| Tác giả | 
         | 
          
      
        
         
         hiendde Hội Viên 
          
  
  Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
 Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
          | 
        
         
          
           | Msg 1101 of 1146: Đă gửi: 06 March 2011 lúc 3:57pm | Đă lưu IP 
		     | 
                    
            		  
           | 
           
          
           
  | 
           
          
 
 
 HỒI KƯ H.S. OLCOTT 
 
 
 
 IV. Lần  lần,  Bavatsky  nói  cho  tôi  biết  về  sự  hiện  diện  của  các  Chân  Sư  cùng  những  quyền  năng  của  các  ngài,  và  bằng  vô  số  các  hiện  tượng  huyền  linh,  bà  cho  tôi  thấy  bằng  chứng  về  quyền  năng  của  bà  đối  với  những  mănh  lực  huyền  bí  trong  thiên  nhiên.  
 
 Trước  hết,  như  đă nói  ở  trên,  bà  gán  cho  âm  binh  “John  King”  vai  tṛ  tác  động  nên  các  hiện  tượng  ấy,  và  chính  nhờ  sự  trợ  giúp  của  y  mà  lần  đầu  tiên  tôi  được  tiếp  xúc  bằng  thư  từ  với  các  Chân  Sư.  Tôi  đă  ǵn  giữ  nhiều  bức  thư  cũa  các  ngài,  và  ghi  rơ  ngày  tháng  nhận  được  những  bức  thư  ấy.
 
 Trong  nhiều  năm,  cho  đến  ngày  tôi  rời  Nữu  Ước  để  sang  Ấn  Độ,  tôi  được  kết  nạp  vào  hàng  đệ  tử  đặt  dưới  quyền  chỉ  đạo  của  phân  bộ  Phi  Châu  trong  QUẦN  TIÊN  HỘI.  
 
 Về  sau,  khi  bà  HPB  có  một  sự  biến  đổi  huyền  diệu  về  tâm  linh  và  thể  chất mà  tôi  không  tiện  nói  ra,  và  cho  đến  nay  vẫn  không  ai  ngờ  mặc  dù  họ  được  đối  xử  thân  mật  và  hoàn  toàn  tin  cẩn  của  bà (như  họ  vẫn  tưởng),  tôi  được  thuyên  chuyển  sang  phân  chi  Ấn  Độ,  dưới  sự  chăm  sóc  điều  hành  của  một  nhóm Chân sư khác.
 
 Từ  bao  giờ,  khắp  trên  thế  giới luôn  luôn  vẫn  có  một  tổ  chức  vĩ  đại  gồm  một  TẬP  ĐOÀN  TIÊN  THÁNH  chăm  lo  d́u  dắt  sự  tiến  hóa  của  nhân  loại.  Tổ  chức  ấy  dược  chia  làm  nhiều  phân  chi  tùy  theo  những  nhu  cầu của  nhân  loại  trong  những  giai đoạn  tuần  tự  tiến  hóa  khác  nhau.  
 
 Trong  một  thế  hệ,  trung  tâm  điều  hành  của  TẬP  ĐOÀN  TIÊN  THÁNH,  tức  QUẦN  TIÊN  HỘI,  được  đặt  ở  một  nơi  nhất  định;  vào  một  thế  hệ  khác,  trung  tâm  ấy  lại  được  đặt  ở  một  nơi  khác.  Tuy  vô  h́nh  vô  ảnh  nhưng  cần  thiết  cho  sự  tiến  bộ  tâm  linh  của  nhân  loại,  quyền  năng  phối  hợp  của  TẬP  ĐOÀN  TIÊN  THÁNH  được  duy  tŕ  từ  thế  hệ  này  sang  thế  hệ  khác  để  trợ  giúp  người  hành  giả  chiến  đấu  không  ngừng  trên  con  đường  Đạo  xa  xôi  diệu  vợi  đưa  đến  Chân  Lư  thiêng  liêng. 
 
 Kẻ  hoài  nghi  phủ  nhận  sự  hiện  diện  của  các  đấng  Tiên  Thánh  bởi  v́  họ  không  nh́n  thấy  hay  nói  chuyện  với  các  ngài,  cũng  không  hề  thấy  lịch  sử  nói  về  sự  can  thiệp  hữu  vi  của  các  ngài  trong  những  biến  cố  của  các  quốc  gia.  
 
 Nhưng  sự  hiện  diện  của  các  ngài  đă  được  nh́n  nhận  bởi  hàng  ngh́n  những  bậc  đạo  gia  chân  tu  của  nhiều  thế  hệ  liên  tục,  đă  giải  thoát  khỏi  sự  ô  nhiễm  của  cuộc  đời  thế  gian  để  bước  vào  cơi  giới  tâm  linh  huyền  diệu.  Trong  nhiều  thời  kỳ,  các  ngài  đă  từng  giao  tiếp  thân  mật  với  những  người  chỉ  nguyện  xă  thân  cầu  Đạo,  hoặc  dành  trọn  cuộc  đời  phụng  sự  hiến  dâng  để  đem  lại  hạnh  phúc  và  t́nh  thương  trong  muôn  loài.
          
 Vài  người  trong  số  đó,  rất  mực  khiêm  tốn  và  bề  ngoài  có  vẻ  kém  hèn  như  chúng  tôi  là  những  người  lănh  đạo  phong  trào  THÔNG  THIÊN  HỌC,  đă  có  diễm  phúc  được  sự  ưu  ái  và  chỉ  giáo  của  các  ngài.  Vài  người  như  bà  Blavatsky  và  sư  đệ  Damodar  đă  được  nh́n  thấy  ngài  trong  những  cơn  linh  ảnh  từ  khi  c̣n  nhỏ.  
 
 Những  người  khác  đă  gặp  các  ngài  dưới  những  h́nh  dáng  ngụy  trang  lạ  lùng  ở  những  nơi  thật  bất  ngờ.  Tôi  được  bà  Blatsky  giới  thiệu  cho  các  ngài  xuyên  qua  nhân  vật  trung  gian  quen  thuộc  trong  những  kinh  nghiệm  trước  đây:  đó  là  vong  linh  mệnh  danh “John  King”.  
 
 Y  giúp  tôi  giao  tiếp  bằng  phương  tiện  Vô  Vi  với  bốn  vị  Chân  Sư,  trong  số  đó  có  một  vị  Chân  Sư  Ai  Cập,  một  vị  là  đại  diện  của  môn  phái  Alexandrie,  một  vị  là  Chân  Sư  Venitien,  và  một  là  hậu  thân  của  một  triết  gia  người  Anh,  tuy  đă  qua  đời  nhưng  vốn  bất  tử.
 
 Chân  Sư  Serapis (Ai  Cập)  là  vị  Sư  Phụ  đầu  tiên  của  tôi,  ngài  có  một  tác  phong  hào  hùng  dũng  cảm  và  đầy  vẻ  cương  nghị  của  một  người  trội  hẳn  phần  nam  tính. Về  sau,  tôi  được  các  Chân  Sư cho  biết  rằng  bà  Blavatsky  là  một  đệ  tử  trung  kiên  của  các  ngài,  tuy  rằng  bà  có  những  tính  chất  bất  thường,  làm  cho  bà  khó  dung  ḥa  được  với  vài  vị  Chân  Sư  để  có  thể  làm  việc  chung  với  các  ngài.  
 
 Điều  này  không  lạ  ǵ  khi  ta  biết  rằng  mỗi  người  đều  tiến  hóa  theo  một  Cung  nhất  định  trong  Thiên  Cơ.  Họ  có  sự  ḥa  hợp  tâm  linh  với  những  linh  hồn  đồng  Cung  với  ḿnh,  và  có  thể  đối  nghịch  với  những  linh  hồn  thuộc  về  một  Cung  khác  khi  khoác  lấy  xác  phàm  để  hoạt  động  trên  cơi  hồng  trần  hạ  giới.  Đó  có  lẽ  là  cái  lư  do  căn  bản  của  mọi  sự  ḥa  hợp  hay  xung  khắc  giữa  người  nọ  với  người  kia  trên  thế  gian.
 
 Dù  sao,  vài  vị  Chân  Sư  không  thể  làm  việc  chung  với  bà  Blavatsky.  Bà  chỉ  hợp  tác  được  với  những  vị  khác,  mà  tôi  có  liên  hệ  mật  thiết  trong  những  năm  đầu  của  phong  trào  Thông  Thiên  Học  thế  giới. Trong  những  chuyện  tâm  sự  với  nhau  khi  tôi  đă  đi  khá  sâu  vào  vấn  đề  để  biết  về  QUẦN  TIÊN  HỘI  và  mối  liên  hệ  của  bà  với  cơ  quan  ấy.
 
 Bà  HPB  (tên  viết  tắt  của  bà  Blavatsky) nói  cho  tôi  biết  rằng  bà  đă  đến  Paris  từ  năm  trước 1873,  với  ư  định  ở  lại  đó  ít  lâu  dưới  sự  bảo  trợ  của  một  người  thân  quyến,  nhưng  một  ngày  nọ  bà  nhận  được  mật  lệnh  của  Chân  Sư  truyền  cho  bà  phải  đi  ngay  sang  New  York  để  chờ  lệnh  mới.
 
 Qua  ngày  hôm  sau,  bà  liền  vượt  biển  trùng  dương  với  chỉ  vừa  đủ  số  tiền  để  mua  vé  tàu.  Bà  viết  thư  cho  cha  ở  bên  Nga  yêu  cầu  ông  gửi  tiền  cho  bà  qua  Lănh  Sự  Quán  Nga  ở  New  York,  nhưng  v́  phải  chờ  đợi  một  thời  gian,  và  v́  viên  Lănh  Sự  Nga  từ  chối  không  cho  bà  mượn  trước,  nên  bà  phải  t́m  việc  làm  để  sống  qua  ngày.  
 
 Bà  ở  tại  trong  những  khu  phố  nghèo  nàn  nhất  là  khu  Madison  của  thành  phố  New  York,  và  sống  bằng  nghề  may  thuê  vá  mướn  cho  một  lăo  chủ  tiệm  tạp   hóa  người  Do  Thái  rất  tốt  bụng.  Bà  luôn   luôn  nhắc  đến  người  này  với  một  ḷng  biết  ơn.  Bà  sống  như  vậy  lây  lất  qua  ngày,  nhưng  vẫn  chưa  nhận  được  tin  ǵ  và  tương  lai  hoàn  toàn  mờ  mịt.  
 
 Nhưng  năm  sau,  tháng  10  năm  1874,  bà  được  mật  lệnh  đi  đến  Chittenden  để  gặp  một  người  đồng  môn  sẽ  cùng  cộng  tác  với  bà  trong  một  công  việc  vĩ  đại  trong  tương  lai:  người  ấy,  ai  ngờ  chính  lại  là…  tôi.  Những  bạn  bè  thân  hữu  của  bà  đều  nhớ  rơ  câu  chuyện  mà  bà  đă  kể  cho  họ  nghe  về  sự  lên  đường  ra  đi  bất  ngờ  của  bà  từ  Paris  sang  New  York  theo  mật  lệnh  của  Chân  Sư.  
 
 Nhưng  những  người  bạn  thân  ấy  chỉ  nghe  bà  kể  lại  măi  về  sau  mà  thôi,  và  những  kẻ  thù  nghịch  với  bà  có  thể  nói  rằng  đó  chỉ  là  một  việc  mà  bà  mới  nghĩ  ra  sau  này,  một  chuyện  giả  dối  được  bịa  đặt  ra  để  cho  ăn  khớp  với  cái  tṛ  đùa  ngộ  nghĩnh  mà  bà  ngụy  tạo  ra  sau  đó.
 
 Tuy  nhiên,  trong  khi  tôi  viết  những  trang  này  tại  Adyar  th́  một  việc  t́nh  cờ (nếu  đó  là  do  sự  t́nh cờ)  vừa  đem  đến  cho  tôi  một  bằng  chứng  xác  nhận  sự  việc  trên.
 
 Vừa  đến  lưu  trú  tại  Adyar,  có  bà  Anna  Ballard,  một  nữ  kư  giả  lăo  thành  người  Mỹ,  hội  viên  kỳ  cựu  của  Câu  Lạc  Bộ  Báo  Chí  thành  phố  New  York.  Do  hoạt  động  nghề  nghiệp,  bà  này  đă  từng  đến  phỏng  vấn  bà  Blavatsky  trong  tuần  lễ  đầu  tiên  sau  khi  bà  HPB  vừa  đổ  bộ  lên  đất  Mỹ.  
 
 Trong  khi  tiếp  xúc  với  chúng  tôi,  bà  Ballard  ngẫu  nhiên  nói  cho  tôi  nghe  hai  chuyện,  mà  tôi  liền  yêu  cầu  bà  viết  lại  trên  giấy  trắng  mực  đen  để  làm  tài  liệu.  Điều  thứ  nhất  là  khi  bà  đến  viếng  HPB  ở  một  nơi  nhà  trọ  nghèo  nàn  tại  New  York,  bà  HPB  có  nói  rằng  bà  từ  giă  Paris  th́nh  ĺnh  và  không  có  dự  tính  trước,  do  một  quyết  định  đột  xuất  chỉ  báo  trước  có  một  ngày;  và  việc  kế  đó  là  bà  HPB  đă  từng  viếng  xứ  Tây  Tạng.  
 
 Dưới đây  là  lời  tường  thuật  của  bà  Anna  Ballad:
 
                     Adyar,  17  tháng  1,  1892
 
                     Kính  gởi  Đại  Tá  Olcott
 
 Sự  quen  biết  của  tôi  với  bà  Blavatsky  c̣n  lâu  hơn  là  ông  tưởng.  Tôi  gặp  bà  hồi  tháng  7  năm  1873  tại  New  York,  độ  một  tuần  lễ  sau  khi  bà  vừa  cặp  bến.  Hồi  đó,  tôi  là  phóng  viên  của  nhật  báo  New  York  Sun,  được  chỉ  định  viết  một  bài  về  một  đề  tài  Nga.  Khi  tôi  c̣n  đang  t́m  tài  liệu,  th́  một  người  bạn  cho  tôi  hay  rằng  có  một  phụ  nữ  Nga  vừa  nhập  cảnh  do  chuyến  tàu  mới  đến.
 
 Tôi  bèn  t́m  đến  gặp  bà,  và  từ  đó  bắt  đầu  một  sự  quen  biết  thân  hữu  kéo  dài  đến  nhiều  năm  sau.  Trong  cuộc  phỏng  vấn  đầu  tiên  của  tôi,  bà  HPB  cho  tôi  biết  rằng  bà  không  hề  có  ư  định  rời  Paris  để  sang  Mỹ  cho  đến  ngày  cuối  cùng  trước  khi  bà  xuống  tàu,  nhưng  v́  lư  do  ǵ  bà  ra  đi  và  ai  thúc  hối  bà  đi  gấp  như  vậy,  th́  bà  không  nói.
 
 Tôi  c̣n  nhớ  rơ  bà  nói  với  một  vẻ  sung  sướng  khoái  trá  lộ  ra  mặt:  “Tôi  có  ở  bên  Tây  Tạng.”  Hồi  đó,  tôi  không  hiểu  tại  sao  bà  lại  cho  đó  là  một  vấn  đề  quan  trọng,  c̣n  đặc  biệt  hơn  những  chuyến  du  hành  ở  Ai  Cập,  Ấn  Độ  và  những  nước  khác  mà  bà  đă  kể  chuyện  cho  tôi  nghe,  nhưng  bà  lại  nói  câu  ấy  với  một  vẻ  mặt  nghiêm  trọng  lạ  thường.  Bây  giờ  th́,  lẽ  tất  nhiên,  tôi  hiểu  ư  bà  muốn  nói  ǵ.
 
 Kư tên:  Anna  Ballard.
 
 Độc  giả  sẽ  nhận  thấy  rằng  những  sự  việc  mà  bà  HPB  đă  kể  cho  người  bạn  đầu  tiên  này  ỏ  New  York  hồi  hai  mươi  năm  về  trước,  đă  xác  nhận  đúng  đắn  những  ǵ  mà  từ  đó  về  sau  bà  cũng  đă  thuật  lại  với  một  số  đông  người,  về  hai  vấn  đề  quan  trọng  nhất  trong  lịch  sử  liên  hệ  giữa  bà  với  hội  Thông  Thiên  Học,  là:
 
 1. Giai  đoạn  chuẩn  bị  của  bà  bên  xứ  Tây  Tạng  dưới  sự  chăm  sóc  của  các  đấng  Chân  Sư;  và
 
 2. Cuộc  hành  tŕnh  của  bà  đột  xuất  sang  Mỹ  để  t́m  người  bạn  đồng  môn  có  nghiệp  duyên  cùng  hợp  tác  với  bà  để  phát  động  phong  trào  Thông  Thiên  Học  trên  thế  giới.
 
 Hồi  năm  1871,  bà  đă  có  một  lần  thất  bại  khi  mưu  tính  thành lập  một  Cơ  Quan  Tinh  Thần  tại  Cairo,  thủ  đô  Ai  Cập,  dựa  trên  nền  tảng  các  hiện  tượng  thần  linh.  V́  không  t́m  được  người  có  đủ  khả  năng  tổ  chức  và  lănh  đạo,  nên  việc  ấy  không  thành;  nó  đă  đem  đến  cho  bà  nhiều  sự  chỉ  trích  và  bực  ḿnh. 
 
 Tuy  nhiên,  những  phép  thuật  thần  thông  mà  bà  đă  biểu  diễn  với  sự  trợ  giúp  của  các  vị  Chân  Sư  Ai  Cập  và  một  vị  Chân  Sư  khác  mà  về  sau  tôi  được  dịp  tiếp  xúc,  đều  là  những  hiện  tượng  vô  cùng  độc  đáo. Việc  ấy  có  vẻ  như  một  sự  hoang  phí  thần  lực  một  cách  vô  ích,  và  cho  thấy  công  tŕnh  nầy  dường  như  thiếu  sự  hướng  dẫn của  thiêng  liêng.  Tôi  không  thể  hiểu  tại  sao  sự  việc  lại  xảy  ra  như  vậy.
 
 Nói  về  hội  Thông  Thiên  Học  th́  mọi  sự  diễn  biến  đều  chỉ  rằng  nó  có  một  lịch  tŕnh  tiến  hóa  tuần  tự,  và  bị  chi  phối  bởi  hoàn  cảnh  do  tác  động  của  những  sức  mạnh  tương  phản.  Khi  th́  sinh  hoạt  êm  ái  điều  ḥa,  khi  th́  trải  qua  những  cơn  sons  gió  ồ  ạt,  Hội  được  thịnh  vượng  hay  bị  trầm  trệ  tùy  theo  sự  quản  trị  thông  minh  sáng  suốt  hay  kém  khôn  ngoan  của  các  nhà  lănh  đạo.  
 
 Đường  lối  đại  cương  của  Hội  vẫn  luôn  luôn  được  ǵn  giữ,  phương  châm  hướng  dẫn  bao  giờ  cũng  vẫn  đồng  nhất,  nhưng  chương  tŕnh sinh  hoạt  của  nó  đôi  khi  được  sửa  đổi,  nới  rộng  hay  cải  tiến  một  cách  linh  động,  uyển  chuyển  tùy  theo  kiến  thức  và  kinh  nghiệm  của  chúng  ta.  
 
 Mọi  sự  đều  chứng  minh  cho  tôi  thấy  rằng  phong  trào  Thông  Thiên  Học  nói  chung  đă  được  các  bậc  Tiên  Thánh  chuẩn  bị  từ  trước,  nhưng  c̣n  tất  cả  mọi  chi  tiết  đều  để  cho  chúng  ta  thực  hiện  với  sự  cố  gắng  tối  đa.  Nếu  chúng  ta  thất  bại  th́  cái  cơ  hội  quư  báu  mà  Nghiệp  Quả  đă  dành  cho  chúng  ta  sẽ  rơi  vào  tay  người  khác,  cũng  như  hiện  nay  tôi  là  người  thừa  kế  những  cơ  hội  lỡ  làng  mà  nhóm  tín  hữu  của  bà  Blavatsky  đă  bỏ  dở  không  thực  hiện  được tại  Cairo  hồi  năm  1871.
 
 Trong  thưở  ban  đầu,  tôi  không  hề  nghe  bà  Blavatsky  nói  ǵ  ngụ  ư  rằng  bà  đă  được  cho  biết  trước ,  cho  đến  khi  bà  được  lịnh  đi  đến  Chittenden  để  gặp  tôi,  về  việc  chúng  tôi  sẽ  cùng  cộng  tác  với  nhau  trong  tương  lai,  hay  là  về  việc  thành  lập  hội  Thông  Thiên  Học  thế  giới.  
 
 Chúng  tôi  chỉ  nghe  bà  nói,  như  đă  kể  trên,  rằng  bà  được  gởi  từ  Paris  đi  New  York  với  mục  đích  truyền  bá  giáo  lư  Huyền  Môn, và  trước  khi  chúng  tôi  gặp  nhau,  bà  đă  từng  tham  dự  những  buổi  họp  đàn  và  tiếp  xúc  với  các  đồng  tử  nhưng  vẫn  c̣n  ẩn  mặt  chứ  chưa  hề  được  công  chúng  biết  đến.
 
 Tháng  5  năm  1875,  với  sự  đồng  ư  của  bà  HPB,  tôi  bắt  tay  vào  việc  tổ  chức  một  nhóm  thân  hữu  chuyên  khảo  cứu  về  Khoa  Học  Huyền  Bí,  lấy  tên  là  Câu  Lạc  Bộ  Huyền  Linh (Miracle  Club).  Trong  một  đoạn  kư  sự  về  việc  này,  bà  viết  như  sau:
 
 “Đó  là  một  mưu  toan  do  lệnh  dạy của  T. B. (một  vị  Chân  Sư),  nhận  được  qua  trung  gian  của  P. (một  tinh  linh)  mệnh  danh  John  King.  Được  lệnh  phải  bắt  đầu  nói  cho  công  chúng  biết  sự  thật  về  các  hiện  tượng  và  các  đồng  tử.  
 
 Thế  là  cuộc  pháp  nạn  của  tôi  sẽ  bắt  đầu!  Tôi  sẽ  gặp  phải  sự  chống  đối  của  các  nhà  Thần  Linh  Học,  thêm  vào  sự  thù  nghịch  của  bên  Cơ  Đốc  Giáo  và  những  kẻ  hoài  nghi.  Ôi ! Chân  Sư  M.,  ư  muốn  của  Sư  Phụ  sẽ  phải  được  thực  hiện.
  HPB.”
         
 Câu  lạc  bộ  này  được  dự  định sẽ  nhóm  riêng,  không  thâu  nhận  người  ngoài  trừ  ra  những  thành  viên  của  nhóm,  và  họ  cũng  bị  ngăn  cấm  không  được  tiết  lộ  nơi  họp.  Bà viết  thêm. “Tất  cả  những  hiện  tượng  Thần  Linh,  gồm  cả  các  sự  hiện  h́nh,  đều  sẽ  diễn  ra  dưới  ánh  sáng, và  sẽ  không  sử  dụng  một  pḥng  tối.”
 
 Theo  lời  bà  nói  như  trên,  th́  dường  như  sẽ  không  có  Hội  Thông  Thiên  Học,  nếu  rốt  cuộc  người  đồng  tử  của  Nhóm  Huyền  Linh  không  hoàn  toàn  suy  thoái  rồi  rút  lui  và  tôi  đành  bỏ  dở  không  thể  hoàn  thành  công  việc  ấy.
 
 
 
 
 
 
 
         | 
        
       
        | Quay trở về đầu | 
         
          
         | 
        
       
       
        |   | 
       
        
         
         hiendde Hội Viên 
          
  
  Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
 Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
          | 
        
         
          
           | Msg 1102 of 1146: Đă gửi: 06 March 2011 lúc 4:08pm | Đă lưu IP 
		     | 
                    
            		  
           | 
           
          
           
  | 
           
          
 
 
 HỒI KƯ H.S. OLCOTT 
 
 
 
 CHƯƠNG  HAI
 
 
 
 VÀI NÉT ĐẶC THÙ  CỦA  BÀ  BLAVATSKY
 
 
 I. Trong  chương  một,  chúng  tôi  có  nói  rằng  bà  HPB  được  lệnh  của  Chân  Sư  phải  rời  Paris  đi  New  York  một  cách  đột  ngột,  do  tin  báo  trước  chỉ  có  một  ngày,  và  khi  đó  bà  chỉ  có  vừa  đủ  tiền  để  mua  vé  tàu. Tôi  c̣n  nhớ  một  việc  liên  hệ  đến  chuyến  đi  ấy  do  bà  thuật  lại,  việc  ấy  cũng  biểu  lộ  một  nét  đặc  biệt  trong  tính  chất  đa  dạng  của  bà,  ấy  là  tính  hào  sảng  tự  nhiên.
 
 Bà  đă  mua  một  vé  tàu  hạng  nhất  đi  từ  Havre  đến  New  York,  và  khi  ra  bến,  bà  nh́n  thấy  một  phụ  nữ  nhà  quê   ngồi  bên  vỉa  hè  vừa  ôm  con  vừa  khóc  rất  thảm  thiết.  Bà  bước  đến  gạn  hỏi  th́  được  biết  rằng  đó  là  một  phụ  nữ  Đức  định  xuống  tàu  để  sang  gặp  chồng  ở  bên  Mỹ,  nhưng  bị  một  kẻ  gian  đă  bán  vé  giả  cho  bà  ta  ở  Hambourg.  
 
 Thế  là  khi  đến  đây,  bà  ấy  bị  bơ  vơ,  lạc  lơng,  không  tiền  bạc  và  tứ  cố  vô  thân  nơi  đất  khách.  Lẽ  tự  nhiên,  Công  Ty  Hàng  Hải  cũng  không  làm  ǵ  được.  Động ḷng  trắc  ần,  bà  HPB  nói: “Chị  hăy  yên  tâm,  để  tôi  xem  có  cách  nào  giúp  chị  được  không?”
 
 Kế  đó,  bà  vận  dụng  tất  cả  mọi  khả  năng  hùng  biện,  hết  thuyết  phục  rồi  đến  quở  trách  người  đại  diện  Công  Ty,  nhưng  rốt  cuộc  vẫn  không  có  kết  quả.  Sau  cùng,  v́  bà  không  có  đủ  tiền  để  trợ  giúp  người  phụ  nữ  bất  hạnh  ấy  nên  bà  phải  dùng  đến  phương  sách  tối  hậu,  chứ  không  c̣n  cách  nào  khác.  Bà  liền  đổi  vé “cabin"  hạng  nhất  của  bà  thành  vé  hạng  chót,  nằm  dưới  hầm  tàu,  và  dùng  số  tiền  sai  biệt  để  mua  vé  hạng  chót  luôn  cho  cả  hai  mẹ  con  người  đàn  bà  kia!
 
 Nhiều  người  thuộc  loại  “nề  nếp”, “mực  thước,” thường  tỏ  ra  hoang  mang  kinh  ngạc  v́  những  cử  chỉ  ngang  tàng  ngáo  ngổ  và  cả  những  điều  sống  sượng  bất  nhă  nữa  của  bà  HPB,  nhưng  tôi  nghĩ  rằng  một  cử  chỉ  hy  sinh  hào  phóng  như  vậy  cũng  đủ  làm  nghiêng  lệch  đ̣n  cân,  và  quét  sạch  tất  cả  những  ǵ  gọi  là  bất  lịch  sự  trong  phép  xă  giao  của  người  đời!  Ai  không  tin,  hăy  thử  xuống  nằm  dưới  hầm  tàu  chở  dân  di  trú  một  lần  th́  biết!
 
 Trên  đây  có  nói  trong  trường  hợp  nào  nữ  kư  giả  Ballard  đến  gặp  bà  HPB  tại  một  ngôi  nhà  trọ  nghèo  nàn  ở  một  khu  phố  b́nh  dân  của  thành  phố  New  York  trong  khi  bà  c̣n  chờ  đợi  tiền  nhà  và  phải  làm  việc  may  thuê  vá  mướn  để  sống  tạm  qua  ngày.  
 
 Đó là vào  tháng  7,  năm  1873.  Tháng  mười  năm  ấy,  bà  nhận  được  một  bức  điện  tín  từ  Stavropol, Nga, của  cô  em  gái  là  Elise,  cho  biết  tin  phụ  thân  bà  từ  trần  và  có  để  lại  cho  bà  một  phần  gia  tài.  Cô  em  cho  biết  thêm  rằng  một  ngân  phiếu  một  ngàn  Nga  Kim (roubpes)  đă  được  gửi  cho  bà.  
 
 Sau  đó  ít  lâu,  bà  nhận  được  tiền  và  dời  chỗ  ở  đến  một  khu  phố  khang  trang  lịch  sự  hơn,  ở  đường  East 16th,  công  trường  Irving,  New  York.  Chính  ở  địa  chỉ  này  mà  tôi  đến  gặp  bà  sau  khi  từ  nông  trại  Eddy  trở  về.  
 
 Tuy  nhiên,  số  tiền  ấy  không  ở  với  bà  được  lâu,  v́  như  ông  Sinett  dă  nhận  xét  và  ghi  lại  trong  quyển  sách  của  ông  (về  tiểu  sử  của  bà  HPB)  th́  một  mặt  bà  có  thể  chịu  đựng  một  cách  vô  cùng  nhẫn  nhục  những  cơn  nghèo  túng  và  nghịch  cảnh  khó  khăn,  nhưng  khi  tiền  bạc  vừa  đến  tay  bà,  th́  bà  dường  như  lấy  làm  băn  khoăn  khổ  sở,  trừ  khi  bà  đem  vứt  quăng  đi  với  cả  hai  tay  bằng  những  phương  tiện  dại  dột  nhất.
 
 Đó  là  một  cuộc  chung  vốn  làm  ăn  có  kư  hợp  đồng  để  khai  thác  nông  trại  của  một  người  tên  là  C.G.  trong  một  kỳ  hạn  là  ba  năm.  Trong  bản  hơp  đồng  có  điều  khoản  quy  định  rằng  bà  HPB  sẽ  bỏ  ra  số  tiền  một  ngàn  đô  la  để  chung  vốn,  tất  cả  những  lợi  tức  thu  hoạch  được  về  hoa  màu,  rau  trái,  gà  vịt,  và  nhũng  hoa  lợi  linh  tinh  khác  sẽ  được  chia  đều  và  mọi  phí  tổn  cũng  sẽ  cùng  gánh  chịu  đều  nhau, v..v…
 
 Điều  mà  người  ta  có  thể  tiên  liệu  trước  đă  xảy  ra:  bà  HPB  đến  ở  tại  nông  trại,  lợi  tức  đâu  chẳng  thấy,  đâm  ra  tranh  chấp,  căi  lẫy,  rồi  mắc  nợ  và  vướng  vào  một  vụ  kiện  mà  rất  lâu  về  sau  các  bạn  bè  thân  hữu  của  bà  mới  giúp  bà  giải  quyết  xong.  
 
 Thế  là  tan  tành  cái  giấc  mộng  về  lợi  tức  của  bà  về  rau  trái,  hoa  màu,  nuôi  ḅ  sữa,  gà  đẻ  trứng, v..v… Ba  tháng  sau  đó,  tôi  mới  gặp  bà  tại  ngôi  nhà  có  hồn  ma  hiện  h́nh  ở  tại  Vemont,  Chittenden, và  bánh  xe  nghiệp  quả  của  chúng  tôi  mới  bắt  đầu  chuyển  động.
 
 Những  bài  phóng  sự  của  tôi  đăng  trên  nhật  báo  Daily  Graphic  đă  hấp  dẫn  đến  Chittenden  một  vị  lương  y  danh  tiếng  của  thành  phố  New  York,  bác  sĩ  Beard.  Khi  trở  về,  y  đă  viết  một  bài  b́nh  phẩm  ngu  xuẩn  và  khoác  lác  đăng  trên  báo,  nói  rằng  những  chuyện  hồn  ma  hiện  h́nh  ở  nông  trại  Eddy  chỉ  là  những  tṛ  giả  mạo,  và  y  đă  bị  bà  HPB “cạo  sát  da”  trong  một  bức  thư  trả  lời  nảy  lửa  gởi  đến  ṭa  soạn  báo  Graphic.  
 
 Bức  thư  của  bà  là  một  sự  biện  hộ  can  đảm  và  độc  đáo  bênh  vực  cho  những  đồng  tử  Eddy  và  sự  thật  của  những  hiện  tượng  xảy  ra,  làm  cho  bà  đột  nhiên  vang  dậy  tên  tuổi  khắp  các  giới  kể  từ  đó  trở về  sau.  
 
 Đây  là  lần  đầu  tiên  mà  quần  chúng  Mỹ  được  nghe  tên  tuổi  bà  liên  quan  dến  những  vấn  đề  huyền  linh,  và  cuộc  tranh  luân  với  một  bác  sĩ  nổi  tiếng  ở  New  York  thời  ấy  là  cái  nguyên  nhân  chính  làm  cho  bà  được  nổi  danh  một  cách  bất  ngờ.
 
 Hồi  đó,  bà  luôn  luôn  phát  ngôn  với  một  giọng  sôi  nổi,  hào  hùng  và  vui  nhộn  trong  tất  cả  mọi  cuộc  đàm  thoại  và  trên  diễn  đàn  ngôn  luận,  báo  chí;  bà  thu  hút  mọi  người  bằng  cách  nói  chuyện  linh  động  và  ư  nhị;  khinh  bỉ  những  nghi  thức  xă  giao  giả  dối  của  người  đời,  và  gây  sự  ngạc  nhiên  trong  các  giới  bằng  những  quyền  năng  thần  bí  của  bà.  
 
 Bà  thường  rút  trong  cái  kho  tàng  kư  ức  vô  cùng  dồi  dào  phong  phú  về  những  chuyện  phiêu  lưu  mạo  hiểm  mà  bà  đă  trài  qua  do  kinh  nghiệm  bản  thân,  và  trong  kho  kiến  thức  thâm  sâu  về  khoa  Huyền  Môn,  mà  theo  chỗ  tôi  biết  th́  không  ai  có  thể  b́  kịp  trong  số  các  nhân  vật  xuất  hiện  ở Mỹ  thời  bấy  giờ.  
 
 Khi  tôi  đă  kết  thúc  loạt  bài  phóng  sự  đăng  trên  báo  Daily  Graphic  về  các  hiện  tượng  thần  linh  ở  Chittenden,  tôi  bèn  chuẩn  bị  in  ra  thành  sách.  Vào  lúc  này,  bà  HPB  cũng  dời  chỗ  đến  ở  Philadelphia.  Hồi  đó,  khoa  Thần  Linh  Học  đang  trải  qua  một  giai  đoạn  xuống  dốc  do  hậu  quả  của  việc  đồng  tử  Holmes  bị  nhà  bác  học  Dale  Owen  công  khai  tố  giác  là  dối  trá,  bịp  bợm.  
 
 Những  cơ  quan  ngôn  luận  của  phong  trào  bị  mất  độc  giả  rất  nhiều,  những  sách  vở  Thần  Linh  Học  sáng  giá  nhất  đều  bị  mất  khách  hàng  và  nằm  trong  các  nhà  sách  không  ai  mua. Nhà  xuất  bản  quyển  sách  của  tôi  bị  giao  động  tinh  thần  dến  nỗi  tôi  phải  đề  nghị  vối  ông  Dale  Owen  và  bà  đồng  tử  Holmes  mở  một  cuộc  trắc  nghiệm  dài  hạn  dưới  những  điều  kiện  của  tôi  đưa  ra  để  chúng  tôi  thực  hiện  những  cuộc  thử  thách  này  tại  nhà  ông  bà  Holmes.  
 
 Sau  đó,  tôi  đến  Havana,  tiểu  bang  New  York,  và  chứng  kiến  những  hiện  tượng  đồng  tử  thật  là  kỳ  diệu  của  bà  Compton.  Tất  cả  những  cuộc  khảo  sát  trên  đây  đều  được  tường  thuật  lại  đầy  đủ  trong  quyển  sách  của  tôi  nhan  đề  “Người  về  từ  cơi  âm”  và  sau  cùng  nó  được  đem  phát  hành.
 
 
 
 
 
 
 
         | 
        
       
        | Quay trở về đầu | 
         
          
         | 
        
       
       
        |   | 
       
        
         
         hiendde Hội Viên 
          
  
  Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
 Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
          | 
        
         
          
           | Msg 1103 of 1146: Đă gửi: 06 March 2011 lúc 4:16pm | Đă lưu IP 
		     | 
                    
            		  
           | 
           
          
           
  | 
           
          
 
 
 HỒI KƯ H.S. OLCOTT 
 
 
 
 II. Trong  khi  bà  HPB  ở  Philadelphia,  tôi  nhận  lời  mời  của  bà  và  đến  đó  ở  nghỉ  vài  ngày  sau  một  thời  gian  làm  việc  mệt  nhọc.  Tôi  định  đi  vắng  nhà  có  vài  ngày  thôi  nên  không  dặn  người  nhà  và  văn  pḥng  Luật  chuyển  thơ  từ  cho  tôi,  nhưng  khi  đến  nơi  tôi  mới  biết  bà  không  muốn  để  tôi  về  sớm  như  vậy.  
 
 Qua  ngày  hôm  sau,  tôi  đến  Sở  Bưu  Điện,  và  yêu  cầu  họ  đem  thư  tù  của  tôi  nếu  có,  đến  địa  chỉ  của  tôi  đang  ở.  Khi  đó  th́  xảy  ra  một  việc  làm  tôi  ngạc  nhiên,  v́  hồi  đó  tôi  chưa  được  biết  nhiều  về  những  quyền  năng  thần  thông  của  các  Chân  Sư  và  bà  HPB  và  chí  đến  bây  giờ  đối  với  tôi,  nó  vẫn  c̣n  là  một  kỳ  quan  lạ  lùng  dẫu  rằng  tôi  đă  từng  trải  qua  một  thời  kỳ  kinh  nghiệm  lâu  dài  về  các  hiện  tượng  huyền  linh.
          
 Ngay  chiều  hôm  đó,  người  đem  thơ  đem  đến  cho  tôi  vài  bức  thơ  gởi  từ  ngoại  quốc,  ngoài  bao  thơ  đề  địa  chỉ  của  tôi  ở  New  York,  có  đóng  dấu  các  trạm  bưu  điện  xuất  xứ  nhưng  KHÔNG  CÓ  CON  DẤU  CỦA  SỞ  BƯU  ĐIỆN  THÀNH  PHỐ  NEW  YORK.  
 
 Bất  chấp  mọi  luật  lệ  của  quy  tắc  bưu  điện,  những  bức  thư  đó  đă  được  giao  thẳng  đến  tay  tôi  ở  Philadelphia  mà  không  đi  qua  Sở  Bưu  Điện  thành  phố  New  York.  Ở  New  York  không  ai  biết  địa  chỉ  của  tôi  tại  Philadelphia  v́  chính  tôi  cũng  không  biết  khi  tôi  rời  khỏi  nhà  ra  đi.  
 
 Khi  mở  các  bao  thơ,  tôi  thấy  trên  các  thơ  đều  có  những  gịng  chữ  viết,  đúng  là  tuồng  chữ  trên  những  bức  thơ  của  các  Chân  Sư  mà  tôi  đă  nhận  được  ở  New  York  trước  đây,  những  gịng  chữ  này  được  viết  hoặc  ở  ngoài  lề,  hoặc  ở  những  khoảng  trống  trong  thơ  của  những  người  giao  dịch  với  tôi. 
 
 Những  gịng  chữ  đó  hoặc  b́nh  phẩm  về  tính  hạnh  hay  ư  đồ  của  các  đương  sự,  hoặc  là  những  lời  khuyên  có  liên  quan  đến  vấn  đề  học  Đạo  của  tôi.  Việc  ấy  mở  màn  cho  toàn  thể  một  loạt  những  hiện  tượng  kỳ  diệu  khác  nữa  trong  khoảng  thời  gian  độ  hai  tuần  mà  tôi  trải  qua  tại  Philadelphia.
 
 Phân  tích  những  hiện  tượng  thần  thông  của  bà  HPB,  hoặc  có  liên  quan  đến  bà,  chúng  tôi  nhận  thấy  chúng  có  thể  được  chia  làm  nhiều  loại,  mà  khả  năng  tạo  nên  những  iện  tượng  đó  đ̣i  hỏi  một  sự  hiểu  biết  về  những  điều  sau  đây:
 
 - Biết  rơ  những  năng  dụng  rốt  ráo  của  vật  chất,  mănh  lực  kết  cấu  các  nguyên  tử,  nhất  là  sự  hiểu  biết  về  tiềm  năng  của  chất  TINH  QUANG  hay  TIÊN  THIÊN  KHÍ (Akâsha).
 
 - Khả  năng  tác  động  của  các  Tinh  Linh  Ngũ  Hành  khi  đặt  dưới  ư  chí  điều  khiển  của  con  người.
 
 - Quyền  năng  sáng  tạo  của  tư  tưởng, có  thể  dùng  thuật  thôi  miên  tạo  ra  những  ảo  giác  mắt  thấy, tai  nghe  và xúc  cảm  những  điều  mà  thật  ra  vốn  không  có.
 
 - Khả  năng  phóng  xuất  h́nh  ảnh  hay  chữ  viết  bằng  sức  mạnh  của  ư  chí.
 
 - Khả  năng  đọc  tư  tưởng  của  người  khác,  và  thần  nhăn  nh́n  thấy  quá  khứ  vị  lai.
 
 - Khả  năng  thần  giao  cách  cảm  tùy  ư  muốn  giữa  ḿnh  với  những  nhân  vật  ngang  hàng  hoặc  cao  hơn  ḿnh  về  tŕnh  độ  phát  triển  tâm  linh.
 
 - Khả  năng  đọc  được  Kư  Ức  của  Thiên  Nhiên,  ẩn  tàng  trong  chất  Tinh  Quang  hay  Tiên  Thiên  Khí  nơi  đó  chứa  đựng  tất  cả  những  kho  tàng  hiểu  biết  của  con  người.
 
 Hồi  tưởng  lại  những  nhận  xét  của  tôi  trong  hai  chục  năm  qua,  tôi  nghĩ  rằng  tất  cả  những  chuyện  mà  tôi  đă  từng  kể,  hay  sẽ  thuật  lại  trong  quyển  sách  này,  sẽ  thuộc  về  một  trong  những  loại  kể  trên.
 
 Những  kẻ  hoài  nghi  chắc  sẽ  nói  rằng  sự  phân  loại  như  trên  có  vẻ  độc  đoán  và  những  giả  thuyết  của  tôi  là  hăo  huyền.  Họ  sẽ  yêu  cầu  tôi  chứng  minh  sự  thật  về  các  Tinh  Linh  Ngũ  Hành;  về  hiện  tượng  thần  nhăn;  về  sự  chuyển  di  đồ  vật  xuyên  qua  không  gian;  về  sức  mạnh  hấp  dẫn  và  kết  cấu  các  nguyên  tử... 
 
 Tôi  chỉ  có  thể  thuật  lại  những  điều  mà  tôi  và  nhiều  người  khác  đă  nh́n  thấy,  và  thách  đố  kẻ  hoài  nghi  t́m  ra  được  trong  cơi  thiên  nhiên  bất  cứ  một  định  luật  nào  ngoài  ra  những  điều  đă  nêu  trên  để  giải  thích  các  sự  kiện  không  thể  chối  căi.  
 
 C̣n  nếu  người  ta  cho  rằng  đó  là  phép  lạ,  hay  ma  thuật,  th́  chừng  đó  tôi  sẽ  ngậm  miệng,  v́  điều  đó  chận  đứng  mọi  cuộc  tranh  luận.  Tôi  không  tự  hào  có  thể  giải  thích  tất  cả  những  hiện  tượng  thần  thông  của  bà  HPB,  v́  điều  ấy  đ̣i  hỏi  một  tŕnh  độ  hiểu  biết  ít  nhất  là  tương  đương  với  bà  là  điều  mà  tôi  không  bao  giờ  có.
 
 
 
 
 
 
         | 
        
       
        | Quay trở về đầu | 
         
          
         | 
        
       
       
        |   | 
       
        
         
         hiendde Hội Viên 
          
  
  Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
 Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
          | 
        
         
          
           | Msg 1104 of 1146: Đă gửi: 06 March 2011 lúc 4:28pm | Đă lưu IP 
		     | 
                    
            		  
           | 
           
          
           
  | 
           
          
 
 
 HỒI KƯ H.S. OLCOTT
 
 
 
 III. Những  ngày  mà  tôi  trải  qua  ở  Philadelphia  đều  bận  rộn  với  việc  học  Đạo  và  chứng  kiến  những  hiện  tượng  thần  thông  của  bà  HPB.   Ngoài  ra,  tôi  c̣n  có  một  số  bạn  bè  thân  hữu,  và  bà  đă  làm  những  phép  thuật  huyền  linh  này  trước  mặt  mọi  người.  
 
 Trong  số  những  phép  thuật  đó,  tôi  c̣n  nhớ  có  lần  bà  làm  cho  một  bức  ảnh  trên  tường  th́nh  ĺnh  biến  mất  khỏi  cái  khung,  và  thay  vào  đó  là  một  bức  chân  dung  hoạt  họa  của  John  King,  trong  khi  một  người  trong  số  quan  khách  đang  nh́n  vào  bức  ảnh.
 
 Lần  lần,  tôi  được  bà  giảng  giải  cho  nghe  những  lư  thuyết  của  Huyền  Môn  Đông  Phương  về  tinh  thần  và  vật  chất  và  về  những  vong  linh  khuất  mặt  trong  cơi  vô  h́nh.  
 
 Bà  không  bảo  tôi  từ  bỏ  giả  thuyết  Thần  Linh  Học,  mà  chỉ  cho  tôi  thấy  và  nhận  định  rằng  như  một  khoa  học  chân  chính,  khoa  Thần  Linh  Học  thật  sự  chỉ  có  thể  ở  phương  Đông,  và  những  người  tinh  thông  về  khoa  này  chỉ  có  thể  là  những  bậc  đạo  sư  và  đệ  tử  của  các  đạo  phái  Huyền  Môn  Đông  Phương.
              
 Với  tấm  ḷng  thành  thật  khách  quan  đối  với  các  nhà  Thần  Linh  Học,  tôi  phải  nói  rằng  cho  đến  nay,  chưa  có  một  lư  thuyết  khoa  học  nào  được  đưa  ra  về  những  hiện  tượng  đồng  tử  mà  phần  đông  nói  chung  họ  đă  chấp  nhận.  
 
 Và  tôi  cũng  không  thấy  có  một  bằng  chứng  cụ  thể  nào  chỉ  rằng  trong  số  những  tín  hữu  Tây  Phương  của  phong  trào  này,  có  ai  đă  từng  khám  phá  một  phương  pháp  nào  để  có  thể  kêu  gọi  các  vong  linh  xuất  hiện  hoặc  tạo  ra  các  hiện  tượng  tùy  ư  muốn.  
 
 Không  một  người  đồng  tử  nào  mà  tôi  đă  từng  gặp  hoặc  nghe  nói  đến,  đă  có  một  bí  quyết  hay  chân  ngôn  để  thực  hiện  được  những  việc  đó,  vốn  là  những  điều  rất  thông  thường  và  quen  thuộc  từ  nhiều  thế  hệ  ở  các  xứ  phương  đông.
 
 Trong  khi  bà  HPB  làm  cho  tôi  và  các  bạn  hữu  tin  rằng  những  hiện  tượng  xảy  ra  hầu  như  mỗi  ngày  đều  là  do  tác  động  của  vong  linh  John  King,  mạo  nhận  là  vong  hồn  một  hải  tặc  lừng  danh  khi  xưa  tên  là  Sir  H. Morgan,  và  bà  chỉ  trợ  giúp  y  với  tư  cách  là  một  người  trung  gian  hay  phụ  tá,  bà  HPB  đă  làm  nhiều  hiện  tượng  chứng  tỏ  là  bà  có  một  bản  lĩnh  cao  cường  về  ngành  Phương  Thuật (Magic).
 
 Tôi  xin  kể  một  thí  dụ,  đồng  thời  cũng  nói  thêm  rằng  những  phát  minh  khoa  học  lớn  lao  thường  bắt  nguồn  từ  việc  t́nh  cờ  nhận  xét  những  sự  việc  rất  đỗi  thông  thường,  chẳng  hạn  như  một  trái  táo  rụng  xuống  đất giúp  Newton  khám  phá  Luật  Hấp  Dẫn (Gravitation ); và  việc  nh́n  thấy  cái  nắp  thiếc  nhảy  dựng  trên  cái  ấm  nước  đang  sôi
 
 Ngày  nọ,  nhận  thấy  trong  nhà  thiếu  khăn  mặt  để  dùng,  tôi  mua  vài  cái  khăn  lớn  đem  về,  và  cắt  ra  làm  độ  một  chục  chiếc  khăn  nhỏ.   Khi  thấy  bà  HPB  định  lấy  ra  dùng  ngay  mà  không  chịu  viền  các  cạnh  khăn  lại  cẩn  thận,  tôi  mới  phản  đối  lối  sống  thiếu  ngăn  nắp  đó,  và  bà  liền  lấy  kim  chỉ  ra  may.  Bà  chưa  kịp  bắt  đầu  bỗng  nhiên  bà  đá  một  cái  dưới  gậm  bàn  và  nói  với  một  giọng  giận  dữ:
 
 “Đồ  láo,  đi  ra!”
 
 Tôi hỏi:
 
 “Cái  ǵ  vậy?”
 
 Bà đáp:
 
 “Có ǵ  đâu!  Chỉ  có  một  tinh  linh  nó  kéo  vạt  áo  tôi  và  muốn  có  một  việc  ǵ  làm!”
 
 Tôi nói:
 
 “À, hay quá!  Sẵn đây, bà  hăy  đưa  khăn  cho  nó  may.  Bà  cần  ǵ  phải  làm  cho  nhọc,  vả  lại  bà  cũng  chẳng  khéo  tay  ǵ  cho  lắm  về  đường  kim  mũi  chỉ?”
 
 Bà  cười  và  mắng  tôi  chê  bà  may  dở,  nhưng  cũng  chưa  chịu  làm  theo  sự  thỉnh  cầu  của  kẻ  khuất  mặt  ở  dưới  gậm  bàn,  sẵn  sàng  trợ  giúp  một  tay  nếu  có  dịp.  Sau  cùng,  nghe  lời  thuyết  phục  của  tôi,  bà  bảo  tôi  hăy  để  khăn  mặt  và  kim  chỉ  trong  một  cái  tủ  kiếng  có  khóa,  và  che  màn  lụa  xanh  ở  phía  tường  bên  kia.  
 
 Tôi  làm  theo  và  trở  lại  tiếp  tục  ngồi  nói  chuyện  với  bà  về  đề  tài  lư  thú  duy  nhất  và  bất  tận  của  chúng  tôi,  là  vấn  đề  khoa  học  huyền  bí.  Sau  độ  mười  lăm  hay  hai  mươi  phút,  tôi  nghe  một  tiếng  động  nhỏ  giống  như  tiếng  chuột  kêu  ở  dưới  gậm  bàn,  khi  đó  bà  HPB  cho  tôi  biết  rằng  “nó”  đă  viền  xong  mấy  cái  khăn.  
 
 Tôi  bèn lại  mở  tủ  và  thấy  mười  hai  cái  khăn  mặt  đă  viền  xong,  tuy  rằng  hơi  vụng  về,  giống  như  của  trẻ  em  mới  tập  may  trong  các  lớp  may  nhi  đồng.  Thế  là  mấy  cái  khăn  mặt  đă  được  viền  b́a  thật  sự  không  thể  nghi  ngờ,  trong  cái  tủ  đă  khóa  kín  mà  bà  HPB  không  hề  bén  mảng đến  gần  trong  suốt  thời  gian  đó. 
 
 Lúc  ấy,  vào  độ  bốn  giờ  chiều,  giữa  ánh  sáng  ban  ngày.  Chúng  tôi  chỉ  có  hai  người  trong  pḥng,  không  có  người  nào  khác  bước  vào  cho  đến  khi  mọi  việc  đă  xong.
 
 Có  lần  trong  khi  chúng  tôi  đang  ngồi  nói  chuyện  ở  pḥng  khách,  bà  HPB  th́nh  ĺnh  biến  mất.  Tôi  đă  từng  trải  nhiều  kinh  nghiệm  về  các  hiện  tượng  huyền  linh,  nhưng  việc  này  làm  tôi  ngạc  nhiên  và  lo  lắng.  Sau  khi  đi  lục  soát  khắp  trong  nhà  mà  không  thấy  ǵ,  tôi  trở  lại  pḥng  khách  châm  ống  điếu  hút  thuốc,  và  thử  t́m  hiểu  điều  bí  mật  này.  
 
 Hồi  đó  là  năm  1875,  tức  là  nhiều  năm  trước  khi  khoa  thôi  miên  được  thí  nghiệm  và  phổ  biến,  cho  nên  tôi  không  hề  biết  rằng  lúc  ấy  tôi  chỉ  là  một  đối  tượng  thụ  cảm,  và  bà  HPB  chỉ  có  làm  che  lấp  thị  giác  của  tôi  để  tôi  không  nh́n  thấy  bà  trong  khi  bà  vẫn  có  mặt  tại  chỗ.
 
 Một  lúc  sau  bà  xuất  hiện  trở  lại  nơi  pḥng  khách,  tôi  mới  hỏi  năy  giờ  bà  đi  đâu,  thí  bà  cười  và  nói  rằng  v́  bà  có  việc  phải  làm  về  phần  “vô  vi”  nên  bà  đă  tàng  h́nh  trong  chốc  lát.  Nhưng  bà  tàng  h́nh  bằng  cách  nào  th́  bà  không  nói.  
 
 Bà  cũng  làm  phép  thuật  đó  trước  mặt  tôi  và  những  người  khác  nhiều  lần  nữa, trước  và  sau  khi  chúng  tôi  đi  sang  Ấn  Độ,  nhưng  tất  cả  những  lần  đó  đều  xảy  ra  nhiều  năm  trước  khi  tôi  được  biết  ǵ  về  khoa  thôi  miên,  vốn  là  cái  đáp  số  dễ  dàng  của  thuật  tàng  h́nh. 
 
 Như  tôi  đă  có  lần  giải  thích,  thuật  thôi  miên  của  Đông  Phương  c̣n  cao  tay  ấn  hơn  nhiều  so  với  Tây  Phương,  v́  trong  trường  hợp  này,  sự  dẫn  dụ  để  che  lấp  giác  quan  của  người  thụ  cảm  được  thực  hiện  bằng  tư  tưởng  trong  âm  thầm,  chứ  không  phải  truyền  lệnh  bằng  giọng  nói  có  âm  thanh.  Người  thụ  cảm  không  được  cảnh  giác  để  chống  lại  sự  dẫn  dụ,  và  sự  việc  xảy  ra  tự  nhiên  trong  khi  y  không  hay  biết  ǵ  cả.
 
 Bà  HPB  c̣n  biểu  diễn  nhiều  hiện  tượng  thần  thông  lạ  lùng  khác  nữa.  Tôi  chỉ  thuật  lại  vài  sự  việc  đáng  kể,  nó  làm  thỏa  măn  lư  trí  và  óc  phê  b́nh  của  tôi  về  sự  thật  của  khoa  huyền  thuật  Đông  Phương.  Đó  là  thời  kỳ  mà  tôi  được  biết  bà  HPB  như  một  bạn  đồng  môn,  mối  liên  hệ  giữa  bà  với tôi  được  thiết  lập  trên  một  cương  vị  hoàn  toàn  b́nh  đẳng  và  mật  thiết.  
 
 Nhờ  đó,  tôi  mới  có  thể  nhận  xét  bà  như  một  người  thường,  trước  khi  bà  được  các  bạn  Đạo  suy  tôn  gần  như  thần  thánh,  những  người  này  không  được  biết  ǵ  về  những  sở  trường,  sở  đoản  và  tính  chất  rất  cận  nhân  tính  của  bà.
 
 Như  tôi  sẽ  tŕnh  bày  một  cách  trung  thực, cái  h́nh  ảnh  lư  tưởng  đă  phai  mờ  của  tác  giả  các  bộ  sách  “Vén  Màn  Isis” và “Giáo  Lư  Bí  Truyền” sẽ  là  h́nh  ảnh  của  một  người  bằng  xương  bằng  thịt;  một  người  phụ  nữ  thật  sự  tuy  rằng  trội  hẳn  về  phần  nam  tính,  sống  b́nh  thường  như  mọi  người  khi  thức  tỉnh.
 
 Nhưng  lại  đi  vào  một  thế  giới  khác  và  giao  tiếp  với  những  nhân  vật  cao  cả  hơn  trong  giấc  ngủ  hay  trong  khi  xử  dụng  nhăn  quang  siêu  phàm;  một  cá  tính  đặc  biệt  ngự  trong  một  xác  thân  phụ  nữ  yếu  đuối,  “trong  đó… một  cơn  giông  tố  luôn  luôn  gầm  thét  hầu  như  bất  cứ  lúc  nào,”  theo  lời  của  một  vị  Chân  Sư  miêu  tả  t́nh  trạng  tâm  linh  và  khí  chất  của  bà. 
 
 Một  khí  chất  thật  bất  thường,  biến  đổi,  đa  h́nh  đa  dạng,  nóng  nảy,  ồ  ạt  như  giông  băo,  nó  đ̣i  hỏi  ở  kẻ  đối  tượng  một  sự  nhịn  nhục  và  tự  chủ  đến  mức  độ  anh  hùng  nếu  họ  muốn  sống  chung  và  cộng  tác  với  bà  trên  một  tinh  thần  vô  kỷ  vị  tha.
 
 Dù  rằng  thế  nào,  người  ta  không  thể  quên  bản  lĩnh  phương  thuật  cao  cường  và  những  phép  thuật  thần  thông  mà  bà  đă  thực  hiện,  những  bằng  chứng  dồn  dập  mà  bà  đă  cho  thấy  về  sự  hiện  diện  của  các  đấng  Chân  Sư  mà  bà  tuyệt  đối  phục  tùng  đến  mức  bà  cảm  thấy  không  xứng  đáng  để  lau  bụi  trên  bàn  chân  của  các  ngài.
 
 Và  công  tŕnh  phụng  sự  hiến  dâng  khi  mà  người  phụ  nữ  ngáo  ngổ  và  ngang  tàng  ấy  trở  thành  một  bậc  đạo  sư  phổ  biến  đạo  lư  cho  đời  và  một  nhà  tiền  phong  cầm  đuốc  soi  đường  cho  người  tầm  Đạo.  
 
 Tất  cả  những  điều  đó,  và  những  bộ  sách  Đạo  mà  bà  để  lại  cho  hậu  thế,  càng   kết  hợp  để  chứng  minh  tính  chất  vĩ  đại  của  bà  và  làm  cho  tính  khí  ngang  ngạnh  bất  thường  của  bà  được  xóa  nḥa  trong  quên  lăng,  thậm  chí  bởi  những  người  đă  từng  bị  những  điều  ấy  làm  cho  điêu  đứng  khổ  sở  nhiều  nhất  về  phương  diện  tinh  thần.
 
 Bằng  cách  vạch  rơ  con  đường  Đạo  cho  hậu  thế,  bà  đặt  tất  cả  chúng  ta  dưới  một  gánh  nặng  nghĩa  vụ,  đến  mức  người  ta  không  thể  có  cảm  nghĩ  nào  khác  hơn,  là  một  sự  biết  ơn  sâu  xa  đối  với  bà.
 
 
 
 
 
         | 
        
       
        | Quay trở về đầu | 
         
          
         | 
        
       
       
        |   | 
       
        
         
         hiendde Hội Viên 
          
  
  Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
 Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
          | 
        
         
          
           | Msg 1105 of 1146: Đă gửi: 07 March 2011 lúc 11:27am | Đă lưu IP 
		     | 
                    
            		  
           | 
           
          
           
  | 
           
          
 
 HỒI KƯ H.S. OLCOTT 
 
 
 CHƯƠNG  BA
 
 
 THỬ  THÁCH
 
 
 I. Với  ư  định  tường  thuật  theo  thứ  tự  thời  gian  những  sự  việc  hồi  thuở  ban  đầu  Hội  Thông  Thiên  Học  gồm  cả  những  ngày  liên  hệ  ban  sơ  giữa  bà  HPB  với  tôi,  tôi  thấy  cần  nói  qua  vài  hiện  tượng  phóng  bút  của  bà,  mà  tôi  có  ghi  chép  trong  quyển “Người  Về  Từ  Cơi  Âm”.
 
 Như  đă  nói  trước  đây,  những  hiện  tượng  của  bà  HPB  dường  như  do  tác  động  của  một  vong  linh  mệnh  danh  John  King,  vốn  là  linh  hồn  đă  thoát  xác  của  một  tay  hải  tặc  lừng  danh  khi  xưa  tên  Henry  de  Morgan,  đă  từng  được  Anh  Hoàng  Charles  II  tấn  phong  Hiệp  Sĩ,  nhưng  thật  sự  chỉ  là  một  cái  tên  giả  để  tạm  gọi  những  âm  binh  hay  tinh  linh  dưới  quyền  sai  khiến  của  bà  HPB.
 
 Trong  một  buổi  họp  nơi  bà  trú  ngụ  tại  một  khách  sạn  ở  Philadelphia  vào  buổi  tối,  ngày  6  tháng  1  năm  1875,  nhân  dịp  J. K.  đang làm  các  hiện  tượng  lạ,  tôi  nói:
 
 “Nếu  quả  thật  anh  là  một  vong  linh  tốt  lành  như  anh  tự  nhận,  anh  hăy  thi  thố  một  vài  quyền  năng  của  anh  cho  tôi  xem.  Chẳng  hạn,  anh  hăy  làm  ra  một  bổn  sao  của  một  bức  thơ  mà  tôi  đang  cất  trong  “bóp“  và  đựng  trong  túi  áo  của  tôi.”
 
 Không  ai  để  ư  ǵ  đến  lời  yêu  cầu  của  tôi  chiều  hôm  ấy,  nhưng  qua  đến  tối  hôm  thứ  ba,  sau  đêm  hôm  đó  hai  ngày,  trong  khi  bà  HPB  và  tôi  đang  ngồi  ở  cạnh  bàn  làm  việc,  những  tiếng  gơ  nhịp  rất  lớn  vang  lên.  Theo  tiếng  nhịp,  tôi  liền  viết  ra  những  nguyên  âm  chữ  cái  và  đọc:
 
 “Ông  vui  ḷng  đưa  cho  tôi  cuốn  tự  điển  xuống  dưới  gầm  bàn.”
              
 Trên  bàn  lúc  ấy  có  quyển  tự  điển  Nga- Anh  của  bà  HPB,  tôi  bèn  cầm  lấy  và  ĐƯA  XUỐNG  gầm  bàn  theo  lời  yêu  cầu. Tôi  chỉ  đưa,  chứ  không  phải  BỎ  RƠI  xuống  đất,  dường  như  đưa  cho  một  người  khuất  mặt  nào  đó  ở  dưới  gầm  bàn  cầm  lấy  quyển  tự  điển  dầy  cộm. 
 
 Kế  đó,  những  tiếng  nhịp  gơ  yêu  cầu  tôi  đưa  xuống  một  lọ  keo  (hồ) để  dán,  và  một  con  dao  nhỏ  chuốt  viết  ch́.  Những  vật  liệu  này  cũng  được  đưa  xuống  gầm  bàn,  và  sau  một  cơn  im  lặng  kéo  dài  độ  một  lúc,  tiếng  nhịp  gơ  báo  hiệu  “Đă  xong!”. 
 
 Chúng  tôi  thâu  hồi  cuốn  tự  điển,  con  dao  và  lọ  keo,  và  nhận  thấy  trên  một  trang  giấy  rời  trong  quyển  tự  điển,  là  một  phó  bổn  phóng  bút  của  bức  thơ  nói  trên.  Bà  HPB  giải  thích  tác  dụng  của  con  dao  như  sau:
              
 “Một  phần  rất  nhỏ  chất  kim  khí  của  lưỡi  dao  được  giải  thể  thành  chất  hơi  và  dùng  để  phóng  ra  những  hàng  chữ  màu  đen.  Keo  hồ  cũng  được  chuyển  thành  trạng  thái  chất  hơi,  và  có  tác  dụng  hàn  gắn  các  nguyên  tử  chất  kim  khí  trong  cuộc  thí  nghiệm.”
 
 Cái  “bóp  phơi” đựng  bức  thơ  vẫn  ở  trong  túi  áo  của  tôi  từ  khi  tôi  đến  thành  phố  này  cho  đến  cái  đêm  làm  cuộc  biểu  diễn.  Độ  nửa  giờ  trước  đó,  tôi  đă  đặt  nó  lên  cái  kệ  phía  trên  ḷ  sưởi,  ở  ngay  trước  tầm  mắt  của  tôi mỗi  khi  tôi  ngẩng  mặt  nh́n  lên  từ  quyển  sách  tôi  đang  đọc. 
 
 Bà  HPB  vẫn  ngồi  gần  bên  tôi  ở  cạnh  bàn  và  đang  chăm  chú  viết,  ngoài  ra  chúng  tôi  không  có  một  người  nào  trong  gian  pḥng.  Khi  tôi  so  sánh  bức  thơ  và  phó  bổn,  bằng  cách  kê  cả  hai  tờ  giấy  lên  nhau,  th́  tuy  rằng  hai  bức  đều  giống  nhau,  nhưng  không  phải  rập  theo  nhau  từng  chi  tiết,  điều  này  lại  càng  làm  cho  hiện  tượng  phóng  bút  thêm  phần  thú  vị.
 
 
 
 
 
         | 
        
       
        | Quay trở về đầu | 
         
          
         | 
        
       
       
        |   | 
       
        
         
         hiendde Hội Viên 
          
  
  Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
 Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
          | 
        
         
          
           | Msg 1106 of 1146: Đă gửi: 07 March 2011 lúc 11:39am | Đă lưu IP 
		     | 
                    
            		  
           | 
           
          
           
  | 
           
          
 
 
 
 HỒI KƯ H.S. OLCOTT 
 
 
 
 II. Trong  thời  gian  ở  Philadelphia,  bà  rất  bận  rộn  công  việc  viết  bài  vở  cho  các  báo  chí,  trước  hết  nói  về  Thần  Linh  Học,  và  sau  đó,  về  khoa  Huyền  Môn  của  Đông  Phương.  
 
 Việc  phát  hành  quyển  sách  của  tôi  cũng  đă  đưa  đến  những  kết  quả  quan  trọng,  là  gây  nên  những  cuộc  b́nh  luận  kéo  dài  trong  báo  giới  Anh-Mỹ,  trong  đó  bà  HPB  và  tôi  đều  có  đóng  góp  bài  vở  và  thiết  lập  những  mối  t́nh  thân  hữu  thêm  bền  chặt  với  nhiều  bạn  Đạo:  trong  sự  giao  dịch  bằng  thơ  từ,  chúng  tôi  đă  giải  bày  với  họ  toàn  bộ  các  vấn  đề  Huyền  Học  Đông  Phương  và  Tây  Phương.
 
 Không  bao  lâu,  chúng  tôi  đă  nhận  được  rất  nhiều  thơ  tín  từ  khắp  nơi  trên  thế  giới,  trong  số  đó  có  những  người  t́m  hiểu  nhờ  giải  đáp  thắc  mắc; cũng  có  những  kẻ  đối  nghịch  gởi  thơ  chống  bang,  đả  kích; và  những  cảm  t́nh  viên  gửi  lời  khen  tặng  và  khích  lệ.  
 
 Ông  Alexandre Aksakof,  trong  Hội  đồng  Tư  Vấn  của  Nga  Hoàng  và  là  một  nhà  Thần  Linh  Học  rất  hăng  say,  đă  yêu  cầu  bà  HPB  dịch  quyển  sách  của  tôi  ra  tiếng  Nga,  và  chịu  đài  thọ  mọi  phí  tổn  ấn  loát  và  phát  hành.  
 
 Bà  nhận  lời  và  sau  đó  ít  lâu,  đă  xuất  hiện  tại  St. Petersburg  một  cuốn  văn  thư  khen  tặng  với  lời  lẽ  rất  khả  ái  của  giáo  sư  N.A. Wagner,  một  chuyên  gia  Khoa  Học  thượng  thặng  của  trường  Đại  Học  Hoàng  Gia,  trong  đó  ông  tuyên  bố  rằng  trong  công  việc  điều  tra  sưu  tầm  của  tôi  về  các  hiện  tượng  Thần  Linh,  tôi  đă  thực  hiện “ĐÚNG  THEO  NHỮNG  ĐIỀU  KIỆN  CẦN  THIẾT  CỦA  MỘT  CUỘC  KHẢO  SÁT  KHOA  HỌC  NGHIÊM  CHỈNH  VÀ  THẬN  TRỌNG”. 
 
 Đó  là  một  chứng  thư  mà  đương  nhiên  tôi  cảm  thấy  rất  lấy  làm  hănh  diện.  Các  nhà  bác  học  William  Crookes,  Alfred  Wallace  của  Anh,  và  Camille  Flammarion  của  Pháp,  cũng  đă  bày  tỏ  những  cảm  t́nh  ưu  ái  rất  nồng  hậu  và  thân  hữu.
 
 Vài  tháng  sau  đó, ông  C. C.Massey, một  người  Anh  từ  Luân  Đôn  sang  Mỹ  để  kiểm  chứng, bằng  cách  đích  thân  quan  sát  tại  chỗ, những lời  tường  thuật  của  tôi  về  các  hiện  tượng  hồn  ma  hiện  h́nh  ở  nông  trại  Eddy. 
 
 Chúng  tôi  vẫn  thường  xuyên  tiếp  xúc  với  nhau, và  đă  thông  cảm  nhau  đến  mức  nảy  sinh  một  t́nh  thân  hữu  đậm  đà giữa  chúng tôi, một  t́nh  bạn  thâm  giao  vẫn  kéo  dài  cho  đến  ngày  nay.
 
 Ngoài  ra, tôi  cũng  có  giao  dịch  bằng  thơ  từ  và  kết  thân  với  một  người bạn  khác, là  ông  Stainton Moses, Tiến  Sĩ  Văn  Khoa  tốt  nghiệp  Đại  Học  Oxford, làm  giáo  sư  Văn  Chương  và  Anh  Ngữ  tại  trường  đại  học  Luân  Đôn. 
 
 Tôi  có  gửi  cho  y  một  quyển  sách của  tôi  và  chúng  tôi  đă  trao  đổi  thơ  từ qua  lại  hầu  như  hàng  tuần  trong  nhiều  năm  liên  tiếp. Bức  thư  đầu  tiên  của  y  thảo  luận  về  những  điều  kiện  và  kết  quả  của  những hiện  tượng đồng  tử trong  những  buổi  họp  đàn. Y lưu ư tôi  đến  sự  kiện  này  là:
 
 “Sự  có  mặt  của  vài  hạng  người  trong  những  buổi  họp  đàn  gây  chướng  ngại  trầm  trọng  và  có  khi  làm  tê  liệt  các  hiện  tượng.  Nguyên  nhân  không  phải  lỗi  tại  họ  hay  là  do  một  thái  độ  tinh  thần  ǵ  đó, chẳng  hạn  như  thiếu  đức  tin... mà  là  do  bầu  không  khí  chung  quanh  họ  gây  nên.  Người  đồng  tử  càng  nhạy  cảm  bao  nhiêu, th́  điều  đó càng  rỏ  rệt  bấy  nhiêu.”
 
 Ông Stainton Moses  viết  tiếp: “Sự  có  mặt  của  nhiều  người  bạn  tôi  làm  cho  mọi  hiện  tượng  của  tôi  đều  ngưng  trệ,  điều  đó  làm  tôi  rất  bực  ḿnh  mà  tôi  không  làm  sao  sửa  đổi  được.”
 
 Bàn  về  hiện  tượng  giải  thể (biến  mất  xác) của  người  đồng  tử, như  trường  hợp  của  bà  Compton,  được  diễn  tả  trong  cuộc  sống  của  tôi, y  cho  rằng  đó  là  hiện  tượng  lạ  kỳ  nhất, mà  y  không  thể  giải  thích,  nhưng  y  tin  rằng  điều  đó  không  lạ  ǵ  đối  với  các  nhà  Thuật  Sĩ  phương  Đông. 
 
 Những  ǵ  tôi  đă  tŕnh  bày  trong  một  Chương  trước  đây  về  quyền  năng  che  lấp  thị  giác  của  người  khác  bằng  thuật  thôi  miên  làm  tê  liệt  các  dây  thần  kinh  trong  cặp  mắt  họ,  giải  đáp  được  điều  bí  hiểm  này  và  loại  trừ  nhiều  sự  mê  tín  dị  đoan  khác,  kể  cả  việc  cho  đó  là  ma  thuật.
 
 Thật  không  uổng  công  lao  mà  viết  quyển  sách  đó,  nhờ  nó  mà  tôi  có  hai  người  bạn  tâm  giao  trọn  đời  như  Stainton moses  và  Massey,  nhưng  lại  c̣n  hơn  thế  nữa,  nó  đă  thay  đổi  cuộc  đời  tôi  và  đánh  dấu  một  giai  đoạn  lịch  sử.  
 
 Trong  thời  gian  ông  Massey  lưu  trú  tại  Mỹ  Quốc,  chúng  tôi  đă  cùng  nhau  viếng  thăm  nhiều  nhà  đồng  tử,  và  ông  là  một  trong  những  người  đầu  tiên  đă  theo  bà  HPB  và  tôi  để  thành  lập  Hội  Thông  Thiên  Học  Thế  Giới  vào  khoảng  cuối  năm  ấy 1875.
 
 
 
 
 
         | 
        
       
        | Quay trở về đầu | 
         
          
         | 
        
       
       
        |   | 
       
        
         
         hiendde Hội Viên 
          
  
  Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
 Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
          | 
        
         
          
           | Msg 1107 of 1146: Đă gửi: 07 March 2011 lúc 11:45am | Đă lưu IP 
		     | 
                    
            		  
           | 
           
          
           
  | 
           
          
 
 
 HỒI KƯ H.S. OLCOTT 
 
 
 
 III. Trước  đây  tôi  có  nói  về  Sigor B. , một  nghệ  sĩ  người  Ư  có  phép  thuật  thần  thông,  đă  có  lần  đến  viếng  bà  HPB  tại  New  York.  Một  buổi  tối  mùa  thu,  năm  1875,  ngay  sau  khi  thành  lập  Hội  Thông  Thiên  Học  tôi  đă  chứng  kiến  hiện  tượng  lạ  lùng  của  y  làm  mưa  bằng  cách  sai  khiến  những  tinh  linh  trong  không  gian.
 
 Đó  là  một  đêm  trăng  tṛn,  bầu  trời  xanh  biếc  không  có  một  cụm  mây  che.  Y  gọi  bà  HPB  và  tôi  ra  ngoài  bao  lơn  và  dặn  tôi  hăy  b́nh  tĩnh  và  hoàn  toàn  im  lặng,  dù  việc  ǵ  xảy  ra.  
 
 Kế  đó,  y  lấy  trong  túi  áo  và  đưa  về  phía  mặt  trăng  một  tờ  giấy  cứng  độ  bằng  khuôn  khổ  tập  vở  học  tṛ,  trên  một  mặt  giấy  có  vẽ  bằng  màu  nước  một  số  h́nh  vuông  vức  trong  mỗi  ô  vuông  có  một  con  số  dị  kỳ,  nhưng  y  không  cho  tôi  cầm  lấy  hoặc  xem  xét. Tôi  đứng  gần  bên  ở  sau  lưng  y,  và  có  thể  cảm  thấy  thân  ḿnh  y  cứng  đơ  dường  như  trong  một  cơn  tập  trung  ư  chí  mănh  liệt.
 
 Độ  một  lát,  y  chỉ  vào  mặt  trăng  và  chúng  tôi  thấy  những  luồng  mây  đen  từ  vành  trăng  tuôn  ra  và  bay  về  phía  chân  trời.  Tôi  bất  giác  thốt  lên  một  tiếng  kêu  ngạc  nhiên,  nhưng  nhà  phù  thủy  nắm  chặt  tay  tôi  với  một  bàn  tay  cứng  như  sắt  và  ra  hiệu  cho  tôi  hăy  im  lặng.  
 
 Luồng  mây  đen  bay  ra  mỗi  lúc  càng  mau,  và  kéo  ra  càng  dài.  Nó  lan  dần  thành  h́nh  rẽ  quạt,  và  trong  chốc  lát,  những  đám  mây  đen  khác  xuất  hiện  trên  nền  trời  rải  rác  mỗi  chỗ  một  ít,  rồi  hợp  thành  khối  và  di  chuyển  rất  mau.  
 
 Nền  trời  đă  trở  nên  u  ám  v́  mây  đen  bao  phủ,  mặt  trăng  biến  mất  dạng,  và  một  cơn  mưa  rơi  xuống  khiến  chúng  tôi  phải  lui  vào  nhà. Không  có  sấm  sét,  cũng  không  có  gió,  mà  chỉ  có  một cơn  mưa  rào  được  tạo  nên  trong  ṿng  một  khắc  đồng  hồ  bởi  con  người  kỳ  bí  ấy.
 
 Khi  chúng  tôi  đến  gần  ánh  sáng  của  ngọn  đèn,  tôi  nhận  thấy  gương  mặt  nhà  phù  thủy  biểu  lộ  những  nét  rắn  rỏi  cương  nghị  như  sắt  thép  và  hai  hàm  răng  nghiến  chặt,  giống  như  sắc  thái  mà  người  ta  nh́n  thấy  trên  gương  mặt  của  những  binh  sĩ  tác  chiến  ngoài  mặt  trận.  
 
 Quả  thật  vậy,  y  vừa  mới  chiến  đấu  và  chinh  phục  những  đạo  binh  tinh  linh  ngũ  hành,  một  kỳ  công  nó  đ̣i  hỏi  sự  tận  dụng  tất  cả  mọi  nghị  lực  trong  con  người. Signor B.  không  ở  lại  với  chúng  tôi  lâu,  mà  hối  hả  cáo  từ  ra  về,  và  v́  đêm  đă  khuya,  nên  tôi  cũng  lui  về  pḥng  riêng  vài  phút  sau  đó.  
 
 Nền  đá  trên  đường  lộ  đă  trơn  ướt  v́  mưa,  không  khí  lạnh  và  ẩm.  Tôi  vừa  vào  pḥng  ngồi  hút  thuốc  th́  nghe  tiếng  chuông  reo,  và  khi  ra  mở  cửa  trước,  tôi  thấy  Signor B.  đứng  trên  ngưỡng  cửa,  gương  mặt  tái  xanh  và  một  phần  đă  kiệt  sức. Y  xin  lỗi  v́  đă  làm  phiền  rộn  tôi  và  xin  một  ly  nước  uống.  
 
 Tôi  mời  y  bước  vào  nhà,  sau  khi  y  đă  uống  nước  và  ngồi  nghỉ  một  lát ,  chúng  tôi  mới  nói  chuyện  về  những  vấn  đề  huyền  học  và  câu  chuyện  kéo  dài  trong  một  lúc  khá  lâu.  Tôi  nhận  thấy  y  sẵn  sàng  thảo  luận  về  các  vấn  đề  văn  chương,  nghệ  thuật  hay  khoa  học,  nhưng  lại  vô  cùng  dè  dặt  khi  nói  về  khoa  Huyền  Môn  và  kinh  nghiệm  cá  nhân  của  y  trong  việc  phát  triển  tâm  linh.  
 
 Tuy  nhiên,  y  giải  thích  rằng  tất  cả  những  giống  tinh  linh  ngũ  hành  đều  có  thể  chịu  sự  kiểm  chế  của  con  người  khi  y  đă  phát  triển  được  những  tiềm  năng  thiên  phú  của  ḿnh.  Chừng  đó,  ư  chí  của  y  sẽ  trở  nên  một  sức  mạnh  vô  địch  làm  cho  tất  cả  những  giống  sinh  vật  thấp  kém  hơn  gồm  cả  các  loại  tinh  linh  ngũ  hành,  đều  phải  chịu  khuất  phục. 
 
 Tôi  không  có  thật  sự  nh́n  thấy  luồng  khói  đen  từ  trong  vành  trăng  bay  ra,  đó  chỉ  là  một  ảo  giác  được  tạo  ra  bởi  sự  tập  trung  tư  tưởng  của  y  trên  mặt  trăng,  nhưng  tôi  quả  thật  có  nh́n  thấy  những  đám  mây  đen  xuất  hiện  trên  nền  trời  trong  sáng  và  nh́n  thấy  mưa  rơi. 
 
 Y  lưu  ư  tôi  đến  sự  kiện  ấy  để  tôi  suy  gẫm.  Nhưng  bây  giờ  y  lại  đưa  cho  tôi  một  lời  khuyên  nó  làm  cho  tôi  rất  ngạc  nhiên. Tôi  đă  thấy  y  rất  thuận  thảo  với  bà  HPB,  họ  đă  từng  nói  chuyện  rất  cởi  mở  và  rất  thân  hữu  với  nhau  về  các  vấn  đề  thế  sự  cũng  như  về  khoa  học  huyền  môn,  và  cùng  so  tài  trong  việc  làm  các  hiện  tượng  như  hiện  tượng  hai  con  bướm  trắng.  
 
 Bởi  vậy,  tôi  vô  cùng  ngạc  nhiên  khi  thấy  y  làm  ra  vẻ  bí  mật  và  cảnh  giác  tôi  hăy  nên  đoạn  tuyệt  mọi  sự  giao  du  thân  mật  với  bà.  Y  nói  bà  là  một  phụ  nữ  độc  ác  rất  nguy  hiểm,  và  sẽ  đem  tai  họa  đến  cho  tôi  nếu  tôi  cứ  tiếp  tục  mối  liên  hệ  giữa  tôi  với  bá.  
 
 Y  nói  y  đến  cảnh  giác  tôi  điều  ấy  là  do  lệnh  của  một  vị  Chân  Sư,  mà  tôi  đă  từng  nghe  y  nhắc  đến  thánh  danh  trong  những  câu  chuyện  với  bà  HPB  và  tôi.  Tôi  nh́n  thẳng  vào  mặt  y  để  thử  ḍ  xem  có  một  ư  nghĩa  ẩn  dấu  ǵ  chăng  trong  những  lời  nói  vô  lư  đó,  và  sau  cùng  tôi  nói:
          
 “Thưa  ông,  tôi  biết  rằng  đấng  Cao  Cả  mà  ông  vừa  nhắc  đến  quả  có  thật.  Sau  khi  đă  nh́n  thấy  ông  trổ  phép  thuật  thần  thông  vừa  rồi,  tôi  có  đủ  mọi  lư  do  để  ngờ  rằng  chắc  ông  có  liên  hệ  với  Ngài  hay  với  Quần  Tiên  Hội.  Tôi  sẵn  sàng  tuân  lịnh  ngài  cho  dù  phải  hy  sinh  tính  mạng  tôi.  
 
 Bây  giờ  tôi  yêu  cầu  ông  hăy  đưa  ra  một  bằng  chứng  cụ  thể  để  chứng  minh  một  cách  rơ  ràng,  tích  cực  và  không  thể  nghi  ngờ,  rằng  bà  HPB  là  người  yêu  phụ  mà  ông  diễn  tả,  và  Chân  Sư  muốn  tôi  phải  chấm  dứt  mọi  sự  liên  hệ  với  bà.”
             
 Người  phù  thủy  Ư  do  dự,  nói  lắp  bắp  vài  lời  vô  nghĩa,  và  đổi  đề  tài  nói  qua  chuyện  khác.  Tuy  y  có  thể  kéo  mây  đen  ra  khỏi  mặt  trăng,  y  vẫn  không  thể  gieo  sự  ngờ  vực  hắc  ám  vào  ḷng  tôi  đối với  người  bạn  Đạo  và  người  hướng  dẫn  tôi  đi  xuyên  qua  những  ngơ  ngách  bí  hiểm  của  khoa  Huyền  Môn.  
 
 Sau đó, tôi có kể lại sự vệc này cho bà HPB nghe! Bà mỉm cười nói  rằng  tôi  đă  vượt  qua  cuộc  thử  thách  sơ  đẳng  đó  một  cách  tốt  đẹp,  và  viết  vài  chữ  cho  Signor B.  khuyên  ông  ta  hăy  “quên  đường  đưa  đến  nhà  bà”.
 
 
 
 
         | 
        
       
        | Quay trở về đầu | 
         
          
         | 
        
       
       
        |   | 
       
        
         
         hiendde Hội Viên 
          
  
  Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
 Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
          | 
        
         
          
           | Msg 1108 of 1146: Đă gửi: 07 March 2011 lúc 11:52am | Đă lưu IP 
		     | 
                    
            		  
           | 
           
          
           
  | 
           
          
 
 HỒI KƯ H.S. OLCOTT
 
 
 CHƯƠNG BỐN
 
 
 NHÀY VÀO V̉NG CHIẾN
 
 
 I. Những  cuộc  tranh  luận  và  bút  chiến  mà  các  bài  phóng  sự  và  quyển  sách  của  tôi  đă  gây  ra  trong  các  giới,  trong  đó  bà  PHB  và  tôi  đều  có  dự  phần ; sự  tố  giác  và  bênh  vực  các  đồng  tử  Holmes; và  những  cuộc  b́nh  luận  sôi  nổi  kéo  dài  về  khoa  Thần  Linh  Học  trong  báo  giới  Âu-Mỹ,  đă  đưa  đến  vài  hậu  quả  thuận  lợi,  trong  đó  có  hai  điều  quan  trọng  là:
 
 1. Việc  tŕnh  bày  những  quan  niệm  Huyền  Môn  của  Đông  Phương,  làm  cho  thế  giới  Tây  Phương  phải  chú  ư;  và
 
 2. Việc  khai  sinh  ra  hội  Thông  Thiên  Học  thế  giới.  Sự  thành  lập  Hội  Thông  Thiên  Học  không  phải  là  do  phép  mầu  của  các  Chân  Sư  theo  những  chuyện  bịa  đặt  láo  lếu,  mà  chỉ  là  do  hậu  quả  tự  nhiên  của  những  giai  đoạn  diễn  biến  tuần  tự.
 
 Như  độc  giả  sẽ  thấy  trong  những  thơ  từ  mà  chúng  tôi  viết  cho  các  báo  trong  những  thuở  ban  đầu,  và  trích  lục  vài  đoạn  dưới  đây.  Những  chi  tiết  có  vẻ  khô  khan,  nhưng  có  tầm  mức  quan  trọng  như  những  tài  liệu  lịch  sử.
 
 Như  đă  nói  trước  đây,  sự  công  kích  có  tính  cách  tự  quảng  cáo  của  bác  sĩ  Beard,  một  vị  lương  y  chuyên  khoa  chữa  trị  bằng  điện  ở  New  York,  nhằm  vào  các  đồng  tử  Eddy,  và  sự  tuyên  bố  láo  rằng  ông  ta  có  thể  tạo  ra  những  hiện  tượng  đó  “với  những  đồ  y  trang  rẻ  tiền  chỉ  tốn  chừng  ba  đô  la”.
 
 Đă  làm  cho  bà  HPB  phẫn  nộ  đến  mức  bà  đă “lột  da  sống”  ông  ta  trong  một  bức  thơ  trả  lời  nẩy  lửa  đăng  trên  nhật  báo  Graphic,  và  thách  đố  ông  ta  dám  đánh  cuộc  năm  ngàn  đô  la  ăn  thua  với  bà  về  sự  việc  trên.
 
 Chính  việc  ấy  đă  làm  cho  quần  chúng  Mỹ  lần  đầu  tiên  biết  đến  tên  tuổi  bà.  Lẽ  tự  nhiên,  có  sự  kết  bè  thành  hai  nhóm  đối  lập: nhóm  Thần  Linh  Học  và  các  đồng  tử  theo  về  phe  bà  HPB , c̣n  những  kẻ  chống  đối,  nhất  là  các  nhà  bác  học  có  khuynh  hướng  duy  vật,  th́  đứng  về  phía  những  người  ủng  hộ  bác  sĩ  Beard.  
 
 Kẻ  thủ  lợi  trong  việc  tranh  chấp  này  lại  chính  là  ông  Beard,  v́  đó  là  một  mánh  khóe  có  tác  dụng  quảng  cáo  cho  tên  tuổi  ông  và  khoa  điện  y  của  ông  với  kết  quả  quá  mức  dự  liệu.  Các  nhật  báo  Mỹ  đều  b́nh  luận  về  bức  thơ  khiêu  khích  nẩy  lửa  của  bà  HPB  chống  bác  sĩ  Beard.  Bà  cũng  đă  trả  lời  các  báo,  do  đó  tên  tuổi  của  bà  càng  ngày  càng  vang  dội  khắp  nơi  khi  cuộc  tranh  luận  càng  kéo  dài.
 
 Như  đă  nói  trước  đây,  bà  đứng  trên  lập  trường  của  một  nhà  Thần  Linh  Học,  không  những  tin  tưởng  mà  c̣n  BIẾT  RƠ  rằng  những  trí  lực  “nhiếp”  vào  các  đồng  tử  để  giáng  ngôn  giáng  bút,  làm  các  hiện  tượng  hữu  h́nh.
 
 Và  hiện  h́nh  toàn  diện  hoặc  cục  bộ,  chẳng  hạn  như  chỉ  hiện  có  những  gương  mặt,  bàn  tay  hoặc  bàn  chân,  hay  những  phần  khác  trong  thân  ḿnh,  tất  cả  đều  là  do  tác  động  của  những  vong  hồn  người  chết,  không  hơn  không  kém.
 
 Về  sau,  bà  HPB  cho  tôi  biết  rằng  sự  bộc  phát  của  những  hiện  tượng  thông  linh  ở  khắp  nơi,  chính  là  do  Quần  Tiên  Hội  phát  động  như  một  khí  cụ  để  trợ  giúp  cơ  Tiến  Hóa.  
 
 Như  vậy,  những  hoạt  động  cơ  bút,  đồng  tử,  không  thể  bị  coi  như  tuyệt  đối  bất  hảo  như  vài  nhà  cực  đoan  Thông  Thiên  Học  đă  tuyên  bố,  v́  theo  chỗ  tôi  biết  về  các  đấng  Chân  Sư,  th́  người  ta  không  thể  quan  niệm  rằng  các  ngài  lại  dùng  một  phương  tiện  hoàn  toàn  bất  hảo,  dẫu  rằng  v́  sự  lợi  ích  của  nhân  loại.
 
 Trong  số  báo  của  tờ  Daily  Graphic  mà  bà  HPB  đă  gởi  đăng  bức  thơ  chống  bác  sĩ  Beard,  cũng  có  đăng  tiểu  sử  của  bà  do  bà  cung  ứng  tài  liệu  theo  lời  yêu  cầu  của  ṭa  soạn.  Bà viết:
 
 “Năm  1858,  tôi  trở  về  Paris  và  có  dịp  làm  quen  với  nhà  Thần  Linh  Học  Daniel  Home… Ông  này  đă  cải  hóa  tôi  theo  Thần  linh  Học… Sau  đó,  tôi  trở  về  Nga  và  cải  hóa  cha  tôi  theo  thần  Linh  Học”
 
 Trong  một  bài  báo  bênh  vực  các  nhà  đồng  tử  Holmes  chống  những  kẻ  đả  kích,  bà  nói  về  Thần  Linh  Học  như “tín  ngưỡng  của  chúng  tôi”,  “lư  tưởng  của  chúng  tôi” và  ở  một chỗ  khác,  bà  viết:
 
 “Nếu bọn  Thần  Linh  Học  chúng  tôi  bị  người  ta  chê  cười,  nhạo  bang, chế  diễu, châm  chọc,  chúng  tôi  phải  biết  ít  nhất  lư do  tại  sao?”
 
 Trong  tờ  báo  Spiritual  Scientist  (Khoa  Học  Tâm  Linh) ra  ngày  8-3-1875,  bà  nói  có  vài  khuynh  hướng  chỉ  rằng  mặc  dầu  tính  cách  chân  thực  thiêng  liêng  của  khoa  Thần  Linh  Học  chúng  ta,  và  giáo  lư  của  những  vị  bảo  trợ  vô  h́nh  của  chúng  ta (những  vong  linh  khuất  mặt  của  những  họp  đàn),  vài  nhà  Thần  Linh  Học  đă  không  biết  thừa  cơ  hội  đó  để  học  bài  học vô  tư  và  công  bằng.
 
 Đó  là  một  việc  làm  rất  can  đảm,  đầy  hào  khí,  hoàn  toàn  biểu  lộ  cái  đặc  tính  của  bà  khi  bà  nhảy  vào  ṿng  chiến  v́  bất  cứ  mọi  lư  tưởng  nào  mà  bà  đảm  nhận  như  cái  chính  nghĩa  của  ḿnh.  Như  đă  nói  trược  đây,  chính  v́  ḷng  yêu  tự  do  và  chính  nghĩa  mà  bà  đă  cùng  với  một  nhóm  phụ  nữ  chiến  đấu  trong  hàng  ngũ  của  nhà  ái  quốc  Garibaldi  và  mạo  hiểm  lao  ḿnh  vào  trận  đánh  ác  liệt  ở  Mentana. 
 
 Bây  giờ,  khi  thấy  cần  phải  binh  vực  cái  lư  tưởng  Tâm  Linh  để  chiến  đấu  chống  lại  Khoa  Học  Duy  Vật,  th́  bà  chấp  nhận  cả  sự  ô  nhiễm  khi  phải  tiếp  xúc  với  bọn  đồng  tử  giả  mạo,  với  những  loại  âm  binh  bất  hảo,  hay  với  phe  vô  luân  trong  giới  Thần  Linh  Học  chủ  trương  tự  do  luyến  ái  và  thoát  ly  gia  đ́nh.  
 
 Không  một  điều  bất  lợi  nào  trong  những  sự  việc  kể  trên  làm  cho  bà  do  dự  dù  chỉ  trong  một  lúc,  khi  bà  thấy  cần  đứng  vào  hàng  ngũ  của  phái  thần  Linh  Học  chống  lại  Duy  Vật  chủ  nghĩa.
 
 Đường  lối  của  bà  có  thể  bị  vài  người  lên  án,  ngôn  ngữ  của  bà  có  thể  bị  coi  như  hoàn  toàn  đồng  ư  và  chấp  nhận  cái  Thần  Linh  Học  mà  về  sau  bà  đă  lên  tiếng  công  kích  thậm  tệ  không  tiếc  lời.  Nhưng  nếu  lấy  công  tâm  mà  xét  đoán,  người  ta  phải  nhận  định  rơ  cái  t́nh  trạng  xă  hội  của  thời  bấy  giờ.
 
 Người  ta  phải  nhận  định  rơ  cái  kiến  thức  sâu  rộng  của  bà,  trên  lư  thuyết  lẫn  cả  thực  hành,  về  những  hiện  tượng  huyền  linh  mà  người  đời  cần  phải  biết  trước  khi  bị  lôi  cuốn  theo  cái  trào  lưu  độc  hại  của  chủ  nghĩa  Duy  Vật.  Nhiều  người  trong  chúng  ta  có  lẽ  đă  dùng  một  ngôn  ngữ  dè  dặt  cẩn  thận  hơn  để  tránh  khỏi  bị  kẹt  vào  bao  nhiêu  sự  mâu  thuẫn  và  rối  rắm  về  sau  này.  
 
 Nhưng  trường  hợp  của  bà  hoàn  toàn  khác  hẳn,  bà  là  một  nhân  vật  độc  đáo  trên  tất  cả  mọi  phương  diện,  về  trí  lực  và  quyền  năng  thần  bí,  cũng  như  về  khí  chất  và  về  phương  pháp  tranh  luận.  Một  mục  đích  của  tập  Hồi  Kư  này  là  để  chỉ  rằng,  với  tất  cả  những  sự  thiếu  sót  rất  cận  nhân  tính  và  tật  chứng  ngáo  ngổ  mà  người  ta  có  thể  gán  cho  bà.
 
 Bà  vẫn  là  một  nhân  vật  đặc  biệt,  phi  phàm,  một  người  dành  trọn  cuộc  đời  làm  một  công  việc  vĩ  đại  phụng  sự  thế  gian,  nhưng  lại  bị  người  đời  phê  phán  một  cách  mù  quáng  và  vô  ơn  bạc  nghĩa.
 
 
 
 
 
         | 
        
       
        | Quay trở về đầu | 
         
          
         | 
        
       
       
        |   | 
       
        
         
         hiendde Hội Viên 
          
  
  Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
 Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
          | 
        
         
          
           | Msg 1109 of 1146: Đă gửi: 07 March 2011 lúc 12:02pm | Đă lưu IP 
		     | 
                    
            		  
           | 
           
          
           
  | 
           
          
 
 
 HỒI KƯ H.S. OLCOTT 
 
 
 
 II. Trong  những  cuộc  thí  nghiệm  riêng  tư  giữa  chúng  tôi  về  những  hiện  tượng  thần  linh,  bà  HPB  đă  chỉ  dẫn  cho  tôi  biết  về  sự  hiện  hữu  của  giới  TINH  LINH  NGŨ  HÀNH.  Nhờ  đó,  tôi  mới  biết  phân  biệt  hai  loại  sinh  vật  khác  nhau  trong  việc  tạo  nên  các  hiện  tượng, là  những  tinh  linh  ngũ  hành  và  những  vong hồn  người  chết.
 
 Vào  khoảng  cuối  năm  1874-75,  nhờ  một  dịp  may  hiếm  có  được  đọc  qua  những  quyển  sách  quư  về  Khoa  Học  Huyền  Môn  tại  thư  viện  Watkinson,  nên  tôi  được  chuẩn  bị  khá  nhiều  về  phần  kiến  thức  để  có  thể  hiểu  những  lời  giải  thích  khẩu  truyền  của  bà  và  những  hiện  tượng  thông  linh  kỳ  diệu  do  bà  tạo  ra  để  chứng  minh  cho  những  lời  giải  thích  đó.  
 
 Thời  kỳ  học  hỏi  của  tôi  lúc  ấy  qua  sách  vở,  lời  dẫn  giải  khẩu  truyền  và  sự  quan  sát  các  hiện  tượng,  cũng  đủ  chuẩn  bị  cho  tôi  có  được  một  bản  lĩnh  khá  vững  vàng  về  Khoa  Học  Huyền  Môn  cho  đến  khi  bà  bắt  đầu  công  việc  soạn  bộ  sách “Vén  màn  Isis” và  mời tôi  cùng  cộng  tác.
 
 Khoảng  đầu  năm  1875,  chúng  tôi  bắt  đầu  lưu  ư  đến  tờ  “Khoa  Học  Tâm  Linh”  một  tờ  tạp  chí  tiến  bộ  và  độc  lập  tại  Boston  do  ông  Gerry  Brown  làm  chủ  bút  và  chủ  nhiệm.
 
 Nhu  cầu  cấp  bách  của  thời  bấy  giờ  là  một  tờ  báo  vừa  được  coi  như  một  cơ  quan  ngôn  luận  của  Thần  Linh  Học,  lại  vừa  có  thể  khuyến  khích  các  nhà  Thần  Linh  Học  hăy  quan  sát  chặt  chẽ  hơn  tác  phong  hạnh  kiểm  và  khả  năng  thông  linh  của  những  đồng  tử  của  họ,  và  hăy  kiên  nhẫn  lắng  nghe  những  lư  thuyết  về  các  vong  linh  ở  cơi  âm  cùng  sự  giao  tiếp  của  họ  với  người  sống.  
 
 Những  tạp  chí  khác  cũ  kỹ  hơn  thuộc  loại  này  lại  quá  bảo  thủ,  c̣n  tờ  báo  của  ông  Brown  dường  như  đang  tiến  bước  bằng  cách  mạnh  dạn  chỉ  trích  những  sự  lạm  dụng  đương  thời.  Một  bức  thơ  của  chúng  tôi  gởi  cho  ông  Brown  dăng  trên  tạp  chí  ấy  ngày  8-3-1875  khởi  đầu  những  mối  liên  hệ  giữa  chúng  tôi,  và  trong  ṿng  một  tháng  sau,  y  đă  được  đặt  dưới  sự  chăm  sóc  biệt  đăi  của  những  thế  lực  hỗ  trợ  sau  lưng  bà  HPB.
             
 Trong  số  tạp  chí  tháng  tư  năm  ấy,  tôi  có  đăng  một  bản  thông  tư  đặc  biệt  với  tựa  đề: “THÔNG  TƯ  QUAN  TRỌNG  CHO  CÁC  NHÀ  THẦN  LINH  HỌC”.  Điều  quan  trọng  của  nó  đối  với ông  Gerry  Brown  là  lời  hứa  trợ  giúp  bài  vở  và  tài  chánh  cho  y,  c̣n  đối  với  công  chúng  hâm  mộ  phong  trào  Thần  Linh  Học,  th́  nó  cho  biết  rằng  tờ  tạp  chí  ấy  sẽ  được  sử  dụng  như  cơ  quan  của  một  phong  trào  mới.
 
 Nhằm  mục  đích  đặt  khoa  Thần  linh  Học  ở  Mỹ  trên  một  nền  tảng  triết  học  và  trí  thức  hơn  trước,  thay  v́  chỉ  chú  trọng  đến  những  thông  điệp  cơ  bút  và  những  hiện  tượng  tầm  thường,  không  đủ  thỏa  măn  những  đầu  óc  khoa  học.
 
 Chính  tôi  tự  thảo  ra  tờ  thông  tư  đó,  tự  sửa  chữa  lấy  bản  kẽm  in  và  tự  đài  thọ  phí  tổn  ấn  loát.  Nói  thế  có  nghĩa  là  ngoài  tôi  ra,  không  một  ai  nhúng  tay  vào  công  việc  này,  hoặc  thêm  bớt  một  chử  nào  trong  bản  thảo,  hoặc  điều  khiển  hành  động  của  tôi  bằng  bất  cứ  cách  nào.  
 
 Tôi  viết  bản  Thông  Tư  ấy  để  thi  hành  ư  định  của  Chân  Sư,  ngài  dạy  chúng  tôi  hăy  trợ  giúp  vị  chủ  nhiệm  tờ  tạp  chí  ấy  trong  giai  đoạn  khó  khăn  hiện  tại  bằng  đủ  mọi  cách  về  phương  tiện  tài  chánh  cũng  như  đóng  góp  bài  vở.
 
 Khi  bản  Thông  Tư  đă  soạn  thảo  xong  và  đem  lên  máy  in,  tôi  hỏi  bà  HPB  trong  một  bức  thơ  rằng  theo  ư  bà  th́  tôi  có  nên  kư  tên  vào  bản  thông  tư  ấy  không.  Bà  tră  lời  rằng  theo  ư  muốn  của  các  Chân  Sư,  th́  nó  phải  được  kư  tên  như  sau: “Thay  mặt  HỘI  ĐỒNG  TIÊN  THÁNH,  PHÂN  BỘ  LUXOR (AI  CẬP)”. Tôi  làm  y  theo  lời,  và  bản  Thông  Tư  được  công  bố.
 
 Sau  đó,  bà  giải  thích  rằng  công  việc  làm  của  chúng  tôi  được  giám  sát  bởi  một  Ủy  Ban  gồm  Bảy  vị  Chân  Sư  thuộc  phân  chi  Ai  Cập  của  Quần  Tiên  Hội.  V́  bà  chưa  đọc  qua  bản  Thông  Tư  lần  nào,  lúc  ấy  tôi  mới  cầm  đưa  cho  bà  một  bản  và  bà  bắt  đầu  đọc  một  cách  chăm  chú.  
 
 Đọc  xong,  bà  bất  giác  cười  lớn,  và  bảo  tôi  nh́n  xem  những  chữ  cái  khoản  thủ  ở  đầu  câu  của  mỗi  doạn  văn  trong  đó.  Tôi  lấy  làm  ngạc  nhiên  vô  cùng  mà  nhận  thấy  rằng  những  chữ  cái  đó  nếu  đem  ráp  lại  th́  hợp  thành  thánh  danh  của  vị  Chân  Sư  Ai  Cập,  sư  phụ  của  tôi  lúc  ấy.  
 
 Sau  đó  ít  lâu,  tôi  nhận  được  một  chứng  thư  viết  bằng  mực  vàng  trên  một  tờ  giấy  xanh,  dầy,  cho  biết  rằng  tôi  được  chính  thức  liên  hệ  đến  cơ  quan  này,  và  đặt  dưới  sự  giám  sát  của  ba  vị  Chân  Sư.
 
 Trong  những  kinh  nghiệm  huyền  linh  của  tôi  hồi  thuở  ban  đầu,  không  có  ǵ  gây  một  ấn  tượng  sâu  xa  vào  trí  óc  tôi  hơn  là  những  sự  việc  trên.  Điều  ấy  chứng  minh  cho  tôi  thấy  rằng  sự  chuyển  di  tư  tưởng  giữa  Chân  Sư  và  đệ  tử  vẫn  là  một  việc  xảy  ra  thường  xuyên,  mà  không  gian  không  hề  làm  ngăn  cách,  chướng  ngại.  
 
 Nó  cũng  chứng  tỏ  rằng  trong  công  việc  phụng  sự  thế  gian,  người  đệ  tử  thường  được  các  đấng  Cao  Cả  d́u  dắt,  hướng  dẫn  để  làm  những  công  tác  mà  các  ngài  muốn  được  thực  hiện  trong  khi  đó  người  đệ  tử  vẫn  không  hề  hay  biết  chi  cả.
 
 Trong  toàn  bộ  lịch  sử  hội  Thông  Thiên  Học  thế  giới,  ai  đă  biết  được  có  bao  nhiêu  trường  hợp  mà  mỗi  người  trong  chúng  ta  vô  t́nh  đă  làm  những  ǵ  cần  phải  làm,  nhưng  những  việc  đó  có  lẽ  đă  không  được  thi  hành  nếu  không  có  một  ảnh  hưởng  nào  từ  bên  ngoài  đến  thúc  đẩy  chúng  ta?. 
 
 Và  có  bao  nhiêu  lỗi  lầm  tai  hại  mà  mỗi  người  trong  chúng  ta  đă  làm,  bởi  v́  chúng  ta  được  tự  do  hành  động  theo  những  dục  vọng  cá  nhân,  kết  quả  của  sự  vô  minh,  hèn  kém,  hay  thành  kiến  chật  hẹp  riêng  tư  của  chính  ḿnh? 
 
  Người  ta  thường  tự  hỏi  tại  sao  những  vụ  tranh  chấp,  xung  đột,  những  cơn  biến  động  gây  ra  bao  nhiêu  tai  tiếng,  xúc  phạm  đến  thanh  danh  của  Hội,  lại  không  được  các  Chân  Sư  tiên  liệu  trước  và  ngăn  chận  đừng  để  cho  chúng  xảy  ra?  
 
 Tại  sao  bà  HPB  không  được  cho  hay  trước  về  những  hành  động  của  những  kẻ  phản  bội,  và  trong  những  cơn  khủng  hoảng  nghiêm  trọng  nhất  của  hội  Thông  Thiên  Học,  không  hề  thấy  có  sự  trợ  giúp  nào,  và  không  có  một  vị  hướng  dẫn  tâm  linh  nào  xuất  hiện?
 
 Lẽ  tất  nhiên,  những  câu  hỏi  đó  thật  rất  vô  lư.  Các  Chân  Sư  vốn  đă  nắm  vững  định  luật  Nhân  Quả,  không  thể  xử  dụng  chúng  ta  như  những  h́nh  nộm  để  cho  các  ngài  giật  dây,  hoặc  như  những  con  thú  nhà  đă  được  tập  luyện  cho  biết  làm  theo  ư  chủ.  
 
 Các  ngài  không  thể  xử  dụng  chúng  ta  một  cách  máy  móc  theo  những  đường  lối  đă  định  sẵn,  can  thiệp  vào  nghiệp  quả  của  mỗi  người,  và  xâm  phạm  đến  quyền  tự  do  hành  động  của  chúng  ta.
 
 Vào  một  thời  kỳ  nhất  định,  trong  cơ  tiến  hóa  của  nhân  loại,  có  lẽ  cần  có  một  người  nào  đó  phải  làm,  viết,  hoặc  nói  một  điều  ǵ  đó,  mà  những  điều  này,  khi  đă  thực  hiện  xong  sẽ  đưa  đến  cả  một  loạt  những  hậu  quả  mong  muốn.  Nếu  điều  đó  không  tạo  nên  nghiệp  quả  bất  lợi  cho  đương  sự,  th́  sự  thúc  đẩy  vô  vi  để  làm  công  việc  cần  thiết  đó  sẽ  được  đưa  đến  cho  y.
 
 Thí  dụ, vận  mạng  của  thế  giới  nằm  trong  tay của  vài  ba  nhà  lănh  tụ  hay  nguyên  thủ  quốc  gia  của  một  vài  nước  siêu  cường.  Nếu  một  biến  cố  nhỏ  nhặt  nào  đó  xảy  ra  một  quốc  gia  có  thể  bị  tiêu  diệt,  hoặc  một  triều  đại  trở  thành  một  tai  họa  cho  cả  một  dân  tộc,  hoặc một  thời  kỳ  ḥa  b́nh  và  tiến  bộ  cho  nhân  loại  có  thể  mở  màn.
 
 Nếu  trong  giai  đoạn  lịch  sử  đó, một  trong  những  điều  kể  trên  cần  phải xảy  ra  v́  sự  lợi  ích  chung  của  toàn  thể  nhân loại, và  nếu  KHÔNG  CÓ  MỘT  CÁCH  NÀO  KHÁC  để  gây  nên  cơn  khủng  hoảng  cần  thiết,  th́  chừng  đó  sự  gợi  ư  cho  một  vị  lănh  tụ  ra  tay  hành  động  có  thể  đến  từ  bên  ngoài.
 
 Đây  là  một  trường  hợp  đơn  giản  hơn,  đă  xảy  ra  trong  lịch  sử.  Trong  khoa  cổ  học  Ai  Cập,  người  ta  đă  đạt  tới  một  tŕnh  độ  mà  sự  tiến  bộ  của  thế  giới  đ̣i  hỏi  một  cái  ch́a  khóa  tinh  vi  hơn  để  đọc  những  cổ  tự  bí  mật  trong  các  Kim  Tự  Tháp.  
 
 Thời  giờ  đă  điểm  để  tiết  lộ  thêm  những  chân  lư  thâm  sâu  và  vô  cùng  quan  trọng  hàm  xúc  trong  khoa  cổ  tự  của  nền  văn  minh  cổ  Ai  Cập.  V́  không  có  cách  nào  khác,  một  người  nông  dân  Ả  Rập  được  gợi  ư  để  cho  y  đào  xới  một  khoảnh  đất  nào  đó,  hoặc  khai  quật  một  ngôi  mả  đá  và  cậy  bật  lên  một  cái  nắp  ḥm  đựng  xác  ướp.  
 
 Người  ta  t́m  thấy  một  bia  đá  hoặc  một  mớ  lá  chỉ-thảo  có  khắc  cổ  tự,  y  bèn  đem  bán  cho  một  nhà  khảo  cổ,  rồi  người  này  truyền  đến  tay  các  nhà  Ai  Cập  học  uyên  bác  như  Champollion,  Young  hay  Ebers.  Các  ông  này  mới  t́m  thấy  cái  ch́a  khóa  đă  mất,  và  nhờ  đó  mới  đọc  được  nhiều  bản  văn  cổ  xưa  vô  cùng  quan  trọng.  
 
 Sự  gợi  ư  vô  vi  cho  người  nông  dân  thất  học  đào  xới  lên  những  tài  liệu  cổ  đă  bị  chôn  lấp  từ  lâu,  là  do  bàn  tay  trợ  giúp  của  các  đấng  vô  h́nh,  tuy  ẩn  tàng  nhưng  luôn  luôn  d́u  dắt  sự  tiến  bộ  của  nhân  loại.
 
 Xin  kể  một  trường  hợp  cá  nhân  gần  gũi  với  chúng  ta  hơn:  một  ngày  nọ  tôi  được  gợi  ư  đi  mua  một  tờ  báo;  trong  đó  tôi  đọc  thấy  một  chuyện  ǵ  đó,  nó  thúc  đẩy  tôi  có  một  hành  động  tự  nhiên;  việc  ấy  làm  cho  tôi  tiếp  xúc  với  bà  HPB,  và  bởi  đó  mới  có  hội  Thông  Thiên  Học  ra  đời,  và  những  hậu  quả  do  Hội  này  đem  đến.  
 
 Khi  làm  cái  bước  đầu  tiên,  tôi  không  có  công  đức  ǵ  cả.  Nhưng  nếu  việc  ấy  gây  nên  những  hậu  quả  tốt  lành,  nếu  tôi  đóng  góp  công  lao  sức  lực  để  làm  việc  với  một  tinh  thần  hiến  dâng  nhiệt  thành  và  vị  tha,  th́  chừng  đó  tôi  cũng  được  chia  xẻ  những  nghiệp  tốt  mà  việc  ấy  đem  đến  cho  nhân  loại.
 
 Có  lần  tôi  thấy  những  người  dân  Tích  Lan  ở  tỉnh  Galle  tranh  nhau  đưa  tay  ra  sờ  vào  những  rổ  thúng  đựng  đồ  vật  thực  của  những  nhà  giàu  đem  đi  cúng  dường  cho  các  sư  tăng.  
 
 Hỏi  ra  mới  biết  là  họ  tin  tưởng  rằng  do  ḷng  ưu  ái  chân  thành  đối  với  hành  động  bố  thí  của  kẻ  khác,  họ  cũng  được  chia  xẻ  một  phần  công  đức  của  các  thí  chủ.  Tôi  nghiệm  thấy  điều  ấy  rất  đúng,  và  có  ghi  nhận  cái  ư  tưởng  đó  trong  quyển “PHẬT  GIÁO  VẤN  ĐÁP” của  tôi  soạn.
 
 
 
 
 
 
         | 
        
       
        | Quay trở về đầu | 
         
          
         | 
        
       
       
        |   | 
       
        
         
         hiendde Hội Viên 
          
  
  Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
 Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
          | 
        
         
          
           | Msg 1110 of 1146: Đă gửi: 14 March 2011 lúc 4:59pm | Đă lưu IP 
		     | 
                    
            		  
           | 
           
          
           
  | 
           
          
 
 
 HỒI KƯ H.S. OLCOTT 
 
 
 
 CHƯƠNG NĂM
 
 
 SỰ LỢI HẠI  CỦA  VẤN  ĐỀ  ĐỒNG  CỐT
 
 
 I. Mọi  người  đều  đồng  ư  rằng  những  người  đồng  cốt  chuyên  nghiệp, mà  vấn  đề  cơm  áo  hàng  ngày  tùy  thuộc  nơi  khả  năng  của  họ,  để  tạo  nên  các  hiện  tượng  thông  linh  khi  có  thân  chủ  đến  viếng,  trong  ngững  cơn  nguy  cấp,  túng  thiếu,  thường  bị  bắt  buộc  làm  những  hiện  tượng  giả  trá  để  thay  thế  vào  khi  mà  những  hiện  tượng  thật  không  thể  xuất  hiện. 
 
 Hầu  hết  các  giới  đồng  cốt  hành  nghề  đều  nghèo,  thường  là  những  người  phế  tật,  nhưng  bắt  buộc  phải  nuôi  con  hay  bảo  dưỡng  những  ông  chồng  lười  biếng  hay  bệnh  hoạn.  Vấn  đề  sinh  kế  của  họ  thật  vô  cùng  bấp  bênh,  bởi  v́  trạng  thái  đồng  cốt  tùy  thuộc  những  điều  kiện  tâm  sinh  lư  cũng  như  những  điều  kiện  thời  tiết  ngoài  khả  năng  kiểm  soát  của  họ.  
 
 Bởi  vậy,  nên  không  phải  là  một  chuyện  là  nếu  trong  những  cơn  túng  quẩn,  dưới  sự  thúc  đẩy  của  những  nhu  cầu  cấp  bách,  họ  không  c̣n  đặt  nặng  vấn  đề  lương  tâm.  Lẽ  tự  nhiên,  họ  đễ  bị  lung  lạc  trước  sự  cám  dỗ  mà  những  thân  chủ  mê  tín  bày  ra  trước  mắt  họ,  những  người  này  không  đ̣i  hỏi  ǵ  hơn  là  trả  tiền  để  mà  bị  gạt.  
 
 Dù  sao,  đó  là  những  điều  mà  các  đồng  tử chuyên  nghiệp  giải  thích  cho  tôi  nghe. Họ  đă  kể  lại  cho  tôi  nghe  cuộc  đời  khốn  khổ  của  họ,  việc  họ “có đồng” đă  tác  hại  thế  nào  trong  thời  thơ  ấu,  làm  cho  họ  bị  lẩn  tránh  và  ngược  đăi  bởi  những  bạn  học  cùng  lớp,  bị  theo  dơi  và  chọc ghẹo  bởi  những  kẻ  ṭ  ṃ, bị  dùng  làm  một  hiện  tượng  lạ  mắt  bởi  những “gánh  xiếc” lưu  động trả  tiền  cho  cha  mẹ  họ  thụ  hưởng,  và  mang  lấy  những  chứng  bệnh  hoạn  thần  kinh,  bệnh  lao  phổi,  hay  tràng  nhạc,  làm  tàn  phá  sức  khỏe  của  họ.
 
 Bà  Hardinge  Britten,  một  nhà  chuyên  môn  khảo  cứu  về  vấn  đề  thông  linh  và  có  nhiều  kinh  nghiệm  về  các  giới  đồng  cốt, có  nói  rằng  bà ít  khi  thấy  một  đồng  tử  nào  mà  không  có  một  khí  chất  bệnh  hoạn,  thường  là  có  bệnh  tràng  nhạc, hay  bệnh  lao.  Trong quyển “Art  Magic”, bà  viết:
 
 “MỘT  SỰ  VIỆC  CÓ  Ư  NGHĨA  ĐỂ  LƯU  Ư  CÁC  NHÀ  SINH  LƯ  VÀ  TÂM  LƯ  HỌC,  LÀ  DƯỜNG  NHƯ  NHỮNG  NGƯỜI  MẮC  BỆNH TRÀNG  NHẠC VÀ  BỆNH  SƯNG  HẠCH  TUYẾN,  THƯỜNG  LÀ  NHỮNG  MÔI  TRƯỜNG  THUẬN  LỢI  ĐỂ  CHO  CÁC  VONG  LINH  TÁC  ĐỘNG  TRÊN  ĐỊA  HẠT  VẬT  CHẤT  HỮU  H̀NH. 
 
 NHỮNG  PHỤ  NỮ  H̀NH  VÓC  MẢNH  MAI,  YẾU  ĐUỐI,  VÀ  NHỮNG  NGƯỜI  CÓ  TÍNH  CHẤT  KHIẾT  BẠCH,  NGÂY  THƠ,  VÔ  TỘI,  NHƯNG  HỆ  THỐNG  HẠCH  TUYẾN  CỦA  HỌ  ĐĂ  BỊ  GẬM  NHẤM  BỞI  CHỨNG  BỆNH  TRÀNG  NHẠC,  THƯỜNG  DỄ  TRỞ  NÊN  NHỮNG  KHÍ  CỤ  HỮU  HIỆU  CHO  SỰ  TÁC  ĐỘNG  CỦA  CÁC  VONG  LINH  TRÊN  CƠI  VẬT  CHẤT  HỒNG  TRẦN”.
 
 Những  hoạt  động  đồng  cốt  thực  hành  ở  những  nơi  công  cộng,  là  một  hiểm  họa  trầm  trọng  trên  phương  diện  sức  khỏe  thể  chất  cũng  như  trên  phương  diện  tinh  thần.  Tất  cả  mọi  y  sĩ  đều  nói  rằng  ngủ  trong  một  gian  pḥng  không  có  thoáng  khí,  chung  lộn  với  một  số  đông  người  hỗn  tạp,  trong  số  đó  có  người  bệnh  tật  là  một  điều  vô  cùng  nguy  hiểm  và  có  thể  là  một  tai  họa  làm  chết  người.  
 
 Nhưng  nguy  cơ  này  c̣n  không  thấm  vào  đâu  so  với  cái  hiểm  họa  ŕnh  rập  một  bên  người  đồng  cốt  hành  nghề  công  cộng,  phải  chấp  nhận  sự  có  mặt  và  chịu  sự  xâm  nhập  từ  điển  của  tất  cả  mọi  người  đủ  các  giới  và  đủ  mọi  thành  phần.  
 
 Trong  số  đó,  đương  nhiên  có  người  tốt  kẻ  xấu  lẫn  lộn,  gồm  cả  những  người  bệnh  tật  về  thể  xác  cũng  như  về  tinh  thần,  những  kẻ  thô  bạo,  dâm  ác,  vật  chất,  ô  trược,  vô  đạo,  vô  tín  ngưỡng,  sa  đọa,  tội  lỗi  trong  tư  tưởng,  lời  nói,  hay  việc  làm  và  trái  ngược  lại.  
 
 Thật  hạnh  phúc  thay  cho  những  người  nào  có  thể  phát  triển  và  thực  hành  những  khả  năng  thông  linh  của  ḿnh,  trong  những  hoàn  cảnh  tịnh  khiết  và  lành  mạnh. Giữa  một  tập  đoàn  chọn  lọc  gồm  những  người  ưu  tú,  tốt  lành: đó  là  trường  hợp  của  những  nhà  nữ  đồng  tử  và  linh  thị  thời  cổ  xưa, được  giữ  ǵn,  bảo  dưỡng  và  chăm  sóc  cẩn  thận  trong  các  đền  thờ…
 
 
 
 
 
         | 
        
       
        | Quay trở về đầu | 
         
          
         | 
        
       
       
        |   | 
       
        
         
         hiendde Hội Viên 
          
  
  Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
 Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
          | 
        
         
          
           | Msg 1111 of 1146: Đă gửi: 14 March 2011 lúc 5:07pm | Đă lưu IP 
		     | 
                    
            		  
           | 
           
          
           
  | 
           
          
 
 
 
 HỒI KƯ H.S. OLCOTT 
 
 
 
 
 II. Mùa  hè  năm  1875, một  phụ  nữ  tên  Youngs  hành  nghề  đồng  tử  để  sinh  sống  tại  Nữu  Ước. Hiện  tượng  chính  của  bà  này  là  sai  khiến  âm  binh,  nâng  cao  lên  một  cây  đàn  dương  cầm  lớn  hạng  nặng,  và  làm  cho  nó  nghiêng  qua  nghiêng  lại  hai  đầu  để  làm  nhịp, trong  khi  bà  ấy  đánh  đàn.
 
 Tôi  nghe  nói  vậy, bèn  mời  bà  HPB  cùng  đi  với  tôi  đến  nơi  để  xem  hiện  tượng  lạ  ấy.  Tôi  đem  theo  ba  vật  đựng  trong  túi  để  thử  khả  năng  đồng  tử  của  bà  kia,  là  một  quả  trứng  gà  c̣n  sống,  và  hai  hột  hồ  đào.  
 
 Tôi  không  cần  phải  sử  dụng  trí  nhớ,  v́  tôi  c̣n  cất  giữ  bài  tường  thuật  chính  xác  về  sự  việc  này  đăng  trên  báo  NEW  YORK  SUN  ra  ngày  4 tháng 9 năm  1875. Hôm  ấy  có  tất  cả  mười  lăm  người  đến  dự  buổi  họp  đàn.  Phóng viên nhật  báo  ấy  viết  như  sau:
 
 “CUỘC  BIỂU  DIỄN  BẮT  ĐẦU  BẰNG  VIỆC  DỞ  HỔNG  CÂY  ĐÀN  DƯƠNG  CẦM (PIANO) BỞI  NHỮNG  SỨC  MẠNH  VÔ  H̀NH, TRONG  KHI  BÀ  ĐỒNG  TỬ  YOUNGS  ĐẶT  NHẸ  HAI  BÀN  TAY  LÊN  MẶT  ĐÀN.  CÁC  VONG  LINH  KHUẤT  MẶT  SẼ  GƠ  NHỊP  BA  CÁI  HOẶC  MỘT  CÁI  TRÊN  CÂY  ĐÀN  ĐỂ  TỎ  Ư  THUẬN  HAY  KHÔNG  THUẬN  LÀM  CUỘC  BIỂU  DIỄN.  
 
 KHI  ĐĂ  SẴN  SÀNG  BÀ  NGỒI  XUỐNG  GHẾ  VÀ  BẮT  ĐẦU  CHƠI  VÀI  BẢN  NHẠC, TRONG  KHI  ĐÓ  CÂY  ĐÀN  TỰ  ĐỘNG  LÊN  CAO  XUỐNG  THẤP  THEO  NHỊP  ĐÀN.  KẾ  ĐÓ,  BÀ  ĐỨNG  QUA  MỘT  BÊN  VÀ  GỌI  ĐẠI  TÁ  OLCOTT  VÀ  NHỮNG  NGƯỜI  CÓ  MẶT  MUỐN  LÀM  CUỘC  THÍ  NGHIỆM,  MỖI  NGƯỜI  HĂY  ĐẶT  BÀN  TAY  TRÁI  CỦA  M̀NH  PHÍA  MẶT  DƯỚI  CÂY  ĐÀN,  C̉N  BÀ  CŨNG  ĐẶT  NHẸ  MỘT  BÀN  TAY  Y  NHƯ  VẬY.  XONG  RỒI,  THEO  LỜI  YÊU  CẦU  CỦA  BÀ  ĐỒNG  TỬ,  MỘT  ĐẦU  CỦA  CÂY  ĐÀN  DƯƠNG  CẦM  RẤT  NẶNG  ĐƯỢC  DỞ  HỔNG  LÊN  KHỎI  SÀN  GẠCH  MÀ  KHÔNG  CÓ  SỰ  DÙNG  SỨC  CỐ  GẮNG  CỦA  MỘT  NGƯỜI  NÀO.  
 
 ĐẾN  ĐÂY,  ĐẠI  TÁ  OLCOTT  YÊU  CẦU  BÀ  ĐỒNG  TỬ  CHO  ÔNG  LÀM  MỘT  THÍ  NGHIỆM  KHÁC.  BÀ  NÀY  VUI  L̉NG,  ĐẠI  TÁ  LIỀN  ĐƯA  RA  MỘT  QUẢ  TRỨNG  GÀ  ĐỰNG  SẴN  TRONG  MỘT  CÁI  HỘP,  VÀ  YÊU  CẦU  BÀ  ĐẶT  QUẢ  TRỨNG  GIỮA  BÀN  TAY  BÀ  VÀ  MẶT  DƯỚI  CỦA  CÂY  ĐÀN,  RỒI  YÊU  CẦU  CÁC  VONG  LINH  NÂNG  CÂY  ĐÀN  LÊN.  BÀ  ĐỒNG  TỬ  NÓI  RẰNG  TRONG  THỜI  GIAN  HÀNH  NGHỀ  ĐỒNG  TỬ , BÀ  CHƯA  TỪNG  LÀM  CUỘC  THÍ  NGHIỆM  NHƯ  VẬY  BAO  GIỜ,  VÀ  BÀ  KHÔNG  CHẮC  SẼ  THÀNH  CÔNG,  NHƯNG  BÀ  CŨNG  BẰNG  L̉NG  LÀM  THỬ.  
 
 BÀ  CẦM  LẤY  QUẢ  TRỨNG  ÁP  VÀO  MẶT  DƯỚI  CÂY  ĐÀN  THEO  LỜI  DẶN,  VỚI  BÀN  TAY  KIA  BÀ  VỖ  VÀO  THÙNG  CÂY  ĐÀN  VÀ  YÊU  CẦU  CÁC  VONG  LINH  HĂY  THỬ  RA  SỨC.  NGAY  TỨC  KHẮC,  CÂY  ĐÀN  LẠI  NÂNG  CAO  LÊN  NHƯ  TRƯỚC  VÀ  TREO  LƠ  LỬNG  MỘT  LÚC  TRÊN  KHÔNG  TRUNG. CUỘC  THÍ  NGHIỆM  ĐỘC  ĐÁO  VÀ  MỚI  LẠ  NÀY  ĐĂ  THÀNH  CÔNG  TRỌN  VẸN.
 
 Kế  đó,  bà  Youngs  yêu  cầu  những  vị  nào  mập  mạp  nặng  cân  nhất  trong  cử  tọa  hăy  ngồi  lên  mặt  đàn  dương  cầm,  và  sau  khi  có  bảy  người  thân  h́nh  đồ  sộ  vừa  nam  vừa  nữ  đă  ngồi  lên,  bà  đánh  một  bản  nhạc  hành  khúc,  và  tất  cả  nội  vụ,  cả  người  lẫn  dương  cầm,  đều  được  dở  hổng  lên  một  cách  dễ  dàng.  
 
 Đến  đây,  Đại  Tá  Olcott  mới  đưa  ra  hai  hột  hồ  đào (walnut) và  yêu  cầu  các  vong  linh  khuất  mặt  hăy  làm  bể  những  cái  vỏ  cứng  bên  ngoài  dưới  chân  cây  đàn  mà  không  làm  giập  cái  nhân  ở  bên  trong,  mục  đích  là  để  chứng  minh  rằng  có  sự  tác  động  của  một  sức  mạnh  khác  hơn  là  của  bà  đồng  tử  và  cái  sức  mạnh  ấy  có  sự  điều  khiển  của  một  trí  lực  thông  minh.  
 
 Những  vong  linh  tỏ  ư  bằng  ḷng,  nhưng  v́  những  cây  chân  đàn  dương  cầm  đều  đặt  trên  các  bánh  xe  lăn,  nên  đành  phải  bỏ  cuộc  thí  nghiệm  v́  không  thể  thực  hiện  được.  Kế  đó,  Đại  Tá  Olcott  yêu  cầu  bà  nọ  để  cho  ông  cầm  quả  trứng  và  đặt  ở  mặt  dưới  cây  đàn,  c̣n  bà  đặt  bàn  tay  dưới  bàn  tay  của  ông,  để  chứng  minh  một  cách  tuyệt  đối  sự  kiện  rằng  không  có  một  sự  dùng  sức  cố  gắng  nào  của  bà  đồng  tử.  
 
 Cuộc  thí  nghiệm  này  cũng  được  chấp  thuận  và  thi  hành  ngay  tức  khắc.  Cây đàn cũng  được  nâng  nhẹ  lên  như  trước.  Sau  cùng,  buổi  họp  đàn  chiều  hôm  ấy  kết  thúc  bằng  việc  NÂNG  NHẸ  CÂY  ĐÀN  LÊN  KHÔNG  TRUNG  MÀ  KHÔNG  CÓ  VIỆC  ĐỤNG  CHẠM  HAY  ĐẶT  NHẸ  BÀN  TAY  CỦA  BÀ  ĐỒNG  TỬ. 
 
 Đó  hẳn  là  sự  biển  lộ  rất  độc  đáo  của  một  sức  mạnh  vô  h́nh.  Không  những  một  cây  đàn  dương  cầm  hạng  lớn  và  rất  nặng  mà  sức  một  người  không  thể  dở  nổi  một  đầu,  lại  được  nâng  nhẹ  lên  dễ  dàng  mà  không  có  sự  dùng  sức  cố  gắng  của  người  đồng  tử  hay  của  một  người  nào  có  mặt  tại  chỗ,  trong  một  gian  pḥng  thắp  đèn  sang,  mà  c̣n  có  sự  tác  động  của  một  trí  lực  thông  minh,  hiểu  biết  và  làm  đúng  theo  mọi  lời  yêu  cầu.
 
 Việc  này  hẳn  là  không  có  bao  nhiêu  giá  trị  tâm  linh,  nhưng  nó  hàm  xúc  một  ư  nghĩa  làm  đảo  lộn  những  lư  thuyết  của  Khoa  Vật  Lư  Học  hiện  đại.
 
 
 
 
 
 
         | 
        
       
        | Quay trở về đầu | 
         
          
         | 
        
       
       
        |   | 
       
        
         
         hiendde Hội Viên 
          
  
  Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
 Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
          | 
        
         
          
           | Msg 1112 of 1146: Đă gửi: 14 March 2011 lúc 5:13pm | Đă lưu IP 
		     | 
                    
            		  
           | 
           
          
           
  | 
           
          
 
 
 
 HỒI KƯ H.S. OLCOTT 
 
 
 
 
 III. Một  hiện  tượng  đồng  tử  khác  có  tính  chất  thi  vị  hơn  và  hứng  thú  hơn  nữa  là  của  bà  Mary  Baker  Thayer, ở  Boston,  mà  tôi  đă  dành  trọn  hết  năm  tuần  để  theo  dơi,  cũng  trong  mùa  hè  năm  ấy. 
 
 Bà  này  có  khả  năng  đặc  biệt  là  làm  cho  các  thứ  cỏ  cây  hoa  lá  rơi  rụng  như  mưa  chung  quanh  bà  trong  khi  họp  đàn,  những  cành  lá  và  bông  hoa  này  đều  c̣n  tươi  tốt  dường  như  mới  vừa  ngắt  bẻ  từ  các  cây  lớn,  có  khi  là  những  loại  cây  cỏ  lạ  từ  phương  xa  đem  về  trồng  ở  xứ  này.
 
 Trong  các  buổi  họp  đàn,  khi  các  quan  khách  đă  tụ  họp  đông  đủ,  một  vị  khách  khả  kính  được  mọi  người  đồng  ư  yêu  cầu  đứng  ra  xem  xét  các  pḥng  và  bàn  ghế  trong  nhà,  khép  kín  các  cửa  sổ,  khóa  chặt  cửa  cái  và  cất  giữ  ch́a  khóa.  
 
 Người  đồng  tử  cũng  chịu  để  cho  tôi  khám  xét  kỹ  lưỡng  để  biết  chắc  là  bà  không  có  dấu  bông  hoa  hay  những  vật  ǵ  khác  trong  ḿnh.  Có  khi,  bà  c̣n  để  cho  tôi  trói  và  nhốt  bà  trong  một  cái  bao  bố  cho  bà  không  thể  cử  động  hoặc  sử  dụng  tay  chân  để  làm  bất  cứ  một  động  tác  nào.  
 
 Kế  đó,  mọi  người  mới  ngồi  chung  quanh  một  cái  bàn  ăn  lớn,  nắm  tay  nhau  thành  ṿng ( luôn  cả  bà  đồng  tử ),  tắt  hết  đèn  để  pḥng  tối  thui  và  chờ  đợi  hiện  tượng  xảy  ra.  
 
 Sau  một  lát,  người  ta  nghe  có  tiếng  động  nhẹ  của  vật  ǵ  rơi  trên  mặt  bàn  trống  trơn,  và  mùi  thơm  tỏa  ra  khắp  pḥng.  Khi  đó  bà  Thayer  mới  yêu  cầu  thắp  đèn  lên,  th́  người  ta  thấy  trên  bàn  có  đầy  những  hoa  thơm  cỏ  lạ,  đôi  khi  lại  thấy  những  cành  hoa  cắm  vào  áo  hay  gài  trên  tóc  của  các  quan  khách  ngồi  tham  dự.  
 
 Thỉnh  thoảng,  có  vài  con  bươm  bướm,  hoặc  một  con  chim  quyên,  chim  yến,  hay  chim  hoàng  anh,  hay  vài  loại  chim  nhỏ  vừa  kêu  ríu  rít  vừa  bay  lượn  khắp  pḥng;  hoặc  một  con  cá  vàng  hăy  c̣n  ướt  nhảy  trên  mặt  bàn,  dường  như  vừa  mới  lấy  ra  từ  trong  hồ  nước.  
 
 Đôi  khi,  những  người  có  mặt  cũng  thốt  lên  những  tiếng  kêu  ngạc  nhiên  khi  họ  nhận  thấy  nằm  trong  tay  họ  một  cái  hoa  hay  một  nhánh  kiểng  mà  họ  đă  nghĩ  trong  trí  và  thầm  lặng  yêu  cầu  được  đem  đến  cho  họ.
 
 Trong  một  buổi  họp  đàn  khác,  có  một  cây  thạch  thảo  xuất  hiện  trước  các  quan  khách,  c̣n  nguyên  những  rễ  cây  và  đất  bám  vào  như  vừa  mới  được  bứng  lên,  lại  có  cả  ba  con  trùng  đất  c̣n  đang  ngo  ngoe  quằn  ḿnh  giữa  đám  rễ.  Nhưng  tôi  c̣n  chứng  kiến  một  việc  lạ  hơn  nữa.
 
 Một  buổi  trưa  hè,  tôi  đến  viếng  một  nghĩa  địa  ở  ngoại  ô  thành  phố  Boston,  và  khi  đi  qua  một  vườn  kiểng,  tôi  chú  ư  đến  một  giống  cây  lạ  với  những  lá  hẹp  và  dài,  có  sọc  trắng  và  xanh  lợt,  mà  khoa  Thảo  Mộc  Học  gọi  là  cây  Long  Huyết (Dracaena  Regina). 
 
 Tôi  lấy  bút  ch́  xanh  vẽ  ở  mặt  dưới  một  lá,  cái  h́nh  một  ngôi  sao  sáu  góc  và  âm  thầm  kêu  gọi  bằng  tư  tưởng  các  âm  binh  hăy  đem  cái  lá  ấy  đến  cho  tôi  tại  nhà  bà  Thayer  trong  buổi  họp  đàn  tối  hôm  sau.
 
 Tối  hôm  đó,  tôi  ngồi  bên  cạnh  bà  đồng  tử,  và  nắm  hai  bàn  tay  bà  để  bảo  đảm  cho  chắc  rằng  bà  vẫn  trung  thực.  Trong  bóng  tối,  tôi  cảm  giác  được  một  vật  ǵ  mát  lạnh  và  ướt  rơi  trên  một  bàn  tay  tôi,  và  khi  đèn  được  thắp  sáng  trở  lại,  th́  thấy  vật  ấy  chính  là  cái  lá  cây  Long  Huyết  mà  tôi  đă  làm  dấu  ngày  hôm  qua!  
 
 Để  phối  kiểm  lại  cho  chắc, tôi  đă  trở  lại  vườn  kiểng  và  nhận  thấy  cái  lá  của  tôi  làm  dấu,  thật  sự  đă  bị  ngắt  ra  khỏi  nhánh  và  cái  lá  ấy  mà  tôi  đem  theo  trong  túi,  đem  ráp  lại  th́  đúng  với  chỗ  bị  ngắt!  Nhiều  sự  kiện  tương  tự  cũng  đă  làm  cho  tôi  tin  chắc  rằng  bà  Thayer  là  một  người  đồng  tử  chân  chính.  
 
 Ngoài  ra,  c̣n  có  một  hiện  tượng  sinh  lư  không  những  đă  làm  tăng  thêm  ḷng  tin  của  tôi,  mà  c̣n  làm  sáng  tỏ  thêm  toàn  bộ  vấn  đề  đồng  tử.  Khi  tôi  nắm  hai  bàn  tay  bà  trong  hai  bàn  tay  tôi,  tôi  nhận  thấy  rằng  đúng  vào  lúc  mà  những  cỏ  cây  hoa  lá  bắt  đầu  rơi  trên  mặt  bàn  th́  bà  đồng   tử  rung  ḿnh,  thở  dài,  và  hai  bàn  tay  trở  nên  lạnh  ngắt  như  đồng.  
 
 Một  lúc  sau  đó,  hai  bàn  tay  bà  mới  trở  lại  nhiệt  độ  b́nh  thường.  Điều  đó  chỉ  rằng  dường  như  có  một  sự  hoàn  toàn  biến  đổi  về  nhiệt  độ  trong  cơ  thể  của  người  đồng  tử  trong  khi  thực  hành  các  hiện  tượng.
 
 Khi  bà  HPB  kêu  gọi  một  vong  linh  hiện  nguyên  h́nh  từ  trong  pḥng  của  bà  đồng  tử  Holmes  trong  một  cuộc  biểu  diễn  trước  đây,  bà  nắm  chặt  lấy  bàn  tay  tôi  một cách  xúc  động, và  bàn  tay  bà  trở  nên  lạnh  như  nước  đá.  
 
 Bàn  tay  của  Signor B., nhà  phù  thủy  Ư  cũng  lạnh  ngắt  sau  hiện  tượng  làm  mưa;  và  sự  chuyển  biến  từ  trạng  thái  lên  đồng  qua  trạng  thái  xuất  thần  nhập  hóa  và  những  giai  đoạn  thâm  sâu  hơn  của  trạng  thái  vô  thức  đều  đi  kèm  với  hiện  tượng  hạ  thấp  nhiệt  độ  của  cơ  thể  một  cách  b́nh  thường.
 
 
 
 
         | 
        
       
        | Quay trở về đầu | 
         
          
         | 
        
       
       
        |   | 
       
        
         
         hiendde Hội Viên 
          
  
  Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
 Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
          | 
        
         
          
           | Msg 1113 of 1146: Đă gửi: 14 March 2011 lúc 5:22pm | Đă lưu IP 
		     | 
                    
            		  
           | 
           
          
           
  | 
           
          
 
 
 
 HỒI KƯ H.S. OLCOTT 
 
 
 
 
 IV. Trong một buổi họp đàn khác chỉ có ba người tham dự, là bà Hougton, vợ của một vị luật sư tên tuổi ở Boston, một phụ nữ khác, và tôi. Chúng tôi ngồi lại một bàn, tôi nắm hai bàn tay bà đồng tử, một bà khách đi đóng các cửa trong nhà c̣n một bà coi việc đèn đuốc.
 
 Khi đèn đă tắt, chúng tôi ngồi đợi ít lâu trong bong tối, nhưng không nghe có tiếng hoa rơi trên bàn. Bỗng nhiên, tôi có cảm giác một cánh hoa mát và ướt rơi nhẹ trên lưng bàn tay tôi. Khi đèn thắp sáng, th́ thấy đó là một cái hoa hường rất đẹp, vừa mới nở được một nửa, hăy c̣n đượm những giọt sương lung linh ướt. Bà đồng tử vừa giật ḿnh dường như có người khuất mặt nói chuyện với bà từ đằng sau, và nói:
 
 - Thưa Đại Tá, những âm binh nói rằng cánh hoa này là quà tặng cho bà HPB.
 
 Tôi bèn đưa cái hoa cho bà Houghton, rồi bà này trao lại cho bà HPB khi chúng tôi về đến nhà, tại đây chúng tôi thấy bà HPB đang vừa hút thuốc lá vừa nói chuyện với luật sư Houghton.
 
 Bà HPB cầm lấy cái hoa đưa lên mũi để thưởng thức mùi thơm của nó, gương mặt đăm chiêu với một cái nh́n xa vắng trong cặp mắt, mà những bạn thân của bà thường thấy mỗi khi bà làm các hiện tượng thần thông. Cơn mộng mơ của bà bị gián đoạn bởi luật sư Houghton khi ông nói:
 
 - Thưa bà, cái hoa này thật đẹp, bà hăy đưa cho tôi xem một chút.
 
 Bà đưa cái hoa cho ông cũng vẫn với cái vẻ mặt đăm chiêu, và với một cử chỉ vô tư máy móc. Vị luật sư ngửi hoa, rồi th́nh ĺnh kêu lên:
 
 - Ủa ! Sao hoa nặng vậy? Tôi chưa hề thấy hoa nào như cái hoa này. Quí vị hăy xem, sức nặng của nó làm cong cái cuống hoa!
 
 Tôi mới cầm lấy cái hoa để xem lại, v́ mới lúc năy khi nó c̣n ở trên tay tôi, không thấy có ǵ khác thường. Nhưng bây giờ th́ lạ thật, nó lại rất nặng. Lúc ấy, bà HPB mới nói:
 
 - Hăy cẩn thận, đừng làm nó gẫy”
 
 Tôi gượng nhẹ nâng cái hoa lên giữa ngón tay cái và ngón trỏ của bàn tay mặt và nh́n xem cho kỹ, nhưng không thấy lư do ǵ làm cho nó có sức nặng. Bỗng nhiên, tôi thấy có một chấm nhỏ ánh sáng màu vàng chiếu nơi trung tâm cái hoa, và trước khi tôi có th́ giờ nh́n lại lần nữa.
 
 Th́ một cái nhẫn vàng nặng lớn bản và trơn bong từ trong nụ hoa nhảy vọt ra, dường như do sức đẩy của một cái ḷ xo, và rơi xuống đất ngay dưới chân tôi. Cái hoa liền đứng ngay trở lại trên cái cuống, không c̣n nặng như lúc năy, mà trở lại trạng thái b́nh thường.
 
 Ông Houghton và tôi đều là luật sư, vốn có bản năng thận trọng của nghề nghiệp, chúng tôi bèn xem xét kỹ lại bên trong cái hoa, nhưng không thấy có dấu vết ǵ khả nghi chỉ rằng có bàn tay người sờ mó vào: những cánh hoa được xếp   lên nhau một cách đều đặn và chặt chẽ, và người ta không thể nhét cái nhẫn vàng vào bên trong mà không làm sứt mẻ cái nụ non ở giữa.
 
 Vả lại, làm sao bà HPB có thể chơi cái tṛ giả mạo ấy ngay trước mắt chúng tôi, dưới ánh sáng của ba ngọn đèn, trong khi bà cầm cái hoa trong bàn tay mặt chỉ có độ hai phút trước khi đưa nó cho ông Houghton?
             
 Hiện tượng này có thể giải thích bằng khoa Huyền Môn: vật chất trong chiếc nhẫn và vật chất trong những cánh hoa có thể đă được nâng cao từ chiều đo thứ ba lên chiều đo thứ tư, và phục hồi trở lại chiều đo thứ ba vào lúc chiếc nhẫn nhảy vọt ra ngoài cái hoa.
 
 Quả thật sự việc đă xảy ra đúng y như vậy. Cái nhẫn ấy cân nặng ba chỉ, và tôi đang đeo nó trong lúc này. Nó không phải được tạo ra từ chỗ hư không, mà chỉ là một vật được di chuyển xuyên qua không gian.
 
 Một năm rưỡi sau đó, sau khi Hội Thông Thiên Học Thế   Giới được thành lập độ một năm, bà HPB và tôi cư trú tại New York trong hai gian pḥng khác nhau cùng trong một nhà. Một ngày nọ, cô em gái tôi, là bà W.H. Mitchell, đi cùng với chồng đến viếng chúng tôi, và trong câu chuyện hàn huyên tâm sự, cô yêu cầu cho xem chiếc nhẫn và nói cho cô nghe câu chuyện lịch sử của nó.
 
 Khi xem xong, cô đeo thử vào ngón tay rồi tháo ra đặt nằm trong ḷng bàn tay cô để trả lại cho bà HPB. Bà HPB cứ để nó nằm y như thế mà không động đến, khép các ngón tay cô em tôi trên chiếc nhẫn, nắm bàn tay ấy trong một lúc, rồi buông ra và bảo cô em tôi hăy nh́n lại xem. Th́ ra nó không c̣n là một chiếc nhẫn trơn nữa, mà chúng tôi thấy trên cái khoen vàng có cẩn ba hột kim cương nhỏ xếp thành h́nh tam giác.
 
 Việc ấy được thực hiện bằng cách nào? Giả thuyết ít huyền diệu nhất là bà HPB đă cho một thợ kim hoàn cẩn ba hột kim cương trên chiếc nhẫn từ trước, và dùng thuật thôi miên che mắt để chúng tôi không nh́n thấy, cho đến khi thị giác của chúng tôi được giải tỏa vào lúc cô em tôi mở bàn tay ra.
 
 Điều này có thể hiểu được như một phép thuật thôi miên; tôi đă từng thấy những hiện tượng đó, và chính tôi cũng có thể làm được như vậy. Người ta có thể làm che khuất tầm nhăn quang của kẻ khác, không những đối với vài hột kim cương, mà c̣n có thể làm che dấu một người.
 
 Một cử tọa đông đảo, một cái nhà, một cái cây, một quả núi, hay bất cứ vật ǵ: thuật thôi miên dường như có khả năng tác động vô giới hạn. Hiện tượng chiếc nhẫn nạm kim cương có thể được giải thích ra sao tùy ư; nó vẫn là một sự thành công hoàn toàn.
 
 
 
 
         | 
        
       
        | Quay trở về đầu | 
         
          
         | 
        
       
       
        |   | 
       
        
         
         hiendde Hội Viên 
          
  
  Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
 Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
          | 
        
         
          
           | Msg 1114 of 1146: Đă gửi: 14 March 2011 lúc 5:26pm | Đă lưu IP 
		     | 
                    
            		  
           | 
           
          
           
  | 
           
          
 
 
 HỒI KƯ H.S. OLCOTT 
 
 
 
 
 V. Những  sự  việc  kể  trên  sẽ  giúp  cho  độc  giả  có  một  ư  niệm  về  những  hiện  tượng  lạ  lùng  vẫn  tiếp  diễn  hồi  thời  đó  ở  các  xứ  phương  Tây. Ở  phương  Đông  thỉnh  thoảng  người  ta  cũng  từng  nghe  nói  về  những  sự  di  chuyển  đồ  vật  tương  tự  xuyên  qua  không  gian,  nhưng  luôn  luôn  với  một  sự  kinh  khiếp,  sợ  hăi,  và  những  người  chứng  kiến  không  hề  nghĩ  đến  việc  đem  các  hiện  tượng  ấy  ra  làm  những  đề  tài  khảo  cứu  khoa  học.  
 
 Trái  lại,  chúng  bị  coi  như  những  việc  chẳng  lành,  do  tác  động  của  những  vong  linh  bất  hảo,  thường  là  những  vong  hồn  đọa  lạc  của  những  bạn  bè,  thân  quyến  hăy  c̣n  bám  víu  cơi  Trần  và  người  ta  chỉ  muốn  tảo  trừ  những  sự  việc  ấy  như  những  chuyện  quấy  rầy,  phiền  nhiễu.
 
 Đối  với  người  Đông  Phương,  vốn  có  một  truyền  thống  tâm  linh  vững  chắc  từ  lâu  đời,  th́  sự  giao  tiếp  giữa  người  sống  với  vong  linh  người  chết  là  một  bằng  chứng  chỉ  rằng  người  chết  vẫn  chưa  đoạn  tuyệt  một  cách  thoải  mái  nhẹ  nhàng  với  cuộc  đời  thế  gian,  và  như  vậy,  họ  bị  ngăn  trở  trên  con  đường  tiến  hóa  tự  nhiên  để  vượt  lên  cơi  giới  tinh  thần. 
 
 Người  Á  Đông  coi  việc  biểu  diễn  những  hiện  tượng  thuộc  loại  kể  trên  như  những  bằng  chứng  chỉ  rằng  các  người  biểu  diễn  ấy  chỉ  có  những  quyền  năng  thuộc  loại  thấp  kém.
 
 Trong  thời  gian  ở  Ấn  Độ,  tôi  đă  từng  nghe  nhiều  người  bổn  xứ  nói  rằng  thật  là  một  điều  đáng  tiếc  mà  thấy  bà  HPB  biểu  diễn  các  hiện  tượng  thần  thông,  bởi  v́  việc  ấy  chỉ  rằng  bà  chưa  đạt  tới  tŕnh  độ  cao  siêu  trong  pháp  môn  Yoga.  
 
 Thật  vậy,  Đạo  Sư  Patanjali,  cũng  như  Phật  Thích  Ca,  đă  từng  cảnh  cáo  các  môn  đồ  không  nên  biểu  diễn  phép  thuật  thần  thông  khi  họ  phát  triển  được  những  quyền  năng  thần  bí  trong  diễn  tŕnh  tiền  hóa  tâm  linh  của  họ. 
 
 Tuy nhiên,  chính  đức  Phật  đôi  khi  cũng  đă  làm  các  hiện  tượng  thần  thông,  nhưng  ngài  chỉ  làm  như  vậy  trong  khi  thuyết  pháp  để  kêu  gọi  sự  chú  ư  của  quần  chúng  và  thúc  đẩy  họ  cố  gắng  công  phu  tu  luyện  sau  khi  đă  thanh  lọc  bản  thể  cho  bớt  nhiễm  trần.  
 
 Phần  nhiều  các  bậc  giáo  chủ  khác  cũng  áp  dụng  phương  pháp  đó. Phải  chăng  bà  HPB  cũng  làm  giống  y  như  vậy?  Trong  khi  làm  các  phép  thuật  thần  thông,  phải  chăng  bà  đă  có  cảnh  giác  tất  cả  mọi  người  rằng  đó  chỉ  là  những  điều  phụ  thuộc  nhỏ  mọn,  không  đáng  kể  trên  đường  Đạo?  
 
 Không  ai  có  thể  phủ  nhận  điều  ấy;  mọi  người  đều  nh́n  nhận  là  bà  vẫn  luôn  luôn  dạy  rằng  các  hiện  tượng  thần  thông  chỉ  có  tác  dụng  là  để  thực  nghiệm  khoa  triết  học  tâm  linh,  cũng  như  những  cuộc  thí  nghiệm  hóa  chất  đối  với  khoa  Hóa  Học  vậy.
 
 Bà  hẳn  là  đă  sai  lầm  mà  phung  phí  thần  lực  trong  các  hiện  tượng  huyền  linh  để  làm  ngạc  nhiên  những  quan  khách  tầm  thường,  không  quan  trọng,  thần  lực  ấy  có  thể  dùng  một  cách  hữu  hiệu  hơn  nhiều  để  phá  hủy  bức  rào  vô  tín  ngưỡng  và  độc  đoán  của  khoa  học  duy  vật  Tây  Phương.  
 
 Tuy  nhiên,  nhờ  đó  bà  đă  thuyết  phục  được  một  số  người,  chịu  ảnh  hưởng  của  bà  mà  đă  đóng  góp  công  lao  tích  cực  vào  phong  trào  Thông  Thiên  Học  vĩ  đại  của  chúng  ta,  và  vài  người  trung  kiên  nhất  trong  số  đó  đă  từ  bỏ  khoa  Thần  Linh  Học  Tây  Phương  để  bước  vào  Huyền  Môn  Đông  Phương  qua chiếc  cầu  trung  gian  của  những  hiện  tượng  diệu  huyền.
 
 Về  phần  tôi,  tôi  có  thể  nói  rằng  những  loạt  hiện  tượng  thần  thông  đa  h́nh  đa  dạng  mà  bà  HPB  đă  biểu  diễn  cho  tôi  xem,  đă  làm  cho  tôi  hiểu  được  dễ  dàng  những  lư  thuyết  cổ  truyền  Đông  Phương  của  Khoa  Học  Tâm  Linh. 
 
 Tôi  rất  tiếc  rằng  những  người  khác,  nhất  là  những  bạn  Đạo  phương  Đông  của  tôi,  vốn  có  một  tâm  hồn đă  từng  được  chuẩn  bị  hoàn  toàn  chu  đáo,  lại  không  có  được  một  cơ  hội  may  mắn  như  tôi.
 
 
 
 
 
         | 
        
       
        | Quay trở về đầu | 
         
          
         | 
        
       
       
        |   | 
       
        
         
         hiendde Hội Viên 
          
  
  Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
 Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
          | 
        
         
          
           | Msg 1115 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 7:16am | Đă lưu IP 
		     | 
                    
            		  
           | 
           
          
           
  | 
           
          
 
 
 HỒI KƯ H.S. OLCOTT 
 
 
 
 CHƯƠNG SÁU
 
 
 VIỆC THÀNH LẬP HỘI THÔNG  THIÊN  HỌC  THẾ  GIỚI 
  
 
 I. Tất  cả  những  hội  viên  nhiệt  thành  của  Hội  Thông  Thiên  Học  sẽ  thích  thú  mà  được  biết  rằng  kể  từ  tháng  7  năm  1875,  bà  HPB  đă  khẳng  định  sự  hiện  diện  của  các  đấng  Chân  Sư,  tuyên  bố  sự  thật  về  Quần  Tiên  Hội,  về  kho  tàng  minh  triết  thiêng  liêng  do  các  ngài  ǵn  giữ,  và  về  mối  liên  hệ  cá  nhân  của  bà  với  các  ngài.  Bà nêu lên  vấn  đề  quan  trọng  là:
 
 “Khoa  Thần  Linh  Học,  trong  tay  của  một  Chân  Sư, trở  thành  khoa  Phương  Thuật,  v́  ngài  đă  tinh  thông  lăo  luyện  về  bí  thuật  sử  dụng  những  định  luật  trong  Càn  Khôn  Vũ  Trụ,  mà  không  vi  phạm  một  định  luật  nào  và  không  hành  động  trái  nghịch  với  thiên  nhiên. 
 
 Trong  tay  của  một  đồng  tử  thiếu  kinh  nghiệm,  khoa  ấy  trở  thành  Bàn  Môn  Tả  Đạo  vô  ư  thức,  v́  y  vô  t́nh  mở  rộng  cửa  giao  thông  giữa  thế  giới  hữu  h́nh  và  vô  h́nh, và  giải  tỏa  những  sức  mạnh  mù  quáng  của  Thiên  Nhiên  cùng  những  loại  âm  binh  và  vong  linh  bất  hảo.”
             
 Kể  từ  nay,  tư  tưởng  Huyền  Môn  đă  được  phát  động  một  cách  rơ  rệt,  và  luôn  luôn  được  nhắc  đến  trong  những  sách  vở  báo  chí  và  thơ  tín  riêng  tư  của  chúng  tôi.  Trong  một  bài  báo  nhan  đề “ĐỜI  SỐNG  BẤT  TỬ”  đăng  trên  báo  Nữu  Ước  Diễn  Đàn  ngày  28  tháng  8  năm  1875,  tôi  có  tuyên  bố  rằng  tôi  đă  từng  tin  nơi  các  hiện  tượng  đồng  tử  từ  một  phần  tư  thế  kỷ  nay.
 
 Nhưng  tôi  không  bao  giờ  tin  rằng  những  trí  lực  đằng  sau  các  hiện  tượng  đồng  tử  từ  một  phần  tư  thế  kỷ  nay,  nhưng  tôi  không  bao  giờ  tin  rằng  những  trí  lực  đằng  sau  các  hiện  tượng  đó  quả  thật  là  những  ông  nọ  bà  kia  như  họ  giả  danh  hay  mạo  nhận.  
 
 Tôi  khẳng  định  sự  tin  tưởng  của  tôi  về  sự  thật  của  khoa  Huyền  Môn  thời  cổ,  và  nói  lên  sự  kiện  rằng  tôi  t́nh  cờ  được  giao  tiếp  với  những  người  c̣n  sống,  họ  đă  từng  thi  thố  ngay  trước  mặt  tôi  những  pháp  thuật  diệu  huyền  xứng  đáng  với  bản  lĩnh  của  các  nhà  Phương  Sĩ  trứ  danh  thời  xưa.
 
 Khi  tôi  nói  lên  điều  ấy,  tôi  không  phải  chỉ  đề  cập  đến  những  hiện  tượng  thần  thông  của  bà  HPB,  hay  sự  giao  tiếp  của  tôi  với  các  Chân  Sư  mà  thôi,  mà  c̣n  muốn  nhắc  đến  sự  việc  này:  đó  là  việc  làm  cho  những “TINH  LINH  NGŨ  HÀNH”  xuất  hiện  ngay  trước  mắt  tôi  và  trong  pḥng  ngủ  của  tôi,  do  một  người  lạ  mặt  mà  tôi  t́nh  cờ  gặp  tại  New  York,  một  ngày  trước  khi  tôi  viết  bài  báo  trên.
 
 Người  lạ  mặt  đến  nhà  tôi  do  một  sự  hứa  hẹn  trước.  Chúng  tôi  mở  những  cửa  ngăn  pḥng  khách  với  buồng  ngủ,  ngồi  trên  ghế  đối  diện  với  cửa  ra  vào,  và  th́nh  ĺnh,  dưới  ảnh  hưởng  của  một  phương  pháp  huyền  diệu  để  tạo  ra  ảo  giác (Mâya), tôi  nh́n  thấy  pḥng  ngủ  của  tôi  biến  thành  một  khoảng  không  gian  vuông  vức.  
 
 Những  giường  tủ, bàn  ghế  đă  biến  mất  khỏi  tầm  mắt  của  tôi,và  lần  lần  xuất  hiện  những  cảnh  trời  nước  mênh  mông, mây  mù  bao  phủ  không  gian, hang  động  dưới  ḷng  đất, và  một  hỏa  diệm  sơn  phun  lửa. Mỗi  hoạt  động  trong  ngũ  hành  đều  loi  ngoi, những  sinh  vật  sống  động  với  những  h́nh  thể,  những  gương  mặt,  ẩn  hiện  chập  chờn  khi  mờ  khi  tỏ.  
 
 Vài  h́nh  thể  sinh  vật  đó  coi  xinh  đẹp, hiền  ḥa, những  loại  khác  có  h́nh  dáng  bất  hảo, dữ  tợn, có  loại  rất  hung   ác  và  coi  thật  rùng  rợn. Chúng  xuất  hiện  trước  mắt  tôi  một  cách  nhẹ  nhàng  giống  như  những  bọt  nước  trên  một  gịng  suối, hoặc  phóng  nhanh  xuyên  qua  không  gian  và  biến  mất, hoặc  chơi  giỡn  nô  đùa  với  nhau  trong  ánh  lửa  hồng  hay  trên  gịng  nước.
 
 Một  lát  sau  đó, một  quái  vật  h́nh  thù  dị  hợm  trợn  mắt  nh́n  tôi  và  phóng  tới  trước, dường  như  muốn  chụp  lấy  tôi  cũng  như  một  con  cọp  bị  thương  chụp  mồi, nhưng  rồi  lại  biến  mất  khi  nó  vừa  tới  làn  mức  chu  vi  của  khoảng  không  gian  vuông  vức, là  nơi  mà  hai  gian  pḥng  nối  liền  với  nhau. 
 
 Việc  ấy  làm  cho  thần  kinh  tôi  bị  căng  thẳng  cực  độ, nhưng  sau  những  kinh  nghiệm  về  hồn  ma  hiện  h́nh  mà  tôi  đă  từng  trải  qua  ở  nông  trại  Eddy, tôi  cố  gắng  giữ  vững  tinh  thần  ḷng  không  rung  động. Đến  đây, người  lạ  mặt  tuyên  bố  hài  ḷng  về  kết  quả  cuộc  thử  thách  tâm  linh  này, và  khi  chia  tay  từ  giă  c̣n  nói  thêm  rằng  chúng  tôi  có  thể  sẽ  gặp  nhau  trở  lại.
 
 Nhưng  cho  đến  nay  chúng  tôi  không  hề  gặp  nhau  lại  nữa. Người  ấy  có  h́nh  dáng  giống  như  một  người  Đông  Phương, màu  da  lợt, nhưng  tôi  không  thể  phát  hiện  được  là  quốc  tịch  nào, tuy  hồi  đó  tôi  nghĩ  rằng  có  lẽ  ông  ta  là  người  Ấn  Độ. Người  đó  nói  Anh  Ngữ  rất  thông  thạo  cũng  như  tôi.
 
 
 
 
         | 
        
       
        | Quay trở về đầu | 
         
          
         | 
        
       
       
        |   | 
       
        
         
         hiendde Hội Viên 
          
  
  Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
 Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
          | 
        
         
          
           | Msg 1116 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 7:24am | Đă lưu IP 
		     | 
                    
            		  
           | 
           
          
           
  | 
           
          
 
 
 
 HỒI KƯ H.S. OLCOTT 
 
 
 
 
 II. Sự  dọn  đường  cho  việc  thành  lập  Hội  Thông  Thiên  Học  Thế  Giới  đă  được  chuẩn  bị  do  sự  tranh  luận  sôi  nổi  trong  các  giới, trước  nhất  về  Thần  Linh  Học  và  sau  đó  về  một  vài  quan  niệm  của  Huyền  Môn  Đông  Phương. 
 
 Cuộc  tranh  luận  vẫn  tiếp  diễn  kể  từ  khi  những  bài  tường  thuật  của  tôi  về  các  hiện  tượng  thần  linh  ở  nông  trại  Eddy  bắt  đầu  xuất  hiện  trên  nhật  báo  New  York  Sun  vào  tháng  8  năm  1874. Nó  càng  trở  nên  sôi  động  thêm  gấp  mười  lần  từ  khi  tôi  và  bà  HPB  gặp  nhau  tại  Chittenden, và  sử  dụng  báo  chí  để  tŕnh  bày  những  quan  điểm  lạ  thường  của  chúng  tôi. 
 
 Những  bài  báo  châm  biếm  của  bà, những  chuyện  đồn  đăi  về  những  phép  thuật  thần  thông  của  bà, và  sự  quả  quyết  của  chúng  tôi  về  sự  hiện  diện  của  những  chủng  loại  sinh  vật  trong  cơi  vô  h́nh, đă  thu  hút  đến  với  chúng  tôi  nhiều  nhân  vật  Đạo  tâm, trí  thức  thông  minh  lỗi  lạc. 
 
 Trong  số  những  người  này  có  những  nhà  bác  học, ngôn  ngữ  học, nhà  văn, nhà  khảo  cổ, vài  vị  linh mục  có  tinh  thần  rộng  răi  cởi  mở, luật  gia, y  sĩ, vài  nhà  Thần  Linh  Học  tên  tuổi, vài  nhà  báo  ṭ  ṃ  muốn  kiếm  đề  tài  hấp  dẫn  để  viết  bài.
 
 Thật  là  một  việc  táo  bạo  mà  dám  đứng  ra  công  khai  tuyên  bố  nền tảng  khoa  học  của  Khoa  Huyền  Môn  cổ  xưa, bất  chấp  mọi  dư  luận  thành  kiến  của  người  đời, ở  vào  thời  đại  hoài  nghi  của  khoa  học  vật  chất  ngày  nay. 
 
 Chính  hành  động  táo  bạo  đó  đă  thu  hút  sự  chú  ư  của  quần  chúng  và  đưa  đến  cái  hậu  quả  đương  nhiên  là  với  thời  gian  qua, những  người  cùng  đồng  quan  điểm  sẽ  họp  chung  lại  với  nhau  thành  một  Hội  để  khảo  cứu  về  các  vấn  đề  Huyền  Môn. Mưu  toan  thành  lập  một  Câu  Lạc  Bộ  Huyền  Linh  đă  thất  bại  vào  tháng  5, năm  1875.
 
 Th́  nay  một  cơ  hội  khác  đă  đến, khi  một  học  giả  chuyên  khoa  Ai  Cập  Học  là  ông  George  Felt  thuyết  tŕnh  trước  một  nhóm  bạn  hữu  của  chúng  tôi  tại  nhà  bà  HPB  vào  ngày  7  tháng  9  năm  1875. Đó  là  một  sự  thành  công  mỹ  măn: cái  hột  giống  của  một  cây  đại  thọ  bao  trùm  khắp  thế  giới  đă  được  gieo  trên  mảnh  đất  tốt  và  đă  nẩy  mầm.
 
 Tối  hôm  7  tháng  9, ông  Felt  thuyết  tŕnh  về  đề  tài: “QUY  TẮC  TỶ  LỆ  CỦA  NGƯỜI  CỔ  AI  CẬP”. Ông  là  một  nhà  kỹ  nghệ   họa  rất  tài  t́nh, và  đă  vẽ  một  số  họa  đồ  rất  khéo  để  diễn  tả  lư  thuyết  của  ông  cho  rằng  những  quy  tắc  tỷ  lệ  kiến  trúc  của   người  Ai  Cập  cũng  như  của  các  đại  kiến  trúc  gia  Hy  Lạp, hiện   được  ǵn  giữ  trong  những  chữ  mật  tự  khắc  trên  các  đền  thờ  cổ  của  xứ  Ai  Cập. 
 
 Ông  nói  rằng  bằng  cách  sử  dụng  vài  loại ch́a  khóa  bí  mật, người  ta  có  thể  áp  đặt  một  đồ  h́nh  mà  người  ta  gọi  là “NGÔI  SAO  TOÀN  MỸ” trên  vách  một  ngôi  đền, rồi  đọc  trong  đó  toàn  bộ  các  bí  quyết  của  vấn  đề  tỷ  lệ  kiến  trúc  và  h́nh  học. 
 
 Những  chữ  mật  tự  ở  ngoài  ṿng  cái đồ  h́nh  đặt  lên  vách  chỉ  là  những  chữ  giả  tạo  để  đánh  lạc  hướng  những  kẻ  ṭ  ṃ, bởi  v́  nếu  đọc  liên  tục  với  những  chữ  ở  trong  cái  đồ  h́nh, th́  đó  chỉ  là  những  câu  vô  nghĩa, hoặc  chỉ  là  một  câu  chuyện  vô  vị, tầm  thường.
 
 Cái  đồ  h́nh  này  gồm  có  một  ṿng  tṛn  với  một  h́nh  vuông  ở  trong  và  một  ở  ngoài,  chứa  đựng  một  h́nh  tam  giác  thường, hai  h́nh  tam  giác  Ai  Cập  và  một  h́nh  năm  góc. Ông  Felt  áp  dụng  cái  đồ  h́nh  ấy  vào  những  h́nh  ảnh, tượng  điêu  khắc,  cổng  đền, h́nh  vẽ  chữ  mật  tự, Kim  Tự  Tháp, lăng  tẩm  và  dinh  thự  lâu  đài  của  xứ  cổ  Ai  Cập.
 
 Và  cho  thấy  rằng  chúng  thật  hoàn  toàn  đúng  khớp  với  những  tỷ  lệ  của  đồ  h́nh  đến  mức  biểu  lộ  một  quy  tắc  kiến  trúc  chung  cho  tất  cả  các  công  tŕnh  xây  dựng  của  thời  xưa. Quả  thật, đó  chính  là  cái  quy  tắc  kiến  trúc  thật  sự  của  Thiên  Nhiên.
 
 Tiến Sĩ  Pancoats, một  nhà  Huyền  Học  ưu  tú  có  mặt  trong  buổi  họp, lúc  ấy  mới  hỏi  ông  felt  có  thể  chứng  minh  cụ  thể  sự  hiểu   biết  của  ông  về  những  quyền  năng  thần  bí  của  các  nhà  đạo  sĩ  thời  xưa  hay  không, chẳng  hạn  như  việc  kêu  gọi  các  vong  linh  khuất  mặt  trong  cơi  vô  h́nh. Ông Felt trả lời  rằng:
 
 “Ông  có  thể  làm  cho xuất  hiện  hằng  trăm  những  h́nh  bóng  các  vong  linh giống  như  h́nh  người, nhưng  ông  không  thấy  những  dấu  hiệu  chỉ  rằng  chúng  có  trí  khôn”.
 
 Trong  buổi  thuyết  tŕnh, ông  Felt  cho  chúng  tôi  biết  rằng  trong  khi  khảo  cứu  về  môn  cổ  học  Ai  Cập, ông  đă  phát  hiện  rằng  những  vị  giáo  sĩ  Ai  Cập  thời  xưa  đều  là  những  pháp  sư  lăo  luyện  tinh  thông  về  khoa  Phương  Thuật. 
 
 Họ  có  quyền  năng  kêu  gọi  và  sai  khiến  những  TINH  LINH  NGŨ  HÀNH  và  có  để  lại  những  chân  ngôn  thần  chú  để  sử  dụng  âm  binh. Ông  sẵn  ḷng  chỉ  dẫn  bí  thuật  này  cho  những  người  có  thiện  chí  và  hứa  sẽ  làm  cho  các  loại  tinh  linh  xuất  hiện  trước  mắt  chúng  tôi  trong  một  loạt  các  bài  diễn  thuyết.
 
 Buổi  thuyết  tŕnh  vô  cùng  hấp  dẫn  và  lư  thú  hôm  đó  được  nối  tiếp  theo  bằng  một  cuộc  thảo  luận  sôi  nổi. Trong  khi  cuộc  bàn  căi  đang  tiếp  diễn, tôi  bỗng  có  ư  nghĩ  rằng  có  lẽ  là  một  điều  hay  nếu  một  hội  được  thành  lập  để  khuyến  khích  sự  học  hỏi  khảo  cứu  về  khoa  Huyền  Môn, và  sau  khi  đắn  đo  suy  nghĩ, tôi  mới  viết trên  một  mảnh  giấy  gịng  chữ  sau  đây:
 
 “PHẢI  CHĂNG  LÀ  MỘT  ĐIỀU  TỐT  NẾU  CHÚNG  TA  THÀNH  LẬP  MỘT  HỘI  ĐỂ  KHẢO  CỨU  VỀ  NHỮNG  VẤN  ĐỀ  NÀY?”
 
 Tôi  đưa  mảnh  giấy  cho  ông  W. Judge, một  luật  sư  lúc  ấy  đang  đứng  giữa  tôi  và  bà  HPB  ngồi  ở  một  ghế  đối  diện  để  nhờ  ông  chuyển  cho  bà. Bà đọc xong, liền  gật  đầu  tỏ  ư  bằng  ḷng. Tôi  bèn  đứng  dậy, và  với  vài  lời  mở  đầu  câu  chuyện, tôi  bèn  đưa  ra  đề  nghị  trên. 
 
 Ṿng  cử  tọa  lấy  làm  thích  thú, và  khi  ông  Felt, nhân  dịp  trả  lời  một  câu  hỏi, nói  rằng  ông  sẵn  ḷng  chỉ  dẫn  cho  chúng  tôi  phương  pháp  kêu  gọi  và  kiểm  chế  các  loại  TINH  LINH  NGŨ  HÀNH, th́  toàn  thể  hội  trường  đều  đồng  thinh  chấp  thuận  việc  thành  lập  Hội  nói  trên. Theo  lời  đề  nghị  của  ông  Judge, tôi  được  bầu  làm  Hội  Trưởng  và  với  đề  nghị  của  tôi, ông  Judge  được  bầu  làm  Bí  Thơ  buổi  họp. 
 
 V́  lúc  ấy  đêm  đă  khuya, buổi  họp  được  đ́nh  lại  đến  tối  hôm  sau  để  có  một  quyết  định  chính  thức. Những  quan  khách  tối  hôm  đó  được  yêu  cầu  đem  theo  những  bạn  bè  thân  hữu  và  cảm  t́nh  viên  vào  đêm  sau  để  cho  họ  có  thể  gia  nhập  hội  nếu  họ  muốn.
 
 Một  tờ  nhật  báo  ở  New  York  có  tường  thuật  buổi  họp  tối  hôm  đó, tóm  tắt  đại  khái  như  sau:
 
 “Một  phong  trào  rất  quan  trọng  vừa  được  khai  trương  tại  New  York  dưới  sự  lănh  đạo  của  Đại  Tá  Henry  S. Olcott  trong  việc  thành  lập  một  hội  gọi  là  Hội  Thông  Thiên  Học  Thế  Giới. 
 
 Đề  nghị  khởi  xướng  nên  công  việc  này  là  một  điều  hoàn  toàn  không  có  dự  tính  trước, và  được  phát  động  vào  tối  hôm  mùng  7  tại  pḥng  khách  nhà  bà  HPB. Cử  tọa  gồm  mười  bảy  vị  quan  khách  nam  và  nữ  trong  giới  thượng  lưu  trí  thức  đă  hội  họp  để  nghe  ông  George  Henry  Felt  thuyết  tŕnh  về  một  vài  khía  cạnh  của  Huyền  Môn  Ai  Cập  vô  cùng  lư  thú  và  hấp  dẫn….
 
 Trong  cuộc  thảo  luận  sau  đó, thừa  dịp  thuận  tiện, Đại  Tá  Olcott  đứng  lên  phát  biểu  ư  kiến. Sau  khi  phác  họa  t́nh  trạng  của  phong  trào  Thần  Linh  Học  đương  thời; thái  độ  của  các  nhà  Duy  Vật  chống  lại  phong  trào  ấy; sự  xung  đột  ư  kiến  giữa  khoa  học  và  tôn  giáo; tính  cách  triết  học  của  nền  Đạo  Lư  cổ  truyền, khả  dĩ  dung  ḥa  tất  cả  mọi  lư  thuyết tương  phản  hiện  hữu.
 
 Và  công  tŕnh  siêu  việt  của  ông  Felt  đă  khám  phá  được  bí  quyết  cấu  tạo  của  Thiên  Nhiên  do  những  tàn  tích  cổ  xưa  của  khoa  Huyền  Môn  Ai  Cập. Ông  đề  nghị  thành  lập  một  hội  tinh  thần  để  quy  tụ  tất  cả  những  người  có  khuynh  hướng  tâm  linh, sẵn  sàng  làm  việc  chung  với  nhau  để  sưu  tập  và  truyền  bá  những  kiến  thức  huyền  môn. 
 
 Chương  tŕnh  của  ông  là  tổ  chức  một  Hội  các  nhà  Huyền  Học  và  bắt  đầu  lập  ngay  một  thư  viện, kế  đó  là  phổ  biến  những  giáo  lư  về  những  định  luật  huyền  bí  trong  Thiên  Nhiên  mà  người  cổ  Ai  Cập  và  Trung  Đông  đều  biết  rơ, nhưng  lại  hoàn  toàn  xa  lạ  đối  với  thế  giới  khoa  học  của  chúng  ta  hiện  nay...
 
 Tài  liệu  đó  cho  thấy  tâm  trạng  của  tôi  khi  tôi  đề  nghị  thành  lập  Hội  Thông  Thiên  Học  Thế  Giới. Quan  niệm  về  t́nh  Huynh  Đệ  Đại  Đồng  trong  nhân  loại  chưa  được  nêu  ra  và  chúng  tôi  cũng  chưa  kịp  nghĩ  đến, bởi  v́  đề  nghị  thành  lập  Hội  chỉ  đột  xuất  từ  cái  đề  tài  đang  thảo  luận. 
 
 Tuy  nhiên, khi  ṿng  ảnh  hưởng  của  Hội  nới  rộng  để  bao  gồm  cả  những  dân  tộc  phương  Đông  cùng  những  tôn  giáo  và  những  chế  độ  xă  hội  của  họ, th́  t́nh  Huynh  Đệ  Đại  Đồng  đă  trở  nên  một  điều  cần  thiết, và  trên  thực  tế, là  nền  tảng  cho  toàn  thể  cơ  cấu  xây  dựng  Hội. 
 
 Hội  Thông  Thiên  Học  là  một  công  tŕnh  tuần  tự  phát  triển  và  tiến  hóa; chứ  không  phải  là  một  sự  tạo  dựng  có  mưu  tính  trước (trên  cơi  giới  hữu  h́nh). 
 
 Khi  Hội  đă  được  chấp  thuận  trên  nguyên tắc, một  phiên   họp  sau  được  tổ  chức  để  soạn  thảo  bản  Điều  Lệ, Nội  Quy, và  bầu  một  ban  chấp  hành  để  quản  trị  công  việc  Hội. Ngày  30  tháng  10, bản  Điều  Lệ  và  Nội  Quy  được  chấp  thuận, và  một  ban  chấp  hành  được  tuyên  bố  như  sau:
 
 HỘI  TRƯỞNG: HENRY S. OLCOTT
 
 PHÓ  HỘI  TRƯỞNG: B.S  PANCOATS  và  G.H.FELT
 
 TỔNG  THƯ  KƯ  NGOẠI  VỤ: H.P. BLAVATSKY
 
 TỔNG  THƯ  KƯ  NỘI  VỤ: JOHN S. COBB
 
 THỦ  BỔN: HENRY  NEWTON
 
 QUẢN  LƯ  THƯ  VIỆN: CHARLES  SOTHERAN
 
 LUẬT  SƯ  NHIỆM  CÁCH: WILLIAM Q. JUDGE và  năm  vị  CỐ  VẤN.
 
 Phiên  họp  lại  tái  nhóm  vào  ngày  17  tháng  11  năm  1875  để  đọc  bản  Tuyên  Ngôn  của  Hội, và  để  nghe  vị  Hội  Trưởng  Đại  Tá  Henry S.  Olcott, đọc bài  diễn  văn  khai  trương. Thế  là  Hội  Thông  Thiên  Học  Thế  Giới  được  chính  thức  thành  lập  vào  ngày  17  tháng  11  năm  1875.
 
 
 
 
         | 
        
       
        | Quay trở về đầu | 
         
          
         | 
        
       
       
        |   | 
       
        
         
         hiendde Hội Viên 
          
  
  Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
 Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
          | 
        
         
          
           | Msg 1117 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 7:33am | Đă lưu IP 
		     | 
                    
            		  
           | 
           
          
           
  | 
           
          
 
 
 HỒI KƯ H.S. OLCOTT
 
 
 
 
 III. khi đoạn Hồi Kư này của tôi được đăng trong tạp chí “THE THEOSOPHIST” tháng 11, năm 1892, số tạp chí ấy cũng có đăng tiểu sử hay lư lịch của nhiều vị trong Ban Chấp Hành của Hội, trong số đó có một chuyện lạ về kinh nghiệm huyền linh của ông W. L. Alden.
 
 Ông Alden hồi đó là một biên tập viên của tờ “NỮU ƯỚC THỜI BÁO”, rất nổi tiếng về những bài phê b́nh hài hước và sắc xảo của ông đối với những vấn đề thời sự hàng ngày. Khi chúng tôi mới quen nhau, ông ấy có gặp một chuyện khá thú vị. Lúc ấy ông viết bài xă luận cho báo Graphic, c̣n tôi th́ viết phóng sự về các hiện tượng huyền linh ở Chittenden cũng cho tờ báo nhật báo này.
 
 Những chuyện hồn ma hiện h́nh ở nông trại Eddy đă hấp dẫn một số đông người hiếu kỳ hằng ngày đến ṭa soạn để hỏi những chuyện bâng quơ vô lư. Họ làm quấy rầy vị Chủ Bút, ông Groly, đến mức làm cho ông này phải công bố một tấm h́nh lớn vẽ ông ta đứng chận cửa vào ṭa soạn, với một khẩu súng lục và một cặp kéo lớn   trong tay, để tự vệ chống lại sự đột nhập của những kẻ vô tích sự làm phiền nhiễu và mất thời giờ.
 
 Một ngày nọ, có một vị trưởng lăo mặc y phục theo lối Đông Phương bước vào ṭa soạn, tay cầm một quyển sách h́nh dáng lạ kỳ, và có vẻ rất cũ. Ông ta chào các nhân viên ṭa   bài phóng sự của tôi, và về khoa Thần Linh Học Tây Phương và Đông Phương. Tất cả mọi người đều rời khỏi bàn viết và tề tựu chung quanh ông lăo. Khi nói về Khoa Phương Thuật, ông lăo lẳng lặng quay về phía ông Alden, mà cho đến khi đó không ai biết ǵ về những sở thích Huyền Môn của ông ta, và hỏi:
 
 “Thưa ông, ông có tin sự thật của khoa Phương Thuật không?”
 
 Vô cùng ngạc nhiên v́ câu hỏi đột ngột, ông Alden đáp:
        
 “À, tôi có đọc quyển ZANONI, và nghĩ rằng trong đó có lẽ có ít nhiều sự thật.”
 
 Đáp lời yêu cầu của vài người, ông lăo đưa quyển sách dị kỳ của ông ta cho mọi người xem. Th́ ra đó là một quyển cổ thư dạy về Khoa Phương Thuật, viết bằng chữ Á Rập hay một thứ chữ Đông Phương, có rất nhiều h́nh ảnh xen lẫn với chữ viết.
 
 Tất cả mọi người đều rất thích thú, nhất là ông Alden, và khi chia tay từ giă, ông này hỏi vị trưởng lăo có thể nào họ sẽ gặp lại nhau để nói chuyện thêm. Ông lăo gật đầu mỉm cười, và đưa cho ông Alden một địa chỉ. Nhưng khi ông   Alden đi đến nơi, th́ đó chỉ là một địa chỉ ma, một cửa hàng bán h́nh tượng và kinh sách Gia Tô Giáo!
 
 Ông bạn tôi vẫn không thất vọng, và nhiều tháng sau đó, để mắt theo dơi những người mà ông tiếp xúc hay gặp gỡ ngoài đường với niềm hy vọng sẽ gặp lại ông lăo bí mật. Ông Croly cho tôi biết rằng người lạ mặt cũng không hề trở lại viếng thăm ṭa soạn một lần nào nữa, dường như ông ta đă biến mất vào trong ruột quả địa cầu!
 
 Sự xuất hiện bất ngờ và th́nh ĺnh biến mất của những người bí mật để đem những quyển sách quư cho người có căn duyên; hoặc để đưa những lời khuyên hữu ích, hoặc để chỉ đường dẫn lối cho người tầm Đạo giữa những khó khăn chướng ngại mà y đang cố gắng vượt qua để đi đến chân lư, vốn không phải là một kinh nghiệm lạ thường.
 
 Có nhiều trường hợp như vậy đă được ghi nhận trong lịch sử tôn giáo. Sự xuất hiện đó đôi khi xảy ra trong khi thức tỉnh, hoặc đôi khi trong những cơn linh ảnh vào những giờ ban đêm.
 
 Sự mách bảo có khi đến như những “tia sáng” xẹt qua trong trí óc, những tia sáng trực giác (Buddhi) rọi vào cái trí suy luận (Manas) đem lại những phát minh lớn lao về khoa học, chẳng hạn như ư niệm về kiếng quang phổ (Spectroscope) xẹt qua trí óc của fraunhofer.
 
 Ư niệm về tính chất của sấm sét và ống thu lôi trong trí của Franklin; ư niệm về máy điện thoại trong trí của Edison, và về hằng muôn ngàn sự việc vĩ đại hay định luật lớn lao khác nữa vẫn chiếu rọi ánh sáng vào tâm hồn những người thụ cảm sẵn sàng tiếp nhận nguồn cảm hứng thiêng liêng.
 
 Dường như là một điều quá đáng mà nói rằng mỗi người tầm Đạo đều có cơ duyên đạt tới sự hiểu biết một lần trong đời ḿnh, nhưng tôi tin rằng số người may mắn gặp được cơ duyên đó c̣n gấp trăm lần nhiều hơn là người ta tưởng.
 
 Thật là một điều bất hạnh cho đương sự nếu v́ quan niệm sai lầm, y tưởng rằng vị sứ giả đem cơ duyên tới cho y phải có một h́nh dáng hay cốt cách đặc biệt như thế nào đó, hoặc bức thông điệp gởi cho y phải đi kèm với những hiện tượng diệu huyền thuộc loại nào.
 
 Rồi với những thành kiến đó làm che ám lu mờ, có khi “y giao tiếp với một vị thiên thần mà không hề hay biết”, hoặc chạm trán với quư nhân ở ngoài đường mà không hề cảm thấy một rung động khác lạ để làm cho y phải chú ư, thay v́ mải lo chăm chú nh́n cảnh vật ở chung quanh. Tôi nói những ǵ tôi biết.
 
 
 
 
 
         | 
        
       
        | Quay trở về đầu | 
         
          
         | 
        
       
       
        |   | 
       
        
         
         hiendde Hội Viên 
          
  
  Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
 Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
          | 
        
         
          
           | Msg 1118 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 7:40am | Đă lưu IP 
		     | 
                    
            		  
           | 
           
          
           
  | 
           
          
 
 
 
 HỒI KƯ H.S. OLCOTT 
 
 
 
 
 IV. Theo  chương  tŕnh  đă  định, tối  hôm  18  tháng  9, ông  George H. Felt  tiếp  tục  cuộc  thuyết  tŕnh  lư  thú  về  Huyền  Môn  Ai  Cập  và  tŕnh  bày  những  đồ  h́nh  có  màu  để  diễn  tả  những  sự  khám  phá  của  ông. 
 
 Vài  thính  giả  sau  đó  cho  biết  rằng  họ  thấy  ánh  sáng  chập  chờn  trên  những  đồ  h́nh, nhưng  tôi  nghĩ  rằng  điều  đó có  lẽ  một  phần  là  do  sự  tự  kỷ  ám  thị, c̣n  một  phần, có  thể  như  ông  Felt  nói, là  do  những  đặc  tính  huyền  diệu  của  các  đồ  h́nh. Riêng  tôi  không  nh́n  thấy  ǵ  có  tính  chất  huyền  linh, cũng  như  những  người  khác  trong  cử  tọa, trừ  ra  một  thiểu  số  rất  ít.
 
 Trong  buổi  thuyết  tŕnh, ông  felt  khẳng  định  không  chút  do  dự  sự  hiện  hữu  của  các  giới  TINH  LINH  NGŨ  HÀNH, ảnh  hưởng  của  chúng  đối  với  loài  vật  và  sự  liên  hệ  của  chúng  tôi  đối  với  loài  người. Trên  một  bài  báo  gởi  đăng  trên  tạp  chí “London  Spiritualist” ngày  19  tháng  6 năm  1878, ông  Felt  viết:
 
 “….TÔI  ĐƯỢC  BIẾT  CHẮC  CHẮN  RẰNG  CÁC  LOẠI  TINH  LINH  NGŨ  HÀNH  QUẢ  CÓ  THẬT  NHỞ  NHỮNG  CUỘC  SƯU  TẦM  CỦA  TÔI  VỀ  MÔN  KHẢO  CỔ  AI  CẬP. TRONG  KHI  TÔI  VẼ  HỌA  ĐỒ  NHỮNG  V̉NG  HOÀNG  ĐẠO  AI  CẬP  ĐỂ  CỐ  GẮNG  T̀M  RA  NHŨNG  ĐIỂM  TƯƠNG  QUAN  VỀ  SỐ  HỌC  GIỮA  CHÚNG  VỚI  NHAU, TÔI  NHẬN  THẤY  DÔI  KHI  CÓ  NHỮNG  TRIỆU  CHỨNG  RẤT  LẠ  LÙNG  KHÔNG  THỂ  GIẢI  THÍCH. 
 
 NGƯỜI  NHÀ  TÔI  NHẬN  THẤY  RẰNG  CÓ  NHỮNG  LÚC  MÀ  CON  CHÓ  VÀ  CON  MÈO  CỦA  TÔI, BIỂU  LỘ  NHỮNG  CẢM  ỨNG  RẤT  DỊ  KỲ, VÀ  HỌ  LƯU  Ư  TÔI  VỀ  CHÚNG. CHỪNG  ĐÓ, TÔI  MỚI  THẤY  RẰNG  MỖI  KHI  TÔI  BẮT  ĐẦU  LÀM  NHỮNG  CUỘC  KHẢO  CỨU  VỀ  LOẠI  NÀO  ĐÓ, TH̀  CON  MÈO  TRƯỚC  HẾT  LỘ  VẺ  BĂN  KHOĂN  RAY  RỨT, VÀ  TRONG  MỘT  LÚC  CON  CHÓ  LẠI  GẦN  ĐỂ  TRẤN  AN  NÓ, NHƯNG  KHÔNG  BAO  LÂU  CON  CHÓ  CŨNG  LẠI  TỎ  VẺ  SỢ  HĂI  MỘT  VẬT  G̀  ĐANG  ĐỘT  NHIÊN  XUẤT  HIỆN  TRONG  PH̉NG.
 
 DƯỜNG  NHƯ  CON  MÈO  CÓ  NHỮNG  GIÁC  QUAN  TINH  VI  BÉN  NHẠY  HƠN, KHI  ĐÓ  CẢ  HAI  CON  ĐỀU  MUỐN  ĐƯỢC  TÔI  ĐƯA  RA  KHỎI  PH̉NG, VÀ  CHÍNH  CHÚNG  NÓ  CŨNG  TỰ  T̀M  CÁCH  THOÁT  RA  BẰNG  CÁCH  LAO  ĐẦU  XUYÊN  QUA  KIẾNG  CỬA  SỔ. KHI  ĐĂ  ĐƯỢC  THẢ  RA  NGOÀI, CHÚNG  C̉N  KÊU  VÀ  SỦA  TRỞ  LẠI, DƯỜNG  NHƯ  MUỐN  GỌI  TÔI  HĂY  ĐI  RA. 
 
 CHÚNG  VẪN  TIẾP  TỤC  KÊU  NHƯ  THẾ  MỘT  HỒI  LÂU, VÀ  SAU  CÙNG  TÔI  PHẢI  BẮT  BUỘC  ĐI  ĐẾN  KẾT  LUẬN  RẰNG  CHÚNG  ĐĂ  CẢM  XÚC  ĐƯỢC  NHŨNG  SỰ  VẬT  HAY  ẢNH  HƯỞNG  VÔ  H̀NH  NÀO  ĐÓ  MÀ  TÔI  KHÔNG  NHẬN  THẤY.
 
 THOẠT  TIÊN, TÔI  CHO  RẰNG  NHỮNG  H̀NH  THÙ  GỚM  GHIẾC  ĐƯỢC  VẼ  TRÊN  CÁC  V̉NG  HOÀNG  ĐẠO  CHỈ  LÀ  DO “ SỰ  TƯỞNG  TƯỢNG  VÔ  LƯ  CỦA  NHỮNG  BỘ  ÓC  BỆNH  HOẠN “, NHƯNG  VỀ  SAU  TÔI  MỚI  NGHĨ  RẰNG  ĐÓ  LÀ  CÁCH  TR̀NH  BÀY  NHỮNG  SỰ  VẬT  TỰ  NHIÊN  THEO  MỘT  CÔNG  THỨC  NHẤT  ĐỊNH. 
 
 SAU  KHI  ĐĂ  THỰC  HIỆN  MỘT  LOẠT  NHỮNG  CUỘC  THÍ  NGHIỆM  VỀ  VẤN  ĐỀ  NÀY, TÔI  MỚI  BIẾT  CHẮC  RẰNG  NHỮNG  H̀NH  VẼ  TRÊN  CÁC  V̉NG  HOÀNG  ĐẠO  VÀ  CÁC  NGÔI  KIẾN  TRÚC, DỀN  ĐÀI  CỔ  AI  CẬP  LÀ  SỰ  MIÊU  TẢ  NHỮNG  CHỦNG  LOẠI  SINH  VẬT  VÔ  H̀NH  TRONG  CƠ  SÁNG  TẠO, ĐƯỢC  TR̀NH  BÀY  DƯỚI  NHỮNG  NÉT  KHÁ  CHÍNH  XÁC , VÀ  XEN  LẪN  VỚI  H̀NH  ẢNH  CỦA  NHỮNG  SỰ  VẬT  TỰ  NHIÊN  KHÁC. 
 
 TÔI  PHÁT  HIỆN  RẰNG  NHỮNG  SINH  VẬT  ĐÓ  LÀ  NHỮNG  THỰC  THỂ  CÓ  TRÍ  KHÔN, VÀI  LOẠI  ĐÓ  CÓ  VẺ  HUNG  ÁC  VÀ  GÂY  SỢ  HĂI  CHO  NHỮNG  THÚ  NHÀ, C̉N  NHỮNG  LOẠI  KHÁC, TRÁI  LẠI, CÓ  VẺ  HIỀN  LÀNH  MÀ  NHỮNG  THÚ  NHÀ  RẤT  ƯA  THÍCH  VÀ  LẤY  LÀM  THỎA  MĂN  KHI  CHÚNG  XUẤT  HIỆN.
 
 TÔI  TIN  RẰNG  CHÚNG  GỒM  THÀNH  PHẦN  NHỮNG  CHỦNG  LOẠI  SINH  VẬT  TRONG  MỘT  HỆ  THỐNG  TIẾN  HÓA  BẮT  ĐẦU  TỪ  NHỮNG  H̀NH  THỂ  VÔ  TRI  BẤT  ĐỘNG  TRONG  THIÊN  NHIÊN, ĐI  XUYÊN  QUA  LOÀI  ĐỘNG  VẬT RỒI  ĐẾN  CÁC  CẤP  ĐẲNG  THIÊN  THẦN  LÀ  TR̀NH  ĐỘ  PHÁT  TRIỂN  CAO  TỘT. 
 
 VÀI  LOẠI  KHÔN  NGOAN  CÓ  THỂ  ĐƯỢC  KIỂM  CHẾ  KHI  CON  NGƯỜI  LẦN  LẦN  CÀNG  QUEN  THUỘC  NHIỀU  HƠN  VỚI  CHÚNG, HAY  KHI  CON  NGƯỜI  LẦN  LẦN  CÀNG  SINH  HOẠT  ĐIỀU  H̉A  HƠN  VỚI  THIÊN  NHIÊN. SỰ  TINH  KHIẾT  CỦA  TÂM  HỒN  VÀ  THỂ  XÁC  LÀ  YẾU  TỐ  RẤT  HỮU  HIỆU, VÀ  TÔI  THẤY  RẰNG  CHÚNG  ĐẶC  BIỆT  GHÊ  TỞM  SỰ  HÚT  THUỐC, NHAI  THUỐC  LÁ  VÀ  NHỮNG  THÓI  QUEN  BẤT  HẢO  KHÁC.
 
 TÔI  NHẬN  THẤY  RẰNG  KHI  NHỮNG  TINH  LINH  NGŨ  HÀNH  KHÔNG  BỊ  HOÀN  TOÀN  CHẾ  NGỰ, CHÚNG  TRỞ  NÊN  TINH  QUÁI, NGUY  HIỂM, VÀ  CÓ  THỂ  GÂY  THƯƠNG  TỔN, TÁC  HẠI  CHO  LOÀI  NGƯỜI….”G.H.FEL(LONDON SPIRITUALIST, 19-6-1878)
 
 Tuy  bài  diễn  văn  khai  trương  của  tôi  được  toàn  thể  cử  tọa  vỗ  tay  hoan  nghinh, nhưng  nó  hơi  có  vẻ  dại  dột  sau  mười  bảy  năm  kinh  nghiệm  phũ  phàng. Một  phần  lớn  những  kết  quả  tiên  liệu  đă  được  thực  hiện, nhưng  nhiều  sự  dự  liệu  đă  biến  chất.
             
 Điều  mà  chúng  tôi  tin  tưởng  như  cái  nền  tảng  thực  nghiệm  tốt  đẹp  cho  mọi  dự  tính  về  sau, tức  là  sự  chứng  minh của  ông  Felt  về  sự  hiện  hữu  của  các  chủng  loại  TINH  LINH  NGŨ  HÀNH, đă  trở  nên  một  sự  thất  vọng  đau  đớn  hoàn  toàn. Với  tất  cả  những  ǵ  ông  ta  đă  làm  theo  chiều  hướng  đó, ông  ta  vẫn  không  chỉ  cho  chúng  tôi  thấy  được  ǵ  cả, chí  đến  cái  chót  đuôi  của  một  Tinh  Linh  nhỏ  bé  nhất. 
 
 Y  làm  cho  chúng  tôi  trở  thành  cái  tṛ  cười  của  giới  Thần  Linh  Học  và  các  giới  Duy  Vật  hoài  nghi. Y  là  một  người  có  những  sở  đắc  phi  thường, và  đă  thực  hiện  những  khám  phá  đáng  kể. Tôi  tin  rằng  y  đă  thực  hiện  những  ǵ  y  đă  tuyên  bố, và  nếu  y  chỉ  có  bền  chí  theo  đuổi  đến  cùng  những  ǵ  y  đă  khởi  đầu, th́  có  lẽ  y  đă  vang  dội  tên  tuổi  trong  số  những  người  nổi  tiếng  nhất  của  thời  đại  chúng  ta.
 
 V́  đă  thường  thấy  bà  HPB  sử  dụng  Tinh  Linh  Ngũ  Hành  để  làm  các  hiện  tượng, Signor B.  cũng  đă  nhiều  lần  làm  như  vậy  và  người  khách  kỳ  lạ  làm  cho  chúng  xuất  hiện  ngay  trong  pḥng  của  tôi, th́  tại  sao  tôi  không  tin  rằng  ông  Felt  cũng  có  thể  làm  giống  như  thế, nhất  là  khi  bà  HPB  nói  với  tôi  rằng  y  có  thể ? 
 
 Bởi  vậy, với  sự  táo  bạo  của  nhà  khai  sáng  và  sự  nhiệt  thành  của  một  người  lạc  quan  ḷng  đầy  hứng  khởi, tôi  đă  để  cho  óc  tưởng  tượng  của  tôi  tự  do  hoạt  động, và  tiên  liệu  trong  bài  Diễn  Văn  của  tôi  những  kết  quả  có  thể  thực  hiện  nếu  ông  Felt  làm  đúng  như  lời  hứa. 
 
 V́  nhu  cầu  tài  chính, ông  Felt  đă   yêu  cầu  Thủ  Quỹ  Newton  ứng  trước  cho  y  một  trăm  đô  la  để  đài  thọ  phí  tổn  trong  các  cuộc  thí  nghiệm, nhưng  rốt  cuộc  vẫn  không  làm  xuất  hiện  được  Tinh  Linh  Ngũ  Hành! 
 
 Các  hội  viên   lấy  làm  bất  măn; sau  cùng, y  ra  khỏi  Hội; và  v́  thấy  không  c̣n  trông  cậy  được  ǵ  nữa  ở  nơi  y, một  số  hội  viên  cũng  biến  mất  luôn, chỉ  có  chúng  tôi  c̣n  ở  lại  để  nỗ  lực  làm  việc  với  sức  cố  gắng  tối  đa.
 
 Đó  quả  là  một  công  việc  nặng  nhọc, như  tất  cả  các  hội  viên  hoạt  động  hồi  thời  kỳ  đó  đều  nhớ  rơ. Mục  tiêu  của  chúng  tôi  là  học  hỏi, bằng  cách  thực  nghiệm, bất  cứ  những  ǵ  có  thể  học  được  về  những  thành  phần  cấu  tạo  của  con  người, và  vị   trí  của  y  trong  thiên  nhiên. 
 
 Nhất  là  Trí  Lực, hoạt  động  tích  cực  ở  cương  vị  Ư  CHÍ, vẫn  là  một  sự  bí  hiểm  lớn  đối  với  chúng  tôi. Nhà  thuật  sĩ  của  phương  Đông, chí  đến  nhà  truyền  nhân  điện  của  phương  Tây  đều  dùng  nó. Người  khai  triển  được  nó  sẽ  trở  thành  một  vị  anh  hùng; người  khác  làm  tê  liệt  nó, và  trở  thành  một  người  đồng  bóng. 
 
 Tác  dụng  vô  địch  của  nó  làm  cho  tất  cả  mọi  sinh  vật  ở  các  cơi  giới  vật  chất  đều  phải  chịu  khuất  phục, và  khi  có  cả  óc  tưởng  tượng  cùng  hoạt  động  đi  kèm, th́  nó  SÁNG  TẠO,bằng  cách  phóng  ra  ngoại  giới  những  h́nh  tư  tưởng  mới  tạo  nên.
 
 Như  vậy, mặc  dầu  ông  Felt  đă  bội  ước, và  chúng  tôi  không  thể  trông  cậy  nơi  một  cuộc  hành  tŕnh  trên  biển  lặng  song  êm, nhưng  chúng  tôi  vẫn  c̣n  nhiều  lănh  vực  cần  khảo  sát, và  chúng  tôi  cũng  đă  thăm  ḍ, thám  hiểm  những  lănh  vực  đó  ít  nhiều. 
 
 Nhũng  văn  khố  cũ  cho  biết  rằng  chúng  tôi  có  trắc  nghiệm  những  đồng  tử, thử  làm  những  cuộc  thí  nghiệm  về  các  môn  phản  xạ, đọc  tư  tưởng, truyền  nhân  điện, và  trao  đổi  thư  từ  với  các  báo  chí. Nhưng  chúng  tôi  đă  tiến  bước  rất  chậm, bởi  v́  mặc  dầu  tất  cả  mọi  người  đều  đồng  ư  là  phải  giữ  vững  tinh  thần, nhưng  trong  thâm  tâm  mỗi  người  đều  chán  nản  về  sự  thất  bại  của  ông  Felt.
 
 Và  dường  như  không  có  triển  vọng  t́m  người  thay  thế: Nhà  phù  thủy  làm  mưa, Signor B., đă  bị  bà  HPB   cấm  cửa  đến  nhà  sau  vụ  mưu  toan  gây  sự  chia  rẽ  giữa  chúng  tôi; người  khách  kỳ  lạ  đă  kêu  gọi  âm  binh  xuất  hiện  trước  mắt  tôi  không  c̣n  trở  lại  nữa; và  bà  HPB, mà  từ  nay  tất  cả  mọi  người  đều  trông  đợi  sự  giúp  đỡ, lại  từ  chối  không  chịu  làm  bất  cứ  một  hiện  tượng  nhỏ  nhặt  nào  nữa  trong  những  buổi  họp.
              
 Thế  là  số  hội  viên  cứ  thưa  thớt  lần  lần  cho  đến  khi, độ  một  năm  sau  đó, chỉ  c̣n  sót  lại  t́nh  trạng  sau  đây: cái  h́nh  thức  của  một  tổ  chức  tốt  với  một  chương  tŕnh  hoạt  động  phong  phú  và  lành  mạnh; một  tiếng  tăm  vang  dội  lẫy  lừng; vài  hội  viên  hững  hờ  tiêu  cực; và  một  trung  tâm  sinh  khí  dồi  dào  bất  tận  trong  niềm  hứng  khởi  cuồng  nhiệt  của  hai  người  bạn  đồng  môn, một  nam  một  nữ. 
 
 Họ  không  bao  giờ  có  chút  mảy  may  nghi  ngờ, dù  chỉ  trong một  lúc, sự  hiện  hữu  của  các  đấng  Chân  Sư, tính  cách  thiêng  liêng  cao  quư  của  công  việc  được  giao  phó  cho  họ, hay  sự  thành  công  hoàn  toàn, và  tối  hậu  của  công  việc  ấy.
 
 Ông  Judge  là  một  người  bạn  trung  thành  và  sẵn  sàng  trợ  giúp, nhưng  lại  quá  non  nớt  về  tŕnh  độ  tâm  linh  để  có  thể  được  coi  như  một  người  thứ  ba  trên  cương  vị  b́nh  đẳng  với  chúng  tôi. Mỗi  buổi  tối  sau  khi  chúng  tôi  đă  thiết  lập  Trụ  Sở  của  Hội  và  ổn  định  nơi  cư  trú, khi  các  quan  khách  đă  ra  về, bà  HPB  và  tôi  có  thói  quen  ngồi  mạn  đàm  và  hút  thuốc  nghỉ  ngơi  trước  khi  chia  tay. 
 
 Nhiều  khi  chúng  tôi  phải  bật  cười  mà  nghĩ  rằng thật là hiếm  có  thay  những  người  mà  chúng  tôi  có  thể  trông  cậy  để  cùng  sát  cánh  hợp  tác  với  chúng  tôi  qua  tất  cả  những  bước  thăng  trầm, ch́m  nổi  của  cuộc  đời.
 
 Điều  duy  nhất  mà  chúng  tôi  mỗi  lúc  càng  cảm  thấy  rơ  rệt  hơn  với  thời  gian  qua, là  hai  chúng  tôi  tuyệt  đối  có  thể  tùy  thuộc  lẫn  nhau  v́  lư  tưởng  phô  diễn  Đạo  Lư, dẫu  cho  trời  long  đất  lở  hay  đến  ngày  Tận  Thế. Những  kẻ  thù  nghịch  đôi  khi  đă  nói  rằng  khi  chúng  tôi  từ  giă  Mỹ  Quốc  lên  đường  sang  Ấn  Độ, th́  Hội  Thông  Thiên  Học  ở  Mỹ  cũng  không  c̣n.
 
  Điều  này  cũng  có  một  phần  đúng, v́  do  nhiều  nguyên  nhân, Hội  không  có  làm  ǵ  đáng  kể  trong  khoảng  thời  gian  sáu  năm  sau  đó. Cái  thành  phần  ṇng  cốt, vốn  luôn  luôn  là  yếu  tố  hữu  hiệu  nhất  trong  những  phong  trào  tương  tự, đă  bị  phân  tán; không  ai  có  thể  thiết  lập  một  thành  phần  cốt  cán  mới; người  ta  không  thể  tạo  nên  một  HPB  thứ  nh́; và ông  Judge, lúc  ấy  là  triển  vọng  tương  lai  duy  nhất  để  đóng  vai  tṛ  lănh  đạo  và  tổ  chức, lại  phải  lên  đường  sang  các  xứ  Nam  Mỹ  v́  hoạt  động  nghề  nghiệp.
             
 Tuy  nhiên, suốt  thời  gian  những  năm  ấy, những  bức  thư  của  ông  Judge  gởi  cho  chúng  tôi  cho  thấy  rằng  sự  nhiệt  thành  của  y  đối  với  Hội  Thông  Thiên  Học  và  các  vấn  đề  Huyền  Môn  vẫn  không  suy  giảm. Sự  mong  ước  lớn  nhất  của  y  là  trong  tương  lai  có  ngày  y  sẽ  được  tự  do  để  dành  hết  thời  giờ  và  sức  lực  vào  công  việc  của  Hội  Thông  Thiên  Học. 
 
 Nhưng, cũng  ví  như  hột  giống  cây  xa  trục  thảo  bị  chôn  vùi  sâu  trong  ḷng  đất, bắt  đầu  nẩy  mầm  khi  những  người  đào  giếng  bươi  nó  lên  khỏi  mặt  đất, th́  hột  giống  mà  chúng  tôi  gieo  trong  tâm  hồn  dân  chúng  Mỹ  trong  khoảng  thời  gian  giữa  những  năm  1874  và  1878, cũng  đă  nẩy  mầm  khi  thời  giờ  của  nó  đă  điểm; và  ông  Judge  là  người  có  cơ  duyên  tiền  định để  gặt  hái  kết  quả. Như  vậy, luật  Nhân  Quả  vẫn  luôn  luôn  tác  động  âm  thầm  để  chỉ  định  mỗi  vai  tṛ  khai  phá, gieo  giống  và  gặt  hái.
          
 Khả  năng  sinh  tồn  của  Hội  Thông  Thiên  Học  được  ủy  thác  cho  chúng  tôi  là  những  nhà  sáng  lập  trên  phương  diện  hữu  h́nh, nhưng  trên  khía  cạnh  vô  vi  huyền  diệu  th́  sự  sống  c̣n  của  Hội  vốn  đă  định  sẵn  nơi  cái  lư  tưởng  căn  bản  của  nó  và  nơi  các  đấng  Cao  Cả  thể  hiện  cái  lư  tưởng  ấy, các  ngài  đă  giáo  hóa  chúng  tôi  và  gieo  vào  tâm trí  chúng  tôi  ánh  sáng  thiện  chí  của  các  ngài. 
 
 V́  cả  hai  chúng  tôi  đă  nhận  thức  rơ  điều  ấy, và  v́  chúng  tôi  được  cái  ân  sủng  làm  việc  cho  Hội  và  hợp  tác  với  các  ngài, nên  giữa  hai  chúng  tôi  có  một  sợi  dây  liên  lạc  chặt  chẽ  mật  thiết  hơn  với  bất  cứ  mối  liên  hệ  thường  t́nh  nào  của  người  thế  gian.
 
 Điều  ấy  làm  cho  chúng  tôi  dung  ḥa  với  những  khuyết  điểm  của  nhau  và  chịu  đựng  tất  cả  những  sự  va  chạm  khổ  đau  đi  liền  với  sự  cộng  tác  giữa  hai  cá  tính  hoàn  toàn  tương  phản,  trái  ngược. Riêng  phần  tôi, nó  làm  cho  tôi  gạt  bỏ  như  những  vật  vô  giá  trị  tất  cả  những  mối  liên  hệ  trói  buộc  thường  t́nh  cùng  những  điều  mong  ước  và  tham  vọng  trần  gian. 
 
 Thật  vậy, trong  thâm  tâm  tôi  cảm  thấy  rằng  thà  làm  một  người  lao  công  giữ  cửa, hay  chí  đến  một  vai  tṛ  ti  tiện  thấp  kém  hơn  nữa  trong  công  việc  phụng  sự  Thiên  Cơ, c̣n  hơn  là  sống  trên  nhung  lụa  giữa  chốn  xa  hoa  đài  các  mà  cuộc  đời  có  thể  cung  hiến  cho  tôi.
 
 Bà  HPB  cũng  chia  sẻ  những  quan  niệm  của  tôi  và  niềm  hăng  say  phấn  khởi  vô  tận  của  bà  trong  công  việc  Đạo  Sự  là  một  tấm  gương  khích  lệ  cho  bất  cứ  người  nào  đến  tiếp  xúc  với  bà. 
 
 Khi  đă  cảm  nghĩ  như  thế, và  có  tư  thế  sẵn  sàng  làm  tất  cả  mọi  sự  hy  sinh  cho  lư  tưởng  như  trường  hợp  của  chúng  tôi, th́  sự  phá  sản  của  hội  Thông  Thiên  Học  chắc  chắn  là  một  điều  không  thể  xảy  ra.
 
 
 
 
 
         | 
        
       
        | Quay trở về đầu | 
         
          
         | 
        
       
       
        |   | 
       
        
         
         hiendde Hội Viên 
          
  
  Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
 Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
          | 
        
         
          
           | Msg 1119 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 7:47am | Đă lưu IP 
		     | 
                    
            		  
           | 
           
          
           
  | 
           
          
 
 
 
 HỒI KƯ H.S. OLCOTT 
 
 
 
 CHƯƠNG BẢY
 
 
 VÉN  MÀN  ISIS 
 
 I. Nếu  một  bộ  sách  có  thể  được  coi  như  đánh  dấu  một  giai  đoạn  lịch  sử, th́  đó  hẳn  là  bộ  sách  này. Xét  về  một  phương  đầu  tiên  của  Darwin  trên  một  phương  diện  khác. Cả  hai  đều  là  những  gịng  thủy  triều  lên  cao  trong  trào  lưu  tư  tưởng  cận  đại: 
 
 Mỗi  bộ  sách  này  đều  có  tác  dụng  tảo  trừ  những  điều  dị  đoan  sống  sượng  của  khoa  thần  học  và  thay  thế  đức  tin  nơi  phép  lạ  bằng  sự  tin  tưởng  nơi  định  luật  thiên  nhiên. Tuy  vậy, trường  hợp  khởi  đầu  viết  bộ  sách  này  cũng  rất  đơn  giản  và  b́nh  thường  chứ  không  có  ǵ  đặc  biệt.
 
 Một  ngày  nọ  vào  mùa  hè  năm  1875, bà  HPB  đưa  cho  tôi  xem  vài  tờ  bản  thảo  của  bà  viết, và  nói:
 
 “Tôi  viết  cái  này  đêm  hôm  qua, do “LỊNH  DẠY”, nhưng  để  dùng  làm  ǵ  th́  tôi  không  biết. Có  thể  dùng  làm  một  bài  báo, có  thể  để  làm  sách, cũng  có  thể  để  không  làm  ǵ  cả. Tuy   nhiên, tôi viết v́  tuân  lệnh  dạy  mà  thôi.”
 
 Rồi  đó, bà  cất  bản  thảo  đó  vào  một  hộc  tủ, và  không  nói  ǵ  đến  nó  nữa  trong  một  thời  gian. Nhưng  ít  tháng  sau  đó, bà  đi  Syracuse ( New York ) thăm  hai  người  bạn  mới  là  ông  bà  Corson, giáo  sư  trường  Đại  Học  Cornell, và  tiếp  tục  công  việc  viết  lách. Bà  viết  thư  cho  tôi  biết  đó  sẽ  là  quyển  sách  nói  về  lịch  sử  và  triết  học  của  các  Đạo  Phái  phương  Đông, và  những  mối  tương  quan  giữa  các  Đạo  Phái  ấy  với  những  môn  phái  của  thời  đại  bấy  giờ. 
 
 Bà  cho  biết  rằng  bà  viết  về  những  vấn  đề  mà  bà  chưa  bao  giờ  học, và  chú  thích  những  quyển  sách  mà  bà  chưa  từng  đọc  qua  trong  đời  bà. Bà  cho  biết  thêm  rằng, để  kiểm  chứng  những  điều  bà  viết, Giáo  Sư  Corson  đă  so  sánh  những  đoạn  chú  thích  của  bà  với  những  bộ  sách  cổ  điển  trong  thư  viện  của  trường  Đại  Học, th́  thấy  là  đúng.
          
 Khi  bà  trở  về  New  York, bà  không  chăm  chú  lắm  vào  công  việc  này, mà  chỉ  viết  một  cách  rời  rạc, không  liên  tục.  Nhưng  độ  một  hay  hai  tháng  sau  việc  thành  lập  Hội  Thông  Thiên  Học, bà  và  tôi  cùng  thuê  một  ngôi  nhà  hai  tầng  ở  đường  34th  West, bà  ở  tầng  dưới, tôi  ở  tầng  lầu  trên, từ  đó  trở  đi  công  việc  viết  bộ  Isis  mới  được  thực  hiện  liên  tục  không  gián  đoạn  cho  đến  khi  hoàn  thành  vào  năm  1877.
 
 Trong  suốt  cuộc  đời  bà, bà  chưa  từng  viết  văn  viết  sách  bao  giờ, tuy  thế  tôi  không  thấy  một  nhà  văn  hay  nhà  báo  nào  có  thể  làm  việc  một  cách  dẻo  dai  bền  bỉ  và  hăng  say  như  bà. Mỗi  ngày, bà  ngồi  vào  bàn  viết  từ  sáng  mai  cho  đến  khuya, tôi  với  bà  không  bao  giờ  đi  ngủ  trước  hai  giờ  sáng. 
 
 Lúc  ban  ngày, tôi  phải  làm  việc  nghề  nghiệp  riêng  của  tôi, nhưng  luôn  luôn  sau  bữa  cơm  chiều  là  chúng  tôi  ngồi  chung  lại  một  bàn  và  làm  việc  chẳng  khác  nào  như  người  ta  làm  giờ  phụ  trội  để  t́m  sống, cho  dến  khi  thân  xác  mỏi  mệt  bắt  buộc  chúng  tôi  phải  nghỉ.
 
 Thật  là  một  kinh  nghiệm  quư  báu  cho  tôi. Trong  khoảng  gần  hai  năm  đó, tôi  đă  học  hỏi  được  rất  nhiều  điều  mà  đáng  lẽ  người  ta  phải  dành  trọn  cả  một  đời  người  để  đọc  sách  và  suy  gẫm  mới  có  thể  đạt  được. Tôi  không  phải  chỉ  làm  công  việc  của  một  người  ghi  chép  hay  sửa  bài, mà  bà  làm  cho  tôi  trở  thành  một  cộng  tác  viên.
 
 Bà  làm  cho  tôi  phải  sử  dụng  tất  cả   những  ǵ  tôi  đă  đọc  và  suy  tư, và  kích  thích  bộ  óc  của  tôi  làm  việc  để  t́m  giải  đáp  cho  những  vấn  đề  mới  mà  bà  đặt  ra  cho  tôi  trên  địa  hạt  Huyền  Môn  và  siêu  h́nh. Những  vấn  đề  này  hoàn  toàn  vượt  ngoài  sự  học  hỏi  và  tầm  kiến  thức  của  tôi, mà  tôi  chỉ  có  thể  hiểu  được  lần  lần  khi  trực  giác  của  tôi  được  khai  mở  và  phát  triển  nhờ  bởi  phương  pháp  cưỡng  ép  đó.
 
 Bà không  viết  theo  một  chương  tŕnh  hay  kế  hoạch  định  sẵn, mà  những  ư  kiến  từ  đâu  tuôn  tràn  xuyên  qua  trí  óc  bà  như  gịng  suối  chảy  không  ngừng, trường  lưu  bất  tận. Có  khi   bà  đang  viết  về  đấng  Phạm  Thiên ( Brahma ), một  lát  sau  đó  bà  đă  xoay  qua  vấn  đề  hiện  tượng  điện  khí  của  Babinet. 
 
 Trong  một  lúc, bà  trịnh  trọng  chú  thích  lời  của  Đạo  Sư  Porphyry, kế  đó  bà  liền  trích  dẫn  một  đoạn  văn  rút  trong  một  tờ  báo  hằng  ngày, hay  trong  một  tập  văn  thư  mới  in  mà  tôi  vừa  đem  về  nhà. Có  khi  bà  đang  ca  tụng  những  đặc  tính  toàn  thiện  của  Chân  Sư, nhưng  một  lúc  sau  bà  đă  chuyển  vận  toàn  lực để  công  kích  nặng  nề  Giáo  Sư  Tyndall  hay  vài  nhà  học  giả  nào  đó  mà  bà ghét  nhất, bằng  những  cú  búa  nẩy  lửa!
 
 Nếu  bà  không  có  một  kế  hoạch  nhất  định, phải  chăng  điều  ấy  chứng  tỏ  rằng  công  việc  soạn  sách  này  không  phải  do  bà  dự  định  từ  trước, mà  bà  chỉ  là  một  đường  vận  hà để  cho  trào  lưu  tư  tưởng  mới  mẻ  độc  đáo  này  tác  động  ảnh  hưởng  đến  t́nh  trạng ứ  đọng  của  sự  sinh  hoạt  tâm  linh  đương  thời? 
 
 Như  một  phần  việc  huấn  luyện  cho  tôi, thỉnh  thoảng  bà  yêu  cầu  tôi  viết  một  đoạn  về  một  đề  tài  đặc  biệt  nào  đó, và  gợi  ư  cho  tôi  về  những  điểm  quan  trọng  cần  khai  triển, hoặc  bà  để  cho  tôi  tự  viết  lấy  với  sự  cố  gắng  tối  đa  để  sử  dụng  năng  khiếu  trực  giác  của  tôi. 
 
 Khi  tôi  đă  viết  xong, nếu  đoạn  văn  ấy  không  được  bà  vừa  ḷng, bà  thường  tỏ  dấu  bất  măn  bằng  cách  nói  nặng  lời, và  gọi  tôi  bằng  những  danh  từ  không  đẹp  có  tính  cách  khích  động  ḷng  tự  ái  đến  mức  có  thể  giết  người! Nhưng  khi  tôi  định  xé  bỏ  đoạn  văn  vô  phước  ấy, th́  bà  liền  giật  ngay  lấy  từ  trên  tay  tôi  để  dùng  ở  một  chương  khác  sau  khi  đă  sửa  chữa  lại  vài  chỗ, và  tôi  lại  bắt  tay  vào  việc.
 
 Kể  từ  ngày  tên  tuổi  bà  xuất  hiện  lần  đầu  tiên  trên  mặt  báo  Daily  Graphic, năm  1874  và  suốt  thời  gian  lưu  trú  tại  Mỹ  Quốc, bà  luôn  luôn  có  khách  đến  viếng. Nếu  trong  số  quan  khách, ngẫu  nhiên  có  người  nào  hiểu  biết  tinh  tường  về  một  vấn  đề  nào  đó  liên  quan  đến  ngành  hoạt  động  của  bà, bà  liền  tiếp  xúc  riêng  với  người  ấy  và  nếu  có  thể  được, bà  nhờ  y  viết  lại  những  quan  điểm  hay  kư  ức  của  y  trên  giấy  trắng  mực  đen  để  dùng  trong  quyển  sách  của  bà. 
 
 Trong  số  những  trường  hợp  thuộc  về  loại  này, có  bài  tường  thuật  của  ông  O’Sullivan  về  một  cuộc  biểu  diễn  phương  thuật  trong  một  buổi  họp  đàn  tại  Paris; sự  diễn  tả  lư  thú  những  cuộc  lễ  nhập  môn  huyền  bí  của  giống  dân  Druses  xứ  Liban, cùng  những  bài  vở  hấp  dẫn  của  Bác  Sĩ  A. Wilder, và  nhiều  người  khác  nữa  đă  đóng  góp  vào, làm  cho  bộ  sách  này  càng  tăng  thêm  phần  giá  trị  với  những  tài  liệu  vô  cùng  dồi  dào  phong  phú.
 
 Tôi  biết  một  vị  mục  sư  Do  Thái  đă  từng  trải  qua  nhiều  giờ  và  nhiều  đêm  để  thảo  luận  về  Huyền  Môn  Kabala  với  bà, và  nghe  chính  y  thú  nhận  rằng  tuy  y  đă  từng  khảo  cứu  phần  bí  truyền  của  tôn  giáo  y  trong  ba  mươi  năm, nhưng  bà  đă  dạy  y  những  điều  mà  y  chưa  từng  nghĩ  đến, và  đă  làm  sáng  tỏ  những  đoạn  kinh  mà  chính  những  bậc  thầy  của  y  cũng  không  hiểu  nổi! Vậy  chứ  những  kiến  thức  thâm  sâu  huyền  diệu  đó,  bà  đă  học  được  ở  đâu, hồi  nào, và  do  đâu  mà  có?
 
 Tất  nhiên  không  phải  do  các  bà  quản  gia  đă  dạy  bà  học  hồi  c̣n  thơ  ấu  ở  nước  Nga; cũng  không  phải  do  một  vị  giáo  sĩ  hay  thầy  học  nào  quen  thuộc  trong  gia  đ́nh; cũng  không  phải  bà  đă  học  trên  những  chuyến  tàu  hay  xe  lửa  trong  khi  bà  đi  châu  du  thiên  hạ  kể  từ  năm  mười  lăm  tuổi; cũng  không  phải  ở  một  trường  trung  học  hay  đại  học  nào, v́  bà  không  hề  thi  tốt  nghiệp  ở  một  trường  học  nào  cả; cũng  không  phải  ở  những  thư  viện  lớn  trên  thế  giới. 
 
 Nhận  xét  qua  những  cuộc  đàm  thoại  và  những  thói  quen  của  bà  trước  khi  bà  bắt  tay  vào  công  việc  trước  tác  khổng  lồ  này, th́  bà  không  hề  học  hỏi  qua  những  vấn  đề  ấy  bao  giờ  dù  rằng  xuất  xứ  từ  đâu. Nhưng  khi  bà  cần  đến  những  tài  liệu  đó, th́  bà  có  sẵn, và  trong  những  lúc  cảm  hứng  dồi  dào  nhất.
 
 Th́  bà  làm  cho  những  nhà  thông  thái  phải  khâm  phục  về  kiến  thức  sâu  rộng, cũng  như  bà  làm  cho  cử  tọa  quan  khách  phải  ngạc  nhiên  về  tài  hùng  biện  lưu  loát  cùng  sự  châm  biếm  hài  hước  và  trí  óc  thông  minh  tế  nhị  của  bà.
 
 Trong  khi  chúng  tôi  cùng  làm  việc  chung, tôi  sửa  chữa  mỗi  chương  bản  thảo  viết  tay  của  bà  nhiều  lần, và  mỗi  chương   sắp  chữ  in; tôi  viết  nhiều  đoạn  giùm  cho  bà, thường  là  viết  lại  thành  câu  những  ư  nghĩ  của  bà  cho  đúng  văn  phạm  Anh  Ngữ; tôi  giúp  bà  t́m  những  lời  trích  dẫn  trong  các  sách.
 
 Và  làm  những  việc  phụ  thuộc  khác. C̣n  th́  quyển  sách  vốn  là  công  tŕnh  của  bà, nói  về  việc  làm  trên  phương  diện  hữu  vi, thuộc  cơi  giới  vật  chất  hữu  h́nh, và  bà  phải  nhận  lănh  tất  cả  về  sự  khen  chê  về  những  khuyết  điểm  hay  ưu   điểm  của  nó.
 
 Bộ  “Vén  Màn  Isis” đă  ghi  dấu  một  thế  hệ  lịch  sử, và  khi  viết  bộ  sách  ấy, bà  cũng  giúp  cho  tôi  học  hỏi  được  rất  nhiều  giáo  lư  Huyền  Môn, và  chuẩn  bị  cho  tôi  có  đủ  khả  năng để  hoạt  động  truyền  bá  giáo  lư  Thông  Thiên  Học  trong  trên  hai  mươi  năm. 
 
 Vậy  bà  HPB  đă  lấy  tài  liệu  ở  đâu  để  viết  bộ  sách  đó, mà  phần  nhiều  người  ta  không  thể  t́m  thấy  trong  những  sách  vở  ở  các  thư  viện? Xin  nói  ngay  rằng  đó  là  do  sự  hỗ  trợ  của  phần  vô  vi, một  phần  do  sự  giao  cảm  huyền  diệu  với  các  đấng  Chân  Sư, và  một  phần  là  do  bà  tra  cứu  tài  liệu  trong  cơi  vô  h́nh, được  phản  ảnh  trên  chất  Tinh  Quang 
 
 (Akasha) hay  Tiên  Thiên  Khí  Ảnh, tức  là  kho  Kư  Ức  của  Thiên  Nhiên  trong  Càn  Khôn  Vũ  Trụ.
 
 Làm sao tôi biết  được  điều  này? Đó  là  nhờ  tôi  đă  cộng  tác  với  bà  trong  hai  năm  để  viết  bộ “Vén  Màn  ISIS”, và  nhiều  năm  sau  nữa  để  soạn  những  bộ  sách  khác  như “Giáo  Lư  Bí  Truyền” (Doctrine Secrète),v…v…
 
 Theo  dơi  mọi  động  tác  của  bà  trong  khi  làm  việc  là  một  kinh  nghiệm  hiếm  có  và  khó  quên. Chúng  tôi  thường  ngồi  đối  diện  nhau  bên  một  cái  bàn  lớn, và  tôi  có  thể  thấy  rơ  mọi  cử  chỉ  của  bà. Bà  viết  thao  thao  trên  một  trang  giấy, bỗng  nhiên   bà  ngừng  lại, ngước  mặt  lên  nh́n  vào  không  gian  với  đôi  mắt  trống  không  của  nhà  linh  thị  sử  dụng  cặp  mắt  thần.
 
 Đoạn, bà  thâu  ngắn  tầm  nhăn  quang  như  để  nh́n  vào  một  vật  vô  h́nh  trong  khoảng  không  ở  trước  mặt, và  bắt  đầu  chép  những  ǵ  bà  đă  thấy. Khi  đă  chép  xong  đoạn  văn  chú  thích, đôi  mắt  bà  trở  lại  khí  sắc  b́nh  thường, và  bà  tiếp  tục  viết  cho  đến  khi  bà  ngừng  lại  một  lần  nữa  giống  y  như  trước.
 
 Tôi  c̣n  nhớ  rơ  hai  lần  tôi  được  nh́n  thấy  và  cầm  trên  tay  những  quyển  sách  lạ  mà  bà  làm  cho  hiện  h́nh  trước  mắt  tôi  để  tôi  kiểm  chứng  lại  bản  thảo, khi  tôi  từ  chối  không  chịu phê  nhận  để  đưa  lên  máy  in  v́  có  chỗ  tôi  c̣n  nghi  ngờ  là  không  đúng. Tôi nói:
 
 “Tôi  không  thể  phê  nhận  câu  chú  thích  này, v́  tôi  chắc  là  bà  đă  chép  sai”.
 
 Bà nói:
 
 “Không  sao, vậy  là  đúng; hăy  cứ  để  nguyên  như  thế”.
 
 Tôi từ  chối, sau  cùng  bà  nói:
 
 “Vậy  ông  hăy  ngồi  yên  trong  một  phút, để  tôi  tra  lại”.
 
 Khi  đó  cái  nh́n  trống  không  lại  xuất  hiện  trên  cặp  mắt  bà; độ  một  lát, bà  chỉ  về  phía  cái  kệ  đặt  nơi  góc  pḥng, và  nói  bằng  một  giọng  trống  rỗng:
 
 “Ḱa, nh́n xem”.
 
 Kế đó bà trở  lại  khí  sắc  b́nh  thường:
 
 “Đấy, ở chỗ ấy đấy. Ông hăy tra lại  xem!”
 
 Tôi  bước  lại  chỗ  cái  kệ  và  thấy  hai  quyển  sách  lạ  mà  tôi  biết  chắc  là  trước  đó  không  hề  có  trong  nhà. Tôi  phối  kiểm  câu  chú  thích  của  bà  HPB  với  đoạn  văn  trong  sách, chỉ  cho  bà  thấy  chỗ  chép  sai, sửa  lại  bản  thảo, và  theo  lời  bà  yêu  cầu, đem  hai  quyển  sách  để  lại  chỗ  cũ. 
 
 Tôi  trở  lại  bàn  ngồi  làm   việc, và  sau  đó  một  lúc, tôi  quay  lại  nh́n  ngay  chỗ  cái  kệ, th́  thấy  hai  quyển  sách  đă  biến  mất! Sau  khi  tôi  kể  lại  chuyện  này, những  kẻ  hoài  nghi  ngu  dốt  có  thể  nghi  ngờ  sự  sáng  suốt  lành  mạnh  của  tôi; tôi  hy  vọng  nó  sẽ  hữu  ích  cho  họ. 
 
 Sự  việc  này  lại  tái  diễn  một  lần  thừ  hai  trong  trường  hợp  tương  tự, nhưng  lần  này  quyển  sách  không  biến  mất  mà  vẫn  c̣n  ở  lại  với  chúng  tôi  cho  đến  ngày  nay.
 
 
 
 
 
         | 
        
       
        | Quay trở về đầu | 
         
          
         | 
        
       
       
        |   | 
       
        
         
         hiendde Hội Viên 
          
  
  Đă tham gia: 02 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
 Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2589
          | 
        
         
          
           | Msg 1120 of 1146: Đă gửi: 17 March 2011 lúc 7:55am | Đă lưu IP 
		     | 
                    
            		  
           | 
           
          
           
  | 
           
          
 
 
 HỒI KƯ H.S. OLCOTT 
 
 
 
 II. Bản  nháp  viết  tay  của  bà  HPB  có  nhiều  khi  rất  khác  biệt  nhau  một  cách  rơ  rệt. Tuồng  chữ  của  bà  có  một  tính  cách  lạ  lung  đặc  biệt, mà  người  nào  đă  từng  quen  đọc  tuồng  chữ  ấy  luôn  luôn  có  thể  nhận  ra  ngay  là  chữ  viết  của  bà. 
 
 Tuy  nhiên, nếu  quan  sát  kỹ  lưỡng, người  ta  sẽ  phát  hiện  ra  ít  nhất  ba  hay  bốn  lối  viết  khác  nhau  tuy  rằng  của  một  tuồng  chữ  và  mỗi  lối  viết  như  thế  kéo  dài  trên  nhiều  trang  giấy, trước  khi  đổi  qua  lối  viết  khác.
 
 Một  lối  viết  đó  của  bà  HPB  nét  chữ  rất  nhỏ  nhưng  đều  đặn; một  lối  khác  nét  đậm  và  tự  do  phóng  túng; một  lối  khác nữa  nét  vừa  phải  và  dễ  đọc; và  một  lối  nữa  chữ  viết  rất  tháu  và  khó  đọc. Về  cách  hành  văn  cũng  vậy, những  lối  chữ  khác  biệt  như  trên  cũng  kèm  theo  với  sự  sai  biệt  về  văn  phạm  Anh  Ngữ.
 
 Có  khi  tôi  phải  sửa  chữa  nhiều  chỗ  trong  một  gịng  chữ, nhưng  lại  có  khi  tôi  có  thể  thông  qua  suốt  nhiều  trang  mà  không  cần  sửa  chữa  một  chữ  nào. Hoàn  toàn  nhất  là  những  trang  bản  thảo  được  viết  thay  cho  bà  trong  khi  bà  ngủ. Một  thí  dụ  điển  h́nh  là  đoạn  đầu  của  Chương  nói  về  nền  văn  minh  cổ  Ai  Cập. 
 
 Đêm  đó, như  thường  lệ  chúng  tôi  làm  việc  đến  hai  giờ  sáng, cả  hai  đều  mệt  nhoài, bèn  ngưng  công  việc  để  vừa  hút  thuốc  vừa  mạn  đàm  trước  khi  chia  tay. Bà  th́  hầu  như  ngủ  gật  ngay  trên  ghế  bành, c̣n  tôi  chúc  bà  yên  giấc  và  lui  về  pḥng  tôi  trên  lầu. 
 
 Sáng  hôm  sau, khi  tôi  đă  ăn  điểm  tâm  xong  và  bước  xuống  pḥng  khách, bà  đưa  cho  tôi  xem  một  chồng  bản  thảo  độ  ba  mươi  đến  bốn  mươi  trang  giấy  viết  tay  bằng  tuồng  chữ  của  bà, mà  bà  nói  rằng  của  vị  Chân  Sư  X….  viết  cho  bà  đêm  qua. Tập  bản  thảo  đó  hoàn  toàn  về  tất  cả  mọi  phương  diện, và  được  đưa  lên  khuôn  mà  không  cần  phải  duyệt  xét  lại.
 
 Có  điều  lạ, là  mỗi  lần  có  sự  khác  biệt  những  tuồng  chữ  viết  như  thế  đều  xảy  ra  sau  khi  bà  HPB  rời  khơi  pḥng  độ  một  lúc, hay  bước  vào  trạng  thái  xuất  thần  khi  đó  đôi  mắt  trống  rỗng  của  bà  nh́n  vào  cơi  xa  xăm  nào  và  lại  trở  về trạng  thái  b́nh  thường  ngay  sau  đó. 
 
 Ngoài  ra, c̣n  có  một  sự  thay  đổi  rơ  rệt  về  cá  tính, tác  phong, giọng  nói, cử  chỉ  và  trên  hết  mọi  sự, về  tính  khí  thất  thường: khi  bà  rời  khỏi  pḥng, bà  là  một  nhân  vật  như  thế  nào  đó; một  lát  sau  khi  trở  lại  chỗ  ngồi, bà  lại  là  một  nhân  vật  khác. Khác  đây  không  phải  nói  là  bà  thay  đổi  cái  thể  xác  hữu  h́nh, mà  khác  về  cử  chỉ, tác  phong, ngôn  ngữ, cách  điệu.
 
 Cũng  khác  về  sự  linh  mẫn  của  trí  óc, về  quan  điểm  đối  với  sự  đời, khác  về  cách  sử  dụng  Anh  ngữ, và  có  điều  này  rất  đặc  biệt, là  khác  hẳn  về  khí  chất: khi  sáng  sủa  lành  mạnh  bà  có  vẻ  từ  bi, khả  ái  như  thiên  thần; và  trong  những  cơn  khủng  hoảng  thịnh  nộ, th́  lại…trái  ngược  hẳn.
 
 Có  khi  tôi  viết  lại  thành  câu  không  đúng  như  ư  bà  muốn  tŕnh  bày, bà  kiên  nhẫn  bỏ  qua  một  cách  ưu  ái, vô  tư; những  lúc  khác, v́  một  lỗi  lầm  nhỏ  nhặt  không  đáng  kể, bà  dường  như  nổi  cơn  thịnh  nộ  và  muốn  thủ  tiêu  tôi  ngay  tại  chỗ! 
 
 Những  cơn  bạo  khí  đó  đôi  khi  có  thể  giải  thích  bởi  t́nh  trạng  sức  khỏe  của  bà, và  đó  chỉ  là  sự  thường  t́nh, nhưng  lư  do  đó  cũng  không  đủ  vững  để  giải  thích  vài  cơn  giận  dữ  khác. B́nh  phẩm  về  tính  cách  bất  thường  này  của  bà  HPB, ông  Sinnet(Phó  Hội  Trưởng  Hội  Thông  Thiên  Học) viết:
 
 “BÀ  HẲN  LÀ  KHÔNG  CÓ  NHỮNG  ĐỨC  TÍNH  MÀ  NGƯỜI  TA  TRÔNG  ĐỢI  NƠI  MỘT  VỊ  ĐẠO  SƯ. LÀM  SAO  MÀ  BÀ  LẠI  VỪA  CÓ  TINH  THẦN  CỦA  MỘT  TRIẾT  GIA, TỪ  BỎ  CUỘC  ĐỜI  THẾ  GIAN  ĐỂ  DỐC  L̉NG  TẦM  ĐẠO, NHƯNG  ĐỒNG  THỜI  LẠI  CÓ  THỂ  RƠI  VÀO  NHỮNG  CƠN  NÓNG  GIẬN  V̀  NHỮNG  SỰ  BỰC  M̀NH  NHỎ  NHẶT  KHÔNG  ĐÂU, ĐÓ  LÀ  MỘT  ĐIỀU  BÍ  HIỂM  RẤT  KHÓ  HIỂU  ĐỐI  VỚI  CHÚNG  TA,V…V….”
 
 Tuy  nhiên, hăy  giả  thiết  rằng  khi  mà  xác  thân  của  bà  được  một  bậc  hiền  giả  thánh  đức  sử  dụng, th́  nó  bắt  buộc  phải  hành  động  với  sự  b́nh  tĩnh, điềm  nhiên  của  nhà  hiền  giả, c̣n  nếu  không, th́  không, chừng  đó  điều  bí  hiểm  kia  đă  được  giải  đáp. Chính  bà  đă  diễn  tả  kinh  nghiệm  huyền  linh  này  khi  viết  bộ “Vén  Màn  Isis”, trong  một  bức  thư  gởi  về  cho  gia  đ́nh  như  sau:
 
 “KHI  TÔI  VIẾT  BỘ  ISIS, TÔI  VIẾT  RẤT  DỄ  DÀNG  ĐẾN  NỖI  ĐÓ  KHÔNG  PHẢI  LÀ  MỘT  SỰ  KHÓ  NHỌC  NỮA, MÀ  LÀ  MỘT  ĐIỀU  VUI  THÍCH  THẬT  SỰ. CÓ G̀ ĐÂU  MÀ  NGƯỜI  TA  KHEN  TẶNG  TÔI?  KHI  ĐƯỢC  LỆNH  DẠY  TÔI  VIẾT,TÔI  NGỒI  XUỐNG  VÀ  VÂNG  THEO  LỜI, VÀ  KHI  ĐÓ  TÔI  CÓ  THỂ  VIẾT  DỄ  DÀNG  VỀ  BẤT  CỨ  VẤN  ĐỀ  G̀: SIÊU  H̀NH  HỌC,  TÂM  LƯ  HỌC, TRIẾT  HỌC, TÔN  GIÁO, VẠN  VẬT  HỌC, TỰ  NHIÊN  HỌC, VÀ  V…V….
 
 TÔI  KHÔNG  HỀ  TỰ  ĐẶT  NGHI  VẤN: “ TÔI  CÓ  THỂ  VIẾT  VỀ  VẤN  ĐỀ  NÀY  CHĂNG?”, HAY  LÀ:  “TÔI  CÓ  ĐỦ  SỨC  VIẾT  CHĂNG?”, MÀ TÔI  CHỈ  NGỒI  XUỐNG  VÀ  VIẾT, VẬY  THÔI. BỞI  V̀  CÓ  MỘT  ĐẤNG  TOÀN  THÔNG, BIẾT  HẾT  CẢ  MỌI  SỰ, ĐỌC  CHO  TÔI  VIẾT. ĐÓ  LÀ  SƯ  PHỤ  TÔI, VÀ  ĐÔI  KHI  CŨNG  CÓ  NHỮNG  VỊ  CHÂN  SƯ  KHÁC  NỮA  MÀ  TÔI  ĐƯỢC  BIẾT  TRONG  NHỮNG  CHUYẾN  ĐI  NGAO  DU  THIÊN  HẠ  TỪ  NHIỀU  NĂM  VỀ  TRƯỚC….
 
 MỖI  KHI  TÔI  VIẾT  VỀ  MỘT  ĐỀ  TÀI  MÀ  TÔI  CHỈ  BIẾT  ÍT, HOẶC  KHÔNG  BIẾT  G̀  CẢ, TÔI  BÈN  KÊU  GỌI  ĐẾN  CÁC  NGÀI, VÀ  MỘT  VỊ  CHÂN  SƯ  GIÚP  NGUỒN  CẢM  HỨNG  CHO  TÔI, NGHĨA  LÀ  NGÀI  ĐỂ  CHO  TÔI  CHÉP  NHỮNG  G̀  TÔI  NH̀N  THẤY  TRONG  CÁC  BỘ  SÁCH  CỔ  TỰ  HAY  CHỮ  IN  HIỆN  RA  TRƯỚC  MẮT  TÔI  TRONG  KHÔNG  GIAN, TRONG  KHI  ĐÓ  TÔI  HOÀN  TOÀN  THỨC  TỈNH, VÀ  KHÔNG  HỀ  MÊ  MUỘI  DẦU  CHỈ  TRONG  CHỐC  LÁT”.
 
 Có  lần  bà viết  thư  cho  chị  ruột  bà  ở  Nga  là  bà  Veracũng  về  vấn  đề  ấy  như  sau:
 
 “CHỊ  CÓ  THỂ  KHÔNG  TIN  TÔI, NHƯNG  TÔI  CHO  CHỊ  BIẾT  RẰNG  KHI  TÔI  NÓI  ĐIỀU  NÀY, TÔI  CHỈ  NÓI  SỰ  THẬT. TÔI  CHỈ  BẬN  RỘN, KHÔNG  PHẢI  VỚI  BỘ  “VÉN  MÀN  ISIS”, MÀ  CHÍNH  LÀ  VỚI  NỮ  THẦN  ISIS  VẬY. TÔI  SỐNG  TRONG  MỘT  CẢNH  GIỚI  MÊ  LY  TRƯỜNG  CỬU, MỘT  CUỘC  SỐNG  TRONG  CẢNH  GIỚI  LINH  ẢNH  THƯỜNG  XUYÊN  LUÔN  LUÔN  THỨC  TỈNH  VỚI  ĐÔI  MẮT  MỞ  LỚN  VÀ  TUYỆT  NHIÊN  KHÔNG  CÓ  G̀  LÀM  PHỈNH  LỪA  NHỮNG  GIÁC  QUAN  CỦA  TÔI! TÔI  NGỒI  VÀ  THEO  DƠI  THƯỜNG  XUYÊN  VỊ  NỮ  THẦN  AI  CẬP.  
 
 VÀ  TRONG  KHI  NỮ  THẦN  PHƠI  BÀY  TRƯỚC  MẮT  TÔI  CÁI  Ư  NGHĨA  ẨN  DẤU  CỦA  NHỮNG  ĐIỀU  BÍ  NHIỆM  ĐĂ  BỊ  MẤT  ĐI  TỪ  LÂU  ĐỜI, VÀ  BỨC  MÀN  CHE  DẤU  CÀNG  TRỞ  NÊN  MỎNG  DẦN  VÀ  THƯA  DẦN  VỚI  GIỜ  PHÚT  TRÔI  QUA, RỒI  TỪ  TỪ  RƠI  XUỐNG  TRƯỚC  MẮT  TÔI, TÔI  NÍN  THỞ  TRONG  CƠN  KINH  NGẠC  VÀ  KHÔNG  C̉N  TIN  NƠI  NHỮNG  GIÁC  QUAN  CỦA  TÔI!...
 
 ….TRONG  NHIỀU  NĂM  LIÊN  TIẾP, ĐỂ  CHO  TÔI  KHÔNG QUÊN  NHỮNG  G̀  TÔI  ĐĂ  HỌC. TÔI  ĐƯỢC  LÀM  CHO  THẤY  THƯỜNG  XUYÊN  NGAY  TRƯỚC  MẮT  TÔI  TẤT  CẢ  NHỮNG  G̀  TÔI  CẦN  THẤY.
 
 BẰNG  CÁCH  ĐÓ, BẤT  CỨ  NGÀY  ĐÊM, NHỮNG  H̀NH  ẢNH  CỦA  QUÁ  KHỨ LUÔN LUÔN  ĐƯỢC  TR̀NH  DIỄN  LINH  ĐỘNG  TRƯỚC  NHĂN  QUANG  TÂM  LINH  CỦA  TÔI. TỪ  TỪ  CHẬM  RĂI, VÀ NỐI  TIẾP  NHAU  TRONG  IM  LẶNG  GIỐNG  NHƯ  NHỮNG  H̀NH  ẢNH  CỦA  MỘT  CUỐN  PHIM  CHỚP  BÓNG  DIỆU  HUYỀN, NHỮNG  BIẾN  CỐ  LỊCH  SỬ  TỪ  THẾ  KỶ  NÀY  ĐẾN  THẾ  KỶ  KHÁC  XUẤT  HIỆN  NGAY  TRƯỚC  MẮT  TÔI….
 
 TÔI  ĐƯỢC  KHUYẾN  KHÍCH  NỐI  LIỀN  NHỮNG  THẾ  HỆ  ĐÓ  VỚI  VÀI  BIẾN  CỐ  QUAN  TRỌNG  KHÁC, VÀ  TÔI  BIẾT  RẰNG  KHÔNG  THỂ  CÓ  SỰ  SAI  LẦM. CÁC  CHỦNG  TỘC  VÀ  QUỐC  GIA, NHỮNG  XỨ  SỞ  VÀ  THÀNH  PHỐ  CỦA  MỘT  THẾ  KỶ  QUÁ  KHỨ  NÀO  ĐÓ  XUẤT  HIỆN, RỒI  LU  MỜ  DẦN  VÀ  BIỆT  TÍCH  TRONG  MỘT  THẾ  KỶ  KHÁC  MÀ  THỜI  ĐIỂM
 
 CHÍNH  XÁC  ĐƯỢC  CHÂN  SƯ  CHO  TÔI  BIẾT…..
 
 DĨ  VĂNG  MẬP  MỜ  CỦA  THỜI  CỔ  XƯA  BIẾN  THÀNH  NHỮNG  THỜI  KỲ  LỊCH  SỬ, NHỮNG  HUYỀN  THOẠI  ĐƯỢC  GIẢI   THÍCH  BẰNG  NHỮNG  BIẾN  CỐ  VÀ  NHÂN  VẬT  THẬT  SỰ  ĐĂ   TỪNG  SỐNG  TRONG  CÁC  THỜI  KỲ  ĐÓ. 
 
 MỖI  BIẾN  CỐ  QUAN  TRỌNG  VÀ  THƯỜNG  LÀ  KHÔNG  QUAN  TRỌNG, MỖI  CUỘC  CÁCH  MẠNG, MỘT  TRANG  MỚI  LẬT  QUA  TRONG  QUYỂN  SÁCH  CỦA  ĐỜI  NGƯỜI  VÀ  CỦA  CÁC  QUỐC  GIA  TRÊN  THẾ  GIỚI  ĐỀU  LƯU  LẠI  DẤU  VẾT  NHƯ  CHỤP  ẢNH  VÀ  DƯỜNG  NHƯ  ĐƯỢC  KHẮC  IN TRONG  TRÍ  TÔI  VỚI  NHỮNG  MÀU  SẮC  RƠ  RỆT  KHÔNG  THỂ  PHAI  MỜ…
 
 …..TÔI  NÓI  MỘT  CÁCH  NGHIÊM  CHỈNH  CHO  CHỊ  BIẾT  RẰNG  TÔI  ĐƯỢC  TRỢ  GIÚP. VÀ  NGƯỜI  TRỢ  GIÚP  TÔI  ĐÓ  LÀ  SƯ  PHỤ  CỦA  TÔI”.
 
 Trong  một  bức  thư  gởi  về  nhà  cho  bà  cô  ruột, bà  cho  biết  rằng:
 
 “KHI  SƯ  PHỤ  TÔI  VẮNG  MẶT  V̀  BẬN  RỘN  VỚI  NHỮNG  CÔNG  VIỆC  KHÁC, NGÀI  LÀM  THỨC  ĐỘNG  CHÂN  NGĂ  CỦA  TÔI  ĐỂ  VIẾT  THAY  CHO  NGÀI…. NHỮNG  LÚC  ĐÓ, KHÔNG  PHẢI  LÀ  TÔI  VIẾT  NỮA  MÀ  CHÂN  NGĂ  CỦA  TÔI  SUY  TƯ  VÀ  VIẾT  THAY  CHO  TÔI. CÔ  THỬ  NGHĨ  XEM, TÔI  ĐÂU  CÓ  HỌC  LỰC  UYÊN  THÂM  BAO  GIỜ  MÀ  VIẾT  ĐƯỢC  NHỮNG  VẤN  ĐỀ  ẤY. VẬY  TH̀  NHữNG  KIẾN  THỨC  ĐÓ  CỦA  TÔI  DO  ĐÂU  MÀ  RA?......”
 
 Trong  những  thư  khác  gởi  về  cho  gia  đ́nh, bà  cũng  nh́n  nhận  rằng  có  những  lúc  bà  được  các  Chân  Sư  mượn  xác  để  viết  giúp  bà. Các  ngài  cũng  dùng  phương  pháp  đó  để  dạy  Đạo  cho  tôi  qua  cửa  miệng  của  bà, và  đưa  ra  những  giáo  lư  thâm  sâu  mà  bà  không  hề  biết  được  mảy  may  trong  trạng  thái  b́nh  thường.
 
 Chúng  tôi  đă  cùng  nhau  làm  việc  trong  nhiều  tháng  và  đă  sản  xuất  được  trên  870  trang  bản  thảo,  th́  một  ngày  nọ  bà  HPB  hỏi tôi  rằng, để  thi hành  ư  muốn  của  Chân  Sư, tôi  có  sẵn  ḷng  chăng  để  bắt  đầu  làm  lại  tất  cả! 
 
 Tôi  c̣n  nhớ  rơ  cơn  xúc  động  mạnh  mà  việc  ấy  đă  gây  cho  tôi, khi  nghĩ  rằng  tất  cả  những  tuần  lễ  nhọc  nhằn  lao khổ  thức  đêm  làm  việc, với  bao  nhiêu  cơn  song  gió  ồ  ạt  trên  phương  diện  tinh  thần, rốt  cuộc  chỉ  là  con  số  không!  
 
 Tuy  nhiên, v́  ḷng  kính  yêu  và  biết  ơn  của  tôi  đối  với  các  đấng  Chân  Sư  vốn  tuyệt  đối  và  vô  biên, v́  các  ngài  đă  cho  tôi  cái  đặc  ân  cùng  chia  xẻ  công  việc  của  các  ngài, nên  tôi  vui  ḷng  chấp  nhận  và  chúng  tôi  lại  bắt  đầu  làm  lại  hết  tất  cả. Quyết  định  ấy  rất  thuận  lợi  cho  tôi, v́  nó  chứng  tỏ  ḷng  trung  kiên  và  nhất  trí  của  tôi  với  bà  HPB.
 
 Nên  tôi  được  thọ  lănh  một  phần  thưởng  tâm  linh  dồi  dào. Những  nguyên  tắc  Huyền  Môn  được  các  ngài  giải  thích  cho  tôi  biết, vô số  những  thí  dụ  điển  h́nh  được  tŕnh  bày  cho  tôi  thấy  bằng  những  hiện  tượng  thần  thông, tôi  được  trợ  giúp  để  tự  ḿnh  thí  nghiệm  lấy  những  điều  đă  học hỏi.
 
 Được  giao  tiếp  với  nhiều  vị  Chân  Sư, và nói  chung, tôi  được  chuẩn  bị  đầy  đủ  cho  một  công  việc  đại  sự  lớn  lao  trong tương  lai  mà  hồi  ấy  tôi  không  thể  ngờ  trước  được, nhưng  về  sau  đă trở  thành  một  vấn  đề  lịch  sử.
 
 Người  ta  thường  nói  thật  là  một  điều  rất  lạ  lùng, và  rất  khó  hiểu, khi  thấy  rằng  trong  số  tất  cả  những  người  đă  trợ  giúp  vào  phong  trào  Thông  Thiên  Học, thường  là  với  những  hy  sinh  lớn  lao  nhất, tôi  lại  là  người  duy  nhất  được cái  ân  sủng có  những  mối  liên hệ  và  tiếp  xúc  cá  nhân  với  các  đấng  Chân  Sư.
 
 Đến  nỗi  sự  hiện  diện  của  các  ngài  vốn  là  một  vấn  đề  mà  tôi  biết  rơ  một  cách  thật  sự  chảng  khác  nào  như  sự  hiện  hữu  của  những  người  trong  gia  đ́nh  hay  bạn  bè  thân  quyến  của  tôi. Chính  tôi  cũng  không  giải  thích  được  điều  đó. Tôi  biết  những  ǵ  tôi  biết, chứ  không  biết  rằng  tại  sao  nhiều  bạn  đồng  môn  của   tôi  không  được  như  vậy.
 
 Nhiều  người  đă  nói  cho  tôi  biết  rằng  họ  đặt  đức  tin  nơi  các  đấng  Chân  Sư  nhờ  bởi  sự  chứng  minh  chắc  chắn  và  không  thể  nghi  ngờ  qua  kinh  nghiệm  bản  thân  của  tôi, nó  cũng  bổ   túc  thêm  vào  những  lời  tuyên  bố  của  bà  HPB. 
 
 Có  lẽ  tôi  được  cái  đặc  ân  đó  bởi  v́  tôi  phải  phóng  con  thuyền  Thông  Thiên  Học  cùng  với  bà  HPB  cho  các  đấng  Chân  Sư  của  bà, và  lái  con  thuyền  đó  xuyên  qua  bao  nhiêu  những  cơn  giông  tố  băo  bùng,  khi  mà  chỉ  có  một  sự  hiểu  biết  chắc  chắn  về  cái  căn  bản  lành  mạnh  của  phong  trào  này  mới  có  thể  làm  cho  tôi  bám  sát  lấy  nhiệm  sở  và  giữ  vững  vai  tṛ  của  tôi  cho  đến  cùng.
 
 
 
 
         | 
        
       
        | Quay trở về đầu | 
         
          
         | 
        
       
       
        |   |       
      | 
    
   
  |