Tác giả |
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 561 of 1146: Đă gửi: 04 July 2010 lúc 2:41pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT - TRUNG ẤM THÂN - TÁI SINH
THINH VĂN
Tứ Thánh Quả Sa Môn:
BA BẬC HỮU HỌC:
1. Tu Đà Hoàn: Dự lưu. Nhập Lưu. Nghịch Lưu. Quả vị Dự Lưu đầu tiên. Hành giả đang trong tư thế thấy được Đạo. Người ấy vẫn c̣n phải bảy lần sanh tử nữa.
Sự thấy biết rơ ràng của các bậc nầy, giới hạn trong phạm vi của một tiểu thế giới, gồm chúng sanh trong lục đạo, bốn đại châu, núi Tu Di, sáu cơi trời dục giới, và một cơi sơ Thiên.
2. Tư Đà Hàm: Nhứt Lai. Quả vị thứ nh́ “Nhất Lai”. Hành giả đang trong tư thế tu Đạo. Người ấy vẫn c̣n phải sanh thiên một lần, hay một lần nữa trở lại trong cơi người.
Sự thấy biết của các bậc nầy, giới hạn trong một tiểu thiên thế giới, gồm một ngàn tiểu thế giới.
3. A Na Hàm: Bất Lai. Quả vị thứ ba “Bất Lai”. Hành giả cũng đang trong tư thế tu Đạo. Người ấy không c̣n trở lại sinh tử trong cơi Dục giới nữa.
Sự thấy biết của các bậc nầy, bao hàm trong một trung thiên thế giới, gồm một ngàn tiểu thiên thế giới.
QUẢ VỊ THỨ TƯ LÀ QUẢ VỊ VÔ HỌC:
4. A La Hán: Ứng Cúng. Bất Sanh. Giai đoạn thứ tư và cũng là giai đoạn cuối cùng trong Thánh quả (Ứng Cúng) trong đó mọi triền phược nhiễm cấu, đều bị nhổ tận gốc.
Hành giả trong giai đoạn nầy, không c̣n cần phải “học” hay “thực tập” nữa. Người ấy không c̣n phải sanh tử nữa. A La Hán là vị đă đạt được cứu cánh tối thượng của đời sống Phật giáo.
Sự thấy biết của các bậc nầy, gồm thâu một Đại Thiên Thế Giới, tức gồm một ngàn trung thiên thế giới, tám mươi bốn ngàn kiếp về trước và tám mươi bốn ngàn kiếp về sau. Quá nữa th́ không hiểu thấu.
THINH VĂN GIÁC
Cũng được xem là lư tưởng A La Hán, là sự giác ngộ của một đệ tử, hay A La Hán Đạo. Người có nguyện vọng đi theo con đường A La Hán, thường phải t́m sự hướng dẫn của một đạo sư cao thượng, đă chứng ngộ Đạo Quả.
Đối với người đệ tử có tŕnh độ tinh thần tiến bộ đầy đủ, chỉ một lời chỉ giáo đơn sơ của vị chân sư, cũng có thể khai thông trí tuệ và đưa vào ṿng Thánh Đạo.
Như Đức Sariputta (Xá Lợi Phất) chẳng hạn, chỉ được nghe nửa bài kệ của vị A La Hán Assaji, đă chứng đắc tầng Thánh đầu tiên.
Bà Patacara, trong cơn suy sụp tinh thần v́ chồng, con, cha, mẹ và em bị tử nạn thê thảm, được duyên lành đưa đến Đức Phật và đắc Quả A La Hán trong khi rửa chân dưới ờ suối, bà nh́n những giọt nước từ chân gieo điểm xuống ḍng.
Kisagotami là một người phụ nữ khác, tính t́nh chân chất, đến van nài Đức Phật cứu sống cho đứa con của bà vừa mới chết, cũng đắc Quả Thánh trong khi quan sát những ngọn đèn đang lụi dần.
Vị tỳ khưu Cula Panthaka, không thể học thuộc một câu kệ trong bốn tháng, cũng đắc Quả A La Hán khi quán tưởng đến bản chất vô thường, của một cái khăn lau tay sạch.
Sau khi đă thành tựu nguyện vọng, vị A La Hán dành trọn khoảng thời gian c̣n lại của đời ḿnh, để tế độ những ai muốn t́m trạng thái thanh b́nh an lạc, bằng cách nêu gương lành trong sạch và ban truyền giáo huấn thâm sâu.
Trước tiên Ngài tự thanh lọc, và sau đó cố gắng giúp người khác gội rửa bợn nhơ, bằng cách giảng dạy giáo lư mà chính Ngài đă thực hành.
Một vị A La Hán có đủ tư cách để truyền dạy Giáo pháp, hơn các vị đạo sư phàm tục thường, chưa chứng ngộ Chân Lư, v́ Ngài dạy với kinh nghiệm bản thân.
Trong lư tưởng cao quư của bậc Thinh Văn A La Hán, không có chi là vị kỷ, bởi v́ Đạo Quả A La Hán chỉ có thể thành đạt được, sau khi hành giả tuyệt trừ mọi h́nh thức ngă chấp.
Ảo kiến về sự tự ngă và ḷng vị kỷ, là những dây trói buộc, mà người có chú nguyện noi theo con đường A La Hán, phải cắt đứt cho kỳ được để thành tựu mục tiêu cứu cánh.
Những bậc thiện trí, nam cũng như nữ, trong thời Đức Phật và về sau, đă được duyên lành gặp cơ hội vàng son, khai thông trí tệ trong kiếp sống hiện tiền.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
NAM MÔ CỰC LẠC GIÁO CHỦ TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT
NAM MÔ ĐỆ NHẤT TRÍ TUỆ XÁ LỢI PHẤT TÔN GIẢ CẬP
QUÁ HIỆN VỊ LAI NHẤT THIẾT TỨ QUẢ SA MÔN.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 562 of 1146: Đă gửi: 04 July 2010 lúc 2:42pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT - TRUNG ẤM THÂN - TÁI SINH
PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ TRONG KINH ĐIỂN PÀLI
ĐĐ.UYÊN MINH
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ, qua các kinh nói về Phật Di Đà, từ Hán tạng, vốn được phiên dịch từ kinh điển Sanskrit.
Ở đó, cơi Tịnh độ hay Cực lạc, được mô tả là cảnh giới tuyệt vời, với tất cả những sự thù thắng trang nghiêm. Con đường dẫn đến cơi này, có thể chỉ gói gọn trong công phu tŕ niệm hồng danh Phật Di Đà.
Ngoài sự thanh tịnh có được, từ việc nhất tâm niệm Phật Di Đà, oai lực của Ngài cũng thừa sức tiếp dẫn vong linh người niệm Phật, văng sinh về thế giới Tịnh độ, để họ tiếp tục tu hành trong điều kiện thuận lợi hơn xưa gấp triệu lần.
Cơi ấy giữa người với người không hề biết tương tranh thù hận, v́ ở đó không có chuyện chiếm hữu lợi danh, như ở cơi Ta bà nhiều kiếp nạn này.
Nhưng đó là theo kinh điển Hán tạng, nguồn giáo lư chủ đạo của Phật giáo Bắc truyền. Trong bài viết này ta thử t́m hiểu vấn đề qua kinh điển Pàli, nguồn giáo lư căn bản của Phật giáo Nam truyền.
Dĩ nhiên, trong Tam tạng Pàli cũng có khái niệm Tịnh độ với những tŕnh bày thật rơ ràng về cảnh giới này, những cư dân ở đó và con đường dẫn đến cảnh giới Tịnh độ, tức phép cầu văng sanh theo kinh điển Nam truyền.
CƠI TỊNH ĐỘ THEO KINH ĐIỂN PÀLI
Trước hết, cơi Tịnh độ được biết đến trong kinh điển Pàli qua danh từ Suddhàvàsa, c̣n được dịch là Tịnh cư, theo lối chiết tự Suddha (thanh tịnh) và Àvàsa (chỗ ở).
Vậy Suddhàvàsa cũng có thể được dịch là Tịnh độ, Tịnh thổ. Thậm chí chữ Pàli này c̣n gần gũi với chữ Tịnh độ, Tịnh thổ hơn là Sukhavati (chốn An lạc), một chữ chỉ có thể xem là tương đương với từ Sugati (Lạc cảnh, Thiện thú) trong kinh điển Pàli, chỉ chung cho các cơi nhân thiên.
Theo các chú sớ A Tỳ Đàm, có tất cả năm cơi Tịnh độ, nằm trong mười sáu cơi Phạm thiên Hữu sắc, và là chỗ tái sanh của các bậc Thinh văn Bất lai, hay c̣n gọi là A na hàm (Anàgàmi người không c̣n trở lại các cơi dục giới).
Tuy cảnh giới này chỉ gồm toàn các vị Bất lai và La hán (chứng A la hán sau khi sanh về đây), nhưng trên căn bản v́ vẫn là cơi Hữu sắc, nên ở năm cơi Tịnh độ này, vẫn có những lâu đài, hoa viên rất trang nghiêm.
Dĩ nhiên không phải là nơi chốn hưởng thụ, mà đó chỉ là những dấu vết tối thiểu của một cơi Ngũ uẩn. Về tuổi thọ, chư Thánh Bất lai ở cơi thấp nhất trong năm cơi Tịnh độ, là cơi Vô phiền có thọ mạng một ngàn đại kiếp.
Kế đến là cơi Vô nhiệt có thọ mạng hai ngàn đại kiếp.
Cơi thứ ba là Thiện hiện có thọ mạng bốn ngàn đại kiếp.
Cơi thứ tư là Thiện kiến có thọ mạng tám ngàn đại kiếp.
Và cơi Sắc cứu cánh có thọ mạng mười sáu ngàn đại kiếp.
Do có những lúc trải qua một thời gian dài, không có chư Phật ra đời độ sinh, nên dân số trên năm cơi Tịnh độ, chỉ có giảm mà không được bổ sung, do vậy cũng có những thời điểm, năm cơi này không tiếp tục tồn tại.
CƯ DÂN TỊNH ĐỘ THEO KINH ĐIỂN PÀLI
Trước tiên là tŕnh bày đại lược về bốn tầng Thánh trí, làm nên bốn bậc Thánh nhân, và chính Đức Phật cũng được kể vào đó.
Sơ quả hay Tu đà hoàn (Dự lưu) c̣n được gọi là Thất lai, người không thể tái sanh quá bảy lần, là vị đă chấm dứt hoàn toàn ba thứ phiền năo thân kiến (nôm na là chấp kiến trong năm uẩn), hoài nghi (nghi ngờ về Phật pháp nói chung) và giới cấm thủ (chấp trước các tín điều mù quáng).
Ở một số vị, thánh trí Sơ quả chỉ là một giai đoạn thoáng qua, trước khi hoàn tất các tầng thánh trí cao hơn.
Như trường hợp Đức Phật hoặc các vị Thanh văn tốc chứng. Nhưng cũng có lúc giai đoạn này kéo dài trong nhiều giờ, nhiều ngày, nhiều năm hoặc vài kiếp sống (dĩ nhiên không quá bảy kiếp).
Sớ giải Trường Bộ ghi rằng Thiên vương Đế Thích hiện nay là một vị Thánh Sơ quả. Khi hết tuổi thọ, ngài sẽ sinh xuống nhân gian làm Chuyển luân vương và chứng đắc Nhị quả Tư đà hàm.
Sau đó sanh lên Đao Lợi thiên, chứng Tam quả A na hàm và lần lượt tái sanh ở đủ năm cơi Tịnh độ, bắt đầu là cơi Vô phiền, cuối cùng ngài sẽ chứng quả La hán và nhập diệt ở cơi Sắc cứu cánh.
Tầng Thánh trí thứ hai là Nhị quả Tư đà hàm. Ngoài ba phiền năo đă chấm dứt ở tầng thánh trước, quả vị này c̣n làm giảm nhẹ dục ái và sân hận. Do chỉ c̣n có thể tái sanh cơi Dục giới một lần nữa thôi, nên quả vị này c̣n được gọi là Nhất lai.
Tầng Thánh thứ ba là Tam quả A na hàm (Anàgàmi), nghĩa là bậc Bất lai, người không c̣n trở lui các cơi dục giới nữa (có tất cả mười một cơi Dục giới).
Theo A Tỳ Đàm tạng Pàli, th́ do đă chấm dứt dục ái (niềm tham luyến trong ngũ trần) và sân hận, nên vị Thánh Tam quả trong trường hợp không thể chứng La hán, rồi nhập diệt ngay đời này th́ có hai con đường để đi:
Nếu đă chứng đắc Ngũ thiền, th́ sẽ tùy theo khả năng mạnh yếu của Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ mà sanh về một trong năm cơi Tịnh độ.
Tín nổi trội th́ sanh về cơi Vô phiền, Tấn hùng hậu th́ về cơi Vô nhiệt, Niệm hùng hậu về cơi Thiện hiện, Định hùng hậu th́ về cơi Thiện kiến, Tuệ thâm hậu th́ sanh về cơi Sắc cứu cánh. Không thứ ǵ yếu kém.
Ở cơi Tịnh độ thứ năm này toàn bộ Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ đều được sung măn; v́ đây là nơi chốn sau cùng, để một vị Bất lai, chứng quả La hán và nhập diệt.
Trong trường hợp vị Thánh Bất lai, chưa chứng qua một tầng thiền định nào, tức chỉ có trí tuệ Thiền quán (Vipassanà) mà không từng tu tập Thiền chỉ (Samatha) th́ lúc mạng chung, vị này do khả năng ly dục vô sân tuyệt đối.
Nên tối thiểu cũng thành tựu Sơ thiền, trước khi mạng chung ở cơi Dục giới và như vậy cũng đủ để sanh về cơi Phạm thiên, thấp nhất là Phạm thiên Sơ thiền.
Do túc duyên và tŕnh độ tu chứng có khác nhau, nên giữa các bậc Thánh Tam quả, cũng có vài sai biệt. Theo Manorathapurani, Chú sớ Tăng Chi Bộ:
- Tiền bán Niết bàn: Vị Bất lai chứng La hán, khi chưa sống hết phân nửa thọ mạng, ở cơi Tịnh độ nào đó trong năm cơi.
- Hậu bán Niết bàn: Chứng La hán sau khi sống hơn nửa thọ mạng ở cơi Tịnh độ nào đó
- Luân lưu Niết bàn: Do căn tánh không xuất sắc, có vị Bất lai phải lần lượt sanh đủ năm cơi Tịnh độ, mới chứng quả La hán rồi nhập diệt ở cơi Tịnh độ cao nhất.
- Bất lao Niết bàn: Vị Bất lai có thể chứng La hán mà không cần nhiều cố gắng.
- Cần lao Niết bàn: Vị Bất lai phải nhiều nỗ lực mới có thể chứng La hán.
Tầng Thánh trí thứ tư chính là quả vị La hán, người chấm dứt toàn bộ phiền năo. Theo A Tỳ Đàm Pàli th́ có ba quả vị La hán:
1. Chư Phật Chánh Đẳng Giác Toàn Giác, cũng là những vị La hán, nhưng do tự ḿnh chứng đắc và là đạo sư hướng dẫn cho những người hữu duyên, chứng đắc La hán.
2. Những vị La hán đệ tử này được gọi là Thanh văn giác
3. Quả vị La hán thứ ba là Độc Giác Phật, những vị tự ḿnh chứng ngộ La hán, nhưng không thể hướng dẫn người khác chứng ngộ La hán.
Kinh điển Hán tạng c̣n gọi Độc Giác Phật là Duyên Giác Phật, v́ cho rằng các Ngài nhờ liễu ngộ nguyên lư Duyên khởi mà giác ngộ.
Kỳ thực, nếu đọc kinh Đại Duyên trong Trường Bộ kinh, ta sẽ thấy lư Duyên khởi và lư Tứ đế (vẫn bị hiểu lầm là dành riêng cho Thanh văn) vốn dĩ chỉ là một.
Trong Trung Bộ kinh, Đức Phật đă xác định ai thấy lư Duyên khởi, chính là thấy Pháp và ngược lại. Đồng thời, không hề có chuyện một người giác ngộ lư Tứ đế, mà lại mơ hồ về lư Duyên khởi hay ngược lại.
Tất cả quả vị La hán vừa nêu trên đây, luôn giống nhau về khía cạnh giác ngộ các pháp cần yếu (như Tứ đế, Duyên khởi...)
Chỉ khác ở hai điểm chính: Tự ḿnh hiểu ra, hay phải nhờ thầy hướng dẫn, và điểm thứ hai là ngoài trí tuệ giác ngộ, c̣n có khả năng hiểu biết sâu rộng, những ǵ nằm ngoài lư tưởng giác ngộ hay không.
Xét về khía cạnh này, chỉ có chư Phật Chánh Đẳng Giác là viên măn. Tuy nhiên, trong bài viết này, chúng ta chỉ đặc biệt nhấn mạnh quả vị Bất lai, v́ đề tài ở đây là các cơi Tịnh độ.
PHÉP VĂNG SANH TỊNH ĐỘ THEO KINH ĐIỂN PÀLI
Văng sanh vẫn được dùng song song với chữ siêu sanh, nhưng theo tinh thần A Tỳ Đàm Pàli, th́ siêu sanh c̣n có thể được hiểu là, vượt thoát tái sanh, một điều chỉ thực hiện được bởi một vị La hán.
Như vậy trong trường hợp vị Bất lai sanh về các cơi Tịnh độ, chỉ có thể gọi là văng sanh.
Và nếu phải trả lời câu hỏi về con đường văng sanh Tịnh độ, th́ như tất cả những ǵ vừa nêu trên, ta hoàn toàn có thể nói rằng, văng sanh Tịnh độ chỉ là một phần đường, trên hành tŕnh giải thoát, của một vị Thanh văn.
Và như thế pháp môn Tịnh độ, hay con đường văng sanh trong trường hợp này, cũng đồng nghĩa với hành tŕnh Tam học, Tứ niệm xứ, Bát chánh đạo, nói chung là hành tŕnh ba mươi bảy Bồ đề phần.
Các pháp trong ba mươi bảy Bồ đề phần, đối với nhau chỉ là mối quan hệ tương tức; cái này chính là cái kia, trong cái kia có cái này.
Như vậy, lời đáp cho câu hỏi về con đường văng sanh, là toàn bộ những ǵ mà ta vẫn gọi là Phật pháp, và theo cách hiểu này, pháp môn Tịnh độ cần thiết cho tất cả mọi người.
Đồng thời, chiếu theo tinh thần căn bản của Phật giáo mà nói, th́ khi nhắc đến pháp môn Tịnh độ, cầu văng sanh, không hề có nghĩa là chờ đợi sự tiếp dẫn của bất cứ ai, mà phải là sự lên đường bằng chính đôi chân của ḿnh.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 563 of 1146: Đă gửi: 04 July 2010 lúc 2:43pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT - TRUNG ẤM THÂN - TÁI SINH
BÍCH CHI - ĐÔC GIÁC - DUYÊN GIÁC
S: pratyekabuddha. P: paccekabuddha. dịch theo âm là Bích chi ca Phật đà hoặc Bích chi Phật, cũng được gọi là Duyên Giác Phật.
Một vị Phật đạt giác ngộ, nhờ tri kiến Mười hai nhân duyên, là người đạt được Phật quả, do tự ḿnh chứng ngộ.
Người ta cho rằng vị Độc giác Phật, không đạt được các năng lực như Nhất thiết trí hay Mười lực của một vị Tam miệu Tam Phật đà (Chính đẳng giác; s: samyak-saṃbuddha).
Độc giác Phật được xem như bậc Thánh, ở quả vị khoảng giữa A la hán và Phật. Có khi Độc giác Phật là danh hiệu, chỉ người đạt giác ngộ trong thời không có vị Phật nào xuất hiện trên trái đất.
Và giác ngộ nhờ đă đạt tri kiến mười hai nhân duyên trong các đời sống trước. Độc giác thừa là một trong Ba thừa (cỗ xe) để đạt Niết bàn.
Sự khai minh giác ngộ đơn độc, của một người tự lực cố gắng tiến đến Đạo Quả, không nhờ một ai dạy dỗ hay giúp đỡ.
V́ đặc tính đơn độc giác ngộ, nên chư Phật Độc Giác, không dắt dẫn ai đến nơi giác ngộ, bằng lối đơn độc giác ngộ được. Các Ngài chỉ nêu gương đức hạnh và trí dũng.
Hơn nữa, chư Phật Độc Giác chỉ ra đời, trong lúc không có Phật Pháp. Số Phật Độc Giác không phải chỉ có một trong một thời kỳ riêng biệt, như trường hợp của bậc Toàn Giác.
Như Đức Phật Gotama, mặc dù đă viên tịch lâu đời, nhưng bao giờ Giáo Pháp của Ngài c̣n tỏ rạng và tinh thuần như lúc ban sơ, th́ không thể có một vị Phật Độc Giác ra đời trên thế gian này.
Trong kinh Khaggavisana Sutta của bộ Sutta Nipata (Kinh Tập) có những lời dạy của chư Phật Độc Giác như sau:
1. Sống giữa chúng sanh, hăy dẹp lại một bên, gươm đao và các loại khí giới. Không gây tổn thương cho bất luận ai. Không làm cho ai phải xót đau, v́ một đứa con hay một người bạn. Nhưng, hăy mạnh dạn tiến bước, như chúa sơn lâm, đơn độc một ḿnh.
2. Thân mật sanh tŕu mến. Do tŕu mến có ưu phiền. Hăy nhận chân niềm bất hạnh phát sanh, do tŕu mến và như chúa sơn lâm, hăy mạnh dạn tiến bước, đơn độc một ḿnh.
3. Chúng ta chắc chắn tán dương giá trị của t́nh bằng hữu. Hăy thân cận với bậc cao nhân, hoặc người ngang bằng ta. Nếu không được vậy, hăy sống đời trong sạch không đáng bị khiển trách, và như chúa sơn lâm, hăy đơn độc mạnh tiến.
4. Khoái lạc vật chất trong đời sống quả thật vô số kể, vừa êm dịu, vừa ngọt ngào và quyến rũ. Dưới đủ h́nh thức, dục lạc làm cho ḷng người say đắm. Hăy nhận chân hiểm họa của nó và một ḿnh, đơn độc, hăy vững tiến như chúa sơn lâm.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.
NAM MÔ CỰC LẠC GIÁO CHỦ TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT.
NAM MÔ QUÁ HIỆN VỊ LAI NHẤT THIẾT BÍCH CHI ĐỘC GIÁC DUYÊN
GIÁC PHẬT.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 564 of 1146: Đă gửi: 04 July 2010 lúc 3:00pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT - TRUNG ẤM THÂN - TÁI SINH
QUÁN NHÂN DUYÊN
MỞ ĐỀ
Người đời, v́ không hiểu sự vật trong vũ trụ này từ đâu mà có, cho nên sanh ra nhiều quan niệm sai lầm. Có người nghĩ rằng vũ trụ do tự nhiên sanh. Có người lại nghĩ vũ trụ do một vị thần toàn trí, toàn năng tạo ra..
Theo Đạo Phật th́ vũ trụ là vô thỉ, nghĩa là không có điểm khởi đầu, và mọi sự mọi vật trong vũ trụ không thể đứng riêng một ḿnh mà có được; trái lại, phải nương nhờ nhau mà thành.
Nói một cách khác, từ vật lớn cho đến vật nhỏ, từ vât hữu h́nh cho đến vô h́nh, đều không ngoài nhân duyên mà có. V́ thế, trong kinh Phật thường nói: "Chư pháp tùng duyên".
Sự hiện hữu của loài hữu h́nh, hay nói riêng của loài người, cũng không ngoài công lệ ấy được. Muốn hiểu rơ một cách tường tận, cái guồng máy của sự sanh tử luân hồi, của kiếp trong bể khổ trần gian, chúng ta cần phải học lư "Thập nhị nhân duyên".
Sau khi hiểu rơ lư thập nhị nhân duyên, chúng ta lại c̣n phải t́m hiểu phương pháp, để dứt trừ cái ṿng lẩn quẩn sanh tử luân hồi nữa.
Muốn hiểu và dứt trừ cái ṿng sanh tử luân hồi, chúng ta phải học và thực hành pháp quán nhân duyên, mà chúng tôi xin tŕnh bày trong bài giảng này.
Chánh Đề
Định Nghĩa
Sao gọi là Nhân duyên? Nhân là nguyên nhân, chỉ cho những sự vật chính đó là nhân, trực tiếp sanh ra một vật khác, như hạt lúa làm nhân sanh ra cây lúa. Duyên là trợ duyên, chỉ cho những vật ǵ có tánh cách trợ giúp trực tiếp hay gián tiếp, cho vật khác được thành.
Như phân, nước, ánh sáng, nhân công...là trợ duyên giúp cho hạt lúa được thành cây lúa. Vậy nhân duyên là chỉ cho các vật làm nhân cho nó, mà cũng vừa là trợ duyên cho tất cả vật chung quanh nó.
Chữ "Nhân duyên" lại có nghĩa thứ hai: Các vật đều là "nhân", các "nhân" đó "duyên" với nhau mà thành ra các vật khác. Như vôi, gạch, ngói, gỗ...là nhân, các nhân này duyên nhau (nương giúp) mà thành ra cái nhà.
V́ các pháp trùng điệp nhiều lớp làm duyên cho nhau, mà thành ra vật thế này hay thế khác, nên trong kinh chép: Chư pháp trùng trùng duyên khởi.
Thành Phần Của Nhân Duyên
Đoạn trên đă nói: Các pháp do nhân duyên ḥa hợp sanh. Vậy những nhân duyên ǵ sanh ra loài hữu t́nh. Vậy những nhân duyên sau đây:
1. Vô minh
2. Hành
3. Thức
4. Danh sắc
5. Lục nhập
6. Xúc
7. thọ
8. Ái
9. thủ
10. Hữu
11. Sanh
12. Lăo tử.
1. Vô minh có nhiều nghĩa và nhiều loại:
a. Theo Đại Thừa giải thích: Không tỏ ngộ chân tâm gọi là vô minh.
b. Thông cả Đại Thừa và Tiểu Thừa giải thích: Hiểu biết các pháp không đúng như thật, nên gọi là vô minh như vô ngă mà chấp thật ngă, vô pháp mà chấp thật pháp vị...
c. Ngoài ra, c̣n những nghĩa thông thường như: vô minh là không sáng, tối tăm, mờ ám, si mê...
Vô minh, lại có khi để chỉ các phiền năo như tham, sân, si.
Xưa có người đến chùa hỏi:
- Thế nào là vô minh?
Tổ sư trả lời:
- Quê mùa dốt nát đến thế, cũng đến chùa hỏi đạo lư !
Ông khách nổi giận, mặt mày đỏ bừng...
Tổ sư nói tiếp:
- Vô minh là đó (chỉ cái sân), đó là vô minh.
Vô minh có khi chỉ riêng cho Si tâm sở. Như nói "độc hành vô minh" hay "tương ưng vô minh" là đều chỉ riêng cho "si tâm sở": Khi nó khởi riêng một ḿnh, hoặc chung cũng với phiền năo, tham, sân..
Vô minh lại phân ra hai loại: căn bản vô minh và chi mạt vô minh. Như trong mười hai nhân duyên, cái "vô minh" đầu là căn bản, v́ nó là gốc sanh ra các vô minh sau; c̣n "ái, thủ, hữu" là chi mạt vô minh.
Trong tứ hoặc, th́ kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc là chi mạt vô minh; c̣n vô minh hoặc là căn bản vô minh. Trong ngũ trụ địa, th́ kiến nhất xứ trụ địa, dục ái trụ địa , sắc ái trụ địa và hữu ái trụ địa là chi mạt vô minh, c̣n vô minh trụ địa là căn bản vô minh.
Nói chung lại tất cả phiền năo, hoặc thô hoặc tế của Đại Thừa hay Tiểu Thừa, có tánh cách làm cho chân tâm bị ẩn, gương trí tuệ lu mờ th́ gọi là vô minh.
2. Hành là hành động, tạo tác. Do vô minh phiền năo nổi lên, làm cho thân, khẩu, ư, tạo tác ra các nghiệp lành hay dữ nên gọi là "hành".
3. Thức là thần thức, chỉ cho phần tinh thần. Do thân, khẩu, ư, ba nghiệp tạo tác những nghiệp lành hay dữ nên khi chết rồi, các nghiệp dẫn dắt thần thức đi lănh thọ quả báo (thân) khổ hay vui ở đời sau.
4. Danh sắc là thân thể. Trong thân thể người có hai phần:
a. Phần tinh thần (tâm) chỉ có tên kêu gọi, chứ không có h́nh sắc nên gọi là "danh".
b. Phần thể chất có h́nh sắc, nên gọi là "sắc".
5. Lục nhập, gọi nôm na là sáu chỗ vào. Khi đă có thân thể rồi, cố nhiên phải có sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ư) là chỗ của sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp) phản ảnh vào, nên gọi là "lục nhập".
6. Xúc là tiếp xúc. Trong sáu căn, ngoài sáu trần thường gặp gỡ tiếp xúc với nhau, như mắt tiếp xúc với sắc, tai tiếp xúc với tiếng, mũi tiếp xúc với mùi, lưỡi tiếp xúc với vị, thân tiếp xúc với ấm lạnh, trơn nhám, ư tiếp xúc với pháp trần.
7. Thọ là lănh thọ. Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, rồi lănh thọ những cảnh vui hay buồn, sướng hay khổ, hay cảnh binh thường.
8. Ái là ưa muốn. Khi lành thọ cảnh vui th́ sinh ḷng tham, muốn làm sao cho được, khi gặp cảnh khổ th́ sanh tâm sân hận, buồn rầu, muốn xa ĺa, gặp cảnh binh thường thời si mê. Đây là cái động cơ thúc đẩy thân, khẩu, ư, taoc tác các nghiệp.
9. Thủ là giữ lấy, t́m cầu; nói rộng ra là các hành động tạo tác. Do gặp cảnh thuận th́ tham cầu, gặp cảnh nghịch lại sân, si muốn xa ĺa; mục đích là muốn t́m phương này kế nọ để bảo thủ cho được bản ngă của ḿnh. Do đó mà tạo ra các nghiệp sanh tử.
10. Hữu là có. V́ đời này đă có nhân lành hay dữ do ḿnh tạo ra, th́ đời sau quyết định phải "có" quả khổ hay vui mà ḿnh phải thọ nhận.
11. Sanh. Là sanh ra. Do "ái, thủ, hữu" làm nhân hiện tại tạo ra các nghiệp, cho nên qia đời sau, phải sanh ra đời để thọ quả báo.
12. Lăo, tử. Là già, chết. Đă có sanh ra, tất nhiên phải chịu các khổ già và chết..
Mười hai nhân duyên này liên quan mật thiết với nhau, vừa làm quả cho nhân trước, vừa làm nhân cho quả sau, nối tiếp không dứt trong thời gian và làm cho chúng sinh phải măi măi xoay tṛn trong ṿng sanh tử.
Hiệu Quả Của Pháp 12 Nhân Duyên.
Hành giả sau khi thành tựu pháp quán mười hai nhân duyên này, th́ sẽ trừ được tâm si mê là nguyên nhân chính của khổ đau và luân hồi của chúng sinh.
Đức Phật thường bảo: "Sự khổ ở tam đồ chưa hẳn là khổ, chỉ có người thiếu trí huệ mới là khổ thôi". Xem thế th́ đủ biết trừ được tâm si mê và làm cho trí huệ được phát chiếu là một điều quan trọng bậc nhất của kẻ tu hành.
Hơn nữa, hành giả c̣n nhờ pháp quán mười hai nhân duyên này mà sẽ chứng được quả Duyên giác. Khi Phật chưa giáng sinh, cũng có nhiều vị tu hành nhờ quán sát sự sanh hóa của vũ trụ mà được ngộ đạo.
Những vị ấy người ta thường gọi là Độc giả, nghĩa là tự nghiên cứu một ḿnh mà được giác ngộ. Đến khi Phật giáng sinh, chỉ dạy pháp quán nhân duyên nhiều người y theo pháp quán này tu hành mà được giác ngộ, nên gọi là "Duyên giác" (nghĩa là những vị giác ngộ nhờ quán mười hai nhân duyên).
Chỗ giải thoát của quả vị Duyên giacs và A La Hán đều giống nhau, nhưng về trí huệ và thần thông th́ quả Duyên giác cao hơn quả A La Hán.
Kết Luận
Để độc giả có một ư niệm chung về bài giảng này và dễ nhớ, chúng tôi xin tóm tắt những yếu điểm sau đây:
Tất cả sự vật không một vật nào riêng biệt mà tồn tại được. Chúng phải nương tựa vào nhau mới thành vật này hay vật khác. Đó là lư nhân duyên sanh, hay trùng trùng duyên khởi.
Riêng về loài hữu t́nh như kiếp người chẳng hạn, th́ do mười hai nhân duyên nương nhau mà thành một chuỗi sanh tử dài vô hạn, nối tiếp từ quá khứ đến hiện tại và vị lai.
Tùy theo cái tác dụng của nó mà mười hai nhân duyên ấy có thể chia làm ba nhóm là: hoặc (mê mờ), nghiệp (tạo tác) và khổ (kết quả).
Muốn dứt trừ chuỗi sanh tử dài trong biển khổ đau của cơi tục, phải quán mười hai nhân duyên.
Hành giả thành tựu được pháp quán mười hai nhân duyên này, th́ sẽ dứt trừ được vô minh, thoát khỏi sanh tử và chứng được quả vị Duyên giác.
Cầu mong cho quí vị độc giả thấu hiểu được chân giá trị của pháp quán này và tinh tấn tu hành để đạt được quả vị quư báu nói trên.
Ghi Chú: Có chỗ nói bài kệ như vầy:
"Chư pháp tùng duyên sanh, diệc tùng nhân duyên diệt,
Ngă Phật Đại Sa Môn, thường tác như thị thuyết".
Dịch nghĩa:
Các pháp do nhân duyên, cũng do nhân duyên diệt,
Đức Phật của chúng ta, thường dạy nói như vậy. Theo Đại Thừa th́ bài kệ về nhân duyên như vầy;
Chư pháp tùng duyên sinh
Diệc tùng nhân duyên diệt
Nhược năng như thị giải
Chư Phật thường hiện tiền.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 565 of 1146: Đă gửi: 04 July 2010 lúc 3:01pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT - TRUNG ẤM THÂN - TÁI SINH
NĂNG LỰC CỦA LA HÁN - ĐỘC GIÁC - DUYÊN GIÁC
I. Tam Minh:
Ba loại sáng suốt có thể đạt được bằng tŕ giới.
- Túc mệnh minh: biết rơ các tiền kiếp của ḿnh và chúng sinh.
- Thiên nhăn minh: biết rơ sự tiêu hủy và tái xuất của chúng sinh, nghiệp nào sinh ra quả nào. Biết sự chết và tái sanh của các loài hữu t́nh
- Lậu tận minh: biết rơ các Ô nhiễm sẽ chấm dứt như thế nào. Đoạn trừ tất cả các lậu hoặc (những dục vọng và quyến rủ)
II. Bát Giải
Bát Giải Thoát Tam Muội: Tám giải thoát, hay tám phép thiền định giải thoát khỏi sắc dục.
1. Nội hữu sắc tưởng, ngoại quán sắc giải thoát Tam muội: Tự ḿnh có sắc, thấy có sắc. Trong giai đoạn nầy hành giả tự ḿnh quán thân bất tịnh
2. Nội vô sắc tưởng, ngoại quán sắc giải thoát Tam muội: Quán tưởng nội sắc là vô sắc, thấy các ngoại sắc bất tịnh
3. Tịnh thân tác chứng cụ túc trụ giải thoát: Tịnh giải thoát thân chứng Tam muội. Quán tưởng sắc là tịnh, chú tâm trên suy tưởng ấy để đoạn diệt dục vọng.
4. Không vô biên xứ giải thoát (Không xứ giải thoát Tam muội): Vượt khỏi hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ các tưởng hữu đối, không suy tư đến những tưởng khác biệt, với suy tư: “Hư không là vô biên: chứng và trú Không Vô Biên Xứ, nơi mọi luyến chấp vào vật chất đều bị tận diệt bằng thiền quán.
5. Thức vô biên xứ giải thoát (Thức xứ giải thoát Tam muội): Vượt khỏi hoàn toàn Hư Không vô biên xứ, với suy tư “Thức là vô biên” chứng và trú Thức vô biên xứ, nơi mọi luyến chấp vào “không” đều bị tận diệt bằng thiền đinh.
6. Vô sở hữu xứ giải thoát Tam muội: Vượt khỏi hoàn toàn Thức vô biên xứ, với suy tư “không có vật ǵ” chứng và trú Vô sở hữu xứ, nơi mọi luyến chấp vào thức hoàn toàn bị tận diệt bằng thiền định.
7. Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát Tam muội: Vượt khỏi hoàn toàn Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nơi đây mọi luyến chấp vào hữu đối hoàn toàn bị đoạn tận bằng thiền định.
8. Diệt thọ tưởng định giải thoát (Diệt tận định xứ giải thoát Tam muội): Vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng. Đây là giai đoạn hoàn toàn tịch diệt hay Niết Bàn.
III. Lục Thông
Sáu thần thông mà chư Phật hay chư A La Hán đạt được qua tứ thiền:
1- Thiên Nhăn Thông: Khả năng thấy được tất cả mọi thứ trong sắc giới. Khả năng thấy cái mà ḿnh muốn thấy.
2- Thiên Nhĩ Thông: Khả năng nghe mọi âm thanh. Khả năng nghe và hiểu mọi ngôn ngữ.
3- Tha Tâm Thông: Tha Tâm Trí Thông hay khả năng đọc được tư tưởng của người khác mà các bậc giác ngộ đạt được cao hay thấp tùy theo sự thành đạt của bậc ấy.
4- Thần Túc Thông: Khả năng đi bất cứ đâu và làm bất cứ thứ ǵ tùy ư.
5- Túc Mạng Thông: Khả năng biết được quá khứ vị lai của ḿnh và người
6- Lậu Tận Thông: Khả năng chấm dứt nhiễm trược và đưa tâm đến chỗ giải thoát khỏi mọi dục vọng.
Chưa chứng quả A La Hán, Duyên Giác hay hơn nữa, hành giả có thể đắc ngũ thông tức là thiếu Lậu tận thông.
Cho nên năm phép trên, ngũ thông, gọi là hữu lậu thông, tức là thần thông của hành giả c̣n vướng, chưa thoát khỏi luân hồi hay chưa ra khỏi tam giới, c̣n luân chuyển trong lục đạo.
C̣n phép thứ sáu, lậu tận thông, Vô lậu thông là phép thần thông của hành giả đoạn hết các phiền năo, dứt luân hồi, chứng niết bàn. Ấy là phép thần thông của chư La hán, Duyên giác, Phât.
IV. Ngũ Nhăn
Ngũ Nhăn: Năm loại mắt hay thị giác:
1. Phàm Nhăn: Nhục nhăn. Mắt thịt của nhục thân, có tầm nh́n giới hạn, mắt của người thường, là con mắt thịt, con mắt của một phàm phu.
2. Thiên Nhăn: Mắt của chư Thiên ở cơi trời sắc giới, nhưng người phàm tu thiền định vẫn đạt được loại mắt nầy, với thiên nhăn th́ chẳng luận xa gần, trong ngoài, sáng tối, đều thấy được hết, con mắt của chư Thiên, có thể nh́n thấy được những hiện tượng siêu nhiên, quá khứ, vị lai, địa ngục ..
3. Huệ Nhăn: Mắt của các bậc Thanh Văn, Duyên Giác và A La Hán, hay là trí huệ soi rơ lư chân không vô tướng, con mắt trí huệ, nh́n thấu suốt được tính Không của các pháp.
4. Pháp Nhăn: Như Thị Nhăn. Mắt trí huệ của chư Bồ Tát hay pháp nhăn, nh́n thấu suốt sự vật để cứu độ chúng sanh, là con mắt pháp, thấy được sự đa dạng của các pháp hiện hữu.
Phật Nhăn: Thực Nhăn. Mắt của bậc giác ngộ thấu suốt mọi vật, con mắt của một bậc giác ngộ, nh́n thấu suốt thể tính của vạn sự. Đức Phật có đủ mắt Phật và bốn mắt trên.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 566 of 1146: Đă gửi: 04 July 2010 lúc 3:04pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT - TRUNG ẤM THÂN - TÁI SINH
BA HẠNG BỒ TÁT
Lư tưởng Bồ Tát. Bồ Tát Đạo. Bồ tát thừa. Danh từ Nam Phạn (Pali) "Bodhisatta" Bồ Tát gồm hai phần. "Bodhi" là trí tuệ hay giác tuệ, và "Satta" là "gia công để... hay chuyên cần để..." Vậy Bodhisatta Bồ Tát, là người gia công hay chuyên chú nỗ lực, để thành đạt trí tuệ hay giác tuệ.
Đúng ra, h́nh thức Bắc Phạn (Sanskrit) của danh từ Bodhisatta phải là Bodishakta, nhưng thường người ta dùng một danh từ phổ thông là Bodhisattva, "trí tuệ chúng sanh", nghĩa là chúng sanh có nguyện vọng trở thành Phật, hay "hữu t́nh giác, giác hữu tinh".
Danh từ này thường được dùng để chỉ bất luận ai, cố gắng thành đạt tuệ giác, nhưng theo đúng nghĩa của nó, Bodhisatta là người đă có lập lời chú nguyện, đi theo con đường Chánh Đẳng Chánh Giác và đă có được thọ kư.
Bồ Tát không nhất thiết phải là Phật tử. Trong hiện tại ta có thể gặp nhiều vị Bồ Tát đầy ḷng từ bi, bác ái, mặc dù các Ngài có thể không hay biết ǵ về lời chú nguyện thành Phật của ḿnh. Các vị ấy có thể ở trong hàng Phật tử, cũng có thể không.
Ba Hạng Bồ Tát: Theo Phật Giáo có ba hạng Bồ Tát là:
- Trí tuệ Bồ Tát
- Tín Đức Bồ Tát
- Tinh Tấn Bồ Tát.
Ba hạng trên đây tuần tự tương đương với ba hạng du dà (yoga) trong Ấn Độ Giáo: Nana Yogi, Bhakti Yogi, và Karma Yogi.
- Trí Tuệ Bồ Tát ít thiên về ḷng nhiệt thành sùng đạo, nhưng kiên tŕ tinh tấn chuyên cần hơn, trên đường phát triển trí tuệ.
- Tín Đức Bồ Tát sùng mộ, tin tưởng nơi lễ bái thờ phượng, mà ít chú trọng về công tŕnh trau giồi tâm trí và bồi đắp công đức vị tha.
- Tinh Tấn Bồ Tát th́ tập trung vào tinh thần phục vụ. Thật hy hữu nếu không phải là không bao giờ, ba đặc điểm trên điều ḥa kết tụ vào một người. Đức Phật Gotama được xem là hạng Trí Tuệ.
Theo kinh sách, con đường của bậc Trí Tuệ Bồ Tát ngắn nhất. Tín Đức Bồ Tát phải trải qua một thời gian dài hơn; và Tinh Tấn Bồ Tát càng dài hơn nữa.
Trí Tuệ Bồ Tát chú trọng về công phu phát triển trí tuệ và hành thiền, nhiều hơn là nhiệt thành với những h́nh thức lễ bái cúng dường bề ngoài.
Các Ngài luôn luôn đi theo sự hướng dẫn của lư trí và không chấp nhận điều ǵ một cách mù quáng. Không tự bó tay qui hàng một lư thuyết nào, cũng không làm nô lệ cho một quyển sách, một bộ kinh, hay một cá nhân nào.
Trí Tuệ Bồ Tát thích trầm tĩnh, yên lặng để trau giồi thiền tập. Từ nơi vắng vẻ tịch mịch ấy, Ngài rải ra những tư tuởng an lành, tuy trầm lặng nhưng hùng dũng, bủa khắp thế gian, để đem lại sự hỗ trợ tinh thần cho nhân loại đau khổ.
Tín Đức Bồ Tát đặt trọn niềm tin nơi hiệu lực của tâm thành, Saddha, hay niềm tin chân thành là đặc điểm chánh yếu của ngài.
Cùng với Saddha (niềm tin nơi Tam Bảo) như người bạn đồng hành trung tín, Ngài thành tựu mục tiêu. Tất cả các h́nh thức về lễ bái, thờ phượng bụt tượng, là sở trường của vị Tín Đức Bồ Tát. Tượng Phật là một nguồn gợi cảm quan trọng đối với Ngài.
Nên hiểu rằng người PhậtTử không sùng bái pho tượng v́ chính cái pho tượng bằng đồng hay bằng gỗ ấy, người Phật Tử bày tỏ ḷng kỉnh mộ tinh thần cao cả mà pho tượng tượng trưng, và suy niệm về phẩm hạnh, và ân đức của đức Từ Tôn.
Càng suy tưởng đến Đức Phật, càng kỉnh mộ Ngài. Đó là lư do tại sao mà Phật Giáo không khi nào phủ nhận các h́nh thức ngưỡng mộ bề ngoài (amisa puja) mặc dầu pháp hành (patipatti puja) đáng được khuyến khích hơn và chắc chắn là bổ ích hơn.
Vả lại, để đi đến thành quả thỏa đáng, đôi khi trí thức khô khan cũng cần được hưởng chút ít hương vị của Bhakti (đức tin). Nhưng Bhakti, đức tin, quá đáng th́ cũng phải nhờ trí tuệ kiềm hăm để khỏi phải sa vào cuồng tín.
Tinh Tấn Bồ Tát th́ luôn luôn t́m cơ hội để phục vụ kẻ khác. Không có ǵ làm cho vị Bồ Tát hoan hỷ bằng tích cực phục vụ.
Đối với các Ngài, "làm việc là hạnh phúc và hạnh phúc là làm việc". Không tích cực hoạt động th́ các Ngài không có hạnh phúc.
Như đức vua Sangha-bodhi xứ Sri Lanka nói: "Ta mang tấm thân bằng thịt và máu này là chỉ để đem lại trạng thái tốt đẹp và an lành cho thế gian."
Bồ Tát không chỉ sống cho riêng ḿnh mà c̣n sống cho kẻ khác nữa.
Luôn luôn hoạt động luôn luôn làm việc, không ngừng, không biết mệt, không chán, không phải làm việc như người nô lệ, mà như một chủ nhân.
Các Ngài không ham muốn, không bám vào danh thơm tiếng tốt. Các Ngài chú trọng đến việc làm, đến sự phục vụ. Ai biết, ai không biết ḿnh làm ǵ, điều ấy không quan trọng. Chẳng màng được khen, không bị sợ chê, Bồ Tát thản nhiên trước lời tán dương hay khiển trách.
Bồ Tát quên ḿnh trong khi phục vụ kẻ khác, có khi phải hy sinh mạng sống của ḿnh để cứu mạng chúng sanh khác, những người bạn đồng hành trên bước đường dài dẵng của ṿng luân hồi.
Muốn quên ḿnh để hiến thân cứu mạng cho một chúng sanh khác, Bồ Tát phải hành tâm Bi và tâm Từ đến mức độ đặc biệt.
Bồ Tát ước mong sự tốt đẹp và an lành của thế gian. Ngài thương chúng sanh như bà từ mẫu thương đứa con duy nhất của bà. Bồ Tát ḥa ḿnh với tất cả mọi người như anh, như chị. Thương yêu tất cả như mẹ, như cha, như bạn, như thầy.
"Tâm Bi của Bồ Tát nhằm thực hiện tánh cách b́nh đẳng giữa Ngài và người khác và cũng đặt ḿnh trong kẻ khác".
Trong khi thực hành như vậy, BồTát mất dần ư niệm về cái "Ta" và không c̣n thấy sự khác biệt giữa Ngài và người khác.
Ngài tự đồng hóa với tất cả, lấy tốt trả xấu, lấy thiện trả ác lấy, lành trả dữ, giúp đỡ tất cả, chí đến những người chủ tâm hại ḿnh, bởi v́ Bồ Tát hiểu rằng "lực lượng của người dẫn đạo là pháp nhẫn".
Bị nhục mạ nhưng không nhục mạ lại, bị đánh đập nhưng không đánh đập lại, bị làm phiền nhưng không gây phiền nhiễu ai, Bồ Tát một mực giữ đức khoan hồng. Tựa như đất mẹ trầm lặng, Bồ Tát âm thầm chịu đựng tất cả những lỗi lầm của kẻ khác.
Dịch Giả: Tuệ Uyển
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 567 of 1146: Đă gửi: 04 July 2010 lúc 3:17pm | Đă lưu IP
|
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 568 of 1146: Đă gửi: 04 July 2010 lúc 5:22pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHƠN QUẢ-NGHIỆP VÀ LUÂN HỒI
Mỗi tôn giáo đều có một giáo lư riêng, để giải thích sự sống. Giáo lư ấy có khi hoàn toàn dựa lên đức tín thuần túy, có khi dựa lên sự tưởng tượng hoang đường, có khi dựa lên ḷng ước mơ tha thiết của loài người.
Riêng về đạo Phật, giáo lư về sự sống đặt căn bản lên lư trí và thực nghiệm. Giáo lư ấy mệnh danh là Nhân quả Luân Hồi.
Luật Nhân quả không xa lạ ǵ đối với những ai có một chút nhân xét và suy luận; luật Nhân quả lại càng rất gần gũi với giới khoa học. Nhờ tin chắc ở luật nhân quả mà nhà khoa học khám phá ra biết bao nhiêu điều huyền bí của vũ trụ và phát minh được những cái kỳ lạ cho cơi đời, nhưng nhà khoa học chỉ áp dụng luật Nhân quả trong phạm vi vật chất. Đức Phật đi xa hơn, chứng minh luật Nhân quả cả trong phạm vi tinh thần.
Nhà khoa học chỉ áp dụng luật Nhân quả trong một khoảng thời gian nhất định. Đức Phật đi xa hơn, chứng minh rằng luật Nhân quả trong suốt thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai. Luật nhân quả chứng minh qua thời gian vô hạn định cà trong phạm vi tinh thần ấy, đức Phật gọi bằng một cái tên riêng là “luân hồi”. Nói một cách khác, Luân hồi là Nhân quả liên tục trong phạm vi tinh thần.
Đă tin Nhân quả tất nhiên không thể phủ nhận Luân hồi. V́ thế, ngày nay trên thế giới, không phải chỉ có tín đồ Phật giáo mới tin lư Nhân quả Luân hồi, mà các nhà thông thái Âu Mỹ cũng đă lănh nạp giáo lư ấy. Trong các báo chí và sách vở ở khắp năm châu, vấn đề Nhân quả Luân hồi đă được đem ra nghiên cứu một cách đứng đắn và chân thành.
Ở Việt Nam, vấn đề này không xa lạ ǵ với đọc giả, nhất là đối với đọc giả Phật tử, th́ lại càng quen thuộc. Tuy thế vấn đề Nhân quả Luân hồi, một vấn đề căn bản trong giáo lư nhà Phật, nói bao nhiêu cũng vẫn thấy c̣n bổ ích.
V́ nhận thấy sự quan trọng của vấn đề này, nên Thượng tọa THIỆN HOA đă soạn lại những bài giảng của Thượng tọa, sắp đặt lại thành hệ thống trong tập sách này và lấy nhan đề chung là: “Nhân quả Luân hồi”.
Đặc điểm của tập sách này là sự tŕnh bày rất sáng sủa, phổ thông và khoa học.
Với đặc điểm trên, chúng tôi tin chắc rằng tập sác nhỏ này sẽ ổn định được tinh thần những ai đang băn khoăn, thắc mắc về vấn đề sống chết, về ư nghĩa của cuộc đời, và sẽ gây thêm ḷng tin tưởng vững chắc cho hàng Phật tử và giúp họ thêm hăng hái trong việc tu hành để chóng thoát khỏi cảnh sanh tử luân hồi.
Với ḷng tin tưởng ấy, chúng tôi hân hạnh xin giới thiệu tập sách nhỏ này với toàn thể qúy vị đọc giả thân mến.
Kính.
NHÀ XUẤT BẢN HƯƠNG ĐẠO
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 569 of 1146: Đă gửi: 04 July 2010 lúc 5:23pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHƠN QUẢ-NGHIỆP VÀ LUÂN HỒI
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong cơi mung lung, vô cùng vô tận của trời đất, con người thật bé nhỏ, như một ḥn sỏi, như một hạt cát; trong cái vĩnh viễn không đầu không cuối của thời gian, con người xuất hiện và mất đi nhanh như ánh sáng chợt đỏ, chợt tắt của con đôm đốm, như ánh sáng của một làn chớp.
Nhưng khổ thay, con người bé nhỏ và chóng tan biến ấy lại mang trong đầu óc những câu hỏi quá to lớn: “Ta từ đâu đến đây? Ta đến đây để làm ǵ? Đến đây rồi ta sẽ chấm dứt cuộc hành tŕnh sau hơi thở cuối cùng ở đây, hay c̣n tiếp tục đi nữa? Đi đâu? Đi hay về?
Đi theo một con đường thẳng hay đường cong? Đi xuống hay đi lên?” Quá khứ đă không hay; tương lai cũng sẽ không biết, c̣n hiện tại th́ quá ngắn ngủi phù du!
Và than ôi! ngay trong cái hiện tại ngắn ngủi ấy, cũng đă chứa đựng không biết bao nhiêu sự bất công, vô lư:
-“Tại sao người ấy đẹp mà ta xấu? người kia giàu mà ta nghèo? người ấy sướng mà ta khổ? Tại sao có người chết yểu, có người sống lâu? có người thông minh có người ngu muội? có người hiển lương, có kẻ ác độc?
-“Tại sao và tại sao!” Bao nhiêu câu hỏi xoay tít trong đầu, như những cái chong chóng, gầm thét kêu gào, đ̣i hỏi, làm cho người ta điên đầu, lộn năo. Để chấm dứt sự hoành hành của những câu hỏi ấy, có người đă t́m cách chấm dứt đời ḿnh với thuộc độc; có người lẫn tránh trong thuốc phiện, trong rượu nồng dê béo, trong sóng mắt làn môi …
Đề cho khỏe năo, có người tự bảo mọi sự mọi vật đều do ư Trời sắp đặt; có người bảo là do một mănh lực tiền định, có người bảo là sự may rủi trớ trêu, không có nguyên do, luật lệ ǵ cả.
Nhưng những câu giải đáp gượng gạo trên, không làm thỏa măn được những tâm hồn thiết tha muốn t́m hiếu sự thật:
Bảo rằng do ư một vị Thần sắp đặt th́ ư vị thần ấy thật mâu thuẫn, phi lư, độc tài.
Xưa, đức Phật đă nói như sau đây, khi đề cập đến thần Brahma:
“Người đă chứng kiến bao sự đau khổ ở trước mắt, tại sao không làm cho chúng sanh được an vui? Nếu người ấy có nhiều thần lực, tại sao không dùng thần lực để cứu độ chúng sanh? Tại sao những con sanh của người ấy lại phải chịu lắm điều khố sở? Tại sao người ấy không ban phước lành đến cho con họ?
Tại sao những xảo quyệt giả dối mê lầm vẫn tồn tại măi măi? Tại sao gian xảo càng ngày càng tăng tiến, c̣n chân lư và công bằng lại phải lu mờ? Ta xem thần Brahma như một người vô cùng bất công đối với kẻ bị sanh ra trong thế giới đầy dẫy nhơ bẩn, xấu xa này”. (Kinh Bhucidatta Jataka).
Nếu bảo rằng mọi sự vật ở đời đều do một sức mạnh tiền định, chi phối tất cả, th́ thử hỏi sức mạnh ấy là sức mạnh ǵ? Của ai? Có sáng suốt hay mù quáng? Nếu không giải đáp được những câu hỏi phụ thuộc ấy, mà cử quyết đoán như thế, th́ thật là quá nông nổi.
C̣n nếu bảo rằng sự hiện hữu của cơi đời này, không do một nguyên nhân ǵ cả, th́ thật là vô cùng phi lư! v́ chúng ta hăy nh́n chung quanh ta, có một cái ǵ sanh ra mà không có nguyên nhân không?
Riêng nói về sanh mạng con người, có hai quan niệm thông thường, trái ngược nhau:
- Quan niệm chấp đoạn, cho rằng con người chỉ có một dời trong hiện tại, trong khoảng một trăm năm; đến khi nhắm mắt xuôi tay, thân thể tan ra tro bụi và kiến văn, tri giác cũng không c̣n ǵ hết. Chết là hết, là hoàn toàn mất hẳn.
- Quan niệm chấp thường, cho rằng linh hồn bất tử? sau khi chết, thân thể tan ră, nhưng linh hồn thường c̣n măi măi, sẽ lên cơi Thiên đường đề thọ hưởng vĩnh viễn những sự an vui khoái lạc (nếu trong đời hiện tại ăn ở hiên lương) hay sẽ bị đoạ xuống địa ngục chịu khổ măi măi (nếu trong đời hiện tại làm nhiều điều tội lỗi).
Hai quan niệm trên này đểu không đúng!
Chềt là một hẳn! Sao lại mất hẳn được? Hăy nh́n chung quanh ta có cái ǵ mất hẳn đâu? Một hạt cát, một máy lông c̣n không thề mất hẳn được, huống chi con người là một sinh vật có khả năng tri giác nhất trong chúng sanh?
Nhưng bảo rằng linh hồn là thường c̣n, ở măi trên thiên đường hay dưới địa ngục cũng không đúng. Sự nhận xét thông thường cho chúng ta thấy rằng, trong vũ trụ, không có một cái ǵ có thề vĩnh viễn và ở yên một chỗ, mọi sự vật đểu biến đời và xê dịch. Vả lại có ǵ bất công hơn là chỉ v́ những cái nhân đă gieo trong một đời hiện tại ngắn ngủi, mà phải chịu cái quả vĩnh viễn tốt hay xấu trong tương lai.
Cho nên những loại giải đáp nói trên, đều không thể đứng vững được trước ánh sáng lư luận.
Những vần đề trên này, giáo lư nhà Phật đă giải đáp một cách rơ ràng, khúc chiết, mạch lạc. Những lời giải đáp này không dựa vào oai lực của thần quyền, không dựa vào những tín điểu độc đoán, cũng không dựa vào trí tưởng tượng mơ hồ, mà bằng cứ vào những nhận xét xác đáng trong hiện cảnh những cái tai nghe mắt thấy, những điều cỏ thể chứng nghiệm được.
Đức Phật bao giờ cũng dựa trên thực tế để lập luận, v́ thế, mặc dù những lời dạy của Ngài đă nói ra trên hai ngàn năm trăm năm rồi, mà bây giờ vẫn c̣n đúng đắn và vô cùng giá trị; có đủ năng lực làm thỏa măn sự khát khao hiểu biết của những ai băn khoăn đi t́m chân lư và ư nghĩa của cuộc đời.
Trong tập sách nhỏ này, chúng tôi không có tham vọng giải đáp tất cả những vấn đề trọng đại, hàm chứa trong những chữ “siêu h́nh”, “vũ trụ quan”, “nhân sinh quan” v.v... chúng tôi chỉ xin tŕnh bày cái kiếp sống của con người, qua thời gian và không gian, những nguyên nhân và kết quả đă tạo cho mỗi người một hoàn cảnh giống nhau hay khác nhau; đồng thời chúng tôi sẽ giải đáp một số những thắc mắc có liên quan mật thiết đến kiếp người.
Trong khi tŕnh bày, chúng tôi sẽ giữ một thải độ hoàn toàn khách quan và nêu lên những bằng chứng cụ thể, có thể nhận xét được rơ ràng, chứ không dựa vào những tín điều độc đoán hay mượn uy lực của thần quyền đề bắt độc giả phải cúi đầu tin theo.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 570 of 1146: Đă gửi: 04 July 2010 lúc 5:24pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHƠN QUẢ-NGHIỆP VÀ LUÂN HỒI
LUẬT NHÂN QUẢ
(CHƯƠNG MỘT)
I. ĐỊNH NGHĨA
1. Luật:
Có người cho rằng đă gọi là luật th́ tất phải có một đấng Thiêng liêng nào, người nào, hay xă hội đặt ra. Quan niệm này có nghĩa hẹp ḥi và nông cạn. Luật ở đây là luật thiên nhiên, luật tự nhiên, nó bao trùm cả vũ trụ, vạn vật, chớ không nằm trong phạm vi của loài người, hay trong một xă hội nào.
Người ta có thể khám phá ra luật ấy, chứ không thể đặt ra luật ấy được. Đức Phật, mặc dù là một Đấng Giảc ngộ, cũng không đặt ra luật ấy, Ngài chỉ là người đă dùng trí huệ sáng suốt của ḿnh, để vạch cho mọi người thấy rơ ràng cái luật nhân quả đang điều hành trong vũ trụ mà thôi.
2. Nhân quả:
Nhân là nguyên nhân, Quả là kết quả. Nhân là cái hạt, Quả là cái trái do hạt ấy phát sinh. Nhân là năng lực phát động, Quả là sự thành h́nh của năng lực phát động ấy. Nhân quả là một định luật tất nhiên, có tương quan mật thiết với nhau và chi phối tất cả mọi sự mọi vật.
II. NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA LUẬT NHÂN QUẢ
1. Nhân quả là một định luật nằm trong lư nhân duyên:
Nhân quả là một định luật, mới ngó th́ rất giản dị, nhưng nếu càng đi sâu vào sự vật để nghiên cứu th́ lại càng thấy phức tạp, khó khăn. Trong vũ trụ mọi sự vật không phải đơn thuần tách rời từng món, mà có liên quan mật thiết với nhau, xoắn lấy nhau, đan lấy nhau ảnh hưởng lẫn nhau, tương phản nhau, thừa tiếp nhau.
Để nói đúng trạng thái chằng chịt giữa sự vật, đạo Phật thường dùng danh từ “Nhân duyên”, nghĩa là mọi sự, mọi vật có ra là nhờ duyên với nhau, nương vào nhau, hay tương phản nhau mà thành, chứ không có một cái nào đứng biệt lập được.
Trong sự phức tạp của sự vật ấy, t́m ra được cái nhân chánh của quả, hay cái quả chính của nhân, không phải là việc dễ. Do đó mà nhiều người không quen suy nghĩ t́m ṭi sâu xa, sanh ra nghi ngờ thuyết “Nhân quả”.
Thí dụ: hạt lúa có thể làm nhân cho những chẹn lúa vàng là quả trong mùa gặt sau, nếu người ta đem gieo nó xuống đất; nhưng nó cũng có thể làm cho người ta no bụng, biến thành máu thành thịt trong cơ thể và thành phân bón cho cây cỏ, nếu chúng ta đem nấu nó để mà ăn.
Như thế một nhân chính có thể thành ra quả này hay quả khác, nếu những nhân phụ khác nhau: muốn hạt lúa ở mùa này thành chẹn luá ở mùa sau, th́ phải có đất, có nước, có ánh sáng, có không khí, có thời gian, có nhân công; muốn nó thành máu huyết th́ phải nấu, phải ăn, phải có bộ máy tiêu hóa.
Cho nên, khi nói nhân quả là tách riêng sự vật ra khỏi cái chung cùng toàn thể của vũ trụ, lấy một khía cạnh nào đó, đề dễ quan sát, nghiên cứu, chứ muốn nói cho đúng th́ phải dùng hai chữ “Nhân Duyên”.
Cũng như một nhà khoa học, khi muốn nghiên cứu một bộ phận nào trong cơ thể, khu biệt, cắt xén bộ phận ấy ra khỏi cơ thể, để nghiên cứu cho dễ, chứ thật ra bộ phận ấy không phái biệt lập, mà trái lại có liên quan mật thiết đến toàn cả cơ thể.
2. Một nhân không thể sinh ra quả:
Như chúng ta đă thấy ở đoạn trên, sự vật trong vũ trụ này đều là sự tổ hợp của nhiều nhân duyên. Cho nên không có một nhân nào có thể tự tác thành kết quả được, nếu không có sự giúp đỡ của nhiều nhân khác.
Nói rằng hạt lúa sinh ra cây lúa, là nói một cách giản đị cho dễ hiểu, chứ thật ra hạt lúa không thể sinh ra ǵ được cả; nếu để nó một ḿnh giữa khoảng trống không, thiếu không khí, ánh sáng, đất, nước, nhân công.
Cho nên, khi nghe ai tuyên bố rằng mọi vật do một nhân sinh ra, hay một nhân có thể sinh ra vạn vật; ta có thể chắc chắn rằng người ấy nói sai.
3. Nhân thế nào th́ quả thế ấy:
Nếu ta muốn có quả cam th́ ta phải ương hạt giống cam; nếu ta muốn có hạt đậu th́ ta phải gieo giống đậu. Không bao giờ ta trong cam mà lại thấy đậu, hay trồng đậu mà lại được cam.
Người học đàn th́ biết đàn, người học chữ th́ biết chữ. Nói một cách khác nhân với quả bao giờ cũng đồng một loại với nhau. Hễ nhân đổi th́ quả cũng đổi. Nếu nhân đổi ít th́ quả cũng đổi ít, nếu nhân đổi nhiều th́ quả cũng đổi nhiều.
Quả c̣n tùy thuộc ở những duyên phụ, mà trong đạo Phật gọi là tăng thượng duyên hay trợ duyên. Thí dụ: Hạt lúa là nhân; đất, nước, không khí, ánh sáng, nhân công, là trợ duyên. Nếu trồng lúa mà thiếu nước th́ hạt lúa bị lép.
Khi chúng ta muốn có những trái cam thật to, chúng ta hăy ghép cái mụt cây cam vào gốc cây bưởi. Vậy cái kết quả tốt đẹp là những trái cam to lớn, nhiều nước ấy, không phải chỉ do cái mụt cam, mà c̣n do gốc bưởi nữa.
Cho nên khi chúng ta muốn có cái kết quả như thế nào đó, th́ phải hội cho đủ điểu kiện, nghĩa là cho đủ nhân duyên, th́ kết quả mới được như ư ta mong muốn.
Có nhiều người muốn được kết quả như thế này, nhưng lại không hội đủ nhân duyên như thế ấy, nên kết quả đă sai khác với ư mong muốn của ḿnh, và do đó, họ đâm ra nghi ngờ sự đúng đắn của luật “Nhân quả”.
4. Trong nhân có quả, trong quả có nhân:
Chính trong nhân hiện tại đă có hàm chứa cái quả vị lai; cũng chính trong quả hiện tại đă có h́nh bóng của nhân quá khứ. Một sự vật mà ta gọi là nhân, là khi nó chưa biến chuyển, h́nh thành ra cái quả mà ta quan niệm; một sự vật mà ta gọi là quả là khi nó biến chuyển h́nh thành ra trạng thái mà ta đă quan niệm.
Một vật đều có nhân và quả: đối với quá khứ th́ nó là quả, nhưng đối với tương lai th́ nó là nhân. Nhân và quả đáp đổi nhau, tiếp nối nhau không bao giờ dứt. Nhờ sự liên tục ấy, mà trong một hoàn cảnh nào, người ta cũng có thể đoán biết quá khứ và tương lai của một sự vật hay một người.
Trong kinh thường nói: “Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị; yếu tri hậu thế quả, kim sanh tác giả thị” (muốn biết cái nhân đời trước, th́ cứ xem quả đời nay đương thọ; muốn biết cái quả về sau thế nào th́ cứ xét cái nhân đang tác động trong hiện tại).
Cũng như thấy trong kho lẫm, năm nay có chứa lúa (quả) th́ biết năm vừa qua có làm ruộng (nhân). C̣n muốn biết sang năm trong lẫm có lúa không (quả) th́ cứ xem năm nay có làm ruộng hay không (nhân) (trừ trường hợp bỏ tiền ra mua lúa non, th́ không kể).
5. Sự phát triển mau và chậm từ nhân đến quả:
Sự biến chuyền từ nhân đến quả có khi mau khi chậm, chứ không phải bao giở cũng diễn tiến trong một thời gian đồng đều.
Có những nhân và quả xảy ra kế tiếp nhau, theo liền nhau, nhân vừa phát khởi th́ quả đă xuất hiện. Như khi ta vừa đánh xuống mặt trống (nhân) th́ tiếng trống liền phát ra (quả), hay khi hai luồng điện âm và dương vừa gặp nhau, th́ ánh sáng liền bừng lên.
Có khi nhân đă gây rồi, nhưng phải đợi một thời gian, quả mới h́nh thành, như từ khi gieo hạt giống cho đến lúc gặt lúa, cần phải có một thời gian ít nhất là bốn tháng.
Có khi từ nhân đến quả cách nhau từng chục năm, như đứa bé mới cắp sách đi học cho đến ngày thành tài, phải qua một thời gian ít nhất là mười năm.
Có khi cần đến một vài trăm năm, hay nhiều hơn nữa, quả mới xuất hiện, chẳng hạn như từ ư niệm dành độc lập của một quốc gia đến khi thực hiện được nền độc lập ấy, cần phải trải qua bao thế kỷ.
V́ lư do mau chậm trong sự phát hiện của các quả, chúng ta không nên nóng nảy hấp tấp mà cho rằng cái luật nhân quả khônghoàn toàn đúng, khi thấy có những cái nhân chưa phát sinh ra quả.
III. PHÂN TÍCH HÀNH TƯỚNG CỦA NHÂN QUẢ TRONG THỰC TẾ
Như các đoạn trên đă nói, nhân quả chi phối tất cà vũ trụ vạn hữu, không có một vật ǵ, sự ǵ, động vật hay thực vật, vật chất hay tinh thần, thoát ra ngoài luật nhân quả được.
Đến đây, để có một quan niệm rơ ràng về luật nhân quả, chúng ta hăy tuần tự phân tách hành tướng của nhân quả trong các chủng loại nằm trong vũ trụ:
1. Nhân quả trong những vật vô tri vô giác:
Nước bi lửa đốt th́ nóng, bị gió thổi th́ thành sóng, bị lạnh th́ đông lại. Nắng lâu ngày th́ đại hạn, mưa nhiều th́ lụt, gió nhiều th́ sanh băo.
2. Nhân quả trong các loài thực vật:
Hạt cam th́ sanh cây cam, cây cam th́ sanh trái cam. Hạt ớt th́ sanh cây ớt, cây ớt th́ sanh trái ớt. Nói một cách tống quát: giống ngọt th́ sanh quả ngọt, giống chua th́ sanh quả chua, giống đắng th́ sanh quả đắng, giống nào th́ sanh quả ấy.
3. Nhân quả trong các loài động vật:
Loài chim sanh trứng; nếu ta gọi trứng là nhân, khi ấp nó thành con là quả; con chim ấy trở lại làm nhân, sanh ra trứng là quả.
Loài thú sanh con, con ấy là quả. Con thú lớn lên trở lại làm nhân, sanh ra con là quả.
4. Nhân quả nơi con người:
a. Về phương diện vật chất: Thân tứ đại là do hấp thụ khí huyết của cha mẹ, và do hoàn cảnh nuôi dưỡng. Vậy cha mẹ và hoàn cảnh là nhân, người con trưởng thành là quả và cứ tiếp nối vậy măi, nhân sanh quả, quả sanh nhân không bao giờ dứt.
b. Về phương diện tinh thần: Những tư tường và hành vi trong quá khứ tạo cho ta những tánh t́nh tốt hay xấu, một nếp sống tinh thần trong hiện tại; tư tưởng và hành động quá khứ là nhân, tánh t́nh, nếp sống tinh thần trong hiện tại là quả. Tánh t́nh và nếp sống này làm nhân để tạo ra những tư tưởng và hành động trong tương lai là quả.
Phương diện tinh thần này, hay nói theo danh từ nhà Phật, phương diện nội tâm, là phần quan trọng. Vậy chúng ta phải đặc biệt chú ư đến hành tướng của nó.
i. Nhân quả của tư tưởng và hành vi không tốt:
a. Tham: Thấy tiền của người nổi ḷng tham lam, sanh ra trộm cắp, hoặc giết hại người là nhân; bị chủ đánh đập hoặc chém giết, phải mang tàn tật, hay bị nhà chức trách bắt giam trong khám đường, chịu những điều tra tấn đau khổ là quả.
b. Sân: Người quá nóng giận đánh đập vợ con phá hại nhà cửa, chém giết người không gớm tay là nhân; khi hết giận, đau đớn nh́n thấy vợ con bịnh hoạn, nhà cửa tiêu tan, luật pháp trừng trị phải chịu nhiều điều khổ cực, là quả.
c. Si mê: Người say mê sắc dục, liễu ngơ hoa tường không c̣n biết sự hay dở, phải trái, đó là nhân. Làm cho gia đ́nh lủng củng, thân thể suy nhược, trí tuệ u ám, là quả.
d. Nghi ngờ: Suốt đời cứ nghi ngờ việc này đến việc khác, ai nói ǵ cũng không tin, ai làm ǵ cũng không theo đó là nhân. Kết cuộc không làm nên được việc ǵ cả, đến khi lâm chung, buông xuôi hai bàn tay trắng, đó là quả.
đ. Kiêu mạn: Tự cho ḿnh là hơn cả, khinh bỉ mọi người, chà đạp nhân phẩm người chung quanh, là nhân; bị người ghét bỏ, xa lánh, sống một đời lẻ loi, cô độc là quả.
e. Nghiện rượu trà: Chung nhau tiền bạc ăn nhậu cho thỏa thuê là nhân, đến lúc say sưa, chén bát ngổn ngang, ghế bàn nghiêng ngă, nhiều khi rầy rà chém giết nhau, làm nhiều điều tội lỗi, phải bị phạt vạ và tù tội là quả.
g. Say mê cờ bạc: Thấy tiền bạc của người muốn hốt về ḿnh, đắm đuối quanh năm suốt tháng theo con bài lá bạc, là nhân; đến lúc của hết, nhà tan, nợ nần vây kéo, thiếu trước hụt sau, là quả.
ii. Nhân quả của tư tưởng và hành vi tốt:
Như trên chúng ta đă thấy, những tư tưởng hành vi xấu xa, tạo cho con người những hậu quả đen tối, nhục nhă, khd như thế nào, th́ những tư tưởng và hành vi đẹp đẽ tạo cho con người những hậu quả sáng lạn, vinh quang và an vui cũng như thế ấy.
Người không có tánh tham lam, bỏn xẻn th́ tất không bị tiền của trói buộc, tất được thảnh thơi. Người không nóng giận, tất được sống trong cảnh hiền ḥa, gia đ́nh êm ấm.
Người không si mê theo sắc dục, tất được gia đ́nh kính nể, vợ con quí chuộng, trí tuệ sáng suốt, thân thể tráng kiện, người không hay ngờ vực, có đức tin, th́ hăng hái trong công việc, được người chung quanh tin cậy và dễ thành tựu trong đường đời
Người không kiêu ngạo th́ được bạn bè quí chuộng, niềm nỡ tiếp đón, tận tâm giúp đỡ khi ḿnh gặp tai biến. Người không rượu chè, cờ bạc th́ không đến nỗi túng thiếu, bà con quen biết kính nể yêu v́ ...
Những điều trên này, tưởng không cần phải nói nhiều, quí độc giả cũng thừa biết. Hằng ngày, quanh chúng ta, những cảnh tượng nhân và quả ấy diễn ra không ngớt. Mở một tờ báo hằng ngày ra, chúng ta thấy ngay những bài học nhân quả: trước vành móng ngựa kẻ này bị hai năm tù v́ tội ăn trộm; kẻ kia giết người cướp của bị lên máy chém; kẻ nọ say mê cờ bạc thụt két bị tịch biên gia sản; cô kia ngoại t́nh bị chồng chém v.v...
Nói một cách tổng quát, về phương diện vật chất cũng như tinh thần, người ta gieo thứ ǵ th́ gặt thứ ấy. Người Pháp có câu: “Mỗi người là con đẻ của công nghiệp ḿnh” (chacun est le fils de son oeuvre).
IV. LỢI ÍCH DO SỰ HIỂU BIẾT LUẬT NHÂN QUẢ ĐEM LẠI CHO CHÚNG TA
Khi chúng ta đă biết rơ luật Nhân quả, nhưng nếu chúng ta không đem nó ra ứng dụng trong đời sống của chúng ta, th́ sự hiểu biết ấy trở thành vô ích.
Cho nên chúng ta đă hiểu rơ luật nhân quả th́ phải cố gắng thật hành cho được bài học ấy trong mọi trường hợp. Nếu chúng ta biết đem luật nhân quả làm một phương châm hành động và suy luận, th́ chúng ta sẽ thuộc lượm được rất nhiều lợi ích:
1. Luật nhân quả tránh cho ta những mê tín dị đoan, những tin tưởng sai lầm vào thần quyền:
Luật nhân quả cho chúng ta thấy được thực trạng của sự vật, không có ǵ là mơ hồ, bí hiểm. Nó vén lên tất cả những cái màn đen tối, phĩnh phờ của mê tín, dị đoan đang bao trùm sự vật.
Nó cũng phủ nhận luôn cái thuyết chủ trương vav do một vị Thần sinh ra và có uy quyền thưởng phạt muôn loài. Do đó, người hiểu rơ luật nhân quả sẽ không đặt sai ḷng tin tưởng của ḿnh, sẽ không cầu xin một cách vô ích, không ỷ lại thần quyền, không lo sợ, hoang mang.
2. Luật nhân quả đem lại ḷng tin tưởng vào chính con người:
Khi đă biết cuộc đời là do nghiệp nhân của chính ḿnh tạo ra, ḿnh là người thợ tự xây dựng đời ḿnh, ḿnh là kẻ sáng tạo, mà không tin tưởng ở ḿnh th́ c̣n tin tưởng ở ai nữa?
Ḷng tự tin ấy là một sức mạnh vô cùng quí báu, làm cho con người dám hoạt động, dám hy sinh, hăng hái làm điều tốt, v́ những hành động tốt đẹp ấy, ho biết sẽ là những cái nhân quí báu đem lại những kết quả đẹp đẽ.
3. Luật nhân quả làm cho chúng ta không chán nản, không trách móc:
Người hay chán nản, hay trách móc, là v́ đă đặt sai ḷng tin của ḿnh, là v́ đă có thói quen ỷ lại ở kẻ khác, là v́ đă hướng ngoại.
Nhưng khi đă biết ḿnh là động lực chính, là nguyên nhân chính của mọi thất bại hay thành công, th́ c̣n chán nản trách móc ai nữa?
Đă biết ḿnh là quan trọng như thế chỉ c̣n lo tự sửa ḿnh, lo thôi gieo nhân xấu để khỏi phải gặt quả xấu, thôi tạo giống ác để khỏi mang quả ác.
V. MỘT THÁI ĐỘ CẦN THIẾT TRONG KHI ÁP DỤNG LUẬT NHÂN QUẢ: NGHĨ ĐẾN QUẢ TRƯỚC KHI GÂY NHÂN
Chúng ta đă thấy rơ những ích lợi do sự hiểu biết luật nhân quả đem lại cho mỗi chúng ta. Đến đây chúng tôi muốn dành riêng một đoạn, để nhấn mạnh vào một điểm vô cùng quan trọng, mà nếu chúng ta biết triệt để khai thác trong khi áp dụng luật nhân quả, th́ lợi ích sẽ vô cùng rộng lớn.
Đó là trong mọi hành động của chúng ta, bao giờ cũng nên nghĩ đến quả, mà trồng nhân. Những người không nghĩ đến quả mà cứ gieo nhân bừa băi, th́ thế nào cũng gặt nhiều tai họa, gây tạo cho ḿnh nbh điều phiền phức, có khi làm ung độc cả cuộc đời, cả sự sống.
Chỉ có những người nông nỗi, liều lĩnh mới không nghĩ đến ngày mai, mới sống qua ngày. Chứ những người sáng suốt làm việc có kế hoạch khôn ngoan, th́ bao giờ cũng nhắm cái đích, rồi mới đi tới, h́nh dung rơ ràng cái quả rồi mới trồng nhân.
Câu chuyện sau đây có thể chứng minh một cách hùng hồn ư nghĩa nói trên:
Xưa có một vị Hiền giả nêu ở giữa chợ một tấm bảng như sau:
“Ai chịu trả một ngàn lượng vàng,
Tôi sẽ bán cho một bài học”.
Tấm bảng treo đă nhiều ngày mà không ai thèm hỏi đến. Một hôm, một vị vua, nhân đi dạo chơi ngang qua chợ, trông thấy, động tánh hiếu kỳ, mới đến chỗ Hiền giả, lấy một ngàn lượng vàng, hỏi mua bài học ấy.
Sau khi nhận đủ số vàng, nhà Hiền triết đưa bài học ra. Bài học vỏn vẹn chỉ có một câu giản dị như sau:
“Phàm làm việc ǵ, trước phải xét kết quả của nó về sau”.
Các quan tùy tùng thấy vậy xầm x́ với nhau:
“Nhà vua bị gạt! Một câu nói như thế, có hay ho ǵ đâu mà phải mua đến một ngàn lượng vàng?”
Trong lúc đó, nhà vua cũng phân vân, không hiểu bài học giản dị ấy, tại sao lại đắt giá đến thế?
Khi về cung, nhà vua cứ suy nghĩ măi về câu nói ấy. Trong lúc ấy như mọi đêm khác, trong cung đều có mở yến tiệc linh đ́nh, cung phi mỹ nữ ca hát suốt đêm, để nhà vua mặc t́nh vui chơi với tửu sắc. Nhưng hôm nay, v́ bị bài học của nhà Hiền triết ám ảnh, bắt vua suy nghĩ:
“Nếu ta say mê tửu sắc măi như thế này, th́ kết quả sẽ ra sao? Thân thể sẽ suy nhược tinh thần tiều tụy và mau chết, việc triều đ́nh phế bỏ, rồi sẽ đi đến chỗ mất nước, dân chúng trở thành nô lệ cho ngoại bang, đời đời nhục nhă và khổ đau! ...”
Nhận thấy rơ cái kết quả xấu xa nghuy hiểm của tửu sắc như thế, vua liền truyền lịnh dẹp ngay yến tiệc, ca hát, và bắt đầu từ đó vua lo chỉnh đốn lại nước nhà, sửa sang binh bị ...
Hai năm sau, một nước láng giềng đem binh đến cướp nước, nhà vua nhờ sớm giác ngộ, lo xây dựng cho nước được hùng cường, nên đă đuổi lưi được quân giặc. Bấy giờ nhà vua mới tự bảo:
“Bài học của nhà Hiền triết quư giá lắm! Một ngàn lượng vàng c̣n rẻ”.
Nhà vua bèn ra lịnh chép bài học ấy, dán khắp tất cả mọi nơi, cho đến mâm cơm, chén nước cũng truyền khắc vào.
Một hôm có người trong hoàng thân muốn tiếm đoạt ngôi vua, nên thuê quan Ngự y một số tiền lớn để thừa lúc vua đau, tráo dâng thuốc độc. Lănh tiền xong, quan Ngự y sau khi chế thuốc độc xong, lén rót vào chén, định dâng lên vua uống, nhưng khi nh́n thấy mấy chữ khắc trong chén:
“Phàm làm việc ǵ, trước phải xét kết quả của nó về sau”.
Quan Ngự y sực tỉnh và suy nghĩ: “Tội thí vua này, nếu bị phát giác ra, sẽ bị tru di tam tộc, chứ không phải tầm thường”.
Quan Ngự y sau khi xét kết quả việc làm của ḿnh gớm ghê như thế, nên đă đổ chén thuốc và thú tội với nhà vua. Nhà vua thấy quan Ngự y đă biết ăn năn hối cải như thế, nên rộng ḷng ân xá và c̣n ban cho một số tiền bạc to tát nữa.
Nhờ bài học này, nước nhà khỏi mất, dân tộc khỏi làm nô lệ cho ngoại bang, nhà vua khỏi chết, nên vua cho bài học này là vật báu vô giá.
Vậy chúng ta cũng nên đem bài học này áp dụng vào mọi công việc hằng ngày của chúng ta. Khi chúng ta ham mê cờ bạc, nên nhớ cái kết quả của nó sẽ là vong gia bại sản, thiếu trước hụt sau, nợ nần đ̣i hỏi.
Khi lăm le muốn gần tửu sắc, hăy xét đến kết quả của nó sẽ làm thân thể hao ṃn, đa mang tật bệnh, danh giá chôn vùi.
Khi nóng giận muốn làm hại người, nên xét cái kết quả của nó về sau là “oan oan tương báo”, hại người tất sẽ bị người hại lại. Khi móng niệm tham lam tiền bạc của cải của người, nên xét kết quả về sau là tù tội gông xiềng v.v...
Tóm lại, nếu chúng ta biết đem bài học nhân quả này mà áp dụng trong tất cả mọi công việc làm hằng ngày của đời ḿnh, th́ chúng ta sẽ thấy tánh t́nh và hành vi của chúng ta mỗi ngày cải tiến, các việc sái quấy sẽ giảm bớt, và từ địa vị người vượt lên địa vị thánh, hiền, không phải là điều không làm được.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 571 of 1146: Đă gửi: 04 July 2010 lúc 5:26pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHƠN QUẢ-NGHIỆP VÀ LUÂN HỒI
NGHIỆP
(CHƯƠNG HAI)
Ngày xưa có một gă thanh niên, uất ức trước trạng huống bất công giữa loài người, muốn t́m cho ra chân lư, nên đă đến hỏi Phật:
- Bạch đức Thế Tôn, đâu là nguyên nhân, là nguồn gốc của sự bất công giữa chúng sinh? Tại sao có kẻ chết yểu, có người sống lâu, có kẻ khỏe mạnh, có người tàn tật, có người đẹp đẽ, có kẻ cô độc, có người đông con, có kẻ nghèo khó, có người giàu sang, có kẻ sanh trong gia đ́nh đê tiện, có người sanh trong ḍng dơi quí phái, có kẻ ngu muội, có người khôn ngoan?
Đúc Phật đă trả lời vắn tắt, nhưng đầy ư nghĩa như sau:
- Mỗi chúng sinh đều có những hành vi riêng; những hành vi ấy làm món quà gia bảo, làm vật di truyền, làm người bạn chí thân, làm chỗ nương tựa của họ. Chính những hành vi ấy là cái nghiệp đă làm cho chúng sinh khn trong cảnh trạng dị đồng này.
Kinh Atthasâlissi lại dạy rơ hơn:
“ Do nơi sự khác nhau trong nghiệp mà có những sự khác nhau trong chúng sinh, kẻ sanh ra trong gia đ́nh quyền quư, người sanh ra trong gia đ́nh đê tiện, kẻ sanh ra trong sự nguyền rủa, người sanh ra trong sự tôn trọng, kẻ sanh ra được hưởng hp, người sanh ra phải chịu khổ sở”.
Như vậy th́ mọi việc xảy ra cho mọi người là do nghiệp cả. Nhưng nghiệp là cái ǵ mà quan trọng đến thế?
I. ĐỊNH NGHĨA
Chữ nghiệp là do dịch nghĩa chữ Kamma trong tiếng Pali ra. Dịch âm là Kiết ma. Nghiệp nghĩa là hành động, việc làm của thân, khẩu, ư. Khi chúng ta nghĩ một điều ǵ, nói một câu ǵ, làm một việc ǵ, lành hay dữ, xấu hay tốt, nhỏ nhặt hay to lớn, mà có ư thức, đều gọi là nghiệp.
Những việc làm vô ư thức không phải là nghiệp. Đức Phật dạy: “Này các thầy Tỳ kheo, Như Lai nói rằng tác ư là nghiệp”. Tác ư bắt nguồn sâu xa trong vô minh và ái dục, c̣n vô minh, c̣n ái dục, c̣n ham muốn, th́ mọi hành động, lời nói, tư tưởng đều là nghiệp.
II. SỰ H̀NH THÀNH CỦA NGHIỆP
Trong đoạn nói về luật Nhân quả, chúng ta đă thấy về phương diện vật chất cũng như tinh thần, hễ có nhân th́ thế nào cũng có quả, và quả lại làm nhân để tạo thành quả khác. Nhân quả đấp đổi cho nhau và tiếp nối măi không dứt.
Trong phạm vi con người khi mới tạo ra hành động nào bất luận bằng thân, khẩu, hay ư th́ hành động ấy gọi là nghiệp nhân. Vang bóng ảnh hưởng của nghiệp nhân ấy, được gieo vào trong ruộng tiềm thức, và trưởng thành dần.
Khi nó có đủ cơ duyên, vang bóng, ảnh hưởng ấy kết thành quả (nghĩa là phát lộ ra bằng hành động thân, khẩu, ư khác), th́ gọi là nghiệp quả. Vang bóng ảnh hưởng của nghiệp quả này, được gieo vào tiềm thức để làm nghiệp nhân cho nghiệp quả về sau.
Ruộng tiềm thức chất chứa, nuôi dưỡng tất cả những hạt nhân và quả ấy, và trở thành ruộng thiện, nếu những nghiệp nhân và quả của người hành động đều thiện; trở thành ruộng ác, nếu nghiệp nhân và quả của người ấy đều ác; hay trở thành ruộng nửa thiện nửa ác, nếu những nghiệp nhân và quả của người ấy có thiện có ác.
Cũng như khi chúng ta dùng một thửa ruộng để trồng đậu th́ chúng ta có một đám ruộng toàn đậu; khi ta trồng bắp th́ ta có một thửa ruộng bắp; c̣n nếu chúng ta vừa trồng cả đậu lẫn bắp th́ ta có đám ruộng bắp đậu lẫn lộn.
Một thí dụ khác: Mỗi nhà họa sĩ đều có một tấm gỗ để thử màu, trộn màu. Mỗi khi tô màu ǵ lên bức tranh, th́ họa sĩ lấy màu để trộn hay thử trước trên tấm gỗ ấy.
Nếu họa sĩ có một tánh t́nh nồng nhiệt thích màu đỏ nhiều hơn các màu khác, th́ tấm gỗ ấy lâu ngày trở thành màu đỏ, nếu họa sĩ có tánh t́nh hiền dịu, thích màu xanh hơn các màu khác, th́ tấm gỗ ấy, nổi bật lên màu xanh.
Những bức tranh th́ họa sĩ đă bán cho người khác, nhưng tấm gỗ th́ luôn luôn c̣n lại bên ḿnh họa sĩ và khi chỉ nh́n vào tấm gỗ ấy, người ta có thể đoán biết họa sĩ đă vẽ trong những bức tranh màu ǵ.
Cũng như hành động, lời nói tư tưởng của ta đă tản mát trong không gian tan biến trong thời gian, mà ảnh hưởng, vang bóng của chúng c̣n lại trong tiềm thức, tạo cho ta một cá tính riêng biệt hoặc hiền hoặc dữ, hoặc siêng hoặc nhác ...
Và khi nhận thấy cá tính của ta, người tinh ư có thể đoán biết được đại khái tánh cách những hành động của ta trong quá khứ, cũng như trong tương lai.
Ông Lương Khải Siêu, một học giả Trung Quốc, khi bàn về cái nghiệp, có làm một thí dụ rất có ư nghĩa như sau:
“H́nh tướng cứu cánh của nghiệp lực là thế nào? Quí vị không nghe câu chuyện những nhà uống trà chuyên môn sao? Cái b́nh trà càng cũ càng ngon, nếu cái b́nh trà ấy xưa nay vẫn chế trà ngon.
V́ sao vậy? Là v́ mỗi khi pha trà th́ trong b́nh trà có một sự thay đổi, tuy mỗi khi uống xong, b́nh súc sạch sẽ chẳng c̣n thấy ǵ, nhưng thật ra có một phần chất trà thấm vào b́nh, lần thứ hai bỏ trà mới vào, chất trà lần trước đă thấm vào b́nh lại tác dụng ra làm cho trà mới ngon hơn, cứ thế lần thứ ba, thứ tư cho đến trăm ngàn lần, lần nào chất trà cũ cũng tác dụng ra, chất trà mới thấm thêm vào càng lâu càng nhiều.
Lúc bấy giờ, không cần bỏ trà, chỉ chế nước sôi, (chẳng qua 1 lần) cũng vẫn có mùi vị uống được. Dùng nha phiến cũng thế, người nghiện thích dùng dọc tẩu cũ là v́ đă thấm thuốc nhiều. Chất trà thấm vào b́nh, chất thuốc thấm trong dọc tẩu, theo danh từ Phật giáo có thể gọi nó là trà nghiệp, yên nghiệp.
Tuy nhiên đem thí dụ như thế không được hoàn toàn đúng là v́ một đằng thuốc phiện, trà là vô sanh mạng, một đằng người có sanh mạng; dù sao đứng về phương diện h́nh tướng của nghiệp, cũng tương tợ được vài phần (lược khảo Phật giáo Ấn Độ, bản dịch của Thích Nguyên Hồng).
III. SỨC MẠNH VÀ SỰ TỒN TẠI CỦA NGHIỆP
Nghiệp lực không có h́nh tướng, không ai có thể trông thấy được, nhưng nó có một tác dụng vô cùng mănh liệt.
Như điện lực, tuy không trông thấy được h́nh dáng ở đâu và như thế nào, nhưng khi đă đủ điều kiện th́ nó phát sinh ra nào ánh sáng, nào sức nóng, nào hơi lạnh, nào sức mạnh v.v... nghiệp lực thúc đẩy người này thích hoàn cảnh này, người kia thích hoàn cảnh khác.
Nó là ṇng cốt của mọi tưu tưởng lời nói, mọi việc làm. Chúng ta thường thấy có những người quen thói đánh bạc, nhiều lần thua lỗ, vợ con khóc lóc, bạn bà khuyên bảo, đă quyết tâm xa con bài lá bạc nhiều lần, thế mà mỗi khi làm ǵ, cũng không quên được ṣng bạc, đi đâu rồi cũng nhắm hướng như Kim chung, Đại thế giới mà đến!
Người ta bảo rằng người ấy có nghiệp đánh bạc. Những người nghiện thuốc phiện, rưọu, gái cũng có cái nghiệp riêng của họ cả. Càng đi sâu vào một con đường nào, th́ cái nghiệp do con đường ấy huân tập càng nặng nề, mănh liệt chừng nấy.
Nghiệp không phải chỉ có sức mạnh mà c̣n tồn tại dai dẳng, không bao giờ chấm dứt, nếu chưa giác ngộ. Điều này cũng rất dễ hiểu:
Có nghiệp nhân th́ tất có nghiệp quả, nghiệp quả khi đă phát hiện th́ lại làm nhân cho nghiệp quả sau, cứ xoay vần như thế măi, như một bánh xe lăn xuống dốc, sức đẩy của ṿng thứ nhất làm nhân cho ṿng lăn thứ hai, sức đẩy của ṿng lăn thứ hai làm nhân cho ṿng lăn thứ ba, và cứ tiếp tục như thế măi cho đến bao giờ hết dốc mới dừng nghỉ.
Nghiệp cũng nằm trong luật nhân quả và bị chi phối của luật nhân quả. Trong chương một, chúng ta đă biết thời gian từ khi nhân phát sinh đến khi quả h́nh thành, có khi nhanh, khi chậm, th́ thời gian từ nghiệp nhân đến nghiệp quả cũng có khi mau khi chậm, có khi chỉ trong một đời, cũng có khi hai đời, có khi nhiều đời.
Nhưng dù chậm hay mau, đă gây nghiệp th́ thế nào cũng chịu quả báo. Khế kinh có dạy: “giả sử trăm ngh́n kiếp, nghiệp nhân đă làm cũng không mất, khi nhân duyên hội ngộ, th́ quả báo đến”.
IV. CÁC LOẠI NGHIỆP
Đứng về phương diện thời gian, kinh “Nhân quả” có chia các nghiệp như sau:
1. Thuận hiện nghiệp: Đời nay tạo nghiệp, đời sau thọ quả.
2. Thuận sinh nghiệp: Đời nay tạo nghiệp, đời sau chịu quả.
3. Thuận hậu nghiệp: Đời nay tạo nghiệp, cách mấy đời sau mới chịu quả.
4. Thuận bát định nghiệp: Nghiệp quả xảy đến không nhất định thời nào, có khi trong đời này, có khi đời sau, có khi nhiều đời sau.
Đứng về phương tiện tính chất, trong các kinh thường phân loại các nghiệp như sau:
i. Tích lũy nghiệp: Là những nghiệp tạo tác trong nhiều đời trước chất chứa lại.
ii. Tập quán nghiệp: Là những nghiệp tạo trong đời hiện tại, luôn luôn tiếp diễn, nên thành thói quen, thành tập quán, thành nếp sống riêng biệt.
iii. Cực trọng nghiệp: Là những nghiệp quan trọng có năng lực tác động mănh liệt hơn cả các nghiệp khác và chi phối tất cả. Nó phát hiện nghiệp quả ngay trong đời hiện tại, hay trong đời kế tiếp.
Nó có thể là kết quả của những hành vi tốt đẹp nhất như hành vi của kẻ tu hành chân chính, nó cũng có thể là kết quả của những hành vi xấu xa, vô đạo nhất như tội ngũ nghịch: giết cha, giết mẹ, giết A la hán, làm hại Phật và chia rẽ Tăng chúng.
iv. Cận tử nghiệp: Là những nghiệp lực gần lúc lâm chung, cũng rất mănh liệt và chi phối rất nhiều trong sự đi đầu thai.
Đứng về phương diện nặng nhẹ, lớn nhỏ của các nghiệp, th́ trong các kinh cũng chia chẻ một cách rất khoa học và hợp lư, Không phải rằng hành động nào có h́nh thức giống nhau th́ nghiệp nhân và nghiệp quả đều giống nhau.
Sự khinh trọng, lớn nhỏ của quả báo đều có căn cứ nơi ư để thành lập. Kinh Ưu bà tắc, trong khi nói về sự nặng, nhẹ, lớn nhỏ của nghiệp nhân và nghiệp quả, có phân chia làm bốn trường hợp:
a. Việc nặng mà ư nhẹ: như khi quăng đá để dọa người, mà lỡ tay giết phải người.
b. Việc nhẹ mà ư nặng: như khi thấy một tượng đá, tưởng là kẻ thù của ḿnh, nắm dao đến đâm, kết quả của việc làm v́ tượng đá bị sứt mẻ, nhưng ư th́ nặng là muốn giết người.
c. Việc và ư đều nhẹ: như v́ không thích một người nào, nên dùng lời để châm biếm người ấy.
d. Việc và ư đều nặng: như v́ thù, cố ư giết người và đă giết thật.
Cũng trong kinh Ưu bà tắc, có sự phân chia tội báo nặng nhẹ thành tám loại như sau:
a. Phương tiện nặng nhưng căn bản và thành dĩ nhẹ: như lấy dao dọa người, chẳng may động đến họ, họ bị thương. Phương tiện (cầm dao) th́ nặng, nhưng căn bản (dọa người, chứ không phải ác ư) th́ nhẹ và thành dĩ (bị thương) cũng nhẹ.
b. Căn bản nặng, nhưng phương tiện và thành dĩ nhẹ: như muốn giết người, nhưng chỉ lấy đá ném và v́ thế, họ chỉ bị thương thôi. Căn bản (muốn giết) th́ nặng, nhưng phương tiện (lấy đá ném) và thành dĩ (vết thương) đều nhẹ.
c. Thành dĩ nặng, nhưng căn bản và phương tiện nhẹ: như ném đá chơi, chẳng may vỡ sọ người ta. Thành dĩ (vỡ sọ) nặng mà căn bản (chơi) và phương tiện (ném đá) đều nhẹ.
d. Phương tiện và căn bản nặng, thành dĩ nhẹ: như muốn giết người, chém một nhát mạnh vào yết hầu, nhưng người ấy chỉ bị thương xoàng thôi. Phương tiện (cầm dao chém) và căn bản (muốn giết người) đều nặng, nhưng thành dĩ (vết thương xoàng) nhẹ.
e. Phương tiện và thành dĩ nặng, căn bản nhẹ: như vô ư để xe cán người chết. Phương tiện (xe cán) và thành dĩ (người chết) đều nặng, nhưng căn bản (vô ư) th́ nhẹ.
f. Căn bản và thành dĩ nặng, nhưng phương tiện nhẹ: như ác ư nói láo, đến nỗi kẻ kia phải bị tù tội. Căn bản (ác ư) và thành dĩ (tù tội) đều nặng, nhưng phương tiện (nói láo) th́ nhẹ.
g. Căn bản, thành dĩ và phương tiện đều nặng: Muốn giết người và đă dùng dao chém người đến chết. Căn bản (muốn giết người) thành dĩ (người chết) và phương tiện (chém) đều nặng.
h. Căn bản, thành dĩ và phương tiện đều nhẹ: như giả giết bằng cách quơ dao làm người kia sợ trong chốc lát. Căn bản (giả giết) thành dĩ (làm sợ hăi) và phát triển (quơ dao) đều nhẹ.
Sự phân chia rơ ràng trên đây đủ cho chúng ta thấy được sự sai khác nặng nhẹ của nghiệp nhân vá quả. Theo đó, chúng ta có thể kết luận rằng sự khinh trọng của nghiệp báo đều dựa căn bản ở ư.
Và như thế, chúng ta đừng lấy làm lạ tự hỏi tại sao hai người cùng làm một việc giống nhau mà thọ quả báo lại khác nhau, hành động giống nhau là bên ngoài, chứ tác ư ở bên trong làm sao chúng ta biết được? V́ thế, chúng ta không nên nh́n bên ngoài mà phê phán được.
V. KHÔNG NÊN LẦM TƯỞNG NGHIỆP LÀ HỒN
Có người nghĩ rằng nghiệp chi phối tất cả đời sống con người, nghiệp là chủ động, nghiệp tồn tại măi măi, th́ nghiệp chẳng khác ǵ linh hồn bất tử. Độc lập một quan niệm sai lầm.
Đạo Phật không bao giờ công nhận có linh hồn bất tử. Đạo Phật đă chủ trương mọi sự mọi vật, đều vô thường, th́ không lư nào lại công nhận có một linh hồn vĩnh viễn trựng tồn, bất biến.
Theo đạo Phật con người là một sự tổ hợp của năm nhóm (ngũ uẩn) vật chất và tinh thần: sắc (xác thân), và thọ, tưởng, hành, thức (tinh thần). Năm nhóm này biến đổi từng phút từng giây như một ḍng nước.
Khi mệnh chung, những nhóm ấy tan ră, nhưng kết quả của những hành động về thân, khẩu, ư của người ấy vẫn c̣n tác động. Cái c̣n lại đó là nghiệp. Cái nghiệp này chất chứa những ước vọng thầm kín, nhưng mănh liệt nhất của con người, là sự tham sống và sự luyến ái.
Nên biết một kẻ tự tử, cũng không phải là đă hết muốn sống. Họ không muốn sống cái đời họ đang sống nên họ muốn chấm dứt nó để sống một đời sống khác tốt đẹp hơn. Và như thế, động lực của sự tự tử vẫn là do ḷng tham sống mănh liệt hơn. Ḷng tham sống và ái dục là những nguyên nhân chính của những hành động của con người lúc sống, th́ khi chết, cái kết quả của những hành động ấy vẫn là ḷng tham sống và ái dục.
Do ḷng tham sống và ái dục ấy, nên khi lâm chung, nghiệp lực rời bỏ thân các này và đi t́m một thân xác khác gá vào để thỏa măn những ước vọng tham dục của ḿnh. Đó là nguyên nhân của kiếp sau.
Như thế, không cần có một linh hồn bất biến mới có đời sau. Sự nối tiếp từ đời này sang đời khác là do ở nghiệp cả. Nghiệp là động lực chính của ḍng sinh mạng nối tiếp từ kiếp này sang kiếp khác, cũng như gió là nguyên nhân làm cho sóng dậy và tiếp nối từ làn này sang làn khác.
Bao giờ c̣n gió nghiệp th́ c̣n sóng đời. Gió nghiệp dừng nghỉ th́ biển đời sẽ thanh tịnh. Và khi ấy sẽ không c̣n sống chết, đầy vơi ǵ cả.
VI. HÀNH TƯỚNG CỦA NGHIỆP LỰC TRONG KHI ĐI ĐẦU THAI
Sau khi một thân mạng đă trút hơi thở cuối cùng, nghiệp lực rời bỏ thân mạng ấy để đi t́m một thân mạng khác gá vào. Dắt dẫn bởi ái dục, nó đi t́m những cuộc giao phối giữa nam nữ. Nghiệp nhân quá khứ như thế nào th́ nó đi t́m hoàn cảnh thích hợp với nghiệp nhân như thế ấy. Hoàn cảnh ấy đạo Phật gọi là y báo. Y báo có thể sáng sủa hay tối tăm, an vui hay buồn thảm, thanh tịnh hay ô uế ... tùy sự lựa chọn thích hợp của nghiệp quá khứ.
Như luồng điện phát ra ở đài phát thanh ngắn hay dài, bao nhiêu thước tấc th́ nó sẽ t́m máy thu thanh vặn đúng thước tấc ấy để vào. Chỉ có khác là luồng điện có thể vào một lúc nhiều máy thu thanh, c̣n nghiệp lực th́ chỉ đi dầu thai ở một nơi mà thôi. Một cái thai đậu được phải đủ ba yếu tố: tinh trùng của cha, trứng của mẹ, thần thức và nghiệp lực.
Thiếu một trong ba yếu tố ấy, thai không thành, Khi thai dă thành là một đời mới bắt đầu. Nói là mới, nhưng thật ra cái đời sau này vẫn c̣n mang những mầm giống của nghiệp nhân quá khứ. Những nghiệp nhân này cứ tuần tự theo cới thời gian và tùy hoàn cảnh mà phát triển dần. Những nghiệp nhân nào v́ chưa đủ trợ duyên để phát hiện ra nghiệp quả trong đời này, th́ có thể phát sinh trong một đời sau nếu hội đủ nhân duyên.
Trên đây, chúng tôi chỉ nói riêng về cái hành tướng của nghiệp lực trong khi đi đầu thai ở cảnh giới người.
Nhưng một nghiệp lực không phải chỉ quanh quẩn trong cảnh giới người, mà có thể đi t́m một cảnh giới khác trong sáu cảnh giới mà đạo Phật thường nói đến, là: Thiên, Nhân, A tu la, Ngạ Quỷ, Súc sinh và Địa ngục.
Đến đây, chúng ta thấy mở ra trước mắt chúng ta một vấn đề rộng răi bao quát hơn. Đó là vấn đề luân hồi, mà chúng tôi xin tŕnh bày ở chương sau.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 572 of 1146: Đă gửi: 04 July 2010 lúc 5:27pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHƠN QUẢ-NGHIỆP VÀ LUÂN HỒI
LUÂN HỒI
(CHƯƠNG BA)
I. ĐỊNH NGHĨA
Luân hồi dịch ở tiếng Phạn là Samsara (lưu chuyển). Theo chữ Hán th́ luân là bánh xe, hồi là xoay tṛn. H́nh ảnh bánh xe quay tṛn là một h́nh ảnh rất rơ ràng mà Phật đă dùng để h́nh dung sự xoay chuyển lên xuống của chúng sinh trong sáu cơi (lục đạo) và sự tiếp nối sinh tử, tử sinh không cùng tận trong sáu cơi ấy.
Luân hồi hay Samsara là một danh từ, một h́nh ảnh do Phật đặt ra, nhưng cái nội dung của nó là một sự thật, một trạng thái có thật trong cơi đời, có thể chứng nghiệm được, chứ không phải là một lư thuyết xây dựng trong không tưởng.
Khi chúng ta đă chứng nghiệm được luật nhân quả trong vũ trụ, th́ chúng ta cũng phải công nhận sự luân hồi, luân hồi chẳng qua là nhân quả liên tục, nhưng v́ khi nó biến, khi hiện, khi lên, khi xuống, khi mất, khi c̣n, khi thay h́nh đổi dạng, nên chúng ta tưởng như gián đoạn và không ảnh hưởng chi phối lẫn nhau.
II. DẪN CHỨNG SỰ LUÂN HỒI TRONG MỌI SỰ VẬT
Trong vũ trụ, tất cả sự vật, từ vật nhỏ như hạt bụi, đến vật lớn như quả địa cầu, không vật nào chẳng luân hồi.
1. Đất luân hồi: Như cái b́nh bông đang ở trước mặt chúng ta đây, trước kia nó là đất, người thợ gốm đem nó nhồi nặn làm thành cái b́nh. Trải qua một thời gian, cái b́nh sẽ bị bể nát, tan thành cát bụi và trở về lại trạng thái đất cát. Đất cát này làm thức ăn cho cây cỏ, cây cỏ hoặc tàn lụi sau một thời gian để trở thành phân bón hay đất cát, hoặc làm thực phẩm cho động vật.
Động vật ăn cây cỏ này vào hoặc bài tiết ngay ra ngoài để thành phân, thành đất hoặc biến thành máu huyết da thịt, để một ngày kia thân thể động vật già yếu, sẽ tan ră thành đất cát lại. Bao nhiêu lần thay h́nh đổi dạng, v́ nhân duyên này hoặc nhân duyên khác, nhưng đất cát, nó cũng lại trở thành đất cát sau một thời gian, sau một ṿng luân chuyển dài hay ngắn.
2. Nước luân hồi: Nước ở biển bị sức nóng mặt trời bốc thành hơi, hơi bay lên không, gặp hơi lạnh biến thành mây, mây nhiều tụ lại rơi xuống thành mưa, mưa chảy xuống ao hồ, hoặc gặp hơi lạnh quá, đông lại thành băng thành giá.
Băng giá gặp hơi nóng mặt trời tan ra nước trở lại. Từ vô thỉ đến nay, nước thay đổi trạng thái biết bao nhiêu lần, xoay vần măi măi như vậy, nhưng nước vẫn là nước. Hiện tượng của nước th́ biến đổi vô cùng, nhưng bản thể của nước th́ không bao giờ mất. Nó chỉ luân hồi mà thôi.
3. Gió luân hồi: Gió là sự luân chuyển của không khí. Không khí bị sức nóng mặt trời bốc cháy, dăn ra, bốc lên cao làm thành những khoảng trống, để bù vào khoảng trống ấy, không khí ở các nơi khác chạy tới điền vào, gây thành luồng gió.
Không khí xê dịch chậm th́ gió nhỏ, không khí xê dịch nhanh th́ gió lớn, xê dịch nhanh nữa th́ thành băo. Gió có khi hiu hiu, khi thoang thoảng, khi hay hẩy, khi ào ào, khi cuồn cuộn, nhưng bản chất của nó bao giờ cũng là sự rung dộng của không khí.
4. Lửa luân hồi: Lửa là một sức nóng làm cháy được vật. Khi đủ nhân duyên th́ sức nóng phát ra lửa. Chẳng hạn hai thanh củi trong trạng thái b́nh thường th́ chúng ta chẳng thấy sức nóng ở đâu cả, nhưng khi chà xát vào nhau một hồi th́ lửa liền bật lên.
Ngọn lửa này có thể đốt cháy hai thanh củi này một phần hóa thành trong than, một phần biến thành thán khí. những cây khác dùng rễ ḿnh để thu hút tro than, và dùng lá để thu hút thán khí, chất chứa lại sức nóng để một ngày kia, gặp đủ nhân duyên lại bừng cháy lên.
Như thế sức nóng bao giờ cũng có sẵn, nhưng khi th́ nó ở trạng thái tiềm phục, khi th́ ở trạng thái hiện thành lửa. Mắt chúng ta chỉ thấy khi nó phát hiện và chỉ khi ấy mới cho là nó có, c̣n khi nó ở trạng thái tiềm phục th́ ta bảo là nó không có. Thật ra th́ nó chỉ luân hồi qua những trạng thái khác nhau, chứ không phải dứt đoạn hay mất hẳn.
5. Cảnh giới luân hồi: Trong kinh Phật thường chép: “Thế giới nhiều như cát sông Hằng”. Thật thế, ban đêm chúng ta nh́n lên trời, thấy hằng hà sa số tinh tú. Mỗi tinh tú là một thế giới, và mỗi thế giới ấy đều không thoát ra ngoài định luật chung là thành, trụ, hoại, không.
Mỗi phút giây nào cũng có những sự sanh diệt của thế giới. thế giới này tan đi, th́ một thế khác nhóm lên, như một làn sóng mất đi, th́ một làn sóng khác nổi lên, làm nhân quả, tiếp nối nhau, luân hồi không bao giờ dứt.
6. Thân người luân hồi: Thân người, hay thân thú vật cũng thế, xét cho cùng th́ cũng do tứ đại mà có là: đất, nước, gió, lửa. Những chất cứng dẻo như da, thịt, gân, xương là thuộc về đất; những chất đượm ướt như máu, mỡ, mồ hôi, nước mắt là thuộc về nước; hơi thở ra vào, trái tim nhảy, phổi hô hấp, tay chân cử động là thuộc về gió; hơi nóng trong người là thuộc về lửa.
Như trên chúng ta đă thấy, tứ đại đều luân hồi, th́ thân người do tứ đại mà có, cũng phải luân hồi theo. Khi thân này chết và đến lúc tan ră, th́ chất cứng dẻo trả về cho đất, chất đượm ướt trả về cho nước, hơi nóng trả về cho lửa, hơi thở và sự cử động trả về cho gió.
Rồi bốn chất này tùy theo nhân duyên chung hợp lại, làm thành cây cỏ hay thân người khác. Người đến khi chết, bốn chất đó cũng trở về bản thể củ của chúng. Khi thành thân người, lúc làm thân súc sinh, năm nay tụ họp ở đây, sang năm đă dời nơi khác, không phải thường c̣n, cũng không phải mất hẳn mà là luân hồi.
Nhà học giả có tiếng của Trung Quốc là ông Lương Khải Siêu trong khi nghiên cứu về Phật giáo Ấn Độ, ông có nói:
“... Con người luôn luôn, trong từng phút từng giây, đều ở trong luân hồi, bất quá hoặc mau hoặc chậm. Chậm th́ gọi là sanh diệt, hoặc biến dị, c̣n mau th́ gọi là luân hồi (luân hồi chẳng qua cũng là một h́nh thức trong các loại biến dị).
Xem như xác thân chúng ta, biến hóa không ngừng, không đầy một tuần cũng có thể hóa ra đất đai, bụi bặm bên đường”.
7. Tinh thần luân hồi: Con người không phải chỉ gồm có tứ đại. Ngoài tứ đại c̣n có phần tâm linh nữa, hay nói một cách tổng quát hơn, c̣n có tinh thần. Độc lập gồm tất cả những thứ mà đạo Phật gọi là: thọ, tưởng, hành, thức.
Phần thể xác gồm tứ đại chỉ là phần mà đạo Phật gọi là sắc. Sắc đă không tiêu diệt mà chỉ biến hóa luân hồi, th́ tâm hay tinh thần cũng không tiêu diệt mà chỉ biến chuyển, xoay vần mà thôi.
Như trong chương hai đă nói, tất cả những hành động của thân tâm tạo thành cho mỗi chúng ta một cái nghiệp. Cái nghiệp ấy biến dịch, xoay vần măi, khi đội lốt này, khi mang h́nh dáng khác, khi rời cảnh giới này, khi vào cảnh giới khác, quay lộn, trôi lăn trong lục đạo (sáu đường), măi măi cho đến ngày nào được giác ngộ mới thôi.
Những sự lên xuống, trôi lăn, xoay vần của nghiệp trong ba cơi, sáu đường ấy không phải t́nh cờ, ngẫu nhiên, may rủi, vô lư, mà trái lại, nó ch́u theo, khuôn theo một cái luật chung, đó là luật nhân quả.
Dưới đây chúng ta sẽ đề cập đến vấn đề ấy một cách rơ ràng hơn.
III. LUÂN HỒI THEO NHÂN QUẢ
Có thể nói một cách chắc chắn rằng, chúng ta lúc sinh tiền tạo nhân ǵ, th́ khi chết rồi, nghiệp lực dắt dẫn tinh thần đến chỗ đó thọ quả báo không sai. Nếu tạo nhân tốt, th́ luân hồi đến cảnh giới giàu sang, thân người tốt đẹp.
C̣n tạo nhân tội ác th́ luân hồi đến cảnh giới nghèo hèn, thân h́nh xấu xa, đen đúa, hoặc tàn tật, khi thăng khi giáng, lúc bỗng lúc trầm ...
Sanh ở một cảnh nào, không phải sẽ ở luôn cảnh giới ấy. Nhân có hạn th́ quả cũng có chừng, Như người nắm trái banh liệng lên hư không, khi trái banh đi hết cái sức của nó, tất sẽ rơi xuống đất lại.
Chúng sinh ở cơi trời, hay cơi súc sanh, địa ngục cũng thế, hễ nghiệp quả hết th́ nghiệp nhân bắt đầu trở lại. Trong khi hưởng quả tốt, nếu không gấp rút tiếp tục gây nhân lành th́ đời sau chắc sẽ không c̣n ở trong cảnh giới tốt đẹp nữa.
Cho nên vấn đề chính là phải luôn luôn cố gắng vượt lên ḿnh, nếu muốn ḿnh được vươn lên cao hơn cảnh giới hiện tại. Một điều mà chúng ta không bao giờ nên quên là: mỗi chúng sinh là một tay thợ tự xây dựng đời ḿnh trong quá khứ, hiện tại, và tương lai.
Dưới đây là những cảnh giới mà một chúng sinh có thể bị hay được nhập vào tùy theo nghiệp nhân mà ḿnh đă tạo.
NHÂN QUẢ LUÂN HỒI TRONG SÁU CƠI PHÀM
1. Địa ngục: Tạo nhân sân hận, độc ác làm nhiều điều tội lỗi vừa hại ḿnh vừa hại người, phải luân hồi vào địa ngục, chịu đủ điều khổ sở.
2. Ngạ quỉ: Tạo nhơn tham lam, bỏn xẻn, không biết bố thí giúp đỡ người. Trái lại, c̣n mưu sâu kế độc, để cướp đoạt của người, sau khi chết luân hồi làm ngạ quỉ.
3. Súc sinh: Tạo nhân si mê, sa đọa, theo thất t́nh lục dục, tửu, tài, sắc, khí, không xét hay dở, tốt xấu, chết trồi luân hồi làm súc sinh.
4. A tu la: Gặp việc nhân nghĩa th́ làm, gặp việc sái quấy cũng không tránh, vừa cang trực, mà cũng vừa độc ác. Mặc dù có làm những điều phước thiện, nhưng tánh t́nh hung hăng nóng nảy vẫn c̣n, lại thêm tà kiến, si mê, tin theo tà giáo. Tạo nhân như vậy, kết quả sẽ luân hồi làm A tu la, gặp vui sướng cũng có mà buồn khổ cũng nhiều.
5. Loài người:
a. Biết giữ ǵn ḷng nhân từ, không sát nhân hại vật, không làm những điều đau khổ cho người.
b. Không tham lam trộm cướp tiền của, từ vật lớn như ngọc, ngà, châu báu đến vật nhỏ như cây kim, sợi chỉ.
c. Không trêu hoa ghẹo nguyệt, dâm loạn vợ con, phá hoại gia cang của người.
d. Không nói lời dối trá, xảo quyệt, thêm bớt, đâm thọc, không nói lời cộc cằn, thô tục.
đ. Không rượu trà say sưa, không làm những điều lầm lỗi. Tu nhân ngũ giới như vậy, đời sau sẽ luân hồi trở lại làm người, cao quư hơn muôn vật.
6. Cơi trời:
Bỏ 10 điều ác: không sát sinh, hại vật, không trộm cướp, tà dâm, không nói lời đâm thọc, hung ác, dối trá, thêu dệt, không tham dục, giận hờn và si mê.
Trái lại, c̣n làm 10 điều lành là: phóng sinh, bố thí, giữ hạnh trinh tiết, nói lời chắc chắn, đúng lư và nhu ḥa, trau giồi đức hỷ xả, từ bi và trí huệ.
Tu nhơn thập thiện như vậy, th́ sau khi chết được sanh lên cơi trời, nhưng nên nhớ cơi trời này cũng c̣n ở trong ṿng phàm tục, chịu cảnh sinh tử Luân hồi.
Muốn thoát ra ngoài cảnh sinh tử luân hồi và đến bốn cơi thánh th́ phải tu nhân giải thoát.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 573 of 1146: Đă gửi: 04 July 2010 lúc 5:42pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHƠN QUẢ-NGHIỆP VÀ LUÂN HỒI
NHỮNG BẰNG CHỨNG LUÂN HỒI Ở ẤN ĐỘ
(CHƯƠNG BỐN)
I. MỘT CHUYỆN LUÂN HỒI Ở ẤN ĐỘ:
Cách đây vài chục năm, tờ báo Mai có chụp h́nh và đăng một câu chuyện như sau:
Tại Ấn Độ, ở thành Delhi, có một cô gái 8 tuổi tên Phanti Devi. Cô đă nhiều lần khóc lóc với cha mẹ đ̣i về thành Mita thăm chồng là một giáo viên. Thành Delhi các thành Mita trên 200km. Cha mẹ cô gái lấy làm lạ mời một phóng viên nhà báo đến để nhờ anh điều tra giùm.
Phóng viên nhà báo đến hỏi, th́ được cô cho trả lời rằng: cô là vợ của một giáo viên, ăn ở với nhau sanh được một đứa con. Khi đứa con lên 11 tuổi th́ cô lâm bịnh từ trần.
Người phóng viên hỏi xem cô ta có ǵ làm bằng chứng không? Cô trả lời là cô có để lại vàng bạc cà đồ đạc chôn ở chỗ nọ chỗ kia..và cô c̣n nhớ rơ có một cái quạt do người chị em bạn tặng, trên quạt có ghi lại mấy ḍng chữ, rồi cô đọc mấy ḍng chữ ấy cho phóng viên chép vào sổ tay.
Phóng viên liền đến thành Mita, t́m hỏi tên họ ông giáo viên, th́ thật quả không sai. Phóng viên hỏi ông giáo:
- Ông có người vợ đă chết độ 8, 9 năm nay phải không?
Ông giáo trả lời:
- Vâng, có! Vợ tôi chết nay đă chín năm. Chẳng biết ông hỏi có việc chi?
Phóng viên tŕnh bày những lời cô bé đă nói.
Ông giáo nghe đều cho là đúng cả.
Phóng viên lại lấy quyển sổ tay đưa mấy ḍng chữ cho ông giáo đọc và hỏi:
- Khi vợ ông mất, có để lại một cây quạt, trên ấy có ghi mấy ḍng chữ như thế này có phải không?
Ông giáo trả lời:
- Trúng y như vậy cả.
Qua ngày sau, phóng viên lại mời cha mẹ và cô Phanti Devi cùng đi xe tới thành Mita. Từ khi sanh ra đến 8 tuổi, cô chưa từng đi xa, thế mà đường đi trong thành Mitha cô đều thuộc cả, cô chỉ đường này là đường ǵ, đi về đâu, đường kia tên ǵ, đi về đâu, và c̣n nói trúng cả tên những nhà quen ở hai bên đường nữa. Gần đến nhà ông Giáo, cô bảo đi xe chậm lại và dừng ngay trước nhà ông Giáo.
Vào đến nhà, gặp một ông già độ 80 tuổi, đầu tóc bạc phơ, cô vừa mừng vừa khóc ̣a mà nói rằng:
- Đây là cha chồng của tôi.
Cô chỉ ông giáo mà nói:
- Kia là chồng tôi.
Rồi cô chạy lại ôm đứa con 11 tuổi khóc và nói:
- Đây là con tôi!
Mọi người trông thấy, ai cũng đều cảm động.
Việc này làm sôi nổi cả dư luận Ấn Độ và các báo trên thế giới, đều bàn tán xôn xao ... Các nhà bác học ra sức t́m ṭi, nghiên cứu, nhưng không một ai giải thích được. Chúng ta đă rơ biết lư luân hồi, th́ việc này cũng chẳng lấy làm lạ.
II. MỘT CHUYỆN LUÂN HỒI TẠI MỸ
Vào khoảng năm 1956, ở Mỹ có một thiếu phụ tên Ruth Simmons, v́ quá tin tưởng có kiếp luân hồi, nên đă nhờ nhà thôi miên Morey Bernstein giúp cô được thấy lại kiếp trước của cô. Nhà thôi miên kia, sau khi đưa cô vào giấc ngủ, liền bảo:
- Thử nhớ lại hồi 10 tuổi, cô đă làm ǵ!
Cô Simmons, trong cơn mê nói lại thuở thiếu niên của cô, những lúc cô đi học và tả tỉ mỉ những lúc cô nô đùa với bạn. Nhà thôi miên lại bảo:
- Bây giờ thử nhớ lại lúc cô mới 1 tuổi, cô thấy ǵ?
Cô trả lời bằng những tiếng bập bẹ, y như đứa trẻ chưa biết nói. Nhà thôi miên lại dồn hết tinh thần vào cặp mắt, nh́n thẳng vào mặt cô Simmons và nói:
- Thử nhớ lại tiền kiếp của cô!
Sau một lúc im lặng, cô Simmons mới nói, nhưng giọng nói của cô đă đổi khác, giọng Ái Nhĩ Lan (ở Anh Quốc), chứ không phải giọng người Mỹ.
Cô kể lại rằng:
“Kiếp trước cô đầu thai vào gia đ́nh họ Murphy ở làng Cork bên Ái Nhĩ Lan vào năm 1789. Cô tả nơi chôn nhau cắt rún của cô và cho biết nhiều chi tiết khác về làng này.
Cô nói thêm rằng chồng cô tên Brian Mac Carthy, giáo sư trường luật đă từng cộng sự với tờ báo Belfast news, rồi sau cùng cô nói đến ngày cô chết, mả cô hiện ỏ đâu và cô phải làm ma hơn một thế kỷ. Sau đó, cô đầu thai vào gia đ́nh họ Simmons ở Mỹ, hồi năm 1923.
Nhà thôi miên đă thâu tất cả lời nói của cô Simmmons về tiền kiếp của cô và sau đó viết một quyển sách nhan đề là: “Đi t́m gốc tích cô Murphy”.
Sách này in ra 170 ngàn cuốn và chỉ trong 3 tháng đă bán sạch. Sau đó, nhà thôi miên lại lấy lời thuật chuyện của cô Simmons thâu vào ba mươi ngàn (30,000) dĩa nhựa và chỉ trong 2 ngày đă bán sạch.
Chuyện này báo chí quốc tể đều có đăng tin, riêng ở Pháp có tờ Paris Math thuật lại rất rơ, ở Việt Nam cũng có nhiều tờ nói đến như tờ Tin Điển, tờ Liên Hoa v.v...
III. MỘT CHUYỆN LUÂN HỒI Ở PHÁP
Một Bác sĩ Pháp, ông Maurice Delarry, vốn là người hoài nghi về thuyết luân hồi, nhưng sau một thời gian khảo cứu rất công phu, đă viết trong tạp chí “Thần linh học” xuất bản hồi năm 1748 về sự luân hồi như sau:
Ban đầu ông không tin có kiếp luân hồi, nhưng sau một thời gian thí nghiệm bằng cầu cơ, ông phải công nhận kiếp luân hồi có thật. Đây là lời ông Maurrice Delarry kể:
- Một hôm tôi và vợ tôi đang cầu cơ th́ bỗng chiếc xe lay động lần lượt chỉ vào 5 chữ F.E.L.I.X rồi ngừng lại, tức là kẻ khuất mặt tên Félix đă nhập vào cơ, chúng tôi liền hỏi:
- Ông Félix muốn ǵ?
Trả lời:
- Tôi cho ông bà hay tôi sẽ trở lại trong họ hàng ông bà trong một ngày gần đây.
Hỏi:
- Tại sao vậy? Tại sao trở lại trong họ hàng chúng tôi.
Trả lời:
- Phải! trong gia đ́nh ông bà.
- Họ hàng chúng tôi đông đảo quá, đi ở rải rác mỗi người một nơi. Vậy ông có thể cho biết chắc chắn ông sẽ xuất hiện ở xứ nào không?
Trả lời:
- Tại xứ P. (Bác sĩ Maurrice v́ một lẽ riêng, không muốn nói rơ xứ này) và trong gia đ́nh ông Y. (Ông Y đây là bà con với bà vợ Bác sĩ Maurrice, nhưng Bác sĩ cũng giấu tên, v́ sợ động chạm đến đời tư không hay của gia đ́nh khác).
Hỏi:
- Chắc chắn ông sẽ vào gia đ́nh ông Y bà con chúng tôi?
Trả lời:
- Phải! Hiện nay gia đ́nh ông Y có hai đứa con gái.
Hỏi:
- Ông có biết tên chúng không?
Trả lời:
- Có! (Rồi kẻ vô h́nh nói đúng tên hai đứa con gái của người bà con bà Maurrice, nói đúng cả ngày sinh tháng đẻ của chúng nữa).
Hỏi:
- Ông có thể cho biết chắc chắn ngày nào ông sẽ ra đời trong gia đ́nh ông Y không?
Trả lời:
- Ngày 24 tháng 9 năm 1924 vào buổi mai.
Hỏi:
- Nhưng làm thế nào để biết chính ông đă đầu thai làm con trong gia đ́nh ông Y?
Trả lời:
- Cô J. (tức là tên vợ của Bác sĩ Maurrice mà ông cũng giấu tên luôn) sẽ được biết khi nh́n thấy tai bên mặt của tôi, v́ chính tôi là Félix, đứa tớ trung thành của ông bà thân sinh của cô J. đây.
Cuộc đối thoại giữa Bác sĩ maurrice và kẻ khuất mặt tên Félix được Bác sĩ biên chép kỹ càng từng câu một để sau này xem có đúng không.
Bấy giờ vào khoảng tháng 5 DL vợ chồng Bác sĩ Maurrice không mảy may hay biết người chị họ (của bà Bác sĩ) có thai.
Cho đến ngày 24 tháng 9 năm 1947 nghĩa là cách đó bốn tháng, vợ chồng Bác sĩ tiếp được điện tín từ xứ P. đánh về cho hay người chị họ vừa hạ sanh một trai hồi 8 giờ sáng ngày nói trên.
Thế là rất đúng với lời của kẻ khuất mặt Félix. Nhưng Bác sĩ không muốn cho vợ chồng người chị họ biết rằng chính ông bà đă biết trước việc này.
Ba tháng sau, vợ chồng Bác sĩ Maurrice vừa đến nơi th́ vợ chồng người chị họ liền đưa ông bà vào pḥng để xem mặt đứa bé. Khi bà bác sĩ đến gần chiếc nôi th́ thằng bé nh́n bà mĩm cười, mà nước mắt cứ tuôn ra, rồi nó đưa tay về phía bà Bác sĩ đ̣i ẵm.
Vợ chồng người chị họ rất đỗi ngạc nhiên, v́ thường khi không bao giờ con chịu người lạ, thế mà lần này, mới gặp bà Bác sĩ nó lại đ̣i ẵm.
Vợ chồng Bác sĩ Maurrice th́ không lạ ǵ với thằng bé, nhưng không dám nói sự thật ra cho vợ chồng người chị biết về kiếp luân hồi của tên lăo bộc Félix, sợ rằng gia đ́nh người chị họ cho ḿnh quá tin dị đoan chăng.
Khi nh́n thấy miếng vải băng ngang đầu đứa bé, vợ chồng Bác sĩ đă đoán biết một phần nào đúng như lời lăo bộc Félix dă nói trong lúc cầu cơ, nên Bác sĩ giả vờ hỏi:
- Tại sao lại băng đầu nó? Chắc lại sanh ghẻ chứ ǵ?
Người chị họ trả lời:
- Không, v́ lúc sinh nó ra, nó có tật nơi tai, vành tai chỉ dính vào da đầu có chút xíu, nên tôi có nhờ Bác sĩ chữa, bác sĩ bảo xức thuốc băng lại trong một thời gian th́ liền lại.
IV. MỘT CHUYỆN LUÂN HỒI THỨ HAI Ở PHÁP
Một đứa bé gái mới ba tháng tên Thérèse bỗng nhiên một hôm thốt lên tiếng Aroupa, cha mẹ đứa bé không để ư, tưởng rằng con ḿnh bập bẹ bậy bạ vậy thôi, nhưng về sau có người cho biết Aroupa có nghĩa là “trời” theo tiếng Ấn Độ.
Đến lúc lên hai, em bé Thérèse trong lúc chơi mua bán, có thốt ra tiếng Roupie. Tiếng này trong gia đ́nh không hề nghe ai nói tới, thế mà Thérèse biết được, mới lạ.
Mười tháng sau nữa, trong khi mẹ Thérèse nói chuyện với một chị em bạn, cô Thérèse thường xen vào câu chuyện với những tiếng “Bapou”.
Bà bạn vốn là tín đồ đạo Phật, rất lấy làm lạ hỏi mẹ Thérèse tại sao nó biết tên riêng của ông Gandhi v́ tên Bapou chỉ có gia quyến thánh Gandhi cùng tín đồ ông gọi ông mà thôi, người ngoài ít ai biết được.
Mẹ cô gái Thérèse nghe nói càng thêm kinh ngạc. Bà bắt đầu tin có luân hồi và từ đó, bà mua sách về thần học khảo cứu, và bà có mua một bức h́nh của ông thánh Yogàmanda.
Khi nh́n thấy bức ảnh này, cô bé la lớn:
- Con biết ông này! Lúc thánh Gandhi c̣n sống thường đến nói chuyện với thánh Gandhi, có mặt con trong những lúc ấy.
Sau khi dọ hỏi những tín đồ của thánh Gandhi, mẹ co bé Thérèse thấy lời nói của con ḿnh là đúng sự thật. Lên năm tuổi cô bé bắt đầu ăn chay và không thích ăn bánh ḿ mà chỉ ăn cơm. Thỉnh thoảng cô lại kể một vài đoạn đời của thánh Gandhi.
V. MỘT CHUYỆN LUÂN HỒI Ở ĐẢO MAURICE
Chuyện sau đây do giáo sư Bissoundya ở hải cảng Port Luois tại đảo Maurice kể lại trong “Tạp chí đầu thai luân hồi”.
Tại làng Castel có một gia đ́nh nọ sanh một đứa bé trai lên ba tuổi, đặt tên là Chatanàdeva. Bỗng một hôm nó bảo nó không phải ở làng ấy.
Cha mẹ và người lối xóm đều cười, v́ cho nó nói bậy. Nó lại nhất định nói nó không phải tên Chatanàdeva mà là tên Sreeram Jankoo. Lúc đó người ta mới lấy làm kinh ngạc v́ tên Sreeram Jankoo không phải lạ. Anh này bị chết đuối cách đây 3 năm, trong lúc đi thuyền đến cù lao Plate.
Người ta hỏi nó tại sao nó biết tên Sreeram Janko th́ nó có thuật lại rằng:
- Tôi đang chèo thuyền đi ra cù lao Plate th́ bị sóng đánh ch́m và chết đuối giữa biển.
Lời thuật của thằng bé làm mọi người kinh dị, v́ thật đúng như thế. Rồi nó lại kể thêm những chi tiết về cảnh sống của Jankoo, nhất nhất đều đúng sự thật cả.
Câu chuyện này được đồn đăi ra. Mẹ của anh chài lưới Jankoo ở làng bên, nghe được, liền t́m tới nhà thằng bé. Thằng bé đang chơi, thấy bà lăo bước vào, nó mừng rỡ reo lên và nhảy sổ đến ôm bà, la lớn:
- Mẹ! mẹ!
Những câu chuyện tương tợ như những bằng chứng đă kể ở đoạn trước nhiều không thể kể xiết.
Ngoài ra c̣n bao nhiêu vị thần đồng, những cậu bé có thiên tài xuất chúng ở rải rác trong thế giới và trong lịch sử mà chúng ta thường nghe nói đến như:
Ông Pascal, một Triết gia và một nhà Toán học Pháp, mới 7 tuổi mà đă thông thạo phương pháp kỷ hà học,
Ông Mạc Đỉnh Chi 12 tuổi đậu Trạng Nguyên.
Nhạc sĩ Mozart mới 7 tuổi đă biết đặt những bản nhạc ḥa âm
Ông Christian Heinecken vài giờ sau khi ra đời đă nói chuyện được, khi lên 1 tuổi đă học thuộc ḷng vài đoạn kinh Thánh giáo trong cuốn thánh kinh, lên 2 tuổi đă trả lời tất cả những câu hỏi về địa dư, lên ba tuổi đă nói được tiếng Pháp, tiếng La tin, lên 4 tuổi đă có thể theo học các lớp triết học.
Ông Stuart Mill lên ba đă học chữ Hy Lạp.
Ông William James Sidis lên hai đă đọc và viết chữ mẹ đẻ (Hoa Kỳ), lên tám đă nói được tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Đức và một ít tiếng Latin, Hy Lạp.
Cậu bé Silvanorigoll ở Ư, mới 3 tuỗi đă làm nhạc sư và điều khiển một giàn nhạc, chưa biết đọc và viết nhưng lại chép bản nhạc rất tài t́nh, đánh dương cầm và phong cầm không thua ǵ những nhạc sĩ hữu danh.
Những bằng chứng rơ ràng trên không ai có thể chối căi được, nhưng cũng không ai có thể giải đáp được lư do đâu có hiện tượng lạ lùng như thế, nếu không tin có nhân quả luân hồi.
Các nhà khoa học cố gắng giải thích là tại những hạch tuyến trong người các thiên tài ấy phát triển một cách nhanh chóng khác thường, nhưng tại sao hạch tuyến chỉ phát triển trong một số người ấy mà thôi?
Có người giải thích là do di truyền, nhưng lời giải thích nào cũng không làm cho người ta thỏa măn, v́ ông cha những thần đồng ấy cũng không có ǵ xuất sắc hơn những người khác, Vả lại, con cháu các vị thần đồng ấy về sau cũng không thừa hưởng được ǵ của ông cha cả.
Chỉ c̣n một lối giải thích duy nhất có thể đứng vững được là: nghiệp nhân của nhiều đời kiếp trước đă phát triển thành quả trong đời hiện tại.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 574 of 1146: Đă gửi: 04 July 2010 lúc 5:44pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHƠN QUẢ-NGHIỆP VÀ LUÂN HỒI
Giải Đáp Những Thắc Mắc Nghi Vấn
Về Vấn Đề Nhân Quả Luân Hồi.
(CHƯƠNG NĂM)
Từ trước đến nay, chúng tôi chỉ tŕnh bày những điểm chính của giáo lư Nhân quả Luân hồi, mà không đi sâu vào chi tiết, và để sự tŕnh bày được rơ ràng, có mạch lạc, chúng tôi đă tạm gác lại tất cả những thắc mắc, nghi vấn có thể hiện ra nhiều lần trong đầu óc quư vị, khi đọc các đoạn trước.
Đến đây, sau khi tŕnh bày xong xuôi những nét chính của giáo lư Nhân quả Luân hồi, chúng tôi xin lần lượt giái đáp những thắc mắc, hay nghi vấn trong vấn đề này:
1. Có người nghĩ rằng: Nhân quả là một luật tự nhiên rất công bằng đứng đắn, sao có người cả đời hiền từ, mà lại gặp lắm tai nạn, khổ sở, trái lại những người hung ác sao lại vẫn an lành?
Đáp: Chắc quư vị chưa quên trong chương nói về nghiệp, chúng tôi đă tŕnh bày rằng xét về thời gian, nghiệp có chia ra làm ba thứ:
a. Hiện báo: Quả báo hiện tiền, như ḿnh đánh người, bị người đánh ngay; hay ăn cơm th́ no, uống nước liền đỡ khát.
b. Sanh báo: Đời nay tạo nhân, qua đời sau mới thọ quả báo, như làm một tội ác ǵ, ngay khi ấy không ai biết mà bắt, đến lâu sau việc ấy mới tiết lộ và người làm ác mới đền tội.
c. Hậu báo: Đời nay tạo nhân, mà các mấy đời sau mới chịu quả báo, Như ngài Ngộ Đạt quốc sư, đời trước làm quan tên là Viên Án, v́ giết Triệu Thố, mà đến 10 đời sau mới chịu quả báo.
Vậy nếu có người trong đời hiện tại, làm việc hung ác, mà được an lành là do kiếp trước họ tạo nhân hiền từ, c̣n cái nhân hung ác mới tạo trong đời hiện tại, th́ trong tương lai hay qua đời sau, họ sẽ chịu quả báo.
Cũng như người năm nay ăn chơi, không làm ǵ hết mà vẫn no đủ, là nhờ năm rồi họ có làm, có tiền của để dành vậy. Cái nhân ăn chơi, không làm năm nay th́ sang năm họ sẽ chịu quả đói rách.
C̣n người dữ đời nay hiền từ, làm các điều phước thiện mà vẫn gặp tai nạn, khổ sở là do đời trước, họ tạo những nhân không tốt. Cái nhân hiền từ đời nay, qua đời sau họ sẽ hưởng quả vui.
Cũng như có người tuy năm nay siêng năng làm ruộng, mà vẫn thiếu hụt là v́ nhân ăn chơi năm vừa rồi. Cái nhân siêng năng năm nay, sang năm họ sẽ hưởng quả sung túc. Do đó, cổ nhân có nói:
“Thiện ác đáo đầu chung hữu báo,
Chỉ tranh lai tảo dữ lai tŕ”.
(Nghĩa là: Việc lành hay việc dữ đều có quả báo, chỉ khác nhau đến sớm hay muộn mà thôi).
2. Có người hỏi: Người đă có phước mới được giàu sang, vậy tại sao trong số người giàu sang ấy vẫn có người ngu si, chết yểu, hoặc đui, điếc, ngọng, lịu v.v... (ngu, si, ám, ả, gia hà phú).
Trái lại, người vô phước mới nghèo nàn, vậy sao trong số những người này, vẫn có người thông minh, đẹp đẽ, trường thọ v.v... (trí huệ, thông minh khước thọ bần).
Đáp: Người đời nay giàu có là trước tạo nhân giàu có, nhưng họ chỉ tạo nhân giàu có mà không tạo các nhân khác như trường thọ, trí tuệ v.v... nên đời nay họ chỉ giàu mà thôi, chứ không sống lâu, không thông minh v.v...
Trái lại, có người kiếp trước chỉ tạo nhơn trường thọ, trí tuệ mà không tạo nhân giàu có, nên kiếp này được hưởng quả trường thọ và trí tuệ mà không hưởng được quả giàu có.
Nhân nào ḿnh có tạo mới có quả ấy, c̣n nhân nào ḿnh không tạo th́ làm sao có quả được? Nên trong kinh nhân quả có nói: Nhân quả báo ứng như ảnh tùy h́nh” (nhân quả trả nhau, như bóng theo h́nh. H́nh ngay th́ bóng thẳng, h́nh vạy th́ bóng cong).
3. Có người hỏi: Theo luật nhân quả th́ ai làm nấy chịu, cha làm tội con không thể thay thế được; con làm tội, cha không thể thay thế được. Sao thấy có những việc: cha làm con phải chịu liên can, con làm cha phải chịu ảnh hưởng?
Trả lời: Trong kinh Phật dạy nhân quả Nghiệp báo có hai thứ: biệt nghiệp và cọng nghiệp.
a. Biệt nghiệp: Là nghiệp báo riêng của mỗi chúng sinh, như ḿnh có học nhiều th́ ḿnh biết nhiều, ḿnh ăn th́ ḿnh no, ḿnh siêng năng th́ ḿnh dễ thành công, ḿnh nhác lười th́ ḿnh thất bại.
b. Cộng nghiệp: Là nghiệp báo chung cho nhiều chúng sanh cùng sống trong một hoàn cảnh. Như người Việt Nam sống trên mănh đất chữ S này, trong giai đoạn chiến tranh Việt Pháp vừa qua, th́ giàu, dù nghèo, dù trí thức, dù b́nh dân đều chịu ảnh hưởng chung của chiến tranh.
Như sanh ở một nưóc tiền tiến th́ mọi người đều được hưởng một đời sống vật chất đầy đủ hơn ở một xứ bán khai. Đă chung sanh trong một gia đ́nh, một xứ sở hay một dân tộc, cố nhiên cái nghiệp quả phải có liên can với nhau.
Sách có nói: “Nhứt nhơn tác phước, vạn thọ hương” (một người làm phước, ngàn người đều được ảnh hưởng; một cây trổ hoa, muôn cây chung quanh đều được thơm lây).
IV. Có người hỏi: Đă gọi là cộng nghiệp th́ tất nhiên phải chịu những nghiệp quả giống nhau, đă sinh trong một hoàn cảnh th́ tất chịu chung một ảnh hưởng, mặc dù có biệt nghiệp, nhưng những biệt nghiệp ấy dù sao cũng chỉ co tính cách sai biệt tiểu tiết mà thôi (đại đồng, tiểu dị).
Vậy tại sao trong đời, thấy có những người sống chung trong một hoàn cảnh mà lại trái hẳn nhau. Thí dụ như: có người hiền lành lại sanh trong một gia đ́nh hung ác, có người hung ác lại sanh trong gia đ́nh hiền lương?
Trả lời: Trong đoạn phân loại về các thứ nghiệp, đă nói rằng có bốn loại nghiệp là:
- Tích lũy nghiệp,
-Tập quán nghiệp,
- Cực trọng nghiệp,
- Cận tử nghiệp.
Trong các loại nghiệp ấy, cực trọng nghiệp có tác động mạnh mẽ nhất sau khi chết.
Nếu khi sống, cá nhân nào đó tạo nhân cực trọng nghiệp về loại thiện, như triệt để áp dụng những phương pháp tu hành có hiệu quả như tứ đế, thập nhị nhân duyên ... th́ sau khi chết, được hưởng kết quả tốt đẹp vô cùng.
Trái lại, như giết cha mẹ, sát hại người tu hành v.v... th́ khi chết phải đọa vào địa ngục vô gián.
Nhưng cực trọng nghiệp không phải người nào cũng có: nếu không tạo nhân cực trọng, như không tu hành hay không phạm tội ngũ nghịch th́ tất nhiên không có nghiệp cực trọng.
Trong trường hợp không có cực trọng nghiệp, th́ cận tử nghiệp (nghiệp lực khi lâm chung) là cái nghiệp có một tác động mạnh mẽ trong vấn đề dắt dẫn đi đầu thai.
Trong nhiều trường hợp, th́ cận tử nghiệp và tích lũy nghiệp, tập quán nghiệp cùng đồng một tính chất giống nhau, nghĩa là trong những đời trước và đời hiện tại có gây những việc thiện và khi lâm chung.
Cũng có những hành động hay ư nghĩ việc thiện, hay trái lại, trong nhiều đời trước và hiện tại có tạo những nhân ác, và khi lâm chung cũng làm hay nghĩ đến những việc ác.
Trong trường hợp này, th́ cận tử nghiệp sẽ dắt dẫn đi đầu thai một cách tự nhiên, đến một hoàn cảnh thích hợp với cả ba thứ nghiệp là tích lũy nghiệp, tập quán và cận tử nghiệp.
Chẳng hạn như một người, trong đời quá khứ đă tạo những nhân hiền lành th́ sau khi chết, đầu thai vào một gia đ́nh cũng hiền lành, và những người ở trong gia đ́nh ấy cũng không có trái ngược nhau.
Nhưng có một vài trường hợp mà cận tử nghiệp không đồng một tính chất với tích lũy nghiệp và tập quán nghiệp, chẳng hạn như một người trong đời quá khứ và hiện tại phần nhiều đều gieo nhân lành, đều có nhiều hành động thiện.
Nhưng khi lâm chung, v́ một lư do nào đó, có những ư nghĩ, hành động bất thiện, nghĩa là tạo một cận tử nghiệp bất thiện, như tham đắm, giận dữ v.v... th́ cận tử nghiệp này sẽ dắt dẫn đến một hoàn cảnh bất thiện, như sanh vào một gia đ́nh tham đắm, hay giận dữ v.v...
Nhưng nghiệp chính của người này là thiện th́ trong đời sau này, người ấy sẽ hưởng quả thiện, mặc dù sống trong gia đ́nh ác.
Hay trái lại, tích lũy và tập quán nghiệp của người ấy là ác, nhưng khi lâm chung, người ấy biết ăn năn hối cải, tha thiết nghĩ đến điều thiện và nhờ những người chung quanh hộ niệm chú nguyện cho, nên tạo ra một cận tử nghiệp thiện.
Nghiệp này sẽ dắt dẫn đầu thai vào một gia đ́nh thiện. Nhưng nghiệp chính của người này trong quá khứ là ác, cho nên sau ít lâu sống trong gia đ́nh ác ấy, các nghiệp quả ác lại xuất hiện. Do đó mới có những trường hợp cha mẹ ác có con thiện, hay cha mẹ thiện có con ác.
V. Có người hỏi: Nếu có Luân hồi th́ khi chết rồi, một người chỉ sanh ra một người thôi, tại sao trên thế giới này, khi mới khai thiên lập địa chưa có người, mà cứ mỗi ngày nhân loại mỗi thêm đông? Vậy do đâu mà có nhiều người thế?
Trả lời: Trong đoạn Luân hồi, chúng tôi đă nói: chúng sinh luân hồi trong trong sáu cảnh giới là: thiên, nhân, a tu la, ngạ quỉ, súc sinh, địa ngục.
Chúng sinh ở cảnh giới này có thể đầu thai qua cảnh giới khác, đắp đổi cho nhau, khi lên khi xuống, chứ không phải chỉ có người mới đầu thai làm người mà thôi.
Những loài thú có những tâm trạng giống người có thể đầu thai làm người được, cũng như những người có tâm trạng lang sói sẽ trở thành lang sói.
Hơn nữa, trong đoạn trước, chúng tôi cũng có nói rằng trong các kinh Phật dạy: thế giới trong vũ trụ này nhiều như cát sông Hằng, chứ đâu phải chỉ một quả đất này là trung tâm điểm của vũ trụ và có người?
Các nhà bác học cũng công nhận mỗi ngôi sao là một thế giới. Trong hằng hà sa số thế giới ấy, cũng có biết bao nhiêu là thế giới có hoàn cảnh giống như quả đất nhỏ bé chúng ta đang ở đây!
Thế giới đă nhiều như thế, th́ nhân loại đâu phải ít? Tại sao chúng ta không thể tin được rằng thế nào cũng có sự luân chuyển, sự lưu thông, sự trao đổi về phương diện tinh thần, về cái nghiệp giữa thế giới này với thế giới khác?
Mỗi một thế giới sắp hoại th́ chúng sinh ở thế giới ấy tản cư, mỗi thế giới đă thành, th́ chúng sinh ở các thế giới đồng cảnh chung quanh tựu đến.
Trong kinh Địa Tạng có nói:
“Thử giới hoại thời, hoàn kư tha phương ...” (thế giới này hoại, th́ gởi qua thế giới khác, thế giới khác hoại lại gởi đến thế giới khác nữa ...) Như đô thành Saigon hiện giờ đây dân số rất đông, là do người ở các tỉnh đến.
Khi giặc yên, dân chúng trở về các tỉnh th́ dân số Saigon tự nhiên bớt. Dân chúng ở Đô thành nhiều hay ít là do người ở các nơi tụ đến hay tản đi. Trong thế giới hiện này nhân loại nhiều hay ít cũng như vậy.
Đứng về phương diện tổng thể mà nói, th́ không có mất c̣n, sạch nhớp, thêm bớt, đầy vơi (bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm). Chỉ v́ chúng ta có quan niệm hẹp ḥi, chia cắt, khu biệt, đóng khung trong một cảnh giới nên mới thấy loài này, loài khác, thế giới này, thế giới khác hoàn toàn cách biệt nhau.
IV. Có người hỏi: Người và thú vật hoàn toàn khác nhau, làm sao người có thể tái sanh thành thú vật và thú vật thành người được?
Trả lời: Người ta thường có quan niệm sai lầm rằng, người có linh hồn người, thú vật có hồn thú vật. Linh hồn người hay hồn thú, tuy người ta chưa hề thấy bao giờ, nhưng người ta tưởng tượng hễ linh hồn người th́ có bóng dáng như người, hễ hồn chó, mèo th́ có bóng dáng như chó mèo, và bất biến, dù chết hay sống.
V́ tưởng tượng như thế nên người không thể công nhận rằng: chết rồi linh hồn người lại chui vào thân h́nh chó, mèo, chẳng hạn, và hồn chó mèo lại nằm lốt thân h́nh người.
Thật ra, nghiệp không phải là linh hồn (như đă nói ở đoạn trước) mà là một năng lực có nhuốm tính chất những hành động của mỗi chúng sinh.
V́ tính chất riêng biệt ấy mà nghiệp lực nhập vào một h́nh thức này hay một h́nh thức khác do cái luật hấp dẫn “đồng sanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.
“Thay v́ nói người kia trở thành thú hay trái lại, thú kia trở thành người, đúng hơn nói rằng: nghiệp lực phát hiện dưới h́nh thể người hay dưới h́nh thể thú”. (Narada Maka Thera).
Một hôm có hai người đạo sĩ: một người tên Punna tu khổ hạnh theo lối sống của loài ḅ, một người tên Seniya tu khổ hạnh theo lối sống của loài chó, hai người này đến hỏi đức Phật về kiếp vị lai của họ. Đức Phật trả lời:
“Trong đời này, một gă kia thực hành trọn vẹn không thối chuyển những thói quen, những tâm trạng những tính cách của chó, gă ấy đă sống theo thói thường của chó, sau khi chết sẽ tái sanh trong loài chó”.
Đức Phật cũng giải thích như trên rằng: kẻ nào tu khổ hạnh theo ḅ, cũng sẽ tái sanh trong loài ḅ.
Thí dụ trên chứng minh một cách hùng hồn: nghiệp lực có thể dắt dẫn đi đầu thai bất luận trong loại nào, cảnh giới nào.
Không cần phải đợi đến đời vị lai, phải trải qua kiếp này đến kiếp khác, ngay chính trong tâm niệm, trong từng hoàn cảnh của cuộc đời hiện tại, con người cũng trải qua trạng thái của sáu loài:
khi con người sanh ḷng giận dữ chém giết, th́ cảnh A tu la hiện khởi;
khi con người ung dung tự tại sống trong nhung lụa huy hoàng th́ cảnh giới thiên đàng hiện khởi;
khi con người sống trong cảnh chiến tranh bom đạn, trong cảnh kiềm kẹp giam cầm, tra khảo dă man, nào bị treo ngược, nào bị đổ nước sôi v.v... th́ đó là cảnh giới địa ngục.
Ngay trong loài người, nếu xét về phần vật chất th́ có nhiều người sống một cuộc đời đế vương sáng lạn như ở cơi thiên đàng; có người lại sống chui rúc trong hang trong hố, ăn lông ở lỗ như thú vật.
Xét về phần tinh thần, th́ có người thông minh tài trí, đức hạnh như thánh nhân; có kẻ tâm địa lại tối tăm, độc ác, xấu xa như lang sói.
Nếu đă tin có nghiệp lực th́ hạng người nói trên tất sẽ dắt dẫn đến cơi thiên, và nghiệp lực của hạng dưới tất phải đầu thai trong loài thú vật.
Chúng tôi đă giải đáp một số nghi vấn, thắc mắc thông thường trong khi đề cập đến vấn đề Nhân quả Luân hồi.
Chúng tôi biết c̣n nhiều thắc mắc, nghi vấn khác, nhưng chúng tôi xin gác lại, v́ chúng không được phổ thông và có tính cách bác học, chuyên môn như vấn đề nguyên nhân đầu tiên của nghiệp, vấn đề trách nhiệm về phương diện đạo đức, vấn đề so sánh giữa thuyết tiền định, mệnh và nghiệp báo khác nhau như thế nào v.v...
Chúng tôi không muốn kéo dài thêm nữa, phạm vi có chừng hạn của sách loại phổ thông này. Và đến đây, chúng tôi tưởng đă đến lúc nói vài lời tạm biệt cùng quí vị độc giả thân mến.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 575 of 1146: Đă gửi: 04 July 2010 lúc 5:45pm | Đă lưu IP
|
|
|
NHƠN QUẢ-NGHIỆP VÀ LUÂN HỒI
Vài Lời Tạm Biệt
Thưa quí vị độc giả!
Vấn đề Nhân quả Luân hồi là một vấn đề vô cùng quan trọng, không những đối với người Phật tử mà cả đến những ai đang băn khoăn thắc mắc trước bao vấn đề mà cuộc sống đă đặt ra, như:
Chúng ta từ đâu lại và sẽ đi về đâu? động lực của sự sống là ǵ? Ai là chủ nhân của đời ḿnh? Tại sao có những hoàn cảnh trái ngược nhau trong xă hội? Ta có thể giải thoát khỏi cảnh giới tối tăm này để đến một cảnh giới đẹp đẽ khác không? Và nếu được, th́ bằng phương tiện ǵ?
Những vấn đề trên, mọi người đều nên biết. Nhưng một khi đă biết rồi, chúng ta không nên tự cho là đă thỏa măn trí ṭ ṃ mà yên ḷng xếp sách lại.
Cái biết suông ấy không có lợi ích thiết thực ǵ cho ta cả. Không biết th́ phải t́m biết, khi đă biết rồi th́ phải hành động đúng theo sự hiểu biết ấy.
Giáo lư Nhân quả Luân hồi đem lại cho chúng ta một niềm phấn khởi mạnh mẽ vô cùng, đó là tự kiến tạo lấy đời ḿnh.
Trong bao nhiêu kiếp Luân hồi, mỗi chúng ta là tay thợ tự xây dựng lấy địa vị của ḿnh mà không hay.
Do sự mê mờ ấy, chúng ta đă làm hại đời của chúng ta bằng cách buông xuôi tay, trao gởi niềm tin vào những đấng thiêng liêng tưởng tượng, hay rên xiết, khóc than trách móc định mệnh khắc nghiệt đă trói buộc đời ḿnh.
Giờ đây, chúng ta đă biết chính mỗi chúng ta đă tự tay trói buộc chúng ta trong cảnh sinh tử luân hồi. Chúng ta đă tự trói buộc chúng ta, th́ cũng chỉ có chúng ta là có thể cởi mở cho chúng ta mà thôi.
Đức Phật là đấng sáng suốt đă chỉ dạy cho chúng ta những phương pháp tự cởi trói. Vậy chúng ta c̣n chờ đợi ǵ, c̣n luyến tiếc ǵ mà không chịu bắt tay làm ngay cử chỉ mở trói ấy?
Chung quanh chúng ta đă có nhiều vị thầy hướng dẫn bước đầu của chúng ta, đă có những người bạn đồng hành đang tinh tấn, hăng hái ngày đêm làm cái công việc tự cởi mở ấy, hay nói theo danh từ nhà Phật, làm công việc giải thoát ấy.
Bạn c̣n chờ đợi ǵ?
Nếu bạn đă là Phật tử, bạn hăy tinh tấn nữa lên! Nếu bạn chưa là Phật tử, bạn hăy gấp rút gia nhập vào đạo quân giải phóng hiện đang có mặt khắp năm châu, đạo quân giải phóng đang theo dấu chân Phật để diệt trừ vô minh đem lại hạnh phúc chân thật cho ḿnh và cho người.
Xin kính chào bạn.
H̉A THƯỢNG THÍCH THIỆN HOA
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 576 of 1146: Đă gửi: 04 July 2010 lúc 11:31pm | Đă lưu IP
|
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 577 of 1146: Đă gửi: 04 July 2010 lúc 11:35pm | Đă lưu IP
|
|
|
MÙI HƯƠNG TRẦM
PHẦN THỨ NHẤT:
DƯỚI CHÂN HY MĂ
NHỮNG BƯỚC ĐẦU TIÊN
Đúng ngày Tết dương lịch 1.1.1989 tôi hăm hở lên đường đi Ấn Độ. Dù lúc đó đă sống hai mươi năm ở nước ngoài, tôi vẫn thấy xa lạ với xứ sở huyền bí này. Ngày xưa dù chưa sống xa nhà, tôi đă có ư niệm về Pháp, về Mỹ, về Canada. Hồi đó tôi đă thích nền văn hóa phương tây, đă yêu văn chương tiếng Pháp, đă biết lối sống Mỹ. C̣n Ấn Độ là ǵ đối với tôi ?
Đó là quê hương của Gandhi, một vùng bán đảo rộng lớn với Hy-mă lạp sơn, với Hằng hà đầy cát. Tôi biết Ấn Độ chỉ giản đơn như thế, nhưng điều đậm nét trong tôi là, đây là một xứ sở huyền hoặc, hầu như được bọc trong một tấm màn thần thoại.
Những tài danh của Ấn Độ mà tôi biết thường là những nhà văn nhà thơ như Tagore hay Krishnamurti, các vị đó xem ra cũng rất huyền bí. C̣n các nhà đạo học, dù đó là Phật Thích-ca hay các đạo sĩ, tất cả đối với tôi có tính hoang đường nhiều hơn thực tại.
Và dù các vị đó có thật đi nữa th́ họ quá cao xa đối với tôi. Lên đường đi Ấn Độ, tôi chỉ là một người Việt Nam làm công cho một công ty sản xuất máy phát điện ở Đức, làm nhiệm vụ mà ngày nay người ta gọi là tiếp thị, có cái vai tṛ sales manager đi bán một món hàng hết sức trần thế.
Tôi nhớ lại một anh bạn tuổi lớn hơn ḿnh nhiều, anh có tiếng là thầy bói ngoại cảm. Một ngày nọ xa xưa, anh nh́n tôi cười nửa đùa nửa thật: " chú em kiếp trước làm thầy tu bên Ấn Độ " .
Tôi nghe xong ḷng không lấy ǵ thú vị, làm vua chúa th́ may ra. Không, làm sao tôi mà là thầy tu được, tôi c̣n ham rượu thịt, c̣n ham vui chơi. Tôi càng không phải là người Ấn Độ, nếu không sống tại Việt Nam, tôi chỉ thích sống ở châu Âu văn minh và cổ kính.
Máy bay từ châu âu đến Delhi thường hạ cánh lúc nửa đêm, giờ địa phương. Ngày đó là ngày Pan Am c̣n là một hăng hàng không uy tín của Mỹ, cạnh tranh với Lufthansa của Đức tranh nhau chở khách đi Ấn Độ.
Thời đó tôi chưa hiểu sao có nhiều khách đi Ấn Độ, khách làm ăn có, khách du lịch có. Ngày đó tôi đâu biết, đó là một thị trường khổng lồ cho dân làm ăn và một lịch sử vô song cho người du lịch. Ở sân bay Delhi ở Ấn Độ một thứ mùi nửa lạ nửa quen làm tôi chú ư.
Mùi này hai mươi năm qua tôi chưa từng hít thở lại. " Eau de javel " ! Th́ ra cái thứ mùi để chùi rửa vệ sinh trong những ngày xa xưa trong thời thơ ấu của tôi nay vẫn được sử dụng tại sân bay quốc tế này. Mùi này tôi đă quên rất lâu, xứ Đức không có, Việt Nam ngày nay cũng không, không ngờ nơi đây vẫn thông dụng.
Ngày nay mỗi lần đến Ấn Độ tôi đều chuẩn bị để hít thở mùi này, thứ mùi gây cho tôi cảm giác vừa khó chịu vừa dễ chịu. Khó chịu là chỉ những nơi dơ bẩn ta mới biết đến nó và dễ chịu là sự yên tâm dù sao cũng có ai lo cho sự vệ sinh ở đây.
Tôi ngồi gọn trong ghế bành nghe người ta nói tiếng Anh. Đồng nghiệp người Đức của tôi nói tiếng Anh rất dễ nghe, có lẽ thứ tiếng Anh của tôi cũng có cái giọng như thế. Đó là một thứ tiếng Anh giọng Đức, thứ tiếng Anh hay bị chê cười trên thế giới.
Người ta gọi đó là tiếng Anh của Kissinger v́ nhà chính trị này sinh tại Đức, sống lâu ở Mỹ nhưng vẫn nói thứ giọng quê mùa này. C̣n tiếng Anh của Ấn Độ là một thứ tiếng Anh lạ lùng, tôi nghe không hiểu ǵ cả. Tôi nhớ ḿnh thích tiếng Anh của người Hồng Kông v́ tiếng Anh của họ dễ hiểu, thanh quản và phát âm của họ xem ra giống của tôi.
Tôi vốn sợ thứ tiếng Anh của người Úc và của người Mỹ v́ khó hiểu nhưng có đến Ấn Độ mới thấy có thứ khó hiểu hơn. Điệu bộ cử chỉ của người Ấn cũng khác, họ hay dùng bàn tay để " minh họa " cho lời nói. Bàn tay của họ cứ lật qua lật lại theo nội dung câu chuyện. Tôi phải làm việc hàng tuần trong cái xứ đầy mùi lạ, tiếng lạ, pḥng ốc chật chội này ư ?
Văn pḥng đại diện của chúng tôi tại Delhi thuộc loại tầm cỡ nhưng pḥng ốc hết sức hạn chế. Tại sao người ta thuê tuyển nhiều người như thế, bàn nọ kê sát bàn kia, nhân viên hàng tá làm ǵ cho hết ngày giờ ?
Sau này tôi mới biết họ có nhiều người là để giúp việc cho chúng tôi, có những tea boy chỉ chuyên bưng trà rót nước, những công việc mà tại phương tây chúng tôi phải tự làm. Dễ chịu thay. Chỉ sau một ngày, tôi đă nhờ một cô gái đi copy văn bản.
Bất ngờ thay, cô ta lắc đầu. Tôi đang tự hỏi tại sao cô này từ chối lời yêu cầu nhă nhặn của ḿnh th́ đă thấy cô đă nhặm lẹ cầm giấy tờ chạy đi làm việc. Th́ ra cái lắc đầu của người Ấn Độ chính là cử động gật đầu của ta. C̣n khi họ từ chối thật th́ đầu họ cũng lắc cũng lắc cách khác. Đối với tôi lúc nào họ cũng lắc đầu cả. Khó hiểu thay, những người Ấn Độ !
Từ văn pḥng chúng tôi nh́n ra là công trường Nehru đầy người. Đó là chỗ bán cam bán chuối, bến đợi xe bus, xe hàng rang hạnh nhân đậu phọng, chỗ sửa xe taxi, bến đậu xe " túc-túc ", nơi của khỉ làm trồ... Cuộc sống ở đây xem ra vừa vội vă vừa chậm chạp.
Trên công trường Nehru đó hàng trăm người ngồi chơi sưởi nắng xem ra không có ǵ làm, hôm nay là một ngày mùa đông. Xung quanh họ là những người ăn mặc hết sức nghiêm túc theo kiểu người Anh đang vội vă rảo bước, họ t́m kiếm điều ǵ trong xứ sở nghèo nàn này ? Về sau tôi biết thêm Ấn Độ là một xứ sở của những h́nh ảnh đối chọi.
Đường sá đầy xe cộ với mùi xăng khét lẹt làm tôi nhớ Việt Nam. Taxi của họ là những chiếc xe nội hóa cũ kỹ với cái tên vang dội "Ambassador" mà bốn bánh xe thường ṃn nhẵn làm chúng tôi e ngại, mỗi chuyến đi là một tṛ chơi ít nhiều rủi ro nhất là khi gặp trời mưa.
Thế nhưng đă quen cách đi liều của ḿnh và thấy đồng nghiệp nhiều năm kinh nghiệm Ấn Độ của tôi cũng chưa có ai mang vết tích ǵ trên người nên tôi yên tâm tự nhủ đời người có số.
Chỉ vài ngày sau khi đến Ấn Độ người ta đă biết đây là một xứ sở mang nặng đầu óc tôn giáo. Trong taxi tài xế thắp nhang liên tục, họ khẩn cầu một vị thần nào bảo hộ cho họ, cho họ nhiều khách và ít tai nạn.
Ngoài đường các đàn ḅ đi đứng nằm ngồi xem ra rất tự nhiên thoải mái, tài xế lái xe thường rất hấp tấp nhưng khi gặp chúng đều kiên tŕ chờ đợi, không có một tiếng c̣i. Ra khỏi Delhi vài cây số là đă xanh một màu cây cối, ở đây cơ man nào là khỉ.
Theo người Ấn, chúng là hậu thân đáng thương của đời làm người, là cha mẹ anh em ngày trước, chúng được đối đăi b́nh đẳng và sống chung với người. Ngày nọ tôi đến làm việc tại một cơ quan chuyên trách " kiểm tra chất lượng " của bộ phận turbine.
Đó là một ṭa nhà nhỏ nằm trong một khu vườn lầy lội sau cơn mưa. Vừa bước xuống xe, một con heo rừng đâm đầu chạy đến. Tôi vội thót lên xe, đóng cửa đánh rầm. Sau đó hỏi ra nó chỉ là một heo nhà tầm thường nhưng chạy nhảy nhiều quá nên có cái bụng thon của một con heo rừng lực sĩ.
Tại Ấn Độ, thời gian lưu trú nhiều tuần cho phép tôi học nghe tiếng họ nói, học nh́n cách họ làm để giải quyết công việc của ḿnh và khám phá nhiều điều lớn lao hơn. Xuất phát từ một cấu trúc xă hội có tính đẳng cấp, người Ấn Độ rất khó thân cận.
Lạ thay, đối với thú vật th́ họ gần gũi mà đối với người th́ họ xa cách. H́nh như mỗi người Ấn Độ khi gặp người khác, việc đầu tiên là họ định nghĩa ai hơn ai, về đẳng cấp huyết thống ai ưu việt hơn ai. Đi Ấn Độ hàng chục lần, tôi kết luận rằng đó là một xứ sở của sự phân biệt giai cấp.
Người giàu có th́ hợm hĩnh khinh người, người nghèo khổ th́ yên phận chịu đựng. Những người mà tôi gặp và làm việc đều là kỹ sư hay thương nhân, họ thuộc thành phần có học và có tiền, trong nội bộ xă hội, họ coi khinh người khác, đối với chúng tôi ở nước ngoài đến th́ họ e dè và phức tạp.
Đối với người nước ngoài, người Ấn Độ vừa có mặc cảm tự ty vừa tự tôn. Họ biết rất rơ bán đảo bao la của ḿnh là một cái nôi văn hóa và học thuật của loài người. Cuộc đời của nhiều vĩ nhân nước họ là những bó đuốc soi đường cho hậu thế.
Nền văn minh, triết lư và tôn giáo của họ là nền tảng của nhiều nền văn hóa lớn trên thế giới, kể cả của Âu Mỹ và Trung Quốc. Thế nhưng nước họ ngày nay thuộc loại lạc hậu nhất, đời sống dân chúng khốn khổ nhất. Họ có cái đau khổ của một nhà quí tộc khánh kiệt.
Cho nên khi một người nước ngoài đứng trước mặt họ, họ lúng túng không thể định nghĩa ai hơn ai kém. Và khi gặp chúng tôi, kẻ đi bán một thiết bị hiện đại, họ càng lúng túng. V́ tŕnh độ kỹ thuật c̣n non, họ phải đi mua; nhưng v́ là khách hàng họ thấy ḿnh được o bế. Thế th́ ai hơn ai thua, xem ra họ rất thắc mắc.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 578 of 1146: Đă gửi: 04 July 2010 lúc 11:38pm | Đă lưu IP
|
|
|
MÙI HƯƠNG TRẦM
PHẦN THỨ NHẤT:
DƯỚI CHÂN HY MĂ
THÁNG NGÀY ẤP Ủ
Khách sạn cho thương nhân chúng tôi thường là loại năm sao đắt tiền, chúng thường nằm rất xa " nhà dân " . Trước cửa khách sạn thường có một người Ấn Độ rất to khỏe, mặc đồng phục như sĩ quan cao cấp, mỗi khi chúng tôi ra vào, ông lại che mắt chào, giầy sắt đánh cộp.
Tôi lấy làm xấu hổ với thứ lễ nghi đẳng cấp dành cho tướng tá đó, cũng chưa thấy châu Á có nơi nào từ Nepal đến Indonesia lại có lối chào khách kiểu đó. Sang trọng như thế nhưng cách đó chưa đầy vài trăm mét, gặp lúc khách sạn đang mở rộng công tŕnh là hàng trăm chiếc lều với hàng ngàn nhân công ăn ngủ tại chỗ để phục vụ dự án.
Họ sống một cuộc đời khốn khổ, từ cửa sổ pḥng tôi thấy rơ mồn một. Tại Delhi, nơi được xem là Paris của Ấn Độ, vô số con người sống lầm than trong lều bạt, không có chút vệ sinh hay tiện nghi tối thiểu.
Người ta hay cho rằng làm thương nhân như chúng tôi là sung sướng, được đi đây đi đó. Thế nhưng có đi rồi mới biết, thường khi đi công tác nước ngoài thương nhân chỉ biết sân bay, khách sạn, cơ quan của khách hàng, ngoài ra không biết hơn.
Các cuộc thương lượng thường căng thẳng, những tranh căi vô bổ về một chi tiết không đáng nói thường chỉ làm hao tổn sức lực, mài ṃn tâm hồn, chúng dễ làm thui chột những cảm nhận tâm linh lẽ ra phải có khi ta đến nhưng nơi xa lạ, gặp những con người mới mẻ. Tại Ấn Độ, chúng tôi lại càng ít quan hệ với dân chúng.
Tại một nơi mà khách sạn như một ốc đảo nằm giữa cảnh đời khốn khổ, thương nhân lại càng ngại ra ngoài. Buổi tối họ chỉ biết uống rượu với nhau cho hết giờ và nội dung câu chuyện cũng lại quanh quẩn về những ǵ bàn bạc ban ngày.
Thế nên con đường đẹp nhất của Delhi là con người dẫn từ khách sạn ra lại sân bay để về nước, con đường mà chúng tôi hay đi lúc nửa đêm v́ máy bay về lại châu Âu thường khởi hành lúc gần hai giờ sáng.
Với thời gian, những cuộc làm việc tại Ấn Độ càng lúc càng dài ngày, có lúc chúng tôi phải ở lại vài tuần. Ngày nọ có vài đồng nghiệp tổ chức đi thăm Simla trên Hy-mă lạp sơn, rủ tôi theo. Tôi mừng như bắt được vàng. Ôi, đời tôi mà được đi núi Hy-mă sao ?
Hy-mă lạp sơn đối với tôi hầu như huyền thoại, tất cả những ǵ liên quan tới đó đều là chuyện thần thoại. Đó là một nơi hẻo lánh xa xôi đầy tuyết trắng không người lui tới, nơi đó phải là trú xứ của thánh thần. Tôi không biết ḿnh ở Delhi, gần như cực bắc Ấn Độ, rất gần núi Hy-mă.
Dĩ nhiên Hy-mă ở đây chưa vội phải là đỉnh Everest cao hơn tám ngàn mét, và chuyến đi sáng đi tối về từ Delhi cho thấy đây chỉ có một triền núi con con của núi Hy-mă và đi bằng đường xe hơi th́ nhất định cũng không thể lên cao.
Mà như thế có lẽ cũng đủ rồi v́ tôi lẫn các đồng nghiệp của ḿnh đâu phải là dân leo núi, chúng tôi chỉ là du khách đi thăm Hy-mă lạp sơn một cách thoải mái và lười biếng. Tôi đoán ṃ như thế, không biết rằng ḿnh sẽ đến Simla, thủ phủ của bang Himachal Pradesh, thủ đô mùa hè của những người Anh đi chiếm thuộc địa ngày xưa.
Vẫn là chiếc "Ambassador" nội địa bốn bánh ṃn nhẵn đến chở chúng tôi đi Hy-mă lạp sơn ! Tôi ái ngại thấy mấy người Đức to khỏe vô ngồi trong xe, chiếc xe này mà chở chúng tôi lên cao hơn sáu ngàn năm trăm bộ, tức gần hai ngàn mét sao.
Xe chạy băng băng lên hướng bắc, cảnh vật làm tôi nhớ Việt Nam. Ấn Độ đâu phải chỉ là Delhi ô nhiễm, đất nước này xinh đẹp biết bao. Về sau tôi đến nhiều lần vùng Bắc Ấn, đây là một vùng đất thiêng. Hiện nay vị Đạt-lai lạt-ma thứ 14 đang sống nơi đây.
Trong những năm năm mươi của thế kỷ này, đây cũng là chỗ ẩn cư của hai nhà học giả phương Tây trứ danh Govinda, Evans-Wentz. Trước đó mười hai thế kỷ, vùng rừng núi miền Bắc Ấn này đă ghi dấu chân của nhiều lữ hành trong đó có Huyền Trang, nhà dịch kinh xuất chúng đời Đường của Trung Quốc.
Măi nhiều năm về sau tôi mới biết rơ miền Bắc Ấn này là chỗ hoạt động của một vĩ nhân của loài người tên gọi là Thích-ca mâu-ni và ḿnh sẽ lên đường t́m lại bước chân của người ấy. Nhưng đó là chuyện về sau của sách này.
Trên đường đi qua miền Bắc Ấn ở đâu ta cũng thấy một màu xanh thuần tịnh và êm dịu. Các vạt mía mọc tràn lan nhắc tôi nghĩ đến các tỉnh miền trung Việt Nam, các hồ đầy sen trắng làm tôi nhớ đường sông đi vào chùa Hương ở miền bắc. Những chiếc xe ḅ lọc cọc gơ đường làm tôi tưởng thời gian như ngừng trôi kể từ mấy thế kỷ qua.
Chiếc xe vững vàng leo núi làm tôi dần dần bớt thành kiến với nền công nghiệp ô-tô Ấn Độ. Nh́n xuống hang sâu vực thẳm, kẻ có kinh nghiệm đi đèo Hải Vân từ bé như tôi cũng thấy ớn lạnh.
Không ai dám nói ǵ với ông tài xế, ông hăy cứ thắp nhang đi trong chiếc taxi của ḿnh, mùi nhang này không c̣n làm tôi thấy khó chịu nữa. Các vị thần Ấn Độ giáo cứu độ ông chắc hẳn cũng không hẹp ḥi từ chối mấy người phương tây và một người Việt Nam ngoại đạo.
Lên đến nơi chúng tôi mới hay Simla không hề là một chỗ đèo heo hút gió mà là một thành phố giàu sang nằm trên một dăi đất bằng dài đến 12 km, cao hơn 2200m, trên sườn tây bắc của một chân núi Hy-mă.
Th́ ra đây là một nơi nghỉ mát mà những người Anh khôn ngoan ngày xưa đă xây cất để tránh cái nóng khủng khiếp của Ấn Độ trong mùa hè. Năm 1822 đă có một viên đại tá tên là Kennedy t́m đến đây và xây một ngôi nhà nghỉ mát và sau đó Simla trở thành chỗ lui tới cho giới quí tộc người Anh và Ấn.
Chỗ này chắc hẳn cũng như Đà Lạt của Saigon xa xưa, dành cho giới thượng lưu thời đó. Khí hậu ở đây quả nhiên hết sức dễ chịu, chỉ mới mấy tiếng mà tôi đă quên Delhi bị vây bọc trong bụi bặm và khốn khổ. Đi bộ trên những con đường ngược dốc ngược lên cao, chúng tôi t́m đến những vị trí đặc biệt, vị trí có thể ngắm nh́n những đỉnh núi trên bảy ngàn mét.
Đây chính là vùng mà Huyền Trang rời cao nguyên Kashmir xuống đồng bằng Ấn Độ, sau khi băng qua sa mạc Gobi và đường phía bắc núi Thiên sơn, nhắm hướng " Tây Vực " mà đi.
Và mười hai thế kỷ trước, Huyền Trang cũng từ đây mà xuống đồng bằng, nếm mùi cái nóng Ấn Độ mà ông gọi là " trời nóng như thiêu " trong Đại Đường Tây Vực kư. Ngày xưa Huyền Trang hẳn đă ngắm nh́n những đỉnh tuyết trắng của dăy Hy-mă mà quê hương Lạc Dương của ông không hề có.
Tại Simla, ngắm nh́n những đỉnh núi tuyết, lần đầu tiên tôi bị một một chấn động tâm linh. Núi trắng xóa hiện ra rực rỡ dưới ánh mặt trời. Làm sao tả được những đỉnh núi ? Núi gây cho tôi một ấn tượng uy nghi, xa cách nhưng nhân hậu. Đỉnh núi thuần tịnh màu tuyết trắng cũng như ánh mặt trời rực rỡ chiếu rọi không phân biệt cho những ai hướng về nó.
Núi vương giả nhưng không chút kiêu mạn, núi chào đón nhưng không vồn vă, núi đứng đợi con người đến với ḿnh. Thế nhưng những ngọn núi cũng có sự khác biệt. Nói như Govinda, mỗi ngọn núi có một " nhân cách " và mỗi ngọn núi thiêng đều có thần.
Trong " Con đường mây trắng " Govinda viết: " Muốn nhận rơ kích thước một ngọn núi ta phải đứng ra xa nó; để thâu nhận dạng nó vào ḷng ta phải đi quanh nó; để hiểu vui buồn của nó ta phải biết quan sát nó trong mọi thời khắc của ngày của năm: lúc mặt trời mọc và lặn, giữa trưa và trong sự tĩnh lặng nửa đêm, trong những ngày mưa tối và dưới bầu trời xanh, trong tuyết mùa đông và giữa những cơn băo.
Ai biết ngọn núi theo cách này, người đó sẽ đến gần với tính cách của nó, nó có tự tính sống động và đa dạng như của con người " . Và theo Evans-Wentz, người đă sống rất lâu dưới chân Hy-mă lạp sơn th́ dăy núi dài trên 24.000 km này có gần chục ngọn núi thiêng và sự việc châu Á là gốc của mọi ánh sáng minh triết " không hề là một sự ngẫu nhiên " .
Vùng này là cực bắc Ấn Độ, giáp giới Trung Quốc. Những người cùng đi với tôi dơ tay giới thiệu ngọn này ngọn kia cao bao nhiêu mét, chúng c̣n nằm trong địa phận Ấn Độ hay đă ở phía Trung Quốc. Tôi bỏ ngoài tai câu chuyện biên giới.
Không quan trọng ǵ nó nằm ở đâu, những ngọn núi này đâu phải để con người cai quản. Chúng trường tồn với thời gian, c̣n biên giới quốc gia có thể vài mươi năm đă thay đổi. Thậm chí các dân tộc có thể biến mất trên hành tinh này nhưng núi non vẫn c̣n.
Hơn thế nữa gốc của núi non là siêu thế gian, những ǵ chúng xuất hiện cho ta thấy chỉ là một phần rất nhỏ của chúng. Đừng đem chuyện thế gian mà đo lường chuyện siêu thế.
Lần này tôi chưa được thấy Everest nhưng chục năm về sau tôi sẽ thấy. Thế nhưng Everest chưa phải là thiêng liêng nhất v́ chiều cao chưa nói lên điều hệ trọng. Cách chỗ tôi đứng ngày đó chưa đầy hai trăm cây số đường chim bay về hướng Đông Bắc có một đỉnh tên gọi là Ngân sơn, chỉ cao 6714 m, nhưng đó là chốn thiêng liêng nhất, là trú xứ của thánh thần, là hiện thân của núi Tu-di trong thế giới vật chất này.
Đây là ngọn núi mà cả Ấn Độ Giáo lẫn Phật Giáo xem là quan trọng nhất trong rặng Hy-mă. Đó là ngai vàng của thần Shiva của tín đồ Ấn Độ giáo và là man-đa-la vĩ đại của Phật giáo Tây Tạng. Đỉnh của Ngân sơn chính là trục của vũ trụ siêu h́nh. Đỉnh này tôi chưa được đến đảnh lễ. Liệu đời tôi có ngày đến được nơi đó chăng ?
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 579 of 1146: Đă gửi: 04 July 2010 lúc 11:42pm | Đă lưu IP
|
|
|
MÙI HƯƠNG TRẦM
PHẦN THỨ NHẤT:
DƯỚI CHÂN HY MĂ
CON SÔNG THIÊNG
Thương nhân thường có quá ít thời gian, quá ít tâm trí. Họ dành thời gian để tính toán và tâm trí để phàn nàn nguyền rủa. Cuộc sống vốn đă đầy phiền muộn, thương nhân phương Tây đi công tác tại các nước châu Á lại càng gặp lắm vấn đề. Đối tác của họ th́ phức tạp, thời tiết th́ viêm nhiệt, khách sạn th́ chật chội, môi trường th́ ô nhiễm. Làm sao họ yêu được đất nước đó mà để tâm t́m hiểu ?
Một khi môi trường ô nhiễm th́ những con sông là kẻ chịu bất hạnh trước nhất, là chỗ chứa rác khổng lồ. Tại những thành phố lớn như *** hay Bangkok, kênh lạch là những nơi mà dân chúng c̣n bịt mũi tránh xa, nói ǵ đến thương nhân. Đâu mấy ai biết những ḍng nước hôi thối đó bắt nguồn từ những ngọn núi xa xôi mà nguồn nước của chúng xanh hơn ngọc, trong vắt không chút bợn nhơ.
Đến Delhi cũng thế, tôi ngán ngẫm thứ bụi vàng đeo bám áo quần, mùi xú uế luôn luôn có mặt trong không khí và mỗi lần qua các cầu bắc ngang kênh lạch, tôi vẫn nhớ đến kinh Nhiêu Lộc trong thành phố của ḿnh cũng không khác bao nhiêu. Thành phố nào h́nh như cũng xây dựng trên một con sông.
Không hẳn như thế. Tôi đă từng đi qua những miền sa mạc mênh mông ở Bắc Phi và đă thấy thế nào là vùng đất khô cằn trên thế giới. Đó là những vùng mà đi hàng trăm cây số người ta không hề thấy bóng dáng một con sông, một ḍng lạch, chỉ toàn là cát và cát ngút ngàn. Trước mắt kẻ lữ hành như tôi, chân trời lại chân trời toàn những cồn cát nối nhau xuất hiện.
Ở vùng đất đó chỉ có loại bụi gai thấp nhỏ là có thể sống, chỉ có loài lạc đà mới chịu nổi cơn khát. Đến một vùng nọ, sau đoạn đường dài đầy cát người ta dẫn tôi cho đi xem " ốc đảo ", chúng là những điểm hấp dẫn của du khách. Trong ốc đảo, người ta hănh diện chỉ cho thấy một vùng xanh tươi với đậu cải, cam mía, nhất là chà-là.
Tôi bỗng nhớ Việt Nam, đó hẳn là một vùng ốc đảo mênh mông với hàng chục ngàn con sông lớn bé. Châu Á khác Bắc Phi ở chỗ nơi đây trời phú cho nhiều sông, mỗi con sông là suối nguồn của cả một vùng kinh tế và cả một nền văn hóa.
Con sông hẳn phải là bà mẹ nuôi dưỡng đời sống nên ngày xưa mới đầu người ta tụ nhau bên bến sông và trải qua bao thế kỷ mà thành phố xá. Thế nhưng con người sớm vô ơn bạc nghĩa với sông, xem sông là nơi tha hồ đổ xả để rồi ngày nay qua sông người ta nặng lời nguyền rủa.
Tôi cũng nguyền rủa mùi xú uế bốc lên từ các kênh lạch tại Delhi. Tôi không biết rằng các kênh lạch đó là những nhánh của sông Yamuna, bắt nguồn từ Hy-mă lạp sơn. Trong huyền thoại Ấn Độ, sông Yamuna là hiện thân của con gái của thần mặt trời Vivasvat.
Nàng con gái Yamuna này lấy người anh sinh đôi của ḿnh là Yama để trở thành cặp t́nh nhân đầu tiên của loài người. Ngày nay không c̣n mấy ai biết truyện t́nh kỳ lạ này nữa, những chiếc cầu bắc qua Yamuna trở thành các trục giao thông với ḍng xe cộ chạy hối hả.
Ngày nọ, trên một chiếc cầu của Yamuna xe taxi của tôi đi có lẽ đă gây một tai nạn chết người. Xe đang chạy tự nhiên hư máy đứng lại. Ngồi băng sau nh́n lui tôi thấy một chiếc xe gắn máy từ xa băng băng chạy đến, người lái xem ra không thấy xe hư đang đứng yên trên cầu.
Nỗi đau của tôi là thấy sờ sờ tai nạn sắp xảy ra mà không làm ǵ được. Một tiếng " bụp " khô rốc vang lên, người lái xe bay về phía trước dễ chừng năm bảy mét quằn quại trên đường. Mọi người chạy ào tới. Không nói với tài xế một tiếng, tôi mở cửa xách cặp bước ra xe, đi như chạy.
Thần Vivasvat hăy cứu độ người đó, c̣n tôi, tôi phải giữ thân mạng cho ḿnh, lỡ có ai nóng tính hành hung tôi th́ sao, dù sao tôi cũng có chút lỗi. Mong thay anh ta không chết, mong thay anh ta đến được sông Hằng mà tắm.
Sông Hằng th́ ra khá gần Delhi, chỉ cần đi khoảng 60 km là đến. Hằng hà mà người Ấn gọi là Ganga, ngày đến đó tôi không ngờ đời ḿnh có lúc đến thăm con sông thần thoại này.
Từ ngày hiểu " hằng hà sa số " là cách nói trong kinh Phật, " nhiều như cát sông Hằng " , tôi gắn liền sông Hằng với Phật và xem đó là một huyền thoại.
Đối với tôi, sông Hằng là biểu tượng của Phật giáo Ấn Độ. Ngày xưa tôi có nghĩ đời ḿnh sẽ thấy tháp Eiffel của Pháp nhưng không nghĩ ḿnh sẽ đến sông Hằng. Bởi thế tôi xúc động xiết bao khi tài xế kêu lên " Ganga " . Sông Hằng đây sao ? Thật không hỡi anh lái xe?
Sông Hằng, con sông thiêng chảy từ ngón chân của thần Vishnu, " bị buộc phải rời thượng giới mà đến với trần gian " là đây. Nhưng hằng hà sa số cát đâu, tôi không thấy hạt nào cả. Đoạn này của sông Hằng mà tôi đến thăm lần đầu là thượng nguồn sông Hằng, đó là nơi nước chảy với lưu lượng rất mạnh, hai bên bờ không hề có cát.
Nước sông màu xanh lục, trên sông có chỗ nước sôi réo bạc đầu. Đoạn sông Hằng này là một nơi tấp nập người qua kẻ lại, du khách khá nhiều. Đây được xem là một đoạn sông thiêng nhất, hai bên bờ khá nhiều đền thờ. Và đúng như tôi chờ đợi, tín đồ Ấn Độ giáo tắm gội rất nhiều dù trời đang lạnh.
Thú vị thay khi thấy trẻ con bị cha mẹ dội nước lên đầu, chúng run cầm cập. Tôi nhớ thời thơ ấu của ḿnh, chúng tôi cũng run như thế trong mùa đông khá lạnh của miền Trung.
Tại sông Hằng, trẻ con miễn cưỡng để dội nước, miệng lầu bầu, c̣n người lớn xuống sông bơi lặn, mặt mày thành khẩn, miệng lâm râm. Hai bên bờ sông người ta xây kè xi măng với hàng chục dây xích sắt để tín đồ níu lại, khỏi bị nước cuốn trôi.
Con sông thiêng này xuất phát từ dăy Hy-mă, nó có tới ba nguồn lớn, chúng chập nhau tại Devaprayag và từ đó mới mang tên Hằng hà. Một nguồn chính của Hằng hà xuất phát từ Gangotri, cao 6771 m. Từ đây đến Devaprayag nhánh này mang tên Bhagirati v́ ngày nọ có một vị thánh nhân tên là Bhagirata khẩn cầu con sông của thượng giới hăy hiện xuống cho cơi trần. V́ thế mà có sông Hằng, và v́ thế mà sông thiêng liêng " bực dọc " phải rời thiên giới.
Hằng hà chảy ra đến tận vịnh Bengale, xuyên qua vùng thánh địa Bihar, nơi bao nhiêu thánh nhân ra đời và hoạt động. Huyền Trang Tam Tạng đến sông thăm sông Hằng khoảng năm 630, viết trong Đại Đường Tây Vực kư: " Gần nguồn sông rộng khoảng ba lư, đến cửa sông bề rộng khoảng mười lư.
Nước sông xanh đậm, màu nước luôn luôn thay đổi...Ai tắm sông này người đó sẽ được rửa sạch mọi tội lỗi, ai chết ở sông này sẽ được sinh về cơi trời " . Về sau tôi đến Varanasi, đó là một thành phố phồn vinh suốt hai ngàn năm qua, nơi có sông Hằng chảy qua. Nơi đây sông Hằng hết " bực dọc " , êm đềm hầu như nước không chảy, bề rộng rất lớn, không biết đúng " mười lư " không.
Nhưng nơi đây tôi thấy cát, cát nhiều vô tận. Ôi, có phải cát này cũng là cát mà Phật thấy cách đây hai ngàn năm trăm năm không, để có từ " hằng hà sa số " . Chắc đúng thế thôi, khoảnh thời gian đó đối với con người là dài nhưng thấm vào đâu với núi non đất cát.
Hơn thế nữa thời gian hầu như ngừng lại tại Ấn Độ, bên bờ Varanasi người ta vẫn đốt xác, vẫn tắm gội, vẫn thả tro theo sông, vẫn ngồi thiền định khi mặt trời vừa lên. Nơi đây chỉ cách vườn Lộc Uyển chưa đầy chục cây số, chỗ Phật giảng pháp lần đầu. Hỡi các hạt cát dưới chân ta, trong các ngươi hạt nào có hân hạnh in dấu chân đức Thế Tôn ?
Hy-mă lạp sơn không phải chỉ là nguồn của Yamuna và Hằng hà, đó là nguồn của các con sông đầy uy lực của châu Á. Từ vùng Ngân sơn xuất phát thêm bốn con sông lớn nữa. Đó là Tsangpo hay Brahmaputra chảy về hướng đông ra vịnh Bengale, nó được người Tây Tạng mệnh danh là " chảy từ hàm ngựa " .
Nó chảy qua phía nam Lhasa, bọc quanh một đỉnh núi tuyết cao hơn 7700 mét trước khi rời cao nguyên để đi về biển. Phía tây Ngân sơn là chỗ xuất phát của sông Sutlej, nó được xem từ " miệng voi " .
Sutley về sau hợp nhất với sông Indus, một con sông mạnh mẽ chảy về biển Á-rập phía tây Ấn Độ. Indus, được xem từ " miệng sư tử " , cùng với Bramaputra là hai cánh tay khổng lồ ôm bán đảo Ấn Độ. Phía nam Ngân sơn là chỗ xuất phát của sông Karnali, mang tên từ " miệng chim công " , nó chảy dài đến Patna, hợp nhất với Hằng hà gần đó.
Patna ngày xưa tên gọi là Hoa Thị Thành, nơi Phật thường ghé thăm và nơi sinh của hàng chục vị Tất địa của thế kỷ thứ tám thứ chín sau công nguyên. Bốn con sông lớn đó với bốn linh vật của các vị Thiền Phật là một lẽ mà tại sao Ngân sơn được xem là một man-đa-la vĩ đại, là hiện thân của núi Tu-di trong thế giới này.
Phía đông của cao nguyên Tây Tạng là chỗ xuất phát của nhiều con sông lớn nữa, trong đó có Hoàng Hà, Trường Giang và Cửu Long. Hoàng Hà và Trường Giang là hai con sông trọng yếu nhất của Trung Quốc, ḍng chảy của chúng là quê hương của một nền văn hóa thâm hậu nhất của loài người mà về sau tôi sẽ đi thăm.
C̣n Cửu Long là nguồn sống của nhiều nước miền Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Nếu lấy cao nguyên Tây Tạng làm tâm điểm, vẽ một ṿng tṛn bán kính chưa đến ngàn cây số th́ ṿng tṛn đó bao gồm tất cả nguồn cội của những con sông nói ở trên.
Chỉ điều đó thôi đă gây cho tôi một ḷng kính sợ đối với cao nguyên Tây Tạng, " nóc nhà của thế giới " . Đúng, không phải là sự ngẫu nhiên khi ánh sáng của minh triết loài người xuất phát từ vùng đất lạ lùng này. Tôi đă đến Cửu Long giang miền tây nam bộ và từng thấy con nước mănh liệt của nó.
Nguồn của nó không phải tầm thường, ḍng sông đó là anh em với Hằng hà, Trường Giang, nó mang khí lạnh của Hy-mă, sức sáng của tuyết trắng, sự uy nghi của non cao, cái bí ẩn của các man-đa-la vô h́nh. Nếu nó có bị ô nhiễm th́ cũng v́ con người bạc nghĩa, thế nhưng dù thế nó vẫn nhân hậu sống theo người.
Nó vẫn không hề mất tính thiêng liêng của nguồn cội và v́ tâm người ô nhiễm nên cảm nhận chúng nhiễm ô. Về sau, tôi c̣n đến Hằng hà nhiều lần trên bước lữ hành tại Ấn Độ cũng như sẽ có dịp đi dọc Trường Giang qua những vùng linh địa của Trung Quốc.
Rồi lại có ngày tôi đă đến cao nguyên Tây Tạng, đi dọc sông Tsangpo chảy từ hàm ngựa và thở hít không khí loăng trên miền đất cao 4000m trong man-đa-la vĩ đại của địa cầu. Một ngày nào đó hy vọng tôi sẽ có dịp đến thượng nguồn Cửu Long, sẽ thấy một màu nước xanh lục như màu nước Hằng hà và sẽ nhớ về miền tây nam bộ của ḿnh.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 580 of 1146: Đă gửi: 04 July 2010 lúc 11:45pm | Đă lưu IP
|
|
|
MÙI HƯƠNG TRẦM
PHẦN THỨ NHẤT:
DƯỚI CHÂN HY MĂ
GIẤC MƠ CẨM THẠCH
Ấn Độ thật ra là một nước du lịch. Mặc dù đường sá kém mở mang, điều kiện vệ sinh hạn chế nhưng nhờ một nền văn minh lâu đời, một nền văn hóa thâm hậu và những công tŕnh kiến trúc xuất sắc mà Ấn Độ hàng năm thu hút hàng triệu khách du lịch.
Người đến thăm Ấn Độ, nhất là khách Âu Mỹ phải chấp nhận cái thực tế, đây là một thế giới hoàn toàn khác, tự nó là một thế giới. Tôi chưa đến Calcutta nhưng nhiều người cho hay, tới đó có nhiều khách phải đâm sợ v́ quá nhiều người sống chen chúc và v́ sự cách biệt giàu nghèo quá lớn. Có người cho rằng muốn biết địa ngục h́nh dáng thế nào th́ cứ đến Calcutta.
Thế nhưng phần lớn khách du lịch không muốn biết địa ngục, họ đi t́m những lăng tẩm cổ kính, những cung điện huy hoàng, những thành quách vĩ đại của vua chúa trong các thế kỷ trước. Ấn Độ của thời quá khứ không hề thiếu vua chúa, đó là xứ sở của các tiểu vương cai trị nhiều khi không quá " vài vạn nóc nhà " , như cách đếm dân ngày xưa hay nói.
Vua chúa Ấn Độ cũng không hề dè sẻn trong các công tŕnh xây dựng, họ cần lâu đài cho mùa hè và mùa đông, cho chính hậu và thứ phi, cho con trai và con gái. Dân Ấn Độ th́ đông và sẵn sàng chịu đựng, cát đá th́ nhiều và dễ khai thác, nhất là loại cẩm thạch trắng.
Nghệ nhân Ấn Độ khéo tay, thông minh, ham tưởng tượng và sẵn sàng quên ḿnh cho các vị thần của Ấn độ giáo. V́ những lẽ đó mà các công tŕnh xây dựng của Ấn Độ ở đâu cũng có, ở đâu cũng là những kỳ quan, thu hút rất đông du khách.
Trong các kỳ quan kiến trúc của Ấn Độ, hẳn Taj Mahal phải là tiêu biểu và đáng chiêm ngưỡng nhất. May thay Taj Mahal không xa Delhi bao nhiêu, khách có thể theo tour du lịch trong ṿng một ngày cả đi lẫn về.
Đây là một kỳ quan diễm tuyệt của nghệ nhân Ấn Độ của thế kỷ thứ 17. Ngôi đền được xây bằng cẩm thạch trắng muốt, có một kiến trúc vừa trang nghiêm vừa nhẹ nhàng, vừa uy nghi vừa nên thơ.
Nếu nghệ thuật nói chung là sự vật chất hóa của những ư niệm, biến ư niệm thành những ǵ thấy được như kiến trúc, hội họa; nghe được như âm nhạc; đọc được như văn chương thơ phú th́ nghệ thuật xây dựng Taj Mahal là sự kết hợp hoàn hảo của dạng h́nh và sắc màu, của kiến trúc vĩ mô và ḷng cẩn trọng chi li.
Theo lời kể lại th́ ngày xưa nghệ nhân Ấn Độ hoàn thành công tŕnh này trong những điều kiện tâm lư rất khe khắc và tàn bạo của chế độ phong kiến. Thế nhưng ngắm nh́n công tŕnh này người ta không thể nghĩ ǵ khác hơn đây là sự hiến dâng quên ḿnh trong nghệ thuật tạo h́nh.
Taj Mahal là kết quả của một công tŕnh hoàn hảo của những con người không tên, thế nhưng nó được xem là quà tặng của một nhà vua tên gọi là Shah Jehan cho hoàng hậu của ḿnh chẳng may mất sớm. Shah Jahan là nhà vua thứ năm của triều đại Mogul, mà người sáng lập là Babur, một tín đồ Hồi giáo.
Sau Babur th́ nhà vua xuất sắc nhất của đời Mogul là Akbar. Akbar là người thống nhất Ấn Độ từ vịnh Á-rập phía tây đến vịnh Bengale phía đông, trị nước từ 1556 đến 1605 và là nhà vua rất có công trong nền văn hóa Ấn Độ. Shah Jehan là cháu của Akbar, lên ngôi trong thời cực thịnh của đời Mogul.
Thế nhưng Shah Jehan rơi vào hai thứ đam mê, đó là các công tŕnh kiến trúc và sắc đẹp phụ nữ. Shah Jehan có khoảng 5000 cung nữ mà người ông yêu quí nhất là hoàng hậu Mumtaz Mahal. Bà hoàng này chẳng may mất lúc mới 39 tuổi, sau khi sinh cho ông đứa con thứ 14.
Đời của Shah Jehan không c̣n ǵ vui thú nữa, ông tự nói và suốt 35 năm sau khi Mumtaz Mahal chết, ông dành hết thời giờ cho các công tŕnh kiến trúc.
Taj Mahal được xây dựng năm 1659 và 16 năm sau mới hoàn thành, gồm toàn đá cẩm thạch trắng. Nơi đây có 20.000 nghệ nhân, kể cả thợ khéo từ Pháp, Ư, làm việc. Khoảng 1000 thớt voi được điều về đây để chuyên chở hàng ngàn tấn đá. Đây là một công tŕnh mà thế giới cho là toàn hảo nhất trong kiến trúc, trong chi tiết thi công và vật liệu xây dựng.
Hăy đến gần và nh́n ngắm hàng ngàn chi tiết trên tường vách của điện. Đáng quí thay những đóa hoa bằng đá tí hon với tất cả sự tinh xảo của bàn tay con người. Tôi tưởng tượng hàng ngàn nghệ nhân miệt mài trong cơn rét mùa đông của Bắc Ấn và nắng lửa của những ngày hè có khi lên đến gần 50 độ C.
Những nghệ nhân khuyết danh đó thật ra đă làm một điều mà Thiền tông hay nói, họ đă ḥa làm một với tác phẩm chính ḿnh.
Ngày nay Taj Mahal tại Agra là chỗ không thể thiếu cho mọi ai có dịp đến Ấn Độ, mỗi năm đền tiếp khoảng 2,5 triệu khách du lịch. Số lượng người to lớn đó vô t́nh đă làm đền hư hại không ít.
Chỉ hơi thở của khách đă tạo nên một độ ẩm trong đền cao tới mức có khả năng làm rỉ sét các khung sắt giữ mặt đá cẩm thạch. Các nhân tố môi trường khác như hóa chất và khí thải cũng để lại những vết tích nặng nề.
Ngày nay xung quanh Taj Mahal trong bán kính 100km không có nhà máy phát điện hay cơ xưởng cơ khí và hóa chất nào được xây dựng. Nhờ những biện pháp đó mà ngày nay đền vẫn c̣n giữ được vẻ đẹp vô song, đá cẩm thạch vẫn c̣n trắng tinh khiết.
Tôi đă đến Taj Mahal hai lần để ngắm tác phẩm kiến trúc dành cho t́nh yêu vĩnh cửu này, nhưng tiếc thay không có lần nào vào ban đêm có trăng. Người ta cho rằng phải thấy Taj Mahal dưới ánh trăng, lúc đó ngôi đền cẩm thạch trắng này sẽ toát ra một ánh sáng kỳ ảo.
Trên đường xe bus về lại khách sạn buổi tối tôi ngồi cạnh một thương nhân người Mỹ. Khuya nay phải lên đường đi châu Âu, ông tận dụng ngày rảnh hiếm hoi hôm nay để thăm đền thờ này. Thấy ông lên đường về nước, tôi bỗng nhận ra ḿnh không c̣n ham thích lên máy bay về Đức như những ngày đầu nữa, nước Ấn Độ đang hé mở cho tôi nhiều điều kỳ diệu.
Tôi không thiếu những ngày rảnh rỗi tại Delhi v́ phải lưu lại dài ngày nơi đó, công việc đă đi vào giai đoạn triển khai công tŕnh. Ngày nọ tôi bỗng nhớ tại sao ḿnh không t́m xem các di tích Phật giáo tại Ấn Độ và hỏi một bạn đồng nghiệp có kinh nghiệm lâu năm tại đây xem sao, người đó nh́n tôi nói:
" Phật giáo đâu c̣n ǵ tại đây nữa, nếu rảnh th́ đi xem Red Fort đi " . Tôi không tin và xem lại các tour du lịch quảng cáo trong khách sạn, quả nhiên không thấy ai nhắc đến Phật giáo cả.
Phật giáo xuất phát từ Ấn Độ sao nay suy tàn, đó là điều không thể, tôi vẫn không tin là đúng. Ngày trước Huyền Trang qua Ấn Độ thỉnh kinh và ngày nay tôi vẫn nghe các tu sĩ Việt Nam qua Ấn Độ học triết học Phật giáo mà. Nghĩ thế nhưng tôi không biết làm ǵ hơn là đi xem Red Fort.
Red Fort chính là kinh thành do Shah Jahan xây dựng năm 1638. Đó là một tổng thể một thành quách đồ sộ có diện tích khoảng nửa cây số vuông dựng lên bằng đá ong đỏ nằm ngay giữa Delhi. Tôi nhớ màu đỏ tía Tử Cấm Thành của Bắc Kinh. Đời Shah Jahan tại Ấn Độ chính là triều nhà Minh cũng với những công tŕnh xây dựng đồ sộ tại Trung Quốc.
Red Fort có qui mô không thua kém ǵ Tử Cấm Thành nhưng nếu Tử Cấm Thành là qui mô của triều đ́nh có nhiều cung điện nằm rời nhau th́ Red Fort là hành dinh có tính chất quân sự nên có kiến trúc như một thành quách với vô số ngơ ngách thông thương lẫn nhau.
Thế nhưng, phía sau những bức tường thành vĩ đại đó đă diễn ra những âm mưu và tội lỗi, kể cả trong một xứ sùng tín như Ấn Độ. Shah Jahan để lại cho đời sau những kiến trúc tầm cỡ nhưng ông bị chính con trai của ḿnh là Aurangzeb cầm tù đoạt ngôi.
Trong tám năm cuối đời ông bị con ḿnh giam ở Agra, cũng trong một thành quách to lớn. May thay ông c̣n diễm phúc được ngày ngày ngắm nh́n Taj Mahal từ cung điện tù ngục của ḿnh Trong truyền thống vua chúa Ấn Độ ta thấy lịch sử lặp đi lặp lại nhiều lần chuyện con giết cha giành ngôi.
Chuyện con ám ngại cha đoạt ngôi vàng được nhiều biết nhất là Tần-bà-sa-la, nhà vua trị v́ nước Ma-kiệt-đà trong thời Phật tại thế. Ông và hoàng hậu về sau bị con trai là A-xà-thế cầm tù bỏ đói đến chết.
Tần-bà-sa-la là người theo Phật, ông tôn trọng Ngài đến nỗi khi lên núi Linh Thứu thăm Phật, ông luôn luôn xuống xe đi bộ. Tôi đă từng đến cung điện mà ngày xưa nghe nói Tần-bà-sa-la bị giam ở đây, ngày nay chỉ c̣n nền đá. Nơi đây tôi thấy vài ṿng sắt c̣n sót lại, người ta cho rằng đó là c̣ng sắt cùm chân nhà vua ngày trước.
Tôi không tin lắm v́ thật như thế th́ đă có kẻ sớm đánh cắp lưu vật mấy ngàn năm này nằm giữa một sườn núi trơ trọi, không ai canh giữ. Nhưng hề ǵ chuyện đó đúng hay sai, ai cũng đă chết, vấn đề là mỗi người để lại những ǵ cho hậu thế.
Ngày nay người ta c̣n nhắc đến Tần-bà-sa-la khi đi thăm vườn tre Trúc Lâm, quà tặng của ông cúng dường Phật. Cả A-xà-thế cũng c̣n được tôn trọng v́ về sau, người con phạm tội ngũ nghịch đó đă tỉnh ngộ và phụng sự Phật pháp. Ông chính là người xây dựng thuyết đường cho hội nghị kết tập lần thứ nhất sau khi Phật diệt độ.
Tội lỗi là điều không thể tránh khỏi của cuộc đời làm người. Nhà thơ lớn Goethe của Đức đă từng nói: " Đời tôi chưa gặp ai mà tội lỗi của họ tôi không thể làm " . Khiêm tốn biết bao và cũng thẳng thắn biết bao ! Con người sinh ra h́nh như có một xu hướng nhất định sẽ làm những điều này điều nọ, xấu tốt đều có.
Nó phải tuân thủ những xu hướng đó và cơ may của nó là qua những hành động hay dở của ḿnh mà ngộ ra vài điều cho đời ḿnh. V́ nếu không thông qua tội lỗi để hiểu ngộ một cách thâm sâu cái thiện mỹ đích thực xuất phát từ trái tim ḿnh th́ cuộc đời xem ra không có ư nghĩa ǵ.
Né tránh tội lỗi, tập làm thiên thần, đó là điều đạo lư nên làm, nhưng cũng dễ là bước đường đi vào trong bóng tối của ngu muội và ngă ái. Đó là sự sai lầm chia thế giới làm hai phạm trù tốt xấu, đúng sai, xem sự vật như một h́nh ảnh đen trắng mà không biết rằng cuộc đời vốn đầy màu sắc và thiện ác là một điều hết sức tương đối và thường có nguồn gốc rất sâu xa.
Có những hành động cực ác nhưng nó phải xảy ra để ăn khớp với một mắc xích nào đó của sự vật, để một biến cố khác xuất hiện. Muốn hiểu những điều đó phải có một tầm nh́n, thấy được những nguyên nhân nằm trong quá khứ xa xôi mà ngày nay nó mới bắt đầu trổ quả.
Con người chúng ta chỉ có tầm nh́n của một kiếp người, thậm chí đầu óc không nhớ quá mười năm quá khứ, thế nhưng vẫn ngă mạn dám lên án và đánh giá, tưởng ḿnh là kẻ thấu hiểu mọi vật. Muốn hiểu đích thực sự vật phải hiểu giềng mối của nó mà chỉ có thánh nhân thấy tác động của nghiệp lực qua nhiều đời nhiều kiếp mới đủ khả năng phán đoán.
Phật là một người như thế và cũng chính v́ thế mà Ngài lại là người không lên án ai cả và chỉ có một nụ cười bí ẩn. Thời A-xà-thế hăm hại cha ḿnh là lúc Ngài c̣n tại thế nhưng Ngài đâu ra tay giải cứu.
Học tṛ Ngài là Xá-lợi-phất và Mục- kiền-liên bị ám sát thảm khốc nhưng Ngài không can thiệp. Con trai Ngài là La-hầu-la chết rất sớm nhưng Ngài vẫn tự nhiên.
Chỉ có những thánh nhân như Phật mới thấy rơ ḍng chảy của nghiệp và v́ vậy Ngài không xen vào hành động của A-xà-thế. Người ta biết A-xà-thế phạm tội giết cha nhưng ít người biết chuyện ông là hậu thân của một vị đạo sĩ.
Ngày trước, vua cha là Tần-bà-sa-la nghe tiên tri rằng ḿnh sắp có con trai nên cho người đi t́m một vị thánh nhân đạo cao đức trọng, bức tử vị đó để mong thần thức người đó thác sanh làm con ḿnh. Tùy tùng của vua chọn ra vị đạo sĩ nọ, nhưng vị này chạy trốn, hóa thành con thỏ. Tần-bà-sa-la cho bắt con thỏ treo ngược, bỏ đói đến chết.
Thỏ đầu thai làm con trai của Tần-bà-sa-la là A-xà-thế. Cuối cùng A-xà-thế treo ngược bỏ đói vua cha, đúng như nghiệp ác đă gây nên. Ta cũng biết thêm bà hoàng hậu Vi-đề-hi, vợ của Tần-bà-sa-la quá chán ngán cuộc đời làm người với hành động thảm khốc của con ḿnh nên cầu xin Phật dạy cách thác sinh vào một nơi " thanh tịnh " .
Nghe lời khẩn cầu của bà, Phật mới giảng kinh A-di-đà và thuyết về cơi tịnh độ. Từ đó ta có thể nói Tịnh Độ tông bắt nguồn từ những hành động ngỗ nghịch của A-xà-thế.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|