Tác giả |
|
socnau Học Viên Phong Thủy
Đă tham gia: 17 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 77
|
Msg 1 of 8: Đă gửi: 16 September 2010 lúc 9:12am | Đă lưu IP
|
|
|
1.Định nghĩa Tâm từ, hay thường được gọi chung là từ bi, là t́nh thương không điều kiện, không đ̣i hỏi phải được đáp trả trở lại. Thật
sự th́ chữ bi có nghĩa là thương xót khi thấy chúng sinh đau khổ. Chỉ
khi nào có thương yêu ai, ta mới thấy xót xa khi người đó đau khổ. Bi
là dấu hiệu chứng minh có sự hiện hữu của từ nên chúng ta hay ghép
chung thành từ bi. Nhưng nếu cẩn thận th́ ta chỉ dùng chữ từ cho đúng
bài bản chữ nghĩa. V́ tâm từ là t́nh thương không điều kiện nên
cũng không hạn cuộc nơi một số ít người mà luông có khuynh hướng trải
rộng vô tận. Để hiểu rơ hơn về tâm từ, ta nên so sánh với tâm luyến ái
của thế gian. Tâm luyến ái cũng là t́nh thương yêu của chúng sinh
này với chúng sinh kia, nhưng bắt buộc phải có một trong những điều
kiện sau đây: Thứ nhất, do duyên nghiệp ân nghĩa đời trước tạo
thành. Chúng ta thương người nào v́ trong kiếp trước ta có nợ có duyên
với người đó. Ví dụ như giữa cha mẹ và con cái với nhau cũng là duyên
nợ qua lại mới tạo thành. Trong đó, cha mẹ mắc nợ người con nào nhiều
sẽ cảm thấy thương yêu người con đó hơn. Trong số những bạn bè huynh đệ
mà ta gặp gỡ trong cuộc đời cũng vậy, không phải ai ta cũng có thiện
cảm đều như nhau mà là người th́ ta thương nhiều, người th́ ta thương
ít. Đó là v́ duyên giữa mọi người với chúng ta không đồng. Ân
nghĩa đời trước sẽ tạo thành t́nh thương yêu đời này rất rơ rệt. Ví dụ
như ta chịu ơn ai nhiều từ kiếp trước v́ người đó đă ưu ái ta, giúp đỡ
ta nhiều. Đời này gặp lại, tự nhiên ta thấy thương mến người đó một
cách không giải thích được và cứ muốn giúp đỡ ân cần. Người kia th́
thấy b́nh thản v́ họ thi ân chứ không chịu ơn. Chúng ta chịu ơn th́ cứ
bị một t́nh cảm thúc đẩy trong tâm để phải muốn làm cho người đó vui.
Cho nên ta thấy rằng t́nh cảm thế gian chỉ là hư ảo, chỉ là trung gian
làm chất xúc tác để chúng sinh trả nợ lẫn nhau chứ không có thật. T́nh
thương yêu thế gian rất mong manh, nợ trả hết rồi th́ thương yêu cũng
hết. Khi thương nhau, ta cứ tưởng t́nh thương đó sẽ bền vững lâu dài,
nhưng rồi “ thế rồi cuộc đời là, những cuộc t́nh chia xa, đi lạc vào
những phía không đường về…” T́nh thương yêu nam nữ là đại biểu
mănh liệt nhất cho loại t́nh thương thế gian này. T́nh yêu nam nữ là
mănh liệt nhất nên cũng ích kỷ nhất. Trước hết khi yêu, ai cũng nghĩ
rằng t́nh yêu đem lại cho ta hạnh phúc v́ cảm xúc của t́nh yêu rất cháy
bỏng. Xưa nay không biết bao nhiêu thơ, văn, nhạc, tranh, tượng ca ngợi
t́nh yêu. T́nh yêu nam nữ và sáng tác nghệ thuật gần như bất khả phân
ly v́ những cảm xúc t́nh yêu giúp nghệ sĩ cảm hứng để sáng tác. Nhưng
đến khi t́nh yêu tan vỡ th́ người ta mới biết đó là đau khổ nhất. V́
sao, bởi v́ bản chất của t́nh yêu là ích kỷ nhất nên nó cũng gây ra đau
khổ nhất. Triết gia Schopenhauer nói: “Chỉ có những triết gia mới
có thể sống hạnh phúc trong hôn nhân, nhưng tiếc rằng một triết gia
thật sự th́ không chịu lấy vợ.” Cuộc sống gia đ́nh rất phức tạp,
vợ chồng đ̣i hỏi sự săn sóc ân cần từng li từng tí. Yêu cầu của t́nh
yêu rất cao nên hầu hết không ai đáp ứng được đầy đủ. Chỉ có những
người rất thông minh và rất đạo đức mới đáp ứng nỗi. Người vừa thông
minh vừa đạo đức đó, Schopenhauer gọi là triết gia. Người ta gặp
nhau rồi có t́nh cảm với nhau, rồi thích nhau ǵ đó chứ không thật là
có t́nh yêu. T́nh yêu thật sự rất mạnh và đ̣i hỏi sự ứng xử khéo léo để
được bền vững lâu dài, để kềm chế sự ích kỷ của ḿnh lại. Sự ích kỷ
trong t́nh yêu rất dữ dội mà bộc lộ rơ nhất là sự ghen tuông. Khi ghen
tuông, người ta có thể đánh, giết, tạt acid… đủ màn ác độc. V́ ích kỷ
nên người ta cũng đ̣i hỏi lẫn nhau, trói buộc lẫn nhau, ghen tuông với
nhau, hành hạ lẫn nhau. Để sống êm ấm hạnh phúc trong gia đ́nh
phải là những triết gia thông minh và đạo đức. Nhưng như Schopenhauer
nói, triết gia th́ không chịu lấy vợ. Đa phần người ta sống không hạnh
phúc trong hôn nhân. Trong một cuộc thăm ḍ ư kiến, nhiều cụ già đă lắc
đầu ngao ngán về cuộc sống hôn nhân đă qua của ḿnh. T́nh yêu quả thật
là một cái ǵ hư ảo mong manh!. Giai đoạn đầu ở tuổi c̣n xuân , do
bản năng của tuổi trẻ nên người ta bồng bột hăm hở và tưởng rằng t́nh
yêu là hạnh phúc nên t́m đến với nhau với hy vọng rằng cuộc đời c̣n lại
ở bên nhau sẽ tràn đầy hạnh phúc. Nhưng khi đến với nhau được rồi th́
những chuổi ngày c̣n lại từ từ chỉ là hành hạ, là nỗi khổ, giận hờn,
bất măn cho nhau . Người có phước xuất gia là người thoát được
cảnh ngục tù trá h́nh của hạnh phúc hôn nhân. T́nh yêu và hạnh phúc hôn
nhân làm tăng dần sự ích kỷ trong ḷng con người. V́ ích kỷ, người ta
lại làm khổ nhau. Do đó, muốn cho hôn nhân bớt đi phiền toái rắc rối,
người ta nên bớt đi sự ích kỷ đ̣i hỏi lẫn nhau mà nên cùng có chung một
mục đích cao cả nào đó để hướng về. Ví dụ như nếu hai vợ chồng cùng có
chung ḷng mến mộ Phật Pháp th́ tự nhiên sẽ thấy đầm ấm nhẹ nhàng hơn.
Nhiều cặp vợ chồng đă t́m lại được sự hàn gắn khi cả hai cùng t́m đến
với Phật Pháp. Hạnh phúc chỉ đến từ ḷng vị tha chứ không đến từ
sự ích kỷ. Khi đến với Phật Pháp, hai người cùng tu tập tâm vị tha và
tự nhiên mọi chuyện tốt đẹp dần. T́nh thương yêu là hệ quả của ân nghĩa đời trước. T́nh yêu nam nữ là biểu hiện rơ nét nhất cho điều này. Khi
gặp gỡ thương mến người nào, chỉ bởi v́ chúng ta có duyên nợ đời trước.
Đến khi trả xong nợ cũ, t́nh yêu cũng biến mất mà không ai biết tại
sao. Ngay như các tu sĩ cũng vậy, được các tín đồ ưu ái quư mến,
cũng đừng nghĩ rằng bởi v́ ḿnh có ưu điểm nào đó như giảng hay, đạo
cao đức trọng, hay ngoại h́nh khả kính. Tất cả cũng v́ có duyên nợ ân
nghĩa kiếp trước với nhau. Nếu ân nghĩa sâu dày th́ gắn bó với nhau bền
chặt; nếu ân nghĩa ít th́ sẽ v́ một lư do lăng nhách nào đó để xa nhau.
Hiểu được điều này, chúng ta b́nh thản trước thương ghét của cuộc
đời, v́ nó không thật, chỉ là duyên nợ đời trước. Điều mà ta phải bận
tâm chính là kết duyên lành với mọi người để cùng tiến tu. Thứ
hai, chúng ta thương v́ huyết thống, như cha mẹ, anh chị em… Nói là
huyết thống, thật ra cũng là duyên của những đời xưa bây giờ mới thành
gia đ́nh ruột thịt. T́nh gia đ́nh được kết thành do những tháng ngày
chung sống đỡ đần lo lắng tương trợ nhau mà thành. Nếu sống chung trong
một gia đ́nh mà không lo lắng cho nhau th́ t́nh nghĩa cũng không có. Thứ ba, chúng ta thương v́ người kia đem đến cho ta cảm giác hạnh phúc. Một lần trong lúc vui đùa, vua Pasenadi hỏi hoàng hậu Malika: - Ái khanh thương ai nhất? - Dĩ nhiên thần thiếp thương hoàng thượng nhất trên đời. Vua đang vui thích th́ hoàng hậu lại nói tiếp: -Nhưng nếu hoàng thượng cho phép nói thật mà đừng giận th́ thần thiếp xin nói lại cho đúng hơn. - Cứ nói thật. - Thật ra thần thiếp thương thần thiếp nhất. - Sao kỳ vậy, ḿnh mà thương ḿnh? -
Đó là sự thật, trên cuộc đời này, người ta chỉ thương chính ḿnh. Nếu
có thương ai cũng chỉ v́ người đó mang lại hạnh phúc cho ḿnh. Cũng
vậy, v́ hoàng thượng đem cho thiếp vinh quang, giàu sang, hạnh phúc nên
thiếp mới yêu hoàng thượng. Chứ nếu hoàng thượng là kẻ ăn mày th́ thần
thiếp đâu có thương. Vua nghe cũng có lư nhưng thấy phủ phàng kỳ
cục quá nên đến đức Phật hỏi lại. Phật đă xác nhận lời của hoàng hậu
Malika là chính xác, thực ra, con người chỉ thương chính ḿnh. Trên
cuộc đời này, không có t́nh thương yêu chân thật, người ta chỉ thương
ai v́ người đó đem lại hạnh phúc cho ḿnh.Ví dụ ḿnh thương một huynh
đệ nào đó v́ cảm thấy người đó có thể tốt được với ḿnh. Sau này ḿnh
thương một người Phật tử nào đó v́ thấy rằng người Phật tử đó ủng hộ
ḿn. Bản chất của t́nh thương chỉ là như vậy. Rồi vợ chồng cũng vậy,
khi nào người chồng cảm thấy người vợ đem lại nguồn hạnh phúc cho ḿnh
là tốt. Đến lúc nào thấy vợ ḿnh già xấu th́ người chồng sẽ bắt đầu lạc
ḷng ,đi t́m những cô gái khác. T́nh thương yêu thế gian là vậy , không
thiêng liêng, cho nên chúng ta đừng bao giờ hy vọng một cái ǵ trong
t́nh cảm thế gian. Người đệ tử Phật suốt đời đi t́m ḷng từ bi là
chính v́ đi t́m một t́nh thương vượt lên trên cái thường t́nh của cuộc
đời. T́nh thương đó không ích kỷ, thiêng liêng hơn, cao cả hơn. Thứ
tư, chúng ta thương ai v́ người đó có ưu điểm đặc biệt nỗi bật giữa
nhiều người. Chúng ta muốn chiếm hữu để có được cảm giác ḿnh cũng đặc
biệt theo. Đây là quy luật tâm lư b́nh thường. Ví dụ như những cô gái
đăng quang hoa hậu liền trở thành đối tượng theo đuổi của nhiều người
đàn ông. Rồi những ngôi sao ca nhạc, ngôi sao sân khấu điện ảnh cũng là
mục tiêu cho biết bao người nhắm đến. Có lần một ca sĩ nhạc rock ở Nhật
chết, lập tức có 3 cô gái tự tử chết theo. Khi nghe tin diễn viên Thành
Long lấy vợ, một cô gái cũng tự tử liền. Sự hâm mộ cuồng nhiệt đến
gần như điên loạn của quần chúng đối với các ngôi sao cũng là một thứ
bệnh hoạn của tâm lư. Tâm lư đó cũng phiền toái ích kỷ và đầy xao động.
Hiện nay trên thế giới chưa quan tâm chữa trị bệnh hoạn này, mà ngược
lại, nhiều h́nh thức quảng cáo c̣n thúc đẩy sự cuồng nhiệt đó cao hơn.
Những đoạn phim chiếu rừng khán giả đang quơ tay nhảy nhót kích động
theo bài hát của một ca sĩ. Nhiều trẻ em xem đó là điều hay nên nối
nhau bắt chướt. Thế giới như là đang rối tung lên. Chúng ta biết
rằng tâm từ ngược với tâm luyến ái nên không bị duyên nghiệp thúc đẩy,
không được tâm ích kỷ tạo nên, không được sự ham muốn phát sinh. Chính
v́ không có ǵ thúc đẩy tạo thành nên Tâm Từ rất khó xuất hiện. Tâm
luyến ái tràn ngập trên cơi đời này v́ có được nhiều điều kiện hỗ trợ.
C̣n Tâm Từ rất cô đơn, không có ǵ trợ giúp cả. Chỉ những người
cực kỳ đạo đức, cực kỳ trí tuệ, cực kỳ khát khao chân lư mới đi t́m
loại t́nh thương không điều kiện như thế. Ngay cả nhiều người là đệ tử
Phật mà c̣n thờ ơ với việc huân tu ḷng từ, huống hồ những người chưa
bao giờ nghe đến tứ vô lượng tâm ! T́nh thương bao la rộng lớn là
giá trị căn bản của các tôn giáo. Tôn giáo nào không nói đến t́nh
thương rộng lớn th́ không phải là tôn giáo chân chính. Nhưng mỗi tôn
giáo vẫn có đôi chút khác nhau khi nói về loại t́nh thương này. Hồi
giáo kêu gọi thương yêu giữa những người đồng đạo với nhau, và cho phép
giết người ngoài đạo. Kitô giáo theo lời Jésus thương cả kẻ thù của
ḿnh. Khổng tử cũng đề cao ḷng Nhân. Chỉ đức Phật mới nói về một ḷng
Từ Bi thương yêu tất cả chúng sinh, đến tận cỏ cây chim thú. T́nh
thương rộng lớn mà đạo Phật nhắm đến gần như tuyệt đối. Đức Phật đă đạt
được t́nh thương như thế. C̣n những ai tu theo Phật cũng sẽ phải đi
theo hướng đó, về một t́nh thương phủ trùm tuyệt đối đến tất cả muôn
loài, kể cả cỏ cây. Nói theo logic, t́nh luyến ái thuộc về tâm ích
kỷ; ḷng từ bi thuộc về tâm vị tha. Ích kỷ thuộc về chấp ngă; vị tha
thuộc về vô ngă. Chấp ngă sinh ra ích kỷ và luyến ái; vô ngă sinh ra vị tha và từ bi. V́
có chấp ngă nên ta có ích kỷ. Nếu tu tập vô ngă ta sẽ được từ bi. Càng
tu tập từ bi th́ chúng ta càng gần với vô ngă; càng tu tập vô ngă,
chúng ta càng thành tựu từ bi. V́ vậy một vị Alahán đă chứng đạt vô ngă
hoàn toàn cũng là thành tựu tâm từ bi vô hạn. Đó là một logic hết
sức chặt chẽ và không thể đảo ngược. Ai hiểu rằng một vị Alahán chưa có
ḷng từ, người đó là tà kiến, và có thể đọa địa ngục. Có một thời
gian khi giáo lư Bắc tông phát triển mạnh ở miền Bắc Ấn độ, nhiều người
đă nghĩ rằng Alahán chưa có ḷng đại bi như Bồtát. Quan điểm đó nên
được điều chỉnh lại cho đúng với lời Phật dạy, và đúng với logic học
hiện đại. Từ bi và vô ngă là một, cái này hỗ trợ cái kia, cái này
là bóng phản chiếu của cái kia. Nếu ta tu tập vô ngă mà chưa thấy ḷng
từ bi xuất hiện tức là chưa được vô ngă. Nếu ta tu từ bi mà chưa nhẹ
ngă chấp tức là từ bi chưa có mặt. Chúng ta tu tập từ bi tức là
cũng đi trên con đường đến vô ngă, giống như thiền định. V́ vậy người
tu tập thiền định mà không tu kèm theo từ bi th́ không có kết quả lớn
trong thiền định được. Tâm từ bi trợ giúp cho thiền tiến nhanh hơn.
Phật dạy rằng ai đi tận cùng con đường của từ bi cũng thành tựu giải
thoát (Kinh TỪ, Tăng Chi). Ngược lại, chánh định cũng khơi mở ḷng
từ bi. Chúng ta nhấn mạnh chữ chánh định, v́ nếu tuy có sức định mà
không chánh, ḷng từ bi cũng không mở ra. Khi tâm ta vào được một chút
định th́ ḷng từ bi cũng mở ra thêm một chút. Ví dụ b́nh thường chúng
ta nh́n mọi người chung quanh một cách hờ hững. Nhưng lúc nào đó mà tâm
ta lắng yên rỗng rang, tự nhiên ta nh́n mọi người với tâm thương yêu
nhẹ nhàng lập tức. Khi tâm yên lắng, tự nhiên tâm đó lan ra, bao phủ
rộng răi đến mọi người mọi vật chung quanh, đến cả cỏ cây sông núi.
T́nh thương cũng theo đó trùm lấy muôn loài. Đó là lư do tại sao
một vị Thánh yêu cả cỏ cây một cách tự nhiên là vậy. Chúng ta chưa bằng
các vị thánh, nhưng nếu tâm có chút thiền định cũng khiến t́nh thương
bắt đầu có mặt. Có người nói: “một thiền sư luôn luôn là một nghệ sĩ, nhưng một nghệ sĩ th́ không phải là thiền sư”. Sở
dĩ một thiền sư luôn là một nghệ sĩ v́ vị đó có t́nh thương rộng lớn,
cảm được đến cả đất trời cây cỏ, có thể biến thành cảm hứng sáng tác ra
những bài thơ tuyệt đẹp. Các ngài cũng có một đời sống phóng khoáng nhẹ
nhàng rất hay. C̣n nghệ sĩ có nhiều t́nh cảm lăng mạn lai láng, rất
khác với t́nh thương rộng lớn của thiền sư. Lối sống của nghệ sĩ cũng
phóng túng chứ không phải phóng khoáng. Những sắc thái đó tuy na ná gần
nhau nhưng khác nhau. Người nghệ sĩ đi theo hướng cảm tính nên đến gần
ích kỷ dần dần. Chỉ khi nào họ đi theo Phật Pháp để thanh lọc những cảm
tính xao động và phóng túng th́ đời họ mới bớt khổ. Tôn giáo nào
cũng đề cao t́nh thương rộng lớn, như chỉ trong đạo Phật mới có con
đường đi rất rơ, là quán từ bi, kết hợp với thiền định phá trừ ngă
chấp, rồi từ bi xuất hiện. Đức Phật và các vị Alahán chứng được vô ngă
tuyệt đối rồi th́ ḷng từ bi phủ trùm cả vũ trụ. Ḷng từ bi của
Phật luôn luôn phủ trùm chúng ta trong từng giây từng phút. Chúng ta
không cảm nhận được v́ cánh cửa ḷng ḿnh đóng kín quá. Chúng ta đóng
cửa ḷng bởi vô số ích kỷ, chấp trước, xao động, và ghê gớm nhất chính
là chấp ngă nên không biết được ḿnh luôn luôn sống trong t́nh thương
của Phật. Chúng ta hăy nghe bài tụng quán tưởng khi tụng kinh theo nghi
thức Bắc tông của Việt Nam và Trung Hoa: Năng lễ, sở lễ tánh không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư ngh́… Năng
lễ là người quỳ lạy, tức là đệ tử Phật chúng ta; sở lễ là người được
lạy, tức là Phật. Cả hai đều cùng một bản chất huyễn hóa hư vô. Tuy là
hư vô nhưng không phải là hoàn toàn không có ǵ, mà tất cả vẫn vận hành
theo luật Nghiệp báo công bằng. Phật đă chứng đạt được vô ngă tịch
lặng. Nếu chúng ta cũng thâm nhập nghĩa lư vô ngă đó, tự nhiên sự cảm
ứng kỳ diệu sẽ hiện bày, chúng ta sẽ cảm nhận được t́nh thương của Phật
đang trùm phủ ôm ấp chúng ta cũng như mọi chúng sinh khác. Ngược lại,
nếu chấp ngă, ích kỷ, xao động, tự đứng riêng một góc trời, tự khép cửa
tâm hồn lại, chúng ta sẽ không cảm nhận được t́nh thương của Phật cho
chúng ta. Ví như chúng ta ngồi nh́n nhau, nếu mỗi người bận tâm
chạy theo cái xao động của ḿnh, chấp giữ bản ngă của ḿnh, chúng ta sẽ
không có được niềm thông cảm quư mến nhau, sẽ cảm nghe ngăn cách xa lạ
với nhau. Ngược lại nếu mỗi người lắng tâm yên tĩnh, buông bỏ bớt ngă
chấp của ḿnh, tự nhiên sẽ nghe gần gũi thông cảm quư mến nhau hơn. Đức
Phật chứng đạt vô ngă hoàn toàn nên ḷng từ bi của Ngài phủ trùm đến
tất cả chúng sinh. Nhưng về phần chúng ta, nếu chúng ta chấp ngă, không
thấy cái ta này là hư ảo, đóng cửa ḷng của ḿnh lại, chúng ta sẽ không
thấy được t́nh thương yêu của Phật hiện diện nơi ḿnh từng giờ từng
phút. Trong cuốn Tự truyện Hư Vân niên phổ, ngài Hư Vân có thuật
một lần bị bệnh, ngài thấy ḿnh lên cơi trời Đẩu suất nghe Phật Di Lặc
thuyết pháp. Trong hội chúng cực kỳ đông đảo đó, Ngài gặp lại nhiều vị
cao tăng lúc trước, kể cả thầy của ngài là ḥa thượng Kính Dung. Nói
chung là những vị tu hành chân chính khi mất đều lên cơi trời Đẩu suất.
Ḥa thượng Kính Dung chỉ Ngài ngồi vào một cái ṭa c̣n trống, bên
cạnh tôn giả Anan. Điều lạ là ngài Anan từ thời đức Phật bây giờ vẫn
c̣n theo pḥ Phật Di Lặc trên cung trời Đẩu suất. Chợt Phật Di Lặc dừng giảng chỉ ngài Hư Vân bảo: “Con c̣n nghiệp, phải quay về.” Ngài Hư Vân thưa: “Con nghiệp nặng nên không muốn về nữa. Con muốn ở đây học pháp.” Phật Di Lặc nói: “Không, con phải về v́ c̣n nhiều việc phải làm.” Rồi Phật Di Lặc giải thích thêm cho Ngài hiểu. Câu
chuyện trên làm chúng ta cảm động về ḷng thương yêu của chư Phật Bồtát
đối với chúng sinh. Cách nói chuyện của Phật Di Lặc biểu lộ một ḷng từ
bi nhưng cũng rất nghiêm khắc, và không bỏ sót chúng sinh nào. Chúng
ta là đệ tử Phật cũng phải học theo tâm từ bi của Phật, dù chưa thể
thành tựu hoàn toàn. Mỗi ngày ta phải tu tập sao cho ḷng thương yêu
chúng sinh càng lúc càng lan rộng; mỗi ngày ta phải tu sao cho t́nh
thương riêng tư giảm bớt dần dần. Trong cuộc sống đúng là chúng ta có
duyên với mọi người khác nhau khiến cho ta thường hay thương người này
nhiều hơn người kia. Bây giờ tu tập từ bi, chúng ta cố gắng đừng để
thiên vị quá đáng. Trường hợp người xuất gia ở trong đại chúng cộng
đồng càng phải cẩn thận không nên kết thân riêng với vài ba người, phải
trải ḷng chan ḥa chung đến với tất cả huynh đệ. Cưỡng lại duyên xưa
để tránh kết thân riêng là cả một sự kềm chế lớn để cho ḷng từ bi có
cơ hội phát triển. Nhà thơ Goethe có câu nói nỗi tiếng: ”Đứng
trước một bộ óc vĩ đại, tôi cúi đầu; nhưng đứng trước một trái tim vĩ
đại, tôi quỳ xuống.” Goethe đă đại diện cho cả nhân loại để bày tỏ
một nguyên lư, là đối với tài năng lớn, người ta sẽ rất nể phục; nhưng
người ta chỉ thật sự tôn kính, ngưỡng mộ, thương quư đối với người có
tấm ḷng thương yêu rộng lớn. Thái độ quỳ xuống nói lên mức độ bị khuất
phục vạn lần so với cúi đầu. Thật vậy, đứng trước người mà ta biết rơ
là khoan dung độ lượng, ta cảm thấy có thể đem cả cuộc đời ḿnh để
nương tựa, bước theo, dâng hiến. Người đệ tử Phật, nhất là người
xuất gia, càng phải tu làm sao để trở thành suối nguồn yêu thương cho
mọi người chung quanh, trở thành cây cao bóng cả cho chúng sinh nương
tựa. Người thế gian mệt mơi v́ đủ thứ phiền toái khổ đau, nên muốn t́m
chỗ dựa tinh thần cho khuây khỏa. Bổn phận của người đệ tử Phật là làm
vơi đi nỗi khổ của cuộc đời này bằng t́nh thương yêu bao la như lời
Phật dạy. Đến với người có tấm ḷng nhân ái, ai cũng cảm thấy tươi mát
dễ chịu. Điều chúng ta cần phải chuẩn bị tinh thần trước là việc
tu tập tâm từ bi sẽ rất vất vả chứ không phải nhàn rỗi dễ chịu. Ví dụ
một điều rất nhỏ là phải chịu khó nghe chúng sinh kể lể nổi niềm riêng
tư đau khổ để họ được nhẹ ḷng và muốn xin một lời khuyên từ người
khách quan bên ngoài. Nhiều khi những chuyện rất chán như chuyện t́nh
cảm thương ghét giữa người này người kia, chuyện người này nói xấu,
người kia phân trần. Hơn nữa là họ biết chúng ta có ḷng từ ái độ
lượng. Trong những trường hợp như vậy, chúng ta phải quên bản thân ḿnh
để có sự đồng cảm với họ; rồi chúng ta dùng đạo lư để đánh giá vấn đề,
và t́m ra một cách giải quyết tốt đẹp giùm họ. Chúng ta phải dựa trên
luật Nhân quả và những Tâm lư Đạo đức để khuyên bảo họ hành xử đúng hơn
và mọi chuyện sẽ ổn thỏa. Chưa cần phải là một giảng sư thao thao
bất tuyệt trên pháp ṭa, chỉ cần sao cho bất cứ ai trên đời gặp chúng
ta đều t́m thấy được sự an ổn, đó cũng là công đức tu hành của một
người đệ tử Phật rồi. Muốn như vậy, tất cả đệ tử Phật chúng ta phải có
lư tưởng v́ Phật Pháp, v́ chúng sinh, chứ không thể tu hành hời hợt
được. Chúng ta phải phát triển ḷng từ bi thật vững chắc, mà Phật nói
trong kinh Tăng Chi là phải làm cho ḷng Từ trở thành căn cứ địa của
tâm hồn. Nếu tâm từ không được thiết lập, củng cố, phát triển, tâm
luyến ái sẽ có cơ hội nẩy nở để thế chỗ, và thế là chúng ta sẽ trở lại
cách sống tầm thường như cũ nghĩa là cũng thương ghét rộn ràng, hơn
thua phải quấy, bên nặng bên nhẹ… Cuộc đời chúng ta không có ǵ sáng
sủa mà những người chung quanh ta cũng mệt mơi ră rời. Dĩ nhiên là
chúng ta đă không chứng tỏ được sự tuyệt vời của Phật Pháp cho mọi
người thấy, cũng có nghĩa là chúng ta làm mất niềm tin nơi họ. Dù
chưa chứng Thánh, chỉ cần chúng ta có ḷng từ bi thôi cũng đủ để sống
một đời đầy lợi ích cho mọi người, và bản thân ta cũng bớt nhiều phiền
toái v́ thương ghét rộn ràng của thế gian, hay chính những nhược điểm
của ḿnh. V́ sao, bởi v́ muốn khắc phục khuyết điểm, ngoài sự hiểu
biết, chúng ta cũng cần phải có phước. Thiếu phước, chúng ta thường vấp
ngă trở lại những thói hư tật xấu như xưa. Ơû đây ḷng từ bi sẽ cho
chúng ta cái phước đó để chúng ta vượt qua những lầm lỗi của ḿnh. Ví
dụ như một người xuất gia, kiếp này xuất gia chứ đâu phải tất cả những
kiếp trước đều xuất gia. Do đó chắc chắn rằng trong nhiều kiếp người
này cũng đă từng sống đời sống gia đ́nh có vợ chồng con cái. Biết đâu
kiếp này đang tu gặp lại vợ chồng kiếp xưa. Lúc đó khó ai tránh khỏi
những cảm xúc thương mến không giải thích được. Nếu không tu tập từ
tâm, chúng ta sẽ bị luyến ái cũ khuấy phá mạnh mẽ. Nếu thường xuyên răi
ḷng thương yêu chúng sinh, tự nhiên cảm xúc cũ sẽ dễ dàng vượt qua
hơn. Đó là nhân quả rất chính xác. Phước đến với chúng ta bởi công
hạnh lễ kính Phật và từ tâm. Phước này giúp chúng ta hóa giải nghiệp
duyên xưa để cùng giúp nhau tu hành, và không bị luyến ái cũ lập lại.
Phước đó cũng giúp ta nhiếp tâm trong thiền được dễ dàng hơn v́ tâm ích
kỷ bị tâm từ bi hóa giải, mà ích kỷ bớt nghĩa là phiền năo bớt, an vui
thêm. V́ lư tưởng Phật pháp ,v́ chúng sinh ,v́ đạo đức cao đẹp của
Phật pháp, chúng ta không cho phép ḿnh sống đời ích kỷ giải đăi, mà
phải hết sức tu hành, nhất ḷng thương yêu chúng sinh vạn loài.
2.Tu tập từ tâm: a) Khi lễ Phật: Tâm
từ bi rất khó phát khởi tự nhiên v́ không có điều ǵ thúc đẩy. Chỉ
những người có trí tuệ mới chịu cực khổ dựng lập tâm từ bi trong ḷng
ḿnh v́ biết rằng phải có tâm từ bi để ta thoát khỏi sự tầm thường của
kiếp người, và để ta đủ sức mạnh sống đời vị tha. Đối với những
người xuất gia th́ việc tu tập từ bi c̣n bức thiết hơn nữa v́ có công
phu thực hành, chúng ta mới có sức mạnh thuyết phục mọi người cùng tu
tập từ tâm. Hơn nữa, nhờ có thực hành nên chúng ta hiểu kỹ mọi ngơ
ngách để có thể hướng dẫn cặn kẽ lại người sau. Nếu chúng ta chỉ nghe
sao rồi nói lại như vậy, người nghe cũng chỉ nghe phơn phớt, và không
quyết tâm thực hành theo. Trước hết chúng ta phải chân thành quỳ
trước Phật, lễ Phật, tha thiết cầu Phật gia hộ cho ḿnh phát khởi được
ḷng thương yêu vô hạn đến tất cả chúng sinh. Sau đó, chúng ta tiếp tục
quỳ đó mà quán tưởng trải ḷng thương yêu khắp muôn loài. Ban đầu là
cầu Phật, kế đó là tự ḿnh làm lấy. Tại sao việc tu hành âm thầm
trong tâm cũng phải cần sự gia hộ của Phật? Tại sao chúng ta vẫn nghe
đạo Phật chủ trương tự ḿnh thắp đuốc lên mà đi, hăy thắp lên với Chánh
pháp, tự ḿnh là chỗ nương tựa cho chính ḿnh, đừng nương tựa với một
ai cả…? Có 2 cực đoan mà người tu hành nên tránh: Cực đoan thứ
nhất là chấp ngă, là xem ḿnh có thật, nên chủ trương cái ǵ cũng phải
do ḿnh, tự ḿnh, bởi ḿnh, không cần ai hết. Nếu nhờ vả ai th́ giống
như ḿnh bị giảm giá trị. Đây vừa là chấp ngă, vừa là tự kiêu. Cực
đoan thứ hai là nhu nhược, là ỷ lại vào thần thánh, không chịu nhận
trách nhiệm về ḿnh. Người này trở thành nô lệ của thần linh nào đó và
chỉ cầu xin sự hỗ trợ. Đây vừa là yếu đuối, vừa là lười biếng. Các tôn
giáo thần quyền hầu hết bị điều này. Để tránh 2 cực đoan đó, chúng ta có Trung đạo như sau: Thứ
nhất, hiểu rằng cái ta này không thật nên sự gia hộ giúp đỡ của chư
Phật khiến ta nhanh chóng thành tựu Tâm từ là ưu thế cần khai thác. Ta
không giống kẻ tự ái sợ mất giá trị khi phải nhờ vả; ở đây ta nhờ vả
Phật để thành tựu ḷng Từ bi mới là giá trị cao quư thật sự. Thứ
hai, chúng ta hiểu rằng nếu không có nỗ lực bản thân th́ không có điều
ǵ thành tựu, nghĩa là mỗi người cũng phải chịu trách nhiệm về việc làm
của ḿnh; do đó chúng ta phải cố gắng quán tưởng trải ḷng thương yêu
đến tất cả chúng sinh. Trung đạo có cả hai tính chất, vừa khiêm tốn nhờ sự giúp đỡ của Phật, vừa tinh cần nỗ lực bản thân. Sự
cầu nguyện ở đây không bị xem là mê tín v́ chúng ta cầu gia hộ để gieo
nhân chứ không phải cầu hưởng quả. Cái khác nhau giữa mê tín và chánh
tín trong sự cầu nguyện là như vậy. Người mê tín cầu nguyện để được
giàu sang thành đạt ngay mà không màng tới việc làm phước. Người chánh
tín cầu nguyện để có cơ hội làm nhiều phước lành trước đă rồi sự giàu
sang sẽ tự t́m đến. Trong việc cầu Phật để gieo nhân lành th́ nhân lành đầu tiên quan trọng nhất chính là tâm từ bi. Chúng
ta cũng nhắc lại, ư chí có 2 loại, một loại phát sinh từ công đức, và
loại thứ hai phát sinh từ bản ngă. Ư chí đến từ công đức th́ nhẹ nhàng
và không làm phát sinh kiêu mạn; ư chí đến từ nỗ lực bản thân th́ nhanh
chóng tạo thành kiêu mạn. Tâm từ bi cũng vậy, có 2 loại, đến từ công đức, và đến từ nỗ lực bản thân đơn thuần. Ví
dụ một người không tin thần thánh trời Phật ǵ cả, nhưng có suy nghĩ
tốt rằng sống trên đời phải biết thương người, và người này hằng ngày
tự nhũ riết rằng phải thương người, phải thương người… Dần dần họ cũng
bắt đầu xuất hiện từ bi bác ái trong tâm. Tuy nhiên, một hệ quả phụ
nguy hiểm cũng xảy ra đồng thời, đó là tâm kiêu mạn. Thật vậy, khi nghĩ
rằng thương người, ta đă tự cho ḿnh cao hơn người một bậc! Vừa thương
người, vừa nghĩ ḿnh hơn người, thật là oái oăm! C̣n nếu ở đây, ta
lấy công đức lễ Phật để làm nhân lành giúp phát khởi Từ tâm, hệ quả phụ
nguy hiểm kia sẽ không xuất hiện kèm theo, tuy thương người mà vẫn tôn
trọng con người, vẫn không thấy ḿnh hơn người. b) Lúc tọa thiền: Tu
tập thiền định là chánh đạo thứ 8 trong Bát chánh đạo, nhưng Bát chánh
đạo phải được tu tập đồng thời. Nhờ có thiền định giúp nội tâm yên
tĩnh, chúng ta sẽ thông suốt đạo lư. Thiếu thiền định, chúng ta sẽ
thiếu gần hết mọi công đức trong Phật Pháp v́ tất cả giáo lư đạo Phật
đều liên quan đến thiền định. Chúng ta tu tập Từ bi trong thiền định như sau: Trước hết, chúng ta bắt chân kiết già ngồi đúng tư thế, chắp tay niệm Phật 3 lần; nguyện ḷng tôn kính Phật vô biên. Kế đó, nguyện ḷng thương yêu tất cả chúng sinh một cách tổng quát. Rồi
chúng ta trải ḷng thương đến những người gần gũi chung quanh ḿnh, như
cha mẹ, anh chị em, huynh đệ, láng giềng, bạn bè, đồng nghiệp… Người
xuất gia th́ thương huynh đệ đồng liêu, đồng đạo. Khi quán tưởng như
thế ta mới giật ḿnh vỡ lẽ rằng nào giờ ḿnh chưa hề thương yêu ai
chung quanh. Tuy sống chung mái chùa mà mọi người chưa hề thương yêu
chăm sóc đỡ đần cho nhau, vẫn ngăn cách xa lạ thờ ơ với nhau. Chúng ta
đă bỏ gia đ́nh nhỏ bé để về đây làm thành một gia đ́nh lớn lao hơn, cao
quư hơn, nhưng cuối cùng th́ t́nh thương không hiện hữu. Bây giờ bù
lại, chúng ta phải thương yêu huynh đệ thật nhiều. Rồi trải ḷng
thương yêu những người chung quanh vẫn chạm mặt mà ta không quan tâm
thương mến, đơi khi lạnh nhạt thờ ơ, bây giờ phải biết thương thật sự;
nhất là hàng xóm. Phải làm sao sau này, những người láng giềng nhận xét
rằng người tu theo đạo Phật càng lúc càng ḥa ái dễ thương, v́ họ cảm
nhận được tấm ḷng của chúng ta đố với họ. Tiếp theo, chúng ta nghĩ đến những người mưu hại, nói xấu, xúc phạm ḿnh và tác ư thương yêu họ. Sống
trên đời, không ai tránh khỏi bị chỉ trích, nói xấu, xúc phạm, hăm hại…
Giới tu sĩ thường hại nhau bằng lời nói công kích qua lại; người thế
gian có thể hại nhau đến thân tàn ma dại, cùng đường tuyệt lộ, tù tội
chết chóc… Khi bị như vậy, thói thường người ta sẽ mang tâm oán hờn thù
hận. Nhưng v́ chúng ta là đệ tử Phật, chúng ta phải buông xả sự thù
giận đó, và hơn thế nữa, phải trải ḷng thương yêu kẻ đă hại chúng ta.
Nói th́ dễ, nhưng khi thực hành sẽ rất khó khăn. Có một người đă
từng bị mưu hại cho tù tội do bị ganh tị trong học tập, nhưng may mắn
không bị. Người này không để tâm giận hờn và bỏ qua cho vào quên lăng.
Đến khi tu tập Từ tâm, nhớ lại kẻ đă hại ḿnh, liền tác ư thương yêu,
nhưng không thể nào thương yêu được. Lúc đó, người này mới biết rằng
tưởng đă quên nhưng cái giận vẫn c̣n ch́m sâu trong ḷng chưa hết. Phải
quyết tâm tác ư thương kẻ đó suốt mấy ngày, người này mới vượt qua được
cái giận tiềm ẩn. Vượt qua sự thù hận để thương yêu được kẻ đă hại
ḿnh là một công đức lớn v́ chúng ta tránh được ư niệm trả thù trong
tương lai. C̣n một người nào đó để ḿnh phải ghét th́ ḿnh chưa phải là
một đệ tử ngoan của Phật. V́ vậy chúng ta phải thương yêu cho được kẻ
đă ganh ghét mưu hại công kích ḿnh. Kế đến, chúng ta nghĩ đến vô
số vong linh trong cơi giới siêu h́nh để tác ư thương yêu họ. Đây là
một tồn tại mà thế giới phải công nhận. Trước hết các nhà khoa học
tin rằng c̣n nhiều hành tinh khác có sự sống trong vũ trụ này. Các
phương tiện quan sát hiện nay chưa đủ để t́m thấy một cách rơ ràng một
hành tinh có sự sống, nhất là sự sống thông minh nào khác trong vũ trụ.
Đôi lúc họ đă bi quan cho rằng Trái đất là sự sống cô độc của Vũ trụ.
Nhưng rồi những tính toán và tiến bộ kỹ thuật cho phép họ hy vọng vẫn
c̣n nhiều hành tinh khác có sự sống, kể cả sự sống thông minh. Trong
cuốn “Mối t́nh bất diệt của vua Seti” kể lại câu chuyện của một ông vua
Ai cập dan díu với một nữ tu sĩ. Để bảo vệ cho vua, khi bị các trưởng
lăo tra vấn, người nữ tu này đă tự tử. Sau này nhà vua biết chuyện nên
vô cùng cảm thương. Đến khi chết, linh hồn ông mải miết đi t́m người
con gái đó. Ông lang thang đi từ cơi này sang cơi khác suốt gần ba ngàn
năm như vậy. Cô bị các vị thần bắt giam trong một nơi bí mật khiến ông
không thể nào t́m ra. Về sau, các vị thần cảm động trước tấm ḷng của
vua Seti nên đă cho cô gái đầu thai trở lại vào nước Anh. Lúc đó, vua
Seti mới t́m thấy và tiếp xúc với cô dần dần. Ông có kể với cô rằng ông
đă bay qua nhiều hành tinh khác; có những hành tinh chỉ có cây xanh mà
không có động vật, không có người có thú nào hết. Một lần ông đến một
hành tinh đă từng có sự sống văn minh, thấy nhà cửa, xe cộ, những loại
xe không có bánh cũng không có cánh –nghĩa là giống như dĩa bay UFO.
Nhưng tất cả đều chết khô sạch sẽ v́ không c̣n một chút không khí nào
cả. Xác người vẫn c̣n nằm yên tại chỗ trên xe, trên đường, trong nhà…
khô héo. Ông cho rằng một vị thần nào đó đă lấy hết không khí để tiêu
diệt sự sống nơi đó v́ một lỗi lầm nghiêm trọng nào đó của loài người
tại đấy. Từ câu chuyện trên ta thấy Vũ trụ này đa dạng vô cùng, và thế giới này phức tạp vô cùng. Thế
giới vô h́nh cũng rất là phức tạp. Có những chúng sinh sau khi chết
sinh lên cơi trời v́ lúc sống đă làm nhiều việc thiện và biết tu dưỡng
tâm hồn thánh thiện. Có những chúng sinh tội phước lẫn lộn, chưa
đủ để lên cơi trời, nhưng cũng không đọa vào ác đạo, cũng chưa đủ duyên
đầu thai, sẽ có một đời sống khá giống người ở trần thế này. Đôi khi họ
vào chùa tu và được nhiều tiến bộ về tâm hạnh, đến khi đầu thai trở lại
sẽ là người có nhiều thiện duyên. Thời gian họ tồn tại ở cơi âm như thế
có khi kéo dài cả trăm năm. Có những chúng sinh tội nặng th́ h́nh
tướng biến đổi trở nên xấu xí ghê rợn, đọa vào địa ngục hoặc làm thân
quỷ đói. Thường th́ đến tuổi già gần chết, nếu gương mặt ai trở nên đẹp
đẽ phúc hậu là có dấu hiệu sau khi chết về cơi lành, nếu gương mặt ai
trở nên xấu xí hung dữ là có dấu hiệu sai khi chết về cơi đọa. Ma
có nhiều loại. Có loại vong yếu ớt, không có tác động ǵ tới người sống
được. Họ sống chung lẫn với ḿnh mà ḿnh không hay biết, nhưng họ thấy
biết được ḿnh. Họ cô đơn buồn bă, thiếu thốn, đói khổ v́ quá thiếu
phước. Có khi họ cũng biết đến chùa nghe thuyết pháp để tu hành từ từ. Loại
thứ hai có tâm lực mạnh hơn một chút, có thể tác động vào tư tưởng
người sống, xúi ḿnh làm chuyện này chuyện kia. Có khi trong gia đ́nh
căi cọ nhau um sùm mà thật ra không phải tại người sống, mà tại ma xúi.
Có khi chúng ta đi ngang qua một cửa hàng tự nhiên muốn vào mua hàng,
chỉ bởi v́ cô hồn nào đó xúi để giúp cho người chủ buôn bán đắt khách.
Người chủ này biết thường xuyên cúng thí thực cho vong ăn đều đặn. Rồi
có loại ma tâm lực mạnh hơn co thể tác động vào vật chất như làm cho
cái ly trên bàn rớt xuống đất vỡ toang; hoặc không có gió mà làm cho
cánh cửa đóng rầm rầm; hoặc ban đêm ở trong nhà bếp dỡ nồi khua chén
rổn rảng. Rồi có loại ma có thể hiện h́nh cho ḿnh thấy luôn. Có
nhiều loại chúng sinh trong cơi giới vô h́nh như thế mà ta phải quán từ
bi thương yêu họ không bỏ sót. Nếu chúng ta chỉ rải t́nh thương cho thế
giới cơi người th́ tâm từ bi của ḿnh chưa bung vỡ vô hạn, vẫn c̣n lấn
cấn khập khiểng. Nếu chúng ta thương yêu cả cơi âm, tự nhiên ta sẽ nghe
tâm ḿnh rộng răi, an lạc, thoải mái, tràn đầy. Thỉnh thoảng có
người thấy ma hiện ra, hoặc nghe tiếng ma nói ǵ gần đâu đấy, hoặc bị
rờ tay đụng chân. Cảm giác của mọi người hầu hết là run sợ v́ không
biết ǵ về đối phương cả. Chính v́ bị cảm giác sợ này mà mọi người dùng
từ ma nhát. V́ nghĩ rằng ma nhát nên xem ma là kẻ xấu, kẻ thù và t́m
cách chống trả, ếm trấn, tiêu diệt. Thật ra ít có trường hợp người âm
cố ư hù dọa ai. Họ chỉ muốn tiếp xúc xin ăn và kết bạn. Nhưng v́ họ có
h́nh dạng ghê rợn do tội lỗi đời trước nên không thể có sự tiếp xúc
b́nh thường. Chúng ta hăy nghĩ như thế này, nếu chúng ta thương yêu
được người tật nguyền xấu xí ăn xin trên đường phố th́ cũng nên độ
lượng thương yêu người cơi âm như thế. Nhất là bây giờ chúng ta tu tập
Từ tâm vô lượng th́ càng không được quyền có giới hạn trong t́nh thương
của chúng ta. Kế đến chúng ta tác ư thương yêu các loài súc sinh khắp cả trời đầy cả đất, chim thú trong rừng, cá tôm dưới nước… Kế nữa chúng ta tác ư thương yêu chúng sinh dưới địa ngục. Thông
thường th́ ai ác độc sẽ đọa địa ngục; bỏn xẻn sẽ đọa ngạ quỷ; si mê tà
kiến sẽ đoạ súc sinh. Đó là nguyên tắc căn bản. Nhưng thật ra sự t́nh
phức tạp hơn nhiều. V́ có người phỉ báng Thần thánh bị đọa súc sinh; có
người phỉ báng thần thánh bị điên loạn; có người phỉ báng thần thánh
lại đọa luôn xuống địa ngục. Tuy nhiên căn bản là ai ác độc sẽ đọa địa
ngục. Thế nào là người ác độc? Người ác độc là người đủ tàn
nhẫn để hoặc là dùng nhục h́nh làm người khác đau khổ, hoặc là dùng mưu
mô hiểm độc hại người khác rơi vào đường cùng tuyệt vọng đau khổ. Nói
chung là làm chúng sinh đau khổ với tâm tàn nhẫn. Đó là người không
động ḷng xót xa trước nỗi đau của người khác, có khi c̣n thích thú khi
thấy kẻ khác đau khổ. Người đó có thể đánh đập, cắt chém, thiêu đốt,
giết hại kẻ khác. Chúng ta đánh giá người có thiện tâm hay không
bằng cách xem họ có thái độ trước nỗi đau của kẻ khác như thế nào. Nếu
người này biết xót xa trước nỗi đau của người khác, tức là người có
thiện tâm; nếu người này tỉnh bơ, thậm chí khoái chí trước nỗi đau của
người khác, tức là người có ác tâm. Có những tay bợm nhậu xúm nhau dùng
cây đập vỡ đầu một con chó mà c̣n cười hăng hắc, ta biết những người
này có nhân của địa ngục. Khi xuống địa ngục, những ǵ họ đă làm
cho chúng sinh đau đớn, họ sẽ phải đền trả ṣng phẳng. Những ngọn lửa
không tắt, những lưỡi dao cắt không dừng sẽ thiêu đốt đâm chém họ trở
lại. Vậy th́ có cách nào để những chúng sinh đó thoát được nghiệp địa ngục? V́ ác tâm nên họ bị đọa địa ngục, bây giờ chỉ có tâm Từ bi giúp họ thoát địa ngục. Có
câu chuyện tiền thân đức Phật làm minh họa cho đạo lư này, dù rằng
chúng ta có thể không tin. Nhưng câu chuyện cũng rất hay. Một lần trong
kiếp rất xưa, Ngài bị đọa địa ngục. Chúng ta không tin Ngài tạo một tội
ǵ ghê gớm đến nỗi bị đoạ địa ngục, nhưng chúng ta cứ để ư khía cạnh
đạo lư. Ngài phải chịu nhiều cực h́nh đau đớn giống như các tội nhân
khác. Khi phát hiện ra chung quanh ḿnh cũng đang có vô số chúng sinh
đang rên la v́ bị trừng phạt, Ngài chợt động tâm thương xót nên phát
một lời nguyện rằng xin được gánh hết sự trừng phạt của mọi người trong
địa ngục này. Ngay khi tâm Ngài dơng mănh chấp nhận đau đớn giùm cho
tất cả như thế th́ địa ngục tan biến lập tức. Về nguyên tắc th́
câu chuyện đó đúng với đạo lư, nhưng về tính chân thật th́ khó thuyết
phục chúng ta tin rằng Phật đă từng bị đọa địa ngục như vậy. Về
nguyên tắc, nếu chúng sinh nào đang bị đọa địa ngục mà có thể khởi tâm
từ bi th́ thật sự có thể thoát khỏi kiếp địa ngục. V́ vậy, nếu có
thương xót chúng sinh nơi địa ngục, chúng ta cũng không thể giúp ǵ cho
họ, chỉ có cách cầu nguyện cho họ khởi được tâm từ bi đề tự họ thoát
khổ mà thôi. Xin cho nơi địa ngục Chúng sinh đang đọa đày Khởi được tâm từ bi Để xa ĺa cảnh khổ. Nhưng
thực tế th́ rất khó. Hăy tưởng tượng một người đang bị nhức đầu, nhức
răng, đau bụng rên la oằn oại, người đó dường như quên hết Phật pháp
Đạo lư v́ tâm bị cơn đau bức bách rối loạn. Cũng vậy, chúng sinh đang
bị thiêu đốt ở điạ ngục, vốn từ trước không biết điều thiện ǵ nhiều,
bây giờ lại đang bị dày ṿ hành hạ, rất khó khởi được tâm thương yêu
người khác. Thường th́ họ phải chịu đày đọa cho đến khi hết tội mới
thoát khổ chứ không dễ b́nh tỉnh tác ư theo điều lành. Giống như người
điên không thể làm phước để tự cứu lấy ḿnh, cũng vậy, chúng sinh dưới
địa ngục cũng khó thể khởi tâm lành. Cuối cùng, chúng ta rải tâm Từ bi phủ trùm mênh mông khắp trong pháp giới, và duy tŕ như vậy lâu lâu một chút. Khi
quán Từ bi, chúng ta chịu khó đi qua từng giai đoạn một cách kỹ lưỡng
như vậy rồi hăy rải tâm Từ bi phủ trùm, khiến cho tâm Từ bi sâu sắc lớn
lao mạnh mẽ. Nếu không, tâm Từ bi sẽ hời hợt sơ sài. Mỗi lần tu tập
quán tưởng từ bi như vậy mất chừng 10 phút, nhưng công đức cho nhiều
kiếp sau thật là vô lượng. Nhất là người xuất gia lại càng phải huân tu
Từ tâm nhiều hơn để làm chỗ nương tựa cho Phật tử, làm những trụ cột
vững chắc cho Phật Pháp. Người nào tác ư thương yêu chúng sinh, tự
nhiên tâm người đó có hào quang sáng lên mà chư thiên có thể nh́n thấy
được. Chư thiên tử nh́n xuống trần gian chỉ thấy dường như tối đen bởi
hận thù bạo lực. Nhưng trong bóng tối đó, tâm hồn ai có từ tâm thương
yêu sẽ sáng lên rơ rệt khiến chư thiên chú ư. Nếu ai thường xuyên tu
tập từ tâm, hào quang sẽ hiện dần trên gương mặt mà người thường cũng
cảm nhận được. c) Trong cuộc sống: Tu tập Từ tâm trong
cuộc sống là biết khởi tâm thương yêu khi mắt vừa chạm đến bất cứ người
nào trong cuộc sống này. Ban đầu chúng ta không quen tác ư như thế nên
sẽ rất khó khăn, nhưng tập quen rồi sẽ cảm thấy tâm hồn chuyển biến rất
lạ. Những khi bước ra đường trông thấy người này người kia, xa lạ
có, quen biết có, chúng ta cũng tự nhũ rằng “con nguyện thương yêu
những người này”. Sau này thuần thục rồi, chúng ta không cần khởi lên câu đó nữa, mà mắt vừa chạm ai là ḷng từ bi gửi đến đó liền. Tập
như vậy lâu ngày, đôi mắt ta sẽ rất từ ái. Trong tiểu Kinh Rừng Sừng Ḅ
diễn tả các vị thánh sống ḥa hợp với nhau và luôn nh́n nhau bằng ánh
mắt từ ái thiện cảm. Ánh mắt nh́n nhau thiện cảm v́ khi nh́n nhau,
chúng ta luôn gửi theo đó ḷng thương quư. Các vị Thánh như vậy, chúng
ta cũng phải như vậy, là luôn gửi t́nh thương yêu theo ánh mắt mỗi khi
nh́n nhau. Rồi khi chúng ta cưỡi xe chạy trên đường phố đông người
chen chúc, xe cộ chạy ngược chạy xuôi, mới chợt hay rằng nào giờ chúng
ta vẫn hờ hững lạnh nhạt khô khan cằn cỗi với biết bao người trong cuộc
sống này. Bây giờ chúng ta phải chuộc lại bằng cách âm thần lặng lẽ tự
nhũ con thương yêu tất cả mọi người như thế này, con thương yêu tất cả
mọi người như thế này. Khi chưa biết tu, có thể chúng ta đă thương
lén một hai người nào đó, bây giờ biết tu, chúng ta lặng lẽ thương lén
tất cả mọi người. Không cần họ biết. Tập được như thế, ta sẽ thấy đạo
lực tăng tiến từng ngày. Đối với huynh đệ đồng tu, chúng ta càng
phải thương yêu nhiều hơn nữa. Nếu không thương yêu được huynh đệ chung
quanh ḿnh, th́ nói thương yêu chúng sinh chỉ là giả dối. Thương yêu
được huynh đệ là dấu hiệu chân chính của Từ tâm. Huynh đệ trong chùa
thực chất chỉ là những người dưng xa lạ không máu mủ ruột rà, chỉ v́
duyên xưa, v́ cùng chí hướng tu hành nên gặp nhau chung một thầy. Chính
v́ quư mến đạo tâm mà chúng ta yêu thương nhau được, đó là t́nh thương
cao đẹp. Trước đây, chưa thương ai, chúng ta chỉ thấy có nhu cầu
của riêng ḿnh như quần áo, giáy dép, thuốc thang, sách vở… Bây giờ
thương yêu huynh đệ, chúng ta sẽ thấy nhu cầu của huynh đệ hiện ra
trước mắt ḿnh rơ ràng và sẽ ngạc nhiên tại sao nào giờ ḿnh không thấy
như thế. Chúng ta sẽ thấy huynh đệ khỏe hay yếu, buồn hay vui, thoải
mái hay khó chịu… và luôn muốn giúp huynh đệ rất nhiều. Dù chúng ta
chưa đủ khả năng để giải quyết hết mọi nhu cầu của huynh đệ, nhưng cũng
cố gắng san sẻ được chừng nào hay chừng ấy. Đôi khi tập khí bỏn
xẻn cũ khiến chúng ta do dự trong việc san sẽ những cái ḿnh có cho
huynh đệ, nhưng nếu công phu quán Từ bi có chiều sâu, ta sẽ đủ sức vượt
qua tâm bỏn xẻn để mở đôi bàn tay. Phải biết thương yêu tử tế với
huynh đệ trước khi chúng ta bước ra thương yêu hóa độ vô số chúng sinh
khác. Nếu chưa từng biết đối xử tốt với huynh đệ, người này chưa được
quyền nói rằng sẽ thương yêu tất cả chúng sinh. Chúng ta tâm nguyện
thương yêu tất cả chúng sinh, phải biết bắt đầu thực hành với huynh đệ
chung quanh ḿnh. Người nào có thể sống tốt với huynh đệ, chúng ta tin
người đó có thể sống tốt với chúng sinh về sau. Rồi sẽ có lúc
chúng ta đối diện với những người mưu hại, chống đối, chỉ trích ḿnh
trong thực tế. Hiện nay quán Từ bi, chúng ta có khởi tâm thương yêu đến
với những người đă đối xử tệ bạc với ḿnh trong quá khứ, nhưng tương
lai, chúng ta sẽ c̣n đối diện với t́nh huống tương tự. Đó là lúc chúng
ta có dịp đánh giá đạo lực của ḿnh. Chúng ta hăy xem lúc đó ḿnh có
thể giữ vững lời nói “con nguyện thương yêu người này” trong tâm hay
không? Đây là điều khó thực hành v́ lúc đó chúng ta dễ nỗi sân.
Nhưng phải quyết tâm làm cho bằng được, v́ chỉ khi nào chúng ta thật sự
thương yêu được người xúc phạm mưu hại ḿnh, sau này chúng ta mới vững
vàng bước ra gánh vác trách nhiệm với đạo pháp. Trên bước đường làm
việc đạo, biết bao chông gai gian khổ sẽ chờ đón chúng ta. Nếu không
trang bị tâm Từ bi vững chắc, chúng ta sẽ ngă quỵ. 3. Dấu hiệu từ tâm hiện diện: Có bốn 4 dấu hiệu để biết Từ tâm đă hiện diện trong tâm hồn của ḿnh. a) Muốn giúp đỡ: Như
đă nói, quy luật tâm lư thông thường là khi thương ai, ta luôn muốn
giúp đỡ người đó. T́nh thương đó là ân nghĩa quá khứ hiện lại. Bây
giờ với tâm Từ bi thương yêu hết tất cả chúng sinh, đương nhiên chúng
ta cũng bị một tâm lư thôi thúc là làm cái ǵ đó cho chúng sinh được an
vui hạnh phúc. Tâm Từ bi càng nhiều th́ sự thôi thúc càng lớn. Càng
hiểu Đạo, chúng ta càng hiểu rơ bản chất cuộc đời thật là đau khổ.
Chung quanh ta, mọi người không khổ v́ điều này th́ cũng khổ v́ điều
khác. Không ai thực sự trọn vẹn sung sướng. Huynh đệ ta bệnh yếu,
đạo tâm c̣n sơ cơ… vẫn là điều khiến ta lo lắng. Nhiều ngôi chùa chưa
có sức giáo hóa người dân quanh vùng… vẫn là điều khiến ta lo lắng. Tất cả những sự thôi thúc đó đều chứng tỏ tâm từ bi đă thực sự hiện diện nơi chính ḿnh. Ngược
lại, nếu chúng ta quan niệm về một đời sống tu hành nhàn nhă, không bận
tâm về nỗi khổ của ai, chỉ muốn chiều chiều phe phẩy cái quạt bước dạo
trên lối cỏ ướt sương, ngắm trăng lên từ đỉnh đồi lộng gió, hoặc ngồi
nhấp một ngụm trà ngát hương xem hoa quỳnh chầm chậm nở…, chúng ta đă
đi sai lời Phật dạy! Thiếu tâm Từ bi, chúng ta đang nuôi dưỡng sự ích
kỷ trong ḷng ḿnh. Mà sự ích kỷ nào rồi cuối cùng cũng đưa đến đau
khổ. Người tu đúng sẽ là người rất bận rộn vất vả cực khổ v́ tha
nhân, nhưng niềm vui trong tâm th́ tràn đầy. Đây là điều rất lạ. Chúng
ta cứ tưởng rằng lo cho người khác sẽ làm ḿnh cực khổ, nhưng không,
ngược lại, chính v́ đem niềm vui đến cho người khác mà tâm ta tự nhiên
có niềm vui và sức mạnh. Niềm vui này không mong cầu mà được. b) Xót xa trước nỗi khổ của tha nhân: Dấu hiệu thứ hai khi có Từ tâm hiện diện là biết xót xa trước nỗi khổ của tha nhân. Tâm xót xa đó gọi là Bi. Người
tu đúng là người bất động khi nghịch cảnh đến với ḿnh, nhưng lại xót
xa khi thấy chúng sinh đau khổ. Người tu sai là thích giữ tâm bất động,
kể cả khi đứng trước nỗi đau của người khác. Chúng ta sẽ thắc mắc, chẳng lẽ chư Thánh cũng động tâm xót xa sao? Xin
thưa, chư Thánh cũng thương xót chúng sinh đau khổ, và thương xót rất
sâu sắc, chỉ khác với chúng ta là sự thương xót đó không xao động sôi
bỏng như chúng ta, v́ các Ngài có định lực vững vàng. Chúng ta
thương xót chúng sinh có kèm theo sự ray rứt, xao động, v́ chưa có
định, nhưng vẫn là đúng. Chỉ v́ sợ xao động mà chúng ta không thương
xót nỗi khổ của chúng sinh tức là chúng ta đă đi sai đường của Phật
Pháp. Nếu chúng ta không bận ḷng v́ nổi khổ của tha nhân, tức là chúng
ta đang đi dần vào trạng thái thờ ơ lănh đạm vô t́nh. Mọi người đều như
thế th́ đạo Phật sẽ trở nên thụ động và suy yếu dần dần. Chúng ta chỉ được quyền bất động với nghịch cảnh của chính ḿnh, chứ không được thản nhiên trước nỗi đau của người khác. Trong
Tứ vô lượng tâm, Phật dạy đệ tử phải có Bi tâm vô lượng, tức là phải có
ḷng thương xót không c̣n giới hạn, chỉ v́ nổi khổ trên đời là vô hạn. c) Vui mừng trước hạnh phúc của người: Vui mừng khi thấy người khác hạnh phúc là Hỷ tâm trong bốn tâm Từ Bi Hỷ Xả. Thông
thường th́ khi thương yêu ai ta mới vui mừng v́ hạnh phúc của người đó.
Đối với người ta không thương, hạnh phúc của người đó lại làm cho ta
bực tức ganh tị. Con ḿnh thi đậu th́ mừng, con hàng xóm thi đậu th́
tức. Thói đời là như vậy. Nhưng bây giờ là đệ tử Phật, t́nh thương
chúng ta trải đều với tất cả mọi người, như vậy bất cứ hạnh phúc của ai
cũng khiến ta vui mừng cả. Rồi khi thấy người làm được nhiều việc công
đức tốt lành, chúng ta cũng phải biết vui mừng như chính ḿnh làm được.
Với Hỷ tâm như thế, tâm đố kỵ sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn. V́ chúng sinh
là vô lượng nên công đức làm được cũng vô cùng, và Hỷ tâm chúng ta cũng
là vô biên vô lượng. d) Biết tha thứ: Dấu hiệu thứ tư của Từ tâm hiện diện là biết tha thứ, tức là Xả tâm. Chữ
Xả có nhiều nghĩa tùy theo nhóm. Xả có nghĩa là buông bỏ,
không dính mắc vào thế gian; xả cũng có nghĩa là vượt qua được tâm Tự
hào bí mật trong thiền định. C̣n trong Tứ vô lượng tâm, Xả có nghĩa là
tha thứ. Sống ở trên đời này, nếu chưa thành Phật th́ ai cũng c̣n
có lỗi cả. Ḿnh cũng c̣n khuyết điểm và người chung quanh cũng vậy.
Điều quan trọng là phải biết tha thứ nhau để tiếp tục thương yêu nhau. Nguyên
tắc của tâm lư là khi thương ai, ta dễ tha thứ khi người đó có lỗi. Có
nhiều đứa con ngỗ nghịch bất hiếu, vậy mà cha mẹ vẫn kiên tâm chịu đựng
tha thứ măi để mong con có ngày hối hận quay về. Biết tha thứ là đức độ
lớn của những bậc chân sư thánh triết. Tuy nhiên , có 2 cực đoan mà người đệ tử Phật nên tránh khi thấy người khác có lỗi: - Thứ nhất, thấy người có lỗi, ta liền đem ra công kích, chê bai, rêu rao, khinh bỉ, với tâm ác độc. - Thứ hai, thấy người có lỗi, ta bỏ mặc cho họ tiếp tục phạm lỗi, xem như không dính dáng ǵ tới ḿnh cả. Cả hai đều là sai lầm, và có tội. Khi
thấy lỗi của người, nếu ta đem ra chê bai, sau này ta sẽ mắc đúng lỗi
lầm đó. Ngược lại, nếu ta bỏ mặc, sau này ta cũng mắc đúng lỗi lầm đó.
Ngoài ra, ta c̣n có thể bị quả báo mù hay điếc v́ ta đă làm ngơ giống
như không nghe không thấy trước sai lầm của người khác. Đúng ra, ta
phải có bổn phận t́m cách giúp người sửa chữa để họ tiến lên, chứ không
được bỏ mặc. Nếu có duyên, ta có thể góp ư trực tiếp; nếu ít
duyên, ta có thể nhờ người đức độ nói giùm. Phật Pháp mỗi ngày sẽ được
hoàn thiện phát triển nếu chúng ta biết giúp nhau vượt qua lỗi lầm như
thế. Dĩ nhiên là chỉ bởi ḷng thương yêu chúng ta mới được phép nói về
lỗi lầm của huynh đệ. Nếu không có ḷng thương yêu, chúng ta không đủ
sức thuyết phục, mà chỉ đem lại giận hờn tự ái nhiều thêm. Nhờ có ḷng tha thứ nên ta mới đủ chịu khó khuyên người vượt qua lầm lỗi. V́ chúng sinh vô lượng, lỗi lầm chúng sinh cũng là vô lượng, nên Xả tâm chúng ta cũng phải vô biên vô lượng như thế.
4. Từ tâm đem lại thắng phước: Tám ích lợi theo kinh bộ Tăng Chi: Trong kinh bộ Tăng Chi, Phật nói người tu tập thuần thục Từ tâm sẽ được 8 lợi ích như sau: -
Được yên lành trong đời sống, lúc thức. Sở dĩ tâm trí ta được yên lành
trong đời sống v́ ta không bận tâm lo cho ḿnh nữa. Chỉ những người ích
kỷ bận tâm lo cho ḿnh quá đáng th́ mới bị dằn vặt bất an. - Được
yên lành trong giấc ngủ. Trong đời sống ta b́nh an th́ tự nhiên giấc
ngủ cũng yên lành. Tuy nhiên Phật không nói nguyên nhân tâm lư đơn
thuần mà nói về phước. Người có Từ tâm, tự nhiên được phước rơi vào nội
tâm khiến tâm rất b́nh an. Ngược lại, nếu ta bị những bệnh lư về thần
kinh năo như căng thẳng, mất ngủ, hỗn loạn, ảo giác… nên hiểu ngay đó
là do một lỗi lầm nào đó. Ta nên khởi tâm Từ bi với chúng sinh sẽ thấy
thuyên giảm rơ rệt. - Được chư Thiên độ tŕ. Như đă nói, khi ta
tác ư thương yêu chúng sinh th́ hào quang phát ra liền, và chư Thiên
nh́n thấy. Chư Thiên cũng là những người đă từng tu tập Từ bi nên rất
yêu quư người tu tập từ bi như vậy. Chư thiên sẽ thường xuyên âm thầm
gia hộ độ tŕ cho ta trong cuộc sống và công việc. - Yêu tinh quỷ
ma không xâm phạm. Ngoài khả năng cảm hóa, ḷng Từ bi c̣n có kết quả là
tạo thành uy lực. Nh́n thấy một người có tâm Từ, phi nhân vừa quư mến
vừa nể sợ nên không có ư định xâm phạm. Nhiều người bị các vong linh
quấy phá, đă khéo léo quán Từ bi liền thoát nạn. Quán Từ bi hiệu quả
hơn dùng chú thuật trấn ếm. Chú thuật chỉ trấn ếm tạm thời, và dễ gây
thù oán. Năng lực của Từ tâm vượt lên cao để cảm hóa các chúng sinh
trong cơi vô h́nh đó. - Độc trùng đao kiếm không xâm phạm. Chúng
ta bất ngờ khi nghe Phật ấn chứng điều này đối với người tu tập Từ tâm
thuần thục. Do nghiệp quá khứ, chúng ta có thể bị những tai họa phiền
toái của cơi giới này là trúng độc, hoặc bị gươm đâm, súng bắn… Những
tai nạn này rất dễ xảy ra với mọi người. Vậy mà Phật cả quyết ai tu tập
Từ tâm thuần thục sẽ không bị các tai họa đó. Như thế ta thấy rằng năng
lực của Từ tâm rất vĩ đại. - Được mọi người chung quanh yêu mến.
Điều này dễ hiểu v́ người đầy ắp yêu thương sẽ khiến cho người chung
quanh yêu mến một cách tự nhiên. Những khi có dịp ở chốn đông người, ta
hăy thực tập rải tâm từ với mọi người, sẽ thấy những kết quả thú vị. -
Khi chết sinh về cơi trời. Chúng ta hoàn toàn không nghi ngờ khi cho
rằng một người thuần thục Từ tâm sẽ sinh về cơi trời sau khi chết. Cơi
trời là nơi trú ngụ của những chúng sinh hết sức thánh thiện, trong đó,
tâm Từ bi là một thuộc tính chiếm vị trí hàng đầu. - Và cuối cùng
là sẽ được Giải thoát. Muốn giải thoát phải hết hẳn Ngă chấp. Tâm Từ bi
chính là sức mạnh quan trọng khiến ta xa ĺa Ngă chấp dần dần. Khi
thương yêu chúng sinh, chúng ta dễ dàng quên ḿnh để sống đời vị tha.
Từng hành động cụ thể giúp đỡ chúng sinh là từng nhát búa đốn phá Ngă
chấp. Nếu chỉ suy nghĩ về việc giúp đỡ mọi người mà không có hành động
cụ thể, Ngă chấp vẫn không lung lay bao nhiêu. V́ vậy phải thực sự bắt
tay làm nên những điều lợi ích cụ thể cho chúng sinh, đó là con đường
đi đến công đức và giải thoát. Trong tâm chúng ta luôn tồn tại một
Bản Ngă nguy hiểm. Chính Bản ngă này đă tạo nên ích kỷ, tham lam, thù
hận và trôi lăn sinh tử. Nhưng cũng chính trong tâm này mới có một con
đường đưa đến Niết bàn giải thoát tuyệt đối. Chúng ta phải bắt đầu tu
tập nơi chính nội tâm này, nhưng chúng ta không được dừng lại nơi nội
tâm này. Tâm là con đường, nhưng con đường này có giặc, đó là Bản ngă. Chúng
ta phải đi trên con đường tâm này bằng thiền định, nhưng dù đạt mức độ
định như thế nào, chúng ta cũng không được dừng lại ở tâm để ca ngợi
tâm, tôn vinh tâm, v́ như vậy là chưa thoát được hang ổ của Bản ngă.
Khi đạt được định, tâm sẽ rất vi diệu, sáng tỏ, rỗng rang, thanh tịnh,
dễ làm ta hiểu lầm rằng đó là mục đích cuối cùng đă đến. Nhưng hoàn
toàn không phải vậy. Dù vi diệu đến như thế nào, Bản ngă vẫn bí mật tồn
tại. Khi tu với các bậc đạo sư trứ danh đương thời là Alara
Kalama, hoặc Uddukka Ramaputta, Phật đă chứng được những trạng thái
thiền định cực kỳ cao siêu vi diệu. Nhưng Phật đă nhanh chóng nghi ngờ
về sự tồn tại của Bản ngă nên đă từ giă ra đi. Đến khi nhập định suốt
49 ngày dưới cội cây Bồđề, Phật mới thật sự thoát ra khỏi tâm thức để
chấm dứt Ngă chấp, và trở thành toàn thể vũ trụ, thành tựu Chánh đẳng
Chánh giác. Chúng ta phải lấy tấm gương đó cho cuộc đời tu tập của
ḿnh, nghĩa là măi măi cảnh giác với Bản Ngă. Dù chúng ta có thành tựu
đạo đức sâu sắc, dù chúng ta có thành tựu thiền định cao siêu, hăy tự
nhũ rằng vẫn chưa phăi thoát được Ngă chấp sâu kín. Biết như vậy để
chúng ta không chủ quan tự măn. Niết bàn mà Phật t́m được không
phải ỡ trong tâm, mà là bản thể của toàn vũ trụ. Nhưng muốn t́m được
Niết bàn đó, chúng ta phải đi hết con đường tâm này, bằng thiền định.
Tâm Từ bi sẽ là một trong những phương tiện đưa ta đi trên con đường
tâm này. (Trích từ Tâm Lư Đạo Đức của Thầy Thích Chân Quang)
Sửa lại bởi socnau : 16 September 2010 lúc 9:23am
|
Quay trở về đầu |
|
|
minhminh Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 310
|
Msg 2 of 8: Đă gửi: 16 September 2010 lúc 3:12pm | Đă lưu IP
|
|
|
BI NĂNG BẠT NHẤT THẾ CHÚNG SINH CHI KHỔ
TỪ NĂNG DỮ NHẤT THẾ CHÚNG SINH CHI LẠC .
|
Quay trở về đầu |
|
|
zer0 Hội Viên
Đă tham gia: 17 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 172
|
Msg 3 of 8: Đă gửi: 16 September 2010 lúc 4:46pm | Đă lưu IP
|
|
|
Trích dẫn:
Cuộc sống gia đ́nh rất phức tạp, vợ chồng đ̣i hỏi sự săn sóc ân cần từng li từng tí. Yêu cầu của t́nh yêu rất cao nên hầu hết không ai đáp ứng được đầy đủ. Chỉ có những người rất thông minh và rất đạo đức mới đáp ứng nỗi. Người vừa thông minh vừa đạo đức đó, Schopenhauer gọi là triết gia. |
|
|
Hoàn toàn sai! Chúng ta thuờng thấy những vợ chồng chất phác, thật thà th́ thuờng có mái ấm gia đ́nh hạnh phúc hơn là những gia đ́nh giàu có, vợ và cả chồng khôn ngoan, lanh lơi.
Và có những gia đ́nh, vợ hoặc chồng là nguời rất đạo đức nhưng lại có những nguời vơ/chồng làm bậy (vô đạo đức), hoặc có con cái rất bê tha, hư hỏng .
|
Quay trở về đầu |
|
|
DTTT Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 13
|
Msg 4 of 8: Đă gửi: 16 September 2010 lúc 7:21pm | Đă lưu IP
|
|
|
Trích dẫn:
Cuộc sống gia đ́nh rất phức tạp, vợ chồng đ̣i hỏi sự săn sóc ân cần từng li từng tí. Yêu cầu của t́nh yêu rất cao nên hầu hết không ai đáp ứng được đầy đủ. Chỉ có những người rất thông minh và rất đạo đức mới đáp ứng nỗi. Người vừa thông minh vừa đạo đức đó, Schopenhauer gọi là triết gia. |
|
|
Tôi hoàn toàn đồng ư ở điểm này.Những cặp vợ chồng hiền lành chất phát chưa chắc họ được thơa măn trong t́nh yêu,họ có thể chấp nhận cái mà họ cho là đă đủ với họ,nhưng nếu cuộc sống và hoàn cảnh của họ thay đổi th́ sao? C̣n những người thông minh có thừa, giàu có cũng dư đó nhưng họ không đủ đạo đức th́ lấy ǵ đáp ứng được nhu cầu đầy đủ trong t́nh yêu,hôn nhân? và ngược lại nếu có đạo đức mà không đủ thông minh th́ cũng vậy.....
|
Quay trở về đầu |
|
|
Vovitu Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 713
|
Msg 5 of 8: Đă gửi: 16 September 2010 lúc 10:00pm | Đă lưu IP
|
|
|
Trích dẫn:
Cuộc sống gia đ́nh rất phức tạp, vợ chồng đ̣i hỏi sự săn sóc ân cần từng li từng tí. Yêu cầu của t́nh yêu rất cao nên hầu hết không ai đáp ứng được đầy đủ. Chỉ có những người rất thông minh và rất đạo đức mới đáp ứng nỗi. Người vừa thông minh vừa đạo đức đó, Schopenhauer gọi là triết gia.
Thông minh và đạo đức ở đây đi liền nhau trong một con người. Người thông minh nhưng không có đạo đức hoặc ngược lại th́ không đúng với câu nói trên. Do vậy, lời nói trên không sai.
| | |
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
ruavang Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 691
|
Msg 6 of 8: Đă gửi: 17 September 2010 lúc 1:02am | Đă lưu IP
|
|
|
Thế nào gọi là thông minh nhỉ? He he. Bài dài quá cháu ngại không đọc.
|
Quay trở về đầu |
|
|
unkn0wn Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 75
|
Msg 7 of 8: Đă gửi: 17 September 2010 lúc 5:59am | Đă lưu IP
|
|
|
socnau đă viết:
1.Định nghĩa ... Triết gia Schopenhauer nói: “Chỉ có những triết gia mới
có thể sống hạnh phúc trong hôn nhân, nhưng tiếc rằng một triết gia
thật sự th́ không chịu lấy vợ.” Cuộc sống gia đ́nh rất phức tạp,
vợ chồng đ̣i hỏi sự săn sóc ân cần từng li từng tí. Yêu cầu của t́nh
yêu rất cao nên hầu hết không ai đáp ứng được đầy đủ. Chỉ có những
người rất thông minh và rất đạo đức mới đáp ứng nỗi. Người vừa thông
minh vừa đạo đức đó, Schopenhauer gọi là triết gia. ...
|
|
|
Khi xưa, nhà triết học Socrates là một tay cực kỳ sợ vợ. Có lần ông c̣n nói, có thể bởi v́ lấy bà vợ quá chằn nên ông ta mới trở thành một nhà triết gia. Tôi th́ tin rằng, những gia đ́nh được hạnh phúc nhất chính là những gia đ́nh mà có ông chồng thân cư thê + Hóa quyền.
Sửa lại bởi unkn0wn : 17 September 2010 lúc 6:00am
|
Quay trở về đầu |
|
|
Đaicoviet Hội Viên
Đă tham gia: 18 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 436
|
Msg 8 of 8: Đă gửi: 17 September 2010 lúc 11:55am | Đă lưu IP
|
|
|
Chưa lấy vợ hay traĩ qua đời sống gia đ́nh th́ làm sau hiêủ triết cầu gia đạo tức cạo da đầu đê? thành ông triết gia đạo tức đáo gia triệt
Đang nói từ tâm sao bổng lọt cái triê't gia đ́nh vào vậy cà ???? Từ bi là bổn tánh của Tâm , bàn tới bàn lui th́ Từ Bi thành B́ Tư .
Sửa lại bởi Đaicoviet : 17 September 2010 lúc 11:59am
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|