là để chứng tỏ tôi tin điều Melvin Morse nói là có thể thực hiện. Kỹ thuật và tâm linh có thể, và cần phải, hiện hữu song hành, nếu ta muốn phát triển tiềm năng con người chúng ta một cách toàn vẹn. Phải chăng một nền khoa học nhân bản hoàn toàn hữu ích sẽ có can đảm khám phá những dữ kiện huyền bí về cái chết, những dữ kiện được khải thị trong kinh nghiệm cận tử và trong sách này ?
Bruce Greyson, một trong những tác giả quan trọng trong ngành nghiên cứu kinh nghiệm cận tử đă nói :
“Khoa học nên cố giải thích kinh nghiệm cận tử, v́ trong đó có ch́a khóa của sự tăng tiến khoa học... Lịch sử đă cho ta thấy chỉ nhờ cố giải thích những hiện tượng vượt ngoài tầm của ta mà khoa học đă phát huy được những phương pháp mới.
Tôi tin kinh nghiệm cận tử là một trong những nạn để có thể bắt buộc các nhà khoa học phải phát triển một phương pháp mới, một phương pháp bao gồm một nguồn tri thức, không những chỉ tri thức lô-gích của học giả, hay quan sát thực nghiệm của nhà vật lư, mà c̣n cả kinh nghiệm trực giác của nhà thần bí nữa”.
Bruce Greyson cũng nói, ông tin kinh nghiệm cận tử xảy ra v́ một lư do : “Căn cứ trên sự canh chừng những kinh nghiệm cận tử bao năm nay, tôi nghĩ rằng chúng ta có những kinh nghiệm như thế là để mà học cách giúp đỡ người khác”.
Kenneth Ring lại con thấy một khả năng và ư nghĩa kỳ diệu trong kinh nghiệm cận tử. Ông ta hỏi tại sao ngày nay có quá nhiều người có kinh nghiệm ấy như vậy, và có sự chuyển hóa tâm linh vào thời đại này.
Trong nhiều năm làm một trong những tiên phong gan dạ nhất trong lĩnh vực nghiên cứu kinh nghiệm cận tử, ông đă dần dần thấy kinh nghiệm cận tử như là “sứ giả của hy vọng”, nó cho thấy một thực tại tâm linh cao cả hơn, và nhắc nhở chúng ta thay đổi một cách khẩn thiết mọi khía cạnh của lối sống ta hiện tại ; nhắc ta chấm dứt mọi tranh chấp, chia rẽ giữa những tôn giáo, dân tộc, và bảo vệ, cứu lấy sinh môi.
"Tôi tin rằng nhân loại nói chung đang cùng nhau nỗ lực để thức dậy một h́nh thái tâm thức mới mẻ hơn và cao cả hơn, và kinh nghiệm cận tử có thể được xem như một phương tiện tiến hóa để đem lại sự thay đổi này,qua thời gian vài năm, trong hàng triệu con người."
Có thể rằng điều này đúng hay không, c̣n tùy ở tất cả chúng ta : chúng ta có thực can đảm đối diện với những ư nghĩa hàm ẩn trong kinh nghiệm cận tử và giáo lư về Trung Ấm hay không, và có thể nhờ sự cải hóa ḿnh, mà chuyển hóa được thế giới xung quanh ta, và lần lượt qua từng giai đoạn, chuyển hóa toàn thể tương lai nhân loại hay không
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 442 of 1146: Đă gửi: 29 June 2010 lúc 12:12am | Đă lưu IP
|
|
|
TẠNG THƯ SỐNG CHẾT
21. TIẾN TR̀NH PHỔ QUÁT
Bốn mươi năm sau khi Trung Quốc chiếm cứ Tây Tạng, thế giới vẫn c̣n không biết ǵ về những chuyện xảy ra, không biết ǵ về tầm mức kinh hoàng, phá hoại, và sự diệt chủng có hệ thống mà dân tộc Tây Tạng đă và đang chịu đựng.
Trên một triệu người trong số 6 triệu dân Tây Tạng đă chết dưới bàn tay Trung Quốc ; những khu rừng rộng lớn của xứ Tây Tạng, cũng cần thiết như rừng Amazon đối với sinh thái quả địa cầu, đă bị đốn trụi, đời sống thiên nhiên hầu như đă bị tàn phá hoàn toàn, b́nh nguyên và sông ng̣i đă bị ô nhiễm v́ phế thải hạt nhân.
Đại đa số tu viện trong số sáu ngàn rưỡi ngôi tu viện đă bị phá hủy, dân tộc Tây Tạng đang đối diện họa diệt vong, và vẻ huy hoàng của nền văn hóa Tây Tạng trên đất mẹ hầu như hoàn toàn bị xóa sạch.
Ngay từ đầu, lúc Trung Quốc chiếm đóng Tây Tạng vào thập niên 1950, nhiều sự tàn bạo dă man đă xảy ra. Những bậc thầy tâm linh, tăng ni, là những mục tiêu trước hết, v́ Trung Cộng muốn trước tiên là làm cho dân mất tinh thần bằng cách xóa sạch mọi dấu vết đời sống tôn giáo.
Nhiều, thật nhiều câu chuyện đă đến nơi tôi trải qua bao năm nay, về những cái chết phi thường, cảm động, trong những hoàn cảnh tệ hại nhất. Những cái chết này đă làm chứng cho vẻ sáng chói của sự thật mà người Trung Quốc lấy làm tức tối đă không phá nổi.
Ở phần đất tỉnh Kham của Tây Tạng, nơi tôi xuất thân, có một vị khenpo (trú tŕ) già, đă trải nhiều năm nhập thất trong núi. Người Trung Quốc tuyên bố họ sắp “trừng phạt” ngài mà ai cũng hiểu có nghĩa là tra tấn và giết chết và gửi đến nơi ẩn cư một tiểu đội để bắt. Vị trú tŕ quá yếu, không thể đi bộ, nên người Trung Quốc t́m cho ngài một con ngựa già gầy để đi cuộc hành tŕnh cuối của ngài.
Họ trói ngài ngồi trên lưng ngựa và dắt ngựa đi xuống con đường để đến trại quân. Ngài khởi sự hát. Người Trung Quốc không hiểu được lời ca, nhưng những tu sĩ cùng bị bắt với ngài về sau đă kể ngài hát “bài ca chứng đạo”, những bài ca tuyệt đẹp tuôn phát tự nhiên từ những chiều sâu và niềm hỷ lạc của sự đắc đạo. Từ từ đoàn người đi theo con đường ngoằn ngoèo xuống núi, những người lính lầm lũi đi trong sự im lặng như đá, nhiều tu sĩ khóc, nhưng vị trú tŕ vẫn hát suốt quảng đường.
Chẳng bao lâu trước khi đoàn người đến trại binh, ngài ngưng hát và nhắm mắt. Toán người lại tiếp tục đi trong im lặng. Khi đi qua cổng để vào trại, họ mới biết ngài đă viên tịch. Ngài đă lặng lẽ từ giă nhục thân.
Ngài đă biết cái ǵ để làm cho ngài b́nh an đến thế, khi đối diện cái chết ? Cái ǵ đă đem lại cho ngài niềm vui và vô úy để ca hát vào những giây phút cuối cùng ? Có lẽ ngài đă hát một bài kiểu như những câu thơ từ “Tia sáng Vô nhiễm”, di bút của Longchenpa, bậc thầy Dzogchen vào thế kỷ 14 :
Trong bầu trời đêm không mây, mảnh trăng đầy
“Vua của các v́ sao” sắp sửa lên…
Gương mặt đấng từ bi của con, Liên Hoa Sanh
Dẫn con đi, tỏa ra niềm đón chào đôn hậu
Niềm hỷ lạc của tôi trước cái chết
C̣n vô vàn lớn hơn thương gia được của
Hơn các vị vua trời khi thắng trận
Hơn các bậc hiền nhân được hỷ lạc trong thiền
Nhu du khách khởi hành khi đến thời
Tôi sẽ không ở lại trong trần gian
Mà sẽ an trú trong thành tŕ đại lạc bất tử
Cuộc đời tôi đă xong, nghiệp tôi đă tận
Những lợi ích do cầu nguyện đem lại cũng không c̣n
Mọi việc thế gian đă chấm dứt, màn kịch cuộc đời đă buông
Trong nháy mắt, tôi sẽ nhận ra tinh hoa của đời tôi
Trong không gian thuần tịnh bao la của trung giới
Bây giờ tôi sắp an vị trong nền tảng sự Toàn vẹn tối sơ
Nội tài trong tôi đă làm cho tâm người hạnh phúc
Tôi đă dùng ân phước đời này để thực hiện tất cả lợi lạc của giải thoát
Hỡi các đệ tử cao quư, qua bao năm chung sống
Niềm vui san sẻ chân lư đă làm thầy măn nguyện
Giờ đây nhân duyên với đời đang chấm dứt
Thầy như kẻ ăn xin hài ḷng với cái chết
Đừng buồn cho thầy, mà hăy tiếp tục nguyện cầu
Đây là những lời tâm huyết để giúp các con
Như hoa sen nở, và các con trong niềm sùng tín như ong sà vào hút mật ngọt của niềm hỷ lạc siêu trần
Nguyện nhờ công đức những lời này
Khiến cho hữu t́nh các cơi sinh tử
Đạt Niết-bàn trong nền tảng sự toàn vẹn tối sơ.
Đây chắc hẳn là lời của một người đă thành tựu sự chứng ngộ cao nhất, cùng với những ǵ mà sự chứng ngộ ấy mang lại : niềm vui, giải thoát và trí tuệ mục tiêu của giáo lư này và của đời người.
Tôi nghĩ đến những bậc thầy như Longchenpa, và các bậc thầy tôi Jamjang Khientse, Dilgo Khientse, Dudjom Rinpoche, và tôi tưởng tượng những người đă tu chứng giống như những cánh đại bàng bay lượn vươn lên khỏi sinh tử, nh́n thấy sinh tử đúng như bản chất, nghĩa là trong một hỗ tương duyên sinh chằng chịt nhiệm mầu.
Nh́n bằng con mắt của chim đại bàng, con mắt của thực chứng, là nh́n từ trên cao xuống một phong cảnh trong đó những ranh giới do ta tưởng tượng giữa sống và chết bây giờ ḥa lẫn vào nhau và tan biến. Nhà vật lư David Bohm đă mô tả thực tại như là “sự toàn vẹn không gián đoạn trong ḍng biến dịch”.
Những ǵ được các bậc thầy thấy bằng trực giác toàn vẹn chính là ḍng biến dịch ấy, cái toàn vẹn không gián đoạn ấy. Những ǵ mà trong vô minh chúng ta gọi là “sống”, và trong vô minh ta gọi là “chết”, chỉ là những phương diện khác nhau của cái toàn vẹn ấy. Đây là cái thấy rộng lớn có năng lực chuyển hóa, mà giáo lư Trung Ấm đă mở ra cho chúng ta, và được thể hiện bởi các bậc thầy tối thượng.
Những mặc khải của các Trung Ấm
Như vậy, nh́n sự chết qua con mắt thực chứng, chính là nh́n nó trong bối cảnh của sự toàn vẹn này, như một phần nhỏ của ḍng biến dịch vô thủy vô chung. Tính độc nhất vô nhị, năng lực của giáo lư Trung Ấm nằm ở chỗ qua sự chỉ rơ tiến tŕnh cái chết nó c̣n gợi cho ta cả tiến tŕnh sự sống.
Bây giờ ta hăy nh́n vào những ǵ xảy đến cho một người chết, vào từng mỗi giai đoạn trong 3 giai đoạn cao điểm của cái chết :
1- Ở cao điểm của tiến tŕnh chết, khi mà tứ đại, cảm giác và tư tưởng đă chấm dứt hoạt động, th́ bản chất tối hậu của tâm Ánh sáng Căn bản được hiển lộ trong giây lát.
2- Rồi, chỉ một thoáng, tia sáng của bản tâm ấy được tŕnh diễn, chiếu ra dưới dạng âm thanh, màu sắc và ánh sáng.
3- Kế tiếp, tâm thức người chết tỉnh dậy và đi vào Trung Ấm tái sinh; tâm phàm t́nh của y trở về, khoác một h́nh dạng gọi là “thân ư sanh” chịu sự sai khiến của nghiệp và thói quen quá khứ. Những nghiệp này lèo lái tâm phàm t́nh, bám lấy những kinh nghiệm huyễn hóa trong cơi Trung Ấm, xem như cái ǵ rất thực và chắc chắn.
Vậy, theo giáo lư Trung Ấm chỉ cho chúng ta, chết nghĩa là ǵ ? Không ǵ khác ngoài 3 giai đoạn của tiến tŕnh tuần tự thể hiện của tâm thức : từ tự tính thuần tịnh của bản tâm, qua ánh sáng và năng lượng (tia tự chiếu của bản tâm), rồi đi vào sự kết tinh càng vững chắc thêm của một h́nh dạng tâm thức (thân ư sanh). Những ǵ mở ra một cách rơ rệt trong Trung Ấm chết, Trung Ấm pháp tánh, và Trung Ấm tái sanh là một tiến tŕnh gồm 3 giai đoạn :
- Đầu tiên, sự chấm dứt hoàn toàn hoạt động tâm vật lư đưa đến sự phô bày tinh chất tâm
- Thứ hai, tia chiếu tự nhiên của nó.
- Thứ ba là kết tinh của thân ư sanh.
Giáo lư c̣n cho ta biết thêm rằng : 3 giai đoạn ấy không chỉ diễn ra trong tiến tŕnh chết, mà c̣n diễn ra ngay trong tâm ta vào lúc này, vào mọi lúc trong những tư tưởng và cảm xúc của ta, và ở mọi tầng lớp kinh nghiệm tâm lư. Theo tôi, đấy là một tri kiến thực cách mạng, thay đổi cái thấy của ta về mọi sự, nếu ta hiểu được.
Một cách khác nữa để hiểu tiến tŕnh này là nh́n vào những ǵ được hiển bày vào mỗi giai đoạn của sự chết. Giáo lư nói đến 3 mức độ của hiện hữu, từ đó có ra Phạn ngữ kaya (thân). Kaya ở đây nghĩa là chiều hướng, phạm vi hay căn bản.
Ta hăy nh́n vào tiến tŕnh 3 giai đoạn đó :
1- Bản chất tuyệt đối, hiển bày dưới dạng Ánh sáng Căn bản hay Điểm linh quang vào lúc chết, và được gọi là Pháp thân (Dharmakaya), chiều “chân không”, chân lư vô điều kiện, trong đó ảo tưởng, vô minh hay bất cứ loại khái niệm nào, đều chưa từng xâm nhập được.
2- Tia năng lực và ánh sáng nội tại được trưng bày một cách tự nhiên trong Bardo pháp tánh, gọi là Báo thân (Sambhogakaya), chiều phúc lạc toàn vẹn, phạm vi của “pháp hỷ sung măn” vượt ngoài mọi giới hạn nhị nguyên, ngoài thời không.
3- Phạm vi ngưng đọng thành h́nh dáng được hiển thị trong Bardo tái sanh, gọi là Ứng thân (Nirmanakaya), chiều biến hóa không ngừng.
Hăy nhớ bây giờ rằng khi ta nh́n vào bản chất của tâm, ta cũng thấy nó có 3 phương diện ấy : thể của nó là chân không, như bầu trời ; tướng hay bản chất của nó là tỏa sáng ; và dụng hay năng lực của nó là đại bi vô ngại ; cả 3 đều hiện diện đồng thời và ḥa nhập làm một trong tính giác Rigpa. Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) mô tả nó như sau :
Trong tính giác này, 3 thân không rời nhau và hiện diện viên măn như một :
- V́ Nó trống rỗng, vô sanh nên là Pháp thân.
- Sự sáng suốt của Nó biểu trưng tia chiếu tự nội của chân không ấy, nên là Báo thân.
- Nó khởi lên không bị chướng ngại, không gián đoạn, nên là Ứng hóa thân.
Ba thân đầy đủ và hoàn toàn hiện diện này, chính là tinh chất của Nó.
Như vậy, ba thân ám chỉ ba khía cạnh nội tại của tâm giác ngộ, và dĩ nhiên chúng cũng ám chỉ những khả năng khác nhau của nhận thức chúng ta. Phần đông chúng ta đều bị giới hạn trong cái thấy của ḿnh, và chỉ nhận thức theo chiều Ứng hóa thân gồm những h́nh sắc và biểu hiện.
Đấy là lư do tại sao đối với phần đông chúng ta, giây phút chết là một khoảng trống, một trạng thái quên lăng, v́ chúng ta chưa bao giờ gặp, cũng chưa bao giờ phát triển một phương pháp để nhận ra thực tại Pháp thân, khi nó khởi lên dưới dạng Ánh sáng Căn bản hay Điểm linh quang. Chúng ta cũng không hy vọng ǵ nhận ra lĩnh vực Báo thân khi chúng xuất hiện trong Bardo pháp tánh.
Bởi v́ toàn thể cuộc đời ta đă được sống trong phạm vi nhận thức bất tịnh của những biểu hiện Ứng hóa thân, nên vào lúc chết ta được chuyển thẳng về lại trong chiều không gian ấy ; chúng ta thức dậy, kinh hăi và tán loạn, trong Trung Ấm tái sanh, trong một thân ư sanh, xem những kinh nghiệm huyễn hóa là chắc thực, cũng như trải nhiều đời trước ta đă xem chúng là thực. Bị thúc đẩy bởi nghiệp cũ một cách đáng thương, chúng ta loạng choạng tiến về phía tái sanh.
Tuy nhiên, những vị tu chứng th́ đă khởi lên một nhận thức hoàn toàn khác với chúng ta, một nhận thức trong suốt, tiến hóa, thanh tịnh đến nỗi dù họ vẫn c̣n mang một thân xác con người, họ đă thấy được thực tại dưới h́nh thức hoàn toàn thanh tịnh, trong suốt, ở trong một chiều không gian vô biên.
Và đối với họ, như ta đă thấy, kinh nghiệm về cái chết không đem lại sợ hăi hay bất ngờ ; trái lại c̣n được tóm lấy như một cơ hội để giải thoát rốt ráo.
Tiến tŕnh trong giấc ngủ
Ba giai đoạn của tiến tŕnh mà chúng ta thấy mở ra trong các trạng thái Trung Ấm cũng có thể thấy được trong các mức độ tâm thức trong đời sống. Hăy xét chúng dưới sánh sáng những ǵ xảy đến trong giấc ngủ :
1- Khi ta ngủ, các giác quan và tầng thô của tâm thức tan ră, và dần dần bản chất tuyệt đối của tâm, có thể nói là Ánh sáng Căn bản, lộ ra trong chốc lát.
2- Kế tiếp có một chiều tâm thức, có thể so sánh với Bardo pháp tánh, vi tế đến nỗi ta thường hoàn toàn không ư thức ngay cả hiện hữu của nó. Có bao nhiêu người trong chúng ta khi ngủ, ư thức được cái lúc trước khi nằm mộng ?
3- Đối với phần đông chúng ta, tất cả những ǵ ta biết được chỉ là giai đoạn kế tiếp, khi tâm trở nên hoạt động trở lại, và ta thấy ḿnh trong một thế giới chiêm bao tương tự Trung Ấm tái sanh. Ở đây ta có một thân mộng và kinh quá những cảnh mộng mà phần lớn chịu ảnh hưởng thói quen và hoạt động của ta lúc thức, tất cả ta đều tin là chắc thực, không hề nhận ra ḿnh đang chiêm bao.
Tiến tŕnh trong tư tưởng và cảm xúc
Cũng chính tiến tŕnh ấy có thể nhận thấy trong sự vận hành của tư tưởng và cảm xúc, và cái cách chúng khởi lên :
1- Ánh sáng Căn bản, bản chất tuyệt đối của tâm, là trạng thái tối sơ của Tính giác Rigpa, hiện hữu trước khi bất cứ ư nghĩ hay cảm xúc nào khởi lên.
2- Trong không gian vô điều kiện của nó, một năng lực căn để dấy động, tia chiếu tự nhiên của Tính giác bắt đầu khởi lên như nền tảng, khả năng và nhiên liệu cho cảm xúc sống sít.
3- Năng lực này lúc ấy có thể khoác lấy h́nh dạng của ư nghĩ và cảm xúc, mà cuối cùng đẩy chúng ta vào hành động để tích lũy nghiệp.
Chỉ khi hành thiền thật quen thuộc, ta mới có thể thấy rơ tiến tŕnh này :
1- Khi ư tưởng và cảm xúc tuần tự im bặt, tan vào tự tánh tâm, ta có thể thoáng thấy Tính giác trong phút chốc : đó là trạng thái tối sơ.
2- Rồi ta để ư rằng, từ sự vắng lặng yên tĩnh của tự tánh tâm, mở ra một chuyển động (Chuyển tướng, nói trong kinh Lăng Già) và một năng lực sống sít đơn thuần : đó là tia tự chiếu của tính giác.
3- Nếu có một chấp thủ kèm theo sự sinh khởi của năng lực ấy, th́ năng lực ấy đương nhiên kết tinh thành ư tưởng, ư tưởng này lại đưa chúng ta trở về hoạt động tâm thức và khái niệm.
Tiến tŕnh trong đời sống hàng ngày
Ta đă thấy cái cách tiến tŕnh này xảy ra trong ngủ và mộng, và trong sự h́nh thành ư tưởng cảm xúc. Bây giờ ta hăy nh́n nó xảy ra trong kinh nghiệm đời sống hàng ngày.
Điều này dễ thấy nhất khi ta nh́n kỹ một động tác mừng hay giận. Hăy xem xét nó, bạn sẽ thấy luôn luôn có một khe hở trước khi một cảm xúc khởi sinh. Cái giây phút dạt dào trước khi năng lực của cảm xúc có cơ hội khởi lên, là một giây phút của tỉnh thức thuần túy, trong đó ta có thể thoáng thấy Tính giác chân thực.
Trong một thoáng chốc, bùa lực của vô minh bị đánh tan, chúng ta hoàn toàn tự do thoát khỏi nhu cầu hay khả năng chấp thủ, và cả đến khái niệm “bám víu” cũng trởi thành dư thừa ở đây. Tuy nhiên, thay v́ ôm lấy “tánh không” của khe hở ấy, trong đó ta có thể t́m thấy phúc lạc của sự giải thoát, không vướng bận một ư tưởng, khái niệm nào, chúng ta lại tóm lấy sự bảo đảm khả nghi của cái màn kịch cảm xúc quen thuộc dễ chịu của chúng ta, được điều khiển bởi những khuynh hướng tập quán của ta.
Đấy là cái cách mà một năng lực nội tại vô điều kiện, khởi lên từ tự tánh đă được kết tinh thành một cảm xúc, cái cách mà sự thanh tịnh nguyên thủy bỗng bị nhuốm màu và vặn vẹo bởi cái thấy theo kiểu luân hồi sinh tử của chúng ta, để đem lại một nguồn tương tục cho những vọng tưởng tán loạn hàng ngày.
Khi xét mọi khía cạnh của đời sống, ta sẽ thấy rằng chúng ta liên tục trải qua trong ngủ và mộng, trong ư tưởng và cảm xúc cũng một tiến tŕnh ấy như trong các cơi Trung Ấm. Và giáo lư Trung Ấm cho ta thấy chính điều này mang lại cho ta vô vàn cơ hội để giải thoát, bây giờ cũng như khi chết.
Giáo lư chỉ cho ta thấy chính tính chất, h́nh dạng và sự độc đáo của tiến tŕnh này đă đem lại hoặc cơ hội giải thoát, hoặc khả năng tiếp tục mê lầm. V́ mỗi khía cạnh của toàn thể tiến tŕnh đều đồng thời trao cho ta cơ hội giải thoát, hoặc cơ hội trầm luân.
Giáo lư Trung Ấm mở ra cho ta một cánh cửa, chỉ cho chúng ta làm thế nào ta có thể bước ra khỏi chu kỳ chết và tái sinh bất tận ngoài tầm kiểm soát. Giáo lư ấy nói với ta rằng, suốt quá tŕnh các Trung Ấm của cuộc đời và của sự chết, mỗi khi ta có thể nhận ra và duy tŕ một ư thức bền bỉ về Tính giác Rigpa hay tự tánh tâm, hoặc khi ta có thể kiểm soát tâm ư được phần nào, th́ ta có thể đi qua cái cửa đó để tiến đến giải thoát.
Tùy theo giai đoạn của Trung Ấm, tùy theo mức độ quen thuộc của bạn đối với cái Thấy về tự tánh tâm, và tùy theo chiều sâu của sự hiểu biết về tâm, ư nghĩ và cảm xúc bạn, mà sự nhận ra này sẽ sai khác.
Điều mà giáo lư Trung Ấm cũng dạy cho ta là những ǵ xảy ra trong tâm ta bây giờ trong đời cũng giống hệt như cái ǵ sẽ xảy đến trong các Trung Ấm sau khi chết v́ cốt tủy vốn không có khác nhau ; sống và chết là một, ở trong cái “toàn thể không gián đoạn” và “ḍng biến dịch”.
Chính v́ vậy mà một bậc thầy Tây Tạng vào thể kỷ 17, Tsele Natsok Rangdrol giải thích những tu tập căn để cho mỗi giai đoạn Trung Ấm đời này, chết, pháp tánh và tái sanh theo kiểu t́nh trạng hiểu biết hiện tại của ta về bản chất của ư nghĩ và cảm xúc, về tâm và nhận thức của nó :
Hăy nhận chân hết thảy tướng xuất hiện đều như mộng
Chỉ do tâm ngươi chiếu ra, như huyễn, không thật
Không bám víu ǵ, an trú Tính giác vượt ngoài mọi khái niệm
Đây là tinh yếu của tu tập trong Bardo đời này
Ngươi rồi sẽ chết, không ǵ thực sự hữu ích lúc đó
Những ǵ ngươi kinh quá lúc chết chỉ do tâm thức biến ra.
Không tạo ư tưởng, để chúng tan biến trong Tính giác bao la
Đây là trọng tâm của tu tập trong Bardo cái chết.
Bất cứ chấp thủ ǵ vào sinh hay diệt, thiện hay ác, đều là tâm ngươi
Và tâm này là tia tự chiếu của Pháp thân, dù bất cứ ǵ sinh khởi
Không bám vào các sinh khởi ấy, hay lập khái niệm về chúng, chấp nhận hoặc chối bỏ :
Đây là cốt tủy sự tu tập cho Bardo pháp tánh
Sinh tử cũng tâm ngươi, niết-bàn cũng tâm ngươi
Mọi lạc khổ, vọng tưởng không ở đâu ngoài tâm
Vậy hăy đạt đến sự tự chế tâm ngươi
Đây là trọng tâm của Bardo tái sinh.
Bây giờ ta có thể nh́n vào một Bardo đặc biệt để thấy sự tu tập thiền định của ta, sự hiểu thấu cảm xúc ư tưởng ta, và những kinh nghiệm của ta trong Bardo ấy tương quan mật thiết với nhau như thế nào, và thế nào những kinh nghiệm của ta trong Bardo ấy phản chiếu trở lại trong cuộc đời thường của ta.
Có lẽ Bardo hữu ích nhất để khảo sát là Bardo pháp tánh, nơi mà năng lực thuần túy sẽ trở thành cảm xúc bắt đầu sanh khởi tự nhiên như tia tự chiếu của Tính giác Rigpa ; và cảm xúc là mối bận tâm ám ảnh con người trong thế giới hiện tại. Thực sự hiểu được bản chất cảm xúc là đă tiến rất xa trên đường đến giải thoát.
Mục đích sâu xa nhất của thiền là có thể an trú không tán loạn vào trạng thái Rigpa, tự tính giác, và an trú cái Thấy (kiến) để nhận ra rằng bất cứ ǵ khởi lên trong tâm chỉ là sự hiển bày của tính giác ấy, cũng như mặt trời và muôn ngàn tia sáng nó chiếu ra chỉ là một, bất khả phân.
Như Tsele Natsok Rangdrol nói trong câu thơ của ông về pháp tánh : “Bất cứ cái ǵ chấp thủ vào sinh hay diệt, tốt hay xấu, đều là tâm ngươi. Và chính cái tâm ấy là tia chiếu của Pháp thân…”
Như vậy, khi bạn ở trong tự tánh giác, và khi cảm xúc tư tưởng khởi lên, bạn nhận ra ngay chúng là ǵ, từ đâu chúng tuôn phát : khi ấy bất cứ ǵ khởi lên đều trở thành tia tự chiếu của tuệ giác ấy. Nhưng nếu bạn mất dấu sự hiện diện của ư thức trong suốt thuần tịnh ấy về Tính giác, th́ bạn không nhận ra được bất cứ ǵ khởi lên, và khi ấy nó trở nên tách biệt với bạn.
Nó tiếp tục để h́nh thành cái mà ta gọi là một “ư tưởng”, hay một cảm xúc, và đấy là sự tạo tác của nhị nguyên. Để tránh điều này và những hậu quả của nó, Tsele Natsok Rangdrol nói: “Đừng bám vào những sự sanh khởi, lập thành khái niệm về chúng, chấp nhận hoặc chối bỏ chúng : đây là trọng tâm của tu tập cho Trung Ấm cuộc đời” .
Sự phân cách giữa bạn và những sanh khởi trong tâm bạn, và tính nhị nguyên mà nó gây ra được phóng đại một cách ghê gớm sau khi chết. Điều này giải thích làm thế nào nếu bạn không có sự trực nhận cốt yếu này về thực chất những ǵ sinh khởi trong tâm trong Bardo pháp tánh, những âm thanh, ánh sáng và quang sắc xuất hiện có thể khoác một thực tại khách quan, như thể là thực có những hiện tượng ngoại giới kinh hoàng đang xảy đến với bạn.
Trong một t́nh huống như vậy, bạn chỉ c̣n nước là chạy trốn tia sáng chói lọi của chư thần an lạc và phẫn nộ ấy, để hướng đến những ánh sáng mờ quen thuộc quyến rũ của lục đạo. Vậy, sự trực nhận cốt yếu trong Bardo pháp tánh là, “đây là năng lực trí giác của tâm ta đang xuất hiện”:
Chư Phật và ánh sáng trí tuệ cũng không ngoài tâm bạn, mà chính là năng lực tính giác của bạn. Nhận ra điều ấy là một kinh nghiệm bất nhị, và thể nhập vào đó là giải thoát.
Những ǵ xảy ra trong Bardo pháp tánh vào lúc chết, và bất cứ khi nào một cảm xúc bắt đầu sanh khởi trong tâm ta lúc sống, đều đi theo cùng một tiến tŕnh tự nhiên ấy. Vấn đề là chúng ta có nhận ra được thực chất sự sinh khởi ấy hay không. Nếu ta có thể nhận ra sự sinh khởi một cảm xúc đúng như thực chất của nó.
Nghĩa là năng lực tự nhiên của bản tâm th́ ta có thể tự giải thoát khỏi những hậu quả tiêu cực, những nguy hiểm có thể có của cảm xúc ấy, và để cho nó tan trở lại vào trong tính sáng suốt thuần tịnh của Tính giác vô biên.
Sự nhận ra này, và sự giải thoát mà nó đem lại, chỉ có thể là kết quả của nhiều, rất nhiều năm tu tập thiền quán nghiêm chỉnh nhất, v́ nó đ̣i hỏi một sự quen thuộc lâu dài và an trú vững chăi trong tự tánh tâm.
Ngoài sự tu tập ấy ra, không ǵ có thể đem lại cho ta niềm an tịnh và giải thoát khỏi những khuynh hướng tập quán, những cảm xúc mâu thuẫn trong ta, một sự giải thoát mà tất cả chúng ta đều khát khao có được. Mặc dù theo giáo lư, sự giải thoát ấy rất khó, nhưng sự biết rằng có thể giải thoát, cũng đủ là một nguồn cảm hứng và hy vọng lớn lao cho chúng ta.
Có một cách để hiểu ư tưởng và cảm xúc, tâm và bản chất nó, sống và chết, một cách trọn vẹn, cách đó là đạt đến thực chứng. Các bậc đă giác ngộ nh́n sống chết như nh́n vào ḷng bàn tay, v́ họ biết như Tsele Natsok Rangdrol viết : “Sinh tử là tâm ngươi, niết bàn cũng là tâm ngươi ; tất cả lạc và khổ, tất cả vọng tưởng không hiện hữu tách biệt với tâm ngươi” .
Và tri kiến sáng suốt này, được an trú vững vàng qua tu luyện dài lâu, được thể nhập trong từng cử động, ư nghĩ và cảm xúc để thấy được chúng chỉ có thực một cách tương đối, chính tri kiến ấy đă giải tỏa được chúng. Dudjom Rinpoche nói : “Khi đă tịnh hóa ảo tưởng lớn, bóng tối của tâm, th́ ánh sáng rực rỡ của mặt trời không bị ngăn che khởi lên liên tục”.
Năng lực hỷ lạc
Tôi thường nghĩ đến câu Dudjom Rinpoche viết : “Bản tính của tâm là bản tính của mọi sự”. Tôi tự hỏi cái tiến tŕnh ba giai đoạn của các Trung Ấm (Bardo) có phải chăng không những đúng cho mọi mức độ tâm lư, mọi kinh nghiệm của tâm ở trong đời cũng như lúc chết, mà có lẽ c̣n là bản chất thực sự của chính vũ trụ.
Càng tư duy về ba thân và tiến tŕnh ba giai đoạn của các Trung Ấm, tôi càng t́m thấy những tương ứng lạ lùng phong phú với tri kiến sâu xa của các truyền thống tâm linh khác, và với nhiều lĩnh vực có vẻ rất khác nhau của nỗ lực con người.
Tôi nghĩ tới tri kiến Ki-tô giáo về bản chất và mọi hoạt động của Thượng đế như Chúa ba ngôi, về Ki-tô hiện thân từ nền tảng của đức chúa Cha qua trung gian vi mật của Thánh thần. Phải chăng ít nhất nó cũng soi sáng cho ta vài điều, nếu ta xem Ki-tô cũng tương tự như Ứng hóa thân, đấng Thánh linh cũng như Báo thân, và nền tảng của cả hai như là Pháp thân ?
Trong Phật giáo Tây Tạng, danh từ tulku, nhập thể, thực sự có nghĩa là Ứng hóa thân, sự nhập thể liên tục tái xuất hiện, hoạt động của năng lực đại bi và giác ngộ. Phải chăng cách hiểu này rất giống quan niệm ba thân của Ki-tô giáo ?
Tôi cũng nghĩ về tri kiến Thượng đế gồm ba đức của Ấn giáo, Phạn ngữ là satcitananda, dịch là “hiện thể, tâm và phúc lạc”. Với người Ấn giáo, Thượng đế là sự bùng vỡ xuất thần của tất cả những năng lực ấy cùng một lúc. Ở đây ta có thể thấy những tương đồng kỳ lạ với ba thân :
Báo thân như ananda năng lực phúc lạc của Thượng đế ; Ứng hóa thân như biểu hiện của Thượng đế ; và Pháp thân như tâm của Thượng đế. Bất cứ ai đă thấy pho tượng Shiva lớn trong động Voi ở Ấn, với ba mặt biểu trưng ba mặt của tuyệt đối, sẽ có được vài ư niệm về tính vĩ đại của tri kiến về thiêng liêng.
Cả hai tri kiến huyền học này về tinh túy, bản chất và hoạt động (thể, tướng, dụng) của yếu tố thiêng liêng làm cho người Phật tử hiểu rơ một trong những tầng mức khác của thực tại, tuy khác nhau mà tương nhập vào nhau. Có phải ít nhất, điều đáng chú ư là một tiến tŕnh gồm ba khía cạnh ấy cũng được thấy ở cốt lơi của mỗi truyền thống, mặc dù họ có nh́n thực tại theo quan điểm riêng của họ ?
Khi nghĩ về bản chất của sự biểu hiện có thể như thế nào, và những cách thế khác nhau nhưng có liên quan nhau để hiểu những biểu hiện ấy, tôi tự nhiên nghĩ tới tính sáng tạo của con người khi biểu hiện ra h́nh thể cái thế giới nội tâm của nhân loại.
Tôi vẫn thường tự hỏi hàng bao năm nay, làm thế nào sự tŕnh bày ba thân và Trung Ấm có thể rọi ánh sáng vào toàn thể tiến tŕnh diễn đạt nghệ thuật, và ám chỉ đến bản chất thực và mục tiêu ẩn khuất của nó. Mỗi hành vi cá nhân, mỗi biểu hiện của óc sáng tạo, dù trong địa hạt âm nhạc, nghệ thuật, thi ca, hay trong những giai đoạn của phát minh khoa học, như nhiều nhà khoa học đă nói, đều tuôn phát từ một nền tảng huyền bí của một nguồn cảm hứng ốp vào h́nh dạng nhờ một năng lực trung gian để phiên dịch, truyền thông.
Có phải chúng ta đang gặp ở đây một tác động khác của cái tiến tŕnh hỗ tương ba thứ mà ta đă thấy hoạt động trong các cơi Trung Ấm ? Phải chăng đấy là lư do khiến cho một vài công tŕnh âm nhạc và thi ca, và một vài phát minh khoa học, dường như có một ư nghĩa hầu như vô tận ? Và có phải điều này giải thích cái năng lực của chúng để hướng dẫn chúng ta đi vào một trạng thái quán tưởng và phúc lạc, ở đấy một bí ẩn cốt yếu của bản chất ta và bản chất thực tại được hiển lộ ? Từ đâu những ḍng thơ của Blake đến ? :
Nh́n thấy vũ trụ trong một hạt cát
Thấy thiên đường trong một đóa hoa
Nắm Vô biên trong ḷng bàn tay
Và vĩnh cửu rút lại trong một giờ.
Trong Phật giáo Tây Tạng, Ứng hóa thân được thấy như biểu hiện của giác ngộ, trong vô số h́nh dạng và cách thức, ở trong thế giới vật lư. Theo truyền thống, nó được định nghĩa theo ba cách :
Một là Ứng thân của một vị Phật toàn giác, như Thích Ca Tất Đạt Đa, người được sinh ra trong thế giới này và giảng dạy trong đó. Loại Ứng thân thứ hai là một người có vẻ b́nh thường nhưng được cái phước có khả năng đặc biệt làm lợi lạc cho kẻ khác : một hóa thân hay tulku. Và thứ ba là một người qua đó một mức giác ngộ được thể hiện để làm lợi lạc và cảm hứng cho người khác qua những nghệ thuật khoa học công việc khác nhau.
Trường hợp những người sau này bản năng giác ngộ “tự nhiên như ánh sáng mặt trời phải ra lệnh hay có ư thực nào về việc ấy, có mặt trời th́ tự nhiên có ánh sáng” . Kalu Rinpoche nói. Vậy phải chăng ta có thể nói rằng, năng lực và bản chất của thiên tài nghệ thuật cũng có nguồn cảm hứng tối hậu của nó từ trọng tâm này của chân lư ?”.
Điều này không có nghĩa là những nghệ sĩ vĩ đại có thể nói là đă giác ngộ, từ cuộc sống của họ rơ ràng là họ chưa giác ngộ. Nhưng một điều cũng rơ nữa là trong vài giai đoạn cao điểm và t́nh huống đặc biệt, họ có thể là những khí cụ, những “kênh” của năng lực giác ngộ.
Ai khi đă lắng nghe những tuyệt tác của Beethoven hay Mozart, có thể chối căi rằng không có một cơi nào khác đă thể hiện trong tác phẩm họ ? Và có ai ngắm nh́n những ngôi giáo đường của Âu châu thời Trung cổ như Chartres hay Isfahan của Hồi giáo, hay Đế thiên Đế thích, hay Ellora của Ấn giáo, mà không thấy rằng những nghệ sĩ tạo ra chúng đă được cảm hứng trực tiếp bởi một năng lực tuôn phát từ nền tảng, suối nguồn của mọi sự ?
Tôi nghĩ một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại cũng như một vầng trăng chiếu trong bầu trời đêm, nó chiếu sáng thế gian, nhưng ánh sáng ấy không là của riêng nó, mà mượn từ mặt trời, cái “tuyệt đối” đang bị ẩn khuất. Nghệ thuật đă giúp cho nhiều người thoáng nh́n thấy bản chất của tâm linh.
Phải chăng một trong những lư do nghệ thuật tân tiến bị hạn cuộc là v́ nó đă mất đi cái tri kiến về nguồn gốc vô h́nh thiêng liêng của nghệ thuật, và mục đích cao cả của nó : đem lại cho người thưởng thức một tri kiến về bản chất thực của họ, địa vị của họ trong vũ trụ, làm cho họ thấy được giá trị, ư nghĩa và những khả tính vô biên của đời sống.
Vậy phải chăng ư nghĩa đích thực của kiệt tác nghệ thuật là nó cũng tương tự như Báo thân, cái năng lực bất tận đầy phúc lạc mà Rilke gọi là “năng lực chắp cánh của niềm vui”, tia sáng truyền đạt, truyền thông tính thuần tịnh, ư nghĩa vô biên của cái tuyệt đối cho thế giới hữu hạn và tương đối, - nói cách khác là từ Pháp thân đến Ứng hóa thân ?
Mở ra cái thấy toàn diện
Một trong nhiều phương diện mà tấm gương của đức Dalai Lama đă gây cho tôi nguồn cảm hứng là, ngài rất quan tâm và có thái độ phóng khoáng đối với các khám phá mới của khoa học tân tiến. Chung quy, Phật giáo được xem là “một khoa học về tâm thức”, và khi tôi quán xét giáo lư Trung Ấm, th́ tính minh bạch và sự soi sáng rộng lớn của giáo lư này càng ngày càng gây cho tôi niềm tri ân và úy phục.
Nếu Phật giáo là khoa học về tâm linh th́ theo tôi, Dzogchen và giáo lư Bardo chính là trọng tâm của nền khoa học ấy, hạt giống thực tiễn và thấu thị nhất, từ đó một cây lớn những thực chứng tương quan lẫn nhau đă phát triển và sẽ tiếp tục phát triển theo nhiều cách mà nay ta chưa thể tưởng tượng nổi, v́ nhân loại hăy c̣n đang trên đà tiến hóa.
Trải nhiềug năm gặp gỡ với những khoa học gia đủ mọi ngành, càng ngày tôi càng kinh ngạc trước tính phong phú của những tương đồng giữa lời dạy của đức Phật với những khám phá mới của vật lư học hiện nay.
Nhiều nhà tiên phong về triết học và khoa học Tây phương may thay cũng đă ư thức đến sự tương đồng ấy, và đang hăng say thám hiểm với một ư thức tế nhị ; để từ cuộc đối thoại giữa huyền học khoa học về tâm thức với các ngành khoa học vật chất, có thể phát khởi một tri kiến mới về vũ trụ và trách nhiệm con người trước vũ trụ.
Càng lúc tôi càng có niềm xác tín rằng chính giáo lư Trung Ấm với tiến tŕnh mở ra ba giai đoạn ấy, sẽ là một đóng góp độc đáo cho cuộc đối thoại này. Tôi muốn chú ư đến một trong những tri kiến khoa học đă đặc biệt khiến tôi nghiền ngẫm, là tri kiến của nhà vật lư David Bohm đă nghĩ đến một phưong thức mới để tiếp cận thực tại mà, mặc dù c̣n đang gây nhiều tranh chấp, đă được phản ứng đầy thiện cảm của nhiều nhà nghiên cứu thuộc đủ mọi ngành : vật lư, y học, sinh vật học, toán học, thần kinh học, tâm bệnh học, và một số nghệ sĩ, triết gia.
David Bohm đă nghĩ đến một cách nghiên cứu thực tại mới, căn cứ trên một sự thấu hiểu toàn diện và tính nhất thể của hiện hữu kể như một Toàn thể không gián đoạn, không chấp nối - và đây chính là lối nh́n của giáo lư Trung Ấm.
Cái trật tự năng động, nhiều chiều mà Bohm thấy đang vận hành trong vũ trụ, cốt yếu gồm ba phương diện. Phương diện rơ rệt nhất là thế giới vật thể thời không của chúng ta với không gian ba chiều, mà ông gọi là cái trật tự rơ rệt hay mở. Từ đâu mà ông tin cái trật tự này mở ra ?
Chính từ một lĩnh vực phổ quát, không gián đoạn, “một nền tảng ngoài thời gian”, cái trật tự hàm ẩn hay kín, như ông gọi, vốn là nền tảng bao quát tất cả kinh nghiệm chúng ta. Ông thấy tương quan giữa hai trật tự này như là một tiến tŕnh liên tục, trong đó cái ǵ mở ra trong trật tự rơ rệt lại được khép vào lại trong trật tự hàm ẩn.
Cái nguồn gốc tổ chức nên tiến tŕnh này thành ra những cơ cấu khác nhau thiên h́nh vạn trạng, th́ ông đề nghị đặt tên là cái trật tự “siêu ẩn”, một chiều không gian tinh vi hơn nhiều, và có tiềm năng vô hạn.
Có thể chăng có một tương đồng giữa ba trật tự này với ba thân và tiến tŕnh Trung Ấm ? Như David Bohm nói : “Toàn thể khái niệm về trật tự hàm ẩn là một cách thể để bàn về nguồn gốc của h́nh sắc xuất phát từ vô sắc, qua trung gian tiến tŕnh mở ra”. (Renée Weber, ed. Đối thoại giữa các khoa học gia và hiền giả : Đi t́m Nhất thể, London, 1986)
Tôi cũng được cảm hứng từ việc David Bohm đă khai triển lối hiểu vật chất theo đó, vật chất khởi lên từ vật lư học lượng tử để hiểu chính tâm thức. Đó là một bước nhảy mà theo tôi sẽ được xem càng ngày càng cần thiết, khi khoa học mở rộng tầm nh́n, và tiến hóa. Bohm nói :
“Tâm thức có thể có một cơ cấu giống như vũ trụ, và trong sự vận chuyển ở nền tảng, mà ta gọi là chân không ấy kỳ thực có một năng lực ghê gớm, một sự biến dịch. Những h́nh ảnh đặc biệt xuất hiện trong tâm có thể giống như những phân tử, và sự đạt đến nền tảng của tâm có thể được cảm thấy như là ánh sáng” .
Cùng với khái niệm về trật tự hàm ẩn và trật tự rơ rệt ấy, David Bohm đă tưởng tượng ra một lối nh́n mối tương quan giữa tâm lư vật lư, giữa tâm và vật chất, gọi là ư nghĩa tâm-vật-lư. Ông viết : “Quan niệm về ư nghĩa tâm vật lư có nghĩa rằng vật lư và ư nghĩa của nó, tức tâm lư, không phải là hai thực thể biệt lập, đúng hơn đó là hai phương diện của một thực tại duy nhất bao trùm cả hai”.
David Bohm cho rằng vũ trụ biểu hiện ba phương diện liên kết với nhau : vật chất, năng lượng và ư nghĩa.
Từ quan điểm trật tự hàm ẩn, th́ năng lượng và vật chất thấm nhuần một loại ư nghĩa nào đó, đem lại h́nh dạng cho hoạt động bao quát của nó và cho vật chất sinh khởi trong hoạt động ấy. Năng lực của tâm và của vật chất trong năo bộ cũng thấm nhuần một loại ư nghĩa đem lại h́nh dạng cho hoạt động bao quát của nó.
Như vậy, một điều khá thông thường là năng lượng bao gồm vật chất và ư nghĩa, trong khi vật chất th́ bao gồm năng lượng và ư nghĩa… Nhưng ư nghĩa cũng bao gồm vật chất và năng lượng… Vậy, mỗi một khái niệm trong ba khái niệm căn bản ấy bao hàm hai cái kia. (Bohm, Unfolding Meaning, 90)
Giản dị hóa một tri kiến vô cùng tinh vi, tế nhị, bạn có thể bảo rằng đối với David Bohm “ư nghĩa” có tầm quan trọng đặc biệt rộng răi. Ông nói : “Điều này bao hàm trái với quan điểm thông thường rằng ư nghĩa là một phần cốt yếu nội tại trong hoạt động tổng quát của chúng ta, chứ không phải chỉ là một tính chất thuần túy trừu tượng chỉ hiện hữu trong tâm mà thôi.
Hay nói cách khác, trong đời người, thông thường, ư nghĩa là sống…” . Chính trong hành vi giải thích vũ trụ, ta đang sáng tạo vũ trụ : Có thể nói rằng chúng ta là tổng thể của những ư nghĩa chúng ta”.
Phải chăng sẽ có ích nếu ta khởi sự tưởng đến những tương đồng giữa ba phương diện của vũ trụ mà Bohm nói, với ba thân ? Một khai thác sâu hơn ư của Bohm có lẽ sẽ cho thấy rằng ư nghĩa, năng lượng và vật chất có tương quan lẫn nhau như ba thân. Phải chăng điều này có thể gợi ư rằng vai tṛ của ư nghĩa, như Bohm giải thích, có phần nào tương tự với Pháp thân, cái tổng thể vô điều kiện, luôn luôn sáng tạo, từ đó mọi sự sinh khởi ?
Công việc của năng lượng, qua đó ư nghĩa và vật chất tác động lẫn nhau, có phần nào giống với Báo thân. Sự tuôn phát tự nhiên, liên tục của năng lượng từ cái nền tảng chân không, và sự tạo ra vật chất, theo tri kiến của Bohm, có phần giống như Ứng hóa thân, sự kết tinh liên tục của năng lượng ấy thành ra h́nh dạng và biểu hiện.
Khi nghĩ về David Bohm và cách giải thích đặc biệt của ông về thực tại, tôi có khuynh hướng tự hỏi, một nhà vật lư học vĩ đại sẽ khám phá được những ǵ, nếu đồng thời họ cũng là một hành giả đă được một bậc đại sư hướng dẫn và thực sự tu chứng ?
Cái ǵ một nhà khoa học và một hiền nhân, như Longchenpa và Einstein hợp chung lại, sẽ nói với ta về bản chất thực tại nhỉ ? Có thể một trong những hoa trái tương lai của cây giáo lư Trung Ấm này sẽ là một cuộc đối thoại giữa khoa học và huyền học chăng ? Và điều ấy sẽ có ư nghĩa ǵ cho nhân loại ?
Sự tương đồng sâu xa nhất giữa ư tưởng của David Bohm và giáo lư Trung Ấm là cả hai đều tuôn phát từ một tri kiến về một nhất thể toàn vẹn. Tri kiến này, nếu nó có thể thêm sức cho cá nhân để chuyển hóa tâm thức họ, và nhờ vậy ảnh hưởng đến xă hội, th́ sẽ phục hồi cho thế giới chúng ta một ư thức cấp thiết về tương quan sinh tồn và ư nghĩa đời sống.
Điều tôi đề nghị ở đây là đường lối con người suy nghĩ về cái toàn thể, hay thế giới quan của họ, là điều quan yếu nhất cho trật tự của chính nhân tâm. Nếu con người nghĩ về cái toàn thể như là sự ráp nối những mảnh vụn biệt lập, th́ tâm thức họ cũng có khuynh hướng vận hành theo kiểu ấy.
Nhưng nếu họ có thể bao gồm mọi sự liên kết ḥa hợp nhau trong một toàn thể bất khả phân, không gián đoạn, không biên giới (v́ mỗi biên giới là một phân chia, một gián đoạn) th́ khi ấy tâm họ sẽ có khuynh hướng di chuyển theo cách ấy, và từ đó sẽ có một hành động có trật tự nằm trong cái toàn thể. (David Bohm, Ṭan vẹn và trật tự hàm ẩn, 1988, xi.)
Tất cả các bậc thầy vĩ đại sẽ hoàn toàn đồng ư với Bohm khi ông viết :
Một sự thay đổi ư nghĩa là cần thiết để thay đổi thế giới này về chính trị, kinh tế và xă hội. Nhưng sự thay đổi này phải khởi sự với từng cá nhân, nó phải thay đổi cho cá nhân… Nếu ư nghĩa là một phần then chốt của thực tại th́ một thay đổi căn để đă xảy ra khi xă hội, cá nhân và những tương quan được thấy là có ư nghĩa ǵ khác.
Cuối cùng tri kiến của giáo lư Trung Ấm và sự thấu hiểu sâu xa về nghệ thuật và khoa học đều hội tụ ở một sự kiện: đó là trách nhiệm chúng ta đối với chính ḿnh và cho chính ḿnh; và sự cần thiết phải xử dụng trách nhiệm ấy một cách cấp bách để tự chuyển hóa chúng ta, ư nghĩa cuộc đời ta và thế giới xung quanh ta.
Như đức Phật dạy : “Ta chỉ cho ngươi con đường giải thoát, nhưng chính ngươi phải bước đi” .
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 443 of 1146: Đă gửi: 29 June 2010 lúc 12:19am | Đă lưu IP
|
|
|
TẠNG THƯ SỐNG CHẾT
22. SỨ GIẢ H̉A B̀NH
(TỔNG KẾT PHẦN BỐN)
Một trong những học viện lâu nhất đă theo dơi sự h́nh thành quyển sách này trong bao nhiêu năm, mới đây đă hỏi tôi : “Thầy thực sự mong muốn điều ǵ sâu xa nhất qua quyển sách này, khi nó được xuất bản ?”.
Khi đó trong tâm tôi hiện lên h́nh ảnh Lama Tseten, mà lúc c̣n bé tôi đă chứng kiến cái chết của ngài trong tư thái hài ḥa an tịnh. Tôi buộc miệng nói : “Tôi muốn mọi người đừng sợ chết, hay cũng đừng sợ sống.
Tôi muốn mọi người chết trong thanh thản, được vây quanh bởi sự chăm sóc thông minh sáng suốt nhất, nhẹ nhàng nhất, và t́m được niềm hạnh phúc tối hậu nhờ thấu hiểu thực chất, tự tánh của tâm và của thực tại”.
Thomas Merton viết : “Chúng ta có được cái ǵ, dù có thể lên đến cung trăng, nếu ta không vượt qua được hố thẳm ngăn cách giữa chúng ta ? Đây mới là cuộc du hành quan trọng nhất trong các cuộc du hành để khám phá, mà nếu không có nó, th́ tất cả mọi chuyện khác không những vô ích, mà c̣n tai hại”. (Minh triết của Sa mạc, 90).
Chúng ta dùng hàng triệu Mỹ kim mỗi phút vào việc huấn luyện con người giết nhau và phá hoại, vào bom đạn và phi cơ chiến đấu. Nhưng trong khi ấy chúng ta gần như không tốn đồng nào vào việc giáo dục con người về bản chất cuộc đời và cái chết, vào việc giúp đỡ họ đối mặt và hiểu thấu những ǵ xảy ra khi họ chết.
T́nh huống này thực đáng buồn, đáng kinh hăi xiết bao, và nó thực đă cho ta thấy chúng ta vô minh đến mức nào, ta thiếu t́nh thương chân thật đối với chính ḿnh và người khác đến mức nào.
Hơn bất cứ ǵ khác, tôi cầu nguyện rằng sánh này có thể góp một phần nhỏ vào sự thay đổi t́nh trạng này trên thế giới, có thể thức tỉnh càng nhiều người càng tốt, làm cho họ chú ư tính cấp thiết của nhu cầu chuyển hóa tâm linh, tính cấp thiết của trách nhiệm đối với tự thân và tha nhân.
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng thành Phật, và đều mong muốn sống an ổn và chết an ổn. Khi nào th́ nhân loại mới thực sự thấu hiểu điều này, thực sự kiến tạo một xă hội phản ảnh được trí tuệ đơn giản mà thiêng liêng ấy trong tất cả lĩnh vực hoạt động của nó ? Nếu không có điều ấy, th́ cuộc đời có giá trị ǵ ? Nếu không có điều ấy, làm sao ta chết thoải mái được ?
Điều tối quan trọng bây giờ là một tri kiến sáng suốt về sự chết cần được đưa vào trong thế giới ở mọi tầng lớp giáo dục. Trẻ con không nên được “che chở” cho khỏi thấy chết chóc, mà phải được khai thị, lúc chúng c̣n nhỏ, cho thấy bản chất thực của cái chết và những ǵ họ có thể học được từ cái chết.
Tại sao ta không khải thị tri kiến này trong những h́nh thức đơn giản nhất của nó, cho tất cả mọi nhóm tuổi ? Tri kiến về cái chết, về sự làm thế nào để giúp đỡ người sắp chết, về bản chất tâm linh của sự chết, cần được truyền thông cho tất cả tầng lớp xă hội ; tri kiến ấy cần được dạy tại các trường và phân khoa đại học đủ loại ; và quan trọng nhất, tại các bệnh viện có huấn luyện cho bác sĩ và y tá điều dưỡng bệnh nhân sắp chết, những người có trách nhiệm đối với bệnh nhân.
Làm sao bạn có thể là một bác sĩ giỏi thực sự, khi bạn không có ít nhất vài tri kiến về sự thật của cái chết ? Làm sao bạn có thể thực sự giúp đỡ tâm linh người bệnh sắp chết của bạn ? Làm sao bạn có thể là một y tá giỏi, nếu bạn không khởi sự đối diện với chính nỗi sợ chết của ḿnh, và do đó không có ǵ để nói với những người hấp hối khi họ hỏi bạn, nhờ bạn chỉ dẫn ?
Tôi biết có nhiều bác sĩ, y tá có thiện ư, những người có tính phóng khoáng chân thành mở ḷng ra mà đón nhận những tư tưởng mới, cách làm mới. Tôi cầu nguyện cách này sẽ đem lại cho họ can đảm và sức mạnh mà họ cần có để giúp các cơ sở của họ thẩm thấu những bài học của giáo lư Trung Ấm này, và áp dụng. Phải chăng đă đến lúc nghề nghiệp y khoa nên hiểu rằng sự t́m ṭi chân lư về sống chết, và việc chữa bệnh vốn là hai chuyện không thể tách rời ?
Điều tôi hy vọng từ quyển sách này là nó sẽ giúp mọi người khắp nơi, thảo luận về những ǵ có thể làm được cho người sắp chết, và những điều kiện tốt nhất để làm việc ấy. Một cuộc cách mạng tâm linh và thực tiễn trong việc huấn luyện bác sĩ và y tá, để chăm sóc bệnh nhân và đối xử với cái chết của họ, là điều quan yếu cấp thiết. Tôi hy vọng sách này sẽ là một đóng góp nhỏ mọn cho công việc ấy.
Tôi đă nhiều lần ca tụng công tŕnh tiên phong đang được thực hiện trong phong trào Tiếp dẫn đường. Ít nhất tại đấy chúng ta thấy người chết được đối xử với sự kính trọng mà họ đáng được. Tôi muốn nói lên ở đây một lời thỉnh cầu tha thiết đến tất cả các nền cai trị trên thế giới, rằng họ nên khuyến khích sự tạo lập những Tiếp dẫn đường, tài trợ cho công tŕnh này càng nhiều càng tốt.
Tôi có ư định cống hiến quyển sách này làm nền tảng cho nhiều loại chương tŕnh huấn luyện khác nhau, những người thuộc đủ loại ngành nghề, mà nhất là những người quan hệ mật thiết đến việc săn sóc người chết : gia đ́nh, bác sĩ, y tá, tu sĩ thuộc mọi giáo phái, cố vấn tinh thần, các nhà chữa bệnh tâm lư và những nhà tâm lư học.
Có cả một kho tàng tuệ giác y khoa trong Phật giáo Tây Tạng cũng như những tiên tri của Padmasambhava liên hệ chi tiết đến những chứng bệnh của thời đại này. Tôi cực lực kêu gọi nên đổ tiền bạc vào công tŕnh nghiên cứu nghiêm túc về những lời dạy đáng ngạc nhiên ấy. Biết đâu người ta không t́m ra được từ đấy những phương pháp chữa những bệnh ngặt nghèo, như Sida và ung thư, và những chứng chưa xuất hiện, và làm giảm thiểu tính chất kinh khủng của nó ?
Tôi hy vọng ǵ từ quyển sách này ? Hy vọng gợi cảm hứng cho một cuộc cách mạng êm thấm trong toàn thể lối nh́n của ta về sự chết và săn sóc người sắp chết, cũng như lối nh́n của chúng ta về sự sống và săn sóc người sống.
Trong khi quyển sách này đang được viết ra, th́ bậc thầy vĩ đại của tôi, Dilgo Khientse Rinpoche từ giă thân xác vào thứ sáu, ngày 27 tháng 9 năm 1991, ở Thimphu, Bhutan. Ngài đă 82 tuổi, và đă dành suốt đời giúp đỡ tất cả mọi người. Ai đă từng trông thấy ngài mà quên ngài được ?
Ngài như núi tuyết sáng chói, sự hùng vĩ của ngài đă lan tràn nếu không có niềm an tịnh sâu xa luôn tỏa ra từ nơi ngài, cùng với tính hài hước tự nhiên và tâm hỷ lạc, những dấu hiệu của thực chứng. Với tôi và nhiều người khác, ngài là bậc thầy có tầm cỡ của Milarepa, của Longchenpa, của Padmasambhava, và ngay cả của đức Phật. Khi ngài qua đời, th́ như mặt trời lặn mất, để lại đêm tối đen dày, và cả một thời đại huy hoàng của nền học tâm linh Tây Tạng đă cáo chung.
Dù tương lai có đem ǵ lại cho chúng ta, tôi chắc chắn không ai trong chúng ta sẽ c̣n gặp được người nào như ngài. Chỉ cần nh́n thấy ngài một lần dù trong giây lát, là cũng đă gieo trong bạn một hạt giống giải thoát mà không có ǵ sẽ phá hủy được, và sẽ có ngày hạt giống ấy đi đến kết nhụy đơm bông.
Có nhiều dấu hiệu kỳ lạ trước và sau khi Dilgo Khientse Rinpoche chết, chứng tỏ tầm mức vĩ đại của ngài, nhưng cái điềm làm cho tôi kinh hăi nhất th́ xảy ra cách xa bốn ngàn dặm Anh, ở miền Nam nước Pháp, tại một nơi gọi là Lerab Ling, gần Montpellier, nơi này sẽ được hiến cúng để thành lập một trung tâm nhập thất dưới ân đức của ngài. Xin để cho một trong những học tṛ tôi đang sống và làm việc tại trung tâm kể cho bạn nghe những ǵ đă xảy đến :
“Sáng hôm ấy bầu trời tối lâu hơn thường lệ, và dấu hiệu đầu tiên của b́nh minh là một đường dài màu đỏ thật sâu ở chân trời xa. Chúng tôi sắp xuống phố, và khi đến gần chót đỉnh con đường của chúng tôi, cái lều vải dựng tạm làm chỗ thờ, nơi sẽ xây chánh điện, hiện ra trên đỉnh đồi bên phải chúng tôi.
Th́nh ĺnh một chùm tia sáng mặt trời thật sắc, xoáy vào ánh sáng mờ ban mai và chiếu ngay vào cái lều trắng, làm nó sáng lên rực rỡ. Chúng tôi vẫn tiếp tục đi, và khi tới gần khúc quanh để xuống phố, một cái ǵ thúc đẩy chúng tôi nh́n lại ngôi lều. Bây giờ trời đă sáng. Chúng tôi kinh ngạc. Một ráng cầu vồng trải dài khắp thung lũng, màu sắc nó sáng chói, sống động, đến nỗi ta như có thể với tay ra mà sờ được.
Nó vươn lên từ chân trời phía trái chúng tôi, làm thành một ṿng cung bắc ngang bầu trời. Điều mầu nhiệm là không có dấu hiệu ǵ là sắp mưa cả, chỉ có cái ráng cầu vồng xuất hiện linh động, rực rỡ nổi bật trên nền trời trống trải mênh mông.
Chỉ đến chiều hôm sau đó chúng tôi mới biết tin đấy chính là ngày mà Dilgo Khientse Rinpoche từ trần ở Bhutan. Tất cả chúng tôi đều cảm thấy chắc chắn rằng cầu vồng ấy là dấu hiệu ngài đă ban phước xuống cho tất cả, và cho vùng đất Lerab Ling”.
Khi đức Phật nằm niết bàn trong một khu rừng ở Kushinagara (Câu thi na) xung quanh có 500 đệ tử, Ngài đă dạy những lời cuối cùng : “Tất cả pháp hữu vi đă sinh thành đều sẽ phải hoại diệt, tan ră. Các con hăy nỗ lực tinh tiến đạt đến sự toàn thiện” .
Những lời dạy ấy vẫn thường trở lại với tôi từ khi thầy Dilgo tôi từ trần. Có lời dạy nào sâu sắc về vô thường hơn cái chết của một bậc đạo sư tối thượng, đă từng như là cột trụ của thế gian ? Cái chết ấy làm cho chúng tôi, những người biết ngài, những đệ tử của ngài, cảm thấy bơ vơ, bị ném trở lại chính ḿnh.
Bây giờ chúng ta phải tự ḿnh tiếp tục tiến lên và cố hết sức ḿnh để thể hiện truyền thống giáo lư mà ngài đă đại diện một cách cao cả. Chúng ta phải tự ḿnh làm những ǵ mà đệ tử Phật đă làm, khi bị bỏ lại trên thế gian này, không c̣n được ánh sáng trí tuệ của ngài d́u dắt : đó là “hăy nỗ lực tinh tiến để đạt đến toàn thiện”
Cái cầu vồng bắc qua bầu trời nước Pháp, ở thung lũng Lerab Ling là một điềm triệu Dilgo Khientse Rinpoche đang ban phước và sẽ tiếp tục ban phước cho toàn thế giới. Khi đă thoát khỏi thân xác, ngài sống trong thế giới huy hoàng vượt ngoài thời không của Pháp thân, có năng lực như những bậc đă giác ngộ, là có thể giúp đỡ chúng sanh không hạn cuộc.
Hăy tin tưởng ở sự chứng đắc của ngài, và kêu cầu ngài với tất cả ḷng thành, th́ bạn sẽ thấy ngài ở bên bạn tức khắc. Làm sao ngài, người yêu thương tất cả chúng sanh với t́nh yêu toàn hảo như vậy, có thể bỏ rơi chúng ta được ? Và ngài sẽ đi đâu, con người đă nhập làm một với tất cả ấy ?
Thật may mắn cho chúng ta, rằng một bậc thầy như ngài, nhập thể của truyền thống Tây Tạng, đă ở với chúng ta 30 năm nay sau khi xứ sở Tây Tạng bị diệt vong. Ngài đă giảng dạy trong vùng Hy Mă Lạp Sơn, Ấn Độ, Âu châu, Á châu và Hoa Kỳ.
Chúng ta thực may mắn làm sao đă có được hàng trăm giờ thu băng giọng nói và lời dạy của ngài, nhiều băng h́nh ghi lại vài nét hùng vĩ của sự hiện diện ngài, một vài phần của ḍng thác từ tâm giác ngộ của ngài, đă được dịch ra Anh ngữ và nhiều ngôn ngữ khác. Tôi đặc biệt nghĩ tới những giáo lư ngài dạy ở miền Nam nước Pháp, gần Grenoble vào năm cuối của đời ngài.
Lúc đó, nh́n ra thung lũng và đồi núi, một khung cảnh gần như có cái hùng vĩ của Tây Tạng, ngài đă ban ân sủng là truyền giáo lư Dzogchen, một giáo lư quan trọng nhất, cho một ngàn rưỡi học viên, nhiều người trong đó là học tṛ tôi từ khắp thế giới, một điều làm cho tôi sung sướng vô cùng. Những bậc thầy hiện diện có cảm tưởng rằng qua hành vi cuối của đời ngài, Dilgo Khientse Rinpoche đang ban ấn tín cho việc giảng dạy những giáo lư này ở Tây phương, và đă ban phước cho sự đón nhận của họ bằng năng lực của nhiều đời thiền định nơi ngài. Về phần tôi, tôi cũng đang ban phước cho tất cả những ǵ tôi đă cố thực hiện cho nền giáo lư ấy từ bao năm ở Tây phương.
Nghĩ về Dilgo Khientse Rinpoche và những ǵ ngài đă làm cho nhân loại là nghĩ về tính vĩ đại của món quà tặng mà Tây Tạng hiến cho thế giới, được tập trung và được hiển lộ nơi một con người duy nhất.
Tôi luôn nghĩ rằng, không phải là chuyện t́nh cờ khi xứ sở Tây Tạng cuối cùng đă mất, đúng vào lúc Tây phương sắp mở tâm mở trí để đón nhận những truyền thông của trí tuệ phương Đông. Vậy, ngay vào lúc Tây phương trở nên sẵn sàng đón nhận, th́ một vài giáo lư sâu xa của truyền thống ấy, vốn từ lâu được bảo tŕ trong niềm cô tịch của núi Tuyết Tây Tạng, bây giờ có thể ban bố cho nhân loại.
Điều thiết yếu hiện nay của chúng ta là cố gắng duy tŕ bằng mọi giá, truyền thống tuệ giác sống động ấy, mà người dân Tây Tạng đă chịu vô lượng khổ đau để làm cho chúng ta có được. Hăy nhớ đến họ luôn luôn trong tim chúng ta, và chúng ta hăy làm việc để thấy có ngày xứ sở Tây Tạng và những truyền thống của xứ sở ấy được phục hồi.
Những giáo lư vĩ đại mà tôi đă san sẻ với bạn hiện giờ không được phép tu tập công khai trên đất Tây Tạng bởi chính những người đă có công bảo tŕ chúng. Mong sao sẽ có ngày các Tăng viện và Ni viện của Tây Tạng sẽ vươn lên từ đống tro tàn đổ nát, và những khoảng trống bao la của xứ Tây Tạng sẽ được hiến cho nền ḥa b́nh thế giới và sự theo đuổi giác ngộ của tất cả mọi người.
Một phần lớn của tương lai nhân loại có thể tùy thuộc vào sự tái lập một xứ Tây Tạng tự do, một xứ Tây Tạng sẽ đóng vai tṛ của một Thánh địa cho những người t́m chân lư thuộc mọi truyền thống tín ngưỡng, vai tṛ trái tim tuệ giác của một nhân loại tiến hóa, vai tṛ pḥng thí nghiệm để thử nghiệm những tuệ giác cao nhất, những kỹ thuật thiêng liêng nhất, để nó sẽ thành một nguồn cảm hứng giúp toàn nhân loại trong giờ phút lâm nguy.
Thật khó t́m được khung cảnh toàn hảo cho việc tu tập tuệ giác ấy trong một thế giới như thế giới Tây phương chúng ta. Một xứ Tây Tạng được hồi phục, được tịnh hóa bởi bi kịch đau thương sẽ là khung cảnh lư tưởng, và điều này thực cấp thiết cho sự tiến hóa của loài người.
Tôi muốn hiến tặng sách này cho hàng trăm ngàn người chết trong sự khủng bố ở Tây Tạng, chết với đức tin của họ và với tri kiến kỳ tuyệt của giáo lư Phật. Tôi cũng muốn hiến tặng cho những người đă chết ở thế kỷ này trong những t́nh huống tương tự : người Do Thái, người Cao Mên, người Nga ; cho những nạn nhân hai cuộc thế chiến, cho tất cả những người chết bị bỏ rơi, bị quên lăng, và cho tất cả những người đang tiếp tục bị tước hết cơ hội tu tập con đường tâm linh của họ.
Nhiều bậc thầy tin rằng giáo lư Tây Tạng đang bước vào một thời đại mới. Có những lời tiên tri của Padmasambhava và nhiều bậc thầy thấu thị khác đă nói trước về việc giáo lư truyền đến Tây phương. Bây giờ thời gian ấy đă đến, và tôi biết rằng giáo lư sẽ khoác một đời sống mới.
Đời sống mới này cần thay đổi, nhưng tôi tin rằng bất cứ một mô phỏng nào cũng phải tuôn phát từ một tri kiến sâu xa, để tránh phản bội sự thuần tịnh trong sáng của truyền thống hay năng lực của nó, hay tính “phi thời gian” của chân lư.
Nếu có sự hiểu biết sâu xa về truyền thống phối hợp với ư thức thực tế về những vấn đề và thử thách của thời đại, th́ sự mô phỏng có thể tăng cường, mở rộng, làm phong phú thêm truyền thống, làm hiển lộ những tầng lớp sâu xa của giáo lư, và giúp cho việc ứng dụng giáo lư được hiệu quả hơn, trong việc đối phó với những khó khăn ngày nay.
Nhiều bậc thầy vĩ đại của Tây Tạng đă viếng thăm Tây phương trong 30 năm sau này, bây giờ đă viên tịch, và tôi tin chắc họ đă cầu nguyện cho giáo lư này sẽ lợi lạc không những cho người Tây Tạng, cho Phật tử mà thôi, mà c̣n cho cả toàn thế giới.
Tôi nghĩ người Tây phương biết rơ tầm giá trị của giáo lư này khi họ đâm ra sẵn sàng đón nhận. Tôi nghĩ đến Dudjom Rinpoche và Karpama, những bậc thầy vĩ đại đă chọn để chết ngay trên đất Tây phương, như thể cốt ban phúc cho Tây phương bằng năng lực giác ngộ của các ngài.
Mong sao những lời cầu nguyện của các ngài cho thế giới được chuyển hóa, cho tâm trí nhân loại được soi sáng được ứng nghiệm ! Mong sao cho chúng ta, những người hấp thụ giáo lư các ngài sẽ ư thức trách nhiệm đối với giáo lư ấy, và nỗ lực thể hiện giáo lư.
Thử thách lớn nhất mà một truyền thống tâm linh như Phật giáo phải đương đầu trong giai đoạn chuyển tiếp này từ khung trời cũ đến Tây phương là, làm thế nào trong một thế giới quay cuồng lăng xăng siêu tốc này, những người học giáo lư có thể t́m phương thức để thực hành giáo lư với một tâm linh b́nh thản và tính kiên tŕ mà họ cần, để có thể chứng ngộ sự thật của giáo lư.
Sự huấn luyện tâm linh chung quy là h́nh thái giáo dục cao thượng nhất, đ̣i hỏi nhiều điều kiện nhất, và phải được theo đuổi với sự dấn thân, chuyên cần có hệ thống như bất cứ sự huấn luyện nghiêm túc nào khác. Làm sao có thể chấp nhận rằng, muốn thành một bác sĩ phải trải nhiều năm học và thực tập, thế mà với con đường tâm linh để sống ở đời, chúng ta lại chỉ cần một sự ban phép t́nh cờ, những lễ quán đảnh điểm đạo qua loa, và lâu lâu mới gặp vài bậc thầy chỉ để chào hỏi ?
Trong quá khứ, người ta ở lại luôn một nơi để theo thầy suốt cả đời. Hăy nghĩ đến Milarepa, đă phụng sự Marpa hàng nhiều năm trước khi đủ trưởng thành tâm linh để rời thầy mà tự tu tập. Sự huấn luyện tâm linh cần một sự truyền trao liên tục, làm việc và học với thầy, theo thầy với niềm hăng say và sự thiện xảo tinh tế.
Vấn đề chính của việc giảng dạy tương lai ở trong thế giới tân tiến là làm sao để giúp cho những người theo giáo lư t́m được môi trường nội tâm và ngoại cảnh thích hợp để thực hành giáo lư, chứng ngộ và thể nhập tinh yếu của nó.
Giáo lư của mọi con đường huyền học trên thế giới cho thấy rơ rằng trong ta có một b́nh chứa năng lực khổng lồ, năng lực từ bi và trí giác, năng lực mà Ki-tô giáo gọi là Cung điện nhà trời, hay Nước chúa.
Nếu ta biết cách sử dụng và đây là mục đích con đường đi t́m tuệ giác th́ năng lực ấy không những có thể chuyển hóa bản thân ta, mà cả thế giới quanh ta. Có thời nào cấp thiết hơn bây giờ, để có được sự xử dụng sáng suốt năng lực thiêng liêng ấy ? Có thời nào cấp thiết hơn bây giờ để hiểu thấu bản chất của năng lực thuần túy ấy, hiểu cách điều hướng nó để lợi lạc cho thế giới ?
Tôi cầu nguyện tất cả những ai đọc sách này sẽ có thể hiểu thấu và tin tưởng năng lực của giác ngộ, và trực nhận bản chất của tâm ; v́ nhận ra bản chất tâm bạn cũng có nghĩa là làm phát sinh một tri kiến sẽ thay đổi toàn bộ thế giới quan của bạn, giúp bạn tự nhiên khám phá và phát triển một ước muốn đầy bi mẫn, mong giúp đỡ tất cả mọi hữu t́nh, đồng thời cũng phát triển được một cái biết về cách giúp đỡ tốt nhất, trong bất cứ t́nh huống nào. Tôi cầu nguyện cho các bạn sẽ thấm được vào tâm khảm chân lư sống động trong lời này của Nyoshul Khenpo :
Một ḷng bi mẫn tự nhiên có thể phát sinh đối với những người chưa nhận ra chân tánh của ḿnh. Ḷng bi mẫn ấy rào rạt bao la đến độ nếu nước mắt có thể bộc lộ được th́ bạn sẽ khóc không bao giờ ngưng. Không những tâm đại bi, mà c̣n phương tiện thiện xảo cũng sẽ phát sinh khi bạn đă trực ngộ bản tâm.
Hơn nữa, bạn c̣n tự nhiên giải thoát khỏi mọi khổ đau sợ hăi, như sợ sự sanh ra, sợ cái chết và giai đoạn Trung Ấm. Khi ấy, nếu bạn phải nói lên niềm vui và phúc lạc do sự chứng ngộ mang lại, th́ dù bạn có đem tất cả vinh quang, hưởng thụ, khoái lạc, và hạnh phúc trên đời gom lại, cũng không thể diễn tả được một nhần nhỏ xíu của niềm phúc lạc mà bạn có được khi trực ngộ bản tâm.
Phụng sự thế giới bằng năng lực trí tuệ và từ bi có nghĩa là tham dự một phần tích cực vào việc bảo tŕ hành tinh này. Những bậc thầy thuộc các truyền thống tôn giáo bây giờ đă hiểu rằng tu tập là điều thiết yếu không những chỉ dành cho Tăng Ni, mà cho tất cả mọi người, thuộc mọi tôn giáo, mọi lối sống.
Những ǵ tôi cố chứng minh trong sách này là tính vô cùng thiết thực, năng động và hiệu nghiệm của sự phát triển tâm linh. Một lời dạy nổi tiếng của Tây Tạng là : “Khi thế giới đầy những sự ác, th́ mọi tai ương cần phải được chuyển hóa thành con đường giác ngộ”. Mối nguy mà tất cả chúng ta đang vướng phải đă khiến cho việc tu tập trở nên cấp thiết, đến nỗi ta không c̣n xem sự phát triển tâm linh như là một xa xí phẩm, mà như một điều kiện cần thiết để sống c̣n.
Ta hăy tưởng tượng rằng thế giới sẽ như thế nào nếu trong đó có một số lượng đáng kể những người tóm lấy cơ hội mà giáo lư đă chỉ, để dành một phần của đời họ cho việc tu hành nghiêm chỉnh, để trực nhận bản tâm, và do vậy xử dụng cơ hội cái chết của ḿnh để tiến gần hơn tới Phật quả, và tái sanh với một mục đích duy nhất là phụng sự và làm lợi lạc mọi người.
Quyển sách này đang đem lại cho bạn một kỹ thuật thiêng liêng, nhờ đó không những bạn có thể chuyển hóa cuộc đời hiện tại của bạn, chuyển hóa sự hấp hối và cái chết của bạn, mà c̣n chuyển hóa cả những đời sau của bạn, và do đó chuyển hóa cả tương lai nhân loại. Những ǵ mà những bậc thầy tôi và tôi hy vọng khơi nguồn nơi đây, là một bước nhảy tiến tới sự thăng tiến có ư thức của con người.
Học cách thế nào để chết cũng là học cách sống ; học cách sống cũng là học làm thế nào để hành động không những trong đời này mà cả trong những đời sắp đến. Thực sự chuyển hóa bản thân và học làm sao để tái sinh như một ứng hóa thân để giúp người khác, chính là giúp đỡ nhân loại bằng cách hữu hiệu nhất.
Tuệ giác đầy bi mẫn của truyền thống chúng tôi và sự đóng góp cao quư nhất của nó cho trí tuệ tâm linh của nhân loại là sự hiểu và hành lư tưởng Bồ-tát, con người nhận lănh hết đau khổ cho mọi hữu t́nh.
Người khởi hành lên đường giải thoát không những cho một ḿnh ḿnh, mà c̣n để giúp đỡ người khác, người mà cuối cùng, sau khi đạt giải thoát tối hậu, không tan biến vào trong bầu trời tuyệt đối hay trốn khỏi nỗi thống khổ của sinh tử, mà tự nguyện trở lại nhiều lần để hiến ḿnh phụng sự toàn thế giới bằng năng lực từ bi và trí tuệ.
Điều mà thế giới cần hơn bất cứ ǵ, đó là những sứ giả tích cực của ḥa b́nh như vậy, những sứ giả “mặc áo giáp nhẫn nhục”, những người sống cho lư tưởng Bồ-tát và sống để gieo rắc trí tuệ vào mọi lĩnh vực kinh nghiệm chúng ta.
Chúng ta cần những Bồ-tát luật sư, Bồ-tát nghệ sĩ, Bồ-tát chính trị gia, Bồ-tát bác sĩ, Bồ-tát kỹ sư và chuyên viên, những Bồ-tát ở khắp nơi đang làm việc một cách tận tâm như những kênh truyền của trí tuệ và đại bi ở mọi tầng lớp và hoàn cảnh xă hội, đang hoạt động để chuyển hóa bản thân và người khác, làm việc không mệt mỏi v́ biết chắc có sự nâng đỡ của chư Phật và những bậc giác ngộ, để giữ ǵn thế giới và tiến đến một tương lai khá hơn. Teillard de Chardin nói :
“Một ngày kia, sau khi chúng ta đă làm chủ được những cơn gió, những ngọn sóng, thủy triều và lực hấp dẫn… chúng ta sẽ khởi động năng lực của t́nh yêu. Khi ấy, lần thứ hai trong lịch sử loài người, con người sẽ t́m ra ngọn lửa” .
Một trong những hy vọng sâu xa nhất của tôi khi viết sách này là nó sẽ làm một người bạn trung thành cho bất cứ ai chon con đường trở thành một Bồ-tát, một nguồn d́u dắt và cảm hứng cho những người thực sự đối mặt với những thử thách của thời đại, và v́ ḷng bi mẫn mà khởi hành lên đường tuệ giác.
Mong sao họ không bao giờ mệt mỏi hay thất vọng, vỡ mộng ; mong cho họ đừng bao giờ hết hy vọng dù có gặp bao nhiêu gian khó, chướng ngại, hăi hùng. Mong sao những chướng ngại ấy chỉ làm tăng thêm quyết tâm nơi họ. Mong sao họ vững ḷng tin ở t́nh yêu và năng lực của các đấng giác ngộ đă và đang gia tŕ cho trái đất bằng hiện diện của các ngài ; mong sao họ noi gương những bậc thầy vĩ đại đă y theo lời di giáo của Phật mà suốt đời nỗ lực tinh tiến để đạt đến toàn thiện.
Mong sao cái thế giới mà nhiều bậc thầy huyền học thuộc mọi truyền thống đă tiên đoán, nhờ nỗ lực của tất cả chúng ta mà sẽ thành hiện thực : một thế giới tương lai không c̣n bạo hành, khủng bố, ở đấy nhân loại có thể sống trong hạnh phúc v́ đă trực nhận bản tâm. Tất cả chúng ta hăy cầu nguyện cho được thế giới tốt đẹp ấy, cùng với Shantideva và thánh Francis :
“Hư không c̣n tồn tại,
hữu t́nh c̣n tồn tại,
th́ nguyện của tôi vẫn c̣n.
Đó là cái ước nguyện xóa tan thống khổ của cuộc đời”.
“Xin Cha hăy biến con thành khí cụ ḥa b́nh của ngài.
Nơi nào có thù hận, cho con gieo rắc t́nh yêu.
Nơi nào có tổn thương, mang lại tha thứ.
Nơi nào có hoài nghi, mang lại niềm tin.
Nơi nào tuyệt vọng, mang lại hy vọng.
Nơi nào có bóng tối, mang lại ánh sáng.
Nơi nào có buồn khổ, mang lại niềm vui.
Lạy Cha,
Xin cho con an ủi người khác hơn là được an ủi;
Cho con cảm thông người khác hơn là được cảm thông;
Cho con yêu thương người khác hơn là được yêu thương;
V́ chính trong khi cho, là ta được nhận;
Khi tha thứ, là ta được tha thứ;
Và chính khi chết, là ta sinh vào đời sống vĩnh cửu”.
Xin dâng hiến sách này lên những bậc thầy tôi : với những bậc thầy đă quá văng, mong ước nguyện các ngài được thành tựu ; với những bậc thầy c̣n sinh tiền, mong các ngài trường thọ, công tŕnh thiêng liêng vĩ đại của các ngài sẽ gặp thành công sáng chói, mong sự giảng dạy của các ngài sẽ gợi cảm hứng cho tất cả hữu t́nh.
Tôi thiết tha thành khẩn cầu nguyện cho Dudjom Rinpoche và Dilgo Khientse Rinpoche sẽ chóng tái sanh trong một nhập thể đầy năng lực giác ngộ để cứu giúp chúng ta qua những hiểm nguy của thời đại này.
Xin hiến tặng sách này cho tất cả những người đă chết có nhắc tới trong sách : Lama Tseten, Lama Chokden, Samten, Ani Pelu, Ani Rilu và A-pé Dorje. Xin bạn nhớ tới họ mỗi khi cầu nguyện, và nhớ cả những học tṛ của tôi đă chết và đang chết, những người mà ḷng sùng tín và can đảm đă gây cho tôi nhiều cảm khái.
Xin hiến tặng quyển sách này cho tất cả hữu t́nh đang sống, đang chết hay đă chết. Đối với những người vào giờ này đang kinh quá tiến tŕnh chết, mong rằng họ chết được an ổn, không đau đớn hăi sợ. Mong rằng tất cả những người đang sinh ra trong lúc này, và những người đang vật lộn với sự sống, hăy được nuôi dưỡng bằng ân phước chư Phật.
Mong họ gặp được giáo lư và đi theo con đường trí tuệ. Mong đời họ được hạnh phúc hữu hiệu, thoát khỏi mọi lo buồn. Mong bất cứ ai đọc sách này sẽ rút được nhiều lợi lạc bất tận từ đấy, và mong cho giáo lư trong này chuyển hóa tâm trí họ. Đây là lời cầu nguyện của tôi.
Mong sao mỗi một chúng sanh trong sáu cơi luân hồi cùng đạt đến nền tảng của sự toàn hảo tối sơ!
Sogyal Rinpoche
Ni sư Thích Nữ Trí Hải dịch
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 444 of 1146: Đă gửi: 30 June 2010 lúc 5:25pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN VỀ TIỀN KIẾP HẬU KIẾP
Lời Mở Đầu
Khi nói đến Nhân và Quả tức là bao hàm ư nghĩa rộng lớn của Luân hồi. Luân hồi là sự chuyển biến xoay vần trở lại. Con người chết đi không phải là hoàn toàn mất hẳn. Thân xác sẽ tan ră theo cát bụi nhưng c̣n một phần vô cùng linh hoạt và vẫn hiện hữu đó là linh hồn.
Mọi sự, vật trong vũ trụ, thiên nhiên đều chịu sự tác động của luân hồi, nhân quả. Như nước chẳng hạn, trong thiên nhiên, nuớc bốc thành hơi, hơi nước đọng lại thành mây rơi xuống thành mưa, mưa chảy tràn ra đất, qua sông suối, hồ và chảy ra biển. Rồi hơi nước lại bốc lên cao gặp lạnh ngưng tụ thành mây rồi thành mưa, cứ thế mà Nước luân hồi chuyển tiếp măi chẳng bao giờ mất cả.
Tương tự như thế: đất gió, lửa cây cối, thú vật, con người, tất cả đều chuyển biến theo luật Luân hồi nhân quả. Trong vũ trụ cũng vậy, sự xuất hiện tuần tự của ngày và đêm, sự h́nh thành và hủy diệt để rồi phát sinh mặt trời khác.
Trong vũ trụ có vô số mặt trời, chúng cũng đều phát sinh, phát triển và hủy diệt. Quả đất chúng ta đang ở cũng cùng số phận ấy để rồi quả đất khác lại được sinh ra.
Cả vũ trụ đều chịu chung quy luật ấy. Những ǵ đă có sinh th́ phải có tử nhưng rơ ràng qua nhận thức của ngũ quan con người th́ khi đă tử tức là không c̣n ǵ nữa. Nhưng thực tế lúc tử lại là lúc khởi đầu của sinh. Chỉ có cái ǵ không sinh ra mới gọi là không bị hủy diệt mà thôi. V́ thế mới có câu Hữu sinh, hữu tử, hữu luân hồi.
Vô sinh, vô tử, vô luân hồi.
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên. Nhân quả luôn luôn có sự tương quan mật thiết với nhau và ngay trong nhân đă có quả và ngay trong quả đă có nhân.
V́ thế từ nhân đến quả và từ quả đến nhân phải có sự chuyển hóa ấy liên quan với nhau rất chặt chẽ, chính sự tương quan chuyển hóa liên tục ấy mà sự tuần hoàn của trời đất, vũ trũ được điều ḥa bằng không sẽ tạo sự bất hợp, rối loạn.
Hiện tượng nhân quả thường phải qua một thời gian chuyển hóa và thời gian ấy dài, ngắn c̣n tùy ở sự kiện, sự vật, sự tác động..
Vi trùng đột nhập cơ thể phải qua một thời gian mới tàn hại được cơ thể, sự chuyển hóa của bào thai trong bụng người mẹ phải qua một thời gian, sự chuyển hóa từ tuổi trẻ đến tuổi già cũng phải trải qua một thời gian...
Đôi khi từ nhân đến quả có thể xảy ra rất nhanh hay rất chậm chạp như sự tác động của hai luồng điện âm dương phát sinh ḍng điện, sức nóng hay xẹt ra lửa hoặc phát ra ánh sáng.. hoặc hiện tượng tạo sơn, nổi núi, hiện tượng xâm thực trong thiên nhên...
Hiện tượng nhân quả thấy rơ trong thiên nhiên:
Hiện tượng địa chất:
Đây là những hiện tượng xuất hiện chậm chạp như hiện tượng đất bồi, hiện tượng xâm thực, xói ṃn của gió, của nước lên đất đai, núi đồi. Có khi phải mấy triệu năm mới chuyển biến thấy rơ kết quả từ nhân đến quả như tạo sơn (nổi núi).
Sự sồi, sụt của đáy biển, biển rút khỏi lục địa hay biển chiếm lục địa. Đọc các giai đoạn phát sinh sự sống và sự h́nh thành quả đất chúng ta mới thấy nhân và quả liên quan tác động lên nhau qua một thời gian rất dài có khi hàng triệu hay hàng tỷ năm.
Ngoài ra c̣n có những hiên tược xuất hiện nhanh chóng như gió mạnh gây ra sóng lớn, băo tố, Nguyên nhân (Nhân) tạo ra gió (Quả) là sự chuyển dịch mau lẹ mạnh mẽ của không khí. Gió phát sinh là do không khí ở vùng nào đó bị loăng khiến không khí của vùng kế cận chuyển đến để bù đắp và sự chuyển động lớn của không khí như vậy đă phát sinh ra gió băo...
Sấm sét phát sinh là do hai luồng điện âm dương từ các đám mây đến gần nhau. Lụt lội phát sinh do mưa nhiều, nước không thoát kịp dâng cao. v.v... Mưa là do hơi nước bốc lên gặp lạnh tạo thành mây rồi thành mưa. v.v...
Hiện tượng sinh vật học.
Các sinh vật từ vi trùng, vi khuẩn, bào tử, nấm mốc vớ`i kích thước vô cùng nhỏ bé đến các loài sâu, kiến, chim chóc, trâu ḅ, voi ngựa và loài người cũng đều chịu luật Nhân quả chi phối.
Nhân và quả ấy luôn luôn tuân theo một quy luật chặt chẽ đó là nhân nào quả ấy. Từ sinh vật li ti cho đến loài to lớn, loài nào sinh loài đó như voi kết hợp (Nhân) với voi sẽ sinh ra voi con (Quả). Voi con qua một thời gian sẽ lớn lên, khi trưởng thành lại kết hợp với một voi khác (cùng loài) để lại sinh ra voi.
Ở thực vật cũng vậy từ những loài rất nhỏ phải nh́n qua kính hiển vi đến những loài to lớn như Thông, Tùng, Bác, Đại Thọ.. cũng đều trải qua các giai đoạn chuyển hóa của Nhân và quả.
Hạt bí (Nhân) gieo xuống đất sẽ nẩy mầm, phát triển thành cây Bí (Quả), cây lúa cây táo, cây cà chua cũng vậy loài nào sinh ra loài đó. Khi cây lớn lên lại sinh hoa kết quả tiếp tục.
Ở đây c̣n thấy rơ thời gian, giai đoạn chuyển biến từ nhân đến quả có khi rất lâu dài tạo thành một ṿng chuyển biến mà các nhà sinh vật học gọi là chu tŕnh và trong mỗi chu tŕnh hóa, thoạt nh́n qua tưởng chừng như phức tạp riêng rẽ khác nhau nhưng thực sự cái chung nhất đều nằm trong cái thành, trụ, hoại, không, sinh, lăo, bệnh tử để rồi chuyển ṿng trở lại theo luật luân hồi, tái sinh.
Schoperhauer đă viết: "Cái tượng trưng đích thực của thiên nhiên ở muôn nơi và muôn thuở vẫn là cái ṿng tṛn bất diệt. Cái ṿng tṛn đó là biểu thức của sự xoay vần, trở lại có định kỳ.
Đó là h́nh thức phổ biến nhất trong thiên nhiên, một h́nh thức phổ quát mà thiên nhên thể hiện ở mọi sự vật, từ sự chuyển vận của các thiên thể, các hành tinh trong vũ trụ, cho đến sự sống chết của các sinh vật. Chính nhờ sự trở lại này mà duy tŕ được đời sống trường tồn."
.. Người và vật có chết đi th́ đó cũng chỉ là hiện tượng bề ngoài v́ bản thể đích thực của chúng vẫn tồn tại suốt thời gian ấy.
Đối với người Đông phương, thuyết Luân hồi xuất hiện từ lâu, và trong dân gian luật quả báo luân hồi được xem như là điều tự nhiên. "Làm ác gặp ác", "Ở hiền gặp lành", "Để đức lại cho con".. là những câu b́nh thường trong ư tưởng và trên cửa miệng mọi người nhất là những người b́nh dân, dù họ không phải là người theo Phật giáo.
Trái lại, đối với người Tây phương, thuyết Luân hồi vẫn c̣n nhiều xa lạ với họ cách đây mấy thế kỷ. Chỉ gần đây, khi những nhà Tâm lư học. Sinh lư học, các nhà khoa học họ bắt đầu đi sâu vào vấn đề nghiên cứu các hiện tượng tái sinh kỳ lạ.
Mà thỉnh thoảng xuất hiện trong cuộc sống th́ vấn đề mới được khơi dậy và từ đó sự t́m hiểu bắt đầu phát triển mạnh mẽ hơn và dĩ nhiên dù muốn dù không, các nhà khoa học cũng phải tiến sâu vào lănh vực nghiên cứu thuyết luân hồi, tái sinh, nghiệp quả... của đạo Phật.
Đă từ lâu đối với người Tây phương, hiện tượng tái sinh quả thật là một hiện tượng lạ lùng nếu không muốn nói là kỳ quái và đôi khi được gán cho là chuyện huyền hoặc đầy vẻ mơ hồ mê tín. Đối với tín đồ Ky Tô giáo th́ hiện tượng tái sinh lại càng khó được chấp nhận và được coi như là "một trong những loại tín ngưỡng ngoại đạo."
Tuy nhiên, mặc cho sự bài bác, chống đối, chỉ trích hiện tượng liên quan đến sự luân hồi, tái sinh vẫn tiếp tục diễn ra khắp nơi và đối với con người, tái sinh vẫn tiếp tục diễn ra khắp nơi và đối với con người, không hiếm những trường hợp tái sinh đă xuất hiện ở các quốc gia:
Không riêng ở Ấn Độ mà Việt Nam, Trung Hoa, Thổ Nhĩ Kỳ, Tích Lan, Tây Tạng, Miến Điện, Thái Lan, A Phú Hăn, An, Pháp, Hoa Kỳ, Đức, Ư, Đan Mạch, Ḥa Lan, Liban và ở cả những dân tộc khác như người da đỏ ở Bắc Mỹ châu chẳng hạn.
Các hiện tượng xuất hiện ngày càng nhiều là những bằng chứng rơ ràng về sự kiện tái sinh, tiền kiếp và cũng chính những bằng chứng này đă khiến có sự xích lại gần nhau hơn của các triết gia, các học giả, các nhà khoa học mà phần lớn người Tây phương trong vấn đề hợp tác, t́m hiểu, nghiên cứu hiện tượng các hiện tượng liên quan đến tái sinh, luân hồi.
Chưa bao giờ các nước Tân Phương lại xuất hiện vô số nhà nghiên cứu, đi sâu vào vấn đề tái sinh, luân hồi như hiện nay, cũng như chưa bao giờ đề tài thuộc lănh vực này lại được thảo luận với tính cánh nghiêm túc qua các cuộc hội thảo, diễn thuyết, thuyết tŕnh hoặc qua báo chí, sách vở nhiều như bây giờ.
Điều đáng nói là những người hăng hái, say mê nhất và đi sâu vào lănh vực luân hồi tái sinh lại là những Bác sĩ y khoa mà nổi tiếng phải kể đến Bác sĩ Ian Stevenson (Đại học Virginia), Bác sĩ Bruce Greyson, nữ Bác sĩ Elizabeth Kubler Ross, nữ Bác sĩ Edith Fiore, Bác sĩ R.J.Staver. Bác sĩ R.B.Hout, Bác sĩ Ahdrey Butt, Bác sĩ Raymon Moody, Bác sĩ C.G.Jung. Bác sĩ Schultz, Bác sĩ Wiltse. Bác sĩ A.J.Davis...
Nếu kể về các Y Bác sĩ đă tham gia vào việc nghiên cứu hiện tượng tái sinh, luân hồi th́ danh sách nêu ra sẽ rất nhiều và bên cạnh đó c̣n có thêm các nhà khoa học khác tiếp tay như Tiến Sĩ Carl Jung, một Khoa học gia nổi tiếng trên thế giới.
Tiến sĩ Rhine, nhà Khoa học đă mạnh dạn tiên phong trong vấn đề nghiên cứu hiện tượng siêu linh, người đă phát triển ngành Siêu tâm lư (Metapsychique hay Parapsychologie).
Tiến sĩ Micheal Sabom (người mà trước đó đă bác bỏ hiện tượng tái sinh, cho đó là điêu huyền hoặc) là một nhà khoa học bảo thủ nhất nhưng lại là người đă ủng hộ thuyết tái sinh. Đó là chưa kể các Giáo sư tại các Đại học Hoa Kỳ, Anh, Đức, Pháp, Hà Lan. Trong đó có các giáo sư như Carol Zaleski, Daniel Dennette, Ernst Benz. Giáo sư Tiến sĩ Werner Borin, nữ giáo sư Diane Kemp, giáo sư Crado, Balducci.
Giáo sư Tiến sĩ Kenneth Ring.. Ngoài ra c̣n vô số các nhà phân tâm học, Tâm lư học và đặc biệt là những nhà nghiên cứu về thôi miên, trong có Tiến sĩ vật lư nổi tiếng người Pháp là Patrick Drouot đă áp dụng phương pháp thôi miên để đưa con người đi về quá khứ xa xăm của ḿnh. Cái quá khứ vượt khỏi đời người hay gọi là Tiền kiếp.
Nữ Bác sĩ Edith Fiore cũng là người đă dùng thôi miên để giúp bệnh nhân thấy lại tiền kiếp của ḿnh. Cuốn sách quy tụ các công tŕnh của bà là cuốn "Bạn đă sống nơi này trước đây" (kiếp trước) (You have been here before) đă làm bà nổi tiếng và đă thôi thúc thêm các nhà khoa học mạnh dạn hơn trong việc tiến sâu vào nghiên cứu vấn đề tái sinh.
Đặc biệt hơn nữa là Nữ tiến sĩ Helen Wambach với tác phẩm biên soạn công phu có giá trị viết về vấn đề kiếp trước (life before life) trong đó ghi lại hàng trăm trường hợp lạ lùng có thật về hiện tượng Tái sinh, luân hồi đă xăy ra.
Những sự kiện này đă khám phá được nhờ phương pháp thôi miên để đưa con người vào giấc ngủ gọi là giấc ngủ thôi miên và qua giấc ngủ ấy, họ đă thấy lại những ǵ về đời sống ở kiếp trước của họ.
Như thế nhờ thuật thôi miên hổ trợ mà tiền kiếp của mỗi con người được hiện ra giống như một cuốn phim chiếu lại. Hiện nay các công tŕnh này đă và đang phát triển mạnh trên khắp thế giới.
Nhiều sách vở, tài liệu đề cập đến vấn đề này được rất nhiều nhà nghiên cứu biên soạn như Col Albert de Rochas, Bác sĩ Alexander cannon, Bác sĩ Jonhathan Rodney, Henry Blythe, Bác sĩ Stevenson, Arnoll Bloxom, Morey Berenstein, Johnathan Rodney...
Trong cuốn Many Mansions của Gina Cerninira, cuốn The next world and the Next hay cuốn Out of the body experiences của Robert Crookall, cuốn Born Again, Again (Tái sinh) của John Van Auken, cuốn Reincarnation (Sự luân hồi, Tái sinh) của Lynn Sparrow và Violet Shelley hay trong In search of the Dead (Nghiên cứu về cái chết) của Jeffrey Iverson... đều nêu lên trường hợp có thật về sự tái sinh.
Các tài liệu giá trị và trung thực này đă được xem là những bằng chứng rơ ràng chứng minh sự luân hồi tái sinh là có thật. Những cuốn sách điển h́nh vừa nêu trên chỉ là một phần, nhỏ trong hàng ngàn cuốn sách tŕnh bày lư giải về những ǵ thuộc tiền kiếp con người.
Sách được biên soạn bởi các tác giả có uy tín, phần lớn là những nhà Khoa học, các nhà Sinh lư học, Tâm lư học, các nhân vật nổi tiếng trong giới y khoa, điều đó nói lên được phần nào sự thật đáng lưu tâm của vấn đề từ lâu bị ngộ nhận là mê tín và mơ hồ.
Tuy nhiên không phải tất cả giới khoa học đều chấp nhận hay lưu tâm đến vấn đề tái sinh, về những ǵ gọi là tiền kiếp và hậu kiếp. Hiện nay vẫn c̣n nhiều và rất nhiều nhà khoa học (và ngay cả một số không ít những con người b́nh thường có nghĩa không phải họ là những nhà khoa học) không thừa nhận có sự tái sinh hoặc nếu có quan tâm th́ cũng ở trạng thái hoài nghi mà thôi.
Điều dễ hiểu chính là nguyên nhân tự nhiên rằng với tinh thần khoa học, khó mà không cho phép con người có thái độ hay nhận thức bất hợp với hiện tượng luân hồi không nằm trong phạm vi của lư trí con người cũng như không thể chứng minh trong pḥng thí nghiệm.
Thật vậy, cho đến nay, mặc dầu sự kiện vẫn xảy ra đều đều ở khắp nơi trên thế giới về điều mà rơ ràng sự tái sinh đă được thể hiện. Nhưng cái khó là ở sự nhận thức.
V́ làm thế nào để thấy được sự tái sinh và chứng minh một cách rơ ràng. Từ lâu các nhà Khoa học cho rằng con người nếu có được sự tái sinh thể hiện qua các trường hợp được coi là biểu hiện cho sự luân hồi th́ sự thấy hay sự nhận thức ngoại giác quan cả. Mà quả thật con người chỉ có được khả năng nhận thức theo ngũ quan hiện có của ḿnh mà thôi.
V́ thế đối với một số lớn nhà Khoa học cũng như những người không tin vào hiện tượng tái sinh th́ nhựng ǵ mà từ lâu con người cho rằng thuộc về hiện tượng luân hồi, tiền kiếp đều là những hiện tượng do tưởng tượng, do sự thêu dệt, trùng ngẫu hoặc đôi khi tạo dựng v́ mục đích nào đó chớ không có thực.
Trong khi đó, những người đă và đang nghiên cứu, t́m hiểu hiện tượng luân hồi, tái sinh cũng cho rằng: Sự nhận thức của con người về hiện tượng tái sinh quả thật có nhiều trở ngại. Lư do là con người chỉ nhận thức sự kiện qua năm giác quan giới hạn của ḿnh chớ không thể vượt ra khỏi năm giác quan ấy.
Theo Pierre Lecomte de Noiiy, nhà Bác học nổi tiếng thế giới th́ "Ngay cả những h́nh ảnh mà ta thấy, ta biết hay tự tạo về vũ trụ th́ đôi khi cái vũ trụ ấy chỉ là cái vũ trụ tự tạo của ta qua bộ năo của con người. Những h́nh ảnh có được sẽ bị lệnh lạc đi gấp đôi do hệ thống giác quan của con người tác động vào.
Từ đó sự hiểu biết trở nên chủ quan v́ tùy thuộc vào giác quan và bộ năo. Như thế th́ những ǵ mà khoa học giải đáp cho con người hiểu rơ thường tùy vào cơ cấu của giác quan và bộ năo nên bị cái giới hạn tuyệt đối là dựa vào nhiều định luật thống kê mà không lưu tâm tới những hiện tượng cơ bản cá tính.
Điều đó đă cản trở con người phần nào trong việc tiến sâu vào việc khám phá thêm những ǵ thuộc về sự tiến hóa và trật tự của vũ trụ...
Nếu con người chỉ dựa vào năm giác quan ḿnh để nhận thức sự vật, hiện tượng th́ con người chỉ nhận được những chân lư tương đối mà thôi. Phương pháp của Khoa học chính là phương pháp thực nghiệm v́ dựa vào sự quan sát những hiện tượng cũng như phân tách, diễn dịch.
Tuy nhiên khi gặp những hiện tượng có tính cách siêu h́nh khó giải thích v́ phương pháp thực nghiệm không áp dụng được ở lănh vực này th́ siêu h́nh được xem như thoát ra ngoài thực tại và giác quan giới hạn của con người không đủ khả năng để quan sát, nhận thức.
Các nhà khoa học thường có cái tự hào về những ǵ gọi là Khoa học thực nghiệm. Họ chỉ tin vào những ǵ mà họ thấy và biết qua các giác quan của ḿnh, giác quan của con người. V́ thế mà không lạ ǵ khi một bác sĩ giải phẫu nổi tiếng lại gật gù khoái trá tuyên bố rằng:
"Tôi chưa bao giờ thấy được linh hồn ở mũi dao mổ của tôi cả". Theo Pierre Lecompte de Noiiy th́ "làm sao mà khi mổ xẻ một đĩa hát, ta lại có thể bắt gặp tiếng hát của Caruso ở đấy được?"
Con người lỗi lạc Ch.Eug.Guye đă có lần phát biểu như sau: "Con người chỉ có thể thấu hiểu rơ ràng ư nghĩa của hiện tượng vật lư, hóa ngày nào ta biết được mối liên hệ kết hợp nó với hiện tượng Tâm lư và Tâm linh có thể đi đôi với nó ở cơ thể sinh vật" (Nguyễn Hữu Trọng dịch từ Entre savoir et croire của Pierre Lecompte de Noiiy).
Bao lâu con người c̣n khăng khăng cho rằng sự giải quyết mọi vấn đề phải chứng minh bằng khoa học thực nghiệm th́ trong tự nhiên vẫn c̣n vô số hiện tượng mà các nhà khoa học sẽ không thể chứng minh được và khi đó những hiện tượng ấy lại vẫn c̣n bị cho là vô lư, huyền hoặc, mơ hồ hoặc có tính cách tôn giáo, trừu tượng.
Từ những nguyên nhân xa, gần trên mà ta thấy rơ được rằng: Ta không thể t́m cách để đưa vấn đề có tính cách "Huyền bí" như vấn đề Tiền kiếp, Hậu kiếp, vấn đề Tái sinh Luân hồi đi vào khoa học được, v́ cho đến nay, thật sự vấn đề này trước nhất chưa phải là vấn đề mà khoa học chấp nhận dễ dàng v́ có những vấn đề cần được chứng minh.
Nhưng phương pháp khoa học thực nghiệm lại không thể tiến hành trên các hiện tựơng về tái sinh cũng như sự kiện này không thể đưa vào pḥng thí nghiệm, và cũng không thể hiện rơ qua các giác quan có tầm mức giới hạn của con người. Hơn nữa trên thế giới, không thiếu những con người đưa khoa học lên hàng Tôn giáo.
Cái ǵ cũng đều phải là khoa học mới đúng, mới có thật. Ngày xưa hiện tượng thần giao cách cảm hay thôi miên đều bị xem như những tṛ mê tín dị đoan. Ngày nay các nhà Khoa học đă chấp nhận Phân tâm học là một khoa học.
Ngày xưa khi nói ảnh hưởng tinh tú lên con người hay toàn bộ sinh vật là điều huyền hoặc, vô lư mơ hồ th́ ngày nay chính xác các nhà khoa học nhất là các nhà Khoa học Nga lại đề cao và gọi nó là Thời học sinh, là Nhịp điệu học sinh.
Điều cần nhớ là như nhà khoa học nổi danh Fritjov Carpra đă phát biểu, rằng những hiện tượng mà ta nghe được, thấy được, thường chỉ là những hậu quả chứ không bao giờ là bản thân của những hiện tượng mà ta đang cố công t́m kiếm.
Ngày nay con người tự hào đă t́m ra và đi sâu vào thế giới nguyên tử, siêu nguyên tử nhưng thật sự con người chưa hoàn toàn thấy, biết rơ rằng bản thân thế giới nhỏ bé này v́ chúng làm ngoài sự nhận thức của ngũ quan giới hạn của con người.
Nhưng dù cho con người có tận dụng đến những máy móc tinh xảo để quan sát sâu xa hơn th́ cái tận cùng sâu thẳm và nguyên nhân sau cùng làm phát sinh chúng cũng khó mà biết rơ hết được.
Thật ra, khi đi sâu vào thế giới bên trong của hạt nguyên tử và t́m hiểu cấu trúc của chúng tức là khoa học đă từng bước qua lằn ranh giới của cảm quan con người và lúc đó nếu khoa học vẫn bảo thủ cái khoa học theo ư nghĩ hoàn toàn của ḿnh th́ khó ḷng để tiến sâu hơn nữa vào tận cùng của sự khám phá...
Nhưng dù sao, đối với các nhà khoa học, ngay từ thế kỷ 20, cái thế thế giới quan của họ đă bị rung chuyển v́ những khám phá về nguyên tử đă khiến có sự đổi thay lớn về những khái niệm không gian, thời gian, vật chất và cả hiện tượng nhân quả. Và cũng từ đó các nhà khoa học mà phần lớn đều đă có cái nh́n hoàn toàn khác về thế giới, vũ trụ, con người...
Ngày xưa, qua vật lư học cổ điển, thói quen suy nghĩ trong đầu óc con người, ngay că những nhà khoa học lỗi lại lúc đó cũng cho rằng không gian rỗng không và vật thể là lại rắn chắc di chuyển trong không gian trống ấy. Ngày nay ư niệm không gian và vật chất kiểu đó đă dần dần bị lỗi thời và mất ư nghĩa.
Đối với nguyên tử ngày xưa được xem như là một vật vô cùng nhỏ và cứng chắc, về sau nhờ Rutherford mà phát giác ra rằng nguyên tử là vùng không gian rộng lớn hay một thế giới mà trong đó có hiện diện những hạt rất nhỏ gọi là điện tử xoay quanh một hạt nhân.
Ngày xưa nói đến vi trùng gây bệnh không ai tưởng tượng ra nổi vi trùng là ǵ. Đă có biết bao nhà khoa học ngày xưa cho rằng thịt sinh ra gịi, bùn sinh ra giun, sưong mù sinh ra bướm và họ lập ra thuyết Tự nhiên sinh. Rồi khi kính hiển vi ra đời, lúc đó mới thấy rơ vi trùng là có thật và thuyết tự nhiên sinh là cả một sai lầm lớn lao...
Do đó những ǵ chưa nắm vững được, chưa rơ được, những ǵ chưa chứng minh ngay được th́ tốt nhất là cần b́nh tâm t́m hiểu, chưa nên vội vàng quả quyết sai hay đúng v́ một ngày nào đó sự thật sẽ là sự thật v́ t́m chân lư và nói đến chân lư là vấn đề không phải dễ dàng nhất là khi con người (dù tài năng đến mấy th́ vẫn phải chịu một giới hạn nào đó trong vấn đề t́m hiểu vũ trụ tự nhiên).
Muốn đi sâu vào thiên nhiên, vật chất để quyết khám phá t́m hiểu đến tận cùng của sự vật và hiện tượng th́ con người vẫn c̣n khó mà thấy được những "viên gạch cơ bản" (buiding blocks) (theo như nhà khoa học Fritjov Carpa đă nói) riêng biệt mà chỉ thấy phức tạp rắc rối như một mạng lưới liên kết các phần của một cái toàn thể.
Hiện tượng tái sinh, luân hồi cũng vậy, đó là một hiện tượng vượt ra ngoài phạm vi của Lư trí và sự Hiểu biết của con người. Mặc dầu trên thế giới đă xảy ra vô số trường hợp nói lên sự thật về hiện tượng này nhưng không ai dám chắc hay khẳng định rằng hiện tượng tái sinh là có thật v́ theo yêu cầu của ư muốn con người ở thời đại hiện nay là phải có sự chứng minh rơ ràng.
Ông cũng chỉ phát biểu đại ư rằng các hiện tượng, các trường hợp mà ông sưu tầm, nghiên cứu, t́m hiểu đă góp phần vào việc nghiên cứu và hy vọng trong tương lai, vấn đề Luân hồi tái sinh sẽ trở thành một vấn đề tự nhiên như bao nhiêu vấn đề sẽ trở thành một vấn đề tự nhiên như bao nhiêu vấn đề liên hệ đến cuộc đời cửa con người vậy. Trước đó, tại Hoa Kỳ cũng đă có nhiều nhà nghiên cứu hiện tượng liên quan đến tiền kiếp.
Ông Edgar Cayee là một người Hoa Kỳ có khả năng biết được kiếp trước của người nào đó bằng phương thức dùng thôi miên gọi là cuộc soi kiếp. Kết quả ông đă thực hiện ở khoảng 30.000 trường hợp kể rơ rằng về tiền kiếp cho thấy có sự luân hồi tái sinh.
Riêng đối với Albert Einstein, nhà bác học với thuyết Tương đối nổi tiếng đă phát biểu như sau khi được hỏi về vấn đề Nhân quả: "Càng ngày, con người càng tin vào luật Nhân quả và ngay cả khoa học cũng đang tiến dần vào việc xác nhận sự kiện này là có cơ sở. Riêng tôi, tôi tin vào luật Nhân Quả".
Cuốn sách này chủ ư được viết không ngoài mục đích là tŕnh bày một số vấn đề liên quan đến hiện tượng Nhân Quả, Tái sinh.
Hy vọng rằng với mấy trăm trang sách đơn, sơ, độc giả vẫn có được một sự kiện lạ lùng mà ngay cả chính bản thân ḿnh đôi khi cũng gặp phải trong đời và một số thắc mắc từ muôn nơi, muôn thuở về những ǵ liên hệ đến hiện tượng Luân hồi tái sinh cũng sẽ được giải đáp phần nào.
Đọc hết quyển sách, chắc hẳn độc giả sẽ hoặc hài ḷng về một số vấn đề đă được nêu ra. Đó chính là điều khó tránh v́ sự lănh hội và phê b́nh là những cái mà độc giả hoàn toàn tự do.
Tác giả chỉ hy vọng đóng góp một phần rất nhỏ vào lănh vực nghiên cứu hiện tượng Luân hồi. Tái sinh, một lănh vựv mà ngày nay, không riêng gỉ các nhà tôn giáo mà cả các nhà khoa học cũng đă quan tâm, v́ đó là một dữ kiện cần được nghiên cứu và kiêm nhận.
Khi viết quyển sách này, tác giả may mắn đă có được khá nhiều thuận lợi về nhiều mặt nhất là vấn đề tài liệu. Trước tiên, tác giả xin chân thành cảm tạ Thượng toa Thích Trí Hải ở chùa Hải Đức (Nam Giao Huế) đă gởi tặng bức ảnh (chụp năm 1958) Sư Phước Huệ chụp chung với viên Kỹ sự Frank. M. Balk (người con tiền kiếp) để chứng minh cho câu chuyện lạ lùng có thật ở Việt Nam.
Ngoài ra tác giả cũng xin cảm tạ Linh mục T.H. Châu, Sư huynh Thanh Đức. Thượng tọa Thích Chánh Lạc, Thượng tọa Thích Giác Lượng đă góp ư, phê b́nh, khuyến khích và giúp một số tài liệu.
Tác giả cũng không quên cám ơn ông Đoàn Văn Hai, nhà giáo và cũng là nhà sưu tầm biên soạn ở Huế đă cung cấp nhiều tài liệu quư giá cũng như đă liên lạc với quư thầy tại chùa Phước Huệ để ghi lại các sự kiện về Sư Phước Huệ để gởi sang.
Tác giả cũng ghi nhận hảo ư của anh Nguyễn Huy Trực ở Cali đă vui ḷng giới thiệu một một số sách một số sách liên hệ đền đề tài Tái Sinh, Luân hồi.
Ngoài ra c̣n có nhă ư giới thiệu anh Ngô Văn Hoa ở Montreal dịch giả cuốn Have We Lived beford của Linda Atkinson (1982). Chính dịch giả cũng đă từ Montreal viết thư qua khích lệ khi biết tác giả đang biên soạn cuốn sách này và đă cung cấp khá nhiều tư liệu quư giá.
May mắn nhất là những tư liệu tranh ảnh trong công tŕnh biên soạn cuốn Medical Curiosities của hai nhà khoa học George M.Gould (AM.MD) và Walter L.Pyle (AM.MD) do nhà xuất bản Hammond Hoa Kỳ phát hành năm 1983. Đây là những tư liệu tranh ảnh rất có giá trị, giúp góp phần vào sự t́m hiểu và giải đáp về vấn đề Luân hồi nghiệp báo.
Những tư liệu đặc biệt của nhà nghiên cức Jeffrey Iverson tŕnh bày những trường hợp có thật về hiện tượng tái sinh cũng như những trường hợp lạ lung mà Đ.Đ. K. Sri Dhammananda thu thập được khắp nơi trên thế giới (Minh Tuệ 1974).
Ngoài ra c̣n nhiều tư liệu tranh ảnh, sách báo trong và ngoài nước ũng được thu thập để minh họa cho đề tài Tiền Kiếp và Hậu Kiếp.
V́ nhiều khó khăn trở ngại, chúng tôi không thể tiếp xúc hay liên lạc được với tát cả tác giả của những tác phẩm, những tài liệu mà chúng tôi đă sử dụng, đó là một điều đáng tiếc. Rất mong quư vị hoan hỉ bỏ qua những thiếu sót lớn lao ấy.
Tuy nhiên, để được rơ ràng về nguồn gốc tư liệu, chúng tôi luôn luôn ghi chú đầy đủ xuất xứ của những tư liệu ở những đoạn trích đăng hay dưới các tranh ảnh. Các tư liệu trích dẫn c̣n được ghi chú rơ ràng ở phần tài liệu tham khảo nơi cuối sách.
Cuốn sách nhỏ này không thể chứa đựng đầy đủ những chi tiết quan trọng. Mặc dầu vậy, chúng tôi cũng hy vọng giúp bạn đọc phần nào có được vài ư niệm về Luân hồi tái sinh.
Dù tác giả đă cố gắng thật nhiều trong khi soạn thảo cuốn sách này, nhưng chắc chắn lần xuất bản đầu tiên sẽ có nhiều sai sót. Rất mong được sự sự đóng góp tài liệu và chỉ giáo thêm của quư vị độc giả xa gần để hy vọng lần xuất bản sau được đầy đủ hơn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 445 of 1146: Đă gửi: 30 June 2010 lúc 5:52pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN VỀ TIỀN KIẾP HẬU KIẾP
Chương Một.
Bí Ẩn Về Tiền Kiếp Hậu Kiếp
Luân Hồi, Tái Sinh Là Ǵ?
Luân hồi hay tái sinh là sự chuyển hóa sự sống của một sinh vật qua nhiều kiếp theo sự tái sinh. Đây chính là triết thuyết tôn giáo được phát triển cách đây đến mấy ngh́n năm. Thuyết này bàng bạc trong dân gian, khắp nơi trên thế giới, ở Ai Cập, Hy Lạp cổ đại, nhất là Ấn Độ.
Các tôn giáo như Ấn Độ giáo, Phật giáo, Do Thái giáo và cả những người theo thuyết thần trí học (theosophy) đều đề cập đến vấn đề này... thuyết luân hồi lan truyền hầu như toàn bộ các nước ở Châu Á. Người Tây phương hiểu luân hồi qua từ Metempsychosis, Tranmission hay Reincarnation.
Theo Webster's New World Encylopedia (1992) th́ thuyết luân hồi bao hàm ư nghĩa rằng sau khi chết, linh hồn của loài người cũng như loài vật và ngay cả loài cây cỏ cũng sẽ chuyển sinh từ cơ thể này qua cơ thể khác từ dạng này qua dạng khác tùy theo những ǵ đă gây ra lúc c̣n sống.
Thuyết luân hồi hay tái sinh có ư nghĩa vô cùng sâu sắc và chi li: mọi sinh vật, sau khi chết sẽ chuyển hóa từ một thân xác này sang một thân xác khác. Ngay cả loài vật và loài cây cỏ cũng vậy.
Luân hồi hay tái sinh (Reincarnation) là sự chuyển hóa hay sự chuyển sinh, đầu thai (transmission) của linh hồn. Nói rơ hơn là khi chết, linh hồn sẽ chuyển từ thân xác này để nhập vào một thân khác. Khi chết thân xác hủy hoại tan ră, chỉ có linh hồn tồn tại.
Theo Phật giáo th́ luân hồi, tái sinh là một phản ứng nghịch lại, là một sự báo ứng tự nhiên của mọi hành động. Mỗi hành động đều có những phản ứng dội lại cho hành động gây ra. Chữ luân hồi theo Phật giáo lấy từ Phạn ngữ là Samsàra.
Con người phải trải qua nhiều kiếp cho đến khi chịu đủ sự trả quả tương xứng về những ǵ đă làm và không tạo nên nghiệp xấu th́ mới mong được tới cơi an lạc mà Phật giáo gọi là cơi Niết Bàn (Nirvana). Những ai phạm điều xấu, ác th́ khi chết phải đọa vào địa ngục và chịu những sự xử phạt công minh.
Theo thuyết của Phật giáo có mười nghiệp dữ (sát sinh, trộm cắp, dâm dật, tham muốn, tức giận, si mê) đối lại với mười nghiệp dữ có mười nghiệp lành như không giết hại, không tham lam trộm cắp, không giận hờn, không mê muội...) nếu khi sống tạo nghiệp ác th́ khi chết phải chịu luân hồi tái sinh vào thân phận kẻ chịu khổ đau v́ phải trả cái nghiệp xấu ấy.
Nếu khi sống tạo nghiệp lành, th́ khi chết sẽ luân hồi đầu thai vào thân xác mới có đời sống sung sướng tốt lành hơn. Nói tóm lại tất cả những ǵ mà bản thân đang phải trải qua ở hiện tại chính là kết quả của những nghiệp ǵ mà kiếp trước bản thân đă làm.
Và tất cả những ǵ mà hiện tại bản thân hành động th́ đó sẽ là cái nghiệp được tạo lập trong hiện tại để có nghiệp báo ở tương lai tức là sư báo ứng của việc ḿnh làm.
Các nhà nghiên cứu về thuyết luân hồi tái sinh lúc đầu tưởng rằng thuyết này chỉ phát triển ở các nước Á Châu, nhất là vùng Đông Nam Á. Nhưng dần dần họ khám phá ra rằng không riêng ǵ ở vùng Á Châu mà ở các nước Ai Cập, Hy Lạp cổ đại như nơi vùng ốc đảo xa xăm, thuyết này vẫn bàng bạc trong dân chúng và cả người dân Da đỏ cũng thường tin vào thuyết tái sinh.
Các nhà nghiên cứu hiện tượng luân hồi lúc đầu rất ngạc nhiên về sự trùng hợp lạ lùng của một số lớn người Da đỏ ở Bắc Mỹ Châu giống một số lớn người dân Châu Á về niềm tin có sự tái sinh.
Nhưng khi xét về mặt địa lư họ thấy không có ǵ đáng ngạc nhiên v́ thời đại Băng Hà, Á Châu và Mỹ Châu đă dính liền với nhau một cách tạm thời từ hai vùng Tây Bá Lợi Á (Siberia) và Alaska.
Lúc bấy giờ người Á Châu đă liên lạc được với vùng Bắc Mỹ qua ngả này và ngay cả một số loài thú cũng vậy. Bác Sĩ Mills đă đưa ra những điểm tương đồng về sự kiện này như sau.
Người Tây Tạng tin rằng, v́ Phật Sống Lạt Ma của họ khi qua đời sẽ lại tái sinh để chăm dắt và che chở cho dân tộc họ. Cũng vậy, những người Da đỏ Bắc Mỹ Châu tin rằng vị Tù Trưởng bộ lạc đôi khi chọn sự đầu thai trở lại để giúp đỡ những người trong thị tộc.
Ngày nay, một số tôn giáo khác tuy nhiên một số người dân ở đây vẫn c̣n tin vào sự tái sinh. Thường th́ họ suy đoán qua giấc mộng, qua lời nói bất chợt của người trong nhà, nhất là của đứa bé.
Sự trùng hợp về h́nh hài, cử chỉ, hiện tượng.. đều được chú ư cẩn thận. Đôi khi họ c̣n tin tưởng rằng người chết hiện về dù trong giấc mộng cũng bao hàm ư tưởng là họ sắp đầu thai trở lại. Đôi khi họ c̣n để ư qua dấu bớt, vết sẹo trên da của trẻ sơ sinh. Nếu giống với dấu vết mà người đă chết trước đó có th́ có thể nghĩ rằng người ấy đă lại tái sinh.
Cũng có khi họ quan sát đứa trẻ về cách cư xử, ăn ở của nó. Nếu giống với người đă chết th́ đó là điều đáng quan tâm. Nhiều người trước khi chết thường trối trăn lại lời ao ước muốn hay không muốn được sinh ra lần nữa.
Ư Nghĩa Sâu Xa Của Hai Chữ Luân Hồi.
Chữ luân hồi c̣n được hiểu rộng nghĩa hơn nữa khi nhắc đến thuyết Linh Vật (Animism). Bách khoa tự điển cho field Enterpises Educational corporation (Hoa Kỳ) xuất bản năm 1961 ghi rằng thuyết Linh Vật tin tưởng rằng mọi vật thể trong vũ trụ đều có tính linh và cũng chịu luân hồi nhân quả. Mọi sinh vật đều có linh hồn.
Ngay cả con người có vị thế tối cao trong các loài đôi khi vẫn phải tái sinh làm loài thú như ngựa, ḅ heo tùy theo những ǵ mà người ấy đă tạo trước đó. Cái mà người ấy đă gây ra được gọi là nghiệp. Theo D. T. Suzuki nhà tâm lư, triết học nổi danh thế giới, khi nghiên cứu về vấn đề tái sinh từ người qua loài thú đă ghi nhận rằng "cái mà ta gọi là những nghiệp có thể xem như tương đương với những bản tính mà ta thường thấy từ những con vật ấy".
Từ đó ông nêu lên những thí dụ như có những con người lúc sống đă có những hành động, cử chỉ, cách sống biểu lộ qua những ǵ gọi là "thói"1 th́ khi chết có thể tái sinh thành con vật có những đặc tính tương tự. Như kẻ phàm ăn, tục tĩu, thô lậu, xấu xa, hèn hạ, dơ bẩn, sau khi chết có thể họ sẽ tái sinh thành loài heo.
Trái lại những kẻ khi sống thường ranh mănh mưu lược, ganh tỵ, thâm hiểm, xảo quyệt... sau khi chết có thể chuyển sinh thành chồn cáo, chuột, khỉ... lư luận này mới nghe qua sẽ không hiếm cho là kỳ quặc mơ hồ. Cũng có lư luận ngược lại rằng những người khi sống có những tướng cách ấy là h́nh ảnh của loài vật thấp hèn ở tiền kiếp.
Những thuyết luân hồi tái sinh thật sự đă tŕnh bày sự việc vấn đề một cách chi li, phức tạp như đă nói và ai trong chúng ta dù không tán thành, đồng ư nhưng cũng ít nhất một lần trong cuộc, sẽ tự hỏi tại sao trong đời lại có những người h́nh dáng, cử chỉ, hành động, cách sống giống loài thú?
Có người khi nằm ngủ co quắp hay co co rúm lại, có người ngáy vang như sấm, có những đi như rắn ḅ, có người cười như ngựa hí, có kẻ gương mặt luôn luôn nhăn nhó như loài khỉ hay hằn lên nét mặt dữ tợn, với đôi mắt trắng dă, gườm gườm như ác thú.
Có người khi ngồi có tư thế như cọp heo hày giọng nói to, sang sảng như tiếng thú gầm vang? Phải chăng đó là những loài thú ở các kiếp quá khứ và hiện tại mang kiếp người nhưng vẫn chưa thoát hẳn một số chi tiết của loài thú? Những kẻ giết người, những kẻ tra tấn người không gớm tay, những đao phủ, luôn cả những đồ tể (những kẻ giết súc vật) phần lớn hiện rơ ác tính trên cử chỉ dáng đi, giọng nói và nhất là gương mặt.
Thường th́ đi lầm lũi (như cảm nhận được cái xấu xa tàn ác của ḿnh nên không thể biểu lộ được sự thanh thản, yên tĩnh của tâm hồn), đôi tay thường nắm lại, như thủ thế, đặc biệt đôi mắt trắng đă lộ nhăn có nhiều đường gân máu tràn cả ḷng trắng và lan vào tṛng đen.
Có điều kỳ dị là những người này gần như hầu hết đều có con mắt lồi hay tṛng đen treo để lộ 3 phần trắng trong mắt gọi là tam bạch đản hoặc xuất phát, biểu lộ ác tính dă man không có chút tính người qua lời nói như năm 1992, tại Hoa Kỳ, tên sát nhân kỳ dị, dă man chuyên ăn thịt người tên là Jeffrey Dahmer mặc dầu bị bắt hắn vẫn không tỏ dấu ăn năn tội lỗi mà c̣n tuyên bố:
"Nếu có cơ hội, tôi sẽ giết, phân thây và ăn thịt những ai mà tôi bắt được!" Tên sát nhân Jeffrey Dahmer này đă giết 17 người vô tội và ăn thịt rất nhiều người.
Mặc dầu là một con người nhưng rơ ràng hắn c̣n kém xa thú vật nếu xét về mặt tiến hóa của chủng loại về sự phát triển của tư duy tỉnh cảm.
Vấn đề thú có thể chuyển sinh làm người hay người có thể chuyển sinh làm thú trong thuyết luân hồi quả báo đă khiến cho thuyết này trở nên bao trùm mọi vật tương tự như thuyết Linh Vật (Animism) theo đó mọi vật đều có tính linh hay linh hồn và chịu sự chuyển sinh của luân hồi, v́ thế những người tin vào thuyết luân hồi thường kiêng ăn thịt v́ hai lư do:
Thứ nhất sinh vật đă có sinh, có diệt, có sống có chết tức là có biết đau biết khổ, biết sung sướng th́ tại sao ta lại giết chúng? Thứ hai sinh vật ta thấy sống trên quả đất có thể là hậu thân của những người nào đó hoặc đôi khi có thể là người thân mang h́nh hài loài thú qua sự chuyển sinh?
Tuy nhiên thuyết luân hồi cho rằng sự tái sinh luôn luôn xem như một sự tiến hóa hơn. Ở đây cần phải lưu ư về một số thắc mắc được đặt ra, rằng đă là loài thú th́ làm ǵ có trí óc sáng suốt để nhận ra đâu là tà đâu là chánh đâu là điều lành đâu là điều dữ.
V́ thế bảo rằng loài thú gây nghiệp lành hay nghiệp dữ chỉ là sự ngẫu nhiên mà thôi chớ không phải do chủ ư của nó. Điều thắc mắc rơ ràng hữu lư, nhưng nếu nh́n lại ngay cả loài người mà từ lâu ai cũng công nhận là loài sinh vật thượng đẳng có trí óc thông minh hơn tất cả loài vật vẫn không hiếm những con người tàn ác, vô nhân đạo.
Những con người hoàn toàn vô luân, tay luôn luôn nhúng máu, mắt luôn luôn chỉ muốn thấy cảnh chết chóc và ai thích nghe những lời kêu la thảng thốt, khổ đau của người khác. Những kẻ này có trí óc, có suy nghĩ nhưng không bao giờ có ḷng nhân đạo xót xa.
Vậy họ cũng ở cấp độ cao của trí thức, về cấu tạo bộ năo nhưng tại sao họ lại giống loài ác thú? Những kẻ này xét cho cùng c̣n thua loài vật v́ có nhiều loài vật rất hiền lành. Về ư niệm tái sinh luân hồi từ cấp độ thấp tới cấp độ cao theo sự tiến hóa từ lâu đă được nhiều nhà nghiên cứu lưu tâm.
Nhà sinh vật học Charles Darwin nêu thuyết tiến hóa của sinh vật theo đó sinh vật tiến hóa từ tŕnh độ thấp đơn giản dần dần đến tŕnh độ cao hơn và phức tạp hơn theo nhu cầu, cuộc sống và môi trường sống.
Tuy nhiên nhà khoa học chỉ nghiên cứu căn cứ phần lớn vào những ǵ có tính cách thuần vật chất về cấu tạo, dạng thể của các cơ quan cơ thể cùng liên hệ với các hiện tượng sinh lư, sinh hóa chớ không đi sâu vào lĩnh vực luân lư đạo đức, tâm linh sâu xa hơn như thuyết luân hồi chuyển kiếp tái sinh.
Charles Darwin nhận thấy rằng những sinh vật như cá, rùa, ếch, chim, sư tử, ḅ, ngựa, khỉ, người đều có dạng thể phôi (Rmbryos) đầu tiên tương tự nhau.
Nhà khoa học chỉ thấy rơ sự tiến hóa từ "vạn vật đồng nhất thể" ấy qua sự tiến hóa mà thành nhiều hướng để phát sinh ra các loài, họ, bộ, giống, ngành sinh vật khác nhau mà không chú tâm nghiên cứu cái nguyên nhân sâu xa tiềm ẩn bên trong và trước đó ở mỗi sự vật.
Thuyết tiến hóa như thế chỉ phát họa được rằng: "con người như là một toàn thể đă trải qua nhiều giai đoạn tiến hóa. Trong khi thuyết luân hồi cho thấy sự chuyển hóa để thành con người phải trải qua nhiều giai đoạn của sự tái sinh có liên quan nhiều đến những ǵ thuộc về tâm linh và luân lư cùng sự thưởng phạt công minh giống như những định luật tự nhiên trong vũ trụ.
Mỗi con người trước khi trở thành toàn hảo, hoàn thiện để vào cảnh giới an lạc phải trải qua nhiều kiếp chuyển hóa tái sinh. Trong các lần chuyển sinh ấy sẽ có những kiếp khác nhau; khi th́ loài vật, khi th́ loài người, khi chuyển sinh thành loài vật, có thể họ phải trải qua nhiều kiếp như khi th́ loài này khi th́ loài kia tùy theo cấp độ của nghiệp quả.
Qua các tài liệu kinh Phật giáo th́ đức Phật Thích Ca, trước khi thành Phật, ngài đă phải chuyển sinh qua nhiều kiếp.
Cũng theo thuyết luân hồi th́ khi c̣n là kiếp thú, kiếp thú này cũng có hạn định của nó. Hạn định này tùy thuộc vào những ǵ mà nghiệp quả trước đó đă quy định trong thời gian bao lâu để trải qua.
Cùng là một loài vật nhưng cũng vẫn có những con khác nhau về cách sống. Nhưng cùng là một loài chó, vậy mà có con rất trung thành, hiền lành, từ tốn. Trái lại có con rất hung dữ, phản chủ, nhác lười, tham ăn...
Chúng ta từ nhỏ thường đă từng nghe kể chuyện con chó trung thành nọ rất thương chủ, thường ngày ra ga đón chủ về. Nhưng sau đó chủ nó không trở về nữa v́ bị pháo kích chết trong một chuyến đi. Con chó không biết chủ đă chết, vẫn ngày ngày đến sân ga đón chủ.
Suốt mấy tháng trời, con chó buồn bả một cách lạ thường bỏ ăn bỏ ngủ và sau đó gục chết ở trên đường tới nhà ga. Người dân trong vùng vô cùng thương tiếc nên đă chôn cất và xây cho nó một nấm mồ với tấm bia mộ ghi câu "đây là nơi an nghỉ cuối cùng của con chó trung nghĩa".
Tùy theo bản tính riêng biệt ở mỗi con vật mà luật luân hồi tái sanh quy định cho chúng sự chuyển sinh vào một kiếp nào đó theo đúng với sự thưởng phạt hoàn toàn vô tư và công b́nh. Dù mèo, chó, chim chóc, cây cối...
Các chủng loại này ở cạnh nhau, gần gũi nhau từ thời đại này qua thời đại khác và chẳng có ǵ là đáng ngạc nhiên khi chúng ta và ngay cả những đứa bé mới hiểu biết cũng vẫn cảm thấy rơ ràng là có sự tự nhiên, quen thuộc và hầu như gần gũi với tất cả những sinh vật xung quanh ta với mọi chủng loại.
Phải chăng điều đó nói lên rằng ta và những sinh vật ấy đă có sự liên hệ vô h́nh nào đó ràng buộc? Phải chăng chúng có cùng một bản tính với ta là cùng sinh ra, lớn lên, bệnh (sâu, bệnh) dinh dưỡng (ăn, uống, hô hấp, bài tiết) sinh sản rồi chết là do ta và chúng đă có lần chuyển sinh cho nhau từ muôn ngàn kiếp trước và sẽ c̣n gặp gỡ ở những kiếp lai sinh?
Thế gian, vạn vật đồng nhất thể đă một phần thể hiện ở đó. Nh́n mọi loài vạn vật chung quanh chúng ta mới thấy được những h́nh thức tiến hóa quy tụ cả trên thế gian này giống như trong một trường học có vô số học sinh nhưng khác nhau về tŕnh độ tri thức, số năm học, lớp học, môn học...
Bên ngoài là toàn thể ngôi trường và toàn thể học sinh nhưng bên trong tiềm tàng sự chuyển động, vận hành của vấn đề học vấn, về sự tiến hóa của kiến thức, học hỏi và tŕnh độ ngày càng cao của các học sinh.
Nếu các học sinh chuyên tâm học hỏi th́ vào thời gian nào đó họ sẽ được chuyển dần lên lớp mới và ra trường, họ sẽ không c̣n phải học ở trường đó nữa.
Chỉ có những học sinh nào nhác lười, ham chơi, hạnh kiểm xấu, học kém th́ những học sinh ấy mới dễ bị thi hỏng, ở lại lớp chậm ra trường... Tất cả những h́nh ảnh vừa kể là biểu tượng của h́nh ảnh về sự tiến hóa của những kiếp.
Ngay trong một kiếp sống của ta, nếu t́m hiểu kỹ và suy luận theo thuyết luân hồi th́ (theo D.J.Suziki) cũng thấy được một cách khá rơ ràng những giai đoạn tương ứng với những cơi mà suốt trong vô lượng kiếp ta đă phải và sẽ trải qua.
Daisetz Teitaro Suzuki đă viết trong cuốn Mysticism Christian and Buddisht một đoạn về nhận định này với đại ư như sau: "qua những kinh nghiệm hàng ngày của mỗi con người chúng ta, nếu lưu tâm để ư chúng ta sẽ thấy ngay trong cuộc sống của đời ḿnh có tất cả những ǵ mà ta có thể kinh nghiệm được bằng cách đi qua một hạn kỳ về tái sinh dài.
Những ǵ mà chúng ta có được hay gặp phải khi đang c̣n sống đều thấy có sự tương đồng với nó ở một nơi nào đó ở cơi thanh cao tốt đẹp là chốn thiên đàng dưới hỏa ngục hoặc ở những nơi khác như cơi ngạ quỉ súc sanh.
Khi ta vui vẻ hớn hở, hạnh phúc chính là điều tương ứng với cơi thiên đàng, c̣n khi ta đau khổ, gặp hiểm nguy, tai họa khốn cùng là như ta đă rơi vào cơi địa ngục. Khi ta tức giận, nộ khí xung thiên là như ta đă đi vào cơi A tu la rồi vậy..."
Viviane Contri khi tŕnh bày vấn đề đầu thai trong tạp chí Madame actuelle số 254 đă viết như sau:
"Thời gian trải qua do sự đầu thai ở mỗi linh hồn thường khác biệt nhau, tu nhiên trung b́nh một linh hồn đầu thai khoảng mỗi 250 năm. Giữa thời gian này, mỗi linh hồn sẽ nh́n lại kiếp sống đă qua và từ đó sẽ chọn lựa một cách lư tưởng cho cuộc tái sinh kế tiếp."
Theo Jean Francis Crolart, nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi và là tác giả cuốn sách nổi tiếng nhan đề: "Tái sinh sau khi chết đă ghi nhận rằng:
"Kiếp sống hiện nay của mỗi con người chúng ta tùy thuộc nhiều kiếp sống trước đây (tiền kiếp) nhưng chính từ kiếp sống hiện tại sẽ đặt nền tảng và tiền đề cho kiếp sống ở tương lai hay hậu kiếp.
Vai Tṛ Của Linh Hồn Trong Sự Luân Hồi Tái Sinh.
Câu hỏi từ ngàn xưa đă được đặt ra là cái ǵ đă giúp cho sự luân hồi chuyển sinh được thực hiện, phải chăng đó là linh hồn? Nhưng linh hồn thật sự có hay không? Nếu có th́ linh hồn là ǵ? Linh hồn hiện hữu hay vô h́nh?
Từ thời cổ đại con người đă tin rằng: ngoài thân xác ra, con người c̣n có linh hồn. Linh hồn là phần linh diệu thâm sâu nhất. Khi chết, thân xác trở nên bất động và đi vào hủy diệt c̣n linh hồn th́ rời khỏi thân xác.
Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh th́ Hồn là phần tinh thần hay Linh tính của con người, là ư thức, tư tưởng của con người.
Người Âu Mỹ gọi linh hồn qua từ Âme, soul (Pháp, Anh, Mỹ) hay psyché (Hy Lạp) hoặc seel (Đức). Từ Âme được giải thích là nguyên lư của sự sống, của tư tưởng hay của tất cả hai, khi nguyên lư được xem như là một thực tại khác biệt với thể xác, qua đó hồn hoạt động. Thực tại ấy có thể xem là vật chất hay không vật chất.
Theo người Daisetz Teeitaro Suzuki th́ linh hồn không thể được khái niệm như là một thực thể hay một đối tượng như bất cứ một đối tượng nào khác mà ta đă thấy quanh ta. Linh hồn không thể là cái có h́nh dạng hoặc có thể thấy được qua mắt người... bởi v́ nếu là hữu h́nh th́ làm sao linh hồn đi vào thể xác được?
Đối với người Hy Lạp th́ linh hồn chính là cái tinh thần có nhiệt, cái giúp ta cử động hô hấp.
Theo Tự điển và Danh từ triết học của Trần Văn Hiến Minh th́ Hồn là nguyên sinh lực hội tụ nơi sinh vật. Linh hồn là cái yếu tố quyết định quan trọng. Nhờ linh hồn mà sinh vật mới có sự sống.
Từ thời cổ đại xuất hiện thuyết nói về linh hồn đó là thuyết vạn vật linh (hay thuyết linh hồn nguyên thủy: Animism). Theo thuyết này th́ tất cả mọi thứ trên quả đất từ con người đến con thú và ngay cả cỏ cẩy đất đá cũng đều có linh hồn.
Quan niệm này c̣n bàng bạc trong dân gian và ta cũng đă thường gặp lại trong các câu như: "Hồn thiêng sông núi" "Hồn nước"... Ngày nay, một số lớn người Á Châu, Phi Châu, Úc Châu và nhất là các thổ dân vùng Hải đảo vẫn c̣n tin tưởng về thuyết đó.
Tuy nhiên, tùy theo tôn giáo, phong tục, tập quán mỗi quốc gia mà sự tin tưởng của mỗi dân tộc có vài khác biệt, nhưng phần chính yếu th́ vẫn giống nhau đó là sự tin tưởng rằng có linh hồn. Người Việt Nam và Trung Hoa c̣n chịu ảnh hưởng nhiều của nền văn hóa cổ xưa, họ quan niệm rằng con người có ba hồn.
Ba thứ hồn ấy là:Sinh hồn: phần đem lại sinh hoạt lực cho thể xác. Giác hồn: giúp thu nhận và thể hiện các cảm giác và những phản ứng. Linh hồn: là phần quan trọng nhất, đây là phần thâm sâu vi điệu nhất của con người và cũng chính nhờ phần này mà sự luân hồi, đầu thai, chuyển sinh được thực hiện thuận lợi.
Đối với người Ai Cập th́ khi chết linh hồn sẽ thoát khỏi thể xác như chim bay v́ thể họ dùng h́nh ảnh một phi điểu biểu tượng cho linh hồn thể xác th́ tan ră nhưng linh hồn th́ tường tồn và chuẩn bị chuyển vào một cuộc sống mới khác qua một thân xác khác.
Việc ướp xác của người Ai Cập phần lớn chủ đích muốn duy tŕ sự liên hệ giữa linh hồn và thân xác được lâu dài.
Đối với người Tây Tạng th́ hồn là phần linh diệu trú ngụ trong một phần gọi là thân xác. Thể xác chỉ có cái vỏ cho hôn trú ngụ mà thôi. Hồn và xác liên hệ nhau qua một thể giống như sợi dây đặc biệt có từ tính. Khi sợi dây ấy đứt chính là lúc hồn ĺa khỏi xác.
Đối với các nhà triết học th́ từ cổ đại, một số nhà triết học như Platon, Pythagore, Hereclite. Empedocles, Aristote Epicure đề có nghiên cứu và đề cập nhiều đến linh hồn và coi linh hồn như là một thể quan trọng trong sự chuyển hóa đời sống.
Về sau có Plotin, Descartes, Pascal, Shopenhauer, Ralph Waldl Emerson, Frederic William Henry Myers... tiếp nối sự nghiên cứu, t́m hiểu cũng như tin tưởng vào sự hiện hữa của linh hồn.
Plotin tin rằng: con người phạp tội, khi chết linh hồn rời khỏi thân xác sẽ nhập vào một cơ thể khác để trải qua một kiếp sống khác nhằm trả nợ những tội lỗi, sai lầm mà người ấy đă gây ra trước đó.
Như vậy, theo Plotin th́ sự tái sinh hay đầu thai phát sinh là do ở tội lỗi mà ra. Chính những sai lầm, những hành động từ trước của ta đă gây ra những trừng phạt kế tiếp mà ta phải trả.
D. T. Suzuki ghi nhận rằng: sau khi chết, linh hồn sẽ chuyển từ một thân xác này sang một thân xác khác thuộc cơi thiên, nhân, động vật, thực vật...
Đối với c tôn giáo th́ mặc dầu có khác nhau về lư thuyết nhưng hiếm có tôn giáo nào phủ nhận về linh hồn.
Theo Ấn Độ giáo th́ linh hồn là thực thể vô cùng quan trọng đối với mọi vật thể sống. Linh hồn được gọi là Atman và do đấng toàn năng Brahma tạo ra. Theo Ấn Độ giáo th́ tất cả mọi loài sống trên quả đất này đều có linh hồn.
Linh hồn bất sinh bất diệt. Linh hồn giúp sự tái sinh chuyển hóa. Linh hồn chuyển hoán từ thân xác này qua thân xác khác để trải qua một kiếp sống khác, cứ thế cho đến khi đạt được điều kiện để hợp nhất hay liên kết với Brahma mới thôi. Brahma được hiểu như linh hồn của vũ trụ.
Theo quan niệm của Ky Tô giáo th́ con người là một linh hồn và v́ con người là một linh hồn nên khi chết, linh hồn cũng sẽ chết theo. Như vậy đối với Ky Tô giáo, linh hồn hiện hữa nhưng nhưng linh hồn không thể biệt lập và riêng tư đối với thể xác.
Tuy nhiên cần lưu ư là, theo quan niêm Ky Tô giáo th́ "linh hồn nào phạm tôi th́ sẽ chết (Ê Xê Chiên 18: 4 và 20) và đến ngày phán xét: "mọi người trong Mồ Mả nghe tiếng ngày và ra khỏi: ai làm lành th́ sống lại để được sống, ai làm ác th́ sống lại để bị xét đoán... (Giăng 5: 28-30).
Như thế, khi một linh hồn chết đi (người là một linh hồn) th́ có thể trong tương lai, trong này phán xét, linh hồn ấy sẽ sống lại và qua sự phán xét của Đấng tối cao, sẽ được sống đời đời hay chết vĩnh viễn.
Đối với Khổng giáo th́ con người là kết hợp của thể các, hồn, khí và phách. Phách hay vía, không phải là thể xác (như thể xác đối với tinh thần, mà là những nguyên lư của sự sống nhưng hạ đẳng. Không thể xem phách là thể xác (corps) được, những thành ngữ phổ biến trong dân gian chứng minh điều đó.
Như vía độc: fluide vital irefacte đốt vía (để trừ khử hơi hay khí độc, hay xui xẻo, hay: hồn phi phách lạc (hồn hay phách, hay vía, hay khí rơi: hoảng hốt, sợ hăi (I'ame s'envole, le suoffle tombe, épouvanté)... khi chết, chỉ có h́nh hài tan ră, c̣n cái khí tinh anh sẽ vào trong vũ trụ.
Riêng đối với Phật giáo th́ sinh vật, nhất là con người, có cái năng lực vi diệu được chuyển từ kiếp này qua kiếp khác. Cái năng lực ấy được gọi là Yid Kyi Mawpar Shespa, một danh từ ất đặc biệt phức tạp mà thông thường được hiểu như cái gọi là Linh Hồn.
Hai chữ linh hồn đối với quan niệm Phật giáo thật ra chỉ là danh từ tạm dùng mà tạm hiểu cho thuyết luân hồi chuyên hóa của kiếp người theo luật Karma (nghiệp) để người b́nh dân dễ lĩnh hội mà thôi. V́ con người thường hiểu nhầm chữ Linh Hồn với Thân Trung Ấm hay Thân Thức là phần ĺa khỏi thân xác sau khi chết.
Tuy nhiên, để dễ hiểu khi giải thích sự chuyển hóa của hiện tượng luân hồi, tái sinh, linh hồn được xem như cái cầu nối, là cái chuyển sinh là cái để đầu thai, trả nghiệp.
V́ thế nhiều sách Phật giáo thỉnh thoảng vẫn thấy bóng dáng chữ Hồn hay Linh Hồn v́ một phần nào để giản dị hóa cho vấn đề là con người sau khi chết sẽ lại tái sinh tùy theo những ǵ mà người ấy đă gây ra trước đó.
Theo quan niệm trong dân gian của người Việt Nam và phần lớn chịu ảnh hưởng quan niệm của đạo Phật th́:
Sau khi con người trút hơi thơ cuối cùng th́ cái mà ta gọi là linh hồn tuy đă thoát khỏi thể xác nhưng lúc này "linh hồn" c̣n như ở trong t́nh trạng tự do, chưa nhập vào một thân xác mới, giai đoạn này phải trải qua một thời gian là 49 ngày. "linh hồn" thuộc giai đoạn 49 ngày này được gọi là Thân Trung Ấm, một cái "thân" khác với nhục thâ đă bất động là thân xác. Thân trung ấm c̣n được gọi là Thần thức.
Phần lớn con người khi chết đều phải qua giai đoạn trun âm này (ngoại trừ những người đă cósẵn đạo đức tu hành, nghiệp quả lớn th́ được sinh ngay lên cảnh giới cao c̣n những người ác độc th́ phải sinh vào địa ngục sau khi chết).
Thân trung ấm có thể xem như linh hồn, tuy không có h́nh hài, tai mắt... nhưng vẫn biết, vẫn thấy, vẫn nghe và đặc biệt lại có thể đi thông suốt qua mọi vật, nhưng con người đang sống không thể thấy được thân trung ấm.
Trong Luận Câu Xá (cuốn thứ 9) có một đoạn mô tả về thân trung ấm như sau:
Thân trung ấm của chúng sanh nơi Dục giới có kích thước bằng một đứa bé 5 đến 6 tuổi nhưng linh hoạt sáng suốt vô cùng. Thức ăn chỉ toàn là mùi hương v́ thế mà có tên là Càn thát ba (nguyên văn: Dục giới trung hữa chi lượng, như tiểu nhi niên ngũ, lục tuế, nhiên chư căn minh lợi, Dục giới chi trung hữa dĩ hương vi thực, nhân chu xưng chi vi Càn thát bà) (theo T.T Thích chánh lạc Sống và Chết).
Khi chết, thân xác không c̣n biết ǵ nữa. Lúc ấy "linh hồn" đang ở vào trạng thái của thân trung ấm hay thần thức. Thần thức sẽ rời khỏi thể xác. Thời gian tách rời ấy nhanh hay chậm c̣n tùy vào nhiều vấn đề. Tổng quát có thể chia ra làm 2 trường hợp chính sau đây:
1. Trường hợp thứ nhất: Thân trung ấm ngay thân xác trường hợp này hiếm, chỉ có những bậc chân tu, đức độ, đă rủ sạch được nghiệp quả.
2. Trường hợp thứ nh́: thân trung ấm rời khỏi thân xác sau một thời gian hoặc sau nửa ngày, sau vài ngày hoặc lâu hơn là 49 ngày.
Theo các vị Lạt Ma Tây Tạng th́ hồn ĺa khỏi xác trong khoảng thời gian 3 ngày đầu sau khi chết rất quan trọng v́ hồn c̣ thể c̣n nuối tiếc thân xác và cuộc sống nên vẫn c̣n lẩn quẩn không chịu rời.
Đối với trường hợp những người bị tai nạn, bị giết hại một cách bất ngờ th́ sự tách rời của "hồn": ra khỏi thể xác lúc đó xảy ra quá nhanh, bất th́nh ĺnh nên đă tạo nên một sốc lớn khiến thể xác có những tư thế bất b́nh thường qua các phản ứng cơ thể với tác nhân bên ngoài.
Thể xác sẽ có những tư thế nằm, ngồi co quắp hay gương mặt nhăn nhó, mắt mở trừng trừng, mồm há hốc...
Linh Hồn Có Hay Không?
Mới đây kư giả Báo Paris Match là Patrice Van Eersel đă viết cuốn sách nhan đề "Ia source Noire", trong đó ông tŕnh bày những trường hợp đặc biệt về những người chết đi sống lại mà những nhà khoa học, những giáo sư, bác sĩ tại các Đại Học Hoa Kỳ đă lưu tâm nghiên cứu.
Theo các nhà nghiên cứu này phần lớn những người chết đi sống lại ấy đều không ít th́ nhiều đă có những cảm nhận lạ lùng là thấy... "h́nh như" họ đă thoát khỏi thân xác trong một khoảng thời gian tương ứng với lúc họ mê man bất động. Điều đặc biệt là "họ thấy chính họ" đang nằm chết.
Nhà nghiên cứu những hiện tượng huyền bí Joe West Hoa Kỳ) năm 1991 cũng viết cuốn sách nói về những điều bí mật lạ kỳ đáng lưu ư ở nước Mỹ (Great American Mysteries) ông nghi nhận rằng: có đến hơn 3.000.000 người Mỹ đă trải qua những kinh nghiệm về sự rời ĺa của chính họ ra khỏi thân xác họ trong những trường hợp khác nhau như tai nạn, bệnh tật, mổ xẻ...
Có người thấy rơ được ḿnh, đă rời khỏi thể xác và đi khá xa đến những nơi mà khi mô tả lại đều trùng hợp với những ǵ kiểm chứng sau đó từ thời gian, địa điểm, địa danh, sự việc xảy ra.. Bác sĩ Eugene E. Barnard (giáo sư thuộc ngành Bệnh Học Tâm Thần (Psychiatry) ở Đại Học thuộc Bắc Carolina tin rằng: trung b́nh cứ 100 người trong chúng ta th́ có một người đă có lần cảm nhận được điều đó.
Nhà Tâm bệnh học John Bjorkhelm đă khảo cứu hơn 3000 trường hợp về những hiện tượng lạ thường mà khoa học không giải thích được, những sự "xuất hồn và chu du nhiều nơi của một số người.
Trường hợp nổi bật nhất cũng là chứng cớ sôi nổi nhất đă do chính Văn Hào Emest Hemingway kể lại trong lần bị thương nặng đến thập tử nhất sinh nơi chiến trường trong trận thế chiến thứ 2.
Ông đă thấy rơ ràng chính ông đă thoát ra khỏi cơ thể của ông giống như như h́nh ảnh của việc lôi cái khăn tay ra khỏi túi áo, rồi sau đó ông thấy chính ḿnh trở lại, nhập vào cái tha6nn xác của chính ḿnh lúc hồi tỉnh... Chính sự kiện này đă là nguyên nhân thúc đẩy ông viết cuốn: Giă Từ Vũ Khí (A Farewell to Arms), cuốn sách hấp dẫn thuộc loại beest seller.
Năm 1991 Jim Hogshire cũng thu thập các sự kiện liên quan đến vần đề "hồn ĺa khỏi xác". Đề tài Out of body đă được nói nhiều trong cuốn Life after Death (Đời sống sau khi chết). Theo nhà nghiên cứu hiện tượng vừa nói là Jim Hogshire th́ các nhân chứng thường là bác sĩ, y tá, bệnh nhân...
không những chính bản thân của người bị của người bị nạn thấy "hồn" ḿnh thoát khỏi cơ thể ḿnh vào lúc họ thiếp đi v́ tai nạn, mổ xẻ... mà ngay những người đang ở kề cận họ lúc đó cũng có thể thấy được điều đó. Cô y tá Linda ở Floria đă kể rằng chính mắt cô thấy rơ một khối mờ đục có dạng như sương khói thoát khỏi cơ thể một người bệnh đúng lúc người ấy tắt thở.
Theo các bác sĩ và nhân viên làm việc ở các bệnh viện cấp cứu (emergency) th́ sự kiện vừa nêu không phải là chuyện lạ lùng. Bác sĩ Josef Issels, (bác sĩ nổi danh về khoa ung thư ở Đức) cho rằng: hiện tượng người chết "xuất hồn" là chuyện mới nghe qua có vẻ kỳ bí và phản khoa học. Nhưng đó là một vấn đề trước mắt mà giới y khoa cần phải lưu tâm.
Nếu xét theo hiện tượng Vật lư th́ hơi ra từ nắp ấm nước cho thấy nước đă bắt đầu sôi th́ khối hơi trắng đục thoát ra khỏi cơ thể bệnh nhân cũng chỉ là dấu hiệu của sự chết bắt đầu. Cái khối hơi ấy là hồn, là linh hồn hay ǵ đó th́ cũng chỉ là tiếng gọi mà thôi.
Điều quan trọng là khoa học cần lưu tâm nghiên cứu xem đó là ǵ? Và phần thoát ra khỏi cơ thể ấy sẽ đi đâu? Nhiệm vụ nó là ǵ?... " Có lần theo lời thuật lại của chính bác sĩ Josef Issels th́ một hôm đang ở bệnh viện, ông vào pḥng của một nữ bệnh nhân già, bà nh́n ông chăm chăm và nói: "Bác sĩ có biết rằng tôi có thể rời khỏi thân xác tôi không?
Tôi sẽ cho bác sĩ một chứng cớ về vấn đề này..." Bác sĩ Josef lấy làm lạ chưa kịp trả lời th́ bà lại nói: "Ngay tại đây và ngay bây giờ, bác sĩ hăy đến pḥng số 12, tại đó sẽ thấy một người đàn bà đang ngồi viết thư cho con..." rồi bà ta c̣n mô tả h́nh dạng của người đàn bà đó và nội dung phần đầu của bức thư.
Cho dây là một dịp thuận lợi là lùng cho ḿnh, bác sĩ Josef Issels vội vă đến ngay pḥng sối 12 vừa lúc thấy người đàn bà ngồi viết thư... Bác sĩ Josef liền quay trở về pḥng nữ bệnh nhân gài th́ bà đă chết.
Theo bác sĩ Josef th́ rơ ràng người bệnh này đă thấy được những ǵ ở pḥng số 12 cách pḥng bà khá xa là nhờ một năng lực nào đó. Nếu đúng như lời bà nói "tôi có thể rời khỏi thân xác tôi..." th́ có thể ngoài thể xác, bà c̣n có một thể xác nữa đă có thể rời khỏi bà đi tới đó.
Cái thể mà người ta thường gọi là hồn ấy c̣ khả năng đi xuyên qua tường, cây cối hay xuyên qua người khác...
Một trường hợp khác Jacky C. Bayne, quân nhân Mỹ đă kể lại rất rơ (như đă nói từ trước) trong khi chiến đấu tại Việt Nam (trong trận chiến ở Chu Lai) đă bị thương nặng và trong giờ phút ngất xỉu ấy, anh ta thấy ḿnh thoát ra khỏi thể xác và đă thấy rơ ràng thân xác ḿnh ở trên bàn mổ...
Tuy nhiên, một số nhà khoa học không tin vào những ǵ mà chính cả những đồng nghiệp của ḿnh đă kể lại về cái hiện tượng vừa nói.
Bác sĩ Karl Osis, Giám Đốc Viện Nghiên Cứu Tâm Thần ở Hoa Kỳ (người đă viết cuốn sách nói về những người chết trên giường bệnh và những hiện tượng quan sát được qua những cái chết ấy bởi các thầy thuốc và y tá (Deathbed Observations by Physicans and Nurses), mới đây đă cho biết là hai nhà nghiên cứu các hiện tượng liên quan đến cơi chết là W. F Barretl và bác sĩ J.H. Hyslop đă có những nhận xét thuộc hiện tượng ảo giác (Hallucinations).
Những ảo giác về người chết thường bao gồm từ những cái nh́n mơ hồ của người sắp chết và cả người sống lúc nh́n sự vật, nhất là sự vật ấy đượm nét siêu linh huyền bí. Thông thường, đối với những người đang sống, chẳng có ǵ khác lạ đối diện gặp gỡ nhau. Nhưng cũng là người quen biết ấy, gặp vào lúc họ sắp qua đời hay trút hơi hở cuối cùng th́ rơ ràng giữa người sống và người chết đă có sự khác biệt hoàn toàn.
Cái cảm giác ấy có ở hầu hết mọi người. Trong giờ phút đó, cái cảm giác sợ hăi, xa cách giữa sự sống và sự chết nẩy nở rất nhanh và sự nh́n, sự nhận định sẽ phần nào chịu ảnh hưởng của những cảm giác vừa kể, được tăng cường đối với không khí huyền bí siêu linh của sự chết làm dễ phát sinh những nhận xét thuộc về hiện tượng ảo giác. Người yếu bóng vía có thể tưởng tượng ra nhiều h́nh ảnh phát sinh từ người chết.
Hiện tượng trông thấy linh hồn xuất ra từ thân xác người chết cũng thuộc vào một trong những ảo giác. Như thế, rơ ràng nhiều nhà khoa học đă cho rằng những ǵ mà nhiều người đă thấy, đă kể lại về sự kiên xuất hồn ở người mới ĺa đời chi là hiện tượng ảo giác mà thôi.
Ngược lại, những nhà khoa học đang nghiên cứu về hiện tượng xuất hồn hiện nay mặc dầu chưa khẳng định hoàn toàn có hay không hiện tượng ĺa khỏi xác nhưng họ cũng không đồng ư với lập luận về hiện tượng ảo giác mà một số nhà khoa học đă nêu ra.
Theo họ, có thể sự nghi ngờ ấy chỉ là đặc tính của phần lớn các nhà khoa học mà thôi đó là đặc tính thận trọng Trong thực tế, những trường hợp lạ lùng có tính cách siêu linh khó lư giải vẫn thưởng xảy ra và được thực rơ ràng.
Bác sĩ Crookall và F. W. H Myers đă sưu tập hành trăm trường hợp về vấn đề liên quan đến cái gọi là "hồn ĺa khỏi xác" và họ phân ra hai trường hợp chính:
Một là những kinh nghiệm đă trải qua về hồn rời thân xác và hai là những tin tức, dữ kiện thu nhận được thông qua những người ngồi đồng, những đồng tử (medium), giáo sư C. J. Ducasse là một trong những nhà triết học và khoa học tự nhiên nổi tiếng đă t́m cách lư giải những ǵ mà hiện nay giới khoa học đang bàn căi sôi nổi về sự kiện có hay không cái gọi là hồn hay linh hồn và sự rời ĺa của hồn khỏi xác khi chết.
Theo giáo sư th́ hiện nay, các nhà nghiên cứu và ngay cả các nhà khoa học đă dấn thân vào lănh vực t́m hiểu sự thật của vấn đề. Họ đă thu thập vô số trường hợp có liên quan, những mô tả về điều mà họ gọi là linh hồn, về sự liên kết giữa linh hồn và thể xác qua một vật thể giống như một sợi dây.
Sự rung động đầy sức sống của sợi dây ấy và cả trường hợp sợi dây liên hợp ấy đứt rời để cái gọi là "hồn" tách ĺa khỏi thể xác cũng được nhiều người mô tả, sự mô tả thường đồng nhất và nhân chứng không phải chỉ có người lớn mà c̣n là trẻ con, sự kiện mà chúng chưa bao giờ nghe, đă thấy hay đă đủ khả năng nghĩ tới.
Nhà phân tâm học Hippolyte Baraduc đă tận mắt trông thấy một khối hơi thoát ra khỏi cơ thể người vợ ông khi bà này trút hơi thở cuối cùng. Ông Baraduc đă chụp được bức ảnh lạ lùng này.
Một tài liệu sưu tầm về hiện tượng này đă được tạp chí tiền phong 1991 đăng tải, theo đó, nhiều nhà khoa học đang mạnh dạn bước vào lănh vực nghiên cứu về linh hồn.
Như nhà khoa học Jan Lundquyst đă quyết tâm t́m hiểu sự thật về vấn đề linh hồn khi ông trông thấy một thứ ánh sáng màu xanh xuất phát từ cơ thể người vừa ĺa đời. Bác sĩ phân tâm học Elizabeth Kubler Ross th́ khẳng định rằng: "trước đây tôi không tin về những ǵ gọi là đời sống sau khi chết. Nhưng nay tôi đă có một vài chuyển hướng trong cách nhận định của tôi về vấn đề này".
Sau đây là một số h́nh ảnh mà các nhà nghiên cứu như các bác sĩ Raymond Moody Jr., Robert H. Elizebeth Kubler Ross, Iair Stevenson, giáo sư Carey Williams chuyên nghiên cứu về những ǵ sau cơi chết...
Đă thu thập được từ những người đă gần gũi với cái chết hay đă có lần chết đi sống lại, đă trải qua một đoạn đường vượt qua ranh giới cơi sống và cơi chết, nghĩa là bước đi một khoảng đường đi qua bên kia cửa tử để rồi v́ một lư do nào đó lại quay về... đă sống lại.
Trong một bài sưu tập về những h́nh ảnh của những người đă chết đi sống lại đă mô tả, nhan đề "trở về từ cơi chết" đăng tải trong L.S. Tiền Phong 1992, tác giả Thế Vỹ đă nêu ra ba trường hợp chính sau đây:
1. Một người tên là Iva Brawn, sinh sống ở Lamiraada (Cali) đă bị tai nạn xe hơi khi băng ngang qua đường lộ. Người này bị xe hất tung đi rất xa và ngất xỉu.
Trong thời gian mê man như chết đó, người này đă thấy nhiều h́nh ảnh lạ lùng: nguồn sáng từ đâu chói ḷa bao phủ và có tiếng nói phát ra từ ánh sáng đó "đừng sợ, con sẽ không sao cả" sau 6 ngày hôn mê, người ta cứ ngỡ rằng bà chết nhưng rồi bà sống lại và bà kể chuyện này cho người chồng nghe.
Mấy năm sau, chồng bà Iva Brawn mất và một năm sau bà Iva Brawn đang nằm ngủ bỗng nhiên thấy chồng ḿnh xuất hiện nói với bà rằng: "Cách đây mấy năm, ḿnh có kể cho tôi nghe những ǵ mà ḿnh đă thấy trong vụ tai nạn xe hơi, nhưng tôi không hiểu giờ đây, tôi đă hiểu nơi đây thật đẹp, nhất là nước. Ḿnh không thể tưởng tượng được là nước ở đây đẹp đến độ nào..."
2. Một phụ nữ tên là Sttooksbury kể lại rằng, bà bị chính người chồng dùng dao quyết tâm đâm chết nhưng nhờ bề trên che chở, bà đă được sống lại trước sự kinh ngạc của các y bác sĩ ở bệnh viện.
Sttooksbury kể rằng: "lúc bị ngất đi và được mang vào bệnh viện ai cũng tưởng tôi chết v́ máu ra quá nhiều, riêng tôi, tôi cảm thấy như trôi vào một đường hầm tối đen... ở ngưỡng cửa sinh tử, tôi đă trông thấy mẹ tôi đứng đó thật rơ ràng, bà đưa tay vẩy vẩy ra dấu bảo tôi hăy trở về: "Hăy trở lại đi, chưa tới lượt con đâu!"
3. Bà Connie Zickefoose ở Cloverdale (tiểu bang Ohio) kể rằng: lúc đó tôi đang ở trên bàn sanh, đầu óc tôi quay cuồng rồi một màn đen phủ ập lên... tôi thấy ḿnh đi trên con đường đầy ánh sáng, hoa nở, hồ nước với cá lội muôn màu...
Tôi vào một căn pḥng, trong đó có chúa Jesus. Chúa ân cần đặt bàn tay lên vai tôi và nói: "con không vào được đâu! v́ một khi con đă vào th́ không thể ra được phải nhanh lên v́ ở đây không có th́ giờ và trên cơi thế, giờ của con cũng sắp hết rồi!
Thế rồi tôi trở lại, tôi thấy thân thể tôi rơ ràng ở trên bàn sanh, mặt tái nhợt. Các bác sĩ đang yên lặng, có lẽ họ nghĩ tôi đă chết, rồi tự nhiên họ reo lên v́ biểu hiện sự sống nơi tôi đă thể hiện qua cái máy gắn vào cơ thể tôi.
Trong cuốn "In search of the Dead" củ Jeffrey Iverson tác giả Jeffrey đă nêu ra rất nhiều trường hợp của những người chết đi sống lại kể về những ǵ họ đă thấy.
Kể từ khi cuốn sách Đời tiếp nối đời (life after life) xuất bản năm 1975, hàng ngàn trường hợp liên quan đến vấn đề tiếp cận đến những h́nh ảnh thấy được sau khi chết được báo cáo, phân tích và nghiên cứu.
Bác sĩ Melvin Morse đă kể lại một trường hợp có thật đă xảy ra như sau:
Vào năm 1982, một bé gái 7 tuổi bị rơi vào một hồ bơi, khi vớt lên, th́ bé gái này đă ngưng thở gần 20 phút đồng hồ. Các bác sĩ cho rằng cháu bé này đă chết. Nhưng như có một phép lạ, nhờ hô hấp nhân tạo, cháu bé đă tỉnh lại và sau đó kể những ǵ mà cháu đă trải qua trong thời gian coi như đă chết ấy.
Cháu cho biết đă gặp một người mà cháu nghĩ rằng đó là Chúa Trời. Người hỏi: "cháu có muốn ở lại đây không th́ cháu bé trả lời muốn nhưng người lắc đầu; con c̣n mẹ, con có trách nhiệm với người mẹ đang c̣n sống, v́ thế con nên trở về..."
Ngoài ra cháu bé c̣n kể rằng cháu đă gặp nhiều trẻ con và người lớn, những người này đi lại tự nhiên nhưng nét mặt không vui và không rơ nét lắm. Ở đây có nhiều người tập trung như chuẩn bị đi đâu đó có lẽ đang chờ tái sanh.
Khi bác sĩ Melvin Morse hỏi cháu bé rằng: cháu đă tỉnh lại lúc nào cháu biết không th́ cháu bé trả lời là khi nghe Chúa bảo con có trách nhiệm với mẹ đang c̣n sống hăy trở về th́ vừa lúc cháu tỉnh lại...
Bác sĩ Melvin Morse c̣n tiếp tục t́m kiếm và phỏng vấn những trẻ con khác, những trẻ con đă có lần tiếp cận với cái chết hay đă có lần chết đi sống lại. Điều kỳ lạ là nhiều trẻ nhỏ đă mô tả lại cả những h́nh ảnh mà lúc đó chúng đang trong t́nh trạng hôn mê.
Như đă trông thấy các nhân viên bệnh viện làm việc ra sao, đẩy băng ca mà trẻ đang nằm bất tỉnh vào pḥng mổ, rồi bác sĩ đặt ống thở vào mũi, rồi những cái máy hồi lực, đo nhịp tim...
Tuy bé không hiểu ǵ nhưng mô tả khá linh động và bác sĩ Melvin Morse đă cố gắng thành lập các nhóm khảo cứu gồm những nhà thần kinh học, những chuyên gia chuyên chữa trị bệnh thần kinh (psychiatrists), neurologists... để t́m hiểu do đâu mà khi bất tỉnh mê man thường phát sinh ra những h́nh ảnh lạ lùng và thường hay trùng hợp, tương tự khi so sánh với những trường hợp như thế với người khác.
Sau một thời gian, một vài kết quả sơ khởi đă được nêu ra. Những nhà nghiên cứu này nhận thấy rằng: Thùy thái dương ở năo bộ có vai tṛ quan trọng đối với hiện tượng vừa kể trên. Thùy thái dương (the temporal lobe) được xem như vùng có những mật mă di truyền về những ǵ gần gũi với cái chết.
Khi bị kích thích điện năo một thành viên trong nhóm đă kêu lên "Ôi chúa tôi! tôi đă rời thân xác tôi rồi!" Phải chăng trong thùy thái dương của năo bộ có một vùng liên quan mẫn cảm với một thể mà ta gọi là linh hồn.
Nhưng nguyên nhân nào đă gây lên tác động ở thùy này của bộ năo? Tại sao khi hôn mê phần này sẽ được kích động để biết linh hồn tách khỏi thể xác và những h́nh ảnh ở cơi giới khác xuất hiện.
Jeffrey Iverson, nhà nghiên cứu về sự chết đă phát biểu như sau: "Rơ ràng có một giới hạn lớn và giới hạn ấy khá xa để khoa học có thể tới gần được với linh hồn và những h́nh ảnh mà con người lúc đó thấy được..."
Trong cuốn life after life (đời tiếp nối đời) của bác sĩ Raymond A. Moody cũng có nhiều đoạn mô tả củ những h́nh ảnh, ánh sáng và màu sắc lạ lùng như đầu tiên họ thấy một vùng ánh sáng h́nh quả cầu xuất hiện ở góc pḥng, ngay dưới trần pḥng.
Khối cầu sáng ấy có năng lực lạ lùng nâng nhẹ họ lên rồi sau đó họ thấy ḿnh ở trên cao và nh́n xuống thân xác ḿnh nằm bất động trên giường.
Họ nh́n lại cái thể mới của họ cái thể vừa thoát ra khỏi thân xác. Cái thể mới này giống như sương khói, có pha chút màu sắc xanh lơ, màu cam và màu vàng. Cái thể ấy họ gọi là "cái hồn". Hồn ấy có dạng h́nh Ô van và có phần giống như đầu và tay.
Khi hồn họ chuyển theo khối cầu sáng ấy th́ chính họ như được đẩy đi hay nói khác đi là được khối cầu hút theo nó. Họ cho biết lúc bấy giờ họ nhẹ như tơ và ḷng thanh thản vô biên. Họ xuyên qua tường, xuyên qua những cây cột ở hành lang bệnh viện, xuyên qua các tầng lầu để xuống tầng dưới các cửa dù đóng hay mở họ đều đi xuyên qua, xuyên qua cả các nhân viên ở bệnh viện nữa.
Điều kỳ lạ là họ không biết vận tốc của sự chuyển dịch nhất là nhận thức về tốc độ. Mỗi lần đền gần sát một vật cản như bức tường, cánh cửa họ đều thấy tất cả như tan biến hết và trống không v́ thề mà họ xuyên qua dễ dàng.
Trong thời gian di chuyển họ thường nghe bên tại như có lời khuyên bảo hay chỉ dẫn và cái âm thanh lạ lùng kia xa vắng mông lung khó diễn tả được.
Một bệnh nhân tên Jack cũng đă kể lại những ǵ mà ḿnh đă trải qua khi anh đang ở trong giai đoạn hôn mê. Jack đă mô tả những cảnh trí như vừa nói trên và anh ta đă theo tiếng gọi xuất phát từ khối cầu sáng đưa anh xuyên qua nhiều pḥng.
Sau cùng khi trở lại thân xác ḿnh anh có ảm tưởng như có người nào đó ở cơi giới vô h́nh đang đợi anh. Anh nghĩ rằng anh sẽ chết. Ngày mai người ta sẽ đưa anh vào pḥng mổ. Anh cố viết hai lá thư, một lá thư cho vợ và một lá thư cho con. Anh có cảm tưởng những lời viết trong thư là những lời giă biệt.
Thế rồi anh khóc. Vừa lúc đó anh có cảm tưởng như ai đang ở bên cạnh và có tiếng hỏi: Sao lại khóc? Anh có thích theo ra không? Anh trả lời trong tâm trí ḿnh: vâng tôi thích, tôi muốn ra đi! tiếng nói lại văng vẳng bên tai: thế tại sao lại khóc?
anh trả lời: tôi đang khóc v́ thương nhớ vợ và con, Tôi nghĩ khi ra đi, ai lo cho vợ con tôi...?! Có tiếng đáp lời anh "Vậy là tốt, anh đă nghĩ đến người khác hơn là nghĩ tới ḿnh, anh sẽ được sống cho đến khi cháu bé trưởng thành.
Ngày hôm sau cuộc giải phẫu tuy có nhiều khó khăn nhưng bác sĩ Cofeman và đồng sự đă cố gắng hết ḿnh nên đă đem lại kết quả tốt lành, Jack hồi tỉnh...
Những trường hợp đáng lưu tâm:
Dưới đây là lời kể của một người đàn bà đă phải trải qua một giai đoạn gần gũi với cái chết. Nhà nghiên cứu Verlyn Klinkenborg chuyên phỏng vấn nhưng người đă đi vào cơi chết ghi lại lời kể sau đây của một thiếu phụ:
"Tôi nhớ là ḿnh đă bị sốt cao, nhiệt độ cơ thể lên đến 106 độ (độ F). Tôi như bị loạn nhịp tim. Toàn thân cảm thấy đau nhức, ớn lạnh nóng ran xen kẽ. Tôi cảm thấy đau đớn lạ thường.
Tôi bị nhiễm trùng đột ngột. Trong lúc ư thức tôi ch́m đắm dần vào cơm mê th́ tôi nghe văng vẳng bên tai tiêng kêu... "tôi không thể, tôi không thể kiểm soát nổi huyết của bà ta nữa rồi!" có lẽ đó là tiếng kêu than của bác sĩ đang theo dơi cơn sốt của tôi.
Rồi bỗng nhiên torng khoảnh khắc, tôi thấy vô số những phần nhỏ li tu xuất hiện tràn đến, tôi lâng lâng và cảm thấy nhẹ bỗng một cách lạ thường và tôi thoát ra khỏi cơ thể của chính tôi dễ dàng như cởi bỏ bộ áo choàng và cùng lúc như trút lại đàng sau cơn đau khủng khiếp mà trước đó đă hành hạ tôi.
Tôi như bay lên phía góc của trần nhà trong căn pḥng bệnh viện. Từ đó tôi thấy phía dưới các bác sĩ, các cô y tá đang lăng xăng lo cứu mạng sống của tôi. Một bác sĩ lộ vẻ bối rối, nét mặt lo âu thực sự vỉ có lẽ tôi đă chết dưới nhận định của ông và của mọi người đang có mặt trong pḥng.
Tôi nghe tiếng bác sĩ làu bàu như nguyền rủa cái ǵ đó và vô t́nh ông ngước nh́n về phía góc trần nơi tôi đang ở đó, nhưng chắc chắn là ông ta không trông thấy được tôi.
Một thoáng sau, tôi bắt đầu trôi dần vào một vùng sâu thẳm lạ lùng, có thể ví đó là một đường hầm có miệng hun hút như cái giếng với những lớp mây màu xám đục bao phủ nhưng tôi vẫn có thể thấy được ḿnh đang xuyên qua những lớp mây giăng phía trước...
Tôi nghe bên tai tiêng gió vun vún tôi như lướt đi mặc dầu lúc đó tôi không c̣n có thân xác nữa v́ thân xác tôi đang năm trên giường với tấm ráp phủ lên thân ḿnh.
Lúc bấy giờ tôi cảm thấy nỗi kinh dị lạ lùng đến cùng với vầng sáng, những tia sáng vàng rực rỡ và tôi ḥa vào những ánh sáng ấy. Tôi có linh cảm rằng ḿnh đang đi vào nơi tận cùng của thế giới, đang qua một nơi trung gian của thế giới tôi đang sống với thế giới khác...
Tôi muốn tiếp tục tiến sâu vào nơi chan ḥa ánh sáng lạ kỳ ấy nhưng lại như có cái ǵ đó níu kéo tôi dừng lại. Tôi bỗng sực nhớ đến hai con tôi. Tôi không thể xa chúng, tôi phải săn sóc chúng.
Thế rồi tôi lại thấy những chấm nhỏ li ti xuất hiện lần thứ hai y như lúc tôi vừa bị rơi vào đường hầm hun hút. Tôi nghĩ ḿnh đang quay về đường cũ. Tôi đến gần thể xác ḿnh và nhập vào cái thân xác bất động ấy.
Sự việc có vẻ tự nhiên và dễ dàng như lần tôi thoát khỏi thân xác ḿnh. Tôi cảm thấy ḿnh có sức nặng và bỗng nhiên cảm giác đau đớn lại đến... vừa lúc tôi nghe có tiếng động xôn xao và có tiếng kêu lên: "Bà ta đă sống lại rồi ḱa!". Sau đó, bác sĩ cho tôi biết là đứa con tôi vừa mới chào đời đă chết...
Từ đó, tôi luôn luôn giữ măi những h́nh ảnh lạ lùng về những ǵ mà tôi đă trải qua, những h́nh ảnh ấy cứ chập chờn măi trong tâm trí nhất là vào mỗi đêm trước khi đi ngủ và tôi nghĩ rằng: "ḿnh đă có một lần chết đi sống lại", và tôi tự hỏi: phải chăng đoạn đường tôi mới bước qua là đoạn đường dẫn vào thế giới khác, một thế giới khác xa với thế giới mà tôi hiện đang sống.
Một trường hợp đặc biệt khác cũng đáng lưu tâm là ngay chính một bác sĩ (thuộc khoa tâm thần học và là giáo sư bác sĩ tại một trung tâm y khoa lớn kiêm bệnh viện thuộc đại học đường Virginia) trước đó cũng đă trở về từ cơi chết tường thuật lại những ǵ ông đă thấy qua một lần chết đi sống lại:
Giáo sư bác sĩ George Richie, trước đây là một quân nhân bị bệnh sưng phổi nặng nên được chuyển vào một bệnh viện lớn chữa trị. Thời đó, thuốc penicilline chưa được phát minh nên việc chữa trị bệnh sưng phổi vô cùng khó khăn và thường thường th́ hết 90 phần trăm là người bệnh khó thoát khỏi lưỡi hái của tử thần.
V́ thế một thời gian ngắn khi được chuyển vào bệnh viện, bệnh t́nh của George Ritchie ngày càng trầm trọng và đă qua đời. Các bác sĩ ở bệnh viện đă xác nhận rằng George Ritchie đă chết nên người ta chuyển xác đến nhà quàng.
Tại đây một số thủ tục giấy tờ, khai tử và chuẩn bị đưa người chết vào quan tài đang được tiến hành và một mặt báo tin cho nhân viên trông coi về các thủ tục nhập học và tiếp nhận sinh viên được gởi từ các nơi đến để được huấn luyện các khóa chuyên môn tại đại học Virginia biết là khóa sinh George Ritchie đă chết.
Tuy nhiên bác sĩ trực nhật cho rằng điều này không cần thiết v́ thế việc báo tin cho đại học Virginia được băi bỏ. Trong lúc Ritchie nằm duỗi trên chiếc băng ca, bác sĩ trực khám lại một lần nữa và lắc đầu thất vọng, ông nói, giọng rất trầm "chết thật rồi" vừa nói, bác sĩ này vừa kéo hai cánh tay người chết cho thẳng ra để ḷng bàn tay úp xuống.
Sau đó phủ tấm drap lên khắp thân xác người chết. Lúc bấy giờ, nhà xác đầy người chết v́ thế bác sĩ trực đề nghị cử người canh xác và chính nhờ người canh xác này mà sau đó anh ta phát giác được người chết đă cựa quậy dưới tấm drap trắng.
Các nhân viên trực nhật khi nghe người canh xác báo cáo sự việc đều. Chỉ có bác sĩ trực và cô y tá chịu lắng nghe và họ đă đến bên xác Ritchie. Khi tấm drap được kéo khỏi mặt Ritchie bác sĩ trực đă dùng 2 ngón tay lật mi mắt xác chết để quan sát, trong khi đó, cô y tá thấy rơ ràng các ngón tay của Ritchie cử động... và từ từ Ritchie mở mắt.
Thế là George Ritchie, người quân nhân chết v́ bệnh sưng phổi đă sống lại một cách kỳ lạ và v́ cơ thể c̣n quá yếu nên phải nằm bệnh viện chờ b́nh phục một thời gian khá lâu và sau đó mới được chuyển về trại Barkey rồi sang Âu Châu phục vụ trong quân đội ở ngành quân y. Sau cuộc chiến, George Ritchie tiếp tục vào học ngành y tại đại học Virginia và tốt nghiệp khoa bác sĩ.
Bác sĩ George Ritchie đă nhớ lại những ǵ mà ḿnh đă trải qua trong suốt khoảng thời gian coi như đă giă từ cơi đời. Mọi chi tiết bác sĩ đều ghi lại thật đầy đủ và về sau câu chuyện có thật này c̣n được giáo sư bác sĩ Wilfred Abse ở đại học Virginia kể lại và nhất là giáo sư Carey Williams và chuyên gia khảo cứu các vấn đề luần hồi là Sylvia Cranston mô tả lại rơ ràng.
Theo lời kể của chính bác sĩ George Ritchie th́ khi đang nằm trên giường của bệnh viện, tự nhiên ông ta cảm thấy thân xác ră rời rồi một bức màn xám đen từ đâu phủ ập lên đôi mắt ông nghe mơ màng có tiếng người chuyển động, tiếng bàn tán và lời của bác sĩ trưởng nói: "đă tắt thở rồi!".
Lúc bấy giờ theo lời của bác sĩ George Ritchie: "tôi không có y nghĩ ǵ khác lạ cả. Tôi chỉ cảm thấy mơ màng thôi nhưng tâm trí tôi rất sáng suốt tôi nhớ là tôi được tuyển chọn để được huấn luyện chuyên môn về ngành y tại đại học Virginia nhưng v́ bệnh phổi nên phải tạm vào điều trị ở bệnh viện.
Giờ đây tôi phải đến trường đại học gấp v́ ở đó đang chuẩn bị lể khai giảng khóa mới. Tự nhiên tôi cảm thấy cơ thể ḿnh lạnh buốt. Tôi phải thay quần áo và thế là tôi đi t́m. Bỗng nhiên tôi thấy một người nằm trên giường mà tôi đang nằm. Tôi nh́n không lầm v́ giường có ghi số rơ ràng. Tôi cảm thấy lạnh quá, phải t́m quần áo ẩm để mặc vào mới được.
Tôi thấy một sĩ quan đang bước qua nên tôi vội vă chạy lại yêu cầu ông giúp đỡ nhưng tôi có nói bao nhiêu ông ta cũng mơ hồ như không nghe thấy mà cứ bước đi tự nhiên. Thời giờ gấp rút quá nên tôi, quyết định chịu rét để đi nhanh đến trường đại học y khoa tại Virginia cho kịp. Tôi cảm thấy ḿnh lướt đi như những ǵ thường gặp trong mộng khi di chuyển.
Tôi thấy một con sông rộng rồi cây cầu dài bắt qua sông để tới một thành phố lớn. Thành phố này quả thật tôi chưa bao giờ đến tôi thấy một tiệm giải khát, tiệm Bia và cả tiệm cà phê nữa. Tại đây tôi gặp một vài người và hỏi họ tên đường và tên thành phố nhưng chẳng có ai trả lời tôi cũng như thấy tôi cả.
Có lần tôi đập tay lên vai một người khi tôi hỏi nhiều lần nhưng người này vẫn không nói. Tuy nhiên tay tôi như chạm vào khoảng không. Người này có gương mặt tṛn và cằm có sợi râu dài. Sau đó tôi đi đến bên một người thợ điện đang loay hoay quấn dây điện thoại vào một bánh xe lớn. Tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy ḿnh khác người và rơ ràng chẳng có ai trông thấy tôi mặt dù tôi thấy tất cả mọi người.
Tôi nghĩ rằng nếu cứ như vầy mà t́m đến đại học Virginia th́ quả là bất tiện nên tôi quyết định trở lại bệnh viện tôi đi đến nhà xác, hàng trăm người đang nằm trên giường. Tôi đi loanh quanh để t́m chỗ nằm của ḿnh. Tôi thấy một cái xác đă phủ tấm drap trắng, nơi ngón tay của xác này có đeo một chiếc nhẫn mà thoạt nh́n tôi đă cảm thấy ngờ ngợ một cách lạ lùng.
Tôi nhớ là tôi cũng đeo một chiếc nhẫn như thế. Tôi cúi xuống nh́n thật kỹ, rơ ràng bàn tay có những đặc điểm giống tay tôi... và cái giường số giường lại chính là số giường tôi đă nằm. Vây đây chính là thân xác của tôi, tôi đă chết thật rồi sao?
Nhưng tôi không có cái cảm tưởng rằng ḿnh đă chết, tôi thấy đủ thứ như đang c̣n sống. Chỉ có điều mà trước đó tôi phải phân vân là h́nh như chẳng có ai thấy tôi cả. Tôi cố gắng kéo tấm drap phủ lên các thân xác mà tôi nghĩ là của tôi, ư chí của tôi th́ muốn hành động nhưng tôi không thể nào kéo được tấm drap phủ mặt cái xác ấy.
Tôi cố gắng nhiều lần nhưng tôi không tài nào làm được và cuối cùng tôi nhận rơ rằng quả thật tôi đă chết. Vừa lúc đó tự nhiên tôi cảm thấy trong pḥng nhà xác sáng rực rỡ, một thứ ánh sáng lạ lùng tôi chưa bao giờ thấy và tôi như bị lôi cuốn theo cái nguồn sáng lạ kia.
Tôi đă thấy những cảnh trí mà từ khi sinh ra cho đến bây giờ tôi chưa bao giờ thấy, những cảnh trí mà tôi cảm tưởng rằng chỉ có ở thế giới bên kia v́ những con người ở đây thường không rơ ràng, mờ ảo, vó vùng tối tăm, có vùng chan ḥa ánh sáng mà những nhân vật hiện diện giống như những thiên thần.
Sau đó tự nhiên vầng sáng giảm dần, tôi cảm thấy muốn quay về. Trong phút chốc tôi thấy lại những căn pḥng, những thân xác bất động trên giường và tôi tiến tới chiếc giường mà trên đó là thân xác tôi.
Tôi như bị cuốn hút vào cái thân xác đó, tôi từ từ chuyển động các ngón tay và cuối cùng mở mắt ra. Một lúc sau, bác sĩ và cô y tá đă ở trước mắt tôi, nét mặt rạng rỡ. Tôi đă sống lại, đă thật sự sống lại...
Những ǵ mà sau đó George Ritchie kể lại đă làm một số bác sĩ trong bệnh viện ngạc nhiên. Điều kỳ lạ đáng lưu ư là những ǵ mà Ritchie đă kể và đă ghi chép lại trong tập nhật kư đều chứng thực sau đó.
Như trường hợp lạ kỳ sau đây: Sau khi câu chuyện đi vào thế giới sau cơi chết của Ritchie đă mô tả được một năm th́ Ritchie phải trở về trại Barkey và được gởi sang Âu Châu để phục vụ tại một bệnh viện quân đội.
Trên đường xe chơ Ritchie đă đi qua một thành phố mà trước đây một năm trong khi coi như đă chết, Ritchie đă đi qua, nào tiệm bán bia, tiệm cà phê, cây cầu dài bắt qua sông, những khúc đường rẽ, những bảng hiệu và kỳ lạ hơn nữa là cái cột điện thoại mà trước đây tôi đă đi xuyên ngang qua thân thể của một người thợ điện đang quấn dây điện thoại...
Đây là thành phố ở gần chân thành Vicksburg thuộc tiểu bang Mississipi, nơi mà chưa bao giờ George Ritchie đă đi qua.
Ngày nay George Ritchie đă là Viện Trưởng Viện tâm thần ở Charlotsville và không bao giờ quên rằng ḿnh đă có lần chết đi sống lại cũng như không bao giờ quên những cảnh giới lạ lùng ở bên kia cơi thế gian mà loài người đă sống.
Nhà nghiên cứu hiện tượng tâm lư Sushil Bose đă t́m gặp trực tiếp những người đă từng nhớ lại tiền kiếp để phỏng vấn họ. Năm 1939, ông đă viết một báo cáo chi tiết về cuộc phỏng vấn giữa ông và cô gái Ấn Độ tên là Shanti Devi.
Cô gái này đă nhớ lại rất rơ ràng về tiền kiếp của ḿnh. Cô cho biết trước đó tên cô là Lugdi Devi, vợ một người tên là Pandit Kendermath Chowbey. Nhưng rồi bị một tai nạn nhiễm trùng và qua đời. Nhà nghiên cứu tâm linh Sushil Bose đă hỏi Shanti Devi như sau:
- Shanti nhớ rơ về tiền kiếp ḿnh th́ có thể nhớ lại những ǵ xảy ra trước và sau khi chết đó?
Shanti trả lời là nhớ rơ. Và sau đây là một phần của cuộc phỏng vấn đó.
- S, Bose: Shanti hăy thuật lại những ǵ đă xảy ra vào lúc đó.
- Shanti: Khi ấy tôi cảm thấy ḿnh như mơ màng đi vào cơi sâu thẳm tối đen rồi sau đó lại thấy ánh sáng chói lọi tỏa rạng dần dần. Đó là thứ ánh sáng chan ḥa kỳ diệu làm hoa mắt. Chính vào lúc đó, tôi biết được rằng ḿnh đă ĺa khỏi thân xác ḿnh qua dạng thể một làn hơi và chuyển động lên cao dần.
- S. Bose: Lúc đó Shanti có thấy cái thân xác của ḿnh không?
- Shanti: Lúc đó tôi chỉ có cảm tưởng là đă ĺa khỏi thể xác, mặc dầu tôi như chuyển động lên cao nhưng tôi lại không nh́n xuống mà chỉ măi lo nh́n ngắm cái ánh sáng lạ lùng bao phủ quanh ḿnh. Có lẽ lúc đó nếu nh́n xuống ngay khi tôi có cảm giác ḿnh tách rời thân xác tôi có thể thấy được thân xác ḿnh.
- S. Bose: Lúc đó Shanti có cảm giác đau đớn mỏi mệt yếu đuối hay không?
- Shanti: Không! lúc đó tôi không thấy một chút ǵ gọi là đau đớn mệt mỏi cả. Trái lại tôi thấy ḿnh nhẹ nhàng thanh thản lạ lùng.
- S, Bose: Sau đó c̣n điều ǵ xảy ra?
- Shanti: Khi đó, trong cái áng áng chói lọi rực rỡ ấy, tôi thấy có bốn người mặc áo dài màu vàng sẩm cùng xuất hiện. Những người này đều rất trẻ khoảng 14, 15 tuổi. Trông họ tươi sáng như những thiên thần. Những người này đi về phía tôi với dáng vẻ nhẹ nhàng thanh thoát.
Trước mắt tôi là một ngôi vườn đẹp tuyệt vời, cái vẻ đẹp mà chưa bao giờ tôi đă thấy được ở thế gian nên khó mà mô tả cho hết được... Rồi tôi thấy 4 người hồi năy tiến gần và nhấc bổng tôi lên cao. Tôi cảm thấy một niềm lâng lâng khó tả lan khắp người. Tôi chẳng có ư niệm ǵ nữa về thời gian.
Chẳng có mặt trời, mặt trăng, cũng chẳng có ngày đêm. Tất cả đều chan ḥa trong cái ánh sáng vô cùng tỏa rạng, ấm áp, huyền diệu, lung linh sinh động lạ thường. Tôi chẳng biết nói hay diễn tả làm sao cho hết những ǵ tôi đă thấy vào lúc đó. Điều kỳ lạ là lúc này h́nh như tôi không c̣n lệ thuộc vào những giác quan mà con người có lúc c̣n sống để nh́n, để nghe, để cảm xúc.
Điều đáng lưu tâm là khi kho6ng c̣n lệ thuộc vào giác quan ḿnh nữa th́ tri giác lại trở nên bén nhạy vô cùng. Dù giác quan con người có tinh xảo đến mấy cũng không giúp con người thấy được xuyên tường, nhưng nếu không c̣n hiện hữu cơ thể phàm trần hay cơ quan thị giác chẳng hạn th́ lại có thể thông suốt được cả bức tường như không và điều này cũng thể hiện cho các giác quan khác, ở lănh vực nghe, cảm nhận, ngửi...
Trên đây là một số sự kiện thu thập được từ các nhà tâm lư, khoa học, các nhà y học khi họ tiếp xúc được với những người có khả năng nhớ lại tiển kiếp hay đă có lần chết đi sống lại, những người đă có kinh nghiệm với cái chết.
Những người này may mắn có được ư niệm về những ǵ gọi là sự chết và linh hồn. Giáo sư H. H. Price (tại Đại học Oxford) cho rằng: Linh hồn của con người là một phương tiện của ư thức hay nói rơ là hơn là một công cụ của sự hiểu biết và trong cuộc sống, từ cổ đại đến nay kinh nghiệm ở mỗi con người đă có được những sự kiện để chứng minh rằng có cái ǵ đó ngay trong thân xác họ.
Nhiều chứng nhân và nhiều sự kiện được chứng minh về sự hiện hữu của linh hồn và c̣n khẳng định rằng linh hồn không chỉ đơn thuần là một thể luân phiên thay đổi cho thân xác mà c̣n là một thể siêu việt hơn nhiều v́ giữ những vai tṛ then chốt, quan trọng trong vấn đề suy nghĩ, cảm nhận, cũng như là cầu nối cho những cuộc sống khác tiếp diễn...
Nhà nghiên cứu Robert Crookall vừa là nhà tâm lư học vừa là nhà khoa học (ông là giáo sư khoa học tài nhiều trường Đại học và là hội viên của nhiều hiệp hội chuyên nghiên cứu về các hiện tượng siêu nhiên huyền bí).
Khi nghiên cứu và t́m hiểu về sự hiện hữu của linh hồn, ông đă sưu tập vô số các sự kiện liên quan và nhất là gặp gỡ những nhân vật đáng tin cậy, đặc biệt những người có lần đă trông thấy tận mắt cái mà con người thường gọi là hồn hay linh hồn.
Ông đă ghi chép tất cả những ǵ đă thu thập và hệ thống rơ ràng. Sau đây là một số h́nh ảnh và màu sắc về linh hồn mà Robert Crookall đă sưu tầm được.
"Theo tổng kết của R. Crookall th́ linh hồn thể hiện dưới nhiều h́nh dáng và màu sắc. Theo Muldoon th́ mờ sáng như sương khói, đôi khi như đầy hơi nước hoặc như vầng mây nhỏ màu trắng không hoàn toàn trong suốt. H́nh ảnh này chỉ hiện rơ trong khoảng một vài phút đồng hồ rồi tan biến.
Chính ông Edgar Cayce, người có khả năng xuất hồn để chữa bệnh ( nổi tiếng ở Hoa Kỳ) cũng thường mô tả linh hồn giống như lớp sương hay khói mờ. Maurice và Irene Elliot cũng đă thấy phần thoát ra từ thể xác người chết có màu trắng như lớp sương mù. E. W.Oaten th́: "giống như hơi nước bốc lên".
Bác sĩ Charles Richet xác nhận rằng: tôi thấy ngay tại giường người chết có một đám mây từ từ thoát khỏi thân xác người chết. Trong tài liệu sưu tập của Robert Crookall có nhiều phần mô tả như thế và đó là những mô tả do chính các nhân chứng như bác sĩ Whiteman, bác sĩ Simons, giáo sư E. Bo ano, bác sĩ Gilbert (Alice Gilbert), bác sĩ A.J.Davis, bác sĩ D.P.Kayner, bác sĩ Hereward Carrington...
Theo một số nhân chứng mà phần lớn là bác sĩ và y tá th́ phần sương khói ấy sau khi thoát ra khỏi cơ thể vẫn c̣n ở cách cơ thể một khoảng mà không rời hẳn. Điều kỳ lạ là sự xuất hiện của một dảy sáng mờ giống như giải lụa nối liền người chết với phần mờ đục như khói sương của cái mà ta thường gọi là linh hồn.
Ngoài ra những h́nh ảnh đáng ghi nhớ khác c̣n được nhiều nhân chứng đáng tin cậy trông thấy mà mô tả lại. Đó là sự xuất hiện của một giải màu sáng trắng xuất phát từ phía sau đầu (tiểu năo hay ở thùy chẩm) của người chết nối liền với phần mờ đục thoát ra khỏi thể xác người chết (linh hồn).
Trong cuốn Out of the Body Experiences, nhà nghiên cứu Robert Crookall đă mô tả chi tiết các sự kiện vừa tŕnh bày trên đây. Ông đă tiếp xúc với các nhân chứng, họ là những nhà khoa học, những y tá, những bác sĩ. Như bác sĩ R.J.Staver, giáo sư Hitchcock, bác sĩ Hout, các nhà khoa học như J.Bertrand.
Oliver Fox, Reverend L.J.C.Street bác sĩ D.P.Kayner, giáo sư M.Eliade, bác sĩ E.W.Oaten, bác sĩ A.J.Davis và Raynor C.Johnson... Những người này đều đă chứng kiến rơ ràng một khối hơi thoát ra từ cơ thể người vừa tắt thở và trước đó khối hơi c̣n nối kết với thân xác bằng một giải màu sáng đục rung động và khi sợi dây này rung động mạnh và đứt ĺa th́ chính là lúc người chấm dứt sự sống.
Có nghĩa là "hồn đă ĺa khỏi xác" Không c̣n liên hệ ǵ với thân xác nữa (vấn đề này đă được tŕnh bày đầy đủ chi tiết trong cuốn Những bí ẩn sau cơi chết đă xuất bản"
Tóm lại. Hiện tượng về sợi dây liên kết giữa thân xác người chết và phần giống như sương khói thoát ra từ thân xác ấy mà người ta thường gọi là hồn hay linh hồn đă là sự kiện mà các nhà khoa học và nhất là giới y học hiện nay quan tâm và ra sức nghiên cứu v́ như đă tŕnh bày từ trước.
Nếu sự kiện này là có thật như nhiều chứng nhân đă thấy rơ ràng th́ chắc chắn sẽ phát sinh thêm những ngành chuyên về sự chết như linh hồn học, tử sinh học...
Các nhà khoa học cố gắng t́m cách để có thể cụ thể hóa qua h́nh ảnh rơ ràng và sợi dây bạc ấy, họ không muốn với tinh thần khoa học thực nghiệm lại chỉ vào những lời kể, mô tả của những nhân chứng dù là các nhà khoa học đáng tin cậy đi nữa mà không có bằng cớ rơ ràng.
V́ về thu h́nh đă cố t́m cách ghi lại h́nh ảnh mà những ǵ có được lúc con người vừa trút hơi thở cuối cùng. Một số h́nh ảnh chụp được khối hơi thoát ra từ cơ thể người mới chết, nhưng những nhà nghiên cứu c̣n muốn thu được những h́nh ảnh rơ ràng về sợi dây bạc (Silver core). Schrench Notzing, giáo sư bác sĩ nổi tiếng thế giới, trong cuốn Phenomena of Materialisation (1928-Kegan Paul) đă cho rằng.
Qua những ảnh chụp về những ǵ liên hệ đến khối hơi hay sợi dây bạc, tuy không rơ nét nhưng dù sao đó cũng là một h́nh ảnh đáng lưu tâm. Có thể h́nh ảnh ấy chỉ là lớp ngoại mạo che dấu bên trong nhiều bí ẩn hơn.
Theo một số lớn các nhà khoa học th́ h́nh ảnh cho thấy như là một khối siêu vật thể ấy khi tách khỏi cơ thể tức là sự sống không c̣n, giống như gịng điện đă ngưng truyền nguồn điện lực vào cái máy.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 446 of 1146: Đă gửi: 30 June 2010 lúc 6:07pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN VỀ TIỀN KIẾP HẬU KIẾP
Chương Hai.
Luân Hồi Qua Các Tôn Giáo
Thuyết luân hồi đă có từ lâu và bàng bạc cùng khắp thế giới. Lúc đầu nhiều người vẫn tưởng triết thuyết Luân hồi chỉ có ở Ấn Độ nhưng qua các nghiên cứu sâu xa hơn th́ Luân hồi c̣n là tín ngưỡng của người Ai Cập. Ở Hy Lạp, vấn đề luân hồi được nói đến nhiều mà đại diện là nhà triết học cổ đại nổi danh Platon đă nhiều lần đề xướng trong các tác phẩm bất hủ của ḿnh.
Không riêng ǵ Ấn Độ giáo và Phật giáo thường dùng thuyết luân hồi làm căn bản, các vị tăng lữ Gô Loa cũng đă một thời giảng dạy Luân hồi cho các tín đồ của ḿnh. Nhà triết học Schopenhauer khi nhắc đến vấn đề Luân hồi cũng đă ghi nhận rằng các dân tộc Mỹ Châu, da đen và cả người Úc Đại Lợi cũng đă biết khá nhiều về luân hồi.
Giáo phái Hồi ở Hindoustan (giáo phái Bohrahs) đă rao giảng về thuyết Luân hồi cũng như cổ xúy vấn đề ăn chay không ăn thịt. Một số lớn dân vùng hoang đảo, những người dân Fijii cũng tin vào luân hồi: Tuy nhiên đi sâu vào thuyết Luân hồi phải là Ấn Độ giáo và Phật giáo
Ấn Độ Là Cái Nôi Cơ Bản Của Thuyết Luân Hồi Tái Sinh
Nhà biên khảo nổi tiếng William Durant (thường gọi là Will Durant) khi viết về triết thuyết của các tôn giáo cổ xưa ở Ấn Độ đă lưu ư nhiều về tín ngưỡng mà dân chúng Ấn đă tin tưởng từ thời Vệ Đà (Veda) (2000 - 1000). Tôn giáo xưa cổ nhất của Ấn, theo Durant là tôn giáo mà người Naga đă theo (dân tộc cổ nhất Ấn Độ thường thờ thần rắn).
Người Naga thờ đủ các vị thần, họ tin là có đủ linh hồn, tin vào thần tạo ra muôn loài trên quả đất, vị thần đó có thể là Soura, là Prajapati, là Indra... Thần này có cơ thể tách đôi phần pati thuộc nam giới và phần patnie thuộc nữ giới.
Về sau hai phần ấy rời ra và chuyển hóa thành những h́nh tượng sinh vật khác qua mỗi lần đều t́m đến nhau để phối hợp nên vạn vật mới được sinh thành.
Bộ kinh lâu đời Upanishad cho thấy rằng mọi vật đều được sinh ra theo ṿng luân hồi chuyển hóa, h́nh thể sinh vật này được phát sinh là do một h́nh thể khác kia chuyển qua. Con người phàm trần mắt thịt chỉ thấy mọi sự vật qua h́nh dáng, biểu tượng bên ngoài mà tưởng rằng cái này khác cái kia.
Giác quan con người chưa đủ khả năng để lănh hội được những ǵ có tính cách huyền vi sâu xa bên trong những ǵ mà họ thường thấy, nghĩa là giác quan con người không nhận ra được cái bản thể vi diệu bên trong những h́nh thể hiện hữu trên thế gian này.
Theo lời dạy trong bộ kinh này th́ con người có linh hồn, linh hồn liên kết với thể xác lúc sống, nhưng khi chết, linh hồn tách rời khỏi thể xác và chịu sự phán xét theo luật tự nhiên. Linh hồn sẽ được sống ở cảnh an lạc hay chịu xử phạt công minh.
Kinh Upanishad Katha th́ chỉ cần nh́n đời sống của một cây lúa từ khi được gieo cho đến khi chết là có thể biết được kiếp người sống chết ra sao, câu: "Con người giống cây lúa, sẽ chết đi như cây lúa rồi lại tái sanh như cây lúa mà thôi" đă được dân tộc Ấn thời cổ đại thuộc nằm ḷng. Các kinh Veda thường là những bài thơ dài và được truyền khẩu từ đời này qua đời khác.
Kinh Veda được người Ấn xem như là báu vật thiêng liêng là một tín ngưỡng thâm sâu cao cả và các nhà nghiên cứu tôn giáo đă xem kinh Veda của người Ấn cổ đại giống như kinh Coran của người Hồi giáo hay Thánh kinh (Bible) của người Ky tô giáo vậy:
Bộ kinh Upanishad được dân Ấn ngày xưa coi như phép màu cứu rỗi con người. Nhà triết học Schopenhauer khi nghiên cứu về bộ kinh này đă viết như sau: "trên thế giới, chỉ có các Upanishad là có thể xem như nguồn an ủi vô biên cho đời sống của tôi, suốt cả đời tôi cho đến khi tôi từ giả cơi đời".
Theo William Durant th́ Upanishad có thể xem như một tác phẩm triết lư và tâm lư xưa cổ nhất của loài người. Đây là tác phẩm chứa đựng những tư tưởng sâu sắc huyền vi nhất trong lịch sử triết học. Giải đáp những thắc mắc to lớn từ muôn nơi muôn thủa của con người: V́ sao lại sinh ra ta? Ai đă sinh ra ta? Ta từ đâu tới và sẽ đi về đâu trong tương lai?
Sau khi chết? Cái mà loài người vừa thắc mắc, vừa lo sợ, vừa phân vân là sự tái sinh của con người qua nhiều kiếp nhiều đời đến độ một vụ quốc vương quyền uy tột bực, sống cuộc đời giàu sang tuyệt đỉnh nhưng vẫn phải lo lắng phân vân về cái chết sẽ đến cùng với sự luân hồi tái sinh trở lại.
Chỉ có sự giác ngộ của chính ḿnh, dẹp bỏ các ta, cái "ngă" ẩn núp trong con người ta th́ mới mong thoát được sự tái sinh mà thôi.
Muốn vậy phải tẩy sạch mọi ư nghĩ, mọi hành động, phải giữ cho tinh thần trong sạch không vướng mắc những ư nghĩ của con người phạm tục... có thể mới thấy được cái nội tâm ḿnh, thấy được cái bao la diệu kỳ của linh hồn mà họ chỉ là một phần tử và sau cùng cá nhân sẽ biến đi để lộ rơ cái thực thể siêu việt hiện ra.
Khi đó rơ ràng ta không c̣n là ta nữa v́ cái ta thật sự chỉ là một chuỗi của những trạng thái ư thức kế tiếp liên hệ nhau, đó là cái xác thân được nh́n từ phía trong ở nội tâm mà thấy cái Atman như cái tinh anh siêu đẳng của Linh hồn, đó là cái tuyệt vô cùng vô sắc vô tướng vô thanh... (theo William Durant).
Ngoài ra c̣n có cái bản thể của vũ trụ thế giới hồn bao la là Brahman, đó là linh hồn của vũ trụ. Đó là linh hồn của mọi vật. Sai cùng Atman sẽ ḥa đồng với Brahman thành một, nghĩa là Linh hồn của vũ trụ thế giới.
Trong Upanishad đề cập nhiều đến vấn đề Luân hồi tái sinh. Ở đây từ Moksha được hiểu như sự luân hồi hay ṿng luân hồi chuyển tiếp.
Tuy nhiên không phải ngay trên đất Ấn Độ thời xưa cổ ấy mọi người đều tin vào thuyết con người c̣ Linh hồn và linh hồn chuyển hóa theo sự Luân hồi tái sinh. Có nhiều thuyết phát sinh từ các nhà thuyết giáo khác đi ngược lại những ǵ về thuyết luân hồi hay c̣n bài bác thuyết luân hồi.
Những người hoài nghi thuyết luân hồi tái sinh cho rằng người ác hay kẻ hiền lương đều bị lệ thuộc cả vào Số mệnh chớ không phải làm ác là chịu tai họa hay làm lành là được ân sủng của Thượng Đế. Mọi người ai cũng đều phải chết dù cho đó là kẻ tài ba xuất chúng hay kẻ ngu muội điên khùng và khi chết thân xác đều tan ră chẳng c̣n ǵ.
Brishaspati đă đưa ra thuyết Hư vô để theo đó chẳng có trời, chẳng có Thượng Đế, chẳng có Linh hồn, thần linh ǵ cả nên chẳng có thế giới mai sau cho mỗi kiếp người, không có sự luân hôi tái sinh hay sự giải thoát cuối cùng. Trong một cuốn kinh của Brihaspati có những đoạn đại ư như sau:
Cuộc đời không có ǵ đáng lo nghĩ. Đời người không có ǵ đáng sợ, không trời đất, không linh hồn
Không có thế giới khác cũng như không có kiếp sau.
Ngày nào c̣n sống th́ cứ vui hưởng cho thoả xác thân.
Hăy mượn tiền bạn bè để ăn chơi. Càng nhiều bơ sữa càng hay. Tại sao ta phải ép xác nhịn ăn, nhịn uống, nhịn mặc, hạn chế và tiết kiệm?
Làm sao cho thân xác chúng ta sau đă chết rồi đă trở thành bụi, đất lại c̣n có thể quay về nữa? C̣n nếu một hồn ma nào đó là có thật th́ khi qua thế giới khác, tại sao lại quen đi mọi thứ mà không c̣n nhớ thương nuối tiếc những người thân yêu của ḿnh c̣n lại đằng sau?
Vậy th́ hễ c̣n sống th́ ta cứ hưởng mọi thứ.
Từ những ư niệm ấy của Brihaspati làm xuất hiện nhiều phái duy vật trong đó đáng kể nhất là phái Charvaka. Phái này đề cao giác quan con người và cho rằng cái ǵ giác quan không nhận thấy th́ đó là sự hư không mà thôi. Do đó linh hồn chỉ là cái tưởng tượng mà kinh Veda đă đưa ra để phỉnh gạt mọi người. Phái Charvaka đề cao vật chất và cho vật chất là cái thực thể rơ ràng và quan trọng mà thôi.
Họ lư luận rằng từ khi loài người xuất hiện đến giờ chưa ai thấy linh hồn cả và cũng chưa ai thấy linh hồn tách rời khỏi thể xác hết. Mọi hiện tượng trong vũ trụ đều là tự nhiên. Sở dĩ nhiều người đặt ra giả thiết có một Thượng Đế là có ư giảng về thế giới hay hiểu thế giới. V́ không tự tin nên họ tin vào tôn giáo và thần linh, thần quyền.
Thiên nhiên lúc nào cũng thản nhiên như không trước mọi sự. Kẻ thiện, kẻ ác, người khôn người ngu đều chết và khi sống những con người đó đều hít cùng hơi thở của thiên nhiên, uống nước của thiên nhiên, hứng ánh mặt trời chung không phân biệt kẻ này người kia v́ mục đích của đời sống là sống.
Chính những lư luận có tính cách "B́nh dân" "thực tế" và "nghe thuật tai" cho một số người ấy mỗi ngày một lan rộng mà những ǵ gọi là thâm sâu vi diệu trong các kinh Veda ngày càng bị mai một.
Hơn nữa nhiều đoạn trong kinh Veda quá sâu sắc khó hiểu khiến nhiều người Ấn cảm thấy phân vân... và Ấn Độ đă trải qua một thời gian dài ở trong t́nh trạng hoài nghi về tôn giáo. Tuy nhiên Ấn Độ cũng không hiếm những triết thuyết mới mẻ khác dần dần thay thế và trám chỗ cho khoảng trống đầy hoài nghi đó. Phái Jainisme cho rằng mọi vật trong vũ trụ đều có linh hồn.
Tinh thần và vật chất là hai phần chính ở một bản thể. Khi một linh hồn nào đó không phạm tội lỗi lúc ở một thân xác nào đó nghĩa là không gây khổ đau, tàn hại kẻ khác th́ linh hồn ấy sẽ thành Paratmatman (linh hồn tối cao) để khỏi bị đầu thai lại trong một khoảng thời gian nào đó.
Sau khi hết định kỳ linh hồn ấy sẽ tiếp tục đầu thai trở lại. Sự giải thoát hoàn toàn không c̣n bị tái sanh chỉ dành cho linh hồn nào hoàn thiện tuyệt đối mà thôi. Những linh hồn hoàn hảo ấy là Arhat.
Muốn đạt tới kết quả ấy th́ con người phải đoạn tuyệt với những thú vui của thể xác, phải an vui tự tại, phải giữ tâm hồn thanh thản không tư lợi, dục vọng. Không trộm cướp và không tàn hại, không gây khổ đau cho mọi sinh vật. Chỉ có thể ḿnh làm khổ ḿnh hay tự giết ḿnh thôi c̣n ngoài ra không được giết bất kỳ con vật nào.
Đây rơ ràng là tu khổ hạnh để đạt mục đích tối thượng là không c̣n khổ đau, tái sanh trở lại cơi trần. Tuy nhiên các lời nguyện vừa kể thật khó cho số lớn tín đồ nào muốn đạt đạo v́ giới luật Ashima rơ ràng là quá khắt khe nhưng những tín đồ của giáo phái Jain vẫn tin rằng cứ mỗi thời gian đă định nào đó, thế gian sẽ lại có một Đấng cứu thế gọi là Jina giáng trần để cứu độ chúng sanh.
Trong khi phần lớn dân Ấn c̣n hoang mang trước những luận thuyết của một số tôn giáo rao truyền trong dân gian qua các bộ kinh Veda, hay qua những lời báng bổ của Brihaspati (phái Charvaka), hoặc qua những giáo điều khổ hạnh của giáo phái Jain .. th́ một tôn giáo mới ra đời.
Tôn giáo này đă giải thích nguyên nhân sự đau khổ của con người, của sự luân chuyển liên tục của kiếp người qua bốn giai đoạn: Sinh, Lăo, Bệnh, Tử, và khi đă tử th́ sự tái sanh lại khiến loài người soay vần chuyển hoán măi trong kiếp luân hồi đau khổ.
Sự kỳ lạ là người t́m ra nguyên nhân của sự đau khổ và sự luân hồi tái sinh lại là một con người đầy hạnh phúc quyền uy và đầy hứa hẹn ở tương lai.
Người ấy là một Thái tử, tục danh là Siddgharta (Tất Đạt Đa), tên họ thị tộc là Cồ Đàm (Gautama) con của Quốc Vương Shuddodhana xứ Kapilavatsu thuộc vùng Hy Mă Lạp Sơn (Himalaya). Mặc dầu sống giữa sự giàu sang quyền quư những tâm tư Thái Tử lại luôn luôn u uẩn v́ những dằn vặt lạ lùng về những khổ đau của kiếp người.
Thái tử đă thấy rơ cảnh già lăo, bệnh tật, đau khổ và cảnh tử biệt chia ly giữa kẻ chết và người sống, nhiều cảnh khổ đau ghê sợ diễn ra trước mắt ngài là khi ngài ra khỏi 4 cửa thành để dạo chơi, Thái tử tự đặt câu hỏi rằng tại sao mọi người đều phải già, phải bệnh, phải chết sau khi được sinh ra? V́ sao con người lại phải sinh ra, lớn lên và chịu quy luật lạ lùng đó. Thái tử hỏi tả hữu th́ ai cũng bảo đó là lẽ trời, là luật tự nhiên.
Vậy chính Thái tử cũng phải chịu quy luật đó, chính phụ vương và mẫu hậu của người cũng không thoát khỏi được những cảnh khổ đau ấy dù là bậc đế vương quyền cao đức trọng? Ngay cả loài sinh vật, Thái tử cũng đều thấy chịu quy luật chung ấy. Phải làm sao để các khổ đau ấy không c̣n tái diễn măi ở mọi người.
Nỗi suy tư ấy dằn vặt Thái tử và mặc dầu có vợ đẹp, con ngoan, sống cuộc đời vàng son đầy hạnh phúc. Thái tử vẫn cảm thấy đó chỉ là giai đoạn và rồi chính ḿnh cũng phải theo luật tự nhiên để đến hồi già nua run rẩy, bệnh hoạn đau đớn rồi chết mà thôi.
Rơ ràng con người đang lặn hụp trong bể khổ đau mà không có ai cứu thoát quyết định cuối cùng là Thái tử cương quyết ĺa bỏ những ràng buộc của vật chất tầm thường của cuộc sống để đi t́m chân lư, t́m nguyên nhân của sự khổ đau và t́m sự giải thoát không những chỉ riêng cho bản thân Thái tử mà c̣n cho tất cả mọi người, mọi chúng sanh.
Một đêm kia, nhân mọi người đều ngủ say, Thái tử lẻn trốn khỏi Hoàng cung cùng với một người thân tín là Channa (Xa Nặc) lên ngựa đến nơi hoang vắng cho Channa trở về c̣n một ḿnh quyết tâm vào rừng t́m nơi thâm sơn cùng cốc để nghiền ngẫm cuộc đời.
Sau bao nhiêu gian khổ và sau bao phương cách thực hành lối tu khổ hạnh ngài cũng không t́m thấy được lời giải đáp của vấn đề. Ngài ngồi xuống gốc một cây cổ thụ và bắt đầu tập trung tư tưởng nghĩ về mọi lư lẽ của cuộc sống, về nguyên lai của Sinh, Lăo, Bệnh, Tử...
Nhờ cái có "thấy" (kiến chữ kiến ở đây không nên hiểu như sự thấy b́nh thường bằng kiến thức tương đối mà bằng con mắt bát nhă, một thứ trực giác đặc biệt giúp ta tiến vào sâu bên trong của chính thực tại (D.T.Suzuki) Cái "biết" (tri: Nana, janàna) có chiều sâu, nhờ cái "kinh nghiệm Ngộ" mà sau sáu năm tu khổ hạnh và tu tập thiền định mà Ngài khai mở được cái tri giác nội tại để thấy được mọi lẽ huyền vi của vũ trụ.
Ngài thấy rơ sự luân hồi như cái ṿng xoay chuyển, cái khổ đau của tất cả mọi loài, mọi chúng sanh chớ không riêng ǵ con người. Tất cả là do ở Nghiệp được gọi là Karma. Chính luật Karma này đă khiến cho sự sinh tử và tử sinh xoay ṿng chuyển hóa măi không ngừng và sự đau khổ cứ thế mà không bao giờ chấm dứt.
Con người ở kiếp này hành động ra sao lúc sống tức là đă tạo nghiệp. Sự tạo Nghiệp này là sự gieo Nhân để rồi gặt Quả. Nếu gieo nhân lành th́ gặt quả tốt, nếu gieo nhân ác th́ gặt quả dữ. Nghiệp lành hay dữ ấy chính là nguyên nhân chuyển biến ṿng luân hồi nó như tác động đội ngược lại như khi ta ném trái banh vào vách tường vậy.
Tuy nhiên, con người cũng như tất cả chúng sanh thường mê mờ u tối v́ bị vô minh che lấp nên không thấy, không biết được định luật liên hồi quả báo v́ thế mà tưởng rằng chết là hết nên mọi hành động của ḿnh dù tàn ác bất nhân rồi cũng qua tất cả v́ chết là hết, không biết rằng nghiệp quả khiến con người phải tái sanh măi để chuộc lấy tội lỗi do ḿnh đă gây ra từ kiếp trước.
Trong các lần truyền đạo Ngài thường tóm tắt những bài giảng thật dễ hiểu cho mọi người.
Sinh, già, bệnh là những đau khổ.
Than khóc, tiếc nuối, buồn thương, thất vọng, giận hờn, ganh ghét đều là những điều khổ hạnh và cũng là nguyên nhân gây nên đau khổ. Dục vọng làm con người mê mờ u tối. Cái mong ước, cái thỏa măn, cái đam mê v́ cái bản ngă, cái ta chính là những nguyên nhân gây nên luân hồi tái sinh măi măi. Sự giác ngộ mọi lẽ huyền vi của vũ trụ, luân hồi đến với Ngài được mô tả trong Ngũ Lục của Đại Đăng Quốc Sư như sau:
... Đó là buổi sáng, nhằm ngày mồng tám tháng chạp. Sau một thời nhập định, Ngài bỗng ngước lên nh́n trời và thấy sao Mai chiếu sáng.
Ngay lập tức, sự kiện này giống như một tia sáng xuyên sâu vào ư thức ngài (cái ánh sáng vi diệu không phải phát ra từ sao Mai mà chính là cái ánh sáng phát sinh trong tiềm thức Ngài, được khơi dậy từ ánh sáng của sao Mai) và chấm dứt sự t́m chân lư của Ngài.
Đây là biến cố trọng đại nhất trong cuộc đời t́m đạo của đức Phật. V́ thế về sau những buổi lễ kỷ niệm ngày Thành Đạo, tín đồ thường ghi nhớ để tổ chức vào ngày mồng 8 tháng Chạp".
Ấn Độ giáo cho rằng những kẻ khốn cùng, đói khổ, tàn tật nghèo nàn là những kẻ đang gánh chịu những ǵ mà ở tiền kiếp họ đă gây ra. Cái quả báo ấy luôn luôn tương xứng với các hành động từ trước. Đó là lẽ tự nhiên, công bằng, hợp lư. Tội lỗi của một con người khi c̣n sống sẽ xác định nên đời sống kế tiếp.
Con người chính là kết quả, là sản phẩm của những tội lỗi từ kiếp trước nên khi đầu thai vào đời kế tiếp sẽ luôn luôn tùy vào những tội lỗi trước đây để xác định kiếp sống và những ǵ mà kiếp sống ấy phải cưu mang gánh chịu.
V́ thế những kẻ đang đau khổ không có ǵ phải kêu ca than khóc trách cứ bất cứ ai. Ở Ấn, nhan nhản những người đói khổ lê lết tấm thân tàn, dù kêu rên tha thiết khẩn cầu cũng hiếm có ai thương t́nh giúp đỡ. V́ từ ngàn xưa trong tâm trí người dân Ấn đă in sâu thuyết luân hồi căn cứ vào luật của Manou, một triết gia nổi danh Ấn Độ thời xưa cổ.
Theo đó xă hội có nhiều giai cấp từ cao xuống thấp. Đại cương th́ xă hội Ấn gồm có 4 giai cấp chính. Tuy nhiên mỗi giai cấp lai phần thành hàng chục giai cấp nhỏ hơn, chính sự phân chia giai cấp này đă làm chia rẽ dân Ấn, tạo sự kỳ thị, áp bức, khinh miệt, căm thù, xa lạ, ích kỷ giữa những con người với nhau. Giai cấp thấp nhất trong xă hội là hạng cùng đinh.
Đây là hạng người không ai để ư đến, chẳng ai thương xót cứu giúp v́ ai cũng cho rằng kiếp trước họ đă tạo nhân ác cho nên nay phải nhận quả báo là lẽ tự nhiên. Người Ấn tin vào thuyết của Manou nên phần lớn đều thờ ơ trước những người khốn khổ này. Tuy nhiên không phải mọi người đều có thái độ và niềm tin giống nhau v́ thế vẫn có người đứng ra cứu trợ, nhưng chỉ là thiểu số.
Chính Phật Thích Ca đă nh́n thấy sự vô lư bất công và sai lầm trong việc phân chia giai cấp ở xă hội Ấn nên trong khi truyền đạo đă thường căn dặn các đệ tử là không nên có ư nghĩ nông cạn và hẹp ḥi như thế.
Phật giáo cũng nêu nên vấn đề tái sanh nhưng sâu sắc và chú trọng nhiều vào phương thức để giải thoát khỏi sự tái sanh, do đó, đạo Phật được coi là đạo Giải Thoát.
Theo thuyết luân hồi của Phật giáo th́ mọi sinh vật đều chịu chung một quy luật tự nhiên là thành, trụ, hoại, không. Sinh tử, sống chết cứ tuần tự xoay vần chuyển hóa theo ṿng luân hồi nhân quả mà nguyên nhân là do bởi những ǵ bản thân đă tạo ra. Trong vũ trụ, thế gian, không có sự vật ǵ mà không qua 4 giai đoạn thành, trụ, hoại, không cả.
Từ một tế bào là đơn vị nhỏ nhất trong cơ thể cho đến vật to lớn như mặt trời trong thái dương hệ của chúng ta cũng đều chịu quy luật là sự h́nh thành, tồn tại trong thời gian nào đó (trụ) nhưng rồi cũng phải hủy diệt (hoại) cuối cùng trở thành không... để rồi lại kết hợp và tạo thành vật mới. Đó là tính cách vô thường, vô ngă ở mọi vật.
Đă hiểu được luật luân hồi th́ phải làm thế nào để thoát khỏi cái ṿng ràng buộc đó chớ không thể an phận chịu đựng một cách thụ động phải làm sao để khắc phục, chế ngự t́m lối thoát khỏi sự đọa đày triền miên của những kiếp người.
Theo thuyết luân hồi th́:
Sự sống và hành động lúc c̣n sống liên hệ nhân quả với nhau rất chặt chẽ. Trong khế kinh có đoạn như sau:
"Nếu muốn biết hành động của quá khứ thế nào th́ hăy nh́n đời sống hiện tại. Nếu muốn biết đời sống tương lai ra sao th́ hăy nh́n vào hành động hiện tại".
Sự sống là phản ánh của hành động, từ đó có thể rút ra luận lư rằng chỉ có hành động mới làm cho thay đổi đời sống sinh vật. V́ thế, điều dễ hiểu là làm ác đời này th́ đời sau sẽ khổ.
Đời này khổ là do đời trước đă làm việc bất nhân. Làm thiện đời này th́ đời sau sẽ được an vui. Như thế vấn đề cải hóa việc làm của ḿnh lúc c̣n sống chính là gieo cái nhân tốt để rồi sẽ gặt vào đời sau những ǵ an lạc do cái nhân trước đă tạo nên.
Tuy nhiên khi nói về vấn đề luân hồi, về nhân và quả, cũng nên lưu ư rằng, lư thuyết nhân quả của Phật giáo không có tính cách hoàn toàn cứng ngắc và theo quy luật kiểu máy móc, có nghĩa rằng không phải luôn luôn hễ nhân nào đă tạo th́ sẽ nhận lại quả hoàn toàn như thế, không phải tuyệt đối kiếp này dùng dao giết người th́ kiếp sau sẽ bị kẻ khác dùng dao giết lại (bộ kinh Hiền Ngu của Phật giáo cũng có ghi nhận điều này).
Luân hồi ở đây phải hiểu là sự tác động ngược lại một cách tương xứng, chữ tương xứng không có nghĩa là sự giống nhau hoàn toàn, trái lại đôi khi c̣n có sự sai khác về h́nh thức, nguyên nhân và kết quả nhưng chủ đích sau cùng của vấn đề nhân quả vẫn phù hợp.
Theo lư thuyết của Phật giáo th́ sự sống phát sinh là do nguyên nhân, do cái nghiệp (Karma) đă dẫn vào 6 con đường gọi là lục đạo. Sáu con đường đó là Thiên, Nhân, A tu la, Ngạ quỉ, Địa ngục, Súc sanh. Đó là 6 con đường đáng sợ. Mọi sự vật đều được h́nh thành do nhân duyên (nhân cái này, v́ cái này mà sinh ra cái khác), gieo hạt giống xuống đất th́ sẽ nẩy mầm mọc ra cây cối rồi sinh cây ra quả. Nhân duyên gồm có: vô minh, hành thức, danh sắc, lục nhập (mắt, mũi, tai, lưỡi, thân và ư), xúc, thọ, thủ, hữu, sinh, lăo, tử... Nhân duyên tương quan tác động lên nhau. Chính v́ có nhân duyên mới có sự vật, mới có cái thân, có cái thân mới có sinh, lăo, bệnh, tử, mới có khổ đau.
Mười hai thứ trong nhân duyên vừa kể chính là 12 giai đoạn liên hệ nhau, tạo nên cái ṿng luân hồi ràng buộc những đời sinh vật. Tín ngưỡng luân hồi nhân quả hầu như là một tín nhiệm tự nhiên của con người và v́ thế mà nhiều người tưởng rằng trong Phật giáo đạo lư nhân quả được xem như là một đạo lư đơn giản dể hiểu. Tuy nhiên vấn đề không phải như ta tưởng. T.T.Trí Quang đă tŕnh bày rơ hơn vấn đề này như sau khi bàn đến Đạo lư nhân quả luân hồi.
Đạo Lư Nhân Quả.
Có nhiều người nghĩ rằng trong Phật giáo, đạo lư nhân quả được nhận là một đạo lư dễ hiểu. Nhưng sự thực trái lại. Sự thực là đạo lư đó tuy quá hiển nhiên, chi phối trực tiếp và toàn diện cuộc sống của con người nên con người ai cũng phải nhận biết, nhưng sự nhận biết đó rất dễ sai lầm.
Khi người ta nói nhân quả là trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, nói như vậy tức là công nhận lư thuyết "duy vật" hẳn hoi, trong khi đạo lư nhân quả là chứng minh chủng từ phát hiện, hiện hành hay đảo lại; cũng như khi người ta nói nhân nào quả đó, mảy mún không sai, nói như vậy tức là "thường kiến" ngoại đạo, v́ đạo lư nhân quả chứng tỏ nếu có nhân mới có quả mà quả có thể không có nếu nhân bị đổi bỏ.
Nhiều khi người ta đưa luận điệu bảo nhân quả nhất định không thể tránh được để muốn cho mọi người sợ hăi và dè dặt hành động của họ, nhưng đồng thời họ đă phủ nhận tất cả lập trường của Phật pháp, v́ nếu nhất định không tránh được, nghĩa là nguyên nhân không thể đổi bỏ được th́ tu hành làm ǵ và tu hành sao được?
Kiểm tra lại sự nhận định và lối thuyết minh cẩu thả của chúng ta như thế, để mọi người thấy rằng đừng nghĩ Phật pháp có đạo lư này dễ, đạo lư kia khó, rồi nói càn nói bướng với cái ḿnh cho là dễ, nói kiêu nói ngạo với cái ḿnh cho là khó.
Điều quan trọng của Phật pháp mà ai cũng phải biết, là đạo lư nào cũng chứa đựng toàn diện Phật pháp, nên phải dè chừng trong sự hơi hiểu và nhất là sự nói ra.
Đại cương đạo lư nhân quả có hai phần:
1. Tất cả các pháp đều có chủng tử riêng biệt, tâm có chủng tử của tâm,vật có chủng tử của vật, tất cả các pháp là những hiện hành do chủng tử của nó phát hiện, như vậy gọi là "đẳng lưu nhân quả".
2. Tất cả sự sống đều là nghiệp lực riêng biệt, khổ do nghiệp lực ác, vui do nghiệp lực thiện, tất cả sự sống là những hiện hành do nghiệp lực phát hiện, như vậy gọi là "dị thục nhân quả".
Hai hệ thống nhân quả này hiểu như thế nào nơi sinh mạng của ta? Ta gọi là sinh mạng của ta, nếu phân tích ra rồi gồm lại mà nói, th́ sinh mạng là một danh từ gọi là sự hóa hợp của bao nhiêu hiện hành thuộc về tâm lư và vật lư; bao nhiêu hiện hành được phát hiện bởi bao nhiêu chủng tử riêng biệt của chúng nó, đó là hệ thống nhân quả đẳng lưu.
Nhưng bao nhiêu hiện hành tâm lư vật lư hóa hợp thành một sinh mạng như vậy, sinh mạng đó hoặc đồng màu sắc khổ hoặc đồng màu sắc vui, khổ hay vui đó là hiện hành của nghiệp lực ác hay thiện; đó là hệ thống nhân quả dị thục.
Gồm cả hai hệ thống nhân quả này lại là nhân quả nơi chánh báo, nơi nhân sinh, c̣n phía y báo, phía vũ trụ th́ chỉ tùy thuộc và gồm vào nhân sinh (đẳng lưu quả của vũ trụ cũng chỉ là chủng tử ở "tạng thức" c̣n dị thục quả của vũ trụ cũng chỉ do nghiệp lực ảnh hiện).
Đại cương đạo lư nhân quả như vậy, có vài chi tiết cần phải chú ư:
Trước hết, cứ theo hệ thống nhân quả thứ hai, chúng ta thấy sự sống có ra là v́ năng lực của hành động. Hành động thế nào sẽ h́nh thành sự sống như thế. Nên khế kinh nói "muốn biết hành động quá khứ như thế nào, th́ chính sự sống ngày nay đó, muốn biết sự sống ngày sau như thế nào, th́ chính hành động ngày nay đó".
Và chính nguyên lư sự sống là phản ảnh của hành động này chứng minh rằng cũng chỉ hành động mới thay đổi sự sống. Nói như vậy hay nói rằng muốn thay đổi đời sống th́ căn bản là phải thay đổi hành động, cũng như nhau. Cho nên làm ác phải khổ, muốn hết khổ được vui th́ phải bỏ ác làm thiện. H́nh thức sinh hoạt hiện tại của con người.
Cũng nguyên lư đó, chứng tỏ hiện tại và mai hậu, h́nh thức sinh hoạt của con người muốn nó như thế nào là phải hóa cải hành vi của ḿnh. Đó là nguyên lư mà đức Phật thiết lập ra phần giáo lư căn bản cho con người.
Bởi v́ nguyên lư đó thật là nguyên lư căn bản cũng như hành vi thật là căn bản của đời sống con người cà con người thật là căn bản của tất cả h́nh thức sinh hoạt của nó.
Thứ nữa, phụ thuộc vào chi tiết trên đây nếu ta đặt ra câu hỏi như thế này: khi cái nhân chưa ra kết quả, nhân ấy có thể đổi bỏ được không? Khi cái nhân đă kết quả, quả ấy có thể gia giảm được không? Đổi từ ngữ đi mà hỏi th́ hành vi đă làm mà chưa kết quả, hành vi đó có thể đổi bỏ không? Hành vi đă tạo ra đời sống rồi nghĩa là đời sống hiện tại đây có thể thay đổi ǵ không?
Nếu không th́ như đă nói trước kia, sự tu hành có hiệu lực ǵ và tu hành sao được? Cho nên phải biết đạo lư nhân quả chứng minh tất cả vạn hữu trong đó con người cũng vậy, thảy thảy đều có thật có đặc tánh cố định nên chỉ "có thể có nếu có nguyên nhân". Đă là nếu th́ nguyên nhân nếu không có, kết quả cũng không.
Làm cho không nguyên nhân đi, đó là năng lực của sự tu hành. Làm cho không đi bằng cách nào? Là đem một nguyên nhân khác thay đổi vào nguyên nhân đó, đem một hành động đổi bỏ hành động, v́ nguyên nhân hay hành động cũng không có một thứ nào có đặc tính cố định. Nếu cố định th́ đă không thể có ra được.
Đó là cắt nghĩa một nguyên nhân có thể đổi bỏ. C̣n đời sống hiện tại, một kết quả đă có, th́ sao? Đạo lư nhân quả nói trong dị thục nhân quả có "sĩ dụng nhân quả", nghĩa là nhân lực hiện tại có thể gia giảm đến thay đổi được đời sống hiện tại.
Đó là nguyên lư trong luật nhân quả chứng minh sự hành tŕ giáo lư "căn bản" của người tại gia th́ hóa cải và có thể hóa cải được h́nh thức sinh hoạt hiện tại. Cho nên nhân quả là một luật rất hoạt động, trong đó các hệ thống nhân quả đổi bỏ nhau và hỗ trợ cho nhau.
Do đó, thuyết định mạng ngày nay và thuyết thường kiến ngày xưa không thể đứng vững được với sự thật biến chuyển trong luật nhân quả và chính đó là tất cả nguyên lư căn bản của sự tu hành. Vạn hữu chuyển biến theo luật nhân quả nên khổ năo có thể đổi bỏ và an lạc có thể kiến thiết.
Đạo Lư Luân Hồi.
Đạo lư luân hồi tùy thuộc và bổ túc cho hệ thống nhân quả thứ hai, nhân quả dị thục. Đạo lư luân hồi cốt chứng minh hai điều:
- Năng lực của hành động tạo ra đời sống.
- Đời sống ấy, như vậy, có thể hóa cải được bằng năng lực của hành động.
Tất cả nguyên lư của sự tu hành thiết lập trên căn bản này. Căn bản này thuật ngữ gọi là "nghiệp quả". Không biết hai điều ấy của nguyên lư nghiệp quả th́ như trước đă nói, "tu hành nghĩa là hóa cải đời sống bằng cách sửa đổi hành động", vậy nếu hành động không liên quan ǵ đến đời sống và đời sống cũng như hành động không thể hóa cải được th́ tu hành sao được và tu hành làm ǵ.
Nhưng thực tế, đời sống của con người do chính năng lực hành động của con người tác động và chi phối, v́ lẽ đó mới phải tu hành và có thể tu hành được. Hiểu như vậy là đă biết được đại ư và mục đích của đạo lư luân hồi rồi đó.
Không cần phải lặp lại một lần nữa, người tại gia cũng đủ thấy do theo sự hiểu biết như vậy mới xác nhận h́nh thức sinh hoạt của con người cần phải hóa cải và có thể hóa cải được bằng cách hóa cải hành động, đổi bỏ hành động ác thay thế vào bằng hành động thiện th́ h́nh thức sinh hoạt của con người sẽ h́nh thành một màu sắc an lạc chân thật.
Nhưng năng lực hành động là ǵ và tạo ra sự sống như thế nào? Sự sống là ǵ? Đó là những câu hỏi để giải thích thế nào là luân hồi.
Trước hết, điều mà bất cứ khi cắt nghĩa về sự phát sinh của một hiện tượng ǵ, mọi người Phật tử phải nhớ rằng lư thuyết của phật giáo chủ trương rằng do "chủng tử phát hiện".
Do theo thuyết ấy, chúng có thể h́nh dung thấy vũ trụ là một bể cả gồm có vô số lượng, vô số làn sóng chủng tử. Tất cả hiện tượng chỉ là sự phát hiện của chủng tử đó. Và chủng tử là ǵ? là năng lực mà bản thân của chúng là chuyển động và hoạt động liên tiếp.
Sự hoạt diễn liên tiếp của chủng tử là các hiện tượng. Mọi hiện tượng, như vậy, là ǵ? chỉ là những ṿng lửa do chủng tử liên tiếp hoạt diễn mà thành, giống như cây hương quay ṿng một cách nhanh chóng rồi, v́ không thấy kịp, chúng ta ngó như có một ṿng lửa.
Mọi hiện tượng cũng y như vậy. Chúng có ra và tồn tại là do sự hoạt diễn và hoạt diễn liên tiếp của chủng tử mà v́ thiếu "tuệ giác bát nhă", chúng ta thấy như là có và sống với cái thấy ấy.
Sự sống cũng vậy, cũng là một tổ chức có nhịp nhàng một chút do sự hoạt diễn của vô số chủng tử sắc tâm (vật lư và tâm lư) Và như trước đă cắt nghĩa, làm cho sắc tâm ấy hóa hợp (sinh mạng), hoạt diễn nhịp nhàng (sống) trong một màu sắc (quả báo) hoặc khổ hoặc sướng. Trong một thời gian (đời sống) hoặc dài hoặc ngắn, là do năng lực của hành động.
Năng lực của hành động ấy cũng là một loại chủng tử: chủng tử của nghiệp, động lực của ư chí manh động (vô minh) và khuynh hướng vị ngă (tham ái). Đức Phật có nói rằng làm cho nắm đất rời rạc thành một vắt là nước, cũng y như vậy, tạo nên sự sống là nghiệp, nghiệp của si và ái.
Ta có thể h́nh dung sự sống của ta như một bộ máy lớn lao và phức tạp, được chạy bởi điện lực. Mọi bộ phận phức tạp gồm thành bộ máy ấy giống như mọi hiện hành sắc tâm có chủng tử riêng biệt mà tổ hợp lại thành sinh mạng.
Nghiệp lực làm cho sinh mạng sống cũng như y điện lực làm cho các bộ phận ấy hoạt động với nhau nhịp nhàng trong một bộ máy lớn. Như vậy điện lực có th́ máu chạy, điện lực tắt th́ máy đứng; nghiệp lực c̣n th́ sanh mạng liên tục mà nghiệp lực chết hết th́ sự sống khổ năo sẽ giải thoát.
Nhưng làm ra máy cũng như lắp máy, tạo ra điện lực cũng như cho điện lực chạy, tất cả việc ấy là bàn tay của trí thức con người, cho đến thay đổi bộ máy ấy làm ra bộ máy khác, bộ điện lực chiều này ra một chiều khác, cũng là bàn tay trí thức của con người.
Tạm thí dụ như vậy để thấy tất cả và hết thảy mọi hiện tượng hiện tại (được mệnh danh là y báo chánh báo đau khổ) là do tạng thức, mà đổi bỏ đi, thay thế vào mọi hiện trạng sau khi giải thoát (được mệnh danh là y báo chánh báo an lạc) cũng là tạng thức.
Tạng thức ấy, học giả Duy thức học xưa đă thí dụ, giống như một bể cả tùy chiều gió mà các đợt sóng nổi lên thế này hay thế khác, hay giống như một tấm vải, tùy thuốc nhuộm mà có màu sắc này hay màu sắc khác. Nhưng, thế này hay thế khác cũng đều là tạng thức.
Và làm cho thế này mất đi hay mà thay thế vào thế khác là bàn tay của người thợ nhuộm. Cũng y như vậy đó, luân hồi hay giải thoát đều là tạng thức nhưng làm cho luân hồi diệt mất mà hiện thành giải thoát là năng lực của hành động.
Hành động ác th́ do chủng tử ác ấy hiện hành ra đời sống khổ năo, đó là luân hồi. Đổi bỏ hành động ác bằng hành động thiện th́ do chủng tử thiện đó mà hiện hành ra đời sống giải thoát.
Đạo lư luân hồi, như vậy, là đạo lư căn bản dạy cho ta thấy đời ta, ta có thể hóa cải và cần phải hóa cải bằng chính hành động của ta. Và như vậy, đạo lư luân hồi không cốt khăng khăng chứng minh có đời sau mà lại cốt làm cho đời sống giải thoát, điều ấy không cần phải biện luận nữa.
Ngoài ra nguyên nhân gây nên ṿng luân hồi nghiệp báo xoay chuyển không ngừng thật ra chính là do sự mê mờ u tối, do vô minh che lấp không nhận thức được đâu là thật, đâu là giả, đâu là nguyên nhân của mọi sự, mọi vật. Không biết rằng "cái ta", cái thân xác của ḿnh cái bản ngă của ḿnh chỉ là hư ảo tạm bợ, mà cứ nhầm tưởng là thật.
Ngay cả cái cảnh giới mà con người đang sống, cũng không phải là thật, không phải trường tồn, bất diệt. V́ cứ tưởng tất cả đều là thật, là bất diệt, vĩnh cửu nên cứ giữ măi, tiếc rẻ. Do đó mà sinh ra tham muốn, chấp ngă (giữ lấy cái ta, nhận lầm là có cái ta).
Cũng chính bởi quá v́ cái ta đó mà phát sinh sự vị kỷ, ham lợi, danh, vật chất. Ham sống, sợ chết, phân biệt ta và kẻ khác. Không biết rằng mọi vật luôn luôn thay đổi biến hóa. Cái thân của ta luôn luôn thay đổi từng giây từng phút.
Nên cái thân vô thường. Cái tâm của con người cũng thay đổi đó là cái tâm vô thường, môi trường mà con người đang sống cũng luôn luôn thay đổi biến hóa, đó là hoàn cảnh vô thường. Sự thật hiển nhiên ấy lại khó được con người hiểu thấu v́ lẽ như đă nói trên là v́ con người đă bị cái "vô minh" mê mờ che lấp.
Tuy nhiên, trên thế gian vẫn không phải không có những con người sớm giác ngộ và có khả năng thoát dần ra khỏi cái vô minh che lấp ấy.
Theo các vị Lạt Ma Tây Tạng th́ trên thế gian vẫn có nhiều người tuy bị luật sinh tử luân hồi chi phối, nhưng v́ họ có trí óc sáng suốt, phát triển về tâm linh và trí tuệ hơn người nên biết rơ mục đích ḿnh phải đến và tránh các cạm bẫy do vọng tưởng và cái bản ngă chi phối.
Chính nhờ cái ư tưởng cao cả, cương quyết, trong sáng và hướng tới mục đích vị tha theo tâm nguyện mà họ không bị lôi cuốn vào những con đường bất định trong khi luân hồi chuyển kiếp.
V́ thế cuộc đời họ ít chịu cảnh khổ đau. Nhưng nhiều người về sau tuy có thể thoát khỏi ṿng ràng buộc của sự tái sinh, họ vẫn có ư hướng muốn quay trở lại cái ṿng luân hồi lần nữa với mục đích vị tha bằng cách chọn kiếp đầu thai theo mục đích ḿnh.
Đây là trường hợp của những nhà tu hành, những vị chân tu ở Tây Tạng. Người Tây Tạng thường tự hào qua kinh sách rằng nơi rặng Tuyết Sơn hàng năm có nhiều vị Lạt Ma đă quyết định chọn kiếp luân hồi nào đó để hoàn tất lời nguyện của ḿnh. Họ là những người muốn rằng sau khi chết.
Họ phát nguyện đầu thai vào một nhân vật nào, ở vùng nào đó với mục đích là cứu giúp nhân loại hoặc v́ họ nhận thấy khi sống ho họ chưa hoàn tất ư nguyện ḿnh nên muốn đầu thai lại để tiếp tục công việc c̣n bỏ dở. Người Tây Tạng gọi họ là các vị Hóa thân mà cao hơn nữa là những vị Phật.
Theo kinh Phật giáo th́ những vị Bồ Tát đôi khi có nhiều ư chí vô cùng to lớn. Những ư chí ấy được gọi là nguyện (pranidhàna) hay nguyện lực (pùrvapranidhàna) Phật A Di Đà (Amitàbha) có 48 nguyện Đức Địa Tạng (Ksitgarha) có 10 nguyện, cũng giống Đức Phổ Hiền Bồ Tát (Sarmantabhadra có 10 nguyện).
Mỗi vị có nhiều điều mong mơi cứu độ chúng sanh khác nhau như Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (Manjusri) mong bất cứ ai đến với ngài đều có được trí tuệ siêu việt hoặc Đức Phật A Di Đà muốn chúng sanh sau khi chết đến được cơi an lành tịnh độ và thành Phật đạo.
Những vị Bồ Tát (Bodhisattwa) là vị Phật đáng lư nhập Niết Bàn nghĩa là đă thoát khỏi sự tái sanh, luân hồi, nghiệp quả, nhưng v́ họ c̣n thấy chúng sanh đau khổ trong bể trầm luân nên không nỡ nhắm mắt bước vào hẳn trong cơi Niết Bàn an lạc mà tự nguyện đầu thai trở lại mong cứu giúp kẻ phàm trần thấy rơ con đường phải đi, không c̣n lầm lạc.
Thuyết Luân Hồi Và Những Tôn Giáo Khác
Như đă nói từ trước, thuyết Luân Hồi thật sự từ ngàn xưa đă lan tràn hầu như khắp thế giới, nhất là các nước ở Á Châu. Nhiều tài liệu sách vở nói về thuyết luân hồi đă ảnh hưởng không nhiều th́ ít lên các tôn giáo về sau.
Trong cuốn Du Nirvana Indien, Obry ghi nhận rằng: "Luân hồi là một triết thuyết tôn giáo lâu đời nhất, đă lan tràn khắp thế giới. Tín ngưỡng này phát triển mạnh vào thời cổ đại khiến một nhà Thanh giáo uyên thâm phải lo lắng quan tâm" theo Schopenhauer th́ thuyết luân hồi bàng bạc trong dân chúng Ai Cập cổ đại, ở Hy Lạp và là giáo điều căn bản của tôn giáo của các tăng ni Gaulois.
Thuyết luân hồi cũng có mặt trong một số giáo phái Hồi giáo ở Hindoustan" (giáo phái Bohrahs); Người Do Thái một số lớn cũng tin vào sự tái sinh, luân hồi thấy rơ qua kinh Talmud. Trong kinh này có nhắc đến sự chuyển sinh của linh hồn từ thân xác này qua thân xác khác như trường hợp linh hồn Abel đă chuyển hoán qua thân xác Moise sau khi đă nhập vào thân xác Seth.
Đối với Ky tô giáo th́ vào thời cổ xưa không hiếm những vị có chức sắc trong giáo hội đă giảng dạy một số điều liên hệ đến thuyết Luân Hồi Thánh Jerome, cũng như những vị khác có uy tín vào thời đó như: Thánh Gregory, Arnobius, giám mục Nyasa, Lactantius.v..v.. Justior Natryr, Origene, Clement d'Alexandrie, giám mục Mercier đều đă chống lại thuyết Luân hồi mà c̣n coi đó là vấn đề làm tăng cường rơ rệt sự phán xét công minh về tội lỗi của mỗi người.
Hơn nữa thật sự Ky tô giáo cũng cho thấy phần nào đề cập đến thuyết Luân hồi tái sanh khi quan niệm rằng, rồi ra mỗi ngày cũng sẽ gặp lại ḿnh nơi một thế giới nào đó sau ngày phán xét. Điểm đáng lưu tâm là khoảng vào thế kỷ thứ 17 khi chăm sóc những người nô lệ da đen bị chợ từ Phi Châu đến Y Pha Nho và bị đày đọa.
Vị tu sĩ nổi danh suốt đời tận tụy v́ người khác tên là Pierre Claver đă khuyên nhủ họ những câu bao hàm những ǵ thuộc về Luân hồi nghiệp quả như: "Các con hăy nhớ rằng, những ǵ mà các con đang trải qua, đang đau khổ th́ đó là kết quả của những tội lỗi mà các con đă gây ra từ trước.
Giờ đây, các con nên ăn năn sám hối!". Câu nói rơ ràng nhắc đến những tội lỗi xa xưa và phải chăng đó là những tội lỗi từ tiền kiếp của họ. V́ quả thật những người da đen thời bấy giờ bị bọn thực dân da trắng bắt đem bán làm nô lệ chẳng có làm ǵ nên tội.
Tội lỗi nếu có chăng chính là tội lỗi do những người da trắng gây ra. Điều này khiến ta nhớ lại thuyết nguyên tội thường được nhắc đi nhắc lại nhiều trong Ky tô giáo.
Theo Schopenhauer th́ "thuyết nguyên tội, được hiểu như là thuyết phải trả cái tội lỗi của một cá nhân nào đă gây ra trước đó. Thuyết này thay cho thuyết Di hồn và chuộc tội đă phạm từ tiền kiếp" (Schopenhauer Metaphysique de la Mort).
Khi t́m hiểu sâu xa hơn qua cuốn Thánh kinh (Bible) của Ky tô giáo th́ vô số lời khuyên bảo răn dạy của Chúa c̣n nói lên biết bao ư nghĩa thâm sâu về vấn đề luân hồi về kiếp trước và kiếp sau, về quả báo như sau:
- Ai gieo giống chi th́ sẽ phải gặt lấy giống ấy (gieo và gặt - 5:13 - 6:18).
- Đừng lấy ác trả ác, cũng đừng lấy rủa sả trả rủa sả, trái lại, phải chúc phước. Ấy là v́ điều đó mà anh em được gọi để phước lành. (thơ thứ nhất của Phi e rơ).
- Kẻ nào gieo sự bất công sẽ gặp điều tai họa (châm ngôn 22:8)
- Những ai t́m điều ác, tất cả sẽ ác đến với nó (châm ngôn 11:27).
- Kẻ nào đào hầm th́ kẻ đó té xuống đó.
- Kẻ nào lăn đá, đá đó sẽ trở lại đè nó (châm ngôn 26:27)
- Kẻ nào bưng tai không khứng nghe tiếng kêu la của người nghèo khổ th́ kẻ đó cũng sẽ lại kêu la mà chẳng có ai đáp lại (châm ngôn 21:13).
- Tai họa không hề ĺa khỏi nhà kẻ lấy ác trả thiện (châm ngôn 17:13).
- Chẳng một tai nạn nào xảy đến cho người công b́nh. Song kẻ hung ác sẽ bị đầy đau đớn (châm ngôn 12:21).
- Kẻ nào giam cầm kẻ khác th́ rồi cũng sẽ bị kẻ khác giam cầm lại. Kẻ nào sử dụng gương đao, kẻ ấy sẽ bị chết v́ gươm đao (thiên Apocalypse - chương 13).
C̣n nhiều và nhiều nữa những câu đầy ư nghĩa tương tự trong Kinh Thánh và đặc biệt hơn nữa, các nhà nghiên cứu, tôn giáo, kinh điển về Ky tô giáo và Phật giáo đều thấy những điểm tương đồng đôi khi tưởng chừng như hai tôn giáo là một.
Thí dụ Phật giáo có câu:
"Ví dầu ai có đi khắp bốn phương trời cũng không t́m thấy được ai là kẻ đáng thương hơn ḿnh.
Ấy vậy là do ḿnh đă thương ḿnh.
Ḿnh đă thương ḿnh th́ cũng đừng làm phiền người".
Ky tô giáo có câu:
"Hăy kính yêu Chúa ngươi với tất cả tấm ḷng và cả tâm hồn. Và ngươi hăy thương yêu kẻ đồng loại ngươi như ngươi vậy"
Trong mấy lời khuyên dạy (12:1 - 15:13) có câu:
"Ngươi phải yêu kẻ lân cận ḿnh như ḿnh yêu ḿnh vậy".
Kinh Phật giáo có câu: "Đem t́nh thương xóa bỏ hận thù".
Kinh Thánh có câu: Đừng để điều ác thắng ḿnh, hăy lấy điều thiện thắng kẻ ác (những lời khuyên 12:1 - 15:13).
Hoặc: "Đừng mắc nợ ai chi hết
Chỉ mắc nợ về sự yêu thương mà thôi".
Hay: "Chớ lấy ác trả ác cho ai
Phải chăm t́m điều thiện trước mặt mọi người"
Phật giáo có câu: Lấy oán báo oán, oán chất chồng.
Lấy đức báo oán, oán tiêu tan.
Ư nghĩa luân hồi quả báo thấy rơ qua các câu sau đây trong kinh thánh:
"Hăy yêu kẻ thù ḿnh, làm ơn cho kẻ ghét ḿnh, chúc phước cho kẻ rủa ḿnh và cầu nguyện cho kẻ sỉ nhục ḿnh. Ai tát người má bên này, hăy đưa luôn má kia cho họ; c̣n nếu ai dựt áo ngoài của người th́ cũng đừng ngăn họ lấy luôn áo trong. Hễ ai xin, hăy cho và nếu có ai đoạt lấy của cải của các ngươi th́ đừng đ̣i lại. Các ngươi muốn người ta làm cho ḿnh thế nào, hăy làm cho người ta thế ấy".
Hoặc:
"... Hăy cho, người sẽ cho lại ḿnh; họ sẽ lấy đấu lớn nhận, lắc cho đầy tràn mà nộp trong ḷng các ngươi; v́ các ngươi lường mực nào th́ họ cũng sẽ lường lại cho các ngươi mực đó..."
Rơ ràng nhất về ư nghĩa của vấn đề quả báo được thể hiện ở những câu sau đây khi Chúa khuyên loài người hăy làm điều thiện để tự ḿnh cứu chuộc tội lỗi do ḿnh gây ra v́ điều đó sẽ giúp tránh được nhân quả:
"Hăy làm điều thiện đối với những kẻ làm hại ngươi rồi ngươi sẽ cứu chuộc được những tội lỗi do chính ngươi gây ra cho kẻ khác".
Hoặc: "Những ǵ mà ngươi đă gieo rắc th́ sẽ được ngươi gặt lấy!" hoặc: "Kẻ nào gieo sự bất công sẽ gặp điều tai họa (châm ngôn 22:8).
Luật nhân quả luân hồi báo ứng thấy rơ trong lời Chúa răn dạy loài người sau đây:
"Sự báo thù ở ngay trong tay ta và ta sẽ trả nợ đó đầy đủ. Bởi v́ mọi tai họa sẽ đến cho kẻ nào chưa giải quyết xong những món Nợ Cũ ấy"
Lời răn dạy của Chúa sau đây c̣n rơ ràng hơn nữa về sự chăm lo điều tốt lành phước đức để dành cho đời sau:
"Hăy răn bảo họ làm điều lành, làm nhiều việc phước đức. Kíp ban phát, phân chia của cải ḿnh có. Vậy là dồn chứa về Ngày Sau một cái nền tốt và bền vững cho ḿnh để được cầm lấy sự sống thật" câu" cái "ngày sau ấy nổi lên ư nghĩa của sự trả vay và phải chăng đó cũng có nghĩa là ở đời sau hay kiếp sau?".
Luật nhân quả đôi khi c̣n bao hàm, liên quan đến cả sự phúc đức, nghiệp quả, hành động gây nên bởi cha mẹ, con cái. Đó là thắc mắc lớn lao của một số tín đồ:
"... và khi Chúa bước qua, ngài trông thấy một người đàn ông bị mù (người này bị mù ngay từ lúc mới chào đời). Lúc ấy một môn đồ đă hỏi Chúa rằng: Bạch thầy! Ai là kẻ đă gây lên tội lỗi khiến anh ta bị mù từ lúc ra đời? Cha mẹ anh ta hay chính anh ta? (John 9:1 - 2 Myitalies).
Như vậy, rơ ràng có mối liên hệ ràng buộc, tác động qua lại giữa những hành động và hậu quả của những hành động mỗi con người sẽ phải nhận lấy không sớm th́ muộn theo Luật Nhân Quả tự nhiên.
Hiện tượng tái sinh (born again) c̣n được thấy rơ ở một số đoạn trong kinh thánh. Điển h́nh nhất là sự phục sinh của Chúa và những người chết sẽ sống lại cùng với xác thân của họ. Trường hợp sự tái sinh của Thánh Jean Baptiste cũng đă được Chúa cho các môn đồ biết qua câu: "Ellie đă trở lại!" (Mathieu 17:12-13).
Trong công vụ các sứ đồ (26:23) có câu: "Chúa Jesus đă được nói đến la đấng được sống lại trước nhất từ trong những kẻ chết".
Trong I phi e rơ (3:18) có câu " Ngài là người đầu tiên được sống lại với thể thiêng liêng. Theo quan niệm của những người tin vào thuyết luân hồi th́ Chúa là một vị Đại Bồ Tát hóa thân thân trở lại cơi trần để mong cứu chuộc loài người.
Ngài đă phó sự sống ḿnh làm giá chuộc. Mạng sống con người hoàn toàn của Jesus đă được hiến dâng để giải thoát nhân loại khỏi sự nô lệ của tôi lỗi và sự chết (Phi e rơ 1: 18, 19; Ê phê sô 1:7)
Trong Sáng thế kỷ 18:8: Hê bơ rơ 13:2 c̣n có đoạn nói về sự sống lại của Chúa Jesus với dấu tích bên hông (có thể được hiểu như là một h́nh ảnh của Dấu tích luân hồi) tuy rằng Chúa là Đấng tối cao cả không c̣n phải chịu luật luân hồi tái sinh nữa.
"... Nhưng v́ lẽ sứ đồ Thô ma đă đặt tay vào lỗ thủng ở bên hông của Giê su, điều đó há không tỏ cho thấy rằng Giê su được sống lại từ cơi chết với cùng một thân thể đă bị đóng đinh trên cây khổ h́nh hay sao? Không đâu, v́ Giê su chi biến dạng hay là mặc lấy h́nh người bằng xác thịt, giống như các thiên sứ đă làm trong quá khứ vậy.
Để thuyết phục Thô ma rằng ngày chính là đấng Christ, ngài đă dùng một thân thể mang vết đâm thủng. Ngài đă hiện ra như là một người thật sự với khả năng ăn uống, giống như các thiên sứ mà Áp ra ham có lần đă tiếp đăi vậy (Sáng thế Kư 18:8: Hê bơ rơ 13:2).
Trong khi Giê su đă hiện ra cho Thôma với một thân thể giống như thân thể ngài xó lúc ngài bị xử tử, ngài cũng đă mặc lấy các thân thể khác nhau hiện ra cho các môn đồ ngài. V́ thế Ma ri Ma đơ len thoạt tiên đă lầm tưởng Giê su là người làm vườn.
Có những lần khác các môn đồ của ngày đă không nhận ra ngài liền được. Trong những trường hợp đó, không phải h́nh dạng của ngài đă giúp họ nhận ra ngài, nhưng bởi một lời nói hoặc cử chỉ nào đó mà họ đă nhận ra ngài (Giăng 20:14 - 16; 21:6,7; Lu ca 24:30,31)
Mới đây, (tháng 4 năm 1993), hai nhà báo Arthur Dale và Jenny Lynn đă t́m thấy một số tài liệu bí mật cổ xưa (Lưu trữ tại ṭa thánh Vatican) nói về đời sống sau khi chết. Hai nhà báo này đă viết một bài nhan đề: Found: the Vatican's secret files on life after death, tài liệu này được đăng tải lần đầu tiên sau đó trong báo Sun ra ngày 13 tháng 4 năm 1993.
Theo tài liệu này th́ một số tu sĩ Ky tô giáo đă từng thấy những cơi thế giới kỳ lạ sau cơi chết. Trong một tập hồ sơ, tài liệu khá dày được t́m thấy trong một nhà kho lâu đời, nhiều bảng viết tay mà các chữ viết thảo của những vị chức sắc trng Giáo Hội, mô tả lại những h́nh ảnh họ thấy về những ǵ sau khi chết.
Trường hợp cha Carlo Malatesta bị một cơn sốc tim ngất đi rất lâu. Sau một thời gian cứu chữa, cha Carlo tỉnh dậy (tính ra cha đă hôn mê trong 40 phút đồng hồ) và đă kể lại những ǵ mà trong thời gian tim coi như ngừng đập hay nói khác đi là "đă chết" đó.
Cha Carlo Malatesta đă cảm thấy ḿnh nhẹ bổng một cách lạ lùng, rồi cha thấy những người bay lơ lửng có cánh giống các thiên thần đưa ḿnh đến cái cổng lớn của một nơi tươi sáng lạ lùng và sau đó lại được các thiên thần đưa cha trở lại thể xác ḿnh.
Trong thời gian Cha Carlo cảm thấy ḿnh nhẹ lâng lâng, chính lúc đó cha cũng cảm nhận được là ḿnh đă chết rồi nhưng không có sự hối tiếc, sợ sệt nào hết. Những lời cha Carlo Malatesta kể cha đều ghi lại rơ ràng trong lưu bút của ḿnh.
Riêng đối với loài người theo Ky tô giáo cũng sẽ có sự sống lại hay tái sinh. Tuy nhiên, không có nghĩa là tất cả mọi người đều sẽ được sống lại. Kinh thánh đă cho biết là Giu đa Ích ca ri ốt là kẻ phản chúa Jesus sẽ không được sống lại.
Nguyên nhân y là kẻ đă tạo nhiều điều ác, đă gieo nhiều nghiệp ác nên sẽ nhận quả ác tương xứng. Đức chúa trời cũng sẽ không làm sống lại những kẻ nào đă phạm tội cùng thành linh của ngài (Ma thi ơ 12:32; Hê bơ rơ 6:4- 6; 10:26 - 27).
Mỗi người theo thứ tự riêng của ḿnh sẽ được phán xét và sống lại. Sau sự sống lại của đáng Christ th́ đến lượt 144000 người (những môn đồ trung thành của ngài) được sống lại và họ là những người sẽ sống với đấng Christ trong cơi trời hay nước trời.
Tiếp đến là một số lớn người chết khác được sẽ được sống lại để sống ngay trogn Đia đàng trên đất. Dĩ nhiên không phải tất cả mọi người đều được sống lại để bị xét đoán (Giăng 5:29) trong Ngày Phán Xét.
Do đó, Đức Chúa Trời sẽ tạo lại một con người mới cũng bằng xương bằng thịt với cùng một nhân cách với những đức tính riêng, kư ức và lư lịch mà người đó đă thu thập cho đến lúc chết. Thân thể mới này sẽ giống như thân thể mà người ấy đă có trước khi chết. Điều đó giúp cho những người đă quen biết nhau từ trước có thể nhận ra nhau một cách dễ dàng.
Ở đây, sự tái sinh chi xảy ra một lần và ta có thể bảo rằng mỗi người có thể xem như có hai lần được sống. Tiền thân sẽ trải qua một lần phải chết và lần thứ hai sau khi được tái sinh th́ hậu thân ấy sẽ có một sự sống khác tiếp theo đó, ấy là sự sống để sống trong Địa đàng trên đất. Điều đó xảy ra vào ngày phán xét.
Đối với Hồi giáo (Islam) tuy không có nói đến luân hồi nhưng tôn giáo này cũng nhấn mạnh lại sự phục sinh của con người. Con người đă được tiền định bởi những hành động của ḿnh khi đang sống trên cơi thế.
Nếu như con người gây tội lỗi th́ sau khi chết sẽ vào Địa ngục để chịu xử phạt. Nơi đó linh hồn sẽ chịu cảnh đau đớn ê chề cùng với sự hành hạ tra tấn rùng rợn.
Nhưng nếu con người lúc sống tạo sự tốt lành th́ khi chết sẽ lên cơi Thiên đàng sung sướng. Ở đây Chết là đi vào một cái cổng dẫn đến đời sống miên viễn không c̣n tái sinh trở lại nữa. Ngày cả kẻ ác, sau khi chết cũng bị đày xuống địa ngục và ở đó đời đời.
Theo kinh Coran của Hồi giáo th́ con người sống là nhờ sự kết hợp của linh hồn và thể xác. Thể xác và linh hồn sẽ được phục sinh trở lại khi đến ngày phán xét. Ngày đó, kẻ ác sẽ bị xử phạt xuống cơi địa ngục c̣n kẻ thiện tâm sẽ được tới cơi thiên đàng an lạc.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 447 of 1146: Đă gửi: 30 June 2010 lúc 6:49pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN VỀ TIỀN KIẾP HẬU KIẾP
Chương Ba
Dấu Tích Luân Hồi
Dấu tích luân hồi là dấu ấn của một thời quá văng
Trước đây, vấn đề Luân Hồi, Tái Sinh, Tiền Kiếp, Hậu Kiếp chỉ được xem như là vấn đề của một số thuyết tôn giáo.
Ngày nay, chính các nhà khoa học, đă bắt đầu thực sự tiến bước vào sâu trong lănh vực nghiên cứu vấn đề. Từ những năm của thập niên 60 cho đến này (1993) danh sách những nhà khoa học tên tuổi đă dấn thân vào việc t́m hiểu vấn đề luân hồi đă dài thêm ra và chắc chắn trong tương lai, sẽ có một số kết luận trung thực cho vấn đề đầy tính cách thâm sâu huyền bí này.
Qua hàng ngàn câu chuyện có thật đă xảy ra trên khắp thế giới với những chứng cớ và tư liệu rơ ràng chứng minh vấn đề luân hồi chuyển kiếp đă được thu thập. Nhưng các nhà nghiên cứu, nhất là các nhà khoa học c̣n muốn thêm càng nhiều càng tốt những hiện tượng đă xảy ra có liên hệ đến những ǵ mà họ gọi là "những tài liệu chứng minh".
Những hiện tượng mà theo họ có thể xem là những dấu tích của Luân Hồi theo các nhà khoa học, nếu luân hồi là có thật th́ ít trên những chặng đường chuyển hóa từ kiếp này đến kiếp khác phải có những dấu vết rơi rớt lại không nhiều th́ ít cũng giống như trong lịch tŕnh tiến hóa của sinh vật nói chung và con người nói riêng.
Đă có nhiều dấu tích c̣n lại trên cơ thể sinh vật và sự kiện ấy đă giúp các nhà sinh vật học, nhất là cổ sinh vật học biết được những ǵ đă xảy ra trong quá khứ xa xăm mà thời gian có khi hàng vạn năm đến hàng triệu năm.
Nói tóm lại, dấu tích luân hồi là những ǵ khả dĩ giúp chứng minh Luân hồi là có thật, hay ít ra cũng là h́nh ảnh của dấu ấn một thới quá văng nào đó ở con người. Để dễ hiểu hơn, chúng ta thử đọc câu chuyện có thật sau đây đă xảy ra tại Ấn Độ: "Vết sẹo từ tiền kiếp" mà báo India Today đă đăng tải như sau:
Titu là một cậu bé mới 5 tuổi có cha mẹ là Samti và Makhavia Pratxa ở làng Varkhe... Lúc cậu bé vừa lên năm th́ người mẹ rất ngạc nhiên khi nghe cậu lập đi lập lại những câu nói lại lùng:
"Tôi chính là người đàn ông chủ cửa hàng bán máy phát thanh ở Agra. Vợ tôi là Uma, tôi phải đên đó. Tôi chính là Suresh Vema" Cha cậu bé cũng rất ngạc nhiên khi nghe con ḿnh nhắc lại câu nói này, người cha kéo con lại phía bên ḿnh và hỏi:
- "Con có thể nói rơ thêm cho ba nghe về điều con nói không? Cậu bé chậm răi ngước mắt nh́n vào cơi xa xăm rồi nói:
- "Câu chuyện xảy ra từ thuở xa xưa, nhưng tôi nhớ rơ như mới ngay hôm qua... Hôm ấy tôi lái xe hơi về nhà. Vừa bước xuống xe, tôi đă cất tiếng gọi vợ tôi Uma đâu! Uma đâu ra xem quà này... Bỗng nhiên tôi thấy có hai người lạo về phía tôi và bắn hai phát súng vào đầu tôi. Tôi ngă nhào ngày giữa sân... Trời ơi!
Vừa kể đến đây, cậu bé Titu ôm đầu kêu thét lên:
- "Quân giết người! quân khốn kiếp!", rồi liệng đồ đạc vào ngưới ch với vẻ hằn học lạ lùng. Sợ quá, cha mẹ cậu bé vội vă cùng với cậu t́m đến vùng Agra và ḍ hỏi xem nhà của người bán máy phát thanh ở đâu.
Dân chúng vùng đó đă chỉ cho họ một căn nhà dưới một ngọn đồi. Hai vợ chồng liền đến ngay căn nhà ấy và gặp một người đàn bà ra mở cửa. Vừa trông thấy người đàn bà, Titu chạy lại kêu lên vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ:
- Trời ơi! Uma!
Người đàn bà ấy chính là Uma. Cha mẹ cậu bé sợ quá đến nỗi gai ốc đầy ḿnh. Ngạc nhiên và kinh hăi hơn nữa là khi họ hỏi về người chồng của bà ta (bà Uma) th́ bà này cho biết như sau:
- Chồng tôi đă qua đời từ lâu rồi. Lúc ấy chồng tôi lái xe về nhà th́ bị hai người đàn ông nấp sẵn đâu đó bắn chết. Tôi sống với hai con từ đó đến nay.
Điều kỳ lạ hơn nữa là cậu bé Titu đă bất thần hỏi bà Uma một câu khi thấy chiếc xe hơi đậu ở cạnh nhà.
- Chiếc xe này của ai? C̣n chiếc xe của tôi đâu?
Bà Uma vô cùng kinh ngạc và sợ sệt, bà nh́n hai con và trả lời cậu bé với đôi mắt ngơ ngác:
.. Chiếc xe cũ bán rồi... nhưng sao cậu bé này lại có cử chỉ và lời nói lạ lùng vậy?
Sau khi cha mẹ cậu bé Titu kể hết mọi chuyện cho người đàn bà có tên là Uma nghe th́ người đàn bà nảy lại càng kinh ngạc hơn nữa.
Câu chuyện có thật này mà báo chí Ấn Độ đă đăng tải làm xôn xao mọi người đă gây kinh ngạc cho giới khoa học không ít. Tại Ấn Độ, Tiến sĩ Narender Chadha (đại học Delhi) là giáo sư chuyên nghiên cứu về các vấn đề khoa học và siêu h́nh đă lưu ư đến câu chuyện này. Đặc biệt giáo sư Eminde ở Đại học Virginia Hoa Kỳ cũng đă t́m gặp gia đ́nh cậu bé Titu.
Điều kỳ lạ được phát hiện sau đó là vết đạn ở gần thái dương nơi đầu cậu bé. Hỏi cha mẹ cậu th́ từ ngày sinh cậu ra cho đến lúc 5 tuổi, cậu bé Titu không có một vết thương nào trên người do té ngă hay bị đâm, bắn ǵ cả. Vết sẹo t́m thấy trên, theo lời kể của cha mẹ cậu bé, có ngay từ khi cậu bé Titu chào đời.
Để chắc chắn hơn, các nhà nghiên cứu đă đến ngay nhà hộ sinh ở làng Varkhe để yêu cầu được xem lại hồ sơ sinh sản của người đàn bà tên là Uma. Trong hồ sơ có ghi một câu "Cháu bé có vết sẹo lạ ở thái dương khi mới lọt ḷng mẹ".
Lạ lùng hơn nữa là khi được thân nhân đồng ư để cơ quan điều tra khai quật mộ chí của người chủ tiệm Suresh Verma để giảo nghiệm tự thi th́ thấy dấu vết viên đạn xuyên qua đầu ở ngay vị trí tương ứng với vị trí vết sẹo xuất hiện nơi đầu cậu bé Titu.
Phải chăng đây là dấu tích luân hồi c̣n lưu lại nơi cháu bé hay chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên? Tuy nhiên điều thắc mắc lớn lao vẫn c̣n tồn tại là do đâu mà một cháu bé mới 5 tuổi như bé Titu lại có những trí nhớ cùng lời nói hết sức lạ lùng hoàn toàn trùng hợp với những ǵ đă xảy ra trước khi cháu ra đời?
Từ câu chuyện có thật trên và vô số các trường hợp tương tự đă xảy ra trên khắp thế giới các nhà nghiên cứu đă có được một số nhận xét sơ khởi như sau:
- Có những dấu hiệu lạ xuất hiện trên cơ thể của hài nhi lúc chào đời. Những dấu tích ấy có từ lúc hài nhi c̣n trong bào thai nghĩa là c̣n trong bụng mẹ.
- Những dấu tích ấy thường khó được giới y khoa giải thích rơ ràng về nguyên nhân. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp chính đứa bé có mang dấu tích trên cơ thể, sau khi chào đời được 5, 6 năm đă cho biết xuất xứ của dấu tích ấy qua câu chuyện mà bé kể. Chuyện được thuật lại về cái gọi là tiền kiếp của chính đứa bé và nội dung câu chuyện có liên quan đến dấu tích ấy.
- Về câu chuyện có thật của cậu bé Titu th́ vết sẹo ở thái dương có thể là vết sẹo của tiền kiếp, có thể nói đó là dấu tích của Luân hồi.
Sở dĩ đi đến kết luận ấy là do 3 nguyên nhân:
Thứ nhất, cậu bé Titu mới lên 5 tuổi, trí óc c̣n quá non nớt, có thể nói thẳng là chẳng có chút kư ức nào trong đầu óc nhưng lại nói lên những điều không ai có thể ngờ được rằng đó là lời của một đứa bé 5 tuổi. Thứ hai, vết sẹo trên thái dương cậu bé đă có trước khi chào đời, nghĩa là có từ bào thai c̣n trong bụng mẹ.
Thứ ba, nội dung câu chuyện mà cậu bé đă kể có liên quan đến dấu tích trên cơ thể của cậu có trước khi ra đời. Dấu tích đó là vết sẹo mà theo lời cậu bé kể th́ vết sẹo ấy có là do súng bắn. Tại sao lại có trường hợp lạ lùng ấy?
Cho đến nay, câu chuyện có thật này và rất nhiều câu chuyện có thật tương tự khác đă làm cho các nhà khoa học tâm. Sự quan tâm ấy có nhiều lư do: Lư do đầu tiên không phải là vấn đề hấp dẫn đầy vẻ siêu h́nh huyền bí mà chính là sự kiện từ lâu các nhà khoa học tuy tỏ ư không quan tâm nhưng sự thật họ chưa có dữ kiện hay bằng chứng để chứng minh rằng có hiện tượng luân hồi (Mytempsychosis)
Một hiện tượng mà nếu khám phá được có thật th́ sẽ làm đảo lộn nhiều lư thuyết từ xưa đến nay không những về một số chu tŕnh vật chất mà c̣n liên hệ đến sự hiểu biết thâm sâu vi diệu hơn về cấu trúc của vật chất là các trạng thái nguyên tử. Lư do thứ hai là xác định lại lối định nghĩa về một vài hiện tượng đặc biệt xuất hiện ngay trên cơ thể của hài nhi khi chào đời.
Nhiều hài nhi sinh ra có cơ thể dị dạng mà ta thường gọi là quái thai, th́ đó là do sự lệch lạc trong giai đoạn phát triển phôi (embryo) hay là do những nguyên nhân sâu xa nào khác? Một vài hiện tượng thông thường xảy ra từ xưa đến nay về dấu vết giống vết chàm, vết bớt trên da hài nhi xuất hiện trước khi chào đời có phải do những nguyên nhân nào khác lạ lùng thâm sâu hơn là theo định nghĩa thông thường của ngành y học hiện nay?
Vết Chàm, Vết Bớt, Vết Sẹo Trên Da Trẻ Sơ Sinh
Nhiều hài nhi lọt ḷng mẹ, trên cơ thể xuất hiện vài dấu vết lạ. Những dấu vết ấy được khẳng định (các nhà y học) có trước khi đứa bé chào đời. H́nh dạng và màu sắc thường khác nhau.
Theo bách khoa tự điển thế giới (the world book encyclopedia) xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1961 th́ vết chàm xuất hiện trên da của trẻ sơ sinh được gọi là Brithmark (vết bớt). Vết chàm hay vết bớt năm trên da hài nhi.
Trong y khoa, dấu vết ấy c̣n được gọi là Angle Bite (vết cắn của thiên thần) sở dĩ gọi như vậy là do vết bớt xuất hiện khá kỳ lạ và quả thật cho đến khoa học chưa hoàn toàn hiểu được thấu đáo nguyên nhân.
Thật ra, vết cắn của thiên thần c̣n để chỉ những vết chàm, vết bầm tự nhiên xuất hiện trên da không riêng trẻ em mà đôi khi người lớn. Ở Việt Nam, trong nhân gian thường gọi đó là vết ma cắn màu xanh xuất hiện một thời gian rồi biến mất, đừng nhầm với vết bớt màu hồng đỏ. Vết bầm màu xanh được giải thích là do các mạch máu nhỏ (vi tí huyết quản bị vỡ v́ nguyên nhân nào đó như va chạm mà ta vô t́nh không để ư).
Vết bớt có khi ẩn trong da, có khi nổi cộm lên sờ thấy mềm, thường có màu sắc của rượu vang được gọi là dấu vết của rượu vang đỏ (port wine marks), có khi đỏ tươi như trái dâu tây nên c̣n được gọi là strawberry marks.
Theo một số nhà y học giải thích th́ vết bớt này sở dĩ có hài nhi mới sanh là do ở người mẹ là chính, do những tác động bên ngoài lên cơ thể người mẹ hay tự bản thân cơ thể người mẹ đă ảnh hưởng lên thai nhi trước khi hài nhi chào đời.
Mặc dầu vậy, giải thích này đến nay, những vết ấy chẳng ảnh hưởng ǵ lên cơ thể đứa bé và người ta có thể tẩy, xóa hoặc cắt đi bằng cách dùng kim điện để đốt hay dùng những phương thức vật lư đặc biệt khác.
Thật ra không phải đứa bé nào khi lọt ḷng mẹ có dấu vết ấy khi lớn lên đều kể lại quá khứ xa xăm hay tiền kiếp ḿnh giống như trường hợp của bé Titu. Những vết chàm, vết bớt xuất hiện trên da hài nhi mới chào đời là dấu vết thuộc cấp độ thấp.
Các nhà nghiên cứu đă thu thập vô số các loại dấu vết trên da của trẻ sơ sinh từ nhiều nơi trên thế giới. Giáo sư Ian Stevenson đă nghiên cứu 10.623 trường hợp về hiện tượng đầu thai, luân hồi và đặc biệt chú ư đến các trường hợp có dấu vết bẩm sinh và đương sự đă đưa ra những sự kiện liên quan xảy ra từ kiếp trước.
Có nhiều loại dấu vết; Vết chàm, vết bớt, xuất hiện cạn trên da của hài nhi thuộc cấp độ nhỏ. Dấu vết mạnh mẽ, sâu đậm và nổi rơ có khi lún sâu hay nổi cao giống vết sẹo từ một vết thương được cho là dấu vết đáng quan tâm về nhiều phương diện cả y khoa lẫn siêu h́nh. Bác sĩ Mills cũng là người đă chuyên tâm nghiên cứu các dấu vết bẩm sinh và bác sĩ đă có được một bộ sưu tập dồi dào h́nh ảnh và sự kiện về những dấu vết lạ lùng này.
Cấp độ trung gian giữa vết chàm và vết sẹo trên cơ thể hài nhi là vết thâm đen dày. Đây là dấu vết xuất hiện trên da đôi khi tạo thành một mảng dày như lớp da thú vật. Có khi trên lớp da ấy lại c̣n có lông mọc tua tủa chẳng khác nào da trâu. Trong các hồ sơ lưu trữ tại các bệnh viện có ghi lại các trường hợp về các dấu về các dấu vết lạ lùng này.
Năm 1878, tại Hoa Kỳ có một người tên là Blake, lúc sinh ra, phần nửa phần cơ thể bao bọc bởi một lớp da dày màu xám đen sần sùi như da voi, da trâu, trên thế giới nhiều người có những dấu vết ấy xuất hiện hoặc ở mặt, ở cổ, ở ngực, ở tay chân...
H́nh ảnh mà nhiều người thấy khá rơ là chính tổng thống Nga Sô McGobachev cũng có dấu vết màu đỏ port-wine marks ngay trên trán và giới y khoa cho rằng đó là dấu vết bẩm sinh.
Cho đến nay thật sự chưa ai giải thích khác hơn về các dấu vết ấy, nghĩa là sự giải thích vẫn trong ṿng luẫn quẫn như: đó là dấu vết bẩm sinh do người mẹ khi mang thai chịu ảnh hưởng của một vài tác nhân nào đó như chất thuốc uống.
Hoặc thuốc xức trên da người mẹ hoặc thức ăn hay một tác nhân nào khác như những xáo trộn trong sự chuyển biến của cơ thể lúc c̣n là bào thai hay do sự lệch lạc về cấu tạo, thàng lập của tế bào, nhiễm thể, gen, do bệnh lư của cha mẹ, do hiện tượng di truyền..
Những Trường Hợp Chứng Minh
Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu đă không chịu ngừng ở giải thích đó, họ muốn t́m hiểu nguyên nhân sâu xa hơn và nhất là khi những câu chuyện có thật liên quan đến các dấu vết lạ lùng đó xảy ra th́ không những các nhà nghiên cứu nghiệp dư, tài tử mà ngay cả các nhà chuyên môn, các nhà khoa học cũng đều nhảy vào ṿng nghiên cứu.
Thật ra vấn đề đă có từ lâu, trong nhân gian, con người đă nghĩ rằng: có thể có cái ǵ đó ẩn tàng từ những vết tích trên cơ thể trẻ sơ sinh. Tại sao vết tích ấy lại có từ lúc hài nhi ở trong bụng mẹ? Họ tin rằng đó là vết tích của kiếp trước c̣n sót lại qua sự đầu thai. Nhiều câu chuyện có thật đă chứng minh những ǵ mà từ lâu con người đă nghi ngờ và nghĩ đến.
Chuyện cậu bé Titu với vết sẹo bẩm sinh do súng bắn từ tiền kiếp là một trong hàng ngàn chuyện có thật đă xảy ra trên thế giới cũng như câu chuyện có thật về trường hợp cô bé Winnie Easland đă làm ngạc nhiên giới khoa học:
I. Chuyện có thật về bé Winnie Easland
Bé Winie Easland mất năm 1961 nhưng hồ sơ của bé lại được nhà nghiên cứu và sưu tập các vấn đề liên quan tới sự đầu thai là Ian Stevenson lưu giữ cẩn thận.
Stevenson vừa là nhà phân tâm học vừa là bác sĩ tại Virginia (Hoa Kỳ). Theo hồ sơ ấy th́ cô bé Winnie Easland chết v́ tai nạn xe hơi lúc mới sáu tuổi. Mặc dù các bác sĩ đă tận t́nh cứu giúp và giải phẫu cẩn thận nhưng v́ vết thương quá nặng nên cô bé qua đời. Năm 1964, người mẹ cô bé bất hạnh này lại sinh được một bé gái nữa khi cô bé này vừa tṛn sáu tuổi th́ bổng nhiên cô bé có những lời nói cử chỉ lạ lùng.
Cô bé nói với mẹ "Má ơi! con chính là Winnie đây!" khi xem tập ảnh của gia đ́nh th́ cô bé chỉ h́nh của bé Winnie và nói: "con đây này!" và cô bé đă kể rằng kiếp trước ḿnh đă bị tai nạn được đưa vào bệnh viện giải phẫu nhưng vết thương quá nặng nên đă qua đời. Điều kỳ lạ đáng lưu ư là khi mới lọt ḷng mẹ cô bé này đă có một dấu vết giống như đường mổ lớn nằm bên hông của cơ thể. Đó là một dấu vết bẩm sinh.
Theo bác sĩ Ian Stevenson th́ phải chăng đó là dấu vết của một tai nạn của tiền kiếp và dấu vết ấy vẫn c̣n theo đuổi đến kiếp hiện tại? Đó là dấu vết của luân hồi? Cũng theo bác sĩ Stevenson th́ trong hơn hàng ngh́n trường hợp nghiên cứu về vấn đề tiền kiếp và hậu kiếp th́ có khoảng vài trăm trường hợp có thể kiểm nghiệm xác định qua những dấu vết bẩm sinh trên cơ thể.
Bác sĩ Stevension cho rằng đó chính là dấu ấn của những ǵ xảy ra từ kiếp trước và sẽ giúp minh chứng cho những khám phá tiếp theo về tiền kiếp của những người mang dấu tích ấy.
II. Chuyện có thật về bé SanJay ở Ấn Độ
Bác sĩ Stevenson đă thu thập vô số chuyện lạ liên quan đến tiền thân của con người. Sau đây là một số câu chuyện có thật do bác sĩ Stevenson đă đưa ra với đầy đủ bằng chứng: Câu chuyện xảy ra tại hai ngôi làng ở miền nam Ấn Độ.
Một gia đ́nh nọ có một đứa bé mới sinh đặt tên là SanJay đứa bé này mới lọt ḷng mẹ đă có dị tật đó là các ngón ở bàn tay mặt bị cụt. Theo sự chuẩn đoán của các y sĩ tại nhà hộ sinh th́ đó là dấu tích bẩm sinh.
Nhưng đối với bác sĩ Stevenson th́ đây là trường hợp đáng lưu ư v́ theo bác sĩ thông thường rất nhiều trường hợp trẻ mới sinh ra có các ngón tay ngắn hoặc có khi không có ngón tay và thường th́ cả hai tay. Riêng trường hợp đứa bé này, các ngón ở bàn tay mặt không phải ngắn mà có dạng thể như bị cắt ngang nên đầu ngón tay cụt rút lại như thành sẹo.
Sự nghi ngờ của bác sĩ Stevenson trùng hợp với hiện tượng lạ kỳ về đứa bé ấy. Đứa bé đă nói với người mẹ một câu làm mọi người ngạc nhiên: "Bàn tay mặt của con ngày trước đă bị cái máy quạt nghiền nát các ngón. Lúc đó con ở tại ngôi làng cách xa làng này khoảng 8 cây số.
Cha mẹ và anh con lúc đó hiện nay vẫn c̣n sống..." Thế rồi, đứa bé đ̣i mẹ dẫn ḿnh tới căn nhà ở ngôi làng đó. Tại đó có một gia đ́nh có đứa con trai chết v́ bị máy cắt đứt các ngón tay.
Về sau Sanjay đă kể lại như sau: "Lúc tôi đến th́ đang có đám cưới trong làng, anh tôi cũng tới dự. Tôi biết ba má và anh tôi (những người thân ở kiếp trước của tôi) nhưng họ không biết tôi. Họ chỉ nghe chuyện tôi bảo rằng tôi là em và con trong gia đ́nh họ.
Nhiều người vừa cười vừa nói như đùa: "Này, cháu bé hăy nói đi, tại sao mấy ngón tay cháu lại bị đứt vậy? C̣n mẹ tôi (người mẹ kiếp trước của tôi) th́ bảo:" nếu là con của mẹ th́ hăy chỉ cho mọi người cái máy ở đâu, cái máy đă cắt mấy ngón tay con đó?"
Sau đó tôi dẫn mọi người đi chỉ chổ cái máy và lúc đó trong khi mọi người c̣n ngạc nhiên th́ tôi vẫn quả quyết tôi chính là con của mẹ kiếp trước của tôi đây." Bác sĩ Psricha đă hỏi Sanjay thật kỹ ông nói: cháu c̣n nhớ lại lần bị cái máy cắt mấy ngón tay như thế nào không? th́ đứa bé cho biết như sau:
Người cha của cháu (tiền kiếp) thường uống rượu. Buổi chiều ông về nhà và quay máy, lúc ấy cháu loay hoay bên cái máy và rồi bàn tay bị cuốn vào bánh xe, cháu thét lên, ba cháu cố gắng kéo tay cháu ra. Thế rồi các ngón tay đứt ĺa. Mọi người chạy lại. Họ mang cháu đến bệnh viện... Mẹ cháu vừa khóc, vừa bế cháu lên xe ḅ..." và sau đó cháu thiếp đi... v́ đường đến bệnh viện quá xa nên cháu đă chết sau đó."
Sau cuộc thử thách thực hư về những ǵ chứng minh đứa bé trước đây (tiền kiếp) là con của gia đ́nh này, đứa bé được người mẹ ruột (hậu kiếp) dẫn đến nhà của gia đ́nh cha mẹ có người con trước đây bị chết v́ bị cái máy cắt đứt năm ngón tay (tiền kiếp).
Cuộc hội ngộ thật lạ lùng. Đứa bé đă thốt lên một câu như người lớn: tôi đă chết một lần và tôi lại được sinh lần nữa và ở đây". Bác sĩ Pasricha hỏi người đàn bà mà đứa bé nhận là mẹ ḿnh rằng: "nếu quả thật cháu bé này là con của bà, cho dù bà ở kiếp trước th́ bà tính sao?" Người đàn bà trả lời: "Dĩ nhiên là tôi vui vẽ chấp nhận cháu là con tôi. Cháu đă muốn tôi làm mẹ th́ tôi quyết định rằng cháu là con tôi..."
Riêng đối với người mẹ mới sinh ra cháu bé th́ t́nh cảnh thật vô cùng nan giải. Bà khóc thút thít nắm tay đứa bé vừa mếu máo vừa nói: "con là con của mẹ, Sanjay à!" Thế rồi chung cuộc, các bô lăo trong làng đă đứng ra dàn xếp ổn thỏa. Đứa bé là con chung của hai gia đ́nh.
Giờ đây đứa bé đă là một thanh niên mạnh khỏe và vui vẻ ḥa đồng giữa hai nhà. Anh ta thường nói: khi tôi đến ở nhà này, tôi lại nóng ḷng mong về lại nhà kia, rồi khi tôi đến ở nhà kia, tôi lại nóng ḷng muốn về nhà này... Hiếm ai có được nhiều cha mẹ anh em ruột như tôi."
Hiện nay người con trai tái sinh này có đến 7 người anh và cứ đều đặn, anh ở nhà này một tháng rồi lại đến nhà kia ở một tháng. Hai gia đ́nh ở hai làng cách xa nhau 8 cây số tự nhiên có một mối liên lạc thân t́nh, đó là đứa con chung của hai kiếp.
III. Chuyện có thật về cô gái ở Miến Điện.
Một trường hợp khác do bác sĩ Stevenson nêu lên cũng đă gây một ấn tượng sâu sắc lạ lùng về h́nh ảnh của vết tích tiền kiếp. Đó là trường hợp của một cô gái Miến Điện (nay đă có gia đ́nh) cô gái này có dấu vết bẩm sinh, lúc sinh ra bàn tay mặt các ngón bị cụt gần sát ở bàn tay, cô thường nhớ lại dĩ văng của cô thật lạ lùng, đó là tiền kiếp của cô, một dĩ văng quá xa xăm.
Điều đặc biệt lúc ấy cô là một người đàn ông, và người đàn ông này đă tạo nhiều điều đau khổ cho người vợ khiến người vợ phải tự vẫn. Bà mẹ vợ căm hận, quyết t́m cách trả thù cho con gái nên đă thuê một tay giết mướn, tên này đă dùng một thanh kiếm chém người đàn ông này khi anh ta đang đi xe đạp.
Lúc đó v́ sợ quá, anh vừa đưa tay ra đỡ vừa kêu lên: trời ơi! đừng giết tôi!... Nhưng tên giết mướn đă đưa một đường kiếm cắt đứt các ngón tay người đàn ông và rồi đâm chết. Bức ảnh mà bác sĩ Strverson đă đưa ra trong một buổi thuyết tŕnh tại đại học Virginia Hoa Kỳ cho thấy rơ bàn tay cô gái với các ngón tay bị cụt, đó chính là dấu tích c̣n lại của kiếp trước của cô, (lúc ấy cô là một người đàn ông).
IV Chuyện có thật về cháu bé ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Bác sĩ Stevenson c̣n nêu lên trường hợp một đứa bé Thổ Nhĩ Kỳ mà bác sĩ dă chụp h́nh được. Đứa bé này tự nhiên kể lại tiền kiếp của ḿnh từng chi tiết: kiếp trước là một chủ máy xay bột.
Một hôm có sự xích mích với khách hàng và không may, chủ máy xay bột bị đánh chết, bởi một vết thương nặng sau đầu. Khi sinh ra đứa bé này có một dấu vết bẩm sinh rất lạ giống như dấu tích bởi một chấn thương gây ra. Vị trí có dấu vết ấy hoàn toàn trùng hợp với những ǵ mà đứa bé ấy đă mô tả về những ǵ đă gây ra cái chết trong tiền kiếp.
Bác sĩ Stevenson đă thu thập rất nhiều sự kiện liên quan đến các vết tích của tiền kiếp. Bác sĩ cho rằng: Có nhiều trường hợp các vết tích này không liên hệ đến vấn đề di truyền và có dạng thể rất lạ lùng mà các nhà sinh vật học cũng như giới y khoa không thể kết luận đó là do sự lệch lạc trong giai đoạn chuyển từ phôi đến thai hoặc nhiễm sắc thể có sự cố nào đó.
Có lần bác sĩ Stevenson đă chụp ảnh và quan sát 1 dấu vết đặc biệt trên thân ḿnh một cháu bé vừa mới sinh giống vết thương do đạn bắn. Có 2 dấu vết tương ứng nhau. Dấu trước nhỏ tṛn trong khi dấu sau rộng hơn và không đều.
Có khoảng 15 trường hợp tương tự đă được bác sĩ Stevenson sưu tập và chụp ảnh đầy đủ để t́m tài liệu nghiên cứu và bác sĩ hy vọng vấn đề sẽ rơ hơn thêm khi cháu bé lớn lên, có thể cháu sẽ tự nhiên kể lại những ǵ xảy ra ở kiếp trước...
Hiện nay, những dấu vết bẩm sinh đang được các nhà nghiên cứu lưu tâm không phải đều thể hiện qua các vết chàm vết sẹo trên cơ thể mà những dấu tích ấy đôi khi c̣n xuất hiện ở cấp độ rơ nét hơn và hiện hữa dưới dạng thể như một cơ quan của cơ thể ngoài ra theo các nhà nghiên cứu th́ c̣n có một số dấu tích khác trên cơ thể con người cần được lưu tâm t́m hiểu thêm. Sau đây là một số dấu tích chính:
Hài Nhi Có Đuôi.
Đối với các nhà khoa học th́ đây là một trong những trường hợp về quái thai dị dạng. Tuy nhiên nếu giải thích rằng quái thai là hiện tượng phát sinh do sự lệch lạc về các gen ở nhiễm sắc thể trong lănh vực di truyền th́ dó chưa phải là tận cùng của nguyên nhân của vấn đề dù cho là giải thích là hoàn mỹ th́ điều này cũng chứng tỏ trong gen ấy có ẩn chứa những ǵ liên quan đến loài khác.
Khi thấy một hài nhi có đuôi xuất hiện nhiều nghi vấn đă đặt ra: Tại sao cơ thể hài nhi không bị lệch lạc hay tạo quái tượng mà trái lại cơ thể lành lặn, mạnh khỏe nhưng chỉ có thêm một cái đuôi mà thôi. Cái đuôi ấy do đâu mà có. Darwin dựa vào thuyết tiến hóa của ḿnh để giải thích rằng cái đuôi chính là đốt xương cùng của cột sống kéo dài ra.
Ở người đốt xương cùng chính là cái đuôi của loài động vật có vú, qua sự tiến hóa hằng triệu năm để thành người cái đuôi rút ngắn lại.
Vậy theo thuyết cấu tạo và giao thoa của nhiễm sắc thể, gen di truyền cũng như theo thuyết tiến hóa của Darwin, sự giải thích nguyên nhân nào hài nhi có đuôi vẫn chưa được rơ ràng trong khi từ cổ đại đến nay có vô số những trường hợp các con trẻ mới sinh có đuôi một cách kỳ dị.
Những trường hợp đặc biệt này được t́m thấy qua các tài liệu lưu trữ ở các bệnh viện. Năm 1872, Lissner cho biết có trường hợp một bé gái vừa mới chào đời đă mang sau mông một cái đuôi.
Năm 1884, Lissner lại có dịp thấy một trường hợp tương tự: một bé gái có đuôi đo được 13 cm. Nhiều trường hợp hài nhi chào đời cơ thể có đuôi được thấy ở nhiều nơi.
Oliver Wendell Holwes năm 1890 cho biết ở Luân Đôn (Anh) có một đứa bé trai có cái đuôi thật lớn, quan sát cái đuôi ấy, các nhà y khoa khẳng định rằng chẳng khác ǵ mấy với đuôi loài vật như đuôi ḅ, đuôi trâu. Ở Đông Dương người ta cũng t́m thấy nhiều trường hợp tương tự.
"Bé Mọi" là tên của một bé trai 12 tuổi có đuôi dài. Bartels đă mô tả rơ ràng 21 hài nhi chào đời với cái đuôi mọc dài ra từ đốt xương cùng. Chính nhà sinh vật học nổi danh Charles Darwin (Anh) là người đă từng theo dơi, nghiên cứu các trường hợp về người có đuôi và đă cho rằng đây là một trong nhiều hiện tượng chứng minh về sự tiến hóa của sinh vật).
Tại đại học Cambridge và New York, các nhà khoa học đă ghi nhận trường hợp một hài nhi da đen (sinh gần Louisville) mới chào đời 8 tuần lễ nhưng đă có đuôi dài 5cm.
Nhiều người có đuôi và đặc biệt ở phần cuối đuôi c̣n có một túm lông trông giống như đuôi ḅ, trâu hay sư tử.
Ở Hibernia cũng có nhiều trường hợp như vậy. Nhiều người có đuôi khá dài. Theo một tài liệu y khoa ghi trong cuốn Medical Curiosities của Geotge M. Gould và Walter L. Pylle th́ vào năm 1690, Blachard đă trông thấy và mô tả một người đàn ông tên là Emanuel Koning, người này có đuôi và Gosselin cũng thấy tại bệnh viện một người có đuôi dài khoảng 10cm.
Hài Nhi Có Sừng, Có Gạc
Trường hợp đặc biệt khác đáng lưu ư là người có sừng, có gạc trông như sừng tê giác, sừng trâu, ḅ được nhiều nhà y học quan tâm. Howse, Cooper và Treves đă thu thập nhiều trường hợp đặc biệt về người có sừng (Hurman horms). Những người này khi mới sinh ra có sừng có gạc ở đầu hay mặt, càng ngày sừng càng lớn và dài ra.
Có người sừng mọc ở trán, ở mũi, ở hai bên đầu trông giống như loài thú có sừng. Lamprey (bác sĩ ở Luân Đôn) đă có lần thấy một người có sừng ở Phi Châu, cái sừng phát sinh do xương hàm trên phát triển dài ra. Có người sừng này lại phát triển ngay trước trán.
Warren cho biết đă có lần đo được đo chiều dài một chiếc sừng mọc trước trán một người đàn bà là 6 inches, vào năm 1696, một người đàn bà ở Pháp có sừng dài 12 inches mọc ngay trước trán.
Năm 1886 ngay tại Học Viện Y Khoa, có lần nhà nghiên cứu Vidal đă giới thiệu và tường tŕnh về trường hợp một người đàn bà có 2 sừng mọc trên đầu, mỗi sừng dài 10 inches. Một trường hợp khác, một người đàn bà sống gần York có cái sừng mọc ngay ở mặt. Sau một lần té ngă, cái sừng bị găy nhưng sau đó sừng ấy vẫn c̣n tiếp tục mọc lại.
Người Có Nhiều Vú.
Một trong những trường hợp đặc biệt khác mà từ lâu được các nhà nghiên cứu về sinh lư học cũng như về hiện tượng siêu h́nh lưu tâm là người có nhiều vú. Charles Darwin đă gọi trường hợp này là một trong những trường hợp của hiện tượng trở lại giống cũ "hiện tượng lại giống".
Theo đó th́ qua sự tiến hóa của toàn bộ cơ thể một cơ quan nào không c̣n cần thiết sẽ thoái hóa dần để rồi mất hẳn. Trong thời gian thoái hóa sẽ c̣n một giai đoạn chuyển tiếp dài và cơ quan ấy vẫn c̣n lưu lại trên cơ thể mà cấp độ hiện hữu giảm dần để chỉ c̣n lại dấu vết, ví dụ ở bào thai người có giai đoạn phôi có khe mang như cá...
Từ cổ đại, người có nhiều vú được tượng trưng bởi tượng thần Artemisia hay Diana (ở Đông Phương cổ đại). Nhiều nhà nghiên cứu đă sưu tập các trường hợp này khá nhiều.
Năm 1876, Peuch đă thu thập được 77 trường hợp về người có nhiều vú, Engstrom cũng đă tham gia nghiên cứu. Bartholinus (Thomas) đă quan sát một cá thể dị h́nh, đó là một người đàn bà có ba vú. Gardneer đă mô tả một người đàn ông có 4 vú.
Trong khi đó có người đă gặp một người đàn ông có đến 6 num vú. Khi người này ở trần nằm ngủ trông phần ngực bụng anh ta giống con heo nái với hai dẫy vú. Ngay ở Hoa Kỳ người ta cũng biết nhiều người có nhiều vú trong đó hai người Việt Nam hiện sống tại California (một người có 4 vú, một người có 6 vú).
Người Voi
Ở Leicester có một trường hợp rất lạ về người Voi (elephant man). Đây là một người đúng nghĩa về h́nh dạng, cách ăn uống sinh hoạt và đi đứng nhưng gương mặt và thân h́nh phần lớn cấu tạo bởi lớp da sần sùi giống da voi. Điều đáng lưu ư là trước khi người này được sinh ra đời không lâu th́ bà mẹ anh ta bị một con voi ở gánh xiếc tấn công nhưng may mắn thoát chết.
Người voi đi đứng và nằm ngồi có vẻ khó nhọc v́ cái đầu quá nặng, rồi ngày 11 tháng 4 năm 1890, trong khi đang nằm ngủ trên giường, người voi bất th́nh ĺnh trở ḿnh, cái đầu nặng nề đă không chuyển đổi kịp v́ thế cho nên đă làm lệch khợp xương cổ. Trong cuốn Autour du monde có thuật lại chuyện một người đàn bà tên Mu Mu (người Sudan Phi Châu) sinh hạ một lần hai bé trai.
Cặp sinh đôi này có dạng thể rất kỳ dị, thoạt nh́n vào trong gương mặt giống voi con và hai đứa bé này chỉ sống được một năm th́ tự nhiên cả hai đều bị bệnh viêm màng năo mà qua đời. Điều đáng chú ư là gia đ́nh ḍng họ người đàn bà này chuyên sinh sống bằng nghề săn bắn voi để lấy ngà.
Câu chuyện có thật này đă được các nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi quả báo ghi nhận để giải thích phần nào về vấn đề nghiệp quả. Phải chăng gia đ́nh người đàn bà này đă tàn hại không biết bao nhiêu loài voi mà quả báo tượng trưng là sinh hạ hai đứa con sinh đôi có dáng thể của loài voi và bị chết yểu? Phải chăng đó lài giai đoạn đầu của lời cảnh báo, nhắc nhở về những hành động mà gia đ́nh ḍng họ này đang gieo rắc?
Người Có Lông Như Lông Thú.
Đây là trường hợp khá phổ biến trên thế giời từ xưa đến nay và được các nhà nghiên cứu chụp h́nh cẩn thận, rơ ràng để làm tài liệu. Phần lớn các h́nh nhi thuộc trường hợp này khi chào đời thân ḿnh có đầy lông, sau đó càng ngày lông càng mọc dài và dày như loài thú.
Vào thế kỷ thứ 16, một tài liệu của Aldrovandus đă ghi nhận ở đảo Canry có một gia đ́nh 4 người, tất cả đều giống loài chó lông xù v́ từ mặt đến thân ḿnh đều có lông dài bao phủ. Tuy nhiên họ vẫn ăn uống, sinh hoạt và nói chuyện b́nh thường.
Năm 1883, người ta đă đem một cô bé người Trung Hoa tên là Krao (lúc đó lên 7 tuổi) đến biểu diễn ở Anh, Pháp, Hoa Kỳ, cô bé chẳng có ǵ đặc sắc ngoài bộ lông dài và dày màu đen bao phủ toàn bột cơ thể trông xa chẳng khác nào một con thú.
Ngày 30 tháng 9 năm 1977, ở Trung Hoa có một cháu bé chào đời cháu bé này được đặt tên là Yu Zhenhuan mà nét độc đáo là cơ thể cháu bé đều phủ bởi lớp lông măng mọc dài, màu đen trông giống một con mèo.
Theo Yule và Crawford, hai nhà sưu tập các dấu vết luân hồi th́ ở Miến Điện có một gia đ́nh mà từ cha, mẹ đến con gái và cháu gái đều có lông bao phủ cơ thể. Đặc biệt ở mặt, có lông măng c̣n mọc dài bao phủ rất dày trông giống như loài khỉ.
Một nhà báo Hồng Kông kể lại rằng: có một gia đ́nh Trung Hoa sống ở Ma Cao có đứa con gái giống khỉ (từ mặt mày tay chân đều có lông mọc dày dáng dấp cử chỉ cũng rất giống khỉ).
Cô gái này chỉ cất tiếng lí nhí như khỉ vượn chớ không nói được tiếng người và chết năm 1954. Theo người trong vùng cho biết th́ cha mẹ côn này chuyên nấu và sản xuất cao khỉ. Người mẹ cô gái hàng ngày phải rạch da và lột da khỉ với từng mảng lông lớn.
Phải chẳng h́nh cảnh ấy cứ ăn sâu và chồng chất măi trong kư ức khiến lúc mang thai bà vẫn bị ám ảnh khiến đứa con sinh ra mang h́nh ảnh của loài khỉ, vượn? Câu chuyện có thật này đă được đăng tải trong báo hàng ngày của Thượng Hải năm 1995.
Những Dấu Tích Kỳ Dị Khác
Theo các nhà nghiên cứu về các dấu tích kỳ lạ trên cơ thể hài nhi th́ có nhiều dấu tích rất đặc biệt xuất hiện trên cơ thể của đứa bé vừa chào đời. Người ta tự hỏi đó là dấu tích của quá khứ, của luân hồi hay của hiện tượng lệch lạc cấu tạo có sự biến chuyển của phôi tử giai đoạn phôi đến thai nhi) tạo ra quái thai?
Theo tài liệu y khoa của tiến sĩ George M. Gould và Walter L. Pyle (trong cuốn Medical curiosities, xuất bản vào năm 1982 ở Hoa Kỳ th́ năm 1493, đă có trường hợp một hài nhi chà đời mà cơ thể mang dạng thể của 2 loài sinh vật: từ đầu xuống ngang thắt lưng là dạng thể người với 2 tay, đầu, mặt mũi, tai miệng và thân ḿnh b́nh thường. Nhưng từ thắt lưng trở xuống lại có dạng của loài chó với 2 chân đầy lông và cái đuôi hơi cong.
Theo Lycosthenes th́ vào năm 1110, tại Liège có một người đàn bà sinh hạ một hài nhi, đầu, mặt và 2 tay đều thuộc dạng người nhưng phần c̣n lại th́ có dạng thể một.
Năm 1547, ở Cravovia có một hài nhi rất lạ: Đầu người nhưng có mũi dài như mũi loài voi, chân có màng bơi giống như chân ngỗng hay chân vịt ngoài ra từ đốt xương cùng lại có đuôi mọc dài. Ở Huế có một gia đ́nh chuyên làm thịt heo, mỗi ngày vợ chồng nhà này giết khoảng 2 đến 3 con heo. Năm 1967, người vợ có thai và sinh hạ một bé trai.
Kỳ lạ thay, khi hài nhi chào đời tại bệnh viện ở Huế th́ cô mụ và các y tá (trong đó có chị Sen, chị này là nhân chứng) kinh hăi v́ thấy gương mặt hài nhi rất kỳ dị, hai mắt ti hí c̣n mũi và miệng kéo dài dính nhau trông giống như một con heo.
Hài nhi chỉ sống được ba tháng th́ qua đời. Người hàng xóm kể rằng, trước khi đứa bé ấy chết có một chuyện lạ là người chồng chở 2 con heo sau vườn th́ trong nôi, đứa bé vùng khóc thét lên rồi tắt thở. Hai vợ chồng này sợ quá từ bỏ nghề giết heo và cùng nhau vào Quảng Ngăi mở một cơ sở làm gạch.
Trong vụ Tết Mậu Thân, cả hai vợ chồng đều trúng đạn chết bên đường, câu chuyện có thật này do anh L.V.H. học sinh Đệ tam A Quốc Học Huế là người đă ở và ăn cơm tháng tại gia đ́nh này kể lại.
Một Số Suy Đoán Từ Các Dạng Thể Kỳ Lạ Bẩm Sinh.
Qua những hiện tượng đă xảy ra từ những h́nh ảnh kỳ dị của hài nhi, những tin về lư thuyết Luân hồi cho rằng: đó là một trong những h́nh ảnh của quá khứ xa xăm, quá khứ ở đây chính là tiền kiếp. Trong hầu hết các kinh sách của những tôn giáo nói về luân hồi, thường nhắc đến một câu đại ư như sau:
"Muốn biết kiếp trước thế nào th́ hăy nh́n vào hiện tại..." Câu này ám chỉ rằng một người nào đó đang sống trên cơi thế gian này nếu y muốn biết tiền thân của y ra sao th́ y chỉ cần nh́n lại thân phận y bây giờ. Con người của y hiện tại là tấm gương phản chiếu lại h́nh ảnh y của kiếp trước.
Xét về cuộc sống vật chất, nếu y đau khổ, nghèo nàn th́ đó là điều chứng tỏ kiếp trước y đă làm cho người khác đau khổ, nghèo nàn hay hoang phí, thản nhiên trước khổ đau của người khác. Xét về thể chất th́ nếu y có một thân h́nh kỳ dị th́ cứ nh́n theo những nét đặc trưng trên cơ thể mà suy đoán kiếp trước y đă tạo ra nghiệp ác nào đó trên thân xác kẻ khác hoặc với cả thú vật.
Như trường hợp một hài nhi dị tướng mà tiến sĩ George M. Gould và Walter L.Pyle đă nêu ra có nửa thân h́nh của người và nửa thân h́nh của chó, những người tin vào thuyết luân hồi đều cho rằng tiền kiếp của đứa bé mới ra đời này có thể là loài chó nên khi tái sinh. V́ một lư do nào đó mà dấu vết và h́nh dạng nguyên thuỷ của kiếp trước đó là một người tàn ác đă hành hạ dă man lên vô số các loài chó.
Những người Ai Cập cổ đại, người Hy Lạp, một số người da đỏ vùng Bắc Mỹ, nhiều dân tộc ở Phi Châu, Á Châu và những dân thuộc các đảo Thái B́nh dương... đều tin vào thuyết luân hồi, tái sinh, họ c̣n tin vào thuyết con người có thể đầu thai làm thú vật(thuyết animism), hoặc thú vật có thể đầu thai làm người.
Bởi sự luân hồi là một sự tiến hoá. Theo quan niệm của những người tin vào thuyết luân hồi th́ ở kiếp này ăn ở phúc đức hiền lương th́ kiếp kế tiếp sẽ hưởng được sự tốt lành. Con người phải trải qua nhiều kiếp do bởi nghiệp lực, hay nói khác đi do những ǵ ḿnh đă tạo ra trong lúc c̣n sông( Kiếp hiện tai).
Trải qua nhiều kiếp như thế, nếu mỗi kiếp đều tạo nghiệp lành th́ dĩ nhiên kiếp kế tiếp hưởng được thành quả tốt do nghiệp trước đó tạo nên. Nếu tạo nghiệp lành qua nhiều kiếp liên tục tức là đă có một sự tiến hóa tốt lành từ kiếp này đến kiếp khác, càng về sau càng tốt hơn thêm.
Dĩ nhiên sự tiến hóa trong luân hồi ấy sẽ giúp linh hồn đi đến chỗ an lành siêu thoát sau này. Nếu linh hồn ấy từ loài thú vật th́ trải qua sự tiến hóa của nhiều kiếp linh hồn ấy sẽ đầu thai làm người và khi đă thành người cũng phảo chịu trải qua các kiếp luân hồi tái sinh và nếu tiếp tục tạo được nghiệp lành qua nhiều kiếp người.
Tức là tạo sự tiến hóa về nghiệp trong luân hồi ở kiếp người th́ chắc chắn linh hồn này sẽ tới được cơi tốt lành siêu thoát không c̣n tái sinh nữa... Do đó, đối với các h́nh ảnh về người có đuôi, người có lông như loài thú, người có nhiều vú, hay có sừng có gạc v.v... đều được họ giải thích đó là những dấu tích của luân hồi, hay dấu ấn của tiền kiếp.
Từ một vết chàm, vết sẹo tới lớp da sần sùi có lông tua tủa trên người của hài nhi nào đó mới chào đời, cho đến các h́nh ảnh dị kỳ hơn của một cơ thể biến thái có dạng thể người lẫn thú... gớm ghiếc... tất cả đều có liên quan đến những ǵ trong tiền kiếp mà người ấy đă sống, đă hành động....
Cũng theo những người theo thuyết luân hồn chuyển kiếp hay luân hồi quả báo th́ mặc dù chi tiết hành động của con người ở tiền kiếp ra sao đă khiến tạo ra trong hiện tại những đặc điểm xuất hiện trên cơ thể th́ họ chưa biết rơ, nhưng họ tin chắc rằng đó là viết tích của những ǵ từ kiếp trước. Là hậu quả của hành động ở tiền kiếp.
Các vị Lạt Ma Tây Tạng cho rằng: "Những ǵ mà khoa học gọi là quái thai th́ đó chỉ là cách gọi". Các nhà khoa học khi thấy một hài nhi chào đời mang dạng thể dị kỳ th́ gọi đó là quái thai (Monster) v́ do những lệch lạc nào đó trong khâu di truyền cá thể hay trong khi chuyển biến từ phôi đến bào thai có sự xáo trộn, bất đồng bộ.
Mới đây, khi khoa học di truyền (gentics) phát triển, các nhà khoa học c̣n cho rằng: do sự chuyển hóa, sắp xếp, phân chia hay lệch lạc của các gen trong nhiễm sắc thể (Chromosome) mà phát sinh ra quái thai. Cũng theo các nhà sinh vật học, các h́nh ảnh lạ xuất hiện trên cơ thể người dù cấp độ nhỏ như vết chàm, mảng da sần sùi cho đến người có bộ mặt gớm ghiếc, chân tay dị dạng...
Đều phát sinh từ những nguyên nhân vừa kể và ngoài ra c̣n do sự tác động của bệnh lư ví dụ bệnh giang mai dễ sinh quái thai khi người mẹ hay người cha mang bệnh này, hoặc đôi khi c̣n do tác dụng của thuốc uống thuốc chích v́ dụ người mẹ dùng một loại thốc nào đó trong khi đang mang thai có thể làm biến đổi lịch tŕnh chuyển hóa của bào thai.
Có nhiều thuốc ngừa thai gây lên bệnh quái thai... Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu chuyên về luân hồi th́ vấn đề không thể truy nguyên từ nửa chừng của sự kiện bằng những ǵ thấy trước mắt. Thật sự cách giải thích của các nhà khoa học chỉ hợp lư (theo lănh vực khoa học) đối với một vài sự kiện mà thôi.
Riêng đối với trường hợp của bé Titu, của bé Winnie Easland th́ quả thực các nhà khoa học chưa hoàn toàn giải thích đầy đủ, bởi lẽ khoa học thực nghiệm chỉ chứng nhận những ǵ có tính cách rơ ràng, có chứng cớ hiển nhiên th́ những trường hợp đă xảy ra (có đến hàng ngh́n trường hợp).
Như đă nói trên dù sao cũng vẫn có chứng cớ và đó là điều làm cho một số nhà khoa học phải khựng lại ở giai đoạn giải thích hiện tượng v́ họ cảm thấy có nhiều trường hợp không thể nào giải thích theo lư thuyết khoa học mà họ thường dùng được.
R. Ruly, nhà vật lư nổi danh đă đi vào lănh vực nghiên cứu các hiện tượng siêu linh cho rằng: "những nhà khoa học không nên cứng nhắc khi giải thích mọi hiện tượng xảy ra thoe một chiều với luận lư mà con người đă có v́ hai vấn đề;
Một là con người sẽ càng ngày càng khám phá ra nhiều sự kiện mới và hai là con người đang sống trong một không gian giới hạn của quả đất nên mọi vấn đề thường bị giới hạn trong khoảng không gian đó. Cũng như chịu ảnh hưởng, tác động của những hiện tượng cơ học, vật lư ở không gian đó mà thôi.
Thật ra, từ lâu, một số lớn vấn đề đă được giới khoa học quan tâm nghiên cứu và những khám Phá ấy thường bắt nguồn từ những ǵ có tính cách đơn giản, b́nh thường hoặc đôi khi đượm màu mê tín, hoang đường từ những nhận định phát sinh trong dân gian hay từ các tôn giáo.
Do đó một số lớn các nhà khoa học đă không ngừng thu thập tất cả mọi tài liệu, ngay cả những tài liệu mà sự kiện xảy ra có tính cách mơ hồ hoặc đôi khi đầy vẽ ma quái lạ lùng v́ theo họ, một ngày nào đó, sự kiện sẽ có thể được chứng minh rơ ràng. Nhà bác học Einstein cũng đă có lần phát biểu như sau: Thuyết tương đối được phát sinh từ một nghi vấn về một định lư mà ra.
Sự nhận thức của con người là cả một sự tiến hoá dài.ngay lư thuyết và nhận đọnh của các nhà khoa học đă tiến những bước rất dài, dĩ nhiên cũng đă đi từ những sai lầm này đến sai lầm khác và được cải thiện sữa đổi, hoàn chỉnh. Chắc chắn trong tương lai sẽ có những vấn đề khoa học "sẽ phải sữa đổi" khi khám phá ra những sự kiện mới hơn...
Ngược ḍng lịch sử nhân loại, không hiếm những nhận định sai lầm phát sinh từ các nhà khoa học.Thuyết tự nhiên sinh xuất hiện cách đây mấy thế kỷ với sự tham gia của biết bao nhà khoa học. Có ai nghĩ rằng thời đó nhiều khoa học gia tin rằng bùn sinh ra giun và thịt sinh ra gịi?
Cũng như từ cổ đại vẫn có nhiều nhà khoa học tin rằng sự phối hợp giữa chó và người sẽ sinh ra người có dạng thể chó và người sẽ sinh ra người có dạng thể chó. Từ lâu trong dân gian cũng tin chuyện rắn phủ mèo th́ mèo sẽ sinh mèo tam thể.
Rồi khi kính hiển vi ra đời thuyết tự nhiên sinh trở thành một lư thuyết đầy khôi hài và khi khoa di truyền học phát sinh th́ thuyết phối hợp giữa loài người và loài vật để sinh ra loài mới cũng bị xóa tan...
Có thể nói cuối thế kỷ thứ 20 là thời gian chuyển biến trong sự nghiên cứu của các nhà khoa học. Thay v́ tập trung nghiên cứu mọi vấn đề theo hướng thuận th́ các nhà khoa học quay ngược lại sự nghiên cứu nghĩa là t́m hiểu lại vấn đề hay các hiện tượng của quá khứ.
Ngày xưa Darwin và trước đó là Cuvier cũng đă có những thuyết truy nguyên từ quá khứ như thuyết Đại biến của Cuvier đă mô tả quả đất qua nhiều thời đại với những cuộc đại biến xảy ra đă làm một số lớn sinh vật bị tiêu diệt rồi đến một thời đại khác với những sinh vật bị tiêu diệt.
Rồi đến một thời đại khác với những sinh vật khác xuất hiện rồi lại bị cuộc đại biến khác (do biển tiến vào lục địa hay biển rút khỏi lục địa, sóng thần, núi lửa động đất v..v..) C̣n Darwin, nhà sinh vật học Anh nêu thuyết tiến hóa của sinh vật và thuyết biến đổi của cơ thể sinh vật theo môi trường.
Darwin c̣n cho hiện hài nhi sinh ra có đuôi, có lông phủ đầy, ngực có nhiều vú... là hiện tượng lại giống (lại là quay về, trở lại, lại giống là quay trở lại giống cũ). Hiện tược lại giống thật ra chỉ là một ư niệm xét về h́nh dạng cơ thể mang tính giống này và giống khác như cơ thể hai nhi có đuôi, theo Darwin cái đuôi này là dấu tích của sự tiến v́ con người là cả một quá tŕnh tiến của sinh vật.
Con người có thể xem như là kết quả của một sự tiến hóa tự động vật có vú... Trong sinh vật học, các sinh vật tiến hóa từ nước lên cạn. Theo Darwin, ruột thừa của con người là dấu tích củu ruột tịt ở loài nhai lại khi đă tiến hóa, những ǵ không cần thiết cho đời sống mới sẽ thoái hóa dần.
Tuy nhiên, như đă nói trên, hiện nay các nhà nghiên cứu không những t́m hiểu, sưu tập mọi hiện tượng, lư thuyết, ư tưởng cổ xưa mà c̣n t́m cách chứng minh các sự kiện ấy cũng như các hiện tượng về ma quỷ.
Trở lại trường hợp các dấu tích luân hồi, ngoài các câu chuyện có thật như chuyện bé Titu ở Ấn Độ hay bé Winnie Easland với chứng cớ rơ ràng, trong dân gian tản mạn biết bao trường hợp lạ lùng nhưng có lẽ v́ xảy ra quá thường nên con người đôi khi không c̣n cho đó là quan trọng hoặc thấy rồi nhưng sự kiện chưa được giải thích rơ ràng nên cũng quên đi.
Một trường hợp khi phổ biến mà dân Việt Nam thường gặp là vấn đề con ranh con lộn, đó là vấn đề một vấn đề có liên quan nhiều đến dấu vết bẩm sinh và là một đề tài lạ lùng, lư thú hấp dẫn và đầy vẻ thâm sâu huyền bí.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 448 of 1146: Đă gửi: 30 June 2010 lúc 7:39pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN VỀ TIỀN KIẾP HẬU KIẾP
Chương Bốn
Dấu Tích Khác Liên Hệ Đến Hiện Tượng Luân Hồi
Dấu Tích Luân Hồi Biểu Hiện Qua Dạng Thể Và Cử Chỉ:
Trên thế giới, con người dù ở quốc gia nào, vùng đất nào cũng đều có một dạnh thể chung, nhưng xét riêng mỗi người th́ lại có những dáng dấp và cử chỉ khác nhau, ít ai giống ai. Có ngưới dáng dấp và cử chỉ khác nhau, ít ai giống ai.
Có người dáng dấp và cử chỉ thảnh thơi, sung sướng, có người gáng co ro cúm rúm. Có người trông dáng dấp giống một con thú. Có kẻ có gương mặt như chuột, có người gương mặt giống một con rắn độc dữ dằn, có người đi nhún nhẩy như con chi sẻ hay uốn lượn như loài ḅ sát, có người khi ngồi uy nghi như một con hổ, có người thiểu năo, khổ sở, u buồn như bóng ma.
Có người từ nhỏ đến lớn luôn luôn gắt gỏng, có người hay sầu bi, rầu rĩ, có người lại ghét cay, ghét đắng có cái ǵ đó. Nguyên nhân thường được truy ra từ tiền kiếp, có người ghét màu xanh, c̣ người ghét trẻ con, có người ghét đàn bà con gái, có người thích màu đỏ, có người thích ca hát, có người mê thơ và làm thơ hơn cả mọi thứ, có người thích đi tu từ tấm bé.v.v.
Có người khi nằm ngủ co ro khốn khổ lạ lùng, người co quắp, mặt nhăn nhó đau khổ, tay co rút vào ngực hay ôm lấy đầu. Có người khi ngồi dáng điệu ủ rũ như cây khô rụng lá. Có người khi ăn uống có cử chỉ trông giống loài heo.
Có người c̣n có những cử chỉ sợ sệt hốt hoảng khi gặp một vài thứ ǵ đó như có người thấy con bướm lại sợ, có người sợ nước, có người sợ tiếng động, tiếng cười, có người sợ mùi khói. Có người sợ sợi dây kết lại thành ṿng, có người sợ cái khăn màu đỏ...
Ở Huế, tại thành nội có bà T.T.L, mỗi lần thấy thân cây nào phân thành 2 nhánh là bà ôm ngực nhắm mắt sợ phát run lên, có người thấy chuột không sợ nhưng lại sợ mèo... câu hỏi đă được đặt ra là do đâu mà mỗi con người lại có cử chỉ khác nhau một cách lạ lùng như thế?
Từ lâu, các danh sư, các nhà tâm lư, các nhà lư số từ Hippocrate cho đến Lư Thời Trân, Josef Ranald, Nicolas Pende, Gibert Robin, Lepold Velkhover... đều lưu ư đến cá tánh của con người. Theo tâm lư học th́ cá tánh của mỗi người là tâm gương biểu lộ của tâm hồn.
Theo các nhà y học th́ cá tính c̣n phát sinh từ bệnh lư, v́ thế người bị đau dạ dày đau gan thường hay cáu kỉnh, bực bội gắt gỏng. Cá tánh con người c̣n biểu lộ tùy theo các tuyến nội tiết của cơ thể hoạt động mạnh hay yếu... các nhà nghiên cứu Tây phương đă và đang đi sâu vào lănh vực nghiên cứu này họ cho rằng "có sự biểu lộ từ bên ngoài tức là có sự hiện hữu ở bên trong".
Mới đây hai nhà nghiên cứu và cá tính con người là Gerard J.Nierenberg và Henry H. Calero đă tận dụng kỹ thuật video để ghi lại các hành động, cử chỉ, tư thế, động tác của mỗi con người để từ đó phân tích nghiên cứu, t́m hiểu những ǵ ẩn tàng, thâm sâu trong mỗi con người được biểu lộ qua hành vi cử chi...
Tuy nhiên, sự nghiên cứu của Gerard J. Nierenberg và Henry H. Calero phần lớn đều tập trung vào lănh vực tâm lư học chớ không đi sâu thêm vào lănh vực siêu linh huyền bí của hiện tượng luân hồi tài sinh, tiền kiếp và hậu kiếp như ngày xưa ông Edgar Cayce hay một số nhà phân tâm học và mới đây là tiến sĩ vật lư học Pháp Patrich Drouot đă thực hiện.
Theo ông Edgar Catce (người có khả năng thấy được quá khứ xa xăm hay tiền kiếp của con người) th́ những cá tính riêng biệt của mỗi con người như tính tàn bạo, lạnh nhạt... kiên nhẫn, nhân từ, rụt rè, dữ tợn, keo kiệt, dâm đăng... đều có nguyên nhân và nguyên nhân này phát sin từ tiền kiếp.
Ông Cayce đă có lần "soi kiếp" cho một người đàn ông 60 tuổi. Ông này lúc nào cũng có vẻ khổ sở, dáng điệu hốt hoảng, mặc dầu ông là một người rất giàu có. Cuộc soi kiếp cho thấy tiền kiếp của ông này, là một chủ tiệm cầm đồ keo kiệt, luôn luôn cầm đồ với giá rẻ mạt và lúc nào cũng hồi hộp mong cho người ta đến với ḿnh và mong được món hời.
Lúc nào ông cũng tính toán lo âu, hồi hộp, hấp tấp, vội vàng... nổi bật qua dáng dấp và ở kiếp này dấu vết ấy vẫn c̣n là dấu ấn trên nét mặt và cử chi của ông ta. Nhà vật lư học Pháp Patrick Drouot đă cho biết có lần ông đă khơi dậy tiềm thức của một người đàn ông luôn luôn có cử chỉ lạ lùng là dù đứng hay ngồi đều ở dạng thủ thế như sắp bị ai đánh đập.
Kết quả tiền kiếp của ông này là một đấu sĩ chuyên biểu diễn ở đấu trường với người và thú dưới triều đại La Mă c̣n hưng thịnh.
Theo các nhà nghiên cứu về luân hồi th́ những người khi thấy những vật ǵ đó th́ cảm thấy sợ hăi (đôi khi những vật ấy thật sự không có ǵ đáng sợ cả) là do những người này đă có sự liên hệ nào đó với những sự vật ấy như thế có thể họ đă bị nước cuốn đi trong một cơn lũ lụt ở tiền kiếp hay bị mắc kẹt trong một đám cháy đầy khói hoặc là bà L. ở tiền kiếp đă bị quân giặc treo giữa 2 cành cây để tra khảo...
Tất cả đều có một liên hệ nào đó từ tiền kiếp và ở kiếp này, những h́nh ảnh quá khứ xa xăm ẩn tàng trong tiềm thức sẽ trổi dậy mỗi khi gặp h́nh ảnh tương tự giống như trong khoa tâm lư học thường gọi là sự liên tại ấn tượng...
Ông Edgar Cayce cho biết: Có người suốt đời đầu tắt mặt tối để góp nhặt từng đồng xu để rồi hết sức giàu có nhưng luôn luôn ăn uống kham khổ, ăn mặc rách rưới, mở miệng ra là than văn nghèo cực khổ và cuối cùng là chết với hai bàn tay trắng.
Có lần ông Cayce đă soi kiếp cho một người có trường hợp tương tự, ông này có nhiều cửa hàng lớn ở New York, tiền kiếp của ông ta là chủ nhân của một cơ xưởng lớn vào những năm 1790. Những người thợ dưới quyền ông đều bị ông đày đọa, bóc lột công sức và tiền bạc rất trắng trợn đến độ người làm lụng cực nhọc quá ngă bệnh chết nhưng ông ta chẳng chút đoái hoài thương xót.
Ở kiếp này ông nhận hậu quả của luật luân hồi quả báo qua h́nh thức một kẻ nô lệ v́ đồng tiền, làm việc khổ nhọc mà chẳng được tận hưởng ǵ, đó chính là h́nh phạt lớn lao đối với ông.
Tuy rằng quả báo không hoàn toàn tương ứng với những ǵ ông ta đă gây ra từ kiếp trước, nhưng xét cho cùng th́ trước đây những người thợ là những kẻ nô lệ mà ông đă đầy đọa không hơn không kém.
Giờ đây ông lại trở thành kẻ nô lệ không phải của chính những người mà ông ta đă đày đọa mà là của những đồng tiền vô tri vô giác. Tuy nhiên chính những đồng tiền ấy lại là cái làm ông mất đi ḷng nhân đạo với đồng loại.
Dấu Tích Luân Hồi Biểu Hiện Qua Tật Bệnh, Những Khổ Đau Của Xác Thân
Trên thế gian này xuất hiện không biết bao nhiêu những h́nh ảnh khổ đau củ những người mà bệnh hoạn và tật ác từ đâu phủ ngập cuộc đời họ. Có người vừa mới chào đời đă mang trong cơ thể trọng bệnh, có người lọt ḷng mẹ đă bị mù, câm điếc hay không có tay chân hoặc có tay chân lại bị bại liệt. Tại sao lại có kẻ phải chịu cảnh đau đớn cùng cực ấy?
Trường hợp quả báo thể hiện qua tai nạn và bệnh tật
Những người Ky tô giáo đă phải thích những trường hợp này bằng câu "Đó là ư muốn của Chúa Trời!" Phải chăng Chúa Trời muốn thế? Không! thật sự câu nói ấy hàm bao ư nghĩa thâm sâu về những tội lỗi mà những con người ấy đă gây ra để rồi phải chịu gánh lấy. Trong châm ngôn 22:8 có đoạn như sau: "Những ǵ mà ngươi đă gieo rắc th́ sẽ được chính ngươi gặt lấy".
hoặc: "Kẻ nào gieo sự bất công, sẽ gặt điều tai học". Cũng trong châm ngôn 12:21 có câu: "Chẳng một tai họa xảy đến cho người công b́nh, song kẻ dữ sẽ bị đày đọa khổ đau". hay "sự công b́nh hoàn toàn của Đức Giê hô va đ̣i hỏi phải lấy Mạng đền Mạng, Mắt đền Mắt, Răng đền Răng" (phục truyền, luật lệ kư 19:21).
Những câu tương tự gặp trong Kinh Thánh cho thấy bao hàm ư nghĩa về luật quả báo là một luật tự nhiên, công bằng của Thượng Đế, những kẻ gây ác nghiệp sẽ lấy nghiệp ác không sớm th́ muộn đấng cha lành là Đức Chúa Trời không thể nào nhẫn tâm đứng trước những khổ đau của con cái ḿnh và bảo rằng đó là ư muốn ḿnh mà trái lại Ngài đă đưa ra một lời răn bảo đến với loài người rằng: Hễ gieo gió th́ phải gặp băo.
Từ ngàn xưa, Ấn Độ giáo và Phật Giáo đă đi sâu vào vấn đề này và phát triển thành một triết lư tôn giáo thâm sâu vi diệu xoay quanh vấn đề Luân Hồi quả báo...
Mọi tội lỗi do ḿnh đă gây ra ở kiếp này th́ kiếp ở kiếp hiện tại hay kiếp kế tiếp sẽ đến với chính ḿnh chớ không phải ai khác, đau khổ, tai ách, bệnh tật có nguồn gốc cũng từ đó, sự tàn nhẫn, ác độc là nguyên nhân sẽ gây nên quả báo thể hiện qua các tai nạn, bệnh tật như đui mù, mất máu, bại liệt, các bệnh nan y, cụt tay cụt chân, câm điếc...
Trong tài liệu lưu trữ tại viện nghiên cứu về hiện tượng luân hồi tái sinh tại Virginia có ghi lại những trường hợp quả báo thể hiện qua tại nạn và bệnh tật như sau:
A) Một người từ lúc sinh ra đă bị mù ḷa, mỗi lần đi phải ḅ, lết, quờ quạng khổ sở. Khi được ông Edgar Cayce dùng thuật thôi miên để t́m về nguyên nhân từ tiền kiếp cho người này th́ được biết kiếp trước ông ta là một người Ba Tư rất hung dữ, thường hành hạ những tù nhân bắt được bằng cách dùng dùi sắt nung đỏ đâm vào mắt cho họ mù.
Theo thuyết luân hồi quả báo của đạo Phật th́ sự mù ḷa của một người có từ lúc sinh ra đời là một nghiệp quả báo ứng. Trong phần phụ chương của cuốn sách viết về luân hồi (Reincamation) (cuốn Bom again, again xuất bản lần thứ 2 năm 19890 tác giả John Van Auken cũng đă ghi lại một đoạn dẫn chứng về vấn đề luân hồi tái sinh và quả báo tiềm tàng trong giáo lư Cơ Đốc ngày xưa về những thắc mắc của các môn đồ của Chúa về vấn đề tội lỗi và tật bệnh như sau:
Có lần một môn đồ đă hỏi Chúa khi người này trông thấy một người bị mù ngay từ lúc chào đời: "Bạch thầy ai là kẻ đă gây nên tội lỗi đau đớn này? Chính người này hay cha mẹ của anh ta? (John 9: 1-2 (my italics) Dĩ nhiên từ lâu Chúa đă dạy rằng "kẻ nào làm ác sẽ gặp ác" "Hễ gieo rắc th́ tự gặt lấy" "Kẻ nào gieo sự bất công, sẽ gặt điều tai họa" (châm ngôn 22:8).
B) Qua cuộc t́m về cội nguồn của chứng bệnh máu loăng ở một thanh niên, ông Cayce đă biết được rằng trong tiếp kiếp anh này từng gây nên không biết bao nhiêu cuộc tàn sát đẫm máu ở xứ Perou và giờ đây phải nhận cái hậu quả ghê gớm ấy và được thể hiện qua chứng bệnh nguy hiểm gây lo lắng khủng hoảng đến anh ta là bệnh máu loăng.
C) Những kẻ đàn áp người cô thế, yếu đuối hay gây sự khổ đau, tàn tạ cho người khác th́ quả báo tương ứng có thể được thể hiện qua các chứng bệnh về thần kinh, tim mạch, lo lắng, hoang mang dẫn đến bệnh về bao tử, đường ruột, gan...
D) Những kẻ nhẫn tâm, làm ngơ, coi thường sự đau khổ của kẻ khác, mặc cho kẻ khác van xin vẫn một mực tàn nhẫn lờ đi đề là những kẻ phải chịu hậu quả ở kiếp kế tiếp về những ǵ mà họ đă làm, quả báo sẽ thể hiên qua chứng ù tai, điếc hay câm ngay từ thuở lọt ḷng mẹ.
E) Có những chứng bệnh do tư tưởng mà phát sinh như khủng hoảng tinh thần, bệnh thần kinh, sự lo lắng nghĩ ngợi dễ làm rối loạn thần kinh và dễ dẫn đến chứng áp huyết cao, đau bao tử, rối loạn tiêu hóa.
F) Có những khuyết tật phát sinh làm đau khổ co vô số người, có người mới sinh ra đă không có hai chân hoặc không có cả hai tay. Có kẻ lọt ḷng mẹ không có cả tay và chân. Theo thuyết luân hồi quả báo th́ đây là h́nh ảnh của sự nhận nghiệp quả báo tương ứng.
Có thể từ kiếp trước những người này đă tàn hại kẻ khác khiến kẻ khác phải chịu thương tật bị chặt tay chặt chân v́ trực tiếp hay gián tiếp và tùy theo cấp độ của nghiệp quả mà những người này đă gây ra mà nhận lại quả báo ở kiếp này.
Thật ra đây chỉ là một số biểu hiện về nghiệp quả do luật quả báo tác động lên những ǵ đă được phát sinh. Không phải hễ thấy một người đau tim là vội bảo kiếp trước người này đă đàn áp kẻ yếu hay thấy người câm điếc là bảo người này trước đây đă tàn nhẫn làm ngơ trước những yêu cầu của kẻ khác hay người bị bệnh xuất huyết là do trước đây người ấy đă gây tổn thương, máu chay cho kẻ khác..
Đĩ nhiên có những loại bệnh tương tự phát sinh từ nguyên nhân bên ngoài hoặc do hoàn cảnh, môi trường, hóa chất, vi trùng chẳng hạn... Tuy nhiên nếu theo đúng suy luận diễn dịch của thuyết luân hồi quả báo th́ bất cứ nguyên nhân nào gây bệnh, người mắc phải bệnh trọng, nhất là bệnh nan y hoặc các tổn thương thân xác lớn như bại liệt, cụt chân, cụt tay, mù mắt... đều có nguyên nhân sâu xa của nó, đó là kết quả của hành động từ kiếp trước của họ. Đó chính là nguyên nhân tiềm ẩn sâu xa của bệnh tật.
Từ ngàn xưa người Ấn cho rằng: có những bệnh biểu lộ rơ ràng tên thân thê của một người bằng chứng hiển nhiên cho thấy đó là kết quả của những tội lỗi mà ở kiếp trước người đó đă gây ra. Những tật bệnh lộ rơ ấy chính là dấu ấn của tiền kiếp, có thể đó là bản sao của những tội lỗi trong quá khứ.
Trên thế giới có vô số người bị tật nguyền hay mắc phải những chứng bệnh lạ lùng số lượng những kẻ bị tổn thương thân xác đến khổ sở ấy rất nhiều và từ lâu đă là một thắc mắc lớn lao cho tất cả mọi người: "Tại sao người này bị mà người khác lại không? Phải chăng đó là số kiếp đọa đày hay là kết quả những ǵ họ đă gây ra từ trước nay phải chịu quả báo?"
Chính bản thân những người đă bị tàn phế, bị những dị tật, những chứng bệnh lạ lùng cũng cảm nhận điều đó và trong thâm tâm họ cũng đă nhiều lần tự hỏi: "Phải chăng những ǵ ḿnh đang gánh lấy là kết quả của những ǵ mà chính bản thân ḿnh đă gây ra?"
Hiện nay luân hồi quả báo biểu hiện qua tật bệnh c̣n có những ư nghĩa sâu xa hơn nữa khi có những bệnh và những biểu hiện bệnh lạ lùng ghê sợ xuất hiện ở một số người, những bệnh không những vừa gây đau đớn, mà c̣n làm cho cơ thể trở nên dị kỳ, gớm ghiếc, xấu xa khiến bệnh nhân phải đau khổ triền miên và đôi khi ẩn trốn trong nhà không dám ló mặt ra đường hay bị mọi người xa lánh.
Đối với thuyết luân hồi, quả báo th́ cách giải thích vẫn là do nghiệp quả gây nên những kẻ đă từng đày đọa kẻ khác bắt họ lao động khổ sở, xách vát đầy đồ vật nặng, hay giam giữ người trong tù ngục với những quả báo tương xứng nặng nề như bại liệt chân tay, phải ngồi hay nằm một chỗ hay tay chân phồn lên hoặc lở loét quanh năm đau đớn.
Bệnh phù chân voi là một dạng mà biểu hiện của quả báo thường nhắc đến. Bệnh phù chân voi (elepantiasis, elephantoid) là bệnh làm cả bàn chân và bàn tay hay các ngón tay đều phát triển to không thể đi đứng hay làm ǵ được. Bệnh này giống như bệnh trương mạch bạch huyết (dạng Lymphedema) khiến cho hai chân phù to trông vô cùng khủng khiếp khiến người bệnh đi lại khó khăn.
Các tài liệu y khoa cho thấy rất nhiều dạng thể bệnh tật lạ lùng thuộc một phần của cơ thể phát triển to lên một cách bất thường khiến người bệnh phải khổ sở v́ phải mang nó một cách nặng nề.
George M. Gould và Walter L. Pyle là hai nhà sinh vật học có tiếng đă sưu tập vô số h́nh ảnh về các dạng bệnh trong cuốn: Medical Curiositles (nhà xuất bản Hammond 1982) Trước đây, từ năm 1896 một số lớn nội dung đă được W. B Sauders phổ biến.
Trong các tài liệu thu thập được có một h́nh ảnh đặc biệt do bác sĩ Jemes Thorington chụp một bệnh nhân ở đảo Fiji, người đàn ông này đặc bie65ct có cái b́u dái (serotum) trương nở to như một cái nồi lớn. Với cấu tạo dị tướng đó, người thanh niên này vô cùng đau khổ và anh ta cảm thấy cuộc đời ḿnh tàn tạ, mỗi ngày phải kéo lê một vật nặng như thế quả là một điều khó khăn.
Người dân Fiji thường tin vào sự luân hồi quả báo. Mẹ người thanh niên này đă nghĩ rằng kiếp trước bà đă làm điều ác nên nay mới khiến bà sinh con chịu cảnh khổ đau ấy. C̣n người thanh niên ấy lại tin rằng chính anh ta đă tạo nghiệp dữ trong tiền kiếp và nay phải chịu trả quả.
Những trường hợp như trên cũng được báo cáo (y học) ở bệnh viện Mardas, ở pháp, ở Anh, ở Hoa Kỳ, ở Đức... Ngoài ra hiện tượng phát triển quá đáng về bộ phận sinh dục c̣n thấy ở nữ giới như trường hợp một người đàn bà có bộ phận sinh dục phát triển lớn ở hai âm môi của âm hộ làm kéo dài xuống tận đầu gối.
Phần nở lớn này nặng đến 55 kư. Năm 1962, các nhà y học c̣n ghi nhận một trường hợp tương tự mà toàn bộ phần nở lớn từ mép âm hộ nặng đến gần cả 100 kư. Nhiều nơi khác trên thế giới cũng có những báo cáo như thế. Câu hỏi được đặt ra là tại sao lại có sự bất thường phát sinh từ cơ quan sinh dục của người này? Đối với các nhà y học th́ câu trả lời thần sinh lư học cơ thể.
Đó là sự lệch lạc về cấu tạo cơ thể do thể tượng di truyền, hiện tượng đột biến, do gen, nhiễm sắc thể v..v... nhưng các nhà nghiên cứu và t́m hiểu về hiện tượng, luân hồi quả báo th́ lại nghĩ đến những nguyên nhân, những cội nguồn sâu xa hơn nữa. V́ thế câu hỏi tuy dè dặt nhưng vẫn được đặt ra là phải chăng đó là h́nh ảnh về những nghiệp báo luân hồi?
Nhiều trường hợp c̣n lạ kỳ hơn nữa khiến những người tin vào thuyết luân hồi cảm thấy câu giải đáp như chỉ cần bằng h́nh ảnh khi t́m thấy được một số báo cáo y học về sự phát triển ph́ đại của cái lưỡi (hiện tượng Macroglossia) ở một số bệnh nhân khiến người này rất khó khăn khi nói hay ăn uống.
Có người cổ và ty trương phù khiến rất khó xoay chuyển đầu, có người sau lưng bị nở phồn lên nên khi đi phải cong người như phải gánh vác một vật nặng to lớn. Tóm lại một trường đại học ở Philadelphi (Hoa Kỳ) có một bức ảnh chụp người thiếi nữ Trung Hoa hầu như không thể di chuyển được v́ bị một khối u lớn phát triển ở bụng.
Khối u này to như một quả bóng năng 90 kư lô trong đó chứa đến 22 gallons nước. Một người đàn bà da đen khác có vú và bụng nối liền nhau và trương nở lớn ra nặng đến 153 pounds (1 pound bằng gần nửa kư).
V́ phải mang một vật nặng nề như thế nên mỗi lần di chuyển, người đàn bà này rất khổ sở, khó khăn. Một trường hợp khác, một người đàn bà da trắng có phần bụng trương nở lớn cân nặng đến 149 pounds nên bà không di chuyển được phải nằm trên giường.
Có người sinh ra và lớn lên mang theo ḿnh một khối lớn do một phần của cơ thể phồng to lên. Người này chỉ nằm và do người nhà cho ăn uống. Họ sống trong khổ đau với cái khối nặng đè lên ḿnh cho tới chết.
Nghiệp quả trong những trường hợp này có thể được hiểu như là những ǵ mà ở kiếp trước đă gieo nay phải gánh lấy quả báo tương ứng (như đă đày đọa những người nào đó (kẻ tôi tớ, các người tù, lao công...) bắt họ gánh vác, làm việc mệt nhọc không ngơi nghỉ và nhẫn tâm trước khổ đau thể xác của họ.
Riêng về các trường hợp những người sinh ra có thân h́nh hay gương mặt kỳ quái th́ những trường hợp này y khoa gọi là những quái thai. Nhưng những người tin vào thuyết luân hồi quả báo th́ có một nguyên nhân sâu xa nào đó đă gây nên những quái trạng ấy. Nguyên nhân ấy chính là nghiệp quả mà trước đó người ấy đă tạo nên v́ thế quả báo đă quay ngược trở lại để tác động lên chính bản thân người ấy.
Do đó, có người sinh ra với gương mặt xấu xí ai cũng ghê sợ phải lánh xa. Ở Ấn Độ năm 1970 có loan truyền trong dân chúng tại Bombay câu chuyện một người hành khất có gương mặt vô cùng ghê sợ, hai mắt như nối liền nhau, răng và xương hàm lộ ra nên trông như có miệng rộng thấu đến hai tai.
Người này vừa ḅ ở chợ vừa kể lể: "Hăy thương xót tôi, trước đây chính tôi đă tạt axit vào mặt nhân t́nh của vợ tôi nên đă bị quả báo ở kiếp này. Tôi là kẻ đáng ghê tởm hăy khinh ghét ḷng dạ tôi nhưng hăy cứu lấy thân xác tôi..."
Thường th́ những người dị tướng ít khi dám ra đường v́ thế hiếm thấy, tuy nhiên các tài liệu y khoa cho biết trên thế giới có rất nhiều người loại này. Họ chỉ là những người luôn luôn cảm thấy đau khổ, họ không dám nh́n ḿnh trong gương, không dám tiếp xúc với ai v́ quả t́nh không ai dám đến gần họ.
Không phải họ độc ác, nghèo hèn mà v́ học có thân h́nh hay gương mặt dị hợm lạ lùng khác người. Bác sĩ Robert W. King là người tiếp xúc nhiều với những người dị tướng phát biểu như sau: "Tâm trạng của những người này luôn luôn ở tận cùng đau khổ.
Họ thường than thân trách phận rằng thàm làm quỉ, làm thú vật, c̣n hơn làm người mà lại dị dạng nhất là gương mặt xấu xí ghê sợ. Phần lớn những người này đă t́m đến với tôn giáo và họ nghĩ rằng họ đang bị đấng tối cao trừng phạt về những tội lỗi mà họ đă gieo trước đó. Đó là nguồn an ủi duy nhất cứu họ thoát khỏi sự tự vẫn. V́ dù bị hất hủi đến mấy, họ vẫn ham sống và thích được sống.
Câu phát biểu sau cùng của bác sĩ Robert W.King đă gợi ư cho một câu hỏi và câu trả lời tiếp theo của nhữn nhà nghiên cứu về thuyết luân hồi.
Tại sao những người dị tướng sống trong khổ đau tủi hận lại vẫn ham thích sống? Phải chăng đó là bản năng của tất cả mọi loài sinh vật hay phải chăng đó là nghiệp quả mà những người đó đă tạo ra th́ phải gánh lấy theo đúng thời gian nào đó? Họ phải sống để chịu khổ đau hay nói khác đi là phải sống để trả quả báo.
Trở lại những h́nh ảnh về người dị tướng, các tài liệu y học đă nêu khá nhiều. Những hồ sơ lưu trữ tại các viện y học, các bệnh viện, các đại học y khoa khắp thế giới cho thấy có vô số những h́nh ảnh về người dị tướng.
Sách Medical curiosities của Waller L. Pyle và George M. gould có in lại h́nh ảnh của người đàn ông có cái mũi to lớn kỳ dị thoạt trông giống như mũi két. Người này có tên là Thomas Wedders có cái mũi dài đến 7 inches rưỡi.
Có người mặt giống như con hà mă, như một người đàn ông ở Philadelphia có mũi và miệng môi kéo dài ra phía trước một cách lạ lùng. Trong một báo cáo y khoa. Ohmann Dumesnil đă tŕnh bày những trường hợp đặc biệt, theo đó những người có gương mặt rất giống con tê giác.
Có người đôi môi dài ra và nhỏ lại như mỏ chim có người mũi kéo dài giống như mũi voi. Có người gương mặt hoàn toàn giống sư tử mà bác sĩ Moor đă báo cáo về trường hợp này ở một người có gương mặt lạ lùng; mũi to từ sống mũi chạy dài từ trán xuống gần miệng trong khi hai mắt dang ra gần hai bên thái dương.
Ở bệnh viện Luân Đôn (Anh Quốc) cũng có một báo cáo về 1 người tên là Merrick, người này sinh tại Leicester có gương mặt giống voi...
Tất cả những h́nh ảnh ấy càng khiến cho những người tin vào thuyết luân hồi nghĩ đến những nguyên nhân nào đó từ kiếp trước mà người có gương mặt giống thú đă gây ra và giờ đây họ phải nhận quả báo bằng cách mang lấy h́nh hài hay diện mạo của loài thú.
Câu hỏi được đặt ra là phải chăng những người ấy là từ loài thú đầu thai mà thành nhưng v́ lư do ǵ mà chưa gột bỏ được hoàn toàn xác cũ? Hoặc là những người này ở kiếp trước đă tàn hại một cách dă man không thương tiếc những loài thú?...
Tóm lại những bệnh tật, những khổ đau xác thân, theo thuyết luân hồi là kết quả của những ǵ đă gây lên từ tiền kiếp. Không lư do ǵ cũng đều là loài người như nhau mà có người luôn luôn được khỏe mạnh an vui, lại có người bệnh tật khổ đau dày ṿ. Tại sao lại có sự bất công lạ lùng tàn nhẫn đó.
Chỉ cần nh́n h́nh ảnh của một con người như h́nh chụp dưới đây về một thanh niên có tên là Rosa Lee Plemons mới 18 tuổi, với tuổi trẻ đáng lư phải vui tươi tràn đầy nhựa sống, anh ta chỉ nặng khoảng 27 pound (chưa đầy 14 kư lô) v́ cơ thể chỉ có da bọc xương không phải v́ đói khát mà từ lúc sinh ra đến 18 tuổi, dù được nuôi nấng cơ thể vẫn thế.
Giới y khoa rất ngạc nhiên v́ anh ta chẳng có bệnh tật ǵ? Câu hỏi lại được đặt ra là tại sao người thanh niên này lại phải chịu cảnh đau khổ đó? Với một nắm xương khẳng khiu ấy, anh ta sẽ hoạt động ra sao trong suốt cuộc đời ḿnh? anh ta c̣n làm bạn được với ai?
và tại sao anh ta phải chịu đau khổ như vậy? Ngoài câu giải đáp của giới y khoa về sự lệch lạc trong cấu tạo cơ thể th́ giải đáp từ thuyết luân hồi quả báo vẫn là giải đáp có ư nghĩa sâu xa.
Trở lại vấn đề chữa bệnh của ông Cayce tại Hoa Kỳ, ông này có năng khiếu lạ lùng là có thể, qua giấc ngủ thôi miên, t́m lại tiền kiếp của người bệnh và truy nguyên ra nguồn gốc gây ra bệnh, dĩ nhiên chỉ những bệnh nan y, c̣n những bệnh phát sinh b́nh thường th́ phần lớn chỉ đơn thuần chữa trị theo phép y khoa.
Ông Cayce đă thực hiện hơn hai ngh́n cuộc chữa bệnh bằng phương pháp thôi miên t́m về tiền kiếp và của bệnh nhân trong ṿng hai mươi năm trời, nhờ năng khiếu thần nhăn lạ lùng ma ông biết được nhiều sự kiện qua các cuộc "soi kiếp" đó để có được một số kết luận mới lạ và giá trị như sau:
Sự khổ đau, bệnh tật xuất hiện ở kiếp hiện tại nhưng nguyên nhân lại ở tiền kiếp, có nghĩa là nguồn gốc của sự đau khổ cũng như những căn bệnh (nhất là bệnh nan y hiểm nghèo) chính là do những hành động ở kiếp trước tạo nên.
Giữa thể xác và tâm hồn luôn luôn có sự tương quan mật thiết với nhau. Khoa tâm bệnh học gọi là Psychosomatique chuyên nghiên cứu về vấn đề này. Bệnh tật thật sự không phải hoàn toàn phát sinh từ nguyên nhân thuộc về sinh lư học mà c̣n liên quan đến tâm thần, v́ thế mà khoa tâm thần học phát sinh.
Nhiều căn bệnh phát sinh do tinh thần bị nhiễu loạn. Khi tinh thần bị rối loạn, căng thẳng, sẽ dễ biểu lộ qua những ǵ liên quan đến thể xác, có người hay bị hồi hộp, hốt hoảng, uất nghẹn trong khi ngủ, khi nói, khi ăn,o phần lớn đều có nguyên nhân rối loạn tinh thần.
Ngoại trừ trường hợp sự hồi hộp, uất nghẹn ấy phát sinh do chất thuốc, do thức ăn nuốt quá mau, nghĩ là thuộc về sinh lư cơ thể th́ không nói.
Theo ông Cayce, khi chẩn bệnh cho một người bị bệnh suyễn, ông truy nguyên từ kiếp trước của người này và thấy rằng trong tiền kiếp, ông ta là người đă từng áp bức, hà hiếp kẻ khác những kẻ cô thế thường phải đau khổ, nín răng chịu đựng qua kiếp này, ôn ta phải chịu luật nhân quả và những ǵ ông đang gặp phải như sự đè nặng ở tim, hồi hộp, đau khổ, bực bội, khó thở...
Chính là h́nh thức quả báo phát sinh do những hành động từ tiền kiếp mà ông đă gây ra. Như vậy, phần lớn những điểm về bệnh lư thấy ở mỗi người là những biểu hiện tượng trưng của những ǵ người ấy đă hành động ở kiếp trước.
G) Có nhiều bệnh được y học chữa khỏi nhưng cũng có rất nhiều bệnh mà y học đành chịu bó tay. Nguyên nhân là những bệnh này thuộc về lănh vực tâm linh chớ không phải thuộc về sinh lư học của thân xác. Bệnh có thể tiềm ẩn, có thể biểu lộ qua thân xác nhưng y học nếu có thể phát triển mạnh cũng chỉ làm cho bệnh giảm bớt sự lan rộng chớ không thể lành bệnh.
Muốn lành bệnh th́ cách chữa phải áp dụng vào lănh vực tinh thần, có nghĩa rằng bệnh nhân phải tự soi sáng tâm hồn ḿnh và hiểu rằng ḿnh đă có những hành động xấu xa nào đó ở kiếp trước và bây giờ phải nhận lấy nghiệp quả khổ đau, v́ thế phải sống bằng hành động tự cứu chuộc qua việc làm từ thiện, giúp đỡ mọi người với tất cả tấm ḷng khoan dung độ lượng, nhân ḥa...
Tuy nhiên, không phải tất cả mọi bệnh tật đều do có nguyên nhân từ tiền kiếp như đă nói từ trước, cũng như mọi bệnh tật đều không thể chữa bằng phương pháp y học. Tốt nhất là sự hỗ trợ hài ḥa của phương pháp chữa bệnh theo lănh vực sinh lư học thuộc về y học và phương pháp chữa bệnh thuộc tâm linh.
Ứng Dụng Của Hiện Tượng Tiền Kiếp Vào Phép Trị Bệnh.
Cách đây khoảng hơn 30 năm vấn đề này hầu như chỉ thuộc lănh vực lư thuyết được gọi là mơ hồ ở một số tôn giáo và sau đó nhiều nhà tâm lư và tâm thần học lưu tâm kết hợp phần nào và khoa chuyên ngành của ḿnh mà thôi, tuyệt nhiên các nhà khoa học cơ hồ không dính dấp vào hiện tượng luân hồi, tiền kiếp, tái sinh không thể nào có thể chứng minh được từ pḥng thí nghiệm khoa học.
Tuy nhiên về sau, trong số các nhà khoa học đă có một vài nhân vật xé rào. Họ cảm thấy trong vấn đề được coi là mơ hồ có tính cách tôn giáo ấy h́nh như có cái ǵ đó cần được khám phá t́m hiểu. Mặc dầu vậy, những người này chỉ đang trên con đường ḍ dẫm và thu thập sự kiện.
Có thề c̣n lâu vấn đề mới sáng tỏ. Bác sĩ Ian Stevenson mà giới khoa học đều biết danh phát biểu như sau: "Ngày xưa lúc khoa học chưa phát triển nhiều hiện tượng lạ lùng bí hiểm đều ấn nhập măi trong dân gian, trong tôn giáo như là hiện tượng huyền bí.
Ngay cả sấm chớp, sóng thần, mưa đá cũng là chuyện lạ... Ngày nay khoa học đă khám phá và chứng minh được nguyên nhân của sự kiện và c̣n áp dụng những ǵ có tính cách mơ hồ siêu linh huyền bí vào trong cuộc sống để nâng cao cuộc sống.
Điều đó không lạ ǵ khi vấn đề tiền kiếp, tái sinh, luân hồi đang trong giai đoạn sưu tầm, nghiên cứu, t́m hiểu ngay cả trong pḥng thí nghiệm tuy chưa đi đến giải đáp chung cuộc nhưng ứng dụng phát sinh từ hiện tượng lại được phát triển tốt lành.
Thí dụ rơ nét nhất của vấn đề là mới đây, các nhà khoa học và tâm sinh lư học đă bắt đầu áp dụng phương pháp trị liệu mới về tâm thần và bệnh lư thông qua điều họ gọi là tiền kiếp hay kiếp trước. Những nhà khoa học và tâm sinh lư tiên phong mạnh dạn nhất phải kể là Fiore, Emie Pecci. Morris Netheton (Hoa Kỳ), Dennis Kelsey, Joan Grant, Joe Scranton (Anh quốc)...
Ở lănh vực này cũng nên nhắc đến hai nhân vật quan trọng không nhưng chú tâm nghiên cứu sự kiện và áp dụng vào việc chữa trị mà c̣n là người có khả năng "xuất hồn" đó là Edgar Cayce và Robert Monroe (cả hai đều là người Hoa Kỳ)...
Các nhà nghiên cứu vừa kể trên trong đó có bác sĩ tâm thần Ernie Pecci (california) đă có công thành lập hie65p hội nghiên cứu và điều trị qua tiền kiếp. Mặc dầu hiệp hội mới thành lập chưa được bao lâu nhưng số hội viên và bệnh nhân đến với hội ngày càng đông đảo vượt sự tưởng tượng ban đầu.
Theo các chuyên gia của hiệp hội này th́ các nhà khoa học đă lưu ư đến các nhịp sóng Alpha xuất hiện ở năo khi con người suy nghĩ, nhớ lại sự kiện và ngay trong một số giai đoạn của giấc ngủ.
Nếu nhịp sóng năo này có chu kỳ đống bộ tạo sự giao thoa tương ứng với những chu kỳ âm thanh nào đó sẽ tạo nên một trạng thái thanh thản tự nhiên để thuận lợi cho các năng lượng tiềm tàng trng con người được thức tỉnh, giúp ư thức có điều kiện đi vào thời gian trước đó.
Khi áp dụng phương thức khơi dậy năng lượng và ư thức trỗi dậy để đi sâu vào quá khứ trong phép trị liệu, các nhà tâm sinh lư và khoa học đă chú tâm vào vấn đề thể chất. Đó chính là khởi điểm.
Nếu bệnh nhân cảm thấy đau đớn, khổ sở, lo lắng, sợ sệt về căn bệnh của ḿnh th́ cách hay nhất là để "cơn đau tự diễn tả" với lư do nào đă sinh ra nó và thường th́ cơn đau liên hệ với sự kiện đă xảy ra trong quá khứ cái quá khứ xa xăm mà người ta thường gọi là tiền kiếp. Các sự kiện này được quay về với kư ức như một cuốn phim được quay trở lại rơ ràng.
Công tŕnh đáng kể nhất về lănh vực này có thể nói là nhà Vật Lư học P. Drouot.
Theo nhả Vật Lư học P. Drouot th́ phần lớn các sự kiện xảy ra ở quá khứ hay tiền kiếp đều có liên hệ mật thiết với hiện tại. Điều thấy rơ nhất trong bệnh này, theo P. Drouot thường do kết quả của những hiện tượng nào đó xảy ra từ tiền kiếp.
Phương pháp mà nhà Vật Lư học Pháp đang ứng dụng để chữa bệnh thật ra không phải là mục đích tối hậu của ông, theo ông, có thể chứng minh cho tiền kiếp hay hậu kiếp qua những phương pháp chữa bệnh của ḿnh.
Phương pháp mà ông đang áp dụng để t́m hiểu tiền kiếp một người nào đó xem ra đơn giản nhưng lại thật sự là do sự phối hợp của các ngành vật lư học, toán học, điện học, âm học, tâm lư học và cả pháp môn thiền định Yoga nữa.
Người chịu thí nghiệm sẽ được nằm thoải mái ở trạng thái thư giăn trên một cái giường êm ả. Nơi đây, có một máy ghi âm phát ra một điệu nhạc mà chu kỳ ứng với nhịp sóng alpha phát sinh từ năo bộ của người thí nghiệm đang ch́m dần vào giấc ngủ nhẹ nhàng.
Tuy nhiên, trong tiềm thức người ấy lại đang khơi dậy những h́nh ảnh và năng lượng tiềm ẩn sâu trong bộ năo và nhờ đó mà một phần ư thức đă quay về với thời gian giúp ta biết được những ǵ của quá khứ và người thí nghiệm sẽ kể hết (cuộc đời quá khứ" hay "tiền kiếp" của ḿnh vào một thời gian nào đó. Một máy ghi âm khác sẽ ghi lại tất cả những lời kể ấy.
Điều này mới nghe qua, quả thật quá mơ hồ, kỳ lạ, nhưng thực tế đă và đang được áp dụng tại một vài bệnh viện lớn ở Pháp. Người đề xướng ra phương pháp chữa bệnh là lùng này chính là nhà vật lư học nổi tiếng của Pháp là Patrich Drouot.
Ông đă lưu tâm nhiều về thuyết luân hồi của Phật giáo từ lâu và muốn đi sâu vào cái thế giới đầy sự lập lại này,. Măi tới khi thuyết của nhà thiên văn học Anh là David nêu ra, ông mới cảm thấy đă đến lúc dấn thân vào việc nghiên cứu vấn đề tiền kiếp hậu kiếp của con người.
Khi dược báo chí phỏng vấn, nhà Vật Lư học này cho biết rằng việc làm của ông không phải là đưa con người vào cơi mê tín huyền hoặc mà chỉ dùng khao học thực nghiệm để đưa ra ánh sáng một số vấn đề sôi nổi từ lâu nhưng đến nay vẫn chưa giải quyết rơ ràng, dứt khoát.
Theo Pactrick Drouot th́ công cuộc nghiên cứu của ông phần nào đă ảnh hưởng tới vấn đề y học và không chừng sẽ giúp một cách đắc lực cho ngành này trong vấn đề chữa bệnh. Quá tŕnh thử nghiệm phân tích tâm lư học, chính điều này từ lâu đă được nhiều nhà khoa học lưu tâm hỗ trợ và hưởng ứng.
Năm 1989, tạp chí Paris Matchh của Pháp đă đăng một bài rất dài tŕnh bày về vấn đề trên, trong đó có nêu ra những trường hợp là lùng như sau:
1) Trường hợp nữ ca sĩ Ariane: Đây là nữ ca sĩ ăn khách của những năm thuộc thập niên 80, tuy nhiên cô này lại hay hủy bỏ các chuyến lưu diễn một cách bất thường mà lư do là v́ đau cổ họng và cảm thấy hồi hộp khó tả ở ngực nhất là mỗi khi cô được đám đông khán giả vỗ tay la ó tán thưởng.
Cô đă gặp nhà tâm thần học Dennis Kelsey của hội nghiên cứu và điều trị qua tiền kiếp, tại đây, cô đă được áp dụng phương pháp đặc biệt giúp kư ức quay về tiền kiếp và với sự trợ giúp của các nhà nghiên cứu, cô đă từ từ thiếp đi vào cơn mê và đă kể lại đời ḿnh một cách tự nhiên không vấp vá.,
Theo lời kể của Ariane th́ lúc bấy giờ cô sống ở thời đại cách mạng Pháp đang bùng nổ mạnh. Cô cùng một số nhân vật khác bị bắt chuẩn bị lên đầu đài. Khi cô bị dẫn tới gần máy chém, đám đông la ó vỗ tay vang dậy v́ họ hân hoan trông thấy cô và những người khác sắp phải đền tội...
Giờ đây, ở kiếp tái sinh này, cô là một ca sĩ, nhưng cứ mỗi lần sắp tiếp cận với đám đông hay nghe tiếng la ó ồn ào là y như dầy thanh quản trong cổ cô co rút lại rất dữ dội đến choáng vàng và cô muốn ngất xỉu. Điều kỳ lạ là sau cuộc thử nghiệm ấy, cô Ariane như thở phào nhẹ nhơm v́ đă giải tỏa tất cả những ǵ bấy lâu tiềm ẩn trong kư ức ḿnh và cũng từ đó, cô không c̣n bị đau cổ như những lần lưu diễn nữa.
"... Điều đặc biệt là sau khi nguyên nhân bí ẩn gây đau ấy đă được phơi bày rơ ràng th́ tôi lại bỗng nhiên cảm thấy không c̣n bị đau ở cổ nữa"... Phải chăng đó là sự tự kỷ ám thị từ tiền kiếp nay đă bị xóa tan.
2) Một cô gái trẻ đă đến nhờ Hiệp Hội t́m nguyên nhân sâu xa của căn bệnh suyễn như đang đi vào giai đoạn kinh niên của ḿnh. Nhờ cuộc thí nghiệm mà cô biết rằng cô đă hiện hữu qau cở thể một cô gái cách đây 8 thế kỷ.
Lúc bấy giờ cô thuo6c dân của một bộ lạc và không may bị một tảng đá lăn đè lên ngực khiến cô luôn luôn bị khó thở và tức ngực, triệu chứng ấy giờ đây biểu hiện qua bệnh suyễn kinh niên. Chứng bệnh bộc phát mạnh lúc cô 27 tuổi. Qua cuộc thí nghiệm, cô gái cho biết rằng lúc cô c̣n là dân bộ lạc, và bị tảng đá đè lên ngực lúc cô 27 tuổi.
Như vậy chu kỳ lập lại c̣n kéo theo cả giai đoạn thời gian tương ứng xảy ra sự việc nữa. Điều này cho thấy có một mối tương đồng nhân quả lạ lùng liên quan giữa kiếp hiện tại và tương lai...
3) Georges là một trường hợp đáng lưu tâm, ông ta là một người khỏe mạnh nhưng hay cảm thấy bực bội, cáu khỉng bất hợp ư. Ông bị chứng khó tiêu một cách trầm trọng. Mỗi lần nuốt thức ăn và sau bữa ăn luôn luôn cảm thấy khó chịu lạ lùng. Vấn đề này khéo dài từ lúc c̣n uống sữa cho đến khi ông vừa 50 tuổi.
Qua cuộc thí nghiệm, ông Georges cho biết rằng, cách đây gần 200 năm. Ông theo một con tàu cướp biển hoạt động trong vùng Đại Tây Dương. Về sau trong một chuyến hải hành, tàu bị mắc kẹt trong vùng biển rong dày đặc thường gọi là biển Sargasses và họ phải chịu cầm chân tại đó trong khi nước uống và thức ăn ngày càng cạn kho lương thực được lệnh khóa lại và canh giữ vô cùng nghiêm ngặt.
Riêng ch́a khóa th́ được giao cho ông Georges giữ, v́ cơn đói hoành hành giữ dội đến mê mờ nên sẵn ch́a khóa trong tay, Georges đă lén mở kho lương thực và mặc dù chỉ đánh cắp một nắm thức ăn để qua cơn đói, nhưng hành động ấy đă bị bắt gặp và luật biển đă không tha thứ kẻ phạm tội. Georges bị ném xuống biển, nơi đầy rong như tóc rối không thể nào xoay xở hay bơi lội được.
Sau khi những ǵ tàng ẩn nơi tiềm thức thâm sâu của quá khứ được làm sống dậy, sáng tỏ, Georges cảm thấy bao tử ḿnh trở nên thoải mái hơn, cơn đau đè nặng nơi bộ máy tiêu hóa giảm dần và ông thoát khỏi những dư âm ám ảnh trong suốt 200 năm và bắt đầu cảm thấy dễ chịu sau các bữa ăn.
4) Một kỹ sư xuất thân từ một đại học nổi danh nhưng lại luôn luôn cảm thấy tự ti mặc cảm, u buồn, và nhất là không chịu đứng ra nhận lănh một chức vụ lớn lao mặc dù anh ta là người rất thông minh, mực thước và có tŕnh độ.
Điều kỳ dị là mỗi lần trong các phiên họp b́nh bầu, mỗi khi anh được mọi người đề nghị đảm trách một công việc lớn lai hay đứng ra nhận lănh một trách nhiệm quan trọng nào đó th́ anh ta tái xanh mày mặt và tỏ thái độ lo lắng, sợ sệt thấy rơ.
T́nh trạng kéo dài rất lâu cho đến năm anh ngoài 40 tuổi. Một hôm, t́nh cờ anh được giới thiệu về Hiệp Hội nghiên cứu mà điều trị qua tiền kiếp. Viên kỹ sư này liền đến gặp các nhà nghiên cứu ở đây và yêu cầu được biết nguyên nhân sâu xa của hiện tượng bất ổn tinh thần của ḿnh.
Sau nhiều cuộc thí nghiệm, anh ta được biết rằng vào thế kỷ thứ 18, anh là một giám đốc người Anh cai quản một cơ sở rộng lớn. Một hôm, một tai nạn đă khởi phát từ nhà máy. Lửa bùng cháy và lan rất nhanh, v́ quá sợ hăi, ông giám đốc đă vội vă thoát lấy thân không ra lệnh cho các nhân viên di tản.
V́ sự chậm trễ ấy mà có đến mấy mươi nhân viên đă bị chết thiêu. Chính sự kiện ấy đă làm tạo nỗi kinh hoàng, lo sợ và mối ân hận không nguôi về những ǵ mà một giám đốc đă không chu toàn trách nhiệm.
Sự kiện ấy đă ăn sâu vào tiềm thức, ám ảnh măi không nguôi gần 200 năm để rồi giờ đây, là một kỹ sư giỏi nhưng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ và nỗi dằn vặt ở tiền kiếp đă khiến anh ta không dám đứng ra nhận lănh trách nhiệm lớn lao này.
Tuy nhiên, qua các thí nghiệm, nguyên nhân sâu xa của hiện tượng bất ổn tinh thần đă được thấy rơ, tự nhiên người kỹ sư cảm thấy như đă giải thoát mọi trách nhiệm ràng buộc trước đây và từ đó anh yên tâm hăng hái trong công việc làm và sẵn sàng đứng ra nhận lănh mọi trách nhiệm lớn mà không c̣n phải cảm thấy lo âu sợ sệt nữa.
Tại đại học y khoa Toronto (Canada) giáo sư Joel L Whitton đă bỏ ra nhiều để nghiên cứu vấn đề liên quan đến hậu kiếp và tiền kiếp. Theo giáo sư th́ giữa tiền kiếp và hiện kiếp thường có sự liên hệ với nhau và hiện kiếp sẽ có ảnh hưởng nhiều ở kiếp lai sinh.
V́ các sự liên hệ ràng buộc đó nên có thể giúp chữa những bệnh tật ở kiếp hiện tại bằng cách truy nguyên nguồn gốc của bệnh ở kiếp trước. Từ lâu có người bị những chứng bệnh lạ lùng đến độ khi khám bệnh kỹ lưỡng bằng máy móc tinh vi cũng không khám phá ra được người ấy bị bệnh ǵ.
Những bệnh nan y thông thường theo giáo sư Witton đều phát nguôn từ tiền kiếp. Đặc biệt những bệnh thuộc về tâm thần thường có nguyên nhân sâu kín tiềm tàng từ ở tiền kiếp, có người luôn luôn u sầu ảm đạm, rầu bỉ bi ai dù họ không bị một sự kiện nào tác động trong hiện tại.
Những người này thường lo lắng, lúc nào cũng cảm thấy ḿnh như có một vấn đề ǵ thắc mắc trong ḷng, hoặc cảm thấy như bị dày ṿ bởi một lỗi lầm nào đó mà chính họ cũng không rơ th́ theo giáo sư Whitton chính những người này đă có một vấn đề ǵ đó từ tiền kiếp và dấu ấn của sự kiện vẫn hằn sâu trong tiềm thức vẫn thỉnh thoảng dấy động dày ṿ họ trong kiếp hiện tại.
Những uẩn khúc này nếu được khơi dậy bằng phương cách nào đó như đưa họ vào giấc ngủ thôi miên để họ nhớ lại toàn bộ sự việc trong kiếp sống trước đó th́ chắc chắn họ sẽ được thanh thản tâm hồn không c̣n bị dằn vặt, đè nặng bởi những uẩn khúc phát sinh từ tiền kiếp nữa.
Cho đến nay, nhiều cơ sở nghiên cứu các lănh vực siêu h́nh huyền bí về tiền kiếp được thành lập mà các chuyên gia nghiên cứu lại thường là những nhà khoa học v́ thế câu hỏi được đặt ra ngay sau khi áp dụng vào khoa học trị liệu các loại bệnh như đă tŕnh bày ở trên có kết quả tốt đẹp.
Câu hỏi đó là tại sao sau khi biết được những sự việc xảy ra ở tiền kiếp của ḿnh th́ căn bệnh ở kiếp hiện tại sẽ không c̣n?
Theo các nhà tâm lư học th́ vấn đề hoàn toàn thuộc lănh vực tinh thần. Phật giáo thường cho rằng "mọi sự tại tâm". Khoa tâm sinh lư cũng cho thấy có nhiều cảm giác do sự tưởng tượng mà không thật. Cảm giác c̣n do tinh thần chi phối.
Trời lạnh nhưng nếu ta nghĩ đến sẽ lạnh lẽo rét buốt, ẩm ướt th́ "cái lạnh" sẽ gia tăng. Bước vào một ṭa lâu đài hoang vắng cái sợ hăi len lỏi vào người v́ sự tưởng tượng về những ǵ thuộc về hồn ma bóng quế đă nảy sinh, do đó các nhà y học từ cổ đại đă nêu ra vấn đề tâm bịnh. Ngoài ra phương pháp chữa bệnh không loại trừ việc kết hợp chữa bệnh không cần thuốc mà chỉ cần nâng cao tinh thần tin tưởng "sẽ lành bệnh" từ người bệnh.
Cũng vậy những ǵ đă xảy ra từ tiền kiếp, nếu đó là những sự kiện tạo nên những kỷ niệm gây nên các chấn thương nhức nhối cho tinh thần mà ư thức muốn quên đi và dồn nén vào sâu trong cơi tiềm thức. Những sự kiện bị dồn nén này sẽ phản ứng lại qua những biểu hiện rối loạn tâm thần hay tác động lên những cơ quan, bộ phận nào đó trong cơ thể.
Đó là nguyên nhân phát sinh những bệnh lạ lùng mà bệnh trạng và nguồn gốc sinh bệnh không thể thăm ḍ, phát giác được chừng nào những sự kiện, những kỷ niệm bị dồn nén này không được giải tỏa th́ người bệnh sẽ c̣n "vướng bệnh măi măi và trở thành bệnh nan y".
Nhưng nếu những sự kiện dồn nén này được giải phóng nghĩa là được trả lại cho ư thức th́ các rối loạn do ức chế sẽ không c̣n nữa. Đây là một phát hiện rất giá trị về mặt tâm thần và ngay cả mặt vật chất cũng vậy. Nếu ta nén một ḷ xo th́ sự dồn nén này sẽ phát sinh phản lực. Sự dồn nén sẽ phản ứng lại qua những biểu hiện nào đó.
Chính ông Edgar Cayce cũng đă lưu ư mọi người về vấn đề này chính là nhờ phát hiện ra điều này mà đă có hàng vạn bệnh nhân với những căn bệnh trầm kha, lạ lùng đă được chữa khỏi mặc dầu trước đó họ đă chạy chữa đủ thầy đủ thuốc từ các bệnh viện nổi tiếng nhưng vẫn không khỏi.
Chỉ riêng ông Cayce thôi, dùng phương pháp chữa bệnh khơi dậy nơi họ sự nhớ lại những ǵ đă xảy ra trong tiền kiếp và những biểu hiện thể hiện qua căn bệnh ở kiếp hiện tại bằng giấc ngủ thôi miên, ông đă chữa khỏi cho khoảng hai chục ngh́n người.
Sau này, các hiệp hội khác, hỗ trợ bởi các nhà khoa học, các nhà tâm lư học... các bác sĩ... đă phát hiện thêm các phương thức chữa bệnh theo đường lối khơi dậy, phóng thích kỷ niệm bị chôn vùi từ tiền kiếp để chữa bệnh cho kiếp hiện tại ngày càng thành công. Dĩ nhiên phương thức chữa bệnh chỉ dành riêng cho lănh vực bệnh loại tâm thần, bệnh nan y khó chữa.
C̣n những bệnh do nguyên nhân trực tiếp gây ra nguyên nhân chính là do vi trùng xâm nhập hoặc ngay cả bệnh tâm thần phát sinh do chấn thương làm tổn hại đến thần kinh th́ không phải chữa trị theo cách này mà chỉ cần chữa bệnh theo phương pháp y khoa thông thường mà thôi.
Dấu Tích Luân Hồi Biểu Hiện Qua Tài Năng.
Vấn đề năng khiếu và thiên tài từ lâu đă tạo nên nhiều thắc mắc lớn đối với con người. Thật vậy, làm sao không ngạc nhiên được khi cùng là con người cả nhưng có kẻ tài ba xuất chúng, có năng khiếu vượt bực lại có kẻ vô cùng tối dạ, ngu dốt đến lạ lùng.
Những tài năng xuất chúng:
Không phải riêng ǵ người lớn mà ngay cả trẻ em cùng có hiện tượng lạ lùng này. Từ xưa đến nay, có không biết bao nhiêu thần đồng đă được nêu tên như Mozart thần đồng âm nhạc đă phát triển tài năng từ lúc mới 5 tuổi Beathoven đă xuất hiện trước công chúng để tŕnh diễn nhạc khác lúc lên 7 tuổi.
Em bé Dorothy Straight mới 4 tuổi đă viết sách và đă được nhà xuất bản Pantheon Books ở New York in và phát hành. Bé John Stuart Mill sinh năm 1806 được xem như là một thần đồng về ngôn ngữ và triết học. Mill bắt đầu học sinh ngữ năm lên 3 tuổi, William Jamessidis nói được 4 thứ tiếng An, Pháp, Đức, Nga lúc lên 2.
Kim Ung Yung là một bé trai nổi danh về tính toán. Mới hơn 4 tuổi cháu đă biểu diễn tài năng tính toán cực kỳ nhanh trên đài truyền h́nh Tokyo. Kim Ung Yung c̣n nói được 4 thứ tiếng Anh, Đức, Nhật và Triều Tiên.
Một thiếu niên khác tên là Colin MeLaurin (người Scotland) đă trở thành giáo sư toán học tại đại học Marischal, Aberdeen năm 1717, lúc đó mới 19 tuổi. Đến năm 25 tuổi chuyển qua dạy tại đại học Ediburgh qua sự tiến cử của Sir Isaac New (nhà vật lư nổi danh thới bấy giờ).
Đặc biệt hơn nữa bé gái Betty Bennett mới 10 tuổi như tự động ḿnh lài chiếc máy bay nhỏ bay lượn trên bầu trời Cuba vào ngày 4 tháng giêng năm 1957.
C̣n Thomas Dobney là một thiếu niên đă gia nhập hải quân Hoàng gia Anh vào năm 1907 đă vào đại học Glasgow năm mới có 10 tuổi. Cháu Henry Alban Chambers mới 11 tuổi nhưng lại là người chủ chốt đánh đàn dương cầm cho nhà thờ Leed ở miền Tây Yorkshire (nước Anh năm 1913).
Arthur Ramian Drisoa mới 14 tuổi đă trở thành nhà toán học đại tài. Em được viện đại học Paris mời gia nhập vào nhóm nghiên cứu toán học và đỗ bằng tiến sĩ toán. Hiên Arthur sống với bố mẹ và người em gái tại Nogent Sur Marne thuộc ngoại Paris (Pháp quốc).
Bé Shaira Luna (Phi Luật Tân) mới 3 tuổi vào đại học lớp sáu tại một trường trung học ở Manila. Sau khi sinh ra được 5 tháng bé Shaira đă biết nói. Năm cháu lên hai tuổi đă có thể chỉ mọi bộ phận trên cơ thể người và gọi bằng tên khoa học rất rơ ràng.
Điều lạ lùng là cháu Shaira thuộc tên của các quốc gia trên thế giới, quốc kỳ của các quốc gia đó và nhất là đọc tên các vị nguyên thủ quốc gia không chút nào lầm lẫn. Theo báo Asia Magazine th́ Shaira Luna là một thần đồng lạ đời v́ không thích đồ chơi cũng như nô đùa với chúng bạn mà chỉ thích chơi với sách vở.
Báo Sự thật của Nga Sô (1990) có đăng tin một em bé Hoa Kỳ tên là Etregun Istwist mới chào đời được một tháng rưỡi nhưng đă nói được. Khi lên 3 tuổi, bé đọc sách và viết chữ thông thạo năm 11 tuổi bé vào Đại học tổng hợp và đậu hạng ưu.
Bé theo học ngành toán học thiên văn và nghiên cứu vũ trụ. Bé Luis Antonio de Borbon nổi tiếng về tài năng và được tôn vinh chức Hồng y vào năm mới 8 tuổi tại Rome vào năm 1735... Thomas Macaulay viết sách lịch sử lúc lên 7 tuổi. Thần đồng Doron mới 4 tuổi mà chỉ số Trí tuệ của bé đă đo được 200 điểm. Trong khi một nhà Khoa đoạt giải Nobel chỉ có số Trí tuệ cao nhất là 130 thôi.
Về người lớn số người có tài năng vượt bậc cũng không hiếm, trên thế giới có khá nhiều người mà năng khiếu vượt cả sự tưởng tượng của mọi người đó là những thiên tài. Có thể nêu ra một vài trường hợp:
- Cô Ga li na da Kốp va (Nga Xô) có trí nhớ lạ lùng cô ta có thể nhớ 500 địa chỉ trong khoảnh khắc, nên trong một ngày, phân loại được 20.000 bức thư trong khi máy tính điện tử phải cần mă số trên bao b́, c̣n cô th́ chẳng cần.
- Ở Thụy sĩ, William Kellen tính nhẩm 50 bài toán chỉ trong 64 giây thôi.
- Ở Nga: Yu ti Go rơ ni, 41 tuổi, giải 50 bài toán trong 25 giây, anh ta có thể vừa viết thư bằng tay mặt vừa chơi dương cầm bằng tay trái. Lạ nhất là anh đọc một tờ báo dài rồi nói ngay có bao nhiêu chữ trong bài báo đó, và thêm một điều kỳ lạ nữa là anh có thể đọc được ư nghĩ của người đứng trước mặt anh.
- Cô gái giỏi toán Ấn Độ là Xakuhtala Devi đến Texas, Mỹ để đua tài với máy tính điện tử cực nhanh: kết quả là khi khai căn bậc 25 của 1 con số gồm 201 chữ số, cô chỉ cần 50 giây c̣n máy tính điện tử giây mới cho được kết quả.
- Viện sĩ Loffê Nga nhớ hết cả bảng Lôgarit. Trong khi viện sĩ Tsa lư ghin có thể nhớ bất cứ số điện thoại nào ông đă gọi dù đă qua 5 năm.
- Mozart, nhà soạn nhạc trứ danh, chỉ cần nghe qua một bản nhạc dài có thể viết lại đầy đủ.
- Vào thời cổ đại, Alexande đại đế được dân chúng yêu mến nhờ ông đă thuộc tên và nhớ mặt 20.000 dân sống trong thủ đô. Gặp ai ông cũng dừng lại hỏi chuyện và thăm gia đ́nh, kêu đích tên cha mẹ, con cái họ không bao giờ sai.
Hay những nhân tài đặc biệt khác trên thế giới từ cổ đại đến nay, nào Hippocrate, Aristore, Platon, galileé, Archiwède, Abu L Hassan Alial Masudi, Abu Al Rayhan Muhammad Ibn Ahmad al Biruni (Học giả vĩ đại là sử gia, triết gia, vật lư gia, thiên văn gia, địa lư gia, vừa nhà ngôn ngữ học, toán học và thi sĩ nưa), Leonard de Vinci, Von Brawm, Einstein, vv... c̣n nhiều nữa những thân đồng và những thiên tài xuất hiện khắp nơi trên thế giới.
Nguyên nhân sâu xa của những tài năng vượt bực:
Câu hỏi được nhiều người đặt ra từ cổ đại đến nay là do đâu mà có người tài ba lỗi lạc xuất chúng đôi khi đến dị thường như thế? Phải chăng nếu luân hồi là có thật th́ tài năng ấy đă có từ tiền kiếp v́ tài năng thường do sự học tập và rèn luyện cùng với sự hỗ trợ của trí thông minh.
Nhưng những đứa bé mới 2, 3, 5 tuổi th́ làm ǵ có được sự học tập rèn luyện cũng như trí óc chúng c̣n quá non nớt? Đối với các nhà khoa học th́ lời giải thích dựa vào thuyết di truyền nhưng nếu bảo là di truyền th́ cần phải có sự liên hệ của cha mẹ, ông bà.
Nhưng đôi khi cha mẹ các thần đồng lại b́nh thường, chẳng có ǵ xuất sắc về mọi lĩnh vực và nếu xét về phổ hệ cũng không thấy ai trong gịng họ trước đây có tài năng cả. Xét về mặt trí thức, các nhà khoa học và tâm lư học cho rằng ngoại trừ những người bị bệnh tâm thần ra c̣n những ai đi học đều đặn từ các cấp theo chương tŕnh nào đó th́ dần dần họ đều thu thập được kiến thức.
Chỉ có sự khác biệt về sự thu nhân nhanh chậm khác nhau mà thôi. Nhưng tại sao có những người c̣n đưa sự hiểu biết của ḿnh đi xa hơn, nghĩa là chư học tới đă biết. Trên thế giới có nhiều học sinh phải bỏ nhiều lớp trung gian để lên học lớp trên v́ các lớp dưới tuy chưa học nhưng đă biết cả rồi...
Tất cả những điều đó khẳng định rằng có một cái ǵ đó tàng ẩn trong kho kiến thức của những con người ấy. Một thần đồng tài ba được hiểu như là một học sinh đă học hè trước chương tŕnh của năm tới thông suốt nên khi nhập học sẽ hiểu hết những ǵ thầy cô giáo dạy trong năm.
Các nhà nghiên cứu về tiền kiếp và hậu kếp cho rằng những ǵ mà trong kiếp hiện tại một thần đồng đă làm th́ thật sự những hiểu biết vượt bực ấy đă có từ tiền kiếp, có nghĩa là ở kiếp trước thần đồng ấy là một người có kiến thức rộng, có thể kiến thức này cũng c̣n nhờ ở kiến thức từ kiếp trước đó nữa.
(V́ luân hồi và một sự tiến hóa). Nên khi đến kiếp hiện tại, sẽ nổi bật những ǵ mà trước đó đă có vốn liếng sẵn rồi. do đó người xưa quả thật hợp lư khi nói: "Đầu tư bất cứ lănh vực kiến thức nào cũng đều có lợi về sau."
Nếu bảo rằng những người có tài năng là do họ đă chăm chỉ học hành, nghiên cứu, t́m hiểu th́ điều ấy chỉ đúng một phần nào thôi, v́ như đă nói từ trước, cùng một chương tŕnh cho nhiều người cùng học sẽ có sự tiếp thu sự hiểu biết khác biệt nhau ở mỗi người. Đó chỉ là trường hợp xét về một chương tŕnh đă định sẵn.
Ở đây những nhân tài này đă phát minh, phát kiến, phát triển ra nhiều vấn đề khác mà trong thời đại họ khó có ai nghĩ đến. Những kiến thức vượt thời gian ấy do đâu mà có? Phải chăng là do tích lũy từ tiền kiếp trong tiến tŕnh luân hồi chuyển kiếp của những kiếp người. Luân hồi là cả một sư tiến hóa dài.
Các kiến thức thu thập và phát triển từ một linh hồn nào đó qua nhiều kiếp th́ sau một chặng đường dài của quá tŕnh chuyển kiếp họ sẽ thành những người có kiến thức, tài năng xuất chúng.
Biết đâu nhà bác học Einstein là hậu thân của những nhà khoa học ở tiền kiếp và hậu kiếp, Einstein có thể lại tái sinh qua thân xác của một nhà khoa học khác, và với những kiến thức tích lũy được qua nhiều kiếp, nhà khoa học mới xuất hiện này sẽ c̣n có những khám phá, phát minh kỳ diệu hơn.
Có thể rằng thuyết tương đối của Einstein trong thế kỷ thứ 20 lúc ông đưa ra c̣n những thiếu sót nào đó th́ ở hậu kiếp, nếu lại tái sinh, chắc chắn nhà bác học này sẽ tiếp tục bổ túc và hoàn chỉnh lư thuyết tương đối ấy. Sự tái sinh này cũng c̣n tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh trên quả đất.
Chẳng hạn thế kỷ 21, lúc mà đời sống nhân loại đang cần một khám phá mới hơn nữa về vũ trụ, lúc mà nạn nhân măn gia tăng khủng khiếp và việc con người di cư đến hành tinh khác được tiến hành...
Nếu Châu Atlantide, một vùng đất văn minh thời cổ đại theo truyền thuyết đă ch́m sâu dưới đáy Đại Tây Dương là có thật th́ phải chăng những con người tài ba lỗi lạc thời đó một số đă tái sinh vào các thế kỷ sau này trở thành những triết gia những danh sư những nhà khoa học, những họa sĩ, nhạc sĩ đại tài như: Platon, Aritote, Hippocrate, Hoa Đà, Biển thước, Leonard de Vinci, Atchimède, Mozart, Beethoven, Einstein v.v...
Trong số những người tài giỏi ở Châu Atlantide ở thời quá văng vẫn c̣n có người chưa tái sinh vào thế kỷ này và có thể một số lớn sẽ đồng tái sinh vào những thế kỷ tới để hỗ trợ cho loài người về nhiều mặt nhất là về vấn đề tâm linh và khoa học v́ những thế kỷ tới chắc chắn sẽ có những thay đổi lớn, những vấn đề mới phát sinh về môi trường sống trên quả đất, về nên đạo Đức và cả về ư thức của nhân loại nữa.
Nói tóm lại, theo thuyết luân hồi, trong vũ trụ không có ǵ mất đi, sự mất đi chỉ là cái h́nh thức mà con người thấy bằng đôi mắt phàm trần của sự tạn ră.
Một cái cây mục nát, tan ră nhưng những đơn chất cấu tạo nên nó như Carbon, Hydrogene, Oxygene, Nitơ, sulfune, Phoosphor, Magnesium, Calci, Kali, Sắt v..v... lại đi vào không khí, trong đất... và đó sẽ là những yếu tố để cấu tạo nên cây khác.
Tài năng, trí thức, khả năng cũng vậy. Không có ǵ mất đi. Nhiều người đă tiếc rẻ những nhân tài vội sớm ĺa cơi thế, cái thân xác của thiên tài này tan ră nhưng tài năng vẫn c̣n đó sẽ lại chuyển hóa ở cấp độ cao hơn khi tái sinh và ở lần tái sinh kế tiếp họ lại được rèn luyện tích lũy hơn thêm.
Theo các nhà khoa học, nhất là những nhà nghiên cứu về bộ năo con người (ở Hoa Kỳ và ở Nga Xô đều có những cơ sở nghiên cứu về óc năo ở Nga, viện nghiên cứu óc năo ở Moskva có lưu giữ các bộ óc của Pavlov, Lenin, M. Gorki, Stalin...) th́ cuộc đời của một con người từ khi sinh ra cho đến lúc chết đi, dù có sống được 100 tuổi th́ quả thật, người ấy chưa sử dụng hến năng lực tư duy cũng như năng lượng của bộ năo.
Phần lớn một đời người chỉ sử dụng có 1 phần 10 năng lực của bộ năo. Vậy 9 phần c̣n lại ấy sẽ đi đâu? Phải chăng phần c̣n lại ấy sẽ được lưu trữ để dành cho kiếp lai sinh?
Câu hỏi có phần mơ hồ trừu tượng, nhưng đối với các nhà nghiên cứu óc năo th́ khi những ngơ ngách bí mật thâm sâu trong bộ năo con người được khám phá hoàn toàn th́ những ǵ gọi là quá khứ và tương lai của đời người cũng sẽ được biết rơ hơn v́ những vùng kư ức của quá khứ xa xăm trong bộ năo đang được các nhà nghiên cứu ḍ dẫm khám phá.
Tuy nhiên, hiện tượng luân hồi cho thấy có nhiều trường hợp rất đặc biệt về tài năng vốn có của mỗi người nhưng họ không hẳn yêu thích hay đi theo những ǵ mà bản thân họ đă được chuyên môn hóa hay đă có khả năng ấy. Câu giải đáp cũng quy vào vấn đề tài năng từ tiền kiếp và mỗi người trong chúng ta ít nhất trong đời đă cảm nhận được điều này thường xảy ra trong xă hội và đôi khi ngay cả bản thân ta nữa.
Nhiều người học hành giỏi có bằng cấp, thay v́ đi dạy, làm việc ở cơ sở nào đó th́ người này lại chỉ thích buôn bán thương mại mà thôi, và ở lănh vực này lại rất giỏi. Có người là một bác sĩ giỏi nhưng lại chỉ thích làm chính trị, có nhiều vị bác sĩ từ khi ra trường cho đến khi chết đă chưa một lần hành nghề bác sĩ hay chữa bệnh cho ai.
Sự say mê thích thú của một người nào đó về ngành nghề hay một lănh vực nào đó đều có nguyên nhân từ kiếp trước. V́ như trên đă nói, có nhiều người đi học ngành khoa học nhưng chỉ say mê âm nhạc và cuối cùng thành lập một ban nhạc và chỉ ḥa ḿnh vào cái đam mê đó mà thôi, có người rất thích sưu tập đồ cổ, có người rất thích về máy móc, có người rất thích về biển cả hay nghề biển.
Tất cả những sự ham mê thích thú ấy đều có nguyên nhân, theo ông Cayce th́ tiền kiếp những người ấy đă có những khả năng thuộc về các lĩnh vực đó và qua thời gian dài của kiếp người, những khả năng ấy đôi khi đi sâu dần vào trong tiềm thức v́ thế ở kiếp khác nếu có điều kiện.
H́nh ảnh hay sự việc nào nhắc nhở đến những ǵ liên hệ với khả năng th́ tự nhiên các khả năng ấy bộc lộ ra dưới h́nh thức của sự thích thú ham mê những lănh vực mà đương sự có khả năng, dù cho lúc bấy giờ đương sự đă tốt nghiệp một ngành nghề nào khác.
Do đó, lúc nào bản thân chúng ta, con cái chúng ta bộc lộ sự ham thích say mê môn học nào, nghề nghiệp nào hay lănh vực nào th́ đó là điều phải quan tâm và nếu được, nên để cho phát triển tự nhiên v́ đó là điều thuận lợi nhất.
Trong dân gian, từ lâu người dân Việt Nam mỗi khi làm lễ "thôi nôi" cho con trẻ thường không quên bày trên bàn cúng lễ những vật dụng tượng trưng như sách vở, bút giấy, kéo, ḱm, kim chỉ, tiền bạc, son phấn..v.v... để đứa bé chọn và tùy theo vật được chọn, có thể suy đoán tương lai của đứa bé thích ngành nghề ǵ.
Đây cũng là một h́nh thức tin vào những tài năng đă có từ tiền kiếp và khi đứa bé chọn vật tượng trưng cho ngành nghề ǵ đó như sách vở bút giấy chỉ về học hành, đỗ đạt, nhà văn, thầy giáo... th́ cha mẹ có thể biết được khả năng của con để hướng nghiệp cho con.
Ngày nay, trong khi khoa học là ngành sinh vật học và di truyền học tiến bộ vượt bực, những khám phá mới về bộ năo và cấu trúc của nhiễm sắc thể trong tế bào đă phần nào giúp các nhà khoa học và các nhà tâm sinh lư biết thêm về những ǵ liên quan đến tri thức nhưng quả thật vấn đề thiên tài, hay tài năng xuất chúng ở một người nào đó vẫn c̣n nhiều bí ẩn về nguồn gốc phát sinh.
Nếu thật sự khả năng của con người được nối tiếp qua nhiều kiếp v́ luân hồi là cả một sự tiến hóa dài của những kiếp người th́ chúng ta nên tận dụng những tài năng nào mà chúng ta đă sẵn có. Nghĩa là những ǵ ta đă có khả năng và ham thích, v́ như thế nếu ta bắt tay vào việc sẽ càng mau tiến bộ phát triển thêm hơn là chạy theo những ǵ mà ta không có hay chưa có khả năng, dĩ nhiên trong đời người, trong cuộc sống thường có những trái ngược.
Những ǵ ta có khả năng th́ lại không đúng lúc đúng thời. Cách hay nhất là theo môi trường sống mà học thêm cái mới nhưng nhớ rằng những ǵ mà ta đă có năng khiếu th́ cũng nên trau dồi phát triển v́ sẽ có lúc dùng đến nó. V́ không có ǵ dễ đem lại thành công bằng làm việc với sự đam mê ham thích và hợp với khả năng ḿnh...
Cũng theo các nhà nghiên cứu về luân hồi th́ các biểu hiên được xem như là dấu tích của tiền kiếp càng ngày càng được phát triển qua nhiều h́nh thức. Ngoài những biểu hiện đă tŕnh bày như trên, c̣n có những biểu hiện có thể thấy rơ ở mỗi người qua sự chợt nhớ về h́nh ảnh môi trường, sự yêu thích hay chán ghét nơi chốn nào đó.
Dấu Tích Luân Hồi Biểu Hiện Qua Sự Yêu Thích Chán Ghét Hay Nhớ Lại Một Nơi Chốn Nào Đó. Những trường hợp điển h́nh.
Có một điều mà ai cũng nhận ra ngay bản thân ḿnh chúng ta nhiều khi cảm thấy yêu mến nơi ḿnh đă sống hay một nơi nào đó có một quốc gia mà ta chưa hề đến. Dĩ nhiên đối với quê hương xứ sở nhiều người sẽ bảo rằng v́ nơi ấy nhiều kỷ niệm đă in sâu vào trong trí óc ta từ lúc trẻ thơ đến khi khôn lớn làm ta khó quên.
Tuy nhiên có nhiều người dù ở một nơi từ nhỏ đến già họ vẫn cảm thấy thích một xứ khác một nước khác. Có người chỉ học địa lư các nước, tự nhiên họ cảm t́nh sâu đậm với nước nào đó dù rằng nước ấy không giàu, không văn minh. Ngay trong một quốc gia, có người tự nhiên cảm thấy yêu mến, cảm t́nh với một tỉnh lẻ nào đó qua tên gọi hoặc qua phong tục tập quán hay khí hậu.
Dù rằng những địa danh, phong tục, tập quán khí hậu hay con người ở đó chẳng có ǵ đặc sắc cũng như họ chẳng có kỷ niệm nào. Ai trong chúng ta cũng chẳng đă một lầy ư nghĩ ấy. Người ta tự hỏi do nguyên nhân nào mà một vùng xứ sở kia lại có liên hệ với người này dù không đem lại lợi nhuận hay kỷ niệm ǵ?
Có những người đă vượt đại dương rời bỏ quê hương xứ sở có khi rất trù phú để tới một vùng đấy xa lạ khốn khổ khô cằn và sống cho đến già.
Trường hợp Jocélyn Crane: là một cô bé ra đời vào năm 1959 tại tỉnh Saint Louis. Lúc c̣n bé mỗi lần nh́n vào bảng đồ thế giới là cô nói với mẹ: "Con thích chỗ này, con muốn tới đây", chỗ cô bé là vùng đất Á Châu.
Điều kỳ lạ là từ nhỏ cô bé đă ham thích các loài sinh vật, điều mà cả gia đ́nh chẳng có ai thích ấy. Khi lớn lên Jocélyn tốt nghiệp ngành sinh vật học (1930) và sau đó đến sống ở Á Châu để nghiên cứu về sinh vật học.
Trường hợp bà Lise Meitner: là nhà nữ vật lư học nổi tiếng ở thành phố Vienna nhưng lại yêu mến nước Thụy Điển và bà đă nhập quốc tịch tại đây và chọn Thụy Điển làm quê hương thứ hai của bà.
Nhiều người Âu Mỹ tự nhiên ham thích và cảm thấy yêu mến vùng đất Phi Châu hoang dă, nghèo nàn và quyết tâm đến sống chung cùng các thổ dân xa lạ nhưng họ cảm thấy thích thú, hạnh phúc vô cùng. Hoặc trường hợp của nhà lafcadio Heam người Hy Lạp nhưng lại chỉ thích qua Nhật sống và biết rất rành về văn hóa Nhật.
Trường hợp bà Alexandra David Neel: là một nữ phóng viên nổi tiếng. Từ nhỏ bà đă say mê đất nước Tây Tạng, không phải v́ đất nước này giúp bà viết những bài báo hấp dẫn lạ kỳ, huyền bí mà theo bà, khi c̣n ở nhà trường, học lịch sử, nghe thầy giáo giảng về xứ sở của Đỉnh Trời này th́ tâm hồn của bà dậy lên ḷng cảm mến dạt dào và bà ước có ngày sẽ đặt chân đến đó.
Mặc dầu vào những năm 1900, Tây Tạng được xem như là một xứ sở khắc nhiệt về nhiệt độ, cuộc sống và luật lệ. Tại đây luật lệ đặt ra chặt chẽ, không nhận sự hiện diện của một người ngoại quốc trên Tây Tạng nhất là những kẻ "mặt xanh mũi lơ". Vậy mà vào năm 1914 bà Alexandra David Neel vẫn quyết tâm t́m đường đến Tây Tạng, bà phải giả làm một người hành khất mới lọt được vào sâu trong lănh đạo đất nước này.
Nhưng khi gần đến thủ đô, bà t́m đến một ngôi chùa và vào đó xin cơm và may mắn gặp một nhà sư, bà ngỏ ư xin quy y. Thế là bà trở thành sư nữ và cũng từ đó bà trở thành người Tây Tạng và dân chúng quanh vùng đều biết đến bà. Trong cuốn nhật kư của ḿnh bà có ghi chú những câu đáng lưu tâm như sau:
"Tôi luôn luôn có cảm tưởng rằng Tây Tạng là quê hương thân thuộc của ḿnh. Tây Tạng như có mănh lực lạ kỳ lôi cuốn tôi theo. Điều kỳ dị là có nhiều vùng xa lạ nhưng tôi lại có cảm tưởng như ḿnh đă đi qua nhiều lần trong đời, điều đó làm tôi suy nghĩ rằng phải chăng ở tiền kiếp tôi đă làm người dân Tây Tạng?
Có lần ông Cayce đă t́m hiểu tiền kiếp của một Nha sĩ khi thấy ông này ham thích vùng đồng quê hoang vắng, giấc ngủ thôi miên đă giúp ông Cayce biết được tiền thân của ông này là một người Đan Mạch di cư đến vùng Bắc Mỹ trong thời kỳ có chiến tranh thuộc địa. H́nh ảnh những vùng hoang dă, tĩnh mịch đă đi sâu vào kư ức ông đến độ ở kiếp hiện tại vẫn c̣n ảnh hưởng khiến ông ham thích môi trường sống cũ một cách say mê.
Một trường hợp lạ lùng khác mà nhiều người trong chúng ta ai cũng đă một lần trải qua. Đó là đôi khi đến một vùng nào đó tự nhiên trong tâm trí ta xuất hiện câu hỏi rằng chỗ này h́nh như có lần ta đă đến đó rồi, cũng hàng câu ấy, dăy nhà ấy, khúc đường ấy ánh nắng và tiếng động ấy... không phải ngay trong một tỉnh khác và ở nước khác nữa h́nh ảnh, nơi chốn, không gian, thời gian khiến ta như chợt nhớ rằng nơi đây ḿnh đă sống qua hay đă đi qua.
Phải chăng đó là dấu tích của tiền kiếp? Câu hỏi tại sao mọi người trong chúng ta ai cũng đă một vài lần cảm nhận điều đó th́ câu trả lời có thể rằng mọi người ai cũng đều phải trải qua nhiều kiếp và trong tiền kiếp có lần ta đă sống ở đó, ghé lại đó và h́nh ảnh ấy vẫn c̣n tồn tại trong tiềm thức tuy không rơ ràng ở kiếp hiện tại. Chính h́nh ảnh môi trường chợt hiện lên trong trí óc ta đó là dấu tích của luân hồi.
Trường hợp bé David: Đại Đức Dhamananda đă thuật lại câu chuyện lạ lùng về một cậu bé tên là David sống ở Luân Đôn (Anh Quốc) như sau:
Lúc cậu bé David vừa tṛn 5 tuổi, cậu đă làm cho gia đ́nh ngạc nhiên nhiều lần v́ lời phát biểu của cậu, cậu bé thường nói một cách tự nhiên:
"Hồi trước con làm việc nhiều lắm, lúc đó, con là một người chuyên đi xem xét kiểm tra đôn đốc các hàng hóa, con c̣n được đi thăm nhiều nơi và hồi đó con c̣n gặp nhiều điều lạ lùng".
Một hôm, David được mẹ dẫn đi theo trong một chuyến du lịch sang La Mă. Tại đây, hai mẹ con đi theo một nhà khảo cổ để đến một ngôi làng vừa mới được các người phu khai quật lên.
Khi đến một gian pḥng nọ, David bỗng thấy cái bồn tắm xưa cũ vội chạy đến lần ṃ t́m kiếm các chữ khắc trên thành bồn, rồi cậu la lên: A! Đây chính là cái bồn tắm của con! Người mẹ nghe nói chẳng hiểu cậu nói cái ǵ chỉ kêu: "Ái chà! Con nói ǵ tầm phào thế, thôi dậy đi thôi...
Nhưng David vẫn không đứng dậy, cậu mân mê miếng ngói vỡ vừa nhặt lên trong tay vừa nói với mẹ: "Mẹ ơi! Hồi đó con thường lấy các mảnh ngói như thế này để chơi, mỗi mảnh chúng con đập cho có dạng thể một con vật... A! Đây là mảnh giống con cá, ngày xưa Macus rất thích mẫu cá...
Có lần, David được dẫn đi viếng một động đá huyền bí trên đảo Channel thuộc Guernsey, (một vùng đảo nằm ở vị trí gần bờ biển nước Pháp). Sau khi đi một ṿng trước động đá, David bỗng như nhớ ra điều ǵ, chạy lại nắm tay mẹ nói:
"Trong động này có một người tù bị lính Pháp dẫn vào đây để giết, bọn lính Pháp đóng đinh người tù vào thành động rồi xây gạch bít kín lại". Người mẹ vừa sợ vừa không tin nên bảo David đừng nói bậy, nhưng cậu bé vẫn nhất mực quả quyết đó là chuyện có thật... Cậu phân bua với mẹ:
"Hồi đó, con là một lao công chiến trường, chính con đi theo đoàn lính này khuân đồ đạc..."
Về sau, chính quyền của xứ Guernsey đă cho người tới quan sát động đá và khám phá ra điều cậu bé David đă nói với mẹ. Cuối động đá, sau một bức vách được xây thêm là bộ xương của một người đàn ông bị đóng đinh dính vào vách động đá.
Tuy nhiên, mẹ của cậu bé David lúc nào cũng nh́n con trai ḿnh qua h́nh ảnh một cậu bé con mà thôi. Có lần, David theo mẹ đi thăm viện bảo tàng nước Anh. Khi đến khu vực trưng bày các đồ vật xưa cổ thuộc xứ Ai Cập huyền bí, cậu bé vội vă chạy ngay đến bên những chiếc ḥm gỗ, chỉ cho mẹ xem rồi nói:
"Mẹ biết không! Hồi con c̣n làm chức vụ thanh tra, con thường kiểm soát nhiều hàng hóa đồ vật. Chính các ḥm này phải qua sự kiểm nhận của con. Nếu mẹ không tin, th́ hăy lật xem ở dưới đây các ḥm này đều có dấu kiểm nhận của con cả.
David muốn mẹ tin ḿnh hơn nên đă dùng cái que nhỏ viết lên nền viện bảo tàng những mẫu chữ tượng h́nh Ai Cập. Những mẫu chữ mà từ ngày được sinh ra đến bây giờ, cậu bé chưa bao giờ biết tới cũng chưa bao giờ được thấy.
Trong một tài liệu tương tự đă kể lại trường hợp một người Anh tên là Lawrence, người này mặc dầu là dân Anh chính gốc nhưng từ nhỏ chỉ thích giao du với người Ả Rập mà thôi. Khi khôn lớn, ông quyết định rời bỏ quê hương ḿnh để đến đất nước xa xôi cằn cỗi của vùng bán đảo A Rập để có dịp sống chung với người dân xứ này. Từ đó ông ăn mặc và hành xử hoàn toàn giống như người Ả Rập.
Báo chí Hoa Kỳ trong năm 1992 cũng đă đăng tải một câu chuyện liên quan đến vấn đề nêu trên, đó là trường hợp Derek Klinger: Câu chuyện có thật do chíng Derek Klinger, giáo viên người Anh dạy học tại trường trung học ở Waterford kể lại.
Lúc c̣n bé ông đă có cảm t́nh với nước Đức nhưng ông cũng không hiểu tại sao. Càng lớn lên, ư nghĩ ấy vẫn không giảm trong trí óc ông. Thế rồi nhân một lần nghỉ hè, ông quyết định đi du lịch nước Đức (lúc đó ông 32 tuổi).
Tại Đức ông đă đi nhiều nơi và điều kỳ lạ là có nơi khi đến ông có cảm tưởng như đă đến đó một vài lần. Cảnh trí nơi ấy đối với ông có vẻ rất quen thuộc. Tuy nhiên vấn đề không làm ông quan tâm. Hôm gần quay về nước Anh, ông t́m tới một tiệm đồ cổ mong mua được một vài thứ lạ làm kỷ niệm v́ ông rất thích đồ xưa.
Tiệm đồ cổ này nổi tiếng ở Munich v́ có đủ thứ. Tại đây ông đă trầm ngâm trước một tấm ảnh chụp rất xưa, nước thuốc đă ngả sang màu nâu vàng. Tấm ảnh chụp 14 người lính Hải Quân Đức. Nhưng đối với ông lại vô cùng kỳ lạ v́ làm ông nhớ lại quá khứ xa xôi vào khoảng thời gian mà ông là một trong 14 người lính đó. Dần dần ông nhớ lại tên từng người một trong ảnh.
Ông đứng ngẩn ngơ chăm chăm nh́n bức ảnh và ông nhớ lại năm đó là 1942 ông cùng 13 đồng đội, cùng ở trong một chiếc tàu ngầm và đang có cuộc hải chiến trong vùng. Một chiến hạm Anh đă phóng ngư lôi vào trong vùng. Một chiến hạm Anh đă phóng ngư lôi vào ngay bụng chiếc tàu ngầm làm cho nổ tung lên khiến ông và 13 đồng đội tử thương...
Ông Derek vội vă mua ngay tấm ảnh và tức tốc hỏi nhân viên cảnh sát Đức địa điểm của vân khố chiến tranh rồi t́m đến để hỏi về trường hợp chiếc tàu ngầm. Được biết cơ sở này là nơi lưu trữ,sưu tập, phân tích các sư kiện đă xăy ra trong cuộc chiến tranh giữa cuộc chiến tranh giữa Đức và Đồng Minh.
Cơ này có vô tài liệu và tự hào là có thể trả lời trong một thời gian ngắn về những ǵ có liên quan tới cuộc chiến tranh, kể cả các cuộc hành quân của Đức. Khi Derek Klinger yêu cầu muốn biết số phận của các chiếc tiềm thủy đỉnh mà ông đă nhớ số hiệu và cuộc hải hành cùng năm tháng th́ được chuyên viên văn khố chiến tranh cho biết như sau: "Chiếc tàu ngầm này có 14 người.
Đó là tàu ngầm chữ U của Đức, tàu ngầm này bị Hải Quân Anh đánh ch́m ở Bắc Hải và trước khi tàu ch́m, trung tâm hành quân thuộc bộ Hải Quân có nhân được điện kêu cứu..."
Ngày nay, Derek Klinger vẫn c̣n lưu giữ tấm ảnh lạ lùng này nhưng ông rất sợ nh́n nó v́ theo ông, mỗi lần nh́n vào tấm ảnh ông lại có cảm tưởng xao xuyến lạ thường và bên tai như có tiếng nổ vang rền và tiếng la hét của 13 người đồng đội. Ông nói với các phóng viên nhà báo như sau:
"Tôi thấy rơ h́nh ảnh tôi lúc đó trong ảnh. Đó là h́nh ảnh của tôi ở tiền kiếp. Khi đó tôi là 1 quân nhân Đức. Giờ đây tôi là một giáo viên người Anh. Tôi chắc chắn lúc trước tôi là người Đức, điều dễ hiểu là từ nhỏ tôi đă có cảm t́nh với nước Đức và trong lần du lịch sang Đức, nhiều nơi tự nhiên có vẻ rất quen thuộc đối với tôi. Lúc đó tôi có phần ngạc nhiên nhưng giờ tôi đă biết rơ v́ sao..."
Trường hợp của danh tướng George S. Paton.
George S. Paton là một danh tướng, một nhà chiến lược kỳ tài mà cả thế giới đều biết. Tánh t́nh nghiêm khắc và luôn luôn chỉ biết có "kỷ luật sắt, kỷ luật là sức mạnh của quân đội".
Con người hùng ấy lại có một bộ óc lạ lùng là luôn luôn tin vào thuyết luân hồi. Ông thường bảo: "cuộc đời và cuộc sống là cái ṿng tuần hoàn chuyển tiếp nhau. Đời tôi cũng nằm trong một cái ṿng tuần hoàn chuyển tiếp đó".
Một sĩ quan cao cấp đă kể lại câu chuyện có thật về tướng Patton: "Hôm đó tướng Patton đến thăm một vùng đất lịch sử tại Ư. Đó là vùng đất nằm cạnh sông Métaure, nơi mà xưa kia, trong trận chiến hăi hùng giữa Carthage và Rome với những đoàn quân dũng mạnh của 2 phe đă để lại trên chiến trường hàng ngàn tử thi đẫm máu, mặc dầu hai bên đều đă được những chiến lược gia, những danh tướng điều khiển.
H́nh ảnh hùng tráng rùng rợn ấy đă đi vào quá khứ và cách thời đại của tướng Patton đến 1800 năm nhưng khi tướng Patton cùng các tướng lănh và số sĩ quan chuyển về sử học tháp tùng đến thăm vùng đất này và thử ôn lại những chiến thuật và chiến lược của trận đánh ấy th́ điều kỳ dị mới xảy ra.
Nhân lúc một Đại Tá tŕnh bày những nơi đóng quân của hai phe Carthage và Rome cho tướng Patton nghe th́ ông này nhiều lần tỏ ư không hài ḷng. Sau cùng tướng Patton cắt ngang lời viên Đại Tá và nói như sau: "Tôi xin lỗi Đại Tá, mặc dầu Đại Tá là chuyên gia nghiên cứu về các trận chiến trong cuộc chiến tranh La Mă.
Nhưng tôi khẳng định rằng đoàn kỵ binh của tướng Hasdrubul lúc bấy giờ (trong trận này) không phải đóng tại địa điểm mà Đại Tá đă tŕnh bày mà là ở vị trí đầu kia ḱa. Tôi quả quyết điều đó v́... một điều rất dễ hiểu là thời đó, chính tôi đă có mặt ở đó..."
Và để tăng cường cho sự tin tưởng của mọi người có mặt quanh ḿnh, tướng Patton nghiêm nét mặt, đưa cao chiếu can cầm ở tay lên chỉ về một điểm ở trước mặt và lập lại câu nói thậm chậm răi, rơ ràng.
"Đó! Địa điểm mà đoàn kỵ binh của Hasdrubul là ở đó và tôi nhắc lại là lúc ấy tôi đă ở đó!".
Trong những lần dừng chân nơi chiến trận hay những lúc nghỉ ngơi, tướng Patton thường nói đến những địa danh và những mặt trận cổ xưa mà ông đă có mặt tuy rằng những nơi đó đă đi vào quá khứ xa xăm hay chỉ c̣n lại trong các bộ sử nơi thư viện.
Trong nhật kư của ḿnh, tướng Patton thường gi lại các cảm nghĩ lạ lùng của ḿnh về những ǵ mà ông gọi là kiếp trước, có đoạn viết:
"Tôi tin là có tiền kiếp và hậu kiếp, tôi tin, thật sự là tôi biết rằng tôi đă có ít nhất là một quăng đời trước đây trong binh nghiệp và hiện nay tôi lại "Đầu thai" lần nữa vào đời binh nghiệp..."
Về sau, trong một hội nghĩ Quốc Tế với chủ đề là "Ứng dụng về khoa tâm lư học" tổ chức lần thứ 14 vào năm 1961, một nhân vật có tên tuổi là Aldous Huxley đă tŕnh bày những trường hợp của tướng Patton cùng câu chuyện lạ lùng xảy ra trong lần đi thăm chiến trường La Mă cổ xưa ấy. Trường hợp này đă được báo Paris Match đăng tải và b́nh luận ngày 23 tháng 3 năm 1989).
Trong lần diễn đàn này, Aldous Huxley đă phát biểu như sau: không riêng ǵ tướng Patton, mà ngay cả chúng ta đây, đôi lúc ở một thời điểm nào đó trong đời ta bỗng có cái cảm giác, cái suy nghĩ, cái nh́n kỳ lạ mà ư thức của chính ta như bỗng nhiên hé mở có khi ta bắt gặp một h́nh ảnh, một sinh hoạt.
Một tiếng nói, một cảnh tượng, một con người mà h́nh như có lần ta đă thấy, đă nghe, đă ở, đă đi qua, mặc dầu trong cuộc đời chưa hề gặp bao giờ. Đó là quá khứ, quá khứ ấy không phải trong một cuộc đời hay nói khác đi là trong "một kiếp" mà trước đó nữa. Cảm nhận ấy đôi khi vượt ra khỏi cái cảm nhận của giác quan thông thường ở mỗi con người... để đi về quá khứ xa xăm hay có thể gọi là tiền kiếp..."
Những dấu tích luân hồi thật ra bàng bạc, tản mạn trong mỗi đời người. Nó như dấu ấn chứng nhận cho một người phải đi qua nhiều trạm gác, nhiều biên giới của các quốc gia, chúng ta cũng c̣n thấy được dấu tích ấy ở mối liên hệ cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, bè bạn.v.v. và có thể nói đó là dấu tích luân hồi rơ ràng và thâm diệu nhất.
Dấu Tích Luân Hồi Biểu Hiện Qua Những Người Liên Hệ, Thân Thuộc
Những người liên hệ thân thuộc là những người liên quan về gia đ́nh như cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, bạn bè. v.v... Nh́n chung, những người đó chỉ có sự ràng buộc về huyết thống, t́nh nghĩa. Mỗi người thường có cuộc sống và thể cách riêng.
Tuy nhiên từ lâu trong dân gian và ngay cả những nhà nghiên cứu về nhân chủng học, tâm lư học, đều có một nhận xét về sự tương quan nào đó thuộc về dáng dấp, diện mạo của những người ấy với nhau. Nếu xét về mặt di truyền học th́ dĩ nhiên con cái có những nét giống cha mẹ. Ở đây chỉ xét về trường hợp vợ chồng.
Trường Hợp Vợ Chồng.
Trên thế giới nhiều người đă có sự nhân xét giống nhau về một vấn đề: đó là sự tương quan về nhân dáng diện mạo giữa vợ và chồng. Phần lớn một cặp vợ chồng thường có những nét giống nhau về gương mặt và đôi khi cả tính t́nh. Có nhiều vợ chồng thoạt mới nh́n qua ai cũng tưởng đó là hai anh em.
Nếu xét riêng về mặt tính t́nh th́ có thể bảo rằng v́ sống gần nhau họ sẽ chịu ảnh hưởng về cá tính của nhau. Nhưng trên thế giới, thật sự những người có tánh t́nh tương tự nhau mới hợp được nhau, mới khiến họ t́m đến nhau và dễ tiến tới hôn nhân (đồng thanh tương ứng, đồng chí tương cầu là vậy).
Nếu xét về diện mạo th́ khó mà giải thích theo lập luận nào. V́ quả thật vợ chồng không chung huyết thống, mỗi người thuộc một ḍng dơi riêng. Vậy mà như đă tŕnh bày ở trên, có lắm cặp vợ chồng có gương mặt tương tự nhau và ai trong chúng ta cũng có lần thấy rơ điều đó. Nguyên nhân nào đă khiến những người này liên hệ, kết hợp với nhau để thành vợ chồng? Theo các nhà tâm lư học th́ một trong những nguyên nhân đáng kể là sự "gặp lại h́nh ảnh của chính ḿnh".
Những cặp vợ chồng ấy trước đây sống riêng lẻ, khi mới gặp nhau, quen biết nhau, họ đối mặt nhau và mỗi người tự cảm nhận một h́nh ảnh thân thuộc lạ lùng từ người kia mà họ chưa định rơ là ǵ. Cái h́nh ảnh thân thuộc ấy chính là những nét giống họ về gương mặt mà thường ngày họ bắt gặp trong lúc soi gương...
Tuy nhiên, điều cần lưu ư là không phải cặp vợ chồng nào cũng đều có gương mặt tương tự nhau mà trái lại có những cặp vợ chồng lại khác nhau một trời một vực về diện mạo và cả tính t́nh. Những nhà nghiên cứu về các hiện tượng siêu linh đă dựa vào một vài thuyết tôn giáo, trong đó có thuyết luân hồi để giải thích và làm sáng tỏ phần nào vấn đề này.
Hôn nhân có nguồn gốc từ tiền kiếp. Ở kiếp này khi hai người nam nữ cùng nhau đi đến hôn nhân vợ chồng, quyết định sống bên nhau trọn đời th́ thật ra điều đó không có nghĩa là điều mới được quyết định, theo thuyết luân hồi, chính nhân duyên từ kiếp trước đă quyết định, thế nào họ cũng gặp nhau v́ nhân duyên (nhân duyên được hiểu giản đơn là Nhân cái này mà sinh ra cái kia (quả) như nhân có hạt giống mà sinh ra quả.
Nhân duyên có 12 thứ: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, thủ, hữu, sinh, lăo và tử, xem ư nghĩa 12 nhân duyên Duyên giữa trai gái để trở thành vợ chồng. Nguyễn Du có câu thơ: Có nhân duyên, có vợ chồng).
Chính sợi dây duyên nghiệp sẽ nối kết trói buộc hai người này lại với nhau. Khi hai người nam nữ gặp nhau, cảm t́nh với nhau, mong ước được cùng nhau sống hạnh phúc dưới một mái nhà, họ vẫn tưởng họ là hai người xa lạ không quen biết nhau mà chỉ gặp nhau qua sự giới thiệu hoặc sự t́nh cờ nhưng thật sự họ ĐĂ QUEN BIẾT NHAU TỪ KIẾP TRƯỚC, hay nói khác đi là họ đă có duyên nghiệp với nhau từ kiếp trước.
Duyên nghiệp gồm có nghiệp và duyên theo nhau để tạo nên quả báo. Có thể trước đây người này đă gây đau khổ cho người kia (về khía cạnh nào đó) và trái lại. Hoặc trước đây hai người vẫn c̣n mối liên hệ ràng buộc nào đó chưa dứt cần phải có thêm thời gian nữa mới mong trả hết cho nhau..
V́ thế mà họ phải gặp nhau lại ở kiếp kết tiếp. Có thể trước đó họ là anh em trong một nhà, hay cùng một gịng giơi, thân thuộc, do đó không lạ ǵ khi có những ca85p vợ chồng có gương mặt thưởng giống nhau như hai anh em. Ngoài ra tùy theo duyên nghiệp mà cặp vợ chồng sống với nhau thuận ḥa hạnh phúc hay lại xung đột, căi vă, bất ḥa khổ đau, chán chường để rồi đi đến ly hôn, ly dị.
Đôi khi c̣n coi nhau như kẻ thù, có những cặp vợ cḥng mới cưới nhau một thời gian ngắ đă vội ĺa nhau. Thời gian chung sống với nhau ấy tùy thuộc vào nghiệp quả (giống nghiệp báo chỉ sự báo ứng của những ǵ mà trước đó người này đă tác động lên người kia nhiều hay ít, dữ hay lành...)
Nhiều người ở tiền kiếp đă có nhiều nghiệp duyên với người khác và nếu chưa trả hết th́ đến kiếp này họ phải trả. V́ thế có nhiều người đă phải trải qua nhiều cuộc hôn nhân mà không được hưởng hạnh phúc của một vợ một chồng.
Theo những nhà nghiên cứu và thực hành phương pháp t́m về quá khứ hay tiền kiếp của con người như nhà vật lư học Pháp P. Drouot, Morris Nettherton, Cayce, N. Kchan... th́ nhiều người trong những thời gian của những tiền kiếp khác nhau đă là vợ chồng của nhau nên bị cái hấp lực mạnh của nhau tác động vào v́ thế đến kiếp này họ vẫn c̣n liên hệ ràng buộc với nhau theo kiểu tự nguyện.
Dĩ nhiên phần lớn những trường hợp này họ dễ ḥa thuận với nhau hơn là xung khắc v́ họ đă biết nhau nhiều hơn qua nhiều kiếp và chắc chắn họ sẽ dễ đạt thành công trên đường đời. Có nhiều trường hợp ở tiền kiếp người này v́ có nghiệp duyên với người kia quá nặng nên đến kiếp này họ tự nhiên bị ám ảnh bởi một sự hối thúc t́m gặp người kia và đôi khi người kia chẳng hề biết.
Ông Lê Xuân Nghĩa là một giáo viên đă kể một câu chuyện mà ông bảo rằng hoàn toàn có thật về người chị của ḿnh là Lê Thị Mỹ người Mỹ Tho, sinh năm 1938. Chị là người tuy không đẹp nhưng lại rất có duyên. Nhiều chàng trai trong vùng ngấp nghé và nhiều nơi đến dạm hỏi nhưng chị không quan tâm.
Mỗi lần gia đ́nh hối thúc việc chồng con th́ chị lại cương quyết từ chối bằng câu: "con đă có chồng và con phải t́m anh ấy." Gia đ́nh anh Nghĩa tưởng chị Mỹ nói đùa nhưng rồi một hôm cả nhà đang ngồi ăn cơm, chị Mỹ tuyên bố: "chồng con hiện đang bị giam ở khám chí ḥa, con phải đi thăm anh ấy..."
Cả nhà ngạc nhiên vô cùng khi nghe chị Mỹ nói, sự ngạc nhiên càng gia tăng khi chị Mỹ kể lại chi tiết câu chuyện như sau: "nhiều đêm nằm ngủ cô thường mơ thấy một người, người này cao và ốm, gương mặt choắt, đôi lông mày rậm, cổ đeo sợi dây chuyền có gắn cái ṿng và giữa ṿng là một chữ A hoa.
Mặt người ấy luôn luôn buồn và mỗi lần người ấy hiện ra trong giấc mơ là cô lại nghe văng vẳng bên tai lời nói th́ thầm: "người này là chồng của cô đó". Mấy tháng nay cô lại mơ thấy anh ấy. Lần này trông anh ta ốm yếu hơn, tội nghiệp hơn, rồi cô lại nghe văng vẳng bên tai lời nói lạ lùng ấy: "chồng cô đă bị đi tù và hiện vị giam ở khám Chí ḥa, phải t́m cách đến thăm anh ấy không th́ quá muộn... anh ấy tên là Phan Thái An..."
Liên tiếp nhiều đêm cô đều mơ một giấc mơ như thế và cô tỏ ư muốn đi thăm người chồng trong giấc mơ mộng với ḷng quyết tâm lạ lùng của cô. Người nhà lúc đầu không chịu nhưng anh Nghĩa là một giáo viên, anh là là người sống nội tâm và hay t́m hiểu về các vấn đề siêu linh, nhà anh sách vở nhiều như thư viện nhỏ, chính anh đă thuyết phục gia đ́nh và chịu dẫn chị Mỹ lên Saigon đến khám chí ḥa thăm người "anh rể" trong mộng của chị ḿnh.
Tại Saigon, hai chị em trú tại nhà một người bà con ở đường Trương Minh Giảng chờ đi thăm nuôi, chị Mỹ có vẻ sốt ruột mong sớm gặp mặt "người chồng trong mộng". Ngày thăm nuôi, hai chị em dậy sớm để cho đi cho kịp giờ. Chị Mỹ đă mua đủ thứ để bới xách, v́ thật sự chị cũng chưa biết "anh ấy" thích món ăn ǵ và cần thứ ǵ.
Khi gặp nhân viên lo việc thăm viếng thân nhân ở trại giam, chị Mỹ xin được gặp anh Phan Thái An để thăm nuôi. May mắn người giữ trật tự là học tṛ cũ của anh Lê Xuân Nghĩa nên chị được phép gặp người tù Phan Thái An dễ dàng. Mười phút sau anh An xuất hiện sau ṿng dây kẽm gai và rồi người học tṛ dẫn anh ta ra gặp hai chị em tại pḥng thăm nuôi.
Thật là một cuộc thăm viếng lạ kỳ, không ai biết ai, chỉ có một ḿnh chị Mỹ là nhận ra anh An mà thôi. Anh An cũng ngơ ngác không hiểu ǵ cả trong khi chị Mỹ nước mắt lưng tṛng. Anh Nghĩa vội kể lại câu chuyện mà chị Mỹ đă kể lại cho anh An nghe. Nghe xong câu chuyện, anh An vẫn không hiểu ất giáp ǵ cả nhưng tỏ vẻ cảm động.
Chị Mỹ đột nhiên nh́n vào mắt anh An và hỏi: trước khi bị bắt, anh có đeo sợi dây chuyền ở cổ không? anh An ngạc nhiên trả lời: "có sao cô biết?" chị Mỹ lại hỏi: Trên sợi dây chuyền ấy mang cái ṿng có chữ A hoa phải không? anh An đáp "phải!" câu chuyện đă khiến cho Nghĩa và An vô cùng kinh ngạc. Anh Nghĩa nói:
- Dù câu chuyện thế nào th́ sự thật vẫn có anh An đó và chị Tôi đây, biết đâu đó là vấn đề có liên quan đến kiếp trước của anh và chị tôi. Anh đừng ngại ngùng chi về cuộc viếng thăm này và nên nhận chút quà mà chị em tôi đem từ Mỹ Tho lên... Anh An vô cùng cảm động, anh nói:
- Tôi bị bắt oan, người ta nghi tôi là Cộng Sản nằm vùng v́ có liên hệ tới một người hoạt động cho Cộng Sản. Anh ấy là bạn tôi nhưng tôi không biết anh là Cộng Sản, tôi thường đi chơi và chụp h́nh chung với anh ấy nhưng tôi không ngờ mỗi chuyến đi, anh ta đều chuyển tài liệu mật cho mật khu...
Câu chuyện không chấm dứt ở đó v́ hai tháng sau, chị Mỹ nghe tin người ta chuyển toán từ nhân Cộng Sản về giam ở đảo Côn Sơn trong đó có anh An. Trên đường di chuyển không hiểu sao anh An lại có thể nhảy được ra khỏi xe để trốn thoát, nhưng v́ xe chạy quá nhanh nên anh đă chết. Từ đó chị Mỹ như người mất hồn và măi 6 năm sau, tức là vào năm 36 tuổi chị mới lấy chồng.
Trường hợp Cha Mẹ, Anh Chị Em, Con Cái.
Đối với trường hợp cha mẹ anh em cũng vậy, đă có những sự liên hệ nhân quả nào đó giữa cha, mẹ, anh em, con cái với nhau ở tiền kiếp. Cha mẹ dĩ nhiên có liên quan với con cái không phải xét về mặt di truyền và t́nh cảm ruột thịt mà xét về mặt luân hồi.
Con cái và cha mẹ có những sợi dây liên hệ ràng buộc nhau, có thể kiếp trước người cha, người mẹ, những người có con có nghiệp căn nào đó và kiếp này gặp lại nhau để tiếp tục hoàn tất những ǵ thoe nghiệp quả báo ứng. Chuyện cái cân thủy ngân là câu chuyện giả tưởng trong dân gian một phần nào đă nói lên h́nh thức báo ứng của cha mẹ và con cái.
Ngoài ra cũng phải hiểu thêm rằng để có cơ hội gần gủi sâu xa hơn, những đứa con đă mượn chỗ đầu thai ở cơi trần của kiếp này qua phương tiện là cha mẹ. Sự liên hệ của người con không phải luôn cả với cha và mẹ mà có thể người con chỉ có sự liên hệ nghiệp quả ràng buộc với người mẹ mà không phải người cha hoặc có khi trái lại.
V́ thế thường có trường hợp có sự bất hợp ư hay dửng dưng, tẻ nhạt hoặc thương yêu, gắn bó mật thiết giữa mẹ con hay cha con tùy theo duyên nghiệp phát sinh từ tiền kiếp. Trong dân gian thường cho rằng, cha mẹ, con cái, vợ chồng thật ra đều là oan trái nghiệp quả của nhau cả. Những kẻ cùng sống chung một nhà hay tranh căi, xung khắc, bất ḥa chán gét nhau cũng đều có nguyên nhân từ tiền kiếp, có thể họ đă gây đau khổ cho nhau nên mới trả quả đă gây ra.
Thuyết luân hồi nhân quả c̣n cho rằng "có thể nh́n cuộc sống của con cái và cha mẹ với nhau trong một gia đ́nh, cách đối xử, nuôi nấng, chăm sóc, t́nh phủ tử, mẫu tử nồng nàn hay tẻ lạnh của họ mà đoán được sự liên hệ ràng buộc của những con người ấy với nhau ở tiền kiếp.
Ở kiếp trước có thể họ là anh em, là chị em, là cha con, là mẹ con, là bạn bè với nhau và đă tạo ra những nghiệp quả nào đó nên kiếp này vẫn phải c̣n liên hệ ràng buộc để hoàn tất những ǵ chưa giải quyết hết.
Riêng về anh, chị em trong gia đ́nh cũng như thương yêu, ganh ghét, hay đôi khi xung khắc căm thù nhau đều là những dấu vết biểu hiện của luân hồi. Có thể ở kiếp trước họ là những người khác nhau về chí hướng, chủng tộc hoặc có sự tranh chấp đố kỵ nhau, hay cũng có thể ở kiếp trước họ là hai vợ chồng hoặc hai người bạn thân...
Câu chuyện có thật sau đây xảy ra tại Hoa Kỳ và đă được báo chí ở Hoa Kỳ đăng tải vào năm 1991. Bà Gillian sống ở tiểu bang Colorado, năm 1986 bà sinh hạ được một cháu bé kháu khỉnh đặt tên là Mandy. Nhưng không may cho bà Gillian, cháu bé chỉ sống được bốn tháng th́ qua đời.
Bà Gillian vô cùng đau khổ, bà khóc than vật vă bên mộ huyệt, bà đă té xỉu và khi tỉnh dậy lại muốn nhào xuống huyệt theo con...
Một thời gian sau, bà Gillian có chuyện bất ḥa với chồng, họ ly dị nhau và sau đó bà Gillian có thai với người chồng thứ hai. Lần này bà cũng sinh hạ được một cháu bé kháu khỉnh và bà lại đặt tên là Mandy để nhớ lại đứa con gái bất hạnh của ḿnh trước đây.
Năm Mandy lên bốn tuổi, bà Gillian đưa cháu đến nghĩa trang để thăm mộ Mandy, chị gái cháu bé. Khi vừa đến gần mộ chị, bé Mandy bổng nhiên nói to lên có vẻ thích thú: "Má, Má! đây là nơi mà ngày trước má đă đặt co xuống dưới cái hố sâu trong đất. Lúc đó má khóc nhiều lắm, và má suưt rơi xuống cái hố đất ấy rồi, má có c̣n nhớ không?..."
Bà Gillian vừa ngạc nhiên vừa kinh hăi, bà không ngờ co bà mới bốn tuổi mà đă nói lên câu nói lạ lùng và trôi chảy như người lớn. Điều kỳ dị là bà chưa bao giờ kể chuyện bé Mandy, con gái đầu ḷng của bà chết ra sao và an táng thế nào cho bé Mandy, đứa con thứ hai của bà nghe cả.
Vậy phải chăng bé Mandy con bà hiện đang sống với bà chính là bé Mandy ngày trước và đă ĺa đời? Phải chăng bé Mandy đứa con thứ hai của bà là hậu thân của đứa con gái thứ nhất của bà?
Từ đó bà Gillian cảm thấy sung sướng yêu đời bà thường ôm Mandy vào ḷng và nói: Tôi cảm thấy có được tất cả và co tôi là tất cả..."Câu chuyện có thật ấy là một chứng cớ điển h́nh về những ǵ thuộc về tiền kiếp và hậu kiếp.
Thời gian chuyển đổi từ kiếp này qua kiếp khác đôi khi rất xa hay đôi khi rất gần. Ngoài ra người thân thuộc trong một gia đ́nh có khi ĺa đời rồi vẫn có thể quay trở lại, đầu thai làm con hay cháu trong gia đ́nh.
Ở Việt Nam năm 1942 dân chúng vùng Cầu Hai Nước Ngọt (lúc đó c̣n rất thưa thớt) kể lại cho nhau câu chuyện lạ lùng về gia đ́nh ông Nghênh. Hai vợ chồng ông Nghênh mới làm lễ thành hôn cho đứa con trai được bốn ngày th́ người cha của ông Nghênh qua đời.
Một năm sau, con dâu ông Nghênh sinh hạ một người con trai. Đứa bé khi lên sáu tuổi tự nhiên ăn nói rất khôn ngoan, cử chỉ dáng điệu trầm mặc như người lớn và thường thích dậy sớm uống trà dù trời có lạnh lẽo đến thế nào.
Một hôm đang ngồi chơi, bổng đứa bé nh́n quanh rồi hỏi người nhà: "Bộ ly tách của tôi sao cứ để trên bàn thờ măi thế, đem xuống cho tôi đi!" cả nhà nghe câu nói lạ lùng đó sợ quá, nhưng khi hỏi đứa bé nguyên nhân th́ nó chỉ yên lặng.
Về sau, gia đ́nh ông Nghênh c̣n chứng kiến những cử chỉ và nghe những lời nói lạ lùng của đứa bé hoàn toàn giống với ông cố nó ngày nào th́ lại tưởng là đứa bé bị ma nhập nên lo bán vườn, nhà chuyển vào sống ở vùng Lăng Cô Đà Nẵng.
Câu chuyện này phần nào trùng hợp với câu chuyện có thật xảy ra tại Hoa Kỳ năm 1979: Bà Diane Williams sinh một bé gái đặt tên là Kelly. Năm Kelly vừa tṛn bốn tuổi th́ nó đă ăn nói rất sành sỏi như người lớn.
Một hôm bà d́ tên là Pam đă bế Kelly đặt lên đùi ḿnh và nô giởn với nó th́ bổng nhie6n Kelly vừa cười vừa hỏi: "Này! cháu có c̣n nhớ ngày xưa cháu cũng đă ngồi lên đùi bà như thế này không?"
D́ Pam hỏi: con nói ǵ thế" th́ Kelly nói rơ ràng từng chữ một làm bà Pam và bà Diane Williams há hốc mồm ra v́ kinh ngạc. Bé Kelly nói như sau: "Chắc chắn các cháu không nghĩ được rằng ta chính là bà ngoại của các cháu đâu!"
Những câu chuyện trên mới nghe qua quả thật vượt quá sự tưởng tượng của con người v́ có vẻ mơ hồ, tuy rằng một phần chứng cớ vẫn c̣n đó. Lư do là tận cùng của vấn đề hiện nay vẫn chưa được lư giải hoàn toàn.
Tiến sĩ Ian Stevenson đă cho rằng không riêng ǵ ở một vài nơi xảy ra sự việc (có liên quan về vấn đề luân hồi tái sinh) có giới hạn mà khắp nơi trên thế giới, hầu như quốc gia nào, vùng đất nào cũng đă và đang xảy ra những sự việc như đă tŕnh bày ở trên.
Tại Ấn Độ, Nga Sô, Trung Hoa, Việt Nam, Canada, Anh Quốc, Thụy Điển, Ư, Đức, Nhật cũng không hiếm xảy ra những vấn đề liên quan đến lănh vực đầu thai gây kinh ngạc cho nhiều gia đ́nh và đôi khi c̣n gây xôn xao dư luận. Nhà vật lư học nổi tiếng của Pháp là Patrick Drouot phát biểu như sau về vấn đề này:
"Nếu chúng ta xem vấn đề luân hồi tái sinh cũng giống như chu kỳ của vũ trụ, sự lập lại của những t́nh huống nào đó của những chu kỳ của sự sống th́ điều đó cũng không đến nỗi phải làm chúng ta kinh ngạc.
Điều tốt nhất trước mắt là hăy mạnh dạn đi sâu vào vấn đề để t́m hiểu, nghiên cứu, gạt bỏ những ǵ có tính cách mê tín huyền hoặc và ghi nhận những ǵ khả dĩ đem lại những giải đáp hữu lư cho vấn đề..."
Dấu Tích Luân Hồi Biểu Hiện Qua Giấc Mộng
Hiện tượng luân hồi biểu hiện dưới nhiều h́nh thức và sự khơi dậy về những ǵ thuộc về tiền kiếp cũng xảy ra qua tác động như nhau. Nhiều người tự nhiên nói lên những ǵ đă xảy ra về tiền kiếp của ḿnh.
Qua các cuộc nghiên cứu về hiện tượng này, giáo sư tiến sĩ Ian Stevenson cho rằng: phần lớn trẻ em có khả năng nhớ lại tiền kiếp tốt hơn người lớn. Riêng đối với người lớn th́ phần nhiều phải nhờ những tác động từ bên ngoài như thôi miên hoặc qua giấc mộng mới giúp họ nhớ được tiền thân của ḿnh.
Theo các nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi, tái sinh th́ trên thế giới đă có vô số trường hợp con người lại thấy được tiền kiếp ḿnh qua giấc mộng.
Sau đây là một vài trường hợp điển h́nh:
Trường hợp bà Georgia Rudolph:
Bà Georgia Rudolph là nữ y tá kỳ cựu tại một bệnh viện lớn ở thành phố Atlanta (Hoa Kỳ). Bà là một con người b́nh thường giống như bao nhiêu người khác, nhưng có một điều rất lạ ám ảnh tâm trí bà đó là những giấc mơ kỳ dị đă nhiều đêm liên tiếp hiện rơ trước mắt ḿnh.
Theo bà Georgia th́ ngay lúc c̣n bé khoảng 5,6 tuổi bà cũng đă từng nằm mơ cùng một giấc mơ đó. Trong giấc ngủ bà thấy một cô gái trẻ độ 15 tuổi mặc bộ y phục màu trắng đứng trước một ngôi giáo đường.
Bị ám ảnh bởi h́nh ảnh ấy cho đến năm bà 40 tuổi, bà cảm thấy phân vân lo lắng trong ḷng. Một hôm có một vị giáo sư dạy về tâm lư học đă giúp bà bằng cách giới thiệu cho bà một nhà phân tâm học nổi tiếng ở Hoa Kỳ. Nhà phân tâm học này đă áp dụng phương pháp thôi miên giống như giáo sư tiến sĩ vật lư Patrick Drouot đă thực hiện tại Pháp.
Qua cuộc thôi miên ấy, bà Georgia đă thấy lại tiền kiếp của ḿnh, lúc ấy bà là một cô gái dễ thương tên là Sandra Jean Jenkins, Sandra là một cô gái đa t́nh, đa cảm và lăng mạn luôn luôn thích thơ văn thích cảnh gió trăng mây nước, nên thơ thích mặc toàn đồ trắng tuy c̣n nhỏ nhưng lại hay đến nơi yên tĩnh vắng lặng như nghĩa trang, công viên, nhà thờ...
Trong lúc bị thôi miên, bà Georgia c̣n nói rơ năm sinh của chính ḿnh lúc đó là cô gái Sandra) là vào năm 1895 và sinh quán là thị trấn Mariette thuộc tiểu bang Ohio. Năm Sandra 19 tuổi, cô gái có yêu một chàng trai, họ quấn quít bên nhau như bóng với h́nh.
Nhưng đau đớn thay, chàng trai gặp tai nạn và qua đời khi Sandra mang thai được một tháng. Nỗi bất hạnh kế tiếp lại giáng vào chính cô gái, một hôm, Sandra ra tắm ở một con sống cạnh nhà rồi bị chết đuối...
Bà Georgia kể đến đó th́ tỉnh lại. Nhà phân tâm học đă hỏi rằng bà có nhớ rơ gương mặt cô gái Sandra Jean Jenkins không th́ bà Georgia gật đầu nhiều lần và bảo: Tôi nhớ rất kỹ v́ gương mặt đó chính là gương mặt cô gái mà tôi thường thấy trong những giấc mơ qua suốt thời gian dài.
Nhà phân tâm học liền đề nghị bà Georgia nếu thuận lợi nên đến thị trấn Mariertta để nhờ nhân viên ṭa thị chánh lục lại hồ sơ các gia đ́nh ở vào khoảng các năm 1895, 1896, 1897 thử ra sao. Bà Georgia liền đến thị trấn Mariette và tại ṭa thị chánh bà đă thấy được hồ sơ lư lịch hộ khẩu của gia đ́nh cô gái có tên là Sandra Jean Jenkins đă sống tại thị trấn này.
Câu chuyện lạ lùng về giấc mơ kỳ lạ và tiền kiếp của bà Georgia Rudolph được báo chí loan truyền rất nhanh. Điều kỳ lạ tiếp theo là nhờ qua báo chí mà một người trong ḍng họ của cô Sandra đă t́m gặp bà Georgia và cho bà xem một bức ảnh chụp toàn gia đ́nh Sandra.
Bà Georgia nh́n bức h́nh và đă t́m thấy một cô gái khoảng 13, 14 tuổi mặc bộ đồ trắng đứng bên người đàn ông lớn tuổi có lẽ là cha cô gái.
Bà Georgia vô cùng kinh ngạc, trong người bà tự nhiên như có một luồng điện chạy và tay chân bà như nổi gai ốc v́ cô gái trong bức h́nh chính là cô gái Sandra bà mô tả qua buổi thôi miên, đó là h́nh ảnh thực sự của bà trong tiền kiếp. Câu chuyện có thật về tiền kiếp của bà Georgia đă được đài truyền h́nh Hoa Kỳ chiếu đi chiếu lại nhiều lần trong những năm 1990, 1991, 1992.
Trường hợp cô bé Winnie Eastland sinh năm 1955 tại Virginia cũng rất kỳ lạ. Năm 1961 cô bé bị xe hơi cán khi chạy băng qua đường. Mặc dầu được các bác sĩ tận t́nh cứu chữa, cô bé vẫn hôn mê trong một tuần lễ rồi sau đó qua đời.
Người mẹ của Suzane là bà Eastald vật vả khóc lóc thảm thương và đă nhiều lần nhảy xuống mộ huyệt quyết chết theo con. Người nhà và bạn bè hết lời khuyên giải nhưng người mẹ vẫn khóc lóc đau khổ khôn nguôi.
Một năm sau, bà Eastland nằm mơ thấy con ḿnh là Winnie nhẹ nhàng bước vào nhà vừa mỉm cười vừa nói: "mẹ yêu quư, con sẽ trở lại với mẹ một ngày gần đây!". Không riêng ǵ mẹ Winnie thấy con ḿnh trở về mà người con gái lớn của bà cũng nằm mộng thấy em gái ḿnh trở về nữa.
Năm 1964, bà Eastland sinh ra một bé gái và đă nhớ đến người con yêu dấu 3 năm trước đây, bà đặt tên là Winnie. Một sự lạ lùng sau đó xảy ra khi bé Winnie 2 tuổi đă nói lên một câu làm cả nhà phải ngạc nhiên: "năm nay con đă 6 tuổi rồi..."
Câu nói thật kỳ dị v́ lúc đó Winnie mới 2 tuổi hay là cháu bé đă nhắc lại kỷ niệm xưa lúc Winnie bị đụng xe chết vào năm 6 tuổi? Về sau, bé Winnie c̣n nhắc lại những ǵ đă xảy ra lúc nó chưa ra đời nghĩa là những ǵ mà bé Winnie đầu tiên đă sống. Điều kỳ lạ la bé Winnie đă kể lại vụ đụng xe, nó nói như nó là nhân chứng: Hôm đó con chạy qua đường và bất ngờ chiếc xe lao tới con tối tăm mặt mày.
Con thấy nhiều người tụ tập lại quanh co rồi con được đưa lên băng ca chở vào bệnh viện... rồi sau đó con lang thang và báo cho mẹ biết rằng con lại quay về..." Bác sĩ Ian Stevenson đă ghi chú một phần quan trọng về câu chuyện có thật này như sau:
Các chuyên viên nghiên cứu về hiện tượng tái sinh, luân hồi đă lưu ư đến một vết nám bên hông cháu bé. Đó là dấu tích luân hồi, dấu tích vết thương lớn của tiền kiếp cháu bé bị về vụ đụng xe gây thương tích trầm trọng và khiến bé qua đời.
Chính các bác sĩ giải phẫu ở bệnh viện cũng đă quan sát dấu vết ấy và họ cho biết: "các vết sẹo thường khi co rút, thu nhỏ lại. Đây cũng là một vết tích về một tai nạn hay mổ xẻ nhưng v́ xảy ra quá lâu nên dấu vết không lộ rơ nét".
Trường hợp kỹ sư Frank.M.Balk
Câu chuyện có thật sau đây c̣n lạ lùng hơn nữa. Một kỹ sư người Hoa Kỳ có tên là Frank.M.Balk đă vô cùng ngạc nhiên v́ ông thường nằm mộng thấy một người đàn bà mặc áo trắng đến bên giường bảo rằng: "ngươi hăy mau mau đến một đất nước có tên là Việt Nam để gặp lại cha ḿnh, người ấy giống ngươi như tạc, đó chính là người cha tiền kiếp, ông ta là một nhà sư và hiện đang trụ tŕ tại một ngôi chùa trên một ngọn đồi gần thành phố!".
Giấc mộng tiếp diễn nhiều đêm và nội dung đều giống nhau. Lúc đầu viên kỹ sư tưởng ḿnh bị ám ảnh bởi vài một vấn đề nào đó nhưng khi nghĩ lại, ông ta thấy nội dung giấc mơ không liên quan ǵ đến công việc hàng ngày cũng như cuộc sống và vấn đề t́nh cảm của ḿnh cả.
Viên kỹ sư là một nhà khoa học nên ông không tin những ǵ có tính cách mơ hồ, huyền bí, nhưng lại nghĩ rằng có lẽ ḿnh yếu thần kinh hay có sự xáo trộn, lệch lạc về tinh thần nên đă t́m đến bác sĩ khám bệnh thử. Kết quả bác sĩ cho biết "không có dấu hiệu ǵ chứng tỏ có sự mất quân b́nh về tâm, sinh lư cũng như năo bộ về hệ thần kinh. Sức khỏe tốt".
Nhưng rồi một thời gian ngắn sau đó, viên kỹ sư lại nằm mơ và bên tai lại nghe văng vẳng tiếng thúc dục "hăy mau mau đi t́m người cha của tiền kiếp..." Giấc mộng lạ lùng ấy cứ tái diễn nhiều lần vào năm 1956 (thời tổng thống Ngô Đ́nh Diệm) viên kỹ sư này cảm thấy không thể an ổn được tâm thần khi chưa t́m ra sự thật về giấc mộng kỳ dị ấy.
Thế rồi ông quyết định xin được công tác ở Việt Nam. Thời đó, tại Hoa Kỳ có rất nhiều đoàn chí nguyện đến Việt Nam để công tác và giúp đỡ đất nước này sau hiệp định Geneve (1954), một đất nước bắt đầu xây dựng về đủ mọi lănh vực sau bao đau thương tang tóc v́ chiến tranh. Tại Việt Nam, kỹ sư Frank.M.Balk làm việc ở một cơ quan xây dựng.
Tạo tác và thiết kế nhưng công tác của ông lại phải chuyển đổi luôn v́ thế rất thuận lợi cho việc "đi t́m người cha tiền kiếp của ông theo như giấc mộng. Kỹ sư Fark.M.Balk đă đi nhiều nơi ở miền nam Việt Nam và nơi nào ông ta cũng t́m đến các ngôi chùa tọa lạc trên các ngọn đồi, tuy nhiên từ miệt Cần Thơ, An Giang, Châu Đốc, Tây Ninh cho đến Vũng Tàu, Saigon...
Nơi nào viên kỹ sư này cũng đều đặt chân tới và vào tận trong chùa t́m gặp vị trụ tŕ nhưng chẳng thấy nhà sư nào giống ḿnh cả. Măi đến một hôm công tác tại Nha Trang, dù bận rộn viên kỹ sư này cũng đă sắp xếp công việc để có thời gian đi viếng các ngôi chùa.
Nơi xứ thùy dương cát trắng này, có một vài ngôi chùa tọa lạc trên đồi. Sau hai ngày đi thăm các chùa, viên kỹ sư vẫn chưa gặp được vị sư nào đă thấy qua giấc mộng. Ngày thứ ba viên kỹ sư bước vào một ngôi chùa nằm trên ngọn đồi lớn nằm ở vùng Mă Ṿng đó là chùa Hải Đức.
Trên đồi này là một trung tâm hoằng pháp thuộc giáo hội Phật giáo đang khuếch trương lớn để trở thành trung tâm phật học của Nha Trang sau này.
Nhiều cơ sở được dựng lên và nơi đây có nhiều nhà sư trẻ có kiến thức văn hóa cao trú ngụ. Viên kỹ sư đă may mắn gặp được một số thầy, biết tiếng Anh nên sau khi tự giới thiệu và tŕnh bày sự việc với nhà chùa viên kỹ sư được đưa vào chánh điện để gặp vị trụ tŕ. Lúc này trụ tŕ chùa là Sư Thích Phước Huệ. Vị sư này tuổi độ 70 đang ngồi tụng niệm trước bàn thờ Phật.
Viên kỹ sư yên lặng đứng bên cây cột sau lưng vị sư già chờ đợi và quan sát. Trong khi đó các thầy, các chú, các sư tăng trong chùa cứ ngấp nghé quan sát viên kỹ sư v́ ai cũng lấy làm lạ tại sao hai người: sư Phước Huệ và viên kỹ sư mỗi người một quốc gia riêng biệt, khác tôn giáo, phong tục tập quán, tiếng nói nhưng lại có gương mặt giống nhau như hai cha con?
Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau, sư Phước Huệ tụng kinh xong đứng dậy. Chú tiểu vội ra dấu cho viên kỹ sư trở xuống hậu liêu chờ đợi. Sư Phước Huệ được các thầy trong chùa kể lại sự việc, rất ngạc nhiên nên vội vả xuống gặp viên kỹ sư. Cuộc hội ngộ lạ lùng đă diễn ra sau đó.
Viên kỹ sư đă tŕnh bày mọi việc cho sư Phước Huệ nghe, từ chuyện nhiều đêm thấy giấc mộng lạ kỳ cũng như những cuộc đi t́m người cha tiền kiếp trong mộng qua các ngôi chùa tọa lạc trên các đồi ở các tỉnh miền nam Việt Nam. Dĩ nhiên cuộc đối thoại ấy đă được các thầy, các chú ở chùa Phật học thông dịch. Sau cùng viên kỹ sư mong mỏi được gọi sư Phước Huệ là cha và c̣n xin được quy y làm đệ tử.
Hôm đó là ngày chủ nhật 27 tháng 4 năm 1958 lúc 4h30 phút chiều. Thế rồi, hai tuần sau, một buổi lễ quy y cho viên kỹ sư Hoa Kỳ Frank. M. Balk được tổ chức tại chùa Hải Đức. Sư Phước Huệ đă chọn pháp danh cho viên kỷ sư này là Chơn Trí.
Viên kỹ sư được sư Phước Huệ trao cho một chiếc áo tràng màu lam và chiếc quần dài nâu ṣng. Sau đó "hai cha con" đă chụp chung một tấm ảnh kỷ niệm ngày hội ngộ. Bức ảnh được phóng lớn treo ở hai ngôi chùa có cùng tên là Hải Đức, một ở Nha Trang và một ở Huế.
Ngày nay, du khách đến Nha Trang hay Huế, nếu ghé thăm chùa Hải Đức sẽ thấy bức ảnh này treo ở nhà khách của chùa. Nh́n bức ảnh ai ai cũng ngạc nhiên thấy sự trùng hợp lạ lùng về hai con người xa lạ kẻ góc biển, người chân trời nhưng lại có hai gương mặt giống nhau như tạc từ mắt, mũi, miệng, tai và khuôn mặt.
Dưới bức ảnh có đề hai hàng chữ bằng tiếng Pháp và tiếng Việt Nam, (Le fils perdu et retrouvé dimanche, le 27 Avrill 1958-4hl/2PM Đứa con mất đă t́m lại được chúa nhật 27-4-1958-4h30 chiều).
Một thời gian sau, v́ cảm thấy quá già yếu nên sư Phước Huệ ra Huế trụ tŕ tại chùa Hải Đức gần chùa Từ Đàm và viên tịch tại đây. Thi hài đă nhập tháp gần cạnh chùa.
Trong suốt thời gian công tác tại Việt Nam, viên kỹ sư này đă vẽ kiểu và xây dựng một ngôi bảo tháp trên đồi bên chùa Hải Đức gọi là chút ḷng thành cúng dường Tam Bảo và cũng để kỷ niệm ngày gặp gỡ người cha tiền kiếp của ḿnh.
Câu chuyện lạ lùng đó lan truyền khắp Việt Nam, chánh quyền thời đó (thời T.T. Ngô Đ́nh Diệm) đề tiền kiếp sẽ tạo lợi điểm cho Phật Giáo nên t́m cách để chính quyền Hoa Kỳ triệu hồi về nước sớm.
Cuộc chia ly thật cảm động. Sư Phước Huệ đă nắm chặt tay đứa con tiền kiếp. Cả hai đều rơm rớm nước mắt. Từ đó, viên kỹ sư thường liên lạc thư từ cùng vị cha tiền kiếp của ḿnh.
Ngày rằm tháng tư năm 1963, sư Phước Huệ viên tịch. Nhà chùa có đánh điện qua Hoa Kỳ báo tin buồn cho viên kỹ sư nhưng vào thời gian này tại Huế và Saigon xảy ra cuộc tranh đấu của Phật giáo. V́ thế việc trở lại Việt Nam của viên kỹ sư để đưa tiễn người cha tiền kiếp về nơi an nghỉ cuối cùng không thành.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 449 of 1146: Đă gửi: 01 July 2010 lúc 1:48am | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN VỀ TIỀN KIẾP HẬU KIẾP
Chương Năm
Để Quên hay Nhớ Lại Kiếp Trước
Nếu Có Luân Hồi, Tại Sao Lại Không Nhớ Tiền Kiếp?
Đây là câu hỏi đă được loài người đặt ra từ lâu khi vấn đề luân hồi được nêu ra. Nếu Luân hồi là có thật th́ cho đến nay, nguyên nhân nào đă khiến cho con người nhớ lại hay quên đi cuộc đời trước đó của ḿnh vẫn chưa hoàn toàn được giải thích và chứng minh rơ ràng.
Tuy nhiên không phải đó là nguyên nhân để phủ nhận vấn đề luân hồi. Vấn đề luân hồi là một vấn đề sâu xa tế nhị. Từ ngàn xưa, con người đă t́m cách lư giải vấn đề này. Trong nhân gian, không hiếm những lời giải thích tại sao lại quên những ǵ về tiền kiếp.
Nếu giả dụ rằng có sự tái sinh th́ nhớ lại kiếp trước sẽ gây được biết bao điều phiền toái trở ngại. Một người sinh ra nếu nhớ lại tiền kiếp của họ, người ấy sẽ t́m đến những ǵ liên quan đến bản thân họ ở quá khứ hơn là hiện tại. Thực tế trên thế gian đă có khá nhiều trường hợp xảy ra.
V́ hiện tại họ mới chỉ sinh ra và rất mới lạ đối với những người mà họ nhận là cha, mẹ, anh em, bà con... Một thí dụ dể hiểu là khi một đứa bé ra đời và đến tuổi biết suy nghĩ, nếu đứa bé ấy nhớ lại tiền thân của ḿnh là con của ông A, bà B th́ dĩ nhiên khi lớn t́nh mẫu tử, phụ tử sẽ sống dậy nơi đứa bé và dĩ nhiên nó sẽ t́m đủ mọi cách để gặp lại cha mẹ cũ.
Như vậy người mẹ hiện nay của đứa bé sẽ ra sao? sẽ đau đớn khổ sở, buồn rầu biết chừng nào? thí dụ ấy giống như tâm trạng của một cô gái ngày xưa về nhà chồng mà bao nhiêu kỷ niệm đẹp với người yêu dấu đều bỏ lại đằng sau trong khi người mà ḿnh sẽ gọi là chồng th́ lại là một người không quen biết do cha mẹ của tiền kiếp th́ h́nh ảnh ấy sẽ lôi cuốn vô cùng không những v́ t́nh cảm rằng buộc mà c̣n có thể là v́ ṭ ṃ muốn biết sự thật về kiếp trước của ḿnh ra sao.
Luật luân hồi quả báo quy định rơ ràng con người sẽ phải chuyển sinh qua nhiều kiếp và những ǵ họ phải trải qua như buồn đau khổ hận, tai nạn hoặc sung sướng hạnh phúc, giàu sang, đều do từ kết quả họ tạo ra từ kiếp trước. Hiện tượng luân hồi được xem như là một định luật.
Tuy nhiên luật này dễ bị xáo trộn khi con người biết được rơ ràng mỗi kiếp của ḿnh. Những bậc Đại Sư, những vị Cao tăng cũng chưa hẳn biết rơ tiền kiếp của ḿnh. Những bậc Thiền giả có huệ lực cao khi tập trung tư tưởng mới có thể nhớ lại kiếp trước và xem đó như là những biến cố đă xảy ra trong những gịng đời trước đó của ḿnh.
Chính Đức Phật Thích Ca khi đang trên đường t́m đạo, vẫn chưa biết được tiền kiếp của ḿnh, măi đến khi chứng ngộ đạo pháp mới thấy được các kiếp. Nhờ ngài đă đắc được Túc Mạng Minh và Thiên Nhăn Minh, nhờ đó mà ngài nhớ lại được hàng ngàn tiền kiếp chuyển hóa trong trí như một cuộn phim quay ngược ḍng thời gian.
Như vậy, chỉ những bậc siêu phàm mới có khả năng nhớ lại tiền kiếp, c̣n loài người hầu như tất cả đều ch́m đắm trong tăm tối mê mờ không thấy, không biết những ǵ đă xảy ra ở những tiền kiếp của ḿnh. Chỉ họa huần mới có những trường hợp dị biết lạ lùng như có những đứa bé mới 4, 5 tuổi kể lại tiền kiếp ḿnh hay có người có khả năng khơi dậy những h́nh ảnh của kiếp trước nơi người khác.
Trong dân gian Việt Nam ta thường nghe kể lại chuyện những người chết đi sống lại kể các chuyện thác vào Địa Ngục. Những linh hồn này trước khi đi qua chiếc cầu khủng khiếp để đến chốn Diêm phù, họ đều được quỉ sứ cho ăn cháo. Cháo này gọi là Cháo Lú.
Công dụng chính của Cháo Lú là để linh hồn người chết quên hết những ǵ về quá khứ của đời ḿnh để dễ dàng cho việc đầu thai sau này, v́ nếu không th́ những linh hồn ấy vẫn c̣n mang nặng những nhớ thương tiếc nuối về cảnh cũ, người xưa, t́nh ruột thịt, máu mủ giữa cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái khiến lúc tái sinh luân hồi, họ lại t́m đến những ǵ liên hệ với tiền kiếp.
Điều đó làm khó khăn trở ngại cho sự trả quả trong lần đầu thai lại này và cả những lần chuyển sinh khác nữa.
Câu chuyện truyền khẩu trong dân gian ấy nói lên phần nào sự quên đi tiền kiếp của mỗi người khi họ đầu thai. Tuy nhiên, như đă nói từ trên, từ cổ đại cho đến nay vẫn không hiếm những người có khả năng nhiều ít về sự nhớ lại những ǵ trong quá khứ.
Trên thế gian có nhiều người có trí nhớ siêu đẳng và cao hơn nữa, có người có khả năng nhớ lại tiền kiếp như đă tŕnh bày từ trước. Từ lâu, các nhà nghiên cứu về hiện tượng tâm thần như Freud, Jerome Kegan, Emest Havemann. William C.L.C. Macleod, Kripke.D.F.,Simons R.N... đều cho biết rằng tiềm thức là cái thâm sâu vi diệu nhất thuộc về lănh vực tinh thần ở con người.
Họ cố gắng nghiên cứu t́m hiểu những vùng sâu thẳm của tiềm thức, v́ kinh nghiệm cho thấy, qua giấc mơ nhiều người đă quay về thời kỳ ấu thơ của ḿnh rất rơ ràng tự nhiên như đang xem qua một cuốn album dán ảnh của họ chụp vào những giai đoạn từ ấu thơ đến khôn lớn.
Những h́nh ảnh ấy vô cùng linh hoạt và rất chi tiết cả từ h́nh ảnh, màu sắc, cử chỉ, môi trường, sự việc xảy ra. Như thế rơ ràng là ở trong bộ năo đă có những vùng giữ lại kư ức của mọi việc đă xảy ra từ lúc con người sinh ra. Theo nhà nghiên cứu nổi danh về vấn đề này là Hidtoring Tan th́ trí nhớ được giữ lại trong những phân tử protein của tế bào năo.
Nếu có một năng lực nào làm khởi động các phân tử ấy th́ các kư ức sẽ được phục hồi rơ nét. Từ lâu phương pháp thôi miên được áp dụng để làm khơi dậy những h́nh ảnh của quá khứ ấn nhập trong những vùng sâu thẳm của bộ năo. Nếu khả năng của thuật thôi miên mạnh mẽ hơn nữa th́ những h́nh ảnh của quá khứ xa xăm của một đời người sẽ hiện ra rơ rệt trong trí nhớ người đó và xa hơn nữa là tiền kiếp của người ấy.
Nhiều thắc mắc về h́nh ảnh của tiền kiếp từ lâu đă được đưa ra. Người ta tự hỏi rằng tại sao trong bộ năo một người lạ lại có tích chứa những h́nh ảnh của tiền kiếp trog khi người ấy sinh ra và lớn lên rồi già chết, bộ năo ấy của một đời người lại ghi nhận những dữ kiện xảy ra từ những đời trước đó?
Trường hợp cần nhắc rằng từ lâu, các nhà nghiên cứu về óc năo đă quan tâm đến vấn đề là bộ năo con người là một thế giới lạ lùng mà sinh vật học mới lần bước vào một vài đoạn đường của nó mà thôi.
Ngày nay, các nhà khoa học nhận thấy rằng từ lúc con người ra sinh ra cho đến khi họ qua đời, dù người ấy sống đến 100 tuổi đi nữa th́ họ cũng chỉ tiêu thụ có một phần mười năng lực của bộ năo. Vậy c̣n chín phần kia vẫn chưa dùng tới là bởi nguyên nhân nào? Phải chăng những phần kia c̣n tích chứa trong kư ức, h́nh ảnh, sự kiện của nhiều đời nhiều kiếp khác nữa.
Chỉ khi nào có được sự kích động, khêu gợi do nguyên động lực nào đo mà làm phát sinh như sự thôi miên chẳng hạn th́ những kư ức ấy mới lột rơ. Đôi khi những h́nh ảnh, sự việc xảy ra trùng hợp với những h́nh ảnh trong quá khứ xa xăm của tiền kiếp cũng khích động được.
Điều này giải thích sâu xa hơn những trường hợp v́ sao có người thầy cái bánh xe lại khiếp sợ v́ trước đó hay từ tiền kiếp họ đă bị một tai nạn khủng khiếp có liên hệ tới bánh xe như bị tra tấn bằng bánh xe, bị bánh xe cán qua người. Nhiều người đôi khi khủng hoảng sợ trước một vài, thứ như sợi dây, nhánh cây, con mèo, hoặc có khi sợ nước, sợ màu đen, sợ tiếng c̣i... là những thứ xét ra không có ǵ phải đáng hoảng sợ.
Nhưng theo khoa tâm lư học th́ sự hoảng sợ ấy đều có nguyên nhân v́ có thể trước đó những thứ ấy đă là nguyên nhân gây nên những sự việc hệ trọng, đôi khi nguy hiểm tạo đe dọa trong quá khứ và h́nh ảnh ấy ăn sâu trong tiềm thức cho đến khi được khơi dậy lại từ những sự vật, hiện tượng liên quan.
Theo ông Edgar Cayce (người có khả năng khơi dậy những h́nh ảnh trong tiền kiếp của người khác) th́ mỗi người đều tích trữ trong bộ năo ḿnh những kư úc tiềm tàng từ tiền kiếp. Qua nhiều kiếp, mỗi người đă trải qau những giai đoạn phức tạp khác nhau và đôi khi những h́nh ảnh trong kư ức ấy được hiện ra trở lại qua nhiều tác nhân như giấc mộng khi đang ngủ.
Hay những h́nh ảnh khi đang thức hay mạnh mẽ hơn và rơ ràng hơn khi được kích động qua giấc ngủ thôi miên. Tiến sĩ Igo Xamolvich Lixevich (Nga Xô), nhà nghiên cứu về triết học Đông phương đă ghi nhân rằng:
"Không riêng ǵ ở các nước Đông Phương huyền bí mà ngay ở các nước Âu Châu và Mỹ Châu, đâu đâu cũng có những trường hợp lạ kỳ mà cho đến nay giới khoa học vẫn chưa giải thích được".
Nhiều người, nhất là con trẻ đă kể lại quăng đời về tiền kiếp của họ.
Các nhà khoa học hiện nay chỉ mới dựa vào các gen di truyền ở các nhiễm sắc thể trong tế bào và gọi từ trí nhớ gen hoặc giải thích qua hiện tượng tiềm thức là những ǵ mà ư thức con người không kiểm soát nổi hoặc qua những h́nh ảnh hay câu chuyện ngẫu nhiên nào đó để rồi tích tụ lại trong tiềm thức và khi gặp điều kiện hay bất chợt phát sinh v́ ột tác đông của một sự thúc đẩy nào đó về tâm lư.
Riêng đối với các nhà nghiên cứu siêu linh th́ có một lư luận cho rằng: cái gọi là hồn của một chết nào đó đă nhập vào một người hác và nếu bị hồn khác xâm nhập lại yếu về năng lực tinh thần lẫn thể xác th́ khi đó sẽ bị hồn mới nhập khống chế về điều trước tiên là kích động việc nhớ lại cuộc đời của người khác. Thật sự cho đến nay, vấn đề vẫn chưa được sự giải thích rơ ràng.
Vai Tṛ Của Thôi Miên Trong Vấn Đề Nhớ Lại Tiền Kiếp
Như miên được hiểu là những tác động để đưa một người nào đi vào giấc ngủ nhưng giấc ngủ này có vẻ khác thường v́ người ngủ ấy không ở vào trạng thái ngủ của giấc ngủ tự nhiên b́nh thường mà thể hiện ở trạng thái vô cùng đặc biệt như đang đi vào cơi thế giới xa lạ nào đó, hoặc thấy những sự việc của quá khứ hay tương lai.
Tuy ngủ nhưng người ấy vẫn thấy và vẫn nghe tất cả những ǵ diễn biến trong giấc ngủ. Thôi miên v́ thế được nhiều người hiểu như là một trạng thái xuất hồn và người đi vào giấc ngủ thôi miên đôi khi thấy được những sự việc ngoài tầm mắt của họ.
Có người tự ḿnh có thể làm cho ḿnh tự đi vào giấc ngủ thôi miên. Tuy nhiên trường hợp ấy rất hiếm như trường hợp ông Edgar Cayce, người có khả năng lạ lùng về lănh vực này. C̣n phần lớn đều phải tập luyện kiên tŕ và phải có cái thiên tư, năng khiếu hay "điện lực" nào đó. Cũng có người, mà phần lớn đều phải được những người có khả năng như đă nói ở trên đưa ḿnh vào giấc ngủ thôi miên.
Người nổi danh về lănh vực thôi miên là nhà nghiên cứu De Puységur (năm 1784). Nhưng khoa thôi miên đă thật sự phát triển, được lưu ư và công nhận là một sức mạnh của tinh thần torng khoa tâm lư học, thôi miên đă đi hẳn vào ngành y khoa và là một lợi khí vô cùng quan trọng trong phép t́m bệnh, chữa bệnh.
Từ xưa, các nhà y học, đă lưu tâm đến hiện tượng thôi miên, một hiện tượng liên quan đến tâm sinh lư, một hiện tượng cao siêu trong lănh vực tinh thần. Đó là một năng lượng tinh thần có sức mạnh lạ kỳ trong phép trị liệu những bệnh thuộc lănh vực tinh thần. Từ bác sĩ Petétin (1808) đến bác sĩ Braid đều chú trọng đến khoa thôi miên.
Trước đó khoảng 300 năm, khoa thôi miên cũng đă được dùng để truy tầm nguyên nhân của tật bệnh. Về sau, bác sĩ Berheim đă chứng minh rơ ràng về khả năng của phương thức chữa bệnh và t́m bệnh nhờ thôi miên. Nhà vật lư học nổi tiếng Pháp là Patrick Drouot đă áp dụng phương thức thôi miên để trị bệnh và truy t́m bệnh.
Từ lâu, các nhà nghiên cứu về thôi miên cho thấy rằng khoa thôi miên có khả năng khơi dậy những ǵ thuộc về kư ức tiềm ẩn về những quá khứ xa xăm mà trí nhớ của con người b́nh thường không thể nhớ lại được. Ngày xưa, các nhà y học và tâm lư học ứng dụng sự kiện này vào việc chữa bệnh tâm thần. Họ truy nguyên do đâu làm phát sinh sự điên loạn, lo sợ, sầu bi, uẩn khúc, rối loạn tâm trí ở con người.
Dần dần, các nhà nghiên cứu đă khám phá ra được một điều mới mẻ kỳ lạ khác là đôi khi trong giấc ngủ thôi miên, con người c̣n có khả năng kể lại những h́nh ảnh lúc c̣n bé mà trước cả thời gian đó.
Như vậy ư nghĩa sâu xa hơn nữa chính là tiền kiếp của người đó. Nữ bác sĩ Hoa Kỳ nổi danh chữa bệnh bằng phương pháp thôi miên để khơi dậy tiền kiếp là bà Edith Fiore. Bà Helen Wambach là nữ tiến sĩ, chuyên nghiên cứu về vấn đề luân hồi tái sinh cũng đă áp dụng phương pháp thôi miên để đưa người bệnh nhớ lại tiền kiếp.
Bác sĩ Alexander Cannon là một nhà nghiên cứu về bệnh lư liên hệ tới hiện tượng tâm lư đă khẳng định rằng: trước đây ông c̣n nghi ngờ về vấn đề liên quan đến hiện tượng tái sinh và nhất là những ǵ đă xảy ra trong quá khứ xa xăm của kiếp người đó nhưng về sau, qua hàng ngh́n trường hợp được nghiên cứu cẩn thận ông không c̣n thấy mối nghi ngờ nào nữa về tác dụng của khoa thôi miên trong vấn đề khơi dậy tiềm năng của trí nhớ về những h́nh ảnh của tiền kiếp.
Các nhà nghiên cứu thôi miên cho biết năo bộ con người được xem như là một máy phát điện hay một b́nh ắc quy. Đồng thời cũng là một bộ máy thu luồng sóng điện. Khi muốn đạt kết quả của thuật thôi miên, cần tập trung ở vùng trung tâm của sự tập trung tư tưởng hay chú ư. Người Ấn Độ từ xưa đă biết rơ điểm tập trung này. Điểm này được đánh dấu rơ ràng giữa 2 chân mày, thường người Ấn hay tạo một chấm đỏ ở trán nằm ngay ở điểm tập trung này.
Hiện việc áp dụng khoa thôi miên trong vấn đề khơi dậy quá khứ đă và đang được phát triển khắp nơi trên thế giới. Các cơ sở nghiên cứu, t́m hiểu và trị liệu các loại bệnh thuộc nan y đang được mở ra ở nhiều nơi do các nhà nghiên cứu về thôi miên kết hợp với các nhà tâm lư học và y, bác sĩ. Cũng từ đó, các nhà nghiên cứu về hiện tượng tâm linh đă bắt đầu vững tin vào những ǵ mà từ lâu họ đang lần bước t́m hiểu: đó là hiện tượng nhớ lại tiền kiếp của mỗi người.
Tuổi Tác Và Khả Năng Nhớ Lại Tiền Kiếp
Như vậy, những ǵ gọi... là tiềm thức, là h́nh ảnh và trí nhớ trong tiền kiếp là điều không thể chối căi. Từ đó vấn đề mỗi con người không thể nhớ lại tiền kiếp ḿnh cũng được các nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi giải thích như sau:
Ngay trong mỗi con người của chúng ta đôi khi cũng thường bị quên trong cả những việc vừa làm chớ không riêng ǵ những điều đă xảy ra từ tấm bé, có người tự hào ḿnh nhớ hết những ǵ xảy ra hồi c̣n bé nhưng thật sự chỉ nhớ những h́nh ảnh và sự việc đại cương mà thôi chớ không thể nào nhớ chi tiết từng ngày từng giờ từng tháng từng năm cùng với mọi sự việc xảy ra.
Theo các nhà năo sinh học th́ sự quên là điều rất cần thiết v́ bộ năo cũng cần được nghỉ ngơi. Năo là một thư viện khổng lồ lưu trữ biết bao nhiêu sách vở và tài liệu của kư ức con người, mỗi giây, mỗi phút mỗi ngày, mỗi giờ đều có những h́nh ảnh, sự kiện khác được thu nhận, những ǵ trước đó phải được cho vào sâu trong tiềm thức sẽ là kư ức để dành chỗ cho những sự kiện khác đến.
V́ thế sự quên đi là điều hiển nhiên. Chỉ khi nào cần đến hoặc được khơi dậy th́ chúng mới hiện ra, vậy sự quên không có nghĩa là mất hẳn và sự quên nên được hiểu như một cuốn sách đang để vào sâu trong một ngăn nào đó của hộc tủ thư viện mà thôi. Từ lập luận đó ta mới thấy được tại sao con người không nhớ lại được tiền kiếp của ḿnh, nhất là những h́nh ảnh, sự kiện lại xảy ra ở một thời gian quá xa.
Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu về trí nhớ th́ khả năng nhớ lại của con người về những ǵ đă xảy ra thường thay đổi theo tuổi tác, thông thường người ta cứ tưởng rằng người già có trí nhớ phi thường. Thật ra, theo Jidith Randal và Steven Ferris, David Krech... th́ người già thường nhớ rất lâu về t́nh cảm trong đời, nhất là tài năng của họ.
Nguyên nhân chính là do sự nuối tiếc, luyến lưu. Nhưng thật sự trí nhớ ấy chỉ là tổng quát, đại cương chớ không sâu sắc. Cũng theo các nhà nghiên cứu này th́ vào khoảng tuổi từ 50 đến 60, con người thường dễ quên và khó có được trí nhớ tốt lành.
Đôi khi họ c̣n dễ quên ngay cả những việc mới xảy ra trong một thời gian ngắn thôi. Y học gọi đó là sự suy thoái về trí nhớ liên hệ tới tuổi (Age Associated Memory Impairment (AAMI).
Ngược lại đối với người tuổi trẻ, nhất là con trẻ, bộ óc lại có khả năng phát triển về trí nhớ rất mạnh. Điều này phù hợp với việc nghiên cứu và khám phá của giáo sư tiến sĩ Ian Stevenson khi ông t́m hiểu về vấn đề Luân Hồi Tái Sinh qua con trẻ.
Nhà khoa học này đă nghiên cứu qua hàng ngàn trường hợp về hiện tượng con người nhớ lại tiền kiếp của ḿnh cũng như các nhà nghiên cứu John Van Auken, Shelley, Violet, Cerminara, Gina, Sparrow, Lynn... đă lưu tâm.
Theo tiến sĩ Stevenson th́ con trẻ có khả năng nhớ lại tiền kiếp của chúng rất lớn, bộ óc chúng có ưu điểm và trong thời kỳ thanh xuân tươi trẻ ấy có thể tự động tạo nên những h́nh ảnh kéo về từ quá khứ xa xăm (ở đây phải là tiền kiếp v́ đối với trẻ con, 4, 5 tuổi quả thật chưa có quá khứ nếu xét theo đời hiện đại của nó) nhất là khi chúng gặp được những h́nh ảnh, sự kiện liên quan nào đó.
Qua các tài liệu thu thập được từ năm 1960 trở về sau, tiến sĩ Stevenson đă có được một số lớn sự kiện lạ lùng phát sinh từ con trẻ khi chúng tự nhiên kể lại hay bộc lộ những ǵ liên quan đến tiền kiếp của chúng. Những trẻ con này thường chỉ ở khoảng 4, 5 tuổi mà thôi. Ở lứa tuổi mà khi xét đến cử chỉ, lời nói, sự nhận thức hay khả năng th́ quả là không thể có được.
Nhiều trường hợp lạ lùng nhưng có thật đă xảy ra qua các tài liệu mà tiến sĩ Stevenson đă thu thập được như em bé Duminda 6 tuổi ở làng Kandy (Sri Lanka), bé Thusitha, bé Tatu, hay bé người Thổ Nhĩ Kỳ... những em bé này đă kể lại tiền kiếp của ḿnh ra sao, cha mẹ ḿnh là ai, đă qua đời v́ nguyên nhân nào... và kỳ dị hơn nữa là những em bé này đă cho thấy những bằng cớ chính xác rơ ràng về những ǵ mà chúng đă kể đến.
Trong ṿng mấy mươi năm qua, vấn đề con trẻ nhớ lại những ǵ gọi là tiền kiếp đă được xem như là vấn đề có cơ sở khoa học chớ không c̣n là chuyện mê tín huyền hoặc nữa. Tuy nhiên có lẽ vấn đề khó giải thích và khó chứng minh nên từ xưa chưa có nhiều người, nhất là giới khoa học đứng ra nghiên cứu và cổ xướng rộng răi.
Măi về sau mới có một số nhân vật nổi danh như bác sĩ Melvin More, nữ giáo sư Diane Komp và đáng lưu ư hơn cả là giáo sư, bác sĩ Ian Stevenson thuộc đại học Virginia (Hoa Kỳ), là người đă bỏ ra một thời gian dài để nghiên cứu về các trường hợp thuộc hiện tượng luân hồi tái sinh (Reicarnation) từ các con trẻ. Giáo sư tiến sĩ Ian Stevenson c̣n là nhà tâm sinh lư nổi tiếng ở đại học Charlottes Ville.
Ông đă nghiên cứu 10.623 trường hợp có liên đến hiện tượng luân hồi, tái sinh trong đó có khoảng 40 trường hợp đầu thai xảy ra tại nước Pháp và một số rất lớn trường hợp đầu thai xuất hiện ở Ấn Độ. Ngoài những trường hợp xác nhận hiện tượng tự nhiên ngoại thể, ông c̣n kiểm tra qua các cuộc giải phẫu và mổ tử thi tại bệnh viện và nhờ đó mà có thể xác nghiệm được nhiều trường hợp lạ lùng về tiền kiếp như đương sự có dấu vết bẩm sinh trên cơ thể tương ứng với những ǵ đă xảy ra trong kiếp trước.
Có hơn 2500 trẻ con nhớ lại những ǵ của thời quá văng, cái thời mà với lứa tuổi hiện tại của chúng (có trẻ chỉ mới 4, 5 tuổi) người ta không thể cho là ở trước đó một vài năm mà rất xa, có nghĩa rằng phải dùng tới chữ Kiếp Trước của chúng. Hơn nữa những ǵ mà các em bé này nhớ, kể lại, mô tả lại hoàn toàn không ăn nhập ǵ với hoàn cảnh và thời gian mà chúng đang sống ở hiện tại.
Theo bác sĩ Stevenson th́ các em này thường mở đầu bằng hai chữ "lúc đó" "hồi đó". Điều đặc biệt là bác sĩ Stevenson đă luôn luôn để ư cân nhắc, gạt bỏ những ǵ có tính cách không đứng đắn với sự mô tả hoặc có sự liên hệ chỉ bảo của người lớn (có thể giúp cho con trẻ phát biểu những điều mà trí óc chúng không thể nào đă có sẵn, đă được khắc ghi).
Ngoài ra, bác sĩ Stevenson c̣n lưu ư một sự kiện quan trọng khác, đó là dấu vết bẩm sinh trên cơ thể của các cháu bé (birthmarks) hoặc ngay cả những trường hợp quái thai (birth defets). Khi những cháu bé này nhớ lại tiền kiếp của chúng th́ thường thường có sự liên hệ lạ lùng giữa sự kiện với dấu vết bẩm sinh hay dị tật mà chúng đă mang trên cơ thể.
Trẻ Con Và Vấn Đề Nhớ Lại Tiền Kiếp
Khi trả lời câu hỏi của giới báo chí về vấn đề tại sao lại tập trung nghiên cứu về vấn đề từ trẻ con hơn người lớn th́ bác sĩ Stevenson cho biết như sau:
"Dĩ nhiên đây là điều ghi nhiều nghi vấn và c̣n dễ bị ngộ nhận v́ phần đông mọi người đều cho rằng trẻ con không biết ǵ, nếu chúng phát biểu một điều ǵ đó th́ có thể là do chúng đă học được, nghe được và đă nói theo như một con vẹt tập nói (do người lớn đă tập để chỉ vẽ cho nó.)
Nên những lời nói của con trẻ, nhất là các nhận định của chúng (các trẻ 4, 5 tuổi...) thường chẳng có giá trị nào... Tuy nhiên dưới mắt các nhà khoa học và nhất là các nhà sinh vật học th́ vấn đề lại khác. Sở dĩ họ lưu tâm đến việc nghiên cứu con trẻ về vấn đề nhớ lại quá khứ hay tiền kiếp là do các lư do sau đây:
1) Trí óc con trẻ giống như một tờ giấy trắng, chưa có một kư ức, kỷ niệm ghi vào hơn nữa chúng cũng chưa đủ tŕnh độ để có thể hiểu rơ về lư thuyết luân hồi, đầu thai của một tôn giáo nào... V́ thế những ǵ phát biểu, mô tả, tŕnh bày từ con trẻ, đặc biệt với những vấn đề làm ta suy nghĩ ngạc nhiên và đặt nghi vấn đều là những vấn đề đáng quan tâm.
Dĩ nhiên phải loại bỏ trường hợp con trẻ học nói hay được người lớn chỉ vẽ để nói lên những vấn đề người lớn (và giả sự rằng sự kiện này có th́ chúng ta cũng dễ dàng nhận ra ngay).
V́ thế khi con trẻ nói lên những điều, kể lại những chuyện về quá khứ mà chúng tự cho rằng ḿnh đă trải qua th́ rơ ràng có cái ǵ đó đáng để ta lưu tâm t́m hiểu v́ với lứa tuổi của chúng không thể nào có được những h́nh ảnh, những kinh nghiệm cũng như những từ ngữ như chúng đă kể lại. Chỉ ngoại trừ chúng ta đă có một kư ức từ quá khứ xa xăm, hay từ tiền kiếp.
2) Con trẻ thật sự không có gian dối, sự gian dối được thu thập dần khi chúng lớn lên. Nếu chúng ta có điều gian dối th́ khó mà không bị người lớn phát giác. Cũng vậy, nếu những ǵ con trẻ kể lại về cái gọi là tiền kiếp hay những ǵ chúng thấy ở một thế giới nào khác mà gian dối, bịa đặt th́ thế nào cũng bị lộ.
3) Tŕnh bày vấn đề, cốt lơi của vấn đề bao giờ cũng giống nhau dù tŕnh bày nhiều lần v́ thế các nhà nghiên cứu c̣n kiểm tra sự chính xác trong câu chuyện của con trẻ bằng cách yêu cầu chúng phát họa lại những ǵ chúng đă thấy để xem có sự sai lệch nào không.
Sự kiện này giúp xác nhận lời tŕnh bày của con trẻ là có cơ sở đúng đắn đáng quan tâm. (Như trường hợp bé Jemi lúc 11 tuổi đă vẽ lại những h́nh ảnh mà em đă thấy khi em bước vào ngưỡng cữa của sự chết nhưng chưa tiến hẳn vào tận cùng của thế giới khác.
Tại đây em đă thấy một số h́nh ảnh lạ lùng như thấy những người mà trên đầu tỏa ánh hào quang, nhưng bước đi nhẹ nhàng lung linh và đặc biệt em c̣n thấy một số người đang nằm trong những cái hộp giống hộp bằng gương. Khi bác sĩ hỏi em có biết v́ sao những người ấy nằm trong các hộp kính th́ cho em biết: "đó là những người đang chờ đến lượt tái sinh".
Các h́nh mô tả lại những ǵ mà em đă thấy cho bác sĩ Melvin More xem đă được đăng tải lại rơ ràng trong nguyệt san Life số 3, volume 15, tháng 3 năm 1992.
4. Phần lớn các sự kiện mà con trẻ đă kể về tiền kiếp của ḿnh thường rất phù hợp với những ǵ mà chúng đă đề cập đến và sự kiện được mô tả rất trung thực và tự nhiên.
5. Qua các sự kiện thu thập được từ các nhà nghiên cứu về vấn đề kinh nghiệm gần gũi hay trải qua về cái chết (near death experience NDE) hay sự luân hồi, tái sanh (reincarnation) th́ ở trẻ con sự kiện này thường xảy ra nhiều hơn người lớn.
Theo bác sĩ Stevenson th́ nghiên cứu ở con trẻ có được lợi điểm hơn người lớn v́ chúng có nhiều dữ kiện c̣n tồn tại trong lúc đang sống và thường dễ t́m kiếm, kiểm tra được những sự việc hay gia đ́nh nào đó có liên hệ với vấn đề.
Thường th́ trong các báo cáo hoặc khi tiếp xúc với gia đ́nh có hiện tượng nhớ lại tiền kiếp mà cháu bé là vai chính, bác sĩ Stevenson ghi nhận rằng: "Mẹ không phải là mẹ của con. Con muốn đến nhà mẹ ruột của con..."
Và sau sự kinh ngạc của vấn đề cứ tiếp diễn măi để rồi gia đ́nh người mẹ có đứa con thường phát biểu câu khó hiểu ấy phải t́m cho ra sự thật và sự thật là rất phù hợp với những ǵ mà cháu bé đă mô tả. C
ó lần bác sĩ Stevenson nghe một người đàn bà kể chuyện về người con của bà ta mới lên 5 tuổi. Một hôm bà chuẩn bị đi chợ (chợ đi rất xa) th́ cháu bé nói một cách tự nhiên: "Ồ! Mẹ phải lấy xe đi chớ! Con có xe mà. Mẹ không cần phải đi bộ tới chợ xa xôi. Chỗ con ở có xe, tài xế sẽ chở mẹ tới chợ..."
Cũng theo bác sĩ Stevenson th́ đôi khi những con trẻ này lại có những thái độ, cử chỉ, lời nói hay sự lo lắng rất đặc biệt, sự kiện này có liên quan đến người đă được nhắc đến ở quá khứ hay tiền kiếp. Người ấy không ai khác hơn là cháu bé hiện tại.
Nếu người ấy đă chết v́ tai nạn sông nước hay những ǵ liên quan tới nước cháu bé này sẽ rất sợ nước. Nếu người đó bị bắn chết th́ cháu bé rất sợ tiếng súng nổ hay trông thấy súng là hoảng sợ.
Nếu người đó trước đây chết v́ bị rắn cắn th́ hiện tại cháu bé lại sợ rắn v́ bị ám ảnh về những ǵ đầy ghê sợ từ tiền kiếp do rắn gây ra. Đôi khi đứa bé lại rất ham thích một loại thức ăn đặc biệt nào đó, hoặc màu sắc nào đó hay loại quần áo nào đó.
Một trường hợp điển h́nh đă xảy ra tại Miến Điện. Một em bé đă kể lại tiền kiếp của ḿnh. Lúc đó em là một quân nhân Nhật Bản và đă bị giết trong thế chiến thứ hai. Điều kỳ lạ là em rất thích uống trà đậm và thức ăn thường ngày của người Nhật, mặc dầu lúc này em là người Miến Điện, mà người Miến lại thích uống trà loăng.
Theo sự nghiên cứu và phân tích tỉ mỉ của bác sĩ Stevenson th́ có nhiều bé gái nhớ lại tiền kiếp của ḿnh là trai và cũng có trường hợp có nhiều bé trai nhớ lại tiền kiếp của ḿnh là gái và cũng từ đó chúng thích ăn mặc cũng như có cử chỉ dáng điệu phù hợp với phái tính trước đó.
Nhiều người đă hỏi bác sĩ Stevenson rằng: trường hợp những người thuộc về Homo Sexuality (thuộc tính dục đồng giới tính, đồng tính luyến ái) có phải là do từ bản thân tiền kiếp có giới tính khác biệt hay không th́ bác sĩ Stevenson đă trả lời rằng "Tôi nghĩ điều đó có thể có và cũng có một số biệt lệ, như vấn đề khác biệt nhau về phương diện sinh vật học..."
Trở lại vấn đề con trẻ có khả năng nhớ lại tiền kiếp th́ bác sĩ Stevenson đă nêu ra trường hợp các trẻ con khi có khả năng ấy, thường hay mô tả rơ ràng chi tiết về cái chết của chính ḿnh ở kiếp trước, sự kiện này thường xảy ra nhiều và có từ 60 đến 70 phần trăm trường hợp như vậy. Đặc biệt nếu cái chết xảy ra quá khủng khiếp hay do tự sát th́ lại càng dễ đem lại sự hồi tưởng về cái chết và cách chết ở kiếp sau nơi đứa trẻ hơn.
Khi đứa trẻ tái sinh th́ lần này những kư ức khổ đau rùng rợn ấy sẽ làm nhớ lại và thôi thúc chúng t́m đến cội nguồn của kiếp trước và dường như muốn thấy lại những ǵ mà chúng đă làm hay đă trải qua.
Nhà siêu tâm lư Banglopp đă đặt câu hỏi rằng: Phải chăng những người bị chết bất đắc kỳ tử lại thường nhớ rơ về thời gian và những ǵ đă xảy ra cho họ ở kiếp trước trong khi họ đă bước hẳn vào cuộc đời mới khác ở một con người khác.
Phải chăng qua cái chết bất ngờ của tiền kiếp, v́ chết không theo đúng quy luật của tự nhiên (sinh, lăo, bệnh, tử) nên đă khiến linh hồn thoát khỏi thể xác một cách bất ngờ và chính sau cái chết bất ngờ ấy, đă khiến cho về sau khi hồn nhập vào thân xác mới khác vẫn c̣n giữ được sự liên quan mật thiết với những ǵ của thời quá văng...
Trường Đại học Delhi ở Ấn Độ đă hợp tác với Đại học Virginia của Hoa Kỳ trong vấn đề nghiên cứu những sự kiện đặc biệt về con người. Một thống kê mới nhất cho thấy các trẻ nhỏ thường có khả năng phát lộ về các hiện tượng siêu tâm lư và phần lớn các trẻ này thường cho thấy được phần nào "quá khứ xa xăm của chúng".
Quá khứ đây được hiểu như đă xảy ra trước khi đứa bé chào đời hay nói khác hơn là tiền kiếp. Các nhà nghiên cứu cho rằng, do sự t́nh cờ, con người có thể biết được những điều lạ lùng hé lộ qua câu chuyện của các trẻ nhỏ về những ǵ đă xảy ra trước lúc đứa bé ấy sinh ra.
Thường th́ các trẻ nhỏ có số tuổi từ 3 đến 7 là hay nhạy cảm và có khả năng "nhớ lại". Càng lớn lên, th́ khả năng "nhớ lại" những ǵ đă xảy ra ở thế hệ trước sẽ không rơ ràng hay không c̣n.
Theo thống kê th́ có đến 82% tổng số trường hợp là các đứa trẻ nói trên khi kể lại "quá khứ" đă nhớ lại được tên tuổi ḿnh lúc đó. Đại Đức Ấn Độ K. Sri Dhammananda đă ghi lại trong bộ sưu tập của ḿnh về vấn đề Tái sinh chuyện một em bé 7 tuổi có tài chữa bệnh và chế thuốc rất hay.
Khi được hỏi bé trả lời một cách rất tự nhiên: "Trước đây, tôi không phải như bây giờ, lúc ấy tôi là một thầy thuốc danh hiệu là Jules Alpherese và tôi đă chữa bệnh, điều chế thuốc giúp rất nhiều người. Giờ đây, dù ở thân xác khác, tôi vẫn tiếp tục làm được điều ḿnh mong ước.
Những Người Đi Vào Quá Khứ.
Vấn đề khả năng nhớ lại tiền kiếp càng ngày càng được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và hy vọng trong tương lai chắc chắn con người sẽ c̣n thu thập được thêm nhiều sự kiện mới lạ hữu ích khác và từ đó mà mối nghi ngờ hoang man về những ǵ gọi là tiền kiếp, về tái sinh về luân hồi sẽ không c̣n là một vấn đề phải bàn căi nữa.
Điều cần lưu ư thêm là song song với hiện tượng nhớ về tiền kiếp xa xăm, hiện nay các nhà nghiên cứu c̣n quan tâm hơn nữa về một số hiện tượng khác tương tự đó là hiện tượng thấy trước những sự việc trong quá khứ và cả trong tương lai nữa.
Mùa hè năm 1901 có hai người phụ nữ tên là Eleanor Jourdain và Anne Moberly đi thăm các lâu đài nổi tiếng của Pháp. Nơi họ say mê nhất qua sách vở báo chí và nhất là qua tài liệu lịch sử là Điện Versailles. Ngôi biệt điện nguy nga vĩ đại nổi danh thế giới qua các triều đại vua chúa vàng son của nước Pháp được xây dựng bởi vua Louis thứ XIII và sau đó được các vua Louis kế tiếp phát triển thêm.
Ngay bước xây cất đầu tiên, ngôi biệt điện này đă tiêu phí hết 100 triệu đô la chớ không phải tính theo tiền phật lăng. Hàng năm du khách đến thăm điện Versaille rất đông nhưng hai phụ nữ này chỉ thích tự ḿnh đi thăm không qua một tổ chức hay một phái đoàn du lịch nào.
Họ không muốn bị lệ thuộc vào nhiều hoàn cảnh và thời gian đi lại v́ họ rất thích nghiên cứu lịch sử. Với một cuốn chỉ nam du lịch Pháp bỏ túi, hai người đàn bà này đă lần ṃ để đến những nơi mà họ thích t́m hiểu.
Đầu tiên, cả hai lên ô tô và khi ô tô tới bến đáng lư họ đă đến nơi nếu họ quẹo tay mặt nhưng họ lại xuống xe và đi tiếp một đoạn đường khá xa. Sau đó họ thấy một con đường nhỏ, một con đường vắng tanh, đó là con đường đất dẫn vào một đám cây xanh ngắt.
Sẵn óc ṭ ṃ và thích du lịch thám hiểm, hai người đàn bà với túi xách trên tay đi lần theo con đường. Không gian êm lắng lạ thường, xa xa là khu rừng thông ngút ngàn. Họ phân vân và có cảm giác ḿnh bị lạc đường. Nhưng họ thấy có nhiều ngôi nhà nông dân đằng xa rồi thấy bên đường cái cào sắt và cái xẻng đặt gần chiếc xe cút kít.
Họ gặt nhiều người trên đường lúc đầu là hai người đàn ông mặc áo choàng màu xám xanh, rồi nơi thềm một túp lều, cô Jourdain thấy một người đàn bà lớn tuổi đang đứng với một cô gái trẻ. Sau vài phút, họ lại gặp một người đàn ông cũng mặc áo choàng và đầu đội mũ rộng vành.
Người đàn ông này có gương mặt lầm ĺ, xam xám và điểm những chấm rỗ hoa. Bà Anne Moberly định hỏi thăm đường nhưng thấy dáng dấp vẻ nghiêm khắc của người đàn ông này nên không hỏi nữa th́ vừa lúc đó có một người đàn ông từ xa chạy lại đứng trước mặt họ và có vẽ sốt sắng:
- Tôi có thể dẫn các bà đi nếu các bà cho phép!?
Bà Anne và cô Jourdain cảm thấy vui vui và họ cảm ơn người đàn ông đă ngỏ ư muốn dẫn đường cho họ. Họ qua một cây cầu nhỏ bắt ngang qua một con suối mà tiếng nước suối đổ sao nghe xa xăm nhẹ nhàng như xem qua màn ảnh chỉ có h́nh mà không có tiếng động. Người đàn ông dẫn họ qua cầu rồi từ biệt.
Trước mặt hai người là một khoảng yên tĩnh khác. Một người đàn bà đang trầm ngâm ngắm những bức tranh mà bà đang vẽ. Họ gặp hai người đàn ông đi tới, yên lặng và nhẹ nhàng như ḥa vào cái tĩnh mịch của vùng đất mà họ đang đi qua.
Đâu đâu cũng muốn nhuốm vẽ thâm trầm, lặng lẽ. Khi vừa đến một căn nhà gần cuối đường họ mới nghe thấy quang cảnh ồn ào vui vẻ phát ra, họ nh́n vào và biết đó là một cuộc đám cưới linh đ́nh. Một người đàn ông bước ra đưa cao ly rượu chào đón họ...
Hai phụ nữ cảm thấy mỏi chân và họ ngồi lên một tảng đá lớn bên hàng cây râm mát để nghỉ mệt, Gần chiều họ quay trở về. Điều kỳ dị là con đường họ đi qua c̣n đó nhưng tất cả những ǵ họ thấy đều như tan biến cả, không c̣n ngôi nhà ồn ào náo nhiệt, không c̣n người đi lại, chẳng thấy túp lều ở đâu và cả xe cút kít và cào xẻng...
Hai người phụ nữ trở về Ba Lê (Paris) mỗi người đều mang tâm trạng hoang mang kỳ lạ về những ǵ ḿnh đă thấy. Họ th́ thào hỏi nhau như sợ nói to ra sẽ động tới những ǵ linh thiêng huyền diệu nhất. Họ xem các tập ghi chép của nhau và xác nhận rằng mọi người đều thấy rơ ràng những h́nh ảnh xảy ra trước mắt ḿnh không có ǵ sai lệch.
Điều kỳ dị là họ nhớ lại những căn nhà xưa, những túp lều và cách trang phục của những người mà họ gặp. Xem lại bản đồ và sách chỉ dẫn, họ thấy không thể có vùng đất nào như họ đă đi qua có trong tài liệu cả.
Hơn nữa những ǵ họ thấy không thể nào có được vào thời đại họ đang sống nhất là những kiểi mũ, nón áo quần mà họ đă thấy ở những người mà họ đă gặp. Tài liệu lịch sử cho biết những ǵ mà họ đă thấy chỉ có ở thời đại cách xa thời đại họ đến gần 200 năm.
Khi đọc kỹ lại nhật kư của nhau, hai phụ nữ thấy có một điều lạ là trong khi bà Anne Moberly thấy người phụ nữ ngồi vẽ tranh bên kia cầu th́ cô Jourdain lại không thấy. C̣n khi Jourdain thấy người đàn bà lớn tuổi và cô gái ở túp lều th́ bà Anne Moberly lại không thấy. Nơi mà hai phụ nữ trước đó quyết định viếng thăm là khu nghỉ mát nổi tiếng Petit Triamom, đó là khu nghỉ hè của hoàng hậu Marie Antoinette.
Bà Anne Moberly và Jordain cảm thấy như họ đă hặp phải một trường hợp dị thường. Nếu chỉ một người đơn độc gặp phải hoàn cảnh ấy th́ có thể họ sẽ cho là một giấc mơ qua hay là một ảo giác (hallucination) mà họ đă trải qua.
Nhưng ở đây chính cả hai người đều đă cùng đi và cùng thấy những cảnh tương tự như nhau (chỉ ngoại trừ hai sự kiện vừa kể trên). Vậy có cái ǵ đó lạ lùng đă xảy ra và đă, đang hiện diện kề cận bên những ǵ gọi là cơi thế gian. Phải chăng cái quá khứ vẫn nằm măi bên cái hiện tại?
Vốn là người thích mạo hiểm, t́m ṭi, nghiên cứu, hai phụ nữ ấy quyết định thử lại một chuyến du hành đến khu nghỉ mát Petit Trianon lần nữa. Họ lại đi vào con đường nhỏ yên lặng. Khi gần đến công viên đầy hoa lá, họ bổng nghe tiếng nhạc thoang thoáng và từ xa xa có hai người công nhân đội mũ màu xanh đỏ đang củi lên chiếc xe nằm gần một mô đất cao.
Sau đó, cả hai phụ nữ đến gặp người trông coi khu nghỉ mát Petit Trianon. Người này sau khi nghe hai cô gái kể lại mọi sự họ đă trông thấy (cũng như những ǵ gọ đă ghi chép lại trong nhật kư) th́ chỉ lắc đầu và nói:
"Tôi xin phát biểu là tất cả những ǵ hai cô đă tŕnh bày đều là của quá khứ v́ tôi là người trực tiếp coi sóc khu này đă lâu năm, tôi chưa bao giờ trông thấy những người như đă kể, hơn nữa, với những áo quần nhà cửa, vật dụng ấy th́ chỉ có thể thấy được cách đây hơn một thế kỷ mà thôi." Nhân thấy những ǵ ḿng kể lại đều khó được ai chấp nhận hay giải thích.
Cả hai phụ nữ lại đến khu Versailles lần nữa. Nhưng lần này, tất cả những ǵ mà họ đă đi qua, đă trông thấy đều không c̣n nữa.
Họ chỉ c̣n một quyết định là đến thư viện lớn nhất là viện chuyên chuyên về lịch sử để t́m lời chứng nhận và giải đáp qua tư liệu mà thôi.
Tại đây, qua các tài liệu lịch sử, phong tục học và xă hội học của nước Pháp, họ ghi nhận lại rằng những trang phục mà họ đă thấy qua những người xuất hiện ở Petit Trianon là trang phục của thời đại vua Louis.
Nơi họ đến là khi qua cầu là nơi hoàng hậu Marie Antointte đến nghỉ ngơi vào mùa hè. Người phụ nữ ngồi bên giá vẽ tranh mà bà Anne Mobely thấy chính là hoàng hậu Marie Antoinette.
Câu chuyện lạ lùng mà Eleanor Jourdain và Anne Mobrly đă trải qua chẳng bao lâu lôi cuốn một số nhà nghiên cứu về các hiện tượng siêu h́nh. Các nhà sưu tập sử liệu cũng đă góp phần t́m hiểu về những ǵ mà tập bút kư của hai phụ nữ này có ghi lại. Trong một bản tài liệu lịch sử người ta thấy có nhắc đến túp lều ở Trianon, nơi đây có hai người sinh sống là một cô bé 14 tuổi và người mẹ của cô.
Người đàn ông gương mặt nghiêm khắc với những chấm rổ là người quen thân của hoàng hậu đến nghỉ mát vào mỗi dịp hè ở khu này. Riêng về cây cầu mà hai phụ nữ đi qua với ḍng suối êm dịu như mơ nay không c̣n thấy th́ lại có một tài liệu được phát hiện vào năm 1913 qua một bản đồ vẽ chi tiết những địa điểm, địa danh của vùng Petit Trianon do chính người làm vườn của hoàng hậu Marie Antoinette vẽ, trên bản đồ này có vẽ h́nh cây cầu bắt qua một con suối.
Như thế, mọi thứ mà hai phụ nữ Moberly và Jourdan thấy lần lần đều đă được xác nhận và như thế, rơ ràng họ đă một đôi lần đi vào quá khứ mà họ không ngờ. Điều cần biết thêm là hai phụ nữ này đều là những nhà trí thức Bà Anne Moberly là hiệu trưởng của trường College St. Hugh thuộc đại học Oxford, cô Eleanor Jordan là nhà nghiên cứu sử và là giảng viên về ngôn ngữ Pháp.
Hai người này không phải là dân Pháp. Họ đến tham quan nước Pháp vào mùa hè năm 1901. Tư liệu về câu chuyện của họ hiện nay vẫn c̣n lưu trữ tại thư viện Bodleian của đại học Oxford.
Nhiều tài liệu nói về những hiện tượng trở lại quá khứ hiện nay đă được nhiều nhà nghiên cứu và những trung tâm nghiên cứu hiện tượng siêu h́nh sưu tầm và lưu trữ tại nhiều nơi trên thế giới.
Khi nhắc đến vấn đề đi vào quá khứ, người ta không thể quên những chuyện lạ có thật do Hans Holzer, một nhà nghiên cứu về các hiện tượng siêu tâm lư kể lại như sau: Năm 1964, một người đàn ông tên là Robert Cory (một con người khá nổi tiếng trong làng văn học nghệ thuật Hoa Kỳ) đă lái xe trên đường đến Los Angeles.
Hôm đó trời quang đăng. V́ đường xa nên khi đến địa phận Oregon th́ trời vừa tối nhưng ông Cory vẫn tiếp tục cuộc hành tŕnh. Bỗng nhiên một trận băo tuyết nổi lên gặp lúc xe ông đang trên dốc núi. Ông Cory buộc ḷng phải ngưng xe lại để quan sát t́nh h́nh v́ tuyết đổ liên tục và đường lại cheo leo.
Ông vừa xuống xe th́ thấy từ xa có một ánh sáng chiếu như có đèn ai đang mở ḍ đường. Ông Cory liền cho xe chạy đến đó xem thử. Tại đây chẳng có ai. Mọi vật hoàn toàn yên lặng. Chỉ có bảng chỉ đường sáng loá như được chiếu sáng bởi một nguồn sáng nào từ đám mây.
Theo bảng chỉ đường, ông Cory cho xe chạy xuống núi và cuối cùng ông thấy trước mặt một vùng có nhà cửa và mà đường sá th́ có vẻ cũ kỹ, đầy ổ gà sồi sụp. Ông dừng xe lại trước một ngôi nhà bằng gỗ rộng lớn mà ông nghĩ đó là khách sạn.
Ông Cory quyết định nghỉ đêm tại đây v́ trời c̣n xấu. Ông bước vào ngôi nhà lớn ấy. Dọc hành lang ngôi nhà lớn ấy được trang hoàng bằng những chiếc đầu các loài thú. Có những tấm bằng gỗ tróc sơn nứt nẻ có ghi các năm 1800.
Điều kỳ dị ngôi nhà vắng vẻ lạ lùng không một bóng người. Ông định trở ra nhưng lại thấy có lửa cháy bập bùng ở ḷ sưởi pḥng khách lớn lên lại đẩy cửa bước vào. Trời lạnh như cắt nên ông cần được sưởi ấm. Ông đến bên ḷ sưởi và ngồi lên chiếc ghế dài.
Cạnh đó ông thấy cái bàn nhỏ, trên bàn đặt cái điện thoại mà nh́n kỹ th́ đây là điện thoại quá xưa cũ mà hầu hết các cơ sở làm ăn khắp nước Mỹ chẳng bao giờ t́m thấy có, đó là loại điện thoại phải quay số rườm rà trước khi gọi. Tuy nhiên, ông Cory cũng phải dùng đến cái điện thoại này để gọi về nhà báo tin cho người thân.
Nhưng cái máy h́nh như không c̣n hoạt động nữa. Ông Cory cảm thấy mỏi mệt và buồn ngủ, bỗng nhiên trong cái vắng vẻ yên lặng ấy ông bỗng nghe có tiếng động, tiếng động rất nhẹ và ông thấy một ông già đang từ tầng lầu trên đi xuống. Ông Cory tưởng đó là người quản lư khách sạn.
Nhưng nh́n kỹ lại, ông cụ giống như một người nông dân ở vùng quê xa xôi nào đó v́ nh́n lối ăn mặc và cử chỉ thấy ông ta thật vụng về thô lỗ cục mịch vô cùng. Ông cụ lầm ĺ đi đến bên ḷ sưởi và coi sự xuất hiện của ông Cory là tự nhiên. Có lẽ v́ đây là một khách sạn Thế rồi ông Cory ngủ thiếp đi trên ghế dài. S
áng hôm sau, ánh nắng xuyên qua cửa kính chiếu vào mắt khiến ông Cory chợt tỉnh. Ông thấy có nhiều người xuất hiện trong khách sạn mà phần lớn là những người già. Nhiều người nh́n ông nhưng có vẻ lơ đăng không quan tâm. Ông Cory đă đến bên những người ấy để hỏi về ngôi làng xa lạ và luôn tiện hỏi thăm có trạm xăng nào ở gần đây không?
Ông mơ màng như thấy ít người đáp lời và nếu có th́ những lời nói của họ không có mạch lạc hoặc chẳng có ăn nhập ǵ với câu hỏi mà ông đă nêu ra cả. Ông Cory cảm thấy hoang mang trong ḷng. Cái cảm giác trống vắng, lẻ loi, lạ lùng bỗng đến với ông thật nhanh theo gịng linh cảm.
Ông hỏi: Đây là đâu? xin các ông vui ḷng cho tôi biết hiện tôi đang ở đâu đây? Có vài người bước tới nh́n ông và h́nh như có người cầm tay ông, ân cần vỗ về và chỉ đường cho ông rồi sau cùng nói: Ông đừng sợ! Chẳng có ǵ phải sợ cả!
Ông Cory chợt nhớ tới chiếc xe, ông chạy ra khỏi khách sạn. Chiếc xe ông vẫn c̣n đó. Ông mở cửa xe và nổ máy chiếc xe chuyển động và ông Cory vội vă như muốn thoát một nơi thâm trầm kỳ bí chưa từng thấy này. Chiếc xe băng qua những con đường gập ghềnh. Ông Cory thấy một vài người lầm lũi bước đi 2 bên đường.
Những người này ăn mặc những áo quần mà h́nh như ông chỉ thấy đâu đó trong sách vở, từ điển. Ông Cory có cảm tưởng như đó là những kiểu áo quần ở thời đại xa xưa nào đó. Điều kỳ dị hơn nữa là trong khi lái xe ra khỏi vùng này, ông có cảm giác như xe đang di chuyển trong lớp sương mờ.
Về sau, câu chuyện có thật mà ông Cory đă trải qua được nhiều nhóm nghiên cứu về những vấn đề không thể giải thích ghi nhận. Người ta không loại bỏ việc xác định lại vùng hoang dă, nơi ông Cory đă lái xe đến đó và vùng dân cư cùng ngôi nhà lớn mà ông đă bước vào ngủ qua một đêm.
Tài liệu lưu trữ tại thư viện lớn ở đây cho biết xưa kia đây là một vùng thưa dân, nhưng có ngôi nhà Bưu điện Quốc gia lớn tên là US Post Office National, Indianna. Đó là khoảng những năm 1850, 1851, 1852.v.v...
Rồi tám mươi năm sau đó, nghĩa là vào năm 1930 th́ nơi đây biến thành bệnh viện lớn dành cho các cựu chiến binh. Vậy, rơ ràng ông Cory đă t́nh cờ đi ngược ḍng thời gian và vào thời quá văng cách thời đại ông cả trăm năm.
Một hiện tượng tương tự cũng không kém lạ lùng đă xảy ra khi hai nhà leo núi kỳ cựu là Donald Watt và Georgge Bruce trong một chuyến leo núi (tháng 5 năm 1987), cả hai đều thấy rơ ràng có một ngôi nhà hai tầng nằm bên bờ hồ Mullardoch gần Cannich xứ Scoland rất nên thơ. Nhà có vách xây bằng đá Hoa Cương (Granite) và trông khá bề thế, đầy tiện nghi.
Trước đó hai người này nghiên cứu kỹ qua bản đồ chi tiết của vùng mà họ sẽ đến và không có dấu vết ǵ ghi chú về căn nhà nói trên. Khi cả hai thấy ngôi nhà đó họ vô cùng kinh ngạc và tưởng như là một chuyện kỳ khôi v́ không thể nào có ngôi nhà xuất hiện ở một nơi hoang vu lạ lùng như thế được.
Tuy nhiên sự kiện xảy ra sau đó càng làm họ ngạc nhiên hơn nữa khi cả hai sau một hồi leo núi quay lại nh́n th́ không thấy ngôi nhà ấy đâu nữa. Khi trở xuống, họ đi ṿng khắp hồ nhưng ngôi nhà đă hoàn toàn biến mất. Cả hai nhà leo núi ghi lại những ǵ mà ḿnh đă thấy về ngôi nhà vào nhật kư.
Sau đó, các tài liệu tra cứu có liên hệ về vùng này được các nhà sưu tập nghiên cứu phân tích và kết quả người ta được biết rằng khoảng những năm của 1950, ở đây có một số nhà cửa dựng lên trong đó có một cơ sở nghiên cứu của nhà nước. Rồi v́ một vụ ngập nước làm ngôi nhà bị chôn vùi xuống đáy hồ.
Khi hai nhà leo núi trông lại thấy ngôi nhà th́ rơ ràng ngôi nhà ấy là h́nh ảnh của quá khứ, một h́nh ảnh mà trước đó khoảng ba mươi năm nó là sự thật. Như vậy hai nhà leo núi George Bruce và Donald Watt đă thấy được h́nh ảnh của quá khứ.
Một sự kiện lạ lùng đă và đang xảy ra tại một nơi trên thế giới mà hiện nay các nhà khoa học thật sự c̣n bó tay chưa thể nào giải thích được. Được biết tài liệu này được đăng lại cuốn Unexplained Mysteries of the 20th Century của Janet và Colin Bord biên soạn (nhà xuất bản Contemporary books Chicago USA 1989).
Năm 1974 báo chí Hoa Kỳ có dịp đăng tải một tin lạ lùng về h́nh ảnh quá khứ xuất hiện. Tháng 6 năm 1974, một người tên là Bo Linus Orsjo đang đi bộ trên vùng có tên là Mount Lowe th́ bỗng nhiên thấy một ṭa nhà màu xanh lục to lớn xuất hiện trước mặt, đó là một khách sạn lớn. Người này cũng tưởng đó là một khách sạn được xây cất và đang hiện hữu.
Nhưng không ngờ, hai năm sau đến thăm lại vùng này anh ta không c̣n thấy cái khách sạn khổng lồ ấy đâu nữa mà chỉ thấy một vài di tích mục rửa đổ nát của vùng đất này mà thôi.
Bo Linus Orsjo hỏi người quen trong vùng th́ được các người già trong vùng cho biết là trước đó khoảng 40 chục năm, ở nơi mà Bo Linus Orsjo thấy khách sạn đă có một khách sạn lớn được xây dựng nhưng đă bị thiêu rụi (đó là năm 1937).
Trong cuốn Mystic Place của nhà xuất bản Time Life Book (1991) có một tài liệu mô tả về một sự kiện có thật đă xảy ra tại vùng đất Loe Bar, nơi mà nhà địa chất học Stephen Jenkins đă thấy được h́nh ảnh của quá khứ. Tài liệu nhan đề là A Phantom Army at Loe Bar được tóm tắt như sau:
Một buổi trưa tháng 8 năm 1936, Stephen Jenkins sáu mươi tuổi, nhà nghiên cứu địa chất thường tới vùng Loe Bar, một địa điểm thuộc vùng bờ biển Cornish. Trong khi Jenkins đang chăm chú theo dơi các vùng đất th́ bỗng nhiên ông vô cùng ngạc nhiên khi thấy trước mặt ḿnh một đạo quân thuộc thời Trung Cổ xuất hiện.
Quân phục của họ chứng tỏ họ đang trải qua những cuộc chạm trán trong trận mạc. Các chiến sĩ mặc áo đủ màu và khoác lại áo choàng không có tay màu trắng, màu đỏ và màu đen. Ngựa của họ có tấm che phủ với đầy đủ yên cương và những thứ trang sức cho ngựa. Một ḿnh lính đứng giữa đội quân, hai tay chống kiếm, ḿnh khoác áo choàng màu đỏ tía đang quắc mắt nh́n chăm chăm về phía Jenkins đứng.
Vừa lạ lùng, vừa kinh ngạc, Jenkins, với tính ṭ ṃ, gan dạ và thích mạo hiểm, đă không ngần ngại tiến về phía đoàn quân. Nhưng hành động đă làm toàn thể đoàn quân thời Trung Cổ biến mất tức th́.
Jenkins giật ḿnh ngơ ngác và tưởng như ḿnh vừa trải qua một giấc mơ. Ông kể lại chuyện này cho người vợ nghe và họ đă ghi vào nhật kư hiện tượng lạ lùng này. Thế rồi 38 năm sau, ông Jenkins đă chọn đúng ngày mà cách đó 38 năm ông đă trông thấy điều kỳ lạ để cùng với người vợ đến ngay địa điểm mà ngày xưa ông đă đứng.
Hai vợ chồng lên đường với bức họa đồ ghi địa điểm trên tay, khi họ đến nơi, và đứng ngay vào địa điểm đoàn quân thời trung cổ hiên ra lần này c̣n rơ ràng hơn lúc trước. Mặc dầu trước đó bà Jenkins không tin chuyện chồng ḿnh kể nhưng lần này bà thấy rơ ràng điều mà bà không thể tin được.
Đoàn quân với sắc phục rực rỡ, cờ xí ngựa và gươm giáo ra trước mặt ḿnh, bà sợ quá níu chặt lấy cánh tay chồng và rụi mắt v́ cứ tưởng ḿnh nằm mơ. Khi tường tŕnh sự việc trước một nhóm nhà khoa học ông Stephen Jenkins đă nói như sau:
"Nếu lúc đó vài người trong quư vị có mặt với chúng tôi th́ có lẽ lời tŕnh bày sẽ nặng cân hơn và có giá trị đứng đắn trung thực hơn..."
Nhiều giả thuyết đă được nêu ra để giải thích cho hiện tượng này. Theo sự giải thích cùa chính Stephen Jenkins th́ có thể đạo quân ma này thường xuất hiện ngay nơi vùng Comish và con người may mắn thấy được là do một năng lực tinh thần nào đó phát nguồn từ một giao điểm (node).
Loe Bar vẫn c̣n đó nhưng nơi mà năm 1936 cũng như năm 1974 Jenkins đă đứng sẽ không nhất thiết luôn luôn đều thấy được hiện tượng kể trên v́ c̣n tùy thuộc vào môi trường, khí hậu, tầm nh́n và nhất là tùy vào từng con người đứng nơi địa điểm ấy. Điều này mới nghe qua có vẻ không hợp lư nhưng theo Jenet và Collin (hai nhà nghiên cứu về hiện tượng siêu h́nh, ma quái) th́ đó là vấn đề cần phải đặt ra.
Hai nhà nghiên cứu này đă ghi nhận một trường hợp về "hồn ma" xuất hiện vào năm 1904. Tháng ba năm ấy, ột toán học sinh được thầy giáo dẫn đi du khảo. Họ leo lên một ngọn đồi Marlpit gần Honiton. Tất cả các học sinh hôm đó điều trong thấy một người đàn ông khoát áo choàng màu nêu và đội mũ rộng vàng màu đen.
Toàn thể con người và gương mặt u ám như phủ một màn sương khói. Theo tài liệu của Collin th́ đó là một hồn ma đă được ghi nhận (tài liệu thư viện) từ năm 1685. Người đàn ông này là một trong những người trốn chạy từ trận đánh ở Sedgemoor vào năm 1685 và sau đó bị quân địch giết chết. Nhà anh ta ở ngay trên đồi Marlpit...
Tuy nhiên điều kỳ lạ là tất cả các học sinh trong chuyến du khảo ấy đều thấy (người đàn ông trong quá khứ) nhưng thầy giáo dẫn các học sinh đi th́ lại tuyệt nhiên không thấy ǵ cả...
Những Người Thấy Trước Tương Lai
Trên thế giới từ xưa đến nay không hiếm những người có thể thấy được tương lai. Những câu chuyện có thật về vấn đề này thường đă xảy ra và các nhà khoa học đang ra sức nghiên cứu t́m hiểu mong giải đáp được vấn đề, nhưng thật sự cho đến nay những giải thích chỉ là những suy đoán từ một số giả thuyết mà thôi.
Mới đây báo chí Hoa Kỳ đăng một tin khá lạ lùng về một nữ nhân viên kỳ cựu trong đội cứu hỏa thuộc tiểu bang Georgia là bà Becky Denlinger, bà này hiện là đại úy trong đội cứu hỏa của quận Cobb. Ngày 8 tháng 11 ăm 1989 bà cảm thấy mỏi mệt nên ngủ thiếp nơi bàn làm việc.
Trong thời gian ấy bà mơ thấy toàn thể nhân viên trong đội cứu hỏa của bà đă huy động đến cứu chữa khẩn cấp một ṭa cao ốc đang bốc lửu v́ một phản lực cơ nào đó đâm nhào vào đó. Bà nghe tiếng la hét và tiếng nổ kinh hoàng làm bà tỉnh giấc.
Mồ hôi tỏa khắp người. Bà cảm thấy khát nước và sau đó bà kể lại giấc mơ kỳ lạ cho các nhân viên trong đội cứu hỏa nghe. Nhiều người kết luận rằng đó là hiện tượng tự kỷ ám thị mà thôi.
Nhưng chỉ sau đó không đầy hơn một giờ, toàn bộ đội cứu hỏa của bà Becky Denlinger đă tức tốc lên đường v́ họ vừa nhận được tin báo khẩn cấp một vụ cháy lớn đă bột phát tại một cao ốc cách họ 60 cây số. Vụ nổ xảy ra do một phản lực của hải quân Hoa Kỳ đă bị nổ và đâm sầm vào ṭa nhà làm phát ra đám cháy lớn khiến nhiều người bị thương và hai người bị thiệt mạng.
Từ lâu đă có những lời giải thích đưa ra về vấn đề khả năng thấy trước những sự việc sắp xảy ra là hiện tượng mà tri giác con người được kết hợp đồng bộ với chu kỳ của thời gian và những tác động xảy ra. Khi suy nghĩ, tưởng tượng, sỡ dĩ ta có được những h́nh ảnh phong phú phức tạp là do sóng năo đă cộng hưởng với những h́nh ảnh của quá khứ, những ǵ đă xảy ra, v́ thế sự tưởng tượng là sự phát triển thêm từ những cái đă có để được những ǵ chưa có hay đổi khác hơn.
Trong vũ trụ, thiên nhiên có những chu kỳ lập lại thoe từng giai đoạn nào đó, v́ thế, một việc xảy ra ở quá khứ có thể sẽ lại xảy ra trở lại vào một thời điểm nào đó. Sự tưởng tượng nếu được bắt gặp được tần số th́ sẽ trở thành hiện thức sau đó.
Sự giải thích này c̣n được cho rằng khi nằm mộng chính là tiềm thức đang được khơi dậy nhanh hơn v́ thế nhiều người mơ thấy một sự kiện ǵ đó th́ sau đó rơ ràng sự kiện xảy đến hoàn toàn phù hợp. Theo các nhà nghiên cứu như Kotik (Nga Xô), bác sĩ Rhine, nhà nghiên cứu Warcollier (Pháp), Tichner (Đức)... th́ nhiều người có khả năng kỳ diệu và bộ năo của họ giống như một máy thu h́nh có thể nhận những thước phim về những diễn tiến trong không gian.
Sự giải thích vẫn chưa làm thỏa măn được ai. V́ thế, cho đến nay, các khoa học già vẫn có gắng đi sâu vào lănh vực nghiên cứu khả năng kỳ diệu này ở con người và nhất là nguyên nhân phát sinh ra hả năng ấy. Điều quan trọng và thực tế thấy trước mắt là thế giới loài người không hiếm những nhân vật phi thường có bộ năo lạ g và tâm linh huyền diệu có thể biết trước được những sự kiện sắp xảy ra trong một thời gian sắp tới từ vài ngày, vài tháng vài năm và có khi xa hơn cả hàng trăm năm.
Khả năng biết trước tương lai này không phải chỉ riêng những người có năng khiếu thần nhăn mà ngay cả những con người b́nh thường như chuyện bà Becky Denlinger vừa kể trên cũng có thể có. Tuy nhiên sự thấy trước tương lai ấy thường được thể hiện qua nhiều phương thức.
Có ngưới do tưởng tượng phong phú, có người do nằm mộng, có người có khả năng thiên phú đặc biệt thể hiện qua nhà tiên tri, bói toán... Theo các nhà khoa học th́ quả thật giác quan con người thường dùng rất có giới hạn. Nếu xét và so sánh với các sinh vật khác, đôi khi vẫn c̣n có ở một số người. Nhà nghiên cứu Gina Cerminara đă nhắc đến trường hợp nhà toán học nổi danh Swedenborg có năng khiếu thấy trước tương lai.
Đối với các nhà tiên tri th́ trên thế giới hiện tượng lạ lùng về những lời tiên tri của Nostradamus đều lần lượt được thể hiện theo thời gian. Nhà tiên tri này đă tiên đoán nhiều sự việc đă xảy ra trên thế giới. Nhưng tương lai sẽ xảy ra ấy có khi từ 10 năm cho đến 100 năm.
Ông đă tiên đoán những biến cố trọng đại của thế giới về tật bệnh, về chiến tranh, về các thiên tai khủng khiếp mà hầu hết đều ứng hiện rơ ràng qua những lời tiên đoán gọi là Sấm Kư.
Tại Trung Hoa ngày xưa cũng có rất nhiều người có khả năng suy đoán tương lai nổi tiếng như Khổng Minh Gia Cát, và những nhân vật nổi danh khác như Thiệu Khang Tiết, như Đào Bán Mai, Thượng Lă Nhân... ở Việt Nam có Trạng Tŕnh, Tả Ao v..v...
Tại Hoa Kỳ, từ lâu báo chí và đài truyền h́nh thường ca ngợi tài tiên đoán, biết trước tương lai của những nhà bói toán nổi danh như bà Quygly, bà Jeane, Dixon... và đặc biệt là bà Dorothy Ellison người có khả năng thấy rơ tương lai (tiểu bang New Jersey) ở Nepal có Damodara Natha Lohani, Ấn Độ có J. M. Lal Mahadjan, Sudeih Babu...
Sau đây là một vài sự kiện có liên quan đến một số nhân vật có khả năng suy đoán, thấy và biết được tương lai:
Đối với nhà tiên tri Nostradamus th́ những suy đoán của ông đối với vận hạn thế giới xảy ra trước năm 1990 phần lớn đều phù hợp. Ngay cả sự kiện phi thuyền con thoi của Mỹ bị nổ tung khi được phóng khỏi giàn phóng cũng được Nostradamus tiên đoán trước đó rất chính xác.
Về tương lai nhà tiên tri c̣n cho biết là sẽ bùng nổ cuộc chiến tranh thế giới thứ ba kéo dài 30 năm, bắt đầu từ năm 1999. Lúc bấy giờ Pháp là quốc gia bị thiệt hại nặng nề. Trước đó là sự xích lại gần nhau của hai siêu cường Nga Mỹ sau cuộc thế chiến thứ ba đầy tàn khốc, nhân loại có ai c̣n sống sót sẽ sống một thời gian dài thái b́nh an lạc.
Cũng theo nhà tiên tri Nostradamus th́ ngày thế giới tận thế sẽ là một ngày nào đó của năm 3979. Trước đó sa mạc Gobi sẽ biến thành biển.
Nostradamus khác với nhà chiêm tinh khác trên thế giới. Ông có khả năng đoán vận mệnh thế giới trong khoảng vài thế kỷ.
Nostradamus sinh năm 1503 và mất năm 1566. Ông là nhà thiên văn và vật lư học của Pháp. Sinh quán của ông là thành phố St. Remy. Tốt nghiệp y khoa tại đại học Montepellier. Ông ngoại của ông là một nhà bác học. Ông có vợ và con nhưng vợ con đều chết v́ bệnh dịch hoành hành. Từ đó ông trở nên đăm chiêu tư lự và ch́m đắm vào nghiên cứu về huyền bí.
Dần dần tài tiên đoán của ông nổi tiếng khắp thế nơi. Chính Nostradamus khi ở Ư đă tiên đoán một người chăn heo nghèo khổ sau này sẽ thành vị Hồng Y của Montalno. Người ấy chính là Felice Peretti. Có lần một quư tộc (Seigneur de Plorinville) đă thử tài ông bằng cách chỉ cho ông hai con heo và hỏi tương lai của chúng. Nostradamus suy nghĩ một hồi lâu rồi bảo:
- Con heo lông xám trắng sẽ bị chó sói ăn c̣n heo lông đen th́ ngài và quan khách sẽ ăn thịt nói.
Để làm sai lời đoán, nhà quư tộc sai gia nhân giết heo trắng để đăi khách. Nhưng sau khi đă giết heo, đầu bếp măi lo nấu các món khác, bất ngờ có một con chó sói lén tha con heo đă làm thịt, người nhà la lên đánh đuổi sói th́ nó đă kéo chạy mất buộc ḷng phải làm luôn con heo lông đen.
Biết rơ chuyện, nhà quư tộc hết sức bái phục nhà tiên tri, ông cũng không quên mất không nghĩ rằng ông có nuôi mấy con chó sói trong vườn nhà.
Điều kỳ diệu là ông tự đoán đúng ngày tháng ông mất và ngày tháng năm ông sẽ được cải táng.
Một người "thấy được tương lai" nổi tiếng khác ở Thụy Điển là Emanuel Swedenborg. Sinh năm 1688 và mất năm 1772. Ông là người đa tài, từ khoa học, thiên văn, tôn giáo, toán học, lịch sử, địa chất ông đều biết sâu rộng không những vậy, ông c̣n biết về biển cả, sinh vật, máy móc, vũ khí, tàu bè...
Ông được xem như một nhà bác học của thế kỷ 18. Điều đặc biệt là ông có khả năng khiếu thần thông kỳ lạ có lần đang ngồi ăn tối bỗng nhiên ông giật ḿnh nói to: "đang có trận hỏa hoạn lớn xảy ra tại Stockhom". Stockhom là quê hương của ông. Mặc dầu lúc đó ông đang sống tại một nơi xa chỗ hỏa hoạn đến 500 cây số.
Không những ông thấy được "qua thần nhă" của ḿnh mà c̣n thấy được đám cháy đang lan đến đâu nữa.
V́ đám cháy lúc ấy lại xảy ra đúng vào vùng có nhà của gia đ́nh ông nên ông đă mô tả (khi đang ở xa 500 cây số) chi tiết rằng đám cháy sẽ bị dập tắt và rất may lúc đó ngọn lửa c̣n cách nhà ông chỉ vài ba căn nữa thôi th́ bị dập tắt.
Khi nhắc đến Emanuel Swedenborg người ta lại không thể quên được Alex Tanous một người cũng nổi danh về biệt tài thấy được hậu lai. Ngày 23 tháng 8 năm 1980, giám đốc đài NBC là Lee Speigel đă mở cuộc phỏng vấn đặc biệt Alex Tanous về tương lai của nhạc Rock. Alex Tanous đă nghiêm sắc mặt trả lời như sau:
"Tôi chỉ thấy một điều duy nhất nổi bật trước mắt tôi là sẽ có một danh ca nổi tiếng trong làng nhạc Rock chết một cách bất ngờ".
Mười hai hôm sau, đài phát thanh NBC cho phát nguyên văn lời tiên đoán của Alex Tanous và đến ngày 8 tháng 9, nghĩa là sau buổi phát thanh ba hôm thôi một ca sĩ nhạc Rock nổi tiếng của Mỹ bị bắn chết ngay trước cửa nhà (Ca sĩ John Lennon).
Khi nhắc đến nhà tiên chi nổi tiêng Nostradamus người ta không thể không nghĩ tới một nhà tiên tri của thời đại hiện nay là Mario De Sebasto. Ông này đă đưa ra những lời tiên đoán đáng lưu tâm cho những thời gian 1980 đến 2000 sẽ có những cuộc thay đổi lớn ở một số nước trên thế giới (Nga Xô và các nước Đông Âu là một điển h́nh). Sẽ có những nơi mà nạn đói lan tràn làm chết vô số người (như trường hợp đă xảy ra ở Bangladish và Phi Châu như Ethiopie và Somania).
Có chiến tranh tại vùng Trung Đông (đă xảy ra cuộc chiến tranh của quân đội Hoa Kỳ, đồng minh chống Irad).
Đặc biệt, nhà tiên tri này c̣n tiên đoán rằng sẽ có thế chiến thứ 3 nổi ra sớm hơi lời giải đoán của nhà tiên tri Nostradamus. Theo Mario De Sebasto th́ năm xảy ra thế chiến thứ 3 là năm 1997 tức là năm Đinh Sửu.
Những Nhà Tiên Tri Ấn Độ.
Những nhà tiên tri đoán tương lai nổi tiếng của Ấn Độ ngày xưa đă đi dần vào quá văng nhưng những tài năng vẫn được nối tiếp theo thế hệ kế tiếp, hiện nay thế giới đă nghe danh J. M. Lal Mahdjan, người đoán tương lai số một của Ấn Độ. Hiện ông đang giữ chức vụ thư kư hội đồng Quốc Tế và khoa chiêm tinh.
Theo ông mọi vật đă có khởi đầu th́ cũng sẽ phải có kết thục. Ông cho rằng vũ trụ phát sinh rồi phát triển từ cơi hư vô rồi lại suy tàn và hủy diệt theo cơi hư vô.
Điều đặc biệt là khi trả lời các phóng viên Nga về vấn đề chiến tranh nóng và chiến tranh lạnh giữa 2 siêu cường Nga Mỹ th́ ông trả lời như sau:
- Sẽ không bao giờ xảy ra sự kiện chiến tranh giữa 2 nước Nga Xô và Hoa Kỳ. Họ xích lại dần th́ có. Sở dĩ như vậy không phải họ mến nhau mà chính là do 2 siêu cường có may mắn cùng được một hành tinh hỗ trợ che chở, bảo vệ hành tinh ấy chính là thủy tinh.
Trong khi đó tại Đông Âu, thổ tinh lại ảnh hưởng mạnh lên tâm thần con người ở đó, thổ tinh kích động sự hưng phấn khơi dậy ḷng háo hức muốn thoát khỏi những ǵ ràng buộc kiềm chế tư tương con người.
Khơi dậy ḷng khao khát được hưởng tự do và chắc chắn sẽ có những cuộc thay đổi lớn lao ở những quốc gia trong vùng (sự kiện này đă xảy ra đúng như những lời tiên đoán của nhà chiêm tinh J. M. Lal. Mahadjan khi chế độ cộng sản ở các nước Đông Âu lần lượt sụp đổ).
Trường cũng nên nhắc đến một nhà suy đoán tương lai nổi tiếng khác loà các nhà chiêm tinh Nepal. Ông ta tên là Domadara Natha Lohani một nhà ngữ học nổi tiếng và nói tiếng Nga như tiếng mẹ đẻ. Thuở nhỏ ông học tại Ấn. Hiện ông đang giữ chức cụ phó trưởng thuộc về báo chí. Gia đ́nh ông ngày xưa thường túc trực bên nhà vua để giải đoán cát, hung cho những vấn đề quốc gia đại sự.
Về sau ông được người cha truyền lại khoa chiêm tinh. Theo ông th́ mỗi người đều có số mệnh, số mệnh ấy chính là từ ảnh hưởng của các v́ sao. Chính nhà chiêm tinh này cũng đă tiên đoán thế giới vào năm 1990 đến 1993 sẽ có những sự kiện đáng kể xảy ra ở Đông Âu, Phi Châu.
Trung Đông và đặc biệt ở Nga Xô. Những lời tiên đoán vào lúc ấy (1990) đă làm nhiều người nghi ngờ nhưng đến năm 1991 và năm 1992 th́ mọi sự hầu như đă quá rơ ràng.
Ở Ấn, ngoài các nhà chiêm tinh nổi tiếng xưa nay, c̣n có những vị đạo sĩ tuy ở ẩn mà vẫn lừng danh. Như đạo sĩ Prakbhat Ranjon thuộc đạo Bà La Môn đă từng tiên đoán Thế giới sẽ phát triển hay suy thoái theo từng chu kỳ. Nhiều nhà khoa học, chính trị học và nhất là kinh tế học đă dựa vào sự kiện đó để nghiên cứu về vận mệnh quốc gia, dân tộc và thế giới về nhiều khía cạnh.
Mới đây, giáo sư đại học Southern Methodist đă viết một cuốn sách nhan đề The Great Depression of 1990 (thời kỳ đen tốt nhất của thập niên 1990). Cuốn sách kết hợp những ǵ về chu kỳ mà đạo sĩ Prakbhat Rranjon SarKar đă nêu ra cùng với sự nhận định, phân tích, tổng hợp của giáo sư Riva Batra (cũng là người Ấn Độ).
cuốn sách mới phát hành đă gây xôn xao sôi nổi dư luận, nhất là các nhà kinh tế, các tay tổ buôn bán từ chóp bu đến hạng b́nh dân. Trong một thời gian rất ngắn, cuốn sách được liệt kê trong danh sách của những cuốn sách bán chạy nhất
Những Nhà Tiên Tri Trung Hoa Và Việt Nam.
Nếu kể về các nhà quyết đoán tương lai nổi danh của Trung Hoa xưa cổ th́ quả là khá nhiều, những tài ba c̣n lưu danh đến nay có thể kể là Nhất Hạnh Thiền Sư đời Đường. Đời Tống có Trần Đoàn, Ma Y. Cuối đời Nguên có Trương Hành Giản.
Đời Minh có Viên Liễu Trang, đời Thanh có Phạm Văn Viên, đời Thanh Mạt có Tăng Quốc Phiên, Thời Trung Hoa Dân Quốc có Đào Bán Mai... Những nhà tiên tri Trung Hoa xưa cổ này có khả năng đoán được mọi việc chính xác đến độ là lùng, có thể đơn cử trường hợp của nhà nghiên cứu về Dịch lư (kinh dịch) nổi tiếng, đó là Thiệu Khang Tiết.
Suốt mấy mươi năm gian khổ tự học về Kinh Dịch ông dần dần lĩnh hội được nhiều điều mới lạ và cảm thấy ḿnh có thể có khả năng đoán định tương lai nên một hôm ông đem cái ghế gỗ có lưng dựa ra để làm thí dụ. Trước tiên ông ngẫm nghĩ rằng cái ghế này rồi cũng có ngày tàn rụi của nó như một kiếp người và ông sẽ đoán định được ngày suy vi của nó.
Thế là ônh lật ghế lên rồi dùng bút viết vào đáy ghế một câu tiên đoán tương lai về cái ghế như sau: "cái ghế này vào ngày. tháng.. năm và giờ ấy. ấy sẽ có 1 người đến chơi ngồi lên và cái ghế bị găy đổ" Quả nhiên đúng vào thời đó, một người khác ở phương xa lại chơi ngồi ghế và cái ghế đă găy khiến người khác té xuống đất nhưng may mắn nghế hư mà người khách không hề ǵ. Lúc bấy giờ Thiệu Khang Tiết mới chỉ cho khách xem gịng chữ ở mặt đáy ghế.
Khi nhắc đến các nhà tiên đoán tương lai Trung Hoa, không thê nào không nhắc đến một nhân vật nổi danh thế giới về lănh vực này. Người đó chính là Khổng Minh Gia Cát Lượng.
Khổng Minh Gia Cát Lượng là quân sư của Lưu Bị đời Tam Quốc. Ông thường tiên đoán mọi việc ở thời gian gần và thời gian xa rất nhanh bằng phép Chiêm Bốc hay Bốn Độn. Khổng Minh là người được xem như chịu ảnh hưởng nhiều nhất về âm dương Dịch Lư trong vũ trụ. Các sách của Gia Cát Khổng Minh về phép Độn Toán c̣n lưu lại đến ngày nay rất nhiều cuốn Khổng Minh Thần Toán.
Các tiên tri của ông cùn truyền tụng măi đến bây giờ với những hậu quả rất lạ và đúng dù ông đoán trước cả mấy trăm năm. Riêng ở Việt Nam, không hiếm những nhà nghiên cứu về chiêm bốc, bói toán. Nhiều người sở trường về mỗi lănh vực nhưng thường có khả năng đoán định được sự việc ở tương lai cuộc đời của con cháu gịng họ qua các phương hướng, địa thế, môi trường đất đai, nhà cửu, mồ mả...
Đặc biệt nổi tiếng nhất trong các nhà tiên tri của Việt Nam là Trạng Tŕnh. Các nghiên cứu về sử liệu đă gọi ông là nhân vật Đông Phương xưa cổ nổi danh là nhà tiên tri với những sẩm kư thâm sâu kỳ diệu.
Trạng Tŕnh là một bậc cao sĩ đời nhà Mạc, sinh năm 1491, làm quan đến mức Lại Bộ Thị Lang. Ông là người vừa giỏi văn thơ, vừa có tài về giải đoán, lư số chiêm bốc và tương lai. Các lời tiên đoán của ông được hậu thế góp nhặt và lưu truyền lại thành tập gọi là Sấm Trạng Tŕnh.
Những Nhà Tiên Tri ở Hoa Kỳ
C̣n ở Hoa Kỳ cũng không hiếm những ngưới thấy trước tương lai. Như trường hợp bà Quygly là một người mà các chính khác Âu Mỹ phải kính nể, các nguyên thủ quốc gia như tổng thống Bush thường hỏi ư kiên. Chính bà Quygly là người đă thấy rơ trước về ngày thứ hai đen tối (10- 1987) về thị trường chứng khoán.
Cũng chính bà là người thấy rơ kết quả tương lai việc ứng cử Tổng thống của ông Reagan. Bà cho biết là năm 1976 ông Reagan chưa thể được đảng Cộng Ḥa đề cử làm ứng cử viên Tổng Thống.
sau đó bà đoán đúng thời gian ông Reagan đắc cử và cả ông bị mưu sát. Bà Quygly c̣n đoán được tương lai đắc cử của tổng thống George Bush nữa. Bà cho biết là ông Bush là vị tổng thống thành công về mặt ngoại giao.
Người phụ nữ nổi danh tại Hoa Kỳ về lănh vực đoán biết tương lai là bà Jean Dixon. Người ta biết rằng tổng thống F. Roosevelt là một người chiêm nghị và thực tế, khoa học, vậy mà tổng thống lại là người thán phục tài đoán tương lai, tài biết trước những ǵ sẽ xảy ra của bà Dixon. Năm 1944 lần tái đắc cử của Tổng thống F. Roosevelt và cũng là lần cuối cùng, trong cuộc gặp gỡ tổng thống này sẽ không c̣n sống được quá sáu tháng.
Bà Dixon là người lúc bấy giờ đă thấy trước việc Trung Hoa sẽ trở thành một nước Cộng Sản và quả thật ngày 1 tháng 10 năm 1949 nước Trung Hoa được đổi thành nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa do đảng Cộng Sản lănh đạo. Đến năm 1945 bà Dixon đă thấy rơ tổng thống Roosevelt sắp từ giă cơi đời và quả nhiên tháng 4 năm đó tổng thống bị chứng xuất huyết và mất.
Trong năm đó, bà Dixon cũng thấy trước tương lai rằng đất nước Ấn Độ sẽ bị phân cắt và c̣n cho biết ngày phân cắt sẽ là ngày 2 tháng 6 năm 1947. Điều kỳ dị sau đó đă xảy ra đúng vào ngày, tháng, năm đó. Ấn Độ bị chia cắt thật (Quốc gia Hồi giáo Pakistan tách khỏi xứ Ấn).
Chính bà Dixon cũng thấy trước tương lai việc thánh Gandhi sẽ bị ám sát trong sáu tháng tới và sự việc xảy ra như đă sắp đặt trước. Ngày 30 tháng giêng năm 1948, Gandhi đă bị một tên cuồng tín thuộc nhóm Mahasabla ám sát.
Bà Dixon c̣n đoán được tương lai cho nhiều chính khách nổi tiếng khác, như có lần bà cho ông sẽ được bầu làm tổng thống và điều đó đă xảy ra sau khi tổng thống Roosevelt qua đời.
Bà Dixon c̣n nh́n về tương lai xa hơn khi bảo rằng trong lần ứng cử thứ nh́, ông Truman vẫn c̣n là tổng thống. Bà cũng có lần khuyên thủ tướng Anh là Churchill là không nên hấp tấp tổ chức bầu cử v́ sẽ gặp bất lợi. Tuy nhiên vị thủ tướng thích khôi hài nay không tin và năm 1946 vẫn tổ chức bầu cử vào tháng 7. Kết quả thủ tướng Anh bị thảm bại nặng nề
Bấy giờ ông mới tin điều bà Dixon nói là thật và muốn trong tương lai ông có c̣n trở lại chính trường không? Bà Dixon cho biết là trong ṿng 6 năm, ông Churchill sẽ làm lại thủ tướng cho đến năm 1955
Trước đó mấy năm, chính bà Dixon cũng đoán tương lai cho người đắc cử tổng thống Mỹ. Đó là tướng Eisenhower
Bà Dixon c̣n tiên đoán cả những nhân vật sẽ thay thế ông Malenkov lúc đó là chủ tịch hội đồng bộ trưởng Nga Sô và nhất là thấy trước h́nh ảnh mà Nga sẽ phóng một vệ tinh nhân tạo Spoutnik đầu tiên bay quanh quả đất một h́nh ảnh mà măi đến 4 năm sau mới xuất hiện.
Điều kinh dị hơn cả là việc bà Dixon đoán trước được tương lai về cái chết của tổng thống Kenedy. Năm 1952, bà Dixon cho biết là tống thống Kenedy sẽ bị ám sát. lời tuyên đoán ấy măi đến 4 năm sau báo chí mới loan truyền nhưng không ai tin.
Bà Dixon cố thuyết phục người thân của tổng thống là tổng thống nên bảo trọng. V́ ngày nguy hiểm đă gần kề. Tuy nhiên không ai dám nêu lời tuyên đoán tương lai ấy đến tổng thống v́ tổng thống Kenedy là một người khó chấp nhận sự kiện bói toán
Buổi sáng ngày 23 tháng 11 năm 1963, bà Dixon cảm thấy lo lắng trong ḷng, bà nôn nao hồi hộp thấy rơ và bà đă nói với một người bạn tên là Harley Cope rằng: tôi rất lo, v́ hôm nay chắc chắn tổng thống sẽ bị ám sát!
Trong khi đó sự việc đă xảy ra giống như bà Dixon đă tiên đoánl; tổng thống Kenedy đă bị ám sát chết.
Những trường hợp kể trên thuộc về khả năng của những nhà bói toán, tiên tri, những con người mà năng lực siêu phàm của họ khó ai sánh kịp. Tuy nhiên, như đă tŕnh bày từ trước, không phải những người thấy trước tương lai đều là những người siêu việt mà đôi khi chỉ là những con người b́nh thường như bao người khác.
Đó là trường hợp của bà Becky Denlinger làm việc trong đội cứu hỏa, người đă thấy trước tương lai về tai nạn của một phản cơ sắp xảy ra hay trường hợp em bé tên là Eryl Mai Jones một hôm thức dậy kể cho người mẹ nghe rằng trong giấc mơ, em thấy một vật to lớn dị thường màu xám đen không biết từ đâu ập tới cày nát ngôi làng.
Hôm em bé nằm mơ là ngày 20 tháng 10 năm 1966. Người mẹ cứ nghe con kể măi chuyện cái khối đen th́ bực ḿnh bảo con nói nhảm. Nhưng qua ngày hôm sau, ngày 21 tháng 10 tự nhiên người ta nghe những tiếng động phát ra làm long trời lở đất, cả ngôi làng bị những khối than đá khổng lồ đổ xuống che phủ.
Nhiều người trong làng đă bị chôn vùi, một số lớn bị chết khoảng 100 người may mắn thoát chết nhưng cũng bị thương nặng. Trong số đó có người mẹ của em Eryl Mai Jones. Điều kỳ lạ là những người sống sót cũng kể rằng, trước đó họ nằm mơ hoặc nghe người thân kể lại giấc mơ y hệt giấc mơ mà bé Erylk đă kể cho mẹ nghe.
Câu chuyện lạ lùng đến tai bác sĩ John Barker, ông là một bác sĩ tâm thần đă không bỏ lỡ cơ hội hy hữu này, quyết tâm t́m hiểu nguyên nhân của sự thấy trước tương lai của một số người trong làng Eberfan này.
Một con người b́nh thường khác có tên là David Booth tự nhiên cảm thấy lo âu sợ sệt khác thường trong ḷng và điều này làm ông không thể nào ăn ngủ được kể từ ngày 16 tháng 5 năm 1979. Nhất là cứ chợp mắt là nghe tiếng la hét và thấy chiếc máy bay nổ tung dữ dội. Ông mơ thấy rơ ràng máy bay DC 10 của hăng American Aieline bị bốc cháy.
Thế rồi ngày 25 tháng 5 năm đó (1979) một tin tức về tai nạn hàng không khủng khiếp được loan truyền, một phi cơ DC 10 chở 273 hành khách bị nổ tung trên không phận Chicago. Khiến toàn thể khách và phi hành đoàn đều thiệt mạng.
Một trường hợp khác lạ lùng hơn nữa khi nhà văn Morgan Robertson viết câu chuyện chiếc tàu thủy tên là Titan chiếc tàu được gọi là "một ṭa lâu đài nổi không thể ch́m" chiếc tàu du lịch khổng lồ sang trọng nhất trong lịch sử hàng hải.
Chiếc tàu được làm lễ hạ thủy và bắt đầu chuyến hải hành đầu tiên, mang theo hàng ngàn nhân vật giàu có, tiếng tăm sang trọng... nhưng không may chiếc tàu bị một khối băng sơn đụng phải và tàu bị ch́m sâu xuống ḷng biển, mang theo vô số hành khách cùng toàn bộ sự nguy nga tráng lệ.
Câu chuyện tưởng tượng của nhà văn ấy bỗng nhiên gây bàng hoàng kinh dị khắp thế giới khi mười bốn năm sau trong lịch sử hàng hải lại có một chiếc tàu thủy thật sự chớ không phải tưởng tượng như nhà văn Morgan Robertson đă mô tả trong cuốn Hư Vô của ḿnh.
Điều kỳ lạ là chiếc tàu này giống với chiếc tàu Tian về mọi mặt. Nào trọng tài, màu sắc, kích thước, tốc độ, sự sang trọng, đầy đủ tiện nghi và cũng được mạnh danh là "ṭa lâu đài nổi không thể ch́m" con tàu tưởng tượng của Morgan Robertson có tên là Tian, con tàu này có tên là Titanníc (chỉ khác hai chữ sau mà thôi).
Sự trùng hợp lạ lùng ấy cũng chưa đủ làm thế giới kinh dị nên sự việc cuối cùng mà con tàu có thật Titanic gặp phải cũng đụng khối băng sơn và ch́m xuống biển kéo theo một số lượng lớn lao nhân mạng. Hôm đó là ngày 14 tháng 4 năm 1912.
Câu chuyện kỳ dị có thật trên lại càng gây kinh ngạc hơn nữa khi các nhà sưu tập tài liệu cho biết thêm một sự kiện khác c̣n dị thường hơn nữa, đó là vào năm 1892, nghĩa là trước khi nhà văn Morgan Robertson viết cuốn Hư Vô và tưởng tượng ra chiếc tàu Tian 6 năm, có một cách kư giả tên là T. Stead (kư giả nổi danh Hoa Kỳ) đă viết một chuyện ngắn kể về chuyến hải hành của một chiếc tàu có tên là Titanic, chiếc tàu Titanic này đă bị đụng một khối băng sơn và ch́m xuống đáy biển.
Mặc dầu đă viết một chuyện khủng khiếp về vụ tàu Titanic bị đắm nhưng kư giả T Stead lại như bị một ma lực kỳ lạ nào đó ám ảnh nên đến năm 1912, nghĩa là 20 năm sau, sau khi chiếc tàu thủy mang tên Titanic thật được hạ thủy để chuẩn bị chuyến hải hành đầu tiên của một chiếc tàu được mệnh danh là "toà lâu đài nổi, không bao giờ ch́m" th́ kư giả T Stead đă có mặt trên tàu. Định mệnh an bài đă dắt ông lên chiếc tàu định mệnh để đưa ông cùng chiếc tàu (có tên như ông đă đặt là Titanic) xuống ḷng biển cùng với 1512 hành khách.
Câu chuyện có thật trên tưởng như thế là đă quá kinh dị nhưng điều kinh dị vẫn c̣n tiếp tục măi đến 23 năm sau nghĩa là vào năm 1935. Hôm ấy một con tàu trên đường hải hành mà ngày xưa chiếc Titanic đă di chuyển, một thủy thủ tên làWilliam Reeves ngồi trực tàu bỗng cảm thấy khó chịu trong người...S
uy nghĩ măi không t́m được nguyên nhân nào đă làm cho ḿnh cảm giác bồn chồn lo lắng. Đến khuya anh ta mới chợt nhớ là ca trực của ḿnh đúng vào ngày mà trước đây chiếc Titanic đă bị ch́m. Đó là ngày 14 tháng 4 lại cũng là ngày sinh nhật của anh ta. Tự nhiên mối kinh hoàng lan khắp cơ thể, thủy thủ William Reeves sợ quá nên làm hiệu báo động khẩn cấp dầu anh ta chưa thấy rơ hoàn toàn điều ǵ đang xảy ra trước mũi tàu.
Chiếc tàu giảm tốc độ và dừng lại. Mọi đèn trên tàu được chiếu sáng. Bây giờ các thủy thủ mới thấy trước mũi tàu lù lù một khối băng sơn khổng lồ. Nếu tàu không ngừng lại kịp thời th́ chắc chắn chiếc tàu này cũng sẽ bị chung số phận mà trước đó cũng vào ngày tháng này chiếc tàu Titanic đă ch́m sâu dưới đáy biển.
Một tài liệu khác cũng không kém phần kinh ngạc về câu chuyện có liên quan đến vấn đề khả năng biết trước tương lai.
Trong giới văn nghệ sĩ Âu Mỹ không ai lại không nhớ câu chuyện lạ lùng về nhà đại văn hào Mark Twain biết trước được cái chết của người em ruột qua một giấc mơ đầy kinh dị. Mùa đông năm 1850. Mark Twain cùng em là Henry đang cùng làm chung với nhau trên một con tàu nhỏ. Một hôm Mark Twain nằm mơ thấy người em là Henry chết, thi hài được tẩm liệm đàng hoàng và quan tài chuyển đến đặt tại nhà người chị ruột.
Khi tỉnh dậy, Mark Twain vẫn c̣n hăi hùng nhưng trấn tĩnh được ngay v́ biết đó chỉ là một giấc mơ. Tuy nhiên, không đầy 7 ngày sau Henry bị tử nạn trong khi đáp tàu thủy đến St. Louis v́ chiếc tàu bị nổ nồi hơi nước.
Điều kỳ lạ là mọi sự kiện đều xảy ra đúng như những ǵ Mark Twain đă thấy trong giấc mơ, từ chiếc quan tài, từ địa điểm quan tài chuyển đến (nhà người chị) và lạ lùng hơn nữa là trong một giấc mơ trước đó. Mark Twain thấy trên thi hài Henry có đặt một bó hoa màu trắng và ở giữa có hoa màu đỏ.
Khi đến nhà người chị, đứng trước quan tài của Henry, Mark Twain lại không thấy có bông hoa nào đặt trên ngực thi hài của Henry cả. Nhưng sau đó có một người đàn bà đến thăm, bà này nắm bó hoa và nhẹ nhàng đến đặt lên ngực Henry nh́n kỹ bó hoa, Mark Twain bất giác rùng ḿnh v́ đó là một bó hoa trắng có một hoa độc nhất màu đỏ nằm chính giữa.
Qua một số sự kiện có thật đă xảy ra như đă tŕnh bày trên, các nhà nghiên cứu về những hiện tượng siêu linh huyền bí, những người sưu tập những hiện tượng không thể giải thích được đă bắt đầu suy nghĩ về những ǵ mà từ lâu một số triết thuyết tôn giáo đă đưa ra những hiện tượng Tái sinh, Luân hồi, tiền kiếp và Hậu kiếp.
Phải chăng thế giới mà ta đang sống và thời gian mỗi ngày mỗi chuyển hóa qua đi chỉ là một phần mà ngũ quan cùng suy tưởng của cơ thể và bộ năo có tầm hoạt động giới hạn của con người có thể thấy được mà thôi c̣n có những không gian khác xen lẫn và thời gian có thể vượt qua để rồi quay ṿng trở lại theo một đường cong nào đó.
Nếu thế th́ quá khứ, hiện tại và tương lai cũng chỉ nằm trong cái ṿng chuyển hóa ấy, nên sự tái sinh, vấn đề kiếp trước và kiếp sau cũng chỉ là những vấn đề của tự nhiên chẳng có ǵ gọi là mê tín, mơ hồ cả.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 450 of 1146: Đă gửi: 01 July 2010 lúc 1:51am | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN VỀ TIỀN KIẾP HẬU KIẾP
Chương Bảy
Những Bằng Chứng Về Tái Sinh
Sự Tái Sinh Của Những Vị Hóa Thân.
Những Bằng Chứng Về Tái Sinh Qua Những Trường Hợp Có Thật Đă Xảy Ra Khắp Nơi Trên Thế Giới:
Lịch sử về nguồn gốc của thuyết tái sanh thật quá lâu đời, có thể nói thuyết này xuất hiện từ khởi thủy của nền văn minh nhân loại, như Đại Đức Dhammananda đă phát biểu, tuy nhiên trước đây thuyết này vẫn bị nhiều người cho rằng đó chỉ là một thuyết hoàn toàn có tính cách tôn giáo mà thôi.
Măi đến sau này, các nhà nghiên cứu, nhất là các nhà khoa học đă bắt đầu đi sâu vào lănh vực t́m hiểu vấn đề tái sanh. Không ai tưởng tượng được một vấn đề lúc đầu được xem là có tính cách tôn giáo, phiêu linh và có khi c̣n gọi là mơ hồ nữa lại đă và đang được vô số các nhà khoa học ở thế kỷ thứ 20 đổ xô vào nghiên cứu, phần lớn họ là những nhà vật lư, những giáo sư, những bác sĩ, những nhà báo...
Họ làm việc hết sức vô tư mà chủ đích là mong t́m được lời giải đáp cho vấn đề, v́ khắp nơi trên thế giới (chớ không riêng ǵ một nơi nào) hiện tượng luân hồi tái sanh măi măi diễn ra như luôn luôn thách thức và khêu gợi trí ṭ ṃ của họ.
Trường Hợp Của Chính Nhà Nghiên Cứu Hiện Tượng Tái Sinh Ruth Simmons.
Paris Match là tạp chí có tiếng không những ở nước Pháp mà c̣n khắp thế giới đă đăng tải câu chuyện lạ kỳ có thật của cô Ruth Simmons là nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi tái sanh. Cô đă nhờ nhà thôi miên lỗi lạc là Morey Bernstein giúp lại tiền kiếp của ḿnh.
Sau những lần được đưa vào giấc ngủ thôi miên cô Ruth Simmons đă thấy rơ từng giai đoạn thời gian mà cô đă trải qua nhất là từ năm 1 tuổi đến năm 10 tuổi. Cô mô tả tiền kiếp của ḿnh một cách chi tiết. Cô cho biết, kiếp trước ḿnh là một cô gái trẻ b́nh thường thuộc ḍng họ Murphy người Ái Nhĩ Lan. Năm 1898 cô lấy chồng.
Người chồng tên là Brian Mac Carthy một giáo sư Luật. Nguyên quán của cô là Cork. Năm 1921 cô qua đời nhưng năm 1923 cô mới lại tái sanh vào làm người con gái thuộc ḍng họ Simmons với tên là Ruth tại Hoa Kỳ.
Khi được hỏi tại sao cô qua đời năm 1921 nhưng tái sinh vào năm 1923 th́ cô Ruth cho biết như sau: "Một người chết đi không chắc là được tái sinh liền mà đôi khi c̣n trải qua nhiều năm chờ đợi, điều kiện thuận hợp cho sự đầu thai của mỗi linh hồn,
v́ thế mà đôi khi có sự mất liên tục. Cô c̣n cho biết: Sau khi đă được an táng, tôi chưa thể đầu thai trở lại nên phải ở t́nh trạng dật dờ vô định, trạng thái mà con người thường gọi là ma".
Ruth Simmons về sau nổi tiếng, các nước Âu Châu, Mỹ Châu rất thích đọc sách của người đàn bà này v́ chính cô là người vừa nghiên cứu hiện tượng tâm linh siêu h́nh, vừa là người có kinh nghiệm về những ǵ liên quan với lănh vực ấy.
Trường Hợp Người Con Gái Con Ông Cả Hiêu Ở Cà Mâu (ViệtNam).
Thượng Tọa Thích Thiện Hoa đă nêu lên một số bằng chứng về hiện tượng luân hồi, những bằng chứng này được ghi lại trong cuốn Phật học Phổ Thông, xuất bản tại Việt Nam vào cuối năm 1990. Sau đây là một trong những bằng chứng ấy:
Câu chuyện có thật này xảy ra tại làng Tân Việt ở Cà Mâu (vùng Đầm Giơi). Ở đây có một gia đ́nh gồm hai vợ chồng và 3 người con. Người cha trong gia đ́nh này là ông Cả Hiêu. Cô con gái trong gia đ́nh được ông Hiêu cưng ch́u nhưng trứng mỏng, nhưng không may, cô bị bệnh và qua đời lúc 19 tuổi. Cả nhà ai cũng đau buồn, thương xót, ông Cả Hiêu th́ như điên như dại.
Câu chuyện không chấm dứt ở sự qua đời của cô gái mà lại là chuyện bắt đầu v́ do sự trùng hợp nào đó, (mà sau này người trong hai vùng này mới t́m thấy thêm chi tiết), ở làn Tân Việt khoảng 100 cây số là làng Vĩnh Mỹ Bạc Liêu cũng có một cô gái bị bệnh (cùng thời gian với cô con gái ông Cả Hiêu) và qua đời.
Người nhà khóc lóc lo việc tẩm liệm th́ bất ngờ ngày hôm sau cô gái sống lại, làm mọi người vừa mừng vừa sợ, cô gái tự nhiên mạnh khỏe, như không có ǵ gọi là đau ốm bệnh hoạn cả. Điều lạ lùng là từ khi sống lại, cô gái này cứ một mực đ̣i người trong gia đ́nh đưa cô đến nhà ông Cả Hiêu. Mọi người trong nhà đều hết sức ngạc nhiên v́ không biết ông Cả Hiêu là ai. Khi hỏi cô gái th́ cô cho biết cha của cô chính là ông Cả Hiêu, người làng Tân Việt.
Người nhà nghĩ rằng cô gái có lẽ bị ma nhập, quỉ ám, nên lo sợ, đi t́m thầy về cúng và trừ tà. Nhưng cô gái vẫn khăng khăng đ̣i đi gặp cha ḿnh và bảo rằng cô biết đường đến nhà ông Cả Hiêu. Cô mô tả đường đi, tả ngôi làng, tả cái nhà, số nhà từng chi tiết và kể về những người nhà ông Cả Hiêu nữa. Cô gái bảo ông bà Cả Hiêu là cha mẹ ruột của ḿnh, cuối cùng cha mẹ cô gái buộc ḷng phải cùng đi theo chuyến xe đ̣ đến làng Tân Việt để t́m hiểu thực hư.
Khi đến bến xe, mọi người xuống xe c̣n đang bở ngỡ không biết đi theo hướng nào để về nhà ông Cả Hiêu th́ cô gái nói: "Đừng có ngại, để con dẫn đường cho". Thế rồi khi đến cổng nhà ông Cả Hiêu, cô gái tỏ vẻ mừng rỡ vô cùng và chạy nhanh vào nhà. Cô gái chạy lại ôm chầm lấy ông Cả Hiêu vừa khóc vừa nói: "Ba ơi, con đây ba ơi!". Hai vợ chồng ông Cả Hiêu c̣n đang ngơ ngác không hiểu chuyện ǵ xảy ra th́ vừa lúc cha mẹ cô gái bước vào nhà kể lại chi tiết câu chuyện cho vợ chồng ông Cả Hiêu nghe.
Ông Cả Hiêu lấy làm lạ, cũng kể lại chuyện con gái ḿnh bị bệnh qua đời cho cha mẹ cô gái nghe. Ông c̣n chỉ tay lên bàn thờ có đặt tấm ảnh của cô gái con ông. Trong khi đó cô gái mới đến cứ đi lại trong nhà tự nhiên như là người đă ở đó lâu lắm rồi.
Câu chuyện đă đến hồi kết thúc khi sự kiện đă rơ ràng; cô gái nhất quyết ông bà Cả Hiêu là cha mẹ ḿnh và ông bà Cả Hiêu cũng chấp nhận điều đó v́ cô gái nói rơ những chi tiết mà ngoài con gái ông Cả Hiêu ra khó ai có thể biết rơ chuyện gia đ́nh ông bà. T
hế là hai gia đ́nh kết thân với nhau. Dân chúng hai vùng Cà Mâu, Bạc Liêu biết được một chuyện lạ lùng hăn hữu trên thế gian, họ bảo cô gái ấy có hồn là con gái của ông bà người làng Tân Việt nhưng thân xác lại là con của ông bà người làng Vĩnh Mỹ.
Trường Hợp Của Nhà Báo Ray Bryant (Anh Quốc).
Trong tạp chí Yêu (phát hành vào hạ tuần tháng 8 năm 1992 tại Hoa Kỳ) có đăng tải một câu chuyện có thật về những bằng chứng của tiền kiếp. Theo đó th́ Ray Bryant là nhà báo người Anh, 44 tuổi tự nhiên nhớ lại tiền kiếp của ḿnh rất rơ.
Theo Ray Bryant th́ khoảng năm 1855, anh ta là một trung sĩ tên là Reuben Stafford và đă tham dự nhiều trận đánh kinh hồn trong đó có trận Crimée vô cùng khủng khiếp. Đó là trận chiến dữ dội nhất giữa quân Nga và quân Anh, Pháp, Thổ. Trong trận này quân Anh bị quân Nga tiêu diệt 700 người. Trường hợp nhà báo Anh Ray Bryant nhớ lại tiền kiếp đă là một thời làm xôn xao nước Anh.
Lúc bấy giờ chính bộ quốc pḥng Anh phải nhờ đến đại tá John Bird đích thân t́m hiểu sự thật. Đại tá này đă cùng với một số sử gia lục lọi các tư liệu trong nha văn khố, quốc pḥng bảo tàng viện chiến tranh, các thư viện quốc gia, các tài liệu xưa và đă đi đến kết luận là câu chuyện không phải bịa đặt v́ họ đă t́m thấy tên của một trung sĩ tên là Reuben Stafford.
Điều chính xác là qua giấc ngủ thôi miên, nhà báo Anh này c̣n cho biết tiền kiếp của ḿnh là trung sĩ Stafford, đă chết ở Sebastopol th́ trong tài liệu t́m được tại bảo tàng viện chiến tranh Anh quốc cũng có sự kiện này. Đó là chưa kể những trường hợp lạ lùng ăn khớp với nhau về những ǵ mà nhà báo Anh này đă mô tả vào thời đó: nào là chuyện gia đ́nh, đời sống trong quân đội, tên người chỉ huy, các loại súng, lương tiền và cả huy chương nữa.
Trường Hợp Của Bé Gái Jimmy Ở Canada.
Jimmy là cháu của bà Emma Michell 82 tuổi sống ở British Columbia. Bà này đă kể lại cho nhà nghiên cứu về sự chết là Jeffrey Iverson câu chuyện dị kỳ có thật sau đây:
Một hôm, Jimmy đang ngồi chơi trong nhà th́ bỗng nhiên nghe tiếng chuông nhà thờ rung. Bé hỏi rằng: tại sao không có ǵ mà chuông nhà thờ đổ, th́ bà cho biết: Hôm nay có đám ma của một người địa phương đă qua đời. Bé Jimmy bỗng đứng dậy nh́n qua cửa sổ và nói:
Bà biết không? Chính người chết ấy đă thuê người đánh đập con và liệng xác con xuống sông đó! Bà Emma ngạc nhiên về câu nói của đứa cháu gái, nên hỏi:
- Tại sao con lại thốt lên những lời kỳ dị ấy? Bé Jimmy ngồi lên ghế rồi nói như phân trần:
Để con kể cho bà nghe về chuyện một người cậu, ông cậu này là người đă bị người ta đánh đập dữ dội đến chết và thân xác ông đă được t́m thấy ở sông Bulkeley. Khi người này bị đánh chết và bị liệng xuống sông th́ lúc đó con chưa ra đời. Nhưng giờ đây con biết được mọi chuyện là do bởi con chính là người cậu ấy!
Bà Emma nghe Jimmy nói th́ vô cùng kinh ngạc và run sợ v́ bà nghĩ là cháu bà bị ma nhập. Hơn nữa, quả thật trong gia đ́nh bà có người đă bị kẻ lạ mặt nào đó đánh chết liệng xuống sông và lúc đó, đúng như lời cháu bà nói th́ Jimmy chưa chào đời.
Điều cần lưu ư là gia đ́nh ḍng dơi của bà Emma Michell là một gia đ́nh kiểu mẫu, nghiêm túc ở vùng Bắc Mỹ Châu, họ tin tưởng rằng con người khi chết vẫn có thể lại tái sinh và sự tái sinh ấy thường quay lại trong gia đ́nh ḍng họ.
Trường Hợp Thai Nhi Có Dấu Tích Luân Hồi.
Câu chuyện có thật này xảy ra trong gia đ́nh Traveed ở nước Pháp. gia đ́nh bà Traveed rất đau buồn v́ sinh con hai lần nhưng lần nào đứa con mới ra đời được vài giờ cũng đều chết cả. Hai vợ chồng rất buồn. Họ ngày đêm cầu nguyện Chúa. May mắn là chưa đầy một năm sau khi đứa con thứ hai qua đời,bà Traveed lại chuyển bụng.
Đây là đứa con thứ ba. Cả hai vợ chồng đều hồi hộp. Họ chẳng mong chi con trai hay con gaí, con nào cũng được, miễn rằng đứa bé ra đời mạnh khoẻ sống lâu là hai vợ chồng vui sướng rồi.Quả thật trời không phụ ḷng họ,đúa con sinh ra lần này trông vui vẽ, khoẻ mạnh. Hai vợ chồng đặt tên cho con là Paul Traveed.
Điều kỳ lạ chỉ có bà Traveed để ưtheo dơi là trên ngực Paulcó cái vết giống cái vết mà đứa cun thứ hai của bà lúc chào đời cũng có. Thật ra lúc đó bà có làm một dấu chấm màu xanh như vết chàm lên ngực đứa con đă chết này v́ trong thâm tâm bà bà nghĩ rằng đứa con thứ hai này chết đi th́ đứa co kế tiếp cũng có thể là nó sẽ lại ra đời.
Bà Travee làm dấu ấn như vậy để xem thử lần sinh thứ ba hài nhi ra đời có c̣n mang dấu vết ấy không, nếu không th́ điều bà nghĩ không đúng. Giờ đây khi thấy dấu chấm màu xanh hiện rơ trên ngực đứa con thứ ba th́ bà Travee vô cùng lo lắng vội vă gọi chồng và nói:
- Anh ơi, xem này, thằng bé cũng có dấu chấm xanh ở ngực giống cái dấu mà em đă làm lên ngực đứa con bất hạnh thứ hai của ḿnh. Vậy cái dấu chấm này là ǵ? Có phải là dấu trước đây không?
Hay là... Paull chính là đứa con thứ hai của ḿnh? Ngoài ra thằng Paull lại c̣n có thêm một vết thẹo dài ở bắp đùi mà lúc sinh ra ḿnh đă thấy đó. Người chồng nghe vợ nói th́ chạy lại nh́n chăm chăm vào ngực đứa bé. Trên bộ ngực trắng hồng mơn mởn của Paull rơ ràng có một dấu chấm màu xanh.
Hai vợ chồng bà Traveed từ đó sống trong lo âu hồi hộp, họ chờ đợi từng giờ từng phút sự ra đi của đứa con. Nhưng thế rồi suốt trong 12 năm dài đăng đẳng, Paull vẫn khỏe mạnh, ăn ngủ, học hành đi chơi b́nh thường như bao đứa trẻ khác.
Điều kỳ lạ là mặc dầu c̣n trẻ con nhưng dáng dấp, cử chỉ lời nói của Paull lại giống như người lớn. Thỉnh thoảng ngồi trước mặt mọi người trong gia đ́nh, Paull thường phát biểu những câu mà không ai có thể ngờ được rằng ở tuổi nó lại có những câu nói như thế.
Một hôm bé Paul hỏi mẹ:
- Mẹ à! Bên cạnh cửa ngơ vườn nhà ḿnh trước đây có một cây lớn tốt tươi nhưng nay lại không c̣n. Vậy ai đă chặt nó vậy?
Bà Traveed vô cùng kinh ngạc khi nghe con nói câu đó v́ thật sự cái cây con bà nhắc đến đă bị chồng bà đốn ngă trước khi Paull ra đời. Tuy vậy bà Traveed cũng lấy làm ṭ ṃ, bà hỏi Paull:
- Tại sao con lại biết cây này v́ lúc ba con đốn ngả nó th́ con chưa ra đời mà?
Paull nhăn mặt tỏ vẻ bực tức và nói:
- Tại sao ba lại đốn cây ấy đi?
Bà Traveed giải thích:
- À! Là tại v́ cây này dễ trở thành chỗ thuận tiện cho kẻ trộm leo vô nhà.
Paull dằn từng tiếng rơ ràng:
- Trong số những đứa trộm ấy có đứa bị ba đâm chết mẹ có nhớ vụ đó không? Đứa bị đâm chết ấy tên là Jainqeville.
Bà Traveed vừa kinh ngạc vừa lo sợ. Hai tay bà ôm lấy ngực mồm há hốc, bà hỏi Paull dồn dập.
- Này con! Ai đă chỉ vẽ lời nói bậy bạ ấy cho con! Ai? nói cho mẹ biết đi...
Paull nói như phân bua:
- Việc này đă xảy ra lâu rồi má à! Con biết rơ điều này. Không ai kể cho con nghe hết. Con đă biết rơ sự việc là ba dùng dao đâm Jainquevill chết gục nơi gốc cây ấy. Jainquevill có một vết sẹo ở bắp đùi.
Bà Traveed quá sợ hăi nên dùng tay che miệng con lại và nói:
- Thôi đi! Con nói nghe ghê quá! Ai dạy con nói thế? Từ nay con đừng nói bậy nữa nhé!
Paull vẫn tiếp tục nói có vẽ hằn học:
- Con phải nói: v́ đó là sự thật. Con cũng có vết sẹo ở bắp đùi mà ba má thường thấy đó.
Sau đó, Paull đợi người cha đi làm về và cũng nói tất cả những lời mà nó đă nói với mẹ ḿnh. Tự nhiên ông Traveed lo sợ thấy rơ. Ông có cảm tưởng như tên cướp Jainquville đă nhập vào thân xác Paull để nói chuyện với ông.
Từ đó ông ít khi tiếp xúc với đứa con. Trong khi đó Paull thường tỏ ra lầm ĺ. Thường ngày nó chỉ loay hoay chơi với một con dao nó mua ở đâu đó. Hết mài lại ngắm nghía. Ông bà Traceed thấy con như vậy càng thêm lo sợ.
Thế rồi một hôm, Paull từ đâu không biết chạy bay về nhà. Bà Traveed kinh ngạc kêu lên: Paull ǵ thế con, có việc ǵ xảy ra thế? Paull vừa khóc vừa đưa cho mẹ xem tờ giấy nhỏ có chữ viết. Trong thư lời lẽ của ông Traveed thuê người đầu bếp nơi trường học t́m cách giết Paull để phi tang mọi chuyện.
Bà Traveed thấy rơ ràng chữ của chồng ḿnh viết chớ không ai xa lạ. Bà lo sợ quá nói với Paull: Trời ơi! có chuyện ǵ xảy ra quá ghê gớm lạ lùng như vậy? Vậy con cứ ở đây với mẹ, đừng đi đâu cả. Paull vừa khóc vừa nằm xuống chiếc ghế trường kỷ cạnh giường mẹ, Sáng hôm sau, trời c̣n tinh mơ, bà Traveed tự nhiên choàn tỉnh dậy, bà không thấy Paull đâu.
Hoảng hốt, bà xô cửa đi t́m, căn nhà vắng lặng, bà cất tiếng gọi, chỉ có người giúp việc chạy lên. Không nghe tiếng Paull cũng không như ông Traveed lên tiếng trả lời. Bà Traveed và người giúp việc liền phá cửa buồng của Paull. Cánh cửa mở toang, một cảnh tượng rùng rợn hiện ra: Ông Traveed và thằng Paull đều nằm chết dưới sàn nhà, máu lênh láng. Nơi ngược ông Traveed, con dao mà thằng Paull thường mân mê hàng ngày cắm sâu đến tận cán.
Câu chuyện có thật trên đă được tờ báo của Pháp tên là Revue des Deux Mondes đăng tải vào năm 1989 và mới đây được tác giả Thiện Nhựt lược thuật lại trong một đặc san Phật Đản xuất bản tại Hoa Kỳ.
Trường Hợp Cậu Bé George Fild.
George Fild là một cậu bé Hoa Kỳ. Năm 15 tuổi, Fild bắt đầu có những cảm giác và h́nh ảnh lạ lùng chợt ẩn chợt hiện trong trí và luôn luôn cậu tỏ ra áy náy, thắc mắc, băn khoăn về những ǵ giống như ḿnh đang rơi vào mộng ảo. Lúc bấy giờ có nhà thôi miên nổi danh tên là Williams.
Ông này yêu cầu được giúp George Gild khơi dậy các h́nh ảnh từ tiền kiếp. Qua giấc ngủ thôi miên, George Fild đă kể lại rất rành rọt những ǵ của tiền kiếp ḿnh như sau:
- Lúc bấy giờ tôi là người dân vùng Bắc Carolina tôi là một nhà nông bận rộn đủ mọi thứ việc đồng áng. Trên tôi lúc đó là Jonathan Powell, cuộc sống thật buồn bă vô vị. Tôi sống lẻ loi cô độc như kẻ lạc vào chốn hoang vu.
Tôi nhớ rơ ḿnh sinh vào năm 1832 tại thị trấn Jefferson và 31 năm sau tức là vào 1863 trong cuộc nội chiến, tôi vào quân ngũ và bị giết chết khi một đám lính nổi loạn tôi nhớ măi những nơi tôi đă đi qua và nhất là vùng đồng cỏ Bắc Carolina hiu quạnh.
Nhà thôi miên Williams đă kiểm soát lại các tài liệu, hồ sơ, giấy tờ ở các thư viện, các văn khố, các vùng liên quan đến Jonathan Powell và biết được rằng những ǵ cậu bé mô tả đều đúng cả. Điều kiểm chứng lại rơ ràng hơn, nhà thôi minh đă cùng George Fild đến ngay thị trấn Jefferson tại đây, trước sự hiện diện của nhà Địa phương chí trong thị trấn.
Cậu bé George Fild lại được nhà thôi miên đưa vào giấc ngủ thôi miên lần nữa và lần này cậu bé c̣n nêu tên cả những địa danh trong thị trấn cùng những người có tiếng ở đó, đặc biệt, cậu bé c̣n mô tả quang cảnh và nhà cửa đường sá của thị trấn rơ ràng.
Tất cả những ǵ George đă kể đều đă được nhà Địa phương chí hiện diện xác nhận là đúng. Ngoài ra cậu bé c̣n cho biết danh tánh của bà nội Jonathan là Mary Powell. Trong tài liệu c̣n lưu trữ tại nhà văn khố th́ Mary Powell là một người đàn bà đă đứng tên mua một khu đất ở vùng Jefferson.
Hồ sơ ghi năm 1803. Điểm đáng quan tâm là về sau, cậu bé George Fild có nhận được một lá thư của người trong ḍng họ Jonathan Powell gởi đến kể lại rất chi tiết về cuộc đời sự nghiệp của Jonathan Powell. Trong thư có đoạn viết như sau: "Các tư liệu này được lưu giữ cẩn thận trong gia phả ḍng họ tôi. Theo nhưng ǵ ghi trong gia phả th́ ông Jonathan chính là ông của tôi và ông bị những người lính Mỹ giết năm 1963."
Trường Hợp Cậu Bé Nicola
Khoảng năm 1800 tại thành phố Haworth Anh Quốc, có một gia đ́nh mà người chồng tên là Benson. Hai vợ chồng Benson có hai người con gái và một người con trai. Người con trai tên là John Henry. Một hôm John Henry chạy băng qua đường rầy xe lửa th́ bị xe lửa cán chết thê thảm. Sự kiện đáng thương tâm này rồi cũng theo thời gian mà xóa mờ dần.
Nhưng không lâu sau đó, một gia đ́nh ở vùng kế cận HaWorth có người đàn bà tên là Kathleen Wheaters, bà bày sinh hạ được một bé gái đặt tên là Nicola. Bé Nicola sống b́nh thường như bao nhiêu bé khác nhưng điều lạ lùng là lúc lên 5 tuổi. Nicola có cử chỉ và lời nói chững chạc giống như người lớn. Vào một buổi trưa, bé Nicola đang ngồi chơi với mẹ bỗng nhiên bé hỏi một câu:
- Mẹ ơi! Con đâu phải là con gái? Con là con trai mà? Trước đây con là John Henry, mẹ con là bà Benson rất mộ đạo và hay đi nhà thờ. Ba con là thợ đường rầy xe lửu. Con bị xe lưu cán chết và bây giờ con trở thành bé Nicola của mẹ. Tại sao mẹ không dẫn con đến nơi mà trước đây con đă ở. Con biết ngôi nhà đó mà.
Bà Kathleen nghe con nói rất kinh ngạc cứ tưởng Nicola nói mê sảng nên sợ lắm. Nhưng Nicola cứ thỉnh thoảng lại nêu lên câu hỏi tương tự khiến bà Kathleen quyết định t́m thử thật hư. Hai tháng sau, bà cùng Nicola đến Haworth để ḍ la tin tức về gia đ́nh nhà Benson.
May mắn là bà Kathleen có quen biết với một vị chức sắc torng Đạo Cơ Đốc nên nhờ nhà thờ chính cổ xưa ở Harworth lục lại hồ sơ và biết được gia đ́nh Benson có ba người con nhưng có một người con bị tai nạn xe lửa mà qua đời. Người con ấy là John Henry.
Trường Hợp Của Bé Gái Manju Sharma
Đây là một trường hợp tái sinh khá lạ lùng. Câu chuyện có thật này do bác ś Pasricha thuật lại như sau:
Manju Sharma là một cô gái Ấn Độ, sinh ra và lớn lên ở tại thành phố Brindevan (phía Bắc Ấn Độ). Manju Sharma thường nhớ lại quá khứ. Nhưng ở đây, Manju không phải nhớ lại quá khứ đời ḿnh mà là những ǵ đă xảy ra ở kiếp trước. Manju kể như sau:
"Tôi cứ nhớ hoài h́nh ảnh ḿnh bị rơi xuống giếng nước tại làng Chaumula. Lúc tôi vừa đúng 10 tuổi hồi đó tôi tên là Krishna chớ không phải là Manju Sharma như bây giờ. Tôi đă tái sinh trở lại.
Tôi đă gặp chú tôi, người chú tiền kiếp tên là Tanji. Tôi nhận ra người chú ấy ngay và đă nói chuyện rất lâu với chú ấy mặc dầu chú Tanji không nhận ra tôi là cháu của chú trước đây. Khi tôi nhắc đến Krishna th́ chú nhớ và tỏ dấu tiếng thương vô cùng. Tuy không tin chuyện tôi là Krishna tái sinh nhưng chú tôi đă đồng ư để người mẹ tiền kiếp của tôi gặp tôi.
Bà ta đến, tôi ngồi bên bà và kể lại những nỗi bất hành đă đến trong đời tôi cho bà nghe. Bà xoa đầu tôi và tỏ vẻ thương yêu tôi nhiều khi nghe tôi nhắc đến Kishna. Tôi ngỏ ư muốn theo bà, người mà tôi khẳng định là mẹ tiền kiếp của tôi.
Ư muốn của tôi được thỏa măn và tôi đă trải qua mười năm sống với ba má tiền kiếp tôi. Về phần ông bà th́ sẵn ḷng đón tôi về sống chung v́ hai người luôn luôn nh́n tôi qua h́nh ảnh của đứa con thân yêu bị chết sớm.
Bác sĩ Pasricha và một số nhà khoa học Ấn Độ đă đến gặp Manju lúc đó Manju đă là một người đàn bà có chồng và đă có 2 con. Khi hỏi người cha tiền kiếp về cảm tưởng của ông đối với Manju ra sao th́ ông này cho biết như sau:
- Chúng tôi gọi Manju là Kishna Devi. Chúng tôi tin tưởng rằng đó là con gái của chúng tôi. Các con của Manju gọi tôi là ông ngoại và vợ tôi là bà ngoại. Chúng tôi sống với nhau rất thuận ḥa.
Theo bác sĩ Pasricha th́ Manju là con gái trong một gia đ́nh người Bà La Môn (Brahmin) là một người đẳng cấp rất cao đối với người Hindu. Đây là một tấp cấp ở Ấn Độ và một thời vượt lên trên các tập cấp khác (theo Will Durang) trong xă hội Ấn. Nhưng Manju lại chịu đến sống với gia đ́nh thuộc đẳng cấp thấp hơn rất nhiều.
Như vậy không thể nào nghĩ rằng trường hợp Mánju là trường hợp tạo dựng ra sự kiện luân hồi tái sinh để mưu cầu lợi nhuận hay sung sướng cho đời ḿnh được v́ thông thường nghèo thường muốn t́m đến nơi người giàu. Ở đây, trường hợp của Manju th́ ngược lại.
Trường Hợp Tái Sinh Của Sudeih Babu
Tại thành phố Baranes (Balanại) thuộc xứ Ấn Độ (lúc bấy giờ Ấn Độ là thuộc địa của người Anh) có nhiều nhà chiêm tinh, nhiều Đạo sĩ nhiều vị chân tu nhưng nổi tiếng nhất về lănh vực chiêm tinh, ngoài Bhrigu ra, kế đến phải kể Sudeih Babu. Sudeih Babu là một nhà hiền triến cũng là một nhà chiêm tinh lừng danh của Ấn Độ.
Dân chúng Ấn, nhất là người Ấn Độ giáo đă xem Sudeih Babu như một vị Thánh Sống. Ông thường ngày xem sách cổ và tĩnh tọa trong một ngôi nhà nhiều pḥng với hàng vạn cuốn sách cổ bí truyền. Chính vào thời đó một phái đoàn khoa học gia người Anh Gồm các giáo sư tiến sĩ đến xin gặp ông và đă nghe ông thuyết giảng về mọi vấn đề thuộc lănh vực khoa học, kỹ thuật, sinh vật tự nhiên và các hiện tượng siêu nhiên.
Chính Sudeih Babu đă tiên đoán rằng từ năm 1957 trở đi thế giới vẫn tưởng rằng chủ nghĩa duy vật sẽ phát triển bành trướng khắp nơi. Nhưng sự thật, thuyết duy vật chỉ cực thịnh vào thời kỳ đầu và giữa của thế kỷ 20 mà thôi. Dần dần phong Duy tâm lại bắt đầu nở rộ hơn và đến cuối thế kỷ 20, chủ nghĩa Duy vật sẽ hoàn toàn sụp đổ khi đó những ǵ thuộc về Tâm linh sẽ nẩy nở và phát triển nhanh.
Nhiều nhà khoa học đă quay về nghiên cứu các hiện tượng siêu h́nh với tinh thần hăng say thẳng thắn v́ theo Sudeih Babu th́ những nhà khoa học này chính là những hạt giống đang được gieo để sau nảy mầm đơm hoa kết quả phát tán khắp thế giới. Cũng theo nhà chiêm tinh này th́ trong ṿng 25 năm cuối thế kỷ 20 (kể từ năm 1975) thế giới sẽ có nhiều thay đổi lớn.
Sudeih Babu ngoài tài tiên tri ông c̣n là người cứu giúp vô số những người cùng khổ ở Ấn Độ bằng nhiều phương các khác nhau theo những tài liệu và những lời truyền khẩu th́ Sudeih Babu đă từng làm nhiều phép lạ. Ông c̣n biết trước ngày qua đời và ghi rơ từng ngày giờ tháng năm và những ǵ ông căn dặn mọi người sau khi ông mất.
Vị Thánh Sống Sudeih Babu đă viên tịch đúng vào năm ông loan báo truớc, đó là năm 1918. Lời di chúc của ông là Dân tộc Ấn nên đoàn kết và nếu cần, nên hợp nhất tôn giáo. Ông cho hay: đất nước Ấn Độ sẽ c̣n nhiều xáo trộn và đau khổ, nạn đó và sự phân chia giai cấp, kỳ thị tôn giáo c̣n nhiều và sẽ có nhiều xô xát đẫm máu xảy ra. Ông khẳng định với các tín đồ Ấn Độ giáo rằng sẽ tái sinh vào năm 1926.
Thời gian trôi qua, lời di chúc như ch́m dần vào quên lăng. Nhưng thời gian vẫn tiến và năm 1926 nhằm ngày 23 tháng 11, có một cháu bé chào đời tại một ngôi làng nhỏ ở Ấn Độ, cháu được đặt tên là Satyanarayana Raju cháu bé mạnh khỏe không đau ốm ǵ.
Sau khi bỏ bú sữa cháu lớn nhanh nhưng tuyệt nhiên không bao giờ chịu ăn thịt. Tuy c̣n nhỏ nhưng dáng dấp của chỉ của Raju giống người lớn, thường có vẻ đăm chiêu, tư lự và thích chơi một ḿnh. Mỗi lần trông thấy người ăn xin qua đường là Raju vội vă chạy ra dẫn vào nhà lấy cơm cho ăn. Càng lớn Raju càng thích đến lễ bái ở các đền thờ và cung cách hành lễ rất rành rẽ mặc dù chưa học qua lần nào.
Điều này đă khiến cha mẹ Raju và ngáy các bà con bạn bè cũng lấy làm kinh ngạc. Dân chúng quanh vùng đều bắt đầu bàn tán về chú bé lạ lùng Raju. Thế rồi việc ǵ đến sẽ đến... năm Satyanarayana Raju đúng 13 tuổi bỗng có một sự kiện lạ lùng xảy ra. Câu bé đang ngồi suy tư th́ bỗng nhiên vụt kêu thét lên một tiếng lớn rổi lại đi đứng tự nhiên như không có ǵ xảy ra.
Người nhà lo sợ hỏi nguyên do th́ chú bé chỉ lắc đầu im lặng. Qua đến chiều hôm sau, bỗng nhiên chú bé té xuống đất bất tỉnh nhân sự. Gia đ́nh lo việc chạy chữa đến gần khuya chú bé Raju mới tỉnh lại. Lần này Raju có vẻ ngỡ ngàng xa lạ. Mọi việc quá khứ Raju đều không nhớ.
Ngay cả đồ vật dùng hàng ngày cũng không biết để đâu. Rơ ràng lần này Raju đă là con người khác, chỉ có thể xác h́nh hài là của Raju mà thôi. Từ ngày đó trở đi, người nhà chứng kiến chuyện lạ này đến chuyện lạ khác nào Raju hát những bài hát xa xưa lạ lùng hay đọc những câu kinh dài và khó đọc.
Đặc biệt nhiều khi Raju yêu cầu cả nhà ngồi quanh ḿnh để nghe thuyết giảng những bài kinh bằng tiếng Phạn, thứ tiếng mà ngay cả cha mẹ Raju cũng công nhận là rất khó th́ làm sao Raju đọc được? Cha mẹ sợ cậu bé bị ma nhập nên t́m thầy hóa giải nhưng mọi cố gắng đều vô hiệu.
Trong khi đó, càng ngày cậu bé Raju vàng có nhiều hành động lạ lùng hơn nữa. Rồi vào một buổi trưa đứng bóng, cậu bé Raju bước ra sân, dang 2 tay rộng ra như hít thở dưỡng khí và chậm răi tuyên bố:
- Tôi không phải là Satyanarayana Raju, tôi chính là Sudeih Babu.
Sau đó, để mọi người tin chắc ḿnh là hóa thân của Sudeih Babu, Raju đă mô tả những ǵ mà trước kia ḿnh đă sống như cảnh tượng thành phố Ben nares, ngôi nhà nhiều pḥng của vị thánh sống, các tủ gỗ đầy ắp sách cổ, tên tuổi nhưng người nổi tiếng vào lúc đó nhất là đọc lại lời di chúng mà Sudeih Babu đă viết trước khi qua đời vào năm 1918...
Và h́nh như để tăng cường cho niềm tin của mọi người, vị thánh sống này đă dùng tay không lấy từ không khí ra nhiều đồ vật và yêu cầu mọi người lần lượt nêu tên những thứ ḿnh ưa thích để ông biếu tặng cũng bằng cách lấy từ không khí ra.
Chính các ảo thuật gia nổi danh thế giới khi nghe tiếng của Babu đă không ngại xa xôi tốn kém t́m đến để quan sát và t́m hiểu v́ họ nghĩ rằng Babu cũng chỉ là một ảo thuật gia và đă áp dụng một phương cách biểu diễn khác lạ nào đó mà họ cần phải đến quan sát tận mắt để phê phán hay học hỏi.
Tuy nhiên, khi đối diện trước con người kỳ lạ đó, những nhà ảo thuật đă phải lắc đầu thán phục v́ dù họ có tài ba điệu nghệ trong màn tŕnh diễn lấy đồ vật từ không khí th́ họ cũng chỉ giới hạn trong vài thứ mà họ đă định sẵn. C̣n riêng Sudeih Babu (tức là Raju hóa thân) th́ có thể lấy bất cứ thứ ǵ mà người khác yêu cầu.
Có lần giữa đám đông người có một Fakir tỏ ư thách thức nên yêu câu Babu hăy lấy từ không khí ra cho ḿnh một thứ đồ vật trong ṿng 5 phút. Babu đưa tay ra lấy từ không khí ra một nắm đinh sắt và vui vẻ nói:
"Đây là vật ông bị thiếu chứ không phải bị mất, tất cả 5 cái đinh và ở bàn chông của ông".
Vị Fakir giật ḿnh khiếp sợ v́ quả thật ông đang kiếm vật đó. Hiện nay qua thân xác Satyanarayana Raju, Sudeih Babu đă có hàng triệu tín đồ theo ông. Ông có tài tiên tri và thường nhắdc nhở các tín đồ làm việc thiện cứu giúp người cùng khổ.
Ông thường dùng đôi tay chữa bệnh nan y cho nhiều bệnh nhân và nhiều tín đồ c̣n cho biết có lần một người chết đuối quá lâu, bác sĩ vô phương cứu chữa, ông nghe tin vôi vă đến bên giường xoa nắn lưng ngực và mũi người chết, chỉ trong 15 phút người ấy cựa quậy thở ra hơi và sống lại. Những sự kiện về Raju đă làm sôi nổi dư luận Ấn và cả thế giới.
Nhiều khoa học gia đă t́m đến quan sát, nghiên cứu và hầu hết đều cho rằng: "Đây là vấn đề vượt khỏi lằn ranh của khoa học thực nghiệm" Chính Colin wilson, một người luôn t́m ṭi nghiên cứu những vấn đề khúc mắc cũng đă viết như sau:
"Raju là hiện thân của vị Thánh Sống Ấn Độ"
Trường Hợp Của Michael Wright
Walter Miller là một thanh niên bảnh trai có nhiều nhân t́nh. Tuy nhiên trong số các người t́nh, anh ta yêu nhất là cô gái bạn học cũ. Hai người yêu thương nhau rất mực. Không may, vào năm 1967, Walter Miller bị tai nạn xe hơi và qua đời. Cô gái nghe tin bất tỉnh mấy lần.
Cô quên ăn bỏ ngủ, khóc lóc suốt ngày suốt đêm. Thế rồi liên tiếp mấy đêm liên cô ta nằm mơ thấy Walter Miller trở về đức trước mặt cô nét mặt hớn hở và nói: "Em à! anh sẽ trở lại với em!".
Cô gái mỗi lần tỉnh giấc đều buồn chán v́ nghĩ rằng đó chỉ là giấc mơ v́ không bao giờ người yêu của cô lại có thể trở về với cô lần nữa. Walter Miller đă chết và nấm mồ anh đă bị phủ biết bao lá rụng mùa thu rồi.
Bốn năm sau cô gái lấy chồng và sinh hạ một bé trai kháu khỉnh đặt tên là Michael Wright. Khi đứa bé đúng 3 tuổi nó trở nên khôn ngoan lạ lùng và nói chuyện như người lớn. Một hôm Michael nói: "Con chính là Walter Miller. Các đây khoảng ba bốn năm đă bị tai nạn xe hơi, chiếc xe lăn xuống dốc, cửa kính vỡ tan..."
Sau đó, Michael kể hết tất cả những ǵ về ḿnh, về cô nhân t́nh (giờ đây chính là mẹ của Michael) và c̣n nói rơ ràng tên người em gái của Walter Miller nữa, đă mô tả rơ ràng thành phố mà Walter Miller đă cùng bạn người bạn dừng lại nghỉ ngơi trước khi tiếp tục lại xe lên đường rồi tai nạn chết người xảy ra... Câu chuyện này đă được tác giả Quỳnh Châu lược thuật trong Tiền Phong (1991 Hoa Kỳ).
Trong cuốn Have We lived beford của Linda Atkinson, vị nữ giáo sự triết học này đă nêu lên một số bằng chứng về sự kiện luân hồi tái sinh (tác giả Nguyên Minh đă dịch lại năm 1995 do hội Phật học Quan Âm ở Canada ấn hành). Chúng tôi xin tóm lược 5 trường hợp tái sinh có thật như sau:
Trường Hợp Bà Bridey Murphy
Nhà thôi miên nổi tiếng Monrey Bernstein đă dùng phương pháp thôi miên để dẫn dụ bà Virgina Tighe đi vào giấc ngủ và t́m về quá khứ xa xăm của ḿnh. Bà Virgina Tighe là một người đàn bà trẻ đẹp thông minh, sáng trí. Qua giấc ngủ thôi miên bà đă nhớ lại một tiền kiếp của ḿnh lúc đó bà là một cô gái trẻ tên là Bridey Murphy.
Cô là người Ái Nhĩ Lan, sinh năm 1798 tại Cork. cha cô tên là Duncan Murphy và mẹ tên là Kathleen. Cô có một người anh cũng có tên là Duncan. Vào thời đó gia đ́nh Bridey sống hạnh phúc trong một căn nhà gỗ xinh xắn. Về sau Bridey lấy chồng. Người chồng là một luận sư tên là Brian Mc Carthy. Cả hai đến Belfast sinh sống. S
ố phận không may, Bridey qua đời khiến người chồng đau khổ không nguôi. Qua giấc ngủ thôi miên, bà Virginia Tighe cho biết rằng: "Lúc bấy giờ tôi (Bridey Murphy) tuy đă chết nhưng linh hồn tôi vẫn lẫn quất trong nhà, ở ngay đấy với Brian một thời gian nên biết Brian đau khổ v́ nhớ thương tôi nhưng anh ta lại chẳng bao giờ thấy được tôi.
Tôi cũng trở về Cork thăm anh tôi, tôi ở ngay bên cạnh anh ấy, nói chuyện với anh ấy nhưng anh ta chẳng thấy tôi và chẳng nghe được tôi nói.
Nhà thôi miên Morey Bernstein đă đưa bà Virginia Tighe vào giấc ngủ thôi miên nhiều lần nữa. Ông đă ghi âm lại tất cả những lời kể của bà. Và hỏi ư kiến những nhà luật sư, bác sĩ, giáo sư, kư giả về trường hợp lạ lùng này bằng cách để những người này nghe những lời kể của bà Virginia Tighe về tiền kiếp của ḿnh qua các cuộn băng ghi âm lại.
Sau đó, nhà thôi miên Morey quyết định viết một cuốn sách về trường hợp Virginia và Bridey Murphy. Để cuốn sách có giá trị trung thực chớ không phải là viết chuyện bịa đặt, một nhà xuất bản đă đứng ra lănh nhiệm vụ kiểm chứng sự việc.
Nhà xuất bản này đă liên lạc với các cơ sở có liên hệ trong việc kiểm chứng sự kiện và hợp tác với một số nhân vật đáng tin cậy khác ở Ái Nhĩ Lan, như thư viện để kiểm tra về nhân vật Bridey Murphy cùng những sự kiện cùng liên quan mà qua giấc ngủ thôi miên, bà Virginia Tighe kể lại rơ ràng.
Kết quả cho biết rằng các tài liệu sổ bộ ở Cork ghi rơ năm 1800 có luật sư tên John Mc Carthy làm việc ở đó. Ngoài ra trong cuốn niên giám có ghi tên 2 tiệm tạp hóa mà qua giấc ngủ thôi miên bà Virginia có nhắc đến. Đó là tiệm tạp hóa ở Belfast tên là Fari's và một tiệm tên là John Carrigan's. Về những địa danh khác mà bà Virginia nhắc đến qua giấc ngủ thôi miên th́ phần lớn đều được xác nhận là đúng.
Cuốn sách do nhà thôi miên Morey viết nhan đề là The Search for Bridey Murphy lúc bấy giờ (khoảng thập niên 1950) được coi là sách bán chạy nhất. Các báo chí đua nhau đăng tải và b́nh luận về chuyện lạ của Virginia Tighe, người đă nhớ lại tiền kiếp ḿnh.
Hồi đó tại Hoa Kỳ, phát sinh hai phe, một phe chống đối, bài bác, một phe bênh vực, ủng hộ mạnh mẽ về chuyện bà Virginia Tighe và cho hiên tượng tái sinh là có thật. Chuyện tái sinh của bà Virginia mới đây c̣n được đăng tải lại trong cuốn The People's Almanac của David Wallechinsky và Irving Wallace Battaw Books xuất bản.
Trường Hợp Của Hai Người Không Quen Biết Nhau: Phil và Ann
Đây là một trường hợp ngẫu nhiên, lạ lùng đă xảy ra bắt đầu từ cuộc gặp gỡ của hai người chưa từng quen biết nhau bao giờ, một người tên là Phil một người kia tiên là Ann.
Một hôm Phil lái xe hơi đến Maliba th́ bị lạc đường. Phil c̣n đang ngơ ngác thí thấy một người đang đứng bên lề phố nên dừng xe hỏi thăm. Mặc dầu người này không biết rơ đường để chỉ v́ thật ra cô ta không phải là dân ở đây nhưng vào lúc này tự nhiên Phil không quan tâm nhiều vào chuyện lạc đường nữa v́ hai người tự nhiên cảm thấy cảm t́nh với nhau ngay mặc dầu mới gặp nhau lần đầu.
Cô gái tự giới thiệu tên là Ann. Họ rủ nhau đi chơi đến chiều th́ chia tay Phil về Los Angeles c̣n Ann th́ về Monterey. Hai người lại gặp nhau và tuần kế tiếp, lần này, trước khi chia tay Ann buồn rầu bảo rằng nàng sẽ về trường học tại tiển bang Arizona.
Hai người đều buồn bả và họ thấy thật sự đă thương yêu nhau rất nhiều, một thứ t́nh cảm lạ lùng đồng điệu giữa hai người thật hiếm thấy trên đời, đặc biệt họ có cảm tưởng lạ lùng như đă quen biết nhau từ thuở nào rồi và họ cảm tấhy bằng mọi cách phải sống bên nhau...
Thế rồi trong giấc mơ tự nhiên Phil thấy Ann xuất hiện. Trong mơ rơ ràng Phil và Ann sống vui vẻ bên nhau. Phil lúc ấy có tên là Walter Morris và Ann là Martha Williams. Walter Morris là một mục sư thường đi diễn thuyết ở nhiều nơi và được nhiều người kính nể.
Walter Morris có vợ nhưng ông ta ly dị vợ để theo sống với Martha Williams và Walter đă cùng Martha qua Trung Hoa làm việc chung với nhau trong Giáo Hội cứu giúp những người đau khổ bệnh tật. Thế rồi quân Nhật tiến chiếm Trung Hoa. chúng bắt bớ và sát hại vô số người. Mục sư Walter và Martha đă tính đến chuyện đưa một số trẻ em mồ côi xuống tàu để đến Hoa Kỳ nhưng tàu vừa rời bến đă bị chiến hạm Nhật chận bắt và giết hại trong số đó có cả Martha.
Mục sư vô cùng đau xót và uất hận nên đă liên kết với những người bị Nhật bắt trói trên tàu nửa đêm th́nh ĺnh tấn công các thủy thủ Nhật. Cuộc tàn sát diễn ra, nhưng sau một chiếu tàu khác của Nhật đă đến tiếp ứng nên toàn thể người nổi loạn đều bị chết. Mục sư bị rơi xuống biển và cố bơi thật xa trong đêm. Sáng hôm sau được một chiếc tàu bi qua vớt lên và qua bao gian khổ, mục sư đến được Hoa Kỳ và chết ở đó sáu tháng sau.
Cái chết của mục sư Walter, tự nhiên làm Phil tỉnh giấc và từ đó giấc mơ cứ ám ảnh Phil hoài. Phil tự hỏi đó có phải chính là cuộc đời của ḿnh không? Đó có phải là tiền kiếp của ḿnh không? Nhưng đó chỉ là giấc mơ. Tuy nhiên tại sao giấc mơ lại đủ chi tiết như thế? Cái tên Walter Morris hiện ra rơ ràng trong trí Phil, các h́nh ảnh sự việc, địa danh, năm tháng đều đầy đủ.
Chỉ có cách kiểm chứng lại qua các sổ bộ thành phố tỉnh hạt liên quan, thế rồi Phil viết thư hỏi pḥng sổ bộ thành phố này và được trả lời rằng Walter Morris là một mục sư sống ở đây khoảng thập niên 1930. Phil c̣n được cho biết tại thành phố này vẫn c̣n cháu chắt họ hàng liên quan đến mục sư Walter Morris. Phil liền nghĩ việc gửi thư liên lạc với những người này theo những địa chỉ đă được các viên chức trả lời thư của Phil trước đây cho biết.
Một thời gian sau, Phil nhận được một số thư trả lời trong đó có thư của một người đàn bà cho biết trong khoảng thập niên 1930 bà ở gần Walter Morris từ lúc mục sư đi qua Trung Hoa cứu giúp những người nghèo và trẻ mồ côi cho đến khi người Nhật xâm lăng Trung Hoa. Một người đàn bà khác tên là Crawley ở South Carolina th́ cho biết bà ta là con gái của Mục sư Walter Morris.
Khi đọc thư của người đàn bà tên Crawley này, Phil vừa kinh ngạc vừa hồi hộp vừa lạ lùng v́ bà cho biết: "cha tôi đă bỏ mẹ tôi khi bà c̣n đang mang thai để theo một người đàn bà khác, mặc dầu vậy, ba tôi lại thường gởi thư về cho má tôi. Ông tả rất chi tiết những ǵ ông đă trải qua...
Thế rồi, Phil yêu cầu được đến South Carolina để gặp mặt Crawley. Phil được bà này trao cho một xấp thư dày của mục sư Walter Morris gởi cho mẹ bà lúc đó. Đọc cẩn thận cả tập thư Phil vô cùng kinh ngạ v́ tất cả những ǵ mục sư viết trong thư đều giống hệt các sự việc mà Phil đă thấy rơ từng chi tiết trong giấc mơ.
Tự nhiên Phil linh cảm được rằng ḿnh chính là mục sư Walter Morris chính nhờ sự gặp Ann mà châu chuyện hiện ra rơ ràng từ đầu tới cuối trong kư ức của Phil. Như thế Ann và Phil đă có một thời sống bên nhau ở kiếp trước... và bà Crawley phải chăng là con của Phil ở kiếp trước?
Trường Hợp Người Đàn Bà Diane Strom.
Bà Diane Strom có chồng, gia đ́nh sung túc nhưng luôn luôn bà bị một nỗi lo âu dằn vặt trong ḷng về vấn đề tiền bạc. Mỗi khi có điều ǵ liên quan đến tiền là bà sợ sệt lo lắng mất ăn mất ngủ nhất là phải nợ ai dù số tiền nhỏ mọn bà cũng vẫn canh cánh bên ḷng v́ bà linh cảm như mắc nợ ai th́ rồi sẽ có một sự khủng khiếp ghê rợn xảy đến với bà.
Nổi lo lắng lạ lùng ấy cứ xảy ra măi làm bà Diane Strom trở lên một con người luôn luôn suy nghĩ, sợ hăi, hồi hộp như bà bị bệnh về giáp trạng tuyến bị tổn thương. Nhưng khi đến bác sĩ khám nghiệm th́ kết quả bà chẳng có bệnh ǵ cả.
Cuối cùng người bạn mách cho bà đến bác sĩ Morris Netherton người đă từng áp dụng phương pháp khơi dậy kư ức xa xăm hay nói khác đi là tiền kiếp của những người bị khủng hoảng tinh thần vô căn cứ. Khi truy nguyên được nguyên nhân th́ sự khủng hoảng ấy sẽ mất dần đi.
Nghe lời bạn, bà Diane đến gặp bác sĩ ẩn khuất trong ḷng cho bác sĩ nghe. Bác sĩ Morris thuyết phục và khuyên dụ bà Diane xem thử nghĩ sâu xa về cuộc đời ḿnh ngược về quá khứ để xem thử nguyên nhân nào đă gây nên sự lo sợ lạ lùng trong cuộc sống hiện nay của bà. Nhiều tuần lễ trôi qua.
Nhờ phương pháp dẫn dụ ấy của bác sĩ Morris mà bà Diane có thể tập trung được tư tưởng ḿnh và phát hiện được những cảm giác và h́nh ảnh lạ mà từ lâu bà chưa từng biết tới. Bà thấy ḿnh là một bé gái ngây thơ tên là Rita. Rita là một đứa con rơi v́ bị mẹ là một nữ kịch sĩ ở NewYork bỏ rơi khi vừa hai tuổi. Lúc ấy Rita được một cặp vợ chồng ở Pensylvania nhận về nuôi.
Năm lên 13 tuổi, Rita lại bơ vơ lần nữa v́ cha mẹ nuôi bị tai nạn xe hơi qua đời. Bé Rita sống lạc loài không nơi nương tựa đến 6 năm trời và đến năm 20 tuổi Rita gặp một người đàn ông tên là Keith Mc Culluw, họ yêu nhau và cưới nhau. Rita sinh hạ một trai, nàng cảm thấy hạnh phúc về mọi mặt vào lúc này, nàng lại có một công ăn việc làm đàng hoàng.
Rita chuyên vẽ kiểu thời trang và tự cắt may lấy một tiệm may mặc tại đại lộ thức bảy ở New York. Nhưng cuộc sống sung sướng hạnh phúc không kéo dài được bao lâu. Mùa đông năm 1928 chồng Rita qua đời rồi năm sau đứa con nàng cũng bị bệnh rồi mất.
Trong khi đó, khắp Hoa Kỳ, t́nh trạng khủng hoảng kinh tế gia tăng trầm trọng. Rita bị vỡ nợ, số nợ quá lớn khiến phải phá sản và Rita tuyệt vọng đến độ phải t́m cái chết để giải quyết vấn đề. Nàng thắt cổ tự vẫn ngay trong pḥng làm việc hôm đó là ngày 11 tháng 6 năm 1933, lúc ấy Rita vừa đúng 30 tuổi...
Sau khi biết rơ chi tiết về cuộc đời ḿnh, tự nhiên bà Diane Strom cảm thấy thoải mái trong ḷng, giống như một người đang đau khổ uất ức được ̣a lên rồi sau cơn nức nở ấy bỗng cảm thấy được vơi đi phần nào đau khổ.
Nhờ các sự kiện xảy ra rất gần và các chi tiết rất rơ ràng nên bác sĩ Morris đă nhờ các nhân viên ở văn pḥng lưu trữ hồ sơ, các sổ bộ ở New York kiểm chứng lại xem về những ǵ mà bà Diane đă cho biết như cửa tiệm may mặc ở đường số 7 tại New York, tên của người đàn ông Keith Mc Culluw, cái chết của nữ chủ tiệm may mặc tên là Rita.v.v...
Tất cả những ǵ đă được trả lời đều phù hợp với những điều mà bác sĩ Morris đă ghi nhận được từ bà Diane sau mỗi lần dùng phép dẫn dụ để kư ức bà trở về đời sống quá khứ hay nói khác đi là quay về những sự kiện xảy ra từ kiếp trước. Theo bác sĩ Morris Netherton th́ tái sinh là câu giải đáp của vấn đề và Rita là tiền thân của bà Diane Strom.
Trường Hợp Của Dolores Jay
Hai vợ chồng Carroll và Dolores Jay sống yên vui hạnh phúc trong một căn nhà lớn ở Hoa Kỳ. Ông Carroll là một mục sư có khả năng thôi miên và thường giúp nhiều người bị bệnh nhức đầu nhờ phương pháp thôi miên này. Riêng bà Dolores Jay, vợ ông th́ có nhiều lần nằm ngủ và mơ thấy nhiều chuyện lạ lùng và bà thường la, hét, rên rỉ và nói năng qua giấc mơ.
Ông Carroll quyết định áp dụng phương pháp thôi miên để t́m nguyên nhân sự việc đă khiến vợ ông nói mê sảng trong giấc ngủ. Qua nhiều lần thực hiện phương pháp thôi miên, bà Dolores Jay đă được đưa vào giấc ngủ và trả lời bằng những câu hỏi của chồng rất có mạch lạc.
Bà Dolores cho biết rằng trước đây bà là cô gái Đức tên là Gretchen Gottlieb. Lúc 16 tuổi Gretchen cùng người cậu ruột cởi ngựa đi dạo th́ bất thần bị một bọn cướp giết chêt. Giờ đây, bà là Dolores nhưng h́nh ảnh về cuộc giết chóc khủng khiếp ấy cứ xuất hiện ngày càng rơ nét trong mộng dữ.
Điều kỳ lạ là phần lớn khi hỏi về hoàn cảnh, thời gian, địa điểm xảy ra sự kiện th́ bà Dolores đều trả lời qua giấc ngủ thôi miên bằng tiếng Đức mà thôi. Ông Carroll đă mời một số chuyên viên biết tiếng Đức tới dự những buổi thôi miên của ḿnh cho vợ là Dolores.
Chính những người nay đă nêu những câu hỏi mà họ tin chắc là b́nh thường bà Dolores không biết, không thấy, không nghe được v́ nó thuộc về lịch sử, về những ǵ liên quan đến nước Đức cũng như sinh hoạt, phong tục, tập quán, nghĩa là đời sống hàng ngày tại Đức khoảng thời gian mà bà bảo ḿnh là cô gái Gretchen.
Tuy nhiên những câu hỏi trả lời của bà Dolores qua giấc ngủ thôi miên đều rất phù hợp với những sự thật vào hoàn cảnh đó ở Đức, mặc dầu bà Dolores sống ở Mỹ và chưa bao giờ học tiếng Đức hay đặt chân tới nước Đức.
Để được chắc chắn hơn, hai vợ chồng Carroll và Dolores đến gặp chủ tịch Hội Kiểm Nghiệm, ḍ xét người nói dối (Scientific Life Detection Inc ở New York vào năm 1974). Sau những câu hỏi hóc búa và đầy tính cách kiểm chứng của những nhân viên trong hội tập chú vào bà Dolores, với sự hỗ trợ của máy ḍ th́ kết luận được đưa ra là bà Dolores hoàn toàn trung thực, tự nhiên và quả quyết trong các câu trả lời và đó là sự thật.
Sự thật rơ ràng nhất cho thấy là chưa bao giờ bà Dolores nói tiếng Đức v́ bà đă chưa bao giờ học tiếng Đức cả, bà cũng chưa bao giờ sống ở Đức. Vậy mà trong giấc ngủ thôi miên bà lại nói tiếng Đức và nói đúng giọng (các cuộn băng ghi âm được thu trực tiếp). Vậy phải chăng bà Dolores Jay là hậu kiếp của cô gái Đức này?
Mặc dù ông Carroll là một mục sư chuyên phục vụ ở nhà thờ Methodist và cũng là nhà giáo nhưng ông tin rằng: Sở dĩ vợ ông là bà Dolores nói tiếng Đức một cách kỳ diệu như thế là do bà đă từng là một cô gái Đức ở tiền kiếp.
Trường Hợp Bé Imad Elawar
Đây là trường hợp mà nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi Ian Stevenson xem như bằng chứng rơ rệt nhất chứng minh sự tái sinh là có thật.
Sự kiện xảy ra tại một ngôi làng ở nước Liban. Tại đây có một cháu bé trái tên là Imad Elawar. Bé Imad rất thông minh, mau biết đi và biết nói. Nhưng khi nói câu đầu tiên rơ ràng th́ đó là chữ Jamileh.
Trong nhà không hiểu bé Imad nói chữ đó là nghĩa là ǵ. Bé Imad bảo đó là tên của một đứa con gái trẻ đẹp. Bé c̣n bảo rằng nó có hai người em tên là Amin và Huda nhưng những người em hiện nay không c̣n nữa. Imad cho biết nó là con của gia đ́nh Bouhamzy ở Khriby.
Trong đời nó trước đây nó đă trải qua một kiếp sống với nhiều sự kiện đáng sợ. Nó đă chứng kiến cảnh rùng rợn chết chóc khi một người láng giềng bị xe vận tải cán chết một cách khủng khiếp rồi khi nó làm tài xế lái xe buưt, có lần ngừng xe lại vừa nhảy xuống xe th́ bất ngờ chiếc xe vẫn tiếp tục chạy làm bị thương nhiều người, nó c̣n kể ḿnh thường đi săn, có lần cải lẩy của một người, và tức giận dùng súng bắn người ấy...
Nó nhớ đủ chuyện, và tự nhiên kể cho mọi người trong nhà nghe, khiến ai cũng ngạc nhiên cứ tưởng rằng thằng bé Imad bị nhiễu loạn thần kinh. Một hôm bé Imad đi dạo với bà nó, lúc c̣n bé vừa lên bốn. Giữa đường nó gặp một người đàn ông đi ngược chiều nó chạy lại và kêu lên co vẽ vui mừng:
- A! Đây là người láng giềng ngày xưa của tôi.
Người đàn ông kia ngơ ngác chẳng hiểu ǵ cứ tưởng bé nói đùa. Câu chuyện được bà của Imad kể lại cho gia đ́nh nghe, về sau cha của Imad mới biết được rằng người đàn ông này ở làng Khriby, nhà ông ở gần nhà của gia đ́nh Bouhamzy sống. Chính nhà nghiên cứu Ian Stevenson đă t́m hiểu kỷ chuyện lạ về bé Imad.
Ông cho biết ngôi làng hiện nay bé Imad đang ở cách xa Khriby khoảng 30 cây số. Bác sĩ Stevenson đă đề nghị kiểm chứng sự kiện bằng cách đi với Imad và cha của cháu đến Khriby. Mặc dầu là nơi xa lạ nhưng bé Imad có vẻ quen thuộc đường sá trong chuyến đi ấy. Tại đây có gia đ́nh Bouhamzy.
Bác sĩ Stevenson t́m hiểu và biết rằng trong gia đ́nh này có một người bị chết v́ tai nạn xe hơi thật rùng rợn giống như điều bé Imad đă kể trước đó. Người cha trong gia đ́nh này là Haffez Bouhamzy cho biết họ có một người anh em họ tên là Ibrahim Bouhamzy. Khi đến căn nhà của Ibrahim, vừa bước vào sân, Imad đă dừng lại chỉ tay vào cuối sân và nói:
- Đây là chỗ của con chó ở. Chỗ kia là chỗ nuôi dê. Nơi đây có một căn nhà nhỏ để lưu trữ các dụng cụ. Khi bước lên lầu tới căn pḥng của Ibrahim, bé Imad chỉ một cái giường và nói:
- Cái giường này xưa kia tôi nằm ngủ. Imad c̣n cho biết giường đă đổi chỗ v́ ngày xưa giường này để ở chỗ khác. Bà Bouhamzy hỏi thử bé Imad một điều mà bà nghĩ rằng chỉ khi nó ở đây trong tiền kiếp th́ nó mới biết được thôi. Bà hỏi như sau:
- Này! cháu có nhớ là tại đây cháu đă thường xuyên chuyện tṛ với bạn bè bằng cách nào không?
Imad chỉ cái cửa sổ và trả lời một cách tự nhiên khiến bà Bouhamzy kinh ngạc:
- Qua cái cửa sổ ấy.
Theo lời bà Bouhamzy th́ trước khi Ibrahim qua đời, bệnh t́nh ngày càng nặng không ai có thể đến thăm. Ibrahim lúc bấy giờ chỉ nằm trên giường và nói chuyện với bạn bè qua cửa sổ ấy mà thôi.
Người nhà thường nghe Imad nhắc đến cân súng săn nên sẵn dịp hỏi Imad thử cây súng cất ở đâu. Imad cho biết cây súng giấu sau tủ. Điều này hoàn toàn đúng. Lúc đó người em gái của Ibrahim là Huda bước đến hỏi Imad một câu:
- Có biết tôi không?
Imad cười nói: À Huda em tôi đây mà.
Huda ngạc nhiên vô cùng chỉ bức h́nh vẽ treo trên tường hỏi:
- H́nh của ai đấy?
Imad trả lời:
- Đó là h́nh của em trai tôi, Fuad đó!
Huda lại đi lấy một tấm ảnh chụp của Ibrahim hỏi Imad.
- C̣n đây là h́nh của ai?
Imad nh́n kỹ h́nh rồi nói:
- Đây là h́nh tôi trước đây!
Bỗng Huda như chợt nhớ ra điều ǵ, đến gần Imad và nói:
- Nếu quả là Ibrahim th́ trước khi chết, Ibrahim nói câu ǵ?
Imad trả lời với giọng buồn buồn:
- Huda ơi! hăy kêu Fuad đi!
Nghe Imad trả lời như thế, Huda nổi gai ốc khắp người. Quả thật lúc đó, trước khi tắt hơi, Ibrahim đă kêu lên như thế. Như vậy, mọi người có mặt, kể cả bác sĩ Stevenson cũng đều thừa nhận rằng Imad chính là Ibrahim tái sinh.
Trong cuốn Bạn Tinh có Tái Sanh, tác giả Minh Tuệ (1974) đă viết lại một số trường hợp có thực về tái sanh (tài liệu được cung cấp bởi Đại Đức Narada Maha Thera, ông Francis Story và Amarasiri Weerarartna) xin tóm lượt như sau:
Trường Hợp Nam Tài Tử Nổi Danh Glenn Ford
Giới điện ảnh quốc tế và giới mộ điệu phim ảnh không ai là không biết đến nam tài tử gạo cội Glenn Ford của màn bạc Hoa Kỳ. Cuộc sống sôi động qua các vai của Glenn Ford trong cuộc đời hiện tại cũng tượng như trong "Những cuộc đời tiền kiếp" của ông. Glenn Ford nói: "Tôi không mê tín dị đoan, tôi không tin những điều mù quáng vớ vẩn, nhưng tôi tin vào cái gọi là đầu thai".
Glenn Ford ngoài say mê đóng phim, ông c̣n một say mê khác là t́m hiểu những vấn đề có tính cách huyền bí nhưng đầy tính khoa học. Ông say mê lư thuyết về Thiền học, và đồn ư ới phương pháp yên tĩnh tâm hồn qua thuật thôi miên. Chính nhờ sự giúp đỡ của một chuyên gia tài giỏi về khoa thôi miên Glenn Ford đă ghi lại qua băng ghi âm lời thuật về chính tiền kiếp của ḿnh như sau:
"Năm 1774 tôi chào đời tại Egin (thuộc xứ Scotland). Tên tôi lúc ấy là Charles Stewart, là một nhạc sư, tôi thường dạy nhạc cho nhiều người. Về sau tôi bị bệnh phổi và qua đời n8m 1812".
Tôi c̣n biết là tôi cũng đă trải qua một kiếp làm người nữa vào thời đại vua Louis thứ 14 của nước Pháp nghĩa là khoảng những năm 1643 đến 171.
Lúc bấy giở tôi là một sĩ quan kỵ binh bảo vệ hoàng cung tên tôi là Launvaux. Trong thời gian bảo vệ điện Versailles, tôi đă để ư và yêu tha thiết một phụ nữ quư tộc đă có chồng. Không may là câu chuyện yêu đương tuy chưa thành sự thật, nhưng lại bị chồng người đàn bà này biết và thách thức đấu súng. Kết quả là tôi bị bắn trọng thường và tôi phải trải qua một thời gian dài đau đớn quằn quại trước khi chết..."
Điều kỳ lạ là sau này khi nam tài tử Glenn Ford c̣n sống, ông thường hay bị đau nhức ngưới, chỗ đau này ch́nh Glenn Ford cảm nhận rơ ràng và ông thường than với bác sĩ riêng của ḿnh về vết đau kỳ lạ ấy. Chính Glenn Ford đă viết trong tập hồi kư đời ḿnh về vấn đề này như sau:
"Vết thương từ cuộc đấu súng tay đôi từ "kiếp trước" ấy vẫn thỉnh thoảng làm tôi đau đớn ngay ở "đời hiện tại" và chỉ có ḿnh tôi cảm nhận đều được đó thôi."
Trường Hợp Cậu Bé Michael Croston
Machael Croston sanh tại Liverpool (nước Anh). Năm Michael đước 11 tuổi tự nhiên cậu bé có phong thái của một người lớn chững chạc và cậu cảm nhận được rằng ḿnh chính là ông ngoại của đă qua đời trước trước khi Michael chào đời. Chính mọi người trong gia đ́nh của Michael cũng thấy rơ điều đó. Cậu bé thuộc nằm ḷng các đường phố lớn, nhỏ, ṃn, đường tắt vùng hoang giă.
Yorkshire nơi quê nhà của cậu, nhưng cậu chưa bao giờ đặt chân tới. Vậy mà cậu đă dẫn người nhà đến đó và chỉ những ngă tắt, cửa sau, đường băng như một người đă sống ở đó lâu đời. Chỉ có ông ngoại của cậu mới có khả năng ấy thôi.
Một điều lạ lùng đă xảy ra là có một đêm, Michael trằn trọc không ngủ được nơi căn trại khi chiết đồng hồ quả lắc to lớn cứ tích tắc như nhắc nhở cậu điều ǵ. Rồi khi đồng hồ điểm 2 giờ khuya, cậu cảm thấy như có cái ǵ đó thôi thúc khiến phải vùng dậy chạy nhanh xuống dưới cầu thang và lần tay sau chiếc đồng hồ, cậu gặp một cái nút kéo ra.
Trong một cái hốc, tay cậu chạm vào những tờ giấy bạc để trong chiếc hộp kim loại. Về sau hiện tượng lạ lùng này đă được biết rơ nguyên nhân hơn về sự khám phá món tiền mà ngày xưa ông ngoại cậu đă cất dấu. Nguyên nhân khêu gợi quá khứ chính là tiếng đồng hồ kêu và khi đồng hồ vang lên 2 tiếng th́ dó là giờ mà xưa kia ông ngoại cậu đă chết.
Trường Hợp Edith Oliver (Người Anh)
Bà Edith Oliver là nữ kư giả Anh đă có lần viếng ngôi làng Avenbury. Khi đến địa điểm này bà bỗng nhiên nhớ lại rằng nơi đây có chợ búa với những khối đá to lớn. Tuy nhiên rằng dân làng bảo rằng ở Avenbury không có như vậy nhưng cuối cùng các tài liệu địa phương chí lại cho thấy vào những năm 1800 đến 1850 quả thật ở đây có những điều mà bà Edith Oliver đă mô tả. Như vậy chỉ có một kết luận là kiếp trước bà Edith Oliver sống tại đó?
Trường Hợp Cô Bé Gnanatilaka
Gnanatilaka sinh năm 1956 tại Kotamale (Tích Lan) khi gần năm tuổi cô bé này đ̣i cha mẹ dẫn đi t́m cha mẹ ruột chính thức của ḿnh. Lời yêu cầu ấy cứ măi lập đi lập lại nhiều lần nhưng cha mẹ cô bé vẫn cho là con ḿnh nói cho vui miệng hoặc nghĩ rằng người trong xóm làng bày vẽ nó nói mà thôi.
Tuy nhiên càng lớn đứa bé càng van nài khẩn thiết được gặp mặt cha mẹ nó. Chuyện lạ lùng này đến tai một số nhà khoa học, tâm lư và tôn giáo trong vùng. Cuối cùng, lời yêu cầu của bé Gnanatilaka được thực hiện. Phái đoàn đi chung với cô bé đến vùng Talawakele. Cô bé dẫn đường rất rành rẽ. Họ bước vào một căn nhà mà cô bé gọi là nhà cha mẹ ḿnh. Bé giới thiệu hai vợ chồng ngôi nhà này là cha mẹ kiếp trước của ḿnh.
Lúc ấy có một giáo viên nhà trong vùng nghe chuyện đến xem th́ cô bé bảo là thầy cô. Cô bé cho biết kiếp trước cô là con trai tên la Tilakaratna. Cô c̣n chỉ nghĩa trang và mộ chí của ḿnh tức là của bé trai Tilakaratna cho mọi người thấy.
Khi kiểm tra lại mọi chi tiết của bé Gnanatillaka ra đời, vùng TalaWakele có cậu bé tên là Tilakaratna và cậu bé chính là con của hai ông bà mà cô bé nhận là cha mẹ tiền kiếp. Cậu bé Tilakaratna chết yểu vào ngày 9 tháng 11 năm 1945 chôn tại nghĩa trng mà bé Gnanatillka đă dẫn mọi người đến chỉ đúng mộ chí và bảo đó là mộ chí của ḿnh ngày xưa (ư nói đến tiền kiếp).
Điều kỳ lạ là hai gia đ́nh không liên lạc quen biết nhau và ở rất xa nhau vậy mà tất cả những ǵ cô bé đă mô tả về gia đ́nh mà cô bé đ̣i đến hoàn toàn đúng.
Chính bác sĩ Stevenson cũng đă đích thân đến Tích Lan để theo dơi và t́m hiểu vấn đề này và bác sĩ đă bảo rằng, đây là một trường hợp đặc biệt trong các trường hợp lạ lùng về hiện tượng tái sinh.
Nhà nghiên cứu về sự chết và những hiện tượng tiếp diễn sau khi chết là Jeffrey Iverson đă thu thập nhiều tài liệu liên quan đến vấn đề, trong đó có vấn đề Luân Hồi và Tái Sinh. Trong cuốn In Search of the Death xuất bản năm 1992, Jeffrey Iverson đă đưa ra một số trường hợp tái sinh xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Đó là những chuyện có thật được xem như những bằng chứng rơ ràng nhất về hiện tượng luân hồi.
Sau đây là vài chuyện điển h́nh:
Trường Hợp Cô Bé Shanti Devi ở Ấn Độ
Câu chuyện có thật sau đây về cô bé Shanti Devi đă một thời làm xôn xao dư luận Ân đến độ báo chí, đài phát thanh, các phái đoàn khoa học và ngay cả Ghandi, người cha của dân tộc Ấn cũng phải đích thân tới gặp mặt Shanti để hỏi chuyện. Chính bác sĩ Ian Stevenson, nhà khoa học chuyên nghiên cứu về những hiện tượng liên quan đến luân hồi tái sinh ở Hoa Kỳ và khắp nơi trên thế giới cũng đă phát biểu như sau:
- Trường hợp của bé Shanti Devi có thể nói là một trường hợp cổ điển nhất về hiện tượng đầu thai.
Nhà nghiên cứu và biên soạn các sách chuyên về các vấn đề huyền bí siêu linh là Jeffrey Iverson cũng đă t́m hiểu kỹ câu chuyện theo từng chi tiết một vào năm 1988. Các nhà nghiên cứu đă đến Đê li (Delhi) để gặp Shanti và hy vọng khám phá thêm nhiều điều lư thú lạ lùng khác nhưng không may cho họ là Shanti Devi đă qua đời trước đó 2 tháng hưỡng thọ 61 tuổi.
Mặc dầu vậy, tại Delhi, hầu như ai cũng biết chuyện bé Shanti tái sanh. Họ biết được câu chuyện rất rơ ràng từ năm 1935 là năm khởi phát ra sự kiện lạ lùng. Về sau trong gia đ́nh Shanti, ông Viresh Narair là người anh ruột đă thường đón tiếp các nhà báo, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu khắp nơi trên thế giới đến t́m hiểu và ông đă kể lại mọi chi tiết về trường hợp Shanti Devi, em gái ông.
Nhưng năm sau đó vấn đề chưa lắng dịu. Nhiều nhà nghiên cứu sự kiện nêu nhiều ư kiến như Bal Chand Nahata thuộc Hiệp Hội Phân Tích Tâm Lư ở Ấn Độ cho rằng cần phải có sự tiếp tay hỗ trợ của những nhà tâm lư học, những nhà khoa học trong ủy ban điều tra th́ mới hy vọng đem lại những khám phá trung thực.
Qua những cuộc t́m hiểu, phỏng vấn, đối chiếu các sự kiện từ năm 1935 đến năm 1938 các nhà nghiên cứu vẫn chưa hài ḷng v́ có nhiều điểm chưa được rơ ràng. Phải đến 3 năm sau, một nhân vật có tiếng khác là ông Sushil Bose đă bỏ khá nhiều thời gian để t́m hiểu về trường hợp của Shanti Devi và kết quả là ông đă t́m ra được bằng chứng xác thực chứng minh rằng hiện tượng lạ lùng về Shanti Devi là có thật.
Shanti đă kể về tất cả những diễn tiến của tiền kiếp ḿnh, lúc đó Shanti là người đàn bà tên Ludgi. Theo Sushi Bose nhà nghiên cứu hiện tượng Shanti th́ trước tiên, ông t́m gặp người cha của Shanti tên là Rang Bahadur Mathur ở Cheerakhana và được biết rằng bé Shanti Devi biết nói chậm hơn các trẻ khác cùng lứu tuổi. Phải đến năm 3 tuổi Shanti mới nói được. Bé luân luôn trầm tư mặc tưởng, đăm chiêu tư lư lạ thường.
Đôi khi những trẻ con khác chọc ghẹo hay làm điều sai quấy, ồn ào gây bất ḥa xích mích th́ Shanti thường tỏ ra nhẫn nhục, chịu đựng, nghiêm trang, trông giống như một người lớn và dàn xếp mọi chuyện một cách êm đẹp thần t́nh. Một chuyện lạ đă xảy ra sau đó khi Shanti ngồi chung với gia đ́nh trong bữa cơm chiều. Shanti đă hỏi người mẹ một câu như sau:
- Mẹ ơi! Con thấy mẹ nấu những món ăn khác với những ǵ con đă ăn lúc ở thị trấn Mathura quá nhiều. Những món này con ăn không quen. C̣n quần áo cũng vậy cũng có khác với nơi con đă sống trước đây. Mẹ biết không, gia đ́nh con hồi đó có một tiệm bán áo quần và căn nhà con đă ở th́ sơn màu vàng.
Mọi người trong lúc đầu c̣n ngạc nhiên về câu nói kỳ lạ đó, nhưng sau đó trở thành thói quen và không ai c̣n quan tâm đến một đứa bé con đôi khi hay phát ngôn những câu "bậy bạ"... Tuy nhiên, càng về sau Shanti càng tỏ vẻ nôn nóng và năn nỉ cha mẹ dẫn ḿnh đến thăm căn nhà cũ ở Mathura và nhất là để thăm người chồng ngày xưa hiện c̣n sống ở đó.
Một nhà giáo ở Đề Li (Delhi) nghe chuyện lạ về Shanti nên đă t́m gặp t́m hiểu. Lúc đó Shanti đúng 8 tuổi. Nhà giáo này cố gắng t́m cách để Shanti nhớ lại rằng nếu kiếp trước quả thật bé đă sống ở thị trấn Mathura có chồng ở đó th́ hăy thử nhớ lại tên chồng xem sao. Khi nghe lời yêu cầu này, Shanti liền trả lời như sau: "Nếu tôi thấy được anh ấy tôi sẽ nhận ra ngay".
Theo báo cáo ghi lại th́ sở dĩ Shanti không nhắc đến tên chồng là do phong tục ngày xưa của người Ấn khi theo đạo Hindu th́ người vợ không bao giờ nói tên chồng ḿnh cho người khác biết. Nhà giáo này đă t́m cách mua chuộc Shanti (v́ Shanti chỉ là một cô bé nhỏ dại) bằng một vài quà tặng và c̣n hứa rằng nếu bé nói rơ tên chồng lúc đó th́ ông ta sẽ giúp bé đến thị trấn Mathura.
Shanti suy nghĩ một hồi rồi xích lại gần nhà giáo và nói nhỏ vào tai ông ta: "Ông nhớ giữ in nhé! tên chồng tôi lúc đó là Pandit Kedernath Chowbey".
Trong khi đó người cha của bé Shanti lại cho biết như sau: "Chẳng có ai trong gia đ́nh biết về những ǵ bé Shanti đă nói cả. Chẳng có ai hay biết thăm ḍ, điều tra ǵ về căn nhà ở Mathura hay người được gọi là chồng của Shanti nói ra đều có thật! Chúng tôi toàn thể gia đ́nh đều mong soa cho Shanti quên đi những ǵ mà cháu thường nhắc nhở đến má thôi".
Về sau, nhà giáo này lại đến lần nữa và lần này đi cùng một người có vai vế ở trường, đó là ông Lalá Kishan Chand, hai người này yêu cầu Shanti mô tả thất rơ ràng căn nhà ở Mathura, cả số nhà, con đường nữa. Họ ghi lại cẩn thận và hỏi về người đàn ông mà Shanti đă bảo là chồng tiền kiếp của ḿnh.
Rồi chẳng chờ đợi lâu, ông Chand viết một lá thư tŕnh bày sự việc gởi ngay đến cho Pandit Kedenmath Chowbey là người chồng kiếp trước của Shanti theo địa chỉ ấy ở thị trấn Mathura. Họ gọi đây là "một bức thư may rủi" v́ họ không chắc có người và địa chỉ như Shanti đă nói.
Một thời gian không lâu, họ nhận được một lá thư từ thị trấn Mathura gởi đến. Tất cả mọi người trong gia đ́nh Shanti ở Delhi khi nhận được bức thư đều vô cùng kinh ngạc v́ trên phong b́ có ghi rơ họ người gởi là tên của người Shanti đă từng bảo là chồng ḿnh.
Khi đọc lá thư, ông Chand hoàn toàn sửng sốt, v́ những ǵ viết trong thư đều phù hợp với những ǵ mà Shanti đă mô tả. Người viết thư này chính là Chowbey. (đúng tên người mà Shanti thường bảo là chồng ḿnh ở tiền kiếp) Chowbey có cho ông Chand biết là anh ta có một người vợ tên là Lugdi đă chết. Chính anh ta cũng rất ngạc nhiên về những điều mà ông Chand đă viết trong thư về chuyện Shanti.
Chowbey viết thêm là anh ta sẽ nhờ một người em họ đang ở Đề Li (Delhi) đến gặp mặt Shanti để tỏ rơ thật hư. Khoảng 2 tuần sau, người em họ của Chowbey tên là Pandit Kanjimall đă t́m đến nhà Shanti đă nhận ra ngay là người em họ của chồng ḿnh và Shanti đă hỏi thăm đủ chuyện nào là chuyện con cái, chuyện ngôi nhà ở Mathura, hỏi luôn cả cửa tiệm bán quần áo, cửa tiệm này ở trước ngôi đền Dwarikadesh.
Thấy Shanti c̣n nhỏ nhưng lại nói chuyện như người lớn. Vả lại người nhà Shanti c̣n cho biết là Shanti cũng như mọi người trong gia đ́nh chưa ai từng đặt chân tới thị trấn Mathura th́ Kanjimall lại càng kinh ngạc hơn nữa v́ tất cả những ǵ mà Shanti mô tả đều hoàn toàn đúng sự thật.
Vào ngày 12 tháng 11 năm 1935, người đàn ông tên là Chowbey ở Mathura sau khi nhận được thư do người em họ kể lại chuyện lạ lùng về Shanti và c̣n cho biết là Shanti có thể là hiện thân của Lugdi Devi, vợ của Chowbey nên anh ta vừa bán tín bán nghi, vừa nôn nao hồi hộp, vội vă đáp tàu hỏa đến Đề Li để gặp Shanti, người tự nhận là vợ anh.
Chowbey khi đi c̣n dẫn theo một cháu bé trai chính là con của Lugdi Devi, tên là Nabanita Lall (hiện tại th́ đứa con trai này lớn tuổi hơn Shanti). Ngoài ra, đi theo Chowbey c̣n có người em họ là Kanjimall và người vợ mới sau này mà Chowbey đă cưới sau khi Lugdi Devi qua đời. Khi cả bốn người này vào nhà th́ Shanti c̣n đi học chưa về.
Trong khi chờ đợi, người nhà trong gia đ́nh Shanti sau khi nghe Chowbey thuật lại mọi việc có liên quan đến Shanti th́ vội vă mời khách ngồi chơi và cũng kể hết những ǵ đă xảy ra về trường hợp lạ lùng khó hiểu của con gái họ là bé Shanti.
Khoảng một giờ sau Shanti đi học về. Bước vào nhà, cô bé ngạc nhiên v́ thấy có nhiều người nơi pḥng khách, Shanti vừa chào khách vừa nh́n lén từng người. Khi Shanti nh́n Chowbey th́ bỗng nhiên cô bé tỏ vẻ kinh ngạc rồi bước ngay tới ngồi gần một bên Chowbey với thái độ bẻn lẻn e thẹn. Tất cả mọi người có mặt đều im lặng theo dơi. Người nhà Shanti liền chỉ Chowbey và nói:
- Đây là người anh cả của chồng cháu ngày xưa, vậy cháu có nhận ra không?
Shanti vừa mân mê vạt áo vừa trả lời:
- Không phải đâu, đây là chồng của con. Con đă nói chuyện này nhiều lần cho cả nhà nghe nhưng không ai tin con cả.
Mọi người nghe Shanti nói đều hết sức lạ lùng. Người này nh́n người kia, c̣n Chowbey th́ nh́n Shanti chăm chăm. Trong khi đó, người vợ kế của Chowbey ngơ ngác như đang trải qua một giấc mơ. Shanti chợt thấy đứa con trai đứng bên Chowbey th́ nắm tay nó tỏ vẻ âu yếm vừa hôn vừa khóc sụt sùi một hồi rất lâu. Shanti bảo mẹ đi t́m đồ chơi cho nó và có lẽ sợ mẹ đi t́m chậm nên Shanti đă hăm hở chạy đi lục lọi đủ mọi thứ quà đem lại cho "con".
Về sau người cha của Shanti đă kể lại h́nh ảnh lạ lùng này mà ông đă chứng kiến rơ ràng. Mặc dầu Shanti c̣n nhỏ nhưng phong thái, cử chỉ lời nói, nét mặt và ánh mắt biểu lộ rơ nét những đức tính của một người mẹ thương con. Đó là cả một sự lạ lùng khó hiểu.
Theo lời người cha của Shanti kể lại th́ không ai c̣n cho Shanti là một đứa bé con nữa cả. C̣n Shanti th́ nước mắt trào ra v́ sung sướng mà khóc. Mọi người khi đó thấy cảnh tượng ấy cũng tự nhiên mủi ḷng rơi lệ...
Mặc dầu câu chuyện được dấu kỷ không để lộ ra ngoài nhưng ở Ấn Độ cũng như ở những nước Đông Nam Á khác không có chuyện nhà nào dù kín đáo bí mật đến đâu mà hàng xóm láng giềng lại không biết.
V́ thế mà câu chuyện về bé Shanti chẳng mấy chốc lan truyền đi khắp vùng. Nhiều người tụ tập lại nhà Shanti để xem chuyện "lạ nhất thế gian nhưng có thật".
Chiều hôm đó, Shanti vui vẻ thúc mẹ làm cơm mời gia đ́nh Chowbey và chỉ mẹ những món ăn mà Chowbey thường thích. Khi thấy người vợ mới của Chowbey ngồi gần bên người em họ có đeo nhiều nữ trang ấy trước đây là của ḿnh (lúc ấy Shanti là Lugdi Devi), sau khi Lugdi mất, Chowbey đă lấy nữ trang ấy cho người vợ kế đeo.
Sau bữa cơm, Shanti quay lại hỏi Chowbey:
- Anh Chowbey, tại sao anh lại cưới chị ấy? Có phải chúng ta đă đồng ư với nhau trước khi tôi nhắm mắt là anh sẽ không cưới vợ lần nữa?
Cả nhà lại một phen kinh ngạc v́ câu nói hoàn toàn là của người lớn đầy vẻ trách móc, than oán, giận hờn, lư lẽ luật lệ mà ngoài người lớn ra, tuyệt đối không thể một đứa trẻ nào có thể phát ngôn một cách tự nhiên như vậy được.
Trong khi mọi người c̣n đang ngơ ngác th́ Chowbey đưa hai tay ôm lấy đầu cúi gục xuống không nói ǵ cả. Có lẽ Chowbey đang tưởng nhớ lại người vợ cũ của ḿnh cùng những ǵ mà hai người đă ước hẹn thề nguyền với nhau hồi trước đó.
Hồi lâu, Chowbey ngẩng mặt lên nh́n Shanti và hỏi:
- Shanti đă tả lại ngôi nhà trước đây ở thị trấn Mathura như vậy, Shanti có thể biết được những ǵ trong vườn nhà ấy chứ?
Shanti gật đầu nói:
- Phải, tôi c̣n nhớ rất rơ ngôi nhà và cả khu vườn. Nơi khu vườn, ở phía góc có một cái giếng. Tôi thường ngồi bên giếng để giặt quần áo, rửa đồ đạc và tắm nữa...
Chowbey lại hỏi:
- Làm thế nào mà Shanti lại nhận được Nabanita là con ḿnh vào giờ phút Shanti sắp qua đời lúc đó v́ thằng Nabanita chỉ mới được có 9 ngày thôi?
Shanti suy nghĩ một lúc rồi trả lời Chowbey:
- Bởi v́ Nabanita chính là cuộc sống của tôi, là cuộc đời tôi...
Ngày 24 tháng 11 năm 1935, một nhóm người trong ủy ban điều tra những sự kiện về Shanti đến nhà Shanti để cùng đáp tàu hỏa đến thị trấn Mathura để nghiên cứu và t́m hiểu vấn đề. Lúc bấy giờ chuyện Shanti lan truyền khắp nước. Báo chí Ấn đăng tải nhiều chuyện rất lạ lùng mà học điều tra được về Shanti nhất là nhà báo Indian Press, The Tej... thường dành nhiều trang lớn để kể về chuyện lạ Shanti.
Cùng đi với phái đoàn có Shanti và cha mẹ ruột của cô bé. Trên chuyến tàu, những người trong ủy ban điều tra đă ghi nhận một sự kiện là khi gần đến nơi, Shanti đă thốt lên một câu như sau:
- Đă 11 giờ rồi, cổng đền Dwarikadesk sắp đóng đấy.
Trong câu nói ấy, người ta thấy có một điều lạ là Shanti đă dùng một từ ngữ đặc biệt có tính cách hoàn toàn địa phương và nhất là từ ngữ mà người Hindi hay dùng.
Dân chúng ở thị trấn Mathura trong những ngày hôm ấy nôn nóng loan truyền với nhau về chuyện cô bé tái sinh Shanti sẽ đến thăm lại nơi tiền kiếp cô bé đă sống. Báo chí Ấn Độ loan tin ngày hôm đó có đến hơn 10.000 người tề tựu ở Sân ga của thị trấn Mathura để xem mặt cô bé tái sinh.
Trong khi đó, Shanti ngồi gọn trong ḷng ông Deshbandu, một thành viên trong nghị viện Ấn. Bỗng Shanti thấy một người đàn ông bước tới phía ḿnh, liền chạy đến sờ chân người đàn ông ấy với vẻ kính trọng xong đứng sang một bên nói cho Deshbandu nghe rằng: "đây là người anh chồng lớn tuổi nhất lúc xưa của tôi".
Mọi người nghe Shanti nói th́ hết sức kinh ngạc v́ quả thật người đàn ông này chính là anh ruột của Chowbey. Anh này ở Delhi và đáp tàu đến Mathura thăm gia đ́nh Chowbey v́ đă nghe chuyện lạ lùng do Kanjimall kể lại và bất ngờ gặp nhóm người này.
Khi bước xuống sân ga, ông Deshbandu bế Shanti lên chiếc xe ngựa chờ sẵn và nói người đáng xe là cứ theo sự chỉ dẫn đường đi tới nhà của bé Shanti thử xem sao. Trên đường đi, Shanti cho biết là ngày xưa (khi Shanti c̣n là Lugdi, vợ của Chobey) con đường dẫn tới nhà ḿnh không được rải đá tráng nhựa ǵ cả.
Đến nơi, Shanti bảo người đáng xe ngựa ngừng lại rồi leo xuống đất rẻ vào một con đường để vào ngôi nhà nhiều cây cối. Shanti gặp một người Bà La Môn (Brahmin) già liền dừng lại kính cẩn chào, xong quay lại nói với những người đi theo sau:
- Đây là ông bố chồng của tôi!
Trong khi đó, hai bên đường làng, dân chúng nghe tin đồn từ trước về chuyện "Shanti về nhà cũ của tiền kiếp" đă tụ tập rất đông để xem cho được cô bé tái sinh.
C̣n Shanti sau khi chào bố chồng th́ đi ngay vào ngôi nhà một cách rất tự nhiên. Đây đúng là ngôi nhà của người bố chồng, nơi mà trong tiền kiếp, lúc đó Shanti là Lugdi đă cùng Chowbey đến ở một thời gian.
Shanti đă chỉ nơi mà trước đây ḿnh đă ngủ, nơi ḿnh đă treo, móc, cất quần áo. Shanti c̣n tỏ ra quen thuộc tự nhiên với những người ở trong ngôi nhà này. Điều kỳ lạ nhất là trong đám đông đứng gần nhà, Shanti đă phân biệt rơ ràng được một thanh niên khoảng 25 tuổi là anh ruột của ḿnh ở tiền kiếp (lúc Shanti và Lugdi) và một người đàn ông lớn tuổi mà Shanti gọi là anh của bố chồng.
Đến trưa, những người ở trong ủy ban bảo Shanti chỉ đường cho họ đến thăm ngôi nhà của vợ chồng shanti lúc Shanti là Lugdi đă chỉ đường rơ ràng và đến ngay ngôi nhà đó. Tại đây, Shanti nhớ lại rằng ḿnh đă có nói rằng ở khu vườn nhà có cái giếng và thường ngôi tắm ở đó. Nhưng bây giờ không ai thấy cái giếng đâu cả. Shanti tỏ ra bối rối và suy nghĩ. Sau đó, Shanti đến góc sân dùng chân dậm dậm xuống đất và nói:
- Nơi này này! tôi nhớ rơ chính nơi này ngày trước có cái giếng mà...
Những người có mặt tại chỗ đến ngay nơi Shanti đă dẫm chân lên. Họ quan sát thật kỷ và khám phá ra rằng đă có một phiến đá lớn đặt lên đó và từ lâu ngày cỏ, đất phủ lên nên không c̣n thấy miệng giếng nữa. Hai ba người đàn ông liền cố sức đẩy phiến đá đi và miệng giếng lộ ra rơ ràng.
Bỗng Shanti như chợt nhớ ra điều ǵ nên vội vă quay vào trong nhà. Shanti gọi những người trong ủy ban theo ḿnh. Lúc này có thêm sự hiện diện của Chowbey (chồng của Shanti kiếp trước). Bước vào một căn pḥng, Shanti chỉ xuống đất và nói:
- Đây là pḥng ngủ của hai vợ chồng tôi lúc đó, tôi có đào xuống nền nhà của pḥng này để chôn dấu một số tiền. Hăy đào chỗ này lên sẽ thấy cái hộp, trong đó tôi có để tiền...
Khi nền nhà được đào bới lên, mọi người có mặt thấy một cái hộp đặt dưới một phiến đá nhưng khi mở hộp ra th́ không thấy có ǵ trong hộp cả.
Shanti nhíu mày tỏ vẻ suy nghĩ và kinh ngạc nhưng cương quyết nói:
Tôi đă để tiền vào trong cái hộp này mà! vậy ai đă lấy tiền đó vậy? Khi đó Chobey có mặt tại chỗ liền nói ngay:
Vợ tôi là Lugdi có chôn hộp tiền xuống nền nhà của pḥng này. Khi Lugdi chết, tôi đă phải đào lấy tiền trong hộp để trang trải mọi thứ.
Shanti nghe Chowbey nói liền cúi đầu im lặng. Shanti c̣n chỉ căn nhà của cha mẹ ḿnh ở tiền kiếp cho những ngưới trong ủy ban điều tra xem. Shanti bước những bước chân rất tự nhiên và vững vàng quen thuộc lên các bậc cấp của ngôi nhà tựa hồ như đă ở đây hàng chục năm rồi. ngay tại nhà này, đă có hàng mấy chục người vừa đàn ông vừa đàn bà vừa con trẻ ngồi đứng chờ Shanti có thể nhận ra cha mẹ ruột tiền kiếp của ḿnh không.
Tưởng cũng nên nhớ rằng khi chuyện Shanti loan thuyền khắp nơi. Gia đ́nh Lugdi vẫn c̣n nhiều ngờ vực. Sau đó ngươi nhà Lugdi (tiền kiếp của Shanti) đứng lẫn trong đám đông để khi Shanti tới xem cô bé có nhận ra được cha ḿnh ở kiếp trước không? Thế rồi khi Shanti đến, cô bé đi thăm toàn thể ngôi nhà và phải đi ngang qua đám đông sắp thành hàng ngang đứng quanh vườn nhà. Bỗng Shanti rẽ đám đông, tiến lại nắm tay một người đàn bà kêu lên:
- Mẹ! Mẹ...
Sau đó, Shanti lại nhận được người cha tiền kiếp của ḿnh đứng trong đám đông. Hai người Shanti nhận là cha ruột của ḿnh ở kiếp trước chính là cha ruột Lugdi, vợ của Chowbey. Mọi người có mặt lúc bấy giờ đă la hét vang rền và vỗ tay nồng nhiệt v́ đă chứng kiến tận mắt một chuyện lạ lùng nhất thế gian về hiện tượng tái sinh kỳ diệu.
Shanti c̣n đưa ủy ban đi thăm những nơi mà trước đây mà Shanti đă sinh sống qua thân xác của Lugdi. Dân chúng quanh vùng càng ngày càng đổ xô đến xem chuyện lạ. Thị trấn Mathura tự nhiên ồn ào náo nhiệt lạ thường. Bốn ngày sau đó Shanti cùng phái đoàn trở lại Đê-Li. Thị trấn Mathura xa dần trong tầm mắt và càng lúc Shanti càng tỏ vẽ u buồn rồi v́ quá mệt mỏi, Shanti đă ngủ thiếp rất lâu trên đường về.
Có một điều đáng lưu ư khi gặp Chowbey, ông Sushil Bose đă có dịp hỏi Chowbey, chồng của Lugdi về t́nh trạng sức khỏe và bệnh t́nh của Lugdi ra sao đến nỗi phải chết. Chowbey cho biết rằng vợ anh lúc đó là Lugdi bị nhiễm trùng do đạp phải một mảnh xương. Sau đó khi trở về Đê-Li, ông Bose hỏi Shanti một câu như sau:
Shanti bảo rằng trước đây Shanti là Lugdi, vợ của Chowbey. Vậy Shanti có nhớ lúc ḿnh là Lugdi, th́ đă bị thương tích, đau ốm nguy hiểm ǵ trước khi qua đời không? Shanti suy nghĩ một hồi rồi trả lời:
Lúc ấy tôi ( tức là Lugdi rất sùng đạo( đạo Hindu) tôi thường hành hương nhiều nơi và hành lễ đúng thủ tục, đôi khi c̣n vượt xa các thủ tục đă đề ra. Một hôm, tôi đă đi bộ bằng chân không( chân đất không mang giày dép ǵ cả) để đi bộ quanh ngôi đền hiển linh rộng lớn ở Harchapiri cả trăm lần không mỏi mệt.
Nhưng không may là tôi đă dẫm phải một mảnh xương sắc lẽm và bị nhiễm độc rất nặng. Chất độc lan vào máu và bác sĩ đành phải bó tay. Khi nghe Shanti kể song sự việc, ông Bose đă ghi vào cuốn sổ tay của ḿnh một câu như sau:
Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa về hiện tượng tái sinh luân hồi của Shati Devi và Shanti là một trường hợp điển h́nh. Tất cả những ǵ chính cô bé mô tả đều phù hợp hoàn toàn. Đó là điều khẳng định sự thật hiển nhiên rằng Shanti là hậu thân của Lugdi và Lugdi chính là tiền kiếp của bé Shanti.
Người Ấn từ ngàn xưa đă tin vào thuyết luân hồi nên khi chứng kiến rơ ràng sự kiện cô bé Shanti th́ họ lại càng tin tưởng nhiều hơn nữa về hiện tượng tái sinh.
Riêng câu chuyện có thật về Shanti th́ từ năm 1935 đến nay các sách vở và các tài liệu viết về Shanti được lưu trữ tại các văn khố và thư viện quốc gia khắp thế giới rất nhiều. Tài liệu "Shanti" được coi như là tài liệu mẫu mực nhất cho các nhà nghiên cứu về tiền kiếp và hậu kiếp tham khảo và tiếp tục nghiên cứu thêm.
Mới đây người ta c̣n bổ sung thêm vào tài liệu Shanti một số sự kiện mới thí dụ những ghi chép trong gia đ́nh về gịng họ Shanti có ghi rằng trước khi Shanti ĺa đời 3 hôm, Shanti đă nói với anh ḿnh rằng: "Em nghĩ em luôn luôn là kẻ trung thành, trước sau như một với chồng em, cho dù anh ta (Chowbey) là chồng kiếp trước của em đi nữa. Hơn nữa anh ta vẫn c̣n đó, v́ thế em không muốn tái sinh lại lần nữa."
Được biết là suốt đời Shanti vẫn độc thân không chịu lấy chồng cho đến ngày nhắm mắt (hưởng thọ 61 tuổi).
Trường Hợp Bé Dilukshi Ở Sri-Lanka
Chuyện bé Dilukshi ở Sri Lanka nhớ lại tiền kiếp ḿnh cũng đă được nhiều nhà nghiên cứu hiện tượng luân hồi quay phim và viết thành sách. Chính giáo sư Erlendur Haraldson tại đại học Iceland đă là người theo dơi sát về vấn đề này.
Câu chuyện có thật về bé Dilukshi xảy ra như sau:
Năm 1986, bé Dilukshi vừa tṛn hai tuổi, mặc dầu vớchừng ấy tuổi nhưng bé lại ăn nói những câu c̣n hơn cả người lớn nữa. Trong các câu nói có những câu làm cha mẹ Dilukshi cảm thấy lo lắng, bối rối. Mỗi lần nói với mẹ, Dilukshi chỉ gọi bằng D́ chớ không gọi bằng mẹ.
Bé lại c̣n năn nỉ cha mẹ hăy đem bé đến cho người mẹ ruột của bé đang ở tại ngôi nhà thuộc vùng Dawbulla. Địa điểm này ở cách xa chỗ bé Dilukshi đang sống khoảng 100 cây số. Mỗi lần nghe bé nói là cả nhà vừa ngạc nhiên vừa bực tức v́ cứ nghĩ rằng bé đă học của ai, nhưng kiểm soát lại th́ trong gia đ́nh chẳng có người nào chỉ bày cho bé Dilukshi nói những câu như thế cả.
Tuy nhiên cha mẹ Dilukshi vẫn la rầy và bảo bé hăy câm miệng lại kẻo bị đánh đ̣n. Bé Dilukshi vẫn không chịu bỏ câu nói và cách gọi mẹ bằng D́, mà trái lại mỗi lần bị rầy la th́ bé Dilukshi lại trả lời như sau:
- Cha mẹ con trước đây không bao giờ la rầy con mà thường nói với con những lời âu yếm nhẹ nhàng thôi:
Ngoài ra Dilukshi c̣n khẳng định rằng nó đă có lần bị rơi xuống sông Dawbulla.
Cuối cùng, cha mẹ Dilukshi không thể yên tâm, mỗi ngày nghe con ḿnh nói những điều mà họ cho là "vô nghĩa lư". Họ nghĩ có thể con họ bị ma nhập, quỉ ám ǵ đó, v́ thế cha mẹ Dilukshi đă đến tiếp xúc với một vị cao tăng ở một ngôi chùa thuộc vùng Dawbulla. Chẳng bao lâu, câu chuyện về bé Dilukshi được lan truyền khắp nơi. Báo chí đă đưa tin tức về "bé gái Dilukshi lạ kỳ, nói về tiền kiếp của ḿnh".
Dân chúng địa phương đua nhau đọc. Trong số đó có một người đàn ông lớn tuổi, sinh sống ở Dawbulla khi theo dơi câu chuyện của bé Dilukshi th́ tự nhiên cảm thấy có sự trùng hợp lạ lùng với các t́nh huống đă xảy ra cho con gái anh ta.
Con gái của anh này tên là Shiromi đă bị rơi xuống gần sông Dawbulla và đă chết (hôm đó là ngày 16 tháng 9 năm 1983; một năm trước khi Dilukshi chào đời). Sau khi đọc bài báo, hai vợ chồng người này nôn nóng muốn được gặp Dilukshi v́ họ nghĩ rằng có thê Dilukshi là người con gái của họ tái sinh. Dilukshi chính là Shiromi.
Nhờ sự giúp đỡ của một số nhà báo, nhà nghiên cứu hiện tượng luân hồi. Hai gia đ́nh vừa kể có điều kiện gặp nhau. Theo I. W. Abeypala, người đă viết bài tường thuật và đưa tin trên báo chí về câu chuyện bé Dilukshi th́ đây quả là một câu chuyện kỳ lạ hiếm có về một người đă chết rồi được tái sinh trở lại và đi t́m gặp cha mẹ ḿnh ở tiền kiếp.
Chính Abeypala đă chứng kiến tận mắt bé Dilukshi nhận diện ra những người mà bé khẳng định chắc chắn rằng đó là cha mẹ, anh chị em, cô d́, bà ngoại, của ḿnh...
Rồi những đồ chơi trước đây của bé Shiromi được lấy từ tủ ra đă được Dilukshi lắp ráp lại với sự thành thạo như đă từng chơi những thứ đó. Ngoài ra bé c̣n đi t́m thêm những thứ đă bị thiếu trong những thùng đồ khác một các hết sức tự nhiên. Thỉnh thoảng bé Dilukshi c̣n kiểm điểm lại đồ chơi "lúc xưa" của ḿnh xem thử có mất mát cái nào không.
Dilukshi c̣n lấy ở tủ sách một tập vở vẽ rồi lấy bút ch́ để vẽ tiếp vào phần c̣n lại chưa vẽ hết. Mọi người chứng kiến các hành động và cử chỉ của Dilukshi đều thấy rơ ràng rằng Dilukshi đă quá quen thuộc gia đ́nh này và theo như lời nói trước đây của bé khi chưa đến đây th́ chính bé Shiromi, cô bé đă rơi xuống sông chết ở Dawbulla.
Điều kỳ lạ là khi kéo các tủ đựng quần áo, mặc dù các áo quần để không có thứ lớp,lẫn lộn nhưng Dilukshi,vẫn lựa ra được những thứ áo quần nào là của Shiromi, người mà Dilukshi cho là tiền kiếp của ḿnh.
Khi mọi người cùng đến bên bờ sông, Dilukshi đă đưa tay chỉ con sông bảo rằng năm Shiromi lên 9 tuổi đă bị rơi xuống sông này. Abeypala kể lại rằng: Dilukshi đă nhặt một ḥn đá nhỏ và liệng xuống sông rồi bảo:
- Đó! đó chính là nơi con đă té xuống.
Dilukshi c̣n nhớ lại những ǵ mà ḿnh (lúc đó là Shiromi) đă sống trước đó. Bé nhớ lại lúc chơi đùa với người anh trai trên phiến đá nhô cao khỏi mặt đất và đă gọi đó là khối đá nhỏ nhắn dễ thương Dawbulla mà từ trên đỉnh mỏm đá này, bé có thể trông thấy rơ mái nhà của cha mẹ ḿnh ẩn trong tàng cây.
Khi những người đi theo Dilukshimô tả lại cảnh ấy họ liền đi t́m thử ở cạnh bờ sông có khối đá nào như thế không th́ quả nhiên họ trông thấy một khối đá nhỏ nổi cao lên ở một vị trí nằm ngay giữa đoạn đường từ con sông đến ngôi nhà của cha mẹ Shiromi khi leo lên đứng trên mỏm đá này họ đều thấy rơ mái nhà của Shiromi lấp ló sau hàng cây.
Sự hội ngộ giữa hai gia đ́nh Shiromi và Dilukshi đă đem lại kết quả là cha mẹ của cháu bé Shiromi bất hạnh nhận Dilukshi làm con gái của ḿnh.
Dilukshi được xem như Shiromi tái sinh. C̣n cha mẹ hiện nay của Dilukshi th́ vẫn xem bé là con gái của ḿnh, v́ thế, giờ đây, Dilukshi là người con của hai gia đ́nh. Các người trong đoàn đi theo đă quay phim và chụp ảnh hai gia đ́nh chung cùng với nhau và sau đó họ tổ chức một bữa tiệc mừng sự hội ngộ lạ lùng chưa từng có này.
Trường Hợp Bé Subashini.
Sonaw Gyatso là một bé gái 13 tuổi sống với cha mẹ tại Sri-Lanka. Căn nhà Sonaw Gyatso ở gần vùng rừng núi. Theo lời thuật của cha mẹ Sonaw Gyatso th́ cô bé thường hay sợ tiếng động.
Nhiều lần Sonaw Gyatso đă kể lại cho gia đ́nh nghe rằng trước đây bé đă bị chôn vùi v́ đất lở do trận giông tố tạo mưa lớn gây nên. Năm Sonaw Gyatso 13 tuổi, bé bắt đầu nói về kiếp trước của ḿnh một cách rất tự nhiên.
Lúc đó con tôi là một cô gái hái trà (hái trè) nơi đồn điền rộng lớn ở Sinhapitiya (Gampola). Thế rồi, vào một đêm kia, trong một trận giông băo lớn đến khủng khiếp mẹ con lúc đó bảo con hăy đốt đuốc lên và ra ngoài xem thử t́nh h́nh ra sao. Có thể đất, núi, đồi quanh đó lở và sụp đổ không chừng... khi con cầm đuốc bước ra khỏi nhà, trời tối đen, giông tố nổi lên và con đă bị phủ ngập trong những khối đá sụp đổ từ cao xuống.
Sonaw Gyatso đă chỉ rơ nơi mà thảm họa đă diễn ra và cả gia đ́nh của Sonaw Gyatso lúc đó cũng đều bị chết.
Theo các tài liệu kiểm tra được về những thảm họa xảy ra ở vùng này th́ khoảng tháng 10 năm 1977 (khoảng hơn 2 năm trước khi Sonaw Gyatso chào đời) đă có một trận đất chuồi (sụp lở) làm chôn vùi dân cư ở đây. Báo hàng ngày Ceylon Daily Mirror đă đăng tải truyện này và c̣n cho thấy những nấm mồ của những nạn nhân bị chết trong vụ đất lở này, tổng số người bị chết là 28 người cả người lớn và trẻ con.
Điều kỳ diệu là Sonaw Gyatso mặc dầu ra đời sau cuộc thảm họa ây nhưng lại mô tả lại thật rơ ràng những ǵ đă xảy ra. Cha mẹ Sonaw Gyatso cho biết là chính họ cũng không hiểu rơ chi tiết như con họ đă mô tả. Như vậy Sonaw Gyatso đă nhớ lại kiếp trước của ḿnh và nhớ luôn cả những ǵ đă xảy ra lúc đó. Sonaw Gyatso c̣n cho biết là chỗ ở của ḿnh lúc đó cách xa chỗ ở hiện nay 100 cây số. Sonaw Gyatso c̣n tả chi tiết về những người trong nhà làm ǵ trước khi trận chuồi đất xảy ra.
Theo Sonaw Gyatso th́ người anh cả tối đó có về nhà nhưng rồi lại đi ngay trước khi cơn thảm họa kéo tới nhờ đó mà anh thoát chết. Ngoài ra người chị của Sonaw Gyatso tối hôm đó cũng không có mặt ở nhà. Các nhà nghiên cứu sự kiện tái sinh đă cố gắng đi sâu vào vấn đề.
Họ nghĩ tại vùng xảy ra đất chuồi năm 1977, những thân nhân của những người bị nạn chắc chắn vẫn c̣n sinh cơ lập nghiệp quanh đó và hy vọng sẽ t́m ra được người đàn ông mà Sonaw Gyatso đă bảo là người anh cả trong nhà đă thoát chết khi thảm họa xảy ra.
Sau đó chính Sonaw Gyatso đă nhận ra được người này và khi hỏi lại th́ chính anh ta c̣n nhớ rơ ràng trước khi xảy ra tai nạn đất lở, anh ta có về nhà và đă rời khỏi nhà tức th́ có công việc riêng. Khi hỏi về người em gái của anh ta th́ anh ta buồn rầu trả lời:
- Em tôi cũng đă bị chết trong trận băo tối hôm đó rồi. Em tôi tên là Mallika (Devi Mallika). Để t́m đúng nơi mà Sonaw Gyatso đă mô tả, đoàn nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của ông I.B.Herath đă leo lên ngọn núi, từ đó nối liền với những đồi chè thoai thoải.
Mọi vật chẳng có ǵ thay đổi ngoài một vài nơi đất sụt lở dưới chân đồi, dưới có nhiều ngôi nhà bị chôn vùi trong đất đá, Herath đă đúc kết lại những ǵ đă xảy ra trong thảm họa đó. Lúc đó khoảng 8 giờ tối ngày 27 tháng 10 năm 1977 sấm sét càng lúc càng mănh liệt tiếp theo sau 4 ngày mưa tầm tả.
Bất th́nh ĺnh một tảng đá hoa cương (granite) khổng lồ nặng hàng ngàn tấn sụt lở từ trên cao lôi cuốn theo đất, bùn sụt lở ào ào đổ xuống sường núi và chôn vùi tất cả những ǵ nằm ở bên dưới, trong đó có bé Mallika và gia đ́nh của bé.
Trong bản ghi các tài liệu về trường hợp của Sonaw Gyatso có một đoạn mô tả cách uống trà của Sonaw Gyatso khá lạ lùng. Thường ngày Sonaw Gyatso đều uống trà, đó là thói quen khó bỏ nhưng cách uống trà lại có phần kỳ dị. Mỗi lần uống, Sonaw Gyatso đổ một ít đường vào ḷng bàn tay rồi khi uống một hớp trà th́ lại dùng lưỡi liếm một tí đường cho ngọt miệng.
Cha mẹ Subashini đă ngạc nhiên về cách uống trà của con ḿnh và chẳng hiểu v́ sao Subashini lại thích uống trà theo kiểu lạ lùng như vậy. Măi về sau, khi người đàn ông mà Subashini bảo là anh cả của ḿnh từ kiếp trước kể chuyện uống trà trong gia đ́nh anh ta thi khi đó mới vỡ lẽ ra rằng:
Sở dĩ Subashini uống trà theo cách vừa mô tả là do khi Subashini c̣n là Mallika (tiền kiếp) th́ trong gia đ́nh này v́ quá nghèo không đủ khả năng mua nhiều đường pha vào tách trà để uống thường lệ mà phải "chấm mút" nhỏ giọt theo phương cách đă kể. Cái thói quen uống trà kiểu đó vẫn c̣n lưu giữ đối với Subashini khi tái sinh.
Giờ đây, các nhà nghiên cứu không c̣n nghi ngờ ǵ nữa về những ǵ mà chính Subashini đă kể về đời sống tiền kiếp của ḿnh, về những ǵ đă xảy ra cho ḿnh và cho gia đ́nh, tất cả đều phù hợp với những ǵ mà các nhà nghiên cứu đă t́m thấy.
Ngoài ra sự kiện Subashini uống trà theo những cách thức liếm đường trong ḷng bàn tay và nhất là kinh hoàng hốt hoảng, lo sợ khi nghe tiếng sấm vang đều là những bằng chức hết sức rơ ràng chứng minh rằng bé Millika đă tái sinh trở lại qua bé Subashini vậy.
Trường Hợp Duminda Hậu Thân Của Một Vị Sư Trưởng Hay Ven Gunnepara Tái Sinh?
Tại Sri Lanka có một bé trai tên là Duminda. Khi sinh ra và lớn lên, cháu bé cũng giống như bao nhiêu em bé khác, chẳng có ǵ đặc biệt. Nhưng đến năm 3 tuổi tự nhiên Duminda biết tụng kinh như một chú tiểu và lạ lùng hợn nữa là bé tụng kinh theo nguyên văn tiếng Pali một thứ tiếng rất khó thuộc về ngôn ngữ cổ xưa của Phật giáo Ấn Độ.
Gia đ́nh Duminda trước đó cũng đă có ư định muốn gởi bé vào một tu viện địa phương và họ muốn chuẩn bị cho con ḿnh trở thành một chú tiểu để dần dần trở nên một nhà chân tu sau này.
Duminda được bố mẹ dẫn đến thủ đô của một vùng đảo nổi danh được xem như là trung tâm tôn giáo nổi tiếng nơi mà Đền thờ Răng Thiêng của Phật được xây cất, địa điểm này ở gần với tu viện Asgiry.
Trong thời gian c̣n bé, Duminda sống với ông bà chớ không ở với cha mẹ. Ngay từ tấm bé, Duminda thường ăn mặc rất khác người. Thường ngày bé khoác bên ḿnh một miếng vải màu vàng (vắt ngang qua vai giống kiểu áo choàng của những nhà sư thường mặc). Cứ mỗi ngày, Duminda đến viếng nơi Đền Thiêng. Nơi đây bé Duminda tụng kinh Pali.
Cha mẹ Duminda cho biết: Năm lên ba tuổi, Duminda tự nhiên nói một câu như sau:
- Trước đây tôi là một nhà sư ở đền Asgirya.
Ông ngoại của Duminda cũng cho biết là thường khi đứa cháu này thúc giục mọi người trong gia đ́nh hăy đến Đền Asgirya để lễ bái.
Sáng nào Duminda cũng dậy sớm, khoát tấm vải màng như đắp y lên ḿnh rồi bước ra cửa đứng trước mặt nhà nh́n người qua lại. Mỗi lần thấy bóng dáng một vị sư bước lên xe bus là Duminda kêu to lên như nhắc nhở:
- Ḱa, ḱa, nhà sư đă lên đường rồi, tôi cũng muốn đến Đền Asgirya, hăy để tôi đi!
Những ǵ mà cá nhà sư thường làm như giờ trai tăng, giờ tụng kinh, giờ đọc sách, lễ phật... th́ Duminda đều làm đúng theo như một vị sư đă tu tŕ lâu ngày trong chùa vậy. Người mẹ Duminda th́ kể rằng: Duminda rất sạch sẽ, thường căn dặn mẹ là không nên đụng tay vào một vị sư nào v́ đó là điều cấm kỵ.
Ngay cả khi người mẹ tắm cho Duminda th́ chỉ có múc nước xối lên người bé thôi chớ không được kỳ cọ đụng tay vào da thịt bé. Duminda cũng không chơi với những trẻ con khác v́ tự nhận ḿnh là người lớn, luôn luôn tỏ ra đàng hoàng nghiêm túc. Bé thường dặn người trong nhà hăy gọi ḿnh là chú tiểu hay sư nhỏ cũng được hoặc gọi bằng hai chữ Podi Sadhu.
Duminda dần dần không c̣n là đứa bé kỳ dị đối với gia đ́nh nữa. Cha mẹ Duminda chẳng c̣n ngạc nhiên hay lo lắng về những cử chỉ, lời nói lạ lùng của bé nữa v́ họ xem Duminda như có "căn cơ" "nghiệp lực" tu tŕ từ nhỏ và chắc chắn sẽ thành vị sư tài ba sau này.
V́ thế họ dự định gởi Duminda vào tu viện, ở Tích Lan cũng có tục lệ gần giống với Tây Tạng về vấn đề con trẻ thường được cha mẹ gởi vào tu viện để được đào tạo và trở thành tu sĩ sau này.
Duminda thường dùng cái quạt cầm tay để che trước mặt giống như những nhà sư thường làm và ngâm thơ một cách thành thạo. Khi gặp các nhà sư ngoài đường hay đến nhà. Duminda luôn luôn nhắc đi nhắc lại rằng ḿnh trước kia (kiếp trước) cũng là một nhà sư tu hành ở Asgirya.
Duminda c̣n cho biết là tại đó có một tu viện lớn và ḿnh có một ở với đầy đủ đồ đạc và của cải. Ngoài ra, c̣n có một chiếc xe mô tô nữa. Duminda thường ngỏ ư muốn được đến Asgirya thể thăm ngôi Đền Thiêng và coi lại căn pḥng, đồ đạc và chiếc xe của ḿnh.
Những nhà sư đă có lần gặp Duminda đều có nhận xét rằng: "Đây là một đứa trẻ có phong cách, cử chỉ, lời nói lạ lùng hoàn toàn khác xá với những đứa trẻ khác. Nhiều người đề nghị là nên đưa Duminda đến Asgirya một chuyến thử xem sao.
Chuyến đi được sắp đặt chu đáo. Ngày khởi hành là ngày chủ nhật, tháng 10 năm 1987. Cùng đi với Duminda đến Asgirya có một số nhà báo và bhàm khoa học. Một số nhà báo của tờ báo nổi tiếng Island là Oliver Silva cũng tháp tùng theo.
Suốt cuộc hành tŕnh. Duminda rất tành về đường sá dẫn đến tu viện chính ở Asgirya Duminda c̣n nhắc lại những tập tục ở đó nhất là những phương thức, nghi lễ cầu nguyện. Duminda nhắc lại là lúc c̣n là vị sư ở đó, Duminda đă dược tôn kính và nể trọng.
Khi tới nơi, một vị sư đă nghe qua chuyện kể về Duminda và nêu lên câi hỏi như sau:
- Chào Duminda, chẳng hay Duminda có biết cây Bồ Đề nơi dấu tích Linh Thiêng của phật ở đâu chăng?
Duminda nghe vị sư hỏi ḿnh câi đó th́ im lặng không trả lời nhưng bước đi thật nhanh không do dự qua một nơi với nhiều bậc cấp quanh co và đến nơi có ngôi điện nằm dưới cây Bồ Đề.
Khi vào trong tu viện, Duminda tự nhiên đi qua các pḥng như người đă ở đây từ lâu rồi. Đến một pḥng khá khang trang gần tu viện Dumind mởp cửa và chỉ vào trong nói với mọi người:
- Đây là căn mà xưa kia tôi đă ở.
Các nhà sư có mặt ở tu viện vô cùng kinh ngạc, họ không dám coi thường Duminda, họ tỏ vẻ kính nể ra mặt. Một vị tu sĩ mời Dumimda ngồi cho đỡ mỏi nhưng Duminda vẫn đứng yên chờ cho đến ki có người đem miếng khăn trắng phủ lên ghế mới chịu ngồi xuống v́ đó là tục lệ đặc biệt dành cho một vị cao tăng.
Duminda lúc bấy giờ mới chững chạc, chậm răi kế về thân của ḿnh cho mọi người nghe.
- Trước đây tôi là một vị sư và đă qua đời sau một lần té ngă xuống đất. Lúc đó tôi cảm thấy đau tức ở ngực thật dữ dội và được chở tới bệnh viện nhưng không thể cứu chữa được nữa.
Khi một bức ảnh xưa chụp 12 vị sư được đem ra trao cho Duminda xem th́ Duminda nh́n ản một hồi lâu rồi đưa ngón tay chỉ một vị sư đứng trong ảnh và nói:
- Người này chính là tôi!
Lúc bấy giờ hai vị sư già và vị cao tăng trong tu viện xem lại người mà Duminda đă chỉ trong bức ảnh th́ họ đều xác nhận được chính là vị sư trưởng của tu viện tên là Ven Gunnepana. Vị này đă qua đời năm 1929. Điều trùng hợp lạ lùng với những ǵ mà Duminda đă nói trước đó là vị sư trưởng này có của cải, tiền bạc và có một chiếc xe mô tô nữa.
Duminda c̣n chỉ cho mọi người thấy nơi mà trước đây ḿnh đă ngủ, nơi treo các quần áo. Trước bàn thờ Phật. Duminda kính cẩn quỳ xuống làm lễ tụng kinh bằng tiếng Pali.
Bác sĩ Ian Stevenson đă phát biểu như sau khi nghiên cứu kỷ hiện tượng lạ lùng về cậu bé Duminda.
- Đây là một trường hợp ly kỳ và lư thú về hiện tượng được gọi là hiện tượng luân hồi tái sinh. Một hiện tượng cho đến nay rơ ràng khoa học chưa có thể giải thích nhưng càng ngày con người càng gặp nhiều hiện tượng tương tự xảy ra khắp nơi trên thế giới...
Sự kiện vừa kể trên được xem như trường hợp thuộc về hiện tượng hoá thân trở lại của những vị chân tu để hoàn tất một tâm nguyện như tiếp tục cứu độ chúng sinh chẳng hạn. Và sự kiện này đă trở thành thông thường nơi xứ Tây Tạng.
Sự Tái Sinh Của Những Vị Hóa Thân
Sự tái sinh luân hồi được hiểu đơn giản là sự đầu thai lại và người Tây Tạng tin tưởng rằng có những vị cao tăng, những vị sư trưởng, khi chết thường có ư nguyện được tái sinh trở lại để giúp đỡ chúng sinh. Các vị Bồ Tát mặc dù đă thoát khỏi ṿng luân hồi Nhân Quả nhưng họ vẫn muốn được đầu thai trở lại để hoàn tất ước nguyện cứu độ những kẻ c̣n ch́m đắm trong mê mờ tối tăm ở cơi thế.
Danh từ Hóa Thân được dịch từ chữ Tulkus và được hiểu như đă nói trên. Thật ra từ Hóa Thân chỉ dùng cho những vị Bồ Tát c̣n muốn tái sinh trở lại. Nhiều sách vỡ đôi khi c̣n dịch chữ Hoá Thân qua từ Reincamation. Từ Reincamation chỉ sự đầu thai của tất cả những chúng sinh c̣n bị nghiệp quả luân hồi tác động.
Trái lại từ Tulkus chỉ sự đầu thai trở lại theo ư muốn, v́ những người đầu thai này thật sự đă thoát khỏi sự ràng buộc của luân hồi. Những vị này sau khi đă đầu thai rồi, họ vẫn ư thức được rơ ràng về tiền kiếp của ḿnh và biết rằng ḿnh tái sinh trở lại là để thực hiện một ư tưởng vị tha cao cả cho chúng sinh.
Theo các tài liệu nghiên cứu về Phật giáo Tây Tạng và nhất là những cuộc đời của Đức Đại Lai Lạt Ma Tây Tạng (mà chúng tôi may mắn đă có được một tài liệu giá trị của tác giả Phương Dung viết về đề tài này trên báo Hồn Việt và báo Việt Nam (1993) th́ từ năm 1419 Tây Tạng đă có truyền thống về sự hóa thân khi Đại Sư Tsong Khapa qua đời.
Vị này đă chỉ định sư Gedum Truppa thay thế ḿnh. Chính vị sư này đă nguyện rằng sau khi chết sẽ tái sinh trở lại để cứu độ chúng sinh và hoàn tất những ǵ ḿnh chưa làm xong cũng như phát triển việc huấn luyện các tu sĩ phái Gelugpas thường được gọi là phái Mũ Vàng lúc đó đang gặp nhiều khó khăn trở ngại.
Theo Đại Sư Gedun Truppa th́ hóa thân trở lại trần gian, ông sẽ đầu thai trở lại qua các vị Đạt Lai Lạt Ma. Để các đệ tử biết được ḿnh sẽ hóa thân vào người nào, Đại sư đă chỉ rơ một vài thứ đồ dùng hằng ngày của ḿnh và viết một bài kệ đặc biệt. Ngày sau cứ theo đó mà suy đoán. Sau khi Đại sư Gedun Truppa viên tịch được 2 năm, các đệ tử đă thăm ḍ, theo dơi, t́m kiếm khắp nơi những ǵ khả dĩ nói lên được sự tái sinh của Đại Sư.
Lúc bấy giờ ở một vùng kế cận Thủ Đô, có một bé trai mới 2 tuổi nhưng ăn nói và hiểu biết thông thạo như người lớn. Nghe được tin này, các đệ tử của Đại Sư đă t́m đến tiếp xúc. Họ thấy cậu bé trả lời những câu hỏi do họ đưa ra rất trôi chảy. Sau đó là cuộc thử thách, họ đặt những di vật của Đại Sư Gedun Truppa lẫn lộn với nhiều đồ vật khác của những vị sư khác trong tu viện trước mặt cậu bé rồi hỏi như sau:
- Hăy cho biết những thứ nào người đă thường dùng ngày xưa?
Cậu bé nh́n tất cả các thứ rồi lựa chọn những di vật của Đại Sư Gedun Truppa để riêng ra một bên rồi nói:
- Đây là những thứ tôi thường dùng ngày trước.
Các đệ tử vô cùng kinh ngạc, một người nhớ lại bài kệ liền đưa cho cậu bé đọc thử. Không ngờ vào tuổi nhỏ như vậy mà cậu bé lại đọc được cả bài kệ và c̣n giải thích luôn những đoạn khó hiểu cho mọi người nghe.
Sau khi đă chắc chắn đó là vị Hóa Thân của Đại Sư Gedun Truppa. Các đệ tử đă rước cậu bé về tu viện và tôn lên làm Sư Trưởng với danh hiệu là Gedun Gyatso. Tại tu viện, cậu bé đă được huấn luyện rất kỷ về giáo lư quy luật và mọi thứ dành cho vị Sư Trưởng sau này. Gedun Gyatso rất thông minh, học một biết mười, có lần cậu bé thấy nhiều người trong tu viện kinh ngạc về trí thông minh của ḿnh nên đă nói một câu như sau:
- Thế các người không biết ta chính là Đại Sư Gedun Truppa hay sao?
Về sau, cậu bé đă lớn lên trong tu viện cùng với các tài năng xuất chúng của ḿnh. Lúc bấy giờ ông là một Sư trưởng nổi danh về tài đức, thông suốt mọi kinh điển Phật giáo và đă đi rao giảng, giúp đỡ mọi người từ những làng mạc xa xôi đến những nơi heo hút khiến mọi người dân ở Tây Tạng đều tôn sùng kính nể.
Sư trưởng có nhiều ước nguyện trong vấn đề cứu độ chúng sanh. Nhưng chưa thực hiện được bao nhiêu th́ bệnh bất ngờ và qua đời. Trước khi tắt hơi, vị Sư trưởng này đă trăn trối lại ḿnh sẽ tái sinh lần nữa để mong hoàn tất ư nguyện.
Lần này, ông để lại một số di vật khác trước và một bài kệ mới để các đệ tử dùng trong việc t́m ra người mà Sư trưởng sẽ đầu thai vào. Không đầy một năm rưỡi sau, người ta phát hiện được một ngôi làng ở rất xa thủ đô có một cháu bé ra đời trong một gia đ́nh nghèo.
Bé này có những cử chỉ và lời nói rất lạ lùng. luôn luôn tỏ vẻ nôn nóng và yêu cầu về đến được chính tu viện để gặp mặt một số vị sư ở đó. Tu viện chính liền cử ba người đến ngôi làng ấy. Khi đi, họ đem theo các di vật của Sư trưởng cùng bài kệ. Trước lúc phái đoàn đến nhà một ngày, cháu bé đă báo cho gia đ́nh biết là:
"Ngày mai sẽ có khách quư đến thăm, hăy chuẩn bị trà nước đón khách". Quả nhiên ngày hôm sau phái đoàn tu sĩ của tu viện chính đến, cháu bé đă nhận ra một người trong đoàn, đó là một vị sư già thường lo việc giao tiếp giữa các ngôi chùa, các tu viện, cháu bé đă hỏi thăm về t́nh h́nh ở tu viện cùng những việc mà lúc sinh tiền, Sư trưởng Gedun Gyatso đă biết qua.
Các vị sư lại bày ra các di vật của sư trưởng chen lẫn với những thứ khác vào và yêu cầu cháu bé chọn ra hai đồ vật mà trước đây Sư trưởng Gedun Gyatso thường dùng và c̣n chỉ vào một vật thứ ba rồi bảo rằng:
- Vật này ta thường dùng hằng ngày. Nhớ giữ ǵn cẩn thận kẻo sứt mẻ.
Riêng bài kệ, cháu bé đọc song suốt và c̣n bảo rằng: "bài kệ ngày xưa vẫn c̣n lưu trữ tại tu viện chứ?"
Cháu bé được tôn vinh sau đó làm vị Đại Sư tên là Sonaw Gyatso. Đây là vị Đại Sư tài ba nỗi lạc c̣n hơn cả vị Sư trưởng trước. Điều này được các vị Trưởng Lăo giải thích rằng: qua nhiều lần tái sinh và học hỏi, lần tái sinh sau bao giờ cũng đặc sắc hơn v́ đây là một sự tiến hóa, trong đó có sự tiến hóa rơ ràng về kiến thức.
Hơn nữa v́ sự Hóa thân nên các vị này luôn luôn tu bồi thêm công quả và sự học hỏi của ḿnh. Đại sư Sonaw Gyatso đă là người tạo sự giác ngộ lạ lùng cho danh tướng hung dữ Đại Hăn và cũng từ đó mà tướng Mông Cổ này đă phong Đại Sư làm Đạt Lai Lạt Ma và cầu mong Đại Sư bảo vệ và giáo hóa cho người Mông Cổ.
Năm 1588, Đại Sư Sonaw Gyatso qua đời, lần này vị Đại Sư căn dặn các đệ tử trước khi xuôi tay là ḿnh sẽ lại tái sinh một lần nữa để cứu độ người Mông Cổ. Vị Đại Sư đă để lại một số di vật và một bài kệ ngắn để các đệ tử đối chiếu và t́m kiếm người hóa thân.
Đến khoảng năm 1593, các đệ tử mới t́m gặp một bé trai 5 tuổi có những điều rất phù hợp với cuộc thử nghiệm. Bé trai này được đưa về tu viện và phong danh hiệu là Yonsten Gyatso Tưởng nên biết rằng bé trai này gốc gác là cháu nội của Đại Hăn Mông Cổ Về sau, bé trai này trở thành Đạt Lai Lạt Ma và chính nhờ vị này mà nhân dân Mông Cổ trải qua được một thời đại vững bền, an cư lạc nghiệp.
Khi Yonsten Gyatso, vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 4 này qua đời, các đệ tử lại theo truyền thống như tŕnh bày từ trước để t́m người kế vị. Đó là Hóa thân của chính Yonsten Gyatso. Đây là vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 danh hiệu là Lobsang Gyatso. Trong đời ngài, cung điện Potala được xây dựng cùng với nhiều tu viện và đào tạo nhiều tu sĩ có nhiều khả năng từ đạo đức đến học vấn.
Tây Tạng nhờ đó ngày càng phát triển mạnh về nhiều mặt. Các vị Đạt Lai Lạt Ma tuần tự nối tiếp theo phương thức Hóa thân đă cố gắng chăm sóc nhân dân và ǵn giữ đất nước được độc lập lâu dài trong suốt mấy trăm năm.
Nhưng rồi tai họa lại xảy đến cho toàn dân v́ Tây Tạng nằm bên áp lực của những nước lớn như Nga và Trung Cộng, ngoài ra c̣n chịu áp lực của những nước khác nữa. Lúc bấy giờ vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 của Tây Tạng là Thupten Gyatso đă t́m đủ mọi cách để chống đỡ đất nước nhưng càng ngày Tây Tạng càng bị ngoại bang nḥm ngó.
Ngài biết trước thế nào đất nước ngài cũng gặp thảm họa nhưng ngài lại không thể sống thêm để cứu nguy dân tộc và đạo pháp. Sau khi ngài qua đời, Trung Cộng tung quân xâm lược, đàn áp người dân Tây Tạng và t́m cách triệt hạ tôn giáo.
Tục truyền rằng khi vị Đạt Lai Lạt Ma Thupten Gyatso qua đời, nhục thân ngài ở vị thế ngồi tĩnh tọa và được ướp xác theo phương pháp cổ truyền. Nhưng sau đó các tu sĩ thấy mặt ngài đă chuyển về hướng Đông Bắc. Vị sư già nhiều kinh nghiệm đă suy ra rằng đức Đạt Lai Lạt Ma đă chỉ hướng, nơi mà ngài lại tái sinh.
Từ đó cuộc t́m kiếm vị Hóa thân của ngài được tiến hành. Phái đoàn lên đường nhắm hướng Đông Bắc mà đi. Trên đường họ thu thập thêm các sự kiện có liên hệ. Một hôm họ nghe đồn về một cháu độ 3 tuổi rất thông minh và thường nhắc đến các vị sư cũng như thích kinh điển.
Phái đoàn đến ngôi nhà đó. Đây là một ngôi nhà xây bằng đất tọa lạc bên cạnh một cây cổ thụ xum xuê. Khi phái đoàn bước vào th́ gặp cháu bé. Cháu bé rất vui mừng khi thấy các nhà sư vào nhà ḿnh nên chạy vội đến mà ngồi lên đùi một vị trưởng lăo ḥa thượng v́ vị này có đeo một chuỗi hạt rất đẹp vị sư hỏi:
- Tên ngươi là ǵ?
Cháu bé đáp:
- Tôi là Lhamo
Vị sư lại chỉ một nhà sư đứng bên cạnh và hỏi:
- Đây là ai?
Cháu bé đáp:
- Đây là Lạt Ma Scra.
Phái đoàn đă biết được một phần nào kết quả khi trắc nghiệm cháu bé Lhamo, nhưng họ c̣n phải t́m hiểu thêm nữa trước khi quyết định tháp tùng Lhamo về tu viện. Lần sau họ đưa ra một số xâu chuỗi khác nhau và yêu cầu Lhamo phân biệt thử xâu chuỗi nào là của Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 thường dùng.
Lhamo liền bước đến dùng xâu chuỗi không đúng của Đạt Lai Lạt Ma ra và chỉ giữ lại xâu chuỗi của ngài đă dùng trước đây. Các vị tu sĩ đều kinh ngạc v́ quả thật xâu chuỗi đó chính là xâu chuỗi của Đạt Lai Lạt Ma thứ 13. Các cuộc trắc nghiệm kế tiếp đều được Lhamo làm đúng hoàn toàn. Do đó phái đoàn quyết định đưa Lhamo về kinh đô.
Mặc dầu đường sá khó khăn lại thêm quân đội Trung Cộng gây cản trở nhưng cuối cùng phái đoàn cũng đưa được Lhamo về cung điện Potala. Đến năm gần 5 tuổi. Bé Lhamo chính thức được tôn vinh là Đạt Lai Lạt Ma lần thứ 14. Trong suốt 20 năm, vị phật sống này phải được huấn luyện về mọi mặt.
Tuy nhỏ tuổi nhưng ngài phải vượt qua nhiều thử thách cam go về giờ giấc, học hành, và nhất là thực hành các pháp môn và giáo lư Phật giáo...
Trong khi đó, t́nh h́nh chính trị không yên. Trung Cộng t́m đủ mọi cách để gây hấn v́ thế năm 1959 Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đă phải trong đêm khuya trốn khỏi điện Potala để vượt biên giới để lánh nạn ở Ấn Độ. Trên đây là những giai đoạn Hóa thân của Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng. Thật sự th́ sự hóa thân được xem như khởi đầu từ Đại Sư Gedun Truppa trở đi.
Khi một vị Đạt Lai Lạt Ma qua đời, vị này thường có được ước nguyện tái sinh trở lại, việc đi t́m cho đúng ai là người Hóa thân của những vị này là cả một vấn đề rất khó khăn. Đôi khi phải mất 3, 4 năm hay hơn mới t́m ra được vị hóa thân. V́ thế mỗi khi một vị lănh đạo tôn giáo cao cấp của Tây Tạng qua đời th́ họ sẽ đầu thai trở lại.
Mới đây các vị sư Tây Tạng trú tại Ấn đă lưu ư đến trường hợp một cậu bé 5 tuổi tên là Simon cậu bé này có lời nói và cử chỉ rất lạ lùng. Khi gặp tu sĩ Geshe Lobsang Tsepel, 62 tuổi( viện trưởng của trung tâm Phật giáo Tây Tạng ở San Dioge) cậu bé đă bước tới nói một câu rất tự nhiên:
À! Tôi biết ông nhưng có lẽ ông không nhận ra tôi?! Chính tôi là người mà ông thường ở kề cận.
Lúc đầu tu sĩ Geshe Lobsang Tsepel cứ tưởng cậu bé tập nói theo kiểu người lớn nhưng khi ông này cuối xuống nh́n vào mắt cậu bé Simon và hỏi lại một câu rằng: "vừa rồi Simon đă nói ǵ?" th́ bé vẫn trả lời: "tôi biết ông!" vừa nói Simon vừa đưa tay mân mê chiếc c̣ng của tu sĩ Geshe tỏ vẻ thân mật vô cùng.
Vị tu sĩ này sau đó, trở lại hỏi người trong gia đ́nh này về trường hợp của bé Simon th́ được cha mẹ Simon cho biết thêm chi tiết như sau:
Bé Simon rất khác thường nếu so sánh với các trẻ con khác, suốt ngày Simon chỉ ngắm trời mây, đi dạo trong nhà hay trong sân. Ít thích chơi đùa nghịch ngợm, thường tư lự như một người đứng tuổi. Mới đây Simon lại có các biểu hiện lạ lùng như tự nhiên nói những ḷi tiên tri.
Có lần Simon khuyến cáo trong nhà không nên nghe lời người hàng xóm để đi xa th́ thật sư nơi đó chẳng có ǵ. Lần khác Simon bảo người cha nên ở nhà trong một ngày mà Simon bảo ngày ấy là rất xấu cho ông. Quả hôm đó chỗ ông định tới lại bị lụt lớn, găy cầu, nếu ông đi sẽ bị kẹt lại đó một thời gian.
Cậu bé Simon sinh tại California Hoa Kỳ và đă t́nh cờ gặp tu sĩ Geshe Lobsang Tsepel khi vị này đến thăm Victoville thuộc vùng sa mạc Nam Cali. Sau khi thấy ở bé Simon những biểu hiện lạ lùng, vị tu sĩ này trở về và hôm sau nằm mộng thấy vị thầy của ḿnh thuở trước. Đó là Lạt Ma Lobsang Phakpa.
Người đă viên tịch tại Trung Quốc vào đầu thập niên 1950, trong giấc mơ, vị Lạt Ma này như có điều ǵ nhắn gởi với tu sĩ Geshe Lobsang Tsepel.
Khi vị tu sĩ giật ḿnh thức dậy, ông tự nhiên có ư nghĩ rằng có lẽ bà Simon là Hóa thân của Lạt Ma Lobsang Phakpa chăng v́ ngày xưa tu sĩ Geshe Lobsang thường sống gần gũi bên vị Lạt Ma này và vị này mỗi khi nói điều ǵ cũng thường hay lấy tay sờ hay ấn vào cằm tu sĩ Geshe Lobsang giống như bé Simon đă làm.
Sau đó, tu sĩ này đă viết một bức thư đầy đủ chi tiết gởi về Ấn Độ để thỉnh ư quư vị lănh đạo tu viện cũ có liên hệ với Lạt Ma Lobsang Phakpa.
Sau một thời gian t́m hiểu, trắc nghiệm, quư vị trong ban lănh đạo tu viện đă quyết định gởi bé Simon qua Ấn để t́m hiểu thêm và nếu quả thật th́ bé Simon sẽ được giáo dục theo phương pháp và chương tŕnh giáo dục của tu viện Tây Tạng.
Cũng cần biết thêm là trước đó vài năm, tại Tây Ban Nha người ta cũng phát hiện được một cháu bé được nghi ngờ là một Hóa thân của một vị Lạt Ma. Và năm 1992 người ta cũng phát hiện được một bé trai có cử chỉ và lời nói hoàn toàn giống Đức Phó Tăng Thống Tây Tạng. Sau đó Đạt Lai Lạt Ma đă đồng ư gởi bé qua Ấn Độ t́m hiểu thêm đó có phải là một Hóa thân của vị Tăng Thống ấy không.
Kết Luận
Nhà triết học nổi danh Schopenhauer đă có một suy nghĩ về số kiếp sinh vật khi ông bàn về vấn đề siêu h́nh của sự chết: "Nếu ta nghĩ lại một cách khách quan và vô tư rằng khi ta giết một sinh vật nào đó, hoặc là con chó, con chim, con ếch hay là một con côn trùng nhỏ nhoi... th́ quả thật ta không thể nào tưởng tượng được sinh vật ấy mà trước đây đầy sinh lực và kỳ diệu đến thế.
Bỗng nhiên lại bị giết đi một cách tức tưởi v́ một hành động tàn ác dửng dưng hay xuẩn ngốc của ta và trước mắt ta hàng triệu sinh linh khác đủ cỡ đủ loại đầy sức sống và đầy ham muốn, chúng được sinh ra và trước khi sinh, không thể là một cái ǵ cả và từ không ấy lại khởi đầu mọi thứ.
Như thế ta không thể không ngạc nhiên tự hỏi rằng: "cái ǵ biến đi và cái ǵ lại thay thế chúng khi ta măi thấy chung quanh ḿnh sinh vật này mất đi th́ sinh vật khác xuất hiện cũng như phải thắc mắc về điều sinh vật ấy từ đâu đến nhất là những sinh vật cùng h́nh dạng, cùng đời sống và tập tính, chỉ khác ở thể chất mà thôi?"
Đại Đức Dhammananda đă có lần phát biểu như sau: "Nếu trong vũ trụ hay trong đời này chỉ có một kiếp sống độc nhất th́ tại sao Thượng Đế nhân từ bác ái vô biên lại dửng dưng trước đau khổ trước sự sống chết, thọ yểu của con người.
Tại sao lại có sự bất công vô lư khi người này mới ra đời đă chết c̣n người khác lại sống thọ? Hay người này bệnh hoạn khổ đau, nghèo nàn, c̣n người kia lại mạnh khỏe, giàu sang, hạnh phúc? Làm sao Ngài lại bất công đến như vậy được?
Hay phải chăng tất cả đều có nguyên nhân và nguyên nhân đó có phải phát sinh từ những hành động xấu xa tội lỗi hoặc tốt lành của con người đă tạo ra hay không? Nói khác đi họ đă tạo nhân th́ nhân sẽ phát sinh quả? Nếu thế th́ những ǵ xảy ra trong cuộc đời người này hoặc người kia đều không phải do sự t́nh cờ ngẫu nhiên mà chính là do hậu quả của mọi hành động và sự bất đồng đều.
Bất tương xứng hay bất công trong cuộc sống giữa kẻ này, người kia, giữa người giàu, người nghèo, người sung sướng người đau khổ, người cô đơn, người hạnh phúc, người bệnh nan y tật nguyền người mạnh khỏe... đều do nghiệp báo, tái sinh mới giải thích được một cách hợp lư đối với sự bất công vô lư trong cuộc sống của mỗi con người mà thôi."
Rơ ràng hiện tượng tái sinh đă mở ra cho con người chúng ta những cánh cửa mới khác để từ đó giúp ta hiểu rơ hơn về cuộc đời, về cuộc sống của con người và đặc biệt nhất là ngay chính bản thân ḿnh về những ǵ từ quá khứ đến hiện tại và cả tương lai.
Trong cuốn Life After Life của Raymond A. Moondy có một đoạn nói đến sự hiểu biết về sống chết, về luân hồi tái sinh đă ảnh hưởng nhiều đến đời sống trong hiên tại của mỗi con người chúng ta. Dịch giả Hoàng Phi Lưu Hoàng Nguyên đă dịch lại đoạn ấy như sau: (trong Giai Phẩm Pháp Duyên Bộ mới số 3)
"Ảnh hưởng của kinh nghiệm túc lâm chung đối với đời họ dường như hiện ra dưới dạng những dạng tế nhị, thầm lặng hơn. Nhiều người cho tôi biết nhờ kinh nghiệm đó, đời họ trở thành sâu rộng hơn, họ trở nên trầm tư hơn và quan tâm nhiều đến những vấn đề triết lư cơ bản.
"Lúc đó trước khi lên học trường cao đẳng tôi sống tại một tỉnh nhỏ với những người trí óc hẹp ḥi, những người mà dù muốn dù không tôi cũng từng cộng tác. Tôi là một thằng nhóc điển h́nh của hội học sinh trung học. Bạn sẽ không giống như thế, trừ phi bạn gia nhập hội chúng tôi.
Nhưng sau khi chuyện đó xảy ra, tôi muốn biết nhiều hơn nữa. Song lúc ấy tôi nghĩ chắc không ai biết rành chuyện này bởi lẽ tôi chưa ra khỏi thế giới nhỏ bé của ḿnh.
Tôi nào biết chi về tâm lư học hoặc những ǵ tương tự. Tôi nào biết chi về tâm lư học hoặc những ǵ tương tự. Tôi chỉ biết đă cảm thấy bỗng chốc trở nên già dặn sau khi chết hụt, v́ nó đă mở ngơ cho tôi cả một thế giới mới mà tôi đâu ngờ nó có thể hiện hữu.
Tôi cứ măi băn khoăn: "Quả có nhiều điều ḿnh cần khám phá." Nói cách khác, cuộc sống phong phú hơn là việc xem chiếu bóng tối thứ sáu và chơi đá banh. Tôi thấy có nhiều cái ḿnh mù tịt. Rồi tôi bắt đầu suy nghĩ: "Đâu là giới hạn của con người, của tâm thức?" Nó chỉ hé mở ngơ cho tôi thấy một thế giới mới mà thôi"
Có người lại nhận định:
"Từ đó, lúc nào tôi cũng nghĩ đến những ǵ ḿnh đă làm trong đời và những ǵ ḿnh sẽ làm. Tôi tự măn với quá khứ. Tôi không nghĩ là cơi đời có nợ tôi chi, v́ tôi đă làm tất cả những điều ḿnh muốn, tôi đă làm theo ư ḿnh, và tôi hiện c̣n sống, c̣n có thể làm thêm nữa.
Nhưng từ khi chết hụt, bỗng nhiên ngay sau lúc hồi sinh, tôi bắt đầu hỏi ḿnh đă làm những điều trước kia từng làm v́ chúng là điều thiện, hay v́ chúng ích lợi cho tôi.
Xưa kia tôi phản ứng khi có sự xúc động, nay th́ tôi suy nghĩ chậm răi, kỹ lưỡng trước đă. Mọi việc dường như phải qua tâm trí tôi và được tiêu hóa cái đă.
Tôi cố gắng làm những việc có nhiều ư nghĩa hơn, điều này làm hôn tôi thoải mái hơn. Tôi có gắng không có thành kiến, tránh phê phán người khác.
Tôi muốn làm những việc thiện chứ chẳng phải những việc ích kỷ. Và dường như tôi trở nên lịch lăm hơn. Tôi cảm thấy thế v́ những ǵ đă xảy ra cho tôi, và những nơi tôi đă đến và những điều ḿnh thấy trong cơn thập tử nhất sinh."
Những người khác cho biết có sự thay đổi thái đô đối với cuộc sống dương trần mà họ đă trở lại. Chẳng hạn một bà đă nói thật đơn giản: "Nó làm đời tôi trở nên quư báu hơn nhiều đối với tôi."
Người khác kể:
"Về phương diện nào đó, nó đă rất hữu ích trước khi bị cơn đứng tim, tôi quá quân rộn hoạch định tương lai cho lũ con và lo nghĩ chuyên đă qua, nên lỡ dịp vui sống những giây phút hiện tại. Giờ tôi có thái độ khác biệt nhiều."
Nhiều người cho rằng việc trải qua kinh nghiệm chết sống đă thay đổi quan niệm của họ về tâm thức, về tầm quan trọng tương đối của thể xác đối với tinh thần. Đoạn văn sau đây của một bà từng xuất hồn trong cơn thập tử nhất sinh minh họa khá rơ ràng điều này:
"Lúc tôi ư thức về tâm hồn ḿnh nhiều hơn về thể xác. Tâm hồn là phần quan trọng nhất, thay v́ h́nh dáng của cơ thể. Thế mà trước đây, trong suốt cuộc đời, nó hoàn toàn ngược lại. Tôi đă chủ yếu chú trọng đến thân thể, c̣n cái ǵ đang lướt qua trí chỉ là những điều đang lướt qua, thế thôi.
Nhưng sau khi sự việc xảy ra tâm hồn tôi là cái đáng chú ư, h́nh hài là thứ yếu. H́nh hài chỉ có cái vỏ để bọc tâm hồn. Có hay không có thể xác tôi cóc cần, điều đó không thành vấn đề v́ mới thái độ hoàn toàn dửng dưng, tâm hồn tôi vẫn là cái quan trọng."
Qua mấy trăm trang sách, tuy không đủ vào đâu so với vấn đề huyền vi rộng lớn vô cùng của hiện tượng được gọi là luân hồi, tái sinh, tiền kiếp, hậu kiếp nhưng một phần nào cũng giúp làm rơ nét những ǵ có liên quan đến vấn đề trọng đại của những kiếp người.
Những kiếp người liên hệ nhân quả với nhau hay tổng quát hơn là sự luân hồi chuyển kiếp qua những đời sinh vật. Tuy nhiên có nhiều người đă nghĩ sai lạc về sự luân hồi chuyển kiếp.
Chẳng hạn họ cho rằng ta cứ việc sát sinh càng nhiều càng tốt v́ làm như thế là đă "hóa kiếp" cho các loài sinh vật. Đây là một sự hiểu lầm tai hại v́ luân hồi được xem như một định luật tự nhiên, khi ta giết một con vật với ư nghĩ giúp hóa kiếp sớm cho nó th́ chẳng khác nào hành động vặn kim đồng hồ hay xé từng xấp lịch cho thời gian, ngày tháng tới nhanh hơn.
Đă là sinh vật th́ luôn luôn chịu ảnh hưởng của sự tái sinh mà nguyên do chính hành động, nó là nguyên lư tác động làm phát sinh sự luân hồi chuyển hóa tái sinh. Kinh Bhagavad Gita có câu:
"Nghiệp chính là lực sáng tạo, v́ lực sáng tạo ấy mà vạn vật có được đời sống của chúng."
Sự luân hồi tái sinh thật sự không do ai gây ra ngoài chính bản thân sinh vật. Tại sao tôi lại sinh ra, tôi lại phải chịu nhiều trong cơi đời, đau khổ, bệnh tật, rồi chết? Khi chết lại không phải là chấm dứt đời đời? Cái nguyên nhân sâu xa ấy có thể thấy được hoặc qua giấc ngủ thôi miên, qua giấc mộng, tự nhiên thấy được hoặc sâu xa hơn có thể suy diễn từ những ǵ mà con người đang gánh lấy.
Đọc qua các chương chúng ta có được một số khái niêm sơ lược về những giải thích v́ sao xon người lại phải khổ đau? Tại sao có người giàu người nghèo, tại sao có người trường thọ có người chết yểu, tại sao có kẻ tài hoa có người đần độn, tại sao có người hạnh phúc?... Đi xa hơn nữa ta c̣n suy đoán được một sự kiện thường gây thắc mắc từ biết bao đời nay.
Như nguyên nhân nào kẻ làm ác đôi khi lại được sống lâu c̣n được giàm sang phú quư c̣n kẻ hiền lương, thường làm việc thiện đôi khi lại chịu cảnh oan trái, nghèo khổ, đắng cay?
Tất cả mọi sự kiện xảy ra ở mỗi đời người đều có nguyên nhân. Nguyên nhân này quả thật vô cùng sâu xa và thuộc về quá khứ xa xăm hay gọi là tiền kiếp. Biết được cái nguyên nhân phát sinh ấy khiến ta suy đoán thêm rằng ngay trong cuộc sống hiện tại, ḿnh phải sống và hành động thế nào để tạo nhân cho quả của đời sau (hậu kiếp).
Nhân tốt th́ quả tốt và ngược lại. Có những việc mà lúc sống, chúng ta đă hăng say mong chu toàn v́ lo sợ cái chết đến sẽ làm ta không hoàn tất được. Nhưng khi ta đă hy vọng có cuộc sống mai sau th́ điều này sẽ giúp ta tiếp tục đạt sở nguyện.
Luân hồi là định luật tự nhiên, định luật này tác động lên mọi kiếp người nhưng kiếp người chuyển hóa tốt lành hạnh phúc, giàu sang hay nghèo hèn, bệnh tật hay mạnh khỏe đều có nguyên nhân và việc đinh số kiếp như thế rơ ràng là do chính ta.
Định luật luân hồi cho thây có sự tự do của chính con người. Nếu con người biết ḿnh khổ đau là do những hành động xấu xa tội lỗi của chính ḿnh đă tạo ra từ tiền kiếp th́ trong kiếp hiện tại ta có toàn quyền định đoạt phần nào số phận kế tiếp của ḿnh.
Sự hiểu biết về định luật luân hồi nghiệp báo đă giúp con người tin tưởng và chịu đựng trong cuộc sống, cố gắng làm điều thiện, sẵn sàng quên ḿnh và giúp đỡ người. Không c̣n tiếp nuối cho tuổi đời đi qua v́ cuộc đời c̣n tiếp nối qua nhiều kiếp và con người có thể tạo được sự hạnh phúc tốt lành cho ḿnh ở kiếp lại sinh.
Đoàn Văn Thông
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 451 of 1146: Đă gửi: 01 July 2010 lúc 6:16am | Đă lưu IP
|
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 452 of 1146: Đă gửi: 01 July 2010 lúc 11:51pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỊA NGỤC DU KƯ
LỆNH CỦA NGỌC HOÀNG
Chủ tịch của bản đường là họ Quan đăng đài.
Thánh Đức dạy: Ngọc Chỉ ban xuống, lịnh cho Thành Hoàng trong ṿng năm dặm.
Phước Thần trong ṿng mười dặm tới nghênh đón, chư sinh hảy nghiêm chỉnh hầu tiếp giá chỉ.
Kim Khuyết Nội Tướng là họ Từ giáng bút.
Thơ:
Duy Hoàng thiết thiết niệm nguyên linh
Thánh Phật thinh thinh cứu khổ kinh
Ngọc Chỉ trung thu ban trực hạt
Nhất luân minh nguyệt chiếu u minh
Dịch:
Tiên cầu tha thiết cỏi huyền linh
Phật tụng vang vang cứu khổ kinh
Ngọc Đế trung thu vừa giáng lệnh
Vầng trăng ngời tỏa chốn U Minh.
Đức thánh dạy: Ta mang sắt chỉ của Ngọc Hoàng xuống đây, đêm nay tuyên đọc. Thần Nhân cúi lạy.
Kính vâng
Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn, Thuơng Đế u linh cao cả dạy rằng:
Trẫm ở điện Linh Tiêu, ḷng lo thế đạo, mắt nh́n bụi đỏ cát đen bay ngộp trời, chốn nhân gian luân thường đảo lộn, nam không trung hiếu, nữ thiếu tiết trinh, cho Tiên Phật là hảo huyền, cho Thần Thánh là chẳng thiêng liêng, phong tục tập quán xă hội th́ tồi bại, nhân t́nh nghĩa lư tiêu tan.
Ḷng trẫm đau buồn quá đỗi, không nỡ ngồi yên nh́n chúng sanh đoạ đầy chốn tối tăm mà không cứu. Thấy rằng Thánh Hiền Đường ở Đài Trung thuộc cơi Nam Thiên cai quản, có mỡ Trường dạy dỗ chúng sanh phải tốn hao nhiều sức lực của Thần Nhân mới phổ biến được đạo.
Nay lại mượn tập chí Thánh Hiền quảng độ bến mê, nghiệp cơ bút thăng tiến nghiệp thánh huy hoàng. Nay Trẫm đặc biệt ban lệnh khai mở kho báu kinh điển, mà tên sách là Địa Ngục Du Kư, ra lệnh cho Phật Sống Tế Công, chỉ dẩn cặn kẽ cho thuật giả thánh bút Dương Sinh, dạo mười điện Địa Ngục rồi về kễ lại tỉ mỉ sự t́nh cho người đời rơ.
Những thảm cảnh của các linh hồn tội lỗi, hầu gặt hái công phu khuyên can giáo hoá. Do đó sách nầy là sách phi phàm, nhân cảm động v́ các vị thuộc Thánh Hiền Đường quyết chí không ngừng, nên mới được phú cho mệnh lớn tới mức đó, hy vọng chư vị giữ bền được ḷng tin, thay Trời giáo hoá.
Đồng thời ra lệnh cho các cửa điện chốn U Minh, nếu như mỗi khi Du Sinh tới phải mỡ cửa nghênh tiếp, cùng hợp tác để tiện hoàn thành cuốn sách vàng ngọc này, nếu như căi lệnh chắc chắn sẽ bị nghiêm trị chẳng tha.
Kể từ ngày ban lệnh này, cứ mỗi kỳ ngồi đồng là dạo Địa Ngục viết sách, cho tới khi nào xong mới thôi. Chư vị đă thay trời thi hành mệnh lệnh. ngày nào sách viết xong sẽ luận công tưỡng thưởng cho, chớ có trái lời. Đó là linh của Trẫm.
Kính vâng không sao lăng. Cúi đầu tạ ơn vận Trời ngày rằm tháng 8 năm bính Th́n 1976.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 453 of 1146: Đă gửi: 01 July 2010 lúc 11:54pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỊA NGỤC DU KƯ
THÁI THỰƠNG VÔ CỰC HỖN NGUYÊN GIÁO CHỦ
NGUYÊN THUỶ THIÊN TÔN
Giáng
Thơ:
Nhân sinh như mộng độ quang âm
Uổng tự hồi tài dữ tịch âm
Thanh sắc dĩ tương thiên địa tính
Tịnh thần hựu trực lợi danh tâm
Ái hà phiêu lăng đầu nan xuất
Hoả trạch tiên giao nghiệp tiệm thâm
Mạc khả nhất sinh hư quá liễu
Hung dung ưng cải tự Quan Âm.
Dịch:
Kiếp người mộng ảo tựa thời gian
Uổng cả vàng tham lẫn bạc ham
Thanh sắc vùi chôn trời dất tánh
Tinh thần đeo đuổi lợi danh tâm
Sông yêu ngụp lặn đầu khôn cất
Nhà lửa nấu nung nghiệp khó an
Chớ để đời ḿnh lầm lỗi măi
Xấu xa sửa đổi giống Quan Âm.
ĐỀ TỰA
Nhớ thuở hỗn mang trời đất chưa chia, vũ trụ c̣n chung một khí, ban đầu hút khí từ vô cực, tiêu dao tự tại. Tới khi trời đất mở mang, nhờ chân khí của trung ương con người giáng sinh.
Ban đầu tính nó thiện nên lúc chết dể trở về nơi chất phác ban đầu. Nhưng rồi bụi đất ngày càng phủ dầy nên tính thiện đă bị thay thế bằng tính ác, bởi vậy Trời bèn thiết lập địa ngục, để làm chốn hối cải cho thanh tịnh lại.
Bởi căn tính của chúng sinh bị ô nhiễm biến chất, nên ngày càng truỵ lạc, gần đây trở thành quá bại hoại, khiến địa ngục đông nghẹt chúng sinh. Ngọc Hoàng Thượng Đế thấy vậy không nỡ để cho loài người đoạ trầm hơn nữa.
Mới toả ánh linh quang cho tiết lộ những h́nh phạt ghê gớm dưới địa ngục, để cảnh cáo người đời hầu tránh không đạp lên vết bánh xe đó nữa, mới mong trở về được nguồn cội, dứt nghiệp khổ đau luân hồi.
V́ Thánh Hiền Đường ở Đài Trung trong những năm qua, đă vâng theo ḷng trời phát huy cơ bút siển dương đạo giáo, có công khuyên đời dạy người, tôn chỉ chính đáng hoà nhă, ra công hoằng đạo nên nay được nhận sắc chỉ của Ngọc Hoàng Thượng Đế, đảm nhiệm trọng trách nặng nề dạo chốn địa ngục viết sách.
Ra lệnh cho Phật Sống Tế Công, hướng dẫn hồn phách Dương Thiện Sinh thân hành xuống âm phủ, vào ngục thăm ḍ để nắm vững bằng chứng, và do đồng tử của Ngọc Hoàng Thái Hư pḥ bút, dùng mắt pháp chân truyền, chụp lấy các cảnh tượng ở cơi âm ty.
Rồi đem những h́nh ảnh đó vào sách, để tạo thành cuốn Địa Ngục Du Kư, bày tỏ hết những bí mật của âm ty, những sự thật kỳ thế gian không thấy được, không tưởng tượng nổi.
Phí mất hai năm, tới nay sách xong, người đời nếu chăm đọc sách này, mau tỉnh thức hồi tâm, bỏ ác làm thiện, khuyên đi theo ngă thiên đường, người người như vậy hẳn là địa ngục trống không, hết thảy về với cực lạc.
Nội dung sách này mang nhiều ấnchứng, phù hợp với phép tắc trần gian, là một thánh điển cứu đời, thần thánh chẳng thể xâm phạm, hy vọng người đọc phát tâm truyền bá rộng răi để giáo hoá, cùng phiên dịch phát hành sâu rộng.
Phàm có sự yêu cầu nên hưởng ứng tích cực, những ai có ḷng hẵn rơ điều tốt lành là như vậy. Đồng thời cũng là lời tựa.
Nguyên Thuỷ Thiên Tôn giáng cơ bài tựa tại Thánh Hiền Đường ở Đài Trung.
Vận Trời ngày 13 tháng tư năm Mậu Ngọ 1978.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 454 of 1146: Đă gửi: 01 July 2010 lúc 11:56pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỊA NGỤC DU KƯ
GIÁO CHỦ CƠI U MINH BỒ TÁT ĐỊA TẠNG VƯƠNG
Giáng
ĐỀ TỰA
Ôi! Thiên Đường có lối, người tới vắng vẻ; địa ngục không cửa người đến đông nghẹt. Người đời không kham vắng lặng, khó khứng yên tịnh, theo nóng dựa mạnh, ch́m đắm trong chốn tửu sắc, nước xoáy.
Biển khổ mênh mông, biết bao kẻ trượt chân té sấp, khiến địa ngục đầy người, tiếng khóc than rung chuyển trời xanh! Ta chủ cai quản mười điện địa ngục, mắt thấy tai nghe lời than vang dội khắp, ḷng nào chịu thấu!
Ba giới chúng sinh, nguyên khí chung ḍng, từ vô thuỷ tới nay đều do ḷng dục tham cầu không dứt, mà sinh tử nối nhau. Than ṿng luân hồi khổ hải, nhà lửa thiêu đốt! Nguyện dẹp địa ngục, nhưng tiếc không một ngày nào độ hết chúng sinh.
Ngọc Đế ḷng từ vô lượng, thương xót hài nhi, nên ban sắc lệnh cho Thánh Hiền Đường ở Đài Trung, viết sách Địa Ngục Du Kư, Tế Phật hướng dẫn Dương Thiện Sinh dạo âm phủ.
Chốn nào đi tới các ty ở cơi âm đều phải nghênh tiếp khoản đải, Minh Vương và các Ngục Quan phải đàm đạo tŕnh bày, trải khắp nẻo tối mênh mang, mới đủ kinh nghiệm viết thành thiên du kư, quí như vàng ngọc, giáo huấn mẫu mực.
Phàm bọn tâm ngu lư tối coi thường coi khinh, quả báo như bóng theo h́nh. Ấn chứng trong sách dồi dào dễ dàng khảo sát chứng nghiệm, kẻ nghiên cứu sách này giải toả hoài nghi, sợ hăi bừng tỉnh canh thâu, sám hối, hành động quang minh, sau khi chết được miễn đày xuống địa ngục, để cho âm binh nhục mạ trừng phạt.
Nếu kẻ nào coi lời nói của ta như gió xuân thổi qua tai ngựa, th́ đó vô phương kêu cứu, chớ oán Tiên Phật vô t́nh. Đúng lúc sách Địa Ngục Du Kư lên khuôn, th́ ta có mặt ở Thánh Hiền Đường nên thuật ít lời.
Mong sách này lúc chào đời, độ được hết thảy chúng sinh, địa ngục sớm trống không, cơi ta bà biến thành vườn lạc thú, mong lắm thay.
Bồ Tát Địa Tạng Vương giáng cơ bút tại Thánh Hiền Đường Đài Trung.
Vận Trời ngày 13 tháng 4 năm Mậu Ngọ 1978.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 455 of 1146: Đă gửi: 01 July 2010 lúc 11:57pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỊA NGỤC DU KƯ
HỦ TỊCH CỦA BẢN ĐƯỜNG LÀ
HỌ QUAN ĐĂNG ĐÀN
ĐỀ TỰA
Bản đường thành lập Thánh Hiền Đường là để mỡ mang đạo giáo, phát huy cơ bút, phát hành kinh sách dạy điều thiện đă gặt hái được nhiều kết quả lớn lao, trong việc giáo dục chúng sinh, chận đứng làn sóng dữ, ngăn xă hội đồi phong bại tục đang đà xuống dốc.
Tuy một năm qua đă in nhiều sách thiện, khuyên răn hướng dẫn ḷng người, nhưng hiềm nỗi c̣n nhiều kẻ vẫn sống sa đoạ, ngoan cố không chịu cải tà qui chánh.
Ngọc Hoàng Thượng Đế rất xúc động trước cảnh tượng này, nên cho mở hội Linh Tiêu, và hội nghị đă đồng thành, quyết định chọn một đàn trường tinh thần chân chính, có cơ duyên tốt đẹp cùng Thần Thánh.
Có nhân duyên hoà hoả cùng chúng sinh, nhất là đàn cơ ấy đă từng có nhiều dịp ứng nghiệm thiêng liêng, để tiện cho việc xuất hồn dạo cơi âm ty viết sách, đem chuyện thực của âm phủ mà tiết lộ ở thế gian, để cảnh tỉnh giáo hoá người đời.
May mắn được lựa chọn, bản đường rất lấy làm vinh dự với chức này, ngay lúc đó tôi lo lắng muôn phần, v́ việc dạo âm phủ không thể so sánh với việc thờ phượng, cơ bút cùng siển dương đạo giáo.
Muôn một nếu như việc phụ đồng có sai trật, tâm trí Dương Sinh bị thác loạn, th́ quả là một sớm đem chuyện đại sự phá huỷ đi, tội nghịch quá nặng, Trời người đều khiếp hăi.
Tuy nhiên lệnh Trời khó cững, kính cẫn vâng lời thánh dạy ngày rằm tháng tám năm bính Th́n 1976, toàn thể môn đệ của Thánh Hiền Đường kính cẩn nghinh đón sắc chỉ.
Mỗi kỳ hầu bóng xuất hồn đều tỉnh tâm họp mặt đông đủ tại bản đường, Dương Sinh ăn chay giữ ǵn trai giới đợi chờ....
Khi Tế Phật tới, ngài liền hướng dẫn linh hồn Dương Sinh dạo địa ngục quan sát. Đồng Tử Ngọc Hư giữ điện truyền chân, đối đáp với Phật và người, đàm thoại với âm ti, nhất là vung bút viết tài liệu để làm sách Địa Ngục Du Kư.
Sau hai năm như vậy mới dạo hết các cửa địa ngục và thảo xong sách, giờ đây nh́n lại ḷng tôi vô cùng kinh hăi. Kể từ khi bản đường phát huy cơ bút siển dương đạo giáo tới nay, đă phí rất nhiều thời gian.
Giờ đây mới thực hiện nổi cuốn sách phi phàm này, nội dung của nó hết sức trung thực, quả là sách khuyến thiện thế gian rất linh nghiệm, rất quư giá.
Sách này vừa ra đời, địa ngục tối tăm liền phóng hào quang, nguyện phổ độ chúng sinh dưới gầm trời, có duyên đọc được sách này đều thoát khỏi bể khổ mà lên thiên đường.
Bản đường Chủ tịch Quan Hưng Phu Tử kính cẩn đề tựa.
Vận Trời ngày 13 tháng 4 năm Mậu Ngọ 1978.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 456 of 1146: Đă gửi: 01 July 2010 lúc 11:59pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỊA NGỤC DU KƯ
CHỦ BÍ KIM KHUYẾT LÀ HỌ LẠC
Giáng
PHÀM LỆ
1. Sách này phụng sắc chỉ của Ngọc Hoàng mà sáng tác, văn tuy thô thiển nhưng hàm chứa chân lư sâu xa, quả là pho sách quí để tu thân ngộ đạo, cùng cảm hoá người đời
2. Trong sách nếu như chữ nghĩa không đựơc Văn hoa, v́ bởi cốt diễn tả sự việc sao cho trung thật, xin độc giă chớ coi thưởng.
3. Sách này đă vắt cạn tâm huyết của Thần và Người, sau hai năm mới thành được tác phẩm lớn, nội dung toàn thể cuốn sách đă tiết lộ hết những bí mật, làm sáng tơ luật lệ cùng h́nh phạt ở cơi Âm.
Để gióng những hồi chuông cảnh tỉnh cứu đời, vạn thuở khó gặp được một lần, mong người đời đọc nó, quí nó, ngộ nó, tu nó.
4. Sách này lại do các ty Thiên Tào, Địa Tào, Nhân Tào hợp tác mà thành, nên cũng được huân công, bởi vậy in tặng một bản, th́ cả Tam Tào đều cảm kích.
5. Kim Khuyết Thánh dạy: phàm những ai in tặng sách này để cứu nhân độ thế, chẳng kể tự in, giúp in, khuyên in, giảng giải, phổ biến đều được giảm bớt tội ở thế gian, nếu như công đức sâu dày, sẽ được thăng Thiên tiêu dao tiên cảnh.
6. Phàm cầu thọ, cầu công danh, cầu khỏi bệnh, mong tiêu oan nghiệp, cầu công quả để chuộc tội t́nh, cầu tổ tiên được siêu thăng, cầu được phước sâu dầy, nếu phát nguyện in tặng sách này th́ đều được như ư.
Phàm cầu xin điều ǵ, th́ nên thắp nhang van vái Táo Quân ở trong nhà, bàn ông Thiên ở ngoài sân. Thần Thánh ở chốn miếu đ́nh, chư thần sẽ tức khắc tâu về Trời được báo ứng liền, Thánh ư chắc chắn có thực.
7. V́ có Thần Thánh mười phương bảo hộ pháp, cho nên chốn để sách phải cẩn thận, khi xem xong nên cất nơi thanh tịnh, không được làm ô uế.
Phàm những kẻ phỉ báng khinh khi, gây trở ngại cho việc phổ biến sách nầy, sẽ vĩnh viễn đoạ địa ngục, tội ác chẳng thể tha. Hy vọng chúng sinh quay về đường thiện, suy nghĩ chính chắn rồi thi hành.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 457 of 1146: Đă gửi: 02 July 2010 lúc 12:00am | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỊA NGỤC DU KƯ
ĐỒNG TỬ NGỌC HƯ ĐĂNG ĐÀI
Thơ:
Thiên giáng kỳ thư tác chỉ nam
Âm ti thảm cảnh khởi hư đàm
Hồi đầu địa ngục nguyên vô lộ
Sám hối do như thanh xuân lam.
Dịch:
Sách lạ Trời ban hướng dẫn đường
Âm ti thảm cảnh há bàn suông
Ăn năn âm phủ đâu c̣n ngă
Sám hối thiên đường hẳn được thăng.
ĐỀ TỰA
Người đời măi mê hưởng thụ vật chất hữu h́nh mới nhận ra rằng, tinh thần tu vững đạo đức giáo dục, hiện bị sa đoạ, khiến những tội ác như trộm cướp, giết chóc, gian ác ngày một gia tăng.
Muốn chặn đứng mối hoạ lớn lao, khai mở con đường giáo dục đạo đức, thuyết minh nhân quả báo ứng là có thực, linh hồn bất diệt chẳng sai, hoạ phước vốn không có cửa, nó đều do thiện ác.
Người ta nếu như lúc sống tạo nghiệp, sau khi chết linh hồn sẽ bị phiền luỵ, đày đoạ nẻo ác, nhồi trui luân hồi, đó là lư do tại sao có địa ngục.
Linh khí ta thuần thanh, cho nên đắc pháp giới tiêu dao, nay Thánh Hiền Đường Đài Trung lănh sắc mệnh của Ngọc Hoàng Thượng Đế, viết sách Địa Ngục Du Kư, ta may mắn được lănh chức vụ "Pháp Nhăn Truyền Chân", không dám nghịch ư.
Mỗi khi gặp giá đồng trong đêm vắng, Tế Phật giáng lâm hướng dẫn hồn phách Dương Sinh dạo cơi u minh, tham quan phỏng vấn các ngục, trong lúc Dương Sinh hỏi han các tội hồn.
Tức th́ ta dùng pháp nhăn tiếp thâu thanh âm, h́nh ảnh truyền chân, nhập vào thể xác Dương Sinh, tay cầm bút giáng cơ tả rơ cảnh thực chốn âm ti, ghi chép thành sách, để cảnh tỉnh giáo hoá người đời.
Sự việc này thật là ảo diệu, bên cạnh có thiện nam tín nữ vây quanh xem xét, hưởng ứng xác nhận có thần thánh linh thiêng.
Những kẻ mắt chưa nh́n thấy cảnh này, th́ làm sao tin nổi? Do đó ta thành thực mong chúng sinh hiểu tỏ thiên đường, địa ngục đều ở tại tâm, nếu như bỏ mất lương tri của ḿnh, hẳn tâm chẳng an sống tai thiên đường.
Kẻ tâm chết, mỗi khi tâm sống lại đều thống trách ḿnh, lúc đó cảnh tượng địa ngục hiện rơ. Do đó địa ngục là nơi giam giữ kẻ phạm tội, chúng sinh không thể tham luyến, nhận lầm ḿnh là quê quán.
Người do Trời sinh ra, thiên đường mới là chốn nhà xưa, tha thiết mong tránh khỏi ch́m nổi, giữa sóng tử sinh luân hồi măi măi.
Nay nhân sách Địa Ngục Du Kư đem ban bố khuyên đời, ta mượn ngôn bút giáng cơ nói ít lời. Những điều mắt thấy tai nghe, một năm gần đây cảnh địa ngục thảm thiết vô cùng, khiến hết c̣n muốn nh́n.
Hy vọng những ai xem xong sách này, từ nay về sau, nhất cử nhất động đều phải thanh bạch, không được nhơ bẩn, để tránh tiếp tục trở thành chủng tử của địa ngục, mới khỏi phụ ḷng ta đau đớn khổ năo.
Cung Ngọc Hư đồng tử Ngọc Hư kính đề.
Vận Trời ngày 13 tháng 4 năm Mậu Ngọ 1978.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 458 of 1146: Đă gửi: 02 July 2010 lúc 12:02am | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỊA NGỤC DU KƯ
TỚI NÚI TÂM ĐẦU XEM HANG ĐỊA NGỤC
(CHƯƠNG MỘT)
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 16 tháng 8 năm Bính Th́n 1976.
Thơ:
Thiên đường địa ngục tại tâm đầu
Thiện ác toàn bằng nhất niêm tu
Tế Phật kim tiêu sang dẫn đạo
Dương Sinh tuỳ ngă giá liên du.
Dịch:
Thiên đường địa ngục ở tâm ta
Thiện ác thảy nhờ quyết chí tu
Tế Phật đêm nay nguyền dẫn lối
Dương Sinh theo gót cưỡi sen đi.
Tế Phật: Này Dương Sinh, đêm nay con cùng ta xuống địa ngục dạo chơi, con nghĩ sao?
Dương Sinh: Xin cúi đầu lạy tạ ơn Trời Phật đă ban cho con dịp may xuống thăm âm phủ, ḷng con tràn đầy hứng khởi.
Tế Phật: Thánh Hiền Đường thuộc cơi Nam Thiên, các đệ tử phải chăm tu đức nghiệp, quảng độ bến mê, phát hành nhiều kinh sách, dạy điều thiện để người đời học hỏi, cho đạo khí ngập tràn vũ trụ.
Ngọc Hoàng đă đặc biệt ban sắc lệnh trước tác sách Địa Ngục Du Kư, để nói rỏ về âm phủ. Những chốn quan trọng nầy Dương Sinh lại chưa từng đi đến. Vậy sau khi tỏ đường rơ lối, con phải thuật lại cặn kẻ cho người đời thấu hiểu.
Trong thời gian con trao dồi ngọn bút giáng cơ, thầy đă chỉ dậy cho con rất nhiều, nhờ vậy mối duyên thầy tṛ giờ đây thật là bền chặt. Hôm nay chốn cao xanh lại sắp xếp cho chúng ta dạo xem địa ngục để viết sách, thầy rất lấy làm mừng.
V́ nhờ dịp may nầy ḿnh mới bày tỏ được hết tấm ḷng chân thành nồng nhiệt, đối với việc cảnh tỉnh giáo hoá người đời. Chắc chắn tâm lư hướng thượng rồi đây sẽ sống dậy mạnh mẽ trong ḷng họ. Thôi chúng ta đi.
Dương Sinh: Cảm tạ những điều thầy vừa chỉ giáo. Con thường nghe người ta nói, dạo địa ngục đều phải cỡi ngựa thần hoặc ngự đài sen. Sao thầy lại bảo con đi?
Tế Phật: Này Dương Sinh, con quá thiệt thà, đường địa ngục làm sao đi bộ! Há con nghĩ đè mây lướt khói được nữa hay sao? Xă hội khoa học tiến bộ ngày nay, ra ngoài có xe hơi, xe máy dầu thay cho đi bộ, con cũng tưởng dùng được những phương tiện đó nữa chẳng?
Sự thực th́ địa ngục không có cửa, mọi người phải tự ḿnh đi tới, ngoài ra chỉ là mộng đó thôi. Kiên nhẫn đi hết đường đạo gian nan, mới mong tới được thiên đường.
Dương Sinh: Con thấy h́nh như đêm nay ân sư uống rượu?
Tế Phật: Đúng ta có uống vài chén, nhân v́ thấy rơ t́nh đời, ḷng người thật đáng sợ, độ họ khó quá. Nghĩ vậy ḷng ta đau buồn, nên chỉ c̣n cách mượn rượu để giải sầu. Thầy biết con cũng thích rượu, hăy uống một chén cho say luôn tới âm ti.
Dương Sinh: Con không biết uống rượu. Ân sư thật khéo chọc cười.
Tế Phật: Hay quá, thời giờ gắp gáp, thầy hoá phép cho một bông sen nở, để thầy tṛ ḿnh cùng cưỡi nha.
Dương Sinh: Phật pháp của ân sư thật quả vô biên, miệng niệm chân ngôn, tức th́ một đoá sen trắng nở ra. Nhưng bạch thầy chân con không sạch, con không dám bước lên đài sen.
Tế Phật: Tâm con cũng như lời con vừa nói đều tinh khiết, nhưng dầu chân con không sạch cũng chẳng quan hệ ǵ. Tục ngữ có nói về hoa sen "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Dương Sinh: Thầy dạy như vậy con mới dám thử, con đă sẳn sàng rồi, nhưng thưa đi hướng nào?
Tế Phật: Con nhắm mắt lại, ta chỉ đường cho, là đi tới ngay.
Dương Sinh: Xin vâng lệnh.
Tế Phật: Con có thể mở mắt ra.
Dương Sinh: Thưa thầy đây là chốn nào ? Tại sao trước mắt có toà núi cao, trên vách đá con thấy đề ba chữ "Tâm Đầu Sơn", ánh vàng chiếu loà cả mắt con.
Tế Phật: Núi nầy tên là núi "Tâm Đầu", leo tới đỉnh là cửa lên thiên đàng, nh́n xuống sườn núi thấy một cái động đen ng̣m, không đáy, đó là hang "Địa Ngục".
Sau khi chết, kẻ hành động quang minh chính đại tới đỉnh núi lên thiên đường, kẻ làm chuyện tối tăm mờ ám, đi đến đây nh́n thấy ba chữ "Núi Tâm Đầu" hoa mắt, chóng mặt rồi bất tỉnh, rớt xuống hố sâu địa ngục.
Bởi vậy thánh hiền đời xưa, đă căn cứ vào đó mà chỉ dạy rằng: "Tâm khả tố thiên đường, tâm khả tố địa ngục" (Tâm có thể tạo thiên đường, tâm có thể tạo địa ngục).
Dương Sinh: Như vậy thiên đường hay địa ngục là bởi người tạo ra, Tiên do người làm nên, ma quỉ cũng do người làm nên.
Tế Phật: Đêm nay thời gian eo hẹp, tạm ngừng lại ở đây. Chưẩn bị trở lại Hiền Đường, mau lên đài sen.
Dương Sinh: Thưa vâng.
Tế Phật: Mau nhắm mắt lại, nếu mở, gặp gió âm lùa thổi mắt trần khó chống cự nổi.
Dương Sinh: Thưa đúng, thưa đúng, sức gió quá mạnh, con chịu không nổi...
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 459 of 1146: Đă gửi: 02 July 2010 lúc 12:04am | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỊA NGỤC DU KƯ
(CHƯƠNG HAI)
CHƠI AO THANH TÂM DẠO CƠI ÂM DƯƠNG
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 19 tháng 8 năm Bính Th́n 1976.
Thơ:
Tiên thiên nhất lập bảo quang châu
Trụy lạc hồng trần nê ố đồ
Khán phá phàm khu thành Phật thể
Thuần khai pháp nhăn chiếu chân ngô.
Dịch:
Tiền thân ngọc sáng quí vô vàn
Rớt xuống bùn nhơ cơi thế gian
Thấy được thân phàm ra thân Phật
Thầy nhờ mắt huệ ngó chân tâm.
Tế Phật: Này Dương Sinh, sửa soạn dạo địa ngục.
Dương Sinh: Bạch thầy để bữa khác, bữa nay con mới vừa đi Chương Hoá về, tinh thần quá mỏi mệt, con chỉ muốn ngủ một giấc cho khoẻ.
Tế Phật: Con lười biếng quá, là kẻ tu đạo mà vừa mới trải chút phong sương đă sợ khổ, th́ làm sao con có đại khí nổi!
Dương Sinh: Bạch thầy, con quả có lỗi lớn, xin thầy tha thứ, con nguyện theo thầy.
Tế Phật: Mau lên đài sen, hai mắt nhắm lại....rồi, mở mắt, xuống.
Dương Sinh: Bạch thầy, tại sao bữa nay thầy đem con tới chốn đây, trước mặt ao lớn nước trong suốt, phẳng như gương, phản chiếu bầu trời xanh biếc. Chợt ba chữ "Ao Thanh Tâm" từ đáy nước hiện ra.
Tế Phật: Hôm trước con dạo cơi âm, v́ thân phàm mắt tục, do đó không nh́n thấy hết mọi vật. Bữa nay thầy đưa con đến đây, để con có dịp xuống ao nầy tắm gội cho sạch bụi nhơ, tự nhiên mắt trần sẽ hoá thành mắt tuệ, con mới có thể cùng thầy ngắm cảnh âm ti.
Dương Sinh: Bạch thầy con không dám xuống, v́ bây giờ là mùa thu, nước ao này giá buốt vô cùng, lỡ con cảm lạnh th́ nguy lắm.
Tế Phật: Muốn dạo cơi âm c̣n sợ lạnh, ta đẩy mi cho té xuống.
Dương Sinh: Cứu con, cứu con....con không biết lội....thầy nỡ giết con sao....ối, ối, ối, ối, ối.....
Tế Phật: Ta d́m con vài phút cho tỉnh táo.
Thủ Tŕ Tướng Quân (Tướng Quân giữ ao): Bái lạy Phật Sống Tế Công, tôi thực vô lễ v́ đă không chuẩn bị châu đáo nghênh tiếp ngài, xin ngài thứ lỗi. Vừa rồi Phật Sống đẩy một kẻ phàm xuống ao, không rơ ngài có dụng ư ǵ?
Tế Phật: Tướng Quân, người chưa rơ, thế nhân hiện giờ đang sống mê chết muội, bụi bám đầy ḿnh chôn vùi mất cái tính linh sáng suốt của thuở chưa đầu thai. Ta bữa nay đẩy kẻ phàm này xuống ao, là muốn rửa sạch viên ngọc quí Mâu Ni bị bao phủ đất bùn, để cho nó lại toả chiếu sáng ngời.
Tướng Quân: Hay lắm, nhưng ngài hăy cho phép tôi vớt hắn lên, sợ để lâu hết cứu nổi.
Tế Phật: Lẹ lẹ, kẻo hắn ch́m xuống đáy hồ th́ phiền lắm đó.
Tướng Quân: Lôi được lên rồi, nhưng hắn ngưng thở, Phật Sống cứu hắn cách nào?
Tế Phật: Không sao, đă rửa sạch đất bùn tự nhiên được cải tử hoàn sinh, ta dùng quạt bồ, quạt một cái là tỉnh lại ngay, hăy nh́n ta hoá phép...
Tướng Quân: Hắn tỉnh rồi, hai mắt đă mở.
Dương Sinh: Bạch thầy, cớ sao thầy đẩy con xuống ao?
Tế Phật: Người đời có tính thụ động lại thêm khách sáo. Ngọc của con c̣n nguyên khối lớn, thầy không nỡ để yên như vậy nên mới đem tẩy rửa.
Dương Sinh: Cảm tạ thầy đă chỉ dạy điều hay, giờ đây thân thể con mát mẻ khoẻ khoắn, cùng sảng khoái vô cùng. C̣n thưa, vị mặc đồ vơ tướng này là ai?
Tế Phật: Tướng Quân phụ trách việc giữ ao, nếu như kẻ không có sắc lệnh, không được phép xuống ao này tắm rửa. Nó cũng c̣n được gọi là ao Tiên, nên chỉ có ba giới Chân Tiên mới được phép tắm ao này, dân thường không thể tới đây. C̣n con bữa nay thật là có phước.
Tướng Quân: Bẩm Phật Sống, bửa nay ngài đưa kẻ phàm này tới đây là ngài có ư chi?
Tế Phật: Nhân v́ Thánh Hiền Đường phụng mệnh trước tác sách Địa Ngục Du Kư, do đó ta mới đưa Dương Thiện Sinh đi coi âm phủ, song v́ kẻ phàm trần chưa sạch tục khí, nên khó nh́n thấu cơi âm ti, bởi vậy ta phải đem hắn tới ao Thanh Tâm này rửa mắt, hầu lợi cho việc dạo xem địa ngục của hắn.
Tướng Quân: À ra thế, kinh quá, kinh quá.
Tế Phật: Từ giă Tướng Quân, thầy tṛ ta đi dạo âm ti, th́ giờ quá eo hẹp, Dương Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh: Bạch thầy, bay giờ ḿnh đi đâu?
Tế Phật: Chẳng cần hỏi, lúc đến nơi sẽ rơ, mau khép hai mắt lại....mở mắt ra được rồi...rời đài sen.
Dương Sinh: Con đường này tại sao không tráng nhựa, gió tung bụi mù trời, đi té lên té xuống.
Tế Phật: Đây chính là cửa ải nối biên giới giữa quỉ và người.
Dương Sinh: Ô, phía bên kia có nhiều người đang đi tới, miệng kêu khóc rên la.
Tế Phật: Đó là những linh hồn người chết, vừa mới đến cơi âm.
Dương Sinh: Bạch thầy, trước mắt có một tấm bảng trên đề ba chữ "Âm Dương Giới". Vậy thưa thầy đây là đâu?
Tế Phật: Đây là biên giới của hai cơi âm và dương.
Dương Sinh: Phía trước có hai toà lầu cao, mời thầy tới coi.
Tế Phật: Ừ ừ, ḿnh đi mau.
Dương Sinh: Trên các cửa của hai toà lầu này đều thấy đề Giao Bộ Sảnh; đệ nhất khoá, đệ nhị khoá ...và có tất cả vào khoảng hơn mười pḥng.
Tế Phật: Ḿnh thử vào trong hỏi xem sao.
Giao Bộ Quan: Hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh, chủ đàn cơ Thánh Hiền Đường ở Đài Trung tới thăm. Bản sảnh đă nhận được sắc chỉ của Ngọc Hoàng từ ngày rằm tháng tám, nên được rơ quí Hiền Đường v́ nhu cầu trước tác sách "Địa Ngục Du Kư", sẽ xuống âm ti quan sát t́nh h́nh.
Tế Phật: Thưa thời giờ đă trễ, bữa khác chúng tôi xin trở lại hầu chuyện.
Giao Bộ Quan: Thưa được, kính chào.
Tế Phật: Này Dương Sinh, chúng ta chuẩn bị trở lại Hiền Đường mau rời sảnh lầu lên dài sen. Nhắm chặt hai mắt lại.
Dương Sinh: Tuân lệnh ân sư.
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 460 of 1146: Đă gửi: 02 July 2010 lúc 12:05am | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỊA NGỤC DU KƯ
(CHƯƠNG BA)
DẠO CƠI ÂM DƯƠNG THĂM GIAO BỘ SẢNH
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 30 tháng 8 năm Bính Th́n 1976.
Thơ:
Phật hải vô ba tuyệt điểm trần
Tiên sơn hửu lộ vấn tâm lân
Kim Ô Ngọc Thố như hào chuyển Lục
Đạo phân phân cảm khái thân.
Dịch:
Biển Phật b́nh yên nước lắng trong
Non tiên sẵn lối hỏi ngay ḷng
Vầng Ô bóng nguyệt như giao hảo
Sáu mối tơ ṿ hẳn gỡ xong.
Tế Phật: Này Dương Sinh, hăy chuẩn bị đi dạo âm ti.
Dương Sinh: Xin vâng lệnh, con đă lên đài sen, mắt nhắm lại rồi.
Tế Phật: Lên đường ...hay quá, xuống đài sen.
Dương Sinh: Thưa thầy, ngă đường này tại sao lại có một đám đông ồn ào náo nhiệt thế kia, là người dương thế họ xuống đây làm ǵ?
Tế Phật: Đây là biên giới giữa âm phủ với dương gian. Đám đông đó đều là những vong hồn, vừa mới xuống âm ti nên đang tŕnh báo. Chớ có hỏi nhiều, để ta đưa người tới thăm Giao Bổ Sảnh, xem xét Giao Bộ Quan. Những ǵ thắc mắc ngươi hỏi cho kỹ, đừng có ngại ngùng.
Giao Bộ Quan: Hoan nghênh Tế Phật và Dương Thiện Sinh tới thăm, xin mời vào sảnh đường. Bữa trước đón tiếp không được nồng hậu, xin thứ lỗi cho. Mời ngồi, v́ thời giờ eo hẹp, nên chưa báo cáo với các viên chức của bản sảnh được, không rơ Dương Thiện Sinh có chi thắc mắc không?
Dương Sinh: Xin cho biết biên giới giữa cơi âm và cơi dương là chỗ nào?
Giao Bộ Quan: Biên giới của cơi âm và cơi dương là chỗ dương gian và âm phủ tiếp giáp nhau, nhưng đây gần âm phủ hơn. Người đời sau khi chết phải tới đây tŕnh sổ hộ tịch với bản sảnh đường. Sau khi đăng kư đàng hoàng rồi, kẻ thiện đức được phúc thần dẫn xuống âm phủ tham quan, kẻ ác đức bị thần quỉ Hắc Bạch dẫn tới quỉ môn quan, giao cho đệ nhất toà xử trị.
Dương Sinh: Có bao nhiêu sổ hộ tịch ghi tên tuổi người trần thế?
Giao Bộ Quan: Thế nhân có ba cuốn sổ hộ tịch. Nguyên tịch là sổ đầu tiên ở thiên đường, ghi chép những linh hồn thuở mới đầu thai, gọi là sổ gốc.
Kư tịch là sổ ghi lúc c̣n tại thế. Phân tịch là sổ ghi ở âm phủ. Kẻ không làm điều phước ở thế gian, khi chết về cơi âm không được lên cơi trời. Địa ngục cũng giống như nhà giam ở cơi trần, là chỗ để trừng phạt kẻ phạm tội. Chốn đó không phải là chốn quê cha.
Chỉ khi nào cơi thế chăm lo tu đạo, chết mới có thể trở lại thiên đường là chốn nhà cũ quê xưa đích thực.
Dương Sinh: Người dương thế khi chết, bên chân họ thường thấy con cháu đốt giấy tiền, gọi là đốt giấy cước vĩ, thắp đèn dầu gọi là đốt đèn cước vĩ không hiểu có dụng ư ǵ?
Giao Bộ Quan: Người trần thế khi chết hồn phách thoát ly nhục thể, ban đầu tuy có âm binh dẫn đường song vẫn mơ mơ hồ hồ, lửng lơ, lăng đăng, khó có thể tự chủ. Cho nên người thân ở cơi trần, sợ đường đi của tổ tiên ở cơi âm tối tăm mờ mịt, do đó muốn cầu cho đường đi của tiền nhân thuận lợi, nên đốt giấy tiền.
Là nghĩ rằng tiền nhân có thể dùng làm lộ phí, đốt đèn dầu nghĩ rằng đèn chiếu sáng được đường tối tăm. Việc làm này do ḷng hiếu thảo của con cháu đối với người trên thật là chu đáo, đáng khen ngợi.
Nhưng đường âm phủ chẳng thể hối lộ, qua được hay không đều tự ḿnh thôi. Lúc sống nếu như tâm địa đen tối, chỉ ỷ vào vài chén dầu, dăm ngọn bấc chắc chắn sẽ không cứu chuộc nổi.
Dương Sinh: Hiện thời dương gian khoa học phát đạt, cuộc sống được đề cao đúng mức, tổ tiên tạ thế, con cháu đời sau dùng giấy và hồ làm thành: nhà cao, TV mầu, quạt máy, xe hơi, xa lông, giường nệm mút hảo hạng cung cấp cho tổ tiên xài. Chẳng hiểu những món đó có tới được âm phủ để kẻ chết dùng không?
Giao Bộ Quan: Người trần thế quá ngây ngô, nghĩ ngợi thật thà chân chất, lúc sống không dùng những phương tiện đó cho thoả thích, xuống âm phủ đường xá nhỏ hẹp quanh co, đường đi có lắm vấn đề, nếu đi xe nhất định gây ra tai nạn, vả lại âm phủ không có trạm xăng, dùng xe hơi không thích dụng.
Đến như mấy thứ quạt máy, giường nệm mút, sử dụng ở dương gian rất tốt, c̣n ở âm phủ đă chuẩn bị sẳn ván kê dưới đất, để đón tiếp tội hồn khi lâm ngục.
Ví bằng cầu cho được b́nh yên c̣n khó, huống nữa lại c̣n cầu hưởng thụ. Lúc sống cờ bạc rượu chè, không ác nghiệp nào là không phạm, khi xuống âm phủ đă bị nhốt vào ngục để thọ h́nh, lại c̣n muốn có những thứ đó để tiêu khiển, th́ quả thực người đời hiện tại mộng hảo quá nhiều.
Dương Sinh: Thưa ân sư, hôm trước thầy dẫn con dạo địa ngục, thoạt tiên thấy núi Tâm Đầu, sao bây giờ lại là biên giới Âm Dương, con thấy quá mơ hồ?
Tế Phật: Con đi theo thầy, thầy chỉ cho con sẽ rơ. Này Giao Bộ Quan, thầy tṛ chúng tôi xin cáo từ.
Giao Bộ Quan: Thưa có điều chi sơ xuất, xin lượng thứ cho.
Tế Phật: Chớ khách sáo.
Dương Sinh: Cảm tạ Giao Bộ Quan đă chỉ dạy rơ bến mê, chúng tôi xin cáo biệt. Thưa ân sư, xin thầy chỉ dạy ngay cho con được rơ về núi Tâm Đầu, cùng biên giới Âm Phủ Dương Gian như thầy đă hứa.
Tế Phật: Hôm trước thầy đă đưa con tới chốn này.
Dương Sinh: A, ba chữ Tâm Đầu Sơn hiện ra sáng rơ, cảnh sắc Âm Dương Giới tự nhiên biến mất.
Tế Phật: Núi Tâm Đầu cũng như biên giới Âm Phủ Dương Gian. Người cơi thế nếu như lúc sống chuyên làm điều ác, một sớm chết đi, bị âm binh áp giải tới đây, nhân v́ tinh thần cũ không trong sạch, thấy ánh sáng chói ngời trên đỉnh núi, hai mắt khó mở, khuỵu chân rớt xuống hang không đáy, nơi sườn núi Tâm Đầu.
Hang không đáy ăn thông với Âm Dương Giới dưới âm phủ. Nếu là người tu đạo có đức lớn, nhờ công quả tṛn đầy, linh hồn đi tới chốn nầy gặp được luồng sáng huy hoàng rực rở, xuất hiện từ trên đỉnh núi đưa thẳng tới đường lớn nhà Trời.
Rồi được Tiên Đồng Ngọc Nữ nghênh đón vào cửa nhà Trời. Nếu là hạng đức thiện ở bực trung và tiểu, th́ gặp được con đường rộng hai trượng, do Phúc thần dẫn tới Âm Dương Giới tŕnh diện, rồi sau đem vào địa ngục điều tra.
Lúc sống công đức nhiều được dẫn vào Chúng Thiện Sở, hoặc nhờ có duyên Tiên Phật độ, được đem về các từng Trời tu luyện lại. Hôm nay thời giờ đă trể, chúng ta trở lại Hiền Đường.
Dương Sinh: Thưa tuân lệnh, con đă lên đài sen.
Tế Phật: Đă tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập vào thể xác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|