thiennhan Thượng Khách
Đă tham gia: 21 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 31
|
Msg 1 of 1: Đă gửi: 01 July 2010 lúc 5:03am | Đă lưu IP
|
|
|
KINH
PHÁP BẢO ĐÀN Lục Tổ Huệ Năng
Bản dịch: HT Thích Măn Giác
1. Đại sư
Huệ Năng lên ṭa cao trong giảng đường chùa Đại
Phạm giảng giáo lư Bát nhă Ba la mật và truyền Vô tướng giới. Lúc ấy
dưới ṭa
có trên mười ngàn Tăng, Ni, đạo, tục. Thiều Châu thứ sử Vi Cứ cùng hơn
ba mươi
vị quan liêu và trên ba mươi nho sĩ đều thỉnh Đại sư giảng giáo lư Bát
nhă Ba
la mật. Thứ sử c̣n bảo môn nhân tăng Pháp Hải ghi chép lại ngơ hầu lưu
truyền
cho đời sau để cho những người học đạo noi theo tông chỉ này mà truyền
thọ cho
nhau, coi những lời dạy này là nơi nương tựa.
2. Đại sư
Huệ Năng nói:
-
Các thiện tri thức, hăy tịnh tâm ḿnh mà tập trung vào giáo lư Bát nhă
Ba la
mật.
Rồi
Đại sư im lặng, tự tịnh tâm thần ḿnh. Hồi lâu sau mới nói tiếp:
-
Các thiện tri thức, xin im lặng lắng nghe. Cha hiền của Huệ Năng vốn là
một
quan viên ở Phạm Dương, sau đó người bị giáng chức và phạt làm thường
dân ở Tân
Châu Lĩnh Nam. Lúc Huệ Năng c̣n nhỏ, cha mất sớm mẹ già và con thơ dọn
về Nam
Hải. Gian khổ nghèo nàn đến mức phải đi bán củi ngoài chợ. Hốt nhiên có
một
người khách mua củi, bảo Huệ Năng gánh theo về ngôi khách điếm dành cho
các
quan viên kia. Sau khi khách lấy củi đi rồi, Huệ Năng được tiền đang
bước ra
cửa, th́ bỗng gặp một vị khách khác đang tụng kinh Kim Cang.
Huệ
Năng vừa nghe thấy tâm đă bừng sáng giác ngộ. Huệ Năng tôi bèn hỏi người
khách:
-
Ngài từ đâu tới mà tŕ tụng kinh này vậy ?
Khách
cười đáp:
-
Tôi đă bái kiến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Ḥa thượng ở Đông Phùng Mộ Sơn, Hoàng
Mai
huyện Kỳ Châu. Hiện giờ ở đó môn nhân của ngài có hơn một ngàn người.
Lúc c̣n ở
đó, tôi từng nghe ngài khuyên các đồ đệ Tăng cũng như tục, rằng chỉ cần
tŕ một
quyển kinh Kim Cang là thế nào cũng được kiến tánh thành Phật rốt ráo.
Huệ
Năng tôi nghe nói thế, biết rằng ḿnh có duyên từ kiếp trước, bèn từ giă
mẫu
thân đến ngay Phùng Mộ Sơn ở huyện Hoàng Mai, để bái lạy Ngũ Tổ Hoằng
Nhẫn Ḥa
thượng.
3. Hoằng
Nhẫn Ḥa thượng hỏi Huệ Năng:
- Chú là
người phương nào mà đến núi này bái lạy ta ? Nay chú đến đây với mục
đích cầu
cái ǵ vậy ?.
Huệ Năng
đáp:
- Đệ tử
là
người Lĩnh Nam, vốn chỉ là một tên thường dân ở Tân Châu. Nay lặn lội từ
phương
xa đến bái lạy Ḥa thượng, không để cầu vật ǵ khác mà chỉ cầu Phật pháp
(đạo) thôi.
Đại sư
bèn
quở Huệ Năng rằng:
- Chú là
dân Lĩnh Nam vốn là đồ mọi rợ, làm thế nào mà thành Phật cho được ?.
Huệ Năng
nói:
- Con
người
tuy có Nam Bắc Phật tánh lại chẳng có Bắc Nam. Tuy thân mọi rợ
này không
giống với thân Ḥa thượng, Phật tánh trong chúng ta có ǵ là sai biệt ?.
Đại sư
đang
định bàn luận thêm, song chợt nh́n thấy chung quanh có người, ngài bèn
thôi
không nói nữa mà chỉ khiến tôi đi theo chúng để làm việc. Lúc ấy có một
hành
giả dẫn Huệ Năng vào pḥng giă gạo và Huệ Năng tôi đạp máy giă gạo ở đó
suốt
tám tháng trời.
4. Một
hôm, bỗng nhiên Ngũ Tổ cho gọi tất cả các môn nhân
lên. Sau khi họ đă tụ tập đầy đủ, Ngũ Tổ nói:
- Để tôi
nói cho các ông nghe, đối với người đời th́ sanh tử là việc lớn, song
môn nhân
các ông suốt ngày cúng dường, chỉ cầu phước điền mà chẳng cầu việc xuất
ly khỏi
biển khổ sanh tử. Nếu tự tánh của các ông mà mê mờ th́ phước cũng chẳng
làm sao
mà cứu các ông được. Các ông mau quay về pḥng tự nh́n vào chính ḿnh,
người
nào có trí tuệ chắc chắn sẽ nắm bắt được cái bản tánh của trí Bát nhă,
rồi mỗi
người làm một bài kệ tŕnh lên cho tôi xem. Tôi sẽ đọc kệ của các ông,
nếu như
có người nào giác ngộ được đại ư của Phật pháp, tôi sẽ trao lại y pháp
cho
người ấy và tuyên dương làm vị Tổ thứ sáu. Các ông mau lên cho.
5. Sau
khi được phân phó, các môn nhân ai nấy quay về
pḥng ḿnh rồi bàn bạc với nhau rằng:
- Chúng
ḿnh chẳng cần tịnh tâm cố gắng làm kệ tŕnh lên cho Ḥa thượng để làm
ǵ,
Thượng tọa Thần Tú là giáo thọ sư, sau khi ngài đắc pháp rồi, chúng ḿnh
có thể
nương cậy vào ngài, xin đừng ai làm kệ làm ǵ.
Ai nấy
cũng
đều hết có ư muốn cố gắng làm kệ. Lúc ấy, trước pḥng của Đại sư có một
hàng
hiên ba gian. Trên tường dưới hành lang được dành ra để dự định cho vẽ
h́nh về
những mẩu chuyện và giáo lư của kinh Lăng Già, cũng như việc Ngũ Tổ Đại
sư
truyền thọ y pháp để lưu lại cho đời sau ghi nhớ. Họa sư Lư Trân đă xem
xét
vách tường và chuẩn bị hôm sau ra tay.
6. Thượng
tọa Thần Tú suy nghĩ :
- Mọi
người
không ai tŕnh tâm kệ cả, bởi v́ ḿnh là giáo thọ sư của họ. Nếu như
ḿnh không
tŕnh tâm kệ, làm sao mà Ngũ Tổ có thể thẩm định được kiến giải trong
tâm minh
thâm thiển ra sao. Nếu minh tŕnh tâm kệ lên Ngũ Tổ với ư định cầu làm
Tổ, th́
là việc không tốt, bởi v́ như thế th́ ḿnh cũng chẳng khác ǵ bọn phàm
phu toan
tranh đoạt thánh vị. Song nếu ḿnh không tŕnh kệ, ḿnh sẽ chẳng bao giờ
đắc
pháp được.
Thượng
tọa
Thần Tú suy nghĩ hồi lâu, trong ḷng lấy làm khó xử vô cùng.
Đến nửa
đêm
không để ai thấy, ngài bèn ra viết tâm kệ lên vách tường ở chính giữa
khu hành
lang phía Nam, mong cầu đắc pháp.
- Nếu
như
ngày mai Ngũ Tổ trông thấy kệ mà hài ḷng, th́ ḿnh sẽ bước ra mà nhận
là của
ḿnh. C̣n nếu như ngài bảo là chưa đắc th́ kể như túc nghiệp của ḿnh
c̣n nặng,
không đủ tư cách để đắc pháp. Thánh ư khó ḍ ḷng ḿnh lập tức sẽ không
c̣n
hoài mong ǵ nữa.
Thế
rồi nửa đêm, Tú thượng tọa thắp đuốc viết kệ lên vách tường ở chính giữa
khu
hành lang phía Nam, không để ai hay biết. Kệ rằng:
Thân
là cây bồ đề
Tâm
như đài gương sáng
Luôn
siêng năng lau chùi
Đừng
để cho bụi bám.
7. Sau khi
viết xong bài kệ, Thượng tọa Thần Tú quay về
pḥng nằm, không hề có ai trông thấy. Sáng hôm sau, Ngũ Tổ gọi Lư họa sư
đến để
vẽ h́nh về kinh Lăng Già dưới hàng hiên phía Nam, Ngũ Tổ bỗng trông thấy
bài
kệ, sau khi đọc xong, bèn nói với Lư họa sư:
-
Hoằng Nhẫn tôi xin tặng ông ba ngàn tiền để đền công lao lặn lội từ xa
đến,
song tôi quyết định không họa h́nh nữa. Kinh Kim Cang: tất
cả những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng. Sao bằng để bài kệ
này, khiến những kẻ c̣n mê mờ đọc. Nếu họ theo đó tu hành th́ sẽ không
bị đọa
vào ba con đường ác. Tất cả những người theo đó mà tu hành, đều sẽ được
ích lợi
lớn.
Đại
sư bèn gọi tất cả các môn nhân đến, thắp hương trước bài kệ. Mọi người
vào xem,
đều sinh ḷng cung kính.
Ngũ
Tổ nói:
-
Các ông ai cũng nên đọc bài kệ này (th́ mới có thể kiến tánh được). Y
theo đó
mà tu hành th́ sẽ không đọa lạc.
Môn
nhân đều đọc, ai cũng sinh ḷng cung kính, kêu lên:
-
Lành thay!.
Ngũ
Tổ bèn gọi Tú Thượng tọa vào pḥng của ngài, hỏi rằng:
-
Có phải ông làm bài kệ này không? Nếu như ông làm, ông đáng đắc pháp của
ta.
Tú
Thượng
tọa nói:
- Đắc
tội
với Ḥa thượng, quả thực bài kệ là do Thần Tú đây làm. Con không dám cầu
làm
Tổ, chỉ xin Ḥa thượng từ bi, xem coi đệ tử có chút trí tuệ nào để lănh
hội đại
ư của Phật pháp hay không?.
Ngũ Tổ
nói:
- Ông
làm
bài kệ này, thấy ngay rằng kiến (thấy,
hiểu tới, biết tới nơi
chốn) giải
chưa đến chỗ rốt ráo. Ông chỉ mới đến trước cửa, chưa vào được bên
trong. Phàm
phu theo bài kệ này mà tu hành, chắc chắn sẽ không đọa lạc. Chứ bằng vào
kiến
giải như thế này mà cầu Vô thượng Bồ đề th́ chưa có thể được. Ông tạm về
pḥng
tư duy thêm một hai bữa nữa, rồi làm một bài kệ khác tŕnh lên cho tôi.
Nếu như
ông vào được trong cửa, thấy được bản tánh, tôi sẽ trao y pháp cho ông.
Tú
Thượng
tọa về pḥng, song đến mấy hôm sau vẫn không làm được bài kệ nào khác.
8. Có một
đồng tử đi qua pḥng giă gạo vừa tụng bài kệ
kia. Huệ Năng tôi vừa nghe thấy, đă biết ngay rằng người viết bài kệ ấy
chưa
thấu được đại ư của Phật pháp. Huệ Năng bèn hỏi đồng tử:
- Bài kệ
mà
vừa rồi chú tụng là dạy ǵ vậy ?.
Đồng tử
đáp:
- Huynh
không biết à? Đại sư nói sanh tử là việc lớn, ngài muốn truyền y pháp
cho nên
mới dạy môn nhân mỗi người làm một bài kệ tŕnh lên cho ngài xem, người
nào ngộ
được đại ư của Phật pháp sẽ được trao truyền y pháp và tuyên dương làm
Tổ thứ
sáu. Có một Thượng tọa tên Thần Tú, viết một bài kệ vô tướng dưới hàng
hiên
phía Nam, Ngũ Tổ dạy tất cả các môn nhân tụng, người nào thấu triệt được
bài kệ
này sẽ thấy được tự tánh ḿnh, người nào y theo đó tu hành sẽ đạt được
giải
thoát.
Huệ Năng
đáp:
- Tôi ở
đây
đạp máy giă gạo đă hơn tám tháng trời, chưa bao giờ có dịp ra trước sảnh
đường.
Xin chú dẫn Huệ Năng đây ra hàng hiên phía Nam để tôi được bái lạy trước
bài kệ
ấy. Tôi cũng nguyện được tŕ tụng, mong kết duyên lành trong kiếp sau,
ngơ hầu
được văng sanh nơi đất Phật.
Đồng tử
bèn
dắt Huệ Năng ra dưới hàng hiên phía Nam. Huệ Năng bèn đảnh lễ bài kệ ấy.
Bởi v́
không biết chữ, cho nên tôi nhờ một người đọc hộ. Vừa nghe xong, Huệ
Năng tôi
đă thấu triệt đại ư của bài kệ. Rồi lại nhờ một người biết viết, viết hộ
lên
vách tường phía Tây, để tôi có cơ hội tŕnh bản tâm ḿnh. Nếu như không
biết bản
tâm, có học pháp cũng vô ích, biết tâm thấy tánh mới giác ngộ được đại ư
của
Phật pháp. Bài kệ của Huệ Năng tôi như sau:
Bồ đề
vốn
không cây
Gương
sáng
cũng không đài
Phật
tánh
thường thanh tịnh
Chỗ nào
để
nhuốm bụi ?
Lại một
bài kệ
nữa rằng:
Tâm
là cây bồ đề
Thân
là đài gương sáng
Gương
sáng vốn thanh tịnh
Chỗ
nào để nhuốm bụi ?
Các
đồ chúng trong viện thấy Huệ Năng tôi làm bài kệ ấy đều lấy làm kinh
ngạc,
trong khi đó tôi lại trở về pḥng giă gạo. Ngũ Tổ hốt nhiên thấy Huệ
Năng tôi
khéo thấu hiểu đại ư của Phật pháp, song sợ chúng nhân biết, ngài bèn
nói với
họ rằng:
-
Bài kệ này cũng vẫn chưa rốt ráo.
9. Đến nửa
đêm, Ngũ Tổ gọi Huệ Năng vào pḥng của ngài và
giảng kinh Kim Cang. Vừa nghe qua một lần, tôi đă lập tức giác ngộ và
đêm ấy
tôi thọ pháp mà không hề có ai hay biết.
Ngũ
Tổ bèn truyền thọ pháp môn đốn ngộ và y pháp cho tôi. Ngài nói:
-
Bây giờ ông là Tổ đời thứ sáu, y pháp này là bằng cớ, phải được truyền
từ đời
này qua đời khác, pháp này phải truyền từ tâm qua tâm, và mọi người phải
tự
ḿnh giác ngộ lấy.
Ngũ
Tổ nói:
-
Huệ Năng, kể từ xưa việc truyền pháp đă như dây tơ. Nếu ông lưu lại ở
đây, chắc
chắn sẽ có người ám hại ông. Ông nên đi mau thôi.
10. Sau khi
đắc pháp rồi, nửa đêm Huệ Năng tôi bèn cấp tốc
ra đi. Ngũ Tổ đích thân tiễn Huệ năng tới đến măi tận trạm Cửu Giang.
Tôi giác
ngộ lập tức. Ngũ Tổ lại dặn ḍ:
-
Ông phải nỗ lực, đem pháp về phương Nam, trong ṿng ba năm không được
hoằng
pháp, nếu không e sẽ có pháp nạn. Sau đó rồi ông hăy hoằng hóa, khéo dẫn
dắt kẻ
mê mờ. Nếu như ông khai mở được tâm họ th́ họ cũng không khác ǵ ông.
Sau
khi tạ từ xong, tôi bèn đi về phương Nam.
11. Trong
ṿng hai tháng, tôi đến Đại Dữu Lănh, không ngờ
rằng sau lưng có hơn hai trăm người theo đuổi, toan ám hại Huệ Năng tôi
để đoạt
y pháp. Đi được nửa đường lên núi, hầu như tất cả bọn họ đều quay về,
chỉ trừ
có một ông Tăng họ Trần tên Huệ Minh. Ông ta trước đây vốn là tam phẩm
tướng
quân, tánh t́nh hành vi thô lỗ và hung ác. Lúc lên đến đỉnh núi, ông ta
bắt kịp
tôi và toan xâm phạm tôi. Huệ Năng tôi bèn trao y pháp lại cho ông ta,
song ông
ta lại không dám nhận, mà lại nói:
- Tôi từ
xa
lặn lội đến cầu pháp chứ không muốn y này.
Thế là
trên
đỉnh núi ấy, Huệ Năng tôi truyền pháp cho Huệ Minh. Huệ Minh nghe pháp,
lập tức
tâm được khai mở. Huệ Năng tôi bèn khiến ông ta đi về phương Bắc mà khai
hóa
thiên hạ.
12. Huệ
Năng tôi đến nương náu nơi này kể như là có cái
nhân từ nhiều kiếp trước với chư vị quan liêu, tăng, tục. Giáo lư mà tôi
giảng
dạy là do các thánh nhân đời trước truyền lại, không phải do Huệ Năng
tôi tự
biết. Chư vị nếu muốn nghe giáo lư của các thánh nhân đời trước, mỗi
người phải
thanh tịnh tâm ḿnh. Sau khi nghe xong, phải nguyện tự trừ bỏ sự mê mờ
của
ḿnh, như thế chư vị cũng sẽ chẳng khác ǵ với các thánh nhân thuở
trước. Sau
đây là giáo pháp.
Đại sư
Huệ
Năng gọi:
- Này
các
thiện tri thức, thế nhân ai nấy đều vốn sở hữu Bồ đề và trí Bát nhă, chỉ
bởi v́
tâm bị mê mờ mà họ không thể tự giác ngộ lấy được, cho nên mới cần phải
cầu bậc
Đại thiện tri thức để chỉ đạo cho họ pháp kiến tánh. Các thiện tri thức,
gặp
được giác ngộ tức là thành tựu được Phật trí.
13. - Này
các thiện tri thức, pháp môn này của tôi, lấy định tuệ*
làm căn bản. Dù bất cứ trong mọi hoàn cảnh nào th́, tuyệt đối
không nên
bao giờ được mê mờ nói rằng định và tuệ là khác biệt. Định tuệ là một
thể chứ
không phải là hai. Định chính là thể của tuệ, tuệ chính là dụng của
định. Lúc
có tuệ th́ định hiện có trong tuệ, lúc có định th́ tuệ hiện có trong
định.
- Các
thiện
tri thức, như thế có nghĩa là định và tuệ b́nh đẳng. Các người học đạo
cần phải
lưu ư, đừng bao giờ nói rằng định có trước rồi mới phát sinh ra tuệ,
hoặc tuệ
có trước rồi mới phát sinh ra định, hoặc định tuệ khác nhau. Chấp thứ
kiến giải
này hàm ngụ pháp có hai tướng, miệng nói thiện, tâm không thiện, định
tuệ sẽ
không b́nh đẳng. Nếu tâm và khẩu đều thiện, nội ngoại là một, định và
tuệ lập
tức b́nh đẳng. Pháp tu tự ngộ không cốt ở chỗ tranh biện ngoài miệng.
Nếu lo
tranh biện rằng định tuệ cái nào trước cái nào sau, lập tức chư vị trở
thành
những kẻ mê mờ, rốt cuộc khó mà phán đoán thắng phụ, lại đâm ra chấp
trước vào
Pháp và Ngă, không giải thoát khỏi bốn tướng sanh, lăo, bệnh, tử được.
*Định定
: Tĩnh, nhà Phật 佛
có
phép tu khiến cho tâm yên định không vọng động được, gọi là định, tức là
phép
ta quen gọi là nhập định 入定
vậy.
Tuệ慧
: Trí sáng, lanh lẹ. Sinh ra đă có tính sáng láng hơn người gọi là tuệ
căn 慧根, có
trí sáng láng chứng minh
được pháp gọi là tuệ lực 慧力,
lấy trí
tuệ làm tính mạng gọi là tuệ mệnh 慧命,
lấy trí tuệ mà trừ sạch được duyên trần gọi là tuệ kiếm 慧劍, có con mắt soi tỏ cả
quá khứ,
hiện tại, vị lai gọi là tuệ nhăn 慧眼.
14. Nhất
hạnh tam muội* tức là cái chân tâm thường hằng (lâu
bền) trong tất cả mọi thời cũng
như mọi
hành vi đi, đứng, nằm, ngồi. Kinh Tịnh Danh nói: Chân tâm là
đạo tràng, chân tâm là Tịnh độ. Đừng bao giờ trong tâm
xảo trá mà ngoài miệng lại nói về cái ngay chính của pháp. Miệng nói
nhất hạnh
tam muội mà không thực hành chân tâm, kẻ ấy chẳng phải là đệ tử của
Phật. Chỉ
cần thực hành chân tâm, không chấp trước bất cứ pháp nào, đó gọi là nhất
hạnh
tam muội. Người mê nệ vào các tướng của pháp, chấp trước nhất hạnh tam
muội,
cho rằng chân tâm có nghĩa là ngồi bất động, trừ vọng tưởng không để cho
bất cứ
ǵ khởi lên trong tâm, cho đó tức là nhất hạnh tam muội. Nếu như thế th́
pháp
này cũng giống hệt như vô t́nh, đó là nguyên nhân chính chướng ngại sự
đạt đạo.
Đạo phải là một cái ǵ thông suốt lưu chuyển, làm sao có thể trệ ngại
được. Nếu
tâm không đ́nh trệ nơi pháp, đạo lập tức thông suốt lưu chuyển; nếu tâm
đ́nh
trệ nơi pháp, th́ đó gọi là tự trói buộc. Nếu ngồi bất động là đúng, Duy
Ma Cật
đă chẳng có lư do để quở Xá Lợi Phất măi ngồi bất động trong rừng.
-
Này các thiện tri thức, có nhiều người dạy người khác ngồi yên mà quán
tâm quán
tịnh, không động đậy không khởi tâm,
và họ dồn nỗ lực vào việc đó. Kẻ mê mờ không giác ngộ, bèn chấp vào đó
mà thành
điên đảo, hạng người như thế có đến hàng trăm hàng ngàn. Những ai dạy
người
khác pháp tu như thế, thực là sai lầm vô cùng.
*Tam muội 三昧:
dịch âm chữ Phạn "samadhi", Tàu dịch là chính định 正定 nghĩa là dùng công tu
hành
trừ sạch được hết trần duyên mà vào cơi một mầu rỗng không vắng lặng gọi
là tam
muội. Như du hí tam muội 遊戲三昧
nhập định xuất định thuần mặc tự nhiên. Bây giờ hay mượn hai chữ ấy để
chỉ cái
áo diệu của một môn phái.
15. - Này
các thiện tri thức, do đâu mà được định tuệ b́nh
đẳng, như thể ngọn đèn và ánh sáng mà đèn tỏa ra. Có đèn th́ có ánh
sáng. Không
có đèn th́ không có ánh sáng. Đèn là thể của ánh sáng, ánh sáng là dụng
của
đèn. Tên tuy có hai, thể đâu có phải là hai. Pháp định tuệ này cũng y
như thế.
16. - Này
các thiện tri thức, pháp vốn không có đốn tiệm,
song người có thông minh và chậm lụt. Với kẻ mê th́ nên khuyên tu tiệm
pháp,
người ngộ mới nên tu đốn pháp. Biết được bản tâm tức là thấy bản tánh.
Khi ngộ
lập tức sẽ nhận ra được rằng hai pháp đốn tiệm này vốn không sai biệt,
nếu
không ngộ th́ sẽ măi măi trôi lăn trong luân hồi.
17. - Này
các thiện tri thức, pháp môn này của tôi, từ xưa
đến nay, đốn tiệm ǵ cũng đều lấy vô niệm (không
nghĩ
nhớ) làm tông (chủ
thể), vô tướng (không
h́nh chất) làm thể (h́nh
thể), vô trụ (không
c̣n đấy) làm bản (gốc). Vô
tướng có nghĩa là ở trong tướng
mà vẫn ly (rời khỏi) tướng.
Vô niệm có nghĩa là ở trong
niệm mà không niệm, vô trụ tức là bản tánh của con người.
- Niệm
niệm
không dừng, tiền (trước) niệm, kim (hiện
tại) niệm và hậu (sau) niệm,
niệm niệm tương tục (cùng nhau liền nối tiếp), không
có đứt đoạn. Nếu như có một
niệm dứt đoạn, Pháp thân lập tức ly (rời) Sắc
thân, trong sự tương tục của các
niệm, không có sự đ́nh trệ nơi bất cứ pháp nào cả. Nếu một niệm đ́nh
trệ, lập
tức các niệm liên tục đều đ́nh trệ, đó gọi là hệ phược (trói
buộc). Nếu như trong các niệm liên
tục
không đ́nh trệ vào bất cứ pháp nào, đó là không bị hệ phược. Đó gọi là
lấy vô
trụ làm bản. Này các thiện tri thức, bên ngoài ĺa tất cả các tướng là
vô
tướng. Chỉ cần ĺa được các tướng, tánh thể tự nhiên thanh tịnh, cho nên
mới
lấy vô tướng làm thể.
- Không
nhiễm nơi bất cứ cảnh nào, gọi là vô niệm. Ĺa cảnh ngay chính nơi niệm
của
ḿnh, th́ niệm sẽ lập tức không sinh nơi pháp. Nếu như ḿnh không suy tư
về các
sự vật và trừ khử được tất cả các niệm, lúc một niệm vừa dứt đoạn th́
lập tức
ḿnh sẽ thọ sinh nơi chốn khác. Các người học đạo phải thận trọng, chớ
nên dựa
vào ngoại pháp hay tự ư của ḿnh. Tự ḿnh lầm lẫn c̣n không đến nỗi nào,
chứ
c̣n khuyên người khác lầm lẫn th́ tệ hại biết bao. Kẻ mê đă không tự
thấy được
là ḿnh mê lại c̣n bài báng kinh pháp. Do đó mới lập vô niệm làm tông.
Bởi v́
mê mờ mà con người khởi niệm nơi cảnh, rồi th́ tà kiến lại do nơi niệm
mà khởi.
Tất cả các trần lao vọng niệm do nơi đó mà sinh. Do đó giáo môn này mới
lập vô
niệm làm tông.
- Này
các
thế nhân, hăy xa ĺa các kiến chấp và đừng sinh khởi vọng niệm. Nếu như
không
có niệm, vô niệm cũng chẳng thể thành lập được. Vô là vô cái ǵ ? Niệm
là niệm
vật ǵ ? Vô là ĺa xa nhị tướng khỏi trần lao. Niệm là niệm chân như*
bản
tánh*. Chân như là thể của niệm, niệm là dụng của chân như. Nếu khởi
niệm từ tự
tánh, th́ tuy có kiến, văn, giác, tri, cũng vẫn chẳng hề bị vạn cảnh
nhiễm mà
vẫn luôn luôn tự tại. Kinh Duy Ma Cật nói: Bên
ngoài tuy khéo phân biệt các pháp tướng, bên trong vẫn bất động nơi Đệ
nhất
nghĩa đế.
*Như: Y
nguyên như thế, trong kinh
Phật cho rằng vẫn c̣n nguyên chân tính không nhiễm trần ai là như.
*Tánh
– tính 性 :
Tính, là một cái lẽ chân chính
trời bẩm phú cho người. Như tính thiện 性善
tính lành. Mạng sống. Như tính mệnh 性命.
H́nh tính, chỉ về công dụng các vật. Như dược tính 藥性
tính thuốc, vật tính 物性
tính vật, v.v. Yên nhiên mà làm
không có chấp chước ǵ cả. Như Nghiêu Thuấn tính chi dă 堯舜性之也 vua
Nghiêu vua Thuấn cứ như chân
tính mà làm vậy. Nhà Phật 佛
nói
cái tính người ta nguyên lai vẫn đầy đủ sáng láng từ bi hỉ xả 慈悲喜捨 mầu
nhiệm tinh thần, chỉ v́ vật
dục làm mê mất chân tính ấy đi, nên mới tham lam giận dữ ngu si mà gây
nên hết
thẩy mọi tội. Nếu nhận tỏ bản tính (kiến tính 見性)
của ḿnh th́ bao nhiêu sự sằng bậy đều sạch hết mà chứng được như Phật
ngay.
*Đệ
nhất nghĩa đế 第一義諦, sa. Paramārthasatya: Chân
đế, chân lí tuyệt đối, tối cao giản đơn
giản, không c̣n các mặt đối lập. Trong kinh Duy Ma, Bồ Tát Văn Thù hỏi
thế
nào là đệ nhất nghĩa đế, Th́ ngài Duy Ma im lặng. Đức Phật cũng đă
khẳng định trong bốn mươi chín năm không nói một lời, nhưng hoàn toàn
không phải là trạng thái mơ hồ hổn độn. Đệ nhất nghĩa đế phải bao
hàm ư nghĩa bổn tịnh và bổn giác, bổn tịnh là dứt sạch mọi nhiểm
ô, hoàn toàn thanh tịnh; bổn giác là trí tuệ Bát nhả, thấu triệt
thật tướng các pháp.
18. - Này
các thiện tri thức, trong pháp môn này, tọa thiền
vốn không
chấp trước tâm, không chấp trước tịnh (sạch),
mà cũng chẳng nói đến bất động. Nếu có người bảo là quán* tâm, th́ tâm
vốn là vọng*, và bởi v́ vọng cũng giống như huyễn (ảo,
giả), đâu có đối tượng để mà
quán. Nếu
nói là quán tịnh (sạch), th́ bản
tánh con người vốn tịnh,
chỉ bởi v́ vọng niệm che phủ chân như*. Chỉ cần ĺa vọng niệm, bản tánh
tự
nhiên thanh tịnh. Không thấy được rằng tự tánh vốn thanh tịnh, tâm khởi ư
niệm
quán tịnh, là đâm ra khiến vọng niệm về tịnh sanh. Vọng vốn không nơi
chốn, cho
nên phải biết rằng những ǵ ḿnh
quán thấy chỉ là
hư vọng mà thôi. Tịnh vốn vô h́nh tướng, song có người lại vẫn
giả lập
tịnh tướng, rồi gọi đó là công phu tu tập Thiền. Những người mang
kiến
chấp này tự che mờ bản tánh ḿnh, rồi rốt cuộc lại bị trói buộc bởi cái
vọng
niệm về tịnh. Người tu pháp bất động, không thấy lỗi lầm của người khác,
đó là
cái bất động của tự tánh. Kẻ mê tuy tự thân hắn bất động, song thoắt mở
miệng
là chỉ nói đến thị phi của người khác, do đó đi ngược lại đạo. Quán
tâm
quán tịnh, chính là cái nguyên do che chướng đạo.
*Quán
觀:
Xét thấu, nghĩ kĩ thấu tới đạo
chính gọi là quán. Như nhất tâm tam quán 一新三觀
một tâm mà mà xét thấu cả ba phép, chỉ quán 止觀
yên định rồi xét thấu chân tâm. Dịch Kinh 易經
nói quán ngă sinh vô cữu 觀我生無咎
xét thấu cái nghĩa vụ của đời ta mới không mắc vào tội lỗi. Đạo Phật có
phép tu
dùng tai mà xem xét cơi ḷng, trừ tiệt cái mầm ác trở nên bậc Vô thượng,
nên
gọi là phép quán 觀.
Như Quan
Âm Bồ Tát 觀音菩薩, v́
ngài tu bằng phép này, sáu
căn dùng lẫn với nhau được, mắt có thể nghe được, nên gọi là Quán Thế Âm
觀世音.
*Vọng
có 2 nghĩa
Vọng妄 :
Sằng, càn. Như vọng ngữ 妄語
nói sằng, trái lại với chữ chân 真.
Vọng望 : Trông xa. Như chiêm
vọng 瞻望
trông mong. Có cái để cho
người chiêm ngưỡng gọi là vọng. Như danh vọng 名望,
uy vọng 威望,
Quá mong. Ước mong, thất vọng 失
望 mất sự mong ước, tuyệt
vọng 絕望
hết đường mong ước.
Chân
như 眞如 : nguyên lai vẫn tinh
thành viên
măn thanh tịnh, không phải mượn ở ngoài vào
19. Này
các ông, đă hiểu như vậy rồi, th́ trong pháp môn
này, gọi là tọa thiền* có nghĩa là ǵ ? Trong pháp môn này, tọa có
nghĩa là khắp nơi vô ngại (không
ngăn chặn, vùi lấp), bên
ngoài không khởi niệm nơi bất cứ cảnh giới nào; thiền có nghĩa là bên
trong thấy
được bản tánh và không bị loạn động.
Gọi là Thiền định có nghĩa là ǵ ? Bên ngoài xa
ĺa các tướng gọi là thiền, bên trong
không loạn gọi là định. Bên ngoài nếu
như tuy có tướng, song bên trong bản tính vẫn không loạn, th́ đó là cái tự
tịnh
tự định bản nguyên. Chính sự liên hệ với ngoại cảnh gây nên loạn
tâm. Do
đó bên ngoài xa ĺa các tướng tức là thiền,
bên trong không loạn tức là định. Ngoại thiền nội định, cho nên gọi là
Thiền
định. Kinh Duy Ma Cật nói: Lập tức, hoát
nhiên, đạt lại được bản tâm. Bồ Tát Giới nói: Tự tánh
vốn bản nguyên thanh tịnh.
- Này
các
thiện tri thức, hăy tự thấy rằng tự tánh của ḿnh vốn thanh tịnh (trong
sạch yên tĩnh), tự tu tập tự thành tựu.
Tự
tánh của ḿnh chính là Pháp thân, sự tu hành của ḿnh chính là sự tu
hành để
thành Phật. Tự thành tựu chính là sự tự thành Phật đạo cho chính ḿnh.
*Toạ 坐:
Ngồi. Được tự nhiên, không nhọc nhằn ǵ mà được.
*Thiền 禪:
Lặng nghĩ suy xét. Đạo Phật lấy thanh tĩnh xét tỏ chân lư làm tôn chỉ
nên gọi
là thiền. Cũng gọi là thiền na 禪
那
(dhyana). Phép tu chuyên chú tâm vào một cảnh gọi là thiền định 禪定, môn tu theo phép thiền
định
thấy ḷng tỏ tính thành Phật gọi là thiền tông 禪宗,
ḷng say mùi đạo gọi là thiền duyệt 禪悅.
20. - Này
các thiện tri thức, phải nên bằng tự thể của ḿnh
mà thọ vô tướng giới này, và đồng thời niệm những lời Huệ Năng tôi sắp
nói. Như
thế sẽ giúp cho các thiện tri thức thấy được tam thân Phật trong chính
ḿnh. "Tôi xin quy y thanh tịnh Pháp thân
Phật trong
sắc thân của chính ḿnh; tôi xin quy y trăm, ngàn, ức Hóa thân
Phật
trong sắc thân của chính ḿnh; tôi xin quy y viên măn Báo thân Phật của
tương
lai trong chính sắc thân ḿnh" (tụng những lời trên ba lần). Sắc
thân
chính là nhà của ḿnh, nên không thể nói quay về. Tam thân mà tôi vừa đề
cập
đến ở ngay trong tự tánh của chư vị. Người đời ai cũng sở hữu tam thân
ấy, chỉ
v́ mê mờ mà không nh́n thấy, cho nên mới hướng ra ngoài mà t́m tam thân
của Như
Lai, không thấy được rằng tam thân Phật hiện hữu ngay trong sắc thân của
chính
ḿnh.
- Này
các
thiện tri thức, lắng nghe! Tôi sẽ chỉ cho chư vị thấy rằng trong chính
sắc thân
ḿnh có hiện hữu tam thân Phật của tự tánh ḿnh. Tam thân của Phật này
phát
sinh từ tánh của chư vị.
Thanh tịnh Pháp thân Phật là ǵ
?
- Này
các
thiện tri thức, thế nhân bản tính vốn tự thanh tịnh, vạn pháp vốn hiện
hữu
trong tự tánh họ. Nếu người ta tư lương* về tất
cả việc ác ắt sẽ thực hành
việc ác. Nếu người ta tư lương về tất cả các việc thiện, ắt sẽ tu các
thiện
hạnh. Do đó, chúng ta biết rằng tất cả các pháp đều hiện hữu trong tự
tánh,
mà tự tánh lại thường thanh tịnh. Cũng như mặt trời và mặt trăng thường
sáng rỡ
song nếu bị mây che phủ, th́ dù ở trên sáng rỡ, ở dưới lại tối ám, cho
nên
không trông thấy rơ được mặt trời, mặt trăng, tinh tú. Song nếu hốt
nhiên (chợt thoáng tự nhiên) gặp được
ngọn gió trí tuệ thổi đến
cuốn hết mây mù, sâm la (bao
chùm mờ mịt) vạn tượng
lập tức hiển hiện. Bản tánh thanh tịnh của con người cũng như bầu trời
quang
tịnh, tuệ cũng như mặt trời, trí giống như mặt trăng. Mặc dù trí tuệ
thường
sáng rỡ, song nếu ḿnh chấp trước ngoại cảnh, vọng niệm là mây nổi lên
lập tức
che phủ, tự tánh không thể chiếu sáng được nữa. Cho nên nếu gặp được bậc
thiện
tri thức thổi tan hết mê vọng, trong ngoài lập tức trong sáng thấu suốt,
vạn
pháp đều xuất hiện trong tự tánh ḿnh, bởi v́ tất cả các pháp đều hiện
hữu
trong tự tánh. Đây gọi là thanh tịnh Pháp thân Phật, tự quy
y* có nghĩa là trừ
hết các hành vi bất thiện, đó gọi là quy y.
*
Tư lương : Những
cái mà ta gọi là tư duy, tư tưởng… những hoạt động của tâm lư, nói chung
là suy
lường, đắn đo ước lượng, phán đoán, v.v., gọi là tư lương; đây là nói
theo
nghĩa rộng nên hơi mơ hồ, không xác định. Thu gọn lại, tư
lương là hoạt động của một cái tôi.
- Giống như đi du lịch đến một
vùng nào đó, trước tiên phải chuẩn bị một ít thức ăn, đó gọi là “Lương 糧”. Lại đem theo một ít
tiền th́
gọi là “Tư 資”.
“Tư lương” chính là thức ăn và
những thứ của cải tiền bạc nhu yếu trong sinh hoạt cân phải có, mang
theo trong
suốt cuộc đời.
*
Quy 皈: Quy phục, dốc ḷng tin theo gọi
là quy y 皈依.
Nhà Phật có ba phép quy y. (1)
Quy y Phật, (2) Quy y Pháp, (3) Quy y Tăng. Quy y là bỏ nơi tối tăm mà
đem cả
thân tâm quay về nơi sáng tỏ vậy.
Trăm ngàn ức Hóa thân Phật có nghĩa là
ǵ ?
Khi
không
tư lương, th́ tự tánh không tịch (lặng
yên), tư lương ắt tự
ḿnh biến hóa. Tư lương ác pháp th́ hóa ra địa ngục, tư lương thiện pháp
th́
hóa ra thiên đường. Tư lương việc độc hại th́ biến thành súc sinh, tư
lương từ
bi th́ biến thành Bồ tát. Tư lương về trí tuệ th́ hóa sinh trên thượng
giới, tư
lương ngu si th́ sẽ hóa sinh nơi hạ giới. Tự tánh biến hóa nhiều vô
cùng, song
kẻ mê mờ không ư thức và thấy được như thế. Các niệm liên tục khởi ác,
thường
hành ác đạo, song chỉ cần một niệm thiện hồi chuyển, trí tuệ lập tức
sanh. Đây
gọi là tự tánh Hóa thân Phật.
Viên măn Báo thân Phật là ǵ ?
Cũng như
một ngọn đèn có thể trừ được một ngàn năm bóng tối, th́ một ánh sáng của
tuệ
cũng có thể diệt được một vạn năm ngu si. Đừng nghĩ về dĩ văng, hăy
thường
nghĩ đến tương lai, nếu các niệm trong tương lai của ḿnh luôn
luôn
thiện, ḿnh có thể được gọi là Báo thân Phật. Một niệm ác có thể gây ra
sự hủy
diệt hàng ngàn năm thiện, một niệm thiện có thể đền bù cho hàng ngàn năm
ác
hại. Từ vô thủy cho đến nay, nếu các niệm tương lai luôn luôn thiện, th́
đó gọi
là Báo thân Phật. Tư lương từ quan điểm Pháp thân Phật th́ đây chính là
Hóa
thân Phật. Nếu các niệm liên tục đều thiện, th́ đó chính là Báo thân
Phật. Tự ngộ tự
tu gọi là quy y vậy. Da thịt
là sắc thân, sắc thân là nhà. Chẳng nói quy y.
Chỉ cần
giác ngộ được tam thân, ắt hiểu được đại ư của Phật pháp.
21. Giờ
đây các thiện tri thức đă quy y tam thân rồi, tôi
xin cùng chư vị phát bốn đại nguyện. Xin các thiện tri thức tụng theo
Huệ Năng:
"Chúng sanh* vô biên thệ nguyện độ, Phiền năo vô biên thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô biên thệ nguyện học, Vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành"
(tụng ba lần).
- Này
các
thiện tri thức, "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ" không có nghĩa là
Huệ Năng độ các thiện tri thức, mà có nghĩa là trong tâm các chúng sanh,
mọi
người
nơi tự tánh ḿnh phải độ chính ḿnh. Tự độ ḿnh nơi tự tánh ḿnh có nghĩa là ǵ ? Dù rằng trong sắc thân
của ḿnh có đủ cả tà kiến, phiền năo, ngu si, mê vọng, song ai cũng vốn
có sở hữu
bản giác* tánh và với chánh kiến, ḿnh có thể được giải thoát.
Nếu ngộ
được chánh kiến, trí Bát nhă sẽ trừ hết ngu si mê vọng, lúc ấy chúng
sanh mỗi
người sẽ tự độ chính ḿnh. Nếu tà kiến đến, bằng chánh kiến ḿnh sẽ được
độ;
nếu mê đến, bằng trí ḿnh sẽ được độ; nếu ác đến, bằng thiện ḿnh sẽ
được độ;
nếu phiền năo đến, bằng Bồ đề ḿnh sẽ được độ. Độ bằng cách này, gọi là chân độ.
Phiền
năo
vô biên thệ nguyện đoạn nghĩa là trừ hư vọng bằng tự tâm ḿnh. Pháp môn
vô biên
thệ nguyện học có nghĩa là học vô thượng chánh pháp. Vô thượng Phật đạo
thệ
nguyện thành là luôn luôn hành động
khiêm tốn, cung kính đối với tất cả, xa ĺa mê chấp, giác tri Bát nhă.
Khi trừ
hết mê vọng rồi, tức là tự ngộ thành Phật đạo và thực hành thệ nguyện
lực.
*Chúng
sanh : Những vật
có sự sống. Như chúng sanh 眾生,
quần
sanh 群生
đều là nói các loài có
sống có chết.
*Bản : Cỗi rễ, cỗi
nguồn, cái cỗi rễ của một sự ǵ gọi là bản
*Giác 覺: Hiểu
biết, hiểu những điều không biết đến gọi là giác. Đạo Phật 佛 cốt nhất phải giác ngộ
chân tính tỏ rơ hết mọi lẽ, cho nên gọi Phật là Giác vương 覺王. Người học Phật được
chứng tới
quả Phật gọi là chánh giác 正覺.
22. Nay
sau khi đă phát xong bốn đại nguyện rồi, tôi xin
truyền pháp vô tướng sám hối cho các thiện tri thức để diệt tội chướng
ba đời.
Đại sư
nói:
- Này
các
thiện tri thức, nếu nơi niệm trước, niệm sau và niệm hiện tại, các niệm
liên
tục không bị ngu si nhiễm, và nếu như lập tức diệt trừ bằng tự tánh ḿnh
những
hành vi ác trước kia th́ đó tức là sám hối. Nếu nơi niệm trước, niệm sau
và
niệm hiện tại, các niệm liên tục không bị ngu si nhiễm, diệt
trừ măi măi được hết
các tâm niệm kiêu ngạo trước đây, th́ đó gọi là tự tánh sám hối.
Nếu nơi
niệm trước, niệm sau, niệm hiện tại, các niệm liên tục không bị tị nạnh
nhiễm, trừ được
hết tâm tị nạnh bằng tự tánh ḿnh th́ đó chính là sám hối (tụng
ba lần).
- Này
các
thiện tri thức, sám hối có nghĩa là ǵ ? Sám có nghĩa là cả đời không
làm ác,
hối có nghĩa là biết các ác nghiệp dĩ văng và luôn luôn không quên điều
ấy. Nói
miệng sám hối trước mặt chư Phật (mà
trong làm ác) cũng vô
ích mà thôi. Trong pháp môn của tôi, măi măi không bao giờ làm ác đó mới
gọi là
sám hối.
23. - Nay
sau khi đă sám hối hết rồi, tôi xin truyền thọ
các thiện tri thức vô tướng Tam quy y giới.
Đại sư
nói:
- Này
các
thiện tri thức, quy y Đấng Giác ngộ, Lưỡng túc tôn*; quy y sự thật Pháp
cao
thượng giải thoát con người khỏi tham dục; quy y Tăng tịnh, tôn quư nhất
trong
chúng sanh. Từ rày trở đi, chư vị phải coi Phật là Thầy và không được
quy y tà
mê ngoại đạo.
Xin thắp
sáng bằng ḷng từ bi Tam bảo của tự tánh chư vị.
- Này
các
thiện tri thức, Huệ Năng tôi xin khuyên chư vị hăy quy y Tam bảo nơi tự
tánh
của ḿnh. Phật là giác ngộ, Pháp là chân lư, Tăng là thanh tịnh. Tự tâm
quy y
giác*, tà mê không sanh, thiểu dục (ít
tham muốn) tri túc (hiểu
biết đầy đủ), xa ĺa tài sắc, cho nên
Phật mới
được gọi là Lưỡng túc tôn. Tự tâm quy y chân lư Pháp, bởi v́ các niệm
liên tục
không sanh khởi tà tâm, cho nên không có ái trước, bởi v́ không có ái
trước, Pháp
mới được gọi là giáo lư tôn quư nhất giải thoát người ta khỏi tham dục.
Tự tâm
quy y tịnh Tăng, th́ tuy rằng tất cả trần lao vọng niệm có trong tự tánh
ḿnh,
tự tánh vẫn chẳng hề bị nhiễm trước, cho nên Tăng mới được gọi là tôn
quư nhất
trong chúng sanh. Phàm phu không hiểu và hết ngày này qua ngày khác thọ
Tam quy
y giới. Nếu bảo là quy y Phật, th́ Phật ở đâu ? Nếu như
không thấy Phật, th́ đâu có đối tượng để quy y ?. Nếu đă
không có đối tượng quy y, th́ những ǵ người ấy nói đều là hư vọng.
- Này
các
thiện tri thức, mỗi người phải tự quan sát, đừng có dụng ư một cách sai
lầm.
Trong kinh chỉ dạy quy y Phật nơi chính ḿnh chứ không nói quy y Phật
nào khác. Nếu không quy y tự tánh, th́ đâu có chỗ nào để quy y.
*Lưỡng túc tôn: Các
đức Phật đều có danh hiệu Lưỡng túc tôn. Bằng
đôi chân, chúng ta đi chỗ này chỗ kia, th́ đức Phật cũng có hai chân
phước đức
và trí tuệ dạo khắp tam giới để cứu độ chúng sanh. Phước đức và trí tuệ
hay đại
bi và đại trí, hai đức tính tôn quí đó Phật đă thành tựu, nên Ngài được
tôn
xưng là đấng Lưỡng túc tôn.
24. Nay
chư vị đều đă thành tâm quy Tam bảo, tôi xin giảng
pháp Bát nhă Ba la mật cho chư vị. Này các thiện tri thức, chư vị chỉ
tụng niệm
mà không hiểu, cho nên Huệ Năng xin giải thích, mọi người hăy lắng nghe!
Bát
nhă Ba la mật là chữ Phạn Ấn Độ, tiếng Trung Hoa có nghĩa là trí tuệ đưa
người
ta qua bờ bên kia. Pháp này cần phải tu hành, không chỉ niệm ở nơi
miệng. Nếu
chỉ niệm suông mà không tu hành, th́ nó chỉ như huyễn như hóa mà thôi. Pháp
thân
của người tu hành b́nh đẳng với Phật.
Ma ha là
ǵ
? Ma ha có nghĩa là lớn. Tâm lượng quảng đại, giống như hư không. Đừng
ngồi
với tâm trống không, v́ như thế sẽ rơi vào vô kư không*. Hư không
có thể
hàm chứa nhật nguyệt tinh tú, đại địa sơn hà, tất cả cây cỏ, người ác
người
thiện, ác pháp thiện pháp, thiên đường địa ngục, tất cả đều ở trong hư
không
cả. Tánh không của con người cũng y như thế.
*Vô kư không : Tham
Thiền nên tránh lọt vào "Vô Kư Không".
Pháp môn khác chỉ cầu được dứt niệm, nhưng tham Thiền trái lại không cho dứt niệm tức là Nghi t́nh ư
riêng nghi ngờ - công án Thiền) phải luôn luôn tiếp tục, không cho gián
đoạn.
Nếu không có Nghi t́nh cũng không có vọng tưởng th́ lọt vào Vô Kư Không
là một
thứ Thiền bệnh, Tổ Sư gọi là "ngâm nước chết", mặc dù lúc ấy cảm thấy
được thanh thanh tịnh tịnh, trong ḿnh cảm thấy nhẹ nhàng nhưng chấp lấy
cái đó
th́ vĩnh viễn không được kiến tánh, chẳng thà có Nghi t́nh, có vọng
tưởng c̣n
tốt hơn. Vậy tham Thiền nếu chưa đến thoại đầu (lời nói đầu tiên) chớ
nên bỏ
câu thoại. Có người bỏ câu thoại vẫn c̣n Nghi t́nh cho là tốt, thực là
không
đúng v́ có thể bị gián đoạn một khoảng
thời gian lâu mà tự ḿnh không hay, lại cũng dễ bị lọt vào Vô Kư
Không nữa.
25. Tự
tánh có thể hàm chứa được vạn pháp - đó là lớn. Vạn
pháp đều là tự tánh. Tuy rằng chúng ta thấy tất cả người và những chúng
sanh
không phải là người, ác và thiện, ác pháp và thiện pháp, chúng ta không
được xả
bỏ mà cũng không được chấp trước, mà chỉ nên quan sát tất cả như hư
không. Đó
gọi là lớn. Đây là phép tu Ma ha. Kẻ mê chỉ niệm ngoài miệng, người trí
tu tập
trong tâm. Lại có những kẻ mê, trống không tâm ḿnh không suy
nghĩ, rồi
gọi đó là đại . Như thế cũng không đúng. Tâm lượng vốn quảng đại, song
nếu
thiếu thực hành nó lại trở thành nhỏ. Đừng có nói suông không ngoài
miệng mà
không chịu tu hành. Những người như vậy không phải là đệ tử của tôi.
26. Bát
nhă là ǵ ? Bát nhă là trí tuệ. Khi mà trong mọi
thời, niệm niệm liên tục không ngu độn, luôn luôn tu hành trí tuệ, đó
gọi là
Bát nhă hành. Một niệm ngu là Bát nhă đứt đoạn, một niệm trí là Bát nhă
phát
sanh. Trong tâm luôn có vô minh. Thiên hạ thường tự nói: Tôi tu Bát nhă,
song Bát nhă
vốn không có h́nh tướng, đó chính là tánh của trí tuệ.
Ba
la mật là ǵ ? Đó là phiên âm của chữ Phạn Ấn Độ, có nghĩa là đến bờ bên
kia.
Nếu chư vị hiểu nghĩa này lập tức xa ĺa sanh diệt, nếu chấp trước vào
cảnh,
sanh diệt lập tức khởi. Thí dụ sóng khởi trên nước - đó là những ǵ xảy
ra ở bờ
bên này. Xa ĺa cảnh và đoạn sanh diệt, giống như xuôi theo ḍng nước
lớn. Do
đó mới gọi là đến bờ bên kia, hay Ba la mật. Kẻ mê niệm ngoài miệng,
người trí
tu hành trong tâm. Nếu lúc chư vị niệm có vọng tưởng sanh khởi
trong
tâm, ngay cái vọng tưởng ấy cũng không phải là thật có. Nếu như chư vị
tu hành
từng niệm niệm liên tục, đó mới gọi là chân hữu. Ai ngộ được pháp này,
tức là
ngộ pháp Bát nhă, tu Bát nhă hành. Không tu là phàm phu, chỉ cần
một niệm tu hành thôi, Pháp thân của ḿnh b́nh đẳng với Phật.
Thiện tri
thức, chính phiền năo là Bồ đề. Khi tâm tưởng quá khứ bị mê th́ đó là
phàm phu (người tầm thường), khi
niệm tưởng tương lai được giác
ngộ, đó là Phật. Này các thiện tri thức, Ma ha Bát nhă Ba la mật đa là
tối tôn,
tối thượng, đệ nhất, không trụ, không đi, không đến. Chư Phật ba đời đều
từ đó
mà ra. Bằng đại trí tuệ, chúng ta đến được bờ bên kia và đủ phá vỡ được
phiền
năo và trần lao của ngũ ấm*. Bởi v́ Bát nhă Ba la mật đa là tối tôn, tối
thượng, đệ nhất, nếu như chư vị tán thán pháp tối thượng thừa này và tu
hành
theo đó, nhất định sẽ thành Phật. Không đi, không trụ, không lai văng,
với
sự b́nh đẳng giữa định và tuệ, không nhiễm bởi bất cứ pháp nào,
chư Phật ba
đời phát xuất từ đó và biến tam độc thành giới (răn),
định, tuệ.
*Ngũ uẩn hay ngũ ấm là:
1. Sắc (zh. 色; sa., pi. rūpa), chỉ thân và sáu
giác quan (Lục căn), do Tứ đại chủng (sa., pi. mahābhūta) tạo thành, đó
là bốn
yếu tố đất, nước, gió, lửa. Sắc tạo nên các giác quan và đối tượng của
chúng.
2. Thụ - thọ (zh. 受, sa., pi.
vedanā), tức là toàn bộ các cảm giác, không phân biệt chúng là dễ chịu,
khó
chịu hay trung tính.
3. Tưởng (zh. 想, sa. saṃjñā,
pi. saññā), là nhận biết các
cảm giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị ..., kể cả nhận biết ư thức đang
hiện
diện.
4. Hành (zh. 行, sa. saṃskāra,
pi. saṅkhāra),
là những hoạt động tâm lí
sau khi có tưởng, ví dụ chú ư, đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm,
tỉnh
giác ...
5. Thức (zh. 識, sa. vijñāna, pi. viññāṇa),
bao gồm sáu dạng ư thức liên
hệ tới sáu giác quan: Ư thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư.
27. - Này
các thiện tri thức, pháp môn này của tôi phát
xuất từ tám vạn bốn ngàn trí tuệ. Tại sao vậy ? Bởi v́ thế gian này có
tám vạn
bốn ngàn trần lao, nếu không trần lao th́ Bát nhă vẫn luôn luôn thường
trụ*,
không hề ĺa khỏi tự tánh. Nếu chư vị ngộ được pháp này, chư vị sẽ không
có
niệm, không kư ức (Ghi
nhớ sâu trong tâm) không
chấp trước. Không
cần phải trừ khử vọng tưởng bởi v́ vọng tưởng chính chúng có bản tánh
của chân
như. Dùng trí tuệ quán chiếu tất cả các pháp, và không thủ (giữ
lấy) không xả (vất
bỏ), tức là kiến tánh thành
Phật.
*Trụ: C̣n đấy, nhà Phật 佛 nói muôn sự muôn vật ở thế
gian cái ǵ cũng có bốn thời kỳ : thành trụ hoại không 成住壞空. Hễ cái ǵ đang ở vào thời
kỳ c̣n
đấy th́ gọi là trụ. Như trụ tŕ Tam bảo 住持三寶.
Phật tuy tịch rồi, nhưng c̣n tượng ngài lưu lại, cũng như Phật ở đời măi
thế là
trụ tŕ Phật bảo 住持佛寶. Phật
tuy
tịch rồi, nhưng kinh sách c̣n lưu truyền lại thế là trụ tŕ Pháp bảo 住持法寶. Phật tuy tịch rồi, nhưng
c̣n các vị
xuất gia tu hành kế tiếp làm việc của Phật, thế là trụ tŕ Tăng bảo 住持僧寶. V́ thế nên một vị nào làm
chủ trông
nom cả một ngôi chùa gọi là vị trụ tŕ 住持.
28. - Này
các thiện tri thức, nếu chư vị muốn nhập pháp
giới thậm thâm (rất sâu), nhập Bát nhă tam muội, cần phải tu hành Bát
nhă Ba la
mật. Chỉ cần tŕ một quyển kinh Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật, ắt sẽ được
kiến
tánh và nhập Bát nhă tam muội. Phải biết rằng công đức của người ấy là
vô
lượng. Trong kinh đă tán thán rơ ràng, tôi không cần phải giải thích cặn
kẽ
thêm nữa. Đây là pháp môn tối thượng thừa*, v́ người có căn cơ cao và
trí tuệ
lớn mà nói. Những kẻ có căn cơ (nền
gốc) thấp và ít trí tuệ,
nếu như nghe pháp môn này, tâm khó mà sanh tin. Tại sao vậy ? Ví dụ như
rồng
lớn làm cơn mưa lớn trên cơi Diêm Phù Đề này, các thành, ấp, thôn, xóm
đương
nhiên sẽ bị cuốn sạch cả, tựa như lá cỏ nổi trôi. Song nếu cơn mưa kia
rơi
xuống biển lớn, nước biển vẫn sẽ không tăng không giảm.
Nếu như
một
người tu pháp môn Đại thừa mà nghe giảng kinh Kim Cang, tâm liền khai mở
và
giác ngộ. Cho nên chúng ta biết rằng bản tánh đă tự có trí Bát nhă,
và bằng cách tự dùng trí tuệ mà quán chiếu (soi
xét),
chẳng cần dựa vào văn tự. Cũng y như cơn mưa kia không phải tự trời mà
có, mà
vốn do Long Vương đích thân dẫn nước từ trong sông biển, khiến cho tất
cả chúng
sanh, tất cả cây cỏ, tất cả hữu t́nh và vô t́nh đều được thấm nhuần. Các
ḍng
nước lại đều cùng chảy vào biển, biển nạp tất cả các thứ nước, hợp lại
thành
một thể. Trí Bát nhă của bản tánh chúng sanh cũng y như thế.
*Thừa :
Bực. Phật học chia bực cao bực thấp. Như tiểu thừa 小乘 bực tu chỉ tự độ được
ḿnh,
cũng như cỗ xe nhỏ chỉ chở được ḿnh, đại thừa 大乘
bực tu đă tự độ ḿnh lại độ cho người. Như cỗ xe lớn chở được nhiều
người.
29. Những
kẻ có căn cơ thấp khi nghe giảng giáo lư đốn ngộ
này, cũng giống như những loại cây cỏ gốc cạn trên mặt đất này, nếu như
bị một
cơn mưa lớn đổ xuống, đương nhiên sẽ bị ngă đổ, không sanh trưởng được
nữa.
Những kẻ có căn cơ thấp cũng y như thế. Họ cũng là những người vốn sở hữu trí Bát nhă chẳng có khác ǵ
với bậc đại trí, song v́ sao mà họ dù có nghe pháp mà cũng vẫn chẳng
giác ngộ ?
Chính bởi v́ tà kiến ngăn chặn nặng nề và phiền năo bắt rễ sâu xa. Cũng
giống
như mây lớn che phủ mặt trời, nếu không có gió thổi cho mây tan, mặt
trời không
thể nào hiển hiện được. Trí Bát nhă vốn chẳng có lớn nhỏ, chỉ bởi v́ tất
cả
chúng sanh, tự có tâm mê mờ, đi tu tập t́m kiếm Phật ở bên ngoài, cho
nên chưa
ngộ được tự tánh ḿnh. Song ngay cả những kẻ với căn cơ thấp, nếu
như
được nghe giáo lư đốn ngộ, không c̣n tin nơi pháp ngoại tu nữa, mà chỉ
nơi tự tâm ḿnh thường khởi chánh kiến, th́ mặc dù họ là những
chúng
sanh đầy những phiền năo trần lao, họ vẫn lập tức giác ngộ như thường.
Cũng
giống như biển lớn bao gồm các ḍng nước, hợp tất cả nước lớn nước nhỏ
thành
một thể. Đây gọi là kiến tánh. Người hiểu như vậy không đ́nh trệ bất cứ ở
bên
ngoài hay bên trong, đi lại tự do, trừ được tâm chấp trước, thông đạt vô
ngại.
Nếu trong tâm ḿnh tu được pháp môn này th́ bản tánh ḿnh sẽ chẳng có ǵ
khác
biệt với kinh Bát Nhă Ba La Mật.
30. Tất cả
kinh sách và văn tự, thuộc Tiểu thừa Đại thừa, mười
hai bộ kinh, đều v́ con người mà thiết lập. Nhân v́ trí tuệ trong tự
tánh của
con người mà mới có thể kiến lập được. Nếu như chúng ta là những người
không
sẵn sở hữu trí Bát nhă nơi ḿnh, tất cả vạn pháp vốn không thể hiện hữu.
Cho
nên phải nên biết rằng vạn pháp vốn từ con người mà phát sinh, tất cả
kinh sách
đều v́ con người mà nói. Bởi v́ trong loài người có kẻ ngu, người trí.
Kẻ ngu
là tiểu nhân, người trí là đại nhân. Nếu kẻ mê hỏi người trí, người trí
sẽ v́
kẻ ngu mà thuyết pháp, khiến kẻ ngu giác ngộ và thấu hiểu một cách sâu
xa. Nếu
như kẻ mê giác ngộ và khai mở tâm ḿnh th́ hắn cũng chẳng khác ǵ với
người đại
trí. Cho nên chúng ta biết rằng, nếu không ngộ, th́ Phật cũng là
chúng
sanh. C̣n nếu như chỉ giác ngộ trong một niệm thôi th́ chúng sanh
cũng là
Phật. Cho nên chúng ta mới biết rằng tất cả vạn pháp đều ở cả
trong
chính tâm ḿnh, th́ cớ sao lại chẳng làm cho chân như bản tánh đốn hiện
nơi tự
tâm ḿnh ? Kinh Bồ Tát Giới nói: Tự tánh
của chúng ta vốn thanh tịnh, thức tâm
kiến tánh, lập tức tự thành tựu Phật đạo. Lập tức, hoát
nhiên, đạt lại được bản tâm.
31. - Này
các thiện tri thức, lúc tôi ở nơi Ḥa thượng
Hoằng Nhẫn, chỉ nghe giảng kinh Kim Cang một lần, lập tức thấy được chân
như
bản tánh. Cho nên tôi mới đem giáo pháp này, lưu hành cho đời sau, khiến
cho
những người học đạo đốn ngộ được Bồ đề. Mỗi người phải tự quán tâm và
đốn ngộ
bản tánh ḿnh. Những người không tự ngộ được, cần phải t́m một vị Đại
thiện tri
thức để dạy cho ḿnh pháp kiến tánh.
Thế nào
là
một vị Đại thiện tri thức ? Đó là người hiểu được rằng Tối thượng thừa
pháp là
con đường chánh. Đó chính là một vị Đại thiện tri thức. Đó là đại nhân
duyên*,
gọi là hóa đạo khiến chúng ta thấy được Phật. Tất cả các thiện pháp đều
nhân
bậc Đại thiện tri thức mà phát khởi. Cho nên mặc dù nói rằng chư Phật ba
đời và
mười hai bộ kinh vốn hiện hữu trong tự tánh con người, song nếu không tự
giác
ngộ được nơi tự tánh th́ cần phải nhờ bậc thiện tri thức chỉ bày cho
pháp kiến
tánh.
Nếu như
tự
ngộ được, không cần phải cậy vào thiện tri thức bên ngoài nữa. Nếu như
vọng cầu
giải thoát bằng cách nương cậy vào thiện tri thức bên ngoài, điều ấy
không thể
có được. Biết được bậc thiện tri thức trong tự tâm ḿnh, lập tức đạt
được giải
thoát. Nếu tự tâm ḿnh tà mê, vọng niệm điên đảo, th́ dù có bậc thiện
tri thức
bên ngoài giúp đỡ đi nữa, cũng chẳng thể nào cứu ḿnh được. Nếu như
không tự
ngộ được, cần phải lấy trí tuệ Bát nhă ra quán chiếu, th́ trong một sát
na các
vọng niệm đều bị tiêu diệt ngay. Nếu như nhận ra được rằng ḿnh chính là
thiện
tri thức của ḿnh, một khi giác ngộ là lập tức biết Phật. Nếu nơi tự
tánh tâm
dùng trí tuệ quán chiếu, trong ngoài đều sáng sủa thông suốt, lập tức
ḿnh hiểu
bản tâm của ḿnh. Nếu biết bản tâm, th́ đó chính là giải thoát. Đă được
giải
thoát, th́ đó chính là Bát nhă tam muội. Giác ngộ được Bát nhă tam muội,
chính
là vô niệm.
Vô niệm
là
ǵ ? Pháp vô niệm có nghĩa là mặc dù ḿnh thấy tất cả các pháp, song
ḿnh không chấp trước vào bất cứ pháp nào, lưu hành khắp mọi nơi,
mà
không chấp trước vào bất cứ một nơi chốn nào, thường thanh tịnh tự tánh,
khiến
sáu tên giặc theo sáu cửa mà ra. Mặc dù ở trong lục trần, song không xa
ĺa mà
cũng không bị tạp nhiễm, đi lại tự do. Đó chính là Bát nhă tam muội, tự
tại
giải thoát, gọi là vô niệm hành. Nếu không nghĩ đến ǵ cả, luôn luôn
tuyệt
niệm, như thế có nghĩa là bị trói buộc trong pháp, đó gọi là biên kiến (ch́
thấy bên cạnh). Một khi ngộ được vô niệm
pháp, th́
vạn pháp đều thông suốt. Ngộ vô niệm pháp tức là thấy cảnh giới của chư
Phật.
Ngộ được pháp môn đốn vô niệm, tức là đạt đến cảnh vị Phật.
*Nhân
duyên : Nhân, cái nhân kết thành cái ǵ gọi là duyên. Như duyên cố 緣故 duyên cớ. Nhà Phật 佛 cho v́ nhân mà được quả là
duyên. Như nhân duyên 因緣, duyên
phận 緣分.
Chỗ duyên theo đó mà phát
ra. Như
nhân quả 因果. Nhà
Phật 佛 cho
phần đă làm ra là nhân,
phần phải chịu lấy là quả, làm ác phải tội, làm thiện được phúc, thế là
nhân
quả.
32. - Này
các thiện tri thức, người đời
sau nếu ngộ được pháp của tôi sẽ thấy được rằng Pháp thân của tôi sẽ
chẳng cách
xa chư vị. Này các thiện tri thức, hăy đem pháp môn đốn giáo này, cùng
nhau
quán sát và tu hành, phát nguyện thọ tŕ. Đó chính là phụng sự Phật, cho
nên
những ai suốt đời thọ tŕ mà không thoái chuyển, th́ sẽ được nhập thánh
vị. Nay
tôi muốn truyền thọ pháp môn này, song từ xưa đến nay, pháp này chỉ được
trao
truyền trong im lặng, và chỉ khi nào mà đại nguyện đă được phát, Bồ đề
không
thoái chuyển, mới nên trao truyền. Nếu gặp người không đồng kiến giải
(hiểu biết, nhận rơ được ư) với ḿnh, lại không có chí
nguyện,
tuyệt đối không nên vọng động tuyên thuyết trao truyền. Nếu chư vị làm
thế chỉ
tổ có hại cho họ, rốt cuộc chẳng có ích lợi ǵ cả. Nếu gặp phải những
người
không hiểu, khinh mạn pháp môn này, th́ trong trăm kiếp, vạn kiếp, ngàn
đời
chủng tánh Phật sẽ bị đứt đoạn.
33. Đại sư
nói:
- Này
các
thiện tri thức, nghe tôi nói bài tụng vô tướng đây, để cho những ai c̣n
mê mờ
trừ diệt được các tội chướng. Đây cũng gọi là bài Diệt tội
tụng. Tụng rằng:
Kẻ ngu
tu phước không tu đạo
Bảo rằng
tu phước chính là đạo
Bố thí
cúng dường phước vô biên
Trong
tâm tam nghiệp vẫn tạo tác
Nếu mong
tu phước để diệt tội
Đời sau
được phước, tội vẫn c̣n
Trừ được
nguồn tội trong tâm ḿnh
Là chân
sám hối nơi tự tánh
Nếu ngộ
Đại thừa chân sám hối
Trừ tà,
hành chánh, tạo vô tội
Nếu
người học đạo biết tự quán
Lập tức
ngang hàng với người ngộ
Tôi xin
trao truyền pháp đốn này
Người
học cùng tôi đồng một thể
Muốn t́m
bản thân trong tương lai
Phải rửa
nguồn tam độc trong tâm
Nỗ lực
tu đạo đừng buông lung
Hốt
nhiên qua một đời vô ích
Nếu gặp
pháp Đại thừa đốn giáo
Chân
thành chắp tay chí tâm cầu.
Đại sư
nói
pháp xong, vị Sứ quân cùng các quan liêu, Tăng chúng, đạo và tục tán
thán vô
tận, khen ngợi rằng đó là giáo pháp mà họ chưa từng nghe bao giờ.
34. Vị Sứ
quân đảnh lễ rồi nói:
- Ḥa
thượng thuyết pháp quả thực bất khả tư nghị, đệ tử có ít điều c̣n hoài
nghi,
muốn hỏi Ḥa thượng, cúi xin Ḥa thượng rủ ḷng đại từ đại bi, giải
thích cho
đệ tử.
Đại sư
nói:
- Có
điều
nghi ngờ th́ cứ hỏi, không cần phải úp mở làm ǵ.
Sứ quân
hỏi:
- Giáo
pháp
của Đại sư, phải chăng là tông chỉ của Đệ nhất Tổ Ấn Độ Bồ Đề Đạt Ma?.
Đại sư
nói:
- Phải.
Sứ quân
nói:
- Đệ tử
nghe nói lúc Đạt Ma Đại sư khai hóa Lương Vơ đế, Vơ đế hỏi Đạt Ma: Trẫm cả đời xây chùa, bố thí, cúng dường, có
công đức hay không. Ngài Đạt Ma trả lời: Chẳng có công
đức ǵ cả. Vơ đế không vui, bèn đuổi Đạt Ma ra khỏi
bờ cơi. Đệ tử chưa hiểu chuyện này, xin Ḥa thượng giải thích cho.
Lục Tổ
nói:
- Quả
thực
chẳng có công đức ǵ cả. Sứ quân đừng nghi ngờ lời Đạt Ma Đại sư. Vơ đế
chấp
trước tà kiến, không hiểu chánh pháp.
Sứ quân
hỏi:
- Tại
sao
lại không có công đức ǵ cả?.
Ḥa
thượng
nói:
- Xây
chùa,
bố thí, cúng dường chỉ là tu phước, không thể lấy phước làm công
đức
được. Công đức ở tại Pháp thân, không phải ở phước điền. Tự trong pháp
tánh đă
có công đức. Kiến tánh là công, b́nh đẳng là đức.
Bên trong thấy Phật tánh, bên ngoài tu hành cung kính. Nếu như
khinh tất cả mọi người, không cắt đứt được sự chấp ngă, th́ tự ḿnh
không thể
có công đức được. Nếu như tự tánh ḿnh hư vọng, Pháp thân không c̣n có
đức nữa.
Nếu trong niệm niệm liên tục có tu hành phước đức và b́nh đẳng chân tâm,
th́
công đức sẽ không nhỏ và hành vi luôn luôn cung kính. Tự tu
thân là công, tự tu
tâm là đức. Công đức là do tự tâm mà ra, phước và công đức là
khác nhau.
Vơ đế không hiểu chánh lư, chứ không phải là Tổ Đạt Ma Đại sư lầm lẫn
đâu.
35. Sứ
quân đảnh lễ rồi lại nói:
- Đệ tử
thấy Tăng chúng, đạo, tục, thường niệm A Di Đà Phật và nguyện văng sanh
Tây
phương. Xin Ḥa thượng giải thích rơ cho đệ tử xem người ta có thực sự
văng
sanh ở đó được không, ngơ hầu để dẹp tan mối nghi của đệ tử.
Đại sư
nói:
- Sứ
quân
lắng nghe, Huệ Năng tôi sẽ giải thích cho ông. Thế Tôn lúc ở Xá Vệ quốc,
thuyết
giảng về Tây phương để dẫn hóa chúng sanh. Kinh văn nói rơ ràng rằng: Tây phương cách đây không xa. Chỉ v́ muốn
dạy những người có căn cơ thấp mới nói là xa, c̣n nói gần là để dạy
người có
trí tuệ cao. Tuy con người có hai loại, pháp chẳng hề có bất đồng. Giữa
mê và
ngộ có sự dị biệt, cũng như kiến giải có mau có chậm. Kẻ mê niệm Phật hy
vọng
văng sanh Tây phương, người ngộ chỉ thanh tịnh tâm ḿnh. Cho nên
Phật nói: Tùy tâm ḿnh tịnh, là Phật độ tịnh.
- Sứ
quân,
người ở phương Đông nếu chỉ cần tịnh tâm là lập tức hết tội chướng,
người ở Tây
phương Tịnh độ tâm mà không tịnh (sạch
sẽ) là lập tức có lỗi
lầm. Kẻ mê nguyện văng sanh Đông phương hay Tây phương, c̣n người ngộ
th́ ở bất
cứ đâu cũng là một cả. Chỉ cần tâm chẳng có không tịnh, là Tây phương
chẳng
cách xa đây. C̣n như tâm mà khởi bất tịnh, th́ dù có niệm Phật để cầu
văng sanh
cũng khó mà đạt được. Trừ được mười điều ác tức là đi được mười vạn dặm,
không
có tám điều tà tức là đă vượt qua được tám ngàn dặm. Song nếu tu hành
chân tâm,
ḿnh sẽ đến Tây phương trong nháy mắt.
- Sứ
quân,
chỉ nên lo tu thập thiện, cần ǵ phải nguyện văng sanh. Nếu như ông
không đoạn
cái tâm làm mười điều ác, Phật nào đến đón ông đây ? Nếu giác ngộ được
giáo
pháp đốn ngộ vô sanh, chỉ trong sát na là ông thấy Tây phương. Nếu như
không
ngộ giáo lư đốn ngộ của Đại thừa, con đường niệm Phật để mong văng sanh
quá xa
vời, làm sao mà đạt đến được ?.
Lục Tổ
nói:
- Để Huệ
Năng tôi trong một sát na (tích
tắc) dời Tây phương đến
ngay trước mắt cho Sứ quân thấy, Sứ quân có muốn thấy chăng ?.
Sứ quân
cúi
lạy nói:
- Nếu
như
đệ tử có thể thấy Tây phương ở đây, c̣n cần ǵ phải văng sanh nữa. Xin
Ḥa
thượng từ bi làm cho Tây phương hiển hiện trước mắt đệ tử th́ tốt lắm
thay.
Đại sư
nói:
- Có thể
thấy Tây phương ngay từ con đường đi này, không có ǵ đáng ngờ cả. Bây
giờ
chúng ta giải tán thôi.
Đại
chúng
đều ngạc nhiên, không ai hiểu chuyện ǵ cả.
Đại sư
nói:
- Đại
chúng,
xin hăy cẩn thận lắng nghe. Sắc thân của người đời là một thành phố.
Mắt, mũi,
tai, lưỡi là cửa thành. Bên ngoài có năm cửa, bên trong có cửa của ư
thức. Tâm
tức là đất, tánh tức là vua. Tánh c̣n th́ vua c̣n, tánh đi th́ vua không
c̣n.
Tánh c̣n th́ thân tâm c̣n, tánh đi th́ thân tâm hoại (hủy
nát). Phật là do tự tánh mà ra,
chớ nên
hướng ra ngoài thân mà cầu. Mê mờ tự tánh th́ Phật là chúng sanh,
giác
ngộ tự tánh th́ chúng sanh tức là Phật. Từ bi là Quán Thế Âm, hỷ xả là
Đại Thế
Chí, năng thanh tịnh là Thích Ca, b́nh đẳng chân thực là Di Lặc, nhân
ngă chấp
là núi Tu Di, tà tâm là biển lớn, phiền năo là sóng, tâm độc là rồng dữ,
trần
lao là cá rùa, hư vọng là thần quỷ, tam độc là địa ngục, ngu si là súc
sanh,
thập thiện là thiên đường. Nếu không chấp nhân ngă, núi Tu Di tự lở; trừ
tà
tâm, nước biển lập tức cạn; không có phiền năo, sóng tự nhiên hết; trừ
độc hại,
cá rồng sẽ hết. Hăy để giác tánh Như Lai trên tâm địa của ḿnh, phóng
ánh sáng
trí tuệ lớn, chiếu sáng sáu cửa, và bằng ánh sáng thanh tịnh ấy chiếu
phá sáu
cơi trời của Dục giới. Nếu bên trong tự tánh chiếu sáng, tam độc sẽ bị
trừ và
địa ngục sẽ lập tức tiêu diệt. Nếu trong ngoài ǵ đều trong sáng thấu
suốt th́
đây cũng chẳng khác ǵ Tây phương. Nếu như không tu hành pháp môn này,
làm thế
nào có thể đến bên ấy được?.
Những
người
lắng nghe dưới ṭa, tán thán đến tận trời cao, và tất cả những người mê
mờ cũng
hiểu rơ ràng.
Sứ quân
cúi
lạy, tán thán:
- Lành
thay, lành thay! Nguyện rằng tất cả chúng sanh trong pháp giới nghe thấy
đều
lập tức giác ngộ.
36. Đại sư
nói:
- Này
các
thiện tri thức, nếu như muốn tu hành, tại gia cũng được, không cần phải ở
chùa.
Nếu như ở chùa mà không tu, th́ có khác chi những người ở Tây phương mà
tâm địa
độc ác. C̣n ở tại gia mà tu hành, th́ cũng như người ở Đông phương mà tu
thiện
pháp. Chỉ cần ở tại gia mà tu thanh tịnh th́ đó tức là Tây phương.
Sứ quân
hỏi:
- Bạch
Ḥa
thượng, tại gia phải tu như thế nào, cúi xin Ḥa thượng chỉ dạy.
Đại sư
nói:
- Này
các
thiện tri thức, để Huệ Năng tôi làm một bài Vô tướng tụng cho chư vị,
Tăng cũng
như tục. Nếu như chư vị đều tŕ tụng rồi theo đó mà tu hành, th́ các vị
lúc nào
cũng như ở cùng một chỗ với Huệ Năng.
Tụng
rằng:
Thuyết (nói,
giải thích) thông và tâm thông
Như mặt
trời trên không
Chỉ
truyền pháp đốn giáo
Xuất thế
phá tà tông
Giáo vốn
không đốn tiệm
Mê ngộ,
có nhanh chậm
Học pháp
đốn giáo này
Kẻ ngu
không hiểu nổi
Cách
giảng tuy vạn loại
Hợp lư
lại quy nhất
Trong
nhà phiền năo tối,
Mặt trời
tuệ thường mọc
Tà đến
v́ phiền năo
Chánh
đến phiền năo trừ
Tà chánh
đều không dụng
Thanh
tịnh đến Niết bàn
Bồ đề
vốn thanh tịnh
Khởi tâm
tức là vọng
Tịnh
tánh ở trong vọng
Chánh
trí trừ tam chướng
Thế gian
nếu tu đạo
Không ǵ
ngăn ngại được
Nếu
thường tỏ lỗi ḿnh
Tức
tương đương với đạo
Chúng
sanh sở hữu đạo
Ĺa đạo
mà t́m đạo
Rốt cuộc
tâm ảo năo
Nếu muốn
t́m kiếm đạo
Chánh
hành tức là đạo
Nếu
không có chánh tâm
Tối ám
không thấy đạo
Người
thật tâm tu đạo
Không
thấy lỗi người đời
Nếu thấy
thế gian sai
Chính
ḿnh sai và tà
Người
sai ḿnh có lỗi
Ḿnh sai
ḿnh có lỗi
Chỉ cần
khử tâm sai
Đập nát
tan phiền năo
Nếu muốn
hóa người ngu
Cần phải
có phương tiện
Đừng để
họ nghi tâm
Th́ Bồ
đề mới hiện
Pháp vốn
ở thế gian
Đồng
thời xuất thế gian
Chớ nên
ĺa thế gian
Cầu xuất
thế bên ngoài
Tà kiến
là thế gian
Chánh
kiến xuất thế gian
Đả phá tà lẫn
chánh
Bồ đề tánh
hiện rơ
Đây
chính là đốn giáo
Cũng gọi
là Đại thừa
Mê mờ từ
muôn kiếp
Giác ngộ
chỉ sát na.
37. Đại sư
nói:
- Này
các
thiện tri thức, nếu như chư vị tŕ tụng bài kệ này và y theo đó tu hành,
th́ dù
cho chư vị có cách xa Huệ Năng đến ngàn dặm, chư vị vẫn luôn luôn ở cạnh
tôi.
Nếu như chư vị không tu giáo lư này, th́ dù chúng ta có đối diện cũng
vẫn cứ
cách xa nhau ngàn dặm. Mỗi người phải tự tu, pháp không đợi chư vị
đâu. Chúng ta tạm thời phân tán, Huệ Năng tôi xin quay về núi Tào Khê.
Nếu có
ai có điều nghi lớn, xin cứ đến núi đó t́m, tôi sẽ phá nghi cũng như chỉ
ra thế
giới của Phật cho chư vị.
Tất cả
các
quan liêu, Tăng, tục dưới ṭa đều bái lạy Ḥa thượng, không ai không tán
thán:
- Lành
thay
đại ngộ! Đây là những điều chưa từng nghe thấy bao giờ. Lĩnh Nam lại
được phước
mà có Phật sanh nơi ấy, thật không ai ngờ nổi! .
Rồi cùng
giải tán.
38. Đại sư
về Tào Khê và giáo hóa thiên hạ ở hai miền Thiều
Châu và Quảng Châu suốt hơn bốn mươi năm. Nếu nói về số môn nhân của
ngài th́
cả Tăng lẫn tục, phải nói trên mấy chục ngàn người. Nếu nói về tông chỉ,
th́
chuyên truyền thọ bộ Đàn kinh này, coi là căn bản nương tựa. Nếu chưa
đắc được
Đàn kinh, chưa thể kể là được bẩm thụ. Cần phải biết nơi chốn, ngày
tháng và
tên tuổi của người được truyền thọ để kèm theo kinh lúc truyền thọ. Ai
chưa
được Đàn kinh và truyền thừa, th́ chưa phải đệ tử của Nam Tông. Kẻ chưa
được
truyền thừa, th́ tuy thuyết giảng pháp đốn ngộ, song vẫn chưa hiểu giáo
lư căn
bản, cuối cùng khó mà tránh khỏi tranh căi. Những người đă đắc pháp rồi
chỉ nên
chuyên cần tu tập. Tranh căi biểu lộ cái tâm lo được thua, th́ trái
ngược với
đạo.
39. Người
đời ai cũng nói Nam Năng, Bắc Tú, song chưa hiểu
nguyên do chính của câu chuyện. Thiền sư Thần Tú tu hành với tư cách là
chủ tŕ
chùa Ngọc Tuyền ở Đường Dương huyện, Kinh Nam phủ. Đại sư Huệ Năng trú
tại núi
Tào Khê ở ba mươi lăm dặm về phía Đông thành Thiều Châu. Pháp là một
tông,
người có Nam Bắc, do đó nơi lập nên Nam tông, Bắc tông. Đốn và Tiệm có
nghĩa là
ǵ ? Pháp vốn là một, song thấy có nhanh chậm. Thấy chậm là tiệm, thấy
nhanh là
đốn. Pháp vốn không có đốn tiệm, song người có thông minh chậm lụt, cho
nên mới
có tên đốn và tiệm.
40. Thiền
sư Thần Tú thường nghe người ta nói về giáo lư
đốn ngộ và pháp trực chỉ của Huệ Năng.
Thiền sư
Thần Tú bèn gọi người Tăng đệ tử là Chí Thành, rồi nói:
- Ông
vốn
thông minh biết nhiều. Ông đi đến núi Tào Khê giùm tôi, đến nơi của Huệ
Năng,
bái lạy thầy ta rồi lắng nghe. Đừng nói là tôi sai ông đến. Lắng nghe
những
giáo lư cốt yếu của thầy ta, ghi nhớ lấy rồi trở về đây nói lại cho tôi
nghe,
để tôi xem kiến giải của Huệ Năng so với tôi ai mau ai chậm. Ông nhất
định về
cho sớm, đừng để tôi giận !.
Chí
Thành
vui vẻ thi hành sứ mệnh kia, trong ṿng nửa tháng đến được Tào Khê, gặp
Ḥa
thượng Huệ Năng, bái lạy rồi lắng nghe, không nói ḿnh từ đâu đến cả.
Chí Thành
nghe pháp và lập tức giác ngộ, khế hợp với bản tâm, bèn đứng dậy vái
lạy, nói
rằng:
- Bạch
Ḥa
thượng, đệ tử từ chùa Ngọc Tuyền tới. Lúc c̣n học với thầy Thần Tú chẳng
đạt
được khế ngộ (chí
hợp nhau), nay nghe Ḥa
thượng thuyết giảng, bèn giác ngộ được bản tâm. Cúi xin Ḥa thượng từ bi
chỉ
dạy cho đệ tử..
Đại sư
Huệ
Năng mỉm cười nói:
- Ông từ
phương ấy tới, đương nhiên là gian tế.
Chí
Thành
bạch:
- Không
phải.
Đại sư
nói:
- Tại
sao
không phải?.
Chí
Thành
đáp:
- Lúc
Ḥa
thượng chưa giảng pháp th́ đệ tử là thế, sau khi Ḥa thượng giảng pháp
rồi, đệ
tử không c̣n là thế nữa.
Lục Tổ
nói:
- Phiền
năo
tức là Bồ đề, cũng như thế mà thôi.
41. Đại sư
nói với Chí Thành:
- Tôi
nghe
Thiền sư của các ông dạy người ta chỉ truyền giới, định và tuệ. Giới,
định và
tuệ mà Ḥa thượng của ông dạy người ta là thế nào ? Ông thử nói cho tôi
nghe
xem.
Chí
Thành
nói:
- Ḥa
thượng Thần Tú dạy về giới, định và tuệ như sau: Không làm
các điều ác gọi là giới, làm tất cả những điều thiện gọi là
tuệ, tự tịnh ư ḿnh gọi là định. Đây chính là giới, định và tuệ mà
Ḥa
thượng Thần Tú giảng dạy, không hiểu kiến giải của Ḥa thượng như thế
nào ?.
Ḥa
thượng
Huệ Năng đáp:
- Lối
giải
thích ấy quả thật là bất khả tư nghị
(không thể nghĩ bàn),
song kiến giải của Huệ Năng lại khác.
Chí
Thành
hỏi:
- Khác
như
thế nào?.
Huệ Năng
đáp:
- Cách
thấy
có nhanh có chậm.
Chí
Thành
yêu cầu Ḥa thượng giảng về kiến giải của ngài về giới, định và tuệ.
Đại sư
nói:
- Ông
nghe
tôi nói đây, rồi ông sẽ hiểu chỗ thấy của tôi. Tâm địa (nơi
ở của tâm) không có nghi hoặc là giới
của tự
tánh, tâm địa không có động loạn là định của tự tánh, tâm địa không có
si (sai lầm mê mẩn) là tuệ
của tự tánh.
Đại sư
Huệ
Năng lại nói:
- Giới,
định và tuệ của ông là để khuyến những người có căn cơ thấp, giới, định
và tuệ
của tôi là để khuyến những người có căn cơ cao. Bởi v́ giác ngộ tự tánh
chính
là cốt yếu của giáo lư của tôi, thực ra tôi cũng chẳng buồn lập (gây
dựng, tạo dựng) giới, định và tuệ.
Chí
Thành
nói:
- Xin
Đại
sư giải thích cho đệ tử biết bất lập có
nghĩa là ǵ ?.
Đại sư
nói:
- Tự
tánh
không sai, không loạn, không si. Trong từng niệm để trí Bát nhă quán
chiếu,
luôn luôn xa ĺa pháp tướng, th́ có ǵ để lập ? Tự ngộ tự tánh ḿnh đốn
ngộ, đốn tu,
chẳng có ǵ là tiệm thứ, cho nên chẳng lập nên bất cứ thứ ǵ cả.
Chí
Thành
đảnh lễ, rồi không rời núi Tào Khê nữa, trở thành môn nhân và không bao
giờ rời
xa Đại sư nữa.
42. Lại có
một Tăng nhân tên là Pháp Đạt, đă tụng kinh Pháp
Hoa suốt bảy năm, song tâm vẫn mê mờ không biết Chánh pháp ở đâu.
Đến núi
Tào
Khê, bái lạy rồi hỏi:
- Đệ tử
có
vài điều nghi hoặc về kinh, Đại sư có trí tuệ quảng đại, xin giải quyết
các
nghi hoặc cho đệ tử.
Đại sư
nói:
- Này
Pháp
Đạt, nói về pháp th́ ông rất là đạt, nhưng tâm ông th́ không đạt. Đối
với kinh,
ông chẳng có điều nghi hoặc ǵ cả, chỉ v́ chính tâm ông tự nghi mà thôi.
Tâm
ông tà mà ông đ̣i cầu Chánh pháp. Tâm ḿnh chánh định, tức là tŕ kinh.
Tôi
suốt cả đời chẳng bao giờ biết chữ. Ông đem kinh Pháp Hoa đến đây, đọc
cho tôi
nghe một lần, tôi nghe là hiểu ngay.
Pháp Đạt
đem kinh đến, đọc cho Đại sư nghe một lần. Sau khi nghe xong, Lục Tổ đă
hiểu ư
chỉ của Phật, bèn giảng kinh Pháp Hoa cho Pháp Đạt.
Lục Tổ
nói:
- Này
Pháp
Đạt, kinh Pháp Hoa, không có nói ǵ thừa cả. Cả bảy quyển chỉ nói thí dụ
về
nhân duyên. Như Lai rộng nói ba thừa (cấp
bậc), chỉ v́ người đời
căn cơ cạn cợt. Kinh văn nói rơ ràng, chỉ có một Phật thừa, không có
thừa nào
khác.
Đại sư
lại
nói:
- Này
Pháp
Đạt, ông hăy lắng nghe về một Phật thừa này, chớ nên cầu Phật thừa thứ
hai nào
khác mà làm mê mờ bản tánh ḿnh đi. Trong kinh chỗ nào dạy Phật thừa ?
Để tôi
nói cho ông nghe. Kinh nói: Chư Phật Thế
Tôn đều v́ một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trên thế gian. Mười
sáu chữ
trên là Chánh pháp. Pháp này phải hiểu như thế nào ? Ông nghe tôi nói
đây. Tâm con
người vốn không liên hệ ǵ với tư tưởng, vốn uyên nguyên (to
lớn sâu thẳm) không tịch*. Cắt đứt các tà
kiến, tức
là cái một đại sự nhân duyên kia. Trong ngoài không mê tức là xa ĺa hai
biên
kiến. Nếu bên ngoài mà mê tức là bị chấp trước vào tướng, bên trong mà
mê tức
là bị chấp vào không. Nếu ở trong tướng mà ĺa tướng, ở trong không mà
ĺa
không, đó là trong ngoài không mê. Nếu như giác ngộ được pháp này th́
trong một
niệm tâm lập tức khai mở và ông sẽ xuất hiện trên thế gian. Tâm khai mở
vật ǵ
? Khai Phật tri kiến, và Phật có nghĩa là giác ngộ. Giáo lư này phân ra
làm bốn
cửa: khai giác tri kiến, thị giác tri kiến, ngộ giác tri kiến, nhập giác
tri
kiến. Đây gọi là khai thị ngộ nhập. Từ một chỗ vào tức là giác tri kiến,
và bằng
vào đó, ông sẽ thấy được bản tánh của ḿnh và siêu việt thế gian.
Đại sư
lại
nói:
- Này
Pháp
Đạt, tôi thường nguyện rằng tất cả người đời thường tự khai Phật tri
kiến trên
tâm địa ḿnh. Đừng nên khai chúng sanh tri kiến, bởi v́ người đời tâm
tà, ngu
mê làm ác, cho nên họ mới khai chúng sanh tri kiến. Nếu như người đời
tâm
chánh, khởi trí tuệ quán chiếu th́ sẽ tự khai mở Phật tri kiến cho ḿnh.
Đừng
nên khai mở chúng sanh tri kiến. Khai Phật tri kiến có nghĩa là xuất thế
gian.
Đại sư
lại
nói:
- Này
Pháp
Đạt, đây là Nhất thừa pháp của kinh Pháp Hoa, sau đó lại phân chia ra
làm ba,
nguyên do là để dẫn độ người mê. Ông chỉ nên dựa vào một Phật thừa mà
thôi.
Đại sư
lại
nói:
- Này
Pháp
Đạt, nếu ông tu hành nơi tâm th́ ông chuyển Pháp Hoa, nếu không như thế
th́
Pháp Hoa chuyển ông. Nếu tâm ông chánh th́ ông chuyển Pháp Hoa, nếu tâm
ông tà
th́ Pháp Hoa chuyển ông. Nếu khai Phật tri kiến th́ ông chuyển Pháp Hoa,
nếu
khai chúng sanh tri kiến th́ ông bị Pháp Hoa chuyển.
Đại sư
lại
nói:
- Nếu
ông
nỗ lực theo pháp tu hành, đó tức là chuyển kinh.
Pháp Đạt
vừa nghe lập tức đại ngộ, cảm động bật khóc, nói:
-
Bạch Ḥa thượng, đệ tử quả thực chưa từng chuyển Pháp Hoa, suốt bảy năm
nay
toàn bị Pháp Hoa chuyển. Từ rày trở đi, đệ tử sẽ chuyển Pháp Hoa, và
luôn luôn
không ngớt tu hành Phật hạnh.
Đại
sư nói:
-
Phật hạnh chính là Phật.
Lúc
ấy, những người lắng nghe, không ai không giác ngộ.
*Tịch:
Im.
Như tịch nhiên bất động 寂然不動
im phắc chẳng động. Nhà Phật 佛
cho tu hành sạch hết mê vọng, vào nơi rỗng lặng, hưởng thú chân thường
là tịch
diệt 寂滅.
Tâm thần lặng yên, tự nhiên soi
tỏ, không sót tí ǵ gọi là tịch chiếu 寂照.
*Giác
: Hiểu biết, hiểu những điều không biết đến gọi là giác. Đạo Phật 佛 cốt nhất phải giác ngộ
chân tính tỏ rơ hết mọi lẽ
43. Có một
ông Tăng tên là Trí Thường, đến núi Tào Khê bái
lạy Ḥa thượng Huệ Năng, rồi hỏi về ư nghĩa của pháp Tứ thừa.
Trí
Thường hỏi Ḥa thượng:
-
Phật nói Tam thừa, rồi lại nói Tối thượng thừa, đệ tử không hiểu, xin
Ḥa
thượng chỉ dạy.
Đại
sư Huệ Năng nói:
-
Ông hăy nh́n vào thân tâm ḿnh, đừng chấp trước vào pháp tướng bên
ngoài. Vốn
không có Tứ thừa pháp, bởi v́ tâm người có bốn bậc, cho nên pháp mới có
Tứ
thừa. Thấy, nghe, đọc, tụng là Tiểu thừa. Ngộ pháp hiểu nghĩa là Trung
thừa. Y
pháp tu hành là Đại thừa. Thông suốt hết vạn pháp, có đủ cả vạn hạnh,
không xa
ĺa tất cả mà chỉ xa ĺa pháp tướng, tác vô sở đắc (làm
tất cả mà chầng được ǵ cả), đó là Tối thượng thừa.
Thừa có
nghĩa là tu hành, không cốt tranh biện ở miệng. Ông cần phải tự tu, đừng
hỏi
tôi làm ǵ.
44. Lại có
một ông Tăng, tên là Thần Hội, là người hạt Nam
Dương, đến núi Tào Khê, bái lạy và hỏi:
-
Ḥa thượng lúc ngồi thiền, thấy hay là không thấy ?.
Ḥa
thượng đứng dậy đánh Thần Hội ba cái, rồi hỏi:
-
Này Thần Hội, lúc tôi đánh ông, ông đau hay không ?.
Thần
Hội trả lời:
-
Vừa đau vừa không đau.
Lục
Tổ nói:
-
Tôi cũng vừa thấy vừa không thấy.
Thần
Hội lại hỏi:
-
Bạch Đại sư, tại sao lại vừa thấy vừa không thấy ?.
Đại
sư nói:
-
Tôi thấy, nghĩa là thường thấy lỗi lầm của ḿnh, cho nên bảo là thấy;
c̣n không
thấy, nghĩa là không thấy lỗi lầm của thiên hạ. Cho nên tôi vừa thấy vừa
không
thấy. C̣n ông tại sao vừa đau vừa không đau ?.
Thần
Hội trả lời:
-
Nếu không đau, th́ đệ tử đâm ra giống cây, đá vô t́nh. Nếu đau, đệ tử
tức đồng
với phàm phu, khởi ḷng oán hận.
Đại sư
nói:
- Này
Thần
Hội, cái thấy với không thấy vừa rồi là hai biên kiến, đau với không đau
là
sanh diệt. Ông ngay cả tự tánh c̣n chưa thấy, đ̣i dám đến đây bỡn người.
Thần Hội
bái lạy, không nói ǵ nữa.
Đại sư
nói:
- Ông
tâm
mê không trông thấy, phải hỏi bậc thiện tri thức chỉ đường cho, phải ngộ
tâm và
tự thấy, cũng như y pháp tu hành. Ông tự mê mà không thấy tự tâm, lại
đến hỏi
Huệ Năng có thấy hay không. Cho dù tôi có tự thấy, tôi cũng không thể mê
giùm
ông được. Cũng như ông có tự thấy, ông cũng chẳng thể mê thay cho tôi
được. Tại
sao ông không tự tu đi cái đă, rồi hăy hỏi tôi thấy hay không.
Thần Hội
lễ
lạy rồi trở thành môn nhân, không rời núi Tào Khê và luôn luôn ở cạnh
Đại sư.
45. Đại sư
gọi các môn nhân Pháp Hải, Chí Thành, Pháp Đạt,
Trí Thường, Chí Thông, Chí Triệt, Chí Đạo, Pháp Trân, Pháp Như, Thần Hội
và
nói:
- Các
ông,
mười đệ tử của tôi, đến đây. Các ông không giống như những người khác.
Sau khi
tôi diệt độ rồi, các ông mỗi người sẽ lănh đạo một phương. Tôi sẽ giảng
pháp
cho các ông, để đừng mất bản tông. Tôi sẽ dạy cho các ông tam khoa Pháp
môn và
ba mươi sáu đôi động dụng, hiện và ch́m đều xa ĺa hai biên kiến. Khi
giảng về
tất cả các pháp đừng bao giờ ĺa khỏi tánh tướng. Nếu có người hỏi pháp,
lời
nói ra đều phải tương xứng và luôn luôn phải đối chiếu các pháp. Bởi v́
các
pháp hỗ tương làm nhân cho nhau, nếu như thị nguyên (thấy
rơ đầu mối) rốt cuộc bị trừ khử hết,
chúng không
c̣n có nơi nào để hiện hữu. Tam khoa pháp môn là ấm (uẩn
: Tích chứa, góp), giới (răn
đe, pḥng bị), nhập. Ấm là ngũ ấm, giới
là thập bát giới, nhập là
thập nhị nhập. Ngũ ấm là ǵ ? Là sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và
thức ấm.
Thập bát giới là ǵ ? Là lục trần, lục môn và lục thức. Thập nhị nhập là
ǵ ?
Là lục trần bên ngoài và lục môn bên trong. Lục trần là ǵ ? Là sắc,
thanh,
hương, vị, xúc và pháp. Lục môn là ǵ ? Là nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và
ư.
Pháp tánh sanh khởi lục thức - nhăn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức,
thân
thức và ư thức, cùng với lục môn và lục trần. Tự tánh hàm (chứa) vạn
pháp, gọi là hàm tàng thức. Tư
lương th́ thức chuyển, sanh lục thức, lục trần được thấy xuất ra từ lục
môn. Ba
sáu là mười tám. Do tự tánh ḿnh tà, mười tám tà sanh khởi. Nếu tự tánh
ḿnh
chánh, mười tám chánh pháp sẽ sanh khởi. Nếu hàm ác dụng th́ là chúng
sanh,
thiện dụng là Phật. Dụng phát sanh từ đâu ? Từ sự tương đối với tự tánh.
46. Có năm
đối pháp thuộc ngoại cảnh vô t́nh. Trời đối với
đất, mặt trời đối với mặt trăng, bóng tối đối với ánh sáng, âm đối với
dương,
lửa đối với nước. Có mười hai đối pháp trong ngôn ngữ và pháp tướng: Hữu
vi và
vô vi đối với hữu sắc và vô sắc, hữu tướng đối với vô tướng, hữu lậu (thô
tục, hẹp ḥi, thiển lậu) đối với vô lậu, sắc đối với
không,
động đối với tĩnh, trong đối với đục, phàm đối với thánh, Tăng đối với
tục, già
đối với trẻ, lớn đối với nhỏ, dài đối với ngắn, cao đối với thấp.
Trong
dụng
khởi từ tự tánh có mười chín đối pháp: Tà đối với chánh, si đối với tuệ,
ngu
đối với trí, loạn đối với định, giới đối với sai, thẳng đối với cong,
thực đối
với hư, dốc đối với bằng, phiền năo đối với Bồ đề, từ (tốt
lành) đối với tai hại, vui đối
với giận,
xả (vất bỏ) đối với tiếc, tiến đối với
thoái,
sanh đối với diệt, thường đối với vô thường, Pháp thân đối với Sắc thân,
Hóa
thân đối với Báo thân, thể đối với dụng, tánh đối với tướng, hữu t́nh
đối với
vô t́nh.
Ngôn ngữ
và
pháp tướng có mười hai đối pháp. Ngoại cảnh có năm đối pháp. Trong dụng
do tự
tánh sanh khởi có mười chín đối pháp, tất cả hợp lại thành ba mươi sáu
đối
pháp. Ba mươi sáu đối pháp này có thể áp dụng để thông tất cả các kinh,
xuất
thập ǵ cũng xa ĺa được hai biên kiến cả. Tự tánh khởi dụng như thế nào
? Khi
nói với người khác về ba mươi sáu đối pháp này, bên ngoài tuy ở trong
tướng mà
vẫn xa ĺa tướng; bên trong tuy ở trong không mà vẫn không chấp trước
không.
Nếu chấp trước vào không tức là làm tăng trưởng vô minh; nếu chấp trước
vào
tướng tức là làm tăng trưởng tà kiến, bài báng pháp và nói bừa rằng
không cần
đến văn tự. Nếu nói rằng không cần văn tự th́ con người hẳn không được
nói năng
nữa, bởi v́ lời nói tức là văn tự. Song nói về không bằng tự tánh ḿnh,
th́ đó
là ngôn ngữ chánh đáng... Bản tánh không là không, v́ ḿnh tự mê tự
hoặc, cho
nên mới nói trừ bỏ ngôn ngữ. Bóng tối tự nó không phải là bóng tối, v́ có
ánh sáng
cho nên có bóng tối, bóng tối không tự nó là bóng tối bởi v́ ánh
sáng
biến thành bóng tối, và bóng tối làm hiển hiện ánh sáng. Ánh sáng
và
bóng tối là sanh nhân (nguyên
nhân sanh ra) của nhau,
ba mươi sáu đối pháp cũng giống vậy.
47. Đại sư
nói:
- Này
thập
đệ tử, sau này các ông truyền pháp, hỗ tương giảng dạy một quyển Đàn
kinh này,
th́ bản tông sẽ không bị mất đi. Ai chưa được truyền thọ Đàn kinh, tức
là chưa
đắc tông chỉ của tôi. Nay các ông đă đắc rồi phải lưu hành cho các đời
sau.
Người nào hiểu được Đàn kinh th́ cũng như được tôi đích thân truyền thọ.
Mười môn
nhân này sau khi được truyền thọ, chép lại Đàn kinh, lưu truyền cho hậu
thế.
Bất cứ ai đắc được bộ Đàn kinh cũng đều kiến tánh.
48. Đại sư
nhập diệt ngày mồng ba tháng Tám năm Tiên Thiên
thứ hai (tức ngày hai mươi tháng Tám năm 713). Ngày mồng tám tháng Bảy,
Đại sư
gọi các môn nhân đến để cáo biệt. Trong năm Tiên Thiên thứ nhất, Đại sư
đă cho
xây tháp ở chùa Báo Ân tại Tân Châu, và vào tháng Bảy năm Tiên Thiên thứ
hai,
Đại sư cáo biệt.
Đại sư
nói:
- Các
ông
đến gần đây, tôi dự định rời thế gian vào vào tháng Tám. Các ông c̣n có
điều
nghi ǵ mau hỏi, tôi sẽ phá nghi cho các ông. Tôi phải chấm dứt sự mê mờ
cho
các ông. Tôi phải chấm dứt sự mê mờ của các ông để các ông được an lạc.
Sau khi
tôi đi rồi, đâu có ai để dạy các ông nữa.
Pháp Hải
và
chúng Tăng nghe xong, cảm động bật khóc. Chỉ có Thần Hội vẫn bất động mà
cũng
không khóc lóc.
Lục Tổ
nói:
- Này
Thần
Hội, ông tuy c̣n trẻ mà đă đạt được giác ngộ không để cho thiện, bất
thiện,
khen hay chê làm động. C̣n những người khác không đắc, mấy năm nay ở
trên núi
này, các ông tu cái ǵ vậy ? Nay các ông khóc lóc, song có ai lo là tôi
không
biết nơi ḿnh sẽ đi chăng ? Nếu như tôi không biết tôi sẽ đi về đâu, hẳn
tôi đă
không chia tay với các ông. Nếu như các ông biết, các ông đă không khóc
lóc.
Pháp tánh vốn không có sanh diệt khứ lai. Các ông hăy ngồi xuống cả đi,
để tôi
nói cho các ông một bài kệ, gọi là "Chân-giả,
Động tĩnh kệ". Các ông phải tŕ tụng. Hiểu được ư bài kệ này, các
ông
sẽ giống y như tôi. Y theo kệ mà tu hành, các ông sẽ không mất tông chỉ.
Tăng
chúng
lễ lạy yêu cầu Đại sư để lại kệ, nguyện sẽ cung kính thọ tŕ. Kệ rằng:
Tất cả
không là chân
Đừng
mong thấy là chân
Nếu như
thấy là chân
Đều là
thấy không chân
Nếu tự
có được chân
Ĺa giả,
tức chân tâm
Tự tâm
không ĺa giả
Không
chân, đâu là chân
Hữu t́nh
ắt biết động
Vô t́nh
không biết động
Nếu tu
hạnh bất động
Bất động
giống vô t́nh
Nếu ngộ
chân bất động:
Là bất
động trên động
Bất động
là không động
Vô t́nh
vô Phật chủng
Khéo
phân biệt các tướng
Đệ nhất
nghĩa bất động
Nếu ngộ
được điểm này
Đó là
chân như dụng
Nhắc các
người học đạo
Phải nỗ
lực dụng tâm
Đừng nơi
Đại thừa pháp
Chấp
trước sanh tử trí
Tương
lai gặp người hợp
Phải
cùng luận lời Phật
Nếu thật
người không hợp
Chắp tay
khuyên làm thiện
Giáo này
vốn không tranh
Tranh
tức mất ư đạo
Chấp mê
tranh pháp môn
Tự tánh
nhập sanh tử.
49. Chúng
Tăng nghe xong, hiểu ư chỉ của Đại sư, lại càng
không dám tranh căi, tự biết phải theo pháp tu hành. Tất cả đồng lễ lạy,
biết
rằng Đại sư không ở măi trên đời này được.
Thượng
tọa
Pháp Hải bước tới trước nói:
- Bạch
Đại
sư, sau khi Đại sư khứ thế rồi, y pháp phải trao lại cho ai đây ?.
Đại sư
nói:
-
Đă trao rồi, ông không nên hỏi nữa. Hơn hai mươi năm sau khi tôi nhập
diệt, tà
pháp nhiễu loạn, làm mê hoặc tông chỉ của ta. Lúc đó sẽ có người xuất
hiện,
không tiếc thân mạng, quy định lại thị phi trong Phật giáo, kiến lập
tông chỉ,
đó chính là Chánh pháp của ta. Y không cần phải truyền nữa. Nếu như ông
không
tin, tôi sẽ tụng những bài kệ của năm vị tiên Tổ lúc truyền y phó pháp
cho ông
nghe. Nếu dựa theo ư bài tụng của Đệ nhất Tổ Bồ Đề Đạt Ma, th́ không cần
phải
truyền y. Nghe tôi tụng cho các ông đây. Tụng rằng:
Bài
tụng của Đệ nhất Tổ Ḥa thượng Bồ Đề Đạt Ma:
Ta vốn đến Trung Quốc
Truyền giáo cứu mê t́nh
Một hoa khai năm cành
Kết quả tự nhiên thành
Bài
tụng của Đệ nhị Tổ Ḥa thượng Huệ Khả:
Bản lai vốn có đất
Từ đất giống hoa sinh
Nếu bản lai không đất
Hoa do đâu mà sinh?
Bài
tụng của Đệ tam Tổ Ḥa thượng Tăng Xán:
Giống hoa tuy do đất
Trên đất giống hoa sinh
Nếu hoa không sinh tánh
Nơi đất cũng chẳng sinh
Bài
tụng của Đệ tứ Tổ Ḥa thượng Đạo Tín:
Giống hoa có sinh tánh
Do đất giống hoa sinh
Tiên duyên không ḥa hợp
Tất cả đều chẳng sinh
Bài
tụng của Đệ ngũ Tổ Ḥa thượng Hoằng Nhẫn:
Hữu t́nh đến gieo giống
Hoa vô t́nh tức sinh
Vô t́nh lại vô chủng
Tâm địa cũng không sinh
Bài
tụng của Đệ lục Tổ Ḥa thượng Huệ Năng:
Tâm địa hàm tánh chủng (hạt
giống)
Pháp vũ khiến hoa sinh
Tự ngộ hoa tánh chủng
Quả Bồ đề tự thành.
50. Đại sư
Huệ Năng nói:
-
Các ông hăy nghe hai bài tụng tôi đă làm, dựa theo ư bài tụng của Ḥa
thượng Bồ
Đề Đạt Ma. Các ông những người c̣n mê mờ nếu y theo bài tụng này mà tu
hành,
chắc chắn sẽ kiến tánh.
Bài tụng
thứ nhất:
Tâm địa
tà hoa này
Năm cánh
mọc từ cành
Cùng tạo
nghiệp vô minh
Kiến bị
gió nghiệp thổi
Bài tụng
thứ hai:
Tâm địa
chánh hoa này
Năm cánh
mọc từ cành
Cùng tu
Bát nhă huệ
Tương
lai Phật Bồ đề.
Sau khi
Lục
Tổ nói kệ xong, giải tán các môn nhân. Họ ra ngoài suy tư, biết rằng Đại
sư
không c̣n trụ thế bao lâu nữa.
51. Sau
đến ngày mồng ba tháng Tám, sau khi thọ trai xong,
Lục Tổ Đại sư nói:
- Các
ông
ai ngồi vào chỗ nấy đi, bây giờ tôi xin từ biệt với các ông đây.
Pháp Hải
hỏi:
- Từ xưa
đến nay, pháp môn đốn giáo này truyền thọ đă được bao nhiêu đời rồi ?.
Lục Tổ
nói:
- Thoạt
tiên được truyền thọ từ Thất Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật là thứ bảy, Đại
Ca Diếp
là thứ tám, A Nan là thứ chín, Mạt Điền Địa là thứ mười, Thương Na Ḥa
Tu là
thứ mười một, Ưu Ba Cú Đa là thứ mười hai, Đề Đa Ca là thứ mười ba, Phật
Đà Nan
Đề là thứ mười bốn, Phật Đà Mật Đa là thứ mười lăm, Hiếp Tỳ Khưu là thứ
mười
sáu, Phú Na Xa là thứ mười bảy, Mă Minh là thứ mười tám, Tỳ La Trưởng
Giả là
thứ mười chín, Long Thọ là thứ hai mươi, Ca Na Đề Bà là thứ hai mươi
mốt, La
Hầu La là thứ hai mươi hai, Tăng Già Na Đề là thứ hai mươi ba, Tăng Già
Na Xá
là thứ hai mươi bốn, Cưu Ma La Đà là thứ hai mươi lăm, Xa Da Đa là thứ
hai mươi
sáu, Bà Tu Bàn Đa là thứ hai mươi bảy, Ma Nô La là thứ hai mươi tám, Hạc
Lặc Na
là thứ hai mươi chín, Sư Tử Tỳ Khưu là thứ ba mươi, Xá Na Bà Tư là thứ
ba mươi
mốt, Ưu Bà Quật là thứ ba mươi hai, Tăng Già La là thứ ba mươi ba, Tu Bà
Mật Đa
là thứ ba mươi bốn, con thứ ba của Nam Thiên Trúc quốc vương Bồ Đề Đạt
Ma là
thứ ba mươi lăm, Trung Quốc Tăng Huệ Khả là thứ ba mươi sáu, Tăng Xán là
thứ ba
mươi bảy, Đạo Tín là thứ ba mươi tám, Hoằng Nhẫn là thứ ba mươi chín,
hiện giờ
Huệ Năng tôi là người thọ pháp thứ bốn mươi.
Đại sư
lại
nói:
- Từ rày
trở đi truyền thọ cho nhau, cần có chỗ nương tựa, đừng để làm mất tông
chỉ.
52. Pháp
Hải lại bạch:
- Nay
Đại
sư đi, để lại pháp ǵ, những người đời sau phải làm thế nào để thấy Phật
?.
Lục Tổ
nói:
- Các
ông
nghe đây, những người mê của đời sau, chỉ cần hiểu chúng sanh là có thể
thành
Phật. Nếu không biết chúng sanh, th́ dù có t́m Phật trong vạn kiếp cũng
chẳng
thể nào thấy được. Nay tôi sẽ dạy cho các ông biết chúng sanh trong tâm
ḿnh và
thấy Phật tánh trong tâm minh. Tôi cũng sẽ lưu lại một bài tụng gọi là "Kiến chân Phật giải thoát".
Nếu mê mờ th́ sẽ không thấy Phật, nếu ngộ th́ sẽ thấy. Này Pháp Hải, hăy
lắng
nghe, và nhớ lưu truyền lại pháp này từ đời này qua đời khác để măi măi
không
bị đứt đoạn.
Lục Tổ
lại
nói:
- Các
ông
lắng nghe đây, tôi sẽ giảng cho các ông. Những người đời sau nếu muốn
thấy
Phật, chỉ cần phải biết rằng Phật tâm có trong chúng sanh, là có thể
biết Phật.
Phật tâm do chúng sanh mà có, ngoài chúng sanh ra không có Phật tâm.
Mê, Phật
là chúng sanh
Ngộ,
chúng sanh là Phật
Ngu,
Phật là chúng sanh
Trí,
chúng sanh là Phật
Tâm
trệch, Phật chúng sanh
B́nh
đẳng, chúng sanh Phật
Một đời
tâm mà trệch
Phật lấp
trong chúng sanh
Một niệm
ngộ b́nh đẳng
Th́
chúng sanh là Phật
Tâm ḿnh
tự có Phật
Tự Phật là
chân Phật
Nếu ḿnh
không Phật tâm
Biết cầu
Phật ở đâu ?.
53. Đại sư
nói:
- Tôi
xin
cáo biệt các ông. Tôi để lại một bài tụng, gọi là bài tụng "Tự
tánh chân Phật giải thoát". Những kẻ mê mờ đời sau,
nếu hiểu được ư chỉ của bài tụng này, lập tức sẽ thấy được chân Phật của
tự tâm
tự tánh ḿnh. Tôi để lại bài tụng này để cáo biệt các ông. Tụng rằng:
Chân như
tự tánh là chân Phật
Tà kiến
tam độc là chân ma
Người
vướng tà kiến, ma trong nhà
Người có
chánh kiến, Phật đến thăm
Tà kiến
trong tánh tam độc sanh
Tức là
ma vương đến ở nhà
Nếu
chánh kiến trừ tam độc tâm
Ma biến
thành Phật thật không giả
Hóa
thân, Báo thân và Pháp thân
Ba thân
vốn gốc là một thân
Nếu tự
t́m thấy trong tánh ḿnh
Đó là
nhân thành Phật Bồ đề
Tịnh
tánh thường ở trong Hóa thân
Tánh
khiến Hóa thân thành chánh đạo
Tương
lai viên măn thật vô cùng
Dâm tánh
là nhân của thanh tịnh
Ngoài
dâm nào có thanh tịnh tánh
Trong
tánh nếu tự ĺa ngũ dục
Sát na
kiến tánh tức là chân
Đời này
nếu ngộ pháp đốn giáo
Ngộ tức
trước mắt thấy Thế Tôn
Nếu muốn
tu hành và kiến Phật
Biết
phải t́m chân ở chỗ nào
Nếu biết
trong ḿnh đă có chân
Có chân
tức là nhân thành Phật
Không tự
cầu chân, t́m Phật ngoài
T́m kiếm
khác ǵ kẻ ngu si
Đốn giáo
pháp môn từ Tây đến
Muốn độ
người đời phải tự tu
Báo với
các người đời học đạo
Không
theo pháp này, sống như không.
Sau khi
nói
xong bài kệ, Đại sư cáo biệt các môn nhân rằng:
- Các
ông ở
lại b́nh an, nay tôi xin từ biệt. Sau khi tôi đi rồi, đừng khóc lóc như
thế
nhân, đừng nhận điếu tang, tiền, lụa; cũng đừng bận áo tang. Nếu các ông
làm
thế tất không hợp với thánh pháp, cũng chẳng phải là đệ tử của tôi. Hăy
vẫn cứ
hành xử y như những ngày tôi c̣n bên các ông, cùng nhau tu tập tọa
thiền. Chỉ
cần vô động vô tĩnh, vô sanh vô diệt, vô khứ vô lai, vô thị vô phi, vô
trụ vô
văng, thản nhiên tịch tĩnh, tức là đại đạo rồi. Sau khi tôi đi rồi, chỉ
cần y
pháp tu hành, không khác ǵ những ngày tôi c̣n bên cạnh các ông. Nếu như
tôi
c̣n tại thế mà các ông vẫn vi bội giáo pháp, th́ tôi có trụ thế cũng vô
ích mà
thôi.
Sau khi
nói
những lời này, đến nửa đêm, ngài lặng lẽ khứ thế. Đại sư hưởng thọ bảy
mươi sáu
tuổi.
54. Vào
hôm Đại sư nhập diệt, trong chùa có hương thơm lạ
phảng phất, mấy ngày không tan. Núi lở đất động, rừng cây biến thành
trắng, mặt
trăng mặt trời không c̣n ánh sáng, gió mây mất cả màu sắc.
Đại sư
diệt
độ vào ngày mồng ba tháng Tám, đến tháng Mười một, linh cữu của ngài
được đón
về núi Tào Khê để an táng. Từ nơi mộ ngài, bạch quang xuất hiện, chiếu
thẳng
lên trời, măi đến hai hôm mới tán. Thiều Châu Thứ sử Vi Cứ lập, cho đến
nay
thiên hạ vẫn đến cúng dường.
55. Đàn
kinh này là do Thượng tọa Pháp Hải biên tập. Lúc
mất, Thượng tọa giao lại cho người bạn đồng học là Đạo Xán. Lúc Đạo Xán
qua đời
lại giao cho người đệ tử là Ngộ Chân. Ngộ Chân hiện giờ đang truyền thọ
giáo
pháp này ở chùa Pháp Hưng, núi Tào Khê, thuộc Lĩnh Nam.
56. Sau
này người được giao phó giáo pháp này phải là bậc
có trí huệ và căn cơ cao, phải có ḷng tin Phật pháp, lập đại bi tâm tŕ
kinh
này. Phải coi đó là căn bản để truyền thừa th́ pháp đến nay mới không bị
đứt
đoạn.
57. Ḥa
thượng Pháp Hải vốn là người huyện Khúc Giang,
Thiều Châu. Sau khi Đức Như Lai nhập Niết bàn, giáo pháp truyền về
phương Đông,
nếu truyền măi không đ́nh trệ tức là tâm chúng ta không đ́nh trệ. Bậc
chân Bồ
tát này thuyết giảng chân tông, tu hành hợp với thực dụ. Đây là y chỉ để
dạy
các bậc đại trí. Pháp này chỉ được truyền thọ cho những người thệ nguyện
cứu độ
tất cả, tu hành không ngớt, gặp khó khăn không thối chí, gặp cảnh khổ
biết kham
nhẫn, do đó có phước đức sâu dày. C̣n những kẻ căn tánh không kham nổi,
tài lực
không đủ, không nên cầu pháp này làm ǵ. Không được bừa băi truyền thọ
Đàn kinh
này cho những người phạm giới luật, thiếu đạo đức. _________________________________ Kinh Pháp Bảo Đàn của Lục Tổ Huệ Năng thuyết giảng các học tṛ Lục Tổ biên chép lại được t́m thấy ở dộng Đông Hoàng là bản Kinh ngắn gọn rơ ràng nhất, lời kinh nhất mạnh đến "tự tu tự ngộ" phá u mê chấp kiến căn cơ sâu thẳm trong mỗi người, người đời luôn vọng tưởng đến một thần lực một ông Phật vô h́nh giúp cho ḿnh được giải thoát khỏi u mê, chứ không ai muốn và tự tin rằng "mọi ngươi nơi tự tánh ḿnh phải độ chính minh", nếu như sâu lắng trầm đọng suy ngẫm những câu Lục Tổ nói, mỗi người chúng sẽ t́m được sự tự nhiên mà an nhiên, không cần t́m đâu cao xa ngút ngàn mờ mịt rồi ê chề thất vọng v́ không dược như ư nguyện. "Tự tu tự ngộ tư độ lấy chính ḿnh" là phương châm của Lục Tổ dậy cho mọi người thoát khỏi sự triền miên u mê trong đạu khổ
- Pháp thân của người tu hành b́nh đẳng với Phật
- Không ngộ th́ Phật cũng là chúng sinh
- Giác ngộ trong một niệm thôi th́ chúng sinh cũng là Phật
Bản dịch của HT Thích Măn Giác c̣n để nhiều câu chữ phiên âm Hán văn nên nhiều người đọc khó khăn thông suốt đến đoạn cuối, thường bỏ dở nửa chừng v́ không hiểu những từ ngữ chuyên dụng. và từ Hán văn, biết ḿnh kiến thức thấp kém cũng cố t́m cách chú thích những từ ngữ và dịch ra Việt ngữ thông dụng, không thể tránh khỏi sai lạc nên những từ ngữ dịch giải thêm cũng để tham khảo và cần mỗi người t́m hiểu thêm cho chính xác
|