Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
  H́nh Ảnh Từ Thiện
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Thông Tin
  Thông Báo
  Báo Tin
  Liên Lạc Ban Điều Hành
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Nhờ Coi Quẻ
  Nhờ Coi Ngày
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Tử Vi
  Tử Bình
  Kinh Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Bói Bài
  Đoán Điềm Giải Mộng
  Khoa Học Huyền Bí
  Thái Ất - Độn Giáp
  Y Dược
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch và Phong Thủy 3
Kỹ Thuật
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
Thư Viện
  Tủ Sách
  Bài Viết Chọn Lọc
Linh Tinh
  Linh Tinh
  Giải Trí
  Vườn Thơ
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 230 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
chindonco (3250)
hiendde (2589)
HoaCai01 (2277)
vothienkhong (1807)
dinhvantan (934)
ryan88 (805)
Vovitu (713)
ruavang (691)
lancongtu (667)
TranNhatThanh (644)
Hội viên mới
redlee (0)
dautranhsinhton (0)
Chieu Tim1234 (1)
huyent.nguyen (0)
tamsuhocdao (0)
henytran2708 (0)
thuanhai_bgm (0)
Longthienson (0)
thuyenktc (0)
liemnhi (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Tử Vi
 TUVILYSO.net : Tử Vi
Tựa đề Chủ đề: Cơ sở cách xem của phái Tử Vân Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
VDTT
Thượng Khách
Thượng Khách


Đă tham gia: 11 October 2010
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 416
Msg 1 of 71: Đă gửi: 27 November 2010 lúc 12:31am | Đă lưu IP Trích dẫn VDTT

Tôi hiện bận bù đầu, nhưng gặp được bài này của một tác giả muốn xiển dương cách xem của phái Tử Vân. Thấy rằng bài viết có giá trị, mà phổ biến ra th́ chính là thỏa mục đích mà tác giả đề ra trong bài, nên tôi cố bỏ thời giờ dịch được 1/3. Phầ ;n c̣n lại tính sau.

Tên bài viết "Cơ sở phái Tử Vân"

Tác giả: Không đề tên

Dịch và chú thích: VDTT

Giảng nghĩa cơ sở cách xem Tử Vi

Những điểm học tập quan trọng

 

Lịch sử h́nh thành và phát triển của Tử Vi không rơ ràng, mà cũng không cần chú ư quá. Hoàn toàn không biết cũng chẳng ảnh hưởng ǵ đến nhận thức Tử Vi. Nếu hứng thú th́ có thể t́m thấy tư liệu phát triển 40 năm gần đây, nhưng đó cũng chỉ là chuyện trà dư tửu hậu. Phát triển trọng yếu bắt đầu khoảng mười năm trước, khi Tuệ Tâm trai chủ giới thiệu Tử Vi trên Trung Quốc thời báo cho đến ngày nay. Bộ phận phát triển này hết sức có giá trị. Để giới thiệu và nghiên khảo, người viết có thời gian sẽ ở phần sau giới thiệu, tên bài là “Sự phát triển của khoa Tử Vi trong mười năm qua: Từ duy tâm luận đến tâm vật hợp nhất”. (dịch giả chú = dgc: Bài này đă dịch đăng trên tuvilyso. Đoạn này giúp cho ta biết tác giả bài này không phải là ông Tử Vân. Vậy th́ hẳn phải là một người muốn xiển dương cách luận Tử Vi của ông Tử Vân, hy vọng là nắm vững cách luận này).

 

Trong việc tập luyện Tử Vi, theo lư giải hôm nay của người viết (dgc: Tức người viết bài này, không phải ông Tử Vân, không phải dịch giả), th́ các điểm quan trọng có thể phân thành vài loại: Một là tính chất tinh đẩu, hai là biến hóa của tứ Hóa, ba là biến hóa của các cung.

 

Một: Tính chất tinh đẩu

Khi an lá số Tử Vi, trên lá số các danh từ như Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Cự Môn, Thiên Phủ Hỏa Tinh, Văn Xương v.v… đều chỉ các sao. Nói chung, những sao này chỉ là “phù hiệu tượng trưng”, không hề đại biểu rằng các “sao” này có quan hệ với khoa thiên văn học, bởi vậy một số người nói Tử Vi dùng “sao ảo” (dgc: phóng dịch từ Hán Việt “hư tinh”) là cốt đại biểu ư ấy.

 

Tử Vi nghe nói có hơn trăm sao, kỳ thật thường dùng không quá khoảng 40 sao, c̣n lại xem cho đẹp mà không mấy khi dùng. Việc này sẽ đề cập thêm sau. Sao của Tử Vi có tính chất đa diện, ở mỗi cung khác nhau được diễn giải khác nhau, nhưng đặc tính cơ bản th́ chẳng có ǵ thay đổi, chẳng hạn: Thiên Cơ đại biểu linh hoạt, cơ động, hoạt bát, tư lự v.v…; ở cung mệnh biểu thị người thông minh, cơ trí, linh hoạt…; ở phu thê biểu thị người có cảm t́nh bất định, dễ đổi thay; ở tài bạch là người linh hoạt, có nhiều cách làm ra tiền v.v…

 

Về tính chất sao đặc biệt chú ư “cách cục”. Cách cục là kết quả do một số sao cùng hội chiếu mà sinh ra, tác dụng có điểm tương tựa phản ứng hóa học, so với phản ứng “vật lư đơn thuần” -sao độc thủ- th́ quan trọng hơn nhiều, chẳng hạn “Cự Ḱnh Hỏa chung thân ích tử” đại biểu người hành sự tâm lư gấp vội, kịch liệt, không được việc, tự t́m phiền năo, đến mức chẳng lùi được nữa. Có điểm cần đặc biệt chú ư: Các cách cục này phải được tứ Hóa dẫn động mới tính, bằng không th́ không có tác dụng; Nhớ kỹ, nhớ kỹ!

 

Phương pháp nhớ đặc tính các sao th́ như bát tiên quá hải, mỗi người hiển thị một phép thần thông (dgc: Ư muốn nói mỗi người phù hợp một cách học nhớ khác nhau), nhưng người viết có một số phép nhớ nhanh, biết đâu có thể giúp cả nhà một tay, sẽ tŕnh bày sau.

 

HAI: Biến hóa của tứ Hóa

Tác dụng của tứ Hóa là đặc điểm của khoa Tử Vi, mười phần quan trọng, nhưng lại liên hệ cực kỳ mật thiết với đặc tính của các sao. Tứ hóa là bốn đặc tính hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa, hóa Kỵ. Nói giản dị: Hóa Lộc là thuận lợi, hưởng thụ, đạt được; hóa Quyền là kiên định, chấp trước, quyền lực; hóa Khoa là thanh danh, học vấn; hóa Kị là khốn khó, trở ngại, không dễ dàng.

 

Điểm quan trọng của tứ Hóa là ở chữ “hóa”. Hóa ư là “biến thành”, hoặc là tăng cường một loại tín hiệu nào đó. Cho nên lấy Cự Môn làm thí dụ th́: Cự hóa Lộc đại biểu v́ miệng lưỡi mà có tiền tài, nên có thể là người diễn giảng, dạy học, cố vấn pháp luật v.v… Nếu hóa Quyền th́ đại biểu lời nói có quyền uy, hễ nói là làm, nói được ngựi nghe v.v... hóa Kị th́ biểu thị lời nói phạm kẻ khác, v́ lời nói mà xảy chuyện phong ba v.v… Chú ư một chút, đặc tính không hóa Khoa của Cự Môn. Người có mồm có miệng chẳng phải đến nơi nào cũng nổi danh sao?

 

Tứ Hóa cần phải nối kết vào cung vị mới xem được việc, cho nên hai yếu tố này khó mà tách rời nhau; nhớ kỹ, nhớ kỹ! Thậm chí chỉ dựa theo sao được hóa của tứ Hóa và cung vị đă có thể đoán một số chuyện quan trọng, sự kiện này sẽ được thuyết minh trong phần cung vị biến hóa.

 

Gần đây một số người đă bỏ Quyền Khoa, chỉ dụng Lộc Kị. Những người này do Liễu Vô cư sĩ đại biểu. Kỳ thật cách xem của ông không hoàn chỉnh. Ngoài hóa Lộc hóa Kị ra, hóa Quyền và hóa Khoa cũng có tác dụng nhân sinh trọng đại. Không tất yếu nhất định dựa vào việc này phê phán người ta.

 

Bảng tứ hóa như : Giáp Liêm Phá Vũ Dương, Ất Cơ Lương Vi Nguyệt v.v… th́ nhất định phải nhớ. Cách an tứ hóa có một số quy tắc, như hiện tại đă được chỉnh lư (dgc: không rơ nghĩa). Phần này có thể tham khảo tư liệu, như : Tử Vi đẩu số đạo độc – Tinh diệu giải thuyết thiên, Trần Thế Hưng, Tiêm Đoan xuất bản xă, trang 170 đến 187.

(C̣n tiếp)

 



Sửa lại bởi VDTT : 27 November 2010 lúc 12:38am


__________________
Xin lỗi: Không nhận và không đọc PM
Quay trở về đầu Xem VDTT's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi VDTT
 
VDTT
Thượng Khách
Thượng Khách


Đă tham gia: 11 October 2010
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 416
Msg 2 of 71: Đă gửi: 27 November 2010 lúc 10:53am | Đă lưu IP Trích dẫn VDTT

Nguyên tác (bạch thoại): “Cơ sở phái Tử Vân” (tiếp theo message 1)

Tác giả: Không rơ tên

Dịch và chú thích: VDTT

 

BA: Biến hóa của cung vị

Lá số Tử Vi cộng lại có 12 cách, nhưng có 13 cung, phân biệt là mệnh, thân, huynh đệ, tử nữ (dgc: tức tử tức), tài bạch, tật ách v.v… Trong đó thân có thể ở 6 cung vị là mệnh, phu thê, tài bạch, thiên di, sự nghiệp (dgc: tức quan lộc), phúc đức. Mỗi cung vị đại biểu một phương diện hoặc quan hệ. Tử Vi chia đời sống ra 12 phương diện để nghiên cứu; tỷ như cá tính, t́nh bạn, liên hệ anh chị em, ái t́nh; t́nh thân về phương diện luân lư, như phụ mẫu, tử nữ hoặc là cái nh́n về việc truy cầu tài phúc, quan hệ nhân tế, quan niệm công danh mạnh hoặc yếu, phẩm chất nơi cư trú, đ̣i hỏi sinh hoạt tinh thần v.v… là đời sống, nên nghiên cứu đời sống cũng khởi từ những điều ấy.

 

V́ cung vị đại biểu sự phát sinh của vụ việc, cho nên có lúc đại biểu dấu tích trùng trùng của tâm thái. Nếu kết hợp với tứ Hóa th́ có nhiều vụ việc phát sinh; chẳng hạn: Một người cung phu thê hóa Kị, nhưng đại hạn phu thê hóa Lộc, sự kiện này thông thường biểu thị người ấy dễ sinh chuyện ngoại t́nh; có thể giải thích rằng quan niệm về cảm t́nh không đúng, lại có cơ hội hưởng thụ t́nh cảm. Nếu đă thành hôn th́ dễ sinh chuyện ngoại t́nh; nếu chưa thành hôn dễ bỏ nhau hoặc phát sinh hiện tượng lo sợ (dgc: dịch tạm thôi v́ không rơ “đảm tâm đích hiện tượng” ở đoạn này ám chỉ ǵ; hay muốn nói trong khi yêu mà ḷng bất ổn?)

 

Ba yếu tố trên là trọng điểm của khoa Tử Vi, khi đoán mệnh thực tế, thiếu một trong ba là không được. Chỉ cần có quan niệm không đúng là đoán mệnh dễ sai lầm. Nhưng ngày nay ngàn vạn cần hiểu rằng chỉ bằng ba yếu tố kể trên vẫn không đủ luận đoán chính xác, bởi c̣n phải du nhập điều kiện, trạng thái nữa.

 

Du nhập điều kiện, trạng thái là khác biệt giữa quan niệm Tử Vi nay và xưa. Muốn hiểu rơ lá số phàm khi với người khác có quan hệ hoặc liên quan th́ phải có tư liệu của người đó mới mong luận đoán một cách hợp lư. Thí dụ: Làm bạn với một người, nếu không có tư liệu của người đó th́ chúng ta chẳng thể tiên đoán trạng huống giao văng về sau (dgc: Thực ra chỉ có thể nói là nếu không du nhập dữ liệu th́ lời đoán của trạng huống giao văng về sau sẽ có xác xuất thấp hẳn đi). Lại thí dụ: Muốn biết cảm t́nh giữa ta và các anh chị em của ta th́ phải du nhập tư liệu của anh chị em vào. Phép du nhập dữ liệu này gọi là “Thái Tuế nhập quái”, hết sức hữu hiệu và chính xác. Phép này được ông Tử Vân đề cập trong sách lần đầu tiên. Ông nói: Theo chi năm sinh của người ta mà đưa vào lá số, căn cứ tam hợp của cung vị, tính chất của tinh đẩu, tứ hóa mà đoán liên hệ giữa người ấy và chủ nhân lá số. Cách này giúp Tử Vi bước một bước dài ra ngoài, bởi v́ trong đời sống thật có rất nhiều việc liên hệ đến người khác, sau khi du nhập dữ liệu của người ta vào th́ có thể đoán những hành động hỗ tương giữa người với ta thêm chính xác. Cho nên hiểu phép Thái Tuế nhập quái là kỹ xảo giúp việc luân Tử Vi tiến thêm một bước. Nhớ kỹ, nhớ kỹ!

 

Phép đoán Tử Vi

Dùng Tử Vi luận mệnh vận có hai trạng huống. Một là vĩ quan (dgc: Cái nh́n rộng lớn), khởi từ vận mạng trọn đời, rồi đến vận 10 năm (đại hạn), cuối cùng đến lưu niên (vận một năm). Một loại khác gọi là vi quan (dgc: Cái nh́n nhỏ hẹp), mục tiêu là đoán những ǵ xảy ra trong một ngày, một giờ. Nói chung, hai trạng huống này phương pháp giống nhau, chỉ là việc áp dụng tính chất tinh đẩu cần đổi chút ít.

 

V́ vĩ quan tương đối thật dụng, lại có nhiều khả năng giải quyết những câu hỏi trong tâm người ta, nên nói chung luận mệnh chủ là vĩ quan. Khi vĩ quan thành thục rồi th́ tự nhiên có thể xử dụng vi quan luận mệnh.

 

Nếu làm theo vĩ quan th́ cần suy tư rất nhiều vấn đề rồi mới có thể đoán sự việc diễn biến ra sao kết quả thế nào.  

 

Bộ phận thứ nhất: Lá số nguyên thủy

Cầm lá số, đầu tiên cần xác nhận năm tháng ngày giờ sinh chính xác hay không (dgc: Điểm này được ông Tử Vân nhấn mạnh trong nhiều sách. Rất nhiều trường hợp đoán sai chỉ v́ lá số đă sai từ đâu, nên việc thiết lập năm tháng ngày giờ sinh không chỉ là bước đầu mà là một trong những bước quan trọng nhất của diễn tŕnh đoán mệnh), rồi nắm vững kết cấu của toàn thể lá số, nắm vững tính chất tinh đẩu, xem có tạo thành cách cục không, xem sự dẫn động của tứ Hóa v́ có liên hệ đến việc cách cục được phát động hay không.

 

Xem lá số nguyên thủy bắt đầu với cung mệnh, v́ mệnh là trung khu của các cung c̣n lại. Cung mệnh quyết định tính cách, đặc tính đối với “tâm thái” của các cung khác; đây là một điểm quan trọng, cần chú ư.

 

Tiếp đó xem cung thân, v́ thân có tác dụng tăng cường hoặc điều chỉnh nên là một cung cần tu chính. Ở đây cần nói rơ tác dụng tăng cường là: thân cư cung nào th́ điểm quan trọng cần chú ư của đời người là cung đó. Tỷ dụ: Người có thân trùng hợp phu thê (dgc: tức thân cư phu thê) th́ mục tiêu truy cầu trong đời chủ yếu là sinh hoạt gia đ́nh hạnh phúc mỹ măn; lại tỉ dụ thân trùng hợp với thiên di (dgc: tức thân cư thiên di) tất mục tiêu cuộc đời là quan hệ nhân tế viên măn hoặc là được người khác tôn trọng và bội phục, thành thử các phương diện khác nếu không như ư th́ cũng chẳng quan tâm lắm. Tác dụng tu chính tức là: Tính cách cá nhân lần hồi với tuổi tác chuyển biến sang đặc tính các tinh đẩu của cung thân. Tỉ như mệnh vô chính diệu (không có chính tinh, giải thích sau) nhưng thân có chính tinh th́ có thể, sớm th́ lúc trên hai mươi tuổi, chính tinh ở cung thân dần dà phát sinh tác dụng.

 

Xem đặc tính sao trong lá số không chỉ xem cung mệnh có các sao nào, v́ quy tắc của Tử Vi là phải nhập hết tam phương tứ chinh vào tham khảo mới đúng. Lư của tam phương tứ chính sẽ bàn sau. Tam phương ư nói ngoài cung gốc của mệnh ra, sao trong tài bạch thiên di và sự nghiệp đều ảnh hưởng tính cách con người. Quy tắc này dẫn đến một đặc điểm của khoa Tử Vi: Mười bốn chính tinh đại thể được chia thành vài tổ hợp sao. Chẳng hạn: Tử Phủ Tướng một nhóm, Sát Phá Tham một nhóm, Cơ Nguyệt Đồng Lương là một nhóm, tối hậu Thái Dương và Cự Môn thành một nhóm. Trong đó Tử Phủ Tướng và Sát Phá Tham v.v… có thể hội chiếu nhau, Cơ Nguyệt Đồng Lương tất có thể hội chiếu cùng Nhật Cự. Ở đây hội chiếu ư chỉ: Khi một sao xuất hiện tất tam phương tứ chính cũng có một số sao, theo quy tắc Tử Vi mà nói, hội chiếu nghĩa là các sao này có khả năng sinh ra tác dụng. Lư kia là tứ chính, tức là tác dụng tam phương cộng với cung giáp. Ư nghĩa của giáp chỉ hai cung bên cạnh cung mệnh, tức tác dụng của cung anh chị em (dgc: cung huynh đệ) và cung phụ mẫu. Khi hai sao đôi xuất hiện ở hai cung huynh đệ và phụ mẫu th́ sinh tác dụng; tỉ như: Văn Xương, Văn Khúc, một ở cung phụ mẫu, một ở cung huynh đệ th́ có thể sinh tác dụng; tỉ dụ khác: Kiếp Không, Hỏa Linh, Phụ Bật, Lộc Tồn và Hóa Lộc giáp v.v… đều tính là “sao đôi”.

 

(C̣n tiếp)

__________________
Xin lỗi: Không nhận và không đọc PM
Quay trở về đầu Xem VDTT's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi VDTT
 
VDTT
Thượng Khách
Thượng Khách


Đă tham gia: 11 October 2010
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 416
Msg 3 of 71: Đă gửi: 27 November 2010 lúc 9:55pm | Đă lưu IP Trích dẫn VDTT

Nguyên tác (bạch thoại): “Cơ sở phái Tử Vân” (tiếp theo message 2)

Tác giả: Không rơ tên

Dịch và chú thích: VDTT

Tất cả chúng ta có thể nghĩ, Tử Vi dàn xếp như vậy có lư chăng, lư ở đâu? Cung mệnh sao lại cần xét thêm tác dụng của tài bạch, thiên di, sự nghiệp, có khi thêm tác dụng của phụ mẫu và huynh đệ. Nếu nghĩ kỹ về các loại quan hệ này th́ có thể hiểu rơ thêm quan niệm xă hội của Tử Vi. Nếu suy nghĩ về sinh hoạt trong xă hội thực tế, nhất định có thể giúp bạn hiểu “đời người” rốt cuộc là ǵ.

 

Tỉ như: Theo Tử Vi cung phu thê xấu tốt do: phu thê, thiên di, sự nghiệp, phúc đức, có khi huynh đệ và tử tức cũng có tác dụng, sự kiện này làm sao lư giải? Đại khái có thể như sau: Thành bại của hôn nhân, ngoài quan niệm hôn nhân của bản thân ra (tức đặc tính các sao trong cung phu thê), c̣n được quyết định bởi những nhân tố khác, như địa vị xă hội của hai bên tức quan niệm “môn đăng hộ đối” (cung thiên di), như sự nghiệp thành công hay không cũng ảnh hưởng thành bại của sinh hoạt gia đ́nh (cung sự nghiệp tốt hoặc xấu), lại như sự ḥa hợp và nhu cầu tâm linh là cái phúc nông cạn hoặc sâu dày ảnh hưởng đến sự ổn định của t́nh cảm và hôn nhân; tối hậu vấn đề t́nh dục hoặc sinh dục đời sau cùng với ảnh hưởng của anh chị em và bè bạn, đều ảnh hưởng đến sự thành bại của cảm t́nh luyến ái. Các loại sự việc này đều liên hệ đến cảm t́nh và hôn nhân, cho nên dùng thuật ngữ hiện đại mà nói th́: T́nh cảm hoặc hôn nhân, Tử Vi cho rằng địa vị trong xă hội, địa vị trong sự nghiệp, cảm nhận tâm linh (mong muốn hưởng phúc), quan điểm giáo dục (sinh hoạt t́nh dục), nhu cầu giống tập thể v.v… đều có ảnh hưởng. Nếu thảo luận về gia đ́nh trong xă hội hiện đại th́: Luân lư, t́nh dục, kinh tế, tâm lư v.v… đều là “dị khúc đồng công” (dgc: Thành ngữ,  ư nói có vẻ khác nhau nhưng cùng đóng góp như nhau), phải nghĩ kỹ về nhữ ng chuyện này mới được.

 

Tử Vi có một số cung do tự kỷ (tự ḿnh) quyết định, một số cung do tự nhiên quyết định. Tự nhiên quyết định th́ như các cung huynh đệ, tử tức, tật ách, nô bộc, phụ mẫu; tự kỷ quyết định có các cung phu thê, thiên di, sự nghiệp, phúc đức. C̣n khi mới sinh không thể nào quyết định nhưng sau th́ có thể tự quyết định th́ có cung điền trạch. Ngàn vạn phải hiểu: Những ǵ do đặc tính sao hiển thị trên lá số chỉ là quan niệm của chủ nhân lá số về sự việc đó, hoặc giả nói là “ư thức h́nh thái”, không thể dựa vào mà định cát hung. Nếu muốn đoán cát hung th́ phải du nhập “điều kiện” mới được. Thí dụ: Muốn đoán liên hệ t́nh cảm giữa chủ lá số với anh chị em th́ phải biết năm sinh của các anh chị em, du nhập chúng vào lá số. Đó gọi là phép “Thái Tuế nhập quái”.

 

Phụ chú: Việc ứng dụng “Thái Tuế nhập quái” chẳng đơn giản, nhưng nguyên tắc cơ bản th́ có thể thưa cùng quư vị: Như chị của quư vị sinh năm 57 (dgc: Đây ám chỉ năm Trung Hoa Dân Quốc thứ 57, tức năm 1968) th́ năm là Mậu Thân (dgc: Nguyên bản đánh sai thành Mậu Canh, chữ Canh ở đây vô nghĩa) th́ dùng can Mậu để định tứ Hóa: Mậu Tham Nguyệt Hữu Cơ. Lúc ấy xem Tham hóa Lộc có cư hoặc tam hợp cung mệnh của quư vị không, có th́ chị của quư vị chỉ cho quư vị mà không đ̣i hoàn lại, hoặc nói là chị quư vị đối xử tốt với quư vị. Đương nhiên nếu Lộc của chị quư vị khiến mệnh của quư vị được song Lộc giáp th́ hiệu quả cũng vậy (dgc: Nhưng theo ư người dịch th́ Lộc nhập quái giúp tạo thành song Lộc giáp mệnh có nghĩa là liên hệ tốt đẹp có tính ẩn, ít được người ngoài biết hơn so với trường hợp cùng cung hoặc tam hợp mệnh). Mặt khác, nếu hóa Kị của chị quư vị nhập cung mệnh của quư vị th́ có nghĩa hai bên có khó liên hệ tốt, hoặc chị quư vị thiên sinh đă pḥng ngờ quư vị. C̣n về cá tính của chị quư vị th́ lấy cung Thân làm chủ, tham khảo cung Thân và tam phương tứ chính để định cá tính, lúc ấy cần thêm tác dụng tứ hóa của Mậu Tham Nguyệt Hữu Cơ, hợp với tứ Hóa đă có sẵn trong lá số cùng tham khảo.  

 

T́nh huống giữa quư vị và bà chị sinh năm 57 (dgc: tức 1968) th́ luận như sau: Thứ nhất, nếu cung Thân ở tam phương cung mệnh của chủ lá số th́ cá tính của bà chị và chủ lá số tương cận, tương đối dễ hiểu nhau – Đây bởi v́ xuất hiện ở tam phương th́ các tinh đẩu phần lớn tương tự - chú ư tính chất tinh đẩu đă đề cập trước đây. Thứ hai, xét tác dụng của tứ Hóa Mậu Tham Nguyệt Hữu Cơ trên cung anh chị em (dgc: tức cung huynh đệ), nếu hóa Lộc có tác dụng mạnh hoặc hội chiếu th́ có nghĩa hai bên t́nh cảm không tệ. Hóa Quyền biểu thị giữa anh chị em có khả năng chi phối mạnh mẽ. Nếu hóa Kị dẫn động (dgc: Nghĩa là hóa Kị trong tam phương tứ chính hoặc tạo thành cảnh song Kị giáp) th́ có nghĩa hai bên cảm t́nh không thuận hoặc có chuyện bất lợi khác.

 

Đó là khái niệm cơ bản của phép “Thái Tuế nhập quái”. Đương nhiên Thái Tuế nhập quái cũng có thể dùng để đoán đại hạn và lưu niên, nhưng có hạn chế, ngàn vạn nhớ kỹ, không thể toàn diện thổi phồng. Sự thật là huynh đệ xem như thế, cha mẹ cũng xem như thế, thêm can năm sinh của cha mẹ vào để quyết định (dgc: Không đề rơ quyết định ǵ, ư hẳn là quyết định liên hệ giữa cha mẹ và chủ nhân lá số), xem địa chi của cha mẹ để định cá tính của họ. Cảm t́nh nam nữ cũng đoán như vậy, thầy cô hoặc giảng viên cũng như vậy, bạn học bạn bè cũng như vậy. Cái phức tạp của Thái Tuế nhập quái là quan hệ hỗ động giữa hai cung khác nhau – Đó là chỗ tinh yếu của của phép Thái Tuế nhập quái, trước đây đă bàn một chút, sau này sẽ phân tích kỹ hơn.

 

Lưu niên:

Khi thảo luận bộ phận này đầu tiên cần thảo luận vấn đề khác biệt giữa các học phái. Về việc xem vận khí mỗi năm, nói chung có ba cách: Cách thứ nhất coi lưu niên là chủ, như năm nay là năm Quư Dậu tất cung mệnh của năm ở Dậu, rồi thêm tứ Hóa của can Quư vào lá số mà luận xét. Cách thứ hai là phái tiểu hạn. Phái này dùng tiểu hạn để xem số, như năm nay Bính Ngọ là năm 28 tuổi, t́m cung ứng với tiểu hạn năm 28 tuổi coi là cung mệnh, lấy tứ Hóa của cung mệnh mà xem vận khí của năm nay (dgc: Ư nói là cung tiểu hạn ở đâu th́ dùng can của cung đó? Nếu thế là một cách xem hơi lạ và có vấn đề, v́ can của các cung đă cố định, thành thử can chi đều lập lại mỗi 12 năm. Thiết nghĩ hợp lư hơn là vẫn xử dụng can của lưu niên mặc dù xem cung tiểu hạn là cung mệnh tạm thời). Cách thứ ba là tham chiếu cả hai, lưu niên xem biến hóa của hoàn cảnh, tiểu hạn xem biến hóa của tâm thái.

 

Hôm nay theo sự hiểu biết của người viết (dgc: Tức người viết bài này, không phải ông Tử Vân, không phải dịch giả) th́ phái lưu niên là tông phái lớn chính thống, các học giả về sau chỉ cần dùng phép lưu niên là có thể chính xác không sai, bất tất thêm cách nào khác nữa (dgc: Tức là theo ư tác giả bài này th́ chỉ cần dụng phép lưu niên thôi, không dùng tiểu hạn).

 

Một cách suy nghĩ: Vơ Đang, Thiếu Lâm đều tinh thâm cả, học cả đời chưa chắc có thành tựu lớn. Nếu học Vơ Đang vài ba thức, Thiếu Lâm cũng ba bốn thức mà muốn tung hoành thiên hạ th́ hoàn toàn chỉ là hù ngựi thôi. Quư học giả bất tất phải học những thứ hợp tham làm ǵ, nếu thành cao thủ Vơ Đang th́ đương nhiên là cao thủ của thiên hạ, chẳng có ǵ nghi ngờ nữa. Phương pháp tŕnh bày với quư vị hôm nay chẳng có ǵ kỳ lạ, chẳng cần mặc khải ǵ cả, bất cứ ai đi theo những bước chân này đều có một ngày phát hiện con đường cho riêng ḿnh. Con đường Tử Vi thực ra càng đi lại càng rộng răi.

(C̣n tiếp)

Sửa lại bởi VDTT : 27 November 2010 lúc 10:03pm


__________________
Xin lỗi: Không nhận và không đọc PM
Quay trở về đầu Xem VDTT's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi VDTT
 
VDTT
Thượng Khách
Thượng Khách


Đă tham gia: 11 October 2010
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 416
Msg 4 of 71: Đă gửi: 28 November 2010 lúc 10:55am | Đă lưu IP Trích dẫn VDTT

Nguyên tác (bạch thoại): “Cơ sở phái Tử Vân” (tiếp theo message 3)

Tác giả: Không rơ tên

Dịch và chú thích: VDTT

Về triết học và quy tắc của Tử Vi chúng ta chỉ cần biết, xin nhắc lại, một số kiến thức về tinh đẩu, tứ Hóa, cung vị, đều rất dễ nhớ; từ đó về sau căn bản chẳng cần bí quyết của ai khác, cứ tùy việc mà ứng đối với lá số, hoàn toàn chẳng có ǵ để bị kích bác. Về khái niệm triết học của Tử Vi phần sau có thời giờ sẽ viết thêm. Kỳ thật các sinh hoạt chính trị, kinh tế, giao văng quần thể xă hội, liên hệ hỗ động giữa người với người v.v… mà nhân loại ngày hôm nay đối diện so với thời cổ đă xuất hiện những khác biệt hết sức to lớn, lại thêm quá tŕnh phức tạp. Thử nghĩ Tử Vi nếu là khoa thống kê th́ làm thế nào tiến hành việc nghiên cứu khoa này? Xin mọi người suy nghĩ kỹ: Có phải tất cả chúng ta đă quá coi trọng khoa thống kê chăng?

Nói rơ hơn một chút: Tử Vi là một hệ thống hoàn chỉnh, không chỉ là một thuyết tự cuộn thành tṛn, hoặc một cái ǵ đó cho phép quư vị tự chế ra bí kíp chưa từng có. Nói cách khác: Tử Vi bản thân có năng lực hiện đại hóa.

Ở đây tôi muốn cử một thí dụ cùng quư vị: Lưu niên điền trạch của một cá nhân có Cự Môn tọa thủ, hội chiếu có Thiên Cơ, Văn Khúc v.v… lại có Lộc Tồn và lưu niên Lộc dẫn động th́ chúng ta có thể đoán: Người ấy năm nay trong nhà có thể có thêm một máy thuộc loại thâu âm. Làm sao xem ra chuyện ấy? Rất giản dị: Cự Môn chỉ phát thanh, cơ giới là sao Thiên Cơ, Văn Khúc là tài nghệ cầm kỳ thi họa, bói toán thiên văn dịch lư (dgc: nguyên văn là “Bốc toán tinh dịch”) vân vân, nhưng cũng đại biểu, âm nhạc, mỹ thuật, việc lao động v.v…, lưu niên Lộc Tồn xung động là vật phẩm, thống hợp lại mà suy, là một vật thuộc loại âm nhạc, nếu thêm Cự hóa Quyền th́ công suất của dụng cụ âm nhạc đó chẳng nhỏ, ngoài ra có thể là dàn Karaoke. Nếu vậy thử hỏi: Điện thoại có trở ngại làm sao xem? Cự Cư trong cung điền ứng điện thoại, Cự hoặc Cơ hóa Kị có thể điện thoại gặp trở ngại hoặc đường giây bất ổn. Vậy máy đánh chữ là ǵ? Máy TiVi là ǵ? Máy vi ba (microwave) là sao ǵ mới đúng? Xin cả nhà suy nghĩ cho kỹ. Bộ phận đặc tính các sao này do bản thân tôi khai triển ra, nguyên tắc chẳng khó, chịu bỏ công là được. Nhớ kỹ, nhớ kỹ!

Cách xem lưu niên, kỳ thật so với cách xem đại hạn chẳng mấy khác. Bắt đầu với các sao trong cung lưu niên mệnh (dgc: Tức là cung an lưu Thái Tuế), rồi xem tứ hóa (tứ Hóa theo thiên can của lưu niên, như năm nay Quư Dậu th́ an theo Phá Cự Âm Tham), xem tứ Hóa xung kích cung lưu niên hiệu quả ra sao, rồi lại xem hiệu ứng xung kích của tứ Hóa trên cung đại hạn hoặc bản mệnh, lại xem thêm cung vị nào bị tứ Hóa dẫn động.

Thí dụ: Số một thiếu nữ Tham Lang lưu niên hóa Kị ở lưu niên phúc, hội chiếu lại có đại hạn Kị, tất đại biểu năm ấy thiếu nữ này mặt tinh thần có chuyện đau khổ, v́ đâu mà đau khổ: Xem kỹ lại bên trong, lưu niên Tham Kị cùng đại hạn Vũ Kị giáp đại hạn phu thê, mà đại hạn phu thê nguyên có hóa Lộc, thêm lưu niên Lộc Tồn và hóa Quyền chiếu, cho thấy thiếu nữ này v́ t́nh mà khổ, ấy bởi v́ sự viêc liên hệ đến nhu cầu và sự chú ư giữa nam nữ nổi lên, cô này cùng lúc có hai người nam phải chọn một, nhưng cô khó mà quyết định, v́ mỗi người đều có ưu khuyết điểm riêng, rất khó mà luận định (khởi từ cá tính, địa vị xă hội v.v…), lúc ấy cần dụng phép Thái Tuế nhập quái mới có thể thâm cứu rốt ráo được.

Cho nên, như tôi đă nói trước đây: Hệ thống Tử Vi đến lưu niên tổng cộng có ba tầng kết cấu, tầng một là bộ phận lá số nguyên thủy và tứ hóa nguyên thủy (dgc: Câu này nguyên tác cách viết phức tạp nên chỉ dịch ư); tầng hai bộ phận lá số đại hạn và tứ Hóa ứng với can cung đại hạn; tầng ba là bộ phận lá số lưu niên và lưu tứ Hóa năm xem số (như năm dân quốc 82 là năm Quư Dậu th́ lấy tứ Hóa theo can Quư). Ba tầng bộ phận này, cơ bản tầng một lá số nguyên thủy, nhưng thực tế là những ǵ hiện ra trong lá số lưu niên. Đại hạn th́ đóng vai tṛ truyền thừa; tức lá số nguyên thủy là căn bản, là xương cốt, lá số đại hạn là cơ thịt, thần kinh, lá số lưu niên biểu diện da ngoài và ngũ quan. Nhưng đó chỉ là những sự việc hết sức chung chung thôi (dgc: nguyên văn “phổ biến hóa”, chỉ dịch ư thôi), đối với những sự việc đặc thù tất phải du nhập dữ liệu mới luận được là cát hoặc hung.

Chẳng hạn: Một người nào đó bản mệnh sự nghiệp (dgc: tức cung quan lộc nguyên thủy) hóa Kị, đại hạn sự nghiệp cũng hóa Kị, lưu niên sự nghiệp cũng hóa Kị, phải chăng đại biểu người ấy nhất định sự nghiệp vấp ngă xuống đất đen hoặc bị đuổi việc? Đương nhiên chẳng phải như vậy, bằng không những người cùng lá số đều không tránh khỏi; đó là một cách luận mười phần tức cười. Cách luận hôm nay là: Những người này vào những lúc khác nhau làm những công việc khác nhau, nên cùng một vận khí họ có những phản ứng khác nhau. Cũng v́ nguyên nhân đă nói trên, vận mạng của người này người kia khác nhau -lại quy về nguyên lư triết học của Tử Vi mà tôi đă tŕnh bày- là do thời gian bắt đầu khác nhau, sự việc khác nhau mà ra.

Những phương pháp kể trên là cho các t́nh h́nh tổng quát, c̣n đoán sự kiện đặc thù th́ cần xác nhận “cung trọng điểm”, đây là một điểm quan trọng mà ông Tử Vân đề xuất. Những đóng góp của ông Tử Vân cho Tử Vi thật mười phần to lớn. Những kỹ thuật nâng cao khả năng đoán số của ông th́ nói thẳng thắn cũng như “trời không sinh Trọng Ni, vạn cổ như đêm tài” (dgc: Câu này nghĩa đen là “Nếu trời không sinh ông Khổng Tử th́ vạn cổ cũng như đêm dài vậy”. Ư rơ ràng ca ngợi ông Tử Vân; thiết nghĩ có phần hơi quá đáng). Sự phát triển của Tử Vi mười năm qua, về mặt phát triển kỹ thuật luận số có chín thành đến từ các tác phẩm lớn của ông Tử Vân (dgc: Ư nói chín phần mười các phát triển về kỹ thuật đoán số trong mười năm được nhắc tới trong bài này, tức là mười năm kể đến năm Quư Dậu 1993, đều có thể quy về ông Tử Vân cả). Những sách này của ông là ch́a khóa vào cửa cho người sơ học (dgc: Dịch thoát nghĩa), mong quư học giả thêm phần chú ư. Những phương pháp người viết nói tới đa phần khởi từ những khái niệm của ông Tử Vân. Chỉ đáng tiếc đến nay đại sư Tử Vân (dgc: “Đại sư” đây ư nói thầy cao cấp, không phải nhà tu) chưa viết ra những hiểu biết của ông hoặc triết học quan của ông về toàn thể khoa Tử Vi, mà cực khổ viết cho người sau – làm sao xem quan hệ nhân tế, làm sao luận cấp trên, làm sao xem điền trạch, phong thủy v.v… Ở đây chỉ hi vọng mong ông sớm hoàn thành th́ khoa Tử Vi càng tiến triển không thể đo lường.

“Cung trọng điểm” là phương pháp định vị trong Tử Vi. Chuyện đó ứng cung vị nào trong lá số? Chẳng hạn: Nói chuyện làm việc, có tiên thiên bản mệnh sự nghiệp (dgc: tức cung quan lộc nguyên thủy), đại hạn sự nghiệp, lưu niên sự nghiệp thành kết cấu 3 tầng. Một người chơi cổ phiếu kiếm tiền, rốt ráo phải xem bản mệnh phúc đức, đại hạn phúc đức, hay lưu niên phúc đức? (dgc: Sở dĩ nhắc đến ba cung phúc ở đây là v́ ông Tử Vân cho rằng muốn xem cổ phiếu được thua ra sao phải xem cung phúc là chính, mà không phải là cung tài bạch). Quy tắc như thế này: Cung nào t́nh h́nh bị dẫn động kịch liệt nhất, cung đó là cung trọng điểm. (dgc: Đa số trường hợp cung nhiều Lộc Kỵ hội họp nhất là cung trọng điểm).

Câu ở trên ư chỉ: Có tác dụng dẫn động của tứ Hóa và cách cục hay không. Thí dụ ba đời Kị dẫn động th́ mạnh hơn hai đời kị (ba đời kị chỉ bản mệnh Kị, đại hạn Kị và lưu niên Kị, hai đời Kị th́ chỉ bản mệnh và đại hạn hoặc lưu niên Kị, hay là đại hạn và lưu niên Kị); cho nên song Kị giáp Kị th́ thê thảm hơn so với song Kị giáp; song Lộc giáp Lộc th́ mạnh hơn so với song Lộc hội. Cung nào có song Lộc giáp Lộc th́ tám thành là cung trọng điểm, cùng lư, xem cầu đầu cơ cổ phiếu (dgc: Phân biệt với đầu tư, đầu cơ nghĩa là muốn đánh nhanh rút gọn, chơi ngắn hạn thôi) đến khi song Kị dẫn động cung phúc th́ phải coi chừng bị kẹt. Vấn đề định cung vị này phải dựa theo tác dụng hỗ tương giữa đặc tính tinh đẩu cùng tứ Hóa vởi cung vị mà quyết định. Ngàn vạn cẩn thận, bẳng không canh chỗ này ra chỗ nọ th́ chẳng hay lắm. (dgc: Đây dùng thành ngữ, dịch sát nghĩa là “bằng không chẳng vỗ trúng mông ngựa mà vỗ nhằm chân ngựa th́ chẳng hay lắm” ấy bởi v́ vỗ trúng mông ngựa th́ ngựa chạy theo ư ḿnh, vỗ nhằm chân ngựa th́ bị ngựa đá.)

Ngoài ra quan niệm liên tục cũng ứng dụng trong lưu niên. Sau khi có phép định vị, t́m ra cung trọng điểm rồi, tiếp là luận những biến đổi (dgc: Nguyên tác “sự tiêu trưởng” hơi tối nghĩa) của cung trọng điểm th́ dùng tứ Hóa (có khi không chỉ dùng tứ Hóa, mà lưu niên Lộc Tồn và Ḱnh Đà đều cần suy xét) mà luận ra sự biểu hiện. Chẳng hạn hôm nay đi xa đến đất ngoài làm việc, định chỗ công việc ở tiên thiên di và lưu quan lộc, đến năm sau, xem tác dụng tứ Hóa của năm Giáp Tuất đối với cung cũ, như quả tam hợp Khoa Quyền Lộc thêm song Lộc giáp năm sau tác dụng là có cơ hội thăng tiến, lại có cơ hội tăng lương. Các năm khác cũng y thứ tự mà đoán. Nếu là việc làm lâu dài, th́ xét tác dụng của đại hạn tứ Hóa và tứ hóa của đại hạn sau, từ đó có thể quyết định quá tŕnh và tính được thua của công việc.

Sau hết, một khái niệm tương đối kỳ quái gọi là “duyên khởi duyên diệt” là phương pháp được dùng để định khi một sự kiện phát sinh và kết thúc. Phương pháp này đ̣i hỏi người xử dụng vận dụng tứ Hóa rất thuần thục, quư học giả có thể tham khảo các tác phẩm lớn của ông Tử Vân như “Tử Vi luận cầu tài” v.v... Đương nhiên có lúc chẳng phải chỉ tác dụng của tứ Hóa mà tác dụng tam hợp cũng có hiệu quả. Tóm lại, đây là một biến thể của kỹ thuật vận dụng tứ Hóa và cung vị.

Ở trên đă tŕnh bày đại lược cách đoán Tử Vi. V́ thực tế khi gặp lá số th́ thiên biến vạn hóa, thành thử quư học giả nên nắm vững tính chất các sao, tứ Hóa, biến hoán cung vị v.v… th́ có thể dần dần có tâm đắc. Ngoài ra lúc thường cố đoán thêm nhiều lá số của những người ḿnh đă quen thuộc, v́ như vậy rất có lợi cho việc hiểu rơ đặc tính các sao. Nếu đoán chuyện đặc thù th́ nên trở lại lănh ngộ những tác phẩm lớn của ông Tử Vân, các sách “Tử Vi luận cầu tài”, “Tử Vi luận hôn nhân”, “Tử Vi luận quan lộc”, cùng “Tử Vi luận điền trạch”. Phương pháp trong những sách này nói chung là những điểm mà người viết đă tŕnh bày ở trên đây.

 

Công lực của ngựi viết thua xa ông Tử Vân, nhưng mong mỏi được thay ông dẫn một số người vào con đường lớn của Tử Vi, cho họ thoát khỏi cái cảnh tự ḿnh sai rồi làm người khác sai; đó là tâm nguyện nhỏ bé của người viết, mong quư học giả hiểu cho.

TẠM HẾT

Nguyên tác (bạch thoại): “Cơ sở phái Tử Vân”

Tác giả: Không rơ tên

Dịch và chú thích: VDTT

Sửa lại bởi VDTT : 28 November 2010 lúc 11:08am


__________________
Xin lỗi: Không nhận và không đọc PM
Quay trở về đầu Xem VDTT's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi VDTT
 
kiwi
Hội Viên
Hội Viên


Đă tham gia: 03 September 2010
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 346
Msg 5 of 71: Đă gửi: 28 November 2010 lúc 11:02am | Đă lưu IP Trích dẫn kiwi

Bác VDTT ơi, cháu chưa am hiểu nhiều về tử vi lắm, nhưng đọc bài này của
bác cháu rất thích, cháu cũng đang mới bập bẹ học tiếng Trung, bác có thể
chỉ giúp cháu từ Tử Vân viết bằng tiến Trung viết như thế nào không ah?
Cháu xin cảm ơn bác.
Quay trở về đầu Xem kiwi's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi kiwi
 
VDTT
Thượng Khách
Thượng Khách


Đă tham gia: 11 October 2010
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 416
Msg 6 of 71: Đă gửi: 28 November 2010 lúc 11:15am | Đă lưu IP Trích dẫn VDTT

@ kiwi

Tử Vân nghĩa đen là Mây Tím

Giản thể 紫云

Phồn thể 紫雲

Chúc bạn và nhiều bạn trẻ khác học nhanh, mạnh văn bạch thoại cũng như các sách Tử Vi tinh hoa để mau chóng qua mặt thế hệ chúng tôi và mở những biên cương mới cho Tử Vi nói riêng và khoa học huyền bí nói chung.



__________________
Xin lỗi: Không nhận và không đọc PM
Quay trở về đầu Xem VDTT's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi VDTT
 
kiwi
Hội Viên
Hội Viên


Đă tham gia: 03 September 2010
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 346
Msg 7 of 71: Đă gửi: 28 November 2010 lúc 12:15pm | Đă lưu IP Trích dẫn kiwi

Dạ cháu cảm ơn bác nhiều ah, cháu cũng cố gắng. Nhưng làm sao cháu hơn
được mấy bác ah, mấy bác t́m hiểu trước cháu rất lâu rồi, cháu đi tới th́
mấy bác cũng đi tới
Cháu cảm ơn bác đă giới thiệu nhiều điều mới. Cháu rất thích bài viết này
của bác.
Cháu Kiwi
Quay trở về đầu Xem kiwi's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi kiwi
 
minhbeo
Hội Viên
Hội Viên


Đă tham gia: 21 May 2010
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 141
Msg 8 of 71: Đă gửi: 28 November 2010 lúc 12:29pm | Đă lưu IP Trích dẫn minhbeo

Bác VDTT ơi , Lưu Niên là Lưu Niên Đại Hạn đúng không ạ. Cháu xem hạn từng năm th́ toàn để LNDH là lưu mệnh rồi kéo tất cả các cung khác sau, tiểu hạn chỉ là để xem bối cảnh thôi th́ có ứng với bài viết trên ko ạ
Quay trở về đầu Xem minhbeo's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi minhbeo
 
VDTT
Thượng Khách
Thượng Khách


Đă tham gia: 11 October 2010
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 416
Msg 9 of 71: Đă gửi: 28 November 2010 lúc 3:14pm | Đă lưu IP Trích dẫn VDTT

@kiwi: Nói vậy không đúng đâu. Tới một lúc th́ thế hệ trước sẽ đi chậm lại, rồi ngừng, và sau rốt th́ thụt lùi. Bởi vậy nếu thế hệ mới không tiến lên cầm chịch th́ xă hội sẽ suy thoái. Khoa Tử Vi cũng thế.

@minhbeo: Lưu niên không phải là Lưu Niên Đại Hạn mà là cung lưu Thái Tuế. Thí dụ năm nay Canh Dần th́ lưu niên ở cung Dần, lưu tứ Hóa (can Canh) là Nhật Vũ Âm Đồng hoặc Nhật Vũ Đồng Âm (tùy trường phái).

Lưu niên đại hạn là một ứng dụng đặc thù được cụ Vân Đằng Thái Thứ Lang xiển dương và khá nhiều người nghiên cứu Tử Vi VN áp dụng. Tôi chưa hề thấy sách chữ Hán nào xử dụng cách này.

Vài ḍng chia sẻ.



__________________
Xin lỗi: Không nhận và không đọc PM
Quay trở về đầu Xem VDTT's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi VDTT
 
Whitebear
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 18 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 510
Msg 10 of 71: Đă gửi: 28 November 2010 lúc 5:49pm | Đă lưu IP Trích dẫn Whitebear

http://www.mediafire.com/?eblgyg19yspx9w0

http://dl.dropbox.com/u/6060867/Document/Sach%20tu%20vi/Coso phaituvan.pdf
Tôi đă convert sang pdf bài viết này để các bạn tiện lưu trữ.

Quay trở về đầu Xem Whitebear's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Whitebear
 
minhbeo
Hội Viên
Hội Viên


Đă tham gia: 21 May 2010
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 141
Msg 11 of 71: Đă gửi: 28 November 2010 lúc 11:23pm | Đă lưu IP Trích dẫn minhbeo

Xin hỏi bác VDTT một câu nữa về chuyện lưu tứ hóa. Với những năm mà tứ hóa an theo tả hữu, khúc xương là các sao an theo tháng th́ lưu tứ hóa năm đó cũng an theo tả hữu khúc xương nguyên thủy trên lá số hay là lại phải chạy theo từng tháng ạ.
Quay trở về đầu Xem minhbeo's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi minhbeo
 
Aladdin
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 18 May 2010
Nơi cư ngụ: Iraq
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 202
Msg 12 of 71: Đă gửi: 28 November 2010 lúc 11:25pm | Đă lưu IP Trích dẫn Aladdin

Đọc thấy hay và hấp dẫn quá. Chỉ tiếc là giờ niềm cảm hứng với Tử Vi của Aladdin không c̣n được như trước nữa.

 

Quay trở về đầu Xem Aladdin's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Aladdin
 
Aladdin
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 18 May 2010
Nơi cư ngụ: Iraq
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 202
Msg 13 of 71: Đă gửi: 28 November 2010 lúc 11:29pm | Đă lưu IP Trích dẫn Aladdin

minhbeo đă viết:
Xin hỏi bác VDTT một câu nữa về chuyện lưu tứ hóa. Với những năm mà tứ hóa an theo tả hữu, khúc xương là các sao an theo tháng th́ lưu tứ hóa năm đó cũng an theo tả hữu khúc xương nguyên thủy trên lá số hay là lại phải chạy theo từng tháng ạ.

Tôi nghĩ là THXK theo nguyên thủy, nếu "chạy theo từng tháng" th́ chính tinh cũng phải "chạy theo" chứ đâu riêng ǵ THXK, điều này e là thêm rối mà chưa chắc dẫn đến kết quả chính xác hơn.

 

Quay trở về đầu Xem Aladdin's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Aladdin
 
VDTT
Thượng Khách
Thượng Khách


Đă tham gia: 11 October 2010
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 416
Msg 14 of 71: Đă gửi: 28 November 2010 lúc 11:34pm | Đă lưu IP Trích dẫn VDTT

minhbeo đă viết:
Xin hỏi bác VDTT một câu nữa về chuyện lưu tứ hóa. Với những năm mà tứ hóa an theo tả hữu, khúc xương là các sao an theo tháng th́ lưu tứ hóa năm đó cũng an theo tả hữu khúc xương nguyên thủy trên lá số hay là lại phải chạy theo từng tháng ạ.

Là Tả Hữu Khúc Xương nguyên thủy trên lá số.

Luật chung là không lưu Tả Hữu Xương Khúc.

Cái gọi là "lưu Xương" mà một số phái ở HK (trong đó có phái Trung Châu) xử dụng để xem hạn năm thực ra là lưu "Lưu niên văn tinh". Cái gọi là "lưu Khúc" th́ là sao đối xứng với "lưu Xương" qua trục Sửu Mùi. (Sở dĩ có chuyện gọi tên lộn xộn như vậy là v́ Lưu niên văn tinh trong thần sát c̣n được gọi là Văn Xương quí nhân).

T.B. Mười bốn chính tinh và Tả Hữu Khúc Xương cộng lại thành 18 sao, được dùng để tứ Hóa bay xẹt tứ tung, v́ vậy mới gọi là "thập bát phi tinh".



__________________
Xin lỗi: Không nhận và không đọc PM
Quay trở về đầu Xem VDTT's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi VDTT
 
VDTT
Thượng Khách
Thượng Khách


Đă tham gia: 11 October 2010
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 416
Msg 15 of 71: Đă gửi: 28 November 2010 lúc 11:38pm | Đă lưu IP Trích dẫn VDTT

Aladdin đă viết:
...tiếc là giờ niềm cảm hứng với Tử Vi của Aladdin không c̣n được như trước nữa.

"Không được như trước" đă chắc ǵ xấu. Có khi nhờ đó mà b́nh thản hơn. Và rồi biết đâu một lúc niềm hứng khởi sẽ trở lại.

Chính tôi đă từng bỏ hẳn Tử Vi mười mấy năm dài. Nghĩ lại chẳng hại ǵ. Giả như theo đuổi liên tục từ bé th́ chưa chắc đă học được cái hay của người khác. 

Anh đừng thở than nữa nhé.



__________________
Xin lỗi: Không nhận và không đọc PM
Quay trở về đầu Xem VDTT's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi VDTT
 
tuphasonghanh
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 17 May 2010
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 582
Msg 16 of 71: Đă gửi: 28 November 2010 lúc 11:48pm | Đă lưu IP Trích dẫn tuphasonghanh

@VDTT: Về kiến giải của chú xem tuần triệt như hoàn cảnh cung, chú có thể chỉ rơ hơn không ạ, Cháu vẫn chưa cảm nhận đựoc. Mong chú cho 1 ví dụ về kiến giải của chú. Về bỏ tuần triệt khi xem vận cháu không ư kiến ǵ. Nhưng khi xem tổng quát bỏ qua th́ hơi bất hợp lí. V́ tác dụng của tuàn triệt nên hung sát tinh hay tử phủ thiên tướng là khá rơ. 

< id="gwProxy" ="">< ="jsCall();" id="jsProxy" ="">


Sửa lại bởi tuphasonghanh : 28 November 2010 lúc 11:53pm
Quay trở về đầu Xem tuphasonghanh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tuphasonghanh
 
VDTT
Thượng Khách
Thượng Khách


Đă tham gia: 11 October 2010
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 416
Msg 17 of 71: Đă gửi: 29 November 2010 lúc 12:09am | Đă lưu IP Trích dẫn VDTT

@tuphasonghanh: Đây là phần cuối một bài đă đăng báo gần 5 năm trước.

 

Cách luận Tuần Triệt

     HỎI: Ông bảo ông đă nghiên cứu Tử Vi nhiều năm, vậy ông đă t́m ra một phương pháp khoa học để luận Tuần Triệt hay chưa? Chia sẻ được chăng?

     ĐÁP: Như tôi đă tŕnh bày ngay khi vào đề từ mấy bài trước là về Tuần Triệt hiện tôi có nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời. Thế nhưng, việc xem số không thể chờ đợi đến khi mọi câu hỏi đều được trả lời thỏa đáng, nên tôi phải buộc ḷng dựa vào kinh nghiệm và tư duy cá nhân suy diễn thêm để trám vào những lỗ hổng của cái lư khoa học. Hiển nhiên những điều mà tôi gọi là suy diễn chưa thỏa đ̣i hỏi của lô gích theo ư tôi mong muốn. Chúng có thể đúng mà cũng có thể sai, hy vọng rồi thời gian sẽ sớm trả lời.

     Biết rằng khoa học là một diễn tŕnh tiệm tiến, tôi mong mỏi những vị khác sẽ sửa sai hoặc đắp bồi thêm vào những suy luận của tôi để một ngày nào đó ở tương lai Tuần Triệt trở thành kiến thức thông dụng thay v́ vẫn là một bí mật của Tử Vi như hiện tại.

     Về việc chia sẻ, tôi chẳng có ǵ để mà dấu nghề. Hy vọng của tôi là sau khi đọc sách này độc giả sẽ biết tất cả những ǵ tôi biết, tức là cộng với những kiến thức có sẵn th́ các độc giả chăm đọc sẽ hiểu biết khoa Tử Vi hơn tôi (và trong số đó biết đâu có người có phát kiến mới, lại viết sách cho tôi có dịp học hỏi!) Phải như thế mới mong Tử Vi măi măi tiến bộ như các ngành khoa học khác.

     HỎI: Khi xem Tuần Triệt ông xét yếu tố nào đầu tiên?

     Đầu tiên tôi xem Tuần Triệt đóng ở cung nào. Tuần Triệt có tính “bất thường” nên tôi dựa một phần vào sách cổ mà suy diễn ra rằng chúng án cung nào khiến cá tính của cung đó có tính “bất thường”; ta có thể tùy cá tính của cung mà suy ra phần nào ảnh hưởng bất thường đó.

     “Cá tính” đây ám chỉ, mệnh, phụ mẫu, phúc đức v.v… Như Tuần Triệt cư mệnh th́ chính bản thân ta có sự bất thường. Cư các cung người c̣n lại, gồm “huynh đệ, phụ mẫu, phúc đức, nô bộc, phu thê, tử tức” luận tương tự, tức là đều “bất thường” cả. Chẳng hạn như Tuần Triệt cư huynh đệ th́ hoặc anh em của ta có người bất thường, hoặc liên hệ giữa ta với anh em của ta có sự bất thường; Tuần Triệt cư phụ mẫu th́ cha mẹ ta có sự bất thường, hoặc liên hệ giữa ta và cha mẹ ta có sự bất thường v.v… C̣n lại các cung điền quan di tật tài cũng cứ dùng lư “bất thường” mà luận.

     Bất thường đây không nhất thiết là có nghĩa xấu, mà chỉ có nghĩa là có một hoặc nhiều sự phát triển (hoặc thiếu phát triển) lạ lùng nào đó khác với thường t́nh. Như thường t́nh của đời hiện đại là một vợ một chồng, có ly dị cũng một hai lần mà thôi; nên người không bao giờ lập gia đ́nh hoặc người thay vợ đổi chồng như cơm bữa đều có thể ứng với Tuần Triệt án ở phu thê. Lại như người rất ít bệnh hoặc bệnh tật triền miên đều có thể ứng với Tuần hoặc Triệt án ở cung tật ách. (Chú ư: Cách xem này là kết quả suy diễn của tôi, có khác với sách vở. Nếu độc giả cho rằng có thể đúng cũng đừng vội vàng áp dụng mà hăy chứng nghiệm trước đă.) 

     C̣n chi tiết của sự bất thường là ǵ th́ thực hành thường dễ hơn giải thích. Luật chung là phải dựa vào mệnh thân phúc v.v… để có một h́nh ảnh khái quát về lá số trước đă, khi xem vào chi tiết th́ sự bất thường sẽ tự lộ ra.

     Đại hạn cũng thế. Tôi cho rằng đại hạn hễ có Tuần Triệt là có sự bất thường cái đă, mọi chuyện khác tính sau.

     HỎI: Nghĩa là mặc dù theo ông tuổi già ảnh hưởng của Triệt không đáng kể nữa, nếu vào đại hạn Triệt vẫn có sự “bất thường”?

     ĐÁP: Chính thế! Ấy bởi v́ tôi suy diễn thế này: Tuần Triệt là hai loại ảnh hưởng trong cung (như hai loại động đất có tác dụng tương tự dù sự hiển thị và cường độ khác nhau). Tuần th́ tương đối dễ hiểu rồi, v́ ta đều có thể công nhận là nó có tác dụng trọn đời. Về Triệt, hăy thử tưởng tượng một trận động đất có cường độ trên 7, khi hết động đất rồi ta có dám nói là hoàn cảnh trở lại b́nh thường hay không? Tôi nghĩ là không. Vào đại hạn có Triệt ở tuổi già cũng như đến một nơi đă từng trải qua một trận động đất kinh khủng, cảnh tàn phá chết chóc tất nhiên khiến người ta phải chấn động. Đó là chưa kể trong cảnh hỗn mang như vậy mọi trật tự và giá trị đều bị đảo lộn, ai dám chắc là người mới tới không bị nó ảnh hưởng?

     Với người quyền biến cảnh hỗn mang có thể là tai họa rủi ro mà cũng có thể là cơ hội ngàn vàng, họa phúc khó lường. Nhưng với người tuổi già sức yếu tôi e trong tám chín mươi phần trăm trường hợp gặp cảnh hỗn mang chỉ chuốc lấy họa mà thôi. Bởi vậy theo cách xem của tôi người già đến hạn Tuần Triệt phải hết sức cẩn mật đề pḥng. Nhất là mệnh hạn gặp cảnh “Triệt Tuần tháo gỡ”, bởi “tháo gỡ” đây cũng có thể là tháo gỡ khỏi nợ đời, cho hồn phách tự do chu du về nơi tiên cảnh.

     C̣n người chưa cao tuổi mà công danh lận đận, cơm áo ngược xuôi, theo tôi đừng vội thấy đại hạn đến Tuần Triệt mà sợ hăi như các sách cổ đă ghi. Nhiều khi đây là thời điểm đổi thay, là khúc quanh dẫn đến sự huy hoàng ở tương lai đó.

     Dĩ nhiên đây chỉ là yếu tố thêm vào mà thôi. Vận không thể quá mệnh, nên phải xem cách cục nguyên thủy ra sao, lại phải phối hợp với cách cục của cung đại hạn rồi hăy luận hạn Tuần Triệt là tốt hay xấu.

     HỎI: Rốt ráo th́ vấn đề vẫn là xác định cung có Tuần Triệt tốt hay xấu. Đây là điểm rất lờ mờ của Tử Vi, các sách không nói rơ. Ông có phương pháp suy luận nào rơ nét chăng?

     ĐÁP: Cách xem Tuần Triệt của tôi dựa nhiều vào suy diễn cá nhân nên hai chữ “phương pháp” không dám nhận.

     Như đă tŕnh bày nhiều lần, luật chung mà tôi áp dụng cho cung bị chính Tuần án ngữ là uy lực của các sao bị giảm 50%, chính Triệt 80-90%. Phụ Tuần phụ Triệt tôi sẽ bàn sau; tạm thời khi tôi nói Tuần tôi ám chỉ “chính Tuần”, Triệt ám chỉ “chính Triệt”.

     Tuần làm giảm 50%, nghĩa là tính chất tốt cũng như xấu của sao bị giảm nhưng vẫn c̣n phát huy được một phần nào. Tác dụng của Tuần lâu dài nên lư tính này không đổi (trừ trường hợp vào hạn Triệt như đă tŕnh bày ở trên). Triệt làm giảm 80-90%, nghĩa là tính chất của sao bị đè nén không phát huy được, nhưng tác dụng của Triệt ngắn hạn nên sự đè nén này không có tính vĩnh viễn. Những điều này đă tŕnh bày nhiều lần trong các bài trước, ở đây tôi chỉ nhắc lại để khỏi mất công lục tài liệu cũ.

     V́ ảnh hưởng các sao bị giảm thiểu, Tuần và Triệt khiến cho tính chất của mọi cách cục đều bị thay đổi; nhưng không nhất thiết đảo lộn tốt thành xấu, xấu thành tốt… Vậy làm sao phân biệt xấu tốt? Xin thưa tôi chưa có câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi này trong mọi trường hợp. Tôi chỉ xin đề nghị vài điều, và ghi rơ độ khả tín của các điều này:

     1.-Coi nhẹ ngũ hành: Tôi cho rằng ta không nên dựa vào lư ngũ hành sinh khắc để luận tác dụng của Tuần Triệt trên các sao, bởi sẽ có khi đúng khi sai.

     Lời đề nghị này khả tín, v́ như tŕnh bày trong bài trước, lư ngũ hành của các sao không phải là kết quả của một bài toán nhất quán mà mỗi nhóm sao được suy bằng một hệ thống lư luận khác nhau, nên không thể nhất luật áp dụng lư sinh khắc với Tuần Triệt mà suy ra tốt xấu cho mọi sao được.

     Mà thiết nghĩ luật sinh khắc của ngũ hành không cần thiết, v́ ta đă biết tác dụng tổng quát của Tuần Triệt trên các sao như tôi đă tŕnh bày nhiều lần. (Trừ một vài ngoại lệ tôi sẽ bàn sau).

 

     2.-Phân định hoàn cảnh của chính tinh ngộ Triệt:

     Xem Tuần Triệt như hai loại động đất xảy ra ở trong cung, tôi phân biệt theo ảnh hưởng ra hai loại chính tinh: Năm sao Âm Dương Tử Phủ Tướng một nhóm, nhóm kia gồm 9 chính tinh c̣n lại.

     Luận Âm Dương và Tử Phủ Tướng trước. Trong TVHTKH1 tôi gọi Tử Phủ Âm Dương là 4 đế tinh. Cách gọi này đă gây nhiều phản kháng; thực ra điểm chính tôi muốn nói là Tử Phủ Âm Dương có vai tṛ lănh đạo nên khác với 10 sao c̣n lại. Điểm này hết sức quan trọng, hiểu nó rồi th́ sẽ giải thích được tại sao Tử Phủ Âm Dương có những cách cục khác hẳn các sao khác.

     Riêng sao Thiên Tướng có một vai tṛ rất lạ lùng trong Tử Vi. Như đă tŕnh bày trong TVHTKH1, theo lư h́nh thành th́ Thiên Tướng là sao yếu đuối nhất trong nhóm động (tức nhóm 8 sao Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Liêm Tham), nhưng v́ lư vận hành mà Tướng được vĩnh viễn tam hợp với Phủ, tạo thành cặp quư tinh Phủ Tướng. Có thể nói Tướng là một loại “nửa ông nửa thằng” (theo ư nghĩa tốt), chẳng thể kể là thuộc giai tầng lănh đạo, nhưng lại được hưởng nhiều quy chế đặc biệt dành riêng cho cấp lănh đạo.

     Tuần Triệt như hai loại động đất. Tác dụng của chúng là giảm thiểu tín hiệu của các sao, nên các nhân vật lănh đạo đang ở ngôi cao (tốt) tất bị sụt xuống thấp (bớt tốt), các nhân vật đang ở chức quá thấp so với khả năng (xấu) có thể được trung ương cứu xét để thăng lên chức gần với khả năng hơn (bớt xấu). Thế nhưng từ quan điểm chủ quan thông thường của giới lănh đạo th́ từ ngôi cao sụt xuống không phải là bớt tốt mà là xấu, tương tự đang ở chức quá thấp mà được cứu xét là có hy vọng lên chức gần hơn với khả năng của ḿnh, nên không phải bớt xấu mà là tốt. Dùng lư tương ứng ta suy ra:

     Tử Phủ Tướng không có hăm địa nên gặp Tuần Triệt ví như ở ngôi cao sụt xuống ngôi thấp, gặp Tuần Triệt là hung hiểm (riêng Măo Dậu là hai cung yếu nhất của ba sao này th́ lại có thể hưởng phúc của kẻ tu hành, như đă luận trong bài trước).

     Âm Dương miếu vượng gặp Tuần Triệt ví như lănh chúa ở ngôi cao sụt xuống ngôi thấp, hiểu lẽ tiến thủ th́ vẫn hơn người; thế nhưng hiểu lẽ tiến thủ là ngoại lệ, nên đa số trường hợp là xấu.

     Âm Dương hăm địa gặp Tuần Triệt ví như nhân tài đang ở vị trí quá thấp so với tài nghệ của ḿnh bỗng được nâng lên một vị trí cao hơn (mặc dù vẫn là thấp so với tài nghệ). Rơ ràng là một tiến bộ, nhưng công tâm mà xét th́ vẫn là chưa đạt hết tiềm năng. Bởi vậy Âm Dương hăm địa gặp Tuần Triệt là có cơ hội tốt để thành công, nhưng khó thành công lớn được.

     Trường hợp Âm Dương cùng cung ở Sửu Mùi gọi là “đắc địa” v́ lư do đặc biệt xin xem phần hỏi đáp.

     Chín chính tinh c̣n lại tôi phân ra các sao vũ dũng, thư sinh, và làng nhàng. Vũ dũng có Liêm Vũ Sát Phá Tham, thư sinh có Cơ Lương, làng nhàng có Đồng Cự.

     Vũ dũng gặp Tuần Triệt lư tính giảm đi, nhưng vẫn c̣n tàn tích, không hết hẳn được. Như Phá Quân chủ phá hoại, gặp Tuần Triệt khuynh hướng phá hoại giảm đi, có thể thành ra thích sửa đổi. Như Vũ Phá cư Hợi là hăm địa, ngộ chính Triệt ở đây không có nghĩa trở thành tốt, mà chỉ là đỡ xấu đi thôi. Lại như Tham Lang cư Tư gặp Ḱnh là cách “phiếm thủy đào hoa”, thường lông bông lăng đăng thích trăng hoa; nếu sinh trong tuần từ Giáp Dần đến Quư Hợi tất ngộ Tuần, có thể nhờ vậy mà không tỏ ra lông bông lăng đăng hoặc trăng hoa, nhưng khuynh hướng này vẫn tồn tại ở mức thấp và phải được thể hiện ra ở đâu đó (chẳng hạn là văn sĩ hoặc diễn viên, sở trường diễn tả các vai lăng tử).

     Thư sinh gặp Tuần Triệt th́ thay đổi hoàn cảnh. Tốt thành xấu, xấu đỡ hơn, chưa tốt hẳn dễ thành ra tốt. Hai sao Cơ Lương thỏa tính “thư sinh” nên miếu vượng ngộ Tuần Triệt ví như học tṛ giỏi giang nhưng chẳng may thi rớt nên giảm hẳn nhuệ khí, biến thành ra xấu. Cơ Lương hăm gặp Tuần Triệt như học tṛ nghèo được nhờ hoàn cảnh đổi thay mà t́m được việc dạy kèm trẻ kiếm tiền dằn túi, hoặc như học tṛ dở nhưng may nhờ thang điểm đổi mà đậu vớt kỳ thi cuối khóa; tốt đấy, nhưng chẳng thể nói là huy hoàng. Riêng Cơ Tư Ngọ và Lương cư Sửu (cách “nhật nguyệt tịnh minh”) là các trường hợp thiên về tốt nhưng không rơ nét lắm th́ ví như người học tṛ tự xem ḿnh quá thấp, cứ làm những việc lận cận đâu đâu; gặp Tuần Triệt ví như may nhờ gặp biến cố mà vỡ lẽ ra. Vỡ lẽ ra rồi th́ chuyên tâm học tập thành tài, nên dễ tốt vậy.

     Sao làng nhàng th́ gặp Tuần Triệt chẳng hại ǵ, lại thường có lợi. Bởi thế chẳng sách nào nói Đồng sợ Triệt Tuần, các sách lại hay nói đến cách to là “thạch trung ẩn ngọc”, tức Cự Môn Tư Ngọ đắc Triệt Tuần.                       

     3.- Định hoàn cảnh chung của các sao ngộ Tuần Triệt:

     Tuần Triệt không làm các sao biến mất, chúng vẫn tồn tại trong cung, nhưng thể hiện ra ở một mặt khác.

     Chẳng hạn trường hợp mệnh vô chính diệu, lại gặp hung tinh khắc mệnh rất nguy hiểm. Sách viết là cần có Triệt án ngay cung để hóa giải. Ảnh hưởng hóa giải của Triệt trong trường hợp này dĩ nhiên có, nhưng đồng thời cần ghi nhận rằng hung tinh ấy vẫn hiện hữu trong cung. Đây hung tinh ngộ Triệt ví như gă ăn cướp bị giam lỏng; có thể là mối họa của ta sau này (nhưng cũng có thể là thiện duyên, nếu ta ra công cải hóa được gă ăn cướp ấy về đường chính đạo). Bởi vậy cung có hung tinh khắc mệnh ngộ Triệt khác với cung trống ngộ Triệt. Ngược lại, cũng mệnh vô chính diệu, nhưng có quư tinh Khôi hoặc Việt thủ ngộ Triệt (can Canh hoặc Nhâm) th́ ví như quư nhân bị hăm hại ngay trong nhà của ta, xấu hơn hẳn trường hợp cung trống ngộ Triệt. Xin nhớ đây chỉ là đề nghị của tôi, không dám nói là hoàn toàn khả tín, nhưng thiết nghĩ có phần nào cơ sở.

     Phối hợp ba luật này với những ǵ đă biết về cách cục, thêm sự hiểu biết rằng khi cung gặp Tuần Triệt th́ ảnh hưởng của tam phương tứ chính mạnh hẳn lên, tôi nghĩ rằng hai người khác nhau có thể luận ra cùng kết quả về ảnh hưởng tốt xấu của các cung trong đa số trường hợp. Thiểu số trường hợp c̣n lại th́ mỗi người một ư, nhưng đó là hiện trạng của Tuần Triệt; khi có thêm đột phá th́ tỷ lệ các trường hợp đồng thuận sẽ tăng lên theo.

     Đó là mới nói chính Tuần, chính Triệt. Phụ Tuần và phụ Triệt tôi chỉ coi là yếu tố “giọt nước tràn ly”. Cách xem của tôi là trước hết bỏ Tuần Triệt ra không tính, sau khi định cách cục tốt xấu rồi th́ cân lượng xem độ tốt xấu bao nhiêu. Nếu rất tốt th́ giảm tốt đi (nhưng vẫn tốt), hơi tốt hoặc thành trung tính hoặc hơi xấu; trường hợp rất xấu và hơi xấu ngược lại; trung tính th́ không có ảnh hưởng.

     Theo cách xem này, khác biệt quan trọng giữa chính Triệt Tuần và phụ Triệt Tuần là chuyện xấu thành tốt tốt thành xấu xảy ra rất thường khi năm sao Âm Dương Tử Phủ Tướng gặp chính Tuần chính Triệt, nhưng rất hiếm khi chúng gặp phụ Tuần phụ Triệt. 

Vài cộng hưởng đặc biệt của Tuần Triệt

     HỎI: Có sao nào là ngoại lệ của Tuần Triệt hay chăng? Rơ ràng hơn, có sao nào bị Tuần Triệt ảnh hưởng nặng nề hơn b́nh thường hoặc nhẹ hơn b́nh thường hay chăng?

     ĐÁP: Trước khi trả lời câu này, cần nói rơ là –theo tôi- những trường hợp gọi là “ngoại lệ” của Tuần Triệt là vấn đề của ngôn từ hơn là hiện tượng.

     Ta có thói quen gọi mọi thứ được an trên lá số Tử Vi là “sao”; nhưng theo suy luận của tôi Tuần Triệt không phải là sao, mà là hai ảnh hưởng trong các cung chúng đóng.

     Ngoài Tuần Triệt ra, theo tôi ṿng Thái Tuế và tứ Hóa cũng không phải là sao.

     Ṿng Thái Tuế chỉ giản dị là 12 phương vị phản ảnh tính thiên văn được áp đặt lên địa bàn nhờ có tính phù hợp t́nh cờ. Vai tṛ của ṿng Thái Tuế ví như 12 bảng chỉ phương hướng, cho ta biết cung nào được hưởng địa lợi, cung nào phải đấu tranh, cung nào chậm trễ, cung nào dễ lỗ lă v.v… Tóm lại, ṿng Thái Tuế đánh dấu đặc tính của các cung.

     Ṿng Thái Tuế dĩ nhiên ứng với đơn vị năm nên tôi cho rằng ṿng này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Tuần v́ Tuần ứng với đơn vị năm. Nhưng không phải là Tuần làm giảm ảnh hưởng của ṿng Thái Tuế mà là Tuần và ṿng Thái Tuế cộng hưởng với nhau. Từ cộng hưởng này không thôi ta đă có thể làm vài dự trắc. Chẳng hạn gặp trường hợp Bạch Hổ ngộ chính Tuần, ta phối hợp tính đấu tranh quyết liệt của Bạch Hổ với ảnh hưởng giảm thiểu của Tuần, đoán được là xác xuất thành công thấp hơn b́nh thường, bởi kẻ quyết liệt muốn thành công th́ phải mong đợi vào biến chuyển cực đoan, nhưng gặp Tuần th́ các yếu tố cực đoan trong cung đă bị giảm thiểu.

     Có người sẽ bảo cách xem này chẳng có ǵ lạ, v́ cho rằng Tuần giảm tác dụng của Thái Tuế cũng ra kết quả tương tự. Điểm khác ở đây là ảnh hưởng của Triệt. Như đă tŕnh bày ở trên, Triệt giảm 80-90% tác dụng của các sao; nhưng v́ nó ứng với tháng nên không có ảnh hưởng đáng kể ǵ với lư tính của các sao trong ṿng Thái Tuế.

     Tôi biết có người sẽ nói rằng cách Bạch Hổ ngộ Triệt rơ ràng là bị phá cách. Thế nhưng tôi cho rằng đây chỉ là một sự lầm lẫn giữa bản chất với hiện tượng mà thôi. Rơ ràng hơn, nếu tôi gặp số cung mệnh có Bạch Hổ ngộ Triệt tôi vẫn đoán người ấy cá tính thích đấu tranh quyết liệt (tức là bản tính không đổi của Bạch Hổ), c̣n chuyện “phá cách” th́ lư vẫn như trường hợp Tuần, chẳng phải là Bạch Hổ bị giảm tác dụng mà là các yếu tố cực đoan mà Bạch Hổ cần để chiến thắng đă bị Triệt phá hủy, nên Bạch Hổ khó đạt mục tiêu.

     Có người sẽ hỏi nếu ṿng Thái Tuế ứng với chi năm không bị Triệt ảnh hưởng th́ tại sao Đào Mă Cái Sát là bốn sao tam hợp hành của chi năm lại chịu ảnh hưởng của cả Tuần lẫn Triệt. Tôi xin trả lời rằng Đào Mă Cái sát là kết quả phối hợp của chi năm với ngũ hành, ṿng Thái Tuế th́ không; đó là một khác biệt hết sức quan trọng.

     Kế tiếp xin vắn tắt về tứ Hóa. Độc giả hẳn đă nghe những câu như “Ḱnh Dương hóa H́nh, Đà La hóa Kỵ”; tức là trong cảnh cực đoan Ḱnh Dương sẽ biểu lộ tính “h́nh” (sát khí), c̣n Đà La biểu lộ tính “kỵ” (đố kỵ, ngăn trở v.v…) Theo tôi tứ Hóa ư nghĩa cũng tương tự như thế. Nói cách khác, tứ Hóa không phải là 4 sao mà là bốn trạng thái biến đổi của mà chính tinh và Xương Khúc Tả Hữu có thể trải qua. Như năm Giáp, ta biết hóa Lộc được cư trong cung có Liêm Trinh, hóa Lộc cung có Phá Quân, hóa Khoa cung có Vũ Khúc, hóa Kỵ cung có Thái Dương. Ấy bởi v́ “năm Giáp Liêm Trinh hóa ra Lộc”. Tương tự, “Phá Quân hóa ra Quyền”, “Vũ Khúc hóa ra Khoa” , “Thái Dương hóa ra Kỵ”. Quan điểm này có thể lạ với làng Tử Vi Việt Nam, nhưng là cách nh́n tiêu chuẩn ở Đài Loan cũng như Hồng Kông trong hiện tại.

     Chấp nhận như vậy th́ sẽ thấy tứ Hóa không phải là bốn sao theo nghĩa b́nh thường, nên chẳng có lư do ǵ để chúng bị Tuần Triệt làm giảm ảnh hưởng.

     Có người sẽ hỏi “Vậy tại sao cho rằng tứ Hóa bị Tuần Triệt ảnh hưởng có vẻ cho kết quả đúng trong nhiều trường hợp”. Tôi sẽ trả lời rằng đây lại là một trường hợp lầm lẫn giữa bản chất với hiện tượng. Hóa Lộc tượng mùa xuân, ta có câu tục ngữ “một con én không làm nổi mùa xuân”, nay giả như hoàn cảnh của cung bị Tuần Triệt án ngữ chẳng lấy ǵ làm đẹp (nhưng không đủ xấu để thỏa lư “tuyệt xứ phùng sinh”), th́ một tính “Lộc” được chính tinh biến hóa ra làm sao đổi được t́nh trạng ấy? Cái lư cho Quyền, Khoa, Kỵ đại khái cũng thế.

     Có người sẽ hỏi “Cho rằng tứ Hóa không bị Tuần Triệt ảnh hưởng có công dụng ǵ trong việc xem số?” Tôi sẽ trả lời rằng cách này có công dụng trong nhiều trường hợp, trong đó có các trường hợp gọi là “tuyệt xứ phùng sinh” mà tôi sẽ tŕnh bày trong tập 3 của sách này nếu tôi có duyên viết đến tập ấy. Nhưng hăy đưa một thí dụ dễ hiểu để thấy sự khác biệt giữa cách xem này với cách xem truyền thống. Giả như ta xem một lá số thấy rằng nếu tính hóa Lộc từ cung xung chiếu về th́ tốt, nhưng cung xung ngộ Triệt. Nếu cho rằng hóa Lộc bị Triệt phá hủy (như truyền thống) th́ phải luận là xấu, theo cách mà thôi đề nghị th́ vẫn luận là tốt như thường.

     Ngoài ra, c̣n có một điểm tưởng là không liên hệ đến tác dụng giữa Tuần Triệt và tứ Hóa nhưng theo tôi cần ghi nhận làm dữ kiện tham khảo. Như tôi đă tŕnh bày nhiều lần trong loạt bài này, đa số các sách Tử Vi ở Đài Loan bây giờ không xem Tuần Triệt là quan trọng. Dĩ nhiên họ làm thế là từ kinh nghiệm. Làng Tử Vi Việt Nam càng lúc càng trọng Tuần Triệt, dĩ nhiên cũng v́ kinh nghiệm. Hai bên cùng theo kinh nghiệm cả, tại sao một bên trọng một bên khinh Tuần Triệt?

     Tôi cho rằng sở dĩ có hiện tượng này là v́ Tử Vi Đài Loan trọng tứ Hóa hơn thần sát, Tử Vi Việt Nam (tối thiểu trong giai đoạn hiện tại) dĩ nhiên ngược lại. Từ đó suy ra có một lời giải giả định nhưng giải thích được tại sao cả hai bên đều đúng mặc dù cách xem khác nhau, đó là tứ Hóa không bị Tuần Triệt ảnh hưởng! 

     HỎI: Âm Dương Sửu Mùi ngộ Tuần (hoặc Triệt) hóa Kỵ được nhiều sách gọi là “kỳ cách”; có lư hay chăng?

     ĐÁP: Tôi cho rằng khi truyền lại cách này, người xưa đă dấu một phần bí quyết. Ta thử tái khám phá bí quyết này xem sao.

     Trước hết muốn có Kỵ đóng cùng Nhật Nguyệt ở Sửu Mùi th́ chỉ có 4 trường hợp sau đây:

     Sinh năm Giáp: Liêm hóa Lộc, Phá hóa Quyền, Vũ hóa Khoa, Nhật hóa Kỵ. Tức là song Lộc ở tật, Quyền ở tử, Khoa ở bào. Tín hiệu rơ nhất là quan gặp cặp song Hao hăm địa, ngoài ra không có cách cục ǵ đặc biệt.

     Sinh năm Ất: Cơ hóa Lộc, Lương hóa Quyền, Tử hóa Khoa, Nguyệt hóa Kỵ. Tức là Lộc cư Phúc được Lộc Tồn ở tài xung chiếu, Quyền cư quan, Khoa cư Điền.

     Sinh năm Tân: Cự hóa Lộc, Nhật hóa Quyền, Khúc hóa Khoa, Xương hóa Kỵ. Tức là song Lộc cư Phúc, mệnh đắc Khoa Quyền. Ngoài ra, muốn Xương Khúc cư cùng Nhật Nguyệt th́ phải sinh giờ Măo hoặc Dậu, đều là thân cư thiên di vô chính diệu được song Lộc Khoa Quyền hội họp.

             Sinh năm Kỷ: Vũ hóa Lộc, Tham hóa Quyền, Lương hóa Khoa, Khúc hóa Kỵ. Tức là Khoa cư quan, mệnh ngộ hoặc xung Ḱnh đắc địa và giáp Quyền Lộc. Ngoài ra, cũng như trường hợp năm Tân, thân cư thiên di vô chính diệu, nhưng kém trường hợp năm Tân v́ không được tam Hóa hội họp.

 

     Có thể thấy rằng sinh năm Ất, Tân, Kỷ đều có điểm đặc biệt khác người, nhưng năm Giáp th́ phải đặt câu hỏi, bởi cách cục không có ǵ đặc biệt, nếu không muốn nói là dưới trung b́nh.

     Vậy ta tạm kết luận muốn thành cách phải sinh các năm Ất, Kỷ, Tân. Nhưng tại sao lại cần phải có thêm điều kiện là Tuần hoặc Triệt án ngữ? Thưa, v́ Âm Dương như hai lănh chúa, ở cùng nơi tất sinh xung đột. Tác dụng của Tuần Triệt là chiết giảm hoặc triệt tiêu sự xung đột đó. Xung đột giảm thiểu hoặc biến đi rồi các cách kể trên tự nhiên sẽ thành h́nh.

     Có thể thấy rằng các cách trên tốt không phải v́ Kỵ, mà v́ những cộng hưởng đi đôi với Kỵ. Đó là lư do tại sao tôi cho rằng người xưa đă giữ lại “bí quyết” khi truyền cách này cho chúng ta.

     HỎI: C̣n Không Kiếp, Thiên Không cũng thường được coi là có tính không vong, gặp Tuần Triệt phải luận làm sao?

     ĐÁP: Thiên Không luôn luôn chiếm một vị trí cố định trong ṿng Thái Tuế (trước Thái Tuế một cung), nên lời giải của tôi y hệt như trường hợp ṿng Thái Tuế ở trên (không bị Triệt ảnh hưởng, cộng hưởng với Tuần thay v́ bị Tuần ảnh hưởng). Nhưng chú ư rằng Thiên Không luôn luôn ở vị trí phụ Triệt nên ảnh hưởng của Tuần ở đó không mạnh.

     C̣n cặp Không Kiếp vốn thỏa mọi điều kiện của sao nên muốn nhất quán tất nhiên phải cho rằng chúng bị Tuần giảm 50% dài hạn, Triệt giảm 80-90% ngắn hạn.

     HỎI: Cuối cùng, có người nói xem hạn phải thêm lưu Tuần lưu Triệt mới chính xác, đáng tin cậy chăng?

     ĐÁP: Ly kỳ làm sao, mới vài ngày cách đây vấn đề này đă được đặt ra ở trên một mạng mệnh lư có uy tín. Phải chăng đây là một trong những diễn biến tưởng là t́nh cờ của cuộc đời mà thực ra đă được ông trời sắp xếp trước, v́ khi bắt đầu viết loạt bài về Tuần Triệt hơn tháng trước tôi chẳng thể ngờ khá nhiều vấn đề tương tự lại được người khác đặt ra sau đó.

     Trở lại câu hỏi. Khi xem hạn năm chúng ta lưu rất nhiều sao, như Tuế Tang Hổ Khốc Hư Lộc Ḱnh Đà Thiên Mă. Tử Vi Đài Loan, Hồng Kông lưu thêm tứ Hóa (và nhiều người coi chúng quan trọng hơn hết). Đó đều là các sao thuộc đơn vị năm. Tuần mười năm chuyển động một lần, Triệt chuyển động một lần mỗi năm. Hiển nhiên có thể coi Triệt là sao năm, và nếu nghĩ rằng nó có tín hiệu mạnh th́ lưu nó là hợp lư (chữ nếu ở đây rất quan trọng, xin xem thêm ư kiến riêng của tôi ở cuối). Nhưng đă lưu Triệt mà không lưu Tuần e không ổn. Thành thử đă lưu th́ phải lưu cả hai sao.

     Tử Vi Đài Loan có một điều tôi học được là họ phân ra “tầng ảnh hưởng” dựa theo khác biệt của đơn vị thời gian. Như cách cục nguyên thủy tất nhiên ảnh hưởng đại hạn, đại hạn tất nhiên ảnh hưởng niên hạn (tiểu hạn hoặc lưu niên, tùy phái), niên hạn tất nhiên ảnh hưởng nguyệt hạn, nguyệt hạn tất nhiên ảnh hưởng nhật hạn, nhật hạn tất nhiên ảnh hưởng thời hạn. Thế nhưng cách cục nguyên thủy chưa chắc có ảnh hưởng trên niên hạn, đại hạn chưa chắc có ảnh hưởng trên nguyệt hạn v.v… Theo quy luật đó, thêm lư giản dị của “dao cạo Occam” th́ khi luận niên hạn, nguyệt hạn, thời hạn; nếu xét Tuần Triệt th́ chỉ xét lưu Tuần, lưu Triệt mà thôi.

             Chữ “nếu” ở đây rất quan trọng; thật t́nh là tôi chưa kiểm chứng đủ để định tầm quan trọng của lưu Tuần Triệt, do đó v́ lư giản dị tôi đă luôn luôn lờ hẳn chúng đi cho khỏi rối trí.

HẾT



Sửa lại bởi VDTT : 29 November 2010 lúc 12:39am


__________________
Xin lỗi: Không nhận và không đọc PM
Quay trở về đầu Xem VDTT's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi VDTT
 
Polaris
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 17 May 2010
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 331
Msg 18 of 71: Đă gửi: 29 November 2010 lúc 12:40am | Đă lưu IP Trích dẫn Polaris

Xin hỏi ư kiến của bác VDTT về Tuần Triệt đồng cung ?

V́ sự thể là bạn bè toàn là các lá số TT đồng cung (tuổi mậu ngọ - 1978 - Tuần Triệt đồng cung Tư sửu), mà lại cư toàn cường cung.

Nam mậu ngọ, cung Tư th́ tính TT, cung sửu ko tính

Nữ mậu ngọ, cung Tư ko tính TT, cung sửu mới tính ?

Cảm ơn bác !


__________________
Cố ư nài hoa hoa chẳng chịu
Vô t́nh ép liễu liễu ok!
Quay trở về đầu Xem Polaris's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Polaris
 
kiwi
Hội Viên
Hội Viên


Đă tham gia: 03 September 2010
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 346
Msg 19 of 71: Đă gửi: 29 November 2010 lúc 12:45am | Đă lưu IP Trích dẫn kiwi

Woa, bài này hay thật đó bác, mặc dù cháu t́m hiểu TỬ Vi chưa được bao lâu, nhưng "cảm nhận" của cháu về Tuần / Triệt kiểu kiểu giống vầy nè bác. Cháu th́ chưa dám kiểm chứng khi xem hạn, quan lộc hay tài bạch...Cháu chỉ dám xem về tướng mạo, tính t́nh và nét chung chung về cuộc đời của đương số khi có Tuần /Triệt ngay Mệnh cung. Theo như những sách tử vi phổ biến mà cháu đọc được th́ nói về Tuần Triệt rất mơ hồn, như 1 sao hăm sẽ thành đắc, 1 sao đắc sẽ thành hăm, tốt thành xấu, xấu thành tốt...
Đây chỉ là cảm nhận của cháu, Tuần / Triệt ảnh hưởng tương đối khác nhau trên từng loại sao khác nhau. Ví dụ cháu có 1 người quen có Thiên Lương hăm tại Hợi + Tuần, nhưng về dung mạo th́ không tươi tắn như Thiên Lương đắc, mà cuộc đời có thể nói rất là sầu bi, và không may mắn [có thể nói là nên...đi tu]
Những cảm nhận trong cháu về Tuần Triệt cũng c̣n mơ hồ và chưa có hứơng rơ rệt, cháu biết nó phức tạp hơn trong sách vở, nên cháu nghĩ ḿnh [cháu] phải nghiệm từng case rồi rút tỉa kinh nghiệm, rồi tự h́nh dung Tuần / TRiệt ảnh hưởng như thế nào.
Đọc bài này của bác cháu thích ghê.
Cháu cảm ơn bác nhiều.
Cháu Kiwi
Quay trở về đầu Xem kiwi's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi kiwi
 
VDTT
Thượng Khách
Thượng Khách


Đă tham gia: 11 October 2010
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 416
Msg 20 of 71: Đă gửi: 29 November 2010 lúc 12:52am | Đă lưu IP Trích dẫn VDTT

@Polaris: Hỏi sao khéo quá vậy? Phần sau đây là phần trên của bài cũ. Tức là cũng đă cũ gần 5 năm rồi.

Lư “Triệt Tuần tháo gỡ”

     HỎI: Một số phái, chẳng hạn phái Thiên Lương (chú 1), cho rằng mệnh Tuần Triệt đến hạn Triệt Tuần, hoặc thân Triệt (sau 30 tuổi), đến hạn Tuần th́ có hiện tượng “Triệt Tuần tháo gỡ cho nhau” nên được đắc ư; thuyết này có cơ sở ǵ chăng?

     ĐÁP: Xin gọi đây là thuyết “Triệt Tuần tháo gỡ” cho gọn. V́ ông Thiên Lương không giải thích lư do, tôi đoán thuyết này là kết quả chứng nghiệm của riêng ông sau khi xem nhiều lá số. T́nh cờ làm sao, cách đây mấy ngày trên một mạng mệnh lư tôi thấy có người –cũng dựa theo chứng nghiệm cá nhân- cho rằng thuyết này không đúng.

     Chứng nghiệm cho kết quả trái nghịch nhau là một vấn nạn lâu đời của mệnh lư nói chung và Tử Vi nói riêng. V́ những chứng nghiệm với kết quả trái nghịch cứ xảy ra hoài hoài, ta không thể lấy chúng làm tiêu chuẩn định giá các thuyết chống đối nhau; và cho đến khi có những kết quả thí nghiệm thỏa điều kiện bất định của khoa thống kê, ta vẫn chỉ có cách dùng lư luận để định xem thuyết nào có xác xuất đúng cao nhất. (Dĩ nhiên, v́ đúng sai c̣n chưa ngă ngũ, việc xem số lại không thể chờ đợi được nên khi thực hành th́ mỗi người cứ việc tin theo cách của ḿnh, miễn là đừng vội khẳng định cách ḿnh không theo chắc chắn sai.)

     Rất tiếc là về mặt lư luận tôi vẫn chưa xác định được giá trị của thuyết “Triệt Tuần tháo gỡ”, chỉ có vài điểm xin tŕnh bày sau đây, hy vọng sau này có người sửa sai hoặc khai triển để tiến dần đến câu trả lời tối hậu.

     Như đă tŕnh bày trong vài bài trước, Tuần và Triệt đều ứng với hai can Giáp Ất đi sau một chu kỳ đầy đủ của thiên can và v́ vậy cùng mang tính ‘không vong’. V́ điểm tương đồng này, ta có quyền suy diễn rằng các cung bị Tuần Triệt án ngữ có lư tính tương tự, mặc dù không nhất thiết y hệt.

     Chú ư rằng tính ‘không vong’ của 2 cung mà Tuần án ngữ chỉ là một h́nh ảnh tương đối khi ta so sánh chúng với 10 cung trong ṿng thiên can mà thôi; nên khi c̣n ở trong ṿng thiên can ta thấy cung có Tuần mang tính ‘không vong’, nhưng một khi ta vào một cung mang tính ‘không’ giống hoặc từa tựa như Tuần th́ cảnh ‘không’ ấy đối với ta chính là cảnh thật mà ta gặp, nên không kể là ‘không’ nữa! Chẳng hạn Tuần ở Tí Sửu; khi hạn chuyển đến Tí Sửu là đă vào địa vực của hai cung ‘không’, th́ hoàn cảnh của hai cung này chính là hoàn cảnh ‘thật’ mà ta gặp phải.

     Hiện tượng này trong bốc phệ rất quen thuộc, gọi là “xuất không”, thường được áp dụng trong việc đoán ứng kỳ, tức là đoán thời gian mà quẻ có ứng nghiệm. Như gieo quẻ xin việc. Ngày gieo quẻ tính ra thấy Tí Sửu không vong (tức là ngộ Tuần), hào Tí lại động ứng với sự kiện là có việc làm, th́ đoán là ngày Tí hoặc tháng Tí có việc; ấy bởi v́ lúc gieo quẻ Tí đang ‘không vong’, nên gặp Tí là đă ‘xuất không’, tức là đă biến thành ‘thật’.

     Trở lại khoa Tử Vi. Ta biết Tuần 10 năm chuyển động một lần, sau 60 năm về chỗ cũ, Triệt 1 năm chuyển động một lần, sau 60 tháng về chỗ cũ. Con số 60 là đại chu kỳ gồm đủ can chi, nên xét trên tiêu chuẩn thời gian mà thôi th́ Tuần chi phối yếu tố năm, Triệt chi phối yếu tố tháng. Theo cách thành lập lá số Tử Vi th́ năm đại biểu toàn thể 12 cung, mỗi tháng đại biểu 1 cung.

     Thử xét trường hợp mệnh có Tuần, đại hạn gặp Triệt. V́ cung có Triệt hoàn cảnh tương tự như Tuần, về tính chất đây cũng giống như trường hợp đến hạn “xuất không”, nên tính ‘không vong’ của Tuần (vốn kéo dài cả đời và ứng với toàn thể 12 cung) tạm thời bị hóa giải ở 2 cung có Triệt. Ta có thể giải thích hiện tượng Triệt tháo gỡ cho Tuần như vậy; mặc dù xin thú nhận là tôi chưa bằng ḷng với cách giải thích này cho lắm. Rất mong được quư vị cao nhân bốn phương góp ư thêm vào cho phần lập luận được vững chắc hơn.                        

     Hiện tượng ngược lại, tức mệnh Triệt đại hạn gặp Tuần, th́ cái lư chắc chắn phải khác, ấy bởi v́ Tuần ứng với đơn vị thời gian dài hơn Triệt (Tuần ứng năm Triệt ứng tháng, Tuần cả đời Triệt một phần đời). Xin đưa thí dụ so sánh cho dễ hiểu. Như một người lập dị không hớt tóc đă nhiều tháng, câu hỏi “Tháng nào anh sẽ hớt tóc?” nghe hợp lư, nhưng nếu một người mới chỉ hơn tháng chưa hớt tóc câu hỏi “Năm nào anh sẽ hớt tóc?” lại nghe vô lư (lẽ ra phải hỏi “Ngày nào anh sẽ hớt tóc?”). Ví “không hớt tóc” với “không” và “hớt tóc” với “xuất không”, mệnh Triệt đại hạn gặp Tuần nếu nói là tương tự như “xuất không” th́ vô lư. Chỉ có thể nói là Triệt Tuần tương tự nhau, nên mệnh Triệt gặp hạn Tuần th́ nhờ sự tương tự của hoàn cảnh mà áp lực nguyên thủy của Triệt được giảm đi. Nhưng Tuần vốn tác dụng yếu hơn Triệt, nên mệnh Triệt nếu gặp đại hạn Tuần ở nửa đời đầu e độ giảm thiểu không đáng kể.

     Chú ư rằng những hiện tượng “tháo gỡ” trên đây có nghĩa Triệt ở hạn làm giảm tác dụng của Tuần ở mệnh thân và ngược lại. Giả như mệnh nhờ Tuần mà tốt hoặc đỡ xấu, gặp hạn Triệt tất độ tốt giảm đi, cái xấu phục hồi. Tức là ảnh hưởng tháo gỡ không nhất luật là tốt, mà có khi xấu có khi tốt, phải dựa theo cách cục nguyên thủy cũng như cách cục của đại hạn mà đoán. Điểm này có khác với cái lư của ông Thiên Lương, v́ ông cho rằng hễ có “tháo gỡ” nói chung là tốt. Rơ hơn ông Thiên Lương cho rằng mệnh Triệt gặp đại hạn Tuần, mệnh Tuần gặp đại hạn Triệt đều đắc ư cả (chú 1). Tôi lại cho rằng có khi xấu khi tốt.

     Nhưng đă nói trên, tôi chưa bằng ḷng lắm với cái lư “Triệt Tuần tháo gỡ” trên đây, về phần chứng nghiệm th́ chưa đủ thỏa tiêu chuẩn thống kê nên cũng không thể nói là “đúng theo kinh nghiệm”; chỉ xin ghi rơ ư của ḿnh ra để người sau có sẵn cái nền mà tùy nghi sửa sai bổ khuyết.

     HỎI: C̣n trường hợp Tuần Triệt cùng cung th́ sao? Có người bảo chúng tháo gỡ cho nhau nên không c̣n ảnh hưởng ǵ nữa, có người bảo ảnh hưởng của chúng hội tụ mạnh gấp bội; ai đúng ai sai?

     ĐÁP: Tuần Triệt muốn cùng cung chỉ có những trường hợp sau đây

     Năm              N.Hành        Chính Tuần-Triệt       N.Hành

     Giáp Tuất    Hỏa                Thân (Điếu Khách)    Kim         

     Ất Dậu        Thủy               Mùi (Điếu Khách)     Mộc

     Bính Thân   Hỏa                Th́n (Bạch Hổ)          Thủy

     Đinh Mùi    Thủy               Măo (Bạch Hổ)          Kim

     Mậu Ngọ    Hỏa                Tư (Tuế Phá)                Kim

     Kỷ Măo      Thổ                 Dậu (Tuế Phá)           Kim

     Canh Dần   Mộc                Ngọ (Quan Phù)        Mộc

     Tân Sửu      Thổ                 Tỵ (Quan Phù)           Thủy

     Nhâm Tư     Mộc                Dần (Tang Môn)        Kim

     Quư Hợi     Thủy               Sửu (Tang Môn)        Kim         

     Chú ư rằng hai năm Th́n Tỵ không thể nào có Tuần Triệt cùng cung.

     Tôi ghi những trường hợp trên ra chẳng có mục đích ǵ khác hơn là để chúng ta nắm vững những ǵ đă biết. Tôi làm vậy v́ -một lần nữa- tôi chưa t́m ra lập luận nào có tính quy luật cho các trường hợp này. Tôi chỉ có những ư nghĩ rời, hy vọng sau này có người sửa sai hoặc tiếp tục khai triển cho đến khi t́m ra một đáp án thỏa tiêu chuẩn khoa học.

     Tôi xin chép lại đoạn sau đây từ trang 52 sách “Tử Vi nghiệm lư – Lư mệnh học” của ông Thiên Lương (chú 1):

     “Mệnh; thân bị cả Tuần lẫn Triệt, tức là không c̣n ǵ để tháo gỡ, ngay khi đến đại vận tam hợp tuổi, ảnh hưởng tốt đẹp cũng chỉ thỏa măn 50% là tối đa”.

     Tôi đồng ư với kết luận này của ông Thiên Lương v́ nó phù hợp với cái lư cơ bản của Tuần Triệt mà tôi đă tŕnh bày trong vài bài trước. Đại khái Tuần Triệt đều có tác dụng giảm uy lực các sao trong cung chúng án ngữ. Giả như chúng là hai sao th́ nói sao này triệt tiêu tác dụng của sao kia khả dĩ chấp nhận được, đằng này chúng là hai ảnh hưởng trong cung, ví như hai loại động đất khác nhau, cộng lại sao có thể thành hư không?

     Tóm lại, tôi cho rằng khi Tuần Triệt cùng cung th́ không tháo gỡ cho nhau được, trái lại ảnh hưởng của chúng tiếp trợ cho nhau nên mạnh gấp bội.

 



__________________
Xin lỗi: Không nhận và không đọc PM
Quay trở về đầu Xem VDTT's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi VDTT
 

Trang of 4 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 1.7568 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO