Tác giả |
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1001 of 1146: Đă gửi: 25 January 2011 lúc 11:57pm | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN
Đại sư thứ 2: Lilapa - Đức vua ẩn sĩ
Trong cái vút nhanh
của bốn trạng thái tâm cao thượng,
Đức vua - Nhà Du-già - Con sư tử chốn rừng già
Vương miện là năm cḥm lông màu lam ngọc
C̣n nhà Du-già kia
Vương miện là năm thức thanh tịnh
Với mười vuốt sắc
Con mănh sư xé nát thịt con mồi
Mười hạnh tốt của nhà Du-già
Bén như gươm đao
chặt đứt những quyền năng tiêu cực
V́ ngộ được chân lư này nên Lilapa giải thoát
Truyền thuyết
Một ngày nọ, trong khi vị quốc vương vùng Tây Ấn đang tựa lưng ở bệ rồng, chợt có lính canh tâu rằng có một vị đạo sĩ muốn vào bái kiến.
Nh́n vẻ cơ hàn và nét phong trần của đạo sĩ, nhà vua tỏ vẻ ái ngại và thương xót, vua phán: “Sống rày đây mai đó, hẳn là thầy khổ lắm? ”
“Tâu bệ hạ, tôi không hề lấy đó làm khổ năo. Có chăng chính bệ hạ mới là kẻ đau khổ, đáng thương.” Đạo sĩ ung dung đáp.
“Cớ sao thầy nói vậy? ” Nhà vua sửng sốt hỏi.
“Trước hết, bệ hạ luôn sống trong nỗi lo mất ngôi, mất nước. Ḷng của bệ hạ lúc nào cũng canh cánh lo sợ cơn thịnh nộ của thần dân dễ đưa tới việc tạo phản. V́ thế nên bệ hạ đau khổ. C̣n như tôi đây, vào nước không ch́m, vào lửa không cháy, độc không hại được, lại biết thuật trường sinh bất tử, ra khỏi luân hồi.”
Nghe qua lời đạo sĩ nói, nhà vua bồi hồi than rằng: “Bạch thầy, làm thế nào quả nhân có thể bắt chước nếp sống rày đây mai đó cơ cực như thầy. Cúi xin thầy từ bi ban cho diệu pháp. Có cách tu nào phù hợp với hoàn cảnh của quả nhân, không ĺa ngôi báu, vợ đẹp con xinh, cung điện nguy nga mà vẫn tu thành chánh quả được chăng? ”
Bạch xong, vua phủ phục năm vóc sát đất khẩn cầu đạo sĩ truyền pháp. Đạo sĩ hoan hỷ nhận lời, bèn trao tâm pháp cho nhà vua. Nghe xong pháp từ, vua liền vào định.
Kể từ đó, nhà vua thường tu tập thiền định ngay trên ngai vàng và thậm chí trong khi cùng các phi tử thưởng thức vũ nhạc. Nhà vua được mệnh danh là Lilapa v́ tính ưa lạc thú và yêu thanh sắc của ngài. Cách tu của Lilapa là chú mục bất động vào chiếc nhẫn ngài đeo ở bàn tay phải.
Sau khi đắc định, vua bèn quán thân tướng của thủ thần (Yidam) Hevajra cùng quyến thuộc của ngài. Lilapa ngộ được chân lư rốt ráo và đắc thần thông Đại thủ ấn sau khi thành tựu pháp quán này.
Hành tŕ
Qua truyền thuyết của ngài Lilapa, ta thấy một khi giáo pháp của một bậc thầy khế hợp với căn cơ của người đệ tử th́ người ấy không nhất thiết phải ĺa bỏ đời sống gia đ́nh, từ bỏ các thú vui ngũ dục, mà vẫn có thể tu tập tập đạt tới cứu cánh Niết-bàn.
Kim cương thừa trở nên ngày càng cực thịnh, trước hết là do khuynh hướng chung của xă hội Ấn Độ thời ấy, khi mà quyền lực của giai cấp Bà-la-môn bắt đầu suy sụp, Đa thần giáo phát triển rộng răi trong các giai tầng thấp hơn, lối tu khổ hạnh không c̣n sức thu hút quần chúng và chủ nghĩa hưởng lạc xuất hiện.
Kim cương thừa vừa là nhân vừa là quả của một sự kết hợp giữa dục lạc và giải thoát. Trong giáo pháp Kim cương thừa, triết học nhất nguyên (Vạn pháp duy tâm tạo) của Ấn Độ đă đạt đến chỗ cùng tột của nó. Đó là xem bản chất của hành vi con người cũng đồng với các bậc thánh.
Tuy nhiên kẻ cầu đạo phải có đủ sức dũng mănh tinh tấn, dám thừa nhận ḿnh vốn là Phật và cảnh giới quanh ḿnh vốn là cơi Phật.
Điều quan trọng nhất là hành giả phải gặp được chân sư. Vị chân sư này sẽ xem xét căn cơ mà truyền pháp khế hợp với kẻ cầu đạo, hướng vị này đến chân lư giải thoát rốt ráo để cứu độ chúng sinh với tâm vô ngă chứ không hướng đến dục lạc.
Ngoài ra, căn cơ của hành giả cần phải ở vào giai đoạn chín mùi, nghĩa là vị ấy phải dốc một ḷng cầu chân lư giải thoát. Ngài Lilapa có những đủ cơ duyên ấy, nên sau khi được điểm đạo ngài đă say mê tu tập pháp thiền định trụ tâm vào một điểm duy nhất (one-pointed samadhi).
Đây là việc khó làm đối với những ai có đời sống bận rộn hay đang ch́m đắm trong dục lạc. Bởi ngay các hành giả Mật tông (tantrika) muốn nhất tâm quán điểm như thế cũng phải t́m nơi an tịnh như mật thất hay hang động hẻo lánh để tu luyện.
Nhưng trong Kim cương thừa, một khi hành giả hội đủ các duyên và được chân sư khai ngộ th́ việc xuất gia không theo nghĩa thông thường là “ly gia cát ái”, mà được hiểu như là một trạng thái của tâm - trạng thái dứt bỏ mọi vọng tưởng và phân biệt đối đăi.
Tâm an tịnh ấy là mật thất. An trú trong tâm an tịnh ấy, hành giả tự do quán sát cảnh giới di chuyển bên ngoài mà tâm vẫn không bị thôi thúc xô đẩy. Hành giả liền nhận biết rằng “không” không ĺa khỏi “sắc”.
Đây nói trụ tâm vào một điểm tức là thâm nhập vào đối tượng. Trụ tâm vào một điểm chỉ là giai đoạn sơ khởi, v́ như thế hành giả cũng chỉ mới nhập vào đàn pháp (mandala).
Lúc ấy, tướng của thủ thần Heruka và quyến thuộc của ngài chưa hiện rơ. Hành giả phải tiếp tục quán tưởng cho đến lúc thân tướng của vị thần này xuất hiện đầy đủ, rơ ràng đến từng chi tiết, màu sắc phải phân minh.
Sau đó, quán tưởng hai vị thủ thần nhập vào nhau giữa trung tâm đàn, đồng thời quán mười sáu vị Kim cương thủ vây quanh, mỗi mỗi hiện ra đầy đủ với các màu sắc khác biệt. Thành tựu giai đoạn này tức thời hành giả đắc pháp.
Phép quán này gọi là phép quán về tính hư vọng của sắc, v́ sắc ấy tức là tướng của thủ thần cùng quyến thuộc vốn từ hư không mà hiện ra.
Trên mặt nhẫn của ngài Lilapa vốn không có tướng của các thủ thần, v́ vận tâm quán tưởng mà có nên gọi sắc ấy là từ nơi không. V́ nghịch lư ấy, nên nói “sắc tức là không”.
Đây là Hevajra mạn-đà-la. Hevajra c̣n có tên là Heruka. Hevajra tantra tức Yoginitantra, chính là Tantra Mẹ.
Trong bài kệ xưng tán đệ nhất nghĩa đế, Lilapa tán dương con tuyết sư (sư tử tuyết) là chủ tể bí mật của muôn loài. Con sư tử cái cho một thứ sữa mà ai uống vào th́ được trường sinh bất tử. Nhưng loại sữa đặc biệt này chỉ được đựng trong b́nh ngọc mà thôi.
Năm cḥm lông xanh trên bờm con sư tử đực tượng trưng cho năm thức thanh tịnh. Mười vuốt chân tượng trưng cho Mười Ba-la-mật. Thành tŕ bất khả xâm phạm là Bốn tâm vô lượng.
Theo một số các tượng thường thấy th́ tượng thủ thần Hevajra màu xanh có tám mặt, bốn tay và bốn chân trong tư thế ôm choàng minh phi của ngài là Nairatma có khuôn mặt trắng, hai tay và hai chân. Cả hai đều trong tư thế nhảy múa, một chân co, một chân duỗi.
Có tượng vẽ ngài mười sáu tay, mỗi tay cầm một cái đầu lâu, c̣n Nairatma th́ một tay cầm đầu lâu, một tay cầm câu liêm, trong dáng đứng uy vũ chống lại pháp thuật của bốn quỷ thần gồm Phạm Thiên, Visnu, Siva và Sakra (Đế thích).
H́nh Phạm Thiên màu vàng, tượng trưng cho ngũ ma.
H́nh Visnu màu xanh, tượng trưng cho nhục cảm.
H́nh Siva màu trắng, tượng trưng cho sự huỷ diệt.
H́nh Sakra màu trắng, tượng trưng cho kiêu mạn và tham dâm.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1002 of 1146: Đă gửi: 25 January 2011 lúc 11:58pm | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN
Đại sư thứ 3: Virupa - Chân sư của các thiên nữ
Chân lư hiển nhiên thuộc về ta
Chỉ cần an trú trong thực tướng
Chẳng nghĩ, chẳng suy, chẳng nắm bắt
Chẳng phải của ta, chẳng là ta
Không cố chấp
Không cầu tỉnh giác
Chẳngphải thường hằng
Chẳng phải hằng
Giải thoát rốt ráo và viên măn
Truyền thuyết
Ngài Virupa vốn sinh trưởng ở miền đông xứ Triputa thuộc vương quốc Bengal dưới thời vua Devapala.
Ngay từ thuở thiếu thời ngài đă qui y tu học tại tu viện Somapuri. Không lâu sau đó, ngài nằm mộng thấy Kim cương nữ Bồ Tát trao cho tâm pháp. Với ḷng mong muốn mau thành tựu, ngài gia công tŕ tụng Kim cương chơn ngôn hai mươi triệu biến trong suốt thời gian 12 năm, nhưng ngài vẫn không thấy có dấu hiệu chứng đắc.
Một hôm, quá ư thất vọng, ngài ném xâu chuỗi vào hố xí và rủa thầm: “Mấy cái hạt vô tích sự này, chẳng liên quan ǵ đến niềm an lạc của ta.”
Tuy nhiên, vào một đêm trong khi đang hành tŕ công phu, sự bừng ngộ xảy ra trong tâm thức, ngài chợt nhớ đến xâu chuỗi đă mất. Tức th́ Kim cương nữ Bồ Tát hiện ra trao lại cho ngài xâu chuỗi và dạy rằng: “Ngươi chớ phiền năo. Ta sẽ luôn ở bên ngươi để hộ tŕ. Hăy loại bỏ các kiến chấp phiền năo mà gắng công tu tập.”
Sau đó, ngài Virupa tu tập Kim cương tâm pháp thêm mười hai năm nữa th́ ngài thấu triệt đệ nhất nghĩa đế, và kể từ ấy ngài vượt thoát ra ngoài ṿng sinh tử.
Mặc dù vậy, Virupa là người vốn quen rượu thịt. Hằng ngày, người hầu thường đi ra ngoài kiếm rượu thịt để dâng cho ngài. Cho đến một hôm người hầu lén bắt trộm những con chim câu của tu viện làm thịt.
Thấy bỗng dưng mất những con chim câu, vị giám viện rung chuông họp tăng chúng lại tra hỏi: “Ai trong các người đă ăn thịt những con chim câu của tu viện? ”
Chúng tăng đồng thanh đáp: “Bạch thầy, việc này vốn chưa từng xảy ra. Có điều chắc chắn là không ai trong chúng tôi lại có thể sát hại những con chim câu ấy.”
Chợt một vị tăng nh́n vào cửa sổ pḥng của Virupa, thấy ngài đang dùng thịt chim câu với rượu. Lập tức Virupa bị trục xuất ra khỏi tu viện.
Gửi lại chiếc b́nh bát nơi bàn thờ, Virupa đảnh lễ lần cuối cùng trước tượng đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư mà ngài đă thờ phụng hơn 24 năm qua, rồi ra đi.
Lúc rời cổng tu viện, một ông tăng chận lại hỏi: “Thầy sẽ đi về đâu? ”
Ngài đáp: “Ta đi theo con đường của riêng ta.”
Gần tu viện Somapuri có một hồ sen lớn, quanh năm phủ đầy lá. Khi đến gần hồ, Virupa liền ướm thử chân trên một lá sen để xem nó có ch́m không. Đoạn ngài niệm danh hiệu Phật, rồi bước thoăn thoát trên những cánh sen để đi qua bên kia bờ hồ.
Chứng kiến cảnh Virupa hiển lộ thần thông như thế, chúng tăng đều kinh hoàng, ḷng tràn đầy hối hận.
Họ tiến lại gần, năm vóc sát đất, đảnh lễ và sờ vào chân ngài với niềm cung kính vô biên: “Ngài thật có pháp lực vô biên. Cớ sao lại nhẫn tâm giết hại những con chim câu của chúng tôi? ”
Virupa mỉm cười đáp: “Những ǵ các ông thấy biết cũng chỉ là ảo ảnh, giống như các hiện tượng thông thường khác trong thế gian mà thôi.”
Nói xong, sư sai người hầu mang lại những mẩu xương, thịt vụn của chim, bỏ vào ḷng bàn tay trái đưa lên cao, tay phải khẻ khảy móng mấy cái.
Những con chim câu liền sống lại và bay đi, trông chúng to đẹp và khoẻ hơn trước.
Từ bỏ lối sống của một nhà sư trong tu viện Somapuri, Virupa trở thành một nhà Du-già khất thực. Lang thang đến bờ sông Hằng, ngài xin vị nữ thần sông này một ít vật thực, nhưng vị nữ thần này tỏ ra kiêu kỳ từ chối khiến sư nổi giận, rống lên một tiếng rồi tách nước sông làm đôi để đi qua.
Ngài đi măi đến thị trấn Kanasata. Tại đây ngài ghé lại một tửu quán để dùng cơm và uống rượu. Cơm trắng và rượu nồng là hai thứ mà ngài ưa thích nhất.
Thấy Virupa uống rượu liên miên, chủ quán có ư định đ̣i tiền trước. Virupa cười bảo: “Ta sẽ ra đi khi trời tối. Lúc ấy trả tiền cũng không muộn.”
Nói xong, tay trái ngài cầm dao quắm chỉ thẳng vào mặt trời, dùng phép “định thân” chặn đứng mặt trời, chia bầu trời làm thành hai phần: một bên tối và một bên sáng. Cứ như thế trải qua suốt mấy ngày, ngài tiếp tục uống và dùng lửa tam muội thiêu đốt năm trăm ngàn quỷ thần trong vùng, khiến cho hạn hán xảy ra trong vùng.
Đức vua xứ Kanasata lấy làm kinh hoàng về việc lạ chưa từng có ở đất nước của ngài nhưng không rơ duyên do ǵ. Cả triều đ́nh cũng bó tay không biết tai họa từ đâu mà đến.
Cuối cùng, nữ thần Mặt Trời hiện ra báo cho nhà vua biết, sở dĩ có việc lạ như thế là do một hành giả Du-già nợ tiền cơm, rượu, và làm cho chính vị nữ thần này cũng đang phải khốn đốn. Nhà vua bèn sai người đến trả tiền cho chủ quán. Virupa biến mất.
Ít lâu sau, Virupa du hành đến Indra. Đây là vùng đất có nhiều tín đồ Bà-la-môn rất cuồng tín. Virupa t́nh cờ đi ngang qua một tượng thần Siva bằng đá cao đến hơn 20 mét. Những tín đồ Bà-la-môn đang canh giữ tượng thần buộc ngài phải vái chào thánh tượng Śiva. Ngài chối từ, hỏi rằng: “Bậc trưởng thượng mà phải vái chào kẻ dưới hay sao? ”
Vua xứ Indra cũng có mặt ở đó, bèn lên tiếng bênh vực cho các đạo sĩ Bà-la-môn. Nhà vua phán: “Nếu ngươi không vái chào thánh tượng, ngươi sẽ phải tội chết.”
Ngài nói: “Nhưng nếu ta đảnh lễ vị thần này, ta sẽ mắc tội lớn hơn tội chết.”
Vua đáp: “Ngươi cứ làm. Hăy để tội ấy trẫm gánh chịu.”
Virupa liền chắp tay cung kính. Tức th́, tượng thần Siva nứt đôi, một giọng nói rền vang như sấm sét từ cơi trời vọng xuống: “Đệ tử có mặt! Bạch thầy có điều ǵ dạy bảo? ”
Ngài Virupa nói: “Nay ta qui y cho ngươi. Hăy phát nguyện hộ tŕ chánh pháp.”
Thần Siva hiện ra, phát nguyện đúng theo lời dạy. Rồi tượng đá khép lại nguyên vẹn như cũ.
Từ Indra, Virupa lại vân du đến Devikota thuộc miền Đông Ấn. Hầu hết cư dân vùng này đều là phù thủy ăn thịt người, uống máu nóng. Họ thường ŕnh rập bỏ bùa mê các khách bộ hành t́nh cờ qua lại vùng này để bắt đem về tế lễ.
Một ngày nọ Virupa cùng một thiếu niên đi vào vùng này. Cả hai dừng chân ở một ngôi đền thờ cuối làng để nghỉ qua đêm. Trong cuộc tương ngộ này, Virupa có ban cho chú bé một câu thần chú để hộ thân. Cả hai lăn ra ngủ vùi v́ quá mệt mơi sau chặng đường dài.
Lúc ấy, bọn phù thủy đang tụ tập để tế lễ. Họ đă có thịt thú vật nhưng c̣n thiếu máu người để cử hành đúng nghi thửc của cuộc tế. Gă phù thủy cầm đầu đă bỏ bùa Virupa và cậu bé vào buổi sáng, bèn sai thuộc hạ đến ngôi đền để bắt hai nạn nhân của chúng.
Nhờ mật chú hộ thân, cơ thể của cậu bé như dính chặt xuống mặt đất khiến bọn phù thủy dùng hết sức cũng không tài nào nhấc lên nổi. Chúng đành khiêng một ḿnh Virupa đang c̣n say ngủ về nơi ở của chúng.
Bọn phù thủy tưới rượu lên khắp thân h́nh của Virupa, tay cầm dao, miệng cười rú lên một cách ma quái. Tiếng cười mỗi lúc một lớn, nhưng khi chúng chưa dứt tiếng cười, Virupa liền ngồi choàng dậy cất tiếng cười. Lần này, tiếng cười của Virupa to hơn gấp ngàn lần tiếng cười của bọn phù thủy, âm thanh chấn động đến tam thiên đại thiên thế giới, khiến bọn chúng mất hết ư thức.
So với tiếng cười của Virupa, tiếng cười của bọn phù thủy chỉ như tiếng khóc của trẻ sơ sinh.
Quá kinh sợ, bọn phù thủy khẩn nài xin ngài tha tội. Sau khi dùng thần lực nhiếp phục bọn phù thủy, Virupa làm lễ qui y cho chúng. Ngài dạy: “Nếu các ngươi một ḷng chí tín, quy ngưỡng Tam bảo th́ ta luôn kề cận các ngươi để hộ tŕ, tránh khỏi mọi sự tổn hại. Ngày ngày các ngươi phải chuyên cần tu tập hạnh Bồ Tát.
Nếu các ngươi giải đăi, tự thân sẽ bị mất đi một cốc máu. Và nếu các ngươi quay lưng lại với chánh pháp mà trở về với loài quỷ thần th́ chiếc đĩa này sẽ chém ĺa đầu các ngươi. Lúc bấy giờ, Bắc Phương Quỷ Vương sẽ đến hút cạn máu của các ngươi.”
Bọn phù thủy nhất mực vâng lời dạy của ngài Virupa.
Tương truyền, ngày nay người ta vẫn c̣n thấy h́nh dáng chiếc đĩa này và Bắc Phương Quỷ Vương trong dăi Ngân hà.
Sau khi nhiếp phục bọn phù thủy, Virupa lại vân du sang xứ khác.
Ít lâu sau, ngài lại trở về viếng thăm vùng Dekikotta. Lúc bấy giờ, vị Đại Phạm Thiên và thị giả của ngài là Umadevi dùng thần thông tạo ra một thành phố gồm bốn triệu cư dân để tôn vinh và thờ phụng ngài.
Tất cả vật thực dành cho buổi lễ cung nghinh ngài Virupa trở lại Dekikotta được chư thiên mang đến từ 33 cơi trời trong Dục giới.
Có truyền thuyết nói rằng ngài thọ đến 700 tuổi mới viên tịch.
Hành tŕ
Chướng ngại của Virupa cũng chính là phiền năo của các hành giả Mật tông lúc c̣n sơ cơ. Trở lực ấy có lẽ do ngài quá đem tâm dục cầu khiến sắc ư bột phát trong giai đoạn tu định và cũng bởi kiến chấp ấy của ngài (preconception) đối với chân tính (nature of reality).
Kim Cương Thánh Nữ hiện ra như một thực thể nội tại vô biên đă phá vỡ cái ṿng luẩn quẩn mà Virupa bị kẹt trong đó suốt 12 năm và giải thoát ngài ra khỏi sự bế tắc của tâm thức.
Không dựa vào sự vật bên ngoài, vất bỏ xâu chuỗi để đi vào bản tâm, đó là nhận thức đầy tính dứt khoát của Virupa.
Trong kinh dạy rằng: Bản tâm thanh tịnh th́ gọi đó là hạt châu như ư. Bản tâm vốn là không, các pháp lưu xuất thành niệm là do có các căn. Trong khi thiền định, thường th́ các kiến chấp sẽ tạo nên vọng tưởng rồi biến thành phiền năo.
Sử liệu
Nơi ngài Virupa trải qua 12 năm tu học chính là đại tu viện Somapuri, một trong những tu viện lớn nhất ở vùng Đông Ấn, được xây dựng dưới triều đại Pala (gồm xứ Bengal và Bihar). Các vua thuộc triều đại này vốn là những đại thí chủ của Mật tông.
Nhà sư học giả Taranatha cho rằng vua Devapala (810-840) đă xây dựng tu viện này, nhưng có lẽ nó đă được tạo dựng trước đó nhiều năm do công của vua Dhamlapaka (770-810), một nhân vật sống cùng thời với Virupa.
Đến nay, người ta vẫn chưa xác định được vị trí chính xác của tu viện này, nhưng có thể đó là khu vực Ompur ở Bengal.
Có một điều đáng nói là thanh qui chi phối tăng chúng ở đây đă được sư Santaraksita truyền sang Tây Tạng và vẫn c̣n được áp dụng cho đến bây giờ.
Tripura, sinh quán của ngài, gồm những khu vực khác nhau như Radhakisorapura, Assam Devikotta. Các địa danh này cũng là tên của các đền thờ Mẫu thần (Sakta) toạ lạc trong những khu rừng sâu khó vào được. Nơi đó, các bộ tộc theo giáo pháp Đại Mẫu có tập tục tế người như theo chuyện kể ở Kamarupa mà Virupa đă cải đạo cho các bộ lạc này.
Từ “witch” theo Tạng ngữ là Phra Men (vetala), đó là một loại ma tử thi chuyên ăn thịt người để hoàn sinh (a resurrected flesh-eating corpse), nhưng theo kinh văn Tây Tạng th́ đây là những nữ phù thủy bậc thấp chuyên về ma thuật và sử dụng linh phù.
Có một mẩu chuyện khác kể rằng Virupa được các thiên nữ (dakini) dâng cúng hoa sen và ốc tiên (hai biểu tượng của âm dương).
Với sự giúp đỡ của một Phật tử, Virupa đến được núi Sri Parvata. Tại đây, ngài A-xà-lê Long Trí Bồ Tát đă truyền thụ cho ngài các pháp thuật của Trời Dạ Ma (Yama). Với các pháp thuật này, Virupa quay lại Devikotta hàng phục các phù thủy và khiến họ qui y Tam bảo.
Lại có thuyết nói rằng Virupa là người lập ra pháp môn Rakta Yamari Tantra và một số các phương pháp thiền định đó liên quan đến bộ môn Tantra này.
Xét theo cung cách mà Virupa cải đạo cho dân chúng vùng Devikotta cũng như cách hàng phục Trời Đại Phạm Thiên ở Indra, chúng ta liên tưởng đến vị đạo sư Mật tông Liên Hoa Sanh, một nhân vật cùng thời với ngài, cũng đă dùng những phương cách tương tự để nhiếp phục và cải đạo cho những người theo đạo Bôn ở Tây Tạng.
Theo kinh văn của ḍng tu Yogini Candika (the Mystic Heat) th́ ngài Virupa chính là nhà sư Sridramapala, và Nalanda là tu viện mà Virupa có lần đến tu học và sau đó bị trục xuất. Orissa chính là nơi ngài thi triển tửu lượng.
Ngoài ra, có một điểm phù hợp với câu chuyện thần Siva nứt ra khi Virupa chắp tay tại Somanath, v́ tại Samrastra có một tượng đá của Đại Phạm Thiên (Mahadeva). Bức tượng đá khổng lồ rất nổi tiếng này bị quân Hồi giáo phá huỷ vào năm 1015.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1003 of 1146: Đă gửi: 25 January 2011 lúc 11:59pm | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN
Đại sư thứ 4: Dombipa - Người cưỡi cọp
Viên đá của nhà triết học
Biến sắt trở thành vàng
Năng lực tự nhiên của viên đá quí
Biến đam mê trở thành thức thanh tịnh
Truyền thuyết
Dombipa vốn là quốc vương xứ Ma-kiệt-đà (Magadha). Ngài được Đạo sư Viupa khai ngộ và truyền tâm ấn.
Vị quốc vương ngộ đạo này thương yêu thần dân của ngài như con đỏ. Tuy nhiên dân chúng vẫn không biết ngài là môn đồ của Mật tông, mà chỉ biết ngài là vị vua hết ḷng thương yêu và chăm lo đời sống nhân dân.
Để đất nước có một cuộc sống an lạc, ngài cho vời viên đại thần đến và dạy rằng: “V́ nghiệp quả đời trước nên đất nước ta thường xảy ra dịch bệnh và nạn đạo tặc. Nay để tránh tai họa cho muôn dân, ngươi mau đúc một cái chuông đồng lớn treo lên một cây đại thụ. Mỗi khi thấy có hiện tượng nguy biến th́ đánh chuông ấy lên, tức nhiên tai họa tiêu trừ.”
Viên đại thần y lệnh. Kể từ đó trong nước bớt nạn trộm, cướp và dịch bệnh. Cho đến một ngày nọ, có một đoàn hát rong từ phương xa đến để tŕnh diễn cho nhà vua xem. Trong đám người thấp hèn ấy có một thiếu nữ 12 tuổi, xinh đẹp diễm lệ, ai thoạt nh́n cũng không khỏi đem ḷng yêu thương. Nhà vua bèn tỏ ư nhận nàng về làm bầu bạn. Ngài bí mật ra lệnh cho bọn họ dâng nàng cho ngài.
Một người trong bọn tâu rằng: “Đại vương! Ngài là bậc cao quí, chúng tôi chỉ là kẻ tôi tớ hạ tiện mà mọi người khinh khi xa lánh. Cớ sao đại vương lại nghĩ đến một việc kết hợp không tương xứng như thế? ”
Nhưng nhà vua cứ khăng khăng làm theo ư ḿnh và ban thưởng vàng bạc cho đoàn hát rong.
Sau đó, vua bí mật giấu nàng trong hậu cung suốt 12 năm. Sau đó mọi người mới phát hiện ra sự có mặt của nàng.
Tiếng đồn loan đi khắp nơi. Người ta nói với nhau rằng: “Nhà vua đă chung sống với một phụ nữ thuộc tầng lớp hạ tiện. Điều này thật khó dung thứ.”
Trước áp lực của thần dân và triều đ́nh, nhà vua buộc phải thoái vị và giao quyền bính lại cho thái tử.
Sau đó, nhà vua rời hoàng cung và cùng nàng phi ấy đi vào rừng để sống. Tại nơi hoang dă, cả hai cùng nhau tu luyện môn Du-già mật pháp (Tantric Yoga) trong 12 năm.
Một dạo sau đấy, kể từ khi vua thoái vị, đất nước lâm vào cảnh rối ren. Triều thần họp lại và quyết định thỉnh cầu cựu vương quay về chấp chính.
Các sứ giả của triều đ́nh đi vào rừng sâu để t́m ngài và khi gần đến nơi, họ nh́n thấy cựu vương đang ngồi thiền định dưới một gốc cây đại thọ, c̣n vị phi nữ của ngài đang bước trên những cánh sen để lấy nước sương mai về cúng dường chủ nhân của bà.
Họ ngạc nhiên quay về tâu với triều đ́nh.
Sau khi nghe các sứ giả thuật lại sự việc mà họ đă chứng kiến, quần thần cùng nhân dân trong xứ liền kéo nhau đi đón cựu vương.
Nhận lời thỉnh cầu của dân chúng, nhà vua cùng người thiếp cưỡi trên ḿnh một con bạch hổ, tay roi là một con bạch xà, rời khỏi khu rừng rậm. Tất cả mọi người nh́n thấy cảnh ấy đều không khỏi khiếp sợ.
Chào hỏi mọi người xong, nhà vua phán: “Ta đă phải mất đi địa vị cao quí chỉ v́ sự kết hợp với người phụ nữ ở tầng lớp hạ tiện. Nay các ngươi yêu cầu ta trở lại ngai vàng là một điều không thích hợp. Chỉ có cái chết mới mong xoá bỏ được những thành kiến về giai cấp. Vậy các ngươi hăy hoả thiêu chúng ta.”
Theo tập tục Ấn Độ, để xoá bỏ những dấu vết tội lỗi hoặc để chứng minh sự vô tội của ḿnh, người ta đưa nạn nhân lên giàn hoả và đốt trong bảy ngày, nếu người ấy c̣n sống th́ sẽ được thừa nhận là vô tội.
Lễ hoả thiêu nhà vua cùng người thiếp diễn ra trong suốt bảy ngày đêm.
Đến khi lửa tàn, mọi người đến gần quan sát. Họ thấy quanh thân thể của hai người dường như có một màn sương mong manh, y phục trên người của họ vẫn y nguyên không một vết cháy xém. Mọi nghi ngờ về nhà vua đều tan biến trong ḷng mọi người.
Khi ấy, nhà vua trỗi dậy, bước ra khỏi đống tro tàn và gọi mọi người lại bảo: “Hỡi dân chúng mến yêu của ta. Nếu các người noi được gương tu tập của ta, th́ ta sẽ ở lại trị v́ các người. Nếu như các người không thể tự tu tập để tự cứu lấy bản thân ḿnh, th́ sự có mặt của ta phỏng có ích ǵ?
Quyền lực chỉ là một chút ít lợi lộc nhỏ nhoi. Công đức tu hành mới là to lớn. Vả lại, vương quốc của ta không phải là vương quốc của quyền lực, mà là vương quốc của chân lư.”
Nói xong, vua liền từ biệt.
Hành tŕ
Ở Ấn Độ, người ta tin rằng tiếng chuông có khả năng xua đuổi tà ma và làm thanh tịnh tâm trí. Chiếc chuông mà Dombipa cho dựng lên có nhiều công năng như để cảnh giác nạn đạo tặc, báo động mối nguy về thiên tai, dịch họa, hoặc xua đuổi các quỷ thần, tà ma, uế trược khi có dịch bệnh, làm thanh tịnh tâm trí và tăng trưởng thiện nghiệp.
Tiếng chuông ngân là biểu tượng của sự tỉnh giác, và khi nghe tiếng chuông ngân, tâm thức có thể dứt hết các niệm trần để thâm nhập vào cảnh giới tịch tịnh tức không tính (Emptines).
Ngoài ra, cuộc hôn nhân không cùng đẳng cấp là một điều cấm kỵ của xă hội thời bấy giờ, kẻ vi phạm sẽ bị mọi người khai trừ khỏi giai cấp và có khi bị trừng phạt nặng nề.
Trong Phật giáo và đặc biệt đối với Mật tông, khuynh hướng chống lại giai cấp không phải là sự đối kháng gay gắt nhằm lật đổ giai cấp hay cải tạo xă hội như các học thuyết khác. Vua bỏ ngôi, quan từ chức để đi tu chính là hành động từ bỏ giai cấp của ḿnh - một cách chống đối quan điểm giai cấp.
Nhưng đối với quần chúng thời ấy, sự chống đối này không bị ghép tội v́ đây là sự miễn trừ đối với thần thánh. Hơn nữa, đối với người tu hành, muốn đạt tới Phật tính th́ điều căn bản là cần phải diệt hết các kiến chấp về giai cấp.
Chính v́ vậy mà các hành giả Du-già thường chọn người bạn đời, kẻ đạo hữu của ḿnh từ giai tầng thấp hơn trong xă hội, để trưởng dưỡng tâm vô phân biệt (awareness of non-discrimination).
Với các phương thức tu tập đặc biệt của Du-già, hành giả có thể biến dục tưởng thành trí huệ.
Đối với một hành giả Du-già th́ người vợ tinh thần (mystic consort) hay đạo hữu ấy là sắc tướng của nghiệp ấn (karma mudra) để ấn chứng các giai đoạn tu tập ba nghiệp (thân, khẩu, ư). Người vợ tinh thần của Dombipa chính là hoá thân của Kim cương Bồ Tát.
Pháp tu của họ là kết hợp giữa dục lạc (pleasure) và không tính (emptiness). Phương pháp này dùng để kích động luồng hoả hầu (kundakini) ở trung tâm t́nh dục (sexual chakra) khiến nó làm lưu thông các luân xa (yếu huyệt) trong cơ thể.
Sử liệu
Theo tài liệu của Taranatha th́ Dombipa vốn là vua xứ Tripura, quê hương của đạo sư Virupa, vị thầy tế độ của Dombi.
Tương truyền rằng sau khi hoàn thành nhiệm vụ giáo hoá thần dân trong nước, Dombipa cùng vợ ngài vân du khắp nơi dùng thần thông để lợi lạc quần sanh, nhiếp phục ngoại đạo và khai ngộ cho những kẻ có cơ duyên.
Có lần ngài cưỡi cọp bay ngang qua thành Radha để nhiếp phục vị quốc vương xứ này. Và tại Karmataka, miền nam Ấn Độ, Dombipa đă truyền giáo pháp cho năm trăm môn đồ.
Dombipa c̣n được biết dưới một danh hiệu khác là Dombi Heruka. Dombipa nghĩa là chúa của Dombi. Và Dombi là tên của vợ ngài. Heruka là tiếng ghép giữa Samvara và Hevajra, đó cũng là pháp hiệu của một đạo sư (Siddha). V́ thế, Dombi là Hevajra.
Dombi Heruka tạo lên nhiều bộ luận có liên quan đến Tantra Mẹ. Tác phẩm tiêu biểu nhất là Ekavira -Saddha. Ngài sống vào cuối thế kỷ 8 đến đầu thế kỷ 9.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1004 of 1146: Đă gửi: 26 January 2011 lúc 12:00am | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN
Đại sư thứ 5 : Savaripa - Người thợ săn
Trong khu rừng hoang vu
Một con nai ẩn náu
Con nai có tên là chán bỏ
Kéo cánh cung của phương tiện là trí tuệ
Buông chiếc tên chân lư
Con nai chết
Ừ, tư tưởng chết
Thịt xương ấy là bữa tiệc của bất nhị
Thuần một vị thanh tịnh mà thôi
Và mục đích ta đă đạt đến rồi
Truyền thuyết
Tại vùng núi Vikrama, có một người thợ săn tên là Savaripa. Ông giết hại muông thú để sống và sống để giết hại muông thú, bởi đó là nghề nghiệp không mong muốn của ông.
Bồ Tát Quán Thế Âm động ḷng muốn giải thoát cho ông khỏi cái ṿng luẩn quẩn ấy, bèn dùng thần thông hoá thành một người thợ săn đón ông ở giữa đường.
“Ông là ai? ” Người thợ săn Savaripa hỏi.
“Ta cũng là thợ săn như ông.”
“Ông từ đâu tới? ”
“Rất xa.”
“Thế với một mũi tên, ông có thể bắn hạ bao nhiêu con nai? ” Savaripa hỏi với vẻ tự hào về tài thiện xạ của ḿnh.
Bồ Tát đáp: “Khoảng chừng 300 con hoặc hơn nữa.”
“Thế th́ ta muốn xem tài của ông.”
Bồ Tát nhận lời thách thức của Savaripa.
Sáng sớm hôm sau, y hẹn, Bồ Tát đưa Savaripa đến một nơi có sẵn 500 con nai do ngài dùng sức thần thông hiện ra.
Người thợ săn vừa trông thấy bầy nai, bèn đưa tay chỉ: “Ḱa! Cả bầy nhiều như thế, ông có khả năng hạ được bao nhiêu con? ”
“Ta sẽ hạ một lúc 500 con.”
Savaripa có vẻ không hài ḷng, đề nghị: “Sao ông không bắn trước 100 con thử xem? ”
Bồ Tát liền bắn một mũi tên, 100 con nai cùng ngă lăn ra chết. Bồ Tát bảo Savaripa mang một con về nhà. Nhưng khi cúi xuống để vác một con nai, Savaripa vận hết sức lực vẫn không tài nào nhấc lên. Lúc ấy, ḷng kiêu hănh của y biến mất.
Trên đường về, Savaripa khẩn khoản xin Bồ Tát dạy cho y cách bắn cung kỳ diệu ấy. Ngài nhận lời nhưng buộc Savaripa phải chay tịnh trong ṿng một tháng.
Nhờ vậy, hai vợ chồng Savaripa bớt được nghiệp sát sanh trong thời gian một tháng.
Sau thời gian ấy, Bồ Tát quay lại và bảo Savaripa rằng: “Nếu ông thực ḷng muốn học thuật bắn cung vi diệu của ta, th́ trước hết ông phải khởi ḷng thương xót tất cả chúng sinh, từ bỏ rượu thịt, th́ việc học mới mau chóng thành tựu.”
Savaripa đồng ư ngay không một chút ngần ngừ. Thời gian ấn định trôi qua, khi Bồ Tát trở lại, Savaripa nồng nhiệt đón chào. Nhưng Bồ Tát chẳng đá động ǵ đến việc dạy dỗ.
Ngài vẽ một ṿng tṛn Mạn-đà-la rồi rải một lớp hoa tươi lên ṿng ấy. Rồi Bồ Tát bảo hai vợ chồng người thợ săn: “Các ngươi thử nh́n vào xem! ”
Khi nh́n vào ṿng tṛn kỳ diệu ấy, cả hai thấy h́nh ảnh của họ đang bị lửa thiêu đốt trong địa ngục. Quá kinh hoàng, họ không thốt nên lời.
“Các ngươi thấy những ǵ?” Bồ Tát hỏi.
“Chúng tôi thấy bản thân ḿnh bị thiêu đốt trong địa ngục.” Cuối cùng, Savaripa gắng gượng trả lời.
“Các ngươi có sợ không?”
“Dĩ nhiên, chúng tôi rất sợ.”
“Các ngươi có muốn tránh khỏi nạn ấy không?”
“Chúng tôi rất muốn, nhưng biết phải làm sao?”
“Chính các ngươi có thể tự cứu lấy ḿnh.”
Bồ Tát liền giảng về nghiệp quả cho hai người nghe. Sau đó là thuyết về bốn tâm vô lượng và sáu pháp Ba-la-mật. Ngài nói: “Hậu quả đời sau của nghiệp giết hại là thác sinh vào địa ngục, hiện thời thường gặp nạn tai bất ngờ, thọ mạng ngắn ngủi.
Nếu người từ bỏ ác nghiệp, tu tập hạnh lành, tích lũy công đức, th́ không những thọ mạng lâu dài mà c̣n có thể tu thành quả Phật.”
Nhận thấy Savaripa ngộ được chánh pháp, Bồ Tát liền dùng phép thần thông đưa Savaripa lên đến đỉnh núi Đan-ti để tu tập thiền định trong 12 năm.
Sau thời gian dài tu tập, Savaripa xuất định, xuống núi đi t́m thầy ḿnh.
Bồ Tát hiện ra bảo: “Này, thiện nam tử! Cảnh giới Niết-bàn vi diệu mà ngươi đă chứng chẳng phải là cảnh giới của hàng Thinh văn, Duyên giác. Đời sống ở thế gian như lửa rơm mau cháy, chóng tàn. Vô số chúng sinh c̣n luẩn quẩn trong ṿng vô minh. Nay ta phú chúc cho người thay ta lưu lại thế gian mà tế độ chúng hữu t́nh.”
Savaripa vâng mệnh, quay về quê cũ tiếp tục thiền định chờ cho đến khi vị Phật đương lai hạ sinh là ngài Di Lặc ra đời để cùng ngài giáo hoá chúng sinh trong một thời kỳ mới.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1005 of 1146: Đă gửi: 26 January 2011 lúc 12:01am | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN
Đại sư thứ 6: Saraha - Đại Bà-la-môn
Này hiền hữu, khắc ghi tâm trí
Tuyệt đối kia vốn có sẵn đây
Cớ sao quanh quẩn suốt ngày
T́m đâu cho thấy? Chỉ hoài công thôi!
Lời bí mật ở trên môi
Vị chân sư ấy, v́ sao không cầu?
Phép rốt ráo thật nhiệm mầu
Nhận ra chân lư, tử sinh sá ǵ!
Truyền thuyết
Saraha vốn là một nhà quí tộc thuộc giai cấp Bà-la-môn ở Roli, miền đông Ấn Độ. Bẩm sinh ngài đă có phép thần thông v́ ngài vốn là một Daka, tức là con của một thánh nữ (Dakini).
Mặc dù được dạy dỗ theo khuôn phép của đạo Bà-la-môn nhưng ngài lại đi theo con đường Phật pháp. Saraha được các nhà sư Phật giáo mật truyền tâm pháp. Ban ngày ngài học giáo pháp của đạo Bà-la-môn, nhưng đêm đến ngài lại nghiên cứu Phật lư.
Tuy vậy, ngài vẫn là người hay uống rượu. Điều này vi phạm giáo luật của đạo Bà-la-môn nên họ kết tội ngài và thỉnh cầu nhà vua tước bỏ địa vị của ngài.
Bọn người Bà-la-môn tâu rằng: “Tâu đức vua anh minh! Ngài có trách nhiệm bảo vệ quốc giáo. Gă Saraha này, chúa của 15.000 hộ dân thành Roli, lại báng bổ giáo luật. Hăy trừng phạt hắn để làm gương.”
Vua phán: “Trẫm không thể lưu đày một vị chúa của 15.000 hộ dân.”
Sau đó, vua đích thân đến viếng Saraha và khuyên ngài bỏ rượu. Saraha không thừa nhận nên tâu với vua: “Thần không có uống rượu. Nếu bệ bạ ngờ vực, xin mời dân chúng họp lại, thần sẽ chứng minh là ḿnh vô tội.”
Khi tất cả mọi người tề tựu đông đủ, Saraha tuyên bố: “Ta vô tội. Nếu ta có tội th́ tay ta đây bị sẽ cháy bỏng.”
Nói xong, Saraha liền nhúng cả cánh tay vào một vạc dầu đang sôi hừng hực, nhưng tay vẫn không hề hấn ǵ. Thấy thế, nhà vua quay lại hỏi những người bà-la-môn: “Các ngươi c̣n cho rằng Saraha có tội hay không? ”
Những người bà-la-môn chống chế: “Chính ông ta thật có uống rượu.”
Lần này, Saraha bưng lấy một bát đồng sôi đang nấu chảy kê miệng uống ngon lành.
Những người bà-la-môn lại gào lên: “Chính chúng tôi chứng kiến ông ta uống rượu.”
Saraha bèn thách thức bọn giáo sĩ: “Bây giờ, ta và một trong các ngươi nhảy vào bồn nước này, kẻ nào ch́m là có tội.”
Một người trong bọn họ t́nh nguyện cùng Saraha nhảy vào bồn, nhưng chính y bị ch́m xuống tận đáy. Ngay lập tức, Saraha tuyên bố: “Ta vô tội nếu như lần này ta ch́m xuống, ngươi nổi lên.”
Thế là Saraha lại ch́m xuống đáy nước, c̣n người kia nổi lên mặt nước.
Chứng kiến cảnh Saraha hư lộng thần thông như thế, vua bèn phán: “Nếu Saraha pháp lực cao cường th́ cứ để cho ngài uống rượu.”
Lúc ấy, mọi người lấy làm ngưỡng mộ, tiến đến vái chào Saraha và xin ngài truyền pháp.
Saraha ứng khẩu đọc ba bài kệ, một cho đức vua, một cho hoàng hậu và một cho tất cả mọi người.
Ít lâu sau, Saraha kết duyên cùng một thiếu nữ xinh đẹp ở độ tuổi trăng tṛn. Ngài cùng vợ rời quê nhà đi sang một xứ khác.
Ngày ngày, Saraha tu tập thiền định, c̣n người vợ trẻ đi xin vật thực về để cúng dường cho chủ nhân của bà.
Một ngày nọ, Saraha ngỏ ư muốn ăn món cà-ri cải. Người vợ liền đi nấu món cà-ri này mang đến cho ngài.
Khi bà mang món ăn đến th́ Saraha đang nhập định nên bà đặt bát cà-ri bên cạnh rồi lặng lẽ rút lui.
Saraha nhập định trong 12 năm. Khi vừa xuất định, ngài bèn lớn tiếng kêu vợ mang món cà-ri đến.
“Ngài đă nhập định suốt 12 năm, bây giờ không phải là mùa cải, lấy ǵ mà nấu? ”
Saraha ngượng ngùng khi nghe vợ trách như thế. Ngài định bỏ đi lên núi cao để tiếp tục hành thiền. Biết thế, người vợ liền khuyên: “Núi cao, hang sâu đâu chắc đă thật là cảnh thanh tịnh. Sự thanh tịnh chân chính là từ bỏ kiến chấp của tâm hẹp ḥi. Ngài nhập định suốt 12 năm, vậy mà vẫn c̣n bám lấy ư muốn ăn món cà-ri cải của 12 năm trước, th́ cho dù lên núi cao hay vào hang sâu, phỏng có ích ǵ? ”
Nghe vợ nói thế, Saraha chợt tỉnh ngộ.
V́ vậy ngài không đi nữa mà ở lại đó tiếp tục tu tập. Ngài quán xét lẽ “các pháp vốn thanh tịnh” cho đến lúc liễu ngộ hoàn toàn.
Hành tŕ
Saraha đă vượt lên trên cả hai phạm trù đúng và sai. Ngài chứng minh rằng tất cả các hiện tượng mà chúng ta đang cảm nhận bằng giác quan đều là hư vọng (delusory).
Điều ấy không ngụ ư rằng không có chân lư, không có đúng, sai, mà chỉ chứng tỏ rằng định lực của một vị đạo sư có thể hoán chuyển và kiểm soát các nguyên tố cấu thành mọi hiện tượng trong vũ trụ (tứ đại).
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1006 of 1146: Đă gửi: 26 January 2011 lúc 12:02am | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN
Đại sư thứ 7: Kankaripa - Kẻ góa vợ
Ôi! Thiên nữ, Dakini của ḷng ta
Nàng dung mạo mỹ miều
Mà chỉ có mắt thanh tịnh của ta
Mới đủ khả năng chiêm ngưỡng
Tướng ấy không ĺa ta
Nhưng không phải thuộc về ta
Các pháp hiện tượng của một vũ trụ rỗng không
Thiên nữ ơi! Nàng chẳng có ǵ sánh bằng
V́ ta không đủ lời diễn tả
Truyền thuyết
Một thuở nọ, tại Magaddha có một thanh niên thuộc giai cấp hạ tiện. Lớn lên, anh ta kết duyên cùng một thiếu nữ có nhan sắc mặn mà cũng cùng tầng lớp xă hội.
Anh ta tính t́nh chơn chất và cũng không phải là hạng người thiếu đạo đức. Tuy nhiên, anh ta thường không quan tâm đến cuộc sống đức hạnh và những giá trị của tâm linh. V́ thế, sau khi trải qua lạc thú của lứa đôi, anh ta có cảm giác rằng chỉ có cuộc sống thực tại mới đem lại cho anh ta những lạc thú hoàn toàn. C̣n tất cả những điều khác chỉ là vô nghĩa.
Rủi thay, cho đến một ngày của định mệnh khắc nghiệt, người vợ trẻ lâm bạo bệnh và qua đời!
Đau khổ đến mất cả lư trí, anh ta ôm chặt lấy thây ma mà không chịu buông rời nửa bước.
Một nhà sư Du-già thấy anh ta trong t́nh trạng vô cùng tuyệt vọng và đau khổ ấy bèn dừng chân để hỏi duyên cớ.
“Ngài không thấy tôi đang đau đớn như bị cưa xẻ đây sao? Nàng chết đi là một mất mát to lớn, là kết thúc mọi niềm hạnh phúc, khoái lạc của đời tôi. Quả thật không ai trên đời này đau khổ bằng tôi.”
Nhà sư khuyên: “Tất cả cái ǵ sinh ra đều phải kết thúc bằng cái chết. Có sinh th́ có tử. Có tụ thời có tán. Gặp gỡ rồi phải chia ly. Trong cơi thế gian vô thường này, ai cũng phải trải qua những chặng đường đau khổ ấy. Đó là qui luật tự nhiên, cớ sao ngươi lại phải vật vă mà ôm giữ cái thây ma kia, khác nào ôm giữ một đống bùn? Cớ sao ngươi không tu tập để cho vơi bớt nỗi sầu khổ kia?”
Nghe vị sư nói, anh ta choàng tỉnh cất tiếng nài nỉ: “Xin ngài xót thương dạy cho tôi cách thoát khỏi nỗi đau khổ này.”
Vị sư hoan hỷ nhận lời, khai thị cho anh ta. Kế đó, ngài dạy cho anh ta phương pháp thiền định để trừ tâm sầu năo và những ư nghĩ vẩn vơ về cái chết của người thân yêu. Ngài dạy cho anh ta cách quán tưởng h́nh ảnh vợ ḿnh như một Kim cương Thánh nữ (Dakini), một biểu tượng của không tính và tịnh lạc. Đồng thời, ngài cũng dạy cho anh ta quán các pháp vốn không có tự ngă.
Sau 6 năm tu tập, khi thấy rơ các pháp đều do duyên sinh, Kankaripa hốt ngộ chân lư.
Hành tŕ
Hư không (space) và thanh tịnh quán (pureawreness) là hai-trong-một (two-in-one). Dakini vừa là sắc tướng của một người nữ vừa là tướng của thanh tịnh thức. Vũ khúc của Dakini là sự chuyển động của nguyên lư âm dương. Đó là sự vận hành của các pháp thế gian.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1007 of 1146: Đă gửi: 26 January 2011 lúc 12:03am | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN
Đại sư thứ 8: Minapa - Con người xui xẻo
Người ngư phủ bám chặt vào chiếc cần câu
Trôi dạt ra biển cả của số phận
Sống sót trong bụng cá
Tu tập phép Du-già
Mà thần Siva dạy cho Uma
Người ngư phủ ấy là Minapa
Và sau đó trở lại đất liền
Ngay cả đá
cũng không chịu nổi bước chân của ngài
Truyền thuyết
Minapa vốn làm nghề chài lưới ở vùng Bengal. Chân sư của ngài chính là Đại phạm thiên vương.
Minapa thường ngày vẫn dong thuyền ra khơi đánh cá đem về chợ bán để độ thân.
Một hôm, Minapa vô t́nh dùng thịt làm mồi câu, một con ḱnh ngư nổi lên đớp mồi làm đắm cả thuyền và nuốt trọn thân ḿnh Minapa vào trong bụng. Nhưng v́ số kiếp chưa hết nên Minapa tiếp tục sống trong bụng của nó.
Trong khi ấy, Thánh nữ Umadevi là vợ của Đại phạm thiên (Mahadeva) cầu xin chồng bà truyền cho pháp thuật. Đại phạm thiên không muốn truyền pháp bí mật ở những nơi mà người khác có thể lén nghe, bèn bảo với Umadevi cùng đi xuống đáy biển sâu.
Lúc bấy giờ, con thủy quái chứa Minapa trong bụng lại nằm nghỉ gần nơi Đại phạm thiên đang truyền pháp cho Umadevi.
V́ nữ thần này ngủ gục trong khi Đại phạm thiên giảng pháp, nên chính Minapa lại là người học được trọn vẹn pháp thuật của Thiên vương.
Đến khi Đại phạm thiên vương ngừng nói pháp th́ Umadevi tỉnh giấc, lại bảo: “Ngài nói tiếp đi.”
“Nhưng ta vừa mới nói xong. Vậy th́ từ năy giờ ai đă đối dáp cùng ta? ” Đại phạm thiên nói với vẻ ngạc nhiên.
Ngài liền dùng thiên nhăn xem khắp, chợt thấy Minapa đang ở trong bụng con thủy quái nằm gần đó, bèn nghĩ thầm: “Chính người này mới thực sự là môn đồ của ta.”
Được cơ may hiếm có, Minapa thiền định suốt 12 năm trong bụng con thủy quái.
Về sau, ngư dân trong vùng bắt được con thủy quái và mổ bụng nó v́ tưởng có châu báu. Nhờ thế, Minapa thoát ra được.
Mọi người chứng kiến cảnh Minapa chui ra từ bụng cá đều kinh hăi. Ai cũng sửng sốt khi nghe tên vị vua dưới thời Minapa chưa bị nạn, mới biết ngài ở trong bụng cá được 12 năm.
V́ vậy họ gọi ngài là Thầy Cá và tất cả đều đảnh lế cúng dường vật thực cho ngài.
Vui mừng về sự thành tựu ấy, Minapa nhảy nhót khiến chân ngài lún sâu vào mặt đất đá y như người ta cho chân xuống bùn.
Tương truyền, ngài thọ đến 500 năm.
Hành tŕ
Con cá khổng lồ trong truyện là biểu trưng của đời sống tinh thần. Bị cá ấy nuốt vào bụng mà không chết là do công đức đời trước của Minapa.
Khác với các vị Du-già kia, Minapa không tự nguyện mà là t́nh cờ một cách may mắn học được pháp thuật. Sự may mắn sau cùng là sau 12 năm thiền định dưới nước, Minapa được về lại đất liền. Ở đây, ư nói Minapa không bị tù đày, trói buộc trong pháp môn tu tập mà vượt thoát ra ngoài, không chấp vào pháp tu của ḿnh.
Đối với một hành giả Mật tông (tantrika), cá tượng trưng cho sự giải thoát v́ nó tự do bơi lội không cần phải nỗ lực, không cần phải ngủ nghỉ và không bị ướt (ái nhiễm, tỉnh giác).
Sử liệu
Minapa c̣n gọi là Macchendra hay Mina. Ngài vốn là bậc Đệ nhất chân sư (Adi Guri) của giáo phái Sakta tức ḍng tu Yogini Kaula hay c̣n gọi là Siddhamarta.
Kinh Kaulajrana Nimaya có ghi phần giáo pháp mà Đại phạm thiên truyền cho Umadevi.
Cũng có tương truyền rằng Minapa đă nhặt được kinh này ngoài biển, v́ con trai của thần Siva hoá chuột đánh cắp kinh này, sau đó ném ra biển. Cho nên mới có sự tích Minapa học được pháp thuật này ở Nepal. Người ta c̣n cho rằng chính Bồ Tát Quán Thế Âm dạy cho thần Siva môn Du-già, và Minapa vô t́nh học được khi thần Siva truyền lại pháp này cho Parvatte tức Umadevi.
Cũng có thuyết nói rằng khi nạn đói kém v́ thiên tai hạn hán xảy ra ở Nepal th́ chỉ có Minapa mới đủ khả năng cầu đảo. Vua Narendradeva đă sai sứ giả đến t́m. Ngài Minapa nhận lời và bảo sứ giả về trước, c̣n ngài hoá thân thành một con ong nghệ xuất hiện bay quanh chỗ vua. Nhà vua vừa đưa tay tóm bắt th́ trời đổ mưa.
Cảm động công đức ấy, vua cho vẽ chân dung của ngài để thờ phụng khắp nơi như một vị thần thủ hộ của xứ Nepal.
Ngày nay, người ta c̣n thấy tại một trong những ngôi đền chính của thủ đô Kathmandu có tượng thờ ngài Minapa.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1008 of 1146: Đă gửi: 26 January 2011 lúc 12:04am | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN
Đại sư thứ 9: Goraksa - Kẻ chăn ḅ bất tử
Cho dù sinh ra ở giai cấp nào
Ngươi cũng có cơ hội đi tới giải thoát rốt ráo
Mà không có chướng ngại nào
có thể ngăn lối ngươi đi
Ta! Goraksa cũng chộp lấy cơ hội ấy
Ta gieo hạt giống giác ngộ
Bằng cách phục vụ cho Caurangi một cách vô tư
Và Acinta đă ban cho ta
những giọt rượu trường sinh
Goraksa đă chứng đắc
Riêng ta đứng nơi đây
Uy nghiêm như một vị vua của ba cơi
Truyền thuyết
Goraksa sinh ra trong một gia đ́nh tiểu thương dưới đời vua Devapala. Thuở thiếu niên, ông đă chăn trâu để giúp gia đ́nh.
Một hôm theo lệ thường, Goraksa đang cùng lũ mục đồng nô đùa th́ đại sư Minapa đến chỗ bọn trẻ. Ngài nói: “Này các cháu, các cháu có nh́n thấy lũ kên kên bay lượn quanh đây không? Gần đây có một hoàng tử gặp nạn. Ngài bị chặt ĺa chân tay và đang nằm chờ chết. Có cháu nào giúp ta đến cứu mạng hoàng tử không?”
Nghe nhà sư nói, Goraksa đáp ngay: “Cháu thấy ạ! Nhưng trong khi cháu đi cứu ông hoàng, xin ông giúp cháu trông chừng đàn trâu.”
Thế là, Minapa canh bầy trâu, c̣n Goraksa đi t́m hoàng tử gặp nạn. Theo hướng bay lượn của bầy kên kên, Goraksa t́m thấy một hoàng tử đang nằm ngất bên thân một cây to.
Goraksa quay lại báo với nhà sư: “Quả nhiên đúng như lời ông nói.”
Sư hỏi: “Thế con đă làm ǵ?”
“Thưa ông, con đă cho hoàng tử phân nửa phần thức ăn mà con mang theo.”
“Tốt lắm! Vậy con hăy chăm sóc hoàng tử cho đến khi ngài lành bệnh nhé! ”
Nói xong, nhà sư từ biệt.
Cậu bé vâng lời, đi chặt những cành lá to để dựng lều cỏ rồi vực hoàng tử vào bên trong.
Ngày ngày Goraksa mang thức ăn đến cung phụng, lại c̣n tắm rửa cho ngài một cách chu đáo. Goraksa phục vụ và an ủi vị hoàng tử trong 12 năm.
Bấy giờ, Goraksa đă trở thành một chàng thanh niên cao lớn.
Một ngày nọ, theo thường lệ, Goraksa đến chỗ ông hoàng, cậu ngạc nhiên đến sững sờ khi thấy vị hoàng tử này đang đứng thẳng trên đôi chân.
Trong giây lát, Goraksa hiểu ra rằng lâu nay vị hoàng tử đă tu tập phép Du-già của sư Minapa truyền cho. Nay việc hành tŕ đă đem lại kết quả nên tứ chi của hoàng tử lành lại như cũ.
Đoạn, ông hoàng vận thần thông bay lượn giữa không trung và hỏi vọng xuống: “Ngươi có muốn học phép thiền định của ta không?”
Goraksa đáp: “Tôi không cần phải học với ngài. Tôi cũng có một chân sư. Chính thầy tôi sai tôi chăm sóc, nuôi dưỡng ngài bấy lâu nay.”
Nói xong, Goraksa quay đi chăn trâu và chờ sư Minapa đến. Chẳng bao lâu th́ sư Minapa lại xuất hiện, Goraksa thuật lại sự việc, sư lấy làm hài ḷng. Ngài điểm đạo cho chàng và truyền cho pháp thuật.
Goraksa y pháp tu hành măi cho đến khi thấy có hiện tượng sở đắc, ngài bèn đi t́m Minapa.
Nhưng sư lại bảo Goraksa sẽ không thể đại triệt đại ngộ nếu ông không hoá độ được vô số chúng sanh thoát khỏi luân hồi.
Goraksa lại bắt đầu vân du khắp nơi để hoằng pháp độ sinh. Nhưng Đại phạm thiên vương hiện ra khuyên rằng: “Ngài chỉ nên truyền pháp cho những kẻ chí tâm cầu đạo, chớ có trao pháp cho kẻ thiếu tín tâm và những kẻ ngu độn.”
Nghe vậy, từ đó Goraksa chỉ truyền pháp cho những ai hội đủ các duyên và căn cơ khế hợp với giáo pháp của ngài.
Hành tŕ
Các hành giả Du-già thuộc giáo phái Nath tu tập môn Hatha-yoga,một lối tu khổ hạnh. Họ t́m cách chặn đứng ư thức và nghiệp gây ra từ sự hoạt động của tứ chi, tập trung mọi năng lực vào các luân xa (chakra) hoặc vào cửu khiếu (nine bodily orfius).
Công phu lâu ngày, họ có thể bẻ gập các khớp xương để xếp sát vào thân như bị chặt tay chân, giống như con rùa rút vào trong cái mai của nó.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1009 of 1146: Đă gửi: 26 January 2011 lúc 12:05am | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN
Đại sư thứ 11: Vinapa - Nhạc sĩ
Từ thuở hoang sơ khi chưa có sự bắt đầu
Những cái rễ của cây vô danh
Được vun tưới bằng những cơn mưa
Của thói quen vọng tưởng
Chúng lớn mạnh thành những nhánh vô minh
Hôm nay ta đốn cây vô minh ấy
Bằng chiếc ŕu giáo pháp của chân sư
Bạn ơi! Hăy nghĩ suy, cân nhắc mà tu tập
Truyền thuyết
Vinapa vốn là hoàng tử con vua xứ Gauda. Đạo sư của ngài là Buddhapa. Là con duy nhất, nên Vinapa rất được cha mẹ cưng chiều. Thuở nhỏ, Vinapa đă tỏ ra say mê âm nhạc và rất có năng khiếu về bộ môn nghệ thuật này. Ngài chơi đàn vina rất thành thạo và đam mê đến nỗi không c̣n quan tâm đến việc học hành.
Triều đ́nh cùng hoàng tộc lấy làm lo lắng cho cơ đồ của giang sơn xă tắc, v́ Vinapa là người sẽ kế vị ngai vàng. Ngài cần phải học cách cai trị thần dân hơn là trở nên một nhạc sĩ.
Để giải quyết chuyện này, nhà vua mời đạo sư Buddhapa pháp thuật cao cường, tài trí vô song đến để chữa trị chứng say mê âm nhạc của hoàng tử.
Quả nhiên, phong cách và đạo hạnh của vị thánh tăng này làm cho hoàng tử có phần lung lạc. Sau một thời gian gần gũi, tiếp xúc với hoàng tử, đại sư thấy đă đến lúc hoá độ cho Vinapa, bèn gợi ư về chuyện tu tập. Hoàng tử đáp: “Thầy nói rất đúng.
Nhưng đối với ta, âm nhạc là thiền định. Vả lại ta rất bận học chơi đàn vina, ta lại c̣n mê âm thanh của đàn tambura nữa. Nếu thiền định của nhà Phật vi diệu th́ cần ǵ buộc ta phải từ bỏ âm nhạc?”
Đại sư nói: “Ta sẽ dạy con thiền định bằng âm nhạc. Con không cần phải từ bỏ âm nhạc mà sẽ dùng âm nhạc như một phương tiện để để thiền định.”
Hoàng tử nghe thế liền hoan hỷ nhận lời.
Sư bèn điểm đạo và khai tâm cho hoàng tử. Ngài dạy cho hoàng tử cách chú tâm vào tiếng đàn. Dừng lại tất cả sự can thiệp của tâm tưởng vào âm thanh. Chấm dứt tạp niệm để chú tâm thưởng thức âm thanh thanh tịnh.
Hoàng tử tuân theo giáo pháp, tu luyện trong 9 năm th́ dứt được vô minh, tâm trí trở nên thanh tịnh. Ánh sáng bùng lên trong tâm ngài như một ngọn đèn. Chính lúc ấy hoàng tử đắc Đại thủ ấn và các thần thông tự nhiên hiển lộ.
Hành tŕ
Vina là một loại nhạc cụ có 7 dây, thùng đàn làm bằng quả bầu khô, phía cuối cần đàn lại gắn một quả bầu thứ hai để khảy lên âm thanh phát ra lớn và vang lâu. C̣n tambura là nhạc cụ có 4 dây dùng để đàn đệm theo đàn vina.
Trong cổ nhạc Ấn Độ, người ta quan niệm rằng âm thanh trầm bổng của đàn tambura chính là âm thanh của vũ trụ. Đó là âm om. Tiếng đàn vina là giọng âm và tiếng đàn tambura là giọng dương.
Sự kết hợp âm thanh của hai nhạc cụ này hàm chứa tất cả âm thanh trong vũ trụ.
Tất cả âm thanh của vũ trụ hợp lại thành âm sabda, tức âm chỏi với âm nada được phát ra từ thanh quản. Ở Tây Tạng không có sự phân biệt như thế, v́ âm sgra trong Tạng ngữ bao hàm cả hai nguyên lư này.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1010 of 1146: Đă gửi: 26 January 2011 lúc 12:06am | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN
Đại sư thứ 12: Santipa - Nhà truyền giáo
Từ thuở hoang sơ khi chưa có sự bắt đầu
Những cái rễ của cây vô danh
Được vun tưới bằng những cơn mưa
Của thói quen vọng tưởng
Chúng lớn mạnh thành những nhánh vô minh
Hôm nay ta đốn cây vô minh ấy
Bằng chiếc ŕu giáo pháp của chân sư
Bạn ơi! Hăy nghĩ suy, cân nhắc mà tu tập
Truyền thuyết
Sư Santipa c̣n được gọi là Ratnakasanti, vốn là một vị giáo thọ nổi tiếng uyên bác về Ngũ minh môn (five arts and sciences) thuộc Tu viện Vikramasila ở xứ Magadha.
Thuở ấy, Śrỵ Lanka (Tích Lan) nằm dưới quyền trị v́ của vua Kapina, một bậc minh vương có đầy đủ phẩm hạnh và công đức.
Nhà vua từng nghe nói đến pháp vi diệu của Phật và tiếng tăm lừng lẫy của đại sư Santipa, nhưng đạo Phật lúc bấy giờ chưa được truyền sang nước ngài.
Ngưỡng mộ đạo hạnh của sư, vua sai sứ mang vô số vật thực đến cúng dường cho tu viện, đồng thời gửi một điệp văn cho sư, đại ư như sau: “Trẫm và dân chúng trong nước lâu nay ngưỡng mộ oai đức của đại sư.
Nay cúi xin đại sư rủ ḷng bi mẫn chiếu soi đèn pháp vào bóng tối vô minh, dội cơn mưa pháp dập tắt lửa tham, bẻ găy gươm sân mà cứu vớt chúng sinh ngu muội. Trẫm ngày đêm mong đợi được kề cận thánh tăng, như con đỏ mong mẹ hiền. Cúi mong đại sư một lần dời bước đến tệ quốc cho thoả ḷng quy ngưỡng.”
Chấp nhận lời thỉnh cầu của quốc vương Śrỵ Lanka, sư và một tăng đoàn gồm 2.000 vị tỳ-kheo mang theo Tam tạng kinh điển khởi hành đến Śrỵ Lanka.
Đoàn người đi qua các vùng Nalanda, Odantapuri, Rajagrha, Vajrasaha (tức Bồ-đề đạo tràng) và cuối cùng đến vùng biển thuộc Śrỵ Lanka.
Nhà vua cùng triều đ́nh và toàn thể dân chúng vui mừng ra đón tiếp tăng đoàn. Họ cúng dường đầy đủ tất cả vật dụng cần thiết để chư tăng có thể lưu lại trong thời gian ba năm để truyền bá giáo pháp Đại thừa.
Sau ba năm giáo hoá, sư cùng đại chúng quay về cố hương. Chuyến trở về lại theo một lộ tŕnh khác, dài hơn, băng ngang qua nhiều xứ, nên khi về đến tu viện th́ sư Santipa đă già yếu. Các môn đồ phải di chuyển ngài bằng xe ḅ.
Khi được 100 tuổi, sư nhập thất để thiền định trong 12 năm. Cũng trong khoảng 12 năm ấy, môn đồ của ngài là Kotapila cũng nhập thất tu luyện.
Trong Tam tạng kinh điển chia làm kinh, luật và luận th́ Santipa uyên bác về luận.
Trong thiền quán, ngài dùng trí phân biệt để quán sát các pháp. Trái lại, môn đồ của ngài là Kotapila lại dùng trí vô phân biệt để quán sát các pháp.
Kotapila tu tập 12 năm th́ chứng ngộ. Khi ngài đắc Đại thủ ấn (Mahamuddra) th́ chư thiên hiện ra chung quanh rưới mưa hoa ca tụng công đức của ngài. Các thiên vương khẩn cầu ngài cai quản 33 cơi trời Dục giới nhưng ngài từ chối.
Ngài bảo chư thiên: “Nay ta vào được đạo tràng của chư Phật là nhờ oai đức dạy dỗ của chân sư. Ta cần phải vấn an thầy ta trước hết. Bởi trong kinh nói rằng chân sư là Phật, chân sư là Pháp, chân sư là Tăng-già, chân sư là Tam bảo.”
Nói xong, sư dùng hoá thân đi đến Magadha trong thời gian nhanh như khảy móng tay.
Đến nơi, ngài đảnh lễ thầy ḿnh và chào hỏi các đạo hữu nhưng không ai đáp lời v́ họ không thể nh́n thấy pháp thân vô tướng của ngài.
Cuối cùng Kotapila phải hiện nguyên h́nh để đảnh lễ đại sư Santipa. Sư lấy làm lạ, hỏi: “Ngươi là ai?”
“Đệ tử vốn là môn đồ của ngài.”
“Ta có vô số môn đồ, làm sao nhớ hết.”
Kotapila bèn thuật lại tự sự. Sư nhớ ra lấy làm hoan hỷ. Thầy tṛ hàn huyên tâm đắc. Đoạn, sư hỏi: “Kết quả tu tập bấy lâu của ngươi ra sao?”
“Bạch thầy! Đệ tử thấy các pháp vốn do duyên sinh, không có tự tánh, không dơ, không sạch, nên vào được cảnh giới của Đại thủ ấn.”
Sư ngửa mặt than rằng: “Ấy là ta dạy ngươi! Tiếc thay, ta chưa hề thân chứng cảnh giới ấy. Nay ngươi hăy v́ ta mà nói lại pháp tu tập kẻo ta quên đi mất.”
Vâng mệnh thầy, Kotapila nói lại những ǵ mà sư Santipa trước đây đă dạy ngài.
Sau đó đại sư Santipa thiền định thêm 12 năm nữa th́ chứng đắc.
Hành tŕ
Truyền thuyết này nêu lên một sự phê phán nghiêm túc về sự nghiệp tu hành của một bậc giáo thọ. Nó nhằm chỉ trích tất cả những nỗ lực tu học có tính chất kinh viện, lối tu lan man, phương pháp thiếu thực tiễn, ḷng tự măn và thiếu quan tâm đến môn đệ của một bậc thầy.
Tuy nhiên, nó khẳng định một chân lư mới. Một bậc thầy không nhất thiết phải ngộ hay thân chứng mới có thể truyền pháp cho môn đồ. Bởi v́ một bác sĩ đâu cần phải mắc một căn bệnh nào đó rồi mới có thể rút kinh nghiệm để chữa trị cho người bệnh?
Cũng thế, các nhà khoa học không cần phải đích thân bay lên vũ trụ xem xét để vẽ đường bay cho các con tàu vũ trụ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1011 of 1146: Đă gửi: 26 January 2011 lúc 12:07am | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN
Đại sư thứ 13: Tantipa - Ngựi thợ dệt già
Người thợ dệt từng khung vải
Ta dệt bằng giáo pháp của chân sư
Ta dệt những tao dây của tri kiến
Sợi là sự rỗng không của năm tịnh thức
Thoi là giáo pháp của chân sư
Khung cửi là trí tuệ Bát nhă
Vải pháp giới kia đă dệt xong
Sản phẩm của hư không cùng tri kiến
Truyền thuyết
Tại Sendhonagar có một người thợ dệt suốt đời lao động cực nhọc, chắt chiu tiền bạc để gầy dựng sự nghiệp. Kết quả là ông ta trở thành một trong những người giàu có trong làng thợ.
Khi ông được 90 tuổi th́ người vợ qua đời, và v́ già yếu ông không c̣n lao động được nên các con phải nuôi dưỡng và chăm sóc ông hằng ngày.
Nhưng chẳng bao lâu, sự già nua lẩm cẩm của ông khiến cho các nàng dâu lấy làm khó chịu. Họ cho rằng sự có mặt của ông cụ là điều phiền nhiễu mỗi khi có khách sang trọng đến viếng.
V́ thế, họ cùng nhau dựng một túp lều trong ngôi vườn rồi đưa ông cụ ra sống ở đấy, hằng ngày đem cơm nước đến.
Cho đến một ngày nọ, sư Jalandra t́nh cờ du hoá sang miền Sendhonagar. Ngài dừng chân trước ngôi nhà người thợ dệt xin thức ăn.
Con trai của người thợ dệt nhận lời nhưng bảo sư chờ v́ cơm c̣n đang nấu. Khi cơm chín, người con thỉnh sư vào trong để dùng bữa.
Sau đó, anh ta mời sư nghỉ chân qua đêm nhưng sư bảo không quen nằm giường cao chiếu rộng. V́ thế, họ đưa Sư ra vườn để nghỉ ngơi.
Nghe tiếng động lạ, người thợ dệt già cất giọng hỏi: “Ai đấy?” “Bần tăng là kẻ qua đường, tạm dừng chân đêm nay. Chẳng hay cụ là ai?”
“Trước đây tôi từng là chủ nhân ngôi nhà này, quán xuyến mọi việc làm ăn buôn bán. Nay tuổi già sức yếu không thể lao động được nữa, nên các con tôi đối xử tệ bạc với tôi. Thật là tủi nhục. Chúng sợ người khác thấy cái già nua, lẩm cẩm, hom hem của tôi nên đem tôi giấu ở nơi này. Cuộc sống sao mà giả dối!”
Đại sư nói: “Tất cả những ǵ chúng ta đóng góp cho cuộc sống này chỉ là những vai diễn trong vở kịch đă qua. C̣n sống là c̣n phải nếm mùi cay đắng, đau khổ. Chỉ có Niết-bàn là cơi tịnh lạc. Cụ có muốn chuẩn bị cho ḿnh một cái chết thanh thản không?”
Người thợ dệt già đáp: “Thưa vâng.”
Sư điểm đạo và truyền pháp thiền cho cụ, rồi ra đi.
Người thợ dệt già bắt đầu hành tŕ giáo pháp được trao. Mặc dù hoàn cảnh sống của cụ không có ǵ tiến bộ hơn trước nhưng chỉ có một điều là cụ không c̣n than văn về con cháu nữa.
Sau 12 năm tu tập trong sự câm lặng, ông cụ đắc được các pháp thần thông. Sự tu tập thành công của cụ vẫn chưa bị khám phá, cho đến một ngày, khi nàng dâu mang cơm nước đến sớm hơn thường lệ.
Đứng bên ngoài túp lều, nh́n vào bên trong, người con dâu trông thấy một cảnh lạ thường. Có mười lăm thiếu nữ mặc y phục xinh đẹp, tay cầm những đĩa thức ăn đầy cao lương mỹ vị đứng vây quanh một ngọn đèn lớn đang tỏa sáng rực rỡ. Y phục và trang sức của các thiếu nữ đẹp đẽ, sang trọng như không hề có ở thế gian!
Nàng dâu lấy làm lạ lùng chạy ngay về báo lại với chồng. Người con trai vội vă đến chỗ cha th́ thấy cụ già đang hấp hối. Nghe chuyện lạ, mọi người đến xem, họ bảo nhau: “Người thường không có khả năng làm những việc như thế. Lăo già này chắc chắn là tôi tớ của quỷ dữ.”
Sáng hôm sau, dân chúng thành Sendhonagar nghe được tin đồn, họ rủ nhau đến xem, vài người trong bọn cung kính vái chào.
Khi ấy thân thể ông già biến thành dáng một thiếu niên 16 tuổi, từ đó chiếu ra một thứ ánh sáng rạng rỡ, chói loà khiến mọi người đang hiện diện phải lấy tay che mắt. Cảnh giới chung quanh trở nên hoàn toàn thanh tịnh trang nghiêm.
Kể từ đó, người thợ dệt già được tôn vinh là Đạo Sư Tantipa.
Hành tŕ
Ban đầu, sư Jalandra chỉ dạy cho Tantipa phương pháp tu luyện để đón một cái chết an lạc, nhưng sau đó nhờ công tu tập Tantipa đă đổi già hoá trẻ.
Theo đây, có lẽ Tantipa đă quán tưởng thân tướng của Kim cương Thánh nữ (Vajvayogini) ngự trị trong tâm ông, nên khi thành tựu pháp này, 15 quyến thuộc của Dakini đă hiện ra để cúng dường Tantipa.
Một hành giả Mật tông khi đắc pháp, thân phàm phu hoá thành linh quang, v́ lúc ấy chính là lúc thâm nhập vào Pháp giới (Dharmakaya) Một sự hoà nhập giữ hư không và ánh sáng.
Vào giờ phút lâm chung, hay c̣n gọi là giai đoạn cận tử, khi ánh sáng xuất hiện ở cuối đường hầm th́ tùy nghiệp lực mà thức bị cuốn hút vào một trong các cơi. Sự chọn lựa cảnh giới để tái sinh của hành giả được quyết định ngay lúc này.
Tùy mức độ hành tŕ, thức tâm phân hủy thành ánh sáng để hội nhập vào ánh sáng của cảnh giới nghiệp.
Sử liệu
Trong một truyền thuyết khác nói rằng Tantipa là thợ dệt ở thành Arati thuộc xứ Malara.
Sư thọ pháp Quán đảnh (Abhiseka) từ Kim cương thánh nữ khi vị Bồ Tát này đặt tay lên đỉnh đầu ông.
Sau khi đắc thần thông, Tantipa vẫn tiếp tục làm nghề thợ dệt như cũ, nhưng luôn miệng ca hát vui tươi, măi cho đến khi gặp được sư Krsnacarya truyền cho pháp môn Bất nhị (Non-discrimination). Đó là phương pháp ăn phân cũng thấy ngon như ăn bánh ḿ với bơ và ăn thịt người như ăn thịt sói.
Cũng có truyền thuyết nói rằng chính Đại sư Tantipa đă thành công trong việc hủy bỏ lệ tế thịt sống cho nữ thần Durga bằng cách biến hàng ngàn con dê dùng trong lễ tế thành những con linh cẩu.
Điều này khiến những kẻ tà kiến hoảng sợ đâm ra nghi ngờ pháp lực của vị nữ thần này. Ngài cũng nhiếp phục được vị thần nữ này và buộc không cho nhận đồ tế lễ bằng máu.
Có bốn phép quán đảnh: Thọ minh Quán đảnh, Sự nghiệp Quán đảnh, Bí mật Quán đảnh và Cam lồ Quán đảnh. (Chú thích của người dịch)
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1012 of 1146: Đă gửi: 26 January 2011 lúc 12:08am | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN
Đại sư thứ 14: Camaripa - Người thợ sửa giày
Ta, Camaripa thợ sửa giày thần thánh
Đắp tấm da kiến chấp quanh chiếc khuôn từ bi
Mũi khâu là trí giác
Ta khâu bằng sợi chỉ tương tục
Thoát khỏi tám nỗi ám ảnh của thế gian
Ta sửa xong đôi giày pháp giới
Truyền thuyết
Khu phố Visnunagar ở miền đông Ấn Độ có một thợ giày tên là Camaripa. Công việc thường ngày của ông ta là đóng những đôi giày mới và sửa những chiếc giày cũ.
Công việc đơn điệu, tẻ nhạt và nhàm chán, nên đôi khi ông có ư nghĩ rằng ḿnh sinh ra không phải để làm thợ giày mà là để làm một điều ǵ đó khác hơn.
Cho đến một hôm, t́nh cờ có một vị sư Du-già đi ngang qua cửa hiệu, anh ta liền vất bỏ dụng cụ để chạy theo nhà sư. Anh ta gieo ḿnh xuống đất, khẩn khoản nhà sư: “Bạch thầy! Con đă quá chán ngán cuộc sống đầy dẫy ngu si, ham muốn và cực nhọc này. Cúi mong thầy từ bi chỉ giáo.”
“Ta sẵn ḷng ban cho giáo pháp nếu ngươi xét thấy có thể tu tập thiền định.”
“Đội ơn thầy! Thỉnh thầy dùng bữa cơm đạm bạc nơi chốn nghèo hèn.”
“Được, ta sẽ đến vào lúc hoàng hôn.”
“Đúng hẹn, vị sư đến nhà người thợ giày và sau khi dùng cơm xong, sư bảo: “Tu tập cũng chẳng khác ǵ công việc làm giày. Chỉ có điều, thay v́ làm ra những đôi giày tầm thường th́ nay người làm nên làm một đôi giày pháp (Dharmakaya).
Đoạn sư đọc một bài Pháp kệ:
Từ bi làm khuôn
Kim là giáo pháp
Khâu chỉ vui, buồn
Th́ thành giày pháp.
Nghe xong, người thợ giày vui mừng v́ nắm bắt được ư chỉ của sư, lại hỏi: “Bạch thầy, khi con tu tập pháp này, điều ǵ sẽ xảy ra?”
“Trước tiện, ngươi sẽ thấy ṿng luân hồi (Samvara) xoay ngược. Kế đó, ngươi sẽ thấy tướng thực của các pháp thế gian.”
Nói xong, vị sư biến mất.
Người thợ giày sau khi thọ pháp bèn t́m nơi vắng vẻ để tu tập trong 12 năm. Trong thời gian 12 năm ấy, vị thần cai quản nghề thủ công cùng quyến thuộc hiện ra làm thay công việc thường ngày của người thợ giày.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1013 of 1146: Đă gửi: 26 January 2011 lúc 12:09am | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN
Đại sư thứ 15: Khadgapa - Tên trộm vô uư
Người chiến binh
không trang bị vũ khí khi ra trận
Đại bại là lẽ thường t́nh
Cho dù y có ngoan cường trong chiến đấu.
V́ thế
Ta luôn luôn mang theo lưỡi gươm tỉnh thức
Chiến đấu để dẹp giặc thù trong ba cơi
Nhiệm vụ đă hoàn thành
Ta vui đón vinh quang
Truyền thuyết
Gia đ́nh của Khadgapa từ đời ông đến đời cha chàng đều làm nghề nông, nhưng đến đời chàng th́ Khadgapa lại trở thành một tướng cướp.
Một hôm sau một vụ đánh cướp lớn, Khadgapa may mắn thoát khỏi cuộc truy bắt liền t́m đến chốn mồ hoang để ẩn ḿnh. Tại đây, Khadgapa t́nh cờ gặp một nhà sư Du-già tên là Carpaty đang thiền định. Anh ta liền hỏi: “Sư làm ǵ nơi chốn hoang địa này?”
“Ta đang tu tập thiền định. V́ ta sợ ṿng luân hồi sinh tử.”
Tên cướp ngạc nhiên: “Sư làm như vậy th́ đạt được ǵ?”
“Ta sẽ được an vui măi măi. Nếu ngươi làm theo như ta th́ ngươi cũng được hạnh phúc vô biên.”
“Tôi có nghe Phật pháp vi diệu, nhưng rảnh rỗi đâu mà ngồi suốt ngày lim dim đôi mắt? Vả lại, quan quân ngày đêm săn lùng tôi. Đôi khi tôi phải chống chọi kịch liệt mới được toàn mạng. Tốt nhất là ngài dạy cho tôi pháp thuật để tự bảo vệ lấy thân.”
Vị sư đồng ư, điểm đạo và truyền pháp thuật cho anh ta. Sau đó, vị sư dặn: “Trong thành Magadha có một ngôi đền tên là Gauri Sankak. Trong đền ấy có một tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Ngươi hăy đến và cầu nguyện trước pho tượng ấy trong 21 ngày đêm không được ngưng nghỉ.
Cho đến khi nào ngươi nh́n thấy một con rắn xuất hiện từ trong pho tượng chui ra. Hăy mạnh dạn, không được ngần ngừ hay sợ hăi, phải chộp ngay đầu con rắn ấy. Nếu ngươi làm đúng lời ta dặn th́ sẽ trở thành kẻ vô địch thiên hạ.”
Tên cướp vâng theo lời vị sư dạy.
Sau 21 ngày đêm cầu nguyện, một con rắn đen to lớn trườn ḿnh ra khỏi pho tượng, Khadgapa b́nh thản chộp lấy đầu nó.
Con rắn trở ḿnh biến thành một thanh gươm. Khadgapa nh́n lại, thấy ḿnh đang cầm cây gươm Trí Tuệ. Ba nghiệp của Khadgapa trở nên thanh tịnh, toàn thân nhập vào pháp giới (Dharmadhatu).
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1014 of 1146: Đă gửi: 26 January 2011 lúc 12:09am | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN
Đại sư thứ 16: Nagarjuna - Hiền triết và nhà luyện kim
Khi một con người si mê chưa giác ngộ
Mơ hồ tưởng ḿnh là bậc thánh
Y hành sử như một tên đạo chích
Lẻn vào hoàng cung đánh cắp ngọc ngà
Khi một người c̣n si mê chưa giác ngộ
Y như con voi bị kẹt giữa đám bùn lầy
Truyền thuyết
Ngài Nagarjuna tức Bồ Tát Long Thụ, xuất thân từ ḍng dơi bà-la-môn thuộc vương quốc Càn-chí (Kanci), miền đông Ấn Độ.
Thuở thiếu thời ngài là một con người gàn dở, thường hay nhũng nhiễu, cưỡng đoạt tài sản người khác. Số nạn nhân lên đến 25.000 gia đ́nh. Dân chúng trong vùng oán thán và các thầy tư tế bà-la-môn cũng kinh hăi dời chỗ ở.
Về sau, Nagarjuna thấy hối hận về những hành vi tác tệ của ḿnh, ngài đem trả lại tài sản đă cưỡng đoạt và phân chia tài sản riêng của chính ḿnh cho những kẻ nghèo khó, rồi tự lưu đày ḿnh sang xứ khác.
Rời Kahora, ngài đến tu viện Nalanda để tu học. Tại đây ngài trở thành một học tăng kiệt xuất về Ngũ minh môn. Nhưng chẳng bao lâu ngài chán ngán môn này, quay sang tu thiền.
Ngài thường tŕ tụng thần chú Long Nữ (Tara mantra). Do sự cảm ứng, vị nữ thần này tuân theo sở nguyện của ngài nên khiến tu viện luôn có đầy đủ vật thực cho 700 vị tăng của tu viện.
Nhưng bản thân ngài thích sống cuộc đời du hành khất thực. Mỗi đêm khi ngă lưng nằm xuống, ngài lại suy nghĩ: “Ta thật là vô tích sự. Ta phải t́m phương tiện khéo để giúp đỡ chúng sinh.”
V́ vậy, ngài đến vùng Rajagrha để nhập thất và dùng thần chú để triệu thỉnh 12 nữ dạ-xoa Đại tướng, tức 12 vị thần chủ quản các nguyên tố đất, nước, lửa, gió.
Khi ngài nhập đàn khởi tŕ thần chú, th́ ngày thứ nhất động đất xảy ra, ngày thứ hai hạn hán, ngày thứ ba có băo lửa, ngày thứ tư gió to, ngày thứ năm mưa gươm đao, ngày thứ sáu có vô số kim cương từ hư không rơi xuống.
Đến ngày thứ bảy, 12 vị nữ dạ-xoa hợp lực tấn công ngài dữ dội, nhưng ngài vẫn không động tâm.
Sau đó, ngài dùng Hàng phục pháp (Kuyo) để nhiếp phục các nữ dạ-xoa. Chúng nữ dạ-xoa hiện ra đảnh lễ, cung kính thưa: “Bạch tôn sư, chúng đệ tử có mặt.”
Ngài dạy: “Các ngươi ngày ngày hăy mang cho ta một ít vật thực.”
Chúng thần lănh mệnh lui đi. Rồi mỗi ngày họ đều mang đến cúng dường cho ngài một nắm cơm và một nắm rau trong suốt 12 năm.
Sau đó ngài lại thu nhiếp thêm 108 thần nữ dược-xoa. Để giúp đỡ chúng sinh, ngài định dùng thần thông biến núi Gandhasila thành núi vàng. Trước tiên, ngài dùng định lực biến ngọn núi lớn này thành núi sắt, rồi từ sắt biến thành đồng, nhưng khi ngài định tiếp tục biến nó thành vàng th́ Bồ Tát Văn-thù hiện ra ngăn lại:
“Chớ có làm thế? Nếu tôn giả biến ngọn này núi thành vàng th́ cũng chỉ tạo ra sự tranh giành giữa các chúng sanh mà thôi, khác ǵ tạo nghiệp ác cho họ? Chi bằng tôn giả ra sức giáo hoá cho chúng thoát khỏi ba đường ác, đạt đến Niết-bàn giải thoát.”
Vâng lời Bồ Tát, ngài Nagarjuna thôi không thi triển pháp thuật. V́ vậy, cho đến ngày nay ngọn núi Gandhasila vẫn c̣n giữ nguyên màu tia tía của chất đồng.
Rời chốn ấy, Nagarjuna đi về phía nam. Nơi ấy có một con sông lớn chắn ngăn. Ngài nhờ những người chăn cừu quanh đấy chỉ giúp ngài chỗ cạn nhất để ngài có thể lội qua bờ kia. Nhưng họ lại đưa ngài đến khúc sông sâu và đầy cá sấu.
May thay, một kẻ tốt bụng t́nh nguyện cơng ngài bơi qua sông. Đến giữa sông, Nagarjuna dùng thần thông hoá ra một bầy cá sấu ra vẻ như đe doạ cả hai. Người đàn ông tốt bụng vẫn giữ vẻ điềm nhiên: “Ngài đừng sợ. Miễn là ta c̣n sống, ta sẽ cố đưa ngài an toàn sang sông.”
Nghe nói thế, sư lấy làm cảm phục, thâu phép lại và nói: “Ta là Arya Nagarjuna. Ngươi nhận ra ta chăng?”
“Tôi có nghe đại danh của tôn sư nhưng lâu nay chưa từng gặp.”
“Ngươi có công mang ta qua sông an toàn. Vậy ngươi ước nguyện điều chi, ta sẽ biến thành hiện thực.”
“Vậy xin tôn sư cho tôi được làm vua.”
Sư toé nước vào một thân cây sala, lập tức cây ấy hóa thành con voi trắng cho vua cưỡi.
“Nhưng c̣n binh lính?”
“Khi nào voi rống, tức th́ có binh lính hiện ra.”
Đức vua ấy lấy hiệu là Salabandha, cai trị tám triệu bốn trăm ngàn hộ dân trên một vùng đất nguy nga tên là Bhabitan. Vua lập nàng Sindhi làm hoàng hậu.
Sau một vài năm trị v́ vương quốc Bhabitan, vua Salabandha đâm ra chán ngán cuộc đời làm vua của ḿnh, ông lại t́m đến Sriparvatta để t́m sự khuây khoả.
Nhà vua t́m đến thầy ḿnh và khẩn nài: “Bạch thầy! Làm vua chỉ được một ít lạc thú mà quá nhiều phiền năo. Con muốn từ bỏ ngai vàng để được kề cận bên thầy.”
“Ngươi chớ từ bỏ vương quốc của ḿnh. Hăy giữ lấy xâu chuỗi này. Nó sẽ bảo vệ vương quốc của ngươi, ban cho ngươi thứ rượu vô uư khiến tâm ngươi không kinh hăi khi đối mặt với thần chết.”
Mặc dù không muốn trở về nhưng nhà vua phải vâng lời thầy.
Tất cả mọi thứ trong vương quốc Bhabitan từ cây cối đến chim muông đều tươi tốt khoẻ mạnh khiến quỷ thần ghen tị. Cho đến một ngày nọ, ánh sáng mặt trời, mặt trăng tự dưng biến mất, hoa quả chưa đến kỳ đơm bông kết trái đă ĺa cành, dịch bệnh hoành hành, rừng khô, cỏ úa...
Chứng kiến những hiện tượng lạ thường như thế, vua Salabandha đoán biết thầy ḿnh gặp nạn. Ngài liền trao quyền bính cho thái tử Cindhakumara rồi đem theo một ít tùy tùng đến vấn an thầy.
Sư Nagarjuna hỏi: “Này con! V́ sao con đến?”
Nghe thầy hỏi, đức vua cất tiếng hát ai oán:
Định mệnh ôi trớ trêu,
Phật pháp sao khó bày
Bóng tối che ánh sáng
Mây mù che trăng rằm
Thánh tăng c̣n phải lụy
Sinh tử chia đôi đường
Con đến đây chỉ v́
Chợt thấy điềm bất tường
Cúi mong thầy từ bi
Ban cho cam lồ vị
Sư đọc kệ đáp:
Có sinh th́ có diệt
Tụ tán lẽ thường t́nh
Trần gian là huyễn mộng
Chớ buồn rầu, sầu khổ
Rượu vô uư! Cạn ly!
Vua buồn rầu hỏi: “Thưa tôn sư, nếu như tôn sư không c̣n có mặt trên đời này nữa, th́ rượu vô uư kia nào có vị chi?”
Biết đă đến lúc phải trả nghiệp đời trước, ngài Nagarjuna phát nguyện bố thí tất cả những thứ mà ngài sở hữu. Phạm Thiên bèn hoá thành một người bà-la-môn đến xin thủ cấp của ngài. Bồ Tát hoan hỷ nhận lời.
Vua Salabandha không nỡ chứng kiến cái chết của thầy, ngài tựa đầu vào chân sư rồi tắt thở.
Dân chúng thấy vậy, nguyền rủa không tiếc lời ư muốn độc ác của kẻ kia. Nhưng vô ích, Sư đă hứa cho đầu của ḿnh.
Ngài dùng ngọn cỏ sula tự cắt lấy đầu rồi trao cho người bà-la-môn kia. Tức thời, muôn thú kêu vang thảm thiết, cây cối héo tàn. Tám nữ dạ-xoa đại tướng hiện ra canh giữ nhục thân của sư, không rời giây lát.
Từ thi thể của sư phát ra một luồng ánh sáng bay vút lên cao, nhập thẳng vào ngài Nagabhodi (Long Trí).
Truyền thuyết c̣n nói rằng khi đức Phật Di-lặc ra đời trong tương lai th́ ngài Nagarjuna sẽ tái sinh để cứu độ chúng sinh.
Sử liệu
Theo truyền thống Mật tông, các bậc thánh và các đạo sư thường mang chung một tên. Đây là sự khế hợp giữa tâm và tâm của vị trước và vị sau. Việc này rất thông thường đối với bậc tái sinh (tulku). Chính v́ vậy, người đời sau thường nhầm lẫn.
Có hai vị đạo sư mang tên Nagarjuna, tức Long Thụ. Vị Long Thụ thứ nhất sinh vào khoảng thế kỷ thứ 2 ở miền nam Ấn Độ (150-250), thường được xem như Phật Thích-ca tái thế. Ngài là một triết gia vĩ đại, đă trước tác các bộ luận và hệ thống biện chứng về Trung quán (Madhyamika).
Vị Long Thụ thứ hai sinh vào thế kỷ thứ 9, vốn là vị tổ của hệ phái Guhyasamaja Tan-tra, môn đệ của ngài Saraha.
Tiểu sử của ngài Long Thụ thứ nhất được dịch sang Hán văn vào năm 405, do công của một nhà sư truyền giáo tên là Kumarajiva (Cưu-ma-la-thập).
Thuở thiếu thời, ngài Long Thụ đă chứng tỏ trí tuệ phi phàm. Chưa đầy 20 tuổi, ngài đă nổi tiếng uyên bác các kinh điển truyền thống của đạo Bà-la-môn. Nhưng sau đó ngài chán ngán và lăn ḿnh vào các thú vui ngũ dục.
Tương truyền rằng có một đạo sĩ đă dạy ngài phép tàng h́nh, có thể đi lại tự tại mà không ai nh́n thấy. Ngài đă cùng ba người bạn xâm nhập vào cung cấm để trêu ghẹo các công nương.
Chẳng may sự việc bị phát giác, ba người bạn bị quan quân giết chết. Riêng ngài thoát được nhờ phép ẩn thân đứng ngay bên cạnh nhà vua.
Ân hận v́ cái chết của những người bạn, ngài đến Nalanda xuất gia học Phật. Tại đây, ngài nhanh chóng quán triệt yếu nghĩa của Tam tạng kinh điển (Tripitaka), kể cả các bộ kinh Đại thừa (mahayana-sutra).
Nhưng v́ không thoả măn với kiến thức ấy, ngài lại vân du khắp nơi để sưu tập các kinh điển bị thất truyền.
Trong các cuộc tranh biện, ngài luôn luôn đánh bại lư luận của đối phương, nên tỏ ra rất kiêu hănh.
Ngài phát minh các luận thuyết mới và sáng lập ra một hệ phái riêng dựa trên căn bản thực tại (non-rejection). Chính v́ quan điểm sai lệch này, vị Đại long vương cảm thấy thương hại nên đưa ngài xuống Tàng kinh các ở long cung. Nơi đây có một số kinh điển mà đức Phật Thích-ca đă phó thác cho Đại long vương ǵn giữ để trao lại cho ngài Long Thụ.
Với trí tuệ phi phàm, trong ṿng 90 ngày ngài đă nắm bắt được yếu nghĩa của tất cả những kinh điển này. Tuy nhiên, ngài hiểu rằng sự thân chứng giáo pháp mới gọi là sở đắc rốt ráo.
Do đó ngài nhập định để tu pháp môn “Nhẫn nhục Ba-la-mật”. Khi xuất định, ngài trước tác bộ luận Trung quán (Madhyamika) và nỗ lực hoằng dương đạo pháp.
Ngài kết thúc cuộc đời sau khi một đạo sĩ Bà-la-môn thách thức ngài thi triển pháp thuật. Nagarjuna hoá thành con bạch tượng chụp lấy kẻ kia và đả thương y, nhưng khi nh́n lại thấy đạo sĩ vẫn điềm nhiên ngồi trên cánh sen trong một cái hồ thiêng lộ vẻ khinh miệt.
Thất bại, ngài tự nhốt ḿnh trong thiền thất và đến khi một đệ tử của ngài phá cửa xông vào th́ chẳng thấy ǵ ngoài một con ve sầu vụt bay thoát ra ngoài.
Về vị Long Thụ thứ hai, có thuyết nói rằng chính đại sư Saraha đă làm lễ thí phát và điểm đạo cho ngài, khiến ngài có thể nhập vào Mạn-đà-la của Phật Vô Lượng Thọ, đồng thời dạy ngài thần chú để nhiếp phục thần chết.
Đại sư Saraha c̣n dạy ngài Guhyasamaya tantra và các môn huyền thuật (Tantra) khác trước khi ngài được giáo thọ của ngài là sư Rahuhabhadra truyền tâm pháp.
Sự nghiệp tu học của ngài bị đứt đoạn và bị trục xuất khỏi tu viện v́ phạm vào qui củ của thiền viện. Đó là khi Nagarjuna khám phá ra cách cất rượu từ vàng để phục vụ tăng đoàn trong thời kỳ đói kém. Khi ấy ngài là vị tăng phục vụ trong nhà bếp của tu viện.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1015 of 1146: Đă gửi: 26 January 2011 lúc 12:10am | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN
Đại sư thứ 17: Kanhapa - Vị đạo sư trong màn đêm
Nếu chỉ v́ ḷng ghen tị
Ra sức hành tŕ các pháp môn
Nỗ lực tích lũy các công đức
Tất cả đều vô ích mà thôi
V́ ngươi không thể nào đạt tới thần thông
Nếu ngươi không có được
sự d́u dắt của một chân sư
Như chiếc xe kia thiếu bánh
Chẳng thể nào lăn đi trên đường
Chỉ có bậc thầy mới có thể
Chắp cho ngươi đôi cánh rộng
Để ngươi có thể vút bay trên trời cao
Truyền thuyết
Đạo sư Kanhapa c̣n được biết dưới cái tên khác là Krsnacarya, vốn là con trai của một quan văn.
Ngài thọ pháp tại đại tu viện Somapuri. Đây là một trong số những tu viện lớn được vua Dharmapala xây dựng nên. Chân sư của ngài là Đại thành tựu giả Jalandhara.
Ngài Kanhapa tu tập thiền định trong 12 năm th́ bắt đầu thấy có những hiện tượng chứng đắc. Một hôm khi đang ở trong định, ngài thấy hảo tướng rơ ràng của thủ thần Hevajra cùng các quyến thuộc của vị thần này th́ đất dưới chỗ ngài ngồi rung chuyển mạnh.
Thấy thế, Kanhapa lấy làm tự măn. Nhưng Kim cương Du-già Thánh nữ (Dakini) hiện ra bảo cho ngài biết rằng đó chỉ là sơ chứng, chứ chưa phải là cứu cánh rốt ráo.
Kanhapa lại tiếp tục công phu cho đến một ngày nọ ngài nảy sinh ư định thử xem định lực của ḿnh đạt tới mức nào.
Ngài đặt bàn chân lên đá, chân ngài liền lún sâu như đạp vào bùn, để lại cả dấu chân.
Một lần nữa, vị thánh nữ hiện ra khuyên ngài phải tiếp tục nỗ lực tu tập.
Một hôm vừa xuất định, ngài thấy thân thể bềnh bồng bay là đà cách mặt đất khoảng bốn năm tấc. Vị thánh nữ lại hiện ra, bảo ngài cần tiếp tục chuyên cần hơn nữa.
Kanhapa lại nỗ lực công phu cho đến một hôm khi vừa xuất định, ngài nh́n thấy bảy cái lọng che đầu ngài và bảy cái trống damaru bay lượn quanh tự kêu vang khắp trời, ngài Kanhapa bảo với môn đệ rằng: “Nay đă đạt mục đích. Ta sẽ đi Lankapuri, thuộc đảo quốc Śrỵ Lanka.”
Lúc đến gần đảo, Kanhapa muốn chứng tỏ thần lực của ḿnh bèn vận thần thông đạp xé nước để đi qua.
Vừa đi ngài vừa nghĩ thầm: “Ngay cả thầy ta cũng chưa chắc làm được như thế này.”
Niệm ấy vừa khởi lên trong tâm của Kanhapa, ngài liền bị ch́m ngay xuống biển. Kế đó, một ngọn sóng lớn đánh dạt ngài vào bờ.
Vừa khi ấy, ngước mặt nh́n lên trời, Kanhapa thấy thầy ḿnh bay lơ lửng trên đầu. Vị sư phụ hỏi: “Kanhapa! Ngươi đi đâu đấy? Có chuyện ǵ mà trông thấy thảm thương vậy?”
“Bạch thầy! Đệ tử đang trên đường đi đến Lankapuri để độ người. Chẳng may v́ mất thần thông nên rơi xuống đây.”
“Hoằng pháp độ sinh là việc tốt. Nhưng tốt hơn ngươi nên đến Pataliputra t́m cho ra đại đệ tử của ta. Y làm nghề dệt ở thành phố này. Nếu ngươi muốn thành tựu đạo quả, hăy tuyệt đối vâng lời của y.”
Nghe lời thầy, Kanhapa lại đi về hướng thành phố Pataliputra.
Lạ thay, thần lực của ngài tự nhiên hồi phục. Những cái lọng và những trống damaru lại xuất hiện trên đầu. Ngài đi đến đâu chúng theo đến đấy. Đến Pataliputra, ngài để lại 3.000 môn đồ bên ngoài thành, rồi một ḿnh đi vào thành phố để t́m người thợ dệt.
Ngài đi từ đầu phố đến cuối phố, thấy nhà nào có khung dệt th́ ngài dừng lại, dùng thần nhăn dứt đứt sợi chỉ trong guồng. Nếu người nào dùng tay để nối sợi chỉ đứt th́ Kanhapa hiểu rằng ngài c̣n phải tiếp tục t́m kiếm.
Thế rồi, rốt cùng ngài cũng t́m thấy con người mà ngài cần t́m thấy, khi ngài nh́n thấy sợi tơ mà ngài dùng thần thông bứt đứt tự nhiên nối liền lại.
Kanhapa đến vái chào người thợ dệt và cầu pháp. Người thợ dệt hỏi: “Ngươi một ḷng qui thuận ta chăng?”
“Thưa vâng, đệ tử xin phục ṭng mọi mệnh lệnh của chân sư.”
“Vậy hăy đi theo ta.”
Cả hai cùng đi ra mộ địa, nơi ấy có một cái thây ma c̣n tươi. Người thợ dệt hỏi: “Ngươi ăn xác chết được chăng?”
Kanhapa qú gối, rút dao, xẻo một miếng.
“Không phải vậy! Hăy làm như thế này.”
Rồi người thợ dệt hoá thành con sói nhảy đến cạnh xác chết, xé thây ma ra ăn ngấu nghiến.
Đoạn biến trở lại thành người, y bảo: “Ngươi chỉ nên ăn thịt người khi ngươi biến thành thú mà thôi.”
Nói xong, người thợ dệt rặn bụng ḷi ra ba cục phân. Y cầm một cục đưa cho Kanhapa: “Nào, ăn đi!”
“Không thể thế được. Nếu tôi ăn thứ này, mọi người sẽ nhạo báng tôi.”
Không nói lời nào, người thợ dệt cầm lấy cục phân đưa vào mồm ăn, chư thiên hiện ra chia nhau ăn một cục khác.
C̣n cục phân thứ ba bị một con rồng bay đến tha đi.
Kế đó, họ quay về thành phố, người thợ dệt đưa cho Kanhapa năm xu để mua rượu và thức ăn.
“Bây giờ, ngươi hăy đi gọi các đệ tử của ngươi đến đây để cùng ta dự tiệc Pháp.”
Kanhapa vừa đi vừa nhủ thầm: “Chỉ có ngần này tiền, không đủ cho một người ăn, làm sao mà thầy bảo đăi cả bọn ta?”
Và khi mọi người tề tựu đông đủ, người thợ dệt tác pháp cúng dường, lập tức vô số thức ăn, vật uống hiện ra la liệt, toàn là sơn hào mỹ vị.
Bữa tiệc kéo dài bảy ngày bảy đêm.
Mọi người không sao ăn hết, Kanhapa lấy làm bực bội, thầm nghĩ: “Ăn thế này th́ biết bao giờ mới xong? Ta phải đi thôi.”
Kanhapa ném phần thức ăn thừa cho ngạ quỷ rồi gọi đệ tử lên đường mà không một lời từ biệt.
Người thợ dệt cất tiếng mắng theo:
Này lũ trẻ đáng thương
Các nguơi tự huỷ ḿnh
Các người là những kẻ
Dứt ĺa trí huệ lớn
Ra khỏi tâm từ bi
Bỏ đi, ngươi được ǵ?
Lọng, trống là chuyện nhỏ
Chân đế mới tột cùng
Nhưng Kanhapa không muốn nghe, tiếp tục lầm lũi dẫn môn đồ ra đi cho tới vùng Bhadhokura cách tu viện Somapuri khoảng năm trăm dặm về phía đông.
Dừng chân nơi đây, ngài gặp một cô gái đang ngồi dưới gốc cây vải sum xuê những quả, ngài hỏi xin: “Này nữ thí chủ, cho ta xin ít quả.”
Kanhapa vận thần lực nh́n lên cây, quả liền rụng xuống. Nhưng cô gái chỉ liếc nh́n, các trái vải lại dính trên cành như cũ.
Sư tức giận dùng thần chú đả thương cô gái. Nàng đau đớn quằn quại gục đầu xuống đất.
Đám đông chứng kiến cảnh ấy lấy làm căm phẩn: “Đệ tử Phật lúc nào cũng từ bi, nhưng gă ác tăng này lại là một kẻ sát nhân.”
Nghe họ quở trách, Kanhapa bừng tỉnh, nguôi cơn giận, thâu phép về và chữa thương cho cô gái.
Thừa cơ hội nhà sư không chú ư, cô gái niệm chú đánh lại khiến sư thổ huyết và rơi vào t́nh trạng rất nguy kịch.
Kanhapa liền gọi một trong các nữ thần kim cương đến cứu giúp. Vị thánh nữ vâng mệnh đi t́m dược thảo để cứu thầy.
Sau bảy ngày vất vả, bà t́m được được thảo nhưng trên đường về bà lại gặp một cụ già đứng giữa đường khóc lóc. Thánh nữ dừng lại hỏi nguyên cớ. Cụ già mếu máo trả lời: “Tôi khóc v́ ngài Kanhapa đă qua đời.”
Nghe tin dữ, vị thánh nữ vất thuốc đi v́ cho rằng không c̣n cần đến nữa.
Nhưng khi về tới nơi, bà thấy Kanhapa chưa chết mà chỉ trong t́nh trạng nguy kịch. Sư hỏi thuốc đâu th́ bà lắp bắp kể lại chuyện ḿnh bị lừa. Do không có thuốc chữa nên sư phải ĺa đời.
Sau cái chết của thầy, vị dakini này quyết t́m cho ra cô gái nọ.
Bà đi khắp mọi nơi từ cơi trời cho đến cơi nhân gian và cho tới một hôm bà bắt gặp cô gái nọ đang ẩn ḿnh trong thân cây sambhila. Bà lôi cô gái ra ngoài và dùng linh phù đánh cho một trận nhừ tử.
Hành tŕ
Kanhapa trước tiên đă không nghe theo lời khuyên của Kim cương Thánh Nữ, sau đó lại không vâng mệnh thầy, lại tỏ ra kiêu ngạo và khinh suất. Ngài đă bị sân hận và kiêu mạn sai xử. V́ vậy, ngài đă nhận một hậu quả bi thảm.
Người thợ dệt tuy là bậc tôn túc nhưng cũng đă thất bại khi chỉ dùng thần thông để giáo huấn người, thiếu sự hài hoà giữa Bi và Trí.
Damaru là một loại pháp khí bằng sọ người hay sọ thú dùng trong nghi lễ để triệu thỉnh quỉ thần.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1016 of 1146: Đă gửi: 26 January 2011 lúc 12:11am | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN
Đại sư thứ 18: Aryadeva - Độc nhăn đại sư
Chư Phật trong ba đời
Chỉ có một điều bí mật
Trực giác được điều này
Th́ ngươi hiểu được tâm ngươi
Hăy đi lại tự tại
Hăy đắm ḿnh trong chân lư
Xoá bỏ ưu tư và phiền năo
Ngươi chính là một hành giả Du-già
Truyền thuyết
Truyền thuyết kể rằng ngài Aryadeva sinh ra từ một đoá sen. Ngay khi đủ tuổi, ngài thụ pháp tại tu viện Sri Nalanda và về sau trở thành Tu viện trưởng ở đấy.
Ngài từng là giáo thọ của hàng ngàn tăng chúng, là bổn sư của vô số các nhà học giả, trí thức đương thời, tuy nhiên ngài vẫn chưa chứng đắc. V́ thế, ngài bèn t́m đến Bồ Tát Long Thụ.
Rời Nalanda, ngài đi về phía nam. Khi ngang qua một cái hồ nước rộng mênh mông, ngài gặp Bồ Tát Văn-thù (Manjuri) đang giả dạng làm người câu cá.
Aryadeva vái chào và hỏi nơi ở của Bồ Tát Long Thụ. Bồ Tát Văn-thù bảo rằng vị thánh ấy ở trong một cánh rừng già gần đây và đang luyện thuốc.
Theo hướng chỉ của bồ tát, Aryadeva t́m đến nơi th́ thấy Bồ Tát Long Thụ đang điều chế độc dược thành thuốc trường sinh.
Aryadeva đảnh lễ vị chân sư và xin được thu nhận làm đệ tử.
Bồ Tát Long Thụ nhận lời thỉnh cầu, điểm đạo cho Aryadeva và cho phép ngài ở lại để tu tập thiền quán.
Hằng ngày, hai thầy tṛ rời khu rừng đi đến các khu lân cận để hoá duyên.
Trong khi, ngài Long Thụ vất vả mới xin được thức ăn th́ Aryadeva thường trở về với rất nhiều thức ăn ngon.
Thấy thế, ngài Long Thụ quở mắng: “Vật thực của ngươi kiếm được chỉ thuần do mấy con mụ dâm đăng trao cho, thật là bất tịnh. V́ vậy, từ đây trở đi ngươi chỉ được phép dùng vỏ chuối thay cho b́nh bát, kim nhọn để gắp thức ăn mà thôi.”
Aryadeva vâng lời thầy, mỗi ngày khi ăn ngài dùng mũi kim găm từng hạt cơm đưa vào miệng.
Thấy thế, đám phụ nữ càng ngưỡng mộ, lại làm đủ thứ bánh ngon dâng lên ngài.
Nhưng ngài nhất mực không dùng đến, lại đem cúng dường cho thầy.
Cho đến một hôm. Aryadeva báo với thầy rằng ngài đă đắc pháp.
Bồ Tát Long Thụ bèn ra lệnh cho Aryadeva phải ở lại trong lều không được ra ngoài khất thực.
Aryadeva vâng lệnh thầy. Nhưng lần này, Mộc thần định đến cúng dường.
Nữ quái ăn vận hở hang, để lộ nhiều phần da thịt nơn nà đến gặp ngài. Sau đó, ả giả vờ lân la tṛ chuyện cùng Aryadeva.
Aryadeva mang thức ăn mà nữ quái cúng dường ngài dâng lên cho thầy và kể lại sự việc.
Bồ Tát Long Thụ nghe kể chuyện bèn đi đến nơi nữ quái ẩn ḿnh. Nghe gọi tên, nữ quái hiện lên, tḥ đầu ra ngoài, c̣n thân thể vẫn giấu bên trong thân cây.
Sư hỏi: “Tại sao ngươi không phô thân ngươi cho ta xem mà lại làm thế với đệ tử của ta?
Nữ quái đáp: “Tôi làm thế là v́ đệ tử của ngài đă đoạn trừ được tham ái vi tế, c̣n ngài th́ không.”
Từ đó, Long Thụ đặt tên cho ngài là Aryadeva (Thanh tịnh thánh nhân).
Sau khi Long Thụ Bồ Tát điều chế xong rượu trường sinh, ngài nếm thử vài giọt rồi đưa cả bát cho Aryadeva uống.
Nhưng Aryadeva ném cả bát rượu trường sinh vào gốc cây. Lập tức rượu ấy biến thành một chiếc lá dính liền vào thân cây.
Ngài Long Thụ bảo: “Ngươi làm phí rượu của ta như thế. Hăy làm lại cái khác cho ta.”
Aryadeva lấy một b́nh chứa nước, tiểu vào trong đó rồi dùng que khuấy lên, đoạn đưa cho thầy ḿnh.
Bồ Tát Long Thụ bảo: “Nhiều quá!”
Aryadeva liền đổ bớt phân nửa b́nh nước tiểu vào một thân cây, trăm hoa hốt nhiên nở rộ.
Bồ Tát Long Thụ nói: “Nay ngươi đă giác ngộ. Đừng đi vào luân hồi nữa.”
Nghe những lời này, Aryadeva cất ḿnh bay lên không trung. Nhưng ngay khi ấy có một người đàn bà tiến đến gần cung kính đảnh lễ ngài. Người đàn bà này lâu nay vẫn đi theo ngài như bóng với h́nh. Thấy vậy, Aryadeva hỏi: “V́ sao ngươi lúc nào cũng đi theo bên ta?”
Bà ấy đáp: “Tôi theo ngài v́ tôi cần một con mắt của ngài.”
Aryadeva bèn móc con mắt bên phải trao cho bà. Kể từ đó ngài được gọi là Đạo Sư Độc nhăn (Kamaripa).
Hành tŕ
Thác sinh từ hoa sen có nghĩa là sinh ra từ sự giác ngộ. Tuy nhiên, trước khi nhận ra tánh Phật, hành giả cần phải trải qua con đường tu tập từ thế học đến đạo học.
Sử liệu
Theo Phật sử có hai vị Long Thụ. Mỗi vị cũng đều có một đệ tử mang tên Aryadeva. Cả hai vị Aryadeva đều là truyền nhân của thầy, đồng thời là những bậc văn tài lỗi lạc.
Vị Aryadeva thứ nhất rất nổi tiếng nhờ vào những tác phẩm luận về Bồ Tát đạo. Tác phẩm Catuhsataka được coi là bộ luận về Bồ Tát đạo nổi tiếng nhất của ngài. Bộ luận giải thích Bồ Tát nên hành sử như thế nào trong giai đoạn sơ chứng.
Ở đây, cần minh định rằng vị Aryadeva thuộc thế kỷ thứ 8 không hề viết luận thuyết về Rasayana, mà chính vị Long Thụ ở thế kỷ thứ 10 đă viết các bộ luận về Satuspitha Tantra. Vị này vốn là chân sư (guru) của môn Rasayana.
Vị Aryadeva trong truyền thuyết kể trên vốn sinh ra từ một đoá sen trong vườn thượng uyển của đức vua xứ Śrỵ Lanka. Sau khi được truyền ngôi báu, ngài thoái vị để xuất gia.
Sau khi nắm được yếu chỉ của Tam tạng kinh điển, ngài hành hương sang Ấn Độ và gặp được Long Thụ Bồ Tát ở đây.
Aryadeva xây dựng rất nhiều tu viện ở miền nam Ấn Độ. Ngài lưu lại miền nam cho đến lúc thần Mahakala hiện thân thỉnh cầu ngài đi về phía bắc để nhiếp phục một đạo sĩ Bà-la-môn.
Sau khi nhiếp phục và khai đạo cho vị đạo sĩ, ngài Aryadeva để lại bài kệ như sau:
Thần Siva có ba mắt
nhưng không nh́n thấy chân lư.
Indra có ngàn mắt
như kẻ mù loà.
Ta, Aryadeva,
chỉ có một mắt
nhưng thấy suốt các pháp.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1017 of 1146: Đă gửi: 26 January 2011 lúc 12:12am | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN
Đại sư thứ 19: Thaganapa - Kẻ dối trá
Nhỏ nước vào trong tai
Nghiêng tai nước ra ngoài
Các hiện tượng đương thời
Cũng chỉ là hư dối
Sự thật là như vậy
Ngươi đă thấy đấy thôi.
Truyền thuyết
Thaganapa sinh ra một gia đ́nh nghèo khó ở miền đông Ấn Độ. Anh ta kiếm sống bằng các thủ đoạn lừa đảo, gạt gẫm kẻ khác.
Một ngày nọ, trong khi anh ta đang ngồi bên lề đường suy tính mưu kế hại người, th́ chợt có một nhà sư đi ngang qua chỗ của y.
Sư hỏi: “Chẳng hay hiền hữu làm ǵ mà ngồi nơi đây?”
“Bạch đại đức! Xin ngài chớ hỏi. Tôi không quen nói sự thật.”
“Này hiền hữu! Đừng dối trá! Nếu hiền hữu nói những lời không thật, khi nghiệp đến, người sẽ đọa vào địa ngục. Càng dối trá, càng nặng nghiệp, hậu quả là hơi thở luôn có mùi hôi hám, chẳng ai tin tưởng ḿnh. Ruộng vườn của hiền hữu không c̣n ph́ nhiêu, màu mỡ, hạt giống không thể nảy mầm. Khi đọa xuống địa ngục, lưỡi của hiền hữu sẽ bị cày xới.”
Nghe sư nói, Thaganapa hoảng kinh: “Thưa thầy! Ngựời ta gọi tôi là Thaganapa v́ tôi là một kẻ luôn nói dối. Từ lâu nay đă thành thói quen, e rằng khó sửa đổi.”
“Người có thể tu tập thiền định không?”
“Thưa thầy! Thói quen ấy xem chừng khó bỏ.”
“Không hề ǵ! Nếu biết quay đầu về với chánh pháp, kẻ nặng nghiệp cũng có thể tu tập.”
Thaganapa vui mừng khẩn khoản: “Đệ tử cúi đầu xin thầy từ bi tế độ.”
Sư dạy: “Tất cả các pháp trong thế gian này vốn là hư huyễn, không thật, giống như những lời dối trá của ngươi từng thốt ra. Cũng thế, những ǵ ngươi cảm thọ, thấy, biết, nói, nghe bằng giác quan đều hư vọng, không có thực tính. Vậy từ nay, ngươi hăy tập quán tưởng tất cả các pháp của thế gian đồng với sự hư dối. Thế gian này được cấu thành bằng sự hư dối.”
Sau khi lănh thọ giáo pháp, Thaganapa tu tập thiền định suốt bảy năm th́ ngộ được các pháp vốn là duyên hợp, hư dối, không bền, bèn t́m đến thầy ḿnh xin ấn chứng.
Nhưng sư bảo: “Các pháp vốn không thật, không giả. Chân lư là chân lư. Không ai có thể tạo ra chân lư hay xác lập chân lư. V́ thế, ngươi hăy quán rằng cái mà ngươi tự cho là chứng ngộ cũng chỉ là một sự rỗng không. Một sự rỗng không từ trong bản thể, như vậy mới vào được đạo.”
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1018 of 1146: Đă gửi: 26 January 2011 lúc 12:13am | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN
Đại sư thứ 20: Naropa - Con người bất khuất
Tựa như vua ba cơi
Cai quản khắp nơi nơi
Nhà Du-già nếm được
Vị giải thoát thanh tịnh
Chinh phục địch luân hồi
Hưởng lạc thú thanh tịnh
Truyền thuyết
Naropa sinh trưởng ở vùng Đông Ấn. Mặc dù thân phụ làm nghề nấu rượu nhưng Naropa lại không thích nối nghiệp cha.
Hằng ngày, ngài vào rừng kiếm củi để sinh nhai. Tuy vậy, ngài không t́m thấy niềm vui nào trong cuộc sống tẻ nhạt này.
Nghe đại danh của sư Tilopa, ngài quyết định rời Patalaputra để tầm sư học đạo. Khi ngài đến xu Visnunagar th́ đại sư Tilopa đă rời khỏi chốn này.
Không gặp được chân sư, Naropa buộc ḷng phải du hành giong ruổi khắp nước Ấn để t́m cho ra sư Tilopa.
Cuối cùng ngài cũng gặp được sư Tilopa trên bước đường đi quảng bá chánh pháp. Mừng rỡ, Naropa rạp ḿnh giữa bụi đường đảnh lễ Đại sư Tilopa và cung kính thưa ngài: “Đệ tử lâu nay hằng nghe đại danh của thầy, nay đă gặp được thật thoả ḷng mong đợi.”
Nghe qua, sư Tilopa đùng đùng nổi giận: “Ta nào phải là sư phụ của ngươi. Ngươi cũng chẳng là môn đồ của ta. Chớ có hồ đồ.”
Sư vừa quát tháo vừa thuận tay chân đấm đá vào người Naropa.
Dù mới hội ngộ lần đầu đă bị xử bạc, nhưng Naropa vẫn điềm nhiên không lộ một chút oán hận, lại càng quyết tâm đi theo sư Tilopa.
Hằng ngày, Naropa đi khất thực để cúng dường sư Tilopa. Mỗi lần như thế, Sư vẫn nhận vật thực do Naropa hiến cúng nhưng ăn xong Sư lại đánh đập, la mắng Naropa.
Tuy thế, Naropa vẫn một ḷng phụng dưỡng thầy, hứng chịu những cơn thịnh nộ vô cớ, và ăn các thức ăn thừa của thầy.
Naropa kề cận bên thầy trải qua 12 năm, nhưng sư Tilopa không hề quan tâm ngó ngàng đến. Nhân một hôm, Naropa xin được món cà-ri rất ngon ở một tiệc cưới, mang về dâng lên sư phụ.
Ăn xong, sư Tilopa hỏi: “Này con, món cà-ri ở đâu mà ngon quá! Hăy kiếm thêm cho ta một ít.”
Lần đầu tiên được thầy sai bảo, lại nghe Tilopa gọi là “con” khiến Naropa bồi hồi sung sướng khác nào một Bồ Tát vào ngôi sơ địa. Ngài thầm nghĩ: “Ta ở bên chân thầy ṛng ră 12 năm. Từ trước đến nay, thầy chưa hề hỏi ta: “Ngươi là ai?” Nay thầy gọi ta là “con”. Ôi! Thật sung sướng biết dường nào!”
Thế là Naropa đi đến chỗ tiệc cưới bốn lần để xin món cà-ri mà thầy ḿnh ưa thích.
Sư Tilopa lấy làm hài ḷng về Naropa, Sư truyền pháp và làm lễ quán đảnh cho ngài. Sáu tháng sau đó, Naropa đạt thần thông Đại thủ ấn.
Ngài vân du khắp nơi để hoằng pháp.
Tương truyền, ánh sáng từ thân ngài phát ra xa hàng trăm dặm.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1019 of 1146: Đă gửi: 26 January 2011 lúc 12:14am | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN
Đại sư thứ 21: Syalipa - Linh cẩu đại sư
Người họa sĩ thiên tài
Vẽ những bức tranh có h́nh ảnh khủng khiếp
Khi ngắm nh́n các tác phẩm này
Ḷng ta dâng lên một nỗi kinh hoàng
Nhưng hăy nh́n lại đi!
Hăy nh́n cho rơ
Những h́nh ảnh ấy
phản ánh những điều không thật
Rồi cuối cùng ta cũng phát hiện ra
Truyền thuyết
Syalipa là một nông dân nghèo sống gần kề một băi tha ma. Về đêm, có một đàn linh cẩu thường đến để lùng sục những mẩu xương thừa của người chết trong đám tro tàn.
Tiếng tru gào của chúng dường như ma kêu quỉ khóc, như xé toạt cả bóng đêm tịch mịch, quyện vào không gian đen nghịt, khiến người nghe phải rùng ḿnh sởn gáy. Chúng là nỗi kinh hoàng của Syalipa, ám ảnh trong tâm trí của chàng ngày lẫn đêm.
Cho đến một hôm, t́nh cờ có một đạo sư đến khất thực vùng này, Syalipa vội mang thức ăn cúng dường. Nhà sư lấy làm hoan hỷ và giảng thuyết về lợi ích của công đức cúng dường, nhưng Syalipa buồn rầu nói: “Thưa thầy! Bài thuyết pháp của thầy thật hay. Nhưng nếu được, mong thầy dạy tôi làm cách nào có thể vượt qua nỗi sợ.”
“Này hiền hữu! Ngươi sợ ǵ? Già? Chết? Hay luân hồi sáu nẻo?”
“Thưa, đó chỉ là những lo sợ thông thường. Tôi có một nỗi sợ đặc biệt hơn. Tôi sợ tiếng tru của loài linh cẩu thường đến kiếm mồi ở băi tha ma gần đây. Xin thầy từ bi dạy tôi cách trừ nỗi sợ ấy.”
“Thôi được’ V́ ngươi chẳng sợ ǵ khác ngoài tiếng tru của loài linh cẩu. Vậy cách hay nhất là ngươi nên dựng lều trong băi tha ma, sống chung với loài thú này. Đồng thời, hăy luôn tâm niệm rằng tất cả âm thanh trên thế gian này đồng với tiếng tru của chúng. Lâu dần, nỗi sợ sẽ tự huỷ diệt.”
Syalipa vâng lời dạy, tu tập trong 9 năm th́ đạt được tâm vô uư, đắc Đại thủ ấn, tự xưng là Pháp sư Linh cẩu, thường đắp một tấm da linh cẩu trên thân.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1020 of 1146: Đă gửi: 26 January 2011 lúc 12:15am | Đă lưu IP
|
|
|
CÁC VỊ CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN
Đại sư thứ 22: Tilopa - Kẻ xuất thế
Con chim ấy ngụ trên núi Tu-di
Dường như nó được làm bằng vàng
Bậc trí giả biết rằng
Năng lực thanh tịnh là tất cả
Nên ngài từ bỏ thế giới vật chất
Để bước vào cảnh giới Niết-bàn
Truyền thuyết
Tilopa vốn là quốc sư của xứ Visnuagar vào thế kỷ thứ 10. Ngài được đức vua và triều đ́nh rất mực tôn kính. Nhưng ngài tỏ ra chán chường những biệt đăi của nhà vua. Ngài thường bảo: “Đời ta thật vô nghĩa?”
Sau đó ngài xin từ chức quốc sư nhưng triều đ́nh không thuận. Cuối cùng, ngài phải âm thầm ra đi.
Rời khỏi triều đ́nh trong một đêm khuya, Tilopa đi về vùng Kanci, trú thân nơi một băi tha ma hẻo lánh. Ngày đi khất thực, đêm về tu tập thiền định bên cạnh những thây ma.
Đại sư Tilopa thường cho rằng thế gian ô trược này chính là cơi thanh tịnh của ngài.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|