Tác giả |
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1101 of 1146: Đă gửi: 06 March 2011 lúc 3:57pm | Đă lưu IP
|
|
|
HỒI KƯ H.S. OLCOTT
IV. Lần lần, Bavatsky nói cho tôi biết về sự hiện diện của các Chân Sư cùng những quyền năng của các ngài, và bằng vô số các hiện tượng huyền linh, bà cho tôi thấy bằng chứng về quyền năng của bà đối với những mănh lực huyền bí trong thiên nhiên.
Trước hết, như đă nói ở trên, bà gán cho âm binh “John King” vai tṛ tác động nên các hiện tượng ấy, và chính nhờ sự trợ giúp của y mà lần đầu tiên tôi được tiếp xúc bằng thư từ với các Chân Sư. Tôi đă ǵn giữ nhiều bức thư cũa các ngài, và ghi rơ ngày tháng nhận được những bức thư ấy.
Trong nhiều năm, cho đến ngày tôi rời Nữu Ước để sang Ấn Độ, tôi được kết nạp vào hàng đệ tử đặt dưới quyền chỉ đạo của phân bộ Phi Châu trong QUẦN TIÊN HỘI.
Về sau, khi bà HPB có một sự biến đổi huyền diệu về tâm linh và thể chất mà tôi không tiện nói ra, và cho đến nay vẫn không ai ngờ mặc dù họ được đối xử thân mật và hoàn toàn tin cẩn của bà (như họ vẫn tưởng), tôi được thuyên chuyển sang phân chi Ấn Độ, dưới sự chăm sóc điều hành của một nhóm Chân sư khác.
Từ bao giờ, khắp trên thế giới luôn luôn vẫn có một tổ chức vĩ đại gồm một TẬP ĐOÀN TIÊN THÁNH chăm lo d́u dắt sự tiến hóa của nhân loại. Tổ chức ấy dược chia làm nhiều phân chi tùy theo những nhu cầu của nhân loại trong những giai đoạn tuần tự tiến hóa khác nhau.
Trong một thế hệ, trung tâm điều hành của TẬP ĐOÀN TIÊN THÁNH, tức QUẦN TIÊN HỘI, được đặt ở một nơi nhất định; vào một thế hệ khác, trung tâm ấy lại được đặt ở một nơi khác. Tuy vô h́nh vô ảnh nhưng cần thiết cho sự tiến bộ tâm linh của nhân loại, quyền năng phối hợp của TẬP ĐOÀN TIÊN THÁNH được duy tŕ từ thế hệ này sang thế hệ khác để trợ giúp người hành giả chiến đấu không ngừng trên con đường Đạo xa xôi diệu vợi đưa đến Chân Lư thiêng liêng.
Kẻ hoài nghi phủ nhận sự hiện diện của các đấng Tiên Thánh bởi v́ họ không nh́n thấy hay nói chuyện với các ngài, cũng không hề thấy lịch sử nói về sự can thiệp hữu vi của các ngài trong những biến cố của các quốc gia.
Nhưng sự hiện diện của các ngài đă được nh́n nhận bởi hàng ngh́n những bậc đạo gia chân tu của nhiều thế hệ liên tục, đă giải thoát khỏi sự ô nhiễm của cuộc đời thế gian để bước vào cơi giới tâm linh huyền diệu. Trong nhiều thời kỳ, các ngài đă từng giao tiếp thân mật với những người chỉ nguyện xă thân cầu Đạo, hoặc dành trọn cuộc đời phụng sự hiến dâng để đem lại hạnh phúc và t́nh thương trong muôn loài.
Vài người trong số đó, rất mực khiêm tốn và bề ngoài có vẻ kém hèn như chúng tôi là những người lănh đạo phong trào THÔNG THIÊN HỌC, đă có diễm phúc được sự ưu ái và chỉ giáo của các ngài. Vài người như bà Blavatsky và sư đệ Damodar đă được nh́n thấy ngài trong những cơn linh ảnh từ khi c̣n nhỏ.
Những người khác đă gặp các ngài dưới những h́nh dáng ngụy trang lạ lùng ở những nơi thật bất ngờ. Tôi được bà Blatsky giới thiệu cho các ngài xuyên qua nhân vật trung gian quen thuộc trong những kinh nghiệm trước đây: đó là vong linh mệnh danh “John King”.
Y giúp tôi giao tiếp bằng phương tiện Vô Vi với bốn vị Chân Sư, trong số đó có một vị Chân Sư Ai Cập, một vị là đại diện của môn phái Alexandrie, một vị là Chân Sư Venitien, và một là hậu thân của một triết gia người Anh, tuy đă qua đời nhưng vốn bất tử.
Chân Sư Serapis (Ai Cập) là vị Sư Phụ đầu tiên của tôi, ngài có một tác phong hào hùng dũng cảm và đầy vẻ cương nghị của một người trội hẳn phần nam tính. Về sau, tôi được các Chân Sư cho biết rằng bà Blavatsky là một đệ tử trung kiên của các ngài, tuy rằng bà có những tính chất bất thường, làm cho bà khó dung ḥa được với vài vị Chân Sư để có thể làm việc chung với các ngài.
Điều này không lạ ǵ khi ta biết rằng mỗi người đều tiến hóa theo một Cung nhất định trong Thiên Cơ. Họ có sự ḥa hợp tâm linh với những linh hồn đồng Cung với ḿnh, và có thể đối nghịch với những linh hồn thuộc về một Cung khác khi khoác lấy xác phàm để hoạt động trên cơi hồng trần hạ giới. Đó có lẽ là cái lư do căn bản của mọi sự ḥa hợp hay xung khắc giữa người nọ với người kia trên thế gian.
Dù sao, vài vị Chân Sư không thể làm việc chung với bà Blavatsky. Bà chỉ hợp tác được với những vị khác, mà tôi có liên hệ mật thiết trong những năm đầu của phong trào Thông Thiên Học thế giới. Trong những chuyện tâm sự với nhau khi tôi đă đi khá sâu vào vấn đề để biết về QUẦN TIÊN HỘI và mối liên hệ của bà với cơ quan ấy.
Bà HPB (tên viết tắt của bà Blavatsky) nói cho tôi biết rằng bà đă đến Paris từ năm trước 1873, với ư định ở lại đó ít lâu dưới sự bảo trợ của một người thân quyến, nhưng một ngày nọ bà nhận được mật lệnh của Chân Sư truyền cho bà phải đi ngay sang New York để chờ lệnh mới.
Qua ngày hôm sau, bà liền vượt biển trùng dương với chỉ vừa đủ số tiền để mua vé tàu. Bà viết thư cho cha ở bên Nga yêu cầu ông gửi tiền cho bà qua Lănh Sự Quán Nga ở New York, nhưng v́ phải chờ đợi một thời gian, và v́ viên Lănh Sự Nga từ chối không cho bà mượn trước, nên bà phải t́m việc làm để sống qua ngày.
Bà ở tại trong những khu phố nghèo nàn nhất là khu Madison của thành phố New York, và sống bằng nghề may thuê vá mướn cho một lăo chủ tiệm tạp hóa người Do Thái rất tốt bụng. Bà luôn luôn nhắc đến người này với một ḷng biết ơn. Bà sống như vậy lây lất qua ngày, nhưng vẫn chưa nhận được tin ǵ và tương lai hoàn toàn mờ mịt.
Nhưng năm sau, tháng 10 năm 1874, bà được mật lệnh đi đến Chittenden để gặp một người đồng môn sẽ cùng cộng tác với bà trong một công việc vĩ đại trong tương lai: người ấy, ai ngờ chính lại là… tôi. Những bạn bè thân hữu của bà đều nhớ rơ câu chuyện mà bà đă kể cho họ nghe về sự lên đường ra đi bất ngờ của bà từ Paris sang New York theo mật lệnh của Chân Sư.
Nhưng những người bạn thân ấy chỉ nghe bà kể lại măi về sau mà thôi, và những kẻ thù nghịch với bà có thể nói rằng đó chỉ là một việc mà bà mới nghĩ ra sau này, một chuyện giả dối được bịa đặt ra để cho ăn khớp với cái tṛ đùa ngộ nghĩnh mà bà ngụy tạo ra sau đó.
Tuy nhiên, trong khi tôi viết những trang này tại Adyar th́ một việc t́nh cờ (nếu đó là do sự t́nh cờ) vừa đem đến cho tôi một bằng chứng xác nhận sự việc trên.
Vừa đến lưu trú tại Adyar, có bà Anna Ballard, một nữ kư giả lăo thành người Mỹ, hội viên kỳ cựu của Câu Lạc Bộ Báo Chí thành phố New York. Do hoạt động nghề nghiệp, bà này đă từng đến phỏng vấn bà Blavatsky trong tuần lễ đầu tiên sau khi bà HPB vừa đổ bộ lên đất Mỹ.
Trong khi tiếp xúc với chúng tôi, bà Ballard ngẫu nhiên nói cho tôi nghe hai chuyện, mà tôi liền yêu cầu bà viết lại trên giấy trắng mực đen để làm tài liệu. Điều thứ nhất là khi bà đến viếng HPB ở một nơi nhà trọ nghèo nàn tại New York, bà HPB có nói rằng bà từ giă Paris th́nh ĺnh và không có dự tính trước, do một quyết định đột xuất chỉ báo trước có một ngày; và việc kế đó là bà HPB đă từng viếng xứ Tây Tạng.
Dưới đây là lời tường thuật của bà Anna Ballad:
Adyar, 17 tháng 1, 1892
Kính gởi Đại Tá Olcott
Sự quen biết của tôi với bà Blavatsky c̣n lâu hơn là ông tưởng. Tôi gặp bà hồi tháng 7 năm 1873 tại New York, độ một tuần lễ sau khi bà vừa cặp bến. Hồi đó, tôi là phóng viên của nhật báo New York Sun, được chỉ định viết một bài về một đề tài Nga. Khi tôi c̣n đang t́m tài liệu, th́ một người bạn cho tôi hay rằng có một phụ nữ Nga vừa nhập cảnh do chuyến tàu mới đến.
Tôi bèn t́m đến gặp bà, và từ đó bắt đầu một sự quen biết thân hữu kéo dài đến nhiều năm sau. Trong cuộc phỏng vấn đầu tiên của tôi, bà HPB cho tôi biết rằng bà không hề có ư định rời Paris để sang Mỹ cho đến ngày cuối cùng trước khi bà xuống tàu, nhưng v́ lư do ǵ bà ra đi và ai thúc hối bà đi gấp như vậy, th́ bà không nói.
Tôi c̣n nhớ rơ bà nói với một vẻ sung sướng khoái trá lộ ra mặt: “Tôi có ở bên Tây Tạng.” Hồi đó, tôi không hiểu tại sao bà lại cho đó là một vấn đề quan trọng, c̣n đặc biệt hơn những chuyến du hành ở Ai Cập, Ấn Độ và những nước khác mà bà đă kể chuyện cho tôi nghe, nhưng bà lại nói câu ấy với một vẻ mặt nghiêm trọng lạ thường. Bây giờ th́, lẽ tất nhiên, tôi hiểu ư bà muốn nói ǵ.
Kư tên: Anna Ballard.
Độc giả sẽ nhận thấy rằng những sự việc mà bà HPB đă kể cho người bạn đầu tiên này ỏ New York hồi hai mươi năm về trước, đă xác nhận đúng đắn những ǵ mà từ đó về sau bà cũng đă thuật lại với một số đông người, về hai vấn đề quan trọng nhất trong lịch sử liên hệ giữa bà với hội Thông Thiên Học, là:
1. Giai đoạn chuẩn bị của bà bên xứ Tây Tạng dưới sự chăm sóc của các đấng Chân Sư; và
2. Cuộc hành tŕnh của bà đột xuất sang Mỹ để t́m người bạn đồng môn có nghiệp duyên cùng hợp tác với bà để phát động phong trào Thông Thiên Học trên thế giới.
Hồi năm 1871, bà đă có một lần thất bại khi mưu tính thành lập một Cơ Quan Tinh Thần tại Cairo, thủ đô Ai Cập, dựa trên nền tảng các hiện tượng thần linh. V́ không t́m được người có đủ khả năng tổ chức và lănh đạo, nên việc ấy không thành; nó đă đem đến cho bà nhiều sự chỉ trích và bực ḿnh.
Tuy nhiên, những phép thuật thần thông mà bà đă biểu diễn với sự trợ giúp của các vị Chân Sư Ai Cập và một vị Chân Sư khác mà về sau tôi được dịp tiếp xúc, đều là những hiện tượng vô cùng độc đáo. Việc ấy có vẻ như một sự hoang phí thần lực một cách vô ích, và cho thấy công tŕnh nầy dường như thiếu sự hướng dẫn của thiêng liêng. Tôi không thể hiểu tại sao sự việc lại xảy ra như vậy.
Nói về hội Thông Thiên Học th́ mọi sự diễn biến đều chỉ rằng nó có một lịch tŕnh tiến hóa tuần tự, và bị chi phối bởi hoàn cảnh do tác động của những sức mạnh tương phản. Khi th́ sinh hoạt êm ái điều ḥa, khi th́ trải qua những cơn sons gió ồ ạt, Hội được thịnh vượng hay bị trầm trệ tùy theo sự quản trị thông minh sáng suốt hay kém khôn ngoan của các nhà lănh đạo.
Đường lối đại cương của Hội vẫn luôn luôn được ǵn giữ, phương châm hướng dẫn bao giờ cũng vẫn đồng nhất, nhưng chương tŕnh sinh hoạt của nó đôi khi được sửa đổi, nới rộng hay cải tiến một cách linh động, uyển chuyển tùy theo kiến thức và kinh nghiệm của chúng ta.
Mọi sự đều chứng minh cho tôi thấy rằng phong trào Thông Thiên Học nói chung đă được các bậc Tiên Thánh chuẩn bị từ trước, nhưng c̣n tất cả mọi chi tiết đều để cho chúng ta thực hiện với sự cố gắng tối đa. Nếu chúng ta thất bại th́ cái cơ hội quư báu mà Nghiệp Quả đă dành cho chúng ta sẽ rơi vào tay người khác, cũng như hiện nay tôi là người thừa kế những cơ hội lỡ làng mà nhóm tín hữu của bà Blavatsky đă bỏ dở không thực hiện được tại Cairo hồi năm 1871.
Trong thưở ban đầu, tôi không hề nghe bà Blavatsky nói ǵ ngụ ư rằng bà đă được cho biết trước , cho đến khi bà được lịnh đi đến Chittenden để gặp tôi, về việc chúng tôi sẽ cùng cộng tác với nhau trong tương lai, hay là về việc thành lập hội Thông Thiên Học thế giới.
Chúng tôi chỉ nghe bà nói, như đă kể trên, rằng bà được gởi từ Paris đi New York với mục đích truyền bá giáo lư Huyền Môn, và trước khi chúng tôi gặp nhau, bà đă từng tham dự những buổi họp đàn và tiếp xúc với các đồng tử nhưng vẫn c̣n ẩn mặt chứ chưa hề được công chúng biết đến.
Tháng 5 năm 1875, với sự đồng ư của bà HPB, tôi bắt tay vào việc tổ chức một nhóm thân hữu chuyên khảo cứu về Khoa Học Huyền Bí, lấy tên là Câu Lạc Bộ Huyền Linh (Miracle Club). Trong một đoạn kư sự về việc này, bà viết như sau:
“Đó là một mưu toan do lệnh dạy của T. B. (một vị Chân Sư), nhận được qua trung gian của P. (một tinh linh) mệnh danh John King. Được lệnh phải bắt đầu nói cho công chúng biết sự thật về các hiện tượng và các đồng tử.
Thế là cuộc pháp nạn của tôi sẽ bắt đầu! Tôi sẽ gặp phải sự chống đối của các nhà Thần Linh Học, thêm vào sự thù nghịch của bên Cơ Đốc Giáo và những kẻ hoài nghi. Ôi ! Chân Sư M., ư muốn của Sư Phụ sẽ phải được thực hiện.
HPB.”
Câu lạc bộ này được dự định sẽ nhóm riêng, không thâu nhận người ngoài trừ ra những thành viên của nhóm, và họ cũng bị ngăn cấm không được tiết lộ nơi họp. Bà viết thêm. “Tất cả những hiện tượng Thần Linh, gồm cả các sự hiện h́nh, đều sẽ diễn ra dưới ánh sáng, và sẽ không sử dụng một pḥng tối.”
Theo lời bà nói như trên, th́ dường như sẽ không có Hội Thông Thiên Học, nếu rốt cuộc người đồng tử của Nhóm Huyền Linh không hoàn toàn suy thoái rồi rút lui và tôi đành bỏ dở không thể hoàn thành công việc ấy.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1102 of 1146: Đă gửi: 06 March 2011 lúc 4:08pm | Đă lưu IP
|
|
|
HỒI KƯ H.S. OLCOTT
CHƯƠNG HAI
VÀI NÉT ĐẶC THÙ CỦA BÀ BLAVATSKY
I. Trong chương một, chúng tôi có nói rằng bà HPB được lệnh của Chân Sư phải rời Paris đi New York một cách đột ngột, do tin báo trước chỉ có một ngày, và khi đó bà chỉ có vừa đủ tiền để mua vé tàu. Tôi c̣n nhớ một việc liên hệ đến chuyến đi ấy do bà thuật lại, việc ấy cũng biểu lộ một nét đặc biệt trong tính chất đa dạng của bà, ấy là tính hào sảng tự nhiên.
Bà đă mua một vé tàu hạng nhất đi từ Havre đến New York, và khi ra bến, bà nh́n thấy một phụ nữ nhà quê ngồi bên vỉa hè vừa ôm con vừa khóc rất thảm thiết. Bà bước đến gạn hỏi th́ được biết rằng đó là một phụ nữ Đức định xuống tàu để sang gặp chồng ở bên Mỹ, nhưng bị một kẻ gian đă bán vé giả cho bà ta ở Hambourg.
Thế là khi đến đây, bà ấy bị bơ vơ, lạc lơng, không tiền bạc và tứ cố vô thân nơi đất khách. Lẽ tự nhiên, Công Ty Hàng Hải cũng không làm ǵ được. Động ḷng trắc ần, bà HPB nói: “Chị hăy yên tâm, để tôi xem có cách nào giúp chị được không?”
Kế đó, bà vận dụng tất cả mọi khả năng hùng biện, hết thuyết phục rồi đến quở trách người đại diện Công Ty, nhưng rốt cuộc vẫn không có kết quả. Sau cùng, v́ bà không có đủ tiền để trợ giúp người phụ nữ bất hạnh ấy nên bà phải dùng đến phương sách tối hậu, chứ không c̣n cách nào khác. Bà liền đổi vé “cabin" hạng nhất của bà thành vé hạng chót, nằm dưới hầm tàu, và dùng số tiền sai biệt để mua vé hạng chót luôn cho cả hai mẹ con người đàn bà kia!
Nhiều người thuộc loại “nề nếp”, “mực thước,” thường tỏ ra hoang mang kinh ngạc v́ những cử chỉ ngang tàng ngáo ngổ và cả những điều sống sượng bất nhă nữa của bà HPB, nhưng tôi nghĩ rằng một cử chỉ hy sinh hào phóng như vậy cũng đủ làm nghiêng lệch đ̣n cân, và quét sạch tất cả những ǵ gọi là bất lịch sự trong phép xă giao của người đời! Ai không tin, hăy thử xuống nằm dưới hầm tàu chở dân di trú một lần th́ biết!
Trên đây có nói trong trường hợp nào nữ kư giả Ballard đến gặp bà HPB tại một ngôi nhà trọ nghèo nàn ở một khu phố b́nh dân của thành phố New York trong khi bà c̣n chờ đợi tiền nhà và phải làm việc may thuê vá mướn để sống tạm qua ngày.
Đó là vào tháng 7, năm 1873. Tháng mười năm ấy, bà nhận được một bức điện tín từ Stavropol, Nga, của cô em gái là Elise, cho biết tin phụ thân bà từ trần và có để lại cho bà một phần gia tài. Cô em cho biết thêm rằng một ngân phiếu một ngàn Nga Kim (roubpes) đă được gửi cho bà.
Sau đó ít lâu, bà nhận được tiền và dời chỗ ở đến một khu phố khang trang lịch sự hơn, ở đường East 16th, công trường Irving, New York. Chính ở địa chỉ này mà tôi đến gặp bà sau khi từ nông trại Eddy trở về.
Tuy nhiên, số tiền ấy không ở với bà được lâu, v́ như ông Sinett dă nhận xét và ghi lại trong quyển sách của ông (về tiểu sử của bà HPB) th́ một mặt bà có thể chịu đựng một cách vô cùng nhẫn nhục những cơn nghèo túng và nghịch cảnh khó khăn, nhưng khi tiền bạc vừa đến tay bà, th́ bà dường như lấy làm băn khoăn khổ sở, trừ khi bà đem vứt quăng đi với cả hai tay bằng những phương tiện dại dột nhất.
Đó là một cuộc chung vốn làm ăn có kư hợp đồng để khai thác nông trại của một người tên là C.G. trong một kỳ hạn là ba năm. Trong bản hơp đồng có điều khoản quy định rằng bà HPB sẽ bỏ ra số tiền một ngàn đô la để chung vốn, tất cả những lợi tức thu hoạch được về hoa màu, rau trái, gà vịt, và nhũng hoa lợi linh tinh khác sẽ được chia đều và mọi phí tổn cũng sẽ cùng gánh chịu đều nhau, v..v…
Điều mà người ta có thể tiên liệu trước đă xảy ra: bà HPB đến ở tại nông trại, lợi tức đâu chẳng thấy, đâm ra tranh chấp, căi lẫy, rồi mắc nợ và vướng vào một vụ kiện mà rất lâu về sau các bạn bè thân hữu của bà mới giúp bà giải quyết xong.
Thế là tan tành cái giấc mộng về lợi tức của bà về rau trái, hoa màu, nuôi ḅ sữa, gà đẻ trứng, v..v… Ba tháng sau đó, tôi mới gặp bà tại ngôi nhà có hồn ma hiện h́nh ở tại Vemont, Chittenden, và bánh xe nghiệp quả của chúng tôi mới bắt đầu chuyển động.
Những bài phóng sự của tôi đăng trên nhật báo Daily Graphic đă hấp dẫn đến Chittenden một vị lương y danh tiếng của thành phố New York, bác sĩ Beard. Khi trở về, y đă viết một bài b́nh phẩm ngu xuẩn và khoác lác đăng trên báo, nói rằng những chuyện hồn ma hiện h́nh ở nông trại Eddy chỉ là những tṛ giả mạo, và y đă bị bà HPB “cạo sát da” trong một bức thư trả lời nảy lửa gởi đến ṭa soạn báo Graphic.
Bức thư của bà là một sự biện hộ can đảm và độc đáo bênh vực cho những đồng tử Eddy và sự thật của những hiện tượng xảy ra, làm cho bà đột nhiên vang dậy tên tuổi khắp các giới kể từ đó trở về sau.
Đây là lần đầu tiên mà quần chúng Mỹ được nghe tên tuổi bà liên quan dến những vấn đề huyền linh, và cuộc tranh luân với một bác sĩ nổi tiếng ở New York thời ấy là cái nguyên nhân chính làm cho bà được nổi danh một cách bất ngờ.
Hồi đó, bà luôn luôn phát ngôn với một giọng sôi nổi, hào hùng và vui nhộn trong tất cả mọi cuộc đàm thoại và trên diễn đàn ngôn luận, báo chí; bà thu hút mọi người bằng cách nói chuyện linh động và ư nhị; khinh bỉ những nghi thức xă giao giả dối của người đời, và gây sự ngạc nhiên trong các giới bằng những quyền năng thần bí của bà.
Bà thường rút trong cái kho tàng kư ức vô cùng dồi dào phong phú về những chuyện phiêu lưu mạo hiểm mà bà đă trài qua do kinh nghiệm bản thân, và trong kho kiến thức thâm sâu về khoa Huyền Môn, mà theo chỗ tôi biết th́ không ai có thể b́ kịp trong số các nhân vật xuất hiện ở Mỹ thời bấy giờ.
Khi tôi đă kết thúc loạt bài phóng sự đăng trên báo Daily Graphic về các hiện tượng thần linh ở Chittenden, tôi bèn chuẩn bị in ra thành sách. Vào lúc này, bà HPB cũng dời chỗ đến ở Philadelphia. Hồi đó, khoa Thần Linh Học đang trải qua một giai đoạn xuống dốc do hậu quả của việc đồng tử Holmes bị nhà bác học Dale Owen công khai tố giác là dối trá, bịp bợm.
Những cơ quan ngôn luận của phong trào bị mất độc giả rất nhiều, những sách vở Thần Linh Học sáng giá nhất đều bị mất khách hàng và nằm trong các nhà sách không ai mua. Nhà xuất bản quyển sách của tôi bị giao động tinh thần dến nỗi tôi phải đề nghị vối ông Dale Owen và bà đồng tử Holmes mở một cuộc trắc nghiệm dài hạn dưới những điều kiện của tôi đưa ra để chúng tôi thực hiện những cuộc thử thách này tại nhà ông bà Holmes.
Sau đó, tôi đến Havana, tiểu bang New York, và chứng kiến những hiện tượng đồng tử thật là kỳ diệu của bà Compton. Tất cả những cuộc khảo sát trên đây đều được tường thuật lại đầy đủ trong quyển sách của tôi nhan đề “Người về từ cơi âm” và sau cùng nó được đem phát hành.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1103 of 1146: Đă gửi: 06 March 2011 lúc 4:16pm | Đă lưu IP
|
|
|
HỒI KƯ H.S. OLCOTT
II. Trong khi bà HPB ở Philadelphia, tôi nhận lời mời của bà và đến đó ở nghỉ vài ngày sau một thời gian làm việc mệt nhọc. Tôi định đi vắng nhà có vài ngày thôi nên không dặn người nhà và văn pḥng Luật chuyển thơ từ cho tôi, nhưng khi đến nơi tôi mới biết bà không muốn để tôi về sớm như vậy.
Qua ngày hôm sau, tôi đến Sở Bưu Điện, và yêu cầu họ đem thư tù của tôi nếu có, đến địa chỉ của tôi đang ở. Khi đó th́ xảy ra một việc làm tôi ngạc nhiên, v́ hồi đó tôi chưa được biết nhiều về những quyền năng thần thông của các Chân Sư và bà HPB và chí đến bây giờ đối với tôi, nó vẫn c̣n là một kỳ quan lạ lùng dẫu rằng tôi đă từng trải qua một thời kỳ kinh nghiệm lâu dài về các hiện tượng huyền linh.
Ngay chiều hôm đó, người đem thơ đem đến cho tôi vài bức thơ gởi từ ngoại quốc, ngoài bao thơ đề địa chỉ của tôi ở New York, có đóng dấu các trạm bưu điện xuất xứ nhưng KHÔNG CÓ CON DẤU CỦA SỞ BƯU ĐIỆN THÀNH PHỐ NEW YORK.
Bất chấp mọi luật lệ của quy tắc bưu điện, những bức thư đó đă được giao thẳng đến tay tôi ở Philadelphia mà không đi qua Sở Bưu Điện thành phố New York. Ở New York không ai biết địa chỉ của tôi tại Philadelphia v́ chính tôi cũng không biết khi tôi rời khỏi nhà ra đi.
Khi mở các bao thơ, tôi thấy trên các thơ đều có những gịng chữ viết, đúng là tuồng chữ trên những bức thơ của các Chân Sư mà tôi đă nhận được ở New York trước đây, những gịng chữ này được viết hoặc ở ngoài lề, hoặc ở những khoảng trống trong thơ của những người giao dịch với tôi.
Những gịng chữ đó hoặc b́nh phẩm về tính hạnh hay ư đồ của các đương sự, hoặc là những lời khuyên có liên quan đến vấn đề học Đạo của tôi. Việc ấy mở màn cho toàn thể một loạt những hiện tượng kỳ diệu khác nữa trong khoảng thời gian độ hai tuần mà tôi trải qua tại Philadelphia.
Phân tích những hiện tượng thần thông của bà HPB, hoặc có liên quan đến bà, chúng tôi nhận thấy chúng có thể được chia làm nhiều loại, mà khả năng tạo nên những iện tượng đó đ̣i hỏi một sự hiểu biết về những điều sau đây:
- Biết rơ những năng dụng rốt ráo của vật chất, mănh lực kết cấu các nguyên tử, nhất là sự hiểu biết về tiềm năng của chất TINH QUANG hay TIÊN THIÊN KHÍ (Akâsha).
- Khả năng tác động của các Tinh Linh Ngũ Hành khi đặt dưới ư chí điều khiển của con người.
- Quyền năng sáng tạo của tư tưởng, có thể dùng thuật thôi miên tạo ra những ảo giác mắt thấy, tai nghe và xúc cảm những điều mà thật ra vốn không có.
- Khả năng phóng xuất h́nh ảnh hay chữ viết bằng sức mạnh của ư chí.
- Khả năng đọc tư tưởng của người khác, và thần nhăn nh́n thấy quá khứ vị lai.
- Khả năng thần giao cách cảm tùy ư muốn giữa ḿnh với những nhân vật ngang hàng hoặc cao hơn ḿnh về tŕnh độ phát triển tâm linh.
- Khả năng đọc được Kư Ức của Thiên Nhiên, ẩn tàng trong chất Tinh Quang hay Tiên Thiên Khí nơi đó chứa đựng tất cả những kho tàng hiểu biết của con người.
Hồi tưởng lại những nhận xét của tôi trong hai chục năm qua, tôi nghĩ rằng tất cả những chuyện mà tôi đă từng kể, hay sẽ thuật lại trong quyển sách này, sẽ thuộc về một trong những loại kể trên.
Những kẻ hoài nghi chắc sẽ nói rằng sự phân loại như trên có vẻ độc đoán và những giả thuyết của tôi là hăo huyền. Họ sẽ yêu cầu tôi chứng minh sự thật về các Tinh Linh Ngũ Hành; về hiện tượng thần nhăn; về sự chuyển di đồ vật xuyên qua không gian; về sức mạnh hấp dẫn và kết cấu các nguyên tử...
Tôi chỉ có thể thuật lại những điều mà tôi và nhiều người khác đă nh́n thấy, và thách đố kẻ hoài nghi t́m ra được trong cơi thiên nhiên bất cứ một định luật nào ngoài ra những điều đă nêu trên để giải thích các sự kiện không thể chối căi.
C̣n nếu người ta cho rằng đó là phép lạ, hay ma thuật, th́ chừng đó tôi sẽ ngậm miệng, v́ điều đó chận đứng mọi cuộc tranh luận. Tôi không tự hào có thể giải thích tất cả những hiện tượng thần thông của bà HPB, v́ điều ấy đ̣i hỏi một tŕnh độ hiểu biết ít nhất là tương đương với bà là điều mà tôi không bao giờ có.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1104 of 1146: Đă gửi: 06 March 2011 lúc 4:28pm | Đă lưu IP
|
|
|
HỒI KƯ H.S. OLCOTT
III. Những ngày mà tôi trải qua ở Philadelphia đều bận rộn với việc học Đạo và chứng kiến những hiện tượng thần thông của bà HPB. Ngoài ra, tôi c̣n có một số bạn bè thân hữu, và bà đă làm những phép thuật huyền linh này trước mặt mọi người.
Trong số những phép thuật đó, tôi c̣n nhớ có lần bà làm cho một bức ảnh trên tường th́nh ĺnh biến mất khỏi cái khung, và thay vào đó là một bức chân dung hoạt họa của John King, trong khi một người trong số quan khách đang nh́n vào bức ảnh.
Lần lần, tôi được bà giảng giải cho nghe những lư thuyết của Huyền Môn Đông Phương về tinh thần và vật chất và về những vong linh khuất mặt trong cơi vô h́nh.
Bà không bảo tôi từ bỏ giả thuyết Thần Linh Học, mà chỉ cho tôi thấy và nhận định rằng như một khoa học chân chính, khoa Thần Linh Học thật sự chỉ có thể ở phương Đông, và những người tinh thông về khoa này chỉ có thể là những bậc đạo sư và đệ tử của các đạo phái Huyền Môn Đông Phương.
Với tấm ḷng thành thật khách quan đối với các nhà Thần Linh Học, tôi phải nói rằng cho đến nay, chưa có một lư thuyết khoa học nào được đưa ra về những hiện tượng đồng tử mà phần đông nói chung họ đă chấp nhận.
Và tôi cũng không thấy có một bằng chứng cụ thể nào chỉ rằng trong số những tín hữu Tây Phương của phong trào này, có ai đă từng khám phá một phương pháp nào để có thể kêu gọi các vong linh xuất hiện hoặc tạo ra các hiện tượng tùy ư muốn.
Không một người đồng tử nào mà tôi đă từng gặp hoặc nghe nói đến, đă có một bí quyết hay chân ngôn để thực hiện được những việc đó, vốn là những điều rất thông thường và quen thuộc từ nhiều thế hệ ở các xứ phương đông.
Trong khi bà HPB làm cho tôi và các bạn hữu tin rằng những hiện tượng xảy ra hầu như mỗi ngày đều là do tác động của vong linh John King, mạo nhận là vong hồn một hải tặc lừng danh khi xưa tên là Sir H. Morgan, và bà chỉ trợ giúp y với tư cách là một người trung gian hay phụ tá, bà HPB đă làm nhiều hiện tượng chứng tỏ là bà có một bản lĩnh cao cường về ngành Phương Thuật (Magic).
Tôi xin kể một thí dụ, đồng thời cũng nói thêm rằng những phát minh khoa học lớn lao thường bắt nguồn từ việc t́nh cờ nhận xét những sự việc rất đỗi thông thường, chẳng hạn như một trái táo rụng xuống đất giúp Newton khám phá Luật Hấp Dẫn (Gravitation ); và việc nh́n thấy cái nắp thiếc nhảy dựng trên cái ấm nước đang sôi
Ngày nọ, nhận thấy trong nhà thiếu khăn mặt để dùng, tôi mua vài cái khăn lớn đem về, và cắt ra làm độ một chục chiếc khăn nhỏ. Khi thấy bà HPB định lấy ra dùng ngay mà không chịu viền các cạnh khăn lại cẩn thận, tôi mới phản đối lối sống thiếu ngăn nắp đó, và bà liền lấy kim chỉ ra may. Bà chưa kịp bắt đầu bỗng nhiên bà đá một cái dưới gậm bàn và nói với một giọng giận dữ:
“Đồ láo, đi ra!”
Tôi hỏi:
“Cái ǵ vậy?”
Bà đáp:
“Có ǵ đâu! Chỉ có một tinh linh nó kéo vạt áo tôi và muốn có một việc ǵ làm!”
Tôi nói:
“À, hay quá! Sẵn đây, bà hăy đưa khăn cho nó may. Bà cần ǵ phải làm cho nhọc, vả lại bà cũng chẳng khéo tay ǵ cho lắm về đường kim mũi chỉ?”
Bà cười và mắng tôi chê bà may dở, nhưng cũng chưa chịu làm theo sự thỉnh cầu của kẻ khuất mặt ở dưới gậm bàn, sẵn sàng trợ giúp một tay nếu có dịp. Sau cùng, nghe lời thuyết phục của tôi, bà bảo tôi hăy để khăn mặt và kim chỉ trong một cái tủ kiếng có khóa, và che màn lụa xanh ở phía tường bên kia.
Tôi làm theo và trở lại tiếp tục ngồi nói chuyện với bà về đề tài lư thú duy nhất và bất tận của chúng tôi, là vấn đề khoa học huyền bí. Sau độ mười lăm hay hai mươi phút, tôi nghe một tiếng động nhỏ giống như tiếng chuột kêu ở dưới gậm bàn, khi đó bà HPB cho tôi biết rằng “nó” đă viền xong mấy cái khăn.
Tôi bèn lại mở tủ và thấy mười hai cái khăn mặt đă viền xong, tuy rằng hơi vụng về, giống như của trẻ em mới tập may trong các lớp may nhi đồng. Thế là mấy cái khăn mặt đă được viền b́a thật sự không thể nghi ngờ, trong cái tủ đă khóa kín mà bà HPB không hề bén mảng đến gần trong suốt thời gian đó.
Lúc ấy, vào độ bốn giờ chiều, giữa ánh sáng ban ngày. Chúng tôi chỉ có hai người trong pḥng, không có người nào khác bước vào cho đến khi mọi việc đă xong.
Có lần trong khi chúng tôi đang ngồi nói chuyện ở pḥng khách, bà HPB th́nh ĺnh biến mất. Tôi đă từng trải nhiều kinh nghiệm về các hiện tượng huyền linh, nhưng việc này làm tôi ngạc nhiên và lo lắng. Sau khi đi lục soát khắp trong nhà mà không thấy ǵ, tôi trở lại pḥng khách châm ống điếu hút thuốc, và thử t́m hiểu điều bí mật này.
Hồi đó là năm 1875, tức là nhiều năm trước khi khoa thôi miên được thí nghiệm và phổ biến, cho nên tôi không hề biết rằng lúc ấy tôi chỉ là một đối tượng thụ cảm, và bà HPB chỉ có làm che lấp thị giác của tôi để tôi không nh́n thấy bà trong khi bà vẫn có mặt tại chỗ.
Một lúc sau bà xuất hiện trở lại nơi pḥng khách, tôi mới hỏi năy giờ bà đi đâu, thí bà cười và nói rằng v́ bà có việc phải làm về phần “vô vi” nên bà đă tàng h́nh trong chốc lát. Nhưng bà tàng h́nh bằng cách nào th́ bà không nói.
Bà cũng làm phép thuật đó trước mặt tôi và những người khác nhiều lần nữa, trước và sau khi chúng tôi đi sang Ấn Độ, nhưng tất cả những lần đó đều xảy ra nhiều năm trước khi tôi được biết ǵ về khoa thôi miên, vốn là cái đáp số dễ dàng của thuật tàng h́nh.
Như tôi đă có lần giải thích, thuật thôi miên của Đông Phương c̣n cao tay ấn hơn nhiều so với Tây Phương, v́ trong trường hợp này, sự dẫn dụ để che lấp giác quan của người thụ cảm được thực hiện bằng tư tưởng trong âm thầm, chứ không phải truyền lệnh bằng giọng nói có âm thanh. Người thụ cảm không được cảnh giác để chống lại sự dẫn dụ, và sự việc xảy ra tự nhiên trong khi y không hay biết ǵ cả.
Bà HPB c̣n biểu diễn nhiều hiện tượng thần thông lạ lùng khác nữa. Tôi chỉ thuật lại vài sự việc đáng kể, nó làm thỏa măn lư trí và óc phê b́nh của tôi về sự thật của khoa huyền thuật Đông Phương. Đó là thời kỳ mà tôi được biết bà HPB như một bạn đồng môn, mối liên hệ giữa bà với tôi được thiết lập trên một cương vị hoàn toàn b́nh đẳng và mật thiết.
Nhờ đó, tôi mới có thể nhận xét bà như một người thường, trước khi bà được các bạn Đạo suy tôn gần như thần thánh, những người này không được biết ǵ về những sở trường, sở đoản và tính chất rất cận nhân tính của bà.
Như tôi sẽ tŕnh bày một cách trung thực, cái h́nh ảnh lư tưởng đă phai mờ của tác giả các bộ sách “Vén Màn Isis” và “Giáo Lư Bí Truyền” sẽ là h́nh ảnh của một người bằng xương bằng thịt; một người phụ nữ thật sự tuy rằng trội hẳn về phần nam tính, sống b́nh thường như mọi người khi thức tỉnh.
Nhưng lại đi vào một thế giới khác và giao tiếp với những nhân vật cao cả hơn trong giấc ngủ hay trong khi xử dụng nhăn quang siêu phàm; một cá tính đặc biệt ngự trong một xác thân phụ nữ yếu đuối, “trong đó… một cơn giông tố luôn luôn gầm thét hầu như bất cứ lúc nào,” theo lời của một vị Chân Sư miêu tả t́nh trạng tâm linh và khí chất của bà.
Một khí chất thật bất thường, biến đổi, đa h́nh đa dạng, nóng nảy, ồ ạt như giông băo, nó đ̣i hỏi ở kẻ đối tượng một sự nhịn nhục và tự chủ đến mức độ anh hùng nếu họ muốn sống chung và cộng tác với bà trên một tinh thần vô kỷ vị tha.
Dù rằng thế nào, người ta không thể quên bản lĩnh phương thuật cao cường và những phép thuật thần thông mà bà đă thực hiện, những bằng chứng dồn dập mà bà đă cho thấy về sự hiện diện của các đấng Chân Sư mà bà tuyệt đối phục tùng đến mức bà cảm thấy không xứng đáng để lau bụi trên bàn chân của các ngài.
Và công tŕnh phụng sự hiến dâng khi mà người phụ nữ ngáo ngổ và ngang tàng ấy trở thành một bậc đạo sư phổ biến đạo lư cho đời và một nhà tiền phong cầm đuốc soi đường cho người tầm Đạo.
Tất cả những điều đó, và những bộ sách Đạo mà bà để lại cho hậu thế, càng kết hợp để chứng minh tính chất vĩ đại của bà và làm cho tính khí ngang ngạnh bất thường của bà được xóa nḥa trong quên lăng, thậm chí bởi những người đă từng bị những điều ấy làm cho điêu đứng khổ sở nhiều nhất về phương diện tinh thần.
Bằng cách vạch rơ con đường Đạo cho hậu thế, bà đặt tất cả chúng ta dưới một gánh nặng nghĩa vụ, đến mức người ta không thể có cảm nghĩ nào khác hơn, là một sự biết ơn sâu xa đối với bà.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1105 of 1146: Đă gửi: 07 March 2011 lúc 11:27am | Đă lưu IP
|
|
|
HỒI KƯ H.S. OLCOTT
CHƯƠNG BA
THỬ THÁCH
I. Với ư định tường thuật theo thứ tự thời gian những sự việc hồi thuở ban đầu Hội Thông Thiên Học gồm cả những ngày liên hệ ban sơ giữa bà HPB với tôi, tôi thấy cần nói qua vài hiện tượng phóng bút của bà, mà tôi có ghi chép trong quyển “Người Về Từ Cơi Âm”.
Như đă nói trước đây, những hiện tượng của bà HPB dường như do tác động của một vong linh mệnh danh John King, vốn là linh hồn đă thoát xác của một tay hải tặc lừng danh khi xưa tên Henry de Morgan, đă từng được Anh Hoàng Charles II tấn phong Hiệp Sĩ, nhưng thật sự chỉ là một cái tên giả để tạm gọi những âm binh hay tinh linh dưới quyền sai khiến của bà HPB.
Trong một buổi họp nơi bà trú ngụ tại một khách sạn ở Philadelphia vào buổi tối, ngày 6 tháng 1 năm 1875, nhân dịp J. K. đang làm các hiện tượng lạ, tôi nói:
“Nếu quả thật anh là một vong linh tốt lành như anh tự nhận, anh hăy thi thố một vài quyền năng của anh cho tôi xem. Chẳng hạn, anh hăy làm ra một bổn sao của một bức thơ mà tôi đang cất trong “bóp“ và đựng trong túi áo của tôi.”
Không ai để ư ǵ đến lời yêu cầu của tôi chiều hôm ấy, nhưng qua đến tối hôm thứ ba, sau đêm hôm đó hai ngày, trong khi bà HPB và tôi đang ngồi ở cạnh bàn làm việc, những tiếng gơ nhịp rất lớn vang lên. Theo tiếng nhịp, tôi liền viết ra những nguyên âm chữ cái và đọc:
“Ông vui ḷng đưa cho tôi cuốn tự điển xuống dưới gầm bàn.”
Trên bàn lúc ấy có quyển tự điển Nga- Anh của bà HPB, tôi bèn cầm lấy và ĐƯA XUỐNG gầm bàn theo lời yêu cầu. Tôi chỉ đưa, chứ không phải BỎ RƠI xuống đất, dường như đưa cho một người khuất mặt nào đó ở dưới gầm bàn cầm lấy quyển tự điển dầy cộm.
Kế đó, những tiếng nhịp gơ yêu cầu tôi đưa xuống một lọ keo (hồ) để dán, và một con dao nhỏ chuốt viết ch́. Những vật liệu này cũng được đưa xuống gầm bàn, và sau một cơn im lặng kéo dài độ một lúc, tiếng nhịp gơ báo hiệu “Đă xong!”.
Chúng tôi thâu hồi cuốn tự điển, con dao và lọ keo, và nhận thấy trên một trang giấy rời trong quyển tự điển, là một phó bổn phóng bút của bức thơ nói trên. Bà HPB giải thích tác dụng của con dao như sau:
“Một phần rất nhỏ chất kim khí của lưỡi dao được giải thể thành chất hơi và dùng để phóng ra những hàng chữ màu đen. Keo hồ cũng được chuyển thành trạng thái chất hơi, và có tác dụng hàn gắn các nguyên tử chất kim khí trong cuộc thí nghiệm.”
Cái “bóp phơi” đựng bức thơ vẫn ở trong túi áo của tôi từ khi tôi đến thành phố này cho đến cái đêm làm cuộc biểu diễn. Độ nửa giờ trước đó, tôi đă đặt nó lên cái kệ phía trên ḷ sưởi, ở ngay trước tầm mắt của tôi mỗi khi tôi ngẩng mặt nh́n lên từ quyển sách tôi đang đọc.
Bà HPB vẫn ngồi gần bên tôi ở cạnh bàn và đang chăm chú viết, ngoài ra chúng tôi không có một người nào trong gian pḥng. Khi tôi so sánh bức thơ và phó bổn, bằng cách kê cả hai tờ giấy lên nhau, th́ tuy rằng hai bức đều giống nhau, nhưng không phải rập theo nhau từng chi tiết, điều này lại càng làm cho hiện tượng phóng bút thêm phần thú vị.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1106 of 1146: Đă gửi: 07 March 2011 lúc 11:39am | Đă lưu IP
|
|
|
HỒI KƯ H.S. OLCOTT
II. Trong thời gian ở Philadelphia, bà rất bận rộn công việc viết bài vở cho các báo chí, trước hết nói về Thần Linh Học, và sau đó, về khoa Huyền Môn của Đông Phương.
Việc phát hành quyển sách của tôi cũng đă đưa đến những kết quả quan trọng, là gây nên những cuộc b́nh luận kéo dài trong báo giới Anh-Mỹ, trong đó bà HPB và tôi đều có đóng góp bài vở và thiết lập những mối t́nh thân hữu thêm bền chặt với nhiều bạn Đạo: trong sự giao dịch bằng thơ từ, chúng tôi đă giải bày với họ toàn bộ các vấn đề Huyền Học Đông Phương và Tây Phương.
Không bao lâu, chúng tôi đă nhận được rất nhiều thơ tín từ khắp nơi trên thế giới, trong số đó có những người t́m hiểu nhờ giải đáp thắc mắc; cũng có những kẻ đối nghịch gởi thơ chống bang, đả kích; và những cảm t́nh viên gửi lời khen tặng và khích lệ.
Ông Alexandre Aksakof, trong Hội đồng Tư Vấn của Nga Hoàng và là một nhà Thần Linh Học rất hăng say, đă yêu cầu bà HPB dịch quyển sách của tôi ra tiếng Nga, và chịu đài thọ mọi phí tổn ấn loát và phát hành.
Bà nhận lời và sau đó ít lâu, đă xuất hiện tại St. Petersburg một cuốn văn thư khen tặng với lời lẽ rất khả ái của giáo sư N.A. Wagner, một chuyên gia Khoa Học thượng thặng của trường Đại Học Hoàng Gia, trong đó ông tuyên bố rằng trong công việc điều tra sưu tầm của tôi về các hiện tượng Thần Linh, tôi đă thực hiện “ĐÚNG THEO NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT CỦA MỘT CUỘC KHẢO SÁT KHOA HỌC NGHIÊM CHỈNH VÀ THẬN TRỌNG”.
Đó là một chứng thư mà đương nhiên tôi cảm thấy rất lấy làm hănh diện. Các nhà bác học William Crookes, Alfred Wallace của Anh, và Camille Flammarion của Pháp, cũng đă bày tỏ những cảm t́nh ưu ái rất nồng hậu và thân hữu.
Vài tháng sau đó, ông C. C.Massey, một người Anh từ Luân Đôn sang Mỹ để kiểm chứng, bằng cách đích thân quan sát tại chỗ, những lời tường thuật của tôi về các hiện tượng hồn ma hiện h́nh ở nông trại Eddy.
Chúng tôi vẫn thường xuyên tiếp xúc với nhau, và đă thông cảm nhau đến mức nảy sinh một t́nh thân hữu đậm đà giữa chúng tôi, một t́nh bạn thâm giao vẫn kéo dài cho đến ngày nay.
Ngoài ra, tôi cũng có giao dịch bằng thơ từ và kết thân với một người bạn khác, là ông Stainton Moses, Tiến Sĩ Văn Khoa tốt nghiệp Đại Học Oxford, làm giáo sư Văn Chương và Anh Ngữ tại trường đại học Luân Đôn.
Tôi có gửi cho y một quyển sách của tôi và chúng tôi đă trao đổi thơ từ qua lại hầu như hàng tuần trong nhiều năm liên tiếp. Bức thư đầu tiên của y thảo luận về những điều kiện và kết quả của những hiện tượng đồng tử trong những buổi họp đàn. Y lưu ư tôi đến sự kiện này là:
“Sự có mặt của vài hạng người trong những buổi họp đàn gây chướng ngại trầm trọng và có khi làm tê liệt các hiện tượng. Nguyên nhân không phải lỗi tại họ hay là do một thái độ tinh thần ǵ đó, chẳng hạn như thiếu đức tin... mà là do bầu không khí chung quanh họ gây nên. Người đồng tử càng nhạy cảm bao nhiêu, th́ điều đó càng rỏ rệt bấy nhiêu.”
Ông Stainton Moses viết tiếp: “Sự có mặt của nhiều người bạn tôi làm cho mọi hiện tượng của tôi đều ngưng trệ, điều đó làm tôi rất bực ḿnh mà tôi không làm sao sửa đổi được.”
Bàn về hiện tượng giải thể (biến mất xác) của người đồng tử, như trường hợp của bà Compton, được diễn tả trong cuộc sống của tôi, y cho rằng đó là hiện tượng lạ kỳ nhất, mà y không thể giải thích, nhưng y tin rằng điều đó không lạ ǵ đối với các nhà Thuật Sĩ phương Đông.
Những ǵ tôi đă tŕnh bày trong một Chương trước đây về quyền năng che lấp thị giác của người khác bằng thuật thôi miên làm tê liệt các dây thần kinh trong cặp mắt họ, giải đáp được điều bí hiểm này và loại trừ nhiều sự mê tín dị đoan khác, kể cả việc cho đó là ma thuật.
Thật không uổng công lao mà viết quyển sách đó, nhờ nó mà tôi có hai người bạn tâm giao trọn đời như Stainton moses và Massey, nhưng lại c̣n hơn thế nữa, nó đă thay đổi cuộc đời tôi và đánh dấu một giai đoạn lịch sử.
Trong thời gian ông Massey lưu trú tại Mỹ Quốc, chúng tôi đă cùng nhau viếng thăm nhiều nhà đồng tử, và ông là một trong những người đầu tiên đă theo bà HPB và tôi để thành lập Hội Thông Thiên Học Thế Giới vào khoảng cuối năm ấy 1875.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1107 of 1146: Đă gửi: 07 March 2011 lúc 11:45am | Đă lưu IP
|
|
|
HỒI KƯ H.S. OLCOTT
III. Trước đây tôi có nói về Sigor B. , một nghệ sĩ người Ư có phép thuật thần thông, đă có lần đến viếng bà HPB tại New York. Một buổi tối mùa thu, năm 1875, ngay sau khi thành lập Hội Thông Thiên Học tôi đă chứng kiến hiện tượng lạ lùng của y làm mưa bằng cách sai khiến những tinh linh trong không gian.
Đó là một đêm trăng tṛn, bầu trời xanh biếc không có một cụm mây che. Y gọi bà HPB và tôi ra ngoài bao lơn và dặn tôi hăy b́nh tĩnh và hoàn toàn im lặng, dù việc ǵ xảy ra.
Kế đó, y lấy trong túi áo và đưa về phía mặt trăng một tờ giấy cứng độ bằng khuôn khổ tập vở học tṛ, trên một mặt giấy có vẽ bằng màu nước một số h́nh vuông vức trong mỗi ô vuông có một con số dị kỳ, nhưng y không cho tôi cầm lấy hoặc xem xét. Tôi đứng gần bên ở sau lưng y, và có thể cảm thấy thân ḿnh y cứng đơ dường như trong một cơn tập trung ư chí mănh liệt.
Độ một lát, y chỉ vào mặt trăng và chúng tôi thấy những luồng mây đen từ vành trăng tuôn ra và bay về phía chân trời. Tôi bất giác thốt lên một tiếng kêu ngạc nhiên, nhưng nhà phù thủy nắm chặt tay tôi với một bàn tay cứng như sắt và ra hiệu cho tôi hăy im lặng.
Luồng mây đen bay ra mỗi lúc càng mau, và kéo ra càng dài. Nó lan dần thành h́nh rẽ quạt, và trong chốc lát, những đám mây đen khác xuất hiện trên nền trời rải rác mỗi chỗ một ít, rồi hợp thành khối và di chuyển rất mau.
Nền trời đă trở nên u ám v́ mây đen bao phủ, mặt trăng biến mất dạng, và một cơn mưa rơi xuống khiến chúng tôi phải lui vào nhà. Không có sấm sét, cũng không có gió, mà chỉ có một cơn mưa rào được tạo nên trong ṿng một khắc đồng hồ bởi con người kỳ bí ấy.
Khi chúng tôi đến gần ánh sáng của ngọn đèn, tôi nhận thấy gương mặt nhà phù thủy biểu lộ những nét rắn rỏi cương nghị như sắt thép và hai hàm răng nghiến chặt, giống như sắc thái mà người ta nh́n thấy trên gương mặt của những binh sĩ tác chiến ngoài mặt trận.
Quả thật vậy, y vừa mới chiến đấu và chinh phục những đạo binh tinh linh ngũ hành, một kỳ công nó đ̣i hỏi sự tận dụng tất cả mọi nghị lực trong con người. Signor B. không ở lại với chúng tôi lâu, mà hối hả cáo từ ra về, và v́ đêm đă khuya, nên tôi cũng lui về pḥng riêng vài phút sau đó.
Nền đá trên đường lộ đă trơn ướt v́ mưa, không khí lạnh và ẩm. Tôi vừa vào pḥng ngồi hút thuốc th́ nghe tiếng chuông reo, và khi ra mở cửa trước, tôi thấy Signor B. đứng trên ngưỡng cửa, gương mặt tái xanh và một phần đă kiệt sức. Y xin lỗi v́ đă làm phiền rộn tôi và xin một ly nước uống.
Tôi mời y bước vào nhà, sau khi y đă uống nước và ngồi nghỉ một lát , chúng tôi mới nói chuyện về những vấn đề huyền học và câu chuyện kéo dài trong một lúc khá lâu. Tôi nhận thấy y sẵn sàng thảo luận về các vấn đề văn chương, nghệ thuật hay khoa học, nhưng lại vô cùng dè dặt khi nói về khoa Huyền Môn và kinh nghiệm cá nhân của y trong việc phát triển tâm linh.
Tuy nhiên, y giải thích rằng tất cả những giống tinh linh ngũ hành đều có thể chịu sự kiểm chế của con người khi y đă phát triển được những tiềm năng thiên phú của ḿnh. Chừng đó, ư chí của y sẽ trở nên một sức mạnh vô địch làm cho tất cả những giống sinh vật thấp kém hơn gồm cả các loại tinh linh ngũ hành, đều phải chịu khuất phục.
Tôi không có thật sự nh́n thấy luồng khói đen từ trong vành trăng bay ra, đó chỉ là một ảo giác được tạo ra bởi sự tập trung tư tưởng của y trên mặt trăng, nhưng tôi quả thật có nh́n thấy những đám mây đen xuất hiện trên nền trời trong sáng và nh́n thấy mưa rơi.
Y lưu ư tôi đến sự kiện ấy để tôi suy gẫm. Nhưng bây giờ y lại đưa cho tôi một lời khuyên nó làm cho tôi rất ngạc nhiên. Tôi đă thấy y rất thuận thảo với bà HPB, họ đă từng nói chuyện rất cởi mở và rất thân hữu với nhau về các vấn đề thế sự cũng như về khoa học huyền môn, và cùng so tài trong việc làm các hiện tượng như hiện tượng hai con bướm trắng.
Bởi vậy, tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy y làm ra vẻ bí mật và cảnh giác tôi hăy nên đoạn tuyệt mọi sự giao du thân mật với bà. Y nói bà là một phụ nữ độc ác rất nguy hiểm, và sẽ đem tai họa đến cho tôi nếu tôi cứ tiếp tục mối liên hệ giữa tôi với bá.
Y nói y đến cảnh giác tôi điều ấy là do lệnh của một vị Chân Sư, mà tôi đă từng nghe y nhắc đến thánh danh trong những câu chuyện với bà HPB và tôi. Tôi nh́n thẳng vào mặt y để thử ḍ xem có một ư nghĩa ẩn dấu ǵ chăng trong những lời nói vô lư đó, và sau cùng tôi nói:
“Thưa ông, tôi biết rằng đấng Cao Cả mà ông vừa nhắc đến quả có thật. Sau khi đă nh́n thấy ông trổ phép thuật thần thông vừa rồi, tôi có đủ mọi lư do để ngờ rằng chắc ông có liên hệ với Ngài hay với Quần Tiên Hội. Tôi sẵn sàng tuân lịnh ngài cho dù phải hy sinh tính mạng tôi.
Bây giờ tôi yêu cầu ông hăy đưa ra một bằng chứng cụ thể để chứng minh một cách rơ ràng, tích cực và không thể nghi ngờ, rằng bà HPB là người yêu phụ mà ông diễn tả, và Chân Sư muốn tôi phải chấm dứt mọi sự liên hệ với bà.”
Người phù thủy Ư do dự, nói lắp bắp vài lời vô nghĩa, và đổi đề tài nói qua chuyện khác. Tuy y có thể kéo mây đen ra khỏi mặt trăng, y vẫn không thể gieo sự ngờ vực hắc ám vào ḷng tôi đối với người bạn Đạo và người hướng dẫn tôi đi xuyên qua những ngơ ngách bí hiểm của khoa Huyền Môn.
Sau đó, tôi có kể lại sự vệc này cho bà HPB nghe! Bà mỉm cười nói rằng tôi đă vượt qua cuộc thử thách sơ đẳng đó một cách tốt đẹp, và viết vài chữ cho Signor B. khuyên ông ta hăy “quên đường đưa đến nhà bà”.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1108 of 1146: Đă gửi: 07 March 2011 lúc 11:52am | Đă lưu IP
|
|
|
HỒI KƯ H.S. OLCOTT
CHƯƠNG BỐN
NHÀY VÀO V̉NG CHIẾN
I. Những cuộc tranh luận và bút chiến mà các bài phóng sự và quyển sách của tôi đă gây ra trong các giới, trong đó bà PHB và tôi đều có dự phần ; sự tố giác và bênh vực các đồng tử Holmes; và những cuộc b́nh luận sôi nổi kéo dài về khoa Thần Linh Học trong báo giới Âu-Mỹ, đă đưa đến vài hậu quả thuận lợi, trong đó có hai điều quan trọng là:
1. Việc tŕnh bày những quan niệm Huyền Môn của Đông Phương, làm cho thế giới Tây Phương phải chú ư; và
2. Việc khai sinh ra hội Thông Thiên Học thế giới. Sự thành lập Hội Thông Thiên Học không phải là do phép mầu của các Chân Sư theo những chuyện bịa đặt láo lếu, mà chỉ là do hậu quả tự nhiên của những giai đoạn diễn biến tuần tự.
Như độc giả sẽ thấy trong những thơ từ mà chúng tôi viết cho các báo trong những thuở ban đầu, và trích lục vài đoạn dưới đây. Những chi tiết có vẻ khô khan, nhưng có tầm mức quan trọng như những tài liệu lịch sử.
Như đă nói trước đây, sự công kích có tính cách tự quảng cáo của bác sĩ Beard, một vị lương y chuyên khoa chữa trị bằng điện ở New York, nhằm vào các đồng tử Eddy, và sự tuyên bố láo rằng ông ta có thể tạo ra những hiện tượng đó “với những đồ y trang rẻ tiền chỉ tốn chừng ba đô la”.
Đă làm cho bà HPB phẫn nộ đến mức bà đă “lột da sống” ông ta trong một bức thơ trả lời nẩy lửa đăng trên nhật báo Graphic, và thách đố ông ta dám đánh cuộc năm ngàn đô la ăn thua với bà về sự việc trên.
Chính việc ấy đă làm cho quần chúng Mỹ lần đầu tiên biết đến tên tuổi bà. Lẽ tự nhiên, có sự kết bè thành hai nhóm đối lập: nhóm Thần Linh Học và các đồng tử theo về phe bà HPB , c̣n những kẻ chống đối, nhất là các nhà bác học có khuynh hướng duy vật, th́ đứng về phía những người ủng hộ bác sĩ Beard.
Kẻ thủ lợi trong việc tranh chấp này lại chính là ông Beard, v́ đó là một mánh khóe có tác dụng quảng cáo cho tên tuổi ông và khoa điện y của ông với kết quả quá mức dự liệu. Các nhật báo Mỹ đều b́nh luận về bức thơ khiêu khích nẩy lửa của bà HPB chống bác sĩ Beard. Bà cũng đă trả lời các báo, do đó tên tuổi của bà càng ngày càng vang dội khắp nơi khi cuộc tranh luận càng kéo dài.
Như đă nói trước đây, bà đứng trên lập trường của một nhà Thần Linh Học, không những tin tưởng mà c̣n BIẾT RƠ rằng những trí lực “nhiếp” vào các đồng tử để giáng ngôn giáng bút, làm các hiện tượng hữu h́nh.
Và hiện h́nh toàn diện hoặc cục bộ, chẳng hạn như chỉ hiện có những gương mặt, bàn tay hoặc bàn chân, hay những phần khác trong thân ḿnh, tất cả đều là do tác động của những vong hồn người chết, không hơn không kém.
Về sau, bà HPB cho tôi biết rằng sự bộc phát của những hiện tượng thông linh ở khắp nơi, chính là do Quần Tiên Hội phát động như một khí cụ để trợ giúp cơ Tiến Hóa.
Như vậy, những hoạt động cơ bút, đồng tử, không thể bị coi như tuyệt đối bất hảo như vài nhà cực đoan Thông Thiên Học đă tuyên bố, v́ theo chỗ tôi biết về các đấng Chân Sư, th́ người ta không thể quan niệm rằng các ngài lại dùng một phương tiện hoàn toàn bất hảo, dẫu rằng v́ sự lợi ích của nhân loại.
Trong số báo của tờ Daily Graphic mà bà HPB đă gởi đăng bức thơ chống bác sĩ Beard, cũng có đăng tiểu sử của bà do bà cung ứng tài liệu theo lời yêu cầu của ṭa soạn. Bà viết:
“Năm 1858, tôi trở về Paris và có dịp làm quen với nhà Thần Linh Học Daniel Home… Ông này đă cải hóa tôi theo Thần linh Học… Sau đó, tôi trở về Nga và cải hóa cha tôi theo thần Linh Học”
Trong một bài báo bênh vực các nhà đồng tử Holmes chống những kẻ đả kích, bà nói về Thần Linh Học như “tín ngưỡng của chúng tôi”, “lư tưởng của chúng tôi” và ở một chỗ khác, bà viết:
“Nếu bọn Thần Linh Học chúng tôi bị người ta chê cười, nhạo bang, chế diễu, châm chọc, chúng tôi phải biết ít nhất lư do tại sao?”
Trong tờ báo Spiritual Scientist (Khoa Học Tâm Linh) ra ngày 8-3-1875, bà nói có vài khuynh hướng chỉ rằng mặc dầu tính cách chân thực thiêng liêng của khoa Thần Linh Học chúng ta, và giáo lư của những vị bảo trợ vô h́nh của chúng ta (những vong linh khuất mặt của những họp đàn), vài nhà Thần Linh Học đă không biết thừa cơ hội đó để học bài học vô tư và công bằng.
Đó là một việc làm rất can đảm, đầy hào khí, hoàn toàn biểu lộ cái đặc tính của bà khi bà nhảy vào ṿng chiến v́ bất cứ mọi lư tưởng nào mà bà đảm nhận như cái chính nghĩa của ḿnh. Như đă nói trược đây, chính v́ ḷng yêu tự do và chính nghĩa mà bà đă cùng với một nhóm phụ nữ chiến đấu trong hàng ngũ của nhà ái quốc Garibaldi và mạo hiểm lao ḿnh vào trận đánh ác liệt ở Mentana.
Bây giờ, khi thấy cần phải binh vực cái lư tưởng Tâm Linh để chiến đấu chống lại Khoa Học Duy Vật, th́ bà chấp nhận cả sự ô nhiễm khi phải tiếp xúc với bọn đồng tử giả mạo, với những loại âm binh bất hảo, hay với phe vô luân trong giới Thần Linh Học chủ trương tự do luyến ái và thoát ly gia đ́nh.
Không một điều bất lợi nào trong những sự việc kể trên làm cho bà do dự dù chỉ trong một lúc, khi bà thấy cần đứng vào hàng ngũ của phái thần Linh Học chống lại Duy Vật chủ nghĩa.
Đường lối của bà có thể bị vài người lên án, ngôn ngữ của bà có thể bị coi như hoàn toàn đồng ư và chấp nhận cái Thần Linh Học mà về sau bà đă lên tiếng công kích thậm tệ không tiếc lời. Nhưng nếu lấy công tâm mà xét đoán, người ta phải nhận định rơ cái t́nh trạng xă hội của thời bấy giờ.
Người ta phải nhận định rơ cái kiến thức sâu rộng của bà, trên lư thuyết lẫn cả thực hành, về những hiện tượng huyền linh mà người đời cần phải biết trước khi bị lôi cuốn theo cái trào lưu độc hại của chủ nghĩa Duy Vật. Nhiều người trong chúng ta có lẽ đă dùng một ngôn ngữ dè dặt cẩn thận hơn để tránh khỏi bị kẹt vào bao nhiêu sự mâu thuẫn và rối rắm về sau này.
Nhưng trường hợp của bà hoàn toàn khác hẳn, bà là một nhân vật độc đáo trên tất cả mọi phương diện, về trí lực và quyền năng thần bí, cũng như về khí chất và về phương pháp tranh luận. Một mục đích của tập Hồi Kư này là để chỉ rằng, với tất cả những sự thiếu sót rất cận nhân tính và tật chứng ngáo ngổ mà người ta có thể gán cho bà.
Bà vẫn là một nhân vật đặc biệt, phi phàm, một người dành trọn cuộc đời làm một công việc vĩ đại phụng sự thế gian, nhưng lại bị người đời phê phán một cách mù quáng và vô ơn bạc nghĩa.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1109 of 1146: Đă gửi: 07 March 2011 lúc 12:02pm | Đă lưu IP
|
|
|
HỒI KƯ H.S. OLCOTT
II. Trong những cuộc thí nghiệm riêng tư giữa chúng tôi về những hiện tượng thần linh, bà HPB đă chỉ dẫn cho tôi biết về sự hiện hữu của giới TINH LINH NGŨ HÀNH. Nhờ đó, tôi mới biết phân biệt hai loại sinh vật khác nhau trong việc tạo nên các hiện tượng, là những tinh linh ngũ hành và những vong hồn người chết.
Vào khoảng cuối năm 1874-75, nhờ một dịp may hiếm có được đọc qua những quyển sách quư về Khoa Học Huyền Môn tại thư viện Watkinson, nên tôi được chuẩn bị khá nhiều về phần kiến thức để có thể hiểu những lời giải thích khẩu truyền của bà và những hiện tượng thông linh kỳ diệu do bà tạo ra để chứng minh cho những lời giải thích đó.
Thời kỳ học hỏi của tôi lúc ấy qua sách vở, lời dẫn giải khẩu truyền và sự quan sát các hiện tượng, cũng đủ chuẩn bị cho tôi có được một bản lĩnh khá vững vàng về Khoa Học Huyền Môn cho đến khi bà bắt đầu công việc soạn bộ sách “Vén màn Isis” và mời tôi cùng cộng tác.
Khoảng đầu năm 1875, chúng tôi bắt đầu lưu ư đến tờ “Khoa Học Tâm Linh” một tờ tạp chí tiến bộ và độc lập tại Boston do ông Gerry Brown làm chủ bút và chủ nhiệm.
Nhu cầu cấp bách của thời bấy giờ là một tờ báo vừa được coi như một cơ quan ngôn luận của Thần Linh Học, lại vừa có thể khuyến khích các nhà Thần Linh Học hăy quan sát chặt chẽ hơn tác phong hạnh kiểm và khả năng thông linh của những đồng tử của họ, và hăy kiên nhẫn lắng nghe những lư thuyết về các vong linh ở cơi âm cùng sự giao tiếp của họ với người sống.
Những tạp chí khác cũ kỹ hơn thuộc loại này lại quá bảo thủ, c̣n tờ báo của ông Brown dường như đang tiến bước bằng cách mạnh dạn chỉ trích những sự lạm dụng đương thời. Một bức thơ của chúng tôi gởi cho ông Brown dăng trên tạp chí ấy ngày 8-3-1875 khởi đầu những mối liên hệ giữa chúng tôi, và trong ṿng một tháng sau, y đă được đặt dưới sự chăm sóc biệt đăi của những thế lực hỗ trợ sau lưng bà HPB.
Trong số tạp chí tháng tư năm ấy, tôi có đăng một bản thông tư đặc biệt với tựa đề: “THÔNG TƯ QUAN TRỌNG CHO CÁC NHÀ THẦN LINH HỌC”. Điều quan trọng của nó đối với ông Gerry Brown là lời hứa trợ giúp bài vở và tài chánh cho y, c̣n đối với công chúng hâm mộ phong trào Thần Linh Học, th́ nó cho biết rằng tờ tạp chí ấy sẽ được sử dụng như cơ quan của một phong trào mới.
Nhằm mục đích đặt khoa Thần linh Học ở Mỹ trên một nền tảng triết học và trí thức hơn trước, thay v́ chỉ chú trọng đến những thông điệp cơ bút và những hiện tượng tầm thường, không đủ thỏa măn những đầu óc khoa học.
Chính tôi tự thảo ra tờ thông tư đó, tự sửa chữa lấy bản kẽm in và tự đài thọ phí tổn ấn loát. Nói thế có nghĩa là ngoài tôi ra, không một ai nhúng tay vào công việc này, hoặc thêm bớt một chử nào trong bản thảo, hoặc điều khiển hành động của tôi bằng bất cứ cách nào.
Tôi viết bản Thông Tư ấy để thi hành ư định của Chân Sư, ngài dạy chúng tôi hăy trợ giúp vị chủ nhiệm tờ tạp chí ấy trong giai đoạn khó khăn hiện tại bằng đủ mọi cách về phương tiện tài chánh cũng như đóng góp bài vở.
Khi bản Thông Tư đă soạn thảo xong và đem lên máy in, tôi hỏi bà HPB trong một bức thơ rằng theo ư bà th́ tôi có nên kư tên vào bản thông tư ấy không. Bà tră lời rằng theo ư muốn của các Chân Sư, th́ nó phải được kư tên như sau: “Thay mặt HỘI ĐỒNG TIÊN THÁNH, PHÂN BỘ LUXOR (AI CẬP)”. Tôi làm y theo lời, và bản Thông Tư được công bố.
Sau đó, bà giải thích rằng công việc làm của chúng tôi được giám sát bởi một Ủy Ban gồm Bảy vị Chân Sư thuộc phân chi Ai Cập của Quần Tiên Hội. V́ bà chưa đọc qua bản Thông Tư lần nào, lúc ấy tôi mới cầm đưa cho bà một bản và bà bắt đầu đọc một cách chăm chú.
Đọc xong, bà bất giác cười lớn, và bảo tôi nh́n xem những chữ cái khoản thủ ở đầu câu của mỗi doạn văn trong đó. Tôi lấy làm ngạc nhiên vô cùng mà nhận thấy rằng những chữ cái đó nếu đem ráp lại th́ hợp thành thánh danh của vị Chân Sư Ai Cập, sư phụ của tôi lúc ấy.
Sau đó ít lâu, tôi nhận được một chứng thư viết bằng mực vàng trên một tờ giấy xanh, dầy, cho biết rằng tôi được chính thức liên hệ đến cơ quan này, và đặt dưới sự giám sát của ba vị Chân Sư.
Trong những kinh nghiệm huyền linh của tôi hồi thuở ban đầu, không có ǵ gây một ấn tượng sâu xa vào trí óc tôi hơn là những sự việc trên. Điều ấy chứng minh cho tôi thấy rằng sự chuyển di tư tưởng giữa Chân Sư và đệ tử vẫn là một việc xảy ra thường xuyên, mà không gian không hề làm ngăn cách, chướng ngại.
Nó cũng chứng tỏ rằng trong công việc phụng sự thế gian, người đệ tử thường được các đấng Cao Cả d́u dắt, hướng dẫn để làm những công tác mà các ngài muốn được thực hiện trong khi đó người đệ tử vẫn không hề hay biết chi cả.
Trong toàn bộ lịch sử hội Thông Thiên Học thế giới, ai đă biết được có bao nhiêu trường hợp mà mỗi người trong chúng ta vô t́nh đă làm những ǵ cần phải làm, nhưng những việc đó có lẽ đă không được thi hành nếu không có một ảnh hưởng nào từ bên ngoài đến thúc đẩy chúng ta?.
Và có bao nhiêu lỗi lầm tai hại mà mỗi người trong chúng ta đă làm, bởi v́ chúng ta được tự do hành động theo những dục vọng cá nhân, kết quả của sự vô minh, hèn kém, hay thành kiến chật hẹp riêng tư của chính ḿnh?
Người ta thường tự hỏi tại sao những vụ tranh chấp, xung đột, những cơn biến động gây ra bao nhiêu tai tiếng, xúc phạm đến thanh danh của Hội, lại không được các Chân Sư tiên liệu trước và ngăn chận đừng để cho chúng xảy ra?
Tại sao bà HPB không được cho hay trước về những hành động của những kẻ phản bội, và trong những cơn khủng hoảng nghiêm trọng nhất của hội Thông Thiên Học, không hề thấy có sự trợ giúp nào, và không có một vị hướng dẫn tâm linh nào xuất hiện?
Lẽ tất nhiên, những câu hỏi đó thật rất vô lư. Các Chân Sư vốn đă nắm vững định luật Nhân Quả, không thể xử dụng chúng ta như những h́nh nộm để cho các ngài giật dây, hoặc như những con thú nhà đă được tập luyện cho biết làm theo ư chủ.
Các ngài không thể xử dụng chúng ta một cách máy móc theo những đường lối đă định sẵn, can thiệp vào nghiệp quả của mỗi người, và xâm phạm đến quyền tự do hành động của chúng ta.
Vào một thời kỳ nhất định, trong cơ tiến hóa của nhân loại, có lẽ cần có một người nào đó phải làm, viết, hoặc nói một điều ǵ đó, mà những điều này, khi đă thực hiện xong sẽ đưa đến cả một loạt những hậu quả mong muốn. Nếu điều đó không tạo nên nghiệp quả bất lợi cho đương sự, th́ sự thúc đẩy vô vi để làm công việc cần thiết đó sẽ được đưa đến cho y.
Thí dụ, vận mạng của thế giới nằm trong tay của vài ba nhà lănh tụ hay nguyên thủ quốc gia của một vài nước siêu cường. Nếu một biến cố nhỏ nhặt nào đó xảy ra một quốc gia có thể bị tiêu diệt, hoặc một triều đại trở thành một tai họa cho cả một dân tộc, hoặc một thời kỳ ḥa b́nh và tiến bộ cho nhân loại có thể mở màn.
Nếu trong giai đoạn lịch sử đó, một trong những điều kể trên cần phải xảy ra v́ sự lợi ích chung của toàn thể nhân loại, và nếu KHÔNG CÓ MỘT CÁCH NÀO KHÁC để gây nên cơn khủng hoảng cần thiết, th́ chừng đó sự gợi ư cho một vị lănh tụ ra tay hành động có thể đến từ bên ngoài.
Đây là một trường hợp đơn giản hơn, đă xảy ra trong lịch sử. Trong khoa cổ học Ai Cập, người ta đă đạt tới một tŕnh độ mà sự tiến bộ của thế giới đ̣i hỏi một cái ch́a khóa tinh vi hơn để đọc những cổ tự bí mật trong các Kim Tự Tháp.
Thời giờ đă điểm để tiết lộ thêm những chân lư thâm sâu và vô cùng quan trọng hàm xúc trong khoa cổ tự của nền văn minh cổ Ai Cập. V́ không có cách nào khác, một người nông dân Ả Rập được gợi ư để cho y đào xới một khoảnh đất nào đó, hoặc khai quật một ngôi mả đá và cậy bật lên một cái nắp ḥm đựng xác ướp.
Người ta t́m thấy một bia đá hoặc một mớ lá chỉ-thảo có khắc cổ tự, y bèn đem bán cho một nhà khảo cổ, rồi người này truyền đến tay các nhà Ai Cập học uyên bác như Champollion, Young hay Ebers. Các ông này mới t́m thấy cái ch́a khóa đă mất, và nhờ đó mới đọc được nhiều bản văn cổ xưa vô cùng quan trọng.
Sự gợi ư vô vi cho người nông dân thất học đào xới lên những tài liệu cổ đă bị chôn lấp từ lâu, là do bàn tay trợ giúp của các đấng vô h́nh, tuy ẩn tàng nhưng luôn luôn d́u dắt sự tiến bộ của nhân loại.
Xin kể một trường hợp cá nhân gần gũi với chúng ta hơn: một ngày nọ tôi được gợi ư đi mua một tờ báo; trong đó tôi đọc thấy một chuyện ǵ đó, nó thúc đẩy tôi có một hành động tự nhiên; việc ấy làm cho tôi tiếp xúc với bà HPB, và bởi đó mới có hội Thông Thiên Học ra đời, và những hậu quả do Hội này đem đến.
Khi làm cái bước đầu tiên, tôi không có công đức ǵ cả. Nhưng nếu việc ấy gây nên những hậu quả tốt lành, nếu tôi đóng góp công lao sức lực để làm việc với một tinh thần hiến dâng nhiệt thành và vị tha, th́ chừng đó tôi cũng được chia xẻ những nghiệp tốt mà việc ấy đem đến cho nhân loại.
Có lần tôi thấy những người dân Tích Lan ở tỉnh Galle tranh nhau đưa tay ra sờ vào những rổ thúng đựng đồ vật thực của những nhà giàu đem đi cúng dường cho các sư tăng.
Hỏi ra mới biết là họ tin tưởng rằng do ḷng ưu ái chân thành đối với hành động bố thí của kẻ khác, họ cũng được chia xẻ một phần công đức của các thí chủ. Tôi nghiệm thấy điều ấy rất đúng, và có ghi nhận cái ư tưởng đó trong quyển “PHẬT GIÁO VẤN ĐÁP” của tôi soạn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1110 of 1146: Đă gửi: 14 March 2011 lúc 4:59pm | Đă lưu IP
|
|
|
HỒI KƯ H.S. OLCOTT
CHƯƠNG NĂM
SỰ LỢI HẠI CỦA VẤN ĐỀ ĐỒNG CỐT
I. Mọi người đều đồng ư rằng những người đồng cốt chuyên nghiệp, mà vấn đề cơm áo hàng ngày tùy thuộc nơi khả năng của họ, để tạo nên các hiện tượng thông linh khi có thân chủ đến viếng, trong ngững cơn nguy cấp, túng thiếu, thường bị bắt buộc làm những hiện tượng giả trá để thay thế vào khi mà những hiện tượng thật không thể xuất hiện.
Hầu hết các giới đồng cốt hành nghề đều nghèo, thường là những người phế tật, nhưng bắt buộc phải nuôi con hay bảo dưỡng những ông chồng lười biếng hay bệnh hoạn. Vấn đề sinh kế của họ thật vô cùng bấp bênh, bởi v́ trạng thái đồng cốt tùy thuộc những điều kiện tâm sinh lư cũng như những điều kiện thời tiết ngoài khả năng kiểm soát của họ.
Bởi vậy, nên không phải là một chuyện là nếu trong những cơn túng quẩn, dưới sự thúc đẩy của những nhu cầu cấp bách, họ không c̣n đặt nặng vấn đề lương tâm. Lẽ tự nhiên, họ đễ bị lung lạc trước sự cám dỗ mà những thân chủ mê tín bày ra trước mắt họ, những người này không đ̣i hỏi ǵ hơn là trả tiền để mà bị gạt.
Dù sao, đó là những điều mà các đồng tử chuyên nghiệp giải thích cho tôi nghe. Họ đă kể lại cho tôi nghe cuộc đời khốn khổ của họ, việc họ “có đồng” đă tác hại thế nào trong thời thơ ấu, làm cho họ bị lẩn tránh và ngược đăi bởi những bạn học cùng lớp, bị theo dơi và chọc ghẹo bởi những kẻ ṭ ṃ, bị dùng làm một hiện tượng lạ mắt bởi những “gánh xiếc” lưu động trả tiền cho cha mẹ họ thụ hưởng, và mang lấy những chứng bệnh hoạn thần kinh, bệnh lao phổi, hay tràng nhạc, làm tàn phá sức khỏe của họ.
Bà Hardinge Britten, một nhà chuyên môn khảo cứu về vấn đề thông linh và có nhiều kinh nghiệm về các giới đồng cốt, có nói rằng bà ít khi thấy một đồng tử nào mà không có một khí chất bệnh hoạn, thường là có bệnh tràng nhạc, hay bệnh lao. Trong quyển “Art Magic”, bà viết:
“MỘT SỰ VIỆC CÓ Ư NGHĨA ĐỂ LƯU Ư CÁC NHÀ SINH LƯ VÀ TÂM LƯ HỌC, LÀ DƯỜNG NHƯ NHỮNG NGƯỜI MẮC BỆNH TRÀNG NHẠC VÀ BỆNH SƯNG HẠCH TUYẾN, THƯỜNG LÀ NHỮNG MÔI TRƯỜNG THUẬN LỢI ĐỂ CHO CÁC VONG LINH TÁC ĐỘNG TRÊN ĐỊA HẠT VẬT CHẤT HỮU H̀NH.
NHỮNG PHỤ NỮ H̀NH VÓC MẢNH MAI, YẾU ĐUỐI, VÀ NHỮNG NGƯỜI CÓ TÍNH CHẤT KHIẾT BẠCH, NGÂY THƠ, VÔ TỘI, NHƯNG HỆ THỐNG HẠCH TUYẾN CỦA HỌ ĐĂ BỊ GẬM NHẤM BỞI CHỨNG BỆNH TRÀNG NHẠC, THƯỜNG DỄ TRỞ NÊN NHỮNG KHÍ CỤ HỮU HIỆU CHO SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC VONG LINH TRÊN CƠI VẬT CHẤT HỒNG TRẦN”.
Những hoạt động đồng cốt thực hành ở những nơi công cộng, là một hiểm họa trầm trọng trên phương diện sức khỏe thể chất cũng như trên phương diện tinh thần. Tất cả mọi y sĩ đều nói rằng ngủ trong một gian pḥng không có thoáng khí, chung lộn với một số đông người hỗn tạp, trong số đó có người bệnh tật là một điều vô cùng nguy hiểm và có thể là một tai họa làm chết người.
Nhưng nguy cơ này c̣n không thấm vào đâu so với cái hiểm họa ŕnh rập một bên người đồng cốt hành nghề công cộng, phải chấp nhận sự có mặt và chịu sự xâm nhập từ điển của tất cả mọi người đủ các giới và đủ mọi thành phần.
Trong số đó, đương nhiên có người tốt kẻ xấu lẫn lộn, gồm cả những người bệnh tật về thể xác cũng như về tinh thần, những kẻ thô bạo, dâm ác, vật chất, ô trược, vô đạo, vô tín ngưỡng, sa đọa, tội lỗi trong tư tưởng, lời nói, hay việc làm và trái ngược lại.
Thật hạnh phúc thay cho những người nào có thể phát triển và thực hành những khả năng thông linh của ḿnh, trong những hoàn cảnh tịnh khiết và lành mạnh. Giữa một tập đoàn chọn lọc gồm những người ưu tú, tốt lành: đó là trường hợp của những nhà nữ đồng tử và linh thị thời cổ xưa, được giữ ǵn, bảo dưỡng và chăm sóc cẩn thận trong các đền thờ…
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1111 of 1146: Đă gửi: 14 March 2011 lúc 5:07pm | Đă lưu IP
|
|
|
HỒI KƯ H.S. OLCOTT
II. Mùa hè năm 1875, một phụ nữ tên Youngs hành nghề đồng tử để sinh sống tại Nữu Ước. Hiện tượng chính của bà này là sai khiến âm binh, nâng cao lên một cây đàn dương cầm lớn hạng nặng, và làm cho nó nghiêng qua nghiêng lại hai đầu để làm nhịp, trong khi bà ấy đánh đàn.
Tôi nghe nói vậy, bèn mời bà HPB cùng đi với tôi đến nơi để xem hiện tượng lạ ấy. Tôi đem theo ba vật đựng trong túi để thử khả năng đồng tử của bà kia, là một quả trứng gà c̣n sống, và hai hột hồ đào.
Tôi không cần phải sử dụng trí nhớ, v́ tôi c̣n cất giữ bài tường thuật chính xác về sự việc này đăng trên báo NEW YORK SUN ra ngày 4 tháng 9 năm 1875. Hôm ấy có tất cả mười lăm người đến dự buổi họp đàn. Phóng viên nhật báo ấy viết như sau:
“CUỘC BIỂU DIỄN BẮT ĐẦU BẰNG VIỆC DỞ HỔNG CÂY ĐÀN DƯƠNG CẦM (PIANO) BỞI NHỮNG SỨC MẠNH VÔ H̀NH, TRONG KHI BÀ ĐỒNG TỬ YOUNGS ĐẶT NHẸ HAI BÀN TAY LÊN MẶT ĐÀN. CÁC VONG LINH KHUẤT MẶT SẼ GƠ NHỊP BA CÁI HOẶC MỘT CÁI TRÊN CÂY ĐÀN ĐỂ TỎ Ư THUẬN HAY KHÔNG THUẬN LÀM CUỘC BIỂU DIỄN.
KHI ĐĂ SẴN SÀNG BÀ NGỒI XUỐNG GHẾ VÀ BẮT ĐẦU CHƠI VÀI BẢN NHẠC, TRONG KHI ĐÓ CÂY ĐÀN TỰ ĐỘNG LÊN CAO XUỐNG THẤP THEO NHỊP ĐÀN. KẾ ĐÓ, BÀ ĐỨNG QUA MỘT BÊN VÀ GỌI ĐẠI TÁ OLCOTT VÀ NHỮNG NGƯỜI CÓ MẶT MUỐN LÀM CUỘC THÍ NGHIỆM, MỖI NGƯỜI HĂY ĐẶT BÀN TAY TRÁI CỦA M̀NH PHÍA MẶT DƯỚI CÂY ĐÀN, C̉N BÀ CŨNG ĐẶT NHẸ MỘT BÀN TAY Y NHƯ VẬY. XONG RỒI, THEO LỜI YÊU CẦU CỦA BÀ ĐỒNG TỬ, MỘT ĐẦU CỦA CÂY ĐÀN DƯƠNG CẦM RẤT NẶNG ĐƯỢC DỞ HỔNG LÊN KHỎI SÀN GẠCH MÀ KHÔNG CÓ SỰ DÙNG SỨC CỐ GẮNG CỦA MỘT NGƯỜI NÀO.
ĐẾN ĐÂY, ĐẠI TÁ OLCOTT YÊU CẦU BÀ ĐỒNG TỬ CHO ÔNG LÀM MỘT THÍ NGHIỆM KHÁC. BÀ NÀY VUI L̉NG, ĐẠI TÁ LIỀN ĐƯA RA MỘT QUẢ TRỨNG GÀ ĐỰNG SẴN TRONG MỘT CÁI HỘP, VÀ YÊU CẦU BÀ ĐẶT QUẢ TRỨNG GIỮA BÀN TAY BÀ VÀ MẶT DƯỚI CỦA CÂY ĐÀN, RỒI YÊU CẦU CÁC VONG LINH NÂNG CÂY ĐÀN LÊN. BÀ ĐỒNG TỬ NÓI RẰNG TRONG THỜI GIAN HÀNH NGHỀ ĐỒNG TỬ , BÀ CHƯA TỪNG LÀM CUỘC THÍ NGHIỆM NHƯ VẬY BAO GIỜ, VÀ BÀ KHÔNG CHẮC SẼ THÀNH CÔNG, NHƯNG BÀ CŨNG BẰNG L̉NG LÀM THỬ.
BÀ CẦM LẤY QUẢ TRỨNG ÁP VÀO MẶT DƯỚI CÂY ĐÀN THEO LỜI DẶN, VỚI BÀN TAY KIA BÀ VỖ VÀO THÙNG CÂY ĐÀN VÀ YÊU CẦU CÁC VONG LINH HĂY THỬ RA SỨC. NGAY TỨC KHẮC, CÂY ĐÀN LẠI NÂNG CAO LÊN NHƯ TRƯỚC VÀ TREO LƠ LỬNG MỘT LÚC TRÊN KHÔNG TRUNG. CUỘC THÍ NGHIỆM ĐỘC ĐÁO VÀ MỚI LẠ NÀY ĐĂ THÀNH CÔNG TRỌN VẸN.
Kế đó, bà Youngs yêu cầu những vị nào mập mạp nặng cân nhất trong cử tọa hăy ngồi lên mặt đàn dương cầm, và sau khi có bảy người thân h́nh đồ sộ vừa nam vừa nữ đă ngồi lên, bà đánh một bản nhạc hành khúc, và tất cả nội vụ, cả người lẫn dương cầm, đều được dở hổng lên một cách dễ dàng.
Đến đây, Đại Tá Olcott mới đưa ra hai hột hồ đào (walnut) và yêu cầu các vong linh khuất mặt hăy làm bể những cái vỏ cứng bên ngoài dưới chân cây đàn mà không làm giập cái nhân ở bên trong, mục đích là để chứng minh rằng có sự tác động của một sức mạnh khác hơn là của bà đồng tử và cái sức mạnh ấy có sự điều khiển của một trí lực thông minh.
Những vong linh tỏ ư bằng ḷng, nhưng v́ những cây chân đàn dương cầm đều đặt trên các bánh xe lăn, nên đành phải bỏ cuộc thí nghiệm v́ không thể thực hiện được. Kế đó, Đại Tá Olcott yêu cầu bà nọ để cho ông cầm quả trứng và đặt ở mặt dưới cây đàn, c̣n bà đặt bàn tay dưới bàn tay của ông, để chứng minh một cách tuyệt đối sự kiện rằng không có một sự dùng sức cố gắng nào của bà đồng tử.
Cuộc thí nghiệm này cũng được chấp thuận và thi hành ngay tức khắc. Cây đàn cũng được nâng nhẹ lên như trước. Sau cùng, buổi họp đàn chiều hôm ấy kết thúc bằng việc NÂNG NHẸ CÂY ĐÀN LÊN KHÔNG TRUNG MÀ KHÔNG CÓ VIỆC ĐỤNG CHẠM HAY ĐẶT NHẸ BÀN TAY CỦA BÀ ĐỒNG TỬ.
Đó hẳn là sự biển lộ rất độc đáo của một sức mạnh vô h́nh. Không những một cây đàn dương cầm hạng lớn và rất nặng mà sức một người không thể dở nổi một đầu, lại được nâng nhẹ lên dễ dàng mà không có sự dùng sức cố gắng của người đồng tử hay của một người nào có mặt tại chỗ, trong một gian pḥng thắp đèn sang, mà c̣n có sự tác động của một trí lực thông minh, hiểu biết và làm đúng theo mọi lời yêu cầu.
Việc này hẳn là không có bao nhiêu giá trị tâm linh, nhưng nó hàm xúc một ư nghĩa làm đảo lộn những lư thuyết của Khoa Vật Lư Học hiện đại.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1112 of 1146: Đă gửi: 14 March 2011 lúc 5:13pm | Đă lưu IP
|
|
|
HỒI KƯ H.S. OLCOTT
III. Một hiện tượng đồng tử khác có tính chất thi vị hơn và hứng thú hơn nữa là của bà Mary Baker Thayer, ở Boston, mà tôi đă dành trọn hết năm tuần để theo dơi, cũng trong mùa hè năm ấy.
Bà này có khả năng đặc biệt là làm cho các thứ cỏ cây hoa lá rơi rụng như mưa chung quanh bà trong khi họp đàn, những cành lá và bông hoa này đều c̣n tươi tốt dường như mới vừa ngắt bẻ từ các cây lớn, có khi là những loại cây cỏ lạ từ phương xa đem về trồng ở xứ này.
Trong các buổi họp đàn, khi các quan khách đă tụ họp đông đủ, một vị khách khả kính được mọi người đồng ư yêu cầu đứng ra xem xét các pḥng và bàn ghế trong nhà, khép kín các cửa sổ, khóa chặt cửa cái và cất giữ ch́a khóa.
Người đồng tử cũng chịu để cho tôi khám xét kỹ lưỡng để biết chắc là bà không có dấu bông hoa hay những vật ǵ khác trong ḿnh. Có khi, bà c̣n để cho tôi trói và nhốt bà trong một cái bao bố cho bà không thể cử động hoặc sử dụng tay chân để làm bất cứ một động tác nào.
Kế đó, mọi người mới ngồi chung quanh một cái bàn ăn lớn, nắm tay nhau thành ṿng ( luôn cả bà đồng tử ), tắt hết đèn để pḥng tối thui và chờ đợi hiện tượng xảy ra.
Sau một lát, người ta nghe có tiếng động nhẹ của vật ǵ rơi trên mặt bàn trống trơn, và mùi thơm tỏa ra khắp pḥng. Khi đó bà Thayer mới yêu cầu thắp đèn lên, th́ người ta thấy trên bàn có đầy những hoa thơm cỏ lạ, đôi khi lại thấy những cành hoa cắm vào áo hay gài trên tóc của các quan khách ngồi tham dự.
Thỉnh thoảng, có vài con bươm bướm, hoặc một con chim quyên, chim yến, hay chim hoàng anh, hay vài loại chim nhỏ vừa kêu ríu rít vừa bay lượn khắp pḥng; hoặc một con cá vàng hăy c̣n ướt nhảy trên mặt bàn, dường như vừa mới lấy ra từ trong hồ nước.
Đôi khi, những người có mặt cũng thốt lên những tiếng kêu ngạc nhiên khi họ nhận thấy nằm trong tay họ một cái hoa hay một nhánh kiểng mà họ đă nghĩ trong trí và thầm lặng yêu cầu được đem đến cho họ.
Trong một buổi họp đàn khác, có một cây thạch thảo xuất hiện trước các quan khách, c̣n nguyên những rễ cây và đất bám vào như vừa mới được bứng lên, lại có cả ba con trùng đất c̣n đang ngo ngoe quằn ḿnh giữa đám rễ. Nhưng tôi c̣n chứng kiến một việc lạ hơn nữa.
Một buổi trưa hè, tôi đến viếng một nghĩa địa ở ngoại ô thành phố Boston, và khi đi qua một vườn kiểng, tôi chú ư đến một giống cây lạ với những lá hẹp và dài, có sọc trắng và xanh lợt, mà khoa Thảo Mộc Học gọi là cây Long Huyết (Dracaena Regina).
Tôi lấy bút ch́ xanh vẽ ở mặt dưới một lá, cái h́nh một ngôi sao sáu góc và âm thầm kêu gọi bằng tư tưởng các âm binh hăy đem cái lá ấy đến cho tôi tại nhà bà Thayer trong buổi họp đàn tối hôm sau.
Tối hôm đó, tôi ngồi bên cạnh bà đồng tử, và nắm hai bàn tay bà để bảo đảm cho chắc rằng bà vẫn trung thực. Trong bóng tối, tôi cảm giác được một vật ǵ mát lạnh và ướt rơi trên một bàn tay tôi, và khi đèn được thắp sáng trở lại, th́ thấy vật ấy chính là cái lá cây Long Huyết mà tôi đă làm dấu ngày hôm qua!
Để phối kiểm lại cho chắc, tôi đă trở lại vườn kiểng và nhận thấy cái lá của tôi làm dấu, thật sự đă bị ngắt ra khỏi nhánh và cái lá ấy mà tôi đem theo trong túi, đem ráp lại th́ đúng với chỗ bị ngắt! Nhiều sự kiện tương tự cũng đă làm cho tôi tin chắc rằng bà Thayer là một người đồng tử chân chính.
Ngoài ra, c̣n có một hiện tượng sinh lư không những đă làm tăng thêm ḷng tin của tôi, mà c̣n làm sáng tỏ thêm toàn bộ vấn đề đồng tử. Khi tôi nắm hai bàn tay bà trong hai bàn tay tôi, tôi nhận thấy rằng đúng vào lúc mà những cỏ cây hoa lá bắt đầu rơi trên mặt bàn th́ bà đồng tử rung ḿnh, thở dài, và hai bàn tay trở nên lạnh ngắt như đồng.
Một lúc sau đó, hai bàn tay bà mới trở lại nhiệt độ b́nh thường. Điều đó chỉ rằng dường như có một sự hoàn toàn biến đổi về nhiệt độ trong cơ thể của người đồng tử trong khi thực hành các hiện tượng.
Khi bà HPB kêu gọi một vong linh hiện nguyên h́nh từ trong pḥng của bà đồng tử Holmes trong một cuộc biểu diễn trước đây, bà nắm chặt lấy bàn tay tôi một cách xúc động, và bàn tay bà trở nên lạnh như nước đá.
Bàn tay của Signor B., nhà phù thủy Ư cũng lạnh ngắt sau hiện tượng làm mưa; và sự chuyển biến từ trạng thái lên đồng qua trạng thái xuất thần nhập hóa và những giai đoạn thâm sâu hơn của trạng thái vô thức đều đi kèm với hiện tượng hạ thấp nhiệt độ của cơ thể một cách b́nh thường.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1113 of 1146: Đă gửi: 14 March 2011 lúc 5:22pm | Đă lưu IP
|
|
|
HỒI KƯ H.S. OLCOTT
IV. Trong một buổi họp đàn khác chỉ có ba người tham dự, là bà Hougton, vợ của một vị luật sư tên tuổi ở Boston, một phụ nữ khác, và tôi. Chúng tôi ngồi lại một bàn, tôi nắm hai bàn tay bà đồng tử, một bà khách đi đóng các cửa trong nhà c̣n một bà coi việc đèn đuốc.
Khi đèn đă tắt, chúng tôi ngồi đợi ít lâu trong bong tối, nhưng không nghe có tiếng hoa rơi trên bàn. Bỗng nhiên, tôi có cảm giác một cánh hoa mát và ướt rơi nhẹ trên lưng bàn tay tôi. Khi đèn thắp sáng, th́ thấy đó là một cái hoa hường rất đẹp, vừa mới nở được một nửa, hăy c̣n đượm những giọt sương lung linh ướt. Bà đồng tử vừa giật ḿnh dường như có người khuất mặt nói chuyện với bà từ đằng sau, và nói:
- Thưa Đại Tá, những âm binh nói rằng cánh hoa này là quà tặng cho bà HPB.
Tôi bèn đưa cái hoa cho bà Houghton, rồi bà này trao lại cho bà HPB khi chúng tôi về đến nhà, tại đây chúng tôi thấy bà HPB đang vừa hút thuốc lá vừa nói chuyện với luật sư Houghton.
Bà HPB cầm lấy cái hoa đưa lên mũi để thưởng thức mùi thơm của nó, gương mặt đăm chiêu với một cái nh́n xa vắng trong cặp mắt, mà những bạn thân của bà thường thấy mỗi khi bà làm các hiện tượng thần thông. Cơn mộng mơ của bà bị gián đoạn bởi luật sư Houghton khi ông nói:
- Thưa bà, cái hoa này thật đẹp, bà hăy đưa cho tôi xem một chút.
Bà đưa cái hoa cho ông cũng vẫn với cái vẻ mặt đăm chiêu, và với một cử chỉ vô tư máy móc. Vị luật sư ngửi hoa, rồi th́nh ĺnh kêu lên:
- Ủa ! Sao hoa nặng vậy? Tôi chưa hề thấy hoa nào như cái hoa này. Quí vị hăy xem, sức nặng của nó làm cong cái cuống hoa!
Tôi mới cầm lấy cái hoa để xem lại, v́ mới lúc năy khi nó c̣n ở trên tay tôi, không thấy có ǵ khác thường. Nhưng bây giờ th́ lạ thật, nó lại rất nặng. Lúc ấy, bà HPB mới nói:
- Hăy cẩn thận, đừng làm nó gẫy”
Tôi gượng nhẹ nâng cái hoa lên giữa ngón tay cái và ngón trỏ của bàn tay mặt và nh́n xem cho kỹ, nhưng không thấy lư do ǵ làm cho nó có sức nặng. Bỗng nhiên, tôi thấy có một chấm nhỏ ánh sáng màu vàng chiếu nơi trung tâm cái hoa, và trước khi tôi có th́ giờ nh́n lại lần nữa.
Th́ một cái nhẫn vàng nặng lớn bản và trơn bong từ trong nụ hoa nhảy vọt ra, dường như do sức đẩy của một cái ḷ xo, và rơi xuống đất ngay dưới chân tôi. Cái hoa liền đứng ngay trở lại trên cái cuống, không c̣n nặng như lúc năy, mà trở lại trạng thái b́nh thường.
Ông Houghton và tôi đều là luật sư, vốn có bản năng thận trọng của nghề nghiệp, chúng tôi bèn xem xét kỹ lại bên trong cái hoa, nhưng không thấy có dấu vết ǵ khả nghi chỉ rằng có bàn tay người sờ mó vào: những cánh hoa được xếp lên nhau một cách đều đặn và chặt chẽ, và người ta không thể nhét cái nhẫn vàng vào bên trong mà không làm sứt mẻ cái nụ non ở giữa.
Vả lại, làm sao bà HPB có thể chơi cái tṛ giả mạo ấy ngay trước mắt chúng tôi, dưới ánh sáng của ba ngọn đèn, trong khi bà cầm cái hoa trong bàn tay mặt chỉ có độ hai phút trước khi đưa nó cho ông Houghton?
Hiện tượng này có thể giải thích bằng khoa Huyền Môn: vật chất trong chiếc nhẫn và vật chất trong những cánh hoa có thể đă được nâng cao từ chiều đo thứ ba lên chiều đo thứ tư, và phục hồi trở lại chiều đo thứ ba vào lúc chiếc nhẫn nhảy vọt ra ngoài cái hoa.
Quả thật sự việc đă xảy ra đúng y như vậy. Cái nhẫn ấy cân nặng ba chỉ, và tôi đang đeo nó trong lúc này. Nó không phải được tạo ra từ chỗ hư không, mà chỉ là một vật được di chuyển xuyên qua không gian.
Một năm rưỡi sau đó, sau khi Hội Thông Thiên Học Thế Giới được thành lập độ một năm, bà HPB và tôi cư trú tại New York trong hai gian pḥng khác nhau cùng trong một nhà. Một ngày nọ, cô em gái tôi, là bà W.H. Mitchell, đi cùng với chồng đến viếng chúng tôi, và trong câu chuyện hàn huyên tâm sự, cô yêu cầu cho xem chiếc nhẫn và nói cho cô nghe câu chuyện lịch sử của nó.
Khi xem xong, cô đeo thử vào ngón tay rồi tháo ra đặt nằm trong ḷng bàn tay cô để trả lại cho bà HPB. Bà HPB cứ để nó nằm y như thế mà không động đến, khép các ngón tay cô em tôi trên chiếc nhẫn, nắm bàn tay ấy trong một lúc, rồi buông ra và bảo cô em tôi hăy nh́n lại xem. Th́ ra nó không c̣n là một chiếc nhẫn trơn nữa, mà chúng tôi thấy trên cái khoen vàng có cẩn ba hột kim cương nhỏ xếp thành h́nh tam giác.
Việc ấy được thực hiện bằng cách nào? Giả thuyết ít huyền diệu nhất là bà HPB đă cho một thợ kim hoàn cẩn ba hột kim cương trên chiếc nhẫn từ trước, và dùng thuật thôi miên che mắt để chúng tôi không nh́n thấy, cho đến khi thị giác của chúng tôi được giải tỏa vào lúc cô em tôi mở bàn tay ra.
Điều này có thể hiểu được như một phép thuật thôi miên; tôi đă từng thấy những hiện tượng đó, và chính tôi cũng có thể làm được như vậy. Người ta có thể làm che khuất tầm nhăn quang của kẻ khác, không những đối với vài hột kim cương, mà c̣n có thể làm che dấu một người.
Một cử tọa đông đảo, một cái nhà, một cái cây, một quả núi, hay bất cứ vật ǵ: thuật thôi miên dường như có khả năng tác động vô giới hạn. Hiện tượng chiếc nhẫn nạm kim cương có thể được giải thích ra sao tùy ư; nó vẫn là một sự thành công hoàn toàn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1114 of 1146: Đă gửi: 14 March 2011 lúc 5:26pm | Đă lưu IP
|
|
|
HỒI KƯ H.S. OLCOTT
V. Những sự việc kể trên sẽ giúp cho độc giả có một ư niệm về những hiện tượng lạ lùng vẫn tiếp diễn hồi thời đó ở các xứ phương Tây. Ở phương Đông thỉnh thoảng người ta cũng từng nghe nói về những sự di chuyển đồ vật tương tự xuyên qua không gian, nhưng luôn luôn với một sự kinh khiếp, sợ hăi, và những người chứng kiến không hề nghĩ đến việc đem các hiện tượng ấy ra làm những đề tài khảo cứu khoa học.
Trái lại, chúng bị coi như những việc chẳng lành, do tác động của những vong linh bất hảo, thường là những vong hồn đọa lạc của những bạn bè, thân quyến hăy c̣n bám víu cơi Trần và người ta chỉ muốn tảo trừ những sự việc ấy như những chuyện quấy rầy, phiền nhiễu.
Đối với người Đông Phương, vốn có một truyền thống tâm linh vững chắc từ lâu đời, th́ sự giao tiếp giữa người sống với vong linh người chết là một bằng chứng chỉ rằng người chết vẫn chưa đoạn tuyệt một cách thoải mái nhẹ nhàng với cuộc đời thế gian, và như vậy, họ bị ngăn trở trên con đường tiến hóa tự nhiên để vượt lên cơi giới tinh thần.
Người Á Đông coi việc biểu diễn những hiện tượng thuộc loại kể trên như những bằng chứng chỉ rằng các người biểu diễn ấy chỉ có những quyền năng thuộc loại thấp kém.
Trong thời gian ở Ấn Độ, tôi đă từng nghe nhiều người bổn xứ nói rằng thật là một điều đáng tiếc mà thấy bà HPB biểu diễn các hiện tượng thần thông, bởi v́ việc ấy chỉ rằng bà chưa đạt tới tŕnh độ cao siêu trong pháp môn Yoga.
Thật vậy, Đạo Sư Patanjali, cũng như Phật Thích Ca, đă từng cảnh cáo các môn đồ không nên biểu diễn phép thuật thần thông khi họ phát triển được những quyền năng thần bí trong diễn tŕnh tiền hóa tâm linh của họ.
Tuy nhiên, chính đức Phật đôi khi cũng đă làm các hiện tượng thần thông, nhưng ngài chỉ làm như vậy trong khi thuyết pháp để kêu gọi sự chú ư của quần chúng và thúc đẩy họ cố gắng công phu tu luyện sau khi đă thanh lọc bản thể cho bớt nhiễm trần.
Phần nhiều các bậc giáo chủ khác cũng áp dụng phương pháp đó. Phải chăng bà HPB cũng làm giống y như vậy? Trong khi làm các phép thuật thần thông, phải chăng bà đă có cảnh giác tất cả mọi người rằng đó chỉ là những điều phụ thuộc nhỏ mọn, không đáng kể trên đường Đạo?
Không ai có thể phủ nhận điều ấy; mọi người đều nh́n nhận là bà vẫn luôn luôn dạy rằng các hiện tượng thần thông chỉ có tác dụng là để thực nghiệm khoa triết học tâm linh, cũng như những cuộc thí nghiệm hóa chất đối với khoa Hóa Học vậy.
Bà hẳn là đă sai lầm mà phung phí thần lực trong các hiện tượng huyền linh để làm ngạc nhiên những quan khách tầm thường, không quan trọng, thần lực ấy có thể dùng một cách hữu hiệu hơn nhiều để phá hủy bức rào vô tín ngưỡng và độc đoán của khoa học duy vật Tây Phương.
Tuy nhiên, nhờ đó bà đă thuyết phục được một số người, chịu ảnh hưởng của bà mà đă đóng góp công lao tích cực vào phong trào Thông Thiên Học vĩ đại của chúng ta, và vài người trung kiên nhất trong số đó đă từ bỏ khoa Thần Linh Học Tây Phương để bước vào Huyền Môn Đông Phương qua chiếc cầu trung gian của những hiện tượng diệu huyền.
Về phần tôi, tôi có thể nói rằng những loạt hiện tượng thần thông đa h́nh đa dạng mà bà HPB đă biểu diễn cho tôi xem, đă làm cho tôi hiểu được dễ dàng những lư thuyết cổ truyền Đông Phương của Khoa Học Tâm Linh.
Tôi rất tiếc rằng những người khác, nhất là những bạn Đạo phương Đông của tôi, vốn có một tâm hồn đă từng được chuẩn bị hoàn toàn chu đáo, lại không có được một cơ hội may mắn như tôi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1115 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 7:16am | Đă lưu IP
|
|
|
HỒI KƯ H.S. OLCOTT
CHƯƠNG SÁU
VIỆC THÀNH LẬP HỘI THÔNG THIÊN HỌC THẾ GIỚI
I. Tất cả những hội viên nhiệt thành của Hội Thông Thiên Học sẽ thích thú mà được biết rằng kể từ tháng 7 năm 1875, bà HPB đă khẳng định sự hiện diện của các đấng Chân Sư, tuyên bố sự thật về Quần Tiên Hội, về kho tàng minh triết thiêng liêng do các ngài ǵn giữ, và về mối liên hệ cá nhân của bà với các ngài. Bà nêu lên vấn đề quan trọng là:
“Khoa Thần Linh Học, trong tay của một Chân Sư, trở thành khoa Phương Thuật, v́ ngài đă tinh thông lăo luyện về bí thuật sử dụng những định luật trong Càn Khôn Vũ Trụ, mà không vi phạm một định luật nào và không hành động trái nghịch với thiên nhiên.
Trong tay của một đồng tử thiếu kinh nghiệm, khoa ấy trở thành Bàn Môn Tả Đạo vô ư thức, v́ y vô t́nh mở rộng cửa giao thông giữa thế giới hữu h́nh và vô h́nh, và giải tỏa những sức mạnh mù quáng của Thiên Nhiên cùng những loại âm binh và vong linh bất hảo.”
Kể từ nay, tư tưởng Huyền Môn đă được phát động một cách rơ rệt, và luôn luôn được nhắc đến trong những sách vở báo chí và thơ tín riêng tư của chúng tôi. Trong một bài báo nhan đề “ĐỜI SỐNG BẤT TỬ” đăng trên báo Nữu Ước Diễn Đàn ngày 28 tháng 8 năm 1875, tôi có tuyên bố rằng tôi đă từng tin nơi các hiện tượng đồng tử từ một phần tư thế kỷ nay.
Nhưng tôi không bao giờ tin rằng những trí lực đằng sau các hiện tượng đồng tử từ một phần tư thế kỷ nay, nhưng tôi không bao giờ tin rằng những trí lực đằng sau các hiện tượng đó quả thật là những ông nọ bà kia như họ giả danh hay mạo nhận.
Tôi khẳng định sự tin tưởng của tôi về sự thật của khoa Huyền Môn thời cổ, và nói lên sự kiện rằng tôi t́nh cờ được giao tiếp với những người c̣n sống, họ đă từng thi thố ngay trước mặt tôi những pháp thuật diệu huyền xứng đáng với bản lĩnh của các nhà Phương Sĩ trứ danh thời xưa.
Khi tôi nói lên điều ấy, tôi không phải chỉ đề cập đến những hiện tượng thần thông của bà HPB, hay sự giao tiếp của tôi với các Chân Sư mà thôi, mà c̣n muốn nhắc đến sự việc này: đó là việc làm cho những “TINH LINH NGŨ HÀNH” xuất hiện ngay trước mắt tôi và trong pḥng ngủ của tôi, do một người lạ mặt mà tôi t́nh cờ gặp tại New York, một ngày trước khi tôi viết bài báo trên.
Người lạ mặt đến nhà tôi do một sự hứa hẹn trước. Chúng tôi mở những cửa ngăn pḥng khách với buồng ngủ, ngồi trên ghế đối diện với cửa ra vào, và th́nh ĺnh, dưới ảnh hưởng của một phương pháp huyền diệu để tạo ra ảo giác (Mâya), tôi nh́n thấy pḥng ngủ của tôi biến thành một khoảng không gian vuông vức.
Những giường tủ, bàn ghế đă biến mất khỏi tầm mắt của tôi,và lần lần xuất hiện những cảnh trời nước mênh mông, mây mù bao phủ không gian, hang động dưới ḷng đất, và một hỏa diệm sơn phun lửa. Mỗi hoạt động trong ngũ hành đều loi ngoi, những sinh vật sống động với những h́nh thể, những gương mặt, ẩn hiện chập chờn khi mờ khi tỏ.
Vài h́nh thể sinh vật đó coi xinh đẹp, hiền ḥa, những loại khác có h́nh dáng bất hảo, dữ tợn, có loại rất hung ác và coi thật rùng rợn. Chúng xuất hiện trước mắt tôi một cách nhẹ nhàng giống như những bọt nước trên một gịng suối, hoặc phóng nhanh xuyên qua không gian và biến mất, hoặc chơi giỡn nô đùa với nhau trong ánh lửa hồng hay trên gịng nước.
Một lát sau đó, một quái vật h́nh thù dị hợm trợn mắt nh́n tôi và phóng tới trước, dường như muốn chụp lấy tôi cũng như một con cọp bị thương chụp mồi, nhưng rồi lại biến mất khi nó vừa tới làn mức chu vi của khoảng không gian vuông vức, là nơi mà hai gian pḥng nối liền với nhau.
Việc ấy làm cho thần kinh tôi bị căng thẳng cực độ, nhưng sau những kinh nghiệm về hồn ma hiện h́nh mà tôi đă từng trải qua ở nông trại Eddy, tôi cố gắng giữ vững tinh thần ḷng không rung động. Đến đây, người lạ mặt tuyên bố hài ḷng về kết quả cuộc thử thách tâm linh này, và khi chia tay từ giă c̣n nói thêm rằng chúng tôi có thể sẽ gặp nhau trở lại.
Nhưng cho đến nay chúng tôi không hề gặp nhau lại nữa. Người ấy có h́nh dáng giống như một người Đông Phương, màu da lợt, nhưng tôi không thể phát hiện được là quốc tịch nào, tuy hồi đó tôi nghĩ rằng có lẽ ông ta là người Ấn Độ. Người đó nói Anh Ngữ rất thông thạo cũng như tôi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1116 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 7:24am | Đă lưu IP
|
|
|
HỒI KƯ H.S. OLCOTT
II. Sự dọn đường cho việc thành lập Hội Thông Thiên Học Thế Giới đă được chuẩn bị do sự tranh luận sôi nổi trong các giới, trước nhất về Thần Linh Học và sau đó về một vài quan niệm của Huyền Môn Đông Phương.
Cuộc tranh luận vẫn tiếp diễn kể từ khi những bài tường thuật của tôi về các hiện tượng thần linh ở nông trại Eddy bắt đầu xuất hiện trên nhật báo New York Sun vào tháng 8 năm 1874. Nó càng trở nên sôi động thêm gấp mười lần từ khi tôi và bà HPB gặp nhau tại Chittenden, và sử dụng báo chí để tŕnh bày những quan điểm lạ thường của chúng tôi.
Những bài báo châm biếm của bà, những chuyện đồn đăi về những phép thuật thần thông của bà, và sự quả quyết của chúng tôi về sự hiện diện của những chủng loại sinh vật trong cơi vô h́nh, đă thu hút đến với chúng tôi nhiều nhân vật Đạo tâm, trí thức thông minh lỗi lạc.
Trong số những người này có những nhà bác học, ngôn ngữ học, nhà văn, nhà khảo cổ, vài vị linh mục có tinh thần rộng răi cởi mở, luật gia, y sĩ, vài nhà Thần Linh Học tên tuổi, vài nhà báo ṭ ṃ muốn kiếm đề tài hấp dẫn để viết bài.
Thật là một việc táo bạo mà dám đứng ra công khai tuyên bố nền tảng khoa học của Khoa Huyền Môn cổ xưa, bất chấp mọi dư luận thành kiến của người đời, ở vào thời đại hoài nghi của khoa học vật chất ngày nay.
Chính hành động táo bạo đó đă thu hút sự chú ư của quần chúng và đưa đến cái hậu quả đương nhiên là với thời gian qua, những người cùng đồng quan điểm sẽ họp chung lại với nhau thành một Hội để khảo cứu về các vấn đề Huyền Môn. Mưu toan thành lập một Câu Lạc Bộ Huyền Linh đă thất bại vào tháng 5, năm 1875.
Th́ nay một cơ hội khác đă đến, khi một học giả chuyên khoa Ai Cập Học là ông George Felt thuyết tŕnh trước một nhóm bạn hữu của chúng tôi tại nhà bà HPB vào ngày 7 tháng 9 năm 1875. Đó là một sự thành công mỹ măn: cái hột giống của một cây đại thọ bao trùm khắp thế giới đă được gieo trên mảnh đất tốt và đă nẩy mầm.
Tối hôm 7 tháng 9, ông Felt thuyết tŕnh về đề tài: “QUY TẮC TỶ LỆ CỦA NGƯỜI CỔ AI CẬP”. Ông là một nhà kỹ nghệ họa rất tài t́nh, và đă vẽ một số họa đồ rất khéo để diễn tả lư thuyết của ông cho rằng những quy tắc tỷ lệ kiến trúc của người Ai Cập cũng như của các đại kiến trúc gia Hy Lạp, hiện được ǵn giữ trong những chữ mật tự khắc trên các đền thờ cổ của xứ Ai Cập.
Ông nói rằng bằng cách sử dụng vài loại ch́a khóa bí mật, người ta có thể áp đặt một đồ h́nh mà người ta gọi là “NGÔI SAO TOÀN MỸ” trên vách một ngôi đền, rồi đọc trong đó toàn bộ các bí quyết của vấn đề tỷ lệ kiến trúc và h́nh học.
Những chữ mật tự ở ngoài ṿng cái đồ h́nh đặt lên vách chỉ là những chữ giả tạo để đánh lạc hướng những kẻ ṭ ṃ, bởi v́ nếu đọc liên tục với những chữ ở trong cái đồ h́nh, th́ đó chỉ là những câu vô nghĩa, hoặc chỉ là một câu chuyện vô vị, tầm thường.
Cái đồ h́nh này gồm có một ṿng tṛn với một h́nh vuông ở trong và một ở ngoài, chứa đựng một h́nh tam giác thường, hai h́nh tam giác Ai Cập và một h́nh năm góc. Ông Felt áp dụng cái đồ h́nh ấy vào những h́nh ảnh, tượng điêu khắc, cổng đền, h́nh vẽ chữ mật tự, Kim Tự Tháp, lăng tẩm và dinh thự lâu đài của xứ cổ Ai Cập.
Và cho thấy rằng chúng thật hoàn toàn đúng khớp với những tỷ lệ của đồ h́nh đến mức biểu lộ một quy tắc kiến trúc chung cho tất cả các công tŕnh xây dựng của thời xưa. Quả thật, đó chính là cái quy tắc kiến trúc thật sự của Thiên Nhiên.
Tiến Sĩ Pancoats, một nhà Huyền Học ưu tú có mặt trong buổi họp, lúc ấy mới hỏi ông felt có thể chứng minh cụ thể sự hiểu biết của ông về những quyền năng thần bí của các nhà đạo sĩ thời xưa hay không, chẳng hạn như việc kêu gọi các vong linh khuất mặt trong cơi vô h́nh. Ông Felt trả lời rằng:
“Ông có thể làm cho xuất hiện hằng trăm những h́nh bóng các vong linh giống như h́nh người, nhưng ông không thấy những dấu hiệu chỉ rằng chúng có trí khôn”.
Trong buổi thuyết tŕnh, ông Felt cho chúng tôi biết rằng trong khi khảo cứu về môn cổ học Ai Cập, ông đă phát hiện rằng những vị giáo sĩ Ai Cập thời xưa đều là những pháp sư lăo luyện tinh thông về khoa Phương Thuật.
Họ có quyền năng kêu gọi và sai khiến những TINH LINH NGŨ HÀNH và có để lại những chân ngôn thần chú để sử dụng âm binh. Ông sẵn ḷng chỉ dẫn bí thuật này cho những người có thiện chí và hứa sẽ làm cho các loại tinh linh xuất hiện trước mắt chúng tôi trong một loạt các bài diễn thuyết.
Buổi thuyết tŕnh vô cùng hấp dẫn và lư thú hôm đó được nối tiếp theo bằng một cuộc thảo luận sôi nổi. Trong khi cuộc bàn căi đang tiếp diễn, tôi bỗng có ư nghĩ rằng có lẽ là một điều hay nếu một hội được thành lập để khuyến khích sự học hỏi khảo cứu về khoa Huyền Môn, và sau khi đắn đo suy nghĩ, tôi mới viết trên một mảnh giấy gịng chữ sau đây:
“PHẢI CHĂNG LÀ MỘT ĐIỀU TỐT NẾU CHÚNG TA THÀNH LẬP MỘT HỘI ĐỂ KHẢO CỨU VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NÀY?”
Tôi đưa mảnh giấy cho ông W. Judge, một luật sư lúc ấy đang đứng giữa tôi và bà HPB ngồi ở một ghế đối diện để nhờ ông chuyển cho bà. Bà đọc xong, liền gật đầu tỏ ư bằng ḷng. Tôi bèn đứng dậy, và với vài lời mở đầu câu chuyện, tôi bèn đưa ra đề nghị trên.
Ṿng cử tọa lấy làm thích thú, và khi ông Felt, nhân dịp trả lời một câu hỏi, nói rằng ông sẵn ḷng chỉ dẫn cho chúng tôi phương pháp kêu gọi và kiểm chế các loại TINH LINH NGŨ HÀNH, th́ toàn thể hội trường đều đồng thinh chấp thuận việc thành lập Hội nói trên. Theo lời đề nghị của ông Judge, tôi được bầu làm Hội Trưởng và với đề nghị của tôi, ông Judge được bầu làm Bí Thơ buổi họp.
V́ lúc ấy đêm đă khuya, buổi họp được đ́nh lại đến tối hôm sau để có một quyết định chính thức. Những quan khách tối hôm đó được yêu cầu đem theo những bạn bè thân hữu và cảm t́nh viên vào đêm sau để cho họ có thể gia nhập hội nếu họ muốn.
Một tờ nhật báo ở New York có tường thuật buổi họp tối hôm đó, tóm tắt đại khái như sau:
“Một phong trào rất quan trọng vừa được khai trương tại New York dưới sự lănh đạo của Đại Tá Henry S. Olcott trong việc thành lập một hội gọi là Hội Thông Thiên Học Thế Giới.
Đề nghị khởi xướng nên công việc này là một điều hoàn toàn không có dự tính trước, và được phát động vào tối hôm mùng 7 tại pḥng khách nhà bà HPB. Cử tọa gồm mười bảy vị quan khách nam và nữ trong giới thượng lưu trí thức đă hội họp để nghe ông George Henry Felt thuyết tŕnh về một vài khía cạnh của Huyền Môn Ai Cập vô cùng lư thú và hấp dẫn….
Trong cuộc thảo luận sau đó, thừa dịp thuận tiện, Đại Tá Olcott đứng lên phát biểu ư kiến. Sau khi phác họa t́nh trạng của phong trào Thần Linh Học đương thời; thái độ của các nhà Duy Vật chống lại phong trào ấy; sự xung đột ư kiến giữa khoa học và tôn giáo; tính cách triết học của nền Đạo Lư cổ truyền, khả dĩ dung ḥa tất cả mọi lư thuyết tương phản hiện hữu.
Và công tŕnh siêu việt của ông Felt đă khám phá được bí quyết cấu tạo của Thiên Nhiên do những tàn tích cổ xưa của khoa Huyền Môn Ai Cập. Ông đề nghị thành lập một hội tinh thần để quy tụ tất cả những người có khuynh hướng tâm linh, sẵn sàng làm việc chung với nhau để sưu tập và truyền bá những kiến thức huyền môn.
Chương tŕnh của ông là tổ chức một Hội các nhà Huyền Học và bắt đầu lập ngay một thư viện, kế đó là phổ biến những giáo lư về những định luật huyền bí trong Thiên Nhiên mà người cổ Ai Cập và Trung Đông đều biết rơ, nhưng lại hoàn toàn xa lạ đối với thế giới khoa học của chúng ta hiện nay...
Tài liệu đó cho thấy tâm trạng của tôi khi tôi đề nghị thành lập Hội Thông Thiên Học Thế Giới. Quan niệm về t́nh Huynh Đệ Đại Đồng trong nhân loại chưa được nêu ra và chúng tôi cũng chưa kịp nghĩ đến, bởi v́ đề nghị thành lập Hội chỉ đột xuất từ cái đề tài đang thảo luận.
Tuy nhiên, khi ṿng ảnh hưởng của Hội nới rộng để bao gồm cả những dân tộc phương Đông cùng những tôn giáo và những chế độ xă hội của họ, th́ t́nh Huynh Đệ Đại Đồng đă trở nên một điều cần thiết, và trên thực tế, là nền tảng cho toàn thể cơ cấu xây dựng Hội.
Hội Thông Thiên Học là một công tŕnh tuần tự phát triển và tiến hóa; chứ không phải là một sự tạo dựng có mưu tính trước (trên cơi giới hữu h́nh).
Khi Hội đă được chấp thuận trên nguyên tắc, một phiên họp sau được tổ chức để soạn thảo bản Điều Lệ, Nội Quy, và bầu một ban chấp hành để quản trị công việc Hội. Ngày 30 tháng 10, bản Điều Lệ và Nội Quy được chấp thuận, và một ban chấp hành được tuyên bố như sau:
HỘI TRƯỞNG: HENRY S. OLCOTT
PHÓ HỘI TRƯỞNG: B.S PANCOATS và G.H.FELT
TỔNG THƯ KƯ NGOẠI VỤ: H.P. BLAVATSKY
TỔNG THƯ KƯ NỘI VỤ: JOHN S. COBB
THỦ BỔN: HENRY NEWTON
QUẢN LƯ THƯ VIỆN: CHARLES SOTHERAN
LUẬT SƯ NHIỆM CÁCH: WILLIAM Q. JUDGE và năm vị CỐ VẤN.
Phiên họp lại tái nhóm vào ngày 17 tháng 11 năm 1875 để đọc bản Tuyên Ngôn của Hội, và để nghe vị Hội Trưởng Đại Tá Henry S. Olcott, đọc bài diễn văn khai trương. Thế là Hội Thông Thiên Học Thế Giới được chính thức thành lập vào ngày 17 tháng 11 năm 1875.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1117 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 7:33am | Đă lưu IP
|
|
|
HỒI KƯ H.S. OLCOTT
III. khi đoạn Hồi Kư này của tôi được đăng trong tạp chí “THE THEOSOPHIST” tháng 11, năm 1892, số tạp chí ấy cũng có đăng tiểu sử hay lư lịch của nhiều vị trong Ban Chấp Hành của Hội, trong số đó có một chuyện lạ về kinh nghiệm huyền linh của ông W. L. Alden.
Ông Alden hồi đó là một biên tập viên của tờ “NỮU ƯỚC THỜI BÁO”, rất nổi tiếng về những bài phê b́nh hài hước và sắc xảo của ông đối với những vấn đề thời sự hàng ngày. Khi chúng tôi mới quen nhau, ông ấy có gặp một chuyện khá thú vị. Lúc ấy ông viết bài xă luận cho báo Graphic, c̣n tôi th́ viết phóng sự về các hiện tượng huyền linh ở Chittenden cũng cho tờ báo nhật báo này.
Những chuyện hồn ma hiện h́nh ở nông trại Eddy đă hấp dẫn một số đông người hiếu kỳ hằng ngày đến ṭa soạn để hỏi những chuyện bâng quơ vô lư. Họ làm quấy rầy vị Chủ Bút, ông Groly, đến mức làm cho ông này phải công bố một tấm h́nh lớn vẽ ông ta đứng chận cửa vào ṭa soạn, với một khẩu súng lục và một cặp kéo lớn trong tay, để tự vệ chống lại sự đột nhập của những kẻ vô tích sự làm phiền nhiễu và mất thời giờ.
Một ngày nọ, có một vị trưởng lăo mặc y phục theo lối Đông Phương bước vào ṭa soạn, tay cầm một quyển sách h́nh dáng lạ kỳ, và có vẻ rất cũ. Ông ta chào các nhân viên ṭa bài phóng sự của tôi, và về khoa Thần Linh Học Tây Phương và Đông Phương. Tất cả mọi người đều rời khỏi bàn viết và tề tựu chung quanh ông lăo. Khi nói về Khoa Phương Thuật, ông lăo lẳng lặng quay về phía ông Alden, mà cho đến khi đó không ai biết ǵ về những sở thích Huyền Môn của ông ta, và hỏi:
“Thưa ông, ông có tin sự thật của khoa Phương Thuật không?”
Vô cùng ngạc nhiên v́ câu hỏi đột ngột, ông Alden đáp:
“À, tôi có đọc quyển ZANONI, và nghĩ rằng trong đó có lẽ có ít nhiều sự thật.”
Đáp lời yêu cầu của vài người, ông lăo đưa quyển sách dị kỳ của ông ta cho mọi người xem. Th́ ra đó là một quyển cổ thư dạy về Khoa Phương Thuật, viết bằng chữ Á Rập hay một thứ chữ Đông Phương, có rất nhiều h́nh ảnh xen lẫn với chữ viết.
Tất cả mọi người đều rất thích thú, nhất là ông Alden, và khi chia tay từ giă, ông này hỏi vị trưởng lăo có thể nào họ sẽ gặp lại nhau để nói chuyện thêm. Ông lăo gật đầu mỉm cười, và đưa cho ông Alden một địa chỉ. Nhưng khi ông Alden đi đến nơi, th́ đó chỉ là một địa chỉ ma, một cửa hàng bán h́nh tượng và kinh sách Gia Tô Giáo!
Ông bạn tôi vẫn không thất vọng, và nhiều tháng sau đó, để mắt theo dơi những người mà ông tiếp xúc hay gặp gỡ ngoài đường với niềm hy vọng sẽ gặp lại ông lăo bí mật. Ông Croly cho tôi biết rằng người lạ mặt cũng không hề trở lại viếng thăm ṭa soạn một lần nào nữa, dường như ông ta đă biến mất vào trong ruột quả địa cầu!
Sự xuất hiện bất ngờ và th́nh ĺnh biến mất của những người bí mật để đem những quyển sách quư cho người có căn duyên; hoặc để đưa những lời khuyên hữu ích, hoặc để chỉ đường dẫn lối cho người tầm Đạo giữa những khó khăn chướng ngại mà y đang cố gắng vượt qua để đi đến chân lư, vốn không phải là một kinh nghiệm lạ thường.
Có nhiều trường hợp như vậy đă được ghi nhận trong lịch sử tôn giáo. Sự xuất hiện đó đôi khi xảy ra trong khi thức tỉnh, hoặc đôi khi trong những cơn linh ảnh vào những giờ ban đêm.
Sự mách bảo có khi đến như những “tia sáng” xẹt qua trong trí óc, những tia sáng trực giác (Buddhi) rọi vào cái trí suy luận (Manas) đem lại những phát minh lớn lao về khoa học, chẳng hạn như ư niệm về kiếng quang phổ (Spectroscope) xẹt qua trí óc của fraunhofer.
Ư niệm về tính chất của sấm sét và ống thu lôi trong trí của Franklin; ư niệm về máy điện thoại trong trí của Edison, và về hằng muôn ngàn sự việc vĩ đại hay định luật lớn lao khác nữa vẫn chiếu rọi ánh sáng vào tâm hồn những người thụ cảm sẵn sàng tiếp nhận nguồn cảm hứng thiêng liêng.
Dường như là một điều quá đáng mà nói rằng mỗi người tầm Đạo đều có cơ duyên đạt tới sự hiểu biết một lần trong đời ḿnh, nhưng tôi tin rằng số người may mắn gặp được cơ duyên đó c̣n gấp trăm lần nhiều hơn là người ta tưởng.
Thật là một điều bất hạnh cho đương sự nếu v́ quan niệm sai lầm, y tưởng rằng vị sứ giả đem cơ duyên tới cho y phải có một h́nh dáng hay cốt cách đặc biệt như thế nào đó, hoặc bức thông điệp gởi cho y phải đi kèm với những hiện tượng diệu huyền thuộc loại nào.
Rồi với những thành kiến đó làm che ám lu mờ, có khi “y giao tiếp với một vị thiên thần mà không hề hay biết”, hoặc chạm trán với quư nhân ở ngoài đường mà không hề cảm thấy một rung động khác lạ để làm cho y phải chú ư, thay v́ mải lo chăm chú nh́n cảnh vật ở chung quanh. Tôi nói những ǵ tôi biết.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1118 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 7:40am | Đă lưu IP
|
|
|
HỒI KƯ H.S. OLCOTT
IV. Theo chương tŕnh đă định, tối hôm 18 tháng 9, ông George H. Felt tiếp tục cuộc thuyết tŕnh lư thú về Huyền Môn Ai Cập và tŕnh bày những đồ h́nh có màu để diễn tả những sự khám phá của ông.
Vài thính giả sau đó cho biết rằng họ thấy ánh sáng chập chờn trên những đồ h́nh, nhưng tôi nghĩ rằng điều đó có lẽ một phần là do sự tự kỷ ám thị, c̣n một phần, có thể như ông Felt nói, là do những đặc tính huyền diệu của các đồ h́nh. Riêng tôi không nh́n thấy ǵ có tính chất huyền linh, cũng như những người khác trong cử tọa, trừ ra một thiểu số rất ít.
Trong buổi thuyết tŕnh, ông felt khẳng định không chút do dự sự hiện hữu của các giới TINH LINH NGŨ HÀNH, ảnh hưởng của chúng đối với loài vật và sự liên hệ của chúng tôi đối với loài người. Trên một bài báo gởi đăng trên tạp chí “London Spiritualist” ngày 19 tháng 6 năm 1878, ông Felt viết:
“….TÔI ĐƯỢC BIẾT CHẮC CHẮN RẰNG CÁC LOẠI TINH LINH NGŨ HÀNH QUẢ CÓ THẬT NHỞ NHỮNG CUỘC SƯU TẦM CỦA TÔI VỀ MÔN KHẢO CỔ AI CẬP. TRONG KHI TÔI VẼ HỌA ĐỒ NHỮNG V̉NG HOÀNG ĐẠO AI CẬP ĐỂ CỐ GẮNG T̀M RA NHŨNG ĐIỂM TƯƠNG QUAN VỀ SỐ HỌC GIỮA CHÚNG VỚI NHAU, TÔI NHẬN THẤY DÔI KHI CÓ NHỮNG TRIỆU CHỨNG RẤT LẠ LÙNG KHÔNG THỂ GIẢI THÍCH.
NGƯỜI NHÀ TÔI NHẬN THẤY RẰNG CÓ NHỮNG LÚC MÀ CON CHÓ VÀ CON MÈO CỦA TÔI, BIỂU LỘ NHỮNG CẢM ỨNG RẤT DỊ KỲ, VÀ HỌ LƯU Ư TÔI VỀ CHÚNG. CHỪNG ĐÓ, TÔI MỚI THẤY RẰNG MỖI KHI TÔI BẮT ĐẦU LÀM NHỮNG CUỘC KHẢO CỨU VỀ LOẠI NÀO ĐÓ, TH̀ CON MÈO TRƯỚC HẾT LỘ VẺ BĂN KHOĂN RAY RỨT, VÀ TRONG MỘT LÚC CON CHÓ LẠI GẦN ĐỂ TRẤN AN NÓ, NHƯNG KHÔNG BAO LÂU CON CHÓ CŨNG LẠI TỎ VẺ SỢ HĂI MỘT VẬT G̀ ĐANG ĐỘT NHIÊN XUẤT HIỆN TRONG PH̉NG.
DƯỜNG NHƯ CON MÈO CÓ NHỮNG GIÁC QUAN TINH VI BÉN NHẠY HƠN, KHI ĐÓ CẢ HAI CON ĐỀU MUỐN ĐƯỢC TÔI ĐƯA RA KHỎI PH̉NG, VÀ CHÍNH CHÚNG NÓ CŨNG TỰ T̀M CÁCH THOÁT RA BẰNG CÁCH LAO ĐẦU XUYÊN QUA KIẾNG CỬA SỔ. KHI ĐĂ ĐƯỢC THẢ RA NGOÀI, CHÚNG C̉N KÊU VÀ SỦA TRỞ LẠI, DƯỜNG NHƯ MUỐN GỌI TÔI HĂY ĐI RA.
CHÚNG VẪN TIẾP TỤC KÊU NHƯ THẾ MỘT HỒI LÂU, VÀ SAU CÙNG TÔI PHẢI BẮT BUỘC ĐI ĐẾN KẾT LUẬN RẰNG CHÚNG ĐĂ CẢM XÚC ĐƯỢC NHŨNG SỰ VẬT HAY ẢNH HƯỞNG VÔ H̀NH NÀO ĐÓ MÀ TÔI KHÔNG NHẬN THẤY.
THOẠT TIÊN, TÔI CHO RẰNG NHỮNG H̀NH THÙ GỚM GHIẾC ĐƯỢC VẼ TRÊN CÁC V̉NG HOÀNG ĐẠO CHỈ LÀ DO “ SỰ TƯỞNG TƯỢNG VÔ LƯ CỦA NHỮNG BỘ ÓC BỆNH HOẠN “, NHƯNG VỀ SAU TÔI MỚI NGHĨ RẰNG ĐÓ LÀ CÁCH TR̀NH BÀY NHỮNG SỰ VẬT TỰ NHIÊN THEO MỘT CÔNG THỨC NHẤT ĐỊNH.
SAU KHI ĐĂ THỰC HIỆN MỘT LOẠT NHỮNG CUỘC THÍ NGHIỆM VỀ VẤN ĐỀ NÀY, TÔI MỚI BIẾT CHẮC RẰNG NHỮNG H̀NH VẼ TRÊN CÁC V̉NG HOÀNG ĐẠO VÀ CÁC NGÔI KIẾN TRÚC, DỀN ĐÀI CỔ AI CẬP LÀ SỰ MIÊU TẢ NHỮNG CHỦNG LOẠI SINH VẬT VÔ H̀NH TRONG CƠ SÁNG TẠO, ĐƯỢC TR̀NH BÀY DƯỚI NHỮNG NÉT KHÁ CHÍNH XÁC , VÀ XEN LẪN VỚI H̀NH ẢNH CỦA NHỮNG SỰ VẬT TỰ NHIÊN KHÁC.
TÔI PHÁT HIỆN RẰNG NHỮNG SINH VẬT ĐÓ LÀ NHỮNG THỰC THỂ CÓ TRÍ KHÔN, VÀI LOẠI ĐÓ CÓ VẺ HUNG ÁC VÀ GÂY SỢ HĂI CHO NHỮNG THÚ NHÀ, C̉N NHỮNG LOẠI KHÁC, TRÁI LẠI, CÓ VẺ HIỀN LÀNH MÀ NHỮNG THÚ NHÀ RẤT ƯA THÍCH VÀ LẤY LÀM THỎA MĂN KHI CHÚNG XUẤT HIỆN.
TÔI TIN RẰNG CHÚNG GỒM THÀNH PHẦN NHỮNG CHỦNG LOẠI SINH VẬT TRONG MỘT HỆ THỐNG TIẾN HÓA BẮT ĐẦU TỪ NHỮNG H̀NH THỂ VÔ TRI BẤT ĐỘNG TRONG THIÊN NHIÊN, ĐI XUYÊN QUA LOÀI ĐỘNG VẬT RỒI ĐẾN CÁC CẤP ĐẲNG THIÊN THẦN LÀ TR̀NH ĐỘ PHÁT TRIỂN CAO TỘT.
VÀI LOẠI KHÔN NGOAN CÓ THỂ ĐƯỢC KIỂM CHẾ KHI CON NGƯỜI LẦN LẦN CÀNG QUEN THUỘC NHIỀU HƠN VỚI CHÚNG, HAY KHI CON NGƯỜI LẦN LẦN CÀNG SINH HOẠT ĐIỀU H̉A HƠN VỚI THIÊN NHIÊN. SỰ TINH KHIẾT CỦA TÂM HỒN VÀ THỂ XÁC LÀ YẾU TỐ RẤT HỮU HIỆU, VÀ TÔI THẤY RẰNG CHÚNG ĐẶC BIỆT GHÊ TỞM SỰ HÚT THUỐC, NHAI THUỐC LÁ VÀ NHỮNG THÓI QUEN BẤT HẢO KHÁC.
TÔI NHẬN THẤY RẰNG KHI NHỮNG TINH LINH NGŨ HÀNH KHÔNG BỊ HOÀN TOÀN CHẾ NGỰ, CHÚNG TRỞ NÊN TINH QUÁI, NGUY HIỂM, VÀ CÓ THỂ GÂY THƯƠNG TỔN, TÁC HẠI CHO LOÀI NGƯỜI….”G.H.FEL(LONDON SPIRITUALIST, 19-6-1878)
Tuy bài diễn văn khai trương của tôi được toàn thể cử tọa vỗ tay hoan nghinh, nhưng nó hơi có vẻ dại dột sau mười bảy năm kinh nghiệm phũ phàng. Một phần lớn những kết quả tiên liệu đă được thực hiện, nhưng nhiều sự dự liệu đă biến chất.
Điều mà chúng tôi tin tưởng như cái nền tảng thực nghiệm tốt đẹp cho mọi dự tính về sau, tức là sự chứng minh của ông Felt về sự hiện hữu của các chủng loại TINH LINH NGŨ HÀNH, đă trở nên một sự thất vọng đau đớn hoàn toàn. Với tất cả những ǵ ông ta đă làm theo chiều hướng đó, ông ta vẫn không chỉ cho chúng tôi thấy được ǵ cả, chí đến cái chót đuôi của một Tinh Linh nhỏ bé nhất.
Y làm cho chúng tôi trở thành cái tṛ cười của giới Thần Linh Học và các giới Duy Vật hoài nghi. Y là một người có những sở đắc phi thường, và đă thực hiện những khám phá đáng kể. Tôi tin rằng y đă thực hiện những ǵ y đă tuyên bố, và nếu y chỉ có bền chí theo đuổi đến cùng những ǵ y đă khởi đầu, th́ có lẽ y đă vang dội tên tuổi trong số những người nổi tiếng nhất của thời đại chúng ta.
V́ đă thường thấy bà HPB sử dụng Tinh Linh Ngũ Hành để làm các hiện tượng, Signor B. cũng đă nhiều lần làm như vậy và người khách kỳ lạ làm cho chúng xuất hiện ngay trong pḥng của tôi, th́ tại sao tôi không tin rằng ông Felt cũng có thể làm giống như thế, nhất là khi bà HPB nói với tôi rằng y có thể ?
Bởi vậy, với sự táo bạo của nhà khai sáng và sự nhiệt thành của một người lạc quan ḷng đầy hứng khởi, tôi đă để cho óc tưởng tượng của tôi tự do hoạt động, và tiên liệu trong bài Diễn Văn của tôi những kết quả có thể thực hiện nếu ông Felt làm đúng như lời hứa.
V́ nhu cầu tài chính, ông Felt đă yêu cầu Thủ Quỹ Newton ứng trước cho y một trăm đô la để đài thọ phí tổn trong các cuộc thí nghiệm, nhưng rốt cuộc vẫn không làm xuất hiện được Tinh Linh Ngũ Hành!
Các hội viên lấy làm bất măn; sau cùng, y ra khỏi Hội; và v́ thấy không c̣n trông cậy được ǵ nữa ở nơi y, một số hội viên cũng biến mất luôn, chỉ có chúng tôi c̣n ở lại để nỗ lực làm việc với sức cố gắng tối đa.
Đó quả là một công việc nặng nhọc, như tất cả các hội viên hoạt động hồi thời kỳ đó đều nhớ rơ. Mục tiêu của chúng tôi là học hỏi, bằng cách thực nghiệm, bất cứ những ǵ có thể học được về những thành phần cấu tạo của con người, và vị trí của y trong thiên nhiên.
Nhất là Trí Lực, hoạt động tích cực ở cương vị Ư CHÍ, vẫn là một sự bí hiểm lớn đối với chúng tôi. Nhà thuật sĩ của phương Đông, chí đến nhà truyền nhân điện của phương Tây đều dùng nó. Người khai triển được nó sẽ trở thành một vị anh hùng; người khác làm tê liệt nó, và trở thành một người đồng bóng.
Tác dụng vô địch của nó làm cho tất cả mọi sinh vật ở các cơi giới vật chất đều phải chịu khuất phục, và khi có cả óc tưởng tượng cùng hoạt động đi kèm, th́ nó SÁNG TẠO,bằng cách phóng ra ngoại giới những h́nh tư tưởng mới tạo nên.
Như vậy, mặc dầu ông Felt đă bội ước, và chúng tôi không thể trông cậy nơi một cuộc hành tŕnh trên biển lặng song êm, nhưng chúng tôi vẫn c̣n nhiều lănh vực cần khảo sát, và chúng tôi cũng đă thăm ḍ, thám hiểm những lănh vực đó ít nhiều.
Nhũng văn khố cũ cho biết rằng chúng tôi có trắc nghiệm những đồng tử, thử làm những cuộc thí nghiệm về các môn phản xạ, đọc tư tưởng, truyền nhân điện, và trao đổi thư từ với các báo chí. Nhưng chúng tôi đă tiến bước rất chậm, bởi v́ mặc dầu tất cả mọi người đều đồng ư là phải giữ vững tinh thần, nhưng trong thâm tâm mỗi người đều chán nản về sự thất bại của ông Felt.
Và dường như không có triển vọng t́m người thay thế: Nhà phù thủy làm mưa, Signor B., đă bị bà HPB cấm cửa đến nhà sau vụ mưu toan gây sự chia rẽ giữa chúng tôi; người khách kỳ lạ đă kêu gọi âm binh xuất hiện trước mắt tôi không c̣n trở lại nữa; và bà HPB, mà từ nay tất cả mọi người đều trông đợi sự giúp đỡ, lại từ chối không chịu làm bất cứ một hiện tượng nhỏ nhặt nào nữa trong những buổi họp.
Thế là số hội viên cứ thưa thớt lần lần cho đến khi, độ một năm sau đó, chỉ c̣n sót lại t́nh trạng sau đây: cái h́nh thức của một tổ chức tốt với một chương tŕnh hoạt động phong phú và lành mạnh; một tiếng tăm vang dội lẫy lừng; vài hội viên hững hờ tiêu cực; và một trung tâm sinh khí dồi dào bất tận trong niềm hứng khởi cuồng nhiệt của hai người bạn đồng môn, một nam một nữ.
Họ không bao giờ có chút mảy may nghi ngờ, dù chỉ trong một lúc, sự hiện hữu của các đấng Chân Sư, tính cách thiêng liêng cao quư của công việc được giao phó cho họ, hay sự thành công hoàn toàn, và tối hậu của công việc ấy.
Ông Judge là một người bạn trung thành và sẵn sàng trợ giúp, nhưng lại quá non nớt về tŕnh độ tâm linh để có thể được coi như một người thứ ba trên cương vị b́nh đẳng với chúng tôi. Mỗi buổi tối sau khi chúng tôi đă thiết lập Trụ Sở của Hội và ổn định nơi cư trú, khi các quan khách đă ra về, bà HPB và tôi có thói quen ngồi mạn đàm và hút thuốc nghỉ ngơi trước khi chia tay.
Nhiều khi chúng tôi phải bật cười mà nghĩ rằng thật là hiếm có thay những người mà chúng tôi có thể trông cậy để cùng sát cánh hợp tác với chúng tôi qua tất cả những bước thăng trầm, ch́m nổi của cuộc đời.
Điều duy nhất mà chúng tôi mỗi lúc càng cảm thấy rơ rệt hơn với thời gian qua, là hai chúng tôi tuyệt đối có thể tùy thuộc lẫn nhau v́ lư tưởng phô diễn Đạo Lư, dẫu cho trời long đất lở hay đến ngày Tận Thế. Những kẻ thù nghịch đôi khi đă nói rằng khi chúng tôi từ giă Mỹ Quốc lên đường sang Ấn Độ, th́ Hội Thông Thiên Học ở Mỹ cũng không c̣n.
Điều này cũng có một phần đúng, v́ do nhiều nguyên nhân, Hội không có làm ǵ đáng kể trong khoảng thời gian sáu năm sau đó. Cái thành phần ṇng cốt, vốn luôn luôn là yếu tố hữu hiệu nhất trong những phong trào tương tự, đă bị phân tán; không ai có thể thiết lập một thành phần cốt cán mới; người ta không thể tạo nên một HPB thứ nh́; và ông Judge, lúc ấy là triển vọng tương lai duy nhất để đóng vai tṛ lănh đạo và tổ chức, lại phải lên đường sang các xứ Nam Mỹ v́ hoạt động nghề nghiệp.
Tuy nhiên, suốt thời gian những năm ấy, những bức thư của ông Judge gởi cho chúng tôi cho thấy rằng sự nhiệt thành của y đối với Hội Thông Thiên Học và các vấn đề Huyền Môn vẫn không suy giảm. Sự mong ước lớn nhất của y là trong tương lai có ngày y sẽ được tự do để dành hết thời giờ và sức lực vào công việc của Hội Thông Thiên Học.
Nhưng, cũng ví như hột giống cây xa trục thảo bị chôn vùi sâu trong ḷng đất, bắt đầu nẩy mầm khi những người đào giếng bươi nó lên khỏi mặt đất, th́ hột giống mà chúng tôi gieo trong tâm hồn dân chúng Mỹ trong khoảng thời gian giữa những năm 1874 và 1878, cũng đă nẩy mầm khi thời giờ của nó đă điểm; và ông Judge là người có cơ duyên tiền định để gặt hái kết quả. Như vậy, luật Nhân Quả vẫn luôn luôn tác động âm thầm để chỉ định mỗi vai tṛ khai phá, gieo giống và gặt hái.
Khả năng sinh tồn của Hội Thông Thiên Học được ủy thác cho chúng tôi là những nhà sáng lập trên phương diện hữu h́nh, nhưng trên khía cạnh vô vi huyền diệu th́ sự sống c̣n của Hội vốn đă định sẵn nơi cái lư tưởng căn bản của nó và nơi các đấng Cao Cả thể hiện cái lư tưởng ấy, các ngài đă giáo hóa chúng tôi và gieo vào tâm trí chúng tôi ánh sáng thiện chí của các ngài.
V́ cả hai chúng tôi đă nhận thức rơ điều ấy, và v́ chúng tôi được cái ân sủng làm việc cho Hội và hợp tác với các ngài, nên giữa hai chúng tôi có một sợi dây liên lạc chặt chẽ mật thiết hơn với bất cứ mối liên hệ thường t́nh nào của người thế gian.
Điều ấy làm cho chúng tôi dung ḥa với những khuyết điểm của nhau và chịu đựng tất cả những sự va chạm khổ đau đi liền với sự cộng tác giữa hai cá tính hoàn toàn tương phản, trái ngược. Riêng phần tôi, nó làm cho tôi gạt bỏ như những vật vô giá trị tất cả những mối liên hệ trói buộc thường t́nh cùng những điều mong ước và tham vọng trần gian.
Thật vậy, trong thâm tâm tôi cảm thấy rằng thà làm một người lao công giữ cửa, hay chí đến một vai tṛ ti tiện thấp kém hơn nữa trong công việc phụng sự Thiên Cơ, c̣n hơn là sống trên nhung lụa giữa chốn xa hoa đài các mà cuộc đời có thể cung hiến cho tôi.
Bà HPB cũng chia sẻ những quan niệm của tôi và niềm hăng say phấn khởi vô tận của bà trong công việc Đạo Sự là một tấm gương khích lệ cho bất cứ người nào đến tiếp xúc với bà.
Khi đă cảm nghĩ như thế, và có tư thế sẵn sàng làm tất cả mọi sự hy sinh cho lư tưởng như trường hợp của chúng tôi, th́ sự phá sản của hội Thông Thiên Học chắc chắn là một điều không thể xảy ra.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1119 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 7:47am | Đă lưu IP
|
|
|
HỒI KƯ H.S. OLCOTT
CHƯƠNG BẢY
VÉN MÀN ISIS
I. Nếu một bộ sách có thể được coi như đánh dấu một giai đoạn lịch sử, th́ đó hẳn là bộ sách này. Xét về một phương đầu tiên của Darwin trên một phương diện khác. Cả hai đều là những gịng thủy triều lên cao trong trào lưu tư tưởng cận đại:
Mỗi bộ sách này đều có tác dụng tảo trừ những điều dị đoan sống sượng của khoa thần học và thay thế đức tin nơi phép lạ bằng sự tin tưởng nơi định luật thiên nhiên. Tuy vậy, trường hợp khởi đầu viết bộ sách này cũng rất đơn giản và b́nh thường chứ không có ǵ đặc biệt.
Một ngày nọ vào mùa hè năm 1875, bà HPB đưa cho tôi xem vài tờ bản thảo của bà viết, và nói:
“Tôi viết cái này đêm hôm qua, do “LỊNH DẠY”, nhưng để dùng làm ǵ th́ tôi không biết. Có thể dùng làm một bài báo, có thể để làm sách, cũng có thể để không làm ǵ cả. Tuy nhiên, tôi viết v́ tuân lệnh dạy mà thôi.”
Rồi đó, bà cất bản thảo đó vào một hộc tủ, và không nói ǵ đến nó nữa trong một thời gian. Nhưng ít tháng sau đó, bà đi Syracuse ( New York ) thăm hai người bạn mới là ông bà Corson, giáo sư trường Đại Học Cornell, và tiếp tục công việc viết lách. Bà viết thư cho tôi biết đó sẽ là quyển sách nói về lịch sử và triết học của các Đạo Phái phương Đông, và những mối tương quan giữa các Đạo Phái ấy với những môn phái của thời đại bấy giờ.
Bà cho biết rằng bà viết về những vấn đề mà bà chưa bao giờ học, và chú thích những quyển sách mà bà chưa từng đọc qua trong đời bà. Bà cho biết thêm rằng, để kiểm chứng những điều bà viết, Giáo Sư Corson đă so sánh những đoạn chú thích của bà với những bộ sách cổ điển trong thư viện của trường Đại Học, th́ thấy là đúng.
Khi bà trở về New York, bà không chăm chú lắm vào công việc này, mà chỉ viết một cách rời rạc, không liên tục. Nhưng độ một hay hai tháng sau việc thành lập Hội Thông Thiên Học, bà và tôi cùng thuê một ngôi nhà hai tầng ở đường 34th West, bà ở tầng dưới, tôi ở tầng lầu trên, từ đó trở đi công việc viết bộ Isis mới được thực hiện liên tục không gián đoạn cho đến khi hoàn thành vào năm 1877.
Trong suốt cuộc đời bà, bà chưa từng viết văn viết sách bao giờ, tuy thế tôi không thấy một nhà văn hay nhà báo nào có thể làm việc một cách dẻo dai bền bỉ và hăng say như bà. Mỗi ngày, bà ngồi vào bàn viết từ sáng mai cho đến khuya, tôi với bà không bao giờ đi ngủ trước hai giờ sáng.
Lúc ban ngày, tôi phải làm việc nghề nghiệp riêng của tôi, nhưng luôn luôn sau bữa cơm chiều là chúng tôi ngồi chung lại một bàn và làm việc chẳng khác nào như người ta làm giờ phụ trội để t́m sống, cho dến khi thân xác mỏi mệt bắt buộc chúng tôi phải nghỉ.
Thật là một kinh nghiệm quư báu cho tôi. Trong khoảng gần hai năm đó, tôi đă học hỏi được rất nhiều điều mà đáng lẽ người ta phải dành trọn cả một đời người để đọc sách và suy gẫm mới có thể đạt được. Tôi không phải chỉ làm công việc của một người ghi chép hay sửa bài, mà bà làm cho tôi trở thành một cộng tác viên.
Bà làm cho tôi phải sử dụng tất cả những ǵ tôi đă đọc và suy tư, và kích thích bộ óc của tôi làm việc để t́m giải đáp cho những vấn đề mới mà bà đặt ra cho tôi trên địa hạt Huyền Môn và siêu h́nh. Những vấn đề này hoàn toàn vượt ngoài sự học hỏi và tầm kiến thức của tôi, mà tôi chỉ có thể hiểu được lần lần khi trực giác của tôi được khai mở và phát triển nhờ bởi phương pháp cưỡng ép đó.
Bà không viết theo một chương tŕnh hay kế hoạch định sẵn, mà những ư kiến từ đâu tuôn tràn xuyên qua trí óc bà như gịng suối chảy không ngừng, trường lưu bất tận. Có khi bà đang viết về đấng Phạm Thiên ( Brahma ), một lát sau đó bà đă xoay qua vấn đề hiện tượng điện khí của Babinet.
Trong một lúc, bà trịnh trọng chú thích lời của Đạo Sư Porphyry, kế đó bà liền trích dẫn một đoạn văn rút trong một tờ báo hằng ngày, hay trong một tập văn thư mới in mà tôi vừa đem về nhà. Có khi bà đang ca tụng những đặc tính toàn thiện của Chân Sư, nhưng một lúc sau bà đă chuyển vận toàn lực để công kích nặng nề Giáo Sư Tyndall hay vài nhà học giả nào đó mà bà ghét nhất, bằng những cú búa nẩy lửa!
Nếu bà không có một kế hoạch nhất định, phải chăng điều ấy chứng tỏ rằng công việc soạn sách này không phải do bà dự định từ trước, mà bà chỉ là một đường vận hà để cho trào lưu tư tưởng mới mẻ độc đáo này tác động ảnh hưởng đến t́nh trạng ứ đọng của sự sinh hoạt tâm linh đương thời?
Như một phần việc huấn luyện cho tôi, thỉnh thoảng bà yêu cầu tôi viết một đoạn về một đề tài đặc biệt nào đó, và gợi ư cho tôi về những điểm quan trọng cần khai triển, hoặc bà để cho tôi tự viết lấy với sự cố gắng tối đa để sử dụng năng khiếu trực giác của tôi.
Khi tôi đă viết xong, nếu đoạn văn ấy không được bà vừa ḷng, bà thường tỏ dấu bất măn bằng cách nói nặng lời, và gọi tôi bằng những danh từ không đẹp có tính cách khích động ḷng tự ái đến mức có thể giết người! Nhưng khi tôi định xé bỏ đoạn văn vô phước ấy, th́ bà liền giật ngay lấy từ trên tay tôi để dùng ở một chương khác sau khi đă sửa chữa lại vài chỗ, và tôi lại bắt tay vào việc.
Kể từ ngày tên tuổi bà xuất hiện lần đầu tiên trên mặt báo Daily Graphic, năm 1874 và suốt thời gian lưu trú tại Mỹ Quốc, bà luôn luôn có khách đến viếng. Nếu trong số quan khách, ngẫu nhiên có người nào hiểu biết tinh tường về một vấn đề nào đó liên quan đến ngành hoạt động của bà, bà liền tiếp xúc riêng với người ấy và nếu có thể được, bà nhờ y viết lại những quan điểm hay kư ức của y trên giấy trắng mực đen để dùng trong quyển sách của bà.
Trong số những trường hợp thuộc về loại này, có bài tường thuật của ông O’Sullivan về một cuộc biểu diễn phương thuật trong một buổi họp đàn tại Paris; sự diễn tả lư thú những cuộc lễ nhập môn huyền bí của giống dân Druses xứ Liban, cùng những bài vở hấp dẫn của Bác Sĩ A. Wilder, và nhiều người khác nữa đă đóng góp vào, làm cho bộ sách này càng tăng thêm phần giá trị với những tài liệu vô cùng dồi dào phong phú.
Tôi biết một vị mục sư Do Thái đă từng trải qua nhiều giờ và nhiều đêm để thảo luận về Huyền Môn Kabala với bà, và nghe chính y thú nhận rằng tuy y đă từng khảo cứu phần bí truyền của tôn giáo y trong ba mươi năm, nhưng bà đă dạy y những điều mà y chưa từng nghĩ đến, và đă làm sáng tỏ những đoạn kinh mà chính những bậc thầy của y cũng không hiểu nổi! Vậy chứ những kiến thức thâm sâu huyền diệu đó, bà đă học được ở đâu, hồi nào, và do đâu mà có?
Tất nhiên không phải do các bà quản gia đă dạy bà học hồi c̣n thơ ấu ở nước Nga; cũng không phải do một vị giáo sĩ hay thầy học nào quen thuộc trong gia đ́nh; cũng không phải bà đă học trên những chuyến tàu hay xe lửa trong khi bà đi châu du thiên hạ kể từ năm mười lăm tuổi; cũng không phải ở một trường trung học hay đại học nào, v́ bà không hề thi tốt nghiệp ở một trường học nào cả; cũng không phải ở những thư viện lớn trên thế giới.
Nhận xét qua những cuộc đàm thoại và những thói quen của bà trước khi bà bắt tay vào công việc trước tác khổng lồ này, th́ bà không hề học hỏi qua những vấn đề ấy bao giờ dù rằng xuất xứ từ đâu. Nhưng khi bà cần đến những tài liệu đó, th́ bà có sẵn, và trong những lúc cảm hứng dồi dào nhất.
Th́ bà làm cho những nhà thông thái phải khâm phục về kiến thức sâu rộng, cũng như bà làm cho cử tọa quan khách phải ngạc nhiên về tài hùng biện lưu loát cùng sự châm biếm hài hước và trí óc thông minh tế nhị của bà.
Trong khi chúng tôi cùng làm việc chung, tôi sửa chữa mỗi chương bản thảo viết tay của bà nhiều lần, và mỗi chương sắp chữ in; tôi viết nhiều đoạn giùm cho bà, thường là viết lại thành câu những ư nghĩ của bà cho đúng văn phạm Anh Ngữ; tôi giúp bà t́m những lời trích dẫn trong các sách.
Và làm những việc phụ thuộc khác. C̣n th́ quyển sách vốn là công tŕnh của bà, nói về việc làm trên phương diện hữu vi, thuộc cơi giới vật chất hữu h́nh, và bà phải nhận lănh tất cả về sự khen chê về những khuyết điểm hay ưu điểm của nó.
Bộ “Vén Màn Isis” đă ghi dấu một thế hệ lịch sử, và khi viết bộ sách ấy, bà cũng giúp cho tôi học hỏi được rất nhiều giáo lư Huyền Môn, và chuẩn bị cho tôi có đủ khả năng để hoạt động truyền bá giáo lư Thông Thiên Học trong trên hai mươi năm.
Vậy bà HPB đă lấy tài liệu ở đâu để viết bộ sách đó, mà phần nhiều người ta không thể t́m thấy trong những sách vở ở các thư viện? Xin nói ngay rằng đó là do sự hỗ trợ của phần vô vi, một phần do sự giao cảm huyền diệu với các đấng Chân Sư, và một phần là do bà tra cứu tài liệu trong cơi vô h́nh, được phản ảnh trên chất Tinh Quang
(Akasha) hay Tiên Thiên Khí Ảnh, tức là kho Kư Ức của Thiên Nhiên trong Càn Khôn Vũ Trụ.
Làm sao tôi biết được điều này? Đó là nhờ tôi đă cộng tác với bà trong hai năm để viết bộ “Vén Màn ISIS”, và nhiều năm sau nữa để soạn những bộ sách khác như “Giáo Lư Bí Truyền” (Doctrine Secrète),v…v…
Theo dơi mọi động tác của bà trong khi làm việc là một kinh nghiệm hiếm có và khó quên. Chúng tôi thường ngồi đối diện nhau bên một cái bàn lớn, và tôi có thể thấy rơ mọi cử chỉ của bà. Bà viết thao thao trên một trang giấy, bỗng nhiên bà ngừng lại, ngước mặt lên nh́n vào không gian với đôi mắt trống không của nhà linh thị sử dụng cặp mắt thần.
Đoạn, bà thâu ngắn tầm nhăn quang như để nh́n vào một vật vô h́nh trong khoảng không ở trước mặt, và bắt đầu chép những ǵ bà đă thấy. Khi đă chép xong đoạn văn chú thích, đôi mắt bà trở lại khí sắc b́nh thường, và bà tiếp tục viết cho đến khi bà ngừng lại một lần nữa giống y như trước.
Tôi c̣n nhớ rơ hai lần tôi được nh́n thấy và cầm trên tay những quyển sách lạ mà bà làm cho hiện h́nh trước mắt tôi để tôi kiểm chứng lại bản thảo, khi tôi từ chối không chịu phê nhận để đưa lên máy in v́ có chỗ tôi c̣n nghi ngờ là không đúng. Tôi nói:
“Tôi không thể phê nhận câu chú thích này, v́ tôi chắc là bà đă chép sai”.
Bà nói:
“Không sao, vậy là đúng; hăy cứ để nguyên như thế”.
Tôi từ chối, sau cùng bà nói:
“Vậy ông hăy ngồi yên trong một phút, để tôi tra lại”.
Khi đó cái nh́n trống không lại xuất hiện trên cặp mắt bà; độ một lát, bà chỉ về phía cái kệ đặt nơi góc pḥng, và nói bằng một giọng trống rỗng:
“Ḱa, nh́n xem”.
Kế đó bà trở lại khí sắc b́nh thường:
“Đấy, ở chỗ ấy đấy. Ông hăy tra lại xem!”
Tôi bước lại chỗ cái kệ và thấy hai quyển sách lạ mà tôi biết chắc là trước đó không hề có trong nhà. Tôi phối kiểm câu chú thích của bà HPB với đoạn văn trong sách, chỉ cho bà thấy chỗ chép sai, sửa lại bản thảo, và theo lời bà yêu cầu, đem hai quyển sách để lại chỗ cũ.
Tôi trở lại bàn ngồi làm việc, và sau đó một lúc, tôi quay lại nh́n ngay chỗ cái kệ, th́ thấy hai quyển sách đă biến mất! Sau khi tôi kể lại chuyện này, những kẻ hoài nghi ngu dốt có thể nghi ngờ sự sáng suốt lành mạnh của tôi; tôi hy vọng nó sẽ hữu ích cho họ.
Sự việc này lại tái diễn một lần thừ hai trong trường hợp tương tự, nhưng lần này quyển sách không biến mất mà vẫn c̣n ở lại với chúng tôi cho đến ngày nay.
|
Quay trở về đầu |
|
|
hiendde Hội Viên
Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
|
Msg 1120 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 7:55am | Đă lưu IP
|
|
|
HỒI KƯ H.S. OLCOTT
II. Bản nháp viết tay của bà HPB có nhiều khi rất khác biệt nhau một cách rơ rệt. Tuồng chữ của bà có một tính cách lạ lung đặc biệt, mà người nào đă từng quen đọc tuồng chữ ấy luôn luôn có thể nhận ra ngay là chữ viết của bà.
Tuy nhiên, nếu quan sát kỹ lưỡng, người ta sẽ phát hiện ra ít nhất ba hay bốn lối viết khác nhau tuy rằng của một tuồng chữ và mỗi lối viết như thế kéo dài trên nhiều trang giấy, trước khi đổi qua lối viết khác.
Một lối viết đó của bà HPB nét chữ rất nhỏ nhưng đều đặn; một lối khác nét đậm và tự do phóng túng; một lối khác nữa nét vừa phải và dễ đọc; và một lối nữa chữ viết rất tháu và khó đọc. Về cách hành văn cũng vậy, những lối chữ khác biệt như trên cũng kèm theo với sự sai biệt về văn phạm Anh Ngữ.
Có khi tôi phải sửa chữa nhiều chỗ trong một gịng chữ, nhưng lại có khi tôi có thể thông qua suốt nhiều trang mà không cần sửa chữa một chữ nào. Hoàn toàn nhất là những trang bản thảo được viết thay cho bà trong khi bà ngủ. Một thí dụ điển h́nh là đoạn đầu của Chương nói về nền văn minh cổ Ai Cập.
Đêm đó, như thường lệ chúng tôi làm việc đến hai giờ sáng, cả hai đều mệt nhoài, bèn ngưng công việc để vừa hút thuốc vừa mạn đàm trước khi chia tay. Bà th́ hầu như ngủ gật ngay trên ghế bành, c̣n tôi chúc bà yên giấc và lui về pḥng tôi trên lầu.
Sáng hôm sau, khi tôi đă ăn điểm tâm xong và bước xuống pḥng khách, bà đưa cho tôi xem một chồng bản thảo độ ba mươi đến bốn mươi trang giấy viết tay bằng tuồng chữ của bà, mà bà nói rằng của vị Chân Sư X…. viết cho bà đêm qua. Tập bản thảo đó hoàn toàn về tất cả mọi phương diện, và được đưa lên khuôn mà không cần phải duyệt xét lại.
Có điều lạ, là mỗi lần có sự khác biệt những tuồng chữ viết như thế đều xảy ra sau khi bà HPB rời khơi pḥng độ một lúc, hay bước vào trạng thái xuất thần khi đó đôi mắt trống rỗng của bà nh́n vào cơi xa xăm nào và lại trở về trạng thái b́nh thường ngay sau đó.
Ngoài ra, c̣n có một sự thay đổi rơ rệt về cá tính, tác phong, giọng nói, cử chỉ và trên hết mọi sự, về tính khí thất thường: khi bà rời khỏi pḥng, bà là một nhân vật như thế nào đó; một lát sau khi trở lại chỗ ngồi, bà lại là một nhân vật khác. Khác đây không phải nói là bà thay đổi cái thể xác hữu h́nh, mà khác về cử chỉ, tác phong, ngôn ngữ, cách điệu.
Cũng khác về sự linh mẫn của trí óc, về quan điểm đối với sự đời, khác về cách sử dụng Anh ngữ, và có điều này rất đặc biệt, là khác hẳn về khí chất: khi sáng sủa lành mạnh bà có vẻ từ bi, khả ái như thiên thần; và trong những cơn khủng hoảng thịnh nộ, th́ lại…trái ngược hẳn.
Có khi tôi viết lại thành câu không đúng như ư bà muốn tŕnh bày, bà kiên nhẫn bỏ qua một cách ưu ái, vô tư; những lúc khác, v́ một lỗi lầm nhỏ nhặt không đáng kể, bà dường như nổi cơn thịnh nộ và muốn thủ tiêu tôi ngay tại chỗ!
Những cơn bạo khí đó đôi khi có thể giải thích bởi t́nh trạng sức khỏe của bà, và đó chỉ là sự thường t́nh, nhưng lư do đó cũng không đủ vững để giải thích vài cơn giận dữ khác. B́nh phẩm về tính cách bất thường này của bà HPB, ông Sinnet(Phó Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học) viết:
“BÀ HẲN LÀ KHÔNG CÓ NHỮNG ĐỨC TÍNH MÀ NGƯỜI TA TRÔNG ĐỢI NƠI MỘT VỊ ĐẠO SƯ. LÀM SAO MÀ BÀ LẠI VỪA CÓ TINH THẦN CỦA MỘT TRIẾT GIA, TỪ BỎ CUỘC ĐỜI THẾ GIAN ĐỂ DỐC L̉NG TẦM ĐẠO, NHƯNG ĐỒNG THỜI LẠI CÓ THỂ RƠI VÀO NHỮNG CƠN NÓNG GIẬN V̀ NHỮNG SỰ BỰC M̀NH NHỎ NHẶT KHÔNG ĐÂU, ĐÓ LÀ MỘT ĐIỀU BÍ HIỂM RẤT KHÓ HIỂU ĐỐI VỚI CHÚNG TA,V…V….”
Tuy nhiên, hăy giả thiết rằng khi mà xác thân của bà được một bậc hiền giả thánh đức sử dụng, th́ nó bắt buộc phải hành động với sự b́nh tĩnh, điềm nhiên của nhà hiền giả, c̣n nếu không, th́ không, chừng đó điều bí hiểm kia đă được giải đáp. Chính bà đă diễn tả kinh nghiệm huyền linh này khi viết bộ “Vén Màn Isis”, trong một bức thư gởi về cho gia đ́nh như sau:
“KHI TÔI VIẾT BỘ ISIS, TÔI VIẾT RẤT DỄ DÀNG ĐẾN NỖI ĐÓ KHÔNG PHẢI LÀ MỘT SỰ KHÓ NHỌC NỮA, MÀ LÀ MỘT ĐIỀU VUI THÍCH THẬT SỰ. CÓ G̀ ĐÂU MÀ NGƯỜI TA KHEN TẶNG TÔI? KHI ĐƯỢC LỆNH DẠY TÔI VIẾT,TÔI NGỒI XUỐNG VÀ VÂNG THEO LỜI, VÀ KHI ĐÓ TÔI CÓ THỂ VIẾT DỄ DÀNG VỀ BẤT CỨ VẤN ĐỀ G̀: SIÊU H̀NH HỌC, TÂM LƯ HỌC, TRIẾT HỌC, TÔN GIÁO, VẠN VẬT HỌC, TỰ NHIÊN HỌC, VÀ V…V….
TÔI KHÔNG HỀ TỰ ĐẶT NGHI VẤN: “ TÔI CÓ THỂ VIẾT VỀ VẤN ĐỀ NÀY CHĂNG?”, HAY LÀ: “TÔI CÓ ĐỦ SỨC VIẾT CHĂNG?”, MÀ TÔI CHỈ NGỒI XUỐNG VÀ VIẾT, VẬY THÔI. BỞI V̀ CÓ MỘT ĐẤNG TOÀN THÔNG, BIẾT HẾT CẢ MỌI SỰ, ĐỌC CHO TÔI VIẾT. ĐÓ LÀ SƯ PHỤ TÔI, VÀ ĐÔI KHI CŨNG CÓ NHỮNG VỊ CHÂN SƯ KHÁC NỮA MÀ TÔI ĐƯỢC BIẾT TRONG NHỮNG CHUYẾN ĐI NGAO DU THIÊN HẠ TỪ NHIỀU NĂM VỀ TRƯỚC….
MỖI KHI TÔI VIẾT VỀ MỘT ĐỀ TÀI MÀ TÔI CHỈ BIẾT ÍT, HOẶC KHÔNG BIẾT G̀ CẢ, TÔI BÈN KÊU GỌI ĐẾN CÁC NGÀI, VÀ MỘT VỊ CHÂN SƯ GIÚP NGUỒN CẢM HỨNG CHO TÔI, NGHĨA LÀ NGÀI ĐỂ CHO TÔI CHÉP NHỮNG G̀ TÔI NH̀N THẤY TRONG CÁC BỘ SÁCH CỔ TỰ HAY CHỮ IN HIỆN RA TRƯỚC MẮT TÔI TRONG KHÔNG GIAN, TRONG KHI ĐÓ TÔI HOÀN TOÀN THỨC TỈNH, VÀ KHÔNG HỀ MÊ MUỘI DẦU CHỈ TRONG CHỐC LÁT”.
Có lần bà viết thư cho chị ruột bà ở Nga là bà Veracũng về vấn đề ấy như sau:
“CHỊ CÓ THỂ KHÔNG TIN TÔI, NHƯNG TÔI CHO CHỊ BIẾT RẰNG KHI TÔI NÓI ĐIỀU NÀY, TÔI CHỈ NÓI SỰ THẬT. TÔI CHỈ BẬN RỘN, KHÔNG PHẢI VỚI BỘ “VÉN MÀN ISIS”, MÀ CHÍNH LÀ VỚI NỮ THẦN ISIS VẬY. TÔI SỐNG TRONG MỘT CẢNH GIỚI MÊ LY TRƯỜNG CỬU, MỘT CUỘC SỐNG TRONG CẢNH GIỚI LINH ẢNH THƯỜNG XUYÊN LUÔN LUÔN THỨC TỈNH VỚI ĐÔI MẮT MỞ LỚN VÀ TUYỆT NHIÊN KHÔNG CÓ G̀ LÀM PHỈNH LỪA NHỮNG GIÁC QUAN CỦA TÔI! TÔI NGỒI VÀ THEO DƠI THƯỜNG XUYÊN VỊ NỮ THẦN AI CẬP.
VÀ TRONG KHI NỮ THẦN PHƠI BÀY TRƯỚC MẮT TÔI CÁI Ư NGHĨA ẨN DẤU CỦA NHỮNG ĐIỀU BÍ NHIỆM ĐĂ BỊ MẤT ĐI TỪ LÂU ĐỜI, VÀ BỨC MÀN CHE DẤU CÀNG TRỞ NÊN MỎNG DẦN VÀ THƯA DẦN VỚI GIỜ PHÚT TRÔI QUA, RỒI TỪ TỪ RƠI XUỐNG TRƯỚC MẮT TÔI, TÔI NÍN THỞ TRONG CƠN KINH NGẠC VÀ KHÔNG C̉N TIN NƠI NHỮNG GIÁC QUAN CỦA TÔI!...
….TRONG NHIỀU NĂM LIÊN TIẾP, ĐỂ CHO TÔI KHÔNG QUÊN NHỮNG G̀ TÔI ĐĂ HỌC. TÔI ĐƯỢC LÀM CHO THẤY THƯỜNG XUYÊN NGAY TRƯỚC MẮT TÔI TẤT CẢ NHỮNG G̀ TÔI CẦN THẤY.
BẰNG CÁCH ĐÓ, BẤT CỨ NGÀY ĐÊM, NHỮNG H̀NH ẢNH CỦA QUÁ KHỨ LUÔN LUÔN ĐƯỢC TR̀NH DIỄN LINH ĐỘNG TRƯỚC NHĂN QUANG TÂM LINH CỦA TÔI. TỪ TỪ CHẬM RĂI, VÀ NỐI TIẾP NHAU TRONG IM LẶNG GIỐNG NHƯ NHỮNG H̀NH ẢNH CỦA MỘT CUỐN PHIM CHỚP BÓNG DIỆU HUYỀN, NHỮNG BIẾN CỐ LỊCH SỬ TỪ THẾ KỶ NÀY ĐẾN THẾ KỶ KHÁC XUẤT HIỆN NGAY TRƯỚC MẮT TÔI….
TÔI ĐƯỢC KHUYẾN KHÍCH NỐI LIỀN NHỮNG THẾ HỆ ĐÓ VỚI VÀI BIẾN CỐ QUAN TRỌNG KHÁC, VÀ TÔI BIẾT RẰNG KHÔNG THỂ CÓ SỰ SAI LẦM. CÁC CHỦNG TỘC VÀ QUỐC GIA, NHỮNG XỨ SỞ VÀ THÀNH PHỐ CỦA MỘT THẾ KỶ QUÁ KHỨ NÀO ĐÓ XUẤT HIỆN, RỒI LU MỜ DẦN VÀ BIỆT TÍCH TRONG MỘT THẾ KỶ KHÁC MÀ THỜI ĐIỂM
CHÍNH XÁC ĐƯỢC CHÂN SƯ CHO TÔI BIẾT…..
DĨ VĂNG MẬP MỜ CỦA THỜI CỔ XƯA BIẾN THÀNH NHỮNG THỜI KỲ LỊCH SỬ, NHỮNG HUYỀN THOẠI ĐƯỢC GIẢI THÍCH BẰNG NHỮNG BIẾN CỐ VÀ NHÂN VẬT THẬT SỰ ĐĂ TỪNG SỐNG TRONG CÁC THỜI KỲ ĐÓ.
MỖI BIẾN CỐ QUAN TRỌNG VÀ THƯỜNG LÀ KHÔNG QUAN TRỌNG, MỖI CUỘC CÁCH MẠNG, MỘT TRANG MỚI LẬT QUA TRONG QUYỂN SÁCH CỦA ĐỜI NGƯỜI VÀ CỦA CÁC QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI ĐỀU LƯU LẠI DẤU VẾT NHƯ CHỤP ẢNH VÀ DƯỜNG NHƯ ĐƯỢC KHẮC IN TRONG TRÍ TÔI VỚI NHỮNG MÀU SẮC RƠ RỆT KHÔNG THỂ PHAI MỜ…
…..TÔI NÓI MỘT CÁCH NGHIÊM CHỈNH CHO CHỊ BIẾT RẰNG TÔI ĐƯỢC TRỢ GIÚP. VÀ NGƯỜI TRỢ GIÚP TÔI ĐÓ LÀ SƯ PHỤ CỦA TÔI”.
Trong một bức thư gởi về nhà cho bà cô ruột, bà cho biết rằng:
“KHI SƯ PHỤ TÔI VẮNG MẶT V̀ BẬN RỘN VỚI NHỮNG CÔNG VIỆC KHÁC, NGÀI LÀM THỨC ĐỘNG CHÂN NGĂ CỦA TÔI ĐỂ VIẾT THAY CHO NGÀI…. NHỮNG LÚC ĐÓ, KHÔNG PHẢI LÀ TÔI VIẾT NỮA MÀ CHÂN NGĂ CỦA TÔI SUY TƯ VÀ VIẾT THAY CHO TÔI. CÔ THỬ NGHĨ XEM, TÔI ĐÂU CÓ HỌC LỰC UYÊN THÂM BAO GIỜ MÀ VIẾT ĐƯỢC NHỮNG VẤN ĐỀ ẤY. VẬY TH̀ NHữNG KIẾN THỨC ĐÓ CỦA TÔI DO ĐÂU MÀ RA?......”
Trong những thư khác gởi về cho gia đ́nh, bà cũng nh́n nhận rằng có những lúc bà được các Chân Sư mượn xác để viết giúp bà. Các ngài cũng dùng phương pháp đó để dạy Đạo cho tôi qua cửa miệng của bà, và đưa ra những giáo lư thâm sâu mà bà không hề biết được mảy may trong trạng thái b́nh thường.
Chúng tôi đă cùng nhau làm việc trong nhiều tháng và đă sản xuất được trên 870 trang bản thảo, th́ một ngày nọ bà HPB hỏi tôi rằng, để thi hành ư muốn của Chân Sư, tôi có sẵn ḷng chăng để bắt đầu làm lại tất cả!
Tôi c̣n nhớ rơ cơn xúc động mạnh mà việc ấy đă gây cho tôi, khi nghĩ rằng tất cả những tuần lễ nhọc nhằn lao khổ thức đêm làm việc, với bao nhiêu cơn song gió ồ ạt trên phương diện tinh thần, rốt cuộc chỉ là con số không!
Tuy nhiên, v́ ḷng kính yêu và biết ơn của tôi đối với các đấng Chân Sư vốn tuyệt đối và vô biên, v́ các ngài đă cho tôi cái đặc ân cùng chia xẻ công việc của các ngài, nên tôi vui ḷng chấp nhận và chúng tôi lại bắt đầu làm lại hết tất cả. Quyết định ấy rất thuận lợi cho tôi, v́ nó chứng tỏ ḷng trung kiên và nhất trí của tôi với bà HPB.
Nên tôi được thọ lănh một phần thưởng tâm linh dồi dào. Những nguyên tắc Huyền Môn được các ngài giải thích cho tôi biết, vô số những thí dụ điển h́nh được tŕnh bày cho tôi thấy bằng những hiện tượng thần thông, tôi được trợ giúp để tự ḿnh thí nghiệm lấy những điều đă học hỏi.
Được giao tiếp với nhiều vị Chân Sư, và nói chung, tôi được chuẩn bị đầy đủ cho một công việc đại sự lớn lao trong tương lai mà hồi ấy tôi không thể ngờ trước được, nhưng về sau đă trở thành một vấn đề lịch sử.
Người ta thường nói thật là một điều rất lạ lùng, và rất khó hiểu, khi thấy rằng trong số tất cả những người đă trợ giúp vào phong trào Thông Thiên Học, thường là với những hy sinh lớn lao nhất, tôi lại là người duy nhất được cái ân sủng có những mối liên hệ và tiếp xúc cá nhân với các đấng Chân Sư.
Đến nỗi sự hiện diện của các ngài vốn là một vấn đề mà tôi biết rơ một cách thật sự chảng khác nào như sự hiện hữu của những người trong gia đ́nh hay bạn bè thân quyến của tôi. Chính tôi cũng không giải thích được điều đó. Tôi biết những ǵ tôi biết, chứ không biết rằng tại sao nhiều bạn đồng môn của tôi không được như vậy.
Nhiều người đă nói cho tôi biết rằng họ đặt đức tin nơi các đấng Chân Sư nhờ bởi sự chứng minh chắc chắn và không thể nghi ngờ qua kinh nghiệm bản thân của tôi, nó cũng bổ túc thêm vào những lời tuyên bố của bà HPB.
Có lẽ tôi được cái đặc ân đó bởi v́ tôi phải phóng con thuyền Thông Thiên Học cùng với bà HPB cho các đấng Chân Sư của bà, và lái con thuyền đó xuyên qua bao nhiêu những cơn giông tố băo bùng, khi mà chỉ có một sự hiểu biết chắc chắn về cái căn bản lành mạnh của phong trào này mới có thể làm cho tôi bám sát lấy nhiệm sở và giữ vững vai tṛ của tôi cho đến cùng.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|