Tác giả |
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 521 of 1146: Đă gửi: 02 July 2010 lúc 8:14pm | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỊA NGỤC DU KƯ
NGỌC CHIẾU
Bản đường ty lễ thần đăng đài
ngày 3 tháng 5 năm Mậu Ngọ 1978.
Đức Thánh dạy: Phút này Ngọc Chỉ sắp giáng, lệnh cho Thành Hoàng ngoài năm dậm, Phúc Thần ngoài mười dậm nghinh tiếp. Tất cả đệ tử nghiêm chỉnh đón giá.
Kim Khuyết Nội Tướng Từ giáng bút.
Thơ:
Bát nguyệt trung thu ban thánh điển
Đại Thiên thế giới phóng quang minh
Chước thư nghi thức nghi long trọng
Xá tội tiêu khiên công cáo thành.
Dịch:
Tháng Tám trung thu ban thánh điển
Đại Thiên thế giới phóng hào quang
Trang nghiêm kính cẩn khi dâng sách
Oan giải tội tha để thưởng công.
Đức Thánh dạy: Ta đêm nay phụng mệnh mang sắc chỉ tới tuyên đọc. Thần nhân phủ phục.
Khâm phụng Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn Huyền Linh Cao Thượng Đế chiếu viết:
"Xét Thánh Hiền Đường ở Đài Trung do quyết nghị của Thánh Hội Linh Tiêu đă phụng mệnh trước tác sách Địa Ngục Du Kư, kể từ rằm trung thu năm Bính Th́n bắt đầu khai bút tới rằm tháng tám năm Mậu Ngọ này vừa đúng hai năm.
Trong khoảng thời gian này Dương Thiện Sinh đă dạo thăm mười cửa điện phỏng vấn các ngục, những bằng chứng thâu lượm được cao như núi, được tiết lậu hết trong sách Địa Ngục Du Kư, kho tài liệu này trước đây đă đăng tải từng kỳ trên tập chí Thánh Hiền Đường để phổ biến trong các giới đồng bào.
Tới rằm tháng tám năm nay in thành sách xong đem 108 cuốn bày lên hương án, đốt ba cuốn, một dâng Thiên Đ́nh, hai dâng Địa Phủ, ba dâng các Thần hoàng cơi nhân gian dưới gầm trời để tỏ ḷng sùng bái chư thần ba cơi đất trời người.
Các ty ở âm phủ rất ngợi khên thành quả tốt đẹp này, nên ngoài việc chiếu theo công ban thưởng và đại xá cho các tội hồn một lần c̣n cử hành hội lớn để chúc mừng, cùng dâng bản tường tŕnh lên đức U Minh Giáo Chủ.
Chốn dương gian những ai không quản ngại gian lao khổ cực dốc tâm công quả trong việc viết sách, in tặng, cùng phổ biến có thành tích đều được ban thưởng.
Phải ghi rỏ tên họ địa chỉ số lượng sách và sở nguyện của những người in tặng sách, vào tờ biểu chương để c̣n đốt và tâu lên thượng giới các công tŕnh đáng ghi nhớ của những tấm ḷng quảng đại thiết tha v́ đạo nghĩa.
Suốt hai năm qua chư sinh chịu bao khổ cực gian lao mới đạt được kết quả lớn lao, mong tiếp tục gặt hái được nhiều thành công khả quan hơn nữa hầu sửa ngay thế đạo, dẹp sạch phong hoá đồi truỵ để mạnh tiến đến đại đồng. Chớ trái lệnh Trẫm"
Kính cẩn vâng lời không dám xao nhăng, cúi đầu tạ ơn Thiên vận ngày 3 tháng 5 năm Mậu Ngọ 1978.
ĐỀ BẠT
Phật Sống Tế Công giáng.
Về Học thuyết linh hồn, dầu với phương tiện khoa học kỹ thuật tân tiến ngày nay, cũng chỉ thâu tỏ được một đôi phần nhỏ nhoi không đáng kể.
Do đó ngoài phương thức dầy công tu luyện tinh thần, khai thông huệ nhăn chẳng thể nh́n rơ được vấn đề. Cơ thể con người do ba nguyên tố "tinh, khí, thần" tổ hợp, c̣n cái thân huyển ảo túi cơm giá áo này, làm sao có thể tồn tại được lâu.
Bởi một sớm, đất nước gió lửa biến hoá, ắt xương thịt rữa nát tan thành tro bụi, người ra đi để lại lầu hoang gác trống. Cũng nhờ vậy mà linh hồn được chuyển kiếp, thân xác được hoá sinh, con người thay h́nh đổi dạng, mang bộ mặt mới chào đời.
Những bậc tiên tri thuộc các tôn giáo cổ kim trong ngoài, hoặc những vị có năng lực thông tỏ siêu linh, mắt họ đều có thể nh́n rơ việc này và làm chứng cho lời nói của ta.
Việc trước tác sách Địa Ngục Du Kư là do ḷng trời thương xót chúng sinh từ lâu đắm ch́m trong cơi hồng trần.
Đă từ lâu ba khối trược ác độc "tham sân si" mặc sức hoành hành nhận ch́m đạo đức, gây nhiều nghiệp chướng khiến xă hội ngày càng đoạ lạc.
Bởi vậy cần phải gấp rút xây dựng lại giềng mối đạo cho đời, cùng hoàn cảnh sống tốt đẹp cho người, đặc biệt được phép tiết lộ cảnh huống trung thực ở âm phủ, để cảnh cáo và biến cải thế tục.
Kêu gọi cùng hướng dẫn quay về đường nhân từ, đẩy mạnh chân lư đạo nghĩa, để bồi đắp ḷng tin tưởng nhiệt thành, trí lương tri sáng suốt, kẻ phàm nếu có duyên may gặp được sách Địa Ngục Du Kư này, nếu như chịu khó đọc và nghiền ngẫm ắt là "buông dao đồ tể". Ta chân thành cầu chúc đọc giả "Minh tâm kiến tánh và thành Phật".
Hai năm qua ḷng ta đă xúc động quá nhiều, giờ đây sóng tâm lại cảm ứng cùng Thái Thượng, kính cẩn dẫn mấy câu để thay lời kết ở cuối sách:
"Hoạ phước vô môn, duy nhân tự chiêu. Thiện ác chi báo, như ảnh tuỳ h́nh". (hoạ phước không cửa, chỉ tại người tự chuốc. Thiện ác trả vay như bóng theo h́nh).
Thánh Hiền Đường, bần tăng tế Công kính bạt.
Ngày 29 tháng 6 năm Mậu Ngọ 1978.
Lời Cuối Của Bản Đường.
Thơ:
Liễu ngộ do như dạ đắc đăng
Vô song ám thất hốt khai minh
Thử thân ất hướng kim sinh lộ
Cánh đăi hà thời độ thử thân.
Dịch:
Ngộ đạo quả như tối gặp đèn
Sáng bừng pḥng kín giữa đêm đen
Thân này không gắng đời này độ
Đợi đến đời nào mới độ thân.
Dịch Giả: Đào Mộng Nam
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 522 of 1146: Đă gửi: 03 July 2010 lúc 12:19pm | Đă lưu IP
|
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 523 of 1146: Đă gửi: 03 July 2010 lúc 9:15pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT VÀ TÁI SINH
1. LỜI GIỚI THIỆU
Sách "Chết và Tái Sinh" hội đủ nhân duyên được tái bản do nhu cầu độc giả gia tăng tại Úc, dựa hai điểm chính sau:
Thứ nhất, ấn bản lần đầu tiên một ngàn cuốn, vào tháng mười năm 2000, đă phân phối rộng răi nhiều nơi tại Úc và Việt Nam. Sau hơn hai tháng, vào cuối tháng mười hai sách đă hết sạch, có nhiều người muốn đọc mà không t́m thấy sách nữa.
Thứ hai, sách đă được đài phát thanh SBS Syndey, trang trọng giới thiệu trong chương tŕnh toàn quốc vào sáng ngày 31-12-2000, sau đó có rất nhiều thính giả hoặc trực tiếp hoặc bằng điện thoại hỏi thỉnh sách.
Phần soạn dịch từ các tài liệu tiếng Anh qua ng̣i bút lưu lợi của Đại Đức Thích Nguyên Tạng, người đang chăm sóc trang nhà điện tử của Tu Viện Quảng Đức Melbourne, thực hiện gởi đến quư độc giả như món quà Xuân Di Lặc năm 2001 này.
Ngoài ra Đại Đức c̣n chuyên trách biên khảo về Phật Giáo quốc tế, với các bài viết quen thuộc về đất nước, nhân vật và sự kiện xảy ra đó đây trên khắp thế giới, được đăng trên các tờ báo Phật giáo Việt Nam ở Việt Nam và Hải Ngoại như Pháp Bảo Úc, Pháp Âm Na-Uy, Giao Điểm, Hoa Sen, Phật Học Hoa Kỳ, Tạp chí Phật Giáo, Tuần báo Giác Ngộ Việt Nam...
Qua hai yếu tố văn phong trong sáng và sự làm việc chuyên cần của bút giả, tôi ân cần giới thiệu đến độc giả tác phẩm nhỏ này của Đại Đức Thích Nguyên Tạng, do Phật tử Tu Viện Quảng Đức tại Melbourne và Chùa Pháp Bảo, Sydney hùn phước đóng góp tịnh tài ấn tống, để tác phẩm sớm được phổ biến sâu rộng đến độc giả.
Thượng Tọa Thích Bảo Lạc
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 524 of 1146: Đă gửi: 03 July 2010 lúc 9:16pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT VÀ TÁI SINH
2. LỜI NÓI ĐẦU
Đạo Phật xuất hiện trên thế gian này chỉ một mục đích duy nhất, là đưa chúng sanh thoát khỏi cảnh trầm luân đau khổ, ngày nào chúng sanh chưa giải thoát sanh tử trong ba cơi, sáu đường, ngày đó Đạo Phật vẫn hiện hữu.
Nói vậy sẽ có nhiều người ỷ lại rằng bên ta luôn có Tam Bảo che chở, không cần tu tập, và nếu đến lúc chết, vấn đề sinh tử luân hồi chưa được giải quyết, th́ chư Phật và chư Bồ Tát tiếp tục ra đời với sứ mạng cứu khổ độ sinh .
Đó là một quan niệm sai lầm. Người xưa từng nói " Chớ hẹn tuổi già mới học đạo, mồ hoang lắm kẻ tuổi xuân xanh".
Sự vô thường già, bệnh, chết không hẹn trước với ta, nó sẽ đến với ta bất cứ giờ phút nào, do đó mọi người phải tự biết ḿnh và phải chuẩn bị hành trang cho một chuyến đi của ḿnh chắn chắn sẽ xảy ra ở phía trước.
Tập sách này phần chính là ghi lại cuộc tham vấn giữa Thượng Tọa Pende Hawter và các Lạt Ma Tây Tạng, những con người được mệnh danh là có đủ năng lực để thẩm định sự sống chết.
Thượng Tọa Pende Hawter là một Tăng sĩ người Úc, sáng lập viên Dưỡng Đường Tiếp Dẫn Kasura, để chăm sóc người sắp lâm chung ở thành phố Brisbane, tiểu bang Queensland, Úc Đại Lợi.
Ngài đă viếng thăm các bậc Lạt Ma tên tuổi như Dalai Lama, Dilgo Khyentse Rinpoche, Kirti Tsen-shab Rinpoche, Garje Khamtul Rinpoche, và Geshe Lamrimpa, để t́m hiểu về tiến tŕnh hấp hối, chết và tái sinh của con người.
Cuộc tham vấn được thực hiện vào tháng 5 năm 1995 tại tỉnh Dharamsala, miền Bắc nước Ấn Độ, nơi các Lạt Ma Tây Tạng đang sống cuộc đời lưu vong từ năm 1959, và sau đó được đăng tải trên Nguyệt San Mandala của Hội Bảo Tồn Phật Giáo Đại Thừa (The Foundation for the Preservation of the Mahayana Tradition) tại Hoa Kỳ.
Ngoài ra tập sách này cũng cung cấp nhiều tài liệu khác có liên quan đến chủ đề "Chết và Tái sinh", những thông tin có thể giúp ta ít nhiều trong tiến tŕnh chết và sau khi chết.
Tôi xin ghi lại nơi đây lời tán dương công đức của Đạo hữu Phillip và Quư Phật tử tại Mỹ, đă góp phần lăn chuyển bánh xe Pháp đến với chúng sanh trên thế gian này.
Xin chắp tay nguyện cầu cho Chánh Pháp được trường tồn, chúng sanh được an lạc. Và cũng xin nguyện cầu cho Cữu Huyền Thất Tổ, Cha Mẹ nhiều đời của chúng ta sớm tái sinh về cơi giới an lành.
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát
Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 525 of 1146: Đă gửi: 03 July 2010 lúc 9:17pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT VÀ TÁI SINH
3. CHẾT. THÂN TRUNG ẤM VÀ TÁI SINH
1. CHẾT:
Qua sự huân tập và ảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đă h́nh thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
Khi con người chết nếu có những khuynh hướng như thế, sẽ tiếp tục đầu thai trong ṿng sanh tử luân hồi với thân và tâm được thừa hưởng, từ sự tích lũy nghiệp thiện và ác ở kiếp sống vừa qua.
Một số người chết v́ kiệt sức hoàn toàn, một số khác chết do hao ṃn phước đức, chết không đúng thời điểm hay c̣n gọi là bất đắc kỳ tử.
Một người chết thường ở một trong ba trạng thái tâm: Thiện, Bất thiện và Vô kư.
Trong trường hợp thứ nhất, người hấp hối có thể quán tưởng về Tam Bảo, hay một vị thầy đức hạnh của ḿnh, bằng cách đó tâm của vị ấy mới phát sinh tín tâm.
Hoặc người hấp hối có thể nuôi dưỡng niềm hỷ lạc vô biên, để thoát khỏi sự ràng buộc của những phiền năo tham dục, luyến ái, thay vào đó bằng cách quán niệm Tánh không và Tâm từ bi.
Điều này có thể tự người hấp hối làm, hoặc qua sự trợ niệm của người khác. Nếu những yếu tố trên được nuôi dưỡng trong thời điểm hấp hối, một người chết với tâm thanh tịnh như thế, th́ việc tái sinh của họ sẽ được cải thiện.
Đây là cách tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết. Mặt khác, ta nên tránh đánh thức, quấy nhiễu người đang hấp hối, điều đó chỉ khiến cho họ nổi giận thôi.
Đôi khi người thân và bạn bè tập trung quanh tử sàng bày tỏ niềm tiếc thương và khóc lóc bi thảm, sẽ làm cho người hấp hối khởi tâm tham ái và quyến luyến.
Nếu người chết với tâm niệm bất thiện như thế, sẽ đẩy họ đầu thai vào cơi xấu, điều này rất nguy hiểm.
Trong bất cứ trường hợp nào, trạng thái tâm của người hấp hối bao giờ cũng quan trọng trước khi chết.
Bởi v́ ngay cả một người tu luyện tâm linh, mà bị quấy rầy vào thời điểm ấy, cũng làm cho phiền năo phát khởi, chính trạng thái tâm này sẽ tạo ra ác nghiệp, và đó là động cơ chính dẫn dắt người ấy tái sinh vào một cơi bất lợi, như ba đường ác:
Địa ngục, Ngạ quỷ và Súc sanh. V́ thế, điều tối quan trọng cho cả người hấp hối lẫn người sống, là tránh tạo ra những t́nh huống gây bất lợi cho tâm thức của người chết. Chúng ta cần biết điều này.
Những người chết trong trạng thái tâm thiện, đều có cảm giác ḿnh từ trong bóng tối thoát ra ánh sáng, loại bỏ sự khổ đau và đạt được hạnh phúc.
Có nhiều trường hợp người bệnh rất nặng, đến lúc gần chết đă nói ra những điều tốt đẹp thoải mái thay v́ nói đến căn bệnh của họ.
C̣n đối với người bệnh tuy nhẹ nhưng nỗi sợ hăi quá lớn, giai đoạn cuối cùng này tâm họ luôn hoảng hốt, nên có cảm giác ḿnh từ nơi ánh sáng đi vào trong bóng tối, và từ nơi hạnh phúc bị rơi vào cảnh khổ đau.
Một số người, thân thể ấm áp của họ đă bị suy yếu qua cơn bệnh, nên họ trở nên khao khát muốn được hơi nóng, bằng cách này củng cố thêm cho khuynh hướng tái sinh của họ vào nơi như địa ngục nóng hoặc một nơi có khí hậu nóng.
Những người khác thích cái mát lạnh, thích uống nước lạnh và khiến cho khuynh hướng tái sinh của họ hướng vào nơi như địa ngục hàn băng, hay một nơi có khí hậu lạnh.
V́ thế điều rất quan trọng là tránh khởi những ư niệm tham ái trong lúc chết, và trực tiếp hướng tâm đến những điều thiện.
2. THÂN TRUNG ẤM :
Thân trung ấm (bardo/intermediate state) được hiểu nôm na là sự sống sau khi chết, trước khi thần thức người ấy đi tái sinh vào một trong sáu cơi nào đó (Trời, Người, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỷ và Súc sinh).
Thân trung ấm là thân không có xác thịt mà chỉ lấy tư tưởng làm thân. Sau khi người ấy chết, thần thức thoát ra khỏi xác, th́ trụ lại ở thế giới trung gian này từ một đến bảy tuần lễ, rồi sau đó t́m kiếm một nơi thích hợp với nghiệp lực của ḿnh mà đi tái sinh.
Nếu trong thời gian này, thân trung ấm chưa t́m thấy một nơi tương ứng với ḿnh để tái sinh, th́ nó lại chết đi sau mỗi bảy ngày, sau đó thần thức lại chuyển qua một thân trung ấm khác, chu kỳ sinh diệt này cứ lập lại cho đến khi thần thức đi tái sinh.
Trong thời gian ở lại với cơi trung ấm này, vào những ngày đầu, vong linh không nhận ra ḿnh đă chết, họ quay lại gia đ́nh để gặp những người thân nhưng không ai hay biết.
Họ hỏi thăm từng người nhưng không ai trả lời, họ cố gắng sinh hoạt trở lại b́nh thường như lúc c̣n sống nhưng không thể được, cho đến khi họ tự phát hiện ra họ không có bóng h́nh trên đất, không có ảnh trên gương, họ mới biết là ḿnh đă chết.
Giờ đây, họ lần lượt nhớ lại những thiện và ác nghiệp mà họ đă tạo ra trong đời sống vừa qua. Tất cả những cảnh tượng hạnh phúc hay khổ đau trong suốt đời họ, hiện ra trước mắt như một cuộn phim.
Nếu là vong linh của người vốn từng tạo phước, tu tập tâm linh, th́ luôn có những cảm giác yên b́nh, thanh thản và dễ dàng để t́m đường tái sinh vào cơi lành.
C̣n nếu những người từng tạo ra ác nghiệp, sống cuộc đời tiêu cực, th́ luôn đối mặt với những cảnh tượng khổ đau, kinh hoàng, sợ hăi, thất vọng và chán chường.
Họ lang thang một cách tuyệt vọng trong cơi trung ấm, và muốn t́m một thân xác để tái sinh tương xứng với nghiệp lực của họ.
Nếu thân trung ấm có tu tập và làm chủ được thần thức của ḿnh, th́ người ấy chọn lựa cho ḿnh một cảnh giới tốt để tái sinh, ngơ hầu tiếp tục tu luyện hoặc v́ hạnh nguyện cứu độ chúng sinh.
Bằng như trái lại, th́ không có sự lựa chọn nào, dù muốn hay không, th́ thần thức của người ấy cũng buộc phải thọ sinh vào một cảnh giới nào đó, khế hợp với nghiệp lực của ḿnh.
3. TÁI SINH:
Nếu được tái sinh trở lại cơi người, thần thức của người ấy thấy cha mẹ tương lai của ḿnh đang nằm với nhau. Nếu người ấy tái sinh thành người nam th́ phát khởi tâm muốn chiếm hữu người mẹ mà rất ghét người cha. Nếu tái sinh trở thành người nữ th́ ngược lại.
Khi gần đến ngày tái sinh, thần thức của người ấy bị lôi kéo về nơi tái sinh tương lai, thậm chí nơi ấy là địa ngục.
Ví dụ một đồ tể nh́n thấy một con cừu, anh ta muốn đuổi bắt và giết chết nó, nhưng lập tức anh ta thấy bóng mờ xuất hiện, nên anh ta giận dữ, cơn giận đă làm kết liễu thân trung ấm và thần thức của anh ta rơi vào Địa ngục hay Súc sinh.
Sự chuyển tiếp sự sống từ đời này sang đời khác là nghiệp lực. Nghiệp (karma) có một năng lực cá biệt và đóng một vai tṛ rất quan trọng trong việc cấu tạo tâm tánh của con người.
Nghiệp được h́nh thành dưới sự tập hợp của tam độc tham, sân, si hay vô minh và ái dục. Chính vô minh (ignorance) và ái dục (desire) là cội rễ của mọi ác nghiệp.
Do ác nghiệp này mà khiến cho con người trôi lăn trong ṿng sinh tử luân hồi. Để thoát khỏi ṿng tuần hoàn khổ đau này con người phải nỗ lực tu tập đoạn diệt cho bằng được cội rễ của vô minh.
Khi vô minh bị tận diệt th́ ái dục cũng bị tận diệt, ái dục diệt th́ sinh, lăo, bệnh, tử, sầu bi khổ ưu năo cũng không c̣n, khi ấy con người mới thật sự thoát khỏi ṿng vây của sinh tử luân hồi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 526 of 1146: Đă gửi: 03 July 2010 lúc 9:17pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT VÀ TÁI SINH
4. CUỘC HÀNH TR̀NH ĐI ĐẾN KIẾP SAU
Thượng tọa Pende Hawter, sáng lập Viện Dưỡng Đường Tiếp Dẫn Karuna (Từ Bi) để chăm sóc người sắp lâm chung ở thành phố Brisbane, tiểu bang Queensland, Úc Đại Lợi.
Đă thực hiện cuộc phỏng vấn các bậc Đại sư Tây Tạng như Dalai Lama, Dilgo Khyentse Rinpoche, Kirti Tsen-shab Rinpoche, Garje Khamtul Rinpoche, và Geshe Lamrimpa, về tiến tŕnh hấp hối, chết và tái sinh của con người.
Cuộc phỏng vấn được thực hiện vào tháng 5 năm 1995 tại tỉnh Dharamsala, miền Bắc nước Ấn Độ.
GIÚP ĐỠ CHO NGƯỜI HẤP HỐI
Hỏi: Xin cho biết cách nào tốt nhất để chúng ta có thể giúp đỡ cho người đang hấp hối và người vừa qua đời?
Đức Dalai Lama: Khi gặp người đang hấp hối tuyệt đối tránh quấy rầy họ. Đặc biệt là không làm cho họ nổi giận, hoặc khóc lóc để họ sanh tâm quyến luyến.
Ngược lại, phải nhắc nhở để họ hành tŕ, tu tập vào giờ phút cuối, ví dụ như quán tưởng h́nh ảnh của chư Phật, các vị thầy đức hạnh, Chúa Jésus, hoặc một lời dạy nào đó tùy theo tín ngưỡng của họ.
Nếu người ấy không theo một tôn giáo nào, nên giúp đỡ cho họ chết trong thanh thản và yên b́nh.
Khi người ấy trở nên hôn mê, nếu là hành giả, th́ nhắc nhở pháp môn mà họ công phu thường ngày, đặc biệt là lúc họ sắp ra đi. Kế đó tụng một số bài cầu nguyện. Nếu thân nhân muốn tốt cho người đang hấp hối, th́ tự tụng niệm hoặc cung thỉnh chư tăng về nhà để cầu nguyện cho họ.
Trường hợp không có chư Tăng tiếp dẫn, người thân trong gia đ́nh có thể tụng thần chú Om mani padme hum, hoặc những thần chú khác mà họ biết, để tiếp dẫn cho người chết. Sau tang lễ, gia đ́nh tiếp tục thọ tŕ, tụng niệm đến ngày thứ 49 cho hương linh dễ dàng t́m lối tái sinh vào cơi lành.
Công việc mai táng thi hài c̣n tùy nghi theo mỗi nền văn hóa hay tập tục của người chết, điều này không mấy quan trọng, bởi v́ một khi thần thức (consciousness) đă thoát thân, th́ xác chết ấy cũng giống như một đống đất.
Tại một làng không theo Phật giáo thuộc miền Nam Ấn Độ, tập quán của họ là chôn cất thi hài rồi trồng cây lên mộ. Đây là một cách để chấm dứt việc ô nhiễm không khí (air pollution) từ hỏa táng bằng củi đuốc, một tập tục thường thấy ở Ấn Độ, điều này c̣n tránh đi việc hủy diệt cây rừng, một tài nguyên quư giá của quốc gia. Đây là một phương pháp tốt mặc dù nó không bằng như ở phương Tây nơi dùng điện để hỏa táng.
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Đối với người hấp hối và người vừa chết, cách tốt nhất mà bạn muốn giúp đỡ là, phát khởi ḷng bi mẫn của chính bạn hướng đến với người sắp lâm chung.
Ḷng thương yêu và bi mẫn của bạn rất có ích cho người hấp hối, v́ nó phát khởi từ ḷng bạn nên bạn dễ dàng tỏ bày cho người ấy ḷng bi mẫn vô điều kiện mà người sắp chết rất cần.
Ḷng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên b́nh cho người hấp hối, nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả, và con đường tu tập của họ trong tương lai.
Một điều quan trọng khác là bạn đừng xa lánh và bỏ người đang hấp hối một ḿnh. Chết là sự thật và là một nỗi sợ hăi ghê gớm nhất đối với con người. Do đó, bạn nên ở bên cạnh họ, hoặc cầm tay họ nói lời an ủi, hoặc nh́n vào mắt họ với niềm cảm thông.
Thân thể cũng có ngôn ngữ yêu thương của nó, hăy sử dụng nó đừng sợ hăi v́ e rằng họ hôi hám, dơ bẩn hoặc sợ họ bắt ḿnh theo, nếu bạn thể hiện được những cử chỉ tŕu mến như thế, th́ bạn sẽ đem lại cho người sắp lâm chung niềm an lạc lớn nhất ở cuối cuộc đời họ.
Khi bạn chắc chắn người ấy đă chết, bạn vẫn duy tŕ ḷng bi mẫn vô bờ của bạn và cùng với mọi người ở bên cạnh tử sàng mà tụng lớn danh hiệu chư Phật như Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà hoặc danh hiệu 35 vị Phật v.v...
Nếu bạn niệm Phật với ḷng bi mẫn vô biên của bạn, sẽ giúp cho người lâm chung một bước đường tái sinh.
Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Có hai hạng người cần xem xét ở đây. Thứ nhất là người có tín ngưỡng. Thứ hai là người không theo một tôn giáo đặc biệt nào.
Nếu người hấp hối là một Phật tử th́ chúng ta tụng kinh và niệm Phật tiếp dẫn siêu độ cho họ. Nếu người ấy không theo tín ngưỡng nào, th́ điều tốt nhất để giúp đỡ họ là khuyên họ, nghĩ đến những người tốt và những điều tốt đẹp nhất trên đời.
Khi một người đang hấp hối và trong giờ phút bối rối ấy, không ǵ tốt hơn là đem lại cho họ cái cảm giác b́nh an và ấm áp của ḷng người, cảm giác này rất có ích cho tâm thức của họ.
Tôi sẽ giải thích chi tiết về những ǵ để giúp đỡ hai hạng người này. Đối với người theo đạo Phật, chúng ta có thể gợi cho họ hồi hướng về những ǵ mà họ từng quy y và tu tập. Chúng ta có thể nhắc cho họ nhớ về Bồ đề tâm, tỉnh thức tâm, thanh tịnh tâm và sự tập trung thiền định...
Điều này rất có lợi cho một Phật tử. Đối với người không có đạo, chúng ta có thể khuyên họ suy nghĩ rằng: "Cầu mong cho mọi người được hạnh phúc, cầu mong cho mọi sinh linh được an vui, cầu nguyện cho mọi chúng sanh thoát khỏi những khổ sầu của họ". Những ư tưởng muốn sự tốt đẹp đến với người khác, rất có ích cho người hấp hối.
Đối với Phật tử lúc sắp chết, nên nhắc cho họ nhớ về công hạnh của chư Phật, nhớ về h́nh ảnh của một vị Phật nào đó, có thể đặt một ảnh Phật trong pḥng của họ... Điều này rất có ích và là điều kiện giúp cho vong linh tái sinh vào đất tịnh.
Ngay sau khi người ấy chết, điều rất quan trọng cần lưu ư là không được đụng chạm đến thi hài của họ để cho tiến tŕnh chết không bị gián đoạn, tiến tŕnh này chỉ chấm dứt khi thân trung ấm hoàn toàn thoát ra khỏi thân xác.
Ở Tây Tạng, người thân phải đợi 48 tiếng đồng hồ sau mới tiến hành tang lễ.
Đại sư Geshe Lamrimpa: Nói chung, khi đă xác định người ấy sẽ chết, điều quan trọng là phải hoàn thành mọi ước nguyện của họ. Nếu họ tỏ ra luôn luôn giận dữ, th́ chúng ta nên làm cách nào để ngăn chặn cơn giận của họ, giữ cho họ luôn ở trạng thái thanh thản và yên b́nh.
Nên tránh gây ồn ào và di chuyển đi lại thường xuyên bên người ấy. Nếu người hấp hối quá quyến luyến người thân, vợ (hoặc chồng), cha mẹ con cái, th́ tốt nhất không cho những người thân này đến gần tử sàng.
Hăy cố gắng làm điều này để chấm dứt ḷng luyến ái của người hấp hối. Nếu xác định chắc chắn rằng họ sẽ chết, th́ chúng ta nên cho họ những đồ ăn thức uống, và các thứ mà họ đ̣i hỏi, để họ vui ḷng và thỏa măn, ngay cả thức ăn kiêng cữ trong thời gian điều trị.
Tuy nhiên, không được cung cấp độc dược và thức ăn có thể đe dọa đến mạng sống.
Nếu chúng ta cố gắng nói Pháp cho người hấp hối nhưng họ không thích nghe, th́ tốt nhất là đừng nói, v́ điều này tạo cho họ có ác cảm đối với Chánh pháp. Với ư nghĩ như vậy th́ đời sau họ sẽ không thích gần gũi với Phật pháp.
Tương tự, nếu họ thích ăn uống mà ḿnh không làm thỏa măn ước muốn của họ, sẽ làm họ giận dữ và là nguyên nhân khiến họ đọa vào loài ngạ quỷ (hungry ghost).
Nếu một người tin tưởng vào sự giúp đỡ của người khác và cũng là người từng giúp đỡ kẻ khác trong đời này, chúng ta nên nhắc cho họ nhớ về công hạnh tốt của họ và khen tụng về việc tốt mà họ đă làm.
Việc này làm tâm họ vui và họ sẽ tái sinh ở một nơi đầy hạnh phúc. Nếu chúng ta giúp cho ước nguyện của người hấp hối hoàn thành, th́ họ sẽ rất măn nguyện. Điều này ngăn ngừa sự trỗi dậy ḷng tham ái, giận dữ, quyến luyến và những tâm tà kiến khác của người hấp hối, nhờ đó giúp họ tái sinh vào cơi lành mà không đọa vào cơi xấu.
Đối với Phật tử và người từng thọ tŕ một pháp môn nào đó, th́ thật là thuận lợi nếu họ được chúng ta nhắc lại mười điều Phật dạy trước khi chết như sau:
1. Không nên khởi niệm tham đắm chấp thủ mọi dục vọng ở đời này. Nên cố gắng và tránh hướng tâm ái luyến đến người thân của ḿnh, v́ dẫu đời sau có gặp lại th́ cũng phải chia ĺa.
Trong thời điểm hấp hối, ta phải bỏ tất cả mọi thứ lại phía sau. Ta cũng không nên chấp đắm tấm thân của ḿnh, v́ lúc chết ta phải rời bỏ nó. Ta không luyến tiếc các thứ như thức ăn, áo quần, nhà cửa, v́ những thứ ấy cuối cùng cũng từ bỏ ta.
2. Ta nên phát khởi ḷng bi mẫn và thương yêu đối với mọi chúng sanh.
3. Ta nên đoạn tận mọi phẫn uất và thù hằn, nếu không th́ nó sẽ làm hại ta trong kiếp sau.
4. Tất cả các giới pháp mà ḿnh thọ tŕ, nếu đă vi phạm th́ phải cố gắng sám hối cho thanh tịnh trước khi chết.
5. Ta phải phát tâm dơng mănh trong đời vị lai sẽ thọ tŕ và giữ giới pháp thanh tịnh.
6. Ta phải cảm thấy đau xót về những ác nghiệp mà ḿnh đă gây tạo cho người khác trong đời này, và phải sám hối để dễ dàng tái sanh.
7. Ta phải nhớ đến những công đức mà ḿnh đă làm trong đời này, những công đức của người khác đă làm, và phát tâm sẽ tiếp tục làm trong vị lai.
8. Ta nên nghĩ đă đến lúc ḿnh phải ra đi để đến đời sau, không có ǵ sợ hăi cả, v́ đó là quy luật tự nhiên có sinh ắt có tử.
9. Phải quán thấy mọi sự vật hiện tượng đều do nhân duyên sinh, và cũng do nhân duyên mà hoại diệt.
10. Ta phải quán thấy rằng mọi sự vật hiện tượng đều vô ngă, để ta vượt thoát khỏi sầu và đạt được sự an lạc.
Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Cách tốt nhất để giúp cho người hấp hối là lời nói và hành động của ḿnh phải được thúc đẩy bởi ḷng từ bi.
Nếu có thể th́ cung thỉnh các bậc thầy đức hạnh đến để làm pháp chuyển di tâm thức (transference of consciousness) cho người hấp hối. Pháp này Tạng ngữ gọi là Powa, được xem là một pháp tu đặc biệt có giá trị và hiệu quả nhất để giúp cho người hấp hối.
Bạn quán tưởng h́nh ảnh đức Phật ở trên đầu người hấp hối. Quán tưởng những tia sáng chiếu rọi vào người sắp lâm chung làm sạch bản thể của họ, và quán thấy họ tan thành ánh sáng, ḥa nhập vào ánh sáng của chư Phật.
Việc chuyển di tâm thức có thành công hay không là c̣n tùy thuộc vào sức thiền định của người đang thực hiện pháp tu này. Pháp tu đặc biệt này không những dành cho người sắp chết mà c̣n có thể giúp tịnh hóa và chữa lành bệnh cho người c̣n sống.
Các vị Lama vẫn thường dùng pháp này để cầu an thọ mạng cho người già yếu. Một số vị thầy cho rằng nên thực hiện pháp chuyển di tâm thức vào khoảng ngừng lại, giữa hơi thở vào và hơi thở ra. Nhiều người khác th́ nói rằng nên thọ tŕ pháp này càng nhiều càng tốt, sau khi người đó chết để hộ tŕ cho thân trung ấm của họ dễ dàng tái sinh.
Theo giáo nghĩa của Luật Tông th́ nên hỏa táng thi thể càng sớm càng tốt sau khi chết. Nhưng theo Mật Tông th́ tốt nhất là đừng di dời thân thể sau khi chết trong ṿng ba ngàỵ
Hỏi: Người sắp lâm chung rất đau đớn về thể xác và hăi hùng với nỗi sợ chết. Phương pháp nào tốt nhất để giúp họ vượt qua nỗi sợ hăi đó?
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Phương Tây người ta thường dùng thuốc phiện, hoặc thuốc an thần để giảm cơn đau thể xác của người hấp hối, và giúp cho họ chết trong b́nh an.
Tuy nhiên theo Phật giáo th́ con người cần phải chết một cách đầy đủ ư thức, có sự tự chủ và tỉnh táo càng nhiều càng tốt. V́ thế cần phải kiểm soát sự đau đớn, để nó không thể che mờ ư thức của người sắp lâm chung, đó là điều kiện cốt yếu của việc làm giảm sự đau đớn về thể xác.
Thứ hai, làm ǵ để giúp người sắp chết vượt qua nỗi sợ chết? Trước hết, bạn phải thật b́nh tĩnh và chính bạn cũng phải vượt qua nỗi sợ hăi ấy.
Khi giúp đỡ người hấp hối, bạn cần phải lưu ư từng phản ứng của chính bạn, v́ phản ứng của bạn sẽ phản chiếu trên phản ứng của người sắp chết, và nó sẽ góp phần rất lớn vào sự an ủi của họ, hay tàn phá họ.
Khi niệm Phật tiếp dẫn, bạn cần chú ư trấn an người hấp hối rằng, trong giờ phút cuối cùng này họ sẽ đối mặt với vô số những cảnh tượng hăi hùng khác nhau, mà lâu nay họ chưa từng biết, và điều đó khiến cho họ vô cùng sợ hăi.
Tuy nhiên, bạn phải trấn an họ rằng, đó chỉ là ảo ảnh hoàn toàn không có thật, mà chỉ là sản phẩm từ ảo giác của người hấp hối.
Nếu có thể hăy trao cho họ chuỗi ngọc Mani, hoặc một xâu chuỗi hạt của các thầy đức hạnh sẽ giúp đỡ cho họ vượt qua nỗi sợ hăi. (Chuỗi hạt ở đây là biểu tượng năng lực của bậc đạo sư).
Hỏi: Đối với người không phải là Phật tử, họ không theo một tín ngưỡng nào, th́ làm ǵ để giúp họ?
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Đối với một người không tin hoặc không biết ǵ về đạo Phật, chỉ cho họ viên ngọc Mani, cũng như an ủi và giải thích cho họ biết những cảnh tượng rùng rợn mà họ sắp thấy trong chốc lát, chỉ là những ảo ảnh trong giấc mộng chứ không có thật.
Nhờ sự dặn ḍ trước này, họ sẽ vượt qua nỗi sợ hăi khi hấp hối.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 527 of 1146: Đă gửi: 03 July 2010 lúc 9:18pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT VÀ TÁI SINH
5. KHI NÀO THẦN THỨC CỦA NGƯỜI MỚI RA KHỎI THỂ XÁC
Hỏi: Ở phương Tây, dấu hiệu thông thường của cái chết là chấm dứt hơi thở và tim ngừng đập. C̣n theo Phật giáo th́ phải mất bao lâu sau khi việc này xảy đến thần thức mới thoát ra khỏi thể xác?
Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Có lẽ có hai hạng người cần xem xét ở đây. Thứ nhất, những người trẻ tuổi, hoặc những người đă nằm chờ chết trong một thời gian dài.
Hạng người này tâm thức rất tinh tế và thần thức của họ sẽ không lưu lại trong thể xác lâu, có thể chỉ một ngày thôi. Thứ hai là những người mạnh khỏe và cái chết đến nhanh, thần thức của họ lưu lại trong thể xác đến ba ngày.
Những cái chết khác như bất đắc kỳ tử, chưa đến thời điểm chết mà phải chết, chết v́ tai nạn hay v́ bạo lực. Chẳng hạn hai người đánh chém nhau, một người trong số đó chết đột ngột, th́ thần thức của họ không lưu lại trong thể xác lâu.
Nói chung, thời gian bao lâu tùy thuộc vào tâm thức nặng hay nhẹ của ḿnh, mà thoát ra khỏi thân xác sau khi chết.
Đại sư Geshe Lamrimpa: Khi hơi thở dứt và tim ngừng đập, nó chỉ rơ rằng phần thô của thần thức đă tan mất. Tuy nhiên có nhiều trường hợp, phần tinh tế của tâm thức c̣n lưu lại trong xác thân người ấy hàng tuần lễ, thậm chí có lúc cả tháng.
Nhưng hầu hết là phần tinh tế của tâm thức rời khỏi thể xác trong ba hoặc bốn ngày, trong thời gian này thi hài không bốc mùi hoặc thối rữa.
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Chưa thể khẳng định rằng một người b́nh thường, sau khi chết thần thức của họ rời khỏi xác trong ba ngày sau đó.
Nhiều người lưu lại lâu hơn, nhưng một số người khác th́ trụ lại thời gian ngắn hơn. Có nhiều ví dụ điển h́nh trong số các vị Lama Tây Tạng.
Như đức Lama Ling Rinpoche, thầy dạy học của đức Dalai Lama, thần thức của ngài đă trụ lại trong xác thân cả tuần lễ sau khi viên tịch. Ở trong cộng đồng người Tây Tạng, những trường hợp tương tự vẫn thường xảy ra.
Tóm lại, việc hỏa táng hoặc tiến hành tang lễ hay di chuyển thể xác tốt nhất phải đợi ba ngày sau. Tuy nhiên, ngày nay điều này khó thực hiện v́ người ta sợ ô nhiễm, do vậy, nên làm phép chuyển di tâm thức, trước khi động đến thể xác của người quá cố.
Hỏi: Trường hợp của những người chết v́ bệnh quá nặng như ung thư và Aids th́ thần thức của họ có thoát xác nhanh hơn không?
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Điều này không chắc chắn lắm. Việc thoát xác sớm hay muộn không thực sự tùy thuộc vào người chết bị tai nạn hay bị bệnh nặng, mà tôi nghĩ rằng việc ấy có liên hệ mật thiết đến thiện và ác nghiệp của người mất.
Ví dụ, đối với một người tu tập theo pháp Dzogchen hay một pháp nào khác, th́ sau khi chết họ tiếp tục quán tưởng Tánh không và thần thức của họ duy tŕ lại trong thể xác rất lâu, cho dù họ không hề luyến ái tấm thân ngũ uẩn này.
Hỏi: Các ngài có thể cho biết khi nào th́ thần thức rời khỏi thể xác? Những dấu hiệu nào cho chúng ta biết rơ điều này?
Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Một lần nữa chúng ta lại thảo luận về hai hạng người thoát xác sau khi chết. Bây giờ tôi sẽ không đề cập đến hạng người có thần thức lập tức thoát xác sau khi chết, mà chỉ nói đến hạng người có phần tinh tế thần thức lưu lại trong thi thể nhiều ngày.
Người ta nói rằng trước khi thần thức người ấy thoát ra khỏi xác, th́ trên thi thể họ sẽ có một điểm nóng được tụ lại duy nhất có màu đỏ hoặc màu trắng, điểm nóng tụ lại ở đâu th́ thần thức sẽ thoát ra ở chỗ đó.
Ví dụ, nếu điểm nóng hội tụ ở đỉnh đầu th́ chúng ta tin rằng người ấy sẽ tái sinh vào cơi lành, điểm nóng tụ lại ở bàn chân th́ chắc chắn người ấy sẽ đọa vào hạ giới. Dấu hiệu cho biết khi thần thức thoát xác sẽ có một ít máu chảy ra ở lỗ mũi.
Tuy nhiên, có một số người không thấy dấu hiệu này, đó là những người chết đột ngột v́ tai nạn hay bị bệnh tim. Dấu hiệu này chỉ t́m thấy ở những người có tiến tŕnh chết chậm và lâu.
Đại sư Geshe Lamrimpa: Hầu hết người nào bị chết v́ bệnh nặng, th́ khi thần thức rời khỏi thể xác đều có dấu hiệu máu hoặc chất nước vàng chảy ra từ lỗ mũihay miệng. Khi thần thức thoát ra th́ thể xác mới có mùi hôi.
Đức Dalai Lama thứ 14 từng nói chuyện với các bác sĩ nổi tiếng ở phương Tây, về vấn đề thần thức rời khỏi thể xác khi bệnh nhân tắt thở. Các bác sĩ đă trắc nghiệm và nói rằng, họ đă thấy một làn khói trắng nhỏ thoát ra từ một điểm nào đó trên thân của người chết. Kết quả này được kiểm tra bằng máy móc và phân tích thể xác một cách cẩn thận.
Những dấu hiệu như giọt máu hoặc nước vàng đều xảy ra đối với những người chết v́ bệnh nặng. Tuy nhiên, thi thể người ấy thường được di chuyển quá nhiều, trước khi thấy những dấu hiệu này, v́ vậy những trường hợp như thế, tuyệt đối không bao giờ xảy ra.
Ở Tây Tạng, theo tập quán truyền thống phải giữ thi thể trong ba, bốn hoặc bảy ngày ngơ hầu giúp cho thần thức có đủ thời gian để thoát xác. Trong thời gian chờ đợi này, các lễ kỵ siêu cho người quá cố được tiến hành một cách nghiêm mật.
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Bạn có thể biết khi thần thức thoát xác dựa vào sự biến đổi của thi thể. Khi thần thức c̣n lưu lại trong thể xác, th́ bạn cảm thấy người ấy chưa chết thật sự, nước da của họ c̣n tươi và sáng lạ thường, giống như họ đang nằm ngủ.
Nhưng một khi thần thức đă thoát xác th́ lập tức ta thấy thi thể thay đổi khác liền, nước da khô, tái xanh đi và bắt đầu có mùi hôi. Lúc ấy, bạn mới có cảm giác đó là một xác chết chứ không phải là một người nữa.
Những kinh nghiệm về làn khói hoặc giọt máu xuất ra khi thần thức thoát xác, không phải lúc nào cũng nh́n thấy được, chúng ta chỉ gặp ở một số ít người. Trong số những người này, khi thần thức thoát xác, chất nước vàng chảy ra từ lỗ mũi. Có một vị cao tăng Tây Tạng viên tịch, khi thần thức thoát xác, lỗ mũi của ngài liền chảy ra hai ḍng chất dịch lỏng, một bên th́ màu đỏ c̣n bên kia màu trắng.
Hỏi: Có đúng là cho đến khi thần thức thoát xác, thi thể mới bắt đầu có mùi hôi và có dấu hiệu thối rữa?
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Sự thật đúng như thế.
Hỏi: Khi một người chết nhưng thần thức vẫn c̣n lưu lại trong thể xác. Vậy người ấy có cảm giác ǵ không, nếu bị người khác đụng chạm đến?
Đại sư Geshe Lamrimpa: Họ sẽ không có cảm giác ǵ cả. Khi phần khô của thần thức tan mất, th́ người ấy không c̣n cảm giác nữa. Đối với các vị Tăng chứng đắc và người Phật tử có tu tập, khi chết, phần tinh tế của thần thức c̣n lưu lại trong thể xác, th́ họ có thể chết ở trong tư thế ngồi thiền, đến khi thần thức thoát xác, thi thể của vị ấy mới ngă xuống.
Mấy mươi năm trước, khi những người Tây Tạng đầu tiên đến tỵ nạn tại tỉnh Buxa của Ấn Độ, một Phật học viện của Phật giáo Tây Tạng nọ, có hai vị tăng đánh nhau và một người chết.
Sau đó, v́ vụ này mà chính quyền Ấn và người dân địa phương chỉ trích rất gắt gao đối với người dân Tây Tạng, họ nói rằng các tu sĩ Tây Tạng chỉ biết chém giết nhau mà thôi.
Về sau có một Lama đức hạnh tên là Gyari Rinpoche, đến từ tu viện Gender ở Tây Tạng, vị này đă viên tịch tại Ấn với tư thế ngồi kiết già trong bảy ngày.
Người Ấn được mời đến chứng kiến cái chết lạ thường của vị Lama này, và họ cố gắng giật mạnh khăn trải giường để làm cho thi thể của ngài ngă xuống, nhưng ngài vẫn ngồi thẳng như pho tượng, dù trải qua bảy ngày nhưng thể xác của ngài vẫn không có mùi hôi.
Sau sự kiện này, quan điểm của họ về các Tăng sĩ Tây Tạng đă thay đổi hẳn, họ không c̣n phê b́nh, chê bai nữa.
Hỏi: Nếu đụng chạm và di chuyển thi thể trước khi thần thức thoát xác, có ảnh hưởng ǵ đến tâm thức của người chết không? V́ ở trong bệnh viện, sau khi người hấp hối ngừng thở và tim hết đập, c̣n nhiều thủ tục khác chi phối đến tử thi. Sự can thiệp này có hại cho thần thức người chết không?
Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Trước hết, nếu đó là một người tinh thông có năng lực thiền định, họ cố gắng luyện tập thiền định sau khi trút hơi thở, nếu ta lắc mạnh thi thể của họ vào lúc họ ở trong trạng thái thiền định th́ sẽ khuấy rối tiến tŕnh tập trung thần thức của họ.
Do đó, tốt nhất là không đụng chạm đến thể xác họ trong thời điểm ấy. Ngay cả một người thường (người không có tu tập) cũng không nên đụng đến thi thể của họ cho đến ba ngày sau.
Nếu một người đang ngủ say, nhưng ta lay mạnh th́ họ sẽ thức giấc ngay, người chết ở đây cũng vậy, khi chạm đến họ, không có tác hại ǵ cho thể xác, nhưng có hại rất lớn đến thần thức của họ.
Thêm vào đó, nếu chúng ta buộc phải thay tấm khăn trải giường và nệm từ giường của người vừa chết cho sạch sẽ, th́ cũng nên thao tác nhẹ nhàng.
Tương tự, nếu người chết c̣n mở mắt và hả miệng, nên yêu cầu một người thân trong gia đ́nh đến trước tử thi bày tỏ ḷng kính trọng cuối cùng, rồi giúp họ khép mắt và miệng lại để trông dễ nh́n hơn.
Đối với những người bị dị tật, tay chân cong quẹo, lúc tẩm liệm phải kéo thẳng ra để dễ dàng đưa vào quan tài. Nhưng mỗi cử chỉ đối với người chết đều phải nhẹ nhàng và thực hiện ba ngày sau khi người ấy trút hơi thở cuối cùng.
Hỏi: Có lợi ích ǵ khi chúng ta chạm hoặc kích thích trên đỉnh đầu của người hấp hối và người chết, đặc biệt là người vừa chết?
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Khi một người vừa chết, chúng ta có thể sờ chạm vào đỉnh đầu của họ, đó là vùng huyệt đạo tốt nhất để thần thức thoát ra mà ngài Lama Je Tsong Khapa gọi là "chiếc cổng vàng".
Do đó, bạn nên kích thích vào vùng đỉnh đầu, nếu thần thức của người chết thoát ra ngoài bằng đường này th́ chắc chắn họ sẽ thác sinh vào cảnh giới an lành.
Nhưng nếu thần thức thoát ra bằng các đường từ lỗ rốn trở xuống, người ấy sẽ thác sinh vào ác đạo, như cơi ngạ quỷ hay loài cầm thú. V́ thế, người Tây Tạng không bao giờ tiếp xúc phần hạ bộ của thi thể người chết, nếu ta chạm vào chỗ nào của họ th́ thần thức sẽ tụ lại chỗ ấy mà thoát ra ngoài
Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Tiếp xúc vào đỉnh đầu của người hấp hối được xem như là đang làm phép "chuyển di tâm thức" cho họ. Thực hiện phép này không phải là một vấn đề đơn giản, phải làm cẩn thận để giúp cho thần thức của người hấp hối tập trung ở đỉnh đầu, chỗ mái tóc giáp nhau, gọi là cửa Brahma.
Nếu đầu của người ấy không bị sói th́ chúng ta phải nhổ năm ba sợi tóc bên trên cửa ấy, và dùng ngón tay trỏ cạo nhiều lần vào chỗ ấy, việc làm này nhằm giúp cho thần thức của người chết biết chỗ mà thoát ra ngoài.
Kỹ thuật này cũng thường giúp cho chất nước vàng chảy ra từ cửa ấy, dấu hiệu đó chứng minh cho phép chuyển di tâm thức đă thành công.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 528 of 1146: Đă gửi: 03 July 2010 lúc 9:32pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT VÀ TÁI SINH
6. THẦN THỨC PHẢI Ở TRONG TRẠNG THÁI TRUNG ẤM BAO LÂU
Hỏi: Sau khi thần thức rời khỏi thể xác và bước vào giai đoạn thân trung ấm giữa đời này và cuộc sống kế tiếp, phải mất bao lâu trước khi thần thức này gá vào một bào thai mới?
Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Thời gian kéo dài trung b́nh để một người đi tái sinh vào một cơ thể mới là bảy tuần lễ. Cứ sau bảy ngày th́ thân trung ấm chết đi và rồi tái sinh lại trong một thân trung ấm khác cho đến khi nó bắt được liên lạc với cha mẹ tương lai mới đi tái sinh. Tuy nhiên có nhiều người sau khi chết chỉ mất hai giây họ đă đi tái sinh vào cảnh giới khác.
Lư do tại sao thần thức phải chịu đựng trong tiến tŕnh trung gian sinh và tử giống như ma quỷ này? V́ do nghiệp thiện và ác của người ấy gây tạo đời trước sẽ quyết định dẫn dắt họ đến nơi thích hợp, do đó phải cần có thời gian nhất định để t́m kiếm cho một đời sống tương lai.
Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Bốn mươi chín ngày là thời gian dành chung cho tất cả mọi người, nhưng có một số người khác cứ vất vưởng trong thế giới trung ấm này một thời gian rất lâu, có lúc đến bảy năm mới đi tái sinh.
Nếu trường hợp họ bị kẹt lại trong thế giới trung gian này, họ sẽ trở thành ma quỷ. Thông thường khi một người đang hấp hối, chúng ta đọc kinh cầu nguyện hoặc nhắc nhở, họ đều nghe thấy, thậm chí người bất tỉnh cũng thế.
Đối với vong linh trong cơi trung ấm cũng có khả năng nghe, cảm nhận và hiểu được khi chúng ta đọc sách "Tử thư Tây Tạng" (Tibetan Book of the Death) để cảnh tỉnh họ. V́ thế, trong bảy tuần lễ đầu sau khi chết, là thời gian rất quan trọng để cho người sống làm mọi việc, có thể giúp sức tái sinh cho người chết.
C̣n thần thức của những bé chết trước khi sinh, trong lúc sinh hoặc tuổi c̣n nhỏ, sẽ đi qua các trạng thái trung ấm một lần nữa và nhận thấy một hiện hữu khác.
Cha mẹ của họ cũng có thể tạo phước (meri-forious acts) để hồi hướng công đức cho vong linh, hoặc thực hiện các pháp dành cho người chết như thọ tŕ thần chú Kim cương Tát đỏa một trăm âm (Hundred - syllable mantra of Vajrasattva), đủ túc số trăm biến, cúng dường đèn, bố thí, phóng sinh các loài vật... để giúp cho thần thức của hài nhi đó được nhẹ nhàng và dễ dàng t́m lối tái sinh.
Đại sư Geshe Lamrimpa: Không thể xác định thời gian chính xác là bao lâu. Nếu một người không phải tái sinh vào cơi người, th́ họ liền thác sinh đến cơi khác chứ không qua giai đoạn thân trung ấm.
Nhưng nói chung một người có thể ở trong cơi trung ấm trung b́nh là 49 ngày, có người ở một ngày, bốn ngày và có khi bảy ngày... Trong thời gian trụ lại trong trung ấm thân, vong linh t́m kiếm một đời sống tương lai khế hợp với nghiệp của ḿnh để tái sinh.
Đại sư Gerje Khamtul Rinpoche: Đối với một số người thời gian dài nhất là bảy tuần lễ, nhưng có một số khác chỉ ở trong thân trung ấm ba ngày. Phần lớn mọi người đều phải đầu thai sau hai mươi mốt ngày.
Không phải ai chết cũng qua giai đoạn thân trung ấm. Có một số người tu tập chứng ngộ, có một đời sống phạm hạnh và lợi lạc, khi chết họ trực tiếp tái sinh vào cảnh giới tốt lành, chứ không qua giai đoạn trung gian này.
Một người phạm tội ngũ nghịch (giết cha mẹ, phá hoại chánh pháp...), hoặc có một đời sống tiêu cực, ác độc... th́ sẽ đọa liền vào địa ngục, hoặc một cơi xấu nào đó chứ không qua giai đoạn thân trung ấm.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 529 of 1146: Đă gửi: 03 July 2010 lúc 9:33pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT VÀ TÁI SINH
7. QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO VỀ VỤ TỰ SÁT
Hỏi: Xin cho biết quan điểm của Phật giáo như thế nào về vấn đề tự sát?
Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Đối với người Phật tử, tự giết ḿnh là một tội rất lớn. V́ sao? Bởi v́ có được thân người là một trong những điều khó và làm bị thương hoặc hủy diệt thân ấy là một điều sai lầm rất lớn.
Tự tử thường bắt nguồn từ kết quả của những cơn nóng giận. Chỉ có giận dữ người khác mà không làm ǵ được nên trở lại giết chết ḿnh. Đối với một người không theo đạo Phật cũng thế, tự tử là một hành vi đáng trách và tội lỗi.
Sau khi chết, thần thức của họ không có một nơi nào khác là phải lao theo nghiệp ác của ḿnh. V́ thế chúng ta phải nghĩ cách làm thế nào để giúp họ vượt qua những cơn khủng hoảng tinh thần và nỗi khổ đau của họ.
Ở trong t́nh trạng rối loạn, bế tắc và tuyệt vọng, cơn khủng hoảng trầm trọng này có thể đẩy con người đến chỗ tự sát.
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Nhà Phật cho rằng tự tử là một điều tồi tệ nhất mà con người có thể làm. Đây là một hành động tiêu cực khiến cho thần thức của kẻ ấy gặp khó khăn trong việc tái sinh.
Theo truyền thống của Phật giáo Tây Tạng th́ có hàng trăm vị nam và nữ thần ở trong thân của chúng ta, nếu phạm vào tội tự sát, đồng thời ta cũng giết cả họ.
C̣n theo Phật giáo Đại Thừa th́ dưới chân của mỗi sợi tóc th́ có hàng ngàn tế bào sống khác.. khi ta giết ta th́ đồng thời ta cũng hủy diệt chúng.
Đại sư Geshe Lamrimpa: Theo Phật giáo th́ tự tử là một hành vi tiêu cực và là nguyên nhân khiến cho thần thức của người ấy rơi rớt vào cơi xấu.
Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Khi một người tự tử, thần thức của họ thường phải đi theo nghiệp xấu của ḿnh, rất có thể họ sẽ bị một ác ma bắt lấy và chiếm đoạt sinh lực.
Để giúp cho những người này, các vị thầy có năng lực phải làm nhiều lễ cầu siêu đặc biệt như năm cuộc lễ và những nghi thức khác để siêu độ thần thức cho người chết.
Hỏi: Trong thời gian chiến tranh tại Việt Nam, có nhiều Tăng sĩ đă tự thiêu, với động cơ là làm cho thế giới chú ư đến nỗi khổ đau chiến tranh ở VN. Việc tự thiêu của họ phải chăng là hành vi tiêu cực?
Đại sư Geshe Lamrimpa: Các vị Bồ Tát được phép thực thi một số hành vi mà người thường cho đó là tiêu cực. Tuy nhiên, Phật giáo Nguyên thủy phản đối hành động này, v́ thế tự tử luôn được xem là hành vi tiêu cực trong truyền thống này.
Nếu bạn phân tích kỹ hơn, xem động cơ khiến các vị Tăng này tự thiêu là ǵ, th́ chúng ta mới phán xét là tiêu cực hay tích cực.
Trong một bộ kinh của Phật giáo có ghi lại câu chuyện về một vị Tỳ kheo trẻ bị một phụ nữ ép buộc phải lấy bà ta. Vị này biết rơ rằng nếu ḿnh chịu lấy th́ sẽ phá bỏ giới luật; mặt khác, nếu không chịu lấy, bà ta sẽ vu khống rằng ḿnh đă có những hành vi tồi bại.
V́ thế, để giải quyết t́nh cảnh bế tắc này mà không phạm giới, vị ấy quyết định tự kết liễu đời ḿnh. Suy nghĩ như thế rồi, vị ấy giả vờ đồng ư và nói với bà ấy đợi một chút. Vị ấy vào pḥng trong, đóng cửa và tự đâm vào cổ họng mà chết.
Trước khi tắt thở, vị ấy kính lễ mười phương Tam Bảo và nói rằng: "V́ tôn kính Tam Bảo và ǵn giữ giới hạnh mà con quyết định từ bỏ thân này".
Trong Kinh nói đây là hành vi tích cực và có công đức. Nếu trường hợp các Tăng sĩ Việt Nam v́ động cơ muốn cứu văn Chánh pháp của đất nước họ không lún sâu vào chiến tranh, v́ một động cơ cao cả như thế th́ hành vi tự thiêu của họ không thể cho là tiêu cực mà phải được xem là hành vi của các vị Bồ Tát.
Hỏi: Quan điểm của Phật giáo như thế nào về việc chấm dứt mạng sống trước khi người ấy chết? Bệnh nhân yêu cầu để cho họ chết tự nhiên bằng cách không dùng thuốc, hay những phương pháp y học nào đó, v́ họ quá đau đớn về thể xác và tinh thần, trong khi việc điều trị không mang lại kết quả.
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Trong trường hợp này rơ ràng bạn muốn đem lại lợi ích cho người khác, chấm dứt sự đau đớn của họ. Tuy nhiên, cần phải xem xét cẩn thận, chứ đừng nên hành động thiếu suy nghĩ, bởi v́ giết một mạng người là một tội ác.
V́ vậy, dù đau đớn dữ dội, thay v́ để cho họ chết th́ cố gắng dùng hết khả năng để điều trị cho họ, có thể cho họ uống thuốc giảm đau hoặc thuốc an thần chẳng hạn. Mặt khác, nên nhớ rằng thân người rất khó khăn mới có được. Do vậy, các nhà điều trị phải suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết định việc này.
Đại sư Geshe Lamrimpa: Người ta nên tiếp tục chữa trị để giữ mạng sống cho họ. Nếu người ấy chết với trạng thái tâm giận dữ, bất an, tiêu cực hay hôn mê th́ sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc đầu thai và sẽ gặp bất lợi cho đời sống tương lai của họ. Tuy nhiên, nếu cho họ uống thuốc để rút ngắn mạng sống th́ cũng không thích hợp.
Hỏi: Đôi khi họ muốn được chết th́ sao?
Đại sư Geshe Lamrimpa: Họ muốn chết trước thời hạn, bởi v́ họ không chịu đựng nổi sự đau đớn ngay trong đời này. Nhưng họ đâu biết rằng nỗi khổ đau ấy họ vẫn phải đối mặt trong đời sau, v́ thế, tốt hơn hết nên giúp họ điều trị.
Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Sử dụng máy móc để kéo dài mạng sống của một người không c̣n cơ may lành bệnh là điều vô lư và hăi hùng.
Tốt hơn cứ để cho họ chết một cách tự nhiên trong bầu không khí yên b́nh. Khi sử dụng máy móc mà không có hy vọng hồi phục cho người bệnh, th́ việc chấm dứt điều trị bằng máy không phải là tội ác.
Rơ ràng không cần thiết để kéo dài sự sống nhân tạo cho họ. Theo cách nh́n của nhà Phật, th́ chúng ta nên làm bất cứ điều ǵ có thể để trợ giúp cho người ấy, đối phó với sự xuống tinh thần trong giờ phút đau đớn và sợ hăi, đem lại cho họ niềm b́nh an vào phút cuối của cuộc đời.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 530 of 1146: Đă gửi: 03 July 2010 lúc 9:34pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT VÀ TÁI SINH
8. HIẾN TẶNG THỂ XÁC CÓ TỐT KHÔNG?
Hỏi: Ở phương Tây, hiến tặng những bộ phận trong cơ thể người vừa chết là việc b́nh thường, như hiến tặng cặp mắt, quả thận để cho người khác, việc làm này có ảnh hưởng hay làm trở ngại ǵ cho thần thức của người chết không?
Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Việc hiến tặng thi thể là một điều tốt, bởi v́ nó phát khởi từ động cơ làm lợi lạc cho người khác với ḷng bi mẫn chân thật.
Và một khi nó là ước nguyện cuối cùng của người chết, th́ tuyệt nhiên không có ảnh hưởng hoặc có hại ǵ cho thần thức của họ, khi họ rời bỏ thể xác.
Trái lại việc làm tích cực này, sẽ góp phần tạo thiện nghiệp cho người ấy trong đời sống vị lai.
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Nếu một người muốn hiến tặng thi thể của họ, th́ nên lấy những bộ phận cần thiết ấy sau khi người đó chết.
Điều này không có ǵ ảnh hưởng đến tiến tŕnh, thần thức thoát xác và tái sinh của họ.
Hỏi: Có nhiều trường hợp nếu các bộ phận của thi thể được lấy đi, mà thần thức của họ chưa rời khỏi thể xác th́ sao?
Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Điều này tùy thuộc vào ḷng bi mẫn và ước nguyện của người chết.
Nếu người ấy đă từng bày tỏ nguyện vọng bố thí lớn lao đó một cách chân thành, th́ có thể lấy đi những bộ phận cần thiết, ngay cả trước khi tim ngừng đập, cũng không có hại ǵ cho thần thức.
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Như tôi đă nói trên, thần thức sẽ rời khỏi thể xác khi ta đụng chạm đến thi hài của họ, chẳng hạn như ta kích thích vào vùng đỉnh đầu, để chỉ dẫn cho thần thức thoát ra.
Một khi thần thức đă ra rồi th́ bạn có thể lấy đi những thân phần cần thiết. Do đó nên lưu ư giúp người chết làm phép chuyển di thần thức, trước khi lấy những thân phần của họ.
Hỏi: C̣n phương pháp đông lạnh (Cryonics) thi hài sau khi chết th́ sao ?
Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Việc ấy hoàn toàn vô nghĩa, không đem lại một lợi ích nào. Thần thức người ấy không thể quay lại thi thể, một khi người ấy đă chết thật sự.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 531 of 1146: Đă gửi: 03 July 2010 lúc 9:34pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT VÀ TÁI SINH
9. LÀM G̀ ĐỂ CHUẨN BỊ CHO CÁI CHẾT
Hỏi: Có phương pháp nào tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết của ḿnh không?
Đại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Phương pháp tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết của mỗi người, là nên tu tập tâm linh trong suốt cuộc đời ḿnh.
Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Một lần nữa tôi phải đề cập đến hai hạng người, thứ nhất là tín đồ theo đạo Phật, thứ hai là những người không có đạo.
Đối với hạng người thứ nhất đă từng quy y và tu học theo Chánh pháp, khi họ biết rằng cái chết đang đến với họ, th́ đó là thời gian giúp họ tinh tấn hơn trong việc tu tập của ḿnh.
Đối với hạng người thứ hai, chưa hề nghĩ ǵ về con đường đạo trong cuộc đời họ, nên khuyên họ cố gắng phát khởi tâm đạo, tâm đạo ở đây nghĩa là suy nghĩ về điều tốt, nghĩ và cầu mong điều tốt đến với người khác.
Đây là cách tốt nhất dành cho những người không có đạo chuẩn bị cái chết.
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Giống như ta đi đến một nha sĩ, đó là điều không ai tránh khỏi, việc cuối cùng cũng phải xảy ra, chết cũng thế, v́ vậy có ǵ tốt đẹp bằng nếu ta bắt đầu suy nghĩ về nó ngay bây giờ.
Để biết rơ về cái chết ta nên hỏi các bậc thầy của ḿnh, những người có kiến thức về cái chết, các ngài sẽ cho chúng ta biết con người sẽ chết như thế nào.
Nếu ta có những hiểu biết như thế, ta thật sự không sợ chết và nó sẽ giúp đỡ ta rất nhiều.
Đại sư Geshe Lamrimpa: Nếu một người đang chuẩn bị một nơi tái sinh hạnh phúc, th́ sẽ loại bỏ tham sân si, và tịnh hóa mười ác nghiệp nếu đă phạm phải trong quá khứ, bày tỏ sự hối tiếc và lập nguyện không vi phạm giới pháp trong tương lai.
Đây là lời dạy chung cho tất cả mọi chúng sinh. Đối với một người đă thọ giới để tu, hay một hành giả Mật giáo, họ phải sám hối và tịnh hóa tất cả giới luật và lời phát nguyện mà họ đă phá bỏ.
Mặt khác, nếu muốn đời sau giàu sang th́ phải thực hành pháp bố thí, muốn được hạnh phúc th́ phải giữ giới hạnh, muốn được trường thọ nên tránh sát sinh, muốn được ngưỡng mộ và tôn kính phải tu pháp nhẫn nhục. Muốn giải thoát th́ tu tập sáu hạnh của Bồ Tát...
Nói chung nếu chúng ta loại bỏ hết ác nghiệp, tịnh hóa hết tất cả nghiệp chướng và hướng đến hành vi công đức, tạo cho ta có một sức mạnh hỷ lạc về nội tâm.
Khi cái chết đến với ta, chính năng lực công đức và giới hạnh ấy, sẽ tiếp sức cho ta đi tới một đời sống khác an toàn và hạnh phúc. Đó là cách tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết của mọi người.
Hỏi: Ở trong Phật giáo có một vài phương pháp thiền quán niệm về cái chết, và kể lại tiến tŕnh chết. Loại thiền này có lợi ích ǵ không ?
Theo triết học của Phật giáo, phương pháp thiền quán tưởng về cái chết, là nhắm vào mục đích để ta ư thức được cuộc đời là vô thường, và ta sẽ trở nên quen thuộc với những diễn biến khác nhau, về cái chết mà con người sẽ phải đi qua.
Điều đó rất có ích. Trong pháp tu này, hành giả biết rơ những dấu hiệu xảy ra trong tiến tŕnh đưa đến cái chết, như sự suy yếu của sáu giác quan, và sự tan ră dần của thân tứ đại...
Theo triết học Phật giáo Tây Tạng th́ luyện tập quán tưởng về cái chết là một pháp tu rất quan trọng.
CHỦ NGHĨA VỊ THA
LÀ TRÁI TIM CỦA PHẬT GIÁO
Hỏi: Ở phương Tây, nhờ Phật giáo mà trong những năm gần đây, có sự phát triển rất nhanh về phong trào thiết lập những Tiếp Dẫn Đường, để chăm sóc cho những người sắp lâm chung.
Các ngài có nghĩ rằng chúng ta có thể đem lại lợi lạc cho người chết không?
Đại sư Garje Khamtul Rinpoche: Tôi cho rằng phong trào này rất tốt, bởi v́ người phục vụ và người được chăm sóc, đều biết rơ ḿnh cuối cùng cũng đi đến cái chết, do đó khi c̣n sống trên đời này họ cố gắng làm mọi điều tốt đẹp và nhất là giúp đỡ những người sắp lâm chung.
Giống như khi bạn đi máy bay, biết rằng bạn đang ở trên không trung và có cảm giác sợ hăi. Nhưng khi bạn thấy xung quanh có đủ tất cả những tiện nghi để giúp đỡ bạn, th́ bạn cảm thấy như ḿnh đang ở nhà, bạn cảm thấy hạnh phúc về điều đó.
Tóm lại, tôi thấy rằng các Tiếp Dẫn Đuờng ở phương Tây rất tốt, v́ nó giúp cho người sắp lâm chung cảm thấy an toàn, tự tin và không sợ hăi nữa.
Đại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Ư tưởng thành lập các dưỡng Đường Tiếp Dẫn cho người sắp lâm chung, là biểu trưng cho ḷng bi mẫn vô biên của chúng ta đối với người sắp chết.
Đây là một phong trào rất tốt mà tôi cho rằng, phát triển nhiều Trung tâm thêm chừng nào tốt chừng ấy.
Ở phương Tây xưa nay không quan tâm đến vấn đề tu tập tâm linh, nên người sắp chết rất cần sự nâng đỡ về tinh thần ở cuối đời, điều này giúp cho họ có một sức mạnh nội tâm, để vượt qua nỗi hăi hùng của cái chết.
Cuối cùng trái tim của Phật giáo là ḷng vị tha, nghĩ đến người khác và giúp đỡ cho họ. Chúng ta phải nỗ lực nhiều hơn nữa, để có thể đem lại sự an ủi nâng đỡ tinh thần cho họ, mà xă hội đă một thời bỏ rơi và thiếu quan tâm.
Từ đáy ḷng ḿnh, tôi muốn nói lời cảm ơn Thầy (người thực hiện cuộc phỏng vấn này) rất nhiều, và tôi phải nói rằng, Thầy đừng nghĩ rằng ḿnh đang đơn độc với trong công việc này.
V́ tất cả những ǵ mà Thầy đang làm hiện nay, là đại diện cho một đường hướng hoạt động của Phật giáo trong thời hiện đại.
Chư Phật, Bồ Tát và các vị Thiên Thần Hộ pháp luôn ủng hộ và luôn ở phía Thầy.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 532 of 1146: Đă gửi: 03 July 2010 lúc 9:35pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT VÀ TÁI SINH
10. DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA CÁI CHẾT
Rich Fields, một nhà thơ, nhà văn, đệ tử của Ḥa thượng Chogyam Trungpa Rinpoche và nhiều bậc thầy nổi tiếng người Tây Tạng, ông được ghi nhận là mắc bệnh ung thư phổi từ năm 1995.
Hiện nay ông đang giữ chức Tổng biên tập tạp chí Yoga, và Phó tổng biên tập nguyệt san Phật giáo Tricyle, xuất bản tại Hoa Kỳ. Ông đang cư ngụ tại Fairfax, bang California với người điều dưỡng là bà Marcia Cohen.
Ông là tác giả của nhiều quyển sách Phật giáo có giá trị như "Làm sao những con thiên nga đến được bờ hồ, Lịch sử Phật giáo nước Mỹ...". Cuộc phỏng vấn này do đạo hữu Helen Tworkov, Tổng biên tập tờ Tricyle, thực hiện vào tháng 5 năm 1997, để t́m hiểu quan điểm về cái chết của ông.
Tricycle: Lần đầu tiên khi biết ḿnh ung thư, ông đă làm ǵ ?
Fields: Vào tối hôm ấy, một vị Lama cho tôi một lời dạy của Đức Phật Dược Sư (Medicine Buddha) và tôi cảm thấy an ủi. Tôi xem căn bệnh nan y này là một cơ hội tốt để tôi trả nghiệp. Đó là một trong những Bồ tát hạnh mà bạn phải thực hành.
Quan điểm này rất khác biệt so với quan điểm của phương Tây. Quan điểm của Bồ tát làm đảo lộn hết mọi thứ xung quanh nó.
Đây là một pháp môn luyện tập của Kim Cương thừa, chấp nhận bất cứ mọi hoàn cảnh khó khăn nào và phải đưa nó vào con đường tu tập, không cứ là hoàn cảnh tốt mà bất cứ một t́nh huống nào cũng biến nó trở thành phương tiện để tu luyện.
Bạn có thể mong rằng "chứng bệnh này giúp tôi mang lấy hết bệnh của tất cả chúng sinh, nhận lấy hết đau đớn của chúng sinh, để cho họ hết bệnh và hết đau đớn".
Bằng cách này, bạn tấn công vào "bản ngă tự thương xót lấy ḿnh" và nhiều vấn đề cơ bản khác phát sinh khi chúng ta mắc bệnh, chẳng hạn như chúng ta tự hỏi "tại sao tôi... ?"
Tricycle: Các bậc thầy của ông đă nói ǵ ?
Fields: Câu nói đầu tiên của họ luôn luôn là: "Mọi người đều phải chết. Chết là một sự thật". Hoặc "Chúng ta có thể điều trị bệnh này và con sẽ khỏi thôi".
Hay "Ồ con chờ đợi cái ǵ nào? Có sanh ắt phải có tử". Rồi một ư kiến khác "Con may mắn v́ nó là một cơ hội tốt cho việc tu luyện của con".
Tricycle: May mắn bởi v́ ông là một hành giả tu luyện?
Fields: May mắn là v́ có thời gian để chuẩn bị mọi thứ, dù bạn là một hành giả hoặc không. Quan điểm thông thường ở phương Tây là "Ồ may mắn là v́ họ đă chết trong lúc ngủ, hay chết v́ cơn đau tim hoặc chết đột ngột".
Tuy nhiên bệnh ung thư là đặc biệt tốt cho bạn, bởi v́ bạn có đủ thời gian để tiên liệu mọi việc và giải quyết nó.
Về việc tu tập th́ theo lời dạy của thầy Trungpa Rinpoche rằng: "Chết là sự thật, nó đến mà không báo trước. Thân này sẽ trở thành một xác chết".
Chết chỉ là một phần trong đời sống của chúng ta. Nền văn hóa của phương Tây giúp đỡ chúng ta phớt lờ với cái chết, nhưng phương Đông th́ phải nh́n thẳng vào cái chết, từ một quan điểm ấy, một căn bệnh ở vào giai đoạn chót, rất có thể hữu ích cho việc tu tập tâm linh.
Tricycle: Những ư kiến "nó tốt cho việc tu tập của bạn" có quấy rầy ông không?
Fields: Ở những trung tâm tu học điều đó thường được xem là chuyện đùa. Đối với một người chưa có kinh nghiệm th́ điều đó thật phiền hà, họ lập tức phản kháng, đầu hàng hay chấp nhận. C̣n đối với tôi th́ không.
Tricycle: Ông quan tâm đến việc tiên đoán sự phát triển của căn bệnh không?
Fields: Không, quan điểm của tôi là "Tôi sẽ sống cho đến lúc chết" một việc mà tất cả mọi người đều có thể làm.
Tôi không hiểu hết giá trị của những câu nói, mà mọi người thường nói rằng: "Anh c̣n bốn tháng nữa để sống". Và tôi không muốn tạo ra bất cứ một gánh nặng nào cho ai. Tôi không bao giờ quan tâm đến những lời nói may mắn.
Tricycle: Ông sẽ chọn giải pháp nào giữa việc chấp nhận cái chết, và cố gắng điều trị căn bệnh ở đoạn cuối?
Fields: Chúng ta có quyền chọn lựa sao? Cuối cùng tất cả chúng ta đều phải chết. Chết là sự thật, nó đến mà không cần báo trước, và thân này sẽ trở thành cái xác.
Phật giáo luôn luôn kiên định về vấn đề này. Những bác sĩ đầu tiên nói với tôi rằng, số lượng thống kê bệnh ung thư phổi giống như tôi, đều không có cơ may chữa khỏi.
Tôi đă từng nói với các bác sĩ, tôi không quan tâm đến việc nghe họ. Tôi sẽ sống cho đến khi tôi chết dù bốn tháng hay năm năm.
Các bác sĩ cũng như thế, họ cũng sống cho đến lúc chết. Ông ta biết khi nào tôi chết, nhưng ông ta th́ không biết khi nào đến lượt ḿnh. Nếu tôi chống lại cái chết, có thể tôi sẽ chết sớm hơn.
Tricycle: Khi ông chống lại bệnh ung thư, nó có trở nên là một cái ǵ đó phân ly giữa nó và ông không?
Fields: Trước hết tôi cảm thấy nó giống như một cái ǵ đó đă tấn công tôi. Dĩ nhiên các tế bào tôi đă bảo vệ tôi. Những phản ứng đầu tiên của tôi, là xác định ḿnh là một chiến binh đầy sức mạnh. Tôi phải chiến đấu.
Sau đó có một lần chữa bằng hóa trị, tôi dùng Mật Chú và quán niệm thần Phẫn nộ, để tiêu diệt các tế bào ung thư trong thời gian hóa trị.
Tricycle: Việc công phu tu tập của ông có thay đổi khi ông được chẩn đoán không?
Fields: Công việc tu tập của tôi càng trở nên tích cực. Tôi thấy có kết quả rơ ràng hơn trong một thời gian ngắn, so với những thành tựu thiền định mà tôi phải bỏ ra, trong một thời gian dài như trước đây.
Tricycle: Ông có bắt đầu dành nhiều thời gian cho công phu buổi sáng không?
Fields: Có, tôi vẫn công phu như mỗi ngày. Tôi cảm thấy không có vấn đề là tôi ngồi bao lâu, hoặc có liên hệ đến chỗ ngồi. Việc hành tŕ của tôi vẫn không thay đổi.
Tricycle: Nó có ảnh hưởng đến cách cư xử của ông không?
Fields: Có thể. Tuy nhiên tôi vẫn có những thói quen thông thường. Tôi vẫn làm việc như mọi ngày, vẫn giữ các mối quan hệ, vẫn viết bài và vẫn sống.
Đôi khi tôi nghĩ ḿnh nên gia nhập vào một trại tu dưỡng, và tôi nỗ lực tu tập để đắc đạo trước khi chết (cười lớn).
Nhưng đồng thời tôi thích chờ đợi từng phút giây, b́nh an và chiến đấu để sống một cách trọn vẹn, và đó là những ǵ mà tôi chọn.
Tricycle: Ông có tự thương hại ḿnh không?
Fields: Tôi nghĩ tự thương hại ḿnh là đi cùng với bản ngă. Khi điều này xảy ra lần đầu tiên, nó mong muốn tất cả những nghiệp của tôi đến đậu đúng trên chóp mũi của tôi, nh́n thẳng vào mắt tôi, liếc nh́n tôi và tôi bắt đầu liếc nó trở lại.
Đó là bộ mặt của một chiến binh. Sau đó tôi được chẩn đoán. Allen Ginsberg gọi điện và nhắc cho tôi nhớ lời của thầy Trungpa Rinpoche đă nói với Billy Burroughs, một người sống nhờ ghép bộ phận gan mới.
Rinpoche nói rằng: "Con sẽ sống hoặc sẽ chết, cả hai cái đều tốt cả". Tôi không muốn cái chết của tôi là một kẻ đối đầu. Chết không phải là một kẻ thù.
Chết là một phần trong đời sống của chúng ta. Ung thư có thể xem như là kẻ thù. Nhưng chính cái chết tự nó đến và đến bất cứ lúc nào, nó không phải là một kẻ thù.
Đó là cái đă được chấp nhận và đó là thế đứng của một chiến binh. Đối với một chiến binh, chết không phải là kẻ thù. Khi các sĩ quan đội quân cảm tử của Nhật Bản ra chiến trận, họ thường được lănh tiền thưởng cảm tử.
Nếu bạn bước vào chiến trận với sự can đảm không sợ hăi, và biết rằng cái chết có khả năng xảy ra, th́ bạn sẽ chiến đấu giỏi hơn và bạn sẽ chiến thắng.
Nhiều pháp môn tu tập của Phật giáo nói chung, là nhắm vào việc loại bỏ sự sợ hăi về cái chết, một loại sợ hăi về tái sinh, hay sợ hăi về cuộc sống của chúng ta.
Tricycle: Ông đă chẩn đoán biết ḿnh đang bệnh ung thư c̣n tôi th́ không. Có sự khác biệt nào giữa chúng ta? Có phải ông hấp hối trước tôi? Có phải t́nh cảnh của ông có thức tỉnh về cái chết, trong khi tôi vẫn ở trong ṿng ảo tưởng là tôi sẽ sống măi?
Fields: Không phải là bạn sẽ sống măi măi. Nhưng sự tính toán thời gian có hơi khác biệt. Tôi được nói rằng tôi đang ở trong cơn nguy cấp. Sự lựa chọn thời gian chính xác là một vấn đề.
Nhưng tôi nói với một bác sĩ ở Stanford về ư kiến thứ hai, tôi nói "Mọi người đều nói đây là bệnh không thể cứu chữa được" và ông ta nói "Có phải ai đó nói với anh là "không thể chữa được" ở giai đoạn cuối phải không?".
Và tôi trả lời: "Không có ai đề cập đến việc đó cả". Có nhiều căn bệnh không thể chữa được hoặc măn tính, nhưng có thể xoay xở và cứu văn được ở giai đoạn chót.
Tôi đang sống với thời kỳ thay đổi thường xuyên. Hiện nay tôi đang ở trong t́nh trạng thuyên giảm. Bệnh ung thư giống như một con tê giác (Rhi-noceros) bề ngoài của nó trông rất xấu xí, đôi mắt nhỏ, làn da sần sùi, ruồi bu xung quanh, trông giống như một con kỳ lân hung dữ.
Và đó là con tê giác hiền lành, đang nhai cỏ trong đầm lầy, không chú ư đến bạn, bạn cảm thấy thuyên giảm và khỏe mạnh. Nhưng vào lúc nào đó, con tê giác nh́n quanh quẩn, chạy như điên đến chỗ bạn... Sự khác biệt ở đây là tôi luôn có một con tê giác ở xung quanh.
Tricycle: Ông tin điều ǵ sẽ xảy ra sau khi chết?
Fields: Tôi không biết. Tôi nghĩ tôi cảm thấy thoải mái với một người theo thuyết bất khả tri, có xảy ra hoặc không xảy ra cũng vậy thôi.
Và tôi nghĩ là tôi đồng ư với những ǵ mà cư sĩ Stephen Batchelor nói với mọi người, có lư khi tu tập để có một nơi tái sinh tốt, đó không phải là kinh nghiệm của tôi.
Tôi tu luyện tâm linh để có đời sống hiện tại tốt hơn, an vui hơn... Và nếu kết quả tu tập giúp tôi trong đời sống này, th́ tôi chắc rằng nó cũng giúp tôi lúc tôi chết, v́ chết là một phần của đời sống.
Tricycle: Ông muốn an táng thi thể của ḿnh như thế nào?
Fields: Tôi muốn nghe ư kiến của bạn trước.
Tricycle: Tôi muốn theo phương pháp "không táng" (sky burial) ở Nova Scotia. Đặt thi hài trên vùng St. Lawrence để làm thức ăn cho chim đại bàng, quạ, chó sói và côn trùng. Dĩ nhiên điều này bất hợp pháp, nhưng đó là sở thích của tôi.
Fields: Tôi cũng thích kiểu "không táng" này, tuy nhiên hỏa táng (cremation) th́ dường như là một sự lựa chọn tốt hơn.
Nhưng phải là hỏa táng theo kiểu của người Ấn Độ, đặt thi thể lên đống củi để thiêu. Ư kiến của tôi bị ảnh hưởng bởi lời dạy của thầy Trungpa Rinpoche, là không di chuyển thể xác chỗ khác trong ba ngày đầu, bởi v́ cần có đủ thời gian để cho thần thức rời khỏi xác thân hoàn toàn.
Lư tưởng nhất là đặt thể xác trong chánh điện, rồi đắp chiếc mền lên, để cho mọi người nh́n thấy, chiêm nghiệm hoặc để quán tưởng tử thi, và rồi có một buổi lễ đặc biệt được thực hiện.
Nếu có một người nào đó đến làm phép, chuyển di tâm thức th́ thật là tuyệt vời. Tôi nghĩ thật là tốt biết bao cho mọi người có một buổi tiệc vào ngày ấy. Nói chung một lần nữa, tôi thích hỏa táng ngoài trời theo kiểu của người Ấn.
Tricycle: Ông có thể khuyên điều ǵ cho những người có hoàn cảnh tương tự như ông?
Fields: Tôi là nhân vật trung tâm của cuộc nói chuyện này, mọi người có thể t́m thấy những điều hữu ích cho bản thân ḿnh, về sự lựa chọn phương pháp điều trị theo y học truyền thống.
Trong một số truyền thống tâm linh, có một quan điểm cho rằng, mọi việc đều xuất phát từ tâm, cho nên mọi căn bệnh cũng phải được chữa trị từ tâm hay bằng cách luyện tập tâm linh, tư duy tích cực hoặc có niềm tin.
Có người nói rằng cả thân và tâm đều có sự ảnh hưởng lẫn nhau. Nhưng một số người khác th́ cho rằng, chỉ quan tâm đến việc điều trị bằng y khoa.
Kinh nghiệm của tôi là chữa trị bằng thuốc Tây, bằng phương pháp xạ và hóa trị, nếu điều trị đúng cách đúng lúc th́ sẽ có kết quả tốt, thậm chí có một số người chữa trị bằng độc dược nữa.
Nói chung theo tôi nguời bệnh phải theo dơi, và kiểm tra thường xuyên căn bệnh của ḿnh, rồi chọn lựa phương pháp điều trị. Tôi thấy một số người đă chết v́ bị hỗn loạn giữa các lối điều trị.
Tricycle: Vai tṛ của người chăm sóc bệnh như thế nào?
Fields: Tôi thấy người săn sóc gặp khó khăn nhiều hơn người bị ung thư. Sức chịu đựng của họ c̣n nhiều hơn người bệnh. Tôi may mắn có được Marcia săn sóc. Cô ấy phát nguyện giúp đỡ tôi trong thời gian điều trị này.
Cô ấy cùng tôi đi bác sĩ, ghi chép hỏi han và chuẩn bị mọi thứ cho cuộc giải phẫu phức tạp. Giúp đỡ một người chống lại ung thư, thật sự là một điều khó khăn thử thách.
Tricycle: Ông có quan tâm đến việc chẩn đoán bệnh không?
Fields: Lại đề cập đến vấn đề này một lần nữa. Thừa là không tốt. Một trăm phần trăm là tôi sẽ chết. Nhưng tôi sẽ sống cho đến khi tôi chết.
Có một điều tôi muốn nói ở đây là, giáo pháp của đạo Phật rất tuyệt vời ở phần đầu, phần giữa và phần cuối, mọi người nên cầu học và tu tập trước khi quá trễ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 533 of 1146: Đă gửi: 03 July 2010 lúc 10:14pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT VÀ TÁI SINH
11. CHẾT MỘT PHÁP MÔN TU
Nhiều người sẽ ngạc nhiên hỏi tại sao chết cũng là pháp tu. Theo giáo lư đạo Phật, đó là pháp tu rất quan trọng.
Chết xuất phát từ tính vô thường, sự thay đổi và biến chuyển, vạn vật có sinh có tử, có hợp có tan, là trung tâm điểm của việc tu tập Tuệ giác.
Quán niệm về cái chết không phải là một bài luyện tập về sự bi ai, cũng không phải sự bất hạnh của cuộc sống. Thật ra khi quán niệm về cái chết được thực hành đúng, nó sẽ mang lại sự b́nh yên biết bao.
Có lẽ không có ǵ phải ngạc nhiên v́ hầu hết mỗi chúng ta đều bối rối khi nói đến cái chết. Chúng ta đă không thỏa hiệp với bản chất của cơ thể và không thấy cái chết là quá tŕnh tự nhiên.
V́ vậy chúng ta có những phản ứng buồn cười, đùa cợt quá mức, lẫn tránh hay bi lụy. Quán niệm về cái chết có thể mang lại cho chúng ta sự cân bằng.
Trong Kinh Sattipatana đức Phật có dạy nhiều phương pháp quán niệm, trong đó có pháp quán niệm về nghĩa địa (cemetery contemplation). Vào thời đức Phật c̣n tại thế, các hành giả đi đến các nghĩa địa và đôi khi họ sống ở đó trong một thời gian dài.
Các tử thi không được chôn cất hay hỏa táng mà vứt bỏ tại nghĩa trang làm thức ăn cho những con kên kên và những con thú ăn thịt khác.
V́ thế, các hành giả phải quan sát thi thể con người qua những giai đoạn hôi hám, śnh ươn, mục rữa... Vấn đề chính mà hành giả phải thấy là dù thân thể này của ai đi nữa th́ cũng phải chịu cùng một quy luật sinh diệt.
Hiện nay, pháp tu quán niệm về nghĩa trang này vẫn c̣n áp dụng ở các tự viện trong rừng sâu tại châu Á. Đạo Phật cho rằng, nay ta c̣n trẻ áp dụng pháp tu này sẽ giúp ta vượt qua nỗi sợ hăi về cái chết.
Quán niệm về cái chết là tu tập về Tuệ giác. Trí tuệ này có thể nh́n thấy rơ bản chất như thật của sự vật. Bạn có thể thấy rằng quán niệm về cái chết sẽ khiến cho bạn mạnh mẽ, giúp bạn vượt qua những khó khăn trong tu tập, chẳng hạn như cảm giác bồn chồn, buồn ngủ hay đau đớn.
Như chính trường hợp của người viết, khi tôi thấy ḿnh buồn ngủ trong lúc tọa thiền, th́ tôi nghĩ ngay đến cái chết của chính ḿnh, nó lập tức đánh thức tôi.
Hay lúc tôi khó chịu, cau có hoặc thả hồn đâu đâu, th́ tôi cũng nghĩ về cái chết của chính tôi. Rất ít điều cản trở khi bạn chiếu ánh sáng của cái chết lên nó. Hăy xem cái chết như một người cố vấn của bạn.
Trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada), chứa đựng nhiều lời dạy độc đáo của Phật, rằng con người sẽ không đánh nhau hay tranh căi, khi họ biết rơ rằng tất cả đều sẽ chết.
Khi quán về cái chết chúng ta cũng đang bày tỏ ḷng từ bi với kẻ thù. Chúng ta thấy rằng chúng ta cùng là đồng sự với nhau. Tâm chúng ta sẽ mềm đi khi ta nhận ra tất cả mọi người đều có chung một số phận: chết.
Có nhiều lợi ích khác khi chúng ta thực hành pháp quán niệm về cái chết. Hiện tại bạn đang bận rộn làm mọi việc, dành nhiều thời giờ để ăn và ngủ.
Chỉ một lời thỉnh cầu ở đây là bạn hăy suy gẫm về cái chết, điều đó có thể giúp bạn đánh giá năng lượng các bạn đă tiêu phí.
Một khi bạn biết rằng không có sự vĩnh cửu (forever) th́ có lẽ bạn sẽ thay đổi tích cực, và dành nhiều thời gian để tu tập.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 534 of 1146: Đă gửi: 03 July 2010 lúc 10:16pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT VÀ TÁI SINH
12. THỰC HÀNH PHÁP QUÁN BẰNG CÁI CHẾT
I. Nội dung của pháp quán:
Cái chết không thể tránh khỏi.
1. Mọi người đều phải chết.
2. Tuổi thọ của ta đang giảm xuống theo thời gian.
3. Thời gian dùng để tu tập trong đời ta rất ngắn ngủi. Không thể biết khi nào ta chết.
4. Tuổi thọ con người không chắc chắn.
5. Có nhiều nguyên nhân đưa đến cái chết.
6. Cơ thể con người quá mong manh. Thực tế chỉ có tu tập mới có thể giúp chúng ta lúc chết.
7. Tài sản và thú vui không thể giúp ta.
8. Người thân của ta cũng không thể giúp ta.
9. Chính cơ thể của ta cũng không thể giúp ta.
II. Quán niệm như thế nào ?
Nhiều hành giả đang tu pháp thiền quán niệm (Vipassana) có thể chưa bao giờ niệm về cái chết, v́ pháp thiền này nhấn mạnh trực tiếp đến những ǵ đang xảy ra ở thời điểm hiện tại.
Khi hành thiền quán niệm bạn không được khuyến khích tư duy. Tuy nhiên trong thiền quán niệm về cái chết, bạn phải sử dụng tiến tŕnh tư duy một cách sáng tạo, để tạo ra một trợ thủ cho việc phát triển Tuệ giác.
Thật hữu ích khi bắt đầu pháp quán này bằng cách chú tâm vào hơi thở, hay tận dụng những kỹ thuật khác để làm tâm bạn an tịnh.
Mỗi ngày bạn có thể luyện tập hai mươi phút. Trước hết là t́m cách tĩnh tâm. Chọn một trong những đối tượng niệm để quán tưởng và đi sâu vào đó.
Khi chấm dứt quán niệm ở phần này bạn lướt qua phần khác (xem lại trong bản nội dung ở trên).
Cụ thể bạn quán tưởng như sau: Bạn chọn ư tưởng và nói: "Mọi người đều phải chết". Rồi bạn đem ư tưởng đó vào trong suy tưởng và quán niệm nó.
Đây là lúc việc thực hành trở nên rất sáng tạo. Mỗi người đều có thể thực tập theo cách riêng của ḿnh.
Bạn có thể quán tưởng chính bản thân ḿnh hay một người bạn của ḿnh đang hấp hối, hay quán tưởng những nấm mồ của người thân trong nghĩa địa, hoặc bộ xương của chính bạn.
Mức độ định tĩnh và tập trung mà bạn có được từ quán niệm có liên quan rất lớn đến chất lượng và kết quả tu tập của bạn.
Nếu bạn đă có định lực rồi, bạn sẽ trở nên rất linh hoạt, bạn có thể chất vấn, suy niệm và ngay cả chơi đùa với nó: cái chết.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 535 of 1146: Đă gửi: 03 July 2010 lúc 10:17pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT VÀ TÁI SINH
13. HIẾN XÁC THEO QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO
Việc hiến tặng các cơ quan nội tạng đối với nhiều Phật tử là một vấn đề đầy mâu thuẫn. Một mặt, chúng ta luôn muốn thực hành Bồ tát hạnh ở mọi nơi có thể.
V́ ở Hoa Kỳ hằng ngày có chín người hấp hối trong sự chờ đợi tuyệt vọng những người hiến tặng. Mặt khác, theo giáo lư đạo Phật, chỉ khi thần thức rời khỏi thể xác mới gọi là chết, chứ không phải sau khi trút hơi thở cuối cùng.
Và người ta thường tin rằng, chính hoàn cảnh tử vong lâm sàng và thời gian sau đó, trước khi thần thức thoát đi, là thời điểm then chốt quyết định sự tái sinh hoặc đầu thai của người đó.
Theo quan niệm này, tốt nhất là không được cắt xẻ thi hài trong ṿng ba ngày sau cái chết lâm sàng, nếu không nó sẽ gây ra sự rối loạn cho tiến tŕnh tái sinh.
Tuy nhiên theo y học, để cấy ghép cơ thể có hiệu quả, những bộ phận đó trong cơ thể người chết phải được cắt càng nhanh càng tốt, sau khi trút hơi thở sau cùng, như vậy nó có thể làm rối loạn nghiêm trọng, đến quá tŕnh tự nhiên của ư thức quan về dạng vô h́nh.
Nhiều Phật tử đă phát nguyện hiến xác theo yêu cầu, không được cắt cơ thể họ sau ba ngày, nhưng làm như vậy không đảm bảo chất lượng cấy ghép các cơ quan nội tạng, các mô đă hiến tặng.
Thiền sư Sheng Yen và Tangen Harada cho rằng, dù việc hiến tặng có thể làm rối loạn đến tiến tŕnh chuyển hóa ư thức của người hiến tặng, nhưng nếu người ấy có tu tập và có ước nguyện mạnh mẽ giúp đỡ người khác, th́ sự chi phối đến thể xác của họ ít làm ảnh hưởng đến sự tán loạn, ở giai đoạn chuyển di thần thức.
Quan điểm khác th́ cho rằng, v́ ta không biết ḿnh sẽ phản ứng như thế nào đối với quá tŕnh hiến tặng trong giai đoạn trung chuyển này, v́ vậy tốt nhất là nên tránh.
Những người theo quan niệm này thường nhấn mạnh đến khía cạnh thương mại phiền toái của việc hiến tặng, như chi phí cao và sự ưu tiên mang tính độc đoán trong việc phân phối.
Họ cũng cho rằng sự hấp tấp quá mức có thể dẫn đến việc cắt đi các cơ quan, trong khi bệnh nhân đó vẫn c̣n có khả năng hồi sinh.
Cái chết của năo (Brain death) cũng đưa ra nhiều vấn đề khác. Phần lớn các cơ quan hiến tặng là bệnh nhân bại năo, khi cơ thể vẫn được tiếp tục nuôi sống, gia đ́nh và người thân đă sắp xếp việc hiến tặng.
Tuy nhiên từ chết năo cũng không chính xác, v́ năo cho thấy có một số c̣n hoạt động, ngay cả sau nhiều giờ ngừng thở.
Đến nay chúng ta vẫn chưa hiểu hết về mối quan hệ giữa thần thức và chết năo. Tuy nhiên ta dễ đoán ra rằng, hoạt động của năo sau khi trút hơi thở cuối cùng, có liên quan đến hoạt động của thần thức.
Đối với một số người, một phương pháp khác có thể tránh được sự rối loạn trong quá tŕnh chuyển tiếp của thần thức, do việc hiến tặng các bộ phận cơ thể mà vẫn có ích cho người khác.
Sau hai mươi bốn giờ khi tim ngừng đập, ngoại trừ việc cắt đi các cơ quan nội tạng, người ta có thể hiến xương và các mô sống.
Mặt khác có ba cách nữa để trở thành người hiến tặng, khi ta c̣n sống và khỏe mạnh, là hiến tặng máu, tủy hay thận.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 536 of 1146: Đă gửi: 03 July 2010 lúc 10:17pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT VÀ TÁI SINH
14. CỎ THỂ SAU KHI CHẾT
Phương thức chăm sóc thi hài người chết tùy thuộc theo tập tục và truyền thống văn hóa khác nhau. Những đề nghị sau đây là xuất phát từ kinh nghiệm của chị Joan Hallifax, một Phật tử, chị săn sóc những người hấp hối tại một Tiếp Dẫn Đường ở Hoa Kỳ.
Ngay sau khi chết:
Giữ cho bầu không khí đơn sơ và yên b́nh quanh người chết. Nếu có thể, tránh đụng chạm di dời cơ thể ngay sau khi chết. Nếu cần th́ phải thật nhẹ tay.
Khi người ấy đang hấp hối th́ cầu nguyện hoặc niệm Phật tiếp dẫn. Sau khi chết, nếu thích hợp th́ hăy tụng kinh siêu độ hay tiến hành các nghi lễ truyền thống.
Trước khi xác bắt đầu lạnh cứng :
Khoảng hai giờ sau tử thi mới lạnh cứng, bạn có đủ thời gian để tắm và thay đồ cho người chết. Những thành viên trong gia đ́nh hay bạn bè, có thể làm việc này như biểu lộ hành động thân yêu và kính trọng người chết lần sau cùng.
Ta biết rằng trước khi mất, người hấp hối có thể ói mửa, đổ mồ hôi hay tiểu tiện. Bạn có thể tắm cơ thể bằng khăn thấm trà thơm và một ít rượu để bịt lỗ chân lông. Những phản xạ co giật ở cơ mặt và tứ chi cũng thường xảy ra.
Nên chú ư đến việc ăn mặc và xếp tư thế của tử thi trước khi tử thi lạnh cứng. Hăy mặc đồ vải mỏng, tránh che phủ tử thi bằng khăn trải giường. Tử thi cần an trí ở một nơi càng thoáng mát càng tốt. Quạt máy, máy điều ḥa hay cửa sổ mở có thể giúp cho tử thi tươi tốt.
Một số người chết c̣n mở mắt, một người thân trong gia đ́nh đến nhẹ nhàng khép mí lại hoặc dùng băng keo dán lại. Miệng cũng có thể mở, bạn có thể dùng một khăn quàng cột quanh đầu để khép lại.
Nơi cuối cùng c̣n ấm là vùng tim hoặc một chỗ nào khác. Theo truyền thống Phật giáo cho biết hơi ấm tụ ở đầu hoặc ở ngực, là dấu hiệu cho biết người ấy sẽ tái sinh vào cơi lành.
Làm ǵ với tử thi ?
Bạn thường lo lắng là giữ tử thi trong nhà không tốt, nhưng không có ǵ nguy hiểm cả. Chăm sóc tử thi giống như bạn săn sóc một người đang sống, bạn cũng chú ư về y tế, đặc biệt là những người chết v́ bệnh dễ lây nhiễm.
Cần phải có bác sĩ kư tờ khai tử. Trước khi đến bác sĩ xin giấy khai tử, tốt nhất nên tiếp xúc với cơ quan mai táng, nếu bạn muốn tử thi không bị quấy rầy.
Nhớ cởi đồ trang sức của người chết, trước khi đưa tử thi đến nhà tang lễ, nếu muốn th́ thân nhân có thể mang lại cho người mất, trước giờ phút tẩm liệm.
Một thi thể không ướp phải chôn cất hay hỏa táng trong vài ngày, để tránh vi trùng lây lan từ người chết v́ bệnh.
Cơ quan phục vụ mai táng chỉ đ̣i hỏi phải ướp xác khi phải đưa tử thi ra nước ngoài, hay đông lạnh trong ṿng hai mươi bốn đến bốn mươi tám tiếng sau khi chết.
Chú ư việc ướp xác không phải khử trùng xác. Hóa chất dùng trong việc ướp xác là chất độc đối với người sống.
Điều quan trọng nhất là hăy làm theo ư nguyện của người chết.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 537 of 1146: Đă gửi: 03 July 2010 lúc 10:18pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT VÀ TÁI SINH
15. MỘT LẠT MA TÂY TẠNG TÁI SINH Ở HOA KỲ
Ngày 3-2-1993 đó là ngày đầu tiên tại thành phố Victorville, tiểu bang California Hoa Kỳ, Hội Phật giáo Tây Tạng ở nước ngoài đă tổ chức lễ thụ phong (enthronement) Lama cho một cậu bé người Hoa, năm tuổi tên là Simon Hen, được xem là hậu thân của Lama Lobsang Phakpa.
Simon Hen có thể là một cậu bé năm tuổi b́nh thường, nhưng các tu sĩ Phật giáo Tây Tạng tin rằng cậu chính là hậu thân của một Lama tiền bối người Tây Tạng.
Vị Lama này viên tịch tại Tây Tạng đă hơn năm mươi năm qua. Hen mới được khám phá khi cậu bé gặp vị Thượng tọa Geshe Lobsang Tsepel, một tăng sĩ coi sóc Trung tâm Phật Giáo của người Tây Tạng ở cách San Diego 140 km.
Cậu bé được cha mẹ đưa đến tham quan phong cảnh tại tu viện này, và lần đầu tiên cậu Simon nh́n thấy Thượng tọa Tsepel, cậu liền nói: "Tôi biết ông, ông từng là bạn tôi".
Tuy nhiên, Thượng tọa Tsepel không để ư đến những lời "đùa giỡn" này của cậu bé. Nhưng sau đó không lâu, vị tu sĩ này nằm mơ thấy Thầy bổn sư Lobsang Phakpa của ḿnh, người mất vào năm 1950.
Thượng tọa Tsepel hoang mang và lo lắng, không biết cậu bé ấy có phải là hóa thân của thầy ḿnh hay không.
Thượng tọa Tsepel quyết định viếng thăm, t́m hiểu về thân phận của cậu bé Simon Hen, và được biết rằng cha mẹ cùng gia đ́nh của Simon cũng có thắc mắc tương tự, v́ cậu bé đă tỏ ra là một đứa trẻ "không b́nh thường".
Bà nội của Simon cho biết cậu bé đă có những lời tiên đoán chính xác trong ba tháng vừa qua, cậu cho biết những tai nạn sắp xảy ra, cho biết ai là người tốt, ai là người xấu, hoặc cậu muốn đi Ấn Độ để trở thành một Lama...
Để kiểm chứng lại các sự kiện này, Thượng tọa Tsepel đă viết thư thỉnh cầu ư kiến của đức Dalai Lama thứ 14 (lănh đạo tối cao của Phật giáo Tây Tạng) ở Ấn Độ.
Đức Dalai Lama nói rằng nên theo dơi và kiểm tra lại cậu bé một thời gian rồi sẽ quyết định.
Sau một thời gian trắc nghiệm về khả năng nhận thức của cậu bé, theo một số phương pháp truyền thống của Phật giáo Tây Tạng, cậu Simon Hen đă được nh́n nhận đúng là người tái sinh của một Lama Tây Tạng từng mang pháp hiệu là Lobsang Phakpa.
Tất cả những tín đồ Phật giáo đều tin rằng có sự đầu thai hoặc tái sinh (rebirth) sau khi con người chết.
Nhưng tín đồ Phật giáo Tây Tạng tin tưởng một cách mănh liệt rằng, những vị lănh đạo tôn giáo cao cấp của họ sẽ quay trở lại, với một dáng h́nh khác, để tiếp tục công việc hoằng pháp lợi sanh.
Việc chọn lọc những người tái sinh và quyết định phong chức Lama, ít khi được xảy ra ở nước ngoài, trước năm 1959 tổ chức ở Tây Tạng, sau năm này các lễ nghi quan trọng như thế được tổ chức ở Ấn Độ.
Nhưng đây là lần đầu tiên, một cậu bé Lama được t́m thấy, và chính thức được thụ phong trên nước Mỹ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 538 of 1146: Đă gửi: 03 July 2010 lúc 10:39pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT VÀ TÁI SINH
16. MỘT THẾ HỆ MỚI CỦA LAMA TÂY TẠNG
Chết không phải là hết, mà chỉ là một sự thay đổi về h́nh hài, ḍng tâm thức vẫn lưu chuyển cho đến khi con người ấy đạt đạo.
Đặc biệt theo truyền thống của Phật giáo Tây Tạng, các vị Cao tăng sau khi viên tịch thường chọn phương pháp tái sinh (Reincarnation) vào một cảnh giới khác, để tiếp tục tu tập hoặc tái sinh trở lại kiếp người, trong những điều kiện thuận lợi hơn, để hoàn tất hạnh nguyện độ sinh, mà họ c̣n dở dang ở kiếp trước.
Trong bài này chúng tôi sẽ giới thiệu bốn vị Lama tái sinh Tây Tạng, nổi tiếng ở thế kỷ hai mươi đă viên tịch đầu thập niên tám mươi, và tái sinh trở lại kiếp người.
Hiện tại các "hài đồng Lama" này đang tu học tại các Phật học viện Tây Tạng ở miền Nam nước Ấn Độ.
Đại đức Roger Kunsang phóng viên tạp chí Mandala USA, đă viếng thăm các vị để thực hiện một cuốn băng video về sinh hoạt hằng ngày của các vị Lama tư hon này.
Ling Rinpoche
Lama Ling Rinpoche năm nay mười tuổi, hiện đang tu học tại Phật học viện Drelung, là hậu thân của cố Đại sư Kyabje Ling Rinpoche 1903-1993.
Từng là Viện trưởng Đại học Phật giáo Gander, thầy dạy học cao cấp của đức Dalai Lama thứ 14 và nhiều Lama nổi tiếng khác.
Từ năm 1986 đến những năm cuối đời, ngài được cung thỉnh sang châu Âu và châu Mỹ để truyền giới pháp cho người Tây phương tu học.
Roger: Kính chào, chú khỏe không?
Ling: Cảm ơn, tôi khỏe.
Roger: Xin hỏi, năm nay chú bao nhiêu tuổi?
Ling: Mười tuổi.
Roger: Uớc mơ lớn nhất của chú là ǵ?
Ling: Uớc mơ lớn nhất của tôi là mong ước một nền ḥa b́nh thực sự trên hành tinh này.
Roger: C̣n hạnh phúc dành cho riêng chú?
Ling: Dành cho mọi người.
Roger: Làm sao chú có thể đạt được ước mơ đó?
Ling: Cầu nguyện, thiền định và học hành. Không phải một người mà tất cả mọi người.
Roger: Chú sẽ hóa độ cho mọi người chứ?
Ling: Sẽ làm tất cả với khả năng của ḿnh.
Roger: Khi nào chú mới bắt đầu?
Ling: Khi việc học và tu của tôi hoàn tất.
Roger: Sẽ phải mất bao lâu?
Ling: Tôi không biết, nhưng tôi phải hoàn tất.
Roger: Theo chú, thiền định cần thực hành như thế nào?
Ling: Thiền à? Bạn nên quán tưởng đến đức Phật hoặc tập trung vào một đề mục nào đó, để tâm bạn được yên tịnh. Làm sao cho tâm bạn không dao động là cốt lơi của thiền.
Roger: Chú có lời khuyên nào cho các đệ tử (của vị tiền thân) trên thế giới?
Ling: Hăy nỗ lực tu học, kiên nhẫn và không nên ích kỷ.
Trijang Rinpoche
Năm nay ngài 14 tuổi, hiện đang tu học tại Phật học viện Gander ở Nam Ấn Độ, được xem là hóa thân của cố Đại sư Kyabje Trijang Rinpoche 1904 - 1981 là thầy dạy học trung cấp của đức Dalai Lama thứ 14.
Roger: Kính chào chú, chú có khỏe không?
Trijang: Khỏe, cảm ơn.
Roger: Chú có nhớ ǵ về kiếp trước không?
Trijang: Không, hiện tại tôi đang ôn lại những ǵ mà tôi từng biết.
Roger: Chú học thuộc ḷng có dễ không?
Trijang: Dễ.
Roger: Thời khóa biểu sinh hoạt của chú một ngày như thế nào?
Trijang: Tôi thức dậy vào lúc 5 giờ 30, tôi đi đảnh lễ bảo tháp vị tiền nhiệm. Sau đó tôi có một thời kinh sáng, rồi dùng điểm tâm.
Từ 7g30 đến 9g tôi đọc kinh. Sau đó tôi nghỉ và chơi khoảng nửa giờ. Từ 9g30 đến 10g30 tôi ôn lại các bộ kinh mà tôi từng thuộc trước đây.
Từ 10g30 tôi học văn phạm Tạng ngữ; 11g tôi thọ trai, 11g30 tôi tập viết. Từ 1g đến 2g30 tôi nghỉ trưa. Thức dậy tôi uống trà rồi bắt đầu với lớp học tranh luận đến 5g.
Sau đó là giờ tiểu thực; 6g tôi học giáo lư với thầy Khensur Lati Rinpoche; 8g tôi tranh luận với các bạn cùng lớp và 9g đến 11g tôi tiếp tục học thuộc ḷng kinh. Sau đó tôi đi ngủ.
Zong Rinpoche
Mười tuổi, hiện đang tu học tại Phật học viện Gander, là hậu thân của cố Đại sư Kyabje Zong Rinpoche 1905-1983, ngài từng là Viện trưởng Đại học Gander nổi tiếng ở Tây Tạng từ năm 1959, trường này được dời sang Ấn Độ.
Được xem là một người có nhiều pháp thuật trong giới Lama Tây Tạng. Từ năm 1978 đến 1980, ngài thường đến phương Tây để thuyết giảng, hàng ngàn tín đồ tại Ấn Độ và các nước ở phương Tây đă t́m thấy sự an lạc và hạnh phúc từ lời dạy của ngài.
Roger: Kính chào chú.
Zong: Xin chào!
Roger: Hôm nay là ngày nghỉ của chú?
Zong: Vâng.
Roger: Chú đang làm ǵ?
Zong: Tôi đang chơi.
Roger: C̣n ngày mai?
Zong: Ngày mai thứ hai, cũng là ngày nghỉ của tôi.
Roger: Buổi sáng, b́nh thường chú làm ǵ?
Zong: Tôi thức dậy vào lúc 6 giờ. Tôi tụng kinh đến 8g, rồi ăn sáng và nghỉ đến 9g. Sau đó tôi học giáo lư.
Roger: Hiện nay chú đang học giáo lư ǵ vậy?
Zong: Tôi đang học đến chương hai cuốn "Con đường hướng đến Trung đạo".
Roger: Chương thứ nhất là ǵ?
Zong: Gander Lha Gyema.
Roger: Buổi sáng, học xong chú làm ǵ?
Zong: Tôi nghỉ trưa và chơi đến 15 giờ. Sau đó tôi học đến 17 giờ. Học xong tôi đi tắm, ăn tối và đi ngủ.
Roger: Chú có học tiếng Anh không?
Zong: Có chứ!
Roger: Chú có thích sang các nước phương Tây không?
Zong: Có.
Roger: Chú nghĩ là chú sẽ thuyết pháp cho Phật tử phương Tây chứ ?
Zong: Tất nhiên.
Roger: Khi nào chú mới bắt đầu?
Zong: Thầy Tenzin biết việc ấy.
Tenzin (vị thị giả của Zong Rinpoche): Chúng tôi có dự kiến viếng thăm phương Tây vào năm tới. Chú có thể nói một số thời pháp ngắn. Tuy nhiên, chú thực sự sẽ làm công tác truyền giáo sau khi tốt nghiệp Tiến sĩ.
Roger: Rinpoche, quốc gia nào chú sẽ đến trước?
Zong: Canada và Hoa Kỳ.
Roger: Chú sẽ ở đó bao lâu?
Zong: Khoảng ba tháng.
Roger: Chú có nhắn nhủ với Phật tử phương Tây điều ǵ không?
Zong: Xin đừng quên lời dạy của cố Đại sư Zong Rinpoche (tiền thân của chú).
Roger: Chú có thích thú vật không ?
Zong: Có.
Roger: Chú thích loài nào nhất ?
Zong: Rùa.
Roger: Tại sao chú lại thích rùa ?
Zong: V́ nó không bỏ chạy, nó sẽ ở lại với bạn. Tôi đang nuôi 5 con.
Roger: Chú có biết câu chuyện nào về thú vật không ?
Zong: Ồ rất nhiều, nhưng tôi thích nhất là câu chuyện về chú rùa con. Chuyện kể rằng, một hôm rùa con đến hỏi bố mẹ: "Tại sao con cứ măi mang cái "ṭa nhà" nặng nề này trên lưng hoài vậy?".
Bố mẹ rùa nói: "Con may mắn lắm mới có được nó, nó rất có ích khi con đi ra ngoài". Rùa con không đồng t́nh với giải đáp kia nhưng chú nghĩ ḿnh phải nghe và chấp nhận lời dạy của bố mẹ.
Rồi một ngày nọ, rùa con gặp bạn của chú, bạn ếch cũng thắc mắc: "Tại sao bạn phải mang cái nhà trên lưng vậy ?".
Rùa chưa kịp trả lời, vừa lúc ấy có một người cưỡi ngựa chạy đến, ếch cấp tốc nhảy xuống cái ao gần đó, c̣n rùa th́ chậm chạp nhưng chú nhanh chóng nhớ đến lời dạy của bố mẹ nên chú liền thụt đầu vào "ngôi nhà" của ḿnh.
Bạn ếch lo lắng "chắc rùa đă chết rồi". Nhưng sau khi con ngựa chạy qua rồi, chú rùa từ từ di động và ḅ đi. Chú không làm sao cả.
Chú nhớ lại lời của bố mẹ: "Này con trai, con may mắn mới có được ngôi nhà ở trên lưng!".
Osel Rinpoche
Mười hai tuổi, hiện đang tu học tại Phật học viện Sera, là hậu thân của cố Đại sư Thubten Yeshe 1935-1984, một Pháp sư nổi tiếng Tây Tạng.
Người góp sức san bằng các chướng ngại địa dư, và nối liền những phân cách văn hóa, chủng tộc để ḍng tuệ giác mặt trời đầu nguồn Tây Tạng, có thể tuôn chảy xuống vùng đất lạ Tây phương.
Người đă giảng giải giáo lư tái sinh, bằng chính sự thong dong đôi bờ sinh tử, và chuẩn bị sắp xếp cho ḿnh để có thể tái sinh như ư, và để người khác có thể nhận ra hóa thân của ḿnh.
Bậc thầy vĩ đại ấy đă qua đời v́ bệnh tim tại bang California, Hoa Kỳ ở tuổi 49, để lại phía sau ḿnh một tổ chức khổng lồ.
Ông là người sáng lập Hội Hộ Tŕ Phật giáo Đại Thừa (FPMT) và cho xuất bản tạp chí Mandala tại Hoa Kỳ, hiện nay tổ chức này phát triển thêm hàng trăm chi nhánh trên khắp thế giới.
Hai năm sau từ ngày mất, người ta phát hiện ra ngài trong một dáng h́nh khác, đó là Osel Rinpoche, sinh ngày 12-2-1985 tại Bubion Tây Ban Nha.
Giới Phật giáo Tây Tạng đă đưa chú bé tái sinh này trở lại Ấn Độ để tiếp tục tu học.
Sau đây là thời khóa sinh hoạt hàng ngày của Osel Rinpoche:
6g thức dậy, 6g10-7g tụng kinh, 7g-8g điểm tâm, 8g-9g học kinh, 9g-9g30 chơi, 9g30-10g30 học tiếng Tây Ban Nha.
10g30-11g nghỉ giải lao, 11g-12g học tiếng Anh, 12g-14g thọ trai và nghỉ trưa, 14g-16g học tiếng Anh.
16g-17g chơi, 17g30-19g học tiếng Tây Tạng, 19g-20g tiểu thực, 20g-20g30 nghỉ, 20g30-21g học văn phạm, 21g tắm và đi ngủ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 539 of 1146: Đă gửi: 03 July 2010 lúc 10:40pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT VÀ TÁI SINH
17. TÁI SINH Ở PHƯƠNG TÂY
Cô Vicki Mackenzie, một kư giả người Anh, từng là tác giả quyển sách nổi tiếng "The Boy Lama", kể chuyện về cậu bé tái sinh người Tây Ban Nha Tenzin Osel Rinpoche, hậu thân của cố Đại sư Thubten Yeshe 1935 - 1984.
Đó là một người truyền dạy minh triết, kẻ vượt qua mọi chướng ngại địa lư, phong tục tập quán định kiến tôn giáo, để đánh thức khơi dậy những điều tốt đẹp nhất đang bị chôn kín trong ḷng người.
Một con người mà y học của thời đại "chim sắt" phán quyết là phải chết, nhưng vẫn sống và sống hùng tráng như một mặt trời...
Quyển sách in lần đầu tiên vào năm 1989 bởi Nhà xuất bản Bloomsbury Luân Đôn, và lập tức được dịch ra nhiều thứ tiếng trên khắp thế giới, đến nay đă chuyển ngữ ra mười thứ tiếng, bản dịch mới nhất là tiếng Nhật. Bản dịch Việt ngữ "Hài đồng Lama" in năm 1994.
Quyển sách thứ hai của Vicki là "Tái sinh ở phương Tây" (Reborn in the West) cũng do Nhà xuất bản Bloomsbury ấn hành vào tháng 4 năm 1995.
Quyển sách lần này viết về năm vị thầy tái sinh người Tây phương, bốn nam và một nữ, những người được thừa nhận là hậu thân của các Lama người Tây Tạng.
Quyển sách đề cập đến một số người khác tái sinh ở phương Tây, nhưng họ không phải là Phật tử.
Adèle Hulse, phóng viên tạp chí Mandala, nói chuyện với Vicki Mackenrie, đang cư ngụ tại Melbourne Australia, để biết thêm về nội dung quyển sách này. Cô Vicki tâm sự:
"Điểm chính của tôi khi viết cuốn sách này là an ủi mọi người rằng, họ không bao giờ bị lăng quên khi họ chết, và sau khi chết họ c̣n có một cuộc sống mới khác.
Các Nhà xuất bản yêu cầu tôi viết một cuốn sách về tái sinh, nhưng khi t́m hiểu th́ tôi thấy người ta chỉ thừa nhận việc tái sinh, xảy ra trong cộng đồng người Tây Tạng.
V́ thế tôi sử dụng "tái sinh ở phương Tây" để làm chủ đề chính, ngơ hầu đánh tan sự ngộ nhận vốn có bấy lâu nay của mọi người.
Tôi cũng giới thiệu những sự kiện tái sinh của người phương Tây không theo Phật giáo. Tôi đă phỏng vấn tiến sĩ Roger Woolger, một tu sĩ đạo Do Thái, người nghiên cứu về tái sinh trong cộng đồng người Do Thái.
Tôi đă thử so sánh những kết luận của người phương Tây về vấn đề này, với những giáo lư về tái sinh của Phật giáo Tây Tạng.
Điều kích thích tôi hơn tất cả là sự nhận ra rằng, hiện nay là thời điểm lịch sử của các bậc thầy phương Đông, hiện thân ở phương Tây và sự trùng khớp đầy ư nghĩa này, với cuộc tranh luận gắt gao trong giới khoa học, về tâm thức và năo bộ có giống không.
Dĩ nhiên các bậc thầy th́ nói rằng, tâm thức là một phần độc lập đối với cơ thể.
Tôi cũng đề cập đến vấn đề "vun trồng" Phật giáo Tây Tạng, thông qua những bậc thầy trên mảnh đất phương Tây, là một quá tŕnh đầy khó khăn, v́ phải va chạm sự cách biệt giữa các nền văn hóa”.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 540 of 1146: Đă gửi: 03 July 2010 lúc 10:41pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT VÀ TÁI SINH
18. CHUẨN BỊ CHO MỘT CHUYẾN ĐI
Chết là một sự thật hiển nhiên mà cuối cùng ai cũng phải đối mặt, dù ḿnh có muốn hay là không. Đó là một chân lư mà mỗi chúng ta phải ghi nhớ và chấp nhận, để khi nó đến, ta không c̣n phải ngạc nhiên, lo âu và sợ hăi. Ôn Như Hầu từng nói:
"Biển khổ mênh mông sóng ngập trời. Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi. Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió. Rốt cuộc rồi trong bể thảm thôi"
Thật vậy trong cái biển khổ mênh mông ấy, chúng ta chỉ là những "khách trần" lai văng, đến rồi đi, và nếu chết vẫn chưa hết, ta sẽ phải tiếp tục trôi lăn trong "biển khổ" sinh tử luân hồi này.
Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu từng nhắc nhở rằng: "Vô thường già, bệnh, chết không hẹn trước với ta", tức là cái chết sẽ đến với ta bất cứ giờ phút nào.
Một điều quan trọng mà tất cả chúng ta cần phải khắc trong ḷng là sau khi chết, thần thức của ta sẽ không mất, mà nó được lưu chuyển sang một đời sống khác.
Theo giáo lư nhà Phật, sau khi chết nếu ta chưa đạt Đạo, giác ngộ và giải thoát, ta sẽ có thể tái sinh, đầu thai vào một trong sáu cơi giới: Cơi trời, Cơi người, A-tu-la, Địa ngục, Ngạ quỹ và Súc Sanh.
Kết quả được thác sanh vào cơi nào đă được ta thiết lập ngay trong đời sống vừa qua, có nghĩa là trong đời sống hiện tại hôm nay, chính ta đang tạo dựng một đời sống ngày mai của ta vậy.
Do đó chúng ta phải chuẩn bị mọi thứ cần thiết để có thể mang theo làm hành trang cho riêng ḿnh trong cuộc hành tŕnh vô tận đang chờ đợi ta ở phía trước
Ta phải chuẩn bị điều ǵ?
Đó là một câu hỏi lớn, không dễ trả lời. Tuy nhiên, như ở đầu tập sách này, các bậc Thầy người Tây Tạng đă khuyên dạy chúng ta rằng:
Phương pháp tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết là mỗi người nên làm điều lành và tránh làm điều ác trong suốt cuộc đời ḿnh.
Lời dạy này đă cho chúng ta hiểu rằng, tất cả những nghiệp thiện và nghiệp ác mà ḿnh tạo ra trong suốt cuộc đời.
Từ lúc mới sinh đến khi nhắm mắt ĺa đời, sẽ là hành trang mà ta sẽ phải mang theo sau khi ta trút hơi thở cuối cùng ở kiếp này và chính nó sẽ dẫn dắt chúng ta đi tiếp trong các đời sống vị lai.
Do thấy rơ được cảnh khổ của chúng sinh trong sáu cơi giới luân hồi này, mà Bồ tát Địa Tạng đă hơn một lần nhắc nhở chúng ta về những quả báo khổ đau mà chúng ta sẽ phải gánh chịu ở tương lai, nếu ta phạm phải ở kiếp này:
Ngài dạy rơ "Nếu gặp kẻ sát hại loài sinh vật quả báo sẽ bị chết yểu, nếu người trộm cướp sẽ bị quả báo nghèo cùng khốn khổ, nếu người không chung thủy với vợ hoặc chồng sẽ bị quả báo làm chim se sẻ, bồ câu, uyên ương.
Kẻ nói lời thô ác sẽ bị quả báo quyến thuộc hay ḱnh chống nhau, nếu kẻ hay khinh chê sẽ bị quả báo không lưỡi hay miệng lở, nếu người thường nóng giận sẽ bị quả báo thân h́nh xấu xí.
Nếu người có tánh bỏn xẻn sẽ bị quả báo cầu muốn không được toại nguyện, nếu người thường tổ chức săn bắn sẽ bị quả báo kinh hăi điên cuồng, mất mạng, nếu kẻ trái nghịch với cha mẹ sẽ bị quả báo trời đất tru lục.
Nếu người đốt núi rừng cây cỏ sẽ bị quả báo cuồng mê đến chết, nếu cha ghẻ mẹ ghẻ ăn ở ác độc sẽ bị quả báo thác sinh trở lại hiện đời sẽ bị roi vọt, nếu người dùng lưới bắt chim non sẽ bị quả báo thân quyến chia ĺa.
Nếu người hủy báng Tam Bảo sẽ bị quả báo đui, điếc, câm, ngọng, nếu người hay khinh chê giáo pháp sẽ bị quả báo ở măi trong ác đạo, nếu kẻ lạm phá của Thường trụ chùa chiền sẽ bị quả báo ức kiếp luân hồi nơi địa ngục.
Nếu kẻ làm ô nhục người hạnh thanh tịnh và vu báng Tăng già sẽ bị quả báo ở măi trong loài súc sanh, nếu kẻ dùng nước sôi, hay lửa, chém chặt, giết hại sinh vật sẽ bị quả báo phải luân hồi thường mạng lẫn nhau.
Nếu kẻ phá giới phạm trai sẽ bị quả báo làm cầm thú đói khát, nếu người phung phí phá tổn của cải một cách phi lư sẽ bị quả báo tiêu dùng thiếu hụt, nếu kẻ thường tự cao kiêu mạn sẽ bị quả báo hèn hạ bị người sai khiến.
Nếu kẻ đâm chọc gây gổ sẽ bị quả báo không lưỡi hay trăm lưỡi, nếu kẻ tà kiến hay mê tín dị đoan sẽ bị quả báo thọ sanh vào chốn hẻo lánh..." (lược theo Phẩm thứ hai, Kinh Địa Tạng, bản dịch của HT Trí Tịnh).
Nếu ta biết rơ những nguyên nhân và kết quả trên, ta phải cố gắng tránh tạo những ác nghiệp tham lam, sân hận, si mê, giết hại sinh vật, trộm cắp, tham ái , nói dối, uống rượu...
Và nỗ lực làm những điều thiện,không tham lam, không nóng giận, bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, cúng dường, phóng sinh...
Để đem an lạc hạnh phúc cho ḿnh và cho người. Bài học công bằng mà tất cả chúng ta đều thuộc ḷng, đó là nếu ḿnh đem hạnh phúc cho người, th́ ḿnh sẽ được an vui, ngược lại đem khổ đau cho người, th́ chính ḿnh sẽ chịu sự bất hạnh.
Niềm hạnh phúc và an lạc hoặc sự bất hạnh và khổ đau, đă, đang và sẽ được chính ta tạo ra và chính ta thừa hưởng ngay trong đời sống này, cũng như sau khi chết.
Những điềm báo trước khi chết:
Những người tu hành đă đắc đạo, họ an lạc, tự tại, thong dong giữa hai bờ sống chết, họ có thể tái sinh về bất cứ cơi giới nào họ muốn.
C̣n chúng sanh mê muội, phàm phu tục tử đều phải tùy nghiệp mà thọ sanh, tức là sau khi chết, phải chịu sự dẫn dắt của nghiệp lực mà thọ sanh về cảnh giới thích ứng với nghiệp mà ḿnh đă gây tạo.
Nói vậy không có nghĩa là Phật tử tin vào thuyết định mệnh, tức là cái đă sắp đặt sẵn mọi chuyện, ḿnh phải đi theo cái có sẵn ấy.
Ở đây không phải vậy, người Phật tử tin rằng ḿnh là chủ nhân của chính ḿnh, tuy nhiên, một khi ḿnh không làm chủ được ḿnh để cho ác nghiệp đă được xảy ra, th́ chính cái nghiệp ấy sẽ trở lại điều khiển ḿnh.
Do đó người Phật tử hăy thận trọng trong mọi hành vi, lời nói và ư nghĩ của ḿnh, từ nơi đó sẽ đưa chúng ta tới an lạc, và cũng từ nơi đó sẽ đưa chúng ta đến khổ đau.
Theo kinh điển nhà Phật, một người trước khi chết có những điềm báo trước, có thể tùy theo mỗi người mà có cảm thọ khác nhau về cảnh giới thiện hay cảnh giới ác, và những điềm này sẽ giúp cho ta dự đoán được nơi thọ sanh của người quá cố.
Những điềm lành báo trước sẽ có thể sinh về Tịnh độ:
Tâm hồn không bị bối rối. Biết trước ngày giờ chết.
Tâm niệm chân chánh không mất. Biết trước giờ chết mà tắm rửa và thay quần áo.
Tự ḿnh niệm Phật, niệm có tiếng hoặc niệm thầm. Ngồi ngay thẳng, chắp tay niệm Phật mà chết. Mùi thơm lạ lan tỏa khắp nhà.
Có hào quang sáng soi vào thân thể. Nhạc trời vang dội giữa hư không. Tự nói ra bài kệ để khuyên dạy người ở lại.
Những điềm báo trước sẽ có thể thác sinh lên cơi trời:
Móng ḷng thương mến. Phát khởi thiện tâm. Ḷng thường vui vẻ. Chánh niệm được rơ ràng. Thân thể không bị hôi hám. Sống mũi không xiên xẹo.
Tâm không giận dữ. Tâm không luyến ái tài sản, gia đ́nh, ḍng họ. Mắt luôn trong sáng. Ngửa mặt lên trời và mỉm cười.
Những điềm báo trước sẽ có thể tái sinh trở lại cơi người:
Đến khi chết vẫn nhớ nghĩ đến điều lành. Thân không đau khổ. Ít nói lời phô trương, thường nghĩ nhớ đến cha mẹ. Tai thường muốn nghe tên họ của anh chị em và bầu bạn.
Đối với việc lành dữ nhận rơ không lầm loạn. Tâm tánh ngay thẳng không ưa sự dua nịnh. Biết rơ bà con bạn bè giúp đỡ cho ḿnh. Thấy bà con trông nom sinh ḷng vui mừng.
Dặn ḍ mọi việc trong nhà trước khi chết. Sanh ḷng chánh tín, thỉnh Phật Pháp Tăng đến đối diện quy y.
Những điềm xấu báo trước sẽ có thể đọa vào địa ngục:
Gặp phải t́nh trạng con cái và bà con đều nh́n kẻ sắp chết bằng đôi mắt ghét bỏ. Người sắp chết thường đưa hai tay lên mà rờ mó hư không.
Dù bạn lành có khuyên bảo điều hay cũng không tùy thuận. Người sắp chết kêu gào than khóc. Đi ra tiểu tiện mà không hay biết. Nhắm nghiền đôi mắt
Thường hay che úp mặt mày.
Nằm nghiêng mà ăn uống. Ḿnh mẩy miệng mồm đều hôi hám. Gót chân, đầu gối luôn run rẩy. Sống mũi xiên xẹo. Mắt bên trái hay động đậy. Hai mắt đỏ ngầu. Úp mặt mà nằm. Thân h́nh co rút và tay bên trái chấm xuống đất.
Những điềm báo trước sẽ có thể thác sinh vào cơi giới ngạ quỹ:
Ưa liếm môi miệng. Thân nóng như lửa. Thường lo đói khát và hay nói đến việc ăn uống. Mắt thường hay trương lên mà không nhắm. Hai mắt khô khan như mắt chim gỗ. Đầu gối bên phải lạnh trước. Tay bên phải thường nắm lại.
Những điềm báo trước sẽ có thể thác sinh vào loài súc sanh:
Yêu mến vợ con đắm đuối không bỏ .Ngón tay và ngón chân đều co quắp. Khắp trong thân ḿnh đều toát ra mồ hôi. Tiếng nói ra kḥ khè. Miệng thường ngậm đồ ăn.
Hộ niệm cho người hấp hối:
Nếu người hấp hối đang ở trong bệnh viện, người thân nên đến chùa hoặc điện thoại, thỉnh quư Chư Tăng Ni và Ban Hộ Niệm đến giường bệnh để tiếp dẫn cho người mất.
Nếu gia đ́nh không quen biết chùa nào, có thể t́m đến khoa Chăm sóc về tinh thần (Pastoral Care) các tu sĩ, giáo sĩ các Tôn giáo chính, được mời vào làm việc toàn thời hoặc bán thời tại nơi đây.
Phân khoa này cũng có một Trung Tâm Cầu Nguyện (Worship Center) nằm ngay trong khuôn viên bệnh viện để cung ứng cho niềm tín ngưỡng của bệnh nhân) ngay trong bệnh viện đó để nhờ văn pḥng này mời quư Thầy đến hộ niệm.
Nếu không cung thỉnh được quư Thầy, Cô đến hộ niệm, hoặc nhà ở xa chùa, th́ có thể mở băng cassette niệm danh hiệu Phật cho người hấp hối.
Và con cháu trong nhà đứng xung quanh giường bệnh để niệm lớn câu: "Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật". Niệm liên tục cho đến lúc người ấy trút hơi thở cuối cùng, chứ không được khóc kể, sầu thảm.
Nếu cứ khóc than như thế sẽ khiến cho thần thức của người sắp ra đi quyến luyến măi không rời khỏi thân xác, hoặc nếu có rời khỏi thi thể, thần thức người ấy vẫn quanh quẩn trong nhà, chứ không thể siêu thoát được.
Một người thân hoặc người lớn tuổi trong gia đ́nh nên đến bên cạnh người hấp hối nhắc nhở họ về nguyên lư vô thường:
"Cơi đời là huyễn ảo, vô thường, mọi sự vật hiện tượng sinh rồi diệt, hội họp rồi chia ly, xin người đừng quyến luyến nữa, hăy xả bỏ tất cả và ra đi trong thanh thản".
Sau khi người bệnh vừa tắt thở: người thân nhất nên điều chỉnh thi thể trở lại cho ngay ngắn, mọi động tác đều phải thật nhẹ nhàng, tránh đụng chạm mạnh đến thi thể, v́ lúc ấy thần hồn của người chết chưa ra khỏi thi thể, dễ có cảm giác đau đớn và khó chịu.
Chính sự khó chịu ấy sẽ khiến cho thần thức của người thác sinh vào cơi ác xấu. Cho nên phải cố gắng càng hạn chế chạm đến thi thể người vừa tắt thở càng tốt.
Ba hoặc năm tiếng đồng hồ sau khi tắt thở, gia đ́nh có thể dùng nước ấm, nước hoa hoặc rượu cồn (alcohol) để tắm cho người chết và thay quần áo mới.
Tất cả nữ trang phải được tháo ra, để ngăn ngừa kẻ tham lam có thể xâm phạm đến tử thi. Nếu là tín đồ Phật giáo nên mặc lót bên trong một bộ đồ màu trắng mới và sạch, bên ngoài mặc áo tràng màu nâu hoặc màu lam và đắp một cái mền Quang Minh bên trên.
Tang sự:
Lễ tang được bắt đầu sau khi người thân của ḿnh qua đời, có nhiều việc cần thiết phải làm. Những người có trách nhiệm phải thật b́nh tĩnh mới có thể giải quyết được công việc.
Nếu người mất theo tín ngưỡng nào th́ nên tôn trọng niềm tin của họ mà tổ chức tang lễ theo nghi thức của tôn giáo ấy.
Riêng Phật tử nên tổ chức theo nghi lễ của Phật giáo. Nghi lễ này được diễn ra gọn gàng, đơn giản, trang nghiêm, ít tốn kém, và không theo tập tục mê tín của thế gian, như đốt vàng mă, lầu đài, nhà kho..
Công việc đầu tiên là một hay hai người trong gia đ́nh phụ trách liên lạc với quư Thầy để chọn ngày giờ thích hợp cho việc tẩm liệm, phát tang, di quan và an táng, một mặt liên lạc với Sở Mai táng, để lo mua quan tài, đặt xe tang, nơi an táng..
Những người c̣n lại trong gia đ́nh chia nhau mỗi người mỗi việc, thông báo cho thân nhân ở xa, viết cáo phó gởi báo, đài, quét dọn nhà cửa, bàn thờ Phật, Tổ Tiên, sắm sửa đèn nến, hương hoa, trang hoàng bàn vong để thờ phụng người quá cố.
Bàn thờ Phật cần được trần thiết trang nghiêm với một h́nh hoặc tượng Phật đặt ngay ngắn ở giữa, hai chân đèn, lư hương, đĩa trái cây, b́nh hoa, hai ly nước trong..
Bàn thờ Vong, cũng phải trang hoàng cho đẹp đẽ với cặp chân đèn, đĩa trái cây, b́nh hoa, ba ly nước, một bài vị gồm có tên tuổi, ngày sinh, ngày mất do Thầy viết. Và đặc biệt là di ảnh của người chết, phải chọn một tấm h́nh đẹp, rơ ràng của người quá cố để thờ.
Tẩm liệm, phát tang, cúng cơm và an táng:
Đến thời điểm thích hợp đă định trước, quư Thầy Cô, ban Hộ Niệm cùng tang quyến và bạn bè thân hữu vân tập trước bàn thờ Phật để tụng Kinh và cầu nguyện cho vong linh người quá cố.
Sau khi nắp quan tài đậy lại là lễ Phát tang, c̣n gọi là lễ Thành phục. Tất cả con cháu đều quỳ ngay thẳng trước linh đài của người mất.
Quư Thầy tụng Kinh và sái tịnh vào khăn tang, rồi phát tang cho tang quyến. Mỗi người đều lạy hai lạy và nhận chiếc khăn màu trắng, rồi chít khăn lên đầu và mặc quần áo tang.
Theo tục lệ truyền thống, người con gái chỉ đeo khăn tang, quần tang mà không có áo. Người con rể, chỉ quấn khăn tang là đủ.
Riêng hàng cháu, chắt, trên khăn tang có đính thêm một miếng vải nhỏ h́nh tṛn màu xanh hay màu đỏ, tùy theo bên nội và bên ngoại. Vợ chồng để tang cho nhau, chỉ cần bịt một khăn tang là đủ.
Sau khi lễ phát tang là lễ cúng cơm (tiến linh). Tất cả nên cúng thức ăn chay, cúng nước trà thay v́ cúng rượu. Tiếp đó là lễ tụng kinh cầu siêu cho hương linh.
Trong tang lễ, phần quan trọng nhất là tụng kinh cầu nguyện cho thần hồn người chết siêu thoát, chứ không phải chú trọng về h́nh thức cúng kiến, đờn trống, nhạc Tàu, nhạc Tây..
Những h́nh thức bề ngoài chỉ cốt để làm nở mặt nở mày của tang quyến đối với người ngoài, chứ không ảnh hưởng ǵ đến thần thức người quá cố.
Đến ngày an táng linh cữu, tang quyến cùng bè bạn thân hữu cùng quư Thầy Cô và ban Hộ niệm tiễn đưa linh cữu đến nơi an táng, địa táng hay hỏa táng tùy theo sự chọn lựa của người quá cố, tất cả nên thành tâm niệm Phật để tiếp dẫn vong linh đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Sau lễ an táng, chủ nhà rước vong linh về nhà hoặc chùa để làm lễ An Sàng, tức là lễ an vị vong linh và di ảnh của người quá cố.
Có nhiều người hiểu lầm lễ này gọi là lễ ăn sàng, nên bắt buộc tang quyến phải tổ chức tiệc tùng để được ăn uống. Đây là một sự thật đáng buồn.
Sau lễ An sàng, là cúng tuần thất bảy ngày sau khi qua đời, cúng Bách nhật trăm ngày, cúng Tiểu tường giáp năm ba trăm sáu mươi lăm ngày.
Và cúng Đại tường ba năm xả tang, c̣n gọi là măn tang hay măn khó, tức là đúng 1095 ngày.
Rồi từ đó mỗi năm cúng lễ giỗ tưởng niệm, cúng đúng vào ngày mất gọi là Chánh kỵ, trước ngày mất gọi là Tiên Thường.
Và nếu gia đ́nh tang quyến có điều kiện nên tổ chức lễ Trai Tăng cúng dường, bố thí, phóng sanh các loài vật, đi lễ Phật và cúng dường mười chùa, để hồi hướng công đức ấy cho vong linh người quá cố, giúp họ tái sinh vào cơi giới an lành.
Tóm lại theo giáo lư nhà Phật, chết chưa phải là hết mà c̣n nhiều vấn đề khác nữa, nếu người quá cố chưa giác ngộ giải thoát, chưa giải quyết được vấn đề sinh tử ngay trong kiếp sống hiện tại này, th́ c̣n vô số đời sống khác đang đợi chờ họ ở phía sau.
Hết
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|