Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
  H́nh Ảnh Từ Thiện
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Thông Tin
  Thông Báo
  Báo Tin
  Liên Lạc Ban Điều Hành
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Nhờ Coi Quẻ
  Nhờ Coi Ngày
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Tử Vi
  Tử Bình
  Kinh Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Bói Bài
  Đoán Điềm Giải Mộng
  Khoa Học Huyền Bí
  Thái Ất - Độn Giáp
  Y Dược
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch và Phong Thủy 3
Kỹ Thuật
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
Thư Viện
  Tủ Sách
  Bài Viết Chọn Lọc
Linh Tinh
  Linh Tinh
  Giải Trí
  Vườn Thơ
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 308 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
chindonco (3250)
hiendde (2589)
HoaCai01 (2277)
vothienkhong (1807)
dinhvantan (934)
ryan88 (805)
Vovitu (713)
ruavang (691)
lancongtu (667)
TranNhatThanh (644)
Hội viên mới
redlee (0)
dautranhsinhton (0)
Chieu Tim1234 (1)
huyent.nguyen (0)
tamsuhocdao (0)
henytran2708 (0)
thuanhai_bgm (0)
Longthienson (0)
thuyenktc (0)
liemnhi (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Truyện tâm linh - hiendde Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1121 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 8:15am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde





HỒI KƯ H.S. OLCOTT




CHƯƠNG TÁM


MỘT VÀI GIẢ THUYẾT

Chúng ta hăy thử phân tích trạng thái tinh thần của bà HPB khi bà viết bộ sách “VÉN MÀN ISIS”, để t́m cách giải thích những sự khác biệt rơ rệt về cá tính, tuồng chữ, và tâm trạng của bà như đă tường thuật ở trên.

Tôi không thể chứng minh đến mức độ nào, bà HPB đă viết bộ sách trên qua cá tính phức tạp của bà, nhưng tôi nghĩ rằng có điều hiển nhiên và không thể chối căi là bà đă nghiền ngẫm và tiêu hóa tất cả những tài liệu trong đó cũng như nó là của chính bà viết ra, chứ không phải chỉ là những kiến thức mượn tạm từ bên ngoài.

Thật không ǵ dễ bằng tránh né toàn bộ sự việc phân tích để t́m hiểu, và kết bè với những người cho rằng bà HPB được nguồn cảm hứng thiêng liêng, không hề có sự lỡ lầm, mâu thuẫn, sai sót hay sơ hở nào; nhưng tôi không thể làm như vậy, v́ tôi biết bà quá rơ, và chỉ muốn tŕnh bày sự thật.

Sau khi khảo sát về trường hợp này, người ta không khỏi nhận thấy rằng ít nhất có những giả thuyết sau đây được nêu ra:

1. Bộ sách VÉN MÀN ISIS phải chăng được một vị Chân Sư đọc cho bà viết như một người thư kư biên chép lại một cách tỉ mỉ, cẩn thận và công phu?

2. Do Chân Ngă của bà viết ra trong khi cơ thể bà bị hoàn toàn chế ngự?

3.Bà viết trong trạng thái một người đồng tử được các đấng Chân Sư mượn xác?

4. Dưới ảnh hưởng một phần của những trạng thái kể trên?
       
5. Như một đồng tử thông thường, chịu ảnh hưởng kiểm chế của những vong linh khuất mặt?

6. Do nhiều cá tính tiềm ẩn và tác động luân phiên nhau của bà viết ra?

7. Bà chỉ là một phụ nữ b́nh thường như mọi người, không chịu một ảnh hưởng kiểm chế ám ảnh hay một nguồn cảm hứng tâm linh nào đến từ bên ngoài, trong trạng thái tỉnh táo thông thường, và không có ǵ khác biệt với bất cứ một nhà văn nào làm một công việc soạn sách thuộc loại này.


I. GIẢ THUYẾT THỨ BẢY


Chúng ta hăy bắt đầu với giả thuyết sau cùng. Mọi người sẽ thấy ngay rằng xét về tŕnh độ học thức và văn hóa của bà HPB , th́ bà không bao giờ có thể là một học giả uyên bác, hay một “con mọt sách”.

Những tập hồi kư về cuộc đời bà, do gia đ́nh bà truyền lại cho nhà viết tiểu sử bà là ông A.P.Sinnett, và cho tôi, cho thấy rằng hồi thuở thiếu thời, bà là một người học tṛ khó dạy, không hề thích đọc những loại sách vở đứng đắn, khô khan, không thích giao du với những người học rộng, cũng không hề bước chân đến các thư viện.

Bà vốn là mối hoang mang kinh khủng cho các bà quản gia, mối thất vọng cho họ hàng thân quyến, thích nổi loạn chống lại tất cả những sự g̣ bó chật hẹp của phong tục hay quy ước xă hội thông thường.

Trong thời kỳ thơ ấu, bà thích làm bạn với những TINH LINH NGŨ HÀNH và những vong linh khuất mặt ở cơi âm, bà trải qua nhiều ngày và nhiều tuần như vậy để giao tiếp với họ.

Bà cũng thường hay chơi những tṛ ngỗ nghịch, rắn mắt đối với người lớn, và nhờ có những năng khiếu thần thông ngay từ thuở nhỏ, nên có khi bà cũng nói phăng ra những điều bí mật riêng tư của họ làm cho họ phải giật ḿnh.

Bà không hề gia nhập một hội nghiên cứu khoa học hay khảo cứu bất cứ một ngành học thuật nào, và chưa từng viết sách. Bà chỉ đi t́m các vị pháp sư, phù thủy ở những xứ xa xôi và bán khai, không phải để đọc sách vở (không hề có) của họ, mà để học hỏi về ngành tâm lư thực dụng. Nói tóm lại, bà không phải là một người ưa thích văn chương trước khi viết bộ VÉN MÀN ISIS.

Những sự khác biệt và tương phản rơ rệt giữa những đoạn văn có khi vụng về lủng củng và có khi hầu như tuyệt tác của bà, chứng minh rằng không phải chỉ có một trí lực duy nhất tác động để viết bộ sách này. Những tuồng cữ khác nhau, sự sai biệt về cách suy luận, cách hành văn và những sắc thái khác biệt nhau của mỗi đoạn văn đều xác nhận điều đó.


II. GIẢ THUYẾT THỨ SÁU


Bây giờ chúng ta hăy xét đến giả thuyết thứ sáu, cho rằng quyển sách ấy được viết ra bởi nhiều cá tính khác nhau của bà HPB, hay nhiều tầng lớp tâm thức cá nhân của bà, có thể luân phiên nhau xuất hiện từ trạng thái tiềm ẩn để bước vào trạng thái hoạt động.

Về vấn đề này, những sự khảo sát t́m ṭi của các giới liên hệ đương thời vẫn chưa tiến bộ đến mức giúp cho chúng ta có thể nói một cách dứt khoát. Trong quyển “ NHỮNG GIAI THOẠI TRONG CUỘC ĐỜI BÀ BLAVATSKY”, ông Sinnett có trích dẫn một đoạn văn của bà diễn tả một “đời sống song đôi” mà bà đă trải qua trong một cơn bệnh sốt khi bà c̣n là một thiếu nữ ở Mingrelia:

“MỖI KHI CÓ NGƯỜI GỌI TÊN TÔI, TÔI MỞ MẮT RA VÀ TRỞ LẠI BẢN THỂ HAY CÁ TÍNH CỦA CHÍNH TÔI, TRONG TỪNG CHI TIẾT. TUY NHIÊN, SAU ĐÓ KHI TÔI ĐƯỢC ĐỂ YÊN MỘT M̀NH, TÔI LẠI RƠI VÀO TRẠNG THÁI MỘNG MƠ THƯỜNG NHẬT CỦA TÔI, VÀ TÔI TRỞ THÀNH MỘT NGƯỜI KHÁC (BÀ HPB KHÔNG NÓI NGƯỜI ẤY LÀ AI)…..

NHỮNG KHI TÔI ĐANG NÓI CHUYỆN TRONG CUỘC SỐNG MỘNG MƠ NÓI TRÊN, NẾU TÔI BỊ GIÁN ĐOẠN NỬA CHỪNG V̀ CÓ NGƯỜI GỌI TÊN TÔI, VÀO LÚC MÀ TÔI HAY NHỮNG NGƯỜI KHUẤT MẶT TRONG LÚC ĐÓ MỚI NÓI ĐƯỢC NỬA CÂU VÀ TÔI MỞ MẮT RA ĐỂ ĐÁP LỜI KÊU GỌI, TH̀ TÔI THƯỜNG TRẢ LỜI MỘT CÁCH RẤT SÁNG SUỐT VÀ HIỂU BIẾT TẤT CẢ MỌI SỰ, V̀ TÔI KHÔNG HỀ MÊ MUỘI.

NHƯNG KHI TÔI VỪA NHẮM MẮT LẠI, TH̀ CÂU NÓI BỊ GIÁN ĐOẠN NỬA CHỪNG KHI NĂY, ĐƯỢC TIẾP TỤC BỞI “CÁI NGĂ THỨ NH̀” CỦA TÔI, ĐÚNG VÀO CHỮ HAY CHÍ ĐẾN NỬA CHỮ MÀ CÂU NÓI BỊ NGẮT NGANG.

KHI TÔI THỨC TỈNH VÀ TRỞ VỀ BẢN THỂ, TÔI NHỚ RƠ RẰNG TÔI LÀ AI TRONG CÁI BẢN NGĂ THỨ NH̀, CÙNG TẤT CẢ NHỮNG SỰ VIỆC XẢY RA VÀ TÔI ĐANG LÀM G̀ LÚC ẤY. KHI TÔI LÀ MỘT NGƯỜI KHÁC TRONG TRẠNG THÁI MỘNG MƠ, TH̀ TÔI LÀ CÁI NHÂN VẬT MÀ TÔI TRỞ THÀNH, VÀ TÔI KHÔNG HỀ BIẾT H .B. BLAVATSKY LÀ AI! KHI ẤY TÔI Ở MỘT XỨ HOÀN TOÀN XA LẠ, CÓ MỘT CÁ TÍNH HOÀN TOÀN KHÁC HẲN, VÀ KHÔNG CÓ LIÊN HỆ G̀ ĐẾN ĐỜI SỐNG CỦA TÔI TRONG HIỆN TẠI”.

Xét về những sự việc kể trên, người ta có thể nói rằng nhân vật HPB duy nhất, chính là cái thực thể tâm linh ngự trong cái xác phàm của bà, c̣n cái “người khác” kia vốn không phải bà HPB, mà chỉ là một thực thể khác có một mối liên quan bí hiểm không giải thích được, với bà và xác phàm của bà.

Thật vậy, người ta được biết có những trường hợp mà cái NGĂ THỨ NH̀ biểu lộ những sở thích và tài năng hoàn toàn xa lạ đối với cái NGĂ b́nh thường của đương sự. Giáo Sư Barrett có thuật chuyện người con trai của một vị linh mục ở khu vực bắc Luân Đôn, sau một cơn bệnh nặng, bèn trở nên hai nhân vật khác nhau.

Cái “ngă thứ nh́” không biết đến cha mẹ của y, không nhớ những việc quá khứ, tự gọi ḿnh bằng một cái tên khác, và điều đáng kể hơn nữa, là y phát triển tài năng về âm nhạc, mà trước đó y không hề có chút nào.

Có nhiều trường hợp mà cái “ngă thứ nh́” thay chân cái ngă b́nh thường, tự gọi bằng một cái tên khác và có một trí nhớ đặc biệt về những kinh nghiệm riêng của nó. Trong trường hợp cô Lurancy Vennum mà mọi người đều biết, thể xác của cô hoàn toàn bị chế ngự bởi linh hồn thoát xác của một thiếu nữ khác tên Mary Roff, cô này đă chết từ mười hai năm trước.

Dưới sự thay hồn đổi xác này, cá tính của cô Vennum hoàn toàn khác biệt hẳn khi xưa. Cô nhớ rơ tất cả những ǵ đă xảy ra trong đời của cô Mary Roff trước khi cô này qua đời, nhưng c̣n chính những cha mẹ, người thân quyến và bạn bè của cô lại trở nên những người hoàn toàn xa lạ. Hiện tượng này kéo dài gần bốn tháng.

Việc nhập xác này đối với cô Mary Roff lại rất tự nhiên đến nỗi cô không thấy ǵ khác biệt với cái thể xác của chính cô khi cô sinh ra đời gần ba mươi năm về trước.

Ngoài ra, người ta c̣n thuật chuyện cái “ngă thứ nh́” của một cô gái tên Mary Reynold, xuất hiện từ năm cô mười tám tuổi và kéo dài đến bốn mươi ba năm cho đến khi cô thọ được đến sáu mươi mốt tuổi, xen với những giai đoạn trung gian khi cô trở về trạng thái b́nh thường.

Trong khoảng hai mươi lăm năm cuối cùng của cuộc đời, cô hoàn toàn ở trong trạng thái bất thường của cái “ngă thứ nh́”, trong khi đó cái ngă b́nh thường, tức con người thật của cô, đă bị xóa bỏ. Có   điều lạ lung là tất cả những ǵ cô biết trong cái “ngă thứ nh́” đều đă sở đắc được trong trạng thái đó.

Cô bắt đầu cái đời sống thứ nh́ này vào năm cô mười tám tuổi (tuổi của thể xác), không hề biết tới Mary Reynold là ai và quên hết tất cả quá khứ; trạng thái thứ nh́ của cô chính là trạng thái của một trẻ sơ sinh. Tất cả những ǵ c̣n sót lại của dĩ văng, là cô chỉ biết thốt ra một vài tiếng, mà cô không hiểu ư nghĩa ǵ cả cho đến khi cô được dạy cho biết ư nghĩa của những chữ đó.

Tôi có đọc sách và biết được ít nhiều về vấn đề đa h́nh đa dạng trong con người, nhưng không thấy có trường hợp nào mà cái ngă hay nhân vật thứ nh́ có thể chú thích những đoạn văn trong các sách, hay nói những tiếng ngoại ngữ mà chính đương sự không hề biết trong trạng thái b́nh thường.

Tôi biết một nhà bác học ở Anh Quốc, đă quên hẳn tiếng mẹ đẻ v́ sống ở nước ngoài từ năm mười một tuổi mà không nói, hay nghe ai nói thứ tiếng ấy. Đến năm hai mươi chin tuổi, y mới bắt đầu học lại tiếng mẹ đẻ bằng cách dạy sinh ngữ và tự   điển.

Tuy nhiên, trong khi y cố gắng vật lộn với những nguyên tắc sơ đẳng của ngôn ngữ ấy, th́ y lại nói trôi chảy trong giấc ngủ. Nhưng trong trường hợp này, sự thông hiểu ngôn ngữ của y chỉ đắm ch́m trong cơi tiềm thức, hay kư ức ẩn tàng.

Có trường hợp quen thuộc của một người nữ tỳ ngâm thơ ngoại ngữ trong trạng thái thụy du (đi trong giấc ngủ) và cũng thốt lên những câu văn Do Thái mà cô đă nghe một người chủ cũ ca vang lên từ nhiều năm trước.

Nhưng không ai có thể đưa ra bằng chứng nào chỉ rằng bà HPB đă từng khảo cứu về những vấn đề bà viết trong bộ sách VÉN MÀN ISIS. Nếu bà không cố ư “đạo văn” một cách ư thức và cũng không hề học hỏi những vấn đề ấy bao giờ th́ làm sao những kiến thức đó có thể đến với bà trên giả thuyết rằng bộ sách ấy được viết bởi một HPB thứ nh́ hay HPB thứ ba?

Ở đây, tôi chỉ muốn tạm cứu xét vấn đề đa h́nh đa dạng của con người trên giả thuyết rằng bà HPB có thể viết bộ sách VÉN MÀN ISIS với không có sự trợ giúp nào khác hơn là những cá tính riêng của bà. Bởi đó, chúng ta không cần phải đi sâu hơn vào một vấn đề mà muốn hiểu biết rơ người ta phải tham khảo những giáo lư Huyền Môn của Ấn Độ.

Đạo lư cổ truyền của Ấn Độ dạy rằng Chân Ngă con người có khả năng thấy và biết tất cả khi y đă trút bỏ cái gánh nặng của bức màn che ám cuối cùng thuộc về tâm thức vật chất hồng trần. Và cái kiến thức đó sẽ đến với y một cách    tuần tự khi mà những lớp màn xác thịt trọng trược càng ngày càng được vén lên.

Trường hợp giáo chủ Hồi Giáo Mahomet vốn là một người thất học, lại có thể viết bộ Thánh Kinh Koran bằng chữ Ả Rập thuần túy, là một phép lạ lớn nhất chưa từng thấy. Đó là một   bằng chứng chỉ rằng Chân Ngă tâm linh của ông đă biểu lộ xuyên qua những chướng ngại của thể xác vật chất và trực tiếp thu nhận những kiến thức siêu việt từ cái nguồn gốc huyền diệu thuộc về cơi trên.

Nếu bà HPB là một tu sĩ khổ hạnh chủ trị được cái phàm ngă và bộ óc suy luận của bà, nếu bà có thể viết Anh Ngữ thuần túy mà không hề sở đắc nó từ trước, nếu bà soạn bộ VÉN MÀN ISIS theo một kế hoạch rơ ràng nhất định thay v́ sắp đặt các tài liệu một cách lộn xộn thiếu trật tự như bà đă làm.

Th́ tôi đă có thể nghĩ như trên và coi bộ sách quư giá ấy như một công tŕnh sáng tạo bởi cái Chân Ngă siêu việt của bà. Nhưng trên thực tế, tôi không thể làm như vậy, và tôi phải thông qua vấn đề ấy để xét qua những giả thuyết khác.


III. GIẢ THUYẾT THỨ NĂM


Giả thuyết kế đó là phải chăng bà HPB viết bộ VÉN MÀN ISIS với tư cách một người đồng tử thông thường, nghĩa là dưới sự kiểm chế của những vong linh người chết? Tôi quả quyết rằng không. Nếu quả như vậy, th́ cái vong linh chế ngự thể xác của bà hẳn là tác động một cách khác hẳn với mọi thứ quyền năng đă được ghi nhận trong các sách vở, mà tôi đă từng chứng kiến trong nhiều năm kinh nghiệm và khảo cứu về phong trào Thần Linh Học. Tôi đă được biết nhiều đồng tử thuộc đủ mọi loại: đồng tử giáng ngôn, giáng bút, xuất thần, chữa bệnh, linh thị, làm các hiện tượng v…v….

Tôi đă theo dơi cách làm việc của họ, tham dự các cuộc họp đàn và quan sát những triệu chứng nhập đồng của họ. Nhưng trường hợp của bà HPB hoàn toàn khác hẳn. Hầu hết tất cả những ǵ họ đă    làm, bà đều có thể làm được tùy ư muốn, bất cứ ngày đêm, không cần phải họp đàn, chọn thành phần tham dự, hay áp đặt những điều kiện thông thường.

Ngoài ra, tôi c̣n có bằng chứng rằng ít nhất vài Nhân Vật hợp tác với chúng tôi là những Người c̣n sống do bởi tôi đă nh́n thấy các Ngài trong thể xác phàm ở Ấn Độ, sau khi đă nh́n thấy các Ngài trong Thể Vía ở những nơi khác bên Âu    Mỹ, và tôi cũng đă nói chuyện với các Ngài.

Các Ngài cho tôi biết rằng các Ngài không phải là những vong linh, mà là những người sống cùng tôi, và mỗi vị trong các Ngài đều có những đặc tính và khả năng riêng, nói tóm lại, là có cá tính riêng. Những quyền năng mà các Ngài đă sở đắc được, có ngày tôi cũng sẽ có; sớm hay muộn là tùy ở nơi tôi. Tôi không nên trông đợi một đặc ân nào, mà cũng như các Ngài, tôi phải tiến từng bước bằng sự cố gắng cá nhân.

Một trong những vị cao cả nhất là bậc Thầy của hai vị Chân Sư mà quần chúng đă có dịp nghe nói đến, đă dạy tôi trong một bức thư đề ngày 22 tháng 6 năm 1875, như sau:

“THỜI GIỜ ĐĂ ĐẾN ĐỂ CHO CON BIẾT TA LÀ AI. TA KHÔNG PHẢI LÀ MỘT LINH HỒN ĐĂ THOÁT XÁC, HỠI ĐỆ TỬ, MÀ LÀ MỘT NGƯỜI SỐNG, CÓ NHỮNG QUYỀN NĂNG MÀ CÓ NGÀY CON CŨNG SẼ ĐẠT TỚI. TA KHÔNG THỂ TIẾP XÚC VỚI CON BẰNG CÁCH NÀO KHÁC HƠN LÀ BẰNG TINH THẦN, V̀ HIỆN THỜI CHÚNG TA Ở CÁCH XA NHAU ĐẾN HẰNG NGÀN DẶM. HĂY KIÊN NHẪN VÀ LẠC QUAN, HỠI NGƯỜI PHỤNG SỰ TRUNG KIÊN CỦA QUẦN TIÊN HỘI THIÊNG LIÊNG!

CON HĂY TIẾP TỤC CỐ GẮNG LÀM VIỆC, V̀ ĐỨC TỰ TIN LÀ YẾU TỐ MẠNH MẼ NHẤT ĐƯA ĐẾN SỰ THÀNH CÔNG. HĂY GIÚP ĐỠ NHỮNG KẺ THIẾU THỐN RỒI CHÍNH CON SẼ ĐƯỢC GIÚP ĐỠ, THEO SỰ TÁC ĐỘNG TRƯỜNG KỲ VÀ BẤT BIẾN CỦA LUẬT NHÂN QUẢ.”

Như độc giả nhận thấy, Luật Nhân Quả đă được dạy cho tôi hầu như ngay từ lúc bắt đầu sự liên hệ giữa tôi với bà HPB và với các đấng Chân Sư.

Tuy nhiên, mặc dù các sự việc kể trên chúng tôi đă được sự hợp tác của ít nhất một người khuất mặt, vốn là linh hốn của một trong những triết gia lỗi lạc nhất của thời cận đại, đă từng làm vẻ vang cho xứ sở ông và là một bông hoa ưu tú của nhân loại.

Ông ta là một tín hữu của triết phái Platon (Bá Lạp Đồ) và tôi nghe nói rằng ông ta say mê học hỏi đến nỗi ông không thể tách rời khỏi quả Địa Cầu, mà ngồi trong một thư viện do ông tạo ra bằng tư tưởng trên cơi Trung Giới, đắm ch́m trong những cơn suy gẫm triết lư, quên hẳn gịng trôi chảy của thời gian, và chỉ nghĩ đến việc xoay chuyển trí óc con người theo chiều hướng đạo đức tâm linh.

Nguyện vọng ấy không thu hút ông ta tái sinh trở lại cơi trần, mà thúc đẩy ông đi t́m những người có chí nguyện giống như các Chân Sư và đệ tử, muốn làm việc để truyền bá Chân Lư và bài trừ mê tín dị đoan. Tôi được ông cho biết rằng ông ta là một người tinh khiết và vô kỷ đến nỗi ông được sự kính nể của tất cả các vị Chân Sư.

V́ không được can thiệp vào nghiệp quả của ông, nên các Ngài chỉ có thể để cho ông tự lực công phu để tự giải thoát khỏi những ảo ảnh của cơi Trung Giới, hầu tiến bước lên cơi tinh thần và tâm linh thuần túy theo đà tiến hóa tự nhiên. Phấn trí tuệ của ông được vận dụng mănh liệt vào việc suy luận triết lư đến nỗi phần tâm linh đă tạm thời bị tê liệt.

Trong khi đó, th́ ông ta xuất hiện, sẵn sàng cộng tác với bà HPB để viết bộ sách lịch sử này, và đă đóng góp rất nhiều công lao vào những tiết mục có liên quan đến vấn đề triết học. Ông ta không có hiện h́nh để ngồi vào bàn viết với chúng tôi, cũng không mượn xác bà HPB như một đồng tử, mà chỉ nói chuyện với bà trên phương diện huyền linh, suốt nhiều giờ liên tiếp.

Trong những cuộc giao tiếp đó, ông đọc cho bà viết, nhắc nhở bà về những loại sách nào cần phải chú thích, trả lời những câu hỏi của tôi về các vấn đề chi tiết, huấn dụ cho tôi về những vấn đề nguyên tắc, và đóng vai tṛ của một người thứ ba trong nhóm chúng tôi.

Có lần   ông ta cho tôi bức chân dung của ông, một bức họa thô sơ vẽ bằng bút ch́ màu trên một tờ giấy mỏng, và đôi khi ông cũng có gởi cho tôi một thông điệp ngắn (bằng cách phóng xuất qua không gian) để nhắn nhủ tôi về vài việc riêng tư.

Nói chung th́ mối liên hệ giữa ông với hai chúng tôi là một sự giao tiếp rất dịu dàng, thân mật với một người anh cả và một người thầy vô cùng uyên bác. Ông không hề nói một lời nào chỉ rằng ông tự coi như một vong linh khuất mặt, khác hơn một người sống và tôi nghe nói rằng ông ta vẫn không biết là ḿnh đă chết.

Mặc dầu bác bỏ giả thuyết cho rằng bà HPB viết bộ VÉN MÀN ISIS với tư cách một đồng tử “bị kiểm chế”, nhưng chúng ta đă thấy rằng vài đoạn trong sách ấy thật sự đă được một vong linh khuất mặt đọc cho bà viết.

Đó là một nhân vật lạ kỳ và độc đáo, nhưng vẫn là một linh hồn đă thoát xác. Phương pháp làm việc với ông ta như đă nói ở trên thật đúng như bà đă diễn tả trong một bức thư gởi về cho gia đ́nh, để giải thích bằng cách nào bà viết bộ sách ấy mà không hề có   sự học hỏi, đào luyện trí óc từ trước

“Khi tôi ĐƯỢC LỊNH phải viết, tôi ngồi xuống và tuân lịnh. Khi đó, tôi có thể viết dễ dàng về bất cứ vấn đề ǵ: Siêu h́nh, Tâm lư, Triết, Tôn giáo Vạn vật, v.. v…. Tại sao? Bởi v́ có MỘT VỊ BIẾT TẤT CẢ đọc cho tôi viết. Đó là Sư Phụ tôi, và thỉnh thoảng cũng có những vị khác nữa mà tôi được biết trong những chuyến du hành từ nhiều năm về trước”.

Đó chính là việc ǵ đă xảy ra giữa bà và vị triết nhân già của môn phái Platon (Bá Lạp Đồ), nhưng ông ta không phải là “sư phụ” bà, mà cũng không phải bà đă gặp ông ta trong những chuyến du hành trước đây v́ ông ta đă chết trước khi bà sinh ra đời (trong kiếp này).

Như vậy, vấn đề được nêu ra là phải chăng vị tín hữu phái Bá Lạp Đồ nói trên quả thật là một linh hồn thoát xác, hay là một vị Chân Sư đă sống trong cái thể xác đó và dường như đă chết vào ngày 1 tháng 9 nắm 1687 nhưng thật ra th́ không?

Đó hẳn là một vấn đề khó giải đáp. Xét v́ hoàn toàn   không thấy có những triệu chứng thông thường của vấn đề mượn xác đồng tử và xét v́ bà HPB chỉ đóng vai tṛ của người biên chép những ǵ vị triết gia đọc cho bà viết, chẳng khác nào như sự quan hệ giữa một nữ bí thư với vị Chủ Nhân, trừ ra việc ông Chủ Nhân ấy tôi không nh́n thấy mà bà nh́n thấy, th́ đó có vẻ dường như chúng tôi tiếp xúc với một người sống hơn là với một linh hồn đă thoát xác.

Ông ta không hẳn là một vị Chân Sư, nhưng gần như thế hơn là bất cứ môt vai tṛ nào khác. C̣n nói về công việc viết sách VÉN MÀN ISIS, th́ phần việc của ông cũng giống như những phần khác khi mà người đọc, hay người viết tùy trường hợp, là một vị Chân Sư (GIẢ THUYẾT SỐ MỘT). Tôi nói người đọc, hay NGƯỜI VIẾT,và điều này cần được giải thích thêm.

Trên đây có nói rằng tuồng chữ của bà HPB có nhiều khi khác biệt nhau, và cũng lại có nhiều lối viết khác nhau của một tuồng chữ duy nhất. Mỗi lần thay đổi tuồng chữ như thế đều đi kèm với một sự khác biệt rơ rệt về cử chỉ, tác phong, sắc diện và khả năng văn chương của bà HPB.

Khi bà tự lực cố gắng làm việc với khả năng của chính ḿnh, th́ điều đó rất dễ nhận thấy v́ nó biểu lộ qua cách hành văn lúng túng, vụng về của một người mới tập sự viết lách, chưa được huấn luyện thuần thục về công tác này.

Những khi đó th́ bản thảo của bà đưa qua cho tôi duyệt xét lại, có dẫy đầy những lỗi lầm sai sót, và sau khi nó được biến thành những trang có đầy những chỗ gạch nát, thêm bớt, những gịng xen kẽ, xóa bỏ, sửa chữa về chính tả và văn phạm, tôi phải đọc cho bà viết lại từ đầu (GIẢ THUYẾT SỐ BẢY).

Không bao lâu, tôi được biết rằng những đấng Cao Cả khác cũng sử dụng thể xác của bà HPB để giáng ngôn, giáng bút. Mỗi lần mượn xác bà như vậy, các Ngài không hề nói rơ rằng: “Tôi là vị nọ….hay vị kia”, hay “Đây là Chân Sư A….hay B….”.

Điều đó không cần thiết sau khi chúng tôi đă làm việc chung với nhau trong một thời gian khá lâu dài để tôi có thể trở thành quen thuộc với mỗi cử chỉ, động tác, ngôn ngữ, khí chất và xúc cảm của bà.

Mỗi lần các vị luân phiên nhập xác của bà, là có sự thay đổi rơ rệt như ban ngày về tính khí, cử chỉ, thái độ, v…v….của bà như vừa kể trên. Mỗi lần bà rời khỏi pḥng đi ra ngoài một lát rồi trở vào, tôi chỉ cần quan sát sơ qua những nét mặt và tác phong, cử chỉ của bà một chút để có thể tự nhắc thầm rằng: “ Đây là Chân Sư X…,hay Y…,hay Z…”, và sự phỏng đoán của tôi đă được xác nhận bởi những sự việc xảy ra sau đó.

Một trong những đấng ấy, mà tôi đă có lần gặp gỡ trong xác phàm, có bộ râu cằm và râu mép dài xoắn lại với bộ ria ở hai bên má theo lối Rajput. Ngài có thói quen vuốt râu mép mỗi khi suy tư: ngài làm như vậy một cách tự nhiên vô ư thức. Có những khi bà HPB để cho cá tính của bà tan biến dần và trở thành một Nhân Vật khác.

Khi đó, tôi ngồi trước mặt bà và nhận thấy bà đưa tay lên cằm rồi từ từ làm những động tác dường như kéo bộ râu mép (không có thật) và xoắn tới xoắn lui trong những ngón tay của bà, với đôi mắt đăm chiêu và cái nh́n xa vắng. Một lát sau đó, đôi mắt ấy mới thâu ngắn tầm nhăn quang để lưu ư đến sự vật chung quanh.

Nhân Vật có râu mép ngước mặt lên, nhận thấy tôi đang chăm chú theo dơi động tác của ngài, bèn lật đật bỏ tay xuống, và tiếp tục viết.

Một Nhân Vật khác lại rất ghét Anh Ngữ đến nỗi Ngài chỉ nói chuyện với tôi bằng tiếng Pháp. Ngài có năng khiếu về nghệ thuật và rất thích thú say mê những phát minh cơ khí.

Một Nhân Vật khác nữa thỉnh thoảng cũng xuất hiện (qua thể xác bà HPB) vẽ nguệch ngoạc những h́nh ảnh bằng bút ch́, và giáng bút thành những bài thơ hàm xúc mùi Đạo Vị thanh cao.

Mỗi Nhân Vật đó đều có những đặc tính riêng biệt rơ rệt, và người ta có thể nhận ra ngay là vị nào mượn xác bà HPB vào một lúc nhất định, cũng như ta có thể phân biệt những bạn bè quen thuộc của ta trong đời sống hằng ngày. Một vị hay cười nói vui vẻ, ưa thích nói những chuyện vui và hay châm biếm hài hước.

Một vị khác nói năng dè dặt, nghiêm chỉnh và rất lịch lăm uyên bác. Một vị khác có tác phong trầm tĩnh, kiên nhẫn và sẵn sàng giúp đỡ một cách đầy hảo ư. Một vị khác nữa luôn luôn thử thách và đôi khi rất khó tính.

Một Nhân Vật khuất mặt luôn luôn sẵn ḷng đưa ra những sự giải thích triết lư và khoa học về những vấn đề mà tôi phải viết bằng cách làm những hiện tượng lạ lùng để chứng minh, c̣n   đối với một Nhân Vật khác nữa th́ thậm chí tôi cũng không dám nêu những vấn đề ấy ra hỏi Ngài.

Một đêm nọ, tôi bị “chỉnh” một cách đau đớn. Trước đó mấy hôm, tôi có đem về hai cây bút ch́ loại mềm và tốt để dùng, tôi đưa một cây cho bà HPB và giữ lại một cây. Bà HPB có cái tật rất xấu là hay mượn những đồ dụng cụ văn pḥng, bút mực, bút ch́, tẩy (gôm), dao, kéo, v… v…mà quên trả lại cho “khổ chủ” ! Một khi bà đă dùng xong, bà bỏ vào hộc tủ của bà rồi chúng cứ nằm yên trong đó, bất chấp những lời phản đối của “nạn nhân”!

Đêm đó, Nhân Vật có tâm hồn nghệ sĩ “giáng lâm”. Ngài vừa ngồi vẽ một đầu người trên một tờ giấy vừa nói chuyện với tôi về một đầu đề nào đó, rồi ngài bảo tôi đưa cho ngài mượn một cây bút ch́ khác. Khi ấy một tư tưởng liền thoáng qua trong trí tôi:

“Nếu ḿnh cho mượn cây bút ch́, nó sẽ nằm gọn trong hộc tủ của bà, rồi ḿnh sẽ không c̣n cây bút ch́ nào khác để dùng”.

Tôi không nói ra, mà chỉ nghĩ trong trí thôi, nhưng Nhân Vật giáng lâm nh́n tôi bằng một cái nh́n châm biếm, đưa tay vói lấy cái giỏ đựng bút trên bàn, để cây bút ch́ của ngài trong đó, dùng ngón tay mân mê nó một lúc, rồi th́….ơ ḱa, lạ thay, đột nhiên xuất hiện trong giỏ một chục cây viết ch́ cùng một hiệu và cùng một phẩm chất với cây kia!

Ngài không nói một lời, cũng không thèm nh́n vào mặt tôi, nhưng việc ấy làm cho máu trong người tôi nhảy vọt lên hai màng tang và tôi cảm thấy hổ thẹn như tôi chưa từng bị như thế bao giờ trong đời!

Dù sao chăng nữa, tôi không nghĩ rằng tôi đáng bị “chơi” một vố nặng như thế, xét v́ cái tật hay chiếm đoạt văn pḥng phẩm bất trị của bà HPB!

Mỗi khi mà một trong những Nhân Vật ấy “giáng lâm”, th́ tuồng chữ viết của bà HPB lại biểu lộ những nét đặc thù giống y như tuồng chữ của lần trước khi mà đến phiên chính Nhân Vật ấy xuống bút để góp phần vào công tŕnh viết nên bộ sách vĩ đại này.

Những lần đó, ngài viết những tiết mục đặc biệt thuộc về những đề tài sở trường của ngài, và thay v́ bà HPB đóng vai tṛ một nữ bí thư biên chép, th́ khi đó bà đă trở nên chính Nhân Vật ấy (GIẢ THUYẾT SỐ BA ). Hồi đó, nếu có ai cầm đưa cho tôi bất cứ một trang bản thảo viết tay nào của bộ VÉN MÀN ISIS, tôi có thể nói ngay một cách quả quyết rằng đó là do vị nào viết ra.

Như vậy th́ linh hồn bà HPB đi đâu trong những lúc đó, khi mà các ngài thay phiên nhau mượn xác của bà? Đó là một vấn đề bí hiểm, mà không phải ai cũng được nói cho biết. Độ gần hai năm sau khi bộ sách được phát hành, bà HPB có giải thích cho những người thân quyến trong gia đ́nh bà biết được điều bí mật ấy.

Những khi đó linh hồn bà không c̣n ở trong xác phàm, mà dường như chỉ quanh quẩn ở gần bên, hoàn toàn ư thức được mọi việc xảy ra, và theo dơi mọi động tác của các Nhân Vật khuất mặt đang sử   dụng thể xác của bà.

Theo chỗ tôi hiểu, th́ bà cho các vị mượn xác cũng ví như người ta cho mượn một cái máy đánh chữ, và xuất hồn đi   làm công tác ở cơi trên về phần vô vi, trong khi đó một nhóm các vị Chân Sư luân phiên nhau sử dụng thể xác của bà để   làm việc.

Khi biết rằng tôi có thể phân biệt các ngài (xuyên qua xác phàm của bà HPB) và nhận ra tính chất riêng của mỗi vị, đến mức tôi đă đặt cho mỗi vị một biệt danh để dễ kêu gọi trong những cuộc nói chuyện riêng giữa chúng tôi, các ngài thường trịnh trọng nghiêng đầu hoặc thân mật vẫy tay từ giă tôi mỗi khi sắp rời khỏi pḥng và nhường chỗ cho vị kế tiếp.

Đôi khi các ngài cũng nói chuyện với tôi về mỗi vị Chân Sư cũng ví như bạn bè nói chuyện với nhau về những người vắng mặt, bởi đó tôi cũng được biết ít nhiều về đời tư của các ngài.

Tôi cũng xin nói rơ là chí đến những đấng Chân Sư cao cả nhất cũng không bao giờ muốn được suy tôn như những bậc toàn trí, toàn năng hay không thể lầm lỗi. Các ngài không hề biểu lộ mảy may ư muốn được tôi tôn sùng, thờ kính hay coi như thiêng liêng những ǵ các ngài viết qua thể xác bà HPB, hoặc đọc cho bà viết.

Tôi được khuyến khích chỉ nên coi các ngài như mọi người thường, những người tuy minh triết hơn   và tiến hóa hơn tôi bội phần, nhưng đó chỉ là bởi v́ các ngài đă đi trước tôi trên con đường tiến hóa tự nhiên.
       
Trước đây, tôi có nói về những đoạn trong bộ sách “VÉN MÀN ISIS” do chính bà HPB đích thân viết ra, những đoạn ấy đương nhiên là không xuất sắc bằng những trang do các Chân Sư viết thay cho bà. Điều ấy rất dễ hiểu, v́ trước đó bà HPB không hề có sự hiểu biết về loại này, làm sao bà có thể viết một cách chính xác về những vấn đề siêu h́nh, huyền bí, đ̣i hỏi một học lực uyên thâm và những kiến thức Huyền Môn siêu đẳng.

Trong trạng thái b́nh thường, có khi bà đọc một quyển sách nào đó, đánh dấu những phần làm cho bà chú ư, viết về những đề tài tham khảo, viết sai , sửa chữa, thảo luận về những vấn đề đó với tôi, nhờ tôi viết lại, trợ giúp phần trực giác của tôi.

Nhờ các bạn Đạo cung cấp tài liệu, và cứ tiếp tục viết với sự cố gắng tối đa, khi mà không có một vị Chân Sư nào xuất   hiện để đáp ứng những sự kêu gọi trợ giúp tâm linh của bà. Lẽ tất nhiên, các Chân Sư không phải lúc nào cũng đến với chúng tôi.

Bà viết rất nhiều và đưa ra nhiều tài liệu quư giá, v́ bà có một khả năng văn chương thiên phú; những trang sách bà viết không bao giờ nhàm chán hay vô vị, và bà cũng giỏi tuyệt luân về ba thứ sinh ngữ khi nào có sự trợ giúp quyền năng đầy đủ về phần thiêng liêng.

Bà viết thư cho một thân nhân biết rằng khi Sư Phụ mắc bận rộn công việc khác, ngài để lại cho bà một vật để thay thế, và khi đó, chính “Chân Ngă sáng suốt” của bà suy tư và viết cho bà (GIẢ THUYẾT SỐ HAI). Tôi không thể có ư kiến ǵ về vấn đề này, v́ tôi chưa từng quan sát bà trong trạng thái đó. Tôi chỉ biết rơ bà dưới ba khía cạnh, tức là:

1. Trong trạng thái phàm ngă như một phụ nữ b́nh thường,
       
2. Khi thể xác của bà được các Chân Sư sử dụng; và
       
3. Như một người biên chép những ǵ các Chân Sư đọc cho bà viết.

Có nhiều khi bà không hề bị mượn xác, kiểm chế hay được đọc cho viết bởi một vị Chân Sư nào, mà chỉ là bà HPB   trong trạng thái b́nh thường, vẫn cố gắng đến mức tối đa để thực hiện công tác giao phó cho bà và thi hành sứ mạng.

Tuy nhiên, mặc dù có sự trợ giúp của những Trí Lực hỗn hợp tác động từ bên ngoài, bộ sách “VÉN MÀN ISIS” và những công tŕnh khác của bà HPB đều có phảng phất những nét đặc thù độc đáo biểu lộ cá tính đặc biệt của bà.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1122 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 8:21am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




HỒI KƯ H.S. OLCOTT



CHƯƠNG CHÍN

MỘT KHÍ CỤ ĐẶC BIỆT

I. Xét qua những ǵ đă tŕnh bày trước đây, người ta phải hiểu như thế nào về việc soạn bộ sách VÉN MÀN ISIS, và về vai tṛ của bà HPB? Đó hiển nhiên là một công tŕnh tập thể, do sự đóng góp của nhiều tác giả khác nhau, chứ không phải chỉ có một ḿnh bà HPB. Sự nhận xét riêng của tôi về vấn đề này cũng hoàn toàn phù hợp với sự giải thích trong những bức thư của bà gởi về cho gia đ́nh.

Bà cho biết rằng tất cả những đoạn sách nói về những vấn đề mà trước đây bà chưa hề quen thuộc, đều được một vị Chân Sư đọc cho bà viết, hoặc do Chân Ngă của bà tác động xuyên qua bộ óc và bàn tay bà để viết ra. Vấn đề này thật vô cùng phức tạp, và người ta sẽ không bao giờ biết rơ sự thật về mức độ đóng góp nhiều ít thế nào của mỗi thành phần tham dự.

Cá tính của bà HPB là cái khuôn mà tất cả mọi chất liệu đóng góp đều được đổ vào; cái cá tính ấy do bởi những khí chất, đặc điểm và thói tật riêng của nó, tác dộng ảnh hưởng đến phần h́nh thức và sắc thái biểu lộ của những chất liệu này cả trên phương diện thể chất lẫn tinh thần.

Những vị Chân Sư luân phiên nhau mượn xác bà HPB chỉ làm thay đổi tuồng chữ của bà, chứ không viết bằng tuồng chữ riêng của các ngài. Cũng y như thế, khi sử dụng bộ óc của bà HPB, các ngài bắt buộc phải để cho nó tô màu những tư tưởng của các ngài, và sắp đặt những lời lẽ ngôn từ của các ngài theo một cách thức cố định đặc biệt của nó.

Cũng như ánh sáng ban ngày đi xuyên qua những cửa kiếng màu ở các Nhà Thờ trở nên nhuộm màu của những tấm kiếng ấy, th́ những tư tưởng do các Chân Sư chuyển đạt xuyên qua bộ óc lạ lùng của bà HPB cũng phải bị thay đổi uốn nắn theo cách hành văn và cách tŕnh bày tư tưởng quen thuộc riêng của bà.

Sự đồng thanh khí tự nhiên về phương diện tinh thần trí năo giữa vị khuất mặt vô h́nh và người bị mượn xác càng chặt chẽ mật thiết, th́ sự kiểm chế càng dễ dàng hơn, văn chương lưu loát hơn, và bút pháp cũng điêu luyện hơn.

Một thí dụ diển h́nh là tôi nhận thấy rằng những khi bà HPB lâm vào trạng thái nóng nảy đến cực điểm, th́ các Chân Sư ít khi mượn xác bà để làm việc trừ ra Sư Phụ của bà, v́ ư chí sắt thép của ngài c̣n mạnh mẽ hơn bà nhiều, c̣n những vị khác hiền ḥa hơn th́ luôn luôn tránh né chứ không lại gần.

Lẽ tự nhiên, tôi hỏi rằng tại sao các Chân Sư không dùng biện pháp thường xuyên chế ngự cái khí chất táo tợn của bà, để làm cho bà luôn luôn trở thành một nhà hiền giả điềm đạm, trầm tĩnh như những khi bà được đặt dưới sự kiểm chế của vài đấng Cao Cả.

Tôi được trả lời rằng một biện pháp như vậy chắc chắn sẽ làm cho bà chết bất ngờ v́ đứt gân máu trong óc. Thể xác của bà được sinh động bởi một tinh thần dũng mănh táo cấp, một tính khí bạo tợn không hề bị kềm chế từ khi c̣n nhỏ, và nếu cái khí lực thặng dư thái quá đó không được để cho có lối thoát ra ngoài, th́ điều ấy hẳn phải đưa đến một hậu quả khốc hại.

Đó là cái khí chất độc đáo của bà HPB, và bà đă có nhiều lần nói với tôi rằng bà không muốn bị chế ngự bởi bất cứ một quyền lực nào trên thế gian hay ngoài Trái Đất! Bà chỉ tôn kính các đấng Chân Sư, tuy nhiên thậm chí đối với các ngài, đôi khi bà cũng tỏ ra cương cường bất khuất đến nỗi, như đă nói ở trên, những vị có tính chất dịu dàng ôn ḥa hơn không thể, hay không chịu, đến gần bà.

Bà cũng cho tôi biết rằng việc đặt ḿnh vào một trạng thái tinh thần thích nghi để có thể giao tiếp dễ dàng và thường xuyên với các Chân Sư, đă đ̣i hỏi ở nơi bà một sự cố gắng tự chủ ráo riết đến mức tuyệt vọng trong nhiều năm liên tiếp. Thật không có ai đă từng bước vào đường Đạo với những chướng ngại khó khăn hơn và một tinh thần khắc kỷ gian lao hơn nữa.

Lẽ tất nhiên, một bộ óc dễ bị khích động như vậy không phải là một dụng cụ thích nghi để thi hành cái sứ mạng vô cùng tinh tế được giao phó cho bà, nhưng các Chân Sư cho tôi biết rằng đó là cái khí cụ tốt nhất hiện hữu, và các ngài phải tận dụng mọi khả năng của nó với sự cố gắng tối đa.

Đối với các ngài, th́ bà là hiện thân của sự trung thành và ḷng sùng tín, sẵn sàng dám làm và dám chịu tất cả v́ đại nghĩa. Bẩm sinh với những quyền năng thần thông thiên phú vượt trội hẳn tất cả mọi người cùng thế hệ với bà, và với một tấm ḷng hứng khởi nhiệt thành bốc lửa hầu như đi đến chỗ cuồng tín, bà có đủ đức tính trung kiên, bền vững, nhất tâm bất loạn.

Điều này, phối hợp với một sự dẻo dai bền bỉ về thể chất đến một mức độ phi thường, làm cho bà trở thành một khí cụ vô cùng đắc lực, tuy rằng không phải dễ dạy dễ bảo, và có một khí chất bất trắc dị thường.

Có một lư do tối hậu khác v́ sao các Chân Sư không dám kềm chế bà HPB để bắt buộc tính nết bà phải trở nên thuần thục dịu dàngtheo lư tưởng của một vị Hiền giả điềm nhiên và trầm tĩnh. Đó là bởi v́ làm như vậy tức là can thiệp một cách bất hợp pháp vào Nghiệp Quả cá nhân của bà.

Cũng như mọi người, bà có một số lượng nghiệp duyên ràng buộc do hậu quả của lịch tŕnh tiến hóa của linh hồn. Chính cái Nghiệp Quả đó làm cho bà tái sinh trở lại kiếp này với một xác thân người nữ luôn luôn khích động ồ ạt, và như vậy bà có cơ hội đạt tới sự tiến bộ tâm linh bằng cách phải chiến đấu trường kỳ để làm chủ lấy nó.

Nếu các Chân Sư trực tiếp can thiệp vào t́nh trạng đó bằng cách kềm hăm cái khí chất hung bạo và xóa bỏ những sự thiếu sót khác trong tâm linh của bà, th́ việc ấy sẽ rất tai hại cho bà mà không làm cho bà được tiến hóa thêm chút nào: đó chẳng khác nào như đặt một người thụ cảm dưới sự chế ngự thường xuyên bằng ư chí của một nhà thôi miên, hay đặt một người bệnh dưới ảnh hưởng tê liệt trường kỳ của chất ma túy.

Có những lúc mà thể xác của bà không được các Chân Sư mượn tạm để làm việc, hoặc trí óc bà không bận rộn để viết những ǵ các Chân Sư đọc cho bà viết. Ít nhất là tôi nghĩ như vậy, nhưng đôi khi tôi cũng nghi ngờ rằng không một ai trong chúng tôi, là những người cộng sự với bà, đă từng biết rơ bà HPB trong trạng thái b́nh thường!

Biết đâu chúng ta chỉ có tiếp xúc với một cái xác phàm được sinh động giả tạo, mà linh hồn đă thoát ly đi mất trong trận chiến Mentana khi bà bị tử thương trầm trọng do năm vết đâm hiểm nghèo bằng vũ khí sắc bén, sau đó bà được vớt xác ra khỏi một cái hố sâu và coi như đă chết?

Giả thuyết ấy không phải là hoàn toàn vô lư, bởi v́ có một sự kiện lịch sử tương tự đă từng xảy ra. Đó là trường hợp của cô Mary Reynold, mà linh hồn đă thoát xác trong khoảng thời gian bốn mươi hai năm, trong khi đó thể xác của cô bị chiếm đóng bởi một nhân vật khác không hề hay biết ǵ về những kinh nghiệm và kư ức của cô trong mười tám năm qua trước khi có sự thay hồn đổi xác này.

C̣n nói về trường hợp bà HPB, tôi không cả quyết mà chỉ lư luận thôi, v́ tôi không dám nói một cách chắc nịch rằng một kỳ nữ như bà là ai. Bà thật là một nhân vật kỳ bí đầy những yếu tố mâu thuẫn trái ngược, tuyệt đối không thể sắp hạng hay phân loại như bất cứ một người nào trong chúng ta là những nhân vật thường t́nh, đến nỗi v́ bản tính thận trọng, tôi phải dè dặt không thể đưa ra một lư luận nào có tính cách đề quyết, khẳng định.

Bất cứ điều ǵ bà đă nói với tôi hay với một người nào khác, đối với tôi thật không đáng kể bao nhiêu, bởi v́ đă từng sống chung và cùng đi công tác lưu động với bà những bao lâu nay, và vẫn có mặt trong bao nhiêu những cuộc hội kiến của bà với những người khác, tôi đă từng nghe bà kể những chuyện vô cùng mâu thuẫn về cuộc đời bà. Đó là bởi v́ một lư do nghiêm trọng.

Một thái độ dễ dăi, cởi mở với người đối thoại có thể làm cho bà vô t́nh tiết lộ nơi cư trú và bản chất, cá tính của các đấng Chân Sư cho những kẻ thế nhân phàm tục, mà những ư đồ riêng tư, ích kỷ cùng những sự quấy rầy, phiền nhiễu của họ đă từng làm cho các nhà đạo sĩ Yogi phải lánh ḿnh t́m nơi ẩn trú trên non cao rừng thẳm.

Để giải quyết sự khó khăn ấy, bà đă chọn lấy một lối thoát dễ dàng là tự phát ngôn mâu thuẫn với ḿnh để làm cho tâm trí người đối thoại bị hoang mang mờ mịt. Xin kể một thí dụ: Bà đă có thể nói dễ dàng cho ông Sinnett (Phó Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học) biết rằng khi bà t́m cách đột nhập vào xứ Tây Tạng hồi năm 1854 xuyên qua xứ Bhutan hay Népal, bà đă bị Đại Úy (hiện nay là Thiếu Tướng) Murray, chỉ huy biên khu thuộc địa phận ấy, bắt trở lại và đem về giữ trong nhà làm bạn với vợ ông ta trong một tháng.

Nhưng bà không bao giờ kể lại chuyện ấy, và không một ai trong số những bè bạn thân hữu của bà đă từng nghe nói về việc này. Măi về sau, ông Edge và tôi mới được nghe câu chuyện ấy do chính Thiếu Tướng Murray kể lại vào ngày 3 tháng 3 vừa qua trên chuyến xe lửa từ Nalhati đi Calcutta, và tôi đă cho đăng trong tạp chí của Hội.

C̣n nói về tuổi tác của bà, th́ bà kể đủ mọi thứ chuyện, nó làm cho bà lên đến hai mươi, bốn mươi, chí đến sáu mươi và bảy mươi tuổi cao hơn tuổi thật của bà. Chúng tôi c̣n giữ những thư từ văn kiện về chuyện này do những khách viếng thăm và những phóng viên các báo tường thuật lại sau những cuộc hội kiến riêng với bà, trong nhiều buổi diện kiến mà chính tôi có tham dự.

Để tự bào chữa, bà nói với tôi rằng những Nhân Vật giáng lâm và ngự trong thể xác của bà trong những dịp đó đều có tuổi tác y như thế, và thế là bà nói không có sai, trong khi người đối thoại chỉ nh́n thấy có cái thể xác của bà và tưởng rằng câu chuyện bà nói chỉ áp dụng cho cái xác phàm đó mà thôi!



Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1123 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 8:27am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde





HỒI KƯ H.S. OLCOTT




II. Trên đây tôi có dùng chữ “ám ảnh” (obsession), nhưng tôi biết rơ sự thiếu sót ư nghĩa của nó trong trường hợp này. Cả hai danh từ “ám ảnh” (obsession) và “chiếm hữu” (possession) đều được dùng để nói lên sự quấy phá một người c̣n sống bởi ma quỷ hay những vong linh bất hảo.

Một người bị ám ảnh (obsession)là người bị quấy phá, hay vây phủ, c̣n một người bị chiếm hữu (possession) là người bị tà ma quỷ mị nhập xác, kiểm chế, ngự trị. Tôi tự hỏi những vị cố đạo thời xưa không đặt ra một danh từ tốt đẹp hơn để chỉ việc chiếm hữu, kiểm chế, ngự trị, hay nhập xác một người bởi những thần linh hay vong linh tốt lành?

Nhưng điều ấy không giúp cho chúng ta được bao nhiêu trừ khi chúng ta không biết đến những trường hợp mà đôi khi thể xác bà HPB bị những thực thể khác chiếm đóng. Câu chuyện sau đây sẽ cho thấy đến mức độ nào.

Một buổi chiều mùa hạ, bà HPB và tôi cùng có mặt trong văn pḥng làm việc của chúng tôi tại New York. Trời chưa tối, nên chúng tôi chưa thắp đèn lên. Bà ngồi gần bên cửa sổ, c̣n tôi đứng. Bỗng nhiên tôi nghe bà nói:

“Hăy nh́n xem để học”

Tôi day đầu nh́n lại và thấy một đám mây mù bốc lên từ đầu và vai của bà. Trong chốc lát, nó tượng h́nh một vị Chân Sư, vị này về sau đă cho tôi cái khăn bịt đầu lịch sử của ngài, nhưng lúc ấy th́ chỉ là một h́nh bóng như sương mờ. Mải chăm chú nh́n hiện tượng ấy, tôi đứng yên không cử động.

Cái bóng chỉ tượng h́nh có nửa phần trên thân ḿnh, rồi lu mờ dần và biến mất; nó có được thu hồi trở về bên trong thể xác bà HPB hay không, th́ tôi cũng không biết. Bà ngồi yên như pho tượng trong đôi ba phút, sau đó bà thở dài một cái, trở lại trạng thái b́nh thường, và hỏi tôi có thấy ǵ không.

Khi tôi yêu cầu bà giải thích hiện tượng ấy, th́ bà từ chối và nói rằng tôi phải khai mở trực giác để t́m hiểu những hiện tượng của cái thế giới mà tôi đang sống. Bà chỉ có thể giúp đỡ bằng cách cho tôi xem thấy những hiện tượng nọ kia, rồi để cho tôi tự t́m hiểu lấy tùy khả năng của ḿnh.

Nhiều nhân chứng đă có thấy một hiện tượng khác nữa, nó có thể hoặc không chứng minh rằng những thực thể khác đôi khi cũng đă nhập xác bà HPB. Trong năm lần khác nhau, một lần để làm vui ḷng một vị nữ khách, và một lần cho em gái tôi là Mitchell, bà HPB đă gom trên đầu một lọn tóc mịn màu nâu lợt và dợn song của bà, rồi lấy kéo cắt và đưa cho một người trong chúng tôi.

Nhưng lọn tóc ấy khi cắt ra th́ nó lại thô cứng, thẳng tuột và đen như huyền chứ không c̣n dợn song hay quăn chút nào, tức là tóc của người phương Đông hay người châu Á chứ không giống chút nào như những lọn tóc mịn như tơ, màu nâu lợt và dợn song của bà.

Tôi c̣n cất giữ hai lọn tóc cắt ra từ trên đầu bà, cả hai đều đen như huyền và thô cứng hơn tóc bà rất nhiều, nhưng có một lọn lại thô cứng hơn lọn kia một cách rơ rệt. Lọn trước là tóc của người Ai Cập, c̣n lọn sau là tóc của người Ấn Độ.

Hiện tượng này c̣n có cách giải thích nào khác hơn là giả thiết rằng những người đàn ông có hai lọn tóc đó đă thật sự nhập xác bà HPB trong hai lần khác nhau khi mà những lọn tóc ấy được cắt ra?

Vấn đề nhập xác một người c̣n sống, bởi những người cũng c̣n sống, tuy là một việc hoàn toàn xa lạ đối với người Tây Phương đến nỗi họ không có một danh từ nào trong ngôn ngữ của họ để chỉ việc đó, vốn đă được biết rơ và định nghĩa ở Ấn Độ.

Người Ấn gọi hiện tượng đó là Àvesa, tức là việc chiếm hữu, nhập xác, ngự trị xác thân của một người sống. Hiện tượng đó có hai loại: khi người đạo sĩ xuất vía ra khỏi thể xác ḿnh và nhập vào xác một người khác, đó gọi là svarupàvesa.

C̣n khi nào người đạo sĩ dùng ư chí của ḿnh để tác động ảnh hưởng hoặc chế ngự thể xác của người khác để làm những việc hoàn toàn vượt ra ngoài khả năng của người kia, thí dụ như nói một tiếng ngoại ngữ chưa từng học, hiểu được những ngành học thuật không hề quen biết, đột nhiên tàng h́nh trước mắt mọi người, biến thành một vật h́nh thù đáng sợ, chẳng hạn như một con rắn hay một thú dữ, v…v…, th́ đó gọi là saktyàvesa.

Cái quyền năng đó chỉ áp dụng cho sự tác động tâm linh giữa hai người c̣n sống, hay sự “nhiếp” tư tưởng và gây nguồn cảm hứng cho một người sống bởi một thực thể tâm linh có tŕnh độ cao hơn, chứ nó không nên bị hạ thấp ư nghĩa để chỉ việc nhập xác một đồng tử bởi một vong hồn người chết để tạo nên các hiện tượng.

Trường hợp sau này gọi là “gràhana”, và vong hồn người chết được gọi là “graham”. Danh từ này cũng được dùng để chỉ việc nhập xác một người sống bởi một TINH LINH NGŨ HÀNH. Hiện tượng này cũng có hai trường hợp khác nhau. Sự nhập xác ấy có thể:

a) TÁC ĐỘNG TỰ NHIÊN, do sự thu hút, hấp dẫn một tinh linh đến với người đồng tử.

b) TÁC ĐỘNG CƯỠNG CHẾ, do sự cưỡng ép bằng ư chí của một vị thuật sĩ hay phù thủy biết rơ những chân ngôn thần chú để sai khiến các loại âm binh.

Chúng tôi thấy trong Thánh Kinh Pàncharàtra Pàdma-samhita Charyàpada của Ấn Độ, chương 24, có những huấn thị đầy đủ về sự thực hành thuật nhập xác (Avesa) như sau:

“Nay ta dạy cho người biết, hỡi hành giả, phương pháp nhập xác một người khác….Cái thể xác ấy phải được tinh khiết, tươi tốt, độ trung niên, có tất cả những tính chất tốt và không bị những chứng ác bệnh do tội lỗi gây ra (như bệnh cùi, bệnh phong t́nh,v…v…).Xác thân ấy phải là của người Bà La Môn hay người Kshatriya (thuộc giai cấp quư tộc).

Nó phải được đặt ở một nơi vắng vẻ,(để tránh nguy cơ bị gián đoạn trong khi thực hành các nghi thức),mặt ngửa lên trời và hai chân duỗi thẳng. Ngồi một bên, ngươi phải giữ tư thế YOGASANA (một tư thế của pháp môn Yoga), nhưng trước khi đó, hỡi hành giả, ngươi phải đă có tập luyện cái quyền năng tập trung tư tưởng vào một mục tiêu nhất định.

Thần thức (jiva) vốn ngự ở chỗ VĨ LƯ QUAN tức là Luân Xa nơi Rún (nàbhichakra), nó sáng rực như mặt trời, có h́nh dáng như con hạc (hamsa)(*)[10] và di chuyển dọc theo những đường vận hà Idâ và Pingala. Sau khi nó đă được tượng h́nh con hạc(*) bằng cách tập trung tư tưởng theo pháp môn Yoga, nó sẽ thoát ra do hai lỗ mũi, và như một con chim, nó sẽ phóng ra ngoài không gian.

Ngươi phải tập cho quen phép này, là phóng luồng Sinh Khí (Prâna) cho bay lên tới ngọn cây, đưa nó đi xa một dặm, hay năm dặm, hay hơn nữa, rồi thu hồi nó trở về thể xác ngươi xuyên qua hai lỗ mũi, và trả nó lại vị trí cũ ở Luân Xa nơi Rún. Phép này phải được tập luyện hằng ngày cho đến khi đạt tới mức tuyệt hảo”.

Kế đó, sau khi đă sở đắc được cái bí thuật đó rồi, người đạo sĩ có thể thực nghiệm phép nhập xác. Khi đă ngồi theo tư thế nói trên, y mới rút luồng sinh khí (Prâna-jiva) ra khỏi thể xác y, và đem nó vào cái thể xác đă chọn làm mục tiêu do nơi hai lỗ mũi, dẫn nó đi xuống măi cho đến khi nó lọt vào bí huyệt vĩ lư quan hăy c̣n bỏ trống, rồi trụ nó vào Luân Xa nơi Rún, để cho người chết được phục hồi sinh khí và làm cho người ta thấy rằng y đă sống lại.

Mọi người đều biết câu chuyện nhà Hiền Giả Sankarâ đă phục sinh cho cái xác chết của vua Amaraka ở thành Amritapura, do Mâdhava, nhà chép tiểu sử của ông thuật lại. Để trả lời những câu hỏi của Mandana Misra phu nhân về khoa học Ái T́nh, mà ông hoàn toàn mù tịt v́ ông vẫn sống độc thân từ khi c̣n nhỏ, nhà Hiền Giả hẹn sẽ giải thích đáp trong ṿng một tháng. Kế đó, trong một chuyến đi ngao du với các đệ tử đến gần thành Amritapura, ông nh́n thấy cái xác chết của nhà vua đặt nằm dưới gốc cây, giữa một đám thần dân vây chung quanh đang than khóc.

Nghĩ rằng đây là một cơ hội tốt để thâu thập những kiến thức về t́nh dục mà ông c̣n thiếu sót, Đạo Sư Shankara bèn giao cái thể xác của ông cho các đệ tử coi sóc, rồi xuất vía rồi nhập vào xác chết của vua, làm cho nó hồi sinh trở lại giữa sự reo mừng của đám cận thần ở chung quanh.

Kế đó, Đạo Sư được đưa trở về kinh đô, và trong một thời gian đă trải qua cuộc sống b́nh thường của một ông vua giữa những phi tần cung nữ trong tam cung lục viện và sau cùng ông đă giải đáp những câu hỏi về ái t́nh.

Bộ sách SANKARAVIJAYA của nhà chép tiểu sử Mâdhava viết như sau:

“SAU KHI RÚT LUỒNG SINH KHÍ (PRÂNA VAYU) TỪ ĐẦU CÁC NGÓN CHÂN TRỞ LÊN CHO THOÁT RA NGOÀI XUYÊN QUA NÊ HUỜN CUNG, TỨC LUÂN XA TRÊN ĐỈNH ĐẦU (BRAHMARÂNDHRA), ĐẠO SƯ SHANKARA MỚI TỪ TỪ, TỪNG GIAI ĐOẠN CHẬM RĂI, NHẬP VÀO XÁC CHẾT CỦA NHÀ VUA DO NÊ HUỜN CUNG VÀ CHIẾM ĐÓNG TRỌN VẸN TỪ ĐẦU ĐẾN CHÂN”.

Nhân dịp soạn lại tập hồ sơ cũ,tôi đă t́m thấy một trang nhật kư cũ trong đó có ghi lại một cuộc đối thoại giữa tôi với một vị Chân Sư có quốc tịch Hung Gia Lợi, đă mượn xác bà HPB buổi tối hôm đó. Trang nhật kư ấy viết như sau:

“NGÀI LẤY TAY CHE MẶT VÀ HẠ THẤP BẤC ĐÈN ĐẶT TRÊN BÀN. TÔI HỎI NGÀI TẠI SAO? NGÀI NÓI RẰNG ÁNH SÁNG LÀ MỘT MĂNH LỰC VẬT CHẤT, NẾU ĐỂ LỌT VÀO MẮT CỦA MỘT THỂ XÁC BỊ MƯỢN TẠM, SẼ VA CHẠM ĐẾN THỂ VÍA CỦA NGƯỜI MƯỢN XÁC, GÂY CHO NÓ MỘT SỰ KHÍCH ĐỘNG MẠNH VÀ MỘT SỨC ĐẨY ĐỘT NGỘT ĐẾN MỨC LÀM CHO VÍA NGƯỜI MƯỢN XÁC CÓ THỂ BỊ ĐẨY BẬT RA NGOÀI. THẬM CHÍ NÓ C̉N CÓ THỂ LÀM CHO CÁI THỂ XÁC KIA BỊ TÊ LIỆT.

KHI NHẬP XÁC MỘT NGƯỜI KHÁC, PHẢI RẤT VÔ CÙNG THẬN TRỌNG. NGƯỜI TA KHÔNG THỂ TỰ ĐỒNG HÓA VỚI CÁI THỂ XÁC ẤY MỘT CÁCH HOÀN TOÀN CHO ĐẾN KHI NÀO NHỮNG SỰ VẬN ĐỘNG TỰ NHIÊN VÔ THỨC CỦA NHỮNG BỘ MÁY TUẦN HOÀN, HÔ HẤP V…V…, ĐĂ ĐƯỢC ĐIỀU CHỈNH CHO THẬT ĂN KHỚP VỚI NHỮNG ĐỘNG TÁC TRONG CƠ THỂ CỦA NGƯỜI MƯỢN XÁC, MÀ CÁI THỂ XÁC CỦA NGƯỜI NÀY, DÙ Ở CÁCH ĐÓ BAO XA ĐẾN ĐÂU, VẪN CÓ LIÊN HỆ VÔ CÙNG MẬT THIẾT ĐẾN CÁI THỂ VÍA ĐĂ XUẤT RA.

KHI ĐÓ, TÔI MỚI THẮP SÁNG NGỌN ĐÈN TREO LỦNG LẲNG TRÊN TRẦN NHÀ, NHƯNG CHÂN SƯ LIỀN CẦM LẤY MỘT TỜ NHẬT BÁO CHE TRÊN ĐỈNH ĐẦU. TÔI NGẠC NHIÊN VÀ YÊU CẦU NGÀI GIẢI THÍCH LƯ DO, TH̀ NGÀI CHO BIẾT RẰNG ĐỂ ÁNH SÁNG TỪ TRÊN CAO RỌI XUỐNG ĐỈNH ĐẦU LẠI C̉N NGUY HIỂM HƠN LÀ ĐỂ ÁNH SÁNG RỌI VÀO MẮT”.

Hồi đó, tôi chưa biết ǵ về sáu bí huyệt hay Luân Xa trong thân thể con người. Tôi cũng không biết rằng Luân Xa quan trọng nhất trong những bí huyệt đó, tức Nê Huờn Cung (brahmarândhra), nằm ở dưới những xương sọ trên đỉnh đầu, và ở Ấn Độ, người ta có tục lệ chọc thủng cái xương sọ ở chỗ ấy khi đem hỏa tang xác chết để cho cái Vía người chết xuất ra được dễ dàng.

Hơn nữa, lúc đó tôi cũng chưa đọc câu chuyện Đạo Sư Shankara xuất vía và nhập vào xác chết của ông vua xuyên qua Nê huờn Cung là cái cửa ngơ của linh hồn.

Tôi chỉ nh́n thấy những động tác của vị Chân Sư, và cũng chưa hiểu rơ những lời giải thích của ngài tối hôm đó, nhưng bây giờ, với thời gian qua, điều bí hiểm đó đă được soi sáng và cả hai sự việc xảy ra ở New York và Amritapura đều có liên hệ hỗ tương với nhau.

Qua sự việc sau này, và những giáo lư của Huyền Học Ấn Độ, người ta có thể hiểu dễ dàng hơn điều bí mật của sự việc trước. Trước kia th́ mọi sự có vẻ tối tăm mờ mịt, và thậm chí người ta cũng không có đến một danh từ để giải thích sự việc ấy, nhưng nay người ta có thể thấy rằng bất cứ người nào tinh thông pháp môn Yoga đều có thể nhập xác một người khác c̣n sống, khi mà thể Vía của người này đă xuất ra và cái thể xác trống trơn được đặt dưới việc sử dụng của những bạn bè thân hữu đến viếng.

Tầm mức quan trọng của vấn đề này đối với việc mượn xác bà HPB thật đă hiển nhiên, như tôi sẽ cố gắng tŕnh bày trong phần kế tiếp.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1124 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 8:34am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde





HỒI KƯ H.S. OLCOTT




III. Đây xin trở lại vấn đề mượn xác của bà HPB, trong đó có một bằng chứng luôn luôn xuất hiện làm cho người ta phải chú ư. Hăy xét trường hợp vị Chân Sư A hay B đă “giáng lâm” qua thể xác bà HPB độ một giờ hay lâu hơn, đă viết vài đoạn trong quyển “VÉN MÀN ISIS” hoặc đơn phương hoặc với sự cộng tác của tôi, và vào một lúc nhất định, đă nói một điều ǵ đó với tôi hoặc với một trong những vị khách có mặt.

Th́nh ĺnh, bà (hay ngài?) ngừng nói chuyện, đứng dậy và, với một lời xin lỗi khách v́ một lư do nào đó, bèn rời khỏi pḥng trong giây lát. Sau đó bà trở lại, dáo dác nh́n quanh với đôi mắt bỡ ngỡ như một người lạ vừa bước vào một gian pḥng có đông người, vấn một điếu thuốc hút, và thốt ra những lời không có liên quan ǵ đến câu chuyện đă nói lúc năy.

Bà tỏ vẻ lúng túng, không thể nối tiếp câu chuyện đang bỏ dở, hoặc nói vài câu trái ngược hẳn với những ǵ bà vừa mới khẳng định, và khi có người nhắc lại cho bà biết việc ấy, bà lấy làm bực ḿnh và thốt lên những lời nói nặng nề. Hoặc khi được nhắc lại rằng hồi năy bà đă nói như vậy như vậy, th́ bà có vẻ trầm ngâm nghĩ ngợi giây lát và nói: “Ờ nhỉ, xin lỗi ông…”, rồi tiếp tục nói về đề tài đang bỏ dở.

Đôi khi bà có những sự thay đổi ư kiến như vậy mau như chớp, và v́ quên đi cái cá tính đa h́nh đa dạng của bà, chính tôi cũng đă lắm khi bực ḿnh về sự lư luận không nhất trí đó, khi bà mạnh dạn lên tiếng phủ nhận những điều mà bà đă tuyên bố một cách chắc chắn và rơ ràng chỉ một lúc trước đó.

Lần lần, tôi được giải thích cho biết rằng sau khi nhập xác một người khác (c̣n sống), cần phải có một thời gian ngắn để nối liền tâm thức của ḿnh với kư ức của nhân vật vừa xuất ra trước đó, chứ nếu không, mà cứ tiếp tục câu chuyện trước khi có sự điều chỉnh, th́ những sự lệch lạc như trên vẫn có thể xảy ra.

Điều này phù hợp với những ǵ Chân Sư đă nói với tôi tại New York về vấn đề nhập xác, và với sự diễn tả cách thức mà Đạo Sư Shankara nhập vào cái xác chết của vua Amaraka như đă nói trong bộ sách SHAKARAVIJAYA(

“Đạo Sư Shakara MỚI TỪ TỪ, TỪNG GIAI ĐOẠN CHẬM RĂI, nhập vào xác chết của nhà vua và chiếm đóng trọn vẹn từ đầu đến chân”.

Sự giải thích về việc điều chỉnh từ từ từng giai đoạn những động tác sinh lư trong hai cơ thể cho điều ḥa tiết điệu và ăn khớp với nhau c̣n nới rộng đến sự điều chỉnh của hai tâm thức, và khi nào chưa có sự ḥa hợp hoàn toàn, th́ đương nhiên phải có sự lộn xộn về tư tưởng, lư luận và kư ức như tôi đă diễn tả ở trên, và như phần nhiều những vị quan khách đến viếng bà HPB đă phải lấy làm vô cùng ngạc nhiên sửng sốt.

Thỉnh thoảng, khi chỉ có hai chúng tôi trong pḥng, th́ hoặc Nhân Vật sắp “thăng”, nói:

“Ta phải giữ điều này lại trong óc để cho vị đến sau Ta có thể theo dơi…”,

Hoặc Nhân Vật vừa giáng lâm, sau khi chào hỏi tôi bằng một lời thân mật, bèn hỏi tôi vấn đề đang thảo luận là vấn đề ǵ trước khi có sự “thuyên chuyển”.

Trong những bức thư của các Chân Sư viết cho tôi về bà HPB, các ngài thường đề cập đến cái xác phàm của bà như một cái khí cụ mà một trong các ngài đang sở hữu và dùng tạm. Trong quyển Nhật Kư của tôi năm 1878, tôi nhận thấy một đoạn kư sự đề ngày 12 tháng 10 do bút tích của Chân Sư M. viết qua tuồng chữ của bà HPB như sau:

“HPB mạn đàm với W. đến hai giờ sáng. W. tâm sự rằng y nh́n thấy nơi bà có đến BA CÁ TÍNH RƠ RỆT. Y BIẾT chắc như vậy, nhưng không muốn nói với Olcott về việc ấy, v́ y sợ rằng H.S. Olcott sẽ chế diễu y !"

Những chữ gạch đít và những chấm than đều chép lại đúng y nguyên văn. Chữ “W.” là nói ông Wimbridge, lúc đó là khách của chúng tôi.

Sở dĩ có đoạn văn do tay người khác viết trong tập Nhật Kư riêng của tôi, là v́ khi tôi rời khỏi New York v́ hoạt động nghề nghiệp, mà trong năm đó tôi phải đi vắng nhà đến nhiều lần, th́ bà HPB viết nhật kư thay cho tôi.

Cái tên “HPB” cũng phải được hiểu là những Nhân Vật mượn xác của bà trong mỗi lần nhất định. Trong đoạn nhật kư ngày hôm sau (13 tháng 10), cũng do một bàn tay ấy viết, sau khi điểm danh bảy người khách đến viếng thăm hôm đó, có sự ghi nhận như sau về một vị khách có mặt:

“Tiến Sĩ Pike nh́n thẳng vào mặt HPB nhiều lần, bèn giật ḿnh và nói rằng trên đời không có ai đă gây cho y một ấn tượng lạ lùng như thế. Có khi y nhận thấy nơi HPB một thiếu nữ độ mười sáu tuổi, có khi đó là một bà già một trăm tuổi, một lần khác đó lại là một người đàn ông có râu!”

Ngày 22 tháng 10, cũng một bàn tay ấy viết:

“N. (một vị Chân Sư) thăng, nhường chỗ cho S. (một vị Chân Sư) nhập vào (thể xác bà HPB). Vị sau này đến với mật lệnh của (*)[12] dạy phải hoàn thành tất cả vào ngày mùng 1 tháng 12” (để chúng tôi lên đường sang Ấn Độ)

Đoạn nhật kư ngày 4 tháng 11, cũng một tuồng chữ ấy viết:

“N. xuất ra, và M. giáng lâm với lệnh tối hậu của (*) dạy phải lên đường (sang Ấn Độ) từ ngày 15 đến 20 tháng 12 là trễ nhất”.

Tôi cũng có nhận được nhiều thơ của các Chân Sư nói về bà HPB với tư cách cá nhân của bà, đôi khi nói rất thành thật về những đặc điểm của bà, cả tốt lẫn xấu. Có một lần, tôi được các Chân Sư, với những huấn lịnh viết tay, giao sứ mạng kín cho tôi đi đến một thành phố khác để tạo nên một vài diễn biến cần thiết cho sự tiến hóa tâm linh của bà. Tôi vẫn c̣n giữ bức văn kiện đó.

Khi tôi đến tỉnh Rajputana năm 1879, tôi có nhận được một bức thư rất dài của các Chân Sư. Đó là một thông điệp đầy ḷng ưu ái, nhân từ, và nếu nó có liên quan đến cái đề mục của chúng ta bây giờ, th́ có lẽ tôi đă công bố trong sách này, để chứng minh tính chất cao siêu của sự trao đổi thơ từ giữa các Chân Sư với tôi trong nhiều năm liên tiếp.

Chính trong bức thơ đặc biệt đó Chân Sư đă giải đáp thắc mắc khi tôi bày tỏ sự ước muốn rút lui ra khỏi cuộc đời thế tục và đi theo các ngài. Tôi được trả lời rằng:

“Phương tiện duy nhất hiện có sẵn và ở trong tầm tay con để bước đến gần Chúng Ta là xuyên qua Hội Thông Thiên Học”

Tức là cơ quan mà tôi được lịnh phải xây dựng, củng cố và phát triển. Tôi phải tập sống hoàn toàn vô kỷ, vị tha. Chân Sư nói thêm:

“Không một ai trong Chúng Ta sống cho riêng ḿnh, mà tất cả đều sống cho nhân loại”.

Đó là cái tinh thần rốt ráo, tối hậu, chứa đựng trong tất cả những lời giảng dạy của Chân Sư gởi cho tôi, và đó cũng là cái lư tưởng xuất hiện bàng bạc khắp nơi trong bộ sách “VÉN MÀN ISIS”.

Giáo lư chứa đựng trong bộ sách này có thể tóm tắt đại lược như sau:

“Con Người có một tính chất phức tạp, gồm cả hai phương diện cực đoan, một đàng là những thú tính thấp hèn, một đàng là tính chất thiêng liêng cao quư. Sự sống duy nhất chân thật và toàn mỹ, thoát ly khỏi mọi ảo giác, ngoài ṿng tục lụy, khổ đau, bởi v́ nơi đó không có sự Vô Minh, ấy là sự sinh hoạt tinh thần, tức của Chân Ngă.”

Bộ sách ấy giúp cho con người có một đời sống trong sạch, cao thượng; nó giúp cho sự mở trí và khai mở ḷng từ bi bác ái đối với muôn loài vạn vật; nó chỉ cho người đời thấy con đường Đạo diệu huyền.

Con đường Đạo ấy luôn luôn mở rộng cho những người thiện chí, khôn ngoan và dung cảm. Bộ sách ấy cũng truy nguyên tất cả mọi kiến thức và hiểu biết của chúng ta hiện nay đến những nguồn gốc xa xưa của thời thái cổ; nó cũng khẳng định sự hiện diện luôn luôn hằng có từ xưa đến nay của các đấng Chân Sư và của khoa học Huyền Môn; nó c̣n đem đến cho chúng ta một nguồn khích lệ và một lư tưởng cao siêu để cho chúng ta cố gắng đạt tới, ngơ hầu có thể thực hiện sự tiến hóa tâm linh của ḿnh.

Khi bộ “VÉN MÀN ISIS” vừa xuất bản, nó đă gây khích động trong quần chúng đến mức bản in đầu tiên năm ngàn cuốn đă bán hết sạch trong ṿng mười ngày. Tiến Sĩ Shelton Mackenzie, một trong những nhà phê b́nh tài ba nhất thời đó, viết rằng:

“Đó là một trong những công tŕnh dáng kể nhất về tư tưởng xuất chúng, công phu sưu tầm tỉ mỉ, và cách tŕnh bày đạo lư, triết học bao gồm một học lực uyên thâm, quảng bá chưa từng thấy từ nhiều năm nay”.(Phila. Press, 9.1.1887).

Nhà phê b́nh văn nghệ của nhật báo New York Herald ra ngày 30 tháng 9 năm 1877 nói rằng:

“Những tâm hồn tự do độc lập sẽ hoan nghinh công tŕnh mới xuất bản này như một sự đóng góp sáng giá nhất vào nền văn chương Đạo Lư”.

Ông viết tiếp:

“Với những đặc điểm lạ lùng, những luận điệu phong phú, táo tợn, và những đề mục dồi dào bất tận mà tác giả đă triển khai một cách vô cùng linh hoạt và hấp dẫn, bộ sách này là một công tŕnh sáng tạo độc đáo phi thường của thế hệ”.

Một sự kiện cụ thể là bộ sách “VÉN MÀN ISIS” nay đă trở nên một tác phẩm cổ điển khuôn mẫu, nó đă được tái bản nhiều lần, và hiện nay, sau một thời gian mười bảy năm đă trôi qua, vẫn đang được nhu cầu ở khắp nơi trên thế giới. Một tác giả Mỹ đă phát biểu ư kiến mà tôi cho là đúng nhất, khi ông nói rằng:

“Đó là một bộ sách bao gồm cả một cuộc cách mạng tư tưởng trong đó”.



Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1125 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 8:38am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde





HỒI KƯ H.S. OLCOTT




CHƯƠNG MƯỜI

NHỮNG QUAN ĐIỂM ĐỐI NGHỊCH

I. Như đă kể trước đây, trong những thuở ban đầu của hội Thông Thiên Học, chúng tôi có trao đổi thư từ với những nhà trí thức trên thế giới. Trong số đó có hai người đă trở nên những bạn thân của chúng tôi, là C.C.Massey và Stainton Moses, mà chúng tôi c̣n lưu lại nhiều kỷ niệm tốt đẹp.

Stainton Moses là một nhà Thần Linh Học tiến bộ và có tŕnh độ văn hóa cao. Y bắt đầu khảo cứu về các hiện tượng đồng tử với mục đích t́m hiểu sự thật, nhưng không bao lâu y nhận thấy rằng chính y lại là một đồng tử mà y cũng không ngờ, và có những hiện tượng thuộc về loại kỳ lạ nhất.

Những hiện tượng ấy xảy ra bất cứ ngày đêm, dù trong lúc y chỉ có một ḿnh hay có người chung quanh. Thế là không bao lâu, tất cả những sở đắc về khoa học và triết lư mà y đă thâu thập được ở trường đại học Oxford đă trở nên tan tành như mây khói, và y đành phải chấp nhận những lư thuyết mới về vật chất và sức mạnh, về cơi thiên nhiên cũng như về con người.

Những hiện tượng của y thật vô cùng phong phú và lạ lùng, cả về phương diện vật chất và tâm linh. Chúng phản ảnh nơi phẩm chất thanh cao của những giáo lư mà y tiếp nhận được, và y quyết định không tin bất cứ giáo điều nào được chuyển đạt cho y bởi những thần linh khuất mặt trong cơi vô h́nh mà y không hiểu được một cách hoàn toàn rơ rệt.

Phần lớn những giáo lư ấy, S. Moses nhận được bằng những cơn giáng bút tự động viết qua chính bàn tay của y. Trong khi y đang chăm chú đọc sách hay nói chuyện, th́ bàn tay mặt của y tự động viết liên tục trong độ nửa giờ hay một giờ, và khi y nh́n lên những trang giấy đă viết đầy chữ, th́ thấy đó là những tư tưởng độc đáo, mới lạ, hoàn toàn khác hẳn với những ǵ y đă tin tưởng từ trước đến nay, hoặc giải đáp thỏa đáng những câu hỏi hay nghi vấn của y đă đưa ra trong một lần trước.

Y luôn luôn tin tưởng và tuyên bố một cách hào hứng trong những bức thư của y gởi cho chúng tôi, rằng cái trí lực điều khiển bàn tay của y để giáng bút vốn không phải là của y, cũng không phải là cái tâm thức của y, dù hữu thức hay tiềm ẩn, mà chỉ là trí lực của những thực thể tâm linh hay đấng vô h́nh náo đó.

Y c̣n nói rằng y biết rơ những đấng ấy qua h́nh dáng (bằng thần nhăn), qua giọng nói (bằng thần nhĩ), và tuồng chữ viết một cách rơ ràng không thể lầm lẫn cũng như y biết những người c̣n sống.

Trong số những hiện tượng chung của cả hai người, có việc làm cho những tiếng “chuông thần” reo nhẹ trong không gian; việc sản xuất hương thơm phảng phất trong không khí; những ánh sáng chập chờn bay lượn trên không trung, việc phóng xuất ra chữ viết trên mặt giấy ngoài tầm tay của đương sự.

Việc tạo ra những loại đá quư và những vật thể khác; âm nhạc reo trong không khí; những mùi hương lạ của Đông Phương thơm nức mỗi khi có sự hiện diện vô h́nh của những đấng Cao Cả hay bậc đạo gia ưu tú ở gần bên; việc S.moses nh́n thấy trong chất Tinh Quang những điểm ánh sáng có màu xếp theo h́nh tam giác, làm thành mật hiệu của Tập Đoàn Tiên Thánh phân bộ Á Đông.

Và sau cùng, là quyền năng xuất vía một cách ư thức và trở về tái nhập vào thể xác sau một chuyến ngao du trong cơi vô h́nh. Sự giống nhau mật thiết như vậy về những kinh nghiệm huyền linh đương nhiên là tạo nên một sự thích thú hỗ tương mạnh mẽ giữa hai nhà thông linh ưu tú.

Tự nhiên là S.Moses rất ước mong tiếp nhận được mọi sự chỉ dẫn hay huấn thị mà bà HPB có thể đưa ra để giúp đỡ y hiểu biết thêm về thế giới vô h́nh và hoàn toàn làm chủ cái tính chất thông linh của y, mà sự huấn luyện tâm linh hoàn bị trên đường Đạo bắt buộc cần phải có.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1126 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 8:42am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde





HỒI KƯ H.S. OLCOTT




II. Thật không ǵ trái ngược nhau cho bằng những quan điểm của các nhà Thần Linh Học Tây Phương và của người Đông Phương nói chung về vấn đề giao tiếp với người chết.

Người Tây Phương khuyến khích những việc đó, và thường cố gắng phát triển khả năng đồng tử của chính họ hay của những người trong gia đ́nh họ để làm tṛ tiêu khiển mua vui. Họ ủng hộ nhiều tạp chí thần linh học và xuất bản nhiều sách vở để tŕnh bày và lư luận về những hiện tượng của họ, và dẫn chứng những hiện tượng này như là nền tảng khoa học của lư thuyết về cuộc đời sau.

Người Đông Phương, trái lại, coi việc giao tiếp với người chết như một sự đọa lạc của linh hồn, có tác dụng vô cùng tai hại đối với người chết lẫn người sống, làm ngăn trở sự tiến hóa tự nhiên của linh hồn và làm tŕ hoăn sự giác ngộ tâm linh.

Ở các nước Âu Mỹ, người ta thường gặp trong các buổi họp đàn những người thuộc đủ mọi thành phần, những người có học thức, thanh cao, sang trọng, tinh khiết, cũng như những đối tượng trái ngược lại. Ở phương Đông, như ở xứ Ấn Độ nói chung những người đồng tử và các nhà phù thủy chỉ được sự bảo trợ của những người thuộc giai cấp hạ tiện (pariah) và bất khả tiếp xúc.

Ở phương Tây vào thời buổi hiện đại, người ta thường tỏ vẻ vui mừng thay v́ lo buồn khi họ phát hiện ra một đồng tử trong gia đ́nh họ, c̣n ở Ấn Độ nó bị coi như một điều ô nhục, một tai họa, một điều mà họ phải lấy làm bi thảm và giải trừ càng sớm càng hay.

Tất cả các dân tộc Đông Phương, gồm người Ấn Giáo, Phật Tử, Hỏa Giáo, Hồi Giáo, thảy đều đồng một quan niệm về vấn đề này do ảnh hưởng của truyền thống tổ tiên cũng như do những giáo lư chứa đựng trong các Thánh Kinh của tôn giáo họ.

Không phải chỉ có sự giao tiếp với người chết mới bị ngăn cấm mà thôi, mà luôn cả việc phô trương những phép tắc thần thông do sở đắc tự nhiên hay do sự phát triển nhờ công phu tu luyện.

Bởi vậy, người Bà La Môn Ấn Độ sẽ nh́n bằng cặp mắt không tán thành những hiện tượng mầu nhiệm của Stain-ton Moses, nhà đồng tử trí thức, cũng như của HPB, nhà phương sĩ có bản lĩnh cao cường.

Không cần biết đến sự t́m ṭi khảo cứu các vấn đề thông linh như một nhu cầu thúc đẩy trên phương diện trí thức, và vốn có những h́nh thức tôn giáo dựa trên căn bản tinh thần họ không đặt vấn đề lấy những hiện tượng thần thông làm bằng chứng cho sự bất tử của linh hồn.

Trái lại, họ ghê tởm người đồng tử bị ám ảnh như một sự ô uế tâm linh, và bớt kính trọng những người có quyền năng thần bí, nhưng lại đem ra phô trương, biểu diễn trước mắt mọi người.

Sự phát triển những quyền năng thần bí là hậu quả tự nhiên của công phu tu luyện. Có tám thứ quyền năng loại cao (Ashta Siddhis) thuộc về tŕnh độ tâm linh siêu đẳng, là sở đắc của các vị đạo sĩ chân tu bên Chánh Đạo. Ngoài ra, c̣n có mười tám thứ quyền năng (hay nhiều hơn nữa) thuộc về cơi trung giới và hạ giới hồng trần, là sở đắc của những thuật sĩ hay phù thủy bên Bàn Môn Tả Đạo.

Như vậy, người ta sẽ nhận thấy rằng trong khi những hiện tượng thần thông của bà HPB làm cho những đệ tử và bạn bè thân hữu Tây Phương của bà thán phục và tôn sùng, và gây nên sự hoài nghi lẫn ác ư của những kẻ đối nghịch, th́ chính những sự biểu diễn đó hạ thấp bà trong dư luận của những đạo gia và học giả chính thống của Ấn Độ và Tích Lan, như là dấu hiệu của tŕnh độ tâm linh thấp kém.

Đối với họ, không hề có nghi vấn nêu ra về sự thật của các hiện tượng, v́ tất cả những sự huyền linh ấy đều đă được thừa nhận và ghi chép trong các Thánh Kinh của họ. Đồng thời, trong khi sự biểu diễn những hiện tượng thần thông trước công chúng bị chỉ trích, lên án, th́ một mặt khác, khi người ta được biết rằng một vị đạo sư có những quyền năng thần bí, điều ấy lại càng làm tăng thêm giá trị của ông ta như những dấu hiệu của sự phát triển tâm linh thật sự.

Nhưng quy luật chung vẫn là một bậc đạo sư không nên đem phô trương những quyền năng của ḿnh dẫu cho trước mặt các đệ tử, trừ phi họ đă đạt tới một tŕnh độ tâm linh vững chắc để có thể hiểu được mọi điều lợi hại của vấn đề.

Trong thiên Tiểu Phẩm (Kullavagga) của Phật Giáo, có tường thuật chuyện sau đây:

Một vị phú thương ở Vương Xá Thành cho người treo một cái chén đẽo bằng cây mộc hương trên ngọn cây tre để làm giải thưởng cho vị Sa Môn hay Bà La Môn nào có quyền năng khinh thân lên cao để lấy cái chén ấy xuống.

Một vị sư tăng danh tiếng tên là Pindala Bharadvaga nhận cuộc thử thách, bèn chuyển ḿnh vượt lên không trung, bay lượn ba ṿng trên thành Vương Xá rồi gỡ lấy cái chén từ trên ngọn cây tre đem xuống đất.

Công chúng đứng xem bèn hoan hô inh ỏi và lấy làm bái phục nhà sư. Việc ấy đến tai Đức Phật, ngài bèn triệu tập một buổi họp riêng với các đệ tử và quở trách Pindala như sau:

“Nhà ngươi đă làm một việc vi phạm luật lệ nhà chùa: Đó là một hành động bỉ ổi, bất nhă, không xứng đáng với một vị Sa Môn. Cũng như một gái điếm bán ḿnh v́ một đồng tiền xấu xa nhơ nhớp, nhà ngươi đem phô trương phép thuật thần thông cũng chỉ v́ một cái chén gỗ bẩn thỉu, đê tiện.

Việc ngươi đă làm chẳng những không cải hóa được những kẻ chưa quy y Phật Pháp, hay làm cho những kẻ đă quy y Phật Pháp càng tang thêm; mà trái lại, nó làm cho những kẻ chưa quy y vẫn không chịu quy y , c̣n những kẻ đă quy y Phật Pháp th́ trở lại hoàn tục!”

Kế đó, Phật mới đưa ra một kỷ luật nghiêm nhặt: “Hởi các t́ kheo, các ngươi không bao giờ được biểu diễn phép thần thông trước công chúng nữa”.

Cũng trong thiên Tiểu Phẩm, có chỗ nói rằng nhà sư Devadutta bị ngăn trở trên đường tu luyện tới quả vị La Hán bởi v́ ông ta đă đạt được vài quyền năng hạ cấp, rồi lấy làm măn nguyện và tưởng rằng ḿnh đă đạt tới tuyệt đỉnh trên đường Đạo. Trong bản luận kinh Yoga Sutra của Patanjali, nói về sự phát triển quyền năng thần bí, Tiến Sĩ R.Mitra viết:

“Những phép thuật thần thông diễn tả trong kinh ấy đều là những điều phàm tục, chúng được nhu cầu v́ mục đích thỏa măn những ước vọng phàm trần, nhưng hoàn toàn vô ích cho sự công phu thiền định ở cấp bậc thượng thừa, v́ hành giả nhắm sự cô lập làm mục tiêu.

Những phép tu luyện ấy không những là vô ích, mà c̣n là những chướng ngại thật sự, v́ chúng làm quấy động sự yên lặng tĩnh mịch trong cơn tham thiền”.

Người ta thường không hiểu rằng sự phát triển những năng khiếu thần thông có một mối quan hệ đối với Chân Ngă cũng giống như sự liên hệ của năm giác quan đối với phàm ngă con người.

Cũng như người ta phải tập chế ngự giác quan cho bớt bị loạn động và bớt nhiễm trần, để tập trung mọi tư tưởng vào một vấn đề khoa học hay triết học thâm sâu, th́ cũng y như thế, người hành giả theo pháp môn tu huệ để đạt tới Minh Triết phải kiểm chế những tác động của các năng khiếu thần nhăn, thần nhĩ...…để giữ cho được nhất tâm bất loạn và thẳng tiến đến mục đích, thay v́ để tư tưởng vẩn vơ đi lạc vào những lối rẽ, khúc quanh của chốn mê đồ mờ mịt do những năng khiếu thần thông ấy vừa hé mở cho y.

Xưa nay tôi chưa hề thấy điểm ấy được vạch rơ bao giờ, tuy vậy đó là một điếu tối quan trọng mà người ta phải biết. V́ không biết cái định luật tâm linh đó, nên các nhà linh thị như Swedenborg, Davis, các vị Thánh Gia Tô và những tu sĩ linh thông của tất cả các tôn giáo khác đều đă bị kinh ngạc, sửng sốt, lảo đảo,ngây ngất như điên như dại khi những linh ảnh xuất hiện và diễn ra trước mắt họ như cuốn phim chiếu trên Tiên Thiên Khí Ảnh.

Những sự vật mà họ nh́n thấy trong cơi vô h́nh thật khó phân biệt thực hư, chân giả; thường th́ họ lấy giả làm chân, lấy hư làm thực, thế rồi họ phát ngôn những lời tiên tri vụn vặt về thời thế, những mặc khải giả tưởng về tương lai, đưa ra những lời khuyến cáo sai lầm, những pháp môn giả tạo và những giáo điều lệch lạc làm mê hoặc ḷng người.

Người Á Châu thường tụ tập chung quanh một người có hoặc nghe đồn là có phép thuật thần thông, với những mục đích thật ích kỷ: muốn có con cầu tự v́ vợ nhà hiếm hoi không sinh đẻ; muốn được chữa khỏi bệnh, thường là do hậu quả của những thói hư tật xấu; mong t́m thấy lại của đă mất; muốn được sự ưu đăi của chủ nhân; và muốn biết việc tương lai.

Họ gọi việc ấy là “cầu xin Thánh Tổ ban phước lành”, nhưng không ai bị phỉnh lừa bởi những ngôn từ kiểu cách ấy, và có đến chín mươi chín phần trăm trường hợp những tín chủ ra về trong cơn thất vọng.

Với kinh nghiệm riêng của tôi, tôi cũng đă có dịp biết cái tinh thần thấp kém của hạng người này. V́ trong số hằng ngh́n bệnh nhân đau khổ rên xiết mà tôi đă chữa khỏi hoặc làm cho bệnh được thuyên giảm trong những cuộc khảo sát thực nghiệm về phép truyền nhân điện của tôi hồi năm 1881, tôi ngờ rằng không biết có được một trăm người đă thật sự biết ơn. Trước khi năm ấy kết thúc, tôi đă do kinh nghiệm thực tế mà biết rơ cái tâm trạng của người đạo sĩ và y có những cảm nghĩ ra sao về việc biểu diễn những phép thuật thần thông.

       Thật vậy, kinh Sambita của Ấn Độ nói rằng vị Đạo Sư chân chính không phải là người dạy ta khoa học vật lư, đem cho ta những khoái lạc trần gian, huấn luyện cho ta có những quyền năng thần bí, v́ tất cả những thứ đó đều là những nguồn gốc phát sinh ra đau khổ phiền năo. Trái lại, bậc Đạo Sư chân chính là người chỉ dẫn cho ta thấu triệt Chân Lư (Brahman). Các Thánh Kinh khác của Ấn Độ như kinh Upanishad cũng dạy rằng tuy người đạo sĩ Yogi có thể dùng quyền năng của ư chí để sáng tạo hay hủy diệt các bầu thế giới, kêu gọi các bậc thần tiên ở cơi Trời đến với y, thưởng thức niềm phúc lạc yên tĩnh của Thượng Đế không hề suy giảm, nhưng y phải tránh tất cả những việc vô nghĩa đó như có khuynh hướng tăng cường ư thức cách biệt (với tha nhân) và làm ngăn trở, chướng ngại cho sự giác ngộ tâm linh. C̣n nói về việc tự nguyện giao tiếp với những vong linh ở cơi Trung Giới, kêu gọi sự giúp đỡ và chịu khuất phục dưới mệnh lệnh của chúng, th́ không một người Đông Phương nào có trí óc lành mạnh và kiến thức sâu xa thèm nghĩ đến.

        Trong Thánh Kinh “Chí Tôn Ca” (Bhagavad Gita), đức Krishna nói:

      “Những kẻ nào tôn sùng các vị thần linh, sau khi chết sẽ về cơi giới thần linh; kẻ thờ cúng tổ tiên sẽ về với tổ tiên; kẻ thờ cúng ma quỷ sẽ đi theo ma quỷ. Chỉ có những kẻ nào tôn sùng Ta (tức là những người tầm Đạo, hướng về sự giác ngộ tâm linh cao cả) mới trở về với Ta”.

       Như thế, chúng ta thấy rằng theo quan niệm người Ấn Độ, một người như bà HPB sẽ được kính nể v́ có quyền năng siêu đẳng, nhưng lại bị chê trách về việc biểu diễn các phép thuật thần thông. C̣n một người như Stainton Moses th́ bị họ khinh rẻ như một đồng cốt của các loại vong linh thấp kém, dù cho y có những khả năng trí thức tốt, có văn hóa cao ở cấp bậc Đại Học, và dẫu cho y có những ư đồ trong sạch và vô tư đến đâu.

       Trên đây là quan điểm của người Á Đông nói chung. Riêng phần tôi, tôi là một người Tây Phương hoàn toàn về cách nhận xét những hiện tượng nhiệm mầu của bà HPB và của Stainton Moses. Đối với tôi, những sự việc ấy rất vô cùng quan trọng như những bằng chứng của sự sinh hoạt tâm linh và như những vấn đề khoa học c̣n cần phải giải đáp.

Tuy tôi không thể giải đáp sự bí hiểm về tính chất phức tạp đa diện của bà HPB, tôi tin chắc rằng những mănh lực tác động trong người bà và hỗ trợ cho bà làm các hiện tượng, vốn được sử dụng khéo léo bởi những người c̣n sống biết rơ khoa Tâm Linh, và cả khoa học thực dụng các chủng loại tinh linh ngũ hành. Nói về trường hợp của Stainton Moses, th́ cũng có một sự bí hiểm tương tự.

Y tin chắc rằng những vị danh sư khuất mặt của y mệnh danh là “Imperator”, v…v… tất cả đều là những linh hồn người đă bỏ xác, trong số đó có vài người của những thế hệ rất cổ xưa, có người của thế hệ tương đối ít xưa hơn, nhưng tất cả đều là những bậc hiền minh, thánh triết.

Những vị ấy không những cho phép, mà c̣n khuyến khích y nên sử dụng lư trí để tự vạch con đường tiền bộ tâm linh của ḿnh. Với một sự kiên nhẫn vô biên, họ trả lời những câu hỏi và giải đáp những điều thắc mắc nghi ngờ, giúp y phát triển trực giác tâm linh và trợ giúp y xuất vía được dễ dàng.

Bằng vô số những hiện tượng lạ lùng họ chứng minh cho y thấy rơ đặc tính của vật chất và sức mạnh, và khả năng kiểm soát các hiện tượng thiên nhiên. Hơn nữa, họ c̣n dạy cho y biết rằng việc truyền Đạo giữa đạo sư và đệ tử vẫn từng có ở khắp nơi trong càn khôn vũ trụ, trong những giai đoạn tuần tự phát triển trí tuệ và tâm linh, cũng giống như cách giáo dục ở các nhà trường v…v…




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1127 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 8:47am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde





HỒI KƯ H.S. OLCOTT




III. Theo Huyền Học Ấn Độ, người hành giả muốn thực hành pháp môn Thiền Định, phải áp dụng một phương pháp chuẩn bị gồm có ba nghi thức: tẩy trần; gián đoạn mọi sự liên lạc từ điển với cơi trung giới; và cô lập hóa các loại âm binh lởn vởn ở nơi ấy.

1. Trước hết là nghi thức tẩy trần: Chỗ ngồi phải được rửa sạch, và rải lên trên một lớp cỏ Kusa, một loại thảo mộc có tác dụng hấp dẫn những tinh linh tốt lành và xua đuổi ảnh hưởng xấu của những vong linh bất hảo. Trong những loại cây có ảnh hưởng xấu mà người ta tin rằng thường hay quy tụ những vong linh và âm binh bất hảo, có cây me và cây đa.

Những vong linh bất hảo này cũng thường hay tụ tập ở những nơi giếng cũ, nhà bỏ hoang, các nghĩa địa, nơi thiêu xác, băi chiến trường, ḷ sát sinh, nơi hành quyết và những nơi xảy ra án mạng giết người hay những vụ đổ máu. Đó là sự tin tưởng của người Ấn Độ.

2. Nghi thức kế đó là niệm thần chú để xua đuổi các loại âm binh lánh đi nơi khác. Trong khi niệm chú, hành giả dùng bàn tay khoát nhiều lần trên đầu, để tạo một ṿng rào từ điển chung quanh ḿnh, có tác dụng bảo vệ y chống lại mọi sự xâm nhập của những ảnh hưởng bất hảo.

3. Sau khi đă thi hành một cách cẩn thận và nghiêm túc hai nghi thức tối cần kể trên, mà hành giả không bao giờ được quên lăng hoặc làm một cách cẩu thả, chừng đó y mới đọc những câu chân ngôn có tác dụng thanh lọc thể xác lẫn tinh thần, và chuẩn bị cho sự nhập thiền nhằm mục đích thức động những khả năng tâm linh và đạt tới sự giác ngộ.

Một chỗ ngồi thanh tịnh, không khí trong sạch, tránh xa những người vật chất, nặng trược, ô uế, những kẻ vô luân, vô đạo, vô thiện cảm, tất cả đều là cần thiết cho người tầm Đạo.

Những lời khuyến cáo của “Imperator” (vị hướng dẫn tâm linh khuất mặt của S. Moses) và của các vị thần linh hộ tŕ cho những đàn cơ chọn lọc ở khắp nơi trên thế giới, cũng đều phù hợp với những quy luật Đông Phương kể trên.

Nói tóm lại, những quy luật pḥng vệ ấy càng được áp dụng chặt chẽ, th́ những lời giáng ngôn tiếp nhận được càng thanh cao siêu việt hơn. Những cử chỉ và ngôn ngữ thô tục, khả ố cùng những thông điệp có lời lẽ xấu xa bỉ ổi thường diễn ra trong nhiều đàn cơ với những đồng tử thiếu sự che chở và thiếu chuẩn bị, giữa những cử tọa gồm những thành phần hỗn tạp, xấu tốt lẫn lộn, đều có thể truy nguyên từ việc xao lăng, không áp dụng cẩn mật chặt chẽ những quy luật bảo vệ nói trên.

T́nh trạng này đă được cải tiến lần lần trong ṿng mười bảy năm qua. Những đồng tử nặng trược và những hiện tượng vật chất đang lần hồi bắt đầu nhường chỗ cho những h́nh thức sinh hoạt thông linh cao siêu hơn.

Những quan điểm của “Imperator” về những họa hoạn của những đàn cơ ô trược, hỗn tạp, đă được phản ảnh trong những tác phẩm của ông Stainton Moses.

Ông thừa hiểu rằng những kinh nghiệm thu thập được trải qua nhiều thế kỷ, hẳn đă giúp cho người Đông Phương biết được điều chân lư này, là luồng thanh điển thiêng liêng không thể nào đi xuyên qua một đồng tử thấp hèn, và một ṿng cử tọa ô trược mà không bị ô nhiễm, cũng ví như gịng nước suối trong lành, đi xuyên qua một cái b́nh lọc dơ bẩn, sẽ không thể nào c̣n được tịnh khiết như lúc ban đầu.

Bởi đó, họ áp dụng những quy luật nghiêm khắc và chặt chẽ để cô lập hóa người đồng tử khỏi mọi ảnh hưởng xấu xa tai hại, và để chuẩn bị cho sự tinh luyện cá nhân của y đến mức hoàn hảo.

Không biết một chút ǵ về những điều lợi hại trên đây, người Tây Phương thường tự họ đi và c̣n đem những con cái non nớt và nhậy cảm của họ đến những nơi họp đàn bao phủ trong một bầu không khí hắc ám ô trược và sặc mùi tội lỗi.

Khi nh́n thấy cái hiểm họa đó, người ta có thể thấy rằng lời khuyến cáo và chỉ trích nghiêm khắc của Imperator, vị hướng dẫn vô h́nh của S. Moses, thật đúng là dường nào khi ông nói về sự khờ dại của người Tây Phương dối với vấn đề giao tiếp với những vong linh người chết.

T́nh trạng cải tiến nói trên chính là do kết quả tốt lành mà những sách vở và giáo lư Thông Thiên Học của Hội chúng ta đă gây nên trong các giới đồng tử và các pḥng họp đàn, hơn là do ảnh hưởng trực tiếp của các diễn giả, tác giả và chủ bút của các báo chí.

Chúng ta hăy hy vọng rằng không bao lâu, những quan điểm Thông Thiên Học về các giới Tinh Linh Ngũ Hành và vong linh người chết sẽ được người ta dành cho một sự lưu ư và quan tâm xứng đáng.






Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1128 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 8:54am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




HỒI KƯ H.S. OLCOTT



CHƯƠNG MƯỜI MỘT

HỘI QUÁN THÔNG THIÊN HỌC TẠI NỮU ƯỚC

I. Lịch sử thuở ban đầu của hội Thông Thiên Học đă được tường thuật khá đầy đủ. Tôi không thấy có ǵ cần nói thêm trừ ra việc hoàn chỉnh lại những kư ức đă qua với vài mẫu chuyện vặt về đời sống xă hội của chúng tôi tại New York cho đến ngày chúng tôi lên đường sang Ấn Độ.

Trong thời gian từ khoảng cuối năm 1876 cho đến cuối năm 1878, Hội Thông Thiên Học có vẻ tương đối bất động; những Điều Lệ của Hội đă trở nên vô hiệu lực, những buổi họp đă hầu như không c̣n tiếp tục.

Những buổi sinh hoạt ít ỏi của nó trước công chúng đă được diễn tả trên đây, và những dấu hiệu tăng gia ảnh hưởng của Hội được phản ảnh nơi sự tăng gia số lượng thư từ giao dịch của hai nhà Sáng Lập với các giới trong nước và ngoài nước, những bài vở tranh luận đăng trên các báo chí, sự thành lập các Chi Bộ ở Luân Đôn và Corfu, và việc mở đầu các mối liên hệ với những cảm t́nh viên ở Ấn Độ và Tích Lan.

Những nhà Thần Linh Học ưu tú gia nhập Hội ngay từ lúc đầu nay đă rút lui; những cuộc họp của Hội đă chấm dứt; tiền nhập phí của hội viên đóng góp khi vào Hội đă bị hủy bỏ, và sự bảo quản Hội hoàn toàn đè nặng lên hai vai chúng tôi.

Tuy nhiên, lư tưởng của Hội chưa bao giờ mạnh mẽ hơn, và chưa bao giờ phong trào Thông Thiên Học tràn đầy sinh khí hơn khi nó cởi bỏ cái h́nh thức bên ngoài, và tinh thần của nó được tập trung vào tim óc và tâm hồn của chúng tôi.

Đời sống tại Hội Quán thật tốt đẹp trong những năm kết thúc đó. Hợp nhất trong sự trung thành v́ một lư tưởng chung, trong sự giao tiếp hằng ngày với các đấng Chân Sư, đắm ḿnh trong những tư tưởng, ước vọng và hành động vị tha, hai chúng tôi sống giữa thành phố náo nhiệt ồn ào đó mà không bị ô nhiễm bởi những sinh hoạt cạnh tranh ồ ạt, những tham vọng ích kỷ thấp hèn của người đời, dường như chúng tôi chỉ sống một cuộc đời ẩn dật trên non cao hay trong rừng thẳm.

Thật không phải là quá đáng mà nói rằng một bầu không khí thanh cao thoát tục hơn khó mà t́m thấy nơi một nhà nào khác ở New York. Những địa vị xă hội và danh vọng quyền thế của những quan khách đến viếng đều bị bỏ lại ở ngoài cửa khi họ bước vào Hội Quán.

Giàu hay nghèo, sang hay hèn, trí thức hay dốt nát, tín ngưỡng hay vô thần, những khách của chúng tôi đều được dành cho một sự đón tiếp nồng hậu và một sự chăm sóc kiên nhẫn đồng đều như nhau đối với những câu hỏi thắc mắc của họ về mọi vấn đề tôn giáo cũng như các vấn đề khác.

Bà HPB vốn gịng dơi quư tộc nên bà có thể ḥa ḿnh một cách dễ dàng với giới thượng lưu sang trọng nhất, và là một người phụng sự vị tha có tinh thần dân chủ cao độ để có thể dành một sự tiếp xúc cởi mở nhiệt thành đối với người khách khiêm tốn nhất.

Một trong những người khách của chúng tôi lúc ấy rất sành sỏi về môn Triết Học Hy Lạp. Y làm công việc quét vôi sơn nhà v́ sinh kế. Tôi c̣n nhớ rơ bà HPB và tôi đều rất hoan hỉ khi chúng tôi kư tên vào đơn xin gia nhập của y như những người bảo trợ tinh thần và hoan nghinh đón nhận y vào hàng hội viên.

Những người đến viếng thăm Hội Quán, mà chúng tôi gọi đùa là “Lạt Ma Viện”, khi trở về có viết bài đăng báo tường thuật lại những cảm tưởng của họ, và nói rằng họ có được một kinh nghiệm mới mẻ khác thường. Phần nhiều trong số đó viết về bà HPB với những lời lẽ ca tụng, tán dương và suy tôn quá đáng.

Về h́nh dáng bên ngoài, th́ bà không có một chút ǵ giống như một nhà tu khổ hạnh: Bà không tham thiền trong pḥng kín, không ăn uống khắc khổ đạm bạc, không tránh né những người trí óc nông cạn, phù phiếm hay những kẻ phàm tục, cũng không chọn lọc bạn bè để kết giao.

Bà mở rộng cửa cho tất cả mọi người, chí đến những kẻ mà bà biết rằng họ sẽ viết về bà với những ng̣i bút đầy xuyên tạc ác ư. Họ thường mạt sát, công kích bà thậm tệ, nhưng nếu những bài vở ấy có tính cách ư nhị, hài hước, th́ bà thường cùng tôi đem ra làm đầu đề để cười đùa vui vẻ thoải mái như một tṛ tiêu khiển, thưởng thức đến mức tối đa.

Trong số các quan khách quen đến thường ngày, có ông Curtis, một trong những phóng viên tài giỏi nhất của báo chí New York, và về sau trở nên một hội viên Hội Thông Thiên Học. Y đă viết những cột báo dài hằng nhiều thước về “Lạt Ma Viện”, những bài báo của y có khi nghiêm chỉnh, có khi hài hước vui nhộn, nhưng luôn luôn sống động, duyên dáng và hấp dẫn.

Tối hôm nọ, y đưa chúng tôi vào một cạm bẫy: Một gánh xiếc mà y nói rằng có hai người thuật sĩ Ai Cập đang biểu diễn vài phép thuật dường như chứng tỏ rằng họ có hiểu biết về khoa phù thủy. Dầu sao, y muốn cho chúng tôi đến nh́n xem tận mắt và nhận xét dự việc với tư cách là những chuyên gia đă am tường và thông hiểu về khoa pháp môn huyền bí.

Chúng tôi nghe theo và cùng đi thử xem sao. Té ra màn tŕnh diễn rất đỗi tầm thường, và hai người Ai Cập đó chỉ là hai người Pháp chính cống; chúng tôi đă có dịp nói chuyện dài với họ trong văn pḥng của ông Giám Đốc trong những giờ nghỉ ngơi giữa các màn biểu diễn.

Khi ra về, chúng tôi có than phiền với ông Curtis về sự nhận xét sai lầm của y, nhưng y làm cho chúng tôi bất giác cười lớn khi y trả lời rằng trái lại, bây giờ y đă được tự do xoay trở và có thể đưa ra tất cả mọi dữ kiện cần thiết để viết một bài phóng sự “giật gân”.

Quả thật, nhật báo “Thế Giới” ra sáng ngày hôm sau có đăng một bài tường thuật nhan đề “Các nhà Thông Thiên Học đi coi gánh xiếc”, trong đó câu chuyện khô khan vô vị của chúng tôi với hai người Pháp được biến thành một cuộc đối thoại có tính chất thần bí cao siêu với hai nhà đạo sĩ Ai Cập.

Kèm theo với vô số những phép thuật dị kỳ, những hồn ma hiện h́nh, những đồ vật đột nhiên xuất hiện và biến mất, v…v…toàn thể sự việc diễn tả trong bài báo đă chứng minh, nếu không phải là sự nhận xét chính xác ít nhất là một năng khiếu tưởng tượng vô cùng dồi dào phong phú của người viết.

Một lần khác, y đem đến cho chúng tôi xem một bài tường thuật trên báo về sự xuất hiện trong đêm khuya của vong hồn một người gác đêm đă chết, dọc theo những bến tàu ở một phường khóm phía đông thành phố, và yêu cầu chúng tôi hăy nên đi xem con ma.

Y nói rằng cảnh sát đă được lịnh báo động, và viên thanh tra cảnh sát của phường đă chuẩn bị mọi sự để chận bắt con ma ngay đêm ấy. Quên mất kinh nghiệm trước đây về vụ gánh xiếc, chúng tôi lại nhận lời ra đi.

Đó là một đêm ảm đạm, xấu trời, chúng tôi khoác áo tơi ngồi suốt hằng giờ trên một đống cây gỗ trên bờ sông, và giết thời giờ bằng cách vừa hút thuốc vừa đàm luận với độ hai chục phóng viên các báo được gởi đến để viết bài diễn tả những sự việc xảy ra trong đêm ấy.

Nhưng vong hồn lăo Shep (lăo già gác đêm) không thấy xuất hiện lần đó, và sau cùng chúng tôi đành trở về “Lạt Ma Viện”, bực ḿnh v́ đă lăng phí suốt cả buổi tối.

Sáng ngày hôm sau, chúng tôi bực tức vô cùng mà thấy các báo triển lăm chúng tôi như những người loạn óc đă trông đợi những sự việc không thể có, và c̣n ngầm ngụ ư rằng chúng tôi đă đuổi lăo già Shep đi mất để làm cho các phóng viên lỡ mất cơ hội trong cuộc săn mồi! Thậm chí các tạp chí có h́nh ảnh c̣n đăng một bức ảnh của hai chúng tôi đứng chung với tập đoàn phóng viên các báo, với lời chú thích:

“Các hội viên Thông Thiên Học đang chờ đợi bóng ma của lăo già Shep!”

coi không giống chúng tôi hơn là giống những người ở trên Mặt Trăng!

Một buổi tối, phóng viên Curtis cũng có mặt khi nữ bá tước Paschkoff kể một chuyện phiêu lưu mà bà với bà HPB đă cùng trải qua ở xứ Liban, bà nói tiếng Pháp c̣n tôi dịch ra tiếng Anh. Câu chuyện rất lạ kỳ và thú vị đến nỗi y xin phép được đăng lại, và sau khi được chấp thuận, nó được đăng trên tờ báo của y.

V́ câu chuyện này giải thích lư thuyết về tiềm năng của chất Tiên Thiên Khí (Akasha) có thể giữ ǵn kư ức của mọi sự diễn biến trong lịch sử loài người, và người ta có thể sở đắc cái quyền năng làm xuất hiện trở lại những kư ức đó từ trong cơi thiên nhiên, nên tôi ghi chép lại một đoạn dưới đây, và giao trách nhiệm cho người kể:

“…Nữ bá tước Paschkoff nói qua lời thông dịch của Đại Tá Olcott: Có lần tôi đi một chuyến du hành trên vùng sa mạc xứ Liban (Cận Đông), và trên đồng cát tôi nh́n thấy một đoàn lạc đà. Đó là đoàn du hành của bà HPB.

Chúng tôi cùng cắm trại chung với nhau, ở đó có một ngôi kiến trúc lớn tọa lạc gần làng El Marsum, giữa hai dăy núi của xứ Liban. Trên vách đá có khắc những gịng chữ cổ tự mà không ai có thể đọc được. Tôi biết rằng bà HPB có thể làm những việc lạ lùng với những giới thần linh, nên tôi yêu cầu bà thử truy nguyên tung tích của ṭa lâu đài này.

Chúng tôi đợi cho đến nửa đêm, khi đó bà mới vẽ một cái ṿng tṛn lớn dưới đất và bảo chúng tôi hăy bước vào đó. Chúng tôi đốt lửa và rắc hương trầm lên. Kế đó, bà HPB thốt lên nhiều câu chân ngôn bí mật nghe rất lạ tai. Chúng tôi rắc thêm hương trầm vào đống lửa.

Khi đó bà cầm cây gậy phép chỉ vào ṭa lâu đài, và chúng tôi thấy trên đó có một khối ánh lửa tṛn như một quả cầu lớn và sắc trắng. Gần bên đó có một cây sung lớn, chúng tôi thấy có nhiều ngọn lửa nhỏ chập chờn trên các cành cây. Những con chó rừng sủa trong đêm tối ở cách đó một quăng không xa. Chúng tôi lại đốt thêm hương trầm.

Khi đó, bà HPB truyền lịnh cho vị thần linh nào tọa trấn tại ngôi nhà lầu kia hăy xuất hiện. Không bao lâu, một khối mây mù bốc lên và che khuất ánh trăng non mờ ảo. Chúng tôi lại rắc thêm bột hương trầm lên đống củi cháy.

Đám mây mù tượng h́nh một vị lăo trượng có cḥm râu bạc, khi ấy chúng tôi nghe một giọng nói vọng lại từ đằng xa, và phát âm xuyên qua cái h́nh ảnh lờ mờ vừa xuất hiện. Ông lăo nói ngôi kiến trúc này xưa kia là ṭa linh điện của một ngôi đền đă biến mất từ lâu. Ngôi đền cổ này được dựng lên để thờ một vị thần, nhưng vị này từ đó đến nay đă đi qua một bầu thế giới khác.

Bà HPB hỏi:

“Lăo trượng là ai?”

Giọng nói kia đáp:

“Tôi là Hiero, một trong những vị tư tế của ngôi đền.”

Khi đó bà HPB truyền lịnh cho ông lăo hăy chỉ cho chúng tôi thấy địa điểm tọa lạc của ngôi đền như hồi đương thời. Ông lăo cúi đầu tuân theo, và trong một lúc chúng tôi thấy xuất hiện h́nh dáng lung linh huyền ảo của ngôi đền cổ và cảnh tượng một thành phố cổ xưa rộng lớn mọc lên tràn khắp cánh đồng bằng diễn ra đến tận chân trời. Sau đó một lát, cái linh ảnh biến mất, và h́nh ảnh ông lăo cũng tan mờ dần”.

(Câu chuyện này đă được đăng trên nhật báo New York Word ra ngày 21 tháng 4 năm 1878, với cái tựa đề: “Những chuyện huyền linh”.)



Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1129 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 8:58am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde





HỒI KƯ H.S. OLCOTT




II. Tuy những kinh nghiệm phũ phàng của quá khứ đă dạy cho chúng ta biết rằng những hiện tượng thần thông chỉ là những điều mỏng manh, vô lực, không đủ làm cái nền tảng vững chắc để xây dựng lên đó cả một phong trào tâm linh vĩ đại, nhưng chúng cũng có một giá trị rơ rệt nếu được đặt ở đúng chỗ và được kiểm soát chặt chẽ. Chỗ đó nằm trong phạm vi Mục Đích thứ Ba, trong Ba Mục Đích của Hội Thông Thiên Học.

Những hiện tượng thần thông có một tầm quan trọng bậc nhất như những bằng chứng sơ đẳng của quyền năng ư chí con người đối với những sức mạnh vật chất thô kệch trong thiên nhiên. Trên địa hạt này, chúng có liên hệ đến vấn đề bí hiểm của cái trí lực thông minh tác động trong những hiện tượng đồng cốt.

Tôi nghĩ rằng những hiện tượng của bà HPB làm trong thuở ban đầu của Hội Thông Thiên Học đă đập một vố nặng nề và rơ rệt vào cái lư thuyết mà mọi người đều tin tưởng cho đến khi đó, rằng những thông điệp cơ bút nhận được qua đồng tử đều nhất thiết phải là của vong hồn người chết. Những hiện tượng của bà HPB đă làm đều không có đi kèm với những điều kiện được coi là cần thiết, mà có khi c̣n bất chấp cả những quy luật thông thường.

Những tài liệu ghi chép về những hiện tượng đó nay chỉ c̣n tồn tại trong những bài tường thuật đăng trên các báo chí đương thời mà chúng tôi đă cắt để dành, và trong kư ức của những nhân chứng hiện c̣n sống, họ có thể xác nhận hoặc sủa sai những chuyện do tôi thuật lại về các sự việc xảy ra mà chúng tôi đă cùng chứng kiến trước sự có mặt của bà HPB.

Trong những cuộc hội họp quan khách, chúng tôi không hề có dụng ư lái câu chuyện ấy đến việc làm các hiện tượng nhiệm mầu. Khi chúng tôi chỉ có hai người, bà HPB có thể làm một vài hiện tượng nào đó để dẫn chứng cho một bài học mà bà dạy tôi; hoặc để đáp lại một câu hỏi của tôi về tác dụng của một thứ mănh lực đặc biệt nào đó.

Thường th́ bà làm các phép thuật đó trong những cơn ngẫu hứng bất thần, và không do sự gợi ư của một người nào đang có mặt tại chỗ. Tôi xin kể một vài thí dụ trong số bao nhiêu những sự việc khác.

Một ngày nọ, một nhà Thần Linh Học người Anh đi với con trai ông, một đứa bé độ mười tuổi, cùng với một người bạn ông đến viếng chúng tôi. Đứa bé chơi một ḿnh và đi quanh khắp pḥng, lục lạo trong các sách vở, xem xét những món vật lạ và đồ cổ, đánh thử trên đàn dương cầm, và làm những tác động ṭ ṃ khác.

Kế đó, nó bắt đầu nhàm chán và đ̣i về, kéo tay áo cha nó và định làm cho ông ta gián đoạn một câu chuyện rất lư thú với bà HPB. Người cha không hề ngăn chận sự quấy rối của nó và sửa soạn ra về, th́ bà HPB nói:

“Không sao, nó chỉ muốn có một vật ǵ để chơi thôi. Để tôi xem có thể nào tôi kiếm cho nó một món đồ chơi”.

Nói xong, bà đứng dậy, đưa tay sờ soạng vào một cánh cửa ở phía sau lưng bà, và kéo ra một con trừu nhồi g̣n rất lớn dưới chân có gắn bánh xe lăn, mà tôi biết chắc chắn là không hề có ở trong nhà chỉ một lúc trước đó!

Trước ngày lễ Giáng Sinh, cô em gái tôi ở từng lầu trên của “Lạt Ma Viện”, đi xuống chỗ chúng tôi ở mời chúng tôi bước lên xem Cây Giáng Sinh mà cô đă chuẩn bị cho mấy đứa con cô lúc ấy c̣n ngủ trên giường.

Chúng tôi nh́n xem qua một lượt các món quà, bà HPB bày tỏ sự hối tiếc rằng bà không có tiền để mua quà tặng và đóng góp vào cái Cây cho các cháu. Bà hỏi cô em tôi đứa con trai cưng của cô ấy thích món ǵ, và khi được trả lời là một cái c̣i thổi tu hít kiểu lớn, bà nói:

“được rồi, hăy đợi một lát”

Bà lấy xâu ch́a khóa từ trong túi áo ra, nắm chặt lấy ba ch́a trong một bàn tay, và một lúc sau đó, bà cho chúng tôi xem một cái c̣i tu hít lớn bằng sắt có khoen máng vào xâu ch́a khóa thay vào chỗ của ba cái ch́a kia. Để làm cái c̣i này, bà đă dùng hết chất sắt của ba cái ch́a khóa, và ngày hôm sau bà phải nhờ thợ khóa làm lại ba cái ch́a khác.

Đây là một chuyện khác nữa. Trong khoảng chừng một năm sau khi chúng tôi định nơi cư trú tại “Lạt Ma Viện”, bộ đồ dọn ăn bằng bạc của gia đ́nh tôi được đem ra dùng, nhưng sau cùng nó phải được gửi đi cho gia đ́nh thân quyến, và bà HPB đă giúp tôi một tay để gói lại tất cả và cho vô thùng.

Ngày đó sau bữa ăn trưa, đến lúc dùng cà phê, chúng tôi nhận thấy không có cái kẹp gắp đường,và khi tôi đưa cho bà cái hũ đường, tôi để thay vào đó một cái muỗng. Bà hỏi cái kẹp gắp đường cục ở đâu, và khi tôi trả lời rằng hồi năy tôi đă gói chung với các đồ bằng bạc kia để gửi đi, th́ bà nói:

“Nhưng rồi chúng ta cũng phải có một cái để dùng chứ, phải không?”

Nói xong, bà đưa một bàn tay xuống một bên ghế chỗ bà ngồi, rồi cầm lên một cái kẹp bạc có h́nh dáng lạ kỳ mà chưa ai từng thấy bán ở các tiệm. Cái kẹp ấy có hai nhánh dài hơn kẹp thường, và hai đầu nhánh lại có răng dài và nhọn giống như hai cái nĩa; bên trong có chỗ tay cầm có khắc chữ mật tự, ám chỉ thánh danh của Chân Sư “M”. Tôi vẫn c̣n cất giữ vật này tại Adyar.

Trong hiện tượng này, có sự tác động của một định luật quan trọng. Muốn tạo ra một vật cụ thể từ cái chất liệu bằng bạc trong không gian, bước đầu tiên là nghĩ đến cái vật thể mong muốn, với tất cả mọi chi tiết như h́nh dáng kiểu mẫu, màu sắc, chất liệu, trọng lượng và những đặc điểm khác.

Cái h́nh ảnh gợi trong trí phải dứt khoát rơ ràng từng chi tiết. Giai đoạn kế đó là vận dụng Ư Chí đă được tập luyện thành thục, sử dụng kiến thức của ḿnh về những định luật cai quản vật chất và phương pháp kết hợp các nguyên tử. Sau cùng là sai khiến các tinh linh ngũ hành dùng chất liệu ấy để nhồi nắn thành h́nh cái vật thể mà ḿnh muốn tạo nên.

Nếu hành giả làm thiếu sót điều ǵ trong những sự việc kể trên, th́ kết quả sẽ không được hoàn toàn như ư muốn. Trong trường hợp vừa kể, th́ rơ ràng là bà HPB đă lẫn lộn trong kư ức của bà những h́nh dáng khác nhau của cái kẹp gắp đường và cái nĩa, và bà đă hỗn hợp cả hai thứ chung lại với nhau thành một vật dị h́nh, khó tả và không thể t́m thấy trên thị trường!

Lẽ tất nhiên, việc này lại là một bằng chứng hùng biện về tính cách chân thật của hiện tượng do bà làm, hơn là nếu bà đă tạo ra một cái kẹp đường toàn hảo, v́ một vật như thế có thể mua được ở bất cứ nơi đâu.

Một đêm nọ, khi pḥng làm việc của chúng tôi có đầy khách đến viếng, bà HPB và tôi ngồi đối diện nhau ở hai bên pḥng, bà ra hiệu bảo tôi cho bà mượn cái khoen có mặt ấn lớn tṛn và chạm lơm sâu, mà tôi đeo tối hôm ấy để buộc cái khăn choàng cổ.

Bà cầm lấy nó giữa hai bàn tay nắm chặt, không nói với ai một lời hay làm cho ai chú ư trừ ra tôi, và xoa hai bàn tay độ một hay hai phút, kế đó tôi nghe có tiếng va chạm của hai vật bằng chất kim loại.

Bà nh́n tôi mỉm cười và x̣e hai bàn tay ra cho tôi thấy cái khoen ấn của tôi cùng với một cái khác cũng lớn bằng nhưng lại có một kiểu khác: cái mặt ấn này làm bằng đá huyết thạch màu xanh lục, c̣n cái của tôi làm bằng đá hồng mă năo.

Cái khoen ấy bà đeo luôn cho đến khi bà từ trần và sau đó nó qua tay bà Annei Besant, mà hàng ngàn người đều nh́n thấy quen mắt. Mặt đá của nó bị vỡ trong chuyến hành tŕnh của chúng tôi qua Ấn Độ, và sau đó được thay một mặt đá khác ở Bombay.

Trong trường hợp này cũng vậy, không một lời nào trong câu chuyện giữa các quan khách đă đưa tới hiện tượng này; trái lại, không một ai trừ ra tôi, đă biết việc ấy xảy ra, cho đến măi về sau họ mới được kể lại cho biết.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1130 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 9:03am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde





HỒI KƯ H.S. OLCOTT




III. Ông Sinnett (phó Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học) trong quyển “Những ngẫu sự trong cuộc đời bà Blavatsky”, có viết một chuyện do ông Judge kể lại về việc bà HPB đă tạo ra những ống màu nước cho ông dùng để vẽ một bức họa Ai Cập. Tôi cũng có mặt trong dịp đó, và có thể xác nhận như một nhân chứng:

Việc ấy xảy ra vào một buổi trưa tại “Lạt Ma Viện”. Ông Judge đang vẽ cho bà một bức ảnh về một chuyện Thần Thoại Ai Cập, nhưng không thể hoàn tất công việc v́ thiếu màu. Bà HPB hỏi ông cần những màu ǵ, và khi được trả lời cho biết, bà bèn bước đến gần cây đàn dương cầm đặt ở sát vách tường, rồi hai tay nâng vạt áo lên dường như để hứng một vật ǵ.

Kế đó, bà buông vạt áo và trút lên trên bàn ngay trước mặt ông Judge mười ba lọ bột màu khô hiệu Winsor và Newton, trong số đó có những màu mà ông cần dùng. Một lúc sau đó, ông Judge nói ông muốn có một ít sơn vàng thật, th́ bà bảo ông hăy đi lấy một cái dĩa từ trong pḥng ăn.

Ông làm y theo, khi ấy bà mới bảo ông đưa cho bà cái ch́a khóa cửa bằng đồng, rồi bà cọ mạnh cái ch́a khóa lên mặt dĩa. Sau đó một lát, chúng tôi thấy trên mặt dĩa có phủ một lớp sơn vàng thật bằng chất kim loại thuần túy.

Tôi hỏi bà về tác dụng của cái ch́a khóa trong cuộc thí nghiệm này, th́ bà nói rằng cái tinh hoa hay linh hồn của chất đồng được cần dùng như một trung tâm hạt nhân để quy tựu từ trong chất Tiên Thiên Khí (Akâsa) những nguyên tử của bất cứ chất kim loại nào mà bà muốn phóng xuất.

Cũng v́ lư do đó, bà đă cần dùng đến cái khoen đồng có cẩn mặt đá của tôi làm cái khí cụ để tạo nên một cái khoen khác cho bà dùng trong dịp trước đây.

Phải chăng đó chính là cái nguyên tắc được áp dụng trong phép thuật luyện ch́ thành vàng và chuyển hóa kim loại của nhà Luyện Kim thời xưa mà người ta thường nói đến? Tôi nghĩ như vậy, v́ có truyền thuyết cho rằng cái thuật đó vẫn được biết rơ trong các giới đạo sĩ, thuật sĩ hiện c̣n sống ở xứ Ấn Độ ngày nay.

Hơn nữa, những sự khám phá gần đây của các nhà bác học William Crookes về sự cấu tạo của các nguyên tố (elements) phải chăng đă đưa chúng ta phải tiến đến cái lư thuyết Âm Dương của Phương Đông? (tức Purusha và Prakriti của Triết Học Ấn Độ).

Và phải chăng cái lư thuyết sau này chỉ cho chúng ta thấy rằng những nguyên tố của một thứ kim loại có thể được chuyển sang những cách hóa hợp mới, mà kết quả là sẽ làm cho nó biến thành một chất kim loại khác bằng cách sử dụng cái quyền năng mạnh mẽ vô địch của Ư Chí? Khoa học Vật Lư vẫn chưa thực hiện được điều này, dẫu rằng bằng cách sử dụng những năng lực vô cùng lớn lao của điện khí.

Nhưng điều vô cùng khó khan đối với nhà bác học, hoàn toàn tùy thuộc nơi tác động của những sức mạnh vật chất thô kệch, lại có thể rất dễ dàng dối với bậc Đạo Gia, biết sử dụng khả năng của Tinh Thần như một khí cụ tác động hữu hiệu. Thật vậy, đó chính là cái quyền năng sáng tạo nên Vũ Trụ.

Giáo sư Crookes có nói:

“Tôi tin chắc rằng sự khảo cứu sưu tầm ráo riết không gián đoạn sẽ được đền bù tưởng thưởng bằng một tia sáng chiếu rọi và những điều huyền bí của thiên nhiên, mà hiện nay không ai có thể quan niệm được”.

Nói được như thế tức là đem một điềm triệu báo trước một ngày mai tươi sáng hơn, khi đó các nhà bác học sẽ thấy rằng phương pháp quy nạp của họ làm tăng thêm gấp trăm lần những sự khó khan trong việc t́m hiểu những “điều huyền bí của thiên nhiên”.

Họ sẽ thấy rằng cái ch́a khóa của tất cả mọi điều huyền bí là sự hiểu biết về Tinh Thần, và con đường đưa đến sự hiểu biết đó đi xuyên qua một ngọn lửa c̣n dữ dằn hơn nữa, nó được duy tŕ bằng ḷng ích kỷ, được nuôi dưỡng bằng nhiên liệu của sự đam mê, và quạt cho bùng cháy lên bằng những cơn bạo phát của dục vọng.

Khi nào mà Tinh Thần lại được nh́n nhận như cái yếu tố tối thượng trong sự cấu tạo các nguyên tố và trong cơ Sáng Tạo nên Vũ Trụ Càn Khôn, th́ những hiện tượng thần thông như của bà HPB sẽ có một tầm quan trọng tuyệt luân như những sự kiện khoa học, chứ nó không c̣n bị coi như những tṛ ảo thuật bởi một hạng người, và bởi hạng người khác như những phép lạ để làm mê hoặc những kẻ khờ dại dễ tin!




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1131 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 9:08am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde





HỒI KƯ H.S. OLCOTT




CHƯƠNG MƯỜI HAI

PHÓNG ẢNH

Trong quyển “Modern Egyptians”, tác giả Lane có thuật chuyện một thanh niên đến viếng một đạo sĩ Ai Cập và được thấy những khả năng thần thông của vị này. Lúc ấy cha y ở xa đang đau yếu, y bèn yêu cầu đạo sĩ làm cách nào cho y nhận được tin tức của người cha.

Vị đạo sĩ bằng ḷng, bèn bảo y viết thư cho cha để hỏi thăm tin tức. Khi người thanh niên viết xong thư, và trao cho vị đạo sĩ, người này liền để bức thư ấy dưới cái gối dựa lưng của ông ta. Độ một lát, vị đạo sĩ tḥ tay dưới gối cũng ở ngay chỗ ấy, lấy ra một bức thư trả lời do chính bàn tay của người cha viết và niêm phong bằng con dấu riêng của ông ấy.

Cũng do lời yêu cầu của người thanh niên, vị đạo sĩ mời những quan khách có mặt lúc ấy dùng cà phê. Khi dọn ra th́ cà phê được đựng trong những chén nhỏ loại đặc biệt của cha y thường dùng hằng ngày, ở một làng hẻo lánh cách đó rất xa.

Một buổi tối nọ, bà HPB cũng đă làm một việc giống y như thế. Lúc ấy, tôi đang muốn thỉnh ư một vị Chân Sư về một vấn đề. Bà bảo tôi viết những ǵ tôi muốn hỏi, bỏ vào một bao thư dán kín, và để bao thư ấy ở một chỗ mà tôi có thể nh́n thấy.

Điều này c̣n cao tay ấn hơn thủ thuật của vị đạo sĩ Ai Cập, v́ ông này đă dấu bức thư dưới cái gối, mà người thanh niên kia không nh́n thấy được. Tôi bèn để bức thư lên cái kệ phía trên ḷ sưởi, ở đằng sau cái đồng hồ, một nửa bao thư ló ra ngoài để cho tôi nh́n thấy.

Bà HPB và tôi tiếp tục nói chuyện về nhiều vấn đề trong khoảng chừng một tiếng đồng hồ, kế đó bà nói rằng thư trả lời cho tôi đă đến.

Tôi bèn lấy cái bao thư trên kệ, nhận thấy cái bao vẫn dán kín và niêm khằng c̣n y nguyên, trong đó là bức thư của tôi viết lúc năy, kèm theo là thư trả lời của Chân Sư với tuồng chữ quen thuộc của ngài, bức thư này viết trên một tờ giấy màu xanh kiểu lạ, loại giấy này theo chỗ tôi biết, không hề có ở trong nhà.

Lúc ấy chúng tôi đang ở New York, c̣n Chân Sư ở tận bên Á Châu. Hiện tượng này thuộc về một loại mà tôi nh́n nhận rằng không thể nào có sự giả trá, phỉnh lừa.

Một buổi tối, vào mùa thu năm 1876, bà HPB và tôi đang ngồi đối bàn về vấn đề xuất vía,xuất hồn. Hồi đó, v́ chưa quen thuộc với những danh từ chuyên môn, nên sự giải thích của bà về những vấn đề khoa học không được rơ ràng, chính xác lắm, và tôi nhận thấy rất khó hiểu.

Sau cùng, bà lấy thí dụ của Stainton Moses, người bạn của chúng tôi lúc ấy đang luyện phép xuất hồn bằng cách dùng sức mạnh của ư chí. Bà đề nghị sẽ chỉ cho tôi thấy trong một bức ảnh kết quả công phu tu luyện của S.M., và liền bắt tay vào việc.

Bà dứng dậy kéo trong một hộc tủ, lấy ra một cuộn vải satin trắng, đặt trên bàn và cắt lấy một khoảnh bằng độ một trang giấy. Kế đó, bà cất cuộn vải vào chỗ cũ, và ngồi lại bàn. Bà đặt mảnh vải satin bề mặt úp xuống bàn, lấy một tờ giấy thấm c̣n nguyên vẹn phủ lên trên, và chống khuỷu tay lên đó, trong khi đó bà vấn một điếu thuốc lá, và bật diêm quẹt hút thuốc.

Độ một lát bà yêu cầu tôi đem cho bà một ly nước. Tôi tỏ ư sẵn ḷng, nhưng c̣n đưa ra một câu hỏi để bà trả lời và để làm tŕ hoăn thời giờ, trong khi đó, tôi vẫn chăm chú nh́n miếng vải satin ló ra dưới tờ giấy thấm. Thấy tôi vẫn đứng yên một chỗ, bà hỏi tại sao tôi không lấy cho bà ly nước lạnh, mà c̣n đợi ǵ nữa? Tôi nói:

“Tôi c̣n đợi xem bà sắp làm ǵ với miếng vải satin đó”.

Bà nh́n tôi với cái nh́n trách móc, dường như bà thấy rằng tôi c̣n nghi nan, không trọn tin để bà ngồi một ḿnh với miếng vải satin. Kế đó, bà để hai tay xuống tờ giấy thấm và nói:

“Tôi sẽ có ngay, ngay bây giờ!”

Nói xong, bà lấy tờ giấy thấm ra, và lật miếng vải satin lên, bà đưa cho tôi.

Bạn đọc hăy thử tưởng tượng sự ngạc nhiên của tôi! Trên bề mặt miếng vải, tôi thấy một bức ảnh màu thật là độc đáo, phi thường. Đó là một bức chân dung rất khéo của Stainton Moses, gương mặt rất giống như bức h́nh chụp của y đang treo trên tường.

Từ trên đỉnh đầu, túa ra những tia dáng như lửa có ánh vàng, ở những nơi bí huyệt tim và rốn, cũng xẹt ra những tia lửa đỏ vàng giống như vậy, ví như những hỏa diệm sơn phun lửa. Phần đầu và ngực bao phủ trong một hào quang giống như đám mây trôi màu xanh dương. Rải rác lấm tấm những vệt nhỏ màu vàng ánh. C̣n phần dưới thân ḿnh bao phủ cũng những đám mây trôi màu hồng và xám đục, tức là những hào quang có tính chất nặng trược, thấp kém hơn phần trên.

Hồi đó, tôi chưa biết ǵ về những luân xa (chakrams), hay bí huyệt trong cơ thể con người, được đề cập đến trong kinh yoga shastras của Ấn Độ, một vấn đề quen thuộc đối với các môn đệ của Đạo Sư Patanjali.

Bởi vậy, tôi không hiểu ư nghĩa của hai con trốt xoáy bốc lửa trên chỗ tim và rốn; nhưng về sau khi tôi đă hiểu biết về vấn đề này, th́ bức ảnh trên Satin này càng tăng giá trị đối với tôi, v́ nó chỉ rằng nhà huyền học nào tạo ra nó hẳn đă biết rằng trong phép Xuất Vía ra khỏi xác thân, hành giả phải tập trung ư chí của ḿnh lần lượt nơi các luân xa hay bí huyệt, và sự tách rời thể Vía được hoàn thành với sự luân phiên thức động mỗi luân xa theo thứ tự trước sau.

Theo chỗ tôi hiểu, th́ Stainton Moses đă làm cuộc thí nghiệm này như một cuộc khảo sát t́m hiểu thuộc về lư trí hơn là một phép tu luyện tâm linh, v́ phần hào quang trên đầu y có h́nh dáng rơ rệt c̣n những phần khác trong thể Vía của y hăy c̣n trong trạng thái lu mờ, hỗn độn, chứ chưa ổn định để tượng h́nh một cách rơ ràng.

Những đám mây màu xanh dương chỉ tính chất tịnh khiết chứ không có sự long lanh chói rạng như cái hào quang của một người tiến bộ tâm linh, thường được diễn tả như chiếu sáng rạng ngời như ánh bạc. Tuy nhiên những điểm nhỏ màu vàng ánh xuất hiện rải rác trên màu xanh dương là những điểm linh quang của tinh thần, biểu lộ những hoài băo tâm linh.

C̣n những đám mây mờ màu hồng và xám của hào quang ở phần dưới thân ḿnh biểu lộ tính chất nặng nề ô trọc thuộc về phần thú tính của con người.

Màu xám này càng trở nên đục ngầu u tối và xám xịt khi phần thú tính của con người phát triển trội hơn phần trí tuệ, tinh thần và tâm linh, c̣n trong những người hoàn toàn tội lỗi sa đọa, trụy lạc đến cực điểm, th́ theo nhận xét của những vị có thần nhăn, nó trở nên sậm đen như mực….

Dưới đây là một trường hợp phóng ảnh khác nữa do bà HPB thực hiện. Sau bữa ăn, chúng tôi bước qua pḥng khách và câu chuyện xoay qua vấn đề phóng bút, phóng ảnh. Một người khách yêu cầu bà HPB phóng ảnh cho chúng tôi xem. Bà hỏi vị ấy muốn có ảnh của ai, người khách đáp rằng y muốn có bức ảnh của một người Yogi, người này là một vị đạo sĩ Ấn Độ mà chúng tôi biết tên, và được các Chân Sư rất kính nể.

Bà HPB bước lại bàn giấy của tôi, lấy một tờ giấy xé làm hai phần, và giữ lấy một phần rồi để nó xuống mặt bàn có lót một tờ giấy thấm. Kế đó, bà lấy con dao gọt lấy một ít bụi viết ch́ để trên tờ giấy, rồi lấy tay xoa theo h́nh tṛn trên mặt giấy độ chừng một phút, xong rồi bà đưa kết quả cho chúng tôi xem.

Trên tờ giấy là bức chân dung mong ước của người khách, ngoài ra tính cách phóng ảnh kỳ diệu, nó c̣n là một tác phẩm mỹ thuật rất thần t́nh. Nhà chân dung họa sĩ Mỹ nổi tiếng là Họa Sĩ Le Clear tuyên bố rằng bức ảnh này thật là độc đáo, với một nghệ thuật siêu đẳng mà không một họa sĩ nào trong giới quen biết của y có thể sáng tác….

Người Yogi được tŕnh bày trong cơn đại định (samâdhi), cái đầu hơi nghiêng về một bên, đôi mắt không nh́n ra ngoại cảnh mà gom vào nội tâm, toàn thân dường như không c̣n tri giác, mà linh hồn đă phiêu diêu ở cơi giới xa xăm nào…

Người Yogi này tên là Tiravala, vốn là một triết gia rất được quư trọng ở Mylapore, một làng ở ngoại thành Madras, và là vị bảo trợ tinh thần của những người cùng đinh, hạ tiện, thuộc giai cấp “bất khả tiếp xúc” (Pariah).Về vấn đề ông ta có c̣n ở trong xác thân hay không, tôi không thể biết chắc, nhưng theo lời bà HPB thường nói về ông ta, th́ tôi đoán rằng ông ta c̣n sống.

Tuy nhiên, điều này có vẻ khó tin đối với tất cả mọi người, trừ ra đối với người Ấn Độ, v́ người ta nói rằng nhà Yogi này đă từng viết ra bộ Kinh “Kural” bất hủ của ông cách đây độ chừng một ngàn năm! Ở miền Nam Ấn, ông ta được coi như một trong những vị đạo sĩ đă phát huệ và đắc pháp thần thông, và cùng với mười bảy vị đạo sĩ đắc Đạo khác hiện đang c̣n sống trên các vùng núi Tirupati và Nilgiri với sứ mạng bảo trợ, chăm sóc về phần tâm linh cho Ấn Độ Giáo.

Tuy mai danh ẩn tích, các vị ấy vẫn trợ giúp bằng quyền năng ư chí mạnh mẽ của ḿnh, những nhà tu sĩ chân chính và những người phụng sự vị tha v́ t́nh thương nhân loại. Ước mong ân huệ của các vị đến với chúng tôi!

Khi tôi nhớ lại việc cũ để viết tập “Hồi Kư” này, tôi ghi nhận là trên đầu vị đạo sĩ không thấy có vẽ một hào quang tâm linh, tuy rằng những giai thoại do bà HPB kể lại về nhà đạo sĩ đă xác nhận quan niệm của những người Ấn Độ ái mộ ông rằng nhà Yogi này là một vị chân tu có tŕnh độ tâm linh cao cả và đạo hạnh rất tinh thâm.

Điều ghi nhận trên cũng áp dụng cho bức chân dung đầu tiên của Chân Sư, do họa sĩ Harrisse vẽ tại New York, trong đó cũng không thấy có hào quang. Ít nhất trong trường hợp này, tôi có thể chứng minh là bức ảnh rất giống như thật, cũng như những người khác đă từng có diễm phúc nh́n thấy ngài.

Từ lâu, tôi vẫn mong ước có một bức ảnh của Sư Phụ tôi để treo trong gian pḥng và để chiêm ngưỡng nếu tôi không có diễm phúc được hội kiến với ngài trong kiếp này. Bởi vậy, tôi đă yêu cầu bà HPB phóng họa cho tôi một bức ảnh của Chân Sư và bà hứa sẽ làm khi có dịp thuận tiện.

Trong trường hợp này, bà không được phép trực tiếp phóng ảnh cho tôi, mà một phương pháp giản dị hơn và rất lư thú được áp dụng: một người họa sĩ thường không phải là đồng tử hay đạo sinh Huyền Môn, được yêu cầu họa bức chân dung của ngài cho tôi mà y không biết y đang làm ǵ. Đó là một họa sĩ tài tử, ông Harrisse, một người Pháp và là bạn của chúng tôi.

Một buổi tối, khi chúng tôi đang đàm luận, câu chuyện xoay qua vấn đề Ấn Độ và ḷng dũng cảm của dân miền Rajput, bà HPB th́ thầm nói nhỏ với tôi rằng bà sẽ yêu cầu nhà họa sĩ này vẽ chân dung của Sư Phụ chúng tôi nếu tôi có thể cung ứng vật liệu.

Trong nhà không có sẵn đồ họa cụ, tôi mới đi đến một tiệm tạp hóa gần bên và mua một tờ giấy loại đặc biệt cùng với vài cây viết ch́ đen và trắng. Người chủ tiệm gói chung các món lại thành một gói đưa cho tôi qua quầy hàng, tôi trả y một đồng tiền trị giá là một nửa đô la (năm mươi xu) và bước ra.

Khi về tới nhà, tôi vừa mở gói ra, th́ có hai đồng tiền, mỗi đồng là hai mươi lăm xu từ trong gói rơi xuống sàn gạch! Thật rơ ràng là Chân Sư cố ư tặng cho tôi bức chân dung của ngài mà tôi khỏi phải tốn tiền.

Khi đó, bà HPB yêu cầu họa sĩ Harrisse hăy vẽ diện mạo của một vị tù trưởng Ấn Độ, tùy theo quan niệm của y. Người họa sĩ nói y không h́nh dung được trong trí là phải vẽ như thế nào, và muốn đổi qua một đề tài khác. Nhưng thấy tôi cứ khăng khăng một mực đ̣i hỏi, y mới vẽ thử một đầu người Ấn Độ.

Bà HPB ra dấu cho tôi hăy ngồi yên ở phía bên kia gian pḥng, c̣n bà đến ngồi gần bên người họa sĩ và lẳng lặng hút thuốc lá. Thỉnh thoảng, bà rón rén đi đến sau lưng người họa sĩ dường như để xem y làm việc, nhưng vẫn im lặng không nói ǵ cho đến độ một giờ sau, khi bức họa đă vẽ xong.

Tôi cám ơn nhà họa sĩ khi nhận bức chân dung, đem lộng vào khuôn và treo trong buồng ngủ của tôi. Nhưng một việc lạ lùng đă xảy ra. Khi bức họa c̣n ở trước mặt họa công, sau khi chúng tôi ngắm nh́n lần cuối cùng và khi bà HPB cầm lấy để đưa cho tôi, th́ chữ kư bằng ám hiệu của Chân Sư đột nhiên hiện trên bức ảnh.

Đó là một cách biểu thị sự có mặt và bút tích của ngài trên bức họa, và điều này càng làm tăng thêm giá trị món quà quư báu mà ngài tặng cho tôi. Nhưng hồi đó, tôi không biết là nó có giống Sư Phụ tôi hay không, v́ tôi chưa từng nh́n thấy ngài bao giờ.

Về sau, khi tôi được gặp ngài, tôi mới nhận thấy rằng bức họa ấy thật giống, và hơn nữa tôi c̣n được ngài tặng cho cái khăn vấn đầu của ngài mà nhà họa sĩ tài tử đă vẽ trong bức họa.

Đây quả là một trường hợp chuyển di tư tưởng, do đó cái h́nh ảnh của một người vắng mặt được chuyển di đến tâm thức trí năo của một người hoàn toàn xa lạ. Cái h́nh ảnh đó đi xuyên qua tư tưởng của bà HPB hay không? Tôi nghĩ rằng có.

Tuy nhiên, với sự khác biệt này, là trí nhớ của bà HPB cung ứng bức chân dung cần được chuyển đi qua trí óc của ông Harrisse, và nhờ bởi khả năng thần thông điêu luyện, bà đă chuyển di trực tiếp mà không cần qua một vật trung gian, tức là không cần phải vẽ trước cái h́nh kiểu mẫu trên một tấm b́a, để cho bà h́nh dung sẵn trong trí rồi mới chuyển qua bộ óc của nhà họa sĩ.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1132 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 9:14am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde





HỒI KƯ H.S. OLCOTT




CHƯƠNG MƯỜI BA

XUẤT HỒN, XUẤT VÍA

I. Tất cả những lư thuyết và suy luận về tính chất lưỡng thể của con người, tức là nói rằng y có một Thể Vía ngoài ra cái Thể Xác vật chất hữu h́nh, đương nhiên làm cho người ta đ̣i hỏi phải có một bằng chứng trước khi đưa vấn đề đi xa hơn.

Đối với những đầu óc duy vật, đó là một vấn đề vượt ngoài sự thường t́nh và khó tin đến nỗi nó hầu như bị gạt phăng đi như một việc hăo huyền, thay v́ được tạm chấp nhận như một giả thuyết để c̣n khảo sát lại.

Thật vậy, đó là thái độ của nhà bác học trung b́nh, và khi một nhà khảo cứu can đảm hơn người b́nh thường khẳng định điều đó như sự tin tưởng của y, th́ y bị coi như thiếu sự dè dặt, thận trọng của nhà bác học chân chính, chưa kể đến việc y có thể bị làm tṛ cười như một kẻ chủ trương một lư thuyết bấp bênh, mơ hồ.

Tuy nhiên, có nhiều tác phẩm rơ ràng chính xác như của D’Assier và của những tác giả khác đă được công bố vào những thời kỳ khác nhau, và tŕnh bày những sự kiện vững chắc không thể chối căi, dẫu rằng khó tin đến đâu.

Vấn đề này hiện nay đă được chứng minh trên một quy mô rộng lớn bởi sự sưu tập hằng ngh́n những hiện tượng đă được quan sát kỹ lưỡng thuộc về loại này; và nay dường như đă đến lúc mà nhà siêu h́nh học nào không biết đến những sự kiện đó không thể được coi như một bậc Thầy đáng tin cậy của nhân loại.
      
Tuy vậy, mặc dù bao nhiêu những bằng chứng dồn dập kể trên có thể làm thỏa măn lư trí, nhưng sự thật về Thể Vía và khả năng tách rời của nó ra khỏi Thể Xác con người chỉ có thể biết được bằng một trong hai cách: hoặc nh́n thấy Thể Vía của một người khác, hoặc tự ḿnh Xuất Vía và ngắm nh́n cái Thể Xác của ḿnh một cách khách quan.

Với một trong hai loại kinh nghiệm đó, người ta mới có thể nói rằng ḿnh BIẾT. và khi có đủ hết cả hai, th́ sự hiểu biết ấy mới thật là tuyệt đối và không thể lay chuyển. Tôi có đủ cả hai loại kinh nghiệm trên. Tôi có thể làm nhân chứng, và chứng minh sự thật để giúp đỡ cho sự hiểu biết của các bạn đồng môn của tôi.

Tôi chỉ kể sơ qua những trường hợp mà tôi đă nh́n thấy bà HPB trong thể vía trên một đường phố ở New York, trong khi cái xác phàm của bà ở tại Philadelphia. Tôi cũng nh́n thấy một người bạn khác trong trường hợp tương tự (trong Thể Vía ở New York) trong khi y đang hoạt động trong xác phàm nơi một tiểu bang dưới miền Nam, ở cách đó nhiều trăm dặm.

Những lần khác, tôi nh́n thấy trong một chuyến xe lửa và trên một chiếc tàu ở Mỹ, một vị Chân Sư mà thật sự lúc ấy ngài đang ở trong xác phàm ở tận bên Châu Á. Có lần ở tại Jummu tôi nhận được một bức điện tín của bà HPB gửi cho tôi từ Madras, và do một vị Chân Sư đích thân cầm đưa cho tôi.

Khi đó ngài ngụy trang trong bộ y phục của một thư tín viên sở Bưu Điện tỉnh Kashmir, và một lúc sau đó ngài đột nhiên biến mất dạng dưới ánh trăng rằm khi tôi bước ra cửa để theo dơi động tác của ngài. Một lần nữa, trên cầu Worli ở Bombay tôi được gặp một vị Chân Sư khác vào một buổi chiều nóng bức khi bà HPB, bạn Damodar và tôi đang ngồi trên xe ngựa trên bờ biển để hóng gió mát.

Khi đó, tôi thấy ngài từ đằng xa đi về phía chúng tôi, ngài đến gần một bên chiếc xe, đặt bàn tay ngài trên bàn tay bà HPB, rồi quay lưng bước đi và th́nh ĺnh biến mất khỏi tầm mắt chúng tôi giữa con đường lót đá, chung quanh không hề có một gốc cây, bụi rậm, hay một chướng ngại vật nào có thể làm chỗ ẩn núp hoặc có thể che khuất h́nh dáng của ngài.

Tôi xin thông qua những sự việc kể trên và những kinh nghiệm khác nữa, để bắt đầu kể một chuyện quan trọng xảy ra, nó đă có những ảnh hưởng quyết định đối với cuộc đời tôi.

Chuyện này đă được kể lại ở nơi khác, nhưng nó cần được nhắc lại ở đây, v́ nó là một trong những nguyên nhân chính đă làm cho tôi từ bỏ cuộc đời thế gian để t́m thấy quê hương tinh thần của tôi bên xứ Ấn Độ. Bởi đó, nó cũng là một trong những yếu tố chính của việc xây dựng nên Hội Thông Thiên Học Thế Giới.

Tôi không nói rằng nếu không có xảy ra việc này, th́ tôi đă không đi sang Ấn Độ, v́ trong thâm tâm tôi đă muốn sang đó từ lâu, kể từ khi tôi được biết về ảnh hưởng tinh thần của Ấn Độ đối với thế giới, và triển vọng tâm linh của xứ ấy trong tương lai.

Một niềm mong ước cuồng nhiệt không thể dập tắt đă chiếm lấy tôi và thúc đẩy tôi đi đến giải đất lành của các Chân Sư và các vị Phật, tức là nơi Thánh Địa của mọi mối liên hệ nó trói buộc tôi với Mỹ Quốc, và do đó tôi đă có thể đ́nh chỉ mọi kế hoạch cho đến khi có “dịp thuận tiện”, nó thường không bao giờ đến đối với người diên tŕ do dự và chờ đợi thời cơ.

Tuy nhiên, sự việc nói trên đă giải quyết định mệnh của tôi. Trong khoảnh khắc, mọi sự nghi ngờ đều tiêu tan như mây khói, cái viễn ảnh xuất hiện rơ ràng đă chỉ đường cho tôi, và trước khi trời rựng sáng sau một đêm không ngủ, tôi bắt đầu thảo kế hoạch và thu xếp mọi việc.

Việc ấy xảy ra như sau: Công việc soạn bộ “Vén màn isis” đêm hôm ấy đă xong, tôi chúc bà HPB ngủ yên giấc và lui về pḥng riêng. Tôi đóng cửa cẩn thận như thường lệ và c̣n ngồi xem sách đến khuya; quyển sách tôi xem, nếu tôi c̣n nhớ rơ, là quyển “Du lịch xứ Yucatan” của Stephens. Dầu sao, đó không phải là sách nói về chuyện Liêu Trai, hay loại sách có tác dụng khêu gợi sự tưởng tượng của độc giả cho y nh́n thấy ma quái hiện h́nh.

Tôi đang chăm chú đọc sách trong bầu không khí im lặng. Không có việc ǵ xảy ra lúc ban chiều làm cho tôi nghĩ đến việc nh́n thấy một vị Chân Sư trong Thể Vía; tôi không có mong muốn việc ấy, hoặc tưởng tượng đến nó, cũng không hề có ư trông đợi chút nào cho việc ấy xảy ra.

Th́nh ĺnh, trong khi tôi vẫn đang nh́n vào quyển sách, tôi chợt thoáng thấy một ánh sáng nơi khóe mắt bên mặt của tôi. Tôi day đầu lại và làm rơi quyển sách trong sự ngạc nhiên khi tôi nh́n thấy đứng sừng sững giữa pḥng,một người Đông Phương h́nh dung cao lớn, ḿnh mặc áo rộng trắng, đầu bịt một cái khăn bằng lụa trắng có sọc màu vàng lợt.

Một mái tóc dài và đen huyền tḥng xuống dưới chiếc khăn chấm đến hai vai, một cḥm râu đen chẻ hai ở phía dưới cằm theo kiểu Raijput. Đôi mắt ngài linh động và sáng ngời, cái nh́n của đôi mắt đó vừa hiền lành vừa như soi thấu tâm hồn tôi.

Đó vừa là đôi mắt nghiêm nghị của một người dẫn đạo và một vị quan toà nhưng lại thoảng một nét dịu hiền và t́nh thương của một người cha nh́n đứa con đang cần sự hướng dẫn và khuyên bảo.

gài có một phong độ hùng tráng oai nghi, toàn thân ngài toát ra một sức sống tâm linh cao cả và một mănh lực huyền bí phi thường, nó làm cho tôi cảm thấy mất b́nh tĩnh trước mặt ngài, tôi vừa cúi đầu vừa quỳ xuống đất đảnh lễ một cách tự nhiên như người ta chiêm bái một vị thần thánh hay một đấng Thiêng Liêng cao cả.

Ngài đặt nhẹ một bàn tay trên đầu tôi, một giọng nói vừa êm dịu vừa hùng tráng bảo tôi hăy ngồi dậy, và khi tôi ngẩng mặt nh́n lên, th́ ngài đă ngồi an tọa trên một chiếc ghế ở bên kia bàn.

Ngài nói rằng ngài đến đây trong khi tôi đang gặp cơn khủng hoảng và cần đến ngài; rằng những việc làm của tôi đă đưa tôi đến điểm đó; rằng tôi có trọn quyền tự do quyết định việc ngài với tôi sẽ thường gặp nhau trong kiếp hiện tại để cùng hợp tác chung v́ sự lợi ích cho nhân loại; rằng một công tŕnh lớn lao vĩ đại sẽ phải được thực hiện cho nhân loại.

Và tôi có quyền tham dự vào công việc đó nếu tôi muốn; rằng một sợi dây nhân duyên huyền bí, mà ngài không thể giải thích cho tôi biết ngay lúc này, đă làm cho bà HPB và tôi gặp gỡ và hợp tác chặt chẽ với nhau trong kiếp này, một sợi dây nhân duyên vô cùng bền chặt không thể nào cắt đứt, dẫu cho một đôi khi nó bị căng thẳng đến mức độ nào.

Ngài nói cho tôi biết nhiều điều về bà HPB mà tôi không tiện nói ra đây, cùng những chuyện có liên hệ đến riêng tôi, nhưng không can dự ǵ đến người khác. Ngài ngồi đó đă bao lâu, tôi cũng không thể nói được: có thể là nửa giờ hoặc một giờ; nhưng xem dường như chỉ có một phút, trước mặt ngài, tôi đă mất cả ư thức về thời gian.

Sau cùng, ngài đứng dậy; tôi c̣n đang ngạc nhiên về dáng vóc cao lớn lạ thường và chiêm ngưỡng cái phong độ huy hoàng cao cả của ngài. Th́nh ĺnh, một tư tưởng thoáng qua trong trí tôi:” Phải chăng đây chỉ là một ảo ảnh, hay một cơn nắng quáng đèn ḷa do bà HPB dùng thuật thôi miên để đánh lừa tôi? Tôi ước mong rằng tôi nắm được một vật cụ thể nào đó để chứng tỏ rằng ngài đă thật sự đến đây, một vật mà tôi có thể cầm trên tay làm bằng chứng sau khi ngài đă đi rồi!”

Chân Sư mỉm cười một cách khoan dung, dường như ngài đă đọc được tư tưởng của tôi. Ngài bèn tháo gỡ chiếc khăn bịt trên đầu để lên bàn, chào từ giă tôi một cách dịu dàng khả ái và liền… biến mất!

Chiếc ghế bành của ngài ngồi lúc năy đă trống trơn, bỏ tôi ngồi lại một ḿnh với những cảm xúc của tôi! Tuy vậy, tôi không phải chỉ có một ḿnh, v́ bên cạnh tôi là chiếc khăn lụa mà Chân Sư vừa để lại trên bàn, một bằng chứng cụ thể và chắc nịch rằng tôi không phải đă bị ảo ảnh hay thôi miên, mà tôi đă gặp gỡ tận mặt một trong những bậc Anh Cả của Nhân Loại, một vị Chân Sư cao cả của hàng ngũ nhân loại c̣n thấp kém và vô minh như chúng ta.

Cái phản ứng tự nhiên trước hết của tôi là chạy qua đập cửa pḥng bà HPB và thuật cho bà nghe cái kinh nghiệm huyền diệu của tôi. Bà rất lấy làm vui mừng mà nghe câu chuyện cũng như tôi đă rất sung sướng mà thuật lại. Tôi trở về pḥng ngồi suy nghĩ triền miên và thức luôn tới sáng.

Đêm đó tôi đă suy nghĩ rất nhiều và có những quyết định quan trọng. Những tư tưởng và quyết định của tôi trong đêm đó đă đưa tôi đến những hoạt động Thông Thiên Học suốt đời tôi về sau này, với một ḷng chân thành với các đấng Chân Sư đă nâng đỡ phong trào Thông Thiên Học với những bàn tay vô h́nh, một ḷng trung kiên như sắt đá mà những sự va chạm phũ phàng và thất vọng đắng cay, đau khổ nhất cũng không bao giờ làm lung lạc được.

Từ khi đó về sau, tôi đă có diễm phúc được hội ngộ nhiều lần với đấng Chân sư trên và những vị Chân Sư khác nữa. Nhưng thật không ích ǵ mà lập lại những kinh nghiệm khác về loại này, tôi chỉ nêu câu chuyện trên đây như một thí dụ điển h́nh thôi cũng đủ. Những người khác kém may mắn hơn tôi có thể nghi ngờ chuyện này ra sao cũng được, nhưng thật sự là tôi đă …BIẾT.

Với lư tưởng thành thật trong mọi chuyện, tôi phải kể lại một sự nghi ngờ về lời khai của tôi như một nhân chứng của hiện tượng kể trên. Hồi năm 1884, tôi được mời làm nhân chứng trước một phiên họp Ủy Ban Đặc Biệt của hội Khảo Cứu Tâm Linh (Society for Psychical Research) tại Luân Đôn, và đă thuật lại câu chuyện trên trong số những sự việc khác.

Một nhân viên của Ủy Ban, trong cuộc thẩm vấn, đă đưa ra câu hỏi: làm sao tôi có thể chắc rằng bà HPB đă không sử dụng một người Ấn Độ cao lớn nào đó để chơi cái tṛ đùa đó đối với tôi, c̣n những chi tiết có vẻ huyền bí khác th́ biết đâu óc tưởng tượng mộng mơ của tôi đă chẳng làm cho tôi tưởng rằng sự thật!

Khi đó tôi có cảm giác chán ngấy về sự nghi ngờ độc ác của họ đối với bà HPB, và sự tránh né có vẻ hèn nhát, thiếu tinh thần danh dự của họ đối với những sự kiện tâm linh hiển nhiên không thể chối căi, khi họ núp dưới bức màn che dấu của một thái độ khôn ngoan sắc sảo giả tạo. Tôi bèn trả lời mau chóng, giữa những lư luận khác, rằng cho đến khi đó tôi chưa hề thấy một người Ấn Độ bao giờ trong đời tôi!



Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1133 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 9:19am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde





HỒI KƯ H.S. OLCOTT




II. Bây giờ, tôi xin nói về những kinh nghiệm bản thân của tôi trong vấn đề Xuất Vía. Trước hết, tôi có lời cảnh giác các bạn sơ cơ trên đường Đạo: khả năng Xuất Vía ra ngoài Thể Xác không nhất thiết phải là cái bằng chứng của sự phát triển tâm linh.

Phần đông, những kẻ mới chập chững bước vào đường Đạo có lẽ đă nghĩ trái lại, nhưng họ đă lầm. Một bằng chứng đầu tiên và đầy đủ là sự Xuất Vía rất thường xảy ra với những người nam và nữ không hề có thời giờ để khảo cứu về khoa Huyền Môn, không có tu luyện theo pháp môn Yoga nào, cũng không hề thử tập phép Xuất Vía và thường sợ hăi hay xấu hổ và bất b́nh khi bị cho là tập luyện phép ấy.

Họ cũng không có chút ǵ trội hơn những người thường về sự tịnh khiết trong tư tưởng và trong đời sống hằng ngày, về lư tưởng tâm linh, hay về những khả năng tinh thần, mà thường là trái ngược hẳn lại.

Một mặt khác, những sử liệu của khoa Hắc Thuật (Bàn Môn Tả Đạo) có dẫy đầy những trường hợp Xuất Vía hữu h́nh hay vô h́nh bởi những kẻ sa đọa, tội lỗi dùng phép thuật ấy để hăm hại người khác; những trường hợp Phân Thân, ám ảnh những nạn nhân thù địch, biến h́nh thành chó sói, và những ma thuật tà đạo khác.

Ngoài ra, c̣n có đến hằng ngh́n trường hợp Xuất Vía bởi những người thuộc đủ mọi thành phần và đủ mọi hạng, thường là những loại người bất hảo, nếu không là sa đọa, đă được Hội Khảo Cứu Tâm Linh (S.P.R.) xem xét kỹ lưỡng và ghi nhận vào hồ sơ tài liệu của họ, và hằng ngh́n những trường hợp khác nữa chưa được ghi vào sổ.

Tất cả những sự việc kể trên kết hợp lại đă chứng minh cho lời cảnh giác của tôi rằng khả năng Xuất Vía của một người, dù hữu thức hay vô thức, không phải là một bằng chứng chỉ rằng người ấy tốt lành hơn, khôn ngoan hơn, tiến bộ tâm linh hơn, hay có đủ tư cách làm một bậc Đạo Sư hơn mọi người thường.

Nó chỉ là một dấu hiệu chỉ rằng đương sự hoặc do bẩm sinh hoặc do công phu cố gắng, đă làm tách rời Thể Vía ra khỏi cái vỏ xác thịt của nó, và như vậy, đă làm cho nó xuất ra và trở về dễ dàng, khi mà Thể Xác của y không gây chướng ngại, trong giấc ngủ tự nhiên hay trong giấc ngủ thôi miên.

Về vấn đề này, độc giả sẽ nhớ lại bức họa phóng ảnh trên tấm vải lụa “satin” mô tả những trạng thái tâm linh qua Thể Vía của Stainston Moses, mà bà HPB đă thực hiện trước đây.

V́ lư do nào đó, tôi không hề có th́ giờ tu luyện theo pháp môn Yoga từ khi tôi bắt đầu hoạt động thực tế trong phong trào Thông Thiên Học. Dường như không bao giờ tôi nghĩ đến việc ḿnh có thể sở đắc phép thuật thần thông hay không, tôi không hề mong ước làm một vị đạo sư, cũng không màng đến việc tôi có thể đạt tới sự Giải Thoát hay không trong kiếp này.

Đối với tôi, phụng sự nhân loại là pháp môn cao quư nhất, và nếu tôi có thể làm một ít việc nhỏ nhoi khiêm tốn nào để truyền bá Đạo Lư và làm giảm thiểu sự vô minh, th́ đó cũng là một phần thưởng hậu hĩ của tôi.

rong những thuở ban đầu của Hội Thông Thiên Học, không bao giờ thoáng qua trong đầu óc tôi cài ư nghĩ rằng tôi có thể luyện ḿnh để trở thành một nhà linh thị hay một người có phép thuật thần thông, một đạo gia hay một nhà huyền học.

Tôi vẫn tiếp tục làm việc theo sự chỉ thị của Chân Sư, ngài dạy tôi rằng con đường tốt nhất để t́m các ngài là xuyên qua Hội Thông Thiên Học. Đó có lẽ là một môi trường hoạt đông khiêm tốn, nhưng thích hợp với khả năng hữu hạn của tôi, một việc làm đầy hứng thú và đồng thời cũng rất hữu ích.

Bởi vậy, khi tôi kể những chuyện Xuất Vía của tôi, đừng ai nghĩ rằng tôi có ư phô trương sự phát triển tâm linh giả tưởng của ḿnh, hay tự hào về sự khôn ngoan của ḿnh như một nhà thông linh lỗi lạc.

Sự thật là, theo tôi nghĩ, tôi được trợ giúp cho có cái khả năng đó, cùng với nhiều kinh nghiệm huyền linh khác, để làm cái nền tảng huấn luyện cần thiết cho một người được giao phó cái công tác đặc biệt như của tôi.

Dưới đây là một trường hợp:

Một đêm nọ, sau khi bà HPB và tôi đă viết xong một Chương của bộ sách “Vén màn Isis”, và khi chia tay để lui về pḥng riêng nghỉ ngơi, chúng tôi xếp chồng giấy bản thảo lên một cái khay gỗ, trang đầu ở trên hết và trang cuối ở dưới đáy.

Sau khi đă ai về pḥng nấy, chúng tôi mỗi người đều khóa cửa buồng riêng của ḿnh trước khi đi ngủ để đề pḥng kẻ trộm. Trong khi thay đồ để mặc quần áo ngủ, tôi mới nghĩ rằng nếu tôi thêm ba chữ nữa vào câu cuối cùng của đoạn chót, th́ ư nghĩa của đoạn văn ấy sẽ được tăng thêm cường độ và trở nên súc tích hơn.

Sợ rằng nếu để đến sáng ngày mai tôi có thể quên đi việc ấy, tôi mới có ư nghĩ bông đùa là tôi hăy thử Xuất Vía đi xuống pḥng ăn ở tầng dưới và viết thêm ba chữ nữa bằng cái Thể Vía của tôi.

Tôi chưa từng di chuyển bằng Thể Vía một cách ư thức như vậy bao giờ, nhưng tôi biết phương pháp thực hiện điều đó, tức là tập trung ư muốn Xuất Vía một cách mănh liệt trong trí trước khi ngủ, và tôi bèn làm như vậy.

Tôi không biết ǵ nữa cho đến sáng hôm sau, khi đă thay y phục và ăn điểm tâm xong, tôi mới ngừng trước cửa pḥng bà HPB ở tầng dưới để chào hỏi bà một câu trước khi ra đi đến văn pḥng Luật của tôi. Bà nói:

“Ơ ḱa! Ông hăy nói cho tôi biết ông đă làm ǵ ở đây đêm qua sau khi ông đă đi ngủ?.

Tôi đáp:

“Làm ǵ à? Bà muốn nói chi?

Bà nói tiếp:

“Tôi đang nằm trên giường c̣n chưa ngủ, th́ bỗng nhiên tôi nh́n thấy Thể Vía của ông Đại Tá vọt ra xuyên qua vách tường! Coi ông có vẻ buồn ngủ và đờ đẫn nữa đấy! Tôi có hỏi chuyện ông, nhưng ông không trả lời. Kế đó ông bước qua buồng viết, tôi nghe tiếng động của ông lục lạo trong đống giấy tờ, rồi thế là hết. Ông làm ǵ vậy?”

Khi đó, tôi mới cho bà biết sự thí nghiệm của tôi. Chúng tôi bèn đi qua buồng bên kia, lật chồng giấy bản thảo xem lại, th́ thấy nơi trang cuối cùng, ở câu chót của đoạn kết luận, có hai trong số ba chữ định thêm vào được viết bằng tuồng chữ của tôi, và chữ thứ ba chỉ mới bắt đầu nhưng viết chưa hết.

Khả năng tập trung tư tưởng dường như đă kiệt quệ, và chữ ấy chỉ viết được có nửa phần đầu, c̣n nửa phần sau chỉ là một vết nguệch ngoạc! Tôi đă sử dụng cây bút ch́ như thế nào, tôi có cầm nó trên tay không, và làm sao tôi viết được mà không cầm lấy cây viết, tôi cũng không thể nói được.

Có lẽ chỉ một lần đó tôi đă phóng bút với sự trợ giúp của một trong những tinh linh có hảo ư của bà HPB, bằng cách sử dụng những nguyên tử ch́ trong ruột những cây bút ch́ để trên bàn cùng với xấp giấy bản thảo. Dù sao, đó cũng là một kinh nghiệm hữu ích cho tôi.

Độc giả hăy ghi nhận sự kiện này là sự phóng bút bằng phương pháp huyền linh của tôi bị gián đoạn ở một điểm mà, do sự thiếu kinh nghiệm, tôi đă để cho ư chí của tôi lo ra và tách rời ra khỏi cái việc đang làm. Tập trung ư chí cho vững chắc không thể lay chuyển là điều cần thiết để thành công trong những hiện tượng thuộc loại này, cũng như trong mọi việc khác trên b́nh diện trí năng thông thường.

Trong một bài tường thuật nhan đề “Hiện tượng phóng ảnh” của tôi đăng trên tạp chí “Theosophist tháng 7 năm 1888, tôi có giải thích mối tương quan ảnh hưởng giữa sự tập trung ư chí đă được huấn luyện thành thục, và tính chất lâu bền của những tác phẩm phóng bút, phóng ảnh, cùng những tác phẩm tương tự khác do việc sử dụng lư thú và gợi ư về vấn đề Xuất Vía và phóng bút mà ông Wilkie Collins đă diễn tả trong quyển “Hai Định Mệnh”.

Đó là một quyển sách đáng đọc bởi mọi sinh viên Huyền Môn cũng như cuốn Zanoni, Một Chuyện Lạ Lùng, hay Chủng Tộc Tương Lai.

Tuy nhiên, dù có đọc sách và học hỏi kinh nghiệm của người khác nhiều đến bao nhiêu về các vấn đề này cũng không thể so sánh với một kinh nghiệm bản thân dù nhỏ bé như chuyện của tôi đă kể trên, bởi v́ nó làm cho người ta nhận thức được sự thật của định luật Tư Tưởng sáng tạo H́nh Thể, định luật này vẫn tác động luôn luôn trong Vũ Trụ Càn Khôn.

Kinh Upanishad của Ấn Độ có đoạn viết: “Phạm Thiên (Brahma) muốn: Ta hăy sinh sôi nảy nở, Ta hăy biến thành thiên h́nh vạn trạng. Ta hăy tăng trưởng…Rối ngài đắm ch́m trong cơn suy tư trầm lặng…Sau khi ngài đă suy tư, ngài bèn phóng xuất ra muôn ngh́n sắc tướng, muôn loài vạn vật trên thế gian. Sau khi đă phóng xuất ra mọi h́nh thể sắc tướng, ngài bèn thể nhập vào mỗi h́nh sắc, mỗi sinh vật…”

Đoạn kinh ấy có ư nghĩa rất sâu xa đối với tôi. Ư nghĩa của nó c̣n vô cùng sâu hơn thật hơn, gợi ư hơn đối với người nào đă có tự ḿnh suy tư, rồi sáng tạo nên một h́nh thể, hơn là đối với những người chỉ có đọc chữ trên những trang sách, mà không cảm nhận được sự thật vang dội từ chỗ thầm kín sâu thẳm bên trong tâm hồn.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1134 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 9:24am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde





HỒI KƯ H.S. OLCOTT




III. Tôi c̣n nhớ một trường hợp Xuất Vía khác của tôi, nó giải thích một định luật gọi là ”Luật Phản Dội”. Độc giả có thể t́m thấy rất nhiều tài liệu dồi dào phong phú về vấn đề này trong các sách vở nói về khoa Phù Thủy và Phương Thuật.

Danh từ “Phản Dội” (Repercussion) ở đây có nghĩa là tác động phản dội lại trên thể xác của những cú đấm, vết đâm chém hay những vết thương khác gây ra trên Thể Vía trong khi nó được phóng xuất ra ngoài và di chuyển như là một thực thể cá biệt.

C̣n danh từ Phân Thân có nghĩa là sự xuất hiện của một người ở hai chỗ cùng một lúc; ở một chỗ là cái Thể Xác, c̣n Thể Vía đồng thời xuất hiện ở một nơi khác.

Trong quyển “Humanité posthume”, ông D’Assier có đề cập đến cả hai vấn đề này. Nói về việc gây thương tích cho các nạn nhân do các nhà phù thủy xuất vía để tác hại cho họ, tác giả viết:

“Bà phù thủy xuất vía đi vào nhà của một người mà bà có việc muốn trả thù, và khuấy phá y bằng đủ mọi cách. Nếu người này cương quyết tự vệ, và nếu y có sẵn một thứ khí giới nào đó, y có thể chém vài nhát vào cái bóng ma.

Khi bà phù thủy tái hồi nhập xác và trở lại trạng thái b́nh thường, bà ta sẽ thấy xuất hiện trên Thể Xác ḿnh những vết thương mà bà đă nhận được trong cơn xung đột bằng Thể Vía với người kia”.

Những văn khố lưu trữ của Sở Tư Pháp Anh có ghi nhận trường hợp mụ phù thủy Jane Brooks xuất vía đến khuấy phá một đứa trẻ tên Richard Jones một cách rất độc ác. Trong một dịp nọ, đứa trẻ la lên rằng bóng vía của mụ Jane đang có mặt trong nhà, và đưa ngón tay lên như chỉ vào cái bóng ấy.

Lúc ấy một nhân chứng có mặt, tên Gilson, bèn phóng tới chỗ ấy và cầm dao chém đùa vào khoảng không tuy rằng y không nh́n thấy ǵ, mà cái bóng ma ấy chỉ có đứa trẻ nh́n thấy. Ngay lập tức, Gilson cùng với người cha đứa trẻ và một người cảnh binh đi đến nhà mụ Jane, và thấy mụ ấy đang ngồi trên ghế, một bàn tay nâng đỡ lấy cái bàn tay kia.

Trước sự thẩm vấn, mụ ấy nói không có ǵ xảy ra, nhưng khi người ta kéo tay y ra, th́ thấy cái bàn tay kia có dính đầy máu, và bị một vết chém y như đứa trẻ đă nh́n thấy lưỡi dao của Gilson chém vào bàn tay của cái bóng ma.

Rất nhiều trường hợp tương tự đă được ghi nhận, tất cả đều chứng tỏ rằng một vết thương gây trên Thể Vía đă phóng xuất ra ngoài, sẽ phản dội lại trên cái Thể Xác ở ngay chỗ bị thương. Dưới đây là kinh nghiệm cá nhân của tôi.

Trong pḥng làm việc của chúng tôi tại “Lạt Ma Viện”, bên cạnh ḷ sưởi, có treo trên tường một cái đồng hồ lớn mà tôi có thói quen lên giây mỗi đêm trước khi đi ngủ. Một buổi sáng nọ, sau khi rửa mặt, tôi nh́n vào tấm kiếng th́ thấy mắt bên phải bầm đen và tím lại, dường như tôi vừa bị một cú đấm vào mắt.

Tôi không biết lư do tại sao, và càng ngạc nhiên hơn khi thấy rằng chỗ bị thương lại không đau nhức chi cả. Tôi cố nhớ lại xem việc ǵ đă xảy ra để t́m nguyên nhân của sự việc ấy, nhưng vẫn vô hiệu.

Trong buồng ngủ của tôi, không có cột đứng, góc cạnh tường, hay chướng ngại vật nào có thể làm cho tôi va đầu vào để nhận lấy vết thương, nếu giả thiết rằng tôi đă đi trong giấc ngủ, nhưng thật ra tôi lại không có cái chứng tật đó.

Lại nữa, một sự va chạm khá mạnh để làm cho mắt tôi bầm đen như vậy, đương nhiên là phải làm cho tôi thức giấc ngay tức khắc trong lúc đó, nhưng trái lại, như thường lệ tôi đă ngủ thẳng giấc suốt đêm cho tới sáng.

Thế là tôi vẫn tiếp tục hoang mang, cho đến lúc tôi ngồi lại bàn ăn điểm tâm cùng với bà HPB và một bà bạn của bà đă đến chơi từ hôm qua và ngủ lại trên giường bà HPB đêm ấy. Bà bạn này đă đem lại cái đáp số cho điều bí hiểm kia. Bà ấy nói, khi bà nh́n thấy con mắt bầm tím của tôi:

“À, ông Đại Tá, chắc ông đă đụng nhằm vật ǵ đêm qua khi ông xuống đây để lên giây cái đồng hồ!”

Tôi đáp:

“Lên giây đồng hồ? Bà muốn nói ǵ vậy? Phải chăng bà đă khóa cửa pḥng cẩn thận khi tôi đi lên buồng của tôi?”

Bà ấy nói:

“Phải, chính tôi đă đích thân khóa cửa; nhưng làm sao ông có thể xuống đây? Tuy vậy, bà HPB và tôi đều nh́n thấy ông đi xuyên qua vách tường và cửa buồng chúng tôi qua pḥng bên kia, và nghe tiếng động của ông lên giây đồng hồ. Tôi gọi ông, nhưng ông không trả lời, và tôi không thấy ǵ nữa”.

Khi ấy tôi mới nghĩ rằng nếu tôi đă đi vào pḥng viết bằng Thể Vía và lên giây đồng hồ, th́ có hai việc tất nhiên phải xảy ra:

a) Cái đồng hồ đă được lên giây đêm qua và không chết;

b) Từ cửa pḥng đến chỗ ḷ sưởi bên cạnh đồng hồ, chắc phải có một chướng ngại vật nào đó đă chạm vào mắt tôi.

Chúng tôi xem xét qua một lượt và nhận thấy rằng:

1) Cái đồng hồ vẫn c̣n chạy, dường như nó đă được lên giây vào đúng giờ như mọi khi.

2) Gần cánh cửa pḥng có một kệ sách nhỏ đóng vào tường, một góc kệ nhô ra ngoài, chiều cao vừa tầm con mắt tôi để cho tôi có thể đụng vào nếu tôi sơ ư.

Kế đó, tôi mới nhớ mang máng rằng tôi đă đi từ phía bên kia pḥng đến gần cánh cửa, với bàn tay mặt đưa thẳng ra trước dường như để ḍ đường trong đêm tối, th́nh ĺnh tôi đụng đầu vào một vật ǵ làm cho tôi “tá hỏa tam tinh”, “nh́n thấy ba mươi sáu ngôi sao sáng” như người ta thường nói, rồi kế đó th́…tôi không c̣n nhớ ǵ nữa cho đến sáng.

Đó là một điều rất lạ lùng; v́ một cái chạm mạnh trên đầu đáng lẽ phải làm cho một người thức giấc trong trường hợp b́nh thường, nhưng khi nó chạm vào Thể Vía đă xuất ra, th́ do hiện tượng Phản Dội, nó để lại dấu vết rơ ràng trên Thể Xác mà không làm cho tôi thức giấc.

Trường hợp này c̣n có những khía cạnh lư thú khác nữa. Nó chỉ rằng, với những điều kiện thuận lợi để cho Thể Vía rút lui ra khỏi Thể Xác một cách nhẹ nhàng êm thấm, th́ sự Xuất Vía có thể xảy ra dưới sự thúc đẩy của một ư định cố hữu, chẳng hạn như một thói quen làm một việc ǵ mỗi ngày vào một giờ nhất định.

C̣n nếu gặp những điều kiện không thuận lợi cho sự Xuất Vía, mà bị đặt dưới một loạt những điều kiện khác hẳn, th́ đương sự sẽ trở nên một người “thụy du”, y sẽ đứng dậy trong giấc ngủ, rồi đi làm những việc ǵ c̣n lởn vởn trong trí y lúc đó, và trở về giường ngủ say mê li b́ mà không nhớ rơ việc ǵ đă xảy ra.

Một trong những kinh nghiệm lư thú nhất của tôi, là gặp những người chưa hề quen biết bao giờ ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới, họ quả quyết rằng đă nh́n thấy tôi ở những nơi công cộng, rằng tôi đă đến viếng họ bằng Thể Vía, đôi khi đă nói chuyện với họ về những vấn đề Huyền Môn, hoặc đă chữa họ khỏi bịnh, thậm chí cũng có khi cùng đi với họ lên cơi Trung Giới để viếng các đấng Chân Sư; nhưng tôi không nhớ được ǵ cả về những sự việc này.

Tuy nhiên, nếu suy nghĩ kỹ, th́ điều ấy cũng không lạ ǵ, xét v́ một người mà trọn cuộc đời, và mỗi tư tưởng, nguyện vọng, ước mơ khi thức tỉnh trong đời sống hằng ngày đều có liên quan mật thiết đến một phong trào tâm linh vĩ đại như của chúng tôi.

Người ấy không có ước muốn nào khác hơn là sự thành công của nó, không có tham vọng nào khác hơn là thúc đẩy nó tiến tới mục đích tối hậu đă vạch sẵn, một người như thế đương nhiên là phải chuyển di đời sống nội tâm hữu thức của ḿnh sang qua cơi vô thức tiềm ẩn trong giấc ngủ, và tiêu diêu phưởng phất theo những luồng sóng điện của chất Tinh Quang để quy tựu với những linh hồn cùng đồng thanh khí, theo luật đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1135 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 9:30am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde





HỒI KƯ H.S. OLCOTT




CHƯƠNG MƯỜI BỐN

MỘT ĐỊNH LUẬT HUYỀN BÍ

Ít lâu trước khi chúng tôi rời khỏi New York, một buổi tối bà HPB và tôi cùng đi ra phố để mua sắm vài món đồ cần dùng cho bà. Những phẩm vật mua sắm trị giá đến năm mươi đô la, và v́ lúc ấy bà không có tiền, nên tôi trả tiền thay cho bà và nhận biên lai. Bận về khi chúng tôi sắp bước vào nhà, bà nắm lấy bàn tay tôi, nhét vào đó vài tờ giấy bạc và nói:

“Đó là năm mươi đô la của ông!”

Tôi nói lập lại rằng bà không có tiền riêng, và không có người khách nào đến nhà trước khi đó mà bà có thể mượn tiền. Khi chúng tôi từ nhà ra đi, bà cũng không biết rằng bà sẽ mua những gí, và sẽ phải tiêu xài bao nhiêu tiền.

Tiền luôn luôn đến với bà khi bà cần dùng, và khi nào đó là một sự nhu cầu chính đáng.

Có lần tôi được yêu cầu đi đến một thành phố nọ để làm một vài công việc rất quan trọng cho các Chân Sư. Tôi phỏng định rằng làm công việc đó phải mất đến ít nhất là một hay hai tháng, và v́ tôi là người đài thọ mọi khoản tiền chi phí của Hội Quán, cùng những khoản chi tiêu lớn khác nữa, tôi mới nói với bà HPB rằng thật t́nh tôi không thể rời khỏi New York. Bà nói:

“Được rồi, ông hăy làm ǵ ông nghĩ là đúng. Ông chưa phải là một đệ tử đă tuyên thệ, và các Chân Sư không có quyền bắt ông phải gián đoạn công việc làm ăn thuộc về nghề nghiệp của ông”.

Tuy vậy, tôi không thể chịu đựng nổi cái ư nghĩ từ chối bất cứ một việc nhỏ nhặt nào khi các Chân Sư cần dùng đến tôi, và tuy tôi không thấy rơ làm sao tôi có đủ huê lợi để đài thọ mọi thứ nhu cầu khi tôi vắng mặt, rốt cuộc tôi vẫn nói rằng tôi sẽ đi với bất cứ giá nào.

Bà HPB hỏi tôi sẽ bị thiệt hại mất bao nhiêu nếu tôi đi, tôi mới trả lời rằng nếu tính với cái giá thấp nhất, th́ tôi sẽ mất không dưới năm trăm đô la mỗi tháng.

Thế rồi tôi đi, và chỉ trở về hai tháng sau đó. Khi tôi đến nhà Ngân Hàng để xem trong trương mục của tôi c̣n bao nhiêu tiền, th́ tôi lấy làm vô cùng ngạc nhiên mà nghe nói rằng tôi có đến một ngàn đô la trội hơn số tiền mà tôi đă kư thác! Hay là người giữ sổ đă lầm? Không, quả thật đúng như vậy.

Khi đó tôi mới hỏi y có nhớ rơ h́nh dáng của người đến gửi tiền vào trương mục của tôi không, mà gửi đến hai lần, mỗi lần năm trăm đô la. Cũng may mà y c̣n nhớ, bởi v́ người đến gửi tiền có một h́nh dáng lạ kỳ: đó là một người phương Đông, h́nh dung rất cao lớn, có những lọn tóc đen và dài phủ đến tận vai, đôi mắt đen rất tinh anh như soi thấu ḷng người, ḿnh mặc áo rộng trắng, nước da màu nâu sậm.

Cũng một người ấy đến luôn hai lần, chỉ đưa tiền và yêu cầu bỏ vào trương mục của tôi. Người ấy không có quyển sổ ngân hàng của tôi, và yêu cầu người nhân viên hăy điền vào những mẫu giấy in sẵn để làm thủ tục gửi tiền, v́ người “không biết Anh Ngữ”.

Khi chúng tôi qua Ấn Độ, bà HPB luôn luôn nhận được tiền trong những lúc nhu cầu cấp bách. Khi vừa đổ bộ xuống Bombay, chúng tôi chỉ vừa có đủ tiền để trang trải những nhu cầu thiết yếu thường nhận trong nhà khoảng độ vài tháng, đừng nói chi những việc mua sắm những đồ xa xí phẩm.

Tuy vậy, chúng tôi cũng đă đi lên tỉnh Punjab cùng với hai người bạn Ấn Độ trong một chuyến hành tŕnh đáng ghi nhớ, mà bà HPB đă viết thành một chuyện du kư nhan đề: “Non Cao Rừng Thẳm Của Ấn Độ Huyền Bí”, và đă chi tiêu hết độ chừng hai ngàn Ru-pi mà vẫn không sao cả.

Những nhu cầu thiết yếu của chúng tôi luôn luôn được đáp ứng, cơm gạo, thực phẩm không bao giờ khô cạn, bởi v́ đă có các Chân Sư cung ứng cho chúng tôi khi chúng tôi làm công việc của các ngài.

Khi tôi hỏi làm sao có thể như vậy, v́ các Chân Sư là những vị sống ngoài ṿng tục lụy của thế giới tiền bạc vật chất, th́ bà HPB cho tôi biết rằng các ngài là những đấng giữ ǵn, bảo quản bao nhiêu những kho tàng, hầm mỏ báu vật và của cải chôn dấu mà, tùy theo cái Nghiệp Quả dính liền với chúng, có thể sử dụng v́ lợi ích của nhân loại qua nhiều đường lối khác nhau.

Tuy nhiên, có vài thứ kho tàng của cải đó bị ô nhiễm bởi một thứ hào quang sắt máu, tội lỗi, đến nỗi nếu được đào xới lên để đem ra sử dụng trước khi những nghiệp quả báo ứng đă được thanh toán xong, th́ chúng lại nuôi dưỡng thêm những tôi lỗi sát phạt mới nữa và làm cho những nỗi khổ đau của nhân loại càng tăng thêm.

Một mặt khác, Nghiệp Quả của một vài người khiến cho họ sẽ phát hiện, dường như do sự ngẫu nhiên tính cờ, những hũ vàng, bạc hay bảo vật chôn dấu; hoặc tạo nên của cải tiền bạc dễ dàng bằng con đường kinh doanh sự nghiệp.

Những Nghiệp Quả báo ứng đó được thực hiện qua sự trung gian của những tinh linh của loài kim thạch, mà theo sự tin tưởng của người phương Đông, những người được ân sủng của Thần Tài có liên hệ mật thiết do ảnh hưởng của “hành Kim” ngự trị trong khí chất của họ.

Nói tóm lại, những người thuộc loại kể trên dường như hay gặp may mắn lạ lùng về phương diện tiền tài, làm cho họ “mó vào đâu là hóa ra vàng đến đó”; dù cho họ có thể ngu dại đến đâu trong các vấn đề thế sự, sự may mắn vẫn luôn luôn đi kèm với họ không lúc nào rời.

Cũng y như thế, những người có khí chất trội hẳn về “hành Thủy”, sẽ có khuynh hướng hoạt động trên mặt nước và sống cuộc đời phiêu lưu trên sông hồ; họ rất thích thú với nghề thủy thủ và sẽ theo đuổi nghề nghiệp ấy đến cùng, bất chấp mọi nỗi gian nguy hay đau khổ.

Người nào có sự tương quan thích hợp với những tinh linh của Không Khi1trong bản chất tự nhiên của họ, lúc nhỏ thường hay thích trèo cao, leo cây hay leo nóc nhà; và khi lớn lên, họ sẽ thích leo núi, ngồi trên khinh cầu, lái máy bay, hoặc theo đuổi những nghề nghiệp ǵ làm cho họ tách rời khỏi mặt đất.

Bà HPB có kể cho tôi nghe nhiều chuyện để giải thích cái nguyên tắc đó, và đời người có vô số những trường hợp lạ lùng khó hiểu, chỉ có thể giải thích được bằng định luật tương quan về khí chất với các chủng loại Tinh Linh Ngũ Hành như đă nói ở trên.

C̣n nói về Hội Thông Thiên Học, tôi có thể nói rằng trong khi bà HPB và tôi không ai được phép tiêu xài hoang phí, nhưng chúng tôi không bao giờ bị để cho phải khổ sở thiếu thốn về những nhu cầu cần thiết cho đời sống và cho công việc làm của ḿnh.

Đă có biết bao nhiêu lần chúng tôi bị cạn tiền, triển vọng về tài chánh vô cùng bấp bênh và chàn nản đến mức làm xuống tinh thần, nhưng rốt cuộc tôi luôn luôn nhận được vào giờ chót, từ phía này hay phía khác, những món tiền để trang trải mọi chi phí cần thiết, và công việc của chúng tôi không hề bị ngưng trệ một ngày nào v́ lư do thiếu phương tiện để xúc tiến các hoạt động của Hội.

Người đệ tử của Chân Sư thường không đủ tư cách xét đoán xem lúc nào là cần thiết hay không để cho y nhận được tiền khi y thừa hành lệnh trên để hoàn thành công tác. Khi bà HPB được lệnh đi từ Paris sang New York hồi năm 1873, không bao lâu bà đă bị túng quẩn, thiếu thốn đến cùng cực, và đă phải nấu lại xác cà phê cũ để uống lại nhiều lần v́ không có tiền mua cà phê mới.

Và v́ sinh kế bà đă phải làm nghề may thuê vá mướn cho một lăo chủ tiệm tạp hóa. Bà không hề nhận được những món quà bất ngờ, và không đá nhằm một bị bạc ở dưới chân giường khi bà thức giấc! Đó là v́ thời giờ chưa đến.

Tuy nhiên, mặc dù sống trong cơn túng thiếu, ít lâu sau khi đến New York, bà đă cất dưới đáy rương một số tiền lớn (độ chừng hai mươi ba ngàn quan) mà Sư Phụ bà giao cho bà cất giữ, để c̣n chờ lịnh. Sau cùng, bà được lịnh đi đến Buffalo. Thành phố này ở đâu, và đi đến đó bằng cách nào, bà cũng không biết ǵ cả, cho đến khi bà hỏi:

“Con phải làm ǵ ở Buffalo?”

Ngài đáp:

“Không cần biết: hăy cứ đem số tiền kia theo.”

Khi đến nơi, bà được lịnh hăy kêu một chiếc xe ngựa rồi đi đến một địa chỉ, và đưa số tiền ấy cho một người nào đó. Bà sẽ không cần giải thích ǵ cả, mà chỉ lấy biên nhận rồi ra đi.

Bà làm theo lời dặn: người kia có ở tại địa chỉ nói trên, và đang ở trong một t́nh trạng bi đát. Y đang viết một lá thư từ biệt cho gia đ́nh, với một khẩu súng lắp đạn để trên bàn, và sẽ tự bắn vào đầu trong ṿng nửa giờ nếu không có bà HPB đến giải cứu!

Sau đó bà có kể cho tôi biết rằng đó là một người rất cao quư, tốt lành nhưng đă bị lừa gạt mất hai mươi ba ngàn quan, và v́ những biến cố sắp xảy ra như một hậu quả (những biến cố có tầm mức quan trọng cho thế giơi), nên y cần được phục hồi lại số tiền đă mất trong một cơn khủng hoảng đặc biệt, và bà HPB là người được chỉ định làm cái công tác cứu trợ đó.

Khi chúng tôi gặp nhau, bà đă hoàn toàn quên mất tên họ và địa chỉ của nhười kia. Đây là một trường hợp mà người được chọn làm sứ giả đem tiền cho người thụ hưởng lại là bà HPB trong cơn quẫn bách cùng cực, nhưng không được phép tiêu xài một quan tiền nào trong số tiền được giao phó cho bà cất giữ, để mua lấy cho ḿnh một gói cà phê!

Tôi c̣n nhớ một trường hợp khác nữa mà bà HPB được chỉ định để “ban phát ân huệ của Thần Tài”, nói theo ngôn ngữ b́nh dân. Cũng may mà người thụ hưởng đă ghi lại câu chuyện này trên giấy trắng mực đen.

Dường như trong một buổi họp của vài nhà Thần Linh Học danh tiếng ở Boston, có người nói chuyện tờ tạp chí Spiritual Scientist có thể ngưng xuất bản v́ thiếu sự bảo trợ tài chánh. Ông Charles Foster, một nhà đồng tử trứ danh đang có mặt lúc ấy, mới phát ngôn trong trạng thái nhập đồng, và tuyên bố quả quyết rằng sự thất bại ấy chỉ là một vấn đề thời gian.

Thật vậy, cơn khủng hoảng tài chánh quả thật đang hăm dọa sự sống c̣n của tờ tạp chí, v́ vị chủ nhiệm tờ báo là ông Gerry Bown sắp phải trả một khoản tiền lớn, mà ông lại không có đủ phương tiện để thanh toán. Những sự kiện trên đă được công bố trong tờ tạp chí cùng với mẩu chuyện đối thoại dưới đây mà tôi có cắt để dành:

“vài ngày trước đây, vị Giám Đốc tờ Spiritual Scientist nhận được giấy báo đến nhận tiền tại Sở Bưu Điện do một bưu phiếu điện tín gửi cho ông. Ông đi đến nơi và trải qua cái kinh nghiệm sau đây:

Địa điểm: Sở Bưu Điện.

Thời gian: Giữa trưa. Ngồi bên trái là nhân viên Sở Bưu Điện. Từ cửa bên mặt, bước vào một người đưa ra cái giấy báo nhận tiền.

Người thư kư: Ông có trông đợi tiền của ai gửi không?

Người lănh tiền: Đó là tên họ và địa chỉ của tôi trên giấy báo, mà Sở Bưu Điện đă gởi đến cho tôi. Tuy nhiên, tôi cũng không biết người gửi tiền cho tôi là ai.

Người thư kư: Ông có quen biết người nào tên Sir Henry de Morgan không?

Người kia(miệng cười toang hoác): À, tôi có nghe nói đó là vong hồn của một nhà hiệp sĩ đă sống cách đây trên hai trăm năm mươi năm, người ấy chăm sóc đặc biệt đến cuộc sống tiện nghi của tôi. Tôi sẵn ḷng kư tên nhận tiền.

Người thư kư (bật ngửa người và đổi giọng): Ông có quen biết ai ở đây có thể xác nhận căn cước của ông không?

Người kia: Có.

Đến đây, một nhân viên Sở Bưu Điện được gọi đến để nhận diện người kia và y được trả tiền ṣng phẳng.

Một giờ sau đó, một bức điện tín được gửi đến với lời lẽ như sau:

“Tôi đóng góp số tiền X… đô la để trả khoản chi phí phải thanh toán vào ngày 19 tháng 6, và thách thức ông Charles Foster thực hiện lời tiên tri của ông ta. Yêu cầu lời thách thức này được công bố. Hăy đến Sở Bưu Điện mà lănh tiền và gửi điện tín cho biết đă nhận.

Sir Henry de Morgan”

Số tiền ấy được gửi đến từ một thành phố cách đây rất xa. Theo lời yêu cầu của người gửi, chúng tôi đă công bố bức điện văn trên. Chúng tôi không có ư kiến ǵ về việc này.

Chúng tôi đă đưa bức điện văn cho nhiều nhà Thần Linh Học tên tuổi xem và một người trong bọn họ đưa ư kiến rằng có lẽ một người nào trong giới đồng tử đă đùa ghẹo chúng tôi. À, ra thế đấy! Chúng tôi sẵn ḷng muốn bị ghẹo đùa càng nhiều lần càng hay, bao lâu mà có người muốn đùa ghẹo chúng tôi bằng cách đó!”

Lẽ tất nhiên, “thành phố cách xa” đó là Philadelphia, và người gửi là bà HPB, v́, như đă nói trước đây, chúng tôi muốn giúp đỡ vị Chủ Nhiệm tờ tạp chí ấy vượt qua một cơn khủng hoảng tài chánh.

Tôi hoàn toàn biết rơ t́nh h́nh tài chánh của bà HPB lúc ấy, và tôi biết chắc chắn rằng bà không có khả năng gửi tiền bạc, dù số lớn hay số nhỏ, cho bất cứ một người nào.

Bà hẳn là đă nhận được tiền, cũng như bà đă nhận được để mua sắm phẩm vật ở New York, và để chi tiêu trong chuyến du hành ở Ấn Độ, tức là của Quần Tiên Hội. Tên Henry de Morgan trong bức điện tín tức là John King, một vong linh khuất mặt của bà HPB dùng để sai vặt và để làm các hiện tượng.




Dịch GIả: Nguyễn Hữu Kiệt







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1136 of 1146: Đă gửi: 23 April 2011 lúc 1:38pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1137 of 1146: Đă gửi: 23 April 2011 lúc 10:35pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




MỘT ĐỜI NGƯỜI MỘT THẦN CHÚ




1. ĐÔI D̉NG CẢM TƯỞNG

Tôi là người rất ngại “viết lách”. Viết, đối với tôi là cả một cuộc “vật lộn” với chữ nghĩa. Vậy mà từ khi được duyên may mắn, là người đầu tiên đọc tác phẩm Một đời người, một câu thần chú của giáo thọ Nguyên Thành vừa viết xong, như có ai đó thúc giục tôi một cách mănh liệt, rằng phải viết lên những niềm hỷ lạc mà tôi đă nhận được từ sự gia tŕ của Bổn Tôn qua tác phẩm này. Do vậy, tôi “đành” phải “chấp bút”.

Tuy là người đă hành tŕ giáo pháp Mật tông, và cũng đă đọc một số kinh điển giảng luận của các đạo sư và các thánh tăng, viết về lợi ích của việc thực hành tŕ niệm thần chú nhưng tôi vẫn không khỏi bàng hoàng và choáng ngợp bởi sự hoành tráng, đầy đủ mọi khía cạnh nông sâu của thần chú Om mani padme hum.

Tựa như những viên pha lê đầy màu sắc trước kia để ẩn khuất từng nơi, nay được gom tụ vào một chỗ th́ ánh sáng lấp lánh của chúng tăng lên gấp ngàn lần vậy. Tôi như một chú ếch đă tạm hiểu được sự rộng sâu của một ḍng sông nhưng vẫn phải nổ tung trước sự mênh mông bao la không bến bờ của đại dương.

Vậy đối với những ai có duyên lành với Phật pháp và mong muốn am tường về thần chú Om mani padme hum của Bồ Tát Quán Âm, th́ Một đời người, một câu thần chú là một tác phẩm chứa đựng đầy đủ.

Như một nhà họa sĩ tài ba với cành cọ khéo léo, một năng khiếu mỹ thuật, một tấm ḷng bi mẫn chân thành, giáo thọ Nguyên Thành đă vẽ lên một bức tranh toàn cảnh tráng lệ, làm cho hàng căn cơ chậm lụt như tôi càng đọc tín tâm càng thâm sâu hơn vào sức gia tŕ và ḷng bi mẫn của Bồ Tát Quán Thế Âm. Chỉ một câu thần chú ngắn ngủi sáu âm mà chứa đựng vạn pháp!

Từng chương trong tác phẩm mang những h́nh ảnh, khía cạnh khác nhau của thần chú Lục tự đại minh, cũng giống như mỗi màu sắc trong một bức tranh, càng tăng phần sinh động, mà vẫn mang đầy đủ ư nghĩa về ḷng bi mẫn siêu phàm của Bồ Tát Quán Thế Âm nhất là những đại nguyện của Ngài dành cho tất cả chúng sanh với tâm không phân biệt, dù cho căn cơ của mỗi chúng sanh khác biệt cũng đều được hưởng lợi lạc như nhau.

Càng đi sâu, ta như lạc vào một ḥn đảo chứa đầy những viên ngọc quư giá và chính ḿnh cũng được chiếu soi từ ánh sáng ngọc quư, không những thế mà ta c̣n được tùy nghi sử dụng. Niềm hỷ lạc dâng trào v́ thấy ḿnh quá may mắn gặp được Phật pháp trong đời này và đang hành tŕ pháp môn tŕ tụng thần chú Lục tự đại minh.

Để đền đáp phần nào ơn tri ngộ với bậc thiện tri thức qua tác phẩm quư báu này, tôi chỉ biết hết ḷng cầu nguyện cho bất cứ ai có duyên may đến được ḥn đảo châu báu Om mani padme hum đều sẽ khởi tâm tin nhận hành tŕ để được phần lợi lạc, không phải trở về tay không!



Mật Diệu Kính đề





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1138 of 1146: Đă gửi: 23 April 2011 lúc 10:39pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




MỘT ĐỜI NGƯỜI MỘT THẦN CHÚ



2. LỜI NÓI ĐẦU

Thần chú là một đặc trưng của giáo pháp Phật giáo Mật tông, bởi vậy nên gọi là Mật chú thừa hay là Kim cang thừa. Trong Mật chú thừa, h́nh tượng vị Phật mà các hành giả tu tập thiền quán Bổn tôn thường chọn nhất có lẽ là h́nh tượng đức Quán Âm Tứ Thủ, và thần chú do Ngài tuyên thuyết là thần chú Mani cũng được nhiều người thọ tŕ nhất, c̣n gọi là thần chú Lục tự đại minh hay thần chú Sáu âm.

Từ xưa đến nay đă có biết bao thế hệ hành giả Mật chú thừa sử dụng thần chú Mani làm nền tảng tiến tu và nhận Bồ Tát Quán Âm là Bổn tôn thiền quán. Mật gia Song Nguyễn là nơi tịnh cư thực hành Mật giáo của người viết, cũng noi theo những tấm gương đó.

Trong những năm tháng thực hành pháp môn tŕ chú song song với pháp quán tưởng Bổn tôn, người viết cũng như những đồng môn khác như đạo hữu Mật Diệu, Mật Hải, Mật Tuệ, Mật Tấn, Mật Hạnh... đều cảm nhận được không ít lợi lạc trong đời sống, cả về mặt tâm linh cũng như thể chất.

Thật sự không thể kể hết được ân phước gia hộ từ Bổn tôn, Đạo sư, Dakini, là suối nguồn tâm linh đă mang đến cho chúng tôi tất cả những ǵ có thể gọi là quư giá của kiếp người, bao gồm cả niềm hạnh phúc trong đời sống hằng ngày cũng như những pháp vị được trải nghiệm qua từng thời khóa hành tŕ!

Với tâm nguyện là niềm vui nên chia sẻ với mọi người, tựa như ổ bánh ngọt thơm ngon muốn nhiều người cùng ăn chung cho biết mùi vị, người viết không ngại tài sơ trí thiển, cố dồn tâm lực vào tác phẩm này để chia sẻ những nhận thức của ḿnh về thần chú Mani.

Cũng như những trải nghiệm tâm linh trên đường tu Mật giáo mà bản thân đă kinh qua, mong có thể giúp ích ít nhiều cho những ai chưa biết đến Mật giáo, những ai có thiện cảm với Mật tông, cũng như những ai đang là hành giả Mật giáo.

Trong tác phẩm “Một đời người, một câu thần chú” này, người viết cố gắng thể hiện những quan kiến Mật giáo về pháp môn tŕ niệm thần chú Mani từ nhiều khía cạnh khác nhau. Khi tŕnh bày, người viết cố gắng y cứ theo những luận chứng trong kinh điển để tránh t́nh trạng “tri kiến lập tri”, tức là luận giải chủ quan của cá nhân ḿnh.

Tuy vậy, về sự vi diệu của thần chú Mani th́ có lẽ chỉ chư Phật mới có thể luận bàn rốt ráo. V́ vậy, người viết khó có thể tránh được nhiều sai sót, khuyết điểm. Rất mong quư bạn đọc gần xa niệm t́nh tha thứ, người viết chân thành cảm kích. Được chút thiện hạnh nào, người viết xin nguyện hồi hướng về cho mọi chúng sanh hữu t́nh, vô t́nh trong pháp giới.


Mật gia Song Nguyễn

Phật lịch 2552

Thinley Nguyên Thành

Cẩn chí

ĐẠI SĨ LIÊN HOA SANH (tức GURU RINPOCHE) Đạo sư của nhiều thế hệ hành giả Mật giáo

ĐẠI THÀNH TỰU GIẢ LONGCHENPA và các vị đệ tử ḍng truyền thừa Nyingma

ĐỨC ĐẠT-LAI LẠT-MA XIV Lănh tụ tinh thần của Phật giáo Tây Tạng




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1139 of 1146: Đă gửi: 23 April 2011 lúc 10:44pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




MỘT ĐỜI NGƯỜI MỘT THẦN CHÚ



3. DẪN NHẬP

Vùng cao nguyên Ladakh thuộc đất nước Nepal, vào ngày 4 tháng 3 năm 2009. Thời tiết âm 180C! Không cần nói, ai cũng nhận thấy cái rét buốt da ở đây. Nhưng người dân địa phương lại cho biết, so với năm ngoái vào thời điểm này thời tiết c̣n xuống đến âm 280C. Được như hôm nay là đă ấm hơn nhiều!

Song, vấn đề không phải chuyện ấm lạnh, mà là đang có đến hàng vạn người quy tụ về địa điểm Shey, thuộc cao nguyên Ladakh, không quản mưa lạnh giá rét! Họ tham gia lễ cầu nguyện và tŕ tụng thần chú Mani cùng thần chú Kim cương Thượng sư một trăm triệu biến mỗi loại.

Nghi lễ tâm linh này được diễn ra dưới sự hướng dẫn của đức Pháp vương Gyalwang Drukpa XII. Thành phần tham gia có đủ tứ chúng trong Phật giáo: tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, cư sĩ nam và cư sĩ nữ. Tất cả đều cầu nguyện cho quốc thái dân an, thế giới ḥa b́nh, bản thân tinh tấn tu hành để làm lợi lạc cho chúng sanh và chính ḿnh.

Trên thực tế, sự kiện trọng đại này đă có khoảng 45.000 người tham gia. Điều này cho thấy niềm tin mănh liệt của họ về công năng bất khả tư nghị của thần chú.

Vậy thần chú là ǵ mà có thể trở thành một phương tiện thiện xảo như thế?

THẦN CHÚ LÀ G̀?

Thần chú là bản tâm của chư Phật, là mật ngữ của chư Phật, chư đại Bồ Tát, lưu xuất từ trong đại định tam muội, đúc kết tất cả tinh hoa vi diệu trong vũ trụ. Theo nguyên ngữ tiếng Phạn, thần chú được gọi là “mantra”, có nghĩa là “bảo hộ tâm thức” thoát khỏi uế trược, phiền năo. Do đó, có thể hiểu nôm na thần chú là phương tiện ban vui, cứu khổ.

Trong Phật giáo Mật tông, thần chú là một phương tiện được sử dụng song hành với phương pháp thiền quán Hộ Phật Du Già (Yidam Yoga), hay c̣n gọi là thiền quán Bổn tôn.

Công năng của thần chú được mô tả trong nhiều kinh sách Mật giáo. Tuy nhiên, tựu trung thần chú có 5 công năng vi diệu sau đây:

1. Kính ái: ai đọc thần chú sẽ được người, trời, quỷ thần kính trọng và quư mến;

2. Tăng ích: được gia tăng những lợi ích trong đời sống như tuổi thọ, sức khỏe, sự thành đạt;

3. Tiêu tai: tai ách sẽ dần tiêu trừ theo diễn tŕnh từ nặng hóa nhẹ, từ nhẹ trở thành không c̣n nữa;

4. Hàng phục: trừ tà, diệt ma, tức là những thế lực xấu ác vô h́nh gây tổn hại cho con người;

5. Câu triệu: tập trung được những năng lực tinh tế của vũ trụ, từ các cảnh giới cao diệu...

Nhưng đó chỉ là những lợi ích thuộc về pháp hữu vi, chưa nói đến các lợi ích cao siêu hơn thuộc về pháp vô vi.

Trong pháp hội Lăng Nghiêm, đức Phật dạy rằng ngay cả các bậc đại Bồ Tát cũng cần tŕ chú. Từ đó có thể thấy rằng thần chú thực sự hữu ích cho chúng sanh hữu t́nh, trong đó có loài người chúng ta. Sau đây là một trích dẫn từ kinh Thủ Lăng Nghiêm để thấy rơ oai lực của thần chú:

“Giả sử có chúng sanh trong tâm c̣n tán loạn, nhưng nếu tŕ niệm thần chú này cũng vẫn thường được 84.000 hằng hà sa Kim cang thần ngày đêm đi theo giữ ǵn hộ vệ... Các quỷ thần ác phải xa lánh vị thiện nhân này ngoài 10 do-tuần, và chúng ma muốn ŕnh rập quấy nhiễu cũng không thể được...”

Ngoại đạo có thần chú hay không? Hành giả ngoại đạo cũng có những mật chú riêng, có công năng khác nhau, nhưng không thể gọi là thần chú. Ở họ có thể gọi là thiên chú, tiên chú, quỷ chú, yêu chú... tùy theo đạo giáo của họ.

Chẳng hạn, trong Bà la môn giáo có Phạm thiên chú, trong Lăo giáo có tiên chú, trong giáo phái thờ quỷ thần, yêu ma th́ có loại quỷ chú, yêu chú... Nhưng chỉ riêng trong Phật giáo mới có mật chú được gọi là thần chú.

V́ sao vậy? Chữ “thần” ở đây không có nghĩa là cơi thần, mà là “thần diệu khôn lường”, diệu dụng vô công, là thần lực của chư Phật. Ngoại đạo không đạt đến cảnh giới siêu phàm đó, nên không thể gọi là thần chú. Lược nói đơn giản là như thế, nhưng để thấu triệt cần phải phân tích thêm...

Nguyên nhân ở chỗ là do định lực của mỗi đạo nông sâu khác nhau. Những tu sĩ ngoại đạo dù chuyên cần tu luyện đến đâu cũng chỉ có thể đạt được những thành tựu trong phạm vi tứ thiền, bát định; có nghĩa là từ sơ thiền lên đến tứ thiền, rồi dần lên đến cảnh giới Phi tưởng phi phi tưởng là hết mức.

Theo lời Phật dạy, nếu họ gột sạch được tập khí chấp ngă, họ cũng có thể đạt tới Diệt tận định, thoát khỏi luân hồi. Nhưng v́ họ tu tập trên căn bản vẫn c̣n chấp ngă nên điều này là không thể xảy ra. Và v́ thế mà thành tựu cao nhất này chỉ có ở hành giả Phật giáo, những người tu tập giáo pháp vô ngă.

Chính v́ vậy mà hành giả ngoại đạo chỉ có thể đạt tới những mức định thuộc Sắc giới và Vô sắc giới, nghĩa là không ra khỏi Tam giới. Do đó, họ vẫn c̣n trôi lăn trong cơi luân hồi chịu khổ năo, cho dù các vị trời Vô sắc giới sống lâu đến nhiều đại kiếp.

Các hành giả Tiểu thừa có thể đạt đến Diệt tận định, làm vắng bặt được thọ ấm, tưởng ấm cùng những tập khí ô nhiễm chấp ngă của hành ấm, chạm vào mép cửa của tàng thức sơ năng biến, đă thoát khỏi ṿng cương tỏa luân hồi. Nhưng đến đây vẫn c̣n sự biến dịch vi tế và mănh liệt của những vọng tưởng hư vô vi tế của tàng thức. Bởi vậy, họ chưa đạt được Đại định Tam-muội.

Riêng trong Phật giáo Đại thừa, Mật thừa, các hành giả tu theo con đường Bồ Tát đạo, Phật đạo, thường quán chiếu các pháp như huyễn, thực hành phương tiện và trí huệ Bát-nhă ba-la-mật-đa, thẩm thấu đại bi đồng thể và tự tâm huyễn hiện... nên đạt được thần lực của Đại định tam-muội, như Thủ lăng nghiêm tam-muội, Như huyễn tam-muội, Chân như tam-muội, Kim cang tam-muội...

Khi có được đại định ấy gọi là Diệu định quả sắc, trở thành bậc Đại thánh trong Phật giáo, vô ngại tự tại ra vào sanh tử mà chẳng chút nhiễm ô, hóa độ vô lượng chúng sanh hàng vô số kiếp mà không chút dụng công. Đó là đặc điểm của diệu tâm, và từ diệu tâm nên các ngài mới có thể tuyên thuyết thần chú. Do đó có thể hiểu rằng thần chú là phương tiện thần diệu.

Cũng với ư nghĩa này, ḥa thượng Tuyên Hóa từng giải thích về thần thông pháp lực. Ngài cho rằng có quỷ thông (phép tắc biến hiện của quỷ), tiên thông (phép tắc biến hiện của tiên, chư thiên cơi trời), ma thông (phép tắc biến hiện của ma), yêu thông (phép tắc biến hiện của yêu quái).

Tất cả các loại phép tắc biến hiện đó đều gọi là “nghiệp thông”, Chỉ riêng ở hành giả đạo Phật mới được gọi là “thần thông”, tức là biến hóa tự tại, phân thân vô số ức...

Trong kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn nguyện, Phẩm thứ hai ghi lại một đoạn như sau:

“Các phân thân của con thị hiện ở khắp trăm ngàn muôn ức Hằng hà sa thế giới; trong mỗi thế giới hóa hiện trăm ngàn muôn ức thân, mỗi một thân đó hóa độ trăm ngàn muôn ức người, khiến cho họ quy kính Tam bảo, vĩnh viễn xa ĺa sanh tử, đến được Niết-bàn an lạc...”

Sở dĩ được như vậy là v́ bậc thánh trong đạo Phật có đạt được “Lậu tận thông” làm nền tảng mà các hành giả ngoại đạo không thể. Từ điểm tham chiếu này có thể hiểu rằng thần chú là danh từ chỉ có ư nghĩa chuẩn xác nhất khi được dùng trong Phật giáo, nhất là Mật tông.

Cũng từ đó ta có thể suy ra, chỉ có thần chú trong đạo Phật mới có được đầy đủ 5 công năng lợi ích vi diệu như đă nêu trên ở b́nh diện thế gian, c̣n những thành tựu xuất thế gian sẽ tiếp tục được luận giải ở chương sau.

Thần chú trong đạo Phật được chia làm 4 loại với những cấp độ khác nhau. Trong Tâm kinh Bát-nhă có đề cập đến:

“Đây là đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú, có khả năng trừ được hết thảy khổ năo, chân thật không hư dối.”

Cũng có một cách phân loại thần chú gồm: đảnh chú, tâm chú và tùy tâm chú. Thông thường, chỉ có chư Phật mới lưu xuất đảnh chú, thí dụ như “Đại Phật đảnh chú Thủ Lăng Nghiêm” hoặc “Phật đảnh Tôn thắng thần chú”...

Về mặt lư th́ thần chú của chư Phật cao hơn chư Bồ Tát đẳng giác, tức là các đại Bồ Tát. Tuy nhiên, về mặt sự th́ tất cả thần chú trên đều lưu xuất từ Đại định Tam-muội nên công năng vi diệu đều là bất khả tư nghị.

Trong các nghi quỹ thực hành thần chú có chỉ dạy cách đọc tụng, tŕ niệm. Nói chung, đọc thần chú là phát ra thành tiếng hoặc lớn hoặc nhỏ, c̣n tụng thần chú là ngâm nga trầm bổng theo tiếng chuông mơ như hiện đang thực hiện ở các chùa, tu viện Đại thừa.

Nếu đọc thần chú thành tiếng th́ nên tránh tám lỗi sau đây mà “Nghi quỹ Do Subahu thỉnh cầu” đă đề ra:

1. Quá nhanh,

2. Quá chậm,

3. Quá lớn,

4. Quá nhỏ,

5. Gián đoạn v́ nói chuyện với người khác,

6. Xao lăng

7. Âm dài, đọc ngắn,

8. Âm ngắn, đọc dài.

Sau đây là giải thích cặn kẽ:

Quá nhanh là khi các âm của thần chú lẫn vào nhau, không rơ ràng.

Quá chậm là khi hành giả không đọc hết số câu thần chú trong khoảng thời gian vừa phải

Quá lớn là đọc như sấm, hoặc đọc làm cho người khác nghe thấy lớn tiếng.

Quá nhỏ là đọc mà chính ḿnh cũng không nghe.

Nói chuyện với người khác là làm gián đoạn việc đọc thần chú.

Xao lăng là không tập trung vào câu thần chú mà ḿnh đang đọc.

Âm dài đọc ngắn là phát âm sai những chữ của thần chú.

Âm ngắn đọc dài cũng là phát âm sai.

Riêng niệm thần chú tức là đọc thầm trong trí, hoặc đọc ŕ rầm mà người ta thường ví là chỉ đọc cho cổ áo nghe.

Niệm chú gồm có 6 cách sau đây, được ghi lại trong “Thánh nữ kinh” (hay c̣n gọi là “Giáo huấn Dakini”) do Đại sĩ Liên Hoa Sanh chỉ dạy:

– Một là niệm kim cương, có nghĩa là niệm mà chỉ có chuỗi đeo cổ của ḿnh có thể nghe thấy.

– Niệm có âm điệu kim cương, được dùng trong những dịp thực hành thành tựu lớn.

– Niệm bí mật kim cương là niệm thầm trong trí.

– Niệm như luân xa, là tưởng tượng âm thanh khi niệm ra khỏi miệng, đi vào vùng rốn, rồi tan ḥa ngược lên vùng trung tâm tim.

– Niệm như tràng hoa, là xoay tràng hoa thần chú xung quanh mỗi chủng tự thần chú trong trung tâm tim và chú tâm hoàn toàn vào các chủng tự.

– Niệm chú tập trung vào âm thanh là khi niệm chú luôn tập trung chú tâm hoàn toàn vào âm thanh phát ra của câu thần chú.

Mặc dù niệm thần chú có thể áp dụng trong mọi oai nghi như đi, đứng, nằm, ngồi..., nhưng khi ngồi theo tư thế kiết già để niệm thần chú là tốt nhất.

Đặc biệt, trong “Thánh nữ kinh” cũng khuyến cáo, nếu hành giả đọc các thần chú Mật thừa hoặc thần chú của các vị bổn tôn hung nộ quá lớn, th́ oai lực của thần chú sẽ giảm đi, đồng thời c̣n khiến cho các loài phi nhân và ma quỷ sẽ hoảng hốt mà bất tỉnh.

Cũng đừng khạc nhổ những nơi có người qua lại, v́ như vậy gây trở ngại cho năng lực thần chú. Riêng sự phát âm chưa đúng không phải là vấn đề quan trọng nhất trong việc tŕ tụng thần chú, mà chủ yếu là sự chí thành, miên mật.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 1140 of 1146: Đă gửi: 23 April 2011 lúc 10:52pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




MỘT ĐỜI NGƯỜI MỘT THẦN CHÚ



4. CHUYỆN KỂ VỀ THẦN CHÚ

Chuyện kể rằng thuở xưa có một bà lăo nghèo sống đơn độc trên một đỉnh núi ở Tây Tạng suốt ngày, ngồi dùng cơm ra, bà lăo luôn lẩm nhẩm câu thần chú Lục tự đại minh của Bồ Tát Quán Thế Âm.

Qua nhiều năm như vậy, một hôm bà lăo đọc thần chú khiến hạt đậu nhảy qua, nhảy lại hai cái rổ tre của ḿnh. Từ đó, bà có một tṛ chơi như vậy. Bà sống với niềm vui đó suốt cuộc đời c̣n lại và không một chút vướng bận thế tục.

Ngày nọ, một hành giả Mật thừa t́nh cờ leo lên đỉnh núi, thấy hào quang phát sáng ở trong hang động nhỏ. Ông lần ṃ vào xem và thấy một cụ già đang lẩm nhẩm ǵ đó. Và mỗi lần như vậy hào quang lại phát ra từ trong động lờ mờ kia, nơi cụ già đang cư ngụ. Vị hành giả thầm hiểu cụ già đó đă đạt Nhất tâm tam-muội do pháp môn tŕ niệm thần chú.

°
Chuyện kể rằng, thuở xưa có một người được gọi là “mũi trái rạ”, v́ hồi nhỏ anh ta bị bệnh trái rạ để lại những vết sẹo đỏ hồng trên mũi. Suốt ngày anh ta chỉ lo việc chăn ḅ ngoài đồng cỏ, c̣n những người trong gia đ́nh th́ chăm chỉ học tập kinh điển với một vị Lạt-ma.

Họ cho rằng anh dốt nát nên mỗi lần anh muốn ḍ hỏi họ học những ǵ ở vị Lạt-ma, hay vị Lạt-ma làm ǵ, nói ǵ..., liền bị gạt qua một bên. Họ cho rằng đó là “Mật giáo”, không phải ai cũng có thể biết được!

Có lần anh ta gạn hỏi: “Các người học được mấy điều?” Họ trả lời: “Chỉ có 3 điều thôi! Thậm chí chỉ có 3 chữ mà bao quát toàn bộ tri kiến Phật.”

Gia đ́nh không ai để ư đến anh ta, ngoài việc bảo anh ta dẫn ḅ xuống làng bán hoặc mua thực phẩm. Anh tha thiết được học như họ, nhưng hầu như không ai cho anh được toại ư.

Vài năm sau đó, anh âm thầm trốn khỏi nhà, t́m cầu học đạo để mong được như những người khác. Vượt qua nhiều gian nan, anh cũng gặp được giáo pháp. Đó là nơi một vị Lạt-ma đang thuyết giảng cho những tu sĩ khác ở một trại lều cạnh chân núi.

Anh mon men vào nghe. Quả thật là Phật pháp cao sâu, anh chẳng hiểu một tí ǵ sau hai giờ liền chăm chú lắng nghe. Vị Lạt-ma giảng những ǵ mà phức tạp, khó hiểu, càng nghe càng rối bời. C̣n 3 chữ chứa đựng toàn bộ tri kiến Phật mà gia đ́nh anh nói, chẳng nghe ǵ cả!

Anh buồn rầu tâm sự với vị Lạt-ma nọ. Thông cảm với anh, vị Lạt-ma liền hứa sẽ mời vị thầy chứng đắc của ḿnh dạy bảo tinh túy giáo pháp cho anh.

Sáng hôm sau, khi mặt trời ửng hồng ở chân trời phía đông, anh chăn ḅ ham học giáo pháp đă đứng trước vị sư Mật giáo được tôn vinh là thành tựu giả. Ngài yên lặng lắng nghe anh yêu cầu trao truyền 3 chữ tinh yếu ấy. Ngài biết rơ, nếu tâm thức chín mùi, căn cơ lanh lợi th́ dù chỉ một từ, một tiếng cũng có thể giúp người đệ tử đắc pháp và nhập tri kiến giải thoát.

Nhưng nh́n anh chăn ḅ có “mũi trái rạ” này, Ngài không thể nói ǵ hơn bởi sự đần độn lộ ra vẻ ngoài của anh ta. Ngài mỉm cười nói lăng sang chuyện khác. Anh chăn ḅ tưởng vị sư ích kỷ, giấu giếm tuyệt học, liền lên giọng thô lỗ, văng tục không ngớt. Thị giả của sư trưởng không chịu nỗi, lấy chuỗi hạt đeo trên cổ đập vào đầu anh ta và gằn giọng: “Này mũi trái rạ, đâu có ǵ! Benza Hung Phat!”

Nghe thế, tự dưng anh chăn ḅ vỗ tay cái đét vào đùi ḿnh rồi hét lên: “Dạ, cảm ơn Lạt-ma, con xin ghi nhớ mật chú của Ngài dạy, đó là tinh túy giáo pháp. Benza Hung Phat! Đúng rồi! Benza Hung Phat! Con nhớ rồi! Benza Hung Phat!” Con cảm ơn nhiều!”

Thế là anh chăn ḅ khấp khởi trong ḷng lên đường về nhà, anh đă t́m được cái mà người khác không thể ngờ. Người nhà thấy anh hoan hỷ lộ ra mặt khác với sự đăm chiêu, khắc khổ ngày thường. Họ hỏi anh tại sao, anh ưỡn ngực trả lời: “Mọi người chắc không tin ta đâu! Ta đă học được tinh túy của giáo pháp chỉ thu gọn trong 3 chữ.”

Trầm ngâm một lát, anh nói tiếp: “Ba chữ này bí mật ta phải giữ kín, mỗi ngày đều phải tŕ niệm.” Những ngày sau, anh trở lại với công việc chăn ḅ như cũ, chỉ khác trước kia là anh có một chỗ ngồi thiền định trên tấm rạ sau khi xong việc. Anh ngồi kiết già, tập trung cao độ tŕ niệm câu thần chú.

Trong lúc chăn ḅ, mỗi lần cảm thấy tâm ḿnh buông lung, anh lại nhẩm đọc “Benza Hung Phat”. Không bao giờ anh t́m hiểu 3 chữ ấy mang ư nghĩa ǵ. Đối với anh “mũi trái rạ” này, chỉ đơn giản là 3 chữ đó bao trùm toàn thể vạn vật.

Với tâm chí thành tu tập, dần dần chàng “mũi trái rạ” của chúng ta trở thành một hành giả Mật tông có tŕnh độ thâm sâu, mặc dù anh không tự biết chứng nghiệm của ḿnh đến đâu.

Nhiều năm trôi qua, có một hôm có người t́m đến “Mũi trái rạ” để nhờ anh chữa trị bệnh tà mà bà vợ của một phú hộ bị mắc phải. Anh ta từ chối, nhưng họ nằng nặc cố mời “mũi trái rạ” đi xuống làng, v́ mọi người tin rằng anh có câu mật chú thiêng liêng.

Vạn bất đắc dĩ, anh đành theo họ v́ ḷng bi mẫn thôi thúc, mặc dù anh không dám tin vào khả năng của ḿnh. Đến nơi, anh vào thăm người bệnh đang vật vă. Anh bắt chước thầy ḿnh, lấy chuỗi hạt trên cổ ra, đập vào đầu người bệnh và gọi lớn:

“Mũi trái rạ, đâu có ǵ. Benza Hung Phat!” Lạ thay, người bệnh bỗng nhiên hết bị tà ám, trở lại b́nh thường, ngơ ngác nh́n mọi người như vừa mới tỉnh cơn mê. Gia chủ cảm ơn rối rít và cúng dường anh ta nhiều phẩm vật.

Từ đó, “Mũi trái rạ” không c̣n là người chăn ḅ tầm thường nữa, ông ta được nhiều người trọng nể. Giờ đây, ông chỉ ngồi thiền với câu mật chú của ḿnh, gác hết mọi việc đời qua một bên. Người nhà không dám để ông chăn ḅ nữa mà dọn cho ông một túp lều có tiện nghi đầy đủ, dâng cơm đến hằng ngày. “Mũi trái rạ” chỉ c̣n duy nhất một việc làm: chữa trị bệnh tà và một số bệnh khác cho dân làng.

Rồi một ngày kia, vị Lạt-ma trước đây đă từng truyền thần chú cho “Mũi trái rạ” cũng bị bệnh. Nghe danh một hành giả có cái mũi trái rạ nào đó, có câu mật chú kỳ diệu trị được nhiều bệnh khác nhau, đồ chúng liền đón rước anh chăn ḅ năm xưa về chữa trị bệnh sưng cổ họng cho vị Lạt-ma của ḿnh.

“Mũi trái rạ” nghe tin thầy cũ bị bệnh liền tức tốc t́m đến, vén lều bước vào. Đến bên giường, ông chuẩn bị rút chuỗi hạt th́ vị Lạt-ma hỏi thị giả, tên khùng này là ai mà sắp đập chuỗi hạt vào đầu ḿnh. Lúc đó, người chăn ḅ năm xưa quỳ xuống nói: “Thầy không nhận ra con sao? Con đến đây để thực hành phép chữa bệnh mà Thầy đă dạy cho con với ḷng bi mẫn vô hạn. Nhờ đó mà con đă giúp được nhiều người”.

T́m lại trong kư ức, vị Lạt-ma dần dần nhớ ra là ông từng thốt lời giận dữ, đập chuỗi hạt trúng đầu tên khùng này và đọc một câu thần chú đuổi quỷ: Benza Hung Phat.” Vị đạo sư cười lớn v́ không ngờ hành vi năm xưa đó có hiệu quả vô biên. Thị giả Ngài cũng cười theo và cả người chăn ḅ cũng cười. Họ cùng nhau cười vang và nhờ vậy đờm độc trong cổ vị Lạt-ma bị tống ra ngoài. Ngài tự nhiên lành bệnh.

°

Một câu chuyện có thật khác đă xảy ra vào thời Đức Phật c̣n tại thế, được ghi chép trong kinh Thủ Lăng Nghiêm.

Một ngày nọ, vị đệ tử thị giả của Phật là A-nan đi khất thực trên một con đường làng quê nọ. Lúc ấy, có một thôn nữ tên là Madanga (Ma-đăng-già) thuộc hàng tiện dân, thoạt nh́n thấy phong mạo của thầy Anan liền mê mẫn tâm thần. Từ đó, nàng bỏ ăn, mất ngủ rồi sinh ra bệnh tương tư.

Sau khi t́m hiểu được nguyên nhân, bà mẹ cầu viện pháp sư của Bà-la-môn xin câu Phạm thiên chú có tác dụng mê hoặc đàn ông. Lần sau, khi thầy Anan đi qua đường làng này, thôn nữ Madanga nhẩm đọc Phạm thiên chú khiến Anan quên hết mọi sự, từ từ đi theo nàng vào pḥng ngủ.

Bấy giờ, Đức Phật đang ngụ tại Kỳ Viên tinh xá, biết được sự cố liền bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi tŕ niệm thần chú Thủ Lăng Nghiêm mới bảo toàn được giới thể của thầy Anan.

Sau đó, nhân nguyên cớ này mà có pháp hội Lăng Nghiêm để Phật tuyên thuyết đảnh chú Thủ Lăng Nghiêm dùng để đối trị ái dục nam nữ, giúp tăng ni vượt qua cửa ải sắc dục, vững bước tiến tu trên đường giải thoát.

Ba trường hợp có thật vừa kể trên chứng minh sống động về công năng của mật chú. Thần chú mặc dù khác nhau nhưng bất cứ ai nỗ lực và chí thành thực hành miên mật cũng đều sẽ được thành tựu không thể nghĩ bàn.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 

<< Trước Trang of 58 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.2285 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO